id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
618
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
29419 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%9F%20mang%20thu%E1%BB%B7%20l%E1%BB%A3i | Mở mang thuỷ lợi | Núi trọc như đầu bình vôi,
Sông không có nước, nước hiếm hoi như vàng.
Hàng năm hạn hán tan hoang,
Người người đói rách, làng làng xác xơ.
Ơn Đảng như mẹ như cha,
Mở mang thuỷ lợi, nhà nhà ấm no.
Ấm no không đợi trời cho,
Người làm ra nước, sức to hơn trời.
Ngày 25 tháng 5 năm 1958
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29420 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20b%C3%A1o%20Qu%E1%BB%91c%20gia | Mừng báo Quốc gia | Tết này mới thật Tết dân ta,
Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia.
Độc lập đầy vơi ba cốc rượu,
Tự do vàng đỏ một rừng hoa.
Muôn nhà chào đón xuân dân chủ,
Cả nước vui chung phúc cộng hoà.
Ta chúc nhau rồi ta nhớ chúc,
Những người chiến sĩ ở phương xa.
Hà Nội - Tết Độc lập Bính Tuất, 1946
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
29421 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20s%E1%BA%A3n%20xu%E1%BA%A5t%20tr%E1%BA%BB%20th%E1%BB%A7%20%C4%91%C3%B4 | Mừng Đại hội những người sản xuất trẻ thủ đô | Bác thân ái chúc các cháu
Mạnh khoẻ, vui vẻ
Đoàn kết chặt chẽ
Luôn luôn thi đua
Đưa cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ
Vươn lên hàng đầu
Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Thơ Việt Nam |
29422 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20k%C3%AAnh%20V%C3%B4n-ga%20%C4%90%C3%B4ng%20ho%C3%A0n%20th%C3%A0nh%20%2827-7-1952%29 | Mừng kênh Vôn-ga Đông hoàn thành (27-7-1952) | Xưa có câu:
Đào núi và đắp bể,
Luyện đá vá trời xanh,
Việc gì, dù khó mấy,
Quyết chí, ắt làm thành.
Ngày nay:
Chính sách Xtalin
Quyết xây dựng hoà bình,
Và gìn giữ hoà bình,
Tạo phúc cho dân sinh.
Cho nên:
Cuộc thi đua ái quốc
Cuốn toàn dân Xô - Liên,
Công nông và trí thức,
Phụ nữ và thanh niên,
Người người đều thi đua,
Góp sức và góp tiền.
Kết quả là:
Kênh đào Vônga - Đông,
Hôm nay mừng thành công,
Mấy xưởng điện khổng lồ
Tung điện ra khắp vùng
Kênh hơn bảy trăm dặm
Rất tiện cho giao thông,
Hăm tám triệu mẫu cát
Thành ruộng cho nhà nông.
Vì vậy:
Nước đã mạnh, thêm mạnh,
Dân đã giàu, càng giàu,
Thái bình và hạnh phúc,
Hưởng mãi muôn đời sau.
Nước ta đang kháng chiến
Để diệt lũ thực dân.
Khi kháng chiến thắng lợi,
Ta xây dựng dần dần.
Liên Xô đã bước trước,
Việt Nam sẽ tiến sau.
Ta ra sức thi đua,
Thành công ắt cũng mau.
Ta mừng Vônga - Đông,
Ta phất ngọn cờ hồng.
Và hô to:
Kháng chiến nhất định thắng lợi!
Kiến quốc nhất định thành công!
C.B.
Thơ Việt Nam |
29423 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%ABng%20xu%C3%A2n%20nguy%C3%AAn%20%C4%91%C3%A1n%20th%E1%BA%BF%20n%C3%A0o | Mừng xuân nguyên đán thế nào | Trăm năm trong cõi người ta,
Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan,
Mừng Xuân, Xuân cả thế gian
Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân.
Tháng 1 năm 1960
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29424 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%C6%B0%E1%BB%9Di%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20c%E1%BB%A7a%20Vi%E1%BB%87t%20Minh | Mười chính sách của Việt Minh | Việt Nam độc lập đồng minh
Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây.
Quyết làm cho nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền:
Làm cho con cháu Rồng, Tiên,
Dân ta giữ lấy lợi quyền của ta.
Có mười chính sách bày ra,
Một là ích nước, hai là lợi dân.
Bao nhiêu thuế ruộng, thuế thân,
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền.
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương,
Họp hành, đi lại, có quyền tự do.
Nông dân có ruộng, có bò,
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn.
Công nhân làm lụng gian nan,
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ.
Gặp khi tai nạn bất ngờ,
Thuốc thang Chính phủ bấy giờ giúp cho.
Thương nhân buôn nhỏ, bán to,
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền.
Nào là những kẻ chức viên,
Cải lương đãi ngộ cho yên tấm lòng.
Binh lính giữ nước có công,
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu.
Thanh niên có trường học nhiều,
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho.
Đàn bà cũng được tự do,
Bất phân nam nữ, đều cho bình quyền.
Người tàn tật, kẻ lão niên,
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho.
Trẻ em, bố mẹ khỏi lo,
Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy.
Muốn làm đạt mục đích này,
Chúng ta trước phải ra tay kết đoàn.
Sao cho từ Bắc chí Nam,
Việt Minh hội có muôn vàn hội viên.
Người có sức, đem sức quyên,
Ta có tiền của, quyên tiền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh.
Rồi ra sự nghiệp hoàn thành,
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng.
Khuyên ai xin nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
1941
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29425 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nhi%E1%BB%81u%2C%20nhanh%2C%20t%E1%BB%91t%2C%20r%E1%BA%BB | Nhiều, nhanh, tốt, rẻ | Làm nhanh mà không tốt
Có gì là vẻ vang?
Đã là người làm chủ,
Tính toán phải đàng hoàng:
Nhiều, nhanh, tốt, rẻ rõ ràng
Lợi dân, lợi nước đôi đàng vẹn đôi.
Thơ Việt Nam |
29426 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%C3%B3m%20l%E1%BB%ADa | Nhóm lửa | Lúc leo lét bắt đầu nhóm lửa,
Biết bao nhiêu là sự khó khăn?
Chỉ đìu hiu một mảy gió xuân,
Cũng lo sợ lửa khi tắt mất.
Nghi ngút khói, mặc dầu thổi quạt,
Che một bên lại tạt một bên,
Khi lửa đà chắc chắn bén lên,
Thì mưa gió, chi chi cũng cháy.
Mưa lún phún, lửa càng nóng nảy,
Gió càng cao, ngọn lửa càng cao.
Núi rừng đều bén, cháy ào ào,
Lửa nung đỏ, cả giời sáng toé.
Việc cách mạng cũng là như thế,
Bước ban đầu là bước gian nan.
Nào đế quốc, mật thám, bọn quan,
Đều là lũ ra tay phá hoại.
Hở một chút, tức là thất bại,
Sai một ly là hại cho dân.
Song khi cách mạng đã vững chân,
Sẽ ồ ạt lan tràn khắp xứ,
Sẽ vùn vụt như toà núi lửa,
Sẽ rầm rầm như ngọn thuỷ trào,
Sẽ kéo theo tất cả đồng bào,
Sẽ đè bẹp cả loài lang sói.
Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi,
Chiếu lá cờ độc lập, tự do!
Thơ Việt Nam |
29428 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20v%E1%BA%A7n%20th%C6%A1%20c%E1%BB%95%20%C4%91%E1%BB%99ng | Những vần thơ cổ động | (A)
Thanh niên sức mạnh vô vàn,
Tuốt dao trỗi dậy đập tan quân thù.
...
Thề cùng quân giặc phen sống mái,
Phá tan xiềng xích dựng nước nhà.
(B)
Đáng kính thay bậc bão nhân,
Phơ phơ tóc bạc, tinh thần vẫn cao.
Xóm làng hết sức hô hào,
Già trẻ trai gái mau vào Việt Minh.
(C)
Năm giới: sĩ - công - nông - thương - binh,
Đoàn kết dưới bóng cờ Việt Minh.
Thề tiễu trừ sài lang Nhật Bản,
Giành độc lập, tự do, thái bình.
Thơ Việt Nam |
29429 | https://vi.wikisource.org/wiki/N%C3%B4ng%20d%C3%A2n%20%C4%91o%C3%A0n%20k%E1%BA%BFt | Nông dân đoàn kết | Nông dân đoàn kết, cả nước một nhà,
Đủ cả dân tộc, đủ cả trẻ già;
Ai cũng cố gắng thi đua tăng gia,
Kế hoạch nông nghiệp chắc là thành công.
Thơ Việt Nam |
29430 | https://vi.wikisource.org/wiki/N%E1%BB%AF%20anh%20h%C3%B9ng%20Nguy%E1%BB%85n%20Th%E1%BB%8B%20B%C6%B0%C6%A1i | Nữ anh hùng Nguyễn Thị Bươi | Người Long Động, tỉnh Quảng Yên;
Hai mươi bốn tuổi, tính hiền và ngoan.
Từ ngày giặc đánh vào làng,
Chị đánh du kích tỏ gan anh hùng.
Việc gì chị cũng xung phong,
Khiến cho đồng đội càng hăng thêm nhiều.
Chiến tranh càng khó bao nhiêu,
Tinh thần càng vững, càng nhiều chiến công.
Khi đánh giặc, khi giao thông,
Tuyên truyền, tổ chức, chị không ngại nề.
Một hôm, khai hội ra về,
Chẳng may địch bắt, không hề khai ra.
Chúng dùng đủ cách khảo tra,
Rồi cho lính hiếp suốt 3, 4 tuần.
Chém cha lũ giặc bất nhân,
Chúng toan bắn chị ở chân ngôi đình.
Nghĩ rằng mình chết đã đành,
Còn tài liệu Đảng giấu quanh mái nhà?
Chị bèn một chước nghĩ ra:
Xin về lấy súng đặng mà báo tin.
Đến làng, gặp một người quen,
Thừa cơ chị đã đưa tin rõ ràng.
Rồi quay mặt lại đường hoàng,
Chửi vào mặt giặc, giặc càng căm gan.
Chúng liền đạp chị ngã lăn,
Đứa dao khoét vú, đứa chân giẫm đầu.
Đứa thì tay đỡ chậu thau,
Đứa thì mổ chị từ đầu đến chân!
Chị luôn giữ vững tinh thần,
Hô to khẩu hiệu, chửi quân bạo tàn.
Vì lòng yêu nước nồng nàn,
Nêu gương oanh liệt muôn ngàn đời sau.
C.B.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29431 | https://vi.wikisource.org/wiki/N%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ta | Nước ta | Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt
Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu
Nhân dân dũng cảm và cần kiệm
Các nước anh em giúp đỡ nhiều.
Thơ Việt Nam |
29432 | https://vi.wikisource.org/wiki/P%C3%A1c%20B%C3%B3%20h%C3%B9ng%20v%C4%A9 | Pác Bó hùng vĩ | Non xa xa, nước xa xa,
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lê-nin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà.
Tháng 2-1941
Thơ Việt Nam |
29433 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ph%C3%A2n%20c%C3%B4ng%20h%E1%BB%A3p%20l%C3%BD | Phân công hợp lý | Phân công hợp lý cả làng,
Sản xuất tiết kiệm rõ ràng thi đua.
Một mùa gặt bằng hai mùa,
Dân no, nước mạnh tha hồ đánh Tây.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29434 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ph%E1%BB%A5%20n%E1%BB%AF | Phụ nữ | Việt Nam phụ nữ đời đời
Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh.
Ngàn thu rạng tiếng bà Trưng,
Ra tay cứu nước, cứu dân đến cùng.
Bà Triệu Ẩu thật anh hùng,
Cưỡi voi đánh giặc, vẫy vùng bốn phương.
Mấy năm cách mệnh khẩn trương,
Chị em phụ nữ thường thường tham gia.
Mấy phen tranh đấu xông pha,
Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai?
Kìa như chị Nguyễn Minh Khai
Bị làm án tử đến hai ba lần.
Bây giờ cơ hội đã gần,
Đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân nước nhà.
Chị em cả trẻ đến già
Cùng nhau đoàn kết đặng mà đấu tranh.
Đua nhau vào hội Việt Minh
Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên.
Làm cho thiên hạ biết tên
Làm cho rõ mặt cháu Tiên, con Rồng.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29435 | https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%C3%A2n%20ta%20to%C3%A0n%20th%E1%BA%AFng%20%E1%BB%9F%20%C4%90i%E1%BB%87n%20Bi%C3%AAn%20Ph%E1%BB%A7 | Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ | 20 tháng 11 năm cũ,
Giặc Pháp nhảy dù Điện Biên Phủ.
Hăm mốt tiểu đoàn tinh nhuệ nhất,
Xe tăng, súng lớn đầy chồng chất.
Chúng khoe rằng: "kế hoạch Nava
Thật là mạnh dạn và tài hoa.
Phen này Việt Minh phải biết tay,
Quan thầy Mỹ thì vui lòng thay!"
Các báo phản động khắp thế giới
Inh ỏi tâng bốc Nava tới.
Bên ta thì:
Bộ đội, dân công quyết một lòng,
Xẻ non, đắp suối, vượt qua sông,
Khắc phục khó khăn và hiểm trở;
Đánh cho giặc tan mới hả dạ;
Lặng lẽ chuẩn bị suốt tháng ngày,
Không quản gian khổ và đắng cay;
Quyết tâm làm cho tròn nhiệm vụ,
Đã hứa với Bác, Đảng, Chính phủ.
13 tháng 3 ta tấn công,
Giặc còn ở trong giấc mơ nồng:
"Mình có thầy Mỹ lo cung cấp;
Máy bay cao cao, xe tăng thấp,
Lại có Nava cùng Cônhi,
Những tay tướng giỏi nắm chỉ huy.
Chúng mình chuyến này nhất định thắng,
Việt Minh ắt thua chạy quýnh cẳng".
Hơn 50 ngày, ta đánh đồn,
Ta chiếm một đồn lại một đồn,
Quân giặc chống cự tuy rất hăng,
Quân ta anh dũng ít ai bằng.
Nava, Cônhi đều méo mặt,
Quân giặc tan hoang ta vây chặt.
Giặc kéo từng loạt ra hàng ta.
Quân ta vui hát "khải hoàn ca".
Mười ba quan năm đều hàng nốt,
Tên tướng chỉ huy cũng bị nhốt.
Một vạn sáu ngàn tên giặc Tây,
Đều là tù binh hoặc bỏ thây.
