text
stringlengths
0
308k
title
stringlengths
0
51.1k
categories
stringlengths
0
57.3k
Câu lạc bộ bóng đá Sao Đỏ (, ), thường được biết đến với tên gọi Sao Đỏ Beograd () hoặc đơn giản là Sao Đỏ, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Serbia có trụ sở tại Beograd. Họ là câu lạc bộ Serbia và Nam Tư duy nhất giành chức vô địch Cúp C1 châu Âu, đạt được thành tích này vào năm 1991, và là đội bóng duy nhất vô địch Cúp bóng đá liên lục địa, cũng vào năm 1991. Với 30 chức vô địch quốc gia, 24 cúp quốc gia, siêu cúp quốc gia và cúp liên đoàn giữa các giải đấu Serbia và Nam Tư, Sao Đỏ là câu lạc bộ thành công nhất Nam Tư và Serbia. Kể từ mùa giải 1991–92, thành tích tốt nhất của Sao Đỏ là vòng bảng UEFA Champions League và vòng đấu loại trực tiếp UEFA Europa League. Thủ môn: Milić Jovanović Željko Kaluđerović Stevan Stojanović (Đội trưởng) Hậu vệ: Miodrag Belodedić Slobodan Marović Ivica Momčilović Ilija Najdoski Duško Radinović Refik Šabanadžović Tiền vệ: Vladimir Jugović Siniša Mihajlović Robert Prosinečki Rade Tošić Dejan Savićević Vlada Stošić Tiền đạo: Dragiša Binić Vladan Lukić Darko Pančev Huấn luyện viên: Ljupko Petrović CLBBĐ Sao Đỏ
Câu lạc bộ bóng đá Sao Đỏ
Câu lạc bộ bóng đá Nam Tư, Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1945
Coimbra (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: kuĩbɾɐ) là một thành phố Vùng hành chính Coimbra thuộc Bồ Đào Nha. Mặc dù nó từng là thủ đô của quốc gia trong thời Trung kỳ Trung cổ, nhưng thành phố này được biết đến nhiều hơn với trường đại học của mình, Đại học Coimbra thành lập năm 1290, là một trong những lâu đời nhất châu Âu và các cơ sở giáo dục lâu đời nhất học tại khu vực nói tiếng Bồ Đào Nha.. Theo điều tra dân số của INE năm 2011, thành phố có dân số là 143.397 người, trong số đó trên 30.000 là sinh viên, diện tích thành phố là 319,4 km2. Hơn 430.000 người dân sinh sống trong Vùng hành chính (comunidade intermunicipal) Coimbra, bao gồm 16 huyện và lan rộng trên khu vực rộng 3.372 km ². Đây là thủ phủ của khu vực Centro, cũng như của khu Coimbra và các tiểu vùng Baixo Mondego. Giống như hầu hết các thành phố đại học khác, Coimbra là nơi có nhiều sinh viên từ các nơi khác, bao gồm hàng ngàn sinh viên quốc tế. Altstadt aus Mosteiro de Santa da de Santa de Santa Tòa thị chính khu tự quản Coimbra Vùng du lịch của Centro Diễn đàn Coimbra BBS
Coimbra
Cố đô, Huyện của Bồ Đào Nha
Taiwo Odubiyi (sinh ngày 29 tháng 05 năm 1965) là một tác giả, diễn giả quốc tế, chuyên gia cố vấn về hôn nhân và mối quan hệ, và đồng thời là Mục sư cao cấp, cùng với chồng là Mục sư Sola Odubiyi, của The Still Waters Church International với Trụ sở tại Ikorodu, Nigeria. Với ba cô con gái và một chức vụ, Taiwo đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết lãng mạn truyền cảm hứng, đã giành giải thưởng; gồm các sách cho trẻ em; và sách tự giúp đỡ về nạn hiếp dâm và các mối quan hệ bất chính; ngoài ra là các tiểu thuyết sách mới được xuất bản hàng năm. Cô cũng là chủ tịch của Sáng kiến Hỗ trợ Gia đình TenderHearts và là người sáng lập cùng Mục sư Taiwo Odubiyi. Cô ấy cũng là một biên tập viên truyền hình, bởi một chuyên mục trong Tin tức Canada Nigeria Gương quốc gia và Báo nhập cư Hoa Kỳ; và người dẫn chương trình phát thanh và truyền hình Nigeria It All About You. Taiwo Odubiyi được sinh ra trong gia đình của ông Jonathan Olufemi Soyombo và bà Victoria Olubamwo Soyombo. Cô và anh trai sinh đôi là con út trong gia đình có bảy người con. Cô được sinh ra Abeokuta, và lớn lên Lagos, Nigeria. Cô học trường trung học Reagan Memorial Baptist và tốt nghiệp Đại học Bách khoa, với bằng HND về Kế toán. Cô cũng có bằng thạc sĩ Quản trị kinh doanh từ FUTA, Akure. Cô và chồng, Reverend Sola Odubiyi, được tấn phong làm mục sư vào năm 1996, dưới sự lãnh đạo của "Cha mẹ trong Chúa" Mục sư Taiwo Odukoya và Mục sư quá cố Bimbo Odukoya (tổng giám mục của Nhà thờ Fountain of Life). Cô và chồng may mắn có con riêng. Những cuốn tiểu thuyết từng đoạt giải thưởng này khuyến khích, tư vấn và hướng dẫn những người trong các mối quan hệ (người độc thân và đã kết hôn). Khá phổ biến Nigeria, chúng được đọc trên khắp đất nướcn này và quốc tế. Một số tác phẩm tiêu biểu, gồm: Trong tình yêu dành cho chúng tôi Sốt tình yêu Tình yêu trên Pulpit Bóng tối từ quá khứ Khoảng thời gian này Nước mắt trên gối của tôi Ôi em yêu! Để yêu lần nữa Bạn đã tìm thấy tôi Điều gì đã thay đổi bạn? Mối tình đầu của tôi Quá nhiều của một điều tốt Với chiếc nhẫn này Tình yêu mãi mãi Bạn đã đến Một cho tôi Biển hối hận Đắm tàu với bạn Taiwo tin rằng không bao giờ là quá sớm để dạy và giáo dục trẻ em về những nguy hiểm của tình dục trước khi kết hôn và nhận thức được những kẻ quấy rối trẻ em. Được cứu bởi Victor Không ai là ai cả Ngày mai lớn hơn Cậu bé ăn trộm Joe và mẹ kế của anh, Bibi Nike và người lạ Billy the Bully 30 điều chồng làm điều đó làm tổn thương vợ 30 điều vợ làm điều đó làm tổn thương chồng Lời Chúa cho người độc thân Dành cho người độc thân Hiếp dâm Cách xử lý Phiên bản tiếng Anh. (Cuốn sách này là để khuyến khích, tư vấn và tư vấn cho những người bị hãm hiếp và người thân của họ; để ngăn chặn nó xảy ra với người khác; và thông báo cho công chúng về mức độ nghiêm trọng của vấn đề.) Ifi'pa bani lopo (Phiên bản Yoruba của Hiếp dâm Cách xử lý) Taiwo thể hiện niềm đam mê mãnh liệt đối với các mối quan hệ thông qua tư vấn và các chương trình và hội thảo thường xuyên, như: Câu lạc bộ Keepersant Keepers (dành cho thanh thiếu niên) Liên kết đơn Người phụ nữ với người phụ nữ Khi phụ nữ cầu nguyện Cặp đôi Line Live Taiwo Odubiyi là Mục sư phụ tá cao cấp của The Still Waters Church International, tọa lạc tại Thành phố Ikorodu, Nigeria. Cô tham dự chi nhánh trụ sở cùng với chồng mình, Reverend Sola Odubiyi, là mục sư cao cấp và tổng giám thị. Có một số chi nhánh của nhà thờ trên khắp Nigeria. Mục sư Taiwo Odubiyi Bộ chịu trách nhiệm xuất bản các tiểu thuyết truyền cảm hứng và sách thông tin; tư vấn cho các cá nhân về các mối quan hệ và làm thế nào để sống một cuộc sống tốt hơn; truyền bá Lời và tình yêu của Thiên Chúa khắp mọi nơi thông qua chương trình TV và đài phát thanh Đó là tất cả về bạn!; và tổ chức các chương trình (chương trình) thường xuyên và hội thảo cho thanh thiếu niên, người độc thân, phụ nữ và các cặp vợ chồng. Blog Bộ Taiwo Odubiyi chứa các ghi chú truyền cảm hứng và những câu Kinh Thánh để giúp khuyến khích các cá nhân từ mọi tầng lớp xã hội. TenderHearts Sáng kiến Hỗ trợ Gia đình là một tổ chức phi chính phủ liên quan đến hỗ trợ, tư vấn và khuyến khích nạn nhân hiếp dâm; tiếp cận với những người ít đặc quyền hơn; tổ chức (tổ chức) các chương trình Giáng sinh (chương trình) cho trẻ em khuyết tật; và đưa ra hỗ trợ về tình cảm tài chính cho trẻ mồ côi. Tiểu thuyết gia người Nigeria Chimamanda Ngozi Adichie Buchi Emecheta Hệ thực vật Nwapa Karen King-Aribisala Adaobi Tricia Nwaubani Ifeoma Okoye Adaora Lily Ulasi
Taiwo Odubiyi
Sinh năm 1965, Nhân vật còn sống
Sông Thạch Hãn (hay còn gọi là sông Ba Lòng, sông Quảng Trị) là con sông lớn nhất tỉnh Quảng Trị Đây là con sông gắn liền với lịch sử Quảng Trị. Tại vùng hạ nguồn thì sông Thạch Hãn nối với sông Bến Hải qua sông Cánh Hòm, và nối với sông Lâu qua sông Vĩnh Định, nên có thể xếp chung ra "hệ thống sông Bến Hải–Thạch Hãn–Ô Lâu". Sông Thạch Hãn trên bản đồ Sông có chiều dài 155 km, bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn phía Tây tỉnh Quảng Trị và đổ ra Biển Đông qua Cửa Việt. Dòng thượng nguồn của sông Thạch Hãn trên địa bàn huyện Đakrông có tên là sông Đakrông và đoạn qua thung lũng Ba Lòng còn được gọi là sông Ba Lòng. Sông có lưu lượng dòng chảy trung bình năm khoảng 130 m³/giây. Sông có 37 phụ lưu, diện tích lưu vực 2.660 km². Ba phụ lưu chính là sông Vĩnh Phước, sông Rào Quán và sông Cam Lộ (phần hạ nguồn gọi là sông Hiếu). Sông Thạch Hãn chảy qua phía Tây Nam thị xã Quảng Trị (thị xã được hình thành từ làng Thạch Hãn), đoạn rẽ nhánh của dòng Thạch Hãn là sông Vĩnh Định chảy qua phía Bắc thị xã, tại đây, sông bị chặn bởi đập An Tiêm nên lượng nước không lớn. Đoạn qua thị xã Quảng Trị sông rộng 150–200 m, là đường thủy nối liền Quảng Trị lên Ba Lòng, về Biển Đông (Cửa Việt). Từ khi công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn hoàn thành (cuối thập niên 1970) thì dòng sông Thạch Hãn mùa hè cạn trơ đáy, có thể lội bộ qua sông đoạn thị xã Quảng Trị và nhiều đoạn khác; mùa lũ thì nước dâng cao ngập toàn thị xã do bờ kênh thủy lợi đồng thời là con đập chắn lũ làm ngập chỉ một phía bắc bờ kênh. Để giải quyết tình trạng này, năm 2006 chính quyền sở tại cho xây dựng các điểm tràn trên bờ đập kênh để chia lũ dòng sông. Lễ thả hoa tưởng nhớ và tri ân các liệt sĩ trên dòng sông Thạch Hãn Lư hương đặt dưới bến sông Thạch Hãn để người dân thắp hương mỗi dịp tưởng niệm Về tên gọi Thạch Hãn, nguyên tên trước là Thạch Hàn 石瀚 có thể được lý giải rằng do giữa nguồn có một mạch đá ngầm chắn ngang sông; mạch đá như mồ hôi tiết ra thành dòng chảy, tên sông đặt theo đặc điểm này nên mới có tên là Thạch Hãn. Theo Đại Nam nhất thống chí sông Thạch Hãn dài khoảng 170 dặm bao gồm cả đầu nguồn. Với độ dài như vậy nên lượng phù sa do sông tải đến không nhiều, trừ những ngày lũ lụt, nước thường trong xanh nhìn thấy đáy. Sông Thạch Hãn từ xưa cho tới nay đều được coi là một con sông quan trọng, là huyết mạch giao thông đường thủy uốn lượn uyển chuyển qua cách lưu vực đồng bằng, các vựa lúa chính của tỉnh Quảng Trị như Triệu Phong, Hải Lăng làm cho giao thông đường thủy giữa các địa phương này rất thuận lợi. Con sông cũng có nghĩa về mặt thủy lợi, cung cấp nguồn nước cho các đồng bằng xanh tươi phía dưới hạ lựu thuộc các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, Thị xã Quảng Trị, nơi mà dòng sông đi qua. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: ... sông Thạch Hãn, từ nguồn Viên Kiều bảo Trấn Lao (Lao Bảo) chảy về Đông, đến tuần Ngưu Tất, có khe Trà Nê đến từ phía Bắc châu Lang Thìn (tức là phía Bắc Mường Phin, khoảng Sepone, Sa Van Na Khet ngày nay) chảy vào, lại chảy về phía Đông đến huyện Thành Hóa, có khe Tam Lưu từ phía Bắc chảy vào, quẹo tiếp về phía Đông, qua phía Bắc tỉnh thành Quảng Trị thì mang tên sông Thạch Hãn, đến ngã ba Cổ Thành chia làm hai nhánh: *Một nhánh chảy lên Đông Bắc đến ngã ba Phú Ông, gặp sông Ái Tử (Vĩnh Phước) phía Tây chảy vào, qua huyện Đăng Xương (tức Triệu Phong ngày nay), rồi ngã ba Đại Độ (tức ngã ba Tướng) gặp sông Điếu Ngao từ huyện Thành Hóa (Sông Điếu Ngao qua cửa Điếu Ngao, đến xã Cam Lộ thì gọi là sông Cam Lộ.), rồi qua ngã ba Giáo Liêm đổ ra cửa Việt. *Một nhánh chảy xuống Đông Nam, chảy vào sông Vĩnh Định huyện Phong Điền, gặp sông NHùng (Mai Đàn) từ phía Tây tới, rồi theo hướng Nam tới huyện lỵ Phong Điền thì gặp sông Lâu (Thác Mã), sau đó chảy về phía Tây ra phá Tam Giang. Chiến dịch Xuân Hè năm 1972 trong chiến dịch Quảng Trị, dòng sông Thạch Hãn chứng kiến nhiều kỳ công bám cầu, bám sông, mở đường Nam tiến dưới mưa bom bão đạn của các chiến sĩ bộ đội miền Bắc. Từ 28 tháng đến 15 tháng năm 1972 khi quân đội Bắc Việt bám chốt ngăn chặn cuộc tiến công tái chiếm Thành cổ Quảng Trị, cũng như để tạo sức ép cho bàn hội nghị Paris, họ đã tiếp tế nhân lực, vũ khí qua con sông này. Số lượng lớn bộ đội, cán bộ, vũ khí, kể cả quà cáp cũng được dân quân, bộ đội đưa vượt ngang lòng sông, tiến vào trận địa Thành cổ. Dưới mật độ hoả lực dày đặc khủng khiếp của quân Mỹ dội, đã có rất nhiều người lính vĩnh viễn nằm lại nơi đáy sông độ tuổi mới mười tám đổi mươi. Riêng trận Thành cổ con sông đã thiệt hại khoảng hơn 1000 chiến sĩ, từ đó, dòng sông Thạch Hãn còn được người dân địa phương gọi là dòng sông Hoa Đỏ. Cựu chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Lê Bá Dương trong lần quay lại Thành cổ Quảng Trị kết bè hoa thả xuống dòng Thạch Hãn, con sông đang chứa trong lòng nó hàng trăm linh hồn liệt sĩ đồng đội, đã sáng tác câu thơ nổi tiếng: :Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ :Đáy sông còn đó bạn tôi nằm :Có tuổi đôi mươi thành sóng nước :Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm Tập tin:Cầu Thạch Hãn (Quảng Trị).JPG|Cầu Thạch Hãn bắc qua sông Thạch Hãn Tập tin:Cầu Dakrong nhìn từ xa.JPG|Sông Đa Krông, một phụ lưu cấp của sông Thạch Hãn Tập tin:Fishing on Hieu River.jpg|Sông Hiếu, một phụ lưu cấp của sông Thạch Hãn Tập tin:Hoàng hôn trên sông Hiếu.JPG|Hoàng hôn trên sông Sông Hiếu Tập tin:Cầu Thạch Hãn mới.jpg|Cầu Thạch Hãn mới được xây dựng kiên cố Tập tin:Cầu sắt Thạch Hãn.jpg|Cầu sắt Thạch Hãn bắc qua sông Thạch Hãn *Sông Cánh Hòm *Sông Bến Hải *Sông Vĩnh Định *Sông Cam Lộ *Sông Đakrông *Sông Xê Pôn *Sông Lâu *Sê Bănghiêng Thạch Hãn
Sông Thạch Hãn
hay còn gọi là cá bống xuân là một chi của Họ Cá bống trắng Chi này hiện hành có các loài sau đây được ghi nhận: Knipowitschia byblisia Ahnelt, 2011 (Byblis goby) Knipowitschia cameliae Nalbant Oţel, 1995 (Danube delta dwarf goby) Knipowitschia caucasica (L. S. Berg, 1916): Loài này được tìm thấy Armenia, Azerbaijan, Bulgaria, Hy Lạp, Iran, Kazakhstan, România, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh, Ukraina, và Uzbekistan. Knipowitschia caunosi Ahnelt, 2011 (Caunos goby) Knipowitschia croatica Mrakovčić, Kerovec, Mišetić D. Schneider, 1996: Loài này được tìm thấy Bosnia và Herzegovina và Croatia. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là sông có nước theo mùa, suối nước ngọt, và karst nội địa. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống. Knipowitschia ephesi Ahnelt, 1995: Nó là loài đặc hữu của Thổ Nhĩ Kỳ. Môi trường sống tự nhiên của nó là các con sông. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống. Knipowitschia goerneri Ahnelt, 1991: Đây là loài đặc hữu của hòn đảo Corfu miền tây Hy Lạp. Môi trường sống tự nhiên của chúng là suối nước ngọt và phá nước mặn ven biển. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Knipowitschia iljini L. S. Berg, 1931 Knipowitschia longecaudata (Kessler, 1877) (Longtail dwarf goby) Knipowitschia mermere Ahnelt, 1995: Nó là loài đặc hữu của Thổ Nhĩ Kỳ. Môi trường sống tự nhiên của chúng là hồ nước ngọt. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống. Knipowitschia milleri (Ahnelt Bianco, 1990): Đây là loài đặc hữu của Hy Lạp. Môi trường sống tự nhiên của chúng là sông ngòi and vùng đồng bằng nội địa. Knipowitschia montenegrina Kovačić Šanda, 2007 Knipowitschia mrakovcici P. J. Miller, 2009 Knipowitschia panizzae (Verga, 1841): Loài này có Albania, Bosna và Hercegovina, Hy Lạp và Ý. Môi trường sống tự nhiên của chúng là sông ngòi, hồ nước ngọt, và phá nước mặn ven biển. Knipowitschia punctatissima (Canestrini, 1864): Đây là loài đặc hữu của Ý. Môi trường sống tự nhiên của chúng là sông ngòi và suối nước ngọt. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Knipowitschia radovici Kovačić, 2005 (Norin goby) Knipowitschia thessala (Vinciguerra, 1921) Nó là loài đặc hữu của Hy Lạp. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là sông. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống.
cá bống xuân
Họ Cá bống trắng Thể
Lăng Cô là một thị trấn thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Địa danh "Lăng Cô" có người cho rằng là do người Pháp đọc trại tên "An Cư", vốn là làng chài phía nam đầm. Cũng có người cho rằng lúc trước Lăng Cô có nhiều đàn cò, nên được gọi là Làng Cò, sau đó được dân địa phương đọc trại lại là Lăng Cô. Thị trấn Lăng Cô nằm phía đông nam huyện Phú Lộc, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp Biển Đông *Phía tây giáp xã Lộc Tiến *Phía nam giáp thành phố Đà Nẵng với ranh giới là núi Bạch Mã *Phía bắc giáp xã Lộc Vĩnh và Biển Đông. Thị trấn Lăng Cô cách thành phố Huế khoảng 60 km về phía nam, nằm dưới chân đèo Hải Vân. Bãi biển Lăng Cô có bãi cát đẹp, nơi có nhiều khu nghỉ mát, nằm gần cảng Chân Mây và khu kinh tế Chân Mây. Nơi có Quốc lộ và Đường sắt Bắc Nam chạy qua. Theo thống kê, thị trấn có số nhân khẩu khoảng 11.200 ng­ười, sản xuất theo ba ngành nghề chính là nông nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và dịch vụ th­ương mại (trong đó: dịch vụ thư­ơng mại là 40%, thủy sản là 35% và nông nghiệp là 25%). Dân c­ư có mức sống thấp so với mặt bằng bình quân trong tỉnh. Trong một vài năm gần đây, do đ­ược đầu tư­ một số công trình trọng điểm nh­ư công trình cảng n­ước sâu Chân Mây, nâng cấp Quốc lộ 1, xây dựng hầm đư­ờng bộ Hải Vân... Số người đến làm việc trong khu vực khá đông, dịch vụ đáp ứng mọi nhu cầu đư­ợc nâng lên, nên mức sống của người dân đã đ­ợc cải thiện đôi chút. Dân c­ư tập trung trong vùng Nam đồi cát hẹp Lăng Cô và một vài vùng ven đầm Lập An chủ yếu tập trung: ven đư­ờng Quốc lộ 1, gần ga đ­ường sắt và vùng ven đầm. Dân số một vài năm gần đây cũng có tăng lên (tăng cơ học) do một số cơ quan nh­ư công đoàn, du lịch và quân đội cũng tổ chức khách sạn, nhà nghỉ và doanh trại... Bãi biển Lăng Cô dưới chân núi Hải Vân Khu đất quy hoạch gồm dải bãi cát sát bờ biển có cao độ 1,5 đến 10,5 trở lên; tiếp đến là một dải cồn cát hẹp có cao độ từ 5,00 đến 23,00 chạy dài 8–9 km. Độ dốc tự nhiên phần lớn là 0,005-0,05%. Riêng khu vực ven sư­ờn chân núi Phú Gia, chân núi phía Tây đầm Lập An và ven cồn cát có độ dốc là 20-30%. Ngoài ra về phía Tây và Tây Nam có đầm Lập An, các bầu trũng và các thung lũng nhỏ hẹp. *Gió: Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có hư­ớng gió chính là gió mùa đông bắc về mùa đông và gió mùa tây nam về mùa hè. VTB là 29,6 m/s. Đồng thời cũng chịu tác động của gió biển và gió đất liền theo chu kỳ ngày đêm. *Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình/năm: 25,2 °C. Tháng nóng nhất tháng 6, tháng với 41,3 °C và tháng lạnh nhất là tháng 12 với nhiệt độ là 8,8C. *L­ượng mư­a bình quân năm là 3.368 mm. Tháng mưa lớn nhất là tháng 10. Số ngày MTB năm 156 ngày. Khu vực Lăng Cô có đầm lớn là đầm Lập An thông với biển Đông rộng khoảng 1.655 ha. Xung quanh đầm có một số con suối tập trung nư­ớc theo các l­ưu vực núi Phú Gia và Hải Vân đổ ra đầm. Các con suối này l­ưu l­ượng nhỏ không đáng kể. Phía Bắc có một vài bầu trũng nhỏ giữa chân Phú Gia và cồn cát ven biển là rạch tụ thủy để thoát nư­ớc cho khu vực trong mùa m­ưa. Chế độ thủy triều tại vùng Lăng Cô là chế độ bán nhật triều. Mực n­ước triều bình quân là cm, cực đại là 126 cm, cực tiểu là -72 cm. Thủy triều cao nhất ứng với tần suất 1% là 143 cm. Thị trấn Lăng Cô được chia thành tổ dân phố: An Cư Đông 1, An Cư Đông 2, An Cư Tân, An Cư Tây, Đồng Dương, Hải Vân, Hói Dừa, Lập An, Loan Lý. Thị trấn Lăng Cô được thành lập vào năm 2002 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Lộc Hải. Bãi biển Lăng Cô Bãi biển Lăng Cô là một danh lam thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế, cùng với cụm Hải Vân-Non Nước được đưa vào danh sách các khu du lịch quốc gia Việt Nam. Bãi biển Lăng Cô từ lâu đã nổi tiếng là một bãi biển có các điều kiện tự nhiên và phong cảnh vào loại đẹp nhất Việt Nam với bãi cát trắng dài tới hơn 10 km, làn n­ước biển trong xanh bao la tuyệt đẹp, bên cạnh đó là những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn trên những dãy núi nhấp nhô, nằm giữa núi rừng và biển là đầm Lập An rộng lớn (800 ha) đầy huyền bí. Lăng Cô có vị trí địa lý nằm giữa trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới là: Cố đô Huế, Khu phố cổ Hội An và Khu Thánh địa Mỹ Sơn với bán kính là 70 km. Lăng Cô có thể thu hút khách tham quan, nghiên cứu tại các trung tâm trên và giải tỏa áp lực những thời điểm đông khách. Lăng Cô nằm trên tuyến du lịch Bắc-Nam cách thành phố Đà Nẵng 30 km và thành phố Huế 70 km. Lăng Cô là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch phong phú: bờ biển, bãi cát mịn, đầm hồ, sông suối, núi đồi, bên đèo Hải Vân, gần rừng nguyên sinh Bạch Mã và các di tích lịch sử.v.v. sẽ tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng nhất thỏa mãn các loại hình du lịch. Lăng Cô được công nhận là vịnh đẹp thế giới. Ngày tháng năm 2009, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức đón nhận danh hiệu "Lăng Cô vịnh đẹp thế giới" do Câu lạc bộ các vịnh biển đẹp nhất thế giới (Worldbays) bình chọn. Chợ Lộc Hải Lăng Cô Các công trình xây dựng (nhà ở, công trình công cộng...) trong khu dân c­ư từ trư­ớc đến nay là do dân tự làm. Phần lớn nhà là nhà một tầng lợp ngói hoặc lợp tôn (chiếm 79,3%), lác đác có nhà đúc mái bằng, và nhà cây tranh tre, lợp giấy dầu (chiếm 20,7%). Công trình công cộng gồm có tr­ường học (một tr­ường tiểu học và một trư­ờng trung học cơ sở), chùa Phật giáo, nhà thờ Thiên Chúa giáo, trụ sở ủy ban nhân dân xã, trạm tế, bến thuyền đánh cá, doanh trại quân đội... đư­ợc xây dựng một, hai tầng lợp ngói. Khu chế biến hải sản n­ước mắm, mắm chua và chế biến dầu Tràm, dầu khuynh diệp chủ yếu là tại các nhà dân. Ngoài ra còn có các nhà hàng dịch vụ tư­ nhân phục vụ ăn uống cho khách vãng lai, xe chạy đ­ường dài Bắc Nam trên Quốc lộ và ga đư­ờng sắt. Khu du lịch Lăng Cô đầm Lập An có tuyến Quốc lộ chạy qua dài khoảng 10 km, mới đ­ược nâng cấp nền đư­ờng rộng 12 m, mặt đ­ường cho xe cơ giới bằng bê tông nhựa có bề rộng 7,00 và gia cố lề đ­ường bằng bê tông nhựa rộng mỗi bên 2,00 m. L­ưu lư­ợng xe tính bình quân khoảng 3.500 xe ngày/đêm. Đèo Phú Gia phía Bắc và đèo Hải Vân phía Nam cũng mới đ­ược nâng cấp mặt đường và các điều kiện an toàn giao thông. Cầu Lăng Cô bắc qua vụng Lăng Cô trư­ớc đây đã bị chiến tranh phá hoại, sau khôi phục tạm cho việc thông th­ương Bắc Nam. Năm 1998 đã được xây dựng lại bằng bê tông cốt thép với tiêu chuẩn cho làn xe cơ giới. Năm 2000, Bộ Giao thông Vận tải cho khởi công xây dựng hầm đ­ường bộ xuyên núi Hải Vân phía Đông Nam ga Lăng Cô, đồng thời xây dựng cầu Lăng Cô mới nối thẳng từ Quốc lộ hiện tại v­ượt vụng Lăng Cô, vư­ợt đ­ường sắt Nam ga Lăng Cô đi lên hầm mới. Như­ vậy trong khu vực hiện nay theo tuyến Quốc lộ đi về phía Nam có cây cầu bê tông cốt thép v­ượt qua vụng biển Lăng Cô. Đây là những công trình có thể tận dụng nâng cấp, khai thác cho khu du lịch sau này. Đ­ường đi lại trong khu dân c­ư chủ yếu là đư­ờng cát sỏi và đ­ường đất. Nhằm dần hoàn thiện quy hoạch khu du lịch, trong một hai năm vừa qua, tỉnh đã dùng ngân sách địa ph­ương đầu t­ư xây dựng một tuyến đ­ường trục dài khoảng 4~5 km chạy dọc biển đ­ợc trải nhựa, làm cơ sở cho việc phát triển các khu chức năng sau này. Tuyến đ­ường sắt quốc gia Bắc Nam (khổ đư­ờng 1.000 mm) sau khi xuyên hầm Phú Gia thì không bám theo Quốc lộ mà rẽ về ven chân núi phía Tây đầm Lập An, qua các cầu Hói Mít, Hói Dừa và Hói Cạn vào ga Lăng Cô chân đèo Hải Vân. Đây là tuyến đ­ường sắt quốc gia trọng yếu Bắc Nam, tuy nhiên năng lực thông qua chư­a đư­ợc phát huy do hạn chế bởi đoạn đ­ường qua đèo Hải Vân có độ dốc khá lớn (imax 20o/oo), và bán kính đư­ờng cong quá nhỏ (Rmin 100 m). Từ giữa thập niên 1980 ngành đường sắt đã cho cải tạo khá nhiều những đoạn tiêu chuẩn thấp và đặc biệt là xây dựng hai ga Bắc Hải Vân và Nam Hải Vân trên đèo nên đã tăng năng lực thông qua đáng kể giữa Lăng Cô và Liên Chiểu (Đà Nẵng). Tư­ơng lai tuyến đ­ờng sắt hiện trạng từ Hói Mít, Hói Dừa đi Liên Chiểu sẽ đ­ược định h­ướng quy hoạch thành đường tô và tuyến đ­ường sắt t­ương lai theo quy hoạch sẽ qua núi Hải Vân theo một đ­ường hầm mới (thuộc dự án của Bộ giao thông vận tải). Vietnamese fishing boat, Lang Co, Vietnam.jpg Vietnamese fishing boats, Lang Co beach, Vietnam.jpg Fishing on the coast of South China Sea, Lang Co, Vietnam.jpg Lang Co lake, Lap An lagoon, Vietnam.jpg Lang Co lagoon in fog, Vietnam.jpg Tập tin:Lăng Cô.jpg|Bãi biển Lăng Cô Tập tin:Lang Co beach in Hue, Vietnam.jpg|Bãi biển Lăng Cô Tập tin:Hai Van va bien Lang Co.jpg|Dãy nũi Hải Vân và biển Lăng Cô Tập tin:Phong cảnh Lăng Cô.jpg|Một cảnh Lăng Cô Tập tin:Lang Co Town.jpg Vietnamese fishing boat 2, Lang Co beach, Vietnam.jpg *QH Khu Du lịch Lăng Cô đầm Lập An của Trung tâm Nghiên cứu và Quy hoạch Môi trư­ờng đô thị nông thôn. *QH Khu Du lịch Sinh thái và nghỉ d­ưỡng Quốc tế Lăng Cô của Công ty Thiết kế và Xây dựng ARCHETYPE. *Các thông tin, số liệu về hiện trạng của Sở Xây dựng Tỉnh Thừa Thiên Huế. *Danh sách thị trấn tại Việt Nam Hệ thống Khách sạn tại Lăng Cô
Lăng Cô
Địa mạo Thừa Thiên Huế, Bãi biển Việt Nam
GNOME () là bộ phần mềm cung cấp môi trường màn hình nền dễ dùng cho hệ điều hành Linux cũng như cho các hệ điều hành khác. GNOME từng là tên viết tắt của GNU Network Object Model nhưng tên đấy đã bị bỏ vì nó không còn đúng với định hướng của dự án GNOME hiện tại. Gói trong phần 'gnome' thuộc về môi trường GNOME hoặc hợp nhất chặt chẽ với nó. Nó là một dự án tin học có hai mục đích: xây dựng môi trường làm việc GNOME trực giác, hấp dẫn đối với người dùng và môi trường phát triển ứng dụng GNOME. Dự án mở GNOME cung cấp phần: Môi trường desktop GNOME, rất hấp dẫn và cuốn hút người dùng cuối (end-user), và môi trường phát triển GNOME, là môi trường tổng quan rộng lớn dùng cho phát triển các ứng dụng tích hợp vào môi trường desktop. Môi trường làm việc GNOME cũng giống như KDE, là một dự án tin học mã nguồn mở, tự do, và dễ sử dụng. Hơn nữa, GNOME được nhiều công ty lớn như: HP, Mandriva, Novell, Red Hat và Sun Microsystems hỗ trợ. GNOME được lập trình trong C. Trong phiên bản mới (2.28), GNOME ra mắt GNOME bluetooth giúp người dùng quản lý các thiết bị không dây này. Ngoài ra còn có nhiều cải tiến các trình ứng dụng: Time tracker (theo dõi thời gian hoạt động của các trình ứng dụng trên máy), Empathy (chat), Media player, Cheese (ghi hình qua webcam). Trình duyệt web Epiphany đã chuyển bộ render'' từ Gecko sang WebKit. GNOME là môi trường desktop mặc định của rất nhiều bản phân phối Linux gồm Fedora, Debian, Ubuntu, Red Hat Enterprise Linux, CentOS. Theo website của Gnome: Dự án Gnome nhằm cung cấp cho người dùng thứ: Một môi trường làm việc Gnome trực quan và hấp dẫn với nhiều người sử dụng, và nền tảng phát triển Gnome, một khuôn khổ rộng lớn cho việc xây dựng các ứng dụng để tích hợp vào các máy tính để bàn. Dự án Gnome nhấn mạnh sự đơn giản, tiện dụng và nguyên tắc chỉ làm việc. Các mục đích khác của dự án: Tự do: tạo ra một môi trường desktop có mã nguồn đầy đủ thích hợp cho việc sử dụng lại các mã nguồn đó theo giấy phép mã nguồn mở. Thân thiện: Đảm bảo cho tất cả mọi người có khả năng sử dụng một môi trường làm việc thân thiện, hiệu quả, từ những kỹ thuật viên, lập trình viên chuyên nghiệp cho tới những người có khuyết tật về thể chất. Quốc tế hóa và nội địa hóa: tích hợp vào trong desktop thật nhiều ngôn ngữ. Hiện tại Gnome đã chuyển ngữ sang được 161 ngôn ngữ. Phát triển thân thiện: đảm bảo cho việc viết và phát triển các ứng dụng tích hợp với máy tính một cách dễ dàng, và chấp thuận cho các lập trình viên được tự do lựa chọn ngôn ngữ lập trình. Tổ chức: Phát hành theo định kỳ và một cộng đồng có tính tổ chức và kỷ luật cao. Hỗ trợ: đảm bảo được sự ủng hộ từ các tổ chức khác ngoài cộng đồng Gnome. Dự án GNOME được bắt đầu vào 15 tháng năm 1997 bởi Miguel de Icaza và Federico Mena như là một phần mềm miễn phí để xây dựng một môi trường desktop và ứng dụng cho nó. Nó được tạo ra vì một phần giao diện KDE đang có được sự chú ý, sử dụng Qt là một phần mềm nguồn đóng tới phiên bản 2.0 (Tháng năm 1999). Thay thế Qt, bộ GTK được sử dụng như là lõi của GNOME. GTK sử dụng Giấy phép Công cộng GNU Hạn chế (LPGL), một giấy phép phần mềm miễn phí cho phép phần mềm sử dụng nó được sử dụng thêm một số giấy phép khác, bao gồm giấy phép cho phần mềm nguồn đóng. Bản thân GNOME sử dụng giấy phép LGPL cho các thư viện của nó, và giấy phép Công cộng GNU cho các ứng dụng của nó. GNOME và đi theo cấu trúc màn hình chính truyền thống.GNOME 3, được ra mắt vào năm 2011, đã thay đổi điều này với GNOME Shell, nơi việc di chuyển qua các ứng dụng và màn hình ảo được thực hiện một nơi riêng gọi là "Overview". Vì Mutter đã thay thế Metacity thành trình điều khiển cửa sổ mặc định, nút phóng to và thu nhỏ không xuất hiện theo mặc định, và thanh tiêu đề, thanh menu và thanh dụng cụ được gộp vào thành một thanh ngang gọi là "thanh ngang". Nhiều ứng dụng mặc định của GNOME cũng được thay đổi giao diện để giúp người dùng có một trải nghiệm đồng nhất. GNOME là viết tắt của cụm từ GNU Network Object Model Enviroment. Nó dùng để biểu thị định ban đầu của Gnome là tạo ra một bản phân phối tương tự như Microsoft OLE. Điều này không phản ánh định cốt lõi của dự án Gnome, và việc khai triển toàn bộ cái tên vào hiện nay bị xem là lỗi thời. Như vậy một số thành viên của dự án đã đổi tên lại, từ GNOME trở thành Gnome. *KDE *LXDE *XFCE Trang chính của Gnome
GNOME
Môi trường màn hình nền tự do, Dự án GNU, Hệ thống Window, Phần mềm năm 1999, Môi trường màn hình nền
Quận Robertson là một quận thuộc tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Quận này được đặt tên theo George Robertson, một nghị sĩ Kentucky từ 1817-1821. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số 2266 người. Quận lỵ đóng Mount Olivet, Kentucky. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích 259 km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước.
