title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
1
6.84k
bm25_text
stringlengths
0
5.05k
Thụy Điển
giàu hơn, và người nghèo đang trở nên nghèo hơn. Thụy Điển bắt đầu trở nên giống như Mỹ"". Tuy nhiên, rõ ràng là Thụy Điển vẫn còn bình đẳng hơn nhiều so với hầu hết các quốc gia khác . Hệ thống an sinh xã hội của Thụy Điển chủ yếu được quản lý bởi Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển và bao gồm rất nhiều phúc lợi khác nhau. Những khoản trợ cấp chủ yếu bao gồm : BULLET::::- ""Barnbidrag"": khoản trợ cấp dành cho trẻ em từ khi mới sinh cho đến khi 16 tuổi (trợ cấp cũng có sẵn dành cho sinh viên lớn tuổi), được trao cho các bậc cha mẹ để giảm gánh nặng phải nuôi con. Khoản trợ cấp này thường là 1500 SEK (tức 165 USD)/tháng cho mỗi đứa trẻ. BULLET::::- ""Föräldrapenning"": Khoản tiền trợ cấp dành cho các cặp cha mẹ nghỉ phép để chăm sóc đứa con mới sinh của họ. Mỗi cặp vợ chồng mới sinh con sẽ được nghỉ làm 480 ngày liên tiếp (tức 16 tháng) kèm theo khoản tiền này. Ngoài ra còn có một khoản trợ cấp chăm sóc trẻ em, ""vårdbidrag"", dành cho các cặp vợ chồng có con bị mắc bệnh. BULLET::::- ""Bostadsbidrag"": Trợ cấp nhà ở cho bất kỳ ai không có khả năng mua nhà ở. BULLET::::- ""Sjukpenning", "Sjukersättning", "Aktivitetsersättning"" và ""Handikappersättning"": Khoản trợ cấp dành cho người bị bệnh hoặc bị khuyết tật và không thể làm việc. BULLET::::- ""Arbetslöshetsersättning"": Khoản trợ cấp dành cho người thất nghiệp (thời gian
giàu hơn và người nghèo đang trở nên nghèo hơn thụy điển bắt đầu trở nên giống như mỹ tuy nhiên rõ ràng là thụy điển vẫn còn bình đẳng hơn nhiều so với hầu hết các quốc gia khác hệ thống an sinh xã hội của thụy điển chủ yếu được quản lý bởi cơ quan bảo hiểm xã hội thụy điển và bao gồm rất nhiều phúc lợi khác nhau những khoản trợ cấp chủ yếu bao gồm bullet barnbidrag khoản trợ cấp dành cho trẻ em từ khi mới sinh cho đến khi 16 tuổi trợ cấp cũng có sẵn dành cho sinh viên lớn tuổi được trao cho các bậc cha mẹ để giảm gánh nặng phải nuôi con khoản trợ cấp này thường là 1500 sek tức 165 usd tháng cho mỗi đứa trẻ bullet föräldrapenning khoản tiền trợ cấp dành cho các cặp cha mẹ nghỉ phép để chăm sóc đứa con mới sinh của họ mỗi cặp vợ chồng mới sinh con sẽ được nghỉ làm 480 ngày liên tiếp tức 16 tháng kèm theo khoản tiền này ngoài ra còn có một khoản trợ cấp chăm sóc trẻ em vårdbidrag dành cho các cặp vợ chồng có con bị mắc bệnh bullet bostadsbidrag trợ cấp nhà ở cho bất kỳ ai không có khả năng mua nhà ở bullet sjukpenning sjukersättning aktivitetsersättning và handikappersättning khoản trợ cấp dành cho người bị bệnh hoặc bị khuyết tật và không thể làm việc bullet arbetslöshetsersättning khoản trợ cấp dành cho người thất nghiệp thời gian
Thụy Điển
"Sjukersättning", "Aktivitetsersättning"" và ""Handikappersättning"": Khoản trợ cấp dành cho người bị bệnh hoặc bị khuyết tật và không thể làm việc. BULLET::::- ""Arbetslöshetsersättning"": Khoản trợ cấp dành cho người thất nghiệp (thời gian giới hạn 300 ngày, năm ngày một tuần, có nghĩa là 60 tuần) BULLET::::- ""Ålderspension"", ""Garantipension"": Khoản trợ cấp cho những người đã nghỉ hưu. BULLET::::- ""Försörjningsstöd"": Khoản trợ cấp dành cho bất cứ ai không thể có được một mức sống hợp lý. == Giao thông. == Thụy Điển có 162.707 km (101.101 dặm) đường trải nhựa và 1.428 km (887 mi) đường cao tốc. Đường cao tốc chạy ngang qua lãnh thổ Thụy Điển và qua Cầu Øresund để đến Đan Mạch. Nhiều tuyến đường cao tốc mới vẫn đang được xây dựng và một tuyến đường cao tốc mới từ Uppsala đến Gävle đã được hoàn thành vào ngày 17 tháng 10 năm 2007. Thụy Điển duy trì giao thông tay trái ("Vänstertrafik" trong tiếng Thụy Điển) từ khoảng năm 1736 và tiếp tục duy trì đến thế kỷ 20. Các cử tri đã từ chối chuyển sang giao thông tay phải vào năm 1955, nhưng sau khi Riksdag thông qua luật vào năm 1963, sự thay đổi đã diễn ra vào ngày 3 tháng 9 năm 1967, được biết đến bằng tiếng Thụy Điển là Dagen H. Kể từ đó, Thụy Điển thực hiện quy tắc giao thông tay phải. Tàu điện ngầm Stockholm là hệ thống tàu điện ngầm duy nhất ở Thụy Điển và phục vụ trong thành phố thủ đô Stockholm với 100 nhà ga.
sjukersättning aktivitetsersättning và handikappersättning khoản trợ cấp dành cho người bị bệnh hoặc bị khuyết tật và không thể làm việc bullet arbetslöshetsersättning khoản trợ cấp dành cho người thất nghiệp thời gian giới hạn 300 ngày năm ngày một tuần có nghĩa là 60 tuần bullet ålderspension garantipension khoản trợ cấp cho những người đã nghỉ hưu bullet försörjningsstöd khoản trợ cấp dành cho bất cứ ai không thể có được một mức sống hợp lý == giao thông == thụy điển có 162 707 km 101 101 dặm đường trải nhựa và 1 428 km 887 mi đường cao tốc đường cao tốc chạy ngang qua lãnh thổ thụy điển và qua cầu øresund để đến đan mạch nhiều tuyến đường cao tốc mới vẫn đang được xây dựng và một tuyến đường cao tốc mới từ uppsala đến gävle đã được hoàn thành vào ngày 17 tháng 10 năm 2007 thụy điển duy trì giao thông tay trái vänstertrafik trong tiếng thụy điển từ khoảng năm 1736 và tiếp tục duy trì đến thế kỷ 20 các cử tri đã từ chối chuyển sang giao thông tay phải vào năm 1955 nhưng sau khi riksdag thông qua luật vào năm 1963 sự thay đổi đã diễn ra vào ngày 3 tháng 9 năm 1967 được biết đến bằng tiếng thụy điển là dagen h kể từ đó thụy điển thực hiện quy tắc giao thông tay phải tàu điện ngầm stockholm là hệ thống tàu điện ngầm duy nhất ở thụy điển và phục vụ trong thành phố thủ đô stockholm với 100 nhà ga
Thụy Điển
tắc giao thông tay phải. Tàu điện ngầm Stockholm là hệ thống tàu điện ngầm duy nhất ở Thụy Điển và phục vụ trong thành phố thủ đô Stockholm với 100 nhà ga. Thị trường vận tải đường sắt được tư nhân hóa, nhưng trong khi có nhiều doanh nghiệp tư nhân, các nhà điều hành lớn nhất vẫn thuộc sở hữu của nhà nước. Các hạt (county) có trách nhiệm về tài chính, vé và tiếp thị cho các chuyến tàu địa phương. Các nhà điều hành lớn bao gồm SJ, Veolia Transport, DSB, Green Cargo, Tågkompaniet và Inlandsbanan. Hầu hết mạng lưới đường sắt đều do Trafikverket sở hữu và điều hành. Các sân bay lớn nhất của Thụy Điển bao gồm sân bay Stockholm-Arlanda (16,1 triệu hành khách trong năm 2009) cách Stockholm 40 km về phía bắc, sân bay Göteborg Landvetter (4,3 triệu hành khách trong năm 2008) và sân bay Stockholm-Skavsta (2,0 triệu hành khách). == Nhân khẩu. == === Dân số. === Tổng dân số của Thụy Điển là 10.142.686 người vào ngày 31 tháng 3 năm 2018. Dân số Thụy Điển đã vượt mốc 9 triệu người vào ngày 12 tháng 8 năm 2004 và 9,5 triệu vào mùa xuân năm 2012, theo Thống kê Thụy Điển . Mật độ dân số là 22,5 người / km² (58,2 mỗi dặm vuông), trong đó mật độ dân số ở miền nam của đất nước cao hơn đáng kể so với miền bắc. Khoảng 85% dân số sống ở các đô thị . Thành phố thủ
tắc giao thông tay phải tàu điện ngầm stockholm là hệ thống tàu điện ngầm duy nhất ở thụy điển và phục vụ trong thành phố thủ đô stockholm với 100 nhà ga thị trường vận tải đường sắt được tư nhân hóa nhưng trong khi có nhiều doanh nghiệp tư nhân các nhà điều hành lớn nhất vẫn thuộc sở hữu của nhà nước các hạt county có trách nhiệm về tài chính vé và tiếp thị cho các chuyến tàu địa phương các nhà điều hành lớn bao gồm sj veolia transport dsb green cargo tågkompaniet và inlandsbanan hầu hết mạng lưới đường sắt đều do trafikverket sở hữu và điều hành các sân bay lớn nhất của thụy điển bao gồm sân bay stockholm-arlanda 16 1 triệu hành khách trong năm 2009 cách stockholm 40 km về phía bắc sân bay göteborg landvetter 4 3 triệu hành khách trong năm 2008 và sân bay stockholm-skavsta 2 0 triệu hành khách == nhân khẩu == === dân số === tổng dân số của thụy điển là 10 142 686 người vào ngày 31 tháng 3 năm 2018 dân số thụy điển đã vượt mốc 9 triệu người vào ngày 12 tháng 8 năm 2004 và 9 5 triệu vào mùa xuân năm 2012 theo thống kê thụy điển mật độ dân số là 22 5 người km² 58 2 mỗi dặm vuông trong đó mật độ dân số ở miền nam của đất nước cao hơn đáng kể so với miền bắc khoảng 85% dân số sống ở các đô thị thành phố thủ
Thụy Điển
đó mật độ dân số ở miền nam của đất nước cao hơn đáng kể so với miền bắc. Khoảng 85% dân số sống ở các đô thị . Thành phố thủ đô Stockholm có dân số khoảng 950.000 người (chưa bao gồm dân số của vùng đô thị). Các thành phố lớn thứ hai và thứ ba là Gothenburg và Malmö. Vùng đô thị Gothenburg chỉ có hơn một triệu cư dân và phần phía tây của Scania, dọc theo Öresund cũng có số dân tương tự. Vùng đô thị Copenhagen và Skåne, nằm ở biên giới Đan Mạch-Thụy Điển xung quanh Öresund mà thành phố Malmö là một phần (khu vực này trước đây gọi là Vùng Öresund), có dân số 4 triệu người. Bên cạnh các thành phố lớn, các khu vực có mật độ dân số cao hơn đáng kể so với phần còn lại của đất nước bao gồm khu vực nông nghiệp của Östergötland, vùng bờ biển phía tây, khu vực xung quanh hồ Mälaren và khu vực nông nghiệp quanh Uppsala. Norrland, chiếm khoảng 60% lãnh thổ Thụy Điển, có mật độ dân số rất thấp (dưới 5 người mỗi km2). Vùng núi cao và hầu hết các vùng ven biển xa xôi hầu như không có dân cư. Ở những vùng rộng lớn phía tây Svealand, hay phần phía nam và trung tâm của Småland mật độ dân số cũng rất thấp. Một khu vực được gọi là Finnveden, nằm ở phía tây nam của Småland, cũng có thể
đó mật độ dân số ở miền nam của đất nước cao hơn đáng kể so với miền bắc khoảng 85% dân số sống ở các đô thị thành phố thủ đô stockholm có dân số khoảng 950 000 người chưa bao gồm dân số của vùng đô thị các thành phố lớn thứ hai và thứ ba là gothenburg và malmö vùng đô thị gothenburg chỉ có hơn một triệu cư dân và phần phía tây của scania dọc theo öresund cũng có số dân tương tự vùng đô thị copenhagen và skåne nằm ở biên giới đan mạch-thụy điển xung quanh öresund mà thành phố malmö là một phần khu vực này trước đây gọi là vùng öresund có dân số 4 triệu người bên cạnh các thành phố lớn các khu vực có mật độ dân số cao hơn đáng kể so với phần còn lại của đất nước bao gồm khu vực nông nghiệp của östergötland vùng bờ biển phía tây khu vực xung quanh hồ mälaren và khu vực nông nghiệp quanh uppsala norrland chiếm khoảng 60% lãnh thổ thụy điển có mật độ dân số rất thấp dưới 5 người mỗi km2 vùng núi cao và hầu hết các vùng ven biển xa xôi hầu như không có dân cư ở những vùng rộng lớn phía tây svealand hay phần phía nam và trung tâm của småland mật độ dân số cũng rất thấp một khu vực được gọi là finnveden nằm ở phía tây nam của småland cũng có thể
Thụy Điển
phần phía nam và trung tâm của Småland mật độ dân số cũng rất thấp. Một khu vực được gọi là Finnveden, nằm ở phía tây nam của Småland, cũng có thể coi là gần như không có sự hiện diện của con người. Từ năm 1820 tới năm 1930, khoảng 1,3 triệu người Thụy Điển, tức một phần ba dân số của đất nước, đã di cư đến Bắc Mỹ, và hầu hết trong số họ đến Hoa Kỳ. Hiện có hơn 4,4 triệu người Mỹ gốc Thuỵ Điển theo ước tính của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2006 . Tại Canada người gốc Thụy Điển có khoảng 330.000 người. Theo Thống kê Thụy Điển thì vào năm 2017, khoảng 3.193.089 người tức 31,5% dân số của Thụy Điển có nguồn gốc nước ngoài, được định nghĩa là những người sinh ra ở nước ngoài hoặc sinh ra ở Thụy Điển nhưng có bố hoặc mẹ (hoặc cả hai) sinh ra ở nước ngoài . Những người Thụy Điển gốc nước ngoài có xuất xứ nhiều nhất từ các nước Syria (1,70%), Phần Lan (1,49%), Iraq (1,39%), Ba Lan (0,90%), Iran (0,73%) và Somalia (0,66%) . === Ngôn ngữ. === Ngôn ngữ chính thức của Thụy Điển là tiếng Thụy Điển , một ngôn ngữ German Bắc, rất giống với tiếng Đan Mạch và tiếng Na Uy, chỉ khác về cách phát âm và chính tả. Người Na Uy có thể dễ dàng hiểu được tiếng Thuỵ Điển, và người Đan Mạch cũng có thể hiểu
phần phía nam và trung tâm của småland mật độ dân số cũng rất thấp một khu vực được gọi là finnveden nằm ở phía tây nam của småland cũng có thể coi là gần như không có sự hiện diện của con người từ năm 1820 tới năm 1930 khoảng 1 3 triệu người thụy điển tức một phần ba dân số của đất nước đã di cư đến bắc mỹ và hầu hết trong số họ đến hoa kỳ hiện có hơn 4 4 triệu người mỹ gốc thuỵ điển theo ước tính của cục điều tra dân số hoa kỳ năm 2006 tại canada người gốc thụy điển có khoảng 330 000 người theo thống kê thụy điển thì vào năm 2017 khoảng 3 193 089 người tức 31 5% dân số của thụy điển có nguồn gốc nước ngoài được định nghĩa là những người sinh ra ở nước ngoài hoặc sinh ra ở thụy điển nhưng có bố hoặc mẹ hoặc cả hai sinh ra ở nước ngoài những người thụy điển gốc nước ngoài có xuất xứ nhiều nhất từ các nước syria 1 70% phần lan 1 49% iraq 1 39% ba lan 0 90% iran 0 73% và somalia 0 66% === ngôn ngữ === ngôn ngữ chính thức của thụy điển là tiếng thụy điển một ngôn ngữ german bắc rất giống với tiếng đan mạch và tiếng na uy chỉ khác về cách phát âm và chính tả người na uy có thể dễ dàng hiểu được tiếng thuỵ điển và người đan mạch cũng có thể hiểu
Thụy Điển
tiếng Na Uy, chỉ khác về cách phát âm và chính tả. Người Na Uy có thể dễ dàng hiểu được tiếng Thuỵ Điển, và người Đan Mạch cũng có thể hiểu nó tuy sẽ gặp một chút khó khăn hơn so với người Na Uy. Ngược lại, những người nói tiếng Thụy Điển cũng có thể dễ dàng hiểu được tiếng Na Uy hoặc tiếng Đan Mạch, tuy nhiên tiếng Na Uy sẽ dễ hơn một chút đối với họ. Các phương ngữ được nói ở Scania, phần cực nam của đất nước, chịu ảnh hưởng lớn bởi tiếng Đan Mạch bởi vì khu vực này trước đây là một phần lãnh thổ của Đan Mạch và ngày nay vẫn nằm tiếp giáp với quốc gia này. Những người Thụy Điển nói tiếng Phần Lan chiếm khoảng 5% dân số Thụy Điển , và tiếng Phần Lan đã được công nhận là một ngôn ngữ thiểu số tại Thụy Điển. Do những người nói tiếng Ả rập nhập cư vào Thụy Điển rất nhiều trong những năm gần đây, việc sử dụng tiếng Ả Rập có thể đã trở nên phổ biến rộng rãi ở trong nước hơn so với tiếng Phần Lan. Tuy nhiên, không có thống kê chính thức nào về điều này . Tại Thụy Điển, tiếng Phần Lan, tiếng Meänkieli, tiếng Jiddisch, tiếng Romani và tiếng Sami có địa vị là các ngôn ngữ thiểu số được công nhận. Gần 90% người Thụy Điển có khả năng nói được tiếng Anh vì
tiếng na uy chỉ khác về cách phát âm và chính tả người na uy có thể dễ dàng hiểu được tiếng thuỵ điển và người đan mạch cũng có thể hiểu nó tuy sẽ gặp một chút khó khăn hơn so với người na uy ngược lại những người nói tiếng thụy điển cũng có thể dễ dàng hiểu được tiếng na uy hoặc tiếng đan mạch tuy nhiên tiếng na uy sẽ dễ hơn một chút đối với họ các phương ngữ được nói ở scania phần cực nam của đất nước chịu ảnh hưởng lớn bởi tiếng đan mạch bởi vì khu vực này trước đây là một phần lãnh thổ của đan mạch và ngày nay vẫn nằm tiếp giáp với quốc gia này những người thụy điển nói tiếng phần lan chiếm khoảng 5% dân số thụy điển và tiếng phần lan đã được công nhận là một ngôn ngữ thiểu số tại thụy điển do những người nói tiếng ả rập nhập cư vào thụy điển rất nhiều trong những năm gần đây việc sử dụng tiếng ả rập có thể đã trở nên phổ biến rộng rãi ở trong nước hơn so với tiếng phần lan tuy nhiên không có thống kê chính thức nào về điều này tại thụy điển tiếng phần lan tiếng meänkieli tiếng jiddisch tiếng romani và tiếng sami có địa vị là các ngôn ngữ thiểu số được công nhận gần 90% người thụy điển có khả năng nói được tiếng anh vì
Thụy Điển
tiếng Jiddisch, tiếng Romani và tiếng Sami có địa vị là các ngôn ngữ thiểu số được công nhận. Gần 90% người Thụy Điển có khả năng nói được tiếng Anh vì một phần tiếng Anh là ngoại ngữ bắt buộc trong trường học và phần khác là vì tiếng Anh có rất nhiều trong chương trình truyền hình. Đa số học sinh chọn tiếng Đức là ngoại ngữ thứ nhì, nhưng gần đây tiếng Tây Ban Nha đang được ưa chuộng và đã vượt qua tiếng Đức tại một số trường. Thật ra tiếng Đức là ngoại ngữ đầu tiên tại Thụy Điển cho đến năm 1950 cũng như trong phần còn lại của Bắc Âu. === Tôn giáo. === Giáo hội Thụy Điển, một giáo hội Lutheran, đã là giáo hội quốc gia từ 1527 cho đến 1999. Tỉ lệ thành viên của Giáo hội trên tổng dân số suy giảm dần qua các năm: từ 95,2% năm 1972 xuống còn 67,5% năm 2012 và 61,5% vào năm 2016 . Số người của nhóm lớn thứ nhì, những người theo Hồi giáo, rất khó được đoán chính xác. Sự hiện diện của những người Hồi giáo ở Thụy Điển vẫn còn yếu cho đến những năm 1960, khi Thụy Điển bắt đầu nhận được những người di cư từ vùng Balkan và Thổ Nhĩ Kỳ. Làn sóng nhập cư ồ ạt từ Bắc Phi và Trung Đông đã đưa dân số Hồi giáo tại Thụy Điển tăng đáng kể, ngày nay ước tính lên đến 600.000
tiếng jiddisch tiếng romani và tiếng sami có địa vị là các ngôn ngữ thiểu số được công nhận gần 90% người thụy điển có khả năng nói được tiếng anh vì một phần tiếng anh là ngoại ngữ bắt buộc trong trường học và phần khác là vì tiếng anh có rất nhiều trong chương trình truyền hình đa số học sinh chọn tiếng đức là ngoại ngữ thứ nhì nhưng gần đây tiếng tây ban nha đang được ưa chuộng và đã vượt qua tiếng đức tại một số trường thật ra tiếng đức là ngoại ngữ đầu tiên tại thụy điển cho đến năm 1950 cũng như trong phần còn lại của bắc âu === tôn giáo === giáo hội thụy điển một giáo hội lutheran đã là giáo hội quốc gia từ 1527 cho đến 1999 tỉ lệ thành viên của giáo hội trên tổng dân số suy giảm dần qua các năm từ 95 2% năm 1972 xuống còn 67 5% năm 2012 và 61 5% vào năm 2016 số người của nhóm lớn thứ nhì những người theo hồi giáo rất khó được đoán chính xác sự hiện diện của những người hồi giáo ở thụy điển vẫn còn yếu cho đến những năm 1960 khi thụy điển bắt đầu nhận được những người di cư từ vùng balkan và thổ nhĩ kỳ làn sóng nhập cư ồ ạt từ bắc phi và trung đông đã đưa dân số hồi giáo tại thụy điển tăng đáng kể ngày nay ước tính lên đến 600 000
Thụy Điển
Kỳ. Làn sóng nhập cư ồ ạt từ Bắc Phi và Trung Đông đã đưa dân số Hồi giáo tại Thụy Điển tăng đáng kể, ngày nay ước tính lên đến 600.000 người . Công giáo Rôma có vào khoảng 150.000 người và Chính thống giáo Đông phương khoảng 100.000 người. Bên cạnh đó tại Thụy Điển có khoảng 23.000 người của Nhân chứng Jehova, 20.000 người là tín đồ Phật giáo và vào khoảng 10.000 người theo Do Thái giáo. Theo cuộc thăm dò ý kiến Eurobarometer vào năm 2010: BULLET::::- 18% công dân Thụy Điển trả lời rằng họ tin Thượng đế là có thật BULLET::::- 45% trả lời rằng họ tin có một dạng thế lực tâm linh nào đó. BULLET::::- 34% còn lại tin rằng không có bất kỳ vị thần linh, thượng đế nào. === Nhập cư. === Nhập cư đã và đang là nguồn tăng trưởng dân số và thay đổi văn hóa quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử Thụy Điển, và trong nhiều thế kỷ gần đây, Thụy Điển từ một quốc gia di cư ròng sau Thế chiến thứ nhất đã trở thành một quốc gia nhập cư ròng kể từ Thế chiến II trở đi. Các khía cạnh về kinh tế, xã hội và chính trị của vấn đề nhập cư đã gây ra rất nhiều tranh cãi . Trong năm 2016, ước tính 2.320.302 cư dân Thụy Điển có nguồn gốc nước ngoài, chiếm khoảng 23% dân số Thụy Điển . Số người dân Thụy Điển có cha mẹ là người
kỳ làn sóng nhập cư ồ ạt từ bắc phi và trung đông đã đưa dân số hồi giáo tại thụy điển tăng đáng kể ngày nay ước tính lên đến 600 000 người công giáo rôma có vào khoảng 150 000 người và chính thống giáo đông phương khoảng 100 000 người bên cạnh đó tại thụy điển có khoảng 23 000 người của nhân chứng jehova 20 000 người là tín đồ phật giáo và vào khoảng 10 000 người theo do thái giáo theo cuộc thăm dò ý kiến eurobarometer vào năm 2010 bullet 18% công dân thụy điển trả lời rằng họ tin thượng đế là có thật bullet 45% trả lời rằng họ tin có một dạng thế lực tâm linh nào đó bullet 34% còn lại tin rằng không có bất kỳ vị thần linh thượng đế nào === nhập cư === nhập cư đã và đang là nguồn tăng trưởng dân số và thay đổi văn hóa quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử thụy điển và trong nhiều thế kỷ gần đây thụy điển từ một quốc gia di cư ròng sau thế chiến thứ nhất đã trở thành một quốc gia nhập cư ròng kể từ thế chiến ii trở đi các khía cạnh về kinh tế xã hội và chính trị của vấn đề nhập cư đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong năm 2016 ước tính 2 320 302 cư dân thụy điển có nguồn gốc nước ngoài chiếm khoảng 23% dân số thụy điển số người dân thụy điển có cha mẹ là người
Thụy Điển
năm 2016, ước tính 2.320.302 cư dân Thụy Điển có nguồn gốc nước ngoài, chiếm khoảng 23% dân số Thụy Điển . Số người dân Thụy Điển có cha mẹ là người nước ngoài lên tới 3.060.115 người, chiếm 30% dân số cả nước . Trong số những người này, 1.784.497 người hiện sống ở Thụy Điển nhưng được sinh ra ở nước ngoài. Ngoài ra, 535.805 người được sinh ra ở Thụy Điển nhưng có cả cha và mẹ sinh ra ở nước ngoài và 739,813 người khác có một trong hai người cha hoặc mẹ sinh ra ở nước ngoài (còn người còn lại sinh ra ở Thụy Điển) . Theo Eurostat, trong năm 2010, đã có 1,33 triệu người Thụy Điển được sinh ra ở nước ngoài, tương ứng với 14,3% tổng dân số. Trong số này, 859.000 (9,2%) được sinh ra ở các nước ngoài EU và 477,000 (5,1%) được sinh ra ở một nước thành viên EU khác . Năm 2009, số người nhập cư đạt mức kỷ lục, với 102.280 người đã di cư đến Thụy Điển chỉ riêng trong năm này . Người nhập cư ở Thụy Điển chủ yếu tập trung trong các khu vực đô thị ở Svealand và Götaland. Từ đầu những năm 1970, những người nhập cư vào Thụy Điển chủ yếu là dân tị nạn và những người tới Thụy Điển để đoàn tụ với gia đình từ các nước Trung Đông và châu Mỹ Latinh . Mười nhóm di dân nước ngoài lớn nhất trong sổ
năm 2016 ước tính 2 320 302 cư dân thụy điển có nguồn gốc nước ngoài chiếm khoảng 23% dân số thụy điển số người dân thụy điển có cha mẹ là người nước ngoài lên tới 3 060 115 người chiếm 30% dân số cả nước trong số những người này 1 784 497 người hiện sống ở thụy điển nhưng được sinh ra ở nước ngoài ngoài ra 535 805 người được sinh ra ở thụy điển nhưng có cả cha và mẹ sinh ra ở nước ngoài và 739 813 người khác có một trong hai người cha hoặc mẹ sinh ra ở nước ngoài còn người còn lại sinh ra ở thụy điển theo eurostat trong năm 2010 đã có 1 33 triệu người thụy điển được sinh ra ở nước ngoài tương ứng với 14 3% tổng dân số trong số này 859 000 9 2% được sinh ra ở các nước ngoài eu và 477 000 5 1% được sinh ra ở một nước thành viên eu khác năm 2009 số người nhập cư đạt mức kỷ lục với 102 280 người đã di cư đến thụy điển chỉ riêng trong năm này người nhập cư ở thụy điển chủ yếu tập trung trong các khu vực đô thị ở svealand và götaland từ đầu những năm 1970 những người nhập cư vào thụy điển chủ yếu là dân tị nạn và những người tới thụy điển để đoàn tụ với gia đình từ các nước trung đông và châu mỹ latinh mười nhóm di dân nước ngoài lớn nhất trong sổ
Thụy Điển
nạn và những người tới Thụy Điển để đoàn tụ với gia đình từ các nước Trung Đông và châu Mỹ Latinh . Mười nhóm di dân nước ngoài lớn nhất trong sổ đăng ký dân sự Thụy Điển năm 2016 tới từ các nước sau: BULLET::::1. (153,620) BULLET::::2. (149,418) BULLET::::3. (135,129) BULLET::::4. (88,704) BULLET::::5. (70,637) BULLET::::6. (66,539) BULLET::::7. (63,853) BULLET::::8. (58,181) BULLET::::9. (50,189) === Tội phạm. === Các số liệu từ Khảo sát Tội phạm Thụy Điển (SCS) năm 2013 cho thấy tỉ lệ tội phạm nhìn chung đã giảm trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2013. Kể từ năm 2014 đã có tình trạng gia tăng ở một số loại tội phạm, bao gồm gian lận thuế, một số tội phạm liên quan đến tài sản và đặc biệt là tội phạm tình dục (vào năm 2016 tỉ lệ tội phạm tình dục đã tăng 70% so với năm 2013). Mức độ tham nhũng ở Thụy Điển là rất thấp . Hệ thống pháp lý và thể chế ở Thụy Điển được coi là có hiệu quả trong việc chống tham nhũng, và đặc trưng của các cơ quan chính phủ tại Thụy Điển là mức độ minh bạch, liêm chính và trách nhiệm cao . Tỷ lệ giết người ở Thụy Điển là khá thấp, với khoảng 1.14 vụ giết người trên 100.000 dân vào năm 2015. Số vụ "bạo lực chết người được xác nhận" đã dao động giữa 68 và 112 vụ trong giai đoạn 2006-2015, giảm từ 111 vụ năm 2007 xuống còn 68 vụ vào năm 2012, tiếp theo là
nạn và những người tới thụy điển để đoàn tụ với gia đình từ các nước trung đông và châu mỹ latinh mười nhóm di dân nước ngoài lớn nhất trong sổ đăng ký dân sự thụy điển năm 2016 tới từ các nước sau bullet 1 153 620 bullet 2 149 418 bullet 3 135 129 bullet 4 88 704 bullet 5 70 637 bullet 6 66 539 bullet 7 63 853 bullet 8 58 181 bullet 9 50 189 === tội phạm === các số liệu từ khảo sát tội phạm thụy điển scs năm 2013 cho thấy tỉ lệ tội phạm nhìn chung đã giảm trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2013 kể từ năm 2014 đã có tình trạng gia tăng ở một số loại tội phạm bao gồm gian lận thuế một số tội phạm liên quan đến tài sản và đặc biệt là tội phạm tình dục vào năm 2016 tỉ lệ tội phạm tình dục đã tăng 70% so với năm 2013 mức độ tham nhũng ở thụy điển là rất thấp hệ thống pháp lý và thể chế ở thụy điển được coi là có hiệu quả trong việc chống tham nhũng và đặc trưng của các cơ quan chính phủ tại thụy điển là mức độ minh bạch liêm chính và trách nhiệm cao tỷ lệ giết người ở thụy điển là khá thấp với khoảng 1 14 vụ giết người trên 100 000 dân vào năm 2015 số vụ bạo lực chết người được xác nhận đã dao động giữa 68 và 112 vụ trong giai đoạn 2006-2015 giảm từ 111 vụ năm 2007 xuống còn 68 vụ vào năm 2012 tiếp theo là
Thụy Điển
người được xác nhận" đã dao động giữa 68 và 112 vụ trong giai đoạn 2006-2015, giảm từ 111 vụ năm 2007 xuống còn 68 vụ vào năm 2012, tiếp theo là tăng lên 112 vụ vào năm 2015 và giảm xuống 106 vụ vào năm 2016 . Các nghiên cứu về những vụ bạo lực gây chết người ở Thụy Điển đã chỉ ra rằng hơn một nửa các vụ án được báo cáo không thực sự là những vụ giết người hay ngộ sát. Nhiều vụ án giết người được báo cáo trên thực tế là những vụ tự tử, tai nạn hoặc tử vong tự nhiên . Tuy vậy tỉ lệ những vụ bạo lực liên quan đến súng đạn ở Thụy Điển là cao hơn đáng kể so với nhiều nước Tây Âu khác . Theo SCS năm 2016, 1,7% số người Thụy Điển được hỏi đã trả lời rằng họ là nạn nhân của hành vi bạo lực tình dục. Con số này tăng hơn 100% so với năm 2012 và 70% so với năm 2014. Nạn nhân của tội phạm tình dục thường là phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới, và phổ biến nhất trong khung tuổi 20-24. Tội phạm tình dục xảy ra phổ biến nhất ở nơi công cộng và trong hầu hết các trường hợp, thủ phạm không hề quen biết với nạn nhân . Trong năm 2014, đã có 6,697 vụ hiếp dâm tại Thụy Điển được báo cáo cho cảnh sát nước
người được xác nhận đã dao động giữa 68 và 112 vụ trong giai đoạn 2006-2015 giảm từ 111 vụ năm 2007 xuống còn 68 vụ vào năm 2012 tiếp theo là tăng lên 112 vụ vào năm 2015 và giảm xuống 106 vụ vào năm 2016 các nghiên cứu về những vụ bạo lực gây chết người ở thụy điển đã chỉ ra rằng hơn một nửa các vụ án được báo cáo không thực sự là những vụ giết người hay ngộ sát nhiều vụ án giết người được báo cáo trên thực tế là những vụ tự tử tai nạn hoặc tử vong tự nhiên tuy vậy tỉ lệ những vụ bạo lực liên quan đến súng đạn ở thụy điển là cao hơn đáng kể so với nhiều nước tây âu khác theo scs năm 2016 1 7% số người thụy điển được hỏi đã trả lời rằng họ là nạn nhân của hành vi bạo lực tình dục con số này tăng hơn 100% so với năm 2012 và 70% so với năm 2014 nạn nhân của tội phạm tình dục thường là phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới và phổ biến nhất trong khung tuổi 20-24 tội phạm tình dục xảy ra phổ biến nhất ở nơi công cộng và trong hầu hết các trường hợp thủ phạm không hề quen biết với nạn nhân trong năm 2014 đã có 6 697 vụ hiếp dâm tại thụy điển được báo cáo cho cảnh sát nước
Thụy Điển
các trường hợp, thủ phạm không hề quen biết với nạn nhân . Trong năm 2014, đã có 6,697 vụ hiếp dâm tại Thụy Điển được báo cáo cho cảnh sát nước này, tỉ lệ là 69 vụ trên 100.000 dân, theo Hội đồng Quốc gia Thụy Điển về Phòng chống tội phạm (BRÅ), tăng 11% so với năm 2013 . Trong năm 2016, tổng số vụ hiếp dâm được báo cáo đã tăng lên 6.715 vụ . Vào tháng 8 năm 2018, SVT báo cáo rằng thống kê hiếp dâm ở Thụy Điển cho thấy 58% nam giới bị kết án hiếp dâm trong 5 năm qua được sinh ra ngoài Liên minh châu Âu, phần lớn là dân nhập cư từ các nước Nam Phi, Bắc Phi, Ả Rập, Trung Đông và Afghanistan . Những con số chính thức cho thấy tỷ lệ tội phạm tình dục tại Thụy Điển đang tiếp tục có dấu hiệu gia tăng . === Giáo dục. === Trẻ em từ 1-5 tuổi ở Thụy Điển được đảm bảo theo học tại các trường mẫu giáo công lập ("förskola"). Giáo dục tại trường học là bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 đến 16 tuổi. Sau khi hoàn thành lớp 9, khoảng 90% học sinh tại Thụy Điển tiếp tục theo học tại một trường trung học trong vòng ba năm. Hệ thống trường học tại Thụy Điển phần lớn được tài trợ bởi các loại thuế. Chính phủ Thụy Điển đảm bảo sự đối xử công bằng cho cả
các trường hợp thủ phạm không hề quen biết với nạn nhân trong năm 2014 đã có 6 697 vụ hiếp dâm tại thụy điển được báo cáo cho cảnh sát nước này tỉ lệ là 69 vụ trên 100 000 dân theo hội đồng quốc gia thụy điển về phòng chống tội phạm brå tăng 11% so với năm 2013 trong năm 2016 tổng số vụ hiếp dâm được báo cáo đã tăng lên 6 715 vụ vào tháng 8 năm 2018 svt báo cáo rằng thống kê hiếp dâm ở thụy điển cho thấy 58% nam giới bị kết án hiếp dâm trong 5 năm qua được sinh ra ngoài liên minh châu âu phần lớn là dân nhập cư từ các nước nam phi bắc phi ả rập trung đông và afghanistan những con số chính thức cho thấy tỷ lệ tội phạm tình dục tại thụy điển đang tiếp tục có dấu hiệu gia tăng === giáo dục === trẻ em từ 1-5 tuổi ở thụy điển được đảm bảo theo học tại các trường mẫu giáo công lập förskola giáo dục tại trường học là bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 đến 16 tuổi sau khi hoàn thành lớp 9 khoảng 90% học sinh tại thụy điển tiếp tục theo học tại một trường trung học trong vòng ba năm hệ thống trường học tại thụy điển phần lớn được tài trợ bởi các loại thuế chính phủ thụy điển đảm bảo sự đối xử công bằng cho cả
