source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Trong thi đấu bóng đá, những tiêu chí để xác định được đội bóng nào sẽ đi tiếp, đội nào sẽ dừng lại là một điều vô cùng quan trọng. Nhưng, nắm rõ được hiệu số là gì? Cách tính hiệu số bàn thắng thua ra sao là cả một quá trình dài. Bài viết dưới đây Bongso88 sẽ giúp anh em rút ngắn lại thời gian tìm hiểu bằng bài viết chi tiết và dễ hiểu nhất. Hiệu số bàn thắng thua (Goal difference) là tiêu chí để xác định phân chia thứ hạng khi có 2 hay nhiều đội có điểm số bằng nhau trong thể thao, đặc biệt trong bóng đá. Khi đó những đội đá giữ lưới sạch hơn, ghi bàn nhiều hơn (mặc dù bằng điểm đội khác) thì sẽ có cơ hội đi vào vòng sau cao hơn. Được áp dụng lần đầu tiên tại World Cup 1970, hiệu số bàn thắng thua đã phát huy vai trò rõ ràng của mình. Cách tính hiệu số thắng thua cũng đơn giản và dễ hiểu nên được rất nhiều người ưa chuộng và áp dụng vào các giải đấu một cách nhanh chóng. Hiệu số bàn thắng đã giúp nền bóng đá trở nên hấp dẫn và xua tan đi mây đen ”thực dụng” khi mà các đội đá ở những trận cuối cùng, buộc phải cống hiến để có thể tìm cách ghi bàn nhiều hơn. Điều đó khiến trận cầu trở nên nảy lửa và khán giả sẽ được mãn nhãn với những pha bóng tốc độ cao hơn. Trong thể thao, thứ hạng là điều dẫn đến các kết quả trực tiếp. Nó ảnh hưởng rất nhiều tới việc quyết định đội thắng, đội thua, đội có quyền đi tiếp. Cách tính đơn giản của hiệu số bàn thắng thua là lấy số bàn thắng được ghi trừ cho số bàn thua. Trong nhiều trường hợp hiệu số này bằng nhau, thì các tiêu chí tiếp theo được xét đến là số bàn thắng hoặc hiệu số đối đầu trực tiếp. Tùy vào quy định của giải đấu, trận playoff có thể được tổ chức (như ở Series A). Tuy nhiên, hiệu số bàn thắng thua luôn là tiêu chí được xét đầu tiên. A = Số điểm giành được trong các trận đối đầu trực tiếp (giữa 3 đội bằng điểm với nhau). F = Số điểm fair play của đội bóng tại vòng chung kết. Trong đó, thẻ vàng: -1 điểm, thẻ đỏ gián tiếp: -3 điểm, thẻ đỏ trực tiếp: -4 điểm, thẻ vàng + thẻ đỏ trực tiếp: -5 điểm. Sau khi có tất cả các điểm A, B, C, D, E, D người ta sẽ tính phần trăm các tiêu chí, sau đó cộng lại xem đội nào có số điểm cao hơn. Nếu xảy ra trường hợp có hai đội vẫn bằng điểm nhau, thì số bàn thắng trong thành tích đối đầu sẽ được tính. Đặc biệt là ở trận cuối. Cách cuối cùng được sử dụng đến có thể là bốc thăm đối với từng quy định của giải đấu. Tuy nhiên, hình thức bốc thăm này hiếm khi được dùng đến bởi nó hoàn toàn dựa vào may rủi, không phản ánh đúng thực lực và đội bóng xứng đáng được đi tiếp. Ở từng giải đấu, sẽ có từng quy định khác nhau do ban tổ chức đưa ra. Vì vậy, cách tính xếp hạng cũng có những thay đổi, cụ thể nếu hai đội bằng điểm thì ban tổ chức sẽ xét theo các chỉ số phụ như sau:. Hiệu số bàn thắng thua ở tất cả các trận đấu = tổng số bàn thắng – tổng số bàn thua. Như đã trao đổi ở bên trên, xếp hạng các đội bóng rất quan trọng. Bên cạnh cách tính điểm như truyền thống với trận thắng được 3 điểm, hòa 1 điểm và thua 0 điểm nào thì xếp hạng dựa vào hiệu số bàn thắng là một tiêu chí phụ. Khi các đội bằng điểm nhau, không thể xác định được đâu sẽ là đội đứng trên thì hiệu số bàn thắng lúc này thể hiện được vai trò của mình. Nói tóm lại, khi trong một bảng đấu có các đội bằng điểm nhau, sẽ xét tới hiệu số bàn thắng. Đội nào có hiệu số bàn thắng lớn hơn sẽ xếp trên, lần lượt tới các đội có hiệu số giảm dần. Điều này khiến mục tiêu của các đội bóng khi thi đấu là ghi càng nhiều bàn thắng càng tốt, giúp khán giả được thỏa mãn với lối chơi hết mình, cống hiến hết sức đẹp mắt, góp phần thổi lửa và đưa bóng đá đến ngôi vương của các môn thể thao. Xếp hạng trong một giải đấu là vô cùng quan trọng. Để đáp ứng được điều này, có rất nhiều cách được đưa ra. Xếp hạng dựa theo hiệu số bàn thắng thua cũng là một cách rất hay. Với những thông tin mà chúng tôi cung cấp, anh em đã có thể có những giây phút theo dõi các giải đấu một cách thoải mái nhất và luôn hiểu được cách tìm ra đội xứng đáng vào vòng sau của bất cứ giải đấu. Các quả bóng World Cup qua từng năm luôn có sự thay đổi nhất định. Đặc biệt, ẩn chứa sau mỗi tên gọi, mỗi thiết kế lại là nhiều câu chuyện thú vị. Những bộ phim hoạt hình bóng đá Nhật Bản luôn được rất nhiều người ưa thích lựa chọn. Bởi kỹ thuật làm film đỉnh cao, cùng nhiều tình tiết gay cấn,. Phim đá banh luôn là chủ đề được người xem ưu tiên lựa chọn mỗi khi có thời gian. Với sức hút khó cưỡng từ môn thể thao vua hàng đầu thế giới. Luật thay người được xem là một bước ngoặc lớn trong bóng đá. Nó như mở ra cơ hội thay đổi chiến lược trận đấu của mỗi huấn luyện viên. Môn thể thao vua không chỉ thu hút một lượng lớn fan nam trên toàn thế giới. Mà ở các giải đấu, trên khán đài cũng luôn xuất hiện các bóng hồng xinh đẹp.
Hiệu số bàn thắng thua
Trong thể thao, đặc biệt là bóng đá, hiệu số bàn thắng thua (tức là lấy số bàn thắng ghi được trừ số bàn thua) là một trong những tiêu chí quan trọng để phân định thứ hạng khi có 2 hay nhiều đội bằng điểm nhau. Nếu điểm số các đội bằng điểm và hiệu số bàn thắng thua cũng bằng nhau thì xét tới số bàn thắng ghi được sẽ là tiêu chí tiếp theo. Tuy nhiên đôi khi cũng có thể áp dụng tiêu chí là đối đầu trực tiếp (như Premier league) hoặc đá play-off (như Serie A). Tỉ số bàn thắng bàn thua được áp dụng trước hiệu số bàn thắng thua. Cách tính tỉ số bàn thắng bàn thua là lấy số bàn thắng chia số bàn thua. Hiệu số bàn thắng thua được áp dụng từ Giải vô địch bóng đá thế giới 1970.
Ngày của cha “Father’s Day” 2020: Nguồn gốc và ý nghĩa1. Nguồn gốc Ngày của cha đầu tiên2. Ngày của cha vào Chủ nhật thứ 3 của tháng Sáu3. Ý nghĩa Ngày của Cha – father’s day. Ngày của Cha – father’s day phổ biến từ những năm đầu thế kỷ 20; để bổ sung cho Ngày của Mẹ trong những ngày lễ tôn vinh các bậc làm cha làm mẹ. Ngày của Cha được cử hành vào nhiều ngày khác nhau trên toàn thế giới; và thường liên quan đến việc tặng quà; bữa tối đặc biệt cho cha; mẹ và các hoạt động gia đình. Bên cạnh ngày của mẹ; thì trong năm cũng có một ngày để mỗi người con chúng ta dành thời gian để tôn vinh những đóng góp và sự hy sinh cao cả của người cha; một người có công sinh thành và che chở cho cuộc đời những đứa con thơ. Ngày của cha thường được tổ chức vào Chủ nhật thứ 3 của tháng 6 hàng năm. chính vì thế nó sẽ không là một ngày nào cố định cả. Ở Việt Nam Ngày của Cha mới được du nhập vào trong những năm gần đây. Ngày của Cha là ngày chủ nhật thứ 3 trong tháng 6 dương lịch. Cụ thể Ngày của Cha sẽ là những ngày nào trong năm dưới đây:. Father’s day được cử hành vào nhiều ngày khác nhau trên toàn thế giới và thường liên quan đến việc tặng quà; bữa tối đặc biệt cho cả, mẹ và các hoạt động gia đình. Nhưng việc ăn mừng Ngày này được biết đến sớm nhất diễn ra ở Fairmont; Tây Virginia vào ngày 5 tháng 7 năm 1908. Sự kiện được bà Grace Golden Clayton tổ chức; với mong muốn vinh danh cuộc đời của người cha bị mất vài tháng trước trong Thảm họa Monongah Mining ở Monongah; Tây Virginia, vào ngày 06/12/1907. Có thể Clayton chịu ảnh hưởng bởi việc ăn mừng Ngày của Mẹ lần đầu tiên trong năm đó; Clayton đã chọn ngày Chủ nhật gần nhất so với ngày sinh của người bố vừa mới qua đời của bà. Vào một ngày trong năm 1909, trong khi đang nghe bài thuyết giáo về Ngày của Mẹ; cô Sonora đã nghĩ đến một ngày để vinh danh các người cha. Sonora là con gái lớn nhất trong sáu chị em; mẹ cô qua đời trong lúc sinh nên cha cô là ông William Jackson Smart đã một mình nuôi sáu chị em khôn lớn. Sonora yêu quý và kính trọng cha vì hiểu những nỗi vất vả của ông. Người cha trong mắt cô là biểu tượng của sự hy sinh, vị tha, bao dung. Vì vậy, cô muốn có một ngày đặc biệt để tôn vinh cha mình. Sonora đã chọn ngày 19 tháng 6 là “Ngày của Cha” vì ngày đó là sinh nhật của cha cô. Sau đó, vào năm 1966; tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã quyết định chính chức chọn ngày Chủ nhật thứ 3 trong tháng 6 hàng năm là Ngày của Cha trên toàn nước Mỹ. Father’s day đã được tổ chức kỷ niệm hàng năm kể từ khi tổng thống Mỹ Richard Nixon ký luật công nhận father’s day có giá trị là một ngày lễ chính thống vĩnh viễn vào năm 1972. Ngày lễ dành riêng cho các ông bố là ngày lễ để mỗi người con chúng ta tỏ lòng thành kính đối với đấng sinh thành ra mình. Là dịp mỗi người con có thể thể hiện và bày tỏ tình yêu thương; kính trọng của mình đối với người Cha, một trụ cột của mỗi gia đình. Ngày của cha được tổ chức rộng khắp trên nhiều quốc gia. Ở mỗi quốc gia lại có một cách chào đón Ngày của Cha một cách khác biệt. Không có niềm vui nào mà sánh được nụ cười nở trên môi cha mẹ chúng ta khi nhìn thấy con cái mình thành đạt và ngoan ngoãn. Vậy nên, dù là ngày bình thường hay những ngày lễ bạn hãy dành cho cha mẹ mình những niềm vui. Hãy biết trân trọng từng phút giây bên cha mẹ, đừng để đến lúc nhận ra giá trị đích thực của cha mẹ, gia đình trong cuộc sống thì đã quá muộn màng. Kính chúc cha không chỉ là trong ngày của cha mà tất cả 365 ngày đều vui vẻ, hạnh phúc! Để cho con luôn được nhìn thấy nụ cười, ánh mắt, cho con được cảm nhận tình yêu thương của cha suốt cuộc đời… và nhiều hơn thế nữa. Bố là tất cả niềm vui và hạnh phúc của con. Con chúc bố ngày lễ vui vẻ, sống khỏe, sống lâu để che chở cho chúng con. Nếu có ai đó cho con quyền để thay đổi, để bắt đầu mọi thứ lại từ đầu. Có rất nhiều thứ con cần thay đổi, nhưng chỉ có duy nhất một điều không bao giờ con muốn đó là Ba. Người đã ở đó giúp cho con vượt qua tất cả. yêu Ba rất nhiều!. Con hy vọng bố biết rằng con biết ơn vì con đã có một người bố tuyệt vời. Chúc mừng ngày của bố. Nhân ngày của cha, cả nhà chúc Bố luôn vui vẻ, luôn mạnh khỏe, luôn vui vẻ và mãi bên mẹ và chúng con. Chúng con cảm ơn bố đã hy sinh vất vả vì gia đình mình. Bố ơi chúng con tự hào về bố lắm, cả nhà yêu bố nhiều lắm. Cảm ơn bố, người đã đưa con đến với thế giới này, cho con sự sống; tình yêu và nuôi dưỡng con nên người. Công lao đó con không thể nào quên. Đừng quên dành những lời chúc cho người cha yêu thương của mình. Hãy dành thời gian và làm những điều ý nghĩa. Không phải vì hôm nay là ngày của Cha hay ngày của Mẹ, mà đơn giản là vì tất cả sự hi sinh của đấng sinh thành đã dành cả cuộc đời tảo tần nuôi nấng ta. Phong thủy đến với thầy như một cái duyên từ những năm tuổi mới đôi mươi. Thầy quyết định theo đuổi lĩnh vực này để tìm ra nhiều mối liên kết và tính thiết thực của các học thuyết ngũ hành liên quan đến cuộc sống con người. Sinh ra từ vùng thôn quê nghèo của tỉnh Ninh Thuận, không theo đuổi giấc mơ đại học như bao người, thầy Đức Thiện lựa chọn đây chính là con đường sự nghiệp mà ở đó mình có đủ đam mê và sự tận tâm để gắn bó lâu dài. Đã và đang là cố vấn phong thủy cho nhiều công ty, doanh nghiệp, hộ gia đình các tỉnh miền nam, thầy luôn đặt uy tín và trách nhiệm của mình lên hàng đầu để giúp khách hàng của mình tìm được giải pháp tối ưu nhất.
Ngày của Cha
Ngày của Cha (tiếng Anh: Father s Day) là một ngày lễ tôn vinh quyền làm cha, gắn kết gia đình, cũng như ảnh hưởng của những người cha trong xã hội. Tại các quốc gia Công giáo ở Châu Âu, nó đã được tổ chức vào ngày 19 tháng 3 (Ngày Thánh Giuse) kể từ thời Trung cổ. Lễ kỷ niệm này được người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mang sang Mỹ Latinh, nơi ngày 19 tháng 3 vẫn thường được sử dụng làm ngày lễ, mặc dù nhiều quốc gia ở châu Âu và châu Mỹ lấy ngày theo nước Mỹ, đó là Chủ nhật thứ ba của tháng Sáu. Ngày kỷ niệm được tổ chức vào các ngày khác nhau ở nhiều nơi trên thế giới, phổ biến nhất là vào các tháng 3, tháng 4 và tháng 6 theo phong tục của quốc gia. Ngày lễ này bổ sung cho các lễ kỷ niệm tương tự để tôn vinh các thành viên trong gia đình, như Ngày của Mẹ, Ngày của Anh chị em và Ngày của Ông bà. Phiên bản hiện đại Ngày của Cha do Sonora Smart Dodd khởi xướng. Ngoài Ngày của Cha, còn có Ngày Quốc tế Nam giới được tổ chức tại nhiều quốc gia vào ngày 19 tháng 11 bao gồm cả những người đàn ông không phải (hoặc chưa phải) là cha.
Nhân loại từ lâu đã ngước nhìn lên bầu trời, tìm kiếm để đặt tên và sắp xếp chúng vào vũ trụ xung quanh chúng ta. Mặc dù sự chuyển động của các chòm sao - các hình mẫu gắn trên bầu trời đêm - là dễ dàng để theo dõi, thì các sự kiện vũ trụ khác như nhật thực, nguyệt thực, và chuyển động của các hành tinh cũng đã được sắp xếp và dự đoán. Thiên văn học là lĩnh vực nghiên cứu Mặt Trời, Mặt Trăng, các hành tinh, sao chổi, khí, bụi, các thiên hà, ngôi sao, và các đối tượng khác bên ngoài Trái Đất. Theo định nghĩa của NASA thì "Thiên văn học là ngành khoa học nghiên cứu về các ngôi sao, các hành tinh, và không gian.". Thiên văn học và chiêm tinh học có nhiều liên quan về mặt lịch sử, nhưng chiêm tinh học không phải là một ngành khoa học và được cho là không có gì liên quan đến thiên văn học cả. NGC 7026, một tinh vân hành tinh, nằm ngay ngoài chóp đuôi của chòm sao Cygnus (The Swan). Xét về mặt lịch sử, Thiên văn học tập trung vào việc quan sát các vật thể trên bầu trời. Nó là anh em thân thiết với Vật lý thiên văn. Nói ngắn gọn, Vật lý thiên văn nghiên cứu về mặt vật lý của thiên văn học và tập trung vào hành vi, tính chất và chuyển động cỏa các đối tượng trong vũ trụ. Tuy nhiên, Thiên văn học hiện đại bao gồm nhiều yếu tố của chuyển động và tính chất của các vật thể này, và hai khái niệm này thường được sử dụng hoán đổi cho nhau. Các nhà Thiên văn học hiện đại hoạt động trên hai nhánh: Lý thuyết và quan sát. Thiên văn học quan sát tập trung vào các nghiên cứu trực tiếp các ngôi sao, hành tinh, thiên hà. Thiên văn học lý thuyết tập trung xây dựng mô hình và phân tích cách mà các hệ thống phát triển. Không giống như các lĩnh vực khoa học khác, các nhà Thiên văn học không thể quan sát một hệ thống từ lúc sinh ra đến lúc chết đi. Cuộc đời của các ngôi sao, các thiên hà trải dài từ hàng triệu năm đến hàng tỷ năm, do đó các nhà thiên văn học phải nhờ cậy vào hình ảnh các vật thể ở nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình tiến hóa để xác định cách chúng hình thành, phát triển, và kết thúc. Như vậy Thiên văn học lý thuyết và quan sát có xu hướng pha trộn lẫn nhau: các nhà thiên văn học lý thuyết sử dụng thông tin thực tế được thu thập để tạo ra các mô phỏng, trong khi các nhà thiên văn học quan sát sử dụng việc quan sát để xác nhận các mô hình - hoặc đề xuất các yêu cầu để tinh chỉnh chúng. Thiên văn học bị chia thành nhiều lĩnh vực con, cho phép các nhà khoa học chuyên môn hóa trong các hiện tượng và đối tượng cụ thể. Thiên văn học hành tinh: tập trung vào sự phát triển, tiến hóa và kết thúc của các hành tinh, trong khi các nhà thiên văn học Mặt Trời dành thời gian để phân tích một ngôi sao đơn lẻ - Mặt Trời của chúng ta. Các nhà thiên văn học sao lại hướng đôi mắt của họ đến các vì sao, bao gồm cả lỗ đen, tinh vân, sao lùn trắng và siêu tân tinh tồn tại khi một ngôi sao chết đi. Thiên văn học thiên hà chuyên nghiên cứu về các thiên hà, Dải Ngân Hà, trong khi các nhà thiên văn học ngoại thiên hà xem xét từ bên ngoài thiên hà để xác định cách những tập hợp sao này hình thành, thay đổi, và chết. Các nhà vũ trụ học tập trung vào vũ trụ một cách bao quát nhất, từ sự hình thành dự dội của Vụ Nổ Lớn cho đến sự tiến hóa của nó hiện nay, tất cả các hướng phát triển của nó cho đến khi kết thúc. Thiên văn học thường (không phải luôn luôn) rất cụ thể đối với những thứ quan sát được, trong khi vũ trụ học thường liên quan đến các tính chất ở quy môn lớn của vũ trụ, và những thứ bí ẩn, vô hình, và đôi khi là những thứ thuần lý thuyến như: Lý thuyết dây, vật chất tối và năng lượng tối, và khái niệm đa vũ trụ. Các nhà quan sát thiên văn học dựa vào các bước sóng khác nhau trong phổ điện từ (từ sóng radio cho đến ánh sáng nhìn thất và kể cả tia X hay tia Gamma) để nghiên cứu trải rộng các vật thể trong vũ trụ. Những chiếc kính thiên văn đầu tiên tập trung vào nghiên cứu quang học đơn giản những thứ có thể nhìn thấy bằng mắt thường, và nhiều kính thiên văn vẫn tiếp tục nhiệm vụ đó ngày nay. Nhưng khi sóng ánh sáng mang năng lượng mạnh hay yếu hơn, chúng di chuyển nhanh hay chậm hơn,thì việc sử dụng các loại kính thiên văn khác nhau là cần thiết để nghiên cứu ở các bước sóng khác nhau. Bức xạ mang năng lượng mạnh hơn, với bước sóng ngắn hơn, xuất hiện ở các bước sóng cực tím, tia X, và tia gamma, trong khi các đối tượng mang năng lượng yếu hơn bức xạ bước sóng dài hơn ở hồng ngoại và radio. Kỹ thuật đo sao, một trong những nhánh cổ nhất của thiên văn học, là đo đạc Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hành tinh. Các tính toán chính xác của những chuyển động này cho phép các nhà thiên văn học ở các lĩnh vực khác xây dựng mô hình về sự hình thành và tiến hóa của các hành tinh và các ngôi sao, và để dự đoán các sự kiện như nhật thực, nguyệt thực, mưa sao băng, và sự xuất hiện của các sao chổi. Những nhà thiên văn học đầu tiên chú ý đến các hình mẫu trên bầu trời và cố gắng sắp xếp chúng theo thứ tự để dễ theo dõi và dự đoán chuyển động của chúng. Được biết đến là các chòm sao, những khuôn mẫu này giúp con người trong quá khứ đo lường các mùa. Sự chuyển động của các ngôi sao và các thiên thể khác được theo dõi khắp nơi trên thế giới, phổ biến nhất ở Trung Quốc, Ai Cập, Hy Lạp, Lưỡng Hà, Trung Mỹ và Ấn Độ. Hình ảnh của một nhà thiên văn học là một tâm hồn cô độc với chiếc kính viễn vọng suốt đêm. Trong thực tế, phần khó khăn nhất của thiên văn học ngày nay được thực hiện với các đài quan sát bởi các kính thiên văn điều khiển từ xa bằng các máy tính - trên mặt đất và cả trong không gian - và với các nhà thiên văn học nghiên cứu dữ liệu và các hình ảnh tạo bởi máy tính. Từ sự ra đời của nhiếp ảnh, và đặc biệt là nhiếp ảnh kỹ thuật số, các nhà thiên văn học đã cung cấp những hình ảnh tuyệt vời của không gian, không chỉ trong các công trình khoa học mà còn làm say mê công chúng. Các nhà thiên văn học và các chương trình vũ trụ cũng góp phần vào việc nghiên cứu hành tinh của chúng ta, khi các nhiệm vụ chủ yếu là nhìn ra bên ngoài (hoặc du hành đến Mặt Trăng và xa hơn) và nhìn về và chụp những bức ảnh tuyệt vời của Trái Đất từ không gian.
Vật lý thiên văn
Vật lý thiên văn là một phần của ngành thiên văn học có quan hệ với vật lý ở trong vũ trụ, bao gồm các tính chất vật lý (cường độ ánh sáng, tỉ trọng, nhiệt độ, và các thành phần hóa học) của các thiên thể chẳng hạn như ngôi sao, thiên hà, và không gian liên sao, cũng như các ảnh hưởng qua lại của chúng. Công việc nghiên cứu Vật lý vũ trụ học là vật lý thiên văn mang tính lý thuyết trong phạm vi rộng nhất. Bởi vì ngành vật lý thiên văn là một lĩnh vực mênh mông, nên các nhà vật lý học thiên thể thường áp dụng các ngành khoa học khác trong vật lý, bao gồm cơ khí, điện từ học, cơ học thống kê, nhiệt động lực học, cơ học lượng tử, tính tương đối, vật lý nguyên tử, vật lý hạt nhân, và vật lý nguyên tử, phân tử và quang học. Trong thực nghiệm, ngành nghiên cứu thiên văn hiện đại bao gồm một phần quan trọng dựa trên nền tảng vật lý cơ bản. Tên gọi của ngành học trong các trường đại học ("vật lý thiên văn" hay "thiên văn học") thường liên quan nhiều đến lịch sử của ngành hơn là nội dung nghiên cứu.
Bộ phim xoay quanh câu chuyện về 5 người anh hùng nhỏ tuổi đã chiến đấu để gìn giữ hòa bình cho vũ trụ. Và nhờ có những bảo bối thần kỳ của Doraemon, và đặc biệt là “Đạo diễn Burger” – chú rô-bốt có thể giúp tạo ra những bối cảnh khác nhau trong một bộ phim, ước mơ của những người bạn nhỏ về việc làm ra một bộ phim đã trở thành hiện thực… Tình cờ chứng kiến những cảnh tượng diễn ra trong quá trình làm phim đó, Aron – một cư dân tới từ hành tinh Pokkuru - đã nhầm tưởng rằng Doraemon và nhóm bạn của mình là những người anh hùng thực sự. Sở dĩ Aron phải lưu lạc tới trái đất là vì hành tinh của cậu đang bị những kẻ gian ác chiếm đánh. Và Aron đã quyết định nhờ tới nhóm của Doraemon sử dụng những nguồn siêu năng lực mà họ sở hữu để giải cứu cho quê hương Pokkuru của cậu.
Doraemon
Doraemon: Nobita và những hiệp sĩ không gian (Nhật: (ドラえもん のび太の宇宙英雄記 (スペースヒーローズ), (pinyin: (Doraemon: Nobita no Supēsu Hīrōzu), Doraemon: Nobita và những hiệp sĩ không gian Tên tiếng Anh: (Doraemon: Nobita s Space Heroes) - hay còn gọi là Doraemon The Super Star 2015 và sau đó là Doraemon thứ 35 Movie là một Nhật Bản phim hoạt hình siêu anh hùng phim và 35 Doraemon phim. Nó được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 7 tháng 3 năm 2015. Bộ phim này kỷ niệm 35 năm của bộ anime Doraemon (1979) và kỷ niệm 10 năm của bộ phim hoạt hình Doraemon (2005). Bộ phim này tương tự như bộ phim thứ sáu của Doraemon, Nobita s Little Star Wars (1985) về chú mèo máy Doraemon dựa trên tác phẩm cùng tên của Fujiko F. Fujio. Được thực hiện bởi đạo diễn Osugi Yoshihiro kỉ niệm 35 năm phim chủ đề Doraemon nội dung kể về hành trình tìm kiếm người hùng trong bạn của Nobita và những người bạn tại Hành tinh Chuột Pokkuru để chống lại âm mưu xấu xa những tên hải tặc vũ trụ. Trước khi ra rạp vào ngày 7 tháng 3, năm 2015 toàn bộ nội dung được đăng tải trên tạp chí CoroCoro Comic từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015 dưới hình thức là tranh truyện và có những yếu tố được cải biên khác so với phim.
Cảng container được biết như là một nơi xếp dỡ hàng Container từ các phương tiện vận tải thủy lên bãi cảng hay các phương tiện vận tải đường sắt, đường bộ. Về cơ bản thì nó là một địa điểm với sức chứa hàng và diện tích khá lớn để thuận tiện hơn cho mọi hoạt động bốc dỡ, bốc xếp từng kiện hàng. Song không phải ai cũng nắm rõ ràng về định nghĩa cảng Container là gì và tại Việt Nam hiện có bao nhiêu cảng Container. Để giúp quý bạn đọc gần xa có cái nhìn chuẩn mực, chính xác nhất về vấn đề này, Ratraco Solutions mời bạn tham khảo cập nhật nhanh nguồn bài viết bổ sung kiến thức đầy đủ sau. Có bao nhiêu cảng Container tại Việt Nam hiện nay?1. Cảng Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu)3. Cảng Quy Nhơn (Bình Định)5. 4 tiêu chí đánh giá cảng Container chất lượng theo Ratraco Solutions1. Tiêu chuẩn linh hoạt, mềm dẻo. Cảng Container là một khu vực nằm trong hải cảng lớn, nó có cả cảng phục vụ các loại tàu khác như hàng rời, tàu dầu, tàu khách…Đặc biệt nó được thiết kế giành riêng cho tàu container neo đậu, bốc hạ container và thực hiện tiếp các công việc vận chuyển hàng container vào trong nội địa. Có thể chia cảng container làm 3 loại chính và mỗi loại có đi kèm những đặc thù riêng như:. Cảng đầu mối: Là cảng container nước sâu, dành cho các tàu chở hàng có trọng tải trung bình, chủ yếu phục vụ nội địa, tức hàng được đưa trực tiếp từ các tàu container tới cảng. Container nằm tại cảng này lâu hơn nên diện tích và trang thiết bị ở càng này buộc phải lớn hơn nhằm mục đích dự phòng sự tăng đột biến về lưu lượng các container. Cảng chuyển tải: Là cảng chuyên phục vụ các tàu container chở hàng quốc tế trên các tuyến chính để chuyển tải hàng hóa sang tàu container khác. Tức có nghĩa là container được dỡ từ tàu này lên bờ rồi lại xếp lên tàu container khác để vận chuyển tới điểm đích. Cảng phục vụ các tàu trên tuyến nhánh (Local Ports): Với mô hình cảng này thì thường nằm sâu trong nội địa, chuyên phục vụ cho các tàu tuyến nhánh, tàu container nhỏ, có sức chở dưới 100 Teu. Nơi này chủ yếu diễn ra các hoạt động chính như: nâng hạ, giao nhận container hoặc thực hiện nhanh chóng các thủ tục thông quan hàng hóa. Cảng container nằm trong khu vực hải cảng lớn được thiết kế giành riêng cho tàu container neo đậu, bốc dỡ hàng hóa. Cảng Hải Phòng là cảng container lớn nhất ở miền Bắc với số lượng hàng hoá lưu thông hàng hóa rất phong phú và đa dạng. Cảng biển này luôn được trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại để phục vụ cho việc đẩy, cẩu hàng,…nhằm tối ưu hoá việc lưu thông an toàn, nhanh tiện lợi và phù hợp với các phương thức vận tải. Cầu cảng có chiều dài 2.567 mét, diện tích kho 52.052 m2 và có thể xếp dỡ khoảng 10 triệu tấn hàng hóa/1 năm. Cảng Hải Phòng với chiều dài 2.567m và tổng diện tích kho là 52.052m vuông. Nếu ở đầu tàu miền Bắc có cảng biển Hải Phòng thì đầu cầu miền Nam có cảng Vũng Tàu – là cảng biển lớn ở Đông Nam Bộ nước ta. Cảng này có tổng cộng 4 khu bến: Khu bến Cái Mép, Sao Mai, Bến Đình; Khu bến Phũ Mỹ, Mỹ Xuân; Khu bến sông Dinh; Khu bến Đầm, Côn Đảo với lưu lượng hàng hoá lưu thông lớn, từ các tỉnh thành trong cả nước và quốc tế. Cảng Vân Phong là dự án cảng trung chuyển quốc tế lớn nhất Việt Nam (tỉnh Khánh Hòa). Cảng này có 2 khu bến: Khu bến Mỹ Giang và khu bến Dốc Lết, trong đó: Khu bến Mỹ Giang nằm ở phía Nam Vịnh Vân Phong: chuyên dùng cho dầu và các sản phẩm dầu. Năng lực tiếp nhận tàu chở hàng lỏng đến 350.000 DWT và dự kiến vào năm 2020 là 400.000 DWT. Khu bến Dốc Lết, Ninh Thủy nằm ở phía Tây Nam Vịnh Vân Phong: chuyên dùng cho hàng rời. Cảng Vân Phong với năng lực tiếp nhận tàu chở hàng lỏng lên đến 350.000 DWT. Cảng Quy Nhơn nằm trong khu vực Vịnh Quy Nhơn, được bán đảo Phương Mai che chắn, kín gió nên rất thuận lợi cho tàu neo đậu và xếp dỡ hàng hóa quanh năm. Nơi đây có thể tiếp nhận được các loại tàu đến 30.000 DWT lưu thông bình thường và tàu 50.000 DWT (giảm tải). Cảng Quy Nhơn có thể tiếp nhận các loại tàu đến 30.000 DWT và tàu 50.000 DWT. Cảng Quảng Ninh là cảng biển nước sâu nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc Việt Nam, rất thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng và khai thác kinh doanh cảng biển. Hệ thống đường thủy, bộ tới các vùng kinh tế lân cận đồng bộ và nhiều điều kiện tự nhiên phù hợp như: vụng nước sâu nằm gần biển, luồng lạch ngắn ít bị sa bồi, ít bị ảnh hưởng bởi sóng gió do được Vịnh Hạ Long bao bọc,…. Cảng Quảng Ninh nằm ở vị trí đắc địa nên rất thuận lợi cho việc bốc dỡ, vận chuyển Container. Cảng Đà Nẵng thuộc Vịnh Đà Nẵng với hệ thống giao thông thuận lợi, đóng vai trò là khâu quan trọng trong chuỗi dịch vụ Logistics của khu vực miền Trung. Bên cạnh là cửa ngõ chính hướng ra Biển Đông thì nó còn được chọn là điểm đến cuối cùng trong tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây, nối liền 4 nước trong khu vực: Việt Nam, Thái Lan, Myanmar và Lào. Cảng Đà Nẵng là khu vực hành lang kinh tế Đông Tây, nối liền 4 nước là Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Cảng Chân Mây nằm ở vị trí thuận lợi giữa con đường biển kết nối Singapore, Philippines và Hong Kong nên việc tiếp nhận tàu neo đậu hay xếp dỡ hàng là hoàn toàn thuận lợi. Ngoài ra, cảng biển này còn nằm ngay vị trí trung tâm Việt Nam, giữa hai đô thị lớn nhất miền Trung là Huế và Đà Nẵng. Cảng Chân Mây nằm ở tại vị trí trung tâm nên thuận tiện cho việc neo đậu, bốc dỡ hàng. Cảng quốc tế Dung Quất là mô hình cảng thương mại hiện đại đã và đang góp phần quan trọng trong việc thu hút đầu tư vào các khu kinh tế Dung Quất và khu công nghiệp lân cận. Đây là khu bến tổng hợp, bến container cho tàu có trọng tải từ 10.000 – 30.000 DWT và bến chuyên dùng cho công nghiệp nặng có thể tiếp nhận tàu từ 20.000 – 70.000 DWT. Cảng Cửa Lò với chức năng chính là khu bến cảng tổng hợp, đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hóa cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An và các tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ với tổng diện tích quy hoạch là 450 ha. Cảng có 6 bến, trong đó có 4 bến đã đi vào khai thác. Cảng Cửa Lò ở Nghệ An cũng là một cảng Container lớn với tổng diện tích là 450 ha. Cảng Sài Gòn là một hệ thống các cảng biển tại TP. Hồ Chí Minh (Tân Cảng Cát Lái, Cái Mép, Hiệp Phước,…) đóng vai như “cửa ngõ” của miền Nam (bao gồm cả Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) trong các hoạt động xuất nhập khẩu. Cảng gồm các khu bến cảng tổng hợp và cảng container bao gồm: Cảng Hiệp Phước trên sông Soài Rạp; Cảng Cát Lái trên sông Đồng Nai. Cảng Sài Gòn được ví như “cửa ngõ” miền Nam, thuận tiện cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Các điểm dừng của container để kiểm tra, tiến hành thủ tục trong phạm vi cảng ít nhất nên cần phải giảm thiểu các đầu mối thủ tục. Công nhân và thiết bị xếp dỡ phải được bố trí một cách hợp lý theo các kế hoạch sản xuất. Một mô hình cảng chứa Container đạt chuẩn là phải đáp ứng hiệu quả về mặt kinh tế. Cần bố trí các tuyến giao thông trong cảng theo đường một chiều và nên hạn chế đến mức thấp nhất các điểm giao cắt giữa các tuyến giao thông. Trong hoạt động sản xuất cảng, những thay đổi bất thường cần phải được giải quyết hoặc có sự điều chỉnh nhanh nhất có thể. Cảng Container Việt Nam cần được bố trí sắp xếp theo mô hình mềm dẻo, linh hoạt. Sau khi đã tìm đọc qua những nội dung liên quan tới khái niệm cảng Container là gì? Việt Nam có bao nhiêu cảng container?, chắc hẳn các tổ chức cá nhân, hay doanh nghiệp kinh doanh đã củng cố thêm cho mình kiến thức về mô hình cảng biển đầy tiện ích như này. Song song đó, Ratraco Solutions còn hỗ trợ cung cấp thêm cho bạn về các tiêu chí để đánh giá một cảng Container tốt và chất lượng nên hoàn toàn có thể dựa vào đây để so sánh, đánh giá rồi quyết định lựa chọn một đơn vị vận tải tốt uy tín nhất nhé. Hiện tại, ở Việt Nam, các cảng Container đã được nâng cấp, cải tiến đáng kể nhằm đáp ứng hiệu quả nhu cầu của hầu hết tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ nên bạn có thể hoàn toàn an tâm về hàng hóa, tài sản. Khi có nhu cầu muốn chọn RatracoSolutions Logistics làm đơn vị trung gian hỗ trợ bốc dỡ, vận chuyển Container, hãy liên hệ ngay với chúng tôi nhé.
Cảng
Cảng là một nơi nằm ở bờ sông, hồ hay biển có các trang thiết bị phục vụ cho việc bốc dỡ hàng hóa hoặc nơi đón hoặc đưa hành khách đi lại bằng đường thủy. Cảng bao gồm các cầu tàu ở một khu nước có độ sâu và rộng nhất định phục vụ cho tàu neo đậu hoặc cập bờ. Cảng có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo. Tùy theo vị trí của cảng, cảng được gọi là cảng sông hay cảng biển (hải cảng). Các cảng biển thường là cảng nước sâu phục vụ tàu vận tải lớn với tải trọng cao còn các cảng sông thường phục vụ tàu nhỏ hơn, do độ sâu luồng lạch cũng như diện tích mặt nước cảng. Theo đối tượng tàu phục vụ có thể chia thành cảng nội địa và cảng quốc tế. Theo đối tượng hàng hóa phục vụ, cảng hàng hóa có thể được chia thành nhiều loại cảng chuyên dụng như cảng hàng rời, cảng công ten nơ, cảng nhiên liệu. Các dịch vụ và thủ tục ở cảng gồm: dịch vụ bốc dỡ, dịch vụ bến bãi và kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ vận chuyển trong cảng và bên ngoài cảng, thủ tục thông quan.
Nghiện cờ bạc hay lạm dụng cờ bạc, là sự thôi thúc đánh bạc không thể kiểm soát được, bất chấp số tiền phải trả. Để hiểu hơn về nguyên nhân và cách xử trí rối loạn này, hãy cùng bác sĩ YouMed theo dõi bài viết dưới đây để trang bị cho mình kiến thức đúng đắn nhất. Đánh bạc có nghĩa là sẵn sàng mạo hiểm một thứ gì đó có giá trị với bạn với hy vọng nhận được thứ gì đó có giá trị cao hơn. Việc đánh bạc kích thích “trung tâm thưởng” của não giống như khi bạn dùng ma túy hoặc rượu, từ đó dẫn đến nghiện. Nếu bạn nghiện cờ bạc, bạn có thể liên tục chạy theo các vụ cá cược. Từ đó dẫn đến thua lỗ, tiêu hết tiền tiết kiệm, tích lũy nợ. Thậm chí trộm cắp hoặc lừa đảo để phục vụ cho cơn nghiện. Bận tâm đến cờ bạc, chẳng hạn như liên tục lên kế hoạch để có thêm nhiều tiền hơn. Cần phải đánh bạc với số tiền ngày càng tăng để có được sự hồi hộp tương tự như lần trước. Đánh bạc để thoát khỏi các vấn đề của bản thân. Giảm cảm giác bất lực, tội lỗi, lo lắng hoặc trầm cảm. Cố gắng lấy lại số tiền đã mất bằng cách đánh bạc nhiều hơn (chạy theo sự thua lỗ). Nói dối với người thân trong gia đình hoặc người khác để che giấu mức độ đánh bạc của mình. Hủy hoại hoặc làm mất các mối quan hệ quan trọng vì cờ bạc. Chẳng hạn như công việc, trường học hoặc cơ hội làm việc. Yêu cầu người khác bảo lãnh cho bạn vì bạn đã tiêu hết tiền cho việc đánh bạc. Người bình thường đánh bạc sẽ dừng lại khi thua hoặc đặt giới hạn thua. Nhưng những người nghiện cờ bạc buộc phải tiếp tục chơi để lấy lại tiền của họ. Cho nên cuộc sống của họ ngày càng bị tàn phá theo thời gian. Lý do chính xác gây ra nghiện cờ bạc vẫn chưa được hiểu rõ. Giống như nhiều vấn đề tâm thần khác, nghiện cờ bạc có thể là kết hợp của các yếu tố sinh học, di truyền và môi trường. Người nghiện cờ bạc thường có lạm dụng chất gây nghiện, rối loạn nhân cách, trầm cảm hoặc lo âu. Nghiện cờ bạc cũng có thể liên quan đến rối loạn lưỡng cực, rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) hoặc rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Nghiện cờ bạc phổ biến hơn ở người trẻ tuổi và trung niên. Đánh bạc trong thời thơ ấu hoặc thiếu niên làm tăng nguy cơ nghiện cờ bạc sau này. Tuy nhiên, nghiện cờ bạc ở người lớn tuổi cũng có thể là một vấn đề. Nghiện cờ bạc phổ biến ở nam giới hơn nữ giới. Phụ nữ thường bắt đầu đánh bạc muộn hơn và có thể bị nghiện nhanh hơn. Nhưng tỉ lệ nghiện cờ bạc ở nam và nữ ngày càng trở nên giống nhau. Nếu người thân trong gia đình hoặc bạn bè của bạn có vấn đề về đánh bạc, khả năng bạn nghiện cờ bạc cũng sẽ cao hơn. Thuốc Dopamine có tác dụng phụ hiếm gặp là gây ra các hành vi cưỡng chế, bao gồm cả cờ bạc, ở một số người. Tính cạnh tranh cao, nghiện công việc, bốc đồng, bồn chồn hoặc dễ chán nản có thể làm tăng nguy cơ nghiện cờ bạc. Nếu bạn nhận ra rằng bạn có vấn đề về cờ bạc, hãy đến khám Bác sĩ Tâm thần. Bác sĩ có thể xin phép nói chuyện với người thân trong gia đình hoặc bạn bè của bạn. Tuy nhiên, bác sĩ sẽ không cung cấp bất kỳ thông tin nào về bạn khi không có sự đồng ý của bạn. Một số loại thuốc có thể có tác dụng phụ hiếm gặp dẫn đến các hành vi cưỡng chế, bao gồm cả đánh bạc, ở một số người. Một bài kiểm tra thể chất có thể xác định các vấn đề sức khỏe của bạn mà đôi khi có liên quan đến nghiện cờ bạc. Bao gồm các câu hỏi về các triệu chứng, suy nghĩ, cảm xúc và hành vi liên quan đến cờ bạc của bạn. Tùy thuộc vào các dấu hiệu và triệu chứng của bạn, bạn có thể được đánh giá là có rối loạn tâm thần liên quan đến đánh bạc quá mức. DSM-5 được xuất bản bởi Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. Trong đó liệt kê tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn nghiện cờ bạc. Điều trị nghiện cờ bạc có thể là một thách thức. Vì hầu hết mọi người đều gặp khó khăn khi thừa nhận họ có vấn đề. Tuy nhiên, một phần chủ yếu của điều trị là để giúp bạn thừa nhận rằng bạn là một người nghiện cờ bạc. Nếu gia đình hoặc cấp trên gây áp lực cho bạn về việc điều trị, bạn có thể sẽ từ chối điều trị. Nhưng việc điều trị có thể giúp bạn lấy lại cảm giác kiểm soát và giúp hàn gắn các mối quan hệ hoặc phục hồi tài chính. Liệu pháp hành vi hoặc liệu pháp nhận thức hành vi có thể có lợi. Sử dụng việc tiếp xúc có hệ thống với các hành vi bạn không muốn học hỏi và dạy cho bạn các kỹ năng giảm ham muốn đánh bạc là vai trò của Liệu pháp hành vi. Liệu pháp nhận thức hành vi tập trung vào việc xác định niềm tin không lành mạnh, phi lý và tiêu cực. Thay thế chúng bằng những niềm tin lành mạnh, tích cực. Thuốc chống trầm cảm và thuốc ổn định khí sắc có thể làm giảm các rối loạn thường đi cùng với nghiện cờ bạc. Một số thuốc chống trầm cảm có thể có hiệu quả trong việc giảm hành vi đánh bạc. Các loại thuốc như thuốc kháng ma túy, hữu ích trong điều trị lạm dụng chất, có thể có ích trong điều trị nghiện cờ bạc. Điều trị nghiện cờ bạc có thể bao gồm điều trị ngoại trú, nội trú tùy thuộc vào nhu cầu và nguồn lực của bạn. Điều trị lạm dụng chất gây nghiện, trầm cảm, lo âu hoặc bất kỳ rối loạn tâm thần nào khác có thể là một phần trong điều trị nghiện cờ bạc. Mặc dù không có cách nào được chứng minh có thể ngăn chặn đánh bạc. Các chương trình giáo dục nhắm vào các cá nhân và nhóm có nguy cơ cao có thể có ích. Nếu bạn có các yếu tố nguy cơ của nghiện cờ bạc, hãy tránh đánh bạc dưới mọi hình thức. Tránh những người đánh bạc và nơi có đánh bạc. Điều trị khi có dấu hiệu sớm giúp ngăn chặn việc đánh bạc trở nên tồi tệ hơn. Ngay cả khi được điều trị, bạn vẫn có thể quay lại đánh bạc. Đặc biệt nếu bạn dành thời gian với những người đánh bạc hoặc ở trong môi trường cờ bạc. Nếu bạn cảm thấy rằng bạn sắp bắt đầu đánh bạc một lần nữa, hãy liên hệ bác sĩ Tâm thần ngay lập tức để ngăn ngừa tái nghiện. Trang tin y tế YouMed chỉ sử dụng các nguồn tham khảo có độ uy tín cao, các tổ chức y dược, học thuật chính thống, tài liệu từ các cơ quan chính phủ để hỗ trợ các thông tin trong bài viết của chúng tôi. Tìm hiểu về Quy trình biên tập để hiểu rõ hơn cách chúng tôi đảm bảo nội dung luôn chính xác, minh bạch và tin cậy. Từ đó đến nay, HON đã thực hiện chứng nhận cho các trang web y tế uy tín hàng đầu thế giới như WebMD, Mayo Clinic… Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (US National Library of Medicine – NLM) gợi ý chứng nhận “HONcode” là một trong những cơ sở để xác định sự tin cậy của một trang tin chuyên về y tế. YouMed đã phải tuân thủ nghiêm ngặt 8 tiêu chí để có thể được HON chứng nhận. 2 tiêu chí nổi bật nhất là tất cả bài viết đều được dẫn nguồn chính thống và được viết bởi 100% Bác sĩ, Dược sĩ. Chính đều này tạo nên điểm khác biệt giữa YouMed và các trang web khác.
Nghiện cờ bạc
Nghiện đánh bạc hay nghiện cờ bạc là một sự thôi thúc để đánh bạc liên tục bất chấp hậu quả tiêu cực có hại hoặc mong muốn dừng lại. Vấn đề đánh bạc thường được xác định bằng việc người đánh bạc hoặc người khác có bị tổn hại hay không, thay vì hành vi của người đánh bạc. Đánh bạc có vấn đề nghiêm trọng có thể được chẩn đoán là cờ bạc bệnh lý lâm sàng nếu con bạc đáp ứng các tiêu chí nhất định. Đánh bạc bệnh lý là một rối loạn phổ biến có liên quan đến cả chi phí xã hội và gia đình. DSM-5 đã phân loại lại tình trạng này là một rối loạn gây nghiện, với những người mắc bệnh có nhiều điểm tương đồng với những người nghiện chất gây nghiện. Thuật ngữ nghiện cờ bạc từ lâu đã được sử dụng trong phong trào phục hồi. Đánh bạc bệnh lý từ lâu đã được Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ coi là một rối loạn kiểm soát xung động hơn là nghiện. Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa đánh bạc bệnh lý và rối loạn sử dụng chất gây nghiện hơn là tồn tại giữa PG và rối loạn ám ảnh cưỡng chế, phần lớn là do các hành vi trong cờ bạc có vấn đề và hầu hết các rối loạn sử dụng chất gây nghiện chính (ví dụ: những người không xuất phát từ mong muốn "tự điều trị" cho một tình trạng khác như trầm cảm) tìm cách kích hoạt các cơ chế khen thưởng của não trong khi các hành vi đặc trưng cho chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế được nhắc nhở bởi các tín hiệu hoạt động quá mức và đặt sai từ các cơ chế sợ hãi của não.
Mặc dù sinh học ngày càng phát triển nhưng chúng ta vẫn chưa có một ý tưởng rõ ràng về bản chất của sự sống là gì? Đó là sự tiến hóa? Nước?… hay như nhà triết học cổ đại Aristole nói bản chất của sự sống là làm điều tốt và phục vụ những người khác. Mình đã tìm kiếm trên mạng và thấy đúng là có quá nhiều thông tin không chính thống, chứ chưa thấy nguồn chính thống (trang web uy tín) nào trả lời câu hỏi bản chất sự sống là gì. Tuy nhiên, mình trích dẫn ý kiến của cựu nhà sinh vật học ở Viện sức khỏe quốc gia Mỹ Ben Bacon trả lời trên Quora. Ông này tốt nghiệp cử nhân Harvard năm 1990. Mình cũng thấy ý kiến của ông ấy khá hợp lý nên mới quyết định chọn giới thiệu. Ông Bacon cho rằng không có bản chất của cuộc sống. Bản chất của sự sống bao gồm đầy đủ tất cả các đặc điểm của sự tồn tại trong tất cả các biến thể của nó. Những điều cơ bản được mô tả chính xác trong “đặc điểm của sinh vật” quen thuộc mà chúng ta học ở trường: Tổ chức hữu cơ của vật chất, tự tồn tại, sinh sản… Câu trả lời chính xác nhất mà bạn đã thấy cho đến nay là “sự sống là bản chất của cuộc sống”, mặc dù điều đó có vẻ hơi khó hiểu. “Bản chất” là một khái niệm triết học lỗi thời kết hợp chặt chẽ với “các hình thức lý tưởng” của Plato. Ý tưởng là có những thuộc tính cơ bản cung cấp cho sinh vật sự sống, những đặc tính này có từ trước, và tồn tại độc lập với sự tồn tại và hành vi thực tế của sinh vật. Điều đó là sai. Sự biến mất của “sinh lực” đồng thời với nhận thức rằng sự sống không khác gì những gì sinh vật sống làm… tất cả các chi tiết về sự tồn tại và hành vi của chúng. Có thể có những hoạt động của vật chất sống cần thiết hơn (thiết yếu?) hơn những hoạt động khác, nhưng không có hoạt động nào thực sự cần thiết về bản thân chúng, vì cuộc sống luôn phát triển theo thời gian. Khám phá của Darwin rằng tất cả các sinh vật đều có liên quan đã đặt chiếc đinh vào quan tài của “chủ nghĩa bản chất” và chủ nghĩa duy tâm Platon một lần và mãi mãi. Bất kỳ khía cạnh nào được xác định là bản chất của sự sống, có thể là hoạt động, sự thay đổi, tương tác với môi trường, DNA… giờ đây được coi là một khía cạnh của tồn tại sống. KIM là một nhà báo. Tôi viết về các vấn đề kinh tế, xã hội và đôi khi cả du lịch. Sở thích đọc sách và nấu ăn cho gia đình. Gia nhập Group Reference.vn để thảo luận, chia sẻ các vấn đề bạn quan tâm. Reference Việt Nam tồn tại để cung cấp cho độc giả những thông tin tham khảo chính xác, không thiên vị và độc lập về mọi lĩnh vực thiết yếu trong đời sống. Chúng tôi, là những nhà báo và chuyên gia kỳ cựu, sẽ cố gắng giúp bạn đọc tiết kiệm tiền bạc, thời gian và khỏi đau đầu khi nghiên cứu các sản phẩm và dịch vụ bạn đang cân nhắc mua. Thông tin chúng tôi cung cấp để bạn đọc tham khảo được tổng hợp, phân tích từ nhiều nguồn tin tức, nghiên cứu chính thống trong và ngoài nước, tuân thủ luật pháp và theo các tiêu chuẩn đạo đức báo chí cao nhất. Chúng tôi nỗ lực để làm theo các tiêu chuẩn trên trong tất cả nội dung. Nếu bạn nhận thấy chúng tôi còn thiếu sót, vui lòng gửi email cho Đội ngũ và chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để sửa lại cho đúng.
Sự sống
Sự sống (còn được gọi là sống hay cuộc sống) là một đặc điểm phân biệt các thực thể vật chất có cơ chế sinh học (ví dụ như khả năng tự duy trì, hay truyền tín hiệu), tách biệt chúng với các vật thể không có những cơ chế đó hoặc đã ngừng hoạt động, những vật đó được gọi là vô sinh hay vô tri thức. Nhiều dạng sự sống tồn tại như thực vật, động vật, nấm, nguyên sinh vật, vi khuẩn cổ và vi trùng. Các tiêu chí đôi khi có thể mơ hồ và có thể hoặc không thể xác định vi-rút, viroid, hoặc sự sống nhân tạo tiềm ẩn là "sống" và nói chung thì gọi là sinh mệnh. Sinh học là môn khoa học chính liên quan đến nghiên cứu về sự sống, mặc dù có nhiều khoa học khác cũng tham gia vào việc này. Khái niệm của sự sống rất phức tạp. Hiện nay sinh vật được định nghĩa là có khả năng cân bằng nội môi, tạo nên bởi các tế bào, thực hiện các quá trình trao đổi chất, phát triển và thích ứng với môi trường, phản ứng với tác động và sinh sản.
Không có khái niệm cụ thể, đồng nhất về kỹ năng. Tùy mỗi người sẽ có những định nghĩa khác nhau. Nhìn chung, kỹ năng có thể được hiểu như khái niệm bên trên hoặc theo một cách ngắn hơn hơn. Kỹ năng (tên tiếng anh là Skill) là việc một người nào đó vận dụng khả năng hay năng lực để thực hiện hành động gì đó nhằm tạo ra kết quả như mong muốn. Với những kỹ năng được trang bị, chúng ta sẽ dùng để áp dụng vào thực tế. Kỹ năng có thể được chia thành các cấp bậc khác nhau. Ban đầu, kỹ năng có thể còn ít hoặc chưa được thuần thục nhưng sau thời gian, rèn luyện, kỹ năng sẽ được lên “level”. Đồng thời, kỹ năng cũng có rất nhiều loại. Mỗi người cần trang bị cho mình các loại, các mức độ kỹ năng để vận dụng trong thực tiễn. Những kỹ năng bất cứ ai cũng cần có để có giá trị cuộc sống tốt đẹp hơn. Kỹ năng cứng là gì? Kỹ năng cứng (hard skill) là những kiến thức, hiểu biết hoặc trải nghiệm thực hành có tính chất thiên về kỹ thuật. Kỹ năng cứng thường mang tính chuyên môn. Nói cách khác, kỹ năng cứng dùng để chỉ trình độ, kiến thức chuyên môn, bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn. Loại kỹ năng này đa phần được đào tạo ở các trường học. Thông qua các môn học chính, kỹ năng cứng sẽ dần được hình thành. Để có được kỹ năng cứng, bạn sẽ phải trải quãng thời gian rèn luyện dài, vất vả. Bên cạnh đó, bạn cũng phải nỗ lực để vượt qua các bài test, kỳ thi chứng minh khả năng. Kỹ năng ngoại ngữ: Thông thạo một hoặc nhiều tiếng nước ngoài. Tiếng Anh, Nhật, Hàn,… hiện đang rất phổ biến. Những yêu cầu về kỹ năng cứng bạn có thể dễ dàng thấy ngay trong các tin tuyển dụng. Yêu cầu tốt nghiệp trường đại học/cao đẳng nào đó, chứng chỉ tiếng Anh Toeic, Ielts,… cũng là đang đòi hỏi kỹ năng cứng của bạn. Kỹ năng mềm là gì? Kỹ năng mềm (soft skill) là những kỹ năng quan trọng liên quan tới mặt trí tuệ, cảm xúc. Kỹ năng mềm chứng tỏ khả năng hòa nhập, tương tác với xã hội, cộng đồng, tập thể,… Có thể thấy, kỹ năng mềm không mang tính chuyên môn mà liên quan tới tính cách, cảm xúc nhiều hơn. Khác với kỹ năng cứng thường được xây dựng từ trường học, “Trường đời” thường được ví là nơi “tôi luyện” kỹ năng mềm. Nếu đã hiểu hơn về kỹ năng là gì, kỹ năng mềm được định nghĩa ra sao. Hãy xem ví dụ dưới đây. Thực tế đã chứng minh, kỹ năng cứng là điều kiện cần và kỹ năng mềm chính là điều kiện đủ. Phần lớn những người thành công chỉ sở hửu khoảng 25% kỹ năng cứng. Chiếm phần lớn, gấp tới 3 lần kỹ năng cứng là kỹ năng mềm, kỹ năng sống (75%). Kỹ năng sống là gì? Kỹ năng sống được hiểu ngắn gọn là những kỹ năng, thói quen cần thiết, hợp lý để xử lý tình huống cụ thể trong cuộc sống. Kỹ năng sống sẽ giúp giải quyết, xử lý các vấn đề hiệu quả hơn. Và trong nhiều tình huống, chúng còn giúp bạn thoát hiểm một cách ngoạn mục. Kỹ năng đối phó, ứng biến: Có người rủ rê đi chơi, cho tiền, nhờ gửi đồ nhưng thấy nghi hoặc thì cần khéo léo tìm cách từ chối. Nếu như kỹ năng cứng thể hiện sự “cứng” ngay trong tên gọi thì kỹ năng mềm thiên về sự mềm dẻo, linh hoạt. Thời gian đào tạo, hình thành hai loại kỹ năng này khác nhau khá nhiều. Bạn sẽ mất một thời gian dài để học tập, đúc kết kỹ năng cứng. Với kỹ năng mềm, thời gian thường sẽ ngắn hơn và còn tùy thuộc vào trình độ, khả năng của từng người. Bạn đã biết kỹ năng là gì, kỹ năng cứng và kỹ năng mềm. Vậy còn kỹ năng sống thì sao? Nhiều người cho rằng kỹ năng mềm và kỹ năng sống là một? Có đúng như vậy không?. Thực chất, kỹ năng sống và kỹ năng mềm không hoàn toàn là một nhưng cũng không hề tách biệt. Chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Kỹ năng sống mang tính phổ quát, phạm trù rộng hơn rất nhiều. Kỹ năng mềm là một bộ phận quan trọng của kỹ năng sống. Nơi giúp chúng ta hình thành, xây dựng kỹ năng sống chính là “trường đời”. Thông qua sách báo, truyền hình, bạn có thể hiểu, biết nhiều hơn về các kỹ năng sống. Từ đó, với các tình huống thực tế, bạn sẽ được “thực hành”. Hiện nay, kỹ năng sống rất được các bậc phụ huynh quan tâm và ưu tiên rèn luyện cho con mình ngay từ khi còn nhỏ. Một em bé chỉ vài tháng tuổi đã được cha mẹ đưa tới các lớp học bơi. Các bé gái ngay từ khi biết nhận thức đã được cha mẹ hướng dẫn cách không cho người khác đụng chạm cơ thể. Hay trong trường hợp xảy ra hỏa hoạn, các bé được cha mẹ dạy cách lấy tay che mũi miệng, cúi người di chuyển,…. Mỗi người sẽ có những cách khác nhau để xây dựng, tích lũy các kỹ năng. Dù là kỹ năng cứng, kỹ năng mềm hay kỹ năng sống, bạn cũng có thể tham khảo một số cách dưới đây. Học thầy không tày học bạn: Đây là một trong những cách để học hỏi các kỹ năng vừa nhanh lại rất thực tế. Những người đi trước sẽ chỉ cho bạn nhiều điều và còn có thể đưa ra những lưu ý bổ ích để bạn rút kinh nghiệm. Học hỏi qua thách thức mới: Đừng chỉ mãi ỷ lại vào người khác. Bạn cần biết “dấn thân” để tự mình khám phá nhiều điều mới. Khám phá tính cách, hiểu rõ bản thân, nhận biết điểm mạnh, điểm yếu. Từ đó, bạn sẽ biết mình đang có và cần xây dựng những kỹ năng gì. Nếu bạn có nhắn gửi gì đến tác giả, bạn để lại bình luận tại đây nhé. Mình sẽ chuyển lời đến tác giả giúp bạn
Kỹ năng
Kỹ năng (tiếng Anh: skill) là khả năng thực hiện một hành động với kết quả được xác định thường trong một khoảng thời gian cùng năng lượng nhất định hoặc cả hai. Các kỹ năng thường có thể được chia thành các kỹ năng miền chung và chuyên biệt. Ví dụ: trong lĩnh vực công việc, một số kỹ năng chung sẽ bao gồm quản lý thời gian, làm việc theo nhóm và lãnh đạo, tự tạo động lực và những người khác, trong khi các kỹ năng dành riêng cho miền chỉ được sử dụng cho một công việc nhất định. Kỹ năng thường đòi hỏi các kích thích và tình huống môi trường nhất định để đánh giá mức độ kỹ năng được thể hiện và sử dụng. Con người cần một loạt các kỹ năng để đóng góp cho nền kinh tế hiện đại. Một điểm chung giữa Hiệp hội phát triển tài năng (ASTD) và nghiên cứu của Bộ Lao động Hoa Kỳ cho thấy thông qua công nghệ, nơi làm việc đang thay đổi và xác định 16 kỹ năng cơ bản mà nhân viên phải có để có thay đổi theo. Ba loại kỹ năng được đề xuất và đây là các kỹ thuật, con người và khái niệm.
Muay Thái là bộ môn võ thuật có nguồn gốc từ Thái Lan và được đánh giá là môn võ có tính chiến đấu thực chiến cao. Để giúp bạn hiểu rõ hơn về Muay Thái, hôm nay Thiên Trường Sport xin giải đáp giúp bạn thắc mắc Muay Thái là gì? và chia sẻ với bạn 6 điều cần biết về bộ môn võ thuật này !. Hiện nay, Muay Thái là môn võ thuật nổi tiếng không chỉ ở Thái Lan mà còn được cả thế giới biết đến. Tuy nhiên, hầu như mọi người chỉ nói nhiều về Muay Thái chứ chưa thật sự hiểu Muay Thái là gì? hay nguồn gốc phát triển của nó như thế nào?. Nếu bạn cũng là người chưa biết Muay Thái là gì? thì hãy tham khảo ngay những thông tin dưới đây để hiểu rõ hơn về môn võ này nhé. Nào, cùng bắt đầu với Thiên Trường Sport nào !. Muay Thái là một môn võ cổ truyền có lịch sử lâu đời và đến nay đã trở thành bộ môn thể thao phổ biến rộng rãi tại Thái Lan, đồng thời được nhiều người trên thế giới biết đến. Nhiều người vẫn thường gọi Muay Thái là quyền Thái, tuy nhiên nó khác so với với Boxing (quyền Anh) của phương Tây. Trong thực tế, Muay Thái là môn võ mang đầy tính tâm linh và tôn giáo cao cả. Muay Thái là bộ môn võ thuật kết hợp các động tác tấn công bằng tay, chân, cùi chỏ và dùng khuỷu tay là đòn ấn tượng nhất để đánh gục đối thủ của bộ môn võ này. Trong Muay Thái, võ sĩ sử dụng toàn bộ thân mình làm vũ khí tấn công cũng như phòng thủ và nó được xem là một bộ môn mang phong cách đầy mạnh mẽ, quyết liệt. Trước khi trở thành một môn thể thao toàn dân, Muay Thái từng được coi như một thứ vũ khí sống còn của người Thái Lan xưa. Theo các nghiên cứu, Muay Thái được cho là xuất hiện từ khoảng năm 1500 với tên gọi là Muay Boran (Ancient Boxing). Dưới triều đại Quốc vương Naresuan, tất cả binh lính đều được rèn luyện môn võ thuật này và xem như điển hình trong cuộc chiến tay không chống trả với kẻ địch. Để kỷ niệm và vinh danh môn quyền Muay Thái, Hoàng gia Thái Lan lấy ngày 17 Tháng 3 hàng năm làm "ngày võ sĩ" hay còn gọi là "ngày Quyền thuật quốc gia" cho cả nước ghi ơn. Những võ sĩ Muay Thái chuyên nghiệp thường bắt đầu tập luyện bộ môn này từ khi còn rất nhỏ và khoảng 8 tuổi hoặc ít hơn. Một ngày của họ bắt đầu từ khi còn sớm tinh mơ và thời gian biểu chỉ xoay quanh việc tập luyện để nâng cao kĩ thuật, đồng thời duy trì vóc dáng phù hợp với bộ môn này. Mỗi võ sĩ Muay Thái chuyên nghiệp phải tham gia hàng trăm trận đấu trong suốt sự nghiệp của mình để hướng đến một mục tiêu duy nhất đó là "trở thành nhà vô địch". Các võ sĩ Muay Thái luôn luôn thể hiện một sự tôn trọng sâu sắc đối với sư phụ của họ trong bất cứ hoàn cảnh nào. Với Muay Thái, sư phụ sẽ có trách nhiệm đào tạo những kĩ năng chiến đấu, sức mạnh tinh thần và lòng tin cho môn đệ của mình. Trước mỗi trận đấu, họ luôn chúc học trò của mình chiến thắng, thi đấu an toàn và thuận lợi. Còn các học trò sẽ thực hiện nghi lễ Wai Kru - một nghi lễ thể hiện sự biết ơn tôn kính bậc thầy của mình. Trước khi trận đấu diễn ra, người ta cũng tổ chức một buổi lễ nhằm cầu mong sự bảo vệ từ thần linh cho cả hai võ sĩ tham gia. Đối với người Thái, chiến thắng là quan trọng, tuy nhiên danh dự luôn là điều được đặt lên hàng đầu. Dù thắng hay thua, các đấu sĩ vẫn thể hiện sự tôn trọng của mình với đối thủ và cả thầy dạy của đối thủ. Tôn giáo là một phần quan trọng trong cuộc sống của người Thái và có liên quan chặt chẽ tới bộ môn Muay Thái. Những chiếc khăn đội đầu và trang phục mà các võ sĩ mặc khi thi đấu đều mang những ý nghĩa về sự may mắn, bảo vệ. Người Thái có niềm tin rất lớn vào thế giới tâm linh. Trước mỗi cuộc thi đấu, người ta đều thực hiện một nghi lễ bày tỏ sự tôn kính với các thần linh và đó gọi là nghi lễ Ram Muay. Trong thực tế, có rất nhiều lý do để một người lựa chọn theo đuổi sự nghiệp trở thành võ sĩ từ khi còn bé và trong hầu hết trường hợp, nó đều không liên quan tới khát vọng trở thành nhà vô địch. Những đứa trẻ học Muay Thái phần lớn là do cha mẹ chúng. Họ hy vọng rằng môn võ này có thể giúp con cái họ có một sự nghiệp ổn định và đem lại trợ giúp tài chính cho gia đình. Ở nhiều vùng quê tại Thái Lan, Muay Thái còn được coi là cơ hội duy nhất để kiếm tiền. Những đứa trẻ đến từ gia đình không trọn vẹn hoặc vô gia cư cũng coi các trại huấn luyện Muay Thái như một mái ấm thật sự. Có một điều có thể làm bạn bất ngờ đó là võ sĩ Muay Thái chỉ kiếm được một mức tiền lương khá khiêm tốn, trung bình khoảng 5.000 baht (tương đương 3,7 triệu đồng) cho mỗi tháng. Còn đối với võ sĩ chuyên nghiệp, mức lương của họ vào khoảng 10 ngàn baht (khoảng 7,3 triệu đồng). Càng thi đấu nhiều, mức thu nhập của một võ sĩ càng tăng. Vì vậy, họ thường cố gắng tham gia nhiều giải đấu nhất có thể, bất chấp những chấn thương, bệnh tật và mệt mỏi. Muay Thái là một trong số ít những môn võ thuật trên thế giới được phép sử dụng trong các trận đấu thực tế. Mặc dù nổi tiếng như một bộ môn tấn công dựa trên võ thuật nhưng Muay cũng bao gồm kỹ thuật phản đòn để có thể tận dụng được sức mạnh của đối thủ. Bằng quá trình luyện tập Muay Thái thường xuyên, chúng ta sẽ rèn luyện được cơ thể và tinh thần phù hợp với các tình huống cần tự vệ bản thân. Đây không chỉ là môn giúp bạn đơn thuần bảo vệ bản thân, mà bản chất chiến đấu của Muay Thái còn giúp bạn có thể chiến thắng trong các cuộc giáp mặt. Bạn không chỉ sử dụng linh hoạt các cú đá, lên gối mà còn rèn luyện được độ rắn rỏi của tay, các đòn né trong các thế chiến đấu. Vì vậy, bộ môn này giúp trang bị cho chúng ta những kĩ năng cần thiết để trở thành một "chiến binh" thật sự trước những khó khăn mà ta sẽ phải đối mặt. Thiên Trường Sport là cửa hàng chuyên bán dụng cụ tập võ thuật với đầy đủ các dụng cụ và giá rẻ nhất tại thị trường Việt Nam. Các bạn có nhu cầu mua online dụng cụ tập MMA có thể tham khảo chi tiết tại. Thiên Trường Sport là đơn vị chuyên nhập khẩu, phân phối, bán buôn, bán lẻ dụng cụ thể dục, thể thao và thể hình uy tín nhất tại Việt Nam. Toàn bộ sản phẩm do Thiên Trường cung cấp đều đảm bảo chính hãng, thông tin và giá bán được niêm yết, đảm bảo quyền lợi của Quý khách hàng.
Muay Thái
Muay Thái (tiếng Thái: มวยไทย, chuyển tự: Muai Thai, IPA: mūɛj tʰāj) là một môn võ thuật cổ truyền đồng thời là một môn thể thao phổ thông của Thái Lan. Người phương Tây gọi môn này là quyền Thái (Thai boxing), tuy nhiên nó khác nhiều so với môn boxing của phương Tây. Môn thể thao này đã hiện diện từ năm 1500, với tên gọi là Muay Boran (Ancient Boxing) dưới triều đại quốc vương Naresuan, tất cả binh lính đều được rèn luyện võ thuật này, xem như điển hình trong cuộc chiến tay không chống trả với địch. Binh sĩ Xiêm La phải ôn luyện thực hành để tranh tài với nhau tại từng địa phương hay từng vùng. Không chỉ riêng Thái Lan mới có Muay, ở mỗi quốc gia trong khu vực Châu Á cũng có Muay, thế nhưng ở mỗi quốc gia, tên gọi Muay có sự khác biệt. Nhưng cũng có nguồn cho rằng Muay Thai do Nai Khanomtom - một binh sĩ Xiêm La sáng lập khi bị bắt làm tù binh Miến Điện. Khi bi bắt, ông đã được yêu cầu giao đấu với 10 võ sĩ hàng đầu Miến Điện và ông đã thắng toàn bộ bằng cách sử dụng những chiêu thức được học trong quân đội.