Quận Robertson
Quận của Kentucky
Chiếc Typhoon là một kiểu máy bay tiêm kích-bom Anh Quốc một chỗ ngồi, được sản xuất bởi Hawker Aircraft bắt đầu từ năm 1941. Mặc dù nó được dự định để thay thế cho chiếc Hawker Hurricane trong vai trò máy bay tiêm kích đánh chặn, chiếc Typhoon trải qua một thời kỳ thai nghén thiết kế kéo dài, và sau đó trở thành một trong những chiếc máy bay tấn công mặt đất thành công nhất của Thế Chiến II. Trong Không quân Hoàng gia, chiếc Typhoon được gọi tên lóng là Tiffy. Ngay cả trước khi chiếc Hurricane đầu tiên lăn bánh ra khỏi dây chuyền sản xuất vào tháng năm 1937, Sidney Camm đã chuyển sang thiết kế kiểu sẽ thay thế nó trong tương lai như là một dự án riêng. Đó là một chiếc máy bay lớn được thiết kế quanh một động cơ Napier Sabre lớn tương đương. Công việc này tỏ ra hữu ích khi Hawker nhận được một yêu cầu ký hiệu F.18/37 vào tháng năm 1938 từ Bộ Hàng không Anh, về một chiếc máy bay tiêm kích dựa trên kiểu động cơ Napier Sabre hoặc Rolls-Royce Vulture. Các động cơ này được thiết kế giống nhau chỗ đều là kiểu 24 xy lanh tạo ra công suất 2.000 mã lực (1,5 MW), và khác biệt chủ yếu là cách bố trí các xy lanh hình chữ trên động cơ Sabre hay khối chữ trên động cơ Vulture. Chiếc Typhoon của Không quân Hoàng gia tại Bảo tàng RAF Hendon cho thấy tản nhiệt to dạng "râu" bên dưới mũi máy bay Hai kiểu máy bay được tạo ra được biết đến như là "R" và "N" (dựa trên nhà sản xuất động cơ) và rất giống nhau kiểu gắn động cơ Vulture có dạng mũi tròn và một bộ tản nhiệt dưới bụng, trong khi kiểu gắn động cơ Sabre có nắp động cơ phẳng hơn và bộ tản nhiệt bên dưới "cằm". Thiết kế căn bản của cả hai kiểu tiếp tục truyền thống của Hawker sử dụng các kỹ thuật cấu trúc cũ; phần thân trước làm bằng thép hàn như chiếc Hurricane, và thiết kế sử dụng một cánh lớn có sải cánh 12 (40 ft) khá dày hơn so với các thiết kế khác như chiếc Spitfire. Camm cũng dành nhiều thời gian cho những phần còn lại của chiếc máy bay; nó có cấu trúc nữa-thân đơn từ buồng lái trở về sau, kết nối bằng đinh tán, và càng đáp có khoảng cách vệt bánh rộng. Thay vì có một nóc buồng lái dạng trượt hay mở lên, Typhoon lại có một cửa bên hông. Chiếc kiểu cất cánh lần đầu vào tháng 10 năm 1939, và Không quân Hoàng gia rất bị ấn tượng về nó nên đã đặt hàng 1.000 chiếc như là Tornado. Nhiều vấn đề, đáng kể là hiệu ứng nén mà trước đây Hawker chưa từng thấy, làm chậm đi việc đưa nó vào hoạt động. Thêm vào đó, chiếc máy bay cũng có tính năng lên cao đáng thất vọng, có nghĩa là nó không thể thay thế được chiếc Spitfire trong vai trò tiêm kích đánh chặn. Vào tháng năm 1940, chiếc kiểu đầu tiên, giờ đây được gọi là Typhoon, được giao hàng. Không quân Hoàng gia cũng đặt hàng một số lượng lớn, nhưng chuyển việc sản xuất sang cho Gloster Aircraft vốn không có thiết kế nào được sản xuất vào lúc đó. Giống như chiếc Tornado, chiếc Typhoon nhanh chóng bộc lộ những vấn đề của chính nó, bao gồm sự rung động do động cơ làm cho lớp phủ cánh bị bong ra. Sau đó Không quân Hoàng gia ngừng mọi công việc trên hai kiểu này vào tháng năm 1940 để Hawker có thể tập trung vào riêng chiếc Hurricane trong quá trình Trận đánh Anh Quốc. Đây là cuộc chạm trán đầu tiên với sự hủy bỏ của kiểu thiết kế này. Một số công việc có quy mô nhỏ được tiếp tục, với những thay đổi nhằm làm cho thân máy bay suôn thẳng hơn và áp dụng một kiểu cánh mỏng hơn, cũng như những kiểu động cơ thay thế to bố trí hình tròn. Đến tháng 10, áp lực từ phía Không quân Hoàng gia được giảm nhẹ và công việc được cho phép tiếp tục trên cả hai thiết kế ban đầu. Chiếc Tornado sản xuất hằng loạt đầu tiên được giao hàng vào đầu năm 1941, và nó trình diễn một tốc độ tối đa chưa từng nghe thấy lên đến 425 dặm mỗi giờ khi mang đầy đủ vũ khí. Nhưng đây lại là chiếc Tornado cuối cùng. Trong khi các dây chuyền sản xuất đang xếp hàng sẵn sàng, kế hoạch động cơ Vulture bất ngờ bị Rolls-Royce chấm dứt và chiếc Tornado bị bỏ lại mà không có động cơ. Dù sao, chiếc Typhoon vẫn còn có tính năng bay "đủ tốt" để đảm bảo việc sản xuất. Chiếc sản xuất hằng loạt đầu tiên phiên bản Mk IA được giao hàng vào tháng năm 1941, trang bị 12 khẩu súng máy Browning 0,303 in, nhưng nó được nhanh chóng tiếp nối bằng phiên bản Mk IB với bốn khẩu pháo pháo Hispano 20 mm. Một chiếc Typhoon IB đời đầu không xác định được. Mang thùng nhiên liệu 45 gallon vứt được, nòng pháo không phẳng; bậc bước lên thu lại được (thấy được trên bánh đáp phải), các vạch nhận diện màu vàng rộng 18 inch mặt trên cánh phía trong các khẩu pháo. Tập tin:Hawker Typhoon Typhoon EK183 US-A thuộc phi đoàn 56 Không quân Hoàng gia Anh giữa năm 1943. Nóc buồng lái kiểu "cửa xe hơi" với kính plastic và gương (thấy được bên trên và đàng sau kính chắn gió), bánh đáp đuôi nhỏ, đèn hạ cánh. Có những sọc đen trắng dưới cánh nhằm giúp quân bạn dễ nhận diện chiếc Typhoon. Tập tin:Hawker Typhoon chiếc Typhoon sản xuất đời sau của một phi đoàn Canada. Nóc buồng lái sáng, bánh đáp sau có rãnh "chống rung", bộ cánh quạt bốn cánh, ăn-ten IFF dạng "lưỡi lê", không có đèn hạ cánh. So sánh cùng chiếc EK183. Là một máy bay được Không quân Hoàng gia Anh sử dụng hàng đầu trong Thế Chiến II, Typhoon là kiểu máy bay hiếm hoi chỉ xuất hiện phiên bản Mark I. Tuy vậy chiếc Typhoon được cải biến và nâng cấp thường xuyên, đến nỗi máy bay sản xuất năm 1945 nhìn khác xa chiếc máy bay chế tạo năm 1942. Sau ngày D, vì sự tiêu hao Typhoon ngày càng gia tăng, một số máy bay cũ hơn được đem ra khỏi kho và đại tu. Có thể thấy được một chiếc số hiệu cũ R7771, một kiểu Typhoon chế tạo đầu tiên vào năm 1942 với nóc buồng lái kiểu "cửa xe hơi", pháo không phẳng... xuất hiện tại tuyến đầu trong phi đoàn 182 vào tháng năm 1945 với nóc buồng lái dạng "giọt nước", đế rocket và các tính năng đời sau. Các thay đổi quan trọng nhất và dễ nhận thấy được liệt kê dưới đây: Thay thế phần sau của nóc buồng lái từ tấm kim loại sang bằng kính; tấm vỏ giáp che đầu phi công đổi sang dạng tam giác; những cửa sổ hông được gắn kính chống đạn. Bắt đầu từ giữa đến cuối năm 1941 từ chiếc thứ 163 được sản xuất số hiệu R7803; những máy bay sản xuất trước đó được nhanh chóng rút ra và cải tiến. Các ống xả dài hơn, tháng 11 năm 1941. Cửa buồng lái bên trái được đóng kín (tháng 11 năm 1941). (Cả hai cải tiến được thực hiện trong một nỗ lực làm giảm nhẹ việc rò rỉ carbon monoxit vào buồng lái.) 12 khẩu súng máy M1919 Browning 0,303 in (Typhoon Ia) được thay thế bởi pháo Hispano-Suiza HS.404 20 mm (Typhoon IB). Đai thép được gắn bên trong phần thân sau chỗ nối giữa thân và cánh ổn định (tháng năm 1942). (giải pháp tạm thời; được thay thế bằng Mod 286.) Mod 286; 20 thanh nối hợp kim hình chữ nhật tăng cường được đinh tán bên ngoài chỗ nối giữa thân và cánh ổn định. Giải pháp vĩnh viễn được thiết kế nhằm giảm nhẹ sự hỏng cấu trúc thân sau trong khi bay (tháng 12 năm 1942 tháng năm 1943). Mọi chiếc Typhoon không có cải tiến này được rút ra khỏi phục vụ và cải tiến. Được áp dụng vào dây chuyền sản xuất từ chiếc thứ 820 ký kiệu EJ902. Thay thế miếng cân bằng trọng lượng bên ngoài bánh lái đuôi bằng miếng cân bằng trọng lượng bên trong khi thiết kế lại bánh lái (giữa năm 1942). Nắp chụp nòng pháo tháo rời được. Bổ sung đế bom có khả năng mang bom 500 lb (tháng 10 năm 1942). Được sử dụng trước tiên bởi phi đoàn 181, và đến giữa năm 1943 mọi chiếc Typhoon sản xuất ra đều có khả năng mang bom. Bánh đáp sau to hơn, làm bằng cao su đặc có rãnh "chống rung" (tháng năm 1943). Thiết kế giúp cho những chiếc Typhoon mang bom nặng hơn dễ xoay trở trên mặt đất. Được trang bị từ chiếc Typhoon sản xuất thứ 1.001 số hiệu EK238. Khe thoát vỏ đạn pháo được kéo dài thêm. (Để vỏ đạn không chạm phải bom) Bánh đáp chính được gia cố. (Mở ra hẹp hơn các bánh đáp trước đây và các "nan hoa" phẳng và dày hơn.) Phanh đĩa to hơn. (Nguyên thủy trên những chiếc "Bombphoon", sau đó gắn trên mọi chiếc Typhoon cải tiến) Gương chiếu hậu làm bằng kính Perspex trên nóc buồng lái kiểu "cửa xe hơi". (Không thành công; gương có xu hướng rung động.) Máy ảnh được chuyển vị trí từ mép trước phía ngoài cánh trái sang bên dưới nắp động cơ bên phải. (Có xu hướng rung theo động cơ.) Nắp chụp ống xả động cơ. (Bị hủy bỏ sau khi nhận thấy rằng ít mang lại lợi ích cho tính năng bay.) Cần ăn-ten qua cấu trúc nóc buồng lái phía sau được thay bằng ăn-ten dạng "cáp" trên thân sau. (Những chiếc Typhoon "cửa xe hơi" đời sau.) Cánh "ướt" mang được thùng nhiên liệu phụ 45 gallon vứt được hình trụ. (Đầu năm 1943) Thiết kế lại miếng cân bằng trọng lượng bên trong bánh lái độ cao nhằm giảm nhẹ sự hư hỏng thân sau do rung động (từ tháng năm 1943 trở đi). Nóc buồng lái kiểu "cửa xe hơi" được thay thế bằng kiểu "bọt nước" một tấm trượt ra phía sau (từ giữa năm 1943). Cải biến cho tất cả những máy bay hiện có, chiếc Typhoon đầu tiên được thực hiện mang số hiệu R8843 DJ-S được lái bởi Trung tá Không quân Hoàng gia New Zealand Desmond J. Scott, Chỉ huy trưởng Phi đoàn Tangmere từ tháng năm 1943. Từ tháng 11 năm 1943, tất cả những chiếc máy bay sản xuất, khởi đầu với chiếc số hiệu JR333, đều được trang bị. Với kiểu nóc buồng lái mới, vỏ giáp bảo vệ đầu phi công được thiết kế lại và loại bỏ đèn nhận diện phía sau cần ăn-ten. Thêm vào đó, hai cửa thông gió nhỏ được bổ sung thêm phía dưới buồng lái dưới cửa radio bên trái, trong khi một cửa sổ tròn nhỏ phía trước bên trái dưới buồng lái bị loại bỏ. Ăn-ten hệ thống IFF trên đuôi thân được thay thế bằng ăn-ten kiểu "lưỡi lê" bên dưới phần giữa cánh. Các đế mang rocket "Mark I" bằng thép được trang bị lần đầu tiên cho phi đoàn 181 vào tháng 10 năm 1943. Kiểu đế nhôm "Mark III" bắt đầu được sử dụng vào tháng 12 năm 1944. Các nắp chụp đèn hạ cánh trong suốt trên mép trước cánh được loại bỏ trên mọi máy bay vũ trang rocket, thay bằng các nắp kim loại. Sau này mọi chiếc Typhoon đều được sản xuất mà không có đèn hạ cánh. Bộ cánh quạt bốn cánh của de Havilland hay Rotol được trang bị vào đầu năm 1944. Kiểu đuôi Tempest lớn hơn bắt đầu được trang bị từ tháng năm 1944 trở đi. Nguyên được trang bị cho những chiếc "Bombphoon" có thể mang 1.000 lb bom, nhưng từ loạt sản xuất MN mọi chiếc Typhoon đều có đuôi lớn hơn. Vào thời gian này những chiếc Spitfire đang phải đối đầu với những chiếc Focke-Wulf Fw 190 tiên tiến trong chiến đấu và chịu tổn thất nặng, kết quả không tránh được là chiếc Typhoon được vội vã đưa đến các phi đoàn hoạt động (các phi đoàn 56 và 609) để chống lại chiếc máy bay Đức mới. Buồn thay, quyết định này là một thảm họa thật sự, và nhiều chiếc Typhoon bị mất vì những lý do bí ẩn. Một lần nữa lại có dư luận đòi dẹp bỏ chiếc Typhoon. Nguyên nhân của những hỏng hóc tại cánh đuôi sau này được nhận diện được chỉ nhờ một phi công, anh đã xoay xở sống sót được quay trở về để kể lại câu chuyện của anh. Vấn đề được khám phá là gây ra bởi hiện tượng giảm sức chịu đựng kim loại của cánh nâng cân bằng khối lượng, là do hiện tượng rung động cánh nâng xảy ra và lên đến cực điểm khi máy bay thoát ra khỏi cú bổ nhào. Bổ nhào là cú cơ động được phi công lái Fw 190 ưa chuộng để thoát ra khỏi không chiến, vì nó có ưu thế tốc độ rõ ràng so với chiếc Spitfire. Đối chọi lại chiếc Typhoon kiểu cơ động này sẽ là tự sát dành cho phi công Fw, nhưng vấn đề rung động lại làm trở ngược thế cờ. Như là một giải pháp tạm thời, những thanh nối hình chữ nhật tăng cường được đinh tán vào chung quanh chỗ nối giữa thân và cánh ổn định, ngay vị trí bị hỏng hóc. Những thanh nối nầy được giữ lại trên tất cả phiên bản Typhoon sau này. Những vấn đề rò rỉ khí thải vào trong buồng lái và nồng độ carbon monoxit cao khiến phi công Typhoon buộc phải sử dụng oxy ngay cả khi bay cao độ thấp. Động cơ Sabre cũng liên tục là nguồn gốc của sự cố, đặc biệt là rất khó khởi động máy khi trời lạnh. Nhờ những nỗ lực của các phi công hoạt động như chỉ huy phi đoàn 609 Roland Beamont, chiếc Typhoon tiếp tục được phát triển cho dù có những khiếm khuyết trong thiết kế. Tập tin:Typhoon Hawker Typhoon EK139 "Dirty Dora" thuộc phi đoàn 175 Không quân Hoàng gia Anh. Appledram, cuối năm 1943. Chiếc Hawker Typhoon (tiêu bản) trưng bày tại Memorial de la Paix, Caen Trong khoảng thời gian cuối năm 1942 đến đầu năm 1943, các phi đoàn Typhoon tại bờ biển Nam cuối cùng cũng phản công hiệu quả các cuộc tấn công "ném rồi chạy" ban đêm tầm thấp của Không quân Đức, bắn rơi được hai chục hay hơn máy bay tiêm kích-bom Fw 190. Hai chiếc máy bay tiêm kích-bom Messerschmitt Me 210 đầu tiên bị bắn rơi tại Anh quốc là bởi Typhoon vào cuối năm 1942, và trong các cuộc tấn công ban ngày của Không quân Đức vào London ngày 20 tháng năm 1943, năm chiếc Fw 190 bị Typhoon tiêu diệt. Ngay khi chiếc máy bay được đưa vào sử dụng, người ta nhận thấy là hình dạng của chiếc Typhoon trông giống như chiếc Fw190 từ một số góc nhìn, và sự tương tự này gây ra nhiều hơn một lần sự cố "bắn nhầm" từ pháo phòng không Đồng Minh và các máy bay khác. Điều này đã đưa đến việc sơn các sọc đen trắng dễ nhận thấy dưới cánh chiếc Typhoon, một điểm báo trước ký hiệu sơn sẽ được phe Đồng Minh áp dụng trong ngày D. Mãi cho đến tận năm 1943 mà nhiều vấn đề với khung máy bay và động cơ mới giải quyết được. Lúc này nhu cầu về một kiểu máy bay tiêm kích thuần túy không còn quan trọng và thiết kế được chuyển sang một kiểu máy bay tiêm kích-bom, giống như chiếc Hurricane đã từng đảm nhiệm. Động cơ mạnh mẽ cho phép chiếc máy bay mang được hai bom 450 kg (1.000 lb), tương đương với một chiếc máy bay ném bom hạng nhẹ vài năm trước đó. Những máy bay trang bị bom được đặt tên lóng là và được đưa vào hoạt động tại phi đoàn 181 thành lập vào tháng năm 1942. Tuy vậy chiếc Typhoon lại nổi tiếng hơn khi được trang bị bốn rocket "60 lb" RP-3 dưới mỗi cánh, và được gọi là Vào tháng 10 năm 1943, phi đoàn 181 thực hiện cuộc tấn công bằng rocket với chiếc Typhoon lần đầu tiên. Cho dù đầu đạn rocket không chính xác và đòi hỏi kỹ năng khá để có thể ngắm đúng, hỏa lực tuyệt đối của một chiếc Typhoon duy nhất tương đương với hỏa lực bên mạn của một tàu khu trục. Tốc độ tối đa của chiếc Typhoon giảm đi khoảng 15 mph do các đế gắn rocket dưới cánh không vứt bỏ được. Đến cuối năm 1943, 18 phi đoàn Typhoon trang bị rocket đã tạo nên hạt nhân của Không lực Chiến thuật của Không quân Hoàng gia Anh trong vai trò tấn công mặt đất tại châu Âu. Bất kể sự kém chính xác, những rocket (được hỗ trợ bằng bốn khẩu pháo 20 mm của chiếc Typhoon) đem lại hiệu quả rất cao trên nhiều loại mục tiêu, như các loại xe quân sự không bọc thép, xe vận tải, tàu hỏa và các tàu thuyền nhỏ. Cho dù người ta kỳ vọng điều lớn lao trên những xe tăng bọc thép hạng nặng của Quân đội Đức, những quả rocket cần đánh trúng vào lớp vỏ bọc mỏng trên ngăn động cơ hay vào xích mới thực sự gây ra hiệu quả tiêu diệt. Phân tích những chiếc tăng bị tiêu diệt sau trận đánh Normandy cho thấy tỉ lệ bắn trúng của rocket từ trên không chỉ đạt được 4%. Phiên bản Mk IB (được cải tiến vào cuối năm 1943 với bộ cánh quạt bốn cánh và nóc buồng lái dạng "giọt nước" làm bằng kính perspex) dù sao cũng hoạt động nổi bật trong năm 1944 và trong Trận chiến Normandy. Đến ngày vào tháng năm 1944, Không quân Hoàng gia có 26 phi đoàn Typhoon IB hoạt động. Chiếc máy bay được chứng minh là máy bay tấn công chiến thuật có hiệu quả nhất của Không quân Hoàng gia trong cả nhiệm vụ không kích can thiệp vào các mục tiêu liên lạc và vận tải sâu trong lãnh thổ Tây Bắc châu Âu trước cuộc tấn công, cũng như hỗ trợ trực tiếp lực lượng Đồng Minh trên bộ sau Ngày D. Vào ngày tháng 8, quân Đức phản công tại Mortain đe dọa mũi tấn công của Patton từ bãi đổ bộ, bị đẩy lui bởi những chiếc Typhoon của Không lực Chiến thuật 2, với khoảng 81 xe cộ bị hủy diệt hay hư hại. Tại khu vực Vire, nơi Tập đoàn quân Anh bị tấn công, những chiếc Typhoon đã bay 294 phi vụ trong vòng một ngày, bắn 2.088 rockets và thả 80 tấn bom. Vào ngày 24 tháng 10 năm 1944, Không đoàn 146 Typhoon tấn công một tòa nhà tại Dordrecht nơi ban tham mưu Tập đoàn quân 15 Đức đang họp, giết 17 sĩ quan tham mưu và 55 sĩ quan khác. Để đảm trách vai trò trinh sát hình ảnh chiến thuật, chiếc Typhoon FR IB được phát triển vào đầu năm 1945. Trong phiên bản này hai khẩu pháo phía trong được tháo bỏ thay vào chỗ đó đó là ba máy ảnh F.24. Khung máy bay rung động làm cho những bức ảnh chụp được thường không đạt chất lượng. Sau một thời gian phục vụ trong phi đoàn 268 từ tháng năm 1944, chiếc FR IB được rút khỏi hoạt động từ tháng năm 1945. Một chiếc Typhoon còn được cải biến thành chiếc nguyên mẫu tiêm kích bay đêm, kiểu NF.Mk IB, trang bị radar A.I. (Airborne Interception, đánh chặn trên không), buồng lái bay đêm đặc biệt và các cải tiến khác. Cũng trong năm 1943, năm chiếc Typhoon số hiệu R8889, R8891, R8925, DN323 và EJ906 được cải biến theo tiêu chuẩn "Nhiệt đới hóa" gắn thêm một bộ lọc khí phía sau khung tản nhiệt chính. Những chiếc R8891, DN323 và EJ906 được thử nghiệm tại Ai Cập bởi phi đoàn 451 Không quân Hoàng gia Australia trong năm 1943. Vào ngày tháng năm 1945, các tàu chiến Đức Cap Arcona, Thielbek và Deutschland bị đánh chìm sau bốn đợt tấn công khác nhau bởi những chiếc Hawker Typhoon 1B của Không quân Hoàng gia thuộc Liên đội 83, Không lực Chiến thuật 2: đợt một do phi đoàn 184 trú đóng tại Hustedt, đợt hai do phi đoàn 198 trú đóng tại Plantlünne dưới sự chỉ huy của Trung tá John Robert Baldwin, đợt ba do phi đoàn 263 trú đóng tại Ahlhorn (Großenkneten) dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Martin T. S. Rumbold và đợt ba do phi đoàn 197 dưới sự chỉ huy của Thiếu tá K.J. Harding cùng trú đóng tại Ahlhorn. "Ách" Typhoon có thành tích cao nhất là Trung tá John Robert Baldwin, đã bắn rơi được 15 máy bay đối phương trong giai đoạn 1942 1944. Tổng cộng đã có 3.330 chiếc Typhoon được chế tạo, tất cả đều hoàn toàn do hãng Gloster. Hawker đã phát triển một phiên bản cải tiến của Typhoon, chiếc Typhoon II, nhưng những sự khác biệt giữa nó và Typhoon Mk lớn đến mức nó là một máy bay hoàn toàn khác biệt, sau đó nó được đặt lại tên là Hawker Tempest. Tập tin:'Spud' Murphy's Hawker Typhoon, 486 Squadron thuộc phi đoàn 486 Không quân Hoàng gia New Zealand. *Không quân Hoàng gia Canada *Không quân Hoàng gia New Zealand *Không quân Hoàng gia Anh Hawker Typhoon Đội bay: 01 người Chiều dài: 9, 73 (31 ft 11 in) Sải cánh: 12,67 (41 ft in) Chiều cao: 4,66 (15 ft in) Diện tích bề mặt cánh: 23,13 m² (249 ft²) Lực nâng của cánh: 223,5 kg/m² (45,8 lb/ft²) Trọng lượng không tải: 4.445 kg (9.800 lb) Trọng lượng có tải: 5.170 kg (11.400 lb) Trọng lượng cất cánh tối đa: 6.340 kg (13.980 lb) Động cơ: động cơ Napier Sabre IIC H-24 làm mát bằng nước, công suất 2.260 mã lực (1.685 kW) Tốc độ lớn nhất: 650 km/h (405 mph) 5.485 (18.000 ft) Tầm bay tối đa: 980 km (610 mi) Trần bay: 10.400 (34.000 ft) Tốc độ lên cao: 13,4 m/s (2.630 ft/min) Tỉ lệ công suất/khối lượng: 0,33 kW/kg (0,20 hp/lb) pháo Hispano-Suiza HS.404 20 mm bom 454 kg (1.000 lb) rocket RP-3 75 mm (3 in) The Illustrated Encyclopedia of Aircraft, Vol. 9, Issue 106. Birkenhead, UK: Aerospace Publishing, kh. 1981-1985. p. 2120. 197 Typhoon Squadron // Homepage Clarke, R.M. Hawker Typhoon Portfolio. Cobham, Surrey, UK: Brooklands Books Ltd., 1987. ISBN 1-86982-617-5. Darling, Kev. Hawker Typhoon, Tempest and Sea Fury. Ramsgate, Marlborough, Wiltshire, UK: The Crowood Press Ltd., 2003. ISBN 1-86126-620-0. Halliday, Hugh A. Typhoon and Tempest: the Canadian Story. VA: Howell Press, 2000. ISBN 0-92102-206-9. Mason, Francis K. The Hawker Typhoon In Aircraft in Profile, Volume 4. Windsor, Berkshire, UK: Profile Publications Ltd., 1966. ISBN 1-85383-013-4. ---------. The Hawker Typhoon and Tempest. Bourne End, UK: Aston Publications, 1988. ISBN 0-946627-19-3. Rawlings, John D. R. Fighter Squadrons of the RAF and their Aircraft. Somerton, UK: Crecy Books, 1993. ISBN 0-947554-24-6. Reed, Arthur and Beamont, Roland. Typhoon and Tempest at War. Shepperton, Surrey, UK: Ian Allan, 1974. ISBN 0-7110-0542-7. Rimell, Ken. Through the Lens: The Typhoon at War, Pictorial Tribute. Storrington, West Sussex, UK: Historic Military Press, 2002. ISBN 1-901313-14-X. Scutts, Jerry. in Action (Aircraft in Action series, No. 102). Carrollton, TX: Squadron/Signal Publications, 1990. ISBN 0-89744-723-2. Shores, Christopher. Ground Attack Aircraft of World War Two. London: Macdonald and Jane's, 1977. ISBN 0-356-08338-1. Thomas, Chris. Typhoon and Tempest Aces of World War 2. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing, 1999. ISBN 1-85532-779-1. ----------. Hawker Typhoon, Warpaint Series No.5. Husborne Crawley, Bedfordshire, UK; Hall Park Books Ltd. No year of publication. No ISBN. Thomas, Chris and Kit, Mister. Hawker Typhoon. Paris, France: Éditions Atlas, 1980. No ISBN. (French) Thomas, Chris and Shores, Christopher. The Typhoon and Tempest Story. London: Arms and Armour Press, 1988. ISBN 0-85368-878-6. Townshend Bickers, Richard. Hawker Typhoon: The Combat History''. Ramsgate, Marlborough, Wiltshire, UK: The Crowood Press Ltd., 1999. ISBN 1-85310-908-8. The Unofficial Homepage of 439 Tiger Squadron Video at youtube of Hawker Typhoons firing 60lb rockets in combat Video at youtube of Hawker Typhoons in combat and "bombing up" Hawker Tempest Hawker Fury Hawker Sea Fury Hawker Tornado Hawker Tornado Hurricane Henley Typhoon Tornado Tempest Danh sách máy bay chiến đấu Danh sách máy bay quân sự Anh Quốc Danh sách máy bay trong Chiến tranh Thế giới II Danh sách máy bay tiêm kích Typhoon
Typhoon
Máy bay quân sự Anh thập niên 1940, Máy bay tiêm kích Anh, Máy bay cường kích, Máy bay cánh dưới, Máy bay một động cơ cánh quạt, Máy bay cường kích Anh
Pteris mixta là một loài dương xỉ trong họ Pteridaceae. Loài này được Christ in K.Schum. Laut. mô tả khoa học đầu tiên năm 1905. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
''Pteris mixta
Unresolved names
Ryan Đoàn-Nguyễn đang dẫn đầu đoàn tuần hành qua các đường phố Boston vào ngày 13 tháng năm 2021 Ryan Đoàn-Nguyễn (sinh ngày 16 tháng năm 2002) là nhà hoạt động xã hội và nhà văn người Mỹ gốc Lào-Việt nổi tiếng nhờ phát động phong trào Ngừng Thù ghét người châu Á. Vốn xuất thân từ Boston và Westborough bang Massachusetts, là con trai của thuyền nhân Việt Nam. Đoàn-Nguyễn lần đầu tiên được công nhận vì chủ trương này trên quy mô quốc tế sau khi ban giám khảo xướng tên anh là người chiến thắng Cuộc thi Sáng tác Thơ Quốc tế Thường niên Lần thứ Tám của New York Times dành cho bài thơ viết về chủ nghĩa anh hùng của dân tị nạn. Bị thôi thúc trước sự gia tăng bạo lực của người Mỹ gốc trong đại dịch COVID-19 và đặc biệt là vụ sát hại Vicha Ratanapakdee, anh bèn tổ chức cuộc tuần hành Ngừng Thù ghét người châu Boston vào ngày 13 tháng năm 2021, cuộc biểu tình đầu tiên được ghi nhận chống đối hành vi thù ghét người châu lớn nhất Massachusetts, với gần 1.000 người tham dự. Cuộc tuần hành này được cả giới truyền thông nước Mỹ công nhận bao gồm The Boston Globe, CBS Boston, WHDH, The Daily Free Press, The Epoch Times và WBUR. Sau cuộc tuần hành này, Đoàn-Nguyễn gia nhập cùng với nhóm của Jim Braude và Robert Trestan, người đứng đầu địa phương thuộc Liên đoàn Chống Phỉ báng, nhằm thảo luận về hành động bạo lực chống người châu Á. Đoàn-Nguyễn đã thành lập trang @StopAsianHate trên Instagram, trang này thu hút hơn 70.000 người theo dõi và quyên góp được hơn 10.000 đô la cho những nỗ lực của địa phương liên quan đến việc chống lại nạn thù ghét người châu Á. Đội bóng chày Boston Red Sox đã ghi nhận công lao của anh qua danh hiệu Red Sox Hats Off to Heroes Honoree năm 2021, kèm theo lời mời cùng họ tham dự trận đấu với đội Miami Marlins vào ngày 28 tháng năm 2021 và công nhận tên tuổi của anh trên màn hình Sân vận động Fenway. Gần đây hơn, Đoàn-Nguyễn được vinh danh là Thành viên Toàn cầu Frederick Douglass năm 2022, sự công nhận quốc gia của CIEE và Bộ Ngoại giao Ireland, rồi nhận lời mời nước này đến Dublin, Ireland vào mùa hè năm 2022 tham gia vào việc nghiên cứu hòa bình, giải quyết xung đột và công bằng xã hội tiếp nối bước chân của nhân vật theo chủ nghĩa bãi nô Frederick Douglass. Nguyễn hiện đang theo học Đại học Harvard đồng thời còn viết bài cho nhóm Harvard Crimson.
Ryan Đoàn-Nguyễn
Nhân vật còn sống, Sinh năm 2002, Người Mỹ gốc Việt, Nhà văn người Mỹ gốc Việt, Nhân vật Harvard Crimson, Nhà hoạt động xã hội Massachusetts
Hiếu Mẫn Đế (chữ Hán: 孝愍帝 hoặc 孝閔帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. Đông Hán Hiếu Mẫn Đế (còn có thụy hiệu khác là Hiếu Hiến Đế, thường gọi tắt là Hiến Đế) Tây Tấn Hiếu Mẫn Đế (thường gọi tắt là Mẫn Đế, trước kia từng làm Tần Hiếu Mẫn Vương) Nam Đường Hiếu Mẫn Đế (sử sách thường gọi là Hậu Chủ) Minh Hiếu Mẫn Đế (có các thụy hiệu khác là Huệ Đế và Nhượng Đế) Tây Minh Hiếu Mẫn Đế Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế (truy tôn, đương thời chỉ xưng là Hiếu Mẫn Thiên Vương) *Hậu Chủ *Phế Đế *Phế Vương *Mẫn Công *Mẫn Vương *Mẫn Đế *Hiếu Mẫn hoàng hậu *Hiếu Mẫn vương *Điệu Mẫn Vương *Minh Hiếu Mẫn Đế
Hiếu Mẫn Đế
là một thị xã panchayat của quận Tirunelveli thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Manimutharu có dân số 12.290 người. Phái nam chiếm 49% tổng số dân và phái nữ chiếm 51%. Manimutharu có tỷ lệ 74% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 80%, và tỷ lệ cho phái nữ là 68%. Tại Manimutharu, 11% dân số nhỏ hơn tuổi.
null
2441 Hibbs (1979 MN2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 25 tháng năm 1979 bởi Helin, E. F. và Bus, S. J. Siding Spring. JPL Small-Body Database Browser 2441 Hibbs
2441 Hibbs
Chuỗi án mạng A.B.C (tiếng Anh: The ABC Murders) là một tác phẩm truyện hư cấu trinh thám của nhà văn Anh Agatha Christie, với các nhân vật Hercule Poirot, Arthur Hastings và Chief Inspector Japp, khi họ đấu tranh với một loạt vụ giết người bởi một kẻ giết người bí ẩn chỉ được biết đến với cái tên "A.B.C". Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên Anh bởi Câu lạc bộ tội phạm Collins vào ngày tháng năm 1936, bán với giá shillings và sixpence (7/6) còn ấn bản Mỹ xuất bản bởi Dodd, Mead and Company vào ngày 14 tháng cùng năm, với giá bán đô la Mỹ. Chuỗi án mạng A.B.C là câu chuyện về một hung thủ gây án theo bảng chữ cái, khiến cả nước Anh kinh hoàng. Khi một sát nhân giết người hàng loạt bí danh ABC chế nhạo Poirot bằng những lá thư úp mở và giết người theo thứ tự chữ cái, Poirot tiến hành một phương pháp điều tra bất thường để truy tìm ABC. Chữ là bà Ascher Andover, là Betty Barnard Bexhill, là ngài Carmichael Clarke Churston. Qua từng vụ án, kẻ giết người càng tự tin hơn nhưng để lại một vệt manh mối rõ ràng để chế nhạo Hercule Poirot tài ba có thể lại sai lầm đầu tiên và chí tử. Trong một câu chuyện có vẻ như không can hệ gì, một người bán rong tên Alexander Bonaparte Cust đã có mặt tất cả những địa điểm xảy ra án mạng và ngày tội ác đó diễn ra. Cust bị trúng đạn vào đầu lúc đi lính. Hậu quả là, ông bị mất trí nhớ, đau đầu và bị động kinh. Liệu một người ngờ nghệch như thế có thể là kẻ giết người mệnh danh ABC không?
