text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Yatağan là một huyện thuộc tỉnh Muğla, Thổ Nhĩ Kỳ. Huyện có diện tích 896 km² và dân số thời điểm năm 2007 là 46275 người, mật độ 52 người/km².
Nằm ở trung tâm của Caria cổ đại, và trong thời gian 13 - thế kỷ 14 là lãnh thổ các beylik Anatolian của Menteşe, huyện có một số địa phương quan tâm phong phú trong lịch sử và vẻ đẹp tự nhiên. Khu vực này được bao phủ một phần lớn bởi các khu rừng thông Địa Trung Hải.
Ở khoảng cách 10 km (6 dặm) về phía tây của trung tâm huyện, theo hướng Milas, là địa điểm cổ Stratonikeia, trong ngôi làng ngày nay Eskihisar, và gần đó là khu bảo tồn Lagina, gần thị trấn Turgut ngày nay. | 1 | null |
Phó tế hay thầy sáu trong tiếng Việt cổ, cũng gọi là trợ tế hay chấp sự, là một chức vụ giáo sĩ trong các giáo hội Kitô giáo nhưng có sự khác biệt giữa về thần học và trách nhiệm trong từng giáo hội đó.
Trong Giáo hội Công giáo Rôma, phó tế được xem là một chức thánh, được nhận chức trước linh mục và giám mục; các giáo hội Kháng Cách gọi là "chấp sự". Cả hai cách gọi đều có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là "diakonos (διάκονος)" mang nghĩa là "người đang chờ đợi một chức vụ" nhằm ám chỉ họ sẽ được nâng lên chức vụ cao hơn về sau.
Truyền thống Kitô giáo tin rằng, chức phó tế bắt nguồn từ việc giáo hội sơ khai tuyển chọn ra bảy người đàn ông, trong đó có phó tế Têphanô, để trợ giúp, quản lý các công việc từ thiện của giáo hội (Sách Công vụ Tông đồ, chương 6). | 1 | null |
Cừu Bharal (danh pháp hai phần: "Pseudois nayaur") là một loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Loài này được Hodgson mô tả năm 1833. Chúng được tìm thấy ở dãy Himalaya cao của Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, và Bhutan. Tên gốc của nó bao gồm bharal, barhal, bharar và bharut bằng tiếng Hindi, na hoặc sna ở Ladakh, Nabo trong tiếng Spitian, Naur ở Nepal và na hoặc gnao ở Bhutan.
Bharal có sừng mọc dương lên, đường cong và sau đó hướng về phía sau, phần nào giống như ria mép ngược.
Bharal là trọng tâm của các đoàn thám hiểm George Schaller và đoàn thám hiểm của Peter Matthiessen tại Nepal năm 1973. Kinh nghiệm cá nhân của họ cũng là tài liệu Matthiessen trong cuốn sách của ông, The Snow Leopard. Bharal là một thực phẩm chính của báo tuyết. | 1 | null |
Nhạn bụng trắng hay nhạn nhà (danh pháp hai phần: "Hirundo rustica") là một loài chim, là loài chim nhạn phân bố rộng rãi nhất thế giới. Loài này được tìm thấy ở châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Có 6 phân loài nhạn trắng được công nhận, sinh sản trên Bắc bán cầu. Bốn phân loài là những phân loài di cư, và những nơi trú ẩn của chúng trong mùa đông bao phủ của Nam bán cầu phía nam cũng như trung bộ Argentina, tỉnh Cape của Nam Phi, và miền bắc Australia.
Phạm vi rộng lớn của nó có nghĩa là loài nhạn bụng trắng không bị đe dọa, mặc dù có thể là số lượng quần thể địa phương giảm sút do các mối đe dọa cụ thể, chẳng hạn như xây dựng một sân bay quốc tế gần Durban. Nhạn bụng trắng là loài chim sống ở xứ mở mở mà thường sử dụng cấu trúc nhân tạo để sinh sản và do đó đã lan truyền với sự mở rộng của con người. Nó xây dựng một tổ hình chiếc tách từ bột viên bùn trong nhà kho hoặc cấu trúc tương tự và ăn côn trùng bị bắt trong khi bay.
Loài nhạn này sống gắn liền với con người, và thói quen ăn côn trùng của nó có nghĩa là nó được dung nạp người đàn ông này chấp nhận là tăng cường trong quá khứ bởi mê tín dị đoan về loài chim này và tổ của nó. Có các đề tài thường xuyên về nhạn bụng trắng trong tác phẩm văn học và tôn giáo do nó sinh sống cả ở gần với con người và tính di cư hàng năm của nó. Nhạn bụng trắng là chim biểu tượng quốc gia (Quốc điểu) của Áo và Estonia. | 1 | null |
Johann Heinrich von Thünen (24 tháng 6 năm 1783 – 22 tháng 9 năm 1850) là một địa chủ người Phổ, một nhà kinh tế học lỗi lạc đầu thế kỷ 19. Trước tác nổi bật của ông là "Der isolierte Staat in Beziehung auf Landwirtschaft und Nationalökonomie: Untersuchungen über den Einfluß, den die Getreidepreise der Reichtum, des Bodens und die Abgaben auf den Ackerbau ausüben", thường gọi tắt là "Der isolierte Staat" (Nhà nước đơn độc).
Đánh giá về Thünen, Paul A. Samuelson (giải Nobel kinh tế năm 1969) viết rằng mô hình kinh tế của học giả người Phổ đầu thế kỷ 19 này đã có những yếu tố của:
Fujita Masahisa, một học giả tiên phong trong lĩnh vực địa lý kinh tế còn thấy trong những lý luận đi trước thời đại của Thünen đã có những yếu tố của: | 1 | null |
Vệ Lập Hoàng (giản thể: 卫立煌; phồn thể: 衛立煌; bính âm: Wèi Lìhuáng) (16 tháng 2 năm 1897 - 17 tháng 1 năm 1960) là một vị tướng Trung Hoa Dân Quốc trong Nội chiến Trung Hoa và Chiến tranh Trung-Nhật với tư cách một trong những tư lệnh Trung Hoa tài năng nhất.
Gia nhập Quốc dân đảng đầu thập niên 1920, Vệ vươn lên trở thành một vị tướng sau khi Chiến tranh Bắc phạt thống nhất Trung Hoa kết thúc. Những thành công trong các chiến dịch tiễu phỉ (cộng sản) dưới thời Tưởng Giới Thạch từ năm 1930 - 1934 đem lại cho ông biệt danh "Vệ Bách Thắng".
Chiến tranh chống Nhật.
Đầu Chiến tranh Trung-Nhật, Vệ chỉ huy Quân khu 1. Với sự tham chiến của Đế quốc Anh và sau đó là Hoa Kỳ, ông được chuyển về Hoa Nam giữ chức Tư lệnh Tập đoàn quân 11 Quân đội Cách mạng Quốc dân. Sau đó ông thay Tướng Trần Thành giữ chức Tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Trung Hoa, gọi là Lực lượng Y. Lực lượng Y bao gồm hơn 100,000 quân Quốc dân, tham gia các chiến dịch trên bộ quan trọng để hỗ trợ chiến dịch tại Bắc Miến của tướng Hoa Kỳ Joseph W. Stilwell. Không như các tướng lĩnh đồng cấp khác, Vệ hợp tác rất tốt với người Mỹ.
Bắt đầu chiến dịch tại Nam Vân Nam vào ngày 11 tháng 5 năm 1944, quân của Vệ chiếm được Đằng Xung ngày 15 tháng 9 sau 2 tháng ác chiến. Tiếp tục tiến về phía nam bất kể sự kháng cự mãnh liệt của đối phương, quân của ông cuối cùng cũng bắt liên lạc được với các sư đoàn Trung Hoa tại Wanting, Miến Điện ngày 27 tháng 1 năm 1945. Thành công của chiến dịch này cho phép Đồng minh mở lại tuyến đường Miến Điện cung cấp vật tư chiến tranh cho Trung Hoa qua ngả Ledo, Miến Điện, nay mang tên đường Ledo. Kết hợp với các chiến dịch không vận vượt qua the Hump, tuyến Ledo cho phép vận chuyển quân nhu vật tư từ Ấn Độ sang các căn cứ Quốc dân tại Trung Hoa.
Hậu chiến.
Được gọi về Hoa Bắc để thay thế Trần Thành sau chiến tranh, Vệ được bổ nhiệm chỉ huy các lực lượng Quốc dân đảng tại đây vào tháng 10 năm 1947. Sau khi bị cắt đứt liên lạc đường bộ với Trung ương Quốc dân đảng do quân Cộng sản chiếm được Cẩm Châu (锦州, Liêu Ninh), ông dự định tổ chức phản công tái chiếm thành phố này, nhưng bị Tưởng Giới Thạch ra lệnh rút lui. Không lâu trước khi thất thủ Thẩm Dương, Vệ trở về phương Nam sau khi bị thay thế bởi Đỗ Duật Minh vào tháng 10 năm 1948.
Dù rất thành công trước đây, ông đã thất bại tại Đông Bắc. Ông từ chối lệnh rút quân trong hơn 1 năm, mất 300,000 lính. Taylor (2009) viết rằng "Trong số đó, "246,000 bị bắt, và phần lớn nhanh chóng được tái tổ chức vào hàng ngũ Quân giải phóng Nhân dân" (tr. 389).
Tưởng ra lệnh giam lỏng Vệ tại nhà. Vệ trốn sang Hồng Kông năm 1949, rồi về Bắc Kinh vào năm 1955, tại đó ông "tham gia vào nhiều tổ chức khác nhau của nước Cộng hòa Nhân dân" (Taylor, 2009, tr. 389). Ông mất năm 1960 tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. | 1 | null |
Điền Tụng Nghiêu, 田颂尧 (1888 – 1975) là quân phiệt Tứ Xuyên và sau là tướng lĩnh Quốc dân đảng.
Điền Tụng Nghiêu sinh năm 1888 tại Giản Dương, Tứ Xuyên. Điền gia nhập quân đội Tứ Xuyên và vươn lên vị trí chỉ huy trung đoàn kỵ binh của Sư đoàn 2, Quân đoàn 1. Ông cũng là tư lệnh đồn trú Thành Đô từ năm 1916 - 1918. Năm 1918, Điền được thăng chức Tư lệnh Lữ đoàn 41, Sư đoàn 21 của Chính phủ Bắc Dương. Cùng năm Điền lên chức Tư lệnh Sư đoàn 21 và giữ vị trí này đến năm 1925.
Năm 1925, Điền giữ chức Phó chủ nhiệm Cục Quân vụ Tứ Xuyên, và đến năm 1926 trở thành Tư lệnh đồn trú Tây Bắc Tứ Xuyên, chỉ huy Quân đoàn 29. Từ năm 1927 – 1928, ông là ủy viên Ủy ban Quân sự Quốc dân. Từ năm 1928 - 1933 ông là Chủ nhiệm Cục Dân vụ và ủy viên Chính phủ tỉnh Tứ Xuyên.
Năm 1933, ông quay lại nắm giữ quân vụ, nhậm chức Tư lệnh tiểu phỉ vùng biên giới Tứ Xuyên-Sơn Tây, rồi từ năm 1933 - 1935 là Tư lệnh Biệt đội 2, Tổng hành dinh tiểu phỉ Tứ Xuyên, đóng vai trò không đáng kể trong việc ngăn chặn Hồng quân trên đường Vạn lý Trường chinh qua Tứ Xuyên. Năm 1936 ông là ủy viên Ủy ban Quân sự Quốc dân nhưng không có quyền lực gì. Đây có thể là lý do khiến ông nổi dậy chống lại Chính phủ Quốc dân vào năm 1949. Về sau ông là ủy viên Hội nghị Chính trị Hiệp thương nhân dân Trung Hoa tỉnh Tứ Xuyên. Ông mất tại Thành Đô ngày 25 tháng 10 năm 1975. | 1 | null |
Nhạn ngực đỏ (danh pháp hai phần: Hirundo lucida) là một loài chim không di cư thuộc họ Nhạn phân bố rộng rãi nhất thế giới. Nó được tìm thấy trong Châu Phi ở Tây Phi, lưu vực sông Congo và Ethiopia.
Mô tả.
Loài này có đuôi chẽ và cong, cánh nhọn.
Trước đây được coi là một phân loài của nhạn bụng trắng, nó gần giống loài này. Nhạn ngực đỏ khác ở chỗ hơi nhỏ hơn của nó loài nhạn bụng trắng có liên quan nhưng di cư. Nó cũng có một dải ngực màu xanh da trời hẹp hơn, và con trưởng thành có đuôi nheo đuôi ngắn hơn. Trong khi bay, có vẻ nhạt màu bên dưới hơn nhạn bụng trắng. Mặc dù con trưởng thành nhạn ngực đỏ khá khác biệt, con chưa trưởng thành có thể bị nhầm lẫn với nhạn bụng trắng, cũng có đuôi nheo ngắn. Tuy nhiên, nhạn ngực đỏ chưa trưởng thành có một dải ngực hẹp hơn và trắng hơn ở đuôi. | 1 | null |
Nhạn lam họng trắng (danh pháp hai phần: Hirundo nigrita) là một loài chim thuộc họ Nhạn phân bố rộng rãi nhất thế giới. Nó được tìm thấy ở Angola, Bénin, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Liberia, Nigeria, Sierra Leone, và Uganda. | 1 | null |
Nhạn họng trắng (danh pháp hai phần: Hirundo albigularis) là một loài chim thuộc họ Nhạn. Loài này sinh sản ở miền nam châu Phi Angola và Zambia phía nam đến mũi Hảo Vọng Nam Phi Nó là chủ yếu là loài di cư, trú đông ở Angola, Zambia và miền nam Zaire. Đây là một loài chim của xứ mở và đồng cỏ, ưa thích vùng cao nguyên và các nước lân cận. Nó thường được tìm thấy xung quanh các công trình cấu trúc nhân tạo. | 1 | null |
Yến đuôi nhọn tía (danh pháp hai phần: Hirundapus celebensis) là một loài chim thuộc họ Yến ("Apodidae").. Loài này phân bố từ vùng đông bắc Sulawesi thông qua quần đảo Philipin Luzon, Mindoro, Marinduque, Catanduanes, Calayan, Panay, Negros, Cebu, Leyte, Biliran, Mindanao và Basilan.
Loài chim này sống trong các khu rừng khác nhau và xứ mở. Chúng có thể tìm thấy ở vùng đất thấp hoặc trong những ngọn đồi, độ cao từ 150–2000 m. Yên đuôi nhọn tía cân nặng 184 g (6,5 oz) và dài 25 cm (10 inch). | 1 | null |
Yến đuôi nhọn họng trắng (danh pháp hai phần: Hirundapus caudacutus) là một loài chim thuộc họ Yến ("Apodidae"). Yến đuôi nhọn họng trắng sinh sản ở ngọn đồi đá ở trung bộ châu Á và miền nam Xibia. Loài này là chim di cư, trú đông ở phía nam tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và Úc. Nó là một loài lang thang hiếm gặp ở Tây Âu, nhưng đã được ghi nhận như xa đến phía tây tận Na Uy, Thụy Điển và Anh. Yến đuôi nhọn họng trắng là loài chim bay nhanh nhất kiểu bay vỗ cánh, có khả năng tốc độ 170 km/h.
Loài chim này có đôi chân rất ngắn mà chúng chỉ sử dụng để bám vào bề mặt thẳng đứng. Chúng xây những chiếc tổ của họ ở các khe đá ở các vách đá hoặc cây rỗng. Chúng không bao giờ chủ động đậu trên mặt đất và dành phần lớn cuộc sống của chúng trong không trung, ăn các loài côn trùng mà chúng bắt được. | 1 | null |
Château de Maisons (nay là Château de Maisons-Laffitte), được thiết kế bởi François Mansart và được thi công từ năm 1630 đến năm 1651, là một lâu đài, đây một ví dụ điển hình của kiến trúc Baroque Pháp và là một điểm tham chiếu trong lịch sử của kiến trúc Pháp. Lâu đài này nằm tọa lạc ở Maisons-Laffitte, một vùng ngoại ô phía Tây Bắc của Paris, trong tỉnh Yvelines, Île-de-France.
Lâu đài Maisons-Laffitte tọa lạc cạnh dòng sông Seine và rừng Saint-Germain-en-Laye, gồm khu vườn, một công viên nhỏ 33 hecta và một công viên bên ngoài lớn hơn rộng 300 hecta. | 1 | null |
Tấn Mục Đế () (343 – 10 tháng 7 năm 361), tên thật là Tư Mã Đam (司馬聃), tên tự Bành Tử (彭子), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 10 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Mặc dù ông trị vì trong 17 năm, song trong hầu hết thời gian này ông còn nhỏ tuổi, quyền lực trên thực tế do vậy nằm trong tay mẹ là Thái hậu Chử Toán Tử, Hà Sung (何充), thúc tổ Hội Kê vương Tư Mã Dục, Ân Hạo, và Hoàn Ôn. Dưới thời ông trị vì, lãnh thổ nhà Tấn được tạm thời mở rộng đến một mức lớn nhất kể từ khi mất miền bắc Trung Quốc về tay Hán Triệu, khi đó, Hoàn Ôn đã diệt Thành Hán và sáp nhập lãnh thổ của nước này vào Đông Tấn, việc Hậu Triệu sụp đổ cũng đã cho phép Đông Tấn lấy lại phần lớn lãnh thổ ở phía nam Hoàng Hà.
Trước khi lên ngôi.
Tư Mã Đam sinh năm 343, trong thời gian cai trị của cha Tấn Khang Đế, mẹ là Hoàng hậu Chử Toán Tử. Ông là người con trai duy nhất của vua cha. Năm 344, khi ông mới được một tuổi, Khang Đế bị bệnh nặng. Các thúc tổ bên phía bà ngoại của Tư Mã Đam và cũng là các đại thần chủ chốt Dữu Băng (庾冰) và Dữu Dực (庾翼), ủng hộ một người con trai của tằng tổ phụ của ông là Tấn Nguyên Đế, Hội Kê vương Tư Mã Dục lên ngôi song Khang Đế đã nghe theo lời vị đại thần khác là Hà Sung (何充), quyết định truyền ngôi cho Tư Mã Đam bất chấp việc ông còn quá nhỏ. Do vậy ông lập Tư Mã Đàm làm thái tử. Ông qua đời chưa đầy một tháng sau đó, Đam Thái tử kế vị ngai vàng và trở thành Mục Đế.
Chử Thái hậu nhiếp chính.
Do Mục Đế còn nhỏ tuổi, Chử Thái hậu trở thành người điều hành triều đình và đóng vai trò nhiếp chính, tuy vậy bà phần lớn nghe theo lời khuyên của Hà Sung và Hội Kê vương Tư Mã Dục, hai người đều là thừa tướng. Sau khi Hà Sung mất vào năm 346, vị trí đồng thừa tướng được trao cho Sái Mô (蔡謨).
Năm 345, sau khi Dữu Dực, người giữ vai trò chỉ huy quân sự tại các châu phía tây (tương ứng với các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quý Châu, và Vân Nam hiện nay) mất, vị tướng có nhiều tham vọng là Hoàn Ôn (kết hôn với dì của Mục Đế là Tư Mã Hưng Nam (司馬興男)) được giao gánh vác trọng trách ở các châu này. Vào cuối năm 346, Hoàn Ôn mặc dù không có sự chấp thuận của triều đình, đã bắt đầu một chiến dịch nhằm chinh phục Thành Hán, một nước kình địch cai quản vùng đất nay là Tứ Xuyên và Trùng Khánh. Năm 347, Thành Hán rơi vào tay Hoàn Ôn, điều này đã khiến cho Đông Tấn kiểm soát được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Tuy nhiên từ thời điểm này, Hoàn Ôn bắt đầu độc lập thực tế trong việc ra các quyết định ở các châu phía tây. Tư Mã Dục sợ rằng Hoàn Ôn có ý định tiếp quản toàn bộ đế quốc, vì vậy cho mời vị quan nổi tiếng là Ân Hạo (殷浩) đến chỗ mình, có ý định dùng Ân Hạo để đối phó với Hoàn Ôn.
Năm 349, khi Hậu Triệu lâm vào tình trạng hỗn loạn sau cái chết của Hoàng đế Thạch Hổ, và tiếp đến sau đó là chiến tranh liên tiếp nhằm triệt hạ nhau giữa các con trai của Thạch Hổ và người cháu nội nuôi Thạch Mẫn, nhiều châu phía nam của Hậu Triệu đã quay sang thần phục Đông Tấn, Hoàn Ôn chuẩn bị một cuộc Bắc chinh. Thay vào đó, triều đình dưới quyền cai quản của Tư Mã Dục và Ân Hạo lại cử ngoại tổ phụ của Mục Đế là Trữ Bầu (褚裒) đi chinh chiến. Tuy nhiên, Trữ Bầu đã rút lui sau một số thất bại ban đầu, và chiến dịch đã khiến cho nhiều dân thường có ý định đào thoát đến đất Tấn mất mạng. Các chiến dịch nhỏ cũng được tiến hành dưới quyền tướng Tư Mã Huân (司馬勳) song phần lớn cũng không thành công.
Năm 350, Ân Hạo đích thân chuẩn bị một cuộc Bắc chinh, song đã không thực hiện chiến dịch ngay lập tức; thay vào đó, ông nắm được nhiều quyền lực hơn sau khi buộc tội Sái Mô liên tục từ chối danh vọng ban cho mình, như vậy phạm phải tội bất kính với hoàng đế, Sái Mô bị giáng thành dân thường. Trong khi đó, Hoàn Ôn trở nên thiếu kiên nhẫn sau khi Tư Mã Dục và Ân Hạo từ chối yêu cầu của ông, khoảng năm mới 352, Hoàn Ôn huy động quân của mình và ra hiệu như thể ông sắp tấn công kinh thành. Ân Hạo rất bất ngờ và ban đầu đã xem xét đến việc từ chức hoặc gửi sô ngu phiên (騶虞幡, nghĩa là cờ hòa của triều đình) đến lệnh cho Hoàn Ôn dừng lại. Tuy nhiên, sau khi nghe lời khuyên của Vương Bưu Chi (王彪之), ông đã bảo Tư Mã Dục viết một lá thư cho Hoàn Ôn, thuyết phục Hoàn Ôn dừng lại.
Sau đó đến năm 352, Ân Hạo đã phát động chiến dịch riêng của mình, nhưng khi bắt đầu, các tướng của Hậu Triệu trước đây đang kiểm soát Hứa Xương và Lạc Dương đã nổi loạn, kế hoạch của ông phải dừng lại để đối phó với quân nổi loạn. Sau đó, khi các tướng của ông là Tạ Thượng (謝尚) và Diêu Tương (姚襄) có gắng tấn công Trương Ngộ (張遇), là tướng kiểm soát Hứa Xương, quân Tiền Tần đã đến trợ giúp Trương Ngộ và đánh bại quân của Tạ Thượng. Ân Hạo sau đó hoàn toàn từ bỏ chiến dịch.
Vào mùa thu năm 352, Ân Hạo chuẩn bị cho một chiến dịch thứ hai. Ban đầu, chiến dịch đã có một số thành công, lấy lại được Hứa Xương từ Tiền Tần. Tuy Nhiên, Ân Hạo trở nên nghi ngờ về khả năng quân sự và tính độc lập của Diêu Tương và do đó đã cố gắng ám sát Diêu Tương. Diêu Tương phát hiện ra điều này, và khi Ân Hạo dẫn quân về phía bắc, Diêu đã phục kích và gây thiệt hại nặng cho Ân. Diêu Tương sau đó chiếm vùng Thọ Xuân. Người ta xem thường Ân Hạo do các thất bại quân sự của ông, Hoàn Ôn đã đệ trình một thỉnh cầu phế bỏ Ân Hạo. Triều đình buộc phải giáng Ân Hạo thành thường dân và đưa đi lưu đày. Từ thời điểm này, triều đình chỉ còn nằm trong tay Tư Mã Dục, mặc dù vậy, Hoàn Ôn cũng có được nhiều quyền lực trong việc ra các quyết định.
Năm 354, Hoàn Ôn phát động một chiến dịch lớn chống lại Tiền Tần, song sau khi tiến bằng tất cả các đường đến vùng phụ cận kinh đô Trường An của Tiền Tần, ông đã do dự trong việc tiếp tục tiến quân, và ông cuối cùng đã quyết định rút quân do cạn nguồn lương thảo.
Năm 356, Hoàn Ôn đề xuất dời đô đến Lạc Dương, nơi từng là kinh đô cho đến khi rơi vào tay Hán Triệu năm 311, song đề xuất này đã bị từ chối. Ông sau đó thực hiện một chiến dịch chống lại Diêu Tương. Ông gây cho Diêu Tương một số thiệt hại nghiêm trọng, và Diêu Tương cuối cùng đã cố gắng tiến về phía tây để rồi bị quân Tiền Tân đánh bại và giết chết. Một lần nữa lại kiểm soát được Lạc Dương, Hoàn Ôn tái đề xuất ý tướng dời đô về Lạc Dương, song triều đình lạc từ chối một lần nữa. Cuối năm đó, chư hầu của Tần là Đoạn Kham (段龕), người kiểm soát vùng Sơn Đông ngày nay với tước hiệu Tề công, đã bị tướng Tiền Tần là Mộ Dung Khác (慕容恪), lãnh địa của Tề công cũng rơi vào tay Tiền Tần.
Vào mùa xuân năm 357, do Mục Đế đã làm nghi lễ thông qua (ở tuổi 13), Chử Thái hậu chấm dứt việc nhiếp chính của mình, và từ thời điểm đó, Mục Đế chính thức trở thành người ra quyết định, mặc dù trên thực tế, Tư Mã Dục và Hoàn Ôn vẫn là những người giữ vai trò này.
Hoàng đế trưởng thành.
Vào cuối năm 357, Mục Đế kết hôn với Hà Pháp Nghê và phong làm Hoàng hậu.
Năm 358, Tư Mã Dục đề nghị được từ bỏ tất cả quyền hạn của mình song Mục Đế đã từ chối. Cuối năm đó, một chiến dịch Bắc chinh của tướng Tuân Tiện (荀羨) nhằm chiếm lại bán đảo Sơn Đông đã thất bại.
Năm 359, Tiền Yên gây sức ép lên vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà, các tướng Tạ Vạn (謝萬), Gia Cát Du (諸葛攸), và Si Đàm (郗曇) đã dẫn quân lên phía bắc đánh Tiền Yên, song quân Tấn bị sụp đổ sau khi Tạ Vạn nhận định sai rằng quân Tiền Yên ở gần và ra lệnh rút lui. Không có cứu viện, các vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà bắt đầu rơi vào tay Tiền Yên.
Năm 361, Mục Đế qua đời trong khi chưa có con trai. Chử Thái hậu do đó đã ra lệnh người anh họ của hoàng đế, Lang Da vương Tư Mã Phi trở thành hoàng đế. Tư Mã Phi sau khi lên ngôi trở thành Ai Đế. | 1 | null |
Tấn Khang Đế () (322 – 17 tháng 11 năm 344), tên thật là Tư Mã Nhạc (司馬岳), tên tự Thế Đồng (世同), là vị Hoàng đế thứ 4 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 9 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một người con trai của Tấn Minh Đế và là em trai cùng mẹ của Tấn Thành Đế. Thời gian ông trị vì chỉ kéo dài hai năm.
Trước khi lên ngôi.
Tư Mã Nhạc sinh vào năm 322 và là con trai thứ hai của Tấn Minh Đế và Hoàng hậu Dữu Văn Quân. Sau khi phụ thân qua đời năm 325 và anh trai Tư Mã Diễn lên kế vị, ông được phong làm Ngô vương vào năm 326. Năm 327, do thúc phục là Lang Tà vương Tư Mã Dục muốn nhường cho tước hiệu được cho là vinh dự hơn, Tư Mã Dục trở thành Hội Kê vương và Tư Mã Nhạc được lập làm Lang Tà vương. Người ta không rõ Tư Mã Nhạc đã ở đâu khi diễn ra Loạn Tô Tuấn vào năm 326–328, ông có bị bắt giữ và trở thành con tim giống hoàng huynh hay không, ở đất Ngô hay nơi nào khác. Dưới thời hoàng huynh trị vì, ông không xuất hiện để thực sự tham gia vào quá trình ra các quyết định trọng yếu.
Vào mùa hè năm 342, Thành Đế lâm bệnh nặng. Ông có hai người con trai là Tư Mã Phi và Tư Mã Dịch, khi ấy vẫn còn nằm trong nôi, với người thiếp Chu quý nhân. (quan nhiếp chính và cậu ruột) sợ rằng nhà họ Dữu sẽ mất đi quyền lực nếu một vị hoàng đế trẻ được định nên đã thuyết phục Thành Đế rằng trong lúc Đông Tấn đang phải đối mặt với một Hậu Triệu có thế lực mạnh mẽ thì nền chỉ định một vị hoàng đế lớn tuổi hơn. Thành Đế đồng ý và chỉ định em trai mình, Tư Mã Nhạc làm người kế vị, bất chấp phản đối từ Hà Sung (蔡謨), một quan nhiếp chính khác. Thành Đế đã qua đời ngay sau đó và Tư Mã Nhạc lên kế vị.
Trị vì.
Đầu năm 343, Khang Đế lập vợ mình, Chử Toán Tử, làm hoàng hậu.
Sau đó vào năm 343, một người cậu khác là , đều xuất một chiến dịch quân sự lớn chống lại Hậu Triệu, phối hợp với người cai trị Tiền Yên là Mộ Dung Hoảng và người cai trị Hậu Lương là Trương Tuấn, cả hai nước trên danh nghĩa là chư hầu của Tấn. Hầu hết các đại thần lo ngại điều này, nhưng với sự hỗ trợ của Dữu Băng, Hoàn Ôn (em rể của Khang Đế, kết hôn với công chúa ), và , Khang Đế đã ân chuẩn kế hoạch và huy động quân lính. Dữu Băng trở thành thống lĩnh phối hợp cùng với Dữu Dực, và Hà Sung được triệu hồi để thay thế ông, phụng sự cùng với nhạc phụ của Khang Đế là . Tuy nhiên, Dữu Dực, không biết vì lý do gì, đã không thực hiện chiến dịch mặc dù đã tiến hành một số cuộc tấn công ở biên giới.
Vào mùa thu năm 344, Khang Đế lâm bệnh. Dữu Băng và Dữu Duệ muốn ủng hộ Hội Kê vương Tư Mã Dục kế vị, song Hà Sung cho rằng Khang Đế nên truyền ngôi cho con trai của ông là Tư Mã Đam. Khang Đế đồng ý là lập Tư Mã Đam làm thái tử. Ông mất hai ngày sau đó, Đam Thái tử, khi ấy mới một tuổi, lên kế vị. | 1 | null |
Tấn Thành Đế () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là Tư Mã Diễn (司馬衍), tên tự Thế Căn (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 8 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai cả của Tấn Minh Đế và trở thành thái tử vào ngày 1 tháng 4 năm 325. Dưới thời ông cai trị, quyền hành phần lớn bị những người nhiếp chính chi phối, ban đầu là người bác bên họ mẹ, Dữu Lượng (庾亮), về sau là Vương Đạo (王導), tiếp theo là tình trạng đồng nhiếp chính của Hà Sung (何充) và một người bác bên họ mẹ khác là Dữu Băng (庾冰). Ông lên ngôi hoàng đế khi mới bốn tuổi, và ngay sau đó cuộc nổi loạn của Tô Tuấn (蘇峻) đã làm suy yếu Đông Tấn trong nhiều thập niên sau đó.
Lên ngôi.
Tư Mã Diễn sinh năm 321, là người con trai cả của Tấn Minh Đế Tư Mã Thiệu, khi đó Tư Mã Thiệu đang là thái tử, mẹ đẻ của Tư Mã Diễn là Dữu Văn Quân. Minh Đế lên ngôi vào năm 323 sau khi Nguyên Đế băng hà, sau đó ông lập Dữu Thái tử phi làm Dữu Hoàng hậu, song lại không lập ngay Thái tử, Tư Mã Diễn chỉ trở thành thái tử vào năm 325.
Vào mùa thu năm 325, Minh Đế lâm bệnh. Ông giao người con trai mới bốn tuổi cho một nhóm đại thần, bao gồm Tư Mã Dạng (司馬羕), Vương Đạo, Biện Khổn (卞壼), Si Giám (郗鑒), Lục Diệp (陸曄), Ôn Kiệu (溫嶠), cùng người anh trai của Hoàng hậu là Dữu Lượng, có lẽ ông tính toán rằng điều này sẽ giúp cân bằng được quyền lực. Minh Đế qua đời ngay sau đó. Diễn Thái tử lên ngôi và trở thành Thành Đế.
Dữu Lượng nhiếp chính.
Ban đầu, các đại thần cùng có trách nhiệm cai quản, tuy nhiên Dữu Thái hậu đã trở thành người nhiếp chính, do vậy Dữu Lượng đã trở thành vị đại thần quyền lực nhất trong triều. Ông đã thay đổi các chính sách khoan dung của Vương Đạo (người từng làm thừa tướng dưới thời Minh Đế) và áp dụng một cách khắt khe các điều luật và quy định. Hơn nữa, ông còn trở nên lo sợ trước các tướng Đào Khản và Tổ Ước (祖約), không ai trong hai người được nhắc đến trong danh sách ưu đãi và thăng chức trong chúc thư của Minh Đế và người ta tin rằng Dữu Lượng đã xóa tên của họ khỏi chúc thư. Năm 326, ông đánh lừa dư luận bằng cách cáo buộc sai huynh đệ của Tư Mã Dạng là Tư Mã Tông (司馬宗), mang tước Nam Đốn vương tội phản nghịch rồi giết chết ông và sau đó hạ bệ Tư Mã Dạng.
Loạn Tô Tuấn.
Năm 327, lo sợ Tô Tuấn, Dữu Lượng quyết định tước quyền chỉ huy quân đội của họ Tô bằng cách thăng làm quan phụ trách việc nông, một vị trí không liên quan đến chức chỉ huy quân sự. Sau do dự ban đầu, Tô Tuấn cuối cùng đã từ chối và lập một liên minh với Tổ Ước để chống Dữu Lượng. Khi nghe được điều này, Ôn Kiệu, người được Dữu Lượng phong làm thứ sử Giang Châu (江州, nay là Giang Tây) để chống Đào Khản, thứ sử của Kinh Châu (荊州, nay là Hồ Bắc), muốn nhanh chóng lên đường để bảo vệ kinh thành Kiến Khang, cũng như quân địa phương ở phía đông của kinh thành, song Dữu Lượng đã từ chối mọi sự giúp đỡ, ông ta muốn Ôn Kiệu vẫn ở vị trí để chống lại Đào Khản và tin tưởng rằng mình có thể dễ dàng đả bại Tô Tuấn. Lo rằng Dữu Lượng sẽ thất bại trước Tô Tuấn, Ôn Kiệu đã tiến về kinh, song trước đó Tô Tuấn đã bai vây kinh thành vào đầu năm 328 và bắt Thành Đế cùng Dữu Thái hậu làm con tim. Biện Khổn chết trong trận chiến, và Dữu Lượng bắt buộc phải chạy đến chỗ Ôn Kiệu. Tô Tuấn cho binh lính của mình cướp phá kinh thành, tài sản và y phục của các quan cũng như dân thường đều bị quân của Tô Tuấn lột sạch, chúng thậm chí còn bắt các hầu gái của Dữu Thái hậu. Dữu Thái hậu do bị Tô Tuấn làm cho nhục nhã và vì lo sợ những gì sẽ diễn ra nên đã chết trong lo âu.
Tô Tuấn đã lập ra một chính quyền mới, trong đó người được Tô Tuấn tôn trọng là Vương Đạo được phong làm nhiếp chính vương trên danh nghĩa, song bản thân Tô Tuấn mới thực sự là người nhiếp chính. Trong khi đó, Dữu Lượng và Ôn Kiệu đã cố lấy lại kinh thành. Người anh em họ của Ôn Kiệu là Ôn Sung (溫充) đề xuất mời Đào Khản, một tướng giỏi và có lượng binh lính khá lớn làm người chỉ huy tối cao của đội quân. Tuy nhiên, Đào Khản vẫn còn bực bội trước Dữu Lượng nên ban đầu đã từ chối. Tuy nhiên, họ Đào cuối cùng đã nhượng bộ và tham gia cùng Ôn Kiệu và Dữu Lượng. Họ tiến về phía đông đến Kiến Khang. Phản ứng lại, Tô Tuấn đưa Thành Đế đến thành Thạch Đầu trên thực tế là đặt vị hoàng đế cùng tùy tùng dưới quyền quản thúc. Trong khi đó, Vương Đạo đã bí mật lệnh cho các chỉ huy tiến về phía đông đẻ nổi dậy chống lại Tô Tuấn, ông cuối cùng đã thuyết phục được tước của Tô Tuấn là Lộ Vĩnh (路永) rời bỏ quân Tô để về phe quân Ôn và Đào. Si Giám cùng quân của mình cũng đến hội quân từ Quảng Lăng (廣陵, nay là Hoài An, Giang Tô).
Hai phe giao chiến trong nhiều tháng, mặc dù quân chống Tô Tuấn có lợi thế về quân số song họ đã không thể chiếm ưu thế, khiến Đào Khản từng xem xét việc rút lui. Tuy nhiên, Ôn Khiệu đã thuyết phục được Đào ở lại và tiếp tục chống Tô. Đến mùa thu, trong một cuộc tấn công ở Thạch Đầu, quân chống Tô ban đầu hứng chịu thất bại, nhưng khi Tô Tuấn tiến hành phản công, ông ta đã bị ngã ngựa và bị thương đâm trúng. Quân chống Tô xông lên và chặt đầu thi thể Tô Tuấn. Quân của Tô Tuấn ban đầu ủng hộ anh trai Tô Tuấn là Tô Dật (蘇逸) làm lãnh đạo và tiếp tục phòng thủ Thạch Đầu, song đã bị đánh bại vào đầu năm 329.
Với các hậu quả để lại sau khi quân của Tô Tuấn thất bại, như kinh thành Kiến Khang bị thiệt hại nặng nề, các quan đại thần đã xem xét việc dời đô đến Dự Chương (豫章, nay thuộc Nam Xương, Giang Tây) hoặc Hội Kê (會稽, nay thuộc Thiệu Hưng, Chiết Giang), nhưng Vương Đạo phản đối, lưu ý rằng Kiến Khang ở nằm ở một vị trí tốt hơn để quan sát phòng thủ từ hướng bắc chống lại Hậu Triệu, kinh thành cuối cùng vẫn đặt tại Kiến Khang. Ôn Kiệu được yêu cầu ở lại Kiến Khang làm nhiếp chính vương, song ông tin rằng Minh Đế mong đợi Vương sẽ giữa vai trò này nên cuối cùng Vương Đạo trở thành nhiếp chính vương. Trong khi đó, Dữu Lượng, ban đầu đề nghị từ bỏ mọi vị trí của mình và đi sống lưu vong, song cuối cùng đã chấp nhận làm một tổng đốc.
Do mẫu thân đã chết, Thành Đế lúc đó đang tám tuổi bắt đầu được bà nội, tức Tuân phu nhân nuôi dưỡng.
Vương Đạo nhiếp chính.
Cuối năm 329, Ôn Kiệu chết, tướng Quách Mặc (郭默) sớm sau đó đã ám sát người kế nhiệm là Lưu Dận (劉胤) và giành lấy Kinh Châu. Vương Đạo ban đầu muốn tránh một cuộc chiến khác và xoa dịu Quách, song Đào Khản và Dữu Lượng phản đối, quân của họ nhanh chóng hội về đô phủ của Giang Châu là Tầm Dương (尋陽, nay là Cửu Giang, Giang Tây) vào năm 330 và giết chết họ Quách.
Trong khi đó, trong và sau loạn Tô Tuấn, quân Tấn ở Hoa Trung không có viện trợ từ triều đình trung ương nên đã không thể giữ được các vị trí của mình và cuối cùng Đông Tấn mất hầu hết Hoa Trung vào tay Hậu Triệu. Các thành quan trọng bị mất trong thời kỳ này gồm cựu đô Lạc Dương, Thọ Xuân (壽春, nay thuộc Lục An, An Huy), và Tương Dương (襄陽, nay thuộc Tương Phàn, Hồ Bắc), song Đông Tấn đã tái chiếm được Tương Dương vào năm 332. Năm 333, Đông Tấn mất Ninh Châu (寧州, nay là Vân Nam và Quý Châu) vào tay Thành Hán song đã lấy lại được vào năm 339.
Với vai trò nhiếp chính vương, Vương Đạo khôi phục phần lớn các chính sách trước đó của mình là khoan dung và thi hành pháp luật không nghiêm, đièu này đã giúp ổn định tình hình chính trị song cũng dẫn đến tham nhũng lan tràn và quyền lực yếu kém. Cuối cùng vào năm 338, Dữu Lương đã cố gắng thuyết phục Si Giám hội quân với ông để phế truất Vương Đạo song sau đó Si Giám đã từ chối, Dữu Lượng đã không thực hiện kế hoạch của mình.
Năm 336, Thành Đế kết hôn với Hoàng hậu Đỗ Lăng Dương. Khi ấy, cả hai đều 15 tuổi.
Năm 337, Mộ Dung Hoảng (慕容皝), tộc trưởng Tiên Ti và là chư hầu của Tấn và được ban cho tước Công tại Liêu Đông, đã xưng làm Yên vương dù Tấn không ban cho ông tước hiệu này, thực tế đây là tuyên bố độc lập và nước Tiền Yên hình thành, mặc dù trên danh nghĩa Mộ Dung Hoảng vẫn coi mình là chư hầu của Tấn.
Năm 339, Dữu Lượng muốn thực hiện một cuộc tấn công lớn chống lại Hậu Triệu, hy vọng có thể lấy lại Hoa Trung, Vương Đạo ban đầu đồng ý với ông ta, song sau đó kế hoạch này bị Si Giám và Sái Mô (蔡謨) phản đối, Thành Đế đã lệnh cho Dữu Lượng không thực hiện kế hoạch chiến tranh. Vương Đạo chết vào mùa thu cùng năm, kế vị là người phụ tá Hà Sung (何充) và em trai của Dữu Lương là Dữu Băng (庾冰). Thành Đế cho Hà Sung và Dữu Băng quyết định các vấn đề quan trọng nhất, song cũng bắt đầu có một số quyết sách riêng của mình. Dữu Băng và Hà Sung cố gắng cải cách các vấn đề dưới sự nhiếp chính của Vương Đạo, song không quá hiệu quả.
Thời kỳ cuối.
Sau cái chết của Vương Đạo, Dữu Lượng tiếp tục kế hoạch của mình nhắm tới một chiến dịch chống lại Hậu Triệu, và điều này đã dẫn tới việc Hoàng đế Hậu Triệu là Thạch Hổ (石虎) phản ứng lại vào cuối năm 339. Quân Hậu Triệu gây nên thiệt hại rất lớn cho nhiều thành trì và căn cứ của Tấn ở phía bắc Trường Giang và chiếm được Chu Thành (邾城, nay thuộc Hoàng Cương, Hồ Bắc). Bị làm nhục, Dữu Lượng đã hủy bỏ kế hoạch về một chiến dịch Bắc tiến, ông chết vào đầu năm 340.
Cũng trong năm 340, Mộ Dung Hoảng chính thức yêu cầu được ban cho tước hiệu Yên vương. Sau các tranh cãi kéo dài giữa các đại thần chủ chốt về việc liệu Mộ Dung Hoảng có còn là một chư hầu trung thành hay không, Thành Đế đã quyết định rằng yêu cầu này sẽ được thực hiện.
Vào mùa xuân năm 341, Đỗ Hoàng hậu mất. Thành Đế đã lập một hoàng hậu khác.
Cuối năm đó, Thành Đế lệnh rằng dân lánh nạn từ Hoa Bắc và Hoa Trung đã chạy về phía nam vào thời Hoài Đế và Mẫn Đế, phải đăng ký hộ tịch theo quận đang sống sống chứ không còn được giữ lại hộ tịch tại quận bản quán. Động thái này cho phép các quận địa phương có được nguồn nhân lực lớn hơn và giảm bớt sự dư thừa của các chính quyền địa phương..
Vào mùa hè năm 342, Thành Đế bị bệnh nặng. Ông có hai người con trai là Tư Mã Phi và Tư Mã Dịch, khi ấy vẫn còn trong nôi, với người thiếp Chu quý nhân. Dữu Băng sợ rằng nhà họ Dữu sẽ mất đi quyền lực nếu một vị hoàng đế trẻ được định nên đã thuyết phục Thành Đế rằng trong lúc Đông Tấn đang phải đối mặt với một Hậu Triệu có thế lực mạnh mẽ thì nên chỉ định một vị hoàng đế lớn tuổi hơn. Thành Đế đồng ý và chỉ định em trai mình, Tư Mã Nhạc làm người kế vị bất chấp phản đối từ Hà Sung. Thành Đế đã ban một chiếu thư ủy thác các con trai mình cho Dữu Băng, Hà Sung, Tư Mã Hi (司馬晞), Tư Mã Dục (cả hai đều là thúc phụ), và Gia Cát Khôi (諸葛恢). Sau đó ông qua đời và được truy thụy hiệu là Thành hoàng đế (成皇帝), miếu hiệu là Hiển Tổ (显祖. Người kế vị ông đúng như chỉ định là Nhạc vương. | 1 | null |
Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam.
Chính quyền trung ương.
Thời kỳ Hồng Bàng là thời kỳ đấu tranh hình thành bộ tộc và hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam. Hùng Vương (雄王) là tù trưởng bộ lạc Văn Lang, bộ lạc mạnh nhất trong cộng đồng người Lạc Việt. Hùng Vương lấy quốc hiệu là Văn Lang (文郎).
"Lĩnh Nam chích quái" (嶺南摭怪), quyển 1, "Hồng Bàng thị truyện" (鴻龐氏傳) ghi giới hạn lãnh thổ của nước Văn Lang như sau:
"Đại Việt sử ký toàn thư" (大越史記外紀全書) và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" (欽定越史通鑑綱目) chép tương tự, chỉ khác là gọi nước Hồ Tôn Tinh là nước Hồ Tôn (胡孫). "Đại Việt sử ký toàn thư" cho rằng Văn Lang thuộc địa phận Dương châu (楊州), một trong số chín châu của Trung Quốc thời Hạ, Chu, Thương.
Kinh đô của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" là Phong châu (峰州) thuộc bộ Văn Lang . "Việt sử lược" chỉ nói kinh đô nằm ở đất bộ lạc Văn Lang.
Sử sách ghi chép rất vắn tắt và không hệ thống về bộ máy chính quyền thời Hùng Vương. Các sử gia cùng chung nhận định là nhà nước Hùng Vương rất đơn sơ mang đậm dấu ấn bộ lạc-công xã. Theo “Lĩnh
Nam chích quái” thì Hùng vương “sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng; con trai vua gọi là Quan lang, con gái gọi là Mị nương, quan Hữu ty gọi là Bố chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tì, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi”.
"Đại Việt sử ký toàn thư" và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" chép tương tự, chỉ thay hai chữ "phụ đạo" 輔導 bằng 父道.
Các sử gia hiện đại cho rằng các sử gia thời Hậu Lê mô phỏng triều đình phong kiến Trung Quốc để mô tả nhà nước thời Hùng Vương, theo đó người đứng đầu phải là vương hoặc đế, danh hiệu Hùng Vương xuất phát từ "Khun" hay "Cun" trong tiếng Môn-Khmer để chỉ người thủ lĩnh bộ tộc. Lúc đó thực chất thời kỳ này chưa có chữ viết và chưa phân biệt văn võ, chưa định ra vương hầu. Chữ "Mỵ Nương" là phiên âm Hán Việt của chữ "mế, nàng" trong tiếng Mường (ngày nay vẫn dùng) để chỉ con gái nhà quyền quý. Quan lang là chữ "lang đạo" trong tiếng Mường; "phụ đạo" là chế độ "phìa" cha truyền con nối của người Mường.
Do chưa có chữ viết, công việc thực hiện và sự kiện chỉ có thể truyền miệng, nhưng vẫn có luật lệ quy định chung mà sau này Mã Viện (馬援) thời Đông Hán mô tả là "Luật Việt khác luật Hán hơn 10 việc" (越律與漢律駁者十餘事 "Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự") . Việt sử lược mô tả "chính sự dùng lối kết nút" (nguyên văn: 結繩為政 "kết thằng vi chính"), được các nhà nghiên cứu hiện nay xác nhận là việc dùng dây thắt nút để ghi nhớ sự việc, tương tự như những chuỗi dây ghi nhớ sự việc của đồng bào thiểu số Việt Nam hiện nay làm chứng thực cho ghi chép trên.
Cư dân trong phạm vi nước Văn Lang gồm có người Việt, người Mường, người Tày-Thái.
Sự nảy sinh hình thái nhà nước dù sơ khai, đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của lịch sử, xác nhận quá trình dựng nước thời Hùng Vương và đặt cơ sở cho sự ra đời của một loại hình cộng đồng tộc người mới: cộng đồng quốc gia, cộng đồng bộ tộc có ít nhiều tính dân tộc.
Các sử gia tổng kết sơ đồ chuyển hóa từ xã hội nguyên thủy tan rã sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ như sau:
! Hình thái
! Danh hiệu
Theo các sử gia, mối quan hệ chung trong cả nước vẫn mang nặng tính liên minh bộ lạc. Hùng Vương tương đương với ngôi vị "cun" (tộc trưởng) của bộ tộc mạnh nhất, các bộ tộc khác vẫn có "cun" riêng và phục tùng Hùng Vương bằng chế độ tiến cống và chỉ chịu sự chỉ huy khi có việc lớn. Lạc tướng và Lạc hầu là tộc trưởng của bộ lạc mình, giúp việc cho Hùng Vương khi có việc chứ không phải là quan chức theo biên chế thường trực ở bên cạnh vua.
Chính quyền địa phương.
Theo "Lĩnh Nam chích quái", quyển 1, "Hồng Bàng thị truyện" nước Văn Lang được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡) là:
Theo "Việt sử lược", quyển thượng, "Quốc sơ duyên cách" (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落):
Theo "Dư địa chí" (輿地誌) của Nguyễn Trãi, "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" thì nước Văn Lang được phân thành 15 bộ là:
Các nhà nghiên cứu, từ Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII tới thời hiện đại đều xác định rằng hầu hết tên các bộ của nước Văn Lang là "vay mượn các tên đời sau chép vào". Đại đa số các tên bộ lạc đều được sử sách lấy theo địa danh quận hoặc huyện từ thời Bắc thuộc lần 1 đến thời Bắc thuộc lần 3, như Đào Duy Anh chỉ ra từng tên khi liệt kê các bộ mà cổ sử đã ghi này: Giao Chỉ là tên quận Nhà Hán đặt, Việt Thường Thị là tên huyện thuộc quận Cửu Đức thời thuộc Ngô và huyện thuộc quận Nhật Nam thời thuộc Tùy, Vũ Ninh là huyện thuộc quận Giao Chỉ thời thuộc Đông Ngô, Quân Ninh là tên huyện thuộc Ái châu do Nhà Đường đặt, Gia Ninh là tên huyện thuộc Phong châu thời thuộc Đường, Ninh Hải là tên quận đặt thời thuộc Lương, Tân Xương là quận thời thuộc Tấn, Thang Tuyền là tên quận và huyện thời Đường thuộc Thang châu, Lục Hải tức Lục châu thời thuộc Đường, Cửu Chân là tên quận thời thuộc Hán, Nhật Nam cũng là tên quận thời thuộc Hán, Hoài Hoan là tên huyện thời Đường thuộc Hoan châu, Cửu Đức là tên quận thời thuộc Ngô vân vân.