Đối với các ngôi sao võ thuật như Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan hay Ngô Kinh để có được những thế võ khiến người xem phải trầm trồ thán phục, không những cần sự dày công luyện tập mà trên hết, vai trò của người thầy, người sư phụ đứng sau thành công ấy cũng vô cùng quan trọng. Có thể nói, võ sư Ngô Bân chính là người nắm được những điểm yếu, điểm mạnh và thậm chí là những thói hư tật xấu của Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan, Ngô Kinh và cũng chính ông là người đã góp phần tạo nên thành công cho những siêu sao võ thuật này nổi tiếng khắp thế giới. Võ sư Ngô Bân (thứ hai từ trái sang) hướng dẫn Lý Liên Kiệt và Chân Tử Đan. Ông là một trong những nhân vật có nhiều đóng góp trong lĩnh vực võ thuật của Trung Quốc. Không như nhiều cao thủ khác, đến trước năm 19 tuổi ông vẫn chưa biết đến võ thuật là gì mà theo đuổi lĩnh vực sở trường là thể thao. Ngô Bân có sự linh hoạt, dẻo dai cùng đầu óc cực kỳ thông minh nên tất cả các môn như bơi, bóng rổ, bóng đá , đến cả cử tạ cũng đều đạt được thành tích cao. Năm 1958, ông vào Học viện thể thao Bắc Kinh (hay Học viện thể dục Bắc Kinh) và chơi môn cử tạ. Tuy nhiên, điều không may xảy đến chỉ sau đó một năm khi một chấn thương thắt lưng đã khiến sự nghiệp này kết thúc. Trong thời gian ở đó, Ngô Bân đã học Wushu và sau khi rời bỏ môn cử tạ ông quyết tâm theo con đường võ thuật chuyên nghiệp. Năm 1963, sau khi tốt nghiệp Học viện thể dục Bắc Kinh, Ngô Bân chuyển sang làm giảng viên cho trường đào tạo võ thuật nghiệp dư Bắc Kinh. Năm 1965, ông được bầu lên làm Tổng thư ký Hiệp hội Wushu Bắc Kinh. Ngô Bân cũng chính là người đã sáng lập ra trường đào tạo võ thuật Thập Sát Hải, nơi đào tạo ra những ngôi sao võ thuật nổi tiếng của làng điện ảnh Hoa ngữ như: Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan, Triệu Văn Trác, Ngô Kinh…. Ở trường võ thuật của mình, Ngô Bân huấn luyện học viên theo 3 tiêu chí. Một là "khổ" - khổ luyện là nền tảng, vượt qua khó khăn, nghiêm túc, ngoan cường và tinh thần chăm chỉ, dũng cảm. Thứ hai là "thông minh" – nắm bắt lý thuyết để thực hành, tôn trọng những luật lệ được đề ra và nắm chắc những động tác mấu chốt dưới điều kiện thực tế. Chính nhờ sự nghiêm khắc trong đào tạo, dạy dỗ, những đệ tử của ông đều thành danh không chỉ tại quê nhà mà còn nổi tiếng ở khắp châu Á và cả Hoa Kỳ. Từ năm 8 tuổi, Lý Liên Kiệt đã trở thành đệ tử của Ngô Bân. Kể từ lúc đấy, sư phụ Ngô Bân đã tin rằng Lý Liên Kiệt sẽ làm nên chuyện. Học được một thời gian, mẹ Lý Liên Kiệt đưa con trai về vì sợ lơi là việc học văn hóa. Võ sư Ngô Bân phải nhiều lần tới nhà để thuyết phục, bà Lý mới đồng ý để con trai tiếp tục theo ông học võ, Ngô Bân nói với bà Lý rằng, con trai bà là "hạt giống tốt nhất định không thể bỏ phí". Bằng tất cả khả năng và sự nghiêm khắc của mình, võ sư Ngô Bân đã rèn nên một Lý Liên Kiệt dạn dày sương gió. Sau này, khi Lý Liên Kiệt đã thành danh, sư phụ Ngô Bân cho biết, ông rất tự hào về cậu học trò năm xưa và nhận xét rằng: "Lý Liên Kiệt biết nhu biết cương, có nền tảng võ thuật tốt". Về phần Chân Tử Đan, võ sư Ngô Bân miêu tả, đó là môn sinh có tính cách hoàn toàn trái ngược với Lý Liên Kiệt (một người hiền lành). Chân Tử Đan bái sư vào năm 1978, khi vừa trở về từ Mỹ, Chân Tử Đan có phần ngang ngạnh hơn, nhiều lần đấu khẩu, cãi ngang sư phụ, khiến có lần, ông đã tức giận đến mức đuổi Chân Tử Đan ra khỏi lớp vì thái độ hỗn hào của anh. Không chỉ có Ngô Bân tức giận mà sự ngỗ ngược của Chân Tử Đan khiến nhiều võ sinh khó chịu, trong đó có Lý Liên Kiệt. Tuy nhiên, vì trong trường không cho phép các võ sinh được ẩu đả vì bất kỳ lý do gì, nên anh vẫn cố gắng nhẫn nhịn. Cơn giận dữ của Lý bùng phát khi Chân Tử Đan một lần nữa thách đấu anh cũng như các đồng môn khác. Trận đấu giữa Lý Liên Kiệt và Chân Tử Đan diễn ra bí mật và chỉ có một vài võ sinh bị thách đấu chứng kiến. Trong trận chạm trán lần này, Chân Tử Đan còn chưa kịp thi triển võ công đã bị Lý Liên Kiệt hạ knock out với cú ra đòn khá mạnh khiến người huynh đệ miệng hộc máu, nước mắt ứa ra vì uất ức và hối hận. Theo sư phụ Ngô Bân, võ thuật chính là sự thể hiện tính cách riêng của từng người. Chính vì thế, sự cá tính, ngang ngạnh của Chân Tử Đan mang tới cho anh những phong cách võ thuật cứng rắn đôi khi hơi quá tay. Sau này, Chân Tử Đan không chỉ là ngôi sao võ thuật lừng danh mà anh còn là đạo diễn, nhà chỉ đạo võ thuật và nhà sản xuất điện ảnh. Anh nổi tiếng trên màn ảnh truyền hình và màn ảnh rộng qua những vai diễn có sử dụng võ thuật như trong phim Huyền thoại Trần Chân, Thân phận đặc biệt, Diệp Vấn, Trùm hương cảng. Còn về phần Ngô Kinh, anh bắt đầu trở thành đệ tử của sư phụ Ngô Bân vào năm 13 tuổi. Sau khi quan sát vị học trò mới này một hồi, Ngô Bân phát hiện ra ngón cái bên tay trái của Ngô Kinh bị thiếu mất nửa mẩu nên tỏ vẻ ái ngại và cho biết: "Ngô Kinh ngón cái tay trái lại thiếu mất nửa mẩu. Với người học võ lực ở ngón cái là điểm mấu chốt, các cao thủ hơn thua nhau thực chất là ở nửa ngón này. Đó là vũ khí mạnh nhất và cần thiết của mỗi người học võ". May mắn thay, vào thời khắc quyết định, đệ tử ruột của Ngô Bân là Lý Kim Hằng đã nói đỡ rằng: "Đứa nhỏ này không tồi, trước tiên cứ giữ lại" và thế là… Ngô Kinh được nhận vào học. Biết mình không hợp mắt sư phụ nên Ngô Kinh đã dành hết sức lực để luyện tập. Khi người ta nghỉ thì anh luyện tập, khi người ta ngủ thì anh trốn tới phòng để tiếp tục luyện tập. Sự kiên trì đó khiến sư phụ Ngô Bân rất hài lòng. Chính Ngô Bân còn khẳng định, Ngô Kinh sẽ là người thừa kế hoàn hảo nhất của Lý Liên Kiệt. Tuy nhiên với những gì đã thể hiện, Ngô Kinh cho thấy mình có khả năng còn làm tốt hơn cả đàn anh. Ngoài vai trò diễn viên, vài năm trở lại đây Ngô Kinh còn lấn sang lĩnh vực đạo diễn, sản xuất phim, anh được mệnh danh là "thần bài" của showbiz Hoa ngữ khi đầu tư phim nào hốt bạc phim đó. Trong đó, hai bộ phim Chiến lang 2 và Lưu lạc địa cầu giúp anh bỏ túi hàng trăm triệu USD. Chiều 28/8, Bộ Y tế thông tin chính thức về cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh quốc gia ngày 22/8, xem xét kết quả giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3a ứng viên vắc xin Nanocovax.
Lý Liên Kiệt
Lý Liên Kiệt (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1963) là một nam diễn viên võ thuật nổi tiếng người Singapore. Ngoài vai trò diễn viên, Lý Liên Kiệt còn được biết tới là nhà sản xuất, nhà hoạt động từ thiện. Vào năm 2017, Lý Liên Kiệt đã giới thiệu tới công chúng môn võ Công Thủ Đạo với tư cách là người sáng lập dựa trên nền tảng của Thái cực quyền. Lý Liên Kiệt tập wushu từ 8 tuổi với võ sư Ngô Bân, cùng một sư phụ với Chân Tử Đan, ông đã sớm bộc lộ năng khiếu và tư chất để trở thành một cao thủ. Thuở nhỏ, giống như đàn anh Lý Tiểu Long, Lý Liên Kiệt không có một thể trạng tốt cho việc học võ. Ông yếu đuối, lại sống trong một gia đình có quá nhiều áp lực, nên nhiều lần đã định bỏ cuộc. Nhưng được sư phụ động viên, ông đã vượt qua được. Năm 1974, Lý Liên Kiệt mới 11 tuổi, đã trở thành nhà vô địch giải Wushu trẻ toàn Trung Quốc. Mọi người gọi ông là "thần đồng võ thuật". Lúc này Lý Liên Kiệt đã nhận được nhiều lời mời đóng phim và quảng cáo, nhưng nghĩ mình chưa đạt tới trình độ siêu đẳng, ông trở về với sư phụ Hồ Bình.
Trong quá trình tìm hiểu, chắc hẳn ai cũng sẽ rõ về cổ phiếu và trái phiếu thông thường trong thị trường chứng khoán. Bên cạnh lợi ích của cổ phiếu và trái phiếu thì trái phiếu chuyển đổi cũng là loại sản phẩm đầu tư mà các bạn cần có sự quan tâm nhất định. Trái phiếu là một loại chứng khoán nợ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người mua (trái chủ). Theo đó, người mua trái phiếu sẽ hưởng lãi định kỳ (3 hoặc 6 tháng/lần) và nhận lại tiền gốc đầu tư khi đáo hạn. Trái phiếu chuyển đổi có đặc tính là một dạng trái phiếu mà bạn có thể chuyển từ trái phiếu sang cổ phiếu vào một thời điểm nào đó trong tương lai (được phép thực hiện quyền nhưng không phải nghĩa vụ). Loại cổ phiếu này có lãi suất cố định khá thấp nhưng có khả năng chuyển đổi lợi nhuận lớn. Tỷ lệ chuyển đổi cho biết mỗi trái phiếu có thể chuyển đổi được thành bao nhiêu cổ phiếu. Tỷ lệ chuyển đổi được thể hiện dưới dạng tỷ số hoặc mức giá chuyển đổi. Là thời gian nắm giữ mà sau đó nhà đầu tư có thể thực hiện quyền đổi trái phiếu sang cổ phiếu. Giống như trái phiếu thông thường, trái phiếu chuyển đổi cũng đem đến khoản lãi suất định kỳ cho nhà đầu tư. Dù vậy, mức lãi suất này sẽ thấp hơn. Trường hợp này xảy ra khi giá cổ phiếu lên cao hơn giá trị mà nó có thể đạt được vào thời điểm trái phiếu được mua lại hoặc bị thu hồi. Đặc tính này làm hạn chế khả năng tăng giá quá cao của trái phiếu chuyển đổi. Công ty cổ phần XYZ có 100 triệu cổ phần, giá thị trường là 10.000 đồng/cổ phiếu. Công ty phát hành thêm 1 triệu trái phiếu chuyển đổi, mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu, lãi suất 5%/năm (thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng). Sau 1 năm kể từ ngày phát hành có thể chuyển đổi thành cổ phiếu XYZ là 5.000 đồng/cổ phiếu với tỷ lệ 10:1 (1 trái phiếu có thể đổi được 10 cổ phiếu). Như vậy, nhà đầu tư có thể thu được 5 tỷ đồng sinh lời từ trái phiếu. Tuy nhiên, cũng sau hơn 1 năm, công ty XYZ có bứt phá trong kinh doanh khiến giá cổ phiếu trên thị trường tăng lên 12.000 đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư thực hiện chuyển đổi trái phiếu sang cổ phiếu. Khi đó, số tiền lời từ cổ phiếu so với giá thị trường là 7.000 đồng mỗi cổ phiếu (tương đương 70 tỷ đồng). Trong đó, trái phiếu chuyển đổi quốc tế là một dạng trái phiếu chuyển đổi nhưng xuất phát từ các quốc gia khác. Trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu của một công ty trong thời gian nhất định có lợi với nhà đầu tư. Bạn sẽ có thể đạt được rất nhiều lợi nhuận từ việc này. Đây chính là lý do tại sao trái phiếu chuyển đổi luôn thu hút nhiều nhà đầu tư. Về cơ bản, trái phiếu chuyển đổi được coi là một loại sản phẩm đầu tư hỗn hợp, nó vừa là một dạng trái phiếu doanh nghiệp lại vừa là một loại cổ phiếu do doanh nghiệp phát hành. So với trái phiếu thường, trái phiếu chuyển đổi có khả năng chuyển đổi sang cổ phiếu theo một tỷ lệ nhất định. Do đó trái phiếu chuyển đổi sẽ có giá trị nhiều hơn trái phiếu thông thường. Trong đó, giá trị của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền gốc và lãi của trái phiếu trong tương lai. Giá trị quyền chuyển đổi sẽ được xác định theo giá của cổ phiếu trên thị trường, giá cổ phiếu tăng thì quyền chuyển đổi có giá trị, giá cổ phiếu giảm thì quyền chuyển đổi giảm. Giá trị nội tại quyền mua sẽ được quy định bằng phần chênh lệch giữa giá cổ phiếu hiện hành và giá chuyển đổi.
Trái phiếu chuyển đổi
Trong lĩnh vực tài chính, trái phiếu chuyển đổi hay nợ chuyển đổi (hoặc giấy nợ có thể chuyển đổi nếu có thời hạn trên 10 năm) là loại trái phiếu mà người nắm giữ có thể chuyển đổi thành một số lượng cổ phiếu phổ thông cụ thể của công ty phát hành hoặc tiền mặt có giá trị tương đương. Nó là một chứng khoán lai với các tính năng giống như nợ và vốn chủ sở hữu. Nó có nguồn gốc từ giữa thế kỷ 19 và được các nhà đầu cơ thời kỳ đầu như Jacob Little và Daniel Drew sử dụng để chống lại lũng đoạn thị trường. Trái phiếu chuyển đổi thường được phát hành bởi các công ty có xếp hạng tín dụng thấp và tiềm năng tăng trưởng cao. Trái phiếu chuyển đổi cũng được coi là chứng khoán nợ bởi vì các công ty đồng ý đưa ra lãi suất cố định hoặc thả nổi như đối với trái phiếu thông thường đối với quỹ của nhà đầu tư. Để bù đắp cho việc có thêm giá trị thông qua quyền chọn chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi thường có lãi suất coupon thấp hơn lãi suất của khoản nợ không chuyển đổi tương tự.
Hợp đồng tương lai là gì? Bài viết tổng hợp tất cả các thông tin về hợp đồng tương lai: Ưu và nhược điểm của sản phẩm, cơ chế giao dịch, cách định giá hợp đồng và các tiêu chí của hợp đồng tương lai chỉ số VN30. Tại Việt Nam, sản phẩm phái sinh đầu tiên ra mắt là Hợp đồng tương lai – Thỏa thuận mua bán giữa người mua và người bán tại một thời điểm nhất định trong tương lai với giá được xác định trước. Hợp đồng tương lai thường được phân loại căn cứ vào tài sản làm cơ sở (ví dụ: hàng hóa cơ bản, tiền tệ, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu.) cho hợp đồng. Trong giai đoạn đầu vận hành, chỉ có duy nhất một sản phẩm được đưa vào giao dịch là Hợp đồng tương lai chỉ số VN30. Các Hợp đồng tương lai được niêm yết và giao dịch trên Sở giao dịch Phái sinh Việt Nam (HNX) và thanh toán bù trừ qua Trung tâm Bù trừ (VSD). - Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu dễ thực hiện, có tính đại diện cao và đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng hóa và phòng ngừa rủi ro của nhà đầu tư vì vậy sản phẩm này phù hợp để triển khai ở thị trường phái sinh tập trung mới ra đời. Cụ thể, giữa nhiều chỉ số chứng khoán, VN30 được lựa chọn do chỉ số này đại diện cho 30 mã cổ phiếu được niếm yết trên sàn HOSE có giá trị vốn hóa và thanh khoản cao nhất cùng các yếu tố kỹ thuật khác. - Việc lựa chọn sản phẩm Hợp đồng tương lai cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo thống kê từ nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu luôn là sản phẩm đặt nền móng cho việc xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh. Cơ chế giao dịch hợp đồng tương lai gần như tương tự chứng khoán thông thường. Sức hấp dẫn của sản phẩm hợp đồng tương lai được thể hiện ở việc nhà đầu tư có thể mua/bán mà không cần nắm giữ tài sản cơ sở tương ứng do bản chất hợp đồng tương lai là giao dịch dựa trên kỳ vọng giá của các nhà đầu tư. Chính vì vậy, khi tin rằng thị trường sẽ giảm, nhà đầu tư hoàn toàn có thể bán khống hợp đồng tương lai để bảo vệ danh mục trước sau đó mua lại để chốt lãi/ lỗ. Khi thực hiện phòng ngừa rủi ro (hedge) bằng hợp đồng tương lai, sự giảm - tăng giá trị danh mục sẽ được bù đắp bởi việc tăng giảm của hợp đồng tương lai. - Tính thanh khoản cao: Hợp đồng tương lai là loại chứng khoán phái sinh đươc chuẩn hóa có tính thanh khoản cao do được niêm yết và giao dịch tập trung trên Sở giao dịch chứng khoán. Vì người mua và người bán là tập trung nên tạo ra khả năng thanh khoản cao nhất có thể. Hơn nữa, việc định giá, khối lượng và giá trị giao dịch được công bố công khai cũng giúp thị trường minh bạch và tăng thanh khoản. - Lợi thế đòn bẩy: Khi tham gia giao dịch Hợp đồng tương lai, nhà đầu tư có khả năng thu được những khoản lợi nhuận hấp dẫn chỉ với một khoản tiền ký quỹ có giá trị nhỏ hơn nhiều so với giá trị của hợp đồng mà nhà đầu tư muốn tham gia (giá trị hợp đồng). Mức sinh lời này thường cao hơn nhiều so với mức sinh lời trên thị trường cơ sở. - Công cụ bảo hộ trên thị trường tài chính: Hợp đồng tương lai giúp nhà đầu tư quản lý rủi ro biến động giá một cách hiệu quả. Bằng cách bán hợp đồng tương lai, nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu trên thị trường cơ sở có thể hạn chế thua lỗ trong trường hợp thị trường giảm điểm. - Hợp đồng tương lai phù hợp với nhà đầu tư lướt sóng, dành cho nhà đầu tư có nhiều thời gian xem bảng điện và biểu đồ. - Mức độ đòn bẩy cao tiềm ẩn rủi ro cao cho nhà đầu tư: Đòn bẩy là con dao hai lưỡi vì vậy khi dự báo về sự thay đổi của giá tài sản cơ sở trên thị trường không đúng với những gì thực sự diễn ra trên thị trường hay giá hợp đồng tương lai biến động theo chiều hướng bất lợi, thua lỗ sẽ xảy ra. Mức độ thua lỗ tính theo tỷ lệ phần trăm trên “số vốn đầu tư ban đầu” sẽ lớn hơn rất nhiều. - Hạn chế khả năng tận dụng biến động có lợi của thị trường khi sử dụng hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro. Ví dụ: Tháng hiện tại là tháng 7. Các tháng đáo hạn là tháng 7, tháng 8, tháng 9 và tháng 12. Giá của một hợp đồng tương lai được xác định dựa trên cung và cầu thực tế của giao dịch xảy ra trên thị trường đối với hợp đồng đó. Giá trị hợp lý của hợp đồng tương lai cổ phiếu (Fair value of Index Futures) = Giá hiện tại (Spot Index) + Lãi vay (Interest) – Các khoản cổ tức (Dividend) phát sinh trong thời gian còn lại của hợp đồng. Khi có cái nhìn tổng quan về hợp đồng tương lai, nhà đầu tư sẽ nắm bắt được các cơ hội đầu tư trên thị trường phái sinh từ đó giúp nhà đầu tư lập được chiến lược phù hợp. Hy vọng bài viết “Tổng quan về Hợp đồng tương lai” đã giúp nhà đầu tư có thêm những thông tin hữu ích để có thể đưa ra quyết định đầu tư một cách đúng đắn. Hotline hỗ trợ mở tài khoản và đăng ký dịch vụ tư vấn phái sinh: 0865 909 968/ Email: online.cs@hsc.com.vn
Hợp đồng tương lai
Trong lĩnh vực tài chính, hợp đồng tương lai (futures contract) là một hợp đồng chuẩn hóa giữa hai bên nhằm trao đổi một tài sản cụ thể có chất lượng và khối lượng chuẩn hóa với giá thỏa thuận hôm nay (gọi là giá tương lai (futures price) hay giá xuất phát) nhưng lại giao hàng vào một thời điểm cụ thể trong tương lai (ngày giao hàng). Các hợp đồng này được giao dịch thông qua sàn giao dịch tương lai (futures exchange). Một bên đồng ý mua tài sản cơ sở trong tương lai, hay "bên mua" trong hợp đồng, gọi là "trường vị" (long), còn một bên đồng ý bán trong tương lai, hay "bên bán" trong hợp đồng, gọi là "đoản vị" (short). Thuật ngữ trên phản ánh kỳ vọng của các bên - người bán hy vọng giá hàng hóa sẽ giảm, còn người mua hy vọng giá hàng hóa sẽ tăng. Lưu ý rằng tự bản thân hợp đồng không tốn phí khi ký kết; thuật ngữ mua/bán chỉ là công cụ ngôn ngữ thuận tiện để phản ánh vị thế của các bên (trường vị hoặc đoản vị). Trong nhiều trường hợp, tài sản cơ sở trong hợp đồng tương lai có thể hoàn toàn không phải là "hàng hóa" truyền thống - nghĩa là, đối với hợp đồng tài chính tương lai, tài sản hoặc mặt hàng cơ sở có thể là các loại tiền tệ, chứng khoán hay công cụ tài chính và tài sản vô hình hoặc các khoản mục tham chiếu như chỉ số chứng khoán và lãi suất.
Erik Erikson là một nhà tâm lý học nghiên cứu về bản ngã, ông là người xây dựng nên một trong những học thuyết nổi tiếng, mang tầm ảnh hướng nhất về sự phát triển của con người. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi nhà phân tâm học Sigmund Freud, nhưng học thuyết của Erikson tập trung nhiều vào sự phát triển tâm lý xã hội thay vì sự phát triển tâm lý tính dục. Các giai đoạn trong học thuyết này bao gồm :. Hãy cùng nhau tìm hiểu kỹ hơn các thông tin cơ bản và các giai đoạn khác nhau trong học thuyết về sự phát triển tâm lý xã hội của Erikson. Vậy chính xác thì học thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson liên quan và bao gồm những thứ gì? Tương tự như Sigmund Freud, Erikson tin rằng tính cách phát triển qua một chuỗi các giai đoạn. Không giống như học thuyết về các giai đoạn phát triển tâm lý tính dục của Freud, học thuyết của Erikson mô tả tác động của các trải nghiệm xã hội trong suốt cuộc đời của một người. Erikson quan tâm đến cách mà các mối quan hệ và tương tác xã hội đóng vai trò lên sự phát triển và trưởng thành của con người. Mỗi giai đoạn trong học thuyết của Erikson được “đắp nền” từ giai đoạn trước đó và chính từng giai đoạn này sẽ dọn đường cho các giai đoạn tiếp theo sau nó trong quá trình phát triển. Trong mỗi giai đoạn, Erikson tin rằng con người trải qua một mâu thuẫn, và mâu thuẫn này đóng vao trò là cột mốc chuyển đổi trong sự phát triển. Theo quan điểm của Erikson, những mâu thuẫn này tập trung vào, hoặc là hình thành hoặc không thể hình thành một phẩm chất tâm lý. Trong những khoảng thời gian này, khả năng phát triển thành công của cá nhân đó rất cao và khả năng thất bại cũng là rất lớn. Nếu con người ta xử lý thành công mâu thuẫn thành công, họ sẽ bước vào giai đoạn mới với các sức mạnh tâm lý hữu ích giúp họ cong cả cuộc đời. Nếu họ thất bại trong việc xử lý hiệu quả những xung đột này, họ không thể hình thành những kỹ năng thiết yếu cần có để hiểu rõ chính mình. Erikson cũng tin rằng cảm nhận về năng lực của bản thân sẽ giúp thúc đẩy hành vi và hành động của cá nhân đó. Mỗi giai đoạn trong học thuyết của Erikson đều đào sâu vào quá trình hình thành năng lực trong một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Nếu giai đoạn này được xử lý tốt, chủ thể sẽ cảm nhận được quyền làm chủ, mà đôi khi còn được gọi là sức mạnh bản ngã hay năng lực bản ngã. Nếu không xử lý tốt giai đoạn này thì chủ thể sẽ cảm thấy sự bất cân xứng, thiếu hụt trong chính những khía cạnh kể trên. Giai đoạn đầu tiên trong học thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson xuất hiện trong khoảng từ khi mới sinh ra đến một tuổi và là giai đoạn nền tảng nhất trong cuộc đời. Vì một đứa trẻ sơ sinh là đối tượng cực kỳ phụ thuộc người khác nên sự tin tưởng được hình thành ở đây sẽ dựa vào mức độ đáng tin và phẩm chất của người chăm sóc. Trong giai đoạn phát triển này, đứa trẻ sẽ cực kỳ phụ thuộc vào người chăm sóc trong tất cả mọi phương diện mà nó cần để sinh tồn, bao gồm thức ăn, tình yêu thương, hơi ấm, sự an toàn và chăm sóc nuôi dưỡng. Tất cả mọi thứ. Nếu không được chăm sóc và yêu thương đầy đủ, đứa trẻ sẽ cảm thấy rằng mình không thể tin tưởng hoặc lệ thuộc vào người lớn nào trong đời mình. Nếu trẻ xây dựng niềm tin thành công, nó sẽ bắt đầu cảm thấy an toàn và yên tâm trong thế giới của mình. Người chăm sóc bất nhất, không bên trẻ khi chúng cần, hay có thái độ chối bỏ sẽ góp phần hình thành cảm giác hoài nghi ở trẻ khi được những người này chăm sóc. Việc không thể hình thành sự tin tưởng sẽ gây ra nỗi sợ hãi và một niềm tin cho rằng thế giới này cũng bất nhất và khó đoán như vậy. Đương nhiên, không có đứa trẻ nào lớn lên mà cảm nhận được 100% tin tưởng hay 100% nghi ngờ. Erikson tin rằng phát triển thành công là phải giữ ở một mức cân bằng giữa hai thái cực này. Khi điều này xảy ra, trẻ có được niềm hy vọng, cái mà Erikson mô tả là sự cởi mở trước một trải nghiệm tôi luyện bằng sự thận trọng rằng hiểm nguy có thể hiện hữu. Giai đoạn hai trong thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson diễn ra trong suốt đầu thời thơ ấu và tập trung váo quá trình trẻ hình thành một cảm quan lớn hơn về năng lực kiểm soát cá nhân. Vào thời điểm này, trẻ mới bắt đầu có được một chút cái gọi là độc lập tự chủ. Trẻ bắt đầu tự mình thực hiện những hành động cơ bản và đưa ra những quyết định đơn giản về cái chúng lựa chọn. Việc cho phép trẻ đưa ra lựa chọn và có được quyền kiểm soát sẽ tạo điều kiện cho người chăm sóc giúp trẻ hình thành cảm nhận về sự tự chủ. Giống như Freud, Erikson tin rằng tập cho trẻ đi toilet là một cấu phần sống còn trong quá trình này. Tuy nhiên, cách lý luận của Erikson khá khác biệt với Freud. Erikson tin rằng việc học cách kiểm soát quá trình vận hành của bản thân sẽ giúp trẻ cảm thấy mình có quyền kiểm soát và cảm nhận rõ ràng về tính độc lập. Những sự kiện quan trọng khác bao gồm được quyền lựa chọn đồ ăn, đồ chơi và quần áo. Trẻ nào hoàn thành giai đoạn này thành công sẽ cảm thấy an tâm và tự tin, trong khi những trẻ không hoàn thành tốt sẽ cảm thấy thiếu hụt và tự nghi hoặc bản thân mình. Erikson tin rằng việc đạt được sự cân bằng giữa sự tự chủ, nỗi tủi hổ và sự nghi ngờ sẽ giúp trẻ tạo dựng ý chí, chính là niềm tin rằng trẻ có thể hành xử có suy tính, biết suy nghĩ và có giới hạn. Giai đoạn 3 của quá trình phát triển tâm lý xã hội diễn ra trước tuổi đến trường. Tại giai đoạn này, trẻ bắt đầu khẳng định sức mạnh và sự kiểm soát thế giới qua hoạt động đóng kịch và các hoạt động tương tác xã hội khác. Trẻ nào thành công trong giai đoạn này sẽ cảm thấy mình có khả năng và có thể lãnh đạo người khác. Trẻ nào không có được những kỹ năng này sẽ cảm thấy tội lỗi, nghi ngờ bản thân và thiếu sự chủ động. Khi trẻ đạt được trạng thái cân bằng lý tưởng giữa tính chủ động cá nhân và thái độ sẵn sàng hợp tác với người khác, phẩm chất bản ngã mang tên “chủ tâm” xuất hiện. Giai đoạn phát triển tâm lý xã hội thứ tư diễn ra trong những năm tháng đi học đầu đời, độ tuổi tử 5 đến 11. Nhờ tương tác xã hội, trẻ bắt đầu cảm thấy tự hào về những thành tích và năng lực của bản thân. Trẻ nào nhận được sự động viên và khen ngợi từ cha mẹ và thầy cô sẽ bắt đầu cảm nhận về năng lực và niềm tin vào các kỹ năng của mình. Trẻ nào không nhận được sự khích lệ từ cha mẹ, thầy cô hoặc bạn bè sẽ nghi ngờ về năng lực đạt được thành công của mình. Thành công tìm được sự cân bằng trong giai đoạn phát triển này sẽ tạo nên một sức mạnh có tên là năng lực, tức là niềm tin về khả năng xử lý tốt công việc mình được giao. Giai đoạn thứ năm trong quá trình phát triển tâm lý xã hội diễn ra trong những năm tháng tuổi teen đầy xáo trộn. Giai đoạn này đóng một vai trò thiết yếu trong sự phát triển cảm nhận về định hình (bản dạng) cái tôi, bản dạng này sẽ tiếp tục ảnh hưởng lên hành vi và sự phát triển của toàn bộ cuộc sống sau này. Trong suốt tuổi vị thành niên, trẻ khám phá sự tự lập và hình thành cảm nhận về bản thân. Những người nhận được sự khích lệ và củng cố phù hợp sẽ vượt qua giai đoạn này với sự cảm nhận mạnh mẽ về bản thân, cảm giác tự lập và chủ động kiểm soát. Những người vẫn còn không chắc chắn về những niềm tin và ham muốn của mình sẽ cảm thấy bất an và bối rối về bản thân cũng như tương lai. Khi các nhà tâm lý học nói về nhân dạng, họ đang ám chỉ đến tất cả những niềm tin, lý tưởng và giá trị giúp định hình và dẫn dắt hành vi của một người. Hoàn tất thành công giai đoạn này đưa đến cái gọi là sự trung thành xã hội, mà theo như Erikson mô tả, là khả năng sống theo những tiêu chuẩn và mong đợi từ xã hội. Mặc dù Erikson tin rằng mỗi giai đoạn của quá trình phát triển tâm lý xã hội đều quan trọng nhưng ông lại “nhấn” đặc biệt vào quá trình định hình cái tôi. Định hình cái tôi ở đây là cảm nhận rõ ràng về bản thân, hiểu rõ rằng chúng ta phát triển lên nhờ những tương tác xã hội và trở thành một chủ thể trọng tâm trong suốt giai đoạn này của quá trình phát triển tâm lý xã hội.
Lý thuyết phát triển xã hội
Lý thuyết phát triển xã hội cố gắng giải thích những thay đổi về chất trong cấu trúc và khuôn khổ của xã hội, giúp xã hội nhận ra phương hướng và mục tiêu tốt hơn. Sự phát triển này có thể được định nghĩa theo cách áp dụng cho tất cả các xã hội trong tất cả các giai đoạn lịch sử như là một phong trào đẩy mức năng lượng, hiệu quả, chất lượng, năng suất, sự phức tạp, hiểu biết, sáng tạo, làm chủ, hưởng thụ và thành tựu tăng dần theo thời gian. Phát triển là một quá trình thay đổi xã hội, không chỉ đơn thuần là một tập hợp các chính sách và chương trình được thiết lập cho một số kết quả cụ thể. Trong năm thế kỷ qua, quá trình này đã tăng tốc và cường độ, và trong năm thập kỷ qua đã chứng kiến sự gia tăng rõ rệt về gia tốc. Cơ chế cơ bản thúc đẩy thay đổi xã hội là nâng cao nhận thức dẫn đến việc tổ chức tốt hơn. Khi xã hội cảm nhận được những cơ hội mới và tốt hơn để tiến bộ, nó sẽ phát triển các hình thức tổ chức mới để khai thác những cơ hội mới này một cách thành công.
Khách hàng tiềm năng là những người có nhu cầu và dự định mua hàng của bạn. Theo dõi tiếp bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn khách hàng tiềm năng là gì cũng như cách làm sao để có khách hàng tiềm năng nhé!. Khách hàng tiềm năng là những khách hàng có nhu cầu mua sản phẩm đồng thời có đầy đủ khả năng tài chính để làm việc ấy nhưng vẫn chưa đưa ra quyết định chắc chắn về việc mua hàng. Mọi thứ mới chỉ dừng lại ở mức độ mong muốn, nghĩa là họ có thể sẽ mua hàng của bạn trong tương lai nhưng ở thời điểm hiện tại, họ vẫn đang trong quá trình cân nhắc. Khách hàng tiềm năng khác với khách hàng thân thiết, họ chưa trải nghiệm sản phẩm, chưa bao giờ mua hay có ý định trung thành với sản phẩm của bạn. Họ cần có thời gian làm quen, tìm hiểu, tiếp xúc…; khi đã cảm thấy hài lòng với sản phẩm thì họ mới tiến hành mua hàng. Muốn biến khách hàng tiềm năng thành khách hàng thân thiết thì doanh nghiệp phải tìm được cách tiếp cận và lấy được sự tín nhiệm của họ. Tuy chưa mua sản phẩm nhưng khách hàng tiềm năng cũng là nhóm đối tượng khách hàng cực kỳ quan trọng mà các doanh nghiệp nên chú trọng. Khả năng họ sẽ mua hàng là rất cao, vì vậy bạn phải biết cách chăm sóc và làm hài lòng nhóm khách hàng này. Nếu bạn đi đúng hướng thì họ sẽ sớm trở thành những khách hàng thân thiết, khách hàng trung thành của bạn!. Nếu bạn đã hiểu được khách hàng tiềm năng là gì và tầm quan trọng của họ thì chúng ta sẽ đi tìm đáp án cho câu hỏi “Làm sao tìm được khách hàng tiềm năng?”. Đây là phương thức tìm kiếm khách hàng tiềm năng khá mới mẻ, chỉ mới xuất hiện vài năm trở lại đây nhưng lại mang về hiệu quả cao đến bất ngờ. Nhiều doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài hiện đã biết cách sử dụng các công cụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Bing… kết hợp với các chiến dịch quảng cáo hiệu quả để thu về một lượng khách hàng tiềm năng đáng kể. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp này chính là bạn sẽ có được nguồn khách hàng chất lượng và chính xác. Đó đều là những người đang thực sự có nhu cầu mua hàng và quan tâm đến sản phẩm/dịch của bạn. Sau khi đã có được những khách hàng cực kỳ chất lượng này rồi thì việc tiếp theo bạn cần làm chính là chăm sóc họ thật chu đáo để biến họ thành khách hàng thân thiết trong 1 tương lai không xa. Tương tự như cách sử dụng các công cụ tìm kiếm, việc “chạy” quảng cáo trên Facebook hay Google cũng đem lại hiệu quả cực kỳ cao. Bạn có thể tiến hành quảng cáo trên cả 2 phương tiện này nếu đủ ngân sách hoặc bạn có thể cân nhắc 1 trong 2 và chọn ra phương thức mà bạn thấy hợp lý nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Đây cũng là 1 cách tương đối hay ho để thu hút các khách hàng tiềm năng về với “đội” của bạn. Thương trường là nơi cạnh tranh gay gắt, để “vượt mặt” các đối thủ thì hãy tận dụng nguồn lực để “phủ sóng” sản phẩm của bạn khắp nơi nhé!. Các diễn đàn, trang rao vặt là nơi tập trung lượng người truy cập đông đúc. Vì vậy hãy tiến hành quảng bá cho sản phẩm, cho doanh nghiệp của mình ở trên các phương tiện đó nhé!. Đây là hình thức thu hút khách hàng truyền thống nhất nhưng nó vẫn luôn đem lại hiệu quả nhất định cho các doanh nghiệp. Tuy đây được xem là hình thức có vẻ “cổ lỗ sĩ” nhưng nó lại có ưu điểm là dễ thuyết phục khách mua hàng và dễ tạo niềm tin cho họ bởi nhân viên bán hàng phải gặp gỡ và nói chuyện trực tiếp với khách. Vì vậy, các doanh nghiệp không nên bỏ qua hình thức thu hút khách hàng tiềm năng này!. Qua bài viết này của Timviecbanhang.com, chắc hẳn bạn đã nắm được khái niệm khách hàng tiềm năng là gì, tầm quan trọng của họ và cách làm sao để có khách hàng tiềm năng. Hãy sử dụng thật tốt những hiểu biết này để giúp doanh nghiệp luôn thành công rực rỡ nhé!. Để có thể trụ được với nghề và trở thành nhân viên bán hàng giỏi, những người ứng tuyển nhân. Up sale là kỹ thuật bán hàng nhằm thuyết phục khách mua sản phẩm đi kèm cao cấp hơn mặt. Sự cân đo giữa kinh doanh truyền thống và kinh doanh online đâu là hình thức lợi thế hơn trong. Nhân viên kho chính là những người làm việc ở bộ phận kho của các doanh nghiệp. Trước đây, các nhà tuyển dụng chỉ quan tâm đến IQ của ứng viên. Nhưng hiện tại, họ quan tâm…. PMI là chữ viết tắt của “Purchasing Managers Index”, dịch ra là chỉ số quản lý sức mua. Tìm việc bán hàng lương hấp dẫn, môi trường chuyên nghiệp, phúc lợi tốt, cập nhật từng giờ các việc làm mới. Cùng tìm hiểu ngay!
Truy xuất khách hàng tiềm năng
Truy xuất khách hàng tiềm năng là phương tiện để thu thập và theo dõi các khách hàng tiềm năng được tạo tại một sự kiện, triển lãm thương mại hoặc hội nghị. Hệ thống truy tìm khách hàng tiềm năng cung cấp cho các nhà triển lãm khả năng đo lường kết quả chống lại các mục tiêu bán hàng hoặc sự kiện và bằng cách làm như vậy, biện minh cho đầu tư về thời gian, năng lượng và ngân sách để triển lãm tại sự kiện này. Hệ thống truy xuất khách hàng tiềm năng phổ biến nhất là trình quét huy hiệu chương trình thương mại lấy thông tin đăng ký từ huy hiệu của người tham dự. Thông tin chứa trong mã vạch hoặc số ID huy hiệu được gắn với cơ sở dữ liệu đăng ký. Khi một huy hiệu được quét, thông tin được thu thập kỹ thuật số để giúp một nhà triển lãm xây dựng một danh sách các khách hàng tiềm năng đủ điều kiện tại các sự kiện trực tiếp, thường là các triển lãm thương mại. Truy xuất khách hàng tiềm năng thu thập dữ liệu đăng ký đầy đủ của người tham dự - nó thường bao gồm quyền mua, thời gian mua, kích thước công ty và các dữ liệu hữu ích khác.
Mọi người biết đến Gabriel García Márques – nhà văn vĩ đại người Colombia qua những tác phẩm nổi tiếng như: “Ngài đại tá chờ thư”, “Tình yêu thời thổ tả”, “Tướng quân giữa mê hồn trận”, “Trăm năm cô đơn” (tác phẩm đoạt giải Nobel Văn Học năm 1982), và gần đây là tác phẩm Sống để kể lại… Ông không chỉ là một nhà văn nổi tiếng mà còn là một phóng viên chiến trường kỳ cựu với những kí sự nổi tiếng thập niên 70’, 80’, 90’. Các tác phẩm của ông đều mang đậm bản sắc châu Mỹ La-tinh, toát lên sự giản dị của tâm hồn hay sự nhạy cảm của nội tâm. Ông như sống với trăn trở của từng nhân vật, từng số phận trong tác phẩm của mình; chính vì vậy bạn đọc luôn đón nhận tác phẩm của ông với sự trân trọng. Với tư duy nghệ thuật độc đáo, Márquez đã thể hiện trong các tác phẩm của mình một tình yêu vừa thơ ngây vừa sâu sắc, mãnh liệt đối với con người, với cuộc đời. Ông đã từng nói: “Trên thực tế, mỗi nhà văn chỉ viết một cuốn sách. Cuốn sách mà tôi đang viết là cuốn sách về ‘Cái cô đơn’”…. Quả thực, sau hơn 50 năm cầm bút, Márquez vẫn viết về cái cô đơn trong một câu chuyện khác, tác phẩm “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”. Hồi Ức Về Những Cô Gái Điếm Buồn Của Tôi là câu chuyện của một nhà báo già, sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng ông sớm mồ côi cha mẹ. Trong căn nhà cũ kỹ, ông đã sống một cuộc sống hoàn toàn cô độc, không vợ con, không bạn bè. Ông đã từng dạy ngữ pháp tiếng La tinh và Tây Ban Nha. Sau đó, ông biên tập tin tức và viết bình luận âm nhạc cho một tờ báo địa phương đến năm 90 tuổi. Và chính trong buổi sáng kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của mình, ông bỗng ao ước có một đêm tình ái nồng say với một thiếu nữ còn trinh nguyên. Cái ý muốn kỳ lạ đó thôi thúc tâm trí ông đến độ ông phải tìm cách liên hệ với một người đàn bà mối lái mà ông quen từ ngày còn trẻ, nhờ bà ta giúp đỡ bất chấp nỗi xấu hổ. Ông đã đến nơi hẹn với một cô bé đang ngủ say. Khi ra về, ông đặt lên trán cô nụ hôn vĩnh biệt và lời cầu Chúa giữ hộ trinh tiết cho cô. Thế nhưng, chính sự cô đơn của tuổi già đã khiến ông nhiều lần nữa đến gặp cô bé. Mỗi lần, ông lại thêm yêu thương cô. Ông đem những bức tranh, những bó hoa, những cuốn sách… bày trong căn phòng để sớm mai, khi thức dậy, cô bé cảm thấy ấm cúng. Ông hát ru cô bé về Delgadina – cô công chúa út được vua cha yêu quý. Ông gọi cô là Delgadina. Ông nhận thấy sự hiện diện vô hình của cô trong căn nhà vắng lặng của mình. Cuộc sống nhàn tẻ, nghèo cực của ông như có một ý nghĩa, đó là niềm yêu thương, lo lắng cho tương lai của cô bé. Lần đầu tiên, ông nhận ra rằng: “Niềm thích thú thực sự khi được ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng”. Tác phẩm Hồi Ức Về Những Cô Gái Điếm Buồn Của Tôi của G. G Márquez khiến người đọc nhớ đến “Người đẹp say ngủ” của nhà văn Kawabata (Nhật Bản). Những ông già – nhân vật trong tác phẩm của hai nhà văn, trong cố gắng tuyệt vọng để tìm lại tuổi trẻ đã tìm thấy một tình cảm khác. Đó là niềm thương xót với thân phận con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Nhân vật của Kawabata khi đến ngủ bên người phụ nữ đã có ý nghĩ: “Đến đấy ngủ giống như ngủ với Đức Phật nấp kín đâu đây vậy”. Trong một cách hành xử khác, một cách diễn đạt khác, nhân vật của G. G. Márquez cũng đạt được tình cảm thanh khiết. G. G. Márquez viết về “Cái cô đơn” của một con người, một dòng họ, một đất nước chính là để “sáng tạo ra một huyền thoại khác hẳn, một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình, ngay cả trong cách thức chết, nơi Tình yêu có lối thoát và Hạnh phúc là cái có khả năng thật sự và nơi những dòng họ bị kết án Trăm năm cô đơn sẽ có vận may để tái sinh trên mặt đất này”.
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (tiếng Tây Ban Nha: Memoria de mis putas tristes) là tác phẩm văn học của nhà văn người Colombia Gabriel Garcia Marquez, người đã đoạt giải Nobel văn học năm 1982. Tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn dưới dạng hồi ức, cũng giống như các tác phẩm khác của ông như Trăm năm cô đơn, Sống để kể lại. Truyện có lối kể tự sự đơn giản, nhịp kể đều đều nhưng rất hấp dẫn bởi nhiều luận điểm mang tính triết lý giản dị nhưng sâu sắc. Truyện khiến người đọc liên tưởng đến tác phẩm Người đẹp say ngủ của Kawabata Yasunari. Những ông già trong tác phẩm của họ đã tìm thấy một tình cảm đẹp trong cố gắng tuyệt vọng để tìm lại tuổi trẻ. Đó chính là một niềm thương xót con người, đặc biệt là với những người phụ nữ. Cuốn sách đã được phát hành với số lượng lớn chỉ sau tuần lễ đầu tiên và hiện nay, nó đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Có một nhà báo già, sống trong một gia đình trung lưu nhưng sớm mồ côi cha mẹ.
Một đồng tiền dự trữ là một số lượng lớn tiền tệ được các ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính lớn trên khắp thế giới dự trữ sẵn để chuẩn bị đầu tư, giao dịch, thanh toán nợ quốc tế hoặc dùng để điều tiết nội tệ của họ. Những hàng hóa phổ biến trên toàn thế giới như vàng và dầu, được định giá bằng đồng tiền dự trữ, khiến các quốc gia khác phải giữ đồng tiền dự trữ để thanh toán cho những hàng hóa này. Năm 1944, sau hiệp định Bretten Woods thì khái niệm “tiền tệ dự trữ” được ra đời và đồng đô la Mỹ đã trở thành đồng tiền dự trữ chính thức được các quốc gia khác sử dụng. Chính vì vậy, tới tận ngày nay các quốc gia nước ngoài luôn giám sát và theo dõi chặt chẽ chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ để đảm bảo rằng giá trị của đồng đô la không biến động quá nhiều, nếu biến động quá nhiều sẽ ảnh hưởng tới dự trữ của nước họ và thậm chí lạm phát tăng cao.
Tiền tệ dự trữ
Tiền tệ dự trữ (hoặc tiền tệ neo) là một loại ngoại tệ được các ngân hàng trung ương hoặc các cơ quan tiền tệ khác nắm giữ với số lượng đáng kể như là một phần của dự trữ ngoại hối của họ. Đồng tiền dự trữ có thể được sử dụng trong các giao dịch quốc tế, đầu tư quốc tế và tất cả các khía cạnh của nền kinh tế toàn cầu. Nó thường được coi là một loại tiền tệ cứng hoặc tiền tệ trú ẩn an toàn. Đồng bảng Anh của Vương quốc Anh là tiền tệ dự trữ chính của phần lớn thế giới trong thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 20, đồng đô la Mỹ được coi là đồng tiền dự trữ thống trị toàn thế giới. Nhu cầu đô la của thế giới đã cho phép chính phủ Hoa Kỳ cũng như người Mỹ vay với chi phí thấp hơn, mang lại cho Hoa Kỳ lợi thế vượt quá 100 tỷ đô la mỗi năm. Tiền tệ dự trữ đã thay đổi theo thời gian. Tiền tệ quốc tế trong quá khứ đã bao gồm drachma Hy Lạp, được đặt ra từ thế kỷ thứ năm TCN, denari La Mã, solidus Byzantine và dinar Ả Rập của thời trung cổ, ducato Venetian và florin Florentine của thời Phục hưng, guilder Hà Lan và đồng franc Pháp trong thế kỷ 17.
Scary Stories to tell in the Dark, tựa Việt: Chuyện kinh dị lúc nửa đêm, là một trong những bộ phim kinh dị hiếm hoi qua được khâu kiểm duyệt tại Việt Nam. Bộ phim kể về một nhóm học sinh trong đêm Halloween đã nảy ra ý nghĩ khám phá ngôi nhà ma, và từ đó tìm được cuốn sách từng thuộc về Sarah Bellows. Từ đây, những bí ẩn lần lượt được khám phá, hé lộ ra tội ác kinh hoàng đã bị chôn vùi trong quá khứ. Tuy nhiên, có một điều mà ít người biết, rằng những câu chuyện xuất hiện trong bộ phim được lấy cảm hứng từ tập truyện Scary Stories to Tell in the Dark. Tập truyện này được sưu tầm và viết lại bởi Alvin Schwartz. Bài viết sau sẽ điểm qua sáu câu chuyện nhỏ xuất hiện xuyên suốt hai giờ chiếu phim, và đây cũng chính là hành trang cho các bạn trước khi đến rạp và thưởng thức tác phẩm điện ảnh này. Harold là một con bù nhìn được tạo ra để canh giữ cánh đồng ngô. Tuy nhiên, mỗi khi cậu chủ của nó chán nản hay tức giận, Harold lại trở thành chỗ để trút hết những cơn giận. Dần dần, con bù nhìn bắt đầu phát ra những tiếng gầm gừ đến rợn óc. Thời gian sau, có người bắt gặp bù nhìn Harold đứng trên nóc nhà, nhìn lên ánh mặt trời và trong tay là bộ da đầy máu. Có một cậu bé đã vô tình đào được một ngón chân cái trong một lần vui chơi trong vườn. Mừng rỡ, cậu về khoe với ba mẹ mình. Người mẹ đã quyết định sẽ nấu ngón chân chung với món súp hầm. Tối hôm đó, cậu bé bắt đầu nghe tiếng gọi của một người phụ nữ, liên tục gọi tên cậu và đòi trả lại ngón chân mà gia đình đó đã ăn của mình. Một cô gái tên Lucy đã thấy một người phụ nữ tóc đen, da tái nhợt và đôi mắt thâm xuất hiện trong giấc mơ của mình. Ả nhắc cô rằng: “Không bao giờ được ở một nơi đầy rẫy sự xấu xa và nguy hiểm”. Lucy lập tức rời đi và tìm cho mình một phòng trọ khác. Đêm hôm đó, cô gái nhỏ nghe thấy tiếng gọi quen thuộc đang gõ cửa, và đó chính là người phụ nữ đã xuất hiện trong mơ. Trong phút giây hoang mang, cô chợt nhận ra đó chính là căn phòng trong giấc mơ. Câu chuyện kể về một cô gái sau khi thức dậy vào buổi sáng thì phát hiện mình đã bị nhện cắn vào má. Tưởng chừng như chấm đỏ đó sẽ nhanh chóng lành, nhưng điều mà cô không hề biết đó chính là con nhện đã đẻ trứng lên mặt cô và cái vết đỏ kia chính là bọc trứng. Cho đến một lần, một cái chân nhện thò ra, và rồi nguyên một ổ nhện con nhầy nhụa tràn ra ngoài lớp da của cô. Đây là sinh vật do bộ phim thêm vào dựa trên câu chuyện What do you come for. Có một bà lão sống một mình đơn côi trong căn nhà cũ, bà chẳng muốn gì hơn ngoài một người để bầu bạn. Và rồi điều bà lão mong muốn cũng đã đến. Từ trên ống khói rơi xuống đôi chân thối rữa và sau đó là hàng loạt các bộ phận cơ thể khác. Chúng sau đó, chúng đã được lắp ráp lại với nhau thành một cơ thể hoàn chỉnh nhưng với ngoại hình vô cùng đáng sợ. Một cô gái có lên là Sarah Bellows đã bị nguyền rủa bởi chính gia đình mình. Mang theo bao nỗi thù hận, cô đã chết và trở thành một hồn ma báo oán. Tất cả những con quái vật đã từng được cô tưởng tượng ra khi còn sống giờ đây đã thành hiện thực. Chúng sẽ săn lùng và giết chết bất kì ai dám chọc giận hồn ma này.
Chuyện kinh dị lúc nửa đêm
Chuyện kinh dị lúc nửa đêm (tên gốc tiếng Anh: Scary Stories to Tell in the Dark) là phim điện ảnh kinh dị của Mỹ năm 2019 do André Øvredal đạo diễn với nội dung dựa trên bộ truyện thiếu nhi Scary Stories to Tell in the Dark của cố nhà văn Alvin Schwartz. Phần kịch bản được chuyển thể bởi Dan và Kevin Hageman từ phần kịch bản phân cảnh của nhà sản xuất Guillermo del Toro cùng Patrick Melton và Marcus Dunstan. Phim do Hoa Kỳ và Canada hợp tác sản xuất, với sự tham gia diễn xuất của Zoe Colletti, Michael Garza, Gabriel Rush, Austin Zajur, Natalie Ganzhorn, Austin Abrams, Dean Norris, Gil Bellows và Lorraine Toussaint. Năm 2013, CBS Films đã mua lại bản quyền của bộ sách từ 1212 Entertainment với ý định sản xuất một bộ phim truyện chuyển thể. Đến tháng 1 năm 2016, các nguồn tin cho biết del Toro sẽ chịu trách nhiệm phát triển và có thể sẽ ngồi luôn vào vị trí đạo diễn của dự án. Øvredal sau đó được chọn làm đạo diễn cho bộ phim, với del Toro, Daniel, Brown và Grave đảm nhiệm vai trò sản xuất.
Trong ngôn ngữ học , pidgin là một dạng đơn giản của lời nói được hình thành từ một hoặc nhiều ngôn ngữ hiện có và được sử dụng như một ngôn ngữ chung của những người không có ngôn ngữ chung. Còn được gọi là ngôn ngữ pidgin hoặc ngôn ngữ phụ trợ . Nhiều nhà ngôn ngữ học sẽ cãi nhau với quan sát của Trask và Stockwell rằng một pidgin "không phải là một ngôn ngữ thực sự chút nào." Ronald Wardhaugh, ví dụ, quan sát rằng một pidgin là "một ngôn ngữ không có người bản địa . Đôi khi nó được coi là một" giảm " đa dạng của một ngôn ngữ bình thường" ( An Giới thiệu về Xã hội học , 2010). Nếu một pidgin trở thành ngôn ngữ mẹ đẻ của một cộng đồng nói , thì nó được coi là một creole . (Ví dụ, Bislama đang trong quá trình chuyển đổi này, được gọi là creolization .)
Pidgin (ngôn ngữ)
Một pidgin, hay ngôn ngữ pidgin, là một dạng ngôn ngữ được đơn giản hóa về ngữ pháp được phát triển giữa hai (hay nhiều hơn) nhóm người hay cộng đồng không có cùng chung ngôn ngữ: thông thường, nó là sự pha trộn của hai (hay nhiều hơn) ngôn ngữ được đơn giản hóa hoặc là sự đơn giản hóa của một ngôn ngữ chính với những yếu tố phụ của ngôn ngữ khác thêm vào. Nó thường xuất phát từ nhu cầu giao tiếp trong thông thương, hay khi hai nhóm người sống cạnh nhau, nói ngôn ngữ khác nhau, ở cùng một quốc gia, nhưng lại không có ngôn ngữ cầu nối. Hiểu đơn giản, pidgin hình thành với mục đích giao tiếp giữa cá nhân hay cộng đồng, cho phép những người bất đồng ngôn ngữ giao tiếp được với nhau. Pidgin không phải là bản ngữ của bất cứ ai, mà chỉ là ngôn ngữ thứ hai. Không phải tất cả dạng ngôn ngữ đơn giản hóa hay "pha trộn" nào cũng là pidgin. Mỗi pidgin có những đặc điểm riêng mà chỉ có thể học được nhờ giao tiếp qua pidgin đó. Pidgin (chỉ là ngôn ngữ thứ hai) khác với creole, những ngôn ngữ đã là bản ngữ của cộng đồng (và do vậy đã có vốn từ vựng và ngữ pháp tương đối hoàn thiện).
Hiện nay mặc dù cáp đồng trục không còn được sử dụng rộng rãi như một vài năm trước và thay vào đó là sự có mặt của cáp quang, tuy nhiên cáp đồng trục cũng vẫn là một sự lựa chọn cho nhiều khu vực cũng như những bài toán riêng. Hôm nay thienmaonline.vn sẽ cùng các bạn tìm hiểu một vài thông tin chi tiết về loại cáp này nhé. Ở những bài chia sẻ trước chúng ta đã nghiên cứu khá kĩ về cáp quang, một sự thay thế khá tốt cho cáp đồng hiện nay. Để có thể hiểu hơn về cáp đồng chúng ta cũng sẽ nghiên cứu các đầu mục tương tự với cáp quang. Mặc dù hiện nay cáp đồng trục đã thể hiện khá nhiều hạn chế và ít phù hợp với các hệ thống hiện tại nhưng cáp đồng trục vẫn được sử dụng trong nhiều các giải pháp khi mà sự thay thế của cáp quang trở thành một vấn đề khó khăn. Cáp đồng trục được nhà toán học và kỹ sư người Anh phát minh, bằng sáng chế được cấp năm 1880. Cáp đồng trụclà loạicáp điệnvới một lõi dẫn điện được bọc lại bởi một lớp điện môi không dẫn điện, chung quanh quấn thêm một lớp bện kim loại, ngoài cùng lại có vỏ bọc cách điện. Cáp đồng trục thường dùng làm đường truyền cho tín hiệu vô tuyến. Hiện nay ta có thể thấy cáp đồng trục vẫn được sử dụng nhiều trong việc làm cáp truyền hình, là đường cấp giữa thiết bị thu phát sóng vô tuyến và ăng ten của chúng, các kết nối mạng máy tính. Cũng bởi ưu điểm nổi trội của cáp này, tín hiệu số truyền trên cáp chỉ tồn tại bên trong lõi cáp, nên ta có thể lắp cáp bên cạnh các vật liệu kim loại mà không sợ thất thoát năng lượng. Dây dẫn trung tâm được làm bằng sợi đồng đặc hay nhiều sợi nhỏ tạo thành sợi duy nhấtDây dẫn bao bọc bên ngoài đường dẫn trung tâm dạng lưới bện bằng kim loại giúp ngăn chặn nhiễu điện từ cho lõi trung tâmLớp cách điện nằm giữa hai loại dây dẫn trên để cách ly hai lớp nàyPhía ngoài chính là lớp bọc nhựa thường được làm bằng nhựa PVC để tránh những tác động của môi trường. Hiện nay ta thường bắt gặp hai loại cáp đồng trục phổ biến nhất đí chính là RG-59, RG-6. Chúng được sử dụng trong các hộ gia đình với dịch vụ truyền hình cáp, hệ thống an ninh giám sát. Về lắp đặt có hai kiểu phổ biến đó là kết xích (daisy – chain) và hình sao. Đặc điểm quan trọng nhất của cáp đồng trục đó là đầu cáp được kết thúc với một đầu nối đặc biệt (terminator). Nó phát ra điện trở phù hợp với cáp giúp ngăn tín hiệu dội ngược lại khi va chạm, đụng cuối cáp và từ đó giảm nhiễu. Cáp đồng trục có khả năng chịu được tác động mạnh từ môi trường hay các tác nhân khác, phụ kiện đầu nối dễ dàng sử dụng, hơn thế cáp đồng hiện nay cũng có giá thành khá hợp lí. Hi vọng với những chia sẻ trên đây giúp các bạn có thêm những thông tin hữu ích cho sự lựa chọn hệ thống của mình. Có thắc mắc gì các bạn cứ liên hệ thienmaonline.vn nhé!
Cáp đồng trục
Cáp đồng trục (Coaxial) là loại cáp điện với một lõi dẫn điện được bọc lại bởi một lớp điện môi không dẫn điện, chung quanh quấn thêm một lớp bện kim loại, ngoài cùng lại có vỏ bọc cách điện. Từ đồng trục đến từ việc tất cả các lớp cáp đều dùng chung một trục hình học. Cáp đồng trục được nhà toán học và kỹ sư người Anh Oliver Heaviside phát minh, bằng sáng chế được cấp năm 1881. Cáp đồng trục thường dùng làm đường truyền cho tín hiệu vô tuyến. Ứng dụng của nó bao gồm các đường cấp giữa thiết bị thu phát sóng vô tuyến và ăng ten của chúng, các kết nối mạng máy tính, và làm cáp truyền hình. Một ưu điểm của cáp đồng trục là tín hiệu số truyền trên cáp chỉ tồn tại bên trong lõi cáp. Nhờ đó người ta có thể lắp cáp bên cạnh các vật liệu kim loại mà không sợ thất thoát năng lượng thường xảy ra với các loại cáp cũ hơn. Tín hiệu trong cáp đồng trục cũng không bị gây nhiễu từ các nguồn bên ngoài. Cáp đồng trục theo lý thuyết có độ suy hao 200m nhưng trong thực tế là 50m.
Khởi đầu là các lớp phổ thông chuyên Ngoại ngữ thuộc Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Các lớp này được thành lập theo quyết định số 488/KH ngày 28/06/1969 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Trường THPT Chuyên Ngoại ngữ được chính thức thành lập tại quyết định số 1844/QĐ-UBND ngày 20 tháng 4 năm 2009 của UBND thành phố Hà Nội. Đến nay, Trường đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba và ba huân chương Lao động các hạng Nhất, Nhì, Ba. Đào tạo, bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu về ngoại ngữ, có tư chất thông minh, có khả năng thích ứng với các môi trường học tập, làm việc trong nước và quốc tế. Trường THPT Chuyên Ngoại ngữ phấn đấu giữ vững vị trí là trường THPT có chất lượng hàng đầu ở Việt Nam, đạt chuẩn quốc tế. Các lớp chuyên tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Trung có từ ngay những ngày đầu thành lập (năm 1969). Trường bắt đầu đào tạo học sinh chuyên tiếng Đức và tiếng Nhật từ năm học 2005-2006, và hệ chuyên tiếng Hàn từ năm học 2017-2018. Ngoài ngoại ngữ chuyên, học sinh còn được học ngoại ngữ thứ hai theo nguyện vọng. Trường giảng dạy môn Toán bằng tiếng Anh cho học sinh khối 10 và khối 11 (ngoài chương trình Toán THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Hàng trăm lượt học sinh giành danh hiệu Thủ khoa trong các kì thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học. Trường THPT Chuyên Ngoại ngữ luôn nằm trong top những trường THPT có điểm thi đại học (trước đây) và THPT quốc gia (hiện nay) cao nhất toàn quốc. Hiện nay, các thế hệ học sinh đã trưởng thành từ trường THPT Chuyên Ngoại ngữ đang công tác, làm việc và giữ nhiều trọng trách cao trong các ngành ngoại ngữ, ngoại giao, khoa học, kinh tế, văn hóa, giáo dục. của đất nước. Ngoài ra, học sinh của nhà trường còn đang công tác, học tập, làm việc ở hơn 30 quốc gia trên thế giới. Đến nay, trường đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba và ba huân chương Lao động các hạng Nhất, Nhì, Ba. Hệ thống các câu lạc bộ thuộc các lĩnh vực: thể thao, nghệ thuật, khoa học trẻ, các nhà lãnh đạo trẻ, tình nguyện, báo chí- truyền thông giúp học sinh phát triển toàn diện, tự tin, năng động và khao khát thành công.
Trường Trung học phổ thông chuyên ngoại ngữ
Trường Trung học phổ thông Chuyên Ngoại ngữ (tiếng Anh: Foreign Language Specialized School; viết tắt: CNN hoặc FLSS) là một trường trung học phổ thông chuyên hệ công lập tại Hà Nội, Việt Nam. Trường trực thuộc Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, và là một trong bốn trường Trung học phổ thông chuyên cấp quốc gia tại Hà Nội, cùng với ba trường: Trường Trung học phổ thông chuyên Đại học Sư phạm và Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên và Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là trường trung học phổ thông duy nhất ở Việt Nam cho đến nay chuyên giảng dạy các môn ngoại ngữ (gồm tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Đức và Hàn Quốc). Tương tự nhiều trường Trung học phổ thông chuyên cấp quốc gia khác, trường Trung học phổ thông chuyên Ngoại ngữ nổi bật với các chương trình đào tạo xuất sắc và tỷ lệ lớn (98% đến 100%) học sinh sau khi tốt nghiệp trúng tuyển các trường đại học danh tiếng trong và ngoài nước.
Bất kỳ vật liệu nào được sử dụng cho mục đích xây dựng đều được gọi là vật liệu xây dựng. Vật liệu có nhiều loại và được tạo thành từ nhiều chất có trong tự nhiên, ví dụ như đất, đá, cát, gỗ … được sử dụng để xây dựng các tòa nhà, công trình. Ngoài các vật liệu có trong tự nhiên thì nhiều sản phẩm nhân tạo được sử dụng. Vật liệu xây dựng trong tiếng anh gọi là building materials. Trên thế giới ngành sản xuất các vật liệu xây dựng là một trong những ngành công nghiệp được thiết lập ở nhiều nước. Trong đó lại phân chia ra thành các nhóm ngành nghề chuyên môn cụ thể. Ví dụ như: nghề mộc, sản xuất ống nước, sản xuất sắt thép , và sản xuất mái che, lợp mái…. Vật liệu xây dựng không nung là vật liệu trong quá trình sản xuất và tạo thành chúng các nhà sản xuất không sử dụng nhiệt để nung. Hiện nay loại vật liệu xây dựng hông nung được nhiều nơi trên thế giới chú trọng phát triển. Bởi quá trình sản xuất không gây ô nhiễm môi trường, vật liệu có chất lượng cao. Xây nhà là việc đầu tiên khi xác định an cư lạc nghiệp, đây là việc chiếm nhiều công sức, tiền bạc, thời gian…. thậm chí gây đau đầu cho nhiều gia đình. Nhưng kết quả nhận được nhiều khi không được như ý muốn. Vì vậy mà công việc chuẩn bị cho quá trình xây nhà thật chu đáo nó quyết định rất nhiều đến sự thành công và mức độ hài lòng về công trình này. Trên thực tế, có rất rất nhiều loại vật liệu xây dựng để bạn có thể gọi tên. Tuy nhiên, với từng loại công trình đặc trưng khác nhau như: biệt thự, nhà ở, nhà xưởng…sẽ khác nhau về kiến trúc, diện tích, quy mô, giá trị đầu tư. Sẽ dẫn đến danh sách vật liệu xây dựng cần thiết sẽ khác nhau. Dựa vào kinh nghiệm thực tế từng trải qua cũng như những chia sẻ từ rất nhiều khách hàng. Chúng tôi xin chia sẻ lại những thông tin khái quát nhất. Các bạn có thể tham khảo thêm để hoàn thiện hơn danh sách các vật liệu cần thiết cho xây dựng nhà ở hoặc công trình mình đang chuẩn bị tiến hành xây dựng trong thời gian sắp tới. Dựa vào quy trình xây dựng chung, mà vật liệu xây dựng có thể chia làm 2 nhóm: Vật liệu xây nhà thô và vật liệu xây nhà hoàn thiện. Ở trường hợp bạn thuê đơn vị tư vấn thiết kế nhà, bạn có thể yêu cầu thêm hồ sơ dự toán chi tiết. Trong đó sẽ thể hiện đầy đủ số lượng VLXD và giá thành được bóc tách rõ ràng. Giúp chúng ta có thể teo dõi xuyên suốt quá trình xây dựng công trình nhà ở. Phần thô là phần quan trọng của một công trình nhà ở. Bao gồm phần móng, bể ngầm, phần kết cấu chịu được lực cao ( như cột, dầm, khung, sàn) và hệ thống tường bao che ,phân cách, cầu thang,… Về cơ bản thì VLXD nhà cần thiết cho phần thô sẽ bao gồm:. + Gạch: bao gồm các loại gạch như Gạch nung, Gạch đặc, gạch lỗ, Gạch Tuynel (Gạch không nung, Gạch xỉ, gạch ba vanh, Gạch bê tông cốt liệu, Gạch nhẹ chưng áp), Gạch bê tông bọt. Số lượng tính thông thường là thiên (1 thiên = 1000 viên). + Cát: được sử dụng phổ biến trong công trình là cát đen và cát vàng . Cát được tính theo đơn vị là m3 hoặc có nơi sẽ bán cát theo xe. + Đá: Cũng là vật liệu được sử dụng phổ biến trong công trình bao gồm đá 1×2 và đá 4×6 tùy thuộc vào điều kiện xây dựng, thực tế và nhu cầu sử dụng bê tông của từng công trình mà có sự lựa chọn khác nhau. + Sắt thép: Trong bảng thiết kế nhà dân dụng, thông thường các công trình đều được thống kê thép với chủng loại thép gì? (với các size Phi 10, phi 8, phi 18, phi 20…) khối lượng thép là bao nhiêu (kg) và để chủ đầu tư dễ dàng trong việc chọn lựa và sử dụng cho phù hợp. + Cốt thép dầm: Bảng thống kế số lượng sẽ được thể hiện trong bản vẽ chi tiết. Với hình dạng, kích thước, số lượng các thanh thép cần được sử dụng trong công trình. Bao gồmThép chờ cột, thép giằng tường, thép chờ thang, thép dầm móng…. Trong công trình, Sắt thép được coi như xương sống của mỗi công trình. Cho nên việc lựa chọn nguyên vật liệu xây nhà cần lựa chọn những thương hiệu thép uy tín trên thị trường. Để đảm bảo chất lượng bê tông, cũng như chất lượng công trình khi sử dụng. + Cốp pha xây dựng: được sử dụng như khuôn để đổ bê tông. Có thể sử dụng loại cốp pha gỗ, cốp pha nhôm hoặc cốp pha thép… tùy vào từng đơn vị thi công lựa chọn. + Vật liệu lợp mái : Hệ thống mái ngói, kèo (sắt hộp hoặc gỗ). Tùy thuộc theo phương án thực hiện mà mua các loại khác nhau. Thi công phần mái như thế này cần chuẩn bị các vật liệu như bê tông cốt thép, khung kèo thép, gỗ, và tôn hoặc ngói lợp….Diện tích mái thái thường lớn lơn so với diện tích sàn. Do đó, chi phí xây dựng và hoàn thiện các mẫu nhà mái thái thường lớn hơn so với các mẫu nhà mái bằng đơn giản. + Nguồn nước: phải luôn được đảm bảo đầy đủ trong quá trình thi công, để không bị gián đoạn. Lưu ý không sử dụng các nguồn nước biển, nước bị nhiễm mặn, nhiễm phèn,nước lợ hoặc nước có váng dầu mỡ. để sử dụng trong xây dựng. + Nước, cát, xi măng khi trộn theo tỉ lệ thích hợp sẽ tạo thành nguyên liệu hồ vữa xây cho công trình. + Bê tông sử dụng trong công trình cần được pha trộn và sử dụng với tỉ lệ sao cho thích hợp. Cần được bảo dưỡng để cho công trình được chắc khỏe và lâu bền hơn. + Đá hoặc gạch lát nền nhà: Đây là vật liệu gạch lát nền sử dụng phổ biến trong xây dựng hiện đại. Bạn nên chọn vật liệu này cho phù hợp với kiến trúc nội thất của ngôi nhà, sở thích. Có thể lựa chọn gạch, đá lát nền với những màu sắc tươi sáng, hoặc tối tùy thuộc theo thiết kế nội thất. Hoặc tùy theo nhu cầu có thể sử dụng các loại vật liệu lát nền như gỗ, nhựa…. + Hệ thống cửa, thiết bị vệ sinh: được chuẩn bị, ghi chú rõ ràng trong bảng thiết kế. Bao gồm kích thước cửa, chủng loại, vị trí lắp các thiết bị vệ sinh hoàn thiện cho nhà ở. + Vật liệu sơn lót, bột bả, và sơn màu… tùy thuộc vào nhu cầu của mỗi gia đình và chủng loại sơn. Nên mức độ sử dụng cần thiết là khác nhau. + Sơn ngoại thất: đây là phần tạo nên vẻ đẹp của ngôi nhà, được thực hiện sau khi hoàn thiện ngôi nhà. Có thể thực hiện luôn hoặc sau 1 khoảng thời gian là tùy thuộc vào nhu cầu của từng gia đình. Nên sử dụng loại sơn ngoại thất với chất lượng cao, có độ bền màu để hạn chế tối đa những hiện tượng bám bẩn, rêu mốc cho ngoại thất sơn tường. + Hệ thống ống cấp thoát nước, thiết bị điện, lạnh: Phần này cũng được thực hiện và ghi chú rõ ràng trong hồ sơ thiết kế điện, nước. Còn việc lựa chọn loại nào cho phù hợp với điều kiện thì bạn có thể tham khảo thêm các nhà sản xuất. Một vài chia sẻ về việc chuẩn bị VLXD rất đầy đủ được thực hiện bởi WikiHow Việt Nam. Hy vọng sẽ mang lại cho bạn những lợi ích trong việc chuẩn bị để xây dựng một ngôi nhà xinh đẹp và hoàn thiện như ý muốn.
Vật liệu xây dựng
Vật liệu xây dựng là bất kỳ vật liệu được sử dụng cho mục đích xây dựng. Nhiều vật liệu xây dựng tồn tại sẵn trong tự nhiên, chẳng hạn như đất sét, đá, cát, và gỗ, thậm chí cành cây và lá, đã được sử dụng để xây dựng các tòa nhà. Ngoài các vật liệu tự nhiên, nhiều sản phẩm nhân tạo được sử dụng, một số tổng hợp ít hoặc nhiều. Sản xuất các vật liệu xây dựng là một ngành công nghiệp được thiết lập ở nhiều nước và việc sử dụng các vật liệu này thường được tách ra thành các ngành nghề chuyên môn cụ thể, chẳng hạn như nghề mộc, cách nhiệt, hệ thống ống nước, và công việc lợp mái. Chúng cung cấp thành phần của nơi sinh hoạt và các cấu trúc bao gồm cả nhà.
