source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Các quy định của Bộ luật Lao động về lao động giúp việc gia đình là một tiến bộ đáng kể trong điều kiện kinh tế thị trường. Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình, các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại theo quy định tại khoản 1 Điều 161 Bộ luật lao động. Các quy định của Bộ luật Lao động hiện hành về lao động giúp việc gia đình là một sự kế thừa của Bộ luật lao động năm 2012, thể hiện tiến bộ đáng kể trong điều kiện kinh tế thị trường. Trước đây, Bộ luật Lao động năm 1994 có đề cập đến lao động giúp việc gia đình nhưng không cụ thể là loại lao động gì mà chỉ quy định về việc áp dụng loại hợp đồng lao động, một số quyền lợi của người lao động giúp việc gia đình và nghĩa vụ pháp lý của người sử dụng lao động, việc giải quyết tranh chấp lao động của người giúp việc gia đình. Bộ luật Lao động đã dành hẳn một mục – mục 5 của Chương XI quy định về người giúp việc gia đình. Theo Điều 161 Bộ luật Lao động, người lao động giúp việc gia đình chỉ thực hiện “công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại”. Trước đây, theo Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 về việc làm công do Hồ Chủ tịch ký ban hành thì người lao động giúp việc gia đình được quy định là “gia nhân” với đặc điểm là “những người mà chủ thuê để giúp việc trong nhà”. Như vậy, người lao động giúp việc gia đình không làm các công việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh tạo ra lợi nhuận hoặc cạnh tranh trên thị trường mà thực hiện công việc liên quan đến đời sống sinh hoạt của gia đình, cá nhân có nhu cầu giúp việc. Đặc điểm nữa của người lao động giúp việc gia đình là họ làm việc có tính thường xuyên trong một hoặc nhiều hộ gia đình (pháp luật không hạn chế phạm vi thực hiện công việc). Hợp đồng lao động của họ theo Điều 162 Bộ luật lao động như sau:. Người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với lao động là người giúp việc gia đình. Thời hạn của hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình do hai bên thỏa thuận. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bất kỳ khi nào nhưng phải báo trước ít nhất 15 ngày. Hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động về hình thức trả lương, kỳ hạn trả lương, thời giờ làm việc hằng ngày, chỗ ở.
Người giúp việc
Người giúp việc (tiếng Anh: domestic worker) là từ để chỉ những người được các gia đình hay cá nhân thuê làm các việc nhà như nấu ăn, lau dọn, làm vườn hay thậm chí là chăm sóc trẻ em và người già, tùy theo yêu cầu của gia chủ. Một số người giúp việc gia đình sống trong hộ gia đình của người sử dụng lao động của họ. Trong một số trường hợp, sự đóng góp và kỹ năng của những người phục vụ có công việc bao gồm các nhiệm vụ quản lý phức tạp trong các hộ gia đình lớn đã được đánh giá cao. Tuy nhiên, phần lớn, công việc giúp việc gia đình có xu hướng đòi hỏi cao và thường được coi là đánh giá thấp, mặc dù thường là cần thiết. Mặc dù luật pháp bảo vệ người giúp việc gia đình đã có ở nhiều quốc gia, nhưng nó thường không được thực thi rộng rãi. Ở nhiều vùng, công việc giúp việc gia đình được quản lý kém và người giúp việc gia đình bị lạm dụng nghiêm trọng, bao gồm cả chế độ nô lệ. Servant là một từ tiếng Anh cổ hơn cho "người giúp việc gia đình", mặc dù không phải tất cả người hầu đều làm việc trong nhà.
Được thành lập vào năm 1218, Đại học Salamanca ở Tây Bắc Tây Ban Nha là một trong những học viện lâu đời nhất châu Âu và là trường đại học đầu tiên của “xứ sở bò tót”. Với danh tiếng và uy tín của mình, Đại học Salamanca thu hút sinh viên các nước đến học tập, tạo ra bầu không khí đậm chất quốc tế và đa văn hóa. Là mái nhà học thuật cho khoảng 32.000 sinh viên, hơn 28% trong số đó là sinh viên quốc tế, Đại học Salamanca có các khu học xá ở Salamanca, Ávila, Béjar và Zamora. Trường được mệnh danh là “Oxford của Tây Ban Nha” và là một trung tâm quan trọng trong việc nghiên cứu về nhân văn. Đại học Salamanca được hình thành từ các trường cao đẳng về luật, nghệ thuật tự do, khoa học và y học cũng như các đơn vị học thuật khác. Trường hiện cung cấp hơn hơn 250 chương trình học thuật và có mối quan hệ đối tác với hơn 600 trường đại học trên thế giới. Đại học Salamanca là trường đại học đầu tiên trong cả nước cung cấp các khóa học tiếng Tây Ban Nha cho người nước ngoài, thiết lập chương trình uy tín của mình vào năm 1929, thu hút hơn 4.000 người học ngoại ngữ mỗi năm. Dù khá nhỏ bé chỉ với 170.000 cư dân với phần lớn trong độ tuổi từ 18 đến 30, Salamanca thực sự là một thành phố đại học đúng nghĩa với sự hiện diện đông đảo sinh viên và cơ sở hạ tầng tốt phục vụ đời sống, học tập. Cuộc sống nhộn nhịp của Salamanca phù hợp với lối sống và ngân sách của sinh viên. Cách Madrid khoảng 2 giờ lái xe, Salamanca có các điểm tham quan lịch sử duyên dáng và kiến trúc tuyệt đẹp. Nơi này được gọi là “La Dorada” hoặc Thành phố vàng vì sự rực rỡ của các tòa nhà bằng đá sa thạch. Thành phố được công nhận là di sản thế giới của UNESCO, sở hữu nhiều bảo tàng, cung điện, công trình tôn giáo và quảng trường. Tất cả sinh viên đăng ký một khóa học tại Đại học Salamanca sẽ nhận được một thẻ sinh viên cho phép sử dụng tất cả cơ sở, trang thiết bị của trường. Bạn cũng có thể tham gia vào các hoạt động đặc biệt được sắp xếp ngoài giờ học cho sinh viên quốc tế. Thư viện của Đại học Salamanca là một trong những thư viện đại học quan trọng và đẹp nhất ở Tây Ban Nha. Trong phân khu chính nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, có hơn 160.000 nguồn tài liệu. Ngoài ra còn có các bản thảo quan trọng và không có bản sao từ giữa thế kỷ 11 và 14, cùng khoảng 40.000 cuốn sách được chỉnh sửa giữa thế kỷ 16 và 18. Thư viện cũng có một bức tranh trần nổi tiếng được gọi là ¨El Cielo de Salamanca¨. Đại học Salamanca có hai khu liên hợp thể thao chính, nơi bạn có thể thực hành hầu hết các môn thể thao trong nhà và ngoài trời, bao gồm điền kinh, tennis, bóng đá, cầu lông, bóng bầu dục, bóng chuyền… Cả hai khu phức hợp đều nằm trong khoảng cách đi bộ từ trung tâm thành phố. Bạn có thể tham gia các hoạt động thể thao vì sở thích, rèn luyện sức khỏe hoặc để thi thố tài năng. Trong suốt cả năm, Đại học Salamanca sắp xếp các hoạt động văn hóa, thể thao và học tập mà bất kỳ sinh viên quan tâm nào cũng có thể đăng ký. Đây là cách đơn giản và thú vị nhất để sinh viên quốc tế tham gia tìm hiểu văn hóa, ngôn ngữ Tây Ban Nha. Sinh viên quốc tế có thể đăng ký các khóa học tiếng Tây Ban Nha, cử nhân, thạc sĩ ở các lĩnh vực kể trên. Được tổ chức quanh năm, thời lượng khóa học kéo dài từ 2 tuần đến 1 năm. Học kỳ: các khóa học được chia thành 3 học kỳ, mỗi học kỳ khoảng 10 tuần, bắt đầu vào tháng 10, tháng 1 và tháng 4. Tất cả các cấp độ, từ người mới bắt đầu đến người sử dụng ngôn ngữ nâng cao. Sinh viên có bảo hiểm y tế và toàn quyền sử dụng các cơ sở, thiết bị của trường. Chỗ ở trong khu ký túc xá, các căn hộ chia sẻ cho sinh viên hoặc với gia đình người bản xứ Tây Ban Nha. Tổng đài tư vấn: 1900 636 990 (1.000 đồng/phút) Đăng ký hội thảo: 093 409 8883 Giờ làm việc: Thứ Hai - Thứ Bảy - Sáng: 8h00 - 12h00 - Chiều: 13h30 - 17h00 Ngoài giờ vui lòng đặt cuộc hẹn trước!
Đại học Salamanca
Đại học Salamanca (tiếng Tây Ban Nha: Universidad de Salamanca, tiếng Latinh: Universitas Studii Salmanticensis) là một tổ chức giáo dục đại học của Tây Ban Nha, tọa lạc ở thành phố Salamanca, phía tây thủ đô Madrid, thuộc khu vực tự trị Castile và León. Trường được thành lập vào năm 1134 và được Vua Alfonso IX ban cho điều lệ hoàng gia vào năm 1218. Đây là trường đại học lâu đời nhất trong cộng đồng nói tiếng Tây Ban Nha và là trường đại học lâu đời thứ ba trên toàn thế giới vẫn còn hoạt động. Danh hiệu chính thức "Đại học" được Vua Alfonso X ban năm 1254 và được Giáo hoàng Alexanđê IV công nhận năm 1255. Cũng giống như những trường đại học cổ kính khác, Đại học Salamanca khởi sự từ một trường dòng của nhà thờ Thiên chúa giáo. Lúc Colombo đệ trình ý tưởng kêu gọi Nhà vua và Nữ hoàng Tây Ban Nha lập hợp đồng cho một chuyến hải hành về phía tây để hướng đến Ấn Độ, chính ông đã đưa vấn đề này ra xin ý kiến ở hội đồng các nhà địa lý học tại Đại học Salamanca.
Văn học Nam bộ giai đoạn 1934-1975 đã để lại cho độc giả những ấn tượng rất đậm đà. Các nhà văn Nam bộ chính là kho tư liệu sống về con người, văn hóa, địa lý và lịch sử của vùng đất phương Nam trong đó có nhà văn Đoàn Giỏi với tác phẩm nổi tiếng Đất rừng phương Nam. Đến với tiểu thuyết Đất rừng phương Nam là đến với một mảnh đất ân tình có những người dân nồng hậu đầy yêu thương. Đó là lý do vì sao đây là cuốn tiểu thuyết đắt giá nhất trong cả cuộc đời cầm bút của nhà văn Đoàn Giỏi. Đoàn Giỏi sinh tháng 5 năm 1925 tại huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Các tác phẩm của ông thường viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người ở Nam Bộ. Nổi tiếng nhất trong số đó phải kể đến tiểu thuyết Đất rừng phương Nam. Cha của Đoàn Giỏi là một địa chủ, trí thức yêu nước, làm chủ hàng trăm héc ta ruộng vườn. Tuy nhiên, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, gia đình ông đã hiến toàn bộ tài sản cho chính quyền Cách mạng. Cứ tưởng cuộc đời ông sẽ gắn liền với cây cọ vẽ nhưng đến năm 1943, Đoàn Giỏi viết thử một truyện ngắn đầu tay và ngay lập tức được nhà văn Hồ Biểu Chánh chọn đăng trên tờ Nam kỳ tuần báo, từ đó ông có ý sẽ dấn thân vào con đường chữ nghĩa. Đoàn Giỏi đã có quãng thời gian dài từ lúc nhỏ cho đến tuổi thanh niên gắn bó với vùng đất Tiền Giang. Sau thời gian tập kết ra Bắc, đến những năm cuối đời ông mới có dịp về hướng dẫn trại sáng tác văn học cho nhiều anh chị em văn nghệ sĩ ở Tiền Giang. Vùng đất Tiền Giang nói riêng và Nam bộ nói chung đã gắn bó máu thịt và trở thành nguồn cảm hứng sáng tác đặc biệt đối với ông. Tác phẩm Đất rừng phương Nam cũng ra đời từ tình yêu sâu nặng ấy của nhà văn. Vào những ngày xuân đẹp trời năm 1982, Đoàn Giỏi phát hiện mình bị xơ gan nhưng đã không còn kịp để chữa trị. Năm ngày sau khi vào bệnh viện, căn bệnh hiểm nghèo đã kéo ông đi vào cõi vĩnh hằng, để lại tác phẩm dang dở Núi cả mây ngàn. Đất rừng phương Nam kể về cậu bé An trong quá trình chạy loạn khỏi giặc Pháp đã lạc mất cha mẹ và trôi dạt đến một mảnh đất cạnh sông, từ đây cậu trở thành người giúp việc cho quán của dì Tư Béo. An là một cậu bé thông minh nhưng luôn phải giấu mình, để âm thầm theo dõi và giám sát hoạt động của những kẻ gián điệp làm tay sai cho Pháp. Nhưng vào một ngày việc làm của An bị bại lộ nên cậu phải chạy trốn khỏi quán của dì Tư. Sau đó, An may mắn được vợ chồng ông Hai nhận làm con nuôi và làm bạn cùng cậu bé Cò cùng gia đình mới. Từ đây An lại có những chuyến phiêu lưu và những trải nghiệm đẹp trong cuộc đời. Qua cuộc đời trôi dạt của An, thiên nhiên Nam Bộ hiện lên với những vẻ đẹp hùng vĩ và bí ẩn, An được đắm chìm trong những cuộc vui chơi bất tận và cậu luôn mở mắt để nhìn ngắm cảnh vật và khám phá thế giới, vùng đất Nam Bộ qua lăng kính của cậu bé An thật đáng yêu và có bao điều để khám phá. Dù chỉ mới là một cậu bé tuổi đời còn rất nhỏ, nhưng dường như An cũng như bao đứa trẻ khác đã được nuôi lớn bằng tình yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Cậu bé An trong những ngày tháng lạc mất gia đình nhưng vẫn có thể góp phần vào công cuộc bảo vệ dân tộc. Trong số những tác phẩm ra đời cùng giai đoạn này, Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi được đánh giá là một ấn phẩm tuyệt tác. Bằng những quan sát tinh tế, cụ thể, lời văn đặc sắc, miêu tả chi tiết, từ ngữ có sự mộc mạc, bình dị, tất cả đã tạo nên một Đất rừng phương Nam đầy màu sắc, hoang vu nhưng không kém phần đẹp đẽ, sinh động, lôi cuốn người đọc từng câu từng chữ, đưa ta tới vùng đất phương Nam thật xa nhưng cũng thật gần. Tác giả đã cho ta thấy trên vùng đất mới ấy, người ta đã lặn lội khai phá, chịu đựng sự khắc nghiệt của thiên nhiên, đấu tranh với những loài ác thú ở dưới nước trên rừng vì bản năng sinh tồn. Tệ hơn hết thảy, họ phải đối mặt với bọn xâm lược tàn bạo, bè lũ tay sai hung ác. Tất cả các bước hiểm nguy đó đều được cắt nghĩa từ bộ mặt thật của tình hình xã hội nước ta đương biến đổi lúc bấy giờ. “Má nuôi tôi đưa tay lau một giọt nước mắt còn đọng trên má tôi. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy giọt lệ mình long lanh trong suốt, lăn rơi trong bàn tay nhăn nheo của một bà lão nghèo đã cúi đầu gánh chịu không biết bao nhiêu nỗi bất hạnh gần suốt cả đời người. Có phải giọt nước mắt nào cũng là biểu hiện của ủy mị và hèn yếu đâu.”. Tác phẩm là thước phim lấy đi nhiều nước mắt của độc giả bởi cuộc đời bấp bênh của những người dân Nam bộ, họ đã phải sống cả một cuộc đời lênh đênh trên sông nước và phải chịu nhiều mất mát trong những cuộc chiến tranh, vậy nhưng tình thương người và lòng yêu nước thì luôn vững bền. Ra đời từ năm 1957, cuốn tiểu thuyết vẫn giữ vững được vị trí của mình trong lòng độc giả qua bao thế hệ như một tượng đài trong văn học thiếu nhi của Việt Nam. Cuốn sách chân thành, mộc mạc đúng như tâm hồn người dân Nam Bộ. Đất và người mảnh đất phương Nam dường như đã thẩm thấu vào từng dòng huyết mạch của nhà văn Đoàn Giỏi, ông yêu mảnh đất này như một phần cuộc sống của mình. Bởi người dân Nam bộ quá đỗi hồn hậu và thân thương, họ có tình yêu bao la, rộng lớn vô cùng. “Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh, ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.”. Cảnh trí một miền sông nước yên bình bao giờ cũng khiến lòng người xao động, qua những câu văn của Đoàn Giỏi đất rừng phương Nam còn kỳ diệu và phong phú không thua một bức tranh thủy mặc. Đã trải qua biết bao nhiêu năm tháng đạn bom giày xéo lên mảnh đất hiền lành này nhưng không khi nào sông nước phương Nam mất đi vẻ đẹp mỹ miều vốn có của nó. Bên cạnh cảnh đẹp của vùng đất, cũng không khó để ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người dân miền Nam, họ có thể nghèo về vật chất nhưng là những người giàu tình yêu thương nhất. Qua lời má Hai là mẹ nuôi của An, chúng ta không khỏi xúc động trước lòng nhân ái của những người dân nơi mảnh đất này:. “Con ở đây với tía? Tía má nghèo lắm, chẳng có gì đâu. Nhưng con cứ tin rằng cuộc sống của con không đến nỗi như cuộc đời đau khổ của tía má ngày xưa! – má nuôi tôi một hôm đã bùi ngùi cầm tay tôi nói như vậy.”. Đó là tình thương yêu giữa những người dân Nam Bộ hồn hậu dành cho nhau, đó là tình yêu không mờ phai dù bao nhiêu năm tháng dãi dầu, họ nghèo khó nhưng vẫn đùm bọc nhau. “Cuộc sống của con người phải đâu chỉ thu hẹp trên mảnh đất vùng quê! Đã đành quê hương là nơi gắn bó với cuộc đời mình nhất, nhưng khi người ta còn trẻ tráng, phải bay nhảy hoạt động, đi đây đi đó chứ. Lúc nào cũng chạnh nghĩ về quê hương, đó là báo hiệu của tuổi già”. Cuốn sách còn như một di sản về cảnh vật Nam Bộ, khi thời đại công nghiệp hóa và thay đổi môi trường khiến cho những cánh rừng teo nhỏ, những lũ tôm cá dần biến mất, đọc cuốn sách để nhớ về một vùng đất đã từng trù phú đến dường ấy, để nuôi dưỡng cả một bầu tuổi thơ trong trẻo mà biết bao con người đã lớn lên. Đất rừng phương Nam mang đến những vẻ đẹp tưởng chừng như giản dị nhưng dưới ngòi bút đầy sáng tạo, sắc nét của nhà văn Đoàn Giỏi đã trở thành một tuyệt tác không thể nào chối cãi. Cuốn tiểu thuyết sẽ mãi là một bức tranh về sự sống ở đất rừng phương nam đầy màu sắc, muôn hình vạn trạng, biến đổi kỳ ảo đến không ngờ. Khiến cho mỗi người đọc chúng ta như được truyền vào trong tim mình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước và con người Việt Nam.
Đất rừng phương Nam
Đất rừng phương Nam là tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ. Cậu bé An sống cùng với cha mẹ tại thành phố, sau ngày độc lập 2-9-1945. Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam, đổ quân vào Nam Bộ. Pháp mở những trận đánh khiến cho những người dân sống tại các thành thị phải di tản. An và ba má cũng phải bỏ nhà bỏ cửa để chạy giặc. Cậu nhớ đến một anh bạn đi tàu đã tặng cậu chiếc la bàn mà không kịp mang theo. Theo cha mẹ chạy hết từ vùng này tới vùng khác của miền Tây Nam Bộ. An kết bạn cùng với những đứa trẻ cùng trang lứa và có một cuộc sống tuổi thơ vùng nông thôn đầy êm đềm. Nhưng cứ vừa ổn định được mấy bữa thì giặc đánh tới nơi và lại phải chạy. Trong một lần mải chơi, giặc đánh đến và An đã lạc mất gia đình.
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. Viêm tuyến tiền liệt là một tình trạng phổ biến, thường gây đau ở nam giới. Căn bệnh này không phải ung thư và cũng khác với tình trạng phì đại tuyến tiền liệt. Vậy viêm tuyến tiền liệt là bệnh gì? Để hiểu rõ hơn về bệnh lý này, mời bạn đọc tiếp bài viết sau đây. Viêm tuyến tiền liệt, hay còn gọi viêm tiền liệt tuyến, là tình trạng viêm ở tuyến tiền liệt và khu vực xung quanh. Tuyến tiền liệt có kích thước nhỏ bằng quả óc chó, nằm giữa bàng quang và gốc dương vật. Cơ quan này có vai trò sản xuất ra tinh dịch – môi trường giúp tinh trùng di chuyển dễ dàng. Một số loại nhiễm trùng có thể ảnh hưởng đến tuyến tiền liệt. Viêm tiền liệt tuyến gồm có 4 loại:. Đây là dạng viêm tiền liệt tuyến phổ biến và có nhiều triệu chứng giống với viêm tuyến tiền liệt nhiễm trùng. Điểm khác biệt duy nhất là dạng bệnh này không có sự hiện diện của vi khuẩn. Bạn có thể bị đau khi đi tiểu hoặc xuất tinh, tiểu không tự chủ (có thể đi tiểu hơn 8 lần mỗi ngày). Ngoài ra, dòng nước tiểu yếu cũng là một triệu chứng phổ biến của đau vùng chậu mãn tính. Nếu vi khuẩn xâm nhập vào đường tiết niệu, nó có thể gây ra nhiễm trùng. Tình trạng này thường xuất hiện nhanh chóng và đột ngột:. Thực tế, tình trạng viêm cấp tính do vi khuẩn là một vấn đề nguy hiểm. Do đó, nếu có các triệu chứng viêm tuyến tiền liệt trên đây, bạn nên nhanh chóng đến gặp bác sĩ. Tình trạng viêm này thường phổ biến hơn ở nam giới lớn tuổi. Đây là một bệnh nhiễm vi khuẩn nhẹ và có thể kéo dài trong vài tháng. Các triệu chứng viêm tuyến tiền liệt nhiễm trùng mạn tính thường xuất hiện và biến mất sau đó, vì vậy người bệnh có thể không chú ý đến. Các dấu hiệu viêm tiền liệt tuyến mãn tính do nhiễm vi khuẩn gồm:. Đối với viêm tuyến tiền liệt không có triệu chứng, bạn thường sẽ không phát hiện bệnh do không có bất cứ dấu hiệu nào. Bệnh chỉ được chẩn đoán thông qua làm xét nghiệm máu để kiểm tra sức khỏe tuyến tiền liệt. Viêm tiền liệt tuyến thường không cần điều trị, nhưng trong một số trường hợp, nó có thể gây ra vô sinh. Thực tế các chuyên gia không biết chính xác gây ra bệnh, điều này khiến cho việc chẩn đoán và điều trị gặp nhiều khó khăn hơn. Các vấn đề với cơ sàn chậu (các cơ hỗ trợ bàng quang và ruột, giúp kiểm soát việc đi tiểu). Vi khuẩn thường sống trong ruột có thể lây lan đến đầu dương vật và niệu đạo. Từ đây, vi khuẩn có thể di chuyển đến tuyến tiền liệt. Vi khuẩn cũng có thể xâm nhập vào tuyến tiền liệt từ bàng quang hoặc máu. Tình trạng viêm mạn tính này thường ảnh hưởng đến nam giới từng bị viêm niệu đạo hoặc có niệu đạo bị tổn thương hoặc hẹp. Bệnh thường được gây ra bởi cùng vi khuẩn gây viêm niệu đạo. Ngoài ra, nếu kháng sinh không để điều trị viêm do nhiễm khuẩn cấp tính, nó có thể tiến triển thành mạn tính. Điều này có thể là do cơ thể kháng kháng sinh hoặc ngưng điều trị thuốc quá sớm. Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ. Việc chẩn đoán bệnh thường liên quan đến việc loại trừ các tình trạng khác gây ra triệu chứng tương tự và xác định loại viêm hiện tại. Bác sĩ sẽ hỏi về bệnh sử và các triệu chứng của bạn, cũng như chỉ định làm một số xét nghiệm, như:. Xét nghiệm nước tiểu. Bác sĩ có thể lấy mẫu nước tiểu của bạn để tìm dấu hiệu nhiễm trùng trong nước tiểu. Bác sĩ có thể kiểm tra các mẫu máu để tìm dấu hiệu nhiễm trùng và các vấn đề về tuyến tiền liệt khác. Xét nghiệm hình ảnh. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể yêu cầu chụp CT đường tiết niệu và tuyến tiền liệt hoặc siêu âm tuyến tiền liệt. Hình ảnh chụp CT cung cấp thông tin chi tiết hơn so với X-quang. Dựa trên các triệu chứng và kết quả xét nghiệm, bác sĩ có thể xác định loại viêm tiền liệt tuyến. Trong quá trình điều trị viêm tiền liệt tuyến, bác sĩ có thể khuyên bạn nên uống nhiều nước để loại bỏ vi khuẩn. Tình trạng bệnh có thể cải thiện khi tránh rượu, caffeine và thực phẩm có tính axit hoặc cay trong quá trình chữa bệnh. Đối với viêm do vi khuẩn, bạn sẽ cần dùng thuốc kháng sinh trong 6–8 tuần. Nếu bị nhiễm trùng cấp tính nặng, bạn có thể phải nhập viện điều trị. Trong thời gian này, bác sĩ sẽ dùng kháng sinh tiêm tĩnh mạch. Nhiễm vi khuẩn mạn tính cần ít nhất 6 tháng dùng kháng sinh để ngăn ngừa nhiễm trùng định kỳ. Bác sĩ cũng có thể kê toa thuốc chẹn alpha để giúp cơ bàng quang giãn ra và giảm bớt các triệu chứng. Bạn có thể cần phẫu thuật nếu có bàng quang bị tắc nghẽn hoặc một số vấn đề giải phẫu khác. Phẫu thuật có thể giúp cải thiện lưu lượng nước tiểu bằng cách loại bỏ mô sẹo. Việc điều trị viêm tuyến tiền liệt mãn tính phụ thuộc vào triệu chứng của bạn. Bác sĩ sẽ chỉ định kháng sinh ngay từ đầu để loại trừ nhiễm trùng do vi khuẩn. Các loại thuốc khác để giúp giảm bớt sự khó chịu và đau đớn bao gồm:. Hãy luôn trao đổi với bác sĩ nếu bạn muốn áp dụng cách điều trị viêm bàng quang nào bên cạnh những chỉ định thông thường. Trong trường hợp bị nhiễm trùng, viêm do nhiễm khuẩn sẽ khỏi hoàn toàn nếu được điều trị đúng cách. Đau vùng chậu mãn tính có thể cần một số phương pháp điều trị khác nhau. Đa số trường hợp viêm tuyến tiền liệt không quá nguy hiểm và có thể điều trị tốt sau khi xác định được nguyên nhân cũng như loại viêm mắc phải. Nếu nhận thấy các triệu chứng bất thường nghi ngờ mắc bệnh, bạn cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và chữa trị hiệu quả. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
Viêm tiền liệt tuyến
Viêm tiền liệt tuyến hay viêm tuyến tiền liệt là một dạng viêm nhiễm tại bộ phận tuyến tiền liệt và thường biểu hiện dưới hai dạng cấp tính và mạn tính với một số triệu chứng tiêu biểu như đi tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đau, kèm theo sốt. viêm tuyến tiền liệt mạn tính biểu hiện chủ yếu là cảm giác khó chịu vùng bụng dưới, tinh hoàn, đau vùng dưới thắt lưng, tiểu nhiều lần. Tuyến tiền liệt là một tuyến đặc biệt chỉ có ở nam giới, kích thước và hình dạng như hạt của quả hồ đào nằm phía dưới bàng quang bao quanh đoạn đầu của niệu đạo. Khi mới sinh, kích thước tuyến tiền liệt của một bé trai chỉ bằng hạt đỗ. Tuyến này lớn dần theo thời gian và phát triển tăng vọt vào tuổi dậy thì. Cho đến 20 tuổi tuyến tiền liệt đạt đến kích thước của người lớn. Chức năng chính của tuyến tiền liệt là sản xuất tinh dịch, giúp cho việc nuôi dưỡng, vận chuyển tinh trùng đồng thời có chức năng giúp kiểm soát nước tiểu và sản xuất một số chất có trong tinh dịch.
Lợi nhuận ròng là gì? Làm sao để tính lợi nhuận ròng? Tại sao phải tính lợi nhuận ròng? Lợi nhuận ròng có vai trò gì? Các câu hỏi liên quan về lợi nhuận ròng vẫn thường xuyên được dân kinh tế quan tâm và tìm hiểu. Thế nhưng đối với những người mới làm quen với khái niệm này thì dường như nó vẫn còn khá xa lạ và khó hiểu. Nhưng đừng lo, các chuyên gia tài chính của VNCB sẽ giúp bạn giải đáp hết những thắc mắc này cùng đón xem trong bài viết bên dưới đây nhé!. Lợi nhuận ròng là thước đo lợi nhuận của một doanh nghiệp và nó chính là phần còn lại sau khi hạch toán tất cả các chi phí và thuế thu nhập doanh nghiệp. Một số thuật ngữ đồng nghĩa với lợi nhuận ròng mà người ta vẫn hay sử dụng đó là lãi ròng, lãi thuần, thu nhập ròng. Lợi nhuận ròng có thể được tính theo nhiều cách khác nhau nhau. Dưới đây là một số cách tính lợi nhuận ròng phổ biến nhất hiện nay. Các cổ đông thường sẽ theo dõi sát sao lãi ròng của doanh nghiệp vì đây chính là nguồn thu nhập của họ. Ngoài ra, thông qua lãi ròng cũng đánh giá được tình hình kinh doanh của công ty đang đi lên hay đi xuống và điều này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với giá của cổ phiếu. Không thể phủ nhận, lợi nhuận ròng đóng một vai trò hết sức quan trọng cho việc phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nếu như lợi nhuận ròng càng lớn thì cho thấy công ty đang làm ăn phát triển và ngược lại nếu như lợi nhuận ròng càng nhỏ thì công ty đang gặp khó khăn và có nguy cơ bị phá sản. Chính vì vậy, dựa vào lợi nhuận ròng mà các chủ doanh nghiệp phải biết được công ty đang nằm ở đâu để từ đó đưa ra được các chính sách, kế hoạch tiếp theo để tiếp tục gia tăng lợi nhuận, để cải thiện tình hình hiện tại hay là nên rút lui khỏi ngành hàng hoặc chuyển qua một ngành hàng mới. Chi phí hoạt động của doanh nghiệp: Tất nhiên nếu muốn lợi nhuận cao thì phải tối giản chi phí và nếu như chủ doanh nghiệp không biết cách chi tiêu phù hợp thì sẽ lợi nhuận ròng thu về sẽ bị khiêm tốn, lúc này tình hình kinh doanh sẽ trở lên thậm tệ. Vì vậy các doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề tài chính, chi tiêu tiết kiệm hợp lý sao cho mức chi phí tối đa chỉ là 30% doanh thu của công ty mà thôi. Giá gốc sản phẩm: Giá gốc sản phẩm cũng là một phần chi phí. Để giá gốc sản phẩm được tối giản thì bạn cần nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, tìm hiểu thật nhiều nguồn hàng, cân nhắc giữa các nhà cung cấp để làm sao chi phí đầu phải ít nhất. Và khi giá thành sản phẩm càng ít thì lợi nhuận thu về cho doanh nghiệp càng cao. Thuế thu nhập doanh nghiệp: Mức thuế thu nhập doanh nghiệp được thu theo quy định nhà nước, không thể tăng giảm theo ý muốn nên để có lợi nhuận thì cần nâng giá bán sản phẩm, giảm chi phí. Cách 1: Để tăng giá trị thì cần nâng cao năng lực và giá trị này có thể quy đổi thành tiền. Cách 2: Để tăng giá trị cần tăng thời gian làm việc, cần có công cụ máy móc hỗ trợ như vậy năng suất lao động được cải thiện và lợi nhuận sẽ được tạo ra nhiều hơn. Hãy biết cách tiếp cận những nền công nghệ tiên tiến phát triển để áp dụng công nghệ vào trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Cách 3: Để tăng giá trị hãy tăng quy mô sản xuất cũng như mở rộng quy mô, diện tích lớn hơn, gia tăng nguồn nhân lực.tùy theo điều kiện của công ty. Công Danh chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, chuyên chia sẻ các cách để vay tiền hay những phân tích liên quan tới tình hình thị trường tài chính, chứng khoán, tiền điện tử. VNCB là trang tin chuyên chia sẻ giúp bạn những thông tin về tài chính, các cách thức vay tiền nhanh từ ngân hàng, và cung cấp những giải đáp về thắc mắc của người dùng trong lĩnh vực vay tài chính. Mọi thông tin VNCB cung cấp đều dựa trên ý kiến của nhiều chuyên gia tài chính và tổng hợp từ trên internet.
Lợi nhuận ròng
Lợi nhuận ròng, còn được gọi là lãi thuần, thu nhập ròng hoặc lãi ròng là thước đo lợi nhuận của một liên doanh sau khi hạch toán tất cả các chi phí và thuế. Một từ đồng nghĩa chung cho lợi nhuận ròng khi thảo luận báo cáo tài chính (bao gồm bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập) là lãi ròng. Thuật ngữ này xuất phát từ sự xuất hiện truyền thống của một báo cáo thu nhập cho thấy tất cả các khoản thu và chi phí được phân bổ trong một khoảng thời gian xác định với tổng kết kết quả trên dòng dưới cùng của báo cáo. Theo thuật ngữ đơn giản, lợi nhuận ròng là số tiền còn lại sau khi thanh toán tất cả các chi phí của một nỗ lực. Trong thực tế, điều này có thể rất phức tạp trong các tổ chức lớn hoặc nỗ lực. Người giữ sổ sách hoặc kế toán viên phải phân loại và phân bổ doanh thu và chi phí đúng với phạm vi và nội dung làm việc cụ thể mà thuật ngữ được áp dụng. Tuy nhiên, các định nghĩa của thuật ngữ có thể khác nhau giữa Anh và Mỹ.
Sự tàn bạo của Gulag, hệ thống trại lao động cải tạo ở Liên Xô trong thời kỳ Stalin, đã được một số sử gia và những người sống sót ghi chép lại. Chẳng hạn như cuốn sách “The Gulag Archipelago” (Quần đảo Gulag) được xuất bản năm 1973 của nhà văn người Nga Aleksandr Solzhenitsyn thuật lại chi tiết những gì một số nhà bất đồng chính kiến đã phải trải qua trong các trại giam. Hay nhà sử học Robert Conquest cũng đã viết những tác phẩm như “The Great Terror” (Đại khủng bố) (1968) vào thời điểm nhiều người không được biết sự thật và đã làm giảm quy mô cũng như mức độ tội ác chống lại nhân loại của chính quyền Liên Xô. Tuy nhiên, những hành động khủng bố ảnh hưởng tới hàng chục triệu người này dần bị lãng quên theo thời gian. Đã nhiều thập kỷ trôi qua kể từ thời điểm cái chết của Joseph Stalin và những hành động ngược đãi tồi tệ nhất của nhà nước Xô viết diễn ra. Ngày nay, trong số hàng ngàn trại lao động ở các khu vực rộng lớn của Siberia và các vùng sâu vùng xa khác, chỉ có một trại lao động được giữ lại cho công chúng xem. Ông đã quan sát kỹ càng và vẽ lại những tội ác gây ra cho hàng triệu đồng bào của mình, những người được dán nhãn là “kẻ thù của nhân dân”. Năm 1988, Baldaev hoàn thành việc ghi lại những gì ông từng chứng kiến. Tư liệu đó sau này được Nhà xuất bản Fuel có trụ sở ở U.K. biên tập và xuất bản dưới tên “Drawings from the Gulag” (Tạm dịch: Tranh vẽ về Gulag). Phong cách nghệ thuật của Baldaev cân đối một cách thực tế, với những đường nét đậm nhạt toát lên cảm giác như một cuốn tiểu thuyết đương đại sinh động. Cuốn sách “Tranh vẽ về Gulag” gồm hơn 100 bức ảnh, miêu tả những vụ hành hình, giết người bằng rìu, tra tấn tình dục tàn bạo, và các phương thức tra tấn dã man khác do chính quyền Xô Viết gây ra. Baldaev cũng cung cấp những chú thích để miêu tả bối cảnh cho các bản vẽ của ông và thêm vào đó thân thế của các nạn nhân và thủ phạm. Cha của Baldaev là một người trí thức bị thanh trừng vào năm 1938. Kết quả là Baldaev trở thành trẻ mồ côi và bị đưa đi phục vụ cho nhà nước Xô viết. Ông đã phải chiến đấu trong suốt Thế Chiến II và cuối cùng tham gia vào hệ thống Gulag với tư cách là một quân nhân trong trại. Dưới đây là bức ảnh cho thấy vào thời điểm đó, ông là một người lính gốc Á đang đứng cạnh một chú chó Siberia. Vì từng là lính canh và cảnh sát, nên Baldaev có thể tận mắt chứng kiến phần lớn sự khủng bố của bộ máy nhà nước này. Ông đã bí mật vẽ lại những gì mình thấy dưới dạng những bản phác thảo mà chỉ mình ông có thể hiểu và cất giữ chúng cho sau này. Chờ khi cơ hội đến, ông sẽ biến chúng thành những bức vẽ minh họa hoàn chỉnh. Những hành động tra tấn và ngược đãi mà Baldaev miêu tả trong các bức vẽ đã xảy ra cách đây nửa thế kỷ, nhưng đối với hàng triệu tù nhân lương tâm bị Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bắc Triều Tiên giam giữ ngày nay, những Gulag này vẫn đang tồn tại. Nhiều trẻ em là con cái của các tù nhân trong trại giam Gulag đã bị tách khỏi bố mẹ và đưa vào trại trẻ mồ côi – bao gồm cả Danzig Baldaev. Do tình trạng quá tải và coi rẻ sinh mạng những đứa trẻ này, nhiều em đã bị bắn chết. Những nữ tù nhân ở Gulag, thường là người nhà của những người bị dán nhãn là “kẻ thù của nhân dân”, sẽ là đối tượng bị tra tấn và lạm dụng tình dục. Hệ thống gulag đã nuôi dưỡng một kiểu tội ác tàn bạo, khơi nguồn cho các băng nhóm Mafia Nga ngày nay. Ngoài cung cấp các thông về hệ thống Gulag, Baldaev còn vẽ lại các hình xăm của quân lính trong nhà tù. Thêm 12.901 ca mắc mới, 356 ca tử vong; TP.HCM xét nghiệm phát hiện 42.400 trường hợp F0. Thêm 11.575 ca mắc mới, 318 ca tử vong; hơn một triệu liều vaccine Mỹ viện trợ về Việt Nam. Thêm 12.096 ca, 335 trường hợp tử vong; Bộ Y tế ban hành quy định mới về cách ly, điều trị trẻ em liên quan đến COVID-19. Việt Nam vượt mốc 9.000 người tử vong vì Covid-19; gần 100% F0 mới tại TP.HCM là ngoài cộng đồng
Trại cải tạo lao động của Liên Xô
Tổng cục Trại giam (tiếng Nga: Гла́вное управле́ние лагере́й, Glavnoe upravlenie lagerei) còn được gọi tắt là Gulag (ГУЛаг) là hệ thống trại cải tạo bằng lao động, lần lượt chịu sự quản lý của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô, Bộ Nội vụ Liên Xô, Bộ Tư pháp Liên Xô trong thời gian từ năm 1930-1960. Sau Tổng cục được đổi tên thành Tổng cục Thi hành án (Главное управление исполнения наказаний, GUIN). Hiện nay là Cơ quan Thi hành án Liên bang (Федеральная служба исполнения наказаний, FSIN). GULag tên gọi tắt của Tổng cục trại lao động cải tạo và lao động định cư Liên Xô (Tiếng Nga: Главное управление исправительно-трудовых лагерей и колоний) của NKVD (Bộ Dân ủy Nội vụ (Народный комиссариат внутренних дел, Narodnyy Komissariat Vnutrennikh Del), viết tắt là NKVD (НКВД) là các tổ chức cảnh sát công cộng và bí mật của Liên Xô trong thời Joseph Stalin. Hệ thống Gulag được chính thức thành lập ngày 25 tháng 4 năm 1930 và trên lý thuyết giải thể ngày 13 tháng 1 năm 1960. Việc sử dụng cụm từ "Gulag" tại Nga để biểu thị hệ thống lao động cải tạo ở Liên Xô trong thời kỳ Stalin, nơi giam giữ phạm nhân thuộc đủ thành phần (giết người, trộm cướp, lừa đảo.
hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. là phương thức giáo dục dành riêng cho người khuyết tật trong cơ sở giáo dục. khuyết tật không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này. thực hiện chính sách, pháp luật và chương trình, đề án trợ giúp người khuyết tật. do tai nạn thương tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật. là quỹ xã hội từ thiện nhằm huy động nguồn lực trợ giúp người khuyết tật. người khuyết tật thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội. động thì việc xác định mức độ khuyết tật theo quy định của Chính phủ. nhiệm tổ chức và chủ trì hoạt động của Hội đồng. Hội đồng làm việc theo nguyên. Cuộc họp của Hội đồng chỉ có giá trị khi có ít nhất hai phần ba số. thành viên của Hội đồng tham dự. Kết luận của Hội đồng được thông qua bằng cách. của Chủ tịch Hội đồng. Kết luận của Hội đồng được thể hiện bằng văn bản do Chủ. gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người khuyết tật cư trú.
Người khuyết tật
Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Theo DDA (Disability Discrimination Act – Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành), khi xét về mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng bình thường không được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại, một số người có khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của DDA, cả khi họ sẽ được phục hồi hoàn toàn . Còn Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) .
ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng do Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO) ban hành. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 liệt kê các khía cạnh khác nhau của quản lý chất lượng và bao gồm một số tiêu chuẩn phổ biến nhất của ISO. Các tiêu chuẩn này cung cấp sự hướng dẫn và các công cụ cho các tổ chức, công ty muốn đảm bảo rằng các sản phẩm và dịch vụ của họ luôn đáp ứng yêu cầu của khách hàng, và chất lượng được cải thiện một cách nhất quán. ISO 9000: 2015 quy định các điều khoản và định nghĩa áp dụng cho tất cả các tiêu chuẩn quản lý chất lượng và áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức không phân biệt quy mô hay loạI hình sản xuất/dịch vụ.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là Bộ tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng nhằm trợ giúp các tổ chức, thuộc mọi loại hình và quy mô trong việc xây dựng, áp dụng và vận hành các hệ thống quản lý chất lượng có hiệu lực. ISO 9000 được duy trì bởi tổ chức Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO), là tổ chức đang được hoạt động dựa trên giấy chứng nhận quyền công nhận tiêu chuẩn này. Mặc dù các tiêu chuẩn này được bắt nguồn từ sản xuất nhưng chúng có thể áp dụng cho các loại hình tổ chức, bao gồm cả các trường đại học và cao đẳng. Một "sản phẩm" theo cách nói trong từ điển ISO là một vật thể hay dịch vụ hay phần mềm nào đó mang tính vật chất. Nhưng trên thực tế, theo tiêu chuẩn ISO 2004, "hiện tại các lĩnh vực dịch vụ được tính toán đi quá xa so với số liệu cao nhất của chứng nhận ISO 9001:2000, khoảng 30% trong tổng số. "theo cuộc điều tra về ISO 2004. Hiện nay một số tiêu chuẩn trong Bộ tiêu chuẩn này đã được dịch sang tiếng Việt và được ban hành thành các Bộ TCVN 9000 tương ứng.
Tứ bất tử là 4 vị Thánh bất tử trong văn hóa dân gian Việt Nam. Vậy, Tứ bất tử là những ai? Nhân vật nữ duy nhất trong Tứ bất tử là ai? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!. Trong tư duy của người dân một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Việt Nam, con số bốn (Tứ) là con số mang tính ước lệ và thường có nhiều ý nghĩa lớn. Người ta cho rằng, mọi cơ cấu giá trị vật chất tinh thần đều bắt đầu từ bộ Tứ, ví dụ như 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông; 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Bộ Tứ được coi là những gì tiêu biểu, độc đáo nhất trong một tập hợp và thường mang tính thời đại, chính vì vậy, ngày xưa người ta thường hay có: Tứ trấn, An Nam Tứ đại tài, Tràng An Tứ hổ, Sơn Tây Tứ quý. Trong văn hóa dân gian và thế giới tâm linh của người Việt, hình ảnh bộ Tứ cũng thường hay xuất hiện, đặc biệt không thể không nhắc đến Tứ bất tử - bốn vị Thánh linh thiêng trường sinh bất tử trong các thần điện Việt Nam. Vậy, Tứ bất tử là những ai?. Tản Viên Sơn Thánh, hay Sơn Tinh: Là vị thần núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của các núi ở Việt Nam. Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng: Là anh hùng dân tộc đã có công đánh thắng giặc Ân, giữ yên bờ cõi, là tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Chử Đồng Tử, còn được gọi là Chử Đạo Tổ: Là vị Thánh tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có. Công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh: Là vị Thánh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng, thơ văn. Tuy nhiên, trong 4 vị trên thì có 3 vị Thánh đầu tiên xuất hiện từ thời Hùng Vương, chỉ có Mẫu Liễu Hạnh là người duy nhất có thật, mới được đưa vào hệ thống Thần Thánh từ thời Hậu Lê. Trước khi Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện thì có ý kiến cho rằng, bên cạnh 3 vị Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đạo Tổ thì Tứ bất tử trong tín ngưỡng văn hóa dân gian còn 2 vị khác là Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không. Từ Đạo Hạnh còn được gọi là Thánh Láng; Nguyễn Minh Không còn được gọi là Thánh Nguyễn; hai vị này là Thánh Tổ của Phật giáo, đóng vai trò trong Tứ bất tử trước thế kỷ 15 - 16. Thánh Láng và Thánh Nguyễn tượng trưng cho khả năng phi phàm tồn tại trong chính mỗi người nếu được khai phát một cách đúng đắn, họ là đại diện của văn hóa Lý - Trần vốn lấy Phật giáo làm quốc giáo. Nhắc đến Tứ bất tử, nhiều người sẽ thắc mắc không biết trong 4 vị Thánh này, có vị nào là nữ hay không. Câu trả lời tất nhiên là có bởi ông bà ta từ xưa đến nay vốn rất coi trọng công lao của người phụ nữ, đạo Mẫu cũng là một trong số những tín ngưỡng truyền thống, vẫn còn được lưu truyền sau hàng ngàn năm lịch sử của đất nước. Công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh chính là nhân vật nữ duy nhất trong Tứ bất tử. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", "Chế Thắng Hòa Diệu đại vương" và cuối cùng quy y cửa Phật theo lối bán tu rồi thành đạo là Mã Vàng Bồ Tát. Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch hằng năm tại nhiều tỉnh phía Bắc. Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào thời Hậu Lê, khá muộn so với những vị Thánh còn lại nhưng lại là người được nhân dân dày công xây dựng hình ảnh và tôn thờ nhất. Thánh Mẫu Liễu Hạnh chính là một biểu tượng thể hiện cho khát vọng được tự do, được giải phóng khỏi những ràng buộc, lễ giáo phong kiến của người phụ nữ và khát vọng có được hạnh phúc gia đình. Mặc dù trước kia, người Việt cổ đã có Tam tòa Thánh Mẫu gồm: Mẫu Cửu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (3 vị Mẫu trị vì Trời, Rừng, Nước), tuy nhiên, những vị Thánh này vẫn rất xa vời với ước nguyện và tín ngưỡng dân gian. Bên cạnh đó, thời đại Hậu Lê là một giai đoạn lịch sử đặc biệt khi càng về sau, các đời vua Lê càng trở nên mục nát, nhiều phe phái nổi lên tranh giành quyền lực khiến cho xã hội loạn lạc, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, vào thời đại này, nước ta bị Nho giáo ảnh hưởng rất lớn khiến cho thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, coi thường. Người dân cần có một bậc Thánh vừa uy linh, vừa gần gũi với đời sống nhân sinh, vừa thể hiện tinh thần phản kháng của người dân với chính quyền phong kiến và có tiếng nói đòi bình đẳng của người phụ nữ. Những ước vọng ấy đã hun đúc nên hình tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh - Thượng Thiên Thánh Mẫu của dân. Qua bài viết trên, chắc hẳn bạn đã hiểu thêm về hình ảnh Tứ bất tử cũng như về nhân vật nữ duy nhất trong 4 vị Thánh trên - Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Hy vọng rằng những thông tin mà META chia sẻ sẽ giúp ích cho bạn. Đừng quên thường xuyên truy cập META.vn để tham khảo thêm nhiều thông tin thú vị khác nhé! Hẹn gặp lại bạn trong các bài viết sau!. Những câu trích dẫn hay nhất về tình yêu, cuộc sống. cho mọi hoàn cảnh
Tứ bất tử
Tứ bất tử (chữ Hán: 四不死) là tên gọi chung của bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam; đó là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử và Công chúa Liễu Hạnh. Tản Viên Sơn Thánh, hay Sơn Tinh, là vị thần núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của các núi ở Việt Nam. Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng, tượng trưng cho tinh thần chống giặc ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Chử Đồng Tử, còn được gọi là Chử Đạo Tổ; tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có. Công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh; tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng, thơ văn. Trong 4 vị trên thì 3 vị nam thần đầu tiên theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương và đã được thờ ở rất nhiều nơi từ rất lâu. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là người phụ nữ duy nhất có thật, mới được đưa vào hệ thống Thần Thánh từ thời Hậu Lê.
Cây mọng nước là những thực vật sống ở vùng khô hạn hoặc bán khô hạn. Chúng bao gồm nhiều họ thực vật khác nhau, trong đó có họ xương rồng (Cactaceae). Đây là một loài thực vật lớn,nó có khoảng 2000 loài. Các loại thực vật mọng nước sống nơi khô cằn sỏi đá nhưng vẫn tươi tốt là nhờ có thể dự trữ được nhiều nước bên cạnh sức hút nước rất nhanh của chúng. Bài viết này sẽ giới thiệu rõ hơn về nhóm thực vật này. Nhiều nhóm trong cây mọng nước là thực vật CAM. Dựa vào hoạt động quang hợp, thực vật được chia làm 3 nhóm: cây C3, cây C4 và CAM. Những cây CAM có đặc điểm hấp thu khí CO2 do cây hô hấp ra và khí CO2 có trong không khí cả ban ngày lẫn ban đêm (khác với C3, C4) cho nên chúng ta trồng được trong nhà (kể cả phòng ngủ), nơi làm việc,.Nhiều cây còn có hút cả khí độc. Vào ban đêm, cây xương rồng (catus) hút khí cacbonic làm trong sạch phòng ngủ giúp cho chúng ta một giấc ngủ an lành đảm bảo một ngày hôm sau tốt đẹp. Một khả năng khác của nhóm cây này là tiết kiệm nước. Đa số các cây trong nhóm này đều có những đặc điểm hình thái tiêu giảm để thích nghi với điều kiện sống. Các đặc điểm hình thái phổ biến như: lá rất nhỏ, dày hoặc có hình như chiếc ghe hứng nước và cho nước chảy vào thân, hoặc không có lá, lá biến thành gai, thân chỉ có lông…Số khí khổng ở xương rồng cũng rất ít so với các loại thực vật khác để hạn chế bốc hơi nước. Ngoài ra xương rồng vào ban ngày khí khổng đóng lại nên cây mất ít nước. Phần lớn xương rồng được tìm thấy ở châu Mỹ, châu Phi và Australia. Chúng có nguồn gốc ở các nước: Mỹ, Mexico, Cuba, Honduras, Chile,…Họ xương rồng có đến trên 130 giống (genus) với trên 2000 loài và được chia làm 3 họ phụ:. Pereskioideae: Xương rồng thuộc họ này, thân có lá có gai. Thân cây nhỏ giống như những cây hai lá mầm khác. Opuntioideae: thân cành non vẫn có lá nhưng lá nhỏ và mau rụng. Núm có gai và có lông móc (glochid). Hoa có hình đĩa, họ gồm có 5 giống, Opuntia là giống chính. Cactoideae: Họ phụ này chiếm đa số giống và loài xương rồng. Thân cây đa dạng, không có lá và thường có gai ở núm. Ở rất nhiều giống, thân có nhiều cạnh, hoa có hình ống hoặc hình chuông. Bao gồm nhiều cây mọng nước lá và thân. Cây đẹp nhờ có bộ lá hoặc hoa của chúng. Tiêu biểu có sống đời và Liên đài. Đây là một họ lớn có đến 2000 loài, trong số đó có một số loại mọng nước có hoa đẹp như cây bát tiên, và một số loài rất giống xương rồng cho nên chúng ta gọi là xương rồng ông, xương rồng bà. Thật ra là những cây giả xương rồng. Đây là sản phẩm được Namix phối trộn dành riêng cho cây mọng nước. Ngoài xương rồng, sen đá, bạn có thể trồng thêm được nhiều loại cây khác như: phỉ thúy (cây ngọc bích), nha đam, sống đời, lan cẩm cù,…. Đất Namix: đất được xử lý ủ vi sinh cung cấp dinh dưỡng, kết hợp với các loại đá khoáng tạo môi trường thích hợp nhất cho cây phát triển. Với sự kết hợp của các loại đá khoáng sẽ giúp cho đất thoát nước tốt nhưng vẫn giữ ẩm, tạo môi trường thuận lợi cho cây mọng nước phát triển. Đất Namix cung cấp dinh dưỡng, phân chậm tan với tỷ lệ NPK thích hợp cho xương rồng, sen đá cung cấp dinh dưỡng dài lâu. Sản phẩm được phối trộn sẵn giúp cho người trồng dễ dàng sử dụng, giảm thời gian,ít tốn công chăm sóc. Với chính sách đại lí hấp dẫn, chiết khấu cao, cùng với đó là các chiến dịch marketing hỗ trợ đại lí. Các đại lí của Namix sẽ được hỗ trợ tối đa các dịch vụ kinh doanh, tư vẫn và hỗ trợ khách hàng. Ngoài ra, khách hàng có nhu cầu mua đất sạch Namix với số lượng lớn hãy để lại thông tin. Chúng tôi sẽ chủ động liên hệ trực tiếp để tư vấn cho bạn.
Thực vật mọng nước
Trong thực vật học, thực vật mọng nước, cũng được gọi là cây mọng nước hoặc đôi khi là thực vật béo, là những loài thực vật có một số thành phần dày và nhiều thịt hơn bình thường, thường để giữ nước khi sinh trưởng ở nơi điều kiện đất hay khí hậu khô cằn (đây là loài thực vật thuộc nhóm cây chịu hạn). Từ "mọng nước" xuất phát từ thuật ngữ sucus từ Latin, có nghĩa là nước trái cây, hoặc nhựa. Thực vật mọng nước có thể lưu trữ nước trong những cấu trúc khác nhau, chẳng hạn như lá hoặc thân cây. Một số định nghĩa còn gộp cả rễ, vì thế các loài địa sinh sống sót qua các thời kỳ có điều kiện không thuận lợi bằng cách khô héo và chết phần lộ thiên và chỉ tồn tại ở dạng cơ quan lưu trữ ngầm dưới đất cũng có có thể coi là thực vật mọng nước. Tuy nhiên, khi thuật ngữ này được sử dụng trong nghề làm vườn thì thuật ngữ "mọng nước" cũng thường hay loại bỏ một số nhóm thực vật mà các nhà thực vật học coi là thực vật mọng nước, chẳng hạn như xương rồng.
Lần thứ 7 tại Satsuki ở Nhật Bản quá lâu, chúng tôi phải thực hiện một bước lên đến par 7. Với chiều dài khổng lồ 964 thước Anh, nó chính thức là lỗ golf dài nhất thế giới theo Kỷ lục Guinness Thế giới. Vài ngày trước khi Phil Mickelson đánh bại Woods với số tiền 9 triệu đô la trong "The Match" gần Las Vegas, Woods và con trai của ông, Charlie, cùng với Fred Couples, đã chơi tại Madison Club, một câu lạc bộ gôn tư nhân ở La Quinta, Calif. Chủ sở hữu sân và chuyên gia chơi gôn vui lòng tiết lộ khoảng sân của lỗ dài nhất của họ, từ phát bóng sau đến cúp. … Các nguyên tắc của USGA là như vậy có thể xem xét bất kỳ lỗ nào dài 691 thước Anh và dài hơn từ tees phía sau hoặc 591 và dài hơn từ tees nữ một mệnh giá 6. Một trong những hố ngắn nhất và thú vị nhất của PGA Tour là ngày 17 tại TPC Sawgrass, sân nhà của THE PLAYERS Championship. Khoảng cách từ tees vô địch đến mặt trước của green là 121 yard, trong khi phía sau của green là 146 yard. Nicklaus đã có một tổng cộng 20 lỗ trong một trong tất cả các trận đấu chính thức, luyện tập và giao hữu kết hợp của anh ấy. Số liệu thống kê chính thức từ PGA nói rằng 3 trong số 20 quân át chủ bài đó đã tham gia các trận đấu chính thức của PGA Tour. Trong PGA Tour, một người chơi golf đã may mắn lọt vào một trận đấu lỗ trong sự nghiệp dù chỉ một lần trong sự nghiệp của họ. Tuy nhiên, đối với một số chuyên gia được chọn, họ đã ít nhất năm lỗ trong một trong cuộc thi PGA Tour. Thuật ngữ "đà điểu" được sử dụng để mô tả hoàn thành một lỗ bằng cách sử dụng ít hơn năm gậy so với mặt sân. Mỗi lỗ được ấn định một số lần đánh được coi là ngang bằng, hay còn được gọi là trung bình của sân. … Nói cách khác, người chơi gôn phải đặt bóng vào lỗ trong lần đánh đầu tiên. Tiger Woods đã bắn một quả 59 trong sân nhà của anh ấy trong khi luyện tập cho Giải đấu Thạc sĩ sắp tới vào năm 1997. Tuy nhiên, trên hồ sơ chính thức, Tiger Woods tự hào về vòng 61 là vòng tốt nhất của anh ấy trong PGA Tour, một kỳ tích mà anh ấy đã đạt được một số thành tích. Par-7 kéo dài chiều dài của số chín cụ thể này lên đến 3,469 thước Anh và bao gồm ba par-5, năm par-4 và par-7 quái dị. Và vâng, đó là lỗ chấp số 1. Điều chúng tôi có thể nói chắc chắn là không có vòng 54 đã từng được ghi trong môn đánh gôn… nhưng ít nhất bốn vòng 55 đã được ghi lại. Có lẽ là lỗ nổi tiếng nhất trong tất cả các môn chơi gôn, lỗ thứ 17 tại St Andrews được gọi là lỗ đường và cũng là một trong những lỗ gôn khó nhất trên lịch Mở. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật mà nói, lỗ trong một trên par 5 là điểm của par 4, vì vậy, về lý thuyết, nó có thể được gọi là "Đôi chim hải âu" hoặc "đại bàng ba". Tuy nhiên, những điều đó nghe thật ngốc nghếch. Vì vậy, gắn với chủ đề gia cầm của các thuật ngữ ghi điểm của gôn (chim, đại bàng, chim hải âu), một cú ace par-5 được gọi là condor. Đấu thầu cho danh hiệu lớn đầu tiên của mình mặc dù đã giành được năm chiến thắng trong PGA Tour, Dechambeau tiết lộ các phương pháp khoa học để chơi gôn của ông chưa bao giờ tìm ra công thức đúng cho một cú đánh lỗ trong một trước đây. DeChambeau nói: “Không, tôi chưa bao giờ có một . Tỷ lệ tạo ra một lỗ trong một là 12,500 để 1. Đối với những người chơi gôn chuyên nghiệp, tỷ lệ tạo lỗ trong một lần giảm xuống còn 2,500 ăn 1. Được gọi là "Vua của Ách", Davis giữ kỷ lục thế giới PGA về lỗ trong một. Cú ace đầu tiên của anh ấy đến vào năm 1967. Cú đánh thứ 51 của anh ấy được đánh dấu vào năm 2007 trong một giải đấu gôn dành cho người nổi tiếng. Tất cả chào mừng đức vua!. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật, một lỗ trong một trên par 5 là điểm của par 4, vì vậy, về lý thuyết, nó có thể được gọi là “chim hải âu đôi ”hoặc“ đại bàng ba. ” Tuy nhiên, những điều đó nghe thật ngốc nghếch. Vì vậy, gắn với chủ đề gia cầm của các thuật ngữ ghi điểm của gôn (chim, đại bàng, chim hải âu), một cú ace par-5 được gọi là condor. Các nguyên tắc của USGA là như vậy bất kỳ lỗ nào dài 691 thước Anh và dài hơn từ tees sau hoặc 591 và dài hơn từ tees nữ có thể được coi là lỗ par 6. … “Bạn phải thiết kế nó để nó không phải là điều mà người chơi gôn sợ hãi,” Bill Ward Jr., nhà thiết kế của hố dài nhất Meadow Farm, cũng như một vài hố par 6 khác, cho biết. Giả sử, đây là tên được chỉ định để hoàn thành một lỗ đánh bóng ít hơn 7 lần so với mệnh đề. Nói cách khác, đây là những gì sẽ xảy ra khi bạn đánh lỗ Par XNUMX bằng hai gậy hoặc bắn một cú Hole-In-One trên Par Six. Nói thẳng ra, đây là một trường hợp của văn học dân gian. Trong trò chơi bowling mười chân, một bộ ba cuộc tấn công liên tiếp được gọi là gà tây, trong khi sáu con liên tiếp được gọi là gà tây hoang dã, hoặc vàng. Đây không phải là lần đầu tiên gôn vay mượn từ một môn thể thao khác để mở rộng vốn từ vựng của nó. Tên mà người chơi gôn sử dụng cho điểm dưới par trên một lỗ đơn đều có tên loài chim. Bắt đầu với chính từ “bird”: “birdie” có nghĩa là một người chơi gôn đã chơi một lỗ ở mệnh 1 dưới. … Vì vậy, để ghi được một con đà điểu, một người chơi golf phải chơi một lỗ gôn có xếp hạng par lớn hơn par-5. Và, vâng, các lỗ par-6 có tồn tại. Một condor sẽ là một lỗ trong một trên par-năm (thường bằng cách cắt qua một góc dogleg), hai trên một par-sáu, hoặc ba trên một par-bảy (chưa được biết là đã đạt được hay chưa). … Chim hải âu còn được gọi là chim hải âu đôi, hoặc đại bàng ba. - Sau khi Tiger Woods ghi điểm tệ nhất từ trước đến nay trên một lỗ hổng trong sự nghiệp chuyên nghiệp của anh ấy - một 10 tại hố thứ 3 par-12 của Augusta National trong vòng cuối cùng của giải Masters - caddie lâu năm của anh ấy, Joe LaCava, đã có một cái nhìn toàn cảnh về tình hình. “Anh ấy đã làm được 3 ở đó vào năm ngoái,” LaCava nói. Giả sử, đây là tên được chỉ định để hoàn thành một lỗ khi bóng đập vào ít hơn 7 lần so với par. Nói cách khác, đây là những gì sẽ xảy ra khi bạn đánh lỗ Par XNUMX với hai gậy hoặc bắn một cú Hole-In-One trên Par Six. Nói thẳng ra, đây là một trường hợp của văn học dân gian. Ý tôi không phải là làm con đà điểu là văn hóa dân gian. Đã từng có một trận đấu lỗ trên một par 4 trong lịch sử PGA Tour. Điều đó nổi tiếng đến tại giải Phoenix mở rộng năm 2001, khi cú phát bóng của Andrew Magee ở cự ly 332 yard thứ 17 tại TPC Scottsdale đã tình cờ cản phá cú đánh bóng của Tom Byrum và vào lỗ cho một cú ace. Điểm 5 dưới par trên một lỗ gôn đơn được gọi là gì? Đó là một con đà điểu. Và nếu bạn đã từng làm một chiếc, bạn có thể sẽ là người chơi gôn đầu tiên ở bất cứ đâu từng làm một chiếc. Tên mà người chơi gôn sử dụng cho điểm dưới par trên một lỗ đơn đều có tên loài chim. Chúng tôi sẽ không công khai email của bạn. Các ô đánh dấu * là bắt buộc *. 1 Nguồn thông tin chính thức về người nổi tiếng, Mọi điều bạn cần biết về Siêu sao, Doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo và doanh nhân thành công cho đến Những người nổi tiếng. duyệt qua của chúng tôi danh sách những người nổi tiếng với Wiki, Trích dẫn, Liên hệ, Tiểu sử, Ảnh hiếm, Giá trị thực, Gia đình và Tin tức xu hướng hàng đầu.
Lỗ sâu
Trong vật lý, một lỗ sâu (tiếng Anh: wormhole), lỗ giun, hay Cầu Einstein-Rosen là một không-thời gian được giả định là có cấu trúc tô pô đặc biệt tạo nên đường đi tắt trong không thời gian. Chúng nối thông từ một vùng không-thời gian này đến vùng kia và đôi khi, vật chất đi từ vùng này sang vùng kia bằng cách chui qua hố này. Tên gọi "lỗ sâu" được tạo ra khi tưởng tượng rằng vũ trụ là một bề mặt cầu. Muốn đi từ một điểm đến điểm đối diện trên mặt cầu cần quãng đường là nửa chu vi đường tròn lớn của mặt cầu. Tuy nhiên, nếu có một con sâu đục lỗ xuyên vào trong lòng hình cầu, nối thẳng hai điểm, quãng đường đi chỉ còn là đường kính mặt cầu. Trong không thời gian, một hố giun có thể giúp đi qua các khoảng cách rất lớn, thậm chí đi tới một "vũ trụ khác". Có thể sự tồn tại của hố giun trải dọc chiều thời gian, đi qua quá khứ, vì thế có thể đi ngược thời gian bằng cách đi qua nó. Một ví dụ về cơ chế sinh ra lỗ sâu đã được tưởng tượng cho bên trong lòng các lỗ đen tích điện và quay (có mô men động lượng).
Digital Media là một trong những cách tốt nhất để quảng bá thương hiệu của bạn trên mạng truyền thông. Tuy nhiên, không phải tất cả nội dung, mọi phương tiện truyền thông được tạo ra đều phù hợp với chiến lược Marketing. Trong bài viết này. Chúng tôi sẽ cùng bạn đi tìm hiểu Digital media là gì và 7 cách làm Digital media quen thuộc và hiệu quả trong giới marketer. Digital Media (hay được gọi là Phương tiện truyền thông kỹ thuật số) là bất kỳ hình thức truyền thông nào sử dụng các thiết bị điện tử để phân phối. Dạng phương tiện này có thể được tạo, xem, sửa đổi và phân phối thông qua các thiết bị điện tử. Phương tiện kỹ thuật số là phần mềm, trò chơi điện tử, video, trang web, mạng xã hội và quảng cáo trực tuyến thường được sử dụng. Mặc dù phương tiện truyền thông kỹ thuật số là một phần trong văn hóa hàng ngày của chúng ta, các chủ doanh nghiệp vẫn cảm thấy không thoải mái với việc thay thế quảng cáo trên giấy của họ bằng các dịch vụ tiếp thị kỹ thuật số. Digital media luôn thay đổi, nhanh đến mức chúng ta được nhìn thấy sản phẩm mới được cập nhật mỗi ngày. Cũng chính vì thế, các chuyên gia digital media có thể là chuyên gia truyền thông xã hội, nhà phát triển web, phát triển sản phẩm kỹ thuật số hoặc là các marketer. Digital Marketing là hành động đặt nội dung (bài đăng trên Facebook, banner ads, quảng cáo tìm kiếm có trả tiền, v.v.) vào đúng nơi, vào đúng thời điểm để tiếp cận những khách hàng có giá trị nhất. Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng hiệu quả tiếp thị kỹ thuật số, tăng doanh số bán hàng và doanh thu, đó là điều cuối cùng mà doanh nghiệp hướng đến. Vì ngày càng nhiều người tiêu dùng chuyển sang sử dụng công nghệ cho nhu cầu mua sắm của họ, với tư cách là một doanh nghiệp, bạn cần sử dụng tiếp thị kỹ thuật số để tiếp cận những khách hàng đó. Để phát triển mạnh, các doanh nghiệp phải có sự hiện diện kỹ thuật số, cho dù đó là trên một trang web, sử dụng các nền tảng truyền thông xã hội, SEO, hay lý tưởng là sự kết hợp của những thứ này. Sử dụng tiếp thị kỹ thuật số, bạn có thể tiếp cận lượng khách hàng lớn hơn theo cách có thể đo lường được và tiết kiệm chi phí. Phương tiện kỹ thuật số dựa trên phân tích dữ liệu, cung cấp cơ hội tiếp cận nhiều người tiêu dùng hơn với số tiền ít hơn so với các phương pháp tiếp thị truyền thống trong khi tìm hiểu cơ sở khách hàng của bạn, do đó tăng lòng trung thành với thương hiệu. Với phương tiện kỹ thuật số, bạn có thể trau dồi tiếp thị và nhắm mục tiêu đến khách hàng tốt nhất của mình. Bằng cách sử dụng cookie và các công cụ theo dõi trực tuyến, chúng tôi có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về những gì khách hàng muốn và khiến họ bắt đầu tương tác tích cực với thương hiệu của bạn. Nói một cách đơn giản, phương tiện kỹ thuật số sẽ thúc đẩy chiến dịch tiếp thị hiện tại của bạn. Audio có thể hiểu đơn giản là một tệp tin âm nhạc hoặc dịch vụ phát âm nhạc trực tuyến. Chúng có thể được nén trên các bản âm thanh MP4 và có chất lượng thấp hơn bản Audio gốc. Ngoài ra, media có thể dựa trên định dạng lossless như FLAC; để cung cấp những file có chất lượng gần với file gốc. Các dịch vụ radio kỹ thuật số như Apple Music, Spotify, Tidal, Pandora và Sirius, cung cấp một loạt các đài âm nhạc và cho phép người dùng nghe cơ sở dữ liệu hàng triệu bài hát theo yêu cầu. Hiện nay, video là phương tiện truyền thông media tiếp cận gần nhất đến người dùng. Chúng được ghi, lưu trữ và truyền tải nội dung ở định dạng format. Các app trên thiết bị di động như Quik có thể xử lý; và cho ra những đoạn video có chất lượng tệp tin thấp, có thể phát và chia sẻ dưới dạng mã nguồn mở. Film hay các đoạn video có chất lượng cao hơn được sản xuất và cho ra các tệp tin dung lượng lớn dưới dạng siêu dữ liệu. Do đó, các đoạn Video này phải được chuyển sang tệp tin nhỏ hơn như MPEG-4 mới có thể xuất bản. Một trong những tay chơi lớn nhất trong phương tiện kỹ thuật số trực quan không ai khác chính là YouTube, nơi lưu trữ hàng tỷ video. Ảnh kỹ thuật số được lưu trữ và chia sẻ dưới dạng format. Những hình ảnh này thường có độ phân giải chất lượng cao; dung lượng lên đến vài GB (gigabyte) và khó xuất bản. Các hình ảnh từ phổ thông đến chuyên nghiệp nên được lưu trữ dưới dạng nguồn mở. Phương tiện truyền thông xã hội bao gồm các trang web như Twitter, Facebook, Instagram, LinkedIn và Snapchat, cho phép người dùng của họ tương tác với nhau thông qua các bài đăng văn bản, ảnh và video, để lại “lượt thích” và nhận xét để tạo cuộc trò chuyện xung quanh văn hóa đại chúng , thể thao, tin tức, chính trị và các sự kiện hàng ngày trong cuộc sống của người dùng. Quảng cáo kỹ thuật số áp dụng để mua bán trên các sàn giao dịch thông qua bảng quảng cáo; app điện thoại; website. Các nhà quảng cáo đã thâm nhập vào bối cảnh truyền thông kỹ thuật số, tận dụng các mối quan hệ đối tác tiếp thị và không gian quảng cáo ở bất cứ đâu có thể. Internet đã không còn sử dụng quảng cáo bật lên và quảng cáo tự động phát, những quảng cáo này tràn ngập các trang web ban đầu và khiến khách truy cập mất hút. Thay vào đó, các nhà quảng cáo hướng đến nội dung gốc và các phương pháp khác để giữ người tiêu dùng đầu tư mà không bán quá nhiều sản phẩm của họ. Theo truyền thống, mọi người sử dụng văn bản qua sách, báo in, tạp chí, v.v. Mặc dù các phương tiện kỹ thuật số đã phát triển mạnh mẽ, nhưng mong muốn có được những trải nghiệm đọc như vậy vẫn còn. Nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Pew chỉ ra rằng 38% người trưởng thành ở Hoa Kỳ đọc tin tức trực tuyến. Sự gia tăng của các trang web văn học, sự phổ biến của các nguồn tài nguyên như Wikipedia và sự gia tăng của các thiết bị đọc sách điện tử như Kindle càng nhấn mạnh tầm quan trọng không ngừng của tác phẩm viết trên phương tiện kỹ thuật số. Không cần giới thiệu chắc các bạn cũng biết, ông lớn Google là một công ty công nghệ lớn, đa quốc gia, phát triển tất cả những thứ liên quan đến internet, bao gồm trình duyệt web của riêng mình (Chrome), máy tính xách tay (Chromebook), kính thông minh và truyền hình trực tuyến (Chromecast). Vào năm 2015, Google thông báo rằng họ đang thành lập công ty mẹ Alphabet để điều hành các bộ phận đa dạng của tổ chức với Google tồn tại như một công ty con. Ra mắt vào năm 1997 dưới dạng dịch vụ cho thuê phim trực tuyến, nơi mọi người có thể đặt mua DVD và được giao đến tận nhà. Khách hàng đã lập danh sách phim mong muốn của họ và Netflix đã gửi cho họ những đĩa DVD từ danh sách. Người dùng có thể giữ đĩa DVD bao lâu tùy thích, nhận phim tiếp theo trong danh sách của họ khi trả lại đĩa đầu tiên. Netflix kể từ đó đã phát triển từ nhà phân phối phim bên thứ ba thành gã khổng lồ phát trực tuyến, với hơn 150 triệu người đăng ký trả tiền cho sự kết hợp của truyền hình, phim và nội dung gốc. Bằng cách hiểu rõ khái niệm digital media là gì, sự quan trọng của truyền thông digital media như thế nào đối với một doanh nghiệp sẽ giúp chúng ta tạo ra các nội dung thích hợp để truyền tải trên các phương tiện truyền thông.
Truyền hình kỹ thuật số
Truyền hình kỹ thuật số (tiếng Anh: Digital television - DTV) là một hệ thống viễn thông phát và nhận tín hiệu hình ảnh và âm thanh bằng các tín hiệu kỹ thuật số, trái với các tín hiệu tương tự (analog) được các đài truyền hình truyền thống sử dụng. Vào thời điểm phát triển, nó được coi là một tiến bộ đổi mới và đại diện cho sự phát triển quan trọng đầu tiên trong công nghệ truyền hình kể từ truyền hình màu vào những năm 1950. Truyền hình kỹ thuật số hiện đại được truyền ở độ phân giải cao (HDTV) lớn hơn so với TV analog. Nó thường sử dụng tỷ lệ khung hình màn hình rộng (thường là 16:9) khác với định dạng khung hình hẹp của TV analog. Nó làm cho việc sử dụng tiết kiệm hơn không gian phổ vô tuyến khan hiếm; nó có thể truyền tối đa mười kênh trong cùng dãy sóng như một kênh analog, và cung cấp nhiều tính năng mới mà truyền hình analog không thể. Một quá trình chuyển đổi tanalog sang kỹ thuật số bắt đầu vào khoảng năm 2000. Truyền dẫn Video Kỹ thuật số (DVB) sử dụng điều chế ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM) được mã hóa và hỗ trợ truyền phân cấp.
c/ Đổi mới tư duy và phương thức quản lý phải dựa trên nền tảng công nghệ cao, có hệ thống tri thức, lý luận mới và tinh thần sáng tạo. Đó là tư duy tích hợp, liên ngành, gắn với sản phẩm thông minh, trí tuệ nhân tạo, IoT,… là sự tích hợp và hội tụ của các công nghệ và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Do đó, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài là cơ sở trực tiếp để đổi mới tư duy đột phá vào một nguồn lực mới, khâu quan trọng của CMCN lần thứ tư. d/ Trí tuệ con người luôn phải được cập nhật và phát triển, do đó phải học, học liên tục, học mãi. Hơn bao giờ hết, muốn được trở thành con người tự do, được lựa chọn công việc mình làm thì phải học cái mới. Học để làm người tự do, nhưng phải biết học cái gì và học như thế nào, nếu vẫn cứ giáo điều, lý thuyết chủ đạo của mình là đúng thì chính mình đã sai lầm lớn, mình không vươn lên mà đang ở lại phía sau. Nếu học đúng thì tư tưởng sẽ được tự do, được tự do lựa chọn không chịu sự a dua hay ép buộc nào. Theo đó, chính bản thân sẽ tự do phát triển, cùng với đó là kiến tạo tương lai. Phải nhận rõ cuộc CMCN lần thứ tư là cuộc CMCN của sự hội tụ từ nhiều công nghệ và lĩnh vực công nghệ cao. Vì thế, muốn đạt được tầm cao đó của công nghệ là vô cùng khó khăn. Do đó, tuyệt đối không được tầm thường hóa cuộc CMCN lần thứ tư – cuộc cách mạng của đỉnh cao trí tuệ loài người ở thời điểm này. Hiện nay, có một số người đã tầm thường hóa cuộc CMCN lần thứ tư, họ cho rằng mọi nước đều bình đẳng, đều một vạch xuất phát và Việt Nam có thể đi đầu dẫn dắt thế giới. Đây là sự ngộ nhận. Từ sự ngộ nhận này có thể dẫn đến lạc quan tế, sẽ sai lầm trong các chính sách phát triển. Chúng ta cũng đã có những ngộ nhận tương tự như đối với KH&CN, cũng như GD&ĐT. Hậu quả là KH&CN cũng như GD-ĐT nước nhà không tương xứng với tầm vóc và trí tuệ của dân tộc ta. Chúng ta cần biết rõ là chúng ta đang lạc hậu, đang ở phía sau khá xa so với các nước công nghiệp, các nước tiên tiến. Vì thế, trước mắt để áp dụng được thành quả của CMCN lần thứ tư, cần phải nỗ lực hết mình phát triển KH&CN cũng như GD-ĐT chất lượng cao. Chúng ta mới chỉ là người học hỏi, không phải là người tạo ra các công nghệ rất cao của cuộc CMCN lần thứ tư, do đó không phải là người đi đầu, người dẫn dắt thế giới trong cuộc CMCN này. Nhận thức rõ như vậy mới đủ khiêm tốn để phát triển. Cần sớm nhận thức đúng về những thời cơ và thách thức đối với dân tộc ta khi thế giới đang chuyển mạnh sang thời đại của cuộc CMCN lần thứ tư; để xây dựng chiến lược công nghiệp mới gắn với các đặc trưng của nó. Từ đó, sẽ hình thành các chính sách KH&CN, GD&ĐT phù hợp với xu hướng phát triển mới. + Một là, về thị trường. Việt Nam đã trở thành đối tác của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn mạnh, của các nước có công nghệ cao bậc nhất thế giới – đó là cơ hội lớn, những điều kiện tốt để cùng với các đối tác hướng tới tương lai. Việt Nam cần khai thác tối đa thuận lợi này, tiếp thu công nghệ hiện đại nhất của thế giới, thực hiện đi tắt đón đầu để công nghiệp hóa đất nước. + Hai là, về hợp tác quốc tế. Đó chính là niềm tin chính trị mà chúng ta đã giành được trong cộng đồng quốc tế. Có lẽ chưa bao giờ mà chúng ta có một vị thế quốc tế như bây giờ, có đối tác chiến lược với tất cả các quốc gia lớn và mạnh trên thế giới, bạn bè năm châu phần lớn đều tin tưởng chúng ta để chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác với nhau. + Ba là, về “lợi thế của những người đi sau”. Chúng ta có thể được hưởng những thành tựu, tiến bộ KH&CN của các quốc gia đi trước đã nghiên cứu, tiếp cận những thành tựu khoa học này mà không phải mất nhiều thời gian nghiên cứu hay cần đến những mối quan hệ phức tạp khác, và chúng ta chính là những người học hỏi họ. + Bốn là, Việt Nam có một đội ngũ lao động trẻ đông đảo, ham học hỏi, tiếp thu nhanh công nghệ mới, là tiền đề quan trọng để ứng dụng các thành quả của cuộc CMCN lần thứ tư; có thể cùng với các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, các đối tác hàng đầu của Mỹ, Nhật Bản, châu Âu để đem những tiến bộ KH&CN vào ứng dụng tại Việt Nam. + Năm là, thế năng của dân tộc ta hiện nay. Qua hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã lớn lên trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, văn hóa, giáo dục, KH&CN… Đây là thời điểm hơn bao giờ hết chúng ta đang có thể và cần phải biết có lực để vươn lên. Sự trao đổi và chia sẻ trong lĩnh vực thông tin, tri thức, công nghệ giữa hai tổ chức, hai quốc gia hay hai doanh nghiệp vốn có từ lâu, không chỉ hàng chục, hàng trăm năm, đôi khi cả hàng ngàn năm về trước. Trong quá trình đó, sự chênh lệch về trình độ kinh tế, tri thức, về KH&CN, sự khác biệt về văn hóa-xã hội, tập tục cuộc sống sẽ là những khó khăn và trở ngại; nhưng khó có thể và cần phải biến nó thành những bức tường ngăn cản sự xâm lăng của công nghệ lạc hậu, văn hóa đồi trụy và những tư tưởng bành trướng, xâm lược nếu có. Muốn vậy, chúng ta phải có năng lực nội sinh, có văn hóa ngoại giao khôn khéo mới có thể tạo niềm tin cho đối tác có công nghệ cao để chuyển giao; tránh tối đa sức ép của những đối tác lắm tiền, nhiều của nhưng chưa tôn trọng chúng ta, cố tình đưa công nghệ có trình độ lạc hậu vào nước ta, đẩy nước ta tụt hậu xa hơn, gây suy thoái đạo đức xã hội và thảm họa môi trường. Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, trong khi nhiều nước thất bại thì Hàn Quốc, Singapore, Hong Kong và vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) đã xây dựng được một nền công nghiệp có tầm vóc thế giới, chủ yếu dựa vào KH&CN và GD&ĐT. Nhiều nhà phân tích chiến lược nhận định rằng, những nước và vùng lãnh thổ đã thành công vì có nền văn hóa mạnh nên khả năng hấp thụ cao và có ý chí xây dựng một nền công nghiệp tân tiến, đặc biệt là có chính sách tốt về KH&CN, về GD&ĐT, về tôn trọng nhân tài; đã biết cách học hỏi, bắt chước các nước, các đối tác có trình độ phát triển hơn mình. Hơn nữa, giới lãnh đạo của họ có tầm nhìn rộng và xa; có quan niệm ứng dụng và tiếp nhận công nghệ không phải là hấp thụ bằng cách bắt chước một cách thuần túy, mua thiết bị đắt tiền về dùng mà phải biết chọn lọc những cái hay để ghép với những kỹ thuật trong nước, những kỹ thuật truyền thống nhằm xây dựng một công nghệ thích hợp với những điều kiện và văn hóa quốc gia. Một nền công nghiệp được xây dựng từ những cơ sở của chính quốc gia đó thì mới thực sự có khả năng phát triển mạnh, như trường hợp Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong ngành điện tử, Hàn Quốc đã mua hàng trăm, hàng nghìn bằng sáng chế. Nhưng yếu tố quan trọng trong thành công của Hàn Quốc là sự nghiêm chỉnh trong việc chuẩn bị nhân sự và phương tiện để hấp thụ công nghệ. Nguồn tham khảo: Phan Xuân Dũng – Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – NXB KHKT 2018.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba
Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 hay còn được gọi Cách mạng kỹ thuật số (Tiếng Anh là Digital Revolution), kỷ nguyên công nghệ thông tin, diễn ra từ những năm 1950 đến cuối những năm 1970, với sự áp dụng phổ biến máy tính kỹ thuật số và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật số còn áp dụng đến này nay. Ngẫu nhiên, thuật ngữ này cũng dùng đề cập đến những thay đổi sâu rộng do công nghệ điện toán và truyền thông kỹ thuật số mang lại ở giai đoạn nửa sau của thế kỷ 20. Tương tự như cuộc Cách mạng Nông nghiệp và Cách mạng Công nghiệp, cuộc Cách mạng Kỹ thuật số đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ nguyên thông tin. Trọng tâm của cuộc cách mạng này là việc sản xuất hàng loạt và sử dụng rộng rãi logic kỹ thuật số, MOSFET (bóng bán dẫn MOS), chip mạch tích hợp (IC) và các công nghệ dẫn xuất của chúng, bao gồm máy tính, bộ vi xử lý, điện thoại di động và Internet. Những đổi mới công nghệ này đã làm thay đổi các kỹ thuật sản xuất và kinh doanh truyền thống, tăng năng suất và là động lực thúc đẩy cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Hạt diêm mạch, có tên tiếng gọi tiếng Anh là quinoa. Loại hạt này đến nay nhìn chung là vẫn còn khá xa lạ với người tiêu dùng Việt Nam. Có thể bạn còn chưa biết đến công dụng và cách ăn của diêm mạch. Vậy hôm nay hãy cùng Thật Là Ngon tìm hiểu xem hạt diêm mạch là gì nhé!. Hạt diêm mạch là hạt của cây Chenopodium quinoa, một loài cây thuộc họ Dền. Hạt của diêm mạch bé như hạt kê vậy. Người ta thường nhầm diêm mạch là ngũ cốc nhưng thật sự không phải vậy. Vì cây diêm mạch thuộc một họ cây rau, không phải họ Lúa. Một điều thú vị nữa là loại hạt này có một lớp màng nhựa đắng gọi là saponin, bao bọc bên ngoài mà động vật, sâu bọ và các loại côn trùng không ưa thích. Nên trồng loại cây này người ta không cần phải phun thuốc để trừ sâu hoặc chỉ sử dụng một lượng rất ít. Diêm mạch có 3 loại và diêm mạch màu trắng, đỏ và đen. Tuy hạt bé nhỏ nhưng đây lại là một loại thực phẩm mang lại rất nhiều dinh dưỡng và giá trị dinh dưỡng cho con người. Hạt diêm mạch hiện nay được sử dụng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, và nó cũng được xếp vào một trong những siêu thực phẩm tốt cho sức khỏe con người. Loại màu trắng là phổ biến nhất và cũng là loại dễ ăn nhất do nó mềm hơn, và có mùi vị thanh hơn 2 loại còn lại. Loại diêm mạch đen và đỏ thì cứng hơn, ăn giòn hơn và có mùi vị đậm đà hơn. Do vậy tùy vào khẩu vị và mục đích sử dụng mà bạn sẽ lựa chọn cho phù hợp. Theo nghiên cứu, quinoa đen có hàm lượng chất béo thấp nhất. Tuy nhiên, hàm lượng vitamin E trong quinoa đen và đỏ lại cao gần hai lần lượng có trong quinoa trắng. Và diêm mạch đen và đỏ cũng chứa chất chống oxy hóa cao hơn. Diêm mạch được trồng và lấy hạt và đã tồn tại cách đây hàng ngàn năm về trước. Loại hạt bé nhỏ này có nguồn gốc từ Mỹ La tinh và thuở ấy người ta đã biết trồng diêm mạch và sử dụng nó như một loại lương thực chính cách đây khoảng 7000 năm. Nhưng từ thế kỷ 16 thì loại hạt này lại bị con người lãng quên. Và mãi đến những năm 1970, thì diêm mạch mới được con người phát hiện lại và sử dụng cho đến ngày nay. Và chính các nước khu vực Mỹ La Tinh là nơi có sản lượng quinoa nhiều nhất - chiếm tới 90% sản lượng trên toàn thế giới. Và thị trường lớn nhất của loại hạt bé nhỏ này là Mỹ và các nước Châu Âu. Ở Bolivia, người ta gọi diêm mạch là “mẫu hạt”. Điều đó cho thấy hạt quinoa được đánh giá vô cùng cao ở đất nước này. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên vì giá trị dinh dưỡng rất cao mà hạt quinoa mang đến. Diêm mạch là loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật duy nhất có thể cung cấp đầy đủ các loại axit amin thiết yếu mà cơ thể con người cần có. Hàm lượng protein trong diêm mạch rất cao, tương đương với hàm lượng trong trứng. Protein chiếm tới 16 - 20% khối lượng. Hơn thế nữa, đây còn là những loại protein rất tốt và chất lượng. Protein chủ yếu chứa trong hạt diêm mạch là albumin và globulin. Hàm lượng chất béo trong hạt diêm mạch cũng tương đối cao. Trong đó nhiều nhất là omega-6, rồi đến omega-9 và omega-3. Đây là những loại chất béo rất tốt và cần thiết. Quinoa cũng chứa lượng chất xơ cao, cao gấp đôi các loại ngũ cốc và hàm lượng khoáng chất đa dạng và dồi dào. Trong đó phải kể đến là canxi, sắt, kali, magiê và phốt pho. Những lượng chất này đều cao từ 3-4 lần so với trong ngô, gạo và lúa mì. Ngoài khoáng chất, diêm mạch cũng chứa các vitamin, nhiều nhất là vitamin E, vitamin A và B1. Vậy với những giá trị dinh dưỡng tuyệt vời như thế, thì hạt diêm mạch sẽ đem lại những giá trị và lợi ích và sức khỏe như thế nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu nhé. Với những giá trị dinh dưỡng kể trên, hạt quinoa sẽ là nguồn dưỡng chất vô cùng hoàn hảo. Đặc biệt là đối với những người ăn chay, vì hạt quinoa chứa hàm lượng protein cao và quý giá hoàn toàn có thể thay thế cho protein trong thịt. Và một điều đặc biệt nữa đây là loại thực phẩm không hề chứa gluten. Gluten là một loại axit amin và có nhiều người mắc chứng không dung nạp được gluten. Ngoài ra gluten cũng gây khó tiêu cho trẻ nhỏ và người lớn tuổi. Do vậy, bạn hoàn toàn có thể bổ sung thêm hạt diêm mạch vào thực đơn mỗi ngày mà không phải lo lắng gì. Hạt diêm mạch sẽ là lựa chọn tuyệt vời cho quá trình giảm cân bởi giàu chất xơ khiến bạn no lâu. Không chỉ vậy, hàm lượng cao protein cũng giúp đẩy nhanh quá trình trao đổi chất của cơ thể, giúp tiến trình giảm cân càng hiệu quả hơn. Chất xơ cao trong hạt quinoa sẽ giúp cho hệ tiêu hóa được làm việc tốt hơn, cũng như cuốn các chất độc và cặn bã ra khỏi cơ thể. Từ đó mà khiến đường ruột được khỏe mạnh, ngăn ngừa được bệnh ung thư đường ruột. Bên cạnh đó, hạt diêm mạch chứa lượng lớn các chất chống oxy hóa giúp tăng đề kháng và tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Từ đó mà giúp bạn có một cơ thể khỏe mạnh. Ăn hạt diêm mạch không hề khiến lượng đường trong máu tăng mà còn giúp kiểm soát nó một cách hiệu quả. Diêm mạch làm được điều này là do hàm lượng chất xơ rất cao, và chủ yếu đó còn là chất xơ hòa tan. Đặc biệt, loại chất xơ beta glucan còn giúp ổn định lượng đường huyết. Những người bị tiểu đường tuýp 2 dùng diêm mạch sẽ rất tốt. Một lần nữa, lượng chất xơ cao lại mang đến lợi ích trong việc đem lại cho bạn hệ tim mạch khỏe mạnh. Loại chất xơ hòa tan có trong diêm mạch giúp giảm lượng cholesterol xấu, tăng lượng cholesterol tốt cho cơ thể. Từ đó mà ngăn ngừa các bệnh về tim như đột quỵ, tắc nghẽn mạch máu, đau tim…. Bởi là thực phẩm vàng chứa hàm lượng dinh dưỡng cao nên không ngạc nhiên khi đây là thực phẩm hoàn hảo mà phụ nữ đang trong thai kỳ nên chọn lựa. Đặc biệt là nguồn khoáng chất có trong hạt quinoa rất quan trọng cho cả mẹ và thai nhi. Trong số đó, hàm lượng sắt cao rất cần thiết cho sự hình thành các tế bào máu cho thai nhi, giúp trẻ được phát triển bình thường và khỏe mạnh. Diêm mạch là loại thực phẩm lành tính nên bạn cũng hoàn toàn có thể được sử dụng bởi các bà mẹ đang cho con bú. Việc sử dụng diêm mạch giai đoạn này giúp cung cấp dinh dưỡng tốt và hỗ trợ giảm cân sau sinh hiệu quả. Và tất nhiên, đây sẽ một thực phẩm siêu tốt cho trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ đang độ tuổi ăn dặm. Bạn có thể bổ sung hạt diêm mạch vào thực đơn cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên. Hạt quinoa khá dễ ăn nên sẽ dễ nhận được sự hợp tác từ các bé. Bảo quản hạt này rất đơn giản. Bạn chỉ cần cho hạt vào hộp có nắp đậy kín và để ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh nắng mặt trời là được. Hạt diêm mạch sống nếu được bảo quản tốt có thể để được tới 3 năm nên bạn có thể thoải mái sử dụng. Còn với hạt diêm mạch bạn đã nấu chín, bạn có thể trữ trong ngăn mát tủ lạnh và dùng hết trong 1 tuần. Nếu bạn muốn bảo quản lâu hơn, thì bạn hãy cho diêm mạch lên ngăn đá tủ lạnh. Với cách này, bạn có thể để diêm mạch đến 1 năm. Trước khi nấu hạt diêm mạch, bạn cần phải vo hạt thật kỹ để loại bỏ được hoàn toàn lớp vỏ đắng saponin ở bên ngoài. Thông thường thì hạt quinoa trước khi bán ra thị trường đã được chà xát và làm sạch lớp này. Tuy nhiên có thể nó còn sót lại nên bạn nên cẩn thận vo kỹ. Nếu saponin còn sót lại thì nó sẽ làm ảnh hưởng đến hương vị của món ăn cũng như ngăn cản khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của cơ thể. Sau khi đã làm sạch, bạn có thể dùng diêm mạch để nấu chín với tỉ lệ 1 diêm mạch: 2 nước để ăn thay cơm hay cho vào món salad, sữa chua hoặc các món rang, xào. Bạn cũng có thể nấu cháo hay làm sữa diêm mạch giống như làm các loại sữa hạt. Nếu bạn muốn mua diêm mạch, thì một địa chỉ đáng tin cậy là sản phẩm nhập khẩu Úc của Dk Harvest. Bạn có thể đặt hàng online rất tiện lợi. Còn nếu bạn ở Hà Nội, bạn có thể đặt mua ở Vovimart, địa chỉ: số 28, đường Nguyễn Huy Tưởng, huyện Thanh Xuân. Vậy là từ đây bạn đã biết thêm được một loại thực phẩm quý giá và rất tốt cho sức khỏe. Còn đắn đo gì nữa mà bạn không nhanh tay bổ sung hạt diêm mạch vào bữa ăn cho cả gia đình.
Diêm mạch
Diêm mạch (tên gọi trong tiếng Tây Ban Nha: quinua, tiếng Anh: quinoa, phát âm: kēn’wä, từ tiếng Quechua kinwa hoặc kinuwa) là tên gọi phổ biến của Chenopodium quinoa, một loài thực vật có hoa thuộc họ Dền. Loài này được Carl Ludwig Willdenow mô tả khoa học đầu tiên năm 1798. Diêm mạch được trồng như một loại cây ngũ cốc chủ yếu để cho hạt. Diêm mạch là loại "giả ngũ cốc", không phải ngũ cốc thực sự, và không phải thuộc họ Hòa thảo. Diêm mạch gần giống với cây củ cải đường, rau bina và rau dền và các loại giả ngũ cốc khác. Sau khi thu hoạch, hạt diêm mạch thường được xử lý để loại bỏ lớp vỏ bên ngoài có chứa saponin có vị đắng. Hạt diêm mạch được nấu chín như gạo và có thể được sử dụng trong rất nhiều món ăn. Lá diêm mạch được sử dụng như lá rau giống như rau dền, tuy nhiên việc sử dụng lá diêm mạch như rau xanh vẫn còn hạn chế. Khi được nấu chín, các thành phần dinh dưỡng trong diêm mạch tương đương với các loại ngũ cốc thông thường, cung cấp một lượng vừa phải chất xơ và khoáng chất.
Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao một số tiểu bang lại có từ thịnh vượng chung trong tên của họ? Một số người tin rằng có sự phân biệt giữa các bang và các bang cũng là khối thịnh vượng chung nhưng đây là một quan niệm sai lầm. Khi được sử dụng để chỉ một trong năm mươi tiểu bang , không có sự khác biệt giữa một khối thịnh vượng chung và một tiểu bang. Từ này xuất hiện trong tên tiểu bang đầy đủ của họ và trong các tài liệu như hiến pháp tiểu bang. Đối với Locke, Hobbes, và các nhà văn thế kỷ 17 khác, thuật ngữ "thịnh vượng chung" có nghĩa là một cộng đồng chính trị có tổ chức, cái mà ngày nay chúng ta gọi là "nhà nước". Điều này có nghĩa là tên tiểu bang đầy đủ của họ thực sự là "Khối thịnh vượng chung Pennsylvania", v.v. Khi Pennsylvania, Kentucky, Virginia và Massachusetts trở thành một phần của Hoa Kỳ , họ chỉ lấy hình thức cũ của tiểu bang trong tiêu đề của họ. Mỗi tiểu bang này cũng từng là Thuộc địa của Anh. Sau Chiến tranh Cách mạng , việc có Commonwealth trong tên tiểu bang là một dấu hiệu cho thấy thuộc địa cũ hiện được cai trị bởi một tập hợp các công dân của nó. Vermont và Delaware đều sử dụng thuật ngữ thịnh vượng chung và tiểu bang thay thế cho nhau trong hiến pháp của họ. Khối thịnh vượng chung Virginia đôi khi cũng sẽ sử dụng thuật ngữ Nhà nước với tư cách chính thức. Đây là lý do tại sao có cả Đại học Bang Virginia và Đại học Khối thịnh vượng chung Virginia . Phần lớn sự nhầm lẫn xung quanh thuật ngữ thịnh vượng chung có lẽ xuất phát từ thực tế là khối thịnh vượng chung có một nghĩa khác khi nó không được áp dụng cho một bang. Ngày nay, Khối thịnh vượng chung còn có nghĩa là một đơn vị chính trị có quyền tự trị địa phương nhưng tự nguyện thống nhất với Hoa Kỳ. Trong khi Hoa Kỳ có nhiều lãnh thổ chỉ có hai khối thịnh vượng chung; Puerto Rico và Quần đảo Bắc Mariana , một nhóm gồm 22 đảo ở Tây Thái Bình Dương. Người Mỹ đi lại giữa lục địa Hoa Kỳ và các khối thịnh vượng chung của nó không cần hộ chiếu. Tuy nhiên, nếu bạn có chuyến tạm dừng ở bất kỳ quốc gia nào khác, bạn sẽ được yêu cầu xuất trình hộ chiếu ngay cả khi bạn không rời sân bay. Trong khi cư dân của Puerto Rico là công dân Mỹ, họ không có đại diện biểu quyết trong Quốc hội hoặc Thượng viện. Họ cũng không được phép bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử Tổng thống. Trong khi người Puerto Rico không phải trả thuế thu nhập thì họ lại phải trả nhiều loại thuế khác. Điều đó có nghĩa là, giống như cư dân của Washington DC , nhiều người Puerto Rico cảm thấy họ phải chịu "thuế mà không có đại diện" bởi vì trong khi họ cử đại diện đến cả hai Viện, đại diện của họ không thể bỏ phiếu. Puerto Rico cũng không đủ điều kiện nhận tiền ngân sách liên bang cấp cho các Bang. Có nhiều tranh luận xung quanh việc Puerto Rico có nên trở thành một tiểu bang hay không. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Thịnh vượng chung (tiểu bang Hoa Kỳ)
Bốn trong số các tiểu bang tạo thành Hoa Kỳ chính thức sử dụng danh xưng "Thịnh vượng chung". Các tiểu bang này là Kentucky, Massachusetts, Pennsylvania, và Virginia. Danh xưng này, không có ảnh hưởng gì đến hiến pháp, nhấn mạnh ý nghĩa rằng họ (các tiểu bang) có một "chính quyền dựa vào sự ưng thuận chung của toàn dân" đối nghịch lại một chính quyền được hợp thức hóa qua thể chế thuộc địa hoàng gia mà được Vương quốc Anh dựng lên trước kia. Từ thịnh vượng chung trong văn mạch này ám chỉ đến "sự thịnh vượng" tổng thể hay phúc lợi của toàn dân. Ngoài bốn tiểu bang vừa nêu, các tiểu bang khác cũng có thể, đôi khi, dùng thuật từ "thịnh vượng chung" để tự ám chỉ mình. Tiểu bang Vermont, chẳng hạn, dùng thuật từ "thịnh vượng chung" ba lần trong hiến pháp của mình xen kẻ với thuật từ "tiểu bang". Delaware cũng tự gọi mình là một "Thịnh vượng chung" trong bản hiến pháp năm 1776 của mình.
Nhắc đến nước Nga, du lịch thủ đô Moscow, không một ai có thể làm ngơ trước vẻ đẹp của các công trình kiến trúc độc đáo với những phong cách ấn tượng làm nên nét đẹp riêng biệt chỉ thuộc về nơi đây. Vẻ đẹp của Moscow, Nga được khắc họa thành công qua những công trình nhà thờ duyên dáng, các thánh đường tuyệt đẹp nằm xem kẻ các tòa nhà chọc trời cùng các khu chung cư hiện đại. Các công trình tôn giáo tại đây mang nhiều sắc màu, phong cách kiến trúc khác nhau từ truyền thống đến Phục hưng Ý và xen lẫn cả phong cách Baroque. Vì thế, du lịch Nga ghé thăm Moscow, bạn sẽ được chứng kiến nhiều khung cảnh tuyệt đẹp giống như ngọn lửa nổi bật trong sắc trắng của bông tuyết những ngày đông; cho đến những công trình đẹp tựa một câu chuyện cổ tích giữa trưa hè. Có thể nói, hầu như tất cả các tour du lịch Nga đều lựa chọn nhà thờ chính tòa thánh Basil làm điểm dừng chân khám phá. Nhà thờ nổi tiếng số 1 nước Nga nằm tại khu vực trung tâm thành phố. Cùng với Quảng Trường Đỏ, nhà thờ Thánh Basil đóng vai trò như trái tim Moscow. Từ xa, nhà thờ nổi bật và ấn tượng mang hình dáng của một ngọn lửa rực rỡ, độc đáo với những mái vòng đa sắc từ lâu đã đi vào huyền thoại. Nhiều người còn ví von, thờ thành thánh Basil từ xa giống như những ly kem mát lạnh, sặc sỡ tưới mát những ngày hè. Nếu được dịp khám phá bên trong nhà thờ tuyệt đẹp – độc lạ này, bạn sẽ có cơ hội một lần trong đời được chiêm ngưỡng cảnh sắc nên thơ của sông Moskva từ ban công. Nằm trong top 5 nhà thờ đẹp và độc nhất Moscow, nhà thờ Chúa Cứu thế là nhà thờ trung tâm của Giáo hội Chính Thống Nga – tôn giáo thống trị tại xứ sở Bạch Dương. Du lịch đến với nơi đây chính là cơ hội tuyệt vời để bạn có dịp tham gia vào những hoạt động của nhà thờ. Tất cả sẽ trở thành một trong những trải nghiệm thú vị, khó quên trong chuyến hành trình du lịch Châu Âu độc lạ của bạn cùng những người thân yêu. Nhà thờ là nơi trưng bày của những bức tranh tuyệt mỹ với kích thước khổng lồ; nổi bật và độc đáo nhờ những họa tiết trang trí sa hoa, lộng lẫy và vô cùng công phu, tinh tế. Không chỉ sở hữu vị trí độc tôn, nhà thờ Chúa Cứu Thế Moscow có kích thước khổng lồ với sức hơn lên đến hơn 1 vạn người. Chính vì thế, nơi đây được mệnh danh là nhà thờ lớn Chính Thống giáo lớn nhất, cao nhất trên thế giới. Ngoài vẻ đẹp diễm lệ, nhà thờ còn nổi tiếng trong giới tôn giáo với lịch bi hùng. Được biết quá trình xây dựng nhà thờ Chúa Cứu Thế kéo dài lên đến 70 năm, sau đó bị phá nát để làm cung Xô Viết, tiếp tục trở thành bể bơi Moscow và cuối cùng lại được được xây dựng lại đúng vị trí ban đầu của nó với một bản sao hoàn chỉnh hoàn thành vào năm 2000. Điện Kremlin, Moscow vừa là di sản thế giới của UNESCO, đồng thời cũng là “nhà” của nhiều công trình tôn giáo độc đáo và ấn tượng bậc nhất tại Nga. Trong đó, Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời là nhà thờ có lịch sử lâu đời nhất và nổi tiếng nhất của điện Kremlin. Một lần đến với nhà thờ, bạn chắc chắn sẽ bị ánh sáng rực rỡ phản chiếu từ mái vòm mạ vàng của nó thu hút – một điểm tham quan nổi tiếng tại thành phố. Thành lập vào năm 1479, Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời là nơi đăng quang của tất cả Sa Hoàng Nga. Điểm du lịch thú vị và là một trong những nhà thờ đẹp nhất nơi đây. Được xây dựng vào năm 1911, nhà thờ Công giáo Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội mệnh danh là nhà thờ Công giáo lớn nhất tại Nga. Khối công trình độc đáo với một ngọn tháp nhọn cao vút, mái vòm sâu rộng – nét đặc biệt mang hơi hướng của phong cách kiến trúc tân Gothic. Nhà thờ với phần gạch màu đỏ thẫm nổi bật bên ngoài và phần mặt tiền được lấy cảm hứng từ Tu viện Westminster – Vương Quốc Anh, Nhà thờ Milan – Ý. Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội là công trình tôn giáo được chính phủ Nga liệt vào vào danh sách di sản. Kể từ lúc tái mở cửa vào năm 1999 sau 3 năm sửa chữa và trùng tu, thánh lễ của nơi đây được diễn ra với nghi thức phụng vụ bằng nhiều thứ ngôn ngữ bao gồm: Nga, Anh, Hàn, Tây Ban Nha , Armenia, Latin,…. Một viên ngọc rực rỡ khác của điện Kremlin là Nhà thờ Truyền tin Moscow. Điểm nhấn đặc biệt của nơi được mệnh danh là nhà thờ đẹp và độc nhất Moscow là những bức tường cao vút mang tính biểu tượng được bao phủ hoàn toàn trong những bức bích họa mang dấu ấn cổ xưa. Nhà thờ cũng là nơi trưng bày những tác phẩm nghệ thuật tôn giáo nhất ở Nga. Trong đó có các tác phẩm của một họa sĩ được xem là biểu tượng nổi tiếng nhất mọi thời đại – Andrei Rublev. Cổng sau ở phía đông nam chính là nơi được xây dựng riêng cho Ivan – một người bị cấm không được đi qua cổng chính. Đây chính là hình phạt dành cho Ivan từ Giáo hội Chính thống Nga về việc kết hôn đến 6 lần (vượt mức 3 lần được cho phép). Trong tour du lịch Nga cao cấp tại công ty du lịch chất lượng – Euro Travel bạn sẽ có cơ hội ghé thăm ⅗ nhà thờ tuyệt đẹp trên. Vì thế đừng nên bỏ lỡ cơ hội được khám phá một phần kiến trúc độc đáo chỉ thuộc về Moscow này nhé!. Thương hiệu chuyên dòng tour Chất Lượng Cao là niềm tự hào của Công ty Euro Travel. Xuyên suốt hành trình du khách sẽ được tận hưởng chuyến du lịch độc đáo, được thiết kế chọn lọc tinh tế cùng hệ thống dịch vụ đẳng cấp nhằm đem lại những cảm xúc thăng hoa, gia tăng giá trị và hài lòng tuyệt đối về chuyến đi. Bản Quyền của EuroTravel - Ghi rõ nguồn "eurotravel.com.vn" khi sử dụng thông tin từ website này. Từ khóa tìm kiếm: tour du lịch châu âu chất lượng, du lịch úc, thiết kế tour châu âu theo yêu cầu.
Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm, Moskva
Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Moskva hay Nhà thờ chính tòa Đức Maria vô nhiễm nguyên tội Moskva (tiếng Nga: Собор Непорочного Зачатия Пресвятой Девы Марии, Sobor Neporotschnowo Satschatija Preswjatoj Dewy Marii, tên bình dân là: Костёл / Kostjol hay Кирха / Kirkha - "Nhà thờ Công giáo") là một nhà thờ kiến trúc tân Gothic được tổng giáo phận Công giáo Moskva dùng làm nhà thờ chính tòa. Nằm trong quận trung tâm, đây là một trong 2 nhà thờ duy nhất của Công giáo ở Moskva và là nhà thờ Công giáo lớn nhất ở Nga. Việc xây dựng nhà thờ chính tòa này do chính quyền Sa hoàng đề nghị năm 1894. Lễ khởi công diễn ra năm 1899. Việc xây dựng bắt đầu từ năm 1901 và được hoàn thành 10 năm sau. Nhà thờ gồm 3 gian dọc, xây bằng gạch đỏ theo bản thiết kế của kiến trúc sư Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki. Phong cách kiến trúc chịu ảnh hưởng của tu viện Westminster và nhà thờ chính tòa Milano. Được các quỹ của các giáo xứ Nga và các nước lân bang đài thọ, nhà thờ được thánh hiến như một nhà nguyện dành cho giáo xứ người Ba Lan ở Moskva năm 1911.
Theo kinh tế học, Phễu bán hàng là “Một mô hình tiếp thị lấy người tiêu dùng làm trung tâm, mô hình minh họa lý thuyết hành trình mua hàng của khách hàng tới việc mua một sản phẩm hay dịch vụ nào đó”. Mô hình được sử dụng vào quá trình nghiên cứu khách hàng. Xem xét mức độ khách hàng quan tâm và mua sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp ra sao. Hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng mô hình này vào quá trình kinh doanh của mình. Mô hình phễu mua hàng diễn ra theo quá trình gồm 6 bước: Nhận biết –> Xem xét –> Mong muốn –> Hành động mua –> Trung thành –> Truyền bá. Đây là quá trình khách hàng tìm kiếm, lựa chọn sản phẩm và trở thành đối tượng truyền bá tới các khách hàng khác. Mô hình sẽ thu nhỏ dần từ bước 1 đến bước 6. Khi nhận biết nhu cầu, khách hàng tìm kiếm rất nhiều sản phẩm liên quan đến nhu cầu đó. Xem xét chúng theo các tiêu chí riêng của từng khách hàng. Gặp được sản phẩm phù hợp nhất sẽ nảy sinh ra mong muốn và hành động mua hàng. Sau khi mua hàng, sử dụng sản phẩm đem lại nhiều lợi ích, khách hàng sẽ trung thành với sản phẩm đó. Và cuối cùng, chính những khách hàng trung thành sẽ đưa thông tin sản phẩm và những cảm nhận của họ tới mọi người xung quanh. Tìm hiểu cách thức hoạt động của phễu, doanh nghiệp sẽ đưa ra được hình thức tiếp cận khách hàng và quá trình kinh doanh hợp lý. Và từ đó xây dựng mô hình bán hàng đáp ứng theo từng bước của hành vi khách hàng. Hoạt động của doanh nghiệp luôn luôn đi sát khách hàng để đưa ra sản phẩm, dịch vụ kịp thời. Điều đầu tiên để có thể xây dựng “Phễu bán hàng” đạt hiệu quả là thấu hiểu khách hàng. Doanh nghiệp cần hiểu về nhân khẩu học và tâm lý khách hàng trong quá trình quyết định mua. Nhân khẩu học bao gồm: giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, thu nhập. Với từng yếu tố sẽ có những cách tiếp cận khách hàng khác nhau. Và trong từng yếu tố sẽ chia ra làm nhiều khoảng, đoạn. Ví dụ: Khách hàng ở từng giai đoạn 18 đến 25, 25 đến 35,… sẽ có quan điểm mua hàng khác nhau. Hay thói quen mua sắm cũng thay đổi theo giới tính. Doanh nghiệp cần phân đoạn khách hàng mà sản phẩm hướng tới. Phân đoạn một cách cụ thể, rõ ràng và nắm bắt được đặc điểm của từng phân đoạn đó. Muốn thành công phải hiểu khách hàng, để hiểu được khách hàng cần biết họ bao nhiêu tuổi, giới tính là gì, làm nghề gì với thu nhập bao nhiêu? Từ đó chọn ra khách hàng mục tiêu cho doanh nghiệp. Và sau đó, doanh nghiệp sẽ biết mình cần làm gì để phục vụ đối tượng đó. Về mặt kinh tế, tâm lý khách hàng sẽ diễn ra theo mô hình AIDA. Mô hình này gồm 4 bước: nhận thức, tìm hiểu, mong muốn, hành động. Tâm lý khách hàng sẽ thay đổi theo từng bước. Muốn hiểu được khách hàng thì nhất thiết phải biết họ có thái độ như thế nào, suy nghĩ ra sao. Hiểu được tâm lý khách hàng coi như chúng ta nắm được 50% thành công trong tay. Hiểu được tâm lý khách hàng, doanh nghiệp dễ dàng đưa ra những thông tin có ích cho khách hàng. Khách hàng nhận được thông tin phù hợp sẽ giảm tìm kiếm thông tin từ nguồn khác. Và đó là điều doanh nghiệp luôn mong muốn: “Khách hàng không tìm đến đối thủ cạnh tranh”. Những thông tin mà doanh nghiệp đưa ra cần chính xác và hấp dẫn. Để thu hút nhận thức của khách hàng một cách tối đa, doanh nghiệp nên cung cấp những thông tin về khuyến mãi, chính sách hậu mãi,. Những lợi ích khác ngoài sản phẩm luôn nhận được sự quan tâm từ khách hàng. Thu hút nhận thức là bước tiếp theo sau khi doanh nghiệp đã hiểu về khách hàng. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của bộ phận kinh doanh. Cách tiếp cận, truyền đạt tới khách hàng sao cho phù hợp và thu hút nhất. Khi khách hàng đã bị thu hút, yêu thích sản phẩm, dịch vụ thì hãy ngay lập tức tạo mối quan hệ với họ. Vì lúc đó, khách hàng sẽ có những quyết định nhanh mà không bị ảnh hưởng nhiều từ các yếu tố khác. Thiết lập mối quan hệ không nhất thiết là phải bán được hàng ngay, mà đó là cách doanh nghiệp có được thông tin khách hàng. Thường xuyên quan tâm tới nhu cầu, mong muốn của khách hàng là cách duy trì mối quan hệ. Cho tới một mức độ phù hợp, khách hàng sẽ tìm đến chúng ta mà không phải bất cứ doanh nghiệp nào khác. Để xây dựng “Phễu bán hàng” thành công cần rất nhiều yếu tố. Trên đây là một vài những gợi ý cơ bản mà chúng tôi đưa đến các bạn. Mong rằng các bạn nhận được những thông tin bổ ích và thành công trong công việc của mình. Luôn đồng hành cùng ISAAC GROUP để cập nhật những thông tin kinh doanh thú vị!. Tôi là Hạnh Phương chuyên gia bán lẻ và nghiên cứu chuyên sâu về kinh doanh siêu thị tại ISAAC. Tôi cùng đội ngũ ISAAC mang đến cho quý khách hàng những thông tin hữu ích liên quan đến các nền tảng bán lẻ, kinh doanh, setup siêu thị chuyên nghiệp tại Việt Nam. Nằm trong gói dịch vụ setup siêu thị trọn gói cho khách hàng tại Hà Giang. Chuyên gia Nguyễn Văn Thịnh đã triển khai khóa đào tạo kinh doanh siêu thị tại Hà Giang cho siêu thị Tuấn Sơn mart. Isaac tổ chức khóa học đào tạo kinh doanh siêu thị 1000m2 cho nhóm đối tượng học viên tại Thanh Hóa. Để giúp cho học viên có thể quản lý siêu thị quy mô lớn một cách đơn giản và. Trong 3 ngày 01, 02, 03/03/ 2019 Học Viện đào tạo ISaac Education đã tổ chức khóa học đào tạo setup và kinh doanh siêu thị mini cho nhiều học viên. Đây là khóa học đào tạo kinh doanh siêu. Trong gói dịch vụ setup siêu thị mini, mô hình dạng Shop cho cửa hàng tại Thành Phố Thanh Hóa, ISaac Education triển khai đào tạo kiến thức kinh doanh, kỹ năng bán hàng cho đối tác khách hàng. Tôn sư trọng đạo từ lâu đã là một trong những truyền thống tốt đẹp của Việt Nam. Vào các dịp lễ Tết, những người học trò sẽ đến thăm và tặng cho thầy cô những món quà ý nghĩa. Với sự phát triển của công nghệ, việc đưa ra chiến lược bán hàng trong kinh doanh nhờ các mô hình, kỹ thuật qua việc nghiên cứu, phân tích dữ liệu. Phân tích giỏ hàng là một kỹ thuật quan. Internet vẫn đang trên đà xâm chiếm cả thế giới. Với tốc độ phát triển Internet như vũ bão hiện nay, con người cũng không ngừng thay đổi để tận dụng hết những lợi ích mà mạng xã hội mang. “AOP” là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Góp phần mang lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất và duy trì được sự phát triển của doanh nghiệp đó. Ví ngân lượng là một cổng thanh toán trực tuyến có 3 nhiệm vụ chính. Đó là chuyển tiền, nhận tiền và thanh toán hóa đơn online. Trong bối cảnh của thời đại Social Media, phương thức mua sắm và. Quảng cáo ngoài trời hiện nay là cách tiếp cận với khách hàng được rất nhiều nhãn hàng, công ty lựa chọn. Loại hình này là một trong những kênh truyền thông có mặt sớm nhất tại Việt Nam. Mô hình C2C là 1 loại mô hình giao dịch, buôn bán rất phổ biến trên toàn thế giới. Và nếu bạn chưa biết về mô hình C2C thì hãy cùng mình tìm hiểu về mô hình C2C, đặc điểm,. USP là một yếu tố không thể thiếu để doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các đối thủ khác và chiếm lĩnh được thị trường. Vậy câu hỏi USP là gì? Là người làm Marketing hay người quản trị. PO hay Purchase Order là một khái niệm không hề xa lạ đối với các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại. Vậy thực tế PO là gì và nó có ý nghĩa như thế. Bảo hiểm hàng hóa là một trong những loại bảo hiểm phổ biến và vô cùng cần thiết trong ngành vận chuyển, vận tải của nước ta . Bởi trong quá trình vận chuyển, có thể có rất nhiều rủi. Việc đối soát vận chuyển là vấn đề quan trọng với các chủ cửa hàng kinh doanh online. Để có thể đảm bảo là hàng hoá đã được xác nhận giao hàng thành công. Và sau đó thu tiền hàng. Khi chúng ta đi mua sắm các sản phẩm từ siêu thị hay tiệm tạp hóa, ta thường nhìn thấy biểu tượng những dòng kẻ màu đen được xếp song song với nhau; ở phía dưới có một dãy số. Doanh số là những yếu tố quan trọng của việc kinh doanh. Bởi nó không chỉ phản ánh thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp; mà còn định hướng cho việc kinh doanh trong tương lai của khách hàng. Tìm được nguồn hàng quần áo trẻ em là một trong những câu hởi được các chủ kinh doanh đặt ra. Đây là yếu tố đầu tiên quyết định đến sự thành công của hoạt động kinh doanh thời trang. Bạn tốt nghiệp ngành quản trị kinh doanh và bạn vẫn đang tìm kiếm một công việc? Một vị trí công việc phù hợp với tấm bằng giá trị ấy? Và vị trí cửa hàng trưởng của một cửa hàng. Quần áo trẻ em luôn là một trong những mặt hàng bán chạy và thu hút nhiều nhà kinh doanh. Bởi với số vốn không cần quá lớn cộng với việc tìm nguồn hàng khá dễ; giúp cho việc kinh. Nhắc đến nước giặt Surf, người dùng chắc chắn sẽ nhớ ngay đến hương thơm của dòng nước giặt này. Surf đã không còn xa lạ với mọi người. Bởi nước giặt Surf có mùi hương dễ chịu nhưng đem. Xúc xích ăn liền từ lâu đã là món ăn quen thuộc với người dân Việt Nam , được yêu thích và sử dụng hàng ngày. Bởi xúc xích ăn liền đem lại sự tiện lợi cho người sử dụng. Hai món xúc xích và phô mai thì đã thành “huyền thoại” trong giới ăn vặt. Xúc xích dinh dưỡng, ngon miệng và quan trọng là tiện lợi, có thể ăn liền và mang theo khắp nơi. Xúc xích là một dạng thức ăn nhanh đầy đủ dinh dưỡng và thơm ngon, phù hợp với cả người lớn và trẻ nhỏ. Hôm nay hãy cùng ISSAC tìm hiểu về nguồn hàng nhà phân phối xúc xích CP. ISAAC sẽ giúp cho khách hàng đối tác setup và vận hành siêu thị, cửa hàng một cách khoa học, thông minh.
Phễu mua hàng
Các phễu mua hàng hay còn gọi là phễu bán hàng và marketing, hoặc phễu kinh doanh, là một mô hình tiếp thị và bán hàng lấy người tiêu dùng làm trung tâm, mô hình minh họa lý thuyết hành trình mua hàng của Khách hàng trong việc mua một sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Elmo Lewis phát triển một mô hình dùng ánh xạ hành trình mua hàng của khách hàng từ thời điểm một nhãn hiệu, hay sản phẩm thu hút chú ý của người tiêu dùng đến điểm của hành động hoặc thực hiện hành vi mua. Elmo Lewis ý tưởng là, thường được gọi là các mô hình AIDA tăng tỷ lệ chuyển đổi, một từ viết tắt đó là viết tắt của Nhận thức, sự Quan tâm, Mong muốn, và Hành động. Hành động – bước tiếp theo hướng tới mua những sản phẩm được lựa chọnCác Phễu bán hàng và marketing là cũng thường được gọi là "phễu kinh doanh", "phễu tiếp thị," hay "tiếp thị tự động" hoặc "phễu chuyển đổi." Hiệp hội của kênh người mẫu với những BẢN khái niệm lần đầu tiên đề xuất trong Bond Salesmanship by William W. Townsend trong năm 1924.
Bài viết này mở rộng khái niệm quyền lực cứng và quyền lực mềm nhằm giới thiệu khái niệm quyền lực thông minh, được định nghĩa là khả năng một chủ thể kết hợp các thành tố của quyền lực cứng và quyền lực mềm thông qua các phương thức tác động qua lại nhằm đạt được mục đích mình mong muốn một cách hiệu quả. Bài viết lập luận rằng việc phát huy quyền lực thông minh đã trở thành vấn đề cấp thiết đối với an ninh của các quốc gia do tác động của những thay đổi cấu trúc mang tính dài hạn trong các điều kiện quốc tế và những thất bại trong ngắn hạn của chính quyền hiện tại. Những tranh luận hiện nay về ngoại giao công chúng và quyền lực mềm chịu tác động từ những thất bại trong việc xử lý các khía cạnh khái niệm, thể chế và chính trị của thách thức nêu trên. Đây cũng là ba khía cạnh được tác giả phân tích trong bài viết này. Nhiều ý kiến trong và ngoài nước Mỹ cho rằng nội dung và cách triển khai hiện tại của chính sách đối ngoại Mỹ còn nhiều khiếm khuyết và cần được sửa chữa. Thật không may là bản thân cuộc tranh luận này cũng có khiếm khuyết: những người ủng hộ quyền lực mềm lẫn những người cổ vũ quyền lực cứng đều không tích hợp đầy đủ các lập trường của họ vào một khuôn khổ hợp nhất để thúc đẩy lợi ích quốc gia. Những người ủng hộ quyền lực mềm và ngoại giao công chúng có khuynh hướng trình bày lập luận một cách thiếu thuyết phục, các lập trường của họ thường thể hiện sự ngây thơ về mặt chính trị và yếu kém về mặt thể chế. Trong khi đó, những người ủng hộ quyền lực cứng, vốn nắm giữ sức mạnh về chính trị và thể chế, lại thường đưa ra các lập luận không thỏa đáng. Họ dường như tin rằng có thể yên tâm bỏ qua các yếu tố của sức mạnh quốc gia nằm ngoài phạm vi quan điểm truyền thống hoặc chỉ đơn giản cộng thêm các yếu tố này vào quan điểm vốn có của mình. Kết quả là lợi ích quốc gia đã không được đáp ứng thỏa đáng bởi cuộc tranh luận giữa hai chiều hướng kém hoàn hảo. Vào giai đoạn chuyển tiếp sang một chính phủ mới, thông thường các cuộc đối thoại quan trọng sẽ diễn ra trong các chiến dịch tranh cử, trong các cuộc họp kín của các đảng, và trong các viện nghiên cứu tư vấn chính sách ở Washington về các ưu tiên chính sách ngoại giao của chính quyền mới. Trong quá khứ, các cuộc đối thoại như vậy sẽ chủ yếu được định hình bởi các mối quan tâm về quyền lực cứng truyền thống. Nhưng khi nhìn về tương lai, các tính toán quyền lực mềm sẽ có dấu ấn mạnh mẽ hơn nhiều trong nội dung các chính sách an ninh quốc gia và đối ngoại của Mỹ. Bài viết này nhằm mục đích cung cấp một khung lý thuyết về quyền lực thông minh và đóng góp vào cuộc thảo luận các quan điểm đối nghịch nhau như vừa đề cập, để cải thiện hiệu quả của chính sách đối ngoại. Trước tiên bài viết giải thích tại sao các điều kiện chuyển tiếp và cấu trúc mới lại đòi hỏi phải có quyền lực thông minh, sau đó phân tích các thách thức về mặt khái niệm, thể chế và chính trị cần phải giải quyết nhằm thúc đẩy việc đạt được quyền lực thông minh của nước Mỹ. Đây là kết quả của một dự án kéo dài cả năm trời bao gồm một cuộc đối thoại quốc tế trên blog (www.smartpowerblog.org), một chuyên đề nghiên cứu đang tiến hành và một chuỗi hội thảo đang tranh luận sôi nổi về khái niệm này. Bài viết cũng được thực hiện đồng thời với một công trình khác được thực hiện bởi Ủy ban về Quyền lực Thông minh mới thành lập gần đây, do Joseph Nye và Richard Armitage thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) điều hành. Sự quan tâm ngày càng gia tăng đối với quyền lực thông minh phản ánh hai khuynh hướng đương đại, một mang tính cấu trúc và dài hạn, một mang tính ngắn hạn và tình thế, chủ yếu được thúc đẩy bởi các chính sách của chính quyền đương nhiệm. Lý do rõ ràng nhất cần suy xét nghiêm túc về quyền lực thông minh là do các thiếu sót chính sách đã được thừa nhận rộng rãi của chính quyền Mỹ trong 7 năm qua. Có một niềm tin rộng khắp ở Mỹ và trên thế giới rằng chính sách an ninh quốc gia và đối ngoại của chính quyền Bush đã không thông minh, ngay cả khi xét theo tiêu chí của riêng chúng, và kết quả là các chính sách này đã thỏa hiệp (hay phương hại) các lợi ích ngoại giao và an ninh của Mỹ, gây ra sự giận dữ chưa từng có trên toàn cầu, và làm giảm đáng kể vị thế của Mỹ trên thế giới (Kohut and Stokes 2006; Pew Global Attitudes Project 2006; Halper and Clarke 2004). Trái lại, lãnh đạo của các quốc gia khác lại sử dụng công cụ quyền lực của họ một cách tinh vi hơn. Lấy một ví dụ, các lãnh đạo của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) đã triển khai các nguồn lực của nước này một cách rất có chiến lược, mặc dù không có nhiều thể hiện nổi bật. Những lựa chọn chính sách riêng biệt của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và các cố vấn đã phản ánh sự phân tích công phu về tình hình thế giới, và họ đã triển khai một loạt các công cụ cân bằng và có phối hợp nhằm đạt được những mục tiêu chính trị chuyên biệt của mình, cũng như thúc đẩy các mục tiêu quốc gia. Quyết định của Hồ Cẩm Đào về việc phát triển và nhất quán theo đuổi học thuyết “Trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc” rõ ràng là đối trọng với cách tiếp cận của Tổng thống Mỹ George W. Bush vốn tập trung chủ yếu vào nhu cầu duy trì ưu thế quân sự. Tuy nhiên cả hai cách tiếp cận này đều là ví dụ rõ ràng về những tính toán chính sách do lãnh đạo của các cường quốc đưa ra, có tính tương đối độc lập và không bị gò ép bới các yếu tố cấu trúc. Các lãnh đạo của Trung Quốc đã đưa ra những quyết định hết sức tỉnh táo khi theo đuổi đường lối khéo léo hơn. Lẽ ra họ đã có thể theo đuổi chiến lược “Trỗi dậy cứng rắn của Trung Quốc”. Họ đã có thể có những xáo trộn về mặt ngoại giao trong cách ứng xử với các quốc gia châu Phi, và vụng về trong cách theo đuổi các nguồn tài nguyên dầu mỏ và khoáng sản; nhưng thay vào đó, họ đã tạo ra điều mà Josh Kurlantzick (2007) gọi là “chiến dịch quyến rũ” đa diện thông qua việc cung cấp viện trợ nước ngoài và dành sự chú ý đặc biệt cho các lãnh đạo châu Phi. Tương tự như vậy, họ đã có thể phớt lờ châu Âu và dựa chủ yếu vào quyền lực cứng trên khắp eo biển Đài Loan. Dù rằng các chiêu thức hấp dẫn của Trung Quốc đã và đang mang lại những kết quả trái ngược nhau, nhưng nó đã được tiến hành dựa trên một quá trình xem xét công phu với hàng loạt các công cụ quyền lực quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay sự khao khát quyền lực thông minh không chỉ đến từ những lựa chọn hay hoặc dở của cá nhân các nhà lãnh đạo. Ngay cả khi chính quyền Mỹ không để lộ quá nhiều điểm yếu, thì các xu hướng thế tục mang tính lâu dài vẫn sẽ khơi dậy những nhu cầu về một cách thức mới trong việc lên ý tưởng và thực thi quyền lực nhà nước. Nói tóm lại, các nước G8 đang tăng tốc quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế hậu công nghiệp, nơi mà quyền lực ngày càng phụ thuộc vào năng lực của quốc gia trong việc tạo ra và vận hành tri thức và thông tin. Khả năng sáng tạo và đổi mới của một quốc gia có thể ưu trội hơn việc sở hữu các sư đoàn thiết giáp hoặc tàu sân bay, và những công cụ công nghệ cao đời mới có thể giúp tăng cường đáng kể tầm ảnh hưởng quân sự và phi quân sự. Các lực lượng quân đội và vũ trang vẫn rất quan trọng, nhưng vai trò tương đối của họ đã thay đổi hoàn toàn, cả về cách thức quân đội tiến hành chiến tranh cũng như sự kết hợp giữa các nguồn lực quân sự và phi quân sự. Thế giới của những cuộc chiến đã được số hóa nhiều hơn, mang tính liên kết và linh động hơn, và các nguồn lực phi quân sự như truyền thông đã nổi lên giữa hàng loạt các công cụ quyền lực nhà nước (Arguilla and Ronfeldt 1999). Các nước phát triển đang có mọi thứ, từ bom thông minh, điện thoại thông minh đến blog thông minh. Và khi các quốc gia trở nên thông minh hơn trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông trên nhiều nền tảng khác nhau, thì các lực lượng phi quốc gia như Al Qaeda cũng vậy (Brachman 2006; Thomas 2003). Bất kỳ chủ thể nào có tham vọng củng cố vị thế trên trường quốc tế đều phải xây dựng chiến lược xoay quanh những nguyên tắc cơ bản mới về “sự thông minh” này. Các chiến lược thông minh cũng cần phải tính đến tầm ảnh hưởng đang thay đổi giữa các quốc gia truyền thống, với sự trỗi dậy của Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil, và các chủ thể khác trên trường quốc tế kể từ khi hai phe đối địch trong Chiến tranh Lạnh sụp đổ. Sức mạnh mới của các nước này đã tạo nên những trở ngại mới đối với các hành động đơn phương của các quốc gia vốn đã có vị thế của nhóm G8, trong đó có Hoa Kỳ. Việc xây dựng chính sách đối ngoại tập trung vào các tiềm năng mới của công nghệ và các lực lượng mới trên thế giới đòi hỏi mức độ tinh vi hơn so với trước đây. Nguyên nhân cuối cùng của cuộc săn tìm quyền lực thông minh ngày nay là việc đối tượng dân chúng cũng trở nên “thông minh hơn”. Với sự phổ biến của giáo dục trung học và đại học, cũng như tính khả dụng của các phương tiện thông tin đại chúng, người dân ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh ngày càng trở nên giàu có, sành sỏi và hiểu biết hơn về bản thân và xã hội, và ít bị ảnh hưởng dễ dàng bởi việc thực thi quyền lực mềm hoặc cứng. Tầng lớp người dân có học thức mới này đòi hỏi phải được đối xử khác so với trước đây; khi thế giới quanh họ ngày càng trở nên đô thị hóa và tầng lớp trung lưu ngày càng đông, thì các cá nhân ngày càng có lập trường quyết đoán hơn. Sự lan rộng của các thực tiễn dân chủ này đồng nghĩa với việc các nhà lãnh đạo nước ngoài cũng ít có khả năng hơn so với trong quá khứ trong việc thay mặt Mỹ, đại diện từ xa cho người Mỹ và cho các quyền lực của Mỹ. Chế độ dân chủ đặt ra nhiều khó khăn rõ rệt trong việc xây dựng và thực hiện chính sách đối ngoại của Mỹ tương tự như những cơ hội mà nó đem lại. Nói tóm lại, thế giới đã và đang trở nên thông minh hơn, và các giới chức ngoại giao cấp cao của Mỹ vẫn chưa thể bắt kịp nhịp độ. Mãi cho đến gần đây, các quan chức chính quyền tổng thống Bush mới thể hiện sự miễn cưỡng hoặc bất lực trong việc hình thành và thực thi quyền lực một cách sáng tạo, phù hợp với thời đại, và tổng hợp sức mạnh của các công cụ quyền lực khác nhau của nhà nước. Điều này đã chứng tỏ vấn đề của cả hai đảng, khi chính quyền đảng Dân Chủ trước đây cũng không phải là hình mẫu về quyền lực thông minh, với nhiều sai lầm nghiêm trọng trong những nỗ lực ban đầu nhằm kết hợp sức mạnh quân sự, kinh tế và các ảnh hưởng ngoại giao. Không có gì ngạc nhiên khi cách sử dụng quyền lực không thông minh đã dẫn đến xu hướng trái ngược là quyền lực thông minh. Tại Mỹ cũng như trên thế giới, người ta liên tục nghe thấy những lời kêu gọi cải cách rộng rãi từ tất cả các nơi trên bản đồ chính trị, xuyên suốt cộng đồng những người ủng hộ quyền lực cứng và mềm, từ những người theo chủ nghĩa tân tự do đến những người theo chủ nghĩa tân bảo thủ cải cách (Korb, Boorstin, and Center for American Progress 2005; Chomsky 2002; Haas 2005; Halper and Clarke 2004; Nossel 2004; Princeton Project on National Security 2006). Không có gì ngạc nhiên khi những lời chỉ trích gay gắt nhất lại đến từ những người ủng hộ chính sách ngoại giao, cả ngoại giao truyền thống và ngoại giao công chúng, và từ những người ủng hộ những hình thức khác của quyền lực mềm. Tuy nhiên lý lẽ của họ có rất nhiều thiếu sót, cho thấy nhu cầu phải có các yếu tố sau:. nỗ lực có tính hệ thống hơn để hợp nhất các động lực chính trị thực tiễn – gắn liền với những chuyển dịch hướng tới học thuyết quyền lực thông minh, cũng như nỗ lực mạnh mẽ hơn nhằm can dự về mặt chính trị với các vấn đề một cách nhất quán và hiệu quả.
Quyền lực thông minh
Quyền lực thông minh hay sức mạnh thông minh (tiếng Anh: smart power) là một thuật ngữ trong quan hệ quốc tế mà triết gia người Mỹ Joseph Nye định nghĩa như sau "khả năng kết hợp quyền lực cứng và quyền lực mềm vào một chiến lược mang lại thắng lợi." Theo Chester A. Crocker, Fen Osler Hampson, và Pamela R. Aall, quyền lực thông minh "có liên quan tới chiến lược sử dụng ngoại giao, thuyết phục, xây dựng năng lực và điều khiển các sức mạnh và sự ảnh hưởng trong những con đường đạt hiệu quả cao và có tính chính đáng cả về chính trị lẫn xã hội" – cốt yếu là tận dụng các sức mạnh quân sự và toàn bộ các kiểu ngoại giao. Thuật ngữ này được đưa ra sau cuộc tấn công của Mỹ vào Iraq năm 2003 như là một phản ứng lại chính sách đối ngoại ngày càng mang xu hướng tân bảo thủ của tổng thống Mỹ khi này là George W. Bush. Được coi là một phiên bản thứ hai của chính sách của Bush nhưng mang tính tự do hơn, các đề xuất của nó coi trọng các tổ chức quốc tế có vài trò lớn hơn, chống lại chủ nghĩa đơn phương một mình, đối với nước Mỹ.
Tâm lý học nhân văn tập trung vào nghiên cứu về con người nói chung và một phần của ý tưởng rằng con người là vô cùng tốt. Các nhà tâm lý học nhân văn không quan sát hành vi của con người chỉ qua con mắt của người quan sát mà còn thông qua người hành động hoặc suy nghĩ. Họ hiểu rằng hành vi của con người không thể tách rời khỏi cảm xúc, ý định, hình ảnh bản thân hoặc lịch sử cá nhân của họ. Nó tập trung vào tự do, tiềm năng và sáng tạo của con người. Một trong những tài liệu tham khảo đầu tiên của dòng tâm lý này là Carl Rogers, một trong những người tạo ra phương pháp tiếp cận nhân văn. Hiện tại đó là toàn diện lấy ý tưởng từ một số nghiên cứu nổi tiếng Abraham Maslow. Trong bài viết Tâm lý-Trực tuyến này, chúng tôi cho bạn biết về tâm lý nhân văn là gì và đặc điểm chính của nó là gì. Chủ nghĩa nhân văn phát sinh vào khoảng những năm 50 như là lực lượng thứ ba trong tâm lý học để đáp ứng với những hạn chế đáng kể được thể hiện bởi một số nhà tâm lý học về phương pháp tiếp cận hành vi và phân tâm học. Hành vi đã bị chỉ trích vì không tập trung vào ý thức và tính cách con người, cũng như mang tính quyết định, máy móc và rất phụ thuộc vào nghiên cứu động vật. Phân tâm học đã bị từ chối vì sự nhấn mạnh quá mức của nó vào vô thức và các lực lượng bản năng và, hơn nữa, bởi vì tính quyết định của nó. Vào năm 1957 và 1958, Abraham Maslow và Clark Moustakas đã gặp gỡ các nhà tâm lý học có chung mục tiêu, để thành lập một hiệp hội nghề nghiệp theo cách tiếp cận tích cực và nhân văn hơn. Trong các cuộc họp này, các khái niệm hoặc chủ đề được coi là cơ bản cho cách tiếp cận nhân văn đã được xử lý: tự giác, sáng tạo, sức khỏe, cá nhân, bản chất bên trong, bản thân, hiện hữu, trở thành và ý nghĩa. Thử nghiệm (suy nghĩ, nhận thức, cảm nhận, ghi nhớ, cảm nhận .) là cơ bản. các tự do sẽ tồn tại và mọi người nên chấp nhận trách nhiệm của mình để tự phát triển và hoàn thành. Không có hành vi được xác định. Có một số yếu tố của tâm lý học nhân văn, khi được thực hiện trong bối cảnh trị liệu, được gọi là liệu pháp lấy con người làm trung tâm. Một số đặc điểm quan trọng nhất của tâm lý học nhân văn là:. Một khía cạnh cơ bản của trị liệu lấy con người làm trung tâm là sự đồng cảm. Các nhà trị liệu áp dụng cách tiếp cận nhân văn sẽ “họ tiếp cận” cho khách hàng của bạn khi họ khám phá các khía cạnh cảm xúc. Nhiều nhà trị liệu nhân văn họ để biệt ngữ lâm sàng sang một bên, cũng như chẩn đoán và tập trung vào bản chất của con người. Nhiều người theo chủ nghĩa nhân văn sử dụng phương pháp lấy con người làm trung tâm để khuyến khích khách hàng tập trung vào thế mạnh của họ. Mục tiêu của liệu pháp này là thúc đẩy sự thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và cảm xúc thông qua đối thoại. Trong một số trường hợp, khách hàng được khuyến khích viết, vẽ và hành động (psychodrama) như là cách thể hiện cảm xúc. Các thành phần hiện sinh là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa nhân văn. Các nhà trị liệu hiện sinh giúp khách hàng làm việc trên các mô hình và phương pháp tiếp cận hạn chế, thúc đẩy sự sáng tạo như một cách thể hiện bản thân. 4 khía cạnh hiện sinh được khám phá là: thể chất, tâm lý, xã hội và tinh thần. Chủ nghĩa nhân văn duy trì rằng những trải nghiệm chủ quan của con người gây khó khăn cho việc đo lường, đánh giá và nghiên cứu các biến số của con người và đặc điểm của họ. Làm việc chủ yếu với dữ liệu định tính làm cho không thể đo lường và xác minh Bất kỳ quan sát được thực hiện trong trị liệu. Không chỉ khó so sánh dữ liệu định tính với người khác, mà còn thiếu dữ liệu định lượng có nghĩa là các lý thuyết không thể được hỗ trợ bởi bằng chứng thực nghiệm. Các chuyên gia khác chỉ trích chủ nghĩa nhân văn cũng nói về họ thiếu hiệu quả để điều trị rối loạn tâm thần nghiêm túc và khái quát được thực hiện về bản chất con người, chẳng hạn như từ chối hoàn toàn một số khái niệm hành vi và phân tâm học. Ví dụ, mặc dù tâm lý học nhân văn cho rằng các nghiên cứu trên động vật không phục vụ nghiên cứu hành vi của con người, một số dữ liệu từ các nghiên cứu trên động vật đã cho phép thiết lập các khái niệm áp dụng cho con người. Ngoài ra, tâm lý nhân văn chỉ tập trung vào ý chí tự do và ý thức. Bài viết này hoàn toàn là thông tin, trong Tâm lý học trực tuyến, chúng tôi không có khoa để chẩn đoán hoặc đề nghị điều trị. Chúng tôi mời bạn đi đến một nhà tâm lý học để điều trị trường hợp của bạn nói riêng. Nếu bạn muốn đọc thêm bài viết tương tự như Tâm lý học nhân văn là gì: đặc điểm chính, Chúng tôi khuyên bạn nên nhập danh mục Tính cách của chúng tôi.
Tâm lý học nhân cách
Tâm lý học nhân cách là một nhánh của tâm lý học nghiên cứu tính cách và sự biến đổi của nó giữa các cá nhân. Đây là một nghiên cứu khoa học nhằm mục đích cho thấy mọi người khác nhau như thế nào do các lực lượng tâm lý. điều tra bản chất con người và sự tương đồng tâm lý giữa các cá nhân"Tính cách" là một tập hợp các đặc điểm năng động và được tổ chức do một người nào đó sở hữu, mà có ảnh hưởng đến môi trường, nhận thức, cảm xúc, động lực và hành vi của họ trong các tình huống khác nhau. Từ personality (tính cách) bắt nguồn từ từ Latin personna, có nghĩa là " mặt nạ ". Tính cách cũng đề cập đến mô hình suy nghĩ, cảm xúc, điều chỉnh xã hội và hành vi luôn được thể hiện theo thời gian có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kỳ vọng, nhận thức, giá trị và thái độ của một người. Tính cách cũng dự đoán phản ứng của con người với người khác, với các vấn đề và với sự căng thẳng. Gordon Allport (1937) mô tả hai cách chính để nghiên cứu tính cách: nomothetic và idiographic.
Tôi muốn có thể chụp ảnh phơi sáng lâu vào ban ngày (như các ví dụ trong nhóm Flickr này ). Tôi đã nói rằng bạn có thể làm điều này bằng cách sử dụng bộ lọc mật độ trung tính . Vì vậy, câu hỏi của tôi là: bộ lọc mật độ trung tính chính xác là gì, và nó được sử dụng như thế nào để đạt được hiệu ứng phơi sáng dài mượt mà đó?. Bộ lọc Mật độ trung tính (ND) là bộ lọc giúp giảm lượng ánh sáng mà máy ảnh thu được đồng đều trên phổ khả kiến. Như vậy, nó trông có màu xám sang đen (tùy thuộc vào công suất lọc) và không chuyển màu trên hình ảnh nhận được (như màu xanh hoặc màu vàng, ví dụ: các bộ lọc sẽ làm). Khi sử dụng bộ lọc ND, cần phải bù cho việc giảm ánh sáng bằng cách sử dụng mức phơi sáng lâu hơn (hoặc ISO cao hơn, nhưng nó thường bất chấp ý định lọc ND). Bằng cách này, người ta có thể chụp ảnh phơi sáng lâu mà không có bộ lọc vì máy ảnh (được đặt ở ISO thấp nhất và khẩu độ nhỏ nhất có thể chấp nhận được) ở tốc độ chậm nhất để có độ phơi sáng tốt. Ví dụ cho tình huống như vậy là khi chụp thác nước ở một vị trí khá sáng. Sau đó, tốc độ phơi sáng chính xác không đủ chậm để tạo hiệu ứng nước trực tuyến cần thiết. Sử dụng bộ lọc ND, người ta có thể đạt tốc độ chậm hơn, như thể ánh sáng cảnh mờ hơn. Lưu ý rằng bộ lọc ND thống nhất không thay đổi Phạm vi động của cảnh, vì các vùng sáng sẽ tối hơn với cùng mức với các vùng tối. Một loại bộ lọc ND khác là bộ lọc ND tốt nghiệp. Các bộ lọc này thường làm giảm ánh sáng chỉ ở một nửa khung hình và dần dần rõ hơn ở nửa sau. Những bộ lọc này được sử dụng khi chụp phong cảnh, nơi bầu trời sáng hơn nhiều so với phong cảnh và sử dụng phơi sáng tốt cho mặt đất sẽ làm quá mức bầu trời. Bộ lọc ND tốt nghiệp cho phép người ta giảm độ sáng của bầu trời và khiến nó được chụp độc đáo với mặt đất. Bộ lọc ND được đánh dấu bằng bội hoặc dừng. Cả hai cắt 3 điểm dừng của ánh sáng. Nếu đồng hồ của máy ảnh cho biết 1/500 giây là bắt buộc đối với khẩu độ đã cho, thì sử dụng bộ lọc ND3 sẽ cho phép phơi sáng 1/64 giây với kết quả tương tự. Có một số bộ lọc ND (đắt tiền). Chúng được làm từ hai bản phân cực, trong đó phần tử phía trước quay và do đó cho phép bạn đặt lượng ánh sáng bị cắt (tối đa hầu như không có ánh sáng nào đi qua). "Mật độ trung tính" chỉ có nghĩa là bộ lọc có màu xám thuần túy: không nên (nếu được sản xuất tốt) thêm bất kỳ sắc độ màu nào vào ảnh của bạn. Có hai loại bộ lọc mật độ trung tính (ND) chính: tốt nghiệp và không tốt nghiệp . Bộ lọc ND tốt nghiệp tối hơn ở một cạnh và sáng hơn (thường hoàn toàn rõ ràng) ở cạnh kia. Chúng thường được sử dụng để cân bằng bầu trời sáng với tiền cảnh tối hơn, ví dụ như trong chụp ảnh phong cảnh. Việc sử dụng của họ được giải quyết chi tiết trong câu hỏi này . Đối với công việc phơi sáng lâu, thông thường bạn sẽ muốn sử dụng bộ lọc mật độ trung tính không tốt nghiệp , để đảm bảo hiệu ứng tương tự trên toàn bộ ảnh. Nói tóm lại, bộ lọc ND hoạt động bằng cách giảm lượng ánh sáng đi vào ống kính, do đó bạn có thể bù với tốc độ màn trập chậm hơn mức có thể. Các bộ lọc ND được phân loại theo mức độ tối của chúng (tức là theo lượng ánh sáng chúng chặn). Có một vài cách đánh số khác nhau để mô tả bóng tối này có thể gây nhầm lẫn cho người mua lần đầu:. Số lượng điểm dừng f: bộ lọc ND "2 điểm dừng" tạo ra sự khác biệt tương tự với mức phơi sáng khi giảm khẩu độ xuống 2 điểm dừng f đầy đủ (ví dụ: chuyển từ f / 4 sang f / 8). Hệ số tốc độ màn trập: có thể dễ hiểu nhất - bộ lọc được mô tả là ND8 (hoặc NDx8) làm cho ảnh tối hơn 8 lần hoặc có hiệu ứng tương đương với phơi sáng khi sử dụng tốc độ màn trập nhanh hơn 8 lần (ví dụ 1/160 thay vì 1 / 20s). Bộ lọc ND1000 làm cho ảnh (khoảng) tối hơn 1000 lần, v.v. Mật độ quang: Chỉ là một thang số khác nhau, và không phải là một tỷ lệ tôi thường sử dụng. May mắn thay, có một bảng chuyển đổi tiện dụng trên Wikipedia và tốt hơn bạn vẫn có thể dễ dàng nhận được bằng cách bỏ qua mọi thứ trừ hệ số tốc độ màn trập . Tất cả các phơi sáng dài ban ngày của tôi đã được thực hiện bằng bộ lọc NDx1000. Các bước cần thiết là khá dễ dàng, nó chỉ cần một chút kiên nhẫn. Bạn sẽ được phơi sáng lâu, vì vậy hãy bắt đầu bằng cách gắn máy ảnh của bạn lên chân máy hoặc một số bề mặt ổn định khác, nơi nó sẽ không di chuyển xung quanh. Soạn ảnh của bạn và bắt đầu bằng cách chụp phơi sáng thường xuyên của nó (không sử dụng bộ lọc). Nó thường giúp chuyển sang chế độ Av hoặc Tv để kiểm soát tốt hơn khẩu độ và tốc độ màn trập. Bạn cũng nên chọn tốc độ ISO cố định thay vì sử dụng ISO tự động (nếu máy ảnh của bạn có nó). Giả sử máy ảnh đang chụp ảnh phơi sáng tốt ở ISO 100, f / 8 và 1/100. Ghi chú tinh thần của những cài đặt đó. Bây giờ bạn có thể bắt đầu chuẩn bị cho ảnh phơi sáng dài. Chuyển ống kính sang chế độ lấy nét thủ công . Khi bộ lọc tối được gắn vào, máy ảnh có thể gặp khó khăn trong việc lấy nét, vì vậy điều quan trọng là phải khóa lấy nét ngay bây giờ với bất kỳ hoạt động nào cho ảnh chụp thử thông thường. Lắp bộ lọc vào phía trước ống kính. (Mẹo: Nếu bạn đang chụp góc rộng và có bộ lọc UV trên ống kính, bạn có thể muốn loại bỏ nó trước để tránh hiện tượng mờ xung quanh các góc.). Với máy ảnh hiện ở chế độ Thủ công, hãy đặt ISO và khẩu độ về cùng các giá trị chúng tôi đã sử dụng trước đây (trong ví dụ của tôi, ISO 100 và f / 8). Đối với tốc độ màn trập, nhân tốc độ màn trập của ảnh chụp ban đầu với hệ số nhân tốc độ màn trập của bộ lọc . Tôi đang sử dụng bộ lọc NDx1000 vì vậy tôi cần nhân tốc độ màn trập lên 1000. Vì vậy, tốc độ màn trập ban đầu của tôi là 1/100 giây trở thành 10 giây (1/100 x 1000). Quay số đó và bạn đã sẵn sàng để đi! Nếu tính năng tự động đo sáng của máy ảnh đang nhấp nháy như điên, hãy bỏ qua nó. Nếu có thể, hãy sử dụng cáp nhả cửa trập để tránh làm hỏng máy ảnh trong khi phơi sáng. Nếu không, sử dụng chế độ hẹn giờ để tự động bật màn trập. Đã bao giờ, kiểm tra kết quả của bạn trên màn hình LCD của máy ảnh và điều chỉnh để nếm thử. Sử dụng bộ lọc rất tối (như NDx1000), có thể phơi sáng rất lâu (tức là trong hơn một phút). Đó là khi cáp nhả cửa trập trở nên thiết yếu. Tùy thuộc vào cường độ bộ lọc của bạn, việc nhân tốc độ màn trập trong đầu có thể là một thách thức đối với toán học của bạn! Ví dụ, 1/100 x 1000 là đủ dễ dàng, nhưng 1/60 x 1000 thì khó hơn. Tôi đã viết ra một bảng nhỏ về tốc độ màn trập phổ biến nhân với cường độ bộ lọc của tôi và giữ nó trong túi máy ảnh của tôi. Một máy tính trên điện thoại di động của bạn cũng có thể được tiện dụng. Mặc dù thực tế chúng có nghĩa là một màu xám thuần khiết, các bộ lọc ND rất tối (như NDx1000) có xu hướng thêm một màu sắc vào ảnh: tôi luôn biến nó thành màu hơi nhạt. Hoặc là chính xác rằng trong xử lý hậu kỳ hoặc nắm lấy nó như là một hiệu ứng nếu nó nâng cao kết quả cuối cùng. Bạn sẽ muốn một mật độ trung tính hoặc bộ lọc ND. Về cơ bản, nó làm tối tất cả các phần của hình ảnh mang lại cho bạn độ phơi sáng đồng đều, tối hơn thì sẽ khác. Tùy thuộc vào máy ảnh, một số có bộ lọc ND tích hợp hoặc một số chấp nhận phụ kiện bộ lọc mà bạn có thể vặn vào ống kính hoặc thả vào khe lọc. Cá nhân tôi sẽ mua một CPL (bộ lọc phân cực tròn) và sử dụng nó khi có thể vì nó là mục đích kép. Nó sẽ chặn một số ánh sáng tới và cho phép khẩu độ rộng hơn, nhưng cũng cung cấp một số nhạc pop mà CPL được biết đến. Chúng tôi có rất nhiều câu hỏi bao gồm một số câu hỏi chuyên biệt hơn về các bộ lọc mật độ trung tính có thể khiến bạn quan tâm.
Bộ lọc độ đen trung tính
Trong nhiếp ảnh và quang học, bộ lọc độ đen-trung tính, hay còn gọi là bộ lọc ND, là một bộ lọc dùng để làm giảm hay sửa đổi cường độ của tất cả bước sóng, hay màu sắc, của ánh sáng như nhau, giúp giữ nguyên sắc độ khi tái tạo lại màu sắc. Nó có thể là một bộ lọc không màu (trong) hoặc là bộ lọc có màu xám. Mục đích của một bộ lọc độ đen-trung tính nhiếp ảnh tiêu chuẩn là để làm giảm lượng ánh sáng lọt vào thấu kính. Điều đó cho phép nhiếp ảnh gia lựa chọn cách phối hợp độ mở, thời gian phơi sáng và độ nhạy cảm biến mà nếu không có nó phải thực hiện bằng các phơi sáng lâu hơn. Điều này được thực hiện để đạt được hiệu ứng như độ sâu trường ảnh mỏng hoặc chuyển động mờ của một chủ thể trong phạm vi các tình huống và điều kiện khí quyển rộng hơn. Thí dụ như, khi muốn chụp được cảnh một thác nước ở một tốc độ màn trập chậm tạo ra một hiệu ứng chuyển động-mờ cố ý. Nhiếp ảnh gia có thể xác định để đạt được hiệu quả như mong đợi, cần phải đặt tốc độ màn trập cỡ mười giây.
(LLCT) - Tại Đại hội XII (1982), Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức ghi vào văn kiện chủ trương xây dựng “chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc”. Đến Đại hội XIX (10-2017), Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra quan điểm xây dựng “chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hình thành lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Một là, chủ nghĩa Mác - Lênin, cơ sở tư tưởng chủ yếu của lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc trước sau như một khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đại hội XVIII xác định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ quy luật phát triển của lịch sử loài người, nguyên lý cơ bản của nó là đúng đắn có sức sống mạnh mẽ. Kiên trì nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đi con đường mà toàn thể nhân dân Trung Quốc đã tự nguyện lựa chọn, phù hợp với tình hình Trung Quốc, sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng”(1). Đại hội XIX tiếp tục khẳng định: “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên trì chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử”(2). Sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc sau này đều là quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của Trung Quốc, hay còn gọi là quá trình “Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác”. Chủ nghĩa Mác - Lênin được Đảng Cộng sản Trung Quốc vận dụng bao gồm cả nội dung và phương pháp luận khoa học. Về nội dung, đó là tư tưởng về mục tiêu, mô hình và con đường đi lên CNXH như: công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản với nhà nước và xã hội. Về phương pháp luận, Trung Quốc luôn quán triệt quan điểm “kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể của Trung Quốc, xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc”; xây dựng CNXH phải dựa vào bối cảnh cụ thể của dân tộc và thời đại. Tư tưởng Mao Trạch Đông được Đảng Cộng sản Trung Quốc quan niệm là: “sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin ở Trung Quốc, là nguyên tắc lý luận và sự tổng kết kinh nghiệm đúng đắn về công cuộc cách mạng và xây dựng của Trung Quốc đã được thực tiễn chứng minh, là sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc”(3). Lý luận Đặng Tiểu Bình: “là sản phẩm của sự kết hợp các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn ngày nay của Trung Quốc và những đặc trưng của thời đại, là sự kế thừa và phát triển của tư tưởng Mao Trạch Đông trong điều kiện lịch sử mới, là giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc, là chủ nghĩa Mác của Trung Quốc ngày nay, là sự kết tinh trí tuệ của tập thể Đảng Cộng sản Trung Quốc, dẫn dắt sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc không ngừng tiến lên”(4). Tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”: “là sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, phản ánh yêu cầu mới của sự phát triển thay đổi của thế giới và Trung Quốc hiện nay đối với công tác của Đảng và Nhà nước, là vũ khí lý luận mạnh mẽ nhằm tăng cường cải tiến công tác xây dựng Đảng, thúc đẩy quá trình tự hoàn thiện và phát triển chủ nghĩa xã hội Trung Quốc, là sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là tư tưởng chỉ đạo mà Đảng phải kiên trì lâu dài. “Ba đại diện” là nguồn gốc lập Đảng, là nền tảng cầm quyền, là ngọn nguồn sức mạnh của Đảng”(5). Quan điểm phát triển khoa học: “là lý luận khoa học chung một dòng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”, vừa tiến cùng thời đại, là sự thể hiện tập trung của thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác về phát triển, là thành quả mới nhất của Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, là kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là tư tưởng chỉ đạo cần phải kiên trì và quán triệt trong phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”(6). Văn kiện Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “Tư tưởng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học, là thành quả mới nhất của việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác; là kết tinh của kinh nghiệm thực tiễn và trí tuệ tập thể của Đảng và nhân dân, là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, là kim chỉ nam hành động để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”(7). Một là, bối cảnh thời đại: sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX đặt ra yêu cầu phải nhận thức lại toàn diện, sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mô hình và con đường đi lên CNXH phù hợp với đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc và thời đại. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng, sụp đổ của các nước trên đó là tư tưởng giáo điều, chủ quan, nóng vội, phủ nhận các quy luật phát triển khách quan. Mặc dù sự kiện này đã qua gần 30 năm, nhưng những bài học kinh nghiệm lịch sử của nó vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 bên cạnh những tác động tích cực, cũng tạo ra những thách thức không nhỏ trong phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc. Trung Quốc là một quốc gia với hơn một tỷ người, trong nhiều năm qua, nền kinh tế Trung Quốc chủ yếu dựa trên tiềm lực nguồn lao động đông, giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Bước vào kỷ nguyên công nghệ mới, mô hình phát triển trước đây không còn phù hợp, đây là nguyên nhân khách quan dẫn đến đòi hỏi phải có hệ thống lý luận mới dẫn đường. Kinh tế tăng trưởng cao, GDP tăng từ 54 nghìn tỷ nhân dân tệ (2012) lên 80 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương 2 nghìn tỷ USD) năm 2017, đứng vị trí thứ hai thế giới, đóng góp trên 30% cho tăng trưởng GDP toàn cầu. Trong cải cách chính trị, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII, với dũng khí chính trị to lớn, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “đã đề ra một loạt các quan điểm mới, tư tưởng mới, chiến lược mới; ban hành một loạt những phương châm, chính sách lớn, giải quyết được nhiều vấn đề nan giải lâu nay muốn giải quyết nhưng chưa giải quyết được; làm được nhiều việc lớn lâu nay muốn làm nhưng chưa làm được”(8). Trong quan hệ quốc tế, vị thế của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế: Trung Quốc đã có nhiều sáng kiến, chính sách nổi bật như: sáng kiến xây dựng “Vành đai và con đường”; khởi xướng thành lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á; xây dựng Quỹ con đường tơ lụa; đăng cai tổ chức Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế “Vành đai và con đường” lần thứ nhất (5-2017), Tổ chức Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Hàng Châu (9-2016), Hội nghị thượng đỉnh nhóm BRICS tại Hạ Môn (9-2017). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Trung Quốc cũng đang đứng trước không ít những khó khăn, thách thức như: phát triển không cân bằng, không đầy đủ; chất lượng, hiệu quả phát triển chưa cao; năng lực sáng tạo chưa đủ mạnh; trình độ phát triển của nền kinh tế thấp; lĩnh vực dân sinh còn nhiều hạn chế; chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống giữa các dân tộc, vùng miền còn cao. Một số nội dung chủ yếu của lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Khái niệm chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mớiđược thể hiện ở ngay chủ đề Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Không quên lý tưởng ban đầu, khắc ghi sứ mệnh, dương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, quyết tâm hoàn thành thắng lợi xây dựng xã hội khá giả toàn diện, giành thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới, phấn đấu không mệt mỏi vì giấc mơ Trung Quốc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”(9). Xét về mặt thời gian, thời đại mới mà Trung Quốc nhắc đến ở đây chính là thế kỷ XXI. Thế kỷ mà Trung Quốc đặt ra những mục tiêu vĩ đại, như hoàn thành mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện (vào năm 2021), phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc XHCN phát triển, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hài hòa, tươi đẹp vào giữa thế kỷ XXI. Xét về chất lượng và trình độ phát triển: Các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Trung Quốc đã có sự phát triển vượt bậc; những nhu cầu cơ bản trong cuộc sống người dân đã được đảm bảo. Trung Quốc đã qua thời kỳ “đứng lên”- thời kỳ mà thế hệ lãnh đạo thứ nhất đã làm được; Trung Quốc đã qua kỳ “giàu lên”- thời mà các thế hệ lãnh đạo thứ hai, ba, tư đã thực hiện được trong giai đoạn cải cách, mở cửa đến nay. Và hiện tại, Trung Quốc đang ở thời kỳ “mạnh lên”- tức là từ thế hệ lãnh đạo thứ năm: “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc bước vào thời đại mới có nghĩa là dân tộc Trung Hoa sau khi trải qua muôn vàn khó khăn đã trải qua những bước tiến lớn từ đứng lên, giàu mạnh lên, chào đón viễn cảnh tươi sáng thực hiện phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”(10). Nhiệm vụ tổng thể: Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng nhiệm vụ tổng thể của CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là: thực hiện hiện đại hóa CNXH và phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa (gồm hai bước, bước 1: xây dựng xã hội khá giả toàn diện; bước hai, thành cường quốc XHCN hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hài hòa, tươi đẹp). Bố cục tổng thểcủa CNXH đặc sắc Trung Quốc hiện nay là “năm trong một” (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường); bố cục chiến lược là “bốn toàn diện” (xây dựng xã hội khá giả toàn diện, đi sâu cải cách toàn diện, quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện và quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện); bố cục tư tưởng là “bốn tự tin” (tự tin về đường lối, tự tin về lý luận, tự tin về chế độ, tự tin về văn hóa). Về mâu thuẫn chủ yếu: Tại Hội nghị Trung ương sáu khóa XI (6-1981), Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Trung Quốc là: “mâu thuẫn giữa nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng tăng của nhân dân với lực lượng sản xuất xã hội còn lạc hậu”(11). Sau gần 40 năm, Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận định mâu thuẫn chủ yếu của xã hội hiện nay là: “giữa nhu cầu ngày càng gia tăng của nhân dân về một cuộc sống tốt đẹp hơn với việc phát triển không cân bằng, không đầy đủ”(12). Trung Quốc đã giải quyết ổn định vấn đề no ấm cho hơn một tỷ dân, đã thực hiện được mục tiêu xây dựng xã hội khá giả; nhưng hiện tại, nhu cầu về đời sống tốt đẹp của nhân dân ngày càng cao; không chỉ về vật chất mà còn là các yêu cầu về dân chủ, pháp trị, chính nghĩa, công bằng, văn minh, môi trường. Việc thay đổi mâu thuẫn căn bản này được Đảng Cộng sản Trung Quốc coi là: “những thay đổi mang tính lịch sử liên quan đến toàn cục, điều này đặt ra nhiều yêu cầu mới cho công tác của Đảng và Nhà nước”(13). Ngày 30-3-1979, tại Hội nghị nghiên cứu công tác lý luận của Đảng, Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên đưa ra khái quát “bốn nguyên tắc cơ bản”, đó là: “kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa; kiên trì chuyên chính vô sản; kiên trì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; kiên trì chủ nghĩa Mác và tư tưởng Mao Trạch Đông”(14). Những nguyên tắc này được các thế hệ lãnh đạo tiếp sau quán triệt một cách triệt để. Đến Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát triển thành 14 kiên trì là: “Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng trong mọi mặt công tác; kiên trì lấy nhân dân làm trung tâm; kiên trì đi sâu cải cách toàn diện; kiên trì quan điểm phát triển mới; kiên trì nhân dân làm chủ; kiên trì quản lý xã hội theo pháp luật toàn diện; kiên trì hệ thống giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa; kiên trì bảo đảm và cải thiện dân sinh trong phát triển; kiên trì sinh sống hài hòa giữa con người với thiên nhiên; kiên trì quan niệm tổng thể về an ninh quốc gia; kiên trì sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với quân đội nhân dân; kiên trì thực hiện “một đất nước hai chế độ”, thúc đẩy thống nhất đất nước; kiên trì thúc đẩy cộng đồng chung vận mệnh nhân loại và kiên trì quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện”(15). Đây được coi là tư tưởng và phương châm chỉ đạo chiến lược trong xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Trong kinh tế: quan điểm chỉ đạo cơ bản là coi phát triển kinh tế là nhiệm trung tâm, kiên trì giải phóng sức sản xuất và cải cách kinh tế thị trường XHCN. Chủ trương chuyển từ “tăng trưởng cao” sang tăng trưởng “chất lượng cao”. Trong đó tập trung vào chuyển đổi phương thức phát triển, tối ưu hóa kết cấu nền kinh tế, chuyển đổi động lực tăng trưởng. Về các giải pháp chủ yếu: xây dựng kết cấu kinh tế theo hướng trọng cung, đưa Trung Quốc thành cường quốc chế tạo, đẩy nhanh phát triển ngành chế tạo tiên tiến, đẩy mạnh phát triển kinh tế kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo gắn với môi trường xanh, carbon thấp, kinh tế chia sẻ, chuỗi cung ứng hiện đại.; thực thi chiến lược chấn hưng nông thôn; cân bằng phát triển giữa các vùng miền; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Trong xây dựng hệ thống chính trị: bản chất của chế độ chính trị XHCN đặc sắc Trung Quốc là nền chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh công - nông làm nền tảng, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc (Trung văn giản thể: 中国特色社会主义, Trung văn phồn thể: 中國特色社會主義; Hán Việt: Trung Quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa), trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XV Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 9 năm 1997 gọi là chủ nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc (Trung văn phồn thể: 有中國特色社會主義; Trung văn giản thể: 有中国特色社会主义, Hán Việt: hữu Trung Quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa), là hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc dựa trên chủ nghĩa xã hội khoa học. Ý thức hệ này hỗ trợ việc tạo ra một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chi phối bởi các khu vực công vì Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Chính phủ Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không từ bỏ chủ nghĩa Mác nhưng đã phát triển nhiều thuật ngữ và khái niệm của lý thuyết Mác-xít để hàm chứa hệ thống kinh tế mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng chủ nghĩa xã hội là tương thích với các chính sách kinh tế. Trong tư tưởng của Cộng sản Trung Quốc hiện nay, Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội-một quan điểm giải thích các chính sách kinh tế linh hoạt của chính phủ Trung Quốc để phát triển thành một quốc gia công nghiệp hóa.
Đại học Waterloo là một trường Đại học công lập thành lập từ năm 1957 tại thành phố Waterloo, Ontario – trung tâm công nghệ của Canada. Chỉ trong vòng nửa thế kỉ Đại học Waterloo đã nhanh chóng trở thành một trường đại học toàn diện hàng đầu Canada với hơn 36.000 sinh viên toàn thời gian và bán thời gian trong các chương trình đại học và sau đại học. Đại học Waterloo được xếp hạng nhất trong các trường đại học sáng tạo nhất của Canada. Tại đây sinh viên sẽ được nghiên cứu và giảng dạy theo phương pháp tiên tiến nhất về các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, toán học và khoa học máy tính, y tế, môi trường, nghệ thuật và khoa học xã hội. Từ điện toán lượng tử và công nghệ nano đến tâm lý lâm sàng và nghiên cứu khoa học sức khỏe, Đại học Waterloo mang đến những ý tưởng tuyệt vời , truyền cảm hứng sáng tạo cho các sinh viên của họ. Là nơi có chương trình giáo dục hợp tác sau trung học lớn nhất thế giới, Waterloo nắm lấy các mối quan hệ của nó với thế giới và khuyến khích các quan hệ đối tác đáng tin cậy trong học tập, nghiên cứu và thương mại hóa. Với các cơ sở và trung tâm giáo dục trên bốn châu lục, và các mối quan hệ đối tác học tập kéo dài trên toàn cầu, Waterloo đang định hình tương lai của hành tinh. Trường có liên kết với các doanh nghiệp để tìm kiếm cơ hội việc làm cho sinh viên quốc tế giúp sinh viên có thể vừa học vừa làm trên đất nước Canada. Đến với Waterloo bạn sẽ được học tập với các giáo sư, thạc sĩ, tiến sĩ, và được nghiên cứu trong môi trường tiên tiến hiện đại nhất.
Đại học Waterloo
Trường Đại học Waterloo (tiếng Anh: University of Waterloo, còn gọi là Waterloo, UW, hay UWaterloo) là một trường đại học nghiên cứu hệ công lập có khuôn viên chính đặt tại Waterloo, Ontario. Khuôn viên chính của trường đặt tại khu đất rộng 404 hécta phía Bắc thành phố Waterloo, gần công viên Waterloo. Trường cung cấp các chương trình học thuật dưới sự quản lý của 6 khoa và 10 trường chuyên khoa. Waterloo còn có 4 khuôn viên vệ tinh và liên kết với 4 trường đại học thuộc viện đại học. Waterloo là một thành viên của U15, một nhóm các viện đại học nghiên cứu chuyên sâu tại Canada. Trường Đại học Waterloo nổi tiếng với các chương trình hợp tác đào tạo ("co-op"), cho phép sinh viên áp dụng kiến thức chuyên môn vào môi trường làm việc thực tế. Đây cũng là trường đại học có hệ thống chương trình co-op lớn nhất thế giới, với hơn 17.000 sinh viên tham gia trong hơn 140 chương trình co-op. Trường được thành lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1957 dưới tên Khoa Liên kết Cao đẳng Waterloo, một tổ chức bán tự trị của Cao đẳng Waterloo và là hội viên của trường Đại học Tây Ontario.
Hôn nhân là điều mà đa phần ai cũng sẽ trải qua ít nhất một lần trong đời. Khi bước chân vào hôn nhân, bạn sẽ nếm trải một cuộc sống mới với một gia đình mới mà bạn và đối phương phải cùng nhau xây dựng nên. Nhiều người còn độc thân họ hay e ngại về hôn nhân, còn những người đã lập gia đình, có người hạnh phúc cũng có người đau khổ trong hôn nhân. Vậy hôn nhân là gì? Chúng ta hãy tìm câu trả lời chính xác nhất dưới đây. Các kiểu hôn nhân1. Hôn nhân một vợ một chồng2. Hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng4. Hôn nhân là sự kết hợp giữa một người đàn ông và người phụ nữ về mặt tình cảm, xã hội, tôn giáo một cách hợp pháp dựa trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện. Trong hôn nhân, người đàn ông sẽ được gọi là chồng và phụ nữ sẽ được gọi là vợ. Hôn nhân có thể là kết quả của tình yêu hoặc cũng có thể không tồn tại tình yêu. Nhiều người nghĩ rằng, hôn nhân phải được xây dựng dựa trên tình yêu chân chính, tình yêu là yếu tố quan trọng nhất để quyết định cuộc hôn nhân ấy có hạnh phúc hay không, hai người có sống bên nhau được hay không và tình yêu giúp hôn nhân vượt qua mọi thứ. Tuy nhiên, trên thực tế hôn nhân có thể được bắt nguồn từ tình yêu và cũng có thể không. Tình yêu và hôn nhân, một thứ thuộc về tình cảm còn một thứ thuộc về pháp lý, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt nhau. Có nhiều cặp vợ chồng chung sống với nhau gần hết cuộc đời và họ không quan trọng tình yêu. Không có tình yêu liệu họ có hạnh phúc hay không? Thực chất, cái họ cần và cảm nhận được trong cuộc hôn nhân không tình yêu chính là sự bình yên. Thứ bình yên này đôi khi còn quan trọng hơn cả tình yêu, nó gắn kết hai con người một cách bền chặt để họ cùng nhau đi đến hết đời. Sự bình yên ấy được xây nên từ trách nhiệm của mỗi cá nhân mà nên. Trong hôn nhân, dù tình yêu có tồn tại hay không thì trách nhiệm vẫn là một phần quan trọng không thể thiếu nếu muốn hôn nhân lâu bền. Trách nhiệm không được xây dựng từ những gồng gánh mà nó đến từ những điều nhỏ nhặt nhất hai người dành cho nhau, nhỏ nhưng chân thành. Mục đích cơ bản nhưng vô cùng quan trọng của hôn nhân chính là việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái để góp phần duy trì nòi giống, đảm bảo sự tồn tại và tiếp nối của dân tộc, của con người. Chỉ có hôn nhân 1 vợ – 1 chồng là đáp ứng được mục đích này và tạo ra các “tế bào khỏe mạnh” cho xã hội. Trong khi đó, các biến dị khác của hôn nhân không đạt được mục đích này, chúng tạo ra các “tế bào lỗi” khiến cho xã hội bị suy thoái. Hôn nhân 1 vợ – 1 chồng là loại hình hôn nhân được pháp luật công nhận ở mọi quốc gia, mọi thời đại. Một số biến dị khác của hôn nhân như đa thê, hôn nhân tạm thời, hôn nhân đồng tính thì chỉ được chấp nhận ở một số quốc gia trong một số giai đoạn lịch sử. Hôn nhân 1 vợ – 1 chồng là hình thức hôn nhân giữa 1 nam và 1 nữ, trong đó mỗi cá nhận chỉ được có 1 người vợ hoặc chồng chung sống suốt đời hay tại thời điểm đang xét đến. Hình thức hôn nhân này được phổ biến và chấp nhận trên toàn thế giới. Hôn nhân đa thê có nghĩa là 1 người chồng có thể có nhiều vợ. Mỗi quốc gia, mỗi xã hội có sự chấp nhận khác nhau về hôn nhân đa thê. Một số nước châu Á thời xưa điển hình như Trung Quốc, thậm chí có Việt Nam chấp nhận hôn nhân đa thê nhưng ngày nay thì không còn phổ biến nữa. Đây là hình thức hôn nhân mà trong một cuộc hôn nhân có hơn 2 người tham gia hôn phối. Khi người đàn ông cùng một lúc có hơn một vợ, thì mối quan hệ này được gọi là đa thê và khi không có ràng buộc hôn nhân giữa các người vợ. Khi một người phụ nữ có cùng một lúc hơn 1 chồng thì được gọi là đa phu và không có ràng buộc hôn nhân giữa các người chồng. Nếu cuộc hôn nhân có nhiều vợ, nhiều chồng thì được gọi là hôn nhân nhóm. Hôn nhân đồng tính có nghĩa là trong cuộc hôn nhân xuất hiện các cặp cùng giới tình được thừa nhận là vợ chồng cũng như các cặp hôn nhân khác giới. Việc hôn nhân đồng tính trước đây chưa được nhiều quốc gia chấp nhận, nhưng ngày nay vấn đề này không còn xa lạ với nhiều người và người ta cũng dần chấp nhận các mối quan hệ đồng tính trong xã hội. Những định kiến về cộng đồng LGTB cũng dần bị xóa bỏ và trên thế giới có rất nhiều cặp vợ chồng đồng tính được pháp luật thừa nhận. Tình trạng hôn nhân tạm ngày nay rất phổ biến trong xã hội, đa phần các cặp đôi trẻ thường lựa chọn hình thức hôn nhân này. Hôn nhân tạm theo một cách gọi khác đó là “sống thử”. Hình thức này không có sự ràng buộc về pháp lý, cả hai người đến với nhau dựa trên tình yêu, đó là sự ràng buộc về mặt tình cảm, khi tình yêu kết thúc thì một trong hai có thể rời đi hoặc nếu tình yêu đủ lớn thì cả hai sẽ tiến đế hôn nhân được pháp luật thừa nhận. – Cặp đôi vừa kết hôn được 5 tiếng rưỡi: Đối với họ bây giờ, hôn nhân là một thử thách hoàn toàn mới, vì vậy, tạm thời không có bí mật nào để nói cả. – Cặp đôi kết hôn được 21 ngày: Chúng tôi hiểu nhau và biết rõ sở thích của nhau. – Cặp đôi kết hôn được 2 năm: Đối xử với nhau như bạn bè. Chúng tôi không muốn đặt áp lực hôn nhân lên quan hệ tình yêu vì điều này sẽ khiến kết hôn trở nên rất mệt mỏi. Chúng tôi không nhất thiết phải là nhu cầu thiết yếu của đối phương mà chỉ đơn giản là nhu cầu thôi. – Cặp đôi kết hôn được 6 năm: Đối thoại và giao tiếp thoải mái với nhau. Dù dưới bất kỳ trường hợp nào, chúng tôi cũng không cố che giấu bộ mặt thật của chính mình. – Cặp đôi kết hôn được 9 năm: Tình yêu, sự tôn trọng và thừa nhận lẫn nhau. Tất cả những điều này đều được gói gọn trong một câu duy nhất: Anh yêu em/ Em yêu anh. Cặp đôi kết hôn được 18 năm: Hãy luôn thay đổi. Vì cuộc sống không bao giờ đứng im tại chỗ để bình yên và suôn sẻ như những gì chúng ta mong đợi. Nếu không thể bắt kịp cuộc sống thường ngày thì cả hai vợ chồng sẽ luôn đau khổ. – Cặp đôi kết hôn được 22 năm: Hãy giữ tình yêu của mình sống mãi dù đối phương có dần thay đổi, dù đối phương có làm điều mà bạn rất ghét. Luôn cảm nhận được tình yêu của mình sẽ khiến hôn nhân hạnh phúc.Một đôi vợ chồng khác cũng đã kết hôn 22 năm: Tuy hai mà một, phải luôn nhớ điều đấy. Ngay cả khi chúng tôi cãi nhau to tiếng, thậm chí “chiến tranh” nổ ra, thì chúng tôi vẫn luôn nhớ phải cùng nhau đối mặt với tất cả các vấn đề. – Cặp đôi kết hôn được 33 năm: Ngay cả khi phạm sai lầm, chúng tôi vẫn giải quyết tất cả vấn đề trong nụ cười. – Cặp đôi kết hôn được 41 năm: Bí quyết là phải hài hước! Khi xảy ra tranh cãi hục hặc hay khi vợ tôi la mắng, tôi đều dùng sự hài hước của mình để giải quyết mọi lời bức xúc. Cuối cùng cả hai cùng vui vẻ phì cười với nhau. – Cặp đôi kết hôn 44 năm: Tôn trọng ý kiến của nhau và cố gắng lắng nghe mọi điều đối phương muốn bày tỏ. – Cặp đôi kết hôn được 57 năm: Mối quan hệ giữa vợ chồng với nhau là mối quan hệ đặc biệt giữa các cá nhân. Nếu bạn không thể đối mặt với những thay đổi do hôn nhân mang lại, bạn sẽ gặp rất nhiều rắc rối. – Cặp đôi kết hôn được 58 năm: Nó giống như việc tôi ăn mọi thứ bà ấy làm, từ salad cho tới bánh táo. Qua đây bạn đã biết được hôn nhân là gì, mục đích cũng như các kiểu hôn nhân trong xã hội. Để có một cuộc hôn nhân bền vững thì người vợ và người chồng phải tự giác ý thức được trách nhiệm của mình để cùng nhau vun vén cho gia đình được bình yên, hạnh phúc và bền chặt.
Hôn nhân
Hôn nhân là một sự hợp nhất được công nhận về mặt văn hóa giữa những người, được gọi là vợ chồng. Hôn nhân tạo ra quyền lợi và nghĩa vụ giữa họ, cũng như giữa họ và con cái của họ, và giữa họ và gia đình của người kia. Định nghĩa về hôn nhân khác nhau trên khắp thế giới, không chỉ giữa các nền văn hóa và giữa các tôn giáo, mà còn trong suốt lịch sử của bất kỳ nền văn hóa và tôn giáo nào. Theo thời gian, hôn nhân đã được mở rộng và cũng bị hạn chế về mặt ai và những gì được bao gồm trong khái niệm này. Thông thường, nó là một thiết chế trong đó các mối quan hệ giữa các cá nhân, thường là tình dục, được thừa nhận hoặc bị xử phạt. Trong một số nền văn hóa, hôn nhân được khuyến nghị hoặc coi là bắt buộc trước khi theo đuổi bất kỳ hoạt động tình dục nào. Khi được định nghĩa rộng rãi, hôn nhân được coi là một phổ quát văn hóa. Một nghi lễ đánh dấu hôn nhân được gọi là một đám cưới.
Lưu Cơ, tự Bá ôn, người Thanh Điền, Triết Giang. Sinh vào năm thứ tư niên hiệu Chí Đại, đời vua Võ Tông nhà Nguyên, đỗ tiến sĩ năm thứ tư niên hiệu Chí Thuận (công nguyên 1333) đời nhà Nguyên. Đến năm thứ hai mươi niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1360) đời vua Huệ Tông triều nhà Nguyên, Lưu Cơ đã gần năm mươi tuổi, nhận lời mời của Chu Nguyên Chương đến Ứng Thiên, để trù hoạch quân cơ cho Chu Nguyên Chương, bắt đầu một cuộc sống huy hoàng, thông đạt, đem đầy bụng kinh luân của mình ra để thi triển. Lưu Cơ chết vào năm thứ tám, niên hiệu Hồng Võ (công nguyên 1375) đời vua Thái Tổ triều nhà Minh, hưởng dương sáu mươi lăm tuổi. Về mặt quân sự, Lưu Cơ được mọi người gọi là nhà chiến lược, có thể so sánh với Trương Lương, Khổng Minh. Về mặt chính trị, ông được mọi người gọi là nhà tư tưởng. Trong văn học sử, ông được mọi người xem là một nhà thơ trứ danh cuối đời nhà Nguyên đầu đời nhà Minh. Ông là tiến Sĩ triều nhà Nguyên, được mời ra làm quan, nhưng đã từ chối sự tiến cử của Sở Tài, để trở thành một vị khai quốc nguyên huân của triều nhà Minh. Ông là người có tài dụng binh như thần, đoán việc rất sáng suốt. Nhưng đối với sự hoài nghi của nhà vua thì đành chịu bó tay. Mặc dù ông biết rút lui đúng lúc, để quy ẩn thoát thân, nhưng rốt cục không tránh được cảnh “hết chim bẻ ná, thỏ chết làm thịt chó săn”. Cuộc đời của ông, rất đáng cho chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu. Tổ tiên của Lưu Cơ là Hào Môn đại tộc ở huyện Thanh Điền. Ông sơ của Lưu Cơ là Lưu Hào, học vấn uyên bác, rất có mưu lược. Lưu Hào thường làm Hàn Lâm Chưởng Thư cho triều nhà Tống. Sau khi triều nhà Tống bị diệt vong, người địa phương từng đứng lên tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa chống Nguyên, nhưng đều bị thất bại. Những người sống sót trong cuộc khởi nghĩa này đã bỏ chạy tứ tán, tìm nơi ẩn náu. Đối với cuộc khởi nghĩa trên, Lưu Hào tỏ ra rất đồng tình. Về sau, triều đình phái quan viên mang theo danh sách những người khởi nghĩa còn sống để bắt giữ và tịch thâu tài sản. Người sứ giả trên đường đi, ghé trọ tại nhà Lưu Hào. Ông bèn tìm hiểu tình hình rồi giả vờ ân cần tiếp đãi. Chờ cho người sứ giả uống rượu say, bèn khóa cửa lại rồi phóng hỏa đốt cháy ngôi nhà. Thế là danh sách tìm bắt những người khởi nghĩa bị cháy thành tro. Nhờ đó mà số người này tránh khỏi tai họa. Lưu Cơ đã lớn lên trong một gia đình như thế, tất nhiên là được sự hun đúc rất tốt đẹp. Ngay từ nhỏ, Lưu Cơ ham học, và đã đọc rất nhiều sách vở. Đối với sách của người xưa viết về thiên văn, địa lý, cách dụng binh để đánh giặc, ông say mê đọc mãi không khi nào rời khỏi tay. Việc chú tâm nghiên cứu sách vở mang đến nhiều lợi ích cho Lưu Cơ, chẳng những làm cho trí tuệ của ông được mở mang, mà còn thúc đẩy ông tha thiết muốn lập chí lớn, muốn xây dựng sự nghiệp cho mình. Năm mười bốn tuổi, ông đã là một thiếu niên rất tài hoa. Cha ông mời mấy ông thầy đến để dạy, nhưng do những ông thầy này học vấn không cao, không thể thỏa mãn được những điều muốn học của Lưu Cơ, nên họ phải từ chức. Cuối cùng, cha ông mời được một danh nho có tài học uyên bác ở vùng Giang Nam, là Trịnh Phục Sơ đến dạy. Ông này cũng cảm thấy Lưu Cơ là một đứa trẻ khác hẳn những đứa trẻ bình thường. Một hôm, Trịnh Phục Sơ cùng các học sinh của mình đang tìm hiểu về việc Khổng Tử đã đi chu du liệt quốc như thế nào, đã truyền đạo ra sao. Lưu Cơ bỗng đứng dậy, nói:. – Khổng Tử tuy là người có đạo đức cao, bản thân lại là người nước Lỗ, thế mà nước mình bị bại trận, vẫn không tìm cách cứu vãn được. Học nhiều mà lại vô vi thì có phải là một thư sinh vô dụng hay không? Người đại trượng phu không nên như thế!. Trịnh Phục Sơ nghe qua không khỏi kinh hoàng thất sắc. Sau đó ông nói với người cha của Lưu Cơ:. – Đây không phải là một đứa bé bình thường đâu. Sau này chắc chắn nó sẽ trở thành rường cột của quốc gia đấy!. Quả nhiên, đến năm thứ tư niên hiệu Chí Thuận triều nhà Nguyên (công nguyên 1333), với tuổi đời chỉ mới hai mươi ba, mà Lưu Cơ đã đỗ tiến sĩ, áo gấm về làng, và được cử làm Huyện Thừa huyện Cao An tại Giang Tây, cũng như được cử giữ chức Nho Học Phó Đề Cử tại Giang Triết. Lưu Bá Ôn đã là một thiếu niên đắc chí, nên tha thiết muốn tận trung góp sức với triều đình nhà Nguyên, để làm nên những sự nghiệp oanh liệt. Nhưng lúc bấy giờ đang cuối triều nhà Nguyên, quan trường rất hủ bại, quan viên đều tham ô, cả xã hội đang lung lay sắp sụp đổ. Dù vậy, Lưu Cơ vẫn không cảm thấy nguy cơ bão táp sắp ập tới, và ngôi nhà đô sộ của triều nhà Nguyên sẽ sụp đổ tan tành. Ông một mặt tự lấy mình làm gương, luôn giữ thanh liêm, một mặt đấu tranh thẳng thừng với bọn tham quan ô lại. Nhưng ông ra làm việc chẳng bao lâu, thì bị người chung quanh ghét, tìm cách gièm pha và bài xích, đưa đi chỗ khác. Ông đã vấp phải một trở lực to lớn khi vừa bước ra cuộc đời. Ít lâu sau, do ông viết đơn tố cáo viên giám sát ngự sử không làm tròn trách nhiệm, nên đắc tội với thượng cấp bị đuổi về nhà. Dù lần đầu tiên gặp trở lực trong quan trường, nhưng vẫn không làm cho người trẻ tuổi đầy nhiệt tình như Lưu Cơ chán nản. Trái lại, ông cho rằng do mình học thức còn quá nông cạn, kinh nghiệm xã hội chưa đủ chưa đi sâu vào cuộc đời, chưa hiểu rõ mọi sự hiểm ác trong quan trường, nhất là ông cũng nhận thức được triều đình nhà Nguyên do quá hủ bại, nên người ngay thẳng mới không có chỗ đứng chân, vậy đừng nói chi là làm chuyện gì khác. Bởi thế, trong những ngày trở về quê ẩn cư, ông đã ngày đêm nghiên cứu “Châu dịch”, bát quái binh thư, chiến sách, như một kẻ đói khát cố nuốt lấy thức ăn. Ông cũng không quên giao du rộng rãi với các vị tân khách, bằng hữu để mở rộng ảnh hưởng của mình, chuẩn bị sẵn sàng bước trở ra xã hội lần thứ hai. Lưu Cơ biết đã có cây ngô đồng thì không lo chi chim phượng hoàng không đến. Quả nhiên, sau một thời gian trôi qua, tiếng tăm của Lưu Cơ ngày càng to, thậm chí có người còn cho rằng tài năng của ông có thể ví với Gia Cát Lượng. Do vậy, có nhiều văn sĩ ở Giang Nam đã đua nhau đến cửa xin chỉ giáo. Lưu Cơ cảm thấy ngày mình xuất đầu lộ diện sẽ không còn xa nữa. Lúc bấy giờ là cuối đời triều Nguyên, sự mâu thuẫn trong xã hội hết sức gay gắt, nông dân ở các nơi đua nhau khởi nghĩa, chỗ này vừa yên thì chỗ khác nổi dậy. Trương Sĩ Thành khởi binh ở Cáo Bưu… quân khởi nghĩa hết sức sôi nổi. Cứ cuộc khởi nghĩa này lại càng to hơn cuộc khởi nghĩa trước. Trong khi đó, tại vùng Giang Triết có Phương Quốc Trân là người Hoàng Nham, do bị vu cáo thông đồng với giặc, nên tức giận giết chết kẻ thù của mình, rồi dẫn ba anh em quy tụ hải tặc đông đến mấy nghìn người, liên tục khuấy phá ở vùng Giang Triết. Triều đình nhà Nguyên mấy lần phái binh để tiêu diệt nhưng đều không thành. Ngay đến một Bột Thiếp Mộc là Hành Tỉnh Tả Thừa Giang Triết cũng suýt bị chúng bắt sống. Trong khi không còn cách nào khác hơn, triều đình hứa cho Phương Quốc Trân được làm quan và được hưởng bổng lộc cao. Nhưng Phương Quốc Trân là người có bản tánh ngoan cường, mấy lần đầu hàng rồi mấy lần phản lại, khiến nhân tâm hoang mang. Hành tỉnh Giang Triết thấy Phương Quốc Trân như thế, nên đã nghĩ tới Lưu Cơ, tiến cử ông làm Đô Sự tại Nguyên Soái Phủ. Lưu Cơ đã ở yên một chỗ ngoài mười năm không bước ra xã hội, lần này cảm thấy trước mắt mình như bừng sáng lên. Ông vừa đến nhiệm sở, liền chủ trương dùng vũ lực để tiêu diệt Phương Quốc Trân. Ông cho rằng anh em họ Phương đứng lên làm loạn, không kể gì đến ân huệ của triều đình từng ban cho, vậy “không tiêu diệt thì không thể răn đe người hậu thế”. Đồng thời, ông cũng hoạch định phương án tiểu trừ. Phương Quốc Trân từ lâu đã nghe tiếng Lưu Cơ là người có tài năng, nên rất lo sợ, vội vàng phái người đem một số lớn vàng bạc bảo vật đến hối lộ cho ông. Nhưng Lưu Cơ tuyệt đối không nhận. Phương Quốc Trân lại sai người đi theo đường biển lên Bắc Kinh, hối lộ cho một yếu nhân có thế lực tại kinh đô, khiến triều đình quyết định sẽ tiến hành phủ dụ Phương Quốc Trân và ban cho chức tước. Lưu Cơ dù nằm mộng cũng không ngờ được chuyện lại xảy ra như thế. Ông đang bố trí binh lực thì triều đình xuống lệnh khiển trách ông tự tiện tác oai tác phúc. Việc đoạt mất binh quyền của ông là chuyện không nói, họ còn đưa ông giam lỏng tại Thiệu Hưng. Lưu Cơ quá tức giận, từ quan trở về quê hương của mình tại Thanh Điền. Năm thứ mười sáu niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1356), Hành tỉnh của triều nhà Nguyên lại cử Lưu Cơ giữ chức Đô Sự, để ông đi phủ dụ Ngô Thành Thất và đồng bọn khởi nghĩa tại An Sơn. Lưu Cơ tự chiêu mộ binh nghĩa dũng, tổ chức thành bộ đội, rồi áp dụng cả hai phương pháp cứng rắn và xoa dịu: Ai đầu hàng triều đình thì sẽ được khoan dung, thậm chí còn cử làm quan. Ai chống lại mệnh lệnh của triều đình thì bắt được sẽ bị xử tử. Do đó, cánh nghĩa quân này đã bị tiêu diệt. Đến năm mười bảy niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1357), nông dân ở vùng rừng núi Triết Đông nổi lên khởi nghĩa. Hành tỉnh lại triệu Lưu Cơ đi tảo trừ. Cùng với Thạch Mạt Nghi Tôn, ông giữ chức Hành Khu Mật Viện Phán Quan tại Giang Triết, cùng giữ Xứ Châu. Kinh Lược Sứ là Lý Quốc Phượng dâng sớ khen ngợi tài cán của Lưu Cơ, xin triều đình nhà Nguyên trọng dụng ông. Nhưng bọn quý tộc đang chấp chính trong triều đình sợ đắc tội với Phương Quốc Trân, nên chỉ để ông làm Tổng Quản Phủ Phán, chứ không để ông chỉ huy quân đội. Lưu Cơ thấy tài năng của mình không được phát huy, nên lại bỏ quan trở về Thanh Điền. Các nhà giàu tại Thanh Điền sợ Phương Quốc Trân tới cướp bóc, giết chóc, nên đã đua nhau nương tựa vào Lưu Cơ, tổ chức một đạo võ trang riêng của địa chủ trong vùng. Họ xây hào lũy để tự bảo vệ gia sản của mình. Quân đội của Phương Quốc Trân thấy vậy không dám xâm phạm. Tài năng của Lưu Cơ không được triều nhà Nguyên sử dụng tốt, nên không thể phát huy. Trong những ngày ẩn cư tại Thanh Điền, Lưu Cơ tuân theo lời cổ huấn của Khổng Tử: “Nước có đạo thì ra làm quan, nước không đạo thì nằm nhà đọc sách”. Ngày ngày ông luôn đọc sách như lời dạy của người xưa, chờ cơ hội gặp người tri ngộ. Tất cả những sách thuộc về thiên văn, binh pháp, Tứ thư, Ngũ kinh, thi từ, văn chương, không sách nào mà ông không đọc. Ông còn yêu thích làm thơ, viết văn để bộc lộ tâm trạng có tài mà không gặp thời của mình, cũng như tấm lòng muốn báo quốc nhưng lại không có điều kiện. Trong bài thơ “Cảm hoài”, ông viết:. Trong bài thơ dùng chữ “Tần” để ám chỉ triển nhà “Nguyên”, vừa phân tích chính xác thời cuộc, lại vừa bộc lộ tình cảm trong lòng mình. Lưu Cơ cảm thán những cuộc khởi nghĩa sôi nổi của nông dân, tuy đã khuấy động cuộc sống yên tĩnh của giai cấp địa chủ, nhưng đối với bọn quan liêu cao cấp, tâm hồn đã chai sạn, tham sống sợ chết, vẫn nửa tỉnh nửa mê, không quan tâm chi cả. Đối với những chí sĩ thương nước thương dân như Giả Nghị, Khuất Nguyên, thì triều đình lại không hiểu được tâm trạng của họ. Ông oán trách triều đình không hỏi đến những người đi hái rau vi để sống, không dùng đến những người bụng đầy kinh luân như ông, cũng như những người có tuyệt kỷ đang ẩn cư trong dân gian, trong những túp “chòi tranh” thô lậu. Lưu Cơ nhục mạ những cuộc nông dân khởi nghĩa ở khắp địa phương là đạo tặc, là một lũ cướp, và oán trách quân đội của triều đình trấn áp nông dân kỷ cương quá bại hoại, không ra hồn gì. Trong bài “Ưu hoài”, ông viết:
Lưu Bá Ôn
Lưu Bá Ôn (chữ Hán: 劉伯溫, 1310-1375), tên thật là Lưu Cơ (劉基), tên tự là Bá Ôn (伯溫), thụy hiệu Văn Thành (文成); là nhà văn, nhà thơ và là công thần khai quốc nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những nhân vật có nhiều huyền thoại, là người đã đề cao tư tưởng "Quan bức, dân phản", đồng thời là tác giả tản văn "Mại cam giả ngôn" nổi tiếng nhằm đả kích giới "thống trị thối nát". Lưu Bá Ôn là người huyện Thanh Điền (nay là huyện Văn Thành), tỉnh Chiết Giang. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học từng có truyền thống chiến đấu dũng cảm chống lại quân xâm lược Nguyên Mông trước đây. Nhờ siêng học, đam mê đọc sách, ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Đương thời có câu khen ông là: Thông binh pháp ai hơn Tôn Võ - Giỏi thiên văn phải kể Lưu Cơ. Lưu Bá Ôn đã là một thiếu niên đắc chí, nên tha thiết muốn tận trung góp sức với triều đình nhà Nguyên, để làm nên những sự nghiệp oanh liệt. Năm Nguyên Thống thứ nhất đời Nguyên Thuận Đế (1333), ông thi đỗ Tiến sĩ, được bổ nhiệm làm quan.
Trong những năm gần đây, việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ nhỏ ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều bậc phụ huynh chưa hiểu về kỹ năng sống là gì? Hôm nay, chúng tôi sẽ giúp bạn hiểu thêm về khái niệm kỹ năng sống theo Unesco, giúp bạn có cái nhìn bao quát hơn về vấn đề này. Hệ thống các kỹ năng sống theo độ tuổi 1. Kỹ năng sống cho học sinh mầm non 2. Kỹ năng sống cho trẻ tiểu học. Khái niệm kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Đây là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp, dùng để xử lý các vấn đề và trả lời các câu hỏi thường gặp trong đời sống (Wiki). Khái niệm theo Unesco: Là năng lực của mỗi cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Khái niệm theo WTO: Là những kỹ năng mang tính chất tâm lý xã hội và kỹ năng giao tiếp được vận dụng nhiều trong các tình huống hàng ngày. Với mục đích là để tương tác có hiệu quả với mọi người và giải quyết tốt những vấn đề, tình huống của cuộc sống. Nói một cách chung nhất, kỹ năng sống không chỉ là nhận thức, mà là cách vận dụng kiến thức đã tích lũy được vào việc xử lý các tình huống thực tiễn với hiệu quả cao nhất, qua đó mà cuộc sống của con người trở nên ý nghĩa, vui vẻ hơn. Là khả năng con người biết sống sao cho hữu ích và có cách sống phù hợp với môi trường xã hội. Khả năng để con người dám đương đầu với các vấn đề, tình huống khó khăn trong cuộc sống và biết cách để vượt qua. Các kỹ năng tâm lý để con người biết quản lý bản thân mình và tương tác tích cực với mọi người, xã hội. Nếu áp dụng kỹ năng sống theo khái niệm của Unesco thì sẽ gồm 4 trụ cột chính đó là: Học để biết, học để làm, học để là chính mình và học để cùng chung sống. Kỹ năng cơ bản: Bao gồm các kỹ năng viết, đọc và tính toán phục vụ cho các công việc hàng ngày. Những kỹ năng cơ bản này không mang tính đặc trưng về tâm lý nhưng lại là tiền để cho những năng lực thực hiện các chức năng cuộc sống. Các kỹ năng chung: Bao gồm cả kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội, kỹ năng cảm xúc, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng giao tiếp…. + Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân, nhận biết giá trị cuộc sống, giá trị của bản thân. + Nhóm kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng thông cảm và chia sẻ, kỹ năng thể hiện lòng tự trọng và kỹ năng kiểm soát cảm xúc. + Nhóm kỹ năng giao tiếp, quan hệ xã hội: Đây là nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ với bạn bè, người lớn, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng thuyết phục. + Nhóm kỹ năng giao tiếp, hòa nhập cuộc sống: Các bé có thể tự giới thiệu về bản thân, gia đình, trường lớp, thầy cô giáo, biết lễ phép, chào hỏi, xin lỗi, cảm ơn khi giao tiếp trong đời sống xã hội. Đồng thời biết phân biệt đúng sai, phải trái và bảo vệ mình khỏi những rủi ro, nguy hiểm. + Nhóm kỹ năng học tập, vui chơi giải trí, lao động: Tập hợp các kỹ năng nghe, nói, viết, kỹ năng quan sát, lập luận và đưa ra ý kiến trong nhóm. Kỹ năng phục vụ bản thân, giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường. Kỹ năng kiềm chế những nhược điểm, kiểm soát cảm xúc…. Có thể dễ dàng nhận thấy, dạy kỹ năng sống chính là dạy thực hành nên bạn cần ưu tiên phát triển những tình huống thực tế trong cuộc sống. Bên cạnh rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ, bố mẹ cần chú ý giúp trẻ có thái độ và nhận thức đúng đắn để linh hoạt khi xử lý những tình huống khác nhau. Tùy theo độ tuổi mà kỹ năng giao tiếp được giảng dạy khác nhau, mức độ sẽ khó lên khi các bé dần lớn hơn. Khi dạy trẻ kỹ năng, cần cho trẻ nhìn thấy những tình huống thực tế để phát triển những kỹ năng ở trẻ. Bố mẹ, thầy cô giáo không nên chỉ dạy bé qua lý thuyết, sau đó áp đặt, ép buộc các bé phải làm theo. Vì như thế, các bé sẽ chỉ làm theo hướng đối phó, không hiểu gì. Khi các tình huống trong thực tế có đôi chút thay đổi, các bé sẽ bị lúng túng và đưa ra những phán đoán sai lệch, ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức, hành động của bé sau này. Chúng tôi hy vọng với những thông tin mà mình cung cấp sẽ giúp bạn hiểu thêm về khái niệm kỹ năng sống là gì theo Unesco và nắm rõ bao quát về phương pháp giảng dạy trong khái niệm này. Cảm ơn các bạn đã dành thời gian theo dõi bài viết.
Kỹ năng sống
Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người. Các chủ đề rất đa dạng tùy thuộc vào chuẩn mực xã hội và mong đợi của cộng đồng. Kỹ năng sống có chức năng đem lại hạnh phúc và hỗ trợ các cá nhân trở thành người tích cực và có ích cho cộng đồng.
Điệp vụ Valkyrie (theo tiếng Đức: Walkür) là một âm mưu ám sát quốc trưởng Đức Adolf Hitler vào ngày 20 tháng 7 năm 1944, tại căn cứ tư lệnh khu Rastenburg. Trong nhóm âm mưu thực hiện lật đổ Đảng Quốc Xã có một số sĩ quan quân đội Đức, mà người thực hiện trực tiếp việc mang theo cặp hồ sơ có chất nổ để mưu sát Hitler tại "Hang sói" là Đại tá Claus von Stauffenberg. Khoảng 6 giờ sáng ngày 20/7/1944, Đại tá Stauffenberg cùng Trung úy tùy tùng Werner von Haeften đi qua những tòa nhà đổ nát vì bom đạn ở Berlin để đến sân bay Rangsdorf. Trong chiếc cặp dày cộm là hồ sơ về những sư đoàn dự bị mà ông sẽ trình bày cho Lãnh tụ tại "Hang Sói" ở Rastenburg, Đông Phổ. Giữa các hồ sơ là một quả bom được bọc trong một chiếc áo sơ-mi. Đại tá Stauffenberg, người đã mang cặp tài liệu có chất nổ vào "Hang sói" để ám sát Hitler. Đấy là kiểu bom của Anh, được kích hoạt bằng cách đập vỡ một cái ve nhỏ, khiến a-xít trong đấy ăn mòn một sợi dây kim loại nhỏ, làm một lò xo bung ra và đánh vào kíp nổ. Tùy thuộc kích cỡ sợi dây kim loại mà bom nổ nhanh hoặc chậm. Họ dùng một sợi dây kim loại nhỏ nhất, sẽ bị ăn mòn trong vòng 10 phút. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ, đáp xuống Rastenburg vào khoảng 10 giờ. Haeften yêu cầu viên phi công sẵn sàng cất cánh trở về Berlin bất cứ lúc nào sau giữa trưa. Một chiếc ô-tô đưa hai người về Hang Sói, được xây giữa một khu rừng rậm âm u, ẩm ướt ở Đông Phổ. Kiến trúc được xây với 3 vòng, mỗi vòng được bảo vệ bằng bãi mìn, công sự bê-tông ngầm, hàng rào dây điện, và binh sĩ SS tuần tra ngày lẫn đêm. Đại tá Stauffenberg ngoài cùng bên trái, gặp Hitler tại căn cứ tư lệnh khu Rastenburg. Sau khi đến gặp Tướng Buhke, đại diện Lục quân tại Bộ Tổng tham mưu, Stauffenberg đi đến khu vực của Tướng Keitel , dỡ mũ và thắt lưng treo lên tường trong gian tiền phòng rồi bước vào văn phòng của Keitel. Keitel nói rằng cuộc họp sẽ diễn ra trong phòng họp của doanh trại. Điều này nằm ngoài dự tính của Stauffenberg, vì ban đầu ông nghĩ rằng cuộc họp sẽ diễn ra trong boong-ke dưới mặt đất, nơi mà sức công phá của quả bom sẽ lớn hơn rất nhiều do áp lực trong phòng kín. Trong gian tiền phòng, Stauffenberg nhanh chóng mở chiếc cặp, cầm cái kềm giữa ba ngón tay để bấm vỡ cái ve. Chỉ trong vòng 10 phút quả bom sẽ nổ, trừ khi có khuyết điểm gì khác. Hai người đi vào phòng họp. Khoảng 4 phút đã trôi qua kể từ khi Stauffenberg kích hoạt quả bom; còn 6 phút nữa. Phòng họp khá nhỏ, rộng chưa đến 5 mét và dài chưa đến 10 mét. Có nhiều cửa sổ mở, như thế sẽ làm giảm sức công phá của quả bom. Stauffenberg đến đứng giữa Korten và Brandt gần cái bàn, cách Hitler vài bước bên tay phải ông này. Ông đặt chiếc cặp trên mặt sàn, đẩy vào dưới bàn cho dựa vào mặt trong của cái bệ, chỉ cách chân của Hitler 2 mét. Dường như không ai để ý khi Stauffenberg lẻn ra ngoài. Ông này chăm chú nghe Heusinger báo cáo đến nỗi ông xê dịch đến gần để nhìn rõ hơn, bị vướng chiếc cặp dày cộm của Stauffenberg, cố dùng một chân đẩy nó qua một bên, rồi cúi xuống dùng tay nhấc chiếc cặp lên và đặt xuống mặt ngoài của cái bệ. Vì thế, cái bệ che chắn giữa quả bom và Hitler. Động thái đơn giản của Brandt có lẽ đã cứu sống Hitler, nhưng khiến cho Brandt phải chết. Phòng họp doanh trại sau vụ nổ, Hitler không chết mà chỉ bị thương nhẹ. Đúng vào lúc 12h42, quả bom phát nổ. Stauffenberg phấn khích tin chắc rằng mọi người có mặt trong phòng họp đều đã chết hoặc đang hấp hối. Hành động kế tiếp của Stauffenberg là phải nhanh chóng thoát ra khỏi tổng hành dinh Rastenburg. Trái ngược với sự tin tưởng của Stauffenberg, Hitler không chết. Hành động vô tình của Brandt khi dời chiếc cặp ra mặt ngoài của cái bệ đã cứu mạng sống của Hitler. Ông bị một phen hốt hoảng nhưng chỉ bị thương nhẹ. Vụ ám sát bất thành này vô tình đã châm ngòi cho một cuộc thảm sát. Hitler đã cho điều tra âm mưu và những người tham gia vào việc lật đổ Quốc Xã. Sau đó lực lượng mật vụ Gestapo truy bắt gần 7.000 người. Nhiều sĩ quan quân đội bị kết án và tử hình. Hitler đồng thời ngầm giết hoặc bức tử nhiều tướng tá trong hàng ngũ của quân đội Đức. Theo báo cáo Nội vụ hải quân tại hội nghị Quốc trưởng thì có 4.980 người bị tử hình.
Điệp vụ Valkyrie
Điệp vụ Valkyrie (tựa tiếng Anh: Valkyrie) là một bộ phim điện ảnh Mỹ năm 2008 lấy bối cảnh tại Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nội dung phim mô tả kế hoạch ám sát Adolf Hitler và sử dụng Điệp vụ Valkyrie vào ngày 20 tháng 7 năm 1944 của các sĩ quan quân đội Đức nhằm kiểm soát đất nước. Điệp vụ Valkyrie do Bryan Singer đạo diễn cho hãng phim United Artists, với sự tham gia của Tom Cruise trong vai Đại tá Claus von Stauffenberg, một trong những người bày mưu chính, cùng với Kenneth Branagh, Bill Nighy, Eddie Izzard, Terence Stamp và Tom Wilkinson vào vai các nhân vật phụ. Việc chọn Cruise vào vai diễn này đã dấy lên nhiều tranh luận giữa các nhà chính trị gia của Đức và các thành viên trong gia đình von Stauffenberg vì nam diễn viên có tham gia vào Khoa luận giáo. Cũng chính vì điều này, các nhà làm phim ban đầu gặp khá nhiều khó khăn trong việc tìm địa điểm quay phim tại Đức, nhưng sau đó họ cũng được cấp phép quay phim tại một số địa điểm, bao gồm tòa nhà phức hợp Bendlerblock ở Berlin.