Các nhà nghiên cứu cho rằng sở dĩ như vậy vì các sử gia thời cổ đại muốn cho nước Văn Lang trong truyền thuyết có nội dung cụ thể, chọn lấy một số tên với 2 mục đích vừa đủ số 15 bộ trong truyền thuyết và vừa trùm đủ địa bàn sinh sống của người Lạc Việt thời Hùng Vương.
Dân cư đương thời còn thưa thớt. Tổ chức chính quyền có 2 cấp: bộ lạc (mà đến thời thuộc Hán sau này trở thành huyện) và dưới bộ lạc là cộng đồng công xã nông thôn (kẻ, chạ, chiềng, mường), kết hợp quan hệ hàng xóm với quan hệ họ hàng. Một chiềng có thể cai quản nhiều bản. Đứng đầu công xã là Bồ Chính (được xác định là phiên âm Hán của từ Việt cổ, giống âm "Pó Chiêng" tiếng Tày-Thái, chiềng là bản lớn có thế lực cai quản những bản nhỏ, có nghĩa là "già làng"). Bên cạnh đó còn có Hội đồng công xã do các thành viên cử ra để giải quyết mọi việc ở địa phương.
Các sử gia hiện đại dẫn chứng một số địa danh còn thành tố "chiềng" phân bố trong không gian rộng lớn từ Bắc Việt Nam qua Bắc Lào tới Bắc Thái Lan. Những nơi có địa danh "Chiềng" mật độ lớn nhất là vùng Sơn La, ngay cả khu vực Hà Nội cũng có (Chiềng Lôi, Chiềng Tăng, Chiềng Vậy). Đỗ Văn Ninh đã thống kê được 80 địa danh ở Việt Nam, 35 địa danh Lào và 23 địa danh Thái Lan có thành tố "Chiềng". | 1 | null |
Cơ chế hoạt động.
Ở virut.
Nói chung, RT (enzyme phiên mã ngược) trước hết phải có một khuôn mẫu là RNA tương thích với nó.
Sơ đồ mô tả chi tiết hơn ở hình 4.
Ở nhân thực.
Sau khám phá vạch thời đại của bà Barbara McClintock, người ta đã phát hiện ra rằng phiên mã ngược không chỉ có ở virut và do virut gây ra, mà còn tồn tại một cách tự nhiên ở trong bộ gen của sinh vật nhân thực, trong đó có người. Hệ RT này góp phần quan trọng để tạo ra quá trình chuyển vị ngược gây tái tổ hợp không tương đồng, giúp sinh vật phong phú và đa dạng hơn. Xem chi tiết chuyên đề này ở trang Nhân tố chuyển vị ngược (retrotransposons).
Ngay cả quá trình hình thành cấu trúc cực kỳ quan trọng ở người cũng như rất nhiều loài sinh vật khác, gọi là cấu trúc đầu mút NST hay telomere, cũng cần có RT riêng gọi là telomerase.
Cơ chế hoạt động của các RT trong những trường hợp trên là rất phức tạp, không trình bày ở chuyên khảo này. Có thể tham khảo ở các trang Nhân tố chuyển vị ngược LTR, Gen nhảy v.v. | 1 | null |
Retrovirus là một loại virus RNA chèn một bản sao bộ gen của nó vào DNA của tế bào vật chủ mà nó xâm nhập, do đó thay đổi bộ gen của tế bào đó.
Khi chúng xâm nhập vào cơ thể thì có khả năng thực hiện quá trình phiên mã ngược nhờ enzim đặc biệt là enzyme phiên mã ngược - Reverse Transciptase.
DNA sau đó là kết hợp vào gen của vật chủ bởi một enzyme tích hợp. Vi rút này sau đó sao chép như là một phần của DNA của tế bào chủ. Retrovirus là vi rút bao bọc es thuộc về gia họ virus "Retroviridae".
Một biến thể đặc biệt của retrovirus retrovirus nội sinh được tích hợp vào bộ gen của vật chủ và di truyền qua nhiều thế hệ.
Cách thức phát triển.
Màng của retrovirus có glycoprotein, protein dùng để liên kết với thụ quan protein trên tế bào vật chủ. Có hai sợi của RNA bên trong tế bào, chứa 3 enzyme: protease, reverse transcriptase và integrase. Bước đầu của quá trình sao chép là sự liên kết của glycoprotein với thụ quan protein. Khi đã có liên kết với nhau, màng của retrovirus sẽ phân giải thành một bộ phận của tế bào chủ để sợi RNA và enzyme có thể xâm nhập tế bào. Trong tế bào, enzyme reverse transcriptase tạo một dây DNA phụ từ sợi RNA đã bị phân giải của retrovirus. Sợi DNA này được gọi là cDNA. Sau đó, cDNA làm khuôn để tổng hợp ra sợi DNA thứ hai bổ sung với nó (cDNA→DNA) để xâm nhập vào nhân tế bào chủ bằng enzyme integrase. Sợi cDNA này cũng có thể làm khuôn để tổng hợp trở lại bộ gene của virus (cDNA→RNA). Ribosome được dùng để sao chép mRNA của virus thành chuỗi amino acid để tạo protein trong màng lưới nội bào. Bước này cũng sẽ tạo enzyme và vỏ protein của virus. RNA của virus sẽ được hình thành trong nhân. Những mảnh này sau đó sẽ tập hợp lại và ra khỏi màng tế bào, trở thành một retrovirus mới. Cứ thế, retrovirus này lại tấn công vào các tế bào chủ khác.
Truyền nhiễm.
Retrovirus có thể lây truyền từ:
Tế bào sang tế bào
Dịch cơ thể
Không khí trong trường hợp của retrovirus Jaagsiekte gây bệnh ở cừu
Provirus.
Provirus được định nghĩa là đoạn DNA được hình thành sau phiên mã ngược. Đoạn mã DNA này dài hơn bộ gen RNA ban đầu bởi vì mỗi đoạn đầu và cuối của DNA có thêm trình tự U3 - R - U5 gọi tắt là chuỗi lặp đoạn cuối dài (LTR). Do đó, đầu 5' có thêm chuỗi lặp bắt đầu bằng đoạn U3, trong khi đầu 3' sẽ bắt đầu bằng đoạn U5. Các chuỗi lặp đoạn cuối dài này có thể gửi tín hiệu để giúp thực hiện các công việc quan trọng trong chu kỳ của virus như bắt đầu sản xuất RNA hoặc quản lý tốc độ phiên mã. Bằng cách này, chuỗi lặp đoạn cuối dài có thể kiểm soát sự sao chép và rộng hơn là toàn bộ tiến trình của chu kỳ virus. Mặc dù nằm trong nhân, DNA bổ sung (cDNA) của retrovirus khi chưa chèn vào DNA của vật chủ là một chất nền rất yếu nên các protein sẽ không tương tác được để bắt đầu quá trình phiên mã. Vì lý do này, một provirus tích hợp là cần thiết cho sự biểu hiện vĩnh viễn và hiệu quả của các gen retrovirus.
DNA trong dạng provirus có thể được tích hợp vào bộ gen vật chủ và được truyền cho các tế bào con. DNA của retrovirus được chèn một cách ngẫu nhiên vào bộ gen của vật chủ. Bởi vì điều này, nó có thể được chèn vào các gen sinh ung thư. Bằng cách này, một số retrovirus có thể chuyển đổi tế bào bình thường thành tế bào ung thư. Ngoài ra, một số provirus có khả năng ẩn trong tế bào vật chủ một thời gian dài trước khi được kích hoạt bởi sự thay đổi của môi trường tế bào.
Tầm quan trọng.
Việc phát hiện ra retrovirus có mang nhiều ý nghĩa vì tính chất lịch sử, kỹ thuật, và quan trọng nhất, cách sử dụng retrovirus để xử lý những vấn đề sức khỏe cộng đồng do chính nó gây ra.
Về tính chất lịch sử, qua nhiều nghiên cứu ban đầu về sinh học tế bào và phân tử, con người đã tìm ra DNA, RNA và protein. Sau đó, họ nhận thấy một khuynh hướng chung: DNA và RNA và protein. Lúc đó, người ta đã tin đây là quy luật, không thể đảo ngược.
Sau đó, retrovirus được phát hiện. Retrovirus đặc biệt ở chỗ nó có thể tạo DNA từ RNA, ngược lại so với những gì người thời ấy luôn tin tưởng. Họ đã nghi ngờ, nhưng những nghiên cứu sau đó đã chứng minh đây là thật.
Con người biết quá ít về retrovirus. Retrovirus càng trở nên nguy hiểm khi họ nhận ra rằng: nếu một cơ thể bị nhiễm virus này, retrovirus sẽ dùng bộ máy tế bào của vật chủ, khiến tế bào phân ra và tạo nên vô số bản sao virus. Virus này lại tiếp tục tấn công vào các tế bào khác của vật chủ, có thể dẫn đến tình trạng ung thư.
Để chống lại HIV, chúng ta thường dùng các phương pháp nhằm chống lại sự tạo thành DNA của retrovirus.
Retrovirus được nhắc đến nhiều trong công nghệ sinh học vì chúng ta muốn khai thác khả năng của nó. Những bệnh về gene ngày một nhiều, và nguyên nhân chính của chúng thường là một lỗi rất nhỏ trong DNA. Lỗi này có thể ngăn lại quá trình tổng hợp của một protein quan trọng, hoặc khiến protein hoạt động sai cách. Nếu chúng ta có thể thêm lại DNA đúng, khiến protein hoạt động bình thường, bệnh có thể được chữa khỏi. Điều này đòi hỏi sự khéo léo vì virus có thể dễ dàng vượt qua các sự bảo hộ mà ta đã dựng lên. Nhưng phương pháp này cũng có nhiều khả năng thành công, và rất nhiều người đang coi retrovirus như một phép chữa bệnh. Chúng ta biết được về retrovirus càng nhiều thì lại càng có thể chữa trị cho những người bị nhiễm chúng tốt hơn.
Tham khảo.
http://www.madsci.org/posts/archives/2001-12/1008703762.Vi.r.html
https://ghr.nlm.nih.gov/glossary=retrovirus
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK19382/ | 1 | null |
Yến đuôi nhọn Philippine (danh pháp hai phần: Mearnsia picina) là một loài chim thuộc họ Yến ("Apodidae").. Chúng là loài đặc hữu của Philippines. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới. Loài này đang trở nên hiếm do mất nơi sống. | 1 | null |
Đường chim bay là từ ngữ để chỉ khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm trên Trái Đất theo trắc địa trên mặt một hình cầu. Nói cách khác, đường chim bay là cách di chuyển theo hình một đường thẳng, tránh những đoạn gấp khúc mà làm cho đoạn đường đi dài hơn do vị trị trí địa lý. Khoảng cách đường chim bay hiểu một cách đơn giản là khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm A và B giả sử giữa A và B không có vật cản. Tên gọi khoảng cách đường chim bay xuất phát từ ý tưởng "con chim bay một mạch từ A đến B mà không phải rẽ vòng vào bất kì chỗ nào".
Lấy đường sắt Bắc Nam làm thí dụ thì từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội là 1726 km nhưng tính đường chim bay chỉ có 1140 km. | 1 | null |
Berat (, ) là một đô thị nằm tại hạt Berat, Albania. Đây là thành phố lớn thứ 9 của Albania xét theo dân số. Nó là thủ phủ của hạt Berat, một trong 12 đơn vị hành chính cấu thành lên đất nước. Bằng đường hàng không, nó cách về phía bắc Gjirokastra, về phía tây Korçë, về phía nam của Tirana và về phía đông của Fier.
Berat nằm ở phía nam của đất nước. Nó được bao quanh bởi núi và đồi, bao gồm cả dãy núi Tomorr ở phía đông đã được công nhận là một vườn quốc gia. Sông Osum chảy qua thành phố trước khi đổ vào sông Seman trong vùng đồng bằng Myzeqe. Đô thị Berat được hình thành vào cuộc cải cách chính quyền địa phương năm 2015 bằng cách sáp nhập các đô thị cũ Berat là Otllak, Roshnik, Sinjë, và Velabisht trở thành một thành phố. Tổng dân số là 60.031 người theo điều tra dân số năm 2011. trên tổng diện tích .
Berat được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 2008 cùng với trung tâm lịch sử của Gjirokastër được công nhận trước đó vào năm 2005. Berat mang phong cách kiến trúc độc đáo với những ảnh hưởng từ một số nền văn minh đã cùng tồn tại trong nhiều thế kỷ trong suốt lịch sử. Giống như nhiều thành phố ở Albania, Berat bao gồm một thành phố thành lũy lâu đời với những nhà thờ, thánh đường Hồi giáo có rất nhiều các bức tranh tường và bích họa có thể nhìn thấy được. Berat là một trong những trung tâm văn hóa chính của đất nước.
Tên nguyên.
Cái tên "Berát" có nguồn gốc từ thay đổi âm thanh trong tiếng Albania từ "Bělgrad" trong tiếng Slav Giáo hội cổ hoặc "Belgrád" / "Beligrad" (Белград / Белиград), có nghĩa là "Thành phố Trắng".
Nó được cho là địa điểm của thành phố cổ "Antipatreia" (, "Thành phố của Antipater") hoặc "Antipatrea" trong tiếng Latinh. Dưới thời kỳ đầu đế quốc Đông La Mã tên của thị trấn là "Pulcheriopolis" (Hy Lạp Trung Cổ: Πουλχεριόπολις, "Thành phố của Pulcheria"). Nó được ghi chép dưới cái tên "Belogradum", "Bellegradum" trong tiếng Latinh Trung Cổ, "Belgrad" trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, "Belgrado" trong tiếng Ý và "Βελλέγραδα, Bellegrada" trong tiếng Hy Lạp. Tại cộng hòa Venezia, nó được gọi là "Belgrado di Romania" (Rumelia Belgrade), trong khi đế quốc Ottoman gọi nó là "Belgrad-i Arnavud" ("Albania Belgrade") để phân biệt nó với Belgrad. | 1 | null |
Gjirokastër () (còn được gọi bằng nhiều tên khác như Gjirokastra) là một thành phố và đô thị ở miền nam Albania, trong một thung lũng giữa dãy núi Mali i Gjerë và sông Drino ở độ cao 300 mét so với mực nước biển. Phố cổ của nó được ghi vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO như là "một ví dụ hiếm có về một thị trấn được bảo quản tốt dưới thời Ottoman, được xây dựng bởi những người nông dân của vùng". Nhìn ra thành phố là pháo đài Gjirokastër, nơi tổ chức Lễ hội Văn hóa dân gian Quốc gia mỗi 5 năm một lần. Gjirokastër là nơi sinh của cựu lãnh đạo cộng sản Albania Enver Hoxha và nhà văn công chúng Ismail Kadare.
Thành phố xuất hiện trong các ghi chép lịch sử vào năm 1336 theo tên Hy Lạp của nó, Argyrokastro, là một phần của Đế quốc Đông La Mã. Nó trở thành một phần của giáo phận Cơ đốc giáo Chính thống Dryinoupolis và Argyrokastro sau khi Adrianoupolis gần đó bị phá hủy. Gjirokastër sau đó đã bị tranh giành giữa Chuyên chế quốc Ipeiros và gia tộc người Albania của Gjin Zenebishi trước khi chịu sự cai trị của Ottoman trong 5 thế kỷ tiếp theo (1417–1913). Trong suốt thời kỳ Ottoman, Gjirokastër chính thức được biết đến với tên trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman là "Ergiri" và "Ergiri Kasrı". Trong thời kỳ Ottoman, việc chuyển đổi sang Hồi giáo và một lượng lớn người Hồi giáo cải đạo từ các vùng nông thôn xung quanh đến đây đã khiến Gjirokastër từ một thành phố có lượng tín đồ Cơ đốc giáo áp đảo vào thế kỷ 16 trở thành một thành phố có đông người Hồi giáo vào đầu thế kỷ 19. Gjirokastër cũng trở thành một trung tâm tôn giáo chính của Hồi giáo Bektashi. Thành phố bị quân đội Hy Lạp đánh chiếm trong Các cuộc chiến tranh Balkan năm 1912–3 do lượng người Hy Lạp đông đảo ở đây. Cuối cùng nó đã được hợp nhất vào quốc gia mới độc lập của Albania vào năm 1913. Tuy vậy, điều này tỏ ra không được lòng người dân địa phương Hy Lạp, những người đã nổi dậy. Sau nhiều tháng chiến tranh du kích, Cộng hòa Tự trị Bắc Epirus tồn tại ngắn ngủi được thành lập vào năm 1914 với thủ đô là chính tại Gjirokastër. Nó hoàn toàn trở thành một phần của Albania vào năm 1921. Trong những năm gần đây, thành phố đã chứng kiến các cuộc biểu tình chống đối chính phủ dẫn đến cuộc Nội chiến Albania năm 1997.
Cùng với người Albania theo đạo Hồi và Chính thống giáo, thành phố cũng là nơi sinh sống của một số lượng đáng kể người Hy Lạp. Gjirokastër cùng với Saranda, được xem là một trong những trung tâm của cộng đồng Hy Lạp tại Albania và có một lãnh sự quán của Hy Lạp tại đây.
Tên nguyên.
Thành phố xuất hiện lần đầu tiên trong các ghi chép lịch sử dưới tên tiếng Hy Lạp Trung Cổ là "Argyrocastron" () bởi Ioannes VI Kantakouzenos vào năm 1336. Tên này xuất phát từ "ἀργυρόν" ("argyron") trong tiếng Hy Lạp Trung Cổ có nghĩa là "bạc", và "κάστρον" ("kastron") bắt nguồn từ "castrum" trong tiếng Latinh có nghĩa là "lâu đài" hoặc "pháo đài". Vậy "Argyrocastron" có nghĩa là "lâu đài bạc". Biên niên sử Đông La Mã cũng sử dụng tên tương tự "Argyropolyhni" có nghĩa là "khu phố bạc" (). Giả thuyết cho rằng, thành phố lấy theo tên của công chúa Argjiro, một nhân vật huyền thoại mà tác giả thế kỷ 19 Kostas Krystallis đã viết trong một cuốn tiểu thuyết ngắn, và Ismail Kadare đã viết trong một bài thơ vào những năm 1960, được coi là từ nguyên dân gian, bởi vì công chúa được biết đến là sống trong thế kỷ 15.
Tên tiếng Albania của thành phố là "Gjirokastra", trong khi trong tiếng Albania Gheg nó được gọi là "Gjinokastër", cả hai đều bắt nguồn từ tên Hy Lạp. Các cách viết khác được tìm thấy trong các nguồn tài liệu phương Tây bao gồm "Girokaster" và "Girokastra". Trong tiếng Aromania thành phố được gọi là "Ljurocastru; Iurucasta/Iurucast", trong tiếng Hy Lạp hiện đại nó được gọi là "Αργυρόκαστρο" ("Argyrokastro"). Trong thời kỳ Ottoman, nó được biết đến trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với cái tên "Ergiri".
Địa lý.
Đô thị hiện tại được hình thành vào cuộc cải cách chính quyền địa phương năm 2015 bằng cách sáp nhập các thành phố tự trị cũ là Antigonë, Cepo, Gjirokastër, Lazarat, Lunxhëri, Odrie và Picar để trở thành một thành phố. Trụ sở thành phố được đặt tại quận Gjirokastër. Tổng dân số năm 2011 là 28.673 người, trên tổng diện tích . Dân số của đô thị cũ năm 2011 là 19.836 người.
Gjirokastër nằm giữa vùng đất thấp phía tây Albania và vùng cao nguyên nằm bên sâu bên trong đất liền. Do đó, nó có khí hậu Địa Trung Hải với mùa hè nóng bức (là bình thường đối với Albania), lượng mưa lớn hơn nhiều so với mức bình thường của kiểu khí hậu này. | 1 | null |
Himara hay Himarë (từ , "Himarra") là một vùng và "bashki" song ngữ ở miền nam Albania, thuộc hạt Vlorë. Nơi đây nằm giữa dãy núi Ceraunia và biển Ionia và là một phần của Riviera Albania. Vùng này bao gồm thị trấn Himarë và các làng Dhërmi, Pilur, Kudhës, Qeparo, Vuno, Ilias, và Palasë.
Vùng Himara là nơi cư ngụ của cộng đồng người Hy Lạp. | 1 | null |
Àstrid Bergès-Frisbey (sinh ngày 26 tháng 5 năm 1986) là một diễn viên người Pháp gốc Tây Ban Nha. Cô được biết đến trong vai diễn Suzanne của bộ phim The Sea Wall và nàng người cá Syrena trong phim .
Cuộc đời và sự nghiệp.
Àstrid Bergès-Frisbey có bố là người Tây Ban Nha, còn mẹ cô là người Pháp gốc Mỹ. Gia đình cô chuyển đến Paris khi cô năm tuổi. Cô có thể nói tiếng Pháp, Catalan, Tây Ban Nha. Cô lần đầu diễn xuất vào năm 2007 trên kênh truyền hình Pháp và từ đó đã xuất hiện nhiều ở các bộ phim cùng với Isabelle Huppert, Vincent Perez, và Daniel Auteuil. Năm 2008, Àstrid Bergès-Frisbey ra mắt khán giả với bộ phim The Sea Wall. Cô bắt đầu làm người mẫu vào năm 2010 trong chiến dịch "Chanel Spring" của Pháp.
Àstrid Bergès-Frisbey xuất hiện lần đầu ở bộ phim tiếng Anh được mong chờ nhất năm 2011, Pirates of the Caribbean 4 trong vai Nàng tiên cá Syrena. Sau cuộc thử giọng ở Pháp, Hollywood và Anh, cô đã phải học tiếng Anh trong vai diễn này. Lúc quay phim này ở Hawaii, cô hạn chế đi ra ngoài vào ban ngày để da nhạt. | 1 | null |
Zagori (; ) là vùng, một đô thị và một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại vùng núi Pindus, vùng Ípeiros, tây bắc Hy Lạp. Trung tâm hành chính của đô thị nằm tại làng Asprangeloi.
Với diện tích khoảng 989,796 km2 và dân số khoảng 3.700 người, đô thị này bao gồm 46 ngôi làng được biết đến là các làng Zagori (Zagorochoria hoặc Zagorohoria), ranh giới của nó có dạng tam giác đều lộn ngược. Thủ phủ của vùng là thành phố Ioannina năm ở điểm phía nam của tam giác đó, trong khi phía tây nam là dãy núi Mitsikeli. Sông Aoös chảy về phía bắc của dãy núi Tymphe tạo thành ranh giới phía bắc, trong khi phía đông nam chạy dọc theo sông Varda đến núi Mavrovouni gần thị trấn Metsovo.
Địa lý.
Zagori là khu vực có vẻ đẹp tự nhiên tuyệt vời, với địa chất nổi bật được bảo vệ trong hai vườn quốc gia. Vườn quốc gia Vikos–Aoös bao gồm sông Aoös và hẻm núi Vikos dài 32 km. Trong khi vườn quốc gia Pindus bao phủ phần lớn của thung lũng Valia Calda nằm ở phía đông của núi Tymphe phủ đầy tuyết. Các ngôi làng ở Zagori được kết nối với nhau bằng những con đường núi và những cây cầu đá hình vòm truyền thống cho đến khi những con đường hiện đại được mở vào những năm 1950. Những cây cầu vòm bằng đá được xây dựng nhờ sự giúp đỡ của các thương gia nước ngoài vào thế kỷ 18 và thay thế những cây cầu gỗ cũ kỹ.
Lịch sử.
Khu vực này về mặt lịch sử rất khó tiếp cận do địa hình đồi núi, điều này có thể đã góp phần tạo nên nét độc đáo của nó. Người Sarakatsani sống ở khu vực này sử dụng một số từ ngữ Hy Lạp thuộc phương ngữ Bắc Hy Lạp không thường thấy trong tiếng Hy Lạp ở những nơi khác. Do đó, một số người coi họ là người bản địa của vùng.
Kiến trúc.
Về mặt lịch sử, tất cả các ngôi làng ở vùng Zagori đều được kết nối bằng hệ thống đường hoặc đường mòn nhỏ và chúng giống như một thực thể duy nhất hơn là giữa các cộng đồng riêng biệt.
Các ngôi làng được xây dựng xung quanh một quảng trường trung tâm, còn được gọi là "mesochori" (trung tâm làng) với một nhà thờ lớn, một cây huyền linh và một đài phun nước công cộng. Những con đường rải sỏi và lối đi bộ nối liền các phần còn lại của ngôi làng với trung tâm. Mỗi khu phố riêng lẻ lại có một nhà thờ nhỏ hơn.
Nhà thờ.
Hầu hết các nhà thờ ở Zagori đều có niên đại từ thế kỷ 17–18 trở đi, mặc dù một số nhà thờ cũ hơn vẫn tồn tại. Ở hầu hết các làng, nhà thờ chính bao gồm một vương cung thánh đường lớn được xây bằng đá với mái gỗ lợp đá phiến. Chúng được trang trí chủ yếu bởi các họa sĩ biểu tượng của vùng theo truyền thống nghệ thuật Byzantine. Lối vào nhà thờ có thể được bảo vệ bởi một hàng hiên mái vòm. Tháp chuông nhà thờ thường được tách rời khỏi nhà thờ.
Những ngôi nhà.
Những ngôi nhà cho đến thế kỷ 18 có hình chữ nhật đơn giản, thường chỉ có tầng trệt và các khu phụ ở tầng hầm được sử dụng làm chuồng ngựa. Quả thực, đây dường như là phong cách xây dựng các ngôi nhà ở khu vực của người Molossia được tìm thấy ở Vitsa. Những ngôi nhà được xây bằng đá địa phương và có mái làm bằng đá vôi hoặc sa thạch. Chúng được liên kết với nhau mà không cần xi măng, chỉ nhờ vào trọng lượng của những viên gạch phía trên. Do đó, mái nhà bằng đá cần được bảo trì liên tục để có thể chịu được tuyết rơi dày đặc trong những tháng mùa đông.
Những cây cầu.
Hơn 160 cây cầu hình vòm đã được xây dựng ở khu vực, nhiều cây cầu trong số đó vẫn đứng vững giúp người dân và du khách băng qua nhiều con sông và suối trong khu vực. Chúng hầu hết được xây dựng vào thế kỷ 18 và 19 bởi các thợ thủ công địa phương bằng cách sử dụng đá tại địa phương. Những cây cầu này thường có từ một đến ba vòm gọi là "kamares" trong tiếng Hy Lạp. Một trong những công trình mang tính biểu tượng nhất là cây cầu ba vòm Plakidas, còn được gọi là cầu Kalogeriko, gần làng Kipoi (Κἠποι) trong Vườn quốc gia Vikos–Aoös. | 1 | null |
Khay cáp tên tiếng Anh là "cable tray" hoặc "perforated cable tray", là hệ thống đỡ, lắp đặt các loại dây, cáp điện (có bọc cách điện).
Hệ thống khay cáp được dùng trong hệ thống dây, cáp điện trong các tòa nhà, xưởng sản xuất, chung cư...
Hệ thống khay cáp dùng để lắp đặt và bảo vệ các loại dây cáp phân phối điện hoặc dây cáp tín hiệu truyền thông.
Hệ thống khay cáp áp dụng cho việc quản lý cáp trong xây dựng thương mại và công nghiệp. Chúng đặc biệt hữu ích trong trường hợp thay đổi một hệ thống dây điện, vì dây cáp mới có thể được cài đặt bằng cách đặt chúng trong khay cáp thay vì lắp đặt thông qua một đường ống.
Vật liệu thường dùng làm khay cáp bao gồm: Thép sơn tĩnh điện, thép tấm mạ kẽm, thép mạ kẽm nhúng nóng, thép không rỉ (Inox), hợp kim nhôm hoặc composite.
Kích thước khay cáp:
Một số thuật ngữ khác.
Máng cáp.
Máng cáp tên tiếng Anh là "trunking" hoặc "solid bottom cable tray", là hệ thống đỡ, lắp đặt các loại dây, cáp điện (có bọc cách điện). Đôi khi máng cáp còn dùng để đỡ các đường ống nhằm tăng tính thẩm mỹ.
Hệ thống máng cáp được dùng trong hệ thống dây, cáp điện trong các tòa nhà, xưởng sản xuất, chung cư...
Hệ thống máng cáp dùng để lắp đặt và bảo vệ các loại dây cáp phân phối điện hoặc dây cáp tín hiệu truyền thông.
Hệ thống máng cáp áp dụng cho việc quản lý cáp trong xây dựng thương mại và công nghiệp. Chúng đặc biệt hữu ích trong trường hợp thay đổi một hệ thống dây điện, vì dây cáp mới có thể được cài đặt bằng cách đặt chúng trong máng cáp thay vì lắp đặt thông qua một đường ống.
Vật liệu thường dùng làm máng cáp bao gồm: Thép sơn tĩnh điện, thép tấm mạ kẽm, thép mạ kẽm nhúng nóng, thép không rỉ (Inox), hợp kim nhôm hoặc composite.
Kích thước máng cáp:
Thang cáp.
Thang cáp tên tiếng Anh là "cable ladder" hoặc "ladder type cable tray", là hệ thống đỡ, lắp đặt các loại dây, cáp điện (có bọc cách điện).
Hệ thống thang cáp được dùng trong hệ thống dây, cáp điện trong các tòa nhà, xưởng sản xuất, chung cư...
Hệ thống thang cáp dùng để lắp đặt và bảo vệ các loại dây cáp phân phối điện hoặc dây cáp tín hiệu truyền thông.
Hệ thống thang cáp áp dụng cho việc quản lý cáp trong xây dựng thương mại và công nghiệp. Chúng đặc biệt hữu ích trong trường hợp thay đổi một hệ thống dây điện, vì dây cáp mới có thể được cài đặt bằng cách đặt chúng trong thang cáp thay vì lắp đặt thông qua một đường ống.
Vật liệu thường dùng làm thang cáp bao gồm: Thép sơn tĩnh điện, thép tấm mạ kẽm, thép mạ kẽm nhúng nóng, thép không rỉ (Inox) hoặc hợp kim nhôm
Kích thước thang cáp: | 1 | null |
Đảo Đá là một đảo đá nhỏ thuộc nhóm đảo An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa. Đảo nằm trên cùng một bãi đá san hô với đảo Phú Lâm, cách Phú Lâm khoảng hơn 700 m về phía đông bắc. Nơi cao nhất của đảo Đá là 15,2 m (50 ft), cũng là nơi cao nhất Quần đảo Hoàng Sa.
Đảo Đá là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đảo này.
Trung Quốc đã xây dựng một trạm tình báo chuyên thu thập tín hiệu trên đảo Đá, đồng thời xây đường nối nơi này với đảo Phú Lâm. Phía bắc của đảo có một bến tàu được xây bằng bê tông; phía nam có một số ngôi nhà. Hiện nay Trung Quốc đã bồi đắp, xây dựng và Đảo Đá cùng với đảo Phú Lâm đã trở thành một đảo.
Đảo Đá và Bàn Than thạch.
Khi viết về việc xây Hoàng Sa Tự trên một đảo Hoàng Sa năm 1835 (một hành động thực thi chủ quyền của Nhà Nguyễn Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa), Đại Nam thực lục chép:
Chu vi đảo xây miếu thời Minh Mạng dài 1070 trượng là khoảng 5030 mét (một trượng khoảng 4,7 m), gần tương đương với quy mô của đảo Phú Lâm quần đảo Hoàng Sa nơi từng có Hoàng Sa Tự. Chu vi cồn đá san hô được gọi là "Bàn Than thạch" thời Minh Mạng khoảng 1600 mét (340 trượng), tương đương quy mô đảo Đá của quần đảo Hoàng Sa. Độ cao của Bàn Than thạch kề phía bắc cồn Bạch Sa theo Đại Nam thực lục 1 trượng 3 thước (13 thước) tức là khoảng 6,1 m. Độ cao của đảo Đá, nằm sát gần đảo Phú Lâm cách 700m về phía bắc đông bắc, là 15,2 m (tức 50 ft). Bàn Than thạch ngày nay được Việt Nam lấy tên gọi Bàn Than để đặt cho một cồn cát thuộc thuộc cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa, gọi là "bãi Bàn Than", nằm gần đảo Ba Bình (khoảng giữa đảo này với đảo Sơn Ca), nằm về phía đông đảo Ba Bình và với khoảng cách xa hơn nhiều khoảng cách đảo Đá với đảo Phú Lâm. | 1 | null |
Chào mào khoang cổ (danh pháp hai phần: Spizixos semitorques) là một loài chim thuộc họ Chào mào. Nó được tìm thấy ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam. Loài chim này ưa thích rừng đồi ở độ cao vừa phải. Chủ yếu là ăn trái cây, chào mào khoang cổ cũng ăn hạt và côn trùng. Chúng thường chỉ sống theo chế độ một vợ một chồng, con cái xây dựng tổ trên cây và đẻ trứng. | 1 | null |
Tuyến hỏa xa ngầm hay Đường sắt ngầm (tiếng Anh: "Underground Railroad") là một mạng lưới đường trốn và ngôi nhà an toàn bí mật được sử dụng bởi các nô lệ gốc Phi tại Hoa Kỳ để chạy trốn tới các tiểu bang tự do và Canada nhờ sự giúp đỡ của những người theo chủ nghĩa bãi nô và những người thông cảm. Thuật ngữ này cũng chỉ đến những người theo chủ nghĩa bãi nô, cả Mỹ da trắng và da đen, cả người tự do và nô lệ, mà đều giúp đỡ những người lánh nạn. Các tuyến khác dẫn đến México hoặc hải ngoại. Tuy một "tuyến hỏa xa ngầm" chạy về phía nam đến Florida, hồi đó là một lãnh thổ Tây Ban Nha, từ cuối thế kỷ 17 cho đến ngay sau Cách mạng Mỹ, nhưng mạng lưới hiện nay thường được gọi là Tuyến hỏa xa ngầm được sáng lập vào đầu thế kỷ 19 và đạt tới đỉnh cao nhất từ 1850 đến 1860. Có ước lượng rằng, vào năm 1850, 100.000 nô lệ đã chạy trốn trên "đường sắt" này. Bắc Mỹ thuộc Anh, một khu vực cấm chế độ nô lệ, là một nơi chốn cuối cùng của nhiều người, tại vì có nhiều nơi băng qua biên giới dài. Theo chuyện kể, hơn 30.000 người chạy tới đấy trên mạng lưới trong thời kỳ 20 năm thông dụng nhất, nhưng thống kê từ Điều tra dân số Hoa Kỳ chỉ đếm 6.000 người. | 1 | null |
Núi Sinai ( "Har Sīnay"; Aramaic: ܛܘܪܐ ܕܣܝܢܝ "Ṭūrāʾ dəSīnăy") còn được biết đến là Jabal Musa ( nghĩa là "Núi của Moses" là một ngọn núi nằm tại Bán đảo Sinai của Ai Cập. Đây là một trong một số địa điểm được cho là Núi Sinai trong Kinh Thánh, nơi mà theo theo Cựu Ước, Kinh Thánh và Kinh Qur'an, Moses tiếp nhận Mười Điều Răn.
Núi Sinai cao nằm gần thành phố Saint Catherine, trong khu vực ngày nay được gọi là Bán đảo Sinai. Nó được bao quanh tứ phía bởi các đỉnh núi cao hơn trong dãy núi mà nó là một phần. Cạnh đó là Núi Catherine, ở độ cao , là đỉnh cao nhất ở Ai Cập.
Địa chất.
Địa chất của nó hình thành trong giai đoạn cuối của quá trình kiến tạo Vách chắn Ả Rập-Nubia. Ngọn núi là một tổ hợp đài vòng gồm đá granit kiềm xâm lấn vào nhiều loại đá khác, trong đó có cả đá núi lửa. Đá granit có thành phần là Syenogranit cho đến Felspat kiềm.
Ý nghĩa trong tôn giáo.
Do Thái giáo và Kitô giáo.
Ngay phía bắc ngọn núi là Tu viện Thánh Catarina có từ thế kỷ thứ 6. Đỉnh núi có một Nhà thờ Hồi giáo vẫn còn được sử dụng và một Nhà thờ Chính thống giáo Hy Lạp được xây dựng vào năm 1934 trên tàn tích của một nhà thờ thế kỷ 16, hiện không mở cửa cho công chúng. Nhà nguyện bao quanh tảng đá được coi là nguồn gốc của Các tấm bia Lề luật trong Kinh Thánh. Trên đỉnh còn có "hang động của Moses", được cho là nơi mà Moses đã nhận Mười Điều Răn.
Hồi giáo.
Ngọn núi gắn liền với nhà tiên tri Musa. Đặc biệt, có nhiều tài liệu tham khảo về Jabal Musa trong Kinh Qur'an, trong đó nó được gọi là "Ṭūr Saināʾ", "Ṭūr Sīnīn", "aṭ-Ṭūr" và "al-Jabal" (cả hai đều có nghĩa là "núi"). Còn đối với "Wād Ṭuwā" (Thung lũng của Tuwa) liền kề, nó được coi là "muqaddas" (linh thiêng), và một phần của nó được gọi là "Al-Buqʿah Al-Mubārakah" ("Nơi may mắn"). Đó là nơi Musa nói chuyện với Thượng Đế. | 1 | null |
When the Sun Goes Down là album phòng thu thứ ba của ban nhạc Mỹ Selena Gomez & the Scene, phát hành vào 28 tháng 6 năm 2011 bởi hãng đĩa Hollywood.
Đĩa đơn.
Đĩa đơn chính thức.
Đĩa đơn mở đường cho album là, "Who Says" được đồng sáng tác và sản xuất bởi Emanuel Kiriakou, Priscilla Hamilton và được phát hành vào ngày 14 tháng 3 năm 2011. Ca khúc đã được ủng hộ và đánh giá tích cực từ hầu hết các nhà phê bình âm nhạc khi ca ngợi về bản lĩnh của con người trong cuộc sống. Bill Lamb của trang About.com đã đánh giá bài hát là "Bản hit lớn nhất của một trong những ca sĩ Disney trong những năm gần đây." Bài hát đã đạt được nhiều thành công khi ra mắt tại vị trí thứ 24 và đạt đỉnh ở vị trí thứ 21 tại bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, bán được hơn 1 triệu bản tại Hoa Kỳ và đã được chứng nhận đĩa bạch kim bởi RIAA.. "Who Says" cũng đạt được vị trí 17 ở Canada và 15 tại New Zealand. Đây cũng là đĩa đơn thành công nhất của nhóm tại hai quốc gia này. Ca khúc cũng đã lọt vào top 50 bài hát hay nhất ở Đức và ở Ireland và xuất hiện trong các bản xếp hạnh danh giá ở Anh, Bỉ, Úc, Áo, Thái Lan và cả Việt Nam. Ngày 17 tháng 6, "Love You Like a Love Song", đĩa đơn thứ hai nằm trong album được phát hành.. Gomez cũng đã bắt đầu quay video âm nhạc cho đĩa đơn tiếp theo là "Hit the Lights" trong tháng 9 năm 2011. Video được công chiếu vào tháng 11 năm 2011. Ca khúc đã đạt vị trí 30 bảng xếp hạng hàng đầu tại Bỉ và ra mắt ở vị trí thứ 93 tại Canadian Hot 100. Ngày 29 tháng 5 năm 2012, nhiều tin đồn cho rằng, "My Dilemma" sẽ được Selena Gomez chọn làm đĩa đơn thứ 4, bài hát hiện tại vẫn chưa được chính thức công bố ngày phát hành.
Đĩa đơn quảng bá.
Để chuẩn bị việc phát hành album, hãng thu âm của ban nhạc đã quyết định phát hành hai đĩa đơn quảng bá. Ngày 07 tháng 6 năm 2011, iTunes đã phát hành một vài ca khúc để quảng cáo cho album. Bắt đầu với "Bang Bang Bang" đạt vị trí 94 trong bảng xếp hạng"Billboard" Hot 100, tiếp theo là "Dices", phiên bản tiếng Tây Ban Nha của "Who Says". "Whiplash" cũng đã được chọn là đĩa đơn tiếp theo.
Tiếp nhận.
Các ý kiến.
Metacritic cho album một điểm số 64/100 dựa trên 6 ý kiến. Cho đến nay, album đã nhận được nhiều đánh giá khác nhau. Mikael Wood từ "Entertainment Weekly" viết: "Giọng hát của Selena Gomez có nhiều tiến bộ hơn trong các ca khúc disco điện tử như "Bang Bang Bang" hay "Whiplash", đồng sáng tác bởi Britney Spears. Bill Lamb từ trang About.com đã bình luận rằng: " Đây là một trong những giai điệu pop thông minh, một electropop có khởi sắc, và tràn đầy cảm xúc. Đây là album có giọng hát tốt nhất của Selena Gomez.". Jody Rosen từ "Rolling Stone" đã viết, "Gomez có thể là một ca sĩ chán nhất trong thế hệ của mình. Cô ấy làm cho Ashley Tisdale dường như giống Lady Gaga."
Thương mại.
"When the Sun Goes Down" đã được phát hành vào ngày 28 Tháng Sáu năm 2011. Trong tuần 4 tháng 7 năm 2011, album đã ra mắt ở vị trí #4 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 với doanh số bán ra cao nhất của ban nhạc từ trước đến nay, với 78.000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên. Tuần tiếp theo, album tăng số lên vị trí thứ 3, làm cho nó trở thành album biểu đồ cao nhất của ban nhạc. Tại Canada, album ra mắt ở vị trí #2 trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart, bán được 9.000 bản trong tuần đầu tiên của nó. Album đã ra mắt tại Tây Ban Nha ở vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Spanish Albums Chart.. Album đạt vị trí đó trong ba tuần, trong tuần đầu tiên, tuần thứ năm và thứ sáu trên bảng xếp hạng. Tại Bỉ, album ra mắt ở vị trí số 21 trên bảng xếp hạng Belgian Albums Chart và nhảy vọt lên vị trí cao nhất là thứ 6. Album ra mắt và đạt vị trí thứ 6 ở Mexico. Album ra mắt ở vị trí trong số 16 Na Uy và đã tăng lên vị trí cao nhất là thứ 6 trong tuần lễ thứ tám. Trong tháng 11 năm 2011., album tăng doanh số bán hàng đến 248% doanh số bán hàng thường xuyên của nó và đã bán được 500.000 bản tại Mỹ và đã được chính thức xác nhận vàng bởi RIAA vào 17 tháng 11 năm 2011. | 1 | null |
Mắm ba khía, là loại mắm được làm chủ yếu từ con ba khía (một loài họ cua có càng to, đặc trưng ở vùng Nam bộ, sống tập trung ở vùng nước lợ, mặn, trải từ Cần Thơ đến Sóc Trăng, Cà Mau, nhiều nhất ở U Minh. Do có ba gạch ở trên lưng nên được đặt tên ba khía).
Chuẩn bị.
Mỗi năm ba khía chỉ "hội" (tập trung) một lần vào 3-4 đêm của tháng 10,vào mùa nước lên, khi những hang dày đặc của chúng dưới gốc đước, gốc mắm bị chìm trong nước, ba khía phải leo lên những rễ cây để trú ẩn và giao phối. Để bắt ba khía người dân Nam bộ phải ngủ rừng, ăn cơm bờ bụi, chịu đựng môi trường khắc nghiệt nhiều đỉa, vắt, muỗi... Đi “làm ba khía” được xem là "nghề hạ bạc của con nhà nghèo".
Phương pháp chung bảo quản.
Ba khía bắt về rửa sạch bùn đất, thả từng “trự” vào nồi hoặc lu có chứa sẵn nước muối.Chất lượng của ba khía sau này phụ thuộc độ mặn của nước muối(lạt quá ba khía hư, mặn quá ba khía sẽ rụng càng, đen da, chát thịt, nếu lẫn nước mưa thì sẽ trở mùi). Công đoạn này đòi hỏi nhiều kỹ thuật và kinh nghiệm. Sau đó lấy lá dừa nước phủ lên. Ba khía làm “tới” có thể để cả năm không hư hỏng..Phần nước muối còn lại trong khạp sau khi bảo quản ba khía có thể dùng nấu nước mắm rất ngon.
Thực hiện.
Ba khía rửa sạch bằng nước sôi, tách mai, đập dập sơ hai càng.
Thêm tỏi, ớt, chanh, đường cát trắng vào rồi cho khóm bằm nhỏ, xoài xắt sợi, khế vừa chín tới xắt nhỏ, trái cóc đập dập.
Trộn đều tất cả với ba khía, để đó cho thấm qua ngày thì ăn được.
Thưởng thức.
Ba khía thường ăn với cơm như các món mắm Việt Nam khác, phần nước trộn giàu đạm có thể dùng làm nước chấm.
Hương vị của mắm ba khía: "thơm mùi đặc trưng khác với những loại mắm tôi từng ăn, càng ba khía mập mạp đỏ au, cắn vỡ ra để lộ những miếng thịt mằn mặn hơi giống thịt cua muối, ăn kèm khế chua chua, gừng cay nồng và những gia vị, rau thơm khác làm vị giác kích thích dễ sợ."
Văn học.
Tháng bảy nước chảy Cà Mau
Tháng mười ba khía, hội kéo nhau đi làm
U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm
Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi
Xem thêm.
http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/314522/Chuyen-mam-ba-khia-o-London.html | 1 | null |
Cảnh Đan (chữ Hán: 景丹, ? - 26), tên tự là Tôn Khanh, người Lịch Dương, Phùng Dực, là tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng.
Sự nghiệp.
Nhà Tân dựa vào "Tứ khoa" (tức là Đức hạnh, Ngôn ngữ, Chánh sự và Văn học) để tuyển chọn nhân tài, Đan nhờ "Ngôn ngữ" mà được làm Cố Đức hầu (quốc) tướng, có tiếng là tài năng. Sau đó được thăng làm Sóc Điều liên soái phó nhị .
Canh Thủy đế lên ngôi (23), sai sứ đến Thượng Cốc, liên soái Cảnh Huống hàng, Đan được làm Thượng Cốc trưởng sử. Sau đó, Huống cùng bọn Đan lại quy thuận Lưu Tú. Ông được làm Thiên tướng quân, phong Phụng Nghĩa hầu. Đan lĩnh kỵ binh Ô Hoàn tinh nhuệ, trong thời gian đánh dẹp Vương Lang, bình định Hà Bắc lập được rất nhiều chiến công.
Hán Quang Vũ Đế lên ngôi (25), mượn lời sấm lấy Tôn Hàm làm Đại tư mã, các tướng đều không phục. Đế cho phép họ đề cử, Cảnh Đan và Ngô Hán được nêu tên. Đế cho rằng công lao của 2 người ngang nhau, nên lấy Hán làm Đại tư mã, Đan làm Phiêu kỵ đại tướng quân.
Năm sau (26), được phong Lịch Dương hầu. Mùa thu, cùng bọn Ngô Hán, Kiến uy đại tướng quân Cảnh Yểm, Kiến nghĩa đại tướng quân Chu Hỗ, Chấp kim ngô Giả Phục, Thiên tướng quân Phùng Dị, Cường nỗ tướng quân Trần Tuấn, Tả tào Vương Thường, Kị đô úy Tang Cung đánh dẹp quân nông dân Ngũ Hiệu ở Hà Nam, thu hàng 5 vạn người.
Bấy giờ, Tô Huống công phá Hoằng Nông, bắt sống Quận thú, áp sát Lạc Dương. Đan đang bệnh, nhưng Đế cho rằng ông là tướng cũ, ngay trong đêm gọi vào, sai đi gấp. Đan không dám từ chối, ôm bệnh đến quận, được mười mấy ngày thì mất. Con là Thượng kế tự. | 1 | null |
Bọ chân chạy là một họ bọ cánh cứng phân bố trên toàn cầu, có hơn 40.000 loài trên khắp thế giới với khoảng 2000 loài được tìm thấy ở Bắc Mỹ và 2700 loài ở châu Âu.
Phân họ và các chi chọn lọc.
Họ chân chạy cơ bản.
Carabinae – gồm cả Agoninae và Callistinae
Cicindelinae – bọ hổ (khoảng 2100 loài; đôi khi bao gồm trong Carabidae)
Cicindinae
Elaphrinae
Hiletinae
Loricerinae
Migadopinae
Nebriinae (gồm có Notiophilinae, thường bao gồm trong Carabinae)
Nototylinae
Omophroninae – bọ cát tròn
Paussinae – bọ tổ kiến, bọ phá thủ pích
Promecognathinae
Scaritinae – bọ cánh cứng mặt đất cuống
Siagoninae
Carabidae Conjunctae.
Amblytelinae </ref>
Apotominae
Brachininae
Broscinae
Harpalinae – gồm có Chlaeniinae, Cyclosominae, Dryptinae, Lebiinae, Licininae, Mormolycinae, Odacanthinae, Oodinae, Panagaeinae, Perigoninae, Platyninae, Pseudomorphinae, Pterostichinae, Zabrinae (hơn 20.000 loài)
Melaeninae
Psydrinae
Trechinae – gồm cả Bembidiinae, Patrobinae
Tribes "incertae sedis" | 1 | null |
Đá Chim Én là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa. Đá này cách đá Lồi 9,7 hải lý (18 km) về phía đông bắc và cách đảo Quang Hòa 16,2 hải lý (30 km) về phía đông nam.
Đá Chim Én là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đá này.
Ngày 24 tháng 6 năm 2012, tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) quyết định thành lập bốn khu bảo tồn "di sản văn vật dưới nước" tại quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đá Chim Én. | 1 | null |
Đá Bắc hoặc bãi đá Bắc là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa. Đá Bắc nằm cách đảo Hoàng Sa thuộc khu trung tâm nhóm Lưỡi Liềm khoảng 32,6 hải lý (60,4 km), cách đảo Phú Lâm thuộc khu trung tâm nhóm An Vĩnh khoảng 47 hải lý (87 km), cách bãi Ốc Tai Voi ở cực nam 91,8 hải lý (170 km) và là điểm cực bắc của cả quần đảo.
Đá Bắc là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện Trung Quốc đang kiểm soát đá này.
Ngày 24 tháng 6 năm 2012, tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) quyết định thành lập bốn khu bảo tồn "di sản văn vật dưới nước" tại quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đá Bắc.
Tháng 11 năm 2014, thành phố Đà Nẵng lấy tên đá Bắc của quần đảo Hoàng Sa để đặt tên cho một con đường dài 640 m, rộng 10,5 m nối từ đường Lê Văn Hiến với đường Chương Dương, gọi là đường Đảo Đá Bắc thuộc phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng. | 1 | null |
Đá Lồi (tiếng Anh: "Discovery Reef"; , Hán-Việt: "Hoa Quang tiêu") là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm, quần đảo Hoàng Sa. Đá này nằm cách đảo Quang Hoà thuộc khu trung tâm nhóm Lưỡi Liềm khoảng 14 hải lý (26 km) về phía nam. Đây được xem là rạn san hô lớn nhất quần đảo Hoàng Sa.