Thế là quân ta đã toàn thắng
Toàn thắng là vì rất cố gắng.
Chiến sĩ viết thư dâng Cụ Hồ:
"Xin Bác vui lòng mà nhận cho
Món quà chúc thọ sinh nhật Bác,
Chúng cháu cố gắng đã sắm được".
C.B.
Thơ Việt Nam |
29436 | https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%C3%AA%20%C4%91%C3%A2u%20cho%20b%E1%BA%B1ng%20qu%C3%AA%20nh%C3%A0%2C%20nh%C3%A0%20ta%20ta%20%E1%BB%9F%2C%20vi%E1%BB%87c%20ta%20ta%20l%C3%A0m | Quê đâu cho bằng quê nhà, nhà ta ta ở, việc ta ta làm | Trông về trời bể mênh mang
Bà con đã cách, xóm làng đã xa
Lưu ly không cửa không nhà
Chân trời góc bể biết là về đâu
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29437 | https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20ca%20%28H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh%20d%E1%BB%8Bch%29 | Quốc tế ca (Hồ Chí Minh dịch) | Điệp khúc
Trận này là trận cuối cùng
Ầm ầm đoàn lực, đùng đùng đảng cơ,
Lanhtécnaxiônanlơ
Ấy là nhân đạo, ấy là tự do.
Đoạn I
Hỡi ai nô lệ trên đời,
Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên!
Bất bình này chịu sao yên,
Phá cho tan nát một phen cho rồi!
Bao nhiêu áp bức trên đời,
Sạch sành sanh phá cho rồi mới tha!
Cuộc đời này đã đổi ra,
Xưa kia con ở nay là chủ ông!
Đoạn II
Công nông ta có đảng to,
Có nhờ ta mới có kho có tài.
Trời sinh đất để cho người,
Những đồ lười biếng thì mời đi đi,
Những đồ ǎn xổi ở thì,
Mình làm chúng hưởng lẽ gì xưa nay.
Nếu đem diệt sạch lũ này,
Mặt trời vẫn cứ ngày ngày xuân dung!
Đoạn III
Việc ta ta phải gắng lo,
Chẳng nhờ trời phật chẳng nhờ thần linh.
Công nông mình cứu lấy mình,
Sửa sang thế đạo kinh dinh nhân quyền.
Muốn cho đánh đổ cường quyền,
Tự do bình đẳng vẹn tuyền cả hai.
Thụt lò ta phải ra tay,
Sắt kia đang nóng đập ngay mà dùng! |
29438 | https://vi.wikisource.org/wiki/S%C3%A1u%20m%C6%B0%C6%A1i%20tu%E1%BB%95i | Sáu mươi tuổi | Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán,
So với ông Bành vẫn thiếu niên.
Ăn khoẻ, ngủ ngon, làm việc khoẻ,
Trần mà như thế kém gì tiên!
1950
Thơ Việt Nam
Thất ngôn tứ tuyệt |
29439 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%A1m%20%C4%91i%E1%BB%81u%20c%E1%BA%A7n%20thi%E1%BA%BFt | Tám điều cần thiết | Nước phải đủ, phân phải nhiều,
Cày sâu, giống tốt, cáy đều dảnh hơn;
Trừ sâu, diệt chuột chơ quên,
Cải tiến nông cụ là nền nhà nông;
Ruộng nương quản lý ra công,
Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29440 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20%C3%A1o | Tặng áo | Tết năm nay hoãn thịt xôi
Tết sau, thắng lợi sẽ đền bồi
Áo bạn biếu tôi, tôi biếu chú
Chú mang cho ấm, cũng như tôi
Thơ Việt Nam |
29441 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20b%C3%A1o%20Xung%20phong | Tặng báo Xung phong | Bác nhận được báo "Xung phong"
Cảm ơn các cháu có lòng gửi cho.
Các cháu nghe bác dặn dò:
"Phải biết yêu nước, phải lo học hành.
Siêng làm việc, siêng tập tành,
Phải giữ kỷ luật mới thành cháu ngoan.
Bác yêu các cháu muôn vàn,
Bác gửi các cháu một ngàn cái hôn".
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29442 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20ch%C3%A1u%20N%C3%B4ng%20Th%E1%BB%8B%20Tr%C6%B0ng | Tặng cháu Nông Thị Trưng | Vở này ta tặng cháu yêu ta,
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là.
Mong cháu ra công mà học tập,
Mai sau cháu giúp nước non nhà.
1944
Thơ Việt Nam
Thất ngôn tứ tuyệt |
29443 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20c%C3%B4ng%20an%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20v%C5%A9%20trang | Tặng công an nhân dân vũ trang | Đoàn kết, cảnh giác,
Liêm, chính, kiệm, cần;
Hoàn thành nhiệm vụ,
Khắc phục khó khăn;
Dũng cảm trước địch,
Vì nước quên thân;
Trung thành với Đảng,
Tận hiếu với dân.
Tháng 1 năm 1959
Thơ Việt Nam |
29444 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20c%E1%BB%A5%20%C4%90inh%20Ch%C6%B0%C6%A1ng%20D%C6%B0%C6%A1ng | Tặng cụ Đinh Chương Dương | Quan san muôn dặm gặp nhau đây,
Mục đích chung là đuổi Nhật, Tây.
Dân bị hai tròng vào một cổ,
Ta liều trăm đắng với ngàn cay.
Già dù yếu sức mang mang nhẹ,
Trẻ cố ra công gánh gánh đầy.
Non nước của ta ta lấy lại,
Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây.
Liễu Châu, năm 1943
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
29445 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20S%C6%B0%20%C4%91o%C3%A0n%20316 | Tặng Sư đoàn 316 | Ðá rắn, quyết tâm ta rắn hơn đá.
Núi cao, chí khí ta còn cao hơn.
Khó khăn ta quyết vượt cho kỳ được,
Gian khổ không làm ta sờn
Ðảng phái ta trên mặt trận sản xuất,
Nhiệm vụ ấy ta quyết làm cho tròn.
Ðội ơn đào tạo người, quân đội,
Quyết chí đền bồi nghĩa nước non.
Ngày 10-3-1958
Thơ Việt Nam |
29446 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%B7ng%20to%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20%C4%90%E1%BB%9D-cu | Tặng toàn quyền Đờ-cu | Non nước Rồng Tiên rõ mịt mù,
Lợi quyền phó mặc bố thằng Cu.
Đối dân Nam Việt thì lên mặt,
Gặp bọn Phù Tang chỉ đội khu!
Về Pháp, không cơm e chết đói,
Ở đây, hút máu béo ni-nu.
Cũng như thống chế Pê-tanh vậy,
Chú cứ cu cù được mãi ru!
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
29447 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tr%C3%A8o%20n%C3%BAi | Tập trèo núi | Cố trèo, cố trèo lại cố trèo
Cố trèo, không sợ núi cheo leo
Núi cao, ta bước cao hơn núi
Con đường thắng lợi vốn quanh queo.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn tứ tuyệt |
29448 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C4%83m%20l%E1%BA%A1i%20hang%20P%C3%A1c%20B%C3%B3 | Thăm lại hang Pác Bó | Hai mươi năm trước ở hang này
Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay.
20/2/1961
Thơ Việt Nam
Thất ngôn tứ tuyệt |
29449 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20c%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%93ng%20ch%C3%AD%20c%C3%A1n%20b%E1%BB%99%20%C4%91ang%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20t%E1%BA%A1i%20Pari | Thơ chúc tết các đồng chí cán bộ đang công tác tại Pari | Xuân gà túc tác đến nơi,
Gửi người thân thiết mấy lời mừng xuân.
Gà xuân túc tác rạng đông,
Đưa tin thắng lợi cờ hồng bay cao.
Xuân Kỷ Dậu
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29450 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20du%20k%C3%ADch | Thơ du kích | Bọn phát xít,
Cướp nước ta,
Nó cướp của,
Nó đốt nhà,
Nó đánh chết trẻ con,
Nó hãm hiếp đàn bà,
Nó bắn thanh niên,
Nó giết người già.
Khổ thế này,
Chịu sao qua,
Ta muốn sống,
Phải tham gia,
Đánh du kich,
Đuổi địch ra.
Bất kỳ trẻ hay già,
Đàn ông hay đàn bà,
Đều ra sức tham gia,
Đánh du kích,
Đuổi địch ra!
Hỡi quốc dân đồng bào,
Tiến lên cả xem nào!
Không có súng,
Ta dùng dao,
Ta dùng cuốc,
Ta dùng cào,
Ta lấy đòn ghính,
Ta nhổ cọc rào,
Hễ thấy địch,
Cứ xông vào,
Đánh cho chúng nhào.
Mỗi người là một chiến sĩ,
Mỗi người là một chiến binh,
Ta nhất định thắng lợi,
Cờ Độc lập phất cao.
Thơ Việt Nam |
29451 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20khen%20t%E1%BA%B7ng%20hai%20em%20nhi%20%C4%91%E1%BB%93ng%20li%C3%AAn%20l%E1%BA%A1c%20trong%20b%E1%BB%99%20%C4%91%E1%BB%99i%20chi%E1%BA%BFn%20khu%20II | Thơ khen tặng hai em nhi đồng liên lạc trong bộ đội chiến khu II | Gửi cháu Phạm Đỗ Hải
Bác được tin rằng:
Cháu làm liên lạc,
Bị giặc bắt được,
Lại trốn thoát ngay.
Mang hai lính Tây
Theo về bộ đội.
Thế là cháu giỏi.
Biết cách tuyên truyền.
Bác gửi lời khen.
Khuyên cháu gắng sức
Học hành, công tác
Tiến bộ luôn luôn.
Gửi cháu cái hôn
Và lòng thân ái.
*
Gửi cháu Lê Văn
Cháu có can đảm
Giơ súng doạ Tây.
Bắt nó hàng ngay,
Lấy được súng nó.
Vì thành công đó,
Bác gửi lời khen.
Khuyên cháu tập rèn
Ngày càng tiến bộ.
Bác lại gửi cháu
Mấy chục cái hôn.
Tháng 8 năm 1947
Thơ Việt Nam |
29452 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20ba%20c%E1%BB%A5%20l%C3%A3o%20du%20k%C3%ADch%20%E1%BB%9F%20Cao%20B%E1%BA%B1ng | Thơ tặng ba cụ lão du kích ở Cao Bằng | Tuổi cao chí khí càng cao,
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu.
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù,
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29453 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20b%C3%A1o%20%C4%90%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp | Thơ tặng báo Độc lập | Năm mới thế cho năm đã cũ,
Báo “Độc lập” của đảng “Dân chủ”.
Kêu gọi toàn thể dân Việt Nam.
Đoàn kết và thắt chặt hàng ngũ.
Kiên quyết kháng chiến đến kỳ cùng,
Để giữ chủ quyền và lãnh thổ.
Chờ ngày Độc Lập đã thành công,
Tết ấy tha hồ bàn với cỗ.
Nhân mùa xuân kháng chiến đầu tiên, tháng 1 năm 1947.
Thơ Việt Nam |
29454 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20c%C3%A1c%20ch%C3%A1u%20nhi%20%C4%91%E1%BB%93ng | Thơ tặng các cháu nhi đồng | Bác mong các cháu “cho ngoan”
Mai sau gìn giữ giang san Lạc Hồng
Sao cho nổi tiếng Tiên Rồng
Sao cho tỏ mặt nhi đồng Việt Nam.
Ngày 10 tháng 4 năm 1946
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29455 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20t%E1%BA%B7ng%20c%C3%A1n%20b%E1%BB%99%20chi%E1%BA%BFn%20s%C4%A9%20c%C3%B4ng%20an%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20v%C5%A9%20trang | Thơ tặng cán bộ chiến sĩ công an nhân dân vũ trang | Non xanh nước biếc trùng trùng
Giữ gìn Tổ quốc ta không ngại ngùng gian lao
Núi cao, sự nghiệp càng cao,
Biển sâu, chí khí ta soi vào càng sâu.
Thi đua ta quyết giật cờ đầu.
2-3-1962
Thơ Việt Nam |
29456 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20trong%20nh%E1%BA%ADt%20k%C3%BD | Thơ trong nhật ký | Bảy, tám chục năm giời mất nước
Các cụ già uất ức lầm than
Mắt trông nước mất nhà tan
Giống nòi sỉ nhục, giang san thẹn thùng
Đã thấy Phan Đình Phùng khởi nghĩa
Đã thấy vùng Yên Thế đánh Tây
Nước non vẫn...
Thơ Việt Nam
Song thất lục bát |
29457 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20v%E1%BB%A3%20g%E1%BB%ADi%20ch%E1%BB%93ng%20%C4%91i%20l%C3%A0m%20c%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng | Thơ vợ gửi chồng đi làm cách mạng | Anh hỡi anh, chồng hỡi chồng,
Từ ngày ly biệt thiếp nay trông mai chờ.
Cha già mẹ yếu con thơ,
Nuôi già dạy trẻ, em cậy nhờ vào đâu?
Đói no bữa cháo bữa rau,
Tuy lao khổ em dám đâu phàn nàn.
Đêm khuya em tự hỏi han,
Vì ai ta phải lìa tan thế này?
Anh nguyên có tội tình gì?
Mà nay cũng phải bắt đi ở tù?
Vì anh muốn chống kẻ thù,
Vì anh lo nước mất, dân ngu, nòi hèn.
Vì anh tranh đấu mấy phen,
Vì anh mong giải phóng cho cháu Tiên con Rồng.
Em xin anh chớ phiền lòng,
Em tuy hèn yếu quyết thay chồng tranh đấu đến nơi.
Đoàn thể ta có ức triệu người,
Ra tay chèo chống cuộc đời nước ta.
Mai sau anh trở lại nhà,
Ánh trăng càng tỏ màu hoa càng nồng.
1941
Thơ Việt Nam |
29458 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20g%E1%BB%ADi%20%C4%91%E1%BB%93ng%20ch%C3%AD%20V%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%C3%A0m | Thư gửi đồng chí Vương Đàm | Bạn từ Trung Quốc sang đây,
Tặng cho bạn hữu trái cây quá nhiều.
Ăn rồi tấm tắc khen đều,
Cám ơn và chúc bạn nhiều bình yên.
