Dataset Viewer
Auto-converted to Parquet
text
stringlengths
814
13.3k
Thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X) theo Công văn số 2551-CV/TW, ngày 6-12-2004, về việc tiến hành Chương trình sưu tầm những tác phẩm, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa công bố trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ hai, sau 5 năm khẩn trương sưu tầm, xác minh, thẩm định, biên tập, tháng 11-2009, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã trình Hội đồng xuất bản bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập những tác phẩm bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới sưu tầm được. Tháng 2-2010, Hội đồng xuất bản đã tiến hành nghiệm thu Chương trình. Trên cơ sở kết quả nghiệm thu, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Quyết định số 299-QĐ/TW, ngày 6-4-2010 về việc thành lập Hội đồng xuất bản bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ ba và đồng ý giao cho Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản lần thứ ba bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, coi đây là công trình chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ nhất gồm 10 tập với khoảng 1.800 tác phẩm, bài nói, bài viết, điện, thư (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ hai gồm 12 tập với hơn 2.500 tác phẩm. Trong lần xuất bản thứ ba, bộ Hồ Chí Minh Toàn tập được bổ sung thêm gần 800 tác phẩm mới sưu tầm được từ các cơ quan lưu trữ của Đảng, Nhà nước ở Trung ương, các địa phương, các cơ quan lưu trữ ở nước ngoài và được sắp xếp thành 15 tập. Bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ ba tập hợp phần lớn những tác phẩm quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1912 đến năm 1969 đã được xác minh và thẩm định. Đây là một tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn dân ta, là sự phản ánh sinh động, sâu sắc quá trình Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước, vạch ra đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng nước ta để tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận sáng tạo của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng trong việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển. Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra thế giới. Đại hội VII của Đảng (1991) khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng nước ta, là một bước phát triển hết sức quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến chuyển trên thế giới ngày càng nhanh chóng và phức tạp, các vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, đòi hỏi phải được giải đáp, thì việc nghiên cứu, vận dụng, bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của thực tế cuộc sống trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta. Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phản ánh trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, bao gồm những vấn đề chủ yếu sau đây: Ý chí độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là điểm xuất phát của tư tưởng Hồ Chí Minh. Được nuôi dưỡng bởi những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, nhưng phải chứng kiến sự thất bại của các phong trào yêu nước bị hùng của cha ông chống thực dân Pháp xâm lược và cảnh lầm than, cực khổ của nhân dân, Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý luận và nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước đã làm giàu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng cao trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con người không chỉ là nhu cầu cấp thiết của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới, Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Với tầm nhìn thế giới, nhận rõ tính chất thời đại mới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga và xu thế phát triển của nhân loại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Tư tưởng đó thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội Việt Nam: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để tiến tới giải phóng triệt để con người, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là con đường phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách mạng nước ta, là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, là triết lý phát triển Việt Nam trong thời đại mới. Tìm ra con đường giải phóng và phát triển của dân tộc đúng quy luật, hợp lòng dân, thuận theo sự tiến hóa của nhân loại là cống hiến lý luận sáng tạo và là di sản tư tưởng có giá trị vĩnh hằng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Từ điểm trung tâm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo và thực hiện thành công các vấn đề trọng yếu của cách mạng nước ta. Đó là việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế trong xây dựng đường lối, chính sách, phương pháp cũng như trong tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng trong nước và đoàn kết quốc tế. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, đó là việc giải quyết đúng đắn, trong từng giai đoạn, thời điểm của cách mạng, mối quan hệ giữa nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến, giữa mục tiêu đánh đuổi đế quốc, thực dân xâm lược, giành độc lập dân tộc và mục tiêu thực hiện người cày có ruộng, đem lại quyền lợi cho nông dân, đội quân chủ lực của cách mạng; xác định đúng kẻ thù chính của cách mạng để cô lập chúng triệt để và mở rộng tối đa lực lượng cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi nước nhà còn bị đế quốc xâm lược, đô hộ, nếu không giành được độc lập thì lợi ích của các giai cấp lao động muôn đời cũng không thể mưu cầu được. Vì vậy, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào bọn đế quốc xâm lược và lũ tay sai bán nước; trong một thời gian dài chưa đặt ra hoặc chỉ đặt ra có mức độ nội dung về cách mạng ruộng đất. Nhưng Người không tuyệt đối hóa điều này. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến giai đoạn quyết định, nhân dân ta - mà chủ lực là nông dân - phải huy động hầu như toàn bộ sức người, sức của cho chiến thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đến lúc này không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu giảm tô, giảm tức mà phải tiến hành cải cách ruộng đất, “phải giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến, phải bồi dưỡng cho nông dân thì mới động viên đầy đủ lực lượng to lớn đó, dốc vào kháng chiến để tranh thắng lợi”. Khi cách mạng nước ta phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, chúng ta phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với thực hiện đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên cả nước. Theo đó, xây dựng miền Bắc chính là xây dựng hậu phương vững chắc để giải phóng miền Nam nhưng mọi chủ trương, chính sách thực hiện ở miền Bắc phải chiếu cố miền Nam.
Đương thời, mặc dù chưa có nhiều thời gian để suy nghĩ về cách mạng xã hội chủ nghĩa vì cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày càng ác liệt và chẳng bao lâu đã lan rộng ra cả nước, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bước đầu nêu lên những tư tưởng cơ bản với những định hướng quan trọng về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người chỉ rõ, sau khi đánh đổ đế quốc, phong kiến, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Có thể xem đây là bước phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một cách dễ hiểu những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, “một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng”, “người già yếu hoặc tàn tật sẽ được nhà nước giúp đỡ chăm nom”, “mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở trường riêng của mình”. Theo Người, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Đó cũng là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”, đó là thực hiện “nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”. Xác định mục tiêu “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, cho nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài” và chỉ rõ “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân”. Bởi vậy, phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: “cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng văn hóa và tư tưởng”. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng toàn diện, triệt để và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”, phải “Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân”... Người còn chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” và nhấn mạnh rằng, “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Nhưng theo Người, “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Vì “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”. Trong lĩnh vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải gắn bó chặt chẽ giữa nông nghiệp với công nghiệp, vì đó là hai chân của nền kinh tế và để củng cố liên minh công nông. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ: “Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”. Sớm đề ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ phải nhằm thực hiện bốn mục tiêu: công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài, “Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta”... Xuất phát từ đặc điểm của nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, cùng với việc quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc về xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ quan của mình thay thế cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng và Nhà nước”. Người thường xuyên nhắc nhở phải đề phòng cách làm rập khuôn, giáo điều; phải từ thực tế đất nước để tìm con đường đi riêng phù hợp với tình hình đặc điểm của nước ta “bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã phát huy tác dụng và được kiểm nghiệm bằng sự thành công ở Việt Nam: từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây chính là tổng hợp những quan điểm chiến lược chỉ đạo toàn bộ các vấn đề chính trị và lý luận, nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là đối với sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay và trong tương lai. Nắm chắc nội dung tư tưởng và quán triệt đúng những nguyên tắc chiến lược ấy là cơ sở phương pháp luận để hiểu được con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, để kiên trì phấn đấu, phấn đấu thắng lợi theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Có tư tưởng đúng, đường lối đúng, nhưng muốn cách mạng thành công phải có lực lượng đảm bảo sự lãnh đạo và thực hiện tư tưởng, đường lối đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tiến hành cách mạng, “Trước hết phải có Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, đặc biệt trong điều kiện Đảng đã nắm chính quyền, là một đóng góp mới vào lý luận xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Vận dụng và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng đội tiên phong của giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng”. Về bản chất giai cấp của Đảng, Người xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân và bản chất ấy được thể hiện ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ở các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, ở sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và "tả" khuynh... Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng không phải chỉ đại biểu lợi ích của đảng viên mà đại biểu lợi ích của giai cấp công nhân, toàn thể dân tộc và loài người”. Vì vậy, “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Người cũng chỉ rõ: “Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc” vì “chỉ có Đảng ta toàn tâm toàn lực phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc”. Để Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc và trở thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, chân chính, triệt để cách mạng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Do vậy, Người đòi hỏi toàn Đảng phải ra sức nâng cao trí tuệ cho ngang tầm nhiệm vụ lịch sử, đồng thời phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân. Chỉ ra rằng, Đảng ta không phải trên trời sa xuống mà từ trong xã hội sinh ra, nên mỗi đảng viên đều còn có ít nhiều vết tích về tư tưởng và tập quán của xã hội cũ, do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần phải luôn chỉnh đốn về tư tưởng và tổ chức, “phải tẩy trừ những phần tử đã hủ hóa ra khỏi Đảng và cơ quan chính quyền, để giữ gìn tính trong sạch của Đảng và của chính quyền”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Luận điểm nổi tiếng này của Người trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với đạo đức, nhân cách vô cùng cao thượng và trong sáng của Người đã quy tụ được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đấu tranh vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “hễ là người Việt Nam thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”, nên ngay sau khi thành lập Đảng, Người đã đề ra chủ trương thành lập Hội phản để đồng minh, một hình thức mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc. Về đường lối, chủ trương của Đảng thời kỳ 1936-1939, Người chỉ rõ phải xây dựng Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, không những chỉ có nhân dân lao động mà gồm cả giai cấp tư sản dân tộc và nhắc nhở phải tránh hết sức để họ ở ngoài Mặt trận. Năm 1941, ngay sau khi về đến Cao Bằng, Người đã trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức thí điểm các hội quần chúng để tiến tới thành lập Mặt trận Việt Minh. Sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng với các tên gọi Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên - Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là thắng lợi rõ rệt nhất của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Nhấn mạnh ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, đoàn kết dân tộc vừa là động lực, vừa là mục tiêu, là nhiệm vụ chiến lược, phải đoàn kết thật sự, lâu dài và “đoàn kết dân tộc không phải là thủ đoạn chính trị”. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”. Theo Người, “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” và “Muốn đoàn kết rộng rãi thì cái gốc phải vững, tức là công nông liên minh có vững chắc mới đoàn kết được các giai cấp khác”. Để có thể tập hợp “tất cả những người yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”... Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đại đoàn kết dân tộc phải dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đây là một nguyên tắc trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất. Tuy nhiên, theo Người, “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Trong công tác xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng phải luôn luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ được, đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận. Người khẳng định, chỉ có “đấu tranh trên hai mặt trận như thế, thì vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất mới được đảm bảo, nền tảng công nông của Mặt trận mới được vững chắc, tính chất rộng rãi của Mặt trận mới được phát huy đầy đủ”. Mặt khác, về phương pháp, Đảng phải tăng cường công tác vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương..., lấy thẳng thắn chân thành để đối xử, lấy tin yêu giúp đỡ để cảm hoá; trân trọng phát huy nhân tố tích cực; hạn chế, đẩy lùi nhân tố tiêu cực, giúp cho mọi tổ chức và cá nhân đều tiến bộ và trưởng thành, đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp cách mạng. Không chỉ chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm tới việc thiết lập và phát triển tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Người là hiện thân tiêu biểu của sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế thủy chung, trong sáng của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Theo Người: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”. Với cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cử”. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đồng thời Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Tổng kết nguyên nhân chủ yếu đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới..., nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”. Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của khối đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “chúng ta quý trọng và ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí - trong Đảng và trong nhân dân ta cũng như giữa các Đảng và giữa các nước anh em như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh mãi mãi là một sức mạnh làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Là nhà chính trị thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời là nhà quân sự kiệt xuất và ở Người luôn có sự thống nhất biện chứng giữa tư tưởng chính trị và tư tưởng quân sự. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển truyền thống quân sự oanh liệt của dân tộc Việt Nam với học thuyết quân sự Mác - Lênin và tinh hoa quân sự của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu". Bởi vậy, "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền". Với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nâng nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân ở thời đại Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới và để lại một hệ thống quan điểm về quân sự hết sức quý giá. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng". Tuy nhiên, theo Người, quân sự phải phục tùng chính trị, phải hướng vào hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Người viết: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
Nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, được tổ chức với ba thứ quân - bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; là xây dựng căn cứ địa cách mạng, khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Để chống lại những kẻ thù có sức mạnh kinh tế và quân sự lớn hơn mình nhiều lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng mối quan hệ giữa tiền tuyến và hậu phương. Dưới ánh sáng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và sự chỉ đạo của Người, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã lập nên những chiến công vang dội, được cả loài người khâm phục và ca ngợi. Là người sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội, đồng thời cũng là kiến trúc sư, người sáng lập, tổ chức xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong gần một phần tư thế kỷ, trên cương vị đứng đầu nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản to lớn về tổ chức, xây dựng nhà nước dân chủ mới ở nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin, chọn lọc, kế thừa những tinh hoa trong xây dựng nhà nước đã có trong lịch sử dân tộc và nhân loại. Vấn đề cơ bản của nhà nước là quyền lực thuộc về ai, phục vụ quyền lợi của ai. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra", "tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân". Bởi vậy, theo Người, trong hình thái tổ chức và thiết chế xã hội đó, khi “Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ... Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ: “Mỗi người công dân phải hiểu rằng mình là người chủ của nước nhà, phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ”. Khẳng định bản chất giai cấp công nhân và nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Người cho rằng, Nhà nước ta phải phát huy dân chủ, phải làm cho việc thực hành dân chủ được thể hiện và thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một nhà nước pháp quyền “mạnh mẽ và sáng suốt”. Người chỉ rõ rằng: Nhà nước đó “phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”, phải làm cho mọi người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Để đạt được mục tiêu đó, bên cạnh việc xây dựng một thiết chế của nhà nước dân chủ, một trong những mối quan tâm của Người là đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính quyền đúng với bản chất của Nhà nước ta, với những tiêu chuẩn chặt chẽ, thấm nhuần tinh thần “nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”. Đề cao pháp quyền, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò của giáo dục đạo đức và cho rằng, nhà nước pháp quyền chỉ phát huy được đầy đủ hiệu lực khi nó biết coi trọng kết hợp giáo dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước. Cùng với hệ thống các quan điểm đúng đắn về xây dựng đường lối và lực lượng cách mạng (Đảng, Mặt trận dân tộc thống nhất, lực lượng vũ trang nhân dân...), tổ chức và xây dựng chế độ xã hội mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, là hệ thống quan điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp cách mạng với nhiều cách thức, biện pháp... nhằm thực hiện thành công từng bước các mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Đó là sự kế thừa có chọn lọc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện nước ta những phương pháp tư duy và hành động của các nhà tư tưởng, chính trị, quân sự Việt Nam và thế giới trong lịch sử, là sự tổng kết từ thực tiễn các phong trào cách mạng trong nước và quốc tế. Là một hệ thống quan điểm về phương pháp được thể hiện đa dạng và phong phú ở các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng khác nhau, với tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trên cơ sở giữ vững mục tiêu là Độc lập, Thống nhất của Tổ quốc, Tự do - Hạnh phúc của nhân dân, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là sự vận dụng linh hoạt, uyển chuyển những cách thức, biện pháp khác nhau phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và đối tượng cụ thể nhằm đưa cách mạng từng bước đi đến thắng lợi cuối cùng. Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp hòa bình với sử dụng bạo lực cách mạng; kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân, giữa khởi nghĩa toàn dân với chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; lợi dụng triệt để những mâu thuẫn nội bộ của địch, phân hoá và cô lập cao độ kẻ thù, giành thắng lợi từng bước, đánh đổ từng bộ phận, cuối cùng đi đến thắng lợi hoàn toàn. Điểm đặc sắc của phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là lấy đoàn kết làm trung tâm, kết hợp chặt chẽ đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng trong cả đấu tranh cách mạng, trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc...
Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ ba cung cấp nhiều tài liệu nêu lên những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cách mạng thế giới và góp phần làm thế giới đổi thay bằng sự cổ vũ, đoàn kết các dân tộc thuộc địa cùng nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới đấu tranh loại bỏ khỏi đời sống nhân loại sự thống trị, áp bức của chế độ thực dân dưới mọi hình thức, cống hiến to lớn vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên hành tinh của chúng ta. Là nhà yêu nước vĩ đại, nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, với tầm nhìn rộng lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng con người không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà là vấn đề chung của nhân loại. Chính vì vậy, trước khi trở thành lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, Người đã là một chiến sĩ quốc tế nhiệt thành, đấu tranh không mệt mỏi và có nhiều cống hiến to lớn cho tự do của các dân tộc thuộc địa và sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới. Bằng hình ảnh chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa hai vòi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản ở thuộc địa với giai cấp vô sản ở chính quốc. Vì bóc lột thuộc địa là một trong hai nguồn sống của chủ nghĩa tư bản, cho nên muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, trước hết “phải tước hết thuộc địa của chúng”. Do đó, cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Là hiện thân của tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đoàn kết quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới” và “cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh vĩ đại nhằm chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân” của nhân dân thế giới. Vì vậy, trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, một mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng Người luôn luôn kêu gọi phải tăng cường sự đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trên ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng của tinh thần "bốn phương vô sản đều là anh em". Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối đối ngoại của Việt Nam và về quan hệ quốc tế là một trong những đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực” trên cơ sở “toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”, “bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền”. Khẳng định Việt Nam là một “bộ phận trong phe hòa bình và dân chủ thế giới”, Người xác định chính sách đối ngoại của nước ta là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, đồng thời nêu rõ "mục tiêu là xây đắp nền hoà bình thế giới" của Việt Nam. Với quan điểm xuất phát là “hoà bình thật sự không thể tách khỏi độc lập thật sự”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng một nền hòa bình chân chính trên thế giới, một trật tự thế giới mới, phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền cơ bản của tất cả các dân tộc và “công bình và lý tưởng dân chủ phải thay cho chiến tranh” trong quan hệ quốc tế. Công bằng và dân chủ trên thế giới phải được bảo đảm cho mỗi dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của mình dựa trên những giá trị văn hoá dân tộc và tôn trọng sự lựa chọn con đường phát triển của mỗi quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Các quốc gia phải được bình đẳng trong việc tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế và hoà bình thế giới phải được tất cả các dân tộc quyết định, không phụ thuộc vào một nhóm cầm quyền của một thiểu số các nước lớn. Những quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm sáng tỏ về một trật tự quốc tế mới, đồng thời nêu cao ý nghĩa chân chính của các cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hòa bình, bình đẳng, dân chủ trong quan hệ quốc tế đối với hòa bình thế giới. Là người ủng hộ các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh tôn trọng việc giải quyết mâu thuẫn giữa các nước thông qua thương lượng hoà bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Người nói: “Thế giới hoà bình có thể thực hiện nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước lớn, đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng cách thương lượng”. Ngày nay, việc giải quyết các vấn đề quan hệ quốc tế bằng hòa bình thương lượng là xu hướng tích cực trên thế giới, song điều lưu ý trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Để xây dựng một thế giới hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới việc xây dựng và duy trì niềm tin trong quan hệ quốc tế thông qua việc tăng cường sự hiểu biết và xích lại gần nhau giữa nhân dân các nước để cùng nhau hoà bình giải quyết các mâu thuẫn, xung đột. Người chỉ rõ, “với một sự tin cẩn lẫn nhau, những dân tộc tự do và bình đẳng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất”. Hiểu biết và tin cậy giữa các dân tộc không chỉ giúp ngăn chặn và xoá bỏ chiến tranh, mà còn tạo điều kiện cho sự hợp tác hữu nghị bền vững giữa các nước trên thế giới. Đặc biệt, để chủ động ngăn chặn các xung đột, không để cho giới cầm quyền hiếu chiến lừa bịp đẩy các quốc gia, dân tộc vào lò lửa chiến tranh vì lợi ích của chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân các nước phải “nhận lấy trách nhiệm bảo vệ hoà bình thế giới”. Giáo dục nhân dân mình và cùng nhân dân thế giới xây dựng lối ứng xử hoà bình - văn minh chống lại lối ứng xử chiến tranh - dã man trong quan hệ quốc tế để đắp xây một nền văn hoá hoà bình của nhân loại là những cống hiến thực tiễn cực kỳ to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho văn hoá thế giới, cho văn minh và hòa bình của nhân loại. Ngày nay, khi loài người phải đối diện với quá nhiều vấn đề có tính toàn cầu và những vấn đề này chỉ có thể được giải quyết bằng sự hợp tác quốc tế (như bảo vệ môi trường sống, chống nghèo đói, dịch bệnh, chống chiến tranh, chống khủng bố quốc tế, bảo vệ hòa bình,...) thì những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây đắp một trật tự thế giới mới với lối ứng xử quốc tế văn minh và thiết lập một nền hoà bình vững bền trên hành tinh của chúng ta càng có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đó là vấn đề trên hết và trước hết để các dân tộc có cơ hội cùng nhau tập trung mọi nguồn lực nhằm giải quyết thành công các vấn đề chung vì sự tồn tại và phát triển của cả loài người.
Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ ba cung cấp nhiều tư liệu làm sáng tỏ sự nghiệp, tư tưởng thấm đậm giá trị văn hóa của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh bởi Người đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại cho nhân dân quyền sống đích thực của con người và góp phần cùng loài người loại trừ chủ nghĩa thực dân - một trở lực lớn trên con đường tiến tới văn minh, đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân loại tiến bộ. Những giá trị văn hóa của sự nghiệp giải phóng con người đó càng thêm sâu sắc khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương bắt đầu từ sự giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục đích đấu tranh và con đường giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết tự đứng lên làm cách mạng và xây dựng xã hội mới không có áp bức, bóc lột và tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện đối với con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”. Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi, vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa vĩ đại, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con người. Giải phóng con người là giá trị văn hóa cao cả nhất, nhưng sự sâu sắc của giá trị văn hóa cao cả đó là làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình. Lấy đoàn kết toàn dân để giải phóng dân tộc, làm cho nhân dân đồng thuận để xây dựng xã hội mới, lấy thống nhất thay vì đối đầu, loại trừ là đường lối và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Giải phóng con người ở tầm cao văn hóa như thế đã tạo ra nguồn năng lượng và động lực cực kỳ mạnh mẽ của toàn dân làm nên thắng lợi trong cả sự nghiệp giải phóng và xây dựng Tổ quốc. Đó là bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam. Đó là bí quyết văn hóa Hồ Chí Minh. Bởi vậy, trong bất kỳ điều kiện nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn chủ trương phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, giáo dục đạo đức và nâng cao nhân cách cho nhân dân. Nền văn hóa mà Người chủ trương xây dựng là sự kết hợp giữa kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa kỳ thị - độc tôn về văn hoá. Văn hóa phải thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn hóa phải loại trừ tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Văn hóa phải làm cho mọi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình được hưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh được loài người tiến bộ suy tôn là một nhà văn hoá lớn còn bởi những thành tựu xuất sắc của Người trong lĩnh vực hoạt động và sáng tạo văn hoá và giáo dục. Với quan niệm “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự dốt nát cũng là kẻ địch phải chống. Người chủ trương phải phát triển nền giáo dục thì mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội, mới tiến kịp được sự phát triển chung của nhân loại. Xác định rõ học tập để làm việc, làm người, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và nhân loại, Người thường xuyên nhấn mạnh tới nhiệm vụ giáo dục lý tưởng, giáo dục đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” và chỉ rõ rằng: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Là nhà giáo dục vĩ đại, với tinh thần “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng việc “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Với mục tiêu của chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”, theo Người, phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện để đào tạo những con người có đức, có tài. Nền giáo dục đó phải kết hợp chặt chẽ giữa học và hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, gắn liền giáo dục của nhà trường với gia đình và xã hội, học suốt đời, kết hợp tự học với học trong nhà trường, học trong sách vở và học trong cuộc sống. Văn hóa có cốt lõi là đạo đức. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng xuất phát từ chính ý nghĩa văn hóa, đạo đức hết sức nhân văn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, Người đòi hỏi Đảng cách mạng phải “là đạo đức, là văn minh”, người làm cách mạng phải có đạo đức cách mạng, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa”. Người nói: “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đức làm cốt cán”. Đó là đạo đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con người và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Cũng chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là đạo đức hành động và Người không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức để học tập mà còn là một tấm gương, một kiểu mẫu về thực hành đạo đức cách mạng, về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, sự thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Những yêu cầu đạo đức mà Người nêu ra cho cán bộ, đảng viên nay đã trở thành hệ chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người Việt Nam mới như: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”; “trung với nước, hiếu với dân”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, biết yêu thương con người, có tình cảm quốc tế trong sáng...
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng đạo đức cách mạng phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ: cái gì trái với đạo đức cách mạng, với chủ nghĩa tập thể, với chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cá nhân. Khẳng định chủ nghĩa cá nhân “là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo rằng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Tuy nhiên, Người chỉ rõ: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Chúng ta còn tìm thấy trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập những ý kiến chỉ dẫn thiết thực của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những nguyên tắc và phương pháp xây dựng nền đạo đức xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Có thể nói, tính hoàn chỉnh của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới, một cống hiến đặc sắc vào sự phát triển của đạo đức học Mác - Lênin và vẫn giữ nguyên giá trị soi sáng cho chúng ta trong việc giải quyết những vấn đề đạo đức xã hội hiện nay. Ngày nay, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận của văn hoá dân tộc, thành vũ khí của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng tha hoá về đạo đức của xã hội. Đạo đức và văn hóa là nội dung quan trọng nhất quyết định nhân cách và sự hoàn thiện của đạo đức, văn hóa là nhân tố căn bản hoàn thiện nhân cách. Dẫn dắt nhân dân đi tới sự giải phóng và hoàn thiện con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của sự toàn mỹ ấy: yêu đồng bào, yêu nhân loại; triệt để cách mạng và vô cùng nhân từ; uyên bác mà cực kỳ khiêm tốn; nguyên tắc chiến lược nhưng rất linh hoạt về sách lược; nhìn xa trông rộng nhưng rất thiết thực, cụ thể; vĩ đại mà rất mực bình dị; nhà thơ trong người chiến sĩ giải phóng. Người là hình mẫu nhân cách cao đẹp của con người, của nhà lãnh đạo cộng sản được nhân dân mãi mãi gọi là Bác Hồ. Đó là chuẩn mực giá trị con người của dân tộc Việt Nam. Cùng với tư tưởng đạo đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một đóng góp rất có giá trị vào triết học về con người của chủ nghĩa Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và cũng là lý tưởng nhân văn của Người. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng con người trước hết là giải phóng họ khỏi những tai họa do cái đói, cái rét, cái dốt gây nên. Cuộc chiến đấu đó không thể tách rời cuộc chiến đấu để giải phóng dân tộc. Chỉ có thoát khỏi thân phận nô lệ, mỗi con người mới lấy lại được phẩm giá làm người. Hơn nữa, đó còn là cuộc chiến đấu vì hoà bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc, vì sự giải phóng của toàn nhân loại. Đó chính là giá trị nhân văn, một chủ nghĩa nhân văn hành động, chủ nghĩa nhân văn chiến đấu, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Là kết tinh của văn hoá, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được biểu hiện vô cùng đa dạng và phong phú, nó thấm đậm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người, được toả sáng trong từng việc làm, từng cử chỉ, từng mối quan tâm ân cần đối với mỗi con người; tất cả đều toát lên tình yêu thương, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin vào khả năng cải tạo của con người, dù cho họ có nhất thời lầm lạc. Bằng hành động và ứng xử của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm người là phải biết yêu thương và sống với nhau có tình nghĩa. Với Người, “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá mãi là kim chỉ nam cho chúng ta trong xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời không ngừng mở rộng giao lưu văn hoá với thế giới. Những giá trị phong phú và toàn diện nói trên đã làm cho bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ ba trở thành bộ sách kinh điển lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn cao về cách mạng Việt Nam. Bộ sách đã phản ánh thiên tài trí tuệ của vị lãnh tụ - người thầy của cách mạng Việt Nam, nhà tư tưởng mácxít vĩ đại; đã phản ánh quá trình lịch sử đấu tranh anh dũng và thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tính khoa học đúng đắn và tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh được thực tế lịch sử kiểm chứng đã tỏ rõ giá trị, sức sống mãnh liệt và trở thành tinh hoa của dân tộc, niềm tự hào vô hạn của mỗi con người Việt Nam. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân ta càng vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Mỗi người Việt Nam hãy học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy lòng yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của dân tộc để xây dựng một nước Việt Nam mới, trong thời đại mới, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Bí thư Trung ương Đảng, kế thừa những kinh nghiệm và thành tựu của bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ nhất và lần thứ hai, bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ ba là một công trình lao động khoa học nghiêm túc của một tập thể đông đảo các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu, lưu trữ, biên tập, xuất bản thuộc nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước, ở trung ương và địa phương. Đây là công trình chào mừng Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với những tác phẩm mới sưu tầm được, trước khi đưa vào biên tập xuất bản lần thứ ba đều đã qua thẩm định, nghiệm thu hai cấp theo quy định của một chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước. Những tác phẩm đã in trong lần xuất bản thứ hai cũng được rà soát, sửa lỗi kỹ thuật. Phần chú thích và chỉ dẫn tên người được bổ sung, biên tập lại bảo đảm tính chính xác và cập nhật thông tin. Những tác phẩm viết chung và các sắc lệnh, văn bản do Người ký được để ở phần Phụ lục. Các tác phẩm chưa có đầy đủ dữ kiện khoa học xác định của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xếp trong phần Những tác phẩm có thể là của Chủ tịch Hồ Chí Minh để bạn đọc tham khảo và góp phần xác minh thêm. Tất cả đều nhằm nâng cao chất lượng và hoàn thiện thêm một bước để giúp cho bạn đọc có thể tìm hiểu đầy đủ, chính xác về sự nghiệp và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời cũng phản ánh được những thành tựu nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong những năm gần đây. Để hoàn thành bộ sách quan trọng này, mặc dù tập thể đội ngũ cán bộ biên tập xuất bản đã hết sức cố gắng, song khó tránh khỏi còn những nhược điểm và thiếu sót. Chúng tôi chân thành cảm ơn sự đóng góp xây dựng của bạn đọc. Nhân dịp bộ Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ ba ra mắt bạn đọc, Hội đồng xuất bản cảm ơn các nhà nghiên cứu, các cộng tác viên khoa học, đội ngũ cán bộ biên tập xuất bản đã tích cực, khẩn trương hoàn thành bộ sách. Mong rằng, bộ Hồ Chí Minh Toàn tập sẽ góp phần đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
LỜI GIỚI THIỆU TẬP 1 Tập 1 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những tác phẩm, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1912 đến năm 1924. Các tác phẩm, bài viết trong tập 1 phản ánh quá trình chuyển biến của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản, hình thành tư tưởng cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: Vạch trần bản chất xấu xa, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa Trong nhiều tác phẩm, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ âm mưu và sự tàn ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc, dưới chiêu bài “khai hóa văn minh” đã tiến hành xâm lược các nước thuộc địa và “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v.” (tr. 93). Dưới ngòi bút sắc sảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực chất công cuộc khai hóa văn minh của chủ nghĩa thực dân ở các châu lục đều bị phơi bày. Đối với châu lục đen, Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự so sánh sinh động. So sánh hành hình kiểu Linsơ, dành cho người da đen ở nước Mỹ, với sự tàn bạo của những nhà "khai hóa" châu Âu dành cho châu Phi thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nếu lối hành hình theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen là một hành động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết gọi việc những người Âu nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt những người dân châu Phi là cái gì nữa” (tr. 346). Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu bật nỗi thống khổ của nhân dân Đông Dương, nhân dân Việt Nam dưới sự “khai hóa” của thực dân Pháp: “tính mệnh của một người An Nam bị xem như thân con chó, không đáng giá một đồng trinh” (tr. 113). “Để hút đến giọt máu cuối cùng của đất nước khốn khổ chúng tôi, nghề ăn cướp thực dân như con bạch tuộc, đang xiết chặt bằng nhiều cái vòi hút độc quyền không biết chán” (tr. 401). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Ở trên thế giới, không có dân tộc chiến bại nào bị kẻ chiến thắng ngược đãi hành hạ bằng dân tộc thuộc địa” (tr. 387). Có áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, tất yếu xuất hiện đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam. Trước các thế lực xâm lược dã man, tàn bạo, ông cha ta với tinh thần độc lập, tự tôn dân tộc đã vùng lên lật đổ ách ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Giở sử đất nước ta ra mà xem, mọi người sẽ thấy “tổ tiên ta đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn” (tr. 97). Với lòng mong muốn con cháu ngày nay noi gương ông cha đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp giành tự do, độc lập, Người viết: “Thật là nhục nhã thậm tệ, thật là chán ngán ghê gớm, thật là cay đắng ê chề xiết bao cho các vị, nếu từ những tầng mây, tổ tiên mi phải trông thấy dân tộc mà các vị đã giành được tự do nay chịu phận nô lệ, đất nước đã được các vị giải thoát nay lâm vào cảnh nô dịch” (tr. 98). Kế tục truyền thống chí khí và tự tôn của ông cha, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết chí ra đi tìm đường giải phóng dân tộc. Từ một người yêu nước, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tư tưởng cứu nước và giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có những đánh giá đầy đủ, đúng đắn về những cống hiến xuất sắc của Lênin đối với cách mạng thế giới và cách mạng thuộc địa. Người chỉ rõ, Lênin là người được kính trọng ở cả phương Đông và phương Tây: “Nếu giai cấp vô sản phương Tây coi Lênin là một thủ lĩnh, một lãnh tụ, một người thầy thì các dân tộc phương Đông lại coi Lênin là một người con vĩ đại hơn nữa, cao quý hơn nữa” (tr. 317). Thiên tài và đạo đức cách mạng vĩ đại, cao đẹp của Lênin ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á, làm cho trái tim, khối óc của nhân dân châu Á hướng về Người không gì cưỡng lại nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo chỉ dẫn của Lênin: “Khi còn sống, Người là người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội. Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta” (tr. 257). Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 công bố nhiều bài viết, bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quốc tế Cộng sản - tổ chức quốc tế do Lênin sáng lập năm 1919, và các tổ chức thuộc Quốc tế Cộng sản như Quốc tế Nông dân, Ban Phương Đông... Qua những bài viết, bài phát biểu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng thuộc địa nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng rất cần sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản về nhiều mặt. Người viết: “Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng” (tr. 311) và yêu cầu Quốc tế Cộng sản đặc biệt quan tâm giúp đỡ phong trào công nhân và nông dân - lực lượng cơ bản của cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giai cấp công nhân không khác gì nô lệ: ngày làm việc 12, 13 giờ, kể cả ngày lễ, ngày chủ nhật, không có bảo hiểm xã hội cho tuổi già, không có trợ cấp khi đau ốm hoặc tai nạn lao động. Trước sự áp bức, bóc lột ấy, “Giai cấp vô sản không thể làm gì để chống lại cái hệ thống bóc lột đó, chưa có một tổ chức công nhân nào cả” (tr. 314). Nắm vững sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, tin tưởng vào tương lai của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “tình cảnh công nhân An Nam là như thế. Đó là một tình cảnh khủng khiếp, nhưng không phải là không có lối thoát..., bởi vì với sự giúp đỡ của các tổ chức cách mạng gần gũi với Quốc tế Công hội đỏ, chúng tôi quyết đập tan lực lượng của chủ nghĩa đế quốc châu Âu áp bức chúng tôi” (tr. 314-315). Vấn đề nông dân luôn chiếm vị trí quan trọng trong suy nghĩ và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người cho rằng, người nông dân trong các thuộc địa “bị hai tầng bóc lột: vừa như những người vô sản, vừa như những người bị mất nước” (tr. 225), “là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản” (tr. 247), “giống như một người bị trói vào một chiếc cột, đầu ngược xuống đất” (tr. 229). Từ nỗi thống khổ của giai cấp nông dân thuộc địa, tại diễn đàn Quốc tế Nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Quốc tế Nông dân chỉ trở thành một quốc tế thật sự khi nông dân phương Đông, phương Tây, đặc biệt là nông dân các nước thuộc địa, những người bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất đều tham gia vào tổ chức này. Qua nghiên cứu phong trào nông dân thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự cần thiết phải xây dựng liên minh công nông và xác định sứ mệnh giải phóng dân tộc của giai cấp công nhân. Người viết: “Người Bắc Phi sẽ biến khỏi mặt đất, nếu giai cấp vô sản giác ngộ không đến cứu họ khỏi nền “văn minh” quái vật” (tr. 280). Nhận thấy lực lượng to lớn và tinh thần yêu nước nồng nàn của nông dân thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: trong các nước thuộc địa, nông dân đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân nhưng đều thất bại vì thiếu sự lãnh đạo và tổ chức. Người yêu cầu Quốc tế Nông dân: “Khi các đồng chí được tổ chức lại, các đồng chí cần phải nêu gương cho chúng tôi, giúp đỡ chúng tôi, dang rộng cánh tay anh em đón chúng tôi để chúng tôi cũng có thể bước vào gia đình vô sản quốc tế (tr. 225). Mục tiêu “tất cả ruộng đất về tay nông dân” chỉ có thể được giải quyết thông qua cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh vai trò của hai giai cấp chủ lực là công nhân và nông dân, mà còn rất quan tâm tới thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên. trong đấu tranh cách mạng. Trong một số tác phẩm, bài viết, Người đã nêu lên những tấm gương tiêu biểu của tuổi trẻ, phụ nữ trong đấu tranh ở Việt Nam và các nước thuộc địa, phụ thuộc để nhân dân ta học tập, vận dụng và làm theo. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 giới thiệu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu và sự trong sáng của tình hữu ái vô sản, luận giải về vấn đề đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa, giữa thuộc địa và chính quốc, giữa phương Đông và phương Tây. Người viết: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (tr. 287), và chỉ rõ: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường” (tr. 14). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phải có sự phối kết hợp giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa bởi vì “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa” (tr. 320). Muốn giết con vật ấy, người ta phải phối hợp với nhau, đồng thời cắt cả hai vòi của nó. Nếu chỉ cắt một vòi thì cái vòi còn lại tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật tiếp tục sống và cái vòi bị cắt sẽ lại mọc ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những quan điểm xem nhẹ cách mạng thuộc địa, thậm chí là khinh thường thuộc địa tồn tại trong một số Đảng Cộng sản ở chính quốc. Người phân tích: “hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc” (tr. 296). Vì vậy, xem thường thuộc địa, chỉ tập trung chống chủ nghĩa tư bản ở chính quốc là “đánh chết rắn đằng đuôi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa” (tr. 295). Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giải phóng giai cấp công nhân là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc giải phóng các dân tộc thuộc địa là sự nghiệp của nhân dân thuộc địa và đã bước đầu đưa ra những dự đoán về khả năng cách mạng thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” (tr. 48). Cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin có nghĩa là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một vấn đề lớn đặt ra cho các nước thuộc địa ở châu Á, trong đó có Việt Nam là: “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không?” (tr. 45). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và xem xét thấu đáo “những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu” (tr. 47). Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” (tr. 496). Đây là sự phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài các tác phẩm, bài viết chứa đựng tư tưởng chính trị quan trọng liên quan đến con đường, những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 còn có một số tác phẩm văn học mang tính đảng sâu sắc, tính chiến đấu cao và tính nghệ thuật đặc sắc. Với những tác phẩm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho sự ra đời nền văn học cách mạng Việt Nam. So với lần xuất bản thứ hai, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1, xuất bản lần thứ ba bổ sung thêm 13 tác phẩm, bài viết mới sưu tầm được. Để bảo đảm tính cập nhật và chính xác của tài liệu, trong lần xuất bản thứ ba, nhóm xây dựng bản thảo đã viết bổ sung phần chú thích và bản chỉ dẫn tên người. Đối với những tác phẩm, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh in trong lần xuất bản thứ hai, lần xuất bản này, nhóm xây dựng bản thảo đã đọc soát, hiệu đính cho đúng với bản gốc. Đa số các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh in trong tập 1 được Người viết bằng tiếng nước ngoài, nhiều nhất là tiếng Pháp. Trong quá trình làm sách, công tác dịch thuật, hiệu đính được đặc biệt chú trọng. Tuy vậy, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Chúng tôi rất mong nhận được những đóng góp của các đồng chí và bạn đọc.