Đá Lồi là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đá này.
Đặc điểm.
Rạn san hô đá Lồi thon dài, khá dốc và có nhiều vùng nước xoáy xung quanh. Chiều dài tính từ đông sang tây khoảng 15,5 hải lý (28,7 km), tính từ bắc xuống nam khoảng 3,8 hải lý (7 km). Hầu hết đá Lồi chìm dưới 3,7 m nước biển và chỉ có vài hòn đá nổi lên. Tàu thuyền có thể theo các lạch nước ở mặt bắc và nam để vào vụng biển ở giữa. Giáo sư Sơn Hồng Đức miêu tả "đầm nước lặng" (vụng biển) của đá Lồi như sau:
Ở phía nam của đá Lồi, người ta đã tìm thấy một xác tàu đổ bộ tầm trung bị đắm của Pháp.
Ngày 24 tháng 6 năm 2012, tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) quyết định thành lập bốn khu bảo tồn "di sản văn vật dưới nước" tại quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đá Lồi. | 1 | null |
Đá Bông Bay (tiếng Anh: "Bombay Reef"; , Hán-Việt: "Lãng Hoa tiêu") là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo An Vĩnh của quần đảo Hoàng Sa. Đá này nằm ở góc đông nam của quần đảo, cách đảo Phú Lâm thuộc khu trung tâm nhóm An Vĩnh gần 46,7 hải lý (86,5 km) về phía nam đông nam và cách đảo Quang Hòa thuộc khu trung tâm nhóm Lưỡi Liềm khoảng 48,6 hải lý (90 km) về phía đông nam.
Đá Bông Bay là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đá này.
Đặc điểm.
Rạn san hô đá Bông Bay có dáng thon dài, đa phần chìm dưới nước. Chiều dài tính từ đông sang tây khoảng 10 hải lý (18,5 km)..
Lịch sử.
Năm 1929, phái đoàn Perrier-Rouville của Pháp từng đề xuất kế hoạch xây dựng một ngọn đèn biển tại đá Bông Bay. Sau Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, Trung Quốc giành quyền kiểm soát đá Bông Bay.
Năm 1980, Trung Quốc xây dựng một hải đăng cao 22,5 m trên đá Bông Bay. Khoảng giữa năm 2018, Trung Quốc xây dựng thêm một cấu trúc dài 27 m và rộng 12 m có gắn các tấm pin năng lượng mặt trời. | 1 | null |
Núi Bát Phúc là ngọn đồi ở phía bắc Israel, nơi Chúa Giêsu có loạt Bài giảng trên núi mà trọng tâm là bài Tám mối phúc thật (bát phúc).
Dựa vào các nguồn tư liệu Tân Ước, vị trí núi Bát Phúc được cho là trên bờ tây bắc của biển hồ Galilee, giữa Capernaum và Gennesaret. Tuy vậy, không thể xác định chính xác vị trí thực sự mà Giêsu đã giảng về tám mối phúc, nhưng khu vực hiện tại (còn được gọi là núi Eremos) đã có niên đại xác định hơn 1600 năm. Gần đây có một nhà thờ Byzantine được xây dựng vào thế kỷ thứ 4, và đã được sử dụng cho đến thế kỷ thứ 7 mà phế tích còn lại chỉ là một bể nước và một tu viện, Giáo hội Công giáo Rôma thì còn một nhà nguyện Dòng Phanxicô được xây dựng vào năm 1938. | 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 76 (tiếng Anh: "Interstate 76" hay viết tắt là I-76) là một xa lộ liên tiểu bang tại Hoa Kỳ với tổng chiều dài là 435 dặm (700 km) từ nút giao thông khác mức với Xa lộ Liên tiểu bang 71 ở phía tây thành phố Akron, Ohio, đi về phía đông đến Xa lộ Liên tiểu bang 295 gần thành phố Camden, New Jersey.
Ngay phí tây Youngstown, I-76 nhập vào Xa lộ thu phí Ohio và đi quanh rìa phía nam của Youngstown. Tại Pennsylvania, I-76 gần như chạy băng qua phần lớn tiểu bang trên Xa lộ thu phí Pennsylvania, đi qua gần thành phố Pittsburgh và thành phố Harrisburg trước khi rời xa lộ thu phí đi vào thành phố Philadelphia trên Xa lộ cao tốc Schuylkill, vượt qua Cầu Walt Whitman đi vào tiểu bang New Jersey. Sau khi Xa lộ Liên tiểu bang 76 đến điểm đầu phía đông, xa lộ được tiếp nối bởi Xa lộ 42 và Xa lộ cao tốc Atlantic City đến Atlantic City.
Mô tả xa lộ.
Ohio.
I-76 bắt đầu tại đường dẫn từ I-71 đi hướng bắc; nó nhập với Quốc lộ Hoa Kỳ 224 tại dặm 0,61. Sau khi đi qua Quận Medina nông thôn, I-76 vào Quận Summit và chẳng bao lâu sau đó băng ngang Xa lộ Tiểu bang 21 (cựu Quốc lộ Hoa Kỳ 21), trước đây là xa lộ bắc-nam chính đi qua khu vực này cho đến bị thay thế bởi Xa lộ Liên tiểu bang 77. Sau đó, I-76 đi qua Barberton và vào Akron; đoạn đường này từng được xây như là Quốc lộ Hoa Kỳ 224.
Ngay sau khi vào Akron, I-76 ra khỏi xa lộ cao tốc chính lúc đó vẫn tiếp tục như Xa lộ Liên tiểu bang 277. I-76 đi vào Xa lộ cao tốc Kenmore ngắn. Quốc lộ Hoa Kỳ 224 cũng rời I-76 tại đó và tiếp tục đi về hướng đông như con lộ bình thường sau khi I-277 kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 77. Chẳng bao lâu sau khi hướng lên phía bắc từ nút giao thông lập thể của I-277, I-76 gặp lại I-77 và lại quay về hướng đông, nhập vào I-77 chiều đi hướng nam qua phố chính thành phố Akron trên Xa lộ cao tốc West. Một nút giao thông bán lập thể tạo lối đi đến Xa lộ Tiểu bang 59 và rồi sau đó I-76 băng qua Nút giao thông lập thể Trung tâm là nơi I-77 đi về phía nam và Xa lộ Tiểu bang 8 bắt đầu đi lên hướng bắc; I-76 đổi đường từ Xa lộ cao tốc West đến Xa lộ cao tốc East.
Rời khu vực Akron, I-76 lần nữa đi qua các vùng nông thôn, băng qua Quận Portage và vào Quận Mahoning. Ở phía tây Youngstown, xa lộ cao tốc băng Xa lộ thu phí Ohio. I-76 chính thức chuyển đường vào xa lộ thu phí này sau khi đi qua một cầu vượt bên trên. Điều này tương tự xảy ra đối với Xa lộ Liên tiểu bang 80 (chiều hướng đông đi đến Youngstown và chiều đi hướng tây nằm trên Xa lộ thu phí).
Xa lộ thu phí Ohio mang xa lộ I-76 bắt đầu từ quanh Youngstown, Ohio cho đến ranh giới tiểu bang Pennsylvania.
Pennsylvania.
Từ ranh giới tiểu bang Ohio, Xa lộ thu phí Pennsylvania mang I-76 vào và qua phần lớn tiểu bang Pennsylvania, đi tránh khỏi các thành phố lớn - Youngstown ở phía nam, Pittsburgh ở phía bắc và Harrisburg ở phía nam. Có thời gian trong thập niên 1970, I-76 được đặt chạy qua thành phố Pittsburgh trên tuyến đường mà bây giờ cắm biển là Xa lộ Liên tiểu bang 376.
Tại Thung lũng Forge ở phía tây bắc Philadelphia, I-76 rời Xa lộ thu phí để chạy vào Philadelphia trên Xa lộ cao tốc Schuylkill. Ngay khi rời xa lộ thu phí, I-76 đổi đường với Quốc lộ Hoa Kỳ 202 và Quốc lộ Hoa Kỳ 422, và sau đó băng ngang Xa lộ Liên tiểu bang 476 và bắt đầu chạy dọc bờ tây nam của Sông Schuylkill. Các nút giao thông lập thể cung cấp lối đến Xa lộ cao tốc Roosevelt (Quốc lộ Hoa Kỳ 1) và Xa lộ cao tốc Phố Vine (Xa lộ Liên tiểu bang 676); xa lộ cuối chạy qua phố chính thành phố Philadelphia trong khi đó I-76 đi tránh đến phía nam.
Nút giao thông lập thể cuối cùng, trước Cầu Walt Whitman bắt qua Sông Delaware vào trong tiểu bang New Jersey, là với Xa lộ Liên tiểu bang 95. Một số đường dẫn có đèn giao thông vì các đường dẫn đến I-95 được tái chỉnh sửa thành nút giao thông hiện tại khi I-95 được xây dựng. Trạm thu phí cầu nằm ở phía tây chỗ hai xa lộ giao cắt nhau.
New Jersey.
Ngay sau khi qua Sông Delaware bằng Cầu Walt Whitman, I-76 quay về hướng nam và trở thành Xa lộ cao tốc North-South mang theo Xa lộ Liên tiểu bang 676 về hướng bắc đến phố chính thành phố Camden; xa lộ nối không biển dấu 76C chạy về hướng đông đến Quốc lộ Hoa Kỳ 130 và Xa lộ 168. Số lối ra tại New Jersey là theo chiều ngược lại từ đông sang tây.
Từ nút giao thông lập thể với I-676 đến điểm cuối phía đông, ban đầu I-76 có các làn xe cao tốc và địa phương (có phân cách giữa cao tốc và địa phương) trong cả hai chiều nhưng dải phân cách chiều đi hướng đông kể từ đó bị dẹp bỏ, và hiện nay chỉ có dải phân cách cho chiều đi hướng tây mà thôi. Tuy nhiên, dải phân cách các làn xe đi chiều hướng tây cũng có thể bị dẹp bỏ trong tương lại vì có các kế hoạch tái xây dựng Nút giao thông I-295, I-76, và xa lộ 42. I-76 kết thúc tại nút giao thông lập thể với Xa lộ Liên tiểu bang 295 trên ranh giới thị trấn Mount Ephraim/Bellmawr là nơi các làn xe địa phương và cao tốc tách biệt bắt đầu theo chiều đi hướng tây. Xa lộ 42 tiếp tục hướng nam trên Xa lộ cao tốc North-South, đi vào trong Xa lộ cao tốc Atlantic City đến Atlantic City. | 1 | null |
Josephine Baker (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1906 - mất ngày 12 tháng 4 năm 1975 tại St Louis, Missouri, Hoa Kỳ) là một vũ công, ca sĩ, và nữ diễn viên người Pháp gốc Mỹ. Cô trở thành một công dân của nước Pháp vào năm 1937. Thông thạo cả tiếng Anh và tiếng Pháp, Baker là một biểu tượng âm nhạc quốc tế. | 1 | null |
Lăng Chấn, tên hiệu Oanh Thiên Lôi (tiếng Trung: 轟天雷), là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc Thủy hử. Ông là một trong 72 Địa Sát Tinh của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.
Xuất thân.
Lăng Chấn quê ở Yên Lăng. Ông là một chuyên gia trong việc chế tạo hoả pháo và thuốc súng nên có tên hiệu nghĩa là "Tiếng sét vang trời". Lăng Chấn cũng giỏi võ nghệ và cung nỏ. Ông giữ chức phó sứ kho giáp trượng cho triều đình.
Gia nhập Lương Sơn Bạc.
Tống Huy Tông cử Hô Diên Chước lãnh đạo quân triều đình, với Hàn Thao và Bành Dĩ làm phó tướng đến đánh dẹp thảo khấu ở Lương Sơn Bạc. Ban đầu, Hô Diên Chước giành thắng lợi khi sử dụng ngựa liên hoàn. Tuy nhiên, Bành Dĩ bị bắt và đầu hàng quân Lương Sơn. Hô Diên Chước biết tài của Lăng Chấn, lại thấy Lương Sơn Bạc bốn mặt toàn nước, khó đánh theo đường bộ nên xin triều đình cử Lăng Chấn ra trận, dùng hoả pháo để tấn công. Lăng Chấn mang theo pháo, thuốc súng đến và dựng các giá súng ở bờ nước để bắn vào Lương Sơn Bạc.
Ngô Dụng đưa ra kế hoạch đối phó Lăng Chấn. Ông lệnh cho thủy quân Lương Sơn lên bờ, phá hoại các giá pháo, dụ Lăng Chấn xuống sông cướp thuyền. Lăng Chấn mắc mưu, khi cướp thuyền thì thuyền bị đục thủng, lật úp và cuối cùng ông bị bắt. Tống Giang đối xử với Lăng Chấn một cách tôn trọng và thuyết phục ông thành công gia nhập Lương Sơn Bạc với tôn chỉ "thế thiên hành đạo".
Sau khi chiêu an.
Khi phân định ngôi thứ ở Lương Sơn Bạc, Lăng Chấn trở thành đầu lĩnh chuyên chế tạo hoả pháo. Sau khi nhận chiêu an, ông cùng các đầu lĩnh tham gia các chiến dịch đánh dẹp quân Liêu và các lực lượng khác chống đối triều đình nhà Tống. Trong chiến dịch đánh Phương Lạp, hoả pháo của Lăng Chấn bắn vào thành trì đối phương và gây ra sự hỗn loạn. Các anh hùng Lương Sơn tận dụng ưu thế đó để tấn công và chiếm thành trì.
Lăng Chấn là một trong những đầu lĩnh sống sót trở về. Ông được triều đình phong cho chức quan ở Hoả dược cục, chuyên chế tạo hoả pháo, vũ khí nổ.
Trong Đãng Khấu chí.
Tại hồi 56, Lương Sơn bị quân của Từ Hổ Lâm bao vây hơn 1 năm trời, Ngô Dụng muốn giải vây nên lệnh Lăng Chấn, Thạch Dũng và Trương Khôi trà trộn vào Vận Thành chôn địa lôi và phối hợp với quân Gia Tường đánh phá Vận Thành. Địa lôi đã chôn xong, chỉ chờ quân Gia Tường đến. Nào ngờ đâu kế hoạch bị lộ, Thạch Dũng bị bắt, Lăng Chấn trốn xuống địa đạo, rồi châm lửa. Địa lôi phát nổ, tường thành đổ mấy trượng, gạch đá tung tận trời xanh, trong thành hoảng loạn, chỉ tiếc là quân Gia Tường chưa đến. Lăng Chấn đã quên mình trong địa đạo. | 1 | null |
We Own the Night Tour là tour diễn thứ ba của ban nhạc Mỹ Selena Gomez & the Scene nhằm quảng bá cho album thứ 3 "When the Sun Goes Down"..
Background.
Ngày 23 tháng ba 2011, Hollywood Records ã thông báo thông qua báo chí rằng Selena Gomez & The Scene sẽ được lưu diễn tại Mỹ trong mùa hè năm 2011.. Show diễn đầu tiên được diễn ra tại Orange County Fair ở Costa Mesa, Calif, và vé sẽ được bán vào ngày 2 tháng 5 năm 2011.. "Tôi rất hào hứng để gặp những người hâm mộ tuyệt vời trong tour diễn lần này," Selena Gomez nói.. We Own the Night Tour là tên của tour diễn do chính Selena xác nhận.. "Chúng tôi đang làm việc với một số nhà sản xuất lớn và đang thiết lập cả một danh sách đầy sự bất ngờ, tôi muốn chắc chắn rằng tất cả mọi người sẽ có một thời gian vui vẻ." Một sự bất ngờ trong tour diễn là Selena sẽ hát lại những ca khúc từng là Hit của Britney Spears. Selena tiếp tục tiết lộ rằng Dream Within a Dream Tour là show diễn đầu tiên mà cô tham dự.. Gần 30 tour diễn đã được lên kế hoạch ngay sau đó. When asked about the tour, Gomez stated
"Tôi rất hào hứng vì đây là tour diễn lớn nhất của ban nhạc từ trước tới giờ, tôi lo lắng nhiều hơn bất cứ điều gì bởi vì tôi cảm thấy như đó là một chút kỳ vọng của người hâm mộ[...].Chúng tôi đang làm việc với một số nhà sản xuất lớn và đang thiết lập cả một danh sách đầy sự bất ngờ, tôi muốn chắc chắn rằng tất cả mọi người sẽ có một thời gian vui vẻ[...].Tôi nghĩ rằng trong cả tour diễn lần này, Tôi sẽ cố gắng thực hiện tốt những gì tuyệt vời nhất có thể," Selena giải thích. "Vì vậy, chúng tôi đã có nhà sản xuất, thực hiện một vài video,hiệu ứng, các nhóm nhảy, và rất nhiều ánh sáng lung linh... Tôi cố gắng làm nó để xứng đáng với lời khen ngợi"
Danh sách các ca khúc trình diễn.
Source: | 1 | null |
Lilia Faridovna Gildeeva (, sinh ngày 14 tháng 6 năm 1976) là phóng viên truyền hình người Nga làm việc cho kênh NTV với chương trình tin tức Segodnya từ năm 2006. Cô nổi tiếng với nhiều câu chuyện đùa với đối tác và đồng nghiệp Alexey Pivovarov.
Cô sinh ra ở Zainsk, Cộng hòa Tatarstan, theo học tại trường Đại học Bang Kazan và bắt đầu sự nghiệp phóng viên truyền hình ở Naberezhnye Chelny. Lilia có hai con (1 trai, 1 gái) cùng chồng. | 1 | null |
Hoàng Khương tên thật là Nguyễn Văn Khương (sinh 1975-) tại Khánh Hòa là một nhà báo Việt Nam. Ông được biết đến vì có những bài phóng sự chuyên đề trên báo Tuổi Trẻ. Ông hiện nay bị tuyên án 4 năm tù giam về tội đưa hối lộ, nhưng ông cho rằng mình mắc "sai sót trong tác nghiệp" và sẽ kháng cáo.
Tiểu sử.
Hoàng Khương sinh năm 1975 tại Khánh Hòa. Ông tốt nghiệp Đại học Đà Lạt. Hoàng Khương từng là phóng viên các báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ.
Bị bắt giam vì tội danh đưa hối lộ.
Trong thời gian công tác tại báo Tuổi Trẻ, Hoàng Khương là tác giả của bài điều tra về hành vi nhận hối lộ để giải cứu đua xe trái phép của cảnh sát giao thông. Bị cho là có hành vi đưa hối lộ nên ông bị đề nghị tước thẻ nhà báo và điều tra về tội danh này. Ngày 02 tháng 1 năm 2012, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt các quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với Hoàng Khương. Đến ngày 23 tháng 5 đã đề nghị truy tố ông về hành vi đưa hối lộ.
Trong 2 ngày 6 và 7 tháng 9 năm 2012 Hoàng Khương bị đưa ra xét xử tại tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tại phiên tòa sơ thẩm ông bị tuyên án 4 năm về tội đưa hối hộ, nhưng ông cho rằng mình chỉ mắc sai sót trong nghề nghiệp. Không đồng ý với bản án này, Hoàng Khương sẽ kháng cáo.
Phản ứng.
Báo Tuổi Trẻ, cơ quan Hoàng Khương công tác khi viết bài điều tra đã lên tiếng xác nhận rằng "loạt bài viết về mãi lộ và giải cứu xe đua là theo chủ trương của ban biên tập báo Tuổi Trẻ", trong khi đó báo Công An Nhân dân viết "Hoàng Khương, cùng các đối tượng liên quan đã bàn tính kỹ càng từ trước những nội dung nhằm mục đích có lợi cho bản thân và em vợ mình".Tổ chức Phóng viên Không biên giới trong thông cáo của mình nói "Ông Khương không nên bị khởi tố tội đưa hối lộ vì những gì ông làm trong khi đang điều tra bí mật.. Ngay sau phiên tòa đầu tiên, báo Tuổi Trẻ một lần nữa khẳng định tất cả hành động của Hoàng Khương là hoạt động tác nghiệp báo chí và sẽ thay mặt anh chăm sóc gia đình. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (Reporters Without Borders - RSF) đòi trả tự do cho Hoàng Khương, gọi bản án tù bốn năm cho phóng viên Hoàng Khương là "bất công và đáng hổ thẹn". | 1 | null |
là công ty xăng dầu Nhật Bản. Công ty chuyên tinh chế xăng dầu và kinh doanh các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ. Người sáng lập ra công ty là ông Sazō Idemitsu (1885-1981).
Idemitsu là công ty lớn thứ hai trong ngành lọc dầu tại Nhật Bản (chỉ sau Nippon Oil) . Năm 2011, công ty đứng thứ 233 thế giới về doanh thu, theo danh sách Fortune Global 500 và thứ 29 trong ngành lọc dầu (số liệu 2009) .
Có thể nhận biết sản phẩm của Idemitsu qua 2 logo: logo "thần Apolo" trên các sản phẩm xăng dầu dùng cho ô tô, chất đốt hoặc logo "thần Daphne" trên các sản phẩm xăng dầu dùng trong công nghiệp, tàu thuyền. Kể từ ngày thành lập, khẩu ngữ "tôn trọng con người" được sử dụng làm phương châm cho mọi hoạt động của công ty. Idemitsu hướng tới trở thành một công ty được cả cộng đồng xã hội rộng lớn kỳ vọng và tin tưởng .
Lịch sử.
Sazō Idemitsu sáng lập ra vào năm 1911, bán dầu nhờn cho Nippon Oil ở Moji, phía bắc Kyushu. Sau đó, công ty mở rộng bán dầu nhiên liệu cho thuyền cá ở Shimonoseki.
Sau thành công ở Nhật Bản, Idemitsu đã mở rộng kinh doanh sang Mãn Châu (Trung Quốc) năm 1914. Tại đây, công ty vận tải đường sắt Nam Mãn Châu là một khách hàng quan trọng trong kinh doanh dầu nhờn của Idemitsu.
Idemitsu đã mở chi nhánh tại Đại Liên, Đông Bắc Trung Quốc để thâm nhập vào thị trường Trung Quốc mà vốn dĩ đã bị chiếm hữu bởi các công ty dầu khí phương Tây như Standard Oil, Asiatic Petroleum Company (Công ty con của Shell). Idemitsu đã mở rộng kinh doanh tới cả Bắc Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan.
Sau khi Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu vào năm 1932, chính phủ đã kiểm soát việc kinh doanh xăng dầu và buộc Idemitsu phải thu nhỏ quy mô lại. Lúc này, Idemitsu đã chuyển sang vận chuyển dầu mỏ. Năm 1940, trụ sở chính của công ty được rời tới Tokyo và tên công ty được đổi thành Idemitsu Kosan K.K. (Kabushiki Kaisha, stock company) như hiện nay.
Sau chiến tranh, Idemitsu Kosan bị mất các mối quan hệ kinh doanh quốc tế bởi các thế lực chiếm đóng Nhật Bản. Idemitsu là một trong 10 công ty cung cấp xăng dầu được bộ công nghiệp và thương mại quốc tế (MITI) bầu chọn. Idemitsu đã cắt ràng buộc với Nippon Oil và bắt đầu nhập khẩu Naphtha (một sản phẩm trung gian của xăng dầu), lúc đầu là từ Mỹ, sau đó nhập từ Venezuela và Iran.
Bộ luật bảo hộ công nghiệp xăng dầu đã giúp cho Idemitsu cạnh tranh lại với các công ty nước ngoài và đồng thời đã nâng cao tầm quan trọng trong sự cần thiết phải sở hữu nhà máy lọc dầu riêng của công ty.
Tokuyama là nhà máy lọc dầu đầu tiên của Idemitsu được khởi động vào năm 1957. Tiếp theo đó là nhà máy lọc dầu Chiba vào năm 1963, nhà máy lọc dầu Hyogo năm 1970, nhà máy lọc dầu Hokkaido năm 1973 và nhà máy lọc dầu Aichi năm 1975 đã được xây dựng.
Năm 1953, Idemitsu sử dụng tàu cỡ lớn Nisshomaru của công ty để nhập dầu từ Iran. Idemitsu đã nỗ lực mua dầu với giá thấp hơn 30% so với giá thị trường. Điều này đã khiến Idemitsu gặp xung đột với chính phủ Nhật Bản và MITI. Sau sự kiện đảo chính tại Iran năm 1953, Idemitsu chuyển sang nhập dầu thô từ Liên Xô vào những năm 1960. Idemitsu đã nhập được dầu với giá thấp hơn 40% so với thị trường. Tuy nhiên, Mỹ đã quyết định tẩy chay Idemitsu khi công ty này cung cấp nhiên liệu máy bay phản lực cho quân đội Nhật Bản. Idemitsu gọi sự tẩy chay này là "món quà Giáng Sinh kỳ quặc" nhưng "hoàn toàn vô nghĩa". Năm 1978, Idemitsu hủy hợp đồng với Liên Xô.
Idemitsu cũng đã có xung đột với hiệp hội dầu mỏ Nhật Bản và thậm chí đã rời khỏi hiệp hội này.(Hiệp hội dầu mỏ Nhật Bản được thiết lập bởi MITI nhằm quản lý, kiểm soát sản xuất). Cuộc đình công của nghiệp đoàn thủy thủ năm 1965 đã dẫn tới tình trạng thiếu dầu mỏ. Idemitsu đã lờ đi các định mức và sản xuất với công suất tối đa. Năm 1966, khi những giới hạn về giá cả và định mức sản xuất được gỡ bỏ, Idemitsu đã tham gia trở lại vào PAJ. Người em trai – ông Keisuke Idemitsu lên nắm quyền chủ tịch công ty còn ông Sazō trở thành chủ tịch hội đồng quản trị và tiếp tục nắm thực quyền.
Idemitsu tiếp tục chiến lược liên kết dọc để điều hành cả hệ thống đại lý cung cấp. Năm 1976, Idemitsu bắt đầu khoan dầu và khí đốt ở ngoài khơi Aga Field, Niigata (biển Nhật Bản). Sản xuất thương mại được bắt đầu vào năm 1984. Idemitsu đã có được cổ phần trong những mỏ dầu nước ngoài và vào năm 1987, công ty đã bắt đầu khai thác mỏ dầu thuộc Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ cùng với công ty Neste Oy, Phần Lan. Idemitsu tham gia vào các dự án khoan dầu trên khắp thế giới và đã có cổ phần ở mỏ dầu Snorre, Nauy và ở Australia.
Idemitsu còn đầu tư vào ngành than đá. Công ty nhập khẩu than từ Australia và có sở hữu các mỏ ở Muswellbrook, New South Wales và Ebenezer, Queensland. Idemitsu trở thành công ty khai mỏ than lớn nhất Nhật Bản và đã phát triển hệ thống ca-tri-đơ than (CCS) phục vụ cho các khách hàng nhỏ lẻ. Bên cạnh đó, Idemitsu còn tiến hành nghiên cứu phát điện từ địa nhiệt và khai thác mỏ Uran ở Canada cùng với Cameco và Cogema. Sự kiện giá dầu giảm mạnh năm 1985 đã làm cho lợi nhuận của Idemitsu trong các dự án sử dụng năng lượng phi dầu mỏ giảm.
Những tranh luận về giới hạn trong nhập khẩu dầu mỏ một lần nữa lại nổi lên. Năm 1962, Idemitsu tán thành việc mở cửa, đối mặt với sự cạnh tranh của các công ty nước ngoài tuy nhiên hầu hết các công ty khác trong công nghiệp dầu khí Nhật Bản đều phản đối.
Chính phủ Nhật Bản đã tiến tới thỏa hiệp sẽ từ từ mở cửa cho nhập khẩu tự do và gỡ bỏ các hạn ngạch sản xuất trong ngành lọc dầu.
Trong những năm 1990, Idemitsu bắt đầu mở các trạm dịch vụ bên ngoài Nhật Bản, tại Bồ Đào Nha và Puerto Rico, sau đó là nhà máy dầu nhờn ở Mỹ. Sự bãi bỏ của luật xăng dầu đặc biệt cùng với sự hợp pháp hóa dịch vụ tự bơm phục vụ ở các trạm xăng đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong công nghiệp xăng dầu. Cho tới những năm 1990, nhu cầu về xăng dầu ở Nhật giảm do cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài. Công nghiệp xăng dầu quá lớn nên nhiều công ty đã tiến hành hợp nhất với nhau. Tại thời điểm chuyển giao thế kỷ này, Idemitsu Kosan là công ty lọc dầu lớn duy nhất không hợp thể với công ty nào cả. Công ty vẫn hoàn toàn được nắm giữ bởi gia đình Idemitsu và các thành viên của công ty.
Năm 2006, Idemitsu Kosan trở thành công ty đại chúng tại sở giao dịch chứng khoán Tokyo sau khi phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO) lên tới 109.4 tỷ yên.
Các công ty dầu khí hóa lỏng (LPG) thuộc Idemitsu Kosan và Mitsubishi đã hợp nhất với nhau vào 1/4/2006 và trở thành công ty cổ phần Astomos Energy.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Idemitsu trở thành công ty nhập khẩu, tinh chế dầu nội địa lớn của Nhật Bản. Cho tới đầu năm 2000, Idemitsu cùng với Suntory, Lotte, Yanma... đều được biết đến là những công ty lớn chưa lên sàn. Nhưng vào 14/10/2006, với mục tiêu trở thành công ty mở cửa thời đại, Idemitsu đã chính thức lên sàn tại sở giao dịch chứng khoán Tokyo.
Từ thời điểm thành lập cho tới khi lên sàn, Idemitsu đi theo nguyên tắc kinh doanh truyền thống Nhật Bản - Chủ nghĩa đại gia đình. Hoàn toàn không có bảng theo dõi thời gian làm việc và chế độ nghỉ hưu (vài năm gần đây đã sửa đổi). Thêm vào đó, cho tới lúc lên sàn, công ty đã trải qua một thời gian dài với số vốn tư bản vô cùng khiêm tốn - 100 triệu yên.
Các công ty chính có liên hệ trực tiếp với Idemitsu bao gồm công ty cổ phần Astomos Energy, công ty cổ phần Idemitsu Tanker, công ty cổ phần khai thác xăng dầu và khí đốt Idemitsu, công ty cổ phần Idemitsu Engineering, Apolo Service, Idemitsu Credit Card..
Năm 2023, Idemitsu Kosan hợp tác với Toyota trong việc sản xuất Pin thể rắn.
Hoạt động và sản phẩm.
Vận chuyển và lọc dầu.
Công ty con xăng dầu và khí đốt Idemitsu sản xuất khoảng 30.000 thùng (4,800 m3)dầu thô 1 ngày. Hầu hết nguồn dầu này được lấy từ mỏ dầu Nauy ở biển Bắc. Tại biển Nhật Bản, Idemitsu sở hữu trạm khoan ở Niigata, gần Aga và Iwafune, tuy nhiên sản lượng thấp.. Ngoài ra Idemitsu còn tham gia các dự án khảo sát tại Việt Nam, Thái Lan, Campuchia. Riêng tại Việt Nam, Idemitsu hợp tác cùng khai thác với Zarubezhneft của Nga và Công ty dầu khí Việt Nam.
Idemitsu sở hữu 12 tàu chở dầu phục vụ cho vận chuyển quốc tế.
Xăng dầu.
Idemitsu sở hữu 4,100 trạm dịch vụ.
Sản phẩm hóa dầu.
Idemitsu Kosan có 2 cơ sở sản xuất các sản phẩm hóa dầu ở Chiba và Tokuyama. 2 cơ sở này cung cấp rất đa dạng các sản phẩm hóa cơ bản cho ngành công nghiệp hóa chất trong nước cũng như nước ngoài.
Tại châu Âu, hoạt động kinh doanh của Idemitsu được thông qua Idemitsu Chemicals Europe PLC. Những sản phẩm hóa cơ bản bao gồm các olefin như ethylene, propylene, các hợp chất vòng thơm như benzene, para-xylene và styrene. Idemitsu còn là nhà cũng cấp các sản phẩm chất dẻo như đĩa CD nén, bảng mạch điện. Ngoài ra, Idemitsu còn sản xuất dầu nhờn (một trong những lĩnh vực chính của công ty)., vật liệu huỳnh quang cho màn hình OLED và tại nhà máy Chiba, Idemitsu còn liên kết với BASF của Đức để sản xuất 1,4-Butanediol cho thị trường Nhật Bản. Idemitsu cũng sản xuất một số được liệu.
Các cơ sở chính.
Các đại lý, chi nhánh.
Trụ sở chính: Tòa nhà kịch trường đế quốc, 3-1-1 Marunouchi, Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản.
Chi nhánh: Hokkaido, Tohoku, Đại lý số 1 Kanto, Đại lý số 2 Kanto, Tokai Hokuriku, Kansai, Chukoku Shikoku, Kyushu, Okinawa.
Các khu tinh chế dầu.
Khu tinh chế dầu Hyogo và Okinawa đã ngừng hoạt động kể từ năm 2003 sau khi Nippon Oil thỏa thuận sẽ cung cấp cho Idemitsu Kosan 40.000 thùng/ ngày (6,400m3/ngày)
Ước tính tới năm 2020, nhu cầu về xăng dầu trong nội địa nước Nhật sẽ giảm khoảng 30% so với hiện nay (2012), Idemitsu đã quyết định sẽ ngừng hoạt động khu tinh chế dầu Tokuyama vào 3/2014.
Idemitsu Kosan đóng góp 13% sản lượng trong tổng sản lượng của tổng cộng 30 khu tinh chế dầu đang hoạt động ở Nhật Bản (tổng công suất là 4.83 triệu thùng/ ngày = 768.000 m3/ngày). Bên cạnh đó công ty còn chiếm từ 14% tới 34% thị phần của các sản phẩm khác.
Các nhà máy sản xuất.
Nhà máy Chiba - Bờ biển Anesagi, Ichihara, Chiba.
Nhà máy Tokuyama - Shingu, Shunan, Yamaguchi.
Khu nghiên cứu.
Khu nghiên cứu kỹ thuật tiên tiến - Kamiizumi, Sodegaurashi, Chiba.
Khu nghiên cứu kinh doanh - Bờ biển Anesagi, Ichihara, Chiba.
Các công ty liên kết.
Tính tới thời điểm 1/7/2009 tập đoàn Idemitsu bao gồm 78 công ty con và 33 công ty liên kết.
Nước ngoài.
Tại Việt Nam.
Vào năm 2008, Idemitsu Kosan đã hợp tác cùng với tập đoàn Dầu khí quốc tế Cô-oét, tập đoàn Dầu khí Việt Nam và công ty Hóa chất Mitsui lên kế hoạch xây dựng khu lọc dầu Nghi Sơn. Dự án đã được dự tính khởi công vào năm 2010 và sẽ hoàn thành vào năm 2014 với công suất dự kiến là 200.000 thùng/ ngày (32.000 m3/ngày). Bên cạnh đó, Idemitsu đã mở cơ quan hành chính tại Hà Nội và đang mang tham vọng mở rộng kinh doanh tới Việt Nam và các nước xung quanh trong khu vực.
Hiện nay, Idemitsu Kosan đang thực hiện dự án lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) lớn nhất Việt Nam. Liên doanh thực hiện dự án này gồm: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietNam) 25,1%; Tập đoàn Dầu khí quốc tế Cô-oét (KPI) thông qua công ty đầu tư của mình là KPE góp 35,1%; Công ty Idemitsu Kosan (IKC) 35,1% và Công ty Hóa chất Mitsui (MCI) 4,7%.
Với tổng mức đầu tư khoảng 6 tỉ USD, tỉ lệ vốn vay, vốn góp dự kiến là 70% - 30% (vốn góp ban đầu là 200 triệu USD để triển khai ngay dự án).
Theo tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, dự án này nhằm thực hiện chiến lược phát triển lĩnh vực khâu sau dầu khí (cả lọc dầu và hóa dầu) của Tập đoàn cũng như quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia (nhất là sản phẩm xăng dầu). | 1 | null |
Trận Soor diễn ra vào ngày 30 tháng 9 năm 1745 gần làng Soor (Böhmen) trên biên giới Áo-Phổ trong chiến tranh Schlesien lần thứ hai và chiến tranh Kế vị Áo. Tại đây thống chế Áo Karl Alexander lập kế hoạch đem 4 vạn quân Áo-Sachsen đột kích vào hơn 2 vạn quân Phổ do vua Friedrich II chỉ huy, trong lúc người Phổ đang triệt thoái về Schlesien sau một cuộc tấn công bất thành vào lãnh thổ Áo. Tuy nhiên, liên quân Áo-Sachsen triển khai tấn công khá chậm, tạo điều kiện cho quân Phổ chủ động phản kích và đánh bật hoàn toàn liên quân khỏi trận địa. Đây là thất bại lớn thứ hai của quân đội Áo trong chiến tranh Schlesien lần hai.
Bối cảnh.
Năm 1740, vua Phổ Friedrich II khởi 2,7 vạn binh đánh Schlesien, một vùng đất giàu có của Đại Công quốc Áo. Năm 1741, đại quân Áo từ Mähren đến đánh, bị Friedrich phá tan trong trận Mollwitz. Năm 1742, Friedrich lại thắng trận Chotusitz, Áo đành ký hòa ước Breslau trao Schlesien cho Phổ. Đến nam 1744, đại công nương Áo Maria Theresia liên minh với Sachsen hòng chiếm lại Schlesien, mở ra chiến tranh Schlesien lần thứ hai. Tháng 6 năm 1745, liên quân Áo-Sachsen do thống chế Karl Alexander chỉ huy đánh Schlesien nhưng bị Friedrich II giáng cho thảm bại trong trận Hohenfriedberg. Tuy nhiên, sau chiến thắng Hohenfriedberg, Friedrich không truy kích và nhờ vậy liên quân đã rút lui an toàn về vùng Böhmen (Áo). Tại đây lực lượng liên minh đã dần dần chấn chỉnh đội ngũ và xây dựng phòng tuyến từ sau lưng sông Adler tới thị trấn Königgrätz.
Giữa tháng 7 năm 1745, sau vài tuần án binh bất động, Friedrich kéo quân đánh vùng đông bắc Böhmen nhằm phá hủy các căn cứ tiếp vận và đạn dược của liên quân, khiến Karl không thể tấn công Schlesien một lần nữa. Quân Phổ ban đầu tiến sâu tới thượng lưu sông Elbe mà không gặp sự chống cự nào. Ngày 20 tháng 7, quân đội Phổ vượt sang bờ tây sông Elbe và từ đây, họ có thể nhìn thấy trận địa phòng thủ của Áo. Tuy nhiên, quân hai bên đều chủ trương tránh giao chiến lớn. Mặt khác, Karl cho các đơn vị khinh kỵ tích cực đánh phá các tuyến liên lạc của địch và ngăn chặn quân khinh kỵ Phổ cướp lương thảo của Áo. Thấy cục diện không ổn, quân Phổ lùi về bờ đông sông Elbe và bắt đầu rút lui tới Schlesien vào ngày 18 tháng 9.
Khi đến gần biên giới Schlesien, Friedrich cho quân nghỉ chân vài ngày gần thị trấn Burkersdorf ven bìa rừng Königreich; ông ta phòng bị doanh trại một cách lỏng lẻo vì nghĩ rằng địch chỉ cho khinh kỵ binh quấy nhiễu. Trên thực tế, người Áo vừa cử quân khinh kỵ đánh tiêu hao kỵ binh Phổ, vừa tiến hành thăm dò khả năng tấn công đánh bại quân chủ lực địch. Ngày 24 tháng 9, Karl quan sát thấy Friedrich quên chiếm lĩnh Graner-Koppe – một ngọn đồi lớn nằm trên hướng tây bắc doanh trại Phổ và khống chế vùng đồng trống phía bắc và phía nam. Tuyến đường mà Friedrich đã chọn làm đường rút quân về Schlesien cũng không nằm ngoài phạm vi khống chế của đồi này. Do vậy, Karl quyết định tiến quân vòng qua sườn địch dưới sự che chở của rừng Königreich, sau đó chiếm cứ đồi Graner-Koppe rồi đột kích vào sườn phải và tiêu diệt quân Phổ.
Ngày 29 tháng 9, Karl dẫn 4 vạn quân Áo-Sachsen di chuyển qua vùng rừng Königreich. Cuộc hành quân diễn ra thuận lợi và đến đêm hôm đấy, liên quân Áo-Sachsen đã tiếp cận đồi Graner-Koppe. Karl dàn trải quân trung tâm và cánh phải liên minh trên hướng nam Graner-Koppe, đồng thời tập trung một lực lượng tinh nhuệ của cánh trái gồm 10 tiểu đoàn hỏa mai, 15 tiểu đoàn xung kích, 30 khối thiết kỵ và long kỵ binh, 15 đại đội cacbin và bộ binh cưỡi ngựa, cùng 16 đại pháo trên đỉnh đồi. Karl cũng bố trí 45 khối kỵ binh cánh trái chốt giữ canh giữ hướng bắc đồi Graner-Koppe. Trong khi đó, do tự tin rằng liên quân sẽ không tấn công, Friedrich đã cho một số đơn vị rút trước vào Trautenau vào sáng ngày 30 tháng 9; quyết định này cùng với tổn thất do thương vong, bệnh tật và đào ngũ trong tháng 7 – 9 đã làm quân chủ lực Phổ chỉ còn 22 nghìn người. Quân Phổ cũng gặp khó khăn do không quen thuộc với địa hình nơi đóng quân. Tuy nhiên, sương mù dày đặc cùng với các sai sót trong việc triển khai lực lượng đã ngăn cản quân liên minh tấn công vào rạng đông ngày 30 tháng 9.
Trận đánh.
5h sáng ngày 30 tháng 9, khi Friedrich II đang bàn bạc với các tướng về việc rút quân, ông ta được cấp báo rằng kỵ binh Áo đã xuất hiện trên cánh phải quân Phổ. Trong lúc Friedrich chạy đi kiểm chứng, toàn bộ lực lượng Phổ đã tự giác triển khai đội hình hành quân. Sau khi nhanh chóng nắm bắt thế trận, Friedrich truyền lệnh cho quân đội tiến sang phải theo hướng đông nam làng Burkersdorf, sau đó lần về phía bắc cho đến khi áp sát chân đồi Graner-Koppe, rồi lập đội hình chiến đấu đối diện với liên quân. Friedrich dự định tập trung xung lực vào cánh phải và tung cánh này công kích đồi Graner-Koppe, trong khi quân trung tâm và cánh trái được dự trữ ở hậu tuyến.
Lúc 8h sáng, khi cuộc điều quân của người Phổ đã gần hoàn tất, sương mù tan và pháo binh Áo tổ chức bắn phá đội hình kỵ binh cánh phải của địch. Quân kỵ binh Phổ chịu thiệt hại khá nặng, nhưng vẫn duy trì hàng ngũ. Ngay lập tức, Friedrich phát lệnh cho 26 khối kỵ binh đi vòng sang sườn bắc đồi Graner-Koppe để "dọn dẹp" kỵ binh Áo-Sachsen và khai lối cho bộ binh Phổ xung phong chiếm Graner-Koppe. Kỵ binh Phổ lập đội hình tấn công gồm trung đoàn Quân cảnh, trung đoàn thiết kỵ Buddenbrock ở tuyến đầu cùng 3 trung đoàn khác và 1 đại đội Cận vệ ở tuyến sau. Cuộc hành quân sang sườn đồi Graner-Koppe đã đưa kỵ binh Phổ thoát khỏi tầm bắn của đại bác Áo, nhưng có một rủi ro mà Friedrich không tiên liệu trước, đó là việc tiếp cận Graner-Koppe từ hướng bắc đòi hỏi kỵ binh Phổ phải đi qua một thung lũng vừa chật hẹp, vừa lởm chởm gần chân đồi. May mắn cho Friedrich, tinh thần kỷ luật mạnh mẽ của quân thiết kỵ Phổ đã giúp họ giữ được hàng ngũ và từng bước leo lên dốc. Giao chiến đã bùng phát khi kỵ binh Phổ bắt gặp 45 khối kỵ binh cánh trái liên minh. Hai bên lúc đầu đánh nhau không phân thắng bại, nhưng kỵ binh Phổ đã dần dần chiếm ưu thế và đánh bật lực lượng kỵ binh có quân số đông hơn của liên quân vào rừng Königreich. Để ngăn cản đà tháo chạy của kỵ binh, tướng Áo Lobkowitz rút súng ngắn bắn chết 3 binh sĩ, nhưng không lâu sau đó Lobkowitz bị một nhóm lính đẩy xuống một cái mương.
Chiến thắng của kỵ binh Phổ đã dọn đường cho bộ binh đánh thốc vào Graner-Koppe. Friedrich huy động tuyến thứ nhất của lực lượng bộ binh cánh phải Phổ – gồm 3 tiểu đoàn xung kích và 3 tiểu đoàn của trung đoàn Anhalt – xung kích lên đỉnh đồi. Thực hiện học thuyết chiến thuật của mình, bộ binh Phổ không khai hỏa, vác thạch cơ điểu thương trong khi di chuyển qua vùng hỏa lực của pháo binh và bộ binh liên quân Quân Phổ chịu thương vong rất lớn: vương công Albrecht – anh vợ Friedrich II – đã gục chết trước mặt đơn vị của mình, và tiểu đoàn Wedel hao tổn đến 3/4 biên chế. Khi người Phổ đến cách đỉnh đồi 150 bước, 5 đại đội xung kích Áo do đại tá Anton Beneda chỉ huy đã hô to "Maria Theresia muôn năm!" và ào lên phản kích, hất địch xuống chân đồi. Tuy nhiên, quân Phổ không hề tan rã: tàn quân từ tuyến thứ nhất được trộn vào 5 tiểu đoàn của tuyến thứ hai và chấn chỉnh đội ngũ, sau đó mở một đợt xung phong mới lên đồi Graner-Koppe. Lần này người Phổ thành công hơn, do cuộc phản kích của Beneda đã vô tình đẩy bộ binh Áo vào tầm hỏa lực của pháo binh Áo-Sachsen, khiến pháo binh liên quân không dám khai hỏa vì sợ làm chết quân bạn. Quân Phổ đã tràn lên đỉnh đồi, tịch thu các đại bác của Áo-Sachsen và đánh bại bộ binh địch sau nhiều trận giáp lá cà dữ dội.
Trong khi hai bên còn đang giằng co trên đồi Graner-Koppe, quân dự bị Phổ (gồm lực lượng trung tâm và cánh trái) đứng chân trên các vị trí đối diện với quân cánh phải và trung tâm Áo-Sachsen. Không cần chờ lệnh nhà vua, các chỉ huy trung tâm và cánh trái đã chủ động xua quân đánh trực diện vào trận địa đối phương phía nam Graner-Koppe. Cuộc tấn công của quân Phổ gặp nhiều khó khăn do hỏa lực mạnh của một khẩu đội Áo trên hướng tây-tây-nam làng Burkersdorf. Trước nguy cơ bị chặn đứng, đại tá Phổ Ferdinand von Braunschweig-Wolfenbüttel đã tự mình dẫn tiểu đoàn 2 Cận vệ ôm lê xông lên đánh thủng trung tâm liên quân. Các trung đoàn thiết kỵ Bornstedt và Rochow trên cánh trái Phổ cũng triển khai tấn công và bắt sống 850 lính bộ binh liên quân. Trong khi đó, lực lượng kỵ binh cánh phải liên minh hoàn toàn làm ngơ trước những áp lực mà bộ binh gánh chịu. Đến đầu chiều, thống chế Karl cho rút toàn bộ lực lượng liên quân vào rừng Königreich. Friedrich sai kỵ binh tiến hành truy kích, nhưng do kỵ binh Phổ đã mệt lã nên không đơn vị nào chịu chấp hành mệnh lệnh.
Kết cuộc.
Trận Soor kết thúc với thất bại nặng nề cho liên minh Áo-Sachsen. Thiệt hại về nhân lực của liên quân lên đến 7444 người trong khi phía Phổ chỉ tốn thất 3911 quân – bao gồm 856 người thiệt mạng và 3055 bị thương. Cùng với trận Hohenfriedberg trước đó, kết quả của trận Soor cho thấy ưu thế vượt trội về kỷ luật và chất lượng chiến đấu của quân đội Phổ so với quân đội Áo-Sachsen. Trong cả hai trận đánh, kỵ binh liên minh luôn bị kỵ binh Phổ đánh bại, còn bộ binh liên minh tuy chiến đấu dũng cảm nhưng vẫn kém xa bộ binh Phổ. Trận Soor cũng là lần đầu tiên quân Phổ đánh thắng một lực lượng Áo-Sachsen có quân số đông hơn mình.
Sau trận đánh, quân Phổ trụ lại thêm 5 ngày nữa trong một doanh trại phía tây bắc trận địa, để tỏ rõ vinh dự của bên chiến thắng. Ngày 6 tháng 10, họ mới thong thả lui về nước. Đến ngày 19 tháng 10 Friedrich về tới thủ đô Berlin.
Sau thảm bại ở Soor, phe Áo-Sachsen vẫn quyết không nhượng bộ Phổ. Tháng 11 năm 1745, vương công Karl họp 2 vạn quân Áo-Sachsen ở Oberlausitz (Sachsen), định đánh thọc vào vùng trung tâm Brandenburg của Phổ. Friedrich quyết định đánh phủ đầu, chia quân làm 2 cánh, cánh phía đông do Friedrich trực tiếp chỉ huy từ Schlesien cuốn sang Oberlausitz, cánh phía tây do thống chế Leopold I von Anhalt-Dessau chỉ huy từ Halle đánh bắc và trung bộ Sachsen. Friedrich vào Oberlausitz, đánh với quân của Karl trong các trận Katholisch-Hennersdorf và Görlitz (23-25 tháng 11 năm 1745). Karl tổn hao 5 vạn quân, lại phải chạy về Böhmen, nhưng vẫn đủ sức chi viện 6 nghìn quân Áo cho quân chủ lực của Sachsen vốn đang bị Leopold uy hiếp. Leopold vào Sachsen, phá 2,5 vạn quân Sachsen và 6 nghìn quân Áo trong trận Kesselsdorf đẫm máu. Đến đây Maria Theresia mới chấp nhận thất bại. Giáng sinh năm 1745, phe Áo-Sachsen ký hòa ước Dresden nhường Schlesien cho Phổ; đáp lại Friedrich chịu tôn phò chồng Theresia là Franz Stefan làm hoàng đế La-Đức. | 1 | null |
Nguyễn Hữu Thiết (1927-2002) là một nhạc sĩ kiêm ca sĩ của nền tân nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông cùng với vợ là ca sĩ Ngọc Cẩm tạo thành một cặp song ca một thời tỏa sáng bằng tài năng nghệ thuật và được ngưỡng mộ bởi lòng chung thủy trong tình yêu. | 1 | null |
Chrysopa (trong tiếng Anh gọi là "green lacewings", "cánh ren xanh lá cây") là một chi trong họ Chrysopidae thuộc Bộ Neuroptera.
Trong họ Chrysopidae, chi này và chi Chrysoperla là phổ biến nhất tại của Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á. Chúng chia sẻ các đặc tính tương tự và một số loài đã được di chuyển từ chi này sang chi kia và ngược lại rất nhiều lần . Ấu trùng của chúng là động vật ăn thịt và ăn rệp và các thành viên của chi này đã được sử dụng làm tác nhân sinh học phòng trừ dịch bệnh gây hại.