1951
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29459 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20g%E1%BB%ADi%20Hy%20M%C3%A3%20Nghi%20B%C3%A1%20%C4%91%E1%BA%A1i%20nh%C3%A2n | Thư gửi Hy Mã Nghi Bá đại nhân | Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng
Phải có kiên cương mới gọi hùng
Vai cứng long lanh ngoài ách tớ
Má đào nóng nảy giới quyền chồng
Lợi chung dầu sẽ mua về được
Kiếp mong chi nài sự có không
Ba hột đạn - thầm hai tấc lưỡi
Sao cho ích giống mấy cam lòng
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
29460 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20g%E1%BB%ADi%20ph%E1%BB%A5%20n%E1%BB%AF%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20nh%C3%A2n%20d%E1%BB%8Bp%20xu%C3%A2n%20B%C3%ADnh%20Tu%E1%BA%A5t | Thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp xuân Bính Tuất | Năm mới Bính Tuất
Phụ nữ đồng bào
Phải gắng làm sao
Gây "Đời sống mới"
Việc thành là bởi
Chúng ta siêng mần
Vậy nên chữ cần
Ta thực hành trước
Lại phải kiệm ước
Bỏ thói xa hoa
Tiền của dư ra
Đem làm việc nghĩa
Thấy của bất nghĩa
Ta chớ tham thàn
Thế tức là liêm
Đã liêm thì khiết
Giữ mình làm việc
Quảng đại công bình
Vì nước quên mình
Thế tức là chính
Cần, kiệm, liêm, chính
Giữ được vẹn mười
Tức là những người
Sống "Đời sống mới".
Thơ Việt Nam |
29461 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20trung%20thu%201951 | Thư trung thu 1951 | Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng
Sau đây Bác viết mấy dòng
Gửi cho các cháu tỏ lòng nhớ nhung...
1951
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29463 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20trung%20thu%201953 | Thư trung thu 1953 | 9 Tết Trung Thu,
8 năm kháng chiến,
Các cháu khôn lớn,
Bác rất vui lòng.
Thu này Bác gửi thơ chung,
Bác hôn các cháu khắp vùng gần xa,
Thu này hơn những Thu qua,
Kháng chiến thắng lợi gấp ba, bốn lần.
Phát động nông dân,
Cải cách ruộng đất,
Dân đỡ chật vật,
Hăng hái tăng gia.
Xóm gần cho đến làng xa,
No cơm ấm áo, theo đà tiến lên.
Chỉnh huấn, chỉnh quân,
Bộ đội cố gắng,
Quyết chiến quyết thắng,
Diệt giặc lập công.
Khắp nơi Nam, Bắc, Tây, Đông,
Đưa tin thắng trận cờ hồng tung bay.
Các cháu vui thay!
Bác cũng vui thay!
Thu sau so với Thu này vui hơn.
Thơ Việt Nam |
29464 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90i%20thuy%E1%BB%81n%20tr%C3%AAn%20s%C3%B4ng%20%C4%90%C3%A1y | Đi thuyền trên sông Đáy | Dòng sông lặng ngắt như tờ,
Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo.
Bốn bề phong cảnh vắng teo,
Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan.
Lòng riêng riêng những bàng hoàng,
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng.
Thuyền về, trời đã rạng đông,
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi.
Ngày 18-8-1949
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29465 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20trung%20thu%201956 | Thư trung thu 1956 | Nhân dịp Tết Trung thu
Thân ái chúc các cháu:
Vui vẻ, mạnh khoẻ,
Đoàn kết chặt chẽ.
Thi đua học hành,
Tiến bộ mau lẹ.
Thơ Việt Nam |
29466 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20v%E1%BB%A3%20g%E1%BB%ADi%20ch%E1%BB%93ng | Thư vợ gửi chồng | Ba bốn năm trời luống nhớ thương
Nhớ chàng lưu lạc tại tha hương
Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp
Luỵ nhớ e chưa ráo mắt chàng
Thù nước thù nhà chàng gắng trả
Việc nhà việc cửa thiếp xin đương
Bao giờ đuổi sạch quân thù địch
Ta sẽ sum vầy ở cố hương
1940
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
29467 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%ACnh%20h%C3%ACnh%20Trung%20%C4%90%C3%B4ng | Tình hình Trung Đông | Trung Đông bão táp vừa bùng nổ
Bỗng chốc lôi đình lại tạm câm
Khốn khổ vì ai cho đến nỗi
Anh em Ả Rập phải thương tâm.
Trông người ta lại ngẫm phần ta
Sách lược của ta ta định ra
Đừng để cho ai xoay chuyển nó
Cuối cùng thắng lợi ắt về ta.
1967
Thơ Việt Nam |
29468 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BA%BB%20ch%C4%83n%20tr%C3%A2u | Trẻ chăn trâu | Trên đồi cỏ mọc xanh xanh,
Một đàn cò đậu ngoài ghềnh xa xa,
Trâu bò lũ bảy, lũ ba,
Ven đồi chen chúc bụi già, cỏ non.
Chăn trâu mấy trẻ con con,
Cùng nhau xướng hát véo von trên gò:
"Vì ai, ta chẳng ấm no?
Vì ai, ta đã phải lo cơ hàn?
Vì ai, cha mẹ nghèo nàn?
Vì ai, nhà cửa, giang san tan tành?
Vì ai, ngăn cấm học hành?
Vì ai, ta phải chịu vành dốt ngây?
- Ấy là vì Nhật, vì Tây
Ra tay vơ vét, đoạ đày chúng ta;
Làm ta tan cửa, nát nhà,
Trẻ con vất vả, người già đắng cay.
- Cùng nhau đánh đuổi Nhật, Tây.
Anh em ta mới có ngày vinh hoa.
"Nhi đồng cứu quốc" Hội ta,
Ấy là lực lượng, ấy là cứu sinh.
Ấy là bộ phận Việt Minh,
Dân mình khắc cứu dân mình mới xong".
*
Ai nghe mà chẳng động lòng,
Khá thương con trẻ mục đồng Việt Nam.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29469 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BA%BB%20con | Trẻ con | Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan,
Chẳng may vận nước gian nan,
Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng.
Học hành, giáo dục đã không,
Nhà nghèo lại phải làm công, cày bừa.
Sức còn yếu, tuổi còn thơ,
Mà đã khó nhọc cũng như người già!
Có khi lìa mẹ, lìa cha,
Đi ăn ở với người ta bên ngoài.
Vì ai mà đến thế này?
Vì giặc Nhật với giặc Tây bạo tàn!
Khiến ta nước mất, nhà tan,
Trẻ em cũng phải cơ hàn xót xa.
Vậy nên con trẻ nước ta
Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh!
Kẻ lớn cứu quốc đã đành,
Trẻ em cũng phải ra dành một vai.
Bao giờ đánh đuổi Nhật, Tây,
Trẻ em ta sẽ là bầy con cưng.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29470 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%E1%BB%93ng%20c%C3%A2y | Trồng cây | Muốn làm nhà cửa tốt
Phải ra sức trồng cây.
Chúng ta chuẩn bị từ ray,
Dăm năm sau sẽ bắt tay dựng nhà.
Ngày 30 tháng 5 năm 1959
Thơ Việt Nam |
29472 | https://vi.wikisource.org/wiki/Uy%20danh%20l%E1%BB%ABng%20l%E1%BA%ABy%20kh%E1%BA%AFp%20n%C4%83m%20ch%C3%A2u | Uy danh lừng lẫy khắp năm châu | Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu
Thành Đồng trống thắng lay lầu trắng
Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn tứ tuyệt |
29473 | https://vi.wikisource.org/wiki/Vi%E1%BB%87t%20Nam%20%C4%91%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp | Việt Nam độc lập | “Việt Nam độc lập” thổi kèn loa,
Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già.
Đoàn kết vững bền như khối sắt,
Để cùng nhau cứu nước Nam ta!
Thơ Việt Nam
Thất ngôn tứ tuyệt |
29474 | https://vi.wikisource.org/wiki/Vi%E1%BB%87t%20Nam%20y%C3%AAu%20c%E1%BA%A7u%20ca | Việt Nam yêu cầu ca | Bằng nay gặp hội Giao hoà.
Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình.
Cậy rằng các nước Đồng minh
Đem gươm công lý giết hình giã man
Mấy phen công bố rõ ràng.
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang Sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa.
Dám xin đại quốc soi qua chút nào.
Một xin tha kẻ đồng bào.
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin phép luật sửa sang
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc biệt bất công
Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành
Ba xin rộng phép học hành
Mở mang kỹ nghệ, tập tành công thương
Bốn xin được phép hội hàng
Năm xin nghĩ ngợi nói bàn tự do
Sáu xin được phép lịch du
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền.
Tám xin được cử nghị viên.
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân.
Tám đều cặn tỏ xa gần.
Chưng nhờ vạn quốc công dân xét tình
Riêng nhờ giân Pháp công bình
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp dân nức tiếng xưa nay.
Đồng bào, bác ái sánh tày không ai.
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai.
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Dân Nam một dạ ước mơ
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự do.
Rộng xin dân Pháp xét cho
Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Dịch mấy chữ quốc âm bày tỏ
Để đồng bào lớn nhỏ được hay.
Hoà bình may gặp hồi nầy
Tôn sùng công lý, đoạ đày dã man
Nay gặp hội khải hoàn hỉ hả
Tiếng vui mừng khắp cả đồng dân
Tây vui chắc đã mười phần
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ
Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly.
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì dân khôn
Hai mươi triệu quốc hồn Nam Việt
Thế cuộc nầy phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng tự do
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý dài
Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa
Thơ Việt Nam
Thơ Việt Nam |
29475 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20s%E1%BB%9B%20%E1%BB%A9ng%20kh%E1%BA%A9u%20%E1%BB%9F%20Ch%E1%BB%89%20Th%C3%B4n | Bài sớ ứng khẩu ở Chỉ Thôn | Nam mô Phật Tổ Như Lai,
Chúng sinh nheo nhóc dưới trời Tây phương.
Trăm tầng áp bức thảm thương,
Thân gầy như củi, xác nhường thây ma.
Đâu là phúc đẳng hà sa?
Đâu là cõi Phật, đâu là cảnh tiên?
……….
Nam mô Bồ tát Thế tôn,
Tiếp dẫn linh hồn về Mạc Tư Khoa.
Đấy là phúc đẳng hà sa,
Đấy là hạnh phúc, đấy là thần tiên.
……….
……….
Quân giặc Nhật thật là tàn ác,
Vừa rồi đây oanh tạc Pô Chai.
Kiều bào mấy chục mạng người,
Thây tan thịt nát quê người thảm thê.
Khóc than cũng khôn bề cứu sống,
Phải vùng lên như đấng Thiên vương.
Thù nhà nợ nước đôi đường,
Đã vì người chết, càng thương giống nòi.
Đừng tin vào số mệnh trời,
Mà do quân Nhật giết người gây nên.
Hồn ơi, hồn có linh thiêng!
Hãy cùng người sống báo đền nước non.
Người còn thì nước phải còn.
……….
1940
Thơ Việt Nam |
29476 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20c%C3%A2u%20th%C6%A1%20cu%E1%BB%91i%20c%C3%A1c%20ch%C6%B0%C6%A1ng%20trong%20%22Nh%E1%BA%ADt%20k%C3%BD%20ch%C3%ACm%20t%C3%A0u%22 | Những câu thơ cuối các chương trong "Nhật ký chìm tàu" | 1. Mênh mông trên biển dưới trời
Một hòn hoang đảo ba người lưu ly.
2. Lạ thay trong chiếc tàu này
Cái gì cũng khác tàu Tây mình làm.
3. Gió cao tiếng hạc càng cao
Ba quân chỉ ngọn cờ đào kéo ra.
4. Rằng nay bốn biển một nhà
Cùng là bè bạn cùng là thân yêu.
5. Công nông Nga có ngày nay
Cũng đà nếm mật nằm gai mấy lần.
6. Sung sướng thay thợ thuyền Nga
Ngày làm ngày nghỉ đều là có lương.
…..
Công xã thất bại nhưng mà
Ảnh hưởng công xã sâu xa vô cùng:
Nước Nga cách mạng thành công,
Cũng bởi công xã treo gương sau này.
Anh em hỡi gặp ngày kỷ niệm (18 -3?)
Nghiên cứu tường lành nghiệm lớn lao
Rồi đem phổ biến cho nhau…
7. Bần nông có ruộng mà cày
Cũng bởi cách mạng ra tay đỡ đầu.
8. Lẻ loi đã tốn lại hao
Chung nhau hợp tác, đường nào lợi hơn?
9. Sách là bổ ích tinh thần
Sách mà vào tới tai dân mới là.
10. Sách là thuốc chữa tội ngu
Dân Nga ham sách nên mau thịnh cường.
11. Công nông gìn giữ nước nhà
Dân là dân lính, lính là lính dân.
….
Khắp năm châu phận đàn bà
Có đâu mà được như Nga bây giờ?
20. Từ khi mới lọt lòng ra
Trẻ con đã được dân Nga phù trì.
21. Trẻ con khôn lớn lạ đời
Cũng bởi cách mạnh dạy cách nuôi phải đường.
22. Rằng đây bốn bể một nhà
Vàng đen trắng đỏ đều là anh em.
23. Đế quốc Pháp!
Mày ơi mày!
Nan đào thoát
Về phương Tây…
Sắp đến ngày
Mày tan xác.
Dân Nga cách mạng thành công
Dạy cho dân tộc Á Đông cách làm.
24. Bâng khuâng muốn ở muốn về
Đem lời vàng đá đền nghì công nông.
Kết luận:
Không bột sao gột nên hồ
Tay không xốc nổi cơ đồ, cừ không?
Thơ Việt Nam |
29481 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20xu%C3%A2n%20Qu%C3%BD%20M%C3%B9i%20-%201943 | Thơ chúc tết xuân Quý Mùi - 1943 | Một nghìn chín trăm bốn mươi ba,
Năm mới tình hình hẳn mới a!
Đông Á chắc rồi Tàu thắng Nhật.
Tây Âu nhất định Đức thua Nga.
Nhân dân các nước đều bùng dậy,
Cách- mệnh nhiều nơi sẽ nổ ra.
Đức, Nhật chết, rồi Tây cũng chết,
Ấy là cơ - hội tốt cho ta!
Ấy là cơ - hội tốt cho ta!
Cơ- hội này ta chớ bỏ qua,
Phấn đấu, hy sinh đừng quản ngại,
Tuyên truyền, tổ chức phải xông pha
Đồng tâm, một triệu người như một,
Khởi nghĩa, ba kỳ giậy cả ba.