THƯ GỬI CỤ PHAN CHU TRINH Hy Mã (1) nghi bá Đại nhơn, Cách lâu không được tôn tín, không hay Bác hành chỉ thế nào và sự thể bên ta thế nào? Và cháu muốn biết như cháu có thể gặp Bác trước lúc Bác đi (2) hay không, vì cháu rất cần một ít lời tôn hội. Xin Bác trả lời liền cho cháu, vì chừng nào trong tuần lễ cháu sẽ xuống tàu đi “chưa biết đi đâu”. Kính chúc Bác, Mr. Trường (3) và em Dật (4) và các đồng bào yên hảo. C. Đ. TẤT THÀNH (5) 10. Orchard place. 10 Southampton England. Viết khoảng cuối năm 1912. Bản chụp bút tích, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. In trong sách Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr. 50. Ghi chú: (1) Hy Mã: Biệt hiệu của cụ Phan Chu Trinh (BT). (2) Chỉ việc Phan Chu Trinh đang bị phái hữu trong Bộ Thuộc địa ép phải đi khỏi Pari (BT). (3) Mr. Trường: Luật sư Phan Văn Trường (BT). (4) Em Dật: Phan Châu Dật, con trai ông Phan Chu Trinh (BT). (5) C. Đ. Tất Thành: Cuồng điệt (người cháu hăng say) Tất Thành (BT).
BÀI THƠ GỬI CỤ PHAN CHU TRINH Xuphorarét Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng, Phải có kiên cường mới gọi hùng. Vai cứng long lanh ngoài ách tớ, Má đào nóng nảy giới quyền chồng. Lợi chung dầu sẽ mua về được, Kiếp mong chi nài sự có không. Ba hột đạn thầm hai tấc lưỡi, Sao cho ích giống mấy cam lòng. Hy Mã nghi bá Đại nhân thấu.(1) Cuồng điệt: TẤT THÀNH Viết khoảng quý I năm 1913. In trong sách Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1976, tr.26. In trong sách Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr. 52. In trong sách Hồ Chí Minh Toàn tập, (xuất bản lần thứ nhất), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.479. Ghi chú: (1) Hy Mã nghi bá Đại nhân thấu: Để Phan Chu Trinh hiểu rõ. Trong bản gốc, tác giả dùng cả Đại nhân và Đại nhơn (BT).
THƯ GỬI CỤ PHAN CHU TRINH Hy Mã nghi bá Đại nhơn, Cháu kính chúc Bác, em Dật và ông Trạng mấy các anh em ta ở Pari đều mạnh giỏi. Nay cháu đã tìm được nơi để học tiếng. Mấy 4 tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn luôn. Tuy ở Anh song chẳng khác gì ở Pháp và ngày tháng luống những chỉ lo làm khỏi đói, chớ chẳng học được bao nhiêu. Và cháu ước ao rằng 4, 5 tháng nữa lúc gặp Bác thì sẽ nói và hiểu được tiếng Anh nhiều nhiều. Bên ta có việc gì mới? Và nếu Bác dịch mấy hồi sau (1) xong rồi xin Bác gửi cho cháu. Chuyến này Bác sẽ đi nghỉ hè đâu? Nay kính Cuồng điệt: NGUYỄN TẤT THÀNH Viết khoảng giữa năm 1913. In trong sách Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1976, tr.23-24. In trong sách Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr. 52-53. In trong sách Hồ Chí Minh Toàn tập, (xuất bản lần thứ nhất), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.477. Ghi chú: (1) Chỉ tác phẩm Giai nhân kỳ ngộ diễn ca do cụ Phan Chu Trinh dịch từ tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Sài Tử Lang, xuất bản năm 1885, dựa theo bản dịch Hán văn của Lương Khải Siêu thành 7.000 câu thơ lục bát. Sách gồm 9 hồi, hồi thứ 9 còn dở dang. Sách đặt vấn đề về quyền độc lập, tự do, nhân quyền ở các nước thuộc địa những năm 50 thế kỷ XIX. Năm 1926, Ngô Đức Kế cho in lần đầu tiên ở Hà Nội, nhưng chưa kịp phát hành đã bị tịch thu (BT).
THƯ GỬI CỤ PHAN CHU TRINH Bác kính mến, Tiếng súng đang rền vang. Thấy người đang phủ đất. Năm nước lớn đang đánh nhau. Chín nước đã vào vòng chiến. Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng, cháu đã nói với Bác về cơn giông sấm động. Số mệnh sẽ còn dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước được ai sẽ thắng. Các nước trung lập còn đang lưỡng lự và các nước tham chiến không thể đoán biết được ý đồ của họ. Tình hình diễn ra là ai thò mũi vào thì chỉ có thể đứng về phe của địch thủ bên này hoặc địch thủ bên kia. Người Nhật Bản hình như có ý định nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong ba hoặc bốn tháng tình hình châu Á sẽ có chuyển biến và sẽ có nhiều chuyển biến. Xin gửi lời hỏi thăm Bác và em Dật. Mong Bác trả lời sớm về địa chỉ sau đây: Gửi Nguyễn Tất Thành, số nhà 8, phố Xtêphen Tốttenham, Luân Đôn. Viết tháng 8 năm 1914. Báo Nhân dân, số 7679, ngày 13 tháng 5 năm 1975. In trong sách Hồ Chí Minh Toàn tập, (xuất bản lần thứ nhất), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.478.
TÂM ĐỊA THỰC DÂN Ít khi chúng tôi có dịp được đọc báo thuộc địa. Hôm nay, chúng tôi nhận được một số Courrier Colonial, đề ngày 27 tháng 6 vừa qua, trên đầu tờ này có đăng một bài dài hai cột, dưới cái đầu đề kích động là "GIỜ PHÚT NGHIÊM TRỌNG". Cái đầu đề kêu rỗng ấy, kêu như một lời hô hào cầm vũ khí, đã khiến chúng tôi phải đọc từ đầu chí cuối bài báo dài này để biết rõ lý do của tiếng kêu cầu cứu đó là gì. Chưa đọc hết cột thứ nhất, chúng tôi cũng đã gần thấy được mục đích của tác giả, và càng đọc tiếp - vừa đọc vừa mỉm cười - thì cảm tưởng đầu tiên của chúng tôi càng vững chắc lại. Cảm tưởng của chúng tôi tóm lại là: một chàng thực dân đã muốn dùng bản Yêu sách của nhân dân An Nam để mở một cuộc tấn công gián tiếp vào chính sách của ông Anbe Xarô, Toàn quyền Đông Dương, một cuộc tấn công mà anh ta đã chú ý tô điểm bằng những lời phản đối có tính chất yêu nước, bằng lòng yêu chuộng chân lý, bằng tinh thần hy sinh và tận tuỵ vì lợi ích chung, vân vân, vân vân. Phân tích một vài đoạn trong bài báo, chúng ta sẽ thấy được chàng ta hiểu chủ nghĩa yêu nước, chân lý và lợi ích chung của nước Pháp như thế nào. Ông Camilơ Đơvila khao khát cái danh hiệu người yêu chuộng chân lý trong thế giới này và trong thế giới bên kia. Lòng khao khát ấy là chính đáng và hợp lý, chúng tôi vui lòng thừa nhận như vậy. Nhưng mong ông cho phép chúng tôi chỉ cho ông thấy rằng cái chân lý theo tâm địa của ông, cái chân lý theo quan niệm của bọn thực dân thù ghét dân bản xứ, không có gì là giống với chân lý của chúng tôi, chân lý mà sau này chúng tôi sẽ nói sơ qua đến, cũng như không có gì là giống với chân lý theo quan niệm của những người Pháp tốt ở nước Pháp cả. Sở dĩ chúng tôi nhận xét một cách lịch sự như vậy, là nhằm tỏ thái độ tôn trọng quyền tự do ngôn luận. Trước hết, chúng tôi thấy trong bài báo nói về vấn đề đó, cái câu ám chỉ có ác ý là "ngay ngày hôm sau ông Anbe Xarô đặt chân trở về đất nước Pháp, thì những nhà ái quốc An Nam lập tức bác bỏ những lời tuyên bố lạc quan của ông". Chúng tôi không được biết bài diễn văn mà ông Đơvila đã ám chỉ, chúng tôi không bàn về bài diễn văn ấy. Nhưng ngay từ bây giờ chúng tôi cũng có thể nói rằng, dù sao đi nữa thì tám điểm của bản Yêu sách của nhân dân An Nam không nói ngược lại chút nào những ý kiến của ông Anbe Xarô, người đã tuyên bố trong tất cả những diễn văn của mình đọc trước những người bản xứ rằng mình kiên quyết muốn mở ra cho họ một kỷ nguyên tự do và công lý. Vì những lời hứa hẹn của ông phù hợp với những yêu sách của chúng tôi, nên ngay khi được biết tin ông trở về Pháp chúng tôi vội vã gửi đến ông bản ghi những yêu sách của chúng tôi. Trong lúc chờ xem chính sách của ông đáp ứng được đến mức độ nào những nguyện vọng của chúng tôi, chúng tôi vui lòng thừa nhận rằng đã nhiều lần ông ta phát biểu để bảo vệ những người bản xứ, chống lại sự áp bức của những tên thực dân độc ác và sự chuyên chế của những tên viên chức tàn bạo, bất chấp những đòn công kích của một chiến dịch vừa đáng ghét vừa nham hiểm của báo chí, một chiến dịch không giấu kín được tính phản nghịch của nó bằng những lời nguỵ biện về uy tín và bằng những lý lẽ giả dối về lợi ích chung. Chúng tôi đã nhấn mạnh những chữ những tên thực dân độc ác và những viên chức tàn bạo, vì chúng tôi biết rằng có những người thực dân chính trực và những viên chức công bằng. Khốn nỗi, họ còn lâu mới là đa số, thậm chí còn đang sợ rằng họ là một thiểu số rất nhỏ nữa. Rồi ông Đơvila chép lại tám yêu sách của người An Nam, và kèm theo yêu sách thứ ba - tự do báo chí và ngôn luận - ông đưa ra nhận xét này: mà bản thân chúng ta cũng không được hưởng, và kèm theo yêu sách thứ bảy - thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật ông đưa ra nhận xét này: hệt như ở nước ta. Cũng vậy thôi, tính giả dối cũng không được che đậy kín đáo gì hơn. Chúng tôi xin phép hỏi ông Đơvila rằng phải chăng ông coi độc giả của ông là những người quá ư ngu ngốc, khi ông định dùng cái lối bình luận quỷ quyệt đó để làm cho họ lẫn lộn tình trạng hoàn toàn và vĩnh viễn không có quyền tự do tư tưởng với sự kiểm duyệt, tức là một tình trạng hoàn toàn có tính chất tạm thời và chỉ nhằm một vài loại tin tức thôi. Còn về việc thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật, thì chúng tôi không hiểu tại sao ông Đơvila lại sợ việc ấy đến thế, vì những người trong sạch thì không việc gì phải sợ sự kiểm soát của ai cả, ngay cả sự kiểm soát của nghị viện nữa. Lời trách cứ nặng nhất của ông Đơvila đối với những nhà ái quốc An Nam là đã phát biểu trực tiếp với nhân dân Pháp và với nền công lý thế giới của tất cả các cường quốc. Chúng tôi sẵn sàng thừa nhận với ông rằng những người An Nam đã đi vào một trường hợp hoàn toàn đáng xử giảo, khi không nhờ đến một nhà thực dân cỡ ông làm trung gian. Thừa nhận như vậy rồi, chúng tôi xin chép lại nguyên văn cái câu mà ông cho là khó hiểu, câu đó như sau: "Đưa ra những yêu sách trên đây, nhân dân An Nam trông cậy vào chính nghĩa thế giới của tất cả các cường quốc và đặc biệt tin vào lòng rộng lượng của nhân dân Pháp cao cả, tức là của những người đang nắm vận mệnh của nhân dân An Nam, của những người, do chỗ nước Pháp là một nước cộng hoà, nên được coi là những người bảo hộ cho nhân dân An Nam". Chúng tôi không dám giải thích cho ông Đovila rằng, thế nào là một nước cộng hoà, vì môn sư phạm không phải là sở trường của chúng tôi, nhưng vì ông tìm cách bẻ quẹo một câu minh bạch như vậy, nên chúng tôi tự hỏi không biết có phải ông đã có danh dự được làm bồi bếp trong một nhà bếp nhà vua nào đó chăng. Và bây giờ khi mà ông Đơvila tự hỏi rằng trách nhiệm ở đâu, thì chúng tôi phải nói trắng ra với ông rằng cần tìm trách nhiệm, không phải ở chính sách của ông Xarô mà ở tình hình thảm hại mà người ta đã để lại cho ông Xarô. Nếu sau một nửa thế kỷ sống dưới sự thống trị của nước Pháp mà nhân dân An Nam rút cuộc lại phải đi xin vài bảo đảm cá nhân và vài quyền tự do mà tất cả những nước láng giềng của mình đều được hưởng, thì điều đó không phải là tại ông Xarô thân dân bản xứ, mà điều đó có nguyên nhân sâu xa hơn nữa, đó là do chính sách bóc lột và ngu dân mà ông Đơvila và bè phái tuyên truyền, chứ không phải của ông Xarô. A, bây giờ chúng tôi đã nắm được động cơ của những đòn công kích ông Xarô rồi. Ông Xarô bị công kích vì ông thân dân bản xứ. Ông Đơvila nhắc nhở rằng những người đã có kinh nghiệm ở Đông Dương đã cố công khuyên ông Xarô, nhưng ông Xarô không chịu nghe họ. Theo ngôn ngữ của những tên thực dân độc ác, thứ kinh nghiệm ở Đông Dương có nghĩa là kinh nghiệm trong nghệ thuật bóc lột, cướp bóc người bản xứ, kinh nghiệm sống bằng mồ hội của người bản xứ. Ông Xarô đã khinh bỉ không thèm nghe lời bọn cố vấn vụ lợi ấy, điều đó cũng dễ hiểu. Cái câu trong tờ Le Courrier d'Haiphong mà ông Đơvila dẫn ra và tuyên bố rằng, câu đó là có tính chất tiên tri (sic) xác nhận tất cả những điều mà chúng tôi vừa nói, nguyên văn câu đó như sau: "Chính sách ấy (chính sách thân dân bản xứ) của ông Xarô chỉ có thể tiến hành được bằng cách hy sinh lòng tự tôn và những quyền lợi của những người Âu ở nước này, vì chính sách đó chỉ nhằm làm cho những dân bản xứ thành những người bình đẳng với chúng ta, rồi nhanh chóng trở thành chủ chúng ta". Kết luận: đối với dân bản xứ, thì phải giữ họ vĩnh viễn trong cảnh nô lệ. Chúng tôi thiết tưởng rằng, những người Pháp thông minh và chân thực biết tỏ tính ưu việt tự nhiên của mình ở bất cứ nơi nào mình sống, thì không cần phải sống giữa những người bản xứ vĩnh viễn bị khoá mồm bịt miệng và bị xỏ mũi, mới có thể giữ được tính ưu việt đó. Sau cùng, ông Đơvila cho rằng mình biết rõ là một đảng độc lập đã xuất hiện và đảng này đã vượt qua đầu ông Xarô để phát biểu với nhân dân Pháp và với các cường quốc mà họ muốn nói với tư cách bình đẳng với nhau. Ông nói thêm rằng: đây là một giấc mơ và từ giấc mơ này ông thấy nguồn gốc của sai lầm mà ông Anbe Xarô phạm phải là năm 1913 ông Anbe đã dạy cho người An Nam biết rằng nước Đức đã chiếm Andátxơ - Loren của nước Pháp năm 1871. Nếu có một đảng độc lập tồn tại, thì đảng này không phải đi ăn xin một vài quyền tự do, mà thiếu nó thì con người là một tên nô lệ khốn khổ. Chúng tôi thử làm yên lòng ông Đơvila bằng cách nói rằng, Đảng của chúng tôi nói với nhân dân Pháp, cũng là nói cả với ông Đơvila. Cuối cùng, ông Đơvila không thể không biết về mặt quốc tế, khi người ta nói bình đẳng với nhau, người ta dùng con đường ngoại giao, chứ không phải bằng con đường thỉnh cầu. Vậy thì giấc mơ đẹp mà người ta kiêu hãnh đã tìm thấy chìa khóa, tự nó đã tan tành. Chúng tôi để cho ông Đơvila với một giấc mơ khác, giấc mơ làm cho dân An Nam quên đi rằng chỉ với nửa số những luật dân sự mà trước kia những người Andátxơ - Loren có được dưới sự thống trị của Đức, thì dân An Nam cũng sẽ đỡ khổ hơn rất nhiều. Đúng vậy, theo ý nghĩa đó thì việc so sánh Andátxơ - Loren Phổ hoá với Đông Dương Pháp hóa dĩ nhiên là hại. NGUYỄN ÁI QUỐC Tài liệu đánh máy, tiếng Pháp. Bản chụp lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