William Elford Leach lần đầu tiên mô tả chi này vào năm 1815 ở Edinburgh Encyclopaedia của Brewster. | 1 | null |
Kathryn Chandria Manuel Bernardo (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1994) là một nữ diễn viên người Philippines. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình khi còn là một diễn viên nhí, đóng vai nhí của nhân vật chính trong các bộ phim như "It Might Be You" (2003), "Tình yêu bất tận" (2010) và "Magkaribal" (2010). Cô nổi tiếng sau khi đảm nhận vai chính trong phiên bản làm lại của bộ phim kinh điển "Mara Clara" (2010) cùng với Julia Montes và từ đó đã khẳng định mình là một trong những diễn viên nổi tiếng và thành công nhất của Philippines trong thế kỷ 21.
Kathryn đứng đầu danh sách những nữ diễn viên có doanh thu cao nhất của ngành điện ảnh Philippines trong thập kỷ 2010, với tổng thu nhập từ phòng vé lên đến hơn 3.8 tỷ Peso. People Asia đã tôn vinh cô là "Nữ hoàng phòng vé" vì Kathryn là người duy nhất có hai bộ phim đạt doanh thu hơn 800 triệu Peso mỗi bộ. Forbes Asia đã xác nhận tầm ảnh hưởng của cô trên truyền thông xã hội tại khu vực châu Á-Thái Bình Dươngtrong khi "Metro Society" đưa tên "Kathryn" vào danh sách những người nổi tiếng nhất trên truyền thông xã hội tại Philippines. "EdukCircle" cũng đã liệt kê Kathryn vào danh sách những "Người nổi tiếng có ảnh hưởng nhất trong thập kỷ". Điều đặc biệt đáng chú ý, cô xếp thứ hai trong danh sách Top 10 người nổi tiếng kiếm nhiều tiền nhất trên Instagram của NetCredit tại Philippines, với thu nhập lên đến 208 triệu Peso mỗi năm.
Đời tư.
Tên đầy đủ của cô là Kathryn Chandria Manuel Bernardo, sinh ra tại thành phố Cabanatuan, Nueva Ecija nhưng hiện giờ đang sống ở khu biệt thự độc lập tại thành phố Quezon.
Gia đình gồm ba, mẹ, hai chị gái và một anh trai.
Ba cô hiện đang kinh doanh tại quê nhà nơi cô được sinh ra. Mẹ luôn đi cùng Kathryn như một người quản lý và hiện giờ là COO giúp cô quản lý các cửa tiệm làm móng. Chị cả là tiếp viên hàng không. Chị hai từng du học Châu Âu, là y tá và hiện giờ đang cùng mẹ giúp cô quản lý 6 tiệm làm móng của gia đình - Kathnails. Anh trai tốt nghiệp ngành nha sĩ. Riêng cô, mặc dù lịch làm việc bận rộn,cô vẫn đang theo học ngành kế toán và là CEO cho việc kinh doanh của gia đình mình.
Con đường nghệ thuật.
Kathryn Bernardo bắt đầu sự nghiệp diễn xuất khi chỉ mới 7 tuổi (năm 2003) với bộ phim đầu tay của cô là It Might Be You với vai "Cielo (lúc trẻ)". Sau đó cô cũng tham gia nhiều bộ phim như Vietnam rose, Growing Up, Endless love... Nhưng chỉ sau thành công vang dội của bộ phim Mara Clara (2010) - tên Việt Nam: Trò đùa của số phận (đóng cùng Julia Montes), tên tuổi của cô mới thực sự được biết tới và bắt đầu tạo vị trí trong làng giải trí Philippines. Bộ phim gây được ấn tượng với khán giả trong và ngoài nước, cô cũng nhận được sự tán dương từ giới chuyên môn trong khu vực về khả năng diễn xuất. Một năm sau, cô tiếp tục gây ấn tượng khi tham gia một series phim truyền hình lãng mạn Princess And I, cùng với sự góp mặt của "Daniel Padilla".
Năm 2013, sự nghiệp diễn xuất của cô tiếp tục thăng hoa với bộ phim truyền hình Got to believe ("Hãy tin em thêm lần nữa"). Trong phim cô vào vai cô bé Chichay (Cristina Carlotta Tampipi) hồn nhiên, vui tươi, làm bảo mẫu cho Wacky (Joanquin) - một cậu chủ kì quặc... Năm 2015, bộ phim được chiếu tại Việt Nam trên kênh truyền hình TodayTV và được khán giả Việt Nam đón nhận tích cực.
Đến đầu tháng 1 năm 2016, cô và bạn đồng hành Daniel Padilla đã tới Việt Nam và vinh dự nhận giải thưởng Ngôi sao Xanh cho hạng mục Nam/ Nữ diễn viên nước ngoài được yêu thích nhất.
Vào khoảng cuối năm 2015 - đầu 2016, cô và bạn diễn lại tiếp tục mang đến cho khán giả quê nhà bộ phim đầy bi kịch Pangako Sa'yo ("Hẹn ước tình yêu") - là phiên bản làm lại của bộ phim cùng tên năm 2000. Bộ phim một lần nữa khẳng định tài năng của cô trong lĩnh vực diễn xuất. Cô nhận được nhiều lời khen,nhận xét tích cực từ khán giả và giới chuyên môn... Bộ phim cũng đạt rating cao trên toàn quốc đặc biệt tập cuối đạt 44,5%. Nhờ Pangako Sa'yo, cô cũng đã nhận nhiều giải thưởng uy tín cho hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc nhất, Bộ phim truyền hình được yêu thích nhất. Sau đó, cô, Daniel Padilla và bộ phim cũng đã được đề cử hạng mục Nam/Nữ diễn viên nước ngoài được yêu thích nhất và Bộ phim nước ngoài được yêu thích nhất tại giải thưởng Ngôi Sao Xanh 2017. Cô và Daniel đã vinh dự một lần nữa nhận được giải thưởng này và đã gửi video cám ơn đến với người hâm mộ Việt Nam ngay trong lễ trao giải.
Không chỉ thành công trong mảng truyền hình, Kathryn Bernardo cũng khẳng định tầm ảnh hưởng của mình trong mảng điện ảnh với nhiều bộ phim đạt doanh thu cao. Tất cả phim điện ảnh của cô đều có sự tham gia ăn ý với bạn diễn Daniel Padilla. Cô tham gia trong phim điện ảnh Pagpag,24/7 In Love...Đến năm 2013,cô thủ vai chính (Pachot) trong phim Must be...Love (Hẳn là...Yêu) cùng với bạn diễn lâu năm Daniel Padilla. Bộ phim đầu tay này của cô đạt doanh thu 113 triệu Pê-sô sau 3 tuần công chiếu (gần 60 tỷ VN đồng).
Đến năm 2015,cô tiếp tục mang đến cho khán giả một bộ phim hài hước, nhưng đầy ý nghĩa sâu sắc Crazy Beautiful You .Bộ phim đạt 38 triệu Pê-sô trong ngày đầu tiên công chiếu (30 tỷ VND) và tổng doanh thu đạt 322 triệu Pê-so (170 tỷ VNĐ). Ngoài ra còn có phim "She's dating the gangster, Barcelona: A love Untold, Can't help falling in love" tất cả đều đạt doanh thu trên 300 triệu Pê-so. Đặc biệt,Barcelona: A Love Untold cũng đã được công chiếu trên màn ảnh lớn Việt Nam vào tháng 12, 2016.
Sau thành công của 5 bộ phim, Kathryn Bernardo và Daniel Padilla (gọi tắt là KathNiel) trở thành cặp đôi đầu tiên của Philippines kiếm được 1 tỷ Pê-sô (hơn 500 tỷ đồng) chỉ sau 5 bộ phim,và được khán giả gọi là " One Billion Loveteam". Hơn nữa, cả hai cũng trở thành cặp đôi trẻ nhất giành được danh hiệu Box Office King and Queen (Nữ hoàng và Ông hoàng phòng vé) ở giải thưởng " Box Office Entertainment Awards" lần thứ 48.
KathNiel đã cho ra mắt bộ phim mới The How's Of Us nửa cuối năm 2018 và là bộ phim bom tấn của mùa thu với doanh thu hơn 800 tỷ Pê-sô. Với thành công này, cặp đôi đã lần nữa khẳng định tài năng của mình và được vinh danh The Phenomenal Box Office King and Queen.
Sách.
Nhân dịp sinh nhật lần thứ 20, Kathryn cho ra mắt cuốn sách đầu tay mang tên " Everyday Kath: 365 ways to be A Teen Queen ".Với cuốn sách của mình, nữ diễn viên Kathryn Bernardo không chỉ chia sẻ những mẹo thời trang, làm đẹp và làm tóc mà còn cả những bài học cuộc sống mà cô tích lũy được khi cô đã bước sang tuổi 20. Đồng thời cũng có những lời khuyên cho giới trẻ về cái cách cô thành công và trở thành Nữ hoàng của giới trẻ. Cuốn sách đã được bán ra với số lượng lớn,và là cuốn sách bán chạy nhất Philippines trong nhiều tháng liên tiếp.
Ước tính thu nhập.
Theo ước tính của Philnews .Kathryn nhiều năm liền thuộc top những ngôi sao trẻ có thu nhập cao nhất Philippines với ước tính thu nhập hằng năm là 500 triệu Pê-sô (hơn 250 tỷ đồng). Số tiền này từ việc cô tham gia diễn xuất, tham gia show, sự kiện, đại diện thương hiệu, người mẫu ảnh, báo...
Hiện tại, cô cũng là một trong những diễn viên sở hữu nhiều hợp đồng quảng cáo nhất quê nhà, với rất nhiều nhãn hàng nổi tiếng như: Pond's,Sunsilk,Rejoice, Nescafe,KFC,Vivo,Avon,BENCH,Ajinomoto, Oishi,Vivo,Canon,Olay,Lactacyd,Smart C,Whisper,Sterling Notebooks, Unisilver,Primadone Shoes, Toppo,Pentel,Rice In A box,Ruffles Bags,Ora Care,Huawei,Juicy Cologne,San Marino,Air Optix,Buscupan Venus,YOT,PIMP Kicks,Pepsi, Ion Gatorade,Happy Skin,Fresh
Gần đây cô cùng Daniel Padilla trở thành đại sứ của Tổ chức chống dọa nạt trên mạng trên toàn thế giới (cyberbullying). Kathryn cũng là đại sứ cho nhiều tổ chức từ thiện để giúp đỡ trẻ em bị tật hở hàm ếch.
Liên kết xã hội Twitter,Instagram,Facebook.
Kathryn thuộc top 5 người nổi tiếng có lượng người theo dõi nhiều nhất trên Twitter và Instagram với hơn 10,3 triệu trên twitter; gần 13 triệu trên Instagram và hơn 2,5 triệu lượt thích trên Facebook.
Twitter:https://twitter.com/bernardokath?lang=vi
Instagram:https://www.instagram.com/bernardokath/.
Facebook:https://www.facebook.com/search/top?q=kathryn%20bernardo%20official
Kathryn cũng là diễn viên Philippines đầu tiên sở hữu một bức ảnh đạt 500 nghìn like chỉ trong chưa đầy một tháng. | 1 | null |
Tấn Ai Đế () (341 – 30 tháng 3 năm 365), tên thật là Tư Mã Phi (司馬丕), tên tự Thiên Linh (千齡), là vị Hoàng đế thứ 6 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 11 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian trị vì ngắn ngủi của ông, quyền hành phần lớn nằm trong tay Hội Kê vương Tư Mã Dục và tướng Hoàn Ôn. Theo các tài liệu lịch sử, ông việc trường sinh bất lão ám ảnh, song ông cuối cùng đã chết do bị đầu độc.
Đầu đời.
Tư Mã Phi sinh năm 341 dưới thời trị vì của cha là Tấn Thành Đế, và là đại hoàng tử. Mẹ là Chu quý nhân, đến năm 342, bà tiếp tục hạ sinh hoàng tử Tư Mã Dịch. Vào mùa hè năm 342, Thành Đế lâm bệnh. Hà Sung (何充) chỉ ra rằng đại hoàng tử nên là người kế vị, song thúc phụ đằng ngoại của Thành Đế là Dữu Băng (庾冰), muốn vị hoàng đế mới vẫn sẽ có mối liên hệ thân thuộc với gia tộc của mình nên đã thuyết phục Thành Đế truyền ngôi cho hoàng đệ là Lang Da vương Tư Mã Nhạc, cũng là một người con trai của Thái hậu Dữu Văn Quân, ông luận rằng do kình địch Hậu Triệu ở phương bắc đang mạnh, đế quốc cần một vị hoàng đế trưởng thành. Thành Đế chấp thuận và chỉ định Tư Mã Nhạc làm người kế vị, Thành Đế mất không lâu sau đó và Tư Mã Nhạc lên ngôi. Tư Mã Phi khi ấy mới một tuổi được lập làm Lang Da vương. Ông tiếp tục giữ chức vụ này sau khi Khang Đế mất vào năm 344 do Khang Đế truyền ngôi cho con ruột của ông là Tư Mã Đam. Không rõ ông đã kết hôn với Vương Mục Chi vào khoảng thời gian nào.
Trị vì.
Năm 361, Tấn Mục Đế băng hà trong khi không có con trai. Mẹ của Mục Đế là Chử Thái hậu do đó là chọn Tư Mã Phi kế vị ngôi vị hoàng đế, ông lên ngôi và trở thành Ai Đế, khi ấy ông 20 tuổi. Ông phong vợ mình làm hoàng hậu, và hoàng đệ Tư Mã Dịch, trước đó mang tước vị Đông Hải vương, nay trở thành Lang Da vương. Do ông đã trưởng thành, Chử Thái hậu không còn giữ vai trò nhiếp chính, và mẹ ruột của ông, Chu quý nhân trở thành thành Chu Thái phi (皇太妃) vào năm 362, song được hưởng vật chất và nghi lễ tương đương với thái hậu. Tuy nhiên, quá trình ra các quyết định phần lớn nằm trong tay tướng Hoàn Ôn và Hội Kê vương Tư Mã Dục.
Năm 362, Hoàn Ôn sau khi chiếm được vùng Lạc Dương, đã yêu cầu dời đô đến Lạc Dương, Lạc Dương từng là kinh đô của nhà Tấn cho đến khi mất vào tay Hán Triệu vào năm 311. Tuy nhiên, triều đình theo một chiếu chỉ của Ai Đế, đã từ chối việc này.
Năm 363, Chu Thái phi qua đời. Để phù hợp với nghi lễ chính thức rằng ông không còn có thể tôn vinh bà là mẹ do vẫn còn Chử Thái hậu, Ai Đế đã không tuân thủ thời gian tang lễ thông thường đối với một người mẹ.
Ai Đế bị việc trường sinh bất lão ám ảnh tinh thần mặc dù ông vẫn còn trẻ. Năm 364, ông bị các pháp sư dùng thuốc đầu độc, ông đã ngã bệnh và không thể giải quyết các vẫn đề quan trọng. Chử Thái hậu một lần nữa trở thành người nhiếp chính.
Sai đó vào năm 364, Tiền Yên đã mở một cuộc tấn công lớn nhắm vào Lạc Dương, Hoàn Ôn và Tư Mã Dục đã xem xét đến một cuộc phản công để giải vây cho Lạc Dương. Tuy nhiên, Ai Đế đã qua đời vào đầu năm 365 nên kế hoạch bị hủy bỏ và Lạc Dương nhanh chóng thất thủ. Do Ai Đế không có con trai, hoàng đệ là Tư Mã Dịch lên ngôi, trở thành Tấn Phế Đế. Vương Hoàng hậu mất trước Ai Đế khoảng một tháng, họ được táng chung ở lăng An Bình. | 1 | null |
Tấn Phế Đế (, (342 – 23 tháng 11 năm 386), tên thật là Tư Mã Dịch (司馬奕), tên tự Diên Linh (延齡), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 12 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em trai cùng bố mẹ của Tấn Ai Đế và sau đó bị tướng Hoàn Ôn phế truất. Tước hiệu ông thường được gọi, "Phế Đế", không phải là thụy hiệu mà dùng để biểu thị rằng ông là vị hoàng đế bị phế bỏ. Ông cũng thường được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế là Hải Tây công (海西公).
Đầu đời.
Tư Mã Dịch sinh năm 342, là con trai của Tấn Thành Đế và tì thiếp Chu Quý nhân, bà cũng là mẹ ruột của Tư Mã Phi, người anh lớn hơn ông một tuổi. Sau đó vào năm 342, Thành Đế lâm bệnh nặng. Thông thường thì ngai vàng sẽ được truyền cho một người con trai của hoàng đế, song thúc phụ đằng ngoại của Thành Đế là Dữu Băng (庾冰) muốn kiểm soát triều đình lâu dài hơn nên đã nói với Thành Đế rằng Đông Tấn đang phải đối mặt với mối đe dọa từ Hậu Triệu nên người kế vị cần thiết phải là đã trưởng thành, và thuyết phục Thành Đế truyền ngôi lại cho em trai ruột Lang Da vương Tư Mã Nhạc. Thành Đế chấp thuận và sau khi ông chết, Tư Mã Nhạc lên ngôi và trở thành Khang Đế. Khang Đế lập Tư Mã Dịch làm Đông Hải vương.
Trong thời niên thiếu, Tư Mã Dịch đã trải qua các chức quan. Trong khi vẫn là Đông Hải vương, ông là kết hôn với con gái của Dữu Băng là Dữu Đạo Liên. Năm 361, sau cái chết của người em họ Mục Đế, anh trai của ông là Tư Mã Phi lên kế vị và trở thành Ai Đế, còn bản thân ông trở thành Lang Da vương, tước hiệu mà Ai Đế đã giữ trước đó. Năm 365, sau khi Ai Đế chết trong khi không có con trai, Tư Mã Dịch đã lên kế vị theo chiếu chỉ của Chử Thái hậu (vợ của Khang Đế). Ông lập vợ mình làm hoàng hậu.
Trị vì.
Mặc dù Tư Mã Dịch đã trưởng thành song ông không có quyền lực thực sự, phần lớn các quyết định nằm trong tay Hội Kê vương Tư Mã Dục, song bản thân Tư Mã Dục không phải là có thể hoàn toàn tự ý đưa ra các quyết định do vị tướng Hoàn Ôn nhiều khi cũng áp đặt quyết định của mình cho triều đình.
Ngay lập tức sau khi Tư Mã Dịch lên ngôi, thành Lạc Dương trọng yếu đã rơi vào tay Tiền Yên, do cái chết của Ai Đế nên quân cứu viện đã không thể được gửi đi.
Cuối năm 365, tướng Tư Mã Huân (司馬勳), thứ sử Lương Châu (梁州, nay là phía nam Thiểm Tây) đã nổi loạn, nhưng đã bị đánh bại, bị bắt giữ rồi xử tử vào năm 366.
Vào mùa hè năm 366, Dữu Hoàng hậu qua đời. Tư Mã Dịch sau đó không lập một hoàng hậu nào khác trong suốt thời gian ông trị vì.
Năm 369, Hoàn Ôn đã phát động một cuộc tấn công lớn chống lại Tiền Yên, tiến mọi đường đến vùng lân cận kinh đô của Tiền Yên là Nghiệp thành, song ông đã do dự trong việc tiến hành một trận quyết định vào Nghiệp thành, và rồi sau đó bị đánh bại trước Mộ Dung Thùy và quân Tiền Tần cứu viện.
Hoàn Ôn có tham vọng tiếm quyền và có ý định biểu dương sức mạnh của mình thông qua việc thảo phạt Tiền Yên song đến khi chiến dịch thất bại, sau đó ông ta đã quyết định thể hiện quyền lực theo một cách khác. Ông âm mưu cùng thân tín Si Siêu (郗超) hăm dọa mọi người bằng cách phế truất Tư Mã Dịch. Tuy nhiên, vị hoàng đế này luôn thận trọng khi trị vì và không có bất kỳ lỗi lầm lớn nào, do vậy Hoàn Ôn đã cố tạo ra một thứ. Ông ta đã lan truyền tin đồng rằng Hoàng đế bị liệt dương và không thể có con, các con trai mà Hoàng đế có với Điền mỹ nhân và Mạnh mỹ nhân trên thực tế là con trai ruột của những người mà ông ban đặc ân là Tương Long (相龍), Kế Hảo (計好), và Chu Linh Bảo (朱靈寶), các tin đồn thậm chí còn ám chỉ về việc có quan hệ nam sắc giữa Hoàng đế và ba người này. Sau đó Hoàn Ôn đến kinh thành và đe dọa Chử Thái hậu để buộc bà phải ban hành một chiếu chỉ mà ông ta đã soạn sẵn để truất phế Tư Mã Dịch. Ông đưa Tư Mã Dục lên ngôi, trở thành Giản Văn Đế. Phế Đế bị giáng xuống làm Đông Hải vương, tước hiệu mà ông đã giữ trong hầu hết cuộc đời. Hoàn Ôn cho xử tử Điền mỹ nhân và Mạnh mỹ nhân cùng ba con trai của họ. Ông cũng tàn sát các gia tộc có nhiều quyền lực là Ân và Dữu.
Sau khi bị phế.
Hoàn Ôn tuy vậy vẫn muốn tiếp tục giáng tước hiệu của vị cựu hoàng đế, ông ta đề xuất giáng Tư Mã Dịch thành dân thường. Chử Thái hậu chống lại điều này và chỉ giáng Tư Mã Dịch thành Hải Tây công. Hoàn Ôn lo sợ rằng vị cựu hoàng đế có thể sẽ cố trở lại ngai vàng nên đã lưu đày Tư Mã Dịch đến Ngô huyện (吳縣, nay thuộc Tô Châu, Giang Tô) và đặt vị cựu hoàng đế dưới sự canh giữ nghiêm ngặt.
Vào mùa đông năm 372, quân nổi loạn nông dân Lô Tùng (盧悚) tuyên bố rằng có một chiếu chỉ của Chử Thái hậu để phục vị cho Phế Đế, và ông ta đã cử sứ giả đến chỗ Hải Tây công để thuyết phục ông tham gia nổi loạn. Ban đầu, Hải Tây công tin Lô Tùng, nhưng sau đó ông nhận ra rằng nếu Chử Thái hậu thật sự muốn phục vị cho mình thì bà sẽ cử cận binh triều đình đến hộ tống, và do đó nhận ra rằng không hề có sắc lệnh nào. Không có sự ủng hộ của vị cựu hoàng đế, cuộc nổi loạn của Lô Tùng đã thất bại.
Trong khi lưu đày, cựu hoàng đế luôn lo sợ trước cái chết, vì vậy ông đã dành thời gian của mình để thỏa mãn tửu sắc và âm nhạc, nhằm thể hiện cho Hoàn Ôn rằng ông không còn mong muốn hoạt động chính trị. Khi các thê thiếp của mình sinh con, ông đều không dám nuôi dưỡng chúng, và phải chọn giải pháp siết cổ vì nếu không sẽ chứng minh cho thiên hạ rằng Hoàn Ôn đã cáo buộc sai trái. Sau đó, Hoàn Ôn bắt đầu nới lỏng các hạn chế với ông. Ông mất năm 386 (sau Hoàn Ôn 13 năm) và được táng tại Ngô huyện. Vợ ông, Dữu Hoàng hậu, được cải táng để chôn cùng ông.
Gia quyến.
Con cái.
Ba người con trai do Điền Mỹ nhân và Mạnh Mỹ nhân sinh ra , bị Hoàn Ôn xử tử. | 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 78 (tiếng Anh: "Interstate 78" hay viết tắt là I-78) là một xa lộ liên tiểu bang tại Đông Bắc Hoa Kỳ, có tổng chiều dài là 144 dặm (231 km), bắt đầu từ Xa lộ Liên tiểu bang 81 nằm ở phía đông bắc thành phố Harrisburg, Pennsylvania đi qua Allentown, Pennsylvania, tây và bắc tiểu bang New Jersey đến Đường hầm Holland và Hạ Manhattan trong Thành phố New York.
I-78 là một con lộ chính nối các cảng trong Thành phố New York và khu vực New Jersey với các điểm phía tây với trên 4 triệu xe tải hàng năm, tiêu biểu khoảng 24% tất cả xe cộ. Giao thông bằng xe tải trên xa lộ này được tiên đoán gia tăng một khi Kênh đào Panama được hoàn thành việc mở rộng vào năm 2015. Khi đó có nhiều tàu thuyền của châu Á được tiêu đoán là sẽ cập các cảng Đông Duyên hải Hoa Kỳ.
Mô tả xa lộ.
Pennsylvania.
I-78 bắt đầu tại nút giao thông với Xa lộ Liên tiểu bang 81 nằm trong Xã Union, Quận Lebanon, Pennsylvania, khoảng 25 dặm (40 km) về hướng đông bắc Harrisburg. Gần điểm cuối phía đông của quận, tại lối ra 8, Quốc lộ Hoa Kỳ 22 nhập vào I-78, chạy trừng nhau khoảng tiếp theo.
Ở lối ra 51 trong Xã Upper Macungie, Quốc lộ Hoa Kỳ 22 rời khỏi xa lộ cao tốc. Người lái xe trên chiều hướng đông của I-78 phải dùng lối ra này để đến I-476 (đoạn nối dài đông bắc của Xa lộ thu phí Pennsylvania), và người lái xe chiều hướng tây phải dùng lối ra 53 và sau đó dùng Quốc lộ Hoa Kỳ 22 chiều hướng tây. Từ lối ra 53 đến 60, I-78 chạy trùng với Xa lộ Pennsylvania 309. Xa lộ sáu làn xe trùng này đi tránh khỏi thành phố Allentown về phía nam và đi qua Núi South.
Tại lối ra 60, PA 309 chiều hướng nam rời xa lộ I-76 để đi đến Quakertown. Sáu dặm sau đó, có một nút giao thông giữa Xa lộ Pennsylvania 412 và I-78 tại Hellertown. Xa lộ 412 cũng đi đến Bethlehem và Đại học Lehigh. Tại mốc dặm 71, Xa lộ Pennsylvania 33 giao cắt nó tại lối ra 71. Xa lộ 33 đi qua Dãy núi Pocono và đi đến Bangor và Xa lộ Liên tiểu bang 80. Lối ra cuối cùng trên I-78 trong tiểu bang Pennsylvania là để đến Lộ Morgan Hill là lộ đi đến Xa lộ Pennsylvania 611 và Easton. Xa lộ Liên tiểu bang 78 sau đó vượt Cầu thu phí Xa lộ Liên tiểu 78 và vào tiểu bang New Jersey.
New Jersey.
Sau khi qua Cầu thu phí Xa lộ Liên tiểu bang 78, I-78 vào tiểu bang New Jersey với tên gọi là "Xa lộ cao tốc Phillipsburg-Newark". Xa lộ bắt đầu chạy song song với Xa lộ Quận 642 trong thị trấn Alpha. Tại lối ra 3, một nút giao thông lập thể gom Quốc lộ Hoa Kỳ 22, Xa lộ New Jersey 122 và Xa lộ New Jersey 173 lại với Xa lộ Liên tiểu bang 78 tại thị trấn Phillipsburg. Quốc lộ Hoa Kỳ 22 bây giờ chạy trùng với I-78 cho đoạn đường dài kế tiếp. Đi về hướng tây, lối ra 4 rời bên tay phải để vào Lộ quận 637 và Warren Glen. Lối ra kế là lối ra số 6 đến Lộ quận 632 tại Bloomsbury. Tuy nhiên số xa lộ không được cắm biển trên Xa lộ Liên tiểu bang 78. Lối ra 7 là lối đầu tiên trong số một vài lối ra chiều hướng đông của Xa lộ New Jersey 173. Lối ra này nằm trong Bloomsbury khi Xa lộ 173 bắt đầu chạy song song với xa lộ liên tiểu bang. Bốn dặm sau đó, Lối ra 11 rời phía bên phải như một lối ra khác cho Xa lộ New Jersey 173. Lộ quận Warren 614 cũng nằm ngoài lối ra. Lối ra 12, chiều hướng tây lần nữa dành cho NJ 173. Tuy nhiên, Lối ra 12 chiều hướng đông dành cho con lộ chạy cặp song song với Xa lộ Liên tiểu bang 78.
Lối ra 13 chỉ dành cho chiều hướng tây và là lối ra khác của NJ 173. Gần lối ra này, đi chiều hướng đông, lộ chạy cặp song song nhập vào xa lộ liên tiểu bang. Lối ra 15 dành cho NJ 173 và Lộ quận 513 tại Xã Franklin. Lối ra 17 dành cho NJ 31 tại Xã Clinton. Trong thị trấn Annandale, Quốc lộ Hoa Kỳ 22 rời Xa lộ Liên tiểu bang 78 tại lối ra 18. Quốc lộ 22 tiếp tục đi về hướng Bound Brook và Quận Union. Tại lối ra 20, Lộ quận Hunterdon 639 giao cắt I-78. Hunterdon 639 đi về phía Hồ Thung lũng Round Valley. Lối ra 24 dành cho Lộ quận 523 đi Oldwick. Tại lối ra 29, Xa lộ Liên tiểu bang 287, Quốc lộ Hoa Kỳ 202 và Quốc lộ Hoa Kỳ 206 chuyển đổi đường với I-78 tại Bedminster. Tại điểm này, trong Quận Somerset, Lối ra 33, 36 và 40 là dành cho các lộ quận trong Xã Warren. Tại lối ra 41, I-78 đi vào Quận Union. Tại lối ra 45, Lộ quận 527 giao cắt sau khi chạy song song một đoạn. Phía tây lối ra 48, I-78 tách thành xa lộ cao tốc và xa lộ địa phương. Lối ra 48 dành cho Xa lộ New Jersey 24 tại Springfield. Lồi ra 49A dành cho các xa lộ nhánh ngắn của NJ 24, Xa lộ New Jersey 124. Lối ra 52 dành cho Xa lộ Công viên Tiểu bang Garden trong Union. Tại Lối ra 57 và 58, Xa lộ New Jersey 21, Quốc lộ Hoa Kỳ 1, Quốc lộ Hoa Kỳ 9 và Quốc lộ Hoa Kỳ 22 giao cắt Xa lộ Liên tiểu bang 78. Lối ra tạo đường đi đến Sân bay quốc tế Newark Liberty.
Phía đông lối ra 58 tại mũi phía đông Newark, I-78 trở thành Xa lộ nối dài Vịnh Newark của Xa lộ thu phí New Jersey. Qua trạm thu phí đầu tiên, I-78 có một nút giao thông với Xa lộ Liên tiểu bang 95 (Xa lộ thu phí New Jersey) và băng qua Vịnh Newark qua ngã Cầu Vịnh Newark. Lối ra đầu tiên, 14A, dành cho Xa lộ New Jersey 440 tại Bayonne. Có thể đến Công viên Tiểu bang Liberty và Trung tâm Khoa học Liberty bằng Lối ra 14B. Lối ra 14C là lối ra mang số cuối cùng, tạo lối đến Xa lộ thu phí New Jersey. Xa lộ New Jersey 139 chạy trùng với I-78 khi nó gần đến Đường hầm Holland và đi vào tiểu bang New York.
Thành phố New York.
Chiều dài của I-78 trong tiểu bang New York chỉ khoảng 1/2 dặm (1 km) - nửa đường hầm Holland và vòng xoay chỉ dành làm lối ra nằm ngay bên ngoài điểm cuối đường hầm. Con đường này được hoạch định chạy về phía đông và bắc qua Thành phố New York để kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 95 tại the Bronx, nhưng các đoạn của con đường được dự định xây dựng trong đó có Xa lộ cao tốc Hạ Manhattan bị hủy bỏ.
Trong Thành phố New York, I-78 tiếp tục chạy qua vòng xoay chỉ dành làm lối ra được biết với tên gọi là "Saint John's Rotary". Năm lối ra riêng biệt từ vòng xoay được đặt số từ 1 đến 5 - theo chiều ngược kim đồng hồ. Lối ra cuối cùng — và là lối đi tiếp tục về hướng đông — là Lối ra 5 và cũng là Phố Canal. Theo các kế hoạch gốc, I-78 đáng ra sẽ tiếp tục đi qua Manhattan với tên gọi là Xa lộ cao tốc Hạ Manhattan rồi lên Cầu Williamsburg, và sau đó ra khỏi I-278 trên xa lộ cao tốc chưa từng được xây tên Bushwick qua Brooklyn vào trong Queens gần Sân bay quốc tế John F. Kennedy. Một đoạn của I-78 tại sân bay được xây dựng với tên gọi là Xa lộ cao tốc Nassau, sau đó có tên là Xa lộ Liên tiểu bang 878 và hiện nay là Xa lộ New York 878 mặc dù phần lớn chiều đi hướng tây chưa bao giờ được xây dựng. Ở phía đông sân bay, I-78 đáng lẽ quay hướng bắc trên Xa lộ cao tốc Clearview (được xây ở phía bắc Phố Hillside trong khu Queens và hiện nay là I-295), chạy qua Cầu Throgs Neck, và chia thành hai nhánh ngắn, kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 95 qua ngã Xa lộ cao tốc Throgs Neck (bây giờ là I-695) và Nút giao thông lập thể Bruckner qua ngã Xa lộ cao tốc Cross Bronx (hiện nay là một phần của I-295).
Các xa lộ phụ.
Tất cả các xa lộ phụ của I-78 đều phục vụ Thành phố New York; tuy nhiên, không có xa lộ nào thật sự giao cắt với I-78 vì xa lộ I-78 bị thu ngắn lại ở điểm cuối phía đông của đường hầm Holland.
Tại đông Pennsylvania, Xa lộ 378 vào phố chính Bethlehem từng là Xa lộ Liên tiểu bang 378, nhưng được thiết kế lại thành một xa lộ tiểu bang sau khi I-78 bị đổi đường sang một con đường mới ở phía nam. Một Xa lộ Liên tiểu bang 178 ban đầu được dự kiến như một đoạn kéo dài vào phố chính Allentown nhưng bị hủy bỏ vì sự phản đối của địa phương. | 1 | null |
Trong thể thao, huấn luyện viên là người trực tiếp huấn luyện, đào tạo và hướng dẫn các hoạt động của một đội thể thao hoặc của một cá nhân vận động viên.
Một huấn luyện viên, đặc biệt trong một trận đấu lớn, thường được hỗ trợ bởi một hoặc nhiều trợ lý huấn luyện viên. Họ có thể là điều phối viên hoặc chuyên gia thể lực. | 1 | null |
Trần Sỹ Thanh (sinh năm 1971) là chính khách Việt Nam. Ông hiện là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Bí thư Ban Cán sự đảng UBND Thành phố Hà Nội.
Ông từng giữ các chức vụ như: Phó Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Tổng Kiểm toán Nhà nước.
Thân thế.
Trần Sỹ Thanh sinh ngày 16 tháng 3 năm 1971, nguyên quán tại xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.. Sinh ra và lớn lên tại Nam Định.
Giáo dục.
Ông có trình độ học vấn trên đại học, có trình độ chính trị Cao cấp lí luận chính trị.
Ông có trình độ chuyên môn là Đại học Tài chính Kế toán (nay là Học viện Tài chính).
Sự nghiệp.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/06/1995, lúc 24 tuổi.
Ngày 5 tháng 2 năm 2004, lúc 33 tuổi, ông được bổ nhiệm giữ chức Chánh Văn phòng Kho bạc Nhà nước Việt Nam.
Ba năm sau, lúc 36 tuổi, trước khi được điều chuyển tham gia Tỉnh ủy Đắk Lắk, ông giữ chức Phó Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước Việt Nam.
Ngày 12 tháng 11 năm 2008, lúc 37 tuổi, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê chuẩn bổ nhiệm vào chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Ngày 3 tháng 10 năm 2010, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV, ông được bầu giữ chức Phó bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và làm đại biểu tham dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI. Tại Đại hội Đảng toàn quốc, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương, tham gia Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Ngày 4 tháng 6 năm 2012, lúc 41 tuổi, ông thôi tham gia Ủy ban Kiểm tra Trung ương để tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang nhiệm kỳ 2010 - 2015 thay người tiền nhiệm là ông Nông Quốc Tuấn về giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc.
Ngày 11 tháng 1 năm 2015, tại Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) đã bầu bổ sung ông vào Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng (Khóa XI). Đến ngày 13 tháng 2 năm 2015, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương.
Tuy nhiên chỉ 8 tháng sau, ông lại được Bộ Chính trị điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn và chính thức nhận chức vụ này từ ngày 28 tháng 10 năm 2015.
Sáng 24/12/2017 tại TP Lạng Sơn diễn ra Hội nghị triển khai các Quyết định của Bộ chính trị về công tác cán bộ. Ông được điều động về Ban kinh tế TƯ; giữ chức vụ Phó Trưởng Ban kinh tế Trung ương, kiêm Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam.
Tại Quyết định số 2314-QĐNS/TW ngày 23-8, Bộ Chính trị quyết định: Ông Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) thôi giữ chức Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương nhiệm kỳ 2015 – 2020. Ông Thanh được điều động, phân công đến công tác tại Văn phòng Quốc hội và chỉ định giữ chức Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội khóa XIV.
Ngày 26 tháng 8 năm 2020, đại hội đại biểu Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội lần thứ XIV đã bầu Ban chấp hành nhiệm kỳ 2020 - 2025, Ông Trần Sỹ Thanh được Ban chấp hành Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội bầu làm Bí thư Đảng ủy, nhiệm kỳ 2020-2025.
Ngày 30 tháng 1 năm 2021, Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đồng chí được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, nhiệm kỳ 2021-2026.
Tổng Kiểm toán Nhà nước.
Ngày 7 tháng 4 năm 2021, Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội thông qua nghị quyết bầu ông Trần Sỹ Thanh - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội giữ chức vụ Tổng Kiểm toán Nhà nước với 462/462 đại biểu có mặt tán thành (chiếm 96,25% tổng số đại biểu Quốc hội).
Ngày 21 tháng 7 năm 2021, Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thông qua nghị quyết bầu ông Trần Sỹ Thanh - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Kiểm toán Nhà nước khóa XIV tiếp tục được Quốc hội bầu giữ vị trí Tổng Kiểm toán Nhà nước khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026.
Thành phố Hà Nội.
Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Thành uỷ Hà Nội đã diễn ra hội nghị công bố quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ. Theo đó, ông Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Tổng Kiểm toán Nhà nước thôi giữ chức Bí thư Ban cán sự Đảng Kiểm toán Nhà nước để điều động, phân công, chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội nhiệm kỳ 2020-2025.
Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại kỳ họp thứ 8 Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026, các đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố đã biểu quyết bầu ông Trần Sỹ Thanh, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026. | 1 | null |
Judy Anne Lumagui Santos hay nghệ danh là Judy Ann Santos (sinh ngày 11 tháng 5 năm 1978) là một diễn viên, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Philippines. Sau khi lấy chồng là Ryan Agoncillo, tên của bà đã được chuyển sang họ chòng là Judy Anne Lumagui Santos-Agoncillo và nghệ danh cũng là Judy Ann Santos-Agoncillo
Tiểu sử.
Nguyên tên cô là Judy Anne Lumagui Santos, sinh ngày 11 tháng 5 năm 1978 tại Manila, Philippines. Cha mẹ cô là Manuel Santos và Carolina Santos.. Mẹ cô chuyển sang Toronto, Canada khi cô mới 5 tuổi để học vào ngành y.
Khi bước vào sự nghiệp điện ảnh, cô lấy nghệ danh là Judy Ann Santos. Sau khi lấy chồng là Ryan Agoncillo, cô ghép họ chồng với họ mình để thành Judy Anne Lumagui Santos-Agoncillo. Nghệ danh của cô theo đó cũng đổi thành Judy Ann Santos-Agoncillo.
Con cái.
Cô và Ryan Agoncillo chính thức trở thành vợ chồng từ năm 2009.Sau đó,cô có một con trai: Juan Luis Santos-Agoncillo (Lucho) và một con gái: Johanna Louis Santos-Agoncillo (Yohan) | 1 | null |
Người Việt tại Anh là một bộ phận cấu thành nên cộng đồng Việt kiều ở nước ngoài. Người Anh gốc Việt (tiếng Anh: Vietnamese British people, British Vietnamese hoặc Vietnamese Britons) là những người Việt nhập cư vào Anh, họ có thể là công dân hoặc không phải công dân Anh.
Có khoảng 30 ngàn người Việt sống hợp pháp ở Anh. Ngoài ra, cảnh sát phỏng đoán khoảng 35 ngàn người khác sống bất hợp pháp ở nước này. (2010)
Tệ nạn.
Theo Reuters, Việt Nam luôn nằm trong ba nước có số lượng nạn nhân cao nhất của tệ nạn nô lệ hiện đại ở Anh Quốc. Số liệu cho thấy hơn một nửa nạn nhân là trẻ dưới vị thành niên.
Nạn nhân thường bị bóc lột lao động ở các trang trại trồng cần sa hay các tiệm làm móng. Một số còn bị lạm dụng tình dục.
Buôn trẻ em Việt làm nô lệ.
Theo báo "The Guardian" ngày 23/5/2015, Philip Ishola, cựu Cục trưởng Cục Phòng chống nạn buôn người tại Anh, cho biết: “Chúng tôi ước tính có khoảng 3.000 trẻ em Việt Nam đang bị lợi dụng để kiếm tiền cho các băng nhóm tội phạm ở Anh”. Họ bị buộc phải lao động như nô lệ ở Anh để kiếm tiền cho các tổ chức tội phạm đang vận hành các xưởng cần sa, tiệm làm móng, xưởng may quần áo, nhà thổ… Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp Quốc ước tính khoảng 30 trẻ em Việt Nam bị đưa bất hợp pháp vào Anh mỗi tháng.,
Làm móng tay bất hợp pháp.
Gần 100 người làm việc trong các tiệm làm móng tay ở nước Anh, đa phần là người Việt, đã bị bắt vì tình nghi nhập cư trái phép. Các nhân viên phụ trách nhập cư đã kiểm tra các tiệm làm móng tay trên khắp nước Anh vào khoảng thời gian từ 27/11 tới 3/12/2016. 14 người được xác định có thể là nạn nhân nạn buôn bán người.
Chiến dịch truy quét mới nhất chống sử dụng lao động phi pháp ở Anh được Thứ trưởng chuyên trách Nhập cư, ông Robert Goodwill cho là nỗ lực nhằm giải quyết những "tội ác man rợ của chế độ nô lệ hiện đại". Luật về Nạn Nô lệ Hiện đại (Modern Slavery Act 2015) nêu ra hai định nghĩa 'bắt người khác làm nô lệ' (slavery) và 'khai thác, hưởng dụng khổ sai' (servitude) là những hành động phạm pháp. | 1 | null |
Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là Hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Triều Tiên và triều đại Đế quốc Đại Hàn.
Cuộc đời.
Tiểu sử.
Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu họ Doãn, bổn quán Hải Bình Doãn thị (海平尹氏), là con gái của Doãn Trạch Vinh (尹泽荣) và Khánh Hưng Phủ phu nhân Du thị (庆兴府夫人俞氏). Sinh ra ở quận Dương Bình, Kinh Kỳ đạo.
Năm 1904, tháng 11, Hoàng thái tử phi Mẫn thị (sau này được truy phong Thuần Minh Hiếu Hoàng hậu), vợ chính thức đầu tiên của Thái tử Lý Thạch qua đời. Sau khi mãn tang, triều đình Đại Hàn quyết định bàn luận người kế nhiệm danh vị Thái tử phi.
Sang tháng 3 năm 1906, bắt đầu lựa chọn tân nhiệm Thái tử phi, năm đó Doãn thị 13 tuổi tham tuyển.
Quang Vũ năm thứ 10 (1906), ngày 4 tháng 7, tiến hành sơ tuyển chọn lựa. Sang ngày 22 tháng 9, quyết định chọn con gái của Doãn Trạch Vinh, con gái của Thẩm Chung Xán cùng con gái của Thành Kiện Hạo trúng tuyển. Sang ngày 31 tháng 12, chính thức cử hành Tam giản trạch (三拣择), và Doãn thị cuối cùng trở thành Tân nhiệm Thái tử phi.
Sang năm sau (1907), ngày 24 tháng 1, Thái tử Lý Thạch cùng Doãn thị cử hành lễ đại hôn tại An Quốc động Biệt cung (安国洞别宫). Cùng ngày, còn tổ chức lễ phong Phi ở Khánh Vận cung và nhận triều bái của bá quan. Như vậy, Doãn thị chính thức trở thành vợ kế của Thái tử Đại Hàn, bà được gọi là Đông Cung Kế phi (东宫继妃).
Thực tế, việc Doãn thị trở thành Kế phi theo nhiều tài liệu đương thời, đều là nguyên nhân chính trị. Cha bà Doãn Trạch Vinh đã ngầm cùng phe với Thuần Hiến hoàng quý phi Nghiêm thị, do cụ nội của Doãn phi là Doãn Dung Thiện vốn là tâm phúc đại thần của Nghiêm phi. Theo liệu của Thống Giám phủ (統監府) của Nhật Bản đặt tại Đại Hàn còn minh xác chỉ ra:
Đại Hàn hoàng hậu.
Năm 1907, tháng 7, Triều Tiên Cao Tông bị người Nhật bức thoái vị, chồng bà lên nối ngôi trở thành Long Hi hoàng đế, và bà trở thành Hoàng hậu của Đại Hàn Đế quốc. Sở dĩ bà được danh xưng Hoàng hậu thay vì Vương phi như những chánh thất của các vua Triều Tiên trước, vì Thuần Tông và Cao Tông xưng Hoàng đế, các vị vua trước chỉ xưng Vương. Bà kế thừa vị trí Trung điện từ Vương phi Mẫn thị, nhưng lại là người phụ nữ đầu tiên (và duy nhất) ở Hàn Quốc hưởng lễ nghi của một Hoàng hậu.
Long Hi Đế không có khả năng sinh đẻ, nên Doãn hậu vì vậy không có sinh ra người kế thừa. Vào tháng 9 cùng năm, Long Hi nguyên niên, Hoàng đế sau khi lên ngôi khoảng 2 tháng đã quyết định lập con trai của Nghiêm phi là Anh Thân vương Lý Ngân làm Hoàng thái tử. Tháng 11 năm đó, Doãn hậu cùng Long Hi Đế dời từ Khánh Vận cung sang Xương Đức cung.
Trong thời gian làm Hoàng hậu, bà chủ trương nữ học, còn thiết trí nữ trợ giảng, hạ chỉ chấn hưng học vấn của phụ nữ. Ngoài ra, bà còn học tiếng Nhật ở trong cung. Bà như thế có một cuộc sống buồn thảm, do chồng mình không chuyên chuyện phòng the, nên cứ lấy việc học và giáo dục để tìm thú qua ngày. Tương truyền hơn 20 năm ở trong cung, bà chưa bao giờ bước ra khỏi cung điện nửa bước, cùng lắm là tản bộ hoa viên mà thôi. Chính thê của Thái tử Lý Ngân là Lý Phương Tử mô tả cuộc sống của bà "không khác gì tù nhân".
Năm 1910, ngày 22 tháng 8, Nhật Bản bắt ép Đại Hàn kí kết "Nhật Hàn hợp tịnh điều ước" (日韩合并条约), chính thức đem bán đảo Triều Tiên trở thành thuộc địa của Nhật Bản, Đại Hàn Đế quốc chính thức diệt vong. Nghe nói, khi Long Hi Đế thương thảo chiếu thoái vị cùng Lý Hoàn Dụng, Doãn Đức Vinh (bác của Doãn hậu), Doãn hoàng hậu núp sau bình phong sau đó chạy ra, mạnh mẽ đem ngọc tỷ giấu đi, sau bá phụ Đức Vinh của bà phải dùng vũ lực lấy lại.
Sau khi Đại Hàn diệt vong, hoàng thất Đại Hàn bị sáp nhập vào hoàng thất Nhật Bản, gọi là Lý vương, do đó bà trở thành Doãn phi (尹妃).
Cuối đời.
Ngày 24 tháng 4 năm 1926, Thuần Tông qua đời không con thừa tự. Doãn phi túc trực bên linh cữu, không ăn không uống nhiều ngày. Lý Ngân kế vị thành Lý vương, Doãn phi trở thành Đại phi, nhưng cuối cùng bà chọn dọn ra Đại Tạo điện mà chuyển đến Nhạc Thiện trai (乐善斋) bên trong Xương Đức cung. Bà trở thành Phật tử những năm cuối cuộc đời, pháp hiệu là Đại Địa Nguyệt (大地月).
Năm 1945, Nhật Bản đầu hàng, Bán đảo Triều Tiên được khôi phục bởi chính quyền Lý Thừa Vãn, đối với cựu tộc họ Lý thập phần lãnh đạm, bà tiếp tục cuộc sống không mấy thoải mái ở Nhạc Thiện trai. Năm 1950, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Quân đội Nhân dân Triều Tiên đánh chiếm Seoul, tiếp cận Nhạc Thiện trai và Doãn Đại phi bị bắt lôi ra. Tương truyền, khi đứng trước lực lượng quân dân, Doãn Đại phi khi đó đã quát tiếng nói: "“Nơi này là quốc mẫu cư trú địa phương!”". Từ đó về sau, câu chuyện này trở thành giai thoại rất nổi tiếng ở Hàn Quốc. Khoảng 5 ngày sau, bà được phóng thích, nhưng Nhạc Thiện trai đã bị cướp bóc không còn thứ gì. Không còn nơi nào, bà được người khác mời đến Vân Hiện cung (云岘宫) của Hưng Tuyên Đại Viện Quân. Liên hiệp quốc quân đánh vào Seoul, bà lại theo người Mỹ đến Busan tị nạn. Đến năm 1952, bà lại về Nhạc Thiện trai.
Nhưng vào năm 1953, Lý Thừa Vãn không muốn vương thất họ Lý sẽ chia sẻ quyền lực với mình, bèn ban bố "Cựu vương thất tài sản xử trí pháp" (旧王室财产处置法), Hàn Quốc chính phủ vì thế đem Xương Đức cung lẫn Nhạc Thiện trai xung vào quốc khố.Doãn Đại phi lần nữa bị đuổi đi, bà được người quen đem về nhà nông thôn ở Trinh Lăng (貞陵), vùng ngoại ô của Seol.
Năm 1960, ngày 4 tháng 5, sau khi Lý Thừa Vãn bị hạ bệ và lưu vong ở Hawai, Doãn Đại phi lần nữa được mời về Seoul và vào ở Nhạc Thiện trai. Thành viên Đảng Dân chủ của Hàn Quốc là Ngô Tại Cảnh (오재경) phát hiện quan viên chính quyền thu dụng lượng tài sản khổng lồ của cựu vương thất, rồi ngấm ngầm đem bán đổi ra tiền mặt để tiêu sài, sự việc khiến ông ghê tởm và quyết định đanh thép sửa chữa. Nhưng công việc đang tiến hành, thì văn phòng của ông bị hỏa hoạn, tài liệu vật chứng gần như bị hủy, ông biết có quá nhiều người muốn ém nhẹm nên đã từ chức.
Tài sản họ Lý bị quan chức thu mua chiếm dụng, nên Doãn Đại phi tuy là trưởng bối còn sống cao nhất của dòng tộc, cũng không thể làm gì khác. Ấn theo quy định đãi ngộ, mỗi tháng quốc ngân chi ra 500.000 WON để sinh hoạt. Về sau, Phác Chính Hi là một người có thiện cảm với cựu vương triều lên cầm quyền, cuộc sống của bà mới khá khẩm hơn một chút.