Thụy Điển
trong vòng ba năm. Hệ thống trường học tại Thụy Điển phần lớn được tài trợ bởi các loại thuế. Chính phủ Thụy Điển đảm bảo sự đối xử công bằng cho cả trường công lập cũng như trường tư thục . Bất cứ ai cũng có thể thành lập một trường học nhằm mục đích thu lợi nhuận và các khu vực đô thị phải cấp cho các trường tư thục một số tiền tương đương với số tiền mà các trường thuộc sở hữu của chính quyền thành phố nhận được. Bữa ăn trưa ở trường cho học sinh là miễn phí tại tất cả các trường học ở Thụy Điển, và việc cung cấp bữa sáng miễn phí cũng được khuyến khích . Có một số trường đại học và cao đẳng khác nhau ở Thụy Điển, lâu đời nhất và lớn nhất trong số đó nằm ở các thành phố Uppsala, Lund, Gothenburg và Stockholm. Năm 2000, 32% người Thụy Điển có bằng đại học, đưng thứ 5 trong các nước OECD . Cùng với một số quốc gia châu Âu khác, chính phủ Thụy Điển cũng trợ cấp học phí cho các sinh viên quốc tế theo học tại các học viện ở Thụy Điển, mặc dù một dự luật gần đây được thông qua tại Riksdag sẽ hạn chế khoản rợ cấp này cho sinh viên đến từ các nước EEA và Thụy Sĩ . Sự gia tăng của dòng người nhập cư vào Thụy Điển là nguyên nhân chính khiến cho Thụy
trong vòng ba năm hệ thống trường học tại thụy điển phần lớn được tài trợ bởi các loại thuế chính phủ thụy điển đảm bảo sự đối xử công bằng cho cả trường công lập cũng như trường tư thục bất cứ ai cũng có thể thành lập một trường học nhằm mục đích thu lợi nhuận và các khu vực đô thị phải cấp cho các trường tư thục một số tiền tương đương với số tiền mà các trường thuộc sở hữu của chính quyền thành phố nhận được bữa ăn trưa ở trường cho học sinh là miễn phí tại tất cả các trường học ở thụy điển và việc cung cấp bữa sáng miễn phí cũng được khuyến khích có một số trường đại học và cao đẳng khác nhau ở thụy điển lâu đời nhất và lớn nhất trong số đó nằm ở các thành phố uppsala lund gothenburg và stockholm năm 2000 32% người thụy điển có bằng đại học đưng thứ 5 trong các nước oecd cùng với một số quốc gia châu âu khác chính phủ thụy điển cũng trợ cấp học phí cho các sinh viên quốc tế theo học tại các học viện ở thụy điển mặc dù một dự luật gần đây được thông qua tại riksdag sẽ hạn chế khoản rợ cấp này cho sinh viên đến từ các nước eea và thụy sĩ sự gia tăng của dòng người nhập cư vào thụy điển là nguyên nhân chính khiến cho thụy
Thụy Điển
rợ cấp này cho sinh viên đến từ các nước EEA và Thụy Sĩ . Sự gia tăng của dòng người nhập cư vào Thụy Điển là nguyên nhân chính khiến cho Thụy Điển tụt hạng liên tục trong bảng xếp hạng PISA (Chương trình đánh giá học sinh quốc tế) . === Y tế. === Hệ thống chăm sóc sức khỏe Thụy Điển chủ yếu là do chính phủ tài trợ, mặc dù chăm sóc sức khỏe tư nhân cũng tồn tại. Nguồn kinh phí dành cho hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển chủ yếu là thông qua các loại thuế. Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển có chất lượng rất cao, tương đương với các quốc gia phát triển khác. Thụy Điển nằm trong top 5 quốc gia có tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới. Tuổi thọ trung bình của người dân Thụy Điển cũng thuộc top đầu thế giới. Nước uống ở Thụy Điển cũng được cho là an toàn bậc nhất thế giới. Theo bảng xếp hạng của EHCI về những quốc gia có dịch vụ y tế tốt nhất ở châu Âu năm 2016, Thụy Điển xếp ở vị trí thứ 12 . === Cuộc sống xã hội. === "Mô hình Thụy Điển", một khái niệm của thập niên 1970, ám chỉ hệ thống phúc lợi xã hội, một hệ thống phúc lợi và chăm lo xã hội rộng khắp, là kết quả của sự phát triển hằng trăm năm. Trong thời gian từ năm
rợ cấp này cho sinh viên đến từ các nước eea và thụy sĩ sự gia tăng của dòng người nhập cư vào thụy điển là nguyên nhân chính khiến cho thụy điển tụt hạng liên tục trong bảng xếp hạng pisa chương trình đánh giá học sinh quốc tế === y tế === hệ thống chăm sóc sức khỏe thụy điển chủ yếu là do chính phủ tài trợ mặc dù chăm sóc sức khỏe tư nhân cũng tồn tại nguồn kinh phí dành cho hệ thống chăm sóc sức khỏe ở thụy điển chủ yếu là thông qua các loại thuế hệ thống chăm sóc sức khỏe ở thụy điển có chất lượng rất cao tương đương với các quốc gia phát triển khác thụy điển nằm trong top 5 quốc gia có tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới tuổi thọ trung bình của người dân thụy điển cũng thuộc top đầu thế giới nước uống ở thụy điển cũng được cho là an toàn bậc nhất thế giới theo bảng xếp hạng của ehci về những quốc gia có dịch vụ y tế tốt nhất ở châu âu năm 2016 thụy điển xếp ở vị trí thứ 12 === cuộc sống xã hội === mô hình thụy điển một khái niệm của thập niên 1970 ám chỉ hệ thống phúc lợi xã hội một hệ thống phúc lợi và chăm lo xã hội rộng khắp là kết quả của sự phát triển hằng trăm năm trong thời gian từ năm
Thụy Điển
thống phúc lợi xã hội, một hệ thống phúc lợi và chăm lo xã hội rộng khắp, là kết quả của sự phát triển hằng trăm năm. Trong thời gian từ năm 1890 đến 1930 một phần cơ sở cho một hệ thống phúc lợi xã hội đã thành hình, nhưng mãi đến những năm của thập niên 1930, đặc biệt là từ khi Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Thụy Điển thành lập chính phủ năm 1932, việc xây dựng một quốc gia phúc lợi xã hội mới trở thành một dự án chính trị và được đẩy mạnh. Hệ thống phúc lợi xã hội Thụy Điển cuối cùng đã bao gồm tất cả mọi người từ trẻ em (thông qua hệ thống chăm sóc trẻ em của làng xã) cho đến những người về hưu (thông qua hệ thống chăm sóc người già của làng xã). Mãi đến thập niên vừa qua mới có những thay đổi lớn. Một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng đầu thập niên 1990 đã dẫn đến việc cắt giảm các phúc lợi xã hội và sự phát triển nhân khẩu như đã dự đoán đã buộc phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống hưu trí, hệ thống mà từ nay được gắn liền vào phát triển kinh tế. Thế nhưng các cuộc bầu cử vừa qua đã cho thấy là chính những phần cốt lõi của hệ thống phúc lợi xã hội rất được người công dân yêu mến. == Khoa học và kỹ thuật. == Trong thế
thống phúc lợi xã hội một hệ thống phúc lợi và chăm lo xã hội rộng khắp là kết quả của sự phát triển hằng trăm năm trong thời gian từ năm 1890 đến 1930 một phần cơ sở cho một hệ thống phúc lợi xã hội đã thành hình nhưng mãi đến những năm của thập niên 1930 đặc biệt là từ khi đảng công nhân dân chủ xã hội thụy điển thành lập chính phủ năm 1932 việc xây dựng một quốc gia phúc lợi xã hội mới trở thành một dự án chính trị và được đẩy mạnh hệ thống phúc lợi xã hội thụy điển cuối cùng đã bao gồm tất cả mọi người từ trẻ em thông qua hệ thống chăm sóc trẻ em của làng xã cho đến những người về hưu thông qua hệ thống chăm sóc người già của làng xã mãi đến thập niên vừa qua mới có những thay đổi lớn một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng đầu thập niên 1990 đã dẫn đến việc cắt giảm các phúc lợi xã hội và sự phát triển nhân khẩu như đã dự đoán đã buộc phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống hưu trí hệ thống mà từ nay được gắn liền vào phát triển kinh tế thế nhưng các cuộc bầu cử vừa qua đã cho thấy là chính những phần cốt lõi của hệ thống phúc lợi xã hội rất được người công dân yêu mến == khoa học và kỹ thuật == trong thế
Thụy Điển
vừa qua đã cho thấy là chính những phần cốt lõi của hệ thống phúc lợi xã hội rất được người công dân yêu mến. == Khoa học và kỹ thuật. == Trong thế kỷ 18, cuộc cách mạng khoa học của Thụy Điển đã diễn ra. Năm 1739, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển được thành lập, với những cá nhân kiệt xuất như Carl Linnaeus và Anders Celsius (người phát minh ra Nhiệt kế Celsius) là thành viên ban đầu. Nhiều công ty được thành lập bởi những người tiên phong đầu tiên cho đến nay vẫn là những thương hiệu quốc tế lớn. Nhà vật lý Thụy Điển Gustaf Dalén là người đã thành lập nên công ty AGA và nhận giải Nobel Vật lý cho phát minh ra van mặt trời của mình. Nhà hóa học Thụy Điển Alfred Nobel là người đã phát minh ra thuốc nổ và là người sáng lập nên giải Nobel. Nhà phát minh Thụy Điển Lars Magnus Ericsson đã thành lập công ty mang tên của mình, Ericsson, đến nay đây vẫn là một trong những công ty viễn thông lớn nhất thế giới. Nhà vật lý Thụy Điển Jonas Wenström là người tiên phong đầu tiên trong những nghiên cứu về dòng điện xoay chiều và cùng với nhà phát minh người Serbia Nikola Tesla, ông được công nhận là một trong những người đã phát minh ra hệ thống điện ba pha. Tetra Pak là một phát minh dùng để lưu trữ thực
vừa qua đã cho thấy là chính những phần cốt lõi của hệ thống phúc lợi xã hội rất được người công dân yêu mến == khoa học và kỹ thuật == trong thế kỷ 18 cuộc cách mạng khoa học của thụy điển đã diễn ra năm 1739 viện hàn lâm khoa học hoàng gia thụy điển được thành lập với những cá nhân kiệt xuất như carl linnaeus và anders celsius người phát minh ra nhiệt kế celsius là thành viên ban đầu nhiều công ty được thành lập bởi những người tiên phong đầu tiên cho đến nay vẫn là những thương hiệu quốc tế lớn nhà vật lý thụy điển gustaf dalén là người đã thành lập nên công ty aga và nhận giải nobel vật lý cho phát minh ra van mặt trời của mình nhà hóa học thụy điển alfred nobel là người đã phát minh ra thuốc nổ và là người sáng lập nên giải nobel nhà phát minh thụy điển lars magnus ericsson đã thành lập công ty mang tên của mình ericsson đến nay đây vẫn là một trong những công ty viễn thông lớn nhất thế giới nhà vật lý thụy điển jonas wenström là người tiên phong đầu tiên trong những nghiên cứu về dòng điện xoay chiều và cùng với nhà phát minh người serbia nikola tesla ông được công nhận là một trong những người đã phát minh ra hệ thống điện ba pha tetra pak là một phát minh dùng để lưu trữ thực
Thụy Điển
Serbia Nikola Tesla, ông được công nhận là một trong những người đã phát minh ra hệ thống điện ba pha. Tetra Pak là một phát minh dùng để lưu trữ thực phẩm lỏng, được phát minh bởi Erik Wallenberg. Omeprazole, một loại thuốc chữa bệnh loét dạ dày, là loại thuốc bán chạy nhất thế giới trong những năm 1990 và được phát triển bởi công ty Thụy Điển AstraZeneca. Gần đây hơn, Håkan Lans là người đã phát minh ra Hệ thống nhận dạng tự động (AIS). Các nhà phát minh Thụy Điển đang nắm giữ 47.112 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ vào năm 2014, theo Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ. Chỉ có mười quốc gia khác trên thế giới nắm giữ nhiều bằng sáng chế hơn Thụy Điển . Theo tỷ lệ phần trăm GDP, chính phủ Thụy Điển phân bổ nguồn lực dành cho nghiên cứu và phát triển nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới . Thụy Điển đứng đầu châu Âu về số lượng các sản phẩm khoa học được công bố tính theo bình quân đầu người . Trong năm 2009, các quyết định về việc xây dựng hai cơ sở khoa học lớn nhất của Thụy Điển, các cơ sở bức xạ synchrotron MAX IV và European Spallation Source, đã được thông qua .Cả hai cơ sở đều sẽ được xây dựng tại Lund. European Spallation Source, tốn 14 tỷ SEK để xây dựng , sẽ bắt đầu hoạt động vào năm
serbia nikola tesla ông được công nhận là một trong những người đã phát minh ra hệ thống điện ba pha tetra pak là một phát minh dùng để lưu trữ thực phẩm lỏng được phát minh bởi erik wallenberg omeprazole một loại thuốc chữa bệnh loét dạ dày là loại thuốc bán chạy nhất thế giới trong những năm 1990 và được phát triển bởi công ty thụy điển astrazeneca gần đây hơn håkan lans là người đã phát minh ra hệ thống nhận dạng tự động ais các nhà phát minh thụy điển đang nắm giữ 47 112 bằng sáng chế tại hoa kỳ vào năm 2014 theo văn phòng sáng chế và nhãn hiệu hoa kỳ chỉ có mười quốc gia khác trên thế giới nắm giữ nhiều bằng sáng chế hơn thụy điển theo tỷ lệ phần trăm gdp chính phủ thụy điển phân bổ nguồn lực dành cho nghiên cứu và phát triển nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới thụy điển đứng đầu châu âu về số lượng các sản phẩm khoa học được công bố tính theo bình quân đầu người trong năm 2009 các quyết định về việc xây dựng hai cơ sở khoa học lớn nhất của thụy điển các cơ sở bức xạ synchrotron max iv và european spallation source đã được thông qua cả hai cơ sở đều sẽ được xây dựng tại lund european spallation source tốn 14 tỷ sek để xây dựng sẽ bắt đầu hoạt động vào năm
Thụy Điển
được thông qua .Cả hai cơ sở đều sẽ được xây dựng tại Lund. European Spallation Source, tốn 14 tỷ SEK để xây dựng , sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2019 và sẽ cung cấp chùm tia neutron mạnh hơn khoảng 30 lần so với bất kỳ hệ thống cung cấp neutron nào hiện nay.. MAX IV, chi phí khoảng 3 tỷ SEK, đi vào hoạt động từ năm 2015. Cả hai cơ sở này đều có ý nghĩa lớn đối với nghiên cứu vật chất. == Văn hoá. == === Văn học. === Vào đầu Phong trào Cải cách nền tảng cho một tiếng Thụy Điển thống nhất bắt đầu hình thành. Văn học mang tính chất tôn giáo chiếm lĩnh ưu thế trong suốt thời kỳ này. Vào năm 1732 số đầu tiên của tờ tuần báo đầu tiên, "Then swänska Argus", được phát hành. Olof Dalin, người phát hành tờ tuần báo này, chủ yếu hướng về giới bạn đọc là người thường dân. Trong những người cùng thời với Dalin nổi bật nhất là bà Hedvig Charlotta Nordenflycht. Thơ của bà một phần mang tính chất cá nhân và trữ tình, một phần khác mang dấu ấn của cuộc đấu tranh vì các quyền trí thức của phụ nữ. Erik Gustaf Geijer cũng như người sau ông là Esaias Tegnér là những người đại diện cho trường phái lãng mạn quốc gia trong Thời kỳ Lãng mạn. Với bài thơ "Vikingen" Geijer đã đưa hình tượng của người Viking đi vào văn học. Cũng trong
được thông qua cả hai cơ sở đều sẽ được xây dựng tại lund european spallation source tốn 14 tỷ sek để xây dựng sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2019 và sẽ cung cấp chùm tia neutron mạnh hơn khoảng 30 lần so với bất kỳ hệ thống cung cấp neutron nào hiện nay max iv chi phí khoảng 3 tỷ sek đi vào hoạt động từ năm 2015 cả hai cơ sở này đều có ý nghĩa lớn đối với nghiên cứu vật chất == văn hoá == === văn học === vào đầu phong trào cải cách nền tảng cho một tiếng thụy điển thống nhất bắt đầu hình thành văn học mang tính chất tôn giáo chiếm lĩnh ưu thế trong suốt thời kỳ này vào năm 1732 số đầu tiên của tờ tuần báo đầu tiên then swänska argus được phát hành olof dalin người phát hành tờ tuần báo này chủ yếu hướng về giới bạn đọc là người thường dân trong những người cùng thời với dalin nổi bật nhất là bà hedvig charlotta nordenflycht thơ của bà một phần mang tính chất cá nhân và trữ tình một phần khác mang dấu ấn của cuộc đấu tranh vì các quyền trí thức của phụ nữ erik gustaf geijer cũng như người sau ông là esaias tegnér là những người đại diện cho trường phái lãng mạn quốc gia trong thời kỳ lãng mạn với bài thơ vikingen geijer đã đưa hình tượng của người viking đi vào văn học cũng trong
Thụy Điển
đại diện cho trường phái lãng mạn quốc gia trong Thời kỳ Lãng mạn. Với bài thơ "Vikingen" Geijer đã đưa hình tượng của người Viking đi vào văn học. Cũng trong thời kỳ này các tiểu thuyết đầu tiên bắt đầu được phát hành, đáng kể nhất là Carl Jonas Love Almqvist với quyển tiểu thuyết "Drottningens juvelsmycke" (Châu báu của hoàng hậu). August Strindberg và Selma Lagerlöf là hai nhà văn nổi bật nhất trong thời gian từ cuối thế kỷ XIX cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất. Với hai tác phẩm "Fadren" (Cha) năm 1887 và "Fröken Julie" (Người con gái tên Julie) Strindberg đã đạt đến giới bạn đọc quốc tế. Người đoạt giải Nobel Selma Lagerhöf bắt đầu được giới công khai biết đến qua quyển tiểu thuyết "Gösta Berlings saga". Nền văn học sau năm 1914 hướng về các đề tài xã hội nhiều hơn thời gian trước đó. Sigfrid Siwertz, Elin Wägner và Hjalmar Bergman miêu tả đất nước Thụy Điển đương thời trong thời gian chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp. Thời kỳ Hiện đại trong văn học Thụy Điển bắt đầu trong những thập niên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giữa những năm 1960 bắt đầu có một cuộc đổi hướng trong văn học Thụy Điển. Nhận thức mới về chính trị thế giới đòi hỏi một nền văn học phê bình xã hội. Per Olov Enquist viết quyển tiểu thuyết mang tính chất tài liệu về việc trục xuất
đại diện cho trường phái lãng mạn quốc gia trong thời kỳ lãng mạn với bài thơ vikingen geijer đã đưa hình tượng của người viking đi vào văn học cũng trong thời kỳ này các tiểu thuyết đầu tiên bắt đầu được phát hành đáng kể nhất là carl jonas love almqvist với quyển tiểu thuyết drottningens juvelsmycke châu báu của hoàng hậu august strindberg và selma lagerlöf là hai nhà văn nổi bật nhất trong thời gian từ cuối thế kỷ xix cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất với hai tác phẩm fadren cha năm 1887 và fröken julie người con gái tên julie strindberg đã đạt đến giới bạn đọc quốc tế người đoạt giải nobel selma lagerhöf bắt đầu được giới công khai biết đến qua quyển tiểu thuyết gösta berlings saga nền văn học sau năm 1914 hướng về các đề tài xã hội nhiều hơn thời gian trước đó sigfrid siwertz elin wägner và hjalmar bergman miêu tả đất nước thụy điển đương thời trong thời gian chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp thời kỳ hiện đại trong văn học thụy điển bắt đầu trong những thập niên sau chiến tranh thế giới thứ hai giữa những năm 1960 bắt đầu có một cuộc đổi hướng trong văn học thụy điển nhận thức mới về chính trị thế giới đòi hỏi một nền văn học phê bình xã hội per olov enquist viết quyển tiểu thuyết mang tính chất tài liệu về việc trục xuất
Thụy Điển
mới về chính trị thế giới đòi hỏi một nền văn học phê bình xã hội. Per Olov Enquist viết quyển tiểu thuyết mang tính chất tài liệu về việc trục xuất những người Balt từ Thụy Điển về Liên bang Xô viết. Các nhà văn khác như Pär Westberg và Sara Lidman viết về tình trạng của thế giới bên ngoài. Trong những năm của thập kỷ 1970 văn học Thụy Điển trở về đề tài sử thi. Trong nhiều tác phẩm cùng chủ đề, từng vùng đất của Thụy Điển đã được miêu tả lại trong lúc chuyển đổi giữa cũ và mới. Lars Norén với bi kịch gia đình "Modet att döda" (Can đảm để giết người) năm 1980 đã trở thành nhà viết bi kịch nổi tiếng nhất của những thập niên kế tiếp. === Phim. === Vào khoảng năm 1910 Thụy Điển bắt đầu sản xuất phim thường xuyên. Chẳng bao lâu phim Thụy Điển đạt chất lượng đến một mức độ làm cho cả thế giới biết đến. Thế nhưng khi phim có âm thanh ra đời và kèm theo đó là việc tự giới hạn trong thị trường nhỏ nói tiếng Thụy Điển, phim Thụy Điển giảm sút xuống mức độ thấp về nghệ thuật. Mãi đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai phim Thụy Điển mới trải qua một cuộc đổi mới về chất lượng nghệ thuật. Trước tiên là trong thể loại phim tài liệu, thí dụ như phim "Con người trong thành phố" của Arne Sucksdorf đã
mới về chính trị thế giới đòi hỏi một nền văn học phê bình xã hội per olov enquist viết quyển tiểu thuyết mang tính chất tài liệu về việc trục xuất những người balt từ thụy điển về liên bang xô viết các nhà văn khác như pär westberg và sara lidman viết về tình trạng của thế giới bên ngoài trong những năm của thập kỷ 1970 văn học thụy điển trở về đề tài sử thi trong nhiều tác phẩm cùng chủ đề từng vùng đất của thụy điển đã được miêu tả lại trong lúc chuyển đổi giữa cũ và mới lars norén với bi kịch gia đình modet att döda can đảm để giết người năm 1980 đã trở thành nhà viết bi kịch nổi tiếng nhất của những thập niên kế tiếp === phim === vào khoảng năm 1910 thụy điển bắt đầu sản xuất phim thường xuyên chẳng bao lâu phim thụy điển đạt chất lượng đến một mức độ làm cho cả thế giới biết đến thế nhưng khi phim có âm thanh ra đời và kèm theo đó là việc tự giới hạn trong thị trường nhỏ nói tiếng thụy điển phim thụy điển giảm sút xuống mức độ thấp về nghệ thuật mãi đến sau chiến tranh thế giới thứ hai phim thụy điển mới trải qua một cuộc đổi mới về chất lượng nghệ thuật trước tiên là trong thể loại phim tài liệu thí dụ như phim con người trong thành phố của arne sucksdorf đã
Thụy Điển
qua một cuộc đổi mới về chất lượng nghệ thuật. Trước tiên là trong thể loại phim tài liệu, thí dụ như phim "Con người trong thành phố" của Arne Sucksdorf đã đoạt được giải thưởng Oscar. Thể loại phim thiếu niên và nhi đồng cũng đạt được sự quan tâm của thế giới. === Âm nhạc. === Năm 2007, với doanh thu hơn 800 triệu đô la, Thụy Điển là nước xuất khẩu âm nhạc lớn thứ ba trên thế giới, chỉ xếp sau Mỹ và Anh . ABBA là một trong những ban nhạc Thụy Điển nổi tiếng thế giới đầu tiên, và hiện nay vẫn nằm trong số những ban nhạc nổi tiếng nhất trên thế giới. Với ABBA, nền âm nhạc Thụy Điển bước vào một kỷ nguyên mới, khi mà nhạc pop Thụy Điển đạt được danh tiếng ở tầm quốc tế. Đã có nhiều ban nhạc của Thụy Điển đạt được thành công quốc tế kể từ đó, chẳng hạn như Roxette, Ace of Base, Europe, A-teens, The Cardigans, Robyn, The Hives và Soundtrack of Our Lives. Thụy Điển cũng là một đất nước có nền nhạc Metal phát triển cực kì mạnh mẽ với những cái tên đã quá quen thuộc với các rockfan trên toàn thế giới như Arch Enemy, In Flames,Dark Funeral, Dark Tranquillity hay Pain Of Salvation. Thụy Điển cũng là một trong những quốc gia thành công nhất tại cuộc thi Eurovision Song Contest, với tổng cộng sáu lần giành chiến thắng (1974, 1984, 1991, 1999, 2012 và
qua một cuộc đổi mới về chất lượng nghệ thuật trước tiên là trong thể loại phim tài liệu thí dụ như phim con người trong thành phố của arne sucksdorf đã đoạt được giải thưởng oscar thể loại phim thiếu niên và nhi đồng cũng đạt được sự quan tâm của thế giới === âm nhạc === năm 2007 với doanh thu hơn 800 triệu đô la thụy điển là nước xuất khẩu âm nhạc lớn thứ ba trên thế giới chỉ xếp sau mỹ và anh abba là một trong những ban nhạc thụy điển nổi tiếng thế giới đầu tiên và hiện nay vẫn nằm trong số những ban nhạc nổi tiếng nhất trên thế giới với abba nền âm nhạc thụy điển bước vào một kỷ nguyên mới khi mà nhạc pop thụy điển đạt được danh tiếng ở tầm quốc tế đã có nhiều ban nhạc của thụy điển đạt được thành công quốc tế kể từ đó chẳng hạn như roxette ace of base europe a-teens the cardigans robyn the hives và soundtrack of our lives thụy điển cũng là một đất nước có nền nhạc metal phát triển cực kì mạnh mẽ với những cái tên đã quá quen thuộc với các rockfan trên toàn thế giới như arch enemy in flames dark funeral dark tranquillity hay pain of salvation thụy điển cũng là một trong những quốc gia thành công nhất tại cuộc thi eurovision song contest với tổng cộng sáu lần giành chiến thắng 1974 1984 1991 1999 2012 và
Thụy Điển
Salvation. Thụy Điển cũng là một trong những quốc gia thành công nhất tại cuộc thi Eurovision Song Contest, với tổng cộng sáu lần giành chiến thắng (1974, 1984, 1991, 1999, 2012 và 2015), chỉ xếp sau Ireland với bảy lần chiến thắng. === Các lễ hội và phong tục tập quán đặc trưng. === Ngày 6 tháng 1 là ngày lễ Trettondedag jul (lễ Ba Vua còn gọi là lễ Hiển Linh), đây là ngày lễ quốc gia tại Thụy Điển chủ yếu theo đạo Tin Lành. Vào ngày 13 tháng 1, Tjugondedag jul (còn gọi là Tjugondag jul hay Knut), mùa Giáng Sinh chấm dứt. Thỉnh thoảng có lễ hội cuối cùng, nến và các vật trang hoàng được tháo gỡ xuống và cây Nô en được mang ra ngoài. Valborgsmässoafton được chào mừng vào ngày 30 tháng 4. Người dân quay quanh các lửa trại lớn, có phát biểu chào mừng mùa Xuân và hát các bài ca về mùa Xuân. Đặc biệt ở tại Lund và Uppsala thì Valborg vào đêm trước ngày 1 tháng 5 là một lễ hội sinh viên quan trọng. Đúng 15 giờ tất cả mọi người đều đội mũ sinh viên lên là hát những bài ca sinh viên. Vào đêm đó thường người ta uống nhiều rượu. Ngày 6 tháng 6, Svenska flaggans dag, là ngày lễ quốc khánh của Thụy Điển. Đầu tiên là "Flaggentag" ("Ngày Quốc kỳ"), ra đời vào năm 1916, ngày 6 tháng 6 là lễ quốc khánh từ năm 1983 và từ năm 2005 cũng là ngày
salvation thụy điển cũng là một trong những quốc gia thành công nhất tại cuộc thi eurovision song contest với tổng cộng sáu lần giành chiến thắng 1974 1984 1991 1999 2012 và 2015 chỉ xếp sau ireland với bảy lần chiến thắng === các lễ hội và phong tục tập quán đặc trưng === ngày 6 tháng 1 là ngày lễ trettondedag jul lễ ba vua còn gọi là lễ hiển linh đây là ngày lễ quốc gia tại thụy điển chủ yếu theo đạo tin lành vào ngày 13 tháng 1 tjugondedag jul còn gọi là tjugondag jul hay knut mùa giáng sinh chấm dứt thỉnh thoảng có lễ hội cuối cùng nến và các vật trang hoàng được tháo gỡ xuống và cây nô en được mang ra ngoài valborgsmässoafton được chào mừng vào ngày 30 tháng 4 người dân quay quanh các lửa trại lớn có phát biểu chào mừng mùa xuân và hát các bài ca về mùa xuân đặc biệt ở tại lund và uppsala thì valborg vào đêm trước ngày 1 tháng 5 là một lễ hội sinh viên quan trọng đúng 15 giờ tất cả mọi người đều đội mũ sinh viên lên là hát những bài ca sinh viên vào đêm đó thường người ta uống nhiều rượu ngày 6 tháng 6 svenska flaggans dag là ngày lễ quốc khánh của thụy điển đầu tiên là flaggentag ngày quốc kỳ ra đời vào năm 1916 ngày 6 tháng 6 là lễ quốc khánh từ năm 1983 và từ năm 2005 cũng là ngày
Thụy Điển
Thụy Điển. Đầu tiên là "Flaggentag" ("Ngày Quốc kỳ"), ra đời vào năm 1916, ngày 6 tháng 6 là lễ quốc khánh từ năm 1983 và từ năm 2005 cũng là ngày lễ chính thức. Lễ hội giữa hè ("Midsommarfest") được mừng vào đêm rạng sáng ngày thứ Bảy đầu tiên sau ngày 21 tháng 6. Lễ hội này được ăn mừng lớn chỉ có thể so sánh được với lễ Giáng Sinh. Thụy Điển đẹp nhất vào đêm "midsommarafton" cuối tháng 6, khi ánh sáng mặt trời có thể nhìn thấy 24 tiếng liên tục ở miền Bắc và ở miền Nam chỉ có vài tiếng là hoàng hôn và rạng sáng. Ngày lễ này có truyền thống rất lâu đời và có nguồn gốc từ các lễ hội chào mừng mùa Hè từ thời kỳ Tiền Lịch sử. Trên khắp mọi nơi ở Thụy Điển người dân ca hát và nhảy múa chung quanh cây nêu tháng 5 được trang hoàng bằng cành cây và bông hoa, có lẽ là biểu tượng quốc gia Thụy Điển nổi tiếng nhất. Vào tháng 8 bắt đầu có tôm cua tươi đầu mùa ở chợ. Lễ hội chào mừng được gọi là Kräftskiva và được tổ chức không có thời điểm nhất định. Người dân ăn tôm cua luộc cho đến khi no và uống kèm theo đó là rượu mạnh. Tại miền Bắc Thụy Điển còn có Surströmmingsfest vào cuối mùa Hè. Việc ăn cá trích được ủ trước cùng với khoai tây hay với tunnbröd (một loại bánh
thụy điển đầu tiên là flaggentag ngày quốc kỳ ra đời vào năm 1916 ngày 6 tháng 6 là lễ quốc khánh từ năm 1983 và từ năm 2005 cũng là ngày lễ chính thức lễ hội giữa hè midsommarfest được mừng vào đêm rạng sáng ngày thứ bảy đầu tiên sau ngày 21 tháng 6 lễ hội này được ăn mừng lớn chỉ có thể so sánh được với lễ giáng sinh thụy điển đẹp nhất vào đêm midsommarafton cuối tháng 6 khi ánh sáng mặt trời có thể nhìn thấy 24 tiếng liên tục ở miền bắc và ở miền nam chỉ có vài tiếng là hoàng hôn và rạng sáng ngày lễ này có truyền thống rất lâu đời và có nguồn gốc từ các lễ hội chào mừng mùa hè từ thời kỳ tiền lịch sử trên khắp mọi nơi ở thụy điển người dân ca hát và nhảy múa chung quanh cây nêu tháng 5 được trang hoàng bằng cành cây và bông hoa có lẽ là biểu tượng quốc gia thụy điển nổi tiếng nhất vào tháng 8 bắt đầu có tôm cua tươi đầu mùa ở chợ lễ hội chào mừng được gọi là kräftskiva và được tổ chức không có thời điểm nhất định người dân ăn tôm cua luộc cho đến khi no và uống kèm theo đó là rượu mạnh tại miền bắc thụy điển còn có surströmmingsfest vào cuối mùa hè việc ăn cá trích được ủ trước cùng với khoai tây hay với tunnbröd một loại bánh
Thụy Điển
đó là rượu mạnh. Tại miền Bắc Thụy Điển còn có Surströmmingsfest vào cuối mùa Hè. Việc ăn cá trích được ủ trước cùng với khoai tây hay với tunnbröd (một loại bánh mì khô) trong dịp lễ này đòi hỏi phải có khẩu vị "cứng cáp". Lễ Lucia ("Luciafest") bắt đầu vào sáng ngày 13 tháng 12 và tại Thụy Điển là ngày của Nữ hoàng ánh sáng. Người con gái đầu trong gia đình xuất hiện với một váy trắng và mang trên đầu một vòng hoa được làm từ cành cây của một loài cây việt quất ("Vaccinium vitis-idaea") và nến, đánh thức gia đình và mang thức ăn sáng đến tận giường. Trường học và nơi làm việc trên toàn nước được các đoàn diễu hành đến thăm viếng vào sáng sớm. Các cô gái trẻ mang váy trắng dài đến gót chân cùng với nến trên đầu và tay, đi cùng là các nam thiếu niên mang quần áo trắng và đội nón chóp dài được trang điểm bằng nhiều ngôi sao. === Thể thao. === Thể thao là một phong trào quần chúng tại Thụy Điển với khoảng độ một nửa dân số tham gia tích cực. Hai môn thể thao chính là bóng đá và khúc côn cầu trên băng. Zlatan Ibrahimovic, Henrik Larsson và Fredrik Ljungberg thuộc về những ngôi sao bóng đá của Thụy Điển và trong số những người nổi tiếng trong bộ môn khúc côn cầu trên băng phải kể đến Markus Näslund, Peter Forsberg, Mats Sundin, Daniel Alfredsson,