Euro 2020 là một giải đấu lớn, mang tầm cỡ quốc tế với sự tham gia của các quốc gia Châu Âu. Chính vì thế, đây là giải đấu rất được mong chờ vì có sự tham gia của nhiều đội tuyển vô địch thế giới. Là một nơi có truyền thống đam mê bóng đá, nên giải Vô địch bóng đá Châu Âu được lên lịch và chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Cược miễn phí trải nghiệm trò chơi W88. Thắng tiền rút thẳng về tài khoản ngân hàng. Có thể nói, đây là giải đấu lớn, được toàn thế giới mong đợi để chiêm ngưỡng những màn đấu nảy lửa trên sân cỏ. Đây sẽ là lúc để các cầu thủ Châu Âu được chứng minh và khẳng định bản lĩnh cùng với niềm đam mê bóng đá của họ. Chính vì thế, việc các trận đấu tổ chức ở sân vận động nào cũng rất được quan tâm. Đó có thể là điều bất lợi, hoặc là lợi thế của các đội tham gia thi đấu trong thời gian sắp tới. Johan Cruyff Arena là một sân vận động lớn của Hà Lan, có vị trí ở trung tâm thành phố Amsterdam. Đây là sân vận động tổ chức Euro 2020 có sức chứa đên 54.000 người và có thời gian tồn tại khá lâu đời. Tên của sân vận động được đặt theo tên huyền thoại bóng đá Johan Cruyff của Barcelona và Hà Lan. Sân vận động Cruyff Arena là nơi thích hợp để tổ chức những giải đấu lớn của Châu Âu. Là sân vận động tổ chức Euro 2020 duy nhất có vòm mái che làm từ những tấm pin năng lượng mặt trời. Sân vận động này còn sở hữu phòng trưng bày rộng lớn từ trên cao. Điều đó giúp cho cổ động viên có thể đứng trên cao và theo dõi trận đấu trên sân từ mọi vị trí. Bên cạnh đó thì sân vận động Johan Cruyff Arena còn được thiết kế để tạo ra sự vang dội hơn cho những tiếng hò, reo cổ vũ của cổ động viên. Vì vậy sẽ tạo ra không gian sống động, giúp người hâm mộ có thể sống trọn vẹn trong từng trận đấu hơn. Trong Euro 2020 thì sân vận động Johan Cruyff sẽ diễn ra 3 trận đấu trong bảng C và một trận ở vòng 16. Chắc hẳn nhiều cổ động viên sẽ thấy bất ngờ khi sân vận động Olympic Stadium lại xuất hiện ở giải đấu Euro. Đây là một sân vận động lớn, nằm tại gần bờ hồ Boyukshor, một nơi khá là xa và bất tiện trong việc đi lại. Tại giải đấu Europa League 2019 thì đây là nơi tổ chức trận chung kết, nơi tranh đấu của Chelsea và Arsenal. Việc sắp xếp của ban tổ chức đã khiến cho nhiều người khó chịu vì gây nên sự bất tiện trong đi lại và thi đấu cho cả cầu thủ và cổ động viên. Tuy nhiên, tại giải Vô địch bóng đá Châu Âu năm 2020 thì đây lại là nơi có vai trò khá quan trọng. Với sức chứa lên đến 69.000 người thì đây là nơi được chọn cho ba trận bảng A và một trận Tứ kết. Các cổ động viên sẽ phải đến thành phố Baku tại Azerbaijan để ủng hộ cho đội mà mình yêu thích trong các vòng đó. San Mames là một sân vận động mới, được xây dựng và thành lập vào năm 2013 tại Tây Ban Nha. Đây là một sân vận động khá lớn, có sức chứa lên đến 53.000 người. Nhiều người vẫn cho rằng lựa chọn sân vận động này cho giải Euro 2020 sẽ khá là tiện lợi cho đội bóng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, phải đối đầu với Ba Lan và Thụy Điển thì các cầu thủ nước này cũng không thể chủ quan được. Điều đặc biệt của San Mames- sân vận động tổ chức Euro 2020 đó là giao diện bên ngoài vô cùng độc đáo. Với hiệu ứng chiếu sáng và đổi màu bên ngoài sân vận động, khiến cho San Mames mang đẳng cấp quốc tế hơn. Đúng với những yêu cầu để tổ chức những giải đấu mang tầm cỡ trên thế giới. Đây là nơi sẽ diễn ra 3 trận bảng E và một trận của vòng 16. Theo đó, Tây Ban Nha sẽ thi đấu tại sân nhà 3 trận với Thụy Điển, Ba Lan và các cầu thủ Solvakia. Đây cũng là một dữ liệu khá thú vị nếu anh em muốn dự đoán và đặt cược cho các đội tuyển này. Arena Nationala không còn là cái tên xa lạ khi trở thành sân vận động tổ chức Euro 2020 sắp tới. Đây là nơi sẽ diễn ra 3 trận vòng bảng và một trận vòng 16. Đây là sân vận động quốc gia của Romania, thường xuyên được lựa chọn cho nhiều giải đấu lớn tại Châu Âu. Với sức chứa đến 54.000 người, sân vận động này đã có tuổi đời được 9 năm. Sân vận động tổ chức Euro 2020 Arena Nationala nhìn chung không có gì quá đặc biệt. Tuy nhiên, với vị trí thuận tiện cho việc di chuyển của các đội thi đấu thì dĩ nhiên được sử dụng cho giải đấu đặc biệt này. Trước đó, đây là nơi tổ chức trận Chung kết của giải Europa League với hai đội tuyển Atletico Madrid và Athletic Bilbao vào năm 2012. Mùa hè này, người hâm mộ dự đoán đây sân vận động thu hút cổ động viên nhiều hơn vì sẽ là nơi diễn ra các trận đấu kinh điển nhất khi một trong ba ông lớn Pháp, Đức, Bồ Đào Nha sẽ thi đấu vòng 16 tại đây. Sân vận động Puskas là một sân vận động mới, thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2019. Sân vận động này nằm ở thủ đô Hungary, là sân vận động mới nhất trong 12 sân vận động tổ chức Euro 2020. Vào ngày 24 tháng 06, đây là nơi diễn ra trận chiến giữa Pháp và Bồ Đào Nha. Dường như thông tin này cũng khiến cho các fan hâm mộ của Pháp lo lắng về lịch sử lặp lại. Trong giải đấu vô địch bóng đá Châu Âu 2016 thì trận chiến giữa Pháp và Bồ Đào Nha cũng diễn ra tại sân vận động này. Kết quả là Bồ Đào Nha đã dành vé đi trước trong hiệp phụ. Liệu rằng, vẫn tại sân vận động Puskas Arena này lịch sử có lặp lại?. Với sức chứa tới 68.000 người, dự đoán rằng đây sẽ là nơi bùng nổ không khí với những trận đấu đầy căng thẳng. Nếu bạn có mong muốn theo dõi trận đấu thì chắc chắn sẽ phải săn vé thật sớm để tìm ra một vị trí tuyệt vời nhất, nơi giúp bạn không bỏ lỡ giây phút kịch tính nào cả. Telia Parken là cái tên quá quen thuộc trong các giải bóng đá Châu Âu bởi có lịch sử hình thành lâu đời từ năm 1992. Đây là nơi sẽ diễn ra trận đấu vòng bảng của đội tuyển Quốc gia với Phần Lan, Bỉ và Nga. Theo ý kiến cổ động viên thì có thể đây là nơi diễn ra trận đấu quyết liệt giữa Anh với đội tuyển chủ nhà. Tuy nhiên, đó cũng vẫn là suy đoán của cổ động viên, nên là các bạn đừng quá lo lắng nếu yêu thích đội tuyển chủ nhà trên sân Telia Parken. Sân vận động này được đưa vào hoạt động từ năm 2010 có kinh nghiệm trong tổ chức các giải đấu lớn khác tại Châu Âu. Theo lịch thi đấu Euro thì sân Aviva Stadium sẽ là nơi diễn ra 3 trận vòng bảng và 1 trận vòng 16. Đây cũng là nơi được chờ đón sẽ diễn ra các màn tranh đấu kinh điển giữa Thụy Điển và Ba Lan. Nếu Anh chiến thắng tại bảng đấu của họ, thì đây cũng là diễn ra màn đối đầu giữa Anh và đội đứng nhì bảng F. Được dự đoán là một trong ba cái tên Đức, Pháp hoặc Bồ Đào Nha. Có thể thấy đây cũng là một nơi rất đáng để đến xem và chứng kiến những pha đi bóng đặc sắc. Dĩ nhiên, nó chỉ diễn ra khi các điều kiện mà chúng tôi đưa ra có thể xuất hiện đúng như dự đoán. Dù sao đi nữa, thì đây cũng là một dữ liệu khá bổ ích cho anh em nào muốn tìm hiểu, nghiên cứu để dự đoán, đặt cược cho giải đấu này. Được ra đời vào năm 1903 với tên gọi là công viên Hampden với sức chứa lên đến 51.000 người. Đây là nơi diễn ra rất nhiều trận đấu của đội tuyển quốc gia Scotland với các đội tuyển lớn khác. Dù là được xây dựng từ rất lâu, nhưng sân vận động này vẫn đảm bảo được chất lượng và sức chứa cho giải đấu Euro 2020 sắp tới. Sân vận động tổ chức Euro 2020 Hampden Park là nơi sẽ diễn ra 3 vòng bảng và một trận vòng 16. Cũng rất đáng mong đợi cho mùa Euro này. Sân vận động Wembley được chọn là một trong 12 sân vận động tổ chức Euro 2020. Đây là một sân đấu lớn tại London, thành phố lớn tại Vương Quốc Anh. Sân vận động Wembley sẽ là nơi tập trung rất đông cổ động viên từ Châu Âu vì có sức chứa lớn và là nơi diễn ra những trận đấu quan trọng. Với sức chứa đến 90.000 người, vì vậy mà sân đấu Wembley được chọn cho những trận đấu đáng mong chờ nhất mùa giải. Theo lịch thi đấu Euro 2020 thì đây là nơi diễn ra ba trận vòng bảng, một trận vòng 16, 2 trận bán kết và 1 trận chung kết. Nếu đội tuyển Anh có thể lọt vào vòng chung kết thì đây là một lợi thế khi được chiến đấu ngây tại sân nhà của mình. Allianz Arena tại Đức cũng là một trong 12 sân vận động tổ chức Euro 2020 có diện tích khá là khủng. Với sức chứa đến 70.000 người, nơi đây cũng được chọn cho các trận đấu quan trọng của giải Euro. Đây sẽ là nơi diễn ra ba trận đấu vòng bảng và một trận đấu tứ kết. Vì là nơi diễn ra trận đấu mở màn của Đức, Pháp, Bồ Đào Nha nên chắc hẳn sẽ rất thu hút người đến xem. Có vẻ như sân đấu này đang sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào trong thời gian diễn ra giải đấu Euro 2020 sắp tới. Là một nơi nổi tiếng với lối kiến trúc, những công trình cổ nổi tiếng trên thế giới thì tất nhiên không thể vắng bóng một sân vận động tầm cỡ quốc gia. Sân vận động Olimpico tại thành phố Rome, Ý là nơi diễn ra trận khai mạc giải đấu Euro 2020 với đội tuyển là Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Việc lựa chọn sân Olimpico làm sân vận động tổ chức Euro 2020 cũng gây ra khá nhiều tranh cãi vì hàng ghế khá xa sân cỏ. Nhưng với sức chứa đến 68.000 người thì việc ban tổ chức lựa chọn nơi này để diễn ra các trận đấu cũng khá là hợp lý. Tại thành phố Saint Petersburg, Nga cũng có một địa điểm được chọn làm sân vận động tổ chức Euro 2020 đó là sân đấu Krestovsky. Đây là một sân vận động khá quen thuộc khi được chọn làm nơi tổ chức nhiều giải đấu lớn tại Nga và các đội tuyển quốc tế. Với sức chứa đến 61.000 người thì đây sẽ là nơi diễn ra 3 trận đấu vòng bảng và một trận tứ kết. Để theo dõi được vòng đấu bảng B với sự tranh tài giữa Bỉ, Nga và Phần Lan thì các bạn sẽ phải đến sân Krestovsky. Đây cũng được dự đoán là sân đấu có sự tranh tài khá căng thẳng và gay go trong mùa giải này đấy nhé. Vừa rồi là thông tin chính thức về 12 sân vận động tổ chức Euro 2020 trong thời gian tới. Anh em đam mê bóng đá thì tất nhiên không thể bỏ qua thông tin này để nắm bắt trận đấu được tốt hơn. Hãy đăng ký tài khoản w88 tham gia cá cược trực tuyến chuyên nghiệp và đừng quên theo dõi nhà cái W88 để không bỏ lỡ bất kỳ thông tin nào về giải Vô địch bóng đá Châu Âu 2020. Chúng tôi sẽ cập nhật thêm những thông tin bổ ích, như là bảng xếp hạng, đội hình thi đấu, thậm chí là cả những kèo cược hấp dẫn nhất. Nhà cái W88 tặng ngay 90.000 VND miễn phí cho người mới vừa đăng ký W88 thành công tài khoản chơi cá cược thể thao, đánh bài, xổ số,…Thắng sẽ được rút tiền mặt về tài khoản ngân hàng
Sân vận động Quốc gia 12 tháng 7
Sân vận động Quốc gia 12 tháng 7 (tiếng Bồ Đào Nha: Estádio Nacional 12 de Julho) là một sân vận động đa năng ở khu phố Ponta da Mina về phía đông nam của trung tâm São Tomé, São Tomé và Príncipe và nằm trên Đại lộ Liên Hợp Quốc. Công trình được xếp hạng là Di sản của Ảnh hưởng và Nguồn gốc Bồ Đào Nha (SIPA). Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động có sức chứa 6.500 người và kích thước sân là 105 × 68 m. Bề mặt sân là cỏ nhân tạo. Sân vận động được xây dựng vào khoảng những năm 1920 với vai trò là sân bóng đá. Công trình được khai trương vào năm 1950. Đây là sân vận động bóng đá đầu tiên trên toàn quốc. Sân vận động trước đây có tên là Sân vận động Sarmento Rodrigues. Sân đã được cải tạo vào năm 2002 và mở rộng vào năm 2003. Cúp bóng đá São Tomé và Príncipe (Cúp Santomean) được tổ chức hàng năm tại đây. Trận chung kết gần đây nhất là vào năm 2018, khi FC Porto Real đánh bại UDRA 2–1.
Học tiếng Bồ Đào Nha Brasil trực tuyến qua tình huống thực tế! Đơn giản, nhanh chóng, dễ dàng. Tự tin nói tiếng Bồ Đào Nha Brasil . Học ngay với uTalk!. Tiếng Bồ Đào Nha lần đầu tiên đến Brazil vào thế kỷ thứ 16 và đã chuyển hướng đáng kể từ tiếng Bồ Đào Nha châu Âu trong cách phát âm, lối viết và ngữ pháp. Tiếng Bồ Đào Nha Brazil cũng lấy rất nhiều từ từ các ngôn ngữ bản địa Brazil như Guarani, các ngôn ngữ châu Phi như tiếng Yoruba, các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Ý, tiếng Đức và tiếng Anh. Cũng là một ngôn ngữ Roman nên tiếng Bồ Đào Nha Brazil có nhiều điểm tương đồng với tiếng Ý, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha trong hệ thống của ngữ pháp, từ vựng và cú pháp. Nếu bạn gặp vấn đề lớn ở Brazil, bạn có thể nói "Estou frito" - Tôi đang bị chiên. Tìm sợi tóc nằm trong quả trứng - procurar pelo em ovo - nghĩa là cố suy diễn vấn đề trong khi thực sự không có gì cả. Có vài sự khác biệt giữa tiếng Bồ Đào Nha châu Âu và tiếng Bồ Đào Nha Brazil, ví dụ như "sorvete" nghĩa là "kem" ở nước Brazil nhưng lại là "gelado" ở nước Bồ Đào Nha, "oonibus" là xe buýt ở nước Brazil nhưng lại là "autocarro" ở nước Bồ Đào Nha và "trem" là tàu hỏa ở nước Brazil nhưng lại là "comboio" ở nước Bồ Đào Nha. Có hơn 2500 từ và cụm từ xuyên suốt hơn 60 chủ đề trong những tình huống thường gặp hàng ngày. Làm quen với những lời chào, từ, cụm từ cơ bản bao gồm “xin chào”, “cám ơn” và “Xin cho tôi một tách cà phê”.
Tiếng Bồ Đào Nha Brasil
Tiếng Bồ Đào Nha Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: português do Brasil hoặc português brasileiro ) là một phương ngữ của tiếng Bồ Đào Nha được sử dụng chủ yếu ở Brasil, nơi hầu như tất cả 200 triệu dân Brasil sử dụng và được nói rộng rãi ở các cộng đồng người Brasil, ngày nay bao gồm khoảng hai triệu người Brasil đã di cư sang các nước khác. Tiếng Bồ Đào Nha Brasil khác biệt đáng kể, đặc biệt là về âm vị và sự trọng âm, so với tiếng địa phương được nói ở Bồ Đào Nha và các quốc gia châu Phi nói tiếng Bồ Đào Nha, Ở những quốc gia này, ngôn ngữ có xu hướng gần gũi hơn với tiếng Bồ Đào Nha đương đại của châu Âu, một phần vì sự thống trị của thực dân Bồ Đào Nha đã kết thúc gần đây hơn ở Brasil nhiều hơn ở Brasil. Mặc dù sự khác biệt này giữa các giống nói, tiếng Bồ Đào Nha của Brasil và Châu Âu khác nhau rất ít khi viết chính thức (theo nhiều cách tương tự với sự khác biệt giữa tiếng Anh Mỹ và tiếng Anh Anh).
Trong cuộc sống, chắc rằng sẽ có nhiều điều khiến các bạn sử dụng rộng rãi cùng hạnh phúc. Tuy nhiên, các bạn đã hiểu cách thức biểu thị tự ngữ này vào giờ đồng hồ anh tuyệt chưa? Hãy khám phá ngay lập tức bài viết sau đây, tracnghiem123.com để giúp chúng ta đọc ưa thích giờ đồng hồ anh là gì, đồng thời share thêm cho bạn cách cần sử dụng với phần nhiều nhiều từ bỏ liên quan không giống nhé!. Hài lòng hay được viết vào giờ đồng hồ anh là Content. Hài lòng hoàn toàn có thể được xem như là tinh thần lòng tin hay là một tâm lý cảm xúc của con fan nhằm mục tiêu diễn tả sự thỏa mãn, hoặc hoàn toàn có thể có được tự sự dễ chịu và thoải mái trong những thực trạng, trọng tâm trí xuất xắc khung người của một bạn làm sao kia. Hay gọi theo một biện pháp thông thường thì chấp thuận là một trạng thái gật đầu đồng ý, đồng ý điều gì đó trong hoàn cảnh của một người.Bạn đang xem: Hài lòng tiếng anh là gì. Trong tiếng anh, Content mang tương đối nhiều ngữ nghĩa không giống nhau, trong các kia nên nói đến hài lòng. Với nghĩa này thì Content nhập vai trò là 1 trong tính tự dùng để làm diễn tả sự chấp nhận, chuẩn bị sẵn sàng đồng ý một trường hợp, thực trạng với không thích bất kể điều gì nhiều hơn nữa, xuất sắc hơn hoặc cải thiện giỏi rộng. Hay để gia công mang đến ai kia Cảm Xúc hạnh phúc với phù hợp với cuộc sống thường ngày của công ty. bởi vậy, bạn đã gọi chấp thuận giờ đồng hồ anh là gì chưa? Cụm tự này được áp dụng khôn xiết thông dụng vào thực tiễn. Vì vậy, bạn hãy cố gắng tích điểm cho chính mình vốn kiến thức cần thiết nhằm áp dụng một giải pháp tốt nhất cùng bao gồm chân thành và ý nghĩa nhé!
Hài lòng
Hài lòng, mãn nguyện hay thỏa mãn là một trạng thái cảm xúc thỏa mãn có thể được xem là trạng thái tinh thần, có thể có được từ sự thoải mái trong tình huống, cơ thể và tâm trí của một người. Nói một cách thông thường, sự hài lòng có thể là một trạng thái chấp nhận hoàn cảnh của một người và là một hình thức hạnh phúc nhẹ nhàng và dự kiến hơn. Sự hài lòng và theo đuổi sự hài lòng có thể là một chủ đề trung tâm thông qua nhiều trường phái triết học hoặc tôn giáo trên các nền văn hóa, thời đại và địa lý khác nhau. Siddharta có thể đã nói "Sức khỏe là lợi ích quý giá nhất và sự hài lòng là sự giàu có lớn nhất". John Stuart Mill, hàng thế kỷ sau, sẽ viết "Tôi đã học cách tìm kiếm hạnh phúc của mình bằng cách hạn chế những ham muốn của mình, thay vì cố gắng thỏa mãn chúng". Marcus Aurelius đã viết "Sống với các vị thần. Và người làm như vậy liên tục cho họ thấy rằng tâm hồn anh ta hài lòng với những gì được giao cho họ. "
Darwin cho rằng sự sống hẳn bắt nguồn từ một tổ tiên chung. Ông hình dung lịch sử sự sống trên trái đất như một cây to lớn. Sau này, những người khác tin là “cây sự sống” này bắt đầu với một thân cây gồm các tế bào đơn giản đầu tiên. Các loài mới tách ra từ thân cây thành những cành, tức các họ động thực vật, rồi sau đó chia thành nhánh, nghĩa là mọi loài trong các họ động thực vật còn sống đến thời nay. Vậy, điều này có thật sự xảy ra không?. Các nhà khoa học tin gì? Nhiều nhà khoa học gợi lên ý tưởng là những mẫu hóa thạch ủng hộ cho giả thuyết sự sống có một nguồn gốc chung. Họ cũng cho rằng vì mọi sinh vật dùng cùng “ngôn ngữ máy tính”, tức ADN, nên sự sống hẳn tiến hóa từ một tổ tiên chung. Kinh Thánh cho biết gì? Lời tường thuật trong sách Sáng-thế Ký cho biết cây cỏ, sinh vật biển, động vật trên cạn cũng như chim trời được tạo ra “tùy theo loại” (Sáng-thế Ký 1:12, 20-25). Lời mô tả này cho thấy có nhiều loại trong cùng một loài, điều này ngụ ý là chúng có ranh giới cố định, mỗi loài đều khác nhau. Qua lời tường thuật của Kinh Thánh về sự sáng tạo, chúng ta không ngạc nhiên khi biết có sự xuất hiện đột ngột của những loài động vật mới với hình dạng hoàn chỉnh, như được phát hiện trong các mẫu hóa thạch. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã so sánh mã di truyền của nhiều sinh vật đơn bào cũng như của động thực vật. Họ cho là sự so sánh ấy sẽ giúp khẳng định giả thuyết về việc chia cành “cây sự sống” của Darwin. Tuy nhiên, họ vẫn chưa khẳng định được giả thuyết đó. Các cuộc nghiên cứu cho biết gì? Vào năm 1999, nhà sinh vật học Malcolm S. Gordon viết: “Sự sống dường như xuất hiện từ nhiều nguồn. Nền tảng của cây sự sống này có lẽ không bắt nguồn từ một gốc”. Có bằng chứng nào cho thấy tất cả các cành chính của sự sống đều gắn với một thân cây, như Darwin đã tin không? Ông Gordon cho biết thêm: “Quan điểm truyền thống về giả thuyết sự sống bắt nguồn từ một tổ tiên chung dường như không áp dụng cho các giới sinh vật, như ngày nay người ta đã biết. Có lẽ nó không áp dụng cho nhiều ngành, nếu không muốn nói là tất cả, và có lẽ cũng không áp dụng cho nhiều lớp trong cùng một ngành”29 *. Các nghiên cứu gần đây tiếp tục cho thấy điều trái ngược với thuyết của Darwin về tổ tiên chung. Chẳng hạn, vào năm 2009, một bài trên tờ báo New Scientist trích lời của nhà khoa học về tiến hóa Eric Bapteste như sau: “Chúng ta không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy cây sự sống là đúng”30. Bài báo ấy cũng trích lời của nhà sinh vật học về tiến hóa Michael Rose: “Cây sự sống đang dần dần bị chôn vùi, chúng ta đều biết thế. Nhưng ít ai chấp nhận việc cần phải thay đổi quan điểm cơ bản về sinh vật học”31. Nhiều nhà khoa học dựa vào các di tích hóa thạch để cho thấy sự sống bắt nguồn từ một tổ tiên chung. Chẳng hạn, họ lập luận những mẫu hóa thạch chứng minh rằng cá tiến hóa thành loài lưỡng cư rồi thành loài bò sát, sau đó lên động vật có vú. Vậy, các mẫu hóa thạch cho thấy điều gì?. Nhà cổ sinh vật học về tiến hóa David M. Raup nói: “Thay vì dần dần hiểu được sự sống, những nhà địa chất học thời Darwin cũng như thời nay đã tìm ra các mẫu hóa thạch của những sinh vật trung gian nhưng không liên tiếp nhau, tức là các loài xuất hiện đột ngột, có ít hoặc không thay đổi trong quá trình tồn tại, rồi chúng đột nhiên biến mất khỏi hồ sơ hóa thạch”32. Trên thực tế, đa số các mẫu hóa thạch cho thấy sự ổn định giữa các loài sinh vật trải qua một thời gian dài. Không có bằng chứng nào cho thấy chúng tiến hóa từ loài này sang loài khác. Chúng đột nhiên xuất hiện với hình dạng và đặc điểm riêng biệt. Chẳng hạn, người ta không thấy được mối liên hệ nào giữa loài dơi có khả năng tiếp nhận sóng siêu âm và tiếng vang với tổ tiên xa xưa. Ngoài ra, hơn một nửa nhóm động vật chính dường như đã xuất hiện trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Vì có nhiều loài vật mới mang nét đặc trưng riêng biệt xuất hiện đột ngột, như được tìm thấy trong di tích hóa thạch, nên các nhà cổ sinh vật học gọi giai đoạn này là “sự bùng nổ kỷ Cambri”. Vậy, kỷ Cambri là thời kỳ nào?. Nếu cho là phỏng đoán của các nhà nghiên cứu là đúng, thì lịch sử của trái đất có thể được tượng trưng bởi một đường thời gian có chiều dài bằng một sân bóng (1). Thế thì, bạn sẽ phải đi khoảng bảy phần tám sân bóng mới đến thời kỳ mà các nhà cổ sinh học gọi là kỷ Cambri (2). Trong một giai đoạn ngắn của thời kỳ ấy, các nhóm động vật chính đã xuất hiện, như được tìm thấy trong các mẫu hóa thạch. Chúng xuất hiện đột ngột đến mức nào? Khi bạn bước tiếp chưa tới một bước chân, tất cả sinh vật đột nhiên xuất hiện!. Sự xuất hiện tương đối đột ngột của nhiều loại sinh vật khiến một số nhà nghiên cứu về tiến hóa đặt nghi vấn về học thuyết truyền thống của Darwin. Chẳng hạn, trong cuộc phỏng vấn vào năm 2008, nhà sinh vật học về tiến hóa Stuart Newman thảo luận về việc cần có một thuyết tiến hóa mới để giải thích việc các sinh vật mới lạ đột ngột xuất hiện. Ông nói: “Học thuyết của Darwin được dùng để giải thích cho sự tiến hóa đang mất đi giá trị đến nỗi nó cũng giống như những thuyết khác. Nó có thể không phải là thuyết quan trọng nhất để hiểu được tiến hóa vĩ mô, tức giai đoạn tiến hóa có sự thay đổi lớn trong cơ thể sinh vật”33. Nói sao về những hóa thạch mà người ta dùng để chứng minh loài cá biến đổi thành loài lưỡng cư, loài bò sát thành động vật có vú? Chúng có phải là bằng chứng vững chắc của quá trình tiến hóa không? Khi xem xét kỹ hơn các mẫu hóa thạch, người ta thấy được một số vấn đề. Thứ nhất, kích cỡ tương đối bằng nhau của các sinh vật trong giai đoạn tiến hóa từ loài bò sát thành động vật có vú đôi khi bị mô tả sai trong sách giáo khoa. Dù sách mô tả kích cỡ của chúng tương đương nhau, nhưng trong thực tế, một số loài có kích cỡ lớn, còn một số khác thì nhỏ. Thứ hai, thách đố lớn hơn là thiếu bằng chứng về mối liên hệ giữa các sinh vật. Những mẫu vật đặt trong chuỗi tiến hóa được các nhà nghiên cứu ước tính là cách nhau hàng triệu năm. Về khoảng cách thời gian giữa nhiều mẫu trong số các hóa thạch này, nhà động vật học Henry Gee nói: “Thời gian gián đoạn của hóa thạch quá xa đến nỗi chúng ta không thể khẳng định điều gì về mối liên hệ giữa các loài và tổ tiên của chúng”34 *. Bình luận về các mẫu hóa thạch cá và lưỡng cư, nhà sinh học Malcolm S. Gordon cho biết các mẫu hóa thạch đã tìm được chỉ đại diện một phần nhỏ, “không thể là đặc trưng cho toàn bộ sinh vật của nhóm này tại thời điểm đó”. Ông nói thêm: “Không có cách để biết những sinh vật này ảnh hưởng đến thế hệ sau tới mức nào hoặc mối liên hệ giữa chúng là gì”35. Một bài báo trong tạp chí National Geographic năm 2004 ví các mẫu hóa thạch như “một cuộn phim về tiến hóa mà cứ mỗi 1.000 khung hình phim thì bị mất 999 khung trong phòng biên tập phim”36. Hãy xem ý nghĩa của minh họa này. Hãy tưởng tượng bạn tìm thấy 100 khung hình phim từ cuộn phim gốc có 100.000 khung. Làm thế nào bạn có thể biết được nội dung phim? Bạn có thể suy diễn cốt truyện phim, nhưng nói sao nếu chỉ tìm được 5 trong số 100 khung hình phim có thể sắp xếp cho phù hợp với cốt truyện của mình, còn 95 khung kia thì nói đến một câu chuyện hoàn toàn khác? Liệu có hợp lý không khi chỉ có 5 khung phim mà bạn cứ khăng khăng rằng sự suy diễn của mình là đúng? Phải chăng bạn đặt 5 khung hình phim theo thứ tự đó vì nó phù hợp với sự suy đoán của mình? Chẳng phải việc bạn để cho 95 khung hình phim kia chi phối ý tưởng của bạn là hợp lý hơn sao?. Minh họa trên có liên hệ thế nào đến quan điểm của những nhà ủng hộ thuyết tiến hóa về các mẫu hóa thạch? Trong nhiều năm, những nhà nghiên cứu không thừa nhận phần lớn hóa thạch, tức 95 khung hình phim, cho thấy các loài thay đổi rất ít qua thời gian. Tại sao họ lại im lặng trước bằng chứng quan trọng này? Tác giả Richard Morris nói: “Dường như các nhà cổ sinh vật học chấp nhận quan điểm phổ biến là có sự tiến hóa dần dần và cứ khăng khăng giữ quan điểm ấy, dù đã tìm ra bằng chứng cho thấy điều ngược lại. Họ đã dựa vào thuyết tiến hóa để cố giải thích các mẫu hóa thạch”37. “Lấy một loạt mẫu hóa thạch và tuyên bố rằng chúng đại diện cho cả một giống nòi thì không phải là một giả thuyết khoa học có thể được kiểm nghiệm, nhưng nó giống như một câu chuyện kể cho trẻ em trước lúc đi ngủ—thú vị, có lẽ mang tính giáo dục, nhưng không có căn cứ khoa học”.—Theo cuốn In Search of Deep Time—Beyond the Fossil Record to a New History of Life, của Henry Gee, trang 116, 117. Các bằng chứng ủng hộ lời tường thuật của Kinh Thánh hay thuyết của Darwin? Hãy xem những điều chúng ta đã thảo luận đến lúc này. Xác suất để các thành phần của một tế bào xuất hiện ngẫu nhiên là rất thấp. ADN—“chương trình vi tính” hoặc mật mã—giúp cho tế bào hoạt động, rất phức tạp và vượt trội hơn bất cứ chương trình hoặc hệ thống lưu trữ thông tin nào do con người làm ra. Các cuộc nghiên cứu về di truyền cho thấy sự sống không bắt nguồn từ một tổ tiên chung. Hơn nữa, những nhóm động vật chính xuất hiện đột ngột, như được tìm thấy trong các mẫu hóa thạch. Sau khi xem xét những điều này, bạn nghĩ việc kết luận rằng các bằng chứng đó hòa hợp với lời giải thích trong Kinh Thánh về nguồn gốc sự sống có hợp lý không? Tuy nhiên, nhiều người khẳng định là khoa học mâu thuẫn với phần lớn những gì Kinh Thánh nói về sự sáng tạo. Điều đó có đúng không? Kinh Thánh cho biết gì?. Sự thật: Các nhà nghiên cứu (không tin lời tường thuật trong Kinh Thánh về sự sáng tạo) đang đặt nghi vấn về hai tư tưởng chính của thuyết tiến hóa: sự sống bắt nguồn từ tổ tiên chung và sự xuất hiện những nhóm sinh vật chính với hình thù mới là kết quả của sự tích lũy dần những biến đổi nhỏ. Sự thật: Mọi cơ thể sinh vật có cùng cấu tạo ADN, tức “ngôn ngữ máy tính” hoặc mật mã, chi phối phần lớn hình dạng và chức năng của đơn bào hay đa bào.
Cây phát sinh sự sống
Cây phát sinh sự sống là sơ đồ hình cây thể hiện nguồn gốc, sự tiến hóa của tất cả các nhóm hoặc những loài sinh vật đang sống hay đã tuyệt chủng cùng quan hệ họ hàng giữa chúng., Đây cũng là sơ đồ phản ánh quá trình tiến hóa của các loài. Phân biệt với cây phát sinh chủng loại cũng biếu diễn tương tự, nhưng chỉ của một nhóm loài nhất định. Cây phát sinh sự sống là kết quả tổng hợp của nhiều nghiên cứu trong sinh học, bao gồm chủ yếu các thành tựu của thuyết tiến hoá, phân loại học, di truyền học và sinh học phân tử. Tuy nhiên, sơ đồ hình cây này lại bắt nguồn từ thời trung cổ thể hiện các mối quan hệ về nguồn gốc, họ hàng và các dòng dõi những người cùng tổ tiên, nay thường gọi là sơ đồ phả hệ. Thuật ngữ "cây phát sinh sự sống" dịch từ tiếng Anh Tree of Life (cây sự sống), cũng còn được gọi đầy đủ hơn là universal tree of life (cây tổng quát phát sinh sự sống) hoặc treevolution (cây tiến hoá). Trong sơ đồ này, người ta ẩn dụ gốc cây là sinh vật tổ tiên ban đầu, sau đó mọc ra các cành, nhánh mà mỗi cành, nhánh gồm một nhóm sinh vật chung tổ tiên gần, có các đặc điểm giống nhau nhất định.
Giáo dụcMôi trườngPháp luậtPhân tích & bình luậnThời sự 9 tỉnh, thành phố phía Nam tiếp tục nhận hơn 75.413 tấn gạo ‘cứu đói’. TP.HCM dự kiến miễn 100% học phí ở tất cả cấp học cho học sinh là người tộc thiểu số. Gói 7.500 tỷ cho DN vay trả lương, phục hồi: Vì sao hai tháng chỉ giải ngân được 382 tỷ?. Bệnh & thuốcDưỡng sinh & Thải độcTin tức sức khỏe Biến thể COVID R.1 đã được phát hiện ở 47 tiểu bang Hoa Kỳ. Mỹ không thừa nhận Trung Quốc là nước “kinh tế thị trường”, trên thực tế, Trung Quốc không hề thực hiện cam kết mở cửa thị trường của mình khi tham gia Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), và vẫn là nền kinh tế không hoàn toàn tự do dưới thể chế xã hội chủ nghĩa. Trước khi tham gia WTO, Trung Quốc trong thời kỳ cựu lãnh đạo Giang Trạch Dân nắm quyền đã thêm chữ “chủ nghĩaxã hội đặc sắc Trung Quốc” và trở thành “Nền kinh tế thị trường chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc“, nhưng đến nay phương Tây vẫn không thừa nhận điều này. Trong nhìn nhận của phương Tây, dưới thể chế độc đảng chuyên chế, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cường hóa chức năng kinh tế của “chính phủ”, đồng thời còn đưa ra hàng loạt chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn nhà nước và doanh nghiệp nội địa, môi trường đầu tư không không có lợi đối với doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Trung Quốc. Cuộc tranh chấp về địa vị kinh tế thị trường của Trung Quốc cùng Mỹ và châu Âu bắt đầu từ tháng 12/2016. Trung Quốc cho rằng tính từ khi mình tham gia vào WTO, hiệp định yêu cầu khi Trung Quốc gia nhập đủ 15 năm thì các nước thành viên của tổ chức này tự động công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường. Tháng 12/2016, Mỹ, châu Âu và các nước thành viên đều cho rằng Trung Quốc không thực hiện cam kết mở cửa thị trường của mình khi tham gia WTO, do đó đã từ chối công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường. Mỹ và châu Âu cho rằng chính quyền Trung Quốc đã thiên về can thiệp vào kinh tế, tạo ra sự biến động của thị trường, cung cấp ưu thế cạnh tranh không công bằng cho doanh nghiệp sản xuất Trung Quốc, gây tổn hại đến quyền lợi của các nhà cạnh tranh của các nước đối tác. Vì vấn đề này mà Trung Quốc đã khiếu nại Mỹ và châu Âu lên Tòa án thương mại WTO, yêu cầu Mỹ và châu Âu phải thừa nhận địa vị kinh tế thị trường của mình. Trước đó, ngày 30/11, Chính phủ của ông Donald Trump công bố quyết định về vấn đề này mà hồi giữa tháng 11 Mỹ đã đệ trình lên WTO, đây là lần đầu tiên Mỹ công khai biểu thị thái độ phản đối về vấn đề Trung Quốc yêu cầu WTO công nhận địa vị kinh tế thị trường của mình. Thứ trưởng Bộ Tài chính Mỹ – David Malpass hôm 30/11 có nói, Chính phủ Mỹ cho rằng, có dấu hiệu cho thấy, sự mở cửa kinh tế và tiến trình thị trường hóa của Trung Quốc đã bị “chậm” hoặc “chuyển biến ngược”. Vấn đề “địa vị kinh tế thị trường” của Trung Quốc bắt đầu từ năm 2001, khi Trung Quốc tham gia WTO đã ký kết quy định thứ 15 của Nghị định thư gia nhập WTO: “về vấn đề điều tra chống bán phá giá đối với các sản phẩm đến từ Trung Quốc, không tự động sử dụng giá sản phẩm nội địa Trung Quốc để so sánh giá, mà chọn giá sản phẩm cùng loại của nước thứ 3, tức là giá của nước thay thế để làm so sánh về giá, quy định này kéo dài 15 năm”. Giá của nước thay thế của sản phẩm Trung Quốc xuất khẩu (thường là Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico) thường sẽ cao hơn so với giá bán trong nước Trung Quốc. Đây là điều khoản đặc thù của các quốc gia phương Tây dành cho Trung Quốc, lý do họ đưa ra là: Trung Quốc chưa là quốc gia có nền kinh tế thị trường, nên phải áp dụng quy định đặc biệt. Theo số liệu thống kê của WTO, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2014, các biện pháp chống bán phá giá đối với Trung Quốc là 638, chiếm 27% số lượng toàn cầu. Các biện pháp chống bán phá giá hữu hiệu hiện nay của EU có đến 3/4 là nhắm vào Trung Quốc. Ngày 28/10, Bộ Thương mại Mỹ đã công bố kết quả điều tra sơ bộ về vấn đề bán phá giá đối với nhôm tấm của Trung Quốc, theo đó, nhận định trong luật chống bán phá giá của Trung Quốc, nước này vẫn không phải là nước có nền kinh tế thị trường, vẫn tiếp tục áp thuế cao từ 96,81% đến 162,24 %. Trong một năm vừa qua, Chính phủ của ông Trump đã đẩy mạnh điều tra bán phá giá và trợ giá đối với các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, đến nay, tỷ lệ các vụ điều tra chống bán phá giá và chống trợ giá tăng 60% so với năm cuối cùng của Chính phủ ông Obama. Trong thời gian tranh cử tổng thống, ông Trump phê bình chính sách thương mại không công bằng của Trung Quốc, và ông cũng cho biết sau khi trúng cử sẽ có hành động về vấn đề này. Ông cũng nhiều lần phê bình WTO, cho rằng quy tắc thành lập, cơ cấu thương mại đa phương hòa giải tranh chấp là “tai nạn“, không duy hộ lợi ích của các doanh nghiệp Mỹ ở nước ngoài một cách hữu hiệu. Bản tin của The Wall Street Journal cho biết, trong hiệp định gia nhập WTO của Trung Quốc, các từ ngữ liên quan có ý nghĩa không rõ ràng nên trở thành điểm khó khăn trong khiếu nại. Các bên có tranh luận đối với điều Trung Quốc nói là hết 15 năm từ ngày tham gia WTO, Trung Quốc sẽ tự động được xác định địa vị nền kinh tế thị trường được ghi trong hiệp định hay không? Chuyên gia vấn đề thương mại Gary Clyde Hufbauer thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế quốc tế Peterson từng có bài viết phân tích về vấn đề này. Ông cho biết, ngôn ngữ hiệp định rất khó lý giải, nhưng ông cũng cho rằng từ góc độ pháp luật, Trung Quốc vẫn có khả năng thắng khiếu nại. Dù là như vậy, bởi vì khi một nước bị dán nhãn là nước không phải kinh tế thị trường, có nghĩa là các nước tiền tệ khác sẽ càng tự do truy thu thế cao đối với nước này. Bài viết nói, các nhà kinh tế học dự tính, bởi vì Mỹ và các nước EU coi Trung Quốc không phải là nước kinh tế thị trường, nên sẽ khiến cho các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu của Trung Quốc tổn thất hàng tỷ đô la Mỹ. Mỹ và các nước EU truy thu thuế cao đến hơn 100% đối với bộ phận hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Trước khi tham gia WTO, Trung Quốc trong thời kỳ cựu lãnh đạo Giang Trạch Dân nắm quyền đã thêm chữ “chủ nghĩaxã hội đặc sắc Trung Quốc” và trở thành “Nền kinh tế thị trường chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc“, nhưng đến nay phương Tây vẫn không thừa nhận điều này. Trong nhìn nhận của phương Tây, dưới thể chế độc đảng chuyên chế, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cường hóa chức năng kinh tế của “chính phủ”, đồng thời còn đưa ra hàng loạt chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn nhà nước và doanh nghiệp nội địa, môi trường đầu tư không không có lợi đối với doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Trung Quốc. Cuộc tranh chấp về địa vị kinh tế thị trường của Trung Quốc cùng Mỹ và châu Âu bắt đầu từ tháng 12/2016. Trung Quốc cho rằng tính từ khi mình tham gia vào WTO, hiệp định yêu cầu khi Trung Quốc gia nhập đủ 15 năm thì các nước thành viên của tổ chức này tự động công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường. Tháng 12/2016, Mỹ, châu Âu và các nước thành viên đều cho rằng Trung Quốc không thực hiện cam kết mở cửa thị trường của mình khi tham gia WTO, do đó đã từ chối công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường. Mỹ và châu Âu cho rằng chính quyền Trung Quốc đã thiên về can thiệp vào kinh tế, tạo ra sự biến động của thị trường, cung cấp ưu thế cạnh tranh không công bằng cho doanh nghiệp sản xuất Trung Quốc, gây tổn hại đến quyền lợi của các nhà cạnh tranh của các nước đối tác. Vì vấn đề này mà Trung Quốc đã khiếu nại Mỹ và châu Âu lên Tòa án thương mại WTO, yêu cầu Mỹ và châu Âu phải thừa nhận địa vị kinh tế thị trường của mình. Trước đó, ngày 30/11, Chính phủ của ông Donald Trump công bố quyết định về vấn đề này mà hồi giữa tháng 11 Mỹ đã đệ trình lên WTO, đây là lần đầu tiên Mỹ công khai biểu thị thái độ phản đối về vấn đề Trung Quốc yêu cầu WTO công nhận địa vị kinh tế thị trường của mình. Thứ trưởng Bộ Tài chính Mỹ – David Malpass hôm 30/11 có nói, Chính phủ Mỹ cho rằng, có dấu hiệu cho thấy, sự mở cửa kinh tế và tiến trình thị trường hóa của Trung Quốc đã bị “chậm” hoặc “chuyển biến ngược”. Vấn đề “địa vị kinh tế thị trường” của Trung Quốc bắt đầu từ năm 2001, khi Trung Quốc tham gia WTO đã ký kết quy định thứ 15 của Nghị định thư gia nhập WTO: “về vấn đề điều tra chống bán phá giá đối với các sản phẩm đến từ Trung Quốc, không tự động sử dụng giá sản phẩm nội địa Trung Quốc để so sánh giá, mà chọn giá sản phẩm cùng loại của nước thứ 3, tức là giá của nước thay thế để làm so sánh về giá, quy định này kéo dài 15 năm”. Giá của nước thay thế của sản phẩm Trung Quốc xuất khẩu (thường là Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico) thường sẽ cao hơn so với giá bán trong nước Trung Quốc. Đây là điều khoản đặc thù của các quốc gia phương Tây dành cho Trung Quốc, lý do họ đưa ra là: Trung Quốc chưa là quốc gia có nền kinh tế thị trường, nên phải áp dụng quy định đặc biệt. Theo số liệu thống kê của WTO, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2014, các biện pháp chống bán phá giá đối với Trung Quốc là 638, chiếm 27% số lượng toàn cầu. Các biện pháp chống bán phá giá hữu hiệu hiện nay của EU có đến 3/4 là nhắm vào Trung Quốc. Ngày 28/10, Bộ Thương mại Mỹ đã công bố kết quả điều tra sơ bộ về vấn đề bán phá giá đối với nhôm tấm của Trung Quốc, theo đó, nhận định trong luật chống bán phá giá của Trung Quốc, nước này vẫn không phải là nước có nền kinh tế thị trường, vẫn tiếp tục áp thuế cao từ 96,81% đến 162,24 %. Trong một năm vừa qua, Chính phủ của ông Trump đã đẩy mạnh điều tra bán phá giá và trợ giá đối với các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, đến nay, tỷ lệ các vụ điều tra chống bán phá giá và chống trợ giá tăng 60% so với năm cuối cùng của Chính phủ ông Obama. Trong thời gian tranh cử tổng thống, ông Trump phê bình chính sách thương mại không công bằng của Trung Quốc, và ông cũng cho biết sau khi trúng cử sẽ có hành động về vấn đề này.
Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc (Trung văn giản thể: 中国特色社会主义, Trung văn phồn thể: 中國特色社會主義; Hán Việt: Trung Quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa), trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XV Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 9 năm 1997 gọi là chủ nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc (Trung văn phồn thể: 有中國特色社會主義; Trung văn giản thể: 有中国特色社会主义, Hán Việt: hữu Trung Quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa), là hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc dựa trên chủ nghĩa xã hội khoa học. Ý thức hệ này hỗ trợ việc tạo ra một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chi phối bởi các khu vực công vì Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Chính phủ Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không từ bỏ chủ nghĩa Mác nhưng đã phát triển nhiều thuật ngữ và khái niệm của lý thuyết Mác-xít để hàm chứa hệ thống kinh tế mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng chủ nghĩa xã hội là tương thích với các chính sách kinh tế. Trong tư tưởng của Cộng sản Trung Quốc hiện nay, Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội-một quan điểm giải thích các chính sách kinh tế linh hoạt của chính phủ Trung Quốc để phát triển thành một quốc gia công nghiệp hóa.
Với nền di sản văn hóa đáng tự hào và cội nguồn từ hơn 1000 năm trước, đất nước Ba Lan là quốc gia lớn thứ 9 với vị trí ở trung tâm châu Âu và là điểm đến của hơn 73,000 sinh viên quốc tế theo học đến từ hơn 170 quốc gia trên thế giới. Trong suốt lịch sử, các đường biên giới của đất nước Ba Lan đã liên tục thay đổi. Với tác động của nhiều nền văn hóa trong suốt bề dày lịch sử, du khách hoàn toàn có thể kì vọng vào sự đa dạng trong kiến trúc, phong tục tập quán cũng như văn hóa ở Ba Lan. Tuy nhiên, do có nền tảng về Công giáo la mã vững chắc, đất nước này vẫn duy trì được bản sắc văn hóa độc đáo. Cùng HISA khám phá những thông tin ít ai biết về đất nước Ba Lan nhé!. 5 Văn hóa tại đất nước Ba Lan5.1 Nghệ thuật của đất nước Ba Lan5.2 Ẩm thực tuyệt vời5.3 Các món ăn truyền thống ở Ba Lan. 7.3 Một vài con số về nhà ở cho sinh viên tại đất nước Ba Lan. 10 Thông tin hỗ trợ du học tại đất nước Ba Lan từ chúng tôi10.1 Du học tại đất nước Ba Lan cùng HISA bạn sẽ được. Vùng ngoại ô, những vùng biển miền Bắc và những ngọn núi ở miền Nam ở Ba Lan đã tạo nên những thắng cảnh nơi các du khách đến để nghỉ ngơi. Đây là nơi chứa những khu rừng ẩn giấu hệ sinh thái phong phú cùng những trang viên và các lâu đài cổ kính. Múi giờ: Ba Lan có múi giờ Trung Âu (GMT+1 / UTC+1 ), ngoại trừ giữa Chủ nhật cuối cùng của tháng 3 và Chủ nhật cuối cùng của tháng 10 khi chuyển sang “giờ tiết kiệm ánh sáng ban ngày.”. Các siêu đô thị, các thị trấn lịch sử và những ngôi làng với nét quyến rũ đầy xúc cảm là nguồn cảm hứng cho các bài thơ và bài hát được viết nên. Ba Lan chính thức có tổng cộng 887 thị trấn, nơi lớn nhất là Warsaw với dân số 1,7 triệu người trong khi đó thị trấn ít người nhất chỉ có 884 cư dân sinh sống. Ba Lan là quốc gia lớn thứ 9 ở Châu Âu (Thứ 8 không bao gồm Nga) Ba Lan không phải là một quốc gia nhỏ mà thực sự là một trong những quốc gia lớn nhất. Ba Lan lớn hơn Ý và Vương quốc Anh. Các thành phố chính của Ba Lan không chỉ là thủ phủ của những vùng phát triển nhanh mà còn có những nét quyến rũ riêng biệt. Lodz nổi tiếng với con phố lớn Piotrkowska và các khu công nghiệp vào thế kỷ 19. Thành phố cũng là nơi có kiểu rừng đô thị lớn nhất châu Âu và nghĩa trang Do Thái. Khí hậu Ba Lan có thể được xem là khí hậu ôn hòa với mùa đông tương đối lạnh (từ tháng 12 đến tháng 3) và mùa hè nóng kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8. Nhiệt độ trung bình tháng 1 là -1 ° C (30 ° F) đến -5 °C (23 ° F). Nhiệt độ trung bình tháng 7 và tháng 8 dao động từ 16,5 ° C (62 ° F) đến 19 °C (65 ° F), mặc dù một số ngày nhiệt độ có thể đạt tới 35 ° C (95 ° F). Nó bắt nguồn từ tên của bộ tộc Polanie, có nghĩa là “những người sống trên cánh đồng trống”. Thời gian thích hợp nhất để đến thăm Ba Lan là vào cuối xuân hoặc cuối mùa hè, khi thời tiết vẫn còn ấm áp và những đoàn khác du lịch đông đảo hoặc là chưa đến hoặc đã về nhà. Mùa đông ở đây cũng rất tuyệt đặc biệt là ở những vùng ngoại ô nước này. Hệ thống giao thông ở các thành phố lớn của Ba Lan rất phát triển, hệ thống xe buýt và tàu điện ngầm giúp cho việc di chuyển trong nội thành Warsaw trở nên khá dễ dàng. Ở các thị trấn nhỏ, dịch vụ xe buýt địa phương được cung cấp một cách rộng rãi, mỗi thành phố đều có sự khác nhau nhẹ về giá vé và chi phí, vì thế nên chuẩn bị và quan sát thói quen đi lại của người bản địa ở đây. Dù cho nền văn hóa ở đây vẫn tiếp tục phát triển với sự kết hợp giữa tính truyền thống và hiện đại, thì lịch sử vẫn luôn là gốc rễ trong văn hóa của người dân Ba Lan. Dù bạn chỉ đến để du lịch, hay tìm hiểu về nguồn cội người Ba Lan trong chính mình hay chỉ là để thỏa mãn trí tò mò của bản thân, chỉ cần bạn có hứng thú với văn hóa ở đây thì những gì mà bạn khám phá được sẽ làm bạn phải ngạc nhiên và vui sướng. Là nơi giao nhau giữa Đông và Tây, Ba Lan đã tạo dựng được nền văn hóa độc đáo và đặc sắc xuyên suốt lịch sử. Kể từ 2 lần bị xóa tên khỏi bản đồ châu Âu, người Ba Lan đã duy trì sự thống nhất và sức mạnh của quốc gia thông qua nghệ thuật thay vì con đường chính trị. Thông thường, tính nghệ thuật sẽ bị nhấn chìm trong những khoảnh khắc lịch sử đen tối nhất của một quốc gia, nhưng nhiều tác giả và các nghệ sĩ lưu vong đã kiên định giữ cho linh hồn đất nước tồn tại thông qua các tác phẩm của họ. Sau khi tái thống nhất năm 1918, các phong trào văn hóa dân tộc chủ nghĩa đã nhường chỗ cho những người nghệ sĩ tiên phong. Các nghi lễ Kito giáo về ăn uống và nhịn ăn được du nhập vào Ba Lan vào thế kỷ thứ 10 có sức ảnh hưởng mạnh mẽ về truyền thống ẩm thực của quốc gia này. Trong các thời điểm nhịn ăn, rất nhiều món ăn không chứa thịt, các món cá trở thành một phần trong cách nấu ăn của người dân Ba Lan. Nằm giữa các nước láng giềng “hùng mạnh”, Ba Lan đã thành lập rất nhiều liên minh trong suốt lịch sử, điều này cũng ảnh hưởng đến ẩm thực của quốc gia này. Tuy nhiên, những món ăn đặc sắc của từng quốc gia đã trở thành một phần độc đáo trong cách nấu ăn của người Ba Lan. Khi bước vào một gia đình Ba Lan, dù là người bạn cũ hay là người lạ thì bạn đều được chào đón với sự hiếu khách nồng nhiệt và những bữa ăn xa hoa. “Vị khách đến nhà, vị thần đến thăm” là câu tục ngữ từ xưa mà người dân ở đây vẫn nói. Chỉ cần nhìn thực đơn cũng đủ khiến bạn phải thèm thuồng. Trong nhiều thế kỷ, các phong cách từ Pháp hoặc Ý cạnh tranh nhau về sức ảnh hưởng đến nền ẩm thực Ba Lan, đồng thời còn có những phong cách ngoại lại như: Do Thái, Armenia, Litva, Cossack, Hungary và Tartar. Ba Lan cũng là đất nước có nhiều thành tích đáng kinh ngạc với sự đa dạng và phong phú về lịch sử về giáo dục. Việc học tập ở Ba Lan sẽ cho bạn bằng cấp có giá trị ở châu Âu và được công nhận khắp thế giới với chi phí thấp . Không chỉ tận hưởng nền giáo dục chất lượng cao mà còn có cơ hội theo đuổi sự nghiệp của bạn ở châu Âu. Ba Lan là nơi ngập tràn cơ hội cho những người trẻ sẵn lòng trải nghiệm môi trường giáo dục chất lượng, nâng cao kiến thức, cải thiện các kỹ năng và thúc đẩy các trải nghiệm quốc tế. Với hơn 1,9 triệu học sinh, nơi đây tự hào về các chỉ số học thuật cao nhất châu Âu. Sinh viên từ các quốc gia ở châu Âu và châu Á khác cũng lựa chọn bắt đầu sự nghiệp học tập ở các trường đại học và cao đẳng của Ba Lan. Nếu bạn là người yêu thích Game of Thrones, bạn có thể bắt đầu đọc Lịch sử Trung cổ Ba Lan. Bạn sẽ bị nhầm lẫn nhiều lần (hãy thử đọc một cái gì đó trong khoảng thời gian từ năm 1138 đến năm 1320). Thời gian sau đó cũng không hề dễ dàng đối với Ba Lan. Đất nước đã bị xâm lược hoặc đã chiến đấu vì tự do trong các cuộc nổi dậy hơn 40 lần. Ba Lan thậm chí còn biến mất khỏi bản đồ thế giới từ năm 1772 đến năm 1795. Các trường học ở Ba Lan không chỉ cạnh tranh nhau về sự đa dạng của các khóa học mà còn về các chương trình đào tạo với mức học phí hấp dẫn như từ kỹ thuật, kinh doanh quốc tế cho đến du lịch, nhà hàng khách sạn và nhiều chương trình khác. Đa dạng về các gói học bổng được cung cấp cho sinh viên đang theo học như tổ chức GE, etc.
Người Ba Lan
Người Ba Lan (tiếng Ba Lan: Polacy, phát âm ; nam giới gọi là Polak, nữ giới gọi là Polka) là một nhóm dân tộc gốc Tây Sla-vơ bản địa của Trung Âu chủ yếu ở Ba Lan, cũng như ở những quốc gia châu Âu và Mỹ khác. Hiến pháp Ba Lan quy định, quốc gia Ba Lan bao gồm tất cả những người mang quốc tịch Ba Lan. Những cư dân của Ba Lan sống trong các vùng lịch sử sau của quốc gia này: Wielkopolska, Małopolska, Mazovia, Silesia (tiếng Ba Lan: Śląsk), Pomerania (tiếng Ba Lan: Pomorze), Kujawy, Warmia, Mazury, và Podlasie. Một bộ phận lớn người Ba Lan lưu vong sống khắp châu Âu (Đức, Pháp, Vương quốc Anh, Nga, Belarus, Litva và Ukraina), châu Mỹ (Hoa Kỳ, Brasil và Argentina) và Úc. Năm 1960, Chicago ở Hoa Kỳ có một cộng đồng dân cư Ba Lan lớn nhất thế giới sau Warszawa. Ngày nay, khu vực tập trung đông người Ba Lan là Katowice hay còn gọi là Silesian Metropolis với 2,7 triệu dân.
Nhiếp ảnh khỏa thân là gì có thể được mô tả với sự trợ giúp của các thuật ngữ từ nghệ thuật. Nhiếp ảnh khỏa thân là một thể loại nhiếp ảnh có thể được chia thành các loại khác. Bạn có thể tìm hiểu những gì chúng là gì và ý nghĩa của chúng trong mẹo thực tế này. Chụp ảnh khỏa thân là một cách nghệ thuật để mô tả chân dung cơ thể con người. Cơ thể được chụp ảnh một phần hoặc hoàn toàn khỏa thân. Một phân biệt được thực hiện giữa các hình thức đại diện sau:. Hành động một phần : Các bộ phận cơ thể được (mặc một phần) được chụp bởi các cận cảnh. Trên tất cả, hình dạng, cấu trúc và đại diện của cơ thể nằm ở phía trước. Hành động một nửa: Đây là một thể loại tương tự như hành động một phần. Thường có những bức ảnh trong đó một cơ thể được mặc hoặc che một phần (chủ yếu là các đặc điểm tình dục chính), trong khi phần còn lại là miễn phí. Vollakt: Vollakt là đại diện của cơ thể hoàn toàn trần trụi. Ở đây cũng có nhiều thể loại phụ tạo thành một phổ rộng của các phong cách chụp ảnh khác nhau. Những thể loại chính này có thể được chia thành nhiều thể loại khác cũng được biết đến từ các lĩnh vực nhiếp ảnh khác. Chụp ảnh phím thấp (độ tương phản cao và bóng tối) đặc biệt phổ biến ở đây. Mặc dù cả chụp ảnh khỏa thân và khiêu dâm đều được coi là khiêu dâm, cả hai không nên nhầm lẫn. Chụp ảnh khỏa thân ít làm khơi dậy sự kích thích tình dục của người xem, mà nhiều hơn về sự thể hiện nghệ thuật của cảnh. Nó giống như nội dung khiêu dâm khi quá trình tình dục nhất thiết phải tập trung. Ngay cả khi chụp ảnh khỏa thân và nội dung khiêu dâm được tách ra, không có ranh giới rõ ràng giữa hai người. Chụp ảnh khỏa thân đôi khi rất lộ liễu và có thể khiêu khích, vì vậy quá trình chuyển đổi là trôi chảy.
Khỏa thân
Khỏa thân hay lõa thể là trạng thái mà con người không mặc quần áo hoặc đặc biệt là không che bộ phận sinh dục. Trong một số xã hội, ảnh khoả thân một phần được định nghĩa là không che phủ các bộ phận khác của cơ thể được coi là gợi tình. Trần trụi, hoặc việc mất lông trên cơ thể, là một trong những đặc điểm vật lý đánh dấu sự tiến hóa của con người hiện đại về mặt giải phẫu từ tổ tiên hominini. Trong nhiều ngàn năm, con người không mặc quần áo, điều này tiếp tục là chuẩn mực trong một số xã hội bản địa bị cô lập ở vùng khí hậu nhiệt đới. Người ta thường chấp nhận rằng việc áp dụng rộng rãi quần áo xảy ra khi mọi người di cư đến các vùng khí hậu khác cần được bảo vệ khỏi các yếu tố. Ngoài ra, khi các xã hội phát triển từ việc săn bắn hái lượm thành nông dân, quần áo trở thành một phần của sự tiến hóa văn hóa khi các cá nhân và các nhóm trở nên khác biệt bởi địa vị và giai cấp.
Xin chào các bạn nhỏ lại đến với những bài viết Tin Học Mẫu Giáo. Chắc hẳn ở thời điểm hiện tại, ai trong chúng ta cũng đã quen thuộc với với các trang web. Bạn có thể truy cập vào các trang web bất cứ khi nào, ở bất cứ đâu, bằng máy tính hay chiếc điện thoại dễ dàng. nhưng nhưng, có ai từng thắc mắc tại sao mình phải sử dụng trình duyệt? Trình duyệt là gì? Cách hoạt động của nó như thế nào?. OK giờ mình bắt đầu đi tìm hiểu Trình duyệt web nhé các bạn nhỏ. Trình duyệt web là một ứng dụng phần mềm để truy cập thông tin trên World Wide Web. Mỗi trang web, hình ảnh và video riêng lẻ được xác định bằng một URL riêng biệt, cho phép các trình duyệt truy xuất và hiển thị chúng trên thiết bị của người dùng. Nói đơn giản cho dễ hiểu, trình duyệt web như cánh cửa thần kỳ của Doremon giúp bạn tìm hiểu và tiếp cận với thế giới. Riêng tui thì trình duyệt đã giúp tui tìm hiểu và gắn kết hơn với cuộc sống, văn hoá Nhật. Nó tạo ra mối liên kết bền vững JAV (Japanese And VietNamese). Năm 1990, ông Sir Tim Berners-Lee phát minh ra trình duyệt web đầu tiên. Sau đó thì ông cùng với Nicola Pellow viết Line Mode Browser và phát hành vào năm 1991. Tới năm 1993 trình duyệt Mosaic ra đời và được công nhận là “trình duyệt phổ biến đầu tiên trên thế giới” bởi vì nó có giao diện đồ hoạ khiến cho hệ thống World Wide Web trở nên dễ sử dụng hơn bao giờ hết. Lãnh đạo của Mosaic, Marc Andreessen sau đó đã thành lập công ty riêng và phát hành Netscape Navigator, sau đó trình duyệt này nhanh chóng đã thay thế Mosaic trở thành trình duyệt phổ biến nhất. Microsoft ra mắt Internet Explorer vào năm 1995, dẫn đến một cuộc chiến trình duyệt với Netscape. Microsoft đã có thể đạt được một vị trí thống trị vì hai lý do: nó đi kèm Internet Explorer với hệ điều hành Windows phổ biến của họ và nó là phần mềm miễn phí mà không có giới hạn sử dụng. Đấu không lại Microsoft, Năm 1998 Netscape chuyển đổi thành Mozilla Foundation để tạo ra một trình duyệt mới sử dụng mô hình phần mềm nguồn mở. Nó dần phát triển thành Firefox và được phát hành chính thức năm 2004. Apple cũng tham gia thị trường trình duyệt bằng Safari năm 2003. Tuy nhiên thì ai cũng biết là nó chỉ nằm trong hệ sinh thái của Apple, không hỗ trợ các hệ điều hành khác. Người cuối cùng tham chiến vào thị trường trình duyệt web là Google Chrome, song nó lại là kẻ thành công nhất khi đã giật được thị phần của Internet Explorer để trở thành trình duyệt phổ biến nhất thế giới, thậm chí còn khiến Internet Explorer phải ngắc ngoải đến mức Microsoft phải khai tử trình duyệt này khỏi hệ điều hành Windows của mình và thay thế bằng Microsoft Edge từ năm 2015. Trình duyệt web đã góp phần đẩy nhanh sự bùng nổ Internet. Tuy nhiên, cuộc chiến thị phần của các trình duyệt vẫn diễn ra gay gắt. Dù ai thắng thì họ cũng đem lại những ứng dụng công nghệ tối tân nhất cho chúng ta, chẳng hạn như google luôn biết tui hay search cái gì và quảng cáo liên tục =))). OK tìm hiểu sơ qua lịch sử của browser rồi, giờ tiếp tục nghiên cứu văn hoá Nhật để gắn chặt tình hữu nghị giữa hai nước nào.
Mosaic (trình duyệt)
NCSA Mosaic, hay đơn giản là Mosaic, là trình duyệt web phổ biến World Wide Web và Internet. Nó cũng là một ứng dụng khách cho các giao thức internet trước đó như Giao thức truyền tệp, Giao thức truyền tin tức mạng và Gopher. Trình duyệt được đặt tên cho sự hỗ trợ của nhiều giao thức internet. Giao diện trực quan, độ tin cậy, chuyển qua Microsoft Windows và cài đặt đơn giản, tất cả đã góp phần vào sự phổ biến của Mosaic trong Internet, cũng như trên các hệ điều hành Microsoft. Mosaic cũng là trình duyệt đầu tiên hiển thị hình ảnh nội tuyến bằng văn bản thay vì hiển thị hình ảnh trong một cửa sổ riêng biệt. Mặc dù Mosaic thường được mô tả là trình duyệt web đồ họa đầu tiên, nhưng trước đó đã có các trình duyệt WorldWideWeb, Erwise và ViolaWWW ít được biết đến. Mosaic được phát triển tại Trung tâm Ứng dụng siêu máy tính quốc gia (NCSA) tại Đại học Illinois tại Urbana nhận Champaign bắt đầu vào cuối năm 1992. NCSA đã phát hành trình duyệt vào năm 1993, và chính thức ngừng phát triển và hỗ trợ vào ngày 7 tháng 1 năm 1997.
Ở Việt Nam, những người tranh đấu cho dân chủ thường đặt ra các vấn đề tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do thành lập hội đoàn và tự do biểu tình, nhưng lại rất hiếm khi đặt vấn đề tự do học thuật. Cũng ở Việt Nam, hầu như ai cũng thấy nền giáo dục càng ngày càng bị thoái hóa, càng suy đồi cả về chất lượng giảng dạy lẫn tư cách đạo đức từ thầy đến trò, nhưng ít ai nhấn mạnh, ít nhất đối với giáo dục đại học, không có sự thay đổi nào có thể phát huy tác dụng nếu không có tự do học thuật. Như vậy, tự do học thuật có hai quan hệ chính: Một, đó là nền tảng của giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học; và hai, đó cũng là một trong những nền tảng để xây dựng một xã hội dân chủ, đặc biệt ở khía cạnh khoa học và văn hóa, vốn là nền tảng để xây dựng một nền kinh tế hiện đại. Ở đây, tôi chỉ giới hạn tự do học thuật trong quan hệ với giáo dục đại học. Đầu tiên, hầu như ai cũng biết mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật và từ đó, của kinh tế cũng như của xã hội được xây dựng trên nền tảng của giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học. Giáo dục ở Mỹ, chẳng hạn, gặp khá nhiều khó khăn ở cấp tiểu học và trung học, nhưng cho đến nay, vẫn rất thành công ở cấp đại học: Theo bất cứ một cuộc điều tra hay xếp hạng nào, những đại học giỏi nhất bao giờ cũng thuộc về Mỹ, và sau đó, thuộc các quốc gia nói tiếng Anh. Khi dẫn đầu ngành giáo dục đại học, Mỹ cũng đồng thời dẫn đầu trên các phương diện nghiên cứu, và từ đó, trong các lãnh vực khoa học kỹ thuật nói chung. Sự thành công của giáo dục đại học Mỹ cũng như của các quốc gia Tây phương tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trong đó, quan trọng nhất là tự do học thuật. Trong cái gọi là tự do học thuật ấy có nhiều cấp độ, trước hết và quan trọng hơn hết, là tính chất tự trị và độc lập của các đại học. Chính phủ trợ cấp tài chính cho các đại học nhưng lại hoàn toàn không can thiệp đến, một, nhân sự (bao gồm chức vụ các cấp), hai, chính sách, ba, việc quản lý ngân sách, và bốn, chương trình và nội dung giảng dạy ở các đại học. Không có bất cứ ông/bà Bộ trưởng hay Thủ tướng hay Tổng thống nào có quyền can thiệp vào các sinh hoạt ở đại học. Họ cũng không được quyền lợi dụng ngân sách để gây sức ép lên các đại học hầu biến đại học thành con rối của chính phủ. Mức độ thứ hai của cái gọi là tự do học thuật ấy là, trong phạm vi từng trường, bộ máy hành chính (bao gồm từ Viện trưởng, Viện phó xuống đến Khoa trưởng, Khoa phó) hầu như hoàn toàn không can thiệp vào chương trình và nội dung giảng dạy của bộ phận chuyên môn (các giáo sư và giảng viên). Tôi xin lấy trường hợp của tôi làm ví dụ cho dễ hiểu. Là chủ nhiệm Ban Việt ngữ và Việt học, tôi có toàn quyền trong việc thiết kế chương trình, mở lớp này thay lớp nọ; trong từng lớp, việc dạy gì là tùy thuộc ở tôi. Khi cần mở lớp mới, tôi chỉ cần chứng minh với trường về tính chất khoa học cũng như nhu cầu về kiến thức và, phần nào, nhu cầu “thị trường” của lớp ấy. Tuyệt đối không có ai can thiệp phải thêm phần này hay bớt phần nọ. Bộ phận hành chính, nếu muốn đánh giá lớp học nào đó, chỉ căn cứ vào, một, số lượng sinh viên ghi danh, và hai, gần đây, các bản nhận xét của sinh viên vào mỗi cuối học kỳ. Thấp hơn nữa, trong quan hệ giữa thầy và trò, các thầy cô giáo cũng phải tôn trọng quyền tự do học thuật của các nghiên cứu sinh và sinh viên. Khi hướng dẫn sinh viên làm luận án, tôi chỉ để ý đến vấn đề kiến thức, lý luận và phương pháp luận chứ không can thiệp vào các kết luận: Đó là công việc của các nghiên cứu sinh. Đối với bậc Cử nhân cũng vậy, ví dụ trong môn Nhiều nước Việt Nam: Văn hóa Chiến tranh Và Ký ức (Many Vietnams: War Culture and Memory), tôi không quan tâm đến việc sinh viên bênh ai và chống ai. Đó là quyền tự do của mỗi sinh viên. Nếu họ ca ngợi Hồ Chí Minh hay đảng Cộng sản, tôi cũng không phê phán. Tôi chỉ đòi hỏi hai điều: Kết luận sao cũng được nhưng phải, một, tham khảo đầy đủ, biết cách phân tích và tổng hợp các tài liệu chính liên quan đến đề tài; và hai, chứng minh, với các bằng chứng và lập luận vững chắc, để bênh vực cho quan điểm của mình. Tất cả những điều kể trên không phải là do cá tính hay thói quen làm việc. Mà là một nguyên tắc. Phần lớn các đại học ở Tây phương đều có bản chính sách về tự do học thuật (academic freedom policy) được viết thành văn bản hẳn hoi, trong đó, người ta nhấn mạnh đến quyền tự do của các giáo sư và giảng viên cũng như của sinh viên, đồng thời cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi người trong việc hành xử các quyền tự do học thuật của mình. Ở Việt Nam, ngược lại, ngay từ lúc mới giành được chính quyền, đảng Cộng sản đã chi phối toàn bộ chương trình và nội dung giáo dục ở đại học. Không kể các trường đại học thời kháng chiến chống Pháp vốn mới manh nha; kể từ lúc cầm quyền ở miền Bắc về sau, bàn tay của đảng hầu như lúc nào cũng thọc sâu vào các sinh hoạt học thuật ở đại học. Tất cả những người tham gia vụ Nhân văn Giai phẩm, dù trí thức cao ngất, như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, nếu đi lệch ra ngoài quan điểm chính trị của giới cầm quyền đều bị loại trừ. Ngay cả một số người, mới chỉ là sinh viên, còn rất non trẻ, chỉ vì dính líu một chút vào Nhân văn Giai phẩm, vẫn bị đày đọa cả hàng mấy chục năm, như trường hợp của Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc và Văn Tâm, v.v. Gần đây nhất, nổi bật nhất là vụ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tước bằng Thạc sĩ của nhà văn Nhã Thuyên Đỗ thị Thoan chỉ vì, trong luận văn ấy, Nhã Thuyên viết về nhóm Mở Miệng, một nhóm văn học ngoài luồng của một số nhà thơ ở Sài Gòn. Thật ra, đó chỉ là vụ gây ồn ào nhất. Nhưng không phải là duy nhất. Tôi biết, trước đây, có một số người, trong đó, có người từng viết lách và khá có tiếng tăm, xin làm luận văn Thạc sĩ về Thanh Tâm Tuyền hay nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn, cũng bị bác bỏ, chỉ với một lý do duy nhất: “nhạy cảm”. Từ sau vụ Nhã Thuyên, tôi nhận được email của một số sinh viên và nghiên cứu sinh cho biết họ đang gặp khó khăn trong việc làm luận văn về các nhà văn và nhà thơ ở miền Nam trước năm 1975. Trong đó, có hai trường hợp: Một, có người mới nộp đề tài đã bị giáo sư hướng dẫn từ chối chỉ vì lý do “nhạy cảm”; hai, một số người đã bắt đầu từ 1,2 năm trước, viết luận văn sắp xong, nhưng dưới áp lực của nhà trường, cả thầy lẫn trò đều phải thay đổi đề tài để tránh bị chính quyền trừng phạt, như trường hợp của Nhã Thuyên. Tất cả những sự can thiệp và trả thù thô bạo của chính quyền trong lãnh vực học thuật như vậy là một biểu hiện của việc chà đạp lên các quyền căn bản của con người, từ quyền tự do tư tưởng đến quyền tự do thông tin và tự do ngôn luận. Tác hại của những sự chà đạp ấy nhiều và rất nghiêm trọng. Khi học thuật không có tự do, khoa học, cả khoa học xã hội và nhân văn, không thể nào phát triển; khi khoa học không phải triển, người ta không thể có một sự thông thái đích thực, hơn nữa, thậm chí, không thể nâng cao được trình độ dân trí, không phát huy được sức mạnh văn hóa trong việc phát triển kinh tế. Khi cả trình độ dân trí lẫn kinh tế thấp, cả dân tộc, may lắm, chỉ có thể làm những công việc lặt vặt như gia công và lắp ráp cho thế giới. Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ ( Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.
Tự do học thuật
Tự do học thuật là quyền tự do giảng dạy, học tập, và theo đuổi tri thức và nghiên cứu của giảng viên và sinh viên mà không bị can thiệp vô lý hay bị giới hạn bởi luật pháp, các quy định của cơ sở giáo dục, hoặc áp lực của công chúng. Những yếu tố cơ bản của tự do học thuật bao gồm quyền tự do của giảng viên trong việc tìm hiểu bất cứ chủ đề tri thức nào mà mình quan tâm; quyền trình bày những khám phá của mình cho sinh viên, đồng nghiệp, và những người khác biết; quyền công bố bằng cách xuất bản những số liệu và kết luận của mình mà không bị kiểm soát hay kiểm duyệt; và quyền giảng dạy theo cách mà mình thấy phù hợp về mặt chuyên môn. Đối với sinh viên, những yếu tố cơ bản bao gồm quyền tự do học tập và nghiên cứu những gì mình quan tâm và quyền đưa ra những kết luận của chính mình, cũng như quyền biểu đạt những ý kiến của mình. Các nước không có tự do học thuật thường được cai trị bằng cách gieo rắc nỗi sợ hãi trong xã hội và giới hàn lâm trong khi tại các nước phát triển quyền tự do học thuật được nhà nước bảo vệ vì nó được coi là nền tảng thiết yếu để phát triển tri thức và phụng sự xã hội, và do đó là trụ cột quan trọng của mọi xã hội dân chủ và văn minh.
