id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
618
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
11
513k
29419
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%9F%20mang%20thu%E1%BB%B7%20l%E1%BB%A3i
Mở mang thuỷ lợi
Núi trọc như đầu bình vôi, Sông không có nước, nước hiếm hoi như vàng. Hàng năm hạn hán tan hoang, Người người đói rách, làng làng xác xơ. Ơn Đảng như mẹ như cha, Mở mang thuỷ lợi, nhà nhà ấm no. Ấm no không đợi trời cho, Người làm ra nước, sức to hơn trời. Ngày 25 tháng 5 năm 1958 Thơ Việt Nam Lục bát
29420
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20b%C3%A1o%20Qu%E1%BB%91c%20gia
Mừng báo Quốc gia
Tết này mới thật Tết dân ta, Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia. Độc lập đầy vơi ba cốc rượu, Tự do vàng đỏ một rừng hoa. Muôn nhà chào đón xuân dân chủ, Cả nước vui chung phúc cộng hoà. Ta chúc nhau rồi ta nhớ chúc, Những người chiến sĩ ở phương xa. Hà Nội - Tết Độc lập Bính Tuất, 1946 Thơ Việt Nam Thất ngôn bát cú
29421
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20s%E1%BA%A3n%20xu%E1%BA%A5t%20tr%E1%BA%BB%20th%E1%BB%A7%20%C4%91%C3%B4
Mừng Đại hội những người sản xuất trẻ thủ đô
Bác thân ái chúc các cháu Mạnh khoẻ, vui vẻ Đoàn kết chặt chẽ Luôn luôn thi đua Đưa cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ Vươn lên hàng đầu Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thơ Việt Nam
29422
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20k%C3%AAnh%20V%C3%B4n-ga%20%C4%90%C3%B4ng%20ho%C3%A0n%20th%C3%A0nh%20%2827-7-1952%29
Mừng kênh Vôn-ga Đông hoàn thành (27-7-1952)
Xưa có câu: Đào núi và đắp bể, Luyện đá vá trời xanh, Việc gì, dù khó mấy, Quyết chí, ắt làm thành. Ngày nay: Chính sách Xtalin Quyết xây dựng hoà bình, Và gìn giữ hoà bình, Tạo phúc cho dân sinh. Cho nên: Cuộc thi đua ái quốc Cuốn toàn dân Xô - Liên, Công nông và trí thức, Phụ nữ và thanh niên, Người người đều thi đua, Góp sức và góp tiền. Kết quả là: Kênh đào Vônga - Đông, Hôm nay mừng thành công, Mấy xưởng điện khổng lồ Tung điện ra khắp vùng Kênh hơn bảy trăm dặm Rất tiện cho giao thông, Hăm tám triệu mẫu cát Thành ruộng cho nhà nông. Vì vậy: Nước đã mạnh, thêm mạnh, Dân đã giàu, càng giàu, Thái bình và hạnh phúc, Hưởng mãi muôn đời sau. Nước ta đang kháng chiến Để diệt lũ thực dân. Khi kháng chiến thắng lợi, Ta xây dựng dần dần. Liên Xô đã bước trước, Việt Nam sẽ tiến sau. Ta ra sức thi đua, Thành công ắt cũng mau. Ta mừng Vônga - Đông, Ta phất ngọn cờ hồng. Và hô to: Kháng chiến nhất định thắng lợi! Kiến quốc nhất định thành công! C.B. Thơ Việt Nam
29423
https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20xu%C3%A2n%20nguy%C3%AAn%20%C4%91%C3%A1n%20th%E1%BA%BF%20n%C3%A0o
Mừng xuân nguyên đán thế nào
Trăm năm trong cõi người ta, Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan, Mừng Xuân, Xuân cả thế gian Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân. Tháng 1 năm 1960 Thơ Việt Nam Lục bát
29424
https://vi.wikisource.org/wiki/M%C6%B0%E1%BB%9Di%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20c%E1%BB%A7a%20Vi%E1%BB%87t%20Minh
Mười chính sách của Việt Minh
Việt Nam độc lập đồng minh Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây. Quyết làm cho nước non này, Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền: Làm cho con cháu Rồng, Tiên, Dân ta giữ lấy lợi quyền của ta. Có mười chính sách bày ra, Một là ích nước, hai là lợi dân. Bao nhiêu thuế ruộng, thuế thân, Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền. Hội hè, tín ngưỡng, báo chương, Họp hành, đi lại, có quyền tự do. Nông dân có ruộng, có bò, Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn. Công nhân làm lụng gian nan, Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ. Gặp khi tai nạn bất ngờ, Thuốc thang Chính phủ bấy giờ giúp cho. Thương nhân buôn nhỏ, bán to, Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền. Nào là những kẻ chức viên, Cải lương đãi ngộ cho yên tấm lòng. Binh lính giữ nước có công, Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu. Thanh niên có trường học nhiều, Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho. Đàn bà cũng được tự do, Bất phân nam nữ, đều cho bình quyền. Người tàn tật, kẻ lão niên, Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho. Trẻ em, bố mẹ khỏi lo, Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy. Muốn làm đạt mục đích này, Chúng ta trước phải ra tay kết đoàn. Sao cho từ Bắc chí Nam, Việt Minh hội có muôn vàn hội viên. Người có sức, đem sức quyên, Ta có tiền của, quyên tiền của ta. Trên vì nước, dưới vì nhà, Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh. Chúng ta có hội Việt Minh Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh. Rồi ra sự nghiệp hoàn thành, Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng. Khuyên ai xin nhớ chữ đồng, Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh. 1941 Thơ Việt Nam Lục bát
29425
https://vi.wikisource.org/wiki/Nhi%E1%BB%81u%2C%20nhanh%2C%20t%E1%BB%91t%2C%20r%E1%BA%BB
Nhiều, nhanh, tốt, rẻ
Làm nhanh mà không tốt Có gì là vẻ vang? Đã là người làm chủ, Tính toán phải đàng hoàng: Nhiều, nhanh, tốt, rẻ rõ ràng Lợi dân, lợi nước đôi đàng vẹn đôi. Thơ Việt Nam
29426
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%C3%B3m%20l%E1%BB%ADa
Nhóm lửa
Lúc leo lét bắt đầu nhóm lửa, Biết bao nhiêu là sự khó khăn? Chỉ đìu hiu một mảy gió xuân, Cũng lo sợ lửa khi tắt mất. Nghi ngút khói, mặc dầu thổi quạt, Che một bên lại tạt một bên, Khi lửa đà chắc chắn bén lên, Thì mưa gió, chi chi cũng cháy. Mưa lún phún, lửa càng nóng nảy, Gió càng cao, ngọn lửa càng cao. Núi rừng đều bén, cháy ào ào, Lửa nung đỏ, cả giời sáng toé. Việc cách mạng cũng là như thế, Bước ban đầu là bước gian nan. Nào đế quốc, mật thám, bọn quan, Đều là lũ ra tay phá hoại. Hở một chút, tức là thất bại, Sai một ly là hại cho dân. Song khi cách mạng đã vững chân, Sẽ ồ ạt lan tràn khắp xứ, Sẽ vùn vụt như toà núi lửa, Sẽ rầm rầm như ngọn thuỷ trào, Sẽ kéo theo tất cả đồng bào, Sẽ đè bẹp cả loài lang sói. Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi, Chiếu lá cờ độc lập, tự do! Thơ Việt Nam
29428
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20v%E1%BA%A7n%20th%C6%A1%20c%E1%BB%95%20%C4%91%E1%BB%99ng
Những vần thơ cổ động
(A) Thanh niên sức mạnh vô vàn, Tuốt dao trỗi dậy đập tan quân thù. ... Thề cùng quân giặc phen sống mái, Phá tan xiềng xích dựng nước nhà. (B) Đáng kính thay bậc bão nhân, Phơ phơ tóc bạc, tinh thần vẫn cao. Xóm làng hết sức hô hào, Già trẻ trai gái mau vào Việt Minh. (C) Năm giới: sĩ - công - nông - thương - binh, Đoàn kết dưới bóng cờ Việt Minh. Thề tiễu trừ sài lang Nhật Bản, Giành độc lập, tự do, thái bình. Thơ Việt Nam
29429
https://vi.wikisource.org/wiki/N%C3%B4ng%20d%C3%A2n%20%C4%91o%C3%A0n%20k%E1%BA%BFt
Nông dân đoàn kết
Nông dân đoàn kết, cả nước một nhà, Đủ cả dân tộc, đủ cả trẻ già; Ai cũng cố gắng thi đua tăng gia, Kế hoạch nông nghiệp chắc là thành công. Thơ Việt Nam
29430
https://vi.wikisource.org/wiki/N%E1%BB%AF%20anh%20h%C3%B9ng%20Nguy%E1%BB%85n%20Th%E1%BB%8B%20B%C6%B0%C6%A1i
Nữ anh hùng Nguyễn Thị Bươi
Người Long Động, tỉnh Quảng Yên; Hai mươi bốn tuổi, tính hiền và ngoan. Từ ngày giặc đánh vào làng, Chị đánh du kích tỏ gan anh hùng. Việc gì chị cũng xung phong, Khiến cho đồng đội càng hăng thêm nhiều. Chiến tranh càng khó bao nhiêu, Tinh thần càng vững, càng nhiều chiến công. Khi đánh giặc, khi giao thông, Tuyên truyền, tổ chức, chị không ngại nề. Một hôm, khai hội ra về, Chẳng may địch bắt, không hề khai ra. Chúng dùng đủ cách khảo tra, Rồi cho lính hiếp suốt 3, 4 tuần. Chém cha lũ giặc bất nhân, Chúng toan bắn chị ở chân ngôi đình. Nghĩ rằng mình chết đã đành, Còn tài liệu Đảng giấu quanh mái nhà? Chị bèn một chước nghĩ ra: Xin về lấy súng đặng mà báo tin. Đến làng, gặp một người quen, Thừa cơ chị đã đưa tin rõ ràng. Rồi quay mặt lại đường hoàng, Chửi vào mặt giặc, giặc càng căm gan. Chúng liền đạp chị ngã lăn, Đứa dao khoét vú, đứa chân giẫm đầu. Đứa thì tay đỡ chậu thau, Đứa thì mổ chị từ đầu đến chân! Chị luôn giữ vững tinh thần, Hô to khẩu hiệu, chửi quân bạo tàn. Vì lòng yêu nước nồng nàn, Nêu gương oanh liệt muôn ngàn đời sau. C.B. Thơ Việt Nam Lục bát
29431
https://vi.wikisource.org/wiki/N%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ta
Nước ta
Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu Nhân dân dũng cảm và cần kiệm Các nước anh em giúp đỡ nhiều. Thơ Việt Nam
29432
https://vi.wikisource.org/wiki/P%C3%A1c%20B%C3%B3%20h%C3%B9ng%20v%C4%A9
Pác Bó hùng vĩ
Non xa xa, nước xa xa, Nào phải thênh thang mới gọi là. Đây suối Lê-nin, kia núi Mác, Hai tay xây dựng một sơn hà. Tháng 2-1941 Thơ Việt Nam
29433
https://vi.wikisource.org/wiki/Ph%C3%A2n%20c%C3%B4ng%20h%E1%BB%A3p%20l%C3%BD
Phân công hợp lý
Phân công hợp lý cả làng, Sản xuất tiết kiệm rõ ràng thi đua. Một mùa gặt bằng hai mùa, Dân no, nước mạnh tha hồ đánh Tây. Thơ Việt Nam Lục bát
29434
https://vi.wikisource.org/wiki/Ph%E1%BB%A5%20n%E1%BB%AF
Phụ nữ
Việt Nam phụ nữ đời đời Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh. Ngàn thu rạng tiếng bà Trưng, Ra tay cứu nước, cứu dân đến cùng. Bà Triệu Ẩu thật anh hùng, Cưỡi voi đánh giặc, vẫy vùng bốn phương. Mấy năm cách mệnh khẩn trương, Chị em phụ nữ thường thường tham gia. Mấy phen tranh đấu xông pha, Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai? Kìa như chị Nguyễn Minh Khai Bị làm án tử đến hai ba lần. Bây giờ cơ hội đã gần, Đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân nước nhà. Chị em cả trẻ đến già Cùng nhau đoàn kết đặng mà đấu tranh. Đua nhau vào hội Việt Minh Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên. Làm cho thiên hạ biết tên Làm cho rõ mặt cháu Tiên, con Rồng. Thơ Việt Nam Lục bát
29435
https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%C3%A2n%20ta%20to%C3%A0n%20th%E1%BA%AFng%20%E1%BB%9F%20%C4%90i%E1%BB%87n%20Bi%C3%AAn%20Ph%E1%BB%A7
Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ
20 tháng 11 năm cũ, Giặc Pháp nhảy dù Điện Biên Phủ. Hăm mốt tiểu đoàn tinh nhuệ nhất, Xe tăng, súng lớn đầy chồng chất. Chúng khoe rằng: "kế hoạch Nava Thật là mạnh dạn và tài hoa. Phen này Việt Minh phải biết tay, Quan thầy Mỹ thì vui lòng thay!" Các báo phản động khắp thế giới Inh ỏi tâng bốc Nava tới. Bên ta thì: Bộ đội, dân công quyết một lòng, Xẻ non, đắp suối, vượt qua sông, Khắc phục khó khăn và hiểm trở; Đánh cho giặc tan mới hả dạ; Lặng lẽ chuẩn bị suốt tháng ngày, Không quản gian khổ và đắng cay; Quyết tâm làm cho tròn nhiệm vụ, Đã hứa với Bác, Đảng, Chính phủ. 13 tháng 3 ta tấn công, Giặc còn ở trong giấc mơ nồng: "Mình có thầy Mỹ lo cung cấp; Máy bay cao cao, xe tăng thấp, Lại có Nava cùng Cônhi, Những tay tướng giỏi nắm chỉ huy. Chúng mình chuyến này nhất định thắng, Việt Minh ắt thua chạy quýnh cẳng". Hơn 50 ngày, ta đánh đồn, Ta chiếm một đồn lại một đồn, Quân giặc chống cự tuy rất hăng, Quân ta anh dũng ít ai bằng. Nava, Cônhi đều méo mặt, Quân giặc tan hoang ta vây chặt. Giặc kéo từng loạt ra hàng ta. Quân ta vui hát "khải hoàn ca". Mười ba quan năm đều hàng nốt, Tên tướng chỉ huy cũng bị nhốt. Một vạn sáu ngàn tên giặc Tây, Đều là tù binh hoặc bỏ thây. Thế là quân ta đã toàn thắng Toàn thắng là vì rất cố gắng. Chiến sĩ viết thư dâng Cụ Hồ: "Xin Bác vui lòng mà nhận cho Món quà chúc thọ sinh nhật Bác, Chúng cháu cố gắng đã sắm được". C.B. Thơ Việt Nam
29436
https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%C3%AA%20%C4%91%C3%A2u%20cho%20b%E1%BA%B1ng%20qu%C3%AA%20nh%C3%A0%2C%20nh%C3%A0%20ta%20ta%20%E1%BB%9F%2C%20vi%E1%BB%87c%20ta%20ta%20l%C3%A0m
Quê đâu cho bằng quê nhà, nhà ta ta ở, việc ta ta làm
Trông về trời bể mênh mang Bà con đã cách, xóm làng đã xa Lưu ly không cửa không nhà Chân trời góc bể biết là về đâu Thơ Việt Nam Lục bát
29437
https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20ca%20%28H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh%20d%E1%BB%8Bch%29
Quốc tế ca (Hồ Chí Minh dịch)
Điệp khúc Trận này là trận cuối cùng Ầm ầm đoàn lực, đùng đùng đảng cơ, Lanhtécnaxiônanlơ Ấy là nhân đạo, ấy là tự do. Đoạn I Hỡi ai nô lệ trên đời, Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên! Bất bình này chịu sao yên, Phá cho tan nát một phen cho rồi! Bao nhiêu áp bức trên đời, Sạch sành sanh phá cho rồi mới tha! Cuộc đời này đã đổi ra, Xưa kia con ở nay là chủ ông! Đoạn II Công nông ta có đảng to, Có nhờ ta mới có kho có tài. Trời sinh đất để cho người, Những đồ lười biếng thì mời đi đi, Những đồ ǎn xổi ở thì, Mình làm chúng hưởng lẽ gì xưa nay. Nếu đem diệt sạch lũ này, Mặt trời vẫn cứ ngày ngày xuân dung! Đoạn III Việc ta ta phải gắng lo, Chẳng nhờ trời phật chẳng nhờ thần linh. Công nông mình cứu lấy mình, Sửa sang thế đạo kinh dinh nhân quyền. Muốn cho đánh đổ cường quyền, Tự do bình đẳng vẹn tuyền cả hai. Thụt lò ta phải ra tay, Sắt kia đang nóng đập ngay mà dùng!