"Đóa hoa hồng Pháp" Laetitia Casta, "yêu tinh" Loulou de la Falaise. là những người đẹp truyền cảm hứng cho mỗi tác phẩm của huyền thoại thiết kế. Đã gần 7 năm kể từ khi Yves Saint Laurent qua đời vì ung thư não, thế giới vẫn luôn tưởng nhớ về ông như một nhà thiết kế lỗi lạc nhất mọi thời đại. Năm nay, hai tác phẩm tiểu sử về huyền thoại thời trang Pháp cũng thống lĩnh đề cử César lần thứ 40 được tổ chức vào 20/2 tới. "Saint Laurent" và "Yves Saint Laurent" là hai phim tâm lý dựa trên cuộc đời sóng gió của nhà thiết kế đồng tính được làm gần như cùng lúc. Trong suốt sự nghiệp đời mình, nhiều nàng thơ đã đến với Laurent như định mệnh. Tất cả cùng ông tạo nên những kiệt tác nghệ thuật bất hủ của làng mốt thế giới. Bị người đời đánh giá là "hư hỏng", nhưng Lucienne Saint Laurent luôn là cái bóng và chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cậu con trai Saint Laurent. Bà luôn ở bên cạnh khi ông, 18 tuổi, lần đầu đến Paris nhận giải thưởng "International Wool Secretariat" năm 1953 cho một thiết kế đầm cocktail và khi ông thành công với vai trò là người đứng đầu nhà mốt Dior thời bấy giờ. Thời còn làm ở Dior, nàng thơ đặc biệt của Saint Laurent là người mẫu Victoire Doutreleau. Có chiều cao khiêm tốn nhưng lại sở hữu vẻ đẹp đầy góc cạnh, thân hình gợi cảm, Doutreleau được Saint Laurent giúp đỡ để thành công. Ông đã đem vẻ tươi mới, độc đáo của nàng thơ trẻ tuổi này vào các phác thảo của mình để đem lại một "tầm nhìn mới" cho Dior thời bấy giờ. Nhà thiết kế và nữ diễn viên gặp nhau lần đầu vào năm 1965 khi Deneuve đang tìm một bộ váy phù hợp để mặc khi diện kiến Nữ hoàng Elizabeth II. Mối quan hệ giữa họ ngày càng bền chặt hơn khi Saint Laurent thiết kế những trang phục xa hoa, đẳng cấp cho "Belle de Jour" - bộ phim mà Deneuve đóng vai bà nội trợ tẻ nhạt tỏa sáng trong vai trò gái gọi cao cấp. Nữ diễn viên đã dành cho ông những lời có cánh: "Saint Laurent đã thiết kế cho phái nữ với gấp đôi tấm lòng của mình". Yves Saint Laurent đã gặp được chính mình tại một hộp đêm ở Regine năm 1967. Cô gái Betty Catroux với vóc dáng cao gầy, nam tính và mái tóc xoăn vàng được ông miêu tả là "chị em song sinh" của mình. Đó là nguồn cảm hứng lớn nhất để ông thiết kế nên những bộ pantsuit nổi tiếng. Có thể nói, nàng thơ nổi tiếng nhất của Yves Saint Laurent là Loulou de la Falaise. Chính gu thời trang nhạy bén và phong cách hippie nổi loạn của bà đã truyền cảm hứng cho ông thiết kế nên dòng nước hoa Rive Gauche và bộ sưu tập "Le Smoking" trứ danh vào năm 1966, đặc biệt là kiểu áo cánh xuyên thấu. Đến năm 1972, Loulou sát cánh cùng Saint Laurent với tư cách nhà thiết kế phụ kiện và là nàng thơ độc quyền của hãng trong suốt 30 năm. Nhà thiết kế đã gọi nàng thơ của mình với biệt danh thân mật là “yêu tinh”. Với biệt danh "nàng công chúa da đen" và là nàng thơ yêu thích của Yves Saint Laurent trong thập niên 1980, siêu mẫu gốc Guinea - Katoucha Niane - được một đồng nghiệp của nhà thiết kế miêu tả là "giống hệt bức tranh vẽ của Yves Saint Laurent". Tròn trịa, nhí nhảnh và nũng nịu như một cô mèo đáng yêu, "đóa hoa hồng Pháp" Laetitia Casta được xem là nàng thơ cuối cùng và cũng là nàng thơ duyên dáng nhất của nhà thiết kế quá cố vào thập niên 1990.
Yves Saint Laurent (nhà thiết kế)
Yves Henri Donat Mathieu-Saint-Laurent, còn được biết đến với cái tên Yves Saint Laurent (phát âm tiếng Pháp: ) (1 tháng 8 năm 1936 – 1 tháng 6 năm 2008), là một Nhà thiết kế thời trang người Pháp, một trong những tên tuổi vĩ đại của ngành thời trang Pháp thế kỉ 20. Sau khi tiếp quản là giám đốc sáng tạo cho Dior, Saint Laurent tung ra bộ sưu tập đầu tiên của mình cho công ty vào năm đó. Bộ sưu tập đạt thành công vang dội trên toàn thế giới và mang về cho ông một giải Neiman Marcus Oscar. Năm 1960, Saint Laurent đã tạo ra cuộc cách mạng "Beat Look" với bộ sưu tập thời trang cao cấp mà ông ưng ý nhất, sử dụng các kỹ thuật trong haute couture để phối hợp phong cách đường phố. Năm 1962, Saint Laurent thiết lập nhà thời trang riêng của mình với Pierre Berge. Năm 1966, ông giới thiệu bộ sưu tập Le Smoking huyền thoại. Ông được ghi nhận với một loạt các thiết kế cải tiến khác bao gồm reefer jacket (1962), sheer blouse (1966), và jumpsuit (1968), thời trang công sở cũng như sự kết hợp giữa ready-to-wear và haute couture.
Tiếp thị du kích là gì? truyền thông du kích là phương thức tiếp thị sử dụng những chiến thuật thông minh và độc đáo nhất với tiền bạc bỏ ra rất ít nhưng cực kỳ hiệu quả. Ở bài viết dưới đây ngày hôm nay sẽ cùng các nàng tìm hiểu về kế hoạch tiếp thị du kích nhé. Truyền thông du kích là một chiến dịch truyền thông marketing tiết kiệm chi phí nhưng đem tới hiệu quả tối đa được rất nhiều nhà quảng cáo ưa thích. Cái tên marketing du kích lần đầu được Jay Conrad Levinson đặt ra trong cuốn sách “Guerrilla Advertising” của ông. Truyền thông du kích được truyền cảm hứng từ phương án chiến tranh mang tính kế hoạch được sử dụng bởi các thường dân vũ trang. Giống như vậy, marketing du kích dùng những chiến thuật nhỏ lẻ tuy nhiên thông minh. Chúng quyến rũ sự ngạc nhiên và gây nhiều ấn tượng khó bỏ xót cho người tiêu dùng. Các chiến dịch này sẽ tấn công người dùng ở mức cá nhân. Loại marketing này hợp lý với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp doanh nghiệp đến gần hơn được tới nhiều đối tượng người sử dụng mà không tốn nhiều chi phí. Mặt khác, các cá nhân cũng có thể áp dụng phương pháp này để tìm việc tốt hơn. Truyền thông marketing có từ năm 4000 trước Công nguyên, nơi những người Ai Cập lần đầu tiên sử dụng giấy cói để sản sinh ra thông điệp bán hàng thông qua những tấm poster dán trên tường. Truyền thông marketing truyền thống và truyền thông tăng trưởng qua nhiều thế kỷ nhưng mới thật sự bùng nổ cho đến đầu những năm 1900. Chính tại thời điểm này, mục đích chính của truyền thông marketing là giáo dục người tiêu dùng về sản phẩm hoặc dịch vụ thay vì giải trí và quyến rũ họ. Cụ thể chi tiêu ads lớn trên các kênh truyền thông đại chúng khác nhau như radio và in ấn. Mãi đến cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, truyền hình cáp mới tiếp tục có một số thông điệp quảng cáo. Người tiên phong đáng nhớ nhất trong thời gian này là MTV. Họ tập trung vào việc khiến người sử dụng phải theo dõi thông điệp quảng cáo chứ không chỉ xem quảng cáo là sản phẩm phụ của một chương trình nữa. Ngoài trời: sản sinh ra một sự yêu thích thú cho môi trường đã có sẵn, như đặt những vật thú vị và di dời được lên một bức tượng, hoặc triễn lãm các tác phẩm nghệ thuật tạm thời trên vỉa hè và đường phố. Trong nhà: tương phản với ngoài trời, chiến thuật này chỉ xảy ra ở các địa điểm trong nhà như ga tàu, cửa hàng và các tòa nhà trong khuôn viên trường học. Sự kiện: kích thích khán giả của một sự kiện đang xảy ra – như một buổi hòa nhạc hoặc một sự kiện thể thao – để quảng bá mặt hàng hoặc dịch vụ một cách thú vị, thường là không hề có sự cho phép của các nhà tài trợ sự kiện. Thử nghiệm: toàn bộ những mảng trên, tuy nhiên có gắng kích thích công chúng tương tác với nhãn hiệu. Nếu không có ngữ cảnh, tất cả cảm hứng về truyền thông du kích có khả năng hơi khó hiểu, vì vậy, hãy coi các nhãn hiệu lớn khai triển chiến thuật này như thế nào. Thuốc trị bọ chét cho thú cưng, Frontline khiến toàn bộ mọi người đi ngang qua truyền thông marketing trên sàn trông giống như loài vật gây hại mà nó được thiết kế để diệt trừ. Giải pháp này rất thông minh vì ảnh hưởng của truyền thông marketing có khả năng thực sự hiệu quả chỉ từ một số góc độ chắc chắn. Ads tạo thành công một hình thức tương tác ngẫu nhiên của chúng ta, nhắc nhở người xem chính xác mục tiêu của mặt hàng. Để quảng bá cho chương trình truyền hình nổi tiếng Stranger Things trong dịp Halloween, Netflix đã khéo léo chế tạo chuông cửa DIY của riêng mình, cho phép chủ nhà tiếp tục theo dõi những bộ phim đáng sợ, trong khi những đứa trẻ có khả năng đi thu thập kẹo bên ngoài. Tiếp thị du kích là gì? Thực tế rằng đây là một dự án hợp pháp mà bạn sở hữu thể tự tạo ra là một tí vui nhộn, với toàn bộ các file phù hợp được tìm thấy tại makeit.netflix.com. Để tiếp tục cuộc chiến ma quái, các tập tin dự án cũng gồm có các bài hát topic và âm thanh la hét từ cả Black Mirror và American Horror Story kết hợp với Stranger Things. Qua bài viết trên đã cho các bạn biết về tiếp thị du kích là gì? Hiệu quả của tiếp thị du kích. Hy vọng với những thông tin trên của bài viết sẽ hữu ích đối với các bạn đọc. Cảm ơn các bạn đã dành thời gian để xem qua bài viết này nhé.
Tiếp thị du kích
Tiếp thị kiểu du kích (tiếng Anh: Guerrilla marketing) là một thuật ngữ trong kinh doanh. Năm 1984, Jay Conrad Levinson, lần đầu tiên đưa ra khái niệm Tiếp thị kiểu du kích trong cuốn sách Guerrilla Marketing và đã được hưởng ứng mạnh mẽ với trên 14 triệu bản bán ra và được dịch ra 41 thứ tiếng để nói về cách làm tiếp thị với hiệu quả cao bằng một ngân sách khiêm tốn. Tiếp thị du kích lấy nền tảng là cách suy nghĩ vượt ra các khuôn khổ chuẩn mực. Định nghĩa của ông cho rằng: tiếp thị du kích là một phương thức khác thường để tiến hành các hành động xúc tiến thương mại với một ngân quỹ hạn hẹp. Thực chất tiếp thị kiểu du kích là lối tiếp thị không dựa trên bất kỳ quy tắc nào. Doanh nghiệp sử dụng bất kỳ điều gì mà mình cho rằng là độc đáo, ít tiền và tất nhiên điều đó là phù hợp luật phát để tiếp thị cho doanh nghiệp mình. Mục tiêu cao nhất là tạo ra những yếu tố bất ngờ với những phương cách khác lạ (chưa từng có, không theo nguyên tắc thường thấy đã được phổ cập rộng rãi đến mọi người) làm cho đối tượng tiếp xúc phải ngạc nhiên, thậm chí gây sốc mà nhớ về sự khác biệt của sản phẩm, về thương hiệu của doanh nghiệp.
Chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa chống chủ nghĩa thường xảy ra cùng một lúc và trong cùng một người mà có thể hiểu được nếu nhiều người không nhận ra rằng họ không giống nhau. Tuy nhiên, việc lưu ý sự khác biệt là quan trọng, bởi vì không phải mọi người vô thần đều chống chủ nghĩa thần kinh và thậm chí cả những người, không phải là chủ nghĩa chống chủ nghĩa mọi lúc. Chủ nghĩa vô thần đơn giản là sự vắng mặt của niềm tin vào các vị thần; chống chủ nghĩa là một sự đối lập có ý thức và có chủ ý đối với chủ nghĩa thần. Nhiều người vô thần cũng là những người chống đối, nhưng không phải tất cả và không phải lúc nào. Khi được định nghĩa rộng rãi chỉ đơn giản là sự vắng mặt của niềm tin vào các vị thần, chủ nghĩa vô thần bao trùm lãnh thổ không hoàn toàn tương thích với chủ nghĩa chống chủ nghĩa. Những người không quan tâm đến sự tồn tại của các vị thần bị cáo buộc là những người vô thần bởi vì họ không tin vào sự tồn tại của bất kỳ vị thần nào, nhưng đồng thời sự thờ ơ này cũng ngăn cản họ chống lại những người chống chủ nghĩa. Ở một mức độ, điều này mô tả nhiều nếu không phải hầu hết những người vô thần vì có rất nhiều vị thần bị cáo buộc họ đơn giản không quan tâm và, do đó, họ cũng không quan tâm đủ để tấn công niềm tin vào các vị thần như vậy. Sự thờ ơ vô thần đối với không chỉ chủ nghĩa thần học mà còn tôn giáo tương đối phổ biến và có lẽ sẽ là tiêu chuẩn nếu những người theo chủ nghĩa tôn giáo không tích cực trong việc cải thiện và mong đợi đặc quyền cho bản thân , niềm tin và tổ chức của họ. Khi được định nghĩa hẹp như phủ nhận sự tồn tại của các vị thần, sự tương thích giữa chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa chống chủ nghĩa có thể xuất hiện nhiều khả năng hơn. Nếu một người quan tâm đủ để phủ nhận rằng các vị thần tồn tại, thì có lẽ họ quan tâm đủ để tấn công niềm tin vào các vị thần - nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Rất nhiều người sẽ phủ nhận rằng yêu tinh hay tiên nữ tồn tại, nhưng có bao nhiêu người trong số những người này cũng tấn công niềm tin vào những sinh vật như vậy? Nếu chúng ta muốn giới hạn mình chỉ trong bối cảnh tôn giáo, chúng ta có thể nói giống nhau về thiên thần: có nhiều người từ chối thiên thần hơn là từ chối các vị thần, nhưng có bao nhiêu người không tin vào thiên thần tấn công niềm tin vào thiên thần?. Tất nhiên, chúng ta cũng không có người cải đạo đại diện cho yêu tinh, tiên nữ, hay thiên thần rất nhiều và chúng ta chắc chắn không có tín hữu tranh luận rằng họ và niềm tin của họ nên được đặc quyền rất nhiều. Do đó, chỉ có thể được mong đợi rằng hầu hết những ai phủ nhận sự tồn tại của chúng sinh cũng tương đối thờ ơ với những người tin. Chủ nghĩa chống chủ nghĩa đòi hỏi nhiều hơn là chỉ đơn thuần là không tin vào các vị thần hoặc thậm chí phủ nhận sự tồn tại của các vị thần. Chủ nghĩa chống chủ nghĩa đòi hỏi một vài niềm tin cụ thể và bổ sung: thứ nhất, rằng chủ nghĩa thần thánh có hại cho người tin, hại cho xã hội, gây hại cho chính trị, có hại, cho văn hóa, vv; thứ hai, rằng chủ nghĩa thần học có thể và nên được chống lại để giảm bớt tác hại gây ra. Nếu một người tin những điều này, thì họ có thể sẽ là một người chống chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa thần thánh bằng cách cho rằng nó bị bỏ rơi, thúc đẩy các lựa chọn thay thế, hoặc thậm chí có thể hỗ trợ các biện pháp để ngăn chặn nó. Điều đáng chú ý ở đây là, tuy nhiên, không chắc nó có thể là trong thực tế, có thể trong lý thuyết cho một người theo chủ nghĩa là một người chống chủ nghĩa. Điều này nghe có vẻ kỳ lạ lúc đầu, nhưng hãy nhớ rằng một số người đã lập luận ủng hộ việc quảng bá niềm tin sai lầm nếu họ hữu ích về mặt xã hội. Chính chủ nghĩa tôn giáo đã là một niềm tin như vậy, với một số người tranh luận rằng vì chủ nghĩa tôn giáo tôn giáo đạo đức và trật tự nên được khuyến khích bất kể nó có đúng hay không. Tiện ích được đặt trên giá trị thực. Nó cũng xảy ra đôi khi mọi người làm cho cùng một đối số ngược lại: mặc dù điều gì đó là đúng, tin rằng nó có hại hoặc nguy hiểm và nên nản lòng. Chính phủ làm điều này tất cả các thời gian với những điều nó sẽ thay vì mọi người không biết về. Về lý thuyết, có thể ai đó tin (hoặc thậm chí biết) rằng, nhưng cũng tin rằng chủ nghĩa thần thánh có hại theo cách nào đó - ví dụ, bằng cách khiến mọi người không chịu trách nhiệm về hành động của họ hoặc bằng cách khuyến khích hành vi phi đạo đức. Trong tình huống như vậy, người theo chủ nghĩa cũng sẽ là một người chống chủ nghĩa. Mặc dù tình huống như vậy là không thể xảy ra, nó phục vụ mục đích nhấn mạnh sự khác biệt giữa chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa chống chủ nghĩa. Nỗi hoài nghi trong các vị thần không tự động dẫn đến sự phản đối chủ nghĩa thần thuyết nào hơn là đối lập với chủ nghĩa thần thánh cần phải dựa trên sự hoài nghi trong các vị thần. Điều này cũng giúp cho chúng tôi biết tại sao sự khác biệt giữa chúng là quan trọng: chủ nghĩa vô thần hợp lý không thể dựa trên chủ nghĩa chống chủ nghĩa và chủ nghĩa chống chủ nghĩa hợp lý không thể dựa trên chủ nghĩa vô thần. Nếu một người muốn trở thành một người vô thần hợp lý, họ phải làm như vậy trên cơ sở của một cái gì đó khác hơn là chỉ đơn giản nghĩ rằng chủ nghĩa thần thánh là có hại; nếu một người muốn trở thành một người chống chủ nghĩa hợp lý, họ phải tìm một cơ sở khác hơn là chỉ đơn giản là không tin rằng chủ nghĩa thần thánh nếu đúng hay hợp lý. Chủ nghĩa vô thần hợp lý có thể dựa trên nhiều thứ: thiếu bằng chứng từ các thuyết, các lý lẽ chứng minh rằng các khái niệm thần là tự mâu thuẫn, sự tồn tại của cái ác trên thế giới, vv. chủ nghĩa thần thánh có hại bởi vì ngay cả cái gì đó có hại cũng có thể đúng. Tuy nhiên, không phải mọi thứ đúng về vũ trụ đều tốt cho chúng ta. Chủ nghĩa chống chủ nghĩa hợp lý có thể dựa trên niềm tin vào một trong nhiều tác hại có thể có mà chủ nghĩa thần học có thể làm; tuy nhiên, nó không thể dựa trên ý tưởng rằng chủ nghĩa thần thánh là sai. Không phải tất cả niềm tin sai sự thật đều có hại và ngay cả những người không nhất thiết đáng chiến đấu.
Chủ nghĩa vô thần
Chủ nghĩa vô thần (hay thuyết vô thần, vô thần luận) có ở cả người theo chủ nghĩa duy tâm lẫn người theo chủ nghĩa duy vật. Nó theo nghĩa rộng nhất là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh còn nghĩa hẹp hơn thì chủ nghĩa vô thần là chủ nghĩa bác bỏ niềm tin rằng thần linh tồn tại còn theo nghĩa hẹp hơn nữa với một cách cụ thể thì chủ nghĩa vô thần là quan điểm cho rằng không hề có thần linh. Chủ nghĩa vô thần đối lập với chủ nghĩa hữu thần, theo dạng chung nhất, là niềm tin rằng có ít nhất một vị thần tồn tại. Nhiều người tự nhận là vô thần có thái độ hoài nghi với những gì siêu nhiên, với lý do là không có bằng chứng thực nghiệm về sự tồn tại của thần linh mà hướng về phát triển vật chất. Những người khác lập luận ủng hộ chủ nghĩa vô thần trên cơ sở triết học, xã hội và lịch sử. Tuy trong số những người tự nhận là vô thần có nhiều người thiên về các học thuyết triết học thế tục như chủ nghĩa nhân văn thế tục và chủ nghĩa tự nhiên, không có một hệ tư tưởng hay một bộ hành vi nào mà tất cả những người vô thần cùng chia sẻ Ngay cả một số tôn giáo, chẳng hạn Kì-na giáo và Phật giáo, không đòi hỏi đức tin vào một vị thần.
Ngày nay, chúng ta thường gặp những con người với những mảnh đời bất hạnh, cơ thể không được trọn vẹn và người ta xem đó là khuyết tật. Khuyết tật là gì? Người khuyết tật hiện nay được xã hội quan tâm ra sao chúng ta cùng tìm hiểu bài viết Timviec365.vn chia sẻ về vấn đề này nhé. Chúng ta vẫn thường thấy những người khuyết tật bị khiếm khuyết với những bộ phận trên cơ thể không được hoàn chỉnh hay những hành vi và lời nói bị ảnh hưởng và không được như bình thường. Mọi người hay gọi đó là những người khuyết tật. Khuyết tật là gì? Đó có thể là sự khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể của một người hay bị suy giảm chức năng trong vấn đề về nhận thức, khuyết tật được biểu hiện dưới nhiều dạng tật và dị dạng khác nhau khiến cho đời sống sinh hoạt và cuộc sống của họ gặp rất nhiều khó khăn. Hiểu theo cách khác khuyết tật có thể là khiếm khuyết diễn ra rất lâu dài và không có cơ hội phục hồi về mặt tinh thần, thể chất, trí tuệ không được minh mẫn hoặc sự ảnh hưởng của các giác quan mà khi tương tác với với xã hội họ gặp rất nhiều cản trở và ảnh hưởng. Gây bất lợi đến quá trình làm việc và có thể những khiếm khuyết đó làm họ không thể hoạt động và làm các công việc giống như người bình thường. Trong tiếng anh người khuyết tật được gọi là People with disabilities, người khuyết tật trong cuộc sống hiện nay rất cần sự giúp đỡ và những cái nhìn thiện cảm của mọi người trong xã hội. Rất nhiều người có thể bị khuyết tật tại những bộ phận khác nhau, có thể là bị ảnh hưởng về trí tuệ hoặc chân tay, mặt mũi,. Tuy nhiên chúng ta có thể chia và phân loại khuyết tật theo những nhóm cụ thể. Những người bị khuyết tật về thị giác thường được gọi là người khiếm thị: Bao gồm những người bị khiếm khuyết về thị giác. Họ có thể không nhìn thấy hoặc là nhìn thấy nhưng rất mờ và cần đến sự trợ giúp của các phương tiện khác để hỗ trợ trong cuộc sống hàng ngày. Người khiếm thị có những mức độ khác nhau về thị lực do suy giảm chức năng và tầm nhìn của mắt. Bên cạnh đó chúng ta có thể gặp những trường hợp người bị khiếm khuyết về mắt có một bên nhìn rõ và một bên không hoặc cả hai mắt đều không nhìn thấy. Do vậy dựa vào độ khuyết tật của thị giác người ta chia khuyết tật thị giác thành hai loại: Đó là nhìn kém và mù. Những người bị khuyết tật là gì? Khi chúng ta gặp những người không nghe được mọi người vẫn thường gọi đây là những người khiếm thính: Đây là người bị suy giảm chức năng trong vấn đề về khả năng nghe ở các mức độ với tần suất khác nhau. Khi khả năng nghe bị suy giảm dẫn tới không thể giao tiếp với người khác, hạn chế về mặt ngôn ngữ. Người bị khiếm thính không thể trả lời và giao tiếp với đối phương khi khả năng nghe của họ bị hạn chế. Do vậy tùy theo khả năng nghe của người khiếm thính, người ta chia khuyết tật thính giác thành các mức độ khác nhau và áp dụng các biện pháp trợ nghe như dùng máy trợ thính để những người khuyết tật có thể nghe rõ hơn đối với những trường hợp nghe không rõ. Những người không nói được, có thể bị câm hoặc nói ngọng, nói lắp, nói không rõ, nói một cách rất khó nghe mà người nghe không thể hiểu được ý người đó đang muốn nói gì thì đó được gọi là khuyết tật ngôn ngữ. Nếu như người nói không kèm các vấn đề như bị bại não, đao, thiểu năng trí tuệ thì họ có thể chỉ bị khuyết tật về ngôn ngữ mà không bị vấn đề gì về thần kinh cơ thể. Những người bị khuyết tật về mặt trí tuệ ở dưới mức trung bình thường có IQ nhỏ hơn 70. Họ có thể bị hạn chế về mặt kiến thức cũng như năng lực và trình độ đối với việc học và làm việc. Khả năng tiếp thu kém, đồng thời không có hành vi nhận thức và tự phục vụ bản thân. Có thể bị ngớ ngẩn hoặc những vấn đề về thần kinh hay không tiếp thu được các kiến thức mà mọi người đã truyền đạt. Hiện tượng khuyết tật về trí tuệ thường xuất hiện trước 18 tuổi. Để nhận diện những người bị khuyết tật trí tuệ chúng ta có thể căn cứ vào những biểu hiện như dưới đây để có thể nhận biết rõ hơn. + Đó là những người khó tiếp thu được nội dung các môn học trong chương trình giáo dục phổ thông, đặc biệt họ có thể có chứng chậm hiểu, không nhớ những gì giáo viên đang nói. + Ngôn ngữ nghèo nàn, thông thường ngữ pháp đang sử dụng còn kém, những yếu tố tiếp thu kiến thức trên lớp và đời sống hầu như không làm được. + Khó thiết lập và nhận biết các hoạt động, các sự vật, hiện tượng, bên cạnh đó những người khuyết tật là gì? Họ còn rất khó kiểm soát được hành vi của bản thân. Một số người khuyết tật trí tuệ cơ thể còn có thể không được giống người bình thường hoặc hình dáng đặc biệt. Như vậy dựa vào những trường hợp người khuyết tật này chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với họ bằng nhiều phương tiện khác nhau. Đem lại cho người khuyết tật một cuộc sống tốt đẹp và nhiều niềm vui trong cuộc sống. Những trường hợp chúng ta gặp bị khuyết tật do đâu mà ra. Họ cũng sống như tất cả mọi người nhưng tại sao lại bị khuyết tật? Nguyên nhân là do đâu ?. Có rất nhiều yếu tố có thể tác động và ảnh hưởng đến con người làm họ bị dị dạng, khuyết tật mà vô tình chúng ta không hề để ý đến. Thứ nhất, môi trường sống tưởng như rất bình thường nhưng nó lại có tầm ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Những môi trường sống với các điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, nơi ở chật chội, yếu kém, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khỏe gây nên đói nghèo, suy dinh dưỡng. Dẫn đến hậu quả bệnh tật mà không tìm cách chữa trị và ảnh hưởng đến cơ thể. Những người lao động trong môi trường độc hại, nhiều khói bụi hay thường xuyên tiếp xúc với các loại hóa chất, khi sinh con cũng có thể mắc phải chứng khuyết tật với việc thiếu khuyết các bộ phận trên cơ thể. Việc ô nhiễm môi trường và và suy thoái môi trường, thiên tai, cũng ảnh hưởng đến con người đáng kể. Bên cạnh đó việc sử dụng thuốc chữa bệnh không theo khoa học làm biến chứng cơ thể và dẫn đến khuyết tật. Thứ hai, yếu tố dẫn đến khuyết tật là gì nếu một người đang bình thường mà thành khuyết tật? Đó có thể là do họ gặp phải do các vụ tai nạn, rủi ro hay trong khi đang lao động và mắc phải các tai nạn về lao động. Thứ ba, do bà bầu trong quá trình mang thai bị ảnh hưởng bởi việc thiếu oxi , tổn thương khi sinh non hay bị mắc các bệnh dịch trong quá trình mang thai. Không có sự chuẩn bị và phòng chống nên con sinh ra thường mắc các bệnh về dị tật. Thứ tư là, thiếu kiến thức và không thực hiện tiêm phòng và sử dụng các dịch vụ y tế sẵn. Bên cạnh đó tình trạng cơ thể thường xuyên bị áp lực và căng thẳng cũng làm cho bản thân tinh thần bị tổn thương nghiêm trọng, ảnh hưởng đến trí não. Thứ năm, có thể do việc kết hôn cùng huyết thống. Những người dân tộc thiểu số thuộc vùng sâu vùng xa thường không có kiến thức và kết hôn trong cùng một dòng họ. Chính vì suy nghĩ này làm cho con sinh ra khả năng mắc và gặp phải tình trạng khuyết tật là rất lớn. Cuối cùng khuyết tật cũng có thể do bẩm sinh. Có thể do bị di truyền, dị tật bẩm sinh hay do bị lỗi gen,. Khó khăn dành cho người khuyết tật là gì trong cuộc sống? Đối với bản thân họ những cơ thể không trọn vẹn làm cho họ bị xã hội xa lánh. - Người khuyết tật gặp phải những khó khăn về việc học tập: Với những hạn chế về trong khi vận động, trí tuệ kém hay việc không nghe thấy, không nhìn thấy làm cuộc sống và việc tiếp thu kiến thức của họ từ mọi thứ đều hạn chế hơn. Những bài giảng của thầy cô đối với người bình thường là dễ nhưng nếu như người khuyết tật có vấn đề về tai thì đó hoàn toàn là khó khăn và vất vả. - Khó khăn trong khi xin việc: Nếu như những người bình thường khi theo học trình độ trung học phổ thông xong thì họ có thể tìm kiếm những công việc thích hợp, nhưng người khuyết tật thì khác. Tại Việt Nam các trung tâm tư vấn, giới thiệu việc làm cho người khuyết tật là rất ít. Số lượng thấp và quy mô nhỏ, chủ yếu chưa tiếp cận và chưa sủ dụng đến nhiều người khuyết tật, do vậy hạn chế rất nhiều thông tin việc làm. Các doanh nghiệp và các nhà tài trợ còn chưa hứng thú với việc tuyển dụng người khuyết tật vào làm việc. Hơn thế, họ có thể chưa được rèn luyện tay nghề và kỹ năng nhất định nên cơ hội xin việc rất khó khăn. - Sự khó khăn vất vả trong hôn nhân: Do những định kiến của mọi người trong xã hội nên khuyết tật kết hôn rất sợ và sự e ngại về cơ thể khiếm khuyết của mình, khả năng chăm lo gia đình bị hạn chế nên người khuyết tật thường có tâm lý mặc cảm về hình thể, sức khỏe của bản thân và sợ dư luận xã hội nên họ đánh mất đi khả năng tìm kiếm bạn đồng hành cùng mình rất lớn. Những số liệu thống kê cho thấy người khuyết tật nam thường có tỷ lệ kết hôn cao hơn những người khuyết tật là nữ. - Những người khuyết tật còn bị xã hội xa lánh và chưa được chấp nhận cũng như đối xử công bằng trong mọi tình huống. Đặc biệt rất nhiều người hiện nay có thái độ khinh thường, chê bai người khuyết tật làm họ bị tổn thương về mặt tinh thần rất cao. - Người khuyết tật mang lại nghị lực và ý chí vươn lên trong cuộc sống đối với mọi người. Chúng ta có thể thấy những tấm gương nghị lực vươn lên và đã để lại sự ngưỡng mộ của mọi người. Từ đó con người có ý chí, niềm tin đối với cuộc sống hơn. - Những người khuyết tật còn góp phần tăng gia sản xuất phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế. Đối với những người có nhu cầu và đam mê học hỏi họ có thể cố gắng và vươn lên trở thành những doanh nghiệp giỏi và cơ sở đào tạo dành cho người khuyết tật, đồng thời họ có thể gây dựng được những thương hiệu riêng của bản thân mình. - Trên thực tế người khuyết tật cũng chịu ảnh hưởng từ xã hội tương đối lớn. Do vậy sự cố gắng của họ để hòa nhập với xã hội ngày càng lớn và là nguồn cổ vũ, động lực to lớn cho những người bình thường và khỏe mạnh học hỏi theo. Với tình hình của nước ta hiện nay việc chăm lo đời sống và nâng cao tinh thần cho hoạt động khuyết tật là gì được rất nhiều người quan tâm. Đặc biệt đó là các hoạt động công tác xã hội phục vụ và giúp đỡ những người khuyết tật ngày càng được tăng cường. Đây là công việc khôi phục chức năng xã hội của họ, huy động các nguồn lực, những dịch vụ cần thiết từ phía xã hội để tất cả mọi người, gia đình và cộng đồng tổ chức và chăm sóc đời sống cho người khuyết tật được hiệu quả và nâng cao hơn. Đồng thời giúp cho họ vượt qua những định kiến và rào cản,mạnh dạn tham gia vào các hoạt động xã hội. Lấy lại được công bằng và sự tự tin của họ trong cuộc sống. - Hoạt động công tác xã hội được thực hiện như việc trợ giúp, thúc đẩy và tăng cường khuyến khích các cá nhân, các tổ chức, những nhóm và các cộng đồng người khuyết tật tham gia các hoạt động của xã hội được nhiệt tình hơn và xóa bỏ đi những rào cản giúp họ có thể thành công hơn với những khiếm khuyết của mình. - Tham gia vào việc xây dựng, hoạch định và thực thi các chế độ và chính sách của xã hội, các dịch vụ của xã hội, các nguồn tài nguyên và giúp đỡ cho trẻ khuyết tật, người khuyết tật và chăm lo cho cuộc sống của họ. - Đề ra những chính sách phối hợp với các đơn vị, tổ chức chương trình để nhằm đáp ứng và tăng quyền lực, sự tự tin cho người khuyết tật cho họ có một cuộc sống bình yên và ổn định nhất có thể. Như vậy chúng ta đã có những cái nhìn cụ thể về khuyết tật là gì và ảnh hưởng của nó đối với xã hội cũng như những sự khó khăn của người khuyết tật như thế nào trong cuộc sống hiện nay. Mọi người hãy cố gắng xóa bỏ những sự kỳ thị không đáng có để cuộc sống của những người khiếm khuyết được trọn vẹn hơn.
Người khuyết tật
Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Theo DDA (Disability Discrimination Act – Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành), khi xét về mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng bình thường không được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại, một số người có khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của DDA, cả khi họ sẽ được phục hồi hoàn toàn . Còn Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) .
Chắc hẳn, dịch vụ in ấn đã quá quen thuộc với con người ở thời đại công nghệ ngày càng phát triển như hiện nay. Nhắc đến việc in ấn, người ta thường nghĩ tới máy in laser, mực in hp,… Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều dịch vụ in ấn khác nhau nhằm phục vụ nhu cầu của con người trong cuộc sống. Trong số đó phải kể đến in lụa. Vậy in lụa là gì? Kỹ thuật, nguyên lý hoạt động và quy trình in lụa như thế nào?. In lụa là gì? là thắc mắc của không ít người quan tâm về dịch vụ in ấn. In lụa hay còn được gọi với một cái tên khác là in lưới. In lụa là một dạng kỹ thuật in ấn tạo ra những sản phẩm như thiệp cưới, in vải, in áo, in túi ni lông,… In lụa là cái tên quen thuộc và thông dụng do những người thợ in đặt ra khi mới hình thành kỹ thuật in. Thuở mới hình thành kỹ thuật in lụa thì bản lưới của khuôn in được làm bằng tơ lụa. Sau này, với sự phát triển không ngừng thì khuôn in còn được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như vải bông, vải sợi, vải cotton,…. Phương pháp in lụa hoạt động theo nguyên lý một phần mực in sẽ được thấm qua lưới của khuôn in, sau đó in lên vật liệu. Ngày nay, kỹ thuật in này được sử dụng phổ biến rộng rãi và được áp dụng cho nhiều vật liệu cần in khác nhau. Ví dụ như nilong, vải, thủy tinh,… Ngoài ra, in lụa còn được sử dụng thay cho phương pháp vẽ dưới men trong lĩnh vực sản xuất gạch men. Như chúng ta đã biết, bất kể một phương pháp kỹ thuật nào cũng sẽ có những nguyên lý hoạt động riêng. Kỹ thuật in lụa cũng không ngoại lệ. Nguyên lý hoạt động của in lụa dựa trên sự thẩm thấu mực. Khi mực được đưa vào khung in thì sẽ được thông qua bộ phận xử lý là một lưỡi dao cao su. Qua áp lực của dao gạt sẽ tác động lên một phần mực in để mực được thấm qua lưới và in lên vật liệu. Tuy nhiên, để vật liệu được in lên có hình ảnh và kiểu dáng như mong muốn thì bạn cần phải chuẩn bị những vật liệu này từ trước đó. Hầu hết những nhà máy kinh doanh, sản xuất vật liệu như vải, mặt đồng hồ hay các sản phẩm được làm từ kim loại,… đều sử dụng kỹ thuật in lụa. Tuy nhiên, với công nghệ ngày càng phát triển như hiện nay thì phương pháp in lụa thủ công dần được thay thế bằng máy móc. Trước khi tiến hành in lụa thì những người thợ sẽ bắt đầu với việc phân tích file thiết kế. Hầu hết, những sản phẩm in lụa sẽ được thiết kế đơn sắc để có chất lượng tốt nhất. Với mỗi một màu, máy in sẽ cho ra 1 bản phim có tính chất trong suốt. Khi thiết kế và gia phim thì bạn nên sử dụng Corel Draw hoặc Ai. Đầu tiên, cần chuẩn bị một khuôn in lưới để làm khuôn. Sau đó, sử dụng keo chuyên dụng trong phòng tối để tráng kín khung lưới và đem đi sấy khô. Tiếp đến, tiến hành chụp phim bằng đèn hoặc phơi dưới nắng mặt trời. Sau khoảng 1-3 phút thì lấy khuôn ra và xịt nước khuôn in. Để sản phẩm được in chuẩn từng chi tiết thì bạn cần trải phẳng và cố định vật liệu in. Tiếp đó, đặt khuôn vào vị trí cần in và dùng gạt mực để kéo mực in cho đều. Lặp đi lặp lại tương tự với các màu khác.
In lụa
In lụa là một dạng trong kỹ thuật in ấn. In lụa là tên thông dụng do giới thợ đặt ra xuất phát từ lúc bản lưới của khuôn in làm bằng tơ lụa. Sau đó, khi mà bản lưới lụa có thể thay thế bởi các vật liệu khác như vải bông, vải sợi hóa học, lưới kim loại để làm thì tên gọi được mở rộng như là in lưới. In lụa thực hiện theo nguyên lý giống như in mực dầu trên giấy nến theo nguyên lý chỉ một phần mực in được thấm qua lưới in, in lên vật liệu in bởi trước đó, một số mắt lưới khác đã được bịt kín bởi hóa chất chuyên dùng. Kỹ thuật này có thể áp dụng cho nhiều vật liệu cần in như nilông, vải, thủy tinh, mặt đồng hồ, mạch điện tử, một số sản phẩm kim loại, gỗ, giấy. hoặc sử dụng thay cho phương pháp vẽ dưới men trong sản xuất gạch men. Kỹ thuật này được Châu Âu sử dụng vào năm 1925 với việc in trên giấy, bìa, thuỷ tinh, tấm kim loại, vải giả da. Nhưng, hơn 1000 năm trước "người ta phát minh ra rằng sợi tơ khi kéo căng trên một khung gỗ, với hình ảnh khuôn tô gắn phía dưới khung bằng keo hồ có thể dùng để sao chép các hình ảnh nhiều lần trên nhiều vật liệu khác nhau bằng cách phết mực xuyên qua các lỗ tròn khuôn tụ".
Sau khi nhận thấy nguồn năng lượng hóa thạch đang ngày khan hiếm, các nhà nghiên cứu đã bắt tay vào tìm kiếm những nguồn năng lượng mới. Thành quả đạt được ngoài sức mong đợi với nguồn năng lượng xanh vô tận đến từ thiên nhiên. Trong đó, chúng ta không thể bỏ qua năng lượng Mặt Trời với những ứng dụng vô cùng tiện lợi. Một trong số những ứng dụng thành công nhất là bếp năng lượng mặt trời. Bếp năng lượng Mặt Trời được biết đến là một trong những thiết bị ứng dụng nguồn năng lượng mặt trời được các nhà khoa học tìm ra. Đây là một thiết bị có nhiệm vụ giữ các tia nắng và sử dụng năng lượng này để đun nấu các loại thực phẩm hay đun sôi nước. Một trong những thiết kế cơ bản của bếp năng lượng Mặt Trời tự chế được biết đến là một cái thau nhôm, được cách ly tốt và đặt trong một hộp gỗ. Sau đó sử dụng một tấm kính đặt trên miệng thau và có gắn tấm gương phản chiếu phía sau. Với cách làm này, năng lượng mặt trời sẽ được hội tụ vào điểm cần đun nấu. Chiếc bếp này có thể đạt được công suất vài trăm Watt và nhiệt độ lên tới 200 độ C. Hiện nay, những chiếc bếp này được hoạt động dựa trên nguyên tắc:. – Hội tụ ánh sáng: Sử dụng dụng cụ như gương hay kim loại có độ phản chiếu cao, điều này sẽ giúp ánh nắng tập trung vào một điểm. – Chuyển ánh sáng thành sức nóng: Những vật màu đen sẽ có tính hấp thụ ánh sáng, vì vậy người ta thường sử dụng vật màu đen trong thiết kế. – Chất liệu dẫn nhiệt tốt: Các kim laoij sẽ được sử dụng với tính dẫn điện cao, giúp bếp nhanh nóng. – Giữ nóng: Cần một tính kính hoặc lớp chất dẻo trong suốt sẽ cho ánh sáng vào trong. Khi ánh sáng biến thành sức nóng sẽ được giữ lại bởi tấm kính hoặc chất dẻo. Bếp năng lượng mặt trời cho thấy được chúng ta có thể sử dụng nguồn năng lượng thiên nhiên mọi lúc, mọi nơi với những dụng cụ cơ bản nhất. Vì vậy, cách làm bếp năng lượng Mặt Trời rất đơn giản và chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những lợi ích mà chiếc bếp này mang lại. Bếp năng lượng mặt trời sẽ mang tới cho con người một môi trường xanh, sạch, đẹp. Bởi vì, chiếc bếp này có thể sử dụng thay thế cho những vật liệu đun nấu như: than, dầu lửa, hơi đốt,…điều này sẽ giúp con người giữ lại khí O2 và tránh thải ra môi trường khí CO2. Loại khí làm tăng thêm hiệu ứng nhà kính và làm Trái Đất nóng lên nhanh hơn. Bên cạnh đó, khi bạn sử dụng bếp điện thông thường, bản chất là chúng sử dụng điện từ các nhà máy nhiệt điện có đốt năng lượng hóa thạch. Do đó, vẫn sẽ làm cho môi trường và bầu khí quyển bị ô nhiễm. Ánh sáng là một trong những nguồn năng lượng đến từ thiên nhiên, bạn sẽ không phải mất tiền để mua chúng. Khi bạn đã có cho mình những chiếc bếp năng lượng Mặt Trời thì sẽ nhẹ đi khoản tiền mua nhiên liệu, trả tiền điện hoặc thời gian kiếm nhiên liệu đốt hàng ngày. Cách là chiếc bếp này rất đơn giản, bạn sẽ chỉ cần phải bỏ ra khoảng 2 USD là có thể làm được. Chi phí bỏ ra thấp và bạn có thời gian sử dụng lên tới 10 năm, điều này thật hoàn hảo phải không nào?. Tiếp theo, lợi ích được nhiều người quan tâm đến chiếc bếp này chính là đảm bảo sức khỏe cho người sử dụng. Chiếc bếp này không thải ra khói, nên sẽ không bị cay mắt và hại phổi. Việc đun bếp củi, than hàng ngày sẽ gây ra những tổn hại cho phổi tương đương với việc bạn hút 2 bao thuốc lá mỗi ngày. Hơn thế nữa, những chiếc bếp năng lượng mặt trời dạng thùng, hộp catton sẽ giúp trẻ khi sờ vào không bị phỏng. Ngoài ra, kiểu bếp này cũng sẽ rất khó phát cháy mỗi lần bạn để quên.
Bếp năng lượng Mặt Trời
Bếp năng lượng Mặt Trời là một thiết bị giữ các tia nắng và dùng năng lượng này để đun nấu các loại thực phẩm hoặc đun nước sôi. Một trong các thiết kế là gồm một cái thau bằng nhôm, được cách ly tốt đặt trong một hộp gỗ. Một tấm kiếng đậy trên miệng thau có gắn với một tấm phản chiếu ở phía sau. Các thiết kế dùng gương hay thấu kính Fresnel để hội tụ ánh nắng vào điểm cần đun nấu có thể được dùng. Các bếp này có thể đạt công suất vài trăm Watt và nhiệt độ tới 200°C. Một trong những bếp năng lượng mặt trời xưa nhất được biết đến đã được chế tạo bởi nhà khoa học Thụy Sĩ Horace-Bénédict de Saussure năm 1767. Năm 1945, đã có những bếp hình hộp được chế tạo tại Ấn Độ. Bếp dùng hiệu ứng nhà kính được đề xướng bởi giáo sư Roger Bernard ở Lyon (Pháp) năm 1976.
Khi một thương tích mắt hoặc bệnh tật làm hỏng giác mạc của bạn, phẫu thuật ghép giác mạc có thể khôi phục hoặc cải thiện đáng kể thị lực của bạn. Cấy ghép giác mạc là thủ thuật ngoại trú tại các bệnh viện mắt uy tín. Hầu hết các ca cấy ghép giác mạc có kết quả tốt, và tỷ lệ thành công đang gia tăng khi kỹ thuật và phương pháp tập luyện được cải thiện. Giác mạc là bề mặt hình vòm rõ ràng của mặt trước của mắt. Giác mạc cùng với những điều sau đây giúp bảo vệ mắt khỏi bụi, mầm bệnh và các hạt nước bên ngoài:. Mô giác mạc của bạn có thể nhanh chóng lành vết thương nhẹ và vết trầy xước trước khi bạn bị nhiễm trùng hoặc rối loạn thị giác. Tuy nhiên, thương tích sâu có thể gây tổn thương vĩnh viễn tầm nhìn của bạn. Cấy ghép giác mạc, hoặc phẫu thuật ghép giác mạc, là một thủ tục phẫu thuật thay thế một giác mạc bị tổn thương hoặc bị bệnh bằng các mô khỏe mạnh từ người hiến tặng. Mô giác mạc xuất phát từ một người hiến mô đã qua đời. Vì hầu hết mọi người đều có thể hiến tặng giác mạc của mình sau khi chết, danh sách chờ đợi thường không dài như các ca cấy ghép nội tạng lớn khác. Các mô thường xuất phát từ một ngân hàng mắt và sẽ trải qua thử nghiệm trước khi cấy ghép để đảm bảo rằng nó an toàn cho bạn. Nếu bạn không thích hợp cho việc cấy ghép mô người hiến, bạn có thể thích hợp cho việc . Các mô của người hiến tặng có xu hướng mang lại kết quả tốt nhất cho đa số người. Tuy nhiên, việc cấy ghép giác mạc nhân tạo có thể thành công hơn đối với những người bị bệnh bề mặt mắt nghiêm trọng hoặc đã từng ghép nhiều lần trong quá khứ. Cấy ghép giác mạc có thể khôi phục lại hoặc cải thiện đáng kể thị lực nếu bạn có một giác mạc bị tổn thương hoặc bị bệnh. Ghép giác mạc có thể chữa trị:. Trước khi lên kế hoạch phẫu thuật ghép giác mạc, bạn sẽ cần khám mắt kỹ lưỡng. Bác sĩ sẽ đo chính xác mắt của bạn và điều trị bất kỳ vấn đề mắt không liên quan nào có thể ảnh hưởng đến phẫu thuật ghép giác mạc. Hãy cho bác sĩ của bạn biết về tất cả các điều kiện y tế của bạn và bất kỳ loại thuốc theo toa nào và thuốc mua không cần đơn của bạn. Bạn có thể cần ngừng dùng thuốc ngăn cản sự đông máu. Trước ngày phẫu thuật , yêu cầu bác sĩ của bạn để có hướng dẫn chuẩn bị cụ thể cho thủ thuật ghép giác mạc. Những điều này có thể bao gồm:. Có thể bạn sẽ vẫn tỉnh táo trong quá trình phẫu thuật ghép giác mạc, nhưng bạn có thể nhận được thuốc an thần để giúp bạn thư giãn. Bác sĩ phẫu thuật sẽ chích thuốc gây mê cục bộ quanh mắt để tránh đau và giữ cho cơ mắt không di chuyển. Phẫu thuật liên quan đến việc sử dụng kính hiển vi. Bác sĩ phẫu thuật của bạn sẽ lấy một mảnh nhỏ giác mạc của bạn bằng một dụng cụ cắt gọi là Trephine. Bác sĩ phẫu thuật ghép giác mạc sẽ đặt giác mạc mới của bạn, cắt cho phù hợp, và sẽ khâu nó với một sợi chỉ cực kỳ tốt mà vẫn giữ nguyên cho đến khi mắt của bạn hoàn toàn lành. Bác sĩ sẽ dễ dàng loại bỏ sợi chỉ này sau. Thủ tục mất khoảng một đến hai giờ. Bạn sẽ cần thêm một hoặc hai giờ trong phòng hồi sức. Bạn sẽ có thể về nhà cùng ngày với cuộc phẫu thuật ghép giác mạc thành công. Bạn có thể cảm thấy đau và chắc chắn sẽ đeo một miếng dán mắt hoặc lưới mắt trên mắt bị ảnh hưởng lên đến bốn ngày. Đừng chà hoặc dụi mắt. Bác sĩ sẽ kê toa các thuốc nhỏ mắt và thuốc uống để giúp chữa bệnh và để ngăn ngừa sự thải ghép giác mạc hoặc nhiễm trùng. Cơ thể bạn có thể từ chối các mô được cấy ghép. Theo ước tính khoảng 10% bệnh nhân từ chối thải ghép các giác mạc của người hiến tặng . Trong nhiều trường hợp, thuốc nhỏ mắt có chứa steroid có thể kiểm soát sự thải ghép giác mạc. Nguy cơ bị từ chối thải ghép giác mạc giảm theo thời gian, nhưng nó không hoàn toàn biến mất. Có thể là tầm nhìn của bạn sẽ trở nên tồi tệ hơn trong vài tháng khi mắt bạn điều chỉnh. Bác sĩ của bạn sẽ loại bỏ các sợi chỉ được sử dụng trong quá trình phẫu thuật sau khi chữa bệnh hoàn thành. Bạn luôn cần phải có biện pháp phòng ngừa đặc biệt để tránh bị thương mắt trong khi tập thể dục hoặc thể thao. Bạn nên tiếp tục khám mắt thường xuyên theo lời khuyên của bác sĩ. Hầu hết mọi người đều cảm thấy ít nhất một phần phục hồi thị giác, và một số người sẽ tiếp tục yêu cầu kính mắt theo toa. Hồi phục hoàn toàn có thể mất đến một năm, nhưng thời gian phục hồi đang giảm dần khi kỹ thuật cải tiến. Hiện nay bệnh viện mắt Sài Gòn là một trong những bệnh viện được Bộ Y Tế cấp phép thực hiện cấy ghép giác mạc tại TPHCM và Việt Nam có ngân hàng giác mạc. Bệnh viện quy tụ đội ngũ y bác sĩ chuyên môn tay nghề cao cùng máy móc hiện đại luôn là địa chỉ phẫu thuật ghép giác mạc đáng tin cậy cho người dân trong nước và kiều bào nước ngoài.
Cấy ghép giác mạc
Ghép giác mạc, là một thủ tục phẫu thuật trong đó một giác mạc bị tổn thương hoặc bị bệnh được thay thế bằng mô giác mạc được hiến tặng (ghép). Khi toàn bộ giác mạc được thay thế nó được gọi là penetrating keratoplasty và khi chỉ là một phần của giác mạc được thay thế nó được gọi là lamellar keratoplasty. Keratoplasty đơn giản có nghĩa là phẫu thuật giác mạc. Phần ghép được lấy từ một người chết gần đây không có bệnh hoặc các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến cơ hội sống sót của mô được hiến hoặc sức khỏe của người nhận. Giác mạc là phần trong suốt phía trước của mắt bao phủ mống mắt, đồng tử và phần trước của mắt. Quy trình phẫu thuật được thực hiện bởi các bác sĩ nhãn khoa, bác sĩ chuyên về mắt và thường được thực hiện trên cơ sở ngoại trú. Người cho giác mạc có thể ở mọi lứa tuổi, như thể hiện trong trường hợp của Janis Babson, người đã hiến mắt vào năm 10 tuổi. Ghép giác mạc được thực hiện khi thuốc, phẫu thuật giác mạc và liên kết chéo không thể chữa lành giác mạc nữa.
Khái niệm hàng tồn kho không còn xa lạ đối với nhiều người, thực tế, khi nghe đến hàng tồn kho nhiều bạn sẽ nghĩ đây là loại hàng hóa không bán được mà bị tồn trong kho, nên được coi là tiêu cực đối với doanh nghiệp nếu có càng nhiều hàng tồn kho. Tuy nhiên, với một lượng hàng tồn kho nhất định, doanh nghiệp vẫn cân nhắc đến việc nên hay không nên giữ hàng tồn kho. Trước khi đi phân tích vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu kỹ về bản chất của hàng tồn kho. Hàng tồn kho là mặt hàng được giữ lại và bán ra cuối cùng trong kho hàng của doanh nghiệp vỉ vậy nhiều người nhầm tưởng đây là mặt hàng không bán được, hàng bị hỏng hoặc hàng hóa lỗi thời. Tuy nhiên, nhiều doanh giữ hàng tồn kho như một phương án dự phòng hoặc đây chính là nguyên liệu hoặc bán thành phẩm được chuẩn bị cho quy trình sản xuất hàng hóa mới. Doanh nghiệp sẽ tận dụng hàng tồn kho như một tài sản ngắn hạn, sau đó tiêu thụ hàng hóa hoặc đưa chúng vào quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hàng tồn kho đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chuỗi cung ứng, vì giá trị của chúng được tận dụng trong trường hợp cung cấp hàng hóa kịp thời vì khách hàng có thể đặt hàng bất cứ lúc nào, hoặc bổ sung vào sản xuất. Quản lý hàng tồn kho là việc kiểm soát quá trình đặt hàng, lưu trữ và sử dụng hàng tồn kho trong doanh nghiệp. Hàng tồn kho có thể là nguyên liệu thô, linh kiện và hàng hoá bán thành phẩm, thành phẩm, việc nhập kho và xử lý các mặt hàng đó. Doanh nghiệp phải thường xuyên sử dụng kho hàng và việc quản lý hàng tồn kho thì vô cùng quan trọng quyết định đến các kế hoạch khác trong việc sản xuất và điều chuyển hàng hóa. Một người quản lý kho cần phải nắm được các tiêu chí cần thiết để đảm bảo kho hàng hoạt động hiệu quả. Việc quản lý tồn kho là một quy trình trong chuỗi cung ứng giúp giám sát được quá trình lưu chuyển của hàng hóa từ nơi sản xuất đến kho hàng lưu trữ, và sau đó chuyển đến các điểm giao dịch mua bán. Với những doanh nghiệp lớn hay có chuỗi cung ứng và hoạt động sản xuất, lưu chuyển phức tạp thì việc quản trị kho hàng có rủi ro cao hơn, khó khăn trong việc kiểm soát tình trạng thiếu hụt hoặc dư thừa hàng tồn kho. Do vậy, việc lựa chọn phương thức quản lý phù hợp là điều mà doanh nghiệp đó cân nhắc thực hiện nhằm tối đa hóa lợi ích, giúp giảm chi phí và tăng lợi nhuận cho công ty. Doanh nghiệp luôn có xu hướng muốn bán hết các hàng hóa sẵn có, và không muốn có hàng hóa tồn trong kho trong thời gian dài vì phải mất chi phí trong việc bù lỗ hàng hóa mất mát/hư hại/lỗi thời và việc quản lý hàng hóa trong kho. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần phải lưu giữ một số lượng hàng nhất định trong kho để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng hoặc tránh làm gián đoạn quy trình sản xuất. Vậy mục đích để quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp theo các hoạt động sau đây:. Doanh nghiệp sẽ duy trì hàng tồn kho để tránhcác trường hợp gây tắc nghẽn trong quá trình sản suất và bán hàng hay không bị gián đoạn do thiếu nguyên liệu thô. Mặt khác, việc bán hàng cũng không bị ảnh hưởng do không có sẵn hàng hóa thành phẩm. Khi quản lý hàng tổn kho, bạn biết được số lượng hàng đang có trong kho, tránh tình trạng thiếu sản phẩm và lưu giữ vừa đủ hàng tồn kho cần thiết. Bên cạnh đó, bạn nắm được lượng hàng biến động trong kho hàng nhiều hay ít, có sự thay đổi như thế nào từ đó rút ra được nhu cầu của khách hàng, và đảm bảo lượng hàng hóa phù hợp trong kho. Quản lý chính xác lượng hàng tồn kho sẽ giúp tránh nguy cơ “cháy hàng’ khi khách hàng không thể tìm thấy sản phẩm họ muốn khi đến với bạn. Khi đó, khách hàng sẽ tin tưởng và trung thành với các sản phẩm của doanh nghiệp. Quản lý tồn kho hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp biết sự thay đổi hàng hóa trong kho giúp tiết kiệm thời gian thay vì phải kiểm tra và đếm từng mặt hàng. Việc sử dụng hệ thống quản lý vừa tiết kiếm thời gian, lại tránh được các sai sót không đáng. Khi lượng hàng tồn kho được tính vào mức vừa đủ, thì doanh nghiệp sẽ tiết kiêm được một khoản lớn chi phí lưu kho. Quản lý hàng tồn kho sẽ giúp bạn điều chỉnh hợp lý số lượng hàng hóa căn cứ vào số liệu hàng nhập và xuất kho, nhờ đó, bạn vạch ra được kế hoạch cho việc sản xuất và lưu trừ mặt hàng hợp lý nhằm tiết kiệm chi phí và đầu tư vào các mặt hàng đem lại lợi ích cao hơn. Trong trường hợp, vào một thời điểm nào đó, nhu cầu về hàng hóa đột nhiên tăng lên, thị trường không đủ hàng hóa để cung ứng, đây là thời điểm mà hàng tồn kho sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng lợi ích. Trường hợp quá trình sản xuất bị thiếu hụt nguyên liệu, nhưng thị trường đang thiếu hụt nguyên liệu đó, thì hàng tồn kho giúp ích cho doanh nghiệp bổ sung nguyên liệu và tránh bị ép giá cao do doanh nghiệp khác đầu cơ. Giá cả thường xuyên biến động, và thường có xu hướng tăng lên, vì vậy, nếu doanh nghiệp tích trữ một lượng hàng nhất định trong kho sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí. Lượng hàng tích trữ này là hàng hóa hay nguyên vật liệu đều có ích cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thông thường người ta sẽ lưu trữ nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm (có thời hạn lâu) – để phục vụ cho quá trình sản xuất vì nguyên liệu chưa qua sản xuất thì chỉ mất chi phí đầu vào và có thể điều chỉnh quá trình ra các thành phẩm khác nhau, giảm thiểu việc lỗi thời sản phẩm. Nếu bạn cần trang bị thêm nghiệp vụ xuất nhập khẩu – logistics, bạn có thể tham khảo thêm các khóa học xuất nhập khẩu logistics tại trung tâm XNK Lê Ánh. Incoterms là nội dung quan trọng trong ngành xuất nhập khẩu, đó là tập hợp những quy định có tính nguyên tắc của việc giao nhận hàng hóa giữa các bên giao dịch về việc phân chia . Để đạt được thỏa thuận giữa người mua và người bán khi lựa chọn điều kiện giao hàng (Incoterm), cũng như tránh những trường hợp rủ ro gây tranh cãi giữa 2 bên, bạn cần lưu ý những . Hiện nay, các công ty xuất nhập khẩu Việt thường xuất FOB và nhập CIF. Thực tế điều này khiến công ty xuất nhập khẩu Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi về giá xuất và nhập. Xuất nhập khẩu là ngành nghề đang ngày càng thể hiện sức nóng trên thị trường việc làm Việt Nam hiện nay. Mọi người thường hiểu một cách đơn giản xuất nhập khẩu là công việc xuất . Chúng ta nghe nói khá nhiều về ngành xuất nhập khẩu, nhưng không phải ai cũng biết học ngành xuất nhập khẩu ra làm gì và cụ thể công việc trong ngành này như thế nào. Hợp đồng xuất nhập khẩu là chứng từ vô cùng cần thiết với bên bán (xuất khẩu) và bên mua (nhập khẩu), thể hiện những thỏa thuận giữa hai bên về việc mua – bán hàng hóa. Là một trong những địa chỉ tin cậy nhất trong đào tạo xuất nhập khẩu thực tế với 9 cơ sở ở Hà Nội và TPHCM. Chúng tôi đã đào tạo gần 5.000 học viên, hiện đang làm việc tại các công ty xuất nhập khẩu trên mọi miền đất nước.
Hàng tồn kho
Hàng tồn kho, hay hàng lưu kho (tiếng Anh - Anh: stock; tiếng Anh - Mỹ: inventory ), là danh mục nguyên vật liệu và sản phẩm hoặc chính bản thân nguyên vật liệu và sản phẩm đang được một doanh nghiệp giữ trong kho. Quản lý hàng tồn kho là một lĩnh vực có chức năng chính là xác định hình dạng và vị trí của hàng hóa lưu kho. Nó được yêu cầu tại các địa điểm khác nhau tại một cơ sở hoặc trong nhiều địa điểm của một mạng lưới cung cấp để đi trước quá trình sản xuất và dự trữ nguyên liệu thường xuyên và theo kế hoạch. Khái niệm về hàng tồn kho, vật tư tồn kho hoặc bán thành phẩm đã được mở rộng từ các hệ thống sản xuất đến các doanh nghiệp dịch vụ cho đến các dự án, bằng cách khái quát hóa định nghĩa là "tất cả công việc trong quá trình sản xuất - tất cả công việc đang hoặc đã xảy ra trước khi hoàn thành sản xuất". Trong bối cảnh của hệ thống sản xuất chế tạo, hàng tồn kho đề cập đến tất cả các công việc đã xảy ra - nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm trước khi bán và rời khỏi hệ thống sản xuất.
Thảm văn phòng, thảm trải sàn văn phòng giá rẻ nhất, chuyên dùng cho các văn phòng làm việc, nhiều sản phẩm thảm có khả năng chống cháy, chống nắng, và kháng khuẩn rất tốt. Văn phòng không chỉ là nơi làm việc, là nơi tiếp đón các vị khách hàng, nó còn là bộ mặt thương hiệu của cả doanh nghiệp nữa. Chính vì vậy, một văn phòng sang trọng, có điểm nhấn và dấu ấn riêng luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm. Sử dụng thảm trải sàn đang là xu hướng được nhiều văn phòng lựa chọn. Sử dụng thảm trải sàn vừa phát huy được tác dụng thẩm mỹ, mang đến cảm giác ấm cúng, gần gũi, lại còn có khả năng chống trơn trượt, chống bụi bẩn rất tốt nữa. Vậy làm sao để chọn lựa được một tấm trải sàn phù hợp với văn phòng của bạn? Bài viết hôm nay sẽ mách cho bạn những cách lựa chọn thảm văn phòng đẹp giá rẻ trên thị trường hiện nay. Thảm văn phòng, thảm trải sàn văn phòng giá rẻ nhất, chuyên dùng cho các văn phòng làm việc, nhiều sản phẩm thảm có khả năng chống cháy, chống nắng, và kháng khuẩn rất tốt. Văn phòng không chỉ là nơi làm việc, là nơi tiếp đón các vị khách hàng, nó còn là bộ mặt thương hiệu của cả doanh nghiệp nữa. Chính vì vậy, một văn phòng sang trọng, có điểm nhấn và dấu ấn riêng luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm. Sử dụng thảm trải sàn đang là xu hướng được nhiều văn phòng lựa chọn. Sử dụng thảm trải sàn vừa phát huy được tác dụng thẩm mỹ, mang đến cảm giác ấm cúng, gần gũi, lại còn có khả năng chống trơn trượt, chống bụi bẩn rất tốt nữa. Vậy làm sao để chọn lựa được một tấm trải sàn phù hợp với văn phòng của bạn? Bài viết hôm nay sẽ mách cho bạn những cách lựa chọn thảm văn phòng đẹp giá rẻ trên thị trường hiện nay. Thảm len dệt tay có gì khác biệt với các dòng thảm khác? Đó có lẽ là câu hỏi mà không ít khách hàng của chúng tôi đã đặt ra, và để giúp khách hàng hiểu thêm về sản phẩm thảm len dệt tay cũng như cách phân biệt với các dòng khác. Thảm dệt tay là sản phẩm cao cấp nhất trên hiện trường hiện nay được làm hoàn toàn bằng phương pháp thủ công, và có truyền thống từ lâu đời từ xưa cho đến nay vẫn giữ được các nét truyền thống ấy bởi những người thợ thủ công của làng nghề đã gắn bó với nghề cả đời và được truyền từ đời này sang đời khác. Thảm được đặt dệt theo mọi kích thước yêu cầu của người dùng, và họa tiết hoa văn theo thiết kế hoặc theo hình ảnh yêu cầu. Thảm len dệt tay là sản phẩm thảm được sản xuất hoàn toàn bằng thủ công dựa trên đôi bàn tay khéo léo của người thợ dệt và cách phối màu thủ công, vẽ mẫu trên phương pháp truyền thần. Mật độ thảm khoảng 90.000 đến 168.000 nút/m2. Thảm len dệt tay Việt Nam là mặt hàng thảm cao cấp được sản xuất từ len lông cừu có nguồn gốc nhập khẩu từ NewZealand. Mỗi một tấm thảm được sản xuất là cả một công đoạn dài từ khâu vẽ mẫu đến phối mầu và lên khung dệt.
Thảm
Thảm là một chất liệu phủ sàn nhà bao gồm hai lớp gắn liền nhau. Lớp trên thường làm từ lông cừu hoặc sợi nhân tạo như polypropylene, nylon hoặc polyester và thường bao gồm các búi xoắn được xử lý nhiệt để duy trì cấu trúc của chúng. Thảm được chia ra làm hai dòng là thảm công nghiệp và thảm dệt tay. Thuật ngữ "rug" thường được sử dụng thay thế cho thuật ngữ "carpet", mặc dù thuật ngữ "carpet" có thể được áp dụng cho sàn bao phủ toàn bộ ngôi nhà, trong khi "rug" thường không lớn hơn một phòng, và theo truyền thống thậm chí không trải dài từ bức tường này sang bức tường khác, và thường không được gắn vào như một phần của sàn nhà. Thảm được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm cách nhiệt chân của một người từ gạch lạnh hoặc sàn bê tông, làm cho căn phòng trở nên thoải mái hơn khi ngồi trên sàn nhà (ví dụ như khi chơi với trẻ em hoặc như một tấm thảm cầu nguyện), giảm âm thanh từ việc đi bộ (đặc biệt là trong các tòa nhà chung cư) và thêm trang trí hoặc màu sắc cho một căn phòng.
Có thể hiểu, cờ vây chứa đựng trong nó những lối chơi phức tạp và biến hóa nhất trong số các trò chơi được biết từ xưa đến nay. Nhiệm vụ của hai người chơi là xây dựng cho mình những vùng đất riêng. Để hiểu rõ hơn về cách chơi cờ vây thì các bạn hãy theo dõi bài viết dưới đây. Sodo66 app xin hướng dẫn các bạn cách chơi cờ vây online. Cờ vây được ra đời từ rất lâu và có rất nhiều câu chuyện tương truyền về nguồn gốc của nó. Loại cờ này được bắt nguồn từ thời vua Nghiêu Đế của đất nước Trung Hoa cổ đại. Ông đã sáng tạo ra loại cờ trên để giúp con trai của mình giải trí cũng như từ đó có thể phát triển trí tuệ. Cũng giống như bàn cờ tướng, cờ vua thì bàn cờ vây cũng khá phức tạp. Chúng tôi sẽ giới thiệu rõ hơn ở dưới đây. Rất dễ nhớ, bàn cờ vây gồm 361 điểm . Điều đó tượng trưng cho các ngày trong 1 năm âm lịch. Bàn cờ có dạng hình vuông, được thiết kế có 19 đường ngang dọc giao nhau, điều đó đã tạo thành 361 giao điểm. Trên bàn cờ chúng ta thấy có 9 chấm đen được gọi là sao, giúp người chơi dễ dàng trong việc định vị trên bàn cờ. Sao ở chính giữa bàn cờ thường được gọi là tengen hay là Thiên Nguyên. Đối với người mới bắt đầu chơi, nên chọn những bàn cờ cỡ nhỏ 9×9, sau khi đã thuần thục hãy tiến tới bàn cờ 13×13. Quân và nhóm quân cực kì quan trọng. Nên khi quan sát bàn cờ, chúng ta thấy quân cờ vây được đặt trên bàn cờ tại 2 điểm giao nhau. gồm 2 màu đen và trắng tượng trưng cho âm dương trong vũ trụ. Để tạo thành một nhóm quân thì các quân cờ sẽ đứng cạnh nhau (ngang, dọc). Các giao điểm trống của nhóm quân ( ngang, dọc ) hoặc cạnh quân sẽ được gọi là khí. Nhóm quân và quân nào mà hết khí sẽ bị nhấc ra khỏi bàn cờ. Để cho các bạn có thể nắm chắc hơn về cách để chơi cờ vây một cách đơn giản nhất thì chúng tôi đã tóm tắt chi tiết nhất qua những dòng dưới đây. Các bạn hãy dành cho mình một chút thời gian để đọc qua. Cũng khá đơn giản, mục đích của trò này là 2 người chơi giành nhau đất. Nếu người nào giành được đất nhiều hơn thì người đó sẽ giành chiến thắng. Khi bắt đầu trò chơi là bàn cờ vây là bàn cờ trống, tuyệt đối không có quân cờ nào. Luật chơi là bàn cờ chỉ được dành cho 2 người. Mỗi người được tự động chia một bên quân đen hoặc quân trắng. Theo ngẫu nhiên, người cầm quân đen sẽ được đi trước, bởi vì số lượng quân đen nhiều hơn quân trắng là 1 quân. Tuy nhiên khi có luật chấp quân, quân trắng có thể ưu tiên đi trước. Trong luật chấp quân: Người chơi có quyền chấp đối thủ của mình từ 2 đến 9 quân. Các quân chấp lần lượt đặt vào các vị trí như sao thiên nguyên, sao góc và cuối cùng là sao biên. Quân được đặt vào các sao này là quân đen và quân trắng có quyền được đi trước. Khi bạn chơi, quân cờ phải được đặt vào giao điểm của các đường kẻ. Lưu ý là không đặt quân vào ô vuông hay trên đường kẻ. Hãy nhớ rằng, một quân cờ khi đã đặt xuống thì không được phép di chuyển, ngoại trừ trường hợp bị ăn quân và bị nhấc ra khỏi bàn cờ. Đối với các quân cờ bị nhấc ra khỏi bàn cờ vây là các quân cờ tù binh, bị đối thủ làm cho nó hết khí. Thì tuyệt đối không được phép đặt quân ở vùng đã hết khí. Những lượt tiếp theo để chơi cũng vô cùng đơn giản. Các bạn chỉ cần chuẩn bị cho mình một tinh thần thoải mái và một cái đầu tỉnh táo thì sẽ vượt qua được. Người chơi ở vị trí thứ hai tiến hành lượt đi của mình. Hai bên người chơi cứ thay phiên nhau chơi. Khi đến lượt, mỗi người chơi sẽ có một khoảng thời gian nhất định để suy nghĩ và chơi cờ. Nếu hết khoảng thời gian cho phép mà người chơi không thể đặt xuống bất cứ quân cờ nào thì sẽ bị xử lí là thua. Bên cạnh đó, người chơi có quyền bỏ lượt chơi của mình. Trong khi đến lượt chơi mà người chơi lại bỏ lượt của mình thì quyền đánh sẽ thuộc về đối phương. Nếu hai người chơi đều bỏ lượt liên tiếp thì ván cờ sẽ kết thúc ngay lập tức. Do thời gian đã hết: điều đó xuất hiện khi một đối thủ đến lượt đánh mà không đánh và không tiến hành bỏ lượt của họ. Đầu hàng: Đến lượt mình xuất chiêu mà đối thủ của mình lại đầu hàng. Không còn đất để chơi: Khi trên bàn cờ vây đang chơi, không còn nước đi nào để mở rộng đất nữa. Bên đội đen sẽ trả tù binh cho bên trắng bằng cách đặt các quân trắng của họ vào vùng đất của bên trắng. Sau đó, bên trắng cũng tiến hành một cách tương tự. Tiến hành đếm đất: Sau khi kết thúc việc trao trả tù binh, hai bên sẽ tiến hành đếm số đất đang có theo số mục. Tùy theo bàn cờ 19×19, 17 x 17, 15 x 15, 11 x 11 hay 9 x 9 thì sẽ được cộng thêm số mục lần lượt là 6.5 mục, 4.5 mục, 3.5 mục, 1.5 mục hay 0.5 mục. Số đất cuối cùng của người đi trước sẽ bằng với số đất vừa đếm được. Số đất của người đi sau bằng số đất đếm được cộng thêm mục. Mục tiêu của trò chơi cờ vây online là giành được càng nhiều đất sẽ càng tốt. Vì vậy, cuối cùng bên nào có nhiều đất hơn thì bên đấy sẽ thắng. Phía trên là những chia sẻ của chúng tôi về cách chơi cờ vây một cách chi tiết và dễ hiểu nhất. Hy vọng nó sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về loại cờ online này. Ngoài ra, nếu muốn tham gia nhiều trò chơi hơn hãy truy cập top 3 trò chơi casino trực tuyến Sodo66
Cờ vây
Cờ vây là một trò chơi dạng chiến lược trừu tượng cho hai người chơi, trong đó mục tiêu là bao vây nhiều lãnh thổ hơn đối thủ. Trò chơi được phát minh ở Trung Hoa thời cổ đại vào hơn 2.500 năm trước, và được coi là trò chơi bảng lâu đời nhất còn được tiếp tục chơi cho đến ngày hôm nay. Tính đến giữa năm 2008, có khoảng trên 40 triệu người chơi cờ vây trên toàn thế giới, một phần rất lớn người chơi sống tại khu vực Đông Á. Tính đến tháng 12 năm 2015, Liên đoàn cờ vây quốc tế đã có tổng cộng 75 quốc gia thành viên và bốn tổ chức hiệp hội thành viên ở các quốc gia khác nhau. Mặc dù các quy tắc chơi tương đối đơn giản, nhưng về mặt chiến thuật, cờ vây lại thiên biến vạn hóa vô cùng phức tạp, thậm chí độ phức tạp còn cao hơn cả cờ vua. Theo tính toán của các nhà khoa học, số ván cờ có thể có của cờ vua là nhiều hơn so với số nguyên tử trong phần vũ trụ quan sát được, và ở cờ vây thì nó thậm chí còn nhiều hơn.
Bùi Thị Minh Hoài (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1965) là một quan chức cấp cao của Việt Nam. Bà hiện là Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Trưởng Ban Dân vận Trung ương, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Ngày 30 tháng 01 năm 2021, tại phiên bầu cử Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bà được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII. Ngày 31, tại phiên họp đầu tiên của Trung ương Đảng khóa XIII, bà được bầu làm Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII. Ngày 8 tháng 04 năm 2021, Tại Quyết định số 39-QĐNS/TW, Bộ Chính trị phân công bà Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, giữ chức Trưởng ban Dân vận Trung ương. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Bùi Thị Minh Hoài
Bùi Thị Minh Hoài (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1965) là một quan chức cấp cao của Việt Nam. Bà hiện là Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Trưởng Ban Dân vận Trung ương, Ủy viên Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, Đại biểu Quốc hội khóa XV Tỉnh Đắk Lắk. Quê quán của bà ở xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. - Từ tháng 5/2018 - 1/2021: Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương. - Ngày 30 tháng 01 năm 2021, tại phiên bầu cử Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bà được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII. Ngày 31, tại phiên họp đầu tiên của Trung ương Đảng khóa XIII, bà được bầu làm Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII. - Ngày 8 tháng 04 năm 2021, tại Quyết định số 39-QĐNS/TW, Bộ Chính trị phân công bà Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, giữ chức Trưởng ban Dân vận Trung ương.- Tháng 6 năm 2021: Hội đồng bầu cử Quốc gia công bố trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV tỉnh Đắk Lắk.- Ngày 25 tháng 8 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1438/QĐ-TTg, bổ nhiệm bà Bùi Thị Minh Hoài làm Trưởng Tiểu ban Dân vận, Ủy viên Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19.
Ngành Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước ta hiện nay. Vậy ngành Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa là gì, học gì, ra trường làm gì? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, bất cứ ngành nghề kỹ thuật nào cũng cần đến tự động hóa. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đất nước và xu thế hội nhập toàn cầu, phải nói rằng, hệ thống điều khiển và tự động hóa có mặt trong mọi dây chuyền sản xuất của tất cả các ngành kinh tế. Ngành Kỹ thuật điều khiển và Tự động hoá là ngành học nghiên cứu, thiết kế, vận hành các hệ thống tự động, các dây chuyền sản xuất tự động tại các nhà máy (xi măng, sắt thép, nước giải khát, dược phẩm,…); thiết kế, điều khiển và chế tạo robot; quản lý sản phẩm tại các công ty trong và ngoài nước kinh doanh về các thiết bị điện tử tự động,. Khi theo học ngành kỹ thuật điều khiển và tự động hóa sinh viên được trang bị kiến thức về cơ khí điện tử, công nghệ thông tin và máy tính, các thiết bị tự động như role, các cảm biến công nghệ cao, các cơ cấu chấp hành, các thiết bị khí nén thủy lực, và các thiết bị liên quan,. - Sinh viên cũng được trang bị kỹ năng lập trình điều khiển hệ thống trên máy tính, trên hệ thống nhúng, FPGA, trên các thiết bị điều khiển chuyên ngành như PLC, ZEN, LOGO,. Đặc biệt PLC là thiết bị điều khiển rất phổ biến trong công nghiệp, chuyên sâu về PLC giúp cho người kỹ sư có rất nhiều cơ hội nghề nghiệp. - Khối kiến thức về Tự động hoá quá trình sản xuất (tự động hóa chế tạo cơ khí, lắp ráp ô tô, dầu khí, dệt, luyện kim, hoá học, xi măng, chế biến thực phẩm: sữa, bánh kẹo…). Ngoài ra một số trường còn có nội dung về CAD/CAM/CNC (gia công cơ khí trên máy tự động), gia công khuôn mẫu,. Sau khi tốt nghiệp Ngành Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa các bạ có thể đảm nhận các công việc tại Viện Nghiên cứu Điện tử – tin học – Tự động hóa, Viện ứng dụng công nghệ, Trung tâm thiết kế vi mạch, các Khu công nghệ cao; Các doanh nghiệp sản xuất trong nước và nước ngoài với các dây chuyền sản xuất trang bị tự động hóa; Các doanh nghiệp tư vấn kỹ thuật, kinh doanh thiết bị tự động hoặc chuyển giao công nghệ,. Ngoài ra còn có thể có một số trường Đào tạo ngành học này, bạn hãy để lại thông tin dưới phần bình luận để bài viết được bổ sung đầy đủ. Hy vọng với bài viết tìm hiểu Ngành Kỹ thuật điều khiển và Tự động hóa là gì? Ra trường làm gì? ở trên giúp các bạn có thêm thông tin khi lựa chọn ngành học. Chúc các bạn lựa chọn được ngành học, trường học phù hợp với đam mê và khả năng của của mình.
Điều khiển học
Điều khiển học (tiếng Anh: cybernetics) là khoa học về việc điều khiển, thu thập, truyền và xử lý thông tin, thường bao gồm liên hệ điều chỉnh ngược trong các cơ thể sống, trong máy móc và các tổ chức và các kết hợp của chúng (Ví dụ hệ thống kỹ thuật xã hội, các máy móc do máy tính điểu khiển, chẳng hạn robot). Vào khoảng những năm 1940, điều khiển học hiện đại bắt đầu với vai trò một ngành nghiên cứu kết hợp giữa các lĩnh vực hệ thống điều khiển, thần kinh học, lý thuyết mạng điện, và mô hình logic. Norbert Wiener đặt ra thuật ngữ "cybernetics" để chỉ đến ngành nghiên cứu các "cơ chế có mục đích" (teleological mechanisms) và thuật ngữ này được phổ biến bởi cuốn sách của ông với tựa đề Cybernetics, or control and communication in the animal and machine ("Điều khiển học, hay điều khiển và giao tiếp trong động vật và máy móc", 1948). Vì vậy, ông Wiener được coi như cha đẻ của điều khiển học.
Trong những năm gần đây, con số trẻ em mắc chứng tự kỷ (Autism) ngày một tăng. Vậy tự kỷ là gì? Rối loạn phổ tự kỷ là gì? Nguyên nhân gây rối loạn phổ tự kỷ? Dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn phổ tự kỷ? Cách điều trị bệnh rối loạn phổ tự kỷ là gì?… Đây là một số câu hỏi được rất nhiều các bậc cha mẹ quan tâm khi có con bị chứng rối loạn phổ tự kỷ. Trong bài viết sau đây, DINHNGHIA.VN sẽ cung cấp các thông tin liên quan đến rối loạn phổ tự kỷ là gì đến quý vị và các bạn. Rối loạn phổ tự kỷ là gì? Rối loạn tự kỷ còn được biết đến với tên gọi viết tắt là ASD. Đây là một dạng khuyết tật về phát triển khá phổ biến trên thế giới hiện nay. Bệnh gây ra các ảnh hưởng trực tiếp lên giao tiếp, xã hội và hành vi cho người mắc phải. Về mặt hình thức, trẻ em ASD không khác gì với trẻ bình thường. Tuy nhiên về cách giao tiếp, học tập, công việc, tương tác, hành xử lại khác so với rất nhiều trẻ bình thường. Khả năng trí não cũng như giải quyết vấn đề của trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ có thể từ mức khó khăn nghiêm trọng đến thiên tài (Asperger). Một số người không cần quá nhiều sự trợ giúp có người lại cần giúp đỡ nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Rối loạn phổ tự kỷ đang ngày càng trở nên nghiêm trọng với tỷ lệ trẻ em bị ASD tăng nhanh trong các năm gần đây. Theo nghiên cứu tại Mỹ cứ 88 em thì sẽ có 1 em mắc phải hội chứng này. Trước đây căn bệnh này chỉ xuất hiện hiếm hoi 10.000 trẻ chỉ có 5 em mắc bệnh. Từ việc nắm được khái niệm rối loạn phổ tự kỷ là gì, bạn cũng cần tìm hiểu về nguyên nhân của hội chứng này. Chưa có nguyên nhân chính thức dẫn đến rối loạn phổ tự kỷ. Tuy nhiên, thực tế trong nhiều trường hợp đã cho thấy trẻ có thể mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ do các nguyên nhân sau đây:. Di truyền: Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ hơn 90% trẻ rối loạn phổ tự kỷ có nguyên nhân là do di truyền. Do vậy, nếu trong gia đình có thành viên bị rối loạn phổ tự kỷ thì thế hệ tiếp theo khả năng bị hội chứng này rất cao. Sử dụng thuốc không đúng cách: Nhiều phụ nữ trong thời gian mang bầu đã tự ý sử dụng thuốc mà không tham khảo chỉ định từ bác sĩ chuyên khoa. Một số loại thuốc khuyến cáo với mẹ bầu như sau: thuốc an thần, kháng sinh, thuốc điều trị bệnh dạ dày… Đây đều là những loại thuốc có thể khiến thai nhi mắc rối loạn phổ tự kỷ khi chào đời. Mắc bệnh khi mang thai: Thời gian mang bầu vô cùng quan trọng, nếu như mẹ bầu bị mắc một số bệnh như cúm hay sởi, bệnh về tuyến giáp… thì nguy cơ sinh ra trẻ có thể bị dị tật rất cao hoặc mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ. Môi trường sống: Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng nghiêm trọng đến trẻ. Nếu một đứa trẻ bị thiếu sự quan tâm từ bố mẹ, không nhận được nhiều sự tương tác từ gia đình, hay bị cô lập (một mình) thì rất dễ mắc rối loạn phổ tự kỷ. Văn hóa gia đình: Những hành động như bạo lực gia đình, những tranh luận hay cãi cọ trong gia đình cũng khiến cho những đứa trẻ bị ám ảnh, tự ti, sợ hãi cũng là nguyên nhân khiến trẻ dễ bị mắc rối loạn phổ tự kỷ. Sự căng thẳng, mệt mỏi trong quá trình mang thai: Khi phụ nữ bị stress hay căng thẳng quá mức cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến thai nhi. Vì thế, trẻ sinh ra có khả năng bị rối loạn phổ tự kỷ rất cao. Giới tính: Cũng là yếu tố nguy cơ gây nên bệnh rối loạn phổ tự kỷ. Theo nghiên cứu các bé trai dễ mắc bệnh này hơn. Tỉ lệ bé trai mắc bệnh gấp 4 lần so với các bé gái. Yếu tố tiếp theo chính là tiền sử gia đình: Các gia đình đã từng có bố mẹ anh chị ruột mắc rối loạn phổ tự kỷ rất dễ sinh ra một người con nữa cũng mắc chứng bệnh này. Rối loạn nhiễm sắc thể: Các rối loạn khác cũng có thể ảnh hưởng đến tăng nguy cơ mắc bệnh rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ em. Có thể kể đến như hội chứng nhiễm sắc thể X dễ gãy; Bệnh xơ cứng củ; hội chứng Rett,…. Trẻ sinh non: Đặc biệt trẻ sinh non trước 26 tuần thai cũng có thể khiến gia tăng nguy cơ mắc bệnh rối loạn phổ tự kỷ. Tuổi cha mẹ: Tuổi cha mẹ càng lớn nguy cơ mắc bệnh rối loạn phổ tự kỷ càng lớn. Nhất là các trường hợp đẻ con khi mà bố mẹ đã trên 40 tuổi. Đái tháo đường: Những người mẹ mắc bệnh đái tháo đường trong quá trình mang thai sẽ tăng gấp đôi nguy cơ trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ. Nói với một sự phát âm hay nhịp điệu bất thường và có thể có giọng nói như đang hát hay giọng nói robot. Không thích ôm ấp, ẵm bồng, có vẻ thích chơi một mình, thu mình trong thế giới riêng của bản thân. Không thể bắt đầu, duy trì một cuộc hội thoại hay chỉ bắt đầu nói khi yêu cầu hay muốn gọi tên đồ vật. Tiếp cận không phù hợp với các tương tác xã hội bằng cách thụ động, hung hăng hay gây rối. Không biểu hiện cảm xúc hay thái độ và biểu hiện cảm nhận không thích hợp. Lặp lại các từ hay cụm từ đúng nguyên văn nhưng lại không hiểu cách dùng từ đó. Khó khăn trong việc nhận ra các tình hiệu phi ngôn ngữ, biểu hiện nét mặt, ngôn ngữ cơ thể hay sắc thái giọng nói. Phát triển những thói quen hay những nhóm hoạt động theo trình tự cụ thể và trở nên hoảng loạn khi gặp một thay đổi nhỏ. Thực hiện một số hoạt động có thể gây tổn thương bản thân như cắn hay đập đầu. Khó khăn để trong phối hợp hay thực hiện các chuyển động riêng lẻ như vụng về hay đi bằng ngón chân và có ngôn ngữ thể kỳ quặc, cứng đơ hay phóng đại. Gắn kết với một đối tượng hay hoạt động với một cường độ bất thường hay tập trung bất bình thường. Nhạy cảm bất thường với ánh sáng, âm thanh hay sự đụng chạm, không quan tâm đến sự đau đớn hay nhiệt độ. Bị thu hút bởi các chi tiết của một đồ vật như là bánh xe đang quay của xe trò chơi, nhưng không hiểu mục đích hay chức năng của vật ấy. Có một sở thích ăn uống cụ thể ví như chỉ ăn một vài loại thực phẩm hay từ chối các loại thực phẩm có cấu trúc nhất định. Xoay quanh chủ đề rối loạn phổ tự kỷ là gì, nhiều phụ huynh cũng rất quan tâm đến thực trạng rối loạn phổ tự kỷ hiện nay. Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát bệnh dịch Hoa Kỳ đã làm một thống kê cho thấy tỷ lệ trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ đang ngày càng tăng. Tại Mỹ sẽ có 1 em mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ trong 88 em. Tại Việt Nam trẻ tự kỷ chiếm 30% số trẻ mắc các khuyết tật học đường (Theo thống kê của ngành giáo dục Hà Nội). Đây cũng là khuyết tật có tỉ lệ cao nhất ở trường học. Thực trạng trẻ bị bị rối loạn phổ tự kỷ còn nhiều hơn so với các con số đã được thống kê. Tại Châu Á căn bệnh này còn chưa được quan tâm, các thông tin còn thiếu, phương pháp điều trị thiếu nên rất đáng lo ngại. Theo nghiên cứu bệnh rối loạn phổ tự kỷ không phân biệt giàu nghèo, màu da hay môi trường sống. Tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ trẻ em nhà giàu mắc chứng tự kỷ nhiều hơn so với các bé ở vùng nông thôn. Chứng rối loạn phổ tự kỷ kéo dài suốt đời với các rối loạn không ngừng phát triển. Hiện nay chưa có thuốc điều trị căn bệnh này. Trẻ mắc bệnh này không thể sinh sống học tập bình thường như các bạn bè đồng trang lứa. Trong trường hợp phát hiện bệnh nặng thì khả năng điều trị gần như là không thể. Càng phát hiện bệnh sớm càng dễ điều trị và tỉ lệ thành công càng cao. Bằng các kiểm tra thường lệ bác sĩ sẽ tìm kiếm các dấu hiệu về sự trì trệ trong phát triển. Trong quá trình nếu trẻ có bất cứ biểu hiện bất thường nào bác sĩ sẽ kiến nghị các vị phụ huynh đưa con đến khám tại chuyên khoa nhi về rối loạn phổ tự kỷ. Rối loạn phổ tự kỷ rất đa dạng về mức độ và triệu chứng nên các bác sĩ chẩn đoán rất khó khăn. Cần có các bác sĩ tâm lý chuyên nghiên cứu về căn bệnh này mới có thể đưa ra các phán đoán sát với tình hình bệnh. Bệnh này cũng không thể dùng xét nghiệm để xác định. Quan sát trẻ và hỏi sự phát triển và thay đổi về tương tác xã hội, giao tiếp, hành vi của trẻ theo thời gian. Sử sụng tiêu chuẩn Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DSM-5) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kì. Chứng rối loạn phổ tự kỷ hiện nay chưa có thuốc và phương pháp điều trị cụ thể. Có chăng phương thức điều trị chỉ là giảm triệu chứng rối loạn phổ tự kỷ cũng như giúp các em phát triển và học hỏi giống với người bình thường. Cha mẹ có thể thực hiện một số biện pháp sau đây để giảm thiểu tình trạng rối loạn phổ tự kỷ ở con mình:. Trị liệu hành vi: Đây là biện pháp tích cực nhất giúp trẻ hiểu tình trạng của mình và cư xử một cách thích hợp. Ứng dụng phân tích hành vi là các liệu pháp phù hợp cho trẻ bị chứng bệnh này. Đào tạo kỹ năng xã hội: Giúp trẻ biết về những kỹ năng xã hội để có thể tương tác thành công với những người khác. Điều trị hòa nhập: Giúp điều trị các vấn đề cảm giác, đồng thời cũng giúp phát triển các kỹ năng học tập, vui chơi và học cách tự chăm sóc bản thân. Vật lý trị liệu: Với cách điều trị này sẽ giúp trẻ nâng cao kỹ năng điều phối và vận động như ngồi, đi bộ, chạy. Trị liệu lời nói và ngôn ngữ: Cách điều trị này giúp trẻ có thể bật âm (nếu chưa nói được) hay phát triển thêm nhận thức của trẻ qua ngôn ngữ. Giáo dục gia đình: Sự kết hợp cùng với cha mẹ để giáo dục dạy bé ở nhà cũng vô cùng quan trọng. Việc giáo dục hành vi được cha mẹ áp dụng tại nhà sẽ giúp ích rất nhiều với trẻ bị rối loạn phổ tự kỷ. Thuốc: Đây được xem là cách điều trị cuối cùng, bởi thuốc Tây y luôn có hai mặt. Nhìn chung, không có thuốc chữa bệnh tự kỷ nhưng đôi khi trẻ rối loạn phổ tự kỷ cũng có vấn đề về giấc ngủ, rối loạn tăng động hay thiếu tập trung (ADHD). Một số vấn đề khác như động kinh, trầm cảm, lo âu, rối loạn ám ảnh cưỡng chế hoặc các vấn đề về hành vi khác vẫn cần phải dùng thuốc. Bố mẹ nên chuẩn bị kế hoạch tương lai cho bé mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ. Nên định hướng về trường học, nghề nghiệp cũng như môi trường sống cho con của mình. Vừa để bé tự lập vừa theo sát bé. Ngoài ra bố mẹ cũng cần áp dụng các liệu pháp chăm sóc và điều trị bé. Tự kỷ điển hình (tự kỷ Kanner): Đây là loại điển hình, bao gồm các dấu hiệu bất thường ở cả 3 lĩnh vực, khởi phát trước 3 tuổi. Hội chứng tự kỷ Asperger (tự kỷ chức năng cao): Mặc dù nhận thức tốt, tuy nhiên tự kỷ chức năng cao lại kém tương tác xã hội, trẻ có thể nói được nhưng giao tiếp bất thường, xuất hiện sau 3 tuổi. Hội chứng Rett: Nếu như trẻ bị mắc Rett thường định hình ở tay, các biểu hiện như vẹo cột sống, đầu nhỏ, chậm trí tuệ mức nặng. Rối loạn phân rã tuổi ấu thơ: Đây là sự thoái lùi phát triển nặng xảy ra trước 10 tuổi. Tự kỷ không điển hình: Đây là dạng chỉ có bất thường ở một trong 3 lĩnh vực, là tự kỷ mức độ nhẹ. Rối loạn phổ tự kỷ là gì và hội chứng phổ tự kỷ có phổ biến không là câu hỏi đầu tiên mà nhiều cha mẹ quan tâm khi biết con mình có những dấu hiệu phổ tự kỷ. Trong vòng 40 năm qua tỷ lệ trẻ em mắc bệnh tự kỷ đã tăng gấp 10 lần. Có thể nói bệnh lý này đang không ngừng phát triển với tốc độ nhanh chóng. Trong khi đó y học lại chưa tìm ra phương pháp điều trị nên càng trở nên nguy hiểm hơn. Không những vậy một phần cha mẹ thiếu hiểu biết về bệnh lý này cũng khiến tình trạng bệnh ở trẻ nặng hơn khó chữa trị hơn. Hội chứng ASD đang ảnh hưởng trực tiếp đến rất nhiều người bệnh cũng như gia đình và xã hội. Trở thành nỗi lo lắng của các gia đình cũng như đặt gánh nặng lên xã hội. Bệnh cũng đang đánh mất đi tương lai, sự bình đẳng và quyền sống toàn diện của người mắc bệnh. Ảnh hưởng gián tiếp đến tương lai cũng như sự phát triển về sau này của đất nước và thế giới. Bệnh cũng gây tốn kém về kinh tế công sức và thời gian của các gia đình. Khiến người bệnh mất khả năng giao tiếp, ứng xử, tương tác và sống như một người bình thường. DINHNGHIA.VN đã giúp bạn giải đáp thắc mắc rối loạn phổ tự kỷ là gì, nguyên nhân, biểu hiện và triệu chứng, thực trạng, ảnh hưởng và tác hại cũng như cách điều trị rối loạn phổ tự kỷ. Mong rằng với các thông tin mà chúng tôi đã cung cấp, bạn sẽ có thêm những kiến thức hữu ích trong việc tìm hiểu về chứng bệnh rối loạn phổ tự kỷ là gì.
Rối loạn phổ tự kỷ
Phổ tự kỷ, còn được gọi là rối loạn phổ tự kỷ (ASD), là một loạt các rối loạn tâm thần thuộc loại rối loạn thần kinh. Nó bao gồm tự kỷ và hội chứng Asperger. Các cá nhân mắc chứng này thường gặp vấn đề với giao tiếp và tương tác xã hội; và các hành vi, sở thích hoặc hoạt động hạn chế và lặp đi lặp lại. Các triệu chứng thường được nhận ra từ một đến hai tuổi. Các vấn đề trong dài hạn có thể bao gồm những khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày, tạo và giữ mối quan hệ và duy trì công việc. Nguyên nhân của phổ tự kỷ là không chắc chắn. Các yếu tố rủi ro bao gồm có cha mẹ lớn tuổi, tiền sử gia đình mắc chứng tự kỷ và một số điều kiện di truyền nhất định. Ước tính có từ 64% đến 91% rủi ro là do tiền sử gia đình. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng. DSM-5 xác định lại các rối loạn phổ tự kỷ để bao gồm các chẩn đoán tự kỷ trước đó, hội chứng Asperger, rối loạn phát triển lan tỏa không được chỉ định khác (PDD-NOS) và rối loạn phân rã ở trẻ em.
Tiểu thuyết trinh thám tiếng Anh là gì ? Những tiểu thuyết trinh thám nổi bật nhất. Thể loại văn học phổ biến ngày nay, bắt đầu phát triển giữa thế kỷ 19. Tiểu thuyết trinh thám tiếng Anh là gì ? Những tiểu thuyết trinh thám nổi bật nhất. Tiểu thuyết trinh thám bắt đầu phát triển từ giữa thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 19, hệ thống tư bản chủ nghĩa hình thành, dân chủ tư sản ngày càng phát triển, chính trị và tôn giáo tách biệt, hệ thống cảnh sát dần được hình thành, đây được xem là cơ sở xã hội cho sự xuất hiện của tiểu thuyết trinh thám. Về thể loại này, có lẽ tuổi thơ ai cũng từng nghe qua những siêu phẩm trinh thám nổi tiếng này. Từ “Thám tử lừng danh Conan” cho đến “Sherlock”, nơi vẫn đang bị truy đuổi, các thám tử đã khám phá ra sự thật duy nhất đằng sau những vụ án phức tạp với khả năng quan sát và suy luận mạnh mẽ – Đó cũng chính là những yếu tố nổi bật hình thành nên tiểu thuyết về thể loại này. Nhưng có lẽ khái niệm thực sự về “tiểu thuyết trinh thám” là gì, thì đây vẫn là thắc mắc của đa số người từng đọc qua thể loại văn học này. Tiểu thuyết trinh thám là một trong những thể loại phổ biến nhất trong văn học đại chúng – là một nhánh phụ của tiểu thuyết tội phạm và tiểu thuyết bí ẩn, thể loại tiểu thuyết này chủ yếu mô tả các vụ án xảy ra và quá trình suy luận, khám phá hay còn gọi là trinh thám bí ẩn. Ngoài ra, theo nghĩa rộng, tiểu thuyết trinh thám cũng bao gồm tiểu thuyết hồi hộp, gay cấn và tiểu thuyết xã hội. Hai cuốn tiểu thuyết này là chú thích hay nhất của ông về hai mươi quy tắc này, và chúng cũng là một trong những cuốn tiểu thuyết trinh thám hay nhất của thời kỳ vàng son. Nhà sử học lý luận nổi tiếng người Anh Julian Symons đã lựa chọn “Bí ẩn của quan tài Hy Lạp” trong danh sách top 100 của mình. Đây cũng là vị trí đầu tiên trong cuộc bình chọn của Câu lạc bộ người hâm mộ Ellery Quinn (EQFC) tại Nhật Bản. Carl được biết đến với biệt danh “Vua của căn phòng bí mật” và dành cả cuộc đời mình để viết nên những căn phòng bí mật và những tội ác bất khả thi khác. Vị trí của ông trong lịch sử lý luận chắc chắn có thể cạnh tranh với ba người trên. Nếu bạn theo đuổi cốt truyện kỳ quái của cuốn tiểu thuyết, bầu không khí căng thẳng và kinh dị Có thể nói Carl là sự lựa chọn tốt nhất. Tác giả chỉ mới ra mắt năm 1987, thời hoàng kim đã qua lâu, những chiêu trò phạm tội bất khả thi gần như đã cạn kiệt. Làm thế nào để bám sát phong cách sáng tạo ban đầu trong tình huống này và tạo ra cái mới mà không bị tụt hậu với thời đại? Cuốn sách này đưa ra một câu trả lời hoàn hảo. Đây không phải là một cuốn tiểu thuyết Đây là lịch sử nghiên cứu của một cuốn tiểu thuyết bí ẩn. Nếu đối tượng đã đọc danh sách sách ở trên và có hứng thú mạnh mẽ, thì sẽ rất hữu ích khi đọc cuốn sách này. Các thông tin trên buycolchicine.info chỉ mang tính chất tham khảo, khi áp dụng phải tuyệt đối tuân theo chỉ dẫn của Bác sĩ. Chúng tôi tuyệt đối không chịu bất cứ trách nhiệm nào do việc tự ý áp dụng các thông tin trên buycolchicine.info gây ra.
Tiểu thuyết trinh thám
Tiểu thuyết trinh thám (tiếng Pháp: roman détective) là một tiểu loại của tiểu thuyết phiêu lưu. Bản thân tên gọi thể loại đã làm nổi bật một vài đặc điểm riêng của nó. Nó nói lên nghề nghiệp của nhân vật chính. Nhân vật chính có thể là “thám tử”, là “mật thám”, hay “điều tra viên” gì đó, nhưng đều có nghề nghiệp chung là dò la, điều tra, khám phá cái bí mật, còn nằm trong bóng tối. Nó chứng tỏ, đây là truyện vụ án, truyện viết về tội phạm, một loại truyện rất phổ biến ở các nước phương Tây. Nó mách bảo người sáng tác cách thức xây dựng cốt truyện: phải giữ đến cùng những bí mật của tội phạm để tạo nên sự hấp dẫn, khiến người đọc luôn luôn ở trong trạng thái căng thẳng. Cái bí mật bao giờ cũng tạo nên sự hứng thú, hấp dẫn đối với người đọc. Nhưng chắc chắn, nghề “trinh thám” không thể trở thành cốt truyện phổ biến trong văn học, khi phạm tội chưa trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến. Ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, bộ máy cảnh sát có nhiệm vụ điều tra âm mưu để chặn đứng tội ác của bọn tội phạm cũng phải đến nửa sau thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, mới được thành lập.