''Chuỗi án mạng A.B.C
Trường Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng (tên tiếng Anh: The University of Danang University of Foreign Language Studies) được thành lập theo quyết định số 709/QĐ-TTg ngày 26 tháng năm 2002 của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở tách và tổ chức lại khoa ngoại ngữ của Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng hiện là một trong trường thành viên của Đại học Đà Nẵng. Trường Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng có chức năng đào tạo giáo viên và cử nhân ngôn ngữ có trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ về một số ngôn ngữ thông dụng trên thế giới, giảng dạy ngoại ngữ cho các trường thành viên thuộc Đại học Đà Nẵng, giảng dạy tiếng Việt và giới thiệu văn hoá Việt Nam cho lưu học sinh người nước ngoài trong toàn bộ các trường thành viên của Đại học Đà Nẵng. Đồng thời là trung tâm nghiên cứu khoa học và thực hiện dịch vụ xã hội thuộc lĩnh vực ngôn ngữ có uy tín của khu vực miền Trung Tây Nguyên. *Ngày 14 tháng 04 năm 1985, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 395B/QĐ thành lập Cơ sở Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Đà Nẵng. *Ngày 04 tháng 04 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 32/CP về việc thành lập Đại học Đà Nẵng, cơ sở Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Đà Nẵng làm nòng cốt cùng với Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Nam-Đà Nẵng thành lập Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Đà Nẵng. *Ngày 26 tháng 08 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 709/QĐ-TTg thành lập Trường Đại học Ngoại ngữ thuộc Đại học Đà Nẵng trên cơ sở tách và tổ chức lại Khoa ngoại ngữ của Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Đà Nẵng. Trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Đà Nẵng có sứ mạng đào tạo, nâng cao tri thức về ngôn ngữ, văn hóa nhân loại nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế. Năm 2016, đội ngũ giảng viên với 437 cán bộ, công chức, trong đó có 335 giảng viên bao gồm phó giáo sư, 34 Tiến sĩ, 180 Thạc sĩ (gồm 29 người đang làm luận án TS), 75 Giảng viên chính, 20 cán bộ giảng dạy khác đang làm nghiên cứu sinh. Hầu hết các cán bộ giảng dạy của Trường đều được đào tạo từ các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, đa số đều có bằng Thạc sĩ hoặc hoàn thành chương trình thực tập sinh tại các nước Anh, Nga, Pháp, Úc, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan... Hiện tại trường đang tổ chức đào tạo tại cơ sở: *Cơ sở I: 131 Lương Nhữ Hộc, Phường Khuê Trung, Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng *Cơ sở II: 41 Lê Duẩn, Quận Hải Châu, TP Đà Nẵng Hiệu Trưởng: *PGS. TS.Trần Hữu Phúc Các Phó Hiệu Trưởng: *PGS.TS. Nguyễn Văn Long *TS. Đào Thị Thanh Phượng *TS. Huỳnh Ngọc Mai Kha Nhà trường hiện có phòng chức năng, tổ trực thuộc, khoa chuyên ngành và trung tâm. *Phòng Tổ chức hành chính *Phòng Đào tạo *Phòng Công tác sinh viên *Phòng Khoa học Sau đại học Hợp tác Quốc tế *Phòng Kế hoạch tài chính *Phòng Cơ sở vật chất *Phòng Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục *Phòng Thanh tra Pháp chế *Tổ Thư viện *Khoa Tiếng Anh *Khoa Tiếng Pháp *Khoa Tiếng Nga *Khoa Tiếng Trung *Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản *Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc *Khoa Tiếng Thái *Khoa Tiếng Anh Chuyên ngành *Khoa Sư phạm Ngoại ngữ *Khoa Quốc tế học *Trung tâm Dịch thuật *Trung tâm Ngoại ngữ Đà Nẵng *Trung tâm Khảo thí Ngoại ngữ *Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hóa *Trung tâm Hỗ trợ sinh viên và Quan hệ doanh nghiệp *Trung tâm Công nghệ thông tin và Học Liệu Cán bộ, giảng viên của nhà trường đã và đang thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp cơ sở. Đã biên soạn nhiều chương trình, giáo trình chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên tham gia hội thi sinh viên nghiên cứu khoa học do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đạt được những thứ hạng cao. Trường có quan hệ hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học với các trường đại học ngoại ngữ và viện nghiên cứu trong cả nước như: trường Đại học Hà Nội, trường Đại học Ngoại ngữ (Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Ngôn ngữ học...Liên kết đào tạo với các trung tâm giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo tại các tỉnh thành miền Trung Tây Nguyên và Nam Bộ. Trong khuôn khổ hợp tác quốc tế của Đại học Đà Nẵng, hàng năm trường cử cán bộ, công chức và sinh viên đi đào tạo, thực tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hội nghị, hội thảo tại các trường đại học, viện nghiên cứu thuộc các nước Nga, Ý, Anh, Mỹ, Canada, Úc, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore... Danh sách trường đại học công lập tại Việt Nam Đại học Đà Nẵng
Trường Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng
Đại học Đà Nẵng, Đại học và cao đẳng công lập tại Việt Nam
Chùa Cổ Pháp (tên chữ: Cổ Pháp tự (古法寺)) là một ngôi chùa tọa lạc tại khu phố Đại Đình, phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Chùa Cổ Pháp còn có tên là chùa Tương Giang, là một Tổ đình, trung tâm Phật giáo của phái Tì Ni Đa Lưu Chi. Tên chùa Cổ Pháp: Theo sách Thiền uyển tập anh và Việt Nam Phật giáo Sử luận thì tên Cổ Pháp là do tích Tổ sư đời thứ phái Tì Ni Đa Lưu Chi là Định Không đặt lại tên quê mình (hương, làng Cổ Pháp) mà thành. Sự tích như sau: Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805), khi Tổ sư Định Không dựng chùa Quỳnh Lâm địa phương, lúc đào móng chùa thì được bình hương và 10 chiếc khánh đồng. Tổ sư sai người đem ra sông để rửa sạch thì chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im. Tổ sư nói rằng: Thập khẩu là 10 cái miệng (Thập là 10, Khẩu là mồm miệng), chữ Thập đặt chồng lên chữ Khẩu thành chữ Cổ (nghĩa là cũ, xưa); Thủy khứ là đi xuống nước (Thủy là nước, Khứ là đi) chữ Thủy đặt cạnh chữ Khứ là chữ Pháp (nghĩa là Pháp Phật hoặc Luật pháp). Chữ Thập đặt trên chữ Nhất thành ra chữ Thổ (đất), nghĩa là 10 miếng, mất miếng thì là trở về với đất và liệng về phía Hương (làng xã) của ta nên đổi tên hương Diên uẩn (Diên Uốn) là hương Cổ Pháp. Nếu đọc theo Hán Việt thì Cổ Pháp là Nghi thức cổ xưa, Luật pháp cổ xưa). Nếu đọc theo âm Nôm là Pháp cổ nghĩa là Trống pháp. Trống pháp nghĩa là âm thanh Phật giảng pháp vang xa như tiếng trống, nghĩa đen là Phật pháp thịnh hưng. Xứ Kinh Bắc xưa còn có Cổ Loa (loa cổ), Cổ bi (Bia cổ). Rồi Tổ sư làm bài kệ Tụng như sau: Đất dâng Pháp khí Hạng nhất đồng ròng Gặp thời Phật pháp thịnh hưng Đặt tên làng Cổ Pháp. (Địa trình pháp khí Nhất phẩm trinh đồng Tri Phật pháp chi long hưng Lập hương danh chi Cổ Pháp) Lại có một bài thơ khác: Pháp khí hiện ra Khánh đồng mười tấm Họ Lý làm vua Công đầu Tam phẩm. (Pháp lại xuất hiện Thập khẩu đồng chung Lý thị hưng vương Tam phẩm thành công) Lại một bài khác: Mười cái xuống nước đất Cổ Pháp tên làng ta Gà ngồi lưng loan phượng Tam bảo đến lúc hưng. (Thập khẩu thủy thổ khứ Cổ Pháp danh hương hiệu Kê cư loan nguyệt hậu Chính thị hưng Tam bảo) Theo sử sách và một số công trình khảo cứu thì trước kia, chùa Cổ Pháp thuộc hương (xã, làng) Diên uẩn (hương Diên Uốn, hương Cổ Pháp), châu Cổ Pháp (sau thời lý gọi là Cổ Lãm), phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc, sau này thuộc thôn Đại Đình (Bản doanh của triều đình) hay Đình Sấm, Dương Lôi; tên nôm gọi là Nuốn (có thể từ chữ Diên Uốn mà ra); sau thuộc huyện Đông ngàn (sau lại đổi là huyện Từ Sơn). Chùa Cổ Pháp tọa lạc khu vực có nhiều dòng sông nổi tiếng là sông Tiêu Tương (Tương giang) với cầu chuyện tình đẫm nước mắt của chàng Trương Chi thổi sáo với nàng công chúa Mỵ Nương, sông Thiên Đức, sông Tào Khê (Tổ sư đời thứ sáu của phái Thiền Lục Tổ Tuệ Năng tu núi Tào Khê), rừng báng, núi Đại Sơn và, chùa Dặn, chùa Lục Tổ có tượng vàng của (Lục Tổ Tào Khê Tuệ Năng)... Hương Cổ Pháp là quê hương của vua Lý Công Uẩn, nơi phát tích của triều Lý và gắn liền các Tổ sư: Định Không, Thông Thiện, La Quý An, Thiền Ông, Vạn Hạnh, Khánh Văn... và các ngôi chùa đây là chùa Cổ Pháp, chùa Lục Tổ (tức chùa Tiêu Thiên Tâm tự trên núi Tiêu thuộc xã Tương Giang tên cũ là Dịch Bảng), chùa Dận (ở xã Đình Bảng). Việc vua Lý Công Uẩn có phải sinh ra, lớn lên chùa làng quê mẹ (bà Phạm Thị) là chùa Cổ Pháp hay sinh ra chùa Dận (Đình Bảng) thì vẫn còn tranh cãi. Tuy nhiên sử sách thì cho rằng bà Phạm Thị làm sãi chùa Tiêu (Khi đó Tổ sư Vạn Hạnh đang trụ trì), khi đau đẻ thì về đến chùa chùa Dận (ý là dặn đẻ) nhưng cố về chùa Cổ Pháp thì mới sinh vua Lý Công Uẩn. Chùa Cổ Pháp là nơi vua Lý Công Uẩn sinh ra, lớn lên (Tổ sư Vạn Hạnh giao cho Tổ sư Khánh Văn nuôi) Theo sách Thiền uyển Tập anh và Việt Nam Phật giáo Sử luận thì trước khi mất Tổ sư Định Không dặn lại Đệ tử trước khi mất là Thông Thiện (hoặc Thông Biện): Đất Cổ Pháp này là đất quan trọng, sau này có thể có kẻ dị nhân đến phá, phải giữ gìn cẩn thận... Đất này bị phá hoại thì vĩ nhân không xuất hiện cứu nước và làm hưng thịnh Phật Pháp được. Trước khi mất, Tổ sư Thông Thiện dặn lại Đệ tử là La Quý An cũng như vậy. Tổ sư La Quý An cho rằng khi Cao Biền đắp thành Đại la thì cho đào 19 cái ao khu vực này (xã Phù Chẩn hiện nay)là phá khí Đế vương đất Cổ Pháp nên đã cho lấp 19 ao trên. Ông cũng cho đúc tượng Lục Tổ Tuệ Năng bằng vàng và trồng cây gạo chùa Minh Châu (hay Gia Châu, Cha Lư) để trấn (năm Bính thân 936) và để lại bài sấm như sau: Trên núi đầu Rồng xuất hiện Đuôi Rắn ẩn ngọc Minh châu 18 chàng trai nhất định thành công Khi hình Rồng hiện cây gạo Vào tháng chuột, ngày gà, giờ thỏ Mặt trời rực rỡ trên mây xanh. (Đại sơn long đầu khởi Xà vĩ ẩn minh châu Thập bát tử định thành ghép thành chữ Lý Miên thọ hiện long trình Thố kê thử nguyệt nội Định kiến nhật xuất thanh) Đại Việt Sử ký Toàn thư nói rằng sét đánh lên cây gạo tạo bài Sấm trên thân cây gạo: Gốc cây thăm thẳm Ngọn cây xanh xanh Cây đào, hoa rụng Mười tám hạt thành Cành đông xuống đất Cây khác lại sinh Đông mặt trời mọc Tây sao ẩn hình Sáu bảy năm nữa Thiên hạ thái bình. (Thụ căn diểu diểu Mộc biểu thanh thanh Hòa đao mộc lạc Thập bát tử thành Đông nhập địa Dị mộc tái sinh Chấn cung kiến nhật Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian Thiên hạ thái bình) Sau, Tổ sư Vạn Hạnh luận rằng: Thụ căn là gốc (vua); chữ Diểu đồng âm với chữ yểu (vua chết yểu); chữ Biểu là ngọn (bầy tôi), chữ thanh là xanh, đồng âm với chữ thịnh. Nghĩa là một người trong số Quần thần sẽ làm vua. chữ hòa đao mộc góp lại là Lê, lạc là rơi (Lê lạc tức là nhà Tiền Lê đổ); chữ thập bát tử (chữ và chữ 八) ghép thành chữ Mộc 木, chữ Mộc trên chữ Tử thành chữ Lý nghĩa là nhà Lý làm vua; Đông a nhập địa là chỉ phương Bắc xâm lăng. Do sét đánh cây gạo nên hương làng hoặc xã Cổ Pháp sau này gọi là Đình Sấm, Dương Lôi. Hiện gần nền chùa Minh Châu cổ xưa làng Đại Đình Dương Lôi có chùa Cha Lư (âm Chư lư chỉ một loại cây to, Lư là cây gỗ gụ) mà Cha lư thường gắn với việc cầu phúc, tiếng Chàm có nghĩa là Thần sấm (Đình Sấm, Dương Lôi) và Hán học là nơi sinh ra Thánh nhân. Sách Thiên Nam Ngữ lục nói chùa Gia Châu (hay Minh Châu, Cha Lư) là nơi sinh của Lý Công Uẩn. Về tên Lý Công Uẩn đã thể hiện là người làng hương Diên uẩn (hương Diên Uốn, hương Cổ Pháp). Truyền thuyết và các tài liệu đều thống nhất là mẹ Lý Công Uẩn (bà Phạm Thị) người làng Đình Sấm Dương Lôi. Bà được thờ làm Thánh mẫu chùa Cha Lư, đền Lý Thánh Mẫu (đền Miễu) và được là Thành hoàng thờ cùng vị vua nhà Lý đình đền Dương Lôi (ở Dương Lôi hiện còn di tích mộ cha mẹ bà Phạm Thị khu vực cánh đồng Miễu). Văn bia cổ xác nhận Dương Lôi là đất thang mộc ấp của bà. Chùa hiện Cổ Pháp nay được phục dựng trên nền đất cũ cũ nhìn ra đường lộ 179 (chéo về tay phải bên kia đường là đền Đô. Mặt đường lộ 179 là cổng Tam quan, trước có giếng đất, trước giếng sát đường có Tứ trụ (4 cột) và bên cạnh có giếng nhỏ mắt rồng (Long nhãn tỉnh) tương truyền là giếng tắm cho vua Lý Công Uẩn chùa khi còn bé. Chùa chính lối chữ Đinh (chuôi vồ) mái, đao; gồm gian Tiền bái và gian Thượng hùng Bảo điện (phục dựng năm Mậu Dần 1998). Tượng Phật gồm 13 pho tượng cổ và còn lại là tượng mới như các chùa miền Bắc. Ngoài ra còn có pho tượng ít chùa có là tượng Bồ tát Quán Thế âm Tọa sơn (Quán âm Hương Tích) và tượng Bồ tát Quán Thế âm Tống tử (Quán âm Thị kính). Hang tìm lại được Đại Hồng chung (chuông lớn) cổ cao thước tấc, rộng thước tấc, trên chuông khắc tên chùa Cổ Pháp và lịch sử ngôi chùa. Nhà tổ (phục dựng dịp 1000 năm Thăng Long năm 2010) là tòa chữ Nhị gồm tòa mái, đao; gian Tiền bái và gian thờ Tổ (Phật tổ, Tổ Tây Trúc, Tổ Việt Nam, Tổ phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Tổ ni của chùa. Bên hữu chùa, phía trước là vườn Tháp Phật và các tháp Tổ; phía sau là gian nhà Mẫu như các ngôi chùa khác. Ngoài ra còn có tượng Phật tổ Thích ca Mâu ni cao chừng bằng đồng sau Tam bảo, tượng Bồ tát Quán Thế âm ngoài trời, tượng tiểu cảnh Lục Tổ Tuệ Năng giã gạo và có tượng bà Phạm Thị Chiêu Dung... Tập tin:TAM BẢO CHÙA CỔ PHÁP.jpg Tập tin:CHUÔNG CHÙA CỔ PHÁP.jpg Tập tin:GIẾNG MẮT RỒNG (LONG ĐẦU TỈNH) CHÙA CỔ PHÁP.jpg Tập tin:NHÀ TỔ CHÙA CỔ PHÁP .jpg|Nhà tổ chùa Cổ pháp các vị Tổ chùa như Tổ sư Định Không, Quý An, Thiền Ông, Vạn Hạnh, Khánh Văn... Tập tin:TƯỢNG NGŨ TỔ-LỤC TỔ CHÙA CỔ PHÁP.jpg|Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Lục tổ Tuệ Năng đang giã gạo Sách Thiền uyển Tập anh Phân viện Nghiên cứu Phật học Nhà Xuất bản Văn học Hà nội 1990. Sách Việt nam Phật giáo Sử luận tập Nguyễn Lang Nhà Xuất bản Văn học hà nội 1979. Sách Bên dòng Tương giang Dương Mạnh Nghĩa Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin. Sách Chuyện nàng Phạm thị Dương Mạnh Nghĩa Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin. Một số tài liệu khác như: Lý giải các nguồn Thư tịch Hán Nôm để tìm hiểu nguồn gốc nhà Lý Chu Quang Trứ Viện Mỹ thuật; Giới thiệu bài Cổ pháp Chân long sự tích một bản Thần tích về Lý Công Uẩn Dương Văn hoàn Viện Nghiên cứu Hán Nôm... Thiền uyển tập anh: Việt Nam Phật giáo Sử luận: Lý Thái Tổ:
Chùa Cổ Pháp
Chùa tại Bắc Ninh
2438 Oleshko (1975 VO2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng 11 năm 1975 bởi T. Smirnova Nauchnyj. JPL Small-Body Database Browser 2438 Oleshko
2438 Oleshko
Được phát hiện bởi Tamara Mikhaylovna Smirnova
Geum-Bi của Cha (, My Fair Lady) là bộ phim truyền hình Hàn Quốc do Heo Jung-eun thủ vai chính, cùng Oh Ji-ho, Park Jin-hee và Oh Yoon-ah. Bộ phim phát sóng vào mỗi thứ Tư và thứ Năm từ ngày 16 tháng 11 năm 2016 đến ngày tháng năm 2017 trên kênh KBS2 vào lúc 22:00 KST. Câu chuyện về một người đàn ông (Oh Ji Ho) và con gái (Heo Jung Eun) bị bệnh Niemann-Pick Diễn viên chính Heo Jung-eun vai Yoo Geum-bi Oh Ji-ho vai Mo Hwi-hul Park Jin-hee vai Go Kang-hee Oh Yoon-ah vai Yoo Joo-young Diễn viên phụ Bạn và người thân của Hwi-chul Seo Hyun Chul vai Kong Gil-ho Lee In Hye vai Heo Jae-kyung Lee Ji Hoon vai Cha Chi-soo Bạn của Geum-bi trường Park Min Soo vai Hwang Jae-hha Kang Ji Woo vai Hong Shil-ra Im Hye Young vai Kang Min-ah Kim Ki Yun vai Goo Mi-ran Bạn và người thân của Kang-hee Kang Sung Jin vai Go Joon-pil Kim Do Hyun vai Choi Jae-hjin Kim Nan Hwi vai Kim Hee-young Diễn viên khác Kim Dae Jong vai Kim Woo-yun Gil Hae Yun vai Kim Young-ji Jung Eui Kap vai Jo Sung-gap Lee Ho Chul vai Choi Moo-guk Kim Tae Han vai Bae Jong-won Trong bảng dưới đây, màu xanh dùng để chỉ hỉ tỷ suất người xem thấp nhất, màu đỏ chỉ tỷ suất người xem cao nhất. Tập Ngày phát sóng TNmS Ratings AGB Nielsen Toàn quốc Seoul Toàn quốc Seoul 2016 November, 16, 2016 5.1% 5.4% 5.9% 6.6% ngày 17 tháng 11 năm 2016 5.6% 6.6% 6.5% 7.5% ngày 23 tháng 11 năm 2016 4.4% 4.6% 5.7% 5.9% ngày 24 tháng 11 năm 2016 4.5% 5.2% 5.2% ngày 30 tháng 11 năm 2016 4.8% 5.1% 5.5% ngày tháng 12 năm 2016 5.0% 5.9% 5.5% 6.4% ngày tháng 12 năm 2016 5.6% 6.5% 5.8% 6.7% ngày tháng 12 năm 2016 5.0% 5.8% 6.0% 6.5% ngày 14 tháng 12 năm 2016 5.5% 5.7% 6.4% 10 ngày 15 tháng 12 năm 2016 5.6% 5.9% 6.3% 6.6% 11 ngày 21 tháng 12 năm 2016 5.6% 6.3% 6.4% 12 ngày 22 tháng 12 năm 2016 5.1% 5.3% 7.0% 6.8% 13 ngày 28 tháng 12 năm 2016 5.7% 5.9% 6.8% 7.0% 2017 14 ngày tháng năm 2017 5.6% 5.8% 6.1% 6.3% 15 ngày tháng năm 2017 6.1% 6.7% 7.2% 7.8% 16 ngày 11 tháng năm 2017 5.2% 5.9% 5.6% 6.3% Note: Tập 14 đã không phát sóng theo kế hoạch (thứ năm, ngày 29 tháng 12) do KBS Song Festival. Năm Giải thưởng Thể loại Người nhận Kết quả 2016 KBS Drama Awards Giải Xuất Sắc, Nam diễn viên chính Oh Ji-ho Giải Xuất Sắc, Nữ diễn viên chính Park Jin-hee Nữ phụ xuất sắc nhất Oh Yoon-ah Nữ diễn viên trẻ xuất sắc nhất Heo Jung-eun Giải thưởng cặp đôi xuất sắc nhất Oh Ji-ho và Heo Jung-eun
''Geum-Bi của Cha
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2016, Phim truyền hình tâm lý tình cảm Hàn Quốc
Nhạn nâu hung (danh pháp khoa học: Ptyonoprogne concolor) là một loài chim trong họ Hirundinidae. Loài chim này dài khoảng 13 cm (5 in) với thân và cánh rộng, đuôi ngắn hình vuông có những mảng trắng nhỏ gần đầu của hầu hết các lông. Loại chim này có lông phần trên màu nâu đen và phần dưới màu nhạt hơn một chút. Hai phân loài này là những loài chim sinh sản cư trú Nam từ tiểu lục địa Ấn Độ đến tây nam Trung Quốc và các phần phía bắc của Thái Lan, Việt Nam và Lào.
Nhạn nâu hung
Chim châu, Động vật được mô tả năm 1832
Chế ngự lửa (tiếng Nga: Укрощение огня) là một bộ phim dựa theo cuốn tiểu sử về cuộc đời nhà thiết kế tên lửa Sergey Korolyov, ra mắt lần đầu năm 1972. Kirill Lavrov... Andrey Ilyich Bashkirtsev Ada Rogovtseva... Natalia Bashkirtseva Igor Gorbachev... Yevgeny Ognev Andrey Popov... Nikolai Logunov Igor Vladimirov... Tướng Anatoly Golovin (Chủ tịch Ủy ban Nhà nước) Innocenty Smoktunovsky... Konstantin Tsiolkovsky Zinovy ​​Gerdt... Giảng viên Kartashov Petr Shelokhonov... Michael Karelin (Nhà khoa học tên lửa) Thông tin trên Website CCCP-Film Thông tin trên Website Điện ảnh Nga Thông tin trên Website Film.RU Thông tin trên Website KinoExpert Thông tin trên Website KinoPoisk Thông tin trên Website Kino-Teatr Actors in the film Taming of the Fire:
Chế ngự lửa
Daniil Khrabrovitsky, Phim của Mosfilm, Phim truyền hình Liên Xô, Phim tiểu sử, Phim tâm lý, Phim năm 1972, Phim Liên Xô, Phim lấy bối cảnh thập niên 1930, Phim lấy bối cảnh thập niên 1940, Phim lấy bối cảnh thập niên 1950, Phim lấy bối cảnh thập niên 1960, Phim tiếng Nga
Quảng Ngọc là một xã thuộc huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Xã Quảng Ngọc nằm tây nam của huyện Quảng Xương. *Phía đông giáp các xã Quảng Bình và Quảng Trường, huyện Quảng Xương. *Phía nam giáp các xã Quảng Trường và Quảng Phúc, huyện Quảng Xương. *Phía tây giáp xã Quảng Phúc, huyện Quảng Xương; xã Tế Nông, huyện Nông Cống và xã Quảng Văn, huyện Quảng Xương. *Phía bắc giáp các xã Quảng Văn và Quảng Hợp, huyện Quảng Xương. Vùng đất thuộc xã Quảng Ngọc ngày nay, vào đầu thế kỉ 19 thuộc tổng Văn Trinh, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hóa, đến đời Đồng Khánh thì tổng Văn Trinh chia thành hai tổng Văn Trinh và Ngọc Đới. Cuối thế kỉ 19 (sau đời vua Đồng Khánh), hai tổng này chuyển về huyện Quảng Xương cùng phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Sau năm 1945, thuộc các xã Ba Đình và Quốc Tuấn, huyện Quảng Xương. Năm 1948, các xã Châu Phong, Ba Đình và Quốc Tuấn sáp nhập thành xã Quảng Ngọc, tên gọi Quảng Ngọc xuất hiện từ đây. Năm 1954, một phần lãnh thổ xã Quảng Ngọc được tách ra để lập xã Quảng Trường. Xã Quảng Ngọc sau năm 1954 gồm các làng: Làng Tam Uy: đầu thế kỉ 19 là các thôn Hội, Thượng, Trung thuộc xã Uy Nỗ, tổng Văn Trinh; thời Đồng Khánh xã Uy Nỗ thuộc tổng Ngọc Đới, trong đó thôn Hội đổi thành thôn Nội. Sau năm 1945, thôn sáp nhập thành làng Tam Uy thuộc xã Quốc Tuấn. Từ năm 2000 được chia thành làng là Uy Bắc và Uy Nam. Làng Kỳ Vỹ: có từ năm 1529; đầu thế kỉ 19 là thôn Kỳ Vỹ thuộc xã Văn Trinh, tổng Văn Trinh. Sau năm 1945 thuộc xã Quốc Tuấn. Làng Yên Lãng: có từ thế kỉ 15; đầu thế kỉ 19 là thôn Yên Lãng (An Lãng) thuộc xã Can Trúc, tổng Văn Trinh; thời Đồng Khánh xã Can Trúc thuộc tổng Ngọc Đới. Năm 1957-1958, sáp nhập với xóm trại Phơ thành thôn Gia Hằng. Từ năm 2000 tách ra làng Yên Lãng. Làng Gia Đại: đầu thế kỉ 19 là các thôn Bái Đông, Bái Đại và Bái Cầu thuộc xã Can Trúc, tổng Văn Trinh; thời Đồng Khánh xã Can Trúc thuộc tổng Ngọc Đới. Sau năm 1945, thuộc xã Ba Đình. Làng Bất Động: có từ giữa thế kỉ 18; đầu thế kỉ 19 là thôn Tĩnh thuộc xã Can Trúc, tổng Văn Trinh; sau đó do kiêng húy nên được đổi thành thôn Bất Động. Sau năm 1945, thuộc xã Ba Đình. Làng Thắng Phú: có từ giữa thế kỉ 19, gọi là trang Bồ Đức thuộc thôn, xã Uy Nỗ. Làng Xuân Mộc: trước là làng Thung, đời Thành Thái đổi thành Xuân Mộc. Sau năm 1945, thuộc xã Quốc Tuấn. Làng Xuân Thắng: thành lập từ một phần các làng Xuân Mộc và Thắng Phú vầo năm 1973. Làng Gia Hằng: trước năm 1958 là xóm trại Phơ của làng Gia Đại. Năm 1958 nhập với làng Yên Lãng thành làng Gia Hằng, năm 2000 tách thành làng Gia Hằng mới. Làng Ngọc Trinh: thành lập năm 2000 từ một phần các làng Uy Bắc và Gia Hằng.
Quảng Ngọc
Triệu Nguyên Tá (chữ Hán: 赵元佐; 965 1027), tên thật Triệu Đức Sùng (赵德崇), tự Duy Cát (惟吉), Trưởng tử của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa, mẹ là Nguyên Đức Hoàng hậu Lý thị (元德皇后李氏). Thiếu thời thông minh nhanh nhạy, hình dáng cử chỉ tương tự Tống Thái Tông, rất được Tống Thái Tông yêu thích. Lúc mười ba tuổi, đi theo đến vùng ngoại thành săn bắn, Tống Thái Tông gọi Triệu Nguyên Tá bắn, kết quả một phát mà trúng, Khiết Đan sứ giả bên cạnh nhìn thấy, vô cùng kinh ngạc. Từ nhỏ theo phụ thân xuất chinh Thái Nguyên, đất Kế Châu. Năm 982, Tần vương Triệu Đình Mỹ (秦王赵廷美) bị biếm làm huyện công đến Phù Lăng (涪陵). Triệu Nguyên Tá nỗ lực cứu vớt, sau đó Triệu Đình Mỹ chết, Triệu Nguyên Tá phát rồ, cũng thương tới người khác. Năm 985, Tống Thái Tông đại yến, chỉ có Triệu Nguyên Tá không được triệu tham gia, thế là nổi giận đốt cháy cung đình. Sau bị phế thành thứ dân. Sau khi Tống Chân Tông lên ngôi, nhớ đến tình huynh đệ, khôi phục tước vị. Năm 1027, tặng Hà Trung, Phượng Tường mục, truy phong Tề vương (齐王), thụy Cung Hiến (恭宪). Sau sửa phong Lộ vương (潞王), lại sửa Ngụy vương (魏王), thời Tống Huy Tông sửa phong Hán vương (汉王). Cha: Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa (宋太宗赵光义) Mẹ: Nguyên Đức Hoàng hậu Lý thị (元德皇后李氏) Sở Quốc phu nhân Phùng thị (楚国夫人冯氏; 964 996), con gái Trung Thư Lệnh Phùng Kế Nghiệp (冯继业) Kế phu nhân Vương thị (继夫人王氏) *Diên An Quận công Bình Dương Quận vương Triệu Doãn Thăng (平阳郡王赵允升; 983 1035), tên thật là Triệu Doãn Trung (赵允中), tự Cát Tiên (吉先), Hữu giám môn vệ Tướng quân Thiền Châu Quan sát sứ Vũ Ninh quân An Đức quân Kiến Hùng quân An Quốc quân Tiết độ sứ, tặng Thái úy, thụy Ý Cung (懿恭) **Thành Quốc công Hàn Quốc công Triệu Tông Lễ (韩国公赵宗礼), Kiền Châu Quan sát sứ, tặng An Viễn quân Tiết độ sứ, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, thụy Cung Giản (恭简) ***Thông Nghĩa hầu Triệu Trọng Kiều (通义侯赵仲翘), tặng Mi Châu Phòng ngự sứ ***Hữu đồn vệ Đại tướng quân Triệu Trọng Mao (右屯卫大将军赵仲髦) ***Huệ Quốc công Triệu Trọng Nguyệt (惠国公赵仲軏) ****Đông Bình hầu Triệu Sĩ Phiêu (东平侯赵士穮), tặng Vận Châu Quan sát sứ *****Triệu Bất Mãnh (赵不猛), Hữu Triều nghị đại phu *****Triệu Bất Quyến (赵不狷), Huấn vũ lang *****Triệu Bất Độc (赵不毒) ***Cao Mật Thiệu công Triệu Trọng Thương (高密邵公赵仲苍) **Cao Mật hầu Triệu Tông Đạo (高密侯赵宗道) **Đằng vương Triệu Tông Đán (滕王赵宗旦), thụy Cung Hiếu (恭孝) **Hán Đông hầu Triệu Tông Khải (汉东侯赵宗楷) **Toại Quốc công Triệu Tông Xác (遂国公赵宗悫) **Hán Đông Quận công Triệu Tông Hồi (汉东郡公赵宗回) **Đông Dương Quận vương Triệu Tông Đễ (东阳郡王赵宗悌), thụy Hiếu Hiến (孝宪) **An Khang hầu Triệu Tông Mặc (安康侯赵宗默), tặng Kim Châu Quan sát sứ **Triệu Tông Trực (赵宗直), tặng Sùng Nghi phó sứ **Bình Dương Quận vương Triệu Tông Ngạn (平阳郡王赵宗彦) **Đàm vương Triệu Tông Huệ (郯王赵宗惠), thụy Cần Hiếu (勤孝) **Hoa Âm hầu Triệu Tông Bản (华阴侯赵宗本) **Đông Dương Quận công Triệu Tông Biện (东阳郡公赵宗辩) **Bành Thành Quận công Triệu Tông Hậu (彭城郡公赵宗厚) **Cao Mật Quận Hiếu Lão vương Triệu Tông Đạt (高密郡孝老王赵宗达) *Phụng Hóa hầu Mật Quốc công Triệu Doãn Ngôn (密国公赵允言; 1029), Tả giám môn vệ Đại tướng quân → Hoàng Châu Thứ sử, tặng Minh Châu Quan sát sứ → An Viễn quân Tiết độ sứ → Đồng trung thư môn hạ bình chương sự **Kỳ Quốc công Triệu Tông Thuyết (祁国公赵宗说) ***Phùng Dực hầu Triệu Trọng Mân (冯翊侯赵仲旻), quan đến Hữu vũ vệ Đại tướng quân, Đạo Châu Thứ sử, tặng Đồng Châu Quan sát sứ **Nam Khang Quận vương Triệu Tông Lập (南康郡王赵宗立) ***Nam Khang Quận vương Triệu Trọng Lai (南康郡王赵仲来), quan đến Kim Châu Thứ sử ****Ngụy vương → Hán vương Triệu Bất Thảng (汉王赵不傥) *****Triệu Ngạn Thanh (赵彦清) **Đông Dương hầu Triệu Tông Quýnh (东阳侯赵宗迥) **Thanh Nguyên Quận công → Cao Mật Quận công Triệu Tông Vọng (高密郡公赵宗望) ***Trần Quốc công Triệu Trọng Bân (陈国公赵仲邠), quan đến Trần Châu Quan sát sứ, tặng Bảo Tĩnh quân, Khai phủ nghi đồng tam ty, thụy Lương Hi (良僖) ****Trần Quốc công Triệu Sĩ Quan (陈国公赵士关), tặng Trần Châu Quan sát sứ ****Hội Kê hầu Triệu Sĩ Hoạch (会稽侯赵士获), tặng Việt Châu Quan sát sứ ****Cao Mật Quận công Triệu Sĩ Canh (高密郡公赵士耕), tặng An Hóa quân Tiết độ quan sát lưu hậu ****Triệu Sĩ Đẩu (赵士蚪), tặng Hữu đồn vệ Đại tướng quân ****Tả thị cấm Triệu Sĩ Hiển (赵士睍) ****Bỉnh nghĩa lang Triệu Sĩ Biển (赵士碥) ****Tả thị cấm Triệu Sĩ Trăn (赵士榛) *Tuân Quốc công Triệu Doãn Thành (郇国公赵允成), Hữu thần vũ vệ Tướng quân → Bộc Châu Phòng ngự sứ, tặng Thị trung, Trấn Giang quân Tiết độ sứ **Toại Quốc Chiêu Dụ công Triệu Tông Nhan (遂国昭裕公赵宗颜), tự Hi Thánh (希圣), Chiêu Tín quân Tiết độ sứ ***Hoa Âm hầu Triệu Trọng Liên (华阴侯赵仲连) ***Triệu Trọng Quân (赵仲筠), Thái tử Hữu nội suất phủ Phó suất ***Triệu Trọng Đan (赵仲丹), Thái tử Hữu nội suất phủ Phó suất **An Lục hầu Triệu Tông Nột (安陆侯赵宗讷), An Châu Quan sát sứ **Hoa Âm hầu Triệu Tông Đỉnh (华阴侯赵宗鼎), Hoa Châu Quan sát sứ **Bành Thành Quận công Triệu Tông Nghiêm (彭城郡公赵宗严), Vũ Ninh quân Tiết độ sứ **An Lục hầu Triệu Tông Lỗ (安陆侯赵宗鲁), Tùy Châu Quan sát sứ **Phổ Ninh hầu Triệu Tông Nho (普宁侯赵宗儒), Dung Châu Quan sát sứ **Nam Xương Khang hầu Triệu Tông Nhân (南昌康侯赵宗仁) **Tân Bình Cung Tĩnh Quận vương Triệu Tông Bảo (新平恭靖郡王赵宗保), Đại Châu Phòng ngự sứ ***Triệu Trọng Thư (赵仲恕), An Đức quân Tiết độ sứ ****Yến Quốc công Triệu Sĩ Hòa (燕国公赵士盉) *****Triệu Bất Khiên (赵不愆), Trung huấn lang ******Triệu Thiên Nguyên (赵善元) ***Triệu Trọng Cúc (赵仲鞠) **An Khang Quận quân (安康郡君), gả Lục trạch sứ Lưu An Đạo (刘安道) **An Đức Quận quân (安德郡君), gả Tả tàng khố phó sứ Trương Thừa Hi (张承禧), tái giá Tả tàng khố sứ Trương Thừa Khán (张承衎) **Triệu Ngọc Anh (赵玉英), Tiên Cư Huyện chúa (仙居县主), Chân Tịnh đại sư (真净大师) **Triệu Ngọc Hoa (赵玉华), Chân Tu đại sư (真修大师)
Triệu Nguyên Tá
Sinh năm 965, Mất năm 1027, Hoàng tử Trung Quốc, Hoàng tử nhà Tống
Midland là một thị trấn thuộc quận Sebastian, tiểu bang Arkansas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thị trấn này là 325 người. *Dân số năm 2000: 253 người. *Dân số năm 2010: 325 người. American Finder
Midland
Quận Sebastian, Arkansas
Nikola Žigić (, sinh ngày 25 tháng năm 1980) là một cựu cầu thủ bóng đá Serbia thi đấu vị trí tiền đạo. Žigić bắt đầu chơi bóng AIK Bačka Topola, ghi 68 bàn trong 76 trận tại câu lạc bộ hạng ba Nam Tư. Anh tới Bar thực hiện nghĩa vụ quân sự năm 2001 và thi đấu cho Mornar. Anh chuyển tới Sao Đỏ Beograd vào tháng năm 2003. Mặc dù chiều cao 2,02m được cho là có lợi trong một số môn thể khác hơn là bóng đá, Žigić kết thúc mùa giải 2004-05 của Giải hạng nhất Serbia và Montenegro với các thành tích: vua phá lưới, cầu thủ nội của năm, vô địch quốc gia và ghi bàn trong trận chung kết Cúp quốc gia. Anh giành cú đúp thứ hai vào mùa 2005–06, tiếp tục là cầu thủ xuất sắc mùa giải, có 70 bàn trong 109 trận trên mọi đấu trường sau ba mùa giải Sao Đỏ. Vào năm 2006, Žigić chuyển tới Racing Santander của Tây Ban Nha; các bàn thắng của anh và sự kết hợp ăn với Pedro Munitis giúp đội bóng trụ hạng an toàn La Liga. Sau đó anh chuyển sang Valencia, nhưng không thể cạnh tranh suất trong đội hình chính. Tại lượt về mùa giải La Liga 2008-09 anh trở lại Racing theo dạng cho mượn, ghi 13 bàn trong 19 trận. Žigić gia nhập Birmingham City của Anh năm 2010 và ghi bàn giúp đội nhà vô địch League Cup. Mặc dù đội bóng phải xuống chơi Championship, anh lại Birmingham cho tới khi kết thúc hợp đồng. Sau khi không tìm được bến đỗ mới, anh trở lại Birmingham giai đoạn lượt về mùa 2014–15. Žigić có trận ra mắt Đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia và Montenegro vào năm 2004, và sau khi Serbia và Montenegro tan rã năm 2006, anh thi đấu cho đội tuyển Serbia cho tới năm 2011. Anh có 57 trận đấu quốc tế và ghi 20 bàn. Anh tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 và Giải vô địch bóng đá thế giới 2010, từng làm đội trưởng vào năm 2011. Žigić sinh ra tại Bačka Topola, Nam Tư. Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu tại một câu lạc bộ địa phương. Với một hiệu suất ghi bàn đáng nể, sau đó anh đã chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ Sao Đỏ Belgrade năm 2003. Tại đây, anh đã thi đấu 110 trận và ghi 71 bàn thắng trên mọi đấu trường (cúp quốc gia, giải trong nước và cúp châu Âu). Anh đã từng lần được bầu chọn danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất Serbia khi còn thi đấu cho Sao Đỏ Belgrade. Ngày 29 tháng năm 2006, Žigić đã ký vào bản hợp đồng có thời hạn năm với câu lạc bộ Tây Ban Nha Racing de Santander. Ngày 25 tháng 9, anh lập cú đúp đầu tiên cho Racing trong trận hoà 2-2 với Nastic. Ngày tháng năm 2007, anh lập một hat-trick trong chiến thắng 5-4 của Racing trước Athletic Bilbao. Trong mùa giải này tại Racing, anh đã có 11 bàn thắng và đường chuyền thành bàn. Ngày tháng năm 2007, Zigic đã trở thành cầu thủ của Valencia với bản hợp đồng có thời hạn năm. Valencia đã phải trả cho Racing Santander 15 triệu euro (khoảng 20 triệu USD). Bàn thắng đầu tiên của Žigić cho Valencia là cú đúp vào lưới Real Unión tại Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, giúp Valencia thắng 2–1. Vài ngày sau, khi được tung vào sân đầu hiệp trận đấu gặp Real Zaragoza, anh đã ghi bàn rút ngắn tỉ số trận đấu xuống còn 2-1 trước khi David Silva gỡ hoà 2-2 cho Valencia. Tuy nhiên, anh đã không được huấn luyện viên người Hà Lan Ronald Koeman trọng dụng. Tháng năm 2008, anh đã từ chối cơ hội đến Anh thi đấu cho Portsmouth theo hợp đồng cho mượn trong giai đoạn còn lại của mùa giải. Sau khi cân nhắc một số lời mời thi đấu tại Premier League và cả lời đề nghị trở lại Racing Santander theo hợp đồng cho mượn, Žigić cuối cùng đã quyết định lại Valencia để giành một vị trí chính thức trong mùa giải 2008–09. Tuy nhiên, sau khi không được ra sân bất kì một trận nào tại giải La Liga, trong khi chỉ ra sân hạn chế cúp quốc gia và cúp UEFA, cuối tháng 12 năm 2008, anh đã trở lại câu lạc bộ cũ Racing Santander theo hợp đồng cho mượn đến hết mùa giải. Ngày tháng năm 2009, ngay trong trận đầu tiên trở lại với đội bóng xứ Cantabria, Žigić đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Real Valladolid, và sau đó là Getafe, đem về 6/7 điểm trong trận của Racing. Ngày 25 tháng 1, anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2-0 trước Sevilla FC và sau đó tuần là bàn mở tỉ số trong trận thua 1-2 trước Barcelona. Anh kết thúc mùa giải với 13 bàn trong 19 trận. Mùa giải 2009-10, Zigic đã trở lại Valencia và tiếp tục không được trọng dụng. Tháng 11 năm 2009, anh ghi bàn gỡ hoà 2-2 trong trận đấu tại lượt về vòng Cúp Nhà vua Tây Ban Nha với CD Alcoyano giúp Valencia lọt vào vòng 5. Trong lần hiếm hoi được ra sân ngay trong trận đấu đầu năm 2010, anh đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với RCD Espanyol phút 92. Sau đó vào ngày 14 tháng 1, anh lập được cú đúp trong trận hoà 2-2 với Deportivo de La Coruña tại Cúp Nhà vua Tây Ban Nha nhưng đội bóng của anh cuối cùng đã bị loại. Zigic bị đuổi khỏi sân trong trận thua Real Zaragoza 3-0 ngày 27 tháng 3. Ngày tháng 5, anh lập được cú đúp trong chiến thắng 2-0 trước Espanyol, giúp Valencia chắc chắn vào thẳng vòng bảng UEFA Champions League mùa bóng 2010-11. Žigić trong màu áo Birmingham năm 2010 Ngày 26 tháng năm 2010, Žigić đã ký vào bản hợp đồng có thời hạn năm với câu lạc bộ tại Premier League là Birmingham City cùng phí chuyển nhượng không được tiết lộ. Tuy nhiên, một số nguồn tin cho biết phí chuyển nhượng của anh là triệu £. Anh có trận đấu đầu tiên tại Premier League khi vào sân hiệp trong trận hoà 2-2 với Sunderland ngày 14 tháng 8. Bàn thắng đầu tiên của Žigić cho Birmingham đến trong chiến thắng 3-1 của Birmingham trước MK Dons tại League Cup ngày 21 tháng 9. Còn bàn thắng đầu tiên của anh tại Premier League là trong trận thua 1-2 trước Arsenal ngày 16 tháng 10. Một tuần sau, anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2-0 trước Blackpool. Bàn thắng thứ tư của anh trong mùa giải là bàn ấn định chiến thắng 2-1 trước Aston Villa tại tứ kết League Cup. Ngày 27 tháng năm 2011, trong trận chung kết League Cup với Arsenal tại Wembley, Žigić đã ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng chung cuộc 2-1 của Birmingham, mang về danh hiệu thứ hai trong lịch sử cho câu lạc bộ này. Tuy nhiên cuối mùa giải năm đó Birmingham đã phải xuống hạng. Bàn thắng đầu tiên của Žigić tại Giải bóng đá Hạng nhất Anh đến trong chiến thắng 1-0 trước Leeds United vào tháng 10 năm 2011. Trong trận lượt về với Leeds vào tháng năm 2012, Žigić ghi bốn bàn thắng giúp Birmingham thắng ngược 4–1 sau khi bị dẫn trước 1-0. Anh bắt đầu mùa giải 2012–13 với bàn thắng ohút bù giờ thứ giúp Birmingham cầm hòa được Charlton Athletic. Ngày 15 tháng năm 2013, huấn luyện viên Birmingham Lee Clark chỉ trích công khai Žigić vì thái độ tập luyện thiếu nghiêm túc. Sau sự việc đó, Clark đã không sử dụng nhiều Žigić cho vị trí chính thức. Thời điểm đó, anh đã có bàn trong mùa và bị đuổi khỏi sân hai lần. Sau đó, Zigic đáp lại chỉ trích bằng hai bàn thắng đem lại chiến thắng cho Birmingham trước Peterborough và Middlesbrough. Trận đấu đầu tiên của Žigić cho đội tuyển Serbia và Montenegro là trận đấu với Na Uy vào ngày 31 tháng năm 2004, dưới thời huấn luyện viên Ilija Petković. Bàn thắng đầu tiên của anh cho đội tuyển đến trong trận giao hữu với tại Toronto, Canada tháng năm 2005. Mặc dù gây ấn tượng nhờ phong độ cao trong màu áo Sao Đỏ Belgrade, Žigić chỉ bắt đầu xuất hiện trong đội chính thức đội tuyển từ giữa năm 2005. Tại trận đấu với Tây Ban Nha vào tháng năm 2005 trong khuôn khổ vòng loại World Cup 2006, vào sân từ băng ghế dự bị, anh đã góp công trong bàn thắng gỡ hoà 1-1. Trong trận đấu cuối cùng tại vòng loại với Bosnia và Herzegovina, Žigić đã đánh đầu chuyền bóng chính xác cho người đồng đội Mateja Kežman ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu, giúp đội tuyển Serbia và Montenegro chính thức có mặt tại World Cup 2006. Tại World Cup 2006, Žigić ghi được một bàn thắng trong trận đấu cuối cùng tại vòng bảng với Côte d'Ivoire. Tuy nhiên, đội bóng của anh đã để thua 3-2 trong trận này và rời giải với trận toàn thua. Ngày 24 tháng năm 2007, Žigić đã bị thẻ đỏ trong trận đấu tại vòng loại Euro 2008 với Kazakhstan, khiến anh phải vắng mặt trong trận đấu tiếp theo với Bồ Đào Nha (trong trận đấu với Phần Lan sau đó vào ngày tháng năm 2007, anh cũng không thể thi đấu vì phải phẫu thuật). Tại vòng loại Euro 2008, Žigić đã có bàn thắng nhưng Serbia chỉ đứng vị trí thứ ba và không thể tham dự Euro 2008. Tại vòng loại World Cup 2010, anh đã ghi được bàn thắng trong đó có bàn thắng mở tỉ số trong chiến thắng 5-0 trước Romania, chiến thắng đã chính thức đưa Serbia có mặt tại World Cup 2010. Žigić sau đó đã được huấn luyện vien Radomir Antić chọn vào danh sách 23 cầu thủ Serbia tham dự World Cup 2010. Anh cũng chính là cầu thủ cao nhất tại giải đấu với chiều cao 2,02 của mình. Tại World Cup 2010, Žigić đã ra sân đầy đủ trong cả ba trận vòng bảng nhưng không ghi được bàn thắng nào. Trong trận đấu thứ hai với Đức, anh đã có pha bật cao đánh đầu chuyền vào giữa cho Milan Jovanović ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu. Serbia đã bị loại sau khi để thua Úc 2-1 lượt trận cuối cùng vòng bảng. Žigić có bàn thắng đầu tiên tại vòng loại Euro 2012 khi ghi bàn ấn định chiến thắng 3-0 của Serbia trước quần đảo Faroe ngày tháng năm 2010. ngày sau, anh có bàn thắng ấn định tỉ số 1-1 phút 86 trong trận đấu với Slovenia. *Serbian Superliga: 2003–04, 2005−06 *Cúp quốc gia Serbia và Montenegro: 2003–04, 2005–06 *Cúp Nhà vua Tây Ban Nha: 2007–08 *Football League Cup: 2010–11 *Cầu thủ Serbia xuất sắc nhất năm: 2003, 2005, 2006 *Vua phá lưới giải Ngoại hạng Serbia 2003-04 :Cập nhật: 24 tháng năm 2010 2003–04 Sao Đỏ Belgrade Prva Liga 28 18 33 26 2004–05 25 15 30 20 2005–06 Super Liga 23 11 30 18 2006–07 2006–07 Racing de Santander La Liga 32 11 32 11 2007–08 Valencia CF 15 18 2008–09 Racing de Santander (mượn) 19 13 19 13 2009–10 Valencia CF 13 24 2010–11 Birmingham City F.C. Premier League 14 18 197 147 21 16 218 169 79 29 12 97 38 14 18 290 178 11 33 20 333 211 Đây là danh sách bàn thắng Nikola Žigić ghi được cho đội tuyển Serbia (bao gồm cả thời gian còn mang tên Serbia và Montenegro. Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
Nikola Žigić
Sinh năm 1980, Nhân vật còn sống, Người Bačka Topola, Cầu thủ bóng đá Serbia, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia và Montenegro, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia, Cầu thủ bóng đá FK Bačka Topola, Cầu thủ bóng đá FK Mornar, Cầu thủ bóng đá FK Kolubara, Cầu thủ bóng đá Sao Đỏ Beograd, Cầu thủ bóng đá FK Spartak Subotica, Cầu thủ bóng đá Racing de Santander, Cầu thủ bóng đá Valencia CF, Cầu thủ bóng đá Birmingham City F.C., Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Serbia, Cầu thủ bóng đá La Liga, Cầu thủ bóng đá Premier League, Cầu thủ bóng đá English Football League, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2010, Cầu thủ bóng đá Serbia nước ngoài, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Tây Ban Nha, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Anh, Vận động viên Serbia Anh, Vận động viên Serbia Tây Ban Nha, Cầu thủ bóng đá Serbia và Montenegro
Giải đấu Ligue 2019–20 (tên đầy đủ là Ligue Conforama 2019-20) là mùa giải thứ 82 của Giải vô địch bóng đá quốc gia Pháp (Ligue 1) kể từ khi thành lập. Giải bắt đầu vào ngày tháng năm 2019 và kết thúc vào ngày 23 tháng năm 2020. Đương kim vô địch là Paris Saint-Germain. Vào ngày tháng năm 2020, Liên đoàn bóng đá Pháp (FFF) quyết định kết thúc sớm mùa giải vì đại dịch COVID-19 tại Pháp. FC Metz và Stade Brestois 29 được thăng hạng từ sau mùa Ligue 2018–19, thay thế đội bị xuống hạng từ sau mùa Ligue 2018–19 là Stade Malherbe Caen và En Avant de Guingamp. Đội Địa điểm Sân vận động Sức chứa Mùa 2018–19 Amiens Stade de la Licorne 12.097 Angers Stade Raymond Kopa 17.835 Bordeaux Matmut Atlantique 42.115 Brest Stade Francis-Le Blé 15.097 Dijon Dijon Sân vận động Gaston Gérard 18.376 Sân vận động Pierre-Mauroy 50.157 Parc Olympique Lyonnais 59.186 Marseille Sân vận động Vélodrome 67.394 Metz Sân vận động 25.636 Monaco Sân vận động Louis II 18.523 Montpellier Stade de la Mosson 32.939 Nantes Stade de la Beaujoire 37.473 Nice Allianz Riviera 35.624 Nîmes Sân vận động Costières 18.482 Paris Sân vận động Công viên các Hoàng tử 48.583 Reims Sân vận động Auguste-Delaune 21.684 Rennes Roazhon Park 29.778 Saint-Étienne Sân vận động 41.965 Strasbourg Sân vận động Meinau 29.230 Toulouse Sân vận động Thành phố 33.150 Số đội Vùng hoặc quốc gia Danh sách đội Metz, Reims, và Strasbourg Montpellier, Nîmes, và Toulouse Lyon và Saint-Étienne Bretagne Brest và Rennes Amiens và Lille Angers và Nantes Marseille và Nice Dijon Monaco PSG Bordeaux Đội Huấn luyện viên Đội trưởng Nhà tài trợ chính Amiens Puma Intersport Angers Kappa Scania (H), Bodet (A) Bordeaux Puma Groupe Sweetcom (H), Bistro Régent (A), Winamax (3) Brest Nike Quéguiner (H), Yaourts Malo (A) Dijon Lotto Roger Martin (H), Suez (A 3) Lille New Balance Vero Moda Lyon Sylvinho Adidas Hyundai, Veolia (European) Marseille Puma Orange Monaco Kappa Fedcom Metz Nike Moselle Montpellier Michel Der Zakarian Nike Sud de France Nantes New Balance Synergie Nice Macron Mutuelles du Soleil Nîmes Puma Hectare Paris Saint-Germain Nike, Air Jordan (A) Accor Live Limitless Reims Umbro Emporio Armani Rennes Puma Samsic Saint-Étienne Ghislain Printant Le Coq Sportif Aesio Strasbourg Adidas ÉS Énergies (H), Croisi Europe (A) Toulouse Joma Triangle Interim Ghi chú: (H): Trang phục sân nhà (A): Trang phục sân khách Đội Huấn luyện viên đi Lý do Ngày rời đội Vị trítrênBXH Thay thế bởi Ngày bổ nhiệm Brest Hết hạn hợp đồng 17 tháng năm 2019 ''Vị 26 tháng năm 2019 Lyon 25 tháng năm 2019 Sylvinho 25 tháng năm 2019 Saint-Étienne 06 tháng năm 2019 Ghislain Printant 25 tháng năm 2019 Marseille Từ chức 25 tháng năm 2019 28 tháng năm 2019 Amiens Christophe Pélissier Chuyển sang Lorient 29 tháng năm 2019 19 tháng năm 2019 Dijon Từ chức 10 tháng năm 2019 20 tháng năm 2019 Đây là bảng liệt kê vị trí các đội sau mỗi vòng đấu. Để cập nhật thông tin liên tục, các trận bị hoãn không được điền vào như dự kiến, nhưng sẽ được thêm ngay sau khi đội đã đấu trận bị hoãn. Thứ hạng Cầu thủ Câu lạc bộ Số bàn thắng Wissam Ben Yedder Monaco 18 Kylian Mbappé Paris Saint-Germain Moussa Dembélé Lyon 16 Neymar Paris Saint-Germain 13 Victor Osimhen Lille Habib Diallo Metz 12 Mauro Icardi Paris Saint-Germain Darío Benedetto Marseille 11 Kasper Dolberg Nice 10 Denis Bouanga Saint-Étienne 10 M'Baye Niang Rennes Thứ hạng Cầu thủ Câu lạc bộ Số kiến tạo Ángel Di María Paris Saint-Germain 14 Islam Slimani Monaco Yoann Court Brest Jonathan Ikoné Lille Pierre Lees-Melou Nice Neymar Paris Saint-Germain Wissam Ben Yedder Monaco Romain Del Castillo Rennes Gaël Kakuta Amiens Gaëtan Laborde Montpellier Kylian Mbappé Paris Saint-Germain Moses Simon Nantes Marco Verratti Paris Saint-Germain Cầu thủ Đội Đối thủ Tỷ số Ngày Vòng đấu Casimir Ninga Angers Saint-Étienne 4–1 (H) Cristian Battocchio Brest Strasbourg 5–0 (H) Josh Maja Bordeaux Nîmes 6–0 (H) Darío Benedetto Marseille Nîmes 3–2 (A) Thứ hạng Thủ môn Câu lạc bộ Số trận sạch lưới Mike Maignan Lille 12 Steve Mandanda Marseille Predrag Rajković Reims Ludovic Butelle Angers 11 Keylor Navas Paris Saint-Germain Alban Lafont Nantes 10 Édouard Mendy Rennes Anthony Lopes Lyon Alexandre Oukidja Metz Gerónimo Rulli Montpellier Matz Sels Strasbourg 2019-20 Pháp
Ligue 2019–20
(7653) 1991 UV là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Seiji Ueda và Hiroshi Kaneda Kushiro, Hokkaidō, Nhật Bản, ngày 18 tháng 10 năm 1991. *Danh sách các tiểu hành tinh: 7001–8000
(7653) 1991 UV
Được phát hiện bởi Hiroshi Kaneda, Được phát hiện bởi Seiji Ueda
Lưu Vĩnh Yên (15 tháng 12 năm 1930 12 tháng 11 năm 2013), thường được biết đến với bút danh Lưu Yên, là một họa sĩ người Việt, tác giả của một số bức tranh tiêu biểu cho nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ông là một trong những sinh viên trường Mỹ thuật Việt Nam khóa Tô Ngọc Vân 1955 1957. Trong suốt thời gian hoạt động nghệ thuật của mình, ông đã có những đóng góp đáng kể cho nền hội họa Việt Nam qua nhiều tác phẩm hội họa, sách tranh, triển lãm và nhiều bài viết về hội họa đương đại, cổ điển Việt Nam cũng như thế giới. Lưu Yên sinh ngày 15 tháng 12 năm 1930 tại xã An Hưng, An Dương, Hải Phòng. Ông là con thứ hai trong một gia đình tiểu tư sản, đông anh chị em. Từ nhỏ, ông được cha mẹ cho đi học và tốt nghiệp tú tài phần thứ nhất ban sinh ngữ, do đó ông có thể sử dụng thành thạo tiếng Pháp. Sau khi học xong tú tài, ông được nhận vào làm tại hãng máy bay Air France. Tuy nhiên sau khi đi làm được ngày, ông nhận thấy mình không phù hợp với công việc văn phòng nên xin nghỉ không làm nữa. Sau khi nghỉ, ông xin vào lớp học vẽ do Họa sĩ Lương Xuân Nhị tổ chức. Năm 1953, ông về Yên Mỹ Hưng Yên dạy học, sau đó tiếp tục về Hà Nội làm gia sư. Năm 1954, ông tiếp tục học vẽ và thi đỗ vào trường Mỹ thuật Việt Nam, khóa Tô Ngọc Vân 1955 1957. Năm 1958, Lưu Yên đi thực tế tại Quảng Ninh cùng Hoàng Công Luận, tham gia làm công nhân mỏ đồng thời làm công tác văn hóa. Trong thời gian này, ông tham gia triển lãm "Khu mỏ xưa và nay"; tham gia vẽ tranh tường "Xưa và nay Hai chế độ" Cẩm Phả; thiết kế và trình bày tại Bảo tàng Quảng Ninh và có đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng phong trào mỹ thuật Quảng Ninh thông qua việc giảng dậy các lớp hội họa cho thế hệ trẻ tại đây, những lớp họa sĩ công nhân mỏ đầu tiên. Năm 1961, ông chuyển về Hà Nội, làm Biên tập viên Nhà Xuất bản Phổ thông thuộc Tổng cục Thông tin, sau đó chuyển sang công tác tại Nhà xuất bản Văn hóa thuộc Bộ Văn hóa Thông tin. Năm 1985, ông chuyển về làm Biên tập viên Tạp chí Mỹ thuật Việt Nam và nghỉ hưu vào năm 1990. Sau khi nghỉ hưu, ông tiếp tục đóng góp cho nền mỹ thuật Việt Nam qua sáng tác tranh, các bài viết như tiểu luận về hội họa cổ Nhật Bản Nhà xuất bản Mỹ thuật, 1993; Thành viên Hội đồng biên soạn Tủ sách nghệ thuật Danh hoạ thế giới, 2001; Thành viên Ban biên tập chuyên ngành Mỹ thuật Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995; thành viên Hội đồng nghệ thuật chấm giải Mỹ thuật Việt Nam Asean, 1998. Ngoài công tác biên tập tại tạp chí, ông còn được biết đến là một tác giả có các bài nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam và Thế giới, phê bình nghệ thuật, minh họa trên sách, báo, tạp chí; hợp tác biên tập về mỹ thuật với các nhà xuất bản như Nhà xuất bản Kim đồng và Tạp chí quân đội, Từ điển bách khoa Việt Nam, Công ty Tem Việt Nam, Nhà Xuất bản giáo dục, Tạp chí Mỹ thuật, Nhà Xuất bản văn hóa, Nhà Xuất bản phổ thông... Lưu Yên trở thành hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam năm 1970. Trong lĩnh vực hội hoạ, ông luôn tìm tòi thực nghiệm theo nhiều khuynh hướng, nhưng về căn bản vẫn là hiện thực, thể hiện chân dung và hình tượng con người. Các tác phẩm của ông thường sử dụng khuôn khổ nhỏ hoặc trung bình (lụa, khắc gỗ, sơn mài, Acrylic, sơn dầu, phấn mầu), đôi khi trên nền tảng nghiên cứu "cụ thể, khách quan" ông giản lược hình thành "dấu hiệu" với những nét bản chất, hầu như "chủ quan trừu tượng". Ông đã có nhiều tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao Việt Nam. Các tác phẩm này được vẽ và sáng tác tại nhiều nơi như Huế, Quảng Ninh...Một số tác phẩm tiêu biểu được sáng tác trước năm 1975 như Công nhân mỏ cẩm phả (1960) sơn mài, Trầm tư (1967) kỹ thuật hỗn hợp, Hà Nội những năm 1960 (1960), Ấn tượng chiến tranh (1969) sơn dầu... Lưu Yên mất ngày 12 tháng 11 năm 2013 tức ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Thìn tại nhà riêng phố Nguyễn An Ninh, Hoàng Mai, Hà Nội, Việt Nam. Ông được an táng tại Nghĩa trang Văn Điển. Sau năm 1975 Chiếc Áo Thổ cẩm (2001) Em bé người tày (1999) Em bé H'Mong (1992) Thiếu nữ miền núi (1990) Đêm nay bác không ngủ (1985) Du kích già Bắc Sơn (1983) Vá buồm vá lưới (1980) Tự vệ công nhân (1975) Anh lái xe (1960) Em bé đi học (1956 bột màu) Tranh sơn dầu, sơn mài, Acrylic, bột màu,.... Và hàng trăm ký họa về phong cảnh, con người. Huân chương Kháng chiến hạng Nhì; Huy chương Chiến sĩ Văn hóa; Huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa Nghệ thuật; Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam; Huy Chương đồng Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1960 (nhóm tác giả); Giải tặng thưởng Văn học Nghệ thuật năm 2000.