29438
https://vi.wikisource.org/wiki/S%C3%A1u%20m%C6%B0%C6%A1i%20tu%E1%BB%95i
Sáu mươi tuổi
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán, So với ông Bành vẫn thiếu niên. Ăn khoẻ, ngủ ngon, làm việc khoẻ, Trần mà như thế kém gì tiên! 1950 Thơ Việt Nam Thất ngôn tứ tuyệt
29439
https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%A1m%20%C4%91i%E1%BB%81u%20c%E1%BA%A7n%20thi%E1%BA%BFt
Tám điều cần thiết
Nước phải đủ, phân phải nhiều, Cày sâu, giống tốt, cáy đều dảnh hơn; Trừ sâu, diệt chuột chơ quên, Cải tiến nông cụ là nền nhà nông; Ruộng nương quản lý ra công, Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ. Thơ Việt Nam Lục bát
29440
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20%C3%A1o
Tặng áo
Tết năm nay hoãn thịt xôi Tết sau, thắng lợi sẽ đền bồi Áo bạn biếu tôi, tôi biếu chú Chú mang cho ấm, cũng như tôi Thơ Việt Nam
29441
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20b%C3%A1o%20Xung%20phong
Tặng báo Xung phong
Bác nhận được báo "Xung phong" Cảm ơn các cháu có lòng gửi cho. Các cháu nghe bác dặn dò: "Phải biết yêu nước, phải lo học hành. Siêng làm việc, siêng tập tành, Phải giữ kỷ luật mới thành cháu ngoan. Bác yêu các cháu muôn vàn, Bác gửi các cháu một ngàn cái hôn". Thơ Việt Nam Lục bát
29442
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20ch%C3%A1u%20N%C3%B4ng%20Th%E1%BB%8B%20Tr%C6%B0ng
Tặng cháu Nông Thị Trưng
Vở này ta tặng cháu yêu ta, Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là. Mong cháu ra công mà học tập, Mai sau cháu giúp nước non nhà. 1944 Thơ Việt Nam Thất ngôn tứ tuyệt
29443
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20c%C3%B4ng%20an%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20v%C5%A9%20trang
Tặng công an nhân dân vũ trang
Đoàn kết, cảnh giác, Liêm, chính, kiệm, cần; Hoàn thành nhiệm vụ, Khắc phục khó khăn; Dũng cảm trước địch, Vì nước quên thân; Trung thành với Đảng, Tận hiếu với dân. Tháng 1 năm 1959 Thơ Việt Nam
29444
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20c%E1%BB%A5%20%C4%90inh%20Ch%C6%B0%C6%A1ng%20D%C6%B0%C6%A1ng
Tặng cụ Đinh Chương Dương
Quan san muôn dặm gặp nhau đây, Mục đích chung là đuổi Nhật, Tây. Dân bị hai tròng vào một cổ, Ta liều trăm đắng với ngàn cay. Già dù yếu sức mang mang nhẹ, Trẻ cố ra công gánh gánh đầy. Non nước của ta ta lấy lại, Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây. Liễu Châu, năm 1943 Thơ Việt Nam Thất ngôn bát cú
29445
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20S%C6%B0%20%C4%91o%C3%A0n%20316
Tặng Sư đoàn 316
Ðá rắn, quyết tâm ta rắn hơn đá. Núi cao, chí khí ta còn cao hơn. Khó khăn ta quyết vượt cho kỳ được, Gian khổ không làm ta sờn Ðảng phái ta trên mặt trận sản xuất, Nhiệm vụ ấy ta quyết làm cho tròn. Ðội ơn đào tạo người, quân đội, Quyết chí đền bồi nghĩa nước non. Ngày 10-3-1958 Thơ Việt Nam
29446
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20to%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20%C4%90%E1%BB%9D-cu
Tặng toàn quyền Đờ-cu
Non nước Rồng Tiên rõ mịt mù, Lợi quyền phó mặc bố thằng Cu. Đối dân Nam Việt thì lên mặt, Gặp bọn Phù Tang chỉ đội khu! Về Pháp, không cơm e chết đói, Ở đây, hút máu béo ni-nu. Cũng như thống chế Pê-tanh vậy, Chú cứ cu cù được mãi ru! Thơ Việt Nam Thất ngôn bát cú
29447
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tr%C3%A8o%20n%C3%BAi
Tập trèo núi
Cố trèo, cố trèo lại cố trèo Cố trèo, không sợ núi cheo leo Núi cao, ta bước cao hơn núi Con đường thắng lợi vốn quanh queo. Thơ Việt Nam Thất ngôn tứ tuyệt
29448
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C4%83m%20l%E1%BA%A1i%20hang%20P%C3%A1c%20B%C3%B3
Thăm lại hang Pác Bó
Hai mươi năm trước ở hang này Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu Non sông gấm vóc có ngày nay. 20/2/1961 Thơ Việt Nam Thất ngôn tứ tuyệt
29449
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20c%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%93ng%20ch%C3%AD%20c%C3%A1n%20b%E1%BB%99%20%C4%91ang%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20t%E1%BA%A1i%20Pari
Thơ chúc tết các đồng chí cán bộ đang công tác tại Pari
Xuân gà túc tác đến nơi, Gửi người thân thiết mấy lời mừng xuân. Gà xuân túc tác rạng đông, Đưa tin thắng lợi cờ hồng bay cao. Xuân Kỷ Dậu Thơ Việt Nam Lục bát
29450
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20du%20k%C3%ADch
Thơ du kích
Bọn phát xít, Cướp nước ta, Nó cướp của, Nó đốt nhà, Nó đánh chết trẻ con, Nó hãm hiếp đàn bà, Nó bắn thanh niên, Nó giết người già. Khổ thế này, Chịu sao qua, Ta muốn sống, Phải tham gia, Đánh du kich, Đuổi địch ra. Bất kỳ trẻ hay già, Đàn ông hay đàn bà, Đều ra sức tham gia, Đánh du kích, Đuổi địch ra! Hỡi quốc dân đồng bào, Tiến lên cả xem nào! Không có súng, Ta dùng dao, Ta dùng cuốc, Ta dùng cào, Ta lấy đòn ghính, Ta nhổ cọc rào, Hễ thấy địch, Cứ xông vào, Đánh cho chúng nhào. Mỗi người là một chiến sĩ, Mỗi người là một chiến binh, Ta nhất định thắng lợi, Cờ Độc lập phất cao. Thơ Việt Nam
29451
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20khen%20t%E1%BA%B7ng%20hai%20em%20nhi%20%C4%91%E1%BB%93ng%20li%C3%AAn%20l%E1%BA%A1c%20trong%20b%E1%BB%99%20%C4%91%E1%BB%99i%20chi%E1%BA%BFn%20khu%20II
Thơ khen tặng hai em nhi đồng liên lạc trong bộ đội chiến khu II
Gửi cháu Phạm Đỗ Hải Bác được tin rằng: Cháu làm liên lạc, Bị giặc bắt được, Lại trốn thoát ngay. Mang hai lính Tây Theo về bộ đội. Thế là cháu giỏi. Biết cách tuyên truyền. Bác gửi lời khen. Khuyên cháu gắng sức Học hành, công tác Tiến bộ luôn luôn. Gửi cháu cái hôn Và lòng thân ái. * Gửi cháu Lê Văn Cháu có can đảm Giơ súng doạ Tây. Bắt nó hàng ngay, Lấy được súng nó. Vì thành công đó, Bác gửi lời khen. Khuyên cháu tập rèn Ngày càng tiến bộ. Bác lại gửi cháu Mấy chục cái hôn. Tháng 8 năm 1947 Thơ Việt Nam
29452
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20ba%20c%E1%BB%A5%20l%C3%A3o%20du%20k%C3%ADch%20%E1%BB%9F%20Cao%20B%E1%BA%B1ng
Thơ tặng ba cụ lão du kích ở Cao Bằng
Tuổi cao chí khí càng cao, Múa gươm giết giặc ào ào gió thu. Sẵn sàng tiêu diệt quân thù, Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng. Thơ Việt Nam Lục bát
29453
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20b%C3%A1o%20%C4%90%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp
Thơ tặng báo Độc lập
Năm mới thế cho năm đã cũ, Báo “Độc lập” của đảng “Dân chủ”. Kêu gọi toàn thể dân Việt Nam. Đoàn kết và thắt chặt hàng ngũ. Kiên quyết kháng chiến đến kỳ cùng, Để giữ chủ quyền và lãnh thổ. Chờ ngày Độc Lập đã thành công, Tết ấy tha hồ bàn với cỗ. Nhân mùa xuân kháng chiến đầu tiên, tháng 1 năm 1947. Thơ Việt Nam
29454
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20c%C3%A1c%20ch%C3%A1u%20nhi%20%C4%91%E1%BB%93ng
Thơ tặng các cháu nhi đồng
Bác mong các cháu “cho ngoan” Mai sau gìn giữ giang san Lạc Hồng Sao cho nổi tiếng Tiên Rồng Sao cho tỏ mặt nhi đồng Việt Nam. Ngày 10 tháng 4 năm 1946 Thơ Việt Nam Lục bát
29455
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20c%C3%A1n%20b%E1%BB%99%20chi%E1%BA%BFn%20s%C4%A9%20c%C3%B4ng%20an%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20v%C5%A9%20trang
Thơ tặng cán bộ chiến sĩ công an nhân dân vũ trang
Non xanh nước biếc trùng trùng Giữ gìn Tổ quốc ta không ngại ngùng gian lao Núi cao, sự nghiệp càng cao, Biển sâu, chí khí ta soi vào càng sâu. Thi đua ta quyết giật cờ đầu. 2-3-1962 Thơ Việt Nam
29456
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20trong%20nh%E1%BA%ADt%20k%C3%BD
Thơ trong nhật ký
Bảy, tám chục năm giời mất nước Các cụ già uất ức lầm than Mắt trông nước mất nhà tan Giống nòi sỉ nhục, giang san thẹn thùng Đã thấy Phan Đình Phùng khởi nghĩa Đã thấy vùng Yên Thế đánh Tây Nước non vẫn... Thơ Việt Nam Song thất lục bát
29457
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20v%E1%BB%A3%20g%E1%BB%ADi%20ch%E1%BB%93ng%20%C4%91i%20l%C3%A0m%20c%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng
Thơ vợ gửi chồng đi làm cách mạng
Anh hỡi anh, chồng hỡi chồng, Từ ngày ly biệt thiếp nay trông mai chờ. Cha già mẹ yếu con thơ, Nuôi già dạy trẻ, em cậy nhờ vào đâu? Đói no bữa cháo bữa rau, Tuy lao khổ em dám đâu phàn nàn. Đêm khuya em tự hỏi han, Vì ai ta phải lìa tan thế này? Anh nguyên có tội tình gì? Mà nay cũng phải bắt đi ở tù? Vì anh muốn chống kẻ thù, Vì anh lo nước mất, dân ngu, nòi hèn. Vì anh tranh đấu mấy phen, Vì anh mong giải phóng cho cháu Tiên con Rồng. Em xin anh chớ phiền lòng, Em tuy hèn yếu quyết thay chồng tranh đấu đến nơi. Đoàn thể ta có ức triệu người, Ra tay chèo chống cuộc đời nước ta. Mai sau anh trở lại nhà, Ánh trăng càng tỏ màu hoa càng nồng. 1941 Thơ Việt Nam
29458
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20g%E1%BB%ADi%20%C4%91%E1%BB%93ng%20ch%C3%AD%20V%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%C3%A0m
Thư gửi đồng chí Vương Đàm
Bạn từ Trung Quốc sang đây, Tặng cho bạn hữu trái cây quá nhiều. Ăn rồi tấm tắc khen đều, Cám ơn và chúc bạn nhiều bình yên. 1951 Thơ Việt Nam Lục bát
29459
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20g%E1%BB%ADi%20Hy%20M%C3%A3%20Nghi%20B%C3%A1%20%C4%91%E1%BA%A1i%20nh%C3%A2n
Thư gửi Hy Mã Nghi Bá đại nhân
Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng Phải có kiên cương mới gọi hùng Vai cứng long lanh ngoài ách tớ Má đào nóng nảy giới quyền chồng Lợi chung dầu sẽ mua về được Kiếp mong chi nài sự có không Ba hột đạn - thầm hai tấc lưỡi Sao cho ích giống mấy cam lòng Thơ Việt Nam Thất ngôn bát cú
29460
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20g%E1%BB%ADi%20ph%E1%BB%A5%20n%E1%BB%AF%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20nh%C3%A2n%20d%E1%BB%8Bp%20xu%C3%A2n%20B%C3%ADnh%20Tu%E1%BA%A5t
Thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp xuân Bính Tuất
Năm mới Bính Tuất Phụ nữ đồng bào Phải gắng làm sao Gây "Đời sống mới" Việc thành là bởi Chúng ta siêng mần Vậy nên chữ cần Ta thực hành trước Lại phải kiệm ước Bỏ thói xa hoa Tiền của dư ra Đem làm việc nghĩa Thấy của bất nghĩa Ta chớ tham thàn Thế tức là liêm Đã liêm thì khiết Giữ mình làm việc Quảng đại công bình Vì nước quên mình Thế tức là chính Cần, kiệm, liêm, chính Giữ được vẹn mười Tức là những người Sống "Đời sống mới". Thơ Việt Nam
29461
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20trung%20thu%201951
Thư trung thu 1951
Trung thu trăng sáng như gương Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng Sau đây Bác viết mấy dòng Gửi cho các cháu tỏ lòng nhớ nhung... 1951 Thơ Việt Nam Lục bát
29463
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20trung%20thu%201953
Thư trung thu 1953