Công tác xã hội (CTXH) là ngành khoa học và là một nghề nghiệp chuyên môn, đòi hỏi người làm nghề CTXH phải được đào tạo về kiến thức chuyên ngành và kỹ năng chuyên môn. Trong những năm gần đây, khái niệm về nghề CTXH ở Việt Nam còn khá lạ lẫm với rất nhiều người, đặc biệt là các em học sinh mới tốt nghiệp trung học phổ thông, mặc dù đây là một ngành nghề có lịch sử phát triển rất lâu đời ở các nước phát triển trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp,… Khoảng 10 năm trở lại đây, từ khi có Quyết định Số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 03 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Đề án Phát triển Nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020, Công tác xã hội được nhắc đến như một nghề quan trọng tại Việt Nam. Vậy, Công tác xã hội là gì?. Công tác xã hội là một nghề có vai trò giúp đỡ, hỗ trợ và tạo điều kiện cho những người có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn và khó hòa nhập với cộng đồng, ví dụ, người khuyết tật, người già, người nghèo, người có bệnh nan y, những người không có khả năng tự chăm sóc,… Ngành Công tác xã hội ra đời với sứ mạng hàn gắn những rạn nứt của xã hội trong quá trình phát triển, giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội và hướng tới sự phát triển bền vững, nhân văn và nhân ái. Nghề Công tác xã hội có vai trò cung cấp dịch vụ cho người dân, và người làm trong ngành Công tác xã hội là người phụng sự xã hội, phục vụ những người cần giúp đỡ, che chở và hỗ trợ,. Chính vì vậy, nhân viên ngành Công tác xã hội cần được đào tạo chuyên sâu về kiến thức xã hội, chuyên môn chăm sóc và đặc biệt là kỹ năng mềm. Kiến thức chuyên môn giúp nhân viên công tác xã hội thấu hiểu được cuộc sống, hoàn cảnh của người cần được chăm sóc, kiến thức chuyên môn giúp họ có thể đồng cảm, tiếp cận và hỗ trợ lâu dài cho người đó. Ví dụ, một cán bộ Công tác xã hội cần tiếp cận một người tổn thương tâm lý và có ý định tự vẫn. Nếu cho một ai đó CON CÁ thì chỉ giải quyết vấn đề mang tính chất nhất thời (giải quyết cái đói), cũng dễ tạo sự thụ động và ỷ lại. 1 Công tác xã hội là một nghề dựa trên một tập hợp kiến thức của các ngành khoa học và nghệ thuật. Công tác xã hội là một nghề nhằm mục đích hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng trong việc xử lý các vấn đề họ đang gặp phải. Hoạt động của công tác xã hội vì hạnh phúc của con người và nâng cao phúc lợi xã hội. Người làm công tác xã hội phải là người được đào tạo và phải được đánh giá về kiến thục và năng lực
Công tác xã hội
Công tác xã hội là nghề thực hành và là một lĩnh vực hoc thuật hoạt động chuyên môn nhằm trợ giúp các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi hay tăng cường chức năng xã hội góp phần đảm bảo nền an sinh xã hội. Được thực hiện theo những nguyên tắc và được vận hành trên cơ sở văn hóa truyền thống của dân tộc nhằm giải quyết các nan đề trong cuộc sống của họ. Một chuyên viên thực hành công tác xã hội được gọi là một cán bộ /nhân viên công tác xã hội. Ví dụ về những lĩnh vực mà một nhân viên xã hội có thể hoạt động là: cứu đói, kỹ năng sống, kỹ năng xã hội, phát triển cộng đồng, phát triển nông thôn, điều chỉnh mức độ đô thị hóa, pháp y, chỉnh đốn, pháp luật, quan hệ lao động, hòa nhập xã hội, bảo vệ trẻ em, bảo vệ người cao tuổi, các quyền của phụ nữ, quyền con người, quản lý người bị xã hội chối bỏ, cai nghiện, phục hồi chức năng, phát triển đạo đức, hòa giải văn hoá, quản lý thiên tai, sức khỏe tâm thần, trị liệu hành vi và khuyết tật.
Kinh tế học ( tiếng Anh: Economics) là bộ môn khoa học xã hội giúp con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế. Phân tích kinh tế có thể được áp dụng trên toàn xã hội, trong kinh doanh , tài chính , chăm sóc sức khỏe và chính phủ. Phân tích kinh tế đôi khi cũng được áp dụng cho các đối tượng khác nhau như tội phạm, giáo dục, xã hội học, luật học và nhiều ngành khoa học khác. Nghiên cứu kinh tế học thường được chia thành hai loại. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô tập trung vào cách người tiêu dùng và nhà sản xuất cá nhân đưa ra quyết định của họ. Điều này bao gồm một người, một hộ gia đình, một doanh nghiệp hoặc một tổ chức chính phủ. Kinh tế vi mô bao gồm từ cách các cá nhân này giao dịch với nhau đến cách giá cả bị ảnh hưởng bởi cung và cầu hàng hóa. Cũng được nghiên cứu là hiệu quả và chi phí liên quan đến sản xuất hàng hóa và dịch vụ, cách phân chia và phân bổ lao động, tính không chắc chắn, rủi ro và lý thuyết trò chơi chiến lược . Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế tổng thể. Điều này có thể bao gồm một khu vực địa lý riêng biệt, một quốc gia, một lục địa hoặc thậm chí toàn thế giới. Các chủ đề được nghiên cứu bao gồm chính sách tài khóa và tiền tệ của chính phủ, tỷ lệ thất nghiệp, tăng trưởng được phản ánh bởi những thay đổi trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và chu kỳ kinh doanh dẫn đến mở rộng, bùng nổ, suy thoái và suy thoái. Ngoài ra còn có trường phái tư tưởng kinh tế. Hai trong số phổ biến nhất là C lassical và Keynesian . Quan điểm cổ điển tin rằng thị trường tự do là cách tốt nhất để phân bổ nguồn lực và vai trò của chính phủ nên được giới hạn trong vai trò của một trọng tài công bằng, nghiêm khắc. Ngược lại, cách tiếp cận của Keynes tin rằng thị trường không hoạt động tốt trong việc phân bổ nguồn lực một mình và chính phủ phải thỉnh thoảng bước vào và chủ động phân bổ lại nguồn lực một cách hiệu quả. Một số nhánh của tư tưởng kinh tế nhấn mạnh chủ nghĩa kinh nghiệm trong kinh tế học, thay vì logic hình thức – cụ thể là kinh tế vĩ mô hoặc kinh tế vi mô Marshall, cố gắng sử dụng các quan sát thủ tục và kiểm tra sai lệch liên quan đến khoa học tự nhiên. Vì các thí nghiệm thực sự không thể được tạo ra trong kinh tế học, các nhà kinh tế thực nghiệm dựa vào việc đơn giản hóa các giả định và phân tích dữ liệu hồi tố. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế cho rằng kinh tế học không phù hợp với thử nghiệm thực nghiệm và các phương pháp như vậy thường tạo ra câu trả lời không chính xác hoặc không nhất quán. Website tổng hợp thông tin kinh tế thị trường, tài chính chứng khoán, kết nối doanh nghiệp. Cơ hội đầu tư khởi nghiệp, hợp tác kinh doanh. VnBiz.com.vn - Website tổng hợp thông tin kinh tế thị trường, tài chính, chứng khoán, kết nối doanh nghiệp. Cơ hội đầu tư khởi nghiệp, hợp tác kinh doanh
Kinh tế học hành vi
Kinh tế học hành vi và lĩnh vực liên quan, tài chính hành vi, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh tế của các cá nhân và các tổ chức và hậu quả đối với giá thị trường, hoàn vốn và các phân bổ nguồn lực. Các lĩnh vực chủ yếu liên quan đến các giới hạn của tính hợp lý của các tác nhân kinh tế. Các mô hình hành vi thường tích hợp những hiểu biết từ tâm lý học với lý thuyết kinh tế tân cổ điển; trong khi làm như vậy, các mô hình hành vi này bao gồm một loạt các khái niệm, phương pháp, và lĩnh vực. Nghiên cứu về kinh tế học hành vi bao gồm cách thức các quyết định thị trường được thực hiện và các cơ chế dẫn dắt lựa chọn công cộng, chẳng hạn như những thành kiến đối với việc thúc đẩy tư lợi. Các khám phá: Mọi người thường đưa ra quyết định dựa trên khoảng quy tắc ngón cái và logic không nghiêm ngặt. Định khuôn khổ: Tập hợp của các giai thoại và các khuôn mẫu tạo nên bộ lọc cảm xúc tinh thần các cá nhân dựa vào để hiểu và đáp ứng các sự kiện.
mục tiêu của doanh nghiệp là gì là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google về chủ đề mục tiêu của doanh nghiệp là gì. Trong bài viết này, atpsoftware.vn sẽ viết bài hướng dẫn Mục tiêu của doanh nghiệp là gì? Vì sao cần có mục tiêu của doanh nghiệp?. Là toàn bộ hiệu quả cuối cùng hay trạng thái mà doanh nghiệp muốn đạt tới trong một khoảng thời gian nhất định. mục đích của kế hoạch là hiệu quả cụ thể của công ty cần đạt được khi thực hiện chiến lược. Thông thường các công ty chia mục tiêu thành hai loại: mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn. Có nhiều tiêu thức không giống nhau để phân loại mục tiêu. đủ sức chia theo một số loại mục tiêu sau:. +Mục tiêu dài hạn thường là từ 5 năm trở lên và tùy theo loại ảnh công ty mà có khoảng thời gian cho mục đích dài hạn không giống nhau. mục đích lâu dài (mục tiêu trên 1 năm): là hiệu quả muốn được đề ra cho một khoảng thời gian tương đối dài, thường là các lĩnh vực:. Mức doanh số và mức độ sinh lợi. Ví dụ: phấn đấu đạt doanh số 25%/ năm. +Mục tiêu ngắn hạn hay còn gọi là mục đích tác nghiệp có thời gan từ 1 năm trở xuống. mục tiêu ngắn hạn phải hết sức cụ thể và nêu ra được các hiệu quả một các chi tiết. Giữa việc doanh nghiệp đạt được các mục tiêu ngắn hạn với việc theo đuổi mục tiêu lâu dài thì cũng chưa đảm bảo công ty sẽ đạt được mục tiêu trong lâu dài. +Mục tiêu chính trị: liên kết tốt với chính quyền, vận động hành lang nhằm thay đổi chính sách và quy định có lợi cho doanh nghiệp. Tiếp cận với cơ quan chính phủ nhằm nắm bắt kịp thời các thông tin, tạo cơ hội đón nhận các thời cơ mua bán. +Mục tiêu cấp công ty: Đó thường là các mục đích dài hạn mang tính định dạng cho các cấp bận mục đích khác. +Mục tiêu cấp đơn vị kinh doanh: được gắn với từng đơn vị mua bán plan (SBU) hoặc từng loại món hàng, từng loại khách hàng. +Mục tiêu cấp chức năng: đó là mục tiêu cho các đơn vị chức năng trong công ty giống như sản xuất, marketing, tài chính, nghiên cứu và phát triển… nhằm hướng vào thực hiện các mục tiêu chung của doanh nghiệp. +Mục tiêu duy trì và ổn định: khi công ty đang đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh trước đó hoặc do phân khúc có khó khăn, doanh nghiệp có thể đăt ra mục tiêu và giữ vững những kết quả vừa mới được và củng cố địa vị hiện có. -Tính nhất quán: đòi hỏi các mục tiêu này không sử dụng cản trở việc thực hiện các mục tiêu khác. Đây là yêu cầu trước hết, đóng vai trò cần thiết để đảm bảo rằng nền tảng mục tiêu phải được thực hiện và phải hướng vào hoàn thành các mục đích tổng quát của từng thời kỳ chiến lược. -Tính cụ thể: xét trên phương diện luận, khoảng thời gian càng dài bao nhiêu thì hệ thống mục đích càng giảm bấy nhiêu. tuy nhiên, yêu cầu về tính cụ thể của nền móng mục tiêu không đề cập đến tính dài ngắn của thời gian mà yêu cầu mục đích plan phải đảm bảo tính cụ thể. mong muốn vậy, khi xác định mục tiêu plan cần chỉ rõ: mục tiêu liên quan đến chủ đề gì? hạn chế thời gian thực hiện? kết quả cụ thể cuối cùng cần đạt. -Tính khả thi: mục đích plan là mục đích doanh nghiệp định hình trong thời kỳ kế hoạch định hình. do vậy các mục tiêu này đòi hỏi người có trách nhiệm một sự cố gắng trong việc thực hiện nhưng lại không quá cao mà phải sát thực và có thể đạt được. Có như vậy nền tảng mục đích mới có tác dụng đề nghi nỗ lực vươn lên của mọi bộ phận (cá nhân) trong doanh nghiệp và cũng k quá cao đến mức làm nản lòng người thực hiện. cho nên, giới hạn của sự cố gắng là “vừa phải” nếu không sẽ không mang lại hiệu quả mong muốn. -Tính linh hoạt: hoàn cảnh mua bán liên tục refresh nên đòi hỏi hệ thống mục tiêu phải linh hoạt để có thể điều chỉnh khi môi trường mua bán refresh. Tính linh động là điều kiện đảm bảo để biến các mục đích kế hoạch thành hiện thực. Đây là đặc trưng quan trọng của chiến lược đối với plan khi định hình mục tiêu. Khi xác định nền móng mục đích của công ty, thì một chủ đề quan trọng là xác định những lực lượng tác động đến hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp. Đây là lực lượng quan trọng nhất ảnh hưởng đến nền móng mục đích của doanh nghiệp cũng như nền móng mục đích plan trong từng thời kỳ cụ thể. ý kiến thái độ của chủ sở hữu và lãnh đạo doanh nghiệp ảnh hưởng rất to đến hệ thống mục đích. Những người chủ sở hữu thường quan tâm đến giá trị lợi nhuận và sự tăng trưởng chung vốn đầu tư của họ. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chiến lược phải chú ý cân nhắn cung cấp, đặc biệt là các mục đích lợi nhuận. Thứ hai, đội ngũ những người lao động. Đây là lực lượng đông đảo nhất trong công ty và thế giới càng phát triển thì lực lượng này càng cần được để ý nhiều hơn. Thông thường khi hoạch định kế hoạch thì các nhà hoạch định cần để ý đến các mục đích của lực lượng lao động này. Các mục tiêu đó thường là tiền lương, phúc lợi, điều kiện làm việc an toàn, sự ổn định…. khách hàng là phân khúc giúp sức tạo ra doanh số và mang lại sự sự phát triển và phát triển bền vững cho công ty. đối tượng càng được khu vực hóa và quốc tế hóa thì phân khúc khách hàng càng mở rộng. thu nhập của khách hàng tối ưu, nhu cầu tiêu sử dụng của họ càng tăng và càng phong phú. Thứ tư, không gian. Các vấn đề không gian có tác động ngày càng to đến sự tồn tại và phát triển của công ty. xã hội càng phát triển càng đòi hỏi công ty càng phải có trách nhiệm hơn đến các vấn đề xã hội. trước đây trong triết lý kinh doanh của mình rất ích doanh nghiệp đề cập đến trách nhiệm xã hôi nhưng càng về sau càng có nhiều công ty để ý tới chủ đề này. Trách nhiệm không gian là một trong các giá trị được đề cập trong kinh nghiệm mua bán. Trách nhiệm xã hội k gắn trực tiếp với hiệu quả sản xuất mua bán mà nó đem lại trị giá cho thế giới thông qua việc tạo ra uy tín, danh tiếng. Tóm lại: Qúa trình biên soạn thảo chiến lược, nhà quản trị cần dựng lại rõ Nhiệm vụ và mục đích theo đuổi để làm căn cứ quyết định các nội dung plan và tổ chức thực thi plan đó. Điều quan trọng trong phần này là giữa nghĩa vụ và mục đích phải ăn khớp nhau, có mối liên kết qua lại hữu cơ. mục đích là lượng hóa Nhiệm vụ và Nhiệm vụ phải thực hiện mục tiêu. Tìm nguồn hàng sỉ giá rẻ hàng chất lượng dễ bán trong khi kinh doanh luôn là một mối quan. Bán hàng online đang ngày càng trở nên phổ biến. Việc bán hàng online đa kênh trên nhiều nền tảng. Nuôi nick facebook là vấn đề nhiều người bán hàng online quan tâm. Hôm nay ATP Software giới thiệu đến. Hiện nay chat không còn xa lạ với nhiều người nữa. Chatbot giúp tăng doanh số bán. Bio Page hay còn gọi là Bio Link đang là xu hướng được nhiều người sử dụng trên các trang. Triệu phú tự thân & lập nghiệp ở Mỹ khá thành công, có khu trang trại 300ha với rất nhiều. Cách lọc bạn bè trên facebook rất đơn giản ai cũng làm được. Bạn đã lỡ kết bạn đến quá. Dân văn phòng, dân công sở, hay tất tần tật các anh chị em đang đi làm công việc máy.
Mục tiêu S.M.A.R.T
Việc sử dụng thuật ngữ S.M.A.R.T được biết đến đầu tiên trong ấn bản "Management Review " tháng 11 năm 1981 của George T. Doran. Ưu điểm chính của các mục tiêu SMART là chúng dễ hiểu và cho biết khi nào chúng được thực hiện. Tiêu chí SMART thường được liên tưởng đến lý thuyết quản lý theo mục tiêu của Peter Drucker. Mục tiêu SMART là những mục tiêu cụ thể cố gắng đạt được trong một khoảng thời gian nhất định. Những mục tiêu này cần được soạn thảo và suy nghĩ cẩn thận để thiết lập chúng thành công. "SMART" là từ viết tắt mô tả các đặc điểm quan trọng nhất của từng mục tiêu.
Nhà nghiên cứu QUÁCH HIỀN (sinh năm 1978) - nghiên cứu viên của Viện Văn học - cũng đã "vào cuộc" để cùng giải mã cuốn sách đáng chú ý này. - Cho dù cùng chung một đối tượng nghiên cứu thì mỗi nhà nghiên cứu đều có cách đặt vấn đề riêng, cách nhìn riêng của mình, vì thế công trình nào cũng sẽ có những điểm mới mẻ. Cho nên tôi nghĩ chúng ta nên dùng chữ "khác biệt". Theo tôi, Ngàn năm áo mũ có ba điểm khác biệt so với các công trình nghiên cứu về trang phục Việt Nam trước đó. Thứ nhất: đây là một công trình sử dụng "tam trùng chứng cứ": chứng cứ trong sử liệu (những sử liệu ghi chép bằng chữ Hán của Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các tài liệu ghi chép của người phương Tây về Việt Nam); chứng cứ bằng hình ảnh, đồ vật như tranh, tượng, các bức ảnh. và chứng cứ so sánh liên văn hóa. Về tổng thể, ba tầng chứng cứ này đều được tác giả tuân thủ theo nguyên tắc chứng cứ đồng đại. Với một khối lượng chứng cứ phong phú và khá xác tín như thế, có thể nói Ngàn năm áo mũ không chỉ là một cuốn từ điển về trang phục mà còn là một kho tư liệu tiềm tàng nhiều vấn đề khác của lịch sử Việt Nam cần được nghiên cứu khai thác. "Điểm nổi bật thú vị nhất là người Việt trong hàng nghìn năm đã nhuộm răng đen và đi chân đất. Chính vì vậy, biến cố lớn nhất trong lịch sử trang phục Việt là vào năm 1744, khi chúa Nguyễn xưng vương và biến đàng Trong thành một vùng lãnh thổ độc lập so với đàng Ngoài, đã bắt toàn bộ quan lại và dân chúng phải đi giày dép". Thứ hai: trong Ngàn năm áo mũ, trang phục không chỉ là một nhân tố của sinh hoạt đời thường, trang phục được hiểu là một phần của văn hiến nước nhà. Trang phục trong cuốn sách gắn liền với các quy chế về lễ nhạc, văn hóa, gắn liền với thái độ chính trị của các triều đại Việt Nam trong tư thế đối diện với Trung Hoa. Thứ ba: Ngàn năm áo mũ đi thẳng vào trung tâm của cuộc tranh luận chưa ngã ngũ về áo mũ Việt Nam lâu nay: Việt Nam có ảnh hưởng hay không ảnh hưởng mũ áo của Trung Hoa? Và nếu ảnh hưởng thì ảnh hưởng như thế nào? Tôi nghĩ những biện giải có chứng cứ xác đáng về các vấn đề đó là điểm khác biệt lớn nhất và có giá trị nhất của cuốn sách này. - Nói như nhà nghiên cứu Ðinh Thanh Hiếu trong lời tựa cho cuốn sách thì: "Vật đổi sao dời, ngày nay nhìn lại, sinh sau nghìn năm mà muốn nói chuyện nghìn năm trước, cũng không phải dễ dàng", công việc "hình dung lại nghìn năm trước" như thế tránh sao khỏi những thiếu sót? Hơn nữa, như trên tôi đã nói, cuốn sách đề cập mối liên hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa trong quá khứ - đây là một vấn đề nhạy cảm - nên nếu có những quan điểm trái chiều tôi nghĩ cũng là chuyện rất tự nhiên. Thậm chí, như chị cũng thấy, nhiều người nói với tác giả Trần Quang Ðức: nếu các quan điểm đó chỉ ra các chỗ sai sót cho Ngàn năm áo mũ thì nên lấy làm mừng. Tuy nhiên tôi muốn nhấn mạnh rằng các trao đổi cần diễn ra ở một diễn đàn khoa học chính thức và công khai. - Một tư liệu công phu, đáng tin cậy, nhiều gợi mở và tất nhiên. là một cuốn sách đẹp. Ý tưởng về một công trình nghiên cứu trang phục của người Việt bắt đầu từ năm 2010, khi có những tranh cãi xung quanh trang phục của bộ phim Ðường tới thành Thăng Long. Chọn trang phục giống phim Tàu quá, người xem sẽ phản ứng rất dữ dội. Khi đó các nhà nghiên cứu đã không thuyết phục được người đọc, người xem về những nghiên cứu của mình. Còn những người tiếp nhận sản phẩm văn hóa thì luôn có những suy nghĩ cảm tính, cứ nghĩ rằng trang phục Việt Nam lúc đó phải như vậy, như vậy mà không dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học nào. Tôi nghĩ lỗi đầu tiên thuộc về những người nghiên cứu đã không thể thuyết phục được công chúng. Hiện nay khi nghiên cứu văn hóa có hai xu hướng: Hoa tâm và Việt tâm. Hoa tâm coi mọi thành tố văn hóa đều bắt nguồn từ Trung Quốc, Việt tâm thì ngược lại. Tôi cho rằng cả hai xu hướng này đều cực đoan. Ngàn năm áo mũ lý giải thế nào là Hoa, thế nào là Việt trong văn hóa ăn mặc, lối sống của người Việt, qua đó khẳng định cái gì là lõi giá trị, là bản sắc bất biến trong lịch sử. Trong Ngàn năm áo mũ có trích dẫn 230 cuốn sách, phần lớn là Hán Nôm cổ, trong đó có khá nhiều tài liệu lấy từ thư viện nước ngoài. Trước khi đi điền dã, tôi đã xử lý hết dữ liệu bằng cách cố gắng đọc toàn bộ, nhập hết vào file tư liệu của riêng mình (nhập thủ công bằng tay). Khó khăn lớn nhất là tư liệu Hán Nôm dịch ra tiếng Việt hiện nay khá hạn chế về mặt số lượng và cả về dịch thuật, vì người dịch không hiểu về trang phục nên dịch nhiều khi không chính xác. Ví dụ, có sách dịch vua nhà Trần thường chít "khăn tàu", thực tế phải là "đường cân". TTO - Thay vì tạm dừng, TP.HCM sẽ được tổ chức cho tài xế giao hàng sử dụng công nghệ (shipper) hoạt động tại TP Thủ Đức và 7 quận huyện vùng đỏ nhưng phải xét nghiệm COVID-19 vào mỗi buổi sáng. TTO - Trong ngày thứ 6 TP.HCM thực hiện tăng cường giãn cách xã hội, tỉ lệ F0 trong cộng đồng chiếm hơn 90% tổng số F0 mới. Nhưng chính quyền khuyến cáo người dân bình tĩnh vì điều này nằm trong kịch bản ứng phó của ngành y tế. TTO - Mỗi người lái xe ôm truyền thống được nhận 3 triệu đồng, người lao động thất nghiệp được nhận 1,2 triệu đồng từ gói hỗ trợ của TP.HCM, số tiền không quá lớn nhưng cũng đủ để người dân co kéo qua giai đoạn khó khăn. TTO - Tính từ 18h chiều 27-8 đến 18h chiều 28-8, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 ghi nhận 12.103 ca nhiễm mới, trong đó 6 ca nhập cảnh và 12.097 ca ghi nhận trong nước. TTO - Tại họp báo chiều 28-8, ông Kajiwara Junichi, tổng giám đốc Công ty Acecook Việt Nam, đã có mặt phản hồi thông tin liên quan sản phẩm mì Hảo Hảo và miến Good được cho là phát hiện có chất cấm tại Ireland.
Ngàn năm áo mũ
Ngàn năm áo mũ với tiêu đề Lịch sử trang phục Việt Nam giai đoạn 1009 - 1945, là tên một cuốn sách khảo cứu về trang phục của người Việt Nam phát hành năm 2013, dày hơn 400 trang, Nhà xuất bản Thế giới và Công ty Nhã Nam phát hành, là kết quả sau "ba năm lao động trí óc" của tác giả Trần Quang Đức. Ngàn năm áo mũ giải thích các kiểu dáng và quy chế các loại áo mũ được sử dụng trong cung đình và dân gian Việt Nam trong giai đoạn từ 1009 - 1945, trải dài từ thời Lý tới thời Trần, Lê sơ, Lê trung hưng, Tây Sơn và cuối cùng là thời Nguyễn. Thứ nhất, về trang phục cung đình, khảo cứu lý giải nguyên do và phân tích mức độ mô phỏng trang phục Trung Hoa trong quy chế trang phục của các triều đại Việt Nam, mô tả chi tiết nhiều dạng trang phục như bộ Tế phục áo Cổn mũ Miện của các vị hoàng đế, các bộ Triều phục, Thường phục Lương quan, Củng Thần, Ô Sa, Bổ phục của bá quan hay Lễ phục Vĩ Địch, Phượng quan của hoàng hậu.
Mô hình SMART trong xác định mục tiêu là gì? Muốn công việc đạt hiệu quả cao, bạn cần phải đặt mục tiêu tốt. Việc xây dựng và thiết lập mục tiêu chính là một trong những kỹ năng cực kỳ quan trọng, là chìa khoá đưa bạn đến cảnh cửa thành công, bởi thiết lập mục tiêu tốt sẽ đem tới một định hướng tương lai tốt. Một trong những phương pháp hữu dụng để đạt được điều đó là cách xác định mục tiêu theo mô hình SMART. Vậy mô hình này có gì nổi bật? Đâu là cách xác định mục tiêu Marketing hiệu quả theo mô hình này? Cùng MarketingAI tìm hiểu qua bài viết dưới đây!. Mô hình SMART là mô hình thiết lập mục tiêu hiệu quả giúp các doanh nghiệp hay các chuyên gia Marketing thiết lập và đánh giá tính cụ thể, mức độ khả thi, sự liên quan và tính hợp lý của các mục tiêu trong kế hoạch dựa trên 5 tiêu chí: Specific (Cụ thể) – Measurable (có thể Đo lường được) – Actionable (Tính Khả thi) – Relevant (Sự Liên quan) – Time-Bound (Thời hạn đạt được mục tiêu). Sử dụng mô hình SMART còn giúp doanh nghiệp xác định được mục tiêu tiếp thị phù hợp với chiến lược kinh doanh theo từng thời điểm khác nhau, giúp doanh nghiệp nhận ra những được và mất, hoàn chỉnh hơn trong quy trình kinh doanh. Xác định mục tiêu marketing theo SMART giúp quá trình thực hiện các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao bởi nhiều doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến tính hiệu quả và khả thi của mục tiêu mà mình đặt ra, điều này dẫn đến những khó khăn về sau khi kế hoạch đã được triển khai và mô hình SMART ra đời để giải quyết vấn đề này. Tính cụ thể, chi tiết và dễ hiểu của mục tiêu đặt ra: Các mục tiêu đề ra càng chi tiết và cụ thể bao nhiêu càng dễ xác định cơ hội nắm bắt vấn đề và mức độ khả thi, đo lường các vấn đề và cơ hội thực tế có thành công hay không. Thường khi xây dựng mục tiêu cá nhân, nhiều người còn khá mơ hồ và chưa có định hướng cho kết quả sau này muốn đạt được mà chỉ tóm gọn trong những lời lẽ chung chung, thiếu chi tiết, như vậy sẽ rất khó đo lường mức độ khả thi và thực tế những gì đã làm có đúng định hướng kế hoạch hay không. Là mục tiêu có thể đo lường được: và những mục tiêu này nên gắn liền với những con số cụ thể. Việc xây dựng mục tiêu theo nguyên tắc SMART sẽ thể hiện tham vọng của bạn. Chẳng hạn như bạn đặt ra mục tiêu sẽ tiếp thị và chốt thành công 10 đơn sales trong vòng 1 tháng, giá trị mỗi hợp đồng sales là 700 triệu đồng, vậy mỗi tuần bạn cần phải hoàn thành tối thiểu 3 đơn sales thành công, không để công việc bị chậm tiến độ. Đó là cách để bạn hoàn thành mục tiêu nhanh nhất, đo lường hiệu quả công việc đạt được mỗi ngày, mỗi tuần. Khi bạn đặt mục tiêu cá nhân cần biết khả năng của mình có hoàn thành được hay không, đo lường mức độ hiệu quả của nó như thế nào, các số liệu cụ thể để đánh giá kết quả đó dựa trên những con số thực tế. Actionable là tính khả thi của mục tiêu. – Đây cũng là tiêu chí quan trọng khi đặt ra mục tiêu theo mô hình SMART. Bạn cần nghiêm túc cân nhắc đến khả năng của bản thân có đạt được mục tiêu đó hay không hay nó quá sức với mình. Xác định tính khả thi của mục tiêu để biết mình đang ở đâu, hiểu về khả năng của bản thân trước khi đề ra một kế hoạch quá sức mình dẫn tới phải bỏ cuộc giữa chừng. Hơn thế nữa, xác định tính khả thi của mục tiêu cũng sẽ là động lực để bạn cố gắng đạt được kế hoạch, mục tiêu trong khả năng của mình để cảm thấy đó là động lực cố gắng, đầy thích thú và thách thức giới hạn bản thân. Với những mục tiêu quá dễ đạt hoặc quá khó đạt đều dễ gây ra tâm lý chán nản, không hào hứng. Ý chỉ mục tiêu cá nhân của bạn có liên quan và phù hợp với mục tiêu chung của công ty hay không? Mục tiêu cá nhân nên liên quan đến định hướng phát triển trong công việc, lĩnh vực đang làm, phù hợp với định hướng và sự phát triển chung của công ty. Mục tiêu đó có đáp ứng được các vấn đề mà marketer phải đối mặt không?. Các mục tiêu đề ra có thực hiện trong đúng thời hạn đã cam kết hay không. Việc áp đặt thời gian hoàn thành công việc, mục tiêu sẽ gây áp lực đến mỗi cá nhân để họ có trách nhiệm và hoàn thành đúng deadline công việc. Hơn thế nữa, việc thiết lập thời gian hoàn thành công việc sẽ tạo tính kỷ luật và chuyên nghiệp cho cá nhân, quản lý thời gian và năng suất công việc theo tiến độ hiệu quả. Tham khảo một số ví dụ cụ thể cho các mục tiêu Markerting được thiết lập theo mô hình SMART giúp bạn trở thành một nhà tiếp thị tốt hơn. Mục tiêu SMART: Vào ngày 11/11, ngày tổ chức hội thảo trên web của chúng tôi, số lượng đăng ký sẽ tăng tối thiểu 25% bằng cách quảng cáo thông qua mạng xã hội, email, blog và tin nhắn Facebook. Tính cụ thể: Đề ra mục tiêu mời được ít nhất 200 người, tối đa là 500 người đăng ký tham dự hội thảo trên web thông qua các hình thức tiếp thị qua các trang mạng xã hội, email marketing, blog và Facebook Messenger. Mục tiêu có thể đo lường được: Thông qua các công cụ phân tích dữ liệu cho thấy, số lượng người tương tác về hội thảo tăng 10%. Tính khả thi: Lần tổ chức hội thảo trên web gần nhất của chúng tôi đã ghi nhận số lượng người đăng ký tham gia tăng 20% khi chúng tôi tiếp thị và quảng cáo trên mạng xã hội Facebook và email. Tính thích hợp: Việc tổ chức hội thảo thành công sẽ là tiền đề để công ty của chúng tôi tạo ra nhiều khách hàng tiềm năng, mở rộng thị trường, tăng độ phủ cho doanh nghiệp cũng như mang về nhiều hợp đồng giá trị với khách hàng. Giới hạn thời gian: Tiếp thị và chào mời khách hàng tham dự hội thảo trong 20 ngày, đến ngày diễn ra hội thảo trên web. Mục tiêu SMART: Trong 3 tháng, số lượng người đăng ký nhận email của chúng tôi tăng 50% bằng cách tăng ngân sách quảng cáo Facebook cho những bài đăng được nhận được nhiều tương tác và đọc nhiều nhất. Tính cụ thể: Tăng số lượng người đăng ký nhận mail của chúng tôi thông qua tăng ngân sách chạy quảng cáo Facebook các bài đăng blog có lịch sử được nhiều người đọc và tương tác nhất. Tính khả thi: 2 tháng trước, chúng tôi đã áp dụng chiến lược tiếp thị qua email, với các công cụ đo lường phân tích dữ liệu đã cho thấy, tỷ lệ người dùng đăng ký nhận mail từ chúng tôi đã tăng 35% so với thời gian trước. Tính thích hợp: Bằng cách tăng số lượng người đăng ký nhận email của chúng tôi, lưu lượng truy cập website của chúng tôi tăng trưởng nhanh, gia tăng nhận diện thương hiệu, thu hút về nhiều khách hàng tiềm năng biết đến và tin dùng sản phẩm của mình. OKR là phương pháp quản trị theo mục tiêu và kết quả then chốt, mô hình này được áp dụng thành công ở những công ty lớn trên thế giới (Google, Intel, Amazon,…) trong khi đó mô hình SMART là phương pháp đặt mục tiêu khi hực hiện kế hoạch phát triển thương hiệu và được nhiều tổ chức sử dụng. Giữa mô hình OKR và mục tiêu SMART có những điểm tương đồng mà người dùng dễ nhầm lẫn, dưới đây là những cách phân biệt chúng:. OKR (Objective and Key Results – Mục tiêu và Kết quả then chốt) là một mô hình quản lý giúp phổ biến chiến lược công ty tới nhân viên, tăng tính minh bạch, tập trung và tăng liên kết giữa mục đích cá nhân của nhân viên với mục tiêu chung của công ty. Mô hình OKR được rất nhiều công ty, tập đoàn lớn trên thế giới ứng dụng và sử dụng rộng rãi, nhiều công ty công nghệ ở thung lũng Silicon đã chuyển sang quản trị bằng phương pháp này. Để áp dụng được OKR, bạn chỉ cần nắm mô hình cấu trúc đơn giản, một vài nguyên tắc và tiêu chí của nó trong việc thiết lập mục tiêu, đồng thời có thể tham khảo nhiều ví dụ thực tiễn của các công ty khác. Một mô hình OKR bao gồm 2 yếu tố: Một mục tiêu và nhiều hơn một kết quả then chốt. Kết quả được xác định dựa trên việc đo lường mức độ hoàn thành mục tiêu. Bên cạnh đó, “cách thức” cũng được xem là một yếu tố khác cần tập trung trong mô hình OKR. Cách thức là các công việc cần hoàn thành để thúc đẩy quá trình thực hiện Kết quả then chốt. Cách thức là câu trả lời của câu hỏi: “Làm thế nào để đến được đích?”. Cách thức bao gồm các hoạt động và dự án ảnh hưởng đến kết quả cuối. Hai mô hình này đều tiếp cận dựa trên mô hình quản trị mục tiêu (MBO) của Peter Drunker. Cả mô hình OKR và mục tiêu SMART đều mang đặc điểm của MBO cùng hướng tới đích đạt được thành công của tổ chức. Cả hai mô hình đều bao gồm các tiêu chí đặc trưng của mô hình đó. Về tổng thể, mô hình OKR cũng hội tụ đủ những tiêu chí về việc đặt mục tiêu như mô hình SMART, cụ thể như:. Có tính đo lường: Các Kết quả then chốt luôn bao gồm các chỉ số để đánh giá tiến độ đạt mục tiêu. Có tính khả thi: OKR cần phải khả thi dựa trên thời gian và nguồn lực mà doanh nghiệp có. Tuy nhiên, khi đặt ra định mức cho kết quả then chốt cần thể hiện sự tham vọng. Việc hoàn thành 70% định mức đã có thể coi là thành công. Sự liên quan: Tất cả các mô hình OKR (ngoại trừ OKR cuối cùng) đều được sắp xếp theo mức độ cao dần, đảm bảo tiến độ phát triển của cả doanh nghiệp. Thời hạn: Cũng giống như mục tiêu SMART, bạn cũng cần thiết lập thời hạn bắt đầu và kết thúc cho mỗi OKR. OKR của cả công ty thường có thời hạn là 1 năm, của các nhóm khác là khoảng 1 quý. Không giống với các mô hình quản trị khác được áp dụng trong việc nghiên cứu, cả hai mô hình OKR và mô hình SMART đều đặt ra những khuôn khổ nhất định và thay đổi theo thời gian doanh nghiệp hoạt động. OKR và Mục tiêu SMART đều có cấu trúc rõ ràng và các nguyên tắc xác định phạm vi, thời gian và sự phối hợp giữa các mục tiêu. Tuy nhiên, OKR có những điểm đi xa hơn so với mô hình SMART. Trong SMART, các mục tiêu được đặt riêng rẽ và dễ nhớ. OKR cũng đưa ra các tiêu chí nhưng phân biệt rõ ràng giữa Mục tiêu (điều mong muốn đạt được) và làm thế nào để đánh giá quá trình đạt được mục tiêu ấy bằng các Kết quả then chốt. Điểm khác biệt lớn của OKR so với mục tiêu SMART là các mục tiêu được tạo ra theo từng tầng và khung thời gian. OKR gốc đứng đầu phân cấp OKR có thể kéo dài 5, 10 năm hoặc thậm chí lâu hơn. Các mục tiêu đó đi cùng với tầm nhìn (chúng ta muốn mình ở đâu trong vòng 5-10 năm tới?) và sứ mệnh của công ty (mục đích của chúng ta là gì?. Lợi thế của mục tiêu SMART là dễ nhớ, dễ sử dụng và phù hợp cho thiết lập mục tiêu cá nhân. Tuy nhiên, SMART chỉ đơn giản là đặt ra các mục tiêu riêng lẻ. Còn OKR được nâng cấp lên với bối cảnh và cấp độ của toàn công ty. Với mô hình OKR, toàn bộ công ty có thể đạt được tính cụ thể, tập trung và chặt chẽ. OKR là giải pháp quản trị doanh nghiệp bằng Mục tiêu và Kết quả then chốt, đưa doanh nghiệp đi đúng hướng bằng cách thiết lập và theo dõi mục tiêu toàn diện cho tất cả nhân sự và phòng ban, mô hình này đã và đang được nhiều công ty lớn trên thế giới như Google, Amazon…ứng dụng và phát triển thành công. Trên đây là những kiến thức tổng quan chung về mô hình SMART cũng như các cách để xây dựng một mục tiêu cụ thể. Tạo lập mục tiêu càng chi tiết và logic theo mô hình này sẽ giúp bạn xác định đúng hướng đi trong việc phát triển bản thân. Với các marketer, hiểu và ứng dụng mô hình SMART trong công việc sẽ giúp bạn hoàn chỉnh hơn trong quy trình tiếp thị kinh doanh, xác định được mục tiêu phù hợp với chiến lược hoạt động của doanh nghiệp theo từng thời điểm khác nhau.
Mục tiêu S.M.A.R.T
Việc sử dụng thuật ngữ S.M.A.R.T được biết đến đầu tiên trong ấn bản "Management Review " tháng 11 năm 1981 của George T. Doran. Ưu điểm chính của các mục tiêu SMART là chúng dễ hiểu và cho biết khi nào chúng được thực hiện. Tiêu chí SMART thường được liên tưởng đến lý thuyết quản lý theo mục tiêu của Peter Drucker. Mục tiêu SMART là những mục tiêu cụ thể cố gắng đạt được trong một khoảng thời gian nhất định. Những mục tiêu này cần được soạn thảo và suy nghĩ cẩn thận để thiết lập chúng thành công. "SMART" là từ viết tắt mô tả các đặc điểm quan trọng nhất của từng mục tiêu.
Ở độ sâu gần 3.000 km dưới lòng đất là địa ngục kim loại lỏng nóng chảy hàng nghìn độ C của Trái Đất. Giới khoa học gọi đó là lõi Trái Đất, phần nóng nhất trên hành tinh của chúng ta. Nhờ có địa ngục nóng hơn 5.000 độ C này, Trái Đất mới có được từ trường (tồn tại từ trong lòng Trái Đất đến không gian rộng lớn bao quanh Trái Đất), mang đến cho con người mọi thứ: Từ chiếc la bàn để định hướng đến việc trở thành tấm khiên khổng lồ, vô hình, bảo vệ địa cầu và sự sống của nó khỏi gió Mặt Trời, các tia vũ trụ có sức phá hủy khủng khiếp. Bởi thế, không có gì ngạc nhiên khi giới khoa học lên tiếng cảnh báo hồi đầu năm 2019 khi họ nhận thấy từ trường có biểu hiện bất thường: Cực từ phía Bắc đang di chuyển rất nhanh về phía Siberia. Từ trường Trái Đất đảo chiều (còn gọi là đảo cực địa từ) là sự thay đổi hướng (vị trí Bắc từ và Nam từ thay đổi cho nhau) của từ trường Trái Đất. Trạng thái từ tính của hành tinh chúng ta thay đổi liên tục. Chu kỳ cho mỗi lần đảo cực địa từ trung bình là 450.000 năm (hoặc hơn) diễn ra một lần. Mỗi một lần từ trường đảo cực diễn ra thường kéo dài từ 1 thế kỷ đến 10 thế kỷ (cụ thể là từ 1.000 năm đến 10.000 năm). Theo công trình khoa học công bố trên Tạp chí khoa học Science Advances do Giáo sư khoa học địa chất Brad Singer thuộc Đại học Wisconsin–Madison (Mỹ) là tác giả chính thì đảo cực địa từ diễn ra gần đây nhất có tên đảo ngược Brunhes-Matuyama, diễn ra cách đây 780.000 năm vào giữa kỷ Đệ tứ. Nghiên cứu mới nhất về từ trường của tập thể các tác giả cho hay, việc phân tích kết hợp các mẫu dung nham, trầm tích đại dương và lõi băng cho phép các nhà khoa học có thể theo dõi tiến trình của sự đảo ngược từ trường Trái Đất này chính xác hơn và chứng minh rằng mô hình của nó dài hơn và phức tạp hơn so với đề xuất của các mô hình trước đó. Nếu như các nghiên cứu trước đây cho rằng, tất cả các lần từ trường đảo cực đều trải qua 3 giai đoạn trong khoảng thời gian không quá 9.000 năm, thì nhóm của giáo sư Brad Singer phát hiện ra quá trình đảo cực phức tạp hơn nhiều, quá trình này mất 22.000 năm để hoàn thành. Giáo sư Brad Singer khẳng định: Hiểu rõ về quá trình đảo cực địa từ đóng vai trò rất quan trọng đối với nền văn minh Trái Đất trong tương lai, vì từ trường dịch chuyển có thể có tác động sâu rộng lên khắp hành tinh chúng ta. Giáo sư khoa học địa chất Brad Singer, tác giả chính của công trình nghiên cứu về từ trường đảo cực. Cụ thể, trong quá trình đảo cực địa từ, từ trường sẽ yếu đi. Lưỡng cực từ trường sẽ sụp đổ chỉ còn 10% sức mạnh bình thường của nó. Sự sụp đổ này có thể gây rắc rối cho sự sống trên Trái Đất. Vì chỉ khi từ trường mạnh mới có thể làm ổn định các phân tử ozone trong bầu khí quyển để tạo thành lớp khiên vững chắc bảo vệ hành tinh khỏi bức xạ tia cực tím. Giáo sư Brad Singer cho biết: Đảo cực địa từ là một trong số ít các hiện tượng vật lý thực sự mang tính toàn cầu. Quá trình này bắt nguồn từ nơi sâu nhất của Trái Đất nhưng lại có tác động lên toàn bộ bề mặt hành tinh chúng ta, cũng như tác động lên bầu khí quyển (từ quyển1) theo những cách rất quan trọng. Trước đây, việc xác định đảo cực địa từ dựa trên các vằn từ ở các sống núi đại dương, việc kết hợp phân tích vằn từ từ các mẫu dung nham, trầm tích đại dương và lõi băng mở ra bước tiến mới trên hành trình tìm hiểu những bí mật diễn ra trong lòng Trái Đất, trong đó có từ trường và sự đảo cực của nó. Phát hiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách thức hoạt động của từ trường Trái Đất, cho phép các nhà khoa học dự đoán được thời gian của đảo cực địa từ tiếp theo. Giải thích ngắn gọn cho việc xuất hiện từ trường Trái Đất, giáo sư Brad Singer nói: Nguồn gốc từ trường xuất hiện từ lõi Trái Đất. Nhiệt độ hơn 5.000 độ C từ lõi trong khiến sắt tan chảy quanh nó và lưu thông như một nồi nước nóng. Sự chuyển động của kim loại lỏng trong lõi của Trái Đất đã tạo ra từ trường. Khi Trái Đất quay trong, từ trường gần như thẳng hàng với trục quay, tạo ra cực Bắc từ và cực Nam từ. Trong 2,6 triệu năm qua, từ trường Trái Đất đã đảo cực 10 lần, chưa kể 20 lần gần như đảo cực trong các sự kiện mà khoa học gọi là từ trường chệch hướng hay lệch địa từ. Một số nhà nghiên cứu tin rằng, đảo cực địa từ gây ra bởi sự nhiễu loạn trong sự cân bằng giữa vòng quay Trái Đất và nhiệt độ ở lõi Trái Đất, làm thay đổi chuyển động của khối kim loại lỏng khiến từ trường đảo cực. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, quá trình chính xác của từ trường đảo cực vẫn còn nhiều bí ẩn. Sau khi công trình nghiên cứu mà nhóm của giáo sư Brad Singer công bố, các nhà khoa học quốc tế đã đưa ra nhiều ý kiến bình luận. Chỉ khi từ trường mạnh mới có thể làm ổn định các phân tử ozone trong bầu khí quyển để tạo thành lớp khiên vững chắc bảo vệ hành tinh khỏi bức xạ tia cực tím. Jean-Pierre Valet, chuyên gia thuộc Viện Vật lý Trái đất Paris (Pháp) lại đặt câu hỏi về thời gian đảo cực địa từ. Ông lập luận rằng, toàn bộ quá trình diễn ra đảo cực địa từ có thể dao động từ 13.000 năm đến 40.000 năm (lâu hơn khoảng thời gian mà nhóm của giáo sư Brad Singer đưa ra). 200 năm trở lại đây, từ trường Trái Đất đã suy yếu với tốc độ 5% mỗi thế kỷ. Nếu sự suy yếu này cộng với biểu hiện lạ của từ trường ở phía Bắc là dấu hiệu cho thấy từ trường Trái Đất bắt đầu đảo cực thì nó sẽ mang đến nhiều rắc rối cho hành tinh chúng ta. Đơn cử, nó có tác động nghiêm trọng đến các công nghệ dựa vào vệ tinh bởi khi từ quyển yếu đi các vệ tinh có thể bị phá hủy bởi bức xạ vũ trụ. Dù cực từ phía Bắc đang di chuyển rất nhanh về phía Siberia thì theo nhận định của giáo sư Brad Singer, từ trường đảo cực chưa có khả năng sẽ xảy ra trong vài thiên niên kỷ tới. "Dự báo này giúp nhân loại có thể có đủ thời gian để phát triển công nghệ có khả năng sống sót trước bức xạ vũ trụ. Đến lúc ấy, đừng ngạc nhiên khi bạn nhận thấy la bàn của bạn thay đổi một hoặc hai độ.". Chiều 28/8, Bộ Y tế thông tin chính thức về cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh quốc gia ngày 22/8, xem xét kết quả giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3a ứng viên vắc xin Nanocovax.
Từ trường Trái Đất
Từ trường Trái Đất là trường từ của Trái Đất, xuất hiện do tính chất từ của vật chất Trái Đất hợp thành tạo ra. Từ trường Trái Đất tồn tại từ trong lòng Trái Đất đến không gian rộng lớn bao quanh Trái Đất. Nguyên nhân gây ra từ trường có thể được giải thích theo thuyết geodynamo. Từ trường Trái Đất được coi như một lưỡng cực từ trường, với một cực gần cực bắc địa lý và cực kia gần cực nam địa lý. Một đường thăng tưởng tượng nối hai cực tạo thành một góc khoảng 11,3° so với trục quay của Trái Đất. Trên mặt đất cường độ từ trường vào khoảng từ 25 đến 65 micro tesla (0,25 đến 0,65 gauss).Các từ trường có thể mở rộng vô hạn, tuy nhiên nếu xét các điểm càng ra xa nguồn thì chúng càng yếu dần. Từ trường Trái Đất có tác dụng đến hàng chục ngàn km trong vũ trụ và được gọi là Từ quyển. Từ quyển của Trái Đất cùng với khí quyển chặn các dòng hạt tích điện, bảo vệ sự sống trên Trái Đất. Nghiên cứu từ trường Trái Đất là một lĩnh vực của địa vật lý.
Kỹ thuật điện (Kỹ thuật điện, điện tử) là ngành học nghiên cứu và áp dụng các vấn đề liên quan đến điện, điện tử và điện từ với nhiều chuyên ngành nhỏ như năng lượng, điện tử học, hệ thống điều khiển, xử lý tín hiệu, viễn thông. Trong nhiều năm qua, nhu cầu nguồn nhân lực về lĩnh vực Kỹ thuật điện (Kỹ thuật điện, điện tử) là rất lớn và phong phú. Hơn thế nữa, Việt Nam đã và đang hội nhập với các nền kinh tế trên thế giới. Các công ty, tập đoàn lớn có xu hướng chuyển dịch kinh tế, đầu tư phát triển mạnh vào nước ta như: Intel, Samsung, LG,. Theo dự báo, trong vài năm tới Việt Nam sẽ là một trong những trung tâm chế tạo sản phẩm điện tử lớn trong các nước ASEAN. Do đó, sinh viên sau khi tốt nghiệp ngành Kỹ thuật điện (Kỹ thuật điện, điện tử) có thể đảm nhận các vị trí như: chuyên viên kỹ thuật hoặc tư vấn thiết kế, vận hành, bảo trì mạng lưới điện tai các công ty điện lực, nhà máy điện, trạm biến áp, xí nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu dân cư, các tòa nhà, cao ốc văn phòng…; nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm, các đơn vị sản xuất công nghiệp tự động hóa và điện tử hóa cao; làm việc cho Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng cục điện tử Việt Nam và các công ty trực thuộc; hoặc có thể tiếp tục học tập, nghiên cứu ở bậc học cao học và nghiên cứu sinh để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực Công nghệ kỹ thuật điện, điện tử và có thể tham gia giảng dạy tai các trường đại học, cao đẳng,. Học Kỹ thuật điện (Kỹ thuật điện - điện tử) tại trường Đại học Công nghệ TP.HCM (HUTECH) – một trong những trường đào tạo có uy tín nhóm ngành điện nói chung và ngành kỹ thuật điện (kỹ thuật điện, điện tử) nói riêng, ngoài những kiến thức thực tiễn bắt buộc, Nhà trường còn trang bị và tạo điều kiện cho các bạn sinh viên được thực hành tại các trung tâm thí nghiệm hiện đại; thường xuyên tổ chức đi tham quan và giới thiệu thực tập tại các doanh nghiệp lớn như: Genneral Electric VN, Samsung Vina, Tổng công ty Điện lực TP.HCM,… Bên cạnh đó, HUTECH còn chú trọng đào tạo, nâng cao kỹ năng Tiếng Anh để có thể dễ dàng tiếp cận với các tài liệu, máy móc nước ngoài,… đồng thời phát triển kỹ năng nghề nghiệp thông qua việc tham gia vào các CLB học thuật, các hội thảo chuyên đề, hoạt động nghiên cứu khoa học của trường,… Xã hội phát triển, việc hiện đại hoá sản xuất để nâng cao năng suất lao động là nhu cầu rất cần thiết. Một khi đã hiểu rõ “ngành Kỹ thuật điện (Kỹ thuật điện, điện tử) là gì? Ra trường làm gì?”, thì việc khám phá cơ hội nghề nghiệp của ngành học này sẽ giúp bạn tự tin hơn với sự chọn lựa của mình. Từ những thông tin vừa cung cấp, tin chắc rằng các bạn đã có thể trả lời cho câu hỏi “Ngành Kỹ thuật điện (Kỹ thuật Điện – Điện tử) là gì? Ra trường làm gì?”. Đây sẽ là một tiền đề quan trọng để các bạn có những tìm hiểu sâu hơn về ngành Kỹ thuật Điện (Kỹ thuật Điện – Điện tử), chẳng hạn như ngành Kỹ thuật Điện (Kỹ thuật Điện – Điện tử) xét tuyển những tổ hợp môn nào, nên học ngành Kỹ thuật Điện (Kỹ thuật Điện – Điện tử) ở trường nào,… để có những lựa chọn đúng đắn, phù hợp cho tương lai của mình.
Kỹ thuật điện
Kỹ thuật điện là một lĩnh vực kỹ thuật nghiên cứu và áp dụng liên quan đến điện, điện tử và điện từ. Lĩnh vực này lần đầu tiên trở nên quan trọng và hình thành nghề nghiệp liên quan đến nó là vào cuối thế kỷ 19 sau khi điện báo và cung cấp năng lượng điện đi vào thương mại hóa. Ngày nay, ngành này có nhiều ngành con như năng lượng, điện tử học, hệ thống điều khiển, xử lý tín hiệu và viễn thông. Kỹ thuật điện có thể bao gồm kỹ thuật điện tử. Nếu phân biệt rõ hơn, kỹ thuật điện giải quyết các vấn đề ở các hệ thống điện vĩ mô như truyền tải năng lượng và điều khiển motor, trong khi kỹ thuật điện tử nghiên cứu các hệ thống điện nhỏ hơn nhiều như máy tính và mạch tích hợp. Hay nói cách khác, các kỹ sư điện thường làm việc với vấn đề truyền tải điện năng, trong khi các kỹ sư điện tử nghiên cứu các vấn đề sử dụng điện để xử lý thông tin. Nhưng gần đây, sự khác biệt giữa hai ngành trở lên lu mờ do sự phát triển của ngành điện tử công suất (power electronics).
Trong suốt chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, hình tượng các con vật gắn liền với đời sống con người. Không có con vật nào lại đặc biệt như rắn, khi nó tồn tại rất nhiều trong các truyện cổ dân gian của người xưa, vừa là biểu tượng của sự ác dữ, của lừa dối, của bội bạc dối trá, nhưng đồng thời cũng là sứ giả của thần may mắn, mang hy vọng… Ở các khu vực sông Đà, sông Hồng, sông Lam và khu vực vịnh Hạ Long vẫn tồn tại các đền thờ rắn. Tuy nhiên, rắn chỉ xuất hiện nhiều trong các trò chơi, câu chuyện dân gian, còn các đồ vật tới nay các nhà khảo cổ tìm được hầu như rất ít xuất hiện hình tượng rắn. Theo TS. Nguyễn Văn Đoàn, Trưởng phòng nghiên cứu sưu tầm (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), tại Việt Nam, ngoài hình tượng rắn thần Naga xuất hiện nhiều trong tín ngưỡng và văn hóa Champa, hình tượng rắn tới nay chỉ phát hiện được trên trống đồng Ngọc Lũ (văn hóa Đông Sơn), cách nay khoảng 2000 năm. Còn giai đoạn lịch sử về sau, các nhà khảo cổ chưa tìm thêm được bất kể đồ vật nào có hình tượng rắn. Trên trống đồng Ngọc Lũ (trống đồng phát hiện tại làng Ngọc Lũ, Hà Nam) xuất hiện hình tượng rắn nước nằm ngửa há mồm, thân rắn là thân thuyền (đó là hình tượng sớm nhất của thuyền rồng), phía trên là hình tượng con chim cụp cánh lao đầu vào miệng rắn. TS. Đoàn lý giải, rắn xuất hiện trong tín ngưỡng, tâm linh, thậm chí là quan niệm nhân sinh quan và thế giới quan. Đặc biệt, trong tính truyền thống của người Việt, đó là sự đối ngẫu, hài hòa giữa âm và dương. Hình tượng rắn nuốt chim là thể hiện sự lưỡng hợp - lưỡng nghi, rắn là vật dưới nước tượng trưng cho âm, còn chim là vật trên trời tượng trưng cho dương, chim lao đầu vào miệng rắn là sự hòa hợp âm - dương. Hình tượng rắn nuốt chim thể hiện mẫu chung trong hằng số văn hóa Việt Nam, như hình tượng Âu Cơ - Lạc Long Quân, mẹ - cha, núi - biển…. Còn trong tín ngưỡng của người Champa, hình tượng rắn thần Naga xuất hiện khá nhiều trong điêu khắc chùa chiền. Hình tượng đó xuất hiện mang tính chất bản địa. Rắn gắn bó sâu đậm với cư dân miền sông nước, nơi vốn đã có tín ngưỡng thờ rắn. Đồng thời, là sự kết hợp hài hòa với đời sống tôn giáo ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo du nhập từ Ấn Độ. Rắn thần Naga thường xuất hiện gắn liền với chim thần Garuda. Garuda là vật cưỡi của thần Visnu (một trong ba vị thần của Ấn Độ giáo) và là kẻ thù của rắn Naga. Garuda có đầu, mỏ, móng của chim đại bàng, còn mình và tay chân là của một người khổng lồ. Còn Naga là một loài rắn sống dưới thủy cung. Theo thần thoại Ấn Độ, Garuda thù địch với Naga vì mẹ của Garuda bị mẹ của rắn Naga bắt làm nô lệ và sỉ nhục nên Garuda luôn tìm cách giết rắn Naga để báo thù cho mẹ. Trong các tác phẩm điêu khắc thường có hình Garuda đang nuốt rắn Naga, chân quắp chặt hoặc giẫm lên rắn Naga với thái độ dữ dằn, mạnh mẽ. Còn truyền thuyết của người Khmer kể rằng, có một người Bà La Môn đi thuyền từ Ấn Độ đến vùng đất của người Khmer, chinh phục nàng công chúa con của vua rắn Naga, rồi lấy làm vợ và sinh ra dòng dõi các vị vua Khmer. Vì vậy, trong các ngôi chùa Khmer, rắn Naga ngự trên các mái chùa, đầu đao để xua đuổi tà ma và bảo vệ đạo Phật. Ngoài ra, cũng có hình tượng rắn Naga được chạm trổ bằng xà cừ uốn lượn, quấn quanh những cánh cửa chùa, tủ đựng kinh sách, xe tang đưa người chết đến nơi hỏa thiêu, tượng trưng cho vị thần đưa linh hồn người tốt lên cõi Niết Bàn. Người Khmer thờ thần rắn là để được thần rắn che chở, phù hộ độ trì cho người dân Khmer diệt trừ ma quỷ. Theo TS. Đoàn, hình tượng rắn thần Naga trong tín ngưỡng Champa có thể coi là yếu tố du nhập, nhưng khi được tiếp nhận, nó kết hợp với văn hóa truyền thống, trên nền tảng chung của văn hóa Việt Nam đã nêu ở văn hóa Đông Sơn. Tuyệt nhiên, trong các giai đoạn từ sau Đông Sơn, hình tượng rắn hầu như ít xuất hiện. Đặc biệt, các giai đoạn Lý, Trần, Lê… cho tới nay rất hiếm, các nhà khảo cổ và nhà sưu tầm cổ vật chưa ai thấy thêm hiện vật nào có hình tượng rắn. TS. Đoàn đặt giả thiết, phải chăng tất cả các con vật loài người đều có thể thuần dưỡng được, nhưng riêng con rắn thì không. Trong khi quan niệm dân gian người Việt luôn gắn với cái gì đó phải lành, tốt tươi, sinh sôi nảy nở, con rắn lại thường đem đến sự không lành, không sinh sôi nảy nở, không tốt tươi cho đời sống của nền tín ngưỡng cư dân nông nghiệp. Nên dù rắn là con vật rất đỗi gần gũi trong đời sống nông nghiệp lúa nước, nhưng sử dụng hình tượng rắn trong văn hóa dân tộc lại rất ít. Nó chỉ xuất hiện trong văn hóa Đông Sơn, nhưng dưới giác độ là nhân sinh quan. Ngoài hình tượng rắn trong cổ vật, rắn vừa là biểu tượng của sự hồi sinh vừa là hiện diện của cái chết. Vì vậy, trong dân gian còn truyền miệng nhiều câu chuyện kỳ bí liên quan tới rắn, như các câu chuyện về rắn giữ mộ. Chúng tôi đã được một số nhà khảo cổ học kể lại các câu chuyện trùng hợp khá lý thú về rắn khi khai quật mộ cổ. Theo lời kể của một số nhà khảo cổ, khi khai quật mộ chưa lần nào bắt gặp một đồ vật trong mộ có hình tượng rắn. Thông thường trong mộ chủ yếu là các đồ vật có hình lợn vàng, các con thú gắn với giữ mộ của giai đoạn thời Bắc thuộc, chủ yếu là huyệt mộ của các quan lại nhà Hán sang cai trị nước ta. Một nhà khảo cổ kể lại, cách đây vài năm ông từng tham gia đoàn khai quật mộ của một vị vua nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Trong suốt quá trình khai quật không hề có biến cố gì xảy ra, nhưng khi khai quật gần tới nơi linh thiêng nhất là quan tài của vua thì có những đàn rắn từ mộ lao bủa ra. Quá bất ngờ, không ai để ý nên không ai rõ đó là loại rắn gì, có độc hay không. Rắn từ mộ bò ra rồi bỏ đi chứ không cắn ai, dù lúc đó có nhiều người dân đứng xung quanh xem khai quật. Khi đàn rắn bỏ đi hết, công việc khai quật lại được tiếp tục. Kết quả các nhà khảo cổ thu được rất mỹ mãn, thêm nhiều hiện vật giá trị cho nghiên cứu. “Khi đấy những người dân tới xem khai quật truyền miệng nhau là rắn giữ mộ cho ngài. Về mặt tâm linh, người dân tôn vinh lên, nhưng về mặt kiến giải khảo cổ, khoa học thì không có chứng cứ. Bản thân nhà khảo cổ cũng chưa kiến giải được điều đấy”, nhà khảo cổ trên cho biết thêm. Còn trong câu chuyện của mình, PGS.TS. Nguyễn Lân Cường (Phó Tổng thư ký Hội Khảo cổ học Việt Nam) cũng từng nghe người dân kể về sự xuất hiện lạ lùng của rắn trong một lần khai quật. Đấy là thời điểm năm 2008, khi ông tham gia đoàn khai quật di tích hang Con Moong, ở thôn Thành Trung, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành (Thanh Hóa). “khi đấy tôi về thì được nghe người dân kể lại, trước khi bắt đầu khai quật 2 ngày, lãnh đạo địa phương lên lập bàn thờ để cúng vái theo tập tục. Buổi sáng thắp hương thì buổi chiều hôm đó có con rắn cạp nong khá to về nằm cuộn tròn trên thân cây to ngay lối đi lên hang. Ngoài con rắn còn có một con bướm rất to cũng về và lượn lờ quanh hang, người dân chưa bao giờ thấy con bướm lạ to như thế. Con rắn đấy không có gì hung ác, người đi qua lại nó cũng không cắn, chỉ nằm cuộn trên cây. Nhưng tới khi chúng tôi về tới nơi thì cả rắn và bướm đều đã bỏ đi. Tôi cũng không rõ thực hư thế nào, chỉ là nghe người dân đồn đại như vậy”. Trong lần khai quật đó, ở độ sâu 3,4m các nhà khảo cổ đã tìm thấy 4 ngôi mộ của 5 cá thể người cổ. Tuy nhiên, việc gặp rắn khi khai quật mộ rất hiếm, cũng chưa có ai có thể giải thích được hiện tượng đó. Nhưng các nhà khảo cổ học thì thiên về khả năng trùng hợp ngẫu nhiên hơn là một ý nghĩa nào đó về mặt tâm linh.
Hình tượng con rắn trong văn hóa
Con rắn là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn này đã được kết hợp với một số các nghi lễ cổ xưa nhất được biết đến của nhân loại và rắn đại diện đồng thời biểu hiện cho hai mặt thiện và ác. Trong văn hóa sự hiện diện của loài rắn được diễn ra từ cổ chí kim, từ văn hóa phương Đông đến văn hóa phương Tây, từ văn minh cổ xưa cho đến quan niệm về rắn thời hiện đại. Rắn không chỉ là loài động vật sống trên khắp thế giới, nó còn là biểu tượng cho nước, lửa, linh hồn, nhục dục, quyết đoán, đa nghi, rắn còn Rắn biểu trưng cho cả giới tính nam và nữ, là một vị thần sáng thế, biểu trưng cho vũ trụ thời hỗn mang. Những quan niệm đó xuất phát từ chính đặc tính của loài rắn, nét đặc trưng sinh học của loài rắn đã góp phần quyết định ý nghĩa biểu tượng của nó cụ thể là cách di chuyển uyển chuyển và sự siết chặt trong động tác bắt mồi khiến nó biểu trưng cho sức mạnh, sự lột da biểu trưng cho sự tái sinh, nọc độc của rắn có thể giết chết người nên được liên hệ đến đặc tính xấu và sự độc ác, tính lưỡng giới tượng trưng cho khởi nguồn của vũ trụ, thân hình rắn là một đường ngoằn ngoèo không đầu không đuôi kéo dài vô tận hoặc là một đường tròn thể hiện tính luân hồi của sống và chết.
Tranh truyền thần là một thể loại hội họa phổ biến hiện nay. Bên cạnh việc thể hiện niềm đam mê, người họa sĩ còn có thể vẽ các bức tranh để bán làm quà tặng độc đáo và ý nghĩa. Vậy bạn đã biết được vẽ truyền thần là gì hay chưa? Hãy cùng Lỗ Store tìm hiểu về thể loại tranh này thông qua bài viết dưới đây. Tranh chân dung truyền thần là một loại tranh vẽ mà ở đó họa sĩ sẽ khắc hoạc lại “thần thái” và cảm xúc của người được vẽ trong bức tranh. Để có được một bức tranh lột tả được thần thái của người được vẽ một cách chính xác nhất, người vẽ cần có ý chí kiên trì, cần mẫn và sự tập trung cao độ. Tranh chân dung truyền thần là một thể loại hội họa, trong đó người họa sĩ sẽ khắc họa lại cái "thần thái", cảm xúc của người được vẽ trong bức tranh. Để truyền được cái thần của người được vẽ ngoài các yếu đó về kỹ thuật, tay nghề đòi hỏi người họa sĩ phải cảm nhận tốt hình mẫu mà mình đang vẽ. Một yếu tố quan trọng nhất làm nên sự thành công của bức tranh đó là đôi mắt của người được vẽ, hay còn gọi là điểm nhãn. Đó là nét riêng biệt ở tranh truyền thần mà không một loại tranh nào khác có được. Để có được một bức tranh truyền thần đẹp, cần đạt được 2 yếu tố là: độ giống và độ tinh tế. Thứ nhất, độ giống: Độ giống là yêu cầu cơ bản khi bạn vẽ một bức tranh dựa trên hình mẫu nhất định. Để đạt được yêu cầu này, người vẽ cần phải có tay nghề cao và phải nắm được các yếu tố về hình vững chắc. Độ giống của tranh truyền thành phụ thuộc chủ yếu vào ngũ quan: mắt, mũi, miệng, tai và lông mày. Điều này đòi hỏi, người họa sĩ phải có sự tập trung cao độ, sự tỉ mỉ và cẩn thận. Thứ hai, độ tinh tế: Một yếu tố khác để làm nên sự thành công của tranh truyền thần là độ tinh tế. Độ tinh tế thể hiện qua đường nét mà người vẽ khác họa trên bức tranh. Một bức tranh mang độ tinh tế thì lại càng chân thực hơn và diễn tả được thần thái của người được vẽ. Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến độ giống của tranh. Dựng hình càng chuẩn xác thì tranh vẽ nên càng giống. Bước 2: Vẽ ngũ quan. Đây là bước định hình và lên sắc độ cơ bản cho ngũ quan. Bước vẽ ngũ quan càng chuẩn thì tranh càng giống. Bước 3: Phân mảng cho tranh. Ở bước này, người vẽ sẽ phân chia sáng tối cơ bản tổng thể cho toàn bộ khuôn mặt người được vẽ. Bước 4: Lên sắc độ da. Sắc độ da hay được gọi cách khác là độ đậm nhạt, sáng tối trên một bức tranh. Các sắc độ tối thường thể hiện ở hốc mắt, hốc mũi, khóe miệng. Bước 5: Vẽ chi tiết. Đây là bước cuối cùng và là bước quan trọng trong việc làm nên độ tinh tế của bức tranh. Ở bước vẽ cuối cùng, người họa sĩ sẽ chỉnh chu lại các nét vẽ một cách tỉ mỉ và chi tiết nhất. Nhấn nhá lại ngũ quan, đặc biệt là mắt và miệng. Dùng tẩy để tỉa tóc trắng, lấy sáng ở các bộ phận như lòng mắt, đầu mũi, khu vực sáng của môi và gò má. Giấy chứng nhận đưng ký hộ kinh doanh số )1F8013737 do Phòng Tài Chính - Kế Hoạch, UBND quận Thanh Xuân cấp lần đầu ngày 17/01/2019. Địa điểm kinh doanh: Tầng 1, số nhà 152 phố Lê Trọng Tấn, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Truyền thần
Tranh truyền thần là một thể loại hội họa mà người họa sĩ truyền lại cái "thần" của người được vẽ, tức là truyền đạt được cảm xúc, thần thái thông qua tác phẩm. Để vẽ lại một bức ảnh đòi hỏi người họa sĩ phải có ý chí kiên trì, cần mẫn, tập trung cao độ, bức ảnh sau khi hoàn thành không chỉ giống với ảnh được chụp mà còn phải truyền được thần thái của con người đó. Quan trọng nhất đó chính là đôi mắt của người được vẽ mà người họa sĩ gọi là điểm nhãn, đó chính là nét độc đáo trong các bức tranh truyền thần mà không một loại tranh nào khác thực hiện được.
Krasnaya ploshchad) là tên gọi của quảng trường nổi tiếng nhất tại thủ đô Moskva. Quảng trường này tách điện Kremli (nằm ở phía tây quảng trường này), thành lũy của hoàng gia trước đây và hiện là nơi sống và làm việc chính thức của Tổng thống Nga ra khỏi khu vực thương mại trong lịch sử là Kitay-gorod cũng như GUM ở phía đông. Do các đường phố chính của Moskva tỏa ra từ khu vực này theo các hướng để trở thành các đường quốc lộ chính bên ngoài thành phố, nên quảng trường Đỏ thường được coi là quảng trường trung tâm của Moskva và của toàn Nga. Năm 1990, Quảng trường Đỏ đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới. Khu vực mà hiện nay là Quảng trường Đỏ thì trước đây là các công trình xây dựng bằng gỗ, nhưng đã bị phá bỏ đi theo sắc lệnh của Đại công tước Ivan III năm 1493, do các công trình này rất dễ bị cháy. Khu vực mới tạo ra (trước đó đơn giản gọi là Pozhar, tức “khu vực cháy”) dần dần chuyển thành như là nơi diễn ra các hoạt động thương mại chủ yếu của Moskva. Tên gọi khi đó là Torgovaya nghĩa là quảng trường thương mại. Sau đó, nó được sử dụng cho nhiều lễ nghi công cộng khác nhau cũng như thỉnh thoảng làm nơi diễn ra lễ đăng quang của các Sa hoàng Nga. Quảng trường đã dần dần được xây dựng từ thời điểm đó, và nó được sử dụng cho các nghi lễ chính thức của tất cả các chính quyền Nga kể từ khi nó được xây dựng. Lịch sử đa dạng của quảng trường Đỏ được phản ánh trong nhiều công trình nghệ thuật, bao gồm cả các bức vẽ của Vasily Surikov, Konstantin Yuon và nhiều người khác. Tên gọi Quảng trường Đỏ không có nguồn gốc từ màu sắc của gạch bao quanh nó hay từ sự liên hệ giữa màu đỏ và chủ nghĩa cộng sản. Nó bắt nguồn từ tên gọi trong tiếng Nga красная (krasnaya) có thể mang nghĩa “đỏ” hay “đẹp” (nghĩa sau là nghĩa cổ, nay không dùng). Từ này ban đầu được dùng để chỉ (với nghĩa “đẹp”) Nhà thờ Thánh Basil, và sau đó dần dần được chuyển để chỉ quảng trường cạnh đó. Người ta tin rằng quảng trường này có tên gọi như hiện nay (thay thế cho tên gọi Pozhar cũ) vào nửa sau thế kỷ 17 với nghĩa “đẹp”. Chỉ từ thế kỷ 19 thì từ này mới mang nghĩa đỏ cho đến ngày nay. Một số thành thị Nga cổ, chẳng hạn Suzdal, Yelets hay Pereslavl-Zalessky, cũng có quảng trường chính của mình mang tên Krasnaya ploshchad, trùng tên với Quảng trường Đỏ của Moskva. Trong thời kỳ Liên Xô thì Quảng trường Đỏ vẫn giữ được tầm quan trọng của nó, trở thành quảng trường chính trong đời sống của quốc gia này. Bên cạnh việc là địa chỉ chính thức của chính quyền Xô viết, nó còn được biết đến như là nơi diễn ra các lễ diễu binh trong các ngày hội. Nhà thờ Kazan và nhà thờ Iverskaya với cổng Phục sinh đã bị phá hủy để có chỗ cho các loại xe quân sự có thể tiến vào quảng trường. Người ta cũng đã định phá hủy công trình có tiếng nhất tại Moskva là Nhà thờ chính tòa thánh Basil ở phía nam quảng trường (tên gọi khác nhà thờ Pokrovskii). Người ta nói rằng Lazar Kaganovich, một phụ tá của Stalin và là chủ nhiệm dự án tái kiến trúc Moskva, đã chuẩn bị một mô hình đặc biệt cho quảng trường Đỏ, trong đó nhà thờ lớn này cần phải loại bỏ và đem kế hoạch này tới cho Stalin để chỉ ra nhà thờ này là vật cản trở cho các lễ diễu hành và giao thông như thế nào. Nhưng khi ông này gạch nhà thờ ra khỏi bản đồ thì Stalin phản đổi bằng câu nói nổi tiếng của mình: “Lazar! Để nó lại đấy!”. Một trong hai lễ diễu binh quan trọng nhất trên Quảng trường Đỏ diễn ra năm 1941, khi thành phố bị Phát xít Đức bao vây và Hồng quân Liên Xô đã đi thẳng từ quảng trường Đỏ ra mặt trận còn lễ diễu binh thứ hai là Lễ diễu hành chiến thắng năm 1945, khi các lá cờ của quân độiĐức Quốc Xã đã được ném dưới chân Lăng Lenin. Một sự kiện đáng nói là vào ngày 28 tháng 5 năm 1987, một phi công Đức tên là Mathias Rust đã hạ cánh xuống Quảng trường Đỏ. Mỗi một công trình tại khu vực Quảng trường Đỏ đều có thể coi là huyền thoại. Một trong số đó là Lăng Lenin, trong đó người ta đặt thi hài của Vladimir Ilyich Lenin, người sáng lập ra Liên bang Xô viết. Bên cạnh đó là công trình kiến trúc phức tạp có các vòm hình củ hành của Nhà thờ Thánh Basil cũng như các cung điện và nhà thờ của Điện Kremli. Ở phía đông của quảng trường là GUM, và bên cạnh nó là Nhà thờ Kazan đã phục chế. Ở phía bắc là Viện bảo tàng lịch sử Nga, với hình dáng tương tự như các tháp Kremli. Đài kỷ niệm điêu khắc duy nhất trên quảng trường là tượng đồng Kuzma Minin và Dmitry Pozharsky, những người đã đưa Moskva ra khỏi cuộc chiếm đóng của người Ba Lan năm 1612, trong Thời kỳ Loạn lạc. Cạnh đó là khu vực trong tiếng Nga gọi là Lobnoye mesto (Лобное место), một nền đá tròn khoảng 13 m, tại đây các lễ nghi công cộng được tiến hành.