Ngày 3 tháng 2, năm 1966, Doãn phi qua đời do một cơn đau tim, thọ 72 tuổi. Bà được an táng cạnh Thuần Tông hoàng đế tại Dụ lăng (裕陵). Bà được Toàn Châu Lý thị đại đồng tông ước viện (全州李氏大同宗約院) dâng thụy hiệu là Hiến Nghi Từ Nhân Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu (獻儀慈仁純貞孝皇后). | 1 | null |
Trường phái Frankfurt (tiếng Đức: "Frankfurter Schule") là trường phái lý thuyết xã hội tân Marxist, có gắn với Viện Nghiên cứu Xã hội của Đại học Frankfurt am Main. Trường phái này bao gồm những người theo chủ nghĩa Marx bất đồng chính kiến, những người này cho rằng một vài người theo chủ nghĩa Marx đã bắt chước những ý tưởng của Marx một cách hạn hẹp, thường là để bảo vệ cho những đảng phái cộng sản chính thống. Trong khi đó, rất nhiều nhà lý thuyết cho rằng lý thuyết Marx chưa giải thích tương xứng sự phát triển hỗn loạn và không mong đợi của các xã hội tư bản trong thế kỷ 20. Chỉ trích cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, các tác phẩm của trường phái Frankfurt chỉ ra khả năng về một hướng đi khác cho sự phát triển xã hội.
Dù đôi khi liên kết một cách lỏng lẻo, những nhà lý thuyết của trường phái Frankfurt thường có chung một mô thức suy nghĩ, chia sẻ cùng những giả thuyết và quan tâm tới những vấn đề tương tự nhau. Nhằm lấp đầy khoảng trống của chủ nghĩa Marx truyền thống, họ cố gắng tìm ra câu trả lời từ những trường phái tư tưởng khác, từ đó sử dụng quan điểm của xã hội học phản thực chứng, phân tâm, triết học hiện sinh và nhiều chuyên ngành khác. Các nhân vật chính của trường phái Frankfurt cố gắng học hỏi và tổng hợp các tác phẩm của rất nhiều nhà tư tưởng như Kant, Hegel, Marx, Freud, Weber và Lukács.
Giống như Marx, họ cũng quan tâm tới những điều kiện cho phép xảy ra sự thay đổi xã hội và sự hình thành của những thể chế duy lý. Sự nhấn mạnh của trường phái Frankfurt vào lý thuyết phê phán có mục đích là khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa duy vật và thuyết quyết định bằng cách trở lại với triết học phê phán của Kahn và những người kế tục ông thuộc chủ nghĩa duy tâm Đức, nền tảng là triết học của Hegel, trong đó nhấn mạnh cho rằng biện chứng và mâu thuẫn là những thuộc tính vốn có của thực tế. | 1 | null |
Theodor W. Adorno (11 tháng 9 năm 1903 - 6 tháng 8 năm 1969) là một nhà xã hội học, triết học và âm nhạc học người Đức, nổi tiếng với lý thuyết phê phán xã hội.
Ông là thành viên chủ chốt của trường phái Frankfurt, trường phái có gắn với những nhà tư tưởng như Ernst Bloch, Walter Benjamin, Max Horkheimer và Herbert Marcuse, trong đó các tác phẩm của Freud, Marx và Hegel được sử dụng để phê phán xã hội hiện đại. Adorno được coi là một trong những nhà tư tưởng tiên phong về mỹ học và triết học của thế kỷ 20, cũng như một nhà tiểu luận xuất chúng. Với tư cách là một người phê phán chủ nghĩa Phát xít và cái ông gọi là công nghiệp văn hóa - các tác phẩm của Adorno - ví dụ như "Dialectic of Enlightenment" (1947), "Minima Moralia" (1951) và "Negative Dialectics" (1966) đã có những ảnh hưởng sâu sắc tới phe cánh tả châu Âu. | 1 | null |
Bãi Xà Cừ (tiếng Anh: "Observation Bank"; , Hán-Việt: "Ngân dự") là một rạn san hô, trên đó có một cồn cát nhỏ nổi lên. Thực thể địa lý này được xếp vào nhóm đảo Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa. Bãi Xà Cừ cách đảo Hoàng Sa 5,8 hải lý (10,7 km) về phía đông bắc và tạo thành đỉnh của vòng cung san hô đặc trưng cho nhóm Lưỡi Liềm.
Bãi Xà Cừ là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát bãi này.
Đặc điểm.
Bãi Xà Cừ là rạn san hô với nơi dài nhất khoảng 5 km, nơi rộng nhất khoảng 2,3 km. Trên bãi Xà Cừ còn có một cồn cát nhỏ có diện tích đất nổi khoảng 1,7 ha, nhưng hiện chưa rõ tên gọi tiếng Việt cụ thể. Trung Quốc gọi nó là "Ngân dự tử" (tiếng Trung: 银屿仔, ).
Xã khu Ngân Dự.
Xã khu Ngân Dự là một đơn vị hành chính không chính thức (tương đương với cấp thôn ở Việt Nam) được Trung Quốc thành lập năm 2013 trên địa phận bãi Xà Cừ, quy thuộc nó vào địa phận của Khu quản lý hành chính Quần đảo Vĩnh Lạc, quận Tây Sa, thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam. Xã khu này có khoảng 10 hộ gia đình cư trú trên cồn cát mà phía Trung Quốc gọi là Ngân Dự Tử. | 1 | null |
Đá Hải Sâm (tiếng Anh: "Antelope Reef"; , Hán-Việt: "Linh Dương tiêu") là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa. Đá này nằm cách đảo Quang Ảnh khoảng 1,5 hải lý (2,8 km) về phía đông và cách đảo Hữu Nhật khoảng 0,5 hải lý (0,9 km) về phía nam.
Đá Hải Sâm là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát rạn vòng này.
Đặc điểm.
Rạn san hô đá Hải Sâm dài khoảng 3 hải lý (5,6 km), rộng khoảng 2 hải lý (3,7 km) và chìm xuống nước khi thủy triều lên.
Ở góc đông nam của ran san hô nổi lên một cồn cát cao 1 m so với mực nước biển và rộng 1,5 ha; Trung Quốc gọi nó là "bãi cát Khuông Tử" (tiếng Trung: 筐仔沙洲; bính âm: "Kuāngzǎi Shāzhōu;" Hán-Việt: "Khuông Tử sa châu)", có tọa độ địa lý là .
Xã khu Linh Dương.
Xã khu Linh Dương là một đơn vị hành chính không chính thức (tương đương cấp thôn ở Việt Nam) được Trung Quốc thành lập năm 2010 trên địa phận đá Hải Sâm và đảo Hữu Nhật, thuộc Khu quản lý hành chính Quần đảo Vĩnh Lạc, quận Tây Sa, thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam. Năm 2014, đảo Hữu Nhật được tách ra khỏi xã khu Linh Dương để thành lập xã khu Cam Tuyền. | 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 82 (tiếng Anh: "Interstate 82" hay viết tắt là I-82) là một xa lộ liên tiểu bang dài kéo dài từ I-90 tại Ellensburg, Washington đến I-84 gần Umatilla, Oregon tại Hoa Kỳ. Trong tiểu bang Washington, nó phục vụ các thành phố Ellensburg, Yakima, và vùng đô thị Tri Cities (qua ngã I-182). Tại tiểu bang Oregon, nó phục vụ Umatilla và Hermiston. Đây là một xa lộ then chốt đi về phía tây đến thành phố Seattle và về phía đông đến thành phố Boise và Thành phố Salt Lake (qua ngã I-84 và I-15). Mã số I-82 vi phạm luật mã số của Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang vì thứ nhất xa lộ này nằm về phía bắc I-84 (luật mã số quy định mã số xa lộ tăng từ phía nam lên phía bắc đối với các xa lộ liên tiểu bang có số chẵn), thứ hai nó thật sự là một xa lộ chính yếu bắc-nam nhưng lại mang mã số chẵn (số chẵn là xa lộ đông-tây). I-84 ban đầu được đặt là I-80N nhưng nhận mã số như hiện tại vào năm 1980 như một phần của nỗ lực loại bỏ các xa lộ có đuôi mẫu tự.
I-82 vượt qua Lạch Selah bằng Cầu Fred G. Redmon. Khi cầu này thông xe ngày 2 tháng 11 năm 1971, nó là cầu hình cung bê tông dài nhất tại Bắc Mỹ. Cầu này dài bắt ngang qua con lạch. Năm 1999, có kế hoạch nối dài xa lộ I-82 xuống tận phía nam xuyên qua tiểu bang Oregon. Ba xa lộ được đề xuất nhưng tất cả đều bị bác bỏ.
Mô tả.
I-82 bắt đầu tại một nút giao thông khác mức với I-90 và Quố lộ Hoa Kỳ 97 (US 97) tại Ellensburg. Tại điểm này, I-82/US 97 bắt đầu đi theo hướng đông nam đến thành phố Yakima. Trước khi vào Yakima, I-82/US 97 giao cắt Xa lộ Tiểu bang Washington 821 (SR 821) và Xa lộ Tiểu bang Washington 823 (SR 823) trong khi đi qua Trung tâm Huấn luyện Yakima.
Ngay phía bắc Selah, xa lộ đi qua Lạch Selah bằng Cầu Fred G. Redmon, cây cầu hình cung bằng bê tông dài nhất tại Bắc Mỹ vào thời điểm khánh thành với chiều dài ngang qua con lạch. Từ cầu, I-82/US 97 đi từ Selah vào thành phố Yakima. Tại Yakima, I-82/US 97 nhập vào Quốc lộ Hoa Kỳ 12 và cắt ngang Xa lộ Tiểu bang Washington 24. Sau khi rời Yakima và Union Gap, US 97 tách khỏi I-82/US 12. I-82 sau đó đi vào Khu dành riêng cho người bản thổ Mỹ Yakama khi nó bắt đầu quay hướng đông về phía vùng Tri-Cities. Ở phía tây Toppenish, I-82/US 12 cắt Xa lộ Tiểu bang Washington 22, và sau đó đi theo hướng đông qua Zillah và đi vào Granger nơi nó giao cắt với Xa lộ Tiểu bang Washington 223.
Sau khi rời Granger và Khu dành riêng cho người bản thổ Mỹ Yakima, xa lộ tiếp tục đi hướng đông đến Sunnyside, tại đó xa lộ giao cắt SR 241. Sau đó, I-82/US 12 quay về đông bắc đi qua Grandview và đến Prosser là nơi SR 22 giao cắt xa lộ I-82. Từ Prosser, xa lộ quay hướng đông bắc vào Benton City là nơi SR 224 và SR 225 giao cắt I-82/US 12. Từ Benton City, xa lộ đi hướng đông về phía Richland khi I-182 bắt đầu và US 12 nhập vào I-182 đi vào Richland. Từ nút giao thông, I-82 đi hướng đông nam quanh vùng Tri-Cities và nhập Quốc lộ Hoa Kỳ 395. Sau khi nhập US 395, xa lộ đi về hướng nam và sau đó hướng tây để vào Plymouth là nơi xa lộ giao cắt SR 14 và rời tiểu bang Washington bằng Cầu Umatilla bắt trên Sông Columbia để đi vào tiểu bang Oregon.
Sau khi qua cầu, I-82/US 395 vào Umatilla là nơi US 395 rời khỏi tại nơi giao cắt với US 730. Sau khi rồi Umatilla, xa lộ đi theo hướng tây nam và đi qua Kho quân dụng Umatilla trước khi kết thúc tại I-84/US 30 ở phía tây nam Hermiston. | 1 | null |
Trận Kesselsdorf, còn viết là Trận Kesseldorf, là trận đánh lớn cuối cùng của cuộc Chiến tranh Schliesen lần thứ hai và cũng là trận đánh lớn duy nhất của chiến dịch tấn công ngắn ngủi của Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh nhằm vào Vương quốc Phổ vào cuối năm 1745. Trong trận chiến này, Quân đội Phổ dưới quyền Leopold I, Vương công xứ Anhalt-Dessau đã tấn công dồn dập và đè bẹp quân Liên minh Áo - Sachsen, bẻ gãy hoàn toàn cuộc tiến công của Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh. Chiến thắng tại Kesselsdorf được xem là chiến công cuối cùng của Leopold I, được mệnh danh là "Người Dessau Lớn" ("Alte Dessauer"). Ngoài ra, đây là một thắng lợi quyết định của người Phổ góp phần dẫn đến sự kết thúc của cuộc Chiến tranh Schliesen lần thứ hai - một phần của cuộc Chiến tranh Kế vị Áo - vào tháng 12 năm 1745, theo đó người Phổ giữ vững quyền kiểm soát tỉnh Schliesen.
Vào tháng 11 năm 1745, cuộc tiến công nước Phổ của Quân đội La-Đức đã gặp bất lợi khi quân đội của vua Friedrich II của Phổ (tức là "Friedrich Đại đế") giành thắng lợi trong một số cuộc chiến nhỏ nhoi, đánh tan một đạo quân Áo-Sachsen dưới quyền Vương công Karl Alexander xứ Lothringen trong trận Hennersdorf tại Schliesen. Trong khi ấy, Vương công Leopold I quyết định dẫn đạo quân Phổ thứ hai tiến xuống sông Elbe từ Magdeburg để giao tranh với quân chủ lực Sachsen cùng với một Quân đoàn Áo trợ chiến dưới quyền Thống chế Friedrich August Rutowsky. Mặc dù Rutowsky có lợi thế nhỏ nhoi về quân số, ông cố thủ tại Kesselsdorf cách kinh thành Dresden về phía Tây Nam. Trận chiến bùng nổ vào buổi chiều ngày 15 tháng 12 năm 1745, với một cuộc tập kích trực diện khốc liệt của quân Phổ. Tuy ban đầu cuộc tấn công của người Phổ bị người Sachsen đánh bại, quân Sachsen lại rời bỏ cứ điểm của mình để tập kích quân Phổ, khiến cho lực lượng Pháo binh của họ bị khuất bóng. Quân đội Phổ phản công, đẩy lùi quân Sachsen và đánh bọc sườn trái của họ. Trước khi màn đêm buông xuống, quân Phổ lại tấn công và đánh thắng trung quân Sachsen, buộc đối phương phải thoái binh trước khi bị lực lượng Bộ binh Phổ triệt tiêu. Cái ngày ngắn ngủi trong tháng 12 ấy đã chấm dứt với chiến thắng toàn diện của Quân đội Phổ trên chiến trường Kessesldorf phủ tuyết. Tuy Quân đoàn Áo không tham chiến, họ cũng triệt thoái theo chân quân Sachsen của Rutowsky. Trên đường rút, quân Đồng minh tiếp cận đạo quân cứu viện của Vương công Karl nhưng Karl quay đi.. Cũng giống như các trận đánh trước, một lần nữa sự kiên cường của Bộ binh Phổ được xem là nguyên nhân thắng lợi cho họ trong các trận giáp lá cà ở trung tâm.
Trận Kesselsdorf được xem là một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong cuộc Chiến tranh Kế vị Áo. Đây là một chiến thắng đắt giá của quân Phổ, song quân Sachsen bị tan nát. Sachsen đã bị đánh quỵ hoàn toàn và quân đội Phổ cũng tràn vào Dresden. Ngoài ra, với 4 thảm bại liên tiếp trong vòng 7 tháng mà trong đó có chiến thắng Kesselsdorf, hào khí của Đại Công nương Maria Theresia của Áo đến đây đã tan vỡ và bà phải chấp nhận Hiệp định Dresden củng cố quyền thống trị tỉnh Schlesien của nhà vua nước Phổ. | 1 | null |
Tấn Giản Văn Đế () (320 – 12 tháng 12 năm 372), tên thật là Tư Mã Dục (司馬昱), tên tự Đạo Vạn (道萬), là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 13 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai thứ của Nguyên Đế và là em trai của Minh Đế, ông được tướng Hoàn Ôn đưa lên ngôi. Trước khi lên ngôi, ông từng giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình của các cháu trai là Mục Đế, Ai Đế và Phế Đế. Ông từng là người nhiếp chính và do vậy cai trị triều đình giống như một hoàng đế, ông thường được xem là một người yếu về ý khí và thể hiện vừa đủ sự khôn ngoan để tiếp tục tồn tại và mở rộng quyền kiểm soát của Tấn.
Đầu đời.
Tư Mã Dục sinh năm 320, là người con trai út của Nguyên Đế với người thiếp là Trịnh A Xuân (鄭阿春). Do vợ của Nguyên Đế là Ngu Mạnh Mẫu (虞孟母) mất từ trước đó (năm 312), và mẹ của đại hoàng tử Tư Mã Thiệu, Tuân phu nhân thì bị buộc phải dời cung do lòng ghen tị của Ngu Hoàng hậu khi bà vẫn còn sống, Trịnh phu nhân do vậy đã trở thành người cai quản hậu cung trên thực tế, song bà chưa từng mang tước hiệu hoàng hậu. Năm 322, Nguyên Đế lập ông làm Lang Da vương, tước hiệu mà Nguyên Đế từng mang trước khi lên ngôi và có vinh rất lớn.
Năm 323, Nguyên Đế băng hà. Năm 326, Trịnh A Xuân cũng mất, bởi với tước hiệu Lang Da vương, Tư Mã Dục theo quy định không được phép để tang mẹ, lúc đó ông mới sáu tuổi và đã yêu cầu một tước hiệu khác. Cháu trai của ông là Thành Đế và còn nhỏ tuổi, đã chấp thuận, và lập ông làm Hội Kê vương. Sau khi đã lớn tuổi hơn, ông được phong các chức vụ cao hơn, mặc dù vậy ông không có quyền hành trên thực tế.
Dưới thời Mục Đế.
Năm 344, một cháu trai khác của Tư Mã Dục là Khang Đế băng hà, và người kế vị là Mục Đế, khi đó Mục Đế vẫn còn là trẻ sơ sinh. Mẫu thân của Mục Đế là Chử Thái hậu trở thành người nhiếp chính, song bà phần lớn nghe theo lời khuyên bảo của thừa tướng Hà Sung (何充). Vào thời điểm đó, theo truyền thống thì Đông Tấn phải có hai thừa tướng, Hà Sung vì thế tiến cử phụ thân của Chử Thái hậu là Chử Bầu (褚裒), song ông đã từ chối đề nghị và tiến cử Tư Mã Dục. Hà Sung và Tư Mã Dục sau đó cùng chia sẻ trách nhiệm của thừa tướng cho đến khi Hà Sung mất vào 346. Thay thế Hà Sung là Sái Mô (蔡謨).
Năm 347, tướng Hoàn Ôn không có sự chấp thuận của triều đình đã thực hiện một chiến dịch nhằm diệt Thành Hán, sáp nhập lãnh thổ Thành Hán vào Đông Tấn, triều đình đã bắt đầu lo sợ việc Hoàn Ôn sẽ sử dụng cơ hội này để tiếp quản chính quyền. Tư Mã Dục do vậy đã mời vị quan Ân Hạo đến để cùng ông và Sái Mô đưa ra các quyết định quan trọng, chống lại ảnh hưởng của Hoàn Ôn. Năm 350, sau khi Sái Mô nhiều lần từ chối các vinh dự lớn do hoàng đế ban cho, Ân Hạo đã cáo buộc Sái Mô không tôn trọng triều đình và loại bỏ họ Sái, An Hạo sau đó thu được nhiều quyền lực hơn trước đây.
In 348, con trai kế tự của Tư Mã Dục là Tư Mã Đạo Sinh (司馬道生), được mô tả là bất cẩn và nhẹ dạ, bị cáo buộc phạm một tội danh chưa rõ, Đạo Sinh bị hạ bệ và cầm tù rồi chết trong ngục. Vợ của Tư Mã Dục và mẹ đẻ của Tư Mã Đạo Sinh, Vương Giản Cơ (王簡姬), cũng chết trong đau khổ (bà có thể cũng đã bị cầm tù trước khi chết). Các con trai khác của ông, một người với Vương Giản Cơ và ba người với các thê thiếp khác cũng đã chết sớm, điều này khiến ông không có người kế tự, các thê thiếp của ông cũng không thể thu thai được nữa. Ông giữ lại một pháp sư, vị pháp sư xem tất cả các thê thiếp của ông và nói rằng ông ai có mệnh sinh cho ông một người kế tự song sau đó ông ta đã trông thấy một người hầu gái có nước da đen làm công việc dệt vải, tên là Lý Lăng Dung (李陵容), và ông ta ngạc nhiên hét lên rằng cô ấy chính là người mang mệnh. Tư Mã Dục do đó lấy cô làm thiếp, cô đã sinh cho ông hai người con trai là Tư Mã Diệu vào năm 352 và Tư Mã Đạo Tử vào năm 353. Tư Mã Diệu sau đó trở thành người kế tự.
Khoảng tết 352, Hoàn Ôn đã trở nên thiếu kiên nhẫn khi yêu cầu của ông ta về việc tiến lên phía bắc bị Tư Mã Dục và Ân Hạo từ chối, Hoàn Ôn sau đó đã huy động binh lính của mình và ra hiệu như thể ông về để tấn công kinh thành. Ân Hạo vô cùng bất ngờ, và ban đầu đã xem xét đến việc từ chức hoặc gửi cờ hòa bình của triều đình (Sô Ngu Phiên, 騶虞幡) đến lệnh cho Hoàn Ôn dừng lại. Tuy nhiên, sau khi nghe lời khuyên của Vương Bưu Chi (王彪之), Ân Hạo đã bảo Tư Mã Dục viết một là thư gửi cho Hoàn Ôn, thuyết phục Hoàn Ôn dừng lại.
Sau khi bản thân Ân Hạo thất bại trong các chiến dịch tấn công lên phía bắc vào năm 352 và 353, trong đó cuộc tấn công năm 353 đã làm chết nhiều sinh mạng, Hoàn Ôn đã trình một tấu thư buộc tội Ân Hạo. Triều đình do Tư Mã Dục lãnh đạo đã bắt buộc phải hạ bệ Ân Hạo vào năm 354. Từ thời điểm này, Tư Mã Dục trở thành thừa tướng duy nhất, mặc dù ông thường bị buộc phải theo ý của Hoàn Ôn trong các vấn đề quan trọng. Sau đó vào năm 354, đích thân Hoàn Ôn đã mở một chiến dịch tiến về phía bắc để đánh Tiền Tần, một nước kế thừa của Hậu Triệu, song sau thành công ban đầu, ông đã buộc phải lui binh do thiếu nguồn cung lương thảo trong khi đang do dự trong việc tấn công kinh thành Trường An của Tiền Tần.
Năm 358, Tư Mã Dục đề nghị được từ chức và trả lại tất cả các quyền lực cho Mục Đế song Mục Đế đã từ chối.
Năm 361, Mục Đế chết mà không có con trai, theo lệnh của Chử Thái hậu, người anh em họ của Mục Đế là Lang Da vương Tư Mã Phi lên ngôi và trở thành Ai Đế. Tư Mã Dục tiếp tục vai trò thừa tướng.
Dười thời Ai Đế.
Năm 363, khi mẫu thân của Ai Đế là Chu Thái phi qua đời, Tư Mã Dục trở thành người nhiếp chính trong giai đoạn ba tháng tang lễ.
Năm 364, Ai Đế, người bị việc trường sinh bất lão ám ảnh, đã bị các pháp sư đầu độc bằng thuốc, sau đó Hoàng đế đã không thể xử lý các vẫn đề quan trọng của đất nước. Chử Thái hậu một lần nữa trở thành người nhiếp chính, song các quyết định quan trọng do Tư Mã Dục và Hoàn Ôn đưa ra. Năm 365, người nhiếp chính của Tiền Yên là Mộ Dung Khác (慕容恪) bao vây thành Lạc Dương, Tư Mã Dục và Hoàn Ôn đã thảo luận về một cuộc phản công để giải vây cho Lạc Dương, song khi Ai Đế băng hà vào mùa xuân năm 365, kế hoạch đã bị hủy bỏ. Kế vị Ai Đế là em trai Lang Da vương Tư Mã Dịch. Tư Mã Dục tiếp tục giữ vai trò thừa tướng.
Dưới thời Phế Đế.
Cuối năm 365, Tư Mã Dịch, tức Tấn Phế Đế ban tước hiệu Lang Da vương cho Tư Mã Dục và phòng người kế tự của ông là Tư Mã Diệu làm Hội Kê vương. Tư Mã Dục thay mặt con trai và bản thân đã từ chối tước hiệu này, và tiếp tục là Hội Kê vương.
Năm 369, sau khi Hoàn Ôn mở một cuộc tấn công lớn chống Tiền Yên, nhưng lại chịu thất bại nặng nề dưới tay của Mộ Dung Thùy, ông ta đã chọn cách khác để thể hiện quyền lực của mình. Ông quyết định phải phế truất Tư Mã Dịch, do Tư Mã Dịch không mắc phải một sai lầm lớn nào nên Hoàn Ôn buộc phải cho lan truyền tin đồn sai trái rằng hoàng đế có hành vi nam sắc và rằng các con trai của hoàng đế thực ra là con trai của những người đàn ông mà hoàng đế ủng hộ. Vào mùa đông năm 371, Hoàn Ôn đã buộc Chử Thái hậu ban hành một sắc lệnh phế truất Tư Mã Dịch và thay thế ông ta bằng Tư Mã Dục. Tư Mã Dục đã lên ngôi trong lo lắng, song ông cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác.
Trị vì.
Sau khi lên ngôi, Giản Văn Đế ngay lập tức phải đối phó với việc Hoàn Ôn nghi ngờ anh trai của mình là Ngũ Lĩnh vương Tư Mã Hi (司馬晞), người này có quan tâm đến các vấn đề quân sự và nó khiến cho Hoàn Ôn nghĩ rằng ông ta đang chống đối mình. Hoàn Ôn do đó cáo buộc Tư Mã Hi âm mưu phản nghịch, Giản Văn Đế đã đồng ý loại bỏ Tư Mã Hi khỏi vị trí của ông ta. Tuy nhiên, sau đó Hoàn Ôn đã làm ra bằng chứng chống lại Tư Mã Hi và thỉnh rằng cần phải xử tử. Giản Văn Đế viết thư cho Hoàn Ôn, nói rằng ông không muốn giết anh trai mình và nếu ông bị buộc phải làm điều đó, ông sẽ nhường lại ngôi báu. Hoàn Ôn không sẵn sàng mạo hiểm cho một cuộc đối đầu nên đã giáng Tư Mã Hi và các con trai thành thường dân và đưa đi lưu đày.
Vào mùa hè năm 372, Giản Văn Đế lâm bệnh, ông nhiều lần cố triệu tập Hoàn Ôn về kinh, có lẽ để chỉ định Hoàn Ôn kế thừa ngôi vị song Hoàn Ôn lo ngại rằng đó là một cái bẫy nên liên tục từ chối. Giản Văn Đế đã qua đời không lâu sau đó, kế vị ông là người con trai Tư Mã Diệu mới 10 tuổi, người được lập làm thái tử ngay trước khi ông qua đời. Hoàn Ôn cũng mất vào đầu năm 373, mối lo ngại về việc Hoàn Ôn tiếm quyền tiêu tan, Đông Tấn tiếp tục tồn tại trong vài thập kỷ sau đó. | 1 | null |
Mara Hautea Schnittka hay nghệ danh là Julia Montes/Mara Montes/Mara Schnittka (sinh ngày 19 tháng 3 năm 1995 tại thành phố Quezon, Philippines).Cô là một diễn viên, ca sĩ, người mẫu của Philippines.Quê quán của cô tại Đức.Từ nhỏ bố cô đã bỏ về nước,mẹ cô thì bị câm và điếc nên cô sống trong vòng tay của bà ngoại. Cô đã tham gia diễn xuất bộ phim Mara Clara được nhiều khán giả yêu thích. | 1 | null |
Who Says là một bài hát của nhóm nhạc Selena Gomez & the Scene, từ album phòng thu thứ ba của họ, When the Sun Goes Down. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên từ album vào ngày 14 tháng 3 năm 2011.
Video âm nhạc và trình diễn.
MV được sản xuất bởi đạo diễn người Mỹ Chris Applebaum. 1 đoạn clip ngắn 8 giây đã được tiết lộ vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, và MV chính được công chiếu trên VEVO ngày 11 tháng 3 năm 2011.. | 1 | null |
LTE (viết tắt của cụm từ Long Term Evolution, có nghĩa là Tiến hóa dài hạn), công nghệ này được coi như công nghệ di động thế hệ thứ 4 (4G, nhưng thực chất LTE cung cấp tốc độ thấp hơn nhiều so với một mạng 4G thực sự). 4G LTE là một chuẩn cho truyền thông không dây tốc độ dữ liệu cao dành cho điện thoại di động và các thiết bị đầu cuối dữ liệu. Nó dựa trên các công nghệ mạng GSM/EDGE và UMTS/HSPA, LTE nhờ sử dụng các kỹ thuật điều chế mới và một loạt các giải pháp công nghệ khác như lập lịch phụ thuộc kênh và thích nghi tốc độ dữ liệu, kỹ thuật đa anten để tăng dung lượng và tốc độ dữ liệu. Các tiêu chuẩn của LTE được tổ chức 3GPP (Dự án đối tác thế hệ thứ 3) ban hành và được quy định trong một loạt các chỉ tiêu kỹ thuật của Phiên bản 8 (Release 8), với những cải tiến nhỏ được mô tả trong Phiên bản 9.
Dịch vụ LTE thương mại đầu tiên trên thế giới được hãng TeliaSonera giới thiệu ở Oslo và Stockholm vào ngày 14/12/2009. LTE là hướng nâng cấp tự nhiên cho các sóng mang với các mạng GSM/UMTS, nhưng ngay cả các nhà mạng dựa trên công nghệ CDMA như Verizon Wireless (hãng này đã khai trương mạng LTE quy mô lớn đầu tiên ở Bắc Mỹ vào năm 2010), và au by KDDI ở Nhật cũng tuyên bố họ sẽ chuyển lên công nghệ LTE. Do đó LTE được dự kiến sẽ trở thanh tiêu chuẩn điện thoại di động toàn cầu thực sự đầu tiên, mặc dù việc sử dụng các băng tần khác nhau tại các quốc gia khác nhau sẽ yêu cầu điện thoại di động LTE phải làm việc được ở các băng tần khác nhau tại tất cả các quốc gia sử dụng công nghệ LTE.
Dù đóng mác là dịch vụ không dây 4G, nhưng chỉ tiêu kỹ thuật của LTE quy định trong loạt tài liệu Phiên bản 8 và 9 của 3GPP, không đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của liên minh 3GPP đã áp dụng cho thế hệ tiêu chuẩn mới, và được quy định bởi tổ chức ITU-R trong các đặc tả kỹ thuật IMT-Advanced.
Tổng quan.
LTE là một chuẩn cho công nghệ truyền thông dữ liệu không dây và là một sự tiến hóa của các chuẩn GSM/UMTS. Mục tiêu của LTE là tăng dung lượng và tốc độ dữ liệu của các mạng dữ liệu không dây bằng cách sử dụng các kỹ thuật điều chế và DSP (xử lý tín hiệu số) mới được phát triển vào đầu thế kỷ 21 này. Một mục tiêu cao hơn là thiết kế lại và đơn giản hóa kiến trúc mạng thành một hệ thống dựa trên nền IP với độ trễ truyền dẫn tổng giảm đáng kể so với kiến trúc mạng 3G. Giao diện không dây LTE không tương thích với các mạng 2G và 3G, do đó nó phải hoạt động trên một phổ vô tuyến riêng biệt.
LTE được hãng NTT DoCoMo của Nhật đề xuất đầu tiên vào năm 2004, các nghiên cứu về tiêu chuẩn mới chính thức bắt đầu vào năm 2005. Tháng 5 năm 2007, liên minh Sáng kiến thử nghiệm LTE/SAE (LSTI) được thành lập, liên minh này là sự hợp tác toàn cầu giữa các hãng cung cấp thiết bị và hãng cung cấp dịch vụ viễn thông với mục tiêu kiểm nghiệm và thúc đẩy tiêu chuẩn mới để đảm bảo triển khai công nghệ này trên toàn cầu càng hợp càng tốt.
Tiêu chuẩn LTE được hoàn thành vào tháng 12 năm 2008 và dịch vụ LTE đầu tiên được hãng TeliaSonera khai trương ở Oslo và Stockholm vào ngày 14 tháng 12 năm 2009, đó là kết nối dữ liệu với một modem USB. Năm 2011, các dịch vụ LTE được khai trương ở thị trường Bắc Mỹ, với việc hãng MetroPCS giới thiệu mẫu điện thoại thông minh hỗ trợ LTE đầu tiên là Samsung Galaxy Indulge vào ngày 10 tháng 2 năm 2011 và tiếp sau đó là hãng Verizon giới thiệu mẫu điện thoại thông minh hỗ trợ LTE thứ hai là HTC ThunderBolt vào ngày 17 tháng 3 cùng năm. Ban đầu, các nhà mạng CDMA có kế hoạch nâng cấp các tiêu chuẩn cạnh tranh là UMB và WiMAX, nhưng tất cả các nhà mạng CDMA lớn (như Verizon, Sprint và MetroPCS ở Mỹ, Bell và Telus ở Canada, au by KDDI ở Nhật Bản, SK Telecom ở Hàn Quốc và China Telecom/China Unicom ở Trung Quốc) đã thông báo họ dự định sẽ chuyển lên chuẩn LTE. Sự tiến hóa của LTE là LTE Advanced, đã được chuẩn hóa vào tháng 3 năm 2011. Dịch vụ dự kiến sẽ được cung cấp bắt đầu vào năm 2013.
Đặc tả kỹ thuật LTE chỉ ra tốc độ tải xuống đỉnh đạt 300 Mbit/s, tốc độ tải lên đỉnh đạt 75 Mbit/s và QoS quy định cho phép trễ truyền dẫn tổng thể nhỏ hơn 5 ms trong mạng truy nhập vô tuyến. LTE có khả năng quản lý các thiết bị di động chuyển động nhanh và hỗ trợ các luồng dữ liệu quảng bá và đa điểm. LTE hỗ trợ băng thông linh hoạt, từ 1,25 MHz tới 20 MHz và hỗ trợ cả song công phân chia theo tần số (FDD) và song công phân chia theo thời gian (TDD). Kiến trúc mạng dựa trên IP, được gọi là Lõi gói tiến hóa (EPC) và được thiết kế để thay thay thế Mạng lõi GPRS, hỗ trợ chuyển giao liên tục cho cả thoại và dữ liệu tới trạm eNodeB với công nghệ mạng cũ hơn như GSM, UMTS và CDMA2000. Các kiến trúc đơn giản và chi phí vận hành thấp hơn (ví dụ, mỗi tế bào E-UTRAN sẽ hỗ trợ dung lượng thoại và dữ liệu gấp 4 lần so với HSPA).
Đặc điểm.
Phần lớn tiêu chuẩn LTE hướng đến việc nâng cấp 3G UMTS để cuối cùng có thể thực sự trở thành công nghệ truyền thông di động 4G. Một lượng lớn công việc là nhằm mục đích đơn giản hóa kiến trúc hệ thống, vì nó chuyển từ mạng UMTE sử dụng kết hợp chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói sang hệ thống kiến trúc phẳng toàn IP. E-UTRA là giao diện vô tuyến của LTE. Nó có các tính năng chính sau:
Các cuộc gọi thoại.
Tiêu chuẩn LTE chỉ hỗ trợ chuyển mạch gói với mạng toàn IP của nó. Các cuộc gọi thoại trong GSM, UMTS và CDMA2000 là chuyển mạch kênh, do đó với việc thông qua LTE, các nhà khai thác mạng sẽ phải tái bố trí lại mạng chuyển mạch kênh của họ. Có 3 cách tiếp cận khác nhau hiện nay để tái bố trí lại mạng chuyển mạch kênh cho các nhà mạng:
Một cách tiếp cận bổ sung khác không được khởi xướng bởi các nhà khai thác, đó là sử dụng các dịch vụ nội dung trên đỉnh (Over-the-top content - OTT), nó dùng các ứng dụng như Skype và Google Talk để cung cấp dịch vụ thoại LTE. Tuy nhiên, hiện tại và trong tương lai gần, các dịch vụ gọi thoại vẫn sẽ là nguồn lợi nhuận chính cho các nhà khai thác di động. Vì vậy, chuyển dịch vụ thoại LTE hoàn toàn sang cho OTT dự kiến sẽ không nhận được sự hỗ trợ quá nhiều trong ngành công nghiệp viễn thông.
Hầu hết các hãng ủng hộ chính của LTE lại quan tâm và thúc đẩy VoLTE ngay từ lúc bắt đầu. Tuy nhiên, việc thiếu hỗ trợ phần mềm trong các thiết bị LTE đầu tiên cũng như các thiết bị mạng lõi dẫn đến một số hãng ủng hộ VoLGA (Voice over LTE Generic Access – Thoại trên nền LTE thông quan mạng truy nhập chung) như một giải pháp tạm thời. Ý tưởng là sử dụng một số nguyên lý như GAN (Generic Access Network – Mạng truy nhập chung, còn gọi là UMA hay Unlicensed Mobile Access – Truy nhập di động không được cấp phép), trong đó xác định các giao thức thông qua một chiếc điện thoại di động có thể thực hiện các cuộc gọi thoại qua kết nối Internet của khách hàng, thường là qua mạng LAN không dây. Tuy nhiên VoLGA chưa bao giờ nhận được hỗ trợ nhiều, vì VoLTE (IMS) hứa hẹn các dịch vụ linh hoạt hơn nhiều, mặc dù chi phí để nâng cấp toàn bộ cơ sở hạ tầng cho thoại có thể lớn hơn. VoLTE cũng sẽ yêu cầu Cuộc gọi thoại vô tuyến đơn liên tục (SRVCC) để có thể thực hiện trơn tru một sự chuyển giao tới một mạng 3G trong trường hợp chất lượng tín hiệu LTE yếu.
Trong khi ngành công nghiệp có vẻ như thực hiện tiêu chuẩn hóa VoLTE cho tương lai, nhưng nhu cầu cho các cuộc gọi thoại ngày nay dẫn tới các nhà khai thác mạng LTE phải đưa vào CSFB như một biện pháp tạm thời. Khi diễn ra một cuộc gọi thoại, điện thoại hỗ trợ LTE sẽ dùng các mạng 2G và 3G cũ hơn trong thời gian diễn ra cuộc gọi.
Full-HD Voice.
Fraunhofer IIS đã đề xuất và trình diễn "Full-HD Voice", nhờ bộ codec AAC-ELD (Advanced Audio Coding – Enhanced Low Delay) dùng cho máy di động hỗ trợ LTE. Trước đây các bộ codec thoại của điện thoại di động chỉ hỗ trợ đến tần số 3,5 kHz và các dịch vụ âm thanh băng rộng "HD Voice" lên tới 7 kHz, Full-HD Voice hỗ trợ toàn bộ băng thông từ 20 Hz tới 20 kHz. Đối với các cuộc gọi Full-HD Voice đầu cuối tới đầu cuối, yêu cầu cả điện thoại của người gọi và người nhận cũng như mạng phải hỗ trợ tính năng này.
Băng tần số.
Tiêu chuẩn LTE có thể được dùng với nhiều băng tần khác nhau. Ở Bắc Mỹ, dải tần 700/ 800 và 1700/ 1900 MHz được quy hoạch cho LTE; 800, 1800, 2600 MHz ở châu Âu; 1800 và 2600 MHz ở châu Á; và 1800 MHz ở Australia. Do đó, điện thoại từ nước này không thể làm việc ở nước khác. Người dùng sẽ cần một chiếc điện thoại có khả năng làm việc ở mọi băng tần để chuyển vùng quốc tế.
Ngoài ra, chính phủ Brazil và CPqD đang thử nghiệm một phiên bản cụ thể của LTE ở băng tần 450 MHz cho thị trường nông thôn.
Băng sáng chế.
Theo "cơ sở dữ liệu IPR" (IPR nghĩa là quyền sở hữu trí tuệ) của Viện tiêu chuẩn viễn thông châu Âu (ETSI), tính đến tháng 3 năm 2012 khoảng 50 công ty đã tuyên bố nắm giữ bằng sáng chế chủ yếu bao gồm tiêu chuẩn LTE. ETSI không điều tra về tính đúng đắn của các tuyên bố trền, tuy nhiên "bất kỳ phân tích nào các bằng sáng chế LTE chủ yếu nên đưa vào tờ khai hơn là các tuyên bố của LTE." | 1 | null |
Rune là tựa game hành động chặt chém góc nhìn thứ ba lấy bối cảnh thần thoại Bắc Âu về cuộc xung đột giữa thần Odin và Loki cùng sự kiện Ragnarok do hãng Human Head Studios phát triển và Gathering of Developers phát hành vào cuối năm 2000.
Ngoài ra nhà phát triển còn tung ra một bản mở rộng độc lập là "" được phát hành vào năm 2001. Riêng bản chuyển sang Linux do hãng Loki Software thực hiện, bản chuyển sang PlayStation 2 với cái tên "Rune: Viking Warlord" cũng được phát hành vào năm 2001. Game còn được tái phát hành trên Steam dưới cái tên "Rune Classic" vào ngày 13 tháng 6 năm 2012.
Cốt truyện.
Cốt truyện của game kể về Ragnar, một dũng sĩ Viking dũng cảm, là một trong những chiến binh thực thụ của ngôi làng Rutanlke ở vùng phương Bắc xa xôi. Trên đường cứu viện cho làng Copperulf, chiếc thuyền chở anh và những người bạn đã bị chìm xuống biển sâu. Nhưng Odin, vị thần bảo trợ cho chiến binh Viking, đã hiện thân cứu Ragnar. Lúc tỉnh dậy, anh thấy mình đang ở trong một hang động sâu dưới lòng biển. Làm sao quay về để cứu thế, quay về gặp lại người thân?... một loạt câu hỏi đã xuất hiện trong đầu, thôi thúc anh tìm đường quay về.
Lối chơi.
Thần linh đã giao cho Ragnar nhiệm vụ cao cả là bảo vệ con người thoát khỏi nanh vuốt của loài quỷ dữ. Vì thế, người chơi phải cùng rong đuổi với Ragnar phiêu lưu qua rất nhiều vùng đất và chiến đấu với rất nhiều loại sinh vật khác nhau: từ những tà thần dưới lòng biển đến người khổng lồ trong hang động đầy băng tuyết trên núi cao, cuối cùng là Sark Amen – chiến binh nắm giữ khá nhiều ma thuật nhưng là kẻ ác tâm. Game có giao diện đơn giản giúp người chơi dễ làm quen rất nhanh. Người chơi có thể nhìn, di chuyển và chiến đấu dưới rất nhiều góc nhìn khác nhau. Nhân vật trong Rune thực hiện được nhiều động tác võ thuật như đâm, chém; đặc biệt là chiêu bay người tuyệt đẹp và chém bằng rìu trên không. Khi bị trúng đòn, thân thể nhân vật sẽ xuất hiện những vết thương như thật chứ không đơn giản chỉ là tóe máu.
Đón nhận.
Khi phát hành trò chơi nhận được lời đánh giá tích cực lẫn lộn, với phiên bản chuyển thể PlayStation 2 bị chỉ trích nặng nề hơn so với phiên bản gốc trên máy tính. "Rune" hiện đang nắm giữ xếp hạng 76 trên trang web tập hợp lời phê bình Metacritic. Cũng như số điểm 77,12% trên GameRankings và 82 từ MobyGames. | 1 | null |
là trò chơi điện tử thuộc thể loại chặt chém hành động phiêu lưu do hãng Gaijin Entertainment phát triển và Konami phát hành trên các hệ máy PlayStation 3 và Xbox 360. Game là người thừa kế tinh thần cho sản phẩm trong quá khứ của Gaijin Entertainment là "X-Blades". "Blades of Time" được phát hành tại Bắc Mỹ vào ngày 6 tháng 3 và Nhật Bản ngày 8 tháng 3 năm 2012. Phiên bản dành cho Windows và Mac OS X được công bố muộn hơn, Windows chính thức phát hành vào ngày 21 tháng 4 năm 2012 còn Mac OS X thì được phát hành một vài ngày sau.
Cốt truyện.
Bối cảnh của "Blades of Time" xoay quanh một nữ thợ săn kho báu tên là đang bị mắc kẹt trên một hòn đảo bí ẩn và nguy hiểm. Đây không chỉ là nơi chôn giấu hàng đống của cải châu báu, mà còn là vùng đất bị phép thuật bao phủ để che giấu những bí mật từ ngàn năm trước. Sử dụng tất cả vũ khí, công cụ và các khả năng đặc biệt, người chơi phải giúp cô gái trẻ này đánh bại cả một đội quân tay sai của tên chúa đảo độc ác.
Cách chơi.
Thiết kế môi trường trong game rất lớn và khá ấn tượng với rất nhiều khu vực cảnh quan như núi tuyết, rừng nhiệt đới, thành phố cổ bỏ hoang, đền đài lăng tẩm, biển đảo, bầu trời... Hệ thống chiến đấu được thiết kế có chiều sâu với hơn 40 kỹ năng được mở khóa lần lượt theo quá trình chơi, bao gồm cả kỹ năng cận chiến, chiến thuật, combo và phép thuật có sức mạnh đặc biệt.
Đặc biệt, game có hệ thống quay ngược thời gian Time Rewind, cho phép Ayumi quay trở về thời điểm trước đó, đồng thời tạo ra một bản sao của mình để giúp giải quyết các câu đố, hạ gục kẻ thủ và nhiều công dụng khác. Bản sao mới sẽ thực hiện lại tất cả các động tác mà người chơi thực hiện trước đó, trong khi nhân vật chính có cơ hội làm lại và tiến hành những thao tác mới. Game có chế độ chơi đơn, màn chơi cộng tác và cả chế độ chơi nhiều người. Tuy nhiên, hệ thống Time Rewind chỉ có tác dụng trong phần chơi đơn. | 1 | null |
Heaven and Hell là tựa game chiến lược theo lượt do hãng MadCat Interactive phát triển và CDV Software phát hành vào năm 2003.
Cốt truyện.
Sau cơn Đại hồng thủy trước công nguyên, những sinh vật sống sót trên con thuyền Nôê bắt đầu gầy dựng cuộc sống mới đầy gian truân, khắc nguyệt. Người cổ xưa thỉnh thoảng có dịp tiếp xúc với những vị thần linh tốt bụng và dâng hiến tất cả niềm tin, hy vọng đạt được cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Song những vị thần bóng tối lại luôn tim cách lôi kéo kẻ tâm địa xấu nhằm lấn át phe thiện và tìm cách thống trị trái đất.
Lối chơi.
"Heaven and Hell" cho phép người chơi có thể chọn vai vị thần tối thượng tốt bụng hay tay sai của thế lực bóng tối để rồi chiến đấu khốc liệt nhằm bảo vệ giang sơn. Tuy nhiên, vị thần quyền năng tối thượng lại không có nhiều phép thuật, chỉ có phép sấm sét, động đất, bệnh dịch… nhưng tiêu hao rất nhiều mana; nguồn năng lượng chính để pháp sư thi triển phép thuật. Mỗi khi bắt đầu màn mới, người chơi chỉ có một lượng Mana giới hạn để thu phục những ngôi làng, mở rộng địa bàn. Thu phục càng nhiều làng thì càng có thêm nhiều Mana. Để cụ thể hóa quyền năng mà một vị chúa trời phải có, người chơi sẽ được trang bị những phép thuật cần thiết. Khi mà dân chúng thờ cúng người chơi đầy đủ thì họ sẽ có một cuộc sống không khác gì trên thiên đường nhưng nếu vô ý hoặc tỏ ra bất kính với thần linh thì hãy coi chừng, những phép thuật đã từng che chở họ sẽ biến thành thiên tai địch họa như: mưa,bão,sấm-chớp, họa cào cào châu chấu, dịch bệnh sẽ tràn lan khắp nơi.
Người chơi không thể làm phép trực tiếp lên dân làng mà phải nhờ bảy vị pháp sư tài năng đại diện cho lòng tin, chiến đấu, buôn bán, xây dựng… Họ sẽ chiến đấu và truyền đạt phép màu cho người chơi. Baptisopon là vị pháp sư có tài hung biện và phép màu kỳ diệu quan trọng nhất vào đầu trò chơi bởi khi ấy, người chơi cần một người truyền giáo đáng tin cậy để gây dựng niềm tin nơi dân làng. Sau khi thu phục dân làng, người chơi có thể biến ngôi nhà của họ thành cỗ máy tạo mana, tạo long trung thành… Trong khi đó Beat Obón vừa chịu trách niệm đào tạo quân lính đối phó kẻ thù vừa trừng phạt những dân làng nào cứng đầu không chịu khuất phục. Những để lập nên chiến thắng, đẩy lùi kẻ thù ra khỏi vùng đất thiêng, người chơi cần vận dụng uyển chuyển phép thuật của các vị pháp sư bởi địch thủ (do máy điều khiển rất thông minh và mưu lược. | 1 | null |
Shattered Union (tạm dịch: "Liên bang tan vỡ") là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật theo lượt lấy bối cảnh giả tưởng do hãng PopTop Software phát triển và 2K Games phát hành trên PC và Xbox vào năm 2005.
Cốt truyện.
Trong một thời gian thay thế của năm 2009, sau tám năm cầm quyền của cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush, David Jefferson Adams được bầu làm tân Tổng thống Hoa Kỳ thứ 44 sau một cuộc bầu cử đầy tranh cãi và một cuộc bầu chọn hạn chế trong đoàn cử tri (và sau đó lần lượt tới phiên Hạ viện Hoa Kỳ), trở thành vị tổng thống không được ưa chuộng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Một sự kết hợp của các cuộc tấn công khủng bố nước ngoài và điều kiện kinh tế nghèo nàn đã góp phần vào tình trạng bất ổn dân sự. Kết quả là bạo loạn bùng nổ trên khắp nước Mỹ, dẫn đến khủng bố nội địa. Đáp lại, Tổng thống Adams sử dụng Đạo luật An ninh Nội địa và tuyên bố thiết quân luật (trong thực tế, không có quy định trong Đạo luật An ninh Nội địa) trên nhiều vùng miền của đất nước, nhưng đặc biệt tập trung ở vùng Trung Tây.
Trong cuộc bầu cử năm 2012, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ tuyên bố loại tất cả các ứng cử viên tổng thống từ các cơ quan tổ chức, trên thực tế là giao cho Adams quyền tái tranh cử. Công chúng phản ứng dữ dội khi Tổng thống Adams đương nhiệm sẽ đảm nhận một nhiệm kỳ thứ hai.
Trong ngày lễ nhậm chức tại Washington, DC vào ngày 20 tháng 1 năm 2013, vũ khí hạt nhân chiến thuật có năng suất thấp được kích nổ tầm thấp trông thấy rõ ràng, có lẽ đã được giấu ở đó trước. Năng suất đủ để tiêu diệt hầu hết các thành phố, giết chết Adams cùng nội các của ông và hầu hết Quốc hội Hoa Kỳ, tiêu diệt có hiệu quả các đời tổng thống kế nhiệm.