9 Tết Trung Thu, 8 năm kháng chiến, Các cháu khôn lớn, Bác rất vui lòng. Thu này Bác gửi thơ chung, Bác hôn các cháu khắp vùng gần xa, Thu này hơn những Thu qua, Kháng chiến thắng lợi gấp ba, bốn lần. Phát động nông dân, Cải cách ruộng đất, Dân đỡ chật vật, Hăng hái tăng gia. Xóm gần cho đến làng xa, No cơm ấm áo, theo đà tiến lên. Chỉnh huấn, chỉnh quân, Bộ đội cố gắng, Quyết chiến quyết thắng, Diệt giặc lập công. Khắp nơi Nam, Bắc, Tây, Đông, Đưa tin thắng trận cờ hồng tung bay. Các cháu vui thay! Bác cũng vui thay! Thu sau so với Thu này vui hơn. Thơ Việt Nam
29464
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90i%20thuy%E1%BB%81n%20tr%C3%AAn%20s%C3%B4ng%20%C4%90%C3%A1y
Đi thuyền trên sông Đáy
Dòng sông lặng ngắt như tờ, Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo. Bốn bề phong cảnh vắng teo, Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan. Lòng riêng riêng những bàng hoàng, Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng. Thuyền về, trời đã rạng đông, Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi. Ngày 18-8-1949 Thơ Việt Nam Lục bát
29465
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20trung%20thu%201956
Thư trung thu 1956
Nhân dịp Tết Trung thu Thân ái chúc các cháu: Vui vẻ, mạnh khoẻ, Đoàn kết chặt chẽ. Thi đua học hành, Tiến bộ mau lẹ. Thơ Việt Nam
29466
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20v%E1%BB%A3%20g%E1%BB%ADi%20ch%E1%BB%93ng
Thư vợ gửi chồng
Ba bốn năm trời luống nhớ thương Nhớ chàng lưu lạc tại tha hương Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp Luỵ nhớ e chưa ráo mắt chàng Thù nước thù nhà chàng gắng trả Việc nhà việc cửa thiếp xin đương Bao giờ đuổi sạch quân thù địch Ta sẽ sum vầy ở cố hương 1940 Thơ Việt Nam Thất ngôn bát cú
29467
https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%ACnh%20h%C3%ACnh%20Trung%20%C4%90%C3%B4ng
Tình hình Trung Đông
Trung Đông bão táp vừa bùng nổ Bỗng chốc lôi đình lại tạm câm Khốn khổ vì ai cho đến nỗi Anh em Ả Rập phải thương tâm. Trông người ta lại ngẫm phần ta Sách lược của ta ta định ra Đừng để cho ai xoay chuyển nó Cuối cùng thắng lợi ắt về ta. 1967 Thơ Việt Nam
29468
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BA%BB%20ch%C4%83n%20tr%C3%A2u
Trẻ chăn trâu
Trên đồi cỏ mọc xanh xanh, Một đàn cò đậu ngoài ghềnh xa xa, Trâu bò lũ bảy, lũ ba, Ven đồi chen chúc bụi già, cỏ non. Chăn trâu mấy trẻ con con, Cùng nhau xướng hát véo von trên gò: "Vì ai, ta chẳng ấm no? Vì ai, ta đã phải lo cơ hàn? Vì ai, cha mẹ nghèo nàn? Vì ai, nhà cửa, giang san tan tành? Vì ai, ngăn cấm học hành? Vì ai, ta phải chịu vành dốt ngây? - Ấy là vì Nhật, vì Tây Ra tay vơ vét, đoạ đày chúng ta; Làm ta tan cửa, nát nhà, Trẻ con vất vả, người già đắng cay. - Cùng nhau đánh đuổi Nhật, Tây. Anh em ta mới có ngày vinh hoa. "Nhi đồng cứu quốc" Hội ta, Ấy là lực lượng, ấy là cứu sinh. Ấy là bộ phận Việt Minh, Dân mình khắc cứu dân mình mới xong". * Ai nghe mà chẳng động lòng, Khá thương con trẻ mục đồng Việt Nam. Thơ Việt Nam Lục bát
29469
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BA%BB%20con
Trẻ con
Trẻ em như búp trên cành, Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan, Chẳng may vận nước gian nan, Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng. Học hành, giáo dục đã không, Nhà nghèo lại phải làm công, cày bừa. Sức còn yếu, tuổi còn thơ, Mà đã khó nhọc cũng như người già! Có khi lìa mẹ, lìa cha, Đi ăn ở với người ta bên ngoài. Vì ai mà đến thế này? Vì giặc Nhật với giặc Tây bạo tàn! Khiến ta nước mất, nhà tan, Trẻ em cũng phải cơ hàn xót xa. Vậy nên con trẻ nước ta Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh! Kẻ lớn cứu quốc đã đành, Trẻ em cũng phải ra dành một vai. Bao giờ đánh đuổi Nhật, Tây, Trẻ em ta sẽ là bầy con cưng. Thơ Việt Nam Lục bát
29470
https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BB%93ng%20c%C3%A2y
Trồng cây
Muốn làm nhà cửa tốt Phải ra sức trồng cây. Chúng ta chuẩn bị từ ray, Dăm năm sau sẽ bắt tay dựng nhà. Ngày 30 tháng 5 năm 1959 Thơ Việt Nam
29472
https://vi.wikisource.org/wiki/Uy%20danh%20l%E1%BB%ABng%20l%E1%BA%ABy%20kh%E1%BA%AFp%20n%C4%83m%20ch%C3%A2u
Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Uy danh lừng lẫy khắp năm châu Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu Thành Đồng trống thắng lay lầu trắng Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu. Thơ Việt Nam Thất ngôn tứ tuyệt
29473
https://vi.wikisource.org/wiki/Vi%E1%BB%87t%20Nam%20%C4%91%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp
Việt Nam độc lập
“Việt Nam độc lập” thổi kèn loa, Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già. Đoàn kết vững bền như khối sắt, Để cùng nhau cứu nước Nam ta! Thơ Việt Nam Thất ngôn tứ tuyệt
29474
https://vi.wikisource.org/wiki/Vi%E1%BB%87t%20Nam%20y%C3%AAu%20c%E1%BA%A7u%20ca
Việt Nam yêu cầu ca
Bằng nay gặp hội Giao hoà. Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình. Cậy rằng các nước Đồng minh Đem gươm công lý giết hình giã man Mấy phen công bố rõ ràng. Dân nào rồi cũng được trang bình quyền Việt Nam xưa cũng oai thiêng Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang Sa. Lòng thành tỏ nỗi sút sa. Dám xin đại quốc soi qua chút nào. Một xin tha kẻ đồng bào. Vì chưng chính trị mắc vào tù giam. Hai xin phép luật sửa sang Người Tây người Việt hai phương cùng đồng. Những toà đặc biệt bất công Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành Ba xin rộng phép học hành Mở mang kỹ nghệ, tập tành công thương Bốn xin được phép hội hàng Năm xin nghĩ ngợi nói bàn tự do Sáu xin được phép lịch du Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình. Bảy xin hiến pháp ban hành Trăm đều phải có thần linh pháp quyền. Tám xin được cử nghị viên. Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân. Tám đều cặn tỏ xa gần. Chưng nhờ vạn quốc công dân xét tình Riêng nhờ giân Pháp công bình Đem lòng đoái lại của mình trong tay. Pháp dân nức tiếng xưa nay. Đồng bào, bác ái sánh tày không ai. Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai. Để cho mấy ức triệu người bơ vơ. Dân Nam một dạ ước mơ Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự do. Rộng xin dân Pháp xét cho Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công. Dịch mấy chữ quốc âm bày tỏ Để đồng bào lớn nhỏ được hay. Hoà bình may gặp hồi nầy Tôn sùng công lý, đoạ đày dã man Nay gặp hội khải hoàn hỉ hả Tiếng vui mừng khắp cả đồng dân Tây vui chắc đã mười phần Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi Hẵng mở mắt mà soi cho rõ Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly. Xưa, hèn phải bước suy vi Nay, gần độc lập cũng vì dân khôn Hai mươi triệu quốc hồn Nam Việt Thế cuộc nầy phải biết mà lo Đồng bào, bình đẳng tự do Xét mình rồi lại đem so mấy người Ngổn ngang lời vắn ý dài Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa Thơ Việt Nam Thơ Việt Nam
29475
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20s%E1%BB%9B%20%E1%BB%A9ng%20kh%E1%BA%A9u%20%E1%BB%9F%20Ch%E1%BB%89%20Th%C3%B4n
Bài sớ ứng khẩu ở Chỉ Thôn
Nam mô Phật Tổ Như Lai, Chúng sinh nheo nhóc dưới trời Tây phương. Trăm tầng áp bức thảm thương, Thân gầy như củi, xác nhường thây ma. Đâu là phúc đẳng hà sa? Đâu là cõi Phật, đâu là cảnh tiên? ………. Nam mô Bồ tát Thế tôn, Tiếp dẫn linh hồn về Mạc Tư Khoa. Đấy là phúc đẳng hà sa, Đấy là hạnh phúc, đấy là thần tiên. ………. ………. Quân giặc Nhật thật là tàn ác, Vừa rồi đây oanh tạc Pô Chai. Kiều bào mấy chục mạng người, Thây tan thịt nát quê người thảm thê. Khóc than cũng khôn bề cứu sống, Phải vùng lên như đấng Thiên vương. Thù nhà nợ nước đôi đường, Đã vì người chết, càng thương giống nòi. Đừng tin vào số mệnh trời, Mà do quân Nhật giết người gây nên. Hồn ơi, hồn có linh thiêng! Hãy cùng người sống báo đền nước non. Người còn thì nước phải còn. ………. 1940 Thơ Việt Nam
29476
https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20c%C3%A2u%20th%C6%A1%20cu%E1%BB%91i%20c%C3%A1c%20ch%C6%B0%C6%A1ng%20trong%20%22Nh%E1%BA%ADt%20k%C3%BD%20ch%C3%ACm%20t%C3%A0u%22
Những câu thơ cuối các chương trong "Nhật ký chìm tàu"
1. Mênh mông trên biển dưới trời Một hòn hoang đảo ba người lưu ly. 2. Lạ thay trong chiếc tàu này Cái gì cũng khác tàu Tây mình làm. 3. Gió cao tiếng hạc càng cao Ba quân chỉ ngọn cờ đào kéo ra. 4. Rằng nay bốn biển một nhà Cùng là bè bạn cùng là thân yêu. 5. Công nông Nga có ngày nay Cũng đà nếm mật nằm gai mấy lần. 6. Sung sướng thay thợ thuyền Nga Ngày làm ngày nghỉ đều là có lương. ….. Công xã thất bại nhưng mà Ảnh hưởng công xã sâu xa vô cùng: Nước Nga cách mạng thành công, Cũng bởi công xã treo gương sau này. Anh em hỡi gặp ngày kỷ niệm (18 -3?) Nghiên cứu tường lành nghiệm lớn lao Rồi đem phổ biến cho nhau… 7. Bần nông có ruộng mà cày Cũng bởi cách mạng ra tay đỡ đầu. 8. Lẻ loi đã tốn lại hao Chung nhau hợp tác, đường nào lợi hơn? 9. Sách là bổ ích tinh thần Sách mà vào tới tai dân mới là. 10. Sách là thuốc chữa tội ngu Dân Nga ham sách nên mau thịnh cường. 11. Công nông gìn giữ nước nhà Dân là dân lính, lính là lính dân. …. Khắp năm châu phận đàn bà Có đâu mà được như Nga bây giờ? 20. Từ khi mới lọt lòng ra Trẻ con đã được dân Nga phù trì. 21. Trẻ con khôn lớn lạ đời Cũng bởi cách mạnh dạy cách nuôi phải đường. 22. Rằng đây bốn bể một nhà Vàng đen trắng đỏ đều là anh em. 23. Đế quốc Pháp! Mày ơi mày! Nan đào thoát Về phương Tây… Sắp đến ngày Mày tan xác. Dân Nga cách mạng thành công Dạy cho dân tộc Á Đông cách làm. 24. Bâng khuâng muốn ở muốn về Đem lời vàng đá đền nghì công nông. Kết luận: Không bột sao gột nên hồ Tay không xốc nổi cơ đồ, cừ không? Thơ Việt Nam
29481
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20xu%C3%A2n%20Qu%C3%BD%20M%C3%B9i%20-%201943
Thơ chúc tết xuân Quý Mùi - 1943
Một nghìn chín trăm bốn mươi ba, Năm mới tình hình hẳn mới a! Đông Á chắc rồi Tàu thắng Nhật. Tây Âu nhất định Đức thua Nga. Nhân dân các nước đều bùng dậy, Cách- mệnh nhiều nơi sẽ nổ ra. Đức, Nhật chết, rồi Tây cũng chết, Ấy là cơ - hội tốt cho ta! Ấy là cơ - hội tốt cho ta! Cơ- hội này ta chớ bỏ qua, Phấn đấu, hy sinh đừng quản ngại, Tuyên truyền, tổ chức phải xông pha Đồng tâm, một triệu người như một, Khởi nghĩa, ba kỳ giậy cả ba. Năm mới quyết làm cho nước mới, Non sông Hồng - Lạc gấm thêm hoa! Thơ Việt Nam
29482
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20xu%C3%A2n%20Gi%C3%A1p%20Th%C3%A2n%20-%201944
Thơ chúc tết xuân Giáp Thân - 1944
... Xuân ơi, Xuân hỡi, hỡi Xuân, Từ xa tới gần, xuân khắp mọi nơi. Rót cốc rượu xuân, mừng cách mạng, Viết bài chào Tết, chúc thành công. Xuân Giáp Thân 1944 Thơ Việt Nam
29483
https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20xu%C3%A2n%20%E1%BA%A4t%20D%E1%BA%ADu%20-%201945
Thơ chúc tết xuân Ất Dậu - 1945