Năm mới quyết làm cho nước mới,
Non sông Hồng - Lạc gấm thêm hoa!
Thơ Việt Nam |
29482 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20xu%C3%A2n%20Gi%C3%A1p%20Th%C3%A2n%20-%201944 | Thơ chúc tết xuân Giáp Thân - 1944 | ... Xuân ơi, Xuân hỡi, hỡi Xuân,
Từ xa tới gần, xuân khắp mọi nơi.
Rót cốc rượu xuân, mừng cách mạng,
Viết bài chào Tết, chúc thành công.
Xuân Giáp Thân 1944
Thơ Việt Nam |
29483 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20ch%C3%BAc%20t%E1%BA%BFt%20xu%C3%A2n%20%E1%BA%A4t%20D%E1%BA%ADu%20-%201945 | Thơ chúc tết xuân Ất Dậu - 1945 | Tết năm mới nhà báo xin chúc:
Chúc Đồng Minh đánh "Trục" tan thây.
Bốn phương năm bắc đông tây,
Trên nền máu lửa chóng xây hoà bình.
Chúc Liên Xô hùng binh mãnh tướng
Nhắm Bá Linh thuận hướng đến mau.
Chúc Anh - Mỹ tại Tây Âu,
Nhanh chân nhẹ bước tiến sâu thêm vào.
Chúc Trung Hoa anh hào kháng chiến
Chóng đến ngày toàn diện phản công.
Chúc Anh - Mỹ tại Viễn Đông
Chiếm xong Ma-ní, đoạt vùng Đa-lây
Chúc xong thế giới đó đây,
Việt Nam độc lập, chúc ngay đồng bào.
Chúc năm nay không nao khủng bố
Sự đoàn kết củng cố hơn xưa.
Vũ trang đón lấy thời cơ
Đứng lên giết giặc trao cờ tự do
Rồi trăm họ ấm no sung sướng,
Trên thế giới được hưởng binh quyền
Nghìn thu danh vọng Tiên - Rồng.
Xuân Ất Dậu 1945
Thơ Việt Nam |
29487 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C3%81i%20khanh%20h%C3%A0nh | Ái khanh hành | (trích)
... Không phải gặp em từ buổi ấy
Hình như gặp em từ ngàn xưa
Lòng em thương anh không có bến
Tình anh yêu em không có bờ
Viết viết có đến nghìn trang giấy
Làm ra có đến nghìn bài thơ
Tương tư một đêm năm canh chẵn
Nhớ nhung một ngày mười hai giờ.
Chao ơi!
Em ngon như rau cải
Em ngọt như rau ngót.
Em giòn như cùi dừa.
Em hiền như nước mưa
Em nhổ nước bọt xuống mặt biển
Mặt biển thơm lên hai mươi bốn giờ
Em là con Tướng trong tam cúc
Anh là quân Xe trong bàn cờ
Ví chăng có một nước Tình ái
Em là Hoàng Hậu, anh làm Vua.
Thơ Việt Nam |
29488 | https://vi.wikisource.org/wiki/Anh%20v%E1%BB%81%20qu%C3%AA%20c%C5%A9 | Anh về quê cũ | Anh về quê cũ: thôn Vân
Sau khi đã biết phong trần ra sao.
Từ nay lại tắm ao đào
Rượu dâu nhà cất, thuốc lào nhà phơi.
Giang hồ sót lại mình tôi
Quê người đắng khói, quê người cay men.
Nam Kỳ rồi lại Cao Miên
Tắm trong một cái biển tiền người ta...
Biển tiền, ôi biển bao la
Mình không bẩn được vẫn là tay không...
Thôn Vân có biếc, có hồng
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều.
Đê cao có đất thả diều
Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay.
Quả lành nặng trĩu từng cây
Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen.
Hiu hiu gió quạt, trăng đèn
Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi.
Ăn gỏi cá, đánh cờ người
Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân.
Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!
Phương nào kết dải mây Tần cho ta
Từ nay, khi nhớ quê nhà
Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân.
Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!
Anh em ly tán, lầu dần thành ra,
Không còn ai ở lại nhà,
Hỏi còn ai nữa? Để hoa đầy vườn,
Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn,
Anh về quê cũ có buồn không anh?
1942
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29489 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C3%81o%20anh | Áo anh | Tằm em ăn rỗi hôm nay
Hái dâu, em bận suốt ngày hôm qua.
Mong sao tằm tốt, tơ già,
May đôi áo nái làm quà cho anh.
Hẹn cho một hẹn, anh chờ
Em may áo nái bao giờ mới xong?
Lạy trời tắt gió ngang sông
Qua đò biếu áo, yên lòng em tôi.
Đưa anh đến bến đò ngang
Con sào đẩy sóng, thuyền nan lìa bờ.
Anh đi sương gió vật vờ
Em về chọn kén, chuốt tơ, chăn tằm
Đến mùa gió bấc sang năm
Bao nhiêu lụa bấy nhiêu làm áo anh.
Mong sao sự nghiệp chóng thành
Áo anh đã có em anh may giùm.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29490 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BA%A1ch%20%C4%91%C3%A0o | Bạch đào | Tình cờ không hẹn bỗng mà nên
Một buổi đầu năm tết Kỷ Hợi
Có năm người bạn bến sông Hoàng
Gặp nhau uống rượu mừng năm mới
Chuyện thơ chuyện phú, chuyện non sông
Chuyện trước chuyện sau thật sôi nổi
Bỗng nhiên Hiếu Lang vỗ đùi khoe:
Đệ có cây đào hoa mới bói
Giống đào thật quý nhất xưa nay
Cánh trắng, bông to, sương tuyết gội...
Chợt nghe hoa quý nở vườn xuân
Bỏ ngay câu chuyện, lòng phơi phới
Nửa đêm đội mưa ra đi ngay
Quản chi nhà xa đường ướt lội
Như có người yêu hé cửa chờ
Như có bạn cũ đốt trầm đợi
Nhớ lại thời xưa Bất Thượng Thuyền
Lý Bạch nằm say không trở gối
Vì hoa nên phải đánh đường tìm
Đây phải chín tầng đem chiếu gọi
Đến nơi mở cửa, đốt đèn lên
Kẻ trước người sau bước vồi vội
Ra mé Tây Viên, tới gốc đào
Lặng ngắm hoa cười, im chẳng nói
Tất cả cùng chung nhớ một câu:
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại
Khách nhân cao hứng đề thơ này.
Đề tại Tây Viên, phố Vị
Đêm mồng hai tết, năm Kỷ Hợi
Thơ Việt Nam |
29491 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20th%C6%A1%20qu%C3%AA%20h%C6%B0%C6%A1ng | Bài thơ quê hương | Trải nghìn dặm trời mây bạn tới.
Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng!
Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa.
Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương.
...Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...”
Có cô Tấm náu mình trong quả thị,
Có người em may túi đúng ba gang.
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.
Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất
“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng
Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.
Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.
Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,
Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.
Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.
Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.
Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,
Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang
Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.
Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.
Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt
Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.
Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,
Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.
Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,
Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.
Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,
Có cây lim đóng cả một thân tầu.
Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn...”
Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.
Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.
Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,
Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.
Khi có giặc những tre làng khắp nước,
Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,
Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc
Thoắt vươn vai thành những anh hùng...
Quê tôi đó - bạn ơi! - là thế đó.
Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương
Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng
Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương.
Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước
Hai mươi năm kể biết mấy công trình!
Và từ đây, núi sông và cuộc sống.
Và quê hương mới thực sự của minh.
Cuộc đời mới con người cũng mới,
Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ,
“Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...”
Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu.
Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy.
Những bài ca điệu múa lại vui tươi.
Những trận khóc đêm dài không có nữa.
Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười.
Trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác,
Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng.
Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức
Chung con đường gặt lấy ấm no chung.
Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội.
Những chủ nhân là chính những công nhân.
Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát,
Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm!
Những nhà thơ được tự do ca ngợi,
Quê hương. Tổ quốc, con người...
Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ.
Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi!
Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật,
Truyện thiên đường trong những cõi hư vô...
Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất,
Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.
Khi con người được tự do giải phóng.
Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn.
Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt,
Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương.
Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ
Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào.
Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị,
Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào.
Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới,
Khung trời quê mọc những nóc lò cao.
Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo,
(Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao).
Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ,
Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân.
Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc
Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần.
Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện.
Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây!
Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại,
Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay.
Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở,
Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm.
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”
Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần.
Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử,
Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm.
Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ,
Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam.
Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo;
Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời.
Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng
Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi.
Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét.
Bạn trở về xin kể mọi người hay.
Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn,
Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay.
(Tết Bính Ngọ, 1966)
Thơ Việt Nam |
29492 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20th%C6%A1%20v%E1%BA%A7n%20R%E1%BA%ABy | Bài thơ vần Rẫy | Nhớ ngày tôi vào chơi Hà Tiên
Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy
Đường mòn, bóng nhạt soi tà tà
Biển khơi, gió mặn thổi hây hẩy
Giậu thưa, rau muống loe màu xanh
Bờ vắng, chim cu ồn tiếng gáy
Thân cau thương nhớ ai gầy mòn
Tay chuối đợi chờ ai ve vẩy...
Hoa tươi gặp gió tha hồ rung
Trái chín gần tay tự do hái
Đời người đã thong thả thế ru?
Đời người đã sung sướng đến vậy:
Vườn cây, gió thổi lộng muôn cành
Nhà cỏ, trăng soi vàng nửa mái.
Thềm trăng, trải chiếu ngồi song song
Bàn chuyện Tam Quốc cười sảng khoái.
Khương Duy mật to như trứng gà
Mã Siêu mặt đẹp như con gái
Mê gái cửa thành giết bố nuôi
Vì nước qua thuyền giành chúa dại
Xót anh, may áo tang ba ngày
Nhớ nghĩa, đường cùng thả giặc chạy
Vận trời thế đất đang chông chênh
Thiên hạ chia ba, ai thắng bại?
Ai ngờ ông trời làm trò đùa
Cả ba chân vạc theo nhau gẫy.
Dần dà nói đến chuyện nhân duyên
Chị có cô cháu tuổi mười bảy
Tóc dài chấm gót má hồng tươi
Mi vòng cánh cung mắt đen láy
Chị ơi! trôi nổi là thân tôi
Cánh buồm bạt gió trôi hồ hải
Than ôi! không có giá liên thành
Để đổi cho tròn viên ngọc ấy!
Xứ người lần lữa gót phiêu linh
Quê cũ cha anh hết trông cậy.
Tấm thân bảy thước chửa ngang tàng
Khói lửa bốn trời đã bốc dậy.
Con thuyền dầu lạc hướng phương nào
Vẫn nhớ ai người nơi tuyệt tái!
Chừng nào mới lại vào Hà Tiên
Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy?
Chắc chẳng bao giờ nữa, chị ơi:
"Hoa lưu động khẩu ưng trường tại..."
Thơ Việt Nam |
29493 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BA%A3y%20ch%E1%BB%AF | Bảy chữ | Mây trắng đang xây mộng viễn hành,
Chiều nay tôi lại ngắm trời xanh,
Trời xanh là một tờ thư rộng,
Tôi thảo lên trời mấy nét nhanh.
Viết trọn năm dài trên vách đá,
Bốn bề lá đổ ngợp hơi thu,
Vừa may cánh nhạn về phương ấy,
Tôi gửi cho nàng bức ngọc thư.
Xe ngựa chiều nay ngập thị thành,
Chiều nay nàng bắt được trời xanh,
Đọc xong bảy chữ thì thương lắm,
"Vạn lý tương tư, vũ trụ tình."
Bắc Giang 1940
Thơ Việt Nam |
29494 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BA%AFt%20g%E1%BA%B7p%20m%C3%B9a%20thu | Bắt gặp mùa thu | Xơ xác hồ sen đã nhạt hương
Bên song hoa lựu cũng phai hường
Sớm mai lá úa rơi từng trận
Bắt gặp mùa thu khắp nẻo đường
Tóc liễu hong dài nỗi nhớ nhung
Trăng nghiêng nửa mái gội mơ mòng
Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ
Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng
Thu về sông núi bỗng tiêu sơ
Cây rũ vườn xiêu, cỏ áy bờ
Xử nữ đôi cô buồn tựa cửa
Nghe mùa gió lạnh cắn môi tơ
Sương phủ lưng đồi rặng núi xa
Thương ôi! Lữ khách nhớ quê nhà
Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ
Vườn cũ còn chăng cúc nở hoa?
Cha già ngừng chén biếng ngâm thơ
Đưa mắt nhìn theo hút dặm mờ
Xe ngựa người về tung cát bụi
Con mình không một lá thư đưa
Nghìn lạy cha già lượng thứ cho
Trót thân con vướng nợ giang hồ
Lòng son bán rẻ vào sương gió
Lãi được gì đâu? Đã mấy thu!
Một chút công danh rất hão huyền
Và dang dở nữa cuộc tình duyên
Thu sang, quán lẻ con đăm đắm
Rõi bóng quê nhà mắt lệ hoen.
Thơ Việt Nam |
29495 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%AAn%20h%E1%BB%93 | Bên hồ | Lá rơi theo gió lá bay
Bên hồ, ta đứng đắm say nhìn hồ.
Sương mai đây có trắng mờ
Như còn lưu luyến đôi bờ cây xanh.
Xa trên mặt nước mông mênh
Buông thuyền, cô gái nghiêng mình hái sen.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29496 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%B3ng%20b%C6%B0%E1%BB%9Bm | Bóng bướm | Cành dâu cao, lá dâu cao
Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em.
Anh đi đèn sách mười niên
Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành.
Cành dâu xanh, lá dâu xanh
Một mình em hái, một mình em thương.
Mới rồi mãn khoá thi hương
Ngựa điều, võng tía qua đường những ai?
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29497 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C6%B0%E1%BB%9Bm%20n%C3%B3i%20%C4%91i%C3%AAu | Bướm nói điêu | Em thấy đời em trống trải nhiều
Vì đời em chả có ai yêu
Đời em là một vườn hoa nở
Bướm hẹn về, rồi bướm nói điêu...
Thơ Việt Nam |
29498 | https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%A1i%20qu%E1%BA%A1t%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29 | Cái quạt (Nguyễn Bính) | Cái quạt mười tám cái nan
Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung
Gió sông, gió núi, gió rừng
Anh niệm thần chú thì ngừng lại đây.