Lưu Vĩnh Yên
Họa sĩ Việt Nam, Sơn mài, Sơn dầu, Mầu Nước, Acrylic, Phấn mầu, Mỹ thuật Việt Nam, Người Hải Phòng, Sinh viên Trường Mỹ thuật Việt Nam Khóa Tô Ngọc Vân, Sinh năm 1930, Mất năm 2013, Họa sĩ thế kỷ 20
José Sócrates José Sócrates Carvalho Pinto de Sousa, GCIH (sinh ngày tháng năm 1957), thường được gọi bằng tên của ông José Sócrates cho (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: ʒuzɛ sɔkɾɐtɨʃ) là Thủ tướng Chính phủ Bồ Đào Nha từ ngày 12 tháng năm 2005 cho đến ngày 24 tháng năm 2011. Ông là Tổng thư ký Đảng Xã hội. Sócrates trở thành Thủ tướng vào ngày 12 tháng năm 2005. Trong nửa sau của năm 2007, ông đóng vai trò của Hội đồng Liên minh châu Âu. Ngoài các chức vụ này, José Sócrates là Bộ trưởng Thanh niên và Thể thao Bồ Đào Nha và là một trong những người tổ chức các giải vô địch bóng đá UEFA Euro 2004 tại Bồ Đào Nha, cũng như là một cựu Bộ trưởng Môi trường trong chính phủ của António Guterres. Ngày 23 tháng năm 2011, ông đệ đơn từ chức cho tổng thống sau khi quốc hội bác bỏ các biện pháp khắc khổ của chính phủ của ông trong một cuộc bỏ phiếu dẫn tới một cuộc bầu cử mới.
José Sócrates Carvalho Pinto de Sousa
Người Porto
Amadou Zeund Georges Ba Mvom Onana (sinh ngày 16 tháng năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ gốc Sénégal hiện thi đấu vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Everton và đội tuyển quốc gia Bỉ. Amadou Onana at kicker.de Belgium profile at Belgian FA
Amadou Zeund Georges Ba Mvom Onana
Sinh năm 2001, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Bỉ, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Polypodium dipteris là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Blume mô tả khoa học đầu tiên năm 1828. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
''Polypodium dipteris
Polypodium, Unresolved names
Đoàn Văn Diên là nhà lãnh đạo công đoàn Việt Nam hiện đang bị chính phủ Việt Nam cầm tù. Tổ chức Ân xá Quốc tế coi ông là một tù nhân lương tâm và kêu gọi trả tự do cho ông. Đoàn vốn là nhà hoạt động của Tổ chức Công nhân-Nông dân Thống nhất, một liên đoàn lao động không được chính phủ Việt Nam công nhận. Trước khi diễn ra hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, chính quyền đã bỏ tù tất cả các thành viên của UWFO, trong đó có Đoàn Văn Diên và con trai ông là Đoàn Huy Chương. Cố vấn pháp lý của nhóm là Trần Quốc Hiền bị bắt vào tháng Giêng năm sau, hai ngày sau khi đồng trở thành phát ngôn viên của nhóm. Tháng 12 năm 2007, Đoàn Văn Diên và Đoàn Huy Chương bị tuyên mỗi người bốn năm rưỡi tù theo điều 258 bộ luật hình sự, tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước". Nhà chức trách cũng buộc tội họ vu khống chính quyền Việt Nam và truyền bá tư tưởng "phản động". Bản án của họ đã bị các nhóm nhân quyền quốc tế phản đối bao gồm Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và Tổ chức Ân xá Quốc tế, những nhóm này bèn trao quy chế "tù nhân lương tâm" cho tất cả các nhà hoạt động bị bắt giữ và kêu gọi trả tự do vô điều kiện ngay lập tức cho họ. Vào mùa xuân năm 2011, American Repertory Theater của Boston và Serj Tankian của System of Down đã dành phần sản xuất vở bi kịch Prometheus Bound cho Trần Quốc Hiền, Đoàn Văn Diên, Đoàn Huy Chương và bảy trường hợp khác của Tổ chức Ân xá Quốc tế, ghi chú trong chương trình rằng "bằng cách hát lên câu chuyện về Prometheus, Vị thần đã thách thức bạo chúa Zeus bằng cách ban cho loài người cả lửa và nghệ thuật, tác phẩm này hy vọng sẽ mang lại tiếng nói cho những người hiện đang bị những kẻ áp bức thời hiện đại bịt miệng hoặc đe dọa".
Đoàn Văn Diên
Năm sinh không rõ, Nhân vật còn sống, Nhà hoạt động xã hội Việt Nam
Philips Lumileds Lighting là công ty sản xuất và phát triển công nghệ chiếu sáng hàng đầu thế giới, nổi tiếng với sản phẩm Luxeon LED, bán được hơn triệu đơn vị trên toàn thế giới. Khởi nghiệp từ bộ phận quang điện tử của Hewlett-Packard gần 40 năm trước, ngày nay Lumiled là công ty 100% vốn tư nhân liên doanh giữa Agilent và Philips. Hiện tại, tại Việt Nam, Lumileds được giới thiệu bằng dòng sản phẩm LUXEON thông qua công ty cổ phần thiết bị chiếu sáng Ánh Sao.
Philips Lumileds Lighting
Công ty thành lập năm 1999, Philips
Ferdinando III xứ Toscana (6 tháng năm 1769 18 tháng năm 1824) là Đại Công tước của xứ Toscana, (1790–1801; 1814–1824). Ông cũng là Tuyển Hầu tước và sau là Đại Công tước xứ Salzburg (1803–1806) và Đại Công tước của xứ Würzburg (1806–1814). Ferdinando sinh ra Firenze, Toscana, trong Nhà Ông là con trai của Leopold, sau là Đại Công tước của Toscana, và người vợ là công chúa cả Maria Luisa của Tây Ban Nha. Khi vua cha Leopold II được tấn phong làm Hoàng đế La Mã Thần thánh vào năm 1790, Ferdinando đã kế thừa chức Đại công tước xứ Toscana vốn được nhường lại bởi cha ông vào ngày 22 tháng năm 1790. Ông bị người Pháp trục xuất vào năm 1799 nhưng vẫn tại vị Toscana cho đến năm 1801, khi Hiệp ước Aranjuez (1801) được ký kết, ông bị Napoleon buộc phải rời đến Vương quốc Etruria, như là sự bồi thường đối với Công tước xứ Parma của Nhà Bourbon, vốn bị truất quyền theo Hiệp ước Lunéville trong cùng năm. Thay vào đó, Ferdinando được trao cho chức Công tước và Tuyển hầu tước xứ Salzburg, vùng đất thế tục của Tổng giám mục xứ Salzburg. Ông cũng được trao cho chức Tuyển hầu tước của Đế quốc La Mã Thần thánh, vào ngày 26 tháng 12 năm 1802. Sau khi Đế quốc La Mã Thần thánh tan rã vào năm 1806, danh hiệu "Tuyển hầu tước" cũng không còn nữa. Vàp ngày 25 tháng 12 năm 1805, Ferdinando bị buộc phải rời khỏi Salzburg, theo các điều khoản của Hiệp ước Pressburg nhằm sáp nhập lãnh thổ của ông vào anh trai là Hoàng đế Francis II. Thay vào đó, Ferdinand được trao cho chức Công tước xứ Würzburg, một Nhà nước mới được tạo ra cho ông từ Tổng giáo phận Würzburg. Sau khi Đế quốc La Mã Thần thánh sụp đổ vào năm 1806, ông nhận lãnh chức vụ mới là Đại công tước xứ Würzburg. Vào ngày 30 tháng năm 1814, sau khi Hoàng đế Napoléon thất trận, Ferdinand được phục chức Đại công tước xứ Toscana. Tuy nhiên vào năm 1815, Công quốc Lucca được tách ra từ một phần của xứ Toscana, như là sự bồi thường cho nhà Bourbons tại xứ Parma. (Lucca được tái sáp nhập vào năm Tuscany vào năm 1847.) Đại Công tước Ferdinando qua đời năm 1824 Florence. Công tử Leopold lên nối ngôi tức Đại Công tước Leopold II. Tại Napoli vào ngày 15 tháng năm 1790 theo sự uỷ nhiệm và Viên vào ngày 19 tháng năm 1790 bằng trực tiếp, Ferdinando đã kết hôn với hai người vợ trong họ hàng là Công chúa Luisa Maria Amelia Teresa (Napoli, 27 tháng năm 1773 Viên, 19 tháng năm 1802), con gái của Ferdinando của Hai Sicilia và Marie Caroline của Áo. Các con của họ: Công chúa Áo Carolina Ferdinanda Teresa (Firenze, tháng năm 1793 Viên, tháng năm 1802) Hoàng tử Áo Francesco Leopoldo (Firenze, 15 tháng 12 năm 1794 Viên, 18 tháng năm 1800) Leopoldo II di Toscana (1797–1870), làm Đại công tước xứ Toscana trong khoảng thời gian 1824–1859 Công chúa Áo Maria Luisa Giuseppa Cristina Rosa (30 tháng năm 1799 15 tháng năm 1857) Công chúa Áo Maria Theresa (21 tháng năm 1801 12 tháng 1, 1855) kết hôn với Charles Albert xứ Sardinia. Hoàng tử Áo không biết tên (19 tháng năm 1802), ngoài ra họ còn các người con khác không được nhắc đến Tại Florence ngày tháng năm 1821, Ferdinand kết hôn lần hai với Maria Ferdinanda xứ Sachsen (Dresden, 27 tháng năm 1796 Schloss Brandeis, Bohemia, tháng 1, 1865), con gái của Maximilian, Thái tử Sachsen, (1759–1838) và vợ ông Caroline xứ Bourbon-Parma (1770–1804). Bà là người vợ duy nhất trong họ hàng mà ông li dị. Không có người con nào được sinh ra từ lần kết hôn thứ hai. Grand-Ducal House of Tuscany Royal House of Two-Sicilies Royal House of Saxony
Ferdinando III xứ Toscana
Vương tộc, Hiệp sĩ Golden Fleece, Hoàng tử Áo, Hoàng tử Bohemia, Đại công tước xứ Toscana, Người Firenze, Vua theo đạo Công giáo Rôma, Đại công tước Würzburg
Đảng vì Tự do (, PVV) là một đảng chính trị dân tộc chủ nghĩa Hà Lan và chính trị gia cánh hữu Hà Lan. Được thành lập vào năm 2006 với tư cách là người kế nhiệm đảng duy nhất của Geert Wilders trong Hạ viện, đảng này đã giành ghế trong cuộc tổng tuyển cử năm 2006, trở thành đảng lớn thứ năm trong Quốc hội. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2010 nó đã giành được 24 ghế, làm cho nó là đảng lớn thứ ba. Vào thời điểm đó, PVV đã đồng hỗ trợ chính phủ thiểu số dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Mark Rutte mà không có các bộ trưởng trong nội các. Tuy nhiên PVV đã rút lại sự ủng hộ của mình vào tháng năm 2012 do sự khác biệt về cắt giảm ngân sách tại Catshuis. Đây là lần thứ ba trong cuộc bầu cử Nghị viện Châu Âu năm 2014, giành bốn trong số 26 ghế. PVV kêu gọi các mục như việc giam giữ hành chính và lập trường phân biệt đối xử đối với người nhập cư vào xã hội Hà Lan, Đảng Tự do, khác với các bên trung tâm được thành lập Hà Lan (như Đảng Nhân dân vì Tự do và Dân chủ, VVD). Bên cạnh đó, đảng này luôn coi là chủ nghĩa hoài nghi châu Âu và kể từ đầu tháng năm 2012, theo chương trình trình bày cho cuộc bầu cử vài tháng sau đó vào tháng 9, đảng này ủng hộ mạnh mẽ việc rút khỏi EU. Đảng vì Tự do là một đảng liên kết với Geert Wilders là thành viên duy nhất của nó. Đảng không đủ điều kiện để nhận khoản tài trợ của chính phủ Hà Lan và dựa vào các khoản đóng góp.
Đảng vì Tự do
Đảng phái chính trị Hà Lan
Lớp tàu chiến-tuần dương là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Thiết kế của chúng phản ảnh sự cải tiến tối thiểu so với lớp Invincible dẫn trước, gia tăng tầm xa hoạt động và cải thiện góc bắn chéo qua lườn tàu đối với các tháp pháo bên mạn giữa tàu bằng cách kéo dài lườn tàu. Giống như những chiếc tiền nhiệm, thiết kế của chúng tương tự như những thiết giáp hạm dreadnought đương thời của Anh, như là lớp Neptune, nhưng hy sinh một phần vỏ giáp bảo vệ và một tháp pháo để đổi lấy một tốc độ nhanh hơn Nguyên chỉ có là chiếc duy nhất trong lớp, nhưng sau đó còn có HMAS Australia và New Zealand được chế tạo như một phần của kế hoạch phòng thủ các thuộc địa tự trị thuộc Đế quốc Anh; theo đó mỗi lãnh thổ tự trị sẽ mua một "đơn vị hạm đội" gồm một tàu chiến-tuần dương, ba tàu tuần dương hạng nhẹ và sáu tàu khu trục. Chỉ có Australia hoàn tất đầy đủ tưởng này, hình thành nên Hải quân Hoàng gia Australia, còn New Zealand chỉ đồng cung cấp kinh phí cho một tàu chiến-tuần dương. Một thiết kế của lớp đã được chọn để chế tạo hai chiếc này thay vì lớp Lion vốn đang được đóng cho Hải quân Hoàng gia Anh. Chúng trải qua phần lớn thời gian của chiến tranh tuần tra tại Bắc Hải, và tham gia hầu hết các trận chiến tại đây, cho dù chỉ có New Zealand có mặt tại Anh Quốc khi chiến tranh bắt đầu. lúc đó hiện diện tại Địa Trung Hải khi nó truy đuổi các tàu chiến Đức Goeben và Breslau đang tháo chạy về Thổ Nhĩ Kỳ. Australia là soái hạm của Hải quân Hoàng gia Australia tại vùng biển Australia, và đã giúp vào việc chiếm đóng các thuộc địa Đức tại Thái Bình Dương cũng như truy tìm không thành công Hải đội Đông Đức Quốc trước khi lên đường đi Anh vào tháng 12 năm 1914. New Zealand tham gia một số hoạt động ban đầu tại Bắc Hải, bao gồm Trận Heligoland Bight và cuộc bắn phá Scarborough bất phân thắng bại. Australia được sửa chữa sau một va chạm với tàu chị em New Zealand ngay trước Trận Jutland, nên chỉ có và New Zealand có mặt trong cuộc hải chiến lớn nhất Thế Chiến này, nơi bị phá hủy trong một vụ nổ hầm đạn. Cả Australia và New Zealand trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến một cách bình yên, chờ đợi sự xuất hiện tiếp theo của Hạm đội Biển khơi Đức, nhưng việc này đã bị Kaiser cấm cho đến khi chiến tranh chấm dứt. New Zealand đã đưa Đô đốc John Jellicoe trong chuyến đi đến Ấn Độ và các thuộc địa khác sau chiến tranh, trong khi Australia quay trở về nhà nơi nó trở thành soái hạm của Hải quân Hoàng gia Australia. New Zealand bị bán để tháo dỡ vào năm 1922 trong khi Australia chỉ tồn tại thêm hai năm nữa trước khi bị đánh đắm nhằm tuân thủ những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington. là lớp tiếp nối cho lớp tàu chiến-tuần dương Invincible. Một số lựa chọn đã được xem xét cho Chương trình Chế tạo Hải quân 1906, bao gồm thiết kế X4 có trọng lượng choán nước và vỏ giáp dày cùng tốc độ nhưng đến cuối cùng chương trình chỉ bao gồm ba thiết giáp hạm theo kiểu Một số lựa chọn khác lại được xem xét cho Chương trình 1907–1908, với trọng lượng choán nước từ đến nhưng đến cuối cùng thiết giáp hạm lại được ưa chuộng và không có tàu chiến-tuần dương nào được đặt hàng cho đến năm tiếp theo. Vào lúc mà thiết kế cuối cùng của được chấp thuận, Bộ Hải quân Anh đã tiến thêm một bước khác; Đô đốc Fisher đã viết vào tháng năm 1908: "Tôi đã đưa ra cho Sir Philip Watts phác thảo một chiếc Indomitable mới sẽ khiến anh thèm nhỏ dãi khi nhìn thấy nó", một thiết kế mà cuối cùng đã trở thành chiếc Lion. Vào tháng năm 1909, các lãnh thổ thuộc địa tự trị gặp gỡ trong cuộc Hội nghị Đế chế năm 1909; và trong nội dung thảo luận về việc phòng thủ Đế quốc Anh, Bộ Hải quân đề nghị thành lập các đơn vị hạm đội bản xứ, mỗi đơn vị bao gồm một tàu chiến-tuần dương lớp Invincible, ba tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Bristol và sáu tàu khu trục. Chúng sẽ được đặt căn cứ tại Australia, New Zealand, Canada và Nam Phi nhằm củng cố việc phòng thủ hải quân cho các lãnh thổ tự trị, trong khi Hải quân Hoàng gia tập trung tại vùng biển nhà để đối phó với mối đe dọa của Đức. Trong khi kế hoạch bị Canada và Nam Phi bác bỏ, Australia và New Zealand chấp thuận, mỗi lãnh thổ đặt hàng một tàu chiến-tuần dương theo phiên bản lớp được cải tiến thay vì lớp Invincible như đề nghị. Australia trở thành tàu chiến chủ lực của Hải quân Hoàng gia Australia vừa mới được thành lập, trong khi New Zealand được giữ lại vùng biển châu Âu như một đơn vị Hải quân Hoàng gia Anh. Cuối cùng chỉ có một đơn vị hạm đội bản xứ được thành lập, Hải đội Australia, vào năm 1913. Tập class battlecruiser diagrams Brasseys đồ mạn phải và sàn tàu như được mô tả trong Niên giám Hải quân Brassey 1923. Cách sắp xếp được mô tả trong sơ đồ này thực ra là của lớp tàu chiến-tuần dương Invincible. Độ dày của vỏ giáp được nêu ra là do Bộ Hải quân công bố; độ dày thực tế nhiều chỗ sẽ kém hơn. được đặt hàng như một tàu chiến-tuần dương đơn lẻ trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1908–1909. Thiết kế sơ thảo của nó được chuẩn bị vào tháng năm 1908, và bản thiết kế sau cùng được thông qua vào tháng 11 năm 1908. Thiết kế này thực ra là một phiên bản của chiếc Invincible được mở rộng, với sự cải tiến về cách sắp xếp vỏ giáp bảo vệ và dàn hỏa lực chính. lớn hơn đôi chút so với lớp Invincible dẫn trước. Chúng có chiều dài chung mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là khi đầy tải nặng. Các con tàu có trọng lượng choán nước là và lên đến khi đầy tải nặng, hơn so với các con tàu trước đó. Nó có một chiều cao khuynh tâm khi đầy tải nặng. Hai bộ turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp được đặt trong các phòng động cơ riêng biệt. Các trục phía ngoài được nối với các turbine áp lực cao, hơi nước thoát ra được dẫn vào các turbine áp lực thấp dẫn động trục phía trong. Mỗi trục phía ngoài dẫn động một chân vịt có đường kính trong khi hai trục phía trong được nối với chân vịt có đường kính Turbine được cung cấp hơi nước từ 31 nồi hơi ống nước Babcock and Wilcox bố trí trong phòng nồi hơi. Turbine của được thiết kế để cung cấp công suất nhưng đã đạt đến trên chế độ cưỡng bức khi chạy thử máy. Turbine của Australia và New Zealand mạnh hơn đôi chút công suất Chúng được thiết kế để có được tốc độ nhưng cả ba đều đạt đến khi chạy thử máy. Các con tàu có thể mang theo tối đa than cùng dầu đốt để phun vào than nhằm gia tăng tốc độ cháy. trữ lượng nhiên liệu tối đa, tầm xa hoạt động của chúng là tốc độ Tập quả đạn pháo 12 inch đang được nạp trên chiếc HMAS Australia; lưu vòng xoay ngắt quãng của khóa nòng Mỗi con tàu được trang bị tám khẩu pháo BL Mark đặt trên bốn tháp pháo nòng đôi BVIII*. Hai tháp pháo tận cùng phía trước và phía sau được bố trí trên trục dọc và được đặt tên lần lượt là 'A' và 'X'. Hai tháp pháo bên mạn 'P' và 'Q' được đặt so le giữa tàu theo hình thang giữa các ống khói, tháp pháo 'P' bên mạn trái và thường hướng ra trước trong khi tháp pháo 'Q' bên mạn phải và thường hướng ra sau; chúng có thể bắn chéo qua mạn cho đến góc 70°. Các khẩu pháo này cùng kiểu với loại được trang bị cho thiết giáp hạm Dreadnought cũng như cho các lớp Lord Nelson và Các khẩu pháo có thể hạ đến góc −3° và nâng lên đến 13,5°, cho dù các tháp pháo được cải tiến để có thể nâng đến góc 16° trong Thế Chiến I. Chúng bắn ra đạn pháo nặng lưu tốc đầu đạn góc nâng 13,5°, tầm bắn xa của loại đạn pháo xuyên thép (AP) chr đạt được và góc nâng 16°, tầm bắn xa được mở rộng đến sử dụng loại đạn pháo crh có đặc tính khí động tốt hơn nhưng nặng hơn đôi chút. Tốc độ bắn của các khẩu pháo này là 1–2 quả đạn pháo mỗi phút. Con tàu mang theo tổng cộng 880 quả đạn pháo trong thời chiến, 110 quả cho mỗi khẩu pháo. Dàn pháo hạng hai của chúng bao gồm mười sáu khẩu BL Mk VII được đặt trên cấu trúc thượng tầng. Tất cả các khẩu pháo được bố trí trong các tháp pháo vào đợt tái trang bị giai đoạn 1914-1915 để bảo vệ pháo thủ khỏi thời tiết khắc nghiệt và hoạt động của đối phương, mặc dù hai khẩu đã được tháo bỏ vào lúc này. Các khẩu pháo trên bệ PII* có thể hạ đến góc 7° và nâng lên đến 15°. Chúng bắn ra đạn pháo nặng lưu tốc đầu đạn cho một tầm xa tối đa Tốc độ bắn của chúng là 6–8 phát mỗi phút. Mỗi khẩu pháo được cung cấp 100 quả đạn. Một khẩu pháo inch bổ sung được trang bị trên những chiếc còn sống sót vào năm 1917 như là súng phòng không. Nó được đặt trên bệ góc cao MkII có khả năng nâng tối đa lên đến góc 60°, sử dụng một liều thuốc phóng được giảm bớt chỉ tạo ra một lưu tốc đầu đạn Dàn vũ khí phòng không ban đầu bao gồm một khẩu QF inch 20 cwt duy nhất trên bệ MkII góc cao vốn được bổ sung vào đợt tái trang bị 1914-1915. Nó có khả năng hạ đến 10° và nâng tối đa lên đến 90°. Nó bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và tốc độ 12–14 viên mỗi phút. Trần bắn hiệu quả của kiểu pháo này là Nó được cung cấp 500 quả đạn. New Zealand mang theo một khẩu QF pounder Hotchkiss duy nhất trên bệ MkIc góc cao từ tháng 10 năm 1914 đến cuối năm 1915. Nó có khả năng hạ đến 8° và nâng tối đa lên đến 60°. Nó bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và tốc độ bắn 20 viên mỗi phút. Trần bắn tối đa là nhưng tầm bắn hiệu quả chỉ đạt Các con tàu cũng được trang bị hai ống phóng ngư lôi ngầm hai bên mạn, phía sau tháp pháo 'X', và mang theo 12 quả ngư lôi. Tập tin:HMAS Australia LOC với các trạm quan sát lớn đặt trên đỉnh mỗi cột ăn-ten ba chân Hỏa lực dàn pháo chính của được kiểm soát từ các trạm quan sát lớn được đặt trên đỉnh mỗi cột ăn-ten ba chân trước và cột ăn-ten chính. Dữ liệu đo được từ một máy đo tầm xa Barr Stroud được nạp vào một máy tính cơ khí Dumaresq rồi được truyền bằng điện đến đồng hồ khoảng cách Vickers đặt trong trạm truyền tin (TS) đặt bên dưới mỗi trạm quan sát, nơi chúng được biên dịch thành dữ liệu tầm xa và độ lệch được các khẩu pháo sử dụng. Dữ liệu về mục tiêu cũng được ghi lại trên một sơ đồ giúp cho sĩ quan tác xạ dự đoán sự di chuyển của mục tiêu. Mỗi tháp pháo có thiết bị truyền cho riêng nó, và tất cả tháp pháo, trạm quan sát và trạm truyền tin có thể kết nối với nhau theo mọi sự kết hợp. Các thử nghiệm tác xạ trên chiếc Hero được thực hiện vào năm 1907 đã cho thấy sự mong manh của hệ thống này khi trạm quan sát bị bắn trúng hai lần và mảnh đạn gây hư hại ống truyền âm và mọi dây dẫn bắt dọc theo cột ăn-ten. Để bảo vệ chống lại khả năng này, tháp pháo 'A' của chiếc được trang bị máy đo tầm xa phía sau nóc tháp pháo, và nó được trang bị để kiểm soát toàn bộ dàn pháo chính trong đợt tái trang bị giữa năm 1911 và 1914. Australia và New Zealand được chế tạo với một sự sắp xếp khác biệt. Trạm quan sát trên đỉnh cột ăn-ten chính được loại bỏ, và một tháp quan sát bọc thép được bố trí thay thế trên tháp chỉ huy, nơi nó được bảo vệ tốt hơn, cải thiện tầm nhìn và trực tiếp thao tác trên các vị trí chỉ huy ban đầu. Trạm truyền tin phía sau được loại bỏ trong khi trạm truyền tin phía trước được mở rộng. Tháp pháo 'A' cũng được chế tạo với những cải tiến nêu trên. Kỹ thuật kiểm soát hỏa lực tiến bộ nhanh chóng vào những năm ngay trước Thế Chiến I, và việc phát triển Bảng điiều khiển hỏa lực Drayer là một sự tiến triển đáng kể như vậy. Nó bao gồm chức năng của máy tính Dumaresq cùng đồng hồ khoảng cách, và một phiên bản đơn giản Mk đã được trang bị cho những chiếc lớp vào đợt tái trang bị từ giữa năm 1915 đến tháng năm 1916. Một phát triển quan trọng hơn là bộ kiểm soát hỏa lực đặt trên cao của con tàu, truyền thông tin bằng điện góc nâng và góc xoay đến tháp pháo bằng con trỏ, và các pháo thủ làm theo chỉ dẫn đó. Sĩ quan hỏa lực có thể bắn đồng thời các khẩu pháo thành loạt, giúp vào việc quan sát điểm rơi của đạn pháo cũng như hạn chế ảnh hưởng của sự chòng chành con tàu trên sự phân tán của đạn pháo. Một khẩu pháo trên tháp pháo 'Y' cũng được trang bị một bộ truyền tin, để có được chức năng như một khẩu pháo "dẫn hướng" dự phòng, nhưng không có thiết bị dành cho khẩu pháo để tách giữa bộ điều khiển chính và khẩu pháo dẫn hướng này. một khía cạnh, lớp vỏ giáp bảo vệ dành cho lớp yếu hơn so với những chiếc dẫn trước, vì vỏ giáp bị giảm độ dày một số chỗ, nhưng được dàn ra rộng hơn. Đai giáp mực nước kéo dài từ mũi đến tận đuôi, nó dày đến khoảng giữa con tàu, nhưng được vuốt mỏng còn ngang nơi kết thúc các bệ tháp pháo và hầm đạn 12 inch, rồi vuốt mỏng hơn nữa chỉ còn về phía hai đầu con tàu. Một vách ngăn dày tiếp giáp với bệ tháp pháo ‘X’, trong khi vách ngăn phía trước dày Tháp pháo và bệ tháp pháo được bảo vệ bởi lớp giáp dày ngoại trừ nóc tháp pháo sử dụng vỏ giáp Krupp KNC dày Các trụ chống nóc tháp pháo được gia cố trên những chiếc lớp sau những bài học có được sau thử nghiệm tác xạ tiến hành vào năm 1907. Độ dày vỏ giáp bằng thép nickel cho sàn tàu chính nói chung chỉ dày nhưng được tăng lên chung quanh bệ tháp pháo. Vỏ giáp sàn dưới cũng bằng thép nickel dày phần phẳng và inch phần nghiêng, tăng lên inch hai đầu con tàu. Mặt hông của tháp chỉ huy phía trước dày trong khi tháp quan sát có độ dày Nóc và sàn của cả hai tháp làm bằng vỏ giáp Krupp KNC dày inch trong khi ống liên lạc của tháp chỉ huy dày inch. Tháp điều khiển ngư lôi có lớp giáp bằng thép nickel dày inch tất cả các phía. Vách ngăn chống ngư lôi bằng thép nickel dày được đặt ngang các hầm đạn và phòng đạn pháo. Ống khói được bảo vệ bằng thép nickel dày 1,5 inch mặt hông và inch hai đầu. Vỏ giáp Krupp được sử dụng rộng rãi ngoại trừ những nơi được chú thích khác như trên. Australia và New Zealand được chế tạo với một sự sắp xếp khác biệt. Đai giáp mực nước không kéo dài đến tận hai đầu con tàu, nhưng kết thúc cách mũi tàu và cách đuôi tàu Đoạn đai giáp ngang với các bệ tháp pháo dày và độ dày hai đầu tăng lên Sàn tàu bọc thép chính dày đến chung quanh các bệ tháp pháo và mở rộng ra ngoài khoảng bệ tháp pháo Sàn tàu bọc thép dưới bị giảm độ dày từ xuống còn cả phần ngang lẫn phần dốc, ngoại trừ hai đầu được tăng độ dày lên Sau Trận Jutland, một lớp giáp dày inch được bổ sung cho mép hầm đạn và nóc tháp pháo với trọng lượng tổng cộng Tàu Đặt lườn Hạ thủy Hoạt động Số phận' 23 tháng năm 1909 28 tháng 10 năm 1909 24 tháng năm 1911 Bị đánh chìm trong Trận Jutland ngày 31 tháng năm 1916 New Zealand 20 tháng năm 1910 tháng năm 1911 tháng 11 năm 1912 Ngừng hoạt động 15 tháng năm 1920, bán để tháo dỡ 19 tháng 12 năm 1922 Australia 23 tháng năm 1910 25 tháng 10 năm 1911 21 tháng năm 1913 Bị đánh đắm phía Đông Sydney, 12 tháng năm 1924 Tổng chi phí để chế tạo là 1.536.769 Bảng Anh, bao gồm các khẩu pháo; nguồn khác cho là 1.547.500 Bảng Anh chưa tính các khẩu pháo, vốn phí tổn thêm 94.200 Bảng Anh nữa. Chi phí chế tạo New Zealand là 1.684.990 Bảng Anh chưa tính các khẩu pháo, vốn phí tổn thêm 94.200 Bảng Anh nữa; còn Australia là 2.000.000 Bảng Anh không kể vũ khí. Khi được đưa ra hoạt động vào năm 1911, thoạt tiên được phân về Hải đội Tuần dương thuộc Hạm đội Nhà. Nó được chuyển sang Hải đội Tàu chiến-Tuần dương thuộc Hạm đội Địa Trung Hải vào tháng 12 năm 1913. New Zealand gia nhập cùng Hạm đội Nhà một thời gian ngắn trước khi lên đường đi New Zealand vào tháng năm 1912. Nó quay trở lại Portsmouth vào tháng 12 và lại được phân về Hạm đội Nhà, và đã viếng thăm một số cảng Pháp và Nga trước khi chiến tranh bắt đầu. Australia lên đường đi Australia hầu như ngay sau khi được đưa vào hoạt động vào tháng năm 1913 trong vai trò soái hạm đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Australia. có tàu chiến-tuần dương Indomitable và Inflexible tháp tùng và dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Archibald Berkeley Milne, đã đụng độ với tàu chiến-tuần dương Goeben và tàu tuần dương hạng nhẹ Breslau vào sáng ngày tháng năm 1914, vốn đang hướng về phía Đông sau một đợt bắn phá qua loa cảng Philippeville Algérie thuộc Pháp; nhưng khi đó Anh chưa chính thức trong tình trạng chiến tranh với Đức, nên Milne chỉ dõi theo các con tàu Đức lúc chúng quay trở lại Messina để tiếp than. Cả ba chiếc tàu chiến-tuần dương đều gặp trục trặc về nồi hơi, và Goeben cùng Breslau đã có thể thoát được sự bám đuổi và đến được Messina vào sáng ngày tháng 8. Vào lúc này chiến tranh đã được tuyên bố sau khi Đức xâm chiếm Bỉ, nhưng một mệnh lệnh của Bộ Hải quân chỉ thị phải tôn trọng sự trung lập của và bên ngoài giới hạn sáu dặm (10 km) từ bờ biển đã loại trừ việc tiến vào lối băng qua eo biển Messina, nơi chúng có thể trực tiếp quan sát cảng. Vì vậy Milne bố trí Inflexible và lối ra vào phía Bắc của eo biển Messina, nghĩ rằng lực lượng Đức sẽ thoát ra về phía Tây nơi chúng có thể tấn công các tàu vận chuyển binh lính Pháp, chỉ đặt tàu tuần dương hạng nhẹ Gloucester canh chừng lối ra vào phía Nam; đồng thời gửi Indomitable đi tiếp than tại Bizerte, nơi nó có thể bố trí tốt hơn nhằm đáp trả nếu như các tàu Đức tiến vào khu vực Tây Địa Trung Hải. Lực lượng Đức khởi hành từ Messina vào ngày tháng hướng sang phía Đông về phía có Gloucester bám theo. Vẫn dự đoán rằng Chuẩn Đô đốc Wilhelm Souchon sẽ quay mũi sang phía Tây, Milne giữ các tàu chiến-tuần dương lại Malta cho đến sau nữa đêm ngày tháng 8, khi ông lên đường hướng đến mũi Matapan, nơi Goeben bị phát hiện tám giờ trước đó, với một tốc độ nhàn nhã Đến 14 giờ 30 phút, ông nhận được một thông báo sai lầm từ Bộ Hải quân rằng Anh đã trong tình trạng chiến tranh với Áo-Hung, thực ra chiến tranh chỉ được chính thức tuyên bố vào ngày 12 tháng và chỉ thị bị hủy bỏ bốn giờ sau đó, nhưng Milne vẫn giữ lại mệnh lệnh canh chừng biển Adriatic đề phòng lực lượng Áo thoát ra hơn là truy tìm Goeben. Cuối cùng vào ngày tháng 8, Milne nhận được mệnh lệnh rõ ràng "Truy đuổi Goeben đã vượt qua mũi Matapan vào ngày tháng theo hướng Đông Bắc." Milne vẫn không tin là Souchon hướng đến eo biển Dardanelles, nên ông kiên quyết canh phòng lối ra vào biển Aegean, không biết rằng Goeben không có định vượt ra ngoài. Ngày tháng 11 năm 1914, Bộ trưởng Hải quân Winston Churchill ra lệnh cho cuộc tấn công đầu tiên của Anh vào Dardanelles sau khi xung đột nổ ra giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Nga. Cuộc tấn công được tiến hành bởi Indomitable và cùng các thiết giáp hạm Pháp Suffren và Vérité, với mục đích thăm dò các công sự phòng thủ và các biện pháp đáp trả của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả tỏ ra khá thuyết phục; trong vòng 20 phút bắn phá, một quả đạn pháo đã đánh trúng hầm đạn của pháo đài Sedd el Bahr tại mũi bán đảo Gallipoli, loại khỏi vòng chiến (nhưng không phá hủy) 10 khẩu pháo và khiến 86 binh lính Thổ Nhĩ Kỳ thiệt mạng. Kết quả đáng kể nhất là thu hút sự chú của Thổ Nhĩ Kỳ vào việc tăng cường phòng thủ và mở rộng các bãi mìn. Cuộc tấn công này thực sự đã diễn ra trước khi có lời tuyên chiến chính thức từ phía Anh đối với Đế quốc Ottoman, vốn chỉ xảy ra vào ngày tháng 11. tiếp tục lại Địa Trung Hải cho đến khi nó được Inflexible thay phiên vào ngày 24 tháng năm 1915, và đi đến Malta để tái trang bị. Sau khi hoàn tất, nó lên đường đi Anh Quốc vào ngày 14 tháng 2, nơi nó gia nhập Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2. Tập tin:Aust fleet Rabaul (AWM Australia dẫn đầu Hải đội Australia đi vào cảng Simpson, Rabaul ngày 12 tháng năm 1914|alt=Four ships sailing in line. Hills are visible behind them. Sau khi chiến tranh được tuyên bố, Australia được phân công truy tìm Hải đội Đông Đức Quốc, lực lượng hải quân duy nhất của Phe Trung tâm tại Thái Bình Dương. Trong cuộc săn đuổi này, nó được sáp nhập vào Lực lượng Viễn chinh Hải quân và Quân đội Australia và đã hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng của lực lượng này tại Rabaul trong trường hợp Hải đội Đông có mặt tại đây. Tư lệnh Hải đội Đông Á, Phó Đô đốc Maximilian von Spee, tỏ ra thận trọng đối với Australia, vốn được ông mô tả là vượt trội hơn lực lượng của mình. Sau khi lực lượng của von Spee rút lui khỏi Thái Bình Dương, vào ngày tháng 11 năm 1914, Australia được lệnh gia nhập cùng nhiều tàu tuần dương Nhật Bản ngoài khơi México tiếp tục cuộc truy đuổi các tàu tuần dương Đức. Vào lúc này, hải đội Đức đã tìm đường đi sang Nam Đại Tây Dương, và bị một hải đội Anh tiêu diệt trong Trận chiến quần đảo Falkland vào đầu tháng 12. Sau đó Australia được gửi đến gia nhập Hải đội Tàu chiến-Tuần dương tại Rosyth, Scotland, và được đặt làm soái hạm của hải đội này sau một đợt tái trang bị ngắn. Hoạt động đầu tiên của New Zealand trong chiến tranh là trong thành phần lực lượng tàu chiến-tuần dương dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Beatty trong Trận Heligoland Bight vào ngày 28 tháng năm 1914. Các con tàu của Beatty thoạt tiên được dự định sẽ hỗ trợ từ xa cho các tàu tuần dương và tàu khu trục Anh tiếp cận bờ biển Đức trong trường hợp các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Biển khơi Đức xuất quân đáp trả các cuộc tấn công của Anh. Chúng quay mũi về phía Nam đi hết tốc độ lúc 11 giờ 35 phút khi lực lượng hạng nhẹ Anh không tách ra kịp thời theo kế hoạch, và triều cường đang dâng cao khiến các tàu chiến chủ lực Đức có thể vượt qua các bãi tại cửa sông Jade Estuary. Chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ mới nguyên Arethusa đã bị đánh hỏng trước đó trong trận chiến do hỏa lực từ các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Strassburg và Köln, khi các tàu chiến-tuần dương của Beatty hiện ra từ làn sương mù lúc 12 giờ 37 phút. Strassburg lẫn vào trong làn sương mù và né tránh được hỏa lực pháo, nhưng Köln vẫn bị trông thấy và nhanh chóng bị đánh hỏng bởi đạn pháo của hải đội. Tuy nhiên, Beatty bị thu hút khỏi hoạt động kết liễu nó do sự xuất hiện bất ngờ của chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ cũ Ariadne ngay trước mũi. Ông quay mũi đuổi theo, biến nó thành một xác tàu cháy bùng chỉ với ba loạt đạn pháo khoảng cách chưa đầy Đến 13 giờ 10 phút, Beatty quay mũi về phía Bắc và ra mệnh lệnh chung để rút lui. Thành phần chủ lực của Beatty bắt gặp Köln đã bị đánh hỏng không lâu sau khi đổi hướng lên phía Bắc, và nó bị đánh chìm bởi hai loạt đạn pháo từ chiếc Lion. Hải quân Đức quyết định theo một chiến lược bắn phá các thị trấn Anh trên bờ biển Bắc Hải trong một nỗ lực lôi kéo và tiêu diệt từng phần Hải quân Hoàng gia. Trận bắn phá Yarmouth đầu tiên vào ngày tháng 11 đã thành công một phần, nên một chiến dịch với quy mô lớn hơn được Đô đốc Franz von Hipper đặt ra sau đó. Các tàu chiến-tuần dương nhanh sẽ tiến hành bắn phá, trong khi toàn bộ Hạm đội Biển khơi sẽ chiếm lấy vị trí về phía Đông Dogger Bank sẵn sàng hỗ trợ cho lượt quay về đồng thời tiêu diệt mọi đơn vị Hải quân Anh phản ứng lại cuộc bắn phá. Nhưng người Đức đã không thể biết là phía Anh đã giải được mật mã hải quân của Đức và có kế hoạch đánh chặn lực lượng bắn phá trên đường quay trở về nhà; mặc dù họ không biết được sự có mặt ngoài biển của Hạm đội Biển khơi. Hải đội Tàu chiến-Tuần dương của Đô đốc Beatty, giờ đây giảm xuống còn bốn chiếc trong đó có New Zealand, cùng với Hải đội Chiến trận với sáu thiết giáp hạm dreadnought, được cho tách ra từ Hạm đội Grand trong một cố gắng đánh chặn lực lượng Đức gần Dogger Bank. Đô đốc Hipper khởi hành vào ngày 15 tháng 12 năm 1914 cho một đợt bắn phá khác và đã nả pháo thành công vào nhiều thị trấn Anh, nhưng các tàu khu trục Anh hộ tống cho Hải đội Tàu chiến-Tuần dương đã đụng độ với các tàu khu trục Đức hộ tống cho Hạm đội Biển khơi lúc 05 giờ 15 phút, trong một trận chiến bất phân thắng bại. Phó Đô đốc Sir George Warrender, Tư lệnh hải đội chiến trận 2, nhận được tín hiệu lúc 05 giờ 40 phút rằng tàu khu trục Lynx đã đối đầu với tàu khu trục đối phương, mặc dù Đô đốc Beaty đã không biết. Tàu khu trục Shark đã nhìn thấy tàu tuần dương bọc thép Đức Roon cùng các tàu hộ tống lúc khoảng 07 giờ 00, nhưng đã không thể truyền tín hiệu cho đến 07 giờ 25 phút. Cùng với New Zealand, Warrender nhận được tin tức này, nhưng Beatty cũng không biết, mặc dù trong thực tế New Zealand được giao nhiệm vụ chuyển tiếp các thông điệp giữa các tàu khu trục và Beatty. Warrender tìm cách chuyển đi tin tức của Shark cho Beatty lúc 07 giờ 36 phút, nhưng đã không liên lạc được cho đến 07 giờ 55 phút. Beatty cho chuyển hướng ngay khi nhận được thông tin, và cho tách New Zealand ra để truy tìm Roon. Nó bị New Zealand đuổi kịp đúng vào lúc Beatty nhận được tin tức Scarborough đang bị bắn phá lúc 09 giờ 00. Beatty ra lệnh cho New Zealand gia nhập trở lại hải đội và quay về phía Tây hướng đến Scarborough. Vị trí tương quan giữa các lực lượng Anh và Đức lúc khoảng 12 giờ 00 Lực lượng Anh được tách ra làm đôi để đi vòng qua khu vực nước nông Southwest Patch thuộc Dogger Bank; các con tàu của Beatty vòng lên phía Bắc, trong khi Warrender băng qua phía Nam khi chúng hướng về phía Tây ngăn chặn con đường chính ngang qua các bãi thủy lôi phòng thủ bờ biển Anh Quốc. Việc này đã để lại một khoảng trống mà lực lượng hạng nhẹ Đức bắt đầu di chuyển. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Lực lượng Tuần tiễu bắt đầu vượt qua lực lượng Anh để truy tìm Hipper. Tàu tuần dương hạng nhẹ Southampton trông thấy tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Stralsund và báo cáo lên Beatty. Đến 12 giờ 30 phút Beatty quay mũi các tàu chiến-tuần dương của mình hướng về các con tàu Đức. Ông đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng đi tiên phong cho các con tàu của Hipper, tuy nhiên chúng đang tụt lại phía sau khoảng Hải đội Tuần dương nhẹ 2, vốn là lực lượng hộ tống cho các con tàu của Beatty, được cho tách ra để săn đuổi các tàu tuần dương Đức, nhưng một tín hiệu bị hiểu sai được truyền đạt từ các tàu chiến-tuần dương Anh đã điều chúng quay trở lại vị trí hộ tống. Sự lẫn lộn này cho phép các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức thoát được, và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến-tuần dương Đức lượn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và thoát đi an toàn. Ngày 23 tháng năm 1915, một lực lượng tàu chiến-tuần dương Đức dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Franz von Hipper lên đường để quét sạch khu vực Dogger Bank khỏi mọi tàu đánh cá hay tàu nhỏ của Anh vốn có thể hiện diện để thu thập tin tức tình báo về các hoạt động của phía Đức. Tuy nhiên, người Anh đã đọc được các bảng mã của đối phương, nên một lực lượng lớn các tàu chiến-tuần dương Anh, trong đó có New Zealand, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Beatty đã ra khơi để đánh chặn. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn ra lúc 07 giờ 20 phút ngày 24 tháng 1, khi tàu tuần dương Arethusa phát hiện tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Kolberg. Đến 07 giờ 35 phút, phía Đức nhìn thấy lực lượng của Beatty, và Hipper ra lệnh bẻ lái về phía Nam với tốc độ tin rằng đủ nhanh nếu như đối phương về phía Tây Bắc của ông là những thiết giáp hạm Anh, và ông luôn luôn có khả năng tăng lên tốc độ tối đa của Blücher nếu như đó là các tàu chiến-tuần dương Anh. Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình mở hết tốc độ có thể để bắt kịp các tàu chiến Đức trước khi chúng chạy thoát. New Zealand và Indomitable là những chiếc chậm nhất trong số các con tàu của Beatty, dần dần bị tụt lại phía sau các tàu chiến-tuần dương mới hơn và nhanh hơn; tuy nhiên New Zealand vẫn có thể khai hỏa nhắm vào Blücher lúc 09 giờ 35 phút. Nó tiếp tục đối đầu với Blücher trong khi các chiếc nhanh hơn chuyển mục tiêu sang các tàu chiến-tuần dương Đức. Sau khoảng một giờ, New Zealand đã đánh hỏng tháp pháo phía trước của Blücher, và Indomitable cũng bắt đầu nổ súng vào đối phương lúc 10 giờ 31 phút. Hai quả đạn pháo 12 inch đã xuyên thủng sàn tàu bọc thép kích nổ một phòng tiếp đạn lúc 10 giờ 35 phút, làm bùng phát một đám cháy giữa tàu, phá hủy hai tháp pháo bên mạn trái. Những hư hỏng động cơ do chấn động đã khiến tốc độ của nó giảm còn và bánh lái bị kẹt. Lúc 10 giờ 48 phút, Beatty ra lệnh cho Indomitable tấn công Blücher; nhưng do một sai lầm của viên trung úy cờ hiệu của Beatty, kết hợp với sự hư hỏng nặng soái hạm Lion làm hỏng thiết bị vô tuyến, cũng như khói lửa che khuất cột cờ tín hiệu, khiến cho Beatty không thể truyền đạt mệnh lệnh đến các tàu dưới quyền. Điều này đã khiến các tàu chiến-tuần dương còn lại, tạm thời dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Sir Gordon Moore trên chiếc New Zealand, tin rằng mệnh lệnh này là dành cho họ, nên đã tách khỏi việc truy đuổi thành phần chủ lực của Hipper để tấn công Blücher. New Zealand đã bắn 147 quả đạn pháo nhắm vào Blücher trước khi nó lật úp và chìm lúc 12 giờ 07 phút sau khi trúng ngư lôi. Vào ngày 31 tháng năm 1916, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương bao gồm và New Zealand (soái hạm của Chuẩn Đô đốc William Christopher Pakenham), do Australia còn đang được sửa chữa sau vụ va chạm với tàu chị em New Zealand vào ngày 22 tháng 4. Chúng được phân về Hạm đội Tàu chiến-Tuần dương dưới quyền Đô đốc Beatty để đánh chặn một cuộc tiến quân của Hạm đội Biển khơi Đức vào Bắc Hải. Người Anh đã có thể giải mã các thông điệp vô tuyến của Đức, và đã rời căn cứ trước khi Hạm đội Đức ra khơi. Các tàu chiến-tuần dương của Hipper đã nhìn thấy Hải đội Tàu chiến-Tuần dương Anh về phía Tây lúc 15 giờ 20 phút, nhưng các con tàu của Beaty đã không nhìn thấy đối thủ phía Đông cho đến 15 giờ 30 phút. Hầu như ngay sau đó, lúc 15 giờ 32 phút, Beaty ra lệnh đổi hướng về phía Đông Đông Nam chắn ngang đường rút lui của Hạm đội Đức và truyền lệnh sẵn sàng tác chiến. Ông cũng ra lệnh cho Hải đội 2, vốn đang vị trí dẫn đầu, lui xuống phía sau Hải đội 1. Hipper ra lệnh cho các con tàu dưới quyền bẻ lái sang mạn phải, tách xa lực lượng Anh, hầu như 180°, theo hướng Đông Nam, và giảm tốc độ xuống còn cho phép ba tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Đội tuần tiễu có thể bắt kịp. Với cú đổi hướng này, Hipper quay trở lại thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi, lúc đó còn cách về phía sau. Vào khoảng thời gian này, Beatty đổi hướng về phía Đông, vì rõ ràng là ông quá xa về phía Bắc để có thể cắt ngang hướng đi của Hipper. Đến đây bắt đầu một quá trình được gọi là đợt "Chạy về phía Nam" khi Beatty đổi hướng sang Đông Đông Nam lúc 15 giờ 45 phút, song song với hướng đi của Hipper, giờ đây khoảng cách dưới Phía Đức khai hỏa trước tiên lúc 15 giờ 48 phút, và được phía Anh đáp trả. Các con tàu Anh vẫn đang còn trong quá trình đổi hướng, chỉ có hai chiếc dẫn đầu đội hình là Lion và Princess Royal ổn định được hướng đi khi các tàu Đức nổ súng. Đội hình phía Anh được sắp theo hình thang lệch sang phải với phía cuối và xa nhất về phía Tây, trong khi New Zealand dẫn trước nó và hơi lệch về phía Đông. Hỏa lực của phía Đức khá chính xác ngay từ đầu, còn phía Anh đã ước lượng quá xa khoảng cách khi các con tàu Đức lẫn khuất trong làn sương mù. nhắm vào Von der Tann còn New Zealand nhắm vào Moltke trong khi bản thân nó không bị đối địch. Đến 15 giờ 54 phút, khoảng cách giữa hai bên được rút ngắn xuống còn và Beatty ra lệnh bẻ lái point (22,5°) sang mạn phải để gia tăng khoảng cách giữa hai bên lúc 15 giờ 57 phút. Lúc khoảng 16 giờ 00, bị Von der Tann bắn trúng hai hoặc ba phát đạn pháo chung quanh tháp pháo đuôi, và tháp pháo hầu như bị lật tung sang mạn phải; con tàu bị chìm phần đuôi và nghiêng sang mạn trái. Nó bị bắn trúng tiếp hai phát nữa trong loạt đạn pháo tiếp theo, một trúng sàn phía trước và một vào tháp pháo phía trước, và nổ tung lúc 16 giờ 03 phút khi hầm đạn phát nổ. Nguyên nhân có thể đưa đến tổn thất nó là do vụ nổ sâu bên dưới hầm đạn tháp pháo 'X' làm thủng đáy tàu và làm hỏng trục điều khiển giữa động cơ bẻ lái và bánh lái, được tiếp nối bằng vụ nổ hầm đạn phía trước trong loạt đạn pháo thứ hai. Von der Tann chỉ bắn có 52 quả đạn pháo nhắm vào trước khi mục tiêu nổ tung, mang theo 1.017 thành viên thủy thủ đoàn cùng con tàu xuống biển. Chỉ có hai người sống sót được tàu phóng lôi Đức S68 cứu vớt. đang chìm phía xa trong Trận Jutland Sau khi bị mất, New Zealand chuyển hỏa lực của nó sang nhắm vào Von der Tann theo chỉ thị của Beatty. Khoảng cách giữa hai bên đã trở nên quá xa để có thể bắn chính xác, nên Beatty đổi hướng point (45°) sang mạn trái để rút ngắn khoảng cách từ 16 giờ 12 phút đến 16 giờ 15 phút. Vào lúc này Hải đội Chiến trận với bốn thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth tiến đến gần và đối đầu với Von der Tann và Moltke. Lúc 16 giờ 23 phút, một quả đạn pháo từ chiếc Tiger bắn trúng gần tháp pháo phía sau của Von der Tann gây một đám cháy trên các mục tiêu thực hành được chứa tại đây; khói lửa bao trùm con tàu khiến New Zealand phải chuyển hỏa lực sang chiếc Moltke. Lúc 16 giờ 30 phút, tàu tuần dương hạng nhẹ đi trinh sát phía trước các tàu chiến của Beatty, nhìn thấy các đơn vị của Hạm đội Biển khơi hướng lên phía Bắc với tốc độ tối đa. Ba phút sau, nó trông thấy cột ăn-ten của các thiết giáp hạm dưới quyền Phó Đô đốc Reinhard Scheer, nhưng đã chần chừ không báo cáo cho đến năm phút sau. Beatty tiếp tục tiến về phía Nam thêm hai phút nữa để xác định báo cáo về đối phương trước khi ra lệnh cho lực lượng dưới quyền nối tiếp nhau bẻ lái 16 point sang mạn phải quay lên phía Bắc. Tuy nhiên, New Zealand, chiếc cuối cùng của hạm đội, buộc phải bẻ lái sớm để giữ bên ngoài tầm hỏa lực của các thiết giáp hạm đối phương đang tiến đến. Trong suốt quá trình "Chạy về phía Nam", nó chỉ bị bắn trúng duy nhất một phát đạn pháo 28 cm vào tháp pháo 'Y' nhưng chỉ bị ảnh hưởng nhẹ. New Zealand bị thiết giáp hạm Prinzregent Luitpold đối đầu bắt đầu từ 17 giờ 08 phút, trong quá trình được gọi là đợt "Chạy về phía Bắc", nhưng đã không bị bắn trúng phát nào cho dù nhiều lần bị vây bọc đạn pháo chung quanh. Các tàu chiến của Beatty duy trì tốc độ tối đa, cố tạo ra khoảng cách giữa chúng và Hạm đội Biển khơi, và dần dần vượt ra khỏi tầm bắn. Chúng hướng lên phía Bắc, rồi Đông Bắc, tìm cách gặp gỡ thành phần chủ lực của Hạm đội Grand, và đến 17 giờ 40 phút lại nổ súng vào đối thủ Đức. Ánh sáng ngược khi mặt trời lặn đã che mắt các pháo thủ Đức nên họ không thể xác định các con tàu Anh, và đổi sang hướng Đông Bắc lúc 17 giờ 47 phút. Beatty dần dần chuyển về hướng Đông để các con tàu của ông có thể bảo vệ quá trình bố trí của Hạm đội Grand thành đội hình chiến trận; nhưng ông đã tính toán sai thời gian việc cơ động của mình, buộc các đơn vị Anh dẫn đầu cơ động về hướng Đông tách xa khỏi lực lượng Đức. Lúc 18 giờ 35 phút, Beatty đi theo sau Indomitable và Inflexible thuộc Hải đội Tàu chiến-Tuần dương khi chúng dẫn đầu Hạm đội Grand về hướng Đông Đông Nam, và tiếp tục đối đầu với các tàu chiến-tuần dương của Hipper về phía Tây Nam. Vài phút trước đó, Scheer đã ra lệnh một cú đổi hướng đồng loạt 180° sang mạn phải, và Beatty mất dấu đối phương trong làn sương mù. Hai mươi phút sau, Scheer ra lệnh một cú đổi hướng 180° khác, đưa các con tàu Đức vào một hướng đi hội tụ để đối đầu với Hạm đội Grand, vốn đã đổi hướng về phía Nam. Điều này cho phép Hạm đội Grand cắt ngang chữ lực lượng của Scheer và gây hư hại đáng kể cho các chiếc dẫn đầu. Scheer ra lệnh một cú đổi hướng 180° nữa lúc 19 giờ 13 phút trong một nỗ lực nhằm giải thoát Hạm đội Biển khơi khỏi cái bẫy mà sự cơ động của ông đã tạo ra. Cú cơ động này đã thành công và phía Anh mất dấu các con tàu Đức cho đến 20 giờ 05 phút, khi Castor phát hiện khói hướng Tây Tây Bắc; mười phút sau nó tiếp cận, phát hiện nhiều tàu phóng lôi Đức và giao chiến cùng với chúng. Nghe thấy tiếng súng, Beatty ra lệnh cho các tàu dưới quyền quay mũi sang hướng Tây, và phát hiện các tàu chiến-tuần dương Đức chỉ cách có Inflexible nổ súng lúc 20 giờ 20 phút, được nối tiếp hầu như ngay lập tức bởi các tàu chiến-tuần dương còn lại. New Zealand và Indomitable tập trung hỏa lực của chúng vào chiếc Seydlitz, bắn trúng nó năm lần trước khi nó đổi hướng về phía Tây tách ra khỏi trận chiến. Không lâu sau 20 giờ 30 phút, các thiết giáp hạm thuộc Hải đội Chiến trận dưới quyền Chuẩn Đô đốc Mauve bị phát hiện, và hỏa lực chuyển sang nhắm vào mục tiêu mới. Các tàu Đức chỉ nổ súng vài loạt đạn do tầm nhìn kém rồi quay mũi về phía Tây; các tàu chiến-tuần dương Anh bắn trúng đối thủ nhiều phát trước khi chúng biến mất vào làn sương mù lúc khoảng 20 giờ 40 phút. Sau đó Beatty chuyển hướng sang Nam Đông Nam và duy trì hướng đi này, dẫn trước cả Hạm đội Grand lẫn Hạm đội Biển khơi, cho đến 02 giờ 55 phút rạng sáng ngày tháng vào lúc có mệnh lệnh đổi hướng quay về nhà. Australia gia nhập trở lại Hải đội Tàu chiến-Tuần dương vào ngày tháng năm 1916 như là soái hạm của hải đội, nhưng không có hoạt động hải quân đáng kể nào khác dành cho những chiếc lớp ngoài nhiệm vụ tuần tra thường lệ, do mệnh lệnh của Kaiser Wilhelm II không cho phép các tàu chiến liều lĩnh ra khơi mà không nắm chắc chiến thắng. Australia bị tai nạn va chạm với tàu chiến-tuần dương Repulse vào ngày 12 tháng 12 năm 1917 và phải được sửa chữa trong suốt tháng tiếp theo; nó đã có mặt vào lúc chiếm giữ Hạm đội Biển khơi Đức tại Scapa Flow vào ngày 21 tháng 11 năm 1918. New Zealand được tái trang bị từ tháng 12 năm 1918 đến tháng năm 1919 trước khi thực hiện chuyến đi đưa Đô đốc John Jellicoe đến Ấn Độ và các thuộc địa tự trị kéo dài một năm. Khi quay trở về, nó được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 15 tháng năm 1920; rồi được bán để tháo dỡ vào ngày 19 tháng 12 năm 1922. Australia'' lên đường đi Australia vào ngày 23 tháng năm 1921, và trở thành soái hạm của Hải quân Hoàng gia Australia khi đến nơi. Tuân thủ những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington, nó bị đánh đắm về phía Đông Sydney vào ngày 12 tháng năm 1924. Dreadnought Project Technical material on the weaponry and fire control for the ships
Lớp tàu chiến-tuần dương là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Thiết kế của chúng phản ảnh sự cải tiến tối thiểu so với lớp ''Invincible'' dẫn trước, gia tăng tầm xa hoạt động và cải thiện góc bắn chéo qua lườn tàu đối với các tháp pháo bên mạn giữa tàu bằng cách kéo dài lườn tàu. Giống như những chiếc tiền nhiệm, thiết kế của chúng tương tự như những thiết giáp hạm dreadnought đương thời của Anh, như là lớp ''Neptune'', nhưng hy sinh một phần vỏ giáp bảo vệ và một tháp pháo để đổi lấy một tốc độ nhanh hơn Nguyên chỉ có là chiếc duy nhất trong lớp, nhưng sau đó còn có HMAS ''Australia'' và ''New Zealand'' được chế tạo như một phần của kế hoạch phòng thủ các thuộc địa tự trị thuộc Đế quốc Anh; theo đó mỗi lãnh thổ tự trị sẽ mua một "đơn vị hạm đội" gồm một tàu chiến-tuần dương, ba tàu tuần dương hạng nhẹ và sáu tàu khu trục. Chỉ có Australia hoàn tất đầy đủ tưởng này, hình thành nên Hải quân Hoàng gia Australia, còn New Zealand chỉ đồng cung cấp kinh phí cho một tàu chiến-tuần dương. Một thiết kế của lớp đã được chọn để chế tạo hai chiếc này thay vì lớp ''Lion'' vốn đang được đóng cho Hải quân Hoàng gia Anh. Chúng trải qua phần lớn thời gian của chiến tranh tuần tra tại Bắc Hải, và tham gia hầu hết các trận chiến tại đây, cho dù chỉ có ''New Zealand'' có mặt tại Anh Quốc khi chiến tranh bắt đầu. lúc đó hiện diện tại Địa Trung Hải khi nó truy đuổi các tàu chiến Đức ''Goeben'' và ''Breslau'' đang tháo chạy về Thổ Nhĩ Kỳ. ''Australia'' là soái hạm của Hải quân Hoàng gia Australia tại vùng biển Australia, và đã giúp vào việc chiếm đóng các thuộc địa Đức tại Thái Bình Dương cũng như truy tìm không thành công Hải đội Đông Đức Quốc trước khi lên đường đi Anh vào tháng 12 năm 1914. ''New Zealand'' tham gia một số hoạt động ban đầu tại Bắc Hải, bao gồm Trận Heligoland Bight và cuộc bắn phá Scarborough bất phân thắng bại. ''Australia'' được sửa chữa sau một va chạm với tàu chị em ''New Zealand'' ngay trước Trận Jutland, nên chỉ có và ''New Zealand'' có mặt trong cuộc hải chiến lớn nhất Thế Chiến này, nơi bị phá hủy trong một vụ nổ hầm đạn. Cả ''Australia'' và ''New Zealand'' trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến một cách bình yên, chờ đợi sự xuất hiện tiếp theo của Hạm đội Biển khơi Đức, nhưng việc này đã bị Kaiser cấm cho đến khi chiến tranh chấm dứt. ''New Zealand'' đã đưa Đô đốc John Jellicoe trong chuyến đi đến Ấn Độ và các thuộc địa khác sau chiến tranh, trong khi ''Australia'' quay trở về nhà nơi nó trở thành soái hạm của Hải quân Hoàng gia Australia. ''New Zealand'' bị bán để tháo dỡ vào năm 1922 trong khi ''Australia'' chỉ tồn tại thêm hai năm nữa trước khi bị đánh đắm nhằm tuân thủ những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington. == Bối cảnh == là lớp tiếp nối cho lớp tàu chiến-tuần dương ''Invincible''. Một số lựa chọn đã được xem xét cho Chương trình Chế tạo Hải quân 1906, bao gồm thiết kế X4 có trọng lượng choán nước và vỏ giáp dày cùng tốc độ nhưng đến cuối cùng chương trình chỉ bao gồm ba thiết giáp hạm theo kiểu Một số lựa chọn khác lại được xem xét cho Chương trình 1907–1908, với trọng lượng choán nước từ đến nhưng đến cuối cùng thiết giáp hạm lại được ưa chuộng và không có tàu chiến-tuần dương nào được đặt hàng cho đến năm tiếp theo. Vào lúc mà thiết kế cuối cùng của được chấp thuận, Bộ Hải quân Anh đã tiến thêm một bước khác; Đô đốc Fisher đã viết vào tháng năm 1908: "Tôi đã đưa ra cho Sir Philip Watts phác thảo một chiếc ''Indomitable'' mới sẽ khiến anh thèm nhỏ dãi khi nhìn thấy nó", một thiết kế mà cuối cùng đã trở thành chiếc ''Lion''. Vào tháng năm 1909, các lãnh thổ thuộc địa tự trị gặp gỡ trong cuộc Hội nghị Đế chế năm 1909; và trong nội dung thảo luận về việc phòng thủ Đế quốc Anh, Bộ Hải quân đề nghị thành lập các đơn vị hạm đội bản xứ, mỗi đơn vị bao gồm một tàu chiến-tuần dương lớp ''Invincible'', ba tàu tuần dương hạng nhẹ lớp ''Bristol'' và sáu tàu khu trục. Chúng sẽ được đặt căn cứ tại Australia, New Zealand, Canada và Nam Phi nhằm củng cố việc phòng thủ hải quân cho các lãnh thổ tự trị, trong khi Hải quân Hoàng gia tập trung tại vùng biển nhà để đối phó với mối đe dọa của Đức. Trong khi kế hoạch bị Canada và Nam Phi bác bỏ, Australia và New Zealand chấp thuận, mỗi lãnh thổ đặt hàng một tàu chiến-tuần dương theo phiên bản lớp được cải tiến thay vì lớp ''Invincible'' như đề nghị. ''Australia'' trở thành tàu chiến chủ lực của Hải quân Hoàng gia Australia vừa mới được thành lập, trong khi ''New Zealand'' được giữ lại vùng biển châu Âu như một đơn vị Hải quân Hoàng gia Anh. Cuối cùng chỉ có một đơn vị hạm đội bản xứ được thành lập, Hải đội Australia, vào năm 1913. == Thiết kế == Tập class battlecruiser diagrams Brasseys đồ mạn phải và sàn tàu như được mô tả trong Niên giám Hải quân Brassey 1923. Cách sắp xếp được mô tả trong sơ đồ này thực ra là của lớp tàu chiến-tuần dương ''Invincible''. Độ dày của vỏ giáp được nêu ra là do Bộ Hải quân công bố; độ dày thực tế nhiều chỗ sẽ kém hơn. được đặt hàng như một tàu chiến-tuần dương đơn lẻ trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1908–1909. Thiết kế sơ thảo của nó được chuẩn bị vào tháng năm 1908, và bản thiết kế sau cùng được thông qua vào tháng 11 năm 1908. Thiết kế này thực ra là một phiên bản của chiếc ''Invincible'' được mở rộng, với sự cải tiến về cách sắp xếp vỏ giáp bảo vệ và dàn hỏa lực chính. === Các đặc tính chung === lớn hơn đôi chút so với lớp ''Invincible'' dẫn trước. Chúng có chiều dài chung mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là khi đầy tải nặng. Các con tàu có trọng lượng choán nước là và lên đến khi đầy tải nặng, hơn so với các con tàu trước đó. Nó có một chiều cao khuynh tâm khi đầy tải nặng. === Động lực === Hai bộ turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp được đặt trong các phòng động cơ riêng biệt. Các trục phía ngoài được nối với các turbine áp lực cao, hơi nước thoát ra được dẫn vào các turbine áp lực thấp dẫn động trục phía trong. Mỗi trục phía ngoài dẫn động một chân vịt có đường kính trong khi hai trục phía trong được nối với chân vịt có đường kính Turbine được cung cấp hơi nước từ 31 nồi hơi ống nước Babcock and Wilcox bố trí trong phòng nồi hơi. Turbine của được thiết kế để cung cấp công suất nhưng đã đạt đến trên chế độ cưỡng bức khi chạy thử máy. Turbine của ''Australia'' và ''New Zealand'' mạnh hơn đôi chút công suất Chúng được thiết kế để có được tốc độ nhưng cả ba đều đạt đến khi chạy thử máy. Các con tàu có thể mang theo tối đa than cùng dầu đốt để phun vào than nhằm gia tăng tốc độ cháy. trữ lượng nhiên liệu tối đa, tầm xa hoạt động của chúng là tốc độ === Vũ khí === Tập quả đạn pháo 12 inch đang được nạp trên chiếc HMAS ''Australia''; lưu vòng xoay ngắt quãng của khóa nòng Mỗi con tàu được trang bị tám khẩu pháo BL Mark đặt trên bốn tháp pháo nòng đôi BVIII*. Hai tháp pháo tận cùng phía trước và phía sau được bố trí trên trục dọc và được đặt tên lần lượt là 'A' và 'X'. Hai tháp pháo bên mạn 'P' và 'Q' được đặt so le giữa tàu theo hình thang giữa các ống khói, tháp pháo 'P' bên mạn trái và thường hướng ra trước trong khi tháp pháo 'Q' bên mạn phải và thường hướng ra sau; chúng có thể bắn chéo qua mạn cho đến góc 70°. Các khẩu pháo này cùng kiểu với loại được trang bị cho thiết giáp hạm ''Dreadnought'' cũng như cho các lớp ''Lord Nelson'' và Các khẩu pháo có thể hạ đến góc −3° và nâng lên đến 13,5°, cho dù các tháp pháo được cải tiến để có thể nâng đến góc 16° trong Thế Chiến I. Chúng bắn ra đạn pháo nặng lưu tốc đầu đạn góc nâng 13,5°, tầm bắn xa của loại đạn pháo xuyên thép (AP) chr đạt được và góc nâng 16°, tầm bắn xa được mở rộng đến sử dụng loại đạn pháo crh có đặc tính khí động tốt hơn nhưng nặng hơn đôi chút. Tốc độ bắn của các khẩu pháo này là 1–2 quả đạn pháo mỗi phút. Con tàu mang theo tổng cộng 880 quả đạn pháo trong thời chiến, 110 quả cho mỗi khẩu pháo. Dàn pháo hạng hai của chúng bao gồm mười sáu khẩu BL Mk VII được đặt trên cấu trúc thượng tầng. Tất cả các khẩu pháo được bố trí trong các tháp pháo vào đợt tái trang bị giai đoạn 1914-1915 để bảo vệ pháo thủ khỏi thời tiết khắc nghiệt và hoạt động của đối phương, mặc dù hai khẩu đã được tháo bỏ vào lúc này. Các khẩu pháo trên bệ PII* có thể hạ đến góc 7° và nâng lên đến 15°. Chúng bắn ra đạn pháo nặng lưu tốc đầu đạn cho một tầm xa tối đa Tốc độ bắn của chúng là 6–8 phát mỗi phút. Mỗi khẩu pháo được cung cấp 100 quả đạn. Một khẩu pháo inch bổ sung được trang bị trên những chiếc còn sống sót vào năm 1917 như là súng phòng không. Nó được đặt trên bệ góc cao MkII có khả năng nâng tối đa lên đến góc 60°, sử dụng một liều thuốc phóng được giảm bớt chỉ tạo ra một lưu tốc đầu đạn Dàn vũ khí phòng không ban đầu bao gồm một khẩu QF inch 20 cwt duy nhất trên bệ MkII góc cao vốn được bổ sung vào đợt tái trang bị 1914-1915. Nó có khả năng hạ đến 10° và nâng tối đa lên đến 90°. Nó bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và tốc độ 12–14 viên mỗi phút. Trần bắn hiệu quả của kiểu pháo này là Nó được cung cấp 500 quả đạn. ''New Zealand'' mang theo một khẩu QF pounder Hotchkiss duy nhất trên bệ MkIc góc cao từ tháng 10 năm 1914 đến cuối năm 1915. Nó có khả năng hạ đến 8° và nâng tối đa lên đến 60°. Nó bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và tốc độ bắn 20 viên mỗi phút. Trần bắn tối đa là nhưng tầm bắn hiệu quả chỉ đạt Các con tàu cũng được trang bị hai ống phóng ngư lôi ngầm hai bên mạn, phía sau tháp pháo 'X', và mang theo 12 quả ngư lôi. === Kiểm soát hỏa lực === Tập tin:HMAS Australia LOC với các trạm quan sát lớn đặt trên đỉnh mỗi cột ăn-ten ba chân Hỏa lực dàn pháo chính của được kiểm soát từ các trạm quan sát lớn được đặt trên đỉnh mỗi cột ăn-ten ba chân trước và cột ăn-ten chính. Dữ liệu đo được từ một máy đo tầm xa Barr Stroud được nạp vào một máy tính cơ khí Dumaresq rồi được truyền bằng điện đến đồng hồ khoảng cách Vickers đặt trong trạm truyền tin (TS) đặt bên dưới mỗi trạm quan sát, nơi chúng được biên dịch thành dữ liệu tầm xa và độ lệch được các khẩu pháo sử dụng. Dữ liệu về mục tiêu cũng được ghi lại trên một sơ đồ giúp cho sĩ quan tác xạ dự đoán sự di chuyển của mục tiêu. Mỗi tháp pháo có thiết bị truyền cho riêng nó, và tất cả tháp pháo, trạm quan sát và trạm truyền tin có thể kết nối với nhau theo mọi sự kết hợp. Các thử nghiệm tác xạ trên chiếc ''Hero'' được thực hiện vào năm 1907 đã cho thấy sự mong manh của hệ thống này khi trạm quan sát bị bắn trúng hai lần và mảnh đạn gây hư hại ống truyền âm và mọi dây dẫn bắt dọc theo cột ăn-ten. Để bảo vệ chống lại khả năng này, tháp pháo 'A' của chiếc được trang bị máy đo tầm xa phía sau nóc tháp pháo, và nó được trang bị để kiểm soát toàn bộ dàn pháo chính trong đợt tái trang bị giữa năm 1911 và 1914. ''Australia'' và ''New Zealand'' được chế tạo với một sự sắp xếp khác biệt. Trạm quan sát trên đỉnh cột ăn-ten chính được loại bỏ, và một tháp quan sát bọc thép được bố trí thay thế trên tháp chỉ huy, nơi nó được bảo vệ tốt hơn, cải thiện tầm nhìn và trực tiếp thao tác trên các vị trí chỉ huy ban đầu. Trạm truyền tin phía sau được loại bỏ trong khi trạm truyền tin phía trước được mở rộng. Tháp pháo 'A' cũng được chế tạo với những cải tiến nêu trên. Kỹ thuật kiểm soát hỏa lực tiến bộ nhanh chóng vào những năm ngay trước Thế Chiến I, và việc phát triển Bảng điiều khiển hỏa lực Drayer là một sự tiến triển đáng kể như vậy. Nó bao gồm chức năng của máy tính Dumaresq cùng đồng hồ khoảng cách, và một phiên bản đơn giản Mk đã được trang bị cho những chiếc lớp vào đợt tái trang bị từ giữa năm 1915 đến tháng năm 1916. Một phát triển quan trọng hơn là bộ kiểm soát hỏa lực đặt trên cao của con tàu, truyền thông tin bằng điện góc nâng và góc xoay đến tháp pháo bằng con trỏ, và các pháo thủ làm theo chỉ dẫn đó. Sĩ quan hỏa lực có thể bắn đồng thời các khẩu pháo thành loạt, giúp vào việc quan sát điểm rơi của đạn pháo cũng như hạn chế ảnh hưởng của sự chòng chành con tàu trên sự phân tán của đạn pháo. Một khẩu pháo trên tháp pháo 'Y' cũng được trang bị một bộ truyền tin, để có được chức năng như một khẩu pháo "dẫn hướng" dự phòng, nhưng không có thiết bị dành cho khẩu pháo để tách giữa bộ điều khiển chính và khẩu pháo dẫn hướng này. === Vỏ giáp === một khía cạnh, lớp vỏ giáp bảo vệ dành cho lớp yếu hơn so với những chiếc dẫn trước, vì vỏ giáp bị giảm độ dày một số chỗ, nhưng được dàn ra rộng hơn. Đai giáp mực nước kéo dài từ mũi đến tận đuôi, nó dày đến khoảng giữa con tàu, nhưng được vuốt mỏng còn ngang nơi kết thúc các bệ tháp pháo và hầm đạn 12 inch, rồi vuốt mỏng hơn nữa chỉ còn về phía hai đầu con tàu. Một vách ngăn dày tiếp giáp với bệ tháp pháo ‘X’, trong khi vách ngăn phía trước dày Tháp pháo và bệ tháp pháo được bảo vệ bởi lớp giáp dày ngoại trừ nóc tháp pháo sử dụng vỏ giáp Krupp KNC dày Các trụ chống nóc tháp pháo được gia cố trên những chiếc lớp sau những bài học có được sau thử nghiệm tác xạ tiến hành vào năm 1907. Độ dày vỏ giáp bằng thép nickel cho sàn tàu chính nói chung chỉ dày nhưng được tăng lên chung quanh bệ tháp pháo. Vỏ giáp sàn dưới cũng bằng thép nickel dày phần phẳng và inch phần nghiêng, tăng lên inch hai đầu con tàu. Mặt hông của tháp chỉ huy phía trước dày trong khi tháp quan sát có độ dày Nóc và sàn của cả hai tháp làm bằng vỏ giáp Krupp KNC dày inch trong khi ống liên lạc của tháp chỉ huy dày inch. Tháp điều khiển ngư lôi có lớp giáp bằng thép nickel dày inch tất cả các phía. Vách ngăn chống ngư lôi bằng thép nickel dày được đặt ngang các hầm đạn và phòng đạn pháo. Ống khói được bảo vệ bằng thép nickel dày 1,5 inch mặt hông và inch hai đầu. Vỏ giáp Krupp được sử dụng rộng rãi ngoại trừ những nơi được chú thích khác như trên. ''Australia'' và ''New Zealand'' được chế tạo với một sự sắp xếp khác biệt. Đai giáp mực nước không kéo dài đến tận hai đầu con tàu, nhưng kết thúc cách mũi tàu và cách đuôi tàu Đoạn đai giáp ngang với các bệ tháp pháo dày và độ dày hai đầu tăng lên Sàn tàu bọc thép chính dày đến chung quanh các bệ tháp pháo và mở rộng ra ngoài khoảng bệ tháp pháo Sàn tàu bọc thép dưới bị giảm độ dày từ xuống còn cả phần ngang lẫn phần dốc, ngoại trừ hai đầu được tăng độ dày lên Sau Trận Jutland, một lớp giáp dày inch được bổ sung cho mép hầm đạn và nóc tháp pháo với trọng lượng tổng cộng == Chế tạo ==
Lớp tàu chiến-tuần dương, Lớp tàu chiến-tuần dương Indefatigable
Chiến tranh Pommern là một chiến trường trong cuộc Chiến tranh Bảy năm tại châu Âu. Tên gọi này được dùng để mô tả cuộc chiến giữa Thụy Điển và Phổ từ năm 1757 cho đến năm 1762 tại Pommern thuộc Thụy Điển, Pommern thuộc Phổ, phía bắc lãnh địa Brandenburg và phía đông Cuộc chiến tranh này ghi dấu ấn sự dao động của các quân đội Phổ và Thụy Điển, trong đó không bên nào giành được một thắng lợi quyết định. Giao tranh khởi đầu khi các lực lượng Thụy Điển tiến đánh lãnh thổ Phổ vào năm 1757, nhưng bị quân Phổ dưới quyền chỉ huy của Thống chế Hans von Lehwaldt đánh bại và phong tỏa Stralsund mãi cho đến khi cuộc tấn công của quân Nga vào Phổ buộc quân Phổ phải rút khỏi Stralsund vào năm 1758. Về sau, quân đội Thụy Điển phát động một cuộc tấn công mới vào bản thổ Phổ, tiêu diệt hạm đội bé nhỏ của đối phương trong trận Frisches Haff và các vùng đất xa về phía nam đến Neuruppin bị chiếm đóng, nhưng chiến dịch bị hủy bỏ vào cuối năm 1759 khi các lực lượng kéo căng tiếp tế của Thụy Điển không thể chiếm được pháo đài Stettin (ngày nay là Szczecin, Ba Lan) của Phổ và cùng không thể phối hợp với quân đội Nga. Quân đội Phổ đã phát động một cuộc phản công vào lãnh thổ Pommern của Thụy Điển trong tháng năm 1760 nhưng bị đẩy lùi, và trong suốt năm đó các lực lượng Thụy Điển một lần nữa xâm nhập bản thổ Phổ, tiến xa về phía nam đến Prenzlau. Quân Thụy Điển bị đánh thiệt hại nặng trong một cuộc tấn công của quân Phổ, tuy nhiên quân Phổ không có đủ quân số để tiếp tục chống cự. Mùa đông đến, quân Thụy Điển triệt thoái về Pommern thuộc Thụy Điển. Vào mùa hè năm 1761, quân Thụy Điển lại mở một chiến dịch khác vào Phổ, nhưng cuộc tấn công này cuối cùng cũng bị đình hoãn do thiếu thốn lương thực và trang thiết. Các cuộc giao tranh cuối cùng của cuộc chiến diễn ra vào mùa đông năm 1761 1762 gần Malchin và Neukalen tại Mecklenburg, nằm nang qua biên giới Pommern thuộc Thụy Điển, trước khi hai phe chấp thuận Thỏa ước Ribnitz vào ngày tháng năm 1762. Vào ngày tháng năm 1762, khi một liên minh Nga Phổ làm tiêu tan hy vọng của Thụy Điển về sự trợ giúp của Nga trong tương lai, và thay vì đó gây nên mối đe dọa cho Thụy Điển về sự can thiệp của Nga chống lại họ, Thụy Điển buộc phải cầu hòa. Cuộc chiến đã chấm dứt vào ngày 22 tháng năm 1762 bằng Hòa ước Hamburg giữa Phổ, Mecklenburg và Thụy Điển. Các hy vọng của đảng Hattarna Thụy Điển nhằm khôi phục các lãnh thổ bị mất về tay Phổ năm 1762 đã đổ vỡ, và cuộc chiến tranh đắt giá và không được lòng người này cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của hơ. Nordisk Familjebok, Uggleupplagan (1915), bind 21, sp. 1331-1334; opslag: Pommerska kriget David Hume, Thomas Smart Hughes, Tobias George Smollett, History of England, by Hume and Smollett; with continuation by T.S. Hughes, 1854. Sergeĭ Mikhaĭlovich Solovʹev, History of Russia: Empress Elizabeth, domestic affairs and the Seven Years War, 1757-1761, Academic International Press, 1997. ISBN 0875691838. Battles
Chiến tranh Pommern
Chiến tranh liên quan tới Thụy Điển, Chiến tranh liên quan tới Phổ, Xung đột năm 1757, Xung đột năm 1758, Xung đột năm 1759, Xung đột năm 1760, Xung đột năm 1761, Xung đột năm 1762, Chiến tranh Bảy năm
Coban(II) nitrit là một hợp chất vô cơ, một loại muối của coban và axit nitrơ có công thức Co(NO2)2, tinh thể đỏ nâu, nó tan ít trong nước. Phản ứng trao đổi giữa coban(II) nitrat và natri nitrit sẽ tạo kết tủa: Coban(II) nitrit tạo thành tinh thể đỏ nâu. Hợp chất này tan ít trong nước. Co(NO2)2 còn tạo một số hợp chất với NH3, như: *Co(NO2)2·2NH3 chất rắn nâu đen; *Co(NO2)2·4NH3 chất rắn vàng nâu (D25 1,814 g/cm³); *Co(NO2)2·6NH3 chất rắn cam nhạt (D25 1,41 g/cm³). Co(NO2)2 còn tạo một số hợp chất với N2H4, như 2Co(NO2)2·3N2H4 là chất rắn màu đỏ.