Tết năm mới nhà báo xin chúc: Chúc Đồng Minh đánh "Trục" tan thây. Bốn phương năm bắc đông tây, Trên nền máu lửa chóng xây hoà bình. Chúc Liên Xô hùng binh mãnh tướng Nhắm Bá Linh thuận hướng đến mau. Chúc Anh - Mỹ tại Tây Âu, Nhanh chân nhẹ bước tiến sâu thêm vào. Chúc Trung Hoa anh hào kháng chiến Chóng đến ngày toàn diện phản công. Chúc Anh - Mỹ tại Viễn Đông Chiếm xong Ma-ní, đoạt vùng Đa-lây Chúc xong thế giới đó đây, Việt Nam độc lập, chúc ngay đồng bào. Chúc năm nay không nao khủng bố Sự đoàn kết củng cố hơn xưa. Vũ trang đón lấy thời cơ Đứng lên giết giặc trao cờ tự do Rồi trăm họ ấm no sung sướng, Trên thế giới được hưởng binh quyền Nghìn thu danh vọng Tiên - Rồng. Xuân Ất Dậu 1945 Thơ Việt Nam
29487
https://vi.wikisource.org/wiki/%C3%81i%20khanh%20h%C3%A0nh
Ái khanh hành
(trích) ... Không phải gặp em từ buổi ấy Hình như gặp em từ ngàn xưa Lòng em thương anh không có bến Tình anh yêu em không có bờ Viết viết có đến nghìn trang giấy Làm ra có đến nghìn bài thơ Tương tư một đêm năm canh chẵn Nhớ nhung một ngày mười hai giờ. Chao ơi! Em ngon như rau cải Em ngọt như rau ngót. Em giòn như cùi dừa. Em hiền như nước mưa Em nhổ nước bọt xuống mặt biển Mặt biển thơm lên hai mươi bốn giờ Em là con Tướng trong tam cúc Anh là quân Xe trong bàn cờ Ví chăng có một nước Tình ái Em là Hoàng Hậu, anh làm Vua. Thơ Việt Nam
29488
https://vi.wikisource.org/wiki/Anh%20v%E1%BB%81%20qu%C3%AA%20c%C5%A9
Anh về quê cũ
Anh về quê cũ: thôn Vân Sau khi đã biết phong trần ra sao. Từ nay lại tắm ao đào Rượu dâu nhà cất, thuốc lào nhà phơi. Giang hồ sót lại mình tôi Quê người đắng khói, quê người cay men. Nam Kỳ rồi lại Cao Miên Tắm trong một cái biển tiền người ta... Biển tiền, ôi biển bao la Mình không bẩn được vẫn là tay không... Thôn Vân có biếc, có hồng Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều. Đê cao có đất thả diều Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay. Quả lành nặng trĩu từng cây Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen. Hiu hiu gió quạt, trăng đèn Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi. Ăn gỏi cá, đánh cờ người Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân. Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân! Phương nào kết dải mây Tần cho ta Từ nay, khi nhớ quê nhà Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân. Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân! Anh em ly tán, lầu dần thành ra, Không còn ai ở lại nhà, Hỏi còn ai nữa? Để hoa đầy vườn, Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn, Anh về quê cũ có buồn không anh? 1942 Thơ Việt Nam Lục bát
29489
https://vi.wikisource.org/wiki/%C3%81o%20anh
Áo anh
Tằm em ăn rỗi hôm nay Hái dâu, em bận suốt ngày hôm qua. Mong sao tằm tốt, tơ già, May đôi áo nái làm quà cho anh. Hẹn cho một hẹn, anh chờ Em may áo nái bao giờ mới xong? Lạy trời tắt gió ngang sông Qua đò biếu áo, yên lòng em tôi. Đưa anh đến bến đò ngang Con sào đẩy sóng, thuyền nan lìa bờ. Anh đi sương gió vật vờ Em về chọn kén, chuốt tơ, chăn tằm Đến mùa gió bấc sang năm Bao nhiêu lụa bấy nhiêu làm áo anh. Mong sao sự nghiệp chóng thành Áo anh đã có em anh may giùm. Thơ Việt Nam Lục bát
29490
https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BA%A1ch%20%C4%91%C3%A0o
Bạch đào
Tình cờ không hẹn bỗng mà nên Một buổi đầu năm tết Kỷ Hợi Có năm người bạn bến sông Hoàng Gặp nhau uống rượu mừng năm mới Chuyện thơ chuyện phú, chuyện non sông Chuyện trước chuyện sau thật sôi nổi Bỗng nhiên Hiếu Lang vỗ đùi khoe: Đệ có cây đào hoa mới bói Giống đào thật quý nhất xưa nay Cánh trắng, bông to, sương tuyết gội... Chợt nghe hoa quý nở vườn xuân Bỏ ngay câu chuyện, lòng phơi phới Nửa đêm đội mưa ra đi ngay Quản chi nhà xa đường ướt lội Như có người yêu hé cửa chờ Như có bạn cũ đốt trầm đợi Nhớ lại thời xưa Bất Thượng Thuyền Lý Bạch nằm say không trở gối Vì hoa nên phải đánh đường tìm Đây phải chín tầng đem chiếu gọi Đến nơi mở cửa, đốt đèn lên Kẻ trước người sau bước vồi vội Ra mé Tây Viên, tới gốc đào Lặng ngắm hoa cười, im chẳng nói Tất cả cùng chung nhớ một câu: Hoa lưu động khẩu ưng trường tại Khách nhân cao hứng đề thơ này. Đề tại Tây Viên, phố Vị Đêm mồng hai tết, năm Kỷ Hợi Thơ Việt Nam
29491
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20th%C6%A1%20qu%C3%AA%20h%C6%B0%C6%A1ng
Bài thơ quê hương
Trải nghìn dặm trời mây bạn tới. Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng! Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa. Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương. ...Quê hương tôi có cây bầu cây nhị Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...” Có cô Tấm náu mình trong quả thị, Có người em may túi đúng ba gang. Quê hương tôi có ca dao tục ngữ, Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi. Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ, Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi. Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất “Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc. Theo người đi cứu nước chống xâm lăng. Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung. Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến, Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng. Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm, Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo. Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”. Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”. Quê hương tôi có Trường Sơn một dải, Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm. Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng. Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son. Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu, Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon. Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc, Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu. Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh, Có cây lim đóng cả một thân tầu. Quê hương tôi có những người con gái “Một ngày hai bữa cơm đèn...” Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm, Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên. Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát; Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ. Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng, Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa. Khi có giặc những tre làng khắp nước, Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông, Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc Thoắt vươn vai thành những anh hùng... Quê tôi đó - bạn ơi! - là thế đó. Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương. Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước Hai mươi năm kể biết mấy công trình! Và từ đây, núi sông và cuộc sống. Và quê hương mới thực sự của minh. Cuộc đời mới con người cũng mới, Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ, “Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...” Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu. Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy. Những bài ca điệu múa lại vui tươi. Những trận khóc đêm dài không có nữa. Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười. Trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác, Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng. Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức Chung con đường gặt lấy ấm no chung. Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội. Những chủ nhân là chính những công nhân. Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát, Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm! Những nhà thơ được tự do ca ngợi, Quê hương. Tổ quốc, con người... Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ. Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi! Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật, Truyện thiên đường trong những cõi hư vô... Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất, Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa. Khi con người được tự do giải phóng. Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn. Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt, Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương. Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào. Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị, Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào. Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới, Khung trời quê mọc những nóc lò cao. Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo, (Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao). Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ, Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân. Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần. Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện. Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây! Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại, Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay. Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở, Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm. “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần. Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử, Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm. Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ, Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam. Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo; Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời. Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi. Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét. Bạn trở về xin kể mọi người hay. Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn, Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay. (Tết Bính Ngọ, 1966) Thơ Việt Nam
29492
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20th%C6%A1%20v%E1%BA%A7n%20R%E1%BA%ABy
Bài thơ vần Rẫy
Nhớ ngày tôi vào chơi Hà Tiên Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy Đường mòn, bóng nhạt soi tà tà Biển khơi, gió mặn thổi hây hẩy Giậu thưa, rau muống loe màu xanh Bờ vắng, chim cu ồn tiếng gáy Thân cau thương nhớ ai gầy mòn Tay chuối đợi chờ ai ve vẩy... Hoa tươi gặp gió tha hồ rung Trái chín gần tay tự do hái Đời người đã thong thả thế ru? Đời người đã sung sướng đến vậy: Vườn cây, gió thổi lộng muôn cành Nhà cỏ, trăng soi vàng nửa mái. Thềm trăng, trải chiếu ngồi song song Bàn chuyện Tam Quốc cười sảng khoái. Khương Duy mật to như trứng gà Mã Siêu mặt đẹp như con gái Mê gái cửa thành giết bố nuôi Vì nước qua thuyền giành chúa dại Xót anh, may áo tang ba ngày Nhớ nghĩa, đường cùng thả giặc chạy Vận trời thế đất đang chông chênh Thiên hạ chia ba, ai thắng bại? Ai ngờ ông trời làm trò đùa Cả ba chân vạc theo nhau gẫy. Dần dà nói đến chuyện nhân duyên Chị có cô cháu tuổi mười bảy Tóc dài chấm gót má hồng tươi Mi vòng cánh cung mắt đen láy Chị ơi! trôi nổi là thân tôi Cánh buồm bạt gió trôi hồ hải Than ôi! không có giá liên thành Để đổi cho tròn viên ngọc ấy! Xứ người lần lữa gót phiêu linh Quê cũ cha anh hết trông cậy. Tấm thân bảy thước chửa ngang tàng Khói lửa bốn trời đã bốc dậy. Con thuyền dầu lạc hướng phương nào Vẫn nhớ ai người nơi tuyệt tái! Chừng nào mới lại vào Hà Tiên Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy? Chắc chẳng bao giờ nữa, chị ơi: "Hoa lưu động khẩu ưng trường tại..." Thơ Việt Nam