Gió Nam Bắc, gió Đông Tây
Hãy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm
Em ơi công chúa là em
Anh là quan trạng đi xem hoa về
Trên giời có vẩy tê tê
Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên
Quạt này trạng để làm tin
Đêm nay khép mở tình duyên với nàng.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29500 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%E1%BA%B3ng%20bi%E1%BA%BFt%20y%C3%AAu%20nhau%20ph%E1%BA%A3i%20nh%E1%BB%AFng%20g%C3%AC | Chẳng biết yêu nhau phải những gì | Năm đã qua rồi, trong lớp học
Tôi nghe Uyển đọc bài thi
Hai ta trẻ lắm tình thơ dại
Chẳng biết... yêu nhau phải những gì?
Thơ Việt Nam |
29501 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chi%E1%BA%BFc%20n%C3%B3n | Chiếc nón | Ngày đi tập kết ra đây,
Mang theo chiếc nón tự tay em chằm,
Bay giờ đã trải ba năm,
Chiếc nón em chằm chưa ngã màu sơn.
Nắng mưa há dám đội thường
Chút quà nghìn dặm quý hơn vàng mười.
Cầm giơ lên nắng mà coi,
Hàng dừa dưới bóng trăng soi đậm đà.
"Bắc Nam sum họp một nhà",
Ẩn trong mỗi chữ bao là tình sâu!
Yêu nhau chằm nón cho nhau,
Lấy câu sum họp làm câu hẹn hò.
Vách treo chiếc nón bài thơ,
Tròn như trăng buổi tiễn đưa hôm nào.
Tháng 6-1957
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29502 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chi%E1%BB%81u%20thu%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29 | Chiều thu (Nguyễn Bính) | Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ,
Mùi hoa thiên lý thoảng chiều thu.
Con cò bay lả trong câu hát,
Biấc trẻ say dài nhịp võng ru.
Lá thấp cành cao gió đuổi nhau,
Góc vườn rụng vội chiếc mo cau.
Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác,
Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.
Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non,
Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con.
Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín,
Điểm nhạt da trời những chấm son.
Hai cánh chia quân chiếm mặt gò,
Bê con đùa mẹ bú chưa no.
Cờ lau súng sậy giam chân địch,
Trận Điện Biên này lại thắng to.
Sông đỏ phù sa, nước lớn rồi,
Nhà bè khói bếp lững lờ trôi.
Đường mòn rộn bước chân về chợ,
Vú sữa đẫy căng mặt yếm sồi.
Thong thả trăng non dựng cuối làng,
Giữa nhà cây lá bóng xiên ngang.
Chiều con, cặm cụi đôi ngày phép,
Ngồi bẻ đèn sao, phất giấy vàng.
Thơ Việt Nam |
29505 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%E1%BB%9D | Chờ | Hẹn cho một hẹn, anh chờ
Em may áo nái bao giờ cho xong
Lạy giời, tắt gió ngang sông
Qua đò biếu áo yên lòng em tôi.
Chị anh đi lấy chồng rồi.
Anh mong tằm tốt bằng mười mọi năm.
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29506 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%C3%BA%20r%E1%BB%83%20l%C3%A0%20anh | Chú rể là anh | Gửi Phạm Quang Hoà - Hưng Yên
Xưa anh là kẻ nghiện sông hồ
Đây, đó, lan dài gót lãng du
Về chẳng có kỳ, đi chẳng hẹn
Như mây mùa thu, lá mùa thu.
Anh đến Hà Nội đêm hôm trước
Anh xa Hà Nội sáng hôm sau
Bạn bè nhớ tới anh, thường nhắc:
- "Không biết bây giờ hắn ở đâu?"
Hắn đã lên rừng nghe vượn hót?
Hay vừa xuống biển ngắm giăng lên?
Ngựa quên gốc liễu, đò quên bến
Hắn nhớ thương chăng tới mẹ hiền?
Bỗng sáng hôm nay có thiếp hồng
Có người cưới vợ giữa mùa đông
Cô dâu chẳng biết là ai đó?
Chú rể là anh - Có lạ không!
A ha! Thôi nhé, tự hôm nay
Lá hết lìa rừng, mây hết bay
Sông bến lương duyên đò cắm chặt
Ngựa hồ thôi hết gió heo may.
Mắt xanh không ngắm trời xanh nữa
Chí lớn thu vào hộp phấn son
Than củi trần gian mà luyện được
Một đời vợ đẹp với con khôn
Sông hồ giờ bặt dấu chân anh
Quân tử về coi việc nấu canh
Viết cuốn trường thiên ân ái đó
Anh quên chép chuyện "Bỏ gia đình"
Tôi chỉ xa anh một chuyến tầu
Nhưng là cách trở vạn sông sâu
Uống ba ly rượu, quay về Bắc
Gọi để mừng anh, để nhớ nhau
Song nhớ bao nhiêu lại ngậm ngùi
Sông hồ còn sót lại mình tôi
Hai tay người đẹp trông mềm quá
Tôi có ngờ đâu khoá được người...
Thơ Việt Nam |
29507 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chu%C3%B4ng%20ng%E1%BB%8D | Chuông ngọ | Lạy chúa con xin chúa một giờ
Mười hai giờ ngọ của tình xưa
Chúng con hai đứa Uyên và Bính
Thường hẹn hò nhau mỗi buổi trưa.
Khi bóng cây xanh trước ngõ tròn
Là giờ hắn sẽ nhớ thương con
Con nhìn ảnh chúa rồi con khóc
Trăm thảm nghìn thương mắt mỏi mòn
Chuông ngọ, từng hồi chuông ngọ đô?
Từng hồi chuông ngọ đổ chơi vơi.
Con nghe chuông đổ rồi con khóc,
Cứu rỗi linh hồn con chúa ơi!
Cái hôm hắn bước lên xe cưới.
Khóc lả người đi chúa biết không?
Chúng con ngoại đạo hay ngoan đạo
Vẫn biết và tin có "Chúa lòng"!
Thơ Việt Nam |
29508 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chuy%E1%BB%87n%20ti%E1%BA%BFng%20s%C3%A1o%20di%E1%BB%81u | Chuyện tiếng sáo diều | Ngày còn để chỏm chăn bê
Xin tre hàng xóm, mải mê vót diều.
Vòi cha gọt sáo cho kêu,
Phất thơm nước cậy, se đều dây gai.
(Thâu đêm tiếng sáo ngân dài,
Vi vu tiếng vọng muôn đời quê ta).
Mải chơi, tối mịt về nhà,
Tây lùng cộng sản, bắt cha mất rồi!
Bê non bán chạy cho người,
Tôi buồn, tôi chả buồn chơi thả diều..
Đầu làng tiếng sáo ai kêu,
Tưởng đậu tiếng nấc trẻ nghèo thương cha.
Người đi Côn Đảo, Sơn La,
Có nghe tiếng sáo quê nhà nuối theo?
Chăn bê đổi gạo từng chiều,
Thương cha, đánh gióng cho diều lên cao.
Cha về, tóc đã phai màu
Đình làng mái đỏ cờ sao ngời ngời.
Chiều thu diều đóng sáo đôi,
Thênh thênh gió hát giữa trời tự do.
Lúa chiêm chắc hạt hai mùa
Súng thù bông nổ, đồn thù lại xây.
Nửa chiều hạ sáo, cuốn dây,
Con bê gục giữa luống cày dở dang.
Tôi xin đi Vệ quốc đoàn,
Đất tề cha ở, bám làng bám dân.
Những chiều gió ngược, hành quân,
Réo ngang đầu súng tiếng ngân sáo diều
Bốn bề ổ cọp hang beo
Làng tôi chắc chả chơi diều nữa đâu.
Hoà bình đẹp cánh bồ câu,
Tóc cha tôi bạc như màu trời xanh.
Cờ bay lại đỏ mái đình,
Diều nâng sáo rót gió lành chơi vơi.
Kịp ngày cải cách quê tôi,
Nỗi mừng càng lớn, mềm vui càng dầy.
Bỗng mà oán mượn, thù vay,
Cha tôi phải sống những ngày tối tăm.
Bụi đầy miệng sáo mà câm,
Dây treo chuột cắn, khung nằm mối xông.
Quê giờ tiếng sáo lại trong,
Trăn sao lại tỏ, ruộng đồng lại tươi
Cha tôi lại được phục hồi.
Lại mê công tác, lại chơi thả diều.
Lại ngồi gọt sáo cho kêu,
Đẵn cây tre đực, làm diều ba gian.
Diều kêu tiếng sắt tiếng vàng,
Thâu đêm réo rắt, cả làng vui chung...
Tôi theo đơn vi biên phòng,
Hôm qua mừng được mấy dòng thư quê.
Đào cao đổi gác, ra về,
Nghe chim rừng hót, tưởng nghe sáo diều.
9-1957
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29509 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%E1%BB%A9c%20N%E1%BB%AF%2C%20Ng%C6%B0u%20Lang | Chức Nữ, Ngưu Lang | Trên trời Chức Nữ với Ngưu LangMột dải sông Ngân lệ mấy hàng''
(Tản Đà)
Sông Ngân nước chảy hững hờ
Ngưu Lang ngồi khóc bên bờ sông Ngân
Một năm gặp được mấy lần!
Anh khổ vô ngần Chức Nữ em ơi!
Đôi ta chẳng hợp lòng trời
Một dòng nước bạc ngăn đôi chung tình
Chẳng cho liền cánh liền cành
Đày em trên ấy, đoạ anh dưới này.
Lạc loài đôi lứa thơ ngây
Một năm sống để một ngày gặp nhau.
Đôi ta có tội gì đâu
Cớ sao chim chẳng bắc cầu cho qua?
Có chăng tội với Trời già
Chẳng qua là tội đôi ta chung tình.
Dây oan mình buộc lấy mình
Con sông bất bình chảy mãi về xuôi...
Bao giờ Chức Nữ em ơi!
Cho giời nghĩ lại, cho giời quay đi!
Xuân xanh để lỗi một thì
Anh là bướm dại yêu gì được hoa!
Mênh mang một dải Ngân hà
Tình sao không phụ mà ra phụ tình!
Con tằm là luỵ ba sinh
Mà em là luỵ của anh muôn đời
Em là con gái nhà trời
Còn anh con cái nhà người thường dân
Yêu em có vạn có ngàn
Nhưng cha chẳng chứng cho bàn tay không!
Anh chưa tên chiếm bảng rồng
Lấy đâu xe bóng ngựa hồng vinh qui?
Cưới em bằng tấm tình si
Đò không chở thí, lấy gì sang sông?
Tên em anh khắc bên lòng
Bụi hồng vương lấy má hồng thương anh!
Vì cha chẳng đoái duyên mình
Anh đành sống để chung tình với em!
Đêm qua mới thực là đêm
Chân cứng đá mềm, Chức Nữ em ơi!
Bờ sông bên ấy gieo thoi
Sao em chẳng dệt một lời thơ anh?
Tơ trời mấy sợi mong manh
Biết anh có dệt nên hình gì không?
Một bờ sông, hai bờ sông
Một lòng! Anh dám hai lòng ở đâu!
Bao giờ cho hợp duyên nhau
Anh bắc nghìn cầu, Chức Nữ em ơi!
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29685 | https://vi.wikisource.org/wiki/Con%20t%E1%BA%B1m | Con tằm | Tôi rút ruột nhả dòng tơ óng mượt
Hôm nay đây dệt áo với thêu cờ.
Cờ non sông bay lộng giữa trời thu,
Sao sáng mọc, sắc tơ vàng óng ánh,
Áo lụa ấm những ngày đông giá lạnh.
Uốn xiêm tơ nhịp múa hội xuân lành,
Tôi âm thầm trong đống lá dâu xanh,
Nằm gọn ghẽ giữa lòng tơ vấn vít.
Tôi mải miết (cho dù tôi sẽ chết)
Tôi nhảy vào nước lửa để dâng tơ,
Nồi ươm sôi, khói nước tỏa sương mờ...
Người hãy gắng quay tơ và dệt lụa.
Xin hiển trọn cuộc đời tôi bé nhỏ
Cho cờ thiêng, cho áo ấm, cho người.
Xót xa thay! Xưa họ lấy hồn tôi,
Xe những sợi tơ đàn kỹ nữ,
Mê hát xướng, những chàng tuấn tú,
Đêm liền đêm rượu thịt say sưa.
Họ dệt tôi thành những tấm khăn tơ
Thêu nắn nót đôi trái tim rớm máu,
Mũi tên cắm, gửi tặng người yêu dấu.
Họ lại may thành những tấm long bào,
Khoác lên mình những kẻ ngự ngôi cao
Chuyên vui sướng trên máu xương trăm họ.
Kẻ quyền quý cắt tôi từng mảnh nhỏ,
May áo quần, xếp chặt những rương son.
Mà dân gian thì rét mướt gầy mòn
Quần áo vải rách bươm như mớ giẻ,
Tôi đã sống phí mùa xuân tuổi trẻ,
Oan dâu xanh mà uổng cả tơ vàng,
Làm trò chơi cho một bọn giàu sang,
Đem thiên hạ vùi sâu vòng khổ não...
Cách mạng nổi, một mùa thu gió bão
Gông ách xưa đều đổ gãy tan tành,
Tôi, con tằm, ăn những lá dâu xanh,
Của dân tộc do mồ hôi nước mắt
Bao dân lành trần cánh tay cuốc đất
Để nuôi tôi, tôi xin nhả tơ vàng,
Đây dòng tơ từ buổi gió thu sang!
Người hãy gắng quay tơ mà dệt lụa.
Xin hiến trọn cuộc đời tôi bé nhỏ
Cho cờ thiêng, cho áo ấm, cho người.
Thơ Việt Nam |
29686 | https://vi.wikisource.org/wiki/Cu%E1%BB%91i%20th%C3%A1ng%20ba | Cuối tháng ba | Chưa hè, trời đã nắng chang chang,
Tu hú vừa kêu, vải đã vàng,
Hoa gạo tàn đi, cho sắc đỏ
Nhập vào sắc đỏ của hoa xoan.
Mặt hồ vua đúc khối tiền sen
Bươm bướm đông như đám rước đèn
Ở bãi cỏ non mà lộng gió
Bắt đầu có những cánh diều lên.
Khoá hội chùa Hương đã đóng rồi.
Hội đền Hùng nữa, đám thôn tôi.
Thôi tôi vào đám hai ngày chẵn
Chỉ có chèo không, nhưng cũng vui.
Mọi làng đặt mã, lễ kỳ yên
Mũ với hình nhân, ngựa với thuyền
Cho khỏi bà Nàng đi rắc đậu
Quan Ôn bắt lính, khổ dân hiền.