Coban(II) nitrit
Hợp chất cobalt
Nhà thờ chính tòa Modena (tiếng Ý: Duomo di Modena), thành phố Modena, Ý, là một trong số các tòa nhà theo lối kiến trúc Roman quan trọng nhất châu Âu. Cùng với Torre Cívica và Piazza Grande, Modena, nhà thờ chính tòa này đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 1997. Việc xây dựng nhà thờ chính tòa này được bắt đầu từ năm 1099, dưới sự chỉ đạo của nhà xây dựng bậc thầy Lanfranco, trên khu đất có mộ của thánh Geminianus, thánh bổn mạng của thành phố Modena. Tại đây, trước kia đã có nhà thờ được xây từ thế kỷ thứ 5, nhưng cả hai đều bị phá hủy. Di hài của thánh Geminianus ngày nay vẫn được trưng bày trong hầm mộ của nhà thờ. Nhà thờ chính tòa hiện nay được giáo hoàng Lucius III thánh hiến ngày 12.7.1184. Sau công trình xây dựng của Lanfranco, nhà thờ này được Anselmo da Campione và các người kế thừa ông ta trang trí, những người gọi là (các thợ bậc thầy của Campione). Vì thế, mặt ngoài nhà thờ này biểu lộ nhiều lối kiến trúc khác nhau. Các cửa sổ kính màu uy nghi được Anselmo lắp đặt trong thế kỷ 13, trong khi tượng sư tử đỡ cột lối vào nhà thờ thuộc thời La Mã cổ. Mặt ngoài nhà thờ nổi tiếng về các hình đắp nổi của Wiligelmus, người đồng thời với Lanfranco. Các hình đắp nổi này gồm các tiên tri và các tổ phụ, cùng các cảnh trong Kinh Thánh, tuyệt phẩm của lối điêu khắc Roman. Các học giả đã chỉ ra các thành tựu lộng lẫy của việc tạo dựng Adam và Eve, tội nguyên tổ và chuyện Noah (người sống sót sau trận lụt Hồng thủy). Hình nổi của Wiligelmus mô tả Adam và Eve Các cổng bên hông nhà thờ cũng đáng chú ý. Piazza Grande, Porta Regia ("Cổng hoàng gia"), cũng do người xứ campione, và cổng ngắn hơn Porta dei Principi ("Cổng hoàng tử"), được trang trí bằng hình nổi mô tả các cảnh đời thánh Geminianus, do người học trò của Wiligelmus thực hiện. cạnh phía bắc, Porta della Pescheria ("Cổng chợ cá"), với các hình nổi gợi lại chu kỳ 12 tháng trong năm. Bên trong nhà thờ được chia làm gian dọc. Giữa gian chính và hầm mộ là một tường góc lan can (parapet) bằng cẩm thạch, với bức tranh mô tả Cuộc thương khó của Giêsu do nghệ sĩ Anselmo da Campione vẽ và bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng. Tòa giảng do Arrigo da Campione làm, trang trí bằng các tượng đất nung. Thánh giá bằng gỗ từ thế kỷ 14 của nhà thờ cũng nổi tiếng. Nhà thờ chính tòa Modenna cũng có tranh vẽ cảnh Chúa Giêsu giáng sinh do nghệ sĩ lớn của thành phố Modena: một do Antonio Begarelli vẽ năm 1527, và một gian hầm mộ do nhà điêu khắc Guido Mazzoni làm năm 1480. Tháp Torre Cívica thuộc nhà thờ chính tòa Modena, cũng là di sản thế giới. Gần đây, tang lễ của ca sĩ giọng nam cao nổi tiếng Luciano Pavarotti, sinh tại Modena đã được cử hành trong nhà thờ này. Veduta tridimensionale su Live Search Diocesi di Re Artù Modena
Nhà thờ chính tòa Modena
Di sản thế giới tại, Nhà thờ Modena, Nhà thờ chính tòa Emilia-Romagna, Kiến trúc Gothic Emilia-Romagna
Sư đoàn Bộ binh 325 là một trong đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện nay là một sư đoàn bộ binh đủ quân thuộc biên chế của Quân đoàn 2. Sư đoàn thành lập ngày 11 tháng năm 1951 trên cơ sở một số trung đoàn chiến đấu khu cũ (Bắc Trung Bộ). Trong suốt cuộc chiến kéo dài 30 năm, đơn vị này có tên gọi khác là Đoàn Bình Trị Thiên. Cán bộ trách nhiệm, mẫn cán của Thượng tá Nguyễn Hải Ngư Nguyễn Hải Ngư Là thầy cũng là trò… Nguyễn Khắc Thơm Sư đoàn 325 tập trung nâng cao sức mạnh chiến đấu Sư đoàn tham gia chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Việt Nam, chiến dịch biên giới Tây Nam. Một số trận đánh nổi bật mà sư đoàn đã tham gia là: trận Thanh Hương-Mỹ Xuyên (ngày 11/3/1951, sau đó ngày này trở thành ngày truyền thống của sư đoàn), trận Ia Đrăng, trận Thành cổ Quảng Trị (1972), chiến dịch Trị Thiên, chiến dịch Huế Đà Nẵng, chiến dịch Phan Rang (1975). Trong kháng chiến chống Pháp, Sư đoàn tham gia nhiều chiến dịch, đánh hơn 400 trận lớn nhỏ, diệt và bắt sống hơn 20.000 quân đối phương, thu nhiều phương tiện vũ khí. Trong kháng chiến chống Mỹ, Sư đoàn là một trong những đơn vị chủ lực cơ động, sớm có mặt trên chiến trường miền Nam. Hoạt động trên các địa bàn Trị Thiên, Tây Nguyên, đồng bằng Trung Trung Bộ. Chiến tích nổi bật của Sư đoàn là trận chiến đấu liên tục 64 ngày đêm chốt giữ thành cổ Quảng Trị năm 1972. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đại tá Hoàng Đan phó tư lệnh binh đoàn Hương Giang kiêm nhiệm tư lệnh sư đoàn. Sư đoàn 325 có nhiệm vụ tấn công các căn cứ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa Long Thành, Nhơn Trạch, Cát Lái, thành Tuy Hạ, quận Thủ Đức, quận 4, cắt đứt đồng bằng sông Cửu Long với Sài Gòn. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Viết Xuân là một chính trị viên tiểu đoàn cao xạ 18 thuộc sư đoàn 325. Sư đoàn 325 hiện tại bao gồm: Trung đoàn 18 Bộ binh phía Bắc Trung Bộ. Còn gọi là trung đoàn "Lê Trực" Hiện Trung đoàn 18 đang đóng quân tại huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Trung đoàn gồm tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc. Tiểu đoàn 7, tiểu đoàn và tiểu đoàn 9. Năm 2005 trung đoàn từng tham gia kỷ niệm 60 năm ngày quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại quảng trường Ba Đình. Một số cán bộ chiến sĩ đã được tặng thưởng bằng khen và giấy khen của Bộ Quốc phòng sau khi hoàn thành nhiệm vụ trên. Trung đoàn 95 Bộ binh chủ lực Quảng Trị. Có tên khác là "trung đoàn Thiện Thuật" Trung đoàn 101 Bộ binh chủ lực Thừa Thiên. Với tên "trung đoàn Trần Cao Vân" Tiểu đoàn Pháo binh 14 Cối 100mm Tiểu đoàn Pháo binh 15 SPG-9 Tiểu đoàn Phòng không 16 12,7mm Tiểu đoàn Công binh 17 Tiểu đoàn Thông tin 18 Tiểu đoàn Quân 24 Tiểu đoàn Vận tải 25 Đại đội Trinh sát (trực thuộc Sư đoàn bộ) và Đặc công Đội Cảnh vệ 23 Đại đội Hóa học 19 Đại đội Hậu cần 29 Đại đội Kỹ thuật 26 Nếu có có trường hợp chiến tranh nổ ra thì Sư đoàn 325 sẽ hành quân cơ động bằng các phương tiện cơ giới đến mặt trận xa thay vì đi bộ như xe tải chở quân và xe thiết giá BTR-60 Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhì (2011) Có trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội trực thuộc được tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân 325
Sư đoàn Bộ binh 325
Quân đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam, Khởi đầu năm 1951 Việt Nam, Đơn vị quân sự thành lập năm 1951
Chile con queso trong một nhà hàng Chile con queso (Từ tiếng Tây Ban Nha cho "ớt với pho mát"), đôi khi được gọi đơn giản là queso, là một món khai vị hoặc món ăn thêm từ phô-mai chảy và ớt. Món này thường phục vụ trong các nhà hàng Tex-Mex (Texas-Mexico) như là một loại nước chấm cho bim bim tortilla. Chile con queso là một phần của ẩm thực Tex-Mex và ẩm thực Tây Nam Hoa Kỳ, có nguồn gốc bang Chihuahua phía bắc Mexico, là một phiên bản của món Queso chihuahua và Queso flameado. Chile con queso chủ yếu được tìm thấy trên thực đơn các nhà hàng Tex-Mex và các bang khác của Hoa Kỳ. Chile con queso là một loại xốt mịn, sốt kem, được sử dụng để chấm. Nó được làm từ sự pha trộn các loại pho mát chảy (thường là pho mát chế biến như Velveeta hoặc các loại pho mát chế biến khác, Monterey Jack hoặc pho mát kem), kem, và ớt; ớt có thể dưới dạng hỗn hợp cà chua và ớt đóng hộp được bán Ro-Tel. Nhiều nhà hàng phục vụ chile con queso với các nguyên liệu bổ sung như pico de gallo, đậu đen, guacamole, và thịt bò và/hoặc thịt lợn băm. Chile con queso là một món ấm, được làm nóng đến nhiệt độ thích hợp. Chile con queso có thể được ăn với tortilla, bim bim tortilla, hoặc bim bim queso đặc biệt mà dày hơn bim bim tortilla. Nó cũng có thể được sử dụng làm gia vị ăn với fajita, taco, enchilada, miga, quesadilla hoặc bất món ăn Tex-Mex nào khác. Trong khi các nhà hàng Tex-Mex cung cấp bim bim và salsa miễn phí, queso thường bị tính phí thêm. Nó có thể được làm từ nhiều loại pho mát khác nhau. Nó thường có màu trắng hoặc vàng. Mặc dù chile con queso thường được gọi là "queso" ("pho mát" trong tiếng Tây Ban Nha), không nên nhầm lẫn nó với "nước chấm pho mát", đặc biệt là loại này không có ớt. Chips and dip Enchirito Fajita Danh sách đồ chấm Danh sách hors d'oeuvre Ẩm thực Tex-Mex Queso Chihuahua Queso flameado Nacho
Chile con queso
Món khai vị, Món ăn với pho mát, Ẩm thực México, Ẩm thực Hoa Kỳ
Pentacalia hillii là một loài thực vật có hoa thuộc họ Asteraceae. Loài này chỉ có Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Montúfar, R. Pitman, N. 2003. Pentacalia hillii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 20 tháng năm 2007.
''Pentacalia hillii
Pentacalia
'Quercus là một loài thực vật có hoa trong họ Cử. Loài này được Rehder E.H.Wilson miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Tập tin:Flora Example.svg Tập glaucoides Kunming Botanical Garden DSC02818.JPG
null
29246 Clausius (1992 RV) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng năm 1992 bởi F. Borngen và L. D. Schmadel Tautenburg. JPL Small-Body Database Browser ngày 29246 Clausius
29246 Clausius
Được phát hiện bởi Freimut Börngen, Được phát hiện bởi Lutz D. Schmadel
Vũ hoàng thanh tâm An cung ngưu hoàng hoàn An cung ngưu hoàng hoàn (, Ān gōng niúhuáng wán) là tên của một bài thuốc độc đáo và nổi tiếng của học cổ truyền Trung Quốc. Tác giả của nó là danh Ngô Cúc Thông (吴鞠通), đời Thanh của Trung Quốc. Thuốc được bào chế dưới dạng viên hoàn, dùng để uống. Theo dược học cổ truyền, An cung ngưu hoàng có công dụng đặc biệt trong việc thanh nhiệt giải độc, trấn kinh khai khiến, chuyên trị ôn nhiệt bênh, trừ đàm, hạ nhiệt, giải độc, trấn tĩnh, chống co giật do sốt cao gây nên, chống viêm tiêu thũng, hạ huyết áp người bệnh và đặc biệt là có tác dụng hồi tỉnh, phục hồi tế bào não bị tổn thương trong trường hợp bị hôn mê, rối loạn ngôn ngữ, bại liệt do đột quỵ não. Đây là một trong ba phương thuốc khai trọng yếu (lương khai tam bảo hay ôn bệnh tam bảo) cùng với chí bảo đan và tử tuyết đan, là một trong các loại dược vật cấp cứu hữu hiệu của nền học cổ truyền. "Cung" chỉ tâm bào, tâm bào chính là cái màng ngoài bọc lấy tim; ôn nhiệt độc tà nội hãm, khi xâm phạm vào tâm, trước hết là tác động đến tâm bào. Nếu như nhiệt tà quá thịnh sẽ làm nhiễu loạn thần minh mà dẫn đến tình trạng thần hôn thiềm ngữ. An cung ngưu hoàng có những khả năng thanh hóa đàm nhiệt nội hãm tâm bào, nhiệt thanh đàm hóa thì tâm thần tất sẽ an, vì thế mà gọi là "an cung". Trong phương dược thì ngưu hoàng, tê giác và xạ hương có công dụng tốt trong việc thanh tâm tả hỏa giải độc, dục đàm khai khiếu, tức phong định kính, là quân dược; hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi thanh nhiệt tả hỏa giải độc; mai phiến phương hương; khứ uế uất kim tán tà hỏa, thông khai bế; chu sa,trân châu và vàng lá trấn tâm an thần; mật ong hòa vị điều trung. An Cung Ngưu Hoàng có những thành phần hoàn tán như xạ hương, ngưu hoàng, sừng trâu... là những vị thuốc mang tính hàn (lạnh), cho nên những người bị bệnh thể hư hàn (thân nhiệt giảm) thì tuyệt đối không sử dụng, nếu sử dụng sẽ khiến cho bệnh nặng lên. Còn, những trường hợp thể nhiệt (nóng) thì có thể sử dụng. Ngoài ra, theo Cục Quản lý dược Việt Nam, thuốc An Cung Ngưu Hoàng "chống chỉ định đối với các trường hợp: tai biến mạch máu não thể thoát chứng, viêm não thể thoát chứng và thể chảy máu vào não thất của tai biến mạch máu não; phụ nữ có thai; người suy giảm chức năng gan, thận".
An cung ngưu hoàng hoàn
2505 Hebei (1975 UJ) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 31 tháng 10 năm 1975 bởi Đài thiên văn Tử Kim Sơn Nanking. JPL Small-Body Database Browser 2505 Hebei
2505 Hebei
Nữ hoàng Hippolyta là một siêu anh hùng hư cấu của vũ trụ DC Comics, dựa trên nữ hoàng Amazon Hippolyta trong thần thoại Hy Lạp. Được giới thiệu vào năm 1941 với tư cách nữ hoàng của tộc người Amazons trên đảo Themyscira, mẹ của Wonder Woman và mẹ nuôi của Donna Troy. Cloris Leachman, Carolyn Jones và Beatrice Straight thể hiện nhân vật này trong loạt phim Wonder Woman những năm 1970. Hippolyta đã có màn ra mắt điện ảnh trong Vũ trụ mở rộng DC trong bộ phim Wonder Woman năm 2017, do Connie Nielsen thủ vai. Sau đó cô xuất hiện trong bộ phim Justice League năm 2017. Nữ diễn viên Nielsen trở lại để đóng vai Hippolyta trong cảnh hồi tưởng trong bộ phim Wonder Woman 1984 ra rạp năm 2020 và cũng khắc họa nhân vật này trong Justice League phiên bản của Zack Snyder năm 2021. Wonder Woman con gái của nữ hoàng Hippolyta Nhân vật xuất hiện lần đầu trong All Star Comics #8 tháng 12 năm 1941. Hippolyte và các nữ chiến binh Amazons từng cư trú tại vào thời Hy Lạp cổ đại, cho đến khi họ bị thần Hercules, người đã được thần chiến tranh Mars thách thức như là một chiến công khi đánh bại người Amazons. Hippolyte đã có thể đánh bại Hercules nhờ vào chiếc dây đai thần kỳ, nhưng Hercules đã quyến rũ cô, và lừa cô ta gỡ bỏ chiếc đai, cho phép Hercules ăn cắp nó. Điều này khiến các chiến binh Amazons mất đi siêu sức mạnh và sự sủng ái của nữ thần bảo trợ Aphrodite. Cuối cùng thì Hippolyte và những người Amazon khác cũng được tha thứ, nhưng phải đeo vòng tay để nhắc nhở họ về sự ngu ngốc khi trót nghe lời đàn ông. Sau đó các nữ chiến binh Amazons được lệnh rời khỏi thế giới phàm trần và chuyển đến đảo Themyscira. đó họ thành lập xã hội của riêng mình, thoát khỏi những tệ nạn của thế giới loài người. Chừng nào họ còn đó và Hippolyte vẫn sở hữu chiếc vòng ma thuật của mình, những người Amazons sẽ luôn bất tử. Trong phần lớn lịch sử loài người, Hippolyte và người Amazones vẫn trên Đảo Themyscira, hiếm khi tương tác với thế giới hiện đại, chỉ có Diana Prince Wonder Woman (cô con gái được tạo ra bởi đất sét và được thần linh ban cho sự sống) là thoát ly khỏi đảo. Hippolyte rất sùng bái các nữ thần đỉnh Olympia, đặc biệt là Aphrodite, người bảo trợ của Amazons, và kiên quyết rằng con người không bao giờ được phép đặt chân lên Đảo Themyscira. Là một người Amazon, Hippolyta có khả năng bất tử và không bị lão hóa, siêu sức mạnh và siêu chống chịu, đồng thời cô có thể tự tái tạo lại các vết thương. Hippolyta có thể sử dụng phép thuật với Găng tay của Atlas, Đôi dép của Hermes. Hippolyta còn sử dụng sợi dây sự thật Lasso of Truth, mặc dù Hippolyta thường sử dụng kiếm và khiên trong chiến đấu. Thanh kiếm của Hippolyta được tạo ra bởi Hephaestus và đủ sắc để cắt các electron ra khỏi một nguyên tử. Aphrodite nữ thần bảo trợ của người Amazons Chiến binh Amazons Wonder Woman
Nữ hoàng Hippolyta
Siêu anh hùng DC Comics
20693 Ramondiaz (1999 VV81) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng 11 năm 1999 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln Socorro. JPL Small-Body Database Browser ngày 20693 Ramondiaz
20693 Ramondiaz
Stephan Leonard Drăghici (sinh ngày 30 tháng năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người România thi đấu cho vị trí tiền vệ cho Juventus București, theo dạng cho mượn từ Universitatea Craiova. Stephan Drăghici at lpf.ro
Stephan Leonard Drăghici
Sinh năm 1998, Nhân vật còn sống, Người Roșiorii de Vede, Cầu thủ bóng đá România, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia România, Cầu thủ bóng đá Liga, Cầu thủ bóng đá Liga II, Cầu thủ bóng đá CS Universitatea Craiova, Cầu thủ bóng đá SCM Râmnicu Vâlcea, Cầu thủ bóng đá FC Academica Clinceni, Cầu thủ bóng đá SC Juventus București
Đồng Hải là một phường thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Phường Đồng Hải nằm phía đông thành phố Đồng Hới, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Bảo Ninh với ranh giới là sông Nhật Lệ *Phía tây giáp phường Đồng Phú *Phía nam giáp phường Đức Ninh Đông và phường Phú Hải *Phía bắc giáp phường Hải Thành. Phường Đồng Hải có diện tích 1,93 km², dân số năm 2019 là 5.957 người, mật độ dân số đạt 3.087 người/km². Địa bàn phường Đồng Hải hiện nay trước đây vốn là một phần phường Đồng Phú. Ngày tháng năm 1992, thành lập hai phường Đồng Mỹ và Hải Đình trên cơ sở một phần diện tích và dân số của phường Đồng Phú. Trước khi sáp nhập, phường Đồng Mỹ có diện tích 0,56 km², dân số là 2.503 người, mật độ dân số đạt 4.470 người/km². Phường Hải Đình có diện tích 1,37 km², dân số là 3.454 người, mật độ dân số đạt 2.521 người/km². Ngày 10 tháng năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 862/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Quảng Bình (nghị quyết có hiệu lực từ ngày tháng năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của hai phường Đồng Mỹ và Hải Đình thành phường Đồng Hải. Tập tin:Tượng Mẹ Suốt bên sông Nhật Lệ 3, Đồng Hới, Quảng Bình.jpeg|Tượng Mẹ Suốt bên sông Nhật Lệ Tập tin:Trung tâm Văn hóa Thông tin Đồng Hới, Quảng tâm Văn hóa Thông tin Đồng Hới phường Đồng Hải Tập tin:Tam Toa Church, Dong Hoi.jpg|Chứng tích nhà thờ Tam Tòa
Đồng Hải
Chế độ nhất viện là chế độ mà nghị viện của một nước chỉ xếp đặt một viện. bên trong loại chế độ này, việc chế định luật pháp và thông qua dự thảo nghị quyết tương đối đơn giản và thuận lợi. Phần nhiều xuất hiện các nước dân chủ mới nổi và các nước thực thi Hệ thống luật châu Âu lục địa, thí dụ như Đan Mạch, Hi Lạp, Phần Lan, Singapore, Liban, Tunisia, Guatemala, New Zealand, v.v đều chọn dùng loại chế độ này. Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cơ quan quyền lực tối cao, cũng thực hành chế độ nhất viện. Chế độ nhất viện là chế độ mà các nước chủ nghĩa tư bản xếp đặt một viện để sử dụng và thực thi chức quyền của nghị viện. Nghị viện Anh Quốc thực hành đầu tiên vào thế kỉ XIII, là nghị viện đơn nhất được hình thành dần dần do giai cấp thống trị kiểm soát trong đó giới quý tộc chuyển hoá thành giai cấp tư sản và một bộ phận thị dân tự do có thực lực kinh tế khá mạnh bài trừ và gạt bỏ người dân lao động để tiến vào nghị viện. Nghị viện có một cơ quan đơn nhất, xác định rõ trách nhiệm, trình tự lập pháp và thông qua dự thảo nghị quyết khá đơn giản và tiện lợi, thêm nữa đại biểu nguyện của giai cấp tư sản, thể hiện giai cấp tư sản dân chủ, giảm bớt tranh chấp và xung đột của bản thân nghị viện. Jean-Jacques Rousseau đã chủ trương quyền lập pháp do nghị viện đơn nhất sử dụng và thực thi. Vào thời kì đầu thế kỉ XVIII và XIX, các nước chủ nghĩa tư bản phần nhiều thực hành chế độ nhất viện; bây giờ vẫn có rất nhiều nước chủ nghĩa tư bản thực hành chế độ nhất viện. Vào thế kỉ XX, các nước mới độc lập châu Á, châu Phi và Mĩ La-tinh phần nhiều cũng chọn dùng chế độ nhất viện. Đây là biểu hiện của tập đoàn lãnh đạo của giai cấp thống trị vì mục đích củng cố sự thống trị của nó nên yêu cầu quyền lực tập trung. Chế độ nhất viện tồn tại các khuyết điểm như chế định luật pháp cẩu thả, dễ giúp tăng thêm sự lộng hành, chuyên quyền độc đoán, v.v So sánh với chế độ lưỡng viện truyền thống, nghị viện của chế độ nhất viện tương đối có công hiệu, trong chế độ lưỡng viện, sự tranh đấu nghị viện sẽ ngăn trở thông qua dự luật. Nếu hai viện chia rẽ kiến, ắt phải có một viện trong chúng không thể đại biểu chí chung; nếu hai viện nhất trí kiến, tất phải có một viện trong chúng là thừa, cho nên không cần thiết để thiết lập. Các nước chế độ lưỡng viện hiện đại, quyền lực thượng nghị viện của không ít nước đều bị cắt giảm, chuyển đến hạ nghị viện có tính đại biểu dân khá cao. Một số nước chế độ lưỡng viện như Anh Quốc và Canada, vì quyền lực của thượng nghị viện bị cắt giảm với biên độ lớn, xét về phương diện vận hành thực tế biểu hiện giống chế độ nhất viện, chính phủ cũng do hạ nghị viện bầu ra, cũng cần duy trì đa số hạ nghị viện thì mới có thể tiếp tục nắm giữ chính quyền. nghị viện của chế độ nhất viện, bên trong cơ quan lập pháp không thể giống như chế độ lưỡng viện, có thể xuất hiện một đảng khống chế thượng nghị viện, một đảng khác khống chế hạ nghị viện. Trừ phi một chính đảng lấy được ưu thế và chi phối địa vị bên trong nghị viện, nếu không thì dễ sản sinh cục diện bế tắc chính trị. Quyền quyết định do toàn thể nghị sĩ quyết nghị, không thể làm hẹp đường kênh chế định chính sách. Tránh khỏi sự lãng phí hành chính (nhân lực và tài lực) không cần thiết, so với chế độ lưỡng viện, có thể trực tiếp tiến hành hiệp thương với đảng đối lập. Tuy nhiên, một số đảng nắm giữ chính quyền bên trong nghị viện của chế độ nhất viện cùng lúc nắm giữ và khống chế quyền hành chính và quyền lập pháp, sẽ tương đối không có quyền lực để ràng buộc, khó dự phòng việc kiểm soát và thống nhất đa số quyết định, tình huống một đảng chiếm ưu thế xuất hiện sẽ khiến cho đảng cầm quyền thiếu cân nhắc, khả năng sẽ xuất hiện chuyên quyền, độc đoán thống trị. So với chế độ lưỡng viện, nghị viện khá khó ràng buộc quyền lực chính phủ. chế độ nhất viện, đảng cầm quyền thông qua đa số giản đơn, không có ích cho sự biểu đạt của đa nguyên kiến. Để tránh hình thành chia cắt hành chính và lập pháp, không ít nước chính thể tổng thống có chế độ nhất viện đều sẽ đem bầu cử tổng thống và quốc hội cử hành cùng lúc, để khỏi bị đảng cầm quyền của tổng thống trực thuộc không thể vừa nắm giữ đa số nghị viện vừa nắm giữ chính quyền. Tuy nhiên các nước chế độ nhất viện có thực hành chế độ dân chủ nghị viện thì không được xuất hiện hành chính và lập pháp, cơ quan hành chính do thủ tướng hoặc tổng thống lãnh đạo có thể nắm giữ đa số nghị viện. Song cũng có nước ví như Hàn Quốc, sau khi dân chủ hoá bầu cử tổng thống và quốc hội cử hành tách biệt, dẫn đến thường hay xuất hiện cục diện "cầm quyền ít, đối lập lớn" chỉ tình huống, ngay trong quốc hội, số ghế nghị sĩ của đảng cầm quyền khá ít, nhưng mà số ghế nghị sĩ của đảng đối lập chiếm tuyệt đại đa số, hơn nữa vượt qua một nửa tổng số ghế nghị sĩ quốc hội. Trước khi Trung Hoa dân quốc thay đổi và thi hành chế độ bỏ phiếu cùng lúc vào năm 2008, bầu cử tổng thống và uỷ viên lập pháp cử hành tách biệt, dẫn đến xuất hiện chính phủ thiểu số từ năm 2000 đến năm 2008, đảng Dân chủ Tiến bộ được biết là đảng cầm quyền không có cách nào nắm giữ đa số ghế Viện lập pháp. Tương đối có công hiệu. Phù hợp nguyện của giai cấp thống trị. Bên trong cơ quan lập pháp không có xung đột, cho nên không dễ sản sinh cục diện bế tắc. Quyền quyết định do toàn thể nghị sĩ quyết nghị, không thể làm hẹp đường kênh chế định chính sách. Không thể thiên lệch và bênh vực lợi ích của giới tinh anh xã hội. Có thể tránh lãnh phí hành chính không cần thiết. Bên trong nghị viện không có quyền lực ràng buộc, khó dự phòng việc kiểm soát và thống nhất đa số quyết định. So với chế độ lưỡng viện, không thể ràng buộc quyền lực của bộ, ban, ngành hành chính. So với chế độ lưỡng viện, phạm vi lợi ích đại biểu các cử tri khá nhỏ. Chỉ có một viện thẩm tra xử lí các vụ kiện tụng, khó xét xử chu toàn. Dự luật mang tính tranh luận dễ dàng thông qua. Thực thể chính trị Cơ quan lập pháp Thể chế chính trị Quốc kì (khu kì) Hình thức kết cấu nhà nước Chú giải thuyết minh Lập pháp viện chính thế bán tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Trước đây, Lập pháp viện và Đại hội quốc dân cùng là cơ quan lập pháp, sau bầu cử đại biểu Đại hội quốc dân Trung Hoa dân quốc năm 2005, Đại hội quốc dân bị bãi bỏ trên thực tế, Lập pháp viện biến thành là cơ quan lập pháp duy nhất. Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa một đảng cầm quyền 100x100px chế độ đơn nhất Cơ quan thường trực là Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc. Hội đồng lập pháp khu hành chính đặc biệt của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 100x100px chế độ đơn nhất Căn cứ vào nguyên tắc Một nhà nước, hai chế độ, khu hành chính đặc biệt Hương Cảng coi là đặc khu hành chính có được tự trị cao độ, bao gồm quyền lập pháp. Hội đồng lập pháp khu hành chính đặc biệt của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 100x100px chế độ đơn nhất Căn cứ vào nguyên tắc Một nhà nước, hai chế độ, khu hành chính đặc biệt Áo Môn coi là đặc khu hành chính có được tự trị cao độ, bao gồm quyền lập pháp. Hội nghị lập pháp Nhân dân Tối cao chính thể cộng hoà một đảng cầm quyền 100x100px chế độ đơn nhất Uỷ viên trưởng Uỷ ban thường nhiệm Hội nghị lập pháp Nhân dân Tối cao là người đứng đầu lập pháp, đồng thời cũng là nguyên thủ nhà nước dựa theo hiến pháp và pháp luật Triều Tiên quy định. Quốc hội Hàn Quốc chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Quốc hội Hàn Quốc do công dân Hàn Quốc trực tiếp bầu cử sản sinh vào ngày 10 tháng năm 1948 đặt dưới sự giám sát của Liên hợp quốc chiếu theo "Luật bầu cử nghị sĩ quốc hội" ban hành vào ngày 17 tháng 3. Quốc hội Singapore chế độ cộng hoà nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Hi Lạp chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Đan Mạch thể chế quân chủ lập hiến 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Thuỵ Điển thể chế quân chủ lập hiến 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Phần Lan chính thể cộng hoà 100x100px chế độ đơn nhất Đại hội đại biểu nhân dân Tunisia chính thể cộng hoà 100x100px chế độ đơn nhất Đại hội đại biểu quốc dân Libya chế độ đơn nhất 100x100px chế độ đơn nhất Cơ quan lập pháp của nước đó trước mắt được cộng đồng quốc tế thừa nhận phổ biến là Đại hội đại biểu quốc dân Libya, đối lập với Chính phủ nghị viện quốc dân mới được thiết lập riêng biệt ngay trong Nội chiến Libya năm 2014 tới nay. Chủ tịch Đại hội đại biểu quốc dân Libya từng là nguyên thủ nhà nước được cộng đồng quốc tế thừa nhận phổ biến, cùng nhau kiến lập và tổ chức Chính phủ đoàn kết dân tộc với nghị viện do Uỷ ban tổng thống Libya lãnh đạo, được coi là cơ quan lập pháp tiếp tục tồn tại. Nghị viện Bồ Đào Nha chính thể cộng hoà 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện New Zealand thể chế quân chủ lập hiến 100x100px chế độ đơn nhất Đại hội đại biểu toàn quốc Venezuela chính thể cộng hoà chính thể tổng thống 100x100px thể chế liên bang Sau khi hiến pháp mới năm 1999 thông qua thay đổi và thi hành chế độ nhất viện, và thiết lập riêng Đại hội lập hiến nằm bên ngoài quốc hội. Nghị viện Tối cao Pridnestrovie Moldova chính thế bán tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Rada Tối cao Ukraine chính thể cộng hoà chính thế bán tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Đại hội đại biểu chính quyền nhân dân Cuba nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa một đảng cầm quyền 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Bắc Macedonia chế độ cộng hoà nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Uỷ ban Toàn quốc Xarauy chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Bắc Ireland nước cấu thành của Vương quốc Liên hợp Anh và Bắc Ireland 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Khural nhà nước chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Angola chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Zambia chính thể cộng hoà 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Botswana chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Tchad chính thể tổng thống một đảng chuyên quyền 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Tối cao Kyrgyzstan chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Hạ viện Ai Cập chính thể cộng hoà chính thế bán tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Hạ viện Yemen chính thể cộng hoà chính thế bán tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện nhân dân Syria chính thế bán tổng thống một đảng cầm quyền 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Bangladesh chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Armenia chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Greenland chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Iceland chế độ cộng hoà nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Quần đảo Faroe chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Na Uy thể chế quân chủ lập hiến 100x100px chế độ đơn nhất Quốc hội Lào cộng hoà xã hội chủ nghĩa 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Suriname chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Iraq chế độ dân chủ nghị viện 100x100px thể chế liên bang Nghị viện Đại quốc dân Thổ Nhĩ Kì chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Belarus chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Mali chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân nước Cộng hoà Trung Phi chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Bénin chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện nhân dân toàn quốc Guiné-Bissau chính thể cộng hoà 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Kurdistan thể chế liên bang 100x100px thể chế liên bang Nghị viện nước Cộng hoà Guatemala chế độ đơn nhất 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện nước Cộng hoà Bắc Síp chế độ đơn nhất 100x100px chế độ đơn nhất Hạ viện Síp chế độ đơn nhất 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Papua New Guinea chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Iran chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Lithuania chế độ đơn nhất 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Latvia chế độ đơn nhất 100x100px chế độ đơn nhất Quốc hội Estonia chế độ dân chủ nghị viện 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện quốc dân Malawi chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Sri Lanka chính thế bán tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Gruzia chế độ đơn nhất 100x100px chế độ đơn nhất Nghị viện Cameroon chính thể tổng thống 100x100px chế độ đơn nhất Việt Nam Quốc hội Việt Nam Nhà nước Xã hội chủ nghĩa 100x100px Chế độ đơn nhất
Chế độ nhất viện
Cơ quan lập pháp, Lập pháp độc viện
Dunia Elvir sinh ngày 09 tháng 06 năm 1973, tại La Ceiba, Honduras, là một nhà báo truyền hình, nhà sản xuất, diễn giả động lực và người ủng hộ tự kỷ. Dunia có anh em tên là Orlando và Carlos Elvir. Cô là người lớn tuổi nhất trong số đó, còn Orlando trẻ hơn cô tuổi và Carlitos nhỏ hơn cô tuổi. Mẹ cô còn chăm sóc hai anh em họ của cô, là Claudia và Maricela. Dania luôn yêu mến hai người này. Lớn lên Barrio La Isla La Ceiba, Dunia từng chơi bóng đá và bóng chày trên đường phố. Dunia lên tuổi thì được cha cô mua tặng một chiếc micro và radio đầu tiên. Dunia thích chơi và nhập vai là một phát thanh viên. Năm 15 tuổi, Dunia được gửi đến Los Angeles, California để sống với bà ngoại. Cô đã đến học trường trung học Jordan Los Angeles và lấy bằng tốt nghiệp trung học với tư cách là một học sinh học tiếng Anh (tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai). Sau đó, cô đã lấy được bằng phát thanh tại Viện truyền thông Mỹ Hollywood vào năm 1991. Cũng như nhiều người nhập cư khác, Dunia phải đối mặt với nhiều thách thức trong khi cố gắng vượt trội trong sự nghiệp. Dunia tốt nghiệp với một kiến thức hạn chế về tiếng Anh. Điều này và việc thiếu các tài liệu nhập cư đã ngăn cô tiếp tục học cao hơn. Một năm sau, con trai đầu lòng của cô, Jesus được sinh ra. Jesus là người tự kỷ, khuyết tật đã khiến cô chọn cuộc sống thiên về gia đình để chăm sóc con. Năm 1997, con trai thứ hai của Dunia, Lalo (Eduardo) chào đời. Vài năm sau cuộc hôn nhân đầu tiên này có sự cố và cặp đôi đã ly thân vào tháng năm 2001, sau đó Dunia rời khỏi nhà với hai đứa con. Vào ngày 12 tháng 04 năm 2003 Dunia kết hôn với người chồng thứ hai, là Carl Procida. Vào tháng 12 năm 2004, Dunia quyết định bắt đầu học đại học, tưởng này là giấc mơ chung của cô và chồng mới. Trong khi cố gắng hoàn thành chương trình đại học của mình, cặp vợ chồng Dunia và Carl đã có thêm hai cô gái. Các con là Adrianna và Josieanna, đã làm cho mối quan hệ trở nên mạnh mẽ hơn. Đến tháng 11 năm 2008 Dunia và Carl tốt nghiệp Đại học Phoenix với bằng cử nhân Quản trị kinh doanh. Mục tiêu này này đã cho Dunia cơ hội phát triển trong Telemundo. Tại thời điểm này, Telemundo không chỉ mang đến cho Dunia cơ hội làm việc, thực hiện công việc mơ ước mà còn giúp cô phát triển trí tuệ bằng cách cho phép cô quay lại trường đại học và theo đuổi bằng MBA, Dunia có cơ hội để hoàn thành thạc sĩ vào tháng 11 năm 2011 và với chồng là bạn cùng lớp. Elvir bắt đầu sự nghiệp tại California tại Đài phát thanh México năm 1989. Sau đó, cô chuyển đến KRCA Channel 62 Los Angeles với tư cách là phóng viên và người dẫn chương trình tin tức trên TV. Từ năm 2001, cô làm việc cho Telemundo Los Angeles. Cô cũng là phóng viên của chương trình truyền hình Cada día con Maria Antonieta (Mỗi ngày với Maria Antonieta Collins). Trên thực tế, Elvir cũng làm cho Telemundo Network cho thấy Levantate Al Rojo Vivo, Noticiero Telemundo và chương trình buổi sáng tại Los Angeles "Buenos Dias". Vào năm 2014, Elvir là người dẫn chương trình duy nhất trong cuộc tranh luận về người cầm quyền California giữa Thống đốc Jerry Brown và Neel Kashkari Sacramento. Đây là lần đầu tiên một phụ nữ gốc Tây Ban Nha làm người điều hành trong cuộc tranh luận về người cầm quyền Golden State. Elvir cũng điều hành sự kiện Lãnh đạo Thế giới nơi có Thủ tướng Tony Blair và Vicente Fox thảo luận về vấn đề nhập cư, giáo dục, chính trị trong số các chủ đề khác. Cô cũng đã từng phỏng vấn Anthony Hopkins, Benermo del Toro, Sylvester Stallone, Salma Hayek, Arnold Schwarzenegger, Vicente Fox, Tony Saca, cựu thủ quỹ Hoa Kỳ Rosario Marin, cựu Tổng thống của Honduras Ricardo Maduro và vợ cũ của ông, ông Aguas Santas Ocaña Navarro Jose Manuel Zelaya Rosales và Đệ nhất phu nhân Xiomara de Zelaya, Alvaro Colom Caballeros, Tổng thống đương nhiệm của Guatemala và Tổng thống đương nhiệm của Honduras trong số các Tổng thống Mỹ Latinh khác Thị trưởng Los Angeles, ông Antonio Villaraigosa. Vào năm 2006, cô đã đi đến Trung Mỹ để làm việc trên nhiều báo cáo đặc biệt về El Salvador, Honduras và Guatemala. Cô cũng tham gia chuyến lưu diễn "Votos por America" của el Cucuy de la Mañana. Dunia đã đến Mexico và báo cáo về vụ tai nạn kinh hoàng tại mỏ Pasta de Conchos năm 2006. Năm 2006, hàng triệu người đã tham gia biểu tình phản đối đề xuất thay đổi chính sách nhập cư của Hoa Kỳ, Dunia đã trung tâm thành phố Los Angeles, CA phản đối với tư cách là phóng viên mạng Telemundo. Bà cũng đề cập đến các sự kiện quan trọng khác như 9/11, cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ lịch sử năm 2008. Elvir đã nhận được nhiều sự công nhận vì các báo cáo của cô về những câu chuyện thú vị của con người. Elvir đã giành được giải thưởng Emmy trong năm ngoái. Cô cũng được đề cử giải Emmy trong hạng mục Báo cáo điều tra hay nhất Los Angeles năm 2001. Cô cũng đã giành giải "Mike vàng" với báo cáo Corners of Sin là Báo cáo điều tra hay nhất năm đó. Elvir đã nhận được nhiều sự công nhận đặc biệt từ Thành phố Los Angeles, Hạt Los Angeles, Thượng viện bang California, cô đã được trao một sự công nhận đặc biệt từ Quốc hội bang California và các thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ. Cô cũng đã giành được giải thưởng GLAAD năm 2005. Cô được mời làm khách mời đặc biệt đến thăm Nhà Trắng bởi Hiệp hội các nhà lãnh đạo Latina (NALL). Năm 2006, cô đã nhận được "Giải thưởng khách mời xuất sắc" từ thành phố La Ceiba, nơi diễn ra cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Honduras năm 2006. Cho đến thời điểm đó, cô hầu như không được biết đến đất nước của mình. Vào tháng năm 2007, cô đã nhận được giải thưởng "Nhà báo của năm" tại Toronto, Ontario, Canada tại "Lễ hội mùa hè Toni Reyes" nơi có hơn 70.000 người gốc Tây Ban Nha từ các quốc tịch khác nhau tụ tập để chúc mừng. Vào ngày 20 tháng năm 2007, cô đã nhận được từ Camara de Comercio Industria de Tegucigalpa (Phòng Thương mại và Công nghiệp Tegucigalpa) cho Giải thưởng "Orgullo Petureño en el Extranjero" cho dịch vụ cộng đồng của cô và tác động tích cực đến các quốc gia khác Hoa Kỳ. Năm 2008, câu chuyện "Nguy hiểm trong bệnh viện" của Dunia đã được NAHJ (Hiệp hội các nhà báo Tây Ban Nha) chọn là báo cáo Điều tra hay nhất trong năm, được công nhận Washington DC Dunia đã nhận được Giải thưởng Câu lạc bộ Báo chí Los Angeles cho "Chương trình dịch vụ công cộng tốt nhất", một phần trong 30 phút. Vào năm 2011, Dunia đã được trao giải "NBC ovation Award" Trên và Ngoài sự khác biệt. Elvir đã giành được 02 giải thưởng Emmy năm 2016 và năm 2017. Đây chỉ là một vài trong số rất nhiều sự tri ân của cộng đồng mà Dunia đã nhận được trong suốt 17 năm qua.