29493
https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BA%A3y%20ch%E1%BB%AF
Bảy chữ
Mây trắng đang xây mộng viễn hành, Chiều nay tôi lại ngắm trời xanh, Trời xanh là một tờ thư rộng, Tôi thảo lên trời mấy nét nhanh. Viết trọn năm dài trên vách đá, Bốn bề lá đổ ngợp hơi thu, Vừa may cánh nhạn về phương ấy, Tôi gửi cho nàng bức ngọc thư. Xe ngựa chiều nay ngập thị thành, Chiều nay nàng bắt được trời xanh, Đọc xong bảy chữ thì thương lắm, "Vạn lý tương tư, vũ trụ tình." Bắc Giang 1940 Thơ Việt Nam
29494
https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BA%AFt%20g%E1%BA%B7p%20m%C3%B9a%20thu
Bắt gặp mùa thu
Xơ xác hồ sen đã nhạt hương Bên song hoa lựu cũng phai hường Sớm mai lá úa rơi từng trận Bắt gặp mùa thu khắp nẻo đường Tóc liễu hong dài nỗi nhớ nhung Trăng nghiêng nửa mái gội mơ mòng Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng Thu về sông núi bỗng tiêu sơ Cây rũ vườn xiêu, cỏ áy bờ Xử nữ đôi cô buồn tựa cửa Nghe mùa gió lạnh cắn môi tơ Sương phủ lưng đồi rặng núi xa Thương ôi! Lữ khách nhớ quê nhà Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ Vườn cũ còn chăng cúc nở hoa? Cha già ngừng chén biếng ngâm thơ Đưa mắt nhìn theo hút dặm mờ Xe ngựa người về tung cát bụi Con mình không một lá thư đưa Nghìn lạy cha già lượng thứ cho Trót thân con vướng nợ giang hồ Lòng son bán rẻ vào sương gió Lãi được gì đâu? Đã mấy thu! Một chút công danh rất hão huyền Và dang dở nữa cuộc tình duyên Thu sang, quán lẻ con đăm đắm Rõi bóng quê nhà mắt lệ hoen. Thơ Việt Nam
29495
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%AAn%20h%E1%BB%93
Bên hồ
Lá rơi theo gió lá bay Bên hồ, ta đứng đắm say nhìn hồ. Sương mai đây có trắng mờ Như còn lưu luyến đôi bờ cây xanh. Xa trên mặt nước mông mênh Buông thuyền, cô gái nghiêng mình hái sen. Thơ Việt Nam Lục bát
29496
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%B3ng%20b%C6%B0%E1%BB%9Bm
Bóng bướm
Cành dâu cao, lá dâu cao Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em. Anh đi đèn sách mười niên Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành. Cành dâu xanh, lá dâu xanh Một mình em hái, một mình em thương. Mới rồi mãn khoá thi hương Ngựa điều, võng tía qua đường những ai? Thơ Việt Nam Lục bát
29497
https://vi.wikisource.org/wiki/B%C6%B0%E1%BB%9Bm%20n%C3%B3i%20%C4%91i%C3%AAu
Bướm nói điêu
Em thấy đời em trống trải nhiều Vì đời em chả có ai yêu Đời em là một vườn hoa nở Bướm hẹn về, rồi bướm nói điêu... Thơ Việt Nam
29498
https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%A1i%20qu%E1%BA%A1t%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29
Cái quạt (Nguyễn Bính)
Cái quạt mười tám cái nan Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung Gió sông, gió núi, gió rừng Anh niệm thần chú thì ngừng lại đây. Gió Nam Bắc, gió Đông Tây Hãy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm Em ơi công chúa là em Anh là quan trạng đi xem hoa về Trên giời có vẩy tê tê Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên Quạt này trạng để làm tin Đêm nay khép mở tình duyên với nàng. Thơ Việt Nam Lục bát
29500
https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%E1%BA%B3ng%20bi%E1%BA%BFt%20y%C3%AAu%20nhau%20ph%E1%BA%A3i%20nh%E1%BB%AFng%20g%C3%AC
Chẳng biết yêu nhau phải những gì
Năm đã qua rồi, trong lớp học Tôi nghe Uyển đọc bài thi Hai ta trẻ lắm tình thơ dại Chẳng biết... yêu nhau phải những gì? Thơ Việt Nam
29501
https://vi.wikisource.org/wiki/Chi%E1%BA%BFc%20n%C3%B3n
Chiếc nón
Ngày đi tập kết ra đây, Mang theo chiếc nón tự tay em chằm, Bay giờ đã trải ba năm, Chiếc nón em chằm chưa ngã màu sơn. Nắng mưa há dám đội thường Chút quà nghìn dặm quý hơn vàng mười. Cầm giơ lên nắng mà coi, Hàng dừa dưới bóng trăng soi đậm đà. "Bắc Nam sum họp một nhà", Ẩn trong mỗi chữ bao là tình sâu! Yêu nhau chằm nón cho nhau, Lấy câu sum họp làm câu hẹn hò. Vách treo chiếc nón bài thơ, Tròn như trăng buổi tiễn đưa hôm nào. Tháng 6-1957 Thơ Việt Nam Lục bát
29502
https://vi.wikisource.org/wiki/Chi%E1%BB%81u%20thu%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29
Chiều thu (Nguyễn Bính)
Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ, Mùi hoa thiên lý thoảng chiều thu. Con cò bay lả trong câu hát, Biấc trẻ say dài nhịp võng ru. Lá thấp cành cao gió đuổi nhau, Góc vườn rụng vội chiếc mo cau. Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác, Đàn kiến trường chinh tự thủa nào. Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non, Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con. Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín, Điểm nhạt da trời những chấm son. Hai cánh chia quân chiếm mặt gò, Bê con đùa mẹ bú chưa no. Cờ lau súng sậy giam chân địch, Trận Điện Biên này lại thắng to. Sông đỏ phù sa, nước lớn rồi, Nhà bè khói bếp lững lờ trôi. Đường mòn rộn bước chân về chợ, Vú sữa đẫy căng mặt yếm sồi. Thong thả trăng non dựng cuối làng, Giữa nhà cây lá bóng xiên ngang. Chiều con, cặm cụi đôi ngày phép, Ngồi bẻ đèn sao, phất giấy vàng. Thơ Việt Nam
29505
https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%E1%BB%9D
Chờ
Hẹn cho một hẹn, anh chờ Em may áo nái bao giờ cho xong Lạy giời, tắt gió ngang sông Qua đò biếu áo yên lòng em tôi. Chị anh đi lấy chồng rồi. Anh mong tằm tốt bằng mười mọi năm. Thơ Việt Nam Lục bát
29506
https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%C3%BA%20r%E1%BB%83%20l%C3%A0%20anh
Chú rể là anh
Gửi Phạm Quang Hoà - Hưng Yên Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ Đây, đó, lan dài gót lãng du Về chẳng có kỳ, đi chẳng hẹn Như mây mùa thu, lá mùa thu. Anh đến Hà Nội đêm hôm trước Anh xa Hà Nội sáng hôm sau Bạn bè nhớ tới anh, thường nhắc: - "Không biết bây giờ hắn ở đâu?" Hắn đã lên rừng nghe vượn hót? Hay vừa xuống biển ngắm giăng lên? Ngựa quên gốc liễu, đò quên bến Hắn nhớ thương chăng tới mẹ hiền? Bỗng sáng hôm nay có thiếp hồng Có người cưới vợ giữa mùa đông Cô dâu chẳng biết là ai đó? Chú rể là anh - Có lạ không! A ha! Thôi nhé, tự hôm nay Lá hết lìa rừng, mây hết bay Sông bến lương duyên đò cắm chặt Ngựa hồ thôi hết gió heo may. Mắt xanh không ngắm trời xanh nữa Chí lớn thu vào hộp phấn son Than củi trần gian mà luyện được Một đời vợ đẹp với con khôn Sông hồ giờ bặt dấu chân anh Quân tử về coi việc nấu canh Viết cuốn trường thiên ân ái đó Anh quên chép chuyện "Bỏ gia đình" Tôi chỉ xa anh một chuyến tầu Nhưng là cách trở vạn sông sâu Uống ba ly rượu, quay về Bắc Gọi để mừng anh, để nhớ nhau Song nhớ bao nhiêu lại ngậm ngùi Sông hồ còn sót lại mình tôi Hai tay người đẹp trông mềm quá Tôi có ngờ đâu khoá được người... Thơ Việt Nam
29507
https://vi.wikisource.org/wiki/Chu%C3%B4ng%20ng%E1%BB%8D
Chuông ngọ
Lạy chúa con xin chúa một giờ Mười hai giờ ngọ của tình xưa Chúng con hai đứa Uyên và Bính Thường hẹn hò nhau mỗi buổi trưa. Khi bóng cây xanh trước ngõ tròn Là giờ hắn sẽ nhớ thương con Con nhìn ảnh chúa rồi con khóc Trăm thảm nghìn thương mắt mỏi mòn Chuông ngọ, từng hồi chuông ngọ đô? Từng hồi chuông ngọ đổ chơi vơi. Con nghe chuông đổ rồi con khóc, Cứu rỗi linh hồn con chúa ơi! Cái hôm hắn bước lên xe cưới. Khóc lả người đi chúa biết không? Chúng con ngoại đạo hay ngoan đạo Vẫn biết và tin có "Chúa lòng"! Thơ Việt Nam
29508
https://vi.wikisource.org/wiki/Chuy%E1%BB%87n%20ti%E1%BA%BFng%20s%C3%A1o%20di%E1%BB%81u
Chuyện tiếng sáo diều
Ngày còn để chỏm chăn bê Xin tre hàng xóm, mải mê vót diều. Vòi cha gọt sáo cho kêu, Phất thơm nước cậy, se đều dây gai. (Thâu đêm tiếng sáo ngân dài, Vi vu tiếng vọng muôn đời quê ta). Mải chơi, tối mịt về nhà, Tây lùng cộng sản, bắt cha mất rồi! Bê non bán chạy cho người, Tôi buồn, tôi chả buồn chơi thả diều.. Đầu làng tiếng sáo ai kêu, Tưởng đậu tiếng nấc trẻ nghèo thương cha. Người đi Côn Đảo, Sơn La, Có nghe tiếng sáo quê nhà nuối theo? Chăn bê đổi gạo từng chiều, Thương cha, đánh gióng cho diều lên cao. Cha về, tóc đã phai màu Đình làng mái đỏ cờ sao ngời ngời. Chiều thu diều đóng sáo đôi, Thênh thênh gió hát giữa trời tự do. Lúa chiêm chắc hạt hai mùa Súng thù bông nổ, đồn thù lại xây. Nửa chiều hạ sáo, cuốn dây, Con bê gục giữa luống cày dở dang. Tôi xin đi Vệ quốc đoàn, Đất tề cha ở, bám làng bám dân. Những chiều gió ngược, hành quân, Réo ngang đầu súng tiếng ngân sáo diều Bốn bề ổ cọp hang beo Làng tôi chắc chả chơi diều nữa đâu. Hoà bình đẹp cánh bồ câu, Tóc cha tôi bạc như màu trời xanh. Cờ bay lại đỏ mái đình, Diều nâng sáo rót gió lành chơi vơi. Kịp ngày cải cách quê tôi, Nỗi mừng càng lớn, mềm vui càng dầy. Bỗng mà oán mượn, thù vay, Cha tôi phải sống những ngày tối tăm. Bụi đầy miệng sáo mà câm, Dây treo chuột cắn, khung nằm mối xông. Quê giờ tiếng sáo lại trong, Trăn sao lại tỏ, ruộng đồng lại tươi Cha tôi lại được phục hồi. Lại mê công tác, lại chơi thả diều. Lại ngồi gọt sáo cho kêu, Đẵn cây tre đực, làm diều ba gian. Diều kêu tiếng sắt tiếng vàng, Thâu đêm réo rắt, cả làng vui chung... Tôi theo đơn vi biên phòng, Hôm qua mừng được mấy dòng thư quê. Đào cao đổi gác, ra về, Nghe chim rừng hót, tưởng nghe sáo diều. 9-1957 Thơ Việt Nam Lục bát
29509
https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%E1%BB%A9c%20N%E1%BB%AF%2C%20Ng%C6%B0u%20Lang
Chức Nữ, Ngưu Lang
Trên trời Chức Nữ với Ngưu LangMột dải sông Ngân lệ mấy hàng'' (Tản Đà) Sông Ngân nước chảy hững hờ Ngưu Lang ngồi khóc bên bờ sông Ngân Một năm gặp được mấy lần! Anh khổ vô ngần Chức Nữ em ơi! Đôi ta chẳng hợp lòng trời Một dòng nước bạc ngăn đôi chung tình Chẳng cho liền cánh liền cành Đày em trên ấy, đoạ anh dưới này. Lạc loài đôi lứa thơ ngây Một năm sống để một ngày gặp nhau. Đôi ta có tội gì đâu Cớ sao chim chẳng bắc cầu cho qua? Có chăng tội với Trời già Chẳng qua là tội đôi ta chung tình. Dây oan mình buộc lấy mình Con sông bất bình chảy mãi về xuôi... Bao giờ Chức Nữ em ơi! Cho giời nghĩ lại, cho giời quay đi! Xuân xanh để lỗi một thì Anh là bướm dại yêu gì được hoa! Mênh mang một dải Ngân hà Tình sao không phụ mà ra phụ tình! Con tằm là luỵ ba sinh Mà em là luỵ của anh muôn đời Em là con gái nhà trời Còn anh con cái nhà người thường dân Yêu em có vạn có ngàn Nhưng cha chẳng chứng cho bàn tay không! Anh chưa tên chiếm bảng rồng Lấy đâu xe bóng ngựa hồng vinh qui? Cưới em bằng tấm tình si Đò không chở thí, lấy gì sang sông? Tên em anh khắc bên lòng Bụi hồng vương lấy má hồng thương anh! Vì cha chẳng đoái duyên mình Anh đành sống để chung tình với em! Đêm qua mới thực là đêm Chân cứng đá mềm, Chức Nữ em ơi! Bờ sông bên ấy gieo thoi Sao em chẳng dệt một lời thơ anh? Tơ trời mấy sợi mong manh Biết anh có dệt nên hình gì không? Một bờ sông, hai bờ sông Một lòng! Anh dám hai lòng ở đâu! Bao giờ cho hợp duyên nhau Anh bắc nghìn cầu, Chức Nữ em ơi! Thơ Việt Nam Lục bát