đó là rượu mạnh tại miền bắc thụy điển còn có surströmmingsfest vào cuối mùa hè việc ăn cá trích được ủ trước cùng với khoai tây hay với tunnbröd một loại bánh mì khô trong dịp lễ này đòi hỏi phải có khẩu vị cứng cáp lễ lucia luciafest bắt đầu vào sáng ngày 13 tháng 12 và tại thụy điển là ngày của nữ hoàng ánh sáng người con gái đầu trong gia đình xuất hiện với một váy trắng và mang trên đầu một vòng hoa được làm từ cành cây của một loài cây việt quất vaccinium vitis-idaea và nến đánh thức gia đình và mang thức ăn sáng đến tận giường trường học và nơi làm việc trên toàn nước được các đoàn diễu hành đến thăm viếng vào sáng sớm các cô gái trẻ mang váy trắng dài đến gót chân cùng với nến trên đầu và tay đi cùng là các nam thiếu niên mang quần áo trắng và đội nón chóp dài được trang điểm bằng nhiều ngôi sao === thể thao === thể thao là một phong trào quần chúng tại thụy điển với khoảng độ một nửa dân số tham gia tích cực hai môn thể thao chính là bóng đá và khúc côn cầu trên băng zlatan ibrahimovic henrik larsson và fredrik ljungberg thuộc về những ngôi sao bóng đá của thụy điển và trong số những người nổi tiếng trong bộ môn khúc côn cầu trên băng phải kể đến markus näslund peter forsberg mats sundin daniel alfredsson
Thụy Điển
sao bóng đá của Thụy Điển và trong số những người nổi tiếng trong bộ môn khúc côn cầu trên băng phải kể đến Markus Näslund, Peter Forsberg, Mats Sundin, Daniel Alfredsson, Niklas Lidström, Börje Salming và Pelle Lindbergh. Số người chơi các môn thể thao cưỡi ngựa nhiều chỉ sau bóng đá, phần lớn là phụ nữ. Tiếp theo sau đó là golf, điền kinh và các môn thể thao đồng đội như bóng ném, khúc côn cầu trong nhà (tiếng Anh: "Floorball"), bóng rổ và ngoài ra là bandy tại các vùng phía Bắc. Các vận động viên quần vợt thành công bao gồm Björn Borg, Mats Wilander,Stefan Edberg và Robin Soderling. Rất nhiều người Thụy Điển đã lập thành tích quốc tế trong điền kinh, thí dụ như Patrik Sjöberg - kỷ lục nhảy cao nam châu Âu, hay Kajsa Bergqvist - kỷ lục nhảy cao nữ, và người đoạt huy chương vàng Thế vận hội Stefan Holm. Hai vận động viên Thụy Điển khác đoạt huy chương vàng tại Thế vận hội mùa Hè 2004 là Carolina Klüft trong bộ môn điền kinh nữ bảy môn và Christian Olsson trong bộ môn nhảy ba bước. Các vận động viên nổi tiếng khác của Thụy Điển bao gồm Ingemar Johansson (đấm bốc hạng nặng), Annika Sörenstam (đánh golf), Jan-Ove Waldner (nguyên vô địch bóng bàn 5 lần) và Tony Rickardsson (đua mô tô). Trong trường học, trên bãi cỏ hay trong công viên brännboll, một bộ môn thể thao tương tự như bóng chày, thường hay được chơi
sao bóng đá của thụy điển và trong số những người nổi tiếng trong bộ môn khúc côn cầu trên băng phải kể đến markus näslund peter forsberg mats sundin daniel alfredsson niklas lidström börje salming và pelle lindbergh số người chơi các môn thể thao cưỡi ngựa nhiều chỉ sau bóng đá phần lớn là phụ nữ tiếp theo sau đó là golf điền kinh và các môn thể thao đồng đội như bóng ném khúc côn cầu trong nhà tiếng anh floorball bóng rổ và ngoài ra là bandy tại các vùng phía bắc các vận động viên quần vợt thành công bao gồm björn borg mats wilander stefan edberg và robin soderling rất nhiều người thụy điển đã lập thành tích quốc tế trong điền kinh thí dụ như patrik sjöberg kỷ lục nhảy cao nam châu âu hay kajsa bergqvist kỷ lục nhảy cao nữ và người đoạt huy chương vàng thế vận hội stefan holm hai vận động viên thụy điển khác đoạt huy chương vàng tại thế vận hội mùa hè 2004 là carolina klüft trong bộ môn điền kinh nữ bảy môn và christian olsson trong bộ môn nhảy ba bước các vận động viên nổi tiếng khác của thụy điển bao gồm ingemar johansson đấm bốc hạng nặng annika sörenstam đánh golf jan-ove waldner nguyên vô địch bóng bàn 5 lần và tony rickardsson đua mô tô trong trường học trên bãi cỏ hay trong công viên brännboll một bộ môn thể thao tương tự như bóng chày thường hay được chơi
Thụy Điển
5 lần) và Tony Rickardsson (đua mô tô). Trong trường học, trên bãi cỏ hay trong công viên brännboll, một bộ môn thể thao tương tự như bóng chày, thường hay được chơi để giải trí. Trong các thế hệ lớn tuổi các bộ môn thể thao giải trí khác là kubb và boules. === Ẩm thực. === Ẩm thực Thụy Điển là thực phẩm truyền thống của người Thụy Điển. Do Thụy Điển trải dài từ bắc tới nam, nó nhiều khác biệt giữa ẩm thực phía bắc và phía nam. Trong lịch sử, ở phía Bắc, người ta từng ăn các loại thịt như tuần lộc, hoặc các loại thịt thú săn khác, nó có nguồn gốc từ văn hóa Sami, trong khi các loại rau tươi có vai trò quan trọng hơn ở phía Nam. == Biểu tượng quốc gia. == === Quốc kỳ. === Quốc kỳ Thụy Điển hình chữ nhật, nền cờ màu lam, chữ thập màu vàng chia mặt cờ thành 4 hình chữ nhật màu lam. Diện tích của 2 hình chữ nhật trên và dưới bên trái bằng nhau, 2 hình chữ nhật trên và dưới bên phải cũng có diện tích bằng nhau. Hai màu lam và vàng bắt nguồn từ màu của Hoàng gia Thuỵ Điển. Lá cờ chữ thập màu vàng từng là quân kỳ của hải quân Hoàng gia Thuỵ Điển. Ngày 22/06/1906 chính thức quy định lá quốc kỳ này. === Quốc huy. === Lai lịch quốc huy Thuỵ Điển có thể truy nguyên về những năm 1408–1470. Phía trên tấm áo
5 lần và tony rickardsson đua mô tô trong trường học trên bãi cỏ hay trong công viên brännboll một bộ môn thể thao tương tự như bóng chày thường hay được chơi để giải trí trong các thế hệ lớn tuổi các bộ môn thể thao giải trí khác là kubb và boules === ẩm thực === ẩm thực thụy điển là thực phẩm truyền thống của người thụy điển do thụy điển trải dài từ bắc tới nam nó nhiều khác biệt giữa ẩm thực phía bắc và phía nam trong lịch sử ở phía bắc người ta từng ăn các loại thịt như tuần lộc hoặc các loại thịt thú săn khác nó có nguồn gốc từ văn hóa sami trong khi các loại rau tươi có vai trò quan trọng hơn ở phía nam == biểu tượng quốc gia == === quốc kỳ === quốc kỳ thụy điển hình chữ nhật nền cờ màu lam chữ thập màu vàng chia mặt cờ thành 4 hình chữ nhật màu lam diện tích của 2 hình chữ nhật trên và dưới bên trái bằng nhau 2 hình chữ nhật trên và dưới bên phải cũng có diện tích bằng nhau hai màu lam và vàng bắt nguồn từ màu của hoàng gia thuỵ điển lá cờ chữ thập màu vàng từng là quân kỳ của hải quân hoàng gia thuỵ điển ngày 22 06 1906 chính thức quy định lá quốc kỳ này === quốc huy === lai lịch quốc huy thuỵ điển có thể truy nguyên về những năm 1408–1470 phía trên tấm áo
Thụy Điển
Thuỵ Điển. Ngày 22/06/1906 chính thức quy định lá quốc kỳ này. === Quốc huy. === Lai lịch quốc huy Thuỵ Điển có thể truy nguyên về những năm 1408–1470. Phía trên tấm áo choàng là chiếc vương miện, mặt tấm lá chắn trong tấm áo choàng có màu lam. Một chữ thập màu vàng chia mặt tấm lá chắn thành 4 phần: phần trên bên trái và phần dưới bên phải mỗi phần có 3 phần chiếc vương miện màu vàng, phần trên bên phải và phần dưới bên trái có con sư tử vàng đội vương miện vàng thè lưỡi đỏ. Trung tâm lá chắn lớn có một lá chắn tương đối nhỏ, mặt tấm lá chắn chia 2 phần phải và trái: mặt bên trái do các sọc chéo 3 màu lam, trắng bạc, đỏ và một chiếc bình vàng tạo thành, mặt bên phải có vẽ một tháp chuông kiểu lô cốt và một con chim ưng vàng. Hình trên tấm lá chắn nhỏ là phù hiệu của Hoàng gia Thụy Điển khoảng năm 1200. Phía trên tấm lá chắn là một chiếc vương miện, 2 bên là hai con sư tử vàng đầu đội vương miện ngoảnh về phía sau đỡ lấy. Sư tử đứng trên đế tấm lá chắn, đuôi cong hướng lên trên, thè lưỡi đỏ. Xung quanh tấm lá chắn là huân chương trang trí. Năm 1908 chính thức chế định quốc huy dạng tấm áo choàng này. == Xem thêm. == BULLET::::- Truyền thanh và truyền hình tại Thụy Điển BULLET::::- Danh
thuỵ điển ngày 22 06 1906 chính thức quy định lá quốc kỳ này === quốc huy === lai lịch quốc huy thuỵ điển có thể truy nguyên về những năm 1408–1470 phía trên tấm áo choàng là chiếc vương miện mặt tấm lá chắn trong tấm áo choàng có màu lam một chữ thập màu vàng chia mặt tấm lá chắn thành 4 phần phần trên bên trái và phần dưới bên phải mỗi phần có 3 phần chiếc vương miện màu vàng phần trên bên phải và phần dưới bên trái có con sư tử vàng đội vương miện vàng thè lưỡi đỏ trung tâm lá chắn lớn có một lá chắn tương đối nhỏ mặt tấm lá chắn chia 2 phần phải và trái mặt bên trái do các sọc chéo 3 màu lam trắng bạc đỏ và một chiếc bình vàng tạo thành mặt bên phải có vẽ một tháp chuông kiểu lô cốt và một con chim ưng vàng hình trên tấm lá chắn nhỏ là phù hiệu của hoàng gia thụy điển khoảng năm 1200 phía trên tấm lá chắn là một chiếc vương miện 2 bên là hai con sư tử vàng đầu đội vương miện ngoảnh về phía sau đỡ lấy sư tử đứng trên đế tấm lá chắn đuôi cong hướng lên trên thè lưỡi đỏ xung quanh tấm lá chắn là huân chương trang trí năm 1908 chính thức chế định quốc huy dạng tấm áo choàng này == xem thêm == bullet truyền thanh và truyền hình tại thụy điển bullet danh
Thụy Điển
lá chắn là huân chương trang trí. Năm 1908 chính thức chế định quốc huy dạng tấm áo choàng này. == Xem thêm. == BULLET::::- Truyền thanh và truyền hình tại Thụy Điển BULLET::::- Danh sách các trường Đại học tại Thụy Điển BULLET::::- Quan hệ quốc tế của Thụy Điển BULLET::::- Quân đội Thụy Điển BULLET::::- Danh sách các cuộc chiến tranh của Thụy Điển BULLET::::- Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển BULLET::::- Giao thông tại Thụy Điển BULLET::::- Danh sách các công ty Thụy Điển BULLET::::- Danh sách báo chí Thụy Điển BULLET::::- Người nói tiếng Thụy Điển ở Phần Lan == Liên kết ngoài. == BULLET::::- Trang web chính thức của chính phủ Thụy Điển BULLET::::- Trang web chính thức của Quốc hội Thụy Điển - BULLET::::- Học tập và nghiên cứu tại Thụy Điển BULLET::::- Du lịch Thụy Điển BULLET::::- Sweden Info - Kingdom of Sweden (ENG) BULLET::::- Sách tài liệu của CIA về Thụy Điển BULLET::::- Thông tin về Thụy Điển của Bộ Ngoại giao Mỹ
lá chắn là huân chương trang trí năm 1908 chính thức chế định quốc huy dạng tấm áo choàng này == xem thêm == bullet truyền thanh và truyền hình tại thụy điển bullet danh sách các trường đại học tại thụy điển bullet quan hệ quốc tế của thụy điển bullet quân đội thụy điển bullet danh sách các cuộc chiến tranh của thụy điển bullet viện hàn lâm hoàng gia thụy điển bullet giao thông tại thụy điển bullet danh sách các công ty thụy điển bullet danh sách báo chí thụy điển bullet người nói tiếng thụy điển ở phần lan == liên kết ngoài == bullet trang web chính thức của chính phủ thụy điển bullet trang web chính thức của quốc hội thụy điển bullet học tập và nghiên cứu tại thụy điển bullet du lịch thụy điển bullet sweden info kingdom of sweden eng bullet sách tài liệu của cia về thụy điển bullet thông tin về thụy điển của bộ ngoại giao mỹ
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh , còn gọi bằng tên cũ phổ biến là Sài Gòn, là thành phố lớn nhất ở Việt Nam về dân số và quy mô đô thị hóa. Đây còn là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục tại Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương thuộc loại đô thị đặc biệt của Việt Nam cùng với thủ đô Hà Nội. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, thành phố này hiện có 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện, tổng diện tích . Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ dân số trung bình 3.419 người/km². Đến năm 2019, dân số thành phố tăng lên 8.993.082 người và cũng là nơi có mật độ dân số cao nhất Việt Nam. Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký hộ khẩu thì dân số thực tế của thành phố này năm 2018 là gần 14 triệu người. Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả Việt Nam. Năm 2020, thành phố có GRDP theo giá hiện hành ước là 1.372 nghìn tỷ đồng, theo giá so sánh 2010 đạt 991.424 tỷ đồng (số liệu địa phương cung cấp, Tổng cục Thống
thành phố hồ chí minh còn gọi bằng tên cũ phổ biến là sài gòn là thành phố lớn nhất ở việt nam về dân số và quy mô đô thị hóa đây còn là trung tâm kinh tế chính trị văn hóa và giáo dục tại việt nam thành phố hồ chí minh là thành phố trực thuộc trung ương thuộc loại đô thị đặc biệt của việt nam cùng với thủ đô hà nội nằm trong vùng chuyển tiếp giữa đông nam bộ và tây nam bộ thành phố này hiện có 16 quận 1 thành phố và 5 huyện tổng diện tích theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7 162 864 người chiếm 8 34% dân số việt nam mật độ dân số trung bình 3 419 người km² đến năm 2019 dân số thành phố tăng lên 8 993 082 người và cũng là nơi có mật độ dân số cao nhất việt nam tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký hộ khẩu thì dân số thực tế của thành phố này năm 2018 là gần 14 triệu người thành phố hồ chí minh năm 2011 chiếm 21 3% tổng sản phẩm gdp và 29 38% tổng thu ngân sách của cả việt nam năm 2020 thành phố có grdp theo giá hiện hành ước là 1 372 nghìn tỷ đồng theo giá so sánh 2010 đạt 991 424 tỷ đồng số liệu địa phương cung cấp tổng cục thống
Thành phố Hồ Chí Minh
thành phố có GRDP theo giá hiện hành ước là 1.372 nghìn tỷ đồng, theo giá so sánh 2010 đạt 991.424 tỷ đồng (số liệu địa phương cung cấp, Tổng cục Thống kê sẽ công bố GRDP đánh giá lại), tăng 1,39% so với năm 2019, đóng góp trên 22% GDP và 27% tổng thu ngân sách cả nước. GRDP bình quân đầu người ước năm 2020 là 6.328 USD/người, xếp thứ 4 trong số các tỉnh thành cả nước, nhưng so với năm 2019 là giảm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 sơ bộ là 6,758 triệu VN đồng /tháng, cao thứ hai cả nước. Nhờ điều kiện tự nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Vào năm 2019, thành phố đón khoảng 8,6 triệu khách du lịch quốc tế. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vị thế nhất định. == Tên gọi. == Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor theo tiếng Khmer của người dân bản địa, có nghĩa là "thành trong rừng". Vì sự sụp đổ của đế chế Khmer, vùng Nam Bộ trở thành đất vô chủ, về sau đã sáp nhập vào Đại Việt nhờ công cuộc khai phá miền Nam của chúa Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập huyện Tân Bình thuộc phủ Gia Định, đánh
thành phố có grdp theo giá hiện hành ước là 1 372 nghìn tỷ đồng theo giá so sánh 2010 đạt 991 424 tỷ đồng số liệu địa phương cung cấp tổng cục thống kê sẽ công bố grdp đánh giá lại tăng 1 39% so với năm 2019 đóng góp trên 22% gdp và 27% tổng thu ngân sách cả nước grdp bình quân đầu người ước năm 2020 là 6 328 usd người xếp thứ 4 trong số các tỉnh thành cả nước nhưng so với năm 2019 là giảm thu nhập bình quân đầu người năm 2019 sơ bộ là 6 758 triệu vn đồng tháng cao thứ hai cả nước nhờ điều kiện tự nhiên thành phố hồ chí minh trở thành một đầu mối giao thông của việt nam và đông nam á bao gồm cả đường bộ đường sắt đường thủy và đường hàng không vào năm 2019 thành phố đón khoảng 8 6 triệu khách du lịch quốc tế các lĩnh vực giáo dục truyền thông thể thao giải trí thành phố hồ chí minh đều giữ vị thế nhất định == tên gọi == vùng đất này ban đầu được gọi là prey nokor theo tiếng khmer của người dân bản địa có nghĩa là thành trong rừng vì sự sụp đổ của đế chế khmer vùng nam bộ trở thành đất vô chủ về sau đã sáp nhập vào đại việt nhờ công cuộc khai phá miền nam của chúa nguyễn năm 1698 nguyễn hữu cảnh cho lập huyện tân bình thuộc phủ gia định đánh
Thành phố Hồ Chí Minh
sau đã sáp nhập vào Đại Việt nhờ công cuộc khai phá miền Nam của chúa Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập huyện Tân Bình thuộc phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Phủ Gia Định khi đó bao gồm Sài Gòn và các tỉnh xung quanh hiện nay (Tây Ninh, Long An...), còn huyện Tân Bình là chỉ vùng đất Sài Gòn. Địa danh Sài Gòn có trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² ("Chợ Lớn") có đông người Hoa sinh sống trong thế kỷ 18. Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay. Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, "Histoire de la Mission Cochinchine", có ghi chép "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Ha" (Sài Gòn Hạ). Theo "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674, Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Lũy Sài Gòn" (theo chữ Hán viết là 柴棍 - "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán 棍 - "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo chữ Nôm là "Gòn", còn đọc theo chữ Hán thì là "Côn". Trong tiếng Trung thì Sài Gòn còn được gọi là "Tây Cống" (chữ Hán: 西貢, bính âm: "Xī Gòng", Việt bính: "SaiGung"). Sau đó, danh xưng
sau đã sáp nhập vào đại việt nhờ công cuộc khai phá miền nam của chúa nguyễn năm 1698 nguyễn hữu cảnh cho lập huyện tân bình thuộc phủ gia định đánh dấu sự ra đời thành phố phủ gia định khi đó bao gồm sài gòn và các tỉnh xung quanh hiện nay tây ninh long an còn huyện tân bình là chỉ vùng đất sài gòn địa danh sài gòn có trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² chợ lớn có đông người hoa sinh sống trong thế kỷ 18 địa bàn đó gần tương ứng với khu chợ lớn ngày nay năm 1747 theo danh mục các họ đạo trong launay histoire de la mission cochinchine có ghi chép rai gon thong sài gòn thượng và rai gon ha sài gòn hạ theo phủ biên tạp lục của lê quý đôn viết năm 1776 năm 1674 thống suất nguyễn dương lâm vâng lệnh chúa nguyễn đánh cao miên và phá vỡ lũy sài gòn theo chữ hán viết là 柴棍 sài côn đây là lần đầu tiên chữ sài gòn xuất hiện trong tài liệu việt nam vì thiếu chữ viết nên chữ hán 棍 côn được dùng thế cho gòn nếu đọc theo chữ nôm là gòn còn đọc theo chữ hán thì là côn trong tiếng trung thì sài gòn còn được gọi là tây cống chữ hán 西貢 bính âm xī gòng việt bính saigung sau đó danh xưng
Thành phố Hồ Chí Minh
theo chữ Hán thì là "Côn". Trong tiếng Trung thì Sài Gòn còn được gọi là "Tây Cống" (chữ Hán: 西貢, bính âm: "Xī Gòng", Việt bính: "SaiGung"). Sau đó, danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong "lũy Lão Cầm" (năm 1700), "lũy Hoa Phong" (năm 1731) và "lũy Bán Bích" (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km². Ngoài ra theo một số nhà nghiên cứu thì Thụ Nại cũng từng là tên gọi của vùng đất Sài Gòn xưa trước khi Nguyễn Hữu Cảnh đến khai phá. Khi Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam. Địa giới Sài Gòn lúc này bao gồm vùng đất Sài Gòn và Bến Nghé cũ. Sài Gòn cũng là thủ đô của Liên bang Đông Dương giai đoạn 1887–1901 (về sau, Pháp chuyển thủ đô Liên bang Đông Dương ra Hà Nội). Năm 1931 Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập, bao gồm Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn. Năm 1941 Chợ Lớn được sáp nhập vào Sài Gòn. Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, một chế độ chống cộng liên minh với Pháp trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương, và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa (chế độ kế tục Quốc gia Việt Nam). Kể từ
theo chữ hán thì là côn trong tiếng trung thì sài gòn còn được gọi là tây cống chữ hán 西貢 bính âm xī gòng việt bính saigung sau đó danh xưng sài gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong lũy lão cầm năm 1700 lũy hoa phong năm 1731 và lũy bán bích năm 1772 chỉ với diện tích 5 km² ngoài ra theo một số nhà nghiên cứu thì thụ nại cũng từng là tên gọi của vùng đất sài gòn xưa trước khi nguyễn hữu cảnh đến khai phá khi pháp vào đông dương để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa thành phố sài gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất việt nam địa giới sài gòn lúc này bao gồm vùng đất sài gòn và bến nghé cũ sài gòn cũng là thủ đô của liên bang đông dương giai đoạn 1887–1901 về sau pháp chuyển thủ đô liên bang đông dương ra hà nội năm 1931 khu sài gòn chợ lớn được thành lập bao gồm thành phố sài gòn và thành phố chợ lớn năm 1941 chợ lớn được sáp nhập vào sài gòn năm 1949 sài gòn trở thành thủ đô của quốc gia việt nam một chế độ chống cộng liên minh với pháp trong thời kỳ chiến tranh đông dương và sau này là thủ đô của việt nam cộng hòa chế độ kế tục quốc gia việt nam kể từ
Thành phố Hồ Chí Minh
liên minh với Pháp trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương, và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa (chế độ kế tục Quốc gia Việt Nam). Kể từ đó, Sài Gòn được xem là thủ đô và trở thành một trong những đô thị quan trọng nhất của miền Nam Việt Nam sau khi bị chia cắt vào năm 1954. Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản chính quyền và quyết định hợp nhất Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định thành Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Việt Nam tái thống nhất và Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên "Sài Gòn – Gia Định" thành "Hồ Chí Minh", theo tên Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiện nay trong văn bản hành chính thì thành phố luôn được gọi đầy đủ là "Thành phố Hồ Chí Minh" (viết tắt là "Tp. HCM") thay vì chỉ gọi "Hồ Chí Minh", để tránh nhầm lẫn với chủ tịch Hồ Chí Minh. Tương tự với tiếng Anh là "Ho Chi Minh City" (viết tắt là "HCMC"). Tên "Sài Gòn" vẫn được sử dụng thường xuyên vì sự ngắn gọn. == Lịch sử. == === Thời kỳ hoang sơ. === Con người xuất hiện ở Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực
liên minh với pháp trong thời kỳ chiến tranh đông dương và sau này là thủ đô của việt nam cộng hòa chế độ kế tục quốc gia việt nam kể từ đó sài gòn được xem là thủ đô và trở thành một trong những đô thị quan trọng nhất của miền nam việt nam sau khi bị chia cắt vào năm 1954 sau khi việt nam cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 cộng hòa miền nam việt nam tiếp quản chính quyền và quyết định hợp nhất đô thành sài gòn và tỉnh gia định thành thành phố sài gòn – gia định ngày 2 tháng 7 năm 1976 việt nam tái thống nhất và quốc hội nước việt nam thống nhất quyết định đổi tên sài gòn – gia định thành hồ chí minh theo tên chủ tịch nước đầu tiên của việt nam dân chủ cộng hòa hiện nay trong văn bản hành chính thì thành phố luôn được gọi đầy đủ là thành phố hồ chí minh viết tắt là tp hcm thay vì chỉ gọi hồ chí minh để tránh nhầm lẫn với chủ tịch hồ chí minh tương tự với tiếng anh là ho chi minh city viết tắt là hcmc tên sài gòn vẫn được sử dụng thường xuyên vì sự ngắn gọn == lịch sử == === thời kỳ hoang sơ === con người xuất hiện ở sài gòn từ khá sớm các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận sài gòn và khu vực
Thành phố Hồ Chí Minh
gọn. == Lịch sử. == === Thời kỳ hoang sơ. === Con người xuất hiện ở Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy, ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí. Những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp. Văn hóa Sa Huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng. Thời kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này. Sau khi Đế quốc Khmer hình thành, lãnh thổ miền Nam Đông Dương thuộc quyền kiểm soát của đế chế này. Tuy nhiên, dân cư của Đế quốc Khmer sống ở vùng này rất thưa thớt, không có khu dân cư lớn nào hình thành tại đây. Cho đến trước thế kỷ 16, vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư như Khmer, Châu Ro, S’Tiêng. Sài Gòn – Gia Định vẫn là địa bàn của một vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện. === Khai phá. === Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai phá vùng đất này hoàn toàn không có
gọn == lịch sử == === thời kỳ hoang sơ === con người xuất hiện ở sài gòn từ khá sớm các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận sài gòn và khu vực lân cận cho thấy ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp văn hóa sa huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng thời kỳ văn hóa óc eo từ đầu công nguyên cho tới thế kỷ 7 khu vực miền nam đông dương có nhiều tiểu quốc và sài gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này sau khi đế quốc khmer hình thành lãnh thổ miền nam đông dương thuộc quyền kiểm soát của đế chế này tuy nhiên dân cư của đế quốc khmer sống ở vùng này rất thưa thớt không có khu dân cư lớn nào hình thành tại đây cho đến trước thế kỷ 16 vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến sài gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư như khmer châu ro s’tiêng sài gòn – gia định vẫn là địa bàn của một vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người việt xuất hiện === khai phá === những người việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai phá vùng đất này hoàn toàn không có
Thành phố Hồ Chí Minh
nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện. === Khai phá. === Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai phá vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa Công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Khmer, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa. Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu con rể là vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng, nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam, Trung Quốc... qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quan trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ 3 cơ quan chính quyền này. Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một số nhóm người
nhóm dân cư cổ cho tới khi người việt xuất hiện === khai phá === những người việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai phá vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà nguyễn nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ ngọc vạn với vua chân lạp chey chetta ii từ năm 1620 mối quan hệ giữa đại việt và chân lạp trở nên êm đẹp dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống khu vực sài gòn đồng nai bắt đầu xuất hiện những người việt định cư trước đó người khmer người chăm người man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của sài gòn sau này năm 1623 chúa nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu con rể là vua chey chettha ii cho lập đồn thu thuế tại prey nokor sài gòn và kas krobei bến nghé tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân việt nam trung quốc qua campuchia và xiêm hai sự kiện quan trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của phó vương nặc nộn và lập đồn dinh ở tân mỹ gần ngã tư cống quỳnh – nguyễn trãi ngày nay có thể nói sài gòn hình thành từ 3 cơ quan chính quyền này năm 1679 chúa nguyễn phúc tần cho một số nhóm người
Thành phố Hồ Chí Minh
tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ 3 cơ quan chính quyền này. Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một số nhóm người Hoa tị nạn triều Mãn Thanh tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Đông Nam Bộ được sáp nhập vào cương vực Việt Nam. Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, Mỹ Tho và Cù lao Phố là hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 18, sau các biến loạn và chiến tranh, thương nhân dần chuyển về vùng Chợ Lớn. Khu vực Sài Gòn dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Nam Bộ. Năm 1788, chúa Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp là kỹ sư Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel (1768–1799), Chúa Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ
tư cống quỳnh – nguyễn trãi ngày nay có thể nói sài gòn hình thành từ 3 cơ quan chính quyền này năm 1679 chúa nguyễn phúc tần cho một số nhóm người hoa tị nạn triều mãn thanh tới mỹ tho biên hòa và sài gòn để lánh nạn đến năm 1698 chúa nguyễn sai tướng nguyễn hữu cảnh vào kinh lý miền nam trên cơ sở những lưu dân việt đã tự phát tới khu vực này trước đó nguyễn hữu cảnh cho lập phủ gia định và hai huyện phước long tân bình vùng đông nam bộ được sáp nhập vào cương vực việt nam thời điểm ban đầu này khu vực biên hòa gia định có khoảng 10 000 hộ với 200 000 khẩu công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới mang lại hiệu quả hơn cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 mỹ tho và cù lao phố là hai trung tâm thương mại lớn nhất nam bộ tuy nhiên cuối thế kỷ 18 sau các biến loạn và chiến tranh thương nhân dần chuyển về vùng chợ lớn khu vực sài gòn dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất nam bộ năm 1788 chúa nguyễn ánh tái chiếm sài gòn lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại tây sơn năm 1790 với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người pháp là kỹ sư theodore lebrun và victor olivier de puymanel 1768–1799 chúa nguyễn ánh cho xây dựng thành bát quái làm trụ
Thành phố Hồ Chí Minh
giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp là kỹ sư Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel (1768–1799), Chúa Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh". Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, vua Gia Long lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Miền Nam được chia thành 5 trấn, gọi là "Gia Định ngũ trấn". Các công trình kênh đào Rạch Giá – Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành. Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành". Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế. === Thời kỳ thuộc Pháp. === Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, thực dân Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn nhằm phục vụ mục đích khai thác thuộc địa và làm nơi cư trú cho quan chức Pháp. Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page (về sau là Charner) cử trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn (1810 –
giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người pháp là kỹ sư theodore lebrun và victor olivier de puymanel 1768–1799 chúa nguyễn ánh cho xây dựng thành bát quái làm trụ sở của chính quyền mới gia định thành khi đó được đổi thành gia định kinh năm 1802 sau khi chiến thắng tây sơn vua gia long lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền nam miền nam được chia thành 5 trấn gọi là gia định ngũ trấn các công trình kênh đào rạch giá – hà tiên vĩnh tế được thực hiện qua 300 năm các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành sáu năm sau 1808 gia định trấn lại được đổi thành gia định thành trong khoảng thời gian 1833 đến 1835 lê văn khôi khởi binh chống lại nhà nguyễn thành bát quái trở thành địa điểm căn cứ sau khi trấn áp cuộc nổi dậy năm 1835 vua minh mạng cho phá thành bát quái xây dựng phụng thành thay thế === thời kỳ thuộc pháp === ngay sau khi chiếm được thành gia định vào năm 1859 thực dân pháp gấp rút quy hoạch lại sài gòn thành một đô thị lớn nhằm phục vụ mục đích khai thác thuộc địa và làm nơi cư trú cho quan chức pháp đồ án thiết kế được phó đô đốc pháp là page về sau là charner cử trung tá công binh pháp là paul florent lucien coffyn 1810 –
Thành phố Hồ Chí Minh
cho quan chức Pháp. Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page (về sau là Charner) cử trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn (1810 – 1871), nguyên Lãnh sự Pháp ở Hoa Kỳ, thiết kế. Theo bản đồ của Coffyn được công bố vào ngày 13/5/1862, quy hoạch ban đầu của Sài Gòn bao gồm cả tỉnh Chợ Lớn với khoảng 500.000 dân (Saigon ville de 500.000 âmes), tức khoảng 20.000 dân/km². Quy hoạch này tương ứng với quy hoạch khu vực phòng thủ của tướng Nguyễn Cửu Đàm năm 1772, khi dân số Sài Gòn chỉ khoảng 20.000–30.000 người. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ "(Gouverneur Amiral de la Cochinchine)" lúc đó là Chuẩn đô đốc Pierre Rose quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Ngày 3 tháng 10 năm 1865, Pierre Rose ra lệnh quy hoạch lại Sài Gòn chỉ còn là khu vực nằm giữa rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và đường mới khu cầu Ông Lãnh hiện nay. Toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3 km².Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được Pháp thiết kế và huy động nhân công xây dựng. Sau 2 năm người Pháp xây dựng và cải tạo, khu quy hoạch rộng khoảng 3 km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi. Thành
cho quan chức pháp đồ án thiết kế được phó đô đốc pháp là page về sau là charner cử trung tá công binh pháp là paul florent lucien coffyn 1810 – 1871 nguyên lãnh sự pháp ở hoa kỳ thiết kế theo bản đồ của coffyn được công bố vào ngày 13 5 1862 quy hoạch ban đầu của sài gòn bao gồm cả tỉnh chợ lớn với khoảng 500 000 dân saigon ville de 500 000 âmes tức khoảng 20 000 dân km² quy hoạch này tương ứng với quy hoạch khu vực phòng thủ của tướng nguyễn cửu đàm năm 1772 khi dân số sài gòn chỉ khoảng 20 000–30 000 người nhưng đến 1864 nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng khó bảo đảm về an ninh soái phủ pháp ở nam kỳ gouverneur amiral de la cochinchine lúc đó là chuẩn đô đốc pierre rose quyết định tách chợ lớn khỏi sài gòn ngày 3 tháng 10 năm 1865 pierre rose ra lệnh quy hoạch lại sài gòn chỉ còn là khu vực nằm giữa rạch thị nghè sông sài gòn rạch bến nghé và đường mới khu cầu ông lãnh hiện nay toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3 km² rất nhanh chóng các công trình quan trọng của thành phố như dinh thống đốc nam kỳ dinh toàn quyền được pháp thiết kế và huy động nhân công xây dựng sau 2 năm người pháp xây dựng và cải tạo khu quy hoạch rộng khoảng 3 km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi thành
Thành phố Hồ Chí Minh
thiết kế và huy động nhân công xây dựng. Sau 2 năm người Pháp xây dựng và cải tạo, khu quy hoạch rộng khoảng 3 km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi. Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục... Nam Kỳ Lục tỉnh là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm một ủy viên và 12 hội viên; đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp tên là Charles Marie Louis Turc (1867–1871). Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp, đầu tiên là G. Vinson (1874 –1876). Đến năm 1879 thì Pháp cho lập thêm Hội đồng thành phố Sài Gòn (hay đúng ra là Ủy hội thành phố –
thiết kế và huy động nhân công xây dựng sau 2 năm người pháp xây dựng và cải tạo khu quy hoạch rộng khoảng 3 km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi thành phố sài gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu âu nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như dinh thống đốc nha giám đốc nội vụ tòa án tòa thượng thẩm tòa sơ thẩm tòa án thương mại tòa giám mục nam kỳ lục tỉnh là thuộc địa của pháp và sài gòn nằm trong tỉnh gia định vào năm 1861 địa phận sài gòn được giới hạn bởi một bên là rạch thị nghè và rạch bến nghé với một bên là sông sài gòn cùng con đường nối liền chùa cây mai với những phòng tuyến cũ của đồn kỳ hòa đến năm 1867 việc quản lý sài gòn được giao cho ủy ban thành phố gồm một ủy viên và 12 hội viên đứng đầu là viên thị trưởng người pháp tên là charles marie louis turc 1867–1871 cho tới nửa đầu thập niên 1870 thành phố sài gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh gia định ngày 15 tháng 3 năm 1874 tổng thống pháp jules grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố sài gòn đứng đầu là viên thị trưởng người pháp đầu tiên là g vinson 1874 –1876 đến năm 1879 thì pháp cho lập thêm hội đồng thành phố sài gòn hay đúng ra là ủy hội thành phố –
Thành phố Hồ Chí Minh
người Pháp, đầu tiên là G. Vinson (1874 –1876). Đến năm 1879 thì Pháp cho lập thêm Hội đồng thành phố Sài Gòn (hay đúng ra là Ủy hội thành phố – "Commission municipale"). Sau Cách mạng Tháng Tám, ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tái chiếm thành phố. Tháng 8 năm 1946, phòng Nam Bộ Trung ương đã tổ chức họp, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đã đề nghị đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh, và 57 người phòng Nam Bộ Trung ương (đứng đầu danh sách là Trần Hữu Nghiệp, Trần Công Tường, Nguyễn Tấn Gi Trọng...) đã ra quyết nghị, gửi lên Quốc hội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề xuất này, tuy nhiên, do nhiều việc cấp bách phải giải quyết nên chưa được quyết định chính thức. ==== Về danh hiệu "Hòn ngọc viễn Đông" thời Pháp thuộc. ==== Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng, cả về hành chính lẫn kinh tế, văn hóa, giáo dục của Liên bang Đông Dương, được thực dân Pháp mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" ("la perle de l'Extrême-Orient") hoặc một "Paris nhỏ ở Viễn Đông" ("le petit Paris de l'Extrême-Orient") trong số các thuộc địa của Pháp. Trước đó, thực dân Anh đã chiếm Ấn Độ và gọi nước này là ""hòn ngọc trên vương miện của Nữ hoàng Anh"", vì vậy Pháp đặt ra danh xưng này cho Sài Gòn để tỏ ý muốn cạnh tranh việc
người pháp đầu tiên là g vinson 1874 –1876 đến năm 1879 thì pháp cho lập thêm hội đồng thành phố sài gòn hay đúng ra là ủy hội thành phố – commission municipale sau cách mạng tháng tám ngày 23 tháng 9 năm 1945 quân pháp tái chiếm thành phố tháng 8 năm 1946 phòng nam bộ trung ương đã tổ chức họp bác sĩ trần hữu nghiệp đã đề nghị đổi tên sài gòn thành thành phố hồ chí minh và 57 người phòng nam bộ trung ương đứng đầu danh sách là trần hữu nghiệp trần công tường nguyễn tấn gi trọng đã ra quyết nghị gửi lên quốc hội và chính phủ việt nam dân chủ cộng hòa đề xuất này tuy nhiên do nhiều việc cấp bách phải giải quyết nên chưa được quyết định chính thức ==== về danh hiệu hòn ngọc viễn đông thời pháp thuộc ==== trong suốt thời kỳ pháp thuộc sài gòn trở thành trung tâm quan trọng cả về hành chính lẫn kinh tế văn hóa giáo dục của liên bang đông dương được thực dân pháp mệnh danh là hòn ngọc viễn đông la perle de l extrême-orient hoặc một paris nhỏ ở viễn đông le petit paris de l extrême-orient trong số các thuộc địa của pháp trước đó thực dân anh đã chiếm ấn độ và gọi nước này là hòn ngọc trên vương miện của nữ hoàng anh vì vậy pháp đặt ra danh xưng này cho sài gòn để tỏ ý muốn cạnh tranh việc
Thành phố Hồ Chí Minh
và gọi nước này là ""hòn ngọc trên vương miện của Nữ hoàng Anh"", vì vậy Pháp đặt ra danh xưng này cho Sài Gòn để tỏ ý muốn cạnh tranh việc xâm chiếm thuộc địa với đối thủ Anh. Tuy được Pháp gọi là "Hòn ngọc Viễn Đông", nhưng thực ra thời ấy Sài Gòn rất nhỏ, chỉ cần đi xa 20 km là có thể săn thú rừng. Theo quy hoạch của Pháp, Sài Gòn khi đó chỉ rộng khoảng 3 km²; gần bằng một nửa Quận 1 hiện nay (rộng khoảng 8 km²), bao bọc bởi sông Sài Gòn – Nguyễn Thái Học – Nguyễn Thị Minh Khai – rạch Bến Nghé. Chính quyền thuộc địa Pháp tập trung tất cả những gì sang trọng, giàu có nhất mà họ có được ở diện tích 3 km² này, phần còn lại của Sài Gòn thì vẫn còn rất hoang sơ, đầm lầy ngổn ngang. Theo Sơn Nam trong ""Bến Nghé xưa"" thì khi Chợ Bến Thành hoàn thành năm 1914, ""trước mặt còn là ao vũng sình lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp (…), còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn. Giữa Sài Gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre, cây da, mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ"". Khu Hòa Hưng (Quận 10 hiện nay) cho đến ngã tư Bảy Hiền hiện nay có vô
và gọi nước này là hòn ngọc trên vương miện của nữ hoàng anh vì vậy pháp đặt ra danh xưng này cho sài gòn để tỏ ý muốn cạnh tranh việc xâm chiếm thuộc địa với đối thủ anh tuy được pháp gọi là hòn ngọc viễn đông nhưng thực ra thời ấy sài gòn rất nhỏ chỉ cần đi xa 20 km là có thể săn thú rừng theo quy hoạch của pháp sài gòn khi đó chỉ rộng khoảng 3 km² gần bằng một nửa quận 1 hiện nay rộng khoảng 8 km² bao bọc bởi sông sài gòn – nguyễn thái học – nguyễn thị minh khai – rạch bến nghé chính quyền thuộc địa pháp tập trung tất cả những gì sang trọng giàu có nhất mà họ có được ở diện tích 3 km² này phần còn lại của sài gòn thì vẫn còn rất hoang sơ đầm lầy ngổn ngang theo sơn nam trong bến nghé xưa thì khi chợ bến thành hoàn thành năm 1914 trước mặt còn là ao vũng sình lầy giữa sài gòn và chợ lớn phía đất thấp … còn ruộng lúa với người cày ao nuôi vịt ngọn rạch cạn giữa sài gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre cây da mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa những xóm nhà ổ chuột bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ khu hòa hưng quận 10 hiện nay cho đến ngã tư bảy hiền hiện nay có vô
Thành phố Hồ Chí Minh
bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ"". Khu Hòa Hưng (Quận 10 hiện nay) cho đến ngã tư Bảy Hiền hiện nay có vô số nghĩa trang, mồ mả. Khu Nguyễn Thiện Thuật, Lý Thái Tổ, Nguyễn Đình Chiểu (Quận 3 hiện nay) toàn nhà lá nền đất xây dựng tạm bợ không theo quy hoạch nào. Khu Quận 4, Quận 7, khu Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho,… sát cạnh chợ Bến Thành đa số là nhà tranh vách lá tạm bợ. Sau Thế Chiến thứ nhất, kiến trúc sư He’brerd được mời sang Đông Dương chỉnh lý lại các dự án quy hoạch Sài Gòn. Ông đề ra hướng phát triển công nghiệp và xuất khẩu cho Sài Gòn, điều chỉnh hệ thống kỹ thuật hạ tầng, củng cố thêm phố thị Khánh Hội và Nhà Bè. Nhưng kế hoạch bất thành do thiếu ngân sách, đụng chạm quyền lợi của giới độc quyền kinh doanh địa ốc, cũng như xung đột nội bộ. Nó chứng minh rằng các mô hình lý thuyết về quy hoạch xây dựng thường vấp phải trở ngại từ giới cầm quyền thực dân, giới tư bản chỉ nhìn thấy quyền lợi trước mắt. Như vậy, từ lúc đánh chiếm Gia Định năm 1859 cho đến khi rời Sài Gòn (năm 1954), người Pháp chỉ tập trung "trau chuốt" khu vực rộng 3 km², nơi mà kiều dân Pháp sinh sống (Quận một hiện nay). Dù nhiều lần điều chỉnh địa giới mở rộng, nhưng những khu
bông hoa những xóm nhà ổ chuột bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ khu hòa hưng quận 10 hiện nay cho đến ngã tư bảy hiền hiện nay có vô số nghĩa trang mồ mả khu nguyễn thiện thuật lý thái tổ nguyễn đình chiểu quận 3 hiện nay toàn nhà lá nền đất xây dựng tạm bợ không theo quy hoạch nào khu quận 4 quận 7 khu cầu ông lãnh cầu kho … sát cạnh chợ bến thành đa số là nhà tranh vách lá tạm bợ sau thế chiến thứ nhất kiến trúc sư he’brerd được mời sang đông dương chỉnh lý lại các dự án quy hoạch sài gòn ông đề ra hướng phát triển công nghiệp và xuất khẩu cho sài gòn điều chỉnh hệ thống kỹ thuật hạ tầng củng cố thêm phố thị khánh hội và nhà bè nhưng kế hoạch bất thành do thiếu ngân sách đụng chạm quyền lợi của giới độc quyền kinh doanh địa ốc cũng như xung đột nội bộ nó chứng minh rằng các mô hình lý thuyết về quy hoạch xây dựng thường vấp phải trở ngại từ giới cầm quyền thực dân giới tư bản chỉ nhìn thấy quyền lợi trước mắt như vậy từ lúc đánh chiếm gia định năm 1859 cho đến khi rời sài gòn năm 1954 người pháp chỉ tập trung trau chuốt khu vực rộng 3 km² nơi mà kiều dân pháp sinh sống quận một hiện nay dù nhiều lần điều chỉnh địa giới mở rộng nhưng những khu
Thành phố Hồ Chí Minh
người Pháp chỉ tập trung "trau chuốt" khu vực rộng 3 km², nơi mà kiều dân Pháp sinh sống (Quận một hiện nay). Dù nhiều lần điều chỉnh địa giới mở rộng, nhưng những khu mở rộng này không được Pháp đầu tư nên khá là tạm bợ. Đến năm 1954, những phần Sài Gòn mở rộng này (rộng khoảng 50 km²) vẫn hoang sơ, thậm chí đầm lầy ngổn ngang. Phê phán quy hoạch thành phố Sài Gòn thời kỳ Pháp thuộc, nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng: người Pháp nặng về việc phô trương quyền lực thực dân với một số trục đường hoành tráng, cửa nhà khang trang, nhưng lại chưa xây dựng được cơ sở hạ tầng đô thị, và nhất là đẩy người bản xứ vào các khu ở chật chội, lầy lội, thiếu vệ sinh. Nhà nghiên cứu Mỹ Gwendolyn Wright khi nghiên cứu về các đô thị thuộc địa Pháp cho rằng kiểu làm đó là lối "quy hoạch giả tạo" không giải quyết được các vấn đề cơ bản của đô thị và mang tính phân biệt đối xử giữa người Pháp và dân thuộc địa. Theo cụ Vương Hồng Sển ghi chép thì danh xưng "Hòn ngọc Viễn Đông" do quan chức thực dân Pháp đặt ra để chỉ nơi ăn chơi của họ, người Việt chẳng được thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người Pháp duy trì sự xa xỉ đó, và rằng ""Nó hoàn toàn không phải là "hòn ngọc" với thợ thuyền
người pháp chỉ tập trung trau chuốt khu vực rộng 3 km² nơi mà kiều dân pháp sinh sống quận một hiện nay dù nhiều lần điều chỉnh địa giới mở rộng nhưng những khu mở rộng này không được pháp đầu tư nên khá là tạm bợ đến năm 1954 những phần sài gòn mở rộng này rộng khoảng 50 km² vẫn hoang sơ thậm chí đầm lầy ngổn ngang phê phán quy hoạch thành phố sài gòn thời kỳ pháp thuộc nhiều nhà nghiên cứu phương tây cho rằng người pháp nặng về việc phô trương quyền lực thực dân với một số trục đường hoành tráng cửa nhà khang trang nhưng lại chưa xây dựng được cơ sở hạ tầng đô thị và nhất là đẩy người bản xứ vào các khu ở chật chội lầy lội thiếu vệ sinh nhà nghiên cứu mỹ gwendolyn wright khi nghiên cứu về các đô thị thuộc địa pháp cho rằng kiểu làm đó là lối quy hoạch giả tạo không giải quyết được các vấn đề cơ bản của đô thị và mang tính phân biệt đối xử giữa người pháp và dân thuộc địa theo cụ vương hồng sển ghi chép thì danh xưng hòn ngọc viễn đông do quan chức thực dân pháp đặt ra để chỉ nơi ăn chơi của họ người việt chẳng được thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người pháp duy trì sự xa xỉ đó và rằng nó hoàn toàn không phải là hòn ngọc với thợ thuyền
Thành phố Hồ Chí Minh
thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người Pháp duy trì sự xa xỉ đó, và rằng ""Nó hoàn toàn không phải là "hòn ngọc" với thợ thuyền người Việt ở xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác ở cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án kiếp nô lệ, kẻ mất nước. Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn trở thành thuộc địa, phải cung phụng cho Pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần đồn Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ), xóm Lò Bún (gần giếng Hộ Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui..."" Nhà sử học Henry Kamn nhận xét về sự tương phản giữa đời sống của giới thượng lưu Pháp với người dân Sài Gòn địa phương: So với các thuộc địa của Nhật Bản hoặc một số nước thực dân khác (Anh, Mỹ, Hà Lan...), các thuộc địa của Thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ có một trạng thái mong manh yếu ớt. Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam kiếm lợi nhuận chủ yếu thông qua việc bóc lột tài nguyên thuộc địa, nên Pháp không cần thành lập một bộ máy hành chính hiệu quả nhằm tăng năng suất, cũng không cần thực hiện công nghiệp hóa ở quy mô lớn. Quy mô
thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người pháp duy trì sự xa xỉ đó và rằng nó hoàn toàn không phải là hòn ngọc với thợ thuyền người việt ở xưởng đóng tàu ba son cu li bốc vác ở cảng sài gòn phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án kiếp nô lệ kẻ mất nước để phục vụ cho hòn ngọc ấy cả một xã hội sài gòn trở thành thuộc địa phải cung phụng cho pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ xóm củi xóm than xóm dầu xóm bàu sen gần đồn cây mai xóm giá làm giá đậu xanh gần cầu cây gõ xóm lò bún gần giếng hộ tùng xóm ụ ghe xóm rẫy cái xóm cây cui nhà sử học henry kamn nhận xét về sự tương phản giữa đời sống của giới thượng lưu pháp với người dân sài gòn địa phương so với các thuộc địa của nhật bản hoặc một số nước thực dân khác anh mỹ hà lan các thuộc địa của thực dân pháp ở đông dương chỉ có một trạng thái mong manh yếu ớt chủ nghĩa thực dân pháp ở việt nam kiếm lợi nhuận chủ yếu thông qua việc bóc lột tài nguyên thuộc địa nên pháp không cần thành lập một bộ máy hành chính hiệu quả nhằm tăng năng suất cũng không cần thực hiện công nghiệp hóa ở quy mô lớn quy mô
Thành phố Hồ Chí Minh
địa, nên Pháp không cần thành lập một bộ máy hành chính hiệu quả nhằm tăng năng suất, cũng không cần thực hiện công nghiệp hóa ở quy mô lớn. Quy mô nền công nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam quá nhỏ, kinh tế Việt Nam khi đó vẫn chủ yếu là nông nghiệp. Điều này dẫn tới quy mô các đô thị do Pháp xây dựng ở thuộc địa Đông Dương (tiêu biểu là Sài Gòn) cũng khá nhỏ bé, ngay cả khi so sánh với các thành phố thuộc địa của Anh, Mỹ và Hà Lan. Xét về quy mô dân số, các phương pháp thống kê khác nhau từ những nguồn khác nhau cho ra những số liệu khác nhau. Năm 1940, theo điều tra dân số, khu vực đô thị Sài Gòn và tỉnh Chợ Lớn có tổng cộng 256.000 dân. So với các thành phố lớn trong khu vực thì khá nhỏ, như Singapore năm 1940 có 755.000 dân, Hồng Kông năm 1941 có 1,6 triệu dân, Manila hay Jakarta cũng có khoảng gần một triệu dân. === Đô thành Sài Gòn. === Từ năm 1946, Sài Gòn đã là thủ đô của Cộng hòa tự trị Nam Kỳ rồi năm 1949 là thủ đô của Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, Sài Gòn khi đó là thành phố lớn nhất tại miền Nam Việt Nam đã được chọn làm thủ đô với tên gọi chính thức "Đô thành Sài Gòn" (lưu ý, cách
địa nên pháp không cần thành lập một bộ máy hành chính hiệu quả nhằm tăng năng suất cũng không cần thực hiện công nghiệp hóa ở quy mô lớn quy mô nền công nghiệp của thực dân pháp ở việt nam quá nhỏ kinh tế việt nam khi đó vẫn chủ yếu là nông nghiệp điều này dẫn tới quy mô các đô thị do pháp xây dựng ở thuộc địa đông dương tiêu biểu là sài gòn cũng khá nhỏ bé ngay cả khi so sánh với các thành phố thuộc địa của anh mỹ và hà lan xét về quy mô dân số các phương pháp thống kê khác nhau từ những nguồn khác nhau cho ra những số liệu khác nhau năm 1940 theo điều tra dân số khu vực đô thị sài gòn và tỉnh chợ lớn có tổng cộng 256 000 dân so với các thành phố lớn trong khu vực thì khá nhỏ như singapore năm 1940 có 755 000 dân hồng kông năm 1941 có 1 6 triệu dân manila hay jakarta cũng có khoảng gần một triệu dân === đô thành sài gòn === từ năm 1946 sài gòn đã là thủ đô của cộng hòa tự trị nam kỳ rồi năm 1949 là thủ đô của quốc gia việt nam đến năm 1955 việt nam cộng hòa được thành lập sài gòn khi đó là thành phố lớn nhất tại miền nam việt nam đã được chọn làm thủ đô với tên gọi chính thức đô thành sài gòn lưu ý cách
Thành phố Hồ Chí Minh
Sài Gòn khi đó là thành phố lớn nhất tại miền Nam Việt Nam đã được chọn làm thủ đô với tên gọi chính thức "Đô thành Sài Gòn" (lưu ý, cách viết thông dụng thời đó là "Saigon" hoặc "Sài-gòn"). Sau năm 1955, tên đường phố Sài Gòn vốn trước kia toàn là tên Pháp nay đồng loạt đổi tên tiếng Việt (trừ một số ngoại lệ). Việc này do Phòng Họa đồ thuộc Ty Kỹ thuật do Ngô Văn Phát điều hành; ông sắp xếp và chọn lựa tên các danh nhân dựa trên tầm vóc lịch sử và quy tụ gần nhau những nhân vật cùng thời kỳ có liên quan với nhau, như đường Cô Giang và Cô Bắc thì phải gần đường Nguyễn Thái Học; đường Lê Lai thì nhỏ, gần Đại lộ Lê Lợi lớn hơn. Những ý tưởng như Công lý, Tự do, Cộng hòa cũng được dùng đặt tên, tạo cho thành phố những đặc trưng mới. Khi Chiến tranh Đông Dương lan rộng thì di dân từ nông thôn lên thành thị tăng nhanh. Vào thời điểm 1948, vùng Sài Gòn dân số đã lên đến 1,179 triệu người, đến năm 1949 thì dân số khu vực đã tăng lên 1.200.000, và sang năm 1954 với hàng trăm nghìn người di cư mới (phần đông là người Công giáo, còn gọi là dân Bắc Kỳ Công giáo) từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số Sài Gòn leo cao, đạt 2.000.000. Dân di cư tập trung tại
sài gòn khi đó là thành phố lớn nhất tại miền nam việt nam đã được chọn làm thủ đô với tên gọi chính thức đô thành sài gòn lưu ý cách viết thông dụng thời đó là saigon hoặc sài-gòn sau năm 1955 tên đường phố sài gòn vốn trước kia toàn là tên pháp nay đồng loạt đổi tên tiếng việt trừ một số ngoại lệ việc này do phòng họa đồ thuộc ty kỹ thuật do ngô văn phát điều hành ông sắp xếp và chọn lựa tên các danh nhân dựa trên tầm vóc lịch sử và quy tụ gần nhau những nhân vật cùng thời kỳ có liên quan với nhau như đường cô giang và cô bắc thì phải gần đường nguyễn thái học đường lê lai thì nhỏ gần đại lộ lê lợi lớn hơn những ý tưởng như công lý tự do cộng hòa cũng được dùng đặt tên tạo cho thành phố những đặc trưng mới khi chiến tranh đông dương lan rộng thì di dân từ nông thôn lên thành thị tăng nhanh vào thời điểm 1948 vùng sài gòn dân số đã lên đến 1 179 triệu người đến năm 1949 thì dân số khu vực đã tăng lên 1 200 000 và sang năm 1954 với hàng trăm nghìn người di cư mới phần đông là người công giáo còn gọi là dân bắc kỳ công giáo từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số sài gòn leo cao đạt 2 000 000 dân di cư tập trung tại
Thành phố Hồ Chí Minh
người Công giáo, còn gọi là dân Bắc Kỳ Công giáo) từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số Sài Gòn leo cao, đạt 2.000.000. Dân di cư tập trung tại các khu vực như Xóm Mới – Gò Vấp, Bình An – Quận 8, và rải rác tại các quận khác. Với Nghị định số 110-NV ngày 27 tháng 3 năm 1959 của Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ 6 quận, Sài Gòn được chia lại thành 8 quận với tổng cộng 41 phường. Vào nửa cuối thập niên 1950, nhờ viện trợ đáng kể của Chính phủ Hoa Kỳ, Sài Gòn trở thành một trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí tại miền Nam Việt Nam, là thành phố lớn nhất của kinh tế Việt Nam Cộng hòa Từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970, việc Quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố. Nhiều cao ốc, công trình quân sự mọc lên. Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây được du nhập từ binh lính và sách báo Mỹ. Trung tâm thành phố có một số công trình, khu phố được xây dựng to đẹp và sang trọng, tuy nhiên, các công trình này chủ yếu do Pháp xây dựng từ thập niên 1940, các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950, trong khi đó dân
người công giáo còn gọi là dân bắc kỳ công giáo từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số sài gòn leo cao đạt 2 000 000 dân di cư tập trung tại các khu vực như xóm mới – gò vấp bình an – quận 8 và rải rác tại các quận khác với nghị định số 110-nv ngày 27 tháng 3 năm 1959 của tổng thống ngô đình diệm từ 6 quận sài gòn được chia lại thành 8 quận với tổng cộng 41 phường vào nửa cuối thập niên 1950 nhờ viện trợ đáng kể của chính phủ hoa kỳ sài gòn trở thành một trung tâm về chính trị kinh tế văn hóa giải trí tại miền nam việt nam là thành phố lớn nhất của kinh tế việt nam cộng hòa từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970 việc quân đội hoa kỳ vào tham chiến tại miền nam việt nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố nhiều cao ốc công trình quân sự mọc lên lối sống của giới trẻ sài gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương tây được du nhập từ binh lính và sách báo mỹ trung tâm thành phố có một số công trình khu phố được xây dựng to đẹp và sang trọng tuy nhiên các công trình này chủ yếu do pháp xây dựng từ thập niên 1940 các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950 trong khi đó dân
Thành phố Hồ Chí Minh
các công trình này chủ yếu do Pháp xây dựng từ thập niên 1940, các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950, trong khi đó dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến một số khu vực ở Sài Gòn dần trở thành những khu ổ chuột khổng lồ. Khảo sát cho thấy khoảng 40% dân số khu vực Sài Gòn khi đó (tức khoảng 1,2 triệu người) phải sống tại khu ổ chuột với những điều kiện về y tế, vệ sinh rất kém Trên tạp chí Xây dựng tháng 9/1967, tác giả Phạm Hoàng Thanh viết: ""Mỗi ngày dân chúng ở quê lũ lượt kéo lên thành phố khiến dân số nơi đây gia tăng một cách kinh khủng, có nơi mật độ lên tới 28.000 người một cây số vuông. Người ta chen lấn giành giựt nhau từng tấc đất để xây cất. Hiện giờ ở Sài Gòn, sau những cao ốc đẹp đẽ, có ai ngờ là hàng ngàn hàng vạn ngôi nhà ván lợp tôn chèn ép nhau, tối tăm bẩn thỉu, bên cạnh những ao tù nước đọng, những đống rác thối tha ghê tởm"". Để giải quyết nạn khan hiếm nhà hết sức trầm trọng ở Sài Gòn lúc đó, theo tính toán, thành phố cần xây mới 50.000 căn hộ và giải tỏa 110.000 nhà ổ chuột. Thế nhưng, trong suốt 10 năm, chỉ có 15.700 căn hộ được xây dựng. Trong thời kỳ chiến tranh leo
các công trình này chủ yếu do pháp xây dựng từ thập niên 1940 các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950 trong khi đó dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến một số khu vực ở sài gòn dần trở thành những khu ổ chuột khổng lồ khảo sát cho thấy khoảng 40% dân số khu vực sài gòn khi đó tức khoảng 1 2 triệu người phải sống tại khu ổ chuột với những điều kiện về y tế vệ sinh rất kém trên tạp chí xây dựng tháng 9 1967 tác giả phạm hoàng thanh viết mỗi ngày dân chúng ở quê lũ lượt kéo lên thành phố khiến dân số nơi đây gia tăng một cách kinh khủng có nơi mật độ lên tới 28 000 người một cây số vuông người ta chen lấn giành giựt nhau từng tấc đất để xây cất hiện giờ ở sài gòn sau những cao ốc đẹp đẽ có ai ngờ là hàng ngàn hàng vạn ngôi nhà ván lợp tôn chèn ép nhau tối tăm bẩn thỉu bên cạnh những ao tù nước đọng những đống rác thối tha ghê tởm để giải quyết nạn khan hiếm nhà hết sức trầm trọng ở sài gòn lúc đó theo tính toán thành phố cần xây mới 50 000 căn hộ và giải tỏa 110 000 nhà ổ chuột thế nhưng trong suốt 10 năm chỉ có 15 700 căn hộ được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh leo
Thành phố Hồ Chí Minh
cần xây mới 50.000 căn hộ và giải tỏa 110.000 nhà ổ chuột. Thế nhưng, trong suốt 10 năm, chỉ có 15.700 căn hộ được xây dựng. Trong thời kỳ chiến tranh leo thang, viện trợ kinh tế dồi dào từ Mỹ đã tạo ra một khuynh hướng tiêu thụ xa xỉ "quá trớn" trong dân chúng (nhất là việc người giàu đua nhau mua xe máy, ô tô). Trong giai đoạn 1964–1969, số xe du lịch nhập khẩu đã bằng 80% số xe nhập khẩu trong suốt 10 năm trước, năm 1966, số xe gắn máy được nhập khẩu cao gấp 5 lần so với năm 1963. Nhiều người ngoại quốc tới Sài Gòn lúc đó đã đặt cho thành phố cái tên là ""thành phố Honda"", do có nhiều xe máy hiệu Honda được nhập khẩu. Nhìn bề ngoài thì nền kinh tế Sài Gòn đang ""phát triển phồn vinh"", nhưng thực ra đó chỉ là bề ngoài mang tính tạm thời và bất ổn, bởi đó là do yếu tố bên ngoài đem lại (viện trợ của Mỹ) chứ không phải nhờ khả năng sản xuất nội tại của nền kinh tế. Quan chức kinh tế chính phủ Sài Gòn cũng cảm thấy lo ngại về tình trạng này, khi nguồn ngoại tệ bị phung phí vào những mặt hàng xa xỉ chứ không được dùng để mua phương tiện sản xuất. Tuy số lượng xe máy, xe ô tô tăng nhanh nhờ viện trợ của Mỹ từ năm 1963, nhưng nhìn chung vẫn còn
cần xây mới 50 000 căn hộ và giải tỏa 110 000 nhà ổ chuột thế nhưng trong suốt 10 năm chỉ có 15 700 căn hộ được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh leo thang viện trợ kinh tế dồi dào từ mỹ đã tạo ra một khuynh hướng tiêu thụ xa xỉ quá trớn trong dân chúng nhất là việc người giàu đua nhau mua xe máy ô tô trong giai đoạn 1964–1969 số xe du lịch nhập khẩu đã bằng 80% số xe nhập khẩu trong suốt 10 năm trước năm 1966 số xe gắn máy được nhập khẩu cao gấp 5 lần so với năm 1963 nhiều người ngoại quốc tới sài gòn lúc đó đã đặt cho thành phố cái tên là thành phố honda do có nhiều xe máy hiệu honda được nhập khẩu nhìn bề ngoài thì nền kinh tế sài gòn đang phát triển phồn vinh nhưng thực ra đó chỉ là bề ngoài mang tính tạm thời và bất ổn bởi đó là do yếu tố bên ngoài đem lại viện trợ của mỹ chứ không phải nhờ khả năng sản xuất nội tại của nền kinh tế quan chức kinh tế chính phủ sài gòn cũng cảm thấy lo ngại về tình trạng này khi nguồn ngoại tệ bị phung phí vào những mặt hàng xa xỉ chứ không được dùng để mua phương tiện sản xuất tuy số lượng xe máy xe ô tô tăng nhanh nhờ viện trợ của mỹ từ năm 1963 nhưng nhìn chung vẫn còn