Quảng trường Đỏ
Quảng trường Đỏ hay Hồng trường (tiếng Nga: Красная площадь, chuyển tự. Krasnaya ploshchad) là tên gọi của quảng trường nổi tiếng nhất tại thủ đô Moskva. Quảng trường này tách điện Kremli (nằm ở phía tây quảng trường này), thành lũy của hoàng gia trước đây và hiện là nơi sống và làm việc chính thức của Tổng thống Nga ra khỏi khu vực thương mại trong lịch sử là Kitay-gorod cũng như GUM ở phía đông. Do các đường phố chính của Moskva tỏa ra từ khu vực này theo các hướng để trở thành các đường quốc lộ chính bên ngoài thành phố, nên quảng trường Đỏ thường được coi là quảng trường trung tâm của Moskva và của toàn Nga. Năm 1990, Quảng trường Đỏ đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới.
Các quỹ đầu tư được tổ chức dưới dạng một công ty, phát hành cổ phần. Các nhà tư vấn chuyên nghiệp, các nhà quản lý đầu tư quỹ của công ty là người có nhiều kinh nghiệm và mối quan hệ trong thị trường tài chính luôn giám sát chặt chẽ để đưa ra quyết định danh mục đầu tư nào là tối ưu nhất: việc kết hợp đầu tư đồng thời một số loại cổ phiếu và theo một cơ cấu nhất định giúp trung hoà tính rủi ro của các cổ phiếu này và tối đa hoá lợi nhuận. So với việc tự đầu tư (vào SXKD hay vào một loại chứng khoán nào đó) thì việc đầu tư vào chứng chỉ quỹ ít rủi ro hơn vì:. Nhưng cũng chính vì vậy, tổng lợi nhuận của cả danh mục đầu tư thường không cao. Tuy nhiên, so với lợi nhuận đem lại từ việc mua trái phiếu, gửi tiền vào ngân hàng hay mua bảo hiểm thì đầu tư vào các chứng chỉ quỹ vẫn có lợi hơn.
Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một cách đầu tư tiền cùng với các nhà đầu tư khác để hưởng lợi từ những lợi thế vốn có khi làm việc như một phần của một nhóm. tăng sự đa dạng hóa tài sản để giảm một số rủi ro phi hệ thống. Vẫn chưa rõ liệu các nhà quản lý đầu tư tích cực chuyên nghiệp có thể tăng cường đáng kể lợi nhuận được điều chỉnh rủi ro bằng một số tiền vượt quá phí và chi phí quản lý đầu tư hay không. Thuật ngữ thay đổi theo quốc gia nhưng quỹ đầu tư thường được gọi là nhóm đầu tư, phương tiện đầu tư tập thể, phương án đầu tư tập thể, quỹ được quản lý hoặc đơn giản là quỹ. Điều khoản quy định được thực hiện cho đầu tư tập thể vào chứng khoán có thể chuyển nhượng hoặc cam kết đầu tư tập thể ngắn (x. Luật). Một quỹ đầu tư có thể được nắm giữ bởi công chúng, chẳng hạn như quỹ tương hỗ, quỹ giao dịch trao đổi, công ty mua lại đặc biệt hoặc quỹ đóng, hoặc chỉ có thể được bán ở một vị trí riêng tư, chẳng hạn như một hàng rào quỹ hoặc quỹ đầu tư tư nhân.
Gặp Chế Linh tại khách sạn nơi ông lưu trú trong lần về Hà Nội để chuẩn bị cho liveshow riêng, nam danh ca xuất hiện giản dị trong trang phục quần kaki sáng màu, áo sơ mi sọc xanh cùng đôi giày tây quen thuộc. Giọng ca “Thói đời” bộc bạch, ông trung thành với phong cách ăn mặc lịch sự, giản dị, không cầu kỳ nên nhìn trên sân khấu hay ngoài đời cũng thế. Có lẽ bởi suy nghĩ này của Chế Linh mà thoáng thấy bóng dáng ông đi lững thững ở ngoài đường, người ta lập tức nhận ra và “định vị” ngay: “Chế Linh!”. Và lần nào cũng vậy, ông luôn đứng lại, vui vẻ cười nói, bắt tay và chụp ảnh với từng người. Đúng với tính cách bình dân của mình, mỗi lần về Hà Nội, Chế Linh thường có thói quen tạt vào hàng trà đá vỉa hè ngồi nhâm nhi ngụm nước, ông cũng không ngại ngồi thụp xuống gánh hàng rong ven đường để mua vài thứ quả. Có bận, người gánh hàng rong nhận ra ông liền ôm chầm lấy xin chụp ảnh rồi nhất định không lấy tiền. Rồi có lần, sau khi bị người hâm mộ nhận ra và kéo vào quàn trà đá trò chuyện rôm rả một lúc, đến khi vừa cúi chào mọi người để đi tiếp, vừa đi được một đoạn thì có hai người hâm mộ phóng xe máy đuổi theo ông xin chụp ảnh, ông hào hứng đứng lại chụp, còn tận tình hỏi xem “ảnh chụp thế đã đẹp chưa?”. Chế Linh bộc bạch, ông có được ngày hôm nay là nhờ khán giả, nhờ được mọi người thích mình, cầu nguyện cho mình sức khỏe, bỏ thời gian ra mua đĩa, mua vé ủng hộ tiếng hát của mình. Bởi vậy suốt mấy chục năm trong nghề, ông chưa bao giờ cho phép mình làm gì để khán giả phiền lòng, dù chỉ là vô ý. Nam danh ca tâm sự, nếu như vô tình làm gì có lỗi với người thân hay người quen thì còn có thể xin lỗi, chứ nếu làm khán giả nào đó buồn thì không biết tìm họ ở đâu để xin lỗi. Đó là điều ông luôn tự răn và tự nhắc nhở mình. Bằng tất cả sự trân trọng đối với người hâm mộ, ông cũng không bao giờ “hát nhép” trên sân khấu, trừ phi một số chương trình yêu cầu diễn để ghi hình thu đĩa DVD và có thông báo công khai cho mọi người biết. Nam danh ca kể, hồi năm 2007 khi lần đầu tiên ông về nước biểu diễn, một nhóm bạn trẻ đã đề nghị lập ra “fanclub” Chế Linh. Lúc đó, câu lạc bộ chỉ có mấy chục thành viên. Tuy nhiên tới giờ thì số lượng thành viên đã tăng lên gần 5.000 người. Điều đó khiến ông cảm thấy vô cùng hạnh phúc, không chỉ bởi tình cảm yêu mến mà mọi người dành cho mình, mà còn bởi đó là minh chứng cho thấy dòng nhạc Bolero, nhạc “sến” đang ngày càng được khán giả ở quê nhà đón nhận và yêu thích. Gặp Chế Linh ở ngoài đời, nghe ông trò chuyện mới thấy người nghệ sĩ gạo cội này yêu khán giả của mình đến nhường nào. Xuất phát từ tình yêu ấy, ông ý thức được việc phải giữ giọng hát để ngày nào còn sức khỏe, còn có thể đem tiếng hát của mình cống hiến cho mọi người một cách trọn vẹn nhất. Đó là lý do suốt mấy thập kỷ qua, ngày nào ông cũng giữ thói quen luyện giọng dù là ở bất cứ đâu chứ không phải có show diễn thì mới tập. Như mỗi lần đi diễn, ông thường tận dụng khách sạn nơi lưu trú làm phòng luyện thanh, có điều mỗi lần cất giọng luyện thanh, ông đều phải hãm giọng lại vì sợ mình hát to quá làm phiền khách ở phòng bên cạnh. Nhiều lúc thấy bất tiện, ông ra ngoài gọi thuê một chiếc ô tô taxi, rồi nhờ người lái xe ra ngoài một lúc để ông ngồi trong ô tô hát một mình. Cũng bởi sự chăm chỉ luyện tập không ngưng nghỉ đó mà Chế Linh được xem là một trong số ít ca sĩ giữ được phong độ trẻ trung cùng giọng hát ngọt ngào bất biến theo năm tháng. Nam danh ca tâm sự, ông luôn nghĩ mình được ông Trời phú cho giọng hát thì phải giữ và tập luyện thường xuyên, thế nên việc một ngày ông luyện thanh hát từ 10 đến 20 bài là chuyện hết sức bình thường. Với ông thì cơm có thể bớt ăn một chút nhưng mệt mấy thì ngày nào ông cũng phải tập hát, ít thì mươi mười lăm phút, còn không thì cả tiếng đồng hồ. Có một người luôn gắn bó với Chế Linh như hình với bóng trong suốt mấy chục năm qua, cả trong công việc lẫn cuộc sống, đó là bà xã của ông – Vương Nga. Nam danh ca thổ lộ, với ông thì người phụ nữ này không chỉ là bạn đời, mà còn là bạn tri kỷ - người mà chỉ cần nhìn ánh mắt của ông là hiểu ông đang nghĩ gì, muốn gì và cần gì. Nhìn vợ của Chế Linh xuất hiện bên chồng trong tất cả các chuyến lưu diễn, không ít người lầm tưởng bà cũng kiêm luôn vai trò quản lý của ông song kỳ thực không phải vậy. Như chia sẻ của Chế Linh thì bà chưa bao giờ tham gia hay can thiệp vào công việc của ông. Trái lại, ông tự lên cho mình cách kế hoạch về âm nhạc cũng như lịch trình biểu diễn. Xong xuôi, ông mới báo lại để bà lưu kế hoạch vào trong máy tính, sắp xếp thời gian biểu và nhắc nhở chồng. Với ông, bà không chỉ là người luôn theo sát lo lắng, chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ, bộ quần áo cho ông mà có lẽ còn là vị khán giả trung thành nhất vì luôn nhớ từng ca khúc mà ông viết, từng ca từ lẫn giai điệu các ca khúc mà ông hát. Bà cũng là người luôn thẳng thắn đưa ra những góp ý với ông trong cách hát cũng như cách giao lưu với khán giả. Chế Linh nói vui, từ xưa ông vẫn bảo với vợ mình rằng, ông có tuổi rồi đi hát chẳng biết sẽ bị vấp ngã lúc nào, còn bà ở nhà cũng chẳng làm gì vì các con đều trưởng thành cả rồi, vì thế ông rủ bà đi đâu cũng có nhau. Nam danh ca cũng tiết lộ, bà chính là người “tay hòm chìa khóa”, giúp mình quản lý tài chính và vun vén cuộc sống chung. Tiết lộ về liveshow “Tình bơ vơ” sắp tới, Chế Linh cho biết, ông rất háo hức vì sẽ được gặp lại nhiều bạn diễn thân thiết như: Giao Linh, Tuấn Vũ, Trường Vũ, Như Quỳnh, Mạnh Quỳnh, Phi Nhung, Quang Lê và MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Nam danh ca nói thêm, trong số những người bạn “vàng” này, có những giọng ca mà khán giả từng thấy ông hát với họ trong video nhưng chưa được nghe hát song ca thật ở ngoài đời như: Trường Vũ, Như Quỳnh…Vì thế, ông hy vọng những sự kết hợp bất ngờ trong đêm liveshow sẽ đem đến cho khán giả nhiều cảm xúc mới mẻ và thú vị. Thiên long bát bộ 2021 gây tranh cãi bởi tạo hình và cảnh phim. mất vệ sinh
Chế Linh
Chế Linh (sinh ngày 3 tháng 4 năm 1942) là nam ca sĩ người Chăm nổi tiếng, đồng thời là nhạc sĩ với bút danh Tú Nhi và Lưu Trần Lê. Ông nổi danh từ thập niên 60 và được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng thời kỳ đầu ("Tứ trụ nhạc vàng") với bốn phong cách khác nhau, ba người còn lại là: Duy Khánh, Nhật Trường, Hùng Cường. Chế Linh tên thật là Jamlen (Trà-len), tên Việt là Lưu Văn Liên, sinh ngày 3 tháng 4 năm 1942 tại Paley Hamu Tanran, gần Phan Rang (nay thuộc làng Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Cha mất sớm khi Chế Linh mới được 4 tuổi. Sau khi học hết bậc tiểu học chương trình Pháp ở trường làng và được các linh mục Pháp trong trường hướng dẫn về căn bản nhạc lý, Chế Linh theo học tiếp bậc trung học tại trường Bồ Đề Phan Rang. Tháng 8 năm 1959, ông quyết định vào Sài Gòn một mình vì không chịu đựng nổi chính sách kỳ thị của nền Đệ Nhất Cộng hòa dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm.
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. các biến phụ thuộc và độc lập chúng là hai biến chính của bất kỳ thí nghiệm hoặc điều tra nào. Độc lập (VI) là cái thay đổi hoặc được kiểm soát để nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến biến phụ thuộc (VD). Sự phụ thuộc là biến được nghiên cứu và đo lường. Sau đó chúng có thể được xem là nguyên nhân (biến độc lập) và hiệu ứng (biến phụ thuộc). Độc lập được kiểm soát bởi người thí nghiệm, trong khi phụ thuộc thay đổi để đáp ứng với độc lập. Hãy cho một ví dụ:. Chúng tôi muốn thực hiện một nghiên cứu để nghiên cứu ảnh hưởng của việc tiêu thụ rượu đối với huyết áp. Lượng rượu tiêu thụ hàng ngày sẽ là biến số độc lập (nguyên nhân) và huyết áp sẽ là biến số phụ thuộc (tác động). -Ảnh hưởng của tiêu thụ đường đến trọng lượng. Tiêu thụ đường (VI), trọng lượng (VD). Trong bài viết này về phương pháp khoa học, bạn có thể tìm hiểu thêm về cách các biến này được sử dụng trong nghiên cứu khoa học. Biến độc lập (VI) là biến thay đổi hoặc được kiểm soát để xem tác động của nó đối với biến phụ thuộc (VD). Ví dụ, trong một nghiên cứu, chúng tôi muốn đo lường tác động của chiều cao lên cân nặng. Chiều cao là VI và cân nặng là VD. Nó có thể tự đứng vững và không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ điều gì mà người thí nghiệm làm hoặc bởi một biến khác trong cùng một thí nghiệm; do đó tên của nó là "độc lập". Đây là biến có thể được xử lý hoặc thao tác một cách có hệ thống bởi người thử nghiệm, những thay đổi được kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp đến biến phụ thuộc. Phát biểu từ quan điểm toán học, chúng là các yếu tố đầu vào cho phương trình hoặc mô hình nghiên cứu và nó được biểu diễn trên trục abscissa (x) trong biểu đồ. Nói cách khác, đó là "nguyên nhân" được cho là trong mối quan hệ đang được nghiên cứu. Nói chung, chỉ có một được chọn là một biến độc lập để tránh một số yếu tố có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc cùng một lúc. Nếu điều đó xảy ra, sẽ rất khó để xác định và đo lường những sửa đổi nào trong các biến "độc lập" đang gây ra những thay đổi trong hành vi được quan sát. Biến độc lập còn được gọi là biến kiểm soát hoặc biến dự báo tùy thuộc vào loại nghiên cứu. Biến phụ thuộc (VD) là biến bị ảnh hưởng bởi biến độc lập (VD). Đó là về hiệu quả, về những gì được đo. Ví dụ, trong một nghiên cứu bạn muốn đo lượng mặt trời mà cây nhận được và chiều cao của nó. Lượng mặt trời là VI, là nguyên nhân. Chiều cao của cây sẽ là RV, hiệu ứng được đo. Đó là trọng tâm của nghiên cứu nói chung, trong đó người thí nghiệm tập trung vào các quan sát và đo lường của mình, để xem hành vi của anh ta phản ứng thế nào với những thay đổi được kiểm soát. Nói cách khác, đó là "hiệu ứng" được cho là của mối quan hệ được nghiên cứu. Nó được biểu diễn trong trục của tọa độ (y) của đồ thị, vì chúng là các phần tử đầu ra của một mô hình chức năng hoặc phương trình. Những thay đổi được quan sát trong biến này được ghi lại một cách tỉ mỉ như là một phần cơ bản của kết quả thí nghiệm. Tùy thuộc vào loại nghiên cứu, nó cũng có thể được gọi là biến thực nghiệm, biến đo lường hoặc biến phản ứng. Tên đơn giản của "phụ thuộc" hoặc "độc lập" có thể mang lại cảm giác không cần giải thích thêm để hiểu bản chất của nó, vì các định nghĩa của nó dường như rất dễ dàng và phổ quát. Đặc biệt là trong khoa học xã hội hoặc hành vi, việc xác định chính xác các biến số nghiên cứu có thể gây nhầm lẫn hoặc không quá rõ ràng. Vì lý do này, điều cực kỳ quan trọng là quản lý sự khác biệt để đảm bảo rằng kết quả có liên quan và có ý nghĩa. Nhiều học giả không khuyến nghị sử dụng thuật ngữ "phụ thuộc" và "độc lập" cho các nghiên cứu không thử nghiệm hoặc phù hợp với phương pháp khoa học. Mặc dù vậy, chúng vẫn là một phần của phương pháp phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu xã hội. 1- Sử dụng 2 biến sau đây của một nghiên cứu, "bình luận tích cực" và "lòng tự trọng", với bài tập được đề xuất, sẽ được đọc như sau: Nhận xét tích cực gây ra thay đổi lòng tự trọng và lòng tự trọng không thể gây ra thay đổi trong bình luận tích cực. Từ quan điểm hợp lý và khoa học hơn, mệnh đề trước có rất nhiều ý nghĩa và hoạt động để minh họa cho việc xác định và phân biệt giữa các biến phụ thuộc và biến độc lập. Như đã nêu ở những điểm trước, với một nghiên cứu sâu hơn nhiều từ quan điểm xã hội hoặc tâm lý học, người ta có thể tranh luận về những trường hợp có lòng tự trọng tốt có thể có tác động tích cực đến những người có thể dẫn đến những bình luận tích cực. 2- Trong "Tiếp xúc với ánh sáng mặt trời nhiều hơn làm tăng mức độ hạnh phúc ở những người lao động cả ngày trong văn phòng kín", khi sử dụng bài tập được đề xuất, phơi nắng sẽ dẫn đến biến số độc lập và mức độ hạnh phúc sẽ phụ thuộc. Sự độc lập có thể được kiểm soát với thời gian phơi sáng (giờ, ngày, tuần) và sự phụ thuộc với nhiều thang đo mà người lao động được hỏi vào cuối ngày chỉ là họ cảm thấy thế nào. 3-Trong câu hỏi "Lợi ích hoặc làm nặng thêm các mạng xã hội ở trẻ em là gì? ", Mạng xã hội rõ ràng có thể được xác định là biến độc lập, bởi vì nó được cho là gây ra tác dụng có lợi hoặc làm nặng thêm ở trẻ em. Hiệu ứng này là những gì được đề xuất như một đối tượng nghiên cứu, do đó nó là biến phụ thuộc. 4- Bao nhiêu nước chảy qua một vòi trong các lỗ khác nhau? : Biến độc lập sẽ là mở của vòi nước được kiểm soát như đóng, ít mở, nửa mở và hoàn toàn mở. Biến phụ thuộc sẽ là lưu lượng nước đo bằng lít mỗi phút. 5- Một động cơ điện quay nhanh hơn bằng cách tăng điện áp: điện áp của điện được điều khiển bằng vôn, biến độc lập. Tốc độ quay được đo bằng số vòng quay mỗi phút, biến phụ thuộc. Biến độc lập và biến phụ thuộc. Đại học East Carolina - Khoa Tâm lý học. Tổ chức Tài liệu nghiên cứu khoa học xã hội của bạn: Biến độc lập và phụ thuộc. Sự khác biệt giữa các biến độc lập và phụ thuộc là gì? Biến độc lập và phụ thuộc. Đồ họa Tiveial các biến độc lập và phụ thuộc là gì? Được phục hồi từ nces.ed.gov. Văn phòng nghiên cứu liêm chính (ORI). Ví dụ trường hợp cho các biến độc lập và phụ thuộc. Ví dụ về chương trình giảng dạy ORI - Các khái niệm nghiên cứu cơ bản. Bạn thân khoa học. Các biến trong dự án hội chợ khoa học của bạn. Biến phụ thuộc: Định nghĩa và ví dụ / Biến độc lập (Biến điều trị) Định nghĩa và sử dụng. Thống kê Làm thế nào để. Lấy từ thống kêhowto.com.
Biến phụ thuộc và biến độc lập
Trong mô hình toán học, mô hình thống kê và khoa học thực nghiệm, các giá trị của các biến phụ thuộc phụ thuộc vào các giá trị của các biến độc lập. Các biến phụ thuộc đại diện cho đầu ra hoặc kết quả cho sự thay đổi đang được nghiên cứu. Các biến độc lập, còn được biết đến trong văn cảnh thống kê là biến hồi quy, đại diện cho đầu vào hoặc nguyên nhân, đó là lý do tại sao cho sự thay đổi. Trong một cuộc thử nghiệm, bất kỳ biến nào mà người thử nghiệm thao tác cũng có thể được coi là một biến độc lập. Các mô hình và thử nghiệm được tiến hành để kiểm tra những tác động của các biến độc lập lên các biến phụ thuộc. Đôi khi, ngay cả ảnh hưởng của chúng không mang lại lợi ích trực tiếp, các biến độc lập vẫn có thể được đưa vào vì những lý do khác nhau, như để giải thích cho hiệu ứng gây nhiễu tiềm ẩn.
Bênh tăng áp động mạch phổi là một loại huyết áp cao ảnh hưởng đến các động mạch trong phổi và phần bên phải của tim. Trong một dạng tăng áp động mạch phổi, được gọi là tăng áp động mạch phổi (PAH), các mạch máu trong phổi của bạn bị thu hẹp, tắc nghẽn hoặc bị phá hủy. Tổn thương làm chậm lưu lượng máu qua phổi và huyết áp trong động mạch phổi tăng lên. Tim của bạn phải làm việc nhiều hơn để bơm máu qua phổi. Nỗ lực nhiều hơn cuối cùng sẽ khiến cơ tim của bạn trở nên yếu và không hoạt động được. Ở một số người, tăng áp động mạch phổi từ từ trở nên tồi tệ hơn và có thể đe dọa tính mạng. Mặc dù không có cách chữa trị đối với một số loại tăng áp phổi, nhưng điều trị có thể giúp giảm các triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống của bạn. Loại I. Mặc dù bạn đã được chẩn đoán là tăng áp động mạch phổi, bạn không có triệu chứng với hoạt động bình thường. Bạn không có triệu chứng khi nghỉ ngơi, nhưng bạn có các triệu chứng như mệt mỏi, khó thở hoặc đau ngực khi hoạt động bình thường. Bạn cảm thấy thoải mái khi nghỉ ngơi, nhưng có các triệu chứng khi bạn hoạt động thể chất. Bạn có các triệu chứng khi nghỉ ngơi và trong khi hoạt động thể chất. Các dấu hiệu và triệu chứng của tăng áp động mạch phổi phát triển chậm. Bạn có thể không nhận thấy chúng trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm. Các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn khi bệnh tiến triển. Tăng áp động mạch phổi được phân thành năm nhóm, tùy thuộc vào nguyên nhân. Các tình trạng khác, chẳng hạn như rối loạn mô liên kết (xơ cứng bì, lupus, những bệnh khác), nhiễm HIV hoặc bệnh gan mãn tính (xơ gan). Tiếp xúc lâu dài với độ cao ở những người có thể có nguy cơ cao bị tăng áp động mạch phổi. Hội chứng Eisenmenger là một loại bệnh tim bẩm sinh gây tăng áp động mạch phổi. Nguyên nhân phổ biến nhất là do một lỗ hổng lớn trong tim của bạn giữa hai ngăn dưới tim (tâm thất), được gọi là khiếm khuyết thông liên thất. Lỗ hổng này trong tim khiến máu lưu thông không chính xác trong tim. Máu mang oxy (máu đỏ) trộn lẫn với máu nghèo oxy (máu xanh). Sau đó, máu trở lại phổi của bạn – thay vì đi đến phần còn lại của cơ thể – làm tăng áp lực trong động mạch phổi và gây ra tăng áp động mạch phổi. Lớn tuổi hơn có thể làm tăng nguy cơ phát triển tăng áp động mạch phổi. Tình trạng này thường được chẩn đoán nhiều hơn ở những người từ 30 đến 60 tuổi. Tuy nhiên, PAH vô căn phổ biến hơn ở những người trẻ tuổi. Sử dụng các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), được sử dụng để điều trị trầm cảm và lo lắng. Tăng áp động mạch phổi khó chẩn đoán sớm vì nó không thường được phát hiện khi khám sức khỏe định kỳ. Ngay cả khi tình trạng bệnh tiến triển nặng hơn, các dấu hiệu và triệu chứng của nó cũng tương tự như các bệnh tim và phổi khác. Bác sĩ sẽ chỉ định các xét nghiệm để giúp chẩn đoán tăng áp động mạch phổi và xác định nguyên nhân của nó. Các xét nghiệm cho tăng áp động mạch phổi có thể bao gồm:. Nếu một thành viên trong gia đình bị tăng áp động mạch phổi, bác sĩ có thể sàng lọc cho bạn các gen có liên quan đến tăng áp phổi. Nếu bạn có kết quả dương tính, bác sĩ có thể đề nghị các thành viên khác trong gia đình cũng được kiểm tra. Không có cách chữa trị tăng huyết áp động mạch phổi, nhưng bác sĩ có thể kê đơn các phương pháp điều trị để giúp bạn kiểm soát tình trạng của mình. Điều trị có thể giúp cải thiện các triệu chứng của bạn và làm chậm sự tiến triển của tăng áp động mạch phổi. Thường mất một thời gian để tìm ra phương pháp điều trị thích hợp nhất cho tăng áp động mạch phổi. Các phương pháp điều trị thường phức tạp và cần được chăm sóc theo dõi rộng rãi. Cắt vòi nhĩ: nếu thuốc không kiểm soát được tình trạng tăng áp động mạch phổi của bạn, phẫu thuật tim hở này có thể là một lựa chọn. Trong phẫu thuật cắt lỗ thông liên nhĩ, bác sĩ phẫu thuật tạo một lỗ thông giữa các buồng tim trên bên trái và bên phải của bạn (tâm nhĩ) để giảm áp lực cho phía bên phải của tim bạn. Cấy ghép: trong một số trường hợp, ghép phổi hoặc tim-phổi có thể là một lựa chọn, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi bị tăng huyết áp động mạch phổi vô căn. Nguồn uy tín: ThuocLP Vietnamese health không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa. Bác sĩ Trần Ngọc Anh chuyên ngành Nội Tiêu hóa; Nội tổng hợp-u hóa đã có hơn 10 năm kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị. Hiện đang công tác tại bệnh viện ĐH Y Dược Hà Nội Bác sĩ cũng hỗ trợ tư vấn sức khỏe tại Website ThuocLP Vietnamese health. Năm 2019 bác sĩ Trần Ngọc Anh đồng ý là bác sĩ tư vấn sức khỏe cho website thuoclp.com. Chứng chỉ chuyên ngành: Nội soi tiêu hoá thông thường, Nội soi tiêu hoá can thiệp, Siêu âm tiêu hoá thông thường, Siêu âm tiêu hoá can thiệp (BV Bạch Mai), Bệnh lý gan mạn. ThuocLP Vietnamese Health chuyên mang đến thông tin kiến thức. Nội dung chia sẻ chỉ mang tính chất tham khảo, không nhằm mục đích bán hàng, không được tự ý áp dụng. Bệnh nhân sử dụng thuốc phải tuân theo chỉ định bác sĩ…(CHÚNG TÔI KHÔNG KINH DOANH).
Tăng huyết áp phổi
Tăng huyết áp phổi (Pulmonary hypertension - PH hoặc PHTN) là tình trạng tăng huyết áp trong các động mạch phổi. Các triệu chứng bao gồm khó thở, ngất, mệt mỏi, đau ngực, sưng chân và nhịp tim nhanh. Tình trạng có thể gây khó khăn cho việc tập thể dục. Khởi phát điển hình diễn ra dần dần. Nguyên nhân gây bệnh thường không được biết. Các yếu tố nguy cơ bao gồm tiền sử gia đình, cục máu đông trước phổi, HIV/AIDS, bệnh hồng cầu hình liềm, sử dụng cocaine, COPD, ngưng thở khi ngủ, sống ở độ cao và các vấn đề với van hai lá. Cơ chế cơ bản thường liên quan đến viêm động mạch trong phổi. Chẩn đoán bao gồm đầu tiên phải loại trừ các nguyên nhân tiềm năng khác. Bệnh hiện tại không thể chữa khỏi. Điều trị tùy thuộc vào loại bệnh. Một số biện pháp hỗ trợ như liệu pháp oxy, thuốc lợi tiểu và thuốc để ức chế đông máu có thể được sử dụng. Thuốc đặc biệt cho tình trạng này bao gồm epoprostenol, treprostinil, Iloprost, bosentan, ambrisentan, macitentan, và sildenafil. Ghép phổi có thể là một lựa chọn trong một số trường hợp.
Có một lần James Joyce nói với một người bạn, “Một trong những điều tôi không thể làm quen với tuổi trẻ của tôi là sự khác biệt mà tôi tìm thấy giữa cuộc sống và văn học”. Tất cả những độc giả trẻ nghiêm túc thực sự đều nhận ra sự khác biệt. Joyce dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này và cống hiến vào cuộc cách mạng cho các tác phẩm hư cấu của thế kỷ 20. Cuộc sống mà ông đã đưa vào các sáng tác văn học của mình phần lớn là cuộc đời của chính Joyce. Sinh ra ở Dublin năm 1882, James Augustine Aloysius là con cả của John và Mary Jane Joyce, trong một gia đình có 10 anh chị em. Cha ông là một người nóng tính nhưng dí dỏm, nghiện rượu nặng và không biết toan tính, lo xa. Mẹ ông, một phụ nữ sùng đạo Thiên Chúa, bất lực nhìn tài chính của chồng mình và gia đình ngày càng rơi vào tình trạng túng quẫn và chỉ hy vọng rằng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc hơn trong tương lai. James Joyce được hưởng toàn bộ nền giáo dục của thế giới Giáo hội và cái môi trường ấy đã đào tạo cậu hơn cả những gì họ định dạy cậu. Trước khi chàng trai trẻ Joyce tốt nghiệp từ trường Đại học University College, Dublin năm 1902, cậu đã quyết định rằng mình đã học đủ kiến thức để từ bỏ tôn giáo, và toàn bộ bổn phận, trách nhiệm của mình đối với gia đình, tổ quốc và cả những người Anh đang thống trị đất nước mình. Văn học sẽ là nghề nghiệp và nỗ lực của cậu để lưu danh muôn đời sau này. Trong khi cùng vợ và hai đứa con - một trai, một gái di chuyển khắp các thành phố ở châu Âu từ Pola, Trieste, Zurich, Rome, Paris. Joyce tìm những công việc văn phòng hay dạy tiếng Anh như một kế sinh nhai nuôi sống cả gia đình và sự nghiệp viết văn của ông. Tác phẩm đầu tiên của ông được xuất bản là tập truyện ngắn Người Dublin (Dubliners), gồm có 15 truyện ngắn với những cốt chuyện truyền thống và một phong cách mà ông gọi là “epiphanies” (thoát nhiên hiển lộ), tập trung vào những khoảnh khắc khi sự thật, bản chất của một con người hay sự kiện đột nhiên phơi mở. Tiếp sau đó Chân dung một chàng trai trẻ (A Portrait of the Artist as a Young Man) được xuất bản - một cuốn tiểu thuyết bán tự truyện đầu tay của Joyce thể hiện một dấu ấn về phong cách, về độ phức tạp của ngôn ngữ thông qua chàng trai trẻ Stephen Dedalus - cái tên Joyce chọn để đại diện cho chính mình, từ khi cậu ta còn rất nhỏ đến khi quyết định rời bỏ Dublin để theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật của mình. Chân dung một chàng trai trẻ không bán được nhiều như mong đợi nên Joyce vẫn không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn với những khó khăn tài chính. Tuy nhiên, những sáng tác của ông đã gây được sự chú ý của một số nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn thời điểm đó, trong đó nổi tiếng nhất là nhà thơ người Mỹ, Ezra Pound2 - người đã tin rằng thế kỷ tiếp theo sẽ đòi hỏi một dạng nghệ thuật khác: thi ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, âm nhạc…tất cả mọi thứ. Và những người ủng hộ đó đã quy tập lại để ủng hộ những thử nghiệm mới trong văn phong của Joyce và tất nhiên ông đã không làm họ thất vọng. Thế nhưng chính vụ kiện tụng này cũng đã ngẫu nhiên làm cho giới văn sĩ và độc giả càng tò mò về cuốn sách sắp tới của Joyce. Thậm chí ngay cả trước khi Ulysses được xuất bản dưới đạng sách thì giới phê bình đã so sánh những phát hiện mới của Joyce với những khám phá của Einstein và Freud. Vì thế mà, có thể lần đầu tiên đọc Ulysses là một thử thách lớn và đòi hỏi một sự kiên trì và dũng cảm chịu đựng ngoan cường. Stephen Dedalus lại xuất hiện, vẫn lẩn quẩn ở Dublin và mơ đến việc trốn thoát khỏi thành phố này. Sau đó, chúng ta sẽ gặp Leopold Bloom hay chính xác hơn là gặp những suy nghĩ của anh ta khi Bloom chuẩn bị bữa ăn sáng cho vợ mình, Molly. (Chúng ta sẽ trải nghiệm qua dòng độc thoại mãnh liệt của cô ta dài tới 25.000 từ liên tiếp không có một dấu chấm câu. Trong màn độc thoại đó, cô cố gắng suy ngẫm về những điểm thiếu sót trong tính cách của chồng mình, về một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, về những người tình của mình, điểm yếu của đàn ông và sự mỏng manh của phụ nữ cho đến khi cô ta lăn ra ngủ, và cuốn sách khép lại). Ulysses là miêu tả trong một ngày trọn vẹn ở Dublin - ngày 16 tháng Sáu năm 1904, là món quà riêng của Joyce dành cho Nora vì đây chính là ngày đầu tiên hai người hẹn hò đi chơi cùng nhau. Cuốn sách không những dõi theo những khoảnh khắc của Stephen và Bloom mà còn là hàng trăm người dân Dublin đi lại trên đường phố; gặp nhau và nói chuyện, sau đó tiếp tục nói chuyện nhiều hơn trong các quán ăn và nhà hàng. Tất cả mọi hoạt động có vẻ như ngẫu nhiên - chỉ là một ghi chép những tình huống ngẫu nhiên trong một thành phố. Sau đó Joyce cũng mủi lòng hơn và vì vậy mà thế giới đã học được rằng Ulysses, cùng với rất nhiều thứ khác nữa, là một bản kể hiện đại, mới của thiên sử ca Odyssey của Homer: Bloom giống như một anh hùng lang thang; Stephen giống như Telemachus4và Molly giống như Penelope5. Eliot6, người nhận ra nền móng của cuốn tiểu thuyết viết rằng việc Joyce sử dụng thần thoại cổ điển như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm hiện đại là “một điều quan trọng của một phát minh khoa học”. Nhưng cũng chỉ có một người dám cố gắng để vượt qua bộ sách bách khoa Ulysses mà người đó không phải ai khác mà chính là Joyce. Ông đã dành đến 17 năm trời để viết Finnegans thức giấc13 (Finnegans Wake), một cuốn sách có ý định khắc họa cuộc sống đang đêm của Dublin giống như Ulysses miêu tả toàn bộ hoạt động ban ngày của thành phố. Với mục đích đó, Joyce đã quyết định sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ mới mà có thể diễn tả bằng điệu bộ sự trải nghiệm của giấc mơ. Hơn 600 trang sách tưởng chừng như rất ngớ ngẩn và không thể hiểu được với hơn chục ngôn ngữ khác nhau khiến cho nhiều người ủng hộ ông lo ngại cho sự chào đón của công chúng. Để trả lời phàn nàn của Pound về sự khó hiểu của cuốn sách này, Joyce viết: “Hành động trong tác phẩm mới của tôi diễn ra vào ban đêm. Hiển nhiên là mọi thứ đều không quá sáng vào ban đêm, có phải vậy không nào?” Và ngày nay, chỉ có những học giả say mê nghiên cứu Joyce mới đọc Finnegans thức giấc. Chắc phải một thế kỷ nữa bạn đọc mới có thể hiểu nổi nó và theo kịp được Joyce!. “Barnacle” trong tiếng Anh nghĩa là “người bám dai như đỉa” 2. Nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà phê bình người Mỹ - một trong những nhân vật quan trọngtrong trào lưu hiện đại trong nghệ thuật. (1856-1939) Nhà văn người Mỹ, nổi tếng trong lĩnh vực phê bình văn học.4. Một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp - con trai của Odysseus và Penelope5. Tên một nhân vật chính trong Odyssey.6. Nhà thơ, nhà viết kịch và phê bình văn học người Mỹ. Năm 1948 ông đã đạt giải Nobel vănhọc.7. (1897-1962) Tiểu thuyết gia người Mỹ.8. Tác giả người Pháp, đạt giảI Nobel văn học năm 1957.9. Nhà viết kịch, nhà thơ, tiểu thuyết gia người Ailen, đạt giảI Nobel văn học năm 196910. (1915-2005) Nhà văn người Mỹ đạt giảI Nobel năm 197611. (1928- ): Tiểu thuyết gia, nhà báo, nhà hoạt động chính trị người Colômbia và ông đạt giải Nobel văn học năm 1982 với tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”12. (1931- ): Tác giả ngườI Mỹ gốc Phi, đạt giải Nobel văn học năm 1993 13. Tạm dịch (Một số dịch giả khác dịch là “Sự thức tỉnh của người Phê-nê-gân)”. TTO - Thay vì tạm dừng, TP.HCM sẽ được tổ chức cho tài xế giao hàng sử dụng công nghệ (shipper) hoạt động tại TP Thủ Đức và 7 quận huyện vùng đỏ nhưng phải xét nghiệm COVID-19 vào mỗi buổi sáng. TTO - Trong ngày thứ 6 TP.HCM thực hiện tăng cường giãn cách xã hội, tỉ lệ F0 trong cộng đồng chiếm hơn 90% tổng số F0 mới. Nhưng chính quyền khuyến cáo người dân bình tĩnh vì điều này nằm trong kịch bản ứng phó của ngành y tế. TTO - Mỗi người lái xe ôm truyền thống được nhận 3 triệu đồng, người lao động thất nghiệp được nhận 1,2 triệu đồng từ gói hỗ trợ của TP.HCM, số tiền không quá lớn nhưng cũng đủ để người dân co kéo qua giai đoạn khó khăn. TTO - Tính từ 18h chiều 27-8 đến 18h chiều 28-8, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 ghi nhận 12.103 ca nhiễm mới, trong đó 6 ca nhập cảnh và 12.097 ca ghi nhận trong nước. TTO - Tại họp báo chiều 28-8, ông Kajiwara Junichi, tổng giám đốc Công ty Acecook Việt Nam, đã có mặt phản hồi thông tin liên quan sản phẩm mì Hảo Hảo và miến Good được cho là phát hiện có chất cấm tại Ireland.
Ulysses (tiểu thuyết)
Ulysses là tiểu thuyết gồm 3 phần của James Joyce xuất bản lần đầu năm 1922. Với ẩn dụ về sử thi Odysseus, thủ pháp dòng ý thức và nội dung được nén chặt bằng những sự kiện miên man trôi theo suy tưởng của các nhân vật diễn ra chỉ trong một ngày 16 tháng 6 năm 1904, tác phẩm được tạp chí Time đánh giá là một trong số những kiệt tác văn chương lớn nhất thế giới thế kỷ 20. Câu chuyện khởi đầu khi Buck Mulligan leo lên cầu thang của một cái tháp cổ và chuẩn bị cạo râu vào buổi rạng sáng ngày 16 tháng 6 năm 1904. Lát sau Stephen Dedalus cũng leo lên cầu thang đứng nhìn ra vịnh Dublin. Khi Mulligan nói về mặt biển lấp lánh trong ánh bình minh thì bỗng dưng Stephen nhìn thấy mẹ trong thời điểm hắn được gọi về từ Paris đứng bên giường bà đang nằm chờ chết một năm về trước. Hắn nhớ cảnh mẹ van nài hắn cầu nguyện cho linh hồn bà, nhưng hắn, do luôn chống lại các quy tắc luật lệ của nhà thờ thời thơ ấu, đã từ chối yêu cầu của mẹ.
Truyện kinh dị Mỹ: Hội phù thủy (tựa gốc: American Horror Story - Coven) là mùa thứ ba của loạt phim kinh dị truyền ngắn American Horror Story của kênh FX. Mùa phim ra mắt ngày 9 tháng 10 năm 2013 và kết thúc ngày 29 tháng 1 năm 2014. Nội dung phim xảy ra năm 2013, tại New Orleans, và xoay quanh một hội phù thủy Salem cố gắng sống còn giữa vòng vây kẻ thù. Nội dung có các đoạn tiền truyện từ các thập niên 1830, 1910 và 1970. Như các phần trước, Hội phù thủy nhận được nhiều sự phản hồi tích cực, và rating rất mạnh, với tập mở màn đạt 5.54 triệu lượt xem. Thêm vào đó, hội phù thủy được đề cử cho Giải Quả cầu Vàng cho serie hoặc phim truyền xuất sắc tại lễ trao gỉai lần thứ 71. Trong mùa thứ năm, Khách sạn, Gabourey Sidibe tiếp tục vào vai Queenie trong tập 11 của mùa phim này. Câu chuyện xoay quanh một hội phù thủy Salem sinh sống tại Học viện Miss Robichaux ở New Orleans. Khi giống loài phù thủy dần suy yếu và các gia đình phù thủy lại không muốn sinh con. Họ chật vật sống còn với nhiều những mối nguy từ bên ngoài như lực lượng phù thủy Voodoo do Marie Laveau (Angela Bassett) làm thủ lĩnh và hội thợ săn phù thủy với tên gián điệp Hank (Josh Hamilton) vốn đã tiếp cận được Hiệu trưởng học viện là Cordelia Foxx (Sarah Paulson). Các học viên bao gồm Zoe Benson (Taissa Farmiga) với khả năng bẩm sinh là giết trai trên giường chỉ bằng cách làm tình, Madison Montgomery (Emma Roberts) với sức mạnh dời đổi đồ vật từ xa; Queenie (Gabourey Sidibe), một con búp bê tà thuật sống và Nan (Jamie Brewer), người thấu tưởng. Vốn tính ham muốn từ bé, phù thủy tối cao Fiona Goode (Jessica Lange) tìm mọi cách níu kéo quyền lực. Trên con đường níu kéo quyền lực, Fiona đã chạm mặt kẻ phân biệt chủng tộc bất tử Delphine LaLaurie (Kathy Bates), tên Sát nhân Người Rìu (Danny Huston), Papa Legba (Lance Reddick) và liên kết cả với kẻ thù của hội là Marie Laveau. Myrtle Snow (Frances Conroy), một người không đội trời chung với Fiona, quyết không để yên cho kẻ tham quyền cố vị đầy ích kỷ hoành hành. Nhiều sóng gió đã xảy ra khi hội phù thủy rơi vào giai đoạn đen tối mới. Dù sức mạnh của Fiona cũng có ích khi chiến đấu với hội thợ săn phù thủy, bản tính ích kỷ của bà thì không ai chịu nổi. Sóng gió qua đi, các mối đe dọa bị dẹp yên. Như lẽ tự nhiên, Fiona không thể ngăn căn bệnh ung thư hủy diệt bà. Một cuộc thi diễn ra và Cordelia lên ngôi trong sự ủng hộ của mọi người. Truyện kinh dị Mỹ: Hội phù thủy nhận phản hồi tích cực. Trang đánh giá Rotten Tomatoes khảo sát được tỷ lệ tán dương là 85% với điểm trung bình là 7.24/10, dựa trên 32 bài phê bình. Trang này nhận xét, "một dàn diễn viên ghi dấu ấn cùng cách kể chuyện ma mị,dữ dội và lôi cuốn cho American Horror Story: Coven một sự kinh dị được thiết kế đầy tiềm năng." Mùa phim đạt điểm 71 trên 100 tại Metacritic, với 24 bài phê bình được cân nhắc. Tuy nhiên, một số nhà phê bình vẫn có ý kiến trái chiều cho Coven. Club cho điểm thấp là D+, với Todd VanDerWerff nhận xét, "Nó say xỉn loạng choạng từ ý tưởng này sang ý tưởng khác và chẳng bao giờ đậu lại chỗ nào đủ lâu để tạo được cái gì xem được.". Trong phần đánh giá muộn sau mùa phim, The Michigan Daily cho điểm B+, đánh giá: "dù phần kết, được đặt mỹ danh là "The Seven Wonders" (Bảy kỳ quan), chưa bao giờ xứng với cái tiêu chuẩn cao mà cả mùa phim đã tự đặt cho mình, Coven vẫn sẽ còn ghi dấu ấn vững chắc." Jeff Jensen của trang Entertainment Weekly cho điểm B và viết, "Không thể chối bỏ là: qua từng tuần, sự thái quá của Coven lại buồn cười một các vi diệu. Năm tới hy vọng American Horror Story sẽ làm nhiều hơn với nỗ lực ít hơn."
Truyện kinh dị Mỹ
Truyện kinh dị Mỹ: Hội phù thủy (tựa gốc: American Horror Story - Coven) là mùa thứ ba của loạt phim kinh dị truyền ngắn American Horror Story của kênh FX. Mùa phim ra mắt ngày 9 tháng 10 năm 2013 và kết thúc ngày 29 tháng 1 năm 2014. Nội dung phim xảy ra năm 2013, tại New Orleans, và xoay quanh một hội phù thủy Salem cố gắng sống còn giữa vòng vây kẻ thù. Nội dung có các đoạn tiền truyện từ các thập niên 1830, 1910 và 1970. Các diễn viên trở lại tham gia từ mùa trước bao gồm: Robin Bartlett, Frances Conroy, Jessica Lange, Sarah Paulson, Evan Peters, và Lily Rabe. Taissa Farmiga, Jamie Brewer, Denis O Hare, và Alexandra Breckenridge cũng trở lại tham gia. Như các phần trước, Hội phù thủy nhận được nhiều sự phản hồi tích cực, và rating rất mạnh, với tập mở màn đạt 5.54 triệu lượt xem. Mùa phim nhận 17 đề cử Emmy, bao gồm Giải Primetime Emmy cho phim truyền hình ngắn xuất sắc nhất và năm đề cử diễn xuất cho Jessica Lange, Sarah Paulson, Angela Bassett, Frances Conroy, và Kathy Bates, với Lange và Kathy Bates gìanh chiến thắng.
Nông nghiệp là quá trình sản xuất lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, tơ, sợi và sản phẩm. Mong muốn khác bởi trồng trọt những cây trồng chính và chăn nuôi đàn gia súc (nuôi trong nhà). Công việc nông nghiệp cũng được biết đến bởi những người nông dân. Trong khi đó các nhà khoa học, những nhà phát minh thì tìm cách cải tiến phương pháp. Công nghệ và kỹ thuật để làm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi. Đây là một ngành mang nhiệm vụ quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước. Nhất là vào các thế kỷ trước khi công nghiệp chưa tiến bộ như hiện tại. Và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. 7 Khoa học Nông nghiệp7.1 Làm thế nào để cây phát triển nhanh hơn7.2 Các vấn đề cần giải quyết trong nông nghiệp. Nông nghiệp là tập hợp các phân ngành như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản và công nghệ sau thu hoạch. Chúng bao gồm tất cả các loại cây trồng trong ngành nông nghiệp như cây lương thực: lúa, ngô, khoai…. Cây ăn quả: dâu tây, quýt, dưa hấu… Cây rau màu: cà chua, cải thảo, rau chân vịt,…. Sản xuất nông nghiệp là gì? Đó là toàn bộ quá trình từ khâu chuẩn bị, tiến hành,… để thu hoạch được sản phẩm nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp là gì? Là những thứ thu được trong và sau khi kết thúc quá trình sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm đầu ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại. Làm hàng hóa bán ra trên thị trường hay xuất khẩu. Các việc làm trong phần này cũng có nghĩa là làm sao đó mang lại tài chính đáng kể từ nông sản. Sản vật được tạo ra từ lúa, ngô, đậu,… hay gia súc…. Nông nghiệp ngày nay đã chạy qua so với truyền thống. Phần mà chỉ chú tâm vào việc làm đồ ăn cho người hay cung cấp vật nuôi. Các sản vật ngày nay ngoài lương thực, thực phẩm đáp ứng cần thiết hàng ngày còn các loại khác như. Ngành dệt (bông, len, lụa), chất cháy (metan, ethanol). Cây trồng trong nhà cảnh, làm cảnh, chất tổng hợp tự nhiên (đường, bột ngọt, nước mắm,…), và lai tạo mới. Các chất gây nghiện cả hợp pháp và không hợp pháp như (thuốc lá, cocaine…). Thế kỷ hai mươi đã chứng kiến sự đổi thay trong sản xuất. Nhất là về tiến bộ các máy móc trong sản xuất và ngành tạo ra các hóa chất dùng cho nông nghiệp. Các sản phẩm sinh hóa học bao gồm các hóa chất để lai tạo, gây giống, các chất trừ sâu, diệt cỏ, diêt nấm, phân đạm. Nông nghiệp là nghệ thuật và khoa học canh tác đất, trồng trọt và chăn nuôi. Nó bao chứa việc chuẩn bị các sản phẩm động thực vật cho mọi người sử dụng và phân phối chúng ra thị trường. Nông nghiệp cung cấp hầu hết lương thực và vải vóc cho thế giới. Bông, len và da đều là sản phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp cũng cung cấp gỗ cho xây dựng và các sản phẩm giấy. Các sản phẩm này, cũng như các phương thức nông nghiệp được sử dụng, có thể khác nhau giữa các vùng trên thế giới. Qua nhiều thế kỷ, sự phát triển của nông nghiệp đã góp phần vào sự trỗi dậy của các nền văn minh. Trước khi nông nghiệp trở nên phổ biến, con người đã dành phần lớn cuộc đời để tìm kiếm thức ăn – săn bắt động vật hoang dã và hái lượm thực vật hoang dã. Khoảng 11.500 năm trước, con người dần dần biết cách trồng ngũ cốc và các loại cây lấy củ, và định cư bằng cuộc sống dựa vào nghề nông. Cách đây 2.000 năm, phần lớn dân số Trái đất đã phụ thuộc vào nông nghiệp. Các học giả không chắc tại sao lại diễn ra sự chuyển đổi sang trồng trọt này, nhưng nó có thể xảy ra do biến đổi khí hậu. Khi con người bắt đầu trồng trọt, họ cũng bắt đầu chăn gia súc và chăn nuôi động vật hoang dã. Làm cho thực vật và động vật hoang dã thích nghi để con người sử dụng được gọi là thuần hóa. Loại cây đầu tiên được thuần hóa có lẽ là lúa hoặc ngô. Nông dân Trung Quốc đã trồng lúa từ năm 7500 trước Công nguyên. Động vật được thuần hóa đầu tiên là chó, được sử dụng để săn bắn. Cừu và dê có lẽ đã được thuần hóa tiếp theo. Người ta cũng thuần hóa gia súc và lợn. Hầu hết những động vật này đã từng bị săn bắt để lấy da và thịt. Hiện tại chúng là nguồn cung cấp sữa, pho mát và bơ. Cuối cùng, con người đã sử dụng các động vật thuần hóa như trâu bò để cày, kéo và vận chuyển. Nông nghiệp cho phép con người sản xuất lương thực dư thừa . Họ có thể sử dụng thực phẩm bổ sung này khi mùa màng thất bát hoặc đổi lấy hàng hóa khác. Thực phẩm dư thừa cho phép mọi người làm những công việc khác không liên quan đến nông nghiệp. Một thời kỳ phát triển nông nghiệp quan trọng bắt đầu vào đầu những năm 1700 đối với Vương quốc Anh và các nước vùng thấp nằm dưới mực nước biển như Bỉ, Luxembourg. Các phát minh nông nghiệp mới đã làm tăng đáng kể sản lượng lương thực ở châu Âu và các thuộc địa của châu Âu, đặc biệt là Hoa Kỳ và Canada. Một trong những sự phát triển quan trọng nhất là máy khoan hạt giống bằng ngựa kéo được cải tiến bởi Jethro Tull ở Anh. Cho đến thời điểm đó, nông dân gieo hạt bằng tay. Máy khoan của Tull tạo các hàng lỗ cho hạt giống. Đến cuối thế kỷ 18, khoan hạt đã được thực hiện rộng rãi ở Châu Âu. Nhiều máy móc đã được phát triển ở Hoa Kỳ. Gin bông, được phát minh bởi Eli Whitney vào năm 1794, làm giảm thời gian cần thiết để tách sợi bông khỏi hạt. Vào những năm 1830, máy gặt cơ khí của Cyrus McCormick đã giúp hiện đại hóa quy trình cắt hạt. Cùng lúc đó, John và Hiram Pitts đã giới thiệu một chiếc máy tuốt lúa chạy bằng sức ngựa. Giúp rút ngắn quá trình tách ngũ cốc và hạt từ trấu và rơm. Máy cày bằng thép của John Deere, được giới thiệu vào năm 1837. Giúp nó có thể làm việc trên đất đồng cỏ khó khăn với ít mã lực hơn nhiều. Cùng với máy móc mới, đã có một số tiến bộ quan trọng trong phương pháp canh tác. Bằng cách lai tạo chọn lọc vật nuôi (lai tạo những con có đặc điểm mong muốn). Nông dân đã tăng quy mô và năng suất vật nuôi của họ. Các nền văn hóa đã chăn nuôi động vật trong nhiều thế kỷ. Bằng chứng cho thấy những người du mục Mông Cổ đã chọn lọc giống ngựa trong thời kỳ đồ đồng. Người châu Âu bắt đầu thực hành chăn nuôi chọn lọc trên quy mô lớn từ thế kỷ 18. Một ví dụ ban đầu về điều này là cừu Leicester. Một loài động vật được lai tạo có chọn lọc ở Anh để có thịt chất lượng và len dài, thô. Vào cuối những năm 1950, hầu hết nông dân ở các nước phát triển đang sử dụng cả xăng và điện để cung cấp năng lượng cho máy móc. Máy kéo đã thay thế động vật kéo và máy móc chạy bằng hơi nước. Nông dân đã sử dụng máy móc trong hầu hết các khâu quản lý trồng trọt và chăn nuôi. Điện lần đầu tiên trở thành nguồn điện trong các trang trại ở Nhật Bản và Đức vào đầu những năm 1900. Đến năm 1960, hầu hết các trang trại ở Mỹ và các nước phát triển khác đã được điện khí hóa. Điện thắp sáng các tòa nhà trang trại và cung cấp năng lượng cho các máy móc. Như máy bơm nước, máy vắt sữa và thiết bị cho ăn. Ngày nay, điện kiểm soát toàn bộ môi trường trong các chuồng gia súc và chuồng gia cầm. Theo truyền thống, nông dân đã sử dụng nhiều phương pháp. Để bảo vệ cây trồng của họ khỏi sâu bệnh. Họ đã đưa các chất độc có nguồn gốc từ thảo mộc lên cây trồng. Chọn lọc côn trùng khỏi cây trồng. Lai tạo các giống cây trồng mạnh và luân canh để kiểm soát côn trùng. Bây giờ, hầu hết tất cả nông dân, đặc biệt là ở các nước phát triển. Dựa vào hóa chất để kiểm soát sâu bệnh. Định nghĩa về “dịch hại” bao gồm từ côn trùng đến động vật như thỏ và chuột. Cũng như cỏ dại và sinh vật gây bệnh — vi khuẩn, vi rút và nấm. Với việc sử dụng hóa chất, mùa màng thất thu và giá cả đã giảm đáng kể. Trong hàng ngàn năm, người nông dân dựa vào phân bón tự nhiên. Các vật liệu như phân ủ, tro củi, xương đất. Cá hoặc các bộ phận của cá, và chất thải của chim và gà. Để bổ sung hoặc tăng chất dinh dưỡng trong đất. Vào đầu những năm 1800, các nhà khoa học đã khám phá ra. Những nguyên tố nào cần thiết nhất cho sự phát triển của thực vật: nitơ, phốt pho và kali. Sau đó, phân bón có chứa các nguyên tố này đã được sản xuất ở Mỹ và ở Châu Âu. Hiện nay, nhiều nông dân sử dụng phân bón hóa học có nitrat và phốt phát. Vì chúng làm tăng năng suất cây trồng rất nhiều. Tuy nhiên, thuốc trừ sâu và phân bón đi kèm với một loạt vấn đề khác. Việc phụ thuộc nhiều vào hóa chất đã làm xáo trộn môi trường. Thường phá hủy các loài động vật hữu ích cùng với những loài có hại. Sử dụng hóa chất cũng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe con người. Đặc biệt là qua nguồn nước bị bẩn. Các nhà khoa học nông nghiệp đang tìm kiếm các hóa chất an toàn hơn. Để sử dụng làm phân bón và thuốc trừ sâu. Một số nông dân sử dụng các biện pháp kiểm soát tự nhiên và ít dựa vào hóa chất hơn. Biện pháp làm tăng độ phì nhiều của đất, độ phì nhiêu của đất là. Tôi muốn tìm hiểu tài liêu và con giống cua đá ở lý sơn. Mong được sự giúp đỡ. Giá chó thịt 75k/kg. Cám 300k/ bao 25kg . Tiêm vacxin cho cả đàn 15con thì chả có đồng nào.
Nông nghiệp đô thị
Nông nghiệp đô thị , trồng trọt đô thị, hoặc làm vườn đô thị là hoạt động trồng trọt, chế biến và phân phối thực phẩm trong hoặc xung quanh các khu vực đô thị. Nông nghiệp đô thị cũng có thể liên quan đến chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nông lâm kết hợp, nuôi ong đô thị và làm vườn. Các hoạt động này cũng diễn ra ở các khu vực ven đô, và nông nghiệp ven đô có thể mang những đặc điểm khác biệt. Nông nghiệp đô thị có thể phản ánh nhiều mức độ phát triển kinh tế và xã hội. Đó có thể là một phong trào xã hội cho các cộng đồng bền vững, nơi những người trồng trọt hữu cơ, "những người thích ăn uống" và "những người ăn thực phẩm bản địa " hình thành các quan hệ xã hội, dựa trên sự chia sẻ các quan điểm và tính tổng thể của cộng đồng. Các mạng lưới này có thể phát triển khi nhận được hỗ trợ thể chế chính thức, được tích hợp vào quy hoạch thị trấn địa phương như một phong trào "thị trấn chuyển đổi" cho phát triển đô thị bền vững.
Xe đạp thể thao bao gồm tất cả các loại xe đạp đua, xe đạp biểu diễn, xe đạp thể dục, xe đạp dành cho đi phượt,… với những địahình, mục đích, sở thích, nhu cầu khác nhau. Chính vì vậy, việc thiết kế và cấu tạo của xe đạp thể thao có sự khác biệt so với dòng xe đạp thông thường ngoài thị trường. Rất nhiều người bị nhầm lẫn giữa xe đạp thể thao và xe đạp thông thường. Thấu hiểu điều đó, hôm nay chúng tôi xin chia sẻ đến bạn hiểu thế nào là xe đạp thể thao, các loại xe đạp dòng này cũng như giá thành và ở đâu bán xe đạp thể thao tại Hà Nội?. Các bạn cùng tìm hiểu nhé!. Xe đạp thể thao mang đến người dùng những lợi ích nhất định. Bên cạnh đó, góp phần trải nghiệm những điều thú vị từ các bộ môn thể thao khác nhau. Vậy, xe đạp thể thao là gì? Câu trả lời chính là một dạng của xe đạp, là phương tiện để di chuyển như những loại xe thông thường khác. Loại xe này chỉ khác với xe đạp ở chỗ có nhiều lợi ích, ngoài phục vụ cho việc di chuyển đi học, dạo phố, thể dục thể thao thì dòng xe này có nhiều tiện ích khác như: Biểu diễn trên sân khấu, đua xe, đi được tốc độ cao trên địa hình núi gồ ghề,. Nhiều người khi tìm hiểu thường có chung thắc mắc đó chính là: Có những loại xe đạp thể thao nào? Dựa vào phân loại theo đối tượng sử dụng và theo cấu tạo xe. Bạn có thể dễ dàng nắm được thông tin này. Cụ thể như sau:. Xe đạp là phương tiện đi lại rất thông dụng, gọn nhẹ. Vì vậy, bất cứ ai cũng có thể sử dụng chúng. Nhưng lựa chọn xe đạp thể thao có kích thước phù hợp với chiều cao. Hoặc sở thích sẽ giúp điều khiển xe dễ dàng và thoải mái hơn. Phân loại xe đạp thể thao theo đối tượng sử dụng gồm: Loại xe dành cho Nam và loại xe dành cho Nữ. Nhìn tổng thể thì dòng xe theo đối tượng này cũng có nhiều điểm tương đồng. Không khác nhau nhiều lắm. Hầu hết xe đạp thể thao của nữ giới có khung xe sử dụng gióng ngang ngắn và dốc hơn xe nam, rút ngắn tầm với đến tay lái. Các bộ phận khác: Tay lái và tay phanh, tay gạt được thiết kế đặc biệt cho bàn tay nhỏ của phụ nữ. Phần phía sau của yên xe rộng để phù hợp với xương ngồi ở nữ giới. Hầu hết xe đạp thể thao của nam giới có khung xe sử dụng gióng ngang dài hơn xe của nữ. Bởi nam giới người thường to, cao, cánh tay dài hơn nữ,.nên tầm với đến tay lái sẽ dài hơn. Các bộ phận khác: Tay lái và tay phanh, tay gạt được thiết kế đặc biệt cho kích thước bàn tay của nam giới. Giá xe đạp thể thao người lớn cho Nam đối với xe mới trung bình trên 3 triệu đồng/ xe. Tuy nhiên, có rất nhiều mẫu mã, kiểu dáng để việc lựa chọn được tốt nhất!. Xe đạp thể thao theo cấu tạo xe bao gồm: Xe địa hình, xe đua, xe đường phố. Tùy loại mà có đặc điểm riêng biệt. Dòng xe địa hình (Mountain-Bike) hay còn gọi là xe đạp leo núi có trọng lượng khá nặng, bánh xe to, nhiều gai. Loại xe rất thích hợp để đi trên địa hình gồ ghề: Đường rừng núi, đường dốc. Khung to chắc chắn, có phuộc trước và sau. Một số loại có lắp giảm shock ở phần giữa xe tạo sự an toàn cho người điều khiển. So với các dòng xe đạp đua thì tốc độ cũng như sự linh hoạt của xe địa hình không thể bằng. Tuy nhiên, thay vào đó, xe địa hình lại có ưu thế vượt trội hơn hẳn các dòng xe khác ở chỗ những chiếc xe đạp địa hình này lại có thể chạy được trên mọi địa hình. Mountain-Bike có mức giá bình dân với thiết kế hiện đại theo hướng khỏe khoắn, mạnh mẽ. Loại xe này luôn là sự lựa chọn của rất nhiều Biker trên toàn thế giới. Xe đua - xe đạp thể thao là loại xe được thiết kế với ghi đông thường được uốn cong thành 2 bậc. Xe có trọng lượng nhẹ, phù hợp đi trên đường dải nhựa bằng phẳng. Phuộc trước bằng carbon tổng hợp. Đặc biệt, loại xe này không có giảm sóc trước hoặc sau. Có lốp, ít gai để giảm trọng lượng tới mức tối thiểu. Khung xe được thiết kế tạo tư thế khí động học. Đây là yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao hiệu suất. Có tác dụng khi ngồi điều khiển xe sẽ giảm ma sát, đạt tốc độ cao. Hình ảnh của Road bike chúng ta có thể thấy quen thuộc trong các giải đua xe đạp lớn trong và ngoài nước. Dòng xe đạp đường phố (Hybrid bike) có thiết kế đa năng. Với khung thanh mảnh, lốp êm, có giảm sóc trước. Thiết kế xe phù hợp với việc di chuyển trong thành phố với tốc độ cao, thoải mái. Dòng xe này thường sẽ chạy nhanh hơn MTB trên những cung đường bằng phẳng. Có thể dễ dàng vượt qua những đoạn đường xấu. Trên thị trường có nhiều loại xe đạp thể thao khác nhau phù hợp với nhu cầu, sở thích của từng đối tượng. Câu hỏi được nhiều người quan tâm chính là Giá xe đạp thể thao là bao nhiêu? Câu trả lời chính là: Giá của một chiếc xe đạp có thể dao động từ khoảng 1,5 triệu trở lên. Tùy thuộc vào sở thích, mục đích sử dụng, tình hình tài chính mà bạn có thể chủ động đưa ra lựa chọn cho mình!. Hiện nay, có rất nhiều cửa hàng uy tín trên các thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh,. là trung tâm thương mại trọng điểm. Vậy, ở đâu bán xe đạp thể thao tại Hà Nội? Trong đó, tại Hà Nội một trong những cơ sở bán xe đạp thể chất lượng hàng đầu có thể kể đến Xe đạp Hiếu Dũng, địa chỉ 256 đường Láng - Đống Đa - Hà Nội với nhiều năm hoạt động giàu kinh nghiệm trong việc nhập khẩu các loại xe mới, kiểu dáng thiết kế vượt trội, các thương hiệu nổi tiếng được thế giới công nhận, trải qua quy trình test thử, sự kiểm tra nghiêm ngặt của đội ngũ cán bộ có trách nhiệm,.luôn là niềm tin và là sự lựa chọn số 1 của khách hàng.
Xe đạp thể thao
Xe đạp thể thao bao gồm các hoạt động thể chất có tính cạnh tranh với phương tiện là xe đạp. Có nhiều hình thức đua xe đạp như xe đạp đường trường, tính giờ, cyclo-cross, xe đạp địa hình, xe đạp lòng chảo, BMX. Các môn xe đạp thể thao không có hình thức đua bao gồm xe đạp nghệ thuật, polo xe đạp, BMX tự do và trial. Liên đoàn Xe đạp Quốc tế (UCI) là cơ quan quản lý các môn xe đạp và các sự kiện quốc tế. Đua xe đạp được công nhận là một môn thể thao Olympic. Các cuộc đua xe đạp được nhiều người trên thế giới theo dõi, đặc biệt ở châu Âu. Các quốc gia có nền xe đạp mạnh gồm có Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. Các quốc gia khác cũng có chỗ đứng trên đấu trường quốc tế là Luxembourg, Anh Quốc, Hoa Kỳ và Úc. Cuộc đua xe đạp đầu tiên được tổ chức với nhiều người theo dõi và tham gia là cuộc đua 1.200 mét vào ngày 31 tháng 5 năm 1868 tại Parc de Saint-Cloud, Paris.
Vữa trong xây dựng từ lâu đã là một nguyên liệu không thể thiếu trong xây dựng. Tuy nhiên, nhiều người đôi khi vẫn nhầm lẫn các loại vữa với nhau. Thậm chí, thành phần của vữa đôi khi cũng gây nhầm lẫn. Vữa là một hỗn hợp được trộn một cách hợp lý theo một tỉ lệ nhất định giữa nhiều loại nguyên liệu khác nhau. Chúng được trộn nhân tạo (do con người tác động), trộn đều của chất kết dính vô cơ, cốt liệu nhỏ với nước theo tỷ lệ thích hợp. Tỷ lệ có thể được thay đổi tùy thuộc vào yêu cầu, cũng như mục đích sử dụng loại vữa. Thôi khi, người trộn có thể cho thêm một số phụ gia để đáp ứng với tính chất thực tế của công trình thi công, nâng cao thêm tính năng cho vữa. Vữa sau khi rắn sẽ trở nên cứng, có khả năng chịu lực hoặc liên kết giữa các cấu kiện xây dựng. Công dụng: Làm chất kết dính để kết nối các nguyên liệu, vật liệu xây dựng lại với nhau. Dùng trong các công trình xây dựng, thiết kế sân vườn, cảnh quan, tiểu cảnh…. Vữa tam hợp còn được biết đến với cái tên vữa hỗn hợp và vữa bata. Được cấu tạo từ các thành phần chính là : vôi+ cát+ xi măng+ nước. Vữa tam hợp vừa có tính dẻo vừa có tính lưu động cao hơn. Do đặc tính hút ẩm cao nên vữa tam hợp rất phù hợp với những công trình xây dựng ẩm thấp. Vữa xi măng bao gồm 2 thành phần chính là xi măng và nước. Do đó, loại vữa này có khả năng đông cứng nhanh. Được sử dụng chủ yếu để đánh màu, chống thấm cho bể nước, WC, mái bằng…. Vữa có nhiều loại, mỗi loại lại có những điểm nổi bật với thành phần trộn khác nhau. Tùy thuộc vào mục đích sử dụng để chọn loại vữa cho phù hợp. Việc phân loại vữa sẽ tùy thuộc vào đặc tính của chúng để phân loại. Vữa được phân loại theo công dụng bao gồm: vữa xây, vữa trát, vữa lát, ốp, vữa dùng để trang trí. Tất nhiên, thành phần và tỉ lệ trộn của những loại vữa này cũng khác nhau. Chất kết dính có thể hiểu đơn giản là quá trình kết nối giữa 2 bề mặt tương tự nhau, tạo thành một liên kết vĩnh viễn. Trong xây dựng, chất kết dính được coi là cầu nối giữa các bề mặt với nhau. Vữa thạch cao: Vữa thạch cao được tạo thành từ bột thạch cao là thành phần chủ yếu. Trộn bột thạch cao cùng với nước theo tỷ lệ 1:1 để ra được vữa thạch cao. Thời gian đông cứng của loại vữa này là khá nhanh chỉ từ 3-5 phút. Thời gian đông kết cũng như độ cứng của vữa phụ thuộc vào tỷ lệ nước còn lại trong bột thạch cao sau quá trình nung khoáng thạch cao (tỷ lệ nước tỷ lệ nghịch thời gian đông rắn và độ cứng của vữa). Nước càng nhiều thì thời gian đông cứng càng lâu và ngược lại. Tỷ lệ nước càng ít thì thời gian đông cứng càng lâu. Vữa asphalt: Vữa asphalt hay hỗn hợp bê tông asphalt gồm các thành phần như: đá dăm, cát, bột khoáng và bi tum. Loại vữa này thường được sử dụng trong các công trình xây dựng yêu cầu độ bền và độ cứng cao. Có thể kể đến một số loại công trình điển hình như: vỉa hè, khu vui chơi giải trí, công trình thể thao và các công trình thủy lợi.
Vữa
Vữa là hỗn hợp được chọn một cách hợp lý (nhân tạo), trộn đều của chất kết dính vô cơ, cốt liệu nhỏ với nước theo những tỷ lệ thích hợp, sau khi cứng rắn có khả năng chịu lực hoặc liên kết giữa các cấu kiện xây dựng. Trong trường hợp cần thiết, hỗn hợp vữa có thêm các chất phụ gia vô cơ hoặc hữu cơ nhằm thu được những tính năng đặc biệt cho vữa. Theo chất kết dính: vữa xi măng, vữa vôi, vữa thạch cao, vữa hỗn hợp (như xi măng - vôi, xi măng - cát - phụ gia. Theo công dụng: gồm vữa xây, vữa trát, vữa lát, ốp, vữa dùng để trang trí hoặc những loại đặc biệt như vữa chống thấm, vữa chịu nhiệt độ cao, vữa chịu độ mặn. Hỗn hợp vữa xuất hiện đầu tiên được làm từ bùn và đất sét. Do người Babylon không có nhiều đá và đất sét cho nên các công trình của họ làm từ gạch nung, sử dụng vôi hoặc hắc ín làm vữa để gắn kết. Theo nhà khảo cổ Roman Ghirshman, dấu tích đầu tiên mà loài người sử dụng vữa là tại công trình ziggurat ở khu khảo cổ Sialk thuộc Iran, làm từ gạch bùn phơi khô xây vào khoảng thời gian 2900 TCN.