29685
https://vi.wikisource.org/wiki/Con%20t%E1%BA%B1m
Con tằm
Tôi rút ruột nhả dòng tơ óng mượt Hôm nay đây dệt áo với thêu cờ. Cờ non sông bay lộng giữa trời thu, Sao sáng mọc, sắc tơ vàng óng ánh, Áo lụa ấm những ngày đông giá lạnh. Uốn xiêm tơ nhịp múa hội xuân lành, Tôi âm thầm trong đống lá dâu xanh, Nằm gọn ghẽ giữa lòng tơ vấn vít. Tôi mải miết (cho dù tôi sẽ chết) Tôi nhảy vào nước lửa để dâng tơ, Nồi ươm sôi, khói nước tỏa sương mờ... Người hãy gắng quay tơ và dệt lụa. Xin hiển trọn cuộc đời tôi bé nhỏ Cho cờ thiêng, cho áo ấm, cho người. Xót xa thay! Xưa họ lấy hồn tôi, Xe những sợi tơ đàn kỹ nữ, Mê hát xướng, những chàng tuấn tú, Đêm liền đêm rượu thịt say sưa. Họ dệt tôi thành những tấm khăn tơ Thêu nắn nót đôi trái tim rớm máu, Mũi tên cắm, gửi tặng người yêu dấu. Họ lại may thành những tấm long bào, Khoác lên mình những kẻ ngự ngôi cao Chuyên vui sướng trên máu xương trăm họ. Kẻ quyền quý cắt tôi từng mảnh nhỏ, May áo quần, xếp chặt những rương son. Mà dân gian thì rét mướt gầy mòn Quần áo vải rách bươm như mớ giẻ, Tôi đã sống phí mùa xuân tuổi trẻ, Oan dâu xanh mà uổng cả tơ vàng, Làm trò chơi cho một bọn giàu sang, Đem thiên hạ vùi sâu vòng khổ não... Cách mạng nổi, một mùa thu gió bão Gông ách xưa đều đổ gãy tan tành, Tôi, con tằm, ăn những lá dâu xanh, Của dân tộc do mồ hôi nước mắt Bao dân lành trần cánh tay cuốc đất Để nuôi tôi, tôi xin nhả tơ vàng, Đây dòng tơ từ buổi gió thu sang! Người hãy gắng quay tơ mà dệt lụa. Xin hiến trọn cuộc đời tôi bé nhỏ Cho cờ thiêng, cho áo ấm, cho người. Thơ Việt Nam
29686
https://vi.wikisource.org/wiki/Cu%E1%BB%91i%20th%C3%A1ng%20ba
Cuối tháng ba
Chưa hè, trời đã nắng chang chang, Tu hú vừa kêu, vải đã vàng, Hoa gạo tàn đi, cho sắc đỏ Nhập vào sắc đỏ của hoa xoan. Mặt hồ vua đúc khối tiền sen Bươm bướm đông như đám rước đèn Ở bãi cỏ non mà lộng gió Bắt đầu có những cánh diều lên. Khoá hội chùa Hương đã đóng rồi. Hội đền Hùng nữa, đám thôn tôi. Thôi tôi vào đám hai ngày chẵn Chỉ có chèo không, nhưng cũng vui. Mọi làng đặt mã, lễ kỳ yên Mũ với hình nhân, ngựa với thuyền Cho khỏi bà Nàng đi rắc đậu Quan Ôn bắt lính, khổ dân hiền. Đường lên chợ tỉnh, xa tăm tắp... Nắng mới, ôi chao, cát bụi mù, Các chị trong làng đi bán lụa Giắt đầu từng nắm lá hương nhu. Tất cả mùa xuân rộn rã đi Xa xôi, người có nhớ thương gì? Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả Ta biết xuân nhau có một thì! Thơ Việt Nam
29687
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81%20th%C6%A1%20tr%C3%AAn%20m%E1%BA%A3nh%20qu%E1%BA%A1t%20v%C3%A0ng
Đề thơ trên mảnh quạt vàng
Tặng Hoàng Tấn Người ngọc trao tay mảnh quạt vàng Mở lòng một sớm gió thu sang Tình yêu không cứ mưa hay nắng Những tưởng trăm năm phụng sánh hoàng Nào ngờ duyên kiếp vốn chia phôi Quạt ước còn đây hẹn lỡ rồi! Ai biết tình anh khi khép lại Cũng là mảnh quạt cuối thu thôi! Thơ Việt Nam
29688
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20m%C6%B0a%20%C4%91%E1%BA%A5t%20kh%C3%A1ch
Đêm mưa đất khách
Một thân lận đận nơi trời xa. Nằm nghe mưa rơi trên mái nhà Gió bắt vào thu đầy tiếng lá Đời tàn, mộng đẹp, tiếc xuân qua. Long tong mưa nhỏ gieo từng giọt Vắng lặng không nao một tiếng gà Chờ nửa vầng trăng, trăng chẳng lại Đêm dài đằng đẵng, đêm bao la. Cũng may cho những người lưu lạc Càng khỏi trông trăng đỡ nhớ nhà. Mấy tháng chưa nguôi sầu hận cũ, Nằm đây chăn chiếu của người ta Đĩa đèn chết đuối thân bồ hải Chung Tử đi rồi lẻ Bá Nha. Khá thương nghìn dặm thân làm khách. Nằm đọc Liêu Trai bạn với ma. Run run song ngỏ bàn tay lạnh, Phảng phất giường đen dải áo là. Bữa mộng ân tình, say đến sáng Bài thơ tâm sự nghĩ không ra. Chuyến đò thân thế đưa toàn hận Bãi cát phù sinh đổi tháp ngà. Đổi thay gớm mặt người thiên hạ, Giường mộng thương cho gái nõn nà Đất khách Mai Sinh cười phụ bạc, Đêm dài Hàn Tín mộng vinh hoa. Ở đã không đành đi cũng dở, Thân này há ngại chuyện xông pha. Sàng đầu kim tận từ hôm đó, Tráng sĩ vô nhan cực lắm mà! “Thời lai đồ điếu thành công dị Sự khứ anh hùng ẩm hận đa” Hỡi ôi! Trời đất vô cùng rộng Nào biết tìm đâu một mái nhà? Có như mắt Tịch xanh mà uổng Đất khách cùng đường ta khóc ta! Mưa mãi mưa hoài mưa bứt rứt Đêm dài đằng đẵng đêm bao la... Sài Gòn 1943 Thơ Việt Nam
29689
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20m%C6%B0a%20nh%E1%BB%9B%20b%E1%BA%A1n
Đêm mưa nhớ bạn
Đương đêm trời đổ mưa rào Nằm đây mơ dáng lầu cao kinh thành Mây hồ trắng, nước hồ xanh Ngày xưa hai đứa chúng mình quen nhau Chung vui cho đến chung sầu Lòng thơ chung trắng, mái đầu chung xanh Cái ga Hàng Cỏ vô tình Bỗng ai đem dựng trường đình mà chơi! Cũng là một chuyến tàu xuôi Chuyến tàu xé lẻ chia đôi chúng mình Rời ra những ngón tay xinh Tàu đi ánh sáng kinh thành bừng lên Nơi này chẳng có ai quen Nhớ nhung xin gửi tới miền lầu cao Thương như thế, nhớ làm sao! Kinh thành biết có mưa rào đêm nay? Hồn đơn phách quế đắng cay Có ai buồn nhớ nơi này nữa không? Vinh 1940 Thơ Việt Nam Lục bát
29690
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20Ph%C3%BAc%20Am
Đêm Phúc Am
Riêng tặng Hoàng Tấn Nửa đêm nghe tiếng còi tầu Ngày mai ta lại bắt đầu ra đi Sông ngang núi trái quản gì Vượt sao cho khỏi biên thuỳ nhớ thương Hỡi ôi muôn vạn dặm đường Mây Tần lạc nẻo cố hương mất rồi Người xưa này cố nhân ơi Đã qua sông Dịch thì thôi không về Sống là sống để mà đi Con tầu bạn hữu, chuyến xe nhân tình Chiều nay còn ở Ninh Bình Sớm mai đôi ngả xuôi mình, ngược ta Chiều nay chung một mái nhà Sớm mai ngã bảy, ngã ba đường đời Rồi đây lưu lạc quê người Chắp tay tôi nguyện: lạy trời gặp nhau Nửa đêm nghe tiếng còi tầu Ngày mai ta lại bắt đầu... bạn ơi! Thơ Việt Nam Lục bát
29691
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20sao%20s%C3%A1ng
Đêm sao sáng
Đêm hiện dần lên những chấm sao Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh Ai biết cầu Ô ở chỗ nào? Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu Thấy con Vịt lội giữa dòng sâu Sao Hôm như mắt em ngày ấy Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tầu Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi Lộng lẫy uy nghi một góc trời Em ở bên kia bờ vỹ tuyến Nhìn sao thao thức mấy năm rồi Sao đặc trời cao sáng suốt đêm Sao đêm chung sáng chẳng chia miền Trời còn có bữa sao quên mọc Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em. 2-1957 Thơ Việt Nam
29692
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B3a%20hoa%20h%E1%BB%93ng
Đóa hoa hồng
Thưa đây, một đoá hoa hồng Và đây một án hương lòng hoang vu Đầu bù trở lại kinh đô Tơ vương chín mối sầu cho một lòng Tình tôi như đóa hoa hồng Ở mương oan trái, trong lòng tịch liêu Kinh đô cát bụi bay nhiều Tìm đâu thấy một người yêu hoa hồng? 1942 Thơ Việt Nam Lục bát
29693
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4i%20khuy%C3%AAn%20b%E1%BA%A1c
Đôi khuyên bạc
Làng bên vào đám, tối nay chèo Nàng thấy bà đi, tất tưởi theo, Tằm tơ kéo được đôi khuyên bạc Giấu diếm nay nàng mới dám đeo. Nàng đẹp mà nàng lại có duyên Trai thôn thầm liếc, liếc thầm khen. Thấy họ nhìn mình, nàng hóa thẹn Níu bà về để... tháo đôi khuyên. Thơ Việt Nam
29694
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4i%20m%E1%BA%AFt%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29
Đôi mắt (Nguyễn Bính)
Vò nhàu chéo áo làm vui Ướt đôi mắt đẹp nhìn tôi nặng tình Sông đầy lạnh bến dừa xanh Kể từ ngày cưới xa anh lần đầu Chiều quê lùi lại sau tàu Mắt em sáng mãi chòm sao trên trời Đưa chồng vượt biển ra khơi Đêm đêm con mắt vì tôi thức ròng... Miền Nam em đứng trông chồng Đầu sông ngọn sóng một lòng đinh ninh Có trong đôi mắt em xinh Ánh hồ Gươm biếc in hình ảnh tôi Xóm thưa bằn bặt tiếng cười Lúa non đổ bãi, trái tươi rụng vườn Mắt em sực tỉnh lửa hờn Trái ngon lại chín, lúa thơm lại vàng Nghiêng đầu hôn tóc con ngoan Mắt em giếng ngọt mơ màng trăng thanh Con nhìn mắt mẹ long lanh Đẹp lời sông núi thắm tình cha con Mây bay tóc phố đầu thôn Anh thương đôi mắt vẫn tròn ánh sao Mây thu thăm thẳm từng cao Mắt em rót sáng thêm vào mắt anh Đường về dựng suối treo ghềnh Chân ta vững bước, mắt mình rối trông Chiều quê lại ngát hương đồng Đêp sao đôi mắt tiễn chồng hôm xưa... Thơ Việt Nam Lục bát
29697
https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20Th%C3%A1p%20M%C6%B0%E1%BB%9Di
Đồng Tháp Mười
Bảy trăm nghìn mẫu đất Sớt chia bốn tỉnh miền Nam Khăng khít biên thuỳ Chùa Tháp Nằm trong tay trái Cửu Long Giang Đồng Tháp Mười Đồng Tháp Mười Bao la bát ngát Bưng sậy lên hoang Mùa nắng đất khô cỏ cháy Mùa mưa nước ngập lan tràn Cò trắng nghìn năm bay chẳng dứt Chân trời bốn mặt rộng thênh thang. Bưng sình hỗn loạn Kênh rạch ngổn ngang Theo bờ kênh dân chúng lập thành làng Sức mạnh muôn người góp lại Khẩn đất khai hoang Đào đìa nuôi cá Lên liếp trồng tràm Cố nông cùng sức ra làm Nhớ câu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu Muỗi mòng đỉa vắt Nước đọng bùn lầy Người dân quyết sống Quản gì đắng cay Nao nao mạch máu dòng kênh chảy Loang loáng mồ hôi luống đất cày Tuần mưa cữ nắng đổi thay Vườn đơm trái ngọt, ruộng đầy lúa thơm Đồng Tháp Mười Một mảnh giang sơn Hình thôn dáng xóm thương thương Hoa ô môi nở bốn phương anh đào. Kể từ khi Đặt chân lên đất nước này Giặc Pháp giở trò xâm lược Ngậm hờn vong quốc Tháp Mười chung oán hận với non sông Bông súng ngoài đồng Bầm gan tím mặt Nước phèn chua chát Lắng nỗi đau thương Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Dương Bóng cờ khởi nghĩa mờ trong gió sương Dưới tay giặc trăm đường nhục nhã Hai tay làm, làm chả có ăn Sưu cao thuế nặng trăm phần Bưng tai bịt mắt xiềng chân gục đầu Trai tráng đi xâu Trẻ không được học Đói nghèo nheo nhóc Khắp cả non sông thành địa ngục Há riêng Đồng Tháp mà thôi! Tiếng cuốc canh trường kêu khắc khoải Đồng hoang vời vợi bóng trăng soi... Gươm báu chôn vùi Đợi giờ quật khởi Tám mươi năm đen tối Chao ôi! Thèm khát mặt trời Đến một buổi Lửa uất hận bùng sôi cùng máu đổ Mầm đấu tranh vút mọc với sao vàng Khắp xóm cùng làng Reo hò chuyển đất Say sưa ngây ngất Cùng với giang sơn Mừng ngày độc lập Đồng Tháp Mười Đồng Tháp Mười Cờ đỏ sao vàng Tung bay đầy trời Lúa vàng reo vui Chim ca không ngớt lời Địa ngục phá toang Xiềng xích chặt rồi Giữa mùa thu, xuân đất nước khoe tươi Sáng ra Đồng Tháp mặt trời lại lên Dân ta giành được chính quyền Gieo mùa hạnh phúc xây nền tự do Gây dựng lại cơ đồ Đồng Tháp Người dân cày mở mặt từ đây Tiếng hò xa vướng chân mây Bông gòn trắng xóa trải đầy lối đi Sóng xanh biển lúa xanh rì Gió lên từng dãy buồm về phiêu phiêu... Mỹ An, Thiên Hộ, Cái Bèo Rau tươi, trái chín, chợ chiều họp đông. Đồng Tháp Mười, 1949 Thơ Việt Nam