“Chúng ta phải cống hiến sức sống cho chủ nghĩa xã hội Ấn-Mỹ bằng chính thực tế của chúng ta, bằng ngôn ngữ của chúng ta. Đây là một sứ mệnh xứng đáng với một thế hệ mới ”. Trong khi việc chuyển hướng sang phân tích chủ nghĩa thực dân-định cư đang diễn ra cuối cùng đã trở thành xu hướng chủ đạo của các cuộc thảo luận chính trị ở Bắc Mỹ, vẫn còn thiếu hiểu biết phổ biến về các vấn đề liên quan. Trớ trêu thay, chủ nghĩa thực dân định cư lại được hiểu trong khuôn khổ của lối suy nghĩ do các giai cấp thống trị châu Âu mang đến cho châu Mỹ. Nói rộng ra, các quan niệm về phi thực dân hóa cũng bị hạn chế tương tự. Mặc dù quá trình chuyển đổi từ phân tích phi thực dân hóa theo tâm lý hoặc “phân biệt” sang phân tích nghĩa đen, nhưng việc thực dân hóa cụ thể là cực kỳ quan trọng, nó đòi hỏi một số làm rõ. Chủ nghĩa thực dân định cư là một hình thức của chủ nghĩa thực dân khác với chủ nghĩa thực dân nhượng quyền. Những người thực dân chủ yếu tìm cách loại bỏ dân bản địa thay vì bóc lột họ, như trong hình thức chủ nghĩa thực dân sau này. Phi thực dân hóa là cuộc đấu tranh để xóa bỏ các điều kiện thuộc địa, mặc dù các cách tiếp cận nó có thể khác nhau. Vì mục đích của chúng tôi, chúng tôi sẽ tập trung vào Hoa Kỳ trong việc phân tích các ý tưởng địa phương về chủ nghĩa thực dân-định cư và phi thực dân hóa. Trong số những người cấp tiến ở Bắc Mỹ, có hai lỗi thường xuyên xảy ra khi tiếp cận quá trình phi thực dân hóa. Một mặt, có những người phản đối phi thực dân hóa, những người cho rằng chủ nghĩa thực dân-định cư không còn tồn tại. Theo quan điểm của họ, để xác định những mối quan tâm cụ thể đối với người bản địa và xác định sự hiện diện liên tục của các vị trí xã hội thuộc địa-định cư là chia rẽ và bế tắc trong quá khứ. Họ tin rằng những người định cư không còn tồn tại nữa và người Mỹ gốc Âu đã hoàn toàn trở thành bản địa của Bắc Mỹ qua vài thế kỷ cư trú. Mặt khác, có những người ủng hộ phi thực dân hóa tin rằng người Mỹ gốc Âu vĩnh viễn bị coi là những người định cư, và không thể tham gia vào bất kỳ thay đổi căn bản nào. Cực đoan nhất trong số này lập luận cho việc loại trừ hoàn toàn người Mỹ gốc Âu khỏi nền chính trị cấp tiến. Chủ nghĩa thực dân định cư vẫn chưa kết thúc, trái ngược với quan điểm thứ nhất. Đúng hơn, các dân tộc bản địa vẫn đấu tranh cho các quyền chủ quyền của họ trong và ngoài các bảo lưu, đặc biệt là các quyền sinh thái-tinh thần. Các quyền được công nhận về mặt pháp lý của họ cũng không được tôn trọng. Những ví dụ về cuộc đấu tranh của Wetsuweten, Standing Rock Lakota, Mikmaq, và các dân tộc khác trong ký ức gần đây là minh chứng cho điều này. Các dân tộc bản địa vẫn ở đây, và họ vẫn đang chiến đấu để phát triển mạnh mẽ với tư cách là các dân tộc bản địa . Các nhà tư bản thúc đẩy khai thác trái đất, phá hủy hệ sinh thái và ném xã hội vào cái mà John Bellamy Foster gọi là rạn nứt trao đổi chất.² Điều này có nghĩa là nhu cầu vốn để mở rộng không phù hợp với nhịp điệu của sinh thái, phá hủy cuộc sống cụ thể cho các mục tiêu trừu tượng như một kết quả. Một thế giới quan theo chủ nghĩa nguyên tử, chủ nghĩa cá nhân là điều làm nền tảng cho quan điểm của chủ nghĩa thực dân-định cư đã qua và của những người Âu-Mỹ đương thời cũng giống như những người dân bản địa. Khi chủ nghĩa thực dân-định cư được coi là trách nhiệm hoặc tội lỗi của cá nhân, chúng ta bị bỏ lại với một khái niệm rất thô thiển về nó. Những người phủ nhận chủ nghĩa thực dân-định cư cho rằng nó phải kết thúc, bởi vì quá trình đô hộ ở châu Mỹ dường như đã kết thúc. Do đó, họ nghĩ rằng những người Mỹ gốc Âu hiện đại không thể bị đổ lỗi cho tội lỗi của tổ tiên họ, vì các cá nhân không nên chịu trách nhiệm về những điều đã xảy ra bên ngoài cuộc sống của họ. Tội lỗi trong quan niệm này là sự đánh giá liệu một cá nhân theo chủ nghĩa nguyên tử có phải chịu trách nhiệm cho những tội ác cực kỳ cụ thể, chẳng hạn như tham gia vào một cái gì đó như chiến dịch thanh lọc sắc tộc của Paxton Boys năm 1763 Pennsylvania . Cách tiếp cận ý thức hệ tương tự đặc trưng cho phía bên kia, ám ảnh về địa vị cá nhân của “người định cư” và phân loại vi mô những cư dân đương đại của Bắc Mỹ trong một khái niệm trừu tượng về chủ nghĩa thực dân-định cư. Họ lập luận rằng có tư cách cá nhân là “người định cư” có nghĩa là một người bị nguyền rủa vĩnh viễn, một người bị đánh dấu là một con người cụ thể bởi tội ác của một hệ thống xã hội luôn luôn và mãi mãi. Câu nói nặng nề này có tỷ lệ cược cao, do đó, nỗi ám ảnh về việc phân loại mọi trường hợp duy nhất trong một hộp cụ thể. Cả hai cách tiếp cận này đều không cung cấp một cái nhìn sâu sắc thành công về chủ nghĩa thực dân-định cư. Thay vào đó, họ phóng chiếu tư duy của chủ nghĩa tự do tư sản châu Âu. Cá nhân được định nghĩa một cách nguyên tử, trong các đặc điểm, quyền lợi, tội ác của họ, v.v. Ở đây, cá nhân với tư cách là một nút trên mạng lưới quan hệ xã hội thì hoàn toàn nằm ngoài câu hỏi. Tuy nhiên, đó là cách chúng ta phải suy nghĩ nếu chúng ta muốn hiểu chủ nghĩa thực dân-định cư và do đó, xóa bỏ nó. Tập trung chủ yếu vào việc phân loại các cá nhân theo chủ nghĩa nguyên tử, thay vì tập trung vào các mối quan hệ xã hội, làm mất đi động cơ thực sự của chủ nghĩa thực dân-định cư. Không phải các cá nhân chọn một ngày nào đó để hành xử tàn bạo, hay đó chỉ đơn giản là bản chất của một người cụ thể. Thay vào đó, nó có những động lực lịch sử rất cụ thể trong hệ thống toàn cầu và sự trỗi dậy của chủ nghĩa thực dân-định cư bên trong nó. Ví dụ, chủ nghĩa thực dân-định cư ở Bắc Mỹ được thúc đẩy đáng kể bởi nạn đói đất của các nhà tư bản trồng các loại cây ăn tiền như thuốc lá và bông, được bán trên thị trường thế giới. Suy nghĩ theo nghĩa rộng, các thuật ngữ cấu trúc là quan trọng để tránh các phân tích và cách tiếp cận đơn giản. Trong khi bên tập trung vào việc hạ gục cá nhân người Mỹ gốc Âu chắc chắn có đất trong tâm trí khi nghĩ về chủ đề này, họ có một khái niệm tĩnh và đơn giản về đất đai. Trong suy nghĩ của họ, những người định cư là những người định cư bởi vì họ hiện diện ở một nơi nhất định, nơi một nhóm Bản địa cụ thể có quyền trừu tượng và đạo đức đối với nơi cư trú độc quyền. Nói một cách đơn giản, quá trình suy nghĩ của họ là “nếu người X ở nơi Y , vốn thuộc về người Z, thì họ là người định cư ”. Họ không hiểu mối quan hệ xã hội của các dân tộc bản địa với quê hương của họ, điều này mở rộng ra các khía cạnh sinh thái, lịch sử, tâm linh, . Nghĩa là, bản thân tính đồng nhất là một mối quan hệ xã hội. Các dân tộc bản địa coi các quốc gia và quê hương của họ là quan hệ . Mối quan hệ của họ với đất không phải là đất như một thứ trừu tượng, mà là những không gian cụ thể không thể tách rời với đời sống cộng đồng cụ thể của họ. “Bên cạnh việc duy trì các mối quan hệ tốt đẹp trong quốc gia, nghĩa vụ thứ hai của một cá nhân là bảo vệ lãnh thổ cộng đồng. Ở phía đông, những cánh đồng lúa hoang rộng lớn và những trang trại theo mùa trồng ngô, đậu và bí đã phân định lãnh thổ Dakota. Ở phía tây, lãnh thổ Lakota kéo dài đến tận những đàn trâu di chuyển trên đất nước Sông Bột màu mỡ. Đối với Dakotas, Lakotas và Nakotas, lãnh thổ được xác định là bất kỳ nơi nào mà họ canh tác có quan hệ với đời sống động thực vật; điều này thường bao trùm, và đôi khi xung đột với các quốc gia Bản địa khác. Bản sắc và phương thức sống trong các xã hội xã hội chủ nghĩa là đặc trưng cho các không gian, bởi vì việc duy trì nhịp điệu của các không gian này là một lôgic hướng dẫn cơ bản của cuộc sống. Bởi vì đất đai là tương đối, đã có và đang có sự phản kháng đáng kể giữa các dân tộc Bản địa đối với việc người định cư chiếm đoạt đất đai và hàng hóa của họ hàng không phải là con người của họ. Trong khi đó, giai cấp tư sản châu Âu quan tâm nhiều hơn đến giá trị có thể chiết xuất từ đất đai, thế giới quan của họ dựa trên các khái niệm trừu tượng về Quyền, Công lý, Tự do, v.v. Phe được đề cập không hiểu những người định cư-thực dân là một phần của các mối quan hệ xã hội, họ đang tìm cách phủ nhận mối quan hệ xã hội đất đai công cộng đó cho những mục đích cụ thể. Họ thiếu tầm nhìn rộng, họ chỉ nhìn xã hội như một tập hợp các nguyên tử, xếp vào những phạm trù vi mô, bó lại với nhau. Sau khi phê phán hai quan điểm này, bây giờ chúng ta có thể đưa ra ý tưởng tốt hơn về cách tiếp cận đúng các nhóm phạm trù liên quan đến phân tích chủ nghĩa thực dân-định cư. Tính không đồng nhất được xác định bởi tính liên tục của các quan hệ cộng đồng lâu đời và bản sắc bản địa của một vùng nhất định. Mối quan hệ với một quê hương hoặc khu vực cụ thể là quan trọng đối với điều này, nhưng việc mất mối quan hệ trực tiếp với đất đai không nhất thiết phủ nhận Tính đồng nhất. Đúng hơn, sự liên tục của việc thuộc về một phương thức sống và một cộng đồng nào đó là chìa khóa. Người định cư là người đứng ngoài các mối quan hệ này, và đóng một vai trò tích cực trong việc phủ định các mối quan hệ Bản địa này. Người định cư không chỉ đơn thuần là người định cư vì họ là người nước ngoài. Đúng hơn, họ là một người định cư vì vai trò phủ định tích cực này. Để đóng một vai trò phủ định tích cực không nhất thiết có nghĩa là một cá nhân thực thi các luật lệ thuộc địa. Thay vào đó, điều đó có nghĩa là một người được hưởng lợi trực tiếp từ việc họ tham gia vào việc phá hủy các quan hệ này, chẳng hạn như giành được chỗ ở hoặc việc làm với chi phí từ các quan hệ đất đai đó. Một khía cạnh quan trọng của việc trở thành một người định cư là trở thành một công dân chính trị - xã hội của một xã hội thuộc địa - người định cư. Điều này có nghĩa là, trong luật pháp và trong thực tiễn xã hội, một người có đầy đủ quyền thuộc về quốc gia định cư-thuộc địa, và được thừa nhận như vậy trong hệ tư tưởng. Nhiều nhà phân tích về chủ nghĩa thực dân-định cư, chẳng hạn như Jodi Byrd (Chickasaw), sử dụng một loại thứ ba trong phân tích của họ: những người nhập cư. Một ví dụ về điều này sẽ là các khoản nợ của Philippines. Chúng không thể hoàn toàn thuộc về các cấu trúc của người định cư, trong thực tế hoặc trong hệ tư tưởng, nhưng chúng vẫn là một phần của các cấu trúc đó. Trong lịch sử Bắc Mỹ, những nhóm này đã ở nhiều thời điểm bị loại khỏi khả năng sở hữu tài sản hoặc có được quyền công dân hợp pháp đầy đủ. Cho biết công dân được trực tiếp xác định xung quanh trắng, đầu tiên de jure , và sau đó de facto . Những danh mục này nên được xử lý theo một cách sắc thái, như những công cụ để hiểu một xã hội và lịch sử cụ thể. Chúng ta nên tránh cố gắng bẻ cong thực tế để phù hợp với các phạm trù trừu tượng. Nếu không, người ta cho rằng những hạng mục này là số phận. Người ta giả định rằng người bản địa không thể là một phần của cấu trúc thuộc địa-định cư, hoặc rằng tất cả những người định cư đều bị nguyền rủa vĩnh viễn và không thể vượt qua vai trò xã hội của họ. Trong lịch sử, có rất nhiều ví dụ về các dân tộc Bản địa tham gia vào các quá trình định cư-thuộc địa, chẳng hạn như chiến binh Tohono Oodham tham gia Cuộc thảm sát Camp Grant chống lại Apaches , hay Phó Tổng thống Bản địa Charles Curtis tài trợ cho việc đồng hóa và phân bổ đất đai của cộng đồng . Cũng có những ví dụ về những người không có đầy đủ quyền công dân chính trị - xã hội tham gia vào các quá trình này, chẳng hạn như với Những người lính Trâu đen chiến đấu trên tiền tuyến của Manifest Destiny . Cũng có những ví dụ về việc người Mỹ gốc Âu tìm đến các xã hội bản địa để thoát khỏi “nền văn minh” tư sản. Cynthia Ann Parker bị bắt cóc và nhận làm con nuôi bởi một băng chiến tranh Comanche . Texas Rangers, kẻ đã tàn sát những người họ hàng được nhận nuôi của cô, buộc cô phải quay trở lại xã hội Âu Mỹ. Trong khi những người Mỹ gốc Âu được chấp nhận vẫn là người Mỹ gốc Âu, việc hòa nhập vào những mối quan hệ cộng đồng đó đã biến đổi họ. Thay vì đóng vai trò ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận của xã hội tư sản, họ trở thành những người tham gia vào các mối quan hệ của Người bản xứ. Trở thành một người định cư không phải là số phận, mà là một địa vị có thể bị phủ nhận thông qua một cuộc cách mạng chuyển đổi xã hội. Nói một cách ngắn gọn, thông qua quá trình phi thực dân hóa. Việc ám ảnh về việc kiểm soát các danh mục vi mô không hữu ích cho việc hiểu biết hoặc chống lại chủ nghĩa thực dân-định cư. Ý thức được điều đó là quan trọng, nhưng mấu chốt là phải tập trung vào các cấu trúc xã hội rộng lớn. Cách chúng ta thay đổi các cá nhân bằng cách thay đổi các mối quan hệ xã hội, và cách chúng ta đấu tranh cho chủ quyền Bản địa là bằng cách xóa bỏ các thế lực tiêu cực trong xã hội. Để điều trị thành công một căn bệnh, người ta phải nhớ rằng cơ thể là một hệ thống chứ không phải là một tập hợp các bộ phận đơn thuần. Điều này cũng áp dụng cho xã hội. Chủ nghĩa thực dân-định cư ở Bắc Mỹ là sự xung đột của hai hình thái xã hội, một hình thức đấu tranh để phủ định hình thức kia. Hệ thống tư bản: tư nhân, chủ nghĩa cá nhân, tập trung vào việc mở rộng một thượng đế trừu tượng (tư bản). Các phương thức sống chung của người bản địa: dựa trên mối quan hệ, theo chủ nghĩa tập thể, tập trung vào việc xem cá nhân như một phần của tổng thể. Giai cấp tư sản tìm kiếm quyền sở hữu độc quyền, tư nhân về đất đai như một tài sản được mua và bán như một loại hàng hóa. Họ không công nhận các quyền về đất đai của cộng đồng, hoặc bất cứ điều gì giống như mối quan hệ xã hội với một địa điểm. Thay vào đó, họ tìm cách cắt đứt các dây thần kinh kết nối mọi khía cạnh của đời sống cộng đồng để đóng gói mọi thứ thành hàng hóa, để chúng có thể được trừu tượng hóa thành một giá trị trao đổi.
Phi thực dân hóa
Phi thực dân hóa là quá trình ngược của thực dân hóa: nơi một quốc gia thiết lập và duy trì sự thống trị của nó trên một hay nhiều lãnh thổ khác. Thuật ngữ này trong những năm sau Thế chiến II, đề cập cụ thể đến việc phá bỏ các thuộc địa đế quốc được thành lập trước Thế chiến I trên toàn thế giới. Tuy nhiên, việc phi thực dân hóa không chỉ đề cập đến việc "loại bỏ sự thống trị của các lực lượng không phải là người bản xứ" trong không gian địa lý và các thể chế khác nhau của người dân thuộc địa, nhưng nó cũng đề cập đến việc giải phóng dân trí từ những ý tưởng của những người thực dân đã làm cho người dân thuộc địa cảm thấy kém cỏi. Ủy ban Đặc biệt của Liên hợp quốc về Phi thực dân hóa đã tuyên bố rằng trong quá trình phi thực dân hóa, không có sự thay thế nào đối với bên đi thực dân cho phép một quá trình tự quyết, nhưng trong thực tế việc giải phóng một thuộc địa có thể bao gồm cả cách mạng bất bạo động hoặc các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do các nhóm ủng hộ độc lập khởi xướng.
Động cơ phản lực thường dễ khởi động hơn nhiều so với động cơ đẩy. Và quá trình này khá đơn giản. Đầu tiên, nó cần di chuyển rất nhiều không khí dưới áp lực, tiếp theo là nhiên liệu và bùng nổ. Phần khó khăn của quá trình này là làm sao để nhận đủ khí nén. Để hiểu làm thế nào để động cơ phản lực khởi động, bạn nên biết làm thế nào nó hoạt động. Lấy sơ đồ động cơ phản lực này, giống như sơ đồ cung cấp năng lượng cho ERJ. Động cơ phản lực hút không khí qua cửa hút phía trước, và sau đó đưa không khí qua cánh quạt, nén nó. Trong ERJ, quạt là một giai đoạn duy nhất, có nghĩa là có một hàng mái chèo. Sau đó, hầu hết không khí đi xung quanh động cơ. Nó được gọi là không khí phân luồng (bypass air), và nó được sử dụng cho hầu hết lực đẩy của động cơ, cũng như làm mát. Phần còn lại của không khí đi qua “phần nóng” của động cơ. Đó là phần bị cháy. Không khí đi qua phần nóng được nén thêm nữa, bằng cách đi qua 14 hàng cánh tuabin nén, hay các giai đoạn của lưỡi máy nén. Ở phần cuối của máy nén, không khí nén áp lực cao, lúc này nó cực kỳ nóng do tất cả các lần nén, đi vào một bộ khuếch tán, nơi nó chậm lại. Sau đó, nó di chuyển vào buồng đốt, nơi nó trộn lẫn với nhiên liệu và cháy. Thông thường, hỗn hợp không khí nhiên liệu trong động cơ phản lực cháy liên tục, không giống như trong động cơ đốt trong pittông – cháy theo chu kỳ. Khi nhiên liệu cháy, không khí nóng lên, nhưng lần này nó giãn ra và nó bị đẩy ra ngoài qua các cánh tuabin. Trong ERJ, có năm hàng cánh, được gọi là các giai đoạn. Hai cái đầu tiên là tuabin áp suất cao, và ba cái cuối cùng là tuabin áp suất thấp. Không khí đi qua làm quay các tuabin, sau đó dẫn động một trục nối với quạt và cánh quạt máy nén, và quay chúng. Sau khi đi qua các tuabin, không khí nóng rời khỏi động cơ, tạo ra một lực đẩy mạnh hơn. Vì vậy, để khởi động động cơ phản lực, bạn cần quay máy nén đủ nhanh để nó có thể bắt đầu đẩy khí nén vào bộ khuếch tán và buồng đốt. Đơn giản phải không? Không hẳn như vậy đâu. Trong chuỗi khởi động, lõi động cơ cần quay với tốc độ 14% tốc độ tối đa trước khi bộ phận đánh lửa bắt đầu. Tốc độ lõi động cơ được gọi là N2 và được biểu thị bằng phần trăm RPM tối đa. Trên ERJ, 100% N2 là khoảng 16.000 vòng/phút, do đó động cơ cần đạt 2.200 vòng/phút trước khi bộ phận đánh lửa bắt đầu hoạt động. Sau đó, lõi động cơ cần tăng tốc lên tới 28,5% N2, tức là hơn 4.500 vòng/phút, trước khi động cơ có thể đưa nhiên liệu vào và đốt cháy hỗn hợp. Và khi nó thêm nhiên liệu, nó làm như vậy với khoảng 200 pound (90kg) mỗi giờ. Đó là khoảng 1/2 gallon mỗi phút. Vì vậy, bạn cần rất nhiều khí nén đi vào buồng đốt để xử lý tất cả nhiên liệu đó. Vậy khí nén đến từ đâu? Đối với hầu hết các động cơ phản lực máy bay dân sự, nó đến từ một trong ba nguồn. Đây là một động cơ tua-bin nhỏ, thường nằm gần đuôi máy bay, cung cấp khí nén và điện. Nó cung cấp năng lượng cho hệ thống điện của máy bay trên mặt đất, bổ sung khí nén trong khi bay và hoạt động như một dự phòng xung quanh cho các nhu cầu về điện và khí nén. Và, nó có thể đưa khí nén đến các bộ khởi động tuabin khí của cả hai động cơ. Nó đủ nhỏ có thể khởi động bằng ăc quy. Vì vậy, khi bạn khởi động máy bay phản lực, trước tiên bạn phải khởi động APU. Nhưng nếu nó bị hỏng thì sao? (Điều này xảy ra thường xuyên hơn bạn nghĩ.) Trong trường hợp đó, bạn sẽ cần một nguồn khí nén bên ngoài. Đó là một máy nén khí móc vào bên cạnh máy bay và cung cấp khí nén cho động cơ khởi động. Nó cũng được gọi là một đơn vị khởi động khí. Nguồn khí nén thứ ba là từ một động cơ đang chạy. Động cơ tua-bin xả khí phân luồng qua hệ thống máy bay, như hệ thống chống băng được làm nóng và hệ thống điều áp cabin. Và, khí nén đó có thể được chuyển từ động cơ này sang động cơ khác. Bạn chỉ cần khởi động một động cơ, mở giao tiếp với động cơ khác, bạn đã sẵn sàng để bắt đầu. Khởi động một động cơ phản lực là khá đơn giản. Bạn cần rất nhiều không khí, một ít nhiên liệu, đánh lửa và động cơ chạy. Bạn đã khởi động xong!
Động cơ phản lực không khí
Động cơ phản lực không khí (jet engine) là một kiểu động cơ sử dụng sức đẩy phản lực, trong đó nhờ luồng khí phụt ra phía sau ở vận tốc cao để tạo ra phản lực đẩy phương tiện về phía trước theo định luật 3 Newton. Trong khi động cơ sử dụng sức đẩy phản lực mang nghĩa rộng hơn, có thể kể đến bao gồm động cơ tên lửa, động cơ phản lực nước, động cơ lực đẩy hybrid, thì thuật ngữ động cơ phản lực không khí-jet engine chỉ bao gồm các động cơ hoạt động trong môi trường không khí, như động cơ turbojet, turbofan, ramjet, hay động cơ phản lực không khí dạng xung (pulse jet).Động cơ phản lực lấy không khí từ môi trường khí quyển bên ngoài (air breathing) (từ đây gọi tắt là hút khí ngoài) thông thường có một khoang có các cánh quạt đảm nhận nhiệm vụ nén khí, các cánh quạt này được dẫn động bởi turbine, cùng với năng lượng từ dòng khí phụt qua miệng xả (ống đẩy-propelling nozzle)—quá trình này còn được gọi dưới cái tên chu trình nhiệt động học Brayton. Vào đầu kỷ nguyên máy bay phản lực, các máy bay sử dụng động cơ tuốc bin phản lực luồng (turbojet) cũng là loại động cơ phản lực có thiết kế đơn giản, loại động cơ này không hiệu quả khi bay ở tốc độ nhỏ hơn tốc độ âm thanh.
Hiệu ứng này xuất hiện trong cuộc sống dưới các hình thức nào?Cối lõi của hiệu ứng này là việc tạo ra kết nối cá nhân.Mánh khoé chiêm tinh, bói toán, xem chỉ tayNhững nội dung kiểm tra tính cách, dự đoán tương lai,… tăng tương tác trên mạng xã hộiNhững nội dung cá nhân hoá từ các nhãn hàngMarketing và quảng cáoHiệu ứng Barnum gây ra nhiều ảnh hưởng, trong đó rõ rệt nhất là về tài chính. Marketing và quảng cáoHiệu ứng Barnum gây ra nhiều ảnh hưởng, trong đó rõ rệt nhất là về tài chính. Hiệu ứng Barnum gây ra nhiều ảnh hưởng, trong đó rõ rệt nhất là về tài chính. “Thuộc cung Thiên Bình, bạn là người yêu cái đẹp và rất có mắt thẩm mỹ.”. Đã bao lần bạn đọc những mô tả tính cách như vậy và ngạc nhiên vì chẳng trật đi đâu? Thật ra đây không phải là điều kì diệu nào cả, mà do một hiện tượng tâm lý có tên là Hiệu ứng Barnum (Barnum Effect). Hiệu ứng này xuất hiện trong cuộc sống dưới các hình thức nào?Cối lõi của hiệu ứng này là việc tạo ra kết nối cá nhân.Mánh khoé chiêm tinh, bói toán, xem chỉ tayNhững nội dung kiểm tra tính cách, dự đoán tương lai,… tăng tương tác trên mạng xã hộiNhững nội dung cá nhân hoá từ các nhãn hàngMarketing và quảng cáoHiệu ứng Barnum gây ra nhiều ảnh hưởng, trong đó rõ rệt nhất là về tài chính. Marketing và quảng cáoHiệu ứng Barnum gây ra nhiều ảnh hưởng, trong đó rõ rệt nhất là về tài chính. Hiệu ứng Barnum gây ra nhiều ảnh hưởng, trong đó rõ rệt nhất là về tài chính. Hiệu ứng Barnum là hiện tượng tâm lý khi ta tin rằng một mô tả tích cực chỉ đúng với mình, nhưng thật ra lại đúng với số đông. Hiệu ứng này là một loại thiên kiến xác nhận (cognitive biases). Hiệu ứng Barnum được đặt tên theo nghệ sĩ xiếc Phineas Taylor Barnum giỏi thao túng người khác bằng mánh khóe tâm lý. Nó được chứng thực bởi nhà tâm lý học người Mỹ Bertram R. Forer qua một thí nghiệm thực hiện năm 1984, vì thế còn được gọi là Hiệu ứng Forer. Ông đưa một bài kiểm tra tính cách cho các học sinh lớp Tâm lý, bỏ qua câu trả lời của họ và đưa cho họ những lời đánh giá tương tự nhau, được sao chép từ một quyển sách chiêm tinh mua tại sạp báo, chẳng hạn như “Bạn muốn được mọi người yêu mến và ngưỡng mộ”, “Bạn thường khắt khe với bản thân”, “Bạn còn những khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác”. Sau bài kiểm tra, đa số sinh viên đánh giá kết quả đều rất đúng với mình. Qua đó ông kết luận rằng, chúng ta rất dễ bị thuyết phục bởi những mô tả khái quát nhưng tích cực về bản thân. Dựa trên nền tảng đó, đối tượng sẽ tiếp tục tin vào những điều được truyền đạt kế tiếp. Những người bói toán đưa ra mô tả đúng với đại đa số, nhưng khách hàng tưởng “lời phán” chỉ dành cho mình, và người xem bói đang “đọc vị” mình bằng khả năng tâm linh. Nhờ đó, khách hàng càng dễ bị thuyết phục bởi những “lời phán” tiếp theo sau và xem nhẹ những lỗi sai nhỏ có thể có. Những bài đăng về tính cách dựa trên tháng sinh, năm tuổi, cung hoàng đạo,… hoặc những video bói tarot online thường có lượt xem và lượt chia sẻ rất cao. Đó là vì chúng luôn đúng với số đông và thường là lời khen, nên chúng ta không ngại chia sẻ và bàn luận với bạn bè. “Album nhạc dành cho tâm trạng của ”, “Những bộ phim phù hợp với ”, nghe thì tưởng như một danh sách tuyển chọn riêng cho từng cá nhân, thật ra chỉ được hệ thống tổng hợp tự động. Thậm chí còn không cần thuật toán, não bạn đã tự liên kết tâm trạng lúc đó với các bài hát rồi. Những nội dung cá nhân hóa sẽ khiến khách hàng yêu thích và trung thành với nhãn hàng hơn. Thuyết phục khách hàng rằng họ là một “kiểu người” đang gặp vấn đề nào đó, và sản phẩm/dịch vụ đang được quảng cáo sẽ giải quyết vấn đề cho họ. Hiệu ứng này giúp nhãn hàng như đang “nói trúng tim đen” của đối tượng mục tiêu, nhờ đó dễ dàng kết nối và thuyết phục họ hơn. Nghiêng về những phát biểu xu nịnh, tập trung vào điểm tích cực, bỏ qua hoặc giảm nhẹ điểm tiêu cực. Chấp nhận những gì phù hợp với hình ảnh mà bản thân tự xây dựng. Mất tiền oan vào những gói dịch vụ “cá nhân hoá”, đọc tâm trí,… thiếu chất lượng. Tự hỏi xem liệu đây là có phải một lời nhận xét chung và luôn đúng trong mọi hoàn cảnh không? Ví dụ, “Bạn là một người có suy nghĩ độc lập.” Có ai lại muốn thừa nhận mình có suy nghĩ dựa dẫm đâu. Luôn nhớ rằng những bài kiểm tra tâm lý cần trải qua rất nhiều năm để chứng thực được giá trị và tính đáng tin cậy. Những bài trắc nghiệm tâm lý trên mạng, trên báo chỉ nên dừng ở mục đích giải trí. Nếu cần đánh giá chuyên môn, hãy tìm đến các chuyên gia trong lĩnh vực đó.
Hiệu ứng Barnum
Hiệu ứng Barnum (hiệu ứng Forer, hiệu ứng Barnum – Forer) là hiện tượng các cá nhân đánh giá cao những mô tả riêng về tính cách họ, nhưng thực ra lại không cụ thể và đúng với nhiều người. Hiệu ứng này có thể giải thích một phần nguyên nhân gây ra sự phổ biến của những niềm tin và hành vi huyền bí như chiêm tinh, bói toán, xem tướng và một số bài kiểm tra tính cách. Những tay lừa đảo chuyên nghiệp thường lợi dụng hiệu ứng này để thuyết phục các nạn nhân rằng trước mặt họ là những người có tài năng huyền bí. Vì những lời tự nhận này không rõ ràng, nạn nhân sẽ tự giải nghĩa, từ đó "cá nhân" hoá các nhận định. Ngoài ra, người ta cũng dễ chấp nhận các đánh giá tiêu cực về bản thân hơn nếu cho rằng người đánh giá là chuyên gia lớn. Nhà tâm lý học Paul Meehl là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Hiệu ứng Barnum", trong bài tiểu luận Wanted - A Good Cookbook của mình. Ông dùng cụm từ này vì thấy có sự tương đồng giữa những nhận định tính cách mơ hồ trong các bài kiểm tra tâm lý "giả thành công" và những màn trình diễn của Phineas Barnum.
Thủ tục cúng Tết Đoan NgọCúng Tết Đoan Ngọ vào lúc nào?Tết Đoan Ngọ nên cúng những gì?Mùng 5 tháng 5 ăn gì?. Mùng 5-5 là ngày gì? Tết Đoan Ngọ 2021 ngày nào? Ý nghĩa Tết Đoan Ngọ (Tết diệt sâu bọ), sự tích, Tết giết sâu bọ ăn gì, cúng thế nào cho đúng. văn khấn Tết Đoan Ngọ. Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam được gọi một cách dân dã là tết diệt sâu bọ. Như vậy, có thể thấy đây là một phong tục Á Đông liên quan đến sự tuần hoàn của tiết trời trong năm. Có những nơi còn gọi là Tết nửa năm. Vì sao Tết Đoan Ngọ gọi là Tết nửa năm trong khi rơi vào tháng 5 âm? Giải thích cho điều này là vì người Việt Nam ở thời cổ đại dùng lịch kiến Tý, tháng đầu năm là tháng 11 , vì vậy Tết Đoan Ngọ (ngày mồng 5 tháng 5) vào thời điểm nửa năm. Trong sách “Phong Thổ Ký”, Tết Đoan Ngọ còn là Tết Đoan Dương. Đoan nghĩa là mở đầy, Ngọ là giữa trưa, Dương là mặt trời, dương khí, vì vậy, Đoan Dương tức là là bắt đầu lúc khí dương đang mạnh. Ý nghĩa ngày Tết Đoan Ngọ 5-5 đây là thời điểm kết thúc mùa vụ, người dân làm lễ thắp hương Tết Đoan Ngọ để tạ ơn trời đất, tổ tiên và mừng mùa vụ, hi vọng mùa màng sắp tới bội thu, và còn theo nguồn gốc Tết Đoan Ngọ xưa kia để cầu mong sâu bọ không phát triển do thời tiết chuyển giao nắng nóng, phòng trừ dịch bệnh cho cây cối, con người. Vào ngày này, cả nhà nhộn nhịp hơn khi dậy sớm chuẩn bị lễ vật cúng tổ tiên, thần linh. Trẻ được bố mẹ cho ăn rượu nếp, cơm nếp cùng hoa quả khi mới ngủ dậy để “diệt sâu bọ” trong người nên vô cùng hứng thú. Nếu bạn chưa biết Tết Đoan Ngọ năm 2021 vào ngày nào thì Tết sâu bọ năm nay vào mùng 5 tháng 5 âm lịch, tức là vào thứ 2 ngày 14/6/2021 dương lịch. Lịch sử Tết Đoan Ngọ Trung Quốc có nguồn gốc từ đâu? Truyền thuyết Tết Đoan Ngọ kể rằng có một vị đại thần thời Chiến Quốc ở nước Sở tên là Khuất Nguyên. Vì ngăn cản vua Hòa Vương không được và bị hãm hại bởi gian thần, ông đã ôm tảng đá nhảy xuống sông Mịch La ngày 5/5. Người dân cố gắng tìm kiếm xác ông nhưng không thấy nên đổ gạo xuống với hi vọng cá không đụng đến thân thể ông. Năm sau vào ngày 5-5, người dân địa phương mang gạo đi thuyền ra sông tế ngài. Về sau thay gạo bằng bánh tro đi thuyền rồng để tế lễ Khuất Nguyên và sau này được gọi là ngày Tết Đoan Ngọ. Một ngày sau mùa vụ người dân ăn mừng mùa màng bội thu, nhưng đầu tháng 5 năm đó sâu bọ nhiều ăn hết cây trái đã thu hoạch. Khi chưa biết phải xử lý sâu bọ thế nào thì một ông lão xưng là Đôi Truân đã chỉ mỗi nhà dân lập đàn cúng gồm trái cây và bánh tro và ra thể dục ở trước nhà. Và điều bất ngờ đã đến, sâu bọ lữ lượt té ngã. Ông lão dặn người dân làm theo như vậy mỗi năm sẽ trị được sâu bọ. Dặn dò xong ông lão đi mất chưa kịp để người dân cảm tạ. Người dân sau này gọi ngày này là ngày giết sâu bọ. Người xưa quan niệm cơ thể người luôn có sâu bệnh cần diệt và đến ngày 505 sẽ lộ diện, đây là dịp tốt để chúng ta diệt trừ chúng bằng rượu nếp và hoa quả. Sáng sớm ngày 5/5, mỗi người sau khi thức dậy đều ăn rượu nếp, thạch và các loại trái cây như mận, đào, roi, sấu,… Dân ta cho hay ăn rượu nếp để sâu bọ say, còn những trái cây khiến cho chúng chết. Em bé chưa biết đi còn được bôi một ít vôi vào hai thái dương, ngực và rốn để tránh nhức đầu, đau bụng. Bên cạnh đó, người dân còn có tục tắm lá mùi, lá xông trừ độc. Đây là một loại cây lá nhỏ mùi khá thơm, giúp tránh được cảm mạo, tăng sức khỏe. Những người sống ở ven sông, biển thì tắm sông, biển thay vì lá mùi. Tham khảo các thông tin Xem phong thủy nhà ở chi tiết và vô cùng hữu ích, đầy đủ trên ancu.me. Một tục lệ nữa còn được thực hiện vào ngày Tết sâu bọ là hái thuốc vào khoảng giờ Ngọ, họ tin rằng những cành, lá và củ đào trong ngày cực dương này đều là vị thuốc tốt. Các loại lá thường được lá gồm ngải cứu, lá mùi, đinh lăng,… Sau khi hái, lá được phơi khô để dùng chữa bệnh. Một số nơi còn giữ tục tết thầy lang, tết thầy học để đền ơn cứu chữa bệnh và dạy dỗ của các thầy lang. Vào ngày tết giết sâu bọ, người Huế hầu như đều ăn thịt vịt. Tại sao Tết Đoan Ngọ ăn thịt vịt? Người Huế giải thích do thịt vịt mát, tốt cho những ngày nắng nóng. Người Huế cũng có tục hái lá như lá chanh, lá vằng, lá ổi để nấu nước uống trong ngày mùng 5/5. Họ tin rằng hái vào giờ chính ngọ và uống vào ngày này sẽ tăng thêm sức khỏe. – Sử dụng chỉ ngũ sắc xanh đỏ đen vàng tết dây đeo cho trẻ hoặc treo giường, nôi trẻ để phòng tránh điều không tốt. – Không nên để giày dép lộn xộn vì giày dép đồng âm với “tà”, để mũi giày dép quay ra ngoài vì quay vào trong giống như dẫn tà khí vào. – Tránh dừng lại ở những nơi âm u vì thường có nhiều âm khí, dễ chiêu dụ tà khí. – Nếu sức khỏe đang không tốt thì Tết sâu bọ có thể có thêm gỗ đào hoặc cành đào để trừ ách. – Vì ngày này vượng dương khí nên uống nước trà hoặc đồ uống mát sẽ tốt cho sức khỏe. Tết Đoan Ngọ vào khoảng thời gian nắng nóng, là thời điểm chuyển mùa, vì vậy sâu bọ cũng phát triển hơn, ảnh hưởng đến cây cối, con người và vật nuôi. Người dân thường làm lễ cúng Tết Đoan Ngọ từ sáng sớm mùng 5 tháng 5 âm lịch. Nhưng vì giờ Ngọ thường bắt đầu từ 11 giờ trưa đến 13 giờ chiều nên thời điểm cúng Tết Đoan Ngọ chuẩn là vào khoảng thời gian này. Lễ cúng ngày Tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 như thế nào? Gia đình sửa soạn đồ lễ cúng gia tiên, Thổ công. Làng xã có lễ thần tại đình, đền, còn thôn xóm cúng ở miếu. Cúng lễ xong thì ăn chứ không đổ xuống sông giống ở Trung Quốc. Các nhà làm thầy thuốc còn có lễ cúng Thánh sư. Tết Đoan Ngọ phải làm gì? Bạn đừng quên ăn rượu nếp Tết Đoan Ngọ trong trong ngày tết mồng 5/5 âm lịch nhé. Bộ phận tiêu hóa của con người thường có các ký sinh sâu trong bụng nên không phải lúc nào cũng diệt được. Quan niệm ngày mùng 5 tháng 5 âm các ký sinh này ngoi lên nên ta cần tận dụng để loại bỏ chúng bằng những đồ ăn chua, cay và chát. Ăn rượu nếp vào buổi sáng thì càng hiệu nghiệm. Tết Đoan Ngọ ăn bánh gì khác ngoài bánh tro. Bánh làm từ gạo nếp ngâm với nước tro các loại cây khô, được gói trong lá chuối và luộc, bánh hoàn thiện có màu vàng đậm. Người ta chọn những loại hoa quả vị chua như mận, xoài, vải,… để ăn vào sáng sớm ngay khi dậy để diệt sâu bệnh trong người. Người miền Trung thường ăn thịt vịt trong Tết Đoan Ngọ để cơ thể mát hơn vì thịt vịt tính mát. Tết Đoan Ngọ miền Nam thường không thiếu chè trôi nước làm từ bột nếp nhân đậu xanh ăn kèm với nước cốt dừa. Tết Đoan Ngọ ở Huế thường ăn chè kê. Kê được xay và bỏ vỏ, ngâm và đun sôi để nở sền sệt, thêm đường và gừng là hoàn thành món chè kê thơm phúc. – Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần. Hôm nay là ngày Đoan Ngọ, chúng con sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, hoa đăng, trà quả dâng lên trước án. Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng, Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần, cúi xin các Ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật. Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ…………………, cúi xin các vị thương xót con cháu chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật. Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng bình an thịnh vượng. Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì. Như vậy, bạn đã hiểu rõ Tết Đoan Ngọ có ý nghĩa gì, Tết Đoan Ngọ thường cúng gì và hướng dẫn cách cúng Tết Đoan Ngọ, văn cúng truyền thống giúp bạn chuẩn bị cho ngày này. Bạn có thể tham khảo thêm nhiều thông tin phong thủy hữu ích khác trên ancu.me. Mùng 5-5 là ngày gì? Tết Đoan Ngọ 2021 ngày nào? Ý nghĩa Tết Đoan Ngọ (Tết diệt sâu bọ), sự tích, Tết giết sâu bọ ăn gì, cúng thế nào cho đúng. văn khấn Tết Đoan Ngọ. Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam được gọi một cách dân dã là tết diệt sâu bọ. Như vậy, có thể thấy đây là một phong tục Á Đông liên quan đến sự tuần hoàn của tiết trời trong năm. Có những nơi còn gọi là Tết nửa năm. Vì sao Tết Đoan Ngọ gọi là Tết nửa năm trong khi rơi vào tháng 5 âm? Giải thích cho điều này là vì người Việt Nam ở thời cổ đại dùng lịch kiến Tý, tháng đầu năm là tháng 11 , vì vậy Tết Đoan Ngọ (ngày mồng 5 tháng 5) vào thời điểm nửa năm.
Tết Đoan ngọ
Tết Đoan Ngọ hoặc Tết Đoan Dương (ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch) là một ngày Tết truyền thống tại một số nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tết Đoan Ngọ tồn tại từ lâu trong văn hóa dân gian phương Đông và có ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa. Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là khoảng thời gian từ 11 giờ trưa tới 1 giờ chiều, và ăn Tết Đoan Ngọ là ăn vào buổi trưa. Đoan ngọ lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, ở gần trời đất nhất trùng với ngày hạ chí. Tết Đoan Ngọ còn được gọi là Tết Đoan dương. Theo triết lý y học Đông phương thì hỏa khí (thuộc dương) của trời đất và trong cơ thể của con người trong ngày Đoan ngọ đều lên đến tột bậc. Người Việt Nam còn gọi Tết Đoan Ngọ là Tết giết sâu bọ, là ngày phát động bắt sâu bọ, tiêu diệt bớt các loài gây hại cho cây trồng trên cánh đồng, trong đó nhiều loài sâu có thể ăn được và chúng được coi như là chất bổ dưỡng. Truyền thuyết về lịch sử ngày mùng 5 tháng năm được lưu truyền khác nhau ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nghệ thuật là một loạt các hành động đa dạng của con người nhằm tạo ra hình ảnh, âm thanh hoặc những tác phẩm biểu diễn (tác phẩm nghệ thuật) giúp thể hiện trí tưởng tượng, những ý tưởng, tư tưởng hoặc kỹ năng của tác giả, với mong muốn được trân trọng vì cái đẹp cũng như sức mạnh cảm xúc của chúng. Dù có được định nghĩa thế nào thì nghe khái niệm này vẫn quá rộng. Khi áp dụng những thuật ngữ này, thì tác phẩm “Laocoon và con trai” và “Artist’s Shit (đống phân của người nghệ sỹ)” được coi là những tác phẩm ngang bằng nhau. Khái niệm là công cụ để chúng ta có những cách hiểu, cách diễn đạt chính xác về thế giới. Nhìn chung, một khái niệm càng rộng thì sẽ càng khó để ta phân biệt giữa thứ này với thứ khác, và mức độ hữu ích của khái niệm đó cũng giảm dần nếu ta muốn sử dụng chúng với mục đích cụ thể hơn. Điều này đúng với cả khái niệm về “nghệ thuật” lẫn khái niệm về “con chó”. Tôi có thể nói rằng chó là một loài vật có 4 chân và có lông. Nhưng như vậy, theo định nghĩa này, thì tất cả những con như con chuột, ngựa vằn, mèo, hổ hay con cầy sẽ đều là chó hết, định nghĩa này không có ích mấy. Tất nhiên là sẽ chẳng sai khi ta nói chó là một loài vật có bốn chân và có lông. Việc mà tôi làm trước đó thực chất chỉ là đưa ra khái niệm về loài để ta có thể dễ dàng xác định loài chó. Điều này tương tự với định nghĩa của Wikipedia về nghệ thuật: nghệ thuật được định nghĩa như một loại để ta có thể phân loại những tác phẩm của con người. Từ “nghệ thuật” cũng là một thuật ngữ chỉ loại nói chung. Đây là cách duy nhất để ta có thể hiểu khái niệm của Wikipedia và thấy sự hữu dụng của nó. Nó không định nghĩa về “con chó”, mà là về “họ chó”; không phải về “con mèo” mà là về “họ mèo”, v.v. Thật không nên khi so sánh tính nghệ thuật giữa “Artist’s Shit” và “Laocoon và con trai”, vì cả hai đều được định nghĩa dưới thuật ngữ “nghệ thuật”, mà tại thời điểm này, nó chỉ có nghĩa tương tự như “những biểu cảm của con người”. Tranh cãi về luận điểm này sẽ chẳng khác gì việc đi tranh cãi xem con chó hay con gấu giống loài họ chó hơn. Điều này chẳng có nghĩa lý gì cả: cả hai con, theo định nghĩa, đều thuộc họ chó. Khi mọi người nói những câu như, “cái này không phải là nghệ thuật”, hoặc “cái kia không phải là nghệ thuật”, tức là họ đang kém hơn đại đa số mọi người về mặt ngôn ngữ (ít nhất là với số đông mọi người cùng đang nói về nghệ thuật). Mặc dù để có một định nghĩa chính xác là rất khó, tuy nhiên đã có thời điểm trong quá khứ, tại các bài phát biểu đại chúng, nghệ thuật được định nghĩa với những thuật ngữ cụ thể hơn, tức là, những thuật ngữ tiếp cận những dấu hiệu đặc trưng. Dấu hiệu đặc trưng là những yếu tố của một vật hoặc một khái niệm giúp ta phân biệt thứ mà ta đang cố gắng định nghĩa (thứ đang được định nghĩa) với những vật khác hoặc khái niệm khác trên thế giới, đặc biệt là giữa những vật trong cùng một họ, vì chúng là những đối tượng dễ gây hiểu lầm nhất. Thuộc về một nhóm đối tượng rất hạn chế đã từng là một phần của dấu hiệu đặc trưng của “nghệ thuật”, do vậy kể cả một con dao trang trí hoặc một chiếc bô có đẹp đến đâu, nó cũng không thể được coi là “nghệ thuật” được. Bạn vẫn có thể thấy những dấu hiệu này trong sự khác biệt dù-vẫn-hiện-hành-nhưng-có-dấu-hiệu-bị-phai-mờ giữa “tác phẩm nghệ thuật” và “đối tượng nghệ thuật”, trong đó tác phẩm nghệ thuật thực sự là những bức tranh vẽ, kiến trúc, thơ ca, âm nhạc và tượng điêu khắc, còn đối tượng nghệ thuật là tất cả những gì còn lại được tạo ra bởi óc thẩm mỹ của con người. Do ý nghĩa của từ thay đổi khá chậm và không đồng đều giữa các cộng đồng khác nhau, ví dụ nghĩa cổ hơn của từ “nghệ thuật” – nghĩa với dấu hiệu đặc trưng bị hạn chế - vẫn còn phổ biến với một vài người. Khi người dùng từ với nghĩa cổ hơn gặp người dùng từ với nghĩa hiện đại hơn, họ vẫn thường tranh cãi với nhau mà không biết rằng thực chất họ chỉ đang bị nhầm lẫn giữa những thuật ngữ mà thôi. Đó là vấn đề của việc sử dụng từ. Câu hỏi dành cho chúng ta là định nghĩa nào mới là đúng. Chúng ta hiểu định nghĩa về loại, giờ thì cần hiểu các dấu hiệu đặc trưng nữa. Tôi muốn chúng ta cùng phân tích Lý thuyết Nghệ thuật được trình bày khá ngắn gọn bởi Aristotle trong quyển VI của cuốn Đạo Đức học. “Nghệ thuật là một phẩm chất lý trí liên quan tới việc tạo ra (việc tạo ra những vật có thể hoặc không thực sự cần thiết) những suy luận đúng. Ngược lại, thiếu tính nghệ thuật, là một phẩm chất lý trí liên quan tới sự suy luận sai.”. Hầu hết chúng ta đều tự động cảm thấy “Laocoon và con trai” đẹp hơn “Artist’s Shit”, nhưng chúng ta lại không thể nói lí do chính xác tại sao, đặc biệt là khi ta buộc phải thừa nhận rằng cả hai đều thực sự là nghệ thuật. Giờ đây, nhờ có Aristotle, ta có thể đưa ra những đặc trưng rõ ràng hơn. Hãy nghĩ đến tất cả những thứ mà người nghệ sĩ phải hiểu khi tạo ra tác phẩm “Laocoon và con trai”: giải phẫu cơ thể người, giải phẫu cơ thể rắn, tính chất của loại đá mà họ sử dụng để khắc, đặc tính của những công cụ họ sử dụng, v.v. Để có được kiến thức này, người nghệ sĩ đã phải “thực sự suy luận” và sự suy luận này được thể hiện trong ngay chính tác phẩm mà nghệ sĩ tạo ra. Khi sự hiểu biết về hàm ý tác giả càng nhiều, thì lý do chính đáng để tác phẩm đó tồn tại càng lớn, và như vậy thì tác phẩm nghệ thuật đó càng vĩ đại. Đó là lí do tại sao hầu hết mọi người đều công nhận các nhà thờ kiến trúc Gothic đẹp hơn những khối nhà Soviet. Để tạo ra được kiến trúc thứ nhất, yêu cầu ta phải hiểu sâu về hình học, tỉ lệ và màu sắc. Còn để tạo ra kiến trúc thứ hai, ta chỉ cần hiểu biết cơ bản về hình chữ nhật và hình vuông. Có một sự thật rằng tác phẩm nào đẹp hơn thì sẽ thể hiện kiến thức và bao hàm về thế giới nhiều hơn là tác phẩm tầm thường. Tác giả cần hiểu gì để tạo nên “Artist’s Shit”? Họ chỉ cần đi vệ sinh vào trong một cái lon. Định nghĩa của Aristotle giúp đưa ra nền tảng hợp lý và giúp ta phản biện được về thứ tạo nên “tác phẩm nghệ thuật tốt.”. Nếu như ta không hiểu những nền tảng cơ bản của trực giác này, ta sẽ rất dễ có nguy cơ bị rơi vào trạng thái tê liệt hoặc bị thuận theo ý kiến chủ quan (tác phẩm này tốt bởi vì tôi nói vậy) hoặc thuyết chính trị (tác phẩm này tốt vì nó được tạo ra bởi phụ nữ hoặc một người thuộc sắc tộc nào đó). Kẻ thù của óc thẩm mỹ thực sự sau đó sẽ tạo ra sự hoán đổi – họ coi “loại” cũng giống như “dấu hiệu đặc trưng”, và khẳng định rằng do “Laocoon và con trai” và “Artist’s Shit” có cùng những dấu hiệu đặc trưng (mà thực chất là cùng một loại), do đó chúng xứng đáng được trưng bày ngang nhau. Điều này cũng giống như việc tuyên bố con chó và con gấu đều là vật nuôi tốt vì chúng cùng thuộc họ chó vậy. Aristotle cho chúng ta thấy cách phân biệt, cực kỳ rõ ràng và hợp lý, đối với bản thân ta cũng như với người khác, thế nào là nghệ thuật tốt và thế nào là nghệ thuật xấu. Do một bài luận cá nhân hay cũng là một tác phẩm nghệ thuật, bạn có thể áp dụng trực tiếp những tiêu chí của Aristotlevào bài viết của mình. Bạn đã phải tìm hiểu bao nhiêu trước khi viết bài này, kể cả là tìm hiểu bản thân hay thế giới? Có bao nhiêu kiến thức được bao hàm trong tác phẩm mà bạn vừa tạo ra? Mọi thứ đều như nhau, một bài luận cá nhân hàm chứa nhiều kiến thức thường sẽ đánh bại một bài luận mà có ít kiến thức hơn. Theo kinh nghiệm của tôi, học sinh thường có được bài luận hay nhất khi họ tự khám phá về bản thân mình cũng như về thế giới, sau đó liên hệ những sự khám phá đó với nhau. Chắc chắn bạn sẽ hiểu nhiều về cách viết một bài báo cáo, hay một bài luận, và trong quá trình viết bạn cũng phải tìm hiểu thêm rất nhiều, dần dần đến khi hoàn thành bài viết, bạn sẽ thấy mình hiểu về vấn đề hơn lúc đầu nhiều. Bạn cũng có thể sẽ có trải nghiệm ngược lại, thường thấy trong lúc làm bài thi, khi mà bạn thường chỉ viết lại y chang những gì bạn đã biết. Một bài luận cá nhân tốt sẽ có chiều hướng giống trường hợp một hơn. Sau khi hoàn thiện, bạn sẽ tạo ra một tác phẩm bao hàm nhiều sự hiểu biết về bản thân bạn cũng như về thế giới. Theo ngôn ngữ của Aristotle, bài luận của bạn lập luận đúng và hợp lý – nó cũng sẽ có một vẻ đẹp nhất định vì lí do trên. Nếu bài luận cá nhân tạo cảm giác như đang tường thuật lại những gì đã biết hơn là sự khám phá, thì đó sẽ không phải là bài luận tối ưu. Lí do là bởi việc tường thuật lại không phản ánh được sự hiểu biết của bạn về bản thân cũng như về thế giới.
Nghệ thuật
Nghệ thuật (tiếng Anh: art) là một loạt những hoạt động khác nhau của con người và những sản phẩm do những hoạt động đó tạo ra. Bài viết này chủ yếu tập trung vào các môn nghệ thuật thị giác, bao gồm việc tạo ra những hình ảnh hay vật thể trong những lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, đồ họa in ấn, nhiếp ảnh, và những phương tiện truyền thông hình ảnh khác. Kiến trúc thường được xem là một trong các nghệ thuật thị giác; tuy nhiên, giống như các loại hình nghệ thuật trang trí, nó liên quan đến sự sáng tạo ra các vật thể cho những công dụng cụ thể, một điều hoàn toàn khác với, chẳng hạn, hội họa. Âm nhạc, kịch, điện ảnh, múa, và những môn nghệ thuật trình diễn khác, cũng như văn chương, và những phương tiện truyền thông tương tác, được bao gồm trong một định nghĩa rộng hơn về nghệ thuật, gọi chung là các môn nghệ thuật. thông thạo nào, và không phân biệt khỏi các môn thủ công mỹ nghệ hay các ngành khoa học, như y học cũng được coi là một nghệ thuật.
Ngọc trai hay còn được biết đến với tên gọi trân châu là một vật hình cầu được tạo ra từ một cơ thể sống của loại nhuyễn thể như con trai. Ngọc trai được sử dụng phổ biến trong trang sức hoặc cũng có thể tán thành bột để làm mỹ phẩm. Ngọc trai được coi là báu vật được khái thác trong tự nhiên hoặc nuôi cấy để làm đồ trang sức. Trong Đông Y, trân châu được sử dụng làm thuốc do có tính bình, vị hơi ngọt vào được kinh tâm cam thận, có tác dụng an thần, chữa kinh phong, giải độc, tan màn mây ở mắt, ù tai, chóng mặt …. Trước thế kỷ 20, ngọc trai được khai thác chủ yếu bằng cách mò. Các thợ lặn bắt trai, sò ở dưới đáy biển, đáy sông sau đó kiểm tra từng con một. Thông thường khoảng 3 tấn trai sò bắt được thì chỉ có 3 tới 4 con cho những viên ngọc hoàn hảo. Công việc mò ngọc rất nguy hiểm, số lượng ngọc trai khai thác được không nhiều, chính vì thế giá trị của ngọc trai rất đắt và quý hiếm. Ngày nay khi công nghệ nuôi cấy trai phát triển, những món trang sức chủ yếu được làm ra từ loại ngọc trai này. Một con trai sẽ được cấy vật lạ (thường là mảnh vỏ con trai được đánh bóng cùng với một mảnh nhỏ mô của con trai khác) vào cơ quan sinh dục của nó để làm xúc tác tạo ngọc. Những con sò ngọc ở Biển Man và Tahiti thường sống sót qua lần khai khác ngọc đầu tiên và chúng được cấy nhân to hơn và được thả xuống nuôi trong vòng 2 – 3 năm nữa. Phương pháp sản xuất trai lấy ngọc Mikimoto được phát triển thành công bởi một nhóm các nhà khoa học do Nishikawa và Tatsuhei Mise lãnh đạo,thuộc trường đại học Tokyo vào năm 1907 tới 1916. Tuy nhiên công nghệ này không được Mikimoto lấy bản quyền. Ông chỉ có thể sử dụng công nghệ này khi bản quyền được cấp cho Nishikawa hết hạn vào năm 1935. Năm 1916, em trai của Tatsuhei là người đầu tiên sản xuất thành công lứa ngọc trai nuôi trên loài trai Akoya. Năm 1917, Mitsubishi đã áp dụng công nghệ này đối với loại trai Hải Nam ở Philippines và sau đó ở Buton và Palau. Tuy nhiên, tận đến năm 1931 lứa ngọc trai thương mại này mới được sản xuất thành công. Năm 1970, công nghệ nuôi cấy trai lấy ngọc này được áp dụng cho loài trai cho ngọc trai đen Tahiti. Dựa vào nguồn nước, ngọc trai được chia làm hai loại: ngọc trai nước mặn và ngọc trai nước ngọt. Ngọc trai nước mặn là loại ngọc được tạo ra từ những con điệp, hàu bao sống ở các vịnh biển tạo ra. Ngọc trai nước ngọt là loại ngọc được tìm thấy ở những loài trai sò sống ở vùng nước ngọt như ao, hồ, sông, suốt … Phần lớn ngọc trai nước ngọt được nuôi chủ yếu ở Trung Quốc. Dựa theo quá trình tạo ngọc, ngọc trai được chia làm 3 loai: ngọc trai thiên nhiên, ngọc trai nuôi và ngọc trai giả. Ngọc trai thiên nhiên là ngọc trai được tìm thấy ở tự nhiên mà không có tác động nào của con người. Quá trình tạo ngọc hoàn toàn tự nhiên, vô tình một vật thể lạ từ bên ngoài rơi vào bên trong thân, loài vật này sẽ tiết ra những lớp xà cừ bọc lấy vật thể lạ đó, tạo nên ngọc trai. Thông thường những viên ngọc trai thiên nhiên có hình dạng méo mó không tròn đều. Những viên ngọc trai tự nhiên đẹp có giá trị kinh thế rất cao và rất hiếm thấy chúng trên thị trường trang sức. Ngọc trai nuôi hình thành cũng tương tự như ngọc trai thiên nhiên, tuy nhiên cần tới sự can thiệp của con người, để trai bắt đầu quá trình tạo ngọc. Trai sau khi được cấy nhân sẽ được chăm sóc kỹ càng tại các bè nuôi. Sau một thời gian, trai sẽ được đánh bắt để khai thắc ngọc. Ngọc trai giả là loại ngọc được tạo ra từ nhựa, các chất tổng hợp hoặc cao cấp hơn nó được tạo ra từ bột nghiền những viên ngọc trai hoặc vỏ ngọc trai. Ngọc trai nuôi và ngọc trai tự nhiên có vẻ bề ngoài rất giống nhau, nếu phân biệt bằng mắt thường thì rất khó. Tuy nhiên, phía bên trong chúng lại có cấu trúc và thành phần hoàn toàn khác nhau. Nhân ngọc trai tự nhiên rất nhỏ và gần như không thấy, còn các lớp xà cừ dày, đồng tâm. Trong khi đó nhân ngọc trai nhân tạo lớn và lớp xà cừ mỏng, ranh giới giữa nhân và lớp xà cừ là rất rõ ràng. Sử dụng hình ảnh từ phim chụp X-quang bạn sẽ thấy rõ sự khác nhau rõ ràng giữa ngọc trai tự nhiên và ngọc trai nuôi. Bạn cũng có thể phân biệt được ngọc trai nuôi và ngọc trai tự nhiên thông qua hình dạng và màu sắc của chúng. Rất khó để bắt gặp hai viên ngọc trai tự nhiên có cùng hình dạng và màu sắc. Màu sắc: Ngọc trai nước mặn có màu sắc, hình dáng tự nhiên không qua xử lý, mài dũa và mang đặc tính riêng về màu sắc và kích thước vượt trội so với ngọc trai nước ngọt. Ngọc trai nước ngọt nguyên bản có gam màu sáng, tế bào xà cừ mềm và không bền màu, hình dáng không tròn. Nên sau khi khai thác, ngọc trai nước ngọt được xử lý màu, hình dáng trước khi được đưa ra thị trường. Đôi khi những viên ngọc trai nước ngọt lại có màu sắc và hình dáng bắt mắt hơn ngọc trai biển. Độ cứng: Ngọc trai nước mặn có độ cứng xà cừ cao 3.8 – 4.5 trên thang độ cứng Mohs, ngọc trai nước ngọt chỉ đạt 1.8 trên thang độ cứng 10. Vì thế chúng dễ bị xước, ăn mòn. Độ dày của lớp xà cừ: Ngọc trai biển có độ phủ mỗi lớp xà cừ 0.35 đến 6mm. Ngọc trai nước ngọt gần như hoàn toàn là xà cừ. Lý do có sự khác biệt đó là do nhân được cấy vào, ngọc trai nước ngọc chỉ được cấy mô của loài khác mà không được cấy nhân cứng. Độ sáng bóng: Ngọc trai biển có độ sáng bóng vượt trội so với ngọc trai nước ngọt. Dễ dàng nhìn thấy bằng mắt thường khi đặt 2 loại ngọc cạnh nhau vì ngọc trai nước ngọt ít bóng, thậm chí là không bóng trên một số viên. Giá bán: Ngọc trai nước mặn có giá cao gấp 10 lần so với ngọc trai nước ngọt, do chúng sở hữu vẻ đẹp vượt trội và độ quý hiếm. Người ta chế tạo ngọc trai giả để thay thế cả hai loại ngọc trai nước ngọt và nước mặn. Chúng thường được làm bằng thủy tinh, chất dẻo, sáp hay vỏ sò và được phủ bên ngoài bằng những chất liệu khác nhau nhằm làm cho giống vẻ ngoài của ngọc nuôi và tự nhiên. Sau đây là một số cách phân biệt được dùng phổ biến:. Quan sát qua lỗ khoan dưới phóng đại 10 lần. Ngay vị trí lỗ khoan, lớp phủ của ngọc giả có thể bị tưa cạnh, còn ở ngọc trai nuôi và tự nhiên thì rìa lỗ khoan rất sắc nét. Quan sát bề mặt phóng đại 50 lần. Thấy trên bề mặt của ngọc trai thật có các rãnh dạng bậc thang và các rãnh này chồng chất lên nhau và bề mặt ngọc giả thì rất là đều. Cà ngọc trai vào răng, nếu thấy lợn cợn, thô nhám thì đó là ngọc trai thật, ngọc trai giả khi cà có cảm giác trơn, mượt. Giá trị của một viên ngọc trai được đánh giá theo tiêu chuẩn GIA của Hội Ngọc học Hoa kỳ với 5 tiêu chuẩn: Ánh, bề mặt, hình dáng, màu sắc và kích thước. Một viên ngọc trai đạt cả năm tiêu chí trên sẽ có giá trị cao và ngươc lại. Qua bài viết, Eropi Jewerly hy vọng mang đến những thông tin hữu ích, giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về ngọc trai.
Ngọc trai
Ngọc trai (Hán-Việt: 珍珠, trân châu) là một vật hình cầu, cứng được một số loài vật tạo ra, chủ yếu là loài thân mềm (nhuyễn thể) như con trai. Ngọc trai được sử dụng làm đồ trang sức và cũng được tán thành bột để dùng trong mỹ phẩm. Ngọc trai được đánh giá là một loại đá quý và được nuôi và thu hoạch để làm đồ trang sức. Ngành Đông y cho rằng trân châu có vị hơi ngọt tính bình vào được kinh tâm can thận, có tác dụng phối hợp chữa kinh phong, an thần, giải độc, tan màn mây ở mắt, trở ngại tuần hoàn nước mắt, ù tai, xây xẩm. Trước thế kỷ 20, mò ngọc trai là cách phổ biến nhất để thu hoạch ngọc trai. Các thợ lặn thường bắt sò/trai từ đáy biển hoặc đáy sông và kiểm tra từng con một để tìm ngọc. Không phải tất cả sò/trai tự nhiên đều tạo ra ngọc. Thông thường một mẻ 3 tấn trai/sò chỉ tìm được 3 hoặc bốn con có viên ngọc hoàn hảo. Việc mò ngọc ở Việt Nam được nhắc đến nhiều trong sử sách, có lẽ nổi tiếng nhất được nêu trong tuyên ngôn độc lập Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, trong đó Nguyễn Trãi đã tố cáo việc quân xâm lược nhà Minh đã bóc lột dân Việt Nam bằng việc bị buộc phải xuống biển mò ngọc trai để cống nộp cho nhà Minh.
Tội ác chiến tranh gây ra bởi các lực lượng vũ trang của nước Nga Xô Viết và Liên Xô từ 1919 đến 1991 bao gồm các hành vi vi phạm của quân đội chính quy của Hồng quân (sau này gọi là quân đội Liên Xô) cũng như NKVD, bao gồm cả lực lượng thuộc bộ nội vụ Nga. Trong một số trường hợp, những hành động này có thể được thực hiện theo yêu cầu rõ ràng của chính phủ Liên Xô nhằm chống lại quân đội kẻ thù. Trong trường hợp khác, các tội ác được thực hiện một cách tự phát, là sự trả thù của cá nhân binh sỹ chống lại các nước có xung đột với Liên Xô hoặc xâm chiếm Liên Xô (ví dụ như là trả thù cho tội ác chiến tranh của Đức Quốc xã gây ra với người thân của họ tại quê nhà), hoặc trong quá trình chống các phe phái chiến tranh. Liên Xô đã không công nhận Các công ước Den Haag 1899 và 1907 do Đế quốc Nga ký kết có tính ràng buộc, và từ chối công nhận chúng cho đến năm 1955. Điều này tạo một tình trạng trong đó các hành vi trả thù của các lực lượng vũ trang của Liên Xô không bị coi là bất hợp pháp. Việc từ chối của Liên Xô công nhận các công ước Den Haag 1899 và 1907 cũng đã cho Đức Quốc xã lý do để xử lý vô nhân đạo bắt giữ nhân viên quân sự của Liên Xô. Trong cuộc nội chiến Nga, ước tính khoảng 100.000 người Do Thái thiệt mạng trong cuộc tàn sát gây ra bởi lực lượng ly khai dân tộc Ukraina (cầm đầu bởi Symon Petlyura) và lực lượng do Anton Deniki. Lực lượng vũ trang duy nhất trong cuộc Nội chiến Nga không khủng bố người Do Thái là Hồng quân Liên Xô. Người Do Thái đã coi Hồng quân là người bảo vệ của họ, nhiều thanh niên người Do Thái gia nhập Hồng quân để trả thù tội ác chống lại gia đình của họ. Lãnh đạo Liên Xô có một “sự khinh miệt hoàn toàn” đối với chủ nghĩa bài bài Do Thái và những biện pháp mạnh mẽ đã được thực hiện bởi chính quyền Liên Xô để ngăn chặn việc binh sỹ có hành vi thô bạo với người Do Thái. Tuy nhiên, một số đơn vị Hồng quân có kỷ luật kém vẫn gây ra những cuộc giết hại người Do Thái trong cuộc nội chiến và Chiến tranh Nga Xô-Ba Lan 1919-1920,đặc biệt là tại Baranovichi. Những vi phạm này đã được thực hiện bởi các trung đoàn Boguny và Tarashchany, vốn là thành viên của lực lượng dân tộc ly khai Petlyura của Ukraina (Bạch vệ) và chỉ mới chuyển sang tham gia quân đội lực lượng Hồng quân của Semyon Budyonny nên vẫn quen thói vô kỷ luật và tinh thần bài Do Thái cực đoan của các chỉ huy Bạch Vệ. Tuy nhiên, chỉ có một số nhỏ các những vụ giết hại là do Hồng quân, còn đại đa số các hành vi tập thể bạo lực trong khoảng thời gian này chủ yếu gây ra bởi các lực lượng chống Hồng quân và nhưng người lính theo chủ nghĩa dân tộc. Các vụ giết hại người Do Thái bị lên án mạnh mẽ bởi chỉ huy cao cấp của Hồng quân và đơn vị thực hiện tội ác đã bị giải giáp, trong khi tòa án quân sự Liên Xô đã xét xử các cá nhân phạm tội. Việc kết tội đã được thực hiện. Hồng quân thường đã hỗ trợ cho NKVD, có là một trong những chức năng thực hiện của sự trấn áp chính trị. Chức năng chính của NKVD là để bảo vệ an ninh quốc gia của Liên Xô, được thực hiện bằng các vụ truy bắt chính trị quy mô lớn chống lại “kẻ thù giai cấp”. Là một lực lượng an ninh nội bộ và đội ngũ bảo vệ nhà tù Gulag, quân nội bộ cả hai có nhiệm vụ bắt giữ những nhân vật chống Nhà nước và tham gia vào tội ác chiến tranh trong thời kỳ chiến sự quân sự trong suốt lịch sử của Liên Xô. Họ đã được cụ thể chịu trách nhiệm cho việc duy trì các chế độ chính trị trong các Gulag và tiến hành trục xuất hàng loạt và tái định cư bắt buộc. Loại thứ hai nhắm mục tiêu một số nhóm dân tộc thiểu số mà chính quyền Xô Viết coi là thù địch với chính sách của mình và có khả năng cộng tác với kẻ thù, bao gồm cả Chechnya, Crimean Tatars, và Hàn Quốc. Trong Thế chiến II, chuỗi các vụ xử bắn hàng loạt được thực hiện bởi NKVD Liên Xô đối với tù nhân ở Đông Âu, chủ yếu là Ba Lan, các nước Baltic, Romania, Ukraine và các bộ phận khác của Liên Xô, Hồng quân sau đó rút lui trước cuộc xâm lược của Đức năm 1941 (Chiến dịch Barbarossa). Tổng số người bị xử bắn là hàng chục ngàn. Có nhiều báo cáoveefe các hành vi trả thù của các lực lượng vũ trang của Liên Xô chống lại quân nhân Đức Quốc xã (Wehrmacht) và các binh sĩ không quân Đức từ đầu của chiến tranh, các tài liệu trong hàng ngàn tập tin của Cục tội phạm chiến tranh Wehrmacht, 1939-1945, một văn phòng được thành lập vào tháng 9 năm 1939 đến điều tra các hành vi vi phạm các Công ước Hague và Geneva bởi kẻ thù của Đức. Trong số các tài liệu có vụ thảm sát là những người ở Broniki (June 1941), Feodosia (tháng 12 năm 1941) và Grischino (1943). Liên Xô triển khai bom khí mù tạt trong cuộc xung đột của Liên Xô ở Tân Cương. Một số dân thường bị thiệt mạng do bom thông thường trong cuộc xung đột. Estonia đã được sáp nhập vào Liên Xô ngày 6 tháng 8 năm 1940 và đổi tên thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Estonia. Năm 1941, khoảng 34.000 người Estonia đã phải gia nhập vào Hồng quân để chiến đấu chống Đức Quốc xã, trong đó có dưới 30% sống sót sau chiến tranh. Sau khi Đức xâm lược Estonia thành công, các tù nhân chính trị đã phải di tản được thực hiện bởi NKVD, để họ không liên lạc được với chính phủ Đức Quốc xã. Hơn 300.000 người Estonia, khoảng một phần ba dân số thời đó, đã bị ảnh hưởng bởi lệnh trục xuất, bắt giữ và các hành vi khác. Dân số Estonia trong thế chiến 2 đã giảm đi ít nhất 200.000 người hay 20% dân số do tác động của sự trục xuất, di tản, và chiến tranh. Lực lượng Liên Xô ở Estonia đã gặp phải sự đối đầu bởi nhóm vũ trang Anh em của rừng (Forest Brothers), chủ yếu là người Estonia đã từng chiến đấu cho lực lượng quân Waffen-SS Omakaitse của Đức Quốc xã, và 200 tình nguyện viên trong Trung đoàn Bộ Binh Phần Lan đã mở một cuộc chiến tranh du kích, mà đã không hoàn toàn bị trấn áp cho đến khi cuối năm 1950. Năm 1939, theo thỏa thuận của Hiệp ước Molotov-Ribbentrop giữa Liên Xô và Đức Quốc xã, Latvia đã sáp nhập và hợp nhất nhập vào Liên Xô ngày 05 tháng tám 1940. Việc thành lập của một quốc gia vệ tinh, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Latvian, dẫn đến kết quả là hàng loạt các vụ bắt giữ, phá vỡ các hệ thống kinh tế và văn hóa Latvia. Có hơn 200.000 ở Latvia bị bắt giữ hoặc thẩm vấn, trong đó 60% bị trục xuất tới các trại cải tạo lao động của Liên Xô(Gulag) ở Siberia và Viễn Đông. Hơn 260.000 người Latvia đã di tản khỏi đất nước. Hồng quân tiến vào Litva ngày 15 tháng 6 năm 1940 và cho việc sáp nhập và hợp nhất vào Liên Xô ngày 03 Tháng 8 năm 1940. Từ 1940-1941, hàng ngàn người Litva đã bị bắt và hàng trăm tù nhân chính trị bị tuyên án xử bắn. Hơn 17.000 người bị trục xuất đến Siberia vào tháng 6 năm 1941. Sau khi cuộc tấn công của Đức vào Liên Xô, bộ máy chính trị của Liên Xô mới bắt đầu bị phá hủy hoặc rút lui về phía đông. Litva sau đó đã được chiếm bởi Đức Quốc xã trong một ít hơn ba năm. Trong năm 1944, Liên Xô trở lại Litva sau khi quân đội Đức thất bại. Người ta ước tính rằng Litva mất đi gần 780.000 công dân như là một kết quả của thế chiến 2, trong đó khoảng 440.000 người chạy sang nước khác để tị nạn chiến tranh. Trong thời gian diễn ra vụ bạo động tại Litva vào năm 1990, quân đội Liên Xô nổ súng giết chết 13 người biểu tình tại thủ đô Vilnius. Trong tháng 9 năm 1939, Hồng quân tấn công vào miền đông Ba Lan và chiếm nó theo quy định của Hiệp ước Molotov-Ribbentrop. Liên Xô sau đó còn chiếm các nước vùng Baltic và các bộ phận của Romania, bao gồm cả Bessarabia và Bắc Bukovina. Chính sách của Liên Xô trong tất cả các khu vực này là hà khắc đối với những người dưới sự kiểm soát của nó, cho thấy các yếu tố mạnh mẽ của thanh trừng sắc tộc. Lực lượng NKVD có nhiệm vụ theo Hồng quân để loại bỏ các phần tử thù địch Liên Xô tại các vùng lãnh thổ này. Trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô, các thành viên của SED đã báo cáo cho Stalin cướp bóc và hãm hiếp bởi binh lính Liên Xô có thể dẫn đến một phản ứng tiêu cực của dân Đức đối với Liên Xô và hướng tới tương lai của chủ nghĩa xã hội ở Đông Đức. Stalin đã phản ứng một cách giận dữ: “Tôi sẽ không tha thứ bất cứ ai kéo danh dự của Hồng quân qua bùn.” Stalin ra lệnh các đơn vị siết chặt kỷ luật và trừng phạt mọi binh sĩ tham gia cướp bóc hoặc hãm hiếp. Theo đó, tất cả bằng chứng, chẳng hạn như báo cáo, hình ảnh, và các văn bản khác về cướp bóc, hãm hiếp, đốt cháy của các trang trại và làng mạc của Hồng quân đã được xóa tất cả các kho lưu trữ ở Đông Đức sau này. Trong cuốn người Nga ở Đức: Một lịch sử của Khu vực Liên Xô chiếm đóng, 1945-1949, Norman Naimark đã viết rằng không phải chỉ làm mỗi nạn nhân có mang theo những chấn thương trong phần còn lại đời họ, nhưng nó cũng gây ra một chấn thương lớn tập thể tại Đông Đức cũ (Cộng hòa Dân chủ Đức). Naimark kết luận rằng “tâm lý xã hội của phụ nữ và nam giới trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô được đánh dấu bởi việc tội phạm hiếp dâm từ những ngày đầu tiên của chiếm đóng, thông qua việc thành lập Đông Đức vào mùa thu năm 1949, cho đến khi, người ta có thể tranh luận, trình bày. Trong cuộc vây hãm Budapest ở Hungary khoảng 40.000 dân thường bị thiệt mạng, với một số không rõ chết vì đói và bệnh tật. Trong cuộc bao vây, một số nguồn phương Tây cho rằng khoảng 50.000 phụ nữ và trẻ em gái bị hiếp dâm. Mặc dù một trật tự văn bản không tồn tại, có một số tài liệu mô tả hành vi của Hồng quân. Một trong số đó là một báo cáo của sứ quán Thụy Sĩ tại Budapest, mô tả nhập Hồng quân vào thành phố vào năm 1945, nó khẳng định: “Trong cuộc bao vây Budapest và cũng trong những tuần sau, quân đội Nga cướp phá thành phố một cách tự do. Họ bước vào thực tế mỗi nơi cư trú, rất nghèo cũng như những người giàu nhất. Họ đã lấy đi tất cả mọi thứ họ muốn, đặc biệt là thực phẩm, quần áo và vật có giá trị… mỗi căn hộ, cửa hàng, ngân hàng,… đã cướp phá nhiều lần. Nội thất và các những vật có giá trị lớn về nghệ thuật,… mà có thể không được lấy đi thường chỉ đơn giản là bị phá hủy. Trong nhiều trường hợp, sau khi cướp bóc, những ngôi nhà cũng đã bị đốt cháy, gây ra một tổng tổn thất lớn….Két sắt ngân hàng đã bị dọn sạch,mà không có ngoại lệ nào ngay cả các két sắt ngân hàng của Anh và Mỹ và bất cứ điều gì được tìm thấy đều bị lấy đi.”. Mặc dù Hồng quân đi qua là một phần rất nhỏ của Nam Tư năm 1944,nhưng các hoạt động của nó có gây ra mối quan tâm lớn cho đảng Cộng sản Nam Tư, vì họ sợ rằng việc hãm hiếp và cướp bóc bởi các đồng minh Liên Xô của họ sẽ làm suy yếu vị thế của họ với dân chúng. Ít nhất 121 trường hợp bị hãm hiếp đã được ghi nhận sau này, 111 trong đó là còn giết người sau khi hiếp dâm. Tổng cộng có 1.204 trường hợp cướp bóc với cuộc tấn công được ghi. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Vlado Clementis từng phàn nàn với Marshal I.S. Konev về những hành vi phạm pháp của một số binh sỹ quân đội Xô Viết ở Slovakia. Tướng Konev trả lời rằng những hành vi này chỉ là cá biệt, được thực hiện chủ yếu là do các tốp lính Hồng quân đã bỏ trốn khi đào ngũ. Sau khi tuyên chiến với Đế quốc Nhật Bản vào giai đoạn cuối Thế chiến II, 700.000 quân Xô Viết đã đánh chiếm Đông Bắc Trung Quốc (Mãn Châu), khi đó đang nằm dưới sự chiếm đóng của Nhật. Binh sỹ Liên Xô lấy đi tất cả tài sản có giá trị và thiết bị công nghiệp nhằm triệt tiêu khả năng sản xuất của Đế quốc Nhật, đồng thời ngăn không cho quân Nhật tẩu tán tài sản đến các vùng khác. Tuy nhiên, hành động mang mục đích quân sự này cũng gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân địa phương. Một người nước ngoài đã chứng kiến những người lính quân đội Xô Viết, trước đây đóng quân tại Berlin, đã tích cực phá dỡ tài sản tại thành phố Thẩm Dương. Binh sĩ bị kết án sau đó đã được thay thế, những người làm chứng nói rằng họ “ăn cắp tất cả mọi thứ trong tầm nhìn, phá cửa vào bồn tắm và nhà vệ sinh với búa, kéo dây điện, đốt nhà, và nói chung cư xử hoàn toàn như những người man rợ. Tại Cáp Nhĩ Tân (Trung Quốc), người dân đăng các khẩu hiệu như “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc đỏ” để phản đối cuộc tấn công của Liên Xô. Lực lượng Liên Xô bị những phản đối từ các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc về các vụ hiếp dâm và cướp bóc. Phía Trung Quốc yêu cầu sỹ quan Liên Xô trừng trị các binh sỹ vô kỷ luật để chấm dứt tình trạng này Sau chiến tranh, Liên Xô đã bàn giao lại các tài sản tại vùng Mãn Châu cho chính phủ Trung Quốc. Tháng 1 năm 1945, hồng quân Liên Xô đang trên đà phản công tiến vào nước Đức đang thoi thóp từ phía Đông.
Chiến tranh Liên Xô–Phần Lan (1939–1940)
Chiến tranh Mùa đông (tiếng Phần Lan: talvisota, tiếng Thụy Điển: vinterkriget, tiếng Nga: Зи́мняя война́, chuyển tự. Zimnyaya voyna) hay Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940 là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan trong bối cảnh thời kỳ đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi quân đội Đức đã tràn vào Áo, Tiệp Khắc, và sau đó là Ba Lan. Cuộc chiến tranh ngắn nhưng khốc liệt này diễn ra vào một trong những mùa đông khắc nghiệt nhất thế kỷ 20, có thời điểm binh lính hai bên đã phải chiến đấu trong điều kiện nhiệt độ tụt xuống mức −43 °C (−45 °F). Ngày 5 tháng 10 năm 1939, Stalin đề nghị Phần Lan trao đổi một phần lãnh thổ của nước này với Liên Xô (biên giới Phần Lan lùi vào 15–30 km ở eo đất Isthmus tới phía đông Vyborg, các đảo trên vịnh Phần Lan và bán đảo Rybachy, cho Liên Xô thuê bán đảo Hanko trong 30 năm để xây một căn cứ quân sự; đổi lại Phần Lan sẽ lấy hai vùng Repola và Porajärvi từ vùng Đông Karelia, Liên Xô) với lí do là để đảm bảo an ninh vùng biên giới phía bắc (đặc biệt là Leningrad, do thành phố này chỉ cách biên giới thời đó 20 km).
Hợp đồng lao động (Labour contract) là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Hợp đồng lao động là một trong các dạng hợp đồng có bản chất của hợp đồng dân sự. Do đó, hợp đồng lao động có những đặc điểm chung như các loại hợp đồng dân sự khác. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của quan hệ lao động, loại hợp đồng này có những nét riêng. Người lao động là người đủ 15 tuổi trở lên và có khả năng lao động. Trường hợp đặc biệt, người chưa đủ 15 tuổi có thể tham gia hợp đồng lao động nhưng phải có văn bản đồng ý và theo dõi của cha mẹ, hoặc người giám hộ. Người sử dụng lao động có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Nếu người sử dụng lao động là cá nhân thì phải đủ 18 tuổi trở lên và có đủ các điều kiện để thuê, sử dụng lao động. Người sử dụng lao động là tổ chức bao gồm tổ chức có tư cách pháp nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân. - Thứ hai, đối tượng của hợp đồng lao động là việc làm có trả công. Việc làm mà người lao động đảm nhiệm là một công việc theo một nghề chuyên môn hoặc một chức trách nhất định. Sự thỏa thuận giữa các bên bị khống chế bởi những giới hạn pháp lí nhất định. Chẳng hạn, các qui định pháp luật về thời gian làm việc, nghỉ ngơi, về mức tiền công tối thiểu, về đình công,. - Thứ tư, hợp đồng lao động thể hiện sự phụ thuộc pháp lí giữa người lao động và người sử dụng lao động. Theo đó, người sử dụng lao động có quyền trực tiếp quản lí, điều hành hoạt động của người lao động; giám sát người lao động về thực hiện công việc đã thỏa thuận; quyết định trả lương, tiền công, tiền thưởng,. cho người lao động. Những công việc được thỏa thuận trong hợp đồng lao động phải do chính người kí kết hợp đồng thực hiện. Nếu không được sự chấp thuận của người sử dụng lao động, người lao động không được chuyển giao việc thực hiện hợp đồng cho người khác. - Hợp đồng lao động không xác định thời hạn: là hợp đồng trong đó các bên không thỏa thuận về thời hạn chấm dứt hợp đồng. Loại hợp đồng này được giao kết nhằm thực hiện các công việc mà không thể xác định rõ thời điểm kết thúc công việc đó. Hoặc theo thỏa thuận của các bên, hợp đồng được giao kết để thực hiện các công việc có thời hạn trên 36 tháng. - Hợp đồng lao động có tính chất thời vụ, là hợp đồng có thời hạn thực hiện 3 tháng, 6 tháng, hoặc dưới 12 tháng. Hợp đồng này được giao kết để thực hiện các công việc có thể hoàn thành trong khoảng thời gian ngắn (dưới 12 tháng) hoặc để thay thế người lao động tạm thời nghỉ việc vì những lí do nhất định.
Hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động là văn bản thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, trong đó quy định điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Hợp đồng lao động được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, phù hợp với các quy định của pháp luật lao động. Trong thời gian thực hiện hợp đồng lao động các bên ký kết có thể thỏa thuận sửa đổi nội dung của hợp đồng lao động. Trong trường hợp có sự thay đổi của một trong những nội dung chủ yếu về điều kiện lao động thì người lao động có quyền ký hợp đồng lao động mới. Khi bắt đầu một công việc, người lao động và người sử dụng lao động cần quan tâm và thống nhất hợp đồng lao động.
Đá phạt gián tiếp là gì? Trong tình huống nào thì cầu thủ sẽ bị trong tài phạt lỗi này? Là một người chơi bóng thì chắc chắn phải trang bị những kiến thức về luật lệ, quy định trong bóng đá. Nếu bạn là người mới và chưa có sự am hiểu về vấn đề này thì đừng bỏ lỡ bài viết dưới đây của Keo8386 nhé. Với những người tìm hiểu về bóng đá, chơi bóng đá lâu năm nhất định sẽ biết về đá phạt gián tiếp. Đá phạt trực tiếp thì cầu thủ sẽ thực hiện đá ở ngoài vòng cấm. Còn với đá phạt đền thì cầu thủ sẽ thực hiện ngay trên chấm luân lưu. Còn tình huống đá phạt gián tiếp sẽ không giống với 2 hình thức đá phạt trên. Đội bóng thực hiện đá phạt có thể đá ở tất cả các vị trí ở trên sân. Khi thực hiện đá phạt gián tiếp thì không thể ghi bàn như hai tình huống đá phạt trực tiếp và đá phạt đền. Cầu thủ cần thực hiện bằng cách chạm bóng với một cầu thủ khác và nếu có bàn thắng thì nó được công nhận. Đây là một điểm đặc biệt của tình huống đá phạt này. Trong bóng đá, khi cầu thủ đội nhà chuyền bóng về cho thủ môn theo luật thì thủ môn không được phép dùng tay bắt bóng trong vòng cấm. Thay vào đó, thủ môn cần phải dùng chân. Và nếu thủ môn bắt bóng bằng tay thì đối phương sẽ được ăn một quả đá phạt gián tiếp ở trong vòng cấm. Để không gặp phải lỗi này thì thủ môn cần chú ý khi cầu thủ đội nhà đưa bóng về phía mình thì thủ môn cần khống chế nhịp đầu tiên bằng chân. Những quả phạt gián tiếp dựa vào quyết định của trọng tài. Trong những trường hợp nào sẽ dẫn đến lỗi đá phạt gián tiếp? Chúng ta có thể chia tình huống thành 2 phần đó là: Thủ môn và những cầu thủ còn lại. – Thủ môn kéo dài thời gian, không nhanh chóng đưa bóng vào trận. Cụ thể nếu thủ môn giữ bóng trên tay mình lâu hơn 6 giây thì sẽ bị phạt gián tiếp. Trường hợp này, trọng tài sẽ tính là câu giờ và đây không phải là hành động đẹp trong bóng đá. – Thủ môn đã chạm vào bóng tuy nhiên không bắt bóng một cách chặt chẽ và gọn gàng khi đối thủ có ý định cướp bóng. Trường hợp này cũng có thể giúp đối phương có đá phạt gián tiếp trong vòng cấm. – Khi đã đưa bóng vào trận, thủ môn cần chờ đợi một cầu thủ khác ở trên sân chạm vào bóng thì mới có thể được phép bắt lại. Thủ môn bị phạt lỗi đá phạt gián tiếp nếu chạm hoặc bắt bóng khi chưa có cầu thủ nào khác chạm bóng. – Nếu cầu thủ đội nhà cố tình sử dụng chân để chuyền bóng về thì thủ môn không được phép dùng tay để bắt bóng. Thủ môn chỉ được phép dùng tay khi đồng đội dùng đầu chuyền bóng về. – Khi đồng đội ném biên về thì thủ môn không được phép chạm hoặc bắt bóng. Thay vào đó, thủ môn cần phải dùng chân để xử lý các tình huống bóng. – Cầu thủ cố tình chơi những pha bóng nguy hiểm, có ý đồ triệt hạ đối thủ. – Khi đối phương đang lên bóng thì cầu thủ đội nhà cản cầu thủ đội bạn một cách trái phép. – Cầu thủ thực hiện hành vi ngăn cản thủ môn đối phương đưa bóng vào trận đấu. Vị trí xuất hiện lỗi chính là nơi thực hiện quả phạt gián tiếp. Đá phạt gián tiếp ở thủ môn khác với cầu thủ ở chỗ thủ môn dễ khiến đội nhà phải chịu quả đá phạt gián tiếp trong vòng cấm. Hầu hết các vị trí đá phạt đều được trọng tài cho cầu thủ thực hiện ngay tại chỗ phạm lỗi. Ngoại trừ tình huống thủ môn bị thổi phạt gián tiếp. Các vị trí phạt đều có thể nằm ở bất kỳ đâu trong vòng cấm. Trước khi tiến hành đá phạt quả bóng phải nằm yên tại chỗ. Các cầu thủ của đội bị đá phạt phải đứng cách vị trí đá phạt trung bình từ 9.15m trở lên. Cầu thủ có thể được đứng gần hơn con số đó nếu họ đang đứng trên vạch giữa 2 cột dọc của khung thành đội nhà. Cầu thủ sẽ thực hiện những quả đá phạt gián tiếp như thế nào? Sau đây là quy định đá phạt gián tiếp trong luật bóng đá. Trọng tài sẽ thực hiện ký hiệu đó là giơ thẳng cánh tay lên cao và giữ nguyên hành động này đến khi quả đá phạt gián tiếp được thực hiện xong và lúc này bóng đã chạm vào cầu thủ khác hoặc bóng đá bay ra ngoài các đường giới hạn được kẻ trên sân. Bàn thắng chỉ được trọng tài công nhận nếu trước khi bóng vào cầu môn thì bóng đã chạm vào chân của một cầu thủ khác ở trên sân. Nếu như bóng không chạm vào chân của bất kì cầu thủ nào mà trực tiếp đi thẳng vào cầu môn thì đội bạn sẽ được hưởng một quả đá phạt góc. Nếu như đội bóng biết tận dụng cơ hội và có khả năng tổ chức đá phạt thì đây sẽ là thời cơ để ghi bàn. Trong bóng đá có không ít trận đấu cầu thủ đã ghi bàn thắng nhờ tình huống đá phạt này. Đá phạt trực tiếp: Cầu thủ được phép ghi bàn trực tiếp vào lưới đối phương mà không cầm chạm cầu thủ khác. Đá phán gián tiếp: Bóng phải chạm vào chân một cầu thủ trước khi bay vào lưới mới được tính là bàn thắng hợp lệ. Trong đá phạt trực tiếp cầu thủ tự sút vào lưới đội nhà sẽ bị tính là bàn thua. Còn trong đá phạt gián tiếp nếu tự sút vào lưới nhà thì chỉ tính phạt góc. Đá phạt trực tiếp không thực hiện trong vòng cấm. Còn đá phạt gián tiếp thực hiện trong vòng cấm. Thông thường những pha sút phạt thường được thực hiện ở bên ngoài vòng cấm. Và khoảng cách từ bóng với khung thành là khá xa. Các cầu thủ thường áp dụng cách treo bóng bổng vào cho đồng đội ghi bàn. Còn nếu thực hiện sút phạt trong vòng cấm thì mỗi đội bóng sẽ cử ra 2 cầu thủ tham gia. Điều kiện của cầu thủ sút phạt cần có đó là kỹ thuật dứt điểm tốt, hóc hiểm và tự tin. Người phối hợp đứng trước bóng thực hiện đường chuyền vừa tầm. Với đội bóng đối phương, họ có quyền được sử dụng cả 10 cầu thủ đứng trước cầu môn để làm hàng rào. Và thủ môn phải đứng ở vị trí thuận lợi, vừa tầm mắt để bắt bóng. Có không ít tình huống đá phạt nổi tiếng làm cộng đồng người hâm mộ phải bàn tán rất lâu. Tiêu biểu là tình huống đá phạt giữa U23 Việt Nam và U23 Thái Lan nằm trong khuôn khổ vòng bảng Sea Games 28. Thủ môn U23 Việt Nam đã bắt bóng sau đường chuyền về của đồng đội. Và Thái Lan đã không bỏ lỡ cơ hội này để nâng tỷ số cho đội mình. Rất đáng tiếc trận đấu này của đội tuyển Việt Nam đã bị thua với tỷ số 0 – 3. Mặc dù ở trước đó U23 đã vô cùng mạnh mẽ. Thêm một tình huống đá phạt nổi tiếng đó là trận đấu giữa Manchester United đối đầu với Aston Villa trong khuôn khổ giải đấu ngoại hạng Anh mùa giải 2008/09. Thời điểm ấy MU đang bị AstonVilla dẫn trước với tỷ số 0 – 2. Và thủ môn của Aston Villa bị trọng tài phạt do mắc lỗi câu giờ. Nhờ đó mà MU có được quả phạt gián tiếp. C.Ronaldo chính là người đã thực hiện quả phạt và nâng tỷ số lên 2 – 2. Vào lúc sắp kết thúc hiệp đấu, C.Ronaldo lại góp công thêm một bàn thắng. MU đảo ngược tình thế thắng Aston Villa với tỷ số 3 – 2. Đá phạt gián tiếp là một tình huống đá phạt hấp dẫn và đầy bất ngờ. Hy vọng với những thông tin mà Keo8386 đã chia sẻ ở trên, bạn đã hiểu đá phạt gián tiếp là như thế nào và làm sao để không mắc phải lỗi này. Nếu là người chơi bóng, hãy tìm hiểu kĩ để không dính phải lỗi này nhé. Tôi là Luận Zozo sinh năm 1995 và gia nhập thế giới bóng đá năm 2015. Hiện tại tôi đang là tác giả của Keo8386.com. Chuyên trang đánh giá , soi kèo cung cấp các thông tin khách quan về các nhà cái Uy Tín, Cổng gae đổi thưởng có nhiều người chơi….
Đá phạt gián tiếp (bóng đá)
Đá phạt gián tiếp là một hình thức đá phạt trong bóng đá. Sau khi quả đá phạt gián tiếp được thực hiện, nhất định phải thông qua việc chạm bóng của một cầu thủ khác thì bàn thắng (nếu có) mới được công nhận. Ký hiệu: trọng tài xác nhận quả gián tiếp bằng cách giơ thẳng cánh tay lên cao và giữ nguyên tư thế đó cho đến khi quả phạt đã thực hiện, bóng đã chạm cầu thủ khác hoặc ra ngoài các đường giới hạn sân. Bàn thắng chỉ được công nhận nếu trước khi vào cầu môn, đã chạm chân hoặc người một cầu thủ khác. Nếu bóng trực tiếp vào cầu môn đối phương, đội đối phương được hưởng quả đá phát bóng. Nếu bóng trực tiếp vào cầu môn đội nhà, đội đối phương được hưởng quả phạt góc. Giữ bóng trong tay lâu quá 6 giây trước khi đưa bóng vào cuộc. Chạm hoặc bắt bóng trở lại sau khi đã đưa bóng vào cuộc, nếu bóng chưa chạm bất kỳ một cầu thủ nào khác. Chạm hoặc bắt bóng bằng tay khi đồng đội cố tình chuyền về bằng bàn chân. Cầu thủ vi phạm bất kỳ lỗi việt vị nào, trọng tài đều cho đội đối phương hưởng quả phạt gián tiếp tại nơi xảy ra lỗi.
Năng lượng mặt trời thật tuyệt vời. Trung bình, mỗi mét vuông bề mặt Trái đất nhận được 164 watt năng lượng mặt trời. Nói cách khác, bạn có thể đặt một chiếc đèn (150 watt) trên mỗi mét vuông bề mặt Trái đất và thắp sáng toàn bộ hành tinh bằng năng lượng của Mặt trời! Hay nói một cách khác, nếu chúng ta chỉ phủ một phần trăm diện tích sa mạc Sahara bằng các tấm pin mặt trời, chúng ta có thể tạo ra đủ điện để cung cấp năng lượng cho toàn thế giới. Đó là điều tốt về năng lượng mặt trời: có rất nhiều thứ - nhiều hơn những gì chúng ta có thể sử dụng. Nhưng cũng có một nhược điểm. Năng lượng mà Mặt trời gửi đến Trái đất dưới dạng hỗn hợp của ánh sáng và nhiệt. Cả hai điều này đều cực kỳ quan trọng — ánh sáng giúp thực vật phát triển, cung cấp thức ăn cho chúng ta, trong khi nhiệt giữ cho chúng ta đủ ấm để tồn tại — nhưng chúng ta không thể sử dụng trực tiếp ánh sáng hoặc sức nóng của Mặt trời để chạy tivi hoặc ô tô. Chúng ta phải tìm ra cách nào đó để chuyển đổi năng lượng mặt trời thành các dạng năng lượng khác mà chúng ta có thể sử dụng dễ dàng hơn, chẳng hạn như điện năng. Và đó chính xác là những gì pin mặt trời làm. Pin mặt trời là một thiết bị điện tử nhận ánh sáng mặt trời và chuyển hóa trực tiếp thành điện năng. Các cell pin năng lượng mặt trời liên kết với nhau được gọi là mô-đun năng lượng mặt trời, các mô-đun ghép thành các đơn vị lớn hơn được gọi là tấm pin mặt trời. Cũng giống như các cell pin, các mô-đun cũng được thiết kế để tạo ra điện, nhưng không phải bằng hóa chất mà thay vào đó các cell pin của tấm pin năng lượng mặt trời tạo ra năng lượng bằng cách thu ánh sang mặt trời. Chúng được gọi là tế bào quang điện vì chúng sử dụng ánh sáng mặt trời. Ánh sáng được tạo ra từ các hạt nhỏ gọi là photon, vì vậy ánh sáng mặt trời mang theo hàng nghìn tỷ photon. Nếu chúng ta đặt một tấm pin mặt trời vào đường đi của nó và bắt các photon năng lượng này sau đó chuyển chúng thành dòng điện thì sẽ tạo ra một lượng điện và điện áp hữu ích. Hầu như tất cả các pin mặt trời ngày nay đều được làm từ các lát silicon (là một nguyên tố hóa họa phổ biến có trong cát). Silicon là thứ tạo ra các bóng bán dẫn trong vi mạch và các cell pin năng lượng mặt trời hoạt động theo cách tương tự. Silicon là loại vật liệu được gọi là chất bán dẫn. Một số vật liệu như kim loại cho dòng điện chạy qua được gọi là chất dẫn điện. Các vật liệu như gỗ, nhựa,.ngằn dòng điện chạy qua được gọi là chất cách điện. Các chất bán dẫn không phải là chất dẫn điện, cũng không phải là chất cách điện mà chúng thường không dẫn điện, nhưng trong một số trường hợp nhất định, chúng ta có thể làm cho chúng hoạt động như vậy. Pin mặt trời gồm hai lớp silicon khác nhau đã được xử lý hoặc pha tạp chất đặc biệt để chúng sẽ cho dòng điện chạy qua chúng trong trường hợp nhất định. Lớp trên có ít electon được gọi là loại P hoặc loại dương ( chứa các lỗ trống). Lớp trên có nhiều electron và được gọi là loại N hoặc loại âm ( chứa electron tự do). Một pin mặt trời bao gồm một lớp silicon loại P được đặt bên cạnh một lớp silicon loại N. Ở lớp loại N chứa electron, còn ở lớp loại P thừa lỗ trống mang điện dương (là những chỗ trống do thiếu electron hoá trị). Gần chỗ tiếp giáp của hai lớp, các electron ở một bên của lớp tiếp giáp (lớp loại N) di chuyển vào các lỗ trống ở phía bên kia của lớp tiếp xúc (lớp loại P). Điều này tạo ra một vùng xung quanh đường giao nhau, được gọi là vùng suy giảm, trong đó các điện tử lấp đầy các lỗ trống. Khi tất cả các lỗ trống được lấp đầy bởi các điện tử trong vùng suy giảm, thì mặt loại P của vùng suy giảm bây giờ chứa các ion mang điện tích âm và mặt loại N của vùng suy giảm bây giờ chứa các ion mang điện tích dương. Sự có mặt của các ion mang điện trái dấu này tạo ra điện trường bên trong ngăn cản các electron ở lớp N lấp đầy các lỗ trống ở lớp P. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào pin mặt trời, các điện tử trong silicon bị đẩy ra, dẫn đến hình thành các "lỗ"-(chỗ trống do các điện tử thoát ra để lại). Nếu điều này xảy ra trong điện trường, điện trường sẽ chuyển các electron đến lớp loại N và các lỗ trống đến lớp loại P. Nếu chúng ta nối một một sợi dây kim loại giữa hai lớp, các electron sẽ đi từ lớp loại N sang lớp loại P bằng cách băng qua vùng suy giảm sau đó đi qua dây bên ngoài tạo ra một dòng điện.
Pin Mặt Trời
Pin Mặt trời, tấm năng lượng mặt trời hay tấm quang điện (Solar panel) bao gồm nhiều tế bào quang điện (solar cells) - là phần tử bán dẫn có chứa trên bề mặt một số lượng lớn các cảm biến ánh sáng là điốt quang, thực hiện biến đổi năng lượng ánh sáng thành năng lượng điện. Cường độ dòng điện, hiệu điện thế hoặc điện trở của pin mặt trời thay đổi phụ thuộc bởi lượng ánh sáng chiếu lên chúng. Tế bào quang điện được ghép lại thành khối để trở thành pin mặt trời (thông thường 60 hoặc 72 tế bào quang điện trên một tấm pin mặt trời). Tế bào quang điện có khả năng hoạt động dưới ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng nhân tạo. Chúng có thể được dùng như cảm biến ánh sáng (ví dụ cảm biến hồng ngoại), hoặc các phát xạ điện từ gần ngưỡng ánh sáng nhìn thấy hoặc đo cường độ ánh sáng. Sự chuyển đổi này thực hiện theo hiệu ứng quang điện. Đầu tiên năng lượng từ các photon ánh sáng được hấp thụ và hình thành các cặp electron-hole trong chất bán dẫn. Các cặp electron-hole sau đó bị phân chia bởi ngăn cách tạo bởi các loại chất bán dẫn khác nhau (p-n junction).
X-Men: Phượng Hoàng Bóng Tối (Dark Phoenix) là bom tấn cuối cùng kết thúc kỷ nguyên 20 năm cho loạt series phim thương hiệu “X-Men” do hãng Fox sản xuất. Trước khi xem, Nextphim có biết bộ phim được đánh giá rất tiêu cực (21% trên Rotten Tomatoes và 44 trên Metascore). Nhưng cảm nhận khi xem đến cuối phim thì đây là bộ phim tạm chấp nhận được chứ không tệ hại đến thế. Tờ Empire có review phim có lẽ là sát thực nhất: “X-Men: Phượng Hoàng Bóng Tối hay hơn The Last Stand và Apocalypse. Bộ phim nếu đặt theo những người hùng vào trung tâm thì sẽ có góc nhìn hay hơn cả. Có thể chấp nhận được khi đây là lời từ biệt”. X-Men: Dark Phoenix sẽ cho thấy năng lực khủng khiếp của Jean Grey và nâng nó lên một tầm cao mới khi nguyên tác được lấy khá sát bản The Dark Phoenix Saga. Trong một làm nhiệm vụ cùng nhóm Dị Nhân bên ngoài vũ trụ, cô vô tình bị thực thể Phoenix Force (Phượng Hoàng) nhập vào người. Phoenix Force là thực thể sự sống cho các sinh linh trong toàn bộ vũ trụ. Từ đây, mỗi khi cảm xúc mạnh dâng trào lấn át lý trí, Jean sẽ hóa thành Dark Phoenix và mang đến sự hủy diệt và chết chóc. Có trong người sức mạnh kinh hoàng này, Jean Grey sẽ phải làm gì khi mà cả Giáo sư X phối hợp Magneto cũng không thể đấu lại được. Và nhóm X-men sẽ phải làm gì để đối phó nếu như Jean không thể kiểm soát được sức mạnh thần thánh và ngả về phái bóng tối. Dark Phoenix thực tế là một phiên bản làm lại của The Last Stand Stand (2006), với bối cảnh nằm trong những ngày của quá khứ. Sophie Turner (Game of Thrones) trở lại với vai Jean Grey, một dị nhân có khả năng ngoại cảm và thần giao cách cảm, trong một nhiệm vụ giải cứu táo bạo ngoài vũ trụ, cô hấp thụ một năng lượng khổng lồ đến từ bên ngoài trái đất, nó khiến sức mạnh của cô được khuếch đại lên vô cùng và khiến cô không ổn định về tinh thần. Giáo sư X (James McAvoy) phải xây dựng những bức tường tâm linh trong tâm trí Jean nhằm bảo vệ cô khỏi những chấn thương cảm xúc thời thơ ấu, và liệu điều đó có tốt khi mà nếu những cảm xúc này thoát ra ngoài, vì chính nó gắn liền với sự hủy diệt. Hãy tưởng tượng một câu chuyện về một người phụ nữ trẻ dễ bị tổn thương, người phát hiện ra toàn bộ cuộc đời mình đã bị xây dựng bởi một lời nói dối, người phát hiện được một bí mật thảm khốc về thứ cảm xúc đen tối trong quá khứ của cô ấy và sau đó cảm thấy bị phản bội bởi chính người thân, người đã thao túng mà cô ấy từng coi như người cha cứu rỗi và lòng nhân ái. Dựa vào sự đồng cảm của khán giả đối với nhân vật tạo nên đột biến mạnh mẽ Jean Grey ( Sophie Turner ), đây chính là nền tảng để đạo diễn Kinberg không phải cố tạo thêm “chiêu trò” gì để khiến chúng ta quan tâm đến nhân vật này, Jean có sự nổi bật riêng. Lần cuối, khán giả được nhìn thấy sự mất kiểm soát sức mạnh của cô trong bộ phim X-Men: Apocalypse. Kinberg muốn nhanh chóng chuyển tiếp câu chuyện ‘Phượng hoàng bóng tối’ nổi tiếng từ truyện tranh: Jean Jean Grey phát triển như một vị thần. Một ý tưởng lóe lên về những người đàn ông siêu mạnh mẽ, nhưng phải lừa dối phụ nữ để vì một múc đích tốt chung. Nhưng đến thời điểm quan trọng, Jean mất kiểm soát và trở thành một vị thẩn hủy diệt theo đúng nghĩa. Sự hỗn loạn xảy ra, Magneto ( Michael Fassbender ) bị kéo vào cuộc xung đột để trả thù (bạn biết đấy, nhân vật chết trong trailer) Mặc dù vậy, đối mặt với hiện thức đang xảy đến, anh phải kết hợp với giáo sư X để hạ gục con quái vật mà Jean đã trở thành hơn là việc cả nhân của mình. Và trong khi đó, những người múa rối ngoài hành tinh vẫn đang kéo dây của cô, đưa ra những ý tưởng của cô về sự vi phạm của Xavier và ranh giới đạo đức mà anh ta đã vượt qua. Điểm sáng nhất của X-Men: Phượng Hoàng Bóng Tối là trường đoạn hành động gần nửa cuối, nhịp phim được đẩy lên cao và các màn phô diễn năng lực của các dị nhân. Khả năng sấm sét của Storm nhìn nhiều lúc hơi bị gò ép (đồ họa CGI) còn đâu tất cả đều được chau chuốt tốt, đem lại sự kịch tính cho bộ phim. Âm thanh được giao cho phù thủy Hans Zimmer thực sự thêm phần cứu cánh cho X-Men: Phượng Hoàng Bóng Tối. Khán giả sẽ được làm tăng thêm cảm giác khẩn cấp và độ căng của cảm xúc trong các pha hành động, giống như cách chúng ta từng xem sự dồn dâp của The Dark Knight (Hiệp sĩ bóng đêm). Phần đồ họa vẫn giữ vững được phong độ khi vẫn làm thỏa mãn người xem bởi những màn kỹ xảo đẹp mắt. Các cuộc đối thoại vô cùng gay cấn và có màu sắc tàn nhẫn. Cốt truyện rườm rà, động cơ nhân vật chưa rõ ràng, những khoảnh khắc hài hước tạo bất ngờ không thể cứu cánh cho chất lượng kém của kịch bản. Có lẽ hơi lãng phí khi có sự góp mặt của những diễn viên nổi tiếng như Jessica Chastain, Michael Fassbender, Lawrence và James McAvoy. Mục đích của Dark Phoenix là định nghĩa bản thân chúng ta là ai và ngay cả khi chúng ta không có khả năng lựa chọn điều đó. Jean Grey có thể được định sẵn để trở nên vĩ đại hay định mệnh biến cô thành một con quái vật bóng tối hủy diệt, việc định nghĩa giá trị cá nhân của cô ấy thực sự là ai chưa bao giờ nằm trong tầm kiểm soát của cô ấy, bên trong cô đó chỉ là sự vô nghĩa và trống rỗng. Tuy nhiên, X-Men: Phượng Hoàng Bóng Tối không làm tốt độ phức tạp về mặt tâm lý, hay chiều sâu tâm hồn cho nhân vật chính cho nên bộ phim siêu anh hùng trở nên nông cạn và không hợp lý. Nếu là một fan lâu năm của X-Men thì vẫn nên đi xem để kỉ niệm phần phim cuối cùng khép lại một mạch truyện kéo dài xuyên suốt 2 thập kỷ qua. Còn nếu không, hãy cân nhắc thật kỹ vì bạn sẽ buồn ngủ trong rạp vì những đoạn hội thoại chán ngán. Thà ở nhà bật Vợ Ba bản HD phimmoi xem còn hơn.