Kỹ sư nông nghiệp là người làm công việc nghiên cứu khoa học và áp dụng tốt các tiên tiến vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nhằm thúc đẩy sự phát triển và đáp ứng được nhu cầu lương thực. Chính các kỹ sư nông nghiệp sẽ lại người mang lại khởi sắc cho tương lai. Tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường tuyển dụng kỹ sư nông nghiệp, hiện nay có rất nhiều các trường đại học, cao đẳng có ngành đào tạo về nông nghiệp. Vấn đề Kỹ sư nông nghiệp thi khối nào? Mà bạn thí sinh nào cũng muốn tìm hiểu chuyên sâu về lĩnh vực này. Bên cạnh thông tin về khối thi các bạn thí sinh cũng nên tìm hiểu về điểm chuẩn ngành Kỹ sư nông nghiệp. Thông thường điểm chuẩn của ngành sẽ dao động trong khoảng từ 15 – 18 điểm, tùy thuộc vào phương thức xét tuyển của từng trường. Có thể nói rằng đầu vào ngành này tương đối là dễ dàng và đặc biệt trong bối cảnh hiện nay thì số lượng sinh viên đăng ký theo học ngành vẫn chưa đủ để đáp ưng cho nhu cầu lao động của thị trường. Trong quá trình theo học ngành này bạn có thể được trang bị vốn từ vựng Tiếng anh chuyên ngành Nông nghiệp. Cập nhật tốt các tiến bộ khoa học – kỹ thuật tiên tiến và áp dụng vào việc nuôi trồng giống cây, vật nuôi nhằm đem lại năng suất và tăng cao lợi nhuận. Thực hiện các nghiên cứu và tìm ra những phương pháp mới thay thế cũ để đưa việc chăn nuôi, trồng trọt đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ như việc chế tạo ra phân bón, thuốc điều trị sâu bệnh, lai tạo ra các loại giống và xây dựng nên mô hình chăn nuôi tiên tiến, trồng rau trong nhà kính. Sử dụng tốt các thiết bị hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp hoặc có thể tự thiết kế và lắp đặt, hướng dẫn người dân. Lên kế hoạch, triển khai và tham gia vào các dự án nông nghiệp nhằm mục đích cải thiện chất lượng sản xuất. Thường xuyên tiến hành kiểm tra chất lượng và theo dõi tình trạng các loại cây trồng, vật nuôi để đảm bảo tốt nhất kết quả. Đưa ra kế hoạch sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất đai của ngành Nông nghiệp. Nghiên cứu và đưa ra phương pháp lai giống cây trồng, giao phối vật nuôi nhằm đưa ra sản phẩm giống tốt nhất. Để làm được các công việc ở trên Kỹ sư nông nghiệp có thể làm việc tại các vị trí như: Viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, chi cục hoặc trạm bảo vệ thực vật, các trung tâm khuyến nông nuôi giống cây trồng, vật nuôi. Bên cạnh đó cử nhân tốt nghiệp ngành làm việc tại các trang trại, những công ty Nhà nước hoặc liên doanh về lĩnh vực nông nghiệp. Ngành Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp (tiếng Anh là Agrotechnology Teacher Education) là ngành đào tạo giáo viên Kỹ thuật Nông nghiệp có năng lực chuyên môn, có sức khỏe tốt phục vụ cho việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Học và nắm các kiến thức khoa học cơ bản, những nguyên lý của quy trình kỹ thuật sản xuất, bảo quản, chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy sản. Nắm rõ các biện pháp khoa học kỹ thuật và vận dụng thành thạo vào trong sản xuất nông nghiệp cụ thể trong các lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.). Cơ bản kiến thức về kỹ thuật điện, điện tử, vẽ kỹ thuật, cơ khí, nhiệt lạnh và các phương pháp dạy học Kỹ thuật công nghiệp. Kỹ thuật cắt may, Quy trình chế biến món ăn, Tổ chức cuộc sống gia đình, Trang trí nội thất. Là các môn học trong ngành Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp mà người học cần nắm rõ để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn và phục vụ công tác dạy học môn Công nghệ ở trường Trung học cơ sở. Đào tạo, giảng dạy tại các trường phổ thông trung học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, trung tâm hướng nghiệp mà có tuyển sinh ngành Sư phạm Kỹ thuật nông nghiệp. Lên kế hoạch và thực hiện các dự án, đề tài, chương trình nghiên cứu khoa học với quy mô lớn nhỏ khác nhau để có thể giải quyết tốt các vấn đề về giáo dục trong quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Trở thành cán bộ kỹ thuật tại những cơ sở sản xuất hoặc trung tâm có nghiên cứu ứng dụng chuyển giao khoa học kỹ thuật nông lâm ngư nghiệp.
Kỹ thuật nông nghiệp
Kỹ thuật nông nghiệp là kỹ thuật sản xuất và chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Kỹ thuật nông nghiệp kết hợp các nguyên tắc cơ học, dân dụng, điện, khoa học thực phẩm và kỹ thuật hóa học với kiến thức về các nguyên tắc nông nghiệp theo nguyên tắc công nghệ. Mục tiêu chính của ngành khoa học này là nâng cao hiệu quả và tính bền vững của các hoạt động nông nghiệp. Việc sử dụng đầu tiên của kỹ thuật nông nghiệp là giới thiệu thủy lợi trong nông nghiệp quy mô lớn. Việc thực hành này không được mở rộng cho đến khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra. Với sự phát triển của máy kéo và máy móc trong cuộc cách mạng công nghiệp, một thời đại mới trong Kỹ thuật nông nghiệp bắt đầu. Trong suốt cuộc cách mạng công nghiệp, những người thu hoạch và trồng cây cơ khí sẽ thay thế các cánh đồng trong hầu hết các ngành công nghiệp lương thực và hoa màu. Trong thế kỷ 20, với sự gia tăng của các động cơ đáng tin cậy trong máy bay, các máy xén được thực hiện để phân tán thuốc trừ sâu.
Vẫn bị nhiều chế độ trên thế giới cấm đoán, Trại súc vật (Animal Farm) luôn là khối thuốc nổ chính trị – đến nỗi suýt chút nữa tác phẩm này đã không bao giờ được xuất bản. Christopher Hitchens bàn về “truyện cổ tích”vượt thời gian, siêu việt của George Orwell. Trại súc vật, theo lời của chính tác giả, “là cuốn sách đầu tiên mà trong đó tôi đã cố hòa quyện mục đích chính trị và mục đích nghệ thuật thành một, và tôi hoàn toàn ý thức rõ mình đang làm gì”. Và quả thực những trang sách của tác phẩm này tổng hợp nhiều chủ đề trong số những chủ đề mà xưa nay chúng ta đã đúc kết là “mang tính Orwell”. Trong số những chủ đề này có nỗi căm ghét bạo chúa, tình yêu thương loài vật và miền đồng quê nước Anh, và sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với những truyện ngụ ngôn trào phúng của Jonathan Swift. Ta có thể lồng thêm vào danh sách này ước nguyện thiết tha của Orwell muốn nhìn đời từ góc độ của tuổi thơ ấu trong trắng: ông vẫn hằng mong được làm cha và, do sợ mình bị vô sinh, ông đã nhận một cậu bé làm con nuôi trước khi người vợ đầu của ông qua đời rất lâu. Cái tiểu đề có phần châm biếm của cuốn tiểu thuyết này là “Truyện cổ tích”, và Orwell rất vui khi nghe những người bạn như Malcolm Muggeridge và Sir Herbert Read kể con họ rất thích đọc cuốn sách này. Giống như phần lớn những tác phẩm về sau của ông – đáng chú ý nhất là cuốn Một chín tám tư (Nineteen Eighty-Four) cay nghiệt hơn – Trại súc vật là sản phẩm của việc Orwell tham gia cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Trong cuộc xung đột đó, ông chiến đấu trong hàng ngũ phe chống phát xít và bị thương rồi bị phe ủng hộ Stalin rượt đuổi khỏi Tây Ban Nha. Những kinh nghiệm từ cuộc chiến đó đã khiến ông tin rằng đa số quan điểm “phái tả” là sai lầm, và Liên Xô là một dạng địa ngục mới, chứ không phải một thiên đường utopia sắp mở ra. Ông mô tả căn nguyên của ý tưởng này trong một trong hai lời giới thiệu cuốn sách này:. … trong mười năm qua, tôi đã tin rằng rất cần phá bỏ huyền thoại Xô viết nếu chúng ta muốn hồi sinh phong trào xã hội chủ nghĩa. Lúc hồi hương từ Tây Ban Nha, tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô viết bằng một câu chuyện mà gần như bất cứ ai cũng dễ dàng hiểu được… Tuy nhiên, những tình tiết thật sự của câu chuyện này mãi về sau mới nảy ra trong đầu tôi. Một hôm (lúc đó tôi đang sống ở một làng nhỏ), tôi thấy một cậu bé, chừng mười tuổi, đánh chiếc xe ngựa lớn trên con đường chật hẹp, thẳng tay quật roi mỗi khi con ngựa cố rẽ ngang. Tôi chợt nghĩ rằng chẳng may mà những con vật đó biết rõ sức mạnh của chúng, chúng ta đừng hòng chế ngự được chúng, và nhận ra rằng con người bóc lột loài vật hệt như kiểu người giàu bóc lột giai cấp vô sản. Tôi bắt tay vào phân tích học thuyết của Marx từ góc độ của loài vật. Tính đơn giản của khái niệm này dễ bị hiểu lầm theo nhiều cách. Khi dấn thân vào một việc như vậy, Orwell chọn con đường can dự vào một cuộc tranh luận phức tạp và quyết liệt về cuộc cách mạng Bolshevik ở Nga: thời đó là một vấn đề gây tranh cãi nhiều hơn hiện nay. Trại súc vật có thể được hiểu rõ hơn nếu được tiếp cận theo ba đề mục khác nhau: bối cảnh lịch sử của tác phẩm; cuộc đấu tranh xung quanh việc xuất bản tác phẩm và chuyện về sau tác phẩm được dùng như một vũ khí văn hóa trong Chiến tranh Lạnh; và việc đến tận ngày nay tác phẩm vẫn hợp thời. Cuốn sách được viết ở thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Thế giới thứ hai, và ở thời điểm hiệp ước giữa Stalin và Hitler đã bị thay thế đột ngột bằng một liên minh giữa Stalin và đế chế Anh. London đang bị Đức Quốc xã ném bom, và bản thảo cuốn tiểu thuyết này phải được cứu ra khỏi đống hoang tàn sau khi căn nhà của Orwell ở phía bắc London bị san bằng. Lối hành xử tráo trở khi Stalin chuyển từ phe này sang phe kia chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với Orwell; lúc đó ông đã quen với sự bất lương và tính tàn bạo của chế độ Xô viết. Điều đó khiến ông nằm trong một nhóm nhỏ thiểu số, cả ở nước Anh chính thống lẫn trong phái tả ở Anh. Với một vài thay đổi nhỏ về trình tự của các sự kiện, diễn biến câu chuyện gần giống với số phận của thế hệ 1917 ở Nga. Như vậy kế hoạch cách mạng vĩ đại của con lợn kỳ cựu Thủ Lĩnh (Karl Marx) thoạt đầu được gần như tất cả các loài vật nhiệt tình áp dụng, dẫn đến việc lật đổ Nông Dân Jones (Nga hoàng), việc đánh bại những người nông dân khác đến chi viện cho ông Jones (những cuộc xâm lấn Nga của phương Tây trong hai năm 1918–1919 mà hiện nay người ta đã quên) và việc thành lập một nhà nước kiểu mẫu mới. Trong một thời gian ngắn, những con vật mới thông minh hơn và tàn ác hơn – đương nhiên chính là lũ lợn – đặt những con vật khác dưới sự cai trị độc tài của chúng và sống thụ hưởng như quý tộc. Lũ lợn tất yếu sẽ đến lúc có bất đồng nội bộ. Có thể dễ dàng nhận ra những lực lượng xã hội được đại diện bằng những con vật khác nhau – con tuấn mã Chiến Sĩ là hiện thân của giai cấp lao động, con quạ Moses là Giáo hội Chính thống Nga– cũng như những nhân vật dễ nhận diện do những con lợn khác nhau đóng vai. Sự kình địch giữa Napoleon (Stalin) và Tuyết Tròn (Trotsky) kết thúc bằng việc lưu đày của Tuyết Tròn, và sau đó là nỗ lực xóa sổ Tuyết Tròn khỏi ký ức của trại súc vật. Stalin đã cho người sát hại Trotsky đang lưu vong ở Mexico chưa đầy ba năm trước khi Orwell bắt tay vào viết cuốn sách này. Một số chi tiết nhỏ hơn chính xác đến tỉ mỉ. Do tình thế cấp bách của chiến tranh, Stalin đã có nhiều nhượng bộ mang tính cơ hội. Ông đã thu phục Giáo hội Chính thống Nga về phe với mình, để càng dễ khoác lên mình cái áo yêu nước, và ông sẽ từ bỏ “Quốc tế ca” vì bài hát chính thức từ xưa của phong trào xã hội chủ nghĩa có vẻ quá khiêu khích đối với những đồng minh tư bản chủ nghĩa mới của ông ở London và Washington. Trong Trại súc vật, con quạ Moses được phép lên tiếng trở lại khi khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, và đám dê cùng lũ ngựa cùng đàn gà nghèo khổ bị bóc lột được bảo là bài ca chúng hằng yêu quý “Súc sinh Anh quốc” sẽ không còn được phép hát nữa. Tuy nhiên có một sự bỏ sót rất đáng chú ý. Có lợn Stalin và lợn Trotsky, nhưng không có lợn Lenin. Tương tự, trong Một chín tám tư, ta chỉ bắt gặp Anh Cả Stalin và một Emmanuel Goldstein Trotsky. Dường như lúc đó chẳng ai chỉ ra điều này (và có thể nói, kể từ đó đến nay, chẳng có ai ngoài tôi chỉ ra điều đó; tôi mất nhiều năm mới nhận ra điều rành rành trước mắt như thế). Việc cuốn tiểu thuyết này suýt bị xếp xó không được xuất bản thật đáng suy gẫm. Sau khi thoát được trận oanh tạc của Hitler, bản thảo tơi tả được gởi đến văn phòng của TS Eliot, lúc đó là một biên tập viên quan trọng của nhà xuất bản Faber & Faber. Eliot, một người quen khá thân thiện của Orwell, là người bảo thủ về chính trị và văn hóa, nếu không muốn nói là phản động. Song, có lẽ chịu ảnh hưởng của liên minh giữa nước Anh và Moskva, ông đã từ chối cho in sách với lý do là sách quá nặng “tính Trotsky”. Ông cũng bảo Orwell rằng việc Orwell chọn lũ lợn làm kẻ cầm quyền là lựa chọn đáng tiếc, và độc giả có thể kết luận rằng cần phải có “thêm những con lợn có tinh thần phục vụ công chúng”. Nhận xét này có lẽ không ngu xuẩn bằng lời từ chối mà Orwell nhận được từ nhà Dial Press ở in New York; họ trịnh trọng thông báo với ông là truyện về súc vật không có thị trường ở Mỹ. Mà đó lại là nhận xét từ xứ sở của Disney…. Tình đoàn kết thời chiến giữa Đảng Bảo thủ Anh và Đảng Cộng sản Liên Xô cũng nhận được sự bảo vệ tích cực của Peter Smollett, một quan chức cao cấp trong Bộ Thông tin, và người sau này bị vạch trần là gián điệp cho Liên Xô. Smollett tự thân khuyến cáo một số nhà xuất bản từ chối bản thảo, vì thế Trại súc vật không được chấp nhận ở những hãng xuất bản danh tiếng của Victor Gollancz và Jonathan Cape. Có lúc Orwell đã nghĩ đến việc tự in sách với sự giúp đỡ của người bạn Paul Potts, nhà thơ cấp tiến người Canada; nếu vậy, đó có lẽ là một trường hợp tiên phong của trào lưu tự xuất bản hay samizdat (in và phát hành lén lút) chống Liên Xô. Ông thậm chí còn viết một tiểu luận đầy phẫn nộ với tựa đề “Tự do Báo chí” (The Freedom of the Press), dự kiến đưa vào làm lời giới thiệu: tiểu luận này mãi đến năm 1972 mới được phát hiện và in. Rốt cuộc, danh dự của ngành xuất bản được cứu vãn bởi công ty xuất bản nhỏ Secker & Warburg: năm 1945, công ty này ấn hành một số lượng rất hạn chế và trả cho Orwell 45 bảng Anh. Rất có thể câu chuyện này đã có kết cuộc đáng thất vọng như vậy, nhưng hai diễn biến về sau đã giúp cho tiểu thuyết này có vị trí trong lịch sử. Một nhóm những nhà xã hội chủ nghĩa Ukraina và Ba Lan, lúc đó đang sống trong các trại tị nạn ở Châu Âu hậu chiến, tìm thấy một bản tiếng Anh và thấy cuốn sách là một truyện ngụ ngôn thể hiện gần như hoàn hảo kinh nghiệm của chính họ không lâu trước đó. Ihor Sevcenko, thủ lĩnh biết tiếng Anh nhờ tự học và dịch giả của nhóm này, tìm được địa chỉ của Orwell và viết thư xin phép ông cho dịch Trại súc vật sang tiếng Ukraina. Ông nói với Orwell rằng nhiều nạn nhân của Stalin vẫn tự xem mình là người của phe xã hội chủ nghĩa, và không tin tưởng một trí thức của phái hữu nói lên cảm xúc của họ. “Họ vô cùng xúc động trước những cảnh như cảnh những con vật hát vang bài ‘Súc sinh Anh Quốc’ trên đồi… Họ rất cảm kích trước những giá trị ‘tuyệt đối’ của cuốn sách”. Orwell đồng ý cấp bản quyền xuất bản miễn phí (ông cũng làm vậy đối với những ấn bản về sau bằng nhiều ngôn ngữ Đông Âu). Thật cảm động khi hình dung những cựu quân nhân và cựu tù nhân đã chai lì qua trận mạc, sau khi vượt qua được bao thiếu thốn của mặt trận phía đông, nay lại mủi lòng trước hình ảnh những con vật ở nông trại nước Anh cất tiếng ca bài hát được xem là phiên bản của bài “Quốc tế ca” đã bị bãi bỏ, nhưng đây chỉ mới là một ví dụ ban đầu của tầm ảnh hưởng mà cuốn sách sẽ có đối với độc giả. Giới chức quân sự Mỹ ở Châu Âu thì không dễ mủi lòng đến thế: tìm được bản in nào của cuốn Trại súc vật là họ gom hết rồi giao cho Hồng quân để đốt. Liên minh giữa những người nông dân và lũ lợn, được mô tả đậm nét đến mức ám ảnh ở những trang cuối sách, vẫn còn hiệu lực. Nhưng ở cảnh kết thúc có phần chua cay, thường được người ta nhớ nhất về chuyện không thể phân biệt được đâu là người đâu là lợn, Orwell đã tiên đoán, cũng nhưng trong những dịp khác, rằng tình bạn giả tạo bề ngoài giữa Đông và Tây sẽ không tồn tại được lâu sau khi chủ nghĩa phát xít bị đánh bại. Chiến tranh Lạnh, cụm từ mà chính Orwell là người đầu tiên dùng trong sách in, nhanh chóng tạo ra một bầu không khí ý thức hệ khác hẳn. Điều này lại quyết định cách tiếp nhận Trại súc vật ở Mỹ. Ban đầu bị Angus Cameron, người có cảm tình với cộng sản ở nhà xuất bản Random House, từ chối, tác phẩm tưởng đã chìm vào quên lãng được Frank Morley của nhà Harcourt, Brace, cứu vớt. Khi thăm nước Anh, Frank Morley tình cờ bắt gặp cuốn tiểu thuyết này trong một hiệu sách ở Cambridge, và ông rất mê. Việc xuất bản lại gặp hai cái phúc: Edmund Wilson viết một bài điểm sách đầy thiện cảm cho tạp chíThe New Yorker, so sánh tài năng trào phúng của Orwell với tác phẩm của Swift và Voltaire, và Câu lạc bộ Sách tiêu biểu trong tháng đã chọnTrại súc vật là đầu sách chính, nhờ đó sách được in tới gần nửa triệu bản. Bất chấp sự ngu xuẩn của nhà xuất bản Dial Press, công ty Walt Disney đề xuất chuyển thể sách thành phim. Phim này đã không được dựng, dù về sau CIA có sản xuất và phát hành một bộ phim hoạt hìnhTrại súc vật dùng để tuyên truyền. Đến lúc Orwell mất vào tháng Giêng năm 1950, sau khi vừa mới viết xong Một chín tám tư, ông rốt cuộc đã có danh tiếng quốc tế và nhiều lần phải viết lời phủ nhận trách nhiệm về việc phái hữu ở Mỹ sử dụng tác phẩm của ông. Có lẽ câu nổi tiếng nhất từ tiểu thuyết này là việc lũ lợn phủ nhận khẩu hiệu ban đầu “Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng” bằng cách thêm ý mới “Nhưng có một số con bình đẳng hơn những con khác”. Khi chủ nghĩa cộng sản ở Nga và Đông Âu càng ngày càng lộ rõ bộ mặt của một hệ thống “giai cấp mới”, với những đặc quyền phi lý đến lố bịch dành cho giới chóp bu cầm quyền trong khi đa số thường dân cắn răng sống lê sống lết cho hết một kiếp tầm thường, ảnh hưởng đạo đức của tác phẩm Orwell – đơn giản đến mức rất dễ hiểu và dễ dịch, đúng y như ông đã hy vọng – trở thành một trong nhiều động lực không thể định lượng được làm xói mòn chủ nghĩa cộng sản cả về mặt hệ thống lẫn về mặt ý thức hệ. Ảnh hưởng này dần dần lan sang Châu Á. Tôi nhớ một người bạn cộng sản của tôi gọi điện cho tôi từ Trung Quốc khi Đặng Tiểu Bình công bố “những cải cách” mà sau này đã khơi mào cái mà bây giờ chúng ta gọi là chủ nghĩa tư bản Trung Quốc. “Nông dân phải giàu lên”, vị lãnh tụ Đảng tuyên bố, “và một số người sẽ giàu hơn những người khác”. Đồng chí của tôi gọi điện nói rằng có lẽ Orwell suy cho cùng cũng có lý. Đến nay, Trại súc vật vẫn chưa được xuất bản hợp pháp ở Trung Quốc, Miến Điện hay vùng hoang tàn về đạo đức Bắc Triều Tiên, nhưng rồi sẽ đến ngày tác phẩm này xuất hiện ở cả ba xã hội này, nơi mà nó chắc chắn sẽ được chào đón với cảm giác sửng sốt khi người ta nhận thấy nó vẫn còn có khả năng tạo cảm hứng. Ở Zimbabwe, khi ách cai trị của bè lũ tham nhũng thối nát của Robert Mugabe ngày càng trở nên quá sức chịu đựng, một tờ báo đối lập nắm lấy cơ hội in lại Trại súc vật dưới dạng truyện nhiều kỳ. Tờ báo đăng truyện mà không bình phẩm gì, ngoại trừ trường hợp một trong những hình minh họa kèm theo vẽ tên độc tài Napoleon mang cặp kính có gọng sừng đen đặc trưng của chính nhà lãnh đạo Zimbabwe. Tòa soạn tờ báo này ít lâu sau đó bị đánh bom, nhưng chẳng bao lâu nữa trẻ em Zimbabwe cũng sẽ có thể thưởng thức cuốn sách này đúng như bản chất của nó. Ở thế giới Hồi giáo, nhiều nước tiếp tục cấm Trại súc vật, với lý do bề ngoài là sách nhấn mạnh đến lợn. Rõ ràng đây không thể là toàn bộ lý do – nếu chỉ vì bè lũ lợn được khắc họa với một sắc màu rất thiếu thiện cảm – và dưới chế độ chuyên chế thần quyền của Iran, sách bị cấm vì những lý do liên quan đến thông điệp “cách mạng bị phản bội” trong sách.
Trại súc vật
Trại súc vật (tên tiếng Anh là Animal Farm) là một tiểu thuyết ngụ ngôn của George Orwell, xuất bản lần đầu tiên ở Anh vào ngày 17 tháng 8 năm 1945. Cuốn sách kể về một nhóm động vật trang trại nổi loạn chống lại người chủ của chúng, hy vọng tạo ra một xã hội nơi động vật có thể bình đẳng, tự do và hạnh phúc. Cuối cùng, cuộc nổi loạn bị phản bội, và trang trại kết thúc trong tình trạng tồi tệ như trước đây, dưới chế độ độc tài của một con lợn tên Napoleon. Theo Orwell, câu chuyện ngụ ngôn phản ánh các sự kiện dẫn đến Cách mạng Nga năm 1917 và sau đó là vào thời kỳ Stalin của Liên Xô. Orwell, một nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ, là một người chỉ trích Joseph Stalin và thù địch với chủ nghĩa Stalin tại Moskva, một thái độ được định hình chủ yếu từ những kinh nghiệm của ông trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Trong một bức thư gửi Yvonne Davet, Orwell đã mô tả Trại súc vật như một câu chuyện châm biếm chống lại Stalin ("un conte satirique contre Staline"), và trong bài tiểu luận" Tại sao tôi viết "(1946), Orwell đã viết rằng Animal Farm là cuốn sách đầu tiên mà ông cố gắng, với ý thức đầy đủ "để hợp nhất mục đích chính trị và mục đích nghệ thuật với nhau".
Vương thứ Mười Tám của Ai Cập cổ đại hay Vương triều thứ 18 (bắt đầu năm 1543 TCN – kết thúc 1292 TCN) là một vương triều pharaon nổi tiếng của Ai Cập cổ đại, với sự đạt đỉnh cao nhất về sức mạnh và lãnh thổ của nó. Vương triều thứ 18 có một số vị pharaon nổi tiếng, trong đó bao gồm vị Pharaon trẻ tuổi Tutankhamun – ngôi mộ của ông đã được tìm thấy bởi nhà khảo cổ học người Anh Howard Carter vào năm 1922, và các Pharaon khác như Akhenaton và Nữ hoàng Hatshepsut. Vương triều này cũng được biết đến với tên Vương triều Thutmosid nổi tiếng trong khoảng thời gian cai trị của bốn vị pharaon đầu tiên là các vua thuộc hoàng tộc của Thutmosis I. Vị Nữ hoàng nổi tiếng nhất của Vương triều thứ 18 là Hatshepsut (1479 TCN–1458 TCN), người ta cho rằng bà là một nữ pharaon người bản địa của Ai Cập, thuộc dòng họ của Akhenaten (1353-1336 TCN) và được cho là người đã kế vị Pharaon Nefertiti. Vương triều thứ 18 là vương triều đầu tiên của Thời kỳ Tân Vương quốc, là khoảng thời gian mà nền văn minh của Ai Cập cổ đại đã đạt đến đỉnh cao nhất. Xác định niên đại bằng cacbon-14 cho thấy Vương triều thứ 18 đã có thể đã bắt đầu một vài năm trước so với năm được thường ghi nhận là 1550 trước Công nguyên. Phương pháp xác định niên đại cho thấy thời gian bắt đầu vương triều là vào khoảng 1570-1544 trước Công nguyên, và trung bình là khoảng năm 1557 trước công nguyên. Các pharaon của Vương triều 18 cai trị trong khoảng 250 năm (từ 1550-1298 TCN). Thời gian trị vì và tên các pharaon trong bảng được lấy từ các nghiên cứu của Dodson và Hilton. Nhiều vị trong số các pharaon này được chôn cất trong Thung lũng các vị Vua tại các ngôi mộ xác định bởi tên “KVxx”. Nhiều thông tin, tài liệu cổ mới có ghi chép về niên đại, tên tuổi các pharaon được tìm thấy trong thung lũng và nhờ đó sơ đồ phả hệ cuối cùng đã được sắp xếp và tạo ra. Một số cuộc hôn nhân diễn ra với các quốc gia bên ngoài đã được biết đến ở thời kỳ Tân Vương quốc. Những công chúa của các vua nước ngoài thường được nhắc đến trong nhiều văn bản bằng chữ hình nêm. Các cuộc hôn nhân ấy đã cho thấy rằng vào thời kỳ này đã có một mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa các vương triều Ai Cập với các nước láng giềng. Tượng đầu của một người thuộc Vương triều thứ Mười tám, vương triều Vua từ 1539-1493 TCN,37.38 E, Bảo tàng Brooklyn. vương triều 18 đã được sáng lập bởi Ahmose I, anh trai hay con trai của Kamose, người cai trị cuối cùng của vương triều XVII. Ahmose hoàn thành chiến dịch để trục xuất những người Hyksos đang cai trị. vương triều của ngài được xem như là sự kết thúc của Giai đoạn Trung Gian thứ Hai và sự bắt đầu của thời kỳ Tân Vương quốc. Ahmose được kế thừa bởi con trai của ông Amenhotep I, vương triều này tương đối yên lặng. Amenhotep I có lẽ không có con trai để trở thành người thừa kế và tiếp theo sau ông là pharaon Thutmosis I, dường như có liên quan đến gia đình hoàng gia qua hôn nhân. Trong suốt vương triều của mình, biên giới của Ai cập đạt độ lớn nhất, họ mở rộng mở rộng lãnh thổ của mình về phía bắc Carchemish, trên sông Euphrates và Kurgus ở phía nam. Quyền lực của Thutmosis I tương đương với Thutmosis II và nữ hoàng của mình là Hatshepsut. Bà là con gái của Thutmosis I và ngay sau cái chết của chồng, bà đã cai trị hơn hai mươi năm sau khi pharaon mất, bà là một trong những người con thuộc dân tộc thiểu số, người mà sau này sẽ trở thành như là một nữ pharaon. Thutmosis III sau này trở thành người được gọi là vị pharaon vĩ đại nhất lịch sử, cũng đã cai trị trong một thời gian dài trong Vương triều sau khi pharaon Thutmosis II mất. vương triều của Amenhotep III được xem như là một điểm cao trong vương triều này. Amenhotep III đã thực hiện rất nhiều các công trình xây dựng mới với quy mô lớn, đạt mức độ mà chỉ có thể so sánh được với những người trong thời đại của Ramesses II. Amenhotep III có thể đã nhường ngai vàng trước 12 năm cho con trai mình Amenhotep IV, người đã thay đổi tên của mình thành Akhenaten. Có nhiều cuộc tranh luận về đề nghị đổi tên này. Trong năm thứ năm của vương triều, Amenhotep IV thay đổi tên của mình là Akhenaten và di chuyển thủ đô đến Amarna. Trong suốt vương triều của Akhenaten, Aten – sundisk – lần đầu tiên trở thành vị thần nổi bật nhất, và cuối cùng Aten được coi là chúa. Việc này nổi lên thực sự là độc thần để tiếp tục là chủ đề của các cuộc tranh luận trong cộng đồng khoa học. Một số người cho rằng Akhenaten tạo ra một vị thần trong khi những người khác cho rằng ông bị sự chi phối năng lượng mặt trời và giáo phái, bởi khẳng định của người khác, trong khi ông không bao giờ hoàn toàn bị bỏ rơi một số truyền thống khác của các vị thần. Sau thời Ai Cập gọi là Amarna, thời gian của người là không may sai. Các sự kiện sau cái chết của Akhenaten vẫn chưa rõ ràng. Một vài cá nhân tên là Smenkhare và Neferneferuaten đã được biết, các nhà khảo cổ chỉ biết nhưng vị trí và vai trò trong lịch sử của 2 người vẫn còn nhiều tranh cãi. Tutankhamun là pharaon cuối cùng đã lên ngôi và chết khi còn rất trẻ. Hai thành viên cuối cùng của Vương triều thứ Mười Tám là Ay và Horemheb, họ đã cai trị và trở thành vua từ một chức quan trong triều đình. Ay có thể đã kết hôn với một góa phụ của Tutankhamun nhưng bà ấy không sống được lâu sau đó. Ay trị vì trong thời gian khá ngắn. Người kế thừa sau ông là Horemheb, một vị tướng trong suốt vương triều của vua Tutankhamun, khi Ay không có con để dự định như là người kế nhiệm của mình. Horemheb có thể cướp ngai vàng từ Ay trong một cuộc đảo chính. Horemheb đã qua đời khi ông không có một người con nào và bổ nhiệm người thừa kế ông là Ramesses I. Ông đã lên ngôi vào năm 1292 trước công nguyên, và là vị pharaon đầu tiên của Vương triều thứ Mười chín. Ahmose-Nefertari là con của Seqenenre Tao II, thuộc Vương triều thứ 17. Anh của cô là Ahmose, đã trục xuất người Hyksos ra khỏi lãnh thổ của Ai Cập, và bà ấy đã trở thành một nữ hoàng của Tân Vương quốc. Bà đã được phong là một vị thần sau khi qua đời. Ahmose I. Ông được cho là người sáng lập ra Vương triều thứ 18 và ông là anh trai của Kamose, vị pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 17. Trong suốt triều đại của ông, ông đã trục xuất người Hyksos từ Hạ Ai Cập và đưa đến khu vực đồng bằng sông Nile dưới sự kiểm soát của ông. Ông cũng đã thống nhất về chính trị của Ai Cập một lần nữa. Amenhotep I đã lấy được ngai vàng sau khi hai anh em trai của ông chết. Ông là con trai của Ahmose và Ahmose-Nefertari. Ông đã thành công bởi Thutmosis I đã kết hôn với con gái của ông, Ahmose. Amenhotep I với mẹ của mình, Ahmose-Nefertari. Cả gia đình hoàng gia được ghi chép với việc mở một ngôi làng của người thợ tại Deir el-Medina. Dier el-Medina đặt các nghệ nhân và công nhân xây dựng các ngôi mộ của các pharaon ở Thung lũng các vị Vua, từ Vương triều thứ 18 đến Vương triều thứ 21. Amenhotep I và mẹ của mình đã được phong là những vị thần và là các vị thần chính của ngôi làng. Thutmosis I là một người làm việc trong quân đội, ông lên nắm quyền bằng cách kết hôn với em gái của Amenhotep I. Trong vương triều của ông, ông đã mở rộng biên giới của Ai Cập đến Nubia và Levant. Ông được ghi nhận với việc bắt đầu xây dựng các dự án mà những gì bây giờ là Ngôi đền Karnak. Một bản phác thảo từ một đền thờ của Thutmosis II. Ông được coi là một người cai trị yếu đuối, ông đã kết hôn với em gái của mình là Hatshepsut. Ông đã đặt tên cho Thutmosis III, con trai ông làm người kế nhiệm để ngăn chặn việc Hatshepsut đoạt lấy ngai vàng. Họ đã có một người con gái là Neferure. Hatshepsut là con gái của Thutmose II, bà cai trị vương quốc cùng chồng của mình là Thutmosis III. Bà đã lên ngôi sớm và tuyên bố mình là nữ pharaon đầu tiên mặc dù có thể đã từng có những người cai trị là nữ khác trước thời của bà. Bà là người nữ duy nhất sử dụng các biểu tượng có hình râu. Thutmosis III, một người từng làm trong quân đội và là một thành viên của gia đình hoàng gia Thutmosid thường được gọi là “Napoleon của Ai Cập”. Cuộc chinh phục Levant của ông đã mang lại một diện tích lãnh thổ rộng lớn và tầm ảnh hưởng của Ai Cập đến mức độ cao nhất từ trước đến giờ. Akhenaten, lúc sinh tên là Amenhotep IV, người đã bắt đầu một cuộc cách mạng tôn giáo, trong đó ông tuyên bố Aten là một vị thần tối cao và quay lưng lại với những truyền thống cũ. Ông đã tự đổi tên của mình thành Akhetaten. Công việc của bà trong cuộc sống hàng ngày là tại các tòa án được mở rộng sớm từ Đại Hoàng hậu. Bà ấy cũng có thể đã cai trị Ai Cập với quyền riêng của mình như là một pharaon, Neferneferuaten. Nữ hoàng Meritaten, là con gái lớn nhất của Akhenaten và Nefertiti. Bà là vợ của Smenkhkare. Bà cũng có thể đã cai trị Ai Cập với quyền riêng của mình như là một pharaon và là một trong những ứng cử viên có thể trở thành pharaon, Neferneferuaten. Trên đây là 2 trẻ em, họ là hai trong số sáu người con gái của Akhenaten và Nefertiti. Có thể Neferneferuaten Tasherit là một trong những người có thể đã cùng người cha cai trị vương quốc như là một vị pharaon nữ. Smenkhkare, là người đã cùng Akhenaten trị vì đất nước sau khi ông chết. Người ta tin rằng Smenkhkare là một người nam thay thế trị vì cho Nefertiti, và nó đã được chấp nhận vì Smenkhkare là một nam giới. Ông lấy vợ là Meritaten, con gái con gái của nữ hoàng Nefertiti.
Vương triều thứ Mười Bảy của Ai Cập
Vương triều thứ Mười Bảy của Ai Cập (Vương triều thứ 17) là một triều đại vua trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1550 trước Công nguyên. Kinh đô của triều đại này được đặt tại thành phố Thebes và các vị pharaon thuộc vương triều này đã cai trị trong cùng thời đại với Vương triều thứ 18 do Người Hyksos đứng đầu, ngoài ra họ còn kế tục Vương triều thứ Mười Sáu đóng đô tại Thebes. Vào năm 2012, trong khi đang tiến hành nghiên cứu tại một cánh cửa đá vôi của ngôi đền Amun-Ra ở Luxor, các nhà khảo cổ học người Pháp đã phát hiện ra những chữ tượng hình với tên của Senakhtenre, đó là bằng chứng đầu tiên về sự hiện diện của vị vua này trong lịch sử. Hai vị vua cuối cùng của Vương triều thứ 17 đã đứng lên chống lại ách thống trị của người Hyksos trên toàn vùng đất Ai Cập và họ đã bắt đầu một cuộc chiến tranh chống lại các vị vua người Hyksos mà từ cuộc đấu tranh đó, cuối cùng đã mở ra một giai đoạn thống nhất mới được gọi là thời kỳ Tân Vương quốc.
Sau một thời gian yêu nhau đến mức “không còn gì tìm hiểu”, năm 2018 anh A và chị B quyết định gắn bó nhau trọn đời. Do nhu cầu cuộc sống, tháng 6-2019 hai vợ chồng cùng đi vay ngân hàng số tiền 200 triệu đồng. Tưởng chừng cuộc sống của hai anh chị sẽ được hạnh phúc nhưng do mỗi người mỗi ý, khoảng cách giữa hai người ngày một lớn, tình cảm ngày càng rạn nứt. Đến tháng 9-2019, anh A và chị B quyết định ly thân. Vấn đề đặt ra là liệu rằng anh A và chị B có còn trách nhiệm gì với nhau không ? Có được pháp luật thừa nhận không phát sinh nghĩa vụ trong thời gian ly thân?. Trong Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 đang có hiệu lực thi hành không có một chế định nào về việc ly thân. Theo đó, ly thân cũng không được pháp luật thừa nhận một cách rõ ràng mà chỉ được coi như là căn cứ để ly hôn. Ly thân được hiểu là sự sống riêng của hai vợ chồng như việc không ăn ở chung, không sinh hoạt vợ chồng, không quan hệ với nhau. Dường như ly thân không phải là bước đệm của ly hôn và cũng không được xem giống như đã ly hôn về mặt giấy tờ. Mục đích của ly thân là giảm bớt những gánh nặng, những mâu thuẫn, xung đột gay gắt đến mức không thể điều hòa được, ít nhất ở thời điểm hiện tại, tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Đây là khoảng thời gian để vợ chồng nhìn nhận lại mối quan hệ vợ chồng một cách nghiêm túc và đúng đắn, tha thứ cho nhau, khắc phục lỗi lầm để củng cố hôn nhân bền vững hơn quay trở lại bên nhau. Mặt khác, ly thân cũng không đồng nghĩa với việc chấm dứt quan hệ pháp lý giữa hai vợ chồng. Nghĩa là họ vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ với con cái và tài sản chung. Việc quan hệ ngoài tình, thậm chí chung sống như là vợ chồng với người khác trong thời gian ly thân là vi phạm pháp luật và bị xử lý theo Luật hôn nhân và gia đình. Sau một thời gian sống ly thân, hai bên vẫn không hoà giải được mối quan hệ thì các bên có thể xin ly hôn. Thực tế cho thấy đã ly thân thì hầu như dẫn đến ly hôn bởi lẽ chỉ có mâu thuẫn không thể giải quyết thì mới dẫn đến ly thân và ly hôn. Theo quy định của Điều 182 của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội “Vi phạm chế độ một vợ, một chồng”, trường hợp đã có gia đình, hôn nhân hợp pháp nhưng vẫn chung sống như vợ chồng với người khác thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi hành vi này gây hậu quả nghiêm trọng làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, hoặc người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Theo quy định của pháp luật, như vậy ly thân là một giải pháp khá hợp lý cho các cặp vợ chồng đang có rạn nứt về tình cảm, trong giai đoạn nhìn nhận lại cuộc hôn nhân của mình, đồng thời tìm ra hướng đi thích hợp. Tuy nhiên, một khi đã xác định không còn tình cảm với nhau, nhất là đã có người khác, thì nên có sự thẳng thắn, dũng cảm để đi đến quyết định cuối cùng. Khi ly thân, quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng vẫn mang đầy đủ các đặc điểm quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng. Khi ly thân, quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ nhân thân và các quyền và nghĩa vụ tài sản, trong đó quyền và nghĩa vụ nhân thân là nội dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Quyền và nghĩa vụ nhân thân mang yếu tố tình cảm, là lợi ích tinh thần giữa vợ và chồng, gắn liền với bản thân vợ chồng trong suốt thời kỳ ly thân. Nội dung của quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng là lợi ích tinh thần, là yếu tố tình cảm, không mang nội dung kinh tế, không phụ thuộc vào khả năng kinh tế của vợ chồng trong khi ly thân. Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng là chuẩn mực đạo đức, cách ứng xử mang tính tự nhiên và truyền thống giữa vợ và chồng. Vì vậy, khi điều chỉnh những quan hệ đó phải kết hợp giữa các quy định của pháp luật với những quy tắc đạo đức và lẽ sống trong xã hội. Các quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng được thể hiện trong tình nghĩa vợ chồng theo Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tình yêu thương và sự chung thủy là hai yếu tố giúp cho vợ chồng chung sống hạnh phúc và duy trì quan hệ hôn nhân bền vững. Vợ chồng luôn ý thức và giữ gìn tình cảm thương mến nhau. Trong lịch sử lập pháp và các văn bản pháp luật hiện hành mà cụ thể là Luật hôn nhân gia đình 2014 không thừa nhận vấn đề ly thân, thực tế trong Luật hôn nhân gia đình 2014 không có một cụm từ nào được gọi là ly thân. Do đó cần phải hiểu đây chỉ là một thuật ngữ xã hội mà không phải là một thuật ngữ pháp lý. Cũng chính vì thế mà không có thủ tục nào gọi là thủ tục ly thân. Và ly thân cũng KHÔNG CẦN RA TÒA. Khi đang tồn tại quan hệ hôn nhân, vợ chồng không được chung sống như vợ chồng với người khác. Hiện nay, do lối sống của một bộ phận dân cư đã thay đổi nên giá trị gia đình cũng thay đổi theo. Hiện tượng người đang có vợ hoặc có chồng chung sống hoặc quan hệ như vợ chồng với người khác xảy ra tương đối phổ biến. Hành vi đó là vi phạm nghiêm trọng đến nghĩa vụ và quyền của vợ chồng mà pháp luật đã quy định trong khi ly thân. Sự tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau giữa vợ và chồng thể hiện ở hành vi, cách xử sự và chồng thể hiện ở hành vi, cách xử sự và thái độ của họ đối với nhau. Đó là việc giữ gìn danh dự, uy tín, nhân phẩm cho nhau, lắng nghe ý kiến của nhau, quan tâm, động viên lẫn nhau…. Mẹ em năm nay 70 tuổi, mẹ và bố em đã ly thân được gần 10 năm nhưng chưa làm thủ tục ly hôn tại tòa. Bố em đã tách khẩu về quê. Năm 2008, mẹ có mua một căn nhà bằng tiền riêng của mình và để sổ đỏ đứng tên mẹ. Bố mẹ em đã ra văn phòng công chứng để công chứng biên bản từ chối tài sản là ngôi nhà này của bố. Nay mẹ em đã bán căn nhà đó và mua căn nhà mới. Vậy Luật sư cho em hỏi: Để làm sổ đỏ căn nhà mẹ mới mua đứng tên mẹ em và xác định nó là tài sản riêng thì có dùng được bản sao giấy tờ chứng minh tài sản riêng của căn nhà cũ hay không hay vẫn phải cần biên bản từ chối tài sản mới. Hiện nay, pháp luật Việt Nam không thừa nhận chế định Ly thân nên bố mẹ bạn vẫn được coi là vợ chồng hợp pháp, đang trong thời kỳ hôn nhân nên vẫn phải tuân thủ quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng thì Luật Hôn nhân và gia đình quy định như sau:. – Tài sản chung của vợ chồng theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất, nhà ở mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất, nhà ở mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. – Tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Đối chiếu với quy định nêu trên thì khi mẹ bạn nhận chuyển quyền sở hữu nhà ở trong thời kỳ hôn nhân thì căn nhà đó vẫn được coi là tài sản chung của bố mẹ bạn nếu không có thỏa thuận giữa hai bố mẹ. Do vậy, việc chứng minh tài sản riêng sẽ như sau:. + Bố bạn có thể viết Giấy cam kết với nội dung: mẹ bạn đã mua ngôi nhà bằng tiền riêng của mẹ, bố bạn không có liên quan gì đến ngôi nhà đó. Hai bố mẹ bạn có thể đến tổ chức công chứng có thẩm quyền để yêu cầu công chứng văn bản cam kết này. Sau khi có văn bản cam kết này thì mẹ bạn có thể toàn quyền sử dụng, quản lý, định đoạt ngôi nhà mà mẹ bạn mua. Tuy nhiên, mẹ bạn nên áp dụng cách thức thứ nhất để tránh sau này xảy ra tranh chấp, kiện tụng ra Tòa án gây phức tạp. Bố mẹ tôi ly thân hơn 30 mươi năm (bố tôi lấy vợ khác không có đăng ký kết hôn), ông bà nội tôi mất, chuyển bìa đỏ đất cho bố tôi. Vậy mẹ tôi có được hưởng một nửa số đất do ông bà tôi để lại không? Tài sản của mẹ tôi khi mẹ tôi mất đi bố tôi và con riêng của bố tôi có được hưởng không? Tôi xin cảm ơn. Thứ nhất, về việc chuyển quyền sử dụng đất cho bố bạn khi ông bà nội bạn mất. Trường hợp này có thể thấy ông bà nội đã chuyển quyền sử dụng đất cho riêng bố bạn (vì không nói là cho hai vợ chồng) cho dù bố và mẹ bạn đang ly thân, tức nghĩa vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân về mặt pháp lý nhưng trường hợp này tài sản được tặng cho riêng nên sẽ là tài sản riêng của bố bạn. Và mẹ bạn sẽ không được hưởng một nửa mảnh đất này. Thứ hai, về việc mẹ bạn mất thì ai sẽ là người được hưởng di sản. – Nếu mẹ bạn để lại di chúc thì những người được chỉ định trong di chúc sẽ là người được hưởng di sản. – Nếu mẹ bạn không để lại di chúc. Thì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người thừa kế hàng thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Do đó, người thừa kế sẽ gồm bạn, bố bạn (vì hôn nhân của bố mẹ bạn vẫn tồn tại về mặt pháp lý). Ngoài ra, những người như cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ khác, con nuôi của mẹ bạn cũng được hưởng di sản (nếu có hoặc còn sống) vào thời điểm mẹ bạn mất. Những người kể trên sẽ được hưởng một phần bằng nhau với số di sản thừa kế của mẹ bạn. Trường hợp thừa kế theo pháp luật thì, con riêng của bố bạn không thuộc diện thừa kế và không được hưởng thừa kế. Xin chào các anh chị trong văn phòng luật Dương Gia! Em có một vấn đề rất mong được nghe ý kiến của các anh chị. Em và chồng kết hôn được 5 năm, hiện đang có 1 cháu trai 4 tuổi và 1 cháu gái 10 tháng tuổi. Do cuộc sống nhiều vấn đề nên hiện tại vợ chồng em có quyết định là sẽ ly hôn. Nhưng do việc nuôi con không thỏa thuận được với nhau, vì cả 2 đều muốn nuôi 2 con chứ không ai nhường ai. Xét về điều kiện nuôi con thì cả 2 có điều kiện như nhau nên tòa sẽ chia đôi. Vì không chắc phần thắng nên em cũng chưa nộp đơn ra tòa. Hiện tại vợ chồng em đang sống ly thân, cháu bé thì ở với em. Còn cháu lớn thì ở với bố và ông bà nội. Nhưng hiện giờ ông bà nội và bố cháu đang cấm không cho em gặp và đón cháu. Em về nhà thì không cho vào, còn ra trường thì không cho đón, gọi điện cũng không cho gặp. Vậy em muốn hỏi các anh chị xem bây giờ em muốn tự do gặp và đón con em thì em phải làm như nào, liệu em có thể kiện chồng em và bố mẹ chồng em vì không cho em gặp con em được không? Và nếu kiện thì em phải nộp đơn ở đâu ạ? Em rất mong sớm nhận được sự tư vấn của anh chị. Em xin chân thành cảm ơn!. Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”. Như vậy, pháp luật về hôn nhân gia đình ghi nhận bạn và chồng bạn có quyền ngang nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng hai con. Chồng bạn và gia đình chồng bạn không có quyền ngăn cản bạn gặp con và chăm sóc con.
Ly thân
Ly thân mô tả quan hệ vợ chồng theo đó hai người không còn chung sống, ăn ở với nhau, nhưng vẫn chưa ly hôn. Vợ chồng thường tự thỏa thuận với nhau để sống ly thân chứ không cần phải ra tòa, và trên pháp lý thì họ vẫn là vợ chồng. Ly thân tạo cơ hội cho vợ hay chồng sống riêng biệt mà không phải cần ly dị. Mục đích của ly thân là để giảm thiểu những căng thẳng, xung đột gay gắt giữa vợ và chồng, đồng thời để các bên có thời gian suy ngẫm, ăn năn hối lỗi, khắc phục lỗi lầm, tha thứ cho nhau… để sau đó vợ chồng lại đoàn tụ, tiếp tục chung sống. Ly thân không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng nên trong thời gian sống ly thân, các bên vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con chung và tài sản. Như vậy, ly thân là để hướng đến sự đoàn tụ, chứ không phải để hướng đến ly hôn. Với ý nghĩa đó, ly thân không phải là bước đệm để tiến hành ly hôn mà là cơ hội để tái gắn kết quan hệ vợ chồng.
Những lời của Shakespeare, được viết bằng iambic pentameter, thể hiện sự khó khăn trong việc đặt tên người, địa điểm và sự vật. Trên Trái đất, con người sử dụng khoảng 6.500 ngôn ngữ để giao tiếp với nhau. Con số này không bao gồm các hình thức giao tiếp bị mất từ thời cổ đại. Ngôn ngữ của một xã hội phản ánh lịch sử và văn hóa của một nhóm người. Mỗi người ẩn chứa những ý nghĩa riêng về những từ họ nghe được, giúp họ hình thành hiểu biết về thế giới bên ngoài. Vì vậy, vâng, một bông hoa hồng sẽ có mùi ngọt ngào, nếu được gọi bằng một cái tên khác. Tuy nhiên, những cái tên khác nhau mang lại những ký ức và quan điểm độc đáo. Tên của bạn là những gì bạn trả lời, và những gì bạn tự gọi mình. Cha mẹ thường đặt tên cho con khi mới sinh hoặc ngay sau đó. Tuy nhiên, xã hội cũng đặt cho chúng ta những cái tên. Những biệt danh này có sức nặng khi chúng phân loại và mô tả các đặc điểm thể chất và tính cách. Tên, giống như tất cả các từ khác, mang ý nghĩa với chúng. Khi ai đó nghe từ “hoa hồng”, điều gì sẽ nghĩ đến? Có lẽ, hương thơm, màu sắc, vẻ đẹp, hoặc gai mùa xuân đi đầu trong mắt tâm trí. Các ý nghĩa xuất hiện trong tâm trí là một người và thay đổi tùy thuộc vào ý tưởng và kinh nghiệm của một người về người đó, địa điểm hoặc sự vật. Ở châu Phi, người da đen là công dân của các quốc gia đa dạng và hùng mạnh. Các thành phố cổ đại như Zimbabwe và Kilwa có các tiện nghi như đài phun nước chảy và hệ thống ống nước trong nhà trước các nước châu Âu. Châu Âu khét tiếng đã mất gần 3/4 dân số do bệnh Dịch hạch Đen, trực tiếp là do các thành phố lớn không có khả năng sản xuất hệ thống ống nước an toàn, đầy đủ . Tuy nhiên, chính những người châu Âu này đã mô tả người châu Phi là dã man. Họ sử dụng luận điệu cố chấp của mình để biện minh cho sự áp bức. Trong suốt lịch sử, những người phân biệt chủng tộc đã bác bỏ các sự kiện phản bác lại câu chuyện về chủ nghĩa tối cao của người da trắng. Chủ nghĩa thực dân tước quyền sử dụng của người châu Phi, tác động tiêu cực đến việc duy trì các ngôn ngữ châu Phi bên ngoài đại lục. Nói tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp là kết quả của sự áp bức thuộc địa. Thông qua chế độ nô lệ, người châu Phi mất đi niềm tin tôn giáo, gia đình, tự do, văn hóa, thân thể và sinh kế. Những kẻ áp bức đã lấy đi tất cả. Những người theo chủ nghĩa thực dân đã thay thế phương ngữ châu Phi bằng phương ngữ của những người theo chủ nghĩa tối cao da trắng. Tất cả những người da đen sống trong cộng đồng đều bị tước quyền sử dụng. Ở Mỹ, người da trắng đánh người da đen vì sử dụng ngôn ngữ gốc của họ và cấm họ đọc và hát các bài hát châu Phi. Chế độ nô lệ và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc có hệ thống đã làm suy giảm khả năng thể hiện bản thân bằng tiếng mẹ đẻ của con cháu châu Phi, phá hủy mọi nét đặc sắc của văn hóa châu Phi đích thực. Để hiểu thuật ngữ Người da đen sử dụng, người ta phải phân tích hoàn cảnh Người da đen gặp phải. Ngay cả trong thời kỳ hiện đại, Tổng thống Donald J. Trump đã gièm pha các quốc gia châu Phi. “Nói chuyện với các nhà lập pháp tại Phòng Bầu dục, tổng thống đã đẩy lùi các biện pháp bảo vệ người dân từ Haiti, El Salvador và các quốc gia châu Phi khác nhau, yêu cầu biết lý do tại sao Mỹ nên chấp nhận những người mới đến từ “ các quốc gia lỗ ”, theo các nguồn tin tóm tắt trong cuộc họp. "Tại sao chúng ta có tất cả những người từ các quốc gia lỗ *** đến đây?". Sự phân biệt chủng tộc trắng trợn là vậy, vậy mà nhiều người lại làm ngơ trước sự cố chấp. “ Đó không phải là vấn đề chủng tộc ,” họ kêu lên, đồng thời tước bỏ quyền công dân và dân quyền đầy đủ của người Da đen. Thái độ là điểm. Chừng nào người Mỹ da trắng còn sợ các quốc gia châu Phi và coi người da đen là thấp kém, thì sự tôn trọng cần thiết để tạo ra một phong trào biến đổi sẽ không đạt đến lớp đất mặt. Donald Trump phát triển mạnh nhờ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng ông lại xuất thân từ một hàng dài những người theo Đảng Cộng hòa cố chấp. Reagan, anh hùng của Đảng Cộng hòa, và Nixon cũng tiết lộ suy nghĩ của họ về người Da đen. REAGAN:… Để xem những con khỉ từ các nước châu Phi đó . Họ vẫn không thoải mái khi đi giày. Những kẻ phân biệt chủng tộc thường mô tả người Da đen như những con khỉ, ngang nhiên tước bỏ nhân tính của họ. Những người tự xưng là không phân biệt chủng tộc không đủ tức giận về điều này. Quá nhiều người thiếu ý chí gạt họ sang một bên vì tính cố chấp của họ là một thành phần có thể chấp nhận được đối với tính cách của họ. Người da đen không có đặc quyền đó vì phân biệt chủng tộc hủy hoại cuộc sống, hạn chế cơ hội và duy trì chế độ đẳng cấp hủy diệt. Reagan không thể là một anh hùng Mỹ và mô tả người Da đen như những con khỉ. Nixon không thể là một anh hùng nước Mỹ vì đã ủng hộ và đồng tình với ông ta. Không quan trọng nếu người Mỹ có ít anh hùng hơn, chỉ là những anh hùng được chọn đại diện cho các giá trị của Mỹ. Không phải tất cả người Da đen đều đến từ Châu Phi. Đa dạng về nước da, người da đen có các quốc tịch, văn hóa, tôn giáo và giá trị khác nhau. Do chủ nghĩa thực dân, tất cả người Da đen phải chịu đựng sự phân biệt chủng tộc có hệ thống, và đây là một trong những sợi dây chung gắn kết tất cả họ lại với nhau. Bởi vì da của người Da đen không phải là Da đen, mà là màu nâu, một số cảm thấy rất khó chịu với thuật ngữ này. Trong khi một số người coi đó là một chút kỹ thuật, những người khác không muốn là người Da đen và do đó, họ có thể liên kết nhiều hơn đến quốc tịch, tôn giáo hoặc mối quan hệ gia đình của họ. Đối với hầu hết, thuật ngữ Đen là thống nhất. Bất chấp việc bị tước quyền sở hữu, những người tự coi mình là người Da đen vẫn làm như vậy mặc dù sở hữu các mối quan hệ văn hóa khác nhau. Phong trào Quyền lực Da đen nhằm trao quyền cho người Da đen, thách thức hệ tư tưởng thực dân đang áp bức họ. “Người da đen ở Mỹ đi kèm với ý thức kinh ngạc, nhận thức đột ngột, kéo dài suốt đời về làn da, chiếc mũi, mái tóc của bạn - tất cả những điều đó, trớ trêu thay, chúng ta được dạy chẳng quan trọng chút nào” (Moore, 2012) . Tu chính án thứ mười ba loại bỏ chế độ nô lệ vào ngày 6 tháng 12 năm 1865. Ba năm sau, Tu chính án thứ mười bốn cấp quyền công dân cho những người Châu Phi từng bị nô lệ và con cháu của họ. “Từ điển tiếng Anh Oxford đã truy tìm những lần xuất hiện được ghi lại bằng tài liệu của Người Mỹ gốc Phi từ năm 1835. (Thuật ngữ liên quan Người Mỹ gốc Phi, rất phổ biến trong những năm 1960, có trích dẫn năm 1831 trong OED" (Sharpio, 2016 ). Thuật ngữ Người Mỹ gốc Phi là một thuật ngữ chính trị xã hội dùng để chỉ những người bị tước quyền. Bởi vì nhiều người Mỹ da đen pha trộn với người bản địa và người châu Âu, thuật ngữ này có nội hàm phức tạp. Sống ở cộng đồng, nhiều người cảm thấy xa lạ với các nền văn hóa châu Phi. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã tạo ra một phương pháp hiệu quả để theo đuổi các quyền công dân và khẳng định quyền công dân Mỹ. Mặc dù nhiều người Mỹ da đen không phải là người gốc Phi thuần túy, nhưng dòng dõi của họ gắn họ trực tiếp với nạn buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Quy tắc một giọt, được thực thi thông qua luật Jim Crow coi bất kỳ ai có dòng máu không phải là người da trắng đều là người da đen . Tuy nhiên, một số luật quy định rằng cá nhân Da đen được coi là không phải da trắng. Việc sử dụng Bài kiểm tra túi giấy nâu, được tạo ra ở New Orleans, là một ví dụ hoàn hảo về việc áp dụng hệ thống đẳng cấp của Mỹ. Hầu hết các quốc gia châu Âu đã tham gia vào quá trình thuộc địa hóa châu Mỹ. Thực dân Tây Ban Nha và Portugues đã sử dụng thuật ngữ Negro để mô tả người Da đen. Thuật ngữ này đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ 16 trong quá trình buôn bán nô lệ. Không có sự đánh giá cao về văn hóa đối với người châu Phi, họ gọi họ bằng từ tiếng Tây Ban Nha để chỉ người da đen. Thuật ngữ này trở nên phổ biến khắp các thuộc địa. Những người da đen nổi tiếng, chẳng hạn như Booker T. Washington và WEB DuBois, đã sử dụng các thuật ngữ này. Vào những năm 1960, các nhà hoạt động của Black Power, chẳng hạn như Malcolm X và Martin Luther King Jr., đã sử dụng từ Negro. “Luật pháp cũng định nghĩa“ Da đen ”là có“ bất kỳ máu nào của người da đen ”. Phân loại "chủng tộc" lưỡng tính cũng được phát minh trong thời thuộc địa, với luật phân bổ theo huyết thống xác định "người da đen" là có nhiều hơn một phần tổ tiên gốc Phi nhất định. Luật phân tích huyết thống đầu tiên của Bắc Mỹ, vào năm 1705, sử dụng quy tắc 1/8 (một người là người da đen nếu một ông bà hoàn toàn là người gốc Phi). Đến năm 1910, hai mươi tiểu bang đã phân loại công dân theo thành phần huyết thống, hầu hết sử dụng 1/4 hoặc 1/8. Tuy nhiên, ngoại hình cũng đóng một vai trò quan trọng trong định nghĩa chủng tộc ở Arkansas trước năm 1911, được minh chứng bằng trường hợp vụ án tự do năm 1861 của Guy kiện Daniel , trong đó nô lệ Abby Guy được trao quyền tự do phần lớn nhờ vào ngoại hình và hành vi của cô. Trước năm 1911, luật phân biệt đường sắt của Arkansas đã định nghĩa "Da đen" là "người mà ở đó có một hỗn hợp rõ ràng và khác biệt của dòng máu Châu Phi." Tuy nhiên, sự xuất hiện của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học đã làm nảy sinh quan điểm cho rằng một người có thể nhìn và tự nhận mình là người da trắng nhưng bằng cách nào đó vẫn là người da đen ”. Mặc dù thuật ngữ này có cả ý nghĩa tích cực và tiêu cực, nhưng nó không còn là một thuật ngữ phổ biến nữa. Tên người Mỹ gốc Phi là thuật ngữ chính xác về mặt pháp lý. Bên cạnh đó, sự gần gũi của từ này với một câu nói tục tĩu về chủng tộc phổ biến khiến nó không đủ tiêu chuẩn khỏi diễn ngôn dân sự đối với một số người Da đen. Đại diện cho Người da đen và Người da màu bản địa , BIPOC là một thuật ngữ mới hơn. Trong những năm 2010, những người ủng hộ đã bắt đầu sử dụng thuật ngữ bao hàm này. Người da đen tồn tại ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, một số người mà những người khác coi là Da đen cảm thấy thoải mái hơn khi tự xưng là người da màu. Tất cả những người này đều phải chịu đựng sự phân biệt đối xử do kết quả trực tiếp của quyền tối cao của người da trắng. Vì vậy, mối dây chung của họ thống nhất họ, khuyến khích họ theo đuổi công lý phục hồi, quyền công dân và quyền công dân. Với thuật ngữ này, vấn đề duy nhất là xóa bỏ các cuộc đấu tranh cụ thể. Ví dụ, người Mỹ gốc Á, người Ấn Độ, người Tây Ban Nha, người Latinh X và người bản địa là POC, nhưng trải nghiệm của họ khác nhau đáng kể. Tuy nhiên, BIPOC vẫn là một thuật ngữ hữu ích trong cuộc chiến chống lại quyền tối cao của người da trắng, thừa nhận họ là một phần của cuộc đấu tranh tương tự. Mọi người không sử dụng các thuật ngữ này như nhau, cũng như mọi người sẽ không muốn được xác định bằng cách sử dụng các thuật ngữ này. Nội hàm của những từ này có liên quan lịch sử khác nhau. Ngay cả trong Cộng đồng Da đen, đây là những cái tên đang được tranh cãi gay gắt. Nói chung, sử dụng ngôn ngữ mà ai đó sử dụng để định nghĩa bản thân là điều thích hợp. Bằng văn bản, các thuật ngữ được sử dụng phải phù hợp với một khuôn khổ tư tưởng. Nếu nghi ngờ, các tác giả có thể nghiên cứu ngôn ngữ được sử dụng bởi các nhà lãnh đạo Dân quyền đương thời. Đôi khi, người Mỹ sử dụng những thuật ngữ này để đàn áp và những lần khác giải phóng người Da đen. Tuy nhiên, bất kể người da đen được gọi hay tự gọi mình là gì, xã hội sẽ nhìn họ theo cách tương tự. Cuộc đấu tranh là có thật. Người Da đen sẽ tiếp tục sử dụng các điều khoản cần thiết để tạo ra sự thống nhất trong cộng đồng hải ngoại. Lưu ý của tác giả: Xuyên suốt bài viết, tác giả sử dụng thuật ngữ “Da đen” trong khi phân tích các tên gọi khác nhau để mô tả những người bị thiệt thòi sống ở cộng đồng - Để tỏ lòng kính trọng đối với phong trào Black Power và Black Lives Matter, bao gồm người Da đen từ mọi quốc gia trên toàn thế giới. Tôi và một trong những thành viên trong gia đình đang xem sách lịch sử khi chúng tôi bắt đầu cuộc trò chuyện về nữ quyền và lịch sử của nó. Anh họ tôi nhận xét rằng phong trào nữ quyền khiến phụ nữ chiếm ưu thế, làm những gì họ mong muốn ngay cả khi điều đó trái luật hoặc làm tổn thương những người đàn ông / người khác. Con bạn có tiếp tục xếp mọi thứ không? Chúng thu dọn đồ thành đống xung quanh nhà hay chúng cứ ném đồ chơi ra khỏi xe? Họ có thể đang tham gia vào trò chơi có sơ đồ! Một lược đồ là gì? Schemata là các cụm hành động lặp đi lặp lại tạo thành các khối xây dựng cơ bản cho kiến thức. Khi trưởng thành, chúng ta có rất nhiều schemata phức tạp. Tháng Lịch sử Đen là một khởi đầu lịch sử! Cả phong trào Black Lives Matter và Stacey Abrams đều đã được đề cử cho Giải Nobel Hòa bình. Giải Nobel Hòa bình được trao hàng năm cho những người hoặc nhóm đã làm công việc tốt nhất để giữ hoặc thúc đẩy hòa bình. Chúc mừng Tháng Lịch sử Đen, các bạn! Chúng ta đang bắt đầu tháng Hai với một số tin tức thú vị: Tổ chức Black Lives Matter đã được đề cử cho giải Nobel Hòa bình. Phong trào xã hội lớn nhất trên thế giới được thành lập bởi ba phụ nữ Da đen - Alicia Garza, Patrisse Cullors và Opal Tometi - sau khi tuyên bố trắng án cho kẻ sát nhân Trayvon Martin. Bạn đọc thân mến: Tôi đã thay đổi tình tiết để bảo vệ danh tính của một số đối tượng trong bài viết này. Những người khác được cộng đồng Medium biết đến vì họ viết về gia đình của họ thường xuyên, vì vậy tôi cảm thấy an toàn khi tham khảo họ.
Người Mỹ gốc Phi
Người Mỹ gốc Phi - African American - (còn gọi là người Mỹ da đen, hoặc đơn giản là "dân da đen") là thành phần chủng tộc sinh sống ở Hoa Kỳ có tổ tiên từng là thổ dân ở châu Phi nam Sahara, là thành phần sắc tộc thiểu số lớn thứ hai ở Hoa Kỳ. Nhiều người Mỹ gốc Phi có trong dòng máu của mình một phần châu Âu, người Mỹ Bản địa (da đỏ), châu Á và châu Mỹ Latin. Thuật ngữ "Người Mỹ gốc Phi" đặc biệt đề cập đến những người có tổ tiên là dân châu Phi để phân biệt với những người là hậu duệ của dân da trắng hoặc người Ả Rập ở châu Phi như người Maroc gốc Ả Rập hoặc người da trắng ở Nam Phi. Tuy nhiên, có những di dân đến từ các quốc gia châu Phi, vùng Ca-ri-bê và Nam Mỹ thường tự nhận và cũng được gọi là người Mỹ gốc Phi. Như vậy, thuật ngữ "người Mỹ gốc Phi" được dùng để chỉ những công dân Mỹ có tổ tiên là người Phi châu. Đa số người Mỹ gốc Phi là hậu duệ của người dân sinh sống ở Tây và Trung Phi bị bắt làm nô lệ và bị đem đến Bắc Mỹ từ năm 1609 đến 1807, suốt trong thời kỳ buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương.
LTS: Ngày Xuân tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian cũng là cách chúng ta gạn đục khơi trong, củng cố niềm tin về đạo Phật, hiểu rõ đời sống tín ngưỡng dân gian phong phú trong kho tàng văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc. Truyền thuyết kể rằng, ở nước Quang Đại Nghiêm Diệu Lạc xa xưa, đức Vua của đất nước này không có người nối dõi. Một đêm, Hoàng hậu nằm mơ thấy Thái Thượng Lão Quân (là Ngài Đạo Đức Thiên Tôn) đến trao cho một đứa trẻ. Sau đó Hoàng hậu mang thai và sinh ra một Vương tử chính là Ngọc Hoàng Thượng Đế sau này. Chứng kiến nỗi khổ của nhân gian, Vương tử bỏ ngôi vua lên núi tu đạo. Trải qua 3200 kiếp tu hành, Ngài đã đạt được kim thân gọi là Thanh Tịnh Giác Vương Như Lai. Theo quan niệm của tín ngưỡng dân gian thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là hiện thân nam và đức Phật Mẫu Hoàng Thiên là hiện thân nữ của Đấng tối cao, là những vị được nhân dân đời đời sùng kính, khi có đủ hai Ngài kết hợp với nhau thì vũ trụ vạn vật mới sinh sôi, phát triển. Theo quan niệm của văn hóa, tín ngưỡng các nước phương Đông, phương Tây và giáo lý của một số tôn giáo đức Ngọc Hoàng Thượng Đế được gọi với nhiều danh từ tôn kính khác nhau: Đức Chúa Trời (Công giáo và đạo Tin Lành), Đấng Tạo Hóa, Đấng Thái Cực Thánh Hoàng (Cao Đài giáo), Thiên Chúa (Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo), Đức Allah (đạo Hồi), Brahma (Ấn Độ giáo), Vua Cha Ngọc Hoàng (Tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam)…còn nhân dân ta gọi Ngài nôm na là Ông Trời. Nguồn gốc của vũ trụ là Thái cực, Thái cực vừa là nguồn gốc, vừa là điều kiện sinh thành của mọi sự vật, đức nguyên của trời là khí, đức nguyên của đất là hình. Thái Cực là khối chân linh của Thượng Đế được gọi là Đại Linh Quang. Sự khởi đầu của vũ trụ chính là sự phân chia Thái cực thành tam tài (Thiên, Địa, Nhân). Ngọc Hoàng Thượng Đế phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi (Âm quang và Dương quang), rồi biến Lưỡng Nghi thành Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn khôn thế giới, tạo thành vạn vật. Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên chủ phần Thái Cực Âm tính đã phối hợp Lưỡng nghi để tạo ra các tầng Trời, tinh cầu, địa cầu… và chủ trì đầu thai luân hồi, nghiệp quả và chủ quản nhân số của ba cõi. Phật Mẫu Hoàng Thiên sinh ra vạn linh rồi cho đầu kiếp xuống các địa cầu tạo thành vạn vật chúng sinh, trực tiếp quản lý, điều hành 72 cung Tiên Thượng Thiên và các cõi Tiên. Trong đó, Càn khôn thế giới gồm 36 tầng Trời, 3000 thế giới, 72 Địa cầu, tứ đại Bộ Châu. Trong mỗi tầng Trời có một vị Đại La Thiên Đế cai quản. Ngọc Hoàng khai Bát Quái tạo thành Càn khôn thế giới nên gọi là Pháp, Pháp sinh ra càn khôn vạn vật trong đó có người, nên gọi là Tăng. Ngài chủ cả Pháp và Tăng lập thành các tôn giáo. Thiên đình là triều đình trên bầu trời, là cơ quan quyền lực tối cao của Vũ trụ với hàng trăm ngàn tỷ vũ trụ con, có tổ chức giống như triều đình phong kiến ở Việt Nam ngày xưa, nhưng chặt chẽ, khoa học, quy củ hơn. Thiên đình có 325 cung Trời chính là các tầng trời hay tầng cảnh giới, còn gọi là Thiên đường, trong đó có một cung chính là Ngọc Hư Cung và Điện Linh Tiêu cùng 72 cung Tiên thuộc tầng trời Tối Đại Thượng Thiên; sau đó là 36 cung Nguyên Thủy thuộc tầng trời Đại Thượng Thiên (Thượng Đại Niết Bàn) của các vị Tam Thanh, 144 cung thuộc tầng trời Trung Thượng Thiên (Đại Niết Bàn). Các cung thuộc tầng trời Tiểu Thượng Thiên thuộc khu vực Bạch Ngọc Kinh là nơi hội họp của Thượng Đế với quần thần (Trung Đại Niết bàn). Về góc độ vật lý, số lượng cung Trời ứng với 325 loại hạt hạ nguyên tử nguyên thủy; đó chính là nguyên lý để các nhà khoa học tìm ra bản nguyên của vũ trụ và cội nguồn sinh ra thế giới. Dưới và trong các cung Trời do các vị Thượng Đế Thiên Tôn chủ trì gồm các vũ trụ thành viên, rồi đến các cõi thuộc Trung giới, các Đại thiên hà, các thiên hà tự trị, các Thiên Vương Tinh quân, các Sao và các Thần Tinh. Theo tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam thì Tứ phủ Công đồng gồm Thiên phủ, Địa phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ. Trong đó, Thiên phủ gồm 3 cõi: Vô sắc giới, Sắc giới, Dục giới. Mỗi một cõi đều có một vị vua cai quản, cai quản 3 cõi là đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Địa phủ (Âm phủ) gồm 10 điện cai quản Am phủ và 18 tầng địa ngục, mỗi điện có 1 vị Diêm Vương cai quản, các điện đều có các quỷ thần phục dịch. Thoải phủ gồm 9 sông 4 biển, có 8 vị cai quản gọi là Bát Hải Long Vương. Nhạc phủ (mặt đất, phương vị, trên núi) gồm 5 phương, 8 hướng, có 5 vị Nhạc phủ cai quản. Theo sách Bách Việt tộc phả và đối chiếu với lịch sử dân tộc thì thấy rõ, Ngài Đế Minh, tức Nguyễn Minh Khiết (Thái Khương Công) trong truyền thuyết Hồng Bàng, lấy bà Đỗ Quý Thị (Hương Vân Cái Bồ Tát) sinh ra người con trai trưởng đặt tên là Lộc Tục. Nhìn tướng mạo Lộc Tục sáng sủa, thông minh, phúc hậu, Đế Minh phong Lộc Tục làm Vua phương Nam; Lộc Tục lên ngôi, xưng là Kinh Dương Vương, lập nước lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương, húy là Nguyễn Lộc Tục tự Phúc Lộc, tức là ông nội Hùng Vương thứ nhất, lấy con gái Vua Hồ Động Đình tên là Động Đình Tiên nữ Đăng Ngạn, sinh con trai đặt tên là Sùng Lãm, còn được gọi là Lạc Long Quân, sau nối ngôi vua cha, dựng nước đặt tên là Văn Lang. Như vậy, căn cứ vào các sự kiện lịch sử đã được sử sách Việt chứng minh thì Kinh Dương Vương chính là thủy tổ của người Việt Nam ngày nay, được nhân dân gọi là cụ Tổ Nam Phương Nguyễn tộc. Là Hoàn Linh Chân Nguyên Đại kiếp đầu tiên của Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng linh cõi thế, nên sau khi mất, nhân dân đã suy tôn Ngài là Ngọc Hoàng giáng sinh. Nơi thờ Ngài được nhân dân gọi là Thiên đình, tượng thờ Kinh Dương Vương gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế nay còn ở nhiều ngôi chùa, miếu cổ(1). Theo tài liệu lưu tại Đền Đậu An (An Viên, Tiên Lữ, Hưng Yên), là đền thờ Ngọc Hoàng đầu tiên và sớm nhất ở Việt Nam, được dựng từ năm 226 trước Công nguyên (TCN) thì vào thời bấy giờ, tục thờ Ngọc Hoàng đã trở thành tín ngưỡng bản địa của người Việt, lúc đó nước ta chưa chịu ảnh hưởng của phương Bắc, bởi đến năm 218 (TCN) nhà Tần mới đánh chiếm nước Bách Việt ta. Trước đó, Văn Lang, Âu Lạc là những quốc gia độc lập, đó cũng là thời kỳ đầu tiên có quốc gia riêng của người Bách Việt. Là Đấng Tối cao của vũ trụ vạn vật và với quyền uy to lớn của Ngài, Ngọc Hoàng Thượng Đế luôn được nhân gian tôn thờ nghiêm cẩn. Ở Việt Nam, do ảnh hưởng của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên, nên trong chùa thờ cả Phật, Mẫu, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Tiên, Thần và cả những người có công với đất nước, với dân tộc, tạo nên một thế giới tâm linh chung, không tách biệt, trong đó Phật là trung tâm và ở ngôi cao nhất. Hiện nay, Ngọc Hoàng Thượng Đế được thờ riêng tại Đàn Kính Thiên Tràng An (Ninh Bình) cùng Ngài Nam Tào, Bắc Đẩu; tại chùa Ngọc Hoàng (Quận 1, Tp.HCM) và đền Đậu An (Hưng Yên). Riêng tại đền Đậu An, nơi đức Ngọc Hoàng Thượng Đế được thờ cùng với các Tiên, Thần nằm trên mảnh đất hình đầu rồng, có hồ nước trong xanh bao bọc. Đối với người Việt Nam, chính Ngài đã khai sinh ra thủy Tổ người Việt nên Ngọc Hoàng Thượng Đế được tôn thờ như là Quốc tổ của dân tộc ta cho đến mãi mãi về sau này. Đó cũng là mạch quốc thống, là niềm tự hào truyền đời cho các thế hệ người Việt Nam mãi về sau:. Với mỗi người Việt Nam, đức Ngọc Hoàng Thượng Đế luôn được thờ phụng, cúng tế hết sức chu đáo và trọng thể. Cha ông ta đã lấy ngày 9 tháng Giêng (Âm lịch) hàng năm là ngày “Đản sinh” của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vào ngày này, nhân dân chuẩn bị chu đáo các đồ lễ và tổ chức những nghi thức trang trọng, huyền bí; nhiều nơi còn tổ chức múa mâm vàng, ca hát chúc tụng, “phát lộc”; có nơi người dân còn có tục cúng gà trống. Ngày 25/12 (Âm lịch) hàng năm, Ngọc Hoàng đi tuần tra, quan sát hạ giới, xem xét thưởng, phạt phân minh. Do vậy, đêm 24/12 Âm lịch, nhân dân ở nhiều nơi tổ chức nghi lễ cúng Ngài trang nghiêm, xin Ngọc Hoàng ban phúc sang năm mới được nhận điều lành, phúc, thọ, tiền, tài tự đến. Mai Thục, Đạo của Tổ Tiên Việt (Chương trình nghiên cứu tìm hiểu văn hóa cội nguồn dân tộc, Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội). Sư trưởng Như Thanh – Dấn thân, phát triển tinh thần chấn hưng Phật giáo của HT.Khánh Hòa. Ra mắt phiên bản Online Tạp chí Nghiên cứu Phật học chính thức tại tapchinghiencuuphathoc.com. Phòng số 7 dãy Tây Nam - Thiền viện Quảng Đức, Số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.8, Q.3, Tp.HCM
Ngọc Hoàng Thượng đế
Ngọc Hoàng Thượng đế (chữ Hán: 玉皇上帝), cũng gọi Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), gọi tắt là Ngọc Hoàng (玉皇) hay Ngọc Đế (玉帝), là những tước vị nói đến vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của vạn vật trong quan niệm tín ngưỡng của Đạo giáo tại Trung Quốc và tại Việt Nam, Triều Tiên. Nguyên hình của Ngọc Hoàng Thượng đế xuất phát từ Thượng đế - Hạo Thiên Thượng đế, tên gọi vị thần bầu trời tối cao của Trung Hoa cổ đại. Cũng có thể Ngài chính là Thiên Đế cai quản tầng Trời thứ 2 có 33 cõi Trời với 32 cõi Trời chư hầu chia làm 8 phương Trời (mỗi cõi Trời này đều có 1 vị Vua Trời cai quản riêng) và cõi Trung Ương, cõi Trung Ương là nơi Ngài ngự (tầng Trời này là Đao Lợi thiên). Qua con mắt Đạo giáo, Ngọc Hoàng Thượng đế được cho là người sáng lập nên thiên đình, ngự trên tòa điện ở trên mây mà cai quản chúng thần thánh của Tam giới. Hình tượng Ngọc Hoàng Thượng đế hoặc nguyên bản "Hạo Thiên" có ảnh hưởng rất lớn trong văn hóa tín ngưỡng của Việt Nam, Ngọc Hoàng bên cạnh là vị vua trời, còn được gọi một cách đại khái là Ông Trời (hay Ông Giời).