Đường lên chợ tỉnh, xa tăm tắp...
Nắng mới, ôi chao, cát bụi mù,
Các chị trong làng đi bán lụa
Giắt đầu từng nắm lá hương nhu.
Tất cả mùa xuân rộn rã đi
Xa xôi, người có nhớ thương gì?
Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả
Ta biết xuân nhau có một thì!
Thơ Việt Nam |
29687 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81%20th%C6%A1%20tr%C3%AAn%20m%E1%BA%A3nh%20qu%E1%BA%A1t%20v%C3%A0ng | Đề thơ trên mảnh quạt vàng | Tặng Hoàng Tấn
Người ngọc trao tay mảnh quạt vàng
Mở lòng một sớm gió thu sang
Tình yêu không cứ mưa hay nắng
Những tưởng trăm năm phụng sánh hoàng
Nào ngờ duyên kiếp vốn chia phôi
Quạt ước còn đây hẹn lỡ rồi!
Ai biết tình anh khi khép lại
Cũng là mảnh quạt cuối thu thôi!
Thơ Việt Nam |
29688 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20m%C6%B0a%20%C4%91%E1%BA%A5t%20kh%C3%A1ch | Đêm mưa đất khách | Một thân lận đận nơi trời xa.
Nằm nghe mưa rơi trên mái nhà
Gió bắt vào thu đầy tiếng lá
Đời tàn, mộng đẹp, tiếc xuân qua.
Long tong mưa nhỏ gieo từng giọt
Vắng lặng không nao một tiếng gà
Chờ nửa vầng trăng, trăng chẳng lại
Đêm dài đằng đẵng, đêm bao la.
Cũng may cho những người lưu lạc
Càng khỏi trông trăng đỡ nhớ nhà.
Mấy tháng chưa nguôi sầu hận cũ,
Nằm đây chăn chiếu của người ta
Đĩa đèn chết đuối thân bồ hải
Chung Tử đi rồi lẻ Bá Nha.
Khá thương nghìn dặm thân làm khách.
Nằm đọc Liêu Trai bạn với ma.
Run run song ngỏ bàn tay lạnh,
Phảng phất giường đen dải áo là.
Bữa mộng ân tình, say đến sáng
Bài thơ tâm sự nghĩ không ra.
Chuyến đò thân thế đưa toàn hận
Bãi cát phù sinh đổi tháp ngà.
Đổi thay gớm mặt người thiên hạ,
Giường mộng thương cho gái nõn nà
Đất khách Mai Sinh cười phụ bạc,
Đêm dài Hàn Tín mộng vinh hoa.
Ở đã không đành đi cũng dở,
Thân này há ngại chuyện xông pha.
Sàng đầu kim tận từ hôm đó,
Tráng sĩ vô nhan cực lắm mà!
“Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa”
Hỡi ôi! Trời đất vô cùng rộng
Nào biết tìm đâu một mái nhà?
Có như mắt Tịch xanh mà uổng
Đất khách cùng đường ta khóc ta!
Mưa mãi mưa hoài mưa bứt rứt
Đêm dài đằng đẵng đêm bao la...
Sài Gòn 1943
Thơ Việt Nam |
29689 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20m%C6%B0a%20nh%E1%BB%9B%20b%E1%BA%A1n | Đêm mưa nhớ bạn | Đương đêm trời đổ mưa rào
Nằm đây mơ dáng lầu cao kinh thành
Mây hồ trắng, nước hồ xanh
Ngày xưa hai đứa chúng mình quen nhau
Chung vui cho đến chung sầu
Lòng thơ chung trắng, mái đầu chung xanh
Cái ga Hàng Cỏ vô tình
Bỗng ai đem dựng trường đình mà chơi!
Cũng là một chuyến tàu xuôi
Chuyến tàu xé lẻ chia đôi chúng mình
Rời ra những ngón tay xinh
Tàu đi ánh sáng kinh thành bừng lên
Nơi này chẳng có ai quen
Nhớ nhung xin gửi tới miền lầu cao
Thương như thế, nhớ làm sao!
Kinh thành biết có mưa rào đêm nay?
Hồn đơn phách quế đắng cay
Có ai buồn nhớ nơi này nữa không?
Vinh 1940
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29690 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20Ph%C3%BAc%20Am | Đêm Phúc Am | Riêng tặng Hoàng Tấn
Nửa đêm nghe tiếng còi tầu
Ngày mai ta lại bắt đầu ra đi
Sông ngang núi trái quản gì
Vượt sao cho khỏi biên thuỳ nhớ thương
Hỡi ôi muôn vạn dặm đường
Mây Tần lạc nẻo cố hương mất rồi
Người xưa này cố nhân ơi
Đã qua sông Dịch thì thôi không về
Sống là sống để mà đi
Con tầu bạn hữu, chuyến xe nhân tình
Chiều nay còn ở Ninh Bình
Sớm mai đôi ngả xuôi mình, ngược ta
Chiều nay chung một mái nhà
Sớm mai ngã bảy, ngã ba đường đời
Rồi đây lưu lạc quê người
Chắp tay tôi nguyện: lạy trời gặp nhau
Nửa đêm nghe tiếng còi tầu
Ngày mai ta lại bắt đầu... bạn ơi!
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29691 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20sao%20s%C3%A1ng | Đêm sao sáng | Đêm hiện dần lên những chấm sao
Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao
Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh
Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?
Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu
Thấy con Vịt lội giữa dòng sâu
Sao Hôm như mắt em ngày ấy
Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tầu
Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi
Lộng lẫy uy nghi một góc trời
Em ở bên kia bờ vỹ tuyến
Nhìn sao thao thức mấy năm rồi
Sao đặc trời cao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em.
2-1957
Thơ Việt Nam |
29692 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B3a%20hoa%20h%E1%BB%93ng | Đóa hoa hồng | Thưa đây, một đoá hoa hồng
Và đây một án hương lòng hoang vu
Đầu bù trở lại kinh đô
Tơ vương chín mối sầu cho một lòng
Tình tôi như đóa hoa hồng
Ở mương oan trái, trong lòng tịch liêu
Kinh đô cát bụi bay nhiều
Tìm đâu thấy một người yêu hoa hồng?
1942
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29693 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4i%20khuy%C3%AAn%20b%E1%BA%A1c | Đôi khuyên bạc | Làng bên vào đám, tối nay chèo
Nàng thấy bà đi, tất tưởi theo,
Tằm tơ kéo được đôi khuyên bạc
Giấu diếm nay nàng mới dám đeo.
Nàng đẹp mà nàng lại có duyên
Trai thôn thầm liếc, liếc thầm khen.
Thấy họ nhìn mình, nàng hóa thẹn
Níu bà về để... tháo đôi khuyên.
Thơ Việt Nam |
29694 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4i%20m%E1%BA%AFt%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29 | Đôi mắt (Nguyễn Bính) | Vò nhàu chéo áo làm vui
Ướt đôi mắt đẹp nhìn tôi nặng tình
Sông đầy lạnh bến dừa xanh
Kể từ ngày cưới xa anh lần đầu
Chiều quê lùi lại sau tàu
Mắt em sáng mãi chòm sao trên trời
Đưa chồng vượt biển ra khơi
Đêm đêm con mắt vì tôi thức ròng...
Miền Nam em đứng trông chồng
Đầu sông ngọn sóng một lòng đinh ninh
Có trong đôi mắt em xinh
Ánh hồ Gươm biếc in hình ảnh tôi
Xóm thưa bằn bặt tiếng cười
Lúa non đổ bãi, trái tươi rụng vườn
Mắt em sực tỉnh lửa hờn
Trái ngon lại chín, lúa thơm lại vàng
Nghiêng đầu hôn tóc con ngoan
Mắt em giếng ngọt mơ màng trăng thanh
Con nhìn mắt mẹ long lanh
Đẹp lời sông núi thắm tình cha con
Mây bay tóc phố đầu thôn
Anh thương đôi mắt vẫn tròn ánh sao
Mây thu thăm thẳm từng cao
Mắt em rót sáng thêm vào mắt anh
Đường về dựng suối treo ghềnh
Chân ta vững bước, mắt mình rối trông
Chiều quê lại ngát hương đồng
Đêp sao đôi mắt tiễn chồng hôm xưa...
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29697 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20Th%C3%A1p%20M%C6%B0%E1%BB%9Di | Đồng Tháp Mười | Bảy trăm nghìn mẫu đất
Sớt chia bốn tỉnh miền Nam
Khăng khít biên thuỳ Chùa Tháp
Nằm trong tay trái Cửu Long Giang
Đồng Tháp Mười
Đồng Tháp Mười
Bao la bát ngát
Bưng sậy lên hoang
Mùa nắng đất khô cỏ cháy
Mùa mưa nước ngập lan tràn
Cò trắng nghìn năm bay chẳng dứt
Chân trời bốn mặt rộng thênh thang.
Bưng sình hỗn loạn
Kênh rạch ngổn ngang
Theo bờ kênh dân chúng lập thành làng
Sức mạnh muôn người góp lại
Khẩn đất khai hoang
Đào đìa nuôi cá
Lên liếp trồng tràm
Cố nông cùng sức ra làm
Nhớ câu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu
Muỗi mòng đỉa vắt
Nước đọng bùn lầy
Người dân quyết sống
Quản gì đắng cay
Nao nao mạch máu dòng kênh chảy
Loang loáng mồ hôi luống đất cày
Tuần mưa cữ nắng đổi thay
Vườn đơm trái ngọt, ruộng đầy lúa thơm
Đồng Tháp Mười
Một mảnh giang sơn
Hình thôn dáng xóm thương thương
Hoa ô môi nở bốn phương anh đào.
Kể từ khi
Đặt chân lên đất nước này
Giặc Pháp giở trò xâm lược
Ngậm hờn vong quốc
Tháp Mười chung oán hận với non sông
Bông súng ngoài đồng
Bầm gan tím mặt
Nước phèn chua chát
Lắng nỗi đau thương
Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Dương
Bóng cờ khởi nghĩa mờ trong gió sương
Dưới tay giặc trăm đường nhục nhã
Hai tay làm, làm chả có ăn
Sưu cao thuế nặng trăm phần
Bưng tai bịt mắt xiềng chân gục đầu
Trai tráng đi xâu
Trẻ không được học
Đói nghèo nheo nhóc
Khắp cả non sông thành địa ngục
Há riêng Đồng Tháp mà thôi!
Tiếng cuốc canh trường kêu khắc khoải
Đồng hoang vời vợi bóng trăng soi...
Gươm báu chôn vùi
Đợi giờ quật khởi
Tám mươi năm đen tối
Chao ôi! Thèm khát mặt trời
Đến một buổi
Lửa uất hận bùng sôi cùng máu đổ
Mầm đấu tranh vút mọc với sao vàng
Khắp xóm cùng làng
Reo hò chuyển đất
Say sưa ngây ngất
Cùng với giang sơn
Mừng ngày độc lập
Đồng Tháp Mười
Đồng Tháp Mười
Cờ đỏ sao vàng
Tung bay đầy trời
Lúa vàng reo vui
Chim ca không ngớt lời
Địa ngục phá toang
Xiềng xích chặt rồi
Giữa mùa thu, xuân đất nước khoe tươi
Sáng ra Đồng Tháp mặt trời lại lên
Dân ta giành được chính quyền
Gieo mùa hạnh phúc xây nền tự do
Gây dựng lại cơ đồ Đồng Tháp
Người dân cày mở mặt từ đây
Tiếng hò xa vướng chân mây
Bông gòn trắng xóa trải đầy lối đi
Sóng xanh biển lúa xanh rì
Gió lên từng dãy buồm về phiêu phiêu...
Mỹ An, Thiên Hộ, Cái Bèo
Rau tươi, trái chín, chợ chiều họp đông.
Đồng Tháp Mười, 1949
Thơ Việt Nam |
29698 | https://vi.wikisource.org/wiki/G%C3%A1i%20xu%C3%A2n | Gái xuân | Em như cô gái hãy còn xuân,
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần,
Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở.
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân.
Lòng xuân lơ đãng, má xuân hồng.
Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng,
Đôi tám xuân đi trên mái tóc.
Đêm xuân cô ngủ có buồn không?
Thơ Việt Nam |
29699 | https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BA%B7p%20nhau | Gặp nhau | Bữa nay trở rét rồi đây
Tôi còn ở lại trên này với anh
Bốn bề rừng rậm non xanh
Bơ vơ hai cái chung tình gặp nhau.
Chúng mình còn có gì đâu
Sống trong đau khổ đi vào sầu thương
Ruột tằm đứt cả tơ vương
Ái ân sang đến nửa đường lại thôi
Rượu còn rót nữa anh ơi!
Uống cho say nữa say rồi thương nhau.
Mưa chừng mưa suốt canh thâu
Đêm nay mình khóc phải đâu xa nhà.
(Trời xanh còn khóc nữa là!)
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29700 | https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BB%ADi%20c%E1%BB%91%20nh%C3%A2n | Gửi cố nhân | Mưa dầm gió bấc cố nhân ơi!
Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi
Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa
Vớt giùm trong nước lấy hồn tôi.
Thơ Việt Nam |
29701 | https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BB%ADi%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20v%E1%BB%A3%20mi%E1%BB%81n%20Nam | Gửi người vợ miền Nam | Thư một bức nghìn lời tâm huyết
Đêm canh dài thức viết cho em.
Bồi hồi máu ứ trong tim
Chảy theo ngòi bút hiện lên thư này.
Thư mọc cánh thư bay khắp ngả
Rộn muôn lòng, hoa lá xôn xao
Thư đi núi thẳm đèo cao
Bay qua giới tuyến đậu vào tay em
Em bắt được hàng đêm em đọc
Cánh thư vàng em thuộc từng câu
Ru con thềm vắng canh thâu
Nghe trong tiếng hát tình nhau thơm lành
Nhớ lại buổi chúng mình gặp gỡ
Xanh bóng dừa bỡ ngỡ nhìn nhau.
Cắn môi chẳng nói lên câu
Ai hồng đôi má nghiêng đầu làm thinh.
Đường công tác thuyền anh ghé bến
Anh ngập ngừng em thẹn quay đi
Mẹ cười mẹ chẳng nói chi
Đã người kháng chiến mẹ thì cho không
Khỏi mai mối, cũng không lễ lạt
Đám cưới mình tiếng hát vang sông
Trầu xanh têm với vôi hồng
Đêm trăng xuân ấy vợ chồng sánh đôi...