VẤN ĐỀ DÂN BẢN XỨ Báo L'Humanité ngày 18-6 mới đây đã đăng văn bản thỉnh cầu của những người An Nam gửi Hội nghị hoà bình đòi ân xá cho tất cả các tù chính trị người bản xứ, đòi cải cách pháp chế ở Đông Dương bằng ban hành những bảo đảm cho người bản xứ cũng như cho người Âu, đòi tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do dạy học, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp luật; và sau cùng, đòi có một đoàn đại biểu thường trực của dân bản xứ, được bầu vào Nghị viện Pháp. Chúng tôi chỉ có thể coi các yêu sách rất đúng đắn đó cũng là của chính mình, trong thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự quyết. Nước Pháp đã từng bắt đầu đánh chiếm Đông Dương gần như cùng thời gian mà nước Nhật đi những bước đầu tiên trong cuộc cải cách nổi tiếng năm 1868. Nhưng trong khoảng một nửa thế kỷ, nước Nhật đã biết tạo lập được một chế độ đưa nó vào hạng những cường quốc đứng đầu thế giới; còn nước Pháp thì phải nói rằng vẫn đang mò mẫm trong chính sách Đông Dương của mình. Thậm chí có thể tự hỏi đã từng có một chính sách Đông Dương bao giờ chăng? - Vì lẽ từ khi bị Pháp chiếm, đất nước chúng tôi hầu như luôn luôn sống lay lắt ngày này qua ngày khác, không hề biết chính quyền muốn dẫn mình đi đến đâu, - chính quyền này khi thì nói về chính sách đồng hóa, khi thì nói về chính sách liên hiệp hoặc gì khác nữa, nhưng thật ra chẳng áp dụng một chính sách nào cả. Tình hình đích thực là như sau: nay cũng như trước kia, kẻ chinh phục và nhân dân bị chinh phục đều sống mặt đối mặt, trong một không khí nghi kỵ lẫn nhau. Bức tranh ảm đạm này đáng được quan tâm, được xét về một số mặt khác nhau. Về tâm lý, ở phía kia là thái độ hiềm nghi và khinh miệt; còn ở phía này lại là tâm trạng bực dọc và tuyệt vọng. Các ấn phẩm sách báo thực dân đều đầy rẫy những đòn đả kích hung bạo đánh vào nhân dân bị chinh phục, đều tràn ngập những lời chửi rủa phun thẳng vào mặt họ với dũng khí càng hung hăng vì tác giả biết trước rằng họ không thể nào trả miếng lại được và họ chỉ đành phải nghiến răng mà nuốt lấy. Người ta đọc thấy trong loại ấn phẩm vừa nêu những phán quyết như thế này chẳng hạn: "Đối với cái giống nòi Annamít ấy, chỉ có một cách tốt để cai trị nó, - đó là ách thống trị bằng sức mạnh... Truyền học vấn cho bọn Annamít hoặc cho phép chúng tự chúng có học vấn, tức là một mặt cung cấp cho chúng những súng bắn nhanh để chống chúng ta, và mặt khác đào tạo những con chó thông thái gây rắc rối hơn là có ích...". Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca; vì nếu anh ta dám phản đối thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ phản nghịch hoặc là một tên cách mạng, và bị đối xử đúng với tội trạng ấy. Càng khốn khổ hơn cho người bản xứ nào xuất ngoại để thoát khỏi cái chế độ dịu hiền ấy: gia quyến anh ta bị hành hạ; bản thân anh ta, nếu bị bắt, thì bị tù khổ sai hoặc bị đẩy lên máy chém. Thậm chí để đi lại trong nước, từ địa phương này đến địa phương khác theo luật, người bản xứ phải mang theo giấy phép. Còn công lý, đối với người bản xứ, nó tồn tại như thế này đây: người Âu nào đã giết chết, tàn sát hoặc cưỡng dâm người bản xứ, thì trong trường hợp vụ án không thể được ỉm hoàn toàn, anh ta chắc mẩm rằng mình được toà án tha bổng, mình ra toà chẳng qua là chuyện hình thức. Đó là việc áp dụng nguyên tắc nhằm bảo tồn bằng mọi cách uy tín của người da trắng trước bọn da vàng. Nghị viện Pháp có biết chút đỉnh về việc vừa nêu, qua một số điều tiết lộ của ông nghị sĩ Viônlét trong một bản báo cáo về ngân sách Đông Dương. Sự ngự trị của bạo chính Ở các tỉnh, người bản xứ bị trói tay trói chân, phải gánh chịu thói tuỳ hứng, chuyên quyền của các quan cai trị người Pháp và thói tham tàn của bọn làm tôi tớ ngoan ngoãn cho chúng, bọn quan lại, sản phẩm của chế độ mới! Ấy là công lý bị bán đứt cho kẻ nào mua đắt nhất, trả giá hời nhất. Xưa kia, người bản xứ bao giờ cũng có thể kêu lên đến tận triều đình nhà vua; nhưng nay thì anh chàng "Annamít" khốn khổ chẳng biết có thánh nhân nào để dựa, và còn lại cho anh ta, chỉ là công lý của Chúa trời. Riêng đối với những ai mà ngôn ngữ thực dân gọi là bọn quấy rối, thì những phiên họp âm u, được tô điểm thành toà đại hình, bí mật quyết định số phận của họ - những người bản xứ chính trực mà đồng bào của họ đều coi trọng và tin yêu. Sự tương phản càng nổi bật không kém trong lĩnh vực kinh tế. Một bên là những người bản xứ bị dìm trong cảnh dốt nát và suy yếu bởi một hệ thống tinh khôn nhằm nhồi sọ, đần độn hoá, không lấp liếm hết được dưới một dạng giáo dục bịp bợm: họ phải đổ mồ hôi sôi nước mắt trong những lao tác nặng nhọc nhất và bạc bẽo nhất để kiếm sống một cách chật vật, và hầu như chỉ bằng sức của họ thôi, để nuôi mọi ngân quỹ của chính quyền. Một bên là những người Pháp và người nước ngoài: họ đều đi lại tự do, tự dành cho mình tất cả các tài nguyên của đất nước, chiếm đoạt toàn bộ xuất nhập khẩu và tất cả các ngành nghề béo bở nhất, bóc lột trâng tráo trong cảnh dốt nát và nghèo khốn của nhân dân. Buộc phải bị kiềm chế bởi sức mạnh, nhân dân An Nam, mà lịch sử chân chính đã khởi đầu từ hơn 3.000 năm, từng lúc từng lúc như có những đợt cồn cào chống đối, biểu hiện bằng những mưu toan nổi dậy rộng khắp, hoặc bằng hành động của những con người tuyệt vọng, như những cuộc biểu tình ôn hoà năm 1908 (xem Bulletin officiel de la Ligue des Droits de l'Homme, ngày 31-10-1912), và như những vụ nổ bom gần đây ở Nam Kỳ và ở Bắc Kỳ. Than ôi! Đó là những cuộc phản kháng vô hiệu mà mỗi lần đều đem lại những trận đàn áp đẫm máu, và thêm nữa đã tạo cớ cho chính quyền thể theo Napôlêông trong vụ chiếc "máy ma quái"(1), mà trừ khử một cách lịch sự những người An Nam không tỏ vẻ hoan hô thói độc đoán của nó. Người ta biết rằng trong chiến tranh (2), Đông Dương đã là nơi diễn ra những sự kiện đau lòng, dẫn đến việc ban bố thiết quân luật, và kèm theo là những vụ tuyên án và hành quyết hàng loạt. Giờ đây, các nhà tù khổ sai ở Guyan, ở Tân Calêđôni, ở Côn Đảo, v.v., đều đầy ắp tù chính trị người bản xứ. Súng liên thanh và máy chém đều chóng vánh buộc những ai bướng bỉnh, những ai phản kháng phải im hơi lặng tiếng. Sự cạnh tranh của Nhật Bản Tình hình mà chúng tôi vừa mới phác ra một số nét lớn, có lẽ sẽ có thể kéo dài vô tận, nếu cuộc chiến tranh - đã đảo lộn toàn bộ châu Âu - hiện nay không kéo theo một sự xì xào mới về vấn đề dân bản xứ. Quả vậy, do chiến tranh, nước Nhật đã tranh thủ được, từ phía nước Pháp, những quyền ưu tiên đặc biệt ở Đông Dương. Vậy phải thấy trước rằng người Nhật sẽ đến lập nghiệp ngày càng nhiều trên xứ này và sẽ làm đủ mọi nghề ở đây; kết quả là dân bản xứ sẽ sống càng khốn đốn hơn: bị hãm trong cảnh dốt nát bởi chính sách đần độn hoá, bị suy yếu vì phải chịu nhiều thiếu thốn, nhiều thủ đoạn đầu độc của nhà nước - ngân khố và các công ty đặc nhượng ép họ tiêu thụ thuốc phiện, rượu -, họ sẽ tiếp tục luẩn quẩn trong một cái vòng thu hẹp quá đỗi. Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường. Mặt khác, là phi lý nếu nghĩ rằng hai dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể cứ tồn tại biệt lập đối với nhau. Nhưng người Nhật, nhờ ở Chính phủ khôn khéo của họ, có các phương tiện rất đầy đủ, được trang bị tốt để tiến hành đấu tranh kinh tế; trong khi đó thì người An Nam- chúng tôi đã nói vì sao - lại hoàn toàn là con số không, xét về mặt tiến bộ hiện đại, so với các láng giềng của họ: người Hoa, người Nhật, người Xiêm và cả người Ấn nữa. Câu hỏi đặt ra từ nay, là đứng trước tình hình mới được tạo ra bởi những luồng du nhập của người nước ngoài, phải chăng Chính phủ Pháp tin rằng đã đúng lúc, vì lợi ích chung, phải giải phóng dân bản xứ và giúp đỡ họ bằng tất cả các phương tiện mình có trong tay, để họ tự chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh gay go mà họ sẽ đảm đương đối với người Nhật và những người nước ngoài khác? Nếu lời đáp có chiều khẳng định, thì chúng tôi khó hiểu vì sao các yêu sách của mình, mà báo L'Humanité đã đăng trong số ra ngày 18-6 vừa qua, lại có thể gây chấn động trong giới thực dân. Chúng tôi biết đích xác rằng một sĩ quan cao cấp chỉ huy các tập đoàn lao công thuộc địa - có lẽ căn cứ vào những chỉ thị nhận được từ bên trên - đã hạ lệnh cho từng trưởng tập đoàn hãy tịch thu tất cả những bản yêu sách vừa nêu, tìm thấy ở những người lao công An Nam. Rất ôn hoà cả về nội dung lẫn về hình thức, các nguyện vọng của chúng tôi nhằm vào những cải cách chủ yếu cho việc giải phóng chúng tôi, và nhằm vào những quyền tự do mà nếu không có chúng thì con người ngày nay chỉ là một kẻ nô lệ khốn nạn. Không ai có thể phủ nhận rằng nếu không có các quyền tự do ấy, thiết yếu cho việc truyền bá những tư tưởng và kiến thức mà đời sống hiện đại đòi hỏi, thì không thể trông mong tiến hành bất cứ một công cuộc giáo hoá nghiêm chỉnh nào cả. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo L'Humanité, ngày 2-8-1919. Ghi chú: (1) Machine infernale: Máy ma quái nổ có thể gây tử vong, đã từng được bố trí để ám sát Bônapác. May thay, Bônapác thoát nạn và biết rõ thủ phạm. Tuy vậy, ông khéo thừa cơ hạ lệnh đày 138 người vô tội, có hành vi không tán thành chính sách của ông (BT). (2) Chiến tranh thế giới thứ nhất (BT).
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA MỘT PHÓNG VIÊN MỸ (1) Hỏi: Anh đến Pháp với mục đích gì? Đáp: Để đòi quyền tự do cho dân An Nam. Hỏi: Bằng cách nào? Đáp: Bằng cách làm việc hết mình và luôn xông xáo tiến lên. Hỏi: Nhưng đất nước đã sẵn sàng chưa? Các phong trào vũ trang hiện nay ra sao? Đáp: Tình cảnh nước Việt Nam thật đáng buồn. Ngoài chúng tôi (chỉ một số người yêu nước) chưa có sự chuẩn bị nào cả và các hoạt động vũ trang gần đây đã hoàn toàn thất bại và không có tiếng vang nào... Hỏi: Từ lúc đến Pari tới nay, anh đã đạt kết quả nào rồi? Đáp: Ngoài các nghị sĩ, tôi đã gặp tất cả những người chịu giúp chúng tôi. Những người Xã hội nghĩ rằng Chính phủ Pháp không khi nào chấp nhận những yêu cầu của chúng tôi nhưng họ vẫn vui lòng giúp đỡ. Và đó là chỗ dựa quan trọng đối với chúng tôi. Chúng tôi cũng hoạt động trong những tầng lớp khác nữa. Trả lời trước ngày 2-9-1919. In trong sách Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.69. Ghi chú: (1) Qua giới thiệu của Đại diện Chính phủ lâm thời Triều Tiên tại Pari là ông Kim Tchong Wen và Kim Koei Tche, một phóng viên Mỹ đã phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc (BT).