Product Life Cycle – Vòng đời sản phẩm là một khái niệm vô cùng quan trọng trong Marketing. Thuật ngữ này miêu tả quy trình của sản phẩm, bắt đầu từ thời điểm mới thai nghén ý tưởng cho tới khi nó rời khỏi kệ hàng. Không phải sản phẩm nào cũng đi đến giai đoạn lụi tàn cuối cùng. Vòng đời của sản phẩm đó có thể kéo dài và tiếp tục phát triển trong dài hạn. Các giai đoạn trong vòng đời sản phẩm 2. Đánh giá vòng đời sản phẩm đang ở đâu 3. Ví dụ về vòng đời sản phẩm. Product Life Cycle – vòng đời sản phẩm, hiểu đơn giản là một quy trình mà doanh nghiệp quản lý sản phẩm của họ, từ thời điểm sản phẩm ra đời, cho tới khi nó bị đào thải khỏi thị trường. Vòng đời của một sản phẩm bao gồm 4 giai đoạn chính. Những giai đoạn này là:. Sau khi hoàn thành việc nghiên cứu và phát triển, đã đến lúc doanh nghiệp tung sản phẩm ra thị trường. + Chi phí đầu tư: Doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra nhiều chi phí cho hoạt động Marketing và quảng bá thương hiệu. + Giá thành sản phẩm: Vì phải tốn nhiều tiền bạc cho hoạt động R&D (nghiên cứu và phát triển sản phẩm), giá thành của sản phẩm lúc này là rất cao. + Doanh thu: Sản phẩm bắt đầu có doanh thu, nhưng số tiền thu về chưa đủ bù chi phí bỏ ra ban đầu. Sau giai đoạn ban đầu, khách hàng bắt đầu biết đến sản phẩm. Lượng doanh thu vì thế bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ. + Chi phí đầu tư: Doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mạnh vào sản phẩm, dù chi phí đầu tư đã giảm so với giai đoạn 2. + Giá thành sản phẩm: Nhờ và việc sản xuất sản phẩm hàng loạt, giá thành sản phẩm đã giảm đáng kể so với giai đoạn mới tung ra thị trường. + Doanh thu: Doanh thu của sản phẩm tăng vọt. Doanh nghiệp bắt đầu hòa vốn và thu về những đồng lợi nhuận đầu tiên. Trong giai đoạn này, sản phẩm đem lại cho doanh nghiệp lượng doanh thu lớn. Vì vậy, công ty bắt đầu hòa vốn và thu lợi nhuận từ chính sản phẩm. Sản phẩm đã trải qua giai đoạn phát triển nóng nhất. Giờ nó đã tạo dựng chỗ đứng vững chắc trong lòng khách hàng. + Chi phí đầu tư: Chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong giai đoạn này là thấp nhất. + Giá thành sản phẩm: Sản phẩm có giá thành tương đối ổn định, ở mức tương đương với giai đoạn trước. + Doanh thu: Trong giai đoạn này, doanh thu của sản phẩm đạt ở mức đỉnh điểm. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng doanh thu lại giảm so với giai đoạn trước. + Đối thủ cạnh tranh: Đối thủ cạnh tranh của sản phẩm bắt đầu tăng dần. Doanh nghiệp đã nghĩ đến phương án khác biệt hóa thương hiệu, đa dạng hóa tính năng để nâng cao vị thế cạnh tranh. Tổng thể, đây là giai đoạn ổn định nhất của sản phẩm. Tăng trưởng dù không quá nóng, nhưng vẫn đem lại cho doanh nghiệp khoản doanh thu lớn từ sản phẩm. Nhưng sự cạnh tranh ngày một gay gắt, doanh nghiệp cần có phương án phòng thủ nhất định. Đây là giai đoạn cuối của sản phẩm, trước khi nó chính thức rời hẳn kệ hàng. + Chi phí đầu tư: Để duy trì sức nóng, doanh nghiệp buộc phải đầu tư chi phí lớn để níu kéo người tiêu dùng tiếp tục sử dụng sản phẩm. + Giá thành sản phẩm: Doanh nghiệp buộc phải hạ giá sản phẩm để kích thích nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng. + Doanh thu: Doanh thu sản phẩm giảm xuống rõ rệt so với các giai đoạn trước đó. + Đối thủ cạnh tranh: Số lượng đối thủ đạt ở mức cao nhất. Thị trường đạt đến mức bão hòa. Ở giai đoạn này, nếu doanh nghiệp không có chiến lược sáng suốt nhằm vực dậy sản phẩm, một là sản phẩm sẽ chết, hai là sản phẩm sẽ sống vật vờ chờ đợi một tương lai không rõ ràng ở phía trước. Nếu doanh nghiệp có chiến lược quảng bá đúng đắn, rất có thể, một vòng đời mới của sản phẩm lại bắt đầu. Phương thức để xác định Product Life Cycle hiện tại khá đơn giản. Bạn có thể dựa trên một số những yếu tố như:. Doanh nghiệp cần thu thập những thông tin định lượng, bao gồm: chi phí đầu tư, mức độ tăng trưởng, doanh số bán hàng và giá thành sản phẩm. Yếu tố bên ngoài rõ ràng nhất để xác định giai đoạn hiện tại của một sản phẩm, đó chính là đối thủ cạnh tranh. Bạn cần xác định xem trên thị trường hiện tại có bao nhiêu đối thủ đang trực tiếp cạnh tranh với sản phẩm của bạn. Họ có đang phát triển các sản phẩm có tính năng giống hệt “đứa con cưng” của bạn hay không?. Ngoài ra, yếu tố thị trường cũng đóng góp một phần không nhỏ. Liệu thị trường bạn đang tiếp cận liệu có bão hòa? Số lượng khách hàng tiếp tục mua sản phẩm của bạn có nhiều hay không? Bạn có cần giảm giá sản phẩm để kích cầu?. Để có được một sản phẩm thành công, doanh nghiệp cần biết cách kéo dài giai đoạn tăng trưởng và trưởng thành của sản phẩm, cũng như đẩy lùi giai đoạn thoái trào. Cách làm đơn giản nhất để kéo dài Product Life Cycle, đó chính là quảng cáo và truyền thông. Cách làm này vừa thu hút lượng khách hàng tiềm năng mới, lại là một phương thức hiệu quả để re-marketing tới đối tượng khách hàng cũ. Đây là cách làm thường thấy của các hãng phim lớn khi bộ phim của họ bước tới cuối giai đoạn trưởng thành, đầu giai đoạn thoái trào. Một hai bài post trên mạng xã hội nhắc người xem hôm nay là ngày kỷ niệm bộ phim ra mắt đầu tiên ngoài rạp chiếu phim, post lên YouTube một vài trích đoạn nổi bật của bộ phim là một trong những cách quảng bá đặc trưng. Nếu cách marketing truyền thông lại sản phẩm không hiệu quả? Đã đến lúc doanh nghiệp nghĩ tới việc giảm giá cho sản phẩm để kích cầu. Chúng ta thường thấy phương thức này ở các hãng sản xuất điện thoại lớn, mỗi khi sản phẩm của họ lỗi mốt, hoặc đã trải qua thời ký tăng trưởng doanh thu nóng nhất. Đặc thù của ngành này là các sản phẩm có vòng đời tương đối ngắn, nên ta có thể dễ dàng bắt gặp chiến thuật này ở bất kỳ sản phẩm nào của Apple hay Samsung. Kiểu như sản phẩm sữa A nay đã “bổ sung thêm Canxi, thêm dưỡng chất, thêm bổ dưỡng” chẳng hạn. Khách hàng khi nhận thấy sản phẩm trước đây mình từng sử dụng có bổ sung thêm tính năng mới bên cạnh những tính năng họ từng rất yêu thích, có thể sẽ cân nhắc việc mua trở lại sản phẩm. Những sản phẩm hay áp dụng phương thức này bao gồm: các loại sản phẩm thuộc ngành FMCG (mặt hàng tiêu dùng nhanh) hay smartphone (kiểu iPhone 6 với iPhone 6s). Khi thị trường cũ đã bão hòa, đã đến lúc sản phẩm của bạn nên tiếp cận thị trường mới tiềm năng hơn. Thị trường thuê bao di động tại Việt Nam đã bão hòa với “khoảng 51,1 triệu thuê bao tính tới tháng 6/2019” (theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông), các hãng viễn thông lớn như Viettel hay Mobifone bắt đầu tìm kiếm thị trường mới nhiều cơ hội hơn, như Myanmar hay Cambodia để duy trì mức độ tăng trưởng của doanh nghiệp, và mở ra vòng đời sản phẩm mới. Khi khách hàng đã quá quen thuộc với bao bì cũ, họ bắt đầu cảm thấy chán và không muốn mua sản phẩm đó nữa. Một cách làm hay để kích cầu, đó là thổi một “làn gói mới” vào sản phẩm cũ: Bình mới rượu cũ. Doanh nghiệp bạn chỉ cần bỏ một khoản chi phí cho hoạt động thiết kế bao bì và quảng bá truyền thông. Hiệu quả sẽ tốt hơn rất nhiều việc phải phát triển lại từ đầu một dòng sản phẩm hoàn toàn mới. Mì Hảo Hảo là một doanh nghiệp cung cấp sản phẩm mì ăn liền hàng đầu Việt Nam, thuộc sở hữu của tập đoàn Acecook. Tính đến năm 2018, sản phẩm tự hào là một trong những thương hiệu mì bán chạy tại Việt Nam trong 18 năm. Ra mắt đầu những năm 2000, Hảo Hảo thâm nhập thị trường mì ăn liền đầy tiềm năng tại Việt Nam. Hãng đã có những bước nghiên cứu thị trường thận trọng. Thời điểm đó, người tiêu dùng Việt Nam vẫn chuộng các thương hiệu mỳ truyền thống, giá rẻ, như mỳ Miliket, mì Vifon, mì bán theo cân,… Tuy vậy, bao bì của những thương hiệu mỳ này lại chưa bắt mắt, , mẫu mã chưa đa dạng. Đó là lúc Acecook tiến hành nghiên cứu và phát triển sản phẩm Hảo Hảo với bao bì bắt mắt, nhiều hương vị mới lạ (như lẩu Thái, tôm chua cay, mì gà,…), ngon miệng và an toàn, tiêu chuẩn công nghệ Nhật Bản. Đây là thời điểm Hảo Hảo triển khai chiến dịch quảng bá truyền thông mạnh mẽ nhất. Dày đặc các chiến dịch quảng cáo mì Hảo Hảo tôm chua cay, mì Hảo Hảo lẩu Thái xuất hiện trên kênh sóng VTV3 hay HTV7. Spot quảng cáo với sự xuất hiện của các danh hài nổi tiếng thời đó đã ngay lập tức chiếm cảm tình của người tiêu dùng. Ngoài ra, để đảm bảo đáp ứng lượng cầu khổng lồ từ người tiêu dùng, trong năm 2003, Acecook tiến hành hoàn thiện hệ thống nhà máy sản xuất mì từ Hưng Yên đến TP. HCM. Đến giai đoạn này, mì Hảo Hảo bắt đầu chiếm dần thị phần mì ăn liền tại Việt Nam. Hãng vẫn tiếp tục các chương trình truyền thông của mình để duy trì tốc độ tăng trưởng, gồm: tham gia tài trợ một số chương trình truyền hình lớn, tiếp tục mua spot quảng cáo trên VTV3 hoặc HTV7 để tối đa hóa lượng khách hàng mới,…. Tới khoảng năm 2005 trở đi, mỳ Hảo Hảo chính thức chiếm thị phần số 1 tại Việt Nam. Sản phẩm cũng bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển bền vững trong chu kỳ sống của mình. Hãng bắt đầu giảm ngân sách truyền thông, tập trung quảng bá khía cạnh chiều sâu (như nhấn mạnh yếu tố đã phục vụ hơn 2 tỷ lượt bữa ăn tại Việt Nam, là mỳ chiếm thị phần số 1 nhiều năm liền,…). Nhận thấy thị trường mì ăn liền Việt Nam có dấu hiệu bão hòa với quá nhiều thương hiệu khác nhau, Acecook quyết định cải tiến sản phẩm của mình. Đầu tiên là sự ra mắt của dòng sản phẩm Handy Hảo Hảo dưới dạng cốc nhựa tiện dụng (ra mắt song song với mì gói truyền thống). Đồng hành cùng sản phẩm là việc lựa chọn 2 KOL hết sức nổi tiếng thời điểm này là Hoài Linh và Tóc Tiên. Những cải tiến và đẩy mạnh quảng bá sản phẩm đã giúp mì Hảo Hảo tiếp tục duy trì thị phần số 1 của mình trên thị trường. Việc duy trì vòng đời sản phẩm là một việc làm không đơn giản. Các doanh nghiệp phải biết vận dụng nhiều kỹ năng, thấu hiểu kỹ lưỡng yếu tố nội tại và bên ngoài thị trường để có những nước đi đúng đắn nhất. Hy vọng những chia sẻ vừa rồi đem lại cho bạn những hình dung rõ hơn về khái niệm Product Life Cycle, và những phương cách giúp đánh giá và kéo dài vòng đời của một sản phẩm. ThiCao – Thiết kế Cao cấp, tiền thân là Dizen Brand Design, đơn vị hàng đầu về Thương hiệu với năng lực sáng tạo cốt lõi và thiết kế đẳng cấp, chuyên nghiệp. Khám phá ngay các dự án tiêu biểu của Thicao. ThiCao là đơn vị được sáng lập và điều hành bởi Giám đốc sáng tạo Nguyễn Kim Đính, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm và được coi là khá may mắn “mát tay” trong lĩnh vực Thiết kế thương hiệu cho nhiều doanh nghiệp thành công. Một bộ nhận diện thương hiệu nhất quán, khác biệt chính là công cụ mạnh mẽ nhất để thúc đẩy doanh số ở hiện tại và khởi tạo giá trị cho tương lai. ThiCao – Thiết kế Cao cấp, tiền thân là Dizen Brand Design – đơn vị chuyên sâu về Thương hiệu với năng lực cốt lõi: Sáng tạo và thiết kế cao cấp, chuyên nghiệp vì khách hàng. Chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn với bất kỳ khách hàng nào dù bạn ở đâu, quy mô dự án thế nào với nhu cầu bất kỳ nào, chỉ cần bạn liên hệ, cung cấp thông tin và mong muốn của mình.
Quản lý vòng đời sản phẩm
Quản lý vòng đời sản phẩm là các chiến lược được sử dụng để quản lý sản phẩm trong các giai đoạn (thể hiện xuyên suốt quá trình từ khi sản phẩm ra đời đến lúc bị vứt bỏ), bao gồm nhiều quy tắc chuyên nghiệp, và yêu cầu nhiều kĩ năng, công cụ và tiến trình. Chi phí rất thấp vì đã có chỗ đứng tốt trên thị trường và không cần quảng bá nữa. Giá bán, lợi nhuận giảmMột sản phẩm không nhất thiết phải trải qua tất cả các giai đoạn nêu trên. Một số sản phẩm có vẻ cứ mãi mãi ở trong giai đoạn mature (ví dụ như sữa). Những nhà Marketing có nhiều cách giữ cho tiến trình của sản phẩm không đi tới giai đoạn thoái trào. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, người ta có thể tính được tuổi thọ dự kiến của một nhóm sản phẩm nào đó. Các chiến lược marketing mix của những nhà Marketing thay đổi theo tiến trình mà sản phẩm của họ trải qua vòng đời của chúng.
Đến với khán thính giả Liên Xô từ đầu thập niên 1980, giai điệu cùng câu chuyện tình đơn phương của họa sĩ nghèo trở thành khúc nhạc tình bất hủ, được nhiều người trên thế giới đồng cảm và đón nhận. Trong tình yêu, sự lãng mạn vừa đủ làm duyên đôi lứa thêm nồng, tình thêm xanh thắm, ngọt ngào. Còn lãng mạn thái quá, không phù hợp với thực tế thì bị gọi là viển vông. Triệu đóa hồng là khúc ca buồn về sự lãng mạn nhưng có sức lay động lớn bởi sự chân thành, mộc mạc. Lời bài hát dựa theo câu chuyện tình yêu của chàng họa sĩ nghèo người Gruzia, Niko Pirosmani (1862-1918) và nàng ca sĩ người Pháp Magragita. Niko Pirosmani sinh ra trong gia đình nông dân nghèo. Ông mồ côi từ bé và được hai người chị chăm sóc. Lớn lên, Pirosmani giúp việc cho các gia đình giàu có. Ngoài ra, ông từng làm nhân viên bến xe lửa, thợ sơn, người trông cửa tiệm. Pirosmani tự tìm hiểu về hội họa và tự học vẽ. Sau đó, ông kiếm sống bằng việc vẽ bảng hiệu, tranh chân dung. theo đơn đặt hàng. Đến cuối đời, Niko Pirosmani vẫn là họa sĩ nghèo. Ông mất vào giữa năm 1918 vì thiếu dinh dưỡng và bệnh gan. Năm 25 tuổi, ông cầu hôn chị nuôi - một góa phụ tuổi 40 - và bị chối từ. Tháng 3/1909, các áp phích quảng cáo rầm rộ về bảy đêm diễn của cô ca sĩ phòng trà kiêm vũ nữ người Pháp Margarita. Niko ngay lập tức bị quyến rũ bởi nàng. Ông vẽ Margarita rồi điền ở dưới bức tranh dòng chữ "Anh yêu em". Đó là tình yêu không được đáp lại, dù Pirosmani dùng tất cả những gì mình có để bày tỏ tình yêu với nàng. Người đời lưu truyền chuyện tình giữa họa sĩ và ca sĩ rằng, Pirosmani đã bán tất cả gia sản - kể cả căn nhà anh sinh sống - để mua một biển hoa tặng người anh yêu. Rồi buổi sáng, khi thức giấc, trông ra quảng trường trước nơi ở, ca sĩ nhìn thấy cảnh tượng và nghĩ có lẽ triệu phú nào đã làm việc này. Khi biết là anh họa sĩ nghèo, nàng đến gặp họa sĩ và tặng anh một nụ hôn. Đó là nụ hôn đầu tiên và duy nhất trong cuộc tình đơn phương của chàng họa sĩ. Kết thúc chuyến lưu diễn, ca sĩ lên tàu rời đi, cùng một người giàu có. Chuyện tình của Niko Pirosmani sau đó được ghi lại trong tiểu thuyết của K. G. Paustovsky. Andrei Voznesensky lấy cảm hứng từ câu chuyện đó sáng tác thơ, cũng chính Voznesensky từ bài thơ của mình, đặt lời cho nhạc của Raimonds Pauls, từ đó có bản Triệu đóa hồng. Sở dĩ nói Voznesensky đặt lời cho nhạc của Pauls bởi trước đó, Pauls sáng tác giai điệu và được Leons Briedis viết lời bằng ngôn ngữ Latvia, với tên gọi Marina tặng cho con (xem video). Bài hát nói về cô bé thuở ấu thơ được nghe mẹ hát một ca khúc, sau này khi lớn lên, cô hát tặng con gái giai điệu này. Nhưng chỉ khi Voznesensky viết lời bằng tiếng Nga với câu chuyện tình buồn, giai điệu như được thổi hồn mới, được chắp cánh để vượt ra khỏi biên giới một quốc gia. Triệu đóa hồng gắn liền tên tuổi của nữ ca sĩ Alla Pugacheva. Năm 1983, với ca khúc này, Alla Pugacheva đoạt giải Bài hát của năm tại Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn Liên Xô (cũ). Đây trở thành một trong những nhạc phẩm nổi tiếng nhất Liên Xô trong suốt thập niên 1980. Tại rất nhiều buổi biểu diễn của mình, khán giả cùng Pugacheva cất lời hát về chuyện tình chàng họa sĩ. Trong giai thoại được kể lại, họa sĩ Niko Pirosmani tặng Margarita không chỉ có hoa hồng đủ sắc màu mà còn có cả kim ngân, huệ, anh túc, thược dược. Lời bài hát nhắc tới hoa hồng đỏ thắm - mang tính ước lệ để chỉ tình yêu. Bởi từ lâu, hoa hồng được ví là sứ giả của tình yêu, được nhiều dân tộc coi là quốc hoa. Hoa hồng cũng là đề tài thường thấy trong hoạt động sáng tác của nghệ sĩ. Họa sĩ Nga Alexei Antonov từng làm người xem mê đắm bởi những bức tranh đơn sơ, thanh tao và tinh khôi về hoa hồng, cho người xem cảm nhận được hương thơm ngát. Hay trong nhạc Hoa ngữ, ca khúc 999 đóa hồng (ca sĩ Đài Chính Tiêu, xem video) cũng là tượng đài của những bản tình ca. Bài hát nói về sự cô đơn, buồn tiếc của chàng trai khi chia tay. Anh vốn trồng 999 cây hoa hồng cho người yêu. Chia tay rồi, hoa héo úa còn chàng trai tiều tụy. Con số 999 đóa hồng có ý nghĩa rằng tình yêu trao cho em là vĩnh cửu. Ngày nay, vẫn có không ít gã si tình dùng 999 đóa hồng bày tỏ tình yêu với người trong mộng. Hình ảnh hoa hồng trên trang giấy kẻ ô vuông nhỏ trở thành phần ký ức của một thế hệ. Có lẽ cũng chính nhờ hoa hồng, nhờ lòng yêu mến của con người trên thế giới với hoa hồng, bài hát Nga gần gũi hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Phải chăng vì thế mà sự lãng mạn, si tình tới mức bán nhà mua hoa của chàng họa sĩ lại nhận được đồng cảm của người nghe đến vậy? Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng Nhật Bản (video), Anh (video), Hàn Quốc (video), Trung. và cả tiếng Việt. Ở Nhật Bản, đây được coi là biểu tượng của tình ca. Triệu đóa hồng vang lên trong nhiều trường học, công trường. ở Việt Nam những năm 1980-90. Bài hát được nhiều chàng trai chọn là sứ giả, giúp họ thổ lộ tình cảm với người yêu. Triệu đóa hồng đến nay vẫn có sức lay động người nghe, dù vật đổi sao dời.
Triệu bông hồng
Triệu bông hồng (tiếng Nga: Миллион алых роз), hay còn được gọi với các tên: Triệu đóa hồng, Triệu triệu đóa hồng, Triệu đóa hoa hồng, Triệu bông hồng thắm, Triệu đóa hồng thắm là tên một ca khúc tiếng Latvia được sáng tác bởi Raimonds Pauls với phần lời của Leons Briedis . Nó được biểu diễn tại Mikrofona aptauja năm 1981 bởi Aija Kukule và Līga Kreicberga . Bài hát là một trong những bài nổi tiếng nhất của Pauls đã được một số nghệ sĩ cover lại, đáng chú ý nhất là Alla Pugacheva người Nga vào năm 1982 với lời bài hát tiếng Nga của nhà thơ Nga Andrey Andreyevich Voznesensky. Lời nhạc dựa vào một giai thoại trong quyển thứ năm "Бросок на юг" (Về phương nam) thuộc tiểu thuyết "Повесть о жизни" (Tiểu thuyết cuộc đời) của nhà văn K. G. Paustovsky viết năm 1960 về chuyện tình của danh họa người Gruzia Niko Pirosmani (1862 - 1918) với nữ ca sĩ người Pháp Marguerite tại Tiphlis (tên gọi cũ của Tbilisi).Bài hát có tiết tấu nhanh, sôi động nhưng phảng phất nỗi buồn. Ca sĩ Alla Pugachyova thể hiện bài này rất thành công. Tại Nhật Bản và Hàn Quốc, bài hát này nổi tiếng và phổ biến đến mức được người dân nơi đây đều cho là "biểu tượng của tình ca" và nó có mặt trong tất cả các phòng hát karaoke nơi đây .
Làm thế nào bạn có thể phân tích một tập hợp dữ liệu định tính khổng lồ thu được thông qua các quan sát tham dự, các cuộc phỏng vấn chuyên sâu, hội thảo nhóm nhỏ, những câu chuyện từ bản ghi âm, video hoặc các tài liệu thứ cấp? Một trong những kỹ thuật để phân tích các dữ liệu văn bản này là lý thuyết nền(*) (grounded theory) – một kỹ thuật quy nạp giúp giải nghĩa những dữ liệu đã lưu giữ về một hiện tượng xã hội để xây dựng lý thuyết về hiện tượng đó. Grounded theory có khi được dịch sang tiêng Việt là: lý thuyết tiềm ẩn; lý thuyết xây dựng trên nền tảng dữ liệu (N.D). Phương pháp này tiếp tục được hoàn thiện bởi Strauss và Corbin (1990) khi họ đề xuất các kỹ thuật cụ thể về mã hóa (coding – một quá trình phân loại các nhóm dữ liệu văn bản thành các nhóm ngữ nghĩa (các khái niệm), các phạm trù và các mối quan hệ. Trong quá trình nghiên cứu, lý thuyết sẽ được xây dựng dựa trên cơ sở dữ liệu quan sát thực nghiệm, đó là lý do đặt tên cho kỹ thuật này là lý thuyết nền (hay lý thuyết xây dựng trên nền tảng dữ liệu). Để đảm bảo lý thuyết chỉ hình thành dựa trên những thông tin đã quan sát, lý thuyết nền đòi hỏi các nhà nghiên cứu loại phải bỏ tất cả các phỏng đoán ban đầu hoặc những thiên vị cá nhân trước khi bắt đầu phân tích dữ liệu, hãy để cho dữ liệu quyết định việc hình thành lý thuyết. Strauss và Corbin (1998) mô tả ba kỹ thuật mã hoá để phân tích dữ liệu văn bản: mã hoá mở, mã hoá trục và mã hoá chọn lọc. Mã hoá mở (open coding) là một quá trình giúp nhận diện các khái niệm hoặc các ý tưởng quan trọng ẩn bên trong dữ liệu văn bản mà chúng có khả năng liên quan đến hiện tượng đang nghiên cứu. Nhà nghiên cứu đọc các dữ liệu sống theo từng dòng để phát hiện các sự kiện, tình tiết, ý tưởng, hành động, nhận thức riêng lẻ rời rạc và các mối tương tác có liên quan; chúng sẽ định hình thành các khái niệm (vì thế được gọi là các mã hoá sống). Từng khái niệm được liên kết tới các phần cụ thể của văn bản, gọi các đơn vị mã hoá (coding unit) phục vụ cho việc củng cố sau này. Một số khái niệm có thể được hình thành một cách đơn giản và rõ ràng, trong khi những khái niệm khác có thể phức tạp, mơ hồ và được nhìn nhận khác nhau bởi những người tham gia khác nhau. Các đơn vị mã hoá có thay đổi với các khái niệm được trích chép. Các khái niệm đơn giản như “quy mô tổ chức” có thể chỉ bao gồm một vài từ trong văn bản, trong khi những khái phức tạp như “sứ mệnh của tổ chức” có thể kéo dài nhiều trang. Khái niệm có thể được đặt tên bằng cách sử dụng quy ước đặt tên của riêng nhà nghiên cứu hoặc các dán nhãn được tiêu chuẩn hóa từ các nghiên cứu trước. Khi một tập hợp các khái niệm cơ bản được xác định, các khái niệm này sau đó có thể được sử dụng để mã hoã phần còn lại của dữ liệu, trong khi đó vẫn không bỏ qua việc tìm kiếm những khái niệm mới và tinh chỉnh các khái niệm đã hình thành. Trong khi định ngữ, việc xác định các đặc điểm dễ nhận biết, đặc thù của từng khái niệm là điều hết sức quan trọng, chẳng hạn như kích thước, màu sắc hoặc mức độ (ví dụ như, cao hay thấp) của khái niệm đó, có như vậy sau này các khái niệm tương tự có thể được nhóm lại với nhau. Kỹ thuật mã hoá này được gọi là “mở” bởi vì các nhà nghiên cứu mở ra và tích cực tìm kiếm các khái niệm mới có liên quan đến hiện tượng quan tâm. Tiếp theo, các khái niệm tương tự được nhóm lại thành mức cao hơn gọi là các phân nhóm (category). Trong khi khái niệm sẽ được tìm thấy trong bối cảnh cụ thể, phân nhóm có xu hướng mở rộng và khái quát hơn và cuối cùng phát triển thành các phạm trù (construct) trong kỹ thuật thiết lập lý thuyết. Để hình thành các phân nhóm, việc giảm số lượng các khái niệm là cần thiết. Muốn vậy các nhà nghiên cứu phải xác định những vấn đề cốt yếu về hiện tượng đang nghiên cứu bằng cách phác họa một “bức tranh tổng thể” nêu bật những vấn đề đó. Phân nhóm có thể được hình thành qua nhiều giai đoạn, ví dụ, đầu tiên kết hợp các khái niệm thành các cụm và sau đó kết hợp các cụm thành các phân nhóm. Các phạm trù được đề cập trong các nghiên cứu trước đó có thể được sử dụng để đặt tên cho các phân nhóm này, đặc biệt nếu mục tiêu của nghiên cứu là để mở rộng lý thuyết hiện có. Tuy nhiên, phải rất thận trọng trong khi sử dụng các phạm trù trước đó, bởi vì chúng có thể đi kèm với những quan niệm truyền thống và thành kiến phổ biến. Đối với mỗi phân nhóm, cần phân biệt các đặc trưng (characteristics or properties) của phân nhóm với các khía cạnh (dimensions) của phân nhóm đó. Khía cạnh đề cập đến giá trị của một đặc trưng tồn tại trong thời gian dài và liên tục. Ví dụ, phân nhóm “phương tiện thông tin liên lạc” có thể có một đặc trưng là “tốc độ” và đặc trưng “tốc độ” này có thể có một số khía cạnh như nhanh, trung bình hay chậm. Việc phân loại như vậy giúp phân biệt giữa các loại hình khác nhau của các phương tiện thông tin liên lạc và cho phép nhà nghiên cứu xác định các mô hình (patterns) trong dữ liệu, chẳng hạn như phương tiện truyền thông nào được sử dụng cho loại nhiệm vụ nào. Giai đoạn thứ hai của thiết lập lý thuyết là mã hoá theo trục (axial coding), trong đó các phân nhóm và cụm được kết hợp tạo thành các mối quan hệ nhân quả hoặc các giả thuyết có thể giải thích các hiện tượng quan tâm. Mặc dù khác với mã hoá mở, nhưng mã hoá theo trục có thể thực hiện đồng thời với mã hoá mở. Mối quan hệ giữa các phân nhóm có thể nhìn thấy rõ từ trong dữ liệu hoặc cũng có thể ẩn và tinh tế. Trong trường các mối quan hệ là không rõ ràng, các nhà nghiên cứu có thể sử dụng lược đồ mã hoá (coding scheme, thường được gọi là “mô thức mã hoá (coding paradigm)”) để xác định đâu là điều kiện (conditions – tình huống chứa đựng hiện tượng nghiên cứu), đâu là hành động/ tương tác (actions/ interactions – sự phản ứng, tương tác của các cá nhân đối với các sự kiện trong điều kiện đã xác định) và đâu là kết quả (consequences – các kết quả của hành động). Khi các điều kiện, tương tác và kết quả được xác định, các luận điểm lý thuyết bắt đầu xuất hiện và nhà nghiên cứu có thể bắt đầu giải thích lý do tại sao một hiện tượng xảy ra, trong những điều kiện nào, gây ra những gì hậu quả gì. Giai đoạn thứ ba và cuối cùng của thiết lập lý thuyết là mã hoá chọn lọc (selective coding) nhằm xác định một phân nhóm trung tâm (hay một biến cốt lõi) và sau đó liên kết chúng một cách có hệ thống và logic với các phân nhóm khác. Phân nhóm trung tâm (central category) có thể được phát triển từ việc kết hợp các phân nhóm hiện có. Dữ liệu mới được cần được thu thập có chọn lọc để củng cố phân nhóm trung tâm và các mối quan hệ của nó với các phân nhóm khác (đây có thể là một lý thuyết dự kiến). Mã hoá chọn lọc giúp thu nhỏ phạm vi phân tích và đẩy nhanh quá trình phân tích. Đồng thời, nhà nghiên cứu phải chú ý tới sự xuất hiện của các phạm trù mới từ các dữ liệu mới liên quan đến hiện tượng quan tâm (liên quan đến mã hoá mở), điều này có thể giúp phát triển hơn nữa lý thuyết dự kiến ban đầu. Do đó, mã hoá mở, mã hoá theo trục và mã hoá chọn lọc có thể được tiến hành đồng thời. Việc mã hoá các dữ liệu mới và phát triển lý thuyết vẫn phải tiếp tục cho đến khi đạt đến độ bão hòa lý thuyết (theoretical satuation), nghĩa là, khi các dữ liệu bổ sung không mang lại bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào trong các phân nhóm trung tâm và mối quan hệ của chúng. Quá trình “so sánh liên tục” đề cập đến việc sắp xếp lại, tập hợp và sàng lọc liên tiếp các phân nhóm, mối quan hệ và các giả thuyết. Quá trình này dựa vào mức độ hiểu biết ngày một sâu sắc và mối quan hệ tương hỗ của bốn hành vi: (1) so sánh các tình tiết / văn bản liên quan tới mỗi phạm trù (để củng cố phạm trù đó), (2) hợp nhất các phạm trù và các thuộc tính của chúng, (3) khoanh vùng, chọn lọc lý thuyết (tập trung vào các khái niệm cốt lõi và bỏ qua khái niệm ít liên quan hơn), và (4) hình thành lý thuyết (bằng cách sử dụng các kỹ thuật như bình luận, tường thuật và đồ thị hóa được thảo luận trong chương kế tiếp). Việc có một phân nhóm trung tâm không có nghĩa là tất cả các phân nhóm khác có thể được liên kết dễ dàng xung quanh phân nhóm này. Để xác định đâu là điều kiện, tương tác hay kết quả của phân nhóm trung tâm, Strauss và Corbin (1990) khuyến nghị sử dụng một số kỹ thuật tích hợp như tường thuật, bình luận và đồ thị hóa. Trong kỹ thuật tường thuật (storylining), các phân nhóm và các mối quan hệ được sử dụng để giải thích và điều chỉnh một tường thuật về hiện tượng quan sát. Bình luận là các bài viết lý thuyết có chứa các khái niệm cơ bản cũng như các mối quan hệ được xác định trong quá trình phân tích lý thuyết nền, nó là công cụ quan trọng để phát hiện và điều chỉnh các ý tưởng trong quá trình phân tích. Kỹ thuật bình luận (memoing) trong thiết lập lý thuyết được sử dụng để khám phá mô hình các mối quan hệ giữa các phân nhóm nhờ sử dụng từng cặp bảng, cặp sơ đồ, cặp con số, hay các hiển thị minh họa khác. Kỹ thuật sơ đồ hóa khái niệm (concept mapping) là việc diễn đạt bằng sơ đồ các khái niệm và các mối quan hệ giữa chúng (ví dụ, sử dụng các hộp và các mũi tên). Các khái niệm cơ bản thường được bố trí trên một hoặc nhiều tờ giấy, bảng đen hoặc sử dụng chương trình phần mềm đồ họa, liên kết với nhau bằng các mũi tên, được điều chỉnh sao cho phù hợp nhất với dữ liệu đã thu thập.
Lý thuyết
Lí thuyết là một loại chiêm nghiệm và hợp lí của cái gì đó trừu tượng hoặc khái quát hóa của suy nghĩ về một hiện tượng, hoặc kết quả của suy nghĩ như vậy. Quá trình suy nghĩ chiêm nghiệm và lí trí thường gắn liền với các quá trình như nghiên cứu quan sát, nghiên cứu. Các lí thuyết có thể là khoa học hoặc khác với khoa học (hoặc khoa học ở mức độ thấp hơn). Tùy thuộc vào ngữ cảnh, các kết quả có thể bao gồm các giải thích tổng quát về cách thức hoạt động của tự nhiên. Trong khoa học hiện đại, thuật ngữ "lí thuyết" dùng để chỉ các lí thuyết khoa học, một kiểu gồm những lời giải thích về tự nhiên đã được khẳng định, được thực hiện theo cách phù hợp với phương pháp khoa học và đáp ứng các tiêu chí theo yêu cầu của khoa học hiện đại. Lí thuyết trên được mô tả theo cách mà các xét nghiệm khoa học sẽ có thể cung cấp kinh nghiệm hỗ trợ cho, hoặc mâu thuẫn với nó. Các lí thuyết khoa học là dạng tri thức khoa học đáng tin cậy, nghiêm ngặt và toàn diện nhất, trái ngược với cách sử dụng phổ biến hơn của từ "lí thuyết" ngụ ý rằng một cái gì đó không được chứng minh hoặc suy đoán (theo thuật ngữ chính thức thì đó là giả thuyết).
Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1979 là cú sốc dầu mỏ thứ hai trong trong thập niên 70, tạo ra sự hoảng loạn về khả năng thiếu xăng dầu trong tương lai dẫn đến giá dầu và các sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng vọt. Trên thực tế, sản lượng dầu chỉ giảm khoảng 7% hoặc thấp hơn hơn, nhưng sự gián đoạn nguồn cung trong ngắn hạn dẫn đến dầu tăng giá mạnh, người dân vội vã mua tích trữ và xếp hàng dài tại các trạm xăng. Tại Mỹ, một số tiểu bang đã tiến hành phân phối xăng dầu bắt buộc bao gồm California, New York, Pennsylvania, Texas và New Jersey. Ở những bang đông dân này, người tiêu dùng chỉ có thể mua gas vào ngày chẵn hoặc lẻ, dựa trên chữ số cuối của biển số xe của họ. Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1979 xảy ra khi nguồn cung dầu thô toàn cầu giảm đáng kể sau hậu quả của Cách mạng Iran, bắt đầu vào đầu năm 1978 và kết thúc vào đầu năm 1979 với sự sụp đổ của nhà vua Shah Mohammad Reza Pahlavi. Trong 12 tháng, giá tăng gần gấp đôi lên 39,50 USD một thùng. Sự gián đoạn ngắn hạn trong việc cung cấp xăng và dầu diesel toàn cầu trở nên đặc biệt nghiêm trọng vào mùa xuân và đầu mùa hè năm 1979. Ở Mỹ, tình trạng thiếu xăng cũng dẫn đến lo ngại rằng dầu đốt có thể bị thiếu hụt trong mùa đông 1979-1980. Mỹ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng hơn từ cuộc khủng hoảng so với các nước phát triển khác ở châu Âu, dù những nước này cũng phụ thuộc vào dầu từ Iran và các nước Trung Đông khác. Một phần lí do có liên quan đến các quyết định trong chính sách tài khóa ở Mỹ. Đầu năm 1979, chính phủ Mỹ đã điều tiết giá dầu. Các nhà quản lí đã ra lệnh cho các nhà máy tinh chế hạn chế việc cung cấp xăng dầu trong thời gian đầu của cuộc khủng hoảng để trữ hàng tồn kho, khiến cho giá trở nên cao hơn. Một yếu tố khác là việc nguồn cung bị hạn chế ngoài ý muốn sau khi Bộ Năng lượng Mỹ yêu cầu một số nhà máy lọc dầu lớn bán dầu thô cho những nhà máy nhỏ hơn. Do các nhà máy tinh chế nhỏ có năng lực sản xuất hạn chế nên quyết định này khiến cho việc cung cấp xăng dầu càng bị trì hoãn hơn. Chính sách tiền tệ dẫn đến khủng hoảng cũng là một phần nguyên nhân vì Ủy ban Thị trường mở Liên bang đã miễn cưỡng tăng lãi suất mục tiêu quá nhanh. Điều đó làm tăng lạm phát vào cuối thập kỷ này, khiến cho lạm phát tăng vọt đi kèm với giá năng lượng và một loạt các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng khác tăng cao. Trong cuộc khủng hoảng, các chính trị gia tích cực khuyến khích người tiêu dùng tiết kiệm năng lượng và hạn chế việc đi lại khi không cần thiết. Trong những năm sau đó, cuộc khủng hoảng năm 1979 đã giúp cho các loại xe ô tô cỡ nhỏ và xe mini được ưa chuộng và bán chạy, do chúng có động cơ nhỏ hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn các dòng xe khác. Cùng lúc đó, các công ty dịch vụ công cộng (vận tải, điện, nước, khí đốt, v.v.) trên toàn thế giới phải tìm kiếm giải pháp thay thế cho máy phát điện dầu thô. Các lựa chọn thay thế bao gồm các nhà máy điện hạt nhân và các hính phủ đã chi hàng tỉ đô la cho việc nghiên cứu và phát triển các nguồn nhiên liệu khác. Nhờ kết quả của những nỗ lực trên, lượng tiêu thụ dầu hàng ngày trên toàn thế giới đã giảm trong 6 năm kể từ cuộc khủng hoảng. Trong khi đó, thị phần toàn cầu của Tổ chức OPEC đã giảm xuống 29% vào năm 1985, giảm so với mức 50% vào năm 1979.
Khủng hoảng dầu mỏ 1973
Khủng hoảng dầu mỏ là thời kỳ giá dầu mỏ tăng cao gây áp lực lớn cho nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 bắt đầu từ tháng 10 năm 1973 khi các nước thuộc Tổ chức các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ tuyên bố ban hành lệnh cấm vận hay nói cách khác là quyết định ngừng sản xuất dầu mỏ sang các nước ủng hộ Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur, cụ thể ở đây là nước Mỹ. Trước khi lệnh cấm chấm dứt vào tháng ba 1974, giá dầu thế giới đang từ 3/thùng lên đến gần 12/thùng, trong khi đó ở nước Mỹ thì giá dầu cao hơn chút ít. Việc ngừng xuất khẩu dầu mỏ này đã gây ra cuộc Khủng hoàng dầu mỏ, hay còn được ví như một " cú sốc giá dầu",đã để lại nhiều hậu quả xấu nhất thời và dài dẵng đối với nền chính trị toàn cầu và nên kinh tế thế giới. Sự việc được ví như " cú sốc giá dầu đầu tiên trong lịch sử", kéo theo sau đó lại là một " cú sốc dầu mỏ lần thứ II " diễn ra vào năm 1979.
Án Mạng Trên Chuyến Tàu Tốc Hành Phương Đông kể về một vụ án xảy ra trên con tàu tốc hành đi từ thành phố Istambul về London, và đương nhiên trên chuyến tàu ấy có mặt vị thám tử tài ba Hercule Poirot. Một trong những tác phẩm để đời của nữ văn sĩ chuyên viết truyện trinh thám nổi tiếng thế giới Agatha Christie chính là tuyệt tác Án Mạng Trên Chuyến Tàu Tốc Hành Phương Đông, không lẫn vào đâu được. Cũng như tác phẩm Mười Người Da Đen Nhỏ mà mình đã review vào năm ngoái, Án Mạng Trên Chuyến Tàu Tốc Hành Phương Đông đã được chuyển thể thành phim điện ảnh và ra rạp vào tháng 12/2017, được rất nhiều khán giả yêu thích và đánh giá cao. Bản thân mình cũng đã ra rạp xem và rất hài lòng với cách đạo diễn dàn dựng bộ phim này. Sau khi đọc truyện xong, mình khuyến khích các bạn tìm xem bộ phim của nó luôn nhé!. Án Mạng Trên Chuyến Tàu Tốc Hành Phương Đông kể về một vụ án xảy ra trên con tàu tốc hành đi từ thành phố Istambul về London, và đương nhiên trên chuyến tàu ấy có mặt vị thám tử tài ba Hercule Poirot, một nhân vật giả tưởng có mặt trong hầu hết các truyện trinh thám của Agatha Christie, là người đóng vai trò giải các câu đố hóc búa của truyện. Chuyến tàu có tất cả 14 hành khách và dường như họ không hề quen biết lẫn nhau. Vì một cơn bão tuyết lớn ập đến bất ngờ, con tàu tốc hành bị nghẽn đường vì tuyết phủ, và đêm hôm đó án mạng đã xảy ra. Sáng hôm sau, một hành khách tên Samuel Edward Ratchett bị phát hiện đã chết trong một căn buồng khoá kín với rất nhiều vết dao trên người. Ai là kẻ đã ra tay sát hại ông ta? Và lý do đằng sau vụ mưu hại này là gì?. Đây là một trong những vụ án kỳ lạ nhất mà nhà thám tử đại tài Hercule Poirot gặp phải. Mọi manh mối được tìm thấy dường như đều có liên quan đến tất cả các hành khách trên tàu trừ ông ra, nhưng tất cả bọn họ đều có bằng chứng ngoại phạm. Bằng lối dẫn chuyện như đang thu thập từng dữ kiện của Agatha Christie, bạn chớ có bỏ qua một chi tiết nhỏ nào, vì rất có thể chìa khoá cho câu trả lời được lồng vào đó một cách khéo léo. Một trong những điều khiến mình thích đọc truyện trinh thám của Agatha Christie chính là cảm giác mình trở nên thông minh hơn sau khi đọc một bộ truyện của bà. Nghe rất buồn cười đúng không, nhưng là thật đó các bạn ạ. Sẽ có lúc bạn ứng dụng những kiến thức này vào cuộc sống bằng những cách mà bạn không bao giờ ngờ tới. Bạn học được cách con người che giấu sự thật đằng sau những gương mặt bình thản vô tội như thế nào. Và bạn có niềm tin vào công lý, vào cái thiện. Trinh thám là một môn học đầy bổ ích, có tính nhân văn mà lại cực kỳ thú vị, khả năng ứng dụng rất cao. Vậy thì còn chờ gì nữa? Mời các bạn nhảy hố ở đây: Án Mạng Trên Chuyến Tàu Tốc Hành Phương Đông. Đầu tiên mình xin nhắc nhở các bạn đây là truyện tỷ đệ luyến thật sự, khoảng cách tuổi tác giữa hai người không hề nhỏ nha! Bối cảnh truyện là thời cổ đại. Trương Bằng là một chàng trai xuyên không về thời cổ đại, nhập vào thân xác Trương Bồng Bồng, Thái tử phi của chàng Thái tử điển trai lạnh lùng Tề Thịnh.
Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông
Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (tiếng Anh: Murder on the Orient Express) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu tại Anh ngày 1 tháng 1 năm 1934. Tại Hoa Kỳ cuốn này được nhà xuất bản Dodd, Mead and Company phát hành lần đầu cũng vào năm 1934 dưới tựa đề Murder in the Calais Coach (Án mạng trên toa xe Calais). Tác phẩm nói về vụ án mạng kỳ lạ xảy ra trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông chạy từ Istanbul về Calais mà thám tử Hercule Poirot tình cờ có mặt. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Agatha Christie và nó đã hai lần được chuyển thể thành phim và một video game. Lưu ý có tiết lộ gần hết nội dung:Sau khi hoàn thành một vụ án ở Syria, Hercule Poirot đáp chuyến tàu đến Istanbul với ý định thăm thành phố này vài ngày trước khi quay về châu Âu. Trên chuyến tàu vắng khách Poirot để ý tới quan hệ kỳ lạ giữa một phụ nữ trẻ người Anh, cô Mary Hermione Debenham, với viên sĩ quan Arbuthnot, hai người luôn tỏ vẻ không quen biết nhưng thám tử lại cảm thấy họ có quan hệ rất gắn bó.
Qua từng năm, các phong cách thiết kế khác nhau lần lượt ra đời để đáp ứng nhu cầu cũng như tính thẩm mỹ của xã hội hiện đại. Một phong cách hướng tới sự đơn giản tạo nên một không gian thoáng đãng, hòa hợp với thiên nhiên giữa chốn đô thị đông người là điều mà mọi người mơ ước. Như một làn gió mới cho không gian sống, phong cách tối giản ngày càng được các hộ gia đình hướng tới và ứng dụng rộng rãi trong không gian nhà ở của mình. Qua bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ giúp bạn có những hiểu biết sâu sắc hơn về phong cách đang được ưu tiên hướng tới trong thiết kế căn hộ nhé. Phong cách tối giản là một trường phái nghệ thuật của phương Tây trong giai đoạn 1960 - 1970 của thế kỷ XX và nhanh chóng trở thành một trào lưu được nhiều người ưa chuộng. Phong cách này được thể hiện rõ nét nhất trong nghệ thuật thị giác qua các tác phẩm hội họa của Mark Rothko. Bạn có thể hiểu đây là một phong cách thể hiện được những xu hướng nghệ thuật đa dạng, đặc biệt trong nghệ thuật về thị giác quan mà các tác phẩm được tối giản về những yêu cầu thiết yếu nhất của nó. Hiện nay, phong cách này còn được mở rộng sang các lĩnh vực khác nhau từ thời trang đến âm nhạc cho tới thiết kế nội thất và kiến trúc. Xu hướng tối giản đã trở nên phổ biến hơn, được rất nhiều người quan tâm và lựa chọn cho mình trong xã hội hiện đại ngày nay. Bởi xu hướng thiết kế tối giản hoàn toàn khác so với các xu hướng thiết kế khác, khi họa tiết được lựa chọn một cách khắt khe hơn và tông màu lạnh được sử dụng nhiều hơn. Lối sống tối giản không chỉ đơn giản là “lược bỏ” những vật dụng không cần thiết trong đời sống hàng ngày giúp bạn tập trung hơn vào những mục đích mà bạn đang theo đuổi, mà còn là “thêm vào” những thứ có giá trị thật sự với bản thân và quyết định theo đuổi nó, cả trong hành động lẫn suy nghĩ. Trong tương lai thì xu hướng tối giản sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, bởi cuộc sống ngày càng trở nên bận rộn, quay cuồng càng khiến cho con người tìm đến một lối đi đơn giản nhẹ nhàng, chính vì vậy mà xu hướng sống tối giản sẽ là công cụ giúp cho con người tìm thấy niềm vui và sự hạnh phúc cho mình. Phong cách tối giản trong nội thất hiện đang được ưa chuộng bởi sự tinh tế và giản dị trong không gian mà nó mang lại. Phong cách nội thất tối giản nghĩa là sử dụng những đường nét đơn giản, giảm thiểu đồ nội thất, ít chi tiết, thậm chí mọi chi tiết đều mang ý nghĩa nhất định nhằm tạo ra một không gian hài hòa và thông thoáng nhất. Trường phái này hiện đang phát triển cực thịnh ở châu Âu - cái nôi của trang trí nội thất. Phong cách tối giản này có ảnh hưởng trực tiếp tới xu hướng trang trí nội thất tại các nước Bắc Âu từ những năm cuối thập kỷ 90 cho đến hiện nay và còn ảnh hưởng lan rộng sang các nước ở châu Mỹ. Tại châu Á, Nhật Bản là nước đặt nền móng cho sự phát triển của phong cách tối giản. Chính vì vậy, xứ sở mặt trời mọc được coi là bậc thầy của phong cách thiết kế nội thất hiện đại tối giản và tinh tế. Chúng ta có thể hoàn toàn chiêm ngưỡng những gì tuyệt vời nhất của trường phái Minimalism trong hầu hết các công trình, kiến trúc nhà tối giản kiểu Nhật Bản từ cả đương đại lẫn truyền thống. Trong một không gian Minimalism, các yếu tố đều phải gọn gàng và tối giản. Không gian căn hộ của bạn sẽ tạo cảm giác xuyên suốt, mọi yếu tố tạo nên sự rườm rà hay rối mắt đều được lược bỏ một cách nhanh chóng. Không gian của một công trình mang phong cách tối giản hiện đại phải đảm bảo được tính thoáng đãng với những mảng tường, mảng trần và sàn phẳng, tạo khoảng trống lớn, ít chi tiết giúp tối ưu diện tích sử dụng. Thiết kế nhà phong cách Minimalism thì nội thất sẽ được loại bỏ những thứ không cần thiết trong một không gian, trong đó những đồ vật có ý nghĩa công năng cũng được hạn chế tối đa, thay vào đó là những món đồ có nhiều chức năng, đồ nội thất thông minh, đơn giản với đường nét gọn gàng nhất, nhưng phải thật thoải mái về mặt công năng. Trong bất kỳ phong cách thiết kế nào thì màu sắc luôn giữ một vai trò đặc biệt trong tổng thể không gian. Màu sắc không chỉ tạo nên nét đẹp cho không gian mà nó còn thể hiện được một phần tính cách của gia chủ. Đối với phong cách thiết kế nội thất thì bạn cũng cần chú ý sử dụng những gam màu phù hợp. Thông thường các KTS sẽ sử dụng không quá 3 màu: một màu nền, một màu chủ đạo và một màu làm điểm nhấn. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý đến tỷ lệ trong đó: 60% màu chủ đạo, 30% màu nền và 10% còn lại là màu nhấn. Những gam màu trung tính như: ghi xám, ghi sáng, màu be, màu kem… sẽ tạo nên sự trang nhã cho không gian nhà bạn. Sự xếp lớp các sắc độ của một tông màu cũng là một lựa chọn thú vị cho không gian mang phong cách tối giản, điển hình như kiến trúc Scandinavian với các sắc độ trung tính được bố trí theo từng khoảng lớn không cắt nhau. Không riêng gì nội thất tối giản, bất kỳ một phong cách thiết kế nào cũng luôn dành sự chú trọng đặc biệt vào khía cạnh ánh sáng. Việc tận dụng nguồn ánh sáng tự nhiên qua các khung cửa lớn, những vách kính hay mái nhà tạo nên một không gian hài hòa và gần gũi. Do hạn chế về việc sử dụng màu sắc trong nội thất nên ánh sáng được xem như một thành phần trang trí quan trọng để tạo ra các hiệu ứng về thị giác và thẩm mỹ trong phong cách tối giản. Việc sử dụng lượng ánh sáng tự nhiên vừa đủ sẽ mang lại một cảm giác thư thái, bình yên xen lẫn với những khoảng tối được tạo nên từ bóng đổ là nét độc đáo thú vị khi ứng dụng yếu tố ánh sáng trong phong cách tối giản hiện đại. Nếu căn phòng có quá nhiều ánh sáng tự nhiên thì những chiếc rèm cửa là vật dụng không thể thiếu, giúp bạn điều chỉnh ánh sáng vào phòng theo từng lựa chọn của cá nhân, đảm bảo cho bạn có một giấc ngủ sâu hơn. Do đó, tùy vào mức độ chắn ánh sáng mong muốn của gia chủ mà lựa chọn loại rèm cho phù hợp. Cũng giống như những phong cách thiết kế nội thất khác, vật liệu trong nội thất tối giản được sử dụng khá đa dạng, phong phú và theo sở thích cá nhân từng người. Nhưng bạn hãy lưu ý đến cách thi công và chất cảm của bề mặt vật liệu. Sử dụng các vật liệu tự nhiên như gỗ, bê tông, tre… mang đến sự thoải mái và ấm cúng cho không gian. Các loại vật liệu được sử dụng nên được phối màu đồng nhất với tổng thể không gian, thiết kế đơn giản sẽ giúp tạo nên những tiết diện tuyệt vời làm nổi bật kiến trúc và phản chiếu ánh sáng trong không gian của bạn. Nội thất đơn giản chính là tiêu chí mang tính tổng thể của phong cách tối giản. Đồ nội thất với những đường nét đơn giản tạo nên sự gắn bó hài hòa và cho tổng thể không gian thống nhất nhằm giữ được sự tinh tế cho căn hộ. Trong một không gian Minimalism, các món đồ nội thất đều được tiết giảm tối đa về mặt chi tiết. Ngoài việc lựa chọn đồ nội thất phù hợp với mục đích sử dụng, gia chủ nên ưu tiên các sản phẩm có kết cấu hình học, bề mặt trơn nhẵn, bóng sạch, ít chi tiết và phù hợp với thiết kế tổng hợp của căn phòng. Bàn ghế trong nội thất theo phong cách tối giản đều có hình dạng đơn giản, hài hòa và hiện đại, được làm nên từ các đường nét không cầu kỳ nhưng tinh tế. Các vật dụng này đáp ứng được nhu cầu sử dụng, sinh hoạt của con người đồng thời cũng chính là những thành phần trang trí cho nội thất bên trong. Màu sắc nội thất thì nên chọn trái ngược với màu tường hoặc chỉ đơn giản là đồng màu trắng. Tỉ lệ bố trí không gian thích hợp của đồ nội thất trong căn phòng đẹp nhất vào khoảng 20%. - Lựa chọn màu sắc thích hợp: Một trong những đặc trưng của phong cách nội thất Minimalism là sử dụng màu sắc một cách hạn chế. Nếu bạn muốn theo đuổi phong cách này thì các gam màu trung tính là sự lựa chọn tuyệt vời để trang trí không gian nhà ở. Lựa chọn các màu đơn sắc cũng là một gợi ý cho gia đình bạn, tuy nhiên cần đảm bảo rằng chúng không khiến ngôi nhà trở nên tẻ nhạt. Một trong những ưu điểm nổi bật của các màu sắc trung tính đó là không bao giờ lỗi thời, không làm mờ nhạt những màu sắc xung quanh. Việc sử dụng những gam màu trung tính sẽ đem lại điểm nhấn cho không gian, tạo tính liên kết và giúp gia tăng giá trị các đồ vật xung quanh. Các tone màu trung tính nhằm tạo ra một phông đệm cho các vật dụng trang trí bên trong, hướng sự chú ý của người quan sát đến những điểm nhấn quan trọng nhất. - Ưu tiên đồ trang trí đơn giản: Thay vì những món đồ trang trí rườm rà thì các món đồ thiết kế đơn giản, tinh tế lại là sự lựa chọn tốt nhất cho căn hộ theo phong cách tối giản. Gia chủ nên lựa chọn một bức tranh lớn treo trên tường thay vì tổ hợp những món đồ to nhỏ khác nhau. Tranh treo tường theo chủ đề là sự lựa chọn tuyệt vời giúp cho ngôi nhà trở nên cuốn hút, lãng mạn và ấm áp hơn. Ngoài ra, nó còn tạo nên sự phá cách, nét tươi mới và linh hoạt cho không gian. Tuy nhiên, bạn cũng cần tiết chế tới các vật trang trí khác để không phá hư tính tổng thể không gian. Nếu lạm dụng nhiều quá sẽ dẫn đến sự rườm rà cho ngôi nhà, làm mất đi tinh thần của phong cách tối giản. - Đồ dùng tối giản và đa năng: Các câu hỏi như: Nên sử dụng đồ nội thất nào, nên đặt chúng ở đâu để tiết kiệm không gian nhất, được sử dụng với mục đích nào, có cần thiết hay không? – luôn là những câu hỏi được đặt ra trước khi thiết kế và chọn lựa nội thất. Với những ngôi nhà lựa chọn phong cách nội thất tối giản thì các món đồ dùng sẽ được lựa chọn chủ yếu dựa vào tính năng của nó. Đồ nội thất đa năng đang là sự lựa chọn hàng đầu cho ngôi nhà của bạn. Các món đồ nội thất cũng như vật dụng được sử dụng ở mức tối giản nhưng vẫn đáp ứng được đòi hỏi tiện nghi về sử dụng của gia chủ. Tuy nhiên việc lựa chọn nội thất cũng phải được thực hiện một cách khoa học với các tính toán hợp lý nếu không muốn không gian nhà bạn trở nên lạnh lẽo, thiếu sức sống. Trong phong cách nội thất tối giản thì chìa khóa của sự thành công chính là tạo nên một không gian tối ưu. Hãy để ánh sáng di chuyển tự do thông qua một cửa sổ lớn, căn phòng dường như sẽ nhẹ nhàng thanh thoát và trông rộng hơn. Việc đầu tiên khi bố trí nội thất tối giản là bạn nên loại bỏ những chậu cây lớn ra khỏi không gian để cho căn phòng thêm tối ưu. Phân khu rõ ràng về các vị trí trên tường giúp cảm nhận không gian rõ ràng hơn. Đồ đạc để lộn xộn xung quanh bạn không chỉ gây khó khăn cho việc thư giãn, mà còn làm cho việc tìm kiếm những thứ bạn cần trở nên khó khăn. Tất cả khiến cho cuộc sống bạn trở nên căng thẳng, có rất nhiều đồ đạc trang trí đồng nghĩa với việc chứa nhiều bụi bặm. Muốn có một không gian sống tối giản, gọn gàng, bạn chắc chắn phải hy sinh những món đồ không cần thiết để trả lại sự trống trải cho căn hộ của bạn. Hãy tìm cách lưu trữ đồ tại tại các hệ thống giá treo hay các hộp chứa đa năng để giúp nhà bạn luôn sạch sẽ và ngăn nắp. Trong khi cuộc sống ngày càng bận rộn, có quá nhiều thứ phải lo nghĩ, giữ không gian sạch sẽ, gọn gàng sẽ giúp gia chủ dễ thở và thoải mái hơn trong cuộc sống hằng ngày. Màu sắc là nhân tố quan trọng định hình chính trong phong cách cũng như tạo sự hài hòa, giúp không gian trở nên hoàn hảo. Chính vì vậy, bạn phải cân nhắc tới việc lựa chọn màu sắc để có sự thống nhất và ăn ý trong thiết kế nội thất. Nhiều người vẫn thường chọn sơn tường hoặc màu của đồ dùng nội thất theo sở thích. Tuy nhiên việc sử dụng quá nhiều màu sắc và đồ trang trí sẽ phản tác dụng khiến không gian nhà bạn trở nên rườm rà, hỗn loạn. Đối với phong cách này, việc sử dụng các gam màu trung tính như trắng, hồng, kem… giúp không gian không bị đơn điệu, mang lại bầu không khí thư thái và thoáng đãng cho gia chủ. Tạo lập không gian có tính cân bằng bởi những mảng tường, những đường thẳng, những hình khối đơn giản và những khoảng trống lớn giúp căn nhà của bạn thêm phần ấn tượng. Bằng cách sắp xếp các món đồ trang trí và các tác phẩm nghệ thuật theo cặp hoặc bất đối xứng về một phía giúp bạn tạo ra một không gian tối giản hiệu quả trong phòng của bạn. Chắc chắn không ai muốn không gian sống của mình đơn điệu, tầm thường vì vậy việc tạo một điểm nhấn nổi bật cho không gian là điều cần thiết mà bạn không thể bỏ qua. Việc có một sản phẩm trọng tâm thu hút sẽ bổ sung những giai điệu tinh tế cho phần còn lại của thiết kế và hoàn thành trọn vẹn việc trang trí căn phòng tối giản.
Phong cách tối giản
Phong cách tối giản hay Phong cách tối thiểu (tiếng Anh: Minimalism, tiếng Pháp: Minimalisme) thể hiện những khuynh hướng đa dạng của nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật thị giác và âm nhạc mà các tác phẩm được tối giản về những yêu cầu thiết yếu nhất của nó. Phong cách tối giản xuất phát trong nghệ thuật phương Tây từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, rõ nét nhất là trong nghệ thuật thị giác với các tác phẩm hội họa của Mark Rothko. Khái niệm này dần dần được mở rộng để bao hàm cả những khuynh hướng trong âm nhạc mà đặc điểm là sự lặp lại, điển hình là các tác phẩm của Steve Reich, Philip Glass và Terry Riley Phong cách tối giản có nguồn gốc bắt rễ từ sự thuần khiết và cô đọng của chủ nghĩa Hiện đại, được kết hợp với chủ nghĩa Hậu hiện đại và được xem như phản ứng đối ngược lại với chủ nghĩa Biểu hiện trong nội dung cũng như trong bố cục tác phẩm.
Như tên gọi vé điện tử của nó vé này được nhận qua các thiết bị điện tử. Thường là 1 tập tin (file) văn bản hoặc pdf để gửi cho người mua vé qua Email. Sự ra đời của vé điện tử là nhằm để tiết kiệm chi phí cho việc in ấn vé giấy. Ngoài ra việc ra đời vé điện tử sẽ làm cho việc bán vé được thuận tiện hơn. Người mua vé không buộc phải lên tận nơi để mua và lấy vé về. Hoặc thanh toán tiền và chờ người giao vé. Với vé điện tử khi bạn thanh toán xong sẽ nhận được vé qua các thiết bị điện tử như Email. "Vé điện tử" hay trong tiếng Anh còn gọi là "electronic ticket" viết tắt là e-ticket. Đây là 1 dạng vé nhầm thay thế cho vé giấy trước đây. Như tên gọi vé điện tử của nó vé này được nhận qua các thiết bị điện tử. Thường là 1 tập tin (file) văn bản hoặc pdf để gửi cho người mua vé qua Email. Sự ra đời của vé điện tử là nhầm để tiết kiệm chi phí cho việc in ấn vé giấy. Ngoài ra việc ra đời vé điện tử sẽ làm cho việc bán vé được thuận tiện hơn. Người mua vé không buộc phải lên tận nơi để mua và lấy vé về. Hoặc thanh toán tiền và chờ người giao vé. Với vé điện tử khi bạn thanh toán xong sẽ nhận được vé qua các thiết bị điện tử như Email, Fax, Tin nhắn SMS. Vé điện tử ngày nay được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực hàng không. Hiện nay toàn bộ thành viên của IATA (International Air Transport Association) đây là Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế đều đã sử dụng vé điện tử. Nên khi mua vé máy bay hiện nay bạn sẽ nhận được vé máy bay điện tử. Ngoài ra vé điện tử còn được sử dụng ở lãnh vực khác như vé tàu, vé ca nhạc, vé thể thao. Ở Việt Nam thì hiện nay khi bạn mua vé máy bay sẽ nhận được vé điện tử. Như bên dưới đây là vé điện tử của Vietnam Airlines của mình. Những thông tin quan trọng mình đã che mờ rồi. Nhìn vào ảnh chổ mà mình bôi màu vàng RESERVATION CODE phía sau là mã đặt chổ đã được mình làm mờ vì lý do đây là thông tin quan trọng. Bạn chỉ cần đọc hay cho người làm thủ tục xem mã đặt chổ của bạn để họ làm thủ tục cho bạn lên máy bay. Thậm chí, bạn chỉ cần nhớ mã đặt chổ này thôi là cũng đủ rồi. Nhìn vào hình ở trên bạn có thể thấy biết được thông tin của chuyến bay này như thời gian bay, thời gian hạ cánh, địa điểm đi và đến, hạng vé máy bay là Economy, máy bay là loại Airbus, số hiệu máy bay là bao nhiêu, Mã sân bay là gì Như mã sân bây Tân Sơn Nhứt là SGN. Nếu có thời gian rảnh mình sẽ có bài viết tổng hợp mã sân bay trên thế giới. Trước đây, thì những thông tin này sẽ được in ra giấy và đưa cho khách hàng. Còn bây giờ thì thông tin này được gửi qua email của mình khi đặt vé. Mình chỉ cần mang file này bỏ vô điện thoại rồi đưa cho nhân viên làm thủ tục là được. Nếu mình sử dụng điện thoại không có khả năng đọc file pdf. Thì mình sẽ đem file này ra tiệm để in ra giấy và đưa cho người làm thủ tục xem. Vé điện tử dễ dàng quản lý hơn so với vé giấy. Như ở nước ngoài để soát vé nhanh, thì trên vé có in mã vạch để quét thay vì phải xem bằng mắt thông thường. Như vậy người sử dụng họ có thể lưu vé trong điện thoại rồi đưa nhân viên soát vé để họ quét là được. Đỡ tốn thời gian hơn. Như mình thấy có 1 số rạp chiếu phim hiện nay khi đặt mua xem phim online, sẽ được gửi vé qua email khi đến rạp chỉ cần đưa điện thoại cho người soát vé quét là được. Do được quản lý tự động, nên nếu gặp tình trạng vé giả thì 1 ai dùng vé giả để quét sẽ bị báo ngay vì thông tin vé giả chưa có trong hệ thống lưu trữ. Thì lúc đó dễ dàng loại được vé giả ra. Nếu vé giả được làm giả thông tin như 1 vé thật thì hệ thống sẽ phát hiện ra 1 vé được sử dụng ra vào nhiều lần. Từ đó sẽ kiểm tra được những người dùng vé giả. Như vậy ưu điểm đầu tiên là thuận lợi cho người sử dụng, cũng như việc quản lý vé. Tiết kiệm chi phí in ấn vé. Do không phải in vé ra giấy nên nhà cung cấp dịch vụ tiết kiệm được việc in ấn vé cho khách hàng của mình.
Vé điện tử
Vé điện tử (tiếng Anh gọi là e-ticket) là một loại vé kỹ thuật số. Thuật ngữ này được dùng chủ yếu để nói về vé máy bay điện tử. Ngoài ra, vé điện tử còn được hiểu là vé tàu điện tử, vé điện thoại điện tử hay vé giải trí điện tử được dùng trong các ngành công nghiệp giải trí.