29698
https://vi.wikisource.org/wiki/G%C3%A1i%20xu%C3%A2n
Gái xuân
Em như cô gái hãy còn xuân, Trong trắng thân chưa lấm bụi trần, Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở. Gái xuân giũ lụa trên sông Vân. Lòng xuân lơ đãng, má xuân hồng. Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng, Đôi tám xuân đi trên mái tóc. Đêm xuân cô ngủ có buồn không? Thơ Việt Nam
29699
https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BA%B7p%20nhau
Gặp nhau
Bữa nay trở rét rồi đây Tôi còn ở lại trên này với anh Bốn bề rừng rậm non xanh Bơ vơ hai cái chung tình gặp nhau. Chúng mình còn có gì đâu Sống trong đau khổ đi vào sầu thương Ruột tằm đứt cả tơ vương Ái ân sang đến nửa đường lại thôi Rượu còn rót nữa anh ơi! Uống cho say nữa say rồi thương nhau. Mưa chừng mưa suốt canh thâu Đêm nay mình khóc phải đâu xa nhà. (Trời xanh còn khóc nữa là!) Thơ Việt Nam Lục bát
29700
https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BB%ADi%20c%E1%BB%91%20nh%C3%A2n
Gửi cố nhân
Mưa dầm gió bấc cố nhân ơi! Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa Vớt giùm trong nước lấy hồn tôi. Thơ Việt Nam
29701
https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BB%ADi%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20v%E1%BB%A3%20mi%E1%BB%81n%20Nam
Gửi người vợ miền Nam
Thư một bức nghìn lời tâm huyết Đêm canh dài thức viết cho em. Bồi hồi máu ứ trong tim Chảy theo ngòi bút hiện lên thư này. Thư mọc cánh thư bay khắp ngả Rộn muôn lòng, hoa lá xôn xao Thư đi núi thẳm đèo cao Bay qua giới tuyến đậu vào tay em Em bắt được hàng đêm em đọc Cánh thư vàng em thuộc từng câu Ru con thềm vắng canh thâu Nghe trong tiếng hát tình nhau thơm lành Nhớ lại buổi chúng mình gặp gỡ Xanh bóng dừa bỡ ngỡ nhìn nhau. Cắn môi chẳng nói lên câu Ai hồng đôi má nghiêng đầu làm thinh. Đường công tác thuyền anh ghé bến Anh ngập ngừng em thẹn quay đi Mẹ cười mẹ chẳng nói chi Đã người kháng chiến mẹ thì cho không Khỏi mai mối, cũng không lễ lạt Đám cưới mình tiếng hát vang sông Trầu xanh têm với vôi hồng Đêm trăng xuân ấy vợ chồng sánh đôi... Gia đình em mười người giặc giết Tám năm ròng nối tiếp khăn tang. Thương anh mẹ nghĩ thêm rằng: Thù nhà nợ nước đôi đằng vẹn đôi... Đời chiến đấu thêm tươi thêm đẹp Thêm mặn nồng thắm thiết thơ anh. Lứa đôi tuổi trẻ đầu xanh Trọn tình yêu nước, vẹn tình yêu nhau Trăng hè giãi sáng màu áo cưới Gió hương bay hoa bưởi thơm lừng Ghé tai em báo tin mừng: "Nói riêng anh biết, anh đừng khoe ai!" Trải chín tháng mười ngày mong mỏi Sớm đầu xuân ấy buổi khai hoa Hương Mai tên xóm quê nhà Vợ chồng liền đặt con là Hương Mai Anh nghỉ phép đôi ngày đốn củi Em chong đèn đốt muỗi cho con. Chuyền tay chồng nựng vợ hôn Tổ êm biếc bóng cây vườn đung đưa... Buổi trứng nước con chưa rụng rốn Máy bay quần vẫn loạn tiếng bom Em thì tuần cữ còn non Một ngày bốn lượt ôm con xuống hầm Lửa giặc cháy đỏ bầm thân cột Xe giặc càn tím ruột đồng xanh Con thơ giấc ngủ không lành Mếu thầm từng chập, giật mình từng cơn. Mẹ tất tưởi giục con giục rể Thôi cửa nhà mẹ kể như không Đương đêm mẹ tắt đường đồng Tay ôm thóc giống tay bồng cháu thơ Ngợp bóng lá rừng thưa lay động Cháy ruột chờ tiếng súng quê ta Hai hôm mẹ đã nhớ nhà Nghĩ thương con lợn con gà đói ăn. Mũi chông nhọn giăng giăng nửa bước Lưỡi dao dài chém, gọt đầu Tây Thâu đêm đuốc sáng đường cày Dân làng đào huyệt vùi thây quân thù. Vách lá mới tươi cờ Tổ quốc Xuồng hành quân mát nước sông xa Mẹ ngồi thức mấy canh gà Gói thêm bánh tét gửi ra chiến trường Anh tập kích hạ đồn Ngã Bảy Em vần công phát rẫy Kinh Ba Hương Mai quấn quýt bên bà Mẹ cưng cháu nhỏ tuổi già thêm vui... Lửa Điện Biên đỏ trời phương Bắc Gió hoà bình thổi mát xóm thôn Em vâng tiếng gọi nước non Đưa anh theo bóng cờ son lên đường. Em trở giấc trăng nghiêng nửa gối Mẹ chống rèm, sương gội vườn cam Ngước trông một mảnh trời Nam Ngôi sao Bắc Đẩu ngày càng tỏ thêm. Mẹ chân cứng đá mềm chờ đợi Em khăng khăng đứng mũi chịu sào Chín năm xương trắng máu đào Lẽ đâu lại chịu công lao dã tràng. Bọn buôn máu cam làm nô lệ Rước thằng đao phủ Mỹ vào nhà Miền Nam yêu quý đôi ta Vườn cam ruộng lúa thành ra pháp trường Chợ Mỹ Lược khăn tang trắng xoá Đập Vĩnh Trinh cánh quạ đen ngòm Khe A Chê máu đỏ lòm Lệ rơi xuống bến Thu Bồn chứa chan Em chẳng được đi bàn đi họp Con hết mong nhảy nhót nô cười Mẹ già ôm cháu nghẹn lời Bóng đen quỷ sứ che trời âm u Người đang gặt bỗng tù bỗng tội Ng đang ăn chết vội chết vàng Ng vừa đưa bạn sang ngang Mái chèo chưa ráo hồn oan đã lìa Người mẹ trẻ gần kỳ sinh nở Đêm ngồi may áo lụa cho con Sáng ngày chết gục đầu thôn Cái thai trong bụng nghe còn đạp đây Em mười bảy cổ tay trắng nõn Lựa chỉ thêu thầm chọn người thương Loã lồ phơi xác bên đường Tay em còn nắm chặt vuông khăn hồng Lớp mới giảng nó giằng xé vở Chùa mới xây nó gỡ đem đi Nó tung thuốc độc bùa mê Cấm ngăn thương nhớ cắt chia ruột rà Anh đã thấy mẹ già mạnh bước Gậy vững tay trong cuộc tuần hành Thấy em trong đám biểu tình Má đào ửng đỏ mắt xanh sáng ngời Muôn tiếng thét cùng đòi thống nhất Muôn lời hô phải lập hiệp thương Đôi bờ một dải Hiền Lương Phải cho chung bến liền đường Bắc Nam Cho Sa Đéc thơm cam Bố Hạ Cho Hải Phòng đẹp lụa Tân Châu Núi sông sát cánh kề đầu Ruộng đồng bát ngát một màu lúa xanh Anh đã thấy con mình thơ bé Quấn cờ son bảo vệ lấy cờ Đồng bào từ chuyện tóc tơ Phanh phui kế hiểm ngăn ngừa mưu sâu Mấy gian khổ chẳng nao dạ sắt Bao tù đày chẳng tắt niềm tin Tháp Mười đẹp nhất bông sen Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ Cau nở bẹ dừa tơ lớn đọt Xoài thơm hương cam ngọt trĩu cành Cây vườn ngày một thêm xanh Trái ngon thêm ngọt chờ anh trở về Dạ canh cánh tình kia nghĩa nọ Mắt đăm đăm ngoài đó trong này Lòng ta biển rộng sông dài Tát hoài chẳng cạn chảy hoài chẳng ngưng Muối đã mặn ba năm còn mặn Gừng đã cay chín tháng còn cay Lời thề năm ấy còn đây Còn ta ta phải còn ngày đoàn viên Giấc mộng đẹp qua nghìn vạn dặm Gối chăn này vẫn ấm hơi em Đầu cành ríu rít tiếng chim Giật mình trông hút bóng em xa dần Trải ngày tháng trăng xuân gió hạ Giấc chiêm bao nhắc nhở anh hoài Mây đen còn nửa phương trời Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi riêng anh Tin trong ấy đấu tranh thắng lợi Nghe mà mừng như cởi ruột gan Một lòng bắc cũng như nam Có em trong ấy anh càng vững tâm Ta những tưởng hai năm đoàn tụ Mà vì đâu để lỡ hẹn hò Vì ai tháng đợi năm chờ Hồng thưa nhạn vắng đôi bờ cách ngăn Ai chia rẽ kẻ Nam người Bắc? Mảnh trăng tròn ai cắt làm đôi? Ai làm máu đổ, lệ rơi? Ai đang rấp ngõ, ai xui phá cầu? Vui đất Bắc còi tàu, xưởng máy Loạn miền Nam lửa cháy rui nhà Ngoài này đẹp lúa tươi hoa Thương em trong ấy khổ ba bốn tầng Đoàn trẻ nhỏ bước chân lẫm chẫm Mặt hồ Gươm lấm tấm hoa ngâu. Quản chi sóng cả sông sâu Tay ta lại bắc nhịp cầu ta qua. Cầu nối nhịp duyên ta tròn vẹn Dòng Hiền Lương mát bến xuôi đò Con sông vẫn đẹp đôi bờ Tấm lòng có một cơ đồ không hai. Thư em viết mấy lời thắm thiết Ấm lòng anh chi xiết mấy mươi "Giữa mùa lúa chín hoa tươi Anh tin tưởng thế, em người vợ anh". Nghĩ đến buổi nước mình thống nhất Lệ tuôn trào khoé mắt rưng rưng Dạt dào trăm nhớ ngàn thương Anh về hoa nở con đường thênh thênh Anh sẽ đón gia đình ra Bắc Vợ chồng mình dạo khắp thủ đô Con ta được gặp Bác Hồ Mẹ ta được vãn cảnh chùa Ngọc Sơn. Xe lửa ghe nông trường Phú Thọ Tàu thuỷ thăm vùng mỏ Quảng Yên Tám thơm cũng thể nàng tiên Sen Hồ Tây ngát như sen Tháp Mười Vui sum họp mẹ tươi trẻ lại Mừng đoàn viên em mãi đẹp ra Rõ ràng giáp mặt đôi ta Đắng cay trải đấy, mặn mà xiết bao. Cùng ôn lại năm tao bảy tuyết Càng xa nhau càng biết lòng nhau Mấy thu nắng lửa mưa dầu Tâm tình vẫn thắm mái đầu vẫn xanh Cùng trở lại quê mình vườn cũ Dấu đạn thù còn trổ thân cây Nhà ta ta lại sum vầy Lại gieo mạ nếp, lại gây giống dừa Con mỗi buổi học về múa hát Đêm trăng vàng ngan ngát hương cau Mẹ già ngừng giã cối trầu Mỉm cười nhẩm tính tháng nào em sinh? Vườn xanh tốt đâm cành nảy lộc Hoa đầy vườn chim chóc đến bay. Em mà nằm cữ chuyến này Khỏi lo con chạy máy bay giặc ruồng Con bé bỏng thơm ngon giấc ngủ Hé môi non cười nụ hồng hồng May hơn chị nó đầu lòng Nó sinh gặp lúc non sông yên lành Đời thêm đẹp mối tình thêm thắm Nắng nông trường đỏ sẫm da cam Tháng giêng lúa trĩu bông vàng Em trên máy giặt khăn rằn gió bay. Chiều chủ nhật xanh mây biếc gió Tay nắm tay đi giữa Sài Gòn Lo màu chọn kiểu áo con Sách in nét chữ tươi giòn thơ anh. Ngày kỷ niệm hoà bình hạnh phúc Anh thả bè thuỷ lục tươi hoa Làng trên xóm dưới vui ca Mặt sông pháo nổ, mái nhà sao bay. Mẹ đi hội vui bầy cháu nhỏ Em bên anh má đỏ bóng cờ Tưng bừng tiếng trúc tiếng tơ Đầu thôn trăng mọc tròn như mâm vàng... Hà Nội, 7-1956 Thơ Việt Nam Song thất lục bát
29702
https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A1i%20m%E1%BB%93ng%20t%C6%A1i
Hái mồng tơi
Hoa lá quanh người lác đác rơi Cuối vườn đeo giỏ hái mồng tơi Mồng tơi ứa đỏ đôi tay nõn Cô bé nhìn tay nhí nhảnh cười Cách vườn tiếng gọi khẽ đưa sang Rẽ lá cô em trốn vội vàng Quên giỏ mồng tơi bên dậu vắng Tôi đem nhặt lấy gởi đưa nàng Năm tháng ta vui chốn ngựa hồng Cảnh xưa gò ngựa một chiều đông Cây khô dậu đổ mồng tơi héo Cô bé nhà bên đã có chồng. Thơ Việt Nam
29703
https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A0nh%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20Nam
Hành phương Nam
Gửi Văn Viễn Đôi ta lưu lạc phương Nam này Trải mấy mùa qua én nhạn bay Xuân đến khắp trời hoa rượu nở Mà ta với người buồn vậy thay Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu Mà không uống cạn mà không say Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã Mà áo khinh cừu không ai may Người giam chí lớn vòng cơm áo Ta trí thân vào nợ nước mây Ai biết thương nhau từ buổi trước Bây giờ gặp nhau trong phút giây Nợ chưa trả tròn một món Sòng đời thua đến trắng hai tay Quê nhà xa lắc, xa lơ đó Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc Ly tán vì cơn gió bụi này Người ơi buồn lắm mà không khóc Mà vẫn cười qua chén rượu đầy Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết Ngày mai ra sao rồi hãy hay Ngày mai Cốt nhất Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt Giữa chợ ai nhận thây Kinh Kha sầu nghiêng chén Ai kẻ dâng vàng, biếu tay? Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự cỏ gươm ta đi đây Ta đi nhưng biết về đâu chứ? Đã phong yên lộng bốn trời Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ Uống say mà gọi thế nhân ơi! Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười ơi! ơi! Hề ơi! ơi! ơi! Hề ơi! sang bên ấy sao mà lạnh, Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi... Đa Kao 1943 Thơ Việt Nam
29704
https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BA%BFt%20b%C6%B0%E1%BB%9Bm%20v%C3%A0ng
Hết bướm vàng