ĐÔNG DƯƠNG VÀ TRIỀU TIÊN MỘT SỰ SO SÁNH THÚ VỊ Thế giới sẽ chỉ có nền hoà bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó. Trong khi chờ đợi ngày đó, hiện nay họ còn là nạn nhân của con quái vật ấy, đòi hỏi một cách nghiêm khắc, nhân danh nguyên tắc của dân tộc được quyền tự quyết và họ rất xứng đáng để lưu ý tiếng nói của họ phải được lắng nghe với tình cảm đậm đà trong nhân dân các nước châu Âu và châu Mỹ. Dư luận thế giới đối với các nước đang rên xiết dưới ách thống trị của nước ngoài không phải không làm cho những kẻ đi bóc lột các dân tộc lo sợ. Chính phủ Nhật Bản nhìn thấy trước hậu quả đáng buồn khi đã mở một cuộc chinh phạt rất lớn của chủ nghĩa quân phiệt, đang thừa nhận phải cải cách chế độ ở Triều Tiên theo một tinh thần khoan dung. TỰ TRỊ Ở TRIỀU TIÊN Một sắc lệnh của Hoàng triều, công bố ở Đông Kinh, ngày 19-8- 1919, thừa nhận tự trị cho Triều Tiên, và tuyên bố những người Triều Tiên và Nhật Bản về mặt pháp luật đều bình đẳng và đều được hưởng những quyền hạn ngang nhau, không phân biệt là người nước nào. Chúng ta cũng phải thấy trước rằng những người yêu nước Triều Tiên sẽ không vì thế mà lấy làm thoả mãn và họ còn tiếp tục đòi cho được độc lập hoàn toàn, bởi vì phải chăng họ phản đối đạo sắc lệnh ấy với lý do là nó cũng như tất cả các quy định luật pháp khác có giá trị nhiều hay ít còn tuỳ ở sự thực hiện ra sao nữa. Rõ ràng là chúng tôi không hề đóng vai trò đáng khinh bỉ làm người biện hộ cho chủ nghĩa đế quốc Nhật, mà là chúng tôi lên án nó cũng như lên án tất cả các thứ chủ nghĩa đế quốc. Chúng tôi cũng không so sánh một cách cụ thể chi tiết giữa chế độ cai trị của Nhật với chế độ cai trị của Pháp, mặc dầu về nhiều mặt, sự so sánh ấy cũng sẽ làm lợi cho Nhật Bản, mà hiển nhiên nước này chưa bao giờ có ý định đầu độc người Triều Tiên bằng cách bắt buộc họ phải uống rượu và hút thuốc phiện; nhưng ngày nay, Chính phủ Đông Kinh đã tuyên bố chính thức giải phóng người Triều Tiên bằng cách đồng hoá họ hoàn toàn như những công dân Nhật Bản. Thật đáng buồn thay khi thấy rằng sau 50 năm thống trị mà những người đại diện cho nước Cộng hoà Pháp ở Đông Dương vẫn cứ ngoan cố kìm chân người bản xứ trong vòng nô lệ, không cho họ hưởng một chút quyền tự do nào cũng như các quyền khác theo luật pháp quy định, thế mà ở cái đế quốc mặt trời mọc kia lại trịnh trọng tuyên bố cho cả một dân tộc được hưởng toàn bộ các quyền công dân, cái dân tộc mà họ chỉ mới thống trị chưa đầy 15 năm, để mưu cầu tránh được cái tai họa Nga dưới triều đại Nga hoàng. SỰ NHỒI SỌ NHỮNG NGƯỜI DA VÀNG Trong những năm chiến tranh, nhiều phong trào quốc gia quan trọng đã nổ ra ở Triều Tiên cũng như ở Đông Dương để lật đổ ách thống trị của người nước ngoài. Nhưng liền sau khi đã dập tắt được các phong trào phiến loạn, thì Chính phủ Nhật Bản đã có ngay biện pháp xoá bỏ cái dĩ vãng của những biến cố đau thương ấy bằng những cải cách tiến bộ và tìm cách hoà hợp dân tộc bị trị với dân tộc thống trị bằng cách thừa nhận họ có những quyền ngang nhau theo luật pháp quy định. Còn như Chính phủ thuộc địa Pháp thì vẫn ngoan cố một cách ngây thơ cho rằng ở Đông Dương này muốn ràng buộc những người bản xứ thì chỉ cần vỗ về họ mãi mãi bằng những bài diễn văn long trọng, những luận điệu tuyên truyền gian ngoan và bằng những lời thề nguyện trung thành mà nó chỉ đáng giá ở chỗ người ta đặt vào đấy: trong cái xứ này do thiếu sót hay nói cho đúng hơn, là do ý định của Chính phủ, nên đâu đâu từ trên xuống dưới cũng đều có cái nạn tham nhũng mua quan bán chức, những bọn người mua bán được bằng tiền thì không phải là những thứ hàng hoá hiếm. Và để nhồi sọ những người da vàng, Chính phủ thuộc địa đã sẵn sàng những biện pháp và phương tiện cực kỳ mạnh. Về mặt báo chí, xuất bản bằng tiếng phương Đông, Chính phủ giành lấy cái quyền hạn bỉ ổi chỉ cho phép xuất bản những loại nào ca ngợi mình và sau khi đã có kiểm duyệt rồi. Chính phủ lợi dụng cái đặc quyền độc đoán ấy để lập ra những tờ báo tiếng An Nam theo ý mình được hưởng trợ cấp bí mật của Nhà nước và chuyên việc làm quảng cáo tuyên truyền cho Chính phủ và thường kỳ viết những bài phỉnh nịnh các quan trên có thế lực ở thuộc địa. Ấy thế mà, Chính phủ Đông Dương lại muốn biến chính hệ thống nhồi sọ này thành chế độ tự do báo chí của người bản xứ đấy! NHỮNG SỰ HY SINH CỦA NGƯỜI AN NAM TRONG CHIẾN TRANH Nếu người ta làm một bản thống kê những sự hy sinh bắt buộc cho nước Pháp mà nhân dân An Nam phải chịu đựng từ khi có chiến tranh, thì người ta sẽ thấy, về mặt tài chính, nhân dân An Nam đã phải gánh vác một phần lớn, có đến hàng trăm hàng ngàn triệu phrăng, do đóng góp tự do hay bắt buộc, mà chủ yếu thì bắt buộc hơn là tự do; về mặt đóng góp sức người, thì một nguồn nhân lực rẻ tiền đã lên tới con số hơn 100 ngàn người lao động và rất nhiều tiểu đoàn lính chiến đấu, kẻ trước người sau, họ đều bị trưng tập và bắt buộc đưa sang Pháp hay đi các nơi khác, còn số người đi tình nguyện thì không sao kể xiết. Trong số những người lao động và binh lính An Nam ấy, đã có hàng mấy chục ngàn người ra đi mà không bao giờ còn trở lại quê hương đất nước của họ nữa, chỉ vì một lý do rất đơn giản là họ đã chết. Kẻ này thì chết vì bị tai nạn đi đường, vì công việc nặng nhọc quá sức, vì chưa thạo nghề ở trong các công binh xưởng hoặc vì những sự hành hạ tàn bạo trong các trại lính; người kia thì bị chết trong cuộc chém giết khổng lồ của châu Âu trên đất Pháp và trên những cánh đồng đầy bệnh ôn dịch của các nước vùng Bancăng. Trong giờ phút này, chỉ cần chúng ta đi qua miền Bắc nước Pháp là sẽ gặp ngay hàng ngàn người An Nam xấu số đương phải làm những công việc đào và đắp đất. Họ chẳng khác gì những đoàn người nô lệ tù đày thật sự, chỉ còn thiếu có xiềng xích ở chân mà thôi, bởi vì người ta không sợ họ bỏ trốn. Liệu nước Pháp sẽ làm được gì đối với Đông Dương để có thể so với lòng hào hiệp của nước Nhật đối với Triều Tiên? Báo Le Populaire, ngày 4-9-1919. NGUYỄN ÁI QUỐC
THƯ GỬI ANBE XARÔ Pari, ngày 7-9-1919 Kính gửi Ngài Anbe Xarô, Toàn quyền Đông Dương (1) Thưa ngài Toàn quyền! Tiếp theo cuộc trao đổi với Ngài hôm qua, tôi xin phép gởi đến Ngài kèm theo đây bản trình bày các yêu cầu của người An Nam. Vì Ngài có nhã ý nói với tôi rằng Ngài luôn luôn muốn làm sáng tỏ mọi vấn đề, tôi xin phép yêu cầu Ngài cho biết là trong 8 điểm yêu cầu của chúng tôi có điểm nào đã được thực hiện, và chúng tôi phải liên hệ với những tư liệu nào để chứng minh điều đó. Vì tôi xin khẳng định là cả 8 điểm đều còn nguyên vẹn và chưa có điểm nào được giải quyết một cách thoả đáng. Xin Ngài vui lòng tiếp nhận. KÝ TÊN: NGUYỄN ÁI QUỐC Số 6, biệt thự đờ Gôbolanh, Pari 13 In trong sách Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.71. Ghi chú: (1) Lúc này Anbe Xarô là Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn ghi là Toàn quyền Đông Dương (BT).
THƯ GỬI ÔNG UTƠRÂY (1) BIARIT, ngày 16 tháng 10 năm 1919 Ông Utơrây, Đang nghỉ mát xa Pari, mãi tới hôm nay tôi mới được tin về các cuộc thảo luận của Nghị viện ngày 18 tháng 9, ở đó, ông đã công kích tôi kịch liệt và thô bỉ. Tôi không hơi đâu nêu ra đây những lời thoá mạ từ miệng ông phun ra, nếu không vì trong khi công kích tôi, thì đồng thời ông cũng đã công kích tờ nhật báo đáng tôn kính đã rộng lượng dành những cột báo cho bài viết gần đây của tôi. Các bài viết của tôi đều có ký tên, và tôi đàng hoàng đòi cho riêng mình trách nhiệm về các bài báo đó. Ông hiểu rằng một tờ báo Pháp xứng đáng với cái tên của nó phải tiếp nhận một cách vô tư mọi sự thật, bất kể từ phía nào tới, dù những sự thật đó làm phật ý những kẻ bị vạch mặt. Trong các bài viết của mình, tôi không có những giả thiết vô căn cứ, tôi chỉ đưa ra những sự việc chính xác mà ông đều biết và ông đã không tranh cãi, vì ông không thể tranh cãi nổi. Trong những điều kiện như vậy, không phải tôi định bút chiến với ông, tôi chỉ muốn nhã nhặn và ôn hoà đặt ra cho ông vài câu hỏi. Tôi sẽ tránh không nổi nóng la lối chửi rủa, đáp lại sự thô tục bằng sự thô tục, vì như vậy là tự hạ giá mình: không phải hễ cứ ném được bùn lên địch thủ là mình có lý đâu. Trước hết, ông đã nói và nhắc lại rằng tôi bị truy nã bên Đông Dương vì các hoạt động chống Pháp. Này! Xin ông hãy cho tôi biết là vào lúc nào, do toà án nào, và hoạt động chống Pháp đó là gì? Đó là câu hỏi đầu tiên. Nếu ông không thể trả lời câu hỏi trên cho thoả đáng, nghĩa là có bằng cứ chứng minh, thì cho phép tôi hỏi ông rất nhã nhặn rằng kẻ nào trong hai ta, người vu khống hay người bị vu khống, xứng đáng với danh hiệu thằng khốn nạn? Tôi rất muốn chọn cho ông một tính ngữ đúng với đặc tính của ông mà không làm ông phật ý, nhưng tôi không tìm thấy trong từ vựng tiếng Pháp những từ nào khác thật thích đáng ngoài từ thằng nói láo, và tôi buộc phải nói với ông, không chút thù hằn và sợ hãi, mà thẳng thắn và mặt đối mặt, rằng ông đã nói láo, rằng ông là một thằng nói láo. Tôi đoán trước được chiến thuật của ông và tôi làm cho nó mất hiệu lực ngay từ đầu: ông đừng trốn nấp đằng sau thái độ trịch thượng và khinh bỉ. Nhân cách của ông và của tôi đều không liên quan gì đến vấn đề này: đây chỉ là việc xác minh sự thật và chỉ có sự thật mà thôi. Bây giờ tôi nói thêm: giá như tôi đã bị truy nã hay bị kết án đi nữa ở bên Đông Dương về cái mà bọn thực dân Pháp vô liêm sỉ gọi là chống Pháp thì tôi cũng chẳng có gì phải hổ thẹn, trái lại tôi còn tự hào về việc đó: vì đối với bọn thực dân, chống Pháp có nghĩa là công khai tố cáo những ý định vô nhân đạo và những hành động chúng không dám thú nhận, những ý định làm tổn thương nghiêm trọng đến danh tiếng tốt đẹp của nước Pháp cao thượng và phản lại một cách bỉ ổi những lý tưởng cao cả về tự do và công lý mà toàn thế giới nhìn nhận ở nước Pháp. Vâng, thưa ông Utơrây, có những lời kết án làm vẻ vang chứ không làm ô nhục. Ông có những ví dụ về điều này trong mọi thời đại và ở mọi nước, ông có thể tìm được dễ dàng những ví dụ đó ngay trong lịch sử nước Pháp. Những hoạt động chống Pháp! Không ai mắc lừa nữa đâu! Đã đến lúc phải kiếm những lý do khác thôi!... Ông lại nói tiếp rằng: "Với tư cách đại biểu Đông Dương, tôi không thể chấp nhận trong Nghị viện này dư luận cho rằng xứ Đông Dương bị nước Pháp ngược đãi và người An Nam không được hưởng mọi quyền tự do phù hợp với sự phát triển chính trị của đại chúng. Đông Dương dưới sự che chở của nước Pháp đang đi theo số phận của nó trong hoà bình, và chứng cớ hùng hồn nhất rằng nó hạnh phúc, thưa các ngài, các ngài đã từng được chứng kiến qua nhiệt tình của người An Nam sang bảo vệ nước Pháp trong cơn nguy biến"(2). Ông đại diện cho ai. Phải chăng là cho hai mươi triệu người An Nam không hề biết ngay cả tên của ông, trừ vài công chức hay vài tên xin xỏ hay là cho một nhúm cử tri của ông ở Nam Kỳ? Đừng nói là xứ Đông Dương bị nước Pháp ngược đãi, mà phải nói là nó bị những người Pháp xấu sống bám vào nó ngược đãi; hai việc ấy không phải là một. Ông có nắm được sự khác biệt đó hay không? Vì ông đã nói đến tự do và hoà bình trong câu dẫn ở trên, vậy cho tôi hỏi ông rằng: sau khi so sánh với chế độ báo chí do Đạo luật ngày 29 tháng 7 năm 1881 quy định, liệu người ta còn có thể chống chế được nữa không rằng chế độ báo chí bản xứ do Sắc lệnh ngày 30 tháng 12 năm 1918 và các điều khoản 214 đến 217 của Luật hình An Nam mới ban hành (Journal officiel de l'Indochine - Française, số ngày 1 tháng 8 năm 1917) không phải là một chế độ hoàn toàn khoá miệng và bưng bít sự thật và vì vậy, nó không xác nhận từ đầu đến cuối những điều tôi đã nói về nan nhồi sọ dân da vàng trong bài báo của tôi mà nhân đó ông đã nham hiểm cáo giác tờ Le Populaire' trước Nghị viện. Xin ông hiểu cho rằng, tôi không làm cái việc cãi nhau với ông về ngôn từ: tôi đưa ông trở về với các văn bản. Ông nhồi sọ dân da vàng chúng tôi, như bọn Đức đã từng cố nhồi sọ những người da trắng trong vùng Ácđen (3) nhưng vô hiệu và xin ông nhớ cho rằng, trong số cộng tác viên của chúng, có một trong số các bạn đồng nghiệp cũ của ông ở các cơ quan dân sự các thuộc địa, anh ta là học trò được cấp bằng của Trường Thuộc địa. Ái chà! Ông thích viện dẫn các hoạt động chống Pháp! Thì đấy, vả lại là những thứ chính cống. Khôn ngoan hơn là ông hãy im đi, đừng nói về việc sử dụng người An Nam trên đất Pháp. Phải chăng khi Chính phủ tham khảo ý kiến của tướng Pennơcanh và một tướng khác về vấn đề này thì ông đã kiên quyết chống lại việc thi hành bản dự án, cho rằng dự án không thể thực hiện được, rằng bên đó không đủ lính An Nam để bảo vệ Đông Dương, vân vân và vân vân... Ông sợ đồng bào tôi, trong thời gian ở Pháp, không khỏi không so sánh thái độ kiêu căng của những người Pháp ở Đông Dương với sự nhã nhặn tuyệt vời và phép lịch sự cao quý của những người Pháp chân chính trên đất Pháp. Uy thế của bọn thực dân trước đã, sau đó mới đến Tổ quốc, có phải vậy không? Còn về vấn đề hoà bình, tôi bỏ qua cho ông rất nhiều sự việc khác, và không phải là những việc nhỏ đâu, tôi chỉ xin hỏi: liệu ông có thể phủ nhận hai sự việc lớn xảy ra trong chiến tranh không? Đó là mưu toan nổi dậy của Duy Tân, sau đó, ông vua khốn khổ mất nước bị đày ra đảo Rêuyniông, và việc người An Nam chiếm tỉnh Thái Nguyên. Ông bảo xứ Đông Dương đang đi theo số phận của nó một cách yên ổn. Phải chăng ông không nhìn thấy rằng, ngay trong cái cung điện Huế cũ kỹ và tối tăm, mà cuộc sống tù hãm, trụy lạc đã nhấn chìm những người sống trong đó vào sự nhu nhược, đến nỗi họ dửng dưng trước mọi việc diễn ra bên ngoài, cũng không phải không có ý định hướng số phận đất nước theo cách khác mà ông chẳng thích. Điều đó chứng tỏ rằng, người ta đã chán ngấy những cung cách tàn bạo mà ông là kẻ biện hộ. Ông đã viện dẫn ông Anbe Xarô và tất cả những người An Nam suốt ba mươi năm nay đã nuôi sống ông như một con mọt ngân sách bằng những khoản thuế do họ đóng góp, mà ông không biết. Ông hãy tỉnh ngộ đi, ông Anbe Xarô đối với tôi không xa lạ gì. Giữa các ý kiến của ông và của ông Anbe Xarô có cả khoảng cách của hai đối cực. Trong dân chúng An Nam, người ta đồn rằng ông dòm ngó cái ghế Toàn quyền Đông Dương và họ run sợ khi nghĩ đến tai họa mà Chính phủ "mẫu quốc" sẽ gây ra một cách vô ý thức cho dân An Nam nếu cử ông làm người kế vị ông Anbe Xarô. Tôi đã có ý kiến về chính sách cai trị của ông Xarô khi tôi tuyên bố hoàn toàn ủng hộ những lời phát ngôn của vị nghị sĩ xã hội đáng kính Mariuýt Mutê được tất cả đồng bào tôi rất yêu mến và kính trọng: yêu mến và kính trọng chỉ vì ông ta bênh vực sự nghiệp chung của nước chúng tôi, ông ta không có và không bao giờ như ông, cứ muốn có những quan hệ với chính quyền thuộc địa đã cho phép ông có thể mua chuộc vài công chức và vài tên An Nam quen thói xin xỏ, bằng những ân huệ nhỏ mọn. Sau những văn bản và sự kiện cụ thể tôi nêu ra ở trên, liệu ông có còn tiếp tục khăng khăng rằng các công dân Mutê và Lôngghê đã nói những điều sai trái nữa hay thôi? Xin chào ông. NGUYỄN ÁI QUỐC Tài liệu đánh máy, tiếng Pháp. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh. Ghi chú: (1) Có hai bản Thư gửi ông Utơrây: một bản đăng báo Le Populaire, ngày 14-10-1919; một bản đề ngày 16-10-1919, lưu tại Kho Lưu trữ quốc gia Pháp. Nội dung cơ bản giống nhau, nhưng bản đề ngày 16-10-1919 dài hơn, phong phú hơn (BT). (2) Chỉ những người Việt Nam bị bắt đi lính chiến và lính thợ sang Pháp và một số thuộc địa của Pháp, tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất (BT). (3) Tên một quận ở miền Đông Bắc nước Pháp, bị Đức chiếm trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (BT).