X-Men
X-Men: Phượng hoàng bóng tối (tên gốc tiếng Anh: Dark Phoenix) là một bộ phim siêu anh hùng của Mỹ dựa trên những nhân vật X-Men của Marvel Comics, phân phối bởi 20th Century Fox. Bộ phim là phần thứ 13 trong loạt phim dị nhân, và là một khởi đầu của một bộ ba X-Men mới. Phim được biên kịch và đạo diễn bởi Simon Kinberg, và quy tụ dàn diễn viên James McAvoy, Michael Fassbender, Jennifer Lawrence, Nicholas Hoult, Tye Sheridan, Sophie Turner, Alexandra Shipp, Kodi Smit-McPhee, Evan Peters, Olivia Munn, và Jessica Chastain. Trong phim, nhóm X-Men phải đối đầu với sức mạnh tột cùng của Phượng hoàng Bóng tối và cùng với một nữ hoàng ngoài hành tinh. Sau khi X-Men: Ngày cũ của tương lai xóa bỏ toàn bộ các sự kiện trong phần phim X-Men: The Last Stand, Kinberg tỏ ý muốn làm lại một bộ phim dựa trên The Dark Phoenix Saga do X-Men: The Last Stand của anh không nhận được nhiều đánh giá tích cực lắm. Bộ phim được xác nhận là sẽ tiếp tục phần phim X-Men: Cuộc chiến chống Apocalypse (2016). Bộ phim bắt đầu quay vào tháng 6 năm 2017 ở Montreal và đóng máy vào tháng 10 năm đó.
Cụm từ viết tắt của Chemical Oxygen Demand nghĩa là nhu cầu oxy hóa học. Nhu cầu oxy hóa học là lượng oxy cần thiết để oxy hóa hoàn toàn carbon hữu cơ thành CO2 và nước. Đây được xem là thước đo chỉ định lượng oxy có thể được tiêu thụ bởi các phản ứng trong dung dịch. Biểu thị bằng khối lượng oxy tiêu thụ trên thể tích dung dịch, đơn vị là miligam trên lít (mg/L). Xét nghiệm COD sử dụng để dễ dàng định lượng chất hữu cơ trong nước. Ứng dụng phổ biến nhất của COD là định lượng chất ô nhiễm có thể oxy hóa trong nước mặt hoặc nước thải. COD rất hữu ích nhờ cung cấp số liệu xác định ảnh hưởng của nước thải đối với đối tượng tiếp nhận, giống như nhu cầu oxy sinh hóa BOD. Theo Wikipedia, nhu cầu oxy hóa học là phương pháp thứ 2 để ước tính lượng oxy trong nước sau hoạt động của vi khuẩn. Mặc dù việc xét nghiệm BOD (nhu cầu oxy sinh học) được thực hiện bằng các quẩn thể vi sinh vật để nhân bản số lượng tự nhiên trong một khoảng thời gian nhất định. Thì COD sử dụng chất oxy hóa mạnh như Kali dicromat hoặc Kali permanganate để oxy hóa các chất hữu cơ trong mẫu nước thải ở điều kiện nhiệt độ và axit mạnh. Thử nghiệm COD có ưu điểm là không bị nhiễu từ các vật liệu độc hại. Thời gian hoàn thành chỉ cần 2 đến 3 giờ. Trái với BOD cần thời gian từ 5 đến 7 ngày. Thử nghiệm COD là hoàn toàn nhân tạo. Tuy nhiên, vẫn mang lại một kết quả có thể sử dụng làm cơ sở ước tính chính xác và tái sản xuất hợp lý các tính chất cần oxy của nước thải. Thử nghiệm COD thường được sử dụng cùng thử nghiệm BOD để ước tính vật liệu hữu cơ không phân hủy sinh học trong nước thải. Trong trường hợp các chất hữu cơ có thể phân hủy sinh học, COD thường ở khoảng 1.3 – 1.5 lần BOD. Nếu kết quả COD cao gấp đôi so với BOD, có thể 1 phần đáng kể các chất hữu cơ trong mẫu nước không bị phân hủy bởi các vi sinh vật thông thường. Một lưu ý nhỏ nữa, kết quả sau thử nghiệm COD thu được thủy ngân vượt mức giới hạn quy định thì mẫu nước này cần phải bảo quản như loại chất thải nguy hại. Cơ sở thử nghiệm COD gần như là tất cả các hợp chất hữu cơ có thể oxy hóa hoàn toàn thành Carbon dioxide với tác nhân oxy hóa mạnh trong điều kiện axit. Lượng oxy cần thiết để oxy hóa hợp chất hữu cơ thành Carbon dioxide, amoniac và nước như sau:. Phương trình này không bao gồm nhu cầu oxy do quá trình nitrat hóa. Quá trình oxy hóa ammoniac thành nitrat:. Do đó, quá trình nitrat hóa không được đưa vào xét nghiệm COD tiêu chuẩn. Kali dicromat là tác nhân oxy hóa mạnh trong điều kiện axit. Độ axit thường đạt được bằng cách thêm axit sulfuric. Phản ứng của Kali dicromat và các hợp chất hữu cơ nhu sau:. Thông thường, dung dịch Kali dicromat 0.25 N được sử dụng để xác định COD. Mặc dù đối với các mẫu có COD dưới 50 mg/L nồng độ Kali dicromat thấp hơn được ưu tiến. trong quá trình oxy hóa các chất hữu cơ trong nước, Kali dicromat bị khử. Vì trong tất cả các phản ứng oxy hóa khử, thuốc thử bị oxy hóa và chất còn lại bị khử. Lượng Cr3+ được xác định sau quá trình oxy hóa hoàn tất và được sử dụng như một phép đo gián tiếp về hàm lượng hữu cơ của mẫu nước. Tất cả các chất hữ cơ bị oxy hóa hoàn toàn cần 1 lượng Kali dicromat hoặc bất kỳ tác nhân oxy hóa nào bắt buộc phải có. Sau khi quá trình oxy hóa hoàn tất, phải đo lường lượng Kali dicromat dư thừa để đảm bảo xác định lượng Cr3+ chính xác. Để làm được như vậy, Kali dicromat dư được chuẩn hóa nồng độ bằng sắt ammonium sulfate FAS cho đến khi tất cả các chất oxy hóa dư đã được giảm xuống Cr3+. Thông thường, ferroin chỉ thị oxy hóa khử cũng được thêm vào trong bước chuẩn hóa nồng độ này. Khi tất cả các dicromat dư thừa được giảm, chỉ thị ferroin chuyển màu từ xanh lam sang nâu đỏ. Lượng ammonium sulfate thêm vào tương đương với lượng Kali dicromat dư ở mẫu ban đầu. Lưu ý: Chất chỉ thị ferroin có màu đỏ tươi nhưng khi thêm vào mẫu có chứa Kali dicromat nó sẽ chuyển màu xanh lục. Trong quá trình chuẩn hóa nồng độ, màu chất chỉ thị chuyển từ xanh lục sang màu xanh lam sáng. Cuối cùng mới chuyển thành màu nâu đỏ. Chất chỉ thị ferroin chuyển từ màu nâu đỏ sang xanh nhạt khi bị oxy hóa. Chuẩn bị dung dịch 1.485g 1.10-phenanthroline monohydrate thêm vào dung dịch 695mg FeSO4.7H2O trong nước cất. Dung dịch màu đỏ thu được pha loãng thành 100ml. Trong đó, b là thể tích FAS được sử dụng trong mẫu trống. s là thể tích FAS ở mẫu ban đầu và n là quy tắc của FAS. Nếu mm được sử dụng nhất quán để đo thể tích thì kết quả tính toán COD được tính theo mg/L. COD cũng được ước tính từ nồng độ của hợp chất oxy hóa trong mẫu, dựa trên phản ứng cân bằng hóa học với oxy để tạo ra CO2 (giả sử tất cả canxi đi vào CO2), H2O với tất cả H hợp thành H2O và NH3 với tất cả N chuyển sang NH3. Công thức như sau:. RMO = Tỷ lệ số mol của oxy với số mol hợp chất oxy hóa trong phản ứng với CO2, nước và ammoniac. Một số mẫu nước chứa hàm lượng chất vô cơ oxy hóa cao có thể gây trở ngại cho việc xác định COD. Do nồng độ trong hầu hết nước thải cao, clorua thường là nguồn gây nhiễu nghiêm trọng nhất. Phản ứng với Kali dicromat như sau:. Trước khi trâm các loại thuốc thử khác, sulfat thủy ngân nên trâm vào trước để khử nhiễu clorua. Một số chất vô cơ gây nhiễu khác như: Nitrite, sắt, sulfua. Nitrite có thể sử dụng axit sulfamic để khử nhiễu. Sản phẩm thu được sẽ là khí N2. Các phép đo được gọi là oxy tiêu thụ từ permanganate chứ không phải nhu cầu oxy của các chất hữu cơ. Hiệu quả của Kali permanganate trong quá trình oxy hóa các hợp chất hữu cơ khác nhau. Trong nhiều trường hợp, các phép đo nhu cầu oxy sinh hóa BOD lớn hơn nhiều so với COD. Điều này chỉ ra rằng Kali permanganate không thể oxy hóa hiệu quả tất cả các hợp chất hữu cơ trong nước. Khiến nó trở thành tác nhân oxy hóa tương đối kém để xác định COD. Các chất oxy hóa khác như Ceric sulphate, Kali iodate và Kali dicromat đã được sử dụng để xác định COD thay thế. Trong đó, Kali Dicromat K2Cr2O7 được chứng minh là hiệu quả nhất. Nhờ tính tương đối rẻ, dễ tinh chế và có khả năng oxy hóa gần như hoàn toàn các hợp chất hữu cơ. Trong các phương pháp này, thể tích cố định với lượng chất oxy hóa vượt quá có đo lường được thêm vào mẫu dung dịch được phân tích. Sau khi phân hủy hồi lưu, nồng độ ban đầu của các chất hữu cơ trong mẫu được tính bằng phép chuẩn hóa nồng độ hoặc đo quang phổ của chất oxy hóa vẫn còn trong mẫu. Bài viết COD là gì của đội ngũ kỹ thuật viên Nihophawa hi vọng đã giải đáp thắc mắc của các bạn về COD. Một chỉ số cực kỳ quan trọng trong quá trình phân tích và xử lý nước thải. Nếu có nhu cầu lắp đặt và thi công hệ thống xử lý nước thải y tế. Quý khách có thể để lại số điện thoại, Nihophawa sẽ trực tiếp tư vấn.
Nhu cầu oxy hóa học
Trong hóa học môi trường, chỉ tiêu và thử nghiệm nhu cầu oxy hóa học (COD - viết tắt từ tiếng Anh: chemical oxygen demand) được sử dụng rộng rãi để đo gián tiếp khối lượng các hợp chất hữu cơ có trong nước. Phần lớn các ứng dụng của COD xác định khối lượng của các chất ô nhiễm hữu cơ tìm thấy trong nước bề mặt (ví dụ trong các con sông hay hồ), làm cho COD là một phép đo hữu ích về chất lượng nước. Nó được biểu diễn theo đơn vị đo là miligam trên lít (mg/L), chỉ ra khối lượng oxy cần tiêu hao trên một lít dung dịch. Các nguồn tài liệu cũ còn biểu diễn nó dưới dạng các đơn vị đo khác như phần triệu (ppm). Nền tảng cho thử nghiệm COD là gần như mọi hợp chất hữu cơ đều có thể bị oxy hóa đầy đủ để tạo ra dioxide cacbon bằng các chất oxy hóa mạnh trong các điều kiện axít. Công thức này không bao gồm nhu cầu oxy gây ra từ quá trình oxy hóa amonia thành nitrat. Quá trình chuyển hóa amonia thành nitrat được gọi là nitrat hóa.
Một trong những tài liệu quan trọng nhất được đưa ra từ giáo hoàng của Giáo hoàng Benedict XVI cũng là một trong những tài liệu ít được chú ý nhất. Vào ngày 10 tháng 7 năm 2007, Bộ Giáo lý Đức tin đã phát hành một tài liệu tương đối ngắn có tên "Trả lời một số câu hỏi liên quan đến các khía cạnh nhất định của Giáo lý về Giáo hội". Được nhấn mạnh bằng giọng điệu, tài liệu có hình thức gồm năm câu hỏi và câu trả lời, được kết hợp với nhau, cung cấp một cái nhìn toàn diện về giáo hội Công giáo, một từ lạ mắt có nghĩa đơn giản là giáo lý về Giáo hội. Tài liệu này đề cập đến những quan niệm sai lầm phổ biến từ những năm gần đây về sự hiểu biết của Công giáo về bản chất của Giáo hội và, bằng cách mở rộng, bản chất của những cộng đồng Kitô giáo khác không liên kết hoàn toàn với Giáo hội Công giáo La Mã. Những lo ngại này đã nảy sinh từ các cuộc thảo luận đại kết, đặc biệt là với Hội truyền thống Saint Pius X và các Giáo hội Chính thống Đông phương, mà còn với các cộng đồng Tin lành khác nhau. Bản chất của Giáo hội là gì? Có một Giáo hội của Chúa Kitô khác với Giáo hội Công giáo? Mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo với các nhà thờ và cộng đồng Kitô giáo khác là gì?. Tất cả những mối quan tâm này được giải quyết thông qua các câu trả lời cho năm câu hỏi. Đừng lo lắng nếu các câu hỏi ban đầu có vẻ khó hiểu; tất cả sẽ được làm rõ trong bài viết này. Vào thời điểm "Trả lời một số câu hỏi liên quan đến một số khía cạnh của Giáo lý về Giáo hội" đã được phát hành, tôi đã viết một loạt các bài báo thảo luận về từng câu hỏi và câu trả lời được cung cấp bởi Giáo lý Đức tin. Tài liệu này cung cấp một cái nhìn tóm tắt; để có cái nhìn sâu hơn về một câu hỏi cụ thể, vui lòng nhấp vào tiêu đề phần thích hợp bên dưới. Trước khi xem xét từng câu hỏi trong năm câu hỏi, điều quan trọng cần lưu ý là "Trả lời một số câu hỏi liên quan đến các khía cạnh nhất định của Giáo lý", ở một mức độ nhất định, là một tài liệu hoàn toàn có thể dự đoán được, bởi vì nó không có cơ sở mới. Tuy nhiên, như tôi đã viết ở trên, nó cũng là một trong những tài liệu quan trọng nhất về giáo hoàng của Giáo hoàng Benedict. Nhưng làm thế nào cả hai tuyên bố là đúng?. Câu trả lời nằm ở chỗ "Phản hồi" chỉ đơn giản là sự phục hồi của truyền thống Công giáo. Những điểm quan trọng nhất mà tài liệu đưa ra là tất cả những điểm được thiết lập tốt của Giáo hội Công giáo:. Giáo hội đó hiện diện đầy đủ nhất trong Giáo hội Công giáo, "được cai quản bởi người kế vị của Peter và các Giám mục trong sự hiệp thông với ngài.". Giáo hội đó có thể có mặt trong các nhà thờ và cộng đồng giáo hội khác ở mức độ thấp hơn, "vì các yếu tố của sự thánh hóa và sự thật hiện diện trong họ.". Các Giáo hội Chính thống Đông phương là đúng, "các Giáo hội đặc biệt hoặc địa phương", vì họ duy trì sự kế vị tông đồ và các bí tích, nhưng họ thiếu sự kết hợp trọn vẹn với Giáo hội hoàn vũ. Theo "cộng đồng Kitô giáo" bắt nguồn từ Cải cách "không thể, theo giáo lý Công giáo, được gọi là" Giáo hội "theo đúng nghĩa" bởi vì họ đã không duy trì sự kế vị tông đồ và do đó, đã mất các bí tích. Mặc dù không có gì mới ở đây, nhưng cũng không có gì đặc biệt "cũ". "Phản hồi" đi đến đau đớn để giải thích rằng, mặc dù có nhiều nhầm lẫn về những vấn đề này trong những năm gần đây, Giáo hội luôn duy trì một sự hiểu biết nhất quán. Điều cần thiết là Bộ Giáo lý Đức tin phải công bố tài liệu không phải vì bất cứ điều gì đã thay đổi trong giáo huấn của Giáo hội Công giáo, nhưng vì quá nhiều người đã bị thuyết phục, và đã cố gắng thuyết phục người khác, rằng điều gì đó đã thay đổi. Sự thay đổi đó được cho là đã diễn ra tại Công đồng Vatican II, thường được gọi là Vatican II. Các tổ chức truyền thống như Hội Thánh Pius X đã chỉ trích sự thay đổi được cho là; những tiếng nói khác trong Giáo hội Công giáo, và trong giới Tin lành, đã hoan nghênh nó. Tuy nhiên, như "Phản hồi" chỉ ra trong câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên ("Công đồng Vatican II có thay đổi giáo lý Công giáo về Giáo hội không? "), "Công đồng Vatican II không thay đổi cũng không có ý định thay đổi , đúng hơn là nó đã phát triển, đào sâu và giải thích đầy đủ hơn về nó. " Và điều đó không đáng ngạc nhiên, bởi vì, theo định nghĩa, các hội đồng đại kết có thể định nghĩa các học thuyết hoặc giải thích chúng đầy đủ hơn, nhưng chúng không thể thay đổi chúng. Những gì Giáo hội Công giáo đã dạy về bản chất của Giáo hội trước Vatican II, cô tiếp tục giảng dạy ngày hôm nay; bất kỳ sự khác biệt nào của loại, thay vì chất lượng, là trong mắt của kẻ si tình, không phải trong học thuyết của Giáo hội. Thật không may, sau sự kiện Vatican II, nhiều người Công giáo, bao gồm cả giám mục, linh mục và nhà thần học, đã hành động như thể công đồng đã bác bỏ tuyên bố của Giáo hội Công giáo là biểu hiện đầy đủ nhất của Giáo hội do chính Chúa Kitô sáng lập. Họ thường làm như vậy vì mong muốn chân thành để thúc đẩy sự hiệp nhất Kitô giáo, nhưng thực tế, hành động của họ có thể đã làm tổn hại đến những nỗ lực thống nhất thực sự của tất cả các Kitô hữu bằng cách làm cho dường như có ít trở ngại hơn cản trở sự hiệp nhất đó. Từ quan điểm của Giáo hội Công giáo, sự kết hợp với các Giáo hội Chính thống Đông phương đòi hỏi sự phục tùng hiếu thảo của các Giáo hội Chính thống - đến người đứng đầu tinh thần của Giáo hội được thành lập bởi Christ namely, thePope of Rome, người kế vị Thánh Peter, người mà Chúa Kitô đã thiết lập như là người đứng đầu Giáo hội của Ngài. Vì Chính thống giáo duy trì sự kế vị tông đồ (và, do đó, các giáo phái), nên việc đoàn tụ sẽ không đòi hỏi gì thêm, và các cha đẻ của Hội đồng Vatican II bày tỏ mong muốn được đoàn tụ trong "Sắc lệnh về các Giáo hội Công giáo theo nghi thức Đông phương", Đông trùng hạ thảo. Tuy nhiên, trong trường hợp của các cộng đồng Tin lành, công đoàn đòi hỏi phải thiết lập lại sự kế vị tông đồ, tất nhiên, có thể được thực hiện thông qua công đoàn. Sự thiếu kế vị tông đồ hiện nay có nghĩa là những cộng đồng đó thiếu chức tư tế bí tích, và do đó bị tước mất chính đời sống của Giáo hội và tín đồ Kitô giáo, ân sủng thánh hóa đi qua các bí tích. Trong khi Vatican II khuyến khích người Công giáo tiếp cận với người Tin lành, những người cha trong hội đồng không bao giờ có ý định giảm thiểu trở ngại này cho sự hiệp nhất Kitô giáo. Tuy nhiên, con mắt của nhiều chủ nợ, cả những người chỉ trích và thúc đẩy ý tưởng rằng học thuyết Công giáo về Giáo hội đã thay đổi tại Vatican II, đã cố định một từ trong Lumen Gentium : tồn tại . Như phần tám của Lumen Gentium đưa ra:. Cả những người lập luận rằng giáo lý Công giáo đã thay đổi và không nên có, và những người lập luận rằng nó đã thay đổi và nên có, chỉ ra đoạn này là bằng chứng cho thấy Giáo hội Công giáo không còn coi mình là Giáo hội của Chúa Kitô, mà là một tập hợp con của nó Nhưng "Responses", trong câu trả lời cho câu hỏi thứ hai của nó ("Ý nghĩa của việc khẳng định rằng Giáo hội của Chúa Kitô tồn tại trong Giáo hội Công giáo là gì? "), Rõ ràng rằng cả hai nhóm đã đặt xe ngựa trước ngựa. Câu trả lời không có gì đáng ngạc nhiên đối với những người hiểu ý nghĩa Latin của người sống dưới quyền hoặc biết rằng Giáo hội không thể thay đổi giáo lý cơ bản: Chỉ có Giáo hội Công giáo mới có "tất cả các yếu tố mà chính Chúa Kitô đã thiết lập" trong Giáo hội của Ngài; do đó, "sự tồn tại" có nghĩa là sự bền bỉ, liên tục lịch sử và sự trường tồn của tất cả các yếu tố được Đức Kitô thiết lập trong Giáo hội Công giáo, trong đó Giáo hội của Chúa Kitô được tìm thấy cụ thể trên trái đất này. ". Trong khi thừa nhận rằng "các nhà thờ và Cộng đồng Giáo hội chưa hoàn toàn hiệp thông với Giáo hội Công giáo" có "các yếu tố thánh hóa và sự thật hiện diện trong họ", CDF khẳng định rằng "từ" những người tồn tại chỉ có thể được gán cho Giáo hội Công giáo một mình chính xác bởi vì nó đề cập đến dấu ấn của sự hiệp nhất mà chúng ta tuyên xưng trong các biểu tượng của đức tin (tôi tin . trong Giáo hội một ), và Giáo hội một này tồn tại trong Giáo hội Công giáo. " Sinh hoạt có nghĩa là "duy trì hiệu lực, tồn tại hoặc có hiệu lực" và chỉ trong Giáo hội Công giáo mới có một Giáo hội được thành lập bởi Chúa Kitô "và đặt nó như là một" cộng đồng tinh thần và hữu hình ". Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nhà thờ và cộng đồng Kitô giáo khác hoàn toàn không có bất kỳ sự tham gia nào vào Nhà thờ của Chúa Kitô, vì "Phản hồi" giải thích trong câu trả lời của nó cho câu hỏi thứ ba: "Tại sao biểu thức tồn tại trong được thông qua thay vì từ đơn giản là? " Tuy nhiên, bất kỳ "nhiều yếu tố thánh hóa và sự thật" nào được tìm thấy bên ngoài Giáo hội Công giáo cũng được tìm thấy trong cô, và chúng thuộc về cô. Đây là lý do tại sao, một mặt, Giáo hội luôn luôn cho rằng thêm ecregiam nulla salus ("bên ngoài Giáo hội không có sự cứu rỗi"); Tuy nhiên, mặt khác, Cô không phủ nhận rằng những người không Công giáo có thể vào Thiên đàng. Nói cách khác, Giáo hội Công giáo giữ tiền ký gửi sự thật, nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả những người ở ngoài Giáo hội Công giáo không có quyền truy cập vào bất kỳ sự thật nào. Thay vào đó, các Giáo hội Chính thống và các cộng đồng Kitô giáo Tin lành có thể chứa các yếu tố của sự thật, cho phép "Thần của Chúa Kitô" sử dụng chúng như là "công cụ cứu rỗi", nhưng giá trị của chúng cho mục đích đó "xuất phát từ sự đầy đủ ân sủng và sự thật nơi đã được giao cho Giáo hội Công giáo. " Thật vậy, những "yếu tố thánh hóa và sự thật" như vậy dành cho những người bên ngoài Giáo hội Công giáo đã chỉ cho họ theo hướng đầy đủ sự thánh hóa và sự thật chỉ có trong Giáo hội Công giáo. Trên thực tế, những yếu tố đó, "như những món quà thuộc về Giáo hội của Chúa Kitô, thúc đẩy sự hiệp nhất Công giáo". Họ có thể thánh hóa chính xác bởi vì "giá trị của họ bắt nguồn từ sự đầy đủ của ân sủng và sự thật đã được giao phó cho Giáo hội Công giáo." Chúa Thánh Thần hoạt động luôn để thực hiện lời cầu nguyện của Chúa Kitô mà tất cả chúng ta có thể là một. Thông qua "nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý" được tìm thấy trong cả Chính thống giáo và Tin lành, các Kitô hữu ngoài Công giáo được kéo đến gần hơn với Giáo hội Công giáo, "trong đó Giáo hội của Chúa Kitô được tìm thấy cụ thể trên trái đất này.". Trong số các nhóm Kitô giáo bên ngoài Giáo hội Công giáo, các Giáo hội Chính thống chia sẻ nhiều nhất về những "yếu tố thánh hóa và sự thật". "Phản hồi" ghi chú trong câu trả lời cho câu hỏi thứ tư ("Tại sao Công đồng Vatican II sử dụng thuật ngữ" Giáo hội "để chỉ các Giáo hội phương Đông tách biệt khỏi sự hiệp thông hoàn toàn với Giáo hội Công giáo?") Rằng họ có thể được gọi đúng là "Các Giáo hội "bởi vì, theo lời của tài liệu khác từ Vatican II, Unitatis Redintegratio (" Sự phục hồi sự hiệp nhất "), " các Giáo hội này, mặc dù tách ra, có các bí tích thực sự và trên hết là vì sự tông đồ kế tiếp chức tư tế và bí tích Thánh Thể, bằng phương tiện mà họ vẫn liên kết với chúng tôi bằng những liên kết rất chặt chẽ. ". Nói cách khác, các Giáo hội Chính thống gọi đúng là các Giáo hội vì họ đáp ứng các yêu cầu trong Giáo hội Công giáo để trở thành một Giáo hội. Sự kế vị tông đồ bảo đảm chức tư tế, và chức tư tế bảo đảm các bí tích - quan trọng nhất là Bí tích rước lễ, là biểu tượng hữu hình của sự hiệp nhất thiêng liêng của các Kitô hữu. Nhưng bởi vì họ thiếu "sự hiệp thông với Giáo hội Công giáo, người đứng đầu hữu hình là Giám mục Rôma và Người kế vị Thánh Phêrô, " họ chỉ là "Giáo hội đặc biệt hoặc địa phương"; "các cộng đồng Kitô giáo đáng kính này thiếu một cái gì đó trong tình trạng của họ như các nhà thờ cụ thể." ey Họ không có bản chất phổ quát "phù hợp với Giáo hội do Người kế vị của Peter và các Giám mục hiệp thông với ông.". Sự tách biệt của các Giáo hội Chính thống Đông phương khỏi Giáo hội Công giáo có nghĩa là "sự đầy đủ của tính phổ quát, phù hợp với Giáo hội do Người kế vị của Peter và các Giám mục hiệp thông với ông, không được thực hiện đầy đủ trong lịch sử". Chúa Kitô đã cầu nguyện rằng tất cả sẽ là một trong Ngài, và lời cầu nguyện đó buộc tất cả những người kế vị Thánh Peter phải làm việc cho sự kết hiệp đầy đủ, hữu hình của tất cả các Kitô hữu, bắt đầu từ những người giữ địa vị của "các Giáo hội đặc biệt hoặc địa phương". Tuy nhiên, tình huống của người Anh, người Anh, người Calvin, và các cộng đồng khác, nhưng lại khác, vì "Phản hồi" làm rõ câu trả lời cho câu hỏi thứ năm và cuối cùng (và gây tranh cãi nhất) ("Tại sao các văn bản của Hội đồng và những người thuộc Giáo hội kể từ khi Hội đồng không sử dụng danh hiệu Giáo hội đối với những Cộng đồng Kitô giáo được sinh ra từ thời Cải cách của thế kỷ XVI? Giống như các Giáo hội Chính thống, các cộng đồng Tin lành thiếu sự hiệp thông với Giáo hội Công giáo, nhưng không giống như các Giáo hội Chính thống, họ đã phủ nhận sự cần thiết của sự kế vị tông đồ ( ví dụ, người Calvin); đã cố gắng duy trì sự kế vị tông đồ nhưng đã mất toàn bộ hoặc một phần ( ví dụ, Anh giáo); hoặc nâng cao một sự hiểu biết khác nhau về sự kế vị tông đồ từ đó được tổ chức bởi các Giáo hội Công giáo và Chính thống ( ví dụ, Luther).
Giáo hội Công giáo
Giáo hội Công giáo, còn được gọi là Giáo hội Công giáo Rôma, là giáo hội Kitô giáo hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục Rôma, hiện nay là Giáo hoàng Phanxicô. Giáo hội Công giáo là hệ phái tôn giáo lớn nhất thế giới, với trên 1,3 tỉ thành viên, tính đến năm 2018. Tín hữu tuyên xưng Giáo hội Công giáo Rôma là giáo hội duy nhất do chính Chúa Giêsu Kitô (Kitô hay Cơ Đốc, trước đây phiên âm là Kirixitô, mang nghĩa là "đấng được xức dầu") thiết lập dựa trên các tông đồ của Chúa Giêsu, giáo hoàng là người kế vị tông đồ trưởng Phêrô, còn các giám mục là những người kế vị các tông đồ khác. Dưới sự lãnh đạo của Giáo hoàng, Giáo hội Công giáo xác định nhiệm vụ của họ là truyền bá Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô, cử hành các bí tích - đặc biệt là Bí tích Thánh Thể - và thực hành bác ái. Bà Maria cũng chiếm một vị trí quan trọng trong đức tin của người Công giáo. Họ tôn kính bà vì tin rằng bà nhận được những đặc ân của Thiên Chúa mà không người phụ nữ nào khác có được: vô nhiễm nguyên tội, làm Mẹ Thiên Chúa, đồng trinh trọn đời và hồn xác được lên thiên đàng.
Thảm họa tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl là một thảm họa hạt nhân gây chấn động thế giới. Nó vẫn còn để lại nhiều câu hỏi chưa có câu trả lời cho đến ngày hôm nay. Vào ngày 25 và 26/4/1986, vụ thảm họa tồi tệ nhất trong lịch sử ngành năng lượng hạt nhân đã xảy ra ở phía bắc Ukraine. Một lò phản ứng tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl đã phát nổ. Các nhà khoa học ước tính con người không thể sinh sống xung quanh khu vực nhà máy cũ nữa. Ít nhất là đến 20.000 năm sau. Thảm họa xảy ra gần Pripyat, Ukraine (lúc này còn thuộc Liên bang Xô Viết cũ). Đây là nơi được Liên Xô đầu tư rất nhiều vào năng lượng hạt nhân sau Thế chiến II. Bắt đầu từ năm 1977, các nhà khoa học Liên Xô đã lắp đặt 4 lò phản ứng hạt nhân RBMK tại nhà máy điện Chernobyl. Vào ngày 25/4/1986, việc bảo trì định kỳ đã được lên kế hoạch tại lò phản ứng số 4. Lò phản ứng này thuộc nhà máy điện hạt nhân V. I. Lenin (nhà máy điện hạt nhân Chernobyl). Các công nhân đã lên kế hoạch kiểm tra xem lò phản ứng này có khả năng tự làm mát hay không nếu bị mất điện. Tuy nhiên, trong quá trình thử nghiệm, họ đã vi phạm các giao thức an toàn. Nguồn năng lượng tăng vọt bên trong nhà máy. Ban quản lý nhà máy đã cố gắng vô hiệu hóa lò phản ứng hoàn toàn. Tuy nhiên một đợt gia tăng năng lượng khác đã gây ra một chuỗi các vụ nổ bên trong lò phản ứng số 4. Cuối cùng, lõi hạt nhân bị quá tải nhiệt. Nó đã giải phóng một lượng khổng lồ chất phóng xạ vào khí quyển. Lực lượng cứu hỏa được huy động khẩn cấp để dập tắt một loạt các vụ cháy tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. Máy bay trực thăng cũng được điều đến nhà máy. Nó thực hiện việc đổ cát và các vật liệu khác vào lò phản ứng. Mọi hành động cứu hộ đều nhằm mục đích dập tắt các đám cháy. Bên cạnh đó là ngăn chặn sự ô nhiễm chất phóng xạ ra ngoài môi trường. Đã có 2 người chết trong các vụ nổ. Nhiều công nhân và lính cứu hỏa bị thương phải đưa đi cấp cứu. Mãi cho đến khoảng 36 giờ sau khi thảm họa bắt đầu, công tác sơ tán dân thường mới được thực hiện. Liên Xô lúc đó không muốn công khai thảm họa này rộng rãi. Vì việc này có thể kéo theo những rủi ro chính trị đáng kể. Nhưng chính quyền đã phải nhượng bộ trước sức ép của dư luận. Liên Xô cuối cùng đã buộc phải đưa ra một xác nhận ngắn gọn về thảm họa này vào ngày 28/4/1986. Chẳng mấy chốc, thế giới nhận ra rằng Chernobyl là một trong những thảm họa khủng khiếp nhất lịch sử loài người. Trong bầu khí quyển ở thời điểm hiện tại vẫn có hơn 30% trong tổng số 190 tấn Uranium còn xót lại sau thảm họa. Thời điểm thảm họa xảy ra, Liên Xô đã phải sơ tán đến 335.000 người. Chính quyền cũng đã thiết lập khu vực cách li trong bán kính 30 km xung quanh lò phản ứng số 4. Hội nghị Chernobyl do IAEA và WHO tổ chức đã diễn ra vào năm 2005. Trong hội nghị này, một bản báo cáo đã chỉ ra rằng có 56 người chết ngay lập tức. Trong đó bao gồm 47 công nhân và 9 trẻ em, chết vì ung thư tuyến giáp. Thông tin này được công bố bởi Ủy ban Khoa học của Liên hợp quốc về tác động của Bức xạ nguyên tử. Riêng tổ chức Hoà bình xanh ước tính tổng số người chết là 93.000. Con số này vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi cho đến hôm nay. Tổ chức Hòa bình xanh đã ghi trong bản báo cáo của mình rằng “Những con số gần đây được ghi nhận ở Belarus, Nga và Ukraina. Qua đó cho thấy vụ tại nạn có thể đã dẫn tới cái chết thêm của khoảng 200.000 người. Số liệu dự đoán trong giai đoạn từ 1990 đến 2004.”. Các nhà nghiên cứu quốc tế đã dự đoán rằng có khoảng 4.000 người tiếp xúc với mức độ phóng xạ cao. Những người này sẽ không thể chống lại căn bệnh ung thư liên quan đến bức xạ. Trong khi đó khoảng 5.000 người tiếp xúc với mức độ phóng xạ thấp hơn cũng phải chịu chung số phận. Tuy nhiên, hậu quả đầy đủ của thảm họa tại nhà máy điện Chernobyl vẫn còn gây ra nhiều tranh luận. Chúng hiện vẫn đang được nghiên cứu. Những hậu quả đó bao gồm các tác động đến sức khỏe, tâm thần…. Những gì còn sót lại của lò phản ứng số 4 hiện nằm trong một cấu trúc thép khổng lồ. Cấu trúc này được xây dựng vào cuối năm 2016. Những nỗ lực ngăn chặn và giám sát mức độ phóng xạ và công tác dọn dẹp dự kiến sẽ kéo dài đến ít nhất là năm 2065. Tác động của thảm họa đối với rừng và động vật hoang dã xung quanh cũng là một vấn đề lớn cần được giới khoa học tập trung nghiên cứu. Ngay sau tai nạn, một vùng diện tích rộng khoảng 10,4 km2 được gọi là “Red Forest”. Lí do của tên gọi này là vì có quá nhiều cây chuyển màu nâu đỏ. Chúng đã bị chết sau khi hấp thụ phóng xạ ở liều lượng cao. Thảm họa Chernobyl đã gây ra nhiều ảnh hưởng khác. Nó đã góp phần thúc đẩy sự kết thúc của Liên bang Xô Viết. Đồng thời nó đẩy mạnh phong trào chống hạt nhân trên toàn cầu. Theo ước tính, thảm họa này đã gây thiệt hại lên đến 235 tỷ USD. Belarus, nơi có 23% lãnh thổ bị ô nhiễm do phóng xạ đã chi 22% tổng ngân sách năm 1991 cho việc khắc phục thảm họa này. Ngày nay, Chernobyl còn là một địa điểm du lịch hấp dẫn du khách. Người ta bị hấp dẫn bởi tính lịch sử cũng như sự nguy hiểm của nó. Thảm họa kinh hoàng này mãi là một lời canh tỉnh con người từ nay cho đến mai sau. Chúng ta cần hiểu rõ cũng như cần hết sức cẩn thận khi sử dụng năng lượng hạt nhân trong mọi lĩnh vực nói chung.
Thảm họa Chernobyl
Thảm hoạ Chernobyl (Tiếng Ukraina: Чорнобильська катастрофа; Tiếng Nga: Чернобыльская катастрофа) là một vụ tai nạn hạt nhân xảy ra vào Thứ bảy ngày 26 tháng 4 năm 1986 khi nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở Pripyat, Ukraina (khi ấy còn là một phần của Liên bang Xô viết) bị nổ tại lò phản ứng số 4. Nó được coi là thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử cả về phí tổn và thương vong. Do không có tường chắn, đám mây bụi phóng xạ từ nhà máy lan rộng ra nhiều vùng phía tây Liên bang Xô viết, Đông Âu và Tây Âu, Scandinavia, Anh quốc, và đông Hoa Kỳ. Nhiều vùng rộng lớn thuộc Ukraina, Belarus và Nga bị ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn tới việc phải sơ tán và tái định cư cho hơn 336.000 người. Khoảng 60% đám mây phóng xạ đã rơi xuống Belarus. Theo bản báo cáo năm 2006 của TORCH, một nửa lượng phóng xạ đã rơi xuống bên ngoài lãnh thổ ba nước cộng hoà Xô viết. Thảm hoạ này phát ra lượng phóng xạ lớn gấp bốn trăm lần so với quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima.
Bế tinh hay còn gọi là “quan hệ nhưng không xuất tinh”, một trong những kỹ thuật được cho rằng xuất phát từ người Trung Hoa. Nhiều người cũng nói rằng có thể dùng phương pháp này giúp nam giới tập luyện để kiểm soát được chứng xuất tinh sớm, làm chủ thời gian quan hệ. Tuy nhiên có nhiều nội dung có thể các bạn chưa biết tới như: phương pháp bế tinh thực hiện như thế nào? lợi ích và tác hại ra sao. Mời các bạn xem lần lượt từng nội dung dưới đây. 4 Bế tinh có lợi hay có hại?4.1 Tác dụng của thuật bế tinh4.2 Tác hại của bế tinh. Theo cách hiểu khoa học, Bế tinh là phương pháp quan hệ nhưng cố gắng hạn chế dẫn đến việc xuất tinh sớm, kéo dài thời gian quan hệ nhằm thỏa mãn cảm giác thăng hoa giữa nam và nữ. Trong tài liệu nước ngoài phương pháp này có tên gọi là coitus reservatus. Người ta hiểu rằng khi nam nữ quan hệ tình dục với nhau, nam giới cố găng giữ được trạng thái kích thích chịu đựng lâu hơn. Tránh việc đạt đến giai đoạn xuất tinh và lên đỉnh, nếu thời gian quá trình xuất tinh diễn ra càng nhanh thì cảm giác hụt hẫng càng nhiều ở người phụ nữ. Theo như tài liệu của người Trung Hoa, bế tinh là phương pháp mà các vua chúa thường xuyên áp dụng, nhằm giữ gìn sinh khí. Thứ được coi là quan trọng nhất của con người khi mà các bậc quân vương phải thường xuyên đầu ấp chăn gối với nhiều phi nữ, cung tần trong cung. Họ cho rằng việc xuất tinh bừa bãi sẽ làm tổn hại sức khỏe, rút ngắn tuổi thọ của chính họ. Như vậy việc quan hệ nhiều nhưng không xuất tinh thực chất có lợi hại như thế nào?. Khi nam giới lên đến đỉnh cực khoái sắp xuất tinh thì bằng cách tập thở và huyệt hội âm. Lúc này việc rèn luyện hơi thở là cốt lõi của thuật bế tinh. Khi cảm xúc ân ái mãnh liệt thì nhịp tim, huyết áp và nhịp thở tăng lên rất nhanh. Cơ lưng, cơ ngực sẽ bị co thắt khiến cho lồng ngực thiếu dưỡng khí không kiểm soát được bản năng của mình. Trong khi đó, cái đầu đang là cơ quan điều khiển nếu không kiểm soát được coi như thất bại. Trong các yếu tố như hơi thở, nhịp tim, huyết áp thì tất nhiên chúng ta chỉ điều khiển được nhịp thở của mình mà thôi. Vì vậy kiểm soát hơi thở chính là bế tinh dưỡng khí tồn thần. Ngoài hơi thở ra còn một cách khác để giúp nam giới bế tinh. Đó chính là huyệt hội âm – huyệt nằm ở vị trí giữa hậu môn và bìu. Theo kiến thức đông y thì huyệt hội âm chính là vị trí tập trung của các kinh âm trong cơ thể. Kinh âm có tác dụng ức chế và kiểm soát cảm xúc. Cách làm như sau: Khi khoái cảm tăng nhanh, nam giới dùng ba ngón tay gồm ngón trỏ, ngón giữa và ngón út để nhấn vào vị trí huyệt hội âm. Thực hiện liên tục 2-3 lần để dương khí được điều hòa. Một cách khác mà trong tài liệu có đề cập, dành cho những người áp dụng 2 cách trên không hiệu quả là “ngưng binh”: Lúc này nam giới nằm im tạm thời trong giây lát, thở ra một hơi dài đến mức muốn đứt hơi để hít vào. Thực hiện cách đó vài lần để kích thích dịu lại. Cách thở như vậy nhằm làm cho nồng độ CO2 trong máu tăng lên, nó sẽ ức chế hệ thần kinh giao cảm. Danh y Tuệ Tĩnh có câu“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần – Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình” để tóm lược pháp dưỡng sinh của y học cổ truyền. Tuy nhiên nhiều người đang hiểu sai câu nói, dẫn đến những tranh cãi khác nhau. Ở đây danh y muốn nhắn nhủ rằng, những người đang quá lạm dụng chuyện tình dục, những người quan hệ quá nhiều sẽ gây tổn hại cho sức khỏe. Đặc biệt là những người có tuổi, cần biết giữ gìn sinh khí, biết quan hệ ở mức độ vừa sức, hạn chế xuất binh như vậy sẽ giúp sinh lực luôn dồi dào. Nói về tác dụng chúng ta cũng cần hiểu rõ hơn từ những phân tích trên. Những người quan hệ quá độ và tần suất lớn giống như những ghi chép về một số vị tướng trong lịch sử Trung Quốc đã đoản mệnh. Nhiều người luyện được thuật bế tinh nhằm tránh được tác hại mà nó gây ra. Tuy nhiên chúng ta hiện nay lại nghĩ rằng, ít quan hệ và quan hệ không xuất tinh lại có lợi. Điều này không đúng. Bế tinh mang lại tác dụng khi bạn biết số lượng, tần suất quan hệ vừa với sức của mình. Việc ít quan hệ tình dục cũng không phải là có lợi cho sức khỏe. Những người áp dụng thuật bế tinh nhằm kiểm soát xuất tinh sớm là điều rất tốt. Ngược lại họ dùng cách bế tinh để không xuất tinh khi quan hệ, đi ngược lại với tự nhiên thì tác hại sẽ vô cùng đáng quan ngại. Hãy xem những tác hại mà y khoa hiện đại nói tới đây. 🔔🔔🔔 Cảnh Báo: Nhiều Nam Giới gặp các vấn đề khó nói như Xuất Tinh Sớm, Rối Loạn Cương tự đi tìm các giải pháp cải thiện vấn đề của mình. Tuy nhiên nhiều trường hợp dẫn đến tiền mất tật mang. Xem Video chuyên gia Nguyễn Bá Toàn chia sẻ dưới đây hoặc truy cập vào đường link này để biết đâu là giải pháp đúng đắn. Theo quy trình dẫn đến sự xuất tinh có 4 bước tự nhiên: Ham muốn, cao nguyên khoái cảm, xuất tinh đạt cực khoái và thoái trào. Nhưng chúng ta áp dụng bế tinh để dừng lại ngay ở bước xuất tinh đó chính là đi ngược với tự nhiên. Khoa học hiện đại chứng minh một số tác hại có thể dẫn đến như sau:. Theo nguyên lý giải phẫu sinh lý học, khi xuất tinh tinh dịch sẽ đi theo ống dẫn tinh vào niệu đạo. Niệu đạo thì thông với bàng quang, bình thường lúc này cổ bàng quang sẽ co thắt nhằm giúp tinh dịch theo 1 chiều đi ra ngoài dương vật. Nếu chúng ta dùng cách bế tinh để nín nhịn thì tinh dịch sẽ quay trở lại có thể sẽ lên ngược bàng quang. Điều này thực sự sẽ nguy hiểm về lâu dài. Khi quan hệ và xuất tinh các bộ phận của hệ sinh dục nam như tinh hoàn, tuyến tiền liệt sẽ ở trạng thái sung huyết. Khi chúng ta bế tinh, việc hồi phục máu sẽ khó khăn và chậm chạp, tinh hoàn không trở về trạng thái thường ngay được. Việc sung huyết lâu khiến cho mao mạch tinh hoàn dễ bị tổn thương và viêm nhiễm. Bất kỳ cái gì khi chưa luyện thì không nói trước. Nhưng nếu bế tinh luyện được thành công, trở thành một thói quen khó từ bỏ. Nên nhớ khi xuất tinh rất nhiều bộ phận, cơ quan trọng cơ thể hoạt động đúng chức năng của nó. Từ những phản ứng sinh lý, chức năng phóng tinh, khả năng điều tiết của thần kinh trung ương, vỏ não sẽ lệ thuộc vào phương pháp này. Về sau nếu xuất tinh sẽ là khó khăn cho nam giới. Như nói ở trên, thời gian xuất tinh chỉ kéo dài trong khoảng vài chục giây, khi xuất tinh xong tiền liệt tuyến sẽ bình thường. Nếu bế tinh tiến tiền liệt sẽ vẫn bị sung huyết kéo dài. Dẫn đến viêm là ung thư sẽ là cơ hội cho việc duy trì về dài lâu. Khả năng cương cương của dương vật phụ thuộc rất nhiều từ cảm xúc và sự hưng phấn. Hoạt động bế tinh thành một thói quen ức chế lại sự điều khiển của thần kinh trung ương và cơ quan sinh dục. Nếu kéo dài như vậy tình trạng bất lực và liệt dương là có thể xảy ra. Bế tinh không những có những tác hại tác động về cơ quan sinh dục mà có thể ảnh hưởng đến những cảm xúc, tâm lý của nam giới. Bản thân nam giới khi không được xuất tinh họ đã phải có một trạng thái kìm nén hết sức khó chịu. Có thể hiểu đơn giản, cơn dục vọng của chúng ta có thể khiến thủ dâm, tự sướng, thậm chí ngoại tình, lăng nhăng nếu không được thỏa mãn. Tác động xấu hơn có thể thành suy nhược, lo âu, mất ngủ, hoa mắt chóng mặt …. Tại sao ngày xưa phương pháp Bế Tinh được mô tả và đề cao trong khi hiện nay, nhiều nhà khoa học lại cho rằng cách này không an toàn. Vậy chúng ta có nên áp dụng nó hay không?. Như phân tích ở trên, nam giới luyện bế tinh nhằm kéo dài thời gian, tránh xuất tinh sớm, duy trì khoái cảm giúp người bạn tình lên đỉnh. Đó là mục tiêu chính đáng và có lợi. Bế tinh đúng cách thì mang lại hiệu quả trong việc chống xuất tinh sớm. Tuy nhiên nếu để nói bế tinh để không xuất tinh thì không hợp lý. Những tác hại chúng tôi đã phân tích ở trên. Tình dục đóng vai trò quan trọng trong đời sống chăn gối vợ chồng. Tuy nhiên chúng ta cần để nó diễn ra một cách tự nhiên, thuận theo nguyên lý của nó. Bế tinh được đánh giá cao tuy nhiên khoa học chứng minh chúng ta cũng cần lưu ý. Nếu áp dụng nghệ thuật bế tinh để giúp duy trì sức khỏe, cải thiện chất lượng quan hệ thì được khuyến khích. Nếu lạm dụng và làm ngược lại tự nhiên sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe chính bạn. Hiện nay có những giải pháp cải thiện xuất tinh sớm hiệu quả bằng giải pháp tập luyện khoa học. Các bạn có thể tham khảo và nghiên cứu thêm tại trang chủ:
Bế tinh
Bế tinh được hiểu là việc giữ tránh xuất tinh sớm để kéo dài thời gian quan hệ tình dục nhằm tạo sự hòa hợp, thăng hoa cảm xúc với bạn tình. Phương pháp này không ngăn lây truyền bệnh tình dục và không hiệu quả để tránh thai. Trong tiếng Anh, coitus reservatus hoặc sexual continence chỉ một cách quan hệ tình dục trong đó người thâm nhập không xuất tinh bên trong người nhận mà giữ trạng thái kích thích ngay trước cực khoái và tránh xuất tinh càng lâu càng tốt. Từ karezza cũng có khái niệm tương tự. Từ này được nhiều người cho rằng là bắt nguồn từ tiếng Ý có nghĩa là sự mơn trớn, âu yếm tuy nhiên Alan W. Watts cho rằng nó là một từ tiếng Ba Tư. Alice Bunker Stockham đã nghĩ ra từ karezza và nó tương tự như từ maithuna trong Đát-đặc-la và sahaja trong Hindu Yoga. Có sự khác biệt nhỏ giữa karezza và coitus reservatus. Thực tế, không giống như karezza, người phụ nữ có thể có được sự cực khoái kéo dài trong khi người đàn ông thể hiện sự tự kiểm soát. Tương tự, khi hai người nam quan hệ tình dục với nhau, người nhận được kích thích tuyến tiền liệt lâu hơn.
Anaphase là một giai đoạn trong nguyên phân và meiosis nơi các nhiễm sắc thể bắt đầu di chuyển đến các đầu đối diện (cực) của tế bào đang phân chia . Trong chu kỳ tế bào , tế bào chuẩn bị cho sự phát triển và phân chia bằng cách tăng kích thước, tạo ra nhiều bào quan và tổng hợp DNA . Trong nguyên phân, ADN được phân chia đều cho hai tế bào con. Trong meiosis, nó được phân bố giữa bốn tế bào đơn bội . Sự phân chia tế bào đòi hỏi rất nhiều chuyển động trong một tế bào . Các nhiễm sắc thể được di chuyển bởi các sợi trục để đảm bảo rằng mỗi tế bào có số lượng nhiễm sắc thể chính xác sau khi phân chia. Anaphase là giai đoạn thứ ba trong bốn giai đoạn của quá trình nguyên phân. Trong prophase, các nhiễm sắc thể di chuyển về phía trung tâm tế bào. Trong quá trình chuyển hóa, các nhiễm sắc thể sắp xếp dọc theo mặt phẳng trung tâm của tế bào được gọi là đĩa hoán vị Trong giai đoạn anaphase, các nhiễm sắc thể được ghép nối nhân đôi, được gọi là các nhiễm sắc thể chị em , tách rời và bắt đầu di chuyển về các cực đối diện của tế bào. Trong telophase, các nhiễm sắc thể được phân tách thành các nhân mới khi tế bào phân chia, phân chia nội dung của nó giữa hai tế bào. Trong nguyên phân, bốn tế bào con được tạo ra, mỗi tế bào có một nửa số nhiễm sắc thể như tế bào ban đầu. Tế bào sinh dục được tạo ra bởi kiểu phân chia tế bào này. Trong anaphase I, các chromatid chị em bắt đầu di chuyển về các cực của tế bào đối diện. Tuy nhiên, không giống như trong nguyên phân, các chromatid chị em không phân tách. Vào cuối kỳ phân bào I, hai tế bào được hình thành với một nửa số lượng nhiễm sắc thể như tế bào ban đầu. Tuy nhiên, mỗi nhiễm sắc thể chứa hai nhiễm sắc thể thay vì một nhiễm sắc thể đơn lẻ. Trong meiosis II, hai tế bào lại phân chia. Mỗi nhiễm sắc thể được tách ra bao gồm một nhiễm sắc thể đơn và được coi là một nhiễm sắc thể đầy đủ. Vào cuối kỳ phân bào II, bốn tế bào đơn bội được tạo ra. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Sinh học tế bào
Sinh học tế bào hay Tế bào học là một lĩnh vực của Sinh học, chuyên nghiên cứu các đặc điểm và hoạt động sống ở cấp độ tế bào. Khái niệm này dịch từ thật ngữ tiếng Anh cytology (phiên âm IPA: /sī-ˈtä-lə-jē/). Thuật ngữ này là từ ghép chữ "cyto" (là tế bào) và "logy" (môn khoa học).Sinh học tế bào liên quan đến các tính chất sinh lý, quá trình trao đổi chất, đường dẫn tín hiệu, vòng đời, thành phần hóa học và tương tác của tế bào với môi trường của chúng. Điều này được thực hiện cả trên kính hiển vi và phân tử mức độ vì nó bao gồm các tế bào nhân sơ và tế bào nhân chuẩn. Biết các thành phần của tế bào và cách thức các tế bào hoạt động là nền tảng cho tất cả các ngành khoa học sinh học; nó cũng rất cần thiết cho nghiên cứu trong các lĩnh vực y tế sinh học như ung thư và các bệnh khác. Nghiên cứu về sinh học tế bào liên quan chặt chẽ đến di truyền học, hóa sinh, sinh học phân tử, miễn dịch học và cytochemistry.
Thơ song thất lục bát (hai 7+6-8), cũng rất được Hotline là lục chén bát con gián thất (6-8 xen nhì 7) tuyệt thể ngâm là một thể văn vầnvnạp năng lượng chương thơm đất nước hình chữ S (thơ) đặc thù của cả nước. Một số tác phđộ ẩm béo trong vnạp năng lượng cmùi hương Việt Nam, trong các số đó có bản dịch Chinch Prúc Ngâm ra quốc âm đã có được viết theo thể thơ này. Thơ song thất lục chén bát có có 2 câu 7 chữ cùng 1 câu 6 chữ, 1 câu 8 chữ. Chữ cuối câu bảy trên vần với chữ lắp thêm 5 câu bảy bên dưới, chữ cuối câu bảy dưới vần cùng với chữ cuối câu lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ đồ vật 6 câu bát. Và chữ cuối câu chén bát vần với chữ đồ vật 5 (đôi khi chữ lắp thêm 3) của câu thất tiếp theo. Nếu chúng ta hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời. Nhưng khi bạn cân nhắc trả lời, các bạn sẽ đuc rút gấp bội!. Chịu trách rưới nhiệm nội dung: Nguyễn Công Hà - Giám đốc công ty chúng tôi CPhường.
Thơ song thất lục bát
Thể thơ song thất lục bát (雙七六八, đôi 7 6-8), cũng được gọi là lục bát gián thất (六八間七, 6-8 xen 7) hay thể ngâm là một thể văn vần (thơ) đặc thù của Việt Nam. Một số tác phẩm lớn trong văn chương Việt Nam, trong đó có bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm đã được viết theo thể thơ này. Thơ song thất lục bát gồm có 2 câu 7 chữ và 1 câu 6 chữ, 1 câu 8 chữ. Chữ cuối câu bảy trên vần với chữ thứ 5 câu bảy dưới, chữ cuối câu bảy dưới vần với chữ cuối câu lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát. Và chữ cuối câu bát vần với chữ thứ 5 (đôi khi chữ thứ 3) của câu thất tiếp theo.
Cương thi tiên sinh 4 còn được gọi là Cương thi thúc thúc là một bộ phim kinh dị hài Hồng Kông năm 1988 của đạo diễn Lưu Quán Vĩ, được sản xuất bởi Hồng Kim Bảo và Trần Bội Hoa. Bộ phim là phần thứ tư trong loạt năm bộ phim Cương thi tiên sinh của đạo diễn Lưu Quán Vĩ. Tên tiếng Trung của bộ phim dịch theo nghĩa đen là Cương thi thúc thúc. Trong một khu rừng chỉ có hai ngôi nhà của lão Hòa Thượng và lão đạo sĩ Bốn Mắt. Dù là hàng xóm duy nhất của nhau, nhưng hai người không ưa nhau, thường xuyên cà khịa, chơi khăm lẫn nhau. Gia Lạc, đồ đệ của Bốn Mắt lại khá thân thiết với Hòa Thượng. Một hôm, Hòa Thượng dẫn về một nữ đồ đệ dữ dằn tên Tinh Tinh. Gia Lạc tưởng Tinh Tinh là con trai nên đã ôm cô trêu ghẹo. Tinh Tinh giận dữ, Hòa Thượng bèn giả vờ đánh Gia Lạc nhưng Tinh Tinh sớm nhận ra và dội nước cả hai người. Bốn Mắt dẫn một đàn ma cương thi đã được dán bùa lên thị trấn mua đồ. Giữa đường, một con Hồ ly tinh tìm cách quyến rũ Bốn Mắt nhưng ông không bị mê hoặc và giết chết nó. Trở về nhà, Bốn Mắt giận dữ vì Gia Lạc ngủ quên không canh chừng nhà. Ông yểm bùa để đám cương thi đánh Gia Lạc. Gia Lạc láu cá nằm yên khiến chính Bốn Mắt bị đám cương thi đánh một trận tơi bời. Gia Lạc mời Hòa Thượng và Tinh Tinh sang ăn cơm, nhưng bữa cơm sớm kết thúc vì hai lão sư phụ hết tranh giành rồi lại hất đồ ăn vào nhau. Bốn Mắt thấy phiền phức vì Hòa Thượng tụng kinh cả ngày. Bốn Mắt hỏi mua lại nhà Hòa Thượng không được bèn làm phép hình nhân rơm điều khiển Hòa Thượng làm những hành động kỳ cục như tự nhổ răng, tự điểm huyệt cười… Hòa Thượng phải bảo Tinh Tinh cho ông ăn tỏi mới thoát được. Sau đó, Hòa Thượng cũng làm phép một búp bê điều khiển Bốn Mắt. Tinh Tinh gắn pháo đốt vào búp bê khiến Bốn Mắt bầm dập, te tua. Hòa Thượng bắt Bốn Mắt uống hết vại dầu để hóa giải phép thuật khiến Bốn Mắt đi cầu cả đêm. Một ngày nọ, đoàn binh lính triều đình đi ngang qua nhà của họ, trong đó có Tiên Hạc, sư đệ của Bốn Mắt. Tiên Hạc cho biết họ đang hộ tống tiểu hoàng tử và cỗ quan tài một vị vương gia đã biến thành cương thi về kinh thành cho hoàng thượng quyết định. Trong cơn giông đêm hôm đó, nước mưa cuốn trôi bùa ma thuật trên quan tài và cương thi sống dậy, biến thành Cương thi vương sau khi bị sét đánh. Cương thi vương tấn công đoàn người triều đình khiến họ bị nhiễm độc cương thi và sẽ biến thành cương thi sau một thời gian ngắn. Tiên Hạc cầm chân Cương thi vương để viên quan ẻo lả bế tiểu hoàng tử đã bị thương chạy đến nhà hai lão sư phụ cầu cứu. Hai lão sư phụ để hai đồ đệ ở nhà chăm sóc tiểu hoàng tử, còn hai lão chạy đi tìm cương thi, nhưng chỉ thấy đoàn người triều đình đã bị sát hại. Tiên Hạc đã bị thương nặng, ông giết mấy người đồ đệ để ngăn họ biến thành cương thi rồi tự sát. Tại nhà Hòa Thượng, Gia Lạc muốn lừa Tinh Tinh hô hấp nhân tạo cho mình. Không ngờ người kề môi Gia Lạc lại là viên quan ẻo lả khiến Gia Lạc kinh tởm. Ba người lính triều đình đã biến thành cương thi tấn công ngôi nhà. Viên quan ẻo lả có những hành động lạ khiến Gia Lạc phải đánh ngất ông. Gia Lạc và Tinh Tinh vật lộn với ba cương thi một hồi. Viên quan ẻo lả cũng biến thành cương thi vì đã nhiễm độc từ trước. Gia Lạc cùng Tinh Tinh bày trò tô vẽ mặt giả làm cương thi, nhưng cương thi ẻo lả ép Gia Lạc kề môi mình và nhận ra anh là “hàng giả”. Hai lão sư phụ trở về kịp thời cứu hai đồ đệ. Hòa Thượng nhân hậu không muốn sát sinh trong khi Bốn Mắt dùng kiếm gỗ tiêu diệt hết cương thi nên họ lại cãi nhau. Bốn Mắt dẫn Gia Lạc về nhà. Đêm hôm đó, Cương thi vương tấn công nhà Hòa Thượng. Hai lão sư phụ lại phải phối hợp với nhau, để Gia Lạc và Tinh Tinh dẫn tiểu hoàng tử trốn trong nhà cương thi của Bốn Mắt. Gia Lạc bôi mạch nha trên sàn nhà để cương thi bị dính chân. Không ngờ cương thi chui lên từ dưới sàn nhà, trong lúc chạy trốn chính ba người bị dính chân vào sàn. Ba người bỏ giày chạy thoát được thì đến lượt hai lão sư phụ xông vào cũng bị dính chân. Hai lão sư phụ cùng Gia Lạc vật lộn với cương thi một hồi. Bốn Mắt làm phép biến thành một lực sĩ cơ bắp cuồn cuộn đánh trả khiến cương thi sợ. Không may, ông dẫm phải mảnh sành nên phép mất tác dụng. Ba người sau đó giữ chặt cương thi để Tinh Tinh đổ tất cả các loại thuốc độc vào miệng cương thi, tiêu diệt nó. Tinh Tinh cảm thấy sợ hãi, Gia Lạc nhân cơ hội ôm cô và nói rằng sư phụ anh còn đáng sợ hơn cương thi. Gia Lạc không hề hay biết Bốn Mắt đang đứng bên cạnh anh và tung cước đá anh. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Cương thi tiên sinh
Cương Thi Tiên Sinh (tựa tiếng Anh: Mr. Vampire) là một bộ phim kinh dị hài Hồng Kông năm 1985 do Lưu Quán Vĩ đạo diễn và Hồng Kim Bảo sản xuất. Thành công phòng vé của bộ phim đã dẫn đến việc tạo ra một thương hiệu cương thi, với việc phát hành bốn phần tiếp theo của đạo diễn Lưu Quán Vĩ từ năm 1986 đến năm 1992, và sau đó là những bộ phim có chủ đề tương tự với các đạo diễn khác nhau được phát hành từ năm 1987 đến năm 1992, với Lâm Chánh Anh là diễn viên chính cho phần lớn trong loạt phim. Ma cà rồng của bộ phim dựa trên cương thi, xác chết nhảy của văn hóa dân gian Trung Quốc (tương tự như cả thây ma và ma cà rồng). Bộ phim được phát hành dưới tựa đề tiếng Trung 暫時停止呼吸 (nghĩa đen: Giữ hơi thở của bạn trong một khoảnh khắc) tại Đài Loan. Bộ phim là sự thành công đột phá của thể loại cương thi, một xu hướng phổ biến ở Hồng Kông trong những năm 1980, và trở nên phổ biến ở các nước Châu Á.
Môn giải tích là môn phân tích các nhánh cơ bản nhất, lâu đời nhất. Nói chung là một môn học toán học tương đối hoàn chỉnh với nội dung chính là giải tích và lý thuyết tổng quát về dãy vô hạn và bao gồm cả cơ sở lý thuyết của chúng ( lý thuyết cơ bản về số thực , hàm số và giới hạn ). Nó cũng là một khóa học cơ bản cho các chuyên ngành toán học đại học. Ngành toán học giải tích là ngành toán học chuyên nghiên cứu các số thực và số phức và các hàm của chúng. Sự phát triển của nó bắt đầu từ giải tích và mở rộng ra các đặc điểm khác nhau như tính liên tục , tính phân biệt và tính tích hợp của hàm . Những đặc điểm này giúp chúng ta ứng dụng vào việc nghiên cứu thế giới vật chất, nghiên cứu và khám phá các quy luật của tự nhiên. Vì sao nói người đàn ông có lông mày chữ nhất là người tài giỏi ? Lông mày chữ nhất. Mọi người đều biết rằng toán học có thể được chia thành ba phần: giải tích, hình học và đại số. Việc nghiên cứu giải tích toán học trước hết là tạo nền tảng tốt cho tất cả các khóa học giải tích và các khóa học vật lý tiếp theo, đồng thời chuẩn bị cho kiến thức. Điều cần nhấn mạnh là chúng ta nên chú ý rằng toán học là một tổng thể hữu cơ, và bất kỳ phép toán tách rời nhân tạo nào là không nên. Tôi nghĩ việc phân chia toán học trên chủ yếu xét từ phương pháp nghiên cứu. Cũng giống như các kết quả và ý tưởng của hình học và đại số thường được sử dụng trong giải tích toán học, giải tích toán học cũng có thể hữu ích cho việc học tập và nghiên cứu về hình học hoặc đại số, và thậm chí không thể thiếu. Chỉ là ở bậc đại học, loại ảnh hưởng này dường như không quá rõ ràng ngoại trừ biểu hiện của nó trong hình học vi phân. Một vai trò quan trọng khác của việc học giải tích toán học là rèn luyện phương pháp tư duy toán học hiện đại. Toán học chú ý đến suy luận logic và tính chặt chẽ. Trong thực tế, một phần mạnh mẽ trong sự phát triển của giải tích là sự phân loại của giải tích. Công việc sẽ tiêu tốn hàng trăm năm của các thế hệ toán học thời đó, và cuối cùng là giới hạn – việc thiết lập và định nghĩa lý thuyết số thực như một biểu tượng sẽ được hoàn thành. lý thuyết về giải tích toán học rất rộng và sâu sắc, nó có những ứng dụng trực tiếp trong nhiều vấn đề thực tế. Ví dụ, một số bài toán tối ưu hóa có thể được rút gọn thành bài toán giá trị lớn nhất, và sau đó được giải bằng phương pháp tính vi phân. Các thông tin trên Iniada.info chỉ mang tính chất tham khảo, khi áp dụng phải tuyệt đối tuân theo chỉ dẫn của Bác sĩ. Chúng tôi tuyệt đối không chịu bất cứ trách nhiệm nào do việc tự ý áp dụng các thông tin trên Iniada.info gây ra.
Giải tích toán học
Giải tích toán học là nhánh của toán học liên quan đến giới hạn và các lý thuyết liên quan, chẳng hạn như đạo hàm, tích phân, đo lường, chuỗi vô hạn và các hàm giải tích. Những lý thuyết này thường được nghiên cứu trong bối cảnh của các số và hàm số thực và số phức. Giải tích phát triển từ vi tích phân, liên quan đến các khái niệm và kỹ thuật giải tích cơ bản. Giải tích có thể được phân biệt với hình học; tuy nhiên, nó có thể được áp dụng cho bất kỳ không gian nào của các đối tượng toán học có định nghĩa về độ gần (không gian tôpô) hoặc khoảng cách cụ thể giữa các đối tượng (không gian metric). Giải tích có ứng dụng rất rộng trong khoa học kỹ thuật, để giải quyết các bài toán mà với phương pháp đại số thông thường tỏ ra không hiệu quả. Nó được thiết lập dựa trên các ngành đại số, lượng giác, hình học giải tích và còn được gọi là "ngành toán nghiên cứu về hàm số" trong toán học cao cấp. Giải tích có một cách gọi phổ thông hơn là phương pháp tính.
Kiến trúc sư đang là một ngành nghề được nhiều người lựa chọn ở xã hội hiện nay. Trong suy nghĩ của nhiều người thì đây là nghề hái ra tiền lại vô cùng nhàn rỗi. Thế nhưng, thực tế liệu có phải như vậy? Tại sao nó lại là nghề vừa dễ vừa khó?. Trong thời đại ngày nay, cụm từ kiến trúc sư đã quá quen thuộc. Tuy nhiên, số người hiểu đúng, hiểu rõ về nghề này không nhiều. Do đó, ngành kiến trúc sư đang là thắc mắc của không ít người, nhất là các bạn trẻ khi đang có dự định lựa chọn công việc này. Thực chất, kiến trúc sư là người làm công việc thiết kế không gian, thiết kế mặt bằng xây dựng. Họ là những người tạo nên hình thức, cấu trúc của công trình xây dựng. Hoặc họ có thể là người thiết kế quy hoạch của các vùng, các khu dân cư, khu đô thị & cảnh quan đô thị. Vai trò của kiến trúc sư là hiện thực hóa nhu cầu về không gian sống, không gian làm việc, vui chơi,… của con người thông qua các bản vẽ thiết kế kiến trúc công trình, thiết kế nội thất,… Họ sẽ chịu trách nhiệm lên ý tưởng, thiết kế kiến trúc công trình, nội thất, cảnh quan,… dựa trên những biện pháp về công năng, tính thẩm mỹ và các yêu cầu kỹ thuật. Ngành kiến trúc sư làm những gì? Công việc chính đó là thiết kế. Tuy nhiên, để ra được bản thiết kế đó, ứng dụng chúng được vào thực tế không chỉ đơn giản ngồi vẽ ra là xong. Nó đòi hỏi các kiến trúc sư cần:. Gặp gỡ khách hàng, nắm bắt được chính xác mong muốn, yêu cầu của dự án. Lên phương án, trình bày và đề xuất phương án phù hợp với tiêu chí khách hàng đưa ra. Thực hiện thiết kế bản vẽ cho dự án, công trình xây dựng, tạo ra hình ảnh thông qua phần mềm CAD. Sau khi thiết kế đã được duyệt, kiến trúc sư sẽ phải làm việc với các chuyên gia xây dựng, kỹ sư xây dựng, nhà thầu,… để đưa ra lịch trình thi công phù hợp, đảm bảo đúng tiến độ. Giám sát dự án cho tới khi chúng được hoàn thành để đảm bảo đúng thiết kế, đúng chất lượng. Kiến trúc sư là ngành nghề đòi hỏi rất nhiều yếu tố ở người theo đuổi, không chỉ kiến thức chuyên môn mà còn là sự am hiểu ở các lĩnh vực khác. Cụ thể, yêu cầu của nghề kiến trúc sư gồm:. Kiến thức về pháp luật liên quan tới cơ sở hạ tầng, quy chuẩn xây dựng, luật xây dựng. Kỹ năng tư duy trừu tượng để phác họa tốt nhất các ý tưởng trong đầu ra giấy tạo thành bản vẽ. Khả năng sáng tạo để tạo ra cái đẹp, sự độc đáo, nét riêng cho bản thiết kế của mình. Kiến trúc sư đang là một nghề rất hot hiện nay. Tuy nhiên, đây cũng là ngành có tỷ lệ người bỏ nghề sớm cao. Tại sao lại vậy?. Xã hội ngày một phát triển, kiến thức, hiểu biết của con người ngày một nâng cao. Điều này đã thúc đẩy nhu cầu về các dự án, công trình kiến trúc gia tăng. Đây chính là cơ hội việc làm rất lớn cho các kiến trúc sư. Ngay các cử nhân kiến trúc ra trường đã có thể đảm nhiệm nhiều vị trí công việc khác nhau. Điển hình như kiến trúc sư quy hoạch, kiến trúc sư thiết kế nội thất, kiến trúc sư công trình, tư vấn kiến trúc,… Không chỉ có cơ hội làm việc tại các Tổng công ty xây dựng của Nhà nước mà bạn có thể xin vào làm việc trong các công ty làm dịch vụ tư vấn thiết kế thi công lớn, nhỏ trên cả nước. Thậm chí, nếu là sinh viên xuất sắc, bạn còn có cơ hội trở thành giảng viên đại học trường kiến trúc. Công việc chính của kiến trúc sư là thiết kế. Do đó, môi trường làm việc chủ yếu là tại các xưởng thiết kế, văn phòng tư vấn thiết kế khá tiện nghi. Đôi khi, kiến trúc sư sẽ phải đi thực địa, giám sát công trình, … Tuy chúng vất vả hơn một chút nhưng lại tạo cảm giác thích thú, tránh sự nhàm chán khi ở mãi trong văn phòng. Kiến trúc sư lương tháng bao nhiêu? Đây là vấn đề được rất nhiều người quan tâm. Theo đó, lương ngành kiến trúc luôn thuộc top các ngành nghề có thu nhập ở mức cao. Đây cũng chính là một điều thu hút được rất nhiều người dấn thân vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, kiến trúc sư lương tháng bao nhiêu còn phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của ứng viên, quy mô doanh nghiệp, nơi làm việc,… Cụ thể, thu nhập của các kiến trúc sư mới vào nghề dao động từ 7 – 8 triệu đồng/tháng. Nhưng với các kiến trúc sư giỏi, mức thu nhập sẽ tốt hơn từ 15 – 25 triệu đồng/tháng. Nếu biết thêm tiếng Anh, lương sẽ lại cao hơn, từ 2.000 – 2.500 USD/ tháng. Khi đã tích đủ kinh nghiệm, có máu kinh doanh, bạn hoàn toàn có thể mở công ty, tự làm chủ. Lúc ấy, số tiền kiếm được từ ngành kiến trúc sư này sẽ còn cao hơn rất nhiều. Mới nhìn qua, ai cũng nghĩ kiến trúc sư là nghề ngồi mát ăn bát vàng. Tuy nhiên, chỉ khi dấn thân vào nghề mới thấy rõ nỗi khổ của kiến trúc sư. Cụ thể, đó là gì?. Kiến trúc sư là nghề đòi hỏi sự sáng tạo, đổi mới rất cao. Bởi chỉ có sáng tạo mới tạo ra được sự độc đáo, ấn tượng trong mẫu thiết kế. Chắc chắn chẳng có khách hàng nào thích công trình của mình sao y, bắt chước công trình người khác. Vì vậy, áp lực sáng tạo là rất lớn, nếu bạn không sáng tạo thì bạn sẽ bị đào thải. Để có một tác phẩm kiến trúc được đánh giá cao, bạn có khi phải bỏ ra cả tháng, thậm chí cả năm chứ không phải một vài ngày, vài tuần như một số lĩnh vực khác. Áp lực về thời gian được thấy rõ nhất khi sát đến thời hạn deadline. Để hoàn thành đúng tiến độ, rất nhiều người đã phải ôm cả công việc về nhà. Nhất là khi chỉ vì thay đổi một vài chi tiết trong thiết kế mà phải thay đổi toàn bộ cả quy trình. Mỗi năm, số lượng cử nhân tốt nghiệp ngành kiến trúc sư rất lớn. Hơn nữa, trong thời đại mở cửa giao thương như hiện nay có không ít kiến trúc sư giỏi từ nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Như vậy, bạn sẽ phải đối mặt với kiến trúc sư lâu năm lẫn lực lưỡng mới gia nhập thị trường lao động và cả chuyên gia nước ngoài. Chỉ cần chút sơ suất, một sai sót nhỏ cũng có thể kiến bạn dừng chân trong lĩnh vực này. Có thể thấy, không có nghề gì là ngồi mát ăn bát vàng. Mỗi nghề đều có cái dễ, cái khó riêng, ngành kiến trúc sư cũng vậy. Do đó, bạn cần phải cân nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định theo đuổi ngành nghề này, nhất là các bạn nữ. Con gái có nên học kiến trúc hay không tùy thuộc vào việc bạn có sẵn sàng đối mặt với các áp lực cũng như khó khăn của nghề được không. Như vậy, trên đây, bài viết đã giúp bạn hiểu rõ hơn về ngành nghề kiến trúc sư. Cũng như thấy được cái dễ, nỗi khổ trong nghề để đưa ra lựa chọn đúng đắn cho nghề nghiệp tương lai của mình, mang lại niềm vui cũng như gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống.
Kiến trúc sư
Kiến trúc sư là người làm thiết kế mặt bằng, không gian, hình thức và cấu trúc cũng như dự đoán sự phát triển của một công trình hay làm thiết kế quy hoạch của vùng, của khu dân cư, khu công nghiệp và cảnh quan đô thị. Kiến trúc sư cung cấp các giải pháp về kiến trúc (công năng, thẩm mỹ cũng như giải pháp kĩ thuật) cho các đối tượng khách hàng có nhu cầu xây dựng ở các lĩnh vực khác nhau. Từ "kiến trúc sư" xuất phát từ architectus trong tiếng Latin và từ arkhitekton trong tiếng Hy Lạp, đây là kết hợp của arkhi, có nghĩa là "người chính, người thợ cả", và tekton, có nghĩa là "người thợ nề, người thợ mộc". Trong tiếng Việt, "kiến trúc" có thể xem hợp thành từ "kiến tạo", thể hiện sự sáng tạo ra cái mới, và "cấu trúc", thể hiện sự bố trí sắp xếp hợp lý. Vì thế, kiến trúc sư được hiểu theo nghĩa là người kiến tạo ra công trình với cấu trúc mới lạ và đẹp mắt. Nhìn chung, kiến trúc sư là người trung gian đảm bảo đáp ứng tối đa nhu cầu công năng sử dụng và nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ giữa người sử dụng với công trình kiến trúc.
Khái niệm: Truyện thơ nôm là đối tượng đã được giới chuyên môn tìm hiểu một cách kỹ lưỡng từ lâu. Với số lượng rất lớn các công trình, bài viết đã công bố, thoạt nhìn, dễ có ý nghĩ là mọi phương diện của hiện tượng văn học này đều đã được giải quyết. Thế nhưng thực tế lại không phải như vậy. Không ít nội dung từng được luận đàm ráo riết từ giữa thế kỷ XX, vậy mà cho đến tận bây giờ vẫn đang dang dở. Ngay cả đối với những vấn đề cơ bản liên quan đến việc nhận diện đối tượng nghiên cứu (chẳng hạn thế nào là truyện nôm? Bản chất truyện nôm là gì?Truyện nôm xuất hiện như thế nào ?. ), câu trả lời vẫn rất mơ hồ. Nhìn vào thành quả nghiên cứu truyện thơ nôm bấy lâu, có thể thấy vướng mắc nhiều nhất trong quá trình nhận thức chính là do phương pháp tiếp cận, mà điều này lại là hệ quả trực tiếp từ việc nhận diện đối tượng. Có quan niệm cho rằng truyện thơ nôm là một thể loại văn học. Quan niệm này vô hình trung đã đẩy truyện thơ nôm trượt ra khỏi vị thế quan trọng trong cấu trúc của nền văn học dân tộc. Đây chính là điểm mấu chốt dẫn đến những sai lạc không mong muốn trong hoạt động nghiên cứu truyện nôm từ trước tới nay. Muốn thoát ra khỏi những “điểm nghẽn” này, không có cách nào khác ngoài sự thay đổi phương pháp nhận thức. Lâu nay khi bàn về truyện thơ nôm, ý kiến của các nhà nghiên cứu tuy rất đa dạng, nhưng cũng có nhiều điểm thống nhất. Chẳng hạn như, về quá trình hình thành và phát triển, truyện thơ nôm là một thể loại văn học, có quá trình lịch sử chừng ba thế kỷ; nó xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII, với các truyện mở đầu như Vương Tường, Tô công phụng sứ, Lâm tuyền kỳ ngộ, Tam quốc thi… và đạt đến đỉnh điểm vào đầu thế kỷ XIX (với kiệt tác Truyện Kiều), cho đến cuối thế kỷ này thì kết thúc(1). Những căn cứ để xác định thời điểm xuất hiện của các truyện chủ yếu dựa vào đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, cơ sở để suy đoán chính là mối liên hệ giữa nhân vật lịch sử và nhân vật trong tác phẩm văn học. Chẳng hạn, truyện Vương Tường có cốt truyện dựa trên giai thoại Chiêu Quân nhập Hồ (Trung Quốc), nhưng lại được xem là một tác phẩm có tính ám dụ về lịch sử Việt Nam - sự kiện công chúa Huyền Trân (1287 - 1340) được gả cho vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga(2). Tương tự, truyện Tô công phụng sứ, mặc dù tên nhân vật gợi đến hành tích Tô Vũ nhà Hán, nhưng chính là kể về sứ thần Lê Quang Bí (1506 - ?) thời nhà Mạc. Bản thân các nhân vật, sự kiện lịch sử này là những gợi dẫn về thời gian xuất hiện truyện thơ. Đồng thời, xét về hình thức nghệ thuật, các tác phẩm vừa nêu đều được trình bày theo thể thức thất ngôn bát cú Đường luật. Chính sự “lạc loài” về hình thế câu thơ, nét thô vụng trong cách diễn đạt, cùng một vài yếu tố khác như ngôn ngữ, thể cách viết chữ (nôm). đã được lấy làm dấu hiệu cho quá trình thử nghiệm loại hình(3). Từ đấy kết luận được đưa ra, truyện thơ nôm xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII (hoặc XVIII). Những nội dung vừa nêu trên được chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường; được truyền bá rộng rãi thông qua “kênh” giáo dục; mặc nhiên trở thành quan điểm “chính thống”. Về lý mà nói, tri thức nhà trường vốn được xây dựng dựa trên thành tựu khoa học nói chung, lại đã được thẩm định kỹ càng, hẳn nhiên phải đáng tin cậy. Hơn nữa, trước những thông tin như vậy, giới khoa học suốt mấy chục năm qua cũng không có phản ứng gì, tức là coi chuyện đó là ổn thỏa. Thế nhưng xét về phương diện chuyên môn, nếu coi đây là kiến thức “chuẩn” thì lại không được. Những mô tả về lịch sử truyện thơ nôm như trên là không đảm bảo về mặt khoa học. Bởi vì như khẳng định loại hình này xuất hiện vào thế kỷ XVII (hoặc XVIII) mà chỉ dựa trên suy luận, không đưa ra được bằng chứng đảm bảo thì luận điểm đó là không đáng tin. Làm sao có thể nói các truyện Vương Tường, Tô công phụng sứ, Lâm tuyền kỳ ngộ, Tam quốc thi. ra đời sớm nhất, khi mà cho đến nay, chưa ai chứng minh được nó ra đời trong hoàn cảnh nào, ai là tác giả!. Trên thực tế, cũng có học giả do thấy được thấy tính chất phức tạp của văn bản truyện thơ nôm nên đã đưa ra những nhận định chừng mực hơn; không khái quát lịch sử loại hình nói chung mà chỉ đề cập đến đối tượng được gọi là “truyện nôm có tên tác giả”(4). Số truyện này thực ra không nhiều; so với những truyện “khuyết danh” thì tỉ lệ truyện “hữu danh” quá nhỏ. Khi phân biệt như vậy cũng có nghĩa, cái gọi là “lịch sử” này chỉ là một mảnh, còn phần lớn truyện thơ nôm thì hoàn toàn chưa được tính đến. Nhưng với cứ liệu thư tịch hiện có, mốc đánh dấu lối truyện này lại phải nằm vào thế kỷ XVIII mới phải, tức là đúng vào thời điểm xuất hiện Song Tinh truyện của Nguyễn Hữu Hào(5), chứ không thể sớm hơn. Để chỉ ra những điểm bất hợp lý, sự khiên cưỡng trong phương pháp suy luận thể hiện ở sách giáo khoa là việc đơn giản. Nhưng cũng cần thấy là ở tình huống này, lỗi không hoàn toàn thuộc về người biên soạn. Cái gốc của vấn đề lại chủ yếu thuộc về giới chuyên môn; thậm chí có thể nói trách nhiệm chính thuộc về các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu truyện thơ nôm. Kiến thức học đường đã phản ánh đúng thực trạng nghiên cứu hàn lâm. Khi mà giới nghiên cứu hầu như đều thống nhất rằng truyện thơ nôm ra đời vào thế kỷ XVII và kết thúc cuối thế kỷ XIX thì tài liệu giáo khoa cũng không thể nói khác được. Cần bàn kỹ hơn một chút về thế kỷ XVII, thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của truyện thơ nôm. Thực ra việc lựa chọn mốc thời gian này chẳng dựa trên một cơ sở khoa học nào cả. (4)Tuy vậy, điều này không hoàn toàn ngẫu nhiên; trái lại nó có căn nguyên từ phương pháp nhận thức của nhà nghiên cứu. Có một hiện tượng khá phổ biến là trong các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam, yếu tố “sử” bao giờ cũng được dùng như một căn cứ để giải thích “văn”. Điều này dường như được bắt nguồn từ quan niệm về tính dung hợp của nghệ thuật ngôn từ (vốn thịnh hành trong quá khứ), lại vừa bắt nguồn từ nhận thức về đặc tính “phản ánh” của văn học với tư cách một hình thái ý thức xã hội (trong quan niệm mác - xít). Nhà nghiên cứu do bị ám ảnh bởi “nguyên lý” này nên khi tư duy thường hướng đến việc phát hiện sự chi phối của lịch sử đối với văn học, hoặc ngược lại, tìm ánh xạ của lịch sử trong văn học. Rút cuộc, các công trình văn học sử thường được “dựng” theo mô thức chung. Bối cảnh lịch sử, đặc điểm văn hóa xã hội. không chỉ đóng vai “phông nền” mà thậm chí còn trở thành một phần của lịch sử văn học. Những nghiên cứu về cái gọi là “lịch sử” hay “nguồn gốc” hình thành truyện thơ nôm cũng không phải là ngoại lệ. Trên thực tế, khi bàn về sự xuất hiện của nó, cái lý do được nhiều người nhấn mạnh hơn cả không hẳn là những yếu tố thuộc về văn học mà lại là những tiền đề lịch sử, xã hội tương ứng. Điều đó gợi ấn tượng rằng sở dĩ mốc ra đời truyện thơ nôm được “đặt” ở thế kỷ XVII không phải vì có những dấu hiệu chứng tỏ quy luật vận động của một “thể loại”/ loại hình văn học, mà vì có sự phù hợp với mối quan hệ “nhân - quả” giữa văn học và lịch sử. Đối với truyện thơ nôm, trong điều kiện thông tin tư liệu hiện có thì dù chọn thời điểm nào làm mốc lịch sử cũng vậy, nghĩa là cũng đều thiếu rõ ràng. Chỉ có điều, nếu chọn thế kỷ XVII thì cách luận giải về nguyên nhân ra đời của nó có vẻ thuận lý, có cơ sở hơn. Theo đó, trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XVII, sự ra đời của hiện tượng văn học này được cho là “phù hợp quy luật”. Truyện thơ nôm cùng với ngâm khúc, sân khấu dân gian. tạo nên một trào lưu văn chương nghệ thuật có tác dụng “cân bằng” đời sống tinh thần, giải tỏa bức xúc của xã hội(6). Tuy nhiên, chính lối nhận thức này đã khiến cho việc cắt nghĩa nguồn gốc một loại hình văn học trở nên gượng ép. Tác phẩm văn chương, một yếu tố của đời sống, bao giờ cũng thuộc về một hoàn cảnh cụ thể; cũng vì thế, bóng dáng đời sống hiện thực được thể hiện trong đó là điều không cần phải bàn cãi. Nhưng cái sản phẩm tinh thần này lại không phải là một bản sao từ thực tế lịch sử, không phải là một kết quả có tính tất yếu; lắm khi nó chỉ là một điều kỳ diệu tình cờ. Thật khó thuyết phục về mặt lý lẽ rằng truyện thơ nôm ra đời là vì những điều kiện lịch sử xã hội như thế. Hơn nữa, lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII cũng không hẳn bi thảm như nhiều người từng nghĩ; trái lại, vẫn có những phương diện thực sự hưng vượng, phát triển. Điều này đã được chứng minh trong nhiều công trình sử học gần đây. Thành ra, giải thích nguyên do phát sinh, phát triển của truyện thơ nôm như một hiệu ứng xã hội (tù hãm, suy thoái) là không thỏa đáng. Tuy vậy, rắc rối trong việc nghiên cứu truyện thơ nôm không chỉ là việc chưa xác định rõ thời điểm ra đời của nó; ngay cả việc nhận diện đối tượng cũng còn rất mơ hồ. Một điều khó tin song đó lại là sự thật: hơn nửa thế kỷ bàn đủ mọi thứ về truyện thơ nôm, song diện mạo lịch sử của nó như thế nào thì vẫn là một câu chuyện dở dang. Truyện thơ nôm là gì? Rất khó mô tả hiện tượng văn học này chỉ bằng mấy câu ngắn gọn. Trong các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, nó được gọi bằng nhiều tên khác nhau; chẳng hạn: tiểu thuyết quốc ngữ (Phạm Đình Hổ), tiểu thuyết bằng văn vần (Dương Quảng Hàm), truyện ngâm (Hoàng Thiếu Sơn), truyện nôm (Đặng Thanh Lê, Kiều Thu Hoạch); rồi những truyện thơ, truyện nôm na, truyện diễn ca, truyện diễn nôm, truyện thơ bình dân, truyện quốc âm. Hiếm có hiện tượng văn chương nào lại mang nhiều danh xưng đến thế. Trước đối tượng như truyện thơ nôm, người nghiên cứu khi sử dụng một khái niệm cụ thể nào đó (để định danh) chắc chắn đã rất đắn đo. Chẳng hạn khi gọi tiểu thuyết (quốc ngữ, văn vần…), hoặc truyện (nôm, quốc âm, bình dân…), thì các yếu tố “truyện”, “tiểu thuyết” đã hàm ý khẳng định loại hình văn học này thuộc phương thức tự sự. Còn khi kèm thêm các định ngữ thì tính chất của loại hình càng được xác định một cách cụ thể hơn; khi đó, các đặc điểm thuộc về hình thái (thơ Nôm), phong cách (nôm na, bình dân), lối diễn tấu (diễn ca, ngâm)… được đặc biệt chú trọng. Như vậy, tên gọi trong trường hợp này không chỉ là quy ước về đối tượng nghiên cứu mà còn bộc lộ một nhận thức, một quan niệm (của chủ thể) và đương nhiên, điều đó cũng sẽ chi phối sự lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Tình trạng nhiều tên gọi một mặt thể hiện tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu, mặt khác, chứng tỏ sự phân tán trong quan niệm của các học giả khi chọn lựa cách tiếp cận và xử lý vấn đề. Cùng với những khó khăn trong việc tìm một tên gọi thống nhất cho đối tượng, thao tác “định dạng” (sắp xếp thành nhóm tác phẩm theo tiêu chí cụ thể) xem ra còn phức tạp hơn nhiều. Lâu nay, giới nghiên cứu thường coi truyện nôm là một thể loại(7). Tuy nhiên, khi dùng khái niệm “thể loại” để chỉ một tập hợp có đến hàng trăm tác phẩm không thuần nhất, rất khác nhau về mọi phương diện như truyện thơ nôm, cũng có nghĩa là đã chấp nhận tình trạng thiếu rành mạch. Bởi vì khi coi nó là “thể loại” thì vô hình trung đã thừa nhận tình trạng nhập nhằng, không phải “thể”, mà cũng không hẳn là “loại”. Trong khi, “loại” và “thể” vốn là những hiện tượng (văn học) không đồng nhất về nhiều phương diện. Nếu như “loại” gắn với mục đích phân biệt các phương thức (cách) “mô phỏng” hiện thực, thì “thể” là cái hình tướng (tức là cái kết quả) đã được hiển lộ ra. Nói khác đi, “loại” (tự sự, trữ tình, kịch chẳng hạn), không phải là “tập lớn” của “thể”, bao trùm “thể” (như tiểu thuyết, truyện ngắn, hoặc thất ngôn, ngũ ngôn, tứ tuyệt, lục bát.); và nói chung, chúng thuộc những phạm trù riêng, chả phải “là gì” của nhau. Truyện thơ nôm, xét trên bình diện “loại” (theo cách hiểu phổ biến), vốn đã phức tạp; nó vừa thuộc (phương thức) tự sự, vừa thuộc (phương thức) trữ tình, lại cũng có phần liên quan đến cả lối diễn tấu (nói, kể, ngâm). Còn nếu xem xét trên phương diện “thể” (hình thái) của tác phẩm thì việc phân chia lại càng rắc rối. Bởi vì có khi nó xuất hiện dưới dạng thức một văn bản (viết), nhưng cũng nhiều khi là một “ngôn bản”. Nếu đó là văn bản được kí chép bằng chữ Nôm, chữ quốc ngữ., thì ta dễ dàng nhận ra các thể lục bát, thất ngôn. thậm chí trong đó còn có cả các “thể văn” nhật dụng (văn tế, văn khấn, thư từ.). Nhưng nếu như nó được thể hiện dưới dạng thái “tự nhiên”, “văn bản sống” (living text), tức là câu chuyện được hiện lên trong mối quan hệ tương tác (interactive) giữa nghệ nhân (diễn tấu) với khán - thính giả, những người tham dự. (xin lưu ý, đây mới là dạng thái chủ yếu của truyện thơ nôm), thì tình hình sẽ khác đi, cách hiểu thông thường về khái niệm “thể” sẽ không còn phù hợp. Thành ra, khi coi (truyện thơ nôm) là một thể loại thì, xét về logic hình thức cũng như thực tế tác phẩm, đều bất hợp lý. Việc định dạng truyện nôm - thể loại văn học mặc dù đã trở nên phổ biến từ lâu, song không thể tìm thấy một lời giải thích nào thực sự rõ ràng. Cho đến bây giờ, cũng không ai có thể hiểu vì sao lại gọi như thế; mặc dù, như đã phân tích ở trên, dùng thể loại ở đây là không hợp lý. Bản thân khái niệm đã thiếu chặt chẽ, lại dùng để chỉ một thực thể quá đa dạng, quá phức tạp về mọi phương diện, từ nguồn gốc, hình thái cho đến chức năng, giá trị.; điều đó càng khiến mọi chuyện trở nên khó hình dung. Truyện thơ nôm có rất nhiều kiểu dạng, phần giống nhau không ít nhưng chỗ khác cũng rất nhiều.
Truyện thơ Nôm
Truyện thơ Nôm hay Truyện Nôm thể thơ tiếng Việt viết bằng chữ Nôm (thường là thơ lục bát) để kể chuyện (trần thuật). Ðây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh về hiện thực của xã hội và con người với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Nội dung của truyện thơ Nôm thường phản ánh đời sống xã hội cũng như thể hiện quan niệm, lí tưởng nhân sinh của tác giả thông qua việc miêu tả và thường là miêu tả chi tiết, tường thuật lại một cách tương đối trọn vẹn cuộc đời, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với chuỗi các biến cố, sự kiện nổi bật. Truyện thơ Nôm tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, do viết bằng tiếng Việt dùng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm. Truyện Nôm là một bộ phận văn học độc đáo và thể hiện nét thẩm mỹ độc đáo của nền văn học phong kiến Việt Nam mà không nền văn học nào có được.
Mọi người đều đã nghe các thuật ngữ phần cứng máy tính và phần mềm máy tính. 1 Lịch sử phần cứng máy tính và phần mềm máy tính1.1 Phần cứng1.2 Phần mềm1.2.1 Cập nhật firmware trên bảng phát triển bằng ICSP. Phần cứng “cứng” vì khó thay đổi – để thay đổi thiết kế mạch thường đòi hỏi bố cục mới của bảng mạch in (PCB), chế tạo bảng, lắp ráp tất cả các bộ phận lên bảng mới và kiểm tra trước khi bất kỳ chương trình nào có thể chạy trên đó. Thuật ngữ phần mềm được Paul Niquette đặt ra năm 1953, và được John Tukey sử dụng lần đầu tiên vào năm 1958. (Tukey cũng đã đưa ra từ “bit” cho chữ số nhị phân.). Phần mềm là “mềm” bởi vì người ta có thể thực hiện một vài thay đổi cho một chương trình máy tính. Và chạy lại chương trình mà không cần phải thực hiện bất kỳ thay đổi đối với máy tính. (Trở lại những năm 1940, các máy tính như Colossus và ENAIAC được lập trình lại bằng cách thay đổi hệ thống dây điện của máy tính bằng cách sử dụng công tắc và phích cắm.). Ngày nay, phần mềm được kết hợp với các chương trình được lưu trữ trên một số phương tiện lưu trữ thể rắn. Chẳng hạn như ổ đĩa cứng hoặc SSD, và sau đó được nạp vào RAM để được thực thi. Nó cũng có thể được áp dụng cho các ứng dụng được tải về từ đám mây. Và sau đó được lưu trữ trên điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng của bạn trong bộ nhớ Flash, và một lần nữa tải vào RAM để được e thực thi. Năm 1971, bộ vi xử lý đầu tiên – 4004 – được phát minh. Các chương trình được lưu trữ và được thực hiện trực tiếp từ bộ nhớ chỉ đọc (ROM) thay vì được nạp từ một phương tiện khác. Ban đầu, cách duy nhất để thay đổi chương trình là tạo một bộ mặt nạ mới cho chip ROM. Các ROM có thể lập trình sau này, được gọi là PROM được phát minh, sau đó là các ROM lập trình có thể xóa được (EPROM) sử dụng ánh sáng UV và cuối cùng là các ROM lập trình có thể xóa được (EEPROM), có liên quan đến các ký ức Flash ngày nay. Các bộ vi điều khiển nhúng sử dụng bộ nhớ Flash để giữ các chương trình của chúng có thể được cập nhật tại chỗ bằng cách sử dụng những gì được gọi là lập trình nối tiếp trong mạch ( ICSP ). Các chương trình này được gọi là firmware vì nó dễ dàng cập nhật hơn là thay đổi phần cứng, nhưng không dễ dàng như việc tải chương trình từ ổ cứng và các chương trình không bay hơi. Ban đầu, nó có nghĩa là nội dung của một cửa hàng điều khiển có thể ghi (một bộ nhớ tốc độ cao chuyên dụng nhỏ). Chứa mã vi mô xác định và triển khai bộ chỉ dẫn của máy tính. Nó không bao gồm các hướng dẫn của CPU, nhưng vi mã mức thấp hơn có liên quan đến việc thực hiện các lệnh máy. Chỉ sau khi phát minh ra bộ vi xử lý (và vi điều khiển sau này). Phần mềm bắt đầu được kết hợp với các chương trình chạy trên các thiết bị này. Trong máy tính để bàn hoặc máy tính xách tay chạy phần mềm tắt của ổ cứng hoặc SSD. Vẫn còn một chút phần mềm nằm trong BIOS của máy tính. Xử lý quá trình khởi động của máy, tải hệ điều hành vào RAM và sau đó kiểm soát nó.
Lịch sử phần mềm
Phần mềm là các lệnh được lập trình mà được lưu trữ trong bộ nhớ được lưu trữ của các máy tính kỹ thuật số để bộ xử lý thực hiện. Phần mềm là một sự phát triển gần đây trong lịch sử loài người và nó là nền tảng của Thời đại Thông tin. Các chương trình của Charles Babbage cho Công cụ phân tích của ông vào thế kỷ 19 thường được coi là người sáng lập ra ngành này, mặc dù những nỗ lực của cả hai nhà toán học vẫn chỉ là lý thuyết, vì công nghệ của thời đại Babbage sống là không đủ để chế tạo máy tính. Alan Turing được ghi nhận là người đầu tiên đưa ra lý thuyết cho phần mềm vào năm 1935, dẫn đến hai lĩnh vực học thuật về khoa học máy tính và công nghệ phần mềm. Thế hệ phần mềm đầu tiên cho các máy tính kỹ thuật số được lưu trữ sớm vào cuối những năm 1940 có các hướng dẫn được viết trực tiếp bằng mã nhị phân, thường được viết cho các máy tính lớn. Sau đó, sự phát triển của các ngôn ngữ lập trình hiện đại cùng với sự tiến bộ của máy tính gia đình sẽ giúp mở rộng đáng kể phạm vi và chiều rộng của phần mềm có sẵn, bắt đầu với ngôn ngữ lắp ráp và tiếp tục thông qua lập trình chức năng và mô hình lập trình hướng đối tượng.