Quốc hội Liên minh châu Âu gặp nhau trong một phiên họp khẩn cấp và bầu chọn việc gửi lực lượng gìn giữ hòa bình tới khu vực DC để bảo đảm lợi ích quốc tế và bảo vệ các công dân châu Âu tại Hoa Kỳ. Khi ý kiến ly khai tăng lên ở Mỹ, thống đốc bang California tuyên bố quy định về nhà ở và quyết định ly khai khỏi Liên bang vào ngày 15 tháng 4 năm 2013. Texas hưởng ứng một vài ngày sau đó, bắt chước ông bạn láng giềng cũng tự đổi tên lại là Cộng hòa Texas. Các bang khác cũng thành lập các quốc gia riêng vào những tháng sau và vào năm 2014, tất cả hy vọng cho một giải pháp hòa bình đã tiêu tan và cuộc nội chiến Hoa Kỳ thứ hai chính thức bắt đầu.
Vào lúc khởi đầu cuộc chiến, Liên bang Nga xâm nhập và chiếm Alaska, bằng cách sử dụng các chiến dịch mở rộng lãnh thổ của Liên minh châu Âu như một cái cớ. Cuộc xâm lược do cá nhân Tổng thống Nicholai Vladekov chỉ đạo, nguyên là cựu tướng lãnh đi theo đường lối cứng rắn của Liên Xô cũ, người đã tuyên bố rằng Alaska chưa bao giờ thực sự là một phần của Mỹ và Nga chỉ đơn thuần lấy lại lãnh thổ trước đây. Những cuộc kháng cự xảy ra đều lộn xộn và vô tổ chức, làm cho cuộc xâm lược phần lớn không một chút kháng cự.
Sau đó, Interpol cho thấy các kết quả điều tra về vụ đánh bom ngày lễ nhậm chức. Phát hiện những bằng chứng tiết lộ Tổng thống Vladekov chính là người đã giao dịch vũ khí trên thị trường chợ đen trong hơn năm năm, đứng ra vạch kế hoạch và điều khiển vụ đánh bom DC để Nga có thể lấy lại sự thống trị quân sự của mình và dễ dàng kiểm soát châu Âu. Điều này làm bùng nổ các cuộc biểu tình trên khắp nước Nga buộc Vladekov phải tuyên bố thiết quân luật tại Moscow.
Sau khi những nước láng giềng cũ trước đây của Mỹ được thống nhất theo một phe, Khối thịnh vượng chung độc lập của Hawaii đồng ý tham gia chính phủ mới. Vladekov từ chối nhường lại quyền kiểm soát Alaska, do đó lực lượng của phe này chuẩn bị xâm lược Hoa Kỳ và trục xuất người Nga ra khỏi Tân Thế giới. Một đoạn phim điện ảnh kết thúc mô tả hậu quả của chiến tranh.
Nếu cuộc xâm lược thất bại, công cuộc tái thiết nước Mỹ vẫn bị tình trạng bất ổn và phải đối mặt với một tương lai không chắc chắn. Nếu cuộc xâm lược thành công và danh tiếng của phe của người chơi rất tốt, nước Mỹ được tái thiết bởi một nhà lãnh đạo của "sự cao thượng hiếm thấy" có hành vi thương xót và kỹ năng chiến lược sẽ được nói đến trong nhiều thế kỷ. Nếu danh tiếng của phe của người chơi rất tệ, Mỹ biến thành một nhà nước phát xít mới, "một trong đó sẽ không bao giờ cảm thấy sự sắc sảo của bất đồng chính kiến".
Cách chơi.
Trò chơi dựa trên hệ thống đường kẻ ô hình lục giác. Các phe phái khác nhau còn lại khi đất nước bị tan vỡ từng phần (xem dưới đây) bắt đầu tiến hành chiến tranh trên nhiều vùng lãnh thổ. Số tiền thu nhập của người chơi có được qua mỗi lượt tấn công dựa trên nhiều vùng lãnh thổ mà họ kiểm soát. Khi tấn công một vùng lãnh thổ, người chơi lựa chọn các đơn vị quân để dàn quân đến khu vực đó trên màn hình triển khai. Nếu một đơn vị được triển khai đến một khu vực thì không thể tái triển khai một đơn vị khác cho đến khi kết thúc lượt tấn công đó. Mỗi bên có thể lựa chọn hoặc tự đặt các đơn vị của họ trên chiến trường tại bất kỳ nơi nào hoặc nhờ máy tính tự động hỗ trợ với các nút hướng dẫn và tự động trên màn hình triển khai.
Trong mỗi khu vực có nhiều dạng địa hình khác nhau với các hiệu ứng riêng biệt sẽ tác động đến tốc độ di chuyển của đơn vị. Các tuyến đường cho phép di chuyển quân nhanh hơn nhiều nhưng làm giảm chỉ số phòng thủ. Rừng, núi, đầm lầy, và các loại địa hình khác cũng có thể làm hạn chế bước di chuyển của đơn vị nhưng lại tăng chỉ số phòng thủ lên cao. Thành phố không ảnh hưởng nhiều đến sự gia tăng bước di chuyển của đơn vị quân (chỉ trừ trường hợp một con đường chạy xuyên qua mới làm tăng chỉ số này lên được) nhưng lại tăng chỉ số phòng thủ. Trường hợp băng qua cầu, sông sẽ gây cản trở nặng bước di chuyển của đơn vị, làm giảm tốc độ của bộ binh, cần cả một lượt để vượt qua đối với một số đơn vị xe và hoàn toàn ngăn chặn các đơn vị khác do đó buộc phải tìm kiếm một cây cầu còn nguyên vẹn. Hai đơn vị, đối phương hoặc đồng minh, không bao giờ có thể chiếm một ô lục giác cùng một lúc.
Ở phần chiến đấu tự thân nó sẽ thể hiện hìng dạng của một đơn vị trực tiếp tham chiến mà không cần sự can thiệp từ bất kỳ đơn vị nào khác ở bên ngoài khu vực. Đơn vị tấn công sẽ khai hỏa trước. Nếu đơn vị phòng thủ vẫn còn sống sót sau cuộc tấn công đầu tiên thì sẽ phản công lại đơn vị tấn công. Mỗi đơn vị chỉ có thể tấn công một lần mỗi lượt và phản công một lần cho mỗi lượt, trừ khi thanh quyền năng bên cạnh cho phép thực hiện một cuộc tấn công khác. Các cuộc không kích thường bị phản công lại, cấp cho đơn vị điểm phòng không và sẽ không bị đợt tấn công đầu tiên của đơn vị không quân địch giết chết.
Mỗi loại đơn vị có ba trạng thái tấn công: hiệu quả chống lại bộ binh (EI), hiệu quả chống lại các loại xe (EV), và hiệu quả chống lại các đơn vị không quân (EA). Nếu chỉ số hiệu quả của kẻ tấn công chống lại các loại đơn vị phòng thủ cao hơn so với tỉ lệ giáp của quân phòng thủ, thiệt hại sẽ được thực hiện theo hiệu quả kẻ tấn công # - giáp phòng thủ #. Nếu không thì sẽ không có thiệt hại hoặc thiệt hại cực kỳ thấp. Một số đơn vị chỉ để chuyên tấn công một loại đơn vị duy nhất. Nếu đủ mức độ thiệt hại gây ra cho đơn vị thì nó sẽ bị phá hủy.
Mục tiêu của trận chiến hoặc là để tiêu diệt tất cả các đơn vị của đối phương hoặc chiếm đủ thành phố mục tiêu để kiểm soát chiến trường. Những thành phố mục tiêu có thể được xác định cho cả hai điểm giá trị là Điểm Mục tiêu của họ và vị trí trên màn hình bản đồ và có thể được hiển thị trên màn hình chiến đấu chính bằng cách sử dụng nút Mục tiêu (cờ). Ở phía bên trái của màn hình là thanh Sidebar Powers. Những quyền hạn hồi phục theo thời gian, và số lượng thời gian cho đến khi họ có thể sử dụng một lần nữa được hiển thị trên nút / hình ảnh của họ. Trong chiến dịch, tùy thuộc vào sự đánh giá chính trị của họ được đánh giá bằng cách thiệt hại phụ thêm bao nhiêu (xem dưới đây) mà anh ta gây ra, người chơi sẽ nhận được loại quyền hạn khác nhau.
Trạng thái đơn vị.
Trong trận đấu, nếu người chơi nhấp chuột vào một trong những đơn vị riêng, một thanh sẽ xuất hiện ở góc dưới bên phải. Thanh này hiển thị tất cả các trạng thái ngay lập tức của đơn vị, bao gồm trạng thái EI, EV, và EA, tỷ lệ giáp (đòn tấn công mà đơn vị có thể chịu đựng trước khi dính sát thương), tỷ lệ máu (mức sát thương đơn vị có thể trụ vững cho tới khi chết) và cấp độ xăng dầu. Xăng dầu rất cần thiết cho các đơn vị xe và máy bay trực thăng di chuyển cứ mỗi bước là trừ một điểm xăng. Nếu hết xăng, đơn vị vẫn có thể tấn công trong phạm vi đó nhưng không thể di chuyển sang lượt tiếp theo trừ phi người chơi tái tiếp tế. Riêng bộ binh thì không cần xăng dầu.
Ngoài ra còn có một nút dấu hỏi bên cạnh trạng thái cơ bản. Bấm vào nút này cho phép người chơi thiết lập trạng thái chi tiết hơn bao gồm tỷ lệ di chuyển (sự mệt mỏi; bao nhiêu ô đơn vị có thể di chuyển qua mỗi lượt), phạm vi tấn công (mục tiêu; bao nhiêu ô đơn vị có thể tấn công), thấu thị (ống nhòm; khoảng cách đơn vị có thể nhìn thấy) và tỷ lệ sát thương phụ (bùng nổ, mức sát thương đơn vị gây ra cho môi trường xung quanh khi tấn công).
Khi đơn vị quân sống sót qua nhiều trận chiến thì chúng sẽ lên cấp. Cấp bậc càng cao thì đơn vị quân sẽ được công điểm thêm vào chỉ số tấn công, phòng thủ và cột máu.
Đơn vị đặc biệt.
Có ba loại quân chủng và chín lớp quân. Quân chủng gồm bộ binh, thiết giáp và máy bay, không có hải quân. Lớp đơn vị dùng một lần (thường là bộ binh), bộ binh, thiết giáp hạng nhẹ, thiết giáp hạng trung, thiết giáp hạng nặng, pháo binh, phòng không, trực thăng và máy bay. Mỗi lớp đều có một loạt đơn vị đặc biệt, chỉ khác nhau về hiệu quả với chi phí.
Đơn vị dùng một lần.
Là những loại quân mà một phe có thể mua được dùng trong một trận đơn chiến. Bao gồm tháp canh và boongke, pháo cố định và các loại dân quân.
Bộ binh.
Có tất cả ba loại đơn vị bộ binh với những mục đích chuyên môn riêng. Những đơn vị kiểu biệt kích thường dùng để chống lại bộ binh và các loại xe khá hữu hiệu nhưng không có khả năng phòng không. Bộ binh hạng nặng thì dùng để tấn công máy bay và các loại xe cộ. Công binh tỏ ra quá yếu trong trực chiến nhưng có khả năng xây dựng và lắp đặt chướng ngại vật như hàng rào dây thép gai, chông chống tăng và địa lôi gây thiệt hại cho quân đối phương khi bước qua.
Thiết giáp.
Có tất cả ba loại thiết giáp với khả năng tương tự và chủ yếu khác nhau là về chi phí cho tới điểm tấn công. Thiết giáp chính là lớp dùng để chống xe cơ giới nhưng cũng có một số loại dùng chống bộ binh khá hiệu quả.
Pháo binh.
Tương tự như máy bay chiến đấu và máy bay ném bom, đơn vị pháo binh là đơn vị hỗ trợ rất mạnh nhưng có nhiều hạn chế đáng kể. Một mục tiêu phải được ít nhất hai ô để pháo binh khai hỏa và rất dễ bị tiêu diệt khi cận chiến. Đơn vị pháo binh cũng ít khi đủ khả năng tự vệ trong hầu hết trường hợp, chỉ một số nhỏ trong game là có giáp xịn hoặc khả năng phòng không. Tuy nhiên, các đơn vị pháo binh lại có tầm bắn xa nhất lên đến năm ô so với bất kỳ loại đơn vị nào trong game. Dù luôn yêu cầu sự hỗ trợ rộng và rất dễ bị tiêu diệt khi tấn công gần, các đơn vị pháo binh cực kỳ mạnh và có thể chứng minh sự tàn phá nếu được sử dụng với số lượng lớn.
Phòng không.
Những đơn vị phòng không có thứ hạng thấp hoặc vô hiệu khi chống lại thiết giáp và từ trung bình đến mức vô hiệu khi chống lại bộ binh nhưng lại rất tuyệt với khả năng tiêu diệt bất kỳ đơn vị máy bay nào. Ngoài ra, mỗi đơn vị phòng không đều có một "bán kính bảo vệ" xung quanh, bất kỳ đơn vị máy bay chiến đấu hoặc máy bay ném bom tấn công một đơn vị khác trong vòng bán kính đó sẽ bị các đơn vị phòng không tấn công lại cũng như đơn vị bảo vệ.
Trực thăng.
Bằng tầm nhìn xa nhất, tốc độ di chuyển mỗi lượt một lần cao nhất và không bị cản trở bởi địa hình, máy bay trực thăng vừa là đơn vị trinh sát và sở hữu khả năng tác chiến tốt. Chúng có thể di chuyển lên trước và tấn công với tốc độ cao, được xem là loại quân chống lại hầu hết các loại đơn vị khác một cách hiệu quả. Một nhược điểm đáng kể của máy bay trực thăng là không thể chiếm hoặc giữ mục tiêu mà chỉ đóng mỗi vai trò hỗ trợ, ứng cứu trong tình trạng nguy cấp. Trực thăng cũng thu hút sự chú ý đáng kể từ máy bay chiến đấu của đối phương và các đơn vị phòng không có nghĩa là chúng sẽ yêu cầu nhiều sự hỗ trợ từ lục quân và không quân của một phe khác.
Máy bay.
Máy bay không di chuyển dọc theo chiến trường như các đơn vị khác mà đóng ở sân bay và chỉ được gọi thông qua bảng chọn lệnh không kích. Có hai loại máy bay chiến đấu và máy bay ném bom. Cả hai đều có giá mua đắt đỏ và khả năng chiến đấu tuyệt vời nhưng vẫn có hạn chế đáng kể. Hỏa lực phòng không và máy bay chiến đấu của đối phương là một mối đe dọa đáng kể cho cả hai loại máy bay nếu đối phương có hai hay nhiều đơn vị như vậy trong phạm vi của một khu vực nơi một máy bay chiến đấu hoặc máy bay ném bom được lệnh tấn công, thì máy bay sẽ bị phá hủy.
Máy bay chiến đấu không có khả năng tấn công đối đất mà chỉ có thể chiến đấu chống lại máy bay khác. Máy bay chiến đấu có thể "tuần tra" một khu vực rộng lớn xung quanh bản đồ trong tầm mắt người chơi, giúp ích cho việc quan sát và bảo vệ những đơn vị bên dưới, nếu một chiếc máy bay đối phương cố gắng tấn công một đơn vị trong tầm bán kính tuần tra của máy bay chiến đấu, thì sẽ bị ngăn chặn, nhưng không phải lúc nào cũng bị bắn hạ bởi máy bay chiến đấu. Tuần tra được lập lại sau một lượt đi của người chơi và kẻ thù. Cần lưu ý rằng các máy bay chiến đấu luôn luôn gây ra thiệt hại cho máy bay chiến đấu khác trong trận đánh, thậm chí nếu các máy bay chiến đấu khác bắn hạ, tuy nhiên, một chiếc máy bay chiến đấu tuần tra tấn công một máy bay khác trong bán kính tuần tra của nó (nếu không trực tiếp tấn công) sẽ không bị phản công lại.
Máy bay ném bom, mặt khác, lại không có khả năng phòng không. Chúng không thể tuần tra như máy bay chiến đấu, nhưng thay vì gọi hiệu lệnh tấn công một mục tiêu duy nhất và bay đi. Các cuộc tấn công của máy bay ném bom có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các đơn vị kẻ thù, và máy bay ném bom có thể chịu được hỏa lực của đối phương nhiều hơn so với máy bay chiến đấu. Được xem là một trong những đơn vị đắt tiền nhất trong game và phải tốn rất nhiều đòn hỏa lực phòng không mới chặn lại được đôi khi chỉ một trận ném bom thì khó mà khắc phục được cho phe đó.
Đón nhận.
Shattered Union thường nhận được đánh giá trung bình từ hầu hết giới phê bình. Game nhận được số điểm 7,9 từ GameSpot, 7.5 từ IGN, 7.9 từ Playing Worth, 7,8 từ GameZone, 72/100 từ GamingTrend, và + C từ Game Revolution. Thunderbolt có chút tích cực hơn hơn số khác chấm 8/10 trong khi Game Chronicles và GamingExcellence có phần tiêu cực hơn, chấm 6.5 và mức điểm 5.5 tương tự. Lối chơi được ca ngợi "đơn giản nhưng sâu sắc" và concept cũng khá được yêu thích trong khi những lời chỉ trích bao gồm AI không cân bằng và thiếu hẳn bất kỳ tính năng ngoại giao nào.
Phim sắp ra mắt.
Variety và Gamasutra thông báo Jerry Bruckheimer đang tạo ra một ấn phẩm phim chuyển thể từ game được phân phối bởi Walt Disney Pictures. J. Michael Straczynski được chỉ định viết kịch bản. | 1 | null |
Khmer Rumdo (tiếng Khmer: ខ្មែររំដោះ; nghĩa là "Khmer Giải Phóng") là một trong nhiều nhóm du kích hoạt động trong phạm vi biên giới Campuchia trong cuộc nội chiến Campuchia 1970-1975. Họ là một phần của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Campuchia (Front Uni National du Kampuchea, viết tắt FUNK), một hiệp hội giữa Hoàng thân Norodom Sihanouk, người đã bị lật đổ khỏi quyền lực qua cuộc đảo chính năm 1970 và các lực lượng cộng sản.
Lịch sử.
Mặc dù ranh giới giữa các phe phái khác nhau có một chút xáo trộn, Khmer Rumdo thường được xác định là những thành phần trên danh nghĩa trung thành với Hoàng thân Sihanouk nhưng đồng thời họ cũng thuộc cánh tả và được sự hỗ trợ tích cực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt).
Khmer Rumdo bắt nguồn từ một phần trong lịch sử của Đảng Cộng sản Campuchia và phong trào Khmer Issarak ("Khmer Độc Lập") ban đầu. Nhiều người trong số những người cộng sản Campuchia đã sớm có liên kết chặt chẽ với Việt Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam giúp huấn luyện và hỗ trợ và trong nhiều trường hợp còn ủng hộ Sihanouk như là nhân vật của sự thống nhất quốc gia. Những cán bộ này vẫn nắm giữ các chức vụ cấp cao trong nhiều khu vực phía đông sông Mê Kông và gần biên giới Việt Nam. Do đó, lực lượng Khmer Rumdo được tuyển mộ chủ yếu ở miền đông đất nước.
Khác với các lực lượng trung thành đường lối cứng rắn của phe Trung tâm trong Đảng Cộng sản Campuchia, thế lực mạnh nhất ở miền tây và tây nam, thường được các quan sát viên châu Âu và Mỹ gọi là Khmer Đỏ (tên gọi ban đầu do Sihanouk đặt ra để chỉ cộng sản Campuchia nói chung). Phe Trung tâm đứng đầu bởi Saloth Sar, Son Sen và Ieng Sary với hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cực đoan, tỏ vẻ không muốn hợp tác với Việt Nam mà chủ yếu nhận sự hỗ trợ từ phía Trung Quốc; đồng thời ra sức chống đối Sihanouk, xem ông như là nhân vật đại diện cho chế độ phong kiến. Có những bản báo cáo định kỳ về các cuộc đụng độ giữa một bên là quân đội phe "Trung tâm" và các lực lượng miền Đông được sự hỗ trợ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, mặt khác dù cả hai phe phối hợp nỗ lực của họ để chống lại Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer (FANK), lực lượng vũ trang chính quy của nước Cộng hòa Khmer dưới chế độ Lon Nol.
Vào lúc ban đầu của cuộc nội chiến, Khmer Rumdo được coi là thành phần mạnh hơn trong các lực lượng đối lập Campuchia chống lại Lon Nol. Tháng 8 năm 1971, quan chức chính phủ nước Cộng hòa Khmer In Tam ước tính những người nổi dậy thuộc phe không Việt Nam vào khoảng 10.000 người: trong số này, ông đã buộc phải thừa nhận rằng chỉ có 4000 người là đúng "Khmer Đỏ" thật sự, số còn lại đều thuộc phe Sihanouk và những người Khmer chiến đấu chống lại "sự chiếm đóng của Đế quốc Mỹ". Sau chuyến viếng thăm của Sihanouk vào năm 1973 đến vùng giải phóng, nơi ông được chào đón với lời ủng hộ từ tầng lớp nông dân, phe Trung tâm đã bắt đầu âm thầm loại bỏ cả cán bộ thân Sihanouk và Việt Nam ra khỏi bộ máy chính quyền tại các vùng mà họ kiểm soát. Đến năm 1974, có báo cáo nói rằng các lực lượng trung thành với phe Trung tâm đã sử dụng thuật ngữ Khmer Krahom nghĩa là Khmer Đỏ để xác nhận chính họ, chứ không còn là Khmer Rumdo nữa.
Thời gian trôi qua đã có báo cáo rằng Khmer Rumdo là trong một số trường hợp trực tiếp tham gia vào các hoạt động chống lại chính quyền Khmer Đỏ trong "vùng giải phóng". Có ít nhất ba sự biến xảy ra tại Quân khu 35 (thuộc tỉnh Kampot) vào cuối năm 1973, khi lực lượng Khmer Rumdo tham gia vào hành động chống lại quân đội Đảng Cộng sản cứng rắn và tập hợp nông dân phản đối cán bộ Đảng cố trưng thu vụ lúa. Tới đầu năm 1974, lực lượng ủng hộ Sihanouk lớn mạnh được cho rằng đã cố gắng giành quyền kiểm soát quân sự các tuyến quốc lộ trên địa bàn tỉnh. Tại vùng 37 ở khu Tây, 742 binh sĩ Khmer Rumdo đầu hàng đồng loạt chế độ Lon Nol vào tháng 3 năm 1974, tuyên bố họ là một phần của lực lượng mười ngàn người sẽ quy thuận nếu Lon Nol ban cho họ quyền tự chủ hoạt động để thực hiện cuộc chiến chống lại đối thủ Đảng Cộng sản nhưng đã bị từ chối.
Chính quyền miền đông Campuchia 1970-1975.
Những báo cáo thu được từ những người tị nạn nói rằng không chỉ các lực lượng miền đông, dưới sự chỉ huy của Chan Chakrey, trang phục khác hẳn Khmer Đỏ (họ mặc bộ quân phục dã chiến màu xanh lá cây chứ không phải là quần áo nông dân màu đen được binh lính Khmer Đỏ sử dụng) nhưng trong khu vực họ kiểm soát thì họ cư xử với chừng mực đáng kể (bắt sĩ quan FANK, ví dụ như chỉ đơn thuần là ra lệnh thực hiện lao động, chứ không xử tử trong trường hợp này đối với Khmer Đỏ). Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy có sự tự do tôn giáo và kinh tế ở mức độ lớn hơn được phép trong khu vực phía đông, ngay cả sau khi chế độ Lon Nol sụp đổ vào năm 1975.
Thanh trừng sau 1975.
Các nhà lãnh đạo cấp cao của Khmer Đỏ đã công khai phối hợp với Sihanouk trước năm 1970 và trong Mặt trận Thống nhất đều bị sát hại (như trong trường hợp của Hou Yon và Hu Nim) hoặc cách ly (như trong trường hợp của Khieu Samphan) sau khi thành lập nhà nước Campuchia Dân chủ.
Khu Đông đã bị Đảng Trung tâm thanh trừng vào các năm 1976-1977. Chakrey bị hành quyết trong trại tạm giam Tuol Sleng vào năm 1976, ông được xem là viên chức cao cấp đầu tiên được gửi vào đây; trong khi So Phim, bí thư Khu Đông bị buộc phải tự sát. Một số cán bộ Khu Đông bị lật đổ như Heng Samrin về sau sẽ tiếp tục lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Campuchia sau cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam 1978-1979. | 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 84 (tiếng Anh: "Interstate 84" hay viết tắt là I-84) là một xa lộ liên tiểu bang kéo dài từ Dunmore, Pennsylvania (gần Scranton) tại một nút giao thông khác mức với Xa lộ Liên tiểu bang 81 đến Sturbridge, Massachusetts tại một nút giao thông lập thể với Xa lộ thu phí Massachusetts (Xa lộ Liên tiểu bang 90). Cũng có một Xa lộ Liên tiểu bang 84 riêng biệt nằm trong vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.
Mô tả xa lộ.
Pennsylvania.
Xa lộ Liên tiểu bang 84 bắt đầu trong tiểu bang Pennsylvania tại Xa lộ Liên tiểu bang 81 trong Dunmore, Pennsylvania, một khu ngoại ô phía đông của thành phố Scranton. Hai dặm đầu tiên (3 km) nó chạy trùng với Xa lộ Liên tiểu bang 380. Hai xa lộ tách nhau tại vùng đồi miền quê nằm bên ngoài thành phố. Khi đó I-380 đi hướng đông nam qua Poconos và I-84 tiếp tục theo hướng đông vào Quận Wayne và Pike. Đoạn qua Pennsylvania là đoạn duy nhất của I-84 dùng số lối ra dựa vào mốc dặm; đoạn này bắt đầu thay thế số lối ra dựa theo thứ tự vào năm 2001.
Đoạn đường trong tiểu bang Pennsylvania có dân số thưa thớt, không có khu định cự lớn nào nằm trên hay gần xa lộ I-84. Tuy nhiên nó tạo lối đến các khu giải trí ngoài trời ưa thích như Hồ Wallenpaupack và Công viên Tiểu bang Promised Land. Phần đất riêng chưa sử dụng của xa lộ rất rộng với một dải đất trung tâm phân cách giữa hai chiều xe khi xa lộ đi qua khu vực rừng rậm nông thôn, trừ các khu vực đầm lầy tại miền nam Quận Wayne. Phát triển duy nhất dọc theo đoạn đường xa lộ đi qua tiểu bang Pennsylvania là nơi Quốc lộ Hoa Kỳ 6 và Quốc lộ Hoa Kỳ 209 bắt đầu chạy chạy song song sát nhau và tạo thành một dải đất thương mại nằm ở phía nam Matamoras ngay phía tây Sông Delaware.
New York.
I-84 vào tiểu bang New York bằng cách Sông Delaware và Sông Neversink trên một cây cầu dài ở phía nam thành phố Port Jervis, đây là khu định cư đầu tiên gần xa lộ. Dặm đầu tiên của xa lộ trong tiểu bang New York chạy dọc theo ranh giới tiểu bang New Jersey, sau đó uốn cong lên phía bắc để lên đỉnh Shawangunk và đi qua Quận Orange là nơi nó hình thành một cạnh của "tam giác vàng" phân phối với NY 17 (I-86 tương lai) và New York State Thruway (I-87). I-84 gồm có Cầu Newburgh–Beacon bắt qua Sông Hudson tại thành phố Newburgh.
Phía đông cầu và thành phố Beacon, I-84 tiếp tục theo hướng đông đi ngang qua Quận Dutchess, bắt đầu quay về hướng nam trong các khu vực núi non ở phía đông Xa lộ Công viên Tiểu bang Taconic và vào trong Quận Putnam. Tại Brewster nơi Xa lộ Liên tiểu bang 684 đi hướng nam đến Thành phố New York, xa lộ quay về hướng đông của nó để vào tiểu bang Connecticut, gần như chạy song song với Quốc lộ Hoa Kỳ 6 và Quốc lộ Hoa Kỳ 202.
Connecticut.
Lối ra đầu tiên của xa lộ này tại ranh giới tiểu bang là nơi nó đi vào thành phố Danbury. Tại đây xa lộ có tên là Xa lộ cao tốc Yankee. Đi về phía đông hai dặm nơi Quốc lộ Hoa Kỳ 7 từ phía nam gần Trung tâm mua sắm Danbury Fair nhập vào, I-84 quay lên hướng bắc. Tại lối ra tiếp theo, các Quốc lộ 6 và Quốc lộ 202 nhập vào I-84.
Bốn xa lộ trùng kết thúc sau chạy trùng nhau khi Quốc lộ 7 và 202 tách khỏi đi về phía bắc đến New Milford. Quốc lộ 6 rời xa lộ liên tiểu bang I-84 tại lối ra kế tiếp. I-84 tiếp tục hướng đông đi qua vùng nông thôn. Tại lối ra 11, nó quay sang hướng đông bắc và hạ thấp xuống để đi qua Sông Housatonic bằng Cầu Rochambeau vào Quận New Haven, sau đó chạy lên vùng đất cao đến thành phố Waterbury. Tại đây xa lộ cao tốc CT 8 giao cắt với nó.
Xa lộ tiếp tục hướng đông qua Waterbury đến Milldale nơi Xa lộ Liên tiểu bang 691 tách ra đi về hướng đông. Đoạn này có nhiều lối ra, lối vào và đường cong gắt nằm bên tay trái, được xây dựng cho một hệ thống đã dự định gồm các xa lộ cao tốc. I-84 đi hướng đông bắc về New Britain và Hartford, thủ phủ tiểu bang và cộng đồng lớn nhất dọc theo đoạn đường phía đông của nó. Sau khi giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 91, xa lộ qua Sông Connecticut bằng Cầu Bulkeley, cầu xưa nhất trong Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Sau đó xa lộ trở thành Xa lộ Wilbur Cross và tiếp tục đi về hướng đông bắc.
Lối ra cuối cùng tại tiểu bang Connecticut là lối ra 74. I-84 qua ranh giới tiểu bang Massachusetts tại thị trấn Union.
Massachusetts.
Xa lộ Wilbur Cross tiếp tục trên Xa lộ Liên tiểu bang 84 sau khi xa vượt qua ranh giới tiểu bang. Trong một đoạn đường ngắn (khoảng 82 mét chiều đi hướng đông và 183 mét chiều đi hướng tây), xa lộ đi qua thị trấn Holland trong Quận Hampden trước khi vào Sturbridge trong Quận Worcester cho phần còn lại chiều dài của nó. I-84 chỉ có 3 lối ra trong tiểu bang Massachusetts trước khi kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 90 (cũng là Xa lộ thu phí Massachusetts). I-84 kết thúc tại Lối ra 9 của I-90 mà nằm trong thị trấn Sturbridge, khoảng bên trong tiểu bang. Đoạn đường trong tiểu bang Massachusetts là đoạn đường ngắn nhất trong 4 tiểu bang mà xa lộ đi qua.
Mối quan hệ với I-86.
Đoạn đường của I-84 giữa thị trấn East Hartford, Connecticut (tại điểm giao cắt ngày nay với Xa lộ Liên tiểu bang 384) và thị trấn Sturbridge, Massachusetts (Xa lộ Liên tiểu bang 90) có một thời được cắm biển dấu là Xa lộ Liên tiểu bang 86 (không có liên quan với Xa lộ Liên tiểu bang 86 ngày nay nằm trong tiểu bang New York và tiểu bang Pennsylvania).
Các xa lộ phụ.
Xa lộ Liên tiểu bang 484 được đề xuất xây dựng bên dưới phố chính thành phố Hartford (kết nối với Xa lộ Liên tiểu bang 91), nhưng xa lộ này chưa bao giờ được hoàn thành. | 1 | null |
Maria Izadora Ussher Calzado (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1982 tại thành phố Quezon,Philippines). Là một diễn viên, người mẫu, người dẫn chương trình của Philippines. Cô đóng vai Maita San Miguel trong bộ phim nữ hoàng sắc đẹp. Và bắt đầu từ bộ phim đấy trở đi, cô nổi tiếng hơn.
Tiểu sử.
Khi Iza Calzado chào đời,bố mẹ của cô đặt tên cho cô theo tên của vũ công Isadora Duncan.Cha cô là biên đạo múa và cũng là giám đốc sản xuất phim.Mẹ của cô là Lito Calzado.Anh trai của Iza là Mary Ann Ussher. Calzado. | 1 | null |
Acanthodes (nghĩa là "cuống gai" hay "gốc gai") là một chi cá mập gai (Acanthodii) đã tuyệt chủng. Các hóa thạch được tìm thấy ở châu Âu, Bắc Mỹ và Australia.
So sánh với các loại cá mập gai khác, "Acanthodes" là tương đối lớn, dài khoảng . Cá trong chi này không có răng, mà thay vì thế nó có các mang. Do điều này, người ta cho rằng nó là loại cá kiếm ăn theo kiểu lọc nước, lọc các loại sinh vật phiêu sinh từ nước. "Acanthodes" đã được tìm thấy chỉ có một cặp xương hộp sọ. Nó được vẩy hình lập phương che phủ.
Nó cũng có ít gai hơn so với đa phần các họ hàng của mình. Mỗi một vây ức và vây chậu trong cặp đôi các vây này đều chỉ có 1 gai, và 1 gai của vây hậu môn duy nhất cùng 1 gai trên các vây lưng, do đó tổng cộng nó chỉ có 6 gai, ít hơn khoảng một nửa so với của nhiều loài khác.
Các loài cá mập gai cho tới nay vẫn còn là chủ đề của sự tranh luận lớn về phân loại khoa học của chúng. Điều này là do chúng chia sẻ các đặc trưng của cả cá xương (Osteichthyes) và cá sụn (Chondrichthyes). Một nghiên cứu gần đây cho rằng "Acanthodes" có thể là tổ tiên chung của tất cả các loài động vật có quai hàm (Gnathostomata), bao gồm cả con người.
Lịch sử.
"Acanthodes" là từ phái sinh từ tên gọi Acanthodii, một từ gốc Hy Lạp có nghĩa là gai. Các loài cá mập gai cổ nhất đã biết từng phát triển tốt vào cuối kỷ Ordovic. Chúng phát triển cực đỉnh trong kỷ Devon, nhưng đã tuyệt diệt trong sự kiện tuyệt chủng vào cuối kỷ Permi. | 1 | null |
Tấn Hiếu Vũ Đế () (362–396), tên thật là Tư Mã Diệu (司馬曜), tên tự Xương Minh (昌明), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 14 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Dưới thời ông trị vì, Đông Tấn vẫn tồn tại sau một nỗ lực lớn lớn nhằm tiêu diệt vương triều này của Tiền Tần, song ông lại là vị hoàng đế nhà Tấn cuối cùng thật sự cai trị đế quốc, do các con trai của ông là An Đế và Cung Đế nằm trong vòng kiểm soát của các nhiếp chính và quân phiệt. Bản thân Hiếu Vũ Đế đã chết một cách bất thường, ông bị người thiếp Trương quý nhân giết chết sau khi xúc phạm bà.
Đầu đời.
Tư Mã Diệu sinh năm 362, khi đó cha ông, tức Tư Mã Dục đang có tước hiệu Hội Kê vương và có chức vụ thừa tướng trong triều đình của Ai Đế. Mẹ của ông là Lý Lăng Dung, có xuất thân là một nô tì làm công việc dệt vải, nhưng dựa trên lời phán của pháp sư rằng bà sẽ mang đến cho ông một người kế tự, Tư Mã Dục đã cưới bà làm thiếp, bà sau đó đã sinh ra Tư Mã Diệu. Do ông được sinh ra vào lúc bình minh, bà đặt tên cho ông là Diệu, với tên chữ là Xương Minh, cả hai đều có nghĩa là "bình minh". Một năm sau, bà lại hạ sinh Tư Mã Đạo Tử. Do ông là người con trai lớn nhất còn sống của Tư Mã Dục, Tư Mã Diệu được định là người kế tự, và năm 365, khi ông mới ba tuổi, Tấn Phế Đế đã ra lệnh ban tước hiệu Lang Da vương cho cha ông và tước hiệu Hội Kê vương cho ông. Tư Mã Dục đã từ chối điều này, cả trên phương diện cá nhân và thay mặt con trai.
Năm 371, sau khi thua trận trước tướng Mộ Dung Thùy của Tiền Yên vào năm 369, tướng Hoàn Ôn đã quyết định thể hiện quyền lực của mình bằng cách buộc tội sai Phế Đế bất lực và các hoàng tử không phải là con đẻ của ông, rồi phế truất hoàng đế. Ông ta lập Tư Mã Dục làm hoàng đế mới, mặc dù vậy, quyền lực trên thực tế vẫn do Hoàn Ôn nắm giữ, do vậy, ông ta được coi là người chiếm đoạt ngai vàng nhà Tấn. Năm 372, Tấn Giản Văn Đế lâm bệnh, ông lập Tư Mã Duệ làm thái tử, song ban đầu ông định trao ngai vàng cho Hoàn Ôn nếu như ông ta muốn như vậy. Sau khi Giản Văn Đế băng hà, nhiều đại thần sợ hãi Hoàn Ôn nên đã không ngay lập tức tuyên bố Diệu Thái tử trở thành hoàng đế mới nhằm chờ động thái của Hoàn Ôn.
Thời gian đầu trị vì.
Ông trở thành hoàng đế mới khi mới 10 tuổi, do vậy vợ của Khang Đế là Chử Thái hậu đóng vai trò nhiếp chính, song trên thực tế, Vương Thản Chi (王坦之) và Tạ An (謝安) mới là những người đưa ra các quyết định, vì Hoàn Ôn đã từ chối lời đề nghị làm nhiếp chính, có lẽ do sợ đây là một cái bẫy. Tuy nhiên, vẫn có lo ngại rằng Hoàn Ôn sẽ chiếm lấy ngai vàng, và vào năm 373, khi Hoàn Ôn đến kinh thành Kiến Khang, đã xuất hiện tin đồn rằng Hoàn Ôn sẽ giết chết Vương Thản Chi và Tạ An rồi chiếm ngôi vua. Tuy nhiên, Hoàn Ôn đã do dự và không làm như vậy, ông ta qua đời một năm sau đó, lúc này, những nỗi sợ hãi trước việc Hoàn Ôn tiếm quyền đã tiêu tan khi em trai và người kế nghiệp Hoàn Ôn là Hoàn Xung cam kết trung thành với triều đình.
Một vấn đề lớn đối với triều đình Đông Tấn trong giai đoạn đầu cai trị của Hiếu Vũ Đế là sức ép mạnh mẽ từ kình địch ở phía bắc là Tiền Tần. Năm 373, Tiền Tần tấn công và chiếm Lương Châu (梁州, nay là phía nam Sơn Tây) và Ích Châu (益州, nay là Tứ Xuyên và Trùng Khánh). Tuy nhiên, về mặt đối nội thì có vẻ như Đông Tấn được Tạ An và Hoàn Xung quản lý khá tốt.
Năm 375, Hiếu Vũ Đến kết hôn với Vương Pháp Huệ, con gái của đại thần Vương Uẩn (王蘊), bà trở thành Hoàng hậu. Lúc đó ông mới 13 tuổi còn hoàng hậu mới 16 tuổi. Ông cũng bắt đầu học điển tịch và làm thơ. Năm 376, Chử Thái hậu chính thức rời bỏ vị trí nhiếp chính và trao lại quyền hành cho Hiếu Vũ Đế, tuy vậy, quyền quyết định chủ yếu vẫn nắm trong tay Tạ An.
Năm 376, chư hầu của Đông Tấn là Tiền Lương bị Tiền Tần tấn công, và quân Tấn dưới quyền chỉ huy của Hoàn Xung, đã cố gắng cứu viện cho Tiền Lương bắt cách tấn công Tiền Tần, song Tiền Lương đã thất bại quá nhanh chóng, Hoàn Xung phải cho rút quân. Lo sợ về một cuộc tấn công của Tiền Tần, Tấn cho di tản phần lớn cư dân ở phía bắc Hoài Hà về phía nam.
Năm 378, Tiền Tần thực hiện các cuộc tấn công nhằm vào các thành lớn của Tấn là Tương Dương, Ngụy Hưng (魏興, nay thuộc An Khang, Thiểm Tây), và Bành Thành (彭城). Trong khi tướng Tạ Huyền có thể ngay lập tức lấy lại Bành Thành thì Tương Dương và Ngụy Hưng đã bị mất vào tay quan Tiền Tần vào năm 379.
Năm 380, Vương Hoàng hậu qua đời. Hiếu Vũ Đế sau đó không lập hoàng hậu nào khác.
Năm 381, Hiếu Vũ Đế bắt đầu theo học kinh Phật, ông cho lập các học đường Phật giáo bên trong cung điện, mời các sư thầy đến sống tại đó.
Năm 383, Hoàn Xung tiến hành một cuộc phản công chống lại Tiền Tần, hy vọng tái chiếm Tương Dương và khu vực tây nam. Tuy nhiên, sau một số thất bại ban đầu, Hoàn Xung đã từ bỏ chiến dịch.
Trận Phì Thủy.
Sau đó vào năm 383, Hoàng đế Tiền Tần là Phù Kiên đã phát động một cuộc tấn công lớn chống Đông Tấn, với mục đích tiêu diệt triều đại này và thống nhất Trung Quốc. Tuy nhiên, trong trận Phì Thủy, quân lính của ông đã thất bại nghiêm trọng, với nhiều quân lính và tướng lĩnh thiệt mạng bao gồm cả em trai và thừa tướng Phù Dung (苻融). Tiền Tần bắt đầu suy sụp vào năm 384 sau thất bại này và sau đó không còn là mối đe dọa cho Đông Tấn.
Thời kỳ trị vì giữa.
Sau khi đánh bại quân Tiền Tần, nhân việc Tiền Tần suy sụp, Tạ Huyền đã dẫn đầu một chiến dịch nhằm tái chiếm các lãnh thổ đã mất, Đông Tấn sau đó đã lấy được hầu hết các châu của Tiền Tần ở phía nam Hoàng Hà một cách khá nhanh chóng, cũng như lấy lại Lương Châu và Ích Châu. Tuy nhiên, thừa tướng Tạ An, người được tín nhiều lớn sau chiến thắng, bắt đầu để mất thiện cảm trong con mắt của Hiếu Vũ Đế, con rể của Tạ An là Vương Quốc Bảo (王國寶), không hài lòng về việc Tạ An đã không ban cho mình một vị trí quan trọng nên bắt đầu xu nịnh cả Hiếu Vũ Đế và Hội Kê vương Tư Mã Đạo Tử và tấn công Tạ An. Tuy nhiên, Tạ An vẫn là thừa tướng cho đến khi ông qua đời vào năm 385. Tư Mã Đạo Tử thay thế vị trí của ông. Cả Hiếu Vũ Đế và Tư Mã Đạo Tử sa vào tiệc rượu và không dành nhiều thời gian cho chính sự.
Năm 387, Hiếu Vũ Đế lập con trai cả của mình là Tư Mã Đức Tông, khi ấy mới 5 tuổi, làm thái tử, tuy thế Tư Mã Đức Tông gặp phải căn bệnh "phát triển chướng ngại rất nghiêm trọng, ngay cả sau khi lớn lên, ông vẫn được mô tả là không thể nói chuyện hay tự mặc được y phục, và thậm chí không thể cho biết liệu ông no hoặc đói trong khi ăn.
Năm 390, Hiếu Vũ Đế bắt đầu mệt mỏi với việc Tư Mã Đạo Tử lợi dụng sự tín nhiệm của ông và trở nên bất kính, ông quyết định phải lập lực lượng đối trọng. Vũ Đế quyết định cho các quan là Vương Cung (王恭) và Ân Trọng Kham (殷仲堪) làm thứ sử các châu chủ chốt, bất chấp cảnh báo rằng cả Vương và Ân có tài tư tưởng hẹp hòi và có thể phát sinh vấn đề về sau.
Thời kỳ trị vì cuối.
Năm 394, Hiếu Vũ Đế tôn vinh mẹ mình, Lý Lăng Dung, làm thái hậu.
Năm 395, xung đột giữa Hiếu Vũ Đế và Tư Mã Đạo Tử đã bùng nổ, song nhờ sự can thiệp của Lý Thái hậu, Hiếu Vũ Đế đã không loại bỏ em trai mình. Sau khi được Từ Mạc (徐邈) hòa giải hơn nữa, quan hệ giữa hai anh em dường như đã được khôi phục.
Năm 396, Hiếu Vũ Đế đã dành quá nhiều thời gian của mình cho tửu sắc đến mức không gặp các quan lại để bàn việc nước một cách thường xuyên. Người thiếp ông sủng ái là Trương quý nhân. Vào cuối thu năm 396, tại một bữa tiệc, Hiếu Vũ Đế đã nói đùa với người thiếp này, khi đó gần 30 tuổi, "Dựa trên tuổi của nàng, nàng nên nhường lại vị trí của mình. Trẫm cần một ai đó trẻ hơn". Bà ta đã rất giận dữ song đã nén cảm xúc của mình. Đêm đó, Hiếu Vũ Đế lại say rượu, bà lệnh cho tất cả hoạn quan rời đi, hối lộ rượu cho họ, và sau đó lệnh cho các nô tì của bà làm ngạt thở Hiếu Vũ Đế bằng cách đặt một tấm chăn. Bà ta sau đó tiếp tục hối lộ nhiều người có mặt và tuyên bố rằng hoàng đế qua đời đột ngột khi đang ngủ. Bởi thái tử Tư Mã Đức Tông là người phát triển trở ngại, còn Tư Mã Đạo Tử thì ngu ngốc và không biết suy nghĩ nên đã không ai điều tra về cái chết của hoàng đế. Ngày hôm sau, Tư Mã Đức Tông đã lên ngôi và trở thành An Đế, còn Tư Mã Đạo Tử làm nhiếp chính.
Gia quyến.
Con cái.
Đều do Trần Quý Nữ sinh ra. | 1 | null |
Tấn An Đế () (382–419), tên thật là Tư Mã Đức Tông (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông được mô tả là người "khuyết tật phát triển" đến nỗi ông không thể nói, tự mặc y phục và biểu thị rằng mình đói hay no. Ông được lập làm thái tử vào năm 387 và lên ngôi năm 397. Bởi ông có khuyết tật về trí tuệ, quyền lực trên thực tế nằm trong tay người chú ruột là Hội Kê vương Tư Mã Đạo Tử. Dưới thời ông trị vì, những nhiếp chính và quân phiệt thống trị đế chế Đông Tấn. Các cuộc khởi nghĩa của các thứ sử khác nhau cũng gây nên cảnh hoang tàn. Từ năm 398 đến 403, đã liên tục diễn ra các cuộc khởi nghĩa và nội chiến. Năm 403, triều đình Đông Tấn đã bị Hoàn Huyền tiếm quyền, và khi An Đế phục vị vào năm 404, nhà Đông Tấn đã gần như đi đến hồi kết. Với việc quân phiệt Lưu Dụ có quyền lực trên thực tế, Tấn đã diệt được Nam Yên và Hậu Tần, mở rộng bờ cõi của mình. Tuy nhiên, khi Lưu Dụ đang ở phía bắc, thứ sử Quảng Châu (廣州, nay là Quảng Đông và Quảng Tây) đã nổi loạn và đe dọa kinh thành Kiến Khang trước khi Lưu Dụ trở lại và đè bẹp cuộc nổi loạn. Năm 419, An Đế bị siết cổ theo lệnh của Lưu Dụ và em trai ông được đưa lên thay, trở thành Cung Đế, Cung Đế là vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Tấn vì 1 năm sau đó Lưu Dụ đã cướp ngôi và lập nên triều đại Lưu Tống.
Đầu đời.
Tư Mã Đức Tông là con trai cả của Hiếu Vũ Đế, mẹ là tì thiếp Trần Quy Nữ. Người ta không biết khi nào căn bệnh thiểu năng trí tuệ của Tư Mã Đức Tông được phát hiện, song có khả năng là từ rất sớm trong thời thơ ấu của ông, mức độ khuyết tật, theo các sử gia là rất lớn. Khi ông mới tám tuổi, tức năm 390, mẹ ông cũng qua đời. Mặc dù ông có một người em trai, Tư Mã Đức Văn, cũng do Trần Quy Nữ hạ sinh, người này được mô tả là thông minh và thận trọng, và đã học cách chăm sóc người anh, song không rõ vì lý do gì, Hiếu Vũ Đế chưa bao giờ xem xét một cách nghiêm túc việc để cho Đức Văn kế vị, và vào năm 387, Tư Mã Đức Tông trở thành thái tử. Năm 395, ông đến sống ở đông cung theo như phong tục dành cho thái tử. Năm 396, ông kết hôn với con gái của viên quan Vương Hiến Chi (王献之) là Vương Thần Ái.
Năm 397, Hiếu Vũ Đế bị Trương quý nhân giết chết sau khi bà ta bị hoàng đế xúc phạm. Tuy nhiên, với việc người em trai duy nhất của Hoàng đế là Hội Kê vương Tư Mã Đạo Tử bất tài và Thái tử Đức Tông phát triển chướng ngại, đã không có cuộc điều tra nào được tiến hành về cái chết của Hiếu Vũ Đế. Thái tử Đức Tông kế vị và trở thành An Đế, Tư Mã Đạo Tử trở thành người nhiếp chính.
Tư Mã Đạo Tử nhiếp chính.
Tư Mã Đạo Tử trong vai trò nhiếp chính say xỉn liên miên và rất tin cậy Vương Quốc Bảo (王國寶) và Vương Tự (王緒) do họ có tài nịnh bợ, nhiếp chính vương nhanh chóng trở nên tham nhũng và không đủ năng lực. Thứ sử Vương Cung (王恭), người được Hiếu Vũ Đế giao phó chỉ huy binh lính ở phần đông bắc của đế quốc, đã xem xét đến việc khởi đầu một cuộc nổi loạn để lật đổ Vương Quốc Bảo và Vương Tự. Năm 397, Vương Quốc Bảo và Vương Tự đề xuất với Tư Mã Đạo Tử rằng những binh lính được nắm giữ bởi Vương Cung và quan thứ sử khác là Ân Trọng Kham (殷仲堪), cần phải được giảm bớt; Vương Cung và Ân Trọng Kham là những người chỉ huy ở các châu phía tây, đáp lại, đã huy động binh lính của mình và tuyên bố rằng Vương Quốc Bảo và Vương Tự phải bị xử tội chết. Tư Mã Đạo Tử trong sợ hãi đã ép Vương Quốc Bảo tự tử và hành quyết Vương Tự. Vương Cung và Ân Trọng Kham sau đó rút lui. Từ thời điểm này, Tư Mã Đạo Tử không tin tưởng ai ngoại trừ người thừa kế tuổi niên thiếu của ông, Tư Mã Nguyên Hiển (司馬元顯), và giao phó quyền bảo vệ kinh thành cho Tư Mã Nguyên Hiển. Ông cũng ban hàm tướng chỉ huy cho các họ hàng xa là Tiếu vương Tư Mã Thượng Chi (司馬尚之) và em út của Tư Mã Thượng Chi là Tư Mã Hưu Chi, cũng như Vương Du (王愉) vào năm 398.