Ở ĐÔNG DƯƠNG Chúng tôi vừa nhận được bức thư sau đây mà không cần nhấn mạnh điều lợi hại trong đó. Ở đây (Hải Phòng) cũng có những cuộc bãi công của thuỷ thủ. Chẳng hạn như ngày thứ năm (15-8), hai chiếc tàu biển nhổ neo để chở một số lớn lính khố đỏ An Nam đi Xyri. Nhưng thuỷ thủ không chịu đi, vì người ta không chịu phát lương cho họ bằng tiền Đông Dương. Theo giá thị trường, một đồng Đông Dương bằng 10 phrăng, chứ không phải 2 phrăng 50. Thế mà các công ty hàng hải lại làm một việc hà lạm trắng trợn là định trả lương cho thuỷ thủ bằng phrăng, chứ không trả bằng tiền Đông Dương như đã trả cho công chức. Thế là người ta liền xua tất cả mọi người ở dưới tàu lên, rồi lập tức bắt hết các thuỷ thủ. Rõ ràng là thuỷ thủ biển Vàng chẳng có gì phải so bì với thuỷ thủ biển Đen. Chúng tôi cực lực phản đối việc đưa lính An Nam sang Xyri. Phải chăng các nhà cầm quyền cấp cao cho rằng bao nhiêu anh em da vàng xấu số của chúng tôi bị giết hại trên các chiến trường từ năm 1914 đến năm 1918, trong cuộc chiến tranh "vì văn minh và công lý" vẫn chưa đủ sao? Ở Đông Dương, chúng ta đang sống dưới sự "bảo hộ" của nước Pháp. Bảo hộ có nghĩa là che chở. Nước Pháp đang để cho hàng triệu anh em chúng ta chết đói, trong khi đó hàng nghìn người khác bị đưa sang Tiểu Á làm bia đỡ đạn. Người ta che chở cho chúng ta như vậy đó! NGUYỄN ÁI QUỐC Báo L'Humanité, ngày 4-11-1920.
THƯ GỬI ĐỒNG BÀO Pari, ngày 27 tháng 11 năm 1920 Đồng bào, Tôi có lại nơi đồng bào Phan Văn Trường ở thăm (đồng bào ấy đi vắng) thì người ta có đưa cho tôi cái thơ của đồng bào (5f (1)) và một cái phong bì recommandés). Tôi tiếc không có thể mua được 2 quyển sách đồng bào dặn. Khi nào có dịp (2) gặp nhau tôi sẽ xin thêm ít quyển và gởi cho đồng bào. Nhưng mà sự ấy không chắc lắm. Tôi thiết tưởng đồng bào làm thế này thì cũng tốt, chuyền tay nhau mà xem, người này xem rồi trao cho người khác. Nếu đồng bào có tin tức gì hay, chắc chắn, có quan hệ cho xứ sở mình, xin đồng bào luôn gởi cho tôi, thì tôi cảm ơn lắm. Đồng bào ở đó thường thường gặp được người nước ta qua lại, và thơ tín cũng dễ dàng, nếu đồng bào có lòng giúp đỡ cho xứ sở bằng khen sự lành làm cho anh em nhà mình, và chê sự giữ gia cho Tổ quốc mình, v.v., và cố ý hỏi dò, thì tôi chắc đồng bào sẽ biết được nhiều sự mới và hay đặng bảo tôi, rồi tôi lại nói ra hoặc viết ra cho người khác biết, thế thì có ích lắm. Xin chúc đồng bào bình an. NGUYỄN ÁI QUỐC Tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, lưu tại Viện Lịch sử Đảng. Ghi chú: (1) 5f: 5 phrăng (BT). (2) Nguyên bản: có nhịp (BT)
CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA (1) Đã từ lâu, chủ nghĩa tư bản phương Tây như con rắn nhiều đầu, thấy châu Âu là nơi quá chật hẹp để bóc lột và máu của vô sản châu Âu không đủ dồi dào để thoả mãn thèm khát, nó bèn vươn những cái vòi khủng khiếp của nó tới khắp nơi của quả đất. Bọn tư bản Anh, Đức hoặc Pháp, tất cả đều tương xứng nhau, tương xứng nhau cũng như tội ác của chúng, duy bọn tư bản của những nước khác ít nhất còn biết e thẹn không tô vẽ mục đích ích kỷ của chúng bằng cái tên rất kêu là "Sứ mệnh khai hoá". Nước Pháp thì, núp sau lá cờ ba sắc tự do, bình đẳng, bác ái, đang đưa vào các thuộc địa của nó rượu, thuốc phiện, mại dâm và gieo rắc nghèo đói, lụn bại và chết chóc cho dân bản xứ bên cạnh sự giàu sang kiếm được bằng cách bất lương của nó. Trước những hành vi ghê tởm ấy, Đảng Xã hội đã có một chính sách thuộc địa chân chính xã hội chủ nghĩa hay không? Không, chưa có bao giờ Đảng cố gắng giúp đỡ một thuộc địa nào để tự mình giải thoát bằng những phương tiện cách mạng. Sự bất động ấy có lẽ còn kéo dài nếu cuộc chiến tranh vì công lý không lột trần sự dối trá và đạo đức giả của chế độ dân chủ tư sản và nếu cuộc cách mạng Nga không lay động dữ dội chí khí của vô sản toàn cầu. Từ khi đa số của Đảng quyết định gia nhập Quốc tế Cộng sản và từ khi tại Đại hội lần thứ hai, Lênin đã đưa ra Bản luận cương về thuộc địa, các đồng chí chúng ta mới bắt đầu nói đến các thuộc địa. Trong số đó, có Ăngđrê Giuyliêng đã nghiên cứu rất kỹ vấn đề đó. Trong một bài báo ngày 2-12-1920 của đồng chí ấy đề cập đến các thành kiến, đồng chí ấy nói rằng có nhiều người xã hội chủ nghĩa sống ở các thuộc địa trong thâm tâm vẫn đang thành kiến sâu sắc đối với người dân bản xứ. Nói vậy chả hoá ra theo chủ nghĩa xã hội mà không xã hội chủ nghĩa. Một người còn giữ thành kiến với những người khốn khổ bị áp bức thì không xứng đáng với danh hiệu người xã hội chủ nghĩa, bởi vì tên đầy tớ ngoan ngoãn nhất của giai cấp tư sản cũng không kém cạnh gì. Tiếp đó, đồng chí ấy nói rằng, nhiều người dân bản xứ đến với chủ nghĩa xã hội ít vì gắn bó trí thức với những nguyên lý xã hội chủ nghĩa mà vì cốt tìm kiếm trong nghị viện, trong dư luận một sự ủng hộ chống bọn thực dân bóc lột họ. Nhưng mà nghĩa vụ của một người xã hội chủ nghĩa há chẳng phải tìm cách đánh bại kẻ bóc lột những anh em của mình hay sao. Hơn nữa, vì dám đương đầu với những sự doạ nạt của chủ, một người dân bản xứ đến với chủ nghĩa xã hội, không có ý nghĩ gì khác ngoài việc tìm kiếm sự ủng hộ chống lại bọn thực dân bóc lột, thì người đó tựu trung vẫn có một chất xã hội chủ nghĩa mà những phần tử cải lương ở các quốc gia tự do không có, bởi vì trong những vùng đất thiên đường là thuộc địa chỉ có luật lệ của chó sói ngự trị, riêng chữ người xã hội chủ nghĩa cũng đủ làm cho người mang chữ ấy bị sấm sét giáng lên đầu. Vả lại gắn bó bằng trí thức với những nguyên lý xã hội chủ nghĩa thì trước hết một người phải có cái đầu trên hai vai, phải thế không? Đề cập đến sự cần thiết đấu tranh với giới tu sĩ và những phần tử phản động thời trung cổ, ông bạn của chúng nói có phần quá đáng về ảnh hưởng của một ông quan tại Bắc Kỳ hay ảnh hưởng của giới quý tộc tại Angiêri. Nơi nào cũng vậy thôi, nếu không có những vệ tinh thì chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại. Sau khi dùng bọn tu sĩ, chủ nghĩa tư bản lựa chọn trong đám quan lại một tên đày tớ trung thành và dễ bảo. Tên này sống được là nhờ làm tay sai cho chủ nghĩa thực dân, nó đóng vai trò bẩn thỉu đi tố cáo với chủ hay làm mật thám cho chủ. Ảnh hưởng về tinh thần của nó ư, nó chẳng có mảy may, ngoài việc bị đồng bào của nó nguyền rủa và bị chính chủ nó khinh khi. Nhưng không nên bàn quá dài dòng về những việc nếu không phải đáng lưu ý thì cũng là những việc rất thứ yếu, kể từ khi có sự ra đời của một quốc tế duy nhất đúng, đó là Quốc tế Cộng sản. Ngày nay không còn là lúc phải đặt vấn đề Đảng có cần hay không cần có một chính sách thuộc địa, bởi ngày nay không thể có sự tách biệt giữa thuộc địa và chính quốc, giữa vô sản ở nơi này và vô sản ở nơi kia. Nhưng mà người ta phải tự hỏi tất cả những chiến công của thế giới đã sẵn sàng cho cuộc cách mạng thế giới hay chưa. Bởi vì chỉ có một nhân loại, một chủ nghĩa xã hội và một quốc tế cho toàn thể gia đình công nhân và quốc tế ấy sinh ra là để phá bỏ mọi chủ nghĩa tư bản, mọi chủ nghĩa đế quốc bất kể nó ở đâu tới, hoặc nó thế nào. Nghĩa vụ của đảng viên xã hội chúng ta là phải giúp đỡ lẫn nhau để nhanh chóng giành chiến thắng cách mạng ở khắp nơi và giải phóng sau chót tất cả tầng lớp lao động. Viết năm 1920. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Thông tin tư liệu, Bảo tàng Hồ Chí Minh, số 6-2004. Ghi chú: 1) Theo báo cáo của mật thám Pháp ngày 13-12-1920, đây là bài báo Nguyễn Ái Quốc viết cho báo Nhân đạo (L Humanité). Nguyễn Ái Quốc đã đưa bài báo này cho Palicô, một đảng viên có uy tín của Phân chi 13, Liên đoàn xã hội chủ nghĩa hạt Xennơ nhận xét trước khi gửi đăng báo (BT).
LỜI PHÁT BIỂU TẠI ĐẠI HỘI TOÀN QUỐC LẦN THỨ XVIII ĐẢNG XÃ HỘI PHÁP Chủ tịch(1). Đông Dương có ý kiến. (Vỗ tay). Đại biểu Đông Dương(2): Thưa các đồng chí, lẽ ra hôm nay, tôi đến đây là để cùng với các đồng chí góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới, nhưng với một nỗi đau buồn sâu sắc, tôi đến đây với tư cách là đảng viên xã hội, để phản kháng những tội ác ghê tởm trên quê hương tôi. (Tốt lắm!). Các đồng chí đều biết rằng chủ nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Tôi xin nhấn mạnh từ "đầu độc" bằng thuốc phiện, bằng rượu, v.v.. Trong vài phút, tôi không thể vạch được hết những sự tàn bạo mà bọn tư bản ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử. Cái gọi là công lý Đông Dương là thế đấy! Ở xứ đó, người An Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự bảo đảm như người châu Âu hoặc có quốc tịch châu Âu. Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu. Người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ. Thưa các đồng chí, hơn hai mươi triệu dân An Nam, bằng hơn nửa số dân nước Pháp, đã bị đối xử như vậy. Ấy thế mà họ lại là những người được nước Pháp bảo hộ! (Vỗ tay). Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức. (Hoan hô). Giăng Lôngghê: Tôi đã phát biểu ý kiến để bảo vệ những người bản xứ. Đại biểu Đông Dương: Ngay khi tôi bắt đầu nói, tôi đã yêu cầu mọi người tuyệt đối im lặng. (Nhiều tiếng cười). Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Chúng tôi thấy rằng việc Đảng Xã hội gia nhập Quốc tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể rằng từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Chúng tôi rất sung sướng khi nghe tin thành lập một đoàn đại biểu thường trực nghiên cứu về Bắc Phi, và mai đây, chúng tôi sẽ vui mừng nếu Đảng phái một đồng chí của Đảng để nghiên cứu tại chỗ những vấn đề ở Đông Dương và đề xuất những hoạt động cần phải tiến hành. Một đại biểu: Với đồng chí Ăngve Pasa?... Đại biểu Đông Dương: Im đi! Phái nghị viện. (Vỗ tay). Chủ tịch: Bây giờ, tất cả các đại biểu phải im! Kể cả những đại biểu không thuộc phái nghị viện! Đại biểu Đông Dương: Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi! (Vỗ tay). Chủ tịch: Qua những loạt vỗ tay tán thành, đại biểu Đông Dương có thể thấy rằng toàn thể Đảng Xã hội đều đứng về phía đồng chí để phản đối những tội ác của giai cấp tư sản. Trích Biên bản tốc ký Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, tiếng Pháp, Pari, 1921, tr.133-135. Ghi chú: 1) Chủ tịch phiên họp buổi chiều ngày 26-12-1920 là Emilo Gudo (BT). 2) Đại biểu Đông Dương là đồng chí Nguyễn Ái Quốc (BT).
10 TRƯỜNG HỌC, 1.500 ĐẠI LÝ RƯỢU KẺ ĐẦU ĐỘC NGƯỜI BẢN XỨ Ông Xarô tốt bụng, Bộ trưởng cấp tiến Bộ Thuộc địa, cái người bố thân yêu của dân bản xứ (ông ta nói thế), âu yếm người An Nam và được họ quý trọng. Để truyền thụ nền văn minh của Pháp mà ông ta là tác nhân chính, ông ta không lùi bước trước một cái gì hết, kể cả những hành vi hèn hạ và những tội ác. Đây là một bằng chứng: một lá thư mà với cương vị Toàn quyền Đông Dương và để cho phồng túi của những tên kẻ cướp ở thuộc địa và túi ông ta, ông ta gửi cho các viên chức cấp dưới: "Kính gửi ông Công sứ, "Tôi trân trọng yêu cầu ông hết sức giúp đỡ Nha thương chính đặt thêm đại lý thuốc phiện và rượu, theo chỉ thị của ông Tổng giám đốc Nha thương chính Đông Dương. "Để công việc tiến hành có kết quả, tôi xin gửi ông một bản danh sách những đại lý cần đặt trong các xã đã kê tên; tới nay phần đông các xã này vẫn hoàn toàn chưa có rượu và thuốc phiện. "Thông qua các quan và các xã trưởng Cao Miên, ông có thể dùng ảnh hưởng lớn của ông để làm cho một số tiểu thương người bản xứ thấy rằng buôn thêm rượu và thuốc phiện là rất có lợi. "Về phần chúng tôi thì những viên chức lưu động trong lúc đi kinh lý cũng tìm cách đặt đại lý, trừ khi nếu ông Công sứ muốn họ chờ ông vận động các quan chức địa phương trước đã, thì họ phải chờ. Trong trường hợp ấy, tôi xin ông vui lòng báo cáo cho tôi biết. "Chúng ta chỉ có thể đạt được kết quả mỹ mãn, nếu chúng ta đồng lòng phối hợp chặt chẽ và liên tục, vì lợi ích tối đa của công khố Ký tên: Anbe Xarô" Lúc đó có một nghìn năm trăm ty rượu và thuốc phiện cho một nghìn làng trong khi chỉ có mười trường học cũng cho bấy nhiêu làng. Ngay cả trước bức thư nổi danh đó, người ta đã cho 12 triệu người bản xứ - kể cả đàn bà và trẻ con - nốc 23 đến 24 triệu lít rượu mỗi năm. Lời bình luận nào cũng là thừa. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo La Vie Ouvrière, số 100, ngày 1-4-1921.
ĐÔNG DƯƠNG Tuy rằng Quốc tế Cộng sản đã làm cho vấn đề thuộc địa có được tầm quan trọng xứng đáng với nó bằng cách coi nó là thuộc về những vấn đề thời sự khẩn trương nhất, nhưng trong thực tiễn, các ban thuộc địa ở các cường quốc thực dân, cho đến nay, vẫn chưa quan tâm đến vấn đề này, thậm chí các ban này cũng chưa xem xét vấn đề một cách nghiêm túc! Sự không hoạt động này thật đáng ngạc nhiên, nhất là khi không còn sự tranh cãi nội bộ trong đảng đã được thanh trừ, và đáng ngạc nhiên khi vấn đề tuyển mộ người thuộc địa lại được chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc của chính quốc nghiên cứu ráo riết. Sự không hoạt động này có lẽ do các đồng chí chúng ta không hiểu biết tình hình chính xác của những xứ bị áp bức. Do vậy, tôi thấy có ích, nếu phác hoạ ngắn gọn ở đây tình hình của một trong những thuộc địa lớn nhất của nước Pháp, là Đông Dương. Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện nay đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói rằng Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta thường vẫn nghĩ như thế, thì lại càng sai hơn nữa. Sự thật là người Đông Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội họp, lập hội, đi lại đều bị cấm... Việc có những báo hoặc tạp chí mang tư tưởng tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là một tội nặng. Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của Chính phủ. Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại. Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn về thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bầy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương. Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ. Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ - bọn quan lại - cứ phụ trách giáo dục bằng phương pháp của chúng. Người Đông Dương tiến bộ một cách rất màu nhiệm và khi thời cơ cho phép họ sẽ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy của họ. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. NGUYỄN ÁI QUỐC Tạp chí La Revue Communiste, số 14, tháng 4-1921.