Thành phố Hồ Chí Minh
chứ không được dùng để mua phương tiện sản xuất. Tuy số lượng xe máy, xe ô tô tăng nhanh nhờ viện trợ của Mỹ từ năm 1963, nhưng nhìn chung vẫn còn khá ít xét theo tỷ lệ dân số. Đầu thập niên 1970, toàn thành phố Sài Gòn có khoảng 250.000 xe gắn máy, 800 xe buýt và khoảng 20.000 xe ô tô (trên tổng dân số 2,5 triệu), trung bình cứ 10 người dân thì mới có một xe máy. Phần lớn người dân không có phương tiện di chuyển nào khác hơn là đi bộ hoặc đi xe đạp, người nghèo từ các khu ổ chuột ngoại ô thường phải đi bộ 2 giờ để tới làm việc ở trung tâm thành phố. Khi Mỹ dần rút quân thì các phương tiện giao thông cũng xuống dốc do thiếu tiền. Đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động người Việt và giảm viện trợ, nên kinh tế Việt Nam Cộng hòa bị suy thoái, lạm phát trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ nước ngoài. Cuộc Khủng hoảng dầu mỏ 1973 tiếp tục giáng một đòn mạnh vào hệ thống giao thông Sài Gòn. Do giá dầu nhập khẩu tăng cao trong khi Mỹ giảm viện trợ kinh tế, xăng dầu trở nên khan hiếm, nhiều loại xe cộ phải xếp xó do chủ nhân không có đủ tiền mua xăng. Ngay cả ở Sài Gòn, số lượng người
chứ không được dùng để mua phương tiện sản xuất tuy số lượng xe máy xe ô tô tăng nhanh nhờ viện trợ của mỹ từ năm 1963 nhưng nhìn chung vẫn còn khá ít xét theo tỷ lệ dân số đầu thập niên 1970 toàn thành phố sài gòn có khoảng 250 000 xe gắn máy 800 xe buýt và khoảng 20 000 xe ô tô trên tổng dân số 2 5 triệu trung bình cứ 10 người dân thì mới có một xe máy phần lớn người dân không có phương tiện di chuyển nào khác hơn là đi bộ hoặc đi xe đạp người nghèo từ các khu ổ chuột ngoại ô thường phải đi bộ 2 giờ để tới làm việc ở trung tâm thành phố khi mỹ dần rút quân thì các phương tiện giao thông cũng xuống dốc do thiếu tiền đến cuối năm 1969 do mỹ ngừng thuê lao động người việt và giảm viện trợ nên kinh tế việt nam cộng hòa bị suy thoái lạm phát trở nên nghiêm trọng chính phủ việt nam cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ nước ngoài cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 tiếp tục giáng một đòn mạnh vào hệ thống giao thông sài gòn do giá dầu nhập khẩu tăng cao trong khi mỹ giảm viện trợ kinh tế xăng dầu trở nên khan hiếm nhiều loại xe cộ phải xếp xó do chủ nhân không có đủ tiền mua xăng ngay cả ở sài gòn số lượng người
Thành phố Hồ Chí Minh
kinh tế, xăng dầu trở nên khan hiếm, nhiều loại xe cộ phải xếp xó do chủ nhân không có đủ tiền mua xăng. Ngay cả ở Sài Gòn, số lượng người dân đi làm bằng xe đạp cũng tăng nhanh chóng từ năm 1973. Viện trợ của Mỹ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Sài Gòn thời kỳ này. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) giống như một "Phủ Toàn quyền Đông Dương" có quyền lực cao hơn cả Chính phủ Sài Gòn. Nếu sức sản xuất của Sài Gòn kém, viện trợ từ Mỹ sẽ cung cấp một lượng hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ, nếu ngân sách bị thâm hụt thì viện trợ của Mỹ sẽ giúp bù đắp từ Quỹ đối giá. Kết quả là nền kinh tế Sài Gòn bị hàng nhập khẩu chi phối quá mức, cả những nhu yếu phẩm hàng ngày như gạo, thịt, cá cũng phải nhập khẩu. Sự sống của nền kinh tế Sài Gòn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu, mà nhập khẩu lại phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ. Do vậy, khi nguồn viện trợ Mỹ bị cắt giảm đột ngột thì nền kinh tế của Sài Gòn cũng bị cắt nguồn sống, sức tiêu thụ cũng hết và ngân sách cũng cạn kiệt. Giáo sư Nguyễn Cao Hách – Phó Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Xã hội của Chính phủ Sài Gòn nhận định rằng ""nếu Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ,
kinh tế xăng dầu trở nên khan hiếm nhiều loại xe cộ phải xếp xó do chủ nhân không có đủ tiền mua xăng ngay cả ở sài gòn số lượng người dân đi làm bằng xe đạp cũng tăng nhanh chóng từ năm 1973 viện trợ của mỹ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế sài gòn thời kỳ này cơ quan phát triển quốc tế hoa kỳ usaid giống như một phủ toàn quyền đông dương có quyền lực cao hơn cả chính phủ sài gòn nếu sức sản xuất của sài gòn kém viện trợ từ mỹ sẽ cung cấp một lượng hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ nếu ngân sách bị thâm hụt thì viện trợ của mỹ sẽ giúp bù đắp từ quỹ đối giá kết quả là nền kinh tế sài gòn bị hàng nhập khẩu chi phối quá mức cả những nhu yếu phẩm hàng ngày như gạo thịt cá cũng phải nhập khẩu sự sống của nền kinh tế sài gòn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu mà nhập khẩu lại phụ thuộc vào viện trợ của mỹ do vậy khi nguồn viện trợ mỹ bị cắt giảm đột ngột thì nền kinh tế của sài gòn cũng bị cắt nguồn sống sức tiêu thụ cũng hết và ngân sách cũng cạn kiệt giáo sư nguyễn cao hách – phó chủ tịch hội đồng kinh tế xã hội của chính phủ sài gòn nhận định rằng nếu hoa kỳ cắt giảm viện trợ
Thành phố Hồ Chí Minh
cạn kiệt. Giáo sư Nguyễn Cao Hách – Phó Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Xã hội của Chính phủ Sài Gòn nhận định rằng ""nếu Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, chính phủ chỉ có thể sống được 4 tháng thôi"". Nói chung, từ năm 1963, nguồn viện trợ lớn từ Hoa Kỳ đã không giải quyết vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất của nền kinh tế là ""sự tự chủ"." Trái lại, nó đã trở thành một loại ma túy nguy hại cho bản thân Sài Gòn. Nó tạo ra sự ỷ lại của người dân và quan chức, nền kinh tế phụ thuộc nặng vào viện trợ và thiếu động lực để tự lực cánh sinh. Về bản chất, viện trợ mà Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng hòa là mấu chốt để duy trì một lãnh thổ phụ thuộc vào Mỹ thay vì xây dựng một đất nước có thể tự lực Tới năm 1973 thì hậu quả của việc phụ thuộc quá mức vào viện trợ đã xảy đến: nền kinh tế miền Nam (trong đó có Sài Gòn) lâm vào khủng hoảng do Mỹ giảm viện trợ kinh tế. Nạn lạm phát trở nên nghiêm trọng: Năm 1970, tỷ lệ lạm phát (tính toán dựa trên chỉ số giá tiêu dùng tại Sài Gòn áp dụng cho tầng lớp lao động) đã là 36,8%. Năm 1973, tỷ lệ lạm phát tăng lên 44,5%, và năm 1974 đã vượt quá 200%. Hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc khủng
cạn kiệt giáo sư nguyễn cao hách – phó chủ tịch hội đồng kinh tế xã hội của chính phủ sài gòn nhận định rằng nếu hoa kỳ cắt giảm viện trợ chính phủ chỉ có thể sống được 4 tháng thôi nói chung từ năm 1963 nguồn viện trợ lớn từ hoa kỳ đã không giải quyết vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất của nền kinh tế là sự tự chủ trái lại nó đã trở thành một loại ma túy nguy hại cho bản thân sài gòn nó tạo ra sự ỷ lại của người dân và quan chức nền kinh tế phụ thuộc nặng vào viện trợ và thiếu động lực để tự lực cánh sinh về bản chất viện trợ mà hoa kỳ cho việt nam cộng hòa là mấu chốt để duy trì một lãnh thổ phụ thuộc vào mỹ thay vì xây dựng một đất nước có thể tự lực tới năm 1973 thì hậu quả của việc phụ thuộc quá mức vào viện trợ đã xảy đến nền kinh tế miền nam trong đó có sài gòn lâm vào khủng hoảng do mỹ giảm viện trợ kinh tế nạn lạm phát trở nên nghiêm trọng năm 1970 tỷ lệ lạm phát tính toán dựa trên chỉ số giá tiêu dùng tại sài gòn áp dụng cho tầng lớp lao động đã là 36 8% năm 1973 tỷ lệ lạm phát tăng lên 44 5% và năm 1974 đã vượt quá 200% hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc khủng
Thành phố Hồ Chí Minh
lớp lao động) đã là 36,8%. Năm 1973, tỷ lệ lạm phát tăng lên 44,5%, và năm 1974 đã vượt quá 200%. Hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ảnh hưởng xấu tới Sài Gòn. Với việc Mỹ giảm viện trợ trong khi nền sản xuất nội tại thì yếu kém, nền kinh tế tiêu dùng dựa vào viện trợ của Việt Nam Cộng hòa đã không thể phát triển ổn định, bền vững Việc rút đi của hơn nửa triệu quân Mỹ đã để lại một khoảng trống khổng lồ trong nền kinh tế: hàng tỷ đôla hàng năm trước đây được lính viễn chinh Mỹ tung vào xã hội qua các dịch vụ mua sắm ở thành phố, nay không còn nữa. Một khối lượng lớn người lao động làm việc trong các "sở Mỹ" (các văn phòng, trụ sở quân sự của Mỹ) cũng không còn việc làm. Số lượng công nhân làm ở các cơ sở của Mỹ năm 1971 là 100.000 người, đến tháng 12 năm 1972 chỉ còn lại 10.000 người, tạo ra thất nghiệp hàng loạt". Theo phúc trình của VECCO xuất bản tháng 1/1975 thì: Sài Gòn năm 1974 có 3 triệu dân thì có đến 600.000 người thất nghiệp. Chênh lệch giàu nghèo rất lớn khi thu nhập của thiểu số "tầng lớp trên" chiếm 43,5% GDP, tầng lớp dưới chỉ đạt 1,8%. Nhà văn đoạt giải Nobel Gabriel Garcia Marquez đã đến thăm Việt Nam mô tả: ""Dưới thời Mỹ chiếm
lớp lao động đã là 36 8% năm 1973 tỷ lệ lạm phát tăng lên 44 5% và năm 1974 đã vượt quá 200% hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ảnh hưởng xấu tới sài gòn với việc mỹ giảm viện trợ trong khi nền sản xuất nội tại thì yếu kém nền kinh tế tiêu dùng dựa vào viện trợ của việt nam cộng hòa đã không thể phát triển ổn định bền vững việc rút đi của hơn nửa triệu quân mỹ đã để lại một khoảng trống khổng lồ trong nền kinh tế hàng tỷ đôla hàng năm trước đây được lính viễn chinh mỹ tung vào xã hội qua các dịch vụ mua sắm ở thành phố nay không còn nữa một khối lượng lớn người lao động làm việc trong các sở mỹ các văn phòng trụ sở quân sự của mỹ cũng không còn việc làm số lượng công nhân làm ở các cơ sở của mỹ năm 1971 là 100 000 người đến tháng 12 năm 1972 chỉ còn lại 10 000 người tạo ra thất nghiệp hàng loạt theo phúc trình của vecco xuất bản tháng 1 1975 thì sài gòn năm 1974 có 3 triệu dân thì có đến 600 000 người thất nghiệp chênh lệch giàu nghèo rất lớn khi thu nhập của thiểu số tầng lớp trên chiếm 43 5% gdp tầng lớp dưới chỉ đạt 1 8% nhà văn đoạt giải nobel gabriel garcia marquez đã đến thăm việt nam mô tả dưới thời mỹ chiếm
Thành phố Hồ Chí Minh
thiểu số "tầng lớp trên" chiếm 43,5% GDP, tầng lớp dưới chỉ đạt 1,8%. Nhà văn đoạt giải Nobel Gabriel Garcia Marquez đã đến thăm Việt Nam mô tả: ""Dưới thời Mỹ chiếm đóng, thành phố không còn giữ được bản sắc văn hóa của mình, trở thành một thiên đường nhân tạo được bao bọc bởi quân đội và sự trợ giúp của Mỹ, của hàng tấn đồ tiếp tế. Người dân Sài Gòn cuối cùng lại tin rằng đây là cuộc sống thực của họ. Vì thế, chiến tranh kết thúc khiến họ trở nên lạc lõng và xa rời thực tế, để rồi 4 năm sau khi người Mỹ cuối cùng rút đi, họ không thể gượng dậy được."" Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều thường dân ở thành phố hoặc binh lính, sĩ quan, viên chức Việt Nam Cộng hòa và những người cộng tác với Mỹ đã ra nước ngoài định cư. Cũng trong thời gian này, ước tính 700.000 người khác được vận động đi kinh tế mới; nền văn hóa có ảnh hưởng phương Tây bị lu mờ rồi tàn lụi. 20 năm chiến tranh đã để lại cho Sài Gòn nhiều di sản nặng nề về xã hội. Theo một ước tính, thời điểm năm 1975, dân số Sài Gòn có khoảng 4 triệu người thì trong số đó đã có tới 150.000 người nghiện heroin. Thời điểm năm 1972, 500.000 người là gái mại dâm và gái quán bar, và khoảng 800.000 trẻ mồ côi lang thang
thiểu số tầng lớp trên chiếm 43 5% gdp tầng lớp dưới chỉ đạt 1 8% nhà văn đoạt giải nobel gabriel garcia marquez đã đến thăm việt nam mô tả dưới thời mỹ chiếm đóng thành phố không còn giữ được bản sắc văn hóa của mình trở thành một thiên đường nhân tạo được bao bọc bởi quân đội và sự trợ giúp của mỹ của hàng tấn đồ tiếp tế người dân sài gòn cuối cùng lại tin rằng đây là cuộc sống thực của họ vì thế chiến tranh kết thúc khiến họ trở nên lạc lõng và xa rời thực tế để rồi 4 năm sau khi người mỹ cuối cùng rút đi họ không thể gượng dậy được sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 nhiều thường dân ở thành phố hoặc binh lính sĩ quan viên chức việt nam cộng hòa và những người cộng tác với mỹ đã ra nước ngoài định cư cũng trong thời gian này ước tính 700 000 người khác được vận động đi kinh tế mới nền văn hóa có ảnh hưởng phương tây bị lu mờ rồi tàn lụi 20 năm chiến tranh đã để lại cho sài gòn nhiều di sản nặng nề về xã hội theo một ước tính thời điểm năm 1975 dân số sài gòn có khoảng 4 triệu người thì trong số đó đã có tới 150 000 người nghiện heroin thời điểm năm 1972 500 000 người là gái mại dâm và gái quán bar và khoảng 800 000 trẻ mồ côi lang thang
Thành phố Hồ Chí Minh
trong số đó đã có tới 150.000 người nghiện heroin. Thời điểm năm 1972, 500.000 người là gái mại dâm và gái quán bar, và khoảng 800.000 trẻ mồ côi lang thang trên các đường phố. === Thành phố Hồ Chí Minh. === Từ 30 tháng 4 năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa bị xóa bỏ và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam quản lý miền Nam. Đô thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định và 2 quận Củ Chi và Phú Hòa kế cận dưới thời Việt Nam Cộng hòa được hợp nhất thành một đơn vị hành chính gọi là thành phố Sài Gòn – Gia Định. Đầu năm 1976, Đảng bộ và Ủy ban Nhân dân thành phố bắt đầu hoạt động. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên của nhà lãnh đạo cộng sản và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên, Hồ Chí Minh. Sau năm 1975, vấn đề người Hoa tại Sài Gòn trở nên trầm trọng. Người Hoa treo quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn, đồng thời từ chối đăng ký quốc tịch Việt Nam. Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng ở miền
trong số đó đã có tới 150 000 người nghiện heroin thời điểm năm 1972 500 000 người là gái mại dâm và gái quán bar và khoảng 800 000 trẻ mồ côi lang thang trên các đường phố === thành phố hồ chí minh === từ 30 tháng 4 năm 1975 chế độ việt nam cộng hòa bị xóa bỏ và chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam việt nam quản lý miền nam đô thành sài gòn tỉnh gia định và 2 quận củ chi và phú hòa kế cận dưới thời việt nam cộng hòa được hợp nhất thành một đơn vị hành chính gọi là thành phố sài gòn – gia định đầu năm 1976 đảng bộ và ủy ban nhân dân thành phố bắt đầu hoạt động ngày 2 tháng 7 năm 1976 quốc hội đầu tiên của nước việt nam thống nhất quyết định đổi tên nước thành cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam đồng thời đổi tên thành phố sài gòn – gia định thành thành phố hồ chí minh theo tên của nhà lãnh đạo cộng sản và chủ tịch nước việt nam dân chủ cộng hoà đầu tiên hồ chí minh sau năm 1975 vấn đề người hoa tại sài gòn trở nên trầm trọng người hoa treo quốc kỳ trung quốc và ảnh mao trạch đông trong vùng chợ lớn đồng thời từ chối đăng ký quốc tịch việt nam hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng ở miền
Thành phố Hồ Chí Minh
Đông trong vùng Chợ Lớn, đồng thời từ chối đăng ký quốc tịch Việt Nam. Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng ở miền Nam từ năm 1963 đến năm 1975, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, người Hoa kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện...và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cuối năm 1976, chính quyền mới đóng cửa tất cả trường học và tòa báo của người Hoa. Năm 1978, các tư doanh bị quốc hữu hóa. Trong bối cảnh quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh chuyển biến xấu, tâm lý bài Hoa lan rộng khắp miền Bắc Việt Nam. Chính quyền Hà Nội thúc ép nhiều gia đình gốc Hoa hồi hương về Quảng Tây.. Vấn đề Hoa kiều được Chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản. Các chiến dịch Cải tạo tư sản miền Nam nhằm xóa bỏ giai cấp tư sản và thực hiện công hữu hóa theo nguyên lý của chủ nghĩa xã hội được tiến hành. Nhà nước đã quốc hữu hóa các cơ sở
đông trong vùng chợ lớn đồng thời từ chối đăng ký quốc tịch việt nam hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng ở miền nam từ năm 1963 đến năm 1975 và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng sản xuất phân phối và tín dụng đến cuối năm 1974 người hoa kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm dệt may hóa chất luyện kim điện và gần như đạt được độc quyền thương mại 100% bán buôn hơn 50% bán lẻ và 90% xuất nhập khẩu hoa kiều ở miền nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường cuối năm 1976 chính quyền mới đóng cửa tất cả trường học và tòa báo của người hoa năm 1978 các tư doanh bị quốc hữu hóa trong bối cảnh quan hệ hà nội – bắc kinh chuyển biến xấu tâm lý bài hoa lan rộng khắp miền bắc việt nam chính quyền hà nội thúc ép nhiều gia đình gốc hoa hồi hương về quảng tây vấn đề hoa kiều được chính phủ việt nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản các chiến dịch cải tạo tư sản miền nam nhằm xóa bỏ giai cấp tư sản và thực hiện công hữu hóa theo nguyên lý của chủ nghĩa xã hội được tiến hành nhà nước đã quốc hữu hóa các cơ sở
Thành phố Hồ Chí Minh
xóa bỏ giai cấp tư sản và thực hiện công hữu hóa theo nguyên lý của chủ nghĩa xã hội được tiến hành. Nhà nước đã quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất, xí nghiệp công quản của tầng lớp tư sản lớn bỏ lại, chủ yếu là của người Hoa. Các doanh nghiệp vừa như nhà in, xưởng thủ công, cửa hàng, cửa hiệu quy mô nhỏ buộc phải kê khai tài sản, vốn liếng trưng thu, trưng mua, tịch thu chuyển thành hợp tác xã. Nhiều chủ doanh nghiệp bị buộc tịch biên không được làm kinh doanh phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp hoặc đi kinh tế mới. Năm 1978, Nhà nước hoàn thành căn bản cải tạo tư sản công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam, xóa bỏ việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp. Đến tháng 5 năm 1979, tất cả các xí nghiệp công quản lúc đầu ở miền Nam đều đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Khó khăn về kinh tế, sự lo sợ về chiến tranh biên giới Tây Nam khiến cho nhiều người người Hoa rời thành phố. Số lượng người Hoa tại thành phố đã giảm đi hơn một nửa trong giai đoạn này. Chính sách quản lý kinh tế quan liêu và cơ chế bao cấp của Nhà nước lên nền kinh tế (cải cách giá-lương-tiền) khiến cho kinh tế lâm vào trì trệ, lạm phát phi mã mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1985. Khi
xóa bỏ giai cấp tư sản và thực hiện công hữu hóa theo nguyên lý của chủ nghĩa xã hội được tiến hành nhà nước đã quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất xí nghiệp công quản của tầng lớp tư sản lớn bỏ lại chủ yếu là của người hoa các doanh nghiệp vừa như nhà in xưởng thủ công cửa hàng cửa hiệu quy mô nhỏ buộc phải kê khai tài sản vốn liếng trưng thu trưng mua tịch thu chuyển thành hợp tác xã nhiều chủ doanh nghiệp bị buộc tịch biên không được làm kinh doanh phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp hoặc đi kinh tế mới năm 1978 nhà nước hoàn thành căn bản cải tạo tư sản công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền nam xóa bỏ việc người hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp đến tháng 5 năm 1979 tất cả các xí nghiệp công quản lúc đầu ở miền nam đều đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh khó khăn về kinh tế sự lo sợ về chiến tranh biên giới tây nam khiến cho nhiều người người hoa rời thành phố số lượng người hoa tại thành phố đã giảm đi hơn một nửa trong giai đoạn này chính sách quản lý kinh tế quan liêu và cơ chế bao cấp của nhà nước lên nền kinh tế cải cách giá-lương-tiền khiến cho kinh tế lâm vào trì trệ lạm phát phi mã mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1985 khi
Thành phố Hồ Chí Minh
của Nhà nước lên nền kinh tế (cải cách giá-lương-tiền) khiến cho kinh tế lâm vào trì trệ, lạm phát phi mã mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1985. Khi công cuộc Đổi mới toàn diện 1986 bắt đầu, Thành phố Hồ Chí Minh đứng ở vị trí tiên phong và đi đầu trong thu hút vốn, công nghệ và đầu tư nước ngoài. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987, trong vòng 3 năm 1988 đến 1990, Thành phố đã cấp 88 giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 976 triệu USD. Cơ cấu ngành công nghiệp bắt đầu chuyển dịch từ sản xuất công nghiệp nặng sang các ngành công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng định hướng xuất khẩu. Với sự phát triển mạnh mẽ về hạ tầng và cởi trói về cơ chế thương mại, mậu dịch, Thành phố ngày càng khẳng định là đi đầu kinh tế của Việt Nam và đạt nhiều chỉ số và thành tựu phát triển kinh tế khá ấn tượng. Đến cuối năm 2018, GDP bình quân đầu người của Thành phố ước đạt hơn 6000 USD/người, cao gấp gần 2.5 lần so với mức trung bình cả nước. Nếu như năm 2000, Thành phố đóng góp khoảng 19% GDP cả nước thì đến năm 2014, thành phố đã chiếm 30% GDP của cả nước. Tuy nhiên tỷ lệ ngân sách được giữ lại của Thành phố Hồ Chí Minh là thấp, năm 2000 tỷ lệ ngân sách
của nhà nước lên nền kinh tế cải cách giá-lương-tiền khiến cho kinh tế lâm vào trì trệ lạm phát phi mã mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1985 khi công cuộc đổi mới toàn diện 1986 bắt đầu thành phố hồ chí minh đứng ở vị trí tiên phong và đi đầu trong thu hút vốn công nghệ và đầu tư nước ngoài sau khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 trong vòng 3 năm 1988 đến 1990 thành phố đã cấp 88 giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 976 triệu usd cơ cấu ngành công nghiệp bắt đầu chuyển dịch từ sản xuất công nghiệp nặng sang các ngành công nghiệp nhẹ hàng tiêu dùng định hướng xuất khẩu với sự phát triển mạnh mẽ về hạ tầng và cởi trói về cơ chế thương mại mậu dịch thành phố ngày càng khẳng định là đi đầu kinh tế của việt nam và đạt nhiều chỉ số và thành tựu phát triển kinh tế khá ấn tượng đến cuối năm 2018 gdp bình quân đầu người của thành phố ước đạt hơn 6000 usd người cao gấp gần 2 5 lần so với mức trung bình cả nước nếu như năm 2000 thành phố đóng góp khoảng 19% gdp cả nước thì đến năm 2014 thành phố đã chiếm 30% gdp của cả nước tuy nhiên tỷ lệ ngân sách được giữ lại của thành phố hồ chí minh là thấp năm 2000 tỷ lệ ngân sách
Thành phố Hồ Chí Minh
thành phố đã chiếm 30% GDP của cả nước. Tuy nhiên tỷ lệ ngân sách được giữ lại của Thành phố Hồ Chí Minh là thấp, năm 2000 tỷ lệ ngân sách được giữ lại là 33% nhưng giảm xuống còn 18% trong giai đoạn 2017-2020. Đây là một trong những lý do khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố so với bình quân cả nước đang giảm. Trong giai đoạn 2001-2010 tốc độ này bằng 1,6 lần cả nước, thì đến giai đoạn 2011-2019 chỉ bằng 1,2 lần. Về cán cân thu - chi, năm 2017 TP HCM bội chi 2.900 tỷ đồng; năm 2018 bội chi hơn 4.880 tỷ đồng; 2019 bội chi gần 3.560 tỷ đồng. Vì thế, Trung ương luôn phải cấp thêm từ nguồn ngân sách để bù đắp cho các khoản chi của thành phố Đến cuối những năm 2000, thành phố bước vào công cuộc đổi mới cơ bản về hạ tầng giao thông vận tải, tiến hành xây dựng và khai trương nhiều công trình trọng điểm như Đại lộ Nguyễn Văn Linh, Đại lộ Đông Tây, cầu Phú Mỹ. Nhiều cảng biển quốc tế được khánh thành và nhiều đường cao tốc được xây dựng nối Thành phố với các tỉnh thành lân cận tạo thuận lợi cho thông thương hàng hóa và phát triển giao thương ngày càng lớn cho thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có diện tích rộng 2.095 km², lớn hơn gấp 30 lần so với đô thị Sài
thành phố đã chiếm 30% gdp của cả nước tuy nhiên tỷ lệ ngân sách được giữ lại của thành phố hồ chí minh là thấp năm 2000 tỷ lệ ngân sách được giữ lại là 33% nhưng giảm xuống còn 18% trong giai đoạn 2017-2020 đây là một trong những lý do khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố so với bình quân cả nước đang giảm trong giai đoạn 2001-2010 tốc độ này bằng 1 6 lần cả nước thì đến giai đoạn 2011-2019 chỉ bằng 1 2 lần về cán cân thu chi năm 2017 tp hcm bội chi 2 900 tỷ đồng năm 2018 bội chi hơn 4 880 tỷ đồng 2019 bội chi gần 3 560 tỷ đồng vì thế trung ương luôn phải cấp thêm từ nguồn ngân sách để bù đắp cho các khoản chi của thành phố đến cuối những năm 2000 thành phố bước vào công cuộc đổi mới cơ bản về hạ tầng giao thông vận tải tiến hành xây dựng và khai trương nhiều công trình trọng điểm như đại lộ nguyễn văn linh đại lộ đông tây cầu phú mỹ nhiều cảng biển quốc tế được khánh thành và nhiều đường cao tốc được xây dựng nối thành phố với các tỉnh thành lân cận tạo thuận lợi cho thông thương hàng hóa và phát triển giao thương ngày càng lớn cho thành phố thành phố hồ chí minh hiện nay có diện tích rộng 2 095 km² lớn hơn gấp 30 lần so với đô thị sài
Thành phố Hồ Chí Minh
phát triển giao thương ngày càng lớn cho thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có diện tích rộng 2.095 km², lớn hơn gấp 30 lần so với đô thị Sài Gòn trước năm 1975 (67,5 km²). Trong đó, tính riêng diện tích khu đô thị là 820 km² (năm 2010), lớn gấp 33 lần so với trước năm 1975 (rộng 25 km²). Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm toàn bộ đô thành Sài Gòn cũ, cộng thêm toàn bộ tỉnh Gia Định, quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ. Theo đà phát triển của kinh tế, lượng người nhập cư đổ vào thành phố cũng ngày càng tăng. Về dân số, tháng 4 năm 2014, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 7,95 triệu dân (trong đó khoảng 6,7 triệu dân sống ở khu đô thị), như vậy là đã tăng 3,2 lần so với mức 2,5 triệu dân của đô thị Sài Gòn ở thời điểm tháng 4 năm 1975. Năm 2017, nếu tính cả người cư trú không đăng ký thì dân số toàn thành phố đã đạt đến 13 triệu người, tăng gấp 5,2 lần so với thời điểm tháng 4 năm 1975. Thống kê giữa năm 2017 cho thấy thành phố có tới gần 7,6 triệu xe máy (chiếm 1/3 lượng xe máy cả nước) và khoảng 700.000 xe ôtô. Như vậy, số xe máy lưu thông trong thành phố đã tăng gấp 30 lần, số xe ô tô
phát triển giao thương ngày càng lớn cho thành phố thành phố hồ chí minh hiện nay có diện tích rộng 2 095 km² lớn hơn gấp 30 lần so với đô thị sài gòn trước năm 1975 67 5 km² trong đó tính riêng diện tích khu đô thị là 820 km² năm 2010 lớn gấp 33 lần so với trước năm 1975 rộng 25 km² thành phố hồ chí minh ngày nay bao gồm toàn bộ đô thành sài gòn cũ cộng thêm toàn bộ tỉnh gia định quận phú hòa của tỉnh bình dương và quận củ chi của tỉnh hậu nghĩa cũ theo đà phát triển của kinh tế lượng người nhập cư đổ vào thành phố cũng ngày càng tăng về dân số tháng 4 năm 2014 toàn thành phố hồ chí minh có 7 95 triệu dân trong đó khoảng 6 7 triệu dân sống ở khu đô thị như vậy là đã tăng 3 2 lần so với mức 2 5 triệu dân của đô thị sài gòn ở thời điểm tháng 4 năm 1975 năm 2017 nếu tính cả người cư trú không đăng ký thì dân số toàn thành phố đã đạt đến 13 triệu người tăng gấp 5 2 lần so với thời điểm tháng 4 năm 1975 thống kê giữa năm 2017 cho thấy thành phố có tới gần 7 6 triệu xe máy chiếm 1 3 lượng xe máy cả nước và khoảng 700 000 xe ôtô như vậy số xe máy lưu thông trong thành phố đã tăng gấp 30 lần số xe ô tô
Thành phố Hồ Chí Minh
máy (chiếm 1/3 lượng xe máy cả nước) và khoảng 700.000 xe ôtô. Như vậy, số xe máy lưu thông trong thành phố đã tăng gấp 30 lần, số xe ô tô đã tăng gấp 35 lần so với giai đoạn trước năm 1975. Với tổng diện tích 2.096 km² và hơn 8 triệu dân (số liệu 2014), Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn thứ 2 Việt Nam về diện tích (sau Hà Nội) và lớn nhất về dân số. 11 quận nội thành của Sài Gòn trước đây được chia lại thành 8 quận. 4 quận Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình được thành lập. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè. Năm 1978, thành phố nhận thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm 1989, thành phố còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Đến năm 1997, phân chia hành chính của thành phố lại thay đổi, gồm 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn. Năm 2004, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường, xã và thị trấn.. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện với 312 phường, xã, thị trấn. Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc
máy chiếm 1 3 lượng xe máy cả nước và khoảng 700 000 xe ôtô như vậy số xe máy lưu thông trong thành phố đã tăng gấp 30 lần số xe ô tô đã tăng gấp 35 lần so với giai đoạn trước năm 1975 với tổng diện tích 2 096 km² và hơn 8 triệu dân số liệu 2014 thành phố hồ chí minh là đô thị lớn thứ 2 việt nam về diện tích sau hà nội và lớn nhất về dân số 11 quận nội thành của sài gòn trước đây được chia lại thành 8 quận 4 quận gò vấp phú nhuận bình thạnh tân bình được thành lập khu vực ngoại thành gồm 5 huyện thủ đức hóc môn củ chi bình chánh nhà bè năm 1978 thành phố nhận thêm huyện duyên hải của tỉnh đồng nai năm 1979 các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại toàn thành phố có 261 phường 86 xã sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm 1989 thành phố còn 182 phường và 100 xã thị trấn đến năm 1997 phân chia hành chính của thành phố lại thay đổi gồm 17 quận 5 huyện với 303 phường xã thị trấn năm 2004 thành phố hồ chí minh gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường xã và thị trấn hiện nay thành phố hồ chí minh gồm 16 quận 1 thành phố và 5 huyện với 312 phường xã thị trấn ngày 24 tháng 11 năm 2017 quốc
Thành phố Hồ Chí Minh