Gia đình em mười người giặc giết
Tám năm ròng nối tiếp khăn tang.
Thương anh mẹ nghĩ thêm rằng:
Thù nhà nợ nước đôi đằng vẹn đôi...
Đời chiến đấu thêm tươi thêm đẹp
Thêm mặn nồng thắm thiết thơ anh.
Lứa đôi tuổi trẻ đầu xanh
Trọn tình yêu nước, vẹn tình yêu nhau
Trăng hè giãi sáng màu áo cưới
Gió hương bay hoa bưởi thơm lừng
Ghé tai em báo tin mừng:
"Nói riêng anh biết, anh đừng khoe ai!"
Trải chín tháng mười ngày mong mỏi
Sớm đầu xuân ấy buổi khai hoa
Hương Mai tên xóm quê nhà
Vợ chồng liền đặt con là Hương Mai
Anh nghỉ phép đôi ngày đốn củi
Em chong đèn đốt muỗi cho con.
Chuyền tay chồng nựng vợ hôn
Tổ êm biếc bóng cây vườn đung đưa...
Buổi trứng nước con chưa rụng rốn
Máy bay quần vẫn loạn tiếng bom
Em thì tuần cữ còn non
Một ngày bốn lượt ôm con xuống hầm
Lửa giặc cháy đỏ bầm thân cột
Xe giặc càn tím ruột đồng xanh
Con thơ giấc ngủ không lành
Mếu thầm từng chập, giật mình từng cơn.
Mẹ tất tưởi giục con giục rể
Thôi cửa nhà mẹ kể như không
Đương đêm mẹ tắt đường đồng
Tay ôm thóc giống tay bồng cháu thơ
Ngợp bóng lá rừng thưa lay động
Cháy ruột chờ tiếng súng quê ta
Hai hôm mẹ đã nhớ nhà
Nghĩ thương con lợn con gà đói ăn.
Mũi chông nhọn giăng giăng nửa bước
Lưỡi dao dài chém, gọt đầu Tây
Thâu đêm đuốc sáng đường cày
Dân làng đào huyệt vùi thây quân thù.
Vách lá mới tươi cờ Tổ quốc
Xuồng hành quân mát nước sông xa
Mẹ ngồi thức mấy canh gà
Gói thêm bánh tét gửi ra chiến trường
Anh tập kích hạ đồn Ngã Bảy
Em vần công phát rẫy Kinh Ba
Hương Mai quấn quýt bên bà
Mẹ cưng cháu nhỏ tuổi già thêm vui...
Lửa Điện Biên đỏ trời phương Bắc
Gió hoà bình thổi mát xóm thôn
Em vâng tiếng gọi nước non
Đưa anh theo bóng cờ son lên đường.
Em trở giấc trăng nghiêng nửa gối
Mẹ chống rèm, sương gội vườn cam
Ngước trông một mảnh trời Nam
Ngôi sao Bắc Đẩu ngày càng tỏ thêm.
Mẹ chân cứng đá mềm chờ đợi
Em khăng khăng đứng mũi chịu sào
Chín năm xương trắng máu đào
Lẽ đâu lại chịu công lao dã tràng.
Bọn buôn máu cam làm nô lệ
Rước thằng đao phủ Mỹ vào nhà
Miền Nam yêu quý đôi ta
Vườn cam ruộng lúa thành ra pháp trường
Chợ Mỹ Lược khăn tang trắng xoá
Đập Vĩnh Trinh cánh quạ đen ngòm
Khe A Chê máu đỏ lòm
Lệ rơi xuống bến Thu Bồn chứa chan
Em chẳng được đi bàn đi họp
Con hết mong nhảy nhót nô cười
Mẹ già ôm cháu nghẹn lời
Bóng đen quỷ sứ che trời âm u
Người đang gặt bỗng tù bỗng tội
Ng đang ăn chết vội chết vàng
Ng vừa đưa bạn sang ngang
Mái chèo chưa ráo hồn oan đã lìa
Người mẹ trẻ gần kỳ sinh nở
Đêm ngồi may áo lụa cho con
Sáng ngày chết gục đầu thôn
Cái thai trong bụng nghe còn đạp đây
Em mười bảy cổ tay trắng nõn
Lựa chỉ thêu thầm chọn người thương
Loã lồ phơi xác bên đường
Tay em còn nắm chặt vuông khăn hồng
Lớp mới giảng nó giằng xé vở
Chùa mới xây nó gỡ đem đi
Nó tung thuốc độc bùa mê
Cấm ngăn thương nhớ cắt chia ruột rà
Anh đã thấy mẹ già mạnh bước
Gậy vững tay trong cuộc tuần hành
Thấy em trong đám biểu tình
Má đào ửng đỏ mắt xanh sáng ngời
Muôn tiếng thét cùng đòi thống nhất
Muôn lời hô phải lập hiệp thương
Đôi bờ một dải Hiền Lương
Phải cho chung bến liền đường Bắc Nam
Cho Sa Đéc thơm cam Bố Hạ
Cho Hải Phòng đẹp lụa Tân Châu
Núi sông sát cánh kề đầu
Ruộng đồng bát ngát một màu lúa xanh
Anh đã thấy con mình thơ bé
Quấn cờ son bảo vệ lấy cờ
Đồng bào từ chuyện tóc tơ
Phanh phui kế hiểm ngăn ngừa mưu sâu
Mấy gian khổ chẳng nao dạ sắt
Bao tù đày chẳng tắt niềm tin
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Cau nở bẹ dừa tơ lớn đọt
Xoài thơm hương cam ngọt trĩu cành
Cây vườn ngày một thêm xanh
Trái ngon thêm ngọt chờ anh trở về
Dạ canh cánh tình kia nghĩa nọ
Mắt đăm đăm ngoài đó trong này
Lòng ta biển rộng sông dài
Tát hoài chẳng cạn chảy hoài chẳng ngưng
Muối đã mặn ba năm còn mặn
Gừng đã cay chín tháng còn cay
Lời thề năm ấy còn đây
Còn ta ta phải còn ngày đoàn viên
Giấc mộng đẹp qua nghìn vạn dặm
Gối chăn này vẫn ấm hơi em
Đầu cành ríu rít tiếng chim
Giật mình trông hút bóng em xa dần
Trải ngày tháng trăng xuân gió hạ
Giấc chiêm bao nhắc nhở anh hoài
Mây đen còn nửa phương trời
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi riêng anh
Tin trong ấy đấu tranh thắng lợi
Nghe mà mừng như cởi ruột gan
Một lòng bắc cũng như nam
Có em trong ấy anh càng vững tâm
Ta những tưởng hai năm đoàn tụ
Mà vì đâu để lỡ hẹn hò
Vì ai tháng đợi năm chờ
Hồng thưa nhạn vắng đôi bờ cách ngăn
Ai chia rẽ kẻ Nam người Bắc?
Mảnh trăng tròn ai cắt làm đôi?
Ai làm máu đổ, lệ rơi?
Ai đang rấp ngõ, ai xui phá cầu?
Vui đất Bắc còi tàu, xưởng máy
Loạn miền Nam lửa cháy rui nhà
Ngoài này đẹp lúa tươi hoa
Thương em trong ấy khổ ba bốn tầng
Đoàn trẻ nhỏ bước chân lẫm chẫm
Mặt hồ Gươm lấm tấm hoa ngâu.
Quản chi sóng cả sông sâu
Tay ta lại bắc nhịp cầu ta qua.
Cầu nối nhịp duyên ta tròn vẹn
Dòng Hiền Lương mát bến xuôi đò
Con sông vẫn đẹp đôi bờ
Tấm lòng có một cơ đồ không hai.
Thư em viết mấy lời thắm thiết
Ấm lòng anh chi xiết mấy mươi
"Giữa mùa lúa chín hoa tươi
Anh tin tưởng thế, em người vợ anh".
Nghĩ đến buổi nước mình thống nhất
Lệ tuôn trào khoé mắt rưng rưng
Dạt dào trăm nhớ ngàn thương
Anh về hoa nở con đường thênh thênh
Anh sẽ đón gia đình ra Bắc
Vợ chồng mình dạo khắp thủ đô
Con ta được gặp Bác Hồ
Mẹ ta được vãn cảnh chùa Ngọc Sơn.
Xe lửa ghe nông trường Phú Thọ
Tàu thuỷ thăm vùng mỏ Quảng Yên
Tám thơm cũng thể nàng tiên
Sen Hồ Tây ngát như sen Tháp Mười
Vui sum họp mẹ tươi trẻ lại
Mừng đoàn viên em mãi đẹp ra
Rõ ràng giáp mặt đôi ta
Đắng cay trải đấy, mặn mà xiết bao.
Cùng ôn lại năm tao bảy tuyết
Càng xa nhau càng biết lòng nhau
Mấy thu nắng lửa mưa dầu
Tâm tình vẫn thắm mái đầu vẫn xanh
Cùng trở lại quê mình vườn cũ
Dấu đạn thù còn trổ thân cây
Nhà ta ta lại sum vầy
Lại gieo mạ nếp, lại gây giống dừa
Con mỗi buổi học về múa hát
Đêm trăng vàng ngan ngát hương cau
Mẹ già ngừng giã cối trầu
Mỉm cười nhẩm tính tháng nào em sinh?
Vườn xanh tốt đâm cành nảy lộc
Hoa đầy vườn chim chóc đến bay.
Em mà nằm cữ chuyến này
Khỏi lo con chạy máy bay giặc ruồng
Con bé bỏng thơm ngon giấc ngủ
Hé môi non cười nụ hồng hồng
May hơn chị nó đầu lòng
Nó sinh gặp lúc non sông yên lành
Đời thêm đẹp mối tình thêm thắm
Nắng nông trường đỏ sẫm da cam
Tháng giêng lúa trĩu bông vàng
Em trên máy giặt khăn rằn gió bay.
Chiều chủ nhật xanh mây biếc gió
Tay nắm tay đi giữa Sài Gòn
Lo màu chọn kiểu áo con
Sách in nét chữ tươi giòn thơ anh.
Ngày kỷ niệm hoà bình hạnh phúc
Anh thả bè thuỷ lục tươi hoa
Làng trên xóm dưới vui ca
Mặt sông pháo nổ, mái nhà sao bay.
Mẹ đi hội vui bầy cháu nhỏ
Em bên anh má đỏ bóng cờ
Tưng bừng tiếng trúc tiếng tơ
Đầu thôn trăng mọc tròn như mâm vàng...
Hà Nội, 7-1956
Thơ Việt Nam
Song thất lục bát |
29702 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A1i%20m%E1%BB%93ng%20t%C6%A1i | Hái mồng tơi | Hoa lá quanh người lác đác rơi
Cuối vườn đeo giỏ hái mồng tơi
Mồng tơi ứa đỏ đôi tay nõn
Cô bé nhìn tay nhí nhảnh cười
Cách vườn tiếng gọi khẽ đưa sang
Rẽ lá cô em trốn vội vàng
Quên giỏ mồng tơi bên dậu vắng
Tôi đem nhặt lấy gởi đưa nàng
Năm tháng ta vui chốn ngựa hồng
Cảnh xưa gò ngựa một chiều đông
Cây khô dậu đổ mồng tơi héo
Cô bé nhà bên đã có chồng.
Thơ Việt Nam |
29703 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A0nh%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20Nam | Hành phương Nam | Gửi Văn Viễn
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may
Người giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trí thân vào nợ nước mây
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây
Nợ chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc, xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay
Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi hãy hay
Ngày mai
Cốt nhất
Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai nhận thây
Kinh Kha sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, biếu tay?
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
cỏ gươm ta đi đây
Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
ơi! ơi! Hề ơi!
ơi! ơi! Hề ơi!
sang bên ấy sao mà lạnh,
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi...
Đa Kao 1943
Thơ Việt Nam |
29704 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BA%BFt%20b%C6%B0%E1%BB%9Bm%20v%C3%A0ng | Hết bướm vàng | Anh trồng cả thảy hai vườn cải
Tháng chạp, hoa non nở cánh vàng.
Lũ bướm láng giềng đang khát nhuỵ
Mách cùng gió sớm rủ rê sang.
Qua dậu tầm xuân, thấy bướm nhiều
Bướm vàng vàng quá, bướm yêu yêu,
Em sang bắt bướm vườn anh mãi
Quên cả làng Ngang động trống chèo.
Cách có một hôm em chẳng sang
Hôm nay rã đám ở làng Ngang
Hôm nay vườn cải, hoa tàn hết
Em hỡi từ nay hết bướm vàng!
Năm sau vườn cải nở hoa vàng
Bướm lại sang mà em chẳng sang
Thui thủi một mình anh bắt bướm
Trống trèo thưa thớt đám làng Ngang.
Em đã sang ngang với một người
Anh còn trồng cải nữa hay thôi?
Đêm qua mơ thấy hai con bướm
Khép cánh tình chung ở giữa trời.
Thơ Việt Nam |
29705 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BA%BFt%20th%C3%A1ng%20ba | Hết tháng ba | Kể mùa đã hết mùa xuân
Kể năm đã hết một phần tư năm
Kể ngày, ngày đã gần trăm
Kể rằm, rằm đã ba rằm trăng trong
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29707 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%C3%B4ng%20ng%E1%BB%A7 | Không ngủ | Có trăng bóng lạnh vườn đào
Có giàn nhạc ngựa lơi vào trong đêm.
Và trong lòng với con tim
Có lời em, có bóng em rõ ràng.
Thuyền trăng, ai thả sang đoài
Đêm khuya mở nhẹ then cài cửa ra.
Trăng vào, bóng nữa là ba,
Với em ở trái tim ta là nhiều ...
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29708 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BA%A1i%20%C4%91i | Lại đi | Mẹ tôi tóc bạc da mồi
Thắt lưng buộc bụng một đời nuôi con
Chị tôi phấn úa hương mòn
Đò ngang sông cái chẳng tròn chuyến sang
Cha tôi ngàn dặm quan san
Có đâu như chuyện chia vàng giữa sông?
Người yêu má đỏ môi hồng
Tóc xanh, mắt biếc mà lòng bạc đen
Về đây sống để mà quên
Chiều chiều ngắm bóng chị hiền quay tơ
Chị tôi im lặng đợi chờ
Tôi im lặng đến bao giờ đợi ai?