NHỮNG KẺ BẠI TRẬN Ở ĐÔNG DƯƠNG Trong thời gian chiến tranh vừa qua, cuộc chiến tranh vì chính nghĩa và công lý để cho các dân tộc giành quyền tự quyết, những người An Nam lại buộc phải tình nguyện sang bảo vệ nước mẹ (?). Bấy giờ người ta nói với họ như đã nói với người Pháp: "Bọn bôsơ(1) sẽ trả công!". Tuy nhiên, giờ đây hai năm sau chiến tranh, nước mẹ bị mắc nợ một cách thắng lợi, những khu nhà nghỉ mát đắt tiền của các quan chức cao cấp của Nhà nước không đem lại được bổng lộc bao nhiêu, và bọn bôsơ vẫn không trả gì. Bấy giờ, nước mẹ bảo hộ âu yếm quay về những đứa con nuôi của mình và nói một cách âu yếm hơn nữa: "Vì bọn Đức lật lọng không muốn trả, vậy thì các con, những kẻ lao động An Nam, hãy trả thay cho chúng". Nhưng hãy nghe lời nói của ông Xarô tốt bụng, trong một cuộc tranh luận về ngân sách thuộc địa, vị uỷ viên nhân dân thuộc địa đó đã tuyên bố: "Chừng nào mà xứ Đông Dương còn có thể tự đảm đương một số gánh nặng tài chính mà chính quốc không gánh vác nổi, xứ Đông Dương sẽ gánh vác, vì dù sao nước Pháp, chính quốc, đã cứu Đông Dương thoát khỏi sự tham lam của nước Đức". Nhân danh hàng nghìn người An Nam đã bỏ thây ở nước Pháp trong chiến tranh, tôi xin cám ơn ông, ông Xarô. Hãy tin chắc rằng chúng tôi biết rất rõ chính chiến thắng trên sông Mácnơ đã ngăn cản quân xung kích Đức tiến về sông Mê Kông, để truyền bá trên ruộng đồng chúng tôi chế độ dã man của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc Phổ. Nếu không có ngài và người thay mặt đáng kính của chúng tôi, ông Utørây, chúng tôi sẽ mất cái tự do thân yêu được say sưa bằng rượu cồn và cái bình đẳng quý giá được đầu độc bằng thuốc phiện; không có ngài, giai cấp vô sản bản xứ không còn được nhồi nhét vào tai những bài diễn văn hay ho và những lời hứa tốt đẹp được ngài ban cho một cách hữu ái; không có ngài.... Nhưng hãy cho qua và quay trở lại bài diễn văn của ngài. Ngài còn nói: "Tôi tin rằng trong một thời gian không xa nữa, xứ Đông Dương sẽ không tiêu mất một đồng xu nào nữa của chính quốc và nó sẽ tự hào và hạnh phúc được đem lại sự đóng góp của mình". Nhất định thế, đến thời kỳ đó, không còn xa lắm, như ngài nói, giai cấp vô sản chính quốc sẽ làm nhiệm vụ của mình: họ sẽ tổng cổ tất cả bọn ăn bám ra khỏi cửa; sau khi đã giải phóng mình, họ sẽ giải phóng những người anh em ở Đông Dương; được giải phóng khỏi ách đế quốc chủ nghĩa, nhân dân Đông Dương nhất định sẽ tự hào và hạnh phúc, tự hào và hạnh phúc hơn là ông tưởng, đem lại sự đóng góp của mình, cùng với những người lao động Pháp xây dựng Tổ quốc chung. Trong khi chờ đợi, hãy cứ bắt những người bại trận ở Đông Dương trả tiền. Ngài hãy khéo xoay xở theo phương pháp D(2). Nếu hòm tiền của nhân dân rỗng, thì còn có các lăng mộ của vua chúa. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo La Vie Ouvrière, số 101, ngày 8-4-1921. Ghi chú: (1) Boches: Tên gọi chế giễu và khinh bỉ của người Pháp đối với lính Đức (BT). (2) D: Viết tắt từ chữ débrouillard, có nghĩa là tháo vát, linh hoạt (BT).
QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH CHIẾN (1) "Những người lính chiến có quyền đối với chúng ta", ông Clêmăngxô, người cha của chiến thắng đã nói như vậy. "Những người lính chiến có quyền đối với chúng ta", những người con, những nạn nhân An Nam nhắc lại như vậy. Đối với ông Clêmăngxô, những người lính chiến có quyền thiêng liêng là chết đi để bảo vệ két sắt, những chiếc két sắt làm bằng mồ hôi thợ thuyền của họ và nhét đầy bằng máu binh lính của họ. Đối với người An Nam, thì những người lính chiến - hay những người còn lại trong số lính chiến trước kia - có quyền thiêng liêng được bọn tư bản thuộc địa ban cho, là duy trì nền văn minh tư sản, nghĩa là đầu độc người bản xứ sau khi đã giết hại một số lớn vì quyền lợi của tư bản. Theo báo chí Đông Dương, các môn bài bán lẻ thuốc phiện sẽ được cấp cho những quả phụ của binh lính Pháp chết trận và thương binh Pháp. Như vậy, Chính phủ thuộc địa đã làm một việc mà phạm hai tội ác phản nhân loại. Một mặt, họ thấy tự mình làm công việc đầu độc bẩn thỉu đó chưa đủ, họ muốn lôi kéo thêm những nạn nhân khốn khổ của họ trong cuộc chém giết huynh đệ tương tàn tham gia vào. Mặt khác, họ đánh giá quá thấp tính mệnh và xương máu của những kẻ bị họ lừa bịp, mà họ tưởng rằng vứt cho mẩu xương thừa đó là có thể đủ đền bù sự mất mát một cẳng tay cẳng chân hay cái tang của một người chồng. Chúng tôi tin rằng những thương binh và những quả phụ sẽ đá tung món quà hội hám đó và sẽ công phẫn nhổ vào mặt những kẻ đã đề xướng việc đó; và chúng tôi chắc chắn rằng cả thế giới văn minh và những người Pháp lương thiện sẽ cùng với chúng tôi lên án bọn cá mập ở các thuộc địa đã không ngần ngại đầu độc cả một chủng tộc để làm đầy túi tiền của mình. NGUYỄN ÁI QUỐC Báo La Vie Ouvrière, số 105, ngày 7-5-1921. Ghi chú: (1) Les poilus: Tên gọi hài hước dùng để chỉ lính Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, có nghĩa là "những kẻ lông lá" (BT).
ĐÔNG DƯƠNG (1) Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không? Đấy là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm hiện nay. Muốn hiểu vấn đề đó, chúng ta phải xem xét tình hình hiện nay ở lục địa châu Á về mặt lịch sử và địa lý. Lục địa rộng lớn đó có diện tích 80 lần lớn hơn nước Pháp (45.000.000 km), với dân số gần 800 triệu người, có một cơ cấu chính trị tương đối phức tạp. Trong tất cả các nước châu Á, Nhật Bản là nước duy nhất mắc phải một cách trầm trọng nhất chứng bệnh truyền nhiễm là chủ nghĩa tư bản đế quốc. Từ chiến tranh Nga - Nhật, chứng bệnh đó diễn biến ngày càng nguy kịch, lúc đầu bằng sự thôn tính Triều Tiên, tiếp đấy là sự tham gia vào cuộc chiến tranh "vì chính nghĩa". Để ngăn cản nước Nhật trượt dài đến vực thẳm của hiện tượng phương Tây hoá không thể cứu vãn nổi, nghĩa là để phá tan chủ nghĩa tư bản trước khi nó có thể bắt rễ sâu vào quần đảo Nhật Bản, một đảng xã hội vừa được thành lập. Cũng như tất cả các chính phủ tư sản, Chính phủ Thiên hoàng đã dùng mọi cách mà chúng có thể để chống lại phong trào đó. Cũng như tất cả các lực lượng công nhân ở châu Âu và châu Mỹ, phong trào công nhân Nhật Bản cũng vừa thức tỉnh. Mặc dù sự đàn áp của Chính phủ, phong trào do Đảng Xã hội Nhật Bản lãnh đạo vẫn phát triển khá nhanh. Các đại hội đảng bị cấm ở các thành phố Nhật Bản, những cuộc đình công, những cuộc biểu tình của dân chúng vẫn nổ ra. Trung Quốc, trước kia và hiện nay vẫn là con bò sữa của tư bản Âu, Mỹ. Nhưng sự thành lập chính quyền của nhà cách mạng Tôn Dật Tiên ở phía Nam, đã hứa hẹn với chúng ta một nước Trung Hoa được tổ chức lại và vô sản hoá. Có thể hy vọng một cách không quá đáng rằng, trong một tương lai gần đây, hai chị em - nước Trung Hoa mới và nước Nga công nhân - sẽ nắm tay nhau trong tình hữu nghị để tiến lên vì lợi ích của nền dân chủ và nhân đạo. Bây giờ, chúng ta hãy đi đến châu Á đau khổ. Nước Triều Tiên nghèo đói đang ở trong tay chủ nghĩa tư bản Nhật. Ấn Độ - xứ Ấn Độ đông dân và giàu có - bị đè nặng dưới ách bọn bóc lột người Anh. May sao, ý chí giải phóng đang làm sôi sục tất cả những người bị áp bức đó, và một cuộc cổ động cách mạng sôi nổi đang lay chuyển tinh thần Ấn Độ và Triều Tiên. Tất cả mọi người đều chuẩn bị một cách từ từ nhưng khôn khéo cho cuộc đấu tranh tối cao và giải phóng. Và Đông Dương! Xứ Đông Dương bị chủ nghĩa tư bản Pháp bóc lột, để làm giàu cho một số cá mập! Người ta đưa người Đông Dương vào chỗ chết trong cuộc chém giết của bọn tư bản để bảo vệ những cái gì mà chính họ không hề biết. Người ta đầu độc họ bằng rượu cồn và thuốc phiện. Người ta kìm họ trong ngu dốt (cứ 10 trường học thì có 1.000 đại lý thuốc phiện chính thức). Người ta bịa đặt ra những vụ âm mưu để cho họ nếm những ân huệ của nền văn minh tư sản ở trên máy chém, trong nhà tù hay đày biệt xứ! 75 nghìn kilômét vuông đất đai(2), 20 triệu dân bị bóc lột tàn nhẫn trong tay một nhúm kẻ cướp thực dân, đấy là xứ Đông Dương hiện nay. Bây giờ hãy xét những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu. Người châu Á - tuy bị người phương Tây coi là lạc hậu - vẫn hiểu rõ hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiện tại. Và đây là lý do tại sao: Gần 5.000 năm trước đây, Hoàng đế (2.679 trước C.N) đã áp dụng chế độ tỉnh điền: ông chia đất đai trồng trọt theo hai đường dọc và hai đường ngang. Như vậy sẽ có chín phần bằng nhau. Người cày ruộng được lĩnh mỗi người một phần trong 8 miếng, miếng ở giữa tất cả đều cùng làm và sản phẩm được sử dụng vào việc công ích. Những đường phân giới được dùng làm mương dẫn nước. Triều đại nhà Hạ (2.205 trước C.N) đặt ra chế độ lao động bắt buộc. Khổng Tử vĩ đại (551 trước C.N) khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản(3). Ông từng nói: thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu, chỉ sợ có không đều. Bình đẳng sẽ xoá bỏ nghèo nàn, v.v.. Học trò của Khổng Tử là Mạnh Tử, tiếp tục tư tưởng của thầy và vạch ra một kế hoạch chi tiết để tổ chức sự sản xuất và tiêu thụ. Sự bảo vệ và phát triển lành mạnh của trẻ em, sự giáo dục và lao động cưỡng bức đối với người lớn, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám, sự nghỉ ngơi của người già, không có điều gì đề án của ông không đề cập đến. Việc thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải cho một số đông mà cho tất cả mọi người, đấy là đường lối kinh tế của vị hiền triết. Trả lời một câu hỏi của vua, ông đã nói thẳng thắn: dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh(4). Về của cải tư hữu, luật pháp An Nam cấm mua bán toàn bộ đất đai. Hơn nữa, một phần tư đất trồng trọt bắt buộc phải để làm của chung. Cứ ba năm người ta chia lại ruộng đất đó. Mỗi người dân trong xã thôn được nhận một phần. Điều đó không hề ngăn cản một số người trở nên giàu có, vì còn ba phần tư đất đai khác có thể mua bán, nhưng nó có thể cứu nhiều người khác thoát khỏi cảnh bần cùng. Cái thiếu đối với chúng tôi, mà trách nhiệm của chúng tôi phải nói lên ở đây để những đồng chí của chúng ta có nhiệt tình truyền bá chủ nghĩa cộng sản và thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của những kẻ bóc lột và đi vào gia đình chung của giai cấp vô sản quốc tế, để cho những đồng chí đó có thể giúp đỡ chúng tôi một cách có hiệu quả. Cái mà chúng tôi thiếu để trở thành cộng sản, là những điều kiện cơ bản nhất để hành động: Tự do báo chí, Tự do du lịch, Tự do dạy và học, Tự do hội họp (tất cả những cái này đều bị những kẻ khai hoá thuộc địa ngăn cấm chúng tôi một cách dã man). Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. NGUYỄN ÁI QUỐC Tạp chí La Revue Communiste, số 15, tháng 5-1921. Ghi chú: (1) Trong lần xuất bản thứ hai, tên bài này là “Phong trào cộng sản quốc tế”. Thực ra, đó là tên chuyên mục của báo. Lần xuất bản này, chúng tôi lược bỏ tên chuyên mục, chỉ giữ lại tên bài (BT). (2) Số liệu này có thể do báo in nhầm. Diện tích Đông Dương là 745.000 km2 (BT). (3) Bản chất học thuyết của Khổng Tử là nặng về đẳng cấp, đề cao tầng lớp thống trị. Ở đây nêu lại thuyết đại đồng của Khổng Tử là Nguyễn Ái Quốc muốn gắn với cuộc đấu tranh vì sự công bằng và bình đẳng trong xã hội thuộc địa (BT). (4) Có thể hiểu là: Dân là quý, xã tắc đứng thứ hai, vua xem là nhẹ (BT).
ĐÔNG DƯƠNG Trò hề cai trị. Nam Kỳ bị cai trị bởi một viên Thống đốc do sắc lệnh của Tổng thống nước Cộng hoà bổ nhiệm. Viên quan chức cao cấp ấy trong chức trách cao cả của mình, được sự giúp đỡ của một hội đồng hỗn hợp. Hội đồng thuộc địa, mà chức năng chủ yếu, quan trọng bậc nhất, không nghi ngờ gì, là hằng năm định ra ngân sách cho xứ thuộc địa. Xin nói ngay rằng nguồn thu của ngân sách ấy là dựa vào các khoản thuế trực thu hoặc gián thu do người An Nam nộp; các khoản chi dự kiến trong ngân sách ấy trên nguyên tắc (chứ không bao giờ trên thực tế) phải do người An Nam thực hiện; tóm lại, quyền lợi của người An Nam được giao phó cho một Hội đồng thuộc địa. Thế nhưng, cái Hội đồng thuộc địa quý hoá ấy lại bao gồm nhiều người Pháp hơn là người An Nam, 18 uỷ viên Hội đồng là người Pháp, trong đó 12 uỷ viên được bầu ra và 6 uỷ viên là đại biểu của các công ty khác nhau, của Phòng Thương mại, của Phòng Canh nông, v.v., và 6 uỷ viên Hội đồng là người An Nam. Cứ cho rằng lúc nào cũng đủ mặt đi nữa thì 6 phiếu của người An Nam có thể nào chống lại 18 phiếu của người Pháp? Vì thế mà viên Thống đốc cứ việc ghi vào ngân sách tất cả những gì mà ông ta thích và ông ta tin chắc rằng các mục trong đó đều đã được biểu quyết trước. Vả lại, đó cũng là điều ông ta đã làm trong ba phần tư thời gian, và cũng chính vì thế mà năm 1905, ông quyền Thống đốc Utørây, nay là nghị sĩ Pháp ở Nam Kỳ, đã tăng thuế điền thổ vốn đã quá nặng, lên một trăm phần trăm. Việc tăng thuế này đã làm cho ông Utorây trở thành bất tử trong trí nhớ của người An Nam, và đã làm cho các uỷ viên Hội đồng người bản xứ chúng tôi phải nhất loạt từ chức. Cần gì, Utơrây thay luôn họ bằng những người khác mà ông ta đích thân áp đặt cho các cử tri người An Nam. Một trong các tay chân của ông ta là viên quan cai trị Maxpêrô (tỉnh Biên Hoà) chẳng đã bắt giam tất cả cử tri của tỉnh Biên Hoà trước ngày bỏ phiếu để ngăn không cho họ tiếp xúc với những người ứng cử đó sao? Như vậy là người ta đã đe doạ trừng phạt, buộc họ phải bầu cho ứng cử viên của Utơrây là Bùi Thế Khan, nhằm ngăn cản việc đưa lại một uỷ viên Hội đồng đã từ chức là ông Hoài, người đã có lỗi là không làm theo ý muốn của Utơrây. Nước Cộng hoà Pháp có nghĩ rằng những lạm dụng như vậy đã phạm nhân danh mình không? Và cái cơ quan quý hoá ấy . Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ . chẳng phải là một trò hề thực sự sao? Thưa ngài Anbe Xarô, cha của những người An Nam, ngài đã hứa thực hiện những cải cách tự do có lợi cho họ! Ngài đã hứa thu nhận họ rộng rãi hơn vào việc quản lý quyền lợi riêng của họ! Đây chính là một dịp tốt để ngài giữ lời hứa của mình. Ngài còn tìm kiếm gì và chờ đợi gì nữa? AN NAM Viết vào khoảng tháng 5-1921. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Tạp chí Cộng sản, số 5-1993.