Săn kho báu siêu hiếm ở nơi cách Trái Đất 380.000 km: Mỹ điên rồ hay có tầm nhìn đỉnh cao của 1 bá vương?. Ngày 4/8/2020, thủ đô Beirut của Lebanon (Li-Băng) rung chuyển dữ dội sau vụ nổ khổng lồ ở một nhà kho gần bến cảng. Sức mạnh của vụ nổ mạnh tương đương một trận động đất cường độ 3,3 nhưng sức tàn phá lại khủng khiếp như một trận động đất lớn:. Ít nhất 130 người thiệt mạng, 5.000 người bị thương, 300.000 người không thể trở về nhà vì nhà cửa hư hỏng, gây thiệt hại kinh tế lên đến 15 tỷ USD - Thị trưởng Beirut - ông Marwan Abboud - nói với AFP ngày 6/8. Vài giờ sau khi xảy ra thảm họa này, CNN miêu tả, vụ nổ ở Beirut đã biến thành phố chìm trong một đống hỗn độn, khung cảnh kinh hoàng, tan hoang như ngày tận thế. Khung cảnh trung tâm vụ nổ ở Beirut (thủ đô Lebanon) nhìn từ trên cao. Các nhà chức trách Lebanon cho rằng thủ phạm vụ nổ là hơn 2.750 tấn amoni nitrat (Ammonium nitrate, NH4NO3), một chất thường được sử dụng trong phân bón cũng như trong vật liệu nổ cho các dự án khai thác và xây dựng. Gần 3 tấn amoni nitrat được cho là đã nằm ở các bến tàu từ năm 2013. Trong bài báo điều tra tựa đề "Vụ nổ ở Beirut: Truy tìm chất nổ xé toạc thủ đô" của tờ Al Jazeera (trụ sở tại Qatar) có đoạn: Hàng nghìn tấn amoni nitrat đã đến Beirut trên một con tàu chở hàng thuộc sở hữu của Nga sau khi con tàu gặp sự cố máy móc trên biển. Tờ The New York Times cho biết, chuyến hàng cuối cùng đã bị bỏ lại và hàng hóa trên con tàu có chứa NH4NO3 được chuyển hết vào nhà chứa máy bay đến tận ngày nay, bất chấp việc các quan chức Lebanon yêu cầu xử lý trước đó ít nhất 6 lần. Theo điều tra của National Geographic, vụ nổ ở Beirut không phải là lần đầu tiên amoni nitrat phát nổ dẫn đến thảm họa làm rung chuyển thành phố thủ đô của Lebanon như thế. Kể từ năm 1916, hóa chất này đã gây ra ít nhất 30 vụ nổ lớn nhỏ khác nhau, một số do ngẫu nhiên và một số do cố ý. National Geographic liệt kê những vụ việc thương tâm, khốc liệt nhất:. - Năm 1947: Khung cảnh vụ nổ san bằng Beirut giống như những mô tả về một vụ nổ lớn năm 1947 ở thành phố Texas, bang Texas, Mỹ (về sau vụ nổ được gọi với tên Thảm họa thành phố Texas năm 1947). Khi đó, tàu SS Grandcamp — vận chuyển amoni nitrate, nhiên liệu và đạn dược — đã cập cảng trong tình trạng xuất hiện khói từ hầm hàng con tàu. Khoảng 2.100 tấn amoni nitrate phát nổ, lập tức giết chết 600 người (gồm người trên tàu và dưới bến tàu), khiến 5.000 người bị thương, phá hủy 500 ngôi nhà, khói đen nghi ngút trong nhiều ngày. Mỹ đánh giá, đây là vụ tai nạn công nghiệp chết nhiều người nhất trong lịch sử nước này và là một trong những vụ nổ phi hạt nhân lớn nhất lịch sử. - Năm 1995: Vào tháng 4/1995, hai kẻ khủng bố người Mỹ Timothy McVeigh và Terry Nichols đã sử dụng 2 tấn hợp chất amoni nitrate trong một vụ đánh bom bằng xe tải vào tòa nhà liên bang thành phố Oklahoma, khiến 168 người thiệt mạng. - Năm 2015: Cách đây 5 năm trước, ước tính 800 tấn amoni nitrat đã gây ra một vụ nổ kho hàng làm san bằng một phần cảng ở thành phố Thiên Tân, Trung Quốc, khiến 173 người thiệt mạng. Hàng năm, thế giới sản xuất và lưu trữ một lượng lớn amoni nitrat — hơn 20 triệu tấn vào năm 2017. Nhưng để hợp chất này có thể tạo ra một vụ nổ lớn như thế này, các nhà hóa học và chuyên gia về chất nổ cho rằng các vụ nổ ít nhiều chứa sự sai lầm của con người, bởi vì:. Amoni nitrat sẽ chỉ tự phát nổ nếu nhiệt độ của nó nhanh chóng tăng lên 205 độ C. So với hầu hết các vật liệu dễ cháy, bản thân amoni nitrat không phải là chất dễ nổ nhưng hợp chất này có thể gây ra các vụ nổ vì nó được sử dụng làm chất oxy hóa trong thuốc nổ. Sự cháy cần oxy — đó là lý do tại sao bình chữa cháy có thể dễ dàng dập tắt ngọn lửa bằng cách bao phủ ngọn lửa, không cho tiếp xúc với oxy. Chất oxy hóa làm ngược lại: Chúng làm tăng lượng phân tử oxy tập trung trong một không gian, giúp cho các chất khác dễ cháy hơn. Davin Piercey, một nhà hóa học tại Đại học Purdue (Mỹ), cho biết: "Amoni nitrat tinh khiết tương đối khó phát nổ trừ khi ta thêm chất xúc tác và đốt trong ngọn lửa khổng lồ. Amoni nitrat sẽ chỉ tự phát nổ nếu nhiệt độ của nó nhanh chóng tăng lên đến 205 độ C. Bất kỳ loại nhiên liệu giàu carbon nào - như giấy, bìa cứng, hoặc thậm chí là đường - đều có thể kết hợp với amoni nitrat để tạo ra năng lượng mạnh hơn". Lực lượng cứu hộ và dân phòng tập trung tại hầm chứa của cảng Beirut vào ngày 5/8/2020 sau hậu quả của một vụ nổ lớn ở thủ đô Lebanon. "Nếu amoni nitrat ở Beirut được lưu trữ trong các thùng bằng gỗ hoặc bìa cứng, nó sẽ khiến chất này trở nên cực kỳ dễ cháy. Tích tụ một lượng lớn amoni nitrat cho phép chứa nhiều nhiệt hơn khi hỗn hợp cháy. Thêm đủ chất oxy hóa vào đám cháy, nó sẽ gây ra vụ nổ lớn.". Mặc dù amoni nitrat lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1659 bởi nhà hóa học người Đức Johann Rudolf Glauber (1604 – 1670), nhưng chất hóa học này đã không được sử dụng trong chất nổ cho đến Thế chiến I, khi các nhà sản xuất vũ khí trộn nó với TNT để tạo ra bom rẻ hơn. Quay lại vụ nổ ở Beirut, National Geographic cho biết, sóng xung kích di chuyển nhanh hơn tốc độ âm thanh; video trên điện thoại di động cho thấy tác động của sóng xung kích quét qua thành phố vài giây trước khi âm thanh vụ nổ vang lên. Các bức ảnh ghép từ đoạn phim quay từ một tòa nhà văn phòng vào thời điểm một vụ nổ lớn làm rung chuyển Beirut ngày 4/8bcho thấy một quả cầu lửa phát nổ trong khi khói bốc lên nghi ngút tại cảng thủ đô Lebanon. Sử dụng toán học đi tiên phong trong những năm 1940 để suy ra năng suất của bom nguyên tử , các chuyên gia có thể phân tích video về sóng xung kích để có được những ước tính sơ bộ về tổng năng lượng của một vụ nổ và khối lượng vật chất nổ tung. Bằng cách so sánh kích thước của vụ nổ với các tòa nhà gần đó, video về vụ nổ ở Li-Băng cho thấy rằng trong 1/8 giây sau khi vụ nổ xảy ra, sóng xung kích hình cầu của nó đã phát triển rộng tới khoảng 244 mét. Bằng phương pháp này, những nhà quan sát ước tính sức mạnh của vụ nổ ở Beirut tương đương từ 400 đến 3.000 tấn TNT. Jeffrey Lewis, một chuyên gia kiểm soát vũ khí tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Middlebury (Mỹ), ước tính con số đương lượng nổ là gần 400 tấn TNT. Để so sánh, quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima, Nhật Bản, vào năm 1945 có sức công phá ít nhất là 13.000 tấn TNT. Một số tin đồn trên mạng suy đoán rằng do amoni nitrat được để trong nhà kho trong vài năm, nó đã bị phân hủy, trở nên dễ bay hơi và ngày càng nguy hiểm theo thời gian. Nhưng David Chavez, một nhà khoa học chất nổ tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos ở New Mexico, Mỹ nghi ngờ nhận định đó. Ông nói: “Amoni nitrat không bị phân hủy theo thời gian trong điều kiện bảo quản bình thường. Xét về hậu quả lâu dài, vụ nổ khiến không khí của Beirut tràn ngập các hạt vật chất mịn - một trong những dạng ô nhiễm không khí phổ biến nhất. Hơn nữa, sự phân hủy của amoni nitrat có thể tạo ra các sản phẩm phụ được gọi là oxit nitơ, gây suy hô hấp. Các vấn đề sức khỏe khác, tương tự như những gì đã thấy sau sự kiện ngày 11/9 ở Mỹ, có thể xuất hiện do các tòa nhà và đường xá bị tàn phá trên diện rộng.
Vụ nổ hạt nhân
Vụ nổ hạt nhân là một vụ nổ xảy ra do sự giải phóng năng lượng nhanh chóng từ phản ứng hạt nhân tốc độ cao. Phản ứng thúc đẩy có thể là phân hạch hạt nhân hoặc phản ứng tổng hợp hạt nhân hoặc sự kết hợp nhiều tầng của cả hai, mặc dù cho đến nay tất cả các vũ khí dựa trên nhiệt hạch đều sử dụng thiết bị phân hạch để bắt đầu phản ứng tổng hợp, và vũ khí nhiệt hạch thuần túy vẫn là một thiết bị giả định. Các vụ nổ hạt nhân trong khí quyển có liên quan đến các đám mây nấm, mặc dù các đám mây nấm có thể xảy ra với các vụ nổ hóa học lớn. Có thể xảy ra một vụ nổ hạt nhân trên không nếu không có những đám mây đó. Các vụ nổ hạt nhân tạo ra bức xạ và các mảnh vỡ phóng xạ. Vụ nổ hạt nhân đầu tiên do con người tạo ra xảy ra vào lúc 5:50 sáng ngày 16 tháng 7 năm 1945 tại Bãi thử Trinity gần Alamogordo, New Mexico của Hoa Kỳ, một khu vực ngày nay được gọi là Dãy Tên lửa White Sands.
Trung Quốc và tiền điện tử.Trong quá khứ, chính phủ Trung Quốc đã ban hành những quy định cứng nhắc về tiền điện tử. May mắn thay, quốc gia này đang có kế hoạch tạo ra một đồng tiền điện tử của riêng mình, và đồng tiền đó sẽ được pháp luật chấp nhận và có thể chi tiêu trong nước. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã tiết lộ rằng nó đang nghiên cứu về việc phát triển rộng rãi đồng tiền này trong năm nay. Theo PBoC, sự phát triển này là để bảo vệ đồng Yuan khỏi mối đe dọa mà các đồng tiền số mang lại.Nigeria và tiền điện tử.Chính phủ Nigeria có một định nghĩa khác về tiền điện tử. Đối với họ đó là một trò lừa đảo Mavrodi (MMM). Các đồng tiền điện tử được vẽ ra như một trò lừa đảo bởi những người dân Nigeria đã bị lừa phỉnh bởi MMM. Nền giáo dục yếu kém có thể là một lý do khiến chính phủ Nigerian vẽ lên tiền điện tử là một trò lừa đảo. Điều này đã dẫn đến việc các bộ phận khác, bao gồm cả Ngân hàng Trung ương Nigeria (CBN) cũng gọi nó là một trò lừa đảo lớn cần cẩn thận.Giám đốc phụ trách bộ phận nghiên cứu tại Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Nigeria (NDIC), ông Adikwu Igoche, nói tiền điện tử được hợp pháp hóa ở Nigeria, và do đó, người Nigeria nên thận trọng với những sự thất bại lớn khác.“Những loại tiền tệ này không được ủng hộ bởi bất kỳ hàng hoá vật chất như vàng hay các loại đá quý khác. “Nó không thuộc bất cứ loại tiền tệ hay đồng tiền do CBN hoặc ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào khác”.Ngân hàng Anh có một cách nói khác.Mark Carney, thống đốc ngân hàng Anh (BOE), đang kêu gọi quy định chuẩn cho các đồng tiền điện tử. Theo ông, giống như tiền tệ định danh, các đồng tiền điện tử cũng cần một hệ sinh thái tiêu chuẩn.Ngân hàng Trung ương Châu Âu lại có một cái nhìn khác. Ngân hàng của tất cả các ngân hàng lại nói rằng có rất nhiều mối nguy hiểm trong các đồng tiền kỹ thuật số Phó tổng thống Vitor Constancio gắn cho nó cái tên gọi như một “tulip”.Venezuela: Bất kỳ cái gì?Chính phủ Venezuela đã tạo ra một đồng tiền điện tử được hỗ trợ bởi dầu mỏ với tên gọi là Petro, để đối phó với các lệnh trừng phạt của Mỹ cho các quốc gia ở Nam Mỹ. Vào đầu tháng 1 năm 2018, quốc gia này tuyên bố, từ khi thông báo dự án ICO của nó, nó đã thu được hơn 3 tỷ đô la từ các nhà đầu tư ở 127 quốc gia trên thế giới.Hàn Quốc có một cái nhìn rất khác về tiền điện tử.Các nhà phân tích cho biết sau Hoa Kỳ và Nhật Bản, Hàn Quốc là thị trường lớn nhất trên thế giới về tiền điện tử. Chính phủ Hàn Quốc xem tiền điện tử là một trò lừa đảo. Thủ tướng của đất nước, Lee Nak-Yeon, đã cảnh báo người dân về những nguy hiểm của mật mã, ông nói rằng nó cho phép sinh viên có cơ hội tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn chưa đưa ra bất kỳ lệnh cấm nào về mật mã.Vậy còn chính phủ Hoa Kỳ? Mặc dù có nhiều suy đoán cho rằng Hoa Kỳ đang có kế họach cấm hoặc điều chỉnh tiền điện tử, nhưng chưa có bất kỳ tuyên bố chính thức về điều đó. Người ta tin rằng chính phủ có thể đang có kế hoạch giới thiệu về tính bảo mật và các quy định về tiền điện tử sớm.Đức cảnh báo các nhà đầu tư!Jens Weidmann, Chủ tịch ngân hàng Bundesbank nói rằng Bitcoin có “tính đầu cơ” và “các nhà đầu tư có thể mất tiền”. Vì vậy, ông cảnh báo người dân nên tránh xa nó.Tiền điện tử được định nghĩa dựa trên cách nó có ý nghĩa như thế nào với ngân hàng trung ương của quốc gia đó.Quốc gia của bạn nói gì về tiền điện tử?. Trong quá khứ, chính phủ Trung Quốc đã ban hành những quy định cứng nhắc về tiền điện tử. May mắn thay, quốc gia này đang có kế hoạch tạo ra một đồng tiền điện tử của riêng mình, và đồng tiền đó sẽ được pháp luật chấp nhận và có thể chi tiêu trong nước. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã tiết lộ rằng nó đang nghiên cứu về việc phát triển rộng rãi đồng tiền này trong năm nay. Theo PBoC, sự phát triển này là để bảo vệ đồng Yuan khỏi mối đe dọa mà các đồng tiền số mang lại.Nigeria và tiền điện tử.Chính phủ Nigeria có một định nghĩa khác về tiền điện tử. Đối với họ đó là một trò lừa đảo Mavrodi (MMM). Các đồng tiền điện tử được vẽ ra như một trò lừa đảo bởi những người dân Nigeria đã bị lừa phỉnh bởi MMM. Nền giáo dục yếu kém có thể là một lý do khiến chính phủ Nigerian vẽ lên tiền điện tử là một trò lừa đảo. Điều này đã dẫn đến việc các bộ phận khác, bao gồm cả Ngân hàng Trung ương Nigeria (CBN) cũng gọi nó là một trò lừa đảo lớn cần cẩn thận.Giám đốc phụ trách bộ phận nghiên cứu tại Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Nigeria (NDIC), ông Adikwu Igoche, nói tiền điện tử được hợp pháp hóa ở Nigeria, và do đó, người Nigeria nên thận trọng với những sự thất bại lớn khác.“Những loại tiền tệ này không được ủng hộ bởi bất kỳ hàng hoá vật chất như vàng hay các loại đá quý khác. “Nó không thuộc bất cứ loại tiền tệ hay đồng tiền do CBN hoặc ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào khác”.Ngân hàng Anh có một cách nói khác.Mark Carney, thống đốc ngân hàng Anh (BOE), đang kêu gọi quy định chuẩn cho các đồng tiền điện tử. Theo ông, giống như tiền tệ định danh, các đồng tiền điện tử cũng cần một hệ sinh thái tiêu chuẩn.Ngân hàng Trung ương Châu Âu lại có một cái nhìn khác. Ngân hàng của tất cả các ngân hàng lại nói rằng có rất nhiều mối nguy hiểm trong các đồng tiền kỹ thuật số Phó tổng thống Vitor Constancio gắn cho nó cái tên gọi như một “tulip”.Venezuela: Bất kỳ cái gì?Chính phủ Venezuela đã tạo ra một đồng tiền điện tử được hỗ trợ bởi dầu mỏ với tên gọi là Petro, để đối phó với các lệnh trừng phạt của Mỹ cho các quốc gia ở Nam Mỹ. Vào đầu tháng 1 năm 2018, quốc gia này tuyên bố, từ khi thông báo dự án ICO của nó, nó đã thu được hơn 3 tỷ đô la từ các nhà đầu tư ở 127 quốc gia trên thế giới.Hàn Quốc có một cái nhìn rất khác về tiền điện tử.Các nhà phân tích cho biết sau Hoa Kỳ và Nhật Bản, Hàn Quốc là thị trường lớn nhất trên thế giới về tiền điện tử. Chính phủ Hàn Quốc xem tiền điện tử là một trò lừa đảo. Thủ tướng của đất nước, Lee Nak-Yeon, đã cảnh báo người dân về những nguy hiểm của mật mã, ông nói rằng nó cho phép sinh viên có cơ hội tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn chưa đưa ra bất kỳ lệnh cấm nào về mật mã.Vậy còn chính phủ Hoa Kỳ? Mặc dù có nhiều suy đoán cho rằng Hoa Kỳ đang có kế họach cấm hoặc điều chỉnh tiền điện tử, nhưng chưa có bất kỳ tuyên bố chính thức về điều đó. Người ta tin rằng chính phủ có thể đang có kế hoạch giới thiệu về tính bảo mật và các quy định về tiền điện tử sớm.Đức cảnh báo các nhà đầu tư!Jens Weidmann, Chủ tịch ngân hàng Bundesbank nói rằng Bitcoin có “tính đầu cơ” và “các nhà đầu tư có thể mất tiền”. Vì vậy, ông cảnh báo người dân nên tránh xa nó.Tiền điện tử được định nghĩa dựa trên cách nó có ý nghĩa như thế nào với ngân hàng trung ương của quốc gia đó.Quốc gia của bạn nói gì về tiền điện tử?. Chính phủ Nigeria có một định nghĩa khác về tiền điện tử. Đối với họ đó là một trò lừa đảo Mavrodi (MMM). Các đồng tiền điện tử được vẽ ra như một trò lừa đảo bởi những người dân Nigeria đã bị lừa phỉnh bởi MMM. Nền giáo dục yếu kém có thể là một lý do khiến chính phủ Nigerian vẽ lên tiền điện tử là một trò lừa đảo. Điều này đã dẫn đến việc các bộ phận khác, bao gồm cả Ngân hàng Trung ương Nigeria (CBN) cũng gọi nó là một trò lừa đảo lớn cần cẩn thận.Giám đốc phụ trách bộ phận nghiên cứu tại Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Nigeria (NDIC), ông Adikwu Igoche, nói tiền điện tử được hợp pháp hóa ở Nigeria, và do đó, người Nigeria nên thận trọng với những sự thất bại lớn khác.“Những loại tiền tệ này không được ủng hộ bởi bất kỳ hàng hoá vật chất như vàng hay các loại đá quý khác. “Nó không thuộc bất cứ loại tiền tệ hay đồng tiền do CBN hoặc ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào khác”.Ngân hàng Anh có một cách nói khác.Mark Carney, thống đốc ngân hàng Anh (BOE), đang kêu gọi quy định chuẩn cho các đồng tiền điện tử. Theo ông, giống như tiền tệ định danh, các đồng tiền điện tử cũng cần một hệ sinh thái tiêu chuẩn.Ngân hàng Trung ương Châu Âu lại có một cái nhìn khác. Ngân hàng của tất cả các ngân hàng lại nói rằng có rất nhiều mối nguy hiểm trong các đồng tiền kỹ thuật số Phó tổng thống Vitor Constancio gắn cho nó cái tên gọi như một “tulip”.Venezuela: Bất kỳ cái gì?Chính phủ Venezuela đã tạo ra một đồng tiền điện tử được hỗ trợ bởi dầu mỏ với tên gọi là Petro, để đối phó với các lệnh trừng phạt của Mỹ cho các quốc gia ở Nam Mỹ. Vào đầu tháng 1 năm 2018, quốc gia này tuyên bố, từ khi thông báo dự án ICO của nó, nó đã thu được hơn 3 tỷ đô la từ các nhà đầu tư ở 127 quốc gia trên thế giới.Hàn Quốc có một cái nhìn rất khác về tiền điện tử.Các nhà phân tích cho biết sau Hoa Kỳ và Nhật Bản, Hàn Quốc là thị trường lớn nhất trên thế giới về tiền điện tử. Chính phủ Hàn Quốc xem tiền điện tử là một trò lừa đảo. Thủ tướng của đất nước, Lee Nak-Yeon, đã cảnh báo người dân về những nguy hiểm của mật mã, ông nói rằng nó cho phép sinh viên có cơ hội tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn chưa đưa ra bất kỳ lệnh cấm nào về mật mã.Vậy còn chính phủ Hoa Kỳ? Mặc dù có nhiều suy đoán cho rằng Hoa Kỳ đang có kế họach cấm hoặc điều chỉnh tiền điện tử, nhưng chưa có bất kỳ tuyên bố chính thức về điều đó. Người ta tin rằng chính phủ có thể đang có kế hoạch giới thiệu về tính bảo mật và các quy định về tiền điện tử sớm.Đức cảnh báo các nhà đầu tư!Jens Weidmann, Chủ tịch ngân hàng Bundesbank nói rằng Bitcoin có “tính đầu cơ” và “các nhà đầu tư có thể mất tiền”. Vì vậy, ông cảnh báo người dân nên tránh xa nó.Tiền điện tử được định nghĩa dựa trên cách nó có ý nghĩa như thế nào với ngân hàng trung ương của quốc gia đó.Quốc gia của bạn nói gì về tiền điện tử?. Giám đốc phụ trách bộ phận nghiên cứu tại Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Nigeria (NDIC), ông Adikwu Igoche, nói tiền điện tử được hợp pháp hóa ở Nigeria, và do đó, người Nigeria nên thận trọng với những sự thất bại lớn khác.“Những loại tiền tệ này không được ủng hộ bởi bất kỳ hàng hoá vật chất như vàng hay các loại đá quý khác. “Nó không thuộc bất cứ loại tiền tệ hay đồng tiền do CBN hoặc ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào khác”.Ngân hàng Anh có một cách nói khác.Mark Carney, thống đốc ngân hàng Anh (BOE), đang kêu gọi quy định chuẩn cho các đồng tiền điện tử. Theo ông, giống như tiền tệ định danh, các đồng tiền điện tử cũng cần một hệ sinh thái tiêu chuẩn.Ngân hàng Trung ương Châu Âu lại có một cái nhìn khác. Ngân hàng của tất cả các ngân hàng lại nói rằng có rất nhiều mối nguy hiểm trong các đồng tiền kỹ thuật số Phó tổng thống Vitor Constancio gắn cho nó cái tên gọi như một “tulip”.Venezuela: Bất kỳ cái gì?Chính phủ Venezuela đã tạo ra một đồng tiền điện tử được hỗ trợ bởi dầu mỏ với tên gọi là Petro, để đối phó với các lệnh trừng phạt của Mỹ cho các quốc gia ở Nam Mỹ. Vào đầu tháng 1 năm 2018, quốc gia này tuyên bố, từ khi thông báo dự án ICO của nó, nó đã thu được hơn 3 tỷ đô la từ các nhà đầu tư ở 127 quốc gia trên thế giới.Hàn Quốc có một cái nhìn rất khác về tiền điện tử.Các nhà phân tích cho biết sau Hoa Kỳ và Nhật Bản, Hàn Quốc là thị trường lớn nhất trên thế giới về tiền điện tử. Chính phủ Hàn Quốc xem tiền điện tử là một trò lừa đảo. Thủ tướng của đất nước, Lee Nak-Yeon, đã cảnh báo người dân về những nguy hiểm của mật mã, ông nói rằng nó cho phép sinh viên có cơ hội tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn chưa đưa ra bất kỳ lệnh cấm nào về mật mã.Vậy còn chính phủ Hoa Kỳ? Mặc dù có nhiều suy đoán cho rằng Hoa Kỳ đang có kế họach cấm hoặc điều chỉnh tiền điện tử, nhưng chưa có bất kỳ tuyên bố chính thức về điều đó. Người ta tin rằng chính phủ có thể đang có kế hoạch giới thiệu về tính bảo mật và các quy định về tiền điện tử sớm.Đức cảnh báo các nhà đầu tư!Jens Weidmann, Chủ tịch ngân hàng Bundesbank nói rằng Bitcoin có “tính đầu cơ” và “các nhà đầu tư có thể mất tiền”. Vì vậy, ông cảnh báo người dân nên tránh xa nó.Tiền điện tử được định nghĩa dựa trên cách nó có ý nghĩa như thế nào với ngân hàng trung ương của quốc gia đó.Quốc gia của bạn nói gì về tiền điện tử?. “Những loại tiền tệ này không được ủng hộ bởi bất kỳ hàng hoá vật chất như vàng hay các loại đá quý khác. “Nó không thuộc bất cứ loại tiền tệ hay đồng tiền do CBN hoặc ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào khác”.Ngân hàng Anh có một cách nói khác.Mark Carney, thống đốc ngân hàng Anh (BOE), đang kêu gọi quy định chuẩn cho các đồng tiền điện tử. Theo ông, giống như tiền tệ định danh, các đồng tiền điện tử cũng cần một hệ sinh thái tiêu chuẩn.Ngân hàng Trung ương Châu Âu lại có một cái nhìn khác. Ngân hàng của tất cả các ngân hàng lại nói rằng có rất nhiều mối nguy hiểm trong các đồng tiền kỹ thuật số Phó tổng thống Vitor Constancio gắn cho nó cái tên gọi như một “tulip”.Venezuela: Bất kỳ cái gì?Chính phủ Venezuela đã tạo ra một đồng tiền điện tử được hỗ trợ bởi dầu mỏ với tên gọi là Petro, để đối phó với các lệnh trừng phạt của Mỹ cho các quốc gia ở Nam Mỹ.
Tiền điện tử của ngân hàng trung ương
Tiền điện tử của ngân hàng trung ương (Central Bank Digital Currency - CBDC) là hình thức kỹ thuật số của tiền định danh (một loại tiền được thiết lập dưới dạng tiền theo quy định của Chính phủ, cơ quan tiền tệ hoặc luật pháp).Tiền điện tử của ngân hàng trung ương khác với tiền ảo và tiền mã hóa, những loại tiền mà không được Nhà nước phát hành và thiếu trạng thái đấu thầu hợp pháp do Chính phủ tuyên bố. Ngân hàng Anh là một trong những tổ chức đầu tiên khởi xướng một cuộc thảo luận toàn cầu về triển vọng giới thiệu tiền điện tử của ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, Ngân hàng trung ương Thụy Điển là nơi sớm xem xét việc thực hiện và bắt đầu thử nghiệm các giải pháp kỹ thuật cho tiền e-krona của mình vào năm 2020. Vào tháng 11 năm 2017, Ngân hàng trung ương Ugruquay đã tuyên bố bắt đầu một thử nghiệm để phát hành tiền Peso điện tử của Uruguay. Vào tháng 3 năm 2019, Ngân hàng trung ương Đông Caribbean tuyên bố sẽ tham gia vào một dự án thí điểm tiền điện tử của ngân hàng trung ương với công ty FinTech có trụ sở tại Barbados.
Nếu đại lượng y phụ thuộc vào đại lượng thay đổi x sao cho mỗi giá trị của x ta luôn xác định một giá trị tương đương y thì y gọi là hàm số của x và x được gọi là biến số của y. Cho X, Y là hai tập hợp số, ví dụ là tập hợp số thực, hàm số f xác định trên X, nhận giá trị trong Y là một quy tắc cho tương ứng mỗi số x thuộc X với một số y duy nhất thuộc Y. Khi x thay đổi mà y luôn nhận một giá trị thì y gọi là hàm hằng. Một hàm số là đơn ánh khi nó áp dụng lên 2 đối số khác nhau luôn cho 2 giá trị khác nhau. Trong toán học, song ánh, hoặc hàm song ánh, là một hàm số f từ tập X vào tập Y thỏa mãn tính chất, đối với mỗi y thuộc Y, có duy nhất một x thuộc X sao cho f(x) = y.
Hàm số
Trong toán học, một hàm số hay hàm là một quan hệ hai ngôi giữa hai tập hợp liên kết mọi phần tử của tập hợp đầu tiên với đúng một phần tử của tập hợp thứ hai. Ví dụ điển hình là các hàm từ số nguyên sang số nguyên hoặc từ số thực sang số thực. Các hàm số ban đầu là sự lý tưởng hóa cách một đại lượng thay đổi phụ thuộc vào một đại lượng khác. Ví dụ, vị trí của một hành tinh là một hàm số của thời gian. Về mặt lịch sử, khái niệm này được xây dựng dựa trên phép tính vi tích phân vào cuối thế kỷ 17, và cho đến thế kỷ 19, các hàm được coi là khả vi (nghĩa là chúng có mức độ mịn cao). Khái niệm hàm số được chính thức hóa vào cuối thế kỷ 19 dưới dạng lý thuyết tập hợp, và điều này đã mở rộng đáng kể các lĩnh vực ứng dụng của khái niệm này. Một hàm số là một quá trình hoặc một mối quan hệ mà liên kết mỗi phần tử x của một tập hợp X, được gọi là miền xác định của hàm số, đến một phần tử y duy nhất của một tập hợp Y (có thể là cùng một tập hợp như X), và gọi là tập hợp đích của hàm số này.
Bảo hiểm là biện pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bảo hiểm được xem như một loại dịch vụ đặc biệt, sự đóng góp của một số đông cộng đồng tham gia bảo hiểm cùng chia sẻ sự bất hạnh với một số ít thành viên gặp rủi ro. Ở bất kỳ nơi đâu và thời đại nào, con người luôn phải đồng hành cùng rủi ro. Nhu cầu an toán đối với con người là vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ bản thân và tài sản của mình trước những tổn thất do rủi ro. Trong số các biện pháp con người đã thực hiện để xử lý rủi ro thì bảo hiểm được coi là biện pháp tối ưu nhất. Rủi ro chính là nguồn gốc phát sinh nhu cầu về bảo hiểm. Ngay từ thời tiền sử đã có xuất hiện những hoạt động gần giống với bảo hiểm. Từ thời Trung Cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã dần hình thành, song phải đến thế kỷ 19 bảo hiểm hiện đại mới có bước phát triển kéo theo sự ra đời và phát triển đa dạng như ngày nay. Rủi ro là khả năng xảy ra biến cố bất thường có hậu quả thiệt hại hoặc mang lại kết quả không mong đợi. Tức là loại trừ hoặc hạn chế tối đa khả năng có thể xảy ra rủi ro, biện pháp thông thường và được sử dụng tương đối thường xuyên trong đời sống. (VD: Tránh tai nạn giao thông thì có người không chọn nghề Tài xế lái xe hoặc tránh tại nạn lao động có người không chọn làm các nghề nguy hiểm.). Là các biện pháp nhằm hạn chế tối đa các tổn thất có thể xảy ra. (VD: Hạn chế tổn thất hỏa hoạn bằng cách mua bình cứu hỏa dự phòng, hạn chế tai nạn lao động bằng cách trang bị thiết bị bảo hộ và đào tạo kỹ năng về an toàn lao động…). Đây là hình thức mà người gặp rủi ro phải tự chấp nhận khoản tổn thất này. Có nhiều hình thức chấp nhận rủi ro nhưng được chia làm 2 nhóm là chấp nhận rủi ro thụ động và chủ động. Chấp nhận rủi ro thụ động là việc không có sự chuẩn bị trước mà khi rủi ro xảy ra mới tìm kiếm các nguồn tài chính để khắc phục, bù đắp. Chấp nhận rủi ro chủ động là việc lập ra nguồn dự trữ, quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Đây là mô hình lý tưởng nhất, từ hình thức chuyển giao thô sơ đến hình thức tham gia bảo hiểm. Đây là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Hình thức phân tán rủi ro hay chuyển giao rủi ro thô sơ là ngay từ thời Trung Cổ, các chủ thuyền vận tải hàng hóa đường biển đã biết không tập chung tất cả hàng hóa của mình vào cùng một chuyến mà phân tán sang các thuyền khác hoặc sang các chủ khác để hạn chế khả năng xảy ra tổn thất. Sau này, khi nền kinh tế đạt đến một trình độ phát triển nhất định thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm như ngày nay mới thực sự phát triển. Bù đắp các tổn thất và khắc phục hậu quả thiệt hại từ rủi ro là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm, nguyên nhân để bảo hiểm ra đời. Nói đến bảo hiểm là nói đến vai trò của các doanh nghiệp bảo hiểm đã cung cấp các loại dịch vụ bảo hiểm nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như lúc ban đầu cho bên mua bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra. Bảo hiểm giúp hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thấp có thể xảy ra, nhờ đó giảm thiểu những tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế và cộng đồng. Trong cuộc sống, mỗi cá nhân phải luôn tính đến những rủi ro có thể gặp phải và muốn chủ động trong tình huống xấu như ốn đau, bênh tật, tai nạn.nên cần dành ra một khoản dự phòng khi cần sử dụng. Đây là các khoản tiền nhàn rỗi nếu xét trên toàn xã hội sẽ là khoản tiền không nhỏ sinh lợi lớn nếu được sử dụng đầu tư. Tham gia Bảo hiểm thay vi lập quỹ dự phòng như thế sẽ giúp các cá nhân, gia đình khắc phục khó khăn về tài chính, không rơi vào tình trạng kiệt quệ về vật chất và tinh thần trước những biến cố bất thường có thể xảy ra với khoản tiền dành mỗi năm ra thấp hơn rất nhiều. Do đặc điểm trong kinh doanh bảo hiểm là phí bảo hiểm thu trước, việc bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm thường sẽ phát sinh một thời gian sau đó, nên các khoản tiền này phần lớn có thời gian tạm thời nhàn rỗi. Thông qua hoạt động bảo hiểm mà một lượng vốn lớn (phí bảo hiểm) phân tán, rải rác các nơi được tập trung về một nơi hình thành những quỹ tiền tệ lớn. Vì thế, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng số vốn này để đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Khoản lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được họ giữ lại một phần và phần còn lại có thể chia lại cho người tham gia bảo hiểm (lãi chia hợp đồng) trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Nhờ các hoạt động dịch vụ bảo hiểm mà ngân sách nhà nước sẽ đỡ phải chi trả các khoản trợ cấp lớn để bù đắp những tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hàng năm. Như vậy, bảo hiểm góp phần ổn định ngân sách nhà nước, tạo điều kiện để ngân sách nhà nước có thêm các khoản đầu tư vào phát triển kinh tế. Ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn cho ngân sách nhà nước. Trong kinh doanh, các tổ chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập quỹ dự phòng khi bỏ vốn đầu tư. Các nhà đầu tư đều lo ngại các rủi ro do thiên tai, tai nạn có thể xảy ra làm họ thua lỗ, thậm chí mất hết cả vốn. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có nhả năng sinh lợi rất lớn nếu được đem đi đầu tư. Bảo hiểm giúp nhà đầu tư yên tâm hơn khi quyết định bỏ vốn ra. Thực tế hầu hết các dự án đầu tư đều đồi hỏi phải có bảo hiểm, nhất là các dự án lớn. Việc bồi thường, chi trả bảo hiểm đã giúp các tổ chức bảo toàn tài sản, tiền vốn của mình trước các rủi ro. Vì vậy, bảo hiểm có vai trò đảm bảo và khuyến khích đầu tư. Sự phát triển đa dạng về các sản phẩm bảo hiểm như bảo hiểm hỏa hoạn, tai nạn, xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm nông ngiệp, bảo hiểm hàng hải….có vai trò rất quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hoạt động bảo hiểm còn hỗ trợ các hoạt động kinh doanh, thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế. Nhiều hàng hóa dịch vụ có thể tiêu thụ thuận lợi trên thị trường khi có kèm theo các hợp đồng bảo hiểm những trách nhiệm phát sinh liên quan đến việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Trong quá trình tự do hóa thương mại và dịch vụ tài chính, bảo hiểm có vai trò quan trọng trong việc đàm phán và thực hiện các cam kết hội nhập theo lộ trình trong các phương án đàm phán song phương và đa phương như Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa kỳ, đàm phán thương mai Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU), gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO). Nghề nghiệp bảo hiểm đòi hỏi các tổ chức bảo hiểm có trách nhiệm nghiên cứu rủi ro, thống kê tai nạn, tổn thất, xác nhận nguyên nhân, đề ra và phối hợp các ngành, các đơn vị có liên quan thực hiện kiểm soát, ngăn ngừa rủi ro, giảm thiểu tổn thất. Hàng năm các doanh nghiệp bảo hiểm đều dành ra một khoản tiền trợ giúp hoặc cùng các cơ quan thực hiện các biện pháp phòng tránh. Sự tồn tại của thị trường bảo hiểm với nhiều sản phẩm bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ đã tạo ra một hình thức tiết kiệm linh hoạt, tác động đến tư duy của các cá nhân, chủ hộ gia đình, chủ doanh nghiệp. Họ phải suy nghĩ, tinh toán và dần dần sẽ có được một ý thức, thói quen về việc dành ra một phần thu nhập để trả phi bảo hiểm với mục đích sẽ có một tương lai an toàn. Bên cạnh đó vượt lên cả ý nghĩa tiền bạc, bảo hiểm đã mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất trắc cho những người được bảo hiểm. Đây chính là ý nghĩa nhân văn của bảo hiểm trong xã hội hiện đại. Sự phát triển của hoạt động bảo hiểm có vai trò vĩ mô quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm cho xã hội. Trong điều kiện thất nghiệp đang ám ảnh nền kinh tế toàn cầu thì sự phát triển của bảo hiểm vẫn được coi là còn nhiều tiềm năng ở các quốc gia, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cũng như các vấn đề xã hội liên quan. Đặc thù của các sản phẩm bảo hiểm, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đòi hỏi các bên phải có độ trung thực, tín nhiệm cao trong ký kết hợp đồng. Hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý khi việc xác lập được tiến hành trên cơ sở các thông tin trung thực của các bên. Cả người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đều phải trung thực trong tất cả các vấn đề. Hợp đồng bảo hiểm buộc phải chấm dứt vì những hành vi gian lận, ý đồ trục lợi từ các bên trong hợp đồng bảo hiểm. Quyền có thể được bảo hiểm được tạo lập cho một tổ chức, một cá nhân nếu tổ chức hay cá nhân này có lợi ích kinh tế hợp pháp bị tổn hại khi đối tượng bảo hiểm chịu ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quyền có thể được bảo hiểm (lợi ích có thể được bảo hiểm) được hình thành từ các căn cứ như là: quyển sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản; quyền về nhân thân, quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng, cấp dưỡng; quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Chẳng hạn, người có quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản là những người có quyền ký kết hợp đồng bảo hiểm cho tài sản và trách nhiệm có liên quan. Nếu đối tượng bảo hiểm là sinh mạng của một con người thì những người có quan hệ như là người nuôi dưỡng, cấp dưỡng; vay mượn, thuê mướn lao động sẽ có thể đứng ra mua bảo hiểm. Để có thể ngăn ngừa trục lợi, bồi thường của hợp đồng bảo hiểm không được tạo ra cơ hội kiếm lời hoặc có lợi không hợp lý cho các bên liên quan đến sự kiện bảo hiểm. Vì thế, số tiền bồi thường mà người được bảo hiểm có thể nhận được trong mọi trường hợp không lớn hơn thiệt hại của họ trong sự kiện bảo hiểm. Theo nguyên tắc thế quyền, doanh nghiệp bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba trách nhiệm bồi thường cho mình trong giới hạn bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm đã trả cho người được bảo hiểm. Thế quyền được sử dụng khi xác định được có người thứ ba phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại của đối tượng trong sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc này được vận dụng trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự, trương hợp đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm đồng thời nhiều hợp đồng bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm có một hay nhiều sự kiện được bảo hiểm giống nhau, nếu tổng trách nhiệm bồi thường độc lập từ các hợp đồng bảo hiểm lớn hơn thiệt hại của bên được bảo hiểm, được gọi là bảo hiểm trùng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm trong trường hợp có bảo hiểm trùng các doanh nghiệp bảo hiểm phải cùng nhau đóng góp bồi thường, những vẫn không lớn hơn giá trị thiệt hại dù ký kết nhiều hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất khi “ nguyên nhân gần” của tổn thất là các rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Nguyên nhân gần của một sự có thông thường là nguyên nhân chủ yếu, quyết định và có mối liên hệ trược tiếp với kết quả, tổn thất. Nguyên nhân gần cũng không phải nhất thiết là nguyên nhân đầu tiên hay nguyên nhân sau cùng của chuỗi sự kiện. Ví dụ: một người tham gia hợp đồng bảo hiểm tai nan, anh ta bi ngã khi lên cầu thang và dẫn đến gãy tay. Người đó được đưa đến bệnh viện, tại đó anh ta bị nhiễm bệnh truyền nhiễm từ bệnh nhân khác và bị chết. Trong trường hợp này, bệnh truyền nhiễm không phải là hệ quả tự nhiên của gãy tay và tai nạn không phải là nguyên nhân gần của sự cố cái chết và hợp đồng bảo hiểm tai nạn sẽ không có phát sinh trách nhiệm chi trả. Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm
Bảo hiểm là phương thức bảo vệ trước những tổn thất tài chính. Đó là hình thức quản lý rủi ro, chủ yếu được sử dụng để bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên hoặc tổn thất có thể xảy ra. Một doanh nghiệp cung cấp bảo hiểm được gọi là nhà bảo hiểm, công ty bảo hiểm. Các phương pháp chuyển giao hoặc phân tán rủi ro đã được các thương nhân Babylonia, Trung Hoa và Ấn Độ thực hành từ rất lâu trước đây lần lượt từ thứ 3 và thứ 2 thiên niên kỷ trước Công nguyên. Các thương nhân Trung Quốc đi qua các ghềnh thác đầy nguy hiểm sẽ phân phối lại hàng hóa của họ cho nhiều tàu để hạn chế tổn thất do bất kỳ tàu nào bị lật. Luật Codex Hammurabi 238 (khoảng năm 1755–1750 TCN) quy định rằng thuyền trưởng tàu biển, quản lý tàu hoặc người thuê tàu đã cứu một con tàu khỏi tổn thất toàn bộ là chỉ được yêu cầu trả một nửa giá trị của con tàu cho chủ tàu. Trong Digesta seu Pandectae (533), tập 2 của mã hóa các luật theo lệnh của Justinian I (527–565) thuộc Đế chế Đông La Mã, một ý kiến pháp lý được viết bởi Luật gia La Mã Paulus vào đầu Cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba năm 235 sau Công nguyên đã được đưa vào về Lex Rhodia ("Luật Rhodia" ) nêu rõ nguyên tắc trung bình chung của bảo hiểm hàng hải được thành lập trên đảo Rhodes vào khoảng năm 1000 đến 800 trước Công nguyên với tư cách là thành viên của Doric Hexapolis, một cách chính đáng bởi Phoenicia trong cuộc xâm lược Doria được đề xuất và sự nổi lên của Dân tộc trên biển trong thời kỳ đen tối của Hy Lạp (khoảng 1100 – c. 750) dẫn đến sự gia tăng của phương ngữ tiếng Hy Lạp Doric.
Qua việc đăng ký tài khoản VNTRIP, bạn đồng ý hoàn toàn với các Điều khoản, Điều kiện cũng như các Chính sách bảo mật của VNTRIP. Nhập địa chỉ Email đã đăng ký tài khoản Vntrip, hệ thống sẽ gửi thông tin hướng dẫn bạn khôi phục lại mật khẩu. Khi du khách có dịp ghé qua Thanh Hóa thì nhất định phải tham quan thành nhà Hồ – thắng cảnh được nhắc đến nhiều nhất ở Thanh Hóa, được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 2011, vừa được công nhận đứng đầu trong 21 di sản nổi bật và vĩ đại nhất thế giới. Thành nhà Hồ là công trình kiến trúc độc đáo có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trến thế giới. Thành nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Thành do Hồ Quý Ly – lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần cho xây dựng vào năm 1397. Thành nhà Hồ còn có tên gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai. Du khách có thể di chuyển đến Thanh Hóa bằng xe khách hay tàu hỏa. Nếu di chuyển từ Hà Nội thì du khách còn có thể di chuyển bằng xe máy. Thanh Hóa cách Hà Nội 150km, quãng đường vừa phải cho một chuyến phượt cuối tuần. Các đoàn khách là bà Mẹ Việt Nam anh hùng; thương binh; lão thành cách mạng; cựu chiến binh; trẻ em khuyết tật – mồ côi. Các đoàn học sinh trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc đi tham quan, học tập kinh nghiệm (do nhà trường tổ chức). Có thuyết minh hướng dẫn theo các tuyến tham quan di tích (theo đăng ký). Thành nhà Hồ ở Thanh Hóa với bên ngoài xây bằng đá, bên trong chủ yếu là đắp đất, hai mặt Nam và Bắc của thành nhà Hồ dài hơn 900m, Đông và Tây dài hơn 700m. Thành nội được xây dựng gần như vuông, có 4 cổng ở chính giữa các bức tường thành, cổng chính là cổng Nam. Các cổng có kiến trúc hình vòm, với những phiến đá được đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít vào nhau. Tường thành cao trung bình từ 5-6m, riêng cổng Nam cao 10m. Bao quanh Thành nội là Hào thành, được nối với sông Bưởi qua một con kênh ở góc Đông Nam. Hào thành có 4 cầu đá bắc vào 4 cửa Thành nội. Ngày nay nhiều phần của Hào thành đã bị che lấp, tuy nhiên vẫn có thể nhận thấy rõ ở phía Bắc, phía Đông và một nửa phía Nam. La thành là vòng thành ngoài, để che chắn cho Thành nội và là nơi sinh sống của cư dân trong thành. La thành dài khoảng 10km, được xây dựng theo địa hình tự nhiên, kết cấu đắp bằng đất, trồng tre gai để nối liền các ngọn núi với sông Bưởi và sông Mã. Đàn tế Nam Giao hay còn gọi là đàn Nam Giao, là một công trình kiến trúc quan trọng, được xây dựng năm 1402 ở phía Tây Nam núi Đốn Sơn, nằm thẳng trên đường thần đạo từ cổng Nam nhìn ra, cách thành nhà Hồ khoảng 2,5km về phía Đông Nam. Đàn Nam Giao có diện tích 43.000 mét vuông, là nơi tế trời, cầu mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, vương triều trường tồn, thịnh trị. Ngoài ra, đàn còn là nơi tế linh vị của các hoàng đế, các vì sao và nhiều vị thần khác. Tế Nam Giao còn là lễ tạ ơn trời đất về sự hiện diện của vương triều, được coi là nghi lễ mang tính cung đình. Ngoài ra, nằm ở phía ngoài cổng chính còn có phòng trưng bày nhiều hình vẽ miêu tả voi, ngựa, các binh lính cầm giáo, cùng một số cổ vật như những viên đạn đá to bằng quả bóng, các pho tượng hoàng làm từ đất nung… đã được các nhà khảo cổ tìm thấy. Khi đến đây tham quan du khách sẽ được khám phá những điều bí ẩn về tòa thành , khám phá những ẩn dấu về các phiến đá có chiều dài trung bình 1,5m, có tấm nặng tới 15-20 tấn xếp chồng lên nhau, không cần chất kết dính mà vẫn đảm bảo độ bền vững. Sau khoảng thời gian khám phá di tích thành nhà Hồ, du khách hãy về khách sạn để nghỉ ngơi để chuẩn bị cho hành trình tiếp theo. Một vào gợi ý khách sạn ở Thành phố Thanh Hóa :. Khách sạn có đầy đủ tiện nghi, mang tầm đẳng cấp thê giới sẽ là một lựa chọn tốt cho du khách. Sân bay gần với Central Hotel là sân bay Vinh, cách khách sạn 136km. Khách sạn được đánh giá là một trong những nơi nghỉ dưỡng tốt nhất Thanh Hóa. Khách sạn tọa lạc ngay trung tâm thành phố, cách quốc lộ 1A 500m, cách sân bay Thọ Xuân khoảng 40km. Với vị trí địa lí thuận lợi và sự sang trọng, hiện đại, đầy đủ tiện nghi, Palm Hotel Thanh Hoa là một điểm dừng chân đáng để du khách lựa chọn trong chuyến đi. Du khách có thể tham khảo thêm các khách sạn khác ở Thanh Hóa tại VNTRIP.VN. Du khách còn có thể thưởng thức các món ăn Thanh Hóa như: chả Tôm, cháo cá, bánh đa cua, ốc trẻo, cơm hến, bún riêu…. Khi đến Thanh Hóa, nếu du khách không ghé thăm thành nhà Hồ thì thật đáng tiếc. Nơi đây sẽ mang đến cho du khách bao trải nghiệm tuyệt vời khi tham quan kiến trúc độc đáo thời nhà Hồ, khám phá, tìm hiểu những điều bí ẩn nơi đây, cùng ngắm nhìn những cảnh vật, cảm nhận cuộc sống thời xưa, qua đó cũng giúp du khách mở rộng kiến thức rất hữu ích.
Thành nhà Hồ
Xem các mục từ khác có cùng tên "Tây Đô" tại Tây Đô. Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ), nằm trên địa phận nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở tại Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn. Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, thành cũng được CNN đánh giá là một trong 21 di sản nổi bật và vĩ đại nhất thế giới.
Về cơ bản hashing là quá trình biến một dữ liệu đầu vào có độ dài bất kỳ thành một chuỗi đầu ra đặc trưng có độ dài cố định. Một cách tổng quát hàm băm là bất kỳ hàm nào có thể được sử dụng để ánh xạ dữ liệu có kích thước tùy ý thành các giá trị kích thước cố định. Các giá trị được trả về bởi hàm băm được gọi là giá trị băm, mã băm, thông điệp băm, hoặc đơn giản là “hash”. Ví dụ, khi bạn download một video trên YouTube có dung lượng 50 MB và thực hiện hashing trên nó bằng thuật toán băm SHA-256, thì đầu ra bạn thu được sẽ là một giá trị băm có độ dài 256 bit. Tương tự, nếu bạn lấy một tin nhắn văn bản có dung lượng 5 KB, để hashing bằng SHA-256 thì giá trị băm đầu ra bạn thu được vẫn sẽ là 256 bit. Như bạn có thể thấy, trong trường hợp SHA-256, cho dù đầu vào của bạn lớn hay nhỏ như thế nào đi chăng nữa, thì đầu ra bạn nhận được sẽ luôn có độ dài 256 bit cố định. Điều này trở nên quan trọng khi bạn xử lý một lượng lớn dữ liệu và giao dịch. Khi đó, thay vì bạn phải xử lý toàn bộ lượng dữ liệu đầu vào (có thể có kích thước rất lớn), bạn chỉ cần xử lý và theo dõi một lượng dữ liệu rất nhỏ là các giá trị băm. Trong blockchain, các giao dịch có độ dài khác nhau sẽ được băm thông qua một thuật toán băm nhất định và tất cả đều cho đầu ra có độ dài cố định bất kể độ dài của giao dịch đầu vào là bao nhiêu. Chẳng hạn, Bitcoin sử dụng thuật toán SHA-256 để băm các giao dịch cho kết quả đầu ra có độ dài cố định là 256 bit (32 byte) cho dù giao dịch chỉ là một từ hoặc giao dịch phức tạp với lượng dữ liệu khổng lồ. Điều làm cho việc theo dõi các giao dịch trở nên dễ dàng hơn khi truy xuất và theo dõi lại các giá trị băm. Kích thước của hàm băm sẽ phụ thuộc vào hàm băm được sử dụng. Kỹ thuật hashing thường được sử dụng và có ứng dụng rộng rãi nhất trong việc đảm bảo tính toàn vẹn cho dữ liệu trong blockchain là các hàm băm mật mã (cryptographic hash function) chẳng hạn như SHA-1. SHA-3, SHA-256…Sỡ dĩ như vậy là do các hàm băm mật mã có một số tính chất quan trọng phù hợp cho việc đảm bảo an toàn dữ liệu. Hàm băm mật mã là các hàm băm phù hợp để sử dụng trong mật mã. Cũng giống như các hàm băm thông thường, nó là một thuật toán toán học ánh xạ dữ liệu có kích thước tùy ý thành một chuỗi bit có kích thước cố định (gọi là “giá trị băm”, “mã băm” hoặc “thông điệp băm”). Ngoài ra nó còn đảm bảo tính chất là một hàm một chiều, nghĩa là, một hàm mà trên thực tế không thể có ngược. Nếu bạn có một giá trị băm đầu ra, bạn sẽ không thể suy ngược lại được giá trị đầu vào là gì để có thể băm ra một thông điệp băm như vậy, hoặc ít nhất là rất khó suy luận được ra, trừ khi bạn vét cạn hết toàn bộ các khả năng có thể của thông điệp đầu vào. Đây là tính chất vô cùng quan trọng của hàm băm mật mã biến nó thành một công cụ cơ bản của mật mã hiện đại. Các hàm băm mật mã có nhiều ứng dụng trong an toàn thông tin. Nó được sử dụng nhiều trong chữ ký số, mã xác thực thông điệp (MAC) và các hình thức xác thực khác. Ngoài ra, chúng cũng có thể được sử dụng như các hàm băm thông thường, để lập chỉ mục dữ liệu trong bảng băm, lấy đặc trưng của dữ liệu, phát hiện dữ liệu trùng lặp hoặc làm tổng kiểm tra để phát hiện lỗi các dữ liệu ngẫu nhiên. Tính tất định, nghĩa là cùng một thông điệp đầu vào luôn tạo ra cùng một hàm băm. Có khả năng tính toán nhanh chóng giá trị băm của bất kỳ thông điệp nào. Đảm bảo rằng bất kỳ một thay đổi nào, dù là nhỏ nhất trên dữ liệu đều sẽ gây ra sự thay đổi cực lớn trên giá trị băm và tạo ra giá trị băm hoàn toàn khác, và không hề có liên hệ gì với giá trị băm cũ (hiệu ứng tuyết lở). Như bạn thấy, mặc dù bạn chỉ thay đổi duy nhất một chữ cái đầu tiên của đầu vào thì đầu ra đã gần như thay đổi hoàn toàn. Đây là một tính chất quan trọng của hàm băm bởi vì nó dẫn đến một trong những tính chất lớn nhất của blockchain, đó là tính bất biến. Nghĩa là bạn không thể tạo ra một thay đổi nào trên blockchain mà không tạo ra một sự thay đổi lớn trên đầu ra. Bạn không thể sửa 10 thàng 100 trong giao dịch và ngược lại…. Ngoài ra, với mục đích đảm bảo an toàn cho dữ liệu, các hàm băm mật mã phải có khả năng chịu được tất cả các loại tấn công mã hóa đã biết. Trong lý thuyết mật mã, mức độ an toàn của hàm băm mật mã đã được xác định bằng các thuộc tính sau:. Tính kháng tiền ảnh thứ nhất. Tính chất yêu cầu rằng với một giá trị băm h bất kỳ, sẽ khó tìm thấy bất kỳ thông điệp m nào sao cho h = hash (m). Khái niệm này có liên quan đến tính chất một chiều của hàm băm. Tính kháng va chạm. Một giá trị như vậy được gọi là va chạm của hàm băm mật mã. Ký hiệu D là miền xác định và R là miền giá trị của hàm băm h(x). Do hàm băm biến đổi dữ liệu từ độ dài bất kỳ về độ dài cố định do đó, số lượng phần tử của D thường lớn hơn rất nhiều so với số lượng phần tử trong R. Vì vậy hàm băm h(x) không là đơn ánh, tức là luôn tồn tại một cặp đầu vào khác nhau có cùng giá trị mã băm. Tức là với mỗi đầu vào cho trước thường tồn tại một (hoặc nhiều) đầu vào khác sao cho mã băm của nó trùng với mã băm của chuỗi đầu vào đã cho. Tính chất này dựa trên ngịch lý ngày sinh nhật:. Nếu bạn gặp bất kỳ người lạ ngẫu nhiên nào trên đường phố, khả năng cả hai bạn có cùng ngày sinh là rất thấp. Trên thực tế, giả sử rằng tất cả các ngày trong năm đều có khả năng sinh nhật như nhau, khả năng có một người khác cùng có ngày sinh như bạn là 1/365 tức là chỉ xấp xỉ 0,27%. Tuy nhiên, nếu bạn tập hợp 20-30 người trong một phòng, tỷ lệ hai người có cùng một ngày sinh nhật tăng lên gấp bội. Trên thực tế, có cơ hội để 2 người bất kỳ chia sẻ cùng một ngày sinh nhật trong trường hợp này là 50-50 !. Tại sao điều này xảy ra? Đó là bởi vì một quy tắc đơn giản trong xác suất. Giả sử bạn có N khả năng khác nhau xảy ra, thì bạn cần căn bậc hai của N đối tượng ngẫu nhiên để chúng có 50% khả năng xảy ra va chạm. Vì vậy, áp dụng lý thuyết này cho ngày sinh nhật, bạn có 365 khả năng ngày sinh nhật khác nhau, vì vậy bạn chỉ cần √365, tức là ~ 23 người, những người được chọn ngẫu nhiên thì 50% cơ hội hai người sẽ có chung ngày sinh nhật. Với trường hợp hashing ở đây, giả sử bạn có hàm băm với kích thước đầu ra là 128 bit, tức là có tổng thể 2 ^ khả năng khác nhau. thì với nghịch lý sinh nhật, bạn có 50% cơ hội phá vỡ khả năng kháng va chạm của hàm băm với √(2^128) = 2^64 lần thử. Do đó, bạn có thể thấy rằng, việc phá vỡ tính chất kháng va chạm của hàm băm sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với việc phá vỡ tính chất kháng tiền ảnh. Không có hàm băm nào là không va chạm, tuy nhiên, nếu ta chọn được hàm h(x) thích hợp đáp ứng tính chất trên với chiều dài mã băm đủ lớn thì việc tính toán để tìm ra chuỗi đầu vào bị va chạm này là rất khó . Tính kháng va chạm bao hàm cả tính kháng tiền ảnh thứ hai, nhưng không bao gồm tính chất kháng tiền ảnh thứ nhất. Trên thực tế, hàm băm chỉ có khả năng kháng tiền ảnh thứ hai được coi là không an toàn và do đó không được khuyến nghị cho các ứng dụng thực tế. Các tính chất trên đảm bảo rằng kẻ tấn công không thể thay thế hoặc sửa đổi dữ liệu đầu vào mà không làm thay đổi giá trị băm. Do đó, nếu hai chuỗi đầu vào có cùng một giá trị băm, ta có thể rất tự tin rằng chúng là giống hệt nhau. Tính kháng tiền ảnh thứ hai ngăn chặn kẻ tấn công tạo ra được một tài liệu khác có cùng giá trị băm như tài liệu gốc. Tính kháng va chạm ngăn chặn kẻ tấn công tạo ra hai tài liệu khác nhau mà có cùng một giá trị băm. Các thuật toán tính tổng kiểm tra, chẳng hạn như CRC32 và các thuật toán tính mã kiểm tra dự phòng theo chu kỳ khác, được thiết kế để đáp ứng các yêu cầu yếu hơn nhiều và thường không phù hợp với các ứng dụng như các hàm băm mật mã. Ví dụ: CRC được sử dụng xác minh tính toàn vẹn của thông điệp trong tiêu chuẩn mã hóa WEP, nhưng có thể bị dễ dàng tấn công bằng các tấn công có độ phức tạp tuyến tính. Có nhiều thuật toán băm mật mã; ở đây chúng ta nhắc đến một số thuật toán được sử dụng thường xuyên. MD5 được Ronald Rivest thiết kế vào năm 1991 để thay thế hàm băm MD4 trước đó và được đưa thành tiêu chuẩn vào năm 1992 trong RFC 1321. MD5 tạo ra một bản tóm tắt có kích thước 128 bit (16 byte). Tuy nhiên, đến đầu những năm 2000 thì hàm băm MD5 trở lên không an toàn trước sức mạnh tính toán của các hệ thống tính toán thế hệ mới. Với sức mạnh tính toàn và sự phát triển của công nghệ thám mã thời gian gần đây, chúng ta có thể tính toán các va chạm trong MD5 với độ phức tạp 221 phép toán chỉ trong vòng vài giây khiến thuật toán không phù hợp với hầu hết các trường hợp sử dụng trong thực tế. SHA-1 được phát triển như một phần của dự án Capstone của Chính phủ Hoa Kỳ. Nó đã bị NSA rút lại ngay sau khi xuất bản và được thay thế bởi phiên bản sửa đổi, được xuất bản năm 1995 trong FIPS PUB 180-1 và thường được đặt tên là SHA-1. SHA-1 tạo ra bản tóm tắt có kích thước 160 bit (20 byte). Các va chạm chống lại thuật toán SHA-1 đầy đủ có thể được tạo ra bằng cách sử dụng tấn công phá vỡ. Do đó, hàm băm này cho đến nay được coi là không đủ an toàn. RIPEMD (viết tắt của RACE Integrity Primitives Evaluation Message Digest) là họ hàm băm được phát triển tại Leuven, Bỉ, bởi ba nhà mật mã học Hans Dobbertin, Antoon Bosselaers và Bart Preneel của nhóm nghiên cứu COSIC thuộc đại học Katholieke Universiteit Leuven. RIPEMD lần đầu tiên được công bố vào năm 1996 dựa trên các nguyên tắc thiết kế được sử dụng trong MD4. RIPEMD-160 tạo ra một bản tóm tắt gồm 160 bit (20 byte). RIPEMD có hiệu năng tương tự như SHA-1 nhưng ít được phổ biến hơn. Và cho đến nay RIPEMD-160 chưa bị phá vỡ. bcrypt là một hàm băm mật khẩu được thiết kế bởi Niels Provos và David Mazières, dựa trên mật mã Blowfish, và được trình bày tại USENIX vào năm 1999. Bên cạnh việc kết hợp một giá trị ngẫu nghiên salt để bảo vệ chống lại các tấn công rainbow attack, bcrypt còn là một hàm có khả năng thích ứng: theo thời gian, số lần lặp có thể được tăng lên để làm cho nó chậm hơn, do đó nó vẫn có khả năng chống lại các cuộc tấn công vét cạn ngay cả khi tăng sức mạnh tính toán có lớn đến mức nào đi chăng nữa. Whirlpool là một hàm băm mật mã được thiết kế bởi Vincent Rijmen và Paulo S. L. M. Barreto. Nó được mô tả đầu tiên vào năm 2000. Whirlpool dựa trên phiên bản sửa đổi đáng kể của Tiêu chuẩn mã hóa nâng cao (AES). Whirlpool tạo ra một bản tóm tắt có độ dài 512 bit (64 byte) của dữ liệu. SHA-2 là một tập hợp các hàm băm mật mã được thiết kế bởi Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA), được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2001. Chúng được xây dựng bằng cấu trúc Merkle–Damgård, chức năng nén một chiều của nó được xây dựng bằng cấu trúc Davies–Meyer từ một hệ mật mã khối chuyên dụng. SHA-2 về thực chất bao gồm hai thuật toán băm: SHA-256 và SHA-512. SHA-224 là một biến thể của SHA-256 với các giá trị khởi tạo và đầu ra bị cắt bỏ khác nhau. SHA-384 và SHA-512/224 và SHA-512/256 ít được biết đến là tất cả các biến thể của SHA-512. Do có nhiều phiên bản thuật toán khác nhau do đó kích thước đầu ra của họ SHA-2 cũng khác nhau tùy theo thuật toán. Phần mở rộng của tên phía sau tiền tố “SHA” chính là độ dài của thông điệp băm đầu ra. Ví dụ với SHA-224 thì kích thước đầu ra là 224 bit (28 byte), SHA-256 tạo ra 32 byte, SHA-384 tạo ra 48 byte và cuối cùng là SHA- 512 tạo ra 64 byte. Và chúng ta có thể đã biết rằng Bitcoin sử dụng hàm băm SHA-256 là một phiên bản trong họ SHA-2 này. SHA-3 được NIST phát hành vào ngày 5 tháng 8 năm 2015. Đây có lẽ là tiêu chuẩn hàm băm mới nhất cho đến hiện nay. SHA-3 là một tập con của họ nguyên thủy mật mã rộng hơn là Keccak. Cấu trúc này cũng có thể được sử dụng để xây dựng các nguyên thủy mã hóa khác như các hệ mật mã dòng. SHA-3 cũng có các kích cỡ đầu ra tương tự như SHA-2 bao gồm: 224, 256, 384 và 512 bit. Một phiên bản cải tiến của BLAKE có tên BLAKE2 đã được công bố vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. Mặc dù BLAKE và BLAKE2 chưa được tiêu chuẩn hóa như SHA-3, nhưng nó đã được sử dụng trong nhiều giao thức bao gồm hàm băm mật khẩu Argon2 do hiệu quả cao mà nó mang lại cho các dòng CPU hiện đại. Do BLAKE cũng là ứng cử viên cho tiêu chuẩn SHA-3, vì vậy, BLAKE và BLAKE2 đều có các kích thước đầu ra giống như SHA-3 và có thể tùy chọn khi sử dụng trong thực tế. Hashing nói chung và hàm băm mật mã nói riêng có rất nhiều ứng dụng khác nhau trong thực tế. Dưới đây là một số ứng dụng phổ biến nhất của nó:. Giá trị băm cũng có thể được sử dụng như một phương tiện để định danh tập tin một cách đáng tin cậy. Một số hệ thống quản lý mã nguồn, như Git, Mercurial hay Monotone, sử dụng giá trị sha1sum của nội dung tệp, cây thư mục, thông tin thư mục gốc, v.v. để định danh chúng.
Hàm băm
Hàm băm (tiếng Anh: hash function) là giải thuật nhằm sinh ra các giá trị băm tương ứng với mỗi khối dữ liệu (có thể là một chuỗi ký tự, một đối tượng trong lập trình hướng đối tượng, v.v.). Giá trị băm đóng vai gần như một khóa để phân biệt các khối dữ liệu, tuy nhiên, người ta chấp nhận hiện tượng trùng khóa hay còn gọi là đụng độ và cố gắng cải thiện giải thuật để giảm thiểu sự đụng độ đó. Hàm băm thường được dùng trong bảng băm nhằm giảm chi phí tính toán khi tìm một khối dữ liệu trong một tập hợp (nhờ việc so sánh các giá trị băm nhanh hơn việc so sánh những khối dữ liệu có kích thước lớn). Vì tính thông dụng của bảng băm, ngày nay, đa số ngôn ngữ lập trình đều cung cấp thư viện ứng dụng bảng băm, thường gọi là thư viện collection trong đó có các vấn đề như: tập hợp (collection), danh sách (list), bảng(table), ánh xạ (mapping), từ điển (dictionary)). Thông thường, các lập trình viên chỉ cần viết hàm băm cho các đối tượng nhằm tích hợp với thư viện bảng băm đã được xây dựng sẵn.
Với những người có niềm đam mê với bóng đá chắc hẳn đã không còn xa lạ gì với thuật ngữ ném biên. Tuy nhiên với một số bạn mới thì có thể gặp một số khó khăn khi hình . Ném biên là gì?Với những người có niềm đam mê với bóng đá chắc hẳn đã không còn xa lạ gì với thuật ngữ bóng đá ném biên. Tuy nhiên với một số bạn mới thì có thể gặp một số khó khăn khi hình dung. Vậy hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau. Trong một trận đấu diễn ra, sẽ có một số trường hợp có cầu thủ đá văng bóng ra khỏi đường biên dọc hai bên sân. Khi đó, đội còn lại sẽ được ném biên từ điểm bóng dừng để bắt đầu lại trận đấu. Ném biên là một hình thức bắt đầu lại trận bóng sau khi bóng vị văng ra khỏi sân. Một đội được hướng ném biên nếu toàn bộ quả bóng sau khi đã chạm vào bất kỳ cầu thủ nào và bay ra khỏi đường biên dọc hai bên sân, dù là trên mặt đất hoặc trong không gian. Khi thực hiện ném biên, cầu thủ ném biên phải hướng mặt về phía sân. Vị trí đứng ném biên: dẫm một phần lên biên hoặc đứng hẳn ngoài biên. Các cầu thủ khác phải cách người ném biên tổi thiểu 2m. Kỹ thuật ném biên: cầu thủ ném biên dùng lực đều của hai tay, ném bóng từ phía sau, qua khỏi đầu. Lưu ý: cầu thủ ném biên chỉ được chạm vào bóng nếu có một cầu thủ bất kỳ tiếp xúc bóng. Cầu thủ thực hiện ném biên chạm vào bóng trước các cầu thủ khác trong sân: Tùy vào vị trí phạm lỗi cũng như chức năng chính của người ném biên mà có những xử phạt phù hợp. Có những hành vi hoặc lời nói khiếm nhã đối với người ném biên: cầu thủ phạm lỗi bị phạt thẻ vàng. Một số vi phạm khác: quyền ném biên sẽ được chuyển giao cho đội còn lại. Bên cạnh thắc mắc ném biên là gì thì các kỹ thuật về ném biên cũng được nhiều người quan tâm. Cách đứng: mặt hướng về phía bóng đi, chân đứng mở hoặc đứng chân trước chân sau, đầu gối gập. Thân trên hơi hướng ra sau, tay đưa ra sau, mở tự nhiên, cầm phần sau của bóng, đưa bóng ra phía sau đầu. Khi ném: dùng sức bật của chân và tay vung bóng từ sau ra trước, trong toàn bộ quá trình, hai chân phải luôn chạm đất. Về kỹ thuật tương tự như đứng tại chỗ ném biên, nhưng người ném được sử dụng tốc độ cũng như sức đà để tăng thêm uy lực tấn công. Khi ném bóng, chân của cầu thủ phải luôn chạm đất và phải đứng trên hoặc ngoài đường biên dọc. Chiến thuật ném biên bao gồm chiến thuật tấn công khi ném biên và chiến thuật phòng ngự khi đội đối thú thực hiện ném biên. Ném biên không đơn thuần chỉ là bắt đầu lại trận đấu mà còn là một cơ hội để tấn công cũng như thể hiện sự uy hiếp của các đội chơi. Vậy nên khi đồng đội thực hiện ném biên, các thành viên khác phải nhanh chóng hỗ trợ, tiếp ứng đồng đội để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận bóng. Khi đội đối phương ném biên, các cầu thủ phải thực hiện chiếc lược kèm chặt cầu thủ tấn công. Đặc biệt, cả đội phải có sự đoàn kết, hỗ trợ ăn ý để không bị đối phương cắt đuôi.
Ném biên (bóng đá)
Ném biên từ đường biên dọc là hình thức bắt đầu lại trận đấu khi bóng bị bay ra khỏi đường biên dọc ở hai bên sân, người chạm bóng cuối cùng là cầu thủ đội bất kỳ. Đội còn lại sẽ được ném biên từ đường biên dọc (điểm bóng dừng lại ngoài sân). toàn bộ trái bóng, sau khi chạm vào một cầu thủ của đội bất kỳ, ra khỏi đường biên dọc phía bên trái hoặc bên phải sân, trên mặt đất hay trong không gian. Từ quả ném biên, bàn thắng chỉ được công nhận là hợp lệ khi tiếp xúc chân ít nhất một cầu thủ khác.
Động vật tấn công hay đôi khi còn được gọi là thú dữ tấn công chỉ về các vụ tấn công của động vật lên con người. Các cuộc tấn công động vật là một nguyên nhân phổ biến của tử vong và thương tích. Tần số các cuộc tấn công động vật thay đổi theo vị trí địa lý và thời kỳ lịch sử. Các trường hợp của các cuộc tấn công có thể được quy cho các động vật bị giam giữ hoặc mắc kẹt trước khi một cuộc tấn công. Bị thương nặng và tử vong có nhiều khả năng sẽ được phát sinh bởi trẻ sơ sinh, trẻ em và những người có khả năng hạn chế để bảo vệ mình chống lại một con vật. Các cuộc tấn công trên động vật đã được xác định là một vấn đề y tế công cộng. Năm 1997 người ta ước tính rằng có đến 2 triệu súc vật cắn xảy ra mỗi năm ở Hoa Kỳ. Chấn thương gây ra bởi các cuộc tấn công động vật dẫn đến hàng ngàn trường hợp tử vong trên toàn thế giới mỗi năm. Tất cả các nguyên nhân tử vong được báo cáo cho Trung tâm kiểm soát dịch bệnh mỗi năm. Mã chấn thương y tế được sử dụng để xác định các trường hợp cụ thể. Tổ chức Y tế Thế giới sử dụng mã hóa giống hệt nhau, mặc dù nó vẫn chưa rõ liệu tất cả các nước theo dõi các trường hợp tử vong do động vật. Những vụ tấn công này có thể bắt nguồn từ các loài hoang dã như lợn rừng, voi rừng, khỉ… là những loài thú rừng hung dữ có thể gây ra những vụ động vật tấn công dân cư đáng sợ nhưng cũng có thể là những loài động vật tưởng chừng có thể dễ dàng thuần hóa, thuần dưỡng thành thú cưng, nhưng có thể gây ra những vụ thú dữ tấn công chủ thê thảm nhất. Thuật ngữ này chỉ nêu lên những hành động tấn công và không bao gồm các vụ tập kích giết người để ăn thịt. Hầu hết trong các vụ bị thú rừng tấn công, người dân đều rơi vào tình trạng hoảng loạn, bỏ chạy. Điều đó, khiến cho thú rừng tưởng đó là con mồi nên săn đuổi cho bằng được. Việc động vật tấn công con người, nhất là động vật hoang dã được lý giải bởi nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân quan trọng là khi chỗ ở không còn, thức ăn khan hiếm thì thú rừng buộc phải giành giật với chính con người và chính con người đang cướp chỗ ở của các loài thú. Cũng có không ít người lại cho rằng, việc thú rừng nổi cơn “thịnh nộ” là do diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, không còn nơi để tìm kiếm thức ăn. Thậm chí còn có những đồn thổi về việc thú rừng báo oán. Bên cạnh đó, nhiều người vẫn lén lút săn tìm thú rừng vì cái lợi trước mắt, mà không lường trước được những hậu quả đau lòng sẽ xảy ra. Tình trạng này đã khiến cho thú rừng trở nên điên loạn, sẵn sàng tấn công con người bất kỳ lúc nào. Việc thú rừng xuất hiện phá hoại mùa màng và tấn công người dân không phải tự nhiên mà có. Do khan hiếm thức ăn nên thú rừng lang thang đi xuống khu vực dân cư. Trong quá trình sinh tồn ấy, thú rừng bị con người xua đuổi nên chúng tìm cách trả thù. Thông thường, thú rừng tấn công con người là do bị thương trúng bẫy, săn bắn. Có khi con người khiêu khích thú rừng quá mức khiến chúng trả đũa. Có khi người này tấn công thú rừng nhưng thú rừng lại tìm người khác để trả thù, lý do là thú vật không thể nhận biết được sự khác nhau giữa người này và người khác, nên hễ thấy người là chúng tấn công. Chẳng hạn như tập tính của heo rừng là thù rất dai. Khi con người làm tổn thương đến nó, không sớm thì muộn nó cũng sẽ tìm con người để trả thù. Cứ nhìn thấy người là loài vật này tấn công, không kể đó là ai. Các loài thú rừng khác cũng sẽ làm hại đến con người nếu chúng phát hiện người đó có thể gây nguy hiểm cho chúng hay đồng loại của chúng. Hà mã là một trong những sinh vật hung hăng nhất trên thế giới và thường được xem như một trong những động vật nguy hiểm nhất ở châu Phi cũng như trên thế giới. Không một loài thú hoang dã nào ở châu Phi giết người nhiều như những con hà mã. Hằng năm có 2900 người bị giết bởi loài này. Hà mã đặc biệt hung dữ khi bị xâm phạm lãnh thổ của chúng và động đến con cái của chúng. Chính vậy thổ dân ở châu Phi rất dễ mất mạng khi vô tình xâm phạm lãnh thổ của hà mã. Chúng sẽ rượt đuổi, kéo họ xuống đầm, cắn nát thuyền của họ và thậm chí cắn nát cả đầu của họ. Là loài thú dữ tợn nhất châu Phi, hàm của hà mã có thể nghiền nát một hoặc hai con cá sấu dài khoảng 3m. Độ hung bạo của chúng mạnh hơn bất cứ loài vật kích thước lớn nào. Chúng có trọng lượng trung bình lên tới 1,5 tấn và hàm răng có sức mạnh tương đương với một chiếc búa tạ cỡ lớn. Chúng thường tấn công con người và tàu bè nhỏ. Mặc dù có thân thể thấp đậm và bốn cái chân ngắn cũn nhưng hà mã có thể đạt tới tốc độ lên đến 48 km/h và dễ dàng vượt mặt con người. Chúng cũng là loài thú có vú nặng thứ 3 trên mặt đất. Con đực có thể nặng tới 1,8 tấn và dài khoảng 5m. Không nên trêu chọc một con hà mã, nhất là khi chng đang nhấm nháp bữa ăn trưa. Thậm chí ngay cả những con hà mã được nuôi nấng và thân thiết từ nhỏ cũng có thể giết người chủ của mình, điển hình là bi kịch của một người nông dân ở Nam Phi khi bị chính con vật nuôi 6 tuổi mình thương yêu và chăm sóc hại chết bằng cách moi ruột cho đến chết. Thi thể bị cắn xé thương tâm của Marius được phát hiện trôi nổi trên một dòng sông chạy qua trang trại của anh ở vùng quê Nam Phi sau đó hà mã này còn chạy điên cuồng trên đồng cỏ để tấn công những người chơi golf ở câu lạc bộ gần nông trại và cắn chết một chú bê của đối tác làm ăn với ông chủ. Người ta tin rằng voi là loài động vật hiền lành, không gây hại cho con người. Nhưng thực tế, khoảng 500 người chết vì voi mỗi năm. Với trọng lượng cơ thể lên tới 6 tấn, voi châu Phi đứng số một trong bản danh sách những loài voi giết người nhiều nhất. Động vật với kích thước như thế tiềm ẩn những nguy hiểm cho con người. Cần phải cẩn thận khi đi dạo hay lái xe trong đêm hoặc chiều muộn ở những khu vực mà voi hoang hay xuất hiện. Cụ thể, nên tránh những va chạm hay tiếp xúc với voi đực trưởng thành hay voi cái đang nuôi con nhỏ. Trong số các mối nguy hiểm nhất là voi độc. Chúng là những con voi sống riêng lẻ và rất hiếu chiến. Khi gặp chúng nên chạy theo đường dích dắc vì chúng có thể chạy với tốc độ lên tới 50 km/h theo đường thẳng nhưng khó xoay trở khi chạy ngoằn ngoèo. Mỗi con voi trưởng thành có thể nặng vài tấn nhưng không phải loài săn mồi nguy hiểm. Bản tính về cơ bản vốn ôn hòa, nên chúng chỉ dùng vòi xua đuổi những kẻ quấy nhiễu chứ không ăn thịt. Đấy là theo lý thuyết, thực tế nếu voi bị kích động chúng trở nên rất hung tợn và có thể dùng vòi đập chết đối thủ hoặc dùng thân hình đồ sộ để giày xéo nạn nhân. Có ghi nhận một trường hy hữu xảy ra ở Ấn Độ. Một con voi trong lúc tức giận đã đập chết 17 người. Trong đó có một nạn nhân xấu số nhất đã bị nó bẻ gãy đôi người và nuốt chửng. Vụ một đàn voi rừng gồm ba con xuất hiện tại khu vực làng Khe Dưng gây đại náo cho dân làng. Chúng di chuyển vào các khu rẫy của người dân tàn phá lúa và cây trồng, chỉ cần thấy hơi người là chúng xông vào tấn công. Được biết, đàn voi thường xuyên xuất hiện trong khu vực và rất hung dữ. Đã có hai người dân đi làm rẫy đã bị đàn voi rượt đuổi làm bị thương vào năm 2013. Vụ xuất hiện của đàn voi rừng gần chục con, tàn phá hoa màu, nhà cửa nhiều người ở xã Thanh Sơn, huyện Định Quán, Đồng Nai luôn thấp thỏm, hoang mang vì sự. Vụ cháu bé tại xã Đức Mạnh, huyện Đăk Mil, Đăk Nông bị con voi của Công ty Xiếc – Hài kịch Bình Minh tỉnh Thái Bình quật chết. Cậu bé đang cho con voi ăn và thử sờ vào vòi voi thì bị con vật dùng vòi quấn lấy rồi quật vào thành xe tải. Vụ việc voi điên quật chết người khiến quản tượng khu du lịch Đại Nam tử vong cũng khiến nhiều người lo sợ. Trong lúc mang sơn vào sơn lại chuồng bất ngờ nhân viên huấn luyện thú đã bị một con voi nặng khoảng hai tấn dùng vòi quật văng vào bể nước, chấn thương nặng dẫn đến tử vong. chú voi đực đã quật chết nạn nhân là giống voi châu Á được tỉnh Đăk Lăk tặng vườn thú vào năm 2008 khi mới 2 tuổi và được đặt tên là Ka. Vụ một nhân viên sở thú Missouri tên John Phillip Bradford bị một con voi có tên là patience nghiền nát. John cố gắng dỗ con voi qua cái máng ở chuồng voi khác, nhưng con voi bất ngờ nổi điên và tấn công. Từng ghi nhận một trường hợp thương tâm hơn, nạn nhân còn bị con voi xé xác ăn thịt khi vẫn còn sống. Chưa thể giải thích được nguyên nhân vì sao những chú voi hiền lành bỗng trở thành những sát thủ giết người ghê rợn. Tại châu Phi ghi nhận trường hợp một con voi nổi giận dẫn đến hành động chặn đường và lật một chiếc xe hơi chở một giáo viên người Anh và chồng chưa cưới của cô khi họ đang đi săn ở châu Phi. Một cặp đôi đang quay phim một con voi đang uống nước tại một cái hố gần đó trong chuyến đi săn ở Công viên quốc gia Kruger ở Nam Phi. Bỗng nhiên, con voi nổi giận và hung hăng tiến về phía chiếc xe của nạn nhân nữ sau đó, con voi hung dữ lật đổ chiếc xe của cặp đôi này và đẩy nó một đoạn khá xa đến một bụi rậm. Ngà của chú voi hung hăng này đã đâm vào đùi của cô giáo khiến cô phải nằm viện vài ngày. Tháng 11 năm 2017, vụ khách du lịch bị voi giẫm chết khi cố đến gần chụp ảnh xảy ra ở khu nghỉ dưỡng Maramba River Lodge, Livingstone, thủ đô Lusaka của Zambia, hai du khách bị giết khi cố tiến gần để chụp ảnh một con voi. Trước đó vào tháng 7, một du khách Tây Ban Nha thiệt mạng vì bị voi quần trước mặt vợ khi cả hai tham quan khu bảo tồn thiên nhiên tại miền nam Ethiopia, nam du khách không tuân theo hướng dẫn, cố tình trèo khỏi xe để lấy góc chụp ảnh nhưng bị con vật dùng vòi và ngà tấn công. Mặc dù là loài đào bới ăn củ quả và tính vốn không hung dữ nhưng lợn rừng do bị săn bắn quá nhiều nên chúng trở nên hung dữ, chống cự quyết liệt các đối thủ, thậm chí gây trọng thương cho thợ săn khi không còn đường chạy trốn. Tại Thanh Hóa có câu chuyện về một lần có người vác súng đi săn trên núi Pha Xiêng đỉnh cao của dãy núi Pù Dào, người thợ săn nằm phục một con lợn lòi nặng khoảng 80kg trong tiết trời giá rét, khi thấy tấm thân mốc thếch của con thú đi vào tầm bắn, người thợ săn bắn hạ con thú ngã vật xuống nhưng bỗng thấy nó vùng dậy, nhằm thẳng gốc cây nạn đang trú ẩn phóng tới với một tốc độ nhanh và dùng cả tấm thân đồ sộ, cùng cặp răng nanh đâm sầm vào và hất tung nạn nhân văng xuống sườn dốc, nạn nhân bất tỉnh và vết thương chí mạng đó hành hạ đến chết. Tại Hà Tĩnh có câu chuyện về săn lợn rừng, khi lợn rừng trúng bẫy và thợ săn phát hiện một con lợn rừng đang nằm thở phì phò bên bụi cây, cuộc vật lộn cả đêm đã làm nó hết sức chống cự. Con lợn rừng gầm gừ dựng đứng hàng lông trên gáy, mắt gườm gườm nhìn thẳng vào đám người vây quanh. Nó loạng choạng cố đứng dậy cố tạo thế phòng thủ nhưng nó lại quỵ xuống ngay. Người thợ săn tưởng đã tóm được con lợn này, thấy nó nằm im tưởng nó đã hết sức chống đỡ, vừa đến gần con lợn vùng lên lao thẳng vào nạn nhân, sau cú tấn công bất ngờ này, nạn nhân phải nằm viện hơn 1 tháng trời với nhiều vết thương trên mình còn con lợn kéo theo cả chiếc bẫy chạy thoát. Một câu chuyện khác về dân bản đánh bẫy được một con lợn lòi nặng 120 kg đem về giữa sân để chờ xả thịt nhưng con lợn bứt dây thoát được và con thú bị thương đó lập tức lồng lên, xông thẳng vào một người phụ nữ khiến người này mình mẩy đầy máu, chỉ kêu khóc thảm thiết rồi gục xuống tắt lịm, chết tại chỗ, 31 người đàn ông quây lại mà không hạ nổi con thú đang cơn khát máu đó đến sáng hôm sau, khi thợ săn đem súng đến nhằm vào gốc lau nó đang trú ẩn, bắn 12 phát đạn thì mới hạ được con lợn lòi này. Tại Nghệ An xảy ra vụ việc lợn rừng tấn công phóng viên, một phóng viên đang ngồi chơi ở sân nhà bất ngờ bị lợn rừng nặng hơn 80 kg tấn công, con lợn rừng vượt qua tường rào lao vào tấn công dữ dội, làm nạn nhân bị thương nhiều vết ở chân. Con lợn rưng đen trũi lao qua bờ tường, húc đổ giàn trầu, lao vào sân nhà và dùng hai răng nanh dài, nhọn hoắt của mình con vật hung hãn ngoạm một miếng rách từ bẹn đến quá đầu gối máu nạn nhân chảy xối xả. Sau khi tấn công vụ thứ nhất, con lợn rừng tiếp tục tấn công một số hộ dân khác, làm một phụ nữ 60 tuổi ở cùng xóm bị thương nặng phải nhập viện cấp cứu, lúc đó nạn nhân đang đi tiểu thì bất ngờ bị con lợn tấn công, nó cứ húc, ngoạm vào hai đùi, chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi ngất lịm phải khâu 18 mũi vì vết thương quá sâu. Nguyên nhân do con lợn bị người dân dồn ép, đuổi bắt từ mấy ngày qua nên nó bức bí và trở nên hung hãn, hễ gặp người là tấn công.
Động vật tấn công
Động vật tấn công hay đôi khi còn được gọi là thú dữ tấn công chỉ về các vụ tấn công của động vật lên con người. Các cuộc tấn công động vật là một nguyên nhân phổ biến của tử vong và thương tích. Tần số các cuộc tấn công động vật thay đổi theo vị trí địa lý và thời kỳ lịch sử. Các trường hợp của các cuộc tấn công có thể được quy cho các động vật bị giam giữ hoặc mắc kẹt trước khi một cuộc tấn công. Bị thương nặng và tử vong có nhiều khả năng sẽ được phát sinh bởi trẻ sơ sinh, trẻ em và những người có khả năng hạn chế để bảo vệ mình chống lại một con vật. Các cuộc tấn công trên động vật đã được xác định là một vấn đề y tế công cộng. Năm 1997 người ta ước tính rằng có đến 2 triệu súc vật cắn xảy ra mỗi năm ở Hoa Kỳ. Chấn thương gây ra bởi các cuộc tấn công động vật dẫn đến hàng ngàn trường hợp tử vong trên toàn thế giới mỗi năm. Tất cả các nguyên nhân tử vong được báo cáo cho Trung tâm kiểm soát dịch bệnh mỗi năm.
Sách Thánh và Giáo Hội không chỉ nói một cách trừu tượng và lý thuyết về lòng thương xót của Thiên Chúa; thần học của Sách Thánh cũng như thần học của các giáo phụ, là nền thần học bằng hình ảnh. Nơi con người của Đức Maria, các nền thần học này trình bầy với ta một hình ảnh cụ thể, đúng ra, một hình ảnh phản chiếu lòng thương xót của Thiên Chúa và là một nguyên mẫu cho lòng thương xót nhân bản và Kitô Giáo. Đức Maria là một loại hình (type) của Giáo Hội và, do đó, cũng là loại hình của lòng thương xót Kitô Giáo. Xác tín này bén rễ sâu xa vào ý thức tôn giáo của Giáo Hội từ những thế kỷ đầu tiên cho tới tận thời nay trong hai truyền thống Công Giáo và Chính Thống Giáo. Càng ngày, xác tín này càng nhận được thêm chỗ đứng lớn hơn trong ý thức và trái tim của nhiều Kitô hữu Tin Lành. Tất nhiên, người ta có thể và chắc chắn phải phê phán khá nhiều mưu toan nhằm cường điệu hóa vị thế của Đức Maria, một vị thế cần được lượng giá bằng cách lấy chứng từ của Sách Thánh về Chúa Giêsu Kitô làm tiêu chuẩn: Người là nền tảng một lần mãi mãi và là tâm điểm vĩnh cửu của đức tin Kitô giáo. Tuy nhiên, người ta cũng phải tra vấn chủ nghĩa tối thiểu (minimalism) về Đức Mẹ. Chủ nghĩa này chuyên nhỏ mọn, ngạo mạn và thiển cận gạt qua một bên các chứng cớ của rất nhiều Kitô hữu thuộc mọi thế kỷ, trong những lúc khó khăn bên trong lẫn bên ngoài, đã kêu cầu Mẹ Thiên Chúa như Mẹ của lòng thương xót và đã cảm nhận được sự phù giúp và an ủi của ngài; nó coi những điều này chỉ là các cảm xúc đạo đức dạt dào, do một lòng tôn kính Thánh Mẫu vượt quá giới hạn. Dù sao, người ta phải thừa nhận điều này: Đức Maria quả có xuất hiện trong các Tin Mừng và, thực sự, chiếm một vị trí nổi bật. Có hai bản văn trong Tân Ước tạo nền vững chắc cho linh đạo Thánh Mẫu: cảnh truyền tin ở đầu Tin Mừng (Lc 1:26-38) và cảnh ở cuối cùng, trong đó, Đức Maria đứng dưới chân thập giá (Ga 19:26tt). Cảnh vừa rồi trong Tin Mừng Gioan nhắc ta trở lại với trình thuật về tiệc cưới ở Cana diễn ra ở đầu thừa tác vụ của Chúa Giêsu (Ga 2:1-12). Do đó, các cảnh liên hệ tới khuôn khổ Thánh Mẫu Học, dù có xét một cách hời hợt đi nữa, cũng đã dành cho Đức Maria một vị thế nổi bật trong lịch sử cứu rỗi. Khi làm thế, số ít dòng nói về Đức Maria trong Sách Thánh cũng đủ cho thấy rõ ngài có một vai trò quan trọng và một ý nghĩa độc đáo trong lịch sử Thiên Chúa xử sự với con người tử sinh chúng ta. Giống như toàn bộ khúc tiền sử học trước khi Chúa Giêsu xuất hiện công khai, cảnh truyền tin ở đầu Tin Mừng nói lên một số vấn đề có tính lịch sử và phê bình văn chương. Điều cần nói trong ngữ cảnh này đã được đề cập rồi. Điều rõ ràng là một ý nghĩa thần học quan trọng đã được tích lũy lên khúc tiền sử học này trong quá trình thai nghén ra tin mừng của Thánh Luca. Trong khúc tiền sử học này, mọi chủ đề quán xuyến quan trọng của tin mừng đều đã được khai phá khiến nó giống như một khúc nhạc dạo đầu. Do đó, trong Kinh Ngợi Khen, Đức Maria đã tóm lược toàn bộ lịch sử cứu độ và mô tả lịch sử này như một câu truyện về lòng thương xót của Thiên Chúa. “Lòng thương xót của Người… kéo dài hết đời này qua đời nọ” (Lc 1:50). Với việc chọn ngài và kêu gọi ngài trở thành Mẹ Đấng Cứu Chuộc, lịch sử này đã bước vào giai đoạn có tính quyết định dứt khoát và cuối cùng. Trong lòng thương xót vô biên của Người, đây là lúc Thiên Chúa đưa ra cố gắng cuối cùng, dứt khoát, và chung kết để cứu dân Người và cứu nhân loại. Đức Maria được chọn hợp tác vào công trình cứu chuộc vĩ đại này. Ngài rất “đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Điều này có nghĩa: tự ngài, ngài tuyệt đối không là gì cả, nhưng chỉ nhờ ơn thánh, ngài là mọi sự. Ngài chỉ là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38). Mọi vinh quang không thuộc về ngài, mà chỉ thuộc một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng mà không điều gì là bất khả đối với Người (Lc 1:37tt). Bởi thế, ngài cất lời ca: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-47,49). Ngài hoàn toàn là chiếc bình và là dụng cụ khiêm nhường của lòng Thiên Chúa thương xót. Martin Luther đã rất thông minh khi làm nổi bật điểm này trong bài giải thích Kinh Ngợi Khen. Đối với ông, Đức Maria không là gì khác hơn là nguyên mẫu của sola gratia, “nhờ ơn thánh mà thôi”. Vì Đức Maria chỉ hiện hữu nhờ ơn thánh mà thôi, nên ngài cũng sống “nhờ ơn thánh mà thôi”. Ngài là một dụng cụ của lòng Thiên Chúa thương xót qua lời “xin vâng” đầy trung thành mà ngài đưa ra để trả lời sứ điệp không tài nào hiểu nổi của Thiên Thần, một sứ điệp thoạt đầu gây ngạc nhiên và áp đảo ngài. Với lời “xin vâng” của ngài, Đức Maria tự định nghĩa ngài là nữ tỳ, xét theo yếu tính, là nô bộc (δουλος) của Chúa. Với chữ này, ngài nói lên cả sự sẵn sàng có đó một cách toàn diện, hoàn toàn thụ động cũng như sự sẵn sàng tích cực hợp tác vào công trình cứu độ. Ngài dành cho Chúa nơi để thực hiện phép lạ của Người. Ngay chữ “xin vâng” đối với điều con người không có khả năng tưởng tượng này, ngài cũng chỉ nói được trong tư cách một người đã được Thiên Chúa chúc phúc. Nhờ chữ “xin vâng” đầy vâng lời này, Đức Maria đã làm cho việc Thiên Chúa bước vào trần gian thành khả hữu. Nhờ thế, ngài trở thành Eva mới. Trong khi Eva thứ nhất đem đau đớn và đau khổ tới cho nhân loại vì sự bất tuân của bà, thì Đức Maria, nhờ đức vâng lời trung thành thay cho nhân loại của ngài, đã cởi bỏ được nút thắt bất tuân mà Eva đã trói. Nhờ thế, ngài đã trở nên mẹ của mọi người sống. Nhờ lời xin vâng đầy vâng phục của ngài, Đức Maria đã trở thành nữ tỳ được Thiên Chúa chọn và chúc phúc để làm đầy tớ của lòng thương xót của Người. Thực vậy, sự kiện theo đó, vì công trình thương xót mà chỉ có Người mới làm cho khả hữu, Người đã chọn và nhân từ làm cho ngài, một hữu thể nhân bản và là một phụ nữ đơn sơ, có khả năng trở thành dụng cụ của lòng thương xót của Người, nguyên sự kiện này đã đủ nói lên việc lòng Chúa thương xót vuợt xa mọi mong ước và đòi hỏi của con người. Trong việc nhân từ chọn Đức Maria và trong lời “xin vâng” đầy trung thành của ngài, một lời đã khai quang ra một chỗ để Thiên Chúa bước vào thế gian và làm ngài trở thành người cưu mang Chúa Kitô, hòm bia của giao ước mới cũng như đền thờ của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã trở thành thực tại trong Đức Maria. Ngài tóm lược trong ngài lịch sử dân Cựu Ước của Thiên Chúa và, cùng một lúc, ngài là tế bào nguyên khởi của dân Tân Ước của Thiên Chúa. Ngài là thế trước khi các tông đồ được kêu gọi và bước vào kế hoạch. Ngài, đại biểu của những con người bé mọn và không tiếng nói trong lãnh thổ, “người đàn bà của nhân dân” như ngài vốn được gọi trong bài thánh ca của Giáo Hội, ngài là Giáo Hội vì lòng thương xót tinh tuyền của Thiên Chúa, ngay trước khi đặt nền cho điều sau đó trở thành Giáo Hội có cơ cấu phẩm trật. Ngay trước việc đó, ngài đã tượng trưng cho Giáo Hội ngay trong chính bản ngã thâm sâu nhất của ngài, trong tư cách một người sống hoàn toàn nhờ ơn thương xót của Thiên Chúa và là người được chọn làm dụng cụ sẵn sàng được sử dụng của Người. Dưới góc độ địa vị ưu thế của Đức Maria, sẽ là một sự đánh lừa có tính ý thức hệ khi nói rằng Giáo Hội do nam giới thống trị đã tạo ra hình ảnh người đàn bà bị áp chế. Ngược lại mới đúng. Thánh Mẫu Học là lời phê bình triệt để nhất xưa nay về phương diện thần học đối với hình ảnh coi Giáo Hội hoàn toàn là của nam giới. Đức Maria cũng phải theo con đường của người hành hương đức tin. Trong đời ngài, như Tin Mừng đã tường trình, không hề có những điều lạ thường mà các tin mừng ngụy thư và các dã sử đạo hạnh muốn tô vẽ. Ngược hẳn lại, Đức Maria, người đàn bà của nhân dân, đã phải gánh chịu và sống thoát nhiều khó khăn và gian khổ: sinh con trong một chỗ trú ẩn cấp cứu; trốn qua Ai Cập; đi tìm con; bối rối về cuộc sống công khai của con trai, Người mà ngài muốn giữ ở nhà với gia đình; và cuối cùng, can đảm chịu đựng dưới chân thập giá của con trai. Ngài không hề được tha bất cứ điều gì. Đức Maria chịu đựng cả đêm đen nhất của thập giá với con trai mình. Ngài đã không tránh né nó cũng không trốn chạy nó. Cuối cùng, theo rất nhiều trình bầy nghệ thuật kiểu Pietà, ngài ôm thân xác tả tơi của đứa con trai đã chết vào lòng, một trải nghiệm đau buồn sầu não hơn hết có thể giáng xuống một bà mẹ. Bởi thế, trong Kinh Ngợi Khen, Đức Maria không chỉ dự ứng phúc thật của người nghèo, người sầu khổ và người bị bách hại của Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:2-12; Lc 6:20-26); chính ngài cũng đã trải qua các cảm nghiệm này. Cuối Tin Mừng thứ tư, chiếc vòng đã đóng lại. Đức Maria, người đứng ở khởi đầu câu truyện cứu rỗi của Tân Ước, nay đảm nhiệm một vị trí quan trọng ở đỉnh điểm của nó. Vì từ thập giá, Chúa Giêsu trao phó Đức Maria cho Gioan làm mẹ của ông, và ngược lại, đã trao phó môn đệ Gioan của mình cho Đức Maria làm con của ngài (Ga 19:26tt). Một lần nữa, cảnh này mang đầy ý nghĩa. Thánh Gioan là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến (Ga 19:26); trong Tin Mừng thứ tư, ngài đóng vai nguyên mẫu người môn đệ của Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa, nơi thánh Gioan, Chúa Giêsu trao phó mọi môn đệ của Người cho Đức Maria làm con và, ngược lại, Người trao phó Đức Maria cho mọi môn đệ của Người làm mẹ. Ta có thể hiểu những lời lẽ này của Chúa Giêsu như di chúc và giao ước cuối cùng của Người. Khi làm như thế, Chúa Giêsu đã nói một điều được coi là dứt khoát và có tính trói buộc đối với tương lai Giáo Hội. Tốt hơn, ta nên đọc chính các lời lẽ trong Tin Mừng thứ tư. Tin Mừng này viết rằng từ lúc đó, Thánh Gioan đem Đức Mẹ về với mình. Nói chính xác hơn, ta phải dịch câu này như sau: ngài lấy Đức Mẹ “làm của chính ngài” (εἰς τὰ ἴδια). Thánh Augustin đã suy nghĩ rất lung về ý nghĩa của cụm từ “làm của chính ngài” này. Theo ngài, nó không có nghĩa Thánh Gioan lấy Đức Mẹ “làm của sở hữu của ngài”; đúng hơn, nó có nghĩa: “ngài đem Đức Mẹ vào hoạt động của ngài”. Vì người ta cho rằng Thánh Gioan là môn đệ sẽ còn hiện hữu cho tới khi Chúa Kitô tái lâm (Ga 21:22), nên Đức Maria, do đó, cũng được gia nhập vào sự “còn hiện hữu” của Thánh Gioan và vào sự tồn tại của chứng từ ngài. Cho nên, Đức Maria vĩnh viễn thuộc về tin mừng lòng thương xót của Thiên Chúa; ngài vĩnh viễn là chứng nhân và dụng cụ của lòng Chúa thương xót. Một số rất hiếm các lời phát biểu trong Sách Thánh về Đức Maria, nhưng là những lời phát biểu rất có giá trị, đã nhập sâu vào tâm khảm các tín hữu mọi thời và tìm đựợc nhiều vang dội sâu sắc trong nền linh đạo Kitô Giáo của mọi thế kỷ. Chính Đức Maria đã tiên đoán về ngài rằng “từ nay, muôn thế hệ sẽ khen tôi là người có phúc” (Lc 1:48). Một truyền thống sống động và phong phú tiếp diễn tới tận ngày nay đã được khai triển từ các chứng từ này của Tân Ước. Nguồn tin cậy quan trọng nhất của tín điều truyền thống đầy sống động này là Công Đồng Epheso (năm 431), tức công đồng đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (θεοτόκος, theotokos). Khi tuyên xưng như thế, điều quan trọng cần ghi nhớ là cuộc đấu tranh liên quan tới tước hiệu này, một cuộc đấu tranh chủ yếu diễn ra giữa Nestorius và Thánh Cyrillus thành Alexandria, là một cuộc tranh luận không phải Thánh Mẫu học mà là Kitô học. Nó xử lý vấn đề Chúa Giêsu có là Con Thiên Chúa trên thực tế và trong ngôi vị (hypostasis) của Người hay không.
Thần học về Maria trong Giáo hội Luther
Thần học Marian trong Lutheran có nguồn gốc từ quan điểm của Martin Luther coi Chúa Giêsu là con của Mẹ Maria. Nó được phát triển ra khỏi lòng sùng kính Đức Maria trong Kitô giáo mà ông được nuôi dưỡng. Nhìn chung Luther vẫn coi trọng Đức Maria. Các giáo điều mà Luther khẳng định và cho là được thiết lập vững chắc dựa trên nền tảng Kinh Thánh là vai trò Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, tính chất trọn đời đồng trinh và thụ thai vô nhiễm. Ông cho rằng Chúa Kitô là đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người (1Tm 2:5). Do đó, bất cứ lời ca tụng hay lòng tôn sùng nào đối với Đức Mẹ cũng như đối với các thánh đều phải được coi là việc nhìn nhận các công trình vĩ đại của Thiên Chúa thực hiện nơi các ngài và cho các ngài. Đức Maria như chỉ đơn thuần tiếp nhận tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa. Chính vì vậy Luther không coi Đức Maria là Đấng Trung Gian của lời cầu nguyện hay bà Maria cũng không tham gia vào công cuộc cứu độ của chúa Giêsu với vai trò Đồng công cứu chuộc như Công giáo Rôma tuyên bố.
University of Birmingham được mệnh danh là ngôi trường lâu đời nhất ở nước Anh. Đến với xử sở sương mù du học là quyết định sáng suốt. Ở đó bạn không chỉ được sống tại nơi trung tâm công nghiệp thế giới mà còn được trải nghiệm hệ thống giáo dục vô cùng đa dạng đặc sắc, phát triển hàng đầu. Cùng nhau tìm hiểu về University of Birmingham với những nét độc đáo. Với bề dày lịch sử lâu đời, Đại học Birmingham dẫn đầu trong việc nghiên cứu và giáo dục trong các ngành cấu gen, y học, nghiên cứu không gian và liên lạc. Là trường công lập được thành lập năm 1990. Với địa điểm thuận lợi tới điểm đến quốc tế và những địa điểm lịch sử như Stratford-upon-Avon của Shakespeare và Oxford…. University of Birmingham là một 06 ngôi trường ra đời tại những thành phố công nghiệp thời Victoria. Đây cũng là một trong những trường đại học có cộng đồng sinh viên quốc tế lớn nhất nước Anh. -Top 1% các trường đại học hàng đầu thế giới và đứng thứ 15 tại Anh Quốc (theo Times and Sunday Timess Good Univeristy Guide 2018). -Trường có thế mạnh ở nhiều chuyên ngành: Kỹ thuật hóa (xếp thứ 2), Khoa học thể thao (xếp thứ 3), Giáo dục (xếp thứ 5), Tâm lý học (xếp thứ 7) và Kế toán và Tài chính (xếp thứ 15). -Trường được trao giải thưởng the Queen’s Anniversary Prize for Higher Education cho những đóng góp làm đường sắt trên khắp thế giới an toàn và hiệu quả hơn (Năm 2017). Hiện nay, Đại học Birmingham có gần 30,000 sinh viên đang theo học, trong đó 5,000 là sinh viên quốc tế tới từ gần 150 quốc gia. Cơ sở chính của University of Birmingham nằm tại Edgbaston – nơi có khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, thoáng mát. Thư viện của trường Birmingham có chứa hơn 2,7 triệu đầu sách và 3 triệu tài liệu lưu trữ và nhiều tài liệu học tập khác. Du học sinh được đảm bảo về chỗ ở trong năm đầu. Cơ sở vật chất ở kí túc xác được trang bị hiện đại. ác bữa ăn sáng và tối được chuẩn bị bởi nhân viên của ký túc xá. Các căn hộ tự phục vụ bao gồm 05 hoặc nhiều hơn các phòng ngủ – phòng học cá nhân với các phòng tắm và bếp chung. Ngoài ra cũng có khá nhiều các nhà ở tư nhân cho thuê gần trường và Văn Phòng Dịch Vụ Nhà Ở cũng sẽ hỗ trợ bạn trong việc lựa chọn nơi ở. Chất lượng đào tạo cung cấp đa dạng khóa đào tạo. Trường có chương trình dự bị đại học, dự bị sau đại học để giúp sinh viên quốc tế hoàn thiện, hoàn chỉnh kiến thức của mình và bắt nhịp tốt với kiến thức và phương pháp học tập tại Anh. University of Birmingham là trường Đại học đào tạo chuyên ngành tài chính ngân hàng đầu tiên tại Vương quốc Anh. Dịch vụ này được cung cấp bởi một đội ngũ tư vấn viên được đào tạo chuyên nghiệp, hỗ trợ sinh viên với bất kỳ khó khăn gì. Dịch Vụ Tư Vấn Sinh Viên Quốc Tế cũng có những nhà cố vấn sẵn sàng hỗ trợ cho sinh viên quốc tế với những câu hỏi về thủ tục nhập cảnh, công việc tại Vương quốc Anh, y tế, tài chính và hỗ trợ cá nhân và học thuật. Tất cả những dịch vụ này đều hoàn toàn miễn phí. Chương trình Dự bị đại học: Hoàn thành lớp 11 với GPA: 7.5 hoặc lớp 12 với GPA: 7.0 trở lên, IELTS UKVI: 5.5 (không band nào dưới 5.0
Đại học Birmingham
Đại học Birmingham là một trường đại học nghiên cứu công lập nằm ở Edgbaston, Birmingham, Vương quốc Anh. Nó đã nhận được hiến chương hoàng gia vào năm 1900 với tư cách là người kế thừa của Queen s College, Birmingham (thành lập năm 1825 với tư cách là Trường Y khoa và Phẫu thuật Birmingham) và Đại học Khoa học Mason (được thành lập năm 1875 bởi Sir Josiah Mason), biến nó thành công dân Anh đầu tiên hoặc gạch đỏ đại học để nhận điều lệ hoàng gia của riêng mình. Đây là thành viên sáng lập của cả Tập đoàn nghiên cứu Russell của Anh và mạng lưới các trường đại học nghiên cứu quốc tế, Đại học 21. Tổng số sinh viên bao gồm 22,940 sinh viên đại học và 12,505 sinh viên sau đại học, lớn thứ tư ở Anh (trong số 169). Thu nhập hàng năm của tổ chức cho năm 2017 1818 là £ 673,8 triệu trong đó £ 134,2 triệu là từ các khoản tài trợ và hợp đồng nghiên cứu, với chi phí là 663,2 triệu bảng. Trường đại học là nơi đặt trụ sở của Viện mỹ thuật cắt tóc, các công trình nhà ở của Van Gogh, Picasso và Monet; Viện Shakespeare; Thư viện nghiên cứu Cadbury, nơi lưu giữ bộ sưu tập các bản thảo Trung Đông của Mingana; Bảo tàng Địa chất Lapworth; và Tháp đồng hồ tưởng niệm Joseph Chamberlain dài 100 mét, là một địa điểm nổi bật có thể nhìn thấy từ nhiều nơi trong thành phố.