Là một nước nổi tiếng về nền văn minh cổ nhất thế giới, thành tựu văn hóa Ấn Độ gặt hái được phải nói là rất nhiều và đa dạng trong nhiều lĩnh vực. Đây là các nôi của các tôn giáo lớn, nên từ tư tưởng văn học, chữ viết cho đến kiến trúc đều chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo. Điều đó đưa Ấn Độ trở thành một trong những nền văn hóa phát triển rực rỡ nhất của văn minh nhân loại. Ấn Độ là quê hương của các tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay như đạo Bà la môn, Ấn Độ giáo (đạo Hindu) và đạo Phật. Ngoài ra, còn có các đạo khác như đạo Jain, đạo Sikh. Các tôn giáo đều khuyên răn tín đồ làm việc thiện, tránh điều ác. Đạo Bà la môn ra đời vào thế kỉ XV trước công nguyên trong hoàn cảnh xã hội có sự bất bình đẳng. Tuy nhiên, không có người sáng lập cũng như tổ chức giáo hội nên đến khoảng thế kỉ VIII đạo Bà la môn trở thành đạo Hindu sau khi bổ sung thêm những điều lệ về nghi thức, các vị thần sùng bái. Ba vị thần được tôn sùng trong đạo Hindu (Ấn Độ giáo) là Brama, Shiva và Visnu. Vào thế kỉ VI trước công nguyên, Phật giáo ra đời với người sáng lập là Siddharta Gautama, sau khi thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ông được tôn sùng là người đã giác ngộ, cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 điều: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Về niên đại của Phật giáo, dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 trước công nguyên làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo. Đạo Jain cũng xuất hiện vào thế kỉ VI TCN, người sáng lập đạo là Mihariva. Đạo Jain không thờ thượng đế nhưng thờ tất cả các thần thánh trong huyền thoại. Họ cũng cho rằng vạn vật đều có linh hồn và tin vào thuyết luân hồi. Cuối cùng là đạo Sikh do Nanak Dev sáng lập vào thế kỉ XV. Đạo này chỉ tin vào một vị thần tối cao duy nhất và chống việc thờ các tượng thần khác nên người theo đạo này phản đối tín đồ đạo Hindu. Người Ấn Độ đã có chữ viết riêng của mình từ rất sớm, và chữ viết đầu tiên được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa với hơn 3.000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa. Theo tiến sĩ S.R. Rao, một nhà khảo cổ học Ấn Độ khám phá, thì đây là loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và vần với 22 dấu cơ bản, được viết từ phải sang trái. Đến thế kỉ VII TCN, xuất hiện chữ Brami, loại chữ được sử dụng rộng rãi. Ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Sau đó, vào thế kỉ V TCN, trên cơ sở chữ Brami, xuất hiện chữ Đêvanagari (hay Sanskrit) có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Và đây là chữ viết Ấn Độ vẫn dùng đến hiện giờ. Thành tựu văn hóa Ấn Độ trong Văn học được công nhận là một trong những nền văn học cổ nhất thế giới. Trong thời cổ đại, văn học Ấn Độ gồm có kinh Vedas và sử thi. Hai bộ sử thi nổi tiếng nhất là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bộ sử thi gồm 220.000 câu thơ phản ánh mọi mặt về xã hội Ấn Độ thời đó. Còn Ramayana kể về cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Xita với 48.000 câu thơ. Trong thời trung cổ, văn học Ấn Độ phát triển phồn thịnh, có ảnh hưởng từ Hồi giáo với tác phẩm nổi bật là thơ ca Ba Tư và Urdu. Trong thời kì văn học đương đại, nhà thơ Bengal Rabindranath Tagore đã trở thành người đầu tiên đoạt giải Nobel của Ấn Độ. Nghệ thuật Ấn Độ chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tôn giáo vì các công trình đều phục vụ cho một tôn giáo nhất định. Chủ yếu là theo các yêu cầu từ 3 tôn giáo: đạo Hindu, Phật giáo, Hồi giáo. Kiến trúc Hindu với những đền thờ có hình tháp nhọn, nhiều tầng và được điêu khắc tỉ mỉ. Tiêu biểu là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm 85 đền xen giữa những hồ nước và cánh đồng. Kiến trúc Phật giáo với các ngôi chùa có mái tròn như bát úp, được xây bằng đá hoặc khoét sâu vào vách núi. Nổi bật nhất là dãy chùa hang Ajanta ở Trung Ấn, là chùa được đục vào sâu vách núi, với 29 gian chùa. Trong hang có một số lượng khổng lồ những bức tượng điêu khắc về đạo Phật rất đẹp. Kiến trúc Hồi giáo với thiết kế không gian thoáng đãng, các đường nét thanh mảnh, trang trí ít rườm rà, thường có chỏm cầu búp sen, hình lá đề. Công trình kiến trúc nổi bật phải kể đến là tháp Mina và lăng Taj Mahan. Lăng Taj Mahan được xem là công trình đẹp nhất trong thành tựu văn hóa Ấn Độ và được thế giới miêu tả là một "kiệt tác được cả thế giới chiêm ngưỡng". Ấn Độ sở hữu nét độc đáo trong từng lĩnh vực, từ tín ngưỡng, lối sống cho đến các công trình kiến trúc, tác phẩm văn học. Với những thành tựu văn hóa Ấn Độ được kể trên là những điều bạn nên tìm hiểu trước khi đặt chân du lịch đất nước này. Hãy tự mình khám phá những nét văn hóa cổ đặc sắc nơi đây, chắc chắn bạn sẽ phải trầm trồ những hình ảnh văn hóa độc đáo này.
Văn học Ấn Độ
Văn học Ấn Độ nói chung được công nhận là một trong những nền văn học cổ nhất thế giới. Ấn Độ đã có 22 ngôn ngữ được công nhận chính thức, và nhiều nền văn học khác nhau đã được viết bằng nhiều thứ tiếng trong quá khứ. Trong văn học Ấn Độ, các hình thức truyền khẩu và viết đều quan trọng. Truyền thống văn chương Hindu chi phối một phần lớn của văn hóa Ấn Độ. Ngoài Vedas (Vệ-đà) là một dạng kiến thức linh thiêng, còn có các tác phẩm khác như sử thi Ramayana và Mahabharata, các luận thuyết như Vaastu Shastra trong kiến trúc và quy hoạch đô thị, và Arthashastra trong khoa học chính trị. Kịch Hindu mộ đạo, thơ và ca đã lan ra khắp tiểu lục địa. Trong số các tác phẩm trứ danh nhất của Kalidasa (tác giả của vở kịch Sanskrit nổi danh Recognition of Shakuntala) và Tulsidas (người đã viết một sử thi Hindi dựa trên Ramayana, có tên gọi là Raamcharitmaanas). Thơ tiếng Tamil của thơ ca Sangam có niên đại từ thế kỷ 1 trước Công nguyên cũng rất nổi tiếng. Các truyền thống văn chương Hồi giáo cũng chi phối một phần lớn của văn hóa Ấn Độ.
Các nhà khoa học đang cảnh báo rằng một sự bùng nổ của các cơn bão mặt trời có thể phá hủy nhiều thứ và tác động mạnh mẽ đến Trái đất bất cứ lúc nào. Nhưng điều gì gây ra những sự bùng nổ ánh sáng đột ngột này và chúng ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào?. Bão mặt trời hay còn có tên gọi khác là gió mặt trời là một vụ nổ năng lượng từ tính trong bầu khí quyển của Mặt trời, gây ra sự bùng nổ dữ dội của ánh sáng. Chúng không thể được phát hiện bằng mắt thường từ bề mặt Trái đất nhưng có thể quan sát được qua kính viễn vọng, tia X không gian và các thiết bị chụp ảnh nhiệt. Lượng năng lượng được giải phóng bởi một cơn bão mặt trời có thể tương đương với hàng triệu quả bom hydrogen 100-megaton (100 triệu tấn) phát nổ cùng lúc – lớn hơn 10 triệu lần so với năng lượng giải phóng do một vụ phun trào núi lửa. Thường chỉ kéo dài trong vài phút, sức nóng của bão mặt trời tác động lên các vật liệu có thể lên đến hàng triệu độ và tạo ra một vụ nổ bức xạ trên phổ điện từ, bao gồm từ sóng vô tuyến đến tia X và tia gamma. Bão mặt trời xảy ra khi năng lượng từ tính tích tụ trong bầu khí quyển của mặt trời đột nhiên được giải phóng – chủ yếu ở các khu vực hoạt động xung quanh các vết đen mặt trời. Tần số của chúng thay đổi từ vài ngày, khi mặt trời hoạt động, đến dưới một tuần suốt thời gian yên tĩnh. Bão mặt trời quy mô lớn thường sẽ ít gặp hơn quy mô nhỏ. Hoạt động của mặt trời thay đổi trong một chu kỳ 11 năm tại đỉnh điểm thường có nhiều vết đen mặt trời hơn và do đó có nhiều cơn bão mặt trời hơn. Tia X và tia cực tím (UV) phát ra từ các cơn gió mặt trời có thể gây ra các cơn bão bức xạ kéo dài trong tầng điện ly của Trái đất – là phần cao nhất của bầu khí quyển – và gây ra sự cố mất tín hiệu vô tuyến trên toàn thế giới. Các nhà khoa học đã cảnh báo rằng một vụ bùng nổ bão mặt trời thực sự lớn có thể phá hủy các vệ tinh, làm sụp đổ năng lượng và mạng lưới tín hiệu trên toàn cầu. Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ – NASA gần đây đã nói rằng nước Anh có thể phải đổi mặt với sự cố mất điện trên diện rộng và bị mất các tín hiệu liên lạc quan trọng trong thời gian dài nếu Trái đất bị tác động bởi một cơn bão mặt trời. Các phương pháp hiện đang được sử dụng để dự đoán gió mặt trời còn rất mơ hồ và hiện tại không thể biết chính xác được khi nào một khu vực hoạt động của Mặt trời sẽ tạo ra hiện tượng này. Nhưng một số tính chất nhất định của vết đen mặt trời và vùng hoạt động của Mặt trời tương quan với sự bùng phát. Các khu vực phức tạp về mặt từ tính được gọi là các điểm delta tạo ra hầu hết các cơn gió mặt trời, do đó, một sơ đồ đơn giản về việc phân loại vết đen mặt trời thường được sử dụng làm điểm khởi đầu để dự đoán hiện tượng này. Dự đoán thường được nêu trong thời hạn của xác suất bùng phát trong vòng 24 hoặc 48 giờ. Một số sứ mệnh không gian đã được triển khai để quan sát bão mặt trời, chẳng hạn như Hinode – một tàu vũ trụ mới của Cơ quan thám hiểm hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAEA) vào năm 2006 để quan sát hiện tượng chi tiết hơn. Lần đầu tiên chúng được phát hiện cũng chính là lần mạnh nhất từ trước đến nay. Nó xảy ra vào năm 1859 và được báo cáo độc lập từ các nhà thiên văn học người Anh là Richard Carrington và Roger Hodgeson. Các nhà khoa học quan sát thấy ngọn lửa bùng phát khi các khu vực nhỏ lóe sáng lên trong một nhóm các vết đen mặt trời. Sự kiện này đã để lại dấu vết trên đảo Greenland dưới dạng nitrat và beryllium-10, điều này cho phép chúng ta có thể đo sức mạnh của nó hiện nay.
Mặt Trời
Mặt Trời (tiếng Anh: Sun; còn gọi là Thái Dương hoặc Nhật), là ngôi sao ở trung tâm Hệ Mặt Trời, chiếm khoảng 99,8% khối lượng của Hệ Mặt Trời. Trái Đất và các thiên thể khác như các hành tinh, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi, và bụi quay quanh Mặt Trời. Khoảng cách trung bình giữa Mặt Trời và Trái Đất xấp xỉ 149,6 triệu kilômét (1 Đơn vị thiên văn AU) nên ánh sáng Mặt Trời cần 8 phút 20 giây mới đến được Trái Đất. Trong một năm, khoảng cách này thay đổi từ 147,1 triệu kilômét (0,9833 AU) ở điểm cận nhật (khoảng ngày 3 tháng 1), tới xa nhất là 152,1 triệu kilômét (1,017 AU) ở điểm viễn nhật (khoảng ngày 4 tháng 7). Năng lượng Mặt Trời ở dạng ánh sáng hỗ trợ cho hầu hết sự sống trên Trái Đất thông qua quá trình quang hợp, và điều khiển khí hậu cũng như thời tiết trên Trái Đất. Thành phần của Mặt Trời gồm hydro (khoảng 74% khối lượng, hay 92% thể tích), heli (khoảng 24% khối lượng, 7% thể tích), và một lượng nhỏ các nguyên tố khác, gồm sắt, nickel, oxy, silic, lưu huỳnh, magiê, carbon, neon, calci, và crom.
Nhà nước là cụm từ mà chúng ta vẫn thường được nghe từ các phương tiện thông tin đại chúng hoặc đọc trên các báo, internet. Tuy nhiên trên thực tế nhà nước được định nghĩa như thế nào và bản chất của nhà nước là gì vẫn nhiều người chưa giải đáp được. Cùng theo dõi bài viết sau để hiểu rõ hơn về vấn đề này bạn nhé!. Ngoài ra, nếu như bạn đang gặp khó khăn trong viết luận văn, tiểu luận quản lý nhà nước…bạn có thể sử dụng dịch vụ viết thuê tại Luận Văn 2S để có ngay những bài luận ưng ý một cách nhanh chóng. Để biết thêm chi tiết về dịch vụ viết thuê tiểu luận của chúng tôi, hãy truy cập: để tìm hiểu dịch vụ tốt nhất hiện nay nhé. Trình bày bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhân dân là chủ thể tối cao của Nhà nướcNhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của các dân tộc trên lãnh thổ Việt NamNhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế – xã hội.Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế – xã hội. Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới. Bản chất là những cái bên trong của sự vật, sự việc, cái cốt lõi của sự vật gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của sự vật, sự việc đó. Từ đó, chúng ta liên tưởng được bản chất của nhà nước, đó là cốt lõi bên trong gắn liền với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bản chất của nhà nước được thể hiện qua hai thuộc tính: Bản chất giai cấp và bản chất xã hội. Nhà nước được sinh ra trong xã hội có giai cấp nên bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của Nhà nước được thể hiện qua việc nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội. Nhà nước sinh ra là để thực hiện ý chí của giai cấp thống trị, củng cố và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Nhà nước thiết lập nên hệ thống pháp luật, các thiết chế xã hội, chính phủ, tòa án, quân đội… để duy trì trật tự xã hội theo ý muốn của giai cấp thống trị. Ngoài bản chất giai cấp thì Nhà nước còn thể hiện bản chất xã hội của mình. Tính xã hội của Nhà nước hay còn được gọi là vai trò kinh tế – xã hội của Nhà nước. Bản chất này được thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm phải giải quyết tất cả các vấn đề nảy sinh trong xã hội như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, thiên tai… nhằm đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội. Tính xã hội và giai cấp là hai mặt cơ bản thống nhất, chúng luôn có mối quan hệ tương tác, gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm thể hiện bản chất của của bất kỳ nhà nước nào. Dù ở trong xã hội nào, bản chất của nhà nước cũng đều thể hiện ở hai mặt: Một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Đồng thời, mặt còn lại vẫn sẽ chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, mức độ và sự thể hiện của hai thuộc tính này sẽ có sự khác nhau ở từng nhà nước và ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố như: nhận thức của giai cấp cầm quyền, điều kiện kinh tế – xã hội…. Theo như lịch sử phát triển của nhà nước cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, của tri thức con người cho thấy, tính giai cấp trong bản chất của nhà nước thay đổi từ công khai thể hiện tới kín đáo hơn với vấn đề giai cấp và tăng dần vai trò, trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội. Tương tự như những Nhà nước khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng tồn tại bản chất giai cấp và bản chất xã hội. Bản chất giai cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cụ thể: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và giới trí thức”. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do dân mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức. Quyền lực của Nhà nước Việt Nam không phụ thuộc vào bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào mà thuộc về toàn thể nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó hình thức cơ bản nhất là thông qua bầu cử để lập ra cơ quan đại diện cho quyền lực của mình. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực của mình thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như trực tiếp trình bày hoặc đưa ra ý kiến, kiến nghị của mình đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống suốt dọc chiều dài của đất nước. Các dân tộc anh em đoàn kết một lòng, đó là truyền thống lâu dài, là nguồn sức mạnh to lớn của đất nước mỗi khi có ngoại xâm. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại càng được thể hiện rõ nét, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày và trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thực vậy, công dân có đầy đủ các quyền trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước. Công dân có quyền tự do, dân chủ trong việc quyết định những vấn đề sống còn của đất nước. Tuy nhiên, song song với quyền lợi thì công dân cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đó là mối quan hệ được xác lập trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của nhau. Về chính trị, nhà nước tạo ra cơ sở pháp lý, cụ thể là pháp luật để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân. Trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Nền kinh tế thị trường là phương tiện để Nhà nước và xã hội thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đối với vấn đề văn hóa – xã hội, Nhà nước chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội như bệnh tật, giáo dục, thiên tai, tệ nạn xã hội, nghèo đói… Nhà nước cũng kiên quyết trừng trị các hành vi phá hoại, xâm hại đến an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Nhà nước mở rộng giao lưu văn hóa, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trên cơ sở đôi bên cùng có lợi đồng thời ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân trên toàn thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Việc nghiên cứu bản chất của nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về mặt nhận thức và thực tiễn đối với công dân Việt Nam nói chung và đối với đội ngũ trí thức, nghiên cứu trẻ (nghiên cứu sinh, sinh viên, học viên…) nói riêng. Đây là cơ hội để chúng ta tìm hiểu và nắm vững bản chất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó củng cố niềm tin vào chế độ nhà nước và vào tương lai của đất nước “dân chủ– công bằng – văn minh – tiến bộ” trong tương lai gần. Và hơn hết, nghiên cứu bản chất nhà nước sẽ giúp công dân thực hiện tốt quyền – nghĩa vụ của mình đối với đất nước và xã hội. Tạo tiền đề cho sự tham gia tích cực vào các hoạt động củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Góp phần nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm và ý thức thực hiện nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc của công dân. Trên đây là những kiến thức cơ bản về bản chất của Nhà nước nói chung và bản chất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nói riêng. Hy vọng rằng những thông tin trên sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho những câu hỏi và thắc mắc của bạn trong vấn đề học tập và cuộc sống.
Nhà nước
Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật thì tương đương với một quốc gia, là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia do vậy nhà nước mang vai trò xã hội, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị. Nhà nước xuất hiện khi có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xuất hiện những giai cấp đối kháng nhau do vậy mà nó cần một tổ chức chính trị đứng ra để điều hòa những mâu thuẫn ấy và để quản lí xã hội.
Giải vô địch bóng đá thế giới hay còn gọi là FIFA World Cup. Đây là giải đấu bóng đá quốc tế lớn nhất hành tinh. Do Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) tổ chức. Thời gian tổ chức với tần suất 4 năm 1 lần, dành cho tất cả các đội tuyển bóng đá quốc gia là thành viên của FIFA thế giới. World Cup là một sự kiện thể thao thu hút sự quan tâm của người hâm mộ lớn nhất trên toàn thế giới. Theo số liệu của FIFA đã cho biết: có tới 906,6 triệu người theo dõi ít nhất một phút trận chung kết World Cup 2010 qua truyền hình giữa Hà Lan và Tây Ban Nha. Thực tế, con số này tăng lên gần một tỷ người nếu tính cả số người xem trực tuyến và xem tại các khu vực công cộng. Có thể nói, những trận Chung kết của giải vô địch bóng đá thế giới là những trận cầu tâm điểm nhất được người hâm mộ theo dõi nhiều nhất. Xuất phát từ ý tưởng tập hợp những đội bóng mạnh nhất của các quốc gia. Một nhóm các nhà quản lý bóng đá Pháp. Đứng đầu là Jules Rimet, đề xướng thành lập một giải bóng toàn cầu và nó đã bắt nguồn từ thập niên 1920. Giải bóng đá vô địch thế giới đã có vài lần thay đổi tên. Đầu tiên nó được gọi là “Cúp thế giới” (World Cup, Coupe du monde). Rồi sau đó chuyển thành là “Cúp Jules Rimet” (tên của cựu chủ tịch FIFA). Tiếp đến “Giải vô địch bóng đá thế giới – Cup Jules Rimet”. Cuối cùng được đổi thành là “FIFA World Cup” – tên gọi đến bây giờ. Giải bóng world cup đầu tiên được tổ chức vào năm 1930. Sau đó nó bị gián đoạn 2 lần vào các năm 1942 và 1946 do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra. Giải đấu đầu tiên được tổ chức chính thức tại Uruguay năm 1930. Lúc này với sự tham dự của 13 đội tuyển quốc gia. Đội vô địch không ai khác ngoài nước chủ nhà Uruguay, họ đã giành được chiếc cúp vàng thứ nhất mang tên “Jules Rimet”. Năm 1934, lần đầu tiên được tổ chức tại châu Âuvà số đội tham dự là 16, giải duy nhất mà đội chủ nhà cũng phải tham dự vòng loại. Năm 1950, Ý trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng. Năm 1958, Brasil lần đầu tiên vô địch thế giới và là lần đầu tiên giải thưởng cầu thủ trẻ xuất sắc nhất ra đời và cũng là lần đầu tiên một đội tuyển quốc gia Nam Mỹ vô địch trên đất châu Âu. Năm 1962, lần đầu tiên hiệu số bàn thắng được sử dụng để phân hạng 2 đội bằng điểm. Năm 1970, lần đầu tiên tổ chức tại Bắc Mỹ là México, Brasil trở thành đội đầu tiên vô địch 3 lần và giữ cúp vĩnh viễn, lần đầu tiên giải thưởng đội tuyển phong cách được ra đời. Năm 1982, lần đầu tiên Tây Ban Nha đăng cai giải đấu này và là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc bán đảo Iberia, giải đấu tăng số đội lên thành 24 đội. Năm 1990, Ý trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên 2 lần đăng cai giải đấu. Năm 2002, đây là lần đầu tiên, giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại châu Á. Và cũng là lần đầu tiên được tổ chức đồng thời ở hai quốc gia, Brasil lần thứ 5 đoạt chức vô địch bóng đá thế giới. Năm 2010, lần đầu tiên diễn ra ở châu Phi. Nam Phi trở thành đội chủ nhà đầu tiên không vượt qua được vòng bảng của một kỳ World Cup. Năm 2014, lần đầu tiên 2 giải liên tiếp được tổ chức tại Nam bán cầu và lần đầu tiên trong lịch sử vòng chung kết, công nghệ goal-line được áp dụng cho tất cả các trận đấu. Đức trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên vô địch trên đất châu Mỹ. Năm 2018, lần đầu tiên giải được tổ chức tại một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Liên Xô cũ, kỳ World Cup đầu tiên mà công nghệ hỗ trợ trọng tài (VARs) đã được sử dụng. Ronaldo (1994, 1998, 2002, 2006 đến 15 bàn) cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong mùa World Cup cho đến thời điểm này. Anh đã phá vỡ hàng loạt những kỷ lục mà nhiều cầu thủ đã đạt được. Năm 1978, với 6 bàn thắng này, Mario Kempes đã giúp cho Argentina lần đầu trở thành Cup vô địch Thế Giới. Qua 4 mùa World Cup, Pele có tới 12 bàn thắng và trở thành huyền thoại bóng đá Brasil nói riêng và Thế Giới nói chung. Ông là một chân sút vĩ đại nhất từ trước đến nay. Just Fontaine (1958 đến 13 bàn) cho đến nay vẫn giữ kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất ở kỳ World Cup, giúp đội tuyển Pháp giành giải hạng ba ở Thụy Điển năm 1958. Mùa World Cup 1994 và 2002, Ronaldo đã góp tên mình vào danh sách chân sút huyền thoại ở World Cup đến 12 bàn thắng và còn nhiều cầu thủ khác nữa. Cùng với thời gian, số đội bóng tham dự vòng chung kết dần tăng lên. Từ 13 đội năm 1930 lên 24 đội năm 1982 và 32 đội từ năm 1998. Từ năm 1930 đến nay, 79 đội tuyển đã tham dự vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới. Có tới 8 quốc gia giành chức Vô địch thế giới. Brasil là đội duy nhất tham dự đủ 21 vòng chung kết và hiện đang giữ kỷ lục 5 lần vô địch giải. Tiếp đó là Ý và Đức với 4 lần giành ngôi cao nhất. Argentina, Pháp và đội vô địch giải đầu tiên Uruguay, cùng có 2 danh hiệu. Các nhà vô địch khác là Anh, Tây Ban Nha, mỗi đội một danh hiệu. Hiện tại Pháp đang là đương kim vô địch mùa giải WC 2018. Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 là mùa giải thứ 22. Và Qatar là nước đăng cai – nước chủ nhà. Đây là lần thứ 2 FIFA World Cup được tổ chức tại châu Á. Cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc Trung Đông và tại một quốc gia thuộc Liên đoàn Ả Rập. Vòng chung kết giải chỉ diễn ra trong 28 ngày. Từ ngày 20 tháng 11 đến cuối cùng trận chung kết diễn ra vào ngày 18 tháng 12 năm 2022. World cup 2026 sẽ là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 23. Giải đấu sẽ được tổ chức tại 16 thành phố ở ba quốc gia Bắc Mỹ. Gồm 60 trận đấu, bao gồm tứ kết, bán kết và chung kết. Sẽ được tổ chức tại Hoa Kỳ trong khi các nước láng giềng Canada và México sẽ tổ chức mỗi quốc gia 10 trận đấu. Mùa giải 2026 cũng sẽ được mở rộng từ 32 đội lên thành 48 đội. Đội tuyển vô địch giải sẽ được giành quyền tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục 2029. Ở vòng bảng, các đội thi đấu trong vòng tám bảng, bốn đội mỗi bảng. Tám đội được chọn, bao gồm cả đội chủ nhà. Với các đội được chọn khác bằng cách sử dụng công thức dựa trên Bảng xếp hạng. Từ năm 1998, các ràng buộc đã được áp dụng cho trận hòa. Để đảm bảo rằng không có nhóm nào chứa nhiều hơn hai đội châu Âu hoặc nhiều hơn một đội từ bất kỳ liên đoàn nào khác. Việt Nam sẽ tham dự vòng loại World Cup từ ngày 05/09/2019…Và đội đối đầu vẫn đang lên lịch và chưa xác định chính thức. Sau khi xác định 32 đội được tham dự vòng chung kết World Cup. Các đội sẽ được phân chia hạt giống dựa trên vị trí bảng xếp hạng FIFA. Sau đó tiến hành lễ bốc thăm chia bảng VCK World Cup. Theo quy định, các đội tuyển cùng liên đoàn sẽ không được bốc thăm nằm cùng 1 bảng đấu, trừ các đội ở khu vực châu Âu. Tuy nhiên chỉ tối đa 2 đội khu vực châu Âu được nằm cùng 1 bảng. Có 8 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội. Hầu như các bảng đấu đều có thực lực mạnh ngang nhau. Đội tuyển giành chiến thắng trong trận chung kết world cuối cùng sẽ trở thành nhà đương kim vô địch bóng đá thế giới. Đội bóng sẽ được nhận cúp vàng danh giá cùng số tiền thưởng khổng lồ. Chiếc cúp có khắc chữ nổi “FIFA World Cup” ở đế. Cúp World Cup là một tác phẩm điêu khắc của một họa sĩ nổi tiếng người Italia được làm từ 5kg vàng. Đặc biệt, tên của nước có đội tuyển giành chức vô địch tại mỗi kỳ World Cup sẽ được khắc tại mặt đáy của cúp. Đây là một trợ lý trọng tài bóng đá có nhiệm vụ xem xét các quyết định của trọng tài chính qua việc sử dụng các đoạn video và một thiết bị liên lạc. Vào năm 2018, VAR được viết vào Luật bóng đá bởi Hội đồng Hiệp hội Bóng đá Quốc tế (IFAB) và được thử nghiệm trong giải đấu World Cup. Trung Tâm thể thao Tuổi trẻ là trung tâm dạy bóng đá trẻ em ở Hà Nội. Chúng tôi luôn luôn đồng hành cùng phụ huynh và các em học viên để tạo nên sân chơi bổ ích nhất cho các em
Giải vô địch bóng đá thế giới 1970
Giải bóng đá vô địch thế giới 1970 (tên chính thức là 1970 Football World Cup - Mexico / Mexico 70) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 9 và đã được tổ chức từ 31 tháng 5 đến 21 tháng 6 năm 1970 tại México. Đây là lần đầu tiên giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Bắc Mỹ. Giải vô địch lần này được những người hâm mộ xem là giải hay nhất cho đến nay. Sau 32 trận đấu, Brasil đã vô địch giải đấu lần thứ 3 và do đó, được quyền giữ cúp vĩnh viễn.
Thần Số Học (Numerology) là một môn khoa học nghiên cứu về bản thân con người thông qua Họ Tên Và Ngày Sinh của bạn, Thông qua Thần Số Học Bạn Có Thể Hiểu Sâu về Con người bên trong mình. Nhân Số Học là một tên gọi khác từ Thần Số Học, Khi đưa vào Việt Nam, Cô Lê Đỗ Quỳnh Hương đã đổi tên Thần Số Học thành Nhân Số Học. Do đó, gọi là Thần Số Học hay Nhân Số Học đều có ý nghĩa giống nhau. Cô Lê Đỗ Quỳnh Hương là chuyên gia đi đầu trong việc nghiên cứu Thần số học. Người đặt nền móng cho Thần Số Học tại VIỆT NAM. Theo bà Lê Đỗ Quỳnh Hương, để theo đúng trường phái của Pythagoras (Pitago) bà đã đổi tên gọi mới cho chuyên ngành này là Nhân số học. Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Đỉnh Cao Cuộc Đời. Thần Số Học là bộ môn nghiên cứu về mối quan hệ thần bí giữa các con số và sự rung động của chúng. Nó xem xét ý nghĩa của các con số (và chữ cái) trong cuộc sống của bạn. Nó là một hỗn hợp phức tạp của khoa học, thần thoại và triết học và là chìa khóa để giải mã Vũ trụ và tìm ra mục đích sống, tiềm năng bản thân và linh hồn của bạn. Ví dụ: Tần suất bạn hoặc ai đó bạn liên tục nhìn thấy các con số giống nhau — chẳng hạn như 11, 333 hay 22. Hay sinh nhật của một thành viên trong gia đình có ý nghĩa gì? Những con số đó không phải ngẫu nhiên mà chính là những thông điệp khác nhau từ vũ trụ gửi xuống. Thần số học sẽ giúp bạn điều chỉnh những thông điệp này để chúng có thể hướng cuộc sống của bạn đến với những tiềm năng lớn nhất mà bạn có thể đạt được. Tương tự, mỗi con số trong dãy số đều chứa một năng lượng cụ thể. Các con số tiết lộ chủ đề và ý nghĩa của nó. Cho dù đó là ngày 1, 15 hoặc 22 của tháng và tùy thuộc vào vị trí của bạn trong chu kỳ cá nhân của mình, mỗi ngày đều có một chủ đề và hình mẫu. Khi bạn tìm hiểu về Thần số học, bạn sẽ bắt đầu thấy rằng một số ngày trên lịch nhất định có liên kết với năng lượng cá nhân của bạn vì những ngày đó bạn làm việc, sinh hoạt, hoạt động tốt hơn những ngày khác. Tên khai sinh và tên thường gọi cũng có ý nghĩa quan trọng và bạn sẽ học cách diễn giải giá trị số của các chữ cái trong tên khai sinh của mình. Thần số học giúp bạn khai thác tiềm năng cao nhất của mình. Cuối cùng, nó hướng dẫn bạn hiểu rõ hơn về bản thân và những người xung quanh. Bộ môn khoa học này khai thác trực giác của bạn, giúp bạn đưa ra những lựa chọn thông minh hơn, tối đa hóa tiềm năng của bạn vào những ngày nhất định và trong những năm nhất định. Bạn sẽ có khả năng hiểu được mức độ phù hợp của mình với bạn bè và người yêu, hoặc bất kỳ ai. Bạn cũng sẽ tận dụng thời điểm tốt và quyết định khi nào cần hành động và khi nào cần chờ đợi. Thần số học sẽ giúp bạn khám phá ra tài năng, hiểu được các chu kỳ của cuộc đời bạn, phát hiện ra những Bài học về Nghiệp và Nợ của Nghiệp, và đón nhận sự thay đổi của bản thân và vũ trụ tốt hơn. Nó tiết lộ những đặc điểm tính cách và những trở ngại tiềm ẩn trong cuộc sống cho cả bạn và những người khác và những hành động tốt nhất để thực hiện. Thần số học cũng có thể giúp bạn nhìn lại quá khứ. Khi bạn suy ngẫm về các sự kiện của cuộc đời mình, cách chúng diễn ra trong các chu kỳ số của bạn sẽ mang lại sự rõ ràng cho những gì đã xảy ra và tại sao. Biết những gì bạn sẽ trải qua trong một năm, tháng hoặc ngày cụ thể giúp điều hướng chu kỳ cuộc sống dễ dàng hơn. Bạn sẽ có thể dự đoán và chuẩn bị cho những thử thách sắp tới cũng như tận dụng những cơ hội tuyệt vời và bổ ích. Thần số học không phải là duy tâm, nó không đoán trước được tương lai. Hãy nhớ rằng nó dự đoán tiềm năng. Phần còn lại là tùy thuộc vào bạn. Thần số học phụ thuộc vào dao động cao và thấp của các con số liên quan và phần thưởng của nó có tương quan trực tiếp với nỗ lực của bạn. Nó sẽ không giúp bạn thắng xổ số. (Mặc dù nhiều người chọn “con số may mắn” của họ dựa trên ngày sinh và ngày quan trọng.) Nó sẽ không dự đoán ngày hoặc giờ qua đời của bạn. (Mặc dù nó có thể tiết lộ các vấn đề sức khỏe có thể xảy ra và các chu kỳ đau đớn tiềm ẩn trong cuộc sống.) Nhân số học cung cấp một khuôn khổ, nhưng luôn có ý chí và sự lựa chọn tự do, cũng như các yếu tố môi trường nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Thần số học được ghi nhận trong suốt lịch sử Ai Cập, Babylon, Châu Á và Ấn Độ cổ đại cũng như trong nhiều tài liệu tham khảo trong Kinh thánh. Kể từ khi các con số được tạo ra, các nền văn hóa đã áp dụng ý nghĩa cho chúng. Điều này vẫn tiếp tục ngày hôm nay. Nhà triết học Hy Lạp Pythagoras được coi là “cha đẻ của môn số học” cho tới ngày nay. Những ý tưởng tiên phong của ông là nền tảng của toán học, chiêm tinh học, thiên văn học và vật lý học. Chúng bao gồm siêu hình học của các con số – phương pháp xem các con số không chỉ là số lượng và thước đo mà còn là tốc độ rung động. Những lời dạy của ông tiết lộ rằng thực tế, âm nhạc và thiên nhiên, trên thực tế chính là toán học. Những gì chúng ta biết về Pythagoras là một phần truyền thuyết và một phần kể chuyện được truyền miệng lại. Không có lịch sử viết về Py-ta-go; các tài liệu lưu lại chỉ được chuyển giao thông qua ghi chép bằng lời nói. Ông được ghi nhận là người khám phá ra khoa học về giai điệu âm nhạc, hòa âm, tất nhiên là thần số học nữa. Tại Việt Nam, một số chuyên gia tham gia nghiên cứu về thần số học đã đổi tên và gọi thần số học là nhân số học cho đúng theo trường phái của Pythagoras. Pythagoras đã phát triển khái niệm rằng mọi số, bất kể lớn hay nhỏ, luôn có thể được rút gọn thành một chữ số từ 1 đến 9 và mỗi chữ số rút gọn có một dao động vũ trụ kỳ dị. Ông đã áp dụng điều này vào các giai đoạn trong vòng đời con người với độ chính xác kỳ lạ. Thần số học của Py-ta-go là hình thức thống trị của phương Tây. Các dạng Thần số học khác bao gồm Chaldean – hệ thống cổ xưa nhất. Nó có nguồn gốc từ Babylon và dựa trên các con số từ 1 đến 8. Trong hệ thống này, số 9 được coi là linh thiêng và thánh thiện, tách biệt với các rung động khác (trừ khi nó cho kết quả là tổng). Hệ thống Kabbalah, có nguồn gốc từ thuyết thần bí tiếng Do Thái, chỉ tập trung vào tên và dựa trên 22 ý nghĩa rung động khác nhau của bảng chữ cái tiếng Do Thái. Một hệ thống được gọi là New Kabbalah Numerology đã được điều chỉnh cho phù hợp với bảng chữ cái La Mã gồm 26 chữ cái và sử dụng biểu đồ số Pythagore. Hệ thống này không xem xét ngày sinh, đó có thể là lý do tại sao nó chưa bao giờ trở nên phổ biến đối với các nhà Thần số học phương Tây, vì ngày sinh là cốt lõi của Thần số học phương Tây. Ở Việt Nam, Thần số học được biết đến với sự làm việc của những cá nhân như: cô Lê Đỗ Quỳnh Hương với quyển sách: Thay đổi cuộc sống với Nhân số học được MC Lê Đỗ Quỳnh Hương phát triển từ tác phẩm gốc The Complete Book of Numerology của TS David A. Phillips. Thầy Louis Nguyen Với website: Tracuuthansohoc.com, đây là trang web được đầu tư bàn bản về nội dung với đội ngũ chuyên gia đến từ nước ngoài, điều này đã giúp đỡ mọi người tiếp cận với thần số học với một mức giá gần như miễn phí. Tại phương tây bà Dow Balliett ở Thành phố Atlantic được ghi nhận là người đã giới thiệu môn Số học hiện đại cho thế giới phương Tây. Bà là một phần của Phong trào Tư tưởng Thời đại Mới vào đầu những năm 1900 và truyền bá những điều về tâm linh, sự khai sáng và phân tích tính cách dựa trên các con số. Những lời dạy độc đáo của bà dựa trên lý thuyết Số học của Pitago. Bà Balliett là người có ảnh hưởng đáng kể đến Tiến sĩ Julia Seton, người đã phổ biến hệ thống này và đặt cho nó cái tên hiện đại là “Numerology”. Tiến sĩ Seton là một giảng viên Quốc tế về Tư tưởng Mới, người đã đi đến nhiều quốc gia và châu lục để giảng dạy môn khoa học về tên và số. Con gái của bà, Tiến sĩ Juno Jordan, tiếp tục di sản của mình. Là một nha sĩ buôn bán, Tiến sĩ Jordan quan tâm sâu sắc đến siêu hình học và tâm linh. Bà đã nghỉ hưu ở công ty sản xuất các dụng cụ nha khoa của mình và thành lập Viện Nghiên cứu Số học California vào cuối những năm 1950. Trong 25 năm, Tiến sĩ Jordan và các đồng nghiệp của mình đã thử nghiệm các lý thuyết và mẫu số. Kết luận của họ, “CÁC CON SỐ KHÔNG NÓI ĐƯỢC”, là một tuyên bố sâu sắc rằng các con số tiết lộ tính cách và các sự kiện trong trải nghiệm của con người với độ chính xác không ngừng. Ba người phụ nữ này đã có một tác động sâu sắc đến Thần số học hiện đại. Họ đã xác định, định hình và mang lại vẻ đẹp cho một ngành khoa học của các con số tiếp tục phát triển. Các con số chủ đạo trong thần số học (số 2 đến số 11) giúp khám phá và đào sâu ý nghĩa cuộc sống, giúp mỗi người hiểu được những mong muốn, tính cách và điểm mạnh của bản thân, biết được điều gì là phù hợp nhất đối với mình để từ đó định hướng cuộc sống. Theo trường phái Pythagoras, không có Con số chủ đạo = 1. Vậy các Con số chủ đạo của chúng ta sẽ có từ số 2 đến số 11. Một trường hợp đặc biệt khác là số 4 được tạo thành từ số tổng 22 sẽ được ghi là 22/4, để phân biệt với những số 4 bình thường khác. Công thức tính Con số chủ đạo: Cộng tất cả các con số có trong ngày tháng năm sinh (dương lịch) để được con số tổng có hai chữ số. Tiếp tục cộng cho đến khi nào con số này nằm trong ngưỡng từ 2 đến 11. Trường hợp đặc biệt: số 4 được tạo thành từ số 22 cộng lại sẽ được giữ nguyên là 22/4. Theo trường phái Pythagoras trong thần số học thì không có con số chủ đạo là 1. Trường hợp đặc biệt trong thần số học thì số 4 được tạo thành từ số 22 (2 + 2 = 4) cộng lại sẽ được giữ nguyên là 22/4. Những dao động thể hiện các nhóm tính cách có trong bản ngã (tính cách khi sinh ra đã có) của bạn. Bạn nên tập trung luyện tập những nhóm tính cách có % dao động thấp nhất.
Thần số học
Thần số, thần số học hay còn gọi là số bí thuật là bất kỳ niềm tin vào mối quan hệ tín ngưỡng thần thánh và thần bí giữa các chữ số và sự kiện. Tư tưởng này cũng điều tra về sự tương quan giữa số của các chữ cái trong danh xưng với những thứ mang tính tinh thần. Tư tưởng này thông thường liên quan với siêu linh, cùng với thuật chiêm tinh và các nghệ thuật bói toán tương tự khác. Những người theo môn này đặt niềm tin vào các dạng số và rút ra các kết luận giả khoa học từ chúng, ngay cả khi những người đó không thực hành số học truyền thống. Ví dụ, trong cuốn sách Numerology: Or What Pythagoras Wrought năm 1997, nhà toán học Underwood Dudley sử dụng thuật ngữ này để thảo luận về những người thực hành nguyên lý sóng Elliott trong phân tích thị trường chứng khoán. Pythagoras và các nhà triết học khác thời đó tin rằng bởi vì các khái niệm toán học "thực tế" hơn (dễ điều chỉnh và phân loại) hơn các khái niệm vật lý, chúng có tính thực tế cao hơn.
Nền vi sóng vũ trụ (Cosmic Microwave Background - CMB) được cho là bức xạ còn sót lại từ Vụ Nổ Lớn (Big Bang), hay thời điểm vũ trụ bắt đầu. Theo lý thuyết dự đoán, khi vũ trụ được sinh ra nó đã trải qua một sự lạm phát (inflation) và dãn nở nhanh chóng. (Vũ trụ hiện nay vẫn đang giãn nở, và tăng tốc vì những lý do không rõ). CMB tượng trưng cho sức nóng còn sót lại của Vụ Nổ Lớn. Bạn không thể nhìn thấy CMB bằng mắt thường, nhưng nó ở khắp mọi nơi trong vũ trụ. Nó là vô hình đối với con người vì nó quá lạnh, chỉ 2.725 độ trên nhiệt độ không tuyệt đối (âm 459.67 độ Fahrenheit, hoặc âm 273.15 độ Celsius). Điều này có nghĩa là bức xạ của nó được thấy rõ nhất với phần vi sóng của phổ điện từ. Vũ trụ bắt đầu 13,7 tỷ năm trước, và CMB bắt đầu từ khoảng 400.000 năm sau Vụ Nổ Lớn. Theo NASA, trong giai đoạn đầu của vũ trụ, khi nó chỉ có một phần trăm triệu kích thước so với ngày nay, nhiệt độ của nó cực kỳ cao: 273 triệu độ so với nhiệt độ không tuyệt đối. Bất kỳ nguyên tử nào có mặt tại thời điểm đó đều nhanh chóng bị phân rã thành các hạt nhỏ (proton và electron). Bức xạ từ CMB trong các photon (các hạt tượng trưng cho lượng tử ánh sáng, hoặc các bức xạ khác) bị tán xạ khỏi các hạt điện tử. NASA đã viết: "Vì vậy, các photon đi lang thang qua vũ trụ sơ khai, giống như ánh sáng quang học đi qua một lớp sương mù dày đặc.”. Khoảng 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn, vũ trụ đã đủ lạnh để các nguyên tử hiđro (hydrogen) có thể hình thành. Do các photon CMB hầu như không bị ảnh hưởng bởi sự va chạm với các nguyên tử hiđro, các photon này đi theo đường thẳng. Các nhà vũ trụ học đề cập đến một "bề mặt của tán xạ cuối cùng" khi các photon CMB cuối cùng chạm tới vật chất; sau đó, vũ trụ đã trở nên quá lớn. Vì vậy, khi lập bản đồ CMB, chúng ta đang nhìn lại khoảng thời gian 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn, ngay sau giai đoạn vũ trụ trở nên mờ đục với bức xạ. Robert Wilson đã khám phá ra nền vi sóng vũ trụ (CMB) vào năm 1964 cùng với Arno Penzias, đưa lý thuyết Vụ Nổ Lớn trở thành nền tảng vững chắc. Wilson và Penzias đã giành giải Nobel Vật lý năm 1978 cho kết quả này. (Họ đã chia sẻ giải thưởng với nhà khoa học Liên Xô Pyotr Kapitsa.). NASA cho biết CMB lần đầu tiên được dự đoán bởi nhà vũ trụ học Ralph Apher vào năm 1948, khi ông làm việc với Robert Herman và George Gamow. Nhóm đã nghiên cứu về sự tổng hợp hạt nhân trong Vụ Nổ Lớn (Big Bang nucleosynthesis), hay sự hình thành các nguyên tố trong vũ trụ bên cạnh đồng vị nhẹ nhất của hiđro. Loại hiđro này được tạo ra rất sớm trong lịch sử vũ trụ. Nhưng CMB lần đầu tiên được tìm thấy một cách tình cờ. Năm 1965, hai nhà nghiên cứu tại Bell Telephone Laboratories (Arno Penzias và Robert Wilson) đã tạo ra một máy thu sóng vô tuyến và đã rất bối rối bởi tiếng ồn mà nó thu được. Họ sớm nhận ra tiếng ồn phát ra một cách đồng đều từ khắp nơi trên bầu trời. Đồng thời, tại thời điểm đó, một nhóm nghiên cứu tại Đại học Princeton (do Robert Dicke dẫn đầu) đang cố gắng tìm ra CMB. Nhóm nghiên cứu của Dicke biết thông tin từ thí nghiệm Bell và nhận ra rằng CMB đã được tìm thấy. Cả hai nhóm đã nhanh chóng công bố các bài báo trên Tạp chí Vật lý thiên văn (Astrophysical Journal) vào năm 1965, Penzias và Wilson nói về những gì họ nhìn thấy còn nhóm của Dicke giải thích ý nghĩa của nó trong bối cảnh vũ trụ. (Sau đó, Penzias và Wilson đều nhận được giải Nobel Vật lý năm 1978). CMB rất hữu ích cho các nhà khoa học vì nó giúp chúng ta biết được cách mà vũ trụ sơ khai được hình thành. Nó có nhiệt độ đồng nhất, với các biến động nhỏ chỉ có thể quan sát được bằng các kính thiên văn tinh vi. "Bằng cách nghiên cứu những biến động này, các nhà vũ trụ học có thể tìm hiểu về nguồn gốc của các thiên hà và các cấu trúc thiên hà quy mô lớn và họ có thể đo được các thông số cơ bản của thuyết Vụ Nổ Lớn,” NASA viết. Mặc dù các phần của CMB đã được vẽ lên bản đồ trong những thập kỷ sau khi CMB được khám phá, bản đồ bầu trời đầy đủ đầu tiên xuất phát từ sứ mệnh Cosmic Background Explorer (COBE) của NASA, được phóng năm 1989 và ngừng hoạt động khoa học năm 1993. "Bức ảnh sơ sinh" của vũ trụ, theo như cách NASA gọi nó, khẳng định các tiên đoán của Vụ Nổ Lớn và cũng cho thấy những gợi ý về cấu trúc vũ trụ mà chúng ta chưa từng thấy trước đây. Một bản đồ chi tiết hơn được đưa ra vào năm 2003 nhờ vệ tinh thăm dò Wilkinson Microwave Anisotropy Probe, được phóng vào tháng 6/2001 và ngừng hoạt động vào năm 2010. Ảnh đầu tiên cho thấy tuổi của vũ trụ ở mức 13,7 tỷ năm và cũng tiết lộ một bất ngờ: các ngôi sao già nhất bắt đầu chiếu sáng khoảng 200 triệu năm sau Vụ Nổ Lớn, sớm hơn nhiều so với dự đoán. Các nhà khoa học đã tiếp nối những kết quả này bằng cách nghiên cứu các giai đoạn lạm phát rất sớm của vũ trụ (trong phần nghìn tỷ giây sau khi hình thành) và bằng cách đưa ra các thông số chính xác hơn về mật độ nguyên tử, sự gợn sóng của vũ trụ và các đặc tính khác của vũ trụ ngay sau khi nó được hình thành. Họ cũng thấy sự bất đối xứng kỳ lạ ở nhiệt độ trung bình ở cả hai bán cầu của bầu trời và một "điểm lạnh" (cold spot) lớn hơn dự kiến. Vào năm 2013, dữ liệu từ Kính viễn vọng không gian Planck (Planck Space Telescope) của Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA) đã được công bố, cho thấy bức tranh có độ chính xác cao nhất của CMB. Các nhà khoa học đã phát hiện ra một bí ẩn khác với thông tin này: Sự biến động của CMB ở các thang góc lớn không phù hợp với dự đoán. Planck cũng xác nhận những gì mà WMAP đã thấy về sự bất đối xứng và điểm lạnh. Các nghiên cứu khác đã cố gắng nhìn vào các khía cạnh khác nhau của CMB. Một là xác định các loại phân cực được gọi là E-modes (được phát hiện bởi Giao thoa kế thang góc độ ở Nam Cực vào (Antarctica-based Degree Angular Scale Interferometer) năm 2002) và B-modes. B-modes có thể được tạo ra từ thấu kính hấp dẫn của E-modes (thấu kính này lần đầu được nhìn thấy bởi Kính thiên văn cực Nam (South Pole Telescope) vào năm 2013) và sóng hấp dẫn. Nền vi sóng vũ trụ (CMB) cho chúng ta biết tuổi và thành phần của vũ trụ và đưa ra những câu hỏi mới cần được trả lời.
Bức xạ phông vi sóng vũ trụ
Bức xạ phông vi sóng vũ trụ (hay bức xạ nền vũ trụ, bức xạ tàn dư vũ trụ) là bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ (khoảng 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn). Phổ của nó có dạng giống phổ bức xạ của vật đen với đỉnh nằm trong dải bước sóng vi ba (trong khoảng vài milimét đến vài chục xentimét). Hầu hết các nhà vũ trụ học cho rằng bức xạ phông nền vũ trụ cùng với sự dịch chuyển đỏ là những bằng chứng tốt nhất chứng minh cho sự đúng đắn của mô hình Vụ Nổ Lớn của vũ trụ. Lý thuyết vụ nổ lớn tiên đoán về sự tồn tại của bức xạ phông vi sóng vũ trụ được tạo thành từ các quang tử phát ra từ giai đoạn sinh hạt baryon. Vì vũ trụ thời kỳ sơ khai ở trạng thái cân bằng nhiệt động nên nhiệt độ của bức xạ và plasma bằng nhau cho đến khi plasma tái hợp. Trước khi nguyên tử được hình thành thì bức xạ bị hấp thụ và tái phát xạ đều trong một quá trình gọi là tán xạ Compton: vũ trụ vào giai đoạn sơ khai không trong suốt với ánh sáng.
Phương pháp giáo dục Montessori được đánh giá rất cao bởi cả giáo viên và phụ huynh. Đây là một phương pháp giáo dục sớm, được đặc biệt quan tâm ở trẻ từ 0 – 6 tuổi. Ở bài viết này, Teky sẽ cung cấp thêm cho ba mẹ những thông tin cần thiết về phương pháp Montessori. Phương pháp Montessori là gì? Vì sao cha mẹ cần biết sớm?. 2 Những điều cần biết2.1 Montessori là một phương pháp giáo dục sớm.2.1.1 1. Luôn tôn trọng, không áp đặt trẻ2.1.2 2. Học đi đôi với hành.2.1.3 3. Xây dựng môi trường thân thiện với trẻ. Không tồn tại thưởng – phạt.2.1.4 4. Tôn trọng sự tập trung của trẻ2.1.5 5. Để trẻ hòa mình với thiên nhiên, lấy thiên nhiên là nguồn cảm hứng.2.1.6 6. Đồng hành, hỗ trợ trẻ là nhiệm vụ của giáo viên, ba mẹ.2.2 Ưu điểm2.3 Lợi ích của phương pháp Montessori2.3.1 Trẻ được học theo tốc độ của chính mình2.3.2 Trẻ được học cách tập trung chú ý2.3.3 Đáp ứng được các cách học khác nhau2.3.4 Rèn luyện kỹ năng sống thiết yếu để trở nên chủ động hơn2.3.5 Trẻ sẽ trở nên tự lập2.4 Lời khuyên dành cho phụ huynh khi lựa chọn phương pháp giáo dục Montessori. 2.1 Montessori là một phương pháp giáo dục sớm.2.1.1 1. Luôn tôn trọng, không áp đặt trẻ2.1.2 2. Học đi đôi với hành.2.1.3 3. Xây dựng môi trường thân thiện với trẻ. Không tồn tại thưởng – phạt.2.1.4 4. Tôn trọng sự tập trung của trẻ2.1.5 5. Để trẻ hòa mình với thiên nhiên, lấy thiên nhiên là nguồn cảm hứng.2.1.6 6. Đồng hành, hỗ trợ trẻ là nhiệm vụ của giáo viên, ba mẹ. 2.3 Lợi ích của phương pháp Montessori2.3.1 Trẻ được học theo tốc độ của chính mình2.3.2 Trẻ được học cách tập trung chú ý2.3.3 Đáp ứng được các cách học khác nhau2.3.4 Rèn luyện kỹ năng sống thiết yếu để trở nên chủ động hơn2.3.5 Trẻ sẽ trở nên tự lập. Phương pháp giáo dục Montessori được nghiên cứu và thành lập bởi nhà giáo dục người Ý Maria Montessori. Đó là một phương pháp sư phạm dành cho trẻ em, sử dụng tiến trình đặc biệt trong giáo dục, dựa chủ yếu vào cảm giác. Việc giảng dạy được phát triển dựa trên việc tôn trọng cá tính riêng của từng trẻ, từ đó áp dụng những cách dạy riêng biệt. Phương pháp dạy Montessori phải được giảng dạy trong một môi trương phù hợp. Ví dụ về phòng học, phải được sắp xếp, thiết kế phù hợp với trẻ. Mô hình Montessori được áp dụng chủ yếu cho trẻ từ 2 đến 6 tuổi. Đó là giai đoạn mọi cư xử và cảm xúc của trẻ bản năng nhất. Phương pháp Montessori sẽ tác động vào quá trình phát triển đó, cho phép trẻ có những không gian và thời gian riêng để phát triển năng lực của mình. Được xác định ngay từ tên của phương pháp. Montessori là một phương pháp giáo dục sớm cho trẻ. Giai đoạn đầu tiên trong sự phát triển của trẻ là một giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất đối với ba mẹ. Trong khoảng thời gian này, trẻ bắt đầu phát triển những điều căn bản. Dần dần, trẻ có thể bước tới giai đoạn tự tìm tòi, học hỏi. Và nỗ lực để hoàn thiện bản thân. Trách nhiệm của ba mẹ đối với trẻ là vô cùng quan trọng. Trong việc thúc đẩy trẻ chủ động tìm hiểu, khám phá thế giới và rèn luyện các kỹ năng thường ngày. Vì thế, phương pháp giáo dục Montessori ra đời. Nhằm hỗ trợ ba mẹ trong quá trình đặc biệt nhạy cảm đó. Phương pháp giảng dạy được áp dụng nghiêm ngặt các quy tắc:. Nếu bị áp đặt, trẻ sẽ mất đi khả năng tự tư duy, hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ. Vì vậy, nguyên tắc này là vô cùng quan trọng, dạy trẻ cách tiếp thu chủ động. Đồng thời để trẻ tự do phát triển trí tuệ. Bên cạnh những kiến thức truyền đạt cho trẻ, kĩ năng về thực hành là vô cùng quan trọng. Giúp trẻ vận dụng tốt những kỹ năng trong đời sống, giáo viên cần tổ chức tốt các hoạt động thực tiển để trẻ tham gia. Những điều này là cơ sở giúp trẻ tự tin và chủ động hơn trong cuộc sống. Vì cách ứng xử của trẻ trong thực tế phản ánh tính cách của trẻ. Vì vậy, trong mỗi hoạt động của trẻ đều có những nguyên nhân riêng. Thay vì trách phạt hay khen ngợi trẻ, điều cần làm là giúp trẻ nhận thức được vấn đề. Sự tập trung là điều tuyệt đối cần được tôn trọng trong mô hình Montessori. Việc để trẻ tự do tìm hiểu, không làm phiền trẻ có vai trò rất lớn trong phương pháp này. Vì vậy, hãy để trẻ được tập trung tìm ra các hướng giải quyết cho vấn đề. Hoặc đơn giản chỉ là tìm hiểu cách chơi của một món đồ nào đó. Hãy để trẻ hòa mình với thiên nhiên. Bởi những điều tự nhiên giúp ích rất nhiều cho trẻ nhận thức. Từ đó tạo nên những sáng tạo mới mẻ của trẻ. Vì vậy, yếu tố thiên nhiên, môi trường là vô cùng quan trọng trong phương pháp giáo dục Montessori. Với định hướng của mô hình học là sự tập trung, chú trọng vào những khả năng tiềm ẩn của trẻ. Giáo viên và ba mẹ đối với trẻ chỉ có vai trò hỗ trợ. Sẽ là người định hướng cho trẻ, để trẻ tự học, tự khám phá những điều xung quanh. Ưu điểm nổi trội của mô hình giáo dục Montessori là khả năng giúp trẻ phát triển toàn diện trên tất cả các khía cạnh của đời sống. Có thể giúp trẻ nâng cao thể lựuc, phát triển chiều cao, cân nặng cân đối. Giúp trẻ sinh hoạt nề nếp, biết tự chăm sóc bản thân. Ngoài ra còn có thể nâng cao nhận thức phát triển về mặt ngôn ngữ, IQ, EQ… Đặc biệt, mô hình giáo dục Montessori với phương pháp đảm bảo môi trường học tập tự do. Phục vụ cho sự phát triển của trẻ cũng là một điều kiện tốt để trẻ nâng cao năng lực về thẩm mĩ, nghệ thuật,…. Phương pháp Montessori mang tới cho bé và ba mẹ rất nhiều lợi ích. Cụ thể có thể kể đến:. Khả năng tiếp thu của mỗi trẻ ở một mức độ khác nhau. Vì thế, việc giảng dạy phải tùy thuộc vào mức độ tiếp thu của từng trẻ. Ngoài ra, yếu tố sở thích của trẻ cũng cần phải đặc biệt quan tâm. Mục đích hướng tới cuối cùng của phương pháp Montessori khi trẻ được học theo tốc độ riêng là trẻ có thể học một kỹ năng nào đó tới khi thuần thục. Hơn nữa, trẻ còn được rèn luyện tập trung nhiều vào khả năng của trẻ. Kỹ năng tập trung của trẻ đóng vai trò nền tảng trong mô hình giáo dục Montessori. Phương pháp này được thiết kế theo cấu trúc bài giảng, trẻ sẽ được học liền mạch, không bị ngắt quãng khi chưa hoàn thành bài học. Giáo cụ trong mô hình Montessori đóng vai trò hỗ trợ. Giúp làm phong phú thêm bài giảng về cách thức giảng dạy. Trong tiết học, giáo viên có thể áp dụng nhiều phương pháp, phương tiện khác nhau để truyền đạt kiến thức. Ví dụ như: tranh ảnh, trò chơi, video, âm thanh,…. Tạo điều kiện cho trẻ được phát triển khả năng dựa trên đam mê của từng trẻ. Phương pháp Montessori hướng đến mục tiêu nuôi dưỡng động lực. Ngay từ những ngày đầu trẻ tham gia mô hình. Cho phép trẻ được tham gia học hỏi, tìm tòi sở thích trong môi trường giáo dục. Tạo điều kiện cho ba mẹ và trẻ sớm nhận thấy năng lực. Từ đó rèn luyện sâu hơn về khả năng, cho trẻ tự tư duy. Mục đích là đánh thức sự tự tin, để trẻ được trải nghiệm và quyết định nhiều hơn. Để trẻ có thể trở nên tự lập hơn là một điều vô cùng quan trọng. Sự tự lập có mối liên hệ mật thiết với tinh thần, trách nhiệm của trẻ sau này. Vì vậy, mô hình Montessori đóng vai trò thúc đẩy nguồn động lực tích cực trong mỗi trẻ, hướng tới sự tự lập. Để trẻ có thể học cách tự chăm sóc bản thân và sắp xếp môi trường xung quanh. Mô hình Montessori để trẻ tiếp xúc trực tiếp với giáo cụ. Hạn chế tối đa việc can thiệp của giáo viên, khuyến khích khả năng tìm tòi, học hỏi. Từ đó, giúp trẻ tự lập hơn, có thể tự phục vụ chính bản thân mình. Khả năng của mỗi một đứa trẻ là khác nhau. Điều đó có nghĩa là, mỗi đứa trẻ đều có những năng lực riêng. Việc giáo dục gò ép sẽ khiến trẻ không có đủ không gian để phát triển bản thân. Điều đó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng của trẻ. Phương pháp Montessori là một phương pháp giáo dục cho trẻ. Đặc biệt là trong thời kỳ vàng để trẻ phát triển (từ 0- 6t). Cung cấp đầy đủ môi trường và điều kiện để rèn luyện bản thân. Rèn luyện kỹ năng mềm, sự độc lập, tự tin của chính mình trong đời sống. Ngoài ra, để phát triển các kỹ năng cần thiết cho trẻ, phương pháp Stem cũng là một lựa chọn hoàn hảo. Cho những trẻ có đam mê với công nghệ. Học viện Teky với phương pháp Steam áp dụng theo tiêu chuẩn Mỹ. Và được đánh giá cao bởi các tổ chức trong nước và quốc tế về Social Impact. Lời kết: Bài viết trên Teky đã đồng hành cùng ba mẹ tìm hiểu về mô hình giáo dục sớm Montessori. Chúc ba mẹ và bé có thể tìm được một phương pháp học phù hợp cho bé.
Phương pháp giáo dục Montessori
Phương pháp Giáo dục Montessori là một phương pháp sư phạm giáo dục trẻ em dựa trên nghiên cứu và kinh nghiệm của bác sĩ và nhà giáo dục Ý Maria Montessori (1870–1952). Đây là phương pháp với tiến trình giáo dục đặc biệt dựa vào việc học qua cảm giác. Năm 1907 bà bắt đầu sự nghiệp là nhà giáo dục khi bà được mời tổ chức 1 trường trong khu tái định cư ổ chuột khu vực San Lorenzo, Ý. Trong giai đoạn này bà đã quan sát thấy rằng trẻ em hoàn toàn bị cuốn hút bởi các vật dụng và chất liệu được thiết kế để trợ giúp sự cảm nhận của giác quan. Tiến sĩ Montessori tiếp tục phát triển những sự trợ giúp dạy học chuyên biệt được dùng cho những trẻ trong môi trường thích hợp và tôn trọng những đặc tính riêng biệt của trẻ. Phương pháp Montessori chấp nhận sự duy nhất của mỗi trẻ và cho phép trẻ phát triển tuỳ theo những khả năng riêng của mình và thời gian riêng của mình. Do đó việc tổ chức các lớp học theo mô hình Montessorri phải đảm bảo sự tôn trọng tính riêng biệt của mỗi trẻ và phải bố trí phòng học và bài học phù hợp những nhu cầu và mục đích của mỗi em.
Hệ số Gini hay còn gọi là hệ số Lorenz trong tiếng Anh gọi là: Gini coefficient. Hệ số Gini, mang tên nhà khoa học người Italia, C. Gini (1884- 1965), là thước đo bất bình đẳng được sử dụng phổ biến nhất. Về mặt hình học, hệ số này được xác định bằng cách lấy diện tích hình A (Hình minh họa) được xác định bởi đường Lorenz và đường chéo Line of equality- đường bình đảng tuyệt đối chia cho diện tích nửa hình vuông có chứa đường Lorenz đó (A+ B) (B là diện tích phần còn lại nằm dưới đường Lorenz). Căn cứ vào hệ số Gini, người ta chia quốc gia thành ba nhóm bất bình đẳng thu nhập. Nếu hệ số Gini nhỏ hơn 0,4 thì quốc gia có mức độ bất bình đẳng thấp, hệ số Gini từ 0,4 đến 0,5 là quốc gia có mức độ bất bình đẳng trung bình và quốc gia có mức độ bất bình đẳng cao khi hệ số Gini lớn hơn 0,5. Hiện nay trên thế giới xu hướng bất bình đẳng ở mức cao tập trung chủ yếu ở các nước châu Mỹ Latinh và châu Phi (đặc biệt ở khu vực miền Nam châu Phi). Nhóm quốc gia có tình trạng bất bình đẳng thấp tập trung ở Đông Nam Á, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi của Đông Âu và Trung Á, và đa số các nước có nền kinh tế thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Các quốc gia có mức bất bình đẳng thu nhập trung bình tập trung chủ yếu ở Đông Á. Hệ số Gini khắc phục được hạn chế của đường Lorenz là hệ số này đã lượng hóa được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Nó cho phép so sánh mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các quốc gia, khu vực và vùng. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp này cũng có những hạn chế bởi vì diện tích A có thể như nhau (nghĩa là nhận được hệ số Gini giống nhau) nhưng độ phân bố các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau là không giống nhau, do đó hình dạng của đường Lorenz là khác nhau. Điều này đặc biệt đúng khi các đường Lorenz giao nhau, làm cho hệ số Gini trở thành một thước đo không hoàn toàn nhất quán. Điểm thứ hai là không cho phép phân tách hệ số Gini theo các phân nhóm (chẳng hạn như nông thôn, thành thị hay các vùng trog một nước) rồi sau đó "tổng hợp lại" để rút ra hệ số Gini quốc gia. Đường Lorenz cũng là một trong những công cụ biểu đạt mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được sử dụng trong kinh tế học. Là cách biểu thị bằng hình học hàm phân bố xác suất cộng dồn của một phân bố xác suất thực nghiệm cho trước về thu nhập hay của cải.
Hệ số Gini
Hệ số Gini dùng để biểu thị độ bất bình đẳng trong thu nhập trên nhiều vùng miền, tầng lớp của một đất nước. Nó có giá trị từ 0 (mọi người đều có mức thu nhập bình đẳng) đến 1 (bất bình đẳng) và bằng tỷ số giữa phần diện tích nằm giữa đường cong Lorenz và đường bình đẳng tuyệt đối với phần diện tích nằm dưới đường bình đẳng tuyệt đối. Hệ số này được phát triển bởi nhà thống kê học người Ý Corrado Gini và được chính thức công bố trong bài viết năm 1912 của ông mang tên "Variabilità e mutabilità". Chỉ số Gini (Gini Index) là hệ số Gini được thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm, được tính bằng hệ số Gini nhân với 100. Hệ số Gini (hay còn gọi là hệ số Loren) là hệ số dựa trên đường cong Loren (Lorenz) chỉ ra mức bất bình đẳng của phân phối thu nhập giữa cá nhân và hệ kinh tế trong một nền kinh tế. Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dân.
Xung đột công khai là xung đột thể hiện rõ quan điểm, sự mâu thuẫn, tranh chấp giữa các chủ thể với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Đây là loại xung đột phổ biến hiện nay và mọi người có thể lựa chọn các phương pháp giải quyết xung đột để giải quyết. Trong cuộc sống vì nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan mà con người có thể xảy ra tranh chấp hay xung đột mâu thuẫn với nhau. Vậy xung đột là gì? là câu hỏi được đông đảo bạn đọc quan tâm tìm hiểu. Nhằm giải đáp vấn đề trên bài viết xin đưa ra giải đáp giúp độc giả hiểu hơn về xung đột là gì?. Xung đột có thể hiểu là sự đối lập về những nhu cầu, giá trị và lợi ích. Xung đột có thể là nội tại cá nhân. Khái niệm xung đột có thể giúp giải thích nhiều mặt của xã hội như sự bất đồng xã hội, những xung đột về lợi ích, những cuộc đấu tranh giữa các cá nhân, nhóm và các tổ chức. Ngoài ra theo thuật ngữ chính trị, “xung đột” có thể ám chỉ tới những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng hay những cuộc chiến đấu khác, trong đó có thể bao gồm việc sử dụng lực lượng theo nghĩa xung đột vũ trang. Nếu không có sự điều hòa và giải pháp thỏa đáng, xung đột có thể dẫn đến stress hay căng thẳng giữa những cá nhân hay nhóm người liên quan. Như vậy để giải thích xung đột là gì? thì cá nhân người viết bài cho rằng có thể hiểu xung đột là quá trình trong đó một bên nhận ra rằng quyền lợi của mình hoặc đối lập hoặc bị ảnh hưởng tiêu cực bởi một bên khác. Xung đột có thể mang đến những kết quả tiêu cực hoặc tích cực, phụ thuộc vào bản chất và cường độ của xung đột. Bên cạnh việc giải thích xung đột là gì? thì nguyên nhân của xung đột cũng cần tìm hiểu. Việc xung đột có thể có rất nhiều nguyên nhân khác nhau cả chủ quan lẫn khách quan. Trong đó phải kể đến một số nguyên nhân như:. – Mục tiêu giữa các bên không thống nhất và có sự mâu thuẫn. Cụ thể mục tiêu cá nhân của các thành viên cộng đồng không thể giống nhau do lợi ích khác nhau. Khi có những hoạt động ảnh hưởng tới không gian, thời gian chung của cộng đồng sẽ dễ dàng này sinh mâu thuẫn, xung đột với nhau. – Có sự cản trở từ người khác tác động vào hai bên chủ thể gây ra xung đột giữa hai bên với nhau. -.Sự phụ thuộc lẫn nhau đối với công việc xảy ra khi hai hay nhiều người phụ thuộc lẫn nhau để hoàn thành công việc của họ và tiềm năng xung đột tăng lên khi mức độ phụ thuộc lẫn nhau tăng lên. – Giao tiếp bị sai lệch cũng có thể dẫn đến xung đột. Sự thiếu thông tin (rào cản giao tiếp) là một trong những nguyên nhân gây ra xung đột, do kĩ năng lắng nghe chưa tốt, chia sẻ thông tin không đầy đủ, khác biệt trong cách giải thích và nhận thức vấn đề, hay các biểu hiện phi ngôn từ bị bỏ qua hoặc không được nhận biết. Nội dung của người nói được người nghe hiểu không hoàn toàn chính xác. Mức độ không chính xác càng cao càng có nguy cơ gây ra những hiểu lầm. Xung đột công khai là xung đột thể hiện rõ quan điểm, sự mâu thuẫn, tranh chấp giữa các chủ thể với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Đây là loại xung đột phổ biến hiện nay và mọi người có thể lựa chọn các phương pháp giải quyết xung đột để giải quyết. Xung đột ngầm là loại xung đột không thể hiện ra bên ngoài bằng hành động, hành vi, cử chỉ hoặc lợi ích vật chất nhưng bên trong lại không đồng ý với quan điểm, lối sống, lợi ích vật chất của nhau, dẫn tới xung đột và mâu thuẫn với nhau. Xung đột nội dung là loại xung đột khi đưa ra một vấn đề gì đó thì 2 bên sẽ có quan điểm trái ngược nhau. Xung đột quyết định là loại xung đột khi đưa ra một quyết định về một vấn đề gì đó. Phần quyết định sẽ phát sinh những xung đột như: đồng ý hoặc chưa đồng ý về nội dung trong quyết định. Xung đột vật chất là loại xung đột về mặt giá trị, lợi ích đơn thuần giữa các bên. Loại xung đột này có thể được định dạng dưới các dạng tranh chấp cụ thể trong xã hội. Xung đột vai trò là loại xung đột xác định giá trị ảnh hưởng của một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức trong một phạm vi nhất định. Xung đột ý kiến đánh giá là loại xung đột về quan điểm đưa ra để đánh giá hoặc quyết định một vấn đề cụ thể. Xung đột mong đợi là loại xung đột thể hiện suy nghĩ, ý chí của các bên về một sự vật, hiện tượng có liên quan trong thời gian tới (trong tương lai). Xung đột cá nhân là loại xung đột xuất phát trong chính bản thân cá nhân đó hoặc giữa cá nhân với cá nhân về mặt nhu cầu, giá trị hoặc lợi ích. Xung đột nhóm là xung đột xuất phát giữa nhiều cá nhân này với nhiều cá nhân khác về mặt nhu cầu, giá trị hoặc lợi ích xuất phát từ một tiêu chí, mục đích chung mà nhóm người này đã đặt ra. Xung đột tổ chức là loại xung đột mà các cá nhân trong cùng tổ chức thấy quyền, lợi ích của mình xung đột với cá nhân khác trong tổ chức hoặc xung đột với chính tổ chức đó hoặc là loại xung đột giữa hai tổ chức với nhau trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống. Nhận dạng được các loại xung đột giúp bạn có thể sử dụng các phương pháp giải quyết xung đột. Khi lựa chọn, bạn nghĩ đó là hướng giải quyết tốt nhất vấn đề bạn đang gặp phải. Bạn cũng có thể giải quyết các xung đột đó theo bản năng, kinh nghiệm của mình và học cách làm sao thay đổi phương pháp giải quyết nếu cần thiết khi được trang bị kiến thức về xung đột.
Xung đột tổ chức
Xung đột tổ chức, hoặc xung đột nơi làm việc, là một trạng thái bất hòa gây ra bởi sự đối lập thực tế hoặc nhận thức về nhu cầu, giá trị và lợi ích giữa những người làm việc cùng nhau. Xung đột có nhiều hình thức trong các tổ chức. Có sự xung đột không thể tránh khỏi giữa chính quyền và quyền lực với những cá nhân và nhóm bị ảnh hưởng. Có những tranh chấp về cách phân chia doanh thu, cách thức thực hiện công việc và những người làm việc chăm chỉ và lâu dài. Có sự bất đồng về thẩm quyền giữa các cá nhân, phòng ban, và giữa các công đoàn và quản lý. Có những hình thức xung đột tinh vi hơn liên quan đến sự ganh đua, đố kỵ, đụng độ nhân cách, định nghĩa vai trò và đấu tranh cho quyền lực và sự ưu ái. Ngoài ra còn có xung đột trong cá nhân - giữa nhu cầu và nhu cầu cạnh tranh - mà các cá nhân trả lời theo những cách khác nhau. Xung đột ảnh hưởng đến các tổ chức có thể xảy ra ở các cá nhân, giữa các cá nhân và giữa các nhóm.