VỤ ÂM MƯU Ở ĐÔNG DƯƠNG Đông Dương là một cô gái cưng. Cô rất mực xứng đáng với bà mẹ Pháp quốc. Ở bà mẹ có cái gì thì cô ta cũng có cái nấy: nào Chính phủ, nào những bảo đảm, nào công lý và cũng có cả âm mưu phiến loạn nho nhỏ nữa. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ nói về hai vấn đề sau thôi. Công lý được tượng trưng qua hình ảnh một nữ thần tay cầm cân và tay cầm kiếm. Nhưng Đông Dương lại ở quá xa nước Pháp, muôn trùng cách trở, nên khi nữ thần tới xứ này thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng và biến thành những tẩu thuốc phiện và những chai rượu ty. Trên tay nữ thần tội nghiệp ấy chỉ còn độc cái kiếm để chém giết. Bà đã chém những người vô tội và cũng chỉ chém có họ mà thôi! Còn về vụ âm mưu thì lại là một câu chuyện khác. Ở đây, chúng tôi không nói về những vụ âm mưu nổi tiếng trong năm 1908 hay 1916(1). Lúc đó, nhiều thần dân bảo hộ số đỏ của nước Pháp đã được may mắn nếm đủ mùi ân huệ của nền văn minh thực dân hiền hoà trên máy chém, trong nhà tù hay ở những nơi bị đưa đi đày. Những vụ âm mưu ấy đã qua lâu rồi, và bây giờ chỉ còn lại những nét ảm đạm trong trí nhớ của người dân bản xứ đã héo mòn vì đau khổ. Hãy nói đến vụ âm mưu gần đây nhất. Trong khi ở mẫu quốc có một vụ âm mưu bônsêvích nổi tiếng thì ở Đông Dương các ngài thực dân cũng muốn có một vụ âm mưu tương tự và... cuối cùng các ngài ấy cũng nặn ra một vụ âm mưu thật sự, chẳng khác nào như trong câu chuyện ngụ ngôn con nhái muốn phình to bụng như con bò(2). Câu chuyện ấy đã được dựng lên như thế này: Một ngài quan Pháp (quan công sứ), một quan huyện và một thầy lý trưởng được giao trách nhiệm dựng lên một vụ âm mưu đúng quy cách. Để chuẩn bị ra biểu diễn, bộ ba tớ thầy ấy bèn tung ra cái tin: Có một âm mưu phiến loạn định làm nổ tan xứ Bắc Kỳ bằng 250 quả bom. Công việc chuẩn bị xong xuôi. Màn kịch kéo lên. Công chúng xúc cảm mạnh mẽ và dư luận xôn xao. Bắt bớ vây lùng dồn dập như mưa. Hiện nay, chúng ta chưa biết các ngài công sứ, quan huyện và thầy lý, một cựu phạm đã được thăng chức và ban bổng lộc gì chưa, nhưng nếu bây giờ chưa được thì rồi tất nhiên họ cũng sẽ được. Giờ đây, chúng tôi nói tiếp đến chuyện công lý. Ngày 16 tháng 2, Toà đại hình Hà Nội đã mở phiên toà cuối cùng xử vụ án này. Trong quá trình toà luận tội, người ta được biết rằng không hề có một tổ chức cách mạng nào đã chuẩn bị những bom phá đó, và vụ âm mưu ấy chỉ là một thủ đoạn xảo quyệt của bọn quan lại mong được chính phủ ban thưởng bổng lộc và chức tước. Như vậy, liệu chúng ta có thể tin tưởng rằng sau vụ xét xử ấy, người ta sẽ tha bổng cho những người An Nam chẳng may đã bị bỏ tù, bị tố giác tham gia vụ phiến loạn bịa đặt ấy không? Không đâu! Bất cứ bằng giá nào, người ta cũng phải bảo vệ uy tín cho các quan cai trị chứ! Vì thế, mà lẽ ra chỉ cần phong thưởng một cách bình thường cho những con người sáng tạo ra âm mưu ấy, thì người ta lại kết tội tù từ 2 đến 5 năm 12 người An Nam phần lớn là nhà nho, và trên tấm cổng lớn của nhà tù kia, người ta thấy đề rành rành mấy chữ đại tự, cố nhiên là bằng tiếng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Chao ôi! Nực cười thay. Và các báo chí xưa nay vẫn tự xưng là bênh vực cho người bản xứ vội vàng lên tiếng ca ngợi cái chí công vô tư của nền công lý nực cười này. Chúng ta hãy nghe tờ La Dépêche Coloniale" là tờ báo giữ vai trò vô địch về bài xích người An Nam, nói: "Toà án nước Pháp vừa mới xét xử xong một vụ án. Toà tha bổng cho một nửa số bị can, còn một nửa số thì được hưởng án nhẹ. Trong vụ án này, để có lý buộc tội, người ta đã tung dư luận rầm lên một cách thiên tư trước khi xử, và sau đó, người ta đã kết án các nhà nho làm những bài thơ tồi ca tụng công đức của nền tự do". Đó thật là tai vạ cho những người An Nam nào ca ngợi công đức của nền tự do. Người ta phạt họ 5 năm tù chỉ vì có thế thôi! Tờ báo ấy viết tiếp: "Đúng, ta phải bằng lòng với cái bản án chí công vô tư của các vị quan toà và thẩm phán của chúng ta chứ!". Và tờ La Dépêche Coloniale đã vui vẻ đăng tin bản án chí công vô tư về vụ âm mưu nổi tiếng ấy ở Vĩnh Yên. Những người An Nam ở Pari, cũng như đồng bào phương xa của họ tin tưởng các vị quan toà, họ đã tuyên bố các vị ấy xét xử rất công minh và vụ án được kết thúc mỹ mãn. Không phải như thế đâu, thưa ông Puvuốcvin, ông đã thổi phồng một cách quá đáng đấy! Để trả lời, chúng tôi chỉ xin nhắc lại điều mà ông đã viết trong phần đầu bài báo của ông: "Những con chó sủa, v.v., thôi đi, hỡi những người anh em bất hạnh, các anh em đã lầm to rồi, các anh em cũng thừa hiểu rằng làm gì có tự do cho chúng ta mà lại đi hoan nghênh với ca ngợi nó. Nhưng, người An Nam chúng tôi ở khắp mọi nơi, chúng tôi sẽ kiên quyết đưa sự bất công ghê tởm và phi lý ấy ra phản đối trước tất cả mọi người Pháp chân chính. Chúng tôi mong rằng dư luận nước Pháp thông cảm với những nỗi đau khổ của các anh em và sẽ đấu tranh đòi cho công lý được thực hiện". NGUYỄN ÁI QUỐC Tài liệu tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng. Ghi chú: (1) Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ, năm 1908 và vụ mưu khởi nghĩa ở Huế, năm 1916 (BT). (2) Truyện ngụ ngôn của La Phonogten: Một con nhái thấy con bò to hơn mình, liền cố phình bụng ra cho bằng con bò, cuối cùng vỡ bụng mà chết (BT).
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở ẤN ĐỘ Cuộc xung đột Hy Lạp - Kêman hay đúng hơn là cuộc xung đột Anh - Thổ đang diễn ra. Các cuộc khởi nghĩa ở Malaba' đang được dư luận hết sức chú ý. Đế quốc Anh đang phải chống đỡ khắp nơi. Nhắc lại lịch sử phong trào cách mạng Ấn Độ lúc này là một việc lý thú. Từ cuộc khởi nghĩa năm 1857, đế quốc Anh tưởng đã dìm được tinh thần cách mạng của nhân dân Ấn Độ trong cuộc đàn áp đẫm máu và thiết lập vĩnh viễn sự bóc lột áp bức dã man của phương Tây lên hai bờ sông Hằng. Chúng đã lầm to. Năm 1880, nhà triết học Rama Korisona dùng tôn giáo để truyền bá cách mạng. Ông tôn thờ nữ thần Kali và khuyên đồng bào mình tôn thờ nữ thần, người mẹ của lực lượng phá hoại và xây dựng. Đamôđa và Bankơrisơna kế tục sự nghiệp của Rama và giáo dục chủ trương cách mạng một cách dũng cảm, công khai. Tất nhiên cả hai đều bị bắt giữ và đày biệt xứ. Đến năm 1897 tờ báo Kêxari mới ra đời, người chủ trương là Tilắc. Bài báo đầu tiên của ông là bài văn xuất sắc "Lời than của Xiôgi". Nội dung kể chuyện một ông vua cũ tỉnh dậy từ dưới mồ sâu, trở lại thăm vương quốc thân yêu. Ông rất buồn khi thấy thần dân của mình phải chịu kiếp nô lệ khổ nhục. Ông kêu gọi tất cả những người Ấn Độ hãy thức tỉnh và hợp lực để lật đổ ách ngoại bang và giành lại nền độc lập mà ông đã truyền lại cho họ. Tờ báo thường xuyên phổ biến cho độc giả tìm hiểu phương pháp cách mạng Nga. Một phong trào giải phóng được lãnh đạo dũng cảm, cho đến khi tờ báo bị đình bản và chủ nhiệm bị đi đày. Nhân tiện xin nói rằng ở châu Á, người ta quan niệm sự chân thật và lương tâm nhà báo khác với châu Âu. Những nhà báo tư sản phương Tây sẽ cười nếu chúng ta nói với họ rằng phần lớn các bài ở các báo xã hội chủ nghĩa như tờ Kêxari, Vihari, v.v., đều viết không lấy tiền và đôi khi cả biên tập viên còn được trả công bằng những tháng, thậm chí bằng những năm tù. Đấy là trường hợp của tờ Vihari, ba biên tập viên đều bị bắt và lần lượt bị kết án. Nhưng điều đó không làm thay đổi thái độ lẫn cách suy nghĩ của họ. Trong số "người làm công", những ai có thể tự cho mình như thế? Cuộc vận động đặc biệt lên cao từ sau chiến tranh Nga - Nhật. Hai sự kiện tiêu biểu sau đây đánh dấu tình hình tư tưởng của người bản xứ. Tượng nữ hoàng Víchtôria bị bôi nhọ vào đêm trước lễ kỷ niệm ngày sinh của nữ hoàng. Bài hát Banđêmataran - bài Mácxâye của người Ấn Độ - được phổ biến nhanh chóng và được hát bằng tất cả các thổ ngữ của Ấn Độ. Những hội Amxilam Xanitơ - tổ chức rèn luyện tinh thần và thể lực - được thành lập khắp nơi như có phép lạ. Việc tẩy chay hàng hoá Anh và làm tan rã tinh thần các đơn vị lính bản xứ được nghiên cứu rất công phu. Những nỗ lực không ngừng đó đã đem lại kết quả. Tháng 1 năm 1915, nhiều trung đoàn nổi lên bạo động và do sự gián đoạn của mậu dịch Anh - Ấn, các ngân hàng thuộc địa ở khu Xiti đã bị thua thiệt một triệu phrăng do những cổ phiếu không được thanh toán trong năm 1920. Thảm họa của đất nước đã xoá bỏ sự phân biệt đẳng cấp và tôn giáo. Người giàu người nghèo, quý tộc và nông dân, Hồi giáo và Phật giáo, đều hợp sức đoàn kết. Nhiều nhân vật tiên tiến, nhiều giáo sư đại học như Hácđayan và những người khác đã hy sinh tài sản, đã từ chối những chức vụ cao mà Chính phủ thuộc địa muốn ban cho họ để dễ bề khuất phục. Họ đi từ làng này qua làng khác, kêu gọi đấu tranh cho độc lập. Sinh viên, học sinh cũng tham gia công tác tuyên truyền. Về phía mình, những chiến sĩ chủ trương hành động trực tiếp cũng không ngồi yên. Họ chịu trách nhiệm thủ tiêu những quan chức thiên vị, những kẻ phản bội và những tên ác ôn cảnh sát chính trị. Với những chức vị rất kêu, các phó vương và thống đốc cũng không làm cho họ sợ, những sự kiện năm 1907, 1908 và 190914 đã chứng minh điều đó. Năm 1916, một cậu bé 16 tuổi đã ném bom ngay giữa đường và giữa ban ngày vào xe của tên cầm đầu nổi tiếng của cục điều tra. Lòng dũng cảm không trừ già hay trẻ. Danh sách những người bị hy sinh kéo dài rất đau xót. Trong mười năm, không kể những vụ thảm sát tập thể, đã có hơn 200 người lấy máu đào tưới gốc cây cách mạng và lý tưởng. Trong số những người tuẫn tiết, có 70 sinh viên, 16 thầy giáo, 20 điền chủ, 23 hay 25 nhà buôn, 7 thầy thuốc, 20 công chức. Trong số những người hy sinh có 50 người tuổi chỉ từ 16 đến 20! Vì vậy mà bọn chủ hốt hoảng, gần như kinh hoàng. Một nhân vật thượng lưu đã thốt lên: "Nếu sự việc đó còn tiếp diễn, thì những người đáng kính của chúng ta buộc phải cuốn gói khỏi nơi này". Lúc đó, song song với bộ máy đàn áp thẳng tay, người ta thi hành một chính sách ngu dân hoàn toàn. Các hội "Xamiti" bị giải tán, hội viên bị bắt giam, mọi cuộc hội họp và các tổ chức chính trị đều bị ngăn cấm. Các biện pháp "cấp cứu" mọc lên như nấm. Trận mưa đàn áp đó chỉ làm cho hoa cách mạng thêm nở rộ. Một cuộc tổng khởi nghĩa đang được chuẩn bị trong năm 1914 và 1915. Không may cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Hàng trăm người lưu vong trở về nước với quyết tâm giáng một đòn đập tan ách thống trị đang đè nặng đất nước. Họ bị phát hiện và đều bị bắt giữ trước khi đặt được chân lên quê hương mà họ đã hứa hẹn sẽ giải phóng hoặc hy sinh. Một lần nữa, bọn kẻ cắp lại gặp may! Nhưng lò lửa đã nhóm lên, không gì có thể dập tắt nổi. Các khẩu hiệu được truyền từ người này qua người khác. Các hội "Xamiti" bí mật hội họp. Những cuộc lạc quyên vì độc lập được tiến hành nhanh chóng, hoặc là do tự nguyện đóng góp, đôi khi bằng hình thức "đai cốt". Chúng tôi thấy cần phải giải thích một tí về chữ "đaicốt", mà từ trước đến nay những người phương Tây thường hiểu sai. Người Anh gọi là "đaicốt" cũng như người Pháp gọi cướp bóc. Cả hai đều không hề phân biệt giữa sự cướp bóc với sự đóng góp đôi khi bắt buộc cho sự nghiệp chung, cũng như họ không hề phân biệt giữa những người yêu nước đấu tranh cho đất nước mình với bọn cặn bã ở thành thị. Muốn làm một việc gì, tất nhiên phải có tiền vốn, và muốn có vốn, phải biết nơi nào có để tìm. Để chứng minh sự cương trực của những hội viên "Xamiti" phụ trách tài chính của uỷ ban cách mạng, chỉ cần kể những thí dụ sau đây: Một trong những điều của điều lệ hội "Xamiti" nêu rằng những người gia nhập hội phải luôn nhớ rằng họ đang hoạt động cho cách mạng nhằm thiết lập lại những quyền đã bị chà đạp chứ không phải vì sự hưởng thụ cá nhân của một số người. Rằng tất cả các hội viên phải từ bỏ việc uống rượu, từ bỏ mọi thứ xa hoa phù phiếm. Mỗi lần đóng góp bắt buộc hay đaicốt, người đóng được gửi đến một biên lai. Sau đây là một đoạn trích trong biên lai: "Đồng bào thân mến, bạn phải biết rằng muốn giải phóng đất nước thân yêu của chúng ta thoát vòng nô lệ, thì cần phải có sự hy sinh, lòng tin cậy và cảm tình của tất cả đồng bào chúng ta. Nếu tất cả những người có khả năng như bạn đều hiểu những khó khăn của công việc chúng tôi và tự nguyện đóng góp vào sự nghiệp của chúng tôi, thì chúng tôi không bị buộc phải quấy rầy bạn như thế này; nước Nhật được tự do và hùng cường là nhờ có lòng hy sinh và sự thắt lưng buộc bụng của toàn dân Nhật. Anh linh của Tổ quốc hãy hun đúc trái tim và soi sáng tâm thần của anh em chúng ta! v.v.. Ký tên: I.B. Thư ký tài chính của phân cục B. của Hội Độc lập Ấn Độ". Phong trào càng lan rộng càng được củng cố. Khi thấy đã tương đối mạnh, phong trào rời khỏi bóng tối để ra giữa ánh sáng, dưới những con mắt kinh ngạc của nhà cầm quyền. Một đại hội được triệu tập với hai vạn đại biểu có mặt. Một vài đảng viên "xã hội" Anh cũng tham dự, họ được tiếp đón không lấy gì làm nồng nhiệt lắm vì những lý luận màu hồng nhạt của họ. Mahátma Găngđi đã đặt viên đá đầu tiên để dựng lên thuyết bất hợp tác và bất bạo động. Đường lối đó được theo đuổi một cách thắng lợi. Trẻ em rời bỏ trường học của người Anh. Các luật sư rời khỏi toà án của người Anh. Các viên chức và thợ thuyền không làm việc trong các công sở và nhà máy mà chủ là người Anh. Không còn quan hệ, không còn buôn bán giữa người Anh và người Ấn. Để giữ vững phong trào, cần phải có những quỹ cứu tế. Trong thời gian ba tháng, người ta đã quyên được hơn sáu mươi triệu phrăng. Những người Ấn Độ giàu có lấy nhà mình làm trường học. Những vụ kiện được đưa ra xử trước các toà án bản xứ mới thành lập. Một số người Ấn Độ tự nguyện góp đến ba mươi triệu đồng một năm "cho đến khi độc lập hoàn toàn". Trước làn sóng như vậy, lá cờ không bao giờ thấy mặt trời lặn có nguy cơ rơi xuống mặt trăng. Đế quốc Anh không biết xoay xở cách nào. Chúng tưởng rằng ký một hiệp định thương mại với nước Cộng hoà Nga là có thể ngăn chặn tư tưởng cách mạng thâm nhập Ấn Độ, như một tờ giấy thấm hút một giọt mực! Chúng dùng Côngxtăngtin làm cái chụp để dập tắt lò lửa của phong trào Liên Hồi giáo. Chúng nhặt Phayxan lên để chống đỡ toà nhà đế quốc đang sụp đổ ở phương Đông. Và sau nữa thì sao? Ít ra chúng có thể tự an ủi khi thời hạn rời khỏi Ấn Độ của chúng đã đến, bằng cách tự nhủ rằng chúng đã tàn nhẫn kéo theo sự sụp đổ của đế quốc Pháp, đang hoạt động ở Đông Dương một cách xấu xa. NGUYỄN ÁI QUỐC Tạp chí La Revue Communiste, số 18-19, tháng 8, 9-1921.
End of preview. Expand in Data Studio

No dataset card yet

Downloads last month
13