xã và thị trấn.. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện với 312 phường, xã, thị trấn. Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc hội Việt Nam ra Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tăng thêm quyền hạn cho chính quyền thành phố trong việc quản lý đất đai, quản lý đầu tư, quản lý tài chính – ngân sách nhà nước. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có nhiều quyền hạn hơn trong việc quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phê duyệt đầu tư công; có thêm những nguồn thu mới, có thể được giữ lại ngân sách nhiều hơn và được hưởng một phần số thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quản lý hoặc đại diện sở hữu, được chủ động vay vốn bằng các hình thức khác nhau. Ngoài ra, chính quyền thành phố các cấp còn được chủ động phân quyền cho chính quyền cấp dưới; quyết định mức thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia thuộc thành phố quản lý. == Địa lý. == === Vị trí địa lý. === Thành phố Hồ Chí Minh có toạ độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông. BULLET::::- Phía bắc giáp tỉnh Bình Dương. BULLET::::- Phía tây giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Long An BULLET::::- Phía đông giáp
xã và thị trấn hiện nay thành phố hồ chí minh gồm 16 quận 1 thành phố và 5 huyện với 312 phường xã thị trấn ngày 24 tháng 11 năm 2017 quốc hội việt nam ra nghị quyết về thí điểm cơ chế chính sách đặc thù phát triển thành phố hồ chí minh trong đó tăng thêm quyền hạn cho chính quyền thành phố trong việc quản lý đất đai quản lý đầu tư quản lý tài chính – ngân sách nhà nước thành phố hồ chí minh sẽ có nhiều quyền hạn hơn trong việc quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất phê duyệt đầu tư công có thêm những nguồn thu mới có thể được giữ lại ngân sách nhiều hơn và được hưởng một phần số thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước do ủy ban nhân dân thành phố hồ chí minh quản lý hoặc đại diện sở hữu được chủ động vay vốn bằng các hình thức khác nhau ngoài ra chính quyền thành phố các cấp còn được chủ động phân quyền cho chính quyền cấp dưới quyết định mức thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ công chức viên chức chuyên gia thuộc thành phố quản lý == địa lý == === vị trí địa lý === thành phố hồ chí minh có toạ độ 10°10 – 10°38 bắc và 106°22 – 106°54 đông bullet phía bắc giáp tỉnh bình dương bullet phía tây giáp tỉnh tây ninh và tỉnh long an bullet phía đông giáp
Thành phố Hồ Chí Minh
Minh có toạ độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông. BULLET::::- Phía bắc giáp tỉnh Bình Dương. BULLET::::- Phía tây giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Long An BULLET::::- Phía đông giáp tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. BULLET::::- Phía nam giáp Biển Đông và tỉnh Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Vùng cao nằm ở phía bắc – Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở Thủ Đức. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía nam – tây nam và đông nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới một mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần thành phố Thủ Đức, toàn bộ huyện Hóc Môn và Quận 12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10
minh có toạ độ 10°10 – 10°38 bắc và 106°22 – 106°54 đông bullet phía bắc giáp tỉnh bình dương bullet phía tây giáp tỉnh tây ninh và tỉnh long an bullet phía đông giáp tỉnh đồng nai và bà rịa – vũng tàu bullet phía nam giáp biển đông và tỉnh tiền giang nằm ở miền nam việt nam thành phố hồ chí minh cách hà nội 1 730 km theo đường bộ trung tâm thành phố cách bờ biển đông 50 km theo đường chim bay với vị trí tâm điểm của khu vực đông nam á thành phố hồ chí minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ đường thủy và đường không nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền đông nam bộ và đồng bằng sông cửu long địa hình thành phố thấp dần từ bắc xuống nam và từ tây sang đông vùng cao nằm ở phía bắc – đông bắc và một phần tây bắc trung bình 10 đến 25 mét xen kẽ có một số gò đồi cao nhất lên tới 32 mét như đồi long bình ở thủ đức ngược lại vùng trũng nằm ở phía nam – tây nam và đông nam thành phố có độ cao trung bình trên dưới một mét nơi thấp nhất 0 5 mét các khu vực trung tâm một phần thành phố thủ đức toàn bộ huyện hóc môn và quận 12 có độ cao trung bình khoảng 5 tới 10
Thành phố Hồ Chí Minh
thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần thành phố Thủ Đức, toàn bộ huyện Hóc Môn và Quận 12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét. ==== Các điểm cực của thành phố Hồ Chí Minh:. ==== BULLET::::- Điểm cực Bắc tại: xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi. BULLET::::- Điểm cực Tây tại: xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi. BULLET::::- Điểm cực Nam tại: xã Long Hòa, huyện Cần Giờ. BULLET::::- Điểm cực Đông tại: xã Thạnh An, huyện Cần Giờ. === Điều kiện tự nhiên. === ==== Địa chất, thủy văn. ==== Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm tích Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu hết phần phía Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng: đất xám. Với hơn 45 nghìn hecta, tức khoảng 23,4% diện tích thành phố, đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại: đất xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley. Trầm tích Holocen ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển, vũng vịnh, sông biển, bãi bồi... hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một
thấp nhất 0 5 mét các khu vực trung tâm một phần thành phố thủ đức toàn bộ huyện hóc môn và quận 12 có độ cao trung bình khoảng 5 tới 10 mét ==== các điểm cực của thành phố hồ chí minh ==== bullet điểm cực bắc tại xã phú mỹ hưng huyện củ chi bullet điểm cực tây tại xã thái mỹ huyện củ chi bullet điểm cực nam tại xã long hòa huyện cần giờ bullet điểm cực đông tại xã thạnh an huyện cần giờ === điều kiện tự nhiên === ==== địa chất thủy văn ==== địa chất thành phố hồ chí minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm tích pleistocen và holocen lộ ra trên bề mặt trầm tích pleistocen chiếm hầu hết phần phía bắc tây bắc và đông bắc thành phố dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người trầm tích phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng đất xám với hơn 45 nghìn hecta tức khoảng 23 4% diện tích thành phố đất xám ở thành phố hồ chí minh có ba loại đất xám cao đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley trầm tích holocen ở thành phố hồ chí minh có nhiều nguồn gốc biển vũng vịnh sông biển bãi bồi hình thành nhiều loại đất khác nhau nhóm đất phù sa biển với 15 100 ha nhóm đất phèn với 40 800 ha và đất phèn mặn với 45 500 ha ngoài ra còn có một
Thành phố Hồ Chí Minh
thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là "giồng" cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò. Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch rất đa dạng. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình quân 20–500 m³/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh, với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu tới 20 m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc, hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một con sông nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính
thành nhiều loại đất khác nhau nhóm đất phù sa biển với 15 100 ha nhóm đất phèn với 40 800 ha và đất phèn mặn với 45 500 ha ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là giồng cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò về thủy văn nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông đồng nai – sài gòn thành phố hồ chí minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng sông đồng nai bắt nguồn từ cao nguyên lâm viên hợp lưu bởi nhiều sông khác có lưu vực lớn khoảng 45 000 km² với lưu lượng bình quân 20–500 m³ s hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước sông đồng nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố sông sài gòn bắt nguồn từ vùng hớn quản chảy qua thủ dầu một đến thành phố hồ chí minh với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km sông sài gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³ s bề rộng tại thành phố khoảng 225 m đến 370 m độ sâu tới 20 m nhờ hệ thống kênh rạch chiếc hai con sông đồng nai và sài gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng một con sông nữa của thành phố hồ chí minh là sông nhà bè hình thành ở nơi hợp lưu hai sông đồng nai và sài gòn chảy ra biển đông bởi hai ngả chính
Thành phố Hồ Chí Minh
nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc –Thị Nghè, Bến Nghé, Tàu Hủ, Kênh Tẻ, Kênh Đôi... Hệ thống sông, kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Đông, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành. Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía nam, trên trầm tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt, vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng: 0–20 m, 60–90 m và 170–200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại Quận 12, huyện Hóc Môn và huyện Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60–90
nữa của thành phố hồ chí minh là sông nhà bè hình thành ở nơi hợp lưu hai sông đồng nai và sài gòn chảy ra biển đông bởi hai ngả chính soài rạp và gành rái trong đó ngả gành rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng sài gòn ngoài các con sông chính thành phố hồ chí minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt láng the bàu nông rạch tra bến cát an hạ tham lương cầu bông nhiêu lộc –thị nghè bến nghé tàu hủ kênh tẻ kênh đôi hệ thống sông kênh rạch giúp thành phố hồ chí minh trong việc tưới tiêu nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển đông thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành nhờ trầm tích pleistocen khu vực phía bắc thành phố hồ chí minh có được lượng nước ngầm khá phong phú nhưng về phía nam trên trầm tích holocen nước ngầm thường bị nhiễm phèn nhiễm mặn khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể tuy chất lượng không thực sự tốt vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng 0–20 m 60–90 m và 170–200 m tầng trầm tích miocen tại quận 12 huyện hóc môn và huyện củ chi chất lượng nước tốt trữ lượng dồi dào thường được khai thác ở tầng 60–90
Thành phố Hồ Chí Minh
và 170–200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại Quận 12, huyện Hóc Môn và huyện Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60–90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng. ==== Khí hậu. ==== Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam Bộ khác, Thành phố Hồ Chí Minh không có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ cao đều và mưa quanh năm (mùa khô ít mưa). Trong năm, Thành phố Hồ Chí Minh có 2 mùa là biến thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao mưa nhiều), còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau (khí hậu khô, nhiệt độ cao và mưa ít). Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270 giờ nắng/tháng, nhiệt độ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng
và 170–200 m tầng trầm tích miocen tại quận 12 huyện hóc môn và huyện củ chi chất lượng nước tốt trữ lượng dồi dào thường được khai thác ở tầng 60–90 m trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng ==== khí hậu ==== nằm trong vùng nhiệt đới xavan cũng như một số tỉnh nam bộ khác thành phố hồ chí minh không có bốn mùa xuân hạ thu đông nhiệt độ cao đều và mưa quanh năm mùa khô ít mưa trong năm thành phố hồ chí minh có 2 mùa là biến thể của mùa hè mùa mưa – khô rõ rệt mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11 khí hậu nóng ẩm nhiệt độ cao mưa nhiều còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau khí hậu khô nhiệt độ cao và mưa ít trung bình thành phố hồ chí minh có 160 tới 270 giờ nắng tháng nhiệt độ trung bình 27 °c cao nhất lên tới 40 °c thấp nhất xuống 13 8 °c hàng năm thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °c lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1 949 mm năm trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2 718 mm thấp nhất xuống 1 392 mm vào năm 1958 một năm ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5 tới 11 chiếm khoảng 90% đặc biệt hai tháng 6 và 9 trên phạm vi không gian thành phố lượng mưa phân bố không đều khuynh hướng
Thành phố Hồ Chí Minh
vào các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây Nam – Đông Bắc. Các quận nội thành và các huyện phía bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại. Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Đông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió mậu dịch theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm không khí đạt 79,5%/năm. Với những biến đổi khí hậu, Sài Gòn thuộc danh sách 10 thành phố trên thế giới bị đe dọa vì nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo dự tính của Liên Hợp Quốc thì đến năm 2050 nước biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu đô thị Sài Gòn sẽ bị ngập lụt. Ngân hàng Phát triển Á châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên
vào các tháng từ 5 tới 11 chiếm khoảng 90% đặc biệt hai tháng 6 và 9 trên phạm vi không gian thành phố lượng mưa phân bố không đều khuynh hướng tăng theo trục tây nam – đông bắc các quận nội thành và các huyện phía bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại thành phố hồ chí minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa tây – tây nam và bắc – đông bắc gió tây – tây nam từ ấn độ dương tốc độ trung bình 3 6 m s vào mùa mưa gió gió bắc – đông bắc từ biển đông tốc độ trung bình 2 4 m s vào mùa khô ngoài ra còn có gió mậu dịch theo hướng nam – đông nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5 trung bình 3 7 m s có thể nói thành phố hồ chí minh thuộc vùng không có gió bão cũng như lượng mưa độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa 80% và xuống thấp vào mùa khô 74 5% bình quân độ ẩm không khí đạt 79 5% năm với những biến đổi khí hậu sài gòn thuộc danh sách 10 thành phố trên thế giới bị đe dọa vì nguy cơ mực nước biển dâng cao theo dự tính của liên hợp quốc thì đến năm 2050 nước biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu đô thị sài gòn sẽ bị ngập lụt ngân hàng phát triển á châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên
Thành phố Hồ Chí Minh
biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu đô thị Sài Gòn sẽ bị ngập lụt. Ngân hàng Phát triển Á châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên đến hàng tỷ USD. ==== Môi trường. ==== Với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh, cơ sở hạ tầng chưa kịp quy hoạch nâng cấp tổng thể, ý thức một số người dân lại quá kém trong nhận thức và bảo vệ môi trường chung... Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường rất lớn. Hiện trạng nước thải không được xử lý đổ thẳng vào hệ thống sông ngòi còn rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện và cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý nước thải là một thực trạng đáng báo động. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi chất thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m³/ngày. Sông Sài Gòn, mức độ ô nhiễm vi sinh chủ yếu do hoạt động nuôi trồng thủy sản gây ra vượt tiêu chuẩn cho phép đến 220 lần. Cho tới năm 2008, vẫn chưa có giải pháp cụ thể nào để chấm dứt tình trạng ô nhiễm này. Lượng rác thải ở Thành phố Hồ Chí Minh lên tới 6.000 tấn/ngày, trong đó một phần lượng rác thải rắn không được thu gom hết. Kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy, so với năm 2006, sự
biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu đô thị sài gòn sẽ bị ngập lụt ngân hàng phát triển á châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên đến hàng tỷ usd ==== môi trường ==== với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh cơ sở hạ tầng chưa kịp quy hoạch nâng cấp tổng thể ý thức một số người dân lại quá kém trong nhận thức và bảo vệ môi trường chung vì vậy thành phố hồ chí minh hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường rất lớn hiện trạng nước thải không được xử lý đổ thẳng vào hệ thống sông ngòi còn rất phổ biến nhiều cơ sở sản xuất bệnh viện và cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý nước thải là một thực trạng đáng báo động tại cụm công nghiệp tham lương nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi chất thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500 000 m³ ngày sông sài gòn mức độ ô nhiễm vi sinh chủ yếu do hoạt động nuôi trồng thủy sản gây ra vượt tiêu chuẩn cho phép đến 220 lần cho tới năm 2008 vẫn chưa có giải pháp cụ thể nào để chấm dứt tình trạng ô nhiễm này lượng rác thải ở thành phố hồ chí minh lên tới 6 000 tấn ngày trong đó một phần lượng rác thải rắn không được thu gom hết kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy so với năm 2006 sự
Thành phố Hồ Chí Minh
Chí Minh lên tới 6.000 tấn/ngày, trong đó một phần lượng rác thải rắn không được thu gom hết. Kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy, so với năm 2006, sự ô nhiễm hữu cơ tăng 2 đến 4 lần. Các phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng, sản xuất... còn góp phần gây ô nhiễm không khí. Khu vực ngoại thành, đất cũng bị ô nhiễm do tồn đọng thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp gây nên. Tình trạng ngập lụt trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao, xảy ra cả trong mùa khô. Diện tích khu vực ngập lụt khoảng 140 km² với 85% điểm ngập nước nằm ở khu vực trung tâm thành phố. Thiệt hại do ngập nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm đã xuống cấp. Ngoài ra, việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực phía nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã làm cho tình hình ngập càng nghiêm trọng hơn. Việc thoát nước ở Sài Gòn vốn dựa vào hệ thống sông và kênh, rạch tự nhiên nhưng khoảng 30% diện tích kênh rạch đã bị chính quyền thành phố ra lệnh lấp. Theo một nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thì chỉ trong 12 năm từ 1996 đến 2008, tại Sài Gòn đã có hơn 100 kênh,
chí minh lên tới 6 000 tấn ngày trong đó một phần lượng rác thải rắn không được thu gom hết kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy so với năm 2006 sự ô nhiễm hữu cơ tăng 2 đến 4 lần các phương tiện giao thông hoạt động xây dựng sản xuất còn góp phần gây ô nhiễm không khí khu vực ngoại thành đất cũng bị ô nhiễm do tồn đọng thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp gây nên tình trạng ngập lụt trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao xảy ra cả trong mùa khô diện tích khu vực ngập lụt khoảng 140 km² với 85% điểm ngập nước nằm ở khu vực trung tâm thành phố thiệt hại do ngập nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng mỗi năm nguyên nhân là do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm đã xuống cấp ngoài ra việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực phía nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã làm cho tình hình ngập càng nghiêm trọng hơn việc thoát nước ở sài gòn vốn dựa vào hệ thống sông và kênh rạch tự nhiên nhưng khoảng 30% diện tích kênh rạch đã bị chính quyền thành phố ra lệnh lấp theo một nghiên cứu của viện khoa học thủy lợi miền nam thì chỉ trong 12 năm từ 1996 đến 2008 tại sài gòn đã có hơn 100 kênh
Thành phố Hồ Chí Minh
ra lệnh lấp. Theo một nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thì chỉ trong 12 năm từ 1996 đến 2008, tại Sài Gòn đã có hơn 100 kênh, rạch với tổng diện tích khoảng 4000 hecta bị người dân lấp và bị lấn chiếm. Thậm chí, các con kênh thoát nước cho sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất cũng bị lấn chiếm với nhiều hình thức, các hộ dân xây lấn ra làm hẹp lòng mương, cùng với việc xả rác thải vào đó nên lưu lượng các con kênh này bị giảm đi Ngoài ra, sai lầm của chính quyền trong việc quy hoạch cũng khiến cho tình trạng ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh trở nên nghiêm trọng. Trước những bức xúc về thực trạng môi trường, Thành phố Hồ Chí Minh đang khẩn trương tìm mọi cách nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn. Việc trích ra một nguồn vốn lớn nhiều tỷ đồng đầu tư xây dựng hồ sinh học cải tạo nước kênh Ba Bò là một ví dụ. Từ 2017 tới 2025, thành phố đặt mục tiêu giải tỏa di dời 28.500 căn nhà và tổ chức lại cuộc sống của người dân đang sống ven kênh, rạch để làm thông thoáng các kênh thoát nước này. Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới (Stockholm trên 70 m²/người). Việc thiếu cây xanh đã gây ảnh
ra lệnh lấp theo một nghiên cứu của viện khoa học thủy lợi miền nam thì chỉ trong 12 năm từ 1996 đến 2008 tại sài gòn đã có hơn 100 kênh rạch với tổng diện tích khoảng 4000 hecta bị người dân lấp và bị lấn chiếm thậm chí các con kênh thoát nước cho sân bay quốc tế tân sơn nhất cũng bị lấn chiếm với nhiều hình thức các hộ dân xây lấn ra làm hẹp lòng mương cùng với việc xả rác thải vào đó nên lưu lượng các con kênh này bị giảm đi ngoài ra sai lầm của chính quyền trong việc quy hoạch cũng khiến cho tình trạng ngập lụt thành phố hồ chí minh trở nên nghiêm trọng trước những bức xúc về thực trạng môi trường thành phố hồ chí minh đang khẩn trương tìm mọi cách nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn việc trích ra một nguồn vốn lớn nhiều tỷ đồng đầu tư xây dựng hồ sinh học cải tạo nước kênh ba bò là một ví dụ từ 2017 tới 2025 thành phố đặt mục tiêu giải tỏa di dời 28 500 căn nhà và tổ chức lại cuộc sống của người dân đang sống ven kênh rạch để làm thông thoáng các kênh thoát nước này mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m² người thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới stockholm trên 70 m² người việc thiếu cây xanh đã gây ảnh
Thành phố Hồ Chí Minh
cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới (Stockholm trên 70 m²/người). Việc thiếu cây xanh đã gây ảnh hưởng đến chất lượng không khí của thành phố. == Tổ chức hành chính và chính quyền. == === Tổ chức hành chính. === Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam. Về mặt hành chính, thành phố được chia thành 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện; trong đó có 312 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 249 phường, 58 xã và 5 thị trấn. Vào năm 1995, hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 976 địa chỉ, trong đó 47 thuộc trung ương, 73 thuộc thành phố, 549 thuộc các quận, huyện và 307 thuộc cấp phường xã. Các tổ chức đoàn thể, chính trị bao gồm cấp trung ương và thành phố có 291 địa chỉ, các đơn vị sự nghiệp có 2.719 địa chỉ. === Đảng bộ và chính quyền. === Chính quyền thành phố bao gồm Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân và Tòa án Nhân dân. Hội đồng Nhân dân thành phố, với các đại biểu được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm, có quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế, văn hóa, giáo dục... của thành phố. Đứng đầu HĐND gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch và
cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m² người thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới stockholm trên 70 m² người việc thiếu cây xanh đã gây ảnh hưởng đến chất lượng không khí của thành phố == tổ chức hành chính và chính quyền == === tổ chức hành chính === thành phố hồ chí minh hiện nay là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương của việt nam về mặt hành chính thành phố được chia thành 16 quận 1 thành phố và 5 huyện trong đó có 312 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 249 phường 58 xã và 5 thị trấn vào năm 1995 hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố hồ chí minh có 976 địa chỉ trong đó 47 thuộc trung ương 73 thuộc thành phố 549 thuộc các quận huyện và 307 thuộc cấp phường xã các tổ chức đoàn thể chính trị bao gồm cấp trung ương và thành phố có 291 địa chỉ các đơn vị sự nghiệp có 2 719 địa chỉ === đảng bộ và chính quyền === chính quyền thành phố bao gồm hội đồng nhân dân ủy ban nhân dân và tòa án nhân dân hội đồng nhân dân thành phố với các đại biểu được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm có quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế văn hóa giáo dục của thành phố đứng đầu hđnd gồm một chủ tịch một phó chủ tịch và
Thành phố Hồ Chí Minh
quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế, văn hóa, giáo dục... của thành phố. Đứng đầu HĐND gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch và một Ủy viên thường trực. HĐND chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ khóa X (2021-2026) gồm 94 đại biểu. Chủ tịch HĐND Thành phố hiện tại là bà Nguyễn Thị Lệ. Hội đồng Nhân dân thành phố bầu ra Ủy ban Nhân dân thành phố, cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý về mọi hoạt động chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa trên địa bàn thành phố. Đứng đầu Ủy ban Nhân dân gồm một Chủ tịch và các Phó Chủ tịch. Các sở, ngành của Ủy ban Nhân dân sẽ quản lý về các lĩnh vực cụ thể, như y tế, giáo dục, đầu tư, tư pháp, tài chính... Tương tự, cấp quận, huyện cũng có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân chịu sự chỉ đạo chung của cấp thành phố. Ngoài ra, Ủy ban Nhân dân còn quản lý một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. UBND Thành phố nhiệm kỳ khóa X (2021–2026) được HĐND Thành phố nhiệm
quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế văn hóa giáo dục của thành phố đứng đầu hđnd gồm một chủ tịch một phó chủ tịch và một ủy viên thường trực hđnd chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của ủy ban thường vụ quốc hội chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của ủy ban thường vụ quốc hội hội đồng nhân dân thành phố hồ chí minh nhiệm kỳ khóa x 2021-2026 gồm 94 đại biểu chủ tịch hđnd thành phố hiện tại là bà nguyễn thị lệ hội đồng nhân dân thành phố bầu ra ủy ban nhân dân thành phố cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý về mọi hoạt động chính trị an ninh kinh tế và văn hóa trên địa bàn thành phố đứng đầu ủy ban nhân dân gồm một chủ tịch và các phó chủ tịch các sở ngành của ủy ban nhân dân sẽ quản lý về các lĩnh vực cụ thể như y tế giáo dục đầu tư tư pháp tài chính tương tự cấp quận huyện cũng có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo chung của cấp thành phố ngoài ra ủy ban nhân dân còn quản lý một số tổng công ty trên địa bàn thành phố ubnd thành phố nhiệm kỳ khóa x 2021–2026 được hđnd thành phố nhiệm
Thành phố Hồ Chí Minh
phố. Ngoài ra, Ủy ban Nhân dân còn quản lý một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. UBND Thành phố nhiệm kỳ khóa X (2021–2026) được HĐND Thành phố nhiệm kỳ 2021–2026 bầu ra gồm 24 thành viên và bầu ông Nguyễn Thành Phong làm Chủ tịch UBND Thành phố. Tuy nhiên cuối tháng 8/2021, ông Nguyễn Thành Phong đã được Bộ Chính trị điều động giữ chức Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. HĐND Thành phố sau đó cũng đã tiến hành biểu quyết miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND thành phố của ông và bầu mới Chủ tịch UBND TP (nhiệm kỳ 2021–2026) đương nhiệm là ông Phan Văn Mãi. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm hai cấp: Tòa án nhân dân Thành phố và 24 Tòa án nhân dân cấp quận, huyện. Tại cấp thành phố có 5 tòa chuyên trách: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính và Tòa Lao động. Hiện tại Việt Nam thực hiện hệ thống tòa án hai cấp, có nghĩa là các tòa án nhân dân cấp quận, huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình. Còn Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đồng thời có thể phụ trách xét xử phúc thẩm các vụ án mà tòa cấp dưới đã tuyên nhưng bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Chánh án TAND
phố ngoài ra ủy ban nhân dân còn quản lý một số tổng công ty trên địa bàn thành phố ubnd thành phố nhiệm kỳ khóa x 2021–2026 được hđnd thành phố nhiệm kỳ 2021–2026 bầu ra gồm 24 thành viên và bầu ông nguyễn thành phong làm chủ tịch ubnd thành phố tuy nhiên cuối tháng 8 2021 ông nguyễn thành phong đã được bộ chính trị điều động giữ chức phó trưởng ban kinh tế trung ương hđnd thành phố sau đó cũng đã tiến hành biểu quyết miễn nhiệm chức vụ chủ tịch ubnd thành phố của ông và bầu mới chủ tịch ubnd tp nhiệm kỳ 2021–2026 đương nhiệm là ông phan văn mãi tòa án nhân dân thành phố hồ chí minh bao gồm hai cấp tòa án nhân dân thành phố và 24 tòa án nhân dân cấp quận huyện tại cấp thành phố có 5 tòa chuyên trách tòa hình sự tòa dân sự tòa kinh tế tòa hành chính và tòa lao động hiện tại việt nam thực hiện hệ thống tòa án hai cấp có nghĩa là các tòa án nhân dân cấp quận huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình còn tòa án nhân dân thành phố hồ chí minh cũng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời có thể phụ trách xét xử phúc thẩm các vụ án mà tòa cấp dưới đã tuyên nhưng bản án bị kháng cáo kháng nghị chánh án tand
Thành phố Hồ Chí Minh
sơ thẩm, đồng thời có thể phụ trách xét xử phúc thẩm các vụ án mà tòa cấp dưới đã tuyên nhưng bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Chánh án TAND Thành phố hiện nay là ông Lê Thanh Phong. Về phía Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (hay thường gọi là Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khóa XI nhiệm kỳ 2020–2025 gồm 62 ủy viên chính thức, bầu ra Ban Thường vụ gồm 16 ủy viên. Cùng với Hà Nội, đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy của thành phố và phải là một đảng viên do Bộ Chính trị chỉ định chứ không do Thành ủy bầu ra, thường là một thành viên của cơ quan này. Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh hiện tại là ông Nguyễn Văn Nên. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố nhiệm kỳ 10 (2014–2019) gồm 140 ủy viên, bầu ra Ban Thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 13 ủy viên. Chủ tịch UBMTTQ đương nhiệm là bà Tô Thị Bích Châu, Ủy viên của Ban Thường vụ Thành ủy (được bầu ngày 22/2/2017 thay thế ông Nguyễn Hoàng Năng do được điều động thuyên chuyển công tác). == Kinh tế. == Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đi đầu trong nền kinh tế Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam nhưng chiếm