Việc ban chức chỉ huy quân sự cho Vương Du đã dẫn đến phản ứng từ Vương Cung và Ân Trọng Kham do quyền chỉ huy của Vương Du trải rộng trên bốn quận nguyên là đất dưới quyền Dữu Khải (庾楷), người này đã trở nên giận dữ và đã thuyết phục Vương Cung cùng Ân Trọng Kham rằng mục đích của Tư Mã Đạo Tử cũng nhằm để chống lại họ. Do vậy, cả hai lại nổi dậy, song Tư Mã Đạo Tử đã thuyết phục được tướng của Vương Cung là Lưu Lao Chi (劉牢之), người chỉ huy đội quân tinh nhuệ Bắc Phủ binh (北府兵), quay sang chống lại Vương Cung, bắt giữ rồi giết chết người này. Ân Trọng Kham nghe tin Vương Cung bị giết chết cũng sợ hãi song vẫn xem xét đến việc tiến quân bằng mọi cách, Tư Mã Đạo Tử theo đề nghị của người anh em họ của Hoàn Huyền là Hoàn Tu (桓脩), đã gây ra bất đồng giữa Ân và các tướng của ông là Hoàn Huyền là Dương Thuyên Kỳ (楊佺期) bằng cách ban cho Hoàn và Dương các vị trí then chốt; mặc dù Hoàn và Dương trên danh nghĩa vẫn là các đồng minh của Ân Trọng Kham song Ân Trọng Kham đã buộc phải rút quân, và từ thời điểm đó không còn là một mối đe dọa lớn, lãnh địa của ông ta cũng bị phân làm ba, trong đó Hoàn Huyền và Dương Thuyên Kỳ mỗi người được một phần.
Cuối năm 398, pháp sư Tôn Thái (孫泰), một người bạn của Tư Mã Nguyên Hiển, đã bị vạch trần khi âm mưu một kế hoạch phản nghịch, Tư Mã Đạo Tử lệnh cho Tư Mã Nguyên Hiển bắt giữ và hành quyết Tôn Thái. Cháu trai của Tôn Thái, Tôn Ân (孫恩) đã chạy trốn đến đảo Chu San và lập kế hoạch phục thù.
Vào mùa hè năm 399, Tư Mã Nguyên Hiển do muốn có nhiều quyền lực hơn, đã chớp thời cơ An Đế đang rất say để có được một chỉ dụ về việc chuyển giao quyền lực của Tư Mã Đạo Tử cho mình. Khi Tư Mã Đạo Tử thức dậy trong sự kinh ngạc, ông trở nên tức giận, nhưng sau thời điểm đó, quyền lực của ông cực kỳ hạn chế, mặc dù trên danh nghĩa ông vẫn là người nhiếp chính.
Tư Mã Nguyên Hiển nhiếp chính.
Tư Mã Nguyên Hiển nhiếp chính trong sự vây quanh của những kẻ nịnh bợ, ông bắt đầu có những tham vọng phi thực tế khi muốn chấm dứt mối đe dọa từ thứ sử các châu đối với vị trí của ông. Ông rất tin tưởng quân sư Trương Pháp Thuận (張法順), và cũng cho đưa nhiều người tin cẩn vào trong triều. Trong khi ông có năng lực nhất định, thì theo các sử gia, ông đã làm hoang phí ngân khố triều đình vào các thứ xa xỉ và không chú ý đến gánh nặng mà dân chúng phải gánh chịu. Sau đó vào năm 399, Tôn Ân nhận thấy châu duy nhất còn nằm dưới quyền kiểm soát của triều đình Đông Tấn là Dương Châu (揚州, nay thuộc Chiết Giang và miền nam Giang Tô) đang được Tư Mã Nguyên Hiển quản lý một cách yếu kém, Tôn Ân do vậy đã phát động một cuộc tấn công lớn từ đảo Chu San, nhanh chóng chiếm được gần như toàn bộ Dương Châu và tiến đến kinh thành Kiến Khang. Cuộc nổi loạn Của Tôn Ân nhanh chóng bị Lưu Lao Chi dập tắt, Tôn Ân lại trốn về đảo Chu San song vẫn còn là một mối đe dọa trong nhiều năm sau đó, Dương Châu bị tàn phá nặng nề song Tư Mã Nguyên Hiển vãn bất chấp, ngày càng trở nên phung phí và ngông cuồng.
Vào cuối năm 401, lo sợ trước sức mạnh của Hoàn Huyền (người mà cuối năm 399 đã đánh bại và giết chết Ân Trọng Khạm (殷仲堪) và Dương Thuyên Kì (楊佺期), đoạt lấy lãnh địa của họ và nay kiểm soát trên hai phần ba lãnh thổ Đông Tấn), Tư Mã Nguyên Hiển tuyên bố Hoàn Huyền là một kẻ phản nghịch và ra lệnh tiến hành một cuộc tấn công chống lại Hoàn Huyền. Tuy nhiên, ông phần lớn dựa vào quân của Lưu Lao Chi, còn họ Lưu thì không tin cậy Tư Mã Nguyên Hiển. Trong khi đó, Hoàn Huyền tiến quân về phía đông hướng đến kinh thành, sau khi Hoàn đàm phán với Lưu, Lưu quay sang chống lại Tư Mã Nguyên Hiển. Kiến Khang rơi vào tay Hoàn Huyền, còn Tư Mã Nguyên Hiển và tất cả các cận thần chính bị bắt giữ và hành quyết. Hoàn Huyền cũng cho lưu đày Tư Mã Đạo Tử rồi giết chết, Hoàn Huyền do vậy đã nắm giữ được toàn bộ quyền lực của Đông Tấn. Không tin tưởng họ Lưu, Hoàn Huyền đã tước quyền chỉ huy của ông ta, Lưu Lao Chi sau đó đã cố tiến hành nổi loạn, song các tướng lính của ông đã mệt mỏi với các cuộc nổi loạn lặp đi lặp lại nên đã bỏ rơi ông ta, Lưu Lao Chi sau đó tự vẫn.
Hoàn Huyền tiếp quản và tiếm quyền.
Hoàn Huyền ban đầu cố gắng cải cách các quy tắc của triều đình, dân chúng và quan lại hài lòng với những thay đổi ông đã tiến hành, ông cúng kiến lập hòa bình với em rể của Tôn Ân là Lô Tuần (盧循), người thay thế Tôn Ân sau khi ông ta tự sát sau khi chiến bại trong một trận vào năm 402, bằng cách phong cho họ Lô làm thái thú. Tuy nhiên, Hoàn Huyền đã sớm sống trong xa hoa và sửa đổi luật lệ một cách bất thường, và sử sách nói rằng nguồn cung ứng cho hoàng gia đã bị cắt giảm đến nỗi An Đế đã hầu như bị đói và rét.
Vào mùa xuân năm 403, Hoàn Huyền yêu cầu An Đế lập mình làm Sở vương và ban cho mình cửu tích, cả hai đều là dấu hiệu của việc tiếm quyền sắp xảy đến. Vào mùa đông năm 403, Hoàn Huyền yêu cầu An Đế ban một chiếu chỉ, trong đó, theo các sử gia, Hoàn Huyền bảo Lâm Xuyên vương Tư Mã Bảo (司馬寶) ép An Đế đích thân viết, song chi tiết này bị nghi ngờ do An Đế là người tàn tật và không chắc rằng ông ta có thể tự viết được chiếu chỉ này) nhường ngôi cho Hoàn Huyền. Hoàn Huyền sau đó chiếm đoạt ngai vàng và trở thành Hoàng đế của nước Sở mới. Ông giáng An Đế làm Bình Cố vương, cựu hoàng đế và em trai Tư Mã Đức Văn bị quản thúc tại gia.
Vào mùa xuân năm 404, tướng của Hoàn Huyền là Lưu Dụ, nhận thấy Hoàn Huyền thiếu tài quản trị và sự ủng hộ nên đã lập một liên minh gồm các tướng lĩnh tiến hành nổi dậy chống lại Hoàn Huyền, bắt đầu nổi loạn tại Kinh Khẩu (京口, nay thuộc Trấn Giang, Giang Tô) và vươn đến Kiến Khang chỉ trong vòng vài ngày. Hoàn Huyền chạy trốn song đem An Đế và Tư Mã Đức Văn đi cùng, trở về lãnh địa cũ của ông ở Giang Lăng (江陵, nay thuộc Kinh Châu, Hồ Bắc). Lưu Dụ tuyên bố phục hồi nhà Tấn, và hè năm 404, quân của các đồng minh của Lưu Dụ là Lưu Nghị (劉毅), Hà Vô Kị (何無忌), và em trai ông là Lưu Đạo Quy (劉道規) đến vùng lân cận Giang Lăng và đánh bại quân của Hoàn Huyền. Hoàn Huyền cố chạy trốn một lần nữa, song bị quân của tướng Mao Cừ (毛璩) giết chết. An Đế được phục vị tại Giang Lăng bởi các quan Vương Khang Sản (王康產) và Vương Đằng Chi (王騰之). Tuy nhiên, cháu trai của Hoàn Huyền là Hoàn Chấn (桓振) sớm sau đó đã đánh úp Vương Khang Sản và Vương Đằng Chi và chiếm Giang Lăng, bắt An Đế làm con tim mặc dù bề ngoài tôn vinh An Đế là hoàng đế. Vào mùa xuân năm 405, Giang Lăng thất thủ trước quân của Lưu Nghị, Hoàn Chấn chạy trốn. An Đế được chào đón trở lại Kiến Khang, song vào thời điểm này, phần lớn quyền lực do Lưu Dụ kiểm soát.
Lưu Dụ nhiếp chính.
Những năm đầu.
Mặc dù Lưu Dụ có tham vọng trở thành hoàng đế, ông đã học được nhiều điều từ thất bại của Hoàn Huyền nên không thể hành động quá nhanh. Tuy nhiên, ông đã thiết lập quyền lực của mình hơn nữa thông qua các chiến thắng ban đầu, đặc biệt là từ khi ông lãnh đạo một liên minh gồm các tướng lĩnh và quan địa phương trong chiến thắng trước Hoàn Huyền. Vì thế ông phải tiến hành thận trọng, bước đầu tiên, ông chia sẻ quyền lực với Hà Vô Kị và Lưu Nghị. Vài năm sau đó, ông vài lần từ nhiệm song biết chắc rằng các triều thần sẽ không dám chấp thuận chúng, mục đích của những việc này là để ông tiếp tục thiết lập vai trò không thể thiếu của mình trong triều đình.
Vào mùa xuân năm 405, quân của Mao Cừ từ Ích Châu (益州, nay là Tứ Xuyên và Trùng Khánh), bất mãn rằng Mao Cừ đã đưa họ vào các chiến kéo dài chống Hoàn Huyền và Hoàn Chấn nên đã nổi loạn, họ ủng hộ tướng Tiều Túng (譙縱) làm lãnh đạo của mình. Quân nổi loạn đánh bại và giết chết Mao Cừ, chiếm Thành Đô, Tiều Túng lập nên nước Tây Thục độc lập ở đây.
Cũng trong năm 405, Lô Tuần (盧循), người mà vào năm 404 đã hành quân về phía nam và chiếm Phiên Ngung (番禺, nay là Quảng Châu, Quảng Đông), đã nghị hòa với triều đình bằng cách dâng triều cống. Lưu Dụ tin tưởng rằng ông chưa có khả năng đánh bại Lô Tuần vào lúc này nên đã phong cho họ Lô làm thứ sử Quảng Châu (廣州, nay là Quảng Đông và Quảng Tây) và anh rể của Lô Tuần là Từ Đạo Phúc (徐道覆) làm thái thú Thủy Hưng (始興, nay tương ứng với Thiều Quan, Quảng Đông).
Năm 407, Lưu Dụ bổ nhiệm bạn mình là Lưu Kính Tuyên (劉敬宣, con trai Lưu Lao Chi) mở một cuộc tấn công lớn nhắm vào Tây Thục của Tiếu Túng, nhưng năm 408, quan của Lưu Kính Tuyên bị ngăn cản bởi tướng Tây Thục là Tiếu Đạo Phúc (譙道福) và buộc phải rút quân khi nguồn lương thảo sắp cạn.
Các chiến dịch chống Nam Yên và Lô Tuần.
Năm 409, Hoàng đế Nam Yên Mộ Dung Siêu bắt đầu một chiến dịch tấn công và cướp phá vùng biên giới phía bắc của Đông Tấn, định bắt đàn ông và phụ nữ được huấn luyện làm nhạc công. Đáp lại, Lưu Dụ đã quyết định khởi động một chiến dịch nhằm tiêu diệt Nam Yên, kế hoạch này bị hầu hết các triều thần phản đối, song nhận được ủng hộ từ một trong những đồng minh ban đầu của Lưu Dụ khi bắt đầu chống Hoàn Huyền là Mạnh Sưởng (孟昶). Lưu Dụ nhanh chóng đánh bại quân chủ lực của Nam Yên vào cuối năm 409 và bao vây kinh thành Nam Yên là Quảng Cố (廣固, nay thuộc Thanh Châu, Sơn Đông), song Quảng Cố đã không nhanh chóng thất thủ. Khi Lưu Dụ bao vây Quảng Cố, Từ Đạo Phúc đã thuyết phục Lô Tuần tấn công về phía bắc, lý luận rằng để đến khi Lưu Dụ đã sẵn sàng, thì họ sẽ bị ông ta tấn công, và rằng trong lúc Lưu Dụ đang vây Quảng Cố, họ có thể cùng nhau chiếm phần còn lại của đế chế.
Vào mùa xuân năm 410, Lưu Dụ chiếm được Quảng Cố và diệt được Nam Yên, khi ông đang nghĩ đến việc tiến hành một chiến dịch chống lại Hậu Tần thì hay tin Lô Tuần và Từ Đạo Phúc tấn công lên phía bắc, Lưu Dụ nhanh chóng rút quân về Kiến Khang. Trong khi đó, Hà Vô Kị đã dẫn đầu một đội quân đánh Từ Đạo Phúc tại Dư Chương (豫章, nay thuộc Nam Xương, Giang Tây), song rốt cuộc bị họ Từ đánh bại và giết chết. Lưu Nghĩa chỉ duy một đội quân thứ hai cũng đã bại trận trước Từ và Lô. Tuy nhiên, những tên tù binh Tấn bị bắt giữ đã khai với Lô Tuần rằng Lưu Dụ đang trên đường tới Kiến Khang, và Lô Tuần đã nghĩ đến việc kết thúc chiến dịch của mình, song vẫn tiếp tục hướng đến Kiến Khang do Từ Đạo Phúc nài nỉ. Một số triều thần, bao gồm Mạnh Sưởng, cho rằng An Đế cần được đưa qua Trường Giang để trốn quân của Lô song Lưu Dục đã từ chối, lựa chọn việc phòng thủ Kiến Khang.
Khi đã ở Kiến Khang, Lô Tuần đã từ chối một số kế mà Từ Đạo Phúc viện lý do chúng đầu rủi ro, thay vào đó ông ta đe dọa quân của Lưu Dụ đến chỗ sụp đổ, tuy nhiên đã không thể làm được. Chẳng bao lâu, ông bị cạn nguồn lương thảo và rút lui tới Tầm Dương (尋陽, nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây). Lưu Dự đuổi theo, song cũng lệnh cho các tướng Tôn Xử (孫處) và Thẩm Điền Tử (沈田子) đem một đội tàu theo đường biển tấn công Phiên Ngung, Lưu Dụ hoàn toàn tin tưởng rằng ông có thể đánh bại Lô Tuần và khiến cho Lô Thuần không thể rút về vùng văn cứ. Trong khi đó, Từ Đạo Phúc tấn công Kinh Châu (荊州, nay là Hồ Bắc và Hồ Nam), song bị em trai của Lưu Dụ là Lưu Đạo Quy (劉道規) đánh bại, phải tái hợp quân với Lô Tuần, chuẩn bị đối đầu với Lưu Dụ. Khoảng tết năm 411, họ giao chiến với Lưu Dụ tại Đại Lôi (大雷, nay là An Khánh, An Huy), song Lưu Dụ đã phóng hỏa các đội tàu của họ. Lô Tuần và Từ Đạo Phúc chạy về phía Phiên Ngung, song lúc đó nơi này đã bị Thẩm Điền Tử chiếm giữ. Lô Tuần bao vây Phiên Ngung, song Thẩm Điền Tử, người đang cố gắng chiếm các quận khác, đã quay về Phiên Ngung và đánh bại quân Lô Tuần và Từ Đạo Phúc. Lô Tuần chạy trốn về Giao Châu (交州, nay là bắc bộ Việt Nam). Thứ sử Giao Châu là Đỗ Huệ Độ (杜慧度), đã đánh bại Lô Tuần, Lô Tuần sau đó giết chết vợ và thê thiếp, sau đó nhảy xuống sông tự vẫn.
Các chiến dịch chống Tây Thục và Hậu Tần.
Đông Tấn trở nên ổn định khi Lô Tuần bị diệt, Lưu Dụ do vậy lại một lần nữa hướng chú ý ra bên ngoài, hy vọng dùng các chiến thắng quân sự để nâng cao vị thế và có thể đoạt lấy ngai vàng. Tuy nhiên, ông đồng thời cũng bắt đầu loại bỏ những người cản đường hay có thể cản đường ông trong liên minh. Năm 412, tin rằng Lưu Nghĩa, thứ sử Kinh Châu, cùng với người anh em họ Lưu Phan (劉藩), thứ sử Duyện Châu (兗州, nay là trung bộ Giang Tô) có hành động chống lại mình, Lưu Dụ đã cho bắt Lưu Phan và bạn của ông ta là Tạ Hồn (謝混), và sau đó tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ chống Lưu Nghĩa, quân Lưu Nghĩa bị đánh bại dễ dàng và Lưu Nghĩa cũng bị giết trong khi giao chiến. Năm 413, Lưu Dụ cũng giết chết phụ tá của mình là tướng Gia Cát Trường Dân (諸葛長民) do nghi ngờ người này có ý định hành động chống lại ông khi ông rời khỏi Kiến Khang để đánh Lưu Nghĩa.
Trong khi đó, cuối năm 412, Lưu Nghĩa ủy thác tướng Chu Linh Thạch (朱齡石) đến đánh Tây Thục của Tiếu Túng, bí mật chỉ cho ông ta theo tuyến đường dài hơn đến kinh thành Tây Thục là Thành Đô theo Mân giang (岷江), thay vì con đường ngắn hơn theo Phù giang (涪江). quân của Chu Linh Thạch đã đánh úp Tiếu Túng và đại tướng của ông ta là Tiếu Dạo Phúc, chiếm Thành Đô vào năm 413 và tái hợp nhất Tây Thục và lãnh thổ Tấn.
Năm 414, Lưu Dụ bắt đầu nghi ngờ Tư Mã Hưu Chi (司馬休之), người thay thế Lưu Nghĩa giữ chức thứ sử Kinh Châu, ông là một thành viên của hoàng tộc và có con trai Tư Mã Văn Tư (司馬文思) được phong làm Tiếu quận vương và có nhiều người xung quanh. Vào mùa xuân năm 414, Lưu Dụ ra lệnh bắt giữ những người trong nhóm của Tư Mã Văn Tư và hành quyết, trong khi giao Tư Mã Văn Tư cho Tư Mã Hưu Chi, có ý muốn Tư Mã Hưu Chi thể hiện sự khuất phục bằng việc giết con đẻ. Thay vào đó, Tư Mã Hưu Chi chỉ yêu cầu tước đi tước hiệu quân vương của Tư Mã Văn Tư. Vào mùa xuân năm 415, Lưu Dụ bắt một người con trai khác của Tư Mã Hưu Chi là Tư Mã Văn Bảo (司馬文寶), và cháu trai của Tư Mã Hưu Chi là Tư Mã Văn Tổ (司馬文祖), lệnh cho hai người phải tự sát, sau đó phát động một cuộc tấn công chống lại Tư Mã Hưu Chi, người lúc này đã liên kết với Lỗ Tông Chi (魯宗之), thứ sử Ung Châu (雍州, nay thuộc tây bắc Hồ Bắc). Ban đầu, Tư Mã Hưu Chi và Lỗ Tông Chi có một số thắng lợi, đánh bại con rể của Lưu Dụ là Từ Quỳ Chi (徐逵之), song sau khi đích thân Lưu Dụ lâm trận, quân Tư Mã Hưu Chi đã bị đánh bại, Giang Lăng bị chiếm và Tư Mã Hưu Chi Lỗ Tung Chi phải chạy đến Hậu Tần. Lưu Dụ nay không còn một đối kháng đánh kể nào tại Đông Tấn.
Năm 416, Lưu Dụ đã phát động một cuộc tấn công lớn chống lại Hậu Tần nhằm lợi dụng thời cơ Hoàng đế Diêu Hưng mới qua đời. Lưu Dụ giao lại kinh thành cho Lưu Mục Chi (劉穆之), cùng với người kế tự còn ở độ tuổi niên thiếu của mình là Lưu Nghĩa Phù. Vào mùa đông năm 416, thành Lạc Dương rơi vào tay tướng của Lưu Dụ là Đàn Đạo Tế (檀道濟). Tận dụng việc chiến được Lạc Dương, Lưu Dụ yêu cầu An Đế lập ông làm Tống công và phong cho ông cửu tính, cho thấy ông cuối cùng đã có ý đoạt ngôi, mặc dù ông sau đó lại từ chối cả hai vinh dự đó.
Vào mùa xuân năm 417, Đàn Đạo Tế và vị tướng khác, Thẩm Lâm Tử (沈林子), tham gia một chiến dịch lớn chống lại vị tướng xuất chúng nhất của Hậu Tần là Diêu Thiệu (姚紹), thúc phụ của Hoàng đế Diêu Hoằng. Sau một tháng giao tranh, Diêu Thiệu bại trận và chết trong giận dữ. Với cái chết của Diêu Thiệu, các tướng khác của Hậu Tấn không thể ngăn được bước tiến của quân Đông Tấn. Hạm đội của Lưu Dụ, do Vương Trấn Ác (王鎮惡, cháu nội của Vương Mãnh), tiến quân nhanh chóng, trong khi đó Hoàng đế Diêu Hoằng cố cố tiêu diệt tiền quân của Lưu Dụ do Thẩm Điền Tử chỉ huy. Mặc dù có lợi thế hơn về quân số, Thẩm Điền Tử đã đè bẹp quân Hậu Tần, buộc hoàng đế Hậu Tần phải lui về kinh thành Trường An. Hạm đội của Vương Trấn Ác sau đo đến nơi và đánh bại quân kháng cự cuối cùng của Hậu Tần. Diêu Hoằng đầu hàng, Lưu Dụ cho giải ông đến Kiến Khang và hành quyết, Hậu Tần bị diệt vong.
Qua đời.
Với việc Hậu Tần bị diệt, Lưu Dụ được trông đợi sẽ tiến về phía tây bắc để chinh phục các nước còn tồn tại ở đó bao gồm: Hạ, Tây Tần, Bắc Lương, và Tây Lương. Vào thời điểm này, (Tây) Tần Văn Chiêu Vương Khất Phục Sí Bàn, (Bắc) Lương Vũ Tuyên Vương Thư Cừ Mông Tốn, và (Tây) Lương Vũ Chiêu Vương Lý Cảo đều bị đe dọa đến mức họ trên danh nghĩa đã khuất phục Đông Tấn. Tuy nhiên, lúc này Lưu Mục Chi lại qua đời, và Lưu Dụ có ý định chiếm ngai vàng nên đã quyết định đích thân trở về Kiến Khang, để lại người con trai mới 11 tuổi Lưu Nghĩa Chân (劉義真) và các tướng của ông là Vương Trấn Ác, Thẩm Điền Tử, Mao Đức Tổ (毛德祖), và quan Vương Tu (王脩) phụ trách cai quản Trường An.
Với việc Lưu Dụ rời khỏi Trường An, Hoàng đế Hạ Hách Liên Bột Bột có ý định chiếm Trường An. Ông sai các con trai là Hách Liên Hội (赫連璝) và Hách Liên Xương, cùng với tướng Vương Mãi Đức (王買德) dẫn đầu ba lộ quân tiến đến Trường An trong khi cho cắt đứt tuyến đường cấp lương thải giữa Lạc Dương và Trường An. Trong khi đó, do Vương Trấn Ác và Thẩm Điền Tử trước đó có hiềm khích với nhau, Thẩm Điền Tử đã nghi ngờ Vương Trấn Ác nổi loạn nên đã giết chết họ Vương. Vương Tu sau đó cho hành quyết Thẩm Điền Tử, nhưng Lưu Nghĩa Chân sau đó tin rằng các cáo buộc về việc Vương Trấn Ác nổi loạn là đúng và Vương Tu cũng sẵn sàng làm như vậy nên lại cho giết Vương Tu. Khi Vương Tu bị hành hình, Lưu Nghĩa Chân không tự mình giám sát, ông lo sợ quân Hạ nên đã rút tất cả quân lính vào trong thành Trường An, sau đó quân Hạ vây thành. Lưu Dụ hay tin này đã cử Chu Linh Thạch đến thay Lưu Nghĩa Chân và lệnh Lưu Nghĩa Chân rút lui. Tuy nhiên, quân của Lưu Nghĩa Chân cướp phá Trường An và không thể rút lui nhanh chóng, họ bị quân Hạ tiêu diệt tại Thanh Nê (青泥, nay là Tây An, Thiểm Tây), gần như toàn bộ binh lính của Lưu Nghĩa Chân bị giết hoặc bị bắt làm tù binh. Lưu Nghĩa Chân chỉ có thể một mình thoát thân, vùng Trường An rơi vào tay Hạ, song Đông Tấn vẫn giữ được vùng Lạc Dương.
Trong khi đó, Lưu Dụ đã chấp thuận tước hiệu Tống công và cửu tích vào mùa hè năm 418, ông lại bắt An Đế phong cho mình làm Tống vương, nhưng sau đó lại công khai từ chối. Trong khi đó, ông bị thuyết phục về một lời nguyền rằng: "Sẽ có hai hoàng đế nữa sau Xương Minh." ("Xương Minh", nghĩa là "bình minh," là tên tự của Hiếu Vũ Đế, cha của An Đế.) Ông sau đó đã hạ quyết tâm giết chết An Đế, và nhiều lần âm mưu đầu độc, song do em trai của An Đế là Tư Mã Đức Văn luôn ở cùng anh trai nên âm mưu này không thể thực hiện được. Tuy nhiên, khoảng tết năm 419, Tư Mã Đức Văn bị ốm và về phủ của mình. Sát thủ của Lưu Dụ là Vương Thiều Chi (王韶之) đã nắm lấy cơ hội để giết chết An Đế theo "Tư trị thông giám", bằng cách bện quần áo vào một sợi dây thừng và rồi dùng nó để siết cổ An Đế. Sau đó, Lưu Dụ lập Tư Mã Đức Văn làm hoàng đế. | 1 | null |
Tấn Cung Đế () (386–421), tên thật là Tư Mã Đức Văn (司馬德文) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Đông Tấn và là Hoàng đế cuối cùng của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành hoàng đế vào năm 419 sau khi người anh trai là An Đế bị Lưu Dụ giết chết, và trong thời gian ông trị vì, quyền lực trên thực tế nằm trong tay Lưu Dụ. Năm 420, dưới sức ép của Lưu Dụ, ông đã phải nhường ngôi cho Lưu Dụ, triều đại Tấn đến đây kết thúc. Lưu Dụ thành lập Lưu Tống, và đến năm 421, do Lưu Dụ tin rằng vị Hoàng đế Tấn trước đây tạo mối đe dọa cho quyền lực của mình nên đã cho giết chết Tư Mã Đức Văn.
Đầu đời.
Tư Mã Đức Văn sinh vào năm 386, cha là Tấn Hiếu Vũ Đế và mẹ là thiếp Trần Quy Nữ, ông là con trai thứ hai, sinh sau Tư Mã Đức Tông bốn năm. Trái ngược với một Tư Mã Đức Tông "phát triển chướng ngại", Tư Mã Đức Văn được mô tả là một đứa trẻ thông minh. Từ lúc thơ ấu, ông đã quen với việc chăm sóc anh trai, có lẽ đặc biệt là sau cái chết của mẹ vào năm 390. Mặc dù Tư Mã Đức Tông có khuyết tật về trí tuệ, song Hiếu Vũ Đế vẫn lựa chọn người con trai lớn kế vị. Vào năm 387, khi Tư Mã Đức Tông lên 5 tuổi và Tư Mã Đức Văn mới 1 tuổi, Tư Mã Đức Tông được lập làm thái tử. Năm 392, Hiếu Vũ Đế lập Tư Mã Đức Văn làm Lang Da vương, tước hiệu vinh dự thứ hai của các hoàng tử và thân vương và chỉ sau thái tử. Năm 396, Hiếu Vũ Đế bị người thiếp là Trương quý nhân giết chết, Tư Mã Đức Tông lên ngôi hoàng đế. Tư Mã Đức Văn tiếp tục chăm sóc cho sinh hoạt hàng ngày của hoàng huynh.
Dưới thời An Đế trị vì.
Vào một thời điểm chưa thể xác định dưới thời An Đế trị vì, Tư Mã Đức Văn kết hôn với Trử Linh Viện, bà xuất thân từ một gia đình quý tộc.
Trong giai đoạn đầu An Đế trị vì, Tức Mã Đức Văn nhận thêm được các chức vụ kính cẩn, song có ít quyền lực thực tế, quyền lực ban đầu nằm trong tay của thúc phụ, Hội kê vương Tư Mã Đạo Tử (司馬道子), và sau đó là con trai ông ta là Tư Mã Nguyên Hiển (司馬元顯). Sau khi Tư Mã Nguyên Hiển bị lật đổ, quyền lực lại rơi vào tay quân phiệt Hoàn Huyền năm 402.
Năm 403, Hoàn Huyền buộc An Đế phải nhường ngôi lại chô ông ta, tạm thời chấm dứt triều Tấn. Hoàn Huyền lập nên nước Sở mới, An Đế bị giáng làm Bình Cố vương còn Tư Mã Đức Văn bị giáng tước hiệu thành "công", song hai người vẫn được giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên, đến năm 404, một cuộc nổi loạn của Lưu Dụ đã dẫn đến việc Hoàn Huyền bị diệt và An Đế được phục vị. Tuy vậy, sau đó An Đế và Tư Mã Đức Văn lại nằm trong tay của cháu trai Hoàn Huyền là Hoàn Chấn (桓振), Hoàn Chấn từng nghĩ đến việc hành quyết An Đế để trả thù cho con trai của Hoàn Huyền là Hoàn Thăng (桓昇), là người đã bị quân nổi loạn giết chết. Tư Mã Đức Văn đã cầu xin, giải thích rằng cả ông và An Đế đều không liên quan đến cái chết của Hoàn Thăng, Hoàn Chấn vì thế tha cho An Đế. Đầu năm 405, Hoàn Chấn bị đánh bại, An Đế và Tư Mã Đức Văn trở về kinh thành Kiến Khang, song lúc này quyền lực thật sự nằm trong tay Lưu Dụ, người lãnh đạo cuộc nổi loạn.
Thời gian trôi qua, Lưu Dụ dần dần tập trung nhiều quyền lực hơn vào tay mình, tiêu diệt các đối thủ như Lưu Nghị (劉毅), Gia Cát Trường Dân (諸葛長民), và Tư Mã Hưu Chi (司馬休之), trong khi thể hiện sức mạnh thông qua các chiến dịch tiêu diệt Nam Yên, Tây Thục, và Hậu Tần. Tư Mã Đức Văn tiếp tục mang các chức vụ vinh dự song có ít quyền lực thực tế trong thời gian này. Năn 416, trong chiến dịch của Lưu Dụ nhằm chống lại Hậu Tần, Tư Mã Đức Văn đã xin được đảm nhiệm một chức vụ tại Lạc Dương, nơi vừa chiếm được từ Hậu Tần, để khôi phục các lăng mộ hoàng tộc vào thời Tây Tấn song không rõ ông đã đảm nhiệm chức vụ gì. Ông trở về Kiến Khang năm 418 sau khi Lưu Dụ đánh bại Hậu Tần.
Cuối năm đó, Lưu Dụ có ý muốn đoạt ngôi song lại tin vào một lời nguyền rằng "Có hai hoàng đế nữa sau Xương Minh" ("Xương Minh", nghĩa là "bình minh," là tên tự của Hiếu Vũ Đế), nên đã âm mưu giết chết An Đế và đưa Tư Mã Đức Văn lên kế vị. Tuy nhiên, do Tư Mã Đức Văn liên tục ở bên hoàng huynh, những kẻ ám sát do Lưu Dụ cử đến để đầu độc An Đế đã không có cơ hội ra tay. Tuy nhiên, vào tết năm 419, Tư Mã Đức Văn bị ốm và phải ở tại phủ của mình, sát thủ của Lưu Dụ là Vương Thiều Chi (王韶之) đã thừa cơ giết chết An Đế. Lưu Dụ sau đó lập Tư Mã Đức Văn làm hoàng đế, trở thành Cung Đế.
Trị vì.
Cung Đế chỉ trị vì trong một thời gian ngắn và nói chung là bất lực. Ông lập vợ mình làm Trử Hoàng hậu vào mùa xuân năm 419. Ông cũng ban cho Lưu Dụ, khi ấy đang là Tống công, trở thành Tống vương, Lưu Dụ ban đầu từ chối song đã đồng ý vào mùa thu năm 419. Vào mùa xuân năm 420, Lưu Dụ khi ấy đang ở Thọ Dương đã cử thân tín Phó Lượng (傅亮) đến Kiến Khang để buộc Cung Đế nhường ngôi. Cung Đế phản ứng bằng cách triệu hồi Lưu Dụ về kinh vào mùa hè năm 419, Phó Lượng sau đó đưa cho ông một dự thảo chiếu thoái vị, yêu cầu ông đích thân viết nó. Tư Mã Đức Văn đã làm theo và rời khỏi hoàng cung, ông đến phủ cũ khi còn là Lang Da vương. Ba ngày sau, Lưu Dụ lên ngôi và lập nên Lưu Tống, nhà Tấn bị diệt vong.
Sau khi thoái vị.
Lưu Dụ lập Tư Mã Đức Văn làm Linh Lăng vương và cho xây phủ cho ông ở gần Kiến Khang. Tân Hoàng đế lệnh cho tướng Lưu Tuân Khảo (劉遵考), một người họ hàng xa, làm chỉ huy đội quân cảnh vệ, tuy bề ngoài là bảo vệ thân vương song thực tế là để giám sát ông.
Ngay sau đó, Lưu Dụ vẫn tin rằng Tư Mã Đức Văn là một mối đe dọa nên đã gửi cho tùy tùng trước đây của Tư Mã Đức Văn là Trương Vĩ (張偉) một chai rượu độc, lệnh cho ông đầu độc Tư Mã Đức Văn. Trương Vĩ không muốn làm theo lệnh nên đã uống rượu độc và qua đời. Tuy nhiên, trong lúc đó, nhằm ngăn ngừa Tư Mã Đức Văn có con trai kế tự, Lưu Dụ lệnh cho các anh em trai của Trử Hoàng hậu trước đây là Trử Tú Chi (褚秀之) và Trử Đạm Chi (褚淡之) hạ độc bất kỳ trẻ trai nào mà Trử Linh Viện và các thê thiếp sinh ra. Tư Mã Đức Văn rất sợ mất mạng, ông và Trử Linh Viện vẫn ở chung một nhà, Trử Linh Viện phải tự mình chi trả cho các nhu cầu vật chất của bà. Những kẻ ám sát do Lưu Dụ cử đến ban đầu không thể tìm thấy cơ hội ra tay với Cựu Hoàng đế.
Vào mùa thu năm 421, Lưu Dụ cử Trử Đạm Chi và Trử Thúc Độ (褚叔度) đến thăm Trử Linh Viện. Trử Linh Viện ra ngoài để gặp gỡ người thân tại một ngôi nhà khác, lính mà Lưu Dụ cử đến xâm nhập vào phủ của Tư Mã Đức Văn và yêu cầu Tư Mã Đức Văn uống thuốc độc. Ông từ chối, nói rằng giáo lý Phật giáo cấm tự tử và rằng những người tự tử sẽ không thể được đầu thai làm người trong kiếp sau. Do đó, các sát thủ sử dụng một tấm chăn để làm ông ngạt thở. Ông được chôn cất với vinh dự dành cho hoàng gia. | 1 | null |
Đội Bình là biệt danh của Nguyễn Chí Bình (?–1908), một trong những người cầm đầu vụ Hà Thành đầu độc. Ông bị chính quyền thực dân Pháp xử chém vào ngày 8 tháng 7 năm 1908, cùng với Đội Nhân (Đặng Đình Nhân) và Đội Cốc (Nguyễn Văn Cốc – tức Dương Bê). Tên gọi Đội Bình còn được đặt cho các địa danh sau: | 1 | null |
Các tàu khu trục lớp Kiểu 051 (định danh NATO là Luda - Lữ Đại) là các tàu khu trục tên lửa đầu tiên do Hải quân Trung Quốc tự thiết kế và chế tạo. Thiết kế của lớp này chịu ảnh hưởng của lớp Neustrashimy và lớp Kotlin (đều của Liên Xô). Thiết kế được thông qua năm 1967 và việc đóng chiếc đầu tiên được khởi công năm 1968, đưa vào biên chế từ năm 1971. Cho đến năm 1991, đã có 16 tàu lớp Kiểu 051 được đóng. Hiện tại, 12 tàu còn đang hoạt động, còn 4 đã bị cho nghỉ.
Nhìn chung, các tàu lớp Kiểu 051 có trọng tải choán nước là 3670 tấn, dài 132 mét, rộng 12,8 mét, mớn nước 4,6 mét. Chúng được trang bị 2 động cơ turbine hơi có tổng công suất 72.000 shp (53.700 kW). Tốc độ di chuyển cao nhất là 32 hải lý/giờ và tầm hoạt động 2970 hải lý. Thủy thủ đoàn gồm 280 người.
Về vũ trang, tàu được trang bị 16 tên lửa đối hạm, 8 tên lửa phòng không, 6 ống phóng ngư lôi, 2 hệ thống phóng tên lửa chống tàu ngầm Kiểu 75, thủy lôi, pháo 2 nòng 130 mm, 4 hệ thống cao xạ phòng không 2 nòng 37 mm Kiểu 76A, 1 đến 2 trực thăng Harbin Z-9. | 1 | null |
Đình Văn là một ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng; tên thật là Võ Đình Văn, sinh ngày 20 tháng 2 năm 1960 tại Sài Gòn.
Bài hát nổi bật: Tình đẹp mùa chôm chôm, Mưa bụi, Sao đổi ngôi, ...
Vợ là Trần Ngọc Hiền.
Năm 1982, anh đoạt huy chương vàng tại hội diễn văn nghệ quần chúng của Liên hiệp Công đoàn Thành phố Hồ Chí Minh, với bài hát "Thành phố tôi yêu" (Phan Nhân), khi đang là công nhân sửa chữa lắp ráp máy in của công ty Liksin.
Năm 1985, anh đoạt huy chương vàng tại hội diễn văn nghệ quần chúng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức tại Hải Phòng, với bài hát "Hát về anh" (Thế Hiển).
Khi trở thành ca sĩ chuyên nghiệp, anh nổi bật với dòng nhạc mang âm hưởng dân ca và bolero. Hoạt động ca hát của anh được nhiều người biết đến vào thập kỉ 1990, đặc biệt là trong các chương trình "Mưa bụi". Đình Văn trước đây trong nhóm Mưa bụi tình đời (Đình Văn, Ngọc Sơn, Ngọc Hải, Tài Linh, Thạch Thảo, Kim Tử Long, Vũ Linh, Ngọc Huyền, Tuấn Cảnh và cả Giang Tử, Yến Khoa, Chế Thanh, Thùy Trang). Anh cũng thường xuyên thu âm nhiều bài hát và xuất hiện trong nhiều video của Trung tâm Làng Văn)
Từ khoảng năm 2000 anh bước vào lĩnh vực sáng tác và một số bài hát của anh đã gắn liền với các ca sĩ, như "Xóm nhỏ" (Quang Linh), "Thương áo bà ba" (Cẩm Ly), "Ba người bạn" (Ưng Hoàng Phúc), "Yêu cô gái miền Tây" (Bích Tuyền & Đình Văn)... | 1 | null |
Theo đức tin Kitô giáo, câu chuyện Tiệc cưới ở Cana được tường thuật lại trong Phúc Âm Gioan là phép lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu thực hiện. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu và các môn đệ của ông được mời đến dự một tiệc cưới và khi rượu đã hết trước sự bối rối của chủ tiệc thì ông đã làm phép biến những chum nước lã thành rượu mới.
Địa danh Cana chính xác nằm ở vị trí nào trong Galilea vẫn luôn là đề tài tranh luận giữa các học giả Kinh Thánh và các nhà khảo cổ học.
Câu chuyện trong Tân Ước.
Đoạn Phúc Âm Gioan 2:1-11 viết rằng: trong khi Chúa Giêsu tham dự một đám cưới tại Cana với các môn đệ thì họ hết rượu. Mẹ của Chúa Giêsu (đoạn này không nêu rõ tên bà) đã nói với Chúa Giêsu rằng: "Họ hết rượu rồi". Ông trả lời: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến". Mẹ Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo". (Gioan 2:3-5). Chúa Giêsu bảo các gia nhân đổ nước lã vào các chum đá (loại dùng cho việc Thanh Tẩy theo tập tục của người Do Thái). Sau đó, ông sai họ múc ra đem đến cho người quản tiệc. Sau khi nếm, vì không biết rượu này từ đâu ra, người quản tiệc mới nói với chú rể rằng: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ" (Ga 2:6-10).
Phúc Âm Gioan kết thúc câu chuyện bằng câu: Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người.
Trong nghệ thuật.
Những miêu tả về "Tiệc cưới tại Cana" có rất nhiều trong lịch sử nghệ thuật. | 1 | null |
là một phim anime kỳ ảo công chiếu năm 2010 do Yonebayashi Hiromasa đạo diễn với cốt truyện viết bởi Miyazaki Hayao và Niwa Keiko và hãng Studio Ghibli thực hiện dựa trên cuốn tiểu thuyết The Borrowers của Mary Norton. Bộ phim xoay quanh cô gái Arrietty một người tí hon sống bên dưới nền nhà, là bạn thân của Sho một cậu bé có vấn đề về tim mạch từ khi được sinh ra đang sống tại nhà của cô mình.
Bộ phim đã công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 17 tháng 7 năm 2010 và trở thành phim có doanh thu phòng vé cao nhất Nhật Bản năm 2010. Doanh thu trên toàn thế giới của bộ phim là 145 triệu đô. Bộ phim đã thắng giải "Phim hoạt hình của năm" tại Lễ trao giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 34. Tại Việt Nam, bộ phim được chiếu trên SAM - BTV11 vào ngày 3 tháng 2 năm 2017.
Tổng quan.
Sơ lược cốt truyện.
Một cậu bé tên là Shō kể rằng cậu vẫn còn nhớ tuần lễ mùa hè cậu đến ở nhà thời thơ ấu của mẹ với người dì tuyệt vời của mẹ mình, Sadako, và người giúp việc nhà, Haru. Khi Shō đến nhà vào ngày đầu tiên, anh thấy một con mèo, Niya, đang cố tấn công thứ gì đó trong bụi rậm, nhưng nó bỏ cuộc sau khi bị con quạ tấn công. Shō thoáng thấy Arrietty, một cô gái vay mượn trẻ tuổi, trở về nhà qua một lỗ thông hơi dưới lòng đất.
Vào ban đêm, cha của Arrietty, Pod, cho cô làm nhiệm vụ "vay mượn" đầu tiên của cô, để lấy đường và giấy lụa. Sau khi có được một khối đường từ nhà bếp, họ đi trong một bức tường rỗng đến một phòng ngủ mà họ đi qua một ngôi nhà búp bê hấp dẫn với đèn điện và dụng cụ nhà bếp. Tuy nhiên, đó là phòng ngủ của Shō; Anh nằm thao thức và thấy Arrietty khi cô cố lấy khăn giấy từ cái bàn ngủ của anh. Giật mình, cô làm rơi viên đường. Shō cố gắng an ủi cô, nhưng Pod và Arrietty lặng lẽ rời đi và về nhà.
Ngày hôm sau, Shō đặt khối đường và một ghi chú nhỏ bên cạnh lỗ thông hơi nơi lần đầu tiên anh nhìn thấy Arrietty. Pod cảnh báo Arrietty không lấy nó vì sự tồn tại của chúng phải được giữ bí mật với con người. Tuy nhiên, cô lẻn ra ngoài thăm Shō trong phòng ngủ của anh. Cô làm rơi viên đường xuống sàn, cho anh biết rằng cô đang ở đó. Từ chối cho Sho nhìn mình, cô nói với Shō hãy để gia đình cô một mình và họ không cần sự giúp đỡ của anh. Khi trở về, Arrietty bị cha cô chặn lại. Nhận ra họ đã bị phát hiện, Pod và vợ Homily quyết định rằng họ phải chuyển đi. Shō biết được từ Sadako rằng một số tổ tiên của cậu ta đã nhận thấy sự hiện diện của những Người vay mượn trong nhà và đã làm một căn nhà búp bê được thiết kế riêng cho họ. Những Người vay mượn đã không Xuất hiện kể từ đó.
Pod trở lại bị thương từ một nhiệm vụ vay mượn và được Spiller, một cậu bé vay mượn mà ông gặp trên đường về nhà. Ông ta thông báo cho họ rằng có những nơi khác mà Người vay có thể chuyển đến. Trong khi Pod đang hồi phục, Shō lấy tấm ván sàn che giấu hộ gia đình Những người vay mượn và thay thế nhà bếp của họ bằng bếp từ nhà búp bê, để cho thấy anh ta hy vọng họ ở lại. Tuy nhiên, những Người vay mượn rất sợ hãi vì điều này và thay vào đó tăng tốc quá trình di chuyển của họ.
Sau khi Pod phục hồi, ông đi khám phá những khu nhà mới có thể. Arrietty đi chia tay Shō, nhưng trong quá trình trò chuyện, cậu gợi ý với cô rằng những Người vay mượn đang bị tuyệt chủng. Arrietty nói với cậu quyết liệt rằng họ sẽ không từ bỏ dễ dàng như vậy. Shō xin lỗi rằng anh ta đã buộc họ phải di chuyển ra ngoài và tiết lộ rằng anh ta bị bệnh tim từ khi sinh ra và sẽ phẫu thuật trong vài ngày nữa. Một việc mà không có lấy một cơ hội thành công. Cậu ta tin rằng không có gì cậu ta có thể làm cho mình, nói rằng cuối cùng mọi sinh vật đều chết.
Trong khi Sadako vắng mặt, Haru nhận thấy các tấm ván sàn đã bị xáo trộn. Bà khai quật ngôi nhà của những Người vay mượn và bắt giữ Homily. Được cảnh báo bởi tiếng la hét của mẹ, Arrietty bỏ Shō trong vườn và đi điều tra. Quá đau buồn trước sự ra đi của cô, Shō trở về phòng mình. Haru nhốt cậu ta vào trong phòng và gọi một công ty loại bỏ sâu bọ hại để bắt những người vay mượn khác còn sống. Arrietty đến gặp Shō để được giúp đỡ; họ giải cứu Homily và anh ta phá hủy mọi dấu vết của sự hiện diện của những người vay mượn.
Trên đường ra ngoài vào ban đêm, Người vay mượn bị chú mèo Niya phát hiện. Mất ngủ, Shō đi vào vườn đi dạo và con mèo dẫn anh đến "dòng sông", nơi những Người vay mượn đang chờ Spiller đưa họ đi xa hơn. Shō đưa cho Arrietty một viên đường và nói với cô rằng lòng dũng cảm của cô và cuộc chiến sinh tồn của người vay mượn đã khiến anh muốn sống qua căn bệnh. Arrietty đưa cho anh chiếc kẹp tóc của cô như một kỉ niệm của sự tưởng nhớ. Người vay mượn rời đi trong một ấm trà nổi với Spiller.
Phiên bản lồng tiếng quốc tế của Disney chứa một đoạn độc thoại cuối cùng, trong đó Shō tuyên bố rằng anh ta không bao giờ gặp lại Arrietty và trở về nhà một năm sau đó, cho thấy rằng ca phẫu thuật đã thành công. Anh rất vui khi nghe tin đồn về những đồ vật biến mất trong nhà của hàng xóm.
Sản xuất.
Ngày 16 tháng 12 năm 2009, Studio Ghibli đã công bố kế hoạch công chiếu "Thế giới bí mật của Arrietty". Bộ phim dựa trên tiểu thuyết The Borrowers của Mary Norton. Tiểu thuyết này đã thắng Huân chương Văn học Carnegie năm 1953 sau đó được chuyển thể thành 3 bộ phim và các chương trình truyền hình. Takahata Isao và Miyazaki Hayao, những người sáng lập ra Studio Ghibli từng muốn làm thêm một chuyển thể phim hoạt hình của cuốn tiểu thuyết này và đã thực hiện được nó sau 40 năm lên kế hoạch.
Đạo diễn của bộ phim là Yonebayashi Hiromasa người từng tham gia dựng phim cho Sen và Chihiro ở thế giới thần bí và Lâu đài bay của pháp sư Howl. Ông cũng là trợ lý đạo diễn cho Huyền thoại đất liền và đại dương. Còn Miyazaki thì được giới thiệu như người lên kế hoạch sản xuất cho bộ phim.
Phát hành.
"Thế giới bí mật của Arrietty" công chiếu lần đầu tại Nhật Bản vào ngày 17 tháng 7 năm 2010, chính thức ra mắt sau buổi liên hoan trò chuyện của nhóm làm phim và Yonebayashi. Corbel đã trực tiếp biểu diễn bài hát chủ đề của bộ phim tại sự kiện này. Bộ phim đã chiếu trong 447 rạp chiếu phim trên khắp Nhật Bản trong tuần đầu công chiếu. Bộ phim sau đó đã được công chiếu tại nhiều nước khác nhau. Tại Bắc Mỹ, bộ phim đã chiếu trong 1.522 rạp so với 927 rạp của "Gake no Ue no Ponyo" và dành vị trí là bộ phim của Ghibli được chiếu rộng rãi nhất tại Bắc Mỹ.
Phiên bản DVD/BD đã được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 17 tháng 7 năm 2010. Phiên bản DVD thì được phát hành thành 2 đĩa còn phiên bản BD chỉ có 1 đĩa. Universum-Films đã đăng ký bản quyền để phát hành tại Đức, Lucky Red đăng ký tại Ý, GMA Network đăng ký tại Philippines, Studio Canal đăng ký tại Vương quốc Anh còn Walt Disney thì đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ phim để phát hành trên thị trường quốc tế.
Truyền thông.
Âm nhạc.
Phim có hai bài hát chủ đề là bài hát mở đầu "Areta Niwa" (荒れた庭) và bài hát kết thúc "Arrietty's Song" cả hai đều do Cécile Corbel trình bày, đĩa đơn chứa hai bài hát đã phát hành vào ngày 07 tháng 4 năm 2010. Album chứa các bài hát do các nhân vật trình bày cũng phát hành vào ngày 07 tháng 4 năm 2010. Album chứa các bản nhạc dùng trong phim đã phát hành vào ngày 14 tháng 7 năm 2010.
Sách.