Chị tôi đã dở dang rồi
Lẽ đâu tôi chịu một đời dở dang!
Cha tôi dạ sắt gan vàng
Lẽ đâu tôi chịu quy hàng phấn son
Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn
Ngày mai con lại lên đường ra đi.
Tặng Hà Khang
Thanh Hoá 1942
Thơ Việt Nam
Lục bát |
29709 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%C3%A0ng%20t%C3%B4i | Làng tôi | (trích trường ca "Làng tôi")
Làng tôi cũng có sông cùng núi
Núi nhỏ, con sông chảy lặng lờ
Lụt năm Tỵ dân xiêu đi quá nửa
Làng đã nghèo, càng nghèo xác nghèo xơ
Nhà cửa dỡ bán củi ăn từng bữa
Rau má bờ đê đẽo nhẵn lì
Ba sào ruộng đồi cơm thiu một nắm
Ăn hết vèo, mai biết sống bằng chi
Nền nhà trống, ếch kêu chân lỗ cột
Vườn hoang tàn, bạc phếch ánh trăng soi
Người lũ lượt kéo nhau đi hành khất
Cha dìu con... gục xuống, mòn hơi rồi
Anh em nhà lý trưởng Cời
Thừa lúc làng xiêu dân đói
Ruộng đất phình ra, văn tự nứt hòm gian
Dinh cơ lớn mọc thêm nhiều mái ngói...
Tôi mười một mười hai còn đóng khố
Phải ẵm em cho mẹ, mẹ làm thuê
Chiều hôm bụng đói, em thì quấy
Ngóng mẹ đường thôn túm gạo về
Trời nhập nhoạng, bếp um lửa khói
Đèn khô phao, nền đất dọn ăn thầm
Nhai nhếu nháo, sờ mồm em, mẹ mớm
Lưng vực xong, mẹ giũ chiếu đi nằm
Có thím Hợi mù loà cạnh vách
(Trận lụt làm chết sạch cả chồng con)
Cứ tối tối thím kể Bần nữ thán
Tỉ tê giọng oán câu hờn...
Thím ngày tháng hát xẩm rong độ nhật
Chỉ lo phiền chết chẳng áo quan chôn
Bến đò vắng, phiên chợ làng cũng vắng
Vắng tiếng tiền chinh gieo rạn đáy thau mòn...
Giọng thím hát mỏi mòn, ẩm ướt
Trộn đầy nước mắt, mưa thu
Nghe mẹ thở dài, biết mẹ còn trằn trọc
Chắc mẹ thương thân, lại nhớ sự tình xưa
Mẹ tôi
Con gái làng Mai
Ai cũng phải khen rằng đẹp
Giọng hát hay nghe cứ rót vào tai
Tài cấy gặt đố người nào đuổi kịp
Mười tám tuổi gả về xóm Núi
Phá đất sườn non, vợ cuốc chồng cày
Bốn bận sinh, còn lại một trai một gái
Lý trưởng bắt chồng đăng lính sang Tây
"Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền..."
Vợ chồng đôi ngả
Con sông chảy mãi về đâu?
Bóng núi đè thâm mái rạ...
Một hôm có giấy quan về
(Ngỡ thế nào kia
Ngờ đâu ra thế!)
Lý Cời qua ngõ tạt vào
Rượu vẫn còn say bí tỉ
Tờ giấy mở ra
Trắng lốp một màu tang chế
"Này chị ấy ơi
Giấy trên vừa mới chạy về
Chồng chị chết rồi, bên nước mẹ
Chính phủ Lang Sa
Đền công chồng chị
Đây tấm bằng suất đội kèm theo
Chữ kí quan Tây
Triện đồng đỏ choé
Chị giữ lấy mà trao
Một bước nên bà
Sướng nhé!"
Hắn vê ria mép cười tình
Nhay nháy mắt lươn ti hí
"Này! Lo lợn gạo mà khao
Bà đội nhà tôi ơi! Lệ làng phải thế
Có cần tiêu, tôi ứng tiền cho
Muốn trả, muốn không, tuỳ bụng chị.
Cứ ừ một tiếng là xong
Bà cả nó vốn hiền lành, tử tế...
Người thế kia mà lận đận chồng con
Nghĩ thương đáo để!"
Hắn về rồi, hơi rượu vẫn còn hăng
Trời đất tối rầm, đầu gối run lên muốn quỵ
Nước mắt dài hơn người
Lòng rối như canh hẹ
Con thơ níu áo hỏi dồn:
"Ông lý cho gì hở mẹ?"
Thế là
Áo trái đường khâu
Chèn thêm chốt cửa
Bỏ ngoài tai câu ý câu tình
Sụp vành nón, hội hè chẳng ngó
Giọng hát véo von
Mẹ dành để ru con ngủ
"Ạ ời ơi
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về..."
Ăn đói làm thuê
Cơm niêu nước lọ
Mẹ ở vậy nuôi con
Tháng năm vò võ...
Tôi có thằng bạn nhỏ
Bằng tuổi nhau, nghèo khổ cũng ngang nhay
Bố nó bỏ làng bán mình cho Sở mộ
Giữa bể Đông, bão lớn, chìm tàu...
Tên nó là Đinh, mặt mày rắn cấc
Có tài bắn súng cao su
Trăm phát chẳng sai một phát
Chạng ổi giơ cao, viên đạn đất bay vù...
Nó mấy năm ròng lẽo đẽo
Ở chăn trâu cho nhà lý trưởng Cời
No đòn vọt mà đói cơm đói cháo
Vết lằn roi không kịp lặn trên người
Rỏ máu mắt ngủ bên ổ chó
Ngậm bồ hòn than thở cùng trâu
Vợ lý trưởng bắc ghế ngồi chửi rủa
Đào cha ông mồ mả đổ lên đầu
Đinh thả trâu quanh sườn núi bờ sông
Bắn chim chóc giấu đem về cho mẹ
Rau má độn cơm, bà chẳng bữa nào no
Người phù thũng, da vàng như xát nghệ
Bỗng một hôm Đinh chạy đến tìm tôi
Mặt tím lại, mắt đỏ hoe muốn khóc
Giơ lưng, lật áo cho xem
Máu chảy thành dòng
Lằn roi vọt quất ngang quất dọc:
"Mày ở nhà thôi, khổ quá, tao đi
Xó chợ, đầu đường, ra Đông, ra Bắc
Cũng cứ liệu thôi!
Ở với nó có ngày chết mất!"
Nói rồi nó bỏ đi luôn
Tôi đứng nhìn theo quệt ngang nước mắt
Nhưng ngay chiều ấy
Đinh lại quay về
Nó đứng đầu hè
Khẽ máy tôi ra, thủ thỉ
"Mày ơi, nghĩ lại không đành
Đi thì yên một thân tao
Mẹ ốm, lấy ai nuôi mẹ?
Cái kiếp thằng tao
Sao mà khổ thế!
Tí nữa đây tao ló mặt về
Cầm chắc ăn đòn bội nhị"
Nó lắc đầu, ra vẻ muốn quên đi
Những trận đòn đau sắp tới:
"Thôi lại sáng mai
Bến đò nhé, cõng em theo, tớ đợi
Bờ sông lúc nãy tớ đi qua
Sáo sậu về vô khối
Ngày mai bắt sống một con chơi
Lột lưỡi dạy cho nó nói..."
Tết đến, xuân về
Phây phây mưa bụi
Xanh non lá lộc nhú cành khô
Tím nhạt hoa xoan rơi ngõ lội
Xuân vui nhà ngói nhà lim
Xuân chẳng vui gì nhà tre xóm Núi
Nhà lý trưởng Cời
Pháo đốt điếc tai từ sáng tinh mơ tới tối
Nhà tôi tết đến cũng như không
Ba nén hương đen
Thơm chẳng có thơm nhưng cũng khói
Xong tết bên sông làng mở hội
Một hàng cờ cắm đỏ đuôi nheo
Mặt sông chẳng ngớt đò qua lại
Vách núi ầm vang tiếng trống chèo
Ba gian đình cổ người đông nghịt
Trống cái, dùi găng, lý trưởng dẻo tay chầu
Tôi rủ Đinh chen vào góc cột
Chèo Thạch Sanh đang dọn lớp giáo đầu
...
Hồi trống giãn trò vừa dứt
Cũng vừa gà gáy sang canh
Sương trắng mù sông, gió tháng giêng vẫn lạnh
Hai trẻ nhà nghèo manh áo vá phong phanh
Đò trở ngang sông
Đinh ghé tai tôi nói nhỏ:
"Lúc nãy tao trông lão lý trưởng Cời
Sao giống hết Lý Thông, mày ạ!
Cũng ria mép đen thui,
Cũng mắt lươn trắng dã
Từ rày đừng gọi Lý Cời
Cứ gọi Lý Thông, nhớ nhá!"
Sau đêm chèo lòng tôi tơ tưởng mãi
Tôi thường bàn tán với Đinh
Thương họ Thạch hàn vi côi cút
Ôi, cảnh chàng ta sao giống cảnh tụi mình
Đêm rặt nằm mơ tiên cho phép lạ
Thấy gốc đa nào cũng ngỡ có Thạch Sanh...
Đinh vội cướp lời, kể lể
"Tao cũng thế, cũng nằm mơ thấy thế
Tao đương cắt cỏ bờ sông
Tiên hiện lên, dạy nhiều phép thần thông
Tao tức tốc chạy về nhà lý trưởng
Thằng Lý Cời – thằng Lý Thông luống cuống
Vội vàng nó hoá Trăn Tinh
Phun lửa đốt tao, lửa bốc tày đình
Tao không sợ, tao liền hoá phép
Chăng lưới thép, giơ búa thần lẫm liệt
Chém đứt đầu trăn máu chảy ròng ròng..."
Hai đứa nhìn nhay thích chí
Tưởng đâu đời sắp sướng rồi
Như họ Thạch hết hồi bĩ cực
Được gảy đàn thần, cưới vợ, lên ngội...
Nhưng rồi, hai đứa chúng tôi
Sự thật ngày thêm cơ cực quá
Chẳng một lần được tiên cho phép lạ
Những giấc mơ theo ngày tháng tàn phai
Xóm Núi, làng Mai
Nghèo đói càng thêm nghèo đói
Thím Hợi hát rong không sống nổi
Chậu thau mòn bán rẻ tự hồi xưa
Bị gậy xin ăn, cơm cặn canh thừa
Đêm mưa tối vẫn kể Bần nữ thán
Mẹ tôi da dẻ ngày đen sậm
Kỳ giở giời lưng nhức chân tê
Những hôm mưa gió dầm dề
Ba mẹ con chỉ ngày lưng bát cháo
Nghèo rớt mồng tơi
Không mua nổi chỉ kim vá áo
Những chỗ rách to đành buộc túm bằng rơm
Thằng bạn Đinh mấy bận ngỡ đi luôn
Mấy bận lại quay về chịu đánh
Lưng cháy nắng lại roi lằn máu quánh
Súng cao su không bắn chết được chằn tinh
Xám ngắt ao tù
Ngày tháng quẩn quanh
Cùng đường nghẽn lối
Lý trưởng Cời cây thóc cao ngang núi
Xây nhà tây chót vót hai tầng
Cửa sổ há ra như mồm những con trăn
Muốn nuốt chửng cả làng Mai xóm Núi
Trong nhà nó cứ vui như mở hội
Tiệc tùng luôn, xóc đĩa, tổ tôm tràn
Dựng cổng chào, hương án, đón xe quan
Bật rạp lớn, thui bò non, hạ thọ
Tây với Nhật ra vào lố nhố
Bắt phu, cướp thóc
Nghênh ngang súng ngắn gươm dài
Khắp cả vùng ngậm đắng nuốt cay
Trời nghiêng đất lệch
Mẹ Đinh chết, gói lạt tre chiếu rách
Xé giát giường làm bó đuốc, đưa đêm
Trước lúc xuôi tay bà chỉ ước ao thèm
Một bát canh cần cá quả
Tiền chẳng một chinh, Đinh đã hết đường xoay xoả
Nhà lý Cời cá béo sống đầy chum
Đinh đánh liều lấy trộm một con
Về nấu bát canh cho mẹ
Trời xiêu bóng xế...
Đinh múc canh bưng đến cạnh giường
Nhưng mẹ Đinh tay đã bắt chuồn chuồn
Không ăn được nữa
Đinh trợn mắt, rụng rời nghẹn thở
Bát canh rơi vỡ tan tành...
Tối hôm sau tôi đến tìm Đinh
Cuối xóm đường đi lút cỏ
Rờn rợn mùi hương
Lều tối loé lên ba chấm đỏ
Đinh đang quỳ khấn nỉ non
"Mẹ có khôn thiêng phù hộ cho con..."
Biết tôi đến, Đinh đứng lên, bí mật:
"Tao đi thật, chuyến này đi thật
Tao định rủ mày, hai đứa với nhau..."
Tôi hỏi: "Đi đâu?"
Nó rằng: "Không phải hỏi
Đâu cũng được, Sơn Tây, Hà Nội
Thân lập lấy thân
Hai bàn tay làm lấy mà ăn
Không để đói, không để ai đánh chửi"
Dằng dặc trời sao chấp chới
Gió may sương muối rét tê người
Hai đứa vòng qua ngõ lý Cời
Dừng lại ngó toà nhà tây cao ngất
Cửa kính xanh lè, tường vôi trắng toát
Đừng lù lù như con Mãng Xà Vương
Tu luyện lâu năm, chắn lối ngăn đường
Đinh chửi một câu, rút súng cao su lắp đạn
Giơ chạng ổi kéo căng dây, nó bắn
Nghe một tiếng choang
Một khung kính cửa vỡ tan
Đàn chó sủa ầm hốt hoảng
Hai đứa vội vàng ba chân bốn cẳng...
Trời rét
Đêm khuya
Đò vắng
Cởi áo quần hai đứa lội qua sông
Tưởng mình như hai gã tiểu đồng
Lặn lội tìm Tiên xin phép lạ
Nghĩ tới mẹ cùng em, bỗng dưng tôi nhớ quá!
Qua sông. Trời sắp sáng rồi
Ngoảnh trông xóm Núi bồi hồi
Chắc mẹ đêm qua lại khóc
Xóm Núi sương giăng
Mặt trời chưa mọc
Đó đây nghe đã rộn canh gà
Bỏ làng đi năm bốn mươi ba
Hai đứa mới mười sáu tuổi...
Nam Định 1961
Thơ Việt Nam |