380-415, do Rose Connolly thực hiện, tháng Ba, 1977 (đã được Bành Thuật Chi trả lời rồi nhuận sắc trước khi đăng trên Intercontinental Press vào tháng Mười, 1977) chúng tôi dịch ra 28 câu đối đáp sau đây, là một bài hiếm có. Nội dung gồm những phân tích bề trái của những biến cố lớn trong lịch sử Trung Quốc cận đại, và chỉ ra được sức mạnh của sự sùng bái lãnh tụ – vũ khí chính của Mao Trạch Đông – điều khó ngờ tới. Trong chính trị, đặc biệt là chính trị kiểu Stalin, sự sùng bái lãnh tụ chỉ để đặt quyền lực cá nhân lên trên cùng, rồi che giấu sự thật, đã tiêu diệt cả thù lẫn bạn, cả Tả lẫn Hữu… đưa đến kết quả đã tốn hao bao xương máu, uổng phí cả một cuộc cách mạng tranh đấu cho Dân chủ. Bành Thuật Chi (1896-1983) đồng thế hệ, hoạt động cách mạng đồng thời với Mao Trạch Đông, là lý thuyết gia của 1 trong 4 nhóm Trotskyist Trung Quốc, từng vào tù (1932-37) tại Giang Tô với Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là Trần Độc Tú, vì bị Quốc Dân Đảng bắt được. Bành Thuật Chi trả lời những câu hỏi về cuộc đời chính trị Mao Trạch Đông – người từng được coi là nhà lãnh tụ vĩ đại trong phong trào Cộng sản. Nhưng, nói về Mao trạch Đông, dù đã có rất nhiều xưng tụng đủ cách đủ kiểu về sự vĩ đại của Mao, thì phải chăng, đối với lịch sử, cứ hễ được xưng tụng là lãnh tụ vĩ đại… thì hẳn không thể sai lầm?. Nếu lãnh tụ không sai lầm bao giờ (lúc nào cũng tài tình), trước sau cũng sẽ “bổ túc” cho những “thiếu hụt” của Chủ nghĩa Mác-Lê, nên phải cộng với tư tưởng của mình, để khi thực hiện “Chủ nghĩa Mác-Lê trong một xứ”, thành ra cái riêng biệt chỉ địa phương mình có: Như “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông” tại Trung Quốc… chẳng hạn. Nhưng ở Trung Quốc, khi thêm tư tưởng Mao, thì chủ nghĩa Mác-Lê lại trở thành cái bóng mờ, hoặc làm bung xung, vì sẽ thành “chủ nghĩa xã hội trong một xứ” – như Mao đã rập theo Stalin làm ở Liên Xô – rồi áp dụng tại Trung Quốc. Trong một nước như thế, sẽ tàn sát đối lập, sẽ đến tình trạng Nước độc Đảng, và Đảng độc Khối. Và đầy những xoắn vặn cùng trá mạo lịch sử. Duy trì những điều ấy, hậu quả sẽ dẫn đến quan niệm là, “Dân chủ từ trên xuống”. Nếu chỉ từ “Trên” mới ban được cho cái quyền cực kỳ quan trọng là Dân chủ, thì bất cứ gì khác, cũng chỉ xuất phát từ đường lối chính trị cuả cá nhân lãnh tụ, không quan điểm chính trị nào khác chen vào được. Khi sự sùng bái ”tư tưởng lãnh tụ” trở thành quốc sách, thì mọi sáng kiến phải bị tiêu diệt, giai cấp quan liêu tức khắc thành hình, Vô sản trở thành giai cấp ngu si. Nếu lãnh tụ qua đời, giới quan liêu ký sinh càng đồng loã trong sự sùng bái để củng cố quyền lực: Chế độ “Cách mạng” sẽ thành một chế độ độc đảng, sẽ tiếp tục có những quyết định độc đoán, vừa mị dân, vừa coi thường quyền sống của những người bên “Dưới” – là thành phần lam lũ thuộc giai cấp bị trị. Điều như thế, đã tạo ra những trả giá khủng khiếp bằng bao nhiêu sinh mạng trong lịch sử Trung Quốc cận đại, mà bài phỏng vấn sau đây chứng minh về “tư tưởng Mao Trạch Đông”. Hỏi: Từ khi Mao chết ngày 9 tháng Chín vừa qua, chính trị gia khắp thế giới đều xưng tụng Mao là nhà lãnh tụ vĩ đại và ưa chuộng hoà bình. Ý ông thế nào về các nhận định trên?. Đáp: Để phân tích sự nghiệp của Mao, điều cần làm là vạch ra tư tưởng và hành động anh ta đã thể hiện trong suốt đời. Chúng ta phải “Gọi đúng tên sự việc”, như Trotsky từng nói. Mao gia nhập phong trào Cộng sản cuối 1920, có mặt trong hội nghị khởi thủy của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng Bảy 1921. Anh ta được cử đi làm Bí thư Hồ Nam. Trong 2 năm ở Hồ Nam, Mao là một lãnh tụ địa phương tích cực, có công trong sinh hoạt sinh viên và tổ chức phong trào công nhân. Tuy nhiên, anh ta phải chịu trách nhiệm trong việc thúc ép 2 đồng chí lãnh đạo, Ho Ming-fan và Lý Đạt đã phải ra Đảng. Điều đó chứng tỏ, anh ta đã chứa tính độc đoán và đầy thiên hướng quan liêu. Đáp: Khi Stalin, qua Quốc tế Cộng sản, ra lệnh cho Đảng Cộng sản Trung Quốc phải gia nhập Quốc dân Đảng vào đầu 1923, không những Mao tán thành chính sách cơ hội ấy, mà còn lý luận để bênh vực nữa. Trong một bài, chính Mao viết, nhan đề, “Cuộc đảo chính Bắc Kinh và giới nhà buôn”, Mao nhận định, “Vấn đề chính trị đương thời tại Trung Quốc nay không gì khác hơn là chuyện cách mạng quốc gia… Cuộc cách mạng là chuyện chung cả nước…Tuy nhiên, giới tư sản mại bản, mới là giới ý thức được sự thiệt thòi nghiệt ngã nhất.”. “Giới nhà buôn tại Thượng Hải đã nổi dậy, chung sức hành động. Chúng ta cũng mong là các nhà buôn ngoài Thượng Hải sẽ nổi dậy như thế… Các tổ chức thương nhân càng lớn rộng, ngày càng thêm thế lực, sẽ gia tăng khả năng hướng dẫn quần chúng cả nước, tiến nhanh tới thành quả cách mạng.”. Mao đem lý thuyết của Menxơvích ra thi hành! Và đã nỗ lực nhiều năm để ủng hộ đảng Tư sản, tức là, Quốc dân Đảng Trung Quốc. Mao được bầu vào ban Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Đại hội 3 vào tháng Sáu 1923, giữ chức Bí thư Tổ chức, nhưng lơ là công việc, chỉ tập trung vào công tác của Quốc dân Đảng ở Thượng Hải. Mùa thu 1924, Mao bỏ nhiệm vụ của Đảng Cộng sản, đi Hồ Nam để phát động phong trào khởi nghĩa nông dân, đưa đến thất bại. Rồi anh ta đi Quảng Đông, trở thành Bí thư Tuyên huấn của Quốc dân Đảng, dưới quyền Uông Tinh Vệ, và làm biên tập viên cho tờ Chính trị tuần báo. Qua các bài viết trong đó, Mao rất tán tụng chủ thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên. Tháng Ba 1926 dưới áp lực của nhiều cán bộ Đảng, Mao viết bài, “Phân tích về tính giai cấp tại Trung Quốc”, nội dung chỉnh lại thái độ thiên Hữu của mình. Anh ta nhận định, “Vô sản kỹ nghệ là lực lượng tiên phong của cách mạng”, nhưng giai cấp tư sản vẫn có Tả, có Hữu, nên “cánh Tả có thể thành bạn hữu chúng ta…”. “Vì thế”, anh ta kết luận, “chính sách hợp tác của Quốc dân Đảng – Cộng sản có thể duy trì mãi mãi.”. Ngay sau khi bài viết tung ra trên Nông dân Nguyệt san, đầu tháng Ba 1926, cánh Tả của Tư sản, do Tưởng Giới Thạch chỉ huy, phát động cuộc đảo chính 20 tháng Ba, trục xuất toàn thể cán bộ Cộng sản, kể cả Mao, ra khỏi các cơ quan lãnh đạo Quốc dân Đảng. Mao phải đi Thượng Hải, và được Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ định làm nhiệm vụ phát động phong trào Nông dân. Sau đó anh ta đi Hồ Nam để thu thập dữ kiện, rồi thảo “Bản tường trình về sự điều nghiên phong trào nông dân Hồ Nam.” Bản này được những người theo Mao (Mao-ít) coi là “tài liệu ưu mỹ” của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì, “đã hướng dẫn nông dân tranh đấu”. Vài học giả ngoại quốc, như Benjamin Schwartz, ca ngợi bài này là dấu mốc cho sự thăng tiến của Mao về sau. Bản báo cáo ấy không hề nhắc đến những giải pháp, như việc tổ chức lãnh đạo phong trào nông dân, việc trưng thu và tái phân phối ruộng đất, mà chỉ mô tả những hành động của nông dân, ngỏ ý bênh vực nông dân trước những sự bóc lột. Đề nghị độc nhất của Mao là, “Những nhà trách nhiệm làm cách mạng phải sửa chữa sai lầm trong phong trào nông dân,” mà “Những nhà có trách nhiệm làm cách mạng” lúc ấy, lại là Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ, và Đường Sinh Trí. Sau khi rời Hồ Nam, Mao đến Vũ Hán tham gia ban cải cách ruộng đất do Quốc dân Đảng chủ xướng. Anh ta cũng là thành viên trong “Hiệp hội Nông dân Lâm thời Toàn quốc”, nhưng không hề có đề nghị nào về việc cải cách ruộng đất cho Hiệp hội ấy, cũng như cho Đảng Cộng sản… bao giờ cả. Ngược lại, Mao chỉ chấp hành đường lối cơ hội chủ nghĩa của Stalin, trong khi tình hình tại Vũ Hán ngày càng tệ hại. Tại Liên bang Nga Xô, Trotsky đề nghị chính sách hợp tác Quốc dân Đảng – Cộng sản phải lập tức bãi bỏ, Đảng Cộng sản Trung Quốc phải lãnh đạo cuộc tranh đấu độc lập cho công nhân, nông dân, chiến binh, phải hướng dẫn họ thành lập những Xô viết, và phải chiếm quyền chỉ huy. Stalin chủ trương ngược lại, đưa đến chuyện “những nhà có trách nhiệm cách mạng” ở Vũ Hán, do Uông Tinh Vệ cầm đầu, đã “trục xuất hết thảy cán bộ Cộng sản ra khỏi Quốc dân Đảng, giải giới toàn thể các tổ chức quần chúng, kể cả Hiệp hội Lâm thời Nông dân toàn quốc”. Cho đến 15 tháng Bảy 1927, cuộc cách mạng Trung Quốc thứ Nhì (25-27) chìm trong thất bại. Đáp: Sau thất bại của cách mạng 1927, Stalin đổi chính sách, từ “Cơ hội chủ nghĩa cực độ” sang “Phiêu lưu chủ nghĩa cực Tả”, ra lệnh cho Đảng Cộng sản Trung Quốc phải phát động cuộc nổi dậy võ trang. Để chấp hành đường lối mới của Quốc Tế Ba, Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới quyền Cù Thu Bạch, triệu tập cuộc họp khẩn ngày 7 tháng Tám 1927. Buổi hội công bố Thư Ngỏ tới toàn thể đảng viên, để xóa các điều sai lầm từ những chỉ thị trước của Stalin, trút hết lên Trần Độc Tú. Mao hoàn toàn hưởng ứng những lí luận bịp bợm này. Cuộc hội chấp nhận giải pháp phát động “cuộc nổi dậy mùa gặt” ở Hồ Nam-Hồ Bắc. Mao được gửi tới Hồ Nam để lãnh đạo lực lượng nổi dậy, gồm 3,000 người, diễn ra ngày 8-17 tháng Chín 1927. Kết quả, là hàng trăm người chết và bị thương bởi lính tráng Quốc dân Đảng. Hoàn toàn thất bại, Mao tẩu thoát cùng một số đến Tỉnh Cương Sơn tháng Mười 1927. Mao và những người cùng nhóm bị cô lập hoàn toàn, trong khi đợi chỉ thị mới của Đảng. Thời gian này, có hai nhóm cướp địa phương nhập bọn. Các thủ lãnh cướp, Viên Văn Tài và Vương Tạc, cam kết sẽ chiến đấu với Mao. Tuy nhiên, khi Mao rời Tỉnh Cương Sơn, bọn cướp trở về sào huyệt, cướp bóc như cũ. Sau chúng bị nông dân giết sạch. Cùng lúc, là cuộc nổi dậy gồm 30,000 người tại Nam Xương, thủ phủ Quảng Tây, dưới sự lãnh đạo của Hạ Long, Diệp Đĩnh và Chu Đức, dưới quyền điều động của Cù Thu Bạch. Cuộc nổi dậy này cũng thất bại, làm Hạ, Diệp, Chu phải rút về Sán Đầu thuộc Quảng Đông. Tháng Chạp 1927, một cuộc nổi dậy của Đảng Cộng sản ở Quảng Đông cũng bị tận diệt, tổn thất 5 ngàn sinh mạng. Chính sách Stalin đòi nổi dậy võ trang tại Trung Quốc chứng tỏ bằng máu, là hoàn toàn phá sản. Đại hội Cộng sản Quốc tế Ba tại Moscow tháng Tám 1928, đã đặt vấn đề về chuyện này. Nhưng thay vì rút được kinh nghiệm học hỏi quá khứ, vẫn chỉ đưa ra biện pháp, là phải tiếp tục con đường vũ trang nổi dậy:. “…tại thời điểm này, Đảng phải tuyên truyền mọi nơi mọi chốn cho quần chúng biết khái niệm về Xô viết, khái niệm về chuyên chính “Vô sản và Nông dân”, cùng sự không tránh khỏi việc phải vũ trang nổi dậy… Phải bền bỉ không khoan nhượng, bám sát cuộc cách mạng quần chúng võ trang, tiến tới việc nắm chính quyền. Tổ chức các Xô viết phải trở thành những bộ phận chính cho cuộc nổi dậy…”. “Tại Trung Quốc, sự lớn mạnh tương lai của cách mạng sẽ đặt trước Đảng, như một nhiệm vụ để sửa soạn chuyện tiến tới cuộc nổi dậy như một con đường duy nhất, hầu hoàn tất cuộc cách mạng Dân chủ Tư sản, rồi sẽ đánh đổ Quốc Dân Đảng.”. Giải pháp như trên chuyển tới cho Mao, tại Tỉnh Cương Sơn vào mùa thu 1928. Rồi Chu Đức đã đem quân từ Sán Đầu đến, phối hợp với quân của Bành Đức Hoài, thành đội quân nổi dậy cốt lõi để đương đầu với Quốc dân Đảng. Các cánh quân này, sau hợp nhất thành Hồng quân. Tân Hồng quân từ Sán Đầu thành hình vào chớm 1929, đã bành trướng lãnh thổ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Họ chiếm các quận phía nam Giang Tây, đông nam Hồ Nam, lập các Xô viết, tăng bồi quân số, thi hành cải cách ruộng đất tại những địa phương chiếm đóng. Tháng Chạp 1930, Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Đại hội Xô viết ở Giang Tây, lập Chính phủ Xô viết, trong đó Mao được bầu làm Chủ tịch. Chu Đức là Tổng Tư lệnh Hồng quân. Để đối phó với sự lớn mạnh của Hồng quân, Tưởng mở nhiều cuộc tấn công vào các vùng Xô viết năm 1931, Quốc dân Đảng đã tổn thất hàng ngàn binh lính, mất nhiều vũ khí vào tay Hồng quân. Tháng Tư 1933, Tưởng lại mở cuộc tấn công lần thứ tư vào Hồng quân.
Tư tưởng Mao Trạch Đông
Tư tưởng Mao Trạch Đông (Trung văn phồn thể: 毛澤東思想; Trung văn giản thể: 毛泽东思想; âm Hán Việt: Mao Trạch Đông tư tưởng) là kết quả của sự kết hợp lý luận cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin với thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc, là thành quả lý luận trọng đại nhất của quá trình Trung Quốc hoá chủ nghĩa Marx-Lenin . Tư tưởng Mao Trạch Đông là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin tại Trung Quốc, là nguyên tắc lý luận và sự tổng kết kinh nghiệm chính xác đã được thực tiễn chứng minh là thích hợp với cách mạng và kiến thiết Trung Quốc, là kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc . Lưu Thiếu Kỳ (劉少奇) là người đầu tiên đề xuất khái niệm "tư tưởng Mao Trạch Đông" . Sau khi trở thành nhân vật số hai trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ ngày càng cảm thấy đã đến lúc phải chỉnh lý một cách có hệ thống và toàn diện đường lối của Đảng, tổng kết thành kinh nghiệm đấu tranh và phương pháp tư tưởng. Lưu Thiếu Kỳ đã đặt cho bộ phương pháp này một cái tên thông tục dễ hiểu là "tư tưởng Mao Trạch Đông".
Liên hoan phim Cannes (tiếng Pháp: Festival de Cannes, tiếng Anh: Cannes Film Festival) là 1 trong số những liên hoan tiệc tùng phyên gồm uy tín duy nhất trái đất, được tổ chức triển khai trong tháng 5 thường niên tại thị trấn nghỉ non Cannes, phía phái nam nước Pháp. Năm 2019, LHPhường Cannes diễn ra từ ngày 14 mon 5 mang đến 25 mon 5. Liên hoan phim Cannes (LHP Cannes) đắm say số lượng Khủng các phương tiện truyền thông media tsi gia tin báo, là nơii tất cả sự hiện diện của đa số ngôi sao 5 cánh điện hình họa. Đây cũng chính là địa điểm gặp gỡ gỡ yêu mến của những bên cung ứng phlặng để trình làng hầu hết bộ phim mới nhất cùng nỗ lực bán những tập phim của mình cho những bên xây dừng phyên đến từ mọi vị trí bên trên trái đất.Bạn đang xem: Liên hoan phim cannes là gì. (i) LHP Cannes trước tiên dự kiến tổ chức triển khai từ ngày 1 mang đến ngày 30 tháng 9 năm 1939 tuy thế vày chiến tranh, phát minh về liên hoan tiệc tùng phyên ổn đã bị hoãn lại. Một năm sau khoản thời gian cuộc chiến tranh trái đất thứ 2 chấm dứt, LHPhường. Cannes được xác định tổ chức thứ nhất tự đôi mươi tháng 9 mang đến 5 tháng 10 năm 1946. Hiện nay ra mắt hồi tháng 5 hàng năm. (ii) Giải thưởng cao tay tốt nhất được trao sống LHP Cannes là Palme d’Or (giải Cành Cọ Vàng) đến phim Xuất sắc tuyệt nhất. Phyên ổn sẽ chiếm giải Cành Cọ Vàng ko được trao thêm giải khác của LHP Cannes. Giải thưởng đặc biệt quan trọng sản phẩm công nghệ hai là Gr& Prix (Trao Giải lớn). Các giải thưởng khác bao gồm có:. (iv) Bất kỳ đơn vị làm phyên ổn nghỉ ngơi quốc gia nào thì cũng có thể gửi phim tham gia Cannes miễn sao theo đúng điều lệ LHPhường. thường thì, một tập phim đầy đủ tiêu chuẩn chỉnh tsay mê gia lễ hội Cannes chỉ Khi nó được kết thúc trong khoảng 12 tháng trước tiệc tùng và chỉ còn được chiếu tại nước cung cấp cũng giống như chưa được tham mê gia một tiệc tùng phyên ổn nước ngoài làm sao khác. (v) LHP. Cannes kéo dãn 12 ngày với trên 50 phlặng được trình chiếu ( tính riêng biệt làm việc khuôn khổ phyên tnhãi nhép giải). Hàng loạt sự khiếu nại ra mắt liên tục hoặc song tuy vậy trong veo 12 ngày với lễ trao giải chỉ vỏn vẹn 45 phút. (vi) LHPhường Cannes bao gồm sự kiện Chợ phyên ổn (Film Market), là khu vực nhằm những nhà có tác dụng phyên từ bỏ mọi địa điểm trên quả đât có ĐK tiếp xúc, thương lượng và hợp tác và ký kết, đóng góp phần cửa hàng nền công nghiệp năng lượng điện ảnh quả đât cách tân và phát triển. LHPhường Cannes reviews gần như tập phim sắp tới được trình chiếu (phần đông là phần nhiều phlặng không ai biết đến) cùng sản xuất ĐK cho cái đó tất cả cơ hội được thi công rộng rãi rộng.
Liên hoan phim Cannes
Liên hoan phim Cannes (tiếng Pháp: le Festival international du film de Cannes hay đơn giản le Festival de Cannes) là một trong những liên hoan phim có uy tín nhất thế giới, được tổ chức lần đầu từ 20 tháng 9 đến 5 tháng 10 năm 1946 tại thành phố nghỉ mát Cannes, nằm phía nam Pháp. Từ đó, liên hoan phim được tổ chức hàng năm trong tháng 5 với một số ngoại lệ. Thu hút số lượng lớn các phương tiện truyền thông tham gia đưa tin, Liên hoan không mở cửa cho công chúng, có sự hiện diện của nhiều ngôi sao điện ảnh và là nơi gặp gỡ ưa thích của các nhà sản xuất phim để trình làng những bộ phim mới nhất và cố gắng bán xuất phẩm của họ cho các nhà phân phối đến từ khắp nơi trên thế giới. Giải thưởng uy tín nhất được trao ở Cannes là Palme d Or (giải Cành Cọ Vàng) cho phim Xuất sắc nhất; giải thưởng này thỉnh thoảng cũng được trao đồng thời cho nhiều phim trong một năm. Tuy nhiên ban giám khảo của Liên hoan, gồm một nhóm những chuyên gia điện ảnh quốc tế được chọn lựa, cũng trao tặng những giải thưởng khác, bao gồm "Giải thưởng lớn" (Grand Prix - giải thưởng quan trọng thứ hai).
Em đang nhập khẩu mặt vài mặt hàng từ 1 số nước. Theo thông tin em biết thì FTA sẽ ảnh hưởng đến thuế xuất nhập khẩu. Mọi người cho em hỏi FTA là gì? FTA hoạt động như thế nào? Và FTA có ảnh hưởng gì đến Việt Nam ạ?. Liên minh châu Âu và Việt Nam vào Chủ nhật (30 tháng 6) đã ký một thỏa thuận thương mại tự do (FTA) được chờ đợi từ lâu sẽ cắt giảm thuế đối với hầu hết tất cả hàng hóa, một thỏa thuận đẩy lùi làn sóng bảo hộ thương mại toàn cầu đang gia tăng và được Brussels ca ngợi là một cột mốc quan trọng của Brussels. FTA viết tắt của Free Trade Agreement – Hiệp định Thương mại tự do. Là một hiệp ước giữa hai hoặc nhiều quốc gia để giảm bớt rào cản đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Theo chính sách thương mại tự do, hàng hóa và dịch vụ có thể được mua và bán qua biên giới quốc tế với rất ít hoặc không có thuế quan, hạn ngạch, làm giảm rào cản trao đổi giữa các nước. Rào cản thương mại thường xuất hiện dưới hình thức thuế quan và hạn ngạch thương mại. Ví dụ thuế quan của Nhật Bản đối với thịt bò Úc, theo thỏa thuận mới sẽ được cắt giảm từ 38,5% xuống còn 19,5% trong 18 năm. Các FTA bao gồm các lĩnh vực như mua sắm của chính phủ, quyền sở hữu trí tuệ và chính sách cạnh tranh. Giảm các rào cản thương mại giúp các ngành công nghiệp tiếp cận thị trường mới, tăng khả năng tiếp cận và tăng lượng khách hàng. FTA mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về lý thuyết, cạnh tranh gia tăng có nghĩa là nhiều sản phẩm hơn và giá thấp hơn. Trong thế giới hiện đại, chính sách thương mại tự do được thực hiện dựa trên một thỏa thuận chính thức và hỗ trợ các quốc gia liên quan. Các chính phủ có chính sách hoặc thỏa thuận thương mại tự do không nhất thiết phải từ bỏ mọi kiểm soát nhập khẩu và xuất khẩu hoặc loại bỏ tất cả các chính sách bảo hộ. Trong thương mại quốc tế hiện đại, rất ít hiệp định thương mại tự do (FTA) dẫn đến thương mại hoàn toàn tự do. Ví dụ, một quốc gia có thể cho phép buôn bán tự do với một quốc gia khác, ngoại trừ việc cấm nhập khẩu các loại thuốc cụ thể không được cơ quan quản lý hoặc các động vật chưa được tiêm phòng hoặc thực phẩm chế biến không đáp ứng tiêu chuẩn. Về nguyên tắc, thương mại tự do (FTA) ở cấp độ quốc tế không khác gì thương mại giữa các nước láng giềng. Tuy nhiên, nó cho phép các doanh nghiệp ở mỗi quốc gia tập trung vào sản xuất và bán hàng hóa sử dụng tốt nhất nguồn lực của họ và các doanh nghiệp khác có thể nhập khẩu hàng hóa khan hiếm hoặc không có sẵn trong nước. Sự pha trộn giữa sản xuất trong nước và ngoại thương giúp nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Hiệp định này ra đời khi một quốc gia áp đặt các hạn chế thương mại và không có quốc gia nào khác đáp lại. Một quốc gia cũng có thể đơn phương nới lỏng các hạn chế thương mại, nhưng điều đó hiếm khi xảy ra. Nó sẽ đặt đất nước vào thế bất lợi trong cạnh tranh. Hoa Kỳ và các nước phát triển khác chỉ làm điều này như một loại viện trợ nước ngoài. Họ muốn giúp các thị trường mới củng cố các ngành công nghiệp. Nó giúp nền kinh tế của thị trường mới phát triển, tạo ra thị trường mới cho các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại song phương là giữa hai quốc gia. Cả hai nước đồng ý nới lỏng các hạn chế thương mại để mở rộng cơ hội kinh doanh giữa họ. Bằng cách họ hạ thuế quan. Điểm gắn bó thường tập trung xung quanh các ngành công nghiệp trong nước được bảo vệ hoặc được chính phủ trợ cấp. Đối với hầu hết các quốc gia, tập trung vào các ngành công nghiệp sản xuất ô tô, dầu hoặc thực phẩm. Hoa Kỳ có 14 hiệp định song phương. Chính quyền Obama đang đàm phán hiệp định song phương lớn nhất thế giới. Các hiệp định thương mại đa phương khó khăn nhất trong việc đàm phán. Cần ba quốc gia trở lên. Số lượng người tham gia càng nhiều, các cuộc đàm phán càng khó khăn. Phức tạp hơn các hiệp định song phương. Mỗi quốc gia có nhu cầu và yêu cầu riêng. Hiệp định đa phương lớn nhất là Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ. Một trong những nhược điểm của FTA là khả năng các nền kinh tế hùng mạnh tạo một số bất lợi lên các nền kinh tế nhỏ hơn và lên các nước đang phát triển. Thông thường, nền kinh tế nhỏ hơn nhượng bộ nhiều hơn là nhận lại lợi ích dài hạn, trong khi nền kinh tế lớn hơn giữ các hạn chế thương mại. Một số cáo buộc được đưa ra trước đây rằng FTA đã được ban hành cho các mục đích chính sách đối ngoại, thay vì lợi ích kinh tế song phương. Các nhà phê bình cũng cho rằng FTA không khuyến khích tự do hóa thương mại hiệu quả như các hiệp định đa phương. Hơn nữa, các nhà phê bình cho rằng các FTA chỉ đơn giản là thúc đẩy các khối thương mại lớn, cạnh tranh có thể tạo ra sự bất ổn kinh tế. Việc ký kết diễn ra trong bối cảnh bất ổn thương mại trên toàn thế giới, với chiến tranh thương mại Mỹ-Trung kéo dài và việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu tạo ra một “đám mây đen” cho sự tăng trưởng toàn cầu. Ủy viên thương mại EU, bà Cecilia Malmström, đã gọi thỏa thuận này là một cột mốc quan trọng và là bước tiến quan trọng để hợp tác tốt hơn với các nền kinh tế Đông Nam Á. Đây là thỏa thuận thương mại đầy tham vọng nhất mà EU đã ký kết với một quốc gia đang phát triển. Lợi ích của hiệp định thương mại tự do sẽ cho phép kinh tế của Việt Nam tiếp tục phát triển, chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm sản xuất công nghệ thấp và hàng hóa chính sang các hàng hóa công nghệ cao phức tạp hơn như điện tử, máy móc, phương tiện và thiết bị y tế. Điều này có thể được thực hiện theo hai cách – thứ nhất, thông qua các đối tác tìm nguồn cung ứng đa dạng hơn thông qua mạng lưới thương mại lớn hơn và nhập khẩu hàng hóa trung gian rẻ hơn từ các nước đối tác, điều này sẽ thúc đẩy khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai – thông qua quan hệ đối tác với các công ty nước ngoài có thể chuyển giao kiến thức và công nghệ để nhảy vào sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn. Một ví dụ về điều này là điện thoại VSmart được ra mắt gần đây do tập đoàn Vingroup của Việt Nam sản xuất. Các hoạt động kinh doanh và công nghệ giúp tăng năng suất lao động của Việt Nam và mở rộng năng lực xuất khẩu của đất nước. FTA đi kèm với một số nhược điểm. Các thỏa thuận như vậy có khả năng kích hoạt sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối thủ nước ngoài đối với các doanh nghiệp trong nước – đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm thịt và các sản phẩm từ sữa của EU, Úc và Canada. Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục cải cách – củng cố ngành ngân hàng, loại bỏ tham nhũng, tinh chỉnh cấu trúc pháp lý, thuế và cải thiện thuận lợi hóa thương mại.
Hiệp định Thương mại tự do EU-Canada
Hiệp định Thương mại tự do EU-Canada (CETA) là một thỏa thuận thương mại tự do đề xuất giữa Canada và Liên minh châu Âu. CETA đã được đàm phán từ năm 2009 và đã được ký kết trong tháng 8 năm 2014, Hiệp định này còn cần được sự hợp thức hóa của Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu và nó phải được phê chuẩn bởi Quốc hội Canada. Nếu được chấp thuận, Hiệp định này sẽ loại bỏ 98% thuế quan giữa hai bên. Nó cũng được coi là một trường hợp thử nghiệm cho Hiệp định thương mại tự do xuyên Đại Tây Dương (TTIP / TAFTA) và gây nhiều tranh cãi trong các phần, đặc biệt là việc bảo vệ các khoản đầu tư, mà sẽ cho phép các công ty, với tình trạng pháp lý thay đổi của các quốc gia, đòi bồi thiệt hại (giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia). Hiện vẫn chưa rõ liệu các quyết định của quốc hội quốc gia các nước thành viên EU là cần thiết. Theo quan điểm của Ủy ban châu Âu hiệp định thuộc thẩm quyền của EU và CETA do đó không cần phải được phê chuẩn bởi các nước thành viên.
Trong bài viết này chúng ta sẽ xem xét cơ chế thị trường thông qua việc khảo sát sự vận hành của một thị trường hàng hóa riêng biệt. Đây là một khuôn mẫu phân tích tổng quát có thể áp dụng cho các thị trường khác nhau, dù đó là thị trường lúa, gạo hay thị trường xe máy; thị trường đầu ra như thị trường quần, áo hay thị trường đầu vào như thị trường máy dệt; thị trường hàng hóa hữu hình như thị trường máy tính hay thị trường dịch vụ như thị trường cắt tóc. Dĩ nhiên, khi đề cập tới một thị trường chung, có ý nghĩa tổng quát, chúng ta sẽ xuất phát từ một loại thị trường đơn giản nhất: một thị trường có tính chất cạnh tranh, gồm nhiều người mua, người bán, không ai có khả năng chi phối giá cả hàng hóa. Chúng ta sẽ xem xét các yếu tố cơ bản của thị trường như cầu, cung thể hiện như thế nào, tương tác với nhau ra sao để xác định mức giá cân bằng, và những yếu tố gì sẽ làm cho mức giá này thay đổi. Hiểu được những điều này là nền tảng quan trọng để nắm bắt những vấn đề phức tạp khác của nền kinh tế thị trường.người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau. Thị trường là tập hợp các điều kiện và thỏa thuận mà thông qua đó người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau. Chức năng của thị trường là trao đổi hàng hóa. Sự trao đổi này chỉ diễn ra được trong những điều kiện cụ thể, thông qua những ràng buộc, hay dàn xếp cụ thể mà những người tham gia phải tuân thủ. Có những điều kiện chung ràng buộc mọi thị trường. Song cũng có những điều kiện riêng chỉ liên quan đến những nhóm thị trường cụ thể. Vì thế, ở một số thị trường, người ta vẫn trực tiếp gặp nhau để mua, bán hàng hóa. Song ở một số thị trường khác, sự mua bán hàng hóa chỉ diễn ra thông qua những người môi giới, hay trung gian (như ở thị trường chứng khoán, forex). Tại một số thị trường, người mua và người bán mặc cả với nhau về giá cả của từng loại hàng hóa, song ở một số thị trường khác, điều này lại không diễn ra. Như một tiến trình, dù thực hiện dưới phương thức nào, trên thị trường, người mua và người bán cũng luôn luôn tác động lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa được trao đổi. Qúa trình đó cũng là nội dung thực chất của thị trường. Thị trường hàng hóa tiêu dùng (thị trường đầu ra) : Các thị trường đầu ra lại có thể phân nhỏ thành vô số thị trường cụ thể như thị trường gạo, thị trường quần áo, thị trường ô tô, thị trường giáo dục. Thị trường các yếu tố sản xuất (thị trường đầu vào). Các thị trường đầu vào có thể phân thành thị trường vốn hiện vật (máy móc, thiết bị, nhà xưởng v.v…), thị trường bất động sản, thị trường lao động v.v…. Cầu là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà tiêu dùng mong muốn và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi (ceteris paribus). Lượng cầu: Là số lượng hàng hóa / dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại mỗi mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi. Nhu cầu: Là những nguyện vọng, mong ước vô hạn về hàng hóa / dịch vụ của con người. Sự khan hiếm làm cho hầu hết các nhu cầu không được thỏa mãn. Cầu cá nhân: Là số lượng hàng hóa / dịch vụ mà một cá nhân mong muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi. Cầu thị trường: Là tổng cầu cá nhân ở các mức giá. Khi cộng lượng cầu cá nhân ở mỗi mức giá, chúng ta có lượng cầu thị trường tại mỗi mức giá. – Với giả định các nhân tố khác không đổi, số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được cầu trong một khoảng thời gian nhất định sẽ tăng lên khi giá giảm và ngược lại, sẽ giảm khi giá tăng. Đó là một bảng số liệu gồm ít nhất 2 cột giá và lượng cầu, cho biết phản ứng của người tiêu dùng tại các mức giá khác nhau. Đường cầu là đường dốc xuống từ trái qua phải thể hiện mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa giá và lượng cầu. Khi phần thay đổi trong các mức giá là một hằng và phần thay đổi ở các mức lượng cầu cũng là một hằng số thì đường cầu sẽ là một đường tuyến tính như đồ thị. Tuy nhiên, trong thực tế thì hiện tượng này hiếm khi xảy ra và đường cầu thường có dạng phi tuyến tính. Giá hàng hoá dịch vụ ảnh hưởng đến lượng cầu theo luật cầu. Khi giá hàng hoá dịch vụ tăng lên, lượng cầu đối với hàng hoá dịch vụ giảm xuống và ngược lại. Có hai nhóm hàng hoá liên quan ảnh hưởng tới lượng cầu về hàng hoá đang được nghiên cứu là hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung. a) Hàng hoá thay thế: X và Y là hàng hoá thay thế khi việc sử dụng X có thể thay thế cho việc sử dụng Y nhưng vẫn giữ nguyên được mục đích sử dụng ban đầu. b) Hàng hoá bổ sung: X, Y là hàng hoá bổ sung khi việc sử dụng X phải đi kèm với việc sử dụng Y để đảm bảo giá trị sử dụng của hai hàng hoá. + Những hàng hoá mà khi thu nhập tăng, lượng cầu về hàng hoá tăng lên; khi thu nhập giảm, lượng cầu về hàng hoá giảm xuống được gọi là hàng hoá thông thường. + Những hàng hoá khi thu nhập tăng, lượng cầu về hàng hoá giảm xuống; khi thu nhập giảm xuống, lượng cầu về hàng hoá tăng lên được gọi là hàng hoá thứ cấp. – Theo quy luật Engel: với mỗi mức thu nhập khác nhau, người tiêu dùng sẽ có quan niệm khác nhau về cùng một loại hàng hoá. + Thị hiếu có thể thay đổi theo thời gian và chịu ảnh hưởng lớn của quảng cáo. Xác định đúng thị hiếu người tiêu dùng, nhà sản xuất sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của họ, kích thích người tiêu dùng cầu nhiều hơn về sản phẩm mà hãng sản xuất ra. Khi nhà sản xuất cung cấp tung ra sản phẩm đúng lúc thị hiếu về sản phẩm xuất hiện, tức là nhà cung cấp đáp ứng kịp thời thị hiếu của người tiêu dùng, thì lượng cầu về sản phẩm sẽ tăng cao. – Kỳ vọng là những dự đoán của người tiêu dùng về diễn biến của thị trường trong tương lai có ảnh hưởng đến cầu hiện tại. – Các loại kỳ vọng: kỳ vọng về giá hàng hoá, về thu nhập, về giá cả hàng hoá liên quan, về số lượng người mua hàng…. – Nếu các kỳ vọng thuận lợi đối với người tiêu dùng thì lượng cầu hiện tại sẽ giảm, đường cầu dịch chuyển sang trái và ngược lại. Số lượng người mua cho thấy quy mô của thị trường. Thị trường càng nhiều người tiêu dùng thì cầu đối với hàng hoá, dịch vụ càng lớn. Thị trường càng ít người tiêu dùng thì cầu về hàng hoá, dịch vụ càng nhỏ. Giá của hàng hóa hoặc dịch vụ đang nghiên cứu là nhân tố nội sinh. Khi giá thay đổi làm lượng cầu thay đổi tạo ra sự di chuyển (lên trên hoặc xuống dưới) của các điểm trên một đường cầu. – Thu nhập, thị hiếu, kỳ vọng, số lượng người tiêu dùng, giá cả hàng hoá liên quan là nhân tố ngoại sinh gây ra sự dịch chuyển của đường cầu. + Nếu sự thay đổi của các nhân tố này làm lượng cầu tăng lên ở các mức giá thì đường cầu sẽ dịch chuyển sang phải. + Nếu sự thay đổi của các nhân tố này làm lượng cầu giảm xuống ở các mức giá thì đường cầu dịch chuyển sang trái. Cung là số lượng hàng hóa / dịch vụ mà người bán có khả năng bán và sẵn sàng bán tại các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi (ceteris paribus). Lượng cung: lượng hàng hoá dịch vụ mà người bán có khả năng bán và sẵn sàng bán ở mỗi mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định, giả định các nhân tố khác không đổi. Cung cá nhân: lượng hàng hoá dịch vụ mà một cá nhân có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định, giả định các nhân tố khác không đổi. Cung thị trường bằng tổng cung cá nhân tại các mức giá, nó cho biết lượng hàng hoá dịch vụ mà tất cả những người bán trên thị trường có khả năng bán và sẵn sàng bán ở tất cả các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định, giả định các nhân tố khác không đổi. – Nội dung: lượng hàng hoá được cung trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá của hàng hoá đó tăng lên và ngược lại (giả định các nhân tố khác không đổi). – Như vậy, giá hàng hóa / dịch vụ và lượng cung có quan hệ thuận. Đường cung là đường đi lên từ trái qua phải thể hiện mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa giá và lượng cung. – Hàm cung là hàm số phản ánh mối quan hệ giữa lượng cung với các biến số có ảnh hưởng đến lượng cung. Giá hàng hoá dịch vụ ảnh hưởng đến lượng cung theo luật cung. Khi giá hàng hoá dịch vụ tăng, người sản xuất sẽ sản xuất nhiều hàng hoá hơn để tung ra thị trường nhằm thu lại nhiều lợi nhuận hơn và ngược lại. Giá của các yếu tố sản xuất tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và do đó ảnh hưởng đến lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn bán. Các chính sách của chính phủ như chính sách pháp luật, chính sách thuế và chính sách trợ cấp đều có tác động mạnh mẽ đến lượng cung. Khi chính sách của chính phủ mang lại sự thuận lợi cho người sản xuất, người sản xuất được khuyến khích sản xuất khiến lượng cung tăng và đường cung dịch chuyển sang phải và ngược lại. Công nghệ là yếu tố quan trọng trong sự thành bại của bất kỳ một DN nào. Công nghệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng hàng hoá sản xuất ra. Kỳ vọng là những dự đoán, dự báo của người sản xuất về những diễn biến thị trường trong tương lai ảnh hưởng đến cung hiện tại. Nếu các kỳ vọng thuận lợi đối với người bán thì lượng cung hiện tại sẽ giảm, đường cung dịch chuyển sang trái và ngược lại. Số lượng người bán có ảnh hưởng trực tiếp đến số hàng hoá bán ra trên thị trường. Khi có nhiều người bán, lượng cung hàng hoá tăng lên khiến đường cung hàng hoá dịch chuyển sang phải và ngược lại. – Giá hàng hoá dịch vụ là nhân tố nội sinh. Khi giá hàng hóa dịch vụ thay đổi sẽ gây ra sự di chuyển dọc theo đường cung (di chuyển lên trên hoặc xuống dưới). – Các nhân tố khác như giá các yếu tố đầu vào, chính sách của chính phủ, công nghệ, số lượng người sản xuất, các kỳ vong là các nhân tố ngoại sinh. Sự thay đổi của các nhân tố này sẽ gây ra sự dịch chuyển của đường cung (dịch chuyển sang trái hoặc sang phải). Cân bằng thị trường là trạng thái mà tại đó cung vừa đủ thoả mãn cầu, do đó mà không có sức ép làm thay đổi giá. Tại mức giá này, chúng ta có lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Khi đó, điểm giao nhau giữa đường cung và đường cầu là điểm cân bằng và lượng cung và lượng cầu tại mức giá này là lượng cân bằng. Nguyên lý cung – cầu, hay quy luật cung cầu, phát biểu rằng thông qua sự điều chỉnh của thị trường, một mức giá cân bằng (còn gọi là mức giá thị trường) và một lượng giao dịch hàng cân bằng sẽ được xác định. Mức giá và lượng hàng đó tương ứng với giao điểm của đường cung và đường cầu. Trạng thái cân bằng của một mặt hàng như thế gọi là cân bằng bộ phận. Khi đạt trạng thái cân bằng của cùng lúc tất cả các mặt hàng, kinh tế học gọi đó là cân bằng tổng thể hay cân bằng chung. Ở trạng thái cân bằng, sẽ không có dư cung (lượng cung lớn hơn lượng cầu) hay dư cầu (lượng cầu lớn hơn lượng cung). Nếu nhu cầu tăng (đường cầu thay đổi về bên phải) và nguồn cung vẫn không đổi, thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn. Nếu nhu cầu giảm (đường cầu dịch chuyển về bên trái) và nguồn cung vẫn không đổi, thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn. Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung tăng (đường cung dịch chuyển về bên phải), thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn. Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung giảm (đường cung dịch chuyển về bên trái), thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn.
Nguyên lý cung - cầu
Nguyên lý cung - cầu, hay quy luật cung cầu, phát biểu rằng thông qua sự điều chỉnh của thị trường, một mức giá cân bằng (còn gọi là mức giá thị trường) và một lượng giao dịch hàng cân bằng (lượng cung cấp bằng lượng nhu cầu) sẽ được xác định. Nhu cầu, trong kinh tế học thường được hiểu là nhu cầu tiêu dùng hay còn được gọi là sở thích tiêu dùng. Trong kinh tế học, nhu cầu nếu không có khả năng tài chính để đáp ứng sở thích tiêu dùng đó, thì không thể gọi tắt nhu cầu là cầu. Cầu là nhu cầu cộng với khả năng thanh toán cho nhu cầu đó; là sự cần thiết của một cá thể về một hàng hóa hay dịch vụ nào đó mà cá thể sẵn sàng có khả năng thanh toán cho hàng hóa hay dịch vụ đó. Khi cầu của toàn thể các cá thể đối với một mặt hàng trong một nền kinh tế gộp lại, ta có cầu thị trường. Khi cầu của toàn thể các cá thể đối với tất cả các mặt hàng gộp lại, ta có tổng cầu. Thực chất, cầu là một thuật ngữ dùng để diễn đạt thái độ của người mua và khả năng mua về một loại hàng hóa.
In lụa là một trong những kỹ thuật in được sử dụng phổ biển nhất hiện nay, có thể sử dụng để in quần áo, in giấy, in tranh ảnh, in thiệp cưới, in thùng, in áo mưa, in balo, in túi xách. Tên gọi của phương pháp in lụa này bắt nguồn từ kỹ thuật in bằng bản lưới làm bằng tơ lụa, ngày nay bản lưới được thay thế bằng nhiều vật liệu nhau như: vải bông, vải hóa học, sợi kim loại. và được gọi chung là phương pháp in lưới. Nếu như bạn đang thắc mắc in lụa là gì? kỹ thuật in lụa là như thế nào? Thì hãy cùng chúng tôi tìm hiểu ngay sau đây nhé. In lụa là phương pháp in dựa theo nguyên tắc thấm mực qua khung lưới. Khung lưới được làm bằng gỗ hoặc nhôm, được bọc lưới lỗ nhỏ một mặt, mực được gạt trên lưới bằng miến cao su, dưới áp lực của dao gạt chỉ một phần nhỏ mực được thấm qua lưới và in lên bề mặt vật liệu, để tăng thêm độ dày, tươi sáng của hình in, người ta in nhiều lớp mực chồng lên nhau. Ban đầu phương pháp in lụa được làm hoàn toàn bằng thủ công, sau này người ta áp dụng công nghệ, máy móc hiện đại vào trong in ấn, giúp tự động hóa và nâng cao chất lượng hình in rõ rệt. Kỹ thuật in lụa đã được sử dụng cách đây hơn 1000 năm trước, khi đó người ta sử dụng sợi tơ lụa kéo căng trên một khung gỗ, hình ảnh khuông được gắn dưới khung và sử dụng keo hồ để bịt kín những chổ không muốn mực thấm qua. Với cách làm khung này, người xưa đã có thể sao chép nhiều hình ảnh và in nhiều lần trên nhiều chất liệu khác nhau bằng cách phết mực xuyên qua các lỗ khuông không bít keo. Đến năm 1925, kỹ thuật in lụa được sử dụng phổ biến rộng rãi tại Châu Âu, sử dụng để lên vải, giấy, thủy tin, kim loại, gốm xứ. Hiện nay, phương pháp in lụa được áp dụng trên rất nhiều loại vật liệu khác nhau như: Vải, giấy, bọc nilon, thủy tin, kim loại, gỗ. Ngoài ra còn được sử dụng để in họa tiết trên gách men, đò gốm sứ. Dưới đây là quy trình in lụa thường thấy nhất hiện nay:. Bước 1: Chuẩn bị bản in: bản in được làm bằng gỗ hoặc nhôm, được bọc lưới một mặt phơi khô. Tiếp theo đó là phim dùng để chụp bản, keo chụp bản và bột bắt sáng. Bước 2: Chụp bản(chuyển hình ảnh cần in lên khung): Để chụp bản in, người ta tiến hành pha keo chụp bản với một ít bột bắt sáng, tiến hành phủ một lớp mỏng lên lưới in và sấy khô trong điều kiện ánh sáng yếu. Sau đó dáng tấm phim(giấy scan hoặc phim nhựa) dùng để chụp bản lên khung lưới và đặt lên bàn chụp có đèn sáng mạnh bên dưới trong 2-3 phút, sau đó xịt nhẹ qua vòi nước. Phần keo chụp bị ánh sáng mạnh chiếu vào sẽ cứng lại không bị tan, còn phần được che chắn bởi phim chụp bản sẽ mềm ra khi xịt bằng vòi nước nhẹ, giúp tạo phần rỗng trên bản in. Sau đó sấy khô bản là có thể sử dụng để in được. Bước 3: Pha mực: Mực in lụa thủ công, được thợ pha hoàn toàn bằng tay, chất liệu pha mực phải phù hợp với từng chất liệu được in. Bước 4: Canh tay kê và in lên sản phẩm: Sau khi đã có bản in và mực in rồi, người ta sẽ tiến hành canh tay kê để định vị khung in và tiến hành in lên sản phẩm. Độ đẹp và chuẩn xác của hình in phụ thuộc vào chất liệu mực in và kỹ thuật in của thợ in. Bước 5: Tẩy bản: Sau khi in xong, thợ in sẽ tiến hành rửa bản in sạch sẽ, để chuẩn bị cho lần in sau. Mặc dù phương pháp in lụa thủ công khá rườm rà và chỉ thích hợp để in số lượng lớn, thế nhưng vẫn được ưa chuộng bởi vì chất lượng hình in tốt, độ bền cao và giá thành rẻ hơn(in số lượng lớn) so với những phương pháp in khác như: In ép nhiệt, in decal, in kỹ thuật số. Kỹ thuật in lụa bằng chất liệu chướng dẻo sử dụng phổ biến để in trên chất liệu vải như: vải thun, jean, kaki. Tùy vào chất liệu vải khác nhau, người ta sẽ sử dụng chướng dẻo phù hợp. Cách pha màu in bằng chướng dẻo cũng rất đơn giản, sử dụng 95% chướng dẻo + 5% cốt màu(xanh, đỏ, tím vàng.) là có thể tạo ra hỗn hợp màu in, có thể pha thêm một ít phụ gia để tăng độ bám dính. Khi in bằng chướng dẻo, người ta sẽ in nhiều lớp(2-5 lớp) chồng lên nhau để tăng độ dài, độ sáng cho hình in. Cũng tương tự như cách in bằng chướng dẻo, người ta sử dụng dẻo đã pha sẵn phụ gia in nổi để in lên vải, sau gia nhiệt bằng máy ép nhiệt chuyên dụng trong 3-5 giây để hình in nổi lên(phồng lên) trên vải. Cũng giống như phương pháp in bằng chướng dẻo, người ta sử dụng keo in nhũ pha với nhũ(đồng, vàng, bạc, kim tuyến.) để tạo ra hỗn hợp màu in, sau đó in trực tiếp lên vải. Tùy vào độ mịn của nhũ, người ta sẽ sử dụng mắc lưới to nhỏ phù hợp. Phương pháp in mực dầu chủ yếu được áp dụng để in trên các vật liệu cao su như: áo mưa, bọc nylon, dép cao su. Mực in dầu được pha thêm một ít phụ gia và in trực tiếp lên vật liệu cần in. Plastisol là tên của loại mực cao cấp làm từ dầu mỏ(gốc dầu), chuyên sử dụng để in trên chất liệu vải và có độ bám dính cao hơn so với mực thông thường. Mực Plastisol cũng được in tương tự như phương pháp in dẻo, sử dụng chủ yếu để in áo đá banh hay quần áo thời trang. Mực in cao cũng được pha từ mực Plastisol với 30% keo HD để tạo ra độ dày cho hình in, tỉ lệ pha keo HD càng nhiều thì độ cao của hình in càng dễ thấy. Lưu ý, khung lụa in cao được chụp rất dày(khá tốn kém) để tạo độ dày cho hình in. Mực nước chủ yếu sử dụng để in trên giấy và một số chất liệu vải màu sáng. Mực nước in lụa có thể được pha sẵn hoặc tự pha, hỗn hợp gồm: Binder(chất cầm màu) + Chướng nước + mực in + Fixer(tăng bám nước). In mực nước cũng giống như in chướng dẻo, nhưng sử dụng lưới dày 120 trở lên, và chỉ cần in một lần là được. Lưu ý: Màu in sẽ nhạt đi 20% sau khi khô lại nhé. Trong quá trình in ấn thường sẽ gặp rất nhiều vấn đề phát sinh, đôi khi là do bất cẩn hay chưa có nhiều kinh nghiệm mà để xảy ra lỗi là hết sức bình thường. Vì vậy, đồng phục Song Phú xin chia sẻ cùng bạn một số lỗi thường gặp nhất khi in lụa và biện pháp khắc phục. Khi bạn in bất kỳ hình ảnh gì lên áo tối màu như: Đen, đỏ, xám, xanh đen,. Thì sau một thời gian ngắn(2-3 ngày) thì màu in bị ngã từ từ sáng màu vải và không giữa được màu sắc như ban đầu, đó chính là hiện tượng nhiễm màu trong in lụa. Nguyên nhân và cách xử lý: Là do chất lượng thuốc nhuộm vải kém , bị ra màu và nhiễm lên hình in. Các xử lý là kiểm tra vải có bị nhiễm không trước khi in, bằng cách thấm một miếng xăng thấm lên bông gòn rồi chùi lên vải, nếu bị nhiễm màu thì hình in trên vải sẽ bị nhiễm. Cách khắc phục là mua chất chống nhiễm về in lót 2 lớp phía dưới hình in, rồi mới in hình lên trên lớp lót. Cách này chống nhiễm rất tốt nhưng giá chất chống nhiễm khá cao nên tùy thuộc vào kinh nghiệm sẽ có các giải quyết hợp lý. Nguyên nhân là do lưới bị chùng và khi kéo mực quá mạnh sẽ làm lệt hình in hoặc lúc đặt kê tay in không sát nên bị lệt bảng in. Cách xử lý: Khi in nên canh tay kê cẩn thận, lúc gạt mực nên kéo lực vừa đủ và đều tay. Nguyên nhân: Là do mắt lưới nhỏ hơn hạt mực làm cho mực không thấm đều qua mặt dưới được, khiến cho bề mặt bị lưới bị bít lại. Lỗi này cũng có thể do mực bị khô do in lâu. Cách xử lý: Nên chọn loại mắt lưới to hơn một chút, tránh tình trạng để mực khô trên bảng in. Hiện tượng lột vỏ cam do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân sâu xa nhất là do mực khô không đúng cách, lớp mực mới không kết dính với lớp mực cũ. Cách xử lý: Hạn chế sử dụng quá nhiều chất phụ gia, sẽ làm mực giảm khả năng kết dính. Hy vọng với những thông tin chia sẻ trên đây của đồng phục Song Phú đã có thể giúp bạn dễ dàng hiểu được kỹ thuật in lụa là gì rồi phải không nào, nếu như bạn còn có thắc mắc gì về phương pháp in lụa này hay có nhu cầu đặt in áo đồng phục thì hãy liên hệ ngay với Song Phú nhé. Chúng tôi rất hân hạnh được hỗ trợ quý khách. ĐỒNG PHỤC SONG PHÚ là thương hiệu của công ty TNHH SX TM DV May Mặc Song Phú, cùng với thương hiệu ÁO THUN BLAK (aothunblak.vn) là công ty chuyên về sản xuất áo thun đồng phục công ty, áo thun đồng phục công nhân - văn phòng, áo lớp, áo nhóm, áo thun sự kiện, áo thun quảng cáo, áo thun quán. và áo cờ đỏ sao vàng và cả tạp dề nữa. Công ty chuyên sản xuất với các loại vải chính là vải cá sấu, vải cotton và vải thun lạnh, thun mè. Giờ làm việc:Thứ 2 đến thứ 6 từ 8h sáng đến 17h chiều, Thứ 7 làm buổi sáng.
In lụa
In lụa là một dạng trong kỹ thuật in ấn. In lụa là tên thông dụng do giới thợ đặt ra xuất phát từ lúc bản lưới của khuôn in làm bằng tơ lụa. Sau đó, khi mà bản lưới lụa có thể thay thế bởi các vật liệu khác như vải bông, vải sợi hóa học, lưới kim loại để làm thì tên gọi được mở rộng như là in lưới. In lụa thực hiện theo nguyên lý giống như in mực dầu trên giấy nến theo nguyên lý chỉ một phần mực in được thấm qua lưới in, in lên vật liệu in bởi trước đó, một số mắt lưới khác đã được bịt kín bởi hóa chất chuyên dùng. Kỹ thuật này có thể áp dụng cho nhiều vật liệu cần in như nilông, vải, thủy tinh, mặt đồng hồ, mạch điện tử, một số sản phẩm kim loại, gỗ, giấy. hoặc sử dụng thay cho phương pháp vẽ dưới men trong sản xuất gạch men. Kỹ thuật này được Châu Âu sử dụng vào năm 1925 với việc in trên giấy, bìa, thuỷ tinh, tấm kim loại, vải giả da. Nhưng, hơn 1000 năm trước "người ta phát minh ra rằng sợi tơ khi kéo căng trên một khung gỗ, với hình ảnh khuôn tô gắn phía dưới khung bằng keo hồ có thể dùng để sao chép các hình ảnh nhiều lần trên nhiều vật liệu khác nhau bằng cách phết mực xuyên qua các lỗ tròn khuôn tụ".
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam - Nơi nghiên cứu và phát huy giá trị. Ngày đầu thành lập với nhiều khó khăn, thử thách, song, được sự quan tâm và đầu tư của Công ty MEDLATEC, sự giúp đỡ của Hội đồng Cố vấn cùng nỗ lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên, HERITIST đã không ngừng được củng cố và hoàn thiện, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, trở thành thương hiệu, tạo được niềm tin với các nhà khoa học. Công tác nghiên cứu, sưu tầm và phát huy giá trị di sản các nhà khoa học Việt Nam ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Hiện nay, Trung tâm có gần 80 cán bộ, được đào tạo và đầy nhiệt huyết. Từ một văn phòng với diện tích 15m2 tại Bệnh viện MEDLATEC vào buổi đầu thành lập, đến nay, Trung tâm đã có Trụ sở riêng với Tòa nhà 6 tầng, tại 26 đường Nghĩa Dũng, quận Ba Đình, Hà Nội và Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam tại xã Bắc Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, diện tích 34 ha, với nhiều hạng mục và cảnh quan ngày càng hoàn thiện. Từ khi mở cửa vào tháng 11-2016 đến nay, tại Công viên đã diễn ra nhiều sự kiện, đón tiếp hơn 80.000 khách tham quan. Trong 10 năm qua, trọng tâm hoạt động của HERITIST là nghiên cứu, sưu tầm di sản vật thể và phi vật thể của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học cao tuổi. Tính đến hết năm 2017, HERITIST đã làm việc với 1.307 nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, trong đó có 634 giáo sư, 599 phó giáo sư, 40 tiến sĩ và 34 nhà khoa học khác có nhiều đóng góp giá trị cho nền khoa học nước nhà; sưu tầm được 700.000 tài liệu, hiện vật, trong đó có nhiều khối tài liệu lớn của các nhà khoa học trước khi họ qua đời. Hoạt động sưu tầm, làm việc với các nhà khoa học không chỉ diễn ra tại Hà Nội mà mở rộng tại Quảng Ninh, Hòa Bình, Hà Tĩnh và thành phố Hồ Chí Minh; góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của việc bảo tồn di sản của các nhà khoa học. Đã có ngày càng nhiều nhà khoa học tự ghi âm, soạn sẵn và cung cấp thông tin đầy đủ các tài liệu trao tặng cho HERITIST hay trở thành cầu nối giới thiệu HERITIST với các nhà khoa học khác, tạo thành một mạng lưới lan tỏa. Đi đôi với quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, hiện vật, HERITIST đã quan tâm đến nhiều hình thức giới thiệu, phát huy giá trị di sản của các nhà khoa học Việt Nam: Xuất bản 7 tập sách “Di sản ký ức của các nhà khoa học” và 3 tập “Những câu chuyện hiện vật”; Tổ chức trưng bày về GS Tôn Thất Tùng, GS.TS Nguyễn Thúc Tùng và GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân; Triển lãm “Hướng tới Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam”, “Thẳm sâu trong từng kỷ vật”…. Công viên di sản các nhà khoa học Việt Nam tại tỉnh Hòa Bình trưng bày giới thiệu sự phát triển của nền khoa học Việt Nam thông qua cuộc đời hoạt động của các nhà khoa học, đồng thời tôn vinh các nhà khoa học đã có những đóng góp xứng đáng cho khoa học và đất nước. Nhằm tổng kết 10 năm hoạt động của HERITIST(2008-2018) và định hướng hoạt động thời gian tới, ngày 29-3-2018, Hội đồng Cố vấn của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam đã tổ chức cuộc họp với sự tham dự của các nhà khoa học trong Hội đồng, đại diện Hội đồng thành viên MEDLATEC, Ban Giám đốc và các cộng tác viên, cán bộ nhân viên Trung tâm. Toàn cảnh cuộc họp của Hội đồng Cố vấn tại Tòa nhà MEDLATEC, số 99 Trích Sài, Tây Hồ, Hà Nội, ngày 29-3-2018. Ảnh: Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam. Tại cuộc họp, các đại biểu đều khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của HERITIST với xã hội, ghi nhận những hoạt động có giá trị nhân văn cao cả đối với các nhà khoa học, với đất nước. Đồng thời, các nhà khoa học cũng góp thêm nhiều ý kiến cho hoạt động của HERITIST thời gian tới như: Cần chú trọng đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu, sưu tầm, khai thác sâu thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của các nhà khoa học; phát huy vai trò của HERITIST trong thời đại công nghệ 4.0; Quảng bá mạnh mẽ các hoạt động của HERITIST thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; Bảo quản và lưu trữ những tài liệu tại HERITIST là tài sản quý của quốc gia; xây dựng cảnh quan Công viên, khu vui chơi giải trí đậm chất khoa học…. Cũng nhân buổi họp này, HERITIST kiện toàn tổ chức Hội đồng Cố vấn nhiệm kì 2018-2019, GS.TSKH Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, tiếp tục được giới thiệu làm Chủ tịch Hội đồng, cùng 23 nhà khoa học khác là thành viên. Các thành viên trong Hội đồng Cố vấn chụp ảnh lưu niệm cùng cán bộ HERITIST tại Tòa nhà MEDLATEC, số 99 Trích Sài, Tây Hồ, Hà Nội, ngày 29-3-2018. Ảnh: Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam. Phát huy những kết quả đã đạt được trong 10 năm xây dựng và phát triển, bước sang giai đoạn mới, HERITIST đặt ra mục tiêu tiếp tục tập trung nghiên cứu, sưu tầm; kiểm kê, bảo quản tài liệu hiện vật; huy động sự chung tay, ủng hộ của các nhà khoa học, các cơ quan vào việc lưu giữ di sản các nhà khoa học Việt Nam; phát huy vai trò là một Chi hội di sản văn hóa thuộc Hội Di sản Văn hóa Việt Nam.
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam (tiếng Anh: Heritage Center for scientists and scholars of Vietnam) hoạt động với tư cách pháp nhân là một công ty, trực thuộc Công ty Công nghệ và Xét nghiệm y học MEDLATEC. Trung tâm có chức năng nghiên cứu, bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể thông qua tư liệu hiện vật cá nhân, hồi ức của các nhà khoa học Việt Nam. Ý tưởng thành lập một Trung tâm có chức năng nghiên cứu, bảo tồn di sản các nhà khoa học Việt Nam mà hạt nhân là Công viên các nhà khoa học mang đậm nét dân tộc và thời đại là của những người sáng lập ra Bệnh viện MEDLATEC với mong muốn bày tỏ lòng tri ân và nghĩa tôn sư trọng đạo đối với các thầy cô giáo và các bậc tiền bối. Công viên các nhà khoa học sẽ là một công viên văn hóa - khoa học đáp ứng nhu cầu của quảng đại nhân dân, của khách du lịch, của thế hệ trẻ thông qua việc trưng bày, giới thiệu cuộc đời và những đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam kết hợp với nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, du lịch văn hóa - lịch sử.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là khái niệm không còn gì xa lạ đối với nền kinh tế. Nó có những đặc thù nhất định. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bạn chưa hiểu hết được về khái niệm cũng như đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Cùng Luận Văn 24 tham khảo bài biết dưới đây để biết thêm thông tin. Theo K. Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch “. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hành hoá dưới giá trị của nó nhưng vân thu đựơc lợi nhuận. Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là ” Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình.”. Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất. Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn kinh tế học (xuất bản lần thứ 12) cho. Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường. Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition). Ba tác giả Mỹ khác là D.Begg, S. Fischer và R. Dornbusch cũng cho cạnh tranh là cạnh là cạnh tranh hoàn hảo, các tác giả này viết. Một cạnh tranh hoàn hảo, là nghành trong đó mọi người đều tin rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải có nhiều người bán và nhiều người mua. Cùng quan điểm như trên, R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn kinh tế học vĩ mô cho rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có rất nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc người bán duy nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả. Các tác giả trong cuốn “Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh, thuộc sự án VIE/97/016 thì cho: Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt đựơc một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua. Ở Phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống mỹ thì. Cạnh tranh đối với một quốc giá là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng đợc thu nhập thực tế của người dân nước đó. Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2003 thì định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là” Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt đựơc các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổn sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Từ đó đến nay nền sản xuất hàng hoá đã phát triển và trải qua nhiều thế kỉ, nên khái niệm về thị trường cũng rất phong phú và đa dạng. Theo quan điểm của kinh tế chính trị Mác – Lênin, thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả và số lượng của hàng hoá. Theo từ điển kinh tế học, thị trường là nơi trao đổi hàng hoá được sản xuất ra và hình thành trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá cùng với quan hệ kinh tế giữa người liên kết lại với nhau thông qua trao đổi hàng hoá. Theo nghĩa rộng: Thị trường là sự biểu hiện của sự thu gọn quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng mặt hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào ? Và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh của giá cả. Theo nghĩa hẹp: Thị trường là sự tập hợp các sự thoả thuận thông qua đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Theo quan điểm Marketing hiện đại, thị trường bao gồm toàn bộ những khách hàng tiềm ẩn có cùng nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Thị trường là một phạm trù riêng có của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động của thị trường được thực hiện qua ba nhân tố đó là: nhu cầu, lượng cung ứng, giá cả. Ba nhân tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Qua thị trường chúng ta có thể xác định được mối tương quan giữa cung và cầu của thị trường, đồng thời thị trường còn là nơi kiểm nghiệm giá trị, chất lượng của hàng hoá và dịch vụ. Thị trường là khâu trung gian kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó có nhiều người mua, nhiều người bán và không người mua, người bán nào có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Mặc dù thuật ngữ “cạnh tranh” có xuất hiện nhưng cạnh tranh giữa các hãng trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo khác hẳn với khái niệm về cạnh tranh nói chung mà chúng ta thường thấy. Vì họ không cạnh tranh thông qua giá và cũng không có ý định đánh bại những đối thủ của mình thông qua doanh số. Để có thể lý giải rõ về điều này chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu các đặc trưng của thị trường cạnh tranh hoàn. Qua đó, chúng ta sẽ phân biệt rõ được thị trường cạnh tranh hoàn và hãng cạnh tranh hoàn. Thứ nhất, các hãng cạnh tranh hoàn hảo là những người chấp nhận giá bởi vì mỗi một hãng cá biệt trên trên thị trường là quá nhỏ so với toàn bộ thị trường nên hãng không thể gây ảnh hưởng đến giá thị trường của hàng hoá hay dịch vụ hãng sản xuất ra khi thay đổi sản lượng của hãng. Tất nhiên, nếu tất cả các nhà sản xuất hành động cùng nhau, những thay đổi về số lượng chắc chắn sẽ tác động đến giá thị trường. Nhưng nếu là cạnh tranh hoàn hảo thì mỗi nhà sản xuất là quá nhỏ nên sự thay đổi của từng nhà sản xuất sẽ đều không quan trọng. Thứ hai, tất cả các hãng sản xuất một loại hàng hoá đồng nhất hay được tiêu chuẩn hoá hoàn hảo. Sản phẩm của một hãng này trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo giống với sản phẩm của mọi hãng khác. Điều kiện này đảm bảo rằng những người mua bàng quan với hãng sản xuất ra sản phẩm họ mua. Những sự khác biệt sản phẩm, cho dù là thực hay ảo, là không thể xảy ra trong cạnh tranh hoàn hảo. Thứ 3, việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường cạnh tranh hoàn hảo là không hạn chế. Không hề có những rào cản nào ngăn cản các hãng mới gia nhập thị trường và không có điều gì ngăn cản các hãng đang tồn tại trên thị trường rút lui khỏi thị trường. Đặc trưng quan trọng nhất của thị trường cạnh tranh hoàn hảo là mỗi một hãng trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo đều cư xử như một người chấp nhận giá. Các hãng cạnh tranh chấp nhận mức giá thị trường của sản phẩm, mức giá được xác định bởi điểm giao của đường cung và đường cầu đã cho. Hành vi nhận giá này là dấu hiệu của một thị trường cạnh tranh. Trong tất cả các cấu trúc thị trường khác – độc quyền, cạnh tranh độc quyền và độc quyền nhóm, các hãng có được sức mạnh đặt giá ở một mức độ nào đó. Hãy xét một cái chợ cóc, trong chợ có những người bán các hàng hóa là rau, thịt, hoa quả, đồ tạp hóa,…Mỗi người bán bán nhiều loại hàng và có nhiều người bán bán cùng một loại mặt hàng. Thông tin là hoàn hảo: những người bán biết rõ giá bán của nhau, họ cũng biết đặc điểm của những người hay mua ở chợ, thậm chí còn tạo mối quan hệ quen biết với họ. Những người mua cũng biết là giá bao nhiêu là mua được, họ biết các bà hàng xóm mua mớ rau đó giá bao nhiêu. Trước khi mua mớ rau họ cũng có thể sờ mò mớ rau để biết nó tươi hay nó héo. Việc gia nhập thị trường khá đơn giản, người bán sẽ lấy hàng ở chợ đầu mối với số vốn không tới 1 tr đồng; tới cuối ngày hôm đó người bán đã thu hồi đủ vốn cùng với số tiền lãi. Ngày hôm sau người bán có thể thôi không bán rau nữa để chuyển sang bán cafe, bán cafe được 1 tháng thấy thua lỗi lại quay lại bán rau. Tuy nhiên mỗi bà bán hàng bên cạnh rau muống (là sạp rau nào cũng có) thì còn những món nông sản độc kiểu như hoa chuối, lá mơ, .những hàng hóa này lại thuộc dạng độc quyền bán. Trong một chợ sẽ có những người bán tham gia vào thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cũng có những người bán không tham gia vào thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Trong những hàng hóa mà một người bán muốn bán thì cũng có những hàng hóa bán trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và không. Hiện tại, Luận Văn 24 đang cung cấp dịch vụ viết thuê luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, cao học. Nếu bạn bận rộn không có thời gian để hoàn thành hay gặp bất cứ khó khăn nào trong việc hoàn thành bài luận, hãy để chúng tôi đồng hành cùng bạn giải quyết mọi vấn đề. Tôi là Thu Trà, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 24 – Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Chúng tôi chuyên nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn sẽ giúp bạn hoàn thành đề tài của mình.
Cạnh tranh hoàn hảo
Cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh trong một mô hình kinh tế được mô tả là một mẫu kinh tế thị trường lý tưởng, ở đó không có người sản xuất hay người tiêu dùng nào có quyền hay khả năng khống chế được thị trường, làm ảnh hưởng đến giá cả. Cạnh tranh hoàn hảo được cho là sẽ dẫn đến hiệu quả kinh tế cao. Những nghiên cứu về các thị trường cạnh tranh hoàn hảo cung cấp cơ sở cho học thuyết về cung và cầu.
Tối 28/8: Thêm 12.103 ca COVID-19; Miền Trung báo động bùng COVID-19 từ người hoàn thành cách ly. Hạt giống vàng (P.4): Những thanh niên Đài Loan đầu tiên tìm được Đại Pháp từ Internet. Hãy tưởng tượng đó là thời điểm kết thúc của một ngày dài. Đúng vào buổi tối khi bạn thư giãn nghỉ ngơi, đôi chân lại bắt đầu thấy đau nhức, bứt rứt, và muốn cử động không kiểm soát được. Khi các triệu chứng nặng lên, bạn sẽ phải lắc, xoa bóp chân hay kéo căng các chân để làm dịu đi. Mặc dù đã mệt mỏi, trong thâm tâm bạn cầu mong nghỉ ngơi, nhưng đôi chân vẫn phải cử động để giải tỏa cơn khó chịu. Đó là chính là cảnh sống chung với Hội chứng chân không yên (RLS – Restless Leg Syndrome) hay còn gọi là chân bồn chồn – một tình trạng có ảnh hưởng đến 10-15% người Mỹ. Chân tay bứt rứt hoặc đau làm cho rất muốn cử động chân tay (chủ yếu hầu hết là chân). Theo các nghiên cứu, hội chứng chân bồn chồn tác động đến phụ nữ nhiều hơn nam giới, ở người trưởng thành nhiều hơn trẻ em, nhưng người ta chưa biết chắc chắn nguyên nhân gây ra bệnh là gì. Mặc dù sự thôi thúc phải di chuyển đôi chân mệt mỏi có thể mang lại phiền toái, nhưng vấn đề lớn nhất nằm ở chỗ RLS gây ra mất ngủ. Hội chứng này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1672 bởi bác sĩ người Anh là Thomas Willis. Ông quan sát thấy những triệu chứng sẽ trở nên nặng hơn đến mức người bệnh sẽ “không thể ngủ thêm được nữa nếu họ đang ở trong cao điểm của cơn tra tấn”. Cuối cùng, ngay cả khi bệnh nhân chìm vào giấc ngủ vì mệt, các triệu chứng có thể vẫn tiếp tục kéo dài. Theo Viện nghiên cứu quốc gia về rối loạn thần kinh và đột quỵ, hơn 80% người mắc RLS có trải nghiệm “chân tự ý co giật hoặc giật mạnh trong khi ngủ, thường xảy ra mỗi 15 – 40s một lần, đôi khi diễn ra suốt đêm”. Đang trong cơn tuyệt vọng tìm kiếm giải pháp cho giấc ngủ, người mắc chứng chân không yên thường tìm đến thuốc an thần (benzodiazapenes), thuốc giảm đau (opioid), thậm chí dùng thuốc chống co giật để chấm dứt triệu chứng liên miên. Loại thuốc duy nhất được chấp nhận trong điều trị bệnh RLS là thuốc kháng dopamine – thuốc cũng được sử dụng để điều trị hội chứng Tourette và Parkinson. Những thuốc này, bao gồm các thuốc Requip, Miraprex và Neupro, giúp tình hình dịu đi nhưng lại khá đắt. Tác dụng phụ phổ biến là gây ra cho người dùng các ảo giác, và họ được cảnh báo không nên lái xe, thao tác máy móc và leo thang. Theo trường y Harvard, thuốc kháng dopamine dùng điều trị RLS có thể mất dần tác dụng theo thời gian. Nhiều trường hợp thấy triệu chứng quay trở lại hoặc nặng lên khi sử dụng liên tục. Mặc dù đã được phát hiện khoảng một thế kỷ nay, song gần đây mọi người mới thừa nhận rộng rãi hội chứng này. Bác sĩ Karl-Axel Ekbom là người đầu tiên đặt tên là Hội chứng chân không yên vào năm 1945, nhưng cũng chỉ 20 năm đổ lại đây khái niệm này mới đến được với công chúng. Những thầy thuốc cổ truyền không có phương pháp đặc hiệu đối với RLS, nhưng họ chắc chắn đã quen thuộc với các triệu chứng tương tự. Ví dụ, trong Trung y truyền thống, chân tay bồn chồn là một triệu chứng của nội phong – bệnh gây nên cử động quá mức. Ngày nay, nhiều người chuyển sang châm cứu để điều trị làm giảm RLS. Một nghiên cứu trong năm 2011 cho thấy những người sử dụng thuốc kháng dopamine có thể dừng hoặc giảm đáng kể lượng thuốc nếu điều trị bằng châm cứu. Mát-xa, nắn xương khớp, các thế yoga nhất định cũng có thể giúp giải quyết các triệu chứng của RLS. Một trong báo cáo tổng kết đăng trên tạp chí American Herbalist Guild, Erin Holden đã thảo luận về những thảo dược có dược tính trên RLS. Cô khuyến cáo các loại thảo dược đã biết đến với công dụng an thần và thư giãn, chẳng hạn như cỏ long ba, thiên ma (black cohosh), cây lạc tiên, cây nữ lang và lobelia. Những thảo dược khác có tác dụng chống viêm (như nghệ) và tăng cường tuần hoàn (ớt đỏ) cũng có thể giúp ích. Trong khi nguyên nhân căn bản gây RLS vẫn còn chưa biết, các nhà nghiên cứu đã tìm được một vài kết quả thú vị. Ví dụ, nhiều bệnh nhân đang lọc thận mắc RLS, và có thể sau đó thấy triệu chứng RLS biến mất sau khi cấy ghép thận. RLS cũng thường thấy ở những người thiểu năng tuyến giáp, đái đường, rối loạn khả năng tập trung. Phụ nữ mang thai cũng có thể mắc RLS, nhưng nó thường biến mất sau khi sinh con 1 tháng hoặc nhiều hơn. Một số cho rằng giai đoạn cuối của thai kỳ đã gia tăng thêm áp lực lên cột sống, gây tổn thương những dây thần kinh chi phối trực tiếp chi dưới. Hội chứng RLS dường như cũng có liên quan đến sự thiếu hụt các vitamin và một số khoáng chất nhất định. Nhiều người đã thấy các triệu chứng thuyên giảm nhờ bổ sung các chất thiếu hụt và thay đổi chế độ ăn. Thiếu sắt là phổ biến nhất, tuy nhiên axit folic và magie cũng có thể đóng vai trò quan trọng. Một số nghiên cứu đã nhận thấy rằng bổ sung thêm vitamin D có thể làm giảm nhẹ các triệu chứng. Ngoài ra cũng có các bằng chứng khác ủng hộ việc cần bổ sung thêm vitamin C và E. Cho tới nay, không có ma thuật nào cho RLS, nhưng một số thói quen có xu hướng dẫn đến xuất hiện các triệu chứng, như cafein, thuốc lá, rượu. Thuốc dị ứng không cần kê đơn, thuốc ngủ và thuốc chống trầm cảm cũng được xác định là nguyên nhân khởi phát RLS. Các chuyên gia cho biết luyện tập thói quen ngủ tốt hơn cũng có thể làm giảm các triệu chứng. Hãy cố định thời điểm bạn bắt đầu đi ngủ mỗi đêm, kể cả vào cuối tuần. Đồng hời hãy thức giấc vào một giờ cố định. Nên tạo sự ưu tiên cho giấc ngủ. Cuối cùng, hãy để đôi chân bạn di chuyển như ý nó, nhưng chỉ vào thời điểm bắt đầu một ngày mới. Nghiên cứu cho thấy lối sống tĩnh ít vận động góp phần gây nên những triệu chứng của RLS. Theo Quỹ về Hội chứng chân không yên, tập thể dục thường xuyên sẽ giảm 3,3 lần khả năng mắc bệnh. Một nghiên cứu khác phát hiện hoạt động thể chất hàng ngày có thể làm giảm đến 40% triệu chứng. Để giữ khoảng cách với chứng chân không yên, hãy đảm bảo dành 30-60 phút tập thể dục đều đặn mỗi ngày. Nhưng hãy tập đơn giản thôi vì các động tác mạnh hoặc thái quá sẽ làm tình hình xấu đi. Hãy tìm những bài tập bạn yêu thích và chọn những bài vận động chú trọng đến đôi chân. Hãy tưởng tượng đó là thời điểm kết thúc của một ngày dài. Đúng vào buổi tối khi bạn thư giãn nghỉ ngơi, đôi chân lại bắt đầu thấy đau nhức, bứt rứt, và muốn cử động không kiểm soát được. Khi các triệu chứng nặng lên, bạn sẽ phải lắc, xoa bóp chân hay kéo căng các chân để làm dịu đi. Mặc dù đã mệt mỏi, trong thâm tâm bạn cầu mong nghỉ ngơi, nhưng đôi chân vẫn phải cử động để giải tỏa cơn khó chịu. Đó là chính là cảnh sống chung với Hội chứng chân không yên (RLS – Restless Leg Syndrome) hay còn gọi là chân bồn chồn – một tình trạng có ảnh hưởng đến 10-15% người Mỹ. Chân tay bứt rứt hoặc đau làm cho rất muốn cử động chân tay (chủ yếu hầu hết là chân). Theo các nghiên cứu, hội chứng chân bồn chồn tác động đến phụ nữ nhiều hơn nam giới, ở người trưởng thành nhiều hơn trẻ em, nhưng người ta chưa biết chắc chắn nguyên nhân gây ra bệnh là gì. Mặc dù sự thôi thúc phải di chuyển đôi chân mệt mỏi có thể mang lại phiền toái, nhưng vấn đề lớn nhất nằm ở chỗ RLS gây ra mất ngủ. Hội chứng này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1672 bởi bác sĩ người Anh là Thomas Willis. Ông quan sát thấy những triệu chứng sẽ trở nên nặng hơn đến mức người bệnh sẽ “không thể ngủ thêm được nữa nếu họ đang ở trong cao điểm của cơn tra tấn”. Cuối cùng, ngay cả khi bệnh nhân chìm vào giấc ngủ vì mệt, các triệu chứng có thể vẫn tiếp tục kéo dài. Theo Viện nghiên cứu quốc gia về rối loạn thần kinh và đột quỵ, hơn 80% người mắc RLS có trải nghiệm “chân tự ý co giật hoặc giật mạnh trong khi ngủ, thường xảy ra mỗi 15 – 40s một lần, đôi khi diễn ra suốt đêm”. Đang trong cơn tuyệt vọng tìm kiếm giải pháp cho giấc ngủ, người mắc chứng chân không yên thường tìm đến thuốc an thần (benzodiazapenes), thuốc giảm đau (opioid), thậm chí dùng thuốc chống co giật để chấm dứt triệu chứng liên miên. Loại thuốc duy nhất được chấp nhận trong điều trị bệnh RLS là thuốc kháng dopamine – thuốc cũng được sử dụng để điều trị hội chứng Tourette và Parkinson. Những thuốc này, bao gồm các thuốc Requip, Miraprex và Neupro, giúp tình hình dịu đi nhưng lại khá đắt. Tác dụng phụ phổ biến là gây ra cho người dùng các ảo giác, và họ được cảnh báo không nên lái xe, thao tác máy móc và leo thang. Theo trường y Harvard, thuốc kháng dopamine dùng điều trị RLS có thể mất dần tác dụng theo thời gian. Nhiều trường hợp thấy triệu chứng quay trở lại hoặc nặng lên khi sử dụng liên tục. Mặc dù đã được phát hiện khoảng một thế kỷ nay, song gần đây mọi người mới thừa nhận rộng rãi hội chứng này. Bác sĩ Karl-Axel Ekbom là người đầu tiên đặt tên là Hội chứng chân không yên vào năm 1945, nhưng cũng chỉ 20 năm đổ lại đây khái niệm này mới đến được với công chúng. Những thầy thuốc cổ truyền không có phương pháp đặc hiệu đối với RLS, nhưng họ chắc chắn đã quen thuộc với các triệu chứng tương tự. Ví dụ, trong Trung y truyền thống, chân tay bồn chồn là một triệu chứng của nội phong – bệnh gây nên cử động quá mức. Ngày nay, nhiều người chuyển sang châm cứu để điều trị làm giảm RLS. Một nghiên cứu trong năm 2011 cho thấy những người sử dụng thuốc kháng dopamine có thể dừng hoặc giảm đáng kể lượng thuốc nếu điều trị bằng châm cứu. Mát-xa, nắn xương khớp, các thế yoga nhất định cũng có thể giúp giải quyết các triệu chứng của RLS. Một trong báo cáo tổng kết đăng trên tạp chí American Herbalist Guild, Erin Holden đã thảo luận về những thảo dược có dược tính trên RLS. Cô khuyến cáo các loại thảo dược đã biết đến với công dụng an thần và thư giãn, chẳng hạn như cỏ long ba, thiên ma (black cohosh), cây lạc tiên, cây nữ lang và lobelia. Những thảo dược khác có tác dụng chống viêm (như nghệ) và tăng cường tuần hoàn (ớt đỏ) cũng có thể giúp ích. Trong khi nguyên nhân căn bản gây RLS vẫn còn chưa biết, các nhà nghiên cứu đã tìm được một vài kết quả thú vị. Ví dụ, nhiều bệnh nhân đang lọc thận mắc RLS, và có thể sau đó thấy triệu chứng RLS biến mất sau khi cấy ghép thận.
Hội chứng chân bồn chồn
Hội chứng chân bồn chồn (hay còn gọi hội chứng chân không yên, restless legs syndrome: RLS) là một rối loạn gây ra bởi sự thôi thúc mạnh mẽ để di chuyển chân của một người. Thường xuất hiện một cảm giác khó chịu ở chân và được cải thiện phần nào khi di chuyển. Với những triệu chứng như đau nhức, cảm giác râm ran hoặc như kiến bò trong chân. Thỉnh thoảng có thể ảnh hưởng đến cả cánh tay. Cảm giác này xảy đến lúc nghỉ ngơi và có thể gây khó ngủ. Do gián đoạn trong giấc ngủ, những bệnh nhân RLS có thể bị buồn ngủ vào ban ngày, năng lượng cơ thể thấp, dễ cáu gắt và tâm trạng chán nản. Ngoài ra, nhiều người còn bị co giật chân tay trong khi ngủ. Các yếu tố nguy cơ của RLS gồm có hàm lượng sắt thấp, suy thận, bệnh Parkinson, đái tháo đường, viêm khớp dạng thấp và mang thai. Một số loại thuốc cũng có thể gây rối loạn bao gồm thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần, thuốc chống dị ứng và thuốc chẹn kênh calci. Một là RLS khởi phát sớm lần đầu trước 45 tuổi, di truyền trong gia đình và xấu đi theo thời gian.
Nhà thờ Domaine de Marie (Lãnh địa Đức Bà) nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt chỉ 1km. Về phía Tây Nam tọa lạc trên đường Ngô Quyền. Khuôn viên nhà thờ được đặt trên một ngọn đồi có là đồi Mai Anh. Vị thế rất đẹp lại còn rất nhiều hoa Anh Đào ở nơi đây nên ban đầu nhà thờ còn có tên gọi là nhà thờ Mai Anh. 2 Nhà Thờ Domain de Marie có những gì độc đáo2.1 Điểm đặc biệt tại nhà thờ Domain De Marie2.2 Nơi ở của những đứa trẻ mồ côi2.3 Nơi chôn cất của phân nhân toàn quyền Đông Dương2.4 Điểm nhấn ấn tượng của nhà thờ. 3 Giờ lễ và Bản đồ hướng dẫn đường đi đến Nhà thờ Domain de Marie3.1 Giờ lễ3.2 Bản đồ đường đi. Hay còn có tên gọi khác là nhà thờ Vinh Sơn ( vì nơi đây là nơi tu của các Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn – đây là một hội nữ tu có mặt tại Việt Nam từ năm 1928). Đây là một trong những điểm tham quan du lịch được rất nhiều bạn trẻ yêu thích. Đến đây bạn không chỉ tham quan chiêm ngưỡng các phong cách kiến trúc thiết kế độc đáo mà còn có thể lưu lại những tấm hình tuyệt đẹp nữa. Nhà thờ được khởi công xây dựng vào những năm 1940 đến năm 1944 thì hoàn thành. Toàn bộ số tiền xây dựng nhà thờ được bà phu nhân toàn quyền Đông Dương Jean Decoux đứng ra quyên góp từ giáo dân. Với tổng diện tích của nhà thờ là 12ha, nơi đây được thiết kế với cụm kiến trúc liên hoàn. Bao gồm nhà nguyện và hai dãy nhà tu viện của nữ tử Bác Ái Vinh Sơn (Filles de la charité de saint Vincent de Paule). Nhà thờ Domain de Marie được xây dựng theo kiến trúc cổ điển và mang đậm phong cách châu Âu thế kỉ 17. Những bức tường xây bằng đá chẻ tới ngang bệ cửa sổ theo kiểu kiến trúc vùng miền Bắc nước Pháp. Với chiều rộng 11m và chiều dài là 33m. Hệ thống mái che của nhà thờ, nhìn tổng thể tựa như mái nhà rông của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, và được lợp ngói màu đỏ của người Việt. Điều đặc biệt trong thiết kế xây dựng nhà thờ là nhà thờ Domain de Marie không có tháp chuông như những nhà thờ khác. Các khung cửa sổ được trang trí các khung kính đầy màu sắc toát lên một vẻ đẹp. Mà bất cứ du khách nào khi đến tham quan cũng trầm trồ khen ngợi và xao xuyến. Ban đầu nhà thờ chính là tu viện chính của hơn 50 nữ tu sĩ. Họ đã tham gia làm các công tác xã hội như: Mở cô nhi viện, nhà trẻ,…Cho đến tận bây giờ tuy dòng tu chính đã chuyển về thành phố Hồ Chí Minh nhưng vẫn luôn thực hiện tôn chí của dòng. Là phục vụ người nghèo khó, họ đã mở các cơ sở như: chăm sóc những người chậm phát triển, cô nhi, chữa bệnh cho người nghèo, mở các trung tâm dạy nghề miễn phí,…. Hiện nay ngoài nhà nguyện và hai dãy tu viện, các cơ sở khác đã được sử dụng cho công ích. Trong khi xây dựng nhà thờ vị phu nhân toàn quyền Đông Dương có một tâm nguyện. Là khi bà mất người sẽ được chôn tại nơi đây – nơi mà bà đã rất nhiều tâm huyết và công sức vào để xây dựng. Vào ngày 6/1/1944 bà mất do tại nạn giao thông và thi hài bà được đưa về nhà thờ Domain chôn cất. Mộ bà nằm ngay phía hành lang sau nhà thờ, trong khuôn viên thoáng đãng, rộng lớn. Với nhiều loại hoa được trồng càng tô thêm vẻ đẹp nơi đây. Nhà thờ sử dụng vôi hồng để quét tường. Điều đó làm nổi bật cả nhà thờ khi có ánh nắng chiếu vào. Khi vào tham quan nhà thờ du khách còn thấy được một bức tượng Đức Mẹ đứng trên quả địa cầu cao 3m, nặng 1 tấn. Do kiến trúc sư Jonchere người Pháp thiết kế tặng cho bà phu nhân toàn quyền Đông Dương. Chính những nét đặc chưng đó của nhà thờ góp phần thù hút khách du lịch Đà Lạt. Chúc quý khách có một khoảng thời gian tham quan Nhà Thờ Domaine De Marie tại Đà Lạt thật vui vẻ và ý nghĩa. Nếu du khách muốn tham quan nhà thờ bằng Tour của công ty chúng tôi. Bạn có thể tham khảo Tour này với giá vé là 350.000 VNđ/khách, du khách được đi những điểm sau:. Liên hệ đặt tour đi tham quan đà lạt 1 ngày này qua Hotline: 02633.605.666. Trân thành cảm quý khách.
Nhà thờ Domaine de Marie
Nhà thờ Domaine de Marie còn được gọi là Nhà thờ Vinh Sơn (vì là nguyện đường của các sœurs Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn), Nhà thờ Mai Anh (vì trước đây khu vực này có rất nhiều hoa mai anh đào). Đây là một cụm kiến trúc bao gồm nhà nguyện và hai dãy nhà tu viện nữ tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn với tổng diện tích là 12 ha nằm trên đường Ngô Quyền cách trung tâm thành phố Đà Lạt vào khoảng 1 km về hướng tây nam. Nhà thờ được xây dựng từ năm 1938. Từ năm 1943, nhà thờ được xây dựng lại với một dạng kiến trúc độc đáo . Trước đây nhà thờ là tu viện chính của Dòng tu nữ tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn (từ năm 1940 – 1943). Sau năm 1975, ngoài nhà nguyện và hai dãy tu viện, các cơ sở khác đã được sử dụng cho các mục đích công ích. Ở đây sơ đã nuôi rất nhiều trẻ em mồ côi và dạy nghề cho các em như dệt, thêu, vẽ tranh.
Onegroup.capital là một đơn vị được thành lập bởi đội ngũ sáng lập gồm 6 thành viên, có chung đam mê kinh doanh BĐS, tài chính, đào tạo nhân lực… Đặc biệt tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai của thị trường FINTECH , Blockchain và tiền điện tử. Trong thế giới hiện đại ngày nay, để đi đúng đường bạn nhờ vào hệ thống định bị GPRS trên bản đồ. Còn trong cuộc sống của con người thì thần số học chính là GPRS của cuộc đời. Thần số học sẽ trả lời cho các bạn rõ ràng các câu hỏi: bản thân mình là ai? Mình sinh ra để làm gì? mình đến cuộc đời này với sứ mệnh như thế nào? Từ đó bạn có hướng thay đổi bản thân để có được cuộc sống tốt hơn. Thần Số Học đã xuất hiện từ rất lâu đời và cho đến nay đã có nhiều thay đổi, hệ thống của Thần Số Học cũng được phân chia thành bốn dạng chính thức: Chaldean, Kabbalah, Pythagore, I Ching. Mỗi hệ thống có các công thức tính toán khác nhau cùng những lý luận khác nhau. Xét đến cùng thì tất cả mục đích vẫn là cùng tìm ra các con số cá nhân và giải nghĩa chúng. Đây là một môn khoa học dựa vào nghiên cứu của nhà toán học, nhà thần học, nhà triết học Pythagore. Nó nghiên cứu ý nghĩa, biểu tượng của các con số trong ngày sinh và các con sô tương ứng với từng chữ cái trong tên của bạn. Thần số học nghiên cứu sự có mặt và vắng mặt của các con số đó. Đây là sự khám phá tri thức, tính kết nối giữa những con số với con người, với cuộc sống. Theo các nhà khoa học, mỗi con số là một dạng sóng rung tương ứng với số vòng quay trong một giây mà trong đó một cành cây, ngọn cỏ, một con người, một cảm xúc, một ý nghĩ, một mùi hương… đều có những tần sóng rung nhất định tương ứng vơi nhưng con số nhất định. Qua đó ta thấy rằng các con số có liên quan mật thiết với cuộc sống của chúng ta. Sinh ra bạn là ai ? bạn nên làm gì ? bạn chọn nghề gì ? bản thân bạn sống sao ? tính tình mình như thế nào? Rồi khi mình muốn hiểu về một ai đó trong chính gia đình, bạn bè, những người bạn đồng nghiệp, người thương… để có cách đối nhân xử thế với từng người cho phù hợp. Từ đó bạn sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn, các mối quan hệ trở nên tốt hơn, cuộc sống nhiều màu sắc hơn. Ta cần làm những gì để hoàn thành sứ mệnh của mình trước khi buông tay. Ta sẽ xác định được con đường mình cần phải đi mà không mất thời gian tìm đường và bị lạc lối. Định hướng tương lai cho các bạn trẻ trên con đường đời về cách sống cũng như nghề nghiệp của bản thân. Con số chủ đạo trong thần số học là một sợi chỉ đỏ sâu chuỗi toàn bộ cuộc sống của bạn kể từ khi bạn sinh ra cho đến khi buông tay. Nó tiết lộ cho bạn nhiều điều về cuộc sống của bạn. Từ con số chủ đạo bạn sẽ tìm ra được những năm đỉnh co trong cuộc đời của mình. Con số chủ đạo của cuộc đời các bạn, các bạn sẽ tìm hướng đi nghề nghiệp cho tương lai của mình dễ dàng hơn nhiều, mà cũng sẽ phù hợp và gặt hái nhiều thành tựu hơn nhiều. Các bạn sẽ được hướng dẫn tới một công việc phù hợp, hoặc hướng tới việc học lên cao hơn nữa phù hợp với thiên chất của các bạn,. Những gì mà Con số chủ đạo của ta hướng dẫn cho mỗi người là những lối đi cơ bản tối cần thiết để chúng ta phải theo, để đạt được những tiến bộ cơ bản của từng giai đoạn tiến hóa trước khi chúng ta tiếp nhận những chặng đường phát triển cao hơn nữa. Nên nhớ, theo trường phái Pythagoras, không có Con số chủ đạo = 1. Vậy các Con số chủ đạo của chúng ta sẽ có từ số 2, kéo dài đến số 11. Có thêm một trường hợp đặc biệt nữa, là số 4 được tạo thành từ số tổng 22. Vậy, tất cả những ai có số tổng 22 vui lòng ghi rõ như vầy để phân biệt với những số 4 bình thường khác nha: 22/4. Onegroup.capital là một đơn vị được thành lập bởi đội ngũ sáng lập gồm 6 thành viên, có chung đam mê kinh doanh BĐS, tài chính, đào tạo nhân lực… Đặc biệt tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai của thị trường FINTECH , Blockchain và tiền điện tử. Onegroup.Capital là kênh thông tin đáng tin cậy và mang lại nhiều lợi ích cho các thành viên trong cộng đồng .
Thần số học
Thần số, thần số học hay còn gọi là số bí thuật là bất kỳ niềm tin vào mối quan hệ tín ngưỡng thần thánh và thần bí giữa các chữ số và sự kiện. Tư tưởng này cũng điều tra về sự tương quan giữa số của các chữ cái trong danh xưng với những thứ mang tính tinh thần. Tư tưởng này thông thường liên quan với siêu linh, cùng với thuật chiêm tinh và các nghệ thuật bói toán tương tự khác. Những người theo môn này đặt niềm tin vào các dạng số và rút ra các kết luận giả khoa học từ chúng, ngay cả khi những người đó không thực hành số học truyền thống. Ví dụ, trong cuốn sách Numerology: Or What Pythagoras Wrought năm 1997, nhà toán học Underwood Dudley sử dụng thuật ngữ này để thảo luận về những người thực hành nguyên lý sóng Elliott trong phân tích thị trường chứng khoán. Pythagoras và các nhà triết học khác thời đó tin rằng bởi vì các khái niệm toán học "thực tế" hơn (dễ điều chỉnh và phân loại) hơn các khái niệm vật lý, chúng có tính thực tế cao hơn.
2.Các loại Hệ Điều hànhA. Hệ điều hành dành cho thiết bị di độngHệ điều hành AndroidHệ điều hành iOS. So sánh hệ điều hành dành cho máy tính và hệ điều hành dành cho thiết bị di động. Hệ điều hành (tiếng Anh: Operating System – viết tắt: OS) dùng để quản lí, kết nối các thiết bị phần cứng và tài nguyên phần mềm của thiết bị điện tử. Có vai trò trung gian trong việc giao tiếp giữa người sử dụng và phần cứng máy tính. Không có hệ điều hành, máy tính sẽ không sử dụng được. Được thiết kế để sử dụng trên những thiết bị như: Máy tính để bàn, laptop,… Bên dưới là các hệ điều hành máy tính sử dụng hệ điều hành sử dụng GUI (giao diện đồ họa) thường gặp. Được phát hành đầu tiên vào năm 1980 bởi Microsoft, trãi qua nhiều phiên bản và gần đây nhất là Windows 10 (ra mắt vào 2015) được cài sẵn trên hầu hết cái máy tính. Ở thời điểm hiện tại, Windows hiện là hệ điều hành phổ biến nhất trên thế giới. Ưu điểm: Phổ biến, dễ sử dụng, tính ổn định cao và có đầy đủ tính năng để phục vụ cho công việc cũng như giải trí. Trước đây MacOS còn có tên là OS X, được tạo ra bởi hãng Apple và được cài sẵn trên tất cả các máy tính của hãng. Ưu điểm: Giao diện đẹp, được cài sẵn ở tất cả máy tính của Apple bán ra và không tốn phí. Nhược điểm: Vì số người sử dụng macOS chưa nhiều nên có những phần mềm chưa được phát hành cho hệ điều hành này. Là một hệ điều hành mở, có nghĩa là bạn có thể tự chỉnh sửa, làm bất cứ điều gì trên hệ điều hành này. Linux là hệ điều hành không tốn phí. Nhược điểm: Rất ít người sử dụng, tính bảo mật không cao, giao diện có phần cổ điển. Được thiết kế dành cho những thiết bị như: Điện thoại di động, máy tính bảng,… Mục đích chủ yếu dành cho nhu cầu giải trí, liên lạc,… nên không có đầy đủ những tính năng như hệ điều hành cho máy tính. Những hệ điều hành dành cho thiết bị di động phổ biến như:. Được phát triển bởi công ty Android Inc và được Google mua lại vào năm 2005, Android là hệ điều hành trên thiết bị di dộng có số người được sử dụng nhiều nhất trên thế giới (chiếm 87,7% thị phần – năm 2017). Ưu điểm: Hệ điều hành mở, rất nhiều thiết bị di động điều sử dụng nên Android sở hữu kho ứng dụng khổng lồ, khả năng tùy biến cao, dễ dàng cài đặt lại thiết bị nếu như quên mật khẩu. Nhược điểm: Độ bảo mật của Android là khá cao nhưng sẽ không bằng nếu so sánh với iOS. iOS là hệ điều hành chỉ có trên các thiết bị di động của Apple. Được ra mắt vào năm 2007, iOS đã tạo ra một cuộc cách mạng về công nghệ phần mềm. Được đánh giá khá cao về tính năng cũng như về độ ổn định của nó. – Ưu điểm: Tính bảo mật cao, khả năng tối ưu phần mềm tốt, hiệu năng làm việc ổn định. – Nhược điểm: Hệ điều hành chỉ dành cho các dòng điện thoại của Apple và không thể sử dụng trên các điện thoại khác, kho ứng dụng ít hơn so với Android. Hệ điều hành trên hai nền tảng này cũng có sự khác nhau, nếu như hệ điều hành trên máy tính được sinh ra để đáp ứng thiên về nhu cầu công việc, thì ngược lại thiết bị di dộng sẽ tập trung chủ yếu về việc giải trí, liên lạc,… nhưng hiện nay hầu hết các hệ điều hành đang được nâng cấp và hầu như đều có thể đáp ứng toàn bộ các chức năng của nhau. Để phục vụ cho kế hoạch tiêm ngừa vaccine covid 19 đề nghị giáo viên ghi đầy đủ thông tin. Được thành lập từ những năm 1995 Trung tâm Ngoại ngữ và Tin học Thăng Long số 87 Phan Văn Trị là một địa chỉ đáng tin cậy dành cho các bạn học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh. Tại đây chúng tôi có đội ngũ giáo viên giỏi nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy các môn học Anh văn và Tin học, bên cạnh việc giảng dạy theo chương trình trong nhà trường, chúng tôi còn mở các lớp luyện thi các chứng chỉ Anh văn, Tin học trong nước và quốc tế.
Hệ điều hành
Hệ điều hành (tiếng Anh: Operating System - OS) là phần mềm hệ thống quản lý phần cứng máy tính, phần mềm và cung cấp các dịch vụ chung cho các chương trình máy tính. Đối với các chức năng phần Cứng như đầu vào, đầu ra và cấp phát bộ nhớ, hệ điều hành đóng vai trò quan trọng giữa các chương trình và phần cứng máy tính, mặc dù mã ứng dụng thường được thực thi trực tiếp bởi phần cứng và thường thực hiện các lệnh hệ thống đến Chức năng hệ điều hành hoặc bị hệ điều hành làm gián đoạn. Hệ điều hành được tìm thấy trên nhiều thiết bị có máy tính – từ điện thoại di động và bảng điều khiển trò chơi điện tử đến máy chủ web và siêu máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng. Hệ điều hành chia sẻ thời gian lập lịch cho các tác vụ để sử dụng hệ thống một cách hiệu quả và cũng có thể bao gồm phần mềm kế toán để phân bổ chi phí thời gian xử lý, lưu trữ dung lượng lớn, in ấn và các tài nguyên khác.
Ngày thành lập hoặc ngày sáng lập một tổ chức là ngày mà tổ chức đó lựa chọn để tuyên bố điểm khởi đầu của nó. Mỗi tổ chức có một định nghĩa riêng về ngày thành lập của mình. Tuy nhiên nhìn chung thì các tiêu chí hay tiêu chuẩn để xác định một ngày thành lập hoặc sáng lập của các tổ chức thường có ý nghĩa không rõ ràng. Tuy nhiên, định nghĩa của ngày thành lập phụ thuộc nhiều vào lịch sử, văn hóa, chính trị của mỗi quốc gia khác nhau. Hoặc lấy ngày mà có nguồn gốc từ một tổ chức được thành lập trước đó, tổ chức cha mẹ. Tuy nhiên việc biến thể xác định ngày thành lập một trường đại học là điều dễ hiểu. Bởi vì còn phụ thuộc nhiều vào cơ quan chủ quản của từng trường hoặc nhân viên điều hành. Cuối cùng ngày thành lập của một tổ chức hoặc là quyết định nội bộ của cơ quan đó hoặc do một tổ chức bên ngoài có thẩm quyền quyết định.
Ngày thành lập
Ngày thành lập hoặc ngày sáng lập một tổ chức là ngày mà tổ chức đó lựa chọn để tuyên bố điểm khởi đầu của nó. Mỗi tổ chức có một định nghĩa riêng về ngày thành lập của mình. Tuy nhiên nhìn chung thì các tiêu chí hay tiêu chuẩn để xác định một ngày thành lập hoặc sáng lập của các tổ chức thường có ý nghĩa không rõ ràng.