"Thế giới bí mật của Arrietty" đã được chuyển thể thành phim in trên sách. Tokuma Shoten Publishing đã phát hành bộ sách hình này thành 4 tập từ ngày 07 tháng 8 đến ngày 25 tháng 9 năm 2010. Viz Media đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ sách này để phát hành tại thị trường Bắc Mỹ.
Đón nhận.
Giải thưởng.
Bộ phim đã thắng giải "Phim hoạt hình của năm" tại Lễ trao giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 34.
Doanh thu.
Hơn 1 triệu người tại Nhật Bản đã xem "Thế giới bí mật của Arrietty" trong tuần đầu công chiếu. Theo báo cáo của TOHO đến ngày 05 tháng 8 năm 2010 thì bộ phim đã thu về 3,5 tỷ ¥ với khoảng 3,7 triệu người xem. Và theo Hiệp hội sản xuất Phim ảnh Nhật Bản thì bộ phim có doanh thu 9,25 tỷ ¥ (110.013.058 $) khi kết thúc năm 2010. Phim anime này có doanh thu phòng vé tổng kết trên toàn thế giới là 145.570.827 $.
Việc chiếu trong 1.522 rạp chiếu phim đã làm bộ phim trở thành bộ phim của Ghibli được chiếu rộng rãi nhất tại Bắc Mỹ. Doanh thu phòng vé tại thị trường này vào khoảng 19 triệu $ và trở thành bộ phim có doanh thu đứng thứ 46 tại Bắc Mỹ tính tới ngày 08 tháng 6 năm 2012. Ba nước mà bộ phim có doanh thu cao khác là Pháp (7,01 triệu $), Hàn Quốc (6,86 triệu $) và Hồng Kông (1,75 triệu $).
Đánh giá.
"Thế giới bí mật của Arrietty" đã nhận được các đánh giá rất tích cực từ các nhà phê bình phim. Tại Rotten Tomatoes bộ phim nhận được số điểm đánh giá là 94% cho 116 bài đánh giá tính đến tháng 6 năm 2012, tỉ lệ yêu thích của bộ phim là 86% và đánh giá trung bình là 7,6/10. Còn tại Metacritic thì đánh giá trung bình trung bình là 80%.
Cristoph Mark của báo Yomiuri Shimbun đã khen bộ phim và nhận xét "giống như chủ đề luôn được yêu thích với trẻ em". Ông cũng thích các hiệu ứng được sử dụng trong bộ phim dưới con mắt của người tí hon như: các giọt nước lớn và đặc như xi rô, tiếng tích tắc của đồng hồ vang dội qua sàn và loa của rạp chiếu phim, những tờ giấy khổ lớn và mềm... các hiệu ứng này tác động vào cảm giác của người xem khiến họ có cảm giác như nhìn vào thế giới của chính mình nhưng với một góc nhìn khác. Mark Schilling tại tờ The Japan Times đã đánh giá bộ phim là 4 trên 5 sao và nói các phim hoạt hình của Studio Ghibli là bậc thầy về việc tạo chiều sâu mà không cần hiệu ứng 3D. Tuy nhiên cũng nói rằng một số cảnh trong phim "Chia ra một cách không hợp lý, giáo điều và khá buồn cười" nhưng may mắn là các cảnh đó xuất hiện khá ít.
Steve Rose của The Guardian đã đánh giá bộ phim là 4 trên 5 sao và khen "Một câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng và phong phú hơn những tác phẩm có tính chất giải trí tức thì". Rose cũng gọi bộ phim là "một loại quả lâu năm trong thế giới phim hoạt hình", tuy nhiên cũng nói bộ phim không đạt được sự thành công như các bộ phim trước đó như Sen và Chihiro ở thế giới thần bí hay Công chúa Mononoke về tổng thể cũng như thu hút những người trưởng thành", dù vậy bộ phim mang nhiều dấu ấn của riêng mình. Deborah Young tại The Hollywood Reporter đã viết về bộ phim là "vẫn là một bộ phim cơ bản cho trẻ em" và đánh giá về mối quan hệ của Sho và Arrietty sau đó là "các ao ước nhẹ nhàng chạm vào trái tim" cũng như khen Yonebayashi trong việc đạo diễn của ông. Trong lời mở đầu bài đánh giá của David Gritten trên tờ The Daily Telegraph đã nói bộ phim "đẹp mê hồn với các màu sắc và họa tiết". Ông cũng khen hình ảnh của "Karigurashi no Arrietty" và nói rằng "không có phim hoạt hình tốt hơn Arrietty" và đánh giá bộ phim là 4 sao trên 5. Don Groves trên kênh SBS đã đánh giá bộ phim theo nhiều hướng khác nhau và nói bộ phim "rất mỏng, tác phẩm khá nhỏ" (?). Groves cũng phê bình về cốt truyện của bộ phim là "nhẹ nhàng, không gây cười của một câu chuyện về tình bạn khác loài cũ mèm", tuy nhiên ông cũng khen việc lồng tiếng của bộ phim là "việc mà các chuyên gia có thể làm" và đánh giá bộ phim là 3.5 trên 5 sao. | 1 | null |
Quần đảo Amakusa (天草諸島, "Thiên Thảo chư đảo") là một quần đảo thuộc chủ quyền của Nhật Bản, nằm ở phía Tây của đảo Kyushu, hòn đảo cực Nam trong số 4 hòn đảo lớn nhất của Nhật Bản. Diện tích tổng cộng của quần đảo là 1000 cây số vuông với dân số 140.000 người. Hòn đảo lớn nhất của quần đảo này là Shimoshima, với chiều dài là 26,5 dặm và chiều ngang lớn nhất là 13,5 dặm (). Nó tọa lạc ở 32°20' vĩ bắc và 130° kinh đông, tách rời khỏi tỉnh Kumamoto bởi biển Yatsushiro.
Khu vực này có nhiều đồi núi - mặc dù không có núi cao - trong đó 4 đỉnh núi cao nhất đạt chiều cao hơn . Vì vậy, các hoạt động canh tác đều diễn ra tại các ruộng bậc thang.
Trước đây, khi Cơ đốc giáo du nhập vào Nhật Bản, Amakusa là một trong những trung tâm thịnh vượng của đạo Kitô. Hiện nay vẫn còn một số nhà thờ Công giáo tọa lạc trên quần đảo như nhà thờ Oe và nhà thờ Sakitsu. Vào năm 1637, Amakusa, cùng với bán đảo Shimabara, trở thành nơi diễn ra cuộc nổi loạn của người dân theo Cơ đốc giáo chống chính quyền Mạc phủ vào thế kỷ thứ 17. Cuộc nổi loạn bị trấn áp thẳng tay và người dân theo đạo Cơ Đốc buộc phải hoạt động trong bí mật trước thái độ quyết liệt của Mạc phủ. Hiện nay, không quá 1% dân số là người theo đạo Cơ đốc.
Amakusa có một số mỏ than và cao lanh chất lượng tốt. Số khoáng sản này trước đây được dùng trong nghề chế tạo đồ gốm tại các tỉnh Hirado và Satsuma. Những lò gốm cổ xưa vẫn còn tồn tại trên đảo, và gốm sứ vẫn là một món hàng xuất khẩu. Hidenoshin Koyama, người xây dựng nên căn nhà của Thomas Blake Glover tại Vườn Glover, xuất thân từ quần đảo này.
Hiện nay, quần đảo Amakusa được tổ chức thành các quận Amakusa, thành phố Amakusa và thành phố Kami-Amakusa, tất cả đều thuộc tỉnh Kumamoto.
Giao thông vận tải.
Vận tải đường không tại Amakusa được thực thi tại sân bay cùng tên, nằm ở cực Bắc của đảo Shimoshima. Quần đảo được kết nối với phần còn lại của Nhật Bản nhờ vào năm chiếc cầu của Amakusa và các chuyến phà chạy từ Hondo và Matsushima.
Tại nơi này cũng có nhiều chuyến phà hoạt động nhằm chuyên chở người và hàng hóa giữa quần đảo tới các tình lân cận của Kagoshima và Nagasaki. Phà chạy từ Onike tại phía Bắc Shimoshima tới Kuchinotsu ở cực Nam của bán đảo Shimabara thuộc quyền quản lý của công ty đường sắt Shimabara và chạy theo từng giờ mỗi ngày.
Phà chạy từ cảng Tomioka ở Reihoku tới Mogi ở phía Bắc tại tỉnh Nagasaki được quản lý bởi Công ty trách nhiệm hữu hạn Yasuda Sangyo Kisen.
Hai chuyến phà từ Shinwa và Ushibuka ở miền Nam Shimoshima kết nối Amakusa với Nagashima ở tỉnh Kagoshima. | 1 | null |
Mara Clara là phim truyền hình Philippines được sản xuất bởi hãng phim ABS-CBN từ năm 2010-2011. Mara Clara được làm lại từ một bộ phim năm 1992. Phim còn có nhan đề dịch ra tiếng Việt là Trò đùa của số phận.
"Mara Clara" là bộ phim được làm lại từ bộ phim cùng tên năm 1992 dựa trên cuốn tiẻu thuyết được viết bởi Emil Cruz Jr., rồi sản xuất bởi hãng phim ABS-CBN. Vào năm 1996, phim truyền hình này đã được chuyển thể thành phim điện ảnh. Toàn bộ diễn viên đều được giữ nguyên,ngoại trừ Eruel Tongco trong vai Garry Davis được thay bởi William Martinez do Tongco qua đời. Tháng 8 năm 2010, ABS-CBN đã quyết định làm lại bộ phim với Kathryn Bernado trong vai Mara và Julia Montes vai Clara.
Nội dung.
Câu chuyện kể về hai cô bé được sinh vào cùng một ngày và cùng một bệnh viện. Một cô bé tên là Mara lớn lên xinh đẹp và thông minh, ngoan ngoãn nhưng phải sống cảnh bần hàn, còn cô bé kia là Clara, xảo quyệt và sống trong nhung lụa muốn gì được nấy nên trở thành hư hỏng. Đâu ai ngờ rằng, vị trí của hai cô bé đã bị trao đổi cho nhau. Tất cả là do số phận đã cho Gary David gặp và yêu Alvira. Thế nhưng một ngày, Alvira buộc phải đi du học, để Garry ở lại. Ngày qua ngày, Alvira trở về và đã không còn yêu Gary mà chuẩn bị đám cưới cùng Amante Del Valle. Quá đau buồn mà không thể làm gì được, Gary đã làm cho Susan- người giúp việc nhà Alvira mang thai trong cơn say rượu. Cùng lúc đó, Alvira và Amante đã có con với nhau sau đám cưới. Không thể ngờ rằng, hai đứa trẻ sinh ra tại cùng một bệnh viện vào cùng một ngày. Gary biết được, đã bảo em trai Karlo là nhân viên bệnh viện bắt cóc con của vợ chồng Alvira để trả thù Amante. Nhưng Gary bị bắt ngay tại bệnh viện bởi tội buôn ma tuý. Karlo quá luống cuống, đành đánh tráo 2 đứa trẻ mới lọt lòng với nhau. Nhưng mặt dây chuyền nhà Del Valle vẫn còn trên khăn quấn đứa con của Alvira và Amante. 15 năm sau, hai cô bé đã lớn lên, nhưng với gia cảnh trái ngược nhau vì thân phận bị đánh tráo. Mara chăm học đã giành được học bổng của ngôi trường mà Clara đang theo học. Hai người trở thành bạn thân sau khi có vài rắc rối xảy ra. Thế nhưng quãng thời gian đó không kéo dài được bao lâu, Clara bắt đầu nghĩ rằng Mara đang dần cướp đi những thứ thuộc về mình nhưng đó chỉ là sự hiểu lầm. Ngay cả cậu bạn Christian mà Clara quý mến cũng có cảm tình với Mara vì sự trong trắng và tốt bụng của cô bé. Tình bạn của họ kết thúc một cách tan vỡ: Mara thắng cử chức chủ tịch hội học sinh còn Clara thì không, mặc dù Clara đã cố gian lận. Dù trò xảo trá đó bị lật tẩy nhưng không ai biết thủ phạm bày là ai. Từ đó, Clara luôn bày kế hại Mara vì nghĩ Mara đã phản bội mình. Cuối cùng, sau bao nhiêu sự việc, sự thật che giấu suốt hơn chục năm qua cuối cùng cũng bị đưa ra: Mara và Clara bị hoán đổi cho nhau. Nhưng những mưu kế Clara bày ra vẫn không ngừng tiếp diễn với Mara đáng thương. | 1 | null |
AMX 50 (bản thiết kế chính) hoặc AMX-50 là xe tăng hạng nặng của Pháp được thiết kế ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nó đã được đề nghị là xe tăng hạng trung, xe tăng hạng nặng và xe tăng chiến đấu chủ lực và kết hợp nhiều tính năng tiên tiến. Tuy nhiên nó đã bị hủy bỏ cuối những năm 1950 do hoàn cảnh kinh tế và chính trị không thuận lợi gây ra sự chậm trễ trong việc phát triển.
Phát triển.
M4.
Sau chiến tranh, quân đội Pháp không sở hữu xe tăng hiện đại được trang bị vũ khí hạng nặng. ARL 44 đã được phát triển. Mặc dù được trang bị với một khẩu súng 90 mm mạnh mẽ, nhưng khó có thể được gọi là xe tăng hiện đại vì hệ thống treo của nó đã lỗi thời. Vì vậy tháng 3 năm 1945, ngành công nghiệp Pháp đã được mời để thiết kế một chiếc xe thỏa đáng hơn. Cùng năm đó công ty AMX (Atelier de Construction d'Issy-les-Moulineaux) đã trình bày dự án 141, được gọi là nguyên mẫu M4, được trang bị với pháo Schneider 90 mm.
Bề ngoài, M 4 khá giống với Tiger II của Đức, mặc dù tháp pháo đã được thực hiện phần hàn, nhưng để hạn chế trọng lượng 30 tấn, tỷ trọng xe đã giảm xuông và áo giáp tối đa là 30 mm. Giống như xe tăng Đức sau chiến tranh, M 4 có bánh xe được xếp chồng. Một phần của dự án đã được nghiên cứu nên sử dụng một hệ thống treo thanh xoắn hiện đại hoặc giảm 10 cm chiều cao bằng cách lắp lò xo hình lá hoặc lò xo ống xoắn.
Hai nguyên mẫu của M 4 đã được đặt hàng. Quân dội đã sớm chỉ ra rằng mức độ bảo vệ của lớp giáp 30 mm là không thể chấp nhận được. Vì vậy lớp giáp đã được tăng cường. Để giảm trọng lượng, nó đã được lắp đặt một tháp pháo dao động, được thiết kế bởi FAMH. Tuy nhiên, khi các mẫu thử nghiệm đầu tiên, bây giờ là AMX 50, đã được giao trong năm 1949, nặng 53,7 tấn. Mùa đông năm 1950 thay vì trang bị pháo 90 mm, pháo 100 mm đã được trang bị, được thiết kế bởi Arsenal de Tarbes. Nguyên mẫu thứ hai với một tháp pháo hơi khác, nhưng cũng được trang bị pháo 100 mm, đã sẵn sàng ngay sau đó. Nguyên mẫu này có chiều dài 10,43 mét(cả pháo), rộng 3,40 mét và cao 3,41 mét. Nó được dự định lắp một động cơ 1200 mã lực để đạt được một tốc độ vượt trội so với tất cả các loại phương tiện xe tăng hiện có thời bấy giờ. Động cơ Maybach HL 295 (động cơ chạy bằng xăng được thiết kế lại của Đức vào năm 1945 bắt được tại Friedrichshafen bởi Tổng Kỹ sư Joseph Molinié) và một động cơ chạy bằng diesel Saurer đã được thử nghiệm. Cả hai động cơ đều thất bại trong những yêu cầu đề ra và tốc độ tối đa trong thực tế không cao hơn 51 km/h. Các nguyên mẫu đã được thử nghiệm từ năm 1950 và 1952.
Song song với chiếc xe tăng này, từ năm 1946, Công ty AMX đã thiết kế AMX Chasseur de Char, pháo tự hành chống tăng dựa trên khung gầm của xe tăng M 4 có khối lượng 34 tấn, nhưng được trang bị một tháp pháo hiện đại, kiểu dáng đẹp tròn để lắp pháo 90 mm. Tuy nhiên, không có nguyên mẫu được xây dựng.
AMX 50 "120 mm".
Một dự án AMX 50 thứ ba đã được bắt đầu vào tháng 8 năm 1951. Mười chiếc đã được xây dựng bởi DEFA (Direction des Études et Fabrications d'Armement, phòng thiết kế vũ khí nhà nước), chiếc đầu tiên được giao vào năm 1953. Nó được trang bị pháo 120 mm để cạnh tranh với các xe tăng hạng nặng của Liên Xô, chẳng hạn như IS-3 và T-10. Để thích ứng với pháo lớn hơn, một tháp pháo khổng lồ đã được trang bị, kế hoạch ban đầu là thiết kế một tháp pháo thông thường, cuối cùng nó đã trang bị một tháp pháo dao động. Lớp giáp đã được tăng cường. Những thay đổi này gây ra sự gia tăng trọng lượng, 59,2 tấn. Từ 1954 đến 1955 loại tăng này đã được sản xuất thậm chí còn nặng hơn, tạo ra phiên bản surblindé ("AMX 50 Uparmoured") với một tháp pháo thấp hơn và thân nghiêng nhọn như IS-3 cao hơn, trọng lượng xe khoảng 64 tấn. Vì điều này gây ra mối lo ngại nghiêm trọng về độ tin cậy mặc dù hệ thống treo đã được được gia cố, từ 1956 đến 1958 trọng lượng được giảm xuống còn 57,8 tấn bằng cách xây dựng một thân xe thấp hơn, tạo ra surbaissé (nghĩa là thấp trong tiếng Pháp) ("AMX 50 Lowered") với một tháp pháo nhẹ hơn nhưng lại cao hơn, Tourelle D (Loại tháp pháo thứ 4). Khi vấn đề với động cơ Maybach ưa thích vẫn còn tồn tại, độn, từ năm 1955 một nhóm thiết kế đặc biệt (Gruppe M) từ Đức hợp tác với các nhà máy AMX để giải quyết vấn đề này. Lạc quan thay, đó là thời điểm dự kiến tốc độ tối đa cuối cùng có thể được tăng lên đến 65 km/h. Cuối cùng trong tổng số chỉ có năm nguyên mẫu AMX 50 sẽ được xây dựng, bao gồm thân xe cuối cùng.
Dựa trên khung gầm của M 4, vào năm 1950 một nguyên mẫu pháo tự hành chống tăng hạng nặng đã được hoàn thành và có thể trang bị pháo 120mm, Canon Automoteur AMX 50 Foch, được đặt theo tên của nguyên soái Ferdinand Foch. Nó được dự định để hỗ trợ từ xa cho AMX hạng trung 50 "100 mm", sau khi được lên kế hoạch để được trang bị một khẩu súng 120 mm, các dự án Foch đã bị hủy bỏ.
Char Lorraine.
Đầu những năm 1950, rõ ràng AMX 50 quá nặng, trọng lượng 53,7 tấn quả là một cú sốc - một dự án xe tăng hạng trung đã được khởi xướng vào năm 1952. Nguyên mẫu được xây dựng bởi các nhà máy Lorraine. Nó cũng có một tháp pháo dao động, với pháo 100 mm SA 47, nhưng khối lượng đã được giảm bớt bằng cách lắp hệ thống treo trọng lượng nhẹ bằng cách sử dụng năm bánh xe chạy trên đường với những chiếc lốp cao su được bơm lên. Tổng trọng lượng sau đó đã giảm xuống còn 39,7 tấn. Chiều dài là 10,80 mét, chiều rộng 3,30 mét và chiều cao 2,85 mét. Tốc độ tối đa là 60 km/h. Kíp chiến đấu gồm bốn người.
Năm 1950, một khẩu pháo tự hành được dựa dự án chiếc xe tăng này được thiết kế bởi Công ty Lorraine, ban đầu dự định được trang bị một pháo 90 mm, Canon d'Assaut Lorraine. Nguyên mẫu của pháo tự hành chống tăng này đã được hoàn thành vào năm 1952, được lắp pháo 100 mm và nặng 25 tấn. Dự án đã được ngưng vào năm 1953. | 1 | null |
Đảo kinh hoàng (tên gốc tiếng Anh: Shutter Island) là bộ phim tâm lý bí ẩn giật gân Mỹ sản xuất năm 2010 của đạo diễn Martin Scorsese, với Leonardo DiCaprio thủ vai chính, dựa trên cuốn tiểu thuyết của Dennis Lehane.
Chi phí cho bộ phim là đô la Mỹ $80,000,000. Trên toàn thế giới, tổng doanh thu của bộ phim là $ 294.803.014 đô la .
Nội dung.
Bộ phim lấy bối cảnh năm 1954, viên cảnh sát thuộc cơ quan Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ (USMS) là Edward "Teddy" Daniels (Leonardo DiCaprio thủ vai) đang điều tra sự biến mất của một nữ sát nhân trốn thoát khỏi bệnh viện tâm thần Boston's Shutter Island Ashecliffe và được cho là ẩn náu gần đó.
Teddy đã tìm đến hòn đảo nơi bệnh viện tọa lạc vì những lý do cá nhân, nhưng chẳng bao lâu, anh tự hỏi liệu anh đã ra đảo như một phần của một âm mưu tinh vi của các bác sĩ bệnh viện có phương pháp điều trị triệt để phi đạo đức và bất hợp pháp hết sức nham hiểm.
Teddy với kỹ năng khôn ngoan sớm điều tra một manh mối hứa hẹn, nhưng bệnh viện từ chối cho anh truy cập vào hồ sơ mà anh nghi ngờ sẽ làm sáng tỏ vấn đề. Khi một cơn bão cắt đứt liên lạc với đất liền, nhiều tên tội phạm nguy hiểm hơn "thoát hiểm" trong sự tình cờ và các đầu mối càng ngày càng khó hiểu, Teddy bắt đầu nghi ngờ tất cả mọi thứ - trí nhớ của mình, đối tác của mình, ngay cả sự tỉnh táo của chính mình.
Teddy và Chuck thấy các nhân viên có vẻ bất hợp tác. Bác sĩ John Cawley từ chối lật lại hồ sơ, và họ biết được Bác sĩ Lester Sheehan của Rachel Solando đã rời khỏi hòn đảo để đi nghỉ ngay sau khi Solando biến mất, khiến họ không thể thẩm vấn anh ta. Họ được bảo rằng Khu C, một trong ba khu giam bệnh nhân, là nơi dành cho những bệnh nhân nguy hiểm nhất, cùng với ngọn hải đăng đều đã được tìm kiếm. Trong lúc phỏng vấn, một bệnh nhân viết "Chạy đi" (RUN) vào sổ ghi chú của Teddy. Teddy bỗng dưng bị đau nửa đầu do bầu không khí của bệnh viện và anh thấy viễn cảnh mình từng là lính Mỹ trong quá trình giải phóng trại tập trung Dachau, có cả việc nhóm của anh xử bắn nhóm lính Đức. Anh có giấc mơ về vợ mình là Dolores Chanal, người đã bị chết trong đám cháy do Andrew Laeddis đốt. Cô nói với Teddy rằng Solando và Laeddis đều vẫn còn trên đảo. Teddy giải thích với Chuck rằng việc truy tìm Laeddis là động cơ thầm kín của anh khi nhận vụ án này.
Teddy và Chuck thấy Solando đã trở lại mà không có lời giải thích. Teddy gặp George Noyce, một bệnh nhân bị biệt giam, người tuyên bố rằng các bác sĩ đang làm thí nghiệm trên bệnh nhân, một số người đã bị đưa đến ngọn hải đăng để làm phẫu thuật thùy não. Noyce cảnh báo rằng mọi người trên đảo, bao gồm Chuck, đang chơi một trò chơi công phu được dàn dựng cho Teddy. Teddy và Chuck leo lên những vách đá tiến về phía ngọn hải đăng. Họ tách ra và Teddy thấy xác của ai đó trông giống Chuck bên dưới. Khi anh leo xuống, cái xác đã biến mất nhưng anh tìm thấy một hang động có một người phụ nữ ẩn náu, cô ta tự xưng là Rachel Solando thật sự. Cô nói rằng cô là bác sĩ cũ tại bệnh viện, người đã phát hiện ra những cuộc thí nghiệm với chất hướng thần và phẫu thuật thùy não nhằm phát triển kỹ thuật kiểm soát tâm trí. Trước khi cô có thể báo cho chính quyền, cô đã bị bắt vào Ashecliffe như một bệnh nhân. Sau đó Teddy quay lại bệnh viện nhưng không thấy bằng chứng về việc Chuck từng ở đó.
Nghĩ rằng Chuck đã bị đưa đến ngọn hải đăng, Teddy đột nhập vào đó và phát hiện ra Cawley đang đợi anh. Cawley giải thích rằng Teddy thực sự là Andrew Laeddis, bệnh nhân nguy hiểm nhất của họ, bị giam ở Khu C vì tội giết người vợ trầm cảm Dolores sau khi cô nhấn nước giết chết con của họ. Hai cái tên Edward Daniels và Rachel Solando là phép đảo chữ của Andrew Laeddis và Dolores Chanal, và cô bé trong giấc mơ của Andrew chính là con gái anh, Rachel. Cawley khẳng định Andrew đã tấn công Noyce hai tuần trước vì gã đã gọi anh là Laeddis. Các sự kiện trong những ngày vừa qua được dựng lên để chữa trị chứng bệnh điên cuồng của Andrew bằng cách cho anh đóng vai Edward "Teddy" Daniels. Các nhân viên bệnh viện là một phần của cuộc thử nghiệm, bao gồm Lester Sheehan đóng vai Chuck Aule và một y tá đóng vai Rachel Solando. Bị choáng ngợp bởi những ký ức đau thương, Andrew đã ngất xỉu.
Andrew tỉnh dậy trong bệnh viện dưới sự theo dõi của Cawley, Sheehan, viên cai ngục và nữ y tá. Khi được thẩm vấn, anh kể lại sự thật một cách mạch lạc, làm hài lòng các bác sĩ. Cawley cho biết họ đã lưu trữ tình trạng này từ chín tháng trước nhưng Andrew lại bị tái phát. Ông cảnh báo đây sẽ là cơ hội cuối cùng của Andrew, nếu anh còn bị tái phát thì họ đành phải phẫu thuật thùy não của anh.
Một thời gian sau, Andrew ngồi trong khuôn viên bệnh viện với Sheehan nhưng lại gọi anh ta là "Chuck", nói rằng họ phải rời khỏi hòn đảo. Sheehan lắc đầu với Cawley. Viên cai ngục ra hiệu cho lính gác đưa Andrew đi làm phẫu thuật. Trước khi đi, Andrew hỏi Sheehan rằng liệu điều đó có tệ hơn việc "sống như một con quái vật hoặc chết như một người tốt". Sheehan sửng sốt gọi Andrew là "Teddy" nhưng anh ta không trả lời, điều đó chứng tỏ anh ta vẫn là Andrew nhưng mong muốn mình bị phẫu thuật. Cảnh cuối phim cho thấy ngọn hải đăng trong khi Andrew chuẩn bị làm phẫu thuật. | 1 | null |
Trong Tân Ước, sự kiện Giêsu đến hội đường Caphácnaum đánh dấu sự khởi đầu sứ vụ giảng đạo của ông. Tại đây, ông đã thực hiện việc trừ quỷ được trình thuật lại trong Phúc âm Mark 1:21-28 và Phúc âm Luca 4:31-37.
Theo các sách Phúc Âm này, trong ngày Sabbath, Giêsu và các môn đệ của ông đã đến Caphácnaum để bắt đầu giảng dạy. Mọi người ngạc nhiên trước lời dạy của ông, bởi vì ông đã giảng dạy như một trong những người có thẩm quyền, chứ không phải là một giảng viên luật pháp. Lúc đó, có một người đàn ông bị thần ô uế trong hội đường kêu lên: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!".
Nhưng Giêsu nghiêm khắc nói với người này: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!". Quỷ vật vã người đàn ông dữ dội và thét lên xuất khỏi ông ta.
Mọi người chứng kiến đều ngạc nhiên và tự hỏi nhau "Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!". Tin tức về Giêsu nhanh chóng lan đi khắp trên toàn xứ Galilê. | 1 | null |
Caphácnaum (tiếng Do Thái: כְּפַר נַחוּם, "Kfar Nahum") là một ngôi làng chài nằm trên bờ bắc của Biển hồ Galilee thời vương quốc Hasmoneus với dân số khoảng 1.500 người. Mặc dù từ nguyên "Kfar Nahum" trong tiếng Do Thái có nghĩa là "làng của Nahum" nhưng không có mối liên hệ nào với vị tiên tri tên là Nahum của Do Thái giáo. Ngôi làng này được nhắc đến nhiều trong các sách Phúc Âm với các câu chuyện liên quan đến Chúa Giêsu. Các cuộc khai quật khảo cổ cho biết từng có hai hội đường Do Thái cổ đại được xây dựng tại đây. Một nhà thờ gần Caphácnaum đang tồn tại, xây bên trên khu nền nhà cổ được cho là nhà của Thánh Phêrô khi xưa. | 1 | null |
Hóa bánh ra nhiều là tên của hai câu chuyện trong Tân Ước kể về việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho nhiều người được ăn no nê.
Hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất.
Phúc âm Gioan kể rằng, một đứa bé đã mang đến năm chiếc bánh mì hai con cá nhỏ để Chúa Giêsu biến hóa thành vô số cung cấp cho hàng ngàn người ăn.
Bối cảnh khi ấy là Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã bị trảm quyết,Người tạm lánh bằng thuyền đến một nơi vắng vẻ gần Bethsaida nhưng đám đông vẫn đi bộ theo sau Người. Khi Giêsu vào bờ thì thấy cả một đám đông lớn đang chờ sẵn, Ngài chạnh lòng thương họ và chữa lành bệnh cho họ. Trời chuẩn bị tối, các môn đệ đến với Ngài rằng: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn".
Ông trả lời: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn". Các môn đệ đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!". Ông bảo: "Đem lại đây cho Thầy!"
Sau đó, ông truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ rồi ông cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Hóa bánh ra nhiều lần thứ hai.
Biến cố này được trình thuật trong hai sách Phúc Âm Mácccô và Mátthêu, còn được gọi là "phép lạ bảy cái bánh và con cá". Theo các sách Phúc Âm này, một đám đông lớn đã tụ tập và đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu gọi các môn đệ của mình lại và nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường."
Môn đệ của ông trả lời: "Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?". Ông hỏi lại: "Anh em có mấy chiếc bánh?". Họ thưa: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ".
Chúa Giêsu bảo đám đông ngồi xuống đất. Sau đó, ông lấy bảy cái bánh và con cá dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, và họ lần lượt phân phát cho mọi người. Tất cả đều ăn và no nê. Sau đó, các môn đệ thu được bảy thúng bánh vụn còn sót lại. Số lượng người ăn là 4000 đàn ông, chưa kể phụ nữ và trẻ em. Sau đó, Chúa Giêsu từ giã đám đông và lên thuyền và đi đến vùng lân cận Magadan.
Luận giải.
Mỗi khi tường thuật những phép lạ của Chú Giêsu, các phúc âm thường đặt vào một tình huống là ông đi lên núi (không chỉ rõ là núi nào) nhưng có vẻ để hợp với khung cảnh của một sự mạc khải vốn đã xuất hiện nhiều lần đối với Môisê từ thời Cựu Ước. So với nhóm Phúc âm Nhất Lãm, Phúc âm Gioan thường mang mục tiêu biểu tỏ lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với dân chúng nhiều hơn là biểu tỏ căn tính đích thực của ông. Vì vậy, trong câu chuyện này, Phúc âm Gioan đã đặt các môn đệ ra sau hậu trường, ngoại trừ có nhắc đến tên một vài người, để tập trung toàn bộ nhân cách của Giêsu khi ra tay làm phép lạ cho dân chúng ăn khi đói. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã tìm ra hai ẩn ý tương quan giữa sự kiện này với Cựu Ước: một là Elisê (Sách Các Vua quyển 2, 4:42-44) đã hoá bánh lúa mạch ra nhiều đến nỗi "ăn xong hãy còn dư như lời Chúa phán", hai là manna do chính Thiên Chúa cho từ trời rơi xuống nuôi dân Do Thái; và đặc biệt là tiên báo cho việc bẻ bánh của Giêsu trong Bữa ăn tối cuối cùng. | 1 | null |
ZIM là định dạng tập tin mở lưu nội dung wiki cho sử dụng không trực tuyến. Chý trọng chính của nó Wikipedia các dự án Wikimedia khác. Định dạng cho phép nén 900,000 bài viết (đầy đủ trên Wikipedia German được bắt đầu từ 2009) thành chỉ có 1.3 GB, tính năng chỉ mục tìm kiếm toàn văn bản, và thể loại bản địa và hình ảnh xử lý tương tự như MediaWiki. Ngoài các định dạng tập tin mở, dự án openZIM cung cp hỗ trợ cho một chương trình đọc ZIM mã nguồn mở.
Định dạng tập tin ZIM thay cho định dạng tập tin Zeno trước đó. ZIM là viết tắt của "Zeno IMproved".
Dự án openZIM được bảo trợ bởi Wikimedia CH và được hỗ trợ bởi Wikimedia Foundation. | 1 | null |
Sita (còn viết là Seeta hoặc Seetha /Sītā/, có nghĩa là "luống cày") là một nhân vật nữ trong sử thi Ramayana.. Nàng là vợ của thần Rama (hiện thân của Vishnu) và là hiện thân của Lakshmi, nữ thân của sự giàu sang và là vợ của Vishnu.. Nàng cũng được tôn vinh như là một chuẩn mực về đức hạnh cho tất cả phụ nữ Hindu noi theo. Nàng còn nổi tiếng về đức hi sinh, sự cống hiến, lòng dũng cảm và sự thuần khiết của mình.
Sita là con gái của nữ thần đất Bhūmi và cũng là con nuôi vua Janaka của Mithila. Lúc trẻ, nàng đã lấy Rama, hoàng tử của Ayodhya. Không lâu sau khi kết hôn, nàng đã bị buộc phải lưu đày với chồng và em chồng là Lakshmana. Trong thời gian bị lưu đày, ba người đã sống ở rừng Dandaka. Tại đây, nàng đã bị Ravana, vua La Sát của Lanka bắt cóc. Ravana đã giam giữ nàng ở Ashok Vatika, Lanka. Sita đã được cứu thoát sau khi Rama tiêu diệt Ravana trong một cuộc chiến thời tiết. | 1 | null |
Xa lộ Liên tiểu bang 86 (tiếng Anh: "Interstate 86" hay viết tắt là I-86) là một xa lộ liên tiểu bang nội tiểu bang, nằm hoàn toàn bên trong tiểu bang Idaho. Nó chạy 63 đặm (101.4 km) từ một nút giao thông lập thể với Xa lộ Liên tiểu bang 84 nằm cách Declo khoảng 7 dặm (11,3 km) về phía đông trong Quận Cassia miền quê đến một nút giao thông khác mức với Xa lộ Liên tiểu bang 15 tại Pocatello. Xa lộ Liên tiểu bang 86 kết nối các thành phố lớn phía đông của Idaho là Pocatello và Idaho Falls với vùng Twin Falls và các thành phố khác nằm trong vùng Thung lũng Magic của tiểu bang. Nó là xa lộ chính đông-tây ngắn nhất trong Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang.
Ngoài việc nó là xa lộ chính ngắn nhất trong hệ thống liên tiểu bang, vùng mà Xa lộ Liên tiểu bang 86 đi qua thì rất hẻo lánh. Pocatello, Chubbuck và American Falls là các khu định cư hợp nhất duy nhất nằm trên xa lộ. Giữa American Falls và Pocatello, I-86 đi qua một phần Khu dành riêng cho người bản thổ Mỹ Fort Hall.
Mô tả xa lộ.
Quận Cassia, Idaho.
Đi về hướng đông, I-86 bắt đầu tại một nút giao thông lập thể với Xa lộ Liên tiểu bang 84 và Quốc lộ Hoa Kỳ 30 trong Quận Cassia nông thôn; tại đây nó chạy trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 30 và giữ như thế phần lớn đoạn đường của nó. Xa lộ theo hướng đông qua vùng đất phần lớn là nông thôn và chưa được phát triển thuộc Quận Cassia; nó không có lối ra trong đoạn đường 14 dặm đầu tiên. Sau đoạn này, I-86 qua Sông Raft và đến một lối ra với Lộ Yale nằm trong cộng đồng Raft River.
Quận Power, Idaho.
Xa lộ tiếp tục hướng đông vào Quận Power, chạy đến phía nam Sông Snake. Nó đến lối ra kế tiếp của nó tại Lộ Barkdull Road tại Coldwater ở mốc dặm 21. I-86 chạy hướng đông bắc dọc theo con sông này đến một lối ra tại Công viên Tiểu bang Massacre Rocks. Xa lộ tiếp tục hướng đông bắc và gặp Lộ Rock Creek tại Neeley. Qua Neeley, I-86 đến một nút giao thông lập thể với Xa lộ Tiểu bang Idaho 37 là con lộ chạy về phía nam đến Rockland, và Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 86, một xa lộ vòng thương mại phục vụ thành phố American Falls.
I-86 đi tránh qua thành phố American Falls về phía đông nam, gặp xa lộ vòng thương mại của nó và Xa lộ Tiểu bang Idaho 39 ở phía đông thành phố gần Sân bay American Falls. Xa lộ chạy từ phía nam Hồ trử nước American Falls đến lối ra kế tiếp của nó tại Lộ Ramsey gần Seagull Bay. Qua lối ra này, xa lộ vào Khu dành riêng cho người bản thổ Mỹ Fort Hall. Sau khi qua một lối ra khác tại Lộ Rainbow gần rìa phía đông của hồ trử nước, I-86 đi về hướng đông đến Pocatello. Nó có các lối ra tại Arbon Valley và Sân bay Vùng Pocatello trước khi rồi khu dành riêng cho người bản thổ Mỹ. Quốc lộ Hoa Kỳ 30 rời I-86 tại lối ra kế để đi về hướng đông nam trong khi đó 1-86 tiếp tục hướng đông đi ngang qua Sông Portneuf.
Quận Bannock, Idaho.
Xa lộ đi vào Quận Bannock và vào thành phố Chubbuck và tại đây nó giao cắt Quốc lộ Hoa Kỳ 91. I-86 đi qua Pocatello ngắn ngũi mà không có một nút giao thông lập thể nào bên trong thành phố và kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 15 nằm bên ngoài địa giới của thành phố Pocatello.
Lịch sử.
Con đường của Xa lộ Liên tiểu bang 86 phần lớn được lấy từ một phần đường của Quốc lộ Hoa Kỳ 30N mà được xây dựng vào thập niên 1920. Con đường này ban đầu chạy từ Burley đến một điểm nằm trên ranh giới tiểu bang Wyoming gần Montpelier. Xa lộ Liên tiểu bang 86 ngày nay được đưa vào Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang vào năm 1960 với tên gọi là Xa lộ Liên tiểu bang 15W. Quốc lộ Hoa Kỳ 30N được điều chỉnh lại thành một phần của Quốc lộ Hoa Kỳ 30 vào năm 1972. Xa lộ Liên tiểu bang 86 tiếp tục chạy trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 30 gần như toàn chiều dài của nó.
Vào cuối thập niên 1970, Hiệp hội Quan chức Giao thông và Xa lộ Tiểu bang Mỹ quyết định rằng tốt hơn hết có các mã số xa lộ trùng lặp tại các phần khác nhau của đất nước thay vì có các mã số có đuôi mẫu tự. Vào thời điểm đó, tại tiểu bang California cũng có một Xa lộ Liên tiểu bang 15E. Xa lộ Liên tiểu bang 15W được đổi mã số lại thành Xa lộ Liên tiểu bang 86 vào năm 1980. | 1 | null |
Thần Châu 9 (Trung văn giản thể: 神舟九号) là một tàu vũ trụ có người được phóng lúc 18h37 (giờ địa phương) ngày 16 tháng 6 năm 2012 tại trung tâm Phóng vệ tinh Tửu Tuyền, Cam Túc, Trung Quốc. Tàu được đẩy bởi tên lửa Trường Chinh 2Fc.
Thần Châu 9 mang theo nữ phi hành gia đầu tiên của Trung Quốc Lưu Dương, 33 tuổi, thiếu tá phi công thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, và hai phi hành gia khác là Jing Haipeng (chỉ huy trưởng) và Liu Wang.
Cả ba sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử là lần đầu tiên một tàu vũ trụ có người lái lắp ghép với modul Thiên Cung 1, hợp phần đầu tiên mà Trung Quốc phóng vào quỹ đạo tháng 9 năm 2011 nhằm xây dựng trạm vũ trụ cho riêng mình.
Sau hai ngày bay xuyên không gian, ngày 18 tháng 6 năm 2012, tàu Thần Châu 9 bay đến kết nối theo cơ chế tự động với Thiên Cung 1 ở quỹ đạo có độ cao 343 km. Sau đó, các phi hành gia sẽ bước vào modul Thiên Cung 1 để thực hiện các cuộc thí nghiệm khoa học. | 1 | null |
Thiếu tá Lưu Dương (; sinh tháng 10 năm 1978), quê ở Lâm Châu, Hà Nam là một phi công và nhà du hành vũ trụ Trung Quốc, cô là thành viên phi hành đoàn tàu vũ trụ Thần Châu 9. Ngày 16 tháng 6 năm 2012, Lưu Dương trở thành phụ nữ Trung Quốc đầu tiên bay vào vũ trụ.
Sự nghiệp.
Lưu Dương nhập ngũ Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc năm 1997 và đủ tiêu chuẩn thành phi công trước khi được phong phó đơn vị và thiếu tá không quân. Lưu Dương đã có 11 năm kinh nghiệm với 1.680 giờ bay an toàn. Năm 2010, cô đã được tuyển chọn để đào tạo làm phi hành gia. Sau hai năm huấn luyện nhằm tăng cường các kỹ năng du hành vũ trụ và khả năng thích ứng với môi trường không gian, Lưu Dương đã được chọn cùng với một người phụ nữ khác, Vương Á Bình, làm ứng cử viên cho đội bay không gian. Cô đã tham gia sứ mệnh Thần Châu 9 nhờ kinh nghiệm và sự vượt trội của mình.
Nhiệm vụ của cô chủ yếu là để thực hiện các thí nghiệm về Y học không gian. Tàu đã được phóng ngày 16 tháng 6 năm 2012, 49 năm ngày sau khi nữ phi hành gia vũ trụ đầu tiên, Valentina Tereshkova, bay vào vũ trụ.
Cá nhân.
Lưu Dương là một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cô không có anh chị em và đã lập gia đình và chưa có con. Báo Tân Hoa xã đưa tin một cựu quan chức đã tuyên bố rằng hôn nhân là một yêu cầu cho tất cả nữ phi hành gia Trung Quốc do "phụ nữ đã lập gia đình sẽ được thể chất và tâm lý trưởng thành." Tuy nhiên, yêu cầu này đã được chính thức bị phủ nhận bởi các giám đốc của Trung tâm phi hành gia Trung Quốc, nói rằng đây là một sự ưu tiên nhưng không phải là một giới hạn nghiêm ngặt. | 1 | null |
Mã Vũ (, ? - 61), tên tự Tử Trương (子張), người Hồ Dương, Nam Dương, tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng.
Trong chiến loạn.
Từ nhỏ vì tránh kẻ thù, ngụ cư ở Giang Hạ. Cuối thời nhà Tân, gia nhập nghĩa quân Lục Lâm. Canh Thủy đế lên ngôi, Vũ được nhiệm chức Thị lang, cùng Lưu Tú đại phá bọn Vương Tầm. Được bái làm Chấn uy tướng quân, cùng Thượng thư lệnh Tạ Cung đi đánh Vương Lang.
Về sau Lưu Tú hạ được Hàm Đan, mời Cung và Vũ đến dự tiệc, muốn tìm cơ hội giết chết Cung, nhưng không thành công. Lưu Tú mời riêng Vũ lên Tùng đài mà thuyết hàng, ông tỏ ý bằng lòng. Sau khi Cung bị giết, Vũ cưỡi ngựa đến Xạ Khuyển đầu hàng Lưu Tú. Ông ta rất hài lòng, cắt đặt ở bên cạnh. Mỗi khi Lưu Tú úy lạo chư tướng, Vũ đều giúp ông ta rót rượu, Lưu Tú rất vui.
Lưu Tú sai ông đem quân bản bộ đến Nghiệp, Vũ dập đầu từ chối, Lưu Tú càng hài lòng về ông, cho theo đại quân chinh chiến. Lưu Tú đánh quân nông dân Vưu Lai, Ngũ Phiên, thua ở Thận Thủy, chỉ còn mỗi Vũ ở phía sau, vẫn gắng sức chiến đấu, khiến kẻ địch không dám truy kích. Sau đó đánh An Thứ, Tiểu Quảng Dương, Vũ thường làm tiên phong, ra sức chiến đấu, các tướng đưa quân đi theo mà phá được giặc. Ông đuổi đến Bình Cốc, Tuấn Mỹ rồi về.
Lưu Tú lên ngôi, Vũ được nhiệm chức Thị trung, Kỵ đô úy, Sơn Đô hầu. Năm Kiến Vũ thứ 4 (28), Vũ cùng bọn Hổ nha đại tướng quân Cái Duyên chinh thảo Lưu Vĩnh, ông soái quân đánh Tế Âm , hạ Thành Vũ, Sở Khâu, nhờ công được bái làm Bộ lỗ tướng quân.
Năm sau (29), Bàng Manh chống lại Lưu Tú, Vũ soái quân tấn công Đào Thành, đánh lui quân địch. Lưu Tú đưa đại quân đến, Manh thua chạy.
Năm thứ 6 (30), Vũ cùng Kiến uy đại tướng quân Cảnh Yểm đánh Ngôi Hiêu, chiến sự bất lợi, quân Hán rút lui. Ngôi Hiêu đuổi theo, ông tuyển tinh kỵ đi sau, tự mặc giáp cầm kích, giết hơn ngàn quân địch, Hiêu đành lui về, các cánh quân Hán đều được an toàn.
Sau chiến loạn.
Năm thứ 13 (37), Vũ được tăng thực ấp, thăng phong làm Vu hầu. Soái quân đóng đồn ở Khúc Dương, phòng bị Hung Nô. Nhân bị tố cáo tội giết Quân lại, phụng mệnh đưa vợ con trở về, giao lại ấn thụ tướng quân, thực ấp bị cắt mất 500 hộ, giáng phong làm Dương Hư hầu.
Quang Vũ đế cùng các công thần liệt hầu nói chuyện trong tiệc, hỏi nếu không gặp thời loạn, thì họ có thể làm gì? Vũ đáp ông chỉ có thể cầm đầu bọn giặc cướp, Đế bật cười, cho rằng ông có thể làm được Đình trưởng. Vũ thích uống rượu, nói năng thô thiển. Khi say ông ngã lăn trước điện, lời lẽ lộn xộn, không chút kiêng dè. Đế cứ để như vậy, mà làm trò cười.
Năm thứ 25 (49), Vũ nhiệm chức Trung lang tướng, tham gia đánh dẹp người Man ở Vũ Lăng, sau khi trở về, giao lại ấn thụ.
Năm Vĩnh Bình đầu tiên (58) thời Minh đế, Vũ được bái làm Bộ lỗ tướng quân, Trung lang tướng Vương Phong làm phó tướng, cùng Giám quân sứ giả Đậu Cố, Hữu phụ đô úy Trần Hân soái 4 vạn quân bình định người Khương xâm phạm Lũng Hữu. Tại Kim Thành đánh bại quân Khương, chém 600 thủ cấp. Tại Lạc Hà cốc bị quân Khương đánh bại, tử thương 4000 người. Quân Khương ra khỏi biên ải, Vũ soái quân đuổi đến Đông, Tây Hàm , đại phá địch, chém 4600 thủ cấp, bắt 1600 người, còn lại đều tan rã. Ông đưa quân trở về, được tăng thực ấp 700 hộ, cả thảy có 1800 hộ.
Năm thứ 4 (61), Mã Vũ qua đời.
Trong nghệ thuật.
Do ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi "Đông Hán diễn nghĩa" và các vở Hí kịch, các danh tướng Đông Hán là Diêu Kì và Mã Vũ được dân gian thờ cúng như những môn thần, tương tự "Thuyết Đường" với Tần Quỳnh và Úy Trì Cung.
Theo đó, Mã Vũ và Úy Trì Cung có nhiều điểm tương đồng: mặt đen, roi vàng, phá cửa cung đến gãy roi, nhớ lời thầy "roi còn người còn, roi gãy người mất" mà tự sát.
Mã Vũ trong truyền thuyết ghét ác như thù, trọng tình trọng nghĩa, dũng mãnh cương cường, chất phác đáng yêu. Nhưng thực tế lịch sử thì không được như vậy! Khi bình Man ở Vũ Lăng, dù không thể không biết Mã Viện bị oan, Vũ vẫn im lặng, gây ra 1 khiếm khuyết đáng tiếc trong cuộc đời ông. | 1 | null |
Cáo culpeo (danh pháp hai phần: "Lycalopex culpaeus") là một loài chó hoang dã sống ở Nam Mỹ. Nó là loài chó hoang dã bản địa lớn thứ hai ở Nam Mỹ, sau loài sói bờm. Về bề ngoài, nó có nhiều đặc điểm giống cáo đỏ. Lông cáo culpeo xám và nâu đỏ. Cằm màu trắng, chân nâu đỏ, lưng có sọc mờ.
Cáo culpeo chủ yếu ăn động vật gặm nhấm, thỏ, chim và thằn lằn, thỉnh thoảng ăn thực vật và xác chết. Ngoài ra, cáo culpeo thỉnh thoảng tấn công cừu, và do đó thường bị săn bắn hoặc đầu độc. Ở một số vùng, cáo culpeo đã trở nên hiếm hoi, nhưng nhìn chung, loài này chưa có nguy cơ tuyệt chủng.
Mô tả.
Cáo culpeo khá lớn. Trọng lượng trung bình của con đực là , còn trọng lượng trung bình của con cái là . Tổng chiều dài từ , tính cả đuôi dài . Cổ và vai thường màu nâu hoặc hung đỏ, lưng màu sẫm, chóp đuôi đen.
Phạm vi phân bố.
Cáo culpeo sống tự nhiên ở Ecuador, Peru, miền nam Patagonia, và Đất Lửa. Có một vài quần thể cáo sống ở miền nam Colombia. Loài này phổ biến nhất ở sườn phía tây của dãy núi Andes. Cáo culpeo chủ yếu sống ở thảo nguyên và rừng rụng lá. Cáo culpeo đã được nhập vào miền tây quần đảo Falkland. | 1 | null |
Barbara Ambas Forteza hay nghệ danh là Barbie Forteza (sinh ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Biñan, Laguna, Philippines).Cô là một diễn viên, người mẫu, dẫn chương trình nổi tiếng của Philippines.Barbie hiện đang làm việc cho hãng phim GMA Network.Bộ phim Stairway to Heaven () được chiếu trên kênh Today TV đã gây được sự chú ý đến với khán giả Việt Nam.
Barbie Forteza vừa đoạt giải nữ diễn viên mới xuất sắc nhất phim "Puntod" | 1 | null |