Anh trồng cả thảy hai vườn cải Tháng chạp, hoa non nở cánh vàng. Lũ bướm láng giềng đang khát nhuỵ Mách cùng gió sớm rủ rê sang. Qua dậu tầm xuân, thấy bướm nhiều Bướm vàng vàng quá, bướm yêu yêu, Em sang bắt bướm vườn anh mãi Quên cả làng Ngang động trống chèo. Cách có một hôm em chẳng sang Hôm nay rã đám ở làng Ngang Hôm nay vườn cải, hoa tàn hết Em hỡi từ nay hết bướm vàng! Năm sau vườn cải nở hoa vàng Bướm lại sang mà em chẳng sang Thui thủi một mình anh bắt bướm Trống trèo thưa thớt đám làng Ngang. Em đã sang ngang với một người Anh còn trồng cải nữa hay thôi? Đêm qua mơ thấy hai con bướm Khép cánh tình chung ở giữa trời. Thơ Việt Nam
29705
https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BA%BFt%20th%C3%A1ng%20ba
Hết tháng ba
Kể mùa đã hết mùa xuân Kể năm đã hết một phần tư năm Kể ngày, ngày đã gần trăm Kể rằm, rằm đã ba rằm trăng trong Thơ Việt Nam Lục bát
29707
https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%C3%B4ng%20ng%E1%BB%A7
Không ngủ
Có trăng bóng lạnh vườn đào Có giàn nhạc ngựa lơi vào trong đêm. Và trong lòng với con tim Có lời em, có bóng em rõ ràng. Thuyền trăng, ai thả sang đoài Đêm khuya mở nhẹ then cài cửa ra. Trăng vào, bóng nữa là ba, Với em ở trái tim ta là nhiều ... Thơ Việt Nam Lục bát
29708
https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BA%A1i%20%C4%91i
Lại đi
Mẹ tôi tóc bạc da mồi Thắt lưng buộc bụng một đời nuôi con Chị tôi phấn úa hương mòn Đò ngang sông cái chẳng tròn chuyến sang Cha tôi ngàn dặm quan san Có đâu như chuyện chia vàng giữa sông? Người yêu má đỏ môi hồng Tóc xanh, mắt biếc mà lòng bạc đen Về đây sống để mà quên Chiều chiều ngắm bóng chị hiền quay tơ Chị tôi im lặng đợi chờ Tôi im lặng đến bao giờ đợi ai? Chị tôi đã dở dang rồi Lẽ đâu tôi chịu một đời dở dang! Cha tôi dạ sắt gan vàng Lẽ đâu tôi chịu quy hàng phấn son Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn Ngày mai con lại lên đường ra đi. Tặng Hà Khang Thanh Hoá 1942 Thơ Việt Nam Lục bát
29709
https://vi.wikisource.org/wiki/L%C3%A0ng%20t%C3%B4i
Làng tôi
(trích trường ca "Làng tôi") Làng tôi cũng có sông cùng núi Núi nhỏ, con sông chảy lặng lờ Lụt năm Tỵ dân xiêu đi quá nửa Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ Nhà cửa dỡ bán củi ăn từng bữa Rau má bờ đê đẽo nhẵn lì Ba sào ruộng đồi cơm thiu một nắm Ăn hết vèo, mai biết sống bằng chi Nền nhà trống, ếch kêu chân lỗ cột Vườn hoang tàn, bạc phếch ánh trăng soi Người lũ lượt kéo nhau đi hành khất Cha dìu con... gục xuống, mòn hơi rồi Anh em nhà lý trưởng Cời Thừa lúc làng xiêu dân đói Ruộng đất phình ra, văn tự nứt hòm gian Dinh cơ lớn mọc thêm nhiều mái ngói... Tôi mười một mười hai còn đóng khố Phải ẵm em cho mẹ, mẹ làm thuê Chiều hôm bụng đói, em thì quấy Ngóng mẹ đường thôn túm gạo về Trời nhập nhoạng, bếp um lửa khói Đèn khô phao, nền đất dọn ăn thầm Nhai nhếu nháo, sờ mồm em, mẹ mớm Lưng vực xong, mẹ giũ chiếu đi nằm Có thím Hợi mù loà cạnh vách (Trận lụt làm chết sạch cả chồng con) Cứ tối tối thím kể Bần nữ thán Tỉ tê giọng oán câu hờn... Thím ngày tháng hát xẩm rong độ nhật Chỉ lo phiền chết chẳng áo quan chôn Bến đò vắng, phiên chợ làng cũng vắng Vắng tiếng tiền chinh gieo rạn đáy thau mòn... Giọng thím hát mỏi mòn, ẩm ướt Trộn đầy nước mắt, mưa thu Nghe mẹ thở dài, biết mẹ còn trằn trọc Chắc mẹ thương thân, lại nhớ sự tình xưa Mẹ tôi Con gái làng Mai Ai cũng phải khen rằng đẹp Giọng hát hay nghe cứ rót vào tai Tài cấy gặt đố người nào đuổi kịp Mười tám tuổi gả về xóm Núi Phá đất sườn non, vợ cuốc chồng cày Bốn bận sinh, còn lại một trai một gái Lý trưởng bắt chồng đăng lính sang Tây "Thùng thùng trống đánh ngũ liên Bước chân xuống thuyền..." Vợ chồng đôi ngả Con sông chảy mãi về đâu? Bóng núi đè thâm mái rạ... Một hôm có giấy quan về (Ngỡ thế nào kia Ngờ đâu ra thế!) Lý Cời qua ngõ tạt vào Rượu vẫn còn say bí tỉ Tờ giấy mở ra Trắng lốp một màu tang chế "Này chị ấy ơi Giấy trên vừa mới chạy về Chồng chị chết rồi, bên nước mẹ Chính phủ Lang Sa Đền công chồng chị Đây tấm bằng suất đội kèm theo Chữ kí quan Tây Triện đồng đỏ choé Chị giữ lấy mà trao Một bước nên bà Sướng nhé!" Hắn vê ria mép cười tình Nhay nháy mắt lươn ti hí "Này! Lo lợn gạo mà khao Bà đội nhà tôi ơi! Lệ làng phải thế Có cần tiêu, tôi ứng tiền cho Muốn trả, muốn không, tuỳ bụng chị. Cứ ừ một tiếng là xong Bà cả nó vốn hiền lành, tử tế... Người thế kia mà lận đận chồng con Nghĩ thương đáo để!" Hắn về rồi, hơi rượu vẫn còn hăng Trời đất tối rầm, đầu gối run lên muốn quỵ Nước mắt dài hơn người Lòng rối như canh hẹ Con thơ níu áo hỏi dồn: "Ông lý cho gì hở mẹ?" Thế là Áo trái đường khâu Chèn thêm chốt cửa Bỏ ngoài tai câu ý câu tình Sụp vành nón, hội hè chẳng ngó Giọng hát véo von Mẹ dành để ru con ngủ "Ạ ời ơi Cái ngủ mày ngủ cho lâu Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về..." Ăn đói làm thuê Cơm niêu nước lọ Mẹ ở vậy nuôi con Tháng năm vò võ... Tôi có thằng bạn nhỏ Bằng tuổi nhau, nghèo khổ cũng ngang nhay Bố nó bỏ làng bán mình cho Sở mộ Giữa bể Đông, bão lớn, chìm tàu... Tên nó là Đinh, mặt mày rắn cấc Có tài bắn súng cao su Trăm phát chẳng sai một phát Chạng ổi giơ cao, viên đạn đất bay vù... Nó mấy năm ròng lẽo đẽo Ở chăn trâu cho nhà lý trưởng Cời No đòn vọt mà đói cơm đói cháo Vết lằn roi không kịp lặn trên người Rỏ máu mắt ngủ bên ổ chó Ngậm bồ hòn than thở cùng trâu Vợ lý trưởng bắc ghế ngồi chửi rủa Đào cha ông mồ mả đổ lên đầu Đinh thả trâu quanh sườn núi bờ sông Bắn chim chóc giấu đem về cho mẹ Rau má độn cơm, bà chẳng bữa nào no Người phù thũng, da vàng như xát nghệ Bỗng một hôm Đinh chạy đến tìm tôi Mặt tím lại, mắt đỏ hoe muốn khóc Giơ lưng, lật áo cho xem Máu chảy thành dòng Lằn roi vọt quất ngang quất dọc: "Mày ở nhà thôi, khổ quá, tao đi Xó chợ, đầu đường, ra Đông, ra Bắc Cũng cứ liệu thôi! Ở với nó có ngày chết mất!" Nói rồi nó bỏ đi luôn Tôi đứng nhìn theo quệt ngang nước mắt Nhưng ngay chiều ấy Đinh lại quay về Nó đứng đầu hè Khẽ máy tôi ra, thủ thỉ "Mày ơi, nghĩ lại không đành Đi thì yên một thân tao Mẹ ốm, lấy ai nuôi mẹ? Cái kiếp thằng tao Sao mà khổ thế! Tí nữa đây tao ló mặt về Cầm chắc ăn đòn bội nhị" Nó lắc đầu, ra vẻ muốn quên đi Những trận đòn đau sắp tới: "Thôi lại sáng mai Bến đò nhé, cõng em theo, tớ đợi Bờ sông lúc nãy tớ đi qua Sáo sậu về vô khối Ngày mai bắt sống một con chơi Lột lưỡi dạy cho nó nói..." Tết đến, xuân về Phây phây mưa bụi Xanh non lá lộc nhú cành khô Tím nhạt hoa xoan rơi ngõ lội Xuân vui nhà ngói nhà lim Xuân chẳng vui gì nhà tre xóm Núi Nhà lý trưởng Cời Pháo đốt điếc tai từ sáng tinh mơ tới tối Nhà tôi tết đến cũng như không Ba nén hương đen Thơm chẳng có thơm nhưng cũng khói Xong tết bên sông làng mở hội Một hàng cờ cắm đỏ đuôi nheo Mặt sông chẳng ngớt đò qua lại Vách núi ầm vang tiếng trống chèo Ba gian đình cổ người đông nghịt Trống cái, dùi găng, lý trưởng dẻo tay chầu Tôi rủ Đinh chen vào góc cột Chèo Thạch Sanh đang dọn lớp giáo đầu ... Hồi trống giãn trò vừa dứt Cũng vừa gà gáy sang canh Sương trắng mù sông, gió tháng giêng vẫn lạnh Hai trẻ nhà nghèo manh áo vá phong phanh Đò trở ngang sông Đinh ghé tai tôi nói nhỏ: "Lúc nãy tao trông lão lý trưởng Cời Sao giống hết Lý Thông, mày ạ! Cũng ria mép đen thui, Cũng mắt lươn trắng dã Từ rày đừng gọi Lý Cời Cứ gọi Lý Thông, nhớ nhá!" Sau đêm chèo lòng tôi tơ tưởng mãi Tôi thường bàn tán với Đinh Thương họ Thạch hàn vi côi cút Ôi, cảnh chàng ta sao giống cảnh tụi mình Đêm rặt nằm mơ tiên cho phép lạ Thấy gốc đa nào cũng ngỡ có Thạch Sanh... Đinh vội cướp lời, kể lể "Tao cũng thế, cũng nằm mơ thấy thế Tao đương cắt cỏ bờ sông Tiên hiện lên, dạy nhiều phép thần thông Tao tức tốc chạy về nhà lý trưởng Thằng Lý Cời – thằng Lý Thông luống cuống Vội vàng nó hoá Trăn Tinh Phun lửa đốt tao, lửa bốc tày đình Tao không sợ, tao liền hoá phép Chăng lưới thép, giơ búa thần lẫm liệt Chém đứt đầu trăn máu chảy ròng ròng..." Hai đứa nhìn nhay thích chí Tưởng đâu đời sắp sướng rồi Như họ Thạch hết hồi bĩ cực Được gảy đàn thần, cưới vợ, lên ngội... Nhưng rồi, hai đứa chúng tôi Sự thật ngày thêm cơ cực quá Chẳng một lần được tiên cho phép lạ Những giấc mơ theo ngày tháng tàn phai Xóm Núi, làng Mai Nghèo đói càng thêm nghèo đói Thím Hợi hát rong không sống nổi Chậu thau mòn bán rẻ tự hồi xưa Bị gậy xin ăn, cơm cặn canh thừa Đêm mưa tối vẫn kể Bần nữ thán Mẹ tôi da dẻ ngày đen sậm Kỳ giở giời lưng nhức chân tê Những hôm mưa gió dầm dề Ba mẹ con chỉ ngày lưng bát cháo Nghèo rớt mồng tơi Không mua nổi chỉ kim vá áo Những chỗ rách to đành buộc túm bằng rơm Thằng bạn Đinh mấy bận ngỡ đi luôn Mấy bận lại quay về chịu đánh Lưng cháy nắng lại roi lằn máu quánh Súng cao su không bắn chết được chằn tinh Xám ngắt ao tù Ngày tháng quẩn quanh Cùng đường nghẽn lối Lý trưởng Cời cây thóc cao ngang núi Xây nhà tây chót vót hai tầng Cửa sổ há ra như mồm những con trăn Muốn nuốt chửng cả làng Mai xóm Núi Trong nhà nó cứ vui như mở hội Tiệc tùng luôn, xóc đĩa, tổ tôm tràn Dựng cổng chào, hương án, đón xe quan Bật rạp lớn, thui bò non, hạ thọ Tây với Nhật ra vào lố nhố Bắt phu, cướp thóc Nghênh ngang súng ngắn gươm dài Khắp cả vùng ngậm đắng nuốt cay Trời nghiêng đất lệch Mẹ Đinh chết, gói lạt tre chiếu rách Xé giát giường làm bó đuốc, đưa đêm Trước lúc xuôi tay bà chỉ ước ao thèm Một bát canh cần cá quả Tiền chẳng một chinh, Đinh đã hết đường xoay xoả Nhà lý Cời cá béo sống đầy chum Đinh đánh liều lấy trộm một con Về nấu bát canh cho mẹ Trời xiêu bóng xế... Đinh múc canh bưng đến cạnh giường Nhưng mẹ Đinh tay đã bắt chuồn chuồn Không ăn được nữa Đinh trợn mắt, rụng rời nghẹn thở Bát canh rơi vỡ tan tành... Tối hôm sau tôi đến tìm Đinh Cuối xóm đường đi lút cỏ Rờn rợn mùi hương Lều tối loé lên ba chấm đỏ Đinh đang quỳ khấn nỉ non "Mẹ có khôn thiêng phù hộ cho con..." Biết tôi đến, Đinh đứng lên, bí mật: "Tao đi thật, chuyến này đi thật Tao định rủ mày, hai đứa với nhau..." Tôi hỏi: "Đi đâu?" Nó rằng: "Không phải hỏi Đâu cũng được, Sơn Tây, Hà Nội Thân lập lấy thân Hai bàn tay làm lấy mà ăn Không để đói, không để ai đánh chửi" Dằng dặc trời sao chấp chới Gió may sương muối rét tê người Hai đứa vòng qua ngõ lý Cời Dừng lại ngó toà nhà tây cao ngất Cửa kính xanh lè, tường vôi trắng toát Đừng lù lù như con Mãng Xà Vương Tu luyện lâu năm, chắn lối ngăn đường Đinh chửi một câu, rút súng cao su lắp đạn Giơ chạng ổi kéo căng dây, nó bắn Nghe một tiếng choang Một khung kính cửa vỡ tan Đàn chó sủa ầm hốt hoảng Hai đứa vội vàng ba chân bốn cẳng... Trời rét Đêm khuya Đò vắng Cởi áo quần hai đứa lội qua sông Tưởng mình như hai gã tiểu đồng Lặn lội tìm Tiên xin phép lạ Nghĩ tới mẹ cùng em, bỗng dưng tôi nhớ quá! Qua sông. Trời sắp sáng rồi Ngoảnh trông xóm Núi bồi hồi Chắc mẹ đêm qua lại khóc Xóm Núi sương giăng Mặt trời chưa mọc Đó đây nghe đã rộn canh gà Bỏ làng đi năm bốn mươi ba Hai đứa mới mười sáu tuổi... Nam Định 1961 Thơ Việt Nam