Cao huyết áp là gì? Cao huyết áp nên làm gì? Bệnh cao huyết áp đang được nhiều người chú ý. Vì căn bệnh ngày càng trở nên phổ biến. Biến chứng của căn bệnh này cũng rất nguy hiểm. Vậy mời bạn cùng CircleDNA tìm hiểu thêm về căn bệnh. Đồng thời cùng nghiên cứu cách phòng bệnh hiệu quả nhé:. Cao huyết áp là một căn bệnh gây ra khá nhiều biến chứng. Bệnh xảy ra khi máu tăng áp lực, tác động mạnh lên thành động mạch. Theo Hiệp hội Tim mạch Việt Nam, huyết áp bình thường là huyết áp dưới 120/80 mmHg. Còn cao huyết áp là khi huyết áp luôn ở mức từ 140/90 mmHg trở lên. Tim: bệnh gây ảnh hưởng xấu lên tim. Tim sẽ dần bị phồng lên, đồng thời suy giảm các chức năng. Mạch máu: bệnh khiến cho mạch máu bị hẹp, chai cứng, xơ vữa động mạch. Thận: bệnh làm tổn thương động mạch và mô trong thận, khiến thận hoạt động vất vả hơn. Bệnh này tuy là căn bệnh nhẹ, nhưng nếu kéo dài sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm khác. Vì thế khi mắc bệnh cần được điều trị ngay. Tuổi tác: người cao tuổi có nguy cơ bị bệnh cao hơn người trẻ hơn 25 tuổi. Tiền sử gia đình: gia đình có người thân mắc bệnh thì những người còn lại cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Béo phì: Thừa cân tác động nặng nề lên tim và cũng là nền tảng của huyết áp cao. Hút thuốc lá, sử dụng chất kích thích bia rượu: khiến người sử dụng dễ bị cao huyết áp. Thừa cân tác động nặng nề lên tim và cũng là nền tảng của huyết áp cao. Bệnh huyết áp cao thường ít khi có triệu chứng rõ ràng. Trừ khi bệnh trở nặng thì người bệnh sẽ cảm thấy:. Muối làm tăng huyết áp của người sử dụng thường xuyên. Chỉ cần người bệnh làm quen với chế độ ăn nhạt, ăn ít hơn 4g muối một ngày. Thì bệnh sẽ được thuyên giảm đáng kể. Thừa cân khiến bệnh tình trở nên trầm trọng hơn. Người bệnh nên thực hiện các liệu trình giảm cân thích hợp. Nhằm giúp kiểm soát huyết áp được tốt hơn. Tránh việc gây áp lực nặng nề cho huyết áp và các cơ quan khác hoạt động. Chế độ làm việc, sinh hoạt phải khoa học. Việc dành thời gian nghỉ ngơi được khuyến khích. Ngủ đủ ngày 8 tiếng. Cần tránh stress, nên tập thiền và giữ tinh thần lạc quan, vui vẻ. Hút thuốc lá, uống nhiều bia, rượu là nguyên nhân tác động trực tiếp lên mạch vành, gây ra cao huyết áp. Chính vì thể việc ngưng sử dụng bia, rượu, các chất kích thích… Được xem là cực kì cần thiết cho người bệnh huyết áp cao. Việc tập thể dục thường xuyên cực kì tốt, khiến người bệnh thêm yêu đời, thoải mái. Đồng thời duy trì cân nặng và triệu chứng của bệnh. Ngoài ra, cần lưu ý hơn cho những bệnh nhân từ vừa đến nặng. Chính là chỉ nên tập vừa sức. Vì luyện tập nặng có thể khiến tim đập mạnh và nhanh hơn. Gây áp lực nặng nề lên thành mạch máu. Điều đó sẽ dẫn đến tổn thương tim nhanh chóng. Và người bệnh có thể bị nặng hơn. Những bệnh nhân đã có triệu chứng huyết áp bị cao nên tập trung tầm soát và kiểm tra sức khỏe thường xuyên. Việc kiểm tra sức khỏe lúc nào cũng là việc cực kì quan trọng. Trung tâm xét nghiệm Tasscare được xem là một trong những trung tâm xét nghiệm uy tín nhất thành phố Hồ Chí Minh. Giúp bạn dễ dàng tầm soát, phòng ngừa bệnh dựa theo gen và có lối sống phù hợp hơn. Trong số đó phải kể đến gói dịch vụ CircleDNA, đây là gói xét nghiệm di truyền dựa trên DNA của bạn. Giúp bạn hiểu rõ hơn về cơ thể của mình. Đồng thời biết được mình sẽ có xu hướng mắc những bệnh gì. Từ đó bạn sẽ có lối sống và cách sinh hoạt đúng đắn và lành mạnh hơn. – Không ăn thực phẩm chế biến sẵn. Đặc biệt là thực phẩm từ mỡ động vật, nội tạng, da gia súc, gia cầm, giăm bông, thịt nguội. Những sản phẩm từ socola, sữa, đồ ăn chiên rán, cũng nên tránh sử dụng. – Ăn nhiều rau xanh đậm, củ, quả, dầu thực vật. Một số loại thực phẩm tốt cho người huyết áp cao. Một trong số đó là: cà chua, cà tím, cần tây, cải cúc, cà rốt, tỏi, rau muống, măng lau,… Khi ăn bạn cần ăn thật chậm, nhai kỹ rồi mới nuốt. – Người bệnh nên dành thời gian đi bộ. Đi bộ giúp tim sử dụng được nhiều oxi hơn. Mỗi ngày nên đi bộ từ 15-30 phút. – Các bài tập về Yoga, hít thở sâu cũng là lời khuyên được khuyến khích cho người mắc bệnh cao huyết áp. Nội dung chínhCao huyết áp là gì?Đây có phải là bệnh nguy hiểm không?Nguyên nhânTriệu. Tầm nhìn và sứ mệnh của chúng tôi chỉ có thể đạt được khi tất cả cán bộ công nhân viên của CircleDNA gắn chặt cuộc sống và công việc của mình với những giá trị gắn liền với đạo đức, trách nhiệm với con người, xã hội và môi trường.
Cao huyết áp
Cao huyết áp (hay còn được gọi là tăng huyết áp hay là lên tăng-xông, từ chữ Hypertension trong tiếng Pháp) là một bệnh mạn tính trong đó áp lực máu đo được ở động mạch tăng cao. Huyết áp thường được đo bằng hai chỉ số là: huyết áp tâm thu (systolic) và huyết áp tâm trương (diastolic), dựa trên 2 giai đoạn co bóp và giãn nghỉ của cơ tim, tương ứng với áp lực cao nhất và áp lực thấp nhất của dòng máu trong động mạch. Có nhiều quy chuẩn khác nhau về khoảng bình thường của huyết áp. Huyết áp lúc nghỉ thông thường nằm trong khoảng 100-140mmHg huyết áp tâm thu và 60-90mmHg huyết áp tâm trương. Bệnh nhân bị cao huyết áp khi đo huyết áp của bệnh nhân thường xuyên thấy cao hơn hoặc bằng 140/90 mmHg. Tăng huyết áp được phân loại thành tăng huyết áp nguyên phát và thứ phát. "Tăng huyết áp nguyên phát" chiếm 90–95% số ca tăng huyết áp, dùng để chỉ các trường hợp không xác định được bệnh nguyên gây tăng huyết áp rõ ràng (vô căn). Khoảng 5–10% số ca còn lại (tăng huyết áp thứ phát) có nguyên nhân là một số bệnh tác động lên thận, động mạch, tim, và hệ nội tiết.
Kiến trúc hướng sự kiện ( EDA – Event Driven Architecture ) là một mẫu thiết kế phần mềm cho phép tổ chức phát hiện “sự kiện” hoặc các khoảnh khắc kinh doanh quan trọng (chẳng hạn như giao dịch, lượt truy cập trang web, bỏ qua giỏ hàng, v.v.) và hành động theo thời gian thực hoặc gần thực thời gian. Mẫu này thay thế kiến trúc “yêu cầu / phản hồi” truyền thống, nơi các dịch vụ sẽ phải đợi phản hồi trước khi chúng có thể chuyển sang tác vụ tiếp theo. Luồng của kiến trúc hướng sự kiện được điều hành bởi các sự kiện và nó được thiết kế để phản hồi chúng hoặc thực hiện một số hành động để phản hồi lại một sự kiện. Kiến trúc hướng sự kiện thường được gọi là giao tiếp “không đồng bộ”. Điều này có nghĩa là người gửi và người nhận không phải đợi nhau chuyển sang nhiệm vụ tiếp theo của họ. Hệ thống không phụ thuộc vào một thông điệp đó. Ví dụ: một cuộc gọi điện thoại được coi là đồng bộ hoặc nhiều hơn theo đường của kiến trúc “yêu cầu / phản hồi” truyền thống. Ai đó gọi cho bạn và yêu cầu bạn làm điều gì đó, người yêu cầu đợi trong khi người trả lời hoàn thành nhiệm vụ và sau đó cả hai bên đều cúp máy. Một ví dụ về giao tiếp không đồng bộ sẽ là tin nhắn văn bản. Bạn gửi một tin nhắn và trong một số trường hợp, bạn thậm chí không biết mình đang gửi nó cho ai hoặc có ai đang nghe hay không, nhưng bạn không đợi phản hồi. Trong vài năm qua, đã có một phong trào từ tập trung vào dữ liệu ở trạng thái nghỉ (kiến trúc hướng dịch vụ) sang tập trung vào các sự kiện (kiến trúc hướng sự kiện). Chúng tôi đang chuyển từ việc tích lũy dữ liệu và hồ dữ liệu sang tập trung vào dữ liệu trong chuyến bay và theo dõi nó trong khi nó đang di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Theo truyền thống, hầu hết các hệ thống hoạt động theo mô hình mà bạn có thể nghĩ là mô hình trung tâm dữ liệu, nơi dữ liệu là nguồn chân lý. Việc chuyển sang kiến trúc hướng sự kiện có nghĩa là chuyển từ mô hình trung tâm dữ liệu sang mô hình trung tâm sự kiện. Trong mô hình hướng sự kiện, dữ liệu vẫn quan trọng, nhưng các sự kiện trở thành thành phần quan trọng nhất. Trong khi trong mô hình mô hình hướng dịch vụ, ưu tiên cao nhất là đảm bảo bạn không mất bất kỳ dữ liệu nào. Với kiến trúc hướng sự kiện, ưu tiên là đảm bảo bạn phản hồi các sự kiện khi chúng diễn ra. Bởi vì có một quy luật lợi nhuận giảm dần khi nói đến các sự kiện, chúng càng già đi, chúng càng ít giá trị hơn. Tuy nhiên, ngày nay, kiến trúc hướng dịch vụ và kiến trúc hướng sự kiện thường được sử dụng cùng nhau. Kiến trúc hướng sự kiện thường sử dụng sự tương tự nhật ký để theo dõi mọi thứ. Các nhà phân tích nói về các sự kiện như những điều bất biến đã xảy ra. Và nếu bạn muốn tìm hiểu những gì đã xảy ra trong quá khứ, bạn có thể quay lại và phát lại nhật ký. Trong khi ở mô hình trung tâm dữ liệu, bạn chủ yếu tập trung vào trạng thái của dữ liệu như hiện tại. Và sau đó, phép loại suy cuối cùng mà các nhà phân tích sử dụng khi mô tả sự khác biệt giữa kiến trúc lấy dữ liệu làm trung tâm và sự kiện là họ thường so sánh chúng giữa một kho thông tin và một hệ thống thần kinh mang thông điệp xung quanh doanh nghiệp. Khi sử dụng kiến trúc hướng sự kiện, bạn có các nhà sản xuất sự kiện tạo và gửi thông báo sự kiện và bạn có thể có một hoặc nhiều bên nhận thông tin sự kiện, nơi việc nhận sự kiện sẽ kích hoạt logic xử lý. Ví dụ: giả sử Netflix vừa tải lên một bộ phim mới. Có thể có một số ứng dụng đang lắng nghe hoặc chờ đợi thông báo đó, sau đó kích hoạt hệ thống nội bộ của chính chúng để công bố thông tin của riêng chúng về sự kiện đó cho người dùng của chúng. Điều này khác với nhắn tin trả lời yêu cầu truyền thống ở chỗ các ứng dụng vẫn đang chạy và mặc dù chúng có thể đang lắng nghe sự kiện này nhưng chúng không bị tê liệt trong khi chờ đợi. Và, họ có thể trả lời khi tin nhắn được xuất bản. Do đó, nhiều dịch vụ có thể chạy song song. Một sự kiện được định nghĩa là sự thay đổi trạng thái của một số hệ thống kinh doanh chính. Ví dụ: ai đó mua một sản phẩm, ai đó đăng ký chuyến bay hoặc xe buýt đến nơi nào đó trễ. Và nếu người ta nghĩ về nó, các sự kiện tồn tại ở khắp mọi nơi và liên tục xảy ra, bất kể ngành nào. Chúng có sức lan tỏa trên mọi lĩnh vực kinh doanh. Điều này bao gồm bất kỳ điều gì tạo ra một thông điệp bằng cách được sản xuất, xuất bản, phát hiện hoặc tiêu thụ đều được coi là một sự kiện. Sự kiện tách biệt với thông báo, bởi vì trong khi sự kiện xảy ra, thông báo là thông báo di chuyển chuyển tiếp sự kiện. Trong kiến trúc hướng sự kiện, một sự kiện có thể sẽ kích hoạt một hoặc nhiều hành động hoặc quy trình để đáp ứng với sự xuất hiện của nó. Ví dụ về một sự kiện có thể bao gồm:. Mỗi sự kiện này có khả năng kích hoạt một hoặc nhiều hành động hoặc quy trình để đáp ứng. Một phản hồi có thể đơn giản là ghi lại sự kiện cho các mục đích giám sát. Những người khác có thể là:. Với kiến trúc hướng sự kiện, khi một thông báo sự kiện được gửi đi, hệ thống sẽ nắm bắt được rằng điều gì đó đã xảy ra như thay đổi trạng thái đã xảy ra và chờ gửi câu trả lời cho bất kỳ ai yêu cầu, bất cứ khi nào họ yêu cầu. Ứng dụng đã nhận được thông báo đó có thể phản hồi hoặc chờ phản hồi cho đến khi xảy ra thay đổi về trạng thái mà nó đang chờ đợi. Các ứng dụng được xây dựng dựa trên kiến trúc hướng sự kiện cho phép các ứng dụng kinh doanh kỹ thuật số nhanh nhẹn, có thể mở rộng, theo ngữ cảnh và đáp ứng nhanh hơn. Các thành phần của kiến trúc hướng sự kiện có thể bao gồm ba phần: nhà sản xuất, bên nhận thông tin , nhà môi giới. Người môi giới có thể là tùy chọn, đặc biệt khi bạn có một nhà sản xuất và một bên nhận thông tin duy nhất đang giao tiếp trực tiếp với nhau và nhà sản xuất chỉ gửi các sự kiện cho bên nhận thông tin . Một ví dụ sẽ là một nhà sản xuất chỉ gửi đến cơ sở dữ liệu hoặc kho dữ liệu để các sự kiện được thu thập và lưu trữ để phân tích. Thông thường nhất trong các doanh nghiệp, bạn có nhiều nguồn gửi tất cả các loại sự kiện với một hoặc nhiều bên nhận thông tin quan tâm đến một số hoặc tất cả các sự kiện đó. Hãy xem một ví dụ. Nếu bạn là nhà bán lẻ, bạn có thể thu thập tất cả các giao dịch mua đang diễn ra tại tất cả các cửa hàng của bạn trên toàn thế giới. Bạn đang đưa chúng vào cấu trúc theo hướng sự kiện của mình để theo dõi gian lận, gửi chúng đến bộ xử lý thẻ tín dụng hoặc bất kỳ hành động nào cần xảy ra tiếp theo. Đối với một nhà sản xuất, bạn có tất cả các loại dữ liệu từ thiết bị của bạn để cho bạn biết các sự kiện như nhiệt độ và áp suất để bạn có thể theo dõi các sự kiện này trong thời gian thực và thực hiện các hành động như dự đoán lỗi hoặc lên lịch bảo trì, tùy thuộc vào những gì dữ liệu cho bạn biết . Nhiều ứng dụng hiện đại đang hỗ trợ nhanh chóng các kiến trúc hướng sự kiện. Tại sao thế này? Họ cung cấp những lợi ích gì?. Kiến trúc hướng sự kiện là một cách tiếp cận kiến trúc. Các ứng dụng được viết bằng bất kỳ ngôn ngữ nào trên bất kỳ nền tảng nào đều có thể sử dụng mẫu kiến trúc này. Ở đây, chúng ta sẽ khám phá một số lợi thế của việc áp dụng kiến trúc hướng sự kiện. Hệ thống sử dụng kiến trúc hướng sự kiện tách các thành phần trong hệ thống, phân tách quyền sở hữu dữ liệu theo miền. Sự tách rời này cho phép phân tách hợp lý giữa sản xuất và tiêu thụ các sự kiện. Bên Event Publish không cần quan tâm đến việc các sản phẩm mà họ sản xuất sẽ được tiêu thụ như thế nào (vì vậy có thể thêm bên nhận thông tin mà không ảnh hưởng đến Bên Event Publish ). bên nhận thông tin không cần quan tâm đến việc chúng được sản xuất như thế nào. Do khớp nối lỏng lẻo này, các microservices có thể được thực hiện bằng các ngôn ngữ khác nhau hoặc sử dụng các công nghệ khác nhau và phù hợp với các công việc cụ thể. Việc tách các thành phần của một ứng dụng cũng cho phép chúng được chia tỷ lệ dễ dàng và độc lập với nhau trên toàn mạng. Các nhà phát triển có thể sửa đổi hệ thống của họ bằng cách thêm hoặc xóa động các nhà sản xuất sự kiện và bên nhận thông tin mà không cần thay đổi bất kỳ logic nào trong bất kỳ dịch vụ vi mô nào.
Lập trình hướng sự kiện
Trong lập trình máy tính, lập trình hướng sự kiện (tiếng Anh: Event-driven programming) là một mô hình lập trình trong đó luồng của chương trình được xác định bởi các sự kiện như hành động người dùng (nhấp chuột, bấm phím), đầu ra cảm biến, hoặc thông điệp từ các chương trình hoặc các luồng. Lập trình hướng sự kiện là mô hình chi phối được sử dụng trong giao diện người dùng đồ họa và các ứng dụng khác (ví dụ: ứng dụng web JavaScript) tập trung vào việc thực hiện một số hành động nhất định để đáp ứng đầu vào của người dùng. Điều này cũng đúng với lập trình cho trình điều khiển thiết bị (ví dụ: P trong ngăn xếp trình điều khiển thiết bị USB).Trong một ứng dụng hướng sự kiện, thường có một vòng lặp chính lắng nghe các sự kiện và sau đó kích hoạt hàm callback khi một trong những sự kiện đó được phát hiện. Trong các hệ thống nhúng, điều tương tự có thể đạt được bằng cách sử dụng ngắt phần cứng thay vì một vòng lặp chính chạy liên tục. Các chương trình hướng sự kiện có thể được viết bằng bất kỳ ngôn ngữ lập trình nào, mặc dù nhiệm vụ dễ dàng hơn trong các ngôn ngữ cung cấp sự trừu tượng hóa ở mức độ cao, chẳng hạn như await và closure.
Thuật ngữ hiếp dâm trong hôn nhân (Marital Rape) nghe có vẻ xa lạ đối với nhiều người. Bởi, vẫn có một lầm tưởng vô cùng phổ biến và tai hại là nếu bạn đã kết hôn, tình dục là nghĩa vụ, là sự đồng thuận triệt để và không ngoại lệ. Tại sao quan niệm này lại là một lầm tưởng, mời các bạn cùng tìm hiểu những thông tin dưới đây cùng Nhà Nhiều Cột nhé!. Hiếp dâm trong hôn nhân (Marital Rape) là thuật ngữ dùng để chỉ hành vi quan hệ tình dục với người phối ngẫu (vợ/chồng) mà không có sự đồng ý của người đó. Nạn nhân của hiếp dâm trong hôn nhân thường là phụ nữ, nhưng không loại trừ nạn nhân là nam giới trong mối quan hệ dị tính và sự gia tăng của nạn hiếp dâm trong hôn nhân đồng tính những năm gần đây. Mặc dù việc một người đàn ông ép buộc một người phụ nữ không phải là vợ mình quan hệ tình dục luôn là bất hợp pháp, nhưng mãi cho đến gần đây mới gia tăng sự công nhận việc người chồng ép buộc vợ mình quan hệ tình dục cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, hiếp dâm trong hôn nhân hoặc vẫn nằm ngoài luật hình sự, hoặc là bất hợp pháp nhưng được dung thứ rộng rãi. Luật pháp hiếm khi được thực thi, do các yếu tố từ sự miễn cưỡng của chính quyền để theo đuổi tội phạm, cho đến sự thiếu hiểu biết công khai rằng quan hệ tình dục trong hôn nhân mà không có sự đồng thuận là bất hợp pháp. Lợi ích của công chúng trong việc thúc đẩy quyền riêng tư và hòa hợp trong các mối quan hệ hôn nhân, điều này không khuyến khích nhà nước can thiệp vào các mối quan hệ. Năm 1736, trong Lịch sử các cuộc hoan lạc của vương miện (History of the Pleas of the Crown), Chánh án Anh Quốc Matthew Hale đã viết: “Người chồng không thể phạm tội hiếp dâm đối với người vợ hợp pháp của anh ấy vì sự đồng ý của hai bên trong hôn nhân và thỏa thuận của người vợ về việc dâng cơ thể mình cho người chồng, thỏa thuận mà cô ấy không thể rút lại”. Tuyên bố này thiết lập quan niệm rằng, một khi đã kết hôn, người phụ nữ không có quyền được từ chối quan hệ tình dục. Tình dục được xem là bổn phận, nghĩa vụ của một phụ nữ đối với chồng, triệt để và không ngoại lệ. Lý luận này được chấp nhận rộng rãi và không bị thách thức ở hầu hết các nước phương Tây cho tới những năm 1970, dưới ảnh hưởng của làn sóng nữ quyền thứ hai, các nhóm quyền phụ nữ đã khởi xướng phong trào chống hiếp dâm dẫn đến sự thừa nhận quyền tự quyết của người phụ nữ (tức là kiểm soát) mọi vấn đề liên quan đến cơ thể của cô ấy và rút lại sự miễn trừ hoặc bảo vệ hiếp dâm trong hôn nhân (Bidwell & White, 1986; Finkelhor & Yllo, 1985). Tình dục là một yếu tố quan trọng để duy trì mối quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là kết hôn là bạn được tự do yêu cầu người bạn đời “phục vụ” nhu cầu tình dục của mình bất cứ khi nào bạn muốn. Kết hôn cũng không có nghĩa là bạn bắt buộc phải “đáp ứng” bất cứ khi nào bạn đời yêu cầu. Nên nhớ, hôn nhân không phải là nơi bạn trở thành tài sản của ai đó. Người duy nhất có quyền quyết định đối với cơ thể bạn là chính bạn. Đó không phải đặc quyền dành cho một giới tính cụ thể nào. Đó là quyền con người. Và khi bị hiếp dâm, quyền con người bị phủ định vì thủ phạm đã hạ thấp nạn nhân xuống thành công cụ để thoả mãn cái tôi của mình. Nếu có một người nào đó biện minh cho tội hiếp dâm trong hôn nhân thì lý luận của người đó có thể được diễn giải như sau: “Đó không phải là hiếp dâm, bởi vì chúng tôi đã kết hôn, cô ấy/anh ấy đã từ bỏ quyền để nói không của mình từ lúc chúng tôi bước vào lễ đường”. Như vậy, giấy đăng ký kết hôn có khác gì “giấy phép hiếp dâm” giúp đối tượng trốn tránh mọi khả năng bị truy tố?. Hiếp dâm trong hôn nhân vẫn được coi là một tội nhẹ hơn so với các hình thức khác của hiếp dâm, hoặc thậm chí được nhìn nhận là một tội hiếp dâm “không thực chất”. Điều đáng buồn là vẫn tồn tại câu hỏi “phụ nữ sau khi kết hôn có được tự quyết đối với cơ thể họ hay không?”. Cần nhớ rằng, phụ nữ dù kết hôn hay không họ vẫn là con người, và con người có toàn quyền quyết định đối với cơ thể của mình. Trọng tâm của vấn đề phải là: Nếu là quan hệ tình dục không có sự đồng thuận, đó chính là hiếp dâm. Không nên có bất kỳ sự phân biệt pháp lý nào giữa hiếp dâm trong hôn nhân và các hình thức hiếp dâm khác. Luật pháp không công nhận về tội hiếp dâm trong hôn nhân là một lỗ hổng nghiêm trọng ngó lơ những trải nghiệm đau đớn của nạn nhân trong các mối quan hệ lạm dụng. Kể từ Tuyên bố về Bạo lực đối với Phụ nữ (1993) và Hội nghị Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ tại Bắc Kinh (1995), nhiều quốc gia đã ban hành luật để hình sự hóa các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ, bao gồm cả hiếp dâm trong hôn nhân, để bảo vệ quyền và sự an toàn của phụ nữ. Theo UN Women, cho tới năm 2011, có 52 quốc gia đã sửa đổi luật pháp của họ để dứt khoát biến việc hiếp dâm trong hôn nhân thành một tội hình sự. Và việc tạo ra một môi trường pháp lý như vậy không ngăn chặn tất cả các vụ hành hung, nhưng chúng góp phần tạo nên một nền văn hóa, nhìn ở bình diện, mà bạo lực tình dục trở thành hành vi không thể chấp nhận được cũng như góp phần thay đổi nhận thức của xã hội về quyền phụ nữ. Tội danh này không quy định chủ thể đặc biệt, không loại trừ trường hợp chủ thể là vợ/chồng. Bởi vậy, một người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực hành vi dân sự mà thực hiện hành vi như trên thì sẽ bị xử lý hình sự về tội hiếp dâm. Hay nói cách khác, nếu chồng/vợ ép buộc vợ/chồng của mình quan hệ tình dục trái ý muốn thì nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm và tùy vào mức độ vụ việc, người này có thể phải ngồi tù với khung hình phạt cao nhất là tù chung thân và nhẹ nhất là 02 năm tù. Tuy nhiên, thực tiễn ở một số địa phương cũng như phản ánh của các kênh thông tin, truyền thông cho thấy, tình trạng xâm hại tình dục trong quan hệ hôn nhân xảy ra ngày càng nhiều và ít khi bị tố cáo, đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Nhiều người vẫn cho rằng, kể cả tình dục không có sự đồng thuận trong hôn nhân thì vẫn là chuyện “trong nhà” và không khuyến khích sự can thiệp của cộng đồng và nhà nước. Hoặc, nếu có thực sự xảy ra việc xâm hại tình dục trong hôn nhân thì đây là vấn đề của bạo lực gia đình chứ không phải tội phạm hình sự. NhàNhiềuCột là một chiến dịch xã hội được khởi xướng và thực hiện bởi CARE Quốc tế tại Việt Nam và Tuva Communication, được tài trợ bởi Investing in Women, một sáng kiến của chính phủ Úc.
Hiếp dâm trong hôn nhân
Hiếp dâm trong hôn nhân hoặc hiếp dâm vợ hoặc chồng là hành vi quan hệ tình dục với người phối ngẫu mà không có sự đồng ý của người đó. Sự thiếu đồng ý là yếu tố thiết yếu và không cần liên quan đến bạo lực thể xác. Hiếp dâm trong hôn nhân được coi là một hình thức bạo lực gia đình và lạm dụng tình dục. Trong lịch sử mặc dù quan hệ tình dục trong hôn nhân được coi là quyền của vợ chồng, tham gia vào hành động mà không có sự đồng ý của người phối ngẫu hiện được nhiều xã hội trên thế giới coi là cưỡng hiếp, bị các công ước quốc tế từ chối và ngày càng bị hình sự hóa. Các vấn đề bạo lực tình dục và gia đình trong hôn nhân và đơn vị gia đình, và đặc biệt hơn là vấn đề bạo lực đối với phụ nữ, đã trở nên ngày càng được quốc tế chú ý từ nửa sau thế kỷ 20. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, hiếp dâm trong hôn nhân hoặc vẫn nằm ngoài luật hình sự, hoặc là bất hợp pháp nhưng được dung thứ rộng rãi.
Xi măng là chất kết dính thủy lực – một loại vật liệu mà khi trộn với nước sẽ có khả năng tự rắn chắc, dù ở trong môi trường không khí hoặc môi trường nước. Tuy nhiên, bài viết này không những trả lời cho câu hỏi xi măng là gì, mà còn mang đến những khía cạnh cần phải biết về các tiêu chuẩn liên quan. Vữa hồ xi măng đã đóng rắn có khả năng chịu nước và có cường độ cao. Đối với các loại bê tông không có yêu cầu đặc biệt, loại xi măng thông dụng nhất tại Việt Nam là xi măng Portland hỗn hợp, loại PCB40, tuân thủ theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 6260). Đối với các ứng dụng vữa, hồ và bê tông dân dụng cho các công trình nhỏ, sản phẩm xi măng mác thấp hơn (PCB30) cũng được sử dụng. Một vài loại vật liệu được sử dụng để trộn trong xi măng như là: đá vôi, puzzolan hay xỉ lò cao, việc lựa chọn vật liệu trộn phụ thuộc vào nguồn vật liệu sẵn có ở mỗi vùng. Xi măng xỉ lò cao (TCVN 4316, ASTM C1157, EN 197-1 CEM III) nhưng không được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam như là xi măng thông dụng. Phương pháp thí nghiệm tuân theo tiêu chuẩn Việt Nam tương tự như với tiêu chuẩn châu Âu (EN), chỉ khác về yêu cầu nhiệt độ phòng thí nghiệm (27oC thay vì 20oC) cho phù hợp với điều kiện khí hậu tại Việt Nam. Tiêu chuẩn ASTM sử dụng hệ thống phương pháp thí nghiệm và các yêu cầu kỹ thuật hoàn toàn khác so với 2 hệ thống tiêu chuẩn TCVN/EN (không thể so sánh). Tại Việt Nam, phần lớn các phòng thí nghiệm vật liệu xây dựng trung lập đều được trang bị đầy đủ các thiết bị thí nghiệm tuân theo hệ thống tiêu chuẩn TCVN & ASTM, nhưng không tuân theo tiêu chuẩn EN. Mỗi một bước của quy trình sản xuất xi măng, từ khai thác mỏ cho đến vận chuyển xi măng đi tiêu thụ, mẫu vật liệu đều được lấy để phân tích kiểm nghiệm. Không có sự sai lệch trong sản xuất đảm bảo cho xi măng có sự ổn định và chất lượng cao. Phương pháp kiểm tra xi măng được mô tả trong tiêu chuẩn TCVN 6017 : 1995 và ISO 9597 : 2008. Hầu hết các nhà máy xi măng đều xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng được chứng nhận tuân theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2008. Bên cạnh đó, một số nhà máy cũng có phòng thí nghiệm để kiểm tra chất lượng xi măng được chứng nhận thuộc hệ thống VILAS và tuân theo tiêu chuẩn ISO 17025. Điều này đảm bảo quá trình hoạt động của nhà máy được chuẩn hóa, minh bạch và dễ kiểm soát. Thử nghiệm nội bộ được bổ sung bởi các kiểm nghiệm từ đơn vị trung lập bên ngoài. Kiểm nghiệm bên ngoài được thực hiện bởi một viện kiểm nghiệm đã được công nhận. Ở miền nam Việt Nam, Trung tâm thử nghiệm và đảm bảo chất lượng 3 (QUATEST 3) là trung tâm kiểm nghiệm được biết đến nhiều nhất. Ngoài ra, từ tháng 11 năm 2012, các loại xi măng ở Viêt Nam phải được dán nhãn dấu hợp quy CR. Nếu xi măng không được bảo quản tốt trong một thời gian dài, nó sẽ hút ẩm, đây là nguyên nhân làm cho xi măng bị vón cục và có thể làm giảm khả năng phát triển cường độ. Nếu cục xi măng có thể bị bóp vỡ bằng tay thì khả năng mất cường độ sẽ không đáng kể. Xi măng có thể được lưu trữ trong bao hoặc trong si-lô trong một thời gian giới hạn. Xi măng bao nên được lưu trữ ở nơi khô ráo là tốt nhất. Bao xi măng xếp chồng lên nhau và để ngoài trời trong một thời gian ngắn cũng phải được đặt trên tà vẹt gỗ cho thông hơi. Tấm bạt nhựa bọc bên ngoài cũng không được tiếp xúc trực tiếp với các bao xi măng vì nước đọng lại trên tấm bạt nhựa có thể làm ướt chúng. Các nội dung chia sẽ về bản chất vật liệu được đúc kết từ hơn 10 năm kinh nghiệm. Song song, các tin tức thị trường vật liệu chuyển biến trong nước và quốc tế. Các nội dung chia sẽ về bản chất vật liệu được đúc kết từ hơn 10 năm kinh nghiệm. Song song, các tin tức thị trường vật liệu chuyển biến trong nước và quốc tế. Các lĩnh vực được chia sẽ gồm: Bê tông, xi măng, keo (dán gạch - silicon), sơn, epoxy, xây dựng, nhôm kính, phụ gia bê tông, tro bay, xỉ, cách âm.
Xi măng
Xi măng (từ tiếng Pháp: ciment) là một loại chất kết dính thủy lực, được dùng làm vật liệu xây dựng. Xi măng được tạo thành bằng cách nghiền mịn clinker, thạch cao thiên nhiên và phụ gia (vỏ sò, đất sét). Khi tiếp xúc với nước thì xảy ra các phản ứng thủy hóa và tạo thành một dạng hồ gọi là hồ xi măng. Tiếp đó, do sự hình thành của các sản phẩm thủy hóa, hồ xi măng bắt đầu quá trình ninh kết sau đó là quá trình hóa cứng để cuối cùng nhận được một dạng vật liệu có cường độ và độ ổn định nhất định. Vì tính chất kết dính khi tác dụng với nước, xi măng được xếp vào loại chất kết dính thủy lực. Thật ra xi măng trong xây dựng có thể là thủy lực hoặc không thủy lực. Các loại xi măng thủy lực tỉ như xi măng Portland cứng lại dưới tác động của nước do quá trình hydrat hóa khoáng vật, ở đây các phản ứng hóa học diễn ra không phụ thuộc vào lượng nước trong hỗn hợp nước-xi măng; loại xi măng này có thể giữ được độ cứng khi đặt chìm trong nước hoặc thường xuyên tiếp xúc với nước.
Rau mầm chứa nhiều chất dinh dưỡng và chất xơ cần thiết cho cơ thể. Có rất nhiều loại hạt có thể trồng rau mầm, tuy nhiên bạn cần biết loại rau mầm nào nên trồng và trồng như thế nào để đảm bảo sức khỏe cho cả nhà. Rau mầm có thời gian trồng ngắn từ 5-7 ngày là có thể thu hoạch. Loại rau này dễ ăn, có chứa nhiều các chất có lợi cho sức khỏe như vitamin, chất đạm, các enzym có ích. Các loại rau mầm phổ biến thường được trồng như củ cải, rau muống, cải bẹ…. Ăn rau mầm thường xuyên giúp mang lại 1 số lợi ích cho cơ thể như Mọc tóc, cung cấp chất xơ, protein, ngừa ung thư, bổ sung chất khoáng. Mùi vị của rau mầm cũng thơm ngon hơn các loại rau thông thường. Bạn chỉ cần dùng một lượng nhỏ rau mầm mỗi ngày cũng đủ để cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể và là một món ăn thay đổi khẩu vị tuyệt vời. Rau mầm là những cây non mới mọc mầm sống không cần đất. Hầu hết các trường hợp hạt giống tự nhiên đều đủ dinh dưỡng để nảy mầm và ra hai lá mầm nhỏ trước khi cần ánh sáng và đất để phát triển. Rau mầm rất mọng nước, mềm và được sử dụng toàn cây, bao gồm cả lá, thâm và dễ mầm sạch. Rau mầm cũng là lựa chọn tuyệt dùng làm bánh sandwich và salad. Nên chọn hạt giống chuyên để trồng rau mầm có nguồn gốc rõ ràng. Tuyệt đối không mua các loại hạt giống rau thông thường hoặc không rõ nguồn gốc, xuất xứ vì những loại hạt giống này thường chứa chất bảo quản. Qua nhiều thử nghiệm khoa học giá thể đi từ bụi xơ dừa đã được xử lý là tốt nhất do đặc tính ưu việt của nó. Lượng sử dụng rất ít cho mỗi lần trồng và có thể tái sử dụng nhiều lần. Nếu lấy khay xốp (40cm x 50cm x 7cm) làm định mức thì cần 2kg giá thể và 30 - 40g hạt giống là đủ. Người ta thường sử dụng xơ dừa để làm giá thể trồng rau mầm vì nó có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng và nó nhẹ nên dễ vận chuyển, sử dụng. Có thể sử dụng nhiều loại vật liệu khác nhau. Nhưng tiện lợi và dễ sử dụng nhất là khay xốp. Tùy theo kích thước của khay mà đóng kệ có kích thước cho phù hợp. Có thể đóng kệ gỗ hoặc kệ sắt. Dùng giấy mềm để lót lên bề mặt giá thể trước khi gieo hạt để sau khi thu hoạch không bị dính giá thể vào rau. Bìa dùng để đậy lên bề mặt của khay trong 1 – 2 ngày đầu mới gieo hạt. Phải sử dụng bình tưới có vòi phun sương để tưới. Các bước tiến hành trồng rau. Chỉ nên lấy khoảng 2 – 3 muỗng nhỏ hạt giống vì sau đó cây mầm sẽ phát triển và chiếm đủ diện tích của lọ và khay trồng của bạn. Hạt giống rửa sạch ngâm nước ấm (45÷500C) trong thời gian 2÷5h (tùy loại hạt: hạt dày vỏ ngâm lâu, hạt mỏng vỏ ngâm thời gian ít hơn). Ngâm hạt giống để sau khi ngâm ta có thể loại bỏ được các loại hạt lép, hạt sâu. Sau đó vớt ra để ráo. Mục đích của việc để ráo hạt là để dễ dàng khi gieo. Khay xốp cho giá thể vào dày khoảng 2÷3cm. Làm cho bề mặt bằng phẳng để tránh bị dồn hạt khi gieo. Sau đó phun nước cho ướt giá thể. Trải giấy thấm lên trên bề mặt giá thể và phun nước lần 2. Mục đích của việc trải giấy thấm là để giá thể không bám vào cây gây bẩn khi thu hoạch. Gieo hạt giống bằng tay đều lên bề mặt giá thể. Mật độ gieo tùy thuộc vào loại hạt giống, nhưng trung bình khoảng 10gr hạt / 40cm2 bề mặt giá thể. Tưới phun nhẹ một lần nữa. Dùng một tấm bìa cứng đậy bề mặt khay trong 2 ngày. Sau 2 - 3 ngày hạt nảy mầm đều, chuyển khay ra nơi có nhiều ánh sáng hoặc nắng nhẹ, tránh ánh sáng trực tiếp và mưa trực tiếp. Tưới nước mỗi ngày bằng bình phun, ngày 2 lần buổi sáng sớm và buổi chiều mát, tưới phun sương đều trên mặt khay.Bước 5: Thu hoạch. Dùng dao bén cắt sát gốc cây rau mầm (hoặc nhổ rau lên khỏi mặt đất, dùng kéo cắt bỏ rễ). Rửa lại bằng nước sạch và sử dụng được ngay. Chú ý: nếu rau chưa sử dụng liền thì không nên rửa mà cho vào bao để trong ngăn mát của tủ lạnh.Có thể bảo quản trong tủ lạnh 3 - 5 ngày. Rau mầm phải trồng ở nơi thoáng mát có nhiều ánh sáng nhưng không trồng ở nơi có ánh nắng, mưa trực tiếp và gió lùa. 1 đến 2 ngày sau khi gieo giở giấy Carton ra, tưới phun sương nhẹ vừa đủ ướt mặt khay. 1 ngày trước khi thu hoạch giảm tưới hoặc ngưng tưới hẳn tùy theo mức độ ẩm của giá thể. Một số loại rau, củ khi nảy mầm sẽ sinh ra độc tố có hại cho sức khỏe con người, gây bệnh ung thư hoặc thậm chí ngộ độc. Vì thế, đối với một số loại mầm sau đây, bạn tuyệt đối không nên trồng:. Rau mầm có khả năng làm giảm lượng axit trong cơ thể vì chúng có tính kiềm (đây là một trong những nguyên nhân gây nên ung thư). Đồng thời, trong tất cả các loại rau mầm đều có chứa chất glucosinonates (GSL), khi chúng ta nhai rau mầm trong miệng, chất này sẽ biến đổi thành isothiocyanates (ITC) có tác dụng giúp chơ thể chống lại sự phát triển của các tế bào ung thư. Nên sử dụng rau mầm thường xuyên trong các bữa ăn hàng ngày để đảm bảo không mắc phải các chứng bệnh ung thư nguy hiểm. Thời gian gần đây do công việc bận rộn kèm theo lối sống hối hả đã khiến không ít người bị stress và dẫn đến tình trạng rụng tóc không hồi kết. Đây là điều khiến cho cả chị em và cánh đàn ông đều mất tự tin khi giap tiếp ngoài xã hội. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng rụng tóc là do các tế bào gốc trong cơ thể sản sinh khi chúng ta bị căng thẳng, cơ thể mệt mỏi. Vì vậy, mỗi ngày bạn nên dùng rau mầm để tình trạng này giảm dần. Vitamin C dồi dào trong rau mầm có tác dụng phá hủy các tế bào gốc tự do này, ngăn chặn rụng tóc và kích thích tóc mọc nhiều hơn, đều hơn. Quá trình tuần hoàn máu rất quan trọng trong cơ thể, nó giúp lưu thông máu đến não, tim và các cơ quan khác để cơ thể hoạt động. Ăn rau mầm thường xuyên giúp tăng cường tuần hoàn máu, giúp cung cấp máu đến não, tim. nhanh chóng mà không gặp phải bất kì trở ngại nào. Từ đó, giúp tăng năng suất làm việc của cơ thể và sự phát triển của các tế bào. Rau mầm vốn được sản xuất từ hạt của các loại đậu, ngũ cốc hoặc rau xanh, mà protein từ các loại hạt này vốn đã rất dồi dào. Sau khi trải qua quá trình ngâm và nảy mầm thành rau mầm thì protein này được cải thiện hơn, mang đến lượng dinh dưỡng dồi dào hơn, tốt hơn rất nhiều. Những khi cơ bắp mệt mỏi, không hoạt động được chỉ cần ăn rau mầm thì protein sẽ giúp hình thành và phục hồi lại lượng cơ bắp đã mất.
Rau mầm
Rau mầm là rau được canh tác trong thời gian ngắn, thu hoạch sau chỉ 10 đến 100 ngày sau khi gieo hạt. Rau mầm dễ tiêu hóa, có nhiều vitamin, chất khoáng hữu cơ, amino acid, chất đạm, các enzym có ích, và các chất phytochemical, do các chất này cần thiết để cho cây mới nảy mầm có thể phát triển. Các chất dinh dưỡng này rất quan trọng đối với sức khỏe con người.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) là một mô hình kinh doanh tự điều chỉnh giúp một công ty có trách nhiệm với xã hội — đối với chính nó, các bên liên quan và công chúng. Bằng cách thực hành trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, còn được gọi là tư cách công dân của doanh nghiệp, các công ty có thể nhận thức được loại tác động mà họ đang có đối với tất cả các khía cạnh của xã hội, bao gồm kinh tế, xã hội và môi trường. Tham gia vào CSR có nghĩa là, trong quá trình kinh doanh thông thường, một công ty sẽ hoạt động theo cách thúc đẩy phát triển xã hội và môi trường, thay vì đóng góp tiêu cực cho chúng. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một khái niệm rộng có thể có nhiều hình thức tùy thuộc vào công ty và ngành. Thông qua các chương trình CSR, hoạt động từ thiện và các nỗ lực tình nguyện, các doanh nghiệp có thể mang lại lợi ích cho xã hội đồng thời quảng bá thương hiệu của mình. CSR có tầm quan trọng đối với cả cộng đồng cũng như đối với một công ty. Các hoạt động CSR có thể giúp hình thành mối quan hệ bền chặt hơn giữa người lao động và công ty, thúc đẩy đạo đức và giúp cả nhân viên và người sử dụng lao động cảm thấy gắn kết hơn với thế giới xung quanh. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là quan trọng đối với cả người tiêu dùng và công ty. Starbucks là công ty đi đầu trong việc tạo ra các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nhiều khía cạnh kinh doanh của mình. Các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một cách tuyệt vời để nâng cao đạo đức tại nơi làm việc.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (tiếng Anh: Corporate social responsibility, viết tắt: CSR) là một dạng hoạt động có quy tắc được các doanh nghiệp tự đưa ra nhằm giúp doanh nghiệp đóng góp cho các mục tiêu xã hội dưới vai trò là một doanh nghiệp nhân đạo, hoạt động vì cộng đồng bằng cách tham gia, hỗ trợ các hoạt động tình nguyện hoặc thực hiện những hoạt động mang tính đạo đức. Trước đây, thuật ngữ này từng được hiểu như là một chính sách nội bộ riêng của một tổ chức hay một chiến lược đạo đức kinh doanh, nhưng điều này không còn chính xác bởi sự phát triển của rất nhiều những bộ luật quốc tế và cả việc hàng loạt các tổ chức đã sử dụng khả năng của mình để đưa thuật ngữ này vươn ra khỏi việc chỉ là một sáng kiến hay lý tưởng của vài cá nhân hay thậm chí là của một ngành nghề kinh doanh nhất định. Sau đó, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) được coi như là một cách tự điều chỉnh của doanh nghiệp, tuy nhiên, trong khoảng một thập kỷ trở lại đây, ý nghĩa của thuật ngữ này đã dần thay đổi, không còn chỉ là những quyết định mang tính tự nguyện dưới cấp độ của một cá thể tổ chức nào đó, mà đã trở thành một chính sách bắt buộc phải có của bất cứ tổ chức nào dù ở tầm cỡ khu vực, quốc gia hay quốc tế.
Chi phí chìm (tiếng Anh là sunk cost) là một khoản chi phí đã được thanh toán và không thể phục hồi. Trong kinh doanh, chi phí chìm được hiểu là chi phí gần như bị mất hẳn hoàn toàn sau khi đầu tư, và việc tái đầu tư không giúp cho việc hoàn vốn. Đối với hoạt động doanh nghiệp, chi phí chìm là những chi phí đã phát sinh do những quyết định sai lầm trong quá khứ. Doanh nghiệp luôn phải chịu chi phí này dù lựa chọn bất kỳ phương án nào. Bởi vậy, khi lựa chọn các phương án khác nhau, chi phí chìm không được đưa ra xem xét, nó không thích hợp cho việc đưa ra những quyết định. - Bạn đặt mua một chiếc vé xem phim với giá 120.000 VNĐ trước và không thể trả lại, thì giá của chiếc vé xem phim kia trở thành chi phí chìm. Nếu bạn quyết định không đi xem nữa thì sẽ không có cách nào khác để đòi lại số tiền mua vé mà bạn đã trả. - Một doanh nghiệp A chế tạo cho công ty B một chiếc máy với giá thành thực tế là 100 triệu đồng. Đến thời điểm giao hàng, công ty B đã bị phá sản. Lúc này dù doanh nghiệp A lựa chọn phương án nào (thanh lý lại chiếc máy hay cải tạo sửa chữa theo đề nghị của một khách hàng khác) thì số tiền 100 triệu đồng đã bỏ ra cũng không lấy lại được nữa, vì vậy 100 triệu đồng chính là chi phí chìm. Chi phí không thể tránh. Tất cả các loại chi phí rủi ro đều có thể biến thành chi phí chìm. Chi phí chìm thuộc loại chi phí không kiểm soát được. Với loại chi phí này, nhà quản trị không thể dự đoán chính xác mức phát sinh của nó trong kỳ hoặc không có đủ thẩm quyền để ra quyết định về loại chi phí này. Các loại chi phí rủi ro nếu không có sự cân nhắc đều có thể biến thành chi phí chìm. Trong khi đó chi phí chìm lại không thích hợp, luôn bị loại bỏ khi đưa ra quyết định. Bởi vậy, đối với các nhà quản trị, hoạt động kinh doanh cần áp dụng các biện pháp giảm bớt chi phí chìm. Một số biện pháp có thể áp dụng sau đây:. Cần xem xét, cân nhắc và lên kế hoạch chi phí cũng như các vấn đề có thể phát sinh trước khi ra quyết định chi tiêu hay lựa chọn một phương án nào đó. Đánh giá thường xuyên chi phí chìm thông qua các biểu mẫu. Điều này giúp các doanh nghiệp nhận diện được các chi phí chìm, từ đó có hướng xử lý, giải quyết vấn đề nhằm tránh việc các quyết định bị chi phối bởi chi phí chìm. Như vậy chi phí chìm trong kinh tế học nói chung và trong kinh doanh nói riêng là loại chi phí cần nắm rõ. Hy vọng qua bài viết này bạn đã hiểu về chi phí chìm cũng như đặc điểm và cách để giảm bớt loại chi phí này. góp phần ủng hộ chúng tôi tiếp tục xây dựng nội dung chất lượng hơn.
Chi phí chìm
Chi phí chìm là chi phí đã xảy ra và không thể thay đổi được bởi bất kỳ quyết định nào trong hiện tại và tương lai. Bởi tính không thể thay đổi nên nó không phải là chi phí khác biệt. Theo nguyên tắc về quyết định khi cân nhắc, so sánh chi phí, chỉ có chi phí khác biệt là quan trọng trong việc ra quyết định nên chi phí chìm có thể bỏ qua.
Phương pháp học ngoại ngữ Pimsleur là phương pháp học ngoại ngữ dựa trên việc nghe. Được phát triển bởi Paul Pimsleur, nó đề cao việc chủ động trong việc học hơn là việc học vẹt, ghi nhớ một cách máy móc. Xuyên suốt các bài học, người nghe lặp lại các từ/ cụm từ được nói bởi người bản ngữ và sau đó tự mình xây dựng nên những cụm từ mới dựa trên những điều đã học. Trong khi nghe các cụm từ mới, người nghe cũng được yêu cầu lặp lại các cụm từ đã nghe trước đó. Yêu cầu về việc nói ra các cụm từ đã học được lặp lại trong suốt chương trình học. Khi đang dạy học tại trường Đại học California, Los Angeles từ năm 1963 đến năm 1971, Pimsleur tạo ra các chương trình học tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức và tiếng Akan. Phương pháp Pimsleur chú trọng đến việc nói và đọc. Hai kỹ năng này được mài giũa qua những bài học kéo dài 30 phút. Bài học được xem là hoàn tất nếu người nghe hiểu được 80% nội dung. Trong các bài học, học viên được nghe những người bản ngữ hướng dẫn, có cả người nói tiếng mẹ đẻ của học viên và người bản ngữ của ngôn ngữ đang học. Tại những khoảng thời gian định trước, học viên được yêu cầu lặp lại các từ/ cụm từ đã được nghe trước đó. Trong khi học, số lượng từ vựng tăng dần. Chương trình còn có các bài học đọc ngắn. Pimsleur phát triển chương trình dựa trên 4 nguyên tắc mà theo ông là quan trọng trong việc ghi nhớ bài học. Các chương trình học ngoại ngữ thông thường hay yêu cầu học viên lặp lại lời nói của người hướng dẫn, nhưng Pimsleur cho rằng cách học này không đủ mạnh để tạo ra hiệu quả tốt. Pimsleur tạo ra kỹ thuật “hỏi và đáp”, nghĩa là học viên được yêu cầu lập tức dịch một câu qua ngoại ngữ đang học. Kỹ thuật này buộc học viên phải chủ động hơn, buộc phải suy nghĩ trước khi trả lời. Pimsleur cho rằng nguyên tắc thúc đẩy này phản ánh một cuộc nói chuyện ngoài đời thật khi mà người nói chuyện phải nhanh chóng nói ra được một câu. Đây là phương pháp ôn lại các từ vựng đã học theo những khoảng thời gian tăng dần. Ví dụ như nếu một học viên được học từ two (từ tiếng Anh có nghĩa là hai), thì từ two này được kiểm tra sau đó khoảng vài giây, sau đó là vài phút, rồi vài giờ, rồi vài ngày sau. Mục tiêu của việc kiểm tra là giúp cho từ vựng này được lưu vào bộ nhớ dài hạn. Năm 1967, Pimsleur đã định các khoảng thời gian như sau: 5 giây, 25 giây, 2 phút, 10 phút, 1 giờ, 5 giờ, 1 ngày, 5 ngày, 25 ngày, 4 tháng, 2 năm. Phương pháp Pimsleur chú trọng việc dạy các từ thông dụng nhất nhằm xây dựng nên hệ thống từ vựng cốt lõi của một ngôn ngữ. Việc thống kê các từ được sử dụng hàng ngày đã chỉ ra rằng chỉ một số ít các từ thông dụng nhất đã đóng góp phần lớn cho nội dung giao tiếp hàng ngày. Ví dụ như, trong tiếng Anh, 2000 từ vựng tạo nên 80% các văn bản. Các khóa học ngôn ngữ Pimsleur sử dụng trung bình 500 từ vựng trong mỗi học phần (gồm 30 bài học). Một số ngôn ngữ có 4 học phần trong khi số khác chỉ có 1 học phần. Phương pháp Pimsleur không bao giờ dạy ngữ pháp một cách trực tiếp. Thay vào đó, ngữ pháp được dạy thông qua những cấu trúc và cụm từ được nhắc sau những khoảng thời gian tăng dần. Pimsleur nói rằng đây là cách mà một đứa trẻ học ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ. Chương trình học chỉ dựa vào việc nghe. Pimsleur cho rằng việc học chỉ dựa trên nghe và nói khác hẳn với việc học dựa trên đọc và viết. Ông ấy cho rằng phương pháp của mình là tự nhiên. Nó dạy cả ngữ pháp, từ vựng và phát âm đồng thời. Pimsleur cũng nhấn mạnh rằng việc học thông qua nghe sẽ giúp phát âm chuẩn.
Phương pháp Pimsleur
Phương pháp học ngoại ngữ Pimsleur là phương pháp học ngoại ngữ dựa trên việc nghe. Được phát triển bởi Paul Pimsleur, nó đề cao việc chủ động trong việc học hơn là việc học vẹt, ghi nhớ một cách máy móc. Xuyên suốt các bài học, người nghe lặp lại các từ/ cụm từ được nói bởi người bản ngữ và sau đó tự mình xây dựng nên những cụm từ mới dựa trên những điều đã học. Trong khi nghe các cụm từ mới, người nghe cũng được yêu cầu lặp lại các cụm từ đã nghe trước đó. Yêu cầu về việc nói ra các cụm từ đã học được lặp lại trong suốt chương trình học. Khi đang dạy học tại trường Đại học California, Los Angeles từ năm 1963 đến năm 1971, Pimsleur tạo ra các chương trình học tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức và tiếng Akan. Phương pháp Pimsleur chú trọng đến việc nói và đọc. Hai kỹ năng này được mài giũa qua những bài học kéo dài 30 phút. Bài học được xem là hoàn tất nếu người nghe hiểu được 80% nội dung. Trong các bài học, học viên được nghe những người bản ngữ hướng dẫn, có cả người nói tiếng mẹ đẻ của học viên và người bản ngữ của ngôn ngữ đang học.
Y horoscope của chúng tôi: “Bạn thích được tự phát trong cuộc sống nhưng cũng như các quyết định tốt kế hoạch đôi khi. Bạn trung thành và tôn trọng những người trung thành và tôn trọng bạn trở lại. Bạn thường là một người lạc quan nhưng cảm thấy chán nản trong một số tình huống nhất định ”. Hiệu ứng Barnum là một thành kiến về nhận thức, nơi mọi người bị dẫn đến tin vào bất kỳ tuyên bố tích cực chung chung nào khi được cho biết rằng nó áp dụng cụ thể cho họ, khi thực tế, nó càng chung chung càng tốt. Tử vi trên là một tuyên bố mơ hồ có thể áp dụng cho đa số đám đông, nhưng nó đánh lừa mọi người tin rằng nó được thiết kế riêng cho họ. Thành kiến nhận thức này hoạt động tốt nhất khi nó là một tuyên bố tích cực; mọi người muốn liên quan đến những dự đoán tích cực về bản thân họ. Hiệu ứng này đến từ PT Barnum, Người trình diễn vĩ đại nhất của Mỹ (thế kỷ 19), nhưng đó là vào năm 1948 khi một giáo sư tâm lý, Bertram Forer, tiến hành một thí nghiệm minh họa hiện tượng này. Ông đã công bố những phát hiện của mình trong bài báo nghiên cứu ban đầu này có tiêu đề “ Sự sai lầm của việc xác thực cá nhân: Một minh chứng trong lớp học về sự tin cậy ”. Những người tham gia nghiên cứu đã được thực hiện một bài kiểm tra tính cách và được thông báo rằng họ sẽ nhận được phản hồi cá nhân hóa duy nhất dựa trên bài kiểm tra. Điều thú vị là thay vì đưa ra phản hồi cụ thể cho từng cá nhân, anh ấy lại đưa ra những tuyên bố chung chung tương tự cho mọi người. Những người tham gia nhận thấy các tuyên bố tổng quát của họ có độ chính xác cao đối với họ và đưa ra đánh giá ấn tượng là 4,26 cho bài kiểm tra (5 là chính xác nhất). Hiệu ứng tâm lý này chỉ có chiều hướng gia tăng kể từ đó, càng ngày càng có nhiều người tin vào chiêm tinh và các dự đoán tử vi. Chiêm tinh học đã phát triển và nở rộ trong thời đại này, đó không phải là cách nó diễn ra vào cuối những năm 1970. Sự gia tăng này bắt đầu với sự ra đời của máy tính, Internet và bàn đạp ga đã được thúc đẩy cùng với sự phát triển theo cấp số nhân của phương tiện truyền thông xã hội, tiếp cận hàng nghìn và hàng triệu người từ khắp nơi trên thế giới. Mọi người tìm kiếm sự an ủi, động viên và tìm kiếm một lối thoát khỏi thế giới thực bằng những lời an ủi, tích cực được tạo ra cho họ nhân danh chiêm tinh học. Mọi người có thể không tin vào chiêm tinh học nhưng vẫn sẽ liên hệ và xác định với những dự đoán tử vi dành riêng cho họ. Đó là tất cả về tâm lý. Nó không phải về dự đoán bất cứ điều gì; bạn chỉ cần mô tả người dùng với chính họ. Đó là một công cụ để tự phản ánh. Đây là một bài nghiên cứu về “ Tại sao mọi người coi tử vi là đúng ”. Hãy cùng xem hiệu ứng Barnum có ý nghĩa như thế nào trong thế giới kỹ thuật số. Đó là một ảo tưởng khiến mọi người tin vào trải nghiệm được cá nhân hóa, nhưng điều cốt yếu là tránh lừa dối khách hàng và biến nó thành một mô hình đen tối . Phải nói rằng, hiện tượng này có thể được sử dụng để thu hút và xây dựng mối quan hệ với khách hàng trên các phương tiện kỹ thuật số và các chiến dịch. Các chiến dịch tiếp thị và phương tiện kỹ thuật số có thể tận dụng điều này để tăng và tối ưu hóa tỷ lệ chuyển đổi của chúng. Các thương hiệu có dòng giới thiệu “Chỉ dành cho bạn” đã đạt được điểm hấp dẫn là cụ thể nhưng chung chung. Mọi người thích nó khi một cái gì đó được tạo ra "chỉ dành cho họ". Các thương hiệu có thể xây dựng mối quan hệ bền vững và niềm tin với khách hàng bằng cách mang lại cho họ cảm giác trải nghiệm được cá nhân hóa. Nhận thức về việc cá nhân tương tác với công ty dẫn đến sự chú ý và giữ chân của người dùng, dẫn đến tỷ lệ chuyển đổi và lòng trung thành của khách hàng cao. “Bạn giống với nhân vật FRIENDS nào nhất? Hãy làm một bài kiểm tra để tìm hiểu. ". Hầu hết chúng ta có lẽ đã xem / thực hiện các câu đố như thế này trên Facebook và Buzzfeed, và luôn cảm thấy thú vị khi biết rằng chúng tôi giống nhân vật yêu thích của mình. Ở trên "Bạn thực sự nên sống ở thành phố nào?" bài kiểm tra hỏi một số câu hỏi chung chung như một cuộc khảo sát, và đây là kết quả cuối cùng. Những tuyên bố đó mang tính khái quát và có thể áp dụng cho một lượng lớn, không chỉ bạn, nhưng đồng thời cho chúng ta ảo tưởng về một câu trả lời phù hợp chỉ dành cho chúng ta. Những câu đố pop này thu hút rất nhiều sự chú ý, đơn giản là “ Bạn là nhân vật nào của Game of Thrones? ”Bài kiểm tra trên Buzzfeed đã thu hút hơn hai triệu lượt xem trang chỉ bằng cách sử dụng hiệu ứng này. Người dùng thích nội dung được sắp xếp riêng cho họ. Hai trong số các sản phẩm phổ biến nhất sử dụng điều này là Spotify và Netflix để thu hút người dùng của họ tốt hơn và cung cấp trải nghiệm tốt hơn. Các sản phẩm này cung cấp cho người dùng danh sách phát được cá nhân hóa, “Danh sách kết hợp hàng ngày của bạn” và các đề xuất phim phù hợp với “Chỉ dành cho bạn”. Có những thuật toán được sử dụng trong các hệ thống đề xuất này, nhưng tâm lý này được đưa vào hỗn hợp để giữ chân người dùng tốt hơn. Fortune cookie là một sản phẩm khác sử dụng hiệu ứng tâm lý này. Mỗi người được đưa ra một tuyên bố tích cực chung, và mọi người được dẫn dắt để tin rằng nó áp dụng cho họ và đó là dự đoán trong tương lai về các sự kiện cuộc đời của họ. Đằng sau sự phổ biến rộng rãi của khái niệm bánh quy may mắn, Hiệu ứng Barnum của nó thực hiện tất cả những điều kỳ diệu đằng sau bức màn. Chiêm tinh học là một hệ thống phức tạp để hiểu, và tất cả chỉ nhằm giải thích. Nó thấu hiểu tâm lý hàng triệu người dùng và đoán trước những câu hỏi, câu trả lời mà họ tìm kiếm. Họ trình bày cho chúng tôi chính xác những gì chúng tôi muốn nghe. Công cụ mạnh mẽ này có thể giúp tận dụng sức mạnh của việc xây dựng trải nghiệm tốt hơn và tối ưu hóa chuyển đổi trong các đại lý kỹ thuật số, nhưng đồng thời, nó cũng có thể có một bước ngoặt. Đạo đức có thể giúp thúc đẩy lĩnh vực thiết kế và giảm thiểu các chiến lược thiếu sáng suốt. Hướng đi là ủng hộ quyền riêng tư, kiểm soát người dùng ủng hộ, đưa ra các lựa chọn trung thực và do đó chống thiết kế lừa đảo. Tất cả những gì cần làm là làm cho người dùng cảm thấy họ là cá nhân và cá tính của họ được công nhận bằng cách điều chỉnh trải nghiệm cá nhân hóa cho họ. Trong phòng biệt giam, tâm trí trở thành một sân chơi phong phú Bởi Askia A. Afrika-Ber Điều bắt buộc là các tù nhân phải phát triển tinh thần và kỷ luật để ngăn chặn những suy nghĩ cấp tiến và ấp ủ nhất của họ, những cảm xúc sâu sắc nhất và những ý tưởng vĩ đại nhất - giấu chúng trong một không gian an toàn, nơi sự điên rồ của việc giam giữ hàng loạt không thể làm cho họ rơi vào tình trạng điên cuồng. Bài đăng này là về Thời gian và Hoạt động trong hội thảo. Cách suy nghĩ chín chắn về thời gian được phân bổ cho các yếu tố khác nhau của hoạt động mà những người tham gia hội thảo nhận thấy giá trị trong đó. Album thường bị bỏ qua xuất hiện ngay trước The Dark Side of the Moon. Pink Floyd là một trong những nhóm nhạc yêu thích của tôi trong phần lớn cuộc đời. Tôi muốn được xác định không phải bằng khuôn mặt của tôi, nhưng bằng trái tim của tôi. Namaste, xin gửi lời chào đến bạn vào Chủ nhật Đêm trò chơi gia đình này. B Corp Nhìn thấy Lợi ích lâu dài của Đào tạo và Hỗ trợ Nơi làm việc - Đặc biệt đối với Phụ nữ Trí tuệ nhân tạo (AI) là một lực lượng mới nổi trong thế giới kinh doanh có tiềm năng thay thế con người trong một số ngành nhất định hoặc trao quyền cho con người bằng các công cụ tốt hơn, tùy thuộc vào cách công nghệ được sử dụng. Sama, một công ty xác thực và dữ liệu đào tạo có trụ sở tại San Francisco, tin rằng AI có thể nâng cao cách chúng ta làm việc và đang ủng hộ cho “con người trong vòng lặp”, một mô hình làm việc đòi hỏi sự tham gia của con người ngay cả với công nghệ tiên tiến. Một trong những lời khuyên của Jason Sudeikis trong Ted Lasso là cho người xem biết rằng "tất cả chúng ta đều có Jekyll bên trong, và điều đó không sao cả.". Trong phần 8, tập 5 của Brooklyn Nine-Nine, Doug Judy tái hợp với Jake Peralta trong một cuộc phiêu lưu cuối cùng. Nhiều người hâm mộ quan tâm đến một số khía cạnh trong cuộc sống của Annabelle Wallis, bao gồm cả giá trị tài sản ròng của cô. Vậy giá trị ròng của Wallis là bao nhiêu?. FDA đã hoàn toàn chấp thuận vắc-xin Pfizer COVID-19 cho những người từ 16 tuổi trở lên, nhưng điều đó vẫn khiến trẻ em dưới 12 tuổi không đủ điều kiện để tiêm chủng. Có nên xem xét việc sử dụng ngoài nhãn để bảo vệ chúng không?. Hai chuyên gia khủng bố cân nhắc về nhóm đứng sau vụ tấn công sân bay Kabul chết người và sự cạnh tranh của lực lượng này với Taliban. Tốt hơn bạn nên đo nó trước khi đeo nhẫn. Ít nhất thì đó là những gì Beyoncé đã nói, và cô ấy đã có cho mình một viên kim cương 18 carat. Nguồn gốc của niềm tin tôn giáo của Taliban - Hồi giáo Deobandi - có thể bắt nguồn từ Ấn Độ thuộc địa thế kỷ 19. Cái tên Nice Price hay No Dodge Challenger SRT-8 ngày nay có một chút gì đó không đúng sự thật vì nó hiện đang thể hiện sự hoán đổi V10, mặc dù chưa hoàn chỉnh. Hãy chỉ xem giá thực tế của dự án tùy chỉnh này hoạt động như thế nào. đã đưa ra một nỗ lực được công bố rộng rãi để tìm người thay thế đã vấp phải nhiều tranh cãi. The Onion xem xét dòng thời gian về những khoảnh khắc lớn nhất trong Jeopardy mới! sự cố máy chủ. Emika Games, nhà phát triển duy nhất đứng sau các trò chơi như Summer of 58 được phát hành gần đây, đã quyết định rời khỏi lĩnh vực phát triển trò chơi "trong thời gian vô thời hạn" sau khi chính sách hoàn lại tiền trong hai giờ của Steam dẫn đến "số lượng lợi nhuận khổng lồ" cho tựa game mới nhất của họ .Summer of 58, được phát hành vào tháng trước, đã được đánh giá tốt trên Steam, với đánh giá tổng thể "Rất tích cực" và vô số người hâm mộ để lại những bình luận tốt đẹp, dành lời khen ngợi đặc biệt cho bầu không khí và sự đáng sợ của nó. Tôi không biết bạn thế nào, nhưng tôi thấy thật nhẹ nhõm khi biết rằng Monica Lewinsky từng là giám đốc sản xuất của American Crime Story: Impeachment, bộ phim sắp tới do Ryan Murphy biên kịch kể lại mối tình của cô với cựu Pres. Mặt trăng có tốc độ vừa phải để không đâm vào Trái đất hoặc thoát ra ngoài không gian.
Hiệu ứng Barnum
Hiệu ứng Barnum (hiệu ứng Forer, hiệu ứng Barnum – Forer) là hiện tượng các cá nhân đánh giá cao những mô tả riêng về tính cách họ, nhưng thực ra lại không cụ thể và đúng với nhiều người. Hiệu ứng này có thể giải thích một phần nguyên nhân gây ra sự phổ biến của những niềm tin và hành vi huyền bí như chiêm tinh, bói toán, xem tướng và một số bài kiểm tra tính cách. Những tay lừa đảo chuyên nghiệp thường lợi dụng hiệu ứng này để thuyết phục các nạn nhân rằng trước mặt họ là những người có tài năng huyền bí. Vì những lời tự nhận này không rõ ràng, nạn nhân sẽ tự giải nghĩa, từ đó "cá nhân" hoá các nhận định. Ngoài ra, người ta cũng dễ chấp nhận các đánh giá tiêu cực về bản thân hơn nếu cho rằng người đánh giá là chuyên gia lớn. Nhà tâm lý học Paul Meehl là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Hiệu ứng Barnum", trong bài tiểu luận Wanted - A Good Cookbook của mình. Ông dùng cụm từ này vì thấy có sự tương đồng giữa những nhận định tính cách mơ hồ trong các bài kiểm tra tâm lý "giả thành công" và những màn trình diễn của Phineas Barnum.
Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ mô trường, thuế GTGT của hàng nhập khẩu đều được hải quan tính toán trên máy tính, bằng phần mềm tự động. Vậy lỡ một ngày nào đó công ty của bạn bị cúp điện và cần biết được số thuế phải nộp cho chi cục thuế. Sau đây cuocvanchuyen.vn xin giới thiệu với các bạn bài viết “Cách tính thuế nhập khẩu và các loại thuế khác”. Đối với hàng hóa XNK, nếu có hợp đồng mua bán và các chứng từ, hóa đơn kèm theo đầy đủ hợp lệ, đủ điều kiện để xác định giá tính thuế theo giá trị hợp đồng. Một số trường hợp trị giá hóa đơn, hợp đồng so với giá mua giá bán tối thiểu thực tế tại cửa khẩu, thì giá trị tính thuế theo biểu giá của chính phủ quy định. Giá tính thuế tính bằng VND. Ngoại tệ sẽ được quy đổi ra VND theo tỷ giá mua vào do Ngân hàng nhà nước công bố. Thuế nhập khẩu sẽ được sử dụng thuế suất tỷ lệ %, Tùy mỗi mặt hàng sẽ có thuế suất khác nhau. Ngoài ra còn mức thuế suất còn được phân biệt theo khu vực thị trường, nhằm thực hiện các chính sách của thương mai của nhà nước. Các hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ các quốc gia, các nhóm quốc gia và các vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mai với Việt Nam. Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự do (FTA), liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. Áp dụng cho mặt hàng được quy định cụ thể trong thỏa thuận đã ký giữa Việt Nam với các bước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế và phải đáp ứng đủ các điều kiện đã ghi trong thỏa thuận. Hàng hóa phải có xuất xứ tại nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ đó. Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường được quy định cao hơn không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định. Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ nước mà nước đó có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đối xử khác đối với hàng hoá của Việt Nam. Thuế GTGT = (Giá trị tính thuế nhập khẩu + Thuế Nhập khẩu + Thuế Tiêu thụ đặc biệt (nếu có) + Thuế bảo vệ môi trường (nếu có)) x thuế suất giá trị gia tăng. Quý khách hãy liên hệ với bộ phận chăm sóc khách hàng để được hỗ trợ tốt nhất.
Thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện vận tải đường bộ hay đường sắt) đến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốc tế, cảng sông quốc tế hay cảng biển quốc tế, cửa khẩu biên giới bộ) thì các công chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải quan đồng thời tính số thuế nhập khẩu phải thu theo các công thức tính thuế nhập khẩu đã quy định trước. Về mặt nguyên tắc, thuế nhập khẩu phải được nộp trước khi thông quan để nhà nhập khẩu có thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi có các chính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nên đây có thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế nhập khẩu là khá nhỏ. Trong thời cổ đại và trung cổ, thuế nhập khẩu còn được các chính quyền địa phương thu, nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thông thường nó được nhà nước giao cho một tổ chức nhà nước chuyên trách về thuế xuất-nhập khẩu là hải quan thực hiện công việc kiểm tra, tính và thu thuế.
Tưởng Giới Thạch (1887-1975) là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Trung Quốc, chủ tịch Quốc dân đảng trong năm thập niên, và là người đứng đầu chính phủ Trung Hoa Dân quốc từ năm 1928 đến 1949. Tưởng Giới Thạch sinh ngày 31 tháng 10 năm 1887 ở Chiết Giang, một tỉnh ven biển phía đông Trung Quốc. Cha ông là một lái buôn. Ông theo học trường đào tạo sĩ quan ở Nhật Bản năm 18 tuổi. Năm 1911, Tưởng trở về Trung Quốc để tham gia cuộc nổi dậy lật đổ Triều đại nhà Thanh và lập nên nền cộng hòa Trung Hoa. Tưởng trở thành một thành viên của Quốc dân đảng (QDĐ) do Tôn Trung Sơn thành lập. Được Tôn Trung Sơn ủng hộ, Tưởng Giới Thạch được chỉ định làm hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố tại Quảng Châu năm 1924, và tại đây ông đã xây dựng nên quân đội Quốc dân. Sau cái chết của ông Tôn năm 1925, Tưởng trở thành lãnh đạo QDĐ. Ông dẫn đầu chiến dịch Bắc Phạt và thống nhất phần lớn lãnh thổ Trung Quốc dưới chính quyền QDĐ đóng tại thủ đô Nam Kinh. Năm 1928, ông chỉ huy quân đội đánh bại Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tưởng đã phác họa một chương trình cải cách khiêm tốn ở Trung Quốc, tuy nhiên các nguồn lực của chính phủ lúc bấy giờ đều được tập trung để đối phó với các đối thủ trong nước, bao gồm Đảng Cộng sản. Từ năm 1931, Tưởng cũng phải chống lại cuộc xâm lược của người Nhật tại Mãn Châu, đông bắc Trung Quốc. Năm 1937, Nhật Bản tiến hành một cuộc xâm lược Trung Quốc trên diện rộng. Năm 1941, khi Hoa Kỳ tham chiến chống lại Nhật, Trung Quốc liền gia nhập phe Đồng minh. Trong khi vị thế trong nước của Tưởng bị suy giảm, thì tiếng nói của ông trên thế giới lớn dần, và vào tháng 11/1943, ông bay tới Cairo để gặp Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill. Phu nhân của Tưởng Giới Thạch, bà Tống Mỹ Linh, cũng đi cùng chồng và trở nên nổi tiếng ở phương tây với tên gọi Madame Tưởng. Năm 1946, cuộc nội chiến nổ ra giữa QDĐ và Đảng Cộng sản. Năm 1949, những người cộng sản chiến thắng, lập nên nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tưởng Giới Thạch và những người QDĐ còn sót lại bỏ chạy ra đảo Đài Loan. Ở đây Tưởng thiếp lập một chính quyền lưu vong và lãnh đạo trong 25 năm sau đó. Chính phủ này tiếp tục được nhiều nước công nhận là chính phủ chính thống của Trung Quốc, và Đài Loan vẫn là đại diện của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc cho đến khi Tưởng qua đời. Ông mất vào ngày 5 tháng 4 năm 1975. Tưởng Giới Thạch là Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa dân quốc được thành lập theo Hiến pháp năm 1948. Tống Mỹ Linh đã đóng một vai trò quan trọng trong chính trị của Trung Hoa Dân quốc. Bà là người bảo trợ Ủy ban Chữ Thập đỏ quốc tế, Chủ tịch danh dự của Quỹ Viện trợ thống nhất Vương quốc Anh, Thành viên danh dự Hội Kỷ niệm Bản Tuyên ngôn nhân quyền. Vào cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, bà là một trong mười phụ nữ được ngưỡng mộ nhất nước Mỹ và là người phụ nữ thứ hai được đọc diễn văn trước Quốc hội Mỹ. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Tưởng Giới Thạch
Tưởng Trung Chính (giản thể: 蒋中正; phồn thể: 蔣中正; 31 tháng 10 năm 1887 – 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ: Giới Thạch (介石) nên còn gọi là Tưởng Giới Thạch, tên khai sinh: Thụy Nguyên (瑞元) là một chính khách, nhà cách mạng và nhà lãnh đạo quân sự người Trung Quốc, người lãnh đạo của Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1928 đến năm 1975, đầu tiên ở Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949 và sau đó ở Đài Loan cho đến khi ông qua đời. Sinh ra ở tỉnh Chiết Giang, Tưởng là thành viên của Quốc dân đảng và là trung úy dưới trướng Tôn Trung Sơn trong cuộc cách mạng lật đổ chính phủ Bắc Dương và thống nhất Trung Quốc. Với sự giúp đỡ của Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tưởng đã tổ chức quân đội cho Chính phủ Quốc dân Đảng của Tôn và đứng đầu Trường Quân sự Hoàng Phố. Với chức Quốc dân Cách mệnh quân (từ đó ông được gọi là Tổng thống lĩnh), ông đã lãnh đạo cuộc Bắc phạt từ năm 1926 đến năm 1928, trước khi đánh bại liên minh các lãnh chúa và thống nhất Trung Quốc trên danh nghĩa dưới một chính phủ mới.
– Các nhà máy điện hạt nhân đã tạo ra nguồn năng lượng rất lớn phục vụ cho nhu cầu của con người. Nhưng việc nhiều nhà máy điện hạt nhân, nhiều lò phản ứng được xây dựng đã làm tăng sự ô nhiễm phóng xạ do sự rò rỉ phóng xạ, các sự cố nổ lò phản ứng hạt nhân… đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với môi trường và con người. Theo ủy ban năng lượng hoa Kỳ, phóng xạ urani ở các nhà máy điện hạt nhân, kho vũ khí, trung tâm nghiên cứu và các khu vực trước kia có xảy ra các vụ nổ hạt nhân như: Hyroshima, Nagasaki, Chernobyl… hàng năm làm ô nhiễm 2500 tỷ lít nước ngầm của thế giới. nguồn nước nhiễm phóng xạ này sau đó sẽ ngấm vào cây cối, động vật uống phải hoặc hòa tan vào nguồn nước sinh hoạt của con người và cuối cùng tích lũy vào cơ thể con người. Trận động đất sóng thần ngày 11 tháng 3 năm 2011 ở Nhật đã làm cho nhiều nhà máy phát điện ngưng hoạt động, ít nhất 3 vụ nổ lò phản ứng do sự tích tụ khí hydro khi hệ thống làm mát của các lò phản ứng bị hỏng. Tính đến ngày 14 tháng 3, có khoảng 160 người đã tiếp xúc với phóng xạ ở mức độ nguy hiểm gần các nhà máy điện hạt nhân. Sóng thần đã gây ra 2 vụ nổ lớn tại nhà máy Fukushima I gây rò rỉ phóng xạ. Cơ quan an toàn hạt nhân và công nghiệp Nhật Bản báo cáo rằng mức độ phóng xạ bên trong nhà máy gấp 1000 lần mức bình thường, mức độ phóng xạ bên ngoài nhà máy gấp 8 lần mức bình thường. Sau vụ nổ lò phản ứng số 4 gây rung chuyển khu vực nhà máy Fukushima 1 mức độ phóng xạ đo được gần lò phản ứng là 400 msv/giờ, trong khi 100msv/năm được coi là mức an toàn. – Quá trình khai thác, chế biến, sử dụng các sa khoáng có chứa các chất phóng xạ như: ilmenit, zircon, monazite,… dẫn đến sự làm giàu và tăng khả năng xâm nhập của các nguyên tố phóng xạ vào môi trường xung quanh gây ô nhiễm phóng xạ. Các chất thải chứa chất phóng xạ chưa qua xử lí được thải trực tiếp ra các con sông, ra biển…. Ô nhiễm phóng xạ từ việc khai thác quặng titan: Vùng ven biển Nam Trung bộ, ở khu mỏ sa khoáng quặng titan, việc khai thác mỏ sa khoáng titan (còn gọi là cát đen) đã gây ô nhiễm phóng xạ. Trong quặng ilmenit, zircon có các khoáng vật chứa các chất phóng xạ, nhất là khoáng vật monazit, có hàm lượng phóng xạ cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe con người. Để khai thác quặng này, người ta phải đào các cồn cát rồi tuyển và làm giàu quặng bằng nước. Kết quả, hàng năm có hàng trăm nghìn tấn cát bị đào xới, khối lượng cát thải, chất thải khổng lồ bị san ủi ra môi trường xung quanh, nước từ quá trình tuyển khoáng cho chảy trực tiếp ra biển, mà không qua xử lý làm cho nước biển vùng hai cửa sông lân cận khu mỏ có mức phóng xạ vượt quá tiêu chuẩn an toàn quy định. – Việc khai thác, chế biến đất hiếm có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao hơn so với khai thác các khoáng sản khác vì chế biến đất hiếm cần sử dụng nhiều hóa chất ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra, trong quặng đất hiếm có khoáng chất mang tính phóng xạ gây ô nhiễm phóng xạ. – Do sức mạnh hủy diệt to lớn của các loại vũ khí hạt nhân: bom nguyên tử, các đầu đạn hạt nhân,… mà nó đã được sản xuất ra với mục đích chiến tranh. Nhiều cuộc thử bom nguyên tử, tên lửa hạt nhân đã được thực hiện. Mỹ đã thả 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật năm 1945 đã gây hậu quả khủng khiếp đối với môi trường và con người.
Ô nhiễm phóng xạ
Ô nhiễm phóng xạ là sự lắng đọng của các chất phóng xạ trên bề mặt hoặc trong chất rắn, chất lỏng hoặc chất khí (bao gồm cả cơ thể con người), nơi hiện diện của chúng là ngoài ý muốn hoặc không mong muốn. Sự ô nhiễm này như một mối nguy hiểm do sự phân rã phóng xạ của các chất gây ô nhiễm, các chất gây ra tác hại như bức xạ ion hóa (cụ thể là α, β, và γ tia) và neutron tự do. Mức độ nguy hiểm được xác định bởi nồng độ của các chất gây ô nhiễm, năng lượng của bức xạ được phát ra, loại bức xạ và khoảng cách của các chất ô nhiễm với các cơ quan của cơ thể. Điều quan trọng rằng sự ô nhiễm làm phát sinh nguy cơ bức xạ và các thuật ngữ "bức xạ" và "ô nhiễm" không thể thay thế cho nhau. Các nguồn gây ô nhiễm phóng xạ có thể được phân thành hai nhóm: tự nhiên và do con người taọ ra. Sau khi xả vũ khí hạt nhân trong khí quyển hoặc vi phạm ngăn chặn lò phản ứng hạt nhân, không khí, đất, con người, thực vật và động vật trong vùng lân cận sẽ bị ô nhiễm bởi nhiên liệu hạt nhân và các sản phẩm phân hạch.
Theo chia sẻ của Lý Đợi về bức Chân Dung Madam Phương: “Nếu đúng như dự đoán của giới nhà nghề, bức này mà đấu giá thành công, giá bán + thuế phí có thể hơn 1.500.000 USD, trở thành bức tranh có giá cao nhất của tranh Việt trên thị trường công khai”. Tác phẩm Portrait of Mademoiselle Phuong, sơn dầu trên vải, 135,5 x 80 cm, được Sotheby’s ước tính, giá từ 7.500.000 HKD – 9.300.000 HKD (khoảng 964.192 USD – 1.195.598 USD). Từ những ngày đầu tháng 3/2021, Sotheby’s đã lấp đầy các kênh truyền thông của mình bằng sự kiện Modern Art Evening Sale tại Hong Kong vào ngày 18/4 sắp tới. Điểm nhấn trong “đêm hội” Modern Art tại Hong Kong là sự có mặt của Portrait of Mademoiselle Phuong (Chân dung Madam Phương), một trong những tác phẩm quan trọng nhất của hoạ sĩ Mai Trung Thứ. Hoạ sĩ Mai Trung Thứ, hay Mai Thứ (枚栨) (1906-1980) là một trong những tài năng hội hoạ của mỹ thuật hiện đại Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Ông là một trong những học viên tốt nghiệp khóa đầu tiên của trường Mỹ Thuật Đông Dương (1925 – 1930), đồng môn khoá I với hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Lê Văn Đệ…và được hoạ sĩ Lê Phổ cho là người vẽ giỏi nhất khoá. Hoạ sĩ Mai Trung Thứ bên các tác phẩm của mình, ở Vanves (Paris, Pháp), năm 1964. Chân Dung Madam Phương đã được triển lãm lần đầu tiên tại trường Mỹ Thuật Đông Dương vào năm 1930, trước khi sang Paris tham dự Triển Lãm Quốc Tế Thuộc Địa năm 1931. Bức tranh cũng xuất hiện trong các phân cảnh của phim Mùi Đu Đủ Xanh (The Scent of Green Papaya) năm 1993 của đạo diễn Trần Anh Hùng, như một biểu tượng văn hóa trong tác phẩm điện ảnh đại chúng nổi tiếng của Việt Nam. Giờ đây, sau 90 năm, Portrait of Mademoiselle Phuong, một tác phẩm tranh sơn dầu quý hiếm của nền nghệ thuật Việt Nam, sẽ công khai tái xuất trước công chúng yêu nghệ thuật tại phiên đấu giá quan trọng của Sotheby’s. Theo Sotheby’s, bức chân dung là một trong các tác phẩm thuộc bộ sưu tập tư nhân của một nhóm chủ sở hữu nhà Dumonteil – Les Souvenirs d’Indochine: The Madame Dothi Dumonteil Collection (Tạm dịch: Ký ức Đông Dương: bộ sưu tập của Madam Dothi Dumonteil). Madam Dothi là một người con xứ Huế di cư đến Pháp từ khi còn rất nhỏ. Trước khi kết hôn và trở thành một nhà sưu tầm nghệ thuật, Madam Dothi từng được biết đến với tư cách người mẫu thời trang cho các nhà Haute Couture như Pierre Cardin, Dior, Chanel và là nàng thơ của nhà thiết kế Yves Saint Laurent. Cùng với chồng, Pierre Dumonteil – một nhà sưu tầm và nhà đấu giá có kiến thức uyên bác về lịch sử và thị trường nghệ thuật, Madam Dothi Dumonteil đồng sáng lập Galerie Dumonteil, có trụ sở ở Paris và các chi nhánh ở Thượng Hải (Trung Quốc) và Manhattan (New York). Trong suốt hơn 3 thập niên cùng nhau theo đuổi nghệ thuật Hiện Đại và Đương Đại từ trời Âu sang đất Á, hai ông bà đã mua lại những tác phẩm của hoạ sĩ Mai Thứ (bao gồm Portrait of Mademoiselle Phuong) và nhiều hoạ sĩ Việt Nam khác, bổ sung vào bộ sưu tập gia đình Dumonteil của mình. Tác phẩm Conversation (Tạm dịch: Trò Chuyện), hoạ sĩ Vũ Cao Đàm. Mực và bột màu trên lụa, năm 1937. Tác phẩm Lady Writing a Poem (Tạm dịch: Thiếu Nữ Làm Thơ), hoạ sĩ Mai Trung Thứ. Mực và bột màu trên lụa, năm 1943.
Chân dung Madam Phương
Chân dung Madam Phương hay có tên khác là Chân dung Madam Phượng (tiếng Pháp: Portrait of Mademoiselle Phuong) là một tác phẩm nổi tiếng của họa sĩ Mai Trung Thứ. Vào tháng 4 năm 2021, bức tranh được trả với giá là 3.1 triệu USD khi tham gia phiên đấu giá "Beyond Legends: Modern Art Evening Sale" của Sotheby s diễn ra tại Hồng Kông. Bức tranh trở thành tác phẩm có giá công khai cao nhất của nền mỹ thuật Việt Nam, vượt xa kỷ lục 1,4 triệu USD bức "Khỏa thân" của Lê Phổ. Tác phẩm là bản vẽ của một người tên Phương hay Phượng, được xem là người tình của họa sĩ Mai Trung Thứ. Vào năm 1930, tác phẩm được triển lãm lần đầu tiên tại trường Mỹ Thuật Đông Dương trước khi tham dự Triển Lãm Quốc Tế Thuộc Địa năm 1931 ở Paris. Bức tranh là một biểu tượng văn hóa, từng được xuất hiện ở các phân cảnh của phim Mùi Đu Đủ Xanh (The Scent of Green Papaya) năm 1993 của đạo diễn Trần Anh Hùng.
Có ba hang động bằng đá nổi tiếng nhất tại Trung Quốc: hang Mạc Cao, hang Long Môn và hang Vân Cương. Hang Mạc Cao nằm tại Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc; hang Vân Cương nằm tại Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây; và hang Long Môn nằm cách thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam 13 km về phía Nam. Nếu bắt một chiếc xe buýt thì chỉ mất chưa đầy 30 phút để đi từ Lạc Dương tới hang Long Môn. Khu cảnh quan ở hang Long Môn bao gồm hang đá Đông Sơn, hang đá Tây Sơn, chùa Hương Sơn và chùa Bạch Viên. Hang đá Long Môn bắt đầu được tạc từ năm 493 SCN, trong khoảng thời gian Hoàng đế Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế dời đô đến Lạc Dương. Phải mất tới hơn 400 năm để tạc xong hang, và công việc này được tiếp tục qua nhiều triều đại, bao gồm Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Tùy, Đường, Bắc Tống,… Ước tính có tổng cộng 2.345 hang động lớn nhỏ ở hang đá Đông Sơn và Tây Sơn, với hơn 10 vạn bức tượng Phật. Đại bộ phận các động đá này nằm tại hang Đông Sơn và Tây Sơn. Có một con sông nằm giữa hai ngọn núi. Hai ngọn núi này và khoảng trống giữa chúng tạo thành hình của một cánh cổng khổng lồ. Sau khi viếng thăm hang đá Long Môn, tôi đã vô cùng buồn bã khi thấy sự tàn phá đã được gây ra dưới thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa. Đại bộ phận tượng Phật ở đây đã bị phá hủy (trong chiến dịch “Phá Tứ cựu”). Hầu hết những hang động này bắt đầu được đào vào trong từ một mặt của vách đá. Bên trong động, có những bức tượng Phật, Bồ Tát và các vị Thần. Cũng có những lâu đài, đình các, phi thiên và các cảnh tượng trên thiên quốc. Vào thời cổ đại, sau khi những người tu Phật tu Đạo vào trong động, nhiều người trong số họ đã đào một cái hang trên vách đá và ngồi thiền ở đó. Sau khi đạt tới một số tầng thứ nhất định, họ có thể nhìn thấy các cảnh tượng . Một số họ rất giỏi điêu khắc, và họ đã tạc tượng ở trong động. Tuy nhiên, dưới thời Đại Cách mạng Văn hóa, nhiều hang động đã bị tàn phá, các bức tượng bị xâm phạm và trở nên tàn khuyết bất toàn. Một số bức khác thì bị đánh cắp và đem bán. Đứng ở bờ Đông của con sông, người ta có thể quan sát bức tượng Phật lớn nhất tại chùa Phụng Tiên. Chùa Phụng Tiên là một ngôi chùa lộ thiên. Bước xuống theo bậc thang nơi bờ sông, người ta có thể tới nơi thờ phượng. Chuyện kể rằng Hoàng đế Võ Tắc Thiên đã từng dẫn các quan viên văn võ tới lễ Phật ở nơi đây. Ở giữa nơi lễ Phật và bức tượng Phật là một hòn đá hình tròn nằm ngay giữa sông, nơi từng được sử dụng làm chỗ ngồi đả tọa liên hoa. Tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi nghe nói rằng cựu lãnh đạo ĐCSTQ, Giang Trạch Dân, kẻ đã điên cuồng công kích Phật Pháp, lại từng tới đây để lễ Phật. Người ta nói rằng sau khi Giang đã phạm phải quá nhiều điều tà ác, ông ta bắt đầu sao chép lại kinh Phật để tránh bị đọa xuống địa ngục. Chẳng phải đã quá muộn rồi ư?! Có lẽ ông ta nên làm ít điều ác trong quá khứ thì hơn. Có ba kỳ quan ở hang đá Tây Sơn: động Vạn Phật, động Liên Hoa và vách Ma. Sau khi tới chùa Hương Sơn, chúng tôi bước vào La Hán điện. Nghe lời giới thiệu những vị La Hán này, tôi phát hiện rằng một số vị La Hán đắc Phật Pháp sớm và một số vị đắc Phật Pháp muộn. Những người đắc Phật Pháp sớm đã giới thiệu cho những người sau. Đây là trong lịch sử, nhưng chẳng phải nó cũng tương tự ngày nay khi các học viên Đại Pháp hồng Pháp cho những người khác sao?
Hang đá Long Môn
Hang đá Long Môn (giản thể: 龙门石窟; phồn thể: 龍門石窟; bính âm: Lóngmén Shíkū; nghĩa đen: "Hang đá cổng rồng") hay Hang động Long Môn là một trong số những ví dụ tốt nhất về nghệ thuật tạc khắc hang động Phật giáo tại Trung Quốc. Tại đây có hàng ngàn tượng Phật và các đệ tử của Đức Phật nằm cách thành phố Lạc Dương 12 km về phía nam thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Tại đây có nhiều hình ảnh, tranh vẽ, phù điêu đá được chạm khắc cả bên trong lẫn bên ngoài hang đá vôi nhân tạo của vách đá Hương Sơn (香山) và Dãy núi Long Môn chạy ở phía đông và tây. Sông Y chảy về phía bắc giữa hai dãy núi thường được gọi là Y Khuyết (伊阙, Cổng sông Y). Tên Long Môn bắt nguồn từ sự giống nhau của hai dãy đồi cản trở dòng chảy của sông Y tới cổng Trung Hoa điển hình đánh dấu lối vào phía nam của Lạc Dương. Long Môn có tới 100.000 bức tượng trong 2.345 hang động có chiều cao từ 1 inch (25 mm) tới 57 foot (17 m). Tại đây cũng chứa 2.500 bia đá và chữ khắc, do đó nó còn được gọi là "Rừng bia cổ đại", cũng như hơn 60 ngôi chùa Phật giáo.
Trong cây có các dòng vận chuyển vật chất sau: * Dòng mạch gỗ (dòng đi lên): vận chuyển nước và ion khoáng từ đất vào mạch gỗ của rễ và tiếp tục dâng lên theo mạch gỗ trong thân để lan tỏa đến lá và các phần khác của cây. Cấu tạo của mạch gỗ: - Tế bào mạch gỗ gồm các tế bào chết, có 2 loại là: quản bào và mạch ống. Chúng không có màng và bào quan. Các tế bào cùng loại nối với nhau thành những ống dài từ rễ lên lá để dòng mạch gỗ di chuyển bên trong. - Quản bào và mạch ống nối với nhau theo cách: đầu của tế bào này nối với đầu của tế bào kia thành những ống dài từ rễ đến lá cho dòng mạch gỗ di chuyển bên trong. - Thành của mạch gỗ được linhin hoá tạo cho mạch gỗ có độ bền chắc và chịu nước. Thành phần dịch mạch gỗ: - Chủ yếu là nước và ion khoáng. Ngoài ra còn có các chất hữu cơ được tổng hợp từ rễ (a. amin, amit, vitamin …) 3. Động lực đẩy dòng mạch gỗ: Là sự phối hợp của 3 lực: * Lực đẩy (áp suất rễ). * Lực hút do thoát hơi nước ở lá. * Lực liên kết giữa các phân tử nước với nhau và với thành mạch gỗ. Trong cây có các dòng vận chuyển vật chất sau: * Dòng mạch gỗ (dòng đi lên): vận chuyển nước và ion khoáng từ đất vào mạch gỗ của rễ và tiếp tục dâng lên theo mạch gỗ trong thân để lan tỏa đến lá và các phần khác của cây. Cấu tạo của mạch gỗ: - Tế bào mạch gỗ gồm các tế bào chết, có 2 loại là: quản bào và mạch ống. Chúng không có màng và bào quan. Các tế bào cùng loại nối với nhau thành những ống dài từ rễ lên lá để dòng mạch gỗ di chuyển bên trong. - Quản bào và mạch ống nối với nhau theo cách: đầu của tế bào này nối với đầu của tế bào kia thành những ống dài từ rễ đến lá cho dòng mạch gỗ di chuyển bên trong. - Thành của mạch gỗ được linhin hoá tạo cho mạch gỗ có độ bền chắc và chịu nước. Thành phần dịch mạch gỗ: - Chủ yếu là nước và ion khoáng. Ngoài ra còn có các chất hữu cơ được tổng hợp từ rễ (a. amin, amit, vitamin …) 3. Động lực đẩy dòng mạch gỗ: Là sự phối hợp của 3 lực: * Lực đẩy (áp suất rễ). * Lực hút do thoát hơi nước ở lá. * Lực liên kết giữa các phân tử nước với nhau và với thành mạch gỗ. Xét các loại tế bào của cơ thể TV gồm: tế bào chóp rễ, tế bào trường thành, tế bào ở đỉnh sinh trường, tế bào lá già, tế bào tiết. Loại tế bào gì chứa ti thể với số lượng lớn hơn?. A. Cơ quan sinh dưỡng, cơ quan sinh sản, nuôi dưỡng cây, duy trì và phát triển nòi giống. B. Cơ quan sinh sản, cơ quan sinh dưỡng, nuôi dưỡng cây, duy trì và phát triển nòi giống. C. Cơ quan sinh dưỡng, nuôi dưỡng cây, cơ quan sinh sản, duy trì và phát triển nòi giống. D. Cơ quan sinh dưỡng, cơ quan sinh sản, duy trì và phát triển nòi giống, nuôi dưỡng cây. A. Cơ quan sinh dưỡng, cơ quan sinh sản, nuôi dưỡng cây, duy trì và phát triển nòi giống. B. Cơ quan sinh sản, cơ quan sinh dưỡng, nuôi dưỡng cây, duy trì và phát triển nòi giống. C. Cơ quan sinh dưỡng, nuôi dưỡng cây, cơ quan sinh sản, duy trì và phát triển nòi giống. D. Cơ quan sinh dưỡng, cơ quan sinh sản, duy trì và phát triển nòi giống, nuôi dưỡng cây. D. Sự thay đổi hình thái theo nhịp sinh học thực chất là 1 dạng thường biến. A. tốc độ hút O2 bị giảm thay đổi hoạt tính enzim trong hô hấp, các hợp chất phôtpho hữu cơ và pôlisacarit bị phân giải, ngưng trệ tổng hợp protêin và các nuclêotit tự do. B. giảm năng xuất quang hợp, trước hết giảm tốc độ dũng chất đồng hoá từ lá. C. ức chế quá trình tạo cỏc hợp chất phốtpho hữu cơ gây hiện tượng tăng lượng monosacarit, ức chế sinh tổng hợp polisacarit, hoạt động của bộ máy tổng hợp prôtein kém hiệu quả, Riboxoom bị phân giải, sự hỡnh thành lục lạp bị hư hại. D. hiện tượng ở đầu lá và mép lá bị hoá trắng sau đó hoá đen, phiến lá bị uốn cong rồi xoăn lại. A. tốc độ hút O2 bị giảm thay đổi hoạt tính enzim trong hô hấp, các hợp chất phôtpho hữu cơ và pôlisacarit bị phân giải, ngưng trệ tổng hợp protêin và các nuclêotit tự do. B. giảm năng xuất quang hợp, trước hết giảm tốc độ dũng chất đồng hoá từ lá. C. ức chế quá trình tạo cỏc hợp chất phốtpho hữu cơ gây hiện tượng tăng lượng monosacarit, ức chế sinh tổng hợp polisacarit, hoạt động của bộ máy tổng hợp prôtein kém hiệu quả, Riboxoom bị phân giải, sự hỡnh thành lục lạp bị hư hại. D. hiện tượng ở đầu lá và mép lá bị hoá trắng sau đó hoá đen, phiến lá bị uốn cong rồi xoăn lại. B. Phần lớn không có khả năng di chuyển, tự tổng hợp được chất hữu cơ. C. Phản ứng chậm với kích thích môi trường, tự tổng hợp chất hữu cơ, phần lớn không có khả năng di chuyển. D. Phản ứng nhanh với kích thích của môi trường, không tổng hợp được chất hữu cơ. B. Phần lớn không có khả năng di chuyển, tự tổng hợp được chất hữu cơ. C. Phản ứng chậm với kích thích môi trường, tự tổng hợp chất hữu cơ, phần lớn không có khả năng di chuyển. D. Phản ứng nhanh với kích thích của môi trường, không tổng hợp được chất hữu cơ. B. Thực vật tự tổng hợp chất hữu cơ, phản ứng chậm với các kích thích từ bên ngoài, phần lớn không có khả năng di chuyển. D. ở đó thiếu những điều kiện cần thiết cho cây sinh trưởng và phát triển. A. Vì dân số tăng lên thì nhu cầu về lương thực và các sản phẩm được chế tạo từ thực vật cũng tăng theo. B. Vì tình trạng khai thác rừng bừa bãi, thiên tai, hạn hán. làm giảm diện tích rừng. C. Vì thực vật có vai trò quan trọng không những đối với con người mà còn đối với cả sinh giới. A. Vì dân số tăng lên thì nhu cầu về lương thực và các sản phẩm được chế tạo từ thực vật cũng tăng theo. B. Vì tình trạng khai thác rừng bừa bãi, thiên tai, hạn hán. làm giảm diện tích rừng. C. Vì thực vật có vai trò quan trọng không những đối với con người mà còn đối với cả sinh giới.
Mạch gỗ
Mạch gỗ (cũng gọi: xylem) là một loại mạch vận chuyển nước và ion khoáng ở cây trên cạn. Đây là mô dẫn truyền chất lỏng từ phía dưới (rễ) lên phía trên (thân và lá) của thực vật, tương tự như mạch máu ở động vật. Mạch gỗ trong tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ khác gọi là xylem (phát âm tiếng Anh: /ˈzaɪləm/, tiếng Việt: xy-lem). Từ "xylem" này bắt nguồn từ một danh từ Hy Lạp cổ là ξυλον (xylon, có nghĩa là "gỗ"). Mạch gỗ là mô dẫn bắt buộc của hầu hết các cây thân gỗ, trên cạn, thường chiếm 20-30% thể tích thân cây. Mạch gỗ là tập hợp các tế bào đã chết, hoá gỗ. Tế bào mạch gỗ gồm hai loại chính là quản bào và mạch ống. Những tế bào cùng loại nối liền với nhau tạo thành ống dẫn hình trụ kéo dài từ rễ lên thân và đến lá cây. Các tế bào này nối với nhau theo kiểu "đuôi" tế bào trên nối liền với "đầu" tế bào dưới thành ống, đồng thời các ống kề nhau nối với nhau qua nhiều lỗ bên. Kiểu nối này giúp cho một tế bào bị tắc, thì dòng dịch của mạch gỗ vẫn chuyển lên qua các lỗ bên và ngược lại.
Theo dõi livestream để lên kế hoạch cho năm cuối cấp và giành tấm vé vào đại học quốc tế. Sống và học tập tại một trường đại học quốc tế ở đất nước Việt Nam sôi động, bạn sẽ có cơ hội khám phá một đất nước độc đáo với lịch sử lâu đời, nhiều điều mới lạ và có nhịp độ phát triển nhanh. RMIT là trường đại học toàn cầu về công nghệ, thiết kế và sáng tạo. Danh tiếng này đã được khẳng định qua những hoạt động thực tiễn của trường. Sinh viên theo học tại Đại học RMIT Việt Nam sẽ tốt nghiệp với bằng được cấp bởi Đại học RMIT tại Melbourne, đạt tiêu chuẩn cao nhất của hệ thống giáo dục Úc và được công nhận bởi nhà tuyển dụng trên toàn thế giới. Lực lượng lao động thời kỳ hậu COVID-19 sẽ hưởng lợi từ những đổi mới khởi tạo ngay từ hôm nay, phát biểu của các chuyên gia quốc tế tại tọa đàm do Đại học RMIT và Deloitte phối hợp tổ chức. Sinh viên Việt Nam đã thể hiện kỹ năng giải quyết vấn đề bằng cách sử dụng blockchain và công nghệ tài chính để giải quyết các vấn đề thực tế tại một cuộc thi mở rộng toàn quốc do Đại học RMIT Việt Nam tổ chức lần đầu tiên gần đây. Học viên trên khắp Việt Nam cùng học lập trình robot và viết code theo hình thức trực tuyến trong một chương trình kéo dài chín ngày được thực hiện bởi Trung tâm Xuất sắc kỹ thuật số (CODE), Đại học RMIT. Theo các chuyên gia tại Diễn đàn Kinh doanh quốc tế Đại học RMIT năm 2021, dẫu đại dịch COVID-19 đem đến nhiều thách thức cho ngành cà phê, doanh nghiệp vẫn có thể thích ứng nhờ tìm tòi áp dụng những ý tưởng đổi mới sáng tạo và gia tăng giá trị cho hạt cà phê Việt Nam. Khám phá chương trình Cử nhân Khoa học Ứng dụng (Hàng không) tại RMIT qua chương trình livestream đặc biệt giới thiệu ngành. Chủ động lên kế hoạch cho năm cuối cấp và sẵn sàng cho hành trình giành tấm vé vào đại học quốc tế.
Đại học RMIT Việt Nam
Học viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne (tiếng Anh: the Royal Melbourne Institute of Technology, viết tắt: RMIT) là một trường đại học Úc hoạt động tại Việt Nam với hai học sở tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Phân hiệu tại Việt Nam của trường có tên chính thức là Đại học RMIT Việt Nam (tiếng Anh: RMIT University Vietnam), thường được gọi là RMIT Việt Nam (tiếng Anh: RMIT Vietnam) trong khi cơ sở chính tại Úc được biết đến với tên gọi Đại học RMIT (RMIT University). Trường hoàn toàn được đầu tư và điều hành bởi cơ sở chính ở Australia, không thuộc khuôn khổ đại học công lập của Việt Nam. Năm 1998, Chính phủ Việt Nam ngỏ lời mời Đại học RMIT từ Úc xây dựng một trường đại học nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Năm 2000, Đại học RMIT Việt Nam được thành lập theo quyết định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, theo đó, trường được phép cung cấp các chương trình giáo dục bậc đại học, sau đại học, đào tạo và nghiên cứu. Đại học RMIT Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ năm 2001, bắt đầu cung cấp các chương trình giảng dạy ở thành phố Hồ Chí Minh.