sơ thẩm đồng thời có thể phụ trách xét xử phúc thẩm các vụ án mà tòa cấp dưới đã tuyên nhưng bản án bị kháng cáo kháng nghị chánh án tand thành phố hiện nay là ông lê thanh phong về phía đảng ủy ban chấp hành đảng bộ thành phố hồ chí minh hay thường gọi là thành ủy thành phố hồ chí minh là cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng bộ thành phố thành ủy thành phố hồ chí minh khóa xi nhiệm kỳ 2020–2025 gồm 62 ủy viên chính thức bầu ra ban thường vụ gồm 16 ủy viên cùng với hà nội đứng đầu đảng ủy thành phố là bí thư thành ủy của thành phố và phải là một đảng viên do bộ chính trị chỉ định chứ không do thành ủy bầu ra thường là một thành viên của cơ quan này bí thư thành ủy thành phố hồ chí minh hiện tại là ông nguyễn văn nên ủy ban mặt trận tổ quốc thành phố nhiệm kỳ 10 2014–2019 gồm 140 ủy viên bầu ra ban thường trực ubmttq thành phố gồm 13 ủy viên chủ tịch ubmttq đương nhiệm là bà tô thị bích châu ủy viên của ban thường vụ thành ủy được bầu ngày 22 2 2017 thay thế ông nguyễn hoàng năng do được điều động thuyên chuyển công tác == kinh tế == thành phố hồ chí minh giữ vai trò đi đầu trong nền kinh tế việt nam thành phố chiếm 0 6% diện tích và 8 34% dân số của việt nam nhưng chiếm
Thành phố Hồ Chí Minh
tế. == Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đi đầu trong nền kinh tế Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,5% tổng sản phẩm GDP, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 37,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.966.400 lao động có độ tuổi từ 15 trở lên, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc. Năm 2008, lực lượng lao động có độ tuổi từ 15 trở lên trên địa bàn thành phố gồm có 3.856.500 người, năm 2009 là 3.868.500 người, năm 2010 đạt 3.909.100 người, đến 2011 con số này đạt 4.000.900 người. Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2012, GRDP đạt 404.720 tỷ đồng, tăng khoảng 8,7%. Năm 2021, GRDP đã đạt mức 1.298.791 tỉ đồng (tương ứng 56,47 tỉ USD), trong đó khu vực thương mại dịch vụ đạt khoảng 63,4%, khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 22,4%, khu vực nông-lâm-thủy sản chỉ chiếm 0,6%. GRDP bình quân đầu người năm 2021 đạt 142,6 triệu đồng (tương đương 6.173 USD). Thu ngân sách năm 2012 ước đạt 215.975 tỉ đồng, đến năm 2021 đã tăng lên là 383.703 tỉ đồng. Trong đó, thu nội địa năm 2021 đạt 253.281 tỷ đồng, vượt 2% dự toán; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 116.400 tỉ đồng, vượt 7% dự toán. Năm 2013, Ủy ban nhân dân Thành phố
tế == thành phố hồ chí minh giữ vai trò đi đầu trong nền kinh tế việt nam thành phố chiếm 0 6% diện tích và 8 34% dân số của việt nam nhưng chiếm tới 20 5% tổng sản phẩm gdp 27 9% giá trị sản xuất công nghiệp và 37 9% dự án nước ngoài vào năm 2005 thành phố hồ chí minh có 2 966 400 lao động có độ tuổi từ 15 trở lên trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc năm 2008 lực lượng lao động có độ tuổi từ 15 trở lên trên địa bàn thành phố gồm có 3 856 500 người năm 2009 là 3 868 500 người năm 2010 đạt 3 909 100 người đến 2011 con số này đạt 4 000 900 người tính chung trong 9 tháng đầu năm 2012 grdp đạt 404 720 tỷ đồng tăng khoảng 8 7% năm 2021 grdp đã đạt mức 1 298 791 tỉ đồng tương ứng 56 47 tỉ usd trong đó khu vực thương mại dịch vụ đạt khoảng 63 4% khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 22 4% khu vực nông-lâm-thủy sản chỉ chiếm 0 6% grdp bình quân đầu người năm 2021 đạt 142 6 triệu đồng tương đương 6 173 usd thu ngân sách năm 2012 ước đạt 215 975 tỉ đồng đến năm 2021 đã tăng lên là 383 703 tỉ đồng trong đó thu nội địa năm 2021 đạt 253 281 tỷ đồng vượt 2% dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 116 400 tỉ đồng vượt 7% dự toán năm 2013 ủy ban nhân dân thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh
năm 2021 đạt 253.281 tỷ đồng, vượt 2% dự toán; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 116.400 tỉ đồng, vượt 7% dự toán. Năm 2013, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã trình Hội đồng nhân dân Thành phố 29 chỉ tiêu về kinh tế và xã hội trong năm 2013, đặt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người năm 2013. Trong đó có một số chỉ tiêu kinh tế gồm có GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.000 USD/người/năm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) dự kiến tăng 9,5-10%, tốc độ kim ngạch xuất khẩu là 13%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dự kiến khoảng 248.500-255.000 tỷ đồng, bằng 36-37% GDP, chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng của cả nước. Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%. Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu
năm 2021 đạt 253 281 tỷ đồng vượt 2% dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 116 400 tỉ đồng vượt 7% dự toán năm 2013 ủy ban nhân dân thành phố hồ chí minh đã trình hội đồng nhân dân thành phố 29 chỉ tiêu về kinh tế và xã hội trong năm 2013 đặt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người năm 2013 trong đó có một số chỉ tiêu kinh tế gồm có gdp bình quân đầu người đạt khoảng 4 000 usd người năm tổng sản phẩm trong nước gdp dự kiến tăng 9 5-10% tốc độ kim ngạch xuất khẩu là 13% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dự kiến khoảng 248 500-255 000 tỷ đồng bằng 36-37% gdp chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng của cả nước nền kinh tế của thành phố hồ chí minh đa dạng về lĩnh vực từ khai thác mỏ thủy sản nông nghiệp công nghiệp chế biến xây dựng đến du lịch tài chính cơ cấu kinh tế của thành phố khu vực nhà nước chiếm 33 3% ngoài quốc doanh chiếm 44 6% phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài về các ngành kinh tế dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất 51 1% phần còn lại công nghiệp và xây dựng chiếm 47 7% nông nghiệp lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1 2% tính đến giữa năm 2006 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp thành phố hồ chí minh đã thu hút được 1 092 dự án đầu
Thành phố Hồ Chí Minh
và thủy sản chỉ chiếm 1,2%. Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND. Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007. Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, Thành phố Hồ Chí Minh xếp ở vị trí thứ 8/63 tỉnh thành. Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998.
và thủy sản chỉ chiếm 1 2% tính đến giữa năm 2006 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp thành phố hồ chí minh đã thu hút được 1 092 dự án đầu tư trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1 9 tỉ usd và 19 5 nghìn tỉ vnd thành phố cũng đứng đầu việt nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2 530 dự án fdi tổng vốn 16 6 tỷ usd vào cuối năm 2007 riêng trong năm 2007 thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ usd trong bảng xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của việt nam năm 2017 thành phố hồ chí minh xếp ở vị trí thứ 8 63 tỉnh thành về thương mại thành phố hồ chí minh có một hệ thống trung tâm mua sắm siêu thị chợ đa dạng chợ bến thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng những thập niên gần đây nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như saigon trade centre diamond plaza mức tiêu thụ của thành phố hồ chí minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của việt nam và gấp 1 5 lần thủ đô hà nội sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh có mã giao dịch là vn-index được thành lập vào tháng 7 năm 1998
Thành phố Hồ Chí Minh
và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn tỷ đồng. Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn cho nền kinh tế. Đầu tư hạ tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh không tương xứng với vai trò kinh tế của nó do tỷ lệ ngân sách mà thành phố này được giữ lại ngày càng giảm. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực công nghệ cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn. == Xã hội. == === Dân cư. === Dân số năm 1929 là 123.890 người,
và gấp 1 5 lần thủ đô hà nội sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh có mã giao dịch là vn-index được thành lập vào tháng 7 năm 1998 tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007 toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn tỷ đồng tuy vậy nền kinh tế của thành phố hồ chí minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại trong đó có 21 212 cơ sở ngành dệt may 4 40 cơ sở ngành da giày 6 68 cơ sở ngành hóa chất 14 144 cơ sở chế biến thực phẩm 18 96 cơ sở cao su nhựa 5 46 cơ sở chế tạo máy có trình độ công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu quá tải chỉ giá tiêu dùng cao tệ nạn xã hội hành chính phức tạp cũng gây khó khăn cho nền kinh tế đầu tư hạ tầng tại thành phố hồ chí minh không tương xứng với vai trò kinh tế của nó do tỷ lệ ngân sách mà thành phố này được giữ lại ngày càng giảm ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực công nghệ cao đem lại hiệu quả kinh tế hơn == xã hội == === dân cư === dân số năm 1929 là 123 890 người
Thành phố Hồ Chí Minh
nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực công nghệ cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn. == Xã hội. == === Dân cư. === Dân số năm 1929 là 123.890 người, trong số đó có 12.100 người Pháp. Gần 40 năm sau, năm 1967, thành phố đã tăng gấp 10 lần với dân số là 1.485.295. Kể từ sau năm 1976, dân số Sài Gòn gia tăng nhanh, nhất là dân nhập cư. Theo thống kê chính thức, dân số Sài Gòn năm 1975 là 3.498.120 người. Tính đến năm 2016, dân số toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 8.441.902 người, với diện tích 2095,39 km², mật độ dân số đạt 4.029 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 6.742.098 người, chiếm 85% dân số toàn thành phố và dân số sống tại nông thôn đạt 1.699.804 người, chiếm 15% dân số. Dân số nam đạt 3.585.000 người, trong khi đó nữ đạt 3.936.100 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 7,4 ‰ Trong các thập niên gần đây, Thành phố Hồ Chí Minh luôn có tỷ số giới tính thấp nhất Việt Nam, luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào Thành phố Hồ Chí Minh luôn có số nữ nhiều hơn số nam.. Thành phố Hồ Chí Minh gặp phải tình trạng quá tải dân số, tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân. Năm 2015, Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 8.248.000 người, chiếm 9% dân số
nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực công nghệ cao đem lại hiệu quả kinh tế hơn == xã hội == === dân cư === dân số năm 1929 là 123 890 người trong số đó có 12 100 người pháp gần 40 năm sau năm 1967 thành phố đã tăng gấp 10 lần với dân số là 1 485 295 kể từ sau năm 1976 dân số sài gòn gia tăng nhanh nhất là dân nhập cư theo thống kê chính thức dân số sài gòn năm 1975 là 3 498 120 người tính đến năm 2016 dân số toàn thành phố hồ chí minh có 8 441 902 người với diện tích 2095 39 km² mật độ dân số đạt 4 029 người km² trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 6 742 098 người chiếm 85% dân số toàn thành phố và dân số sống tại nông thôn đạt 1 699 804 người chiếm 15% dân số dân số nam đạt 3 585 000 người trong khi đó nữ đạt 3 936 100 người tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 7 4 ‰ trong các thập niên gần đây thành phố hồ chí minh luôn có tỷ số giới tính thấp nhất việt nam luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào thành phố hồ chí minh luôn có số nữ nhiều hơn số nam thành phố hồ chí minh gặp phải tình trạng quá tải dân số tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân năm 2015 thành phố hồ chí minh có khoảng 8 248 000 người chiếm 9% dân số
Thành phố Hồ Chí Minh
quá tải dân số, tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân. Năm 2015, Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 8.248.000 người, chiếm 9% dân số Việt Nam, tăng thêm một triệu người so với năm 2009 (dân số năm 2019 là 8,993 triệu người). Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Trong khi một số quận như 4, 5, 10 và 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km², thì huyện ngoại thành Cần Giờ có mật độ tương đối thấp 98 người/km². Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 2,5%. Những năm gần đây, dân số các quận trung tâm có xu hướng giảm, trong khi dân số các quận mới lập vùng ven tăng nhanh, do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập cư từ các tỉnh thành khác đến sinh sống. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng một triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, con số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu.. Đến năm 2019, dân số của thành phố là 8.993.082 người, dự kiến đến năm 2025, dân số toàn thành phố sẽ là hơn 10 triệu người. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 1.738.411 người, nhiều nhất là Công giáo
quá tải dân số tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân năm 2015 thành phố hồ chí minh có khoảng 8 248 000 người chiếm 9% dân số việt nam tăng thêm một triệu người so với năm 2009 dân số năm 2019 là 8 993 triệu người sự phân bố dân cư ở thành phố hồ chí minh không đồng đều trong khi một số quận như 4 5 10 và 11 có mật độ lên tới trên 40 000 người km² thì huyện ngoại thành cần giờ có mật độ tương đối thấp 98 người km² về mức độ gia tăng dân số trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1 07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 2 5% những năm gần đây dân số các quận trung tâm có xu hướng giảm trong khi dân số các quận mới lập vùng ven tăng nhanh do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập cư từ các tỉnh thành khác đến sinh sống theo ước tính năm 2005 trung bình mỗi ngày có khoảng một triệu khách vãng lai tại thành phố hồ chí minh đến năm 2010 con số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu đến năm 2019 dân số của thành phố là 8 993 082 người dự kiến đến năm 2025 dân số toàn thành phố sẽ là hơn 10 triệu người tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 1 738 411 người nhiều nhất là công giáo
Thành phố Hồ Chí Minh
thành phố sẽ là hơn 10 triệu người. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 1.738.411 người, nhiều nhất là Công giáo đạt 845.720 người, tiếp theo là Phật giáo có 770.220 người, đạo Cao Đài chiếm 56.762 người, đạo Tin lành có 45.678 người, Hồi giáo chiếm 9.220 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 7.220 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 2.267 người. Còn lại các tôn giáo khác như Ấn Độ giáo có 395 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 298 người, Minh Sư Đạo có 283 người, đạo Bahá'í có 192 người, Bửu Sơn Kỳ Hương 89 người và 67 người theo Minh Lý Đạo.. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó, nhiều nhất là người Kinh có 6.699.124 người, các dân tộc khác như người Hoa có 414.045 người, người Khmer có 24.268 người, người Chăm 7.819 người, người Tày có 4.514 người, người Mường 3.462 người, ít nhất là người La Hủ chỉ có một người. Những khu vực tập trung nhiều người nước ngoài hay Việt kiều sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những khu chợ, cửa hàng, dịch vụ, món ăn đặc sản của nước đó. Có thể kể đến: Phố Mã Lai
thành phố sẽ là hơn 10 triệu người tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 1 738 411 người nhiều nhất là công giáo đạt 845 720 người tiếp theo là phật giáo có 770 220 người đạo cao đài chiếm 56 762 người đạo tin lành có 45 678 người hồi giáo chiếm 9 220 người phật giáo hòa hảo đạt 7 220 người tịnh độ cư sĩ phật hội việt nam có 2 267 người còn lại các tôn giáo khác như ấn độ giáo có 395 người đạo tứ ân hiếu nghĩa có 298 người minh sư đạo có 283 người đạo bahá í có 192 người bửu sơn kỳ hương 89 người và 67 người theo minh lý đạo theo thống kê của tổng cục thống kê việt nam tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009 toàn thành phố hồ chí minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống trong đó nhiều nhất là người kinh có 6 699 124 người các dân tộc khác như người hoa có 414 045 người người khmer có 24 268 người người chăm 7 819 người người tày có 4 514 người người mường 3 462 người ít nhất là người la hủ chỉ có một người những khu vực tập trung nhiều người nước ngoài hay việt kiều sinh sống tại thành phố hồ chí minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những khu chợ cửa hàng dịch vụ món ăn đặc sản của nước đó có thể kể đến phố mã lai
Thành phố Hồ Chí Minh
Chí Minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những khu chợ, cửa hàng, dịch vụ, món ăn đặc sản của nước đó. Có thể kể đến: Phố Mã Lai tập trung người Mã Lai, người Chăm tại đường Nguyễn An Ninh, phường Bến Thành, Quận 1); chợ Campuchia từ đình chợ Lê Hồng Phong, chạy dọc dài theo đường Hồ Thị Kỷ, Phường 1, Quận 10 đa phần là Việt kiều trở về từ Campuchia; phố Hàn Quốc tại đường Hậu Giang đến các đường lân cận thuộc Phường 4, quận Tân Bình; phố Nhật Bản tại giao lộ Thái Văn Lung – Lê Thánh Tôn thuộc phường Bến Nghé, Quận 1, khu đô thị Phú Mỹ Hưng (Năm 2018, Phú Mỹ Hưng có trên 30.000 người sinh sống, chiếm hơn 50% là người nước ngoài đến từ hàng chục quốc gia, đông hơn cả vẫn là công dân các nước và vùng lãnh thổ châu Á, nhiều nhất đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc). === Y tế. === Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết,
chí minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những khu chợ cửa hàng dịch vụ món ăn đặc sản của nước đó có thể kể đến phố mã lai tập trung người mã lai người chăm tại đường nguyễn an ninh phường bến thành quận 1 chợ campuchia từ đình chợ lê hồng phong chạy dọc dài theo đường hồ thị kỷ phường 1 quận 10 đa phần là việt kiều trở về từ campuchia phố hàn quốc tại đường hậu giang đến các đường lân cận thuộc phường 4 quận tân bình phố nhật bản tại giao lộ thái văn lung – lê thánh tôn thuộc phường bến nghé quận 1 khu đô thị phú mỹ hưng năm 2018 phú mỹ hưng có trên 30 000 người sinh sống chiếm hơn 50% là người nước ngoài đến từ hàng chục quốc gia đông hơn cả vẫn là công dân các nước và vùng lãnh thổ châu á nhiều nhất đến từ hàn quốc nhật bản đài loan trung quốc === y tế === thành phố hồ chí minh với dân số đông mật độ cao trong nội thành cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe các tệ nạn xã hội như mại dâm ma túy tình trạng ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét sốt xuất huyết
Thành phố Hồ Chí Minh
nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn... hay các bệnh của những nước công nghiệp phát triển, như tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 73,19, con số ở nữ giới là 77,00. Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có 3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 2002. Toàn thành phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh. Thế nhưng, mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh toàn thành phố. Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hoàn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này
nhiễm môi trường gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét sốt xuất huyết tả thương hàn hay các bệnh của những nước công nghiệp phát triển như tim mạch tăng huyết áp ung thư tâm thần bệnh nghề nghiệp đều xuất hiện ở thành phố hồ chí minh tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 73 19 con số ở nữ giới là 77 00 vào năm 2005 thành phố hồ chí minh có 21 780 nhân viên y tế trong đó có 3 399 bác sĩ tỷ lệ bác sĩ đạt 5 45 trên 10 nghìn dân giảm so với con số 7 31 của năm 2002 toàn thành phố có 19 442 giường bệnh 56 bệnh viện 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh thế nhưng mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý tập trung chủ yếu trong nội ô theo con số năm 1994 chỉ riêng quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5 290 giường chiếm 37% số giường bệnh toàn thành phố bù lại hệ thống y tế cộng đồng tương đối hoàn chỉnh tất cả các xã phường đều có trạm y tế bên cạnh hệ thống nhà nước thành phố cũng có 2 303 cơ sở y tế tư nhân và 1 472 cơ sở dược tư nhân góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước các cơ sở này
Thành phố Hồ Chí Minh
tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên môn chưa được chặt chẽ. Sở Y tế Thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa. Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngoài để tăng chất lượng phục vụ. Năm 2021, mỗi ngày Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận số ca nhiễm Covid-19 cao kỷ lục dẫn tới tình trạng các tỉnh thành lân cạnh cũng tăng theo về số ca mắc. Thủ tướng Chính phủ đã phải ban bố Chỉ thị 16 phong toả 19 tỉnh thành phía Nam do áp lực từ các bệnh viện quá tải, rất nhiều đã nơi lập chốt kiểm dịch và cách ly nhiều địa phương trong đó Thành phố Hồ Chí Minh được ví như là ổ dịch lớn nhất trong cả nước khi số ca nhiễm tăng chóng mặt ở mức 3–4 con số mỗi ngày. === Giáo dục. === Về mặt hành chính, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản lý các cơ sở giáo dục từ bậc mầm non tới trung học phổ thông. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, toàn thành phố có 638
tư nhân và 1 472 cơ sở dược tư nhân góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên môn chưa được chặt chẽ sở y tế thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngoài để tăng chất lượng phục vụ năm 2021 mỗi ngày thành phố hồ chí minh ghi nhận số ca nhiễm covid-19 cao kỷ lục dẫn tới tình trạng các tỉnh thành lân cạnh cũng tăng theo về số ca mắc thủ tướng chính phủ đã phải ban bố chỉ thị 16 phong toả 19 tỉnh thành phía nam do áp lực từ các bệnh viện quá tải rất nhiều đã nơi lập chốt kiểm dịch và cách ly nhiều địa phương trong đó thành phố hồ chí minh được ví như là ổ dịch lớn nhất trong cả nước khi số ca nhiễm tăng chóng mặt ở mức 3–4 con số mỗi ngày === giáo dục === về mặt hành chính sở giáo dục và đào tạo thành phố hồ chí minh chỉ quản lý các cơ sở giáo dục từ bậc mầm non tới trung học phổ thông các trường đại học cao đẳng phần lớn trực thuộc bộ giáo dục và đào tạo việt nam trong năm học 2008–2009 toàn thành phố có 638
Thành phố Hồ Chí Minh
tới trung học phổ thông. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, toàn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm non, 467 trường cấp I, 239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III. Ngoài ra, theo con số từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh còn có 20 trung tâm xóa mù chữ, 139 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của thành phố có 1.169 cơ sở công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục. Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố. Trong khi đó, những cơ sở xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào 4 huyện ngoại thành Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Các trường ngoại ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến mà còn một trường dạy quốc tế ngữ, một trường dạy Hán Nôm, 4 trường dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh sự quán, công ty giáo dục đầu tư. Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó
tới trung học phổ thông các trường đại học cao đẳng phần lớn trực thuộc bộ giáo dục và đào tạo việt nam trong năm học 2008–2009 toàn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm non 467 trường cấp i 239 trường cấp ii 81 trường cấp iii và 55 trường cấp ii iii ngoài ra theo con số từ 1994 thành phố hồ chí minh còn có 20 trung tâm xóa mù chữ 139 trung tâm tin học ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt tổng cộng 1 308 cơ sở giáo dục của thành phố có 1 169 cơ sở công lập và bán công còn lại là các cơ sở dân lập tư thục hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố trong khi đó những cơ sở xóa mù chữ phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào 4 huyện ngoại thành củ chi bình chánh nhà bè cần giờ các trường ngoại ngữ ở thành phố hồ chí minh không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến mà còn một trường dạy quốc tế ngữ một trường dạy hán nôm 4 trường dạy tiếng việt cho người nước ngoài thành phố hồ chí minh hiện nay cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh sự quán công ty giáo dục đầu tư giáo dục bậc đại học trên địa bàn thành phố có trên 80 trường đa số do bộ giáo dục và đào tạo quản lý trong đó
Thành phố Hồ Chí Minh
công ty giáo dục đầu tư. Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (Trường Đại học Sài Gòn và Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất nhì Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với 6 trường đại học thành viên thuộc Chính phủ. Nhiều đại học lớn khác của thành phố như Trường Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Trường Đại học Ngân hàng, Trường Đại học Luật, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học Mở, Trường Đại học Tài chính – Marketing đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia. Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây, nhưng giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ trẻ em người Hoa không biết chữ vẫn còn nhiều, gấp
công ty giáo dục đầu tư giáo dục bậc đại học trên địa bàn thành phố có trên 80 trường đa số do bộ giáo dục và đào tạo quản lý trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập trường đại học sài gòn và trường đại học y khoa phạm ngọc thạch do thành phố quản lý là thành phố lớn nhất nhì việt nam thành phố hồ chí minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất cùng với hà nội đại học quốc gia thành phố hồ chí minh với 6 trường đại học thành viên thuộc chính phủ nhiều đại học lớn khác của thành phố như trường đại học kiến trúc đại học y dược trường đại học ngân hàng trường đại học luật trường đại học kinh tế trường đại học sư phạm trường đại học mở trường đại học tài chính – marketing đều là các đại học quan trọng của việt nam trong số học sinh sinh viên đang theo học tại các trường đại học cao đẳng của thành phố 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây nhưng giáo dục thành phố hồ chí minh vẫn còn nhiều khiếm khuyết trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư đặc biệt là ngoại ô so với nội ô tỷ lệ trẻ em người hoa không biết chữ vẫn còn nhiều gấp
Thành phố Hồ Chí Minh
cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ trẻ em người Hoa không biết chữ vẫn còn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố còn kém. Nhiều trường học sinh phải học 3 ca. Thu nhập của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại thành. == Giao thông vận tải. == Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á. Khác với Hà Nội, vận tải thủy ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ quan trọng. Tính riêng vận tải hàng hóa, đường biển chiếm khoảng 29% và đường sông chiếm khoảng 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối thành phố. Đường bộ chỉ chiếm 44% vận tải hàng hóa nhưng chiếm tới 85,6% vận tải hành khách. Về giao thông đường không, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là sân bay lớn nhất Việt Nam về diện tích và công suất nhà ga. Năm 2006, vận tải thành phố đã vận chuyển tổng cộng 73.743 tấn hàng hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng. Đến tháng 9 năm 2011, toàn thành phố có 480.473 xe ôtô và 4.883.753 xe môtô. === Đường bộ. === Thống kê giữa năm 2017 cho
cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư đặc biệt là ngoại ô so với nội ô tỷ lệ trẻ em người hoa không biết chữ vẫn còn nhiều gấp 13 lần trẻ em người kinh giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố còn kém nhiều trường học sinh phải học 3 ca thu nhập của giáo viên chưa cao đặc biệt ở các huyện ngoại thành == giao thông vận tải == nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi thành phố hồ chí minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của việt nam và đông nam á khác với hà nội vận tải thủy ở thành phố hồ chí minh chiếm tỷ lệ quan trọng tính riêng vận tải hàng hóa đường biển chiếm khoảng 29% và đường sông chiếm khoảng 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối thành phố đường bộ chỉ chiếm 44% vận tải hàng hóa nhưng chiếm tới 85 6% vận tải hành khách về giao thông đường không sân bay quốc tế tân sơn nhất là sân bay lớn nhất việt nam về diện tích và công suất nhà ga năm 2006 vận tải thành phố đã vận chuyển tổng cộng 73 743 tấn hàng hóa 239 triệu lượt người và bốc xếp 44 341 tấn hàng đến tháng 9 năm 2011 toàn thành phố có 480 473 xe ôtô và 4 883 753 xe môtô === đường bộ === thống kê giữa năm 2017 cho
Thành phố Hồ Chí Minh
lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng. Đến tháng 9 năm 2011, toàn thành phố có 480.473 xe ôtô và 4.883.753 xe môtô. === Đường bộ. === Thống kê giữa năm 2017 cho thấy thành phố có tới gần 7,6 triệu xe máy (chiếm 1/3 lượng xe máy cả nước) và khoảng 700.000 ôtô, trong khi tổng dân số là 13 triệu. Ùn tắc giao thông ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và là một trong những thách thức của thành phố. Những năm gần đây, hạ tầng đường bộ của thành phố đã có nhiều đổi thay ngoạn mục. Hiện nay, thành phố được kết nối với các vùng qua hai đường cao tốc chính: Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây và Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương. Ngoài ra, các tuyến Quốc lộ và Xa lộ cửa ngõ cũng đã được đầu tư mở rộng đáng kể, như tuyến Đại lộ Nguyễn Văn Linh (Nam Sài Gòn), Xa lộ Hà Nội (đi Biên Hòa) và Đại lộ Đông – Tây cùng Hầm Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn. Thành phố cũng đầu tư nhiều cầu lớn để tăng cường giảm tải lưu lượng xe cộ ra ngoại thành, tiêu biểu là Cầu Phú Mỹ, Cầu Sài Gòn 2 và Cầu Thủ Thiêm. Giao thông trong nội đô, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường sá nhỏ... khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề
lượt người và bốc xếp 44 341 tấn hàng đến tháng 9 năm 2011 toàn thành phố có 480 473 xe ôtô và 4 883 753 xe môtô === đường bộ === thống kê giữa năm 2017 cho thấy thành phố có tới gần 7 6 triệu xe máy chiếm 1 3 lượng xe máy cả nước và khoảng 700 000 ôtô trong khi tổng dân số là 13 triệu ùn tắc giao thông ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và là một trong những thách thức của thành phố những năm gần đây hạ tầng đường bộ của thành phố đã có nhiều đổi thay ngoạn mục hiện nay thành phố được kết nối với các vùng qua hai đường cao tốc chính đường cao tốc thành phố hồ chí minh long thành dầu giây và đường cao tốc thành phố hồ chí minh trung lương ngoài ra các tuyến quốc lộ và xa lộ cửa ngõ cũng đã được đầu tư mở rộng đáng kể như tuyến đại lộ nguyễn văn linh nam sài gòn xa lộ hà nội đi biên hòa và đại lộ đông – tây cùng hầm thủ thiêm vượt sông sài gòn thành phố cũng đầu tư nhiều cầu lớn để tăng cường giảm tải lưu lượng xe cộ ra ngoại thành tiêu biểu là cầu phú mỹ cầu sài gòn 2 và cầu thủ thiêm giao thông trong nội đô do tốc độ tăng dân số nhanh quy hoạch yếu hệ thống đường sá nhỏ khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề
Thành phố Hồ Chí Minh
Cầu Thủ Thiêm. Giao thông trong nội đô, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường sá nhỏ... khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. Thành phố có 239 cây cầu nhưng phần lớn chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng của đường nên gây khó khăn cho các phương tiện giao thông. Không những thế, một phần các cây cầu có trọng tải thấp hay đang trong tình trạng xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường vẫn phần nhiều là đường đất đá. Trong khi đó, hệ thống đường trải nhựa còn lại cũng trở nên quá tải, cần sửa chữa. Thành phố có 2 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Miền Tây cùng vài bến xe phụ trợ ở Quận 8, An Sương và Ngã Tư Ga. Mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày đi các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều hãng xe tư nhân cũng tham gia vận chuyển hành khách vào các bến bãi không chính thức ở nhiều khu vực nội đô, gần khu dân cư và trung tâm du lịch. Cũng theo số liệu từ 1994, tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm, nhiều nhất qua Quốc lộ 1. === Đường sắt. === Giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ
cầu thủ thiêm giao thông trong nội đô do tốc độ tăng dân số nhanh quy hoạch yếu hệ thống đường sá nhỏ khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc thành phố có 239 cây cầu nhưng phần lớn chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng của đường nên gây khó khăn cho các phương tiện giao thông không những thế một phần các cây cầu có trọng tải thấp hay đang trong tình trạng xuống cấp tại các huyện ngoại thành hệ thống đường vẫn phần nhiều là đường đất đá trong khi đó hệ thống đường trải nhựa còn lại cũng trở nên quá tải cần sửa chữa thành phố có 2 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào miền đông miền tây cùng vài bến xe phụ trợ ở quận 8 an sương và ngã tư ga mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1 200 xe ngày vận chuyển gần 41 000 khách ngày đi các tỉnh nam trung bộ tây nguyên đông nam bộ đồng bằng sông cửu long nhiều hãng xe tư nhân cũng tham gia vận chuyển hành khách vào các bến bãi không chính thức ở nhiều khu vực nội đô gần khu dân cư và trung tâm du lịch cũng theo số liệu từ 1994 tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106 4 triệu lượt người năm nhiều nhất qua quốc lộ 1 === đường sắt === giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ
Thành phố Hồ Chí Minh
tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm, nhiều nhất qua Quốc lộ 1. === Đường sắt. === Giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận do Xí nghiệp Liên hiệp đường sắt 3 quản lý, tuyến Bắc - Nam và một vài đoạn đường chuyên dụng, hiện hầu như đã ngưng khai thác. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ như Dĩ An, Thủ Đức, Bình Triệu, Gò Vấp. Do mạng lưới đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, cơ sở đã cũ kỹ nên giao thông đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh không phát triển, chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0,6% khối lượng hành khách. === Đường thủy. === Thành phố hiện có tuyến đường thủy chở hành khách liên tỉnh là tuyến tàu cánh ngầm nối Cảng Nhà Rồng với Cảng Cầu Đá, Thành phố Vũng Tàu. Ngoài ra còn có khoảng 50 bến đò, phà phục vụ giao thông hành khách, trong đó lớn nhất là Phà Cát Lái nối thành phố Thủ Đức với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có 4 cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình Phước... Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam, chiếm 25% trong tổng khối lượng
tỉnh qua thành phố khoảng 106 4 triệu lượt người năm nhiều nhất qua quốc lộ 1 === đường sắt === giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận do xí nghiệp liên hiệp đường sắt 3 quản lý tuyến bắc nam và một vài đoạn đường chuyên dụng hiện hầu như đã ngưng khai thác trong thành phố có hai nhà ga chính sóng thần và sài gòn bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ như dĩ an thủ đức bình triệu gò vấp do mạng lưới đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng cơ sở đã cũ kỹ nên giao thông đường sắt thành phố hồ chí minh không phát triển chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0 6% khối lượng hành khách === đường thủy === thành phố hiện có tuyến đường thủy chở hành khách liên tỉnh là tuyến tàu cánh ngầm nối cảng nhà rồng với cảng cầu đá thành phố vũng tàu ngoài ra còn có khoảng 50 bến đò phà phục vụ giao thông hành khách trong đó lớn nhất là phà cát lái nối thành phố thủ đức với huyện nhơn trạch tỉnh đồng nai khu vực thành phố hồ chí minh có 4 cảng biển chính sài gòn bến nghé nhà bè tân cảng cùng các cảng sông bình đông tân thuận tôn thất thuyết bình lợi bình phước cảng sài gòn là một trong những cảng lớn nhất việt nam chiếm 25% trong tổng khối lượng
Thành phố Hồ Chí Minh
các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình Phước... Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam, chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước. Cảng Bến Nghé nằm phía hạ lưu sông Sài Gòn, rộng 32ha, tổng chiều dài cầu cảng 528m, có thể cho tàu có tải trọng từ 15.000 – 20.000 tấn cập bến. Tuy năng lực của các cảng của Thành phố Hồ Chí Minh lớn nhưng việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ, đường biển và đường sông gặp khó khăn. Tại hầu hết các cảng đường sông, do thiết bị thiếu, vẫn phải bốc dỡ thủ công. === Đường hàng không. === Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất nằm trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố chỉ 10 km. Đây là sân bay nhộn nhịp nhất và có lưu lượng vận chuyển cao nhất cả nước, là cửa ngõ hàng không quốc tế lớn của khu vực Đông Nam Á, với hơn 25 triệu lượt khách đi và đến. Hiện có 43 hãng hàng không quốc tế mở đường bay đến sân bay này. Trong tương lai, khi sân bay quốc tế Long Thành được hoàn tất xây dựng và mở cửa, sân bay này sẽ gánh một lượng hành khách đáng kể từ Tân Sơn Nhất, giúp giảm tình trạng quá tải hiện tại. === Giao thông công cộng. === Để giải quyết vấn đề giao thông
các cảng sông bình đông tân thuận tôn thất thuyết bình lợi bình phước cảng sài gòn là một trong những cảng lớn nhất việt nam chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước cảng bến nghé nằm phía hạ lưu sông sài gòn rộng 32ha tổng chiều dài cầu cảng 528m có thể cho tàu có tải trọng từ 15 000 – 20 000 tấn cập bến tuy năng lực của các cảng của thành phố hồ chí minh lớn nhưng việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ đường biển và đường sông gặp khó khăn tại hầu hết các cảng đường sông do thiết bị thiếu vẫn phải bốc dỡ thủ công === đường hàng không === sân bay quốc tế tân sơn nhất nằm trên địa bàn quận tân bình thành phố hồ chí minh cách trung tâm thành phố chỉ 10 km đây là sân bay nhộn nhịp nhất và có lưu lượng vận chuyển cao nhất cả nước là cửa ngõ hàng không quốc tế lớn của khu vực đông nam á với hơn 25 triệu lượt khách đi và đến hiện có 43 hãng hàng không quốc tế mở đường bay đến sân bay này trong tương lai khi sân bay quốc tế long thành được hoàn tất xây dựng và mở cửa sân bay này sẽ gánh một lượng hành khách đáng kể từ tân sơn nhất giúp giảm tình trạng quá tải hiện tại === giao thông công cộng === để giải quyết vấn đề giao thông
Thành phố Hồ Chí Minh
này sẽ gánh một lượng hành khách đáng kể từ Tân Sơn Nhất, giúp giảm tình trạng quá tải hiện tại. === Giao thông công cộng. === Để giải quyết vấn đề giao thông đô thị, Thành phố Hồ Chí Minh đang đầu tư cho hệ thống giao thông công cộng. Năm 2008, thành phố có 3.250 xe buýt và 8.000 xe taxi, mỗi năm chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu đi lại. Trong đó, hệ thống xe buýt được phục hồi từ năm 2002 đóng vai trò chủ đạo của thành phố. Mặc dù được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trợ giá trên hầu hết các tuyến, mạng lưới này chưa đem lại hiệu quả cao, 65% tuyến trùng lặp. Cùng mạng lưới xe buýt, dự án tàu điện ngầm Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đang tiến hành. Theo quy hoạch được duyệt vào năm 2013, thành phố sẽ có 8 tuyến đường sắt đô thị, tổng chiều dài hơn 160km. Dự kiến đến đầu năm 2024, tuyến metro đầu tiên (tuyến metro số một Bến Thành - Suối Tiên) khởi công tháng 3 năm 2007 sẽ đi vào hoạt động sau hơn 17 năm xây dựng .. Đây là tuyến đường sắt đô thị có tổng vốn đầu tư cao nhất, đội vốn nhiều nhất lên tới 2.7 lần so với dự toán ban đầu cụ thể chi phí ban đầu 17 387 tỷ đồng điều chỉnh hiện tại 43 757,15 tỷ đồng đội vốn tương đương khoảng 26
này sẽ gánh một lượng hành khách đáng kể từ tân sơn nhất giúp giảm tình trạng quá tải hiện tại === giao thông công cộng === để giải quyết vấn đề giao thông đô thị thành phố hồ chí minh đang đầu tư cho hệ thống giao thông công cộng năm 2008 thành phố có 3 250 xe buýt và 8 000 xe taxi mỗi năm chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu đi lại trong đó hệ thống xe buýt được phục hồi từ năm 2002 đóng vai trò chủ đạo của thành phố mặc dù được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trợ giá trên hầu hết các tuyến mạng lưới này chưa đem lại hiệu quả cao 65% tuyến trùng lặp cùng mạng lưới xe buýt dự án tàu điện ngầm thành phố hồ chí minh cũng được đang tiến hành theo quy hoạch được duyệt vào năm 2013 thành phố sẽ có 8 tuyến đường sắt đô thị tổng chiều dài hơn 160km dự kiến đến đầu năm 2024 tuyến metro đầu tiên tuyến metro số một bến thành suối tiên khởi công tháng 3 năm 2007 sẽ đi vào hoạt động sau hơn 17 năm xây dựng đây là tuyến đường sắt đô thị có tổng vốn đầu tư cao nhất đội vốn nhiều nhất lên tới 2 7 lần so với dự toán ban đầu cụ thể chi phí ban đầu 17 387 tỷ đồng điều chỉnh hiện tại 43 757 15 tỷ đồng đội vốn tương đương khoảng 26
Thành phố Hồ Chí Minh
2.7 lần so với dự toán ban đầu cụ thể chi phí ban đầu 17 387 tỷ đồng điều chỉnh hiện tại 43 757,15 tỷ đồng đội vốn tương đương khoảng 26 400 tỷ đồng. Và là tuyến có thời gian xây dựng lâu nhất tại Việt Nam chưa hoàn thành tính đến thời điểm hiện tại tháng 1 năm 2022. Bên cạnh đó, dự án các tuyến buýt đường sông Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã được lên kế hoạch và vận hành. Hiện nay, tuyến buýt đường sông số một (Bạch Đằng, Q.1 - Linh Đông, TP.Thủ Đức) đã được vận hành khai thác từ ngày 25 tháng 11 năm 2017. === Biển số xe. === ==== Xe ô tô. ==== BULLET::::- 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59A BULLET::::- 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59D BULLET::::- 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59C BULLET::::- 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59B BULLET::::- 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59LD. ==== Xe gắn máy. ==== BULLET::::- Quận 1: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – T1, 59 – T2 BULLET::::- Quận 3: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – F1, 59 – F2 BULLET::::- Quận 4: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – C1,59 - C3 BULLET::::- Quận 5: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59
2 7 lần so với dự toán ban đầu cụ thể chi phí ban đầu 17 387 tỷ đồng điều chỉnh hiện tại 43 757 15 tỷ đồng đội vốn tương đương khoảng 26 400 tỷ đồng và là tuyến có thời gian xây dựng lâu nhất tại việt nam chưa hoàn thành tính đến thời điểm hiện tại tháng 1 năm 2022 bên cạnh đó dự án các tuyến buýt đường sông thành phố hồ chí minh cũng đã được lên kế hoạch và vận hành hiện nay tuyến buýt đường sông số một bạch đằng q 1 linh đông tp thủ đức đã được vận hành khai thác từ ngày 25 tháng 11 năm 2017 === biển số xe === ==== xe ô tô ==== bullet 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59a bullet 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59d bullet 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59c bullet 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59b bullet 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59ld ==== xe gắn máy ==== bullet quận 1 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – t1 59 – t2 bullet quận 3 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – f1 59 – f2 bullet quận 4 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – c1 59 c3 bullet quận 5 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59
Thành phố Hồ Chí Minh
Quận 4: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – C1,59 - C3 BULLET::::- Quận 5: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 - H1, 59 - H2 BULLET::::- Quận 6: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – K1, 59 - K2 BULLET::::- Quận 7: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – C2, 59 - C4 BULLET::::- Quận 8: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – L1, 59 – L2, 59 - L3 BULLET::::- Quận 10: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – U1, 59 – U2 BULLET::::- Quận 11: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – M1, 59 – M2 BULLET::::- Quận 12: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – G1, 59 – G2 BULLET::::- Quận Gò Vấp: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – V1, 59 – V2, 59 – V3 BULLET::::- Quận Phú Nhuận: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – E1, 59 – E2 BULLET::::- Quận Tân Bình: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – P1, 59 – P2, 59 – P3 BULLET::::- Quận Tân Phú: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – D1, 59 - D2 BULLET::::- Quận Bình Thạnh: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 –
quận 4 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – c1 59 c3 bullet quận 5 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 h1 59 h2 bullet quận 6 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – k1 59 k2 bullet quận 7 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – c2 59 c4 bullet quận 8 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – l1 59 – l2 59 l3 bullet quận 10 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – u1 59 – u2 bullet quận 11 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – m1 59 – m2 bullet quận 12 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – g1 59 – g2 bullet quận gò vấp 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – v1 59 – v2 59 – v3 bullet quận phú nhuận 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – e1 59 – e2 bullet quận tân bình 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – p1 59 – p2 59 – p3 bullet quận tân phú 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – d1 59 d2 bullet quận bình thạnh 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 –
Thành phố Hồ Chí Minh
50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – D1, 59 - D2 BULLET::::- Quận Bình Thạnh: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – S1, 59 – S2, 59 – S3 BULLET::::- Quận Bình Tân: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – N1, 50 – N1,50 - N2 BULLET::::- Thành phố Thủ Đức: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – B1, 50 - X1, 59 – X1, 59 – X2, 59 - X3 BULLET::::- Huyện Hóc Môn: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 - Y1, 50 – Y1 BULLET::::- Huyện Củ Chi: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 - Y2, 59 – Y3 BULLET::::- Huyện Bình Chánh: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – N2, 59 – N3 BULLET::::- Huyện Nhà Bè: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – Z1 BULLET::::- Huyện Cần Giờ: 41, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 – Z2. ==== Xe phân khối lớn. ==== BULLET::::- 59-A3. == Quy hoạch và kết cấu đô thị. == Theo thiết kế đô thị ban đầu của người Pháp vào năm 1860, thành phố Sài Gòn sẽ là nơi sinh sống cho 500.000 dân. Thời Việt Nam Cộng hòa, quy mô dân số của thành phố đã lên đến 3 triệu dân. Tính đến năm 2019, thành phố có dân số (kể cả số lượng người cư
50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – d1 59 d2 bullet quận bình thạnh 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – s1 59 – s2 59 – s3 bullet quận bình tân 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – n1 50 – n1 50 n2 bullet thành phố thủ đức 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – b1 50 x1 59 – x1 59 – x2 59 x3 bullet huyện hóc môn 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 y1 50 – y1 bullet huyện củ chi 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 y2 59 – y3 bullet huyện bình chánh 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – n2 59 – n3 bullet huyện nhà bè 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – z1 bullet huyện cần giờ 41 50 51 52 53 54 55 56 57 58 và 59 – z2 ==== xe phân khối lớn ==== bullet 59-a3 == quy hoạch và kết cấu đô thị == theo thiết kế đô thị ban đầu của người pháp vào năm 1860 thành phố sài gòn sẽ là nơi sinh sống cho 500 000 dân thời việt nam cộng hòa quy mô dân số của thành phố đã lên đến 3 triệu dân tính đến năm 2019 thành phố có dân số kể cả số lượng người cư
Thành phố Hồ Chí Minh
Việt Nam Cộng hòa, quy mô dân số của thành phố đã lên đến 3 triệu dân. Tính đến năm 2019, thành phố có dân số (kể cả số lượng người cư trú tạm thời) là 8,99 triệu người, kết cấu đô thị đã quá tải. Khi còn thưa dân, Sài Gòn từng là thành phố nhiều cây xanh với không gian kiến trúc theo quy hoạch của Pháp. Sau này, do dân số tăng nhanh, thành phố đã thay đổi với việc thu hẹp không gian xanh để xây dựng nhà cửa, không gian kiến trúc trở nên chật chội bởi nhiều công trình xây dựng hỗn độn thiếu tính thống nhất. Công tác quy hoạch có nhiều bất cập và yếu kém. Đến thời điểm đầu năm 2008, mới chỉ có 23% khối lượng công tác quy hoạch 1/2000 được thực hiện. Quy hoạch cho hệ thống công trình ngầm vẫn chưa được thực hiện xong. Công tác xây quy hoạch và xây dựng đô thị mới vẫn mang nặng tư duy thời kỳ bao cấp. Trong 10 năm gần đây, khu vực đô thị mới để lại dấu ấn lớn trong quá trình phát triển thành phố này là khu đô thị Phú Mỹ Hưng do nước ngoài đầu tư xây dựng. Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh tính tới thời điểm 2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện. Chiến lược quy hoạch của Thành phố hiện nay là tránh dồn ứ dân cư về nội thành, đồng
việt nam cộng hòa quy mô dân số của thành phố đã lên đến 3 triệu dân tính đến năm 2019 thành phố có dân số kể cả số lượng người cư trú tạm thời là 8 99 triệu người kết cấu đô thị đã quá tải khi còn thưa dân sài gòn từng là thành phố nhiều cây xanh với không gian kiến trúc theo quy hoạch của pháp sau này do dân số tăng nhanh thành phố đã thay đổi với việc thu hẹp không gian xanh để xây dựng nhà cửa không gian kiến trúc trở nên chật chội bởi nhiều công trình xây dựng hỗn độn thiếu tính thống nhất công tác quy hoạch có nhiều bất cập và yếu kém đến thời điểm đầu năm 2008 mới chỉ có 23% khối lượng công tác quy hoạch 1 2000 được thực hiện quy hoạch cho hệ thống công trình ngầm vẫn chưa được thực hiện xong công tác xây quy hoạch và xây dựng đô thị mới vẫn mang nặng tư duy thời kỳ bao cấp trong 10 năm gần đây khu vực đô thị mới để lại dấu ấn lớn trong quá trình phát triển thành phố này là khu đô thị phú mỹ hưng do nước ngoài đầu tư xây dựng quy hoạch thành phố hồ chí minh tính tới thời điểm 2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện chiến lược quy hoạch của thành phố hiện nay là tránh dồn ứ dân cư về nội thành đồng
Thành phố Hồ Chí Minh
2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện. Chiến lược quy hoạch của Thành phố hiện nay là tránh dồn ứ dân cư về nội thành, đồng thời phát triển một số khu đô thị mới góp phần làm giảm mật độ dân số vốn đã quá cao như hiện nay. Tuy nhiên số lượng khu đô thị mới còn rất ít. Quá trình đô thị hóa phần lớn diễn ra một cách tự phát do sự gia tăng dân số chứ không phải bằng việc xây dựng các khu đô thị mới được quy hoạch bài bản. Hạ tầng cũng không phát triển kịp với sự gia tăng dân số trong quá trình đô thị hóa. == Du lịch. == Trong khoảng 4,3 triệu khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2007, 3 triệu khách đã tới thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tức khoảng 70%. Năm 2007 cũng là năm thành phố có được bước tiến mạnh mẽ, lượng khách tăng khoảng 12% so với 2006, doanh thu ngành du lịch đạt 19.500 tỷ VND, tăng 20%. Là một thành phố trẻ chỉ với 300 năm lịch sử, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng được không ít công trình kiến trúc và sở hữu một nền văn hóa đa dạng. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh có 641 khách sạn với 17.646 phòng. Phục vụ những khách cao cấp, thành phố có 11 khách sạn 5 sao, gồm: Caravelle, Sheraton, Moevenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Lotte
2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện chiến lược quy hoạch của thành phố hiện nay là tránh dồn ứ dân cư về nội thành đồng thời phát triển một số khu đô thị mới góp phần làm giảm mật độ dân số vốn đã quá cao như hiện nay tuy nhiên số lượng khu đô thị mới còn rất ít quá trình đô thị hóa phần lớn diễn ra một cách tự phát do sự gia tăng dân số chứ không phải bằng việc xây dựng các khu đô thị mới được quy hoạch bài bản hạ tầng cũng không phát triển kịp với sự gia tăng dân số trong quá trình đô thị hóa == du lịch == trong khoảng 4 3 triệu khách quốc tế đến việt nam vào năm 2007 3 triệu khách đã tới thăm thành phố hồ chí minh tức khoảng 70% năm 2007 cũng là năm thành phố có được bước tiến mạnh mẽ lượng khách tăng khoảng 12% so với 2006 doanh thu ngành du lịch đạt 19 500 tỷ vnd tăng 20% là một thành phố trẻ chỉ với 300 năm lịch sử nhưng thành phố hồ chí minh đã xây dựng được không ít công trình kiến trúc và sở hữu một nền văn hóa đa dạng hiện nay thành phố hồ chí minh có 641 khách sạn với 17 646 phòng phục vụ những khách cao cấp thành phố có 11 khách sạn 5 sao gồm caravelle sheraton moevenpick omni cũ new world equatorial lotte
Thành phố Hồ Chí Minh
Minh có 641 khách sạn với 17.646 phòng. Phục vụ những khách cao cấp, thành phố có 11 khách sạn 5 sao, gồm: Caravelle, Sheraton, Moevenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Lotte Legend, Renaissance Riverside, Windsor Plaza, Sofitel Plaza, Park Hyatt, Majestic với tổng cộng 3.592 phòng. Hầu hết các khách sạn này đều do những tập đoàn quốc tế như Accor, Furama, Mariot hay Sheraton quản lý và tập trung nhiều nhất tại Quận 1. Bên cạnh đó, thành phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1.281 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.621 phòng. Do sự phát triển của du lịch, số phòng cao cấp tại thành phố hiện đang thiếu trầm trọng. Mặc dù nhiều nhà đầu tư có ý định xây dựng tiếp các khách sạn sang trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc tìm địa điểm. Theo dự kiến, đến năm 2020, thành phố sẽ có thêm 10.000 phòng 4 hoặc 5 sao. Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng, chủ yếu về đề tài lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu Việt Nam về số lượng viện bảo tàng. Bảo tàng lớn nhất và cổ nhất thành phố là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam với 30 nghìn hiện vật. Trong khi phần lớn khách thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là người nước ngoài thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là
minh có 641 khách sạn với 17 646 phòng phục vụ những khách cao cấp thành phố có 11 khách sạn 5 sao gồm caravelle sheraton moevenpick omni cũ new world equatorial lotte legend renaissance riverside windsor plaza sofitel plaza park hyatt majestic với tổng cộng 3 592 phòng hầu hết các khách sạn này đều do những tập đoàn quốc tế như accor furama mariot hay sheraton quản lý và tập trung nhiều nhất tại quận 1 bên cạnh đó thành phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1 281 phòng 20 khách sạn 3 sao với 1 621 phòng do sự phát triển của du lịch số phòng cao cấp tại thành phố hiện đang thiếu trầm trọng mặc dù nhiều nhà đầu tư có ý định xây dựng tiếp các khách sạn sang trọng tại thành phố hồ chí minh nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc tìm địa điểm theo dự kiến đến năm 2020 thành phố sẽ có thêm 10 000 phòng 4 hoặc 5 sao các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng với hệ thống 11 viện bảo tàng chủ yếu về đề tài lịch sử thành phố hồ chí minh đứng đầu việt nam về số lượng viện bảo tàng bảo tàng lớn nhất và cổ nhất thành phố là bảo tàng lịch sử việt nam với 30 nghìn hiện vật trong khi phần lớn khách thăm bảo tàng chứng tích chiến tranh là người nước ngoài thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là
Thành phố Hồ Chí Minh
với 30 nghìn hiện vật. Trong khi phần lớn khách thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là người nước ngoài thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là Bảo tàng Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một đô thị đa dạng về tôn giáo. Trên địa phận thành phố hiện nay, có hơn 1000 ngôi chùa, đình, miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ. Còn các nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ 19 theo các phong cách Roman, Gothic. Nhà thờ lớn và nổi tiếng nhất của thành phố là Nhà thờ Đức Bà, nằm ở Quận 1, hoàn thành năm 1880. Thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành phố nhiều công trình kiến trúc quan trọng, như Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố, Nhà hát Lớn, Bưu điện trung tâm, Bến Nhà Rồng... Dinh Độc Lập và Thư viện Khoa học Tổng hợp được xây dựng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Kiến trúc hiện đại ghi dấu ấn ở thành phố bằng các cao ốc, khách sạn, trung tâm thương mại như Diamond Plaza, Saigon Trade Centre... Khu vực ngoài trung tâm, Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, Vườn cò Thủ Đức cũng là những địa điểm du lịch quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm mua sắm và giải trí. Bên cạnh các phòng trà ca nhạc, quán bar, vũ trường, sân khấu, thành phố có khá nhiều khu vui
với 30 nghìn hiện vật trong khi phần lớn khách thăm bảo tàng chứng tích chiến tranh là người nước ngoài thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là bảo tàng hồ chí minh thành phố hồ chí minh cũng là một đô thị đa dạng về tôn giáo trên địa phận thành phố hiện nay có hơn 1000 ngôi chùa đình miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ còn các nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ 19 theo các phong cách roman gothic nhà thờ lớn và nổi tiếng nhất của thành phố là nhà thờ đức bà nằm ở quận 1 hoàn thành năm 1880 thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành phố nhiều công trình kiến trúc quan trọng như trụ sở ủy ban nhân dân thành phố nhà hát lớn bưu điện trung tâm bến nhà rồng dinh độc lập và thư viện khoa học tổng hợp được xây dựng dưới thời việt nam cộng hòa kiến trúc hiện đại ghi dấu ấn ở thành phố bằng các cao ốc khách sạn trung tâm thương mại như diamond plaza saigon trade centre khu vực ngoài trung tâm địa đạo củ chi rừng ngập mặn cần giờ vườn cò thủ đức cũng là những địa điểm du lịch quan trọng thành phố hồ chí minh còn là một trung tâm mua sắm và giải trí bên cạnh các phòng trà ca nhạc quán bar vũ trường sân khấu thành phố có khá nhiều khu vui