Dunia Elvir
Nhân vật còn sống, Sinh năm 1973
150px (HA) hay còn được gọi là (BE) là glycoprotein kháng nguyên được tìm thấy trên bề mặt của virus cúm (cũng như là những loại vi khuẩn và virus khác) Nó có nhiệm vụ kết nối virus với tế bào chủ. Cái tên "hemagglutinin" có nghĩa là khả năng làm đông tụ (agglutinate) hồng cầu (erythrocytes) trong ống nghiệm của protein (Nelson 2005)
null
H5N1, Kháng nguyên bề mặt, Huyết học
Cầu Mặt trăng (tiếng Anh: Moon bridge) là cầu đi bộ, được thiết kế theo kiểu vòm cung, thường thấy trong các khu vườn Trung Quốc và Nhật Bản. Cầu Mặt trăng có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó du nhập sang Nhật Bản. cây cầu bằng gỗ trong Vườn trà Nhật Bản Công viên Cổng Vàng tại San Francisco, California. Hongji tại Nam Tầm, Triết Giang.
Cầu Mặt trăng
Cầu theo kiểu, Cầu vòm, Cầu bộ hành, Phong cách làm vườn Nhật Bản
Một con gà Phục Sinh Gà Phục Sinh (Easter Egger) là một nhóm giống gà mà có bất kỳ con gà nào có mang gen đẻ ra những quả trứng gà màu xanh, nhưng không đáp ứng đầy đủ mọi tiêu chuẩn giống được xác định trong tiêu chuẩn Hiệp hội Gia cầm Mỹ (APA), hoặc trong trường hợp của gà tre phục sinh (bantam) theo tiêu chuẩn Hiệp hội Bantam Mỹ (ABA). Tên gọi này xuất phát từ sự giống nhau của quả trứng đầy màu sắc của chúng với trứng Phục Sinh. Các giống gà Araucana, gà Ameraucana, và gà Phục Sinh có nguồn gốc và nhân rộng trên toàn thế giới từ Chile và Quần đảo Falkland. Trứng gà Phục Sinh Trứng có màu sắc trứng kỳ lạ và quý hiếm, trứng có màu xanh nước biển hoặc màu xanh lá cây. Nhưng màu sắc trứng có thể xanh xám hoặc tím đến lam ngọc hay xanh lục nhạt. Màu sắc của trứng phụ thuộc vào các biến thể gen tạo màu sắc khác nhau, việc đổi màu của vỏ trứng từ trắng sang xanh là do biến đổi của một gien. Trứng gà có màu xanh, màu xanh của vỏ trứng gà bắt nguồn từ giống gà có nguồn gen quý hiếm, có khả năng tổng hợp và hấp thu chất dinh dưỡng cao hơn các giống gà thông thường khác. Đối với gà Araucana là loài gà có nguồn gen quý hiếm, những quả trứng xanh không có tác dụng xấu đến sức khỏe và có chứa hàm lượng amino acid, kẽm, vitamin cao hơn so với một số loài trứng gà khác. Trứng gà xanh có hàm lượng cholesterol thấp, mùi vị thơm ngon, có thể sử dụng tốt cho người mắc bệnh tiểu đường, huyết áp, mỡ máu, gan nhiễm mỡ, béo phì, trứng gà vỏ xanh tốt cho cả phụ nữ mang thai và sau sinh, người mới ốm dậy. Người dân phương Tây rất thích nuôi giống gà này, vì chúng đẻ ra những trái trứng đỏ, trắng, xanh, và cả trứng đốm giống hệt những trái trứng họ sử dụng trong dịp lễ Phục sinh. Ngày nay, tại các nước như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, trứng gà vỏ xanh đã trở thành thực phẩm quen thuộc cao cấp trong bữa ăn hàng ngày của tầng lớp trung và thượng lưu, có nhiều nơi lai tạo và với mục đích lợi nhuận được cao hơn người ta thường giả trứng gà Araucana bởi trứng của gà Ameraucana hay bởi trứng gà Phục sinh. Không chỉ đặc biệt màu sắc vỏ trứng, chất lượng trứng vượt trội, thích hợp cho cả người ăn kiêng mà trứng gà xanh cũng được đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm bởi công nghệ giống cao cấp, chọn lọc kỹ lưỡng, dây chuyền sản xuất khép kín hiện đại. Facts About Easter Eggers. Easter Eggers Easter Eggers Facts.
Gà Phục Sinh
Giống gà
Grand Theft Auto (GTA) là một sêri trò chơi điện tử, được phát triển chủ yếu bởi Rockstar North (tiền thân là DMA Design) và phát hành bởi Rockstar Games. Danh sách dưới đây đề cập đến tất cả những nhân vật tham gia lồng tiếng cho các phiên bản 3D, bao gồm Grand Theft Auto III, Grand Theft Auto: Vice City, Grand Theft Auto: San Andreas, Grand Theft Auto: Liberty City Stories, Grand Theft Auto: Vice City Stories, Grand Theft Auto IV, và Grand Theft Auto V. Danh sách này không bao gồm những nhân vật quần chúng như người đi đường, găng-xtơ (gangster), và một vài nhân vật khác xuất hiện trên đài phát thanh. Cả Grand Theft Auto lẫn Grand Theft Auto 2 đều không đề cập đến tên người lồng tiếng cho các nhân vật. Phiên bản đầu tiên có đề cập là Grand Theft Auto III. Mặc dù kinh phí có hạn và lúc này series Grand Theft Auto chưa gây được tiếng vang lớn, song trò chơi vẫn có sự góp mặt của nhiều diễn viên đáng chú như Frank Vincent, Michael Madsen và Kyle MacLachlan. Phiên bản tiếp theo, Grand Theft Auto: Vice City, giới thiệu nhiều diễn viên hơn, trong đó có Ray Liotta trong vai nhân vật chính (người chơi). Mặc dù phần tiếp sau đó, Grand Theft Auto: San Andreas, cũng có sự tham gia của nhiều diễn viên như Samuel L. Jackson, Peter Fonda và James Woods nhưng nhà sản xuất dã quyết định cắt giảm bớt việc thuê những diễn viên này. Vì vậy mà phần lớn các nhân vật trong GTA: San Andreas đều được lồng tiếng bởi các diễn viên nghiệp dư. Sau này, từ Grand Theft Auto: Liberty City Stories đến Grand Theft Auto V, nhà sản xuất vẫn tiếp tục thuê diễn viên nghiệp dư lồng tiếng cho nhân vật chính, nhưng đôi khi có cả sự góp mặt của các nhân vật nổi tiếng cho các vai DJ của đài phát thanh, như Cara Delevingne hay Flying Lotus. Trong một số phiên bản còn có sự góp mặt của các diễn viên như Lazlow Jones, Phil Collins, Ricky Gervais và Katt Williams lồng tiếng cho nhân vật của chính mình trong trò chơi. ;Chú thích *C: Có tên trong danh sách nhân vật chính *Đ: Có tên trong danh sách nhân vật trên đài phát thanh hoặc trên truyền hình *CĐ: Có tên trong danh sách nhân vật chính, trên đài phát thanh hoặc trên truyền hình *K: Không có tên trong danh sách nhân vật sau trò chơi L. Jackson lồng tiến cho sĩ quan Frank Tenpenny, nhân vật phản diện của GTA: San Andreas Hình:Kyle MacLachlan lồng tiếng cho Donald Love trong GTA III Hình:Burt Reynolds 1991 Reynolds lồng tiếng cho trùm bất động sản Avery Carrington trong GTA: Vice City Hình:Ice lồng tiếng cho Madd Dogg trong GTA: San Andreas Hình:Phil Collins lồng tiếng cho nhân vật cùng tên, trong GTA: Vice City Stories Gervais lồng tiếng cho nhân vật cùng tên trong GTA IV Diễn viên Nhân vật Chú thích Game Joseph Adams Josh Bernstein Grand Theft Auto Timothy Adams Brucie Kibbutz Grand Theft Auto IV Michael Elkind Mark the Manager Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Oberon K.A. Adjepong Anton Beaudelaire Grand Theft Auto Hajaz Akram Panjit Gavaskar Grand Theft Auto: Liberty City Stories Ashley Albert Melissa Chowder Grand Theft Auto: Liberty City Stories Audrey Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Shari Albert Vasquez Grand Theft Auto Online Fiona Aldridge Maureen Grand Theft Auto Timothy J. Alex Bernie Crane Grand Theft Auto IV Leslie Alexander Janet Grand Theft Auto Rachel Allen Shelia Stafford Grand Theft Auto IV Julian Alvarez Mariachi Grand Theft Auto Paul Ames Peyton Phillips Grand Theft Auto: San Andreas Armin Amiri Ferdinand Kerimov Grand Theft Auto Jonathan Anderson Jeffery "O.G. Loc" Cross CĐ Grand Theft Auto: San Andreas Andre Andre the Accelerator Grand Theft Auto III Sharon Angela Angie Pegorino Grand Theft Auto IV Alex Anthony Jock Cranley Grand Theft Auto Peter Appel Derrick Thackery Grand Theft Auto: San Andreas Ray Machowski Grand Theft Auto: Liberty City Stories Jill Apple Talullah Grand Theft Auto Pascale Armand Natalie Walsh Davis Grand Theft Auto: Liberty City Stories Angela Allan Grand Theft Auto IV Fred Armisen Hugh Harrison Grand Theft Auto Stretch Armstrong Chính mình Grand Theft Auto III Madison Arnold Jon Gravelli Grand Theft Auto IV Zan Aron Teri Grand Theft Auto: Vice City Stories Lynda Ashe Janet Vance Grand Theft Auto: Vice City Stories Vanessa Aspillaga Michelle Cannes Grand Theft Auto: San Andreas Roy Ayers Chính mình Grand Theft Auto IV Krista Ayne Juliet Grand Theft Auto Dave Bachman Luther Austin Grand Theft Auto IV Vitali Baganov Ray Bulgarin Grand Theft Auto IV Quincy Dunn-Baker Milton McIlroy Grand Theft Auto Joan Baker Vice City TV Reporter Grand Theft Auto: Vice City Stories Alison Maybury Grand Theft Auto IV Fairuza Balk Mercedes Cortez Grand Theft Auto: Vice City Joe Barbara Ray Boccino Grand Theft Auto IV Tim Barker Mark Fostenburg Grand Theft Auto Doris Belack Maureen McReary Grand Theft Auto IV Chris Bellard aka Young Maylay Carl Johnson Grand Theft Auto: San Andreas Rebecca Benhayon Gracie Ancelotti Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Jimmy Ray Bennett Floyd Hebert Grand Theft Auto Anouchka Benson Trish Camden Grand Theft Auto: Vice City Stories Robert Blumenfeld Sergio Boccino Grand Theft Auto: Liberty City Stories Leavis Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Big Boy Big Bear Grand Theft Auto: San Andreas Chính mình Grand Theft Auto Alex Bilu Omega Grand Theft Auto Mary Birdsong Michaela Carapadis Grand Theft Auto: Vice City Jenny Louise Crab Michael Bivins Phillip Michaels Grand Theft Auto: San Andreas Robert Bogue Troy Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Steve Haines Grand Theft Auto D. Baron "Buddy" Bolton Tom Grand Theft Auto Frank Bonsangue Phil Bell Grand Theft Auto IV Jeff Bottoms Jim Harrison Grand Theft Auto IV Troy Burger Michael Bower Eugene Reaper Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Frankie Boyle Chính mình Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Peter Bradbury Ned Burner Grand Theft Auto: Liberty City Stories John Braden Mayor O'Donovan Grand Theft Auto: Liberty City Stories Carl Bradshaw Chính mình Grand Theft Auto IV Bill Buell Bill Binder Grand Theft Auto Riette Burdick Mary-Beth Maybell Grand Theft Auto: San Andreas Bridget Burke Lacey Jonas Grand Theft Auto Jim Burke Marty Williams Grand Theft Auto: Vice City Stories Matt Burns John Cohn/Chip Grand Theft Auto Joshua Burrow Terry Thorpe Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Grand Theft Auto Danny Burstein Darius Fontaine Grand Theft Auto: San Andreas Gary Busey Phil Cassidy Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Laura Bykowski Jenna Forbes Grand Theft Auto: San Andreas Claire Byrnes Debra Grand Theft Auto Tony Call Gordon Peterson Grand Theft Auto IV Luther Campbell Chính mình Grand Theft Auto: Vice City Stories Jamie Canfield Adam First Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto: Vice City Stories Geoffrey Cantor Beverly Felton Grand Theft Auto Jay Capozello Jeff the Cop Grand Theft Auto IV Matt Carlson Elwood O'Neil Grand Theft Auto Will Cart Chip Peterson Grand Theft Auto Harrison Chad Bobby Bill Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Beth Chamberlin Abigail Mathers Grand Theft Auto Maria Chambers Toni Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Richard Chang Su Xi Mu Grand Theft Auto: San Andreas Harry Chase Jeff the Cuckold Grand Theft Auto IV Frank Chavez Fernando Martinez Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto: Vice City Stories Grand Theft Auto: Episodes from Liberty City Grand Theft Auto Tina Chen Shiny Wasabi Kitty Grand Theft Auto Don Cheto Chính mình Grand Theft Auto Tony Chilrodes Pepe Grand Theft Auto: Vice City China Chow Katie Zhan Grand Theft Auto: San Andreas Demosthenes Chrysan Simeon Yetarian Grand Theft Auto Grand Theft Auto Online George Cheung Wei Cheng Grand Theft Auto Robert Cihra Mike the Goon Grand Theft Auto: Vice City Chike Chukwuma Quota Grand Theft Auto Jerry Clicquot Clarence Little Grand Theft Auto IV George Clinton The Funktipus Grand Theft Auto: San Andreas DJ Clue Chính mình Grand Theft Auto: Liberty City Stories Codebreaker Chính mình Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Liberty City Stories Chris Henry Coffey Melvin Grand Theft Auto Bill Cohen Pretty Boy Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Jen Cohn Trixie Lane Grand Theft Auto: Vice City Stories Mademoiselle Molly Malmstein Grand Theft Auto Vanessa Brianna Colette Tonya Wiggins Grand Theft Auto Bootsy Collins Chính mình Grand Theft Auto Clifton Collins, Jr. Cesar Vialpando Grand Theft Auto: San Andreas Phil Collins Chính mình CĐ Grand Theft Auto: Vice City Stories Berto Colon Manny Escuela Grand Theft Auto IV Dominic Comperatore Al Di Napoli Grand Theft Auto Jack Condon Random Biker Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned David Conley Gordon Sargent Grand Theft Auto IV Craig Connor Willy Grand Theft Auto Jarlath Conroy Aiden O'Malley Grand Theft Auto IV Jim Conroy Soldier Grand Theft Auto IV Butch Grand Theft Auto David Cope Jay Norris Grand Theft Auto Colleen Corbett Mandy Grand Theft Auto: Vice City Gerry Cosgrove Morgan Merryweather Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Liberty City Stories Couzin Ed Chính mình Grand Theft Auto: Vice City Stories David Cross Zero Grand Theft Auto: San Andreas Jim Cummings Jeff Chartier Grand Theft Auto Joe Curnutte Lenny Avery Grand Theft Auto Dale O'Neil Chuck D. Forth Right MC Grand Theft Auto: San Andreas Daddy Yankee Chính mình Grand Theft Auto IV Robert Davi Colonel Juan Cortez Grand Theft Auto: Vice City Abbi Davis Jane Grand Theft Auto III Manish Dayal Mohammad Grand Theft Auto IV David Deblinger Martin Graves Grand Theft Auto: Vice City Stories Reyna de Courcy Marnie Allen Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto Cara Delevingne Herself Grand Theft Auto Joe DeRosa Rufus Bellows Grand Theft Auto George DiCenzo Old Man Kelly Grand Theft Auto: Vice City Andy Dick Maurice Grand Theft Auto: San Andreas Disco Lamon Grand Theft Auto IV Mario D'Leon Luis Fernando Lopez Grand Theft Auto IV Mary Donnelly Kate McReary Grand Theft Auto IV Carl Dowling Mr. Zoo Grand Theft Auto: Vice City Patrick Duggan Graham Grand Theft Auto Lowell "Sly" Dunbar Marshall Peters Grand Theft Auto: San Andreas Anouk Dutruit Maria Grand Theft Auto Danny Dyer Kent Paul Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Julius Dyson Oliver "Ladykiller" Biscuit Grand Theft Auto: Vice City Richard Easton Nigel Grand Theft Auto MC Eiht Ryder Grand Theft Auto: San Andreas Al Espinosa Miguel Grand Theft Auto III Charles Everett Mr. Davis Grand Theft Auto IV Duccio Faggella Massimo Torini Grand Theft Auto: Liberty City Stories Cynthia Farrell Catalina Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: San Andreas Frank Fava Thor Grand Theft Auto: Vice City George Feaster Derrick McReary Grand Theft Auto IV Rachel Feinstein Michele Makes Grand Theft Auto James Ferrante Mike Andrews Grand Theft Auto: San Andreas Richard Grand Theft Auto: Vice City Stories William Fichtner Ken Rosenberg Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Marc Fine Mickey the Bartender Grand Theft Auto IV Bill Fiore Darkel Grand Theft Auto III Nicholas Flair Catch Grand Theft Auto IV Larry Fleishman Mel Grand Theft Auto IV Jim Florentine Bobbie Ray Grand Theft Auto: Vice City Stories Lloyd Floyd DJ Hans Oberlander Grand Theft Auto: San Andreas Larry Joe Grand Theft Auto: Vice City Stories Gordon Moorehead Pablo Dick Grand Theft Auto IV Pat Floyd Tina Jane Grand Theft Auto: Vice City Stories Peter Fonda The Truth Grand Theft Auto: San Andreas Nick Fondulis Darren Grand Theft Auto Shawn Fonteno Franklin Clinton Grand Theft Auto Russell Foreman Percy Grand Theft Auto: Vice City Will Forte Martin Serious Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Erik Frandsen Andy Moon Grand Theft Auto Alison Fraser Gertrude Leneau Grand Theft Auto IV Robert Furano Anthony Corrado Grand Theft Auto IV Julio Chính mình Grand Theft Auto: San Andreas Mama Herself Grand Theft Auto Fiona Gallagher Maria Latore Grand Theft Auto: Liberty City Stories Julian Gamble Dave Norton Grand Theft Auto The Game CĐ Dup Grand Theft Auto: San Andreas Nadia Gan Zoey Grand Theft Auto Chris Gannon Brandan Roberts Grand Theft Auto IV L.J. Gansen John F. Hickory Grand Theft Auto: Vice City Ja'Tovia Gary Cherise Glover Grand Theft Auto IV Jane Gennaro Maude Hanson Grand Theft Auto: Vice City Ricky Gervais Chính mình Grand Theft Auto IV Marlon Geshlider Christopher Tibbuts Grand Theft Auto IV Jimmy Gestapo Chính mình Grand Theft Auto IV Michael Giese Fabien LaRouche Grand Theft Auto Rachel Gittler Poppy Mitchell Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Grand Theft Auto Traci Godfrey Ashley Butler Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Grand Theft Auto Kate Goehring Magenta Grand Theft Auto Gregg Goldston Mime Grand Theft Auto Abdel Gonzalez Andreas Sanchez Grand Theft Auto Lev Gorn Ivan Bytchkov Grand Theft Auto IV Craig Grant DeSean Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Craig Anthony Grant Clinton Grand Theft Auto Danielle Lee Greaves Barbara Schternvart Grand Theft Auto: San Andreas David Green Pastor Richards Grand Theft Auto: Vice City Benton Greene Daryl Johns Grand Theft Auto DJ Green Lantern Chính mình Grand Theft Auto IV Kate Greer Young Richard's mom Grand Theft Auto: Vice City Stories Ezequiel Guerisoli Antonio Grand Theft Auto Kelly Guest Michelle Montanius Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Matthew Gumley Zachary Tyler Grand Theft Auto IV Kim Gurney Misty Grand Theft Auto III The Guru 8-Ball Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Liberty City Stories Luis Guzmán Ricardo Diaz Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Bill Hader Wilson Taylor Sr. Grand Theft Auto IV Jonathan Hanst Hank Grand Theft Auto: Vice City Stories Tom Goldberg Grand Theft Auto IV Vaughn Harper Chính mình Grand Theft Auto IV Ricky Harris Johnny Parkinson Grand Theft Auto: San Andreas Youree Cleomili Harris Auntie Poulet Grand Theft Auto: Vice City Deborah Harry Doris Grand Theft Auto: Vice City Tom Hatton British Prince Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Roy Haynes Chính mình Grand Theft Auto IV Rebecca Henderson Karen Daniels Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto Martin Herring Dave the Mate Grand Theft Auto IV Scott Hill Johnny Klebitz Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Grand Theft Auto Jackie Hoffman Mary Phillips Grand Theft Auto: San Andreas Michael Hollick Niko Bellic Grand Theft Auto IV Matt Hopkins Karim Denz Grand Theft Auto Dennis Hopper Steve Scott Grand Theft Auto: Vice City JR Horne Announcer ("Moorehead Rides Again") Grand Theft Auto: Vice City Stories Grand Theft Auto Dan Houser Freddy Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Vice City Walter Houser Busker Grand Theft Auto IV Kim Howard Kiki Jenkins Grand Theft Auto IV Richard Hsu Tao Cheng Grand Theft Auto Janet Hubert Denise Clinton Grand Theft Auto Alfredo Huereca Martin Madrazo Grand Theft Auto Richard Hughes Peter Dreyfuss Grand Theft Auto Elena Harvey Hurst Mallorie Bardas Grand Theft Auto IV Ice-T Madd Dogg Grand Theft Auto: San Andreas Samuel L. Jackson Frank Tenpenny Grand Theft Auto: San Andreas Yasha Jackson Tanisha Jackson Grand Theft Auto Krystyna Jakubiak Anna Faustin Grand Theft Auto IV Milton James United Liberty Paper Contact Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto Sondra James Ma Cipriani Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Liberty City Stories Jenna Jameson Candy Suxxx Grand Theft Auto: Vice City Will Janowitz Donald Love Grand Theft Auto: Liberty City Stories Michael Jaye Eric House Grand Theft Auto IV Eugene Jeter Jr. Emmet Grand Theft Auto: San Andreas Christopher Jobin Mitch the cop Grand Theft Auto IV Bryan Scott Johnson Isiah Friedlander Grand Theft Auto Chike Johnson Jerome Grand Theft Auto Greg Johnson Jorge Grand Theft Auto IV Gregory Johnson Diaz Assistant Grand Theft Auto: Vice City Stories Javier Tony McTony Grand Theft Auto IV Willy Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Hassan Johnson Stretch Grand Theft Auto Slink Johnson Lamar Davis Grand Theft Auto Ryan Johnston Patrick McReary Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto Joel Jones Giovanni Casa Grand Theft Auto: Liberty City Stories François Chính mình Grand Theft Auto IV Ilyana Kadushin Beatrix Fontaine Grand Theft Auto IV John Keating Brother Adrian Grand Theft Auto Robert Kelly Luca Silvestri Grand Theft Auto IV Ed Kershen Theodore Bickford/Abner Fitch Grand Theft Auto Navid Khonsari Dwaine Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Kid Frost T-Bone Mendez Grand Theft Auto: San Andreas Patricia Kilgarriff Mrs. Thornhill Grand Theft Auto Jay Klaitz Lester Crest Grand Theft Auto Bobby Konders Chính mình Grand Theft Auto IV Konstantinos Konstantinos Smith Grand Theft Auto: Vice City Gregory Korostishevsky Bledar Morina Grand Theft Auto IV Garth Kravits Frankie Grand Theft Auto: Vice City Stories Jacek Krawczyk Killer Grand Theft Auto IV Sean Krishnan Hossan Ramzy Grand Theft Auto IV Femi Kuti Chính mình Grand Theft Auto IV Misha Kuznetsov Vladimir Glebov Grand Theft Auto IV Karl Lagerfeld Chính mình Grand Theft Auto IV Oni Faida Lampley Callista Brown Grand Theft Auto IV Camilo Lara Chính mình Grand Theft Auto James La Rosa Peach Grand Theft Auto Matthew Lawler Griff Grand Theft Auto Lazlow Chính mình Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto: Liberty City Stories Grand Theft Auto: Vice City Stories Grand Theft Auto IV CĐ Grand Theft Auto Annie Lederman Cheryl Fawkes Grand Theft Auto Vanessa Lemonides Natalia Zverovna Grand Theft Auto Jamie Sara Lewis Sapphire Grand Theft Auto Juliette Lewis Herself Grand Theft Auto IV Peter Linari Dardan Petrela Grand Theft Auto IV Ray Liotta Tommy Vercetti Grand Theft Auto: Vice City Lynne Lipton Gethsemanee Starhawk Moonmaker Grand Theft Auto: Vice City Bill Lobley Ernest Keigel/Time Ranger Grand Theft Auto: Vice City Stories The Commander Grand Theft Auto IV Alien President Zane Grand Theft Auto Robert Loggia Ray Machowski Grand Theft Auto III Kenny Loggins Chính mình Grand Theft Auto Jackie Long Grand Theft Auto Jackson Loo Triad Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Jonny Loquasto Cooper Grand Theft Auto Lord Sear Chính mình Grand Theft Auto III Joe Lo Truglio Vincenzo Cilli Grand Theft Auto: Liberty City Stories Flying Lotus Chính mình Grand Theft Auto Faizon Love Sweet Grand Theft Auto: San Andreas Christopher Lucas Alex Shrub CĐ Grand Theft Auto: Vice City Ned Luke Michael De Santa Grand Theft Auto Thomas Lyons Francis McReary Grand Theft Auto IV Ruslana Lyzhychko Herself Grand Theft Auto IV Kyle MacLachlan Donald Love Grand Theft Auto III Michael Madsen Toni Cipriani Grand Theft Auto III Matthew Maher Wade Hebert Grand Theft Auto Marcy Maguigan Ilyena Faustin Grand Theft Auto IV Lee Majors Mitch Baker Grand Theft Auto: Vice City Nick Mandelos Jeff Grand Theft Auto III Julie Marcus Paige Harris Grand Theft Auto Moti Margolin Dimitri Rascalov Grand Theft Auto IV Gregg Martin Crow Grand Theft Auto: Liberty City Stories Grand Theft Auto: Vice City Stories Peter Marx Billy Dexter Grand Theft Auto: San Andreas Elizabeth Mason Molly Schultz Grand Theft Auto Danny Mastrogiorgio Toni Cipriani Grand Theft Auto: Liberty City Stories Les J.N. Mau Kenji Kasen Grand Theft Auto III John Mauceri Claude Maginot Grand Theft Auto: Vice City Debi Mazar Maria Latore Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: San Andreas Danny McBride Duane Earl Grand Theft Auto Curtis L. McClarin Curtly Grand Theft Auto III Jodie Lynne McClintock Maude Eccles Grand Theft Auto David D. McDonald Smithy the Sidekick Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Lauren McFall Kerry McIntosh Grand Theft Auto Dawn McGee Mary-Ann Quinn Grand Theft Auto Ian Scott McGregor Cletus Ewing Grand Theft Auto Peter McKay Dick Grand Theft Auto: Vice City Kevin McKidd Jezz Torrent CĐ Grand Theft Auto: Vice City Chris McKinney Jim Fitzgerald Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Chris McLinden Baygor Grand Theft Auto Ed McMann Cliff Lane Grand Theft Auto: Liberty City Stories Michael Medeiros Darko Brevic Grand Theft Auto IV Fred Melamed Cris Formage Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto Shelley Miller Andee Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Liberty City Stories Tuck Milligan Barry Grand Theft Auto Justin T. Milner Patrick Grand Theft Auto: Vice City Dorian Missick Vic Vance Grand Theft Auto: Vice City Stories DJ Mister Cee Chính mình Grand Theft Auto IV Mr. Magic Chính mình Grand Theft Auto: Vice City Sean Modica Callum Crayshaw Grand Theft Auto: Vice City David Mogentale Ron Jakowski CĐ Grand Theft Auto Chuck Montgomery Nurse Bob Grand Theft Auto: Liberty City Stories John Montone Mike Whitley Grand Theft Auto IV Hana Moon Toshiko Kasen Grand Theft Auto: Liberty City Stories Sara Moon Christy MacIntyre Grand Theft Auto: San Andreas John Mooney Christian Feltz Grand Theft Auto Genia Morgan Tina Grand Theft Auto IV Keith Morris Chính mình Grand Theft Auto Ara Mot Galina Bulgarin Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Russ Mottla Michael Hunt Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Liberty City Stories Walter Mudu D-Ice Grand Theft Auto III King Courtney Christopher Murney Kenny Crane Grand Theft Auto: Vice City Stories Dwayne Thorn Charlie Murphy Jizzy CĐ. Grand Theft Auto: San Andreas Sergey Nagorny Josef Grand Theft Auto Phil Nee Cheng's translator Grand Theft Auto Olivia Negron Patricia Madrazo Grand Theft Auto Evan Neumann Norm Richards Grand Theft Auto Jeff Norris Sergei Grand Theft Auto IV Jim Norton Chuck Williams-Jones Grand Theft Auto IV Daniel O'Brien Jay Hamilton Grand Theft Auto IV Peter O'Connor Michael Keane Grand Theft Auto IV Steven Ogg Trevor Philips Grand Theft Auto Grand Theft Auto Online Pat Olsen Jonathan Freeloader Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Patrice Oneal Jeffron James Grand Theft Auto IV Ron Orbach Leon McAffrey Grand Theft Auto: Liberty City Stories Daniel Oreskes Bryan Forbes Grand Theft Auto: Vice City Stories Orfeh Millie Perkins Grand Theft Auto: San Andreas Ayana Osada Princess Robot Bubblegum Grand Theft Auto Lianna Pai Asuka Kasen Grand Theft Auto III John Palladino Tyler Dixon Grand Theft Auto Joe Pantoliano Luigi Goterelli Grand Theft Auto III Charlie Parker Elizabeta Torres Grand Theft Auto IV Bhavesh Patel Imran Shinowa Grand Theft Auto Tony Patellis Jimmy Pegorino Grand Theft Auto IV Pete Pavio Joseph DiLeo Grand Theft Auto IV Chris Penn Eddie Pulaski Grand Theft Auto: San Andreas Chelsea Peretti Lori Williams-Jones Grand Theft Auto IV Randy Pearlstein Jack Howitzer Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto: Vice City Stories Grand Theft Auto Blayne Perry Cougar Grand Theft Auto: Vice City Lee "Scratch" Perry Chính mình Grand Theft Auto Lindsay Perry Jane Grand Theft Auto Gilles Peterson Chính mình Grand Theft Auto Aaron Phillips Castro Lagano Grand Theft Auto Bijou Phillips Helena Wankstein Grand Theft Auto: San Andreas Chris Phillips El Burro Grand Theft Auto III Marty Chonks Hunter Platin Chico Grand Theft Auto III Curly Bob Phil the One-Armed Bandit Psycho Grand Theft Auto: Vice City Ran Fa Li Grand Theft Auto: San Andreas Lenny Platt Gianni Grand Theft Auto Thomas Poarch Casey Grand Theft Auto DJ Pooh Chính mình Grand Theft Auto Iggy Pop Chính mình Grand Theft Auto IV Stephen Pope Chính mình Grand Theft Auto Jay Potter Joe Grand Theft Auto Clifton Powell Big Smoke Grand Theft Auto: San Andreas Dennis Predovic Jim Fitzgerald Grand Theft Auto IV DJ Premier Chính mình Grand Theft Auto IV Postell Pringle Playboy Grand Theft Auto IV Richard Pruitt Kenny Petrovic Grand Theft Auto IV Jorge Pupo Gonzalez Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Alberto Robina Grand Theft Auto: Vice City Stories Bill Andrew Quinn Bryan Wilkinson Grand Theft Auto IV Hector Ramos Ortega Grand Theft Auto Coolie Ranx Little Jacob Grand Theft Auto IV Michael Rapaport Joey Leone Grand Theft Auto III Gordana Rashovich Jane Hopper Grand Theft Auto: Liberty City Stories Bill Ratner Announcer ("The Men's Room with Bas and Jeremy") Grand Theft Auto IV Announcer ("Live from Split Sides") Announcer ("Republican Space Rangers") Grand Theft Auto Shelagh Ratner Bryony Craddock Grand Theft Auto: Vice City Stories Carolina Ravassa Taliana Martinez Grand Theft Auto Justin Reinsilber Brian Meech Grand Theft Auto IV Carla Renata Lisa Lynn Grand Theft Auto IV Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Burt Reynolds Avery Carrington Grand Theft Auto: Vice City Kurt Rhoads The Incredible Kleinman Grand Theft Auto IV Devin Richards Dwayne Forge Grand Theft Auto IV Armando Riesco Pierre La Ponce Grand Theft Auto: Vice City Victor Vance Jimmy Hernandez Grand Theft Auto: San Andreas Darren Ritchie William Angio Grand Theft Auto Élan Luz Rivera Carmen Ortiz Grand Theft Auto IV Chelsey Rives Louise Grand Theft Auto: Vice City Stories Zack Robidas Zimbor Grand Theft Auto Karel Roden Mikhail Faustin Grand Theft Auto IV Wade Johnson Frank Rodriguez Hector Hernandez Grand Theft Auto: Vice City Stories Philip Credited as "Phillip Anthony Rodriguez" in Grand Theft Auto: Vice City manual. Maurice Chavez Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Joel Rooks Solomon Richards Grand Theft Auto Axl Rose Tommy Smith Grand Theft Auto: San Andreas Leigh Rose Pamela Drake Grand Theft Auto Barbara Rosenblatt Reni Wassulmaier Grand Theft Auto: Liberty City Stories Grand Theft Auto: Vice City Stories Modi Rosenfeld Isaac Roth Grand Theft Auto IV Graham Rowat Impotent Rage Grand Theft Auto Ed Rubeo Mori Green Grand Theft Auto IV Bas Rutten Chính mình Grand Theft Auto IV Shaun Ryder Maccer Grand Theft Auto: San Andreas Amy Sacco Larissa Slalom Grand Theft Auto IV Brian Sack Mike Riley Grand Theft Auto IV Noelle Sadler Bettina Grand Theft Auto: San Andreas Reza Salazar Gustavo Mota Grand Theft Auto Jay Santiago Manuel Grand Theft Auto Brad Schmidt Kyle Chavis Grand Theft Auto Ann Scobie Jo Grand Theft Auto Renaud Sebbane Barry Stark Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: Vice City Seeborn Real Badman Grand Theft Auto IV Bob Sevra Marvin Trill Grand Theft Auto: San Andreas Twin Shadow Chính mình Grand Theft Auto Robbie Shakespeare Johnny Lawton Grand Theft Auto: San Andreas Bryan Shany Hunter Grand Theft Auto Mike Shapiro Richard Goblin Grand Theft Auto: Liberty City Stories Rick Shapiro Mason Waylon Grand Theft Auto IV David Shaw Pathos Grand Theft Auto IV Kerry Shaw Jessica Grand Theft Auto IV Jodie Shawback Sage Grand Theft Auto: San Andreas David Shih Eddie Toh Grand Theft Auto Keenan Shimizu Kazuki Kasen Grand Theft Auto: Liberty City Stories Casey Siemaszko Johnny Sindacco Grand Theft Auto: San Andreas Adam Sietz Igor Pablovich Grand Theft Auto Boss Zelder Private Luke Brother Edmund Brother Fitzgerald Greg Siff Rocco Pelosi Grand Theft Auto Maureen Silliman Jan Brown Grand Theft Auto: Vice City Perry Silver Rickie Lukens Grand Theft Auto Peter Silvestro Jeremy Robard Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Heather Alicia Simms Denise Robinson Grand Theft Auto: San Andreas Greg Sims Cam Jones Grand Theft Auto: Vice City Gammy Singer Estelle Graham Grand Theft Auto IV Michal Sinnot Tracey De Santa Grand Theft Auto Tom Sizemore Sonny Forelli Grand Theft Auto: Vice City Ptolemy Slocum Steve Grand Theft Auto: Liberty City Stories Gabriel Sloyer Oscar Guzman Grand Theft Auto Jaime Lincoln Smith Karl Abolaji Grand Theft Auto Keith Randolph Smith Clay Simons Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Grand Theft Auto Shelton Smith Ricky Grand Theft Auto J.CĐ. Smoove Dr.Ray De Angelo Harris Grand Theft Auto Christine Sockol Jenny Acorn Grand Theft Auto IV Silva Solas Police Controller Grand Theft Auto: Vice City Felix Solis Jerry Martinez Grand Theft Auto: Vice City Stories PJ Sosko Gerald McReary Grand Theft Auto IV Samantha Soule Alexandra Chilton Grand Theft Auto IV Soulwax Themselves Grand Theft Auto Timothy Spall Barry Mickelthwaite Grand Theft Auto: Vice City Stories Jeff Steitzer The Chief Grand Theft Auto: Vice City Stories Pete Banbury Herman Stephens Horace Walsh Grand Theft Auto III Steve Stratton Lionel Makepeace Grand Theft Auto: Vice City Stories Henry Strozier John Hunter Grand Theft Auto IV Jason Sudeikis Richard Bastion Grand Theft Auto IV Trish Suhr Bobby June Grand Theft Auto Joy Suprano Anita Mendoza Grand Theft Auto Melody Sweets Miss Bluesy St. John Grand Theft Auto IV Danny Tamberelli Jimmy De Santa Grand Theft Auto Tom Tammi Bobby Jefferson Grand Theft Auto IV Chris Tardio Mickey Hamfists Grand Theft Auto: Liberty City Stories Jill Tasker Herself GTA II Daniel Tay Billy Blue Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Lawrence Taylor BJ Smith CĐ Grand Theft Auto: Vice City Sandor Telcsy Andrei Grand Theft Auto IV Philip Michael Thomas Lance Vance Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Andrew Totolos Hugh Welsh Grand Theft Auto Danny Trejo Umberto Robina Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: Vice City Stories Cathy Trien Mary-Jo Cassidy Grand Theft Auto: Vice City Stories Ruben Trujillo Diego Mendez Grand Theft Auto: Vice City Stories Sam Tsoutsouvas James Pedeaston Grand Theft Auto: San Andreas Bryan Tucker Ryan McFallon Grand Theft Auto IV Charles Tucker Hilary King Grand Theft Auto: Vice City Reed Tucker Chính mình Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto Melissa van der Schyff Samantha Muldoon Grand Theft Auto Vicki Van Tassel Amanda De Santa Grand Theft Auto Oliver Vaquer Boy Sanchez Grand Theft Auto: Liberty City Stories Yul Vasquez Armando Mendez Grand Theft Auto: Vice City Stories Victor Verhaeghe Eddie Low Grand Theft Auto IV Frank Vincent Salvatore Leone Grand Theft Auto III Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto: Liberty City Stories Tony von Halle Dom Beasley Grand Theft Auto Melinda Wade Forbes Waverly III Grand Theft Auto: Vice City Stories Jane Labrador Grand Theft Auto IV John Walker Lenny Grand Theft Auto IV Jonathan Walker Devin Weston Grand Theft Auto Douglas Powell Ward Gerald Grand Theft Auto Online Sharon Washington Lianne Forget Grand Theft Auto: San Andreas Rob Webb Malcolm Fitzherbert Grand Theft Auto IV Leyna Weber Amy Sheckenhausen Grand Theft Auto: Vice City J. Wells MC Clip Grand Theft Auto Fez Whatley Marcel LeMuir Grand Theft Auto IV Wil Wheaton Richard Burns Grand Theft Auto: San Andreas Grand Theft Auto: Liberty City Stories Grand Theft Auto: Vice City Stories Alien Grand Theft Auto IV Jesco White Chính mình CĐ Grand Theft Auto Brit Whittle Raymond Grand Theft Auto Katt Williams Chính mình Grand Theft Auto IV Matt Williams Dusty Cowpoke Grand Theft Auto IV Nathan Williams Chính mình Grand Theft Auto Greg Wilson Joseph Daniel O'Toole Grand Theft Auto: Liberty City Stories Nikola Wincenc Jesse Grand Theft Auto Jeremy Woodard Jimmy Boston Grand Theft Auto Ryan Woodle Chad Grand Theft Auto IV: The Lost and Damned Brad Snider Grand Theft Auto James Woods Mike Toreno Grand Theft Auto: San Andreas Michael-Leon Wooley Judge Grady Grand Theft Auto IV James Yaegashi Wu Zi Mu Grand Theft Auto: San Andreas Charlie Grand Theft Auto IV Rob Yang Triad Grand Theft Auto IV: The Ballad of Gay Tony Hao Grand Theft Auto Deborah Yates Sara Grand Theft Auto IV Yo-Yo Kendl Johnson Grand Theft Auto: San Andreas Gary Yudman Jimmy Silverman Grand Theft Auto: San Andreas Michael Yurchak Bill Grand Theft Auto: Liberty City Stories Stewart J. Zully Harvey Molina Grand Theft Auto Jason Zumwalt Roman Bellic Grand Theft Auto IV John Zurhellen Jethro Grand Theft Auto: Vice City Grand Theft Auto: San Andreas Jeremy St. Ives Grand Theft Auto IV ;Tài liệu chung (trong các bản hướng dẫn) ;Tài liệu chung (trên các trang mạng) ;Các trang nguồn Danh sách diễn viên lồng tiếng trong GTA IV trên trang IMDb. Danh sách diễn viên lồng tiếng trong GTA: SA trên trang IMDb. Danh sách diễn viên lồng tiếng trong GTA: Vice City trên trang IMDb. Danh sách diễn viên lồng tiếng trong Grand Theft Auto III trên trang IMDb. Danh sách diễn viên lồng tiếng trong GTA: VCS trên trang IMDb. Danh sách diễn viên lồng tiếng trong GTA: LCS trên trang IMDb. ;Các ghi chú
C
Grand Theft Auto Grand Theft Auto
Nguyễn Phúc Hồng Bảo (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 1854), còn hay gọi An Phong công (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Nguyễn. Dẫu là con trưởng nhưng ông không được truyền ngôi mà ngôi vị thuộc về người em cùng cha khác mẹ Hồng Nhậm, tức Nguyễn Dực Tông Tự Đức. Không chịu khuất phục việc Hoàng vị trao về tay Tự Đức, Hoàng trưởng tử Hồng Bảo sau hai lần mưu sự (1851 và 1854) để giành lại ngôi vị không thành, ông bị Tự Đức giam cầm và chết thảm trong ngục. Nguyễn Phúc Hồng Bảo sinh năm Ất Dậu (ngày 19 tháng năm 1825) Mẹ ông là Đinh Thị Hạnh (丁氏幸), người Gò Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định. Năm đó, Đinh thị được đưa vào cung năm 16 tuổi, chỉ hàng Lục chức thấp kém. Sau khi mất, Tự Đức mới truy phong làm Quý tần (貴嬪). Năm 1840, lúc 15 tuổi, Hoàng tử Hồng Bảo được ông nội là Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng phong làm An Phong đình hầu (安豐亭侯), là người con lớn được sắc phong sớm nhất của Thiệu Trị (khi đó vẫn còn là Hoàng tử). Sau khi Thiệu Trị lên ngôi, vào năm thứ trị vì, Hồng Bảo được phong làm An Phong công (安豐公). Theo lệ triều Nguyễn, ngoài tước Thân vương (亲王) và Quận vương (郡王) rất ít khi phong, chỉ dành cho Hoàng thân cực kì có công lao, còn thì các Hoàng tử sinh thời được phong cao nhất là tước Thân công (亲公), sau đến Quốc công (國公) và Quận công (郡公), việc Hoàng tử Hồng Bảo được phong Thân công cho thấy địa vị rất cao quý của ông. Theo lẽ thường, sau khi Thiệu Trị băng hà, Hoàng vị sẽ được truyền cho con trưởng là An Phong công Hồng Bảo. Vào năm 1842, Hồng Bảo còn được phép tháp tùng Thiệu Trị trong dịp tuần du ra Bắc Hà, để cùng hiểu rõ dân tình. Năm 1847, ít lâu trước khi qua đời, Thiệu Trị còn cho tổ chức lễ Đại khánh ngũ đại đồng đường, mừng việc Hoàng tôn Ưng Đạo, con trai của An phong công Hồng Bảo vừa mới chào đời. Trong dịp này, Thiệu Trị đã đích thân ẵm Hoàng tôn Ưng Đạo trình với Thuận Thiên Thái hoàng thái hậu. Tất cả những việc ấy, khiến Hồng Bảo rất tin tưởng mình sẽ là người được kế vị sau này. Ngày 27 tháng năm Đinh Mùi (tức ngày tháng 10 năm 1847), Thiệu Trị băng hà. Liền ngày ấy, các hoàng thân và các quan văn võ họp tại điện Cần Chánh để tuyên đọc di chiếu, theo đó Hoàng nhị tử là Phúc Tuy công Nguyễn Phúc Hồng Nhậm được lập lên ngôi, tức Tự Đức. Hồng Nhậm khóc lạy lãnh mạng. Di chiếu đọc chưa dứt, An Phong công Hồng Bảo phẫn uất thổ huyết hơn một đấu, nằm vật ngã giữa điện đình. Lúc làm lễ đăng quang, mấy người phải đỡ ông dậy, nghi lễ mới hoàn tất. Lý do bị phế truất, sử nhà Nguyễn chép lời trăng trối trước khi mất của Thiệu Trị nói với các đại thần là Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp: :"Trong các con ta, Hường Bảo (Hồng Bảo) tuy lớn, nhưng vì thứ xuất (con bà hầu sinh ra), mà lại ngu độn ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không đặng. Con thứ hai là Phước Tuy công (tức Hồng Nhậm) thông mẫn ham học giống in như ta, đáng nối ngôi làm vua. Hôm qua ta đã phê vào tờ Di chiếu để trong long đồng (ống chạm rồng). Các ngươi phải kính noi đó! Đừng trái mạng ta!" Dù vậy, Hồng Bảo không tin đây là vua cha mà do Trương Đăng Quế bày mưu, nên quyết chí báo thù người gây ra và tìm cách giành lại ngôi báu. Đại thần Trương Đăng Quế là thầy của Thiệu Trị và là người rất có thế lực trong triều. Tương truyền, Đăng Quế và Hồng Bảo có sự hiềm khích nhau từ trước. Trong thư đề ngày 15 tháng năm 1852, giáo sĩ GaLy viết: "Ông (Hồng Bảo) bị cướp ngôi, ông chẳng buồn vì ngôi vua về tay em ông còn hơn sang tay kẻ khác. Nhưng ông muốn có dịp moi gan móc mắt ông Quế…" Ngai vàng trong điện Thái Hòa (Huế). Trong thư ngày 26 tháng 11 năm 1848, Giám mục Pellerin lúc bấy giờ đang Huế, viết: :Theo tôi biết thì Hồng Bảo đã nhiều lần tìm cách lấy lại ngôi báu mà ông đáng được thừa kế, vì là con trưởng và ông đã muốn lôi cuốn những người Công giáo về phe ông bằng cách hứa hẹn với họ không những sự tự do mà còn cả ảnh hưởng của ông để biến vương quốc của ông thành (một quốc gia) Thiên chúa giáo. Tôi không biết những lời hứa hẹn ấy thành thực đến mức độ nào. Các con chiên nhiều lần đến hỏi kiến tôi về vấn đề ấy, tôi luôn luôn trả lời rằng chỉ nên tin tưởng Chúa Trời và Đức Mẹ và tôi cấm họ xen vào những việc chính trị... Ngoài ra, còn có hai giáo sĩ khác lúc bấy giờ cũng đang truyền giáo Huế, như Giám mục Retord, giáo sĩ Galy... đều ghi lại sự việc với nội dung tương tự trên. Thấy không thể trông cậy vào những người Công giáo, Hồng Bảo xoay qua hướng khác. L. Cadière kể: :Nhưng cuối tháng giêng năm 1851, trong dịp tết âm lịch, người ta bắt ông giữa lúc đang sửa soạn trốn sang Singapore cầu viện người Anh... Ông định tự tử, nhưng những người đầy tớ khuyên can, nên ông quyết định nhờ sự khoan dung của nhà vua. Ông mặc áo tang, xõa tóc, ẵm đứa con trưởng khoảng sáu, bảy tuổi, đi đến cung vua khóc lóc thảm thiết. Khi được vào yết kiến, ông thú nhận có định trốn ra nước ngoài, nhưng không phải để kêu gọi người ngoại quốc đến gây giặc giã mà chỉ vì nghèo khổ, bị bạn bè và kẻ hầu hạ khi dễ, xa lánh...nên ông chỉ muốn đi qua Pháp để được sống như một người dân thường. Không chắc nhà vua tin những lời ấy, nhưng cảm động vì thấy anh quỳ dưới chân mình để van xin. Nhà vua vỗ về...hứa sẽ lo cho ông được sung túc, nhận con ông làm con nuôi và còn cho ông một trăm nén bạc và một nén vàng.... Được tha, Hồng Bảo lại tìm cách lật đổ Tự Đức. Trong thư khác viết vào năm 1855 Giám mục Pellerin cho biết: :Một hôm Hồng Bảo họp những người đồng đảng lại để uống huyết thệ (uống máu ăn thề). Sau buổi lễ, một số người trong nhóm ra nước ngoài, có lẽ để tuyển thêm đồng chí. Một người trong bọn trở về nước bằng ngã Xiêm và Cao Miên, có đem theo một nhà sư vừa tuyển mộ được. Vì đối đãi với nhà sư không được chu đáo dọc đường, nên khi vừa về nước, nhà sư liền đi tố cáo với quan. :Quan bắt lúc đang ngủ, trói lại, bỏ vào cũi như một con thú dữ và giải về kinh đô. Bị tra tấn, khai tất cả... :Hoàng tử Hồng Bảo bị kết án lăng trì. Nhưng vua Tự Đức đã ân xá, đổi thành tù chung thân, giam trong một nhà ngục làm riêng cho ông... Thừa lúc một mình, ông dùng màn giường thắt cổ chết. Nhà vua cho chôn cất với một quan tài đơn sơ, không nghi lễ gì cả... Sách Quốc triều chính biên chép: :"An Phong công Hồng Bảo mưu nghịch rồi thắt cổ chết trong nhà giam... Con trai, con gái đều dự vào mưu phản nghịch ấy...Trước đó Hồng Bảo vì không được lập, lòng âm mưu lạ, lén thông đồng với người Tây bị phát giác, bắt được giải về kinh xét qua đúng như vậy. Hồng Bảo trong nhà giam tự tử, con cái đều cải qua họ Đinh là họ mẹ cả". Sách Quốc triều sử toát yếu chép: :Năm Giáp Dần (1854), tháng giêng…Hường Bảo mưu nghịch, tự tử (vì không được lập cho nên mưu nghịch. Khi có tội, triều đình đổi ra họ Đinh). Con trai, con gái Hường Bảo và người dự mưu là Tôn Thất Bật đều bị xóa tên trong sổ Tôn Thất. Căn cứ thông tin này, thì Hoàng tử Hồng Bảo chết vào tháng giêng năm Giáp Dần (1854), hưởng dương 29 tuổi. Năm Tự Đức thứ 19, Bính Dần (1866), ba anh em là Đoàn Hữu Trưng (còn gọi là Đoàn Trưng, con rể Tùng Thiện Vương Miên Thẩm), Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực cùng một số võ quan, binh sĩ và dân chúng đã nổi dậy, mưu lập con trưởng của An Phong công Hồng Bảo là Đinh Đạo (tức Ưng Đạo) lên làm Hoàng đế. Cuộc mưu phản này thất bại, cả gia đình Hồng Bảo gồm người là: Đinh Đạo (丁導), Đinh Tự (丁寺), Đinh Chuyên (丁傳), Đinh Tương (丁將), Thị Thụy (氏瑞; vợ Hồng Bảo) và hai đứa con Đinh Đạo (một trai, một gái) đều bị xử giảo (treo cổ). Sử liệu chép: "Đứa con trai của Đinh Đạo mới tuổi, bị thắt cổ đến lần mà vẫn chưa chết, khi bỏ vào quan tài còn khóc oa oa". Đến thời kì trị vì của Hoàng đế Thành Thái, Hoàng trưởng tử An Phong công Hồng Bảo mới được phục hồi danh dự, cải phong An Phong công như cũ, cho con trai thứ của Thái Thịnh quận vương Nguyễn Phúc Hồng Phó là Nguyễn Phúc Ưng Thực làm con thờ tự. Năm Thành Thái thứ 11 (1899), ban thụy là Cung Túc (恭肅). Sang thời Hoàng đế Khải Định, tấn thụy tôn làm An Phong quận vương (安豐郡王), tự thụy Đoan Trang (端莊). Về cái chết của Hồng Bảo, sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện cho biết ông đã chọn cách uống thuốc độc (tam ban triều điển). Trong sách Việt Nam sử lược chỉ ghi đơn giản là Hồng Bảo chết vì uống thuốc độc. Tuy nhiên, có một số tác giả khác lại cho rằng Hồng Bảo chết do thắt cổ. Nhưng, một nghi vấn được đặt ra: chính Hồng Bảo tự thắt cổ hay ai đó đã thắt cổ ông? Giáo sư Bửu Cầm cho đó là "một cái chết khả nghi. Người ta không tin là tội nhân tự tử mà là bị giết" Còn tác giả Nguyễn Quang thì quả quyết rằng chính Trương Đăng Quế đã ra lệnh giết, hoặc vua Tự Đức nghe lời của ông mà giết anh Đề cập đến vấn đề do Trương Đăng Quế chủ mưu, trong thư đề ngày 15 tháng năm 1852, giáo sĩ Galy viết: Trương Đăng Quế đã mưu mô thay bậc đổi ngôi để Hồng Bảo phải sống trong nghịch cảnh rồi làm liều đi đến chỗ thảm hại. Ông Quế đã đặt cạm bẫy cho Hồng Bảo rơi vào hầu có cớ thủ tiêu ông.... Rút lại vụ việc Hồng Bảo, trong một bài viết, nhà sử học Đỗ Bang cũng đã nêu ra mấy như sau: *Hồng Bảo đáng lẽ phải được lên ngôi, nhưng bị Trương Đăng Quế và một số cận thần đổi chiếu rồi bôi bác cho Hồng Bảo là con dòng thứ, hay chơi bời phóng đãng.... *Hồng Bảo vừa là học trò vừa là bạn của Tương An Quận vương Tương An và Tùng Thiện vương đều là chú ruột của vua Tự Đức, qua sự kiện này, cả hai cũng rã rời theo chiều phân cực trong nội bộ hoàng tộc. *Từ trong nội cung tung ra nhiều chuyện mỉa mai nhằm bôi nhọ Tự Đức: cho Tự Đức là con của Trương Đăng Quế. Vợ Quế đem con (tức Tự Đức) vào cung rồi đánh tráo con của Thiệu Trị hoặc Trương Đăng Quế tư thông với bà Từ Dụ mới sinh ra Tự Đức... Trong bài Minh oan Hồng Bảo và Đoàn Trưng (đã dẫn bên dưới), tác giả Nguyễn Quang viết: :Tương An quận vương là một thi hào, là chú và là thầy học của Hồng Bảo, Hồng Nhậm. Sở dĩ ngài Tương An thương mến Hồng Bảo hơn là vì ông này học giỏi. Nói một cách khác, thầy học không bao giờ lại mến thương người học trò ngu độn và ham chơi. Giáo sư Nguyễn Khuê giải thích thêm: :Thật vậy, Tương An là người tài đức, rất thận trọng trong việc giao du. Nếu quả An Phong Công (Hồng Bảo) đúng như nhận xét của vua Thiệu Trị thì không thể nào là tri kỷ của vương được. Những bài thơ của Tương An ghi lại những kỷ niệm giữa vương với An Phong Công vô tình trở thành những bằng cớ cho phép chúng ta hoài nghi về tư cách của Hồng Bảo đã được chép trong chính sử... Lại nữa, trách Hồng Bảo ham vui chơi có lẽ không đúng, duy có một điều là Hồng Bảo giao du rộng rãi. Ông thân thiện với các nhà buôn ngoại quốc. Vì cớ ấy, một nhóm triều thần bài ngoại sợ ông về sau lên ngôi lại nhiễm văn minh Tây phương, nên lấy làm hiềm nghi và không muốn cho ông kế vị... Và giáo sư cũng đã dẫn chứng về tài văn, tài võ của Hồng Bảo như sau: :Xuân nhật thi nhất thủ. :Dịch: :(Ngày xuân đến thăm... được một bài thơ) :Chầu về chẳng kể bóng chiều tàn, :Thả bộ đến nhà để hỏi han. :Nhớ buổi Bắc tuần theo hộ giá, :Đêm khuya chong đuốc luận thơ văn. :Hoàng nhị tử...thư trai nguyên tịch hội ẩm :Dịch: :(Rằm tháng giêng hội ẩm tại phòng sách của hoàng tử thứ hai ). :...Trăng thanh, tiết đẹp năm ba bận, :Rượu đượm, thơ xuân một ít bài :Tuổi trẻ tài năng lòng những mến, :Cung thần một phát hẳn không sai.... Trong sách Kể chuyện các Vua Nguyễn, Tôn Thất Bình kể: :Dưới thời Tự Đức, trong triều xảy ra việc Hồng Bảo mưu toan cướp ngôi, sau đó chết một cách bí ẩn trong ngục. Người đương thời cho là vua Tự Đức mưu giết anh để trừ hậu họa. Sau đó, nhân một buổi ngự thiện, Tự Đức dùng cơm vô cắn phải lưỡi, liền lấy đầu đề "răng cắn lưỡi" ra cho đình thần làm thơ, Nguyễn Hàm Ninh dâng một bài tứ tuyệt: ::Sinh ngã chi sơ, nhỉ vị sinh ::Nhỉ sinh chi hậu, ngã vi huynh ::Nhất đường cọng hưởng trân cam vị ::Hà nhẫn tương thương cốt nhục tình. ::Dịch thơ: ::Ta ra đời trước, chú chưa sinh ::Chú phận làm em, ta phận anh ::Ngọt bùi sao chẳng cùng san sẻ ::Mà nỡ đau thương cốt nhục tình? Tự Đức xem thơ, thưởng mỗi câu một lạng vàng vì lời thơ hay, nhưng lại phạt một câu một roi vì thơ sâu sắc. Nhà vua hiểu Nguyễn Hàm Ninh dùng bài thơ này để ám chỉ việc mình ám hại Hồng Bảo. Năm Tác Phẩm Diễn Viên Nhân Vật' 2020 《Phượng khấu》 Trịnh Tú Trung Nguyễn Phước Hồng Bảo *Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu. Nhà xuất bản Văn Học, 2002. *Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968. *Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 5, tập thượng). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1962. *Nguyễn Khuê, Tâm trạng Tương An quận vương. Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1974, *Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992. Ông vua thi sĩ và bi kịch thứ nhất sau hai chữ "Khiêm lăng"
Nguyễn Phúc Hồng Bảo
Người Huế, Quân nổi dậy Việt Nam, Hoàng tử Thiệu Trị, Vương tước nhà Nguyễn
Huyện Krasnodon (, chuyển tự: raion'') là một huyện của tỉnh Luhansk thuộc Ukraina. Huyện Krasnodon có diện tích 1386 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày tháng 12 năm 2001 là 32846 người với mật độ 24 người/km2. Trung tâm huyện nằm Krasnodon.
Huyện Krasnodon
Huyện của Ukraina
Khách sạn Lutetia là một khách sạn sang trọng nằm quận thành phố Paris. Khách sạn này chiếm số từ số 43 đến số 47 của đại lộ Raspail, tại điểm giao của Raspail và phố Babylone, trung tâm khu Lutetia được xem như khách sạn đặc biệt sang duy nhất tả ngạn sông Seine tại Paris. Được xây dựng vào năm 1910 từ sáng kiến của bà Boucicaut, chủ siêu thị đồ cao cấp Le Bon Marché, "để những khách hàng quan trọng của các tỉnh trọ khi họ tới mua sắm Paris". Lutetia là khách sạn theo phong cách Art Deco đầu tiên của Paris. Nằm trung tâm Saint-Germain des Prés, Lutetia là bằng chứng của sự cách tân nghệ thuật thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến. Nhiều họa sĩ và nhà văn đã trọ khách sạn này, như Picasso, Matisse, André Gide, Saint-Exupéry, Joséphine Baker, Joséphine Baker... Nhà văn Albert Cohen cũng đã việt tác phẩm Belle du Seigneur đây. Ca sĩ, nhà văn Alexandra David-Néel cũng sống Lutetia sau chuyến du hành Phương Đông. Charles de Gaulle đã trọ tại Lutetia trong dịp tân hôn của mình. Ngày nay, nhiều nghệ sĩ nổi tiếng thế giới tiếp tục chọn Lutetia để nghỉ trọ. Ngày 14 tháng năm 1940, quân đội Đức tiến vào Paris. Ngày hôm sau, khách sạn Lutetia bị trưng dụng bởi Abwehr, cơ quan tình báo và phản gián. Và nơi đây trở thành một trung tâm dành cho tra tấn, hỏi cung. Sau khi nước Pháp được giải phóng, Lutetia lại một lần nữa bị trưng dụng bởi tướng Charles de Gaulle dùng để đón tiếp những người trở về từ các trại tập trung. Từ 1955, khách sạn Lutetia thuộc quyền sở hữu của gia đình Taittinger. Năm 1973, Lutetia cùng các khách sạn Crillon, khách sạn Louvre hợp thành hệ thống khách sạn Concorde. Ngày nay, hệ thống này bao gồm 83 khách sạn thành viên trên khắp thế giới. Lutetia có 230 phòng, trong đó có 60 phòng hạng sang. Giá năm 2006 là 400 tới 550 Euro một đêm cho phòng thường và 750 tới 2000 Euro cho phòng hạng sang. Khách sạn có một nhà hàng ẩm thực là "Paris" nổi tiếng với các món hải sản. Một bar "Lutetia" với các tối nhạc jazz và piano. Hơn nữa, các khách hàng còn được hưởng 12 phòng khách đón tiếp của khách sạn. Concorde Hotels Resorts Lutetia
Khách sạn Lutetia
Quận 6, Paris
là một bộ phim hài của Pháp năm 2016 của đạo diễn Fred Cavayé. Phim có sự tham gia của các diễn viên Dany Boon, Laurence Arné, Noémie Schmidt và Patrick Ridremont. François Gautier là một người đàn ông rất keo kiệt. Tiết kiệm là điều khiến ông cảm thấy vui vẻ, vì vậy mỗi lần trả tiền cho một thứ gì, ông đều có thể đổ mồ hôi. Cuộc sống của ông được vận hành với mục đích duy nhất là không bao giờ chi tiêu bất cứ thứ gì. Và một ngày nọ mọi thứ đều đảo lộn: François rơi vào lưới tình và đồng thời phát hiện ra mình có một người con gái mà chưa từng biết đến sự tồn tại của cô. Bị buộc phải nói dối để che giấu khuyết điểm khủng khiếp của mình, đây sẽ là khởi đầu cho những rắc rối đối với François. Dany Boon trong vai François Gautier Laurence Arné trong vai Valérie Noémie Schmidt trong vai Laura Patrick Ridremont trong vai Cédric Christophe Canard trong vai Gilles Christophe Favre trong vai Demeester Karina Marimon trong vai Carole Sébastien Chabal với tư cách là chính mình Radin! được phát hành tại Pháp vào ngày 28 tháng năm 2016. Bộ phim đứng đầu phòng vé trong tuần mở màn với 1.002.709 lượt mua vé. Tờ The Hollywood Reporter nhận xét rằng bộ phim mang lại "một trận cười đầy sảng khoái" nhưng cuối cùng phê bình phim "hết sự hài hước giữa chừng".
null
Phim hài Pháp, Phim năm 2016
Megaelosia goeldii là một loài ếch thuộc họ Đây là loài đặc hữu của Brasil. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và sông ngòi. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Potsch de S. Telles, A.M. 2004. Megaelosia goeldii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng năm 2007.
''Megaelosia goeldii
Megaelosia, Động vật đặc hữu Brasil, Động vật lưỡng cư Brasil
Ciudad Real là một tỉnh miền trung Tây Ban Nha, phía tây nam cộng đồng tự trị Castile-La Mancha. Tỉnh này giáp các tỉnh Cuenca, Albacete, Jaén, Córdoba, Badajoz, và Toledo. Thủ phủ là Ciudad Real. Xem danh sách các đô thị tại Ciudad Real. Vườn quốc gia Tablas de Daimiel nằm tỉnh Ciudad Real. Ngoài ra tỉnh này cũng có một phần vườn quốc gia Cabañeros chung với tỉnh Toledo.
Ciudad Real
Oenone (định danh hành tinh vi hình: 215 Oenone) là một tiểu hành tinh điển hình vành đai chính. Ngày tháng năm 1880, nhà thiên văn học người Nga Viktor K. Knorre phát hiện tiểu hành tinh Oenone khi ông thực hiện quan sát Berlin và đặt tên nó theo tên Oenone, một nữ thần trong thần thoại Hy Lạp. Đây là tiểu hành tinh thứ hai trong số bốn tiểu hành tinh do ông phát hiện. Danh sách tiểu hành tinh: 1–1000 The Asteroid Orbital Elements Database Minor Planet Discovery Circumstances Oenone 18800407 Oenone
Oenone
Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền Phong 2000 là cuộc thi hoa hậu toàn quốc lần thứ do báo Tiền Phong tổ chức. Đây là lần tổ chức cuối cùng cuộc thi mang tên "Hoa hậu Toàn quốc". Vòng chung kết được tổ chức tại nhà thi đấu Phan Đình Phùng, Thành phố Hồ Chí Minh trong đêm 24, 25 và 26 tháng 11 năm 2000. Ngôi vị cao nhất đã thuộc về người đẹp chủ nhà Phan Thu Ngân. Vòng chung khảo khu vực miền bắc được tổ chức vào đêm 20, 21 và 22 tháng năm 2000 tại cung văn hóa hữu nghị Việt Xô, Hà Nội. Hội thi đã quy tụ 44 gương mặt đã lọt qua vòng sơ khảo trước đó tại các tỉnh thành từ Quảng Trị trở ra. Kết quả như sau: *Hoa khôi: Lê Thanh Nga (19 tuổi) sinh viên trường đại học sư phạm Thái Nguyên. *Á khôi 1: Nguyễn Kim Phượng (16 tuổi) học sinh trường PTDL Thăng Long, Hải Phòng. *Á khôi 2: Phạm Thị Vân Anh (16 tuổi) học sinh trường PTTH Hồng Quang, Hải Dương. Top 5: ** Đặng Hương Giang (Hà Nội) ** Đinh Nhung (Quảng Ngãi) *Top 16: **Hoàng Nhật Mai (Hải Phòng) **Nguyễn Thị Huyền Chi (Hải Phòng) **Vũ Thị Thanh Nga (Hải Phòng) **Nguyễn Thị Ngọc Oanh (Hải Phòng) **Nguyễn Thị Hồng Duyên (Hải Dương) Hoa khôi Hải Dương 2000 **Nguyễn Mỹ Anh (Hải Phòng) **Trịnh Thị Hoa (Hải Phòng) **Nguyễn Tuyết Nga (Hà Nội) **Trịnh Thị Phương Nhung (Hải Phòng) **Ngô Hoàng Yến (Hải Phòng) **Trần Thị Phượng (Thanh Hóa) Vòng chung khảo phía Nam được tổ chức vào đêm 8, và 10 tháng năm 2000 tại Nhà hát Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Có 57 thí sinh được tuyển chọn ra từ hơn 1000 hồ sơ đăng ký tại các tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở vào Kết quả được công bố trong đêm chung khảo: *Hoa khôi: Nguyễn Ngân Hà (16 tuổi) học sinh trường PTTH Phú Nhuận, (Thành phố Hồ Chí Minh) *Á khôi 1: Phạm Thiên Trang (19 tuổi) sinh viên đại học ngoại ngữ tin học, (Thành phố Hồ Chí Minh) *Á khôi 2: Phan Thu Ngân (20 tuổi) sinh viên khoa kinh tế thương mại, đại học Văn Lang, (Thành phố Hồ Chí Minh) Top 5: ** Nguyễn Tăng Ngọc Châu (Thành phố Hồ Chí Minh) ** Ngô Thị Thanh Mai (Thành phố Hồ Chí Minh *Các thí sinh lọt vào vòng chung kết toàn quốc: **Đoàn Thị Thanh Trúc (Thành phố Hồ Chí Minh) **H'nep Kbuor (dân tộc Êđê, Đắk Lắk) **Trần Thị Ngọc Linh (Thành phố Hồ Chí Minh) **Dương Cẩm Lynh (Đồng Nai) **Phạm Thị Tuyết Lan (Thành phố Hồ Chí Minh) **Lê Thị Kiều Diễm (Tiền Giang) **Nguyễn Trúc Mai (Bến Tre) hoa khôi người đẹp xứ Dừa 2000 **Nguyễn Thị Kim Thanh (Bến Tre) **Lê Hoàng Ngân (Đắk Lắk) **Nguyễn Tăng Ngọc Châu (Thành phố Hồ Chí Minh) **Phạm Thị Thúy Nga (Tiền Giang) **Trần Vân Anh (Cần Thơ) **Du Tố Khanh (Cần Thơ) **Bùi Việt Hà (Thành phố Hồ Chí Minh) **Hoàng Thị Lan Chi (Thành phố Hồ Chí Minh) **Trần Thị Kim Hồng Lam (Tiền Giang) hoa khôi người đẹp sông Tiền 2000 **Ngô Thanh Mai (Thành phố Hồ Chí Minh) **Hà Thị Ngọc Vân (Thành phố Hồ Chí Minh) **Võ Thị Kim Loan (Cần Thơ) **Trương Thị Phương Thùy (Thành phố Hồ Chí Minh) **Nguyễn Cẩm Thu (Đồng Tháp) **Nguyễn Thị Anh Thư (Thành phố Hồ Chí Minh) Vòng chung kết toàn quốc được tổ chức trong đêm 24, 25 và 26 tháng 11 tại nhà thi đấu Phan Đình Phùng, Thành phố Hồ Chí Minh. Có 40 thí sinh được tuyển chọn kỹ càng từ vòng chung khảo khu vực Bắc và Nam trước đó tham gia tranh tài. Để đến được với vòng chung kết, tất cả đã phải trải qua các vòng sơ khảo gay gắt trước đó tại các cuộc thi người đẹp cấp tỉnh hoặc cấp khu vực như người đẹp Sông Tiền, người đẹp Hải Dương, người đẹp Hải Phòng, người đẹp xứ Dừa, người đẹp Tây Nguyên... Đêm chung kết 26 tháng 11 có sự góp mặt của các ca sĩ nổi tiếng bấy giờ tham dự góp vui cho chương trình như Hồng Nhung, Phương Thanh, Lam Trường, Quang Linh, Thu Phương, Cẩm Vân, tam ca Ba con mèo, MTV, 1088... Dẫn dắt chương trình là MC Thanh Bạch và Thu Hương (VTV3). *Nhà thơ Dương Kỳ Anh tổng biên tập báo Tiền Phong, trưởng ban tổ chức, trưởng ban giám khảo *Nghệ sĩ Nhân dân Trà Giang *Nhà báo Nguyễn Công Khế tổng biên tập báo Thanh Niên *Phó giáo sư, nhà giáo ưu tú Hoàng Tố Hùng *Nghệ sĩ ưu tú, biên đạo múa Vũ Thị Minh Nguyệt *Đại diện nhà tài trợ Ponds Đinh Thị Thu Hà Sau vòng thi bắt buộc là áo dài, áo tắm và trang phục dạ hội, 10 thí sinh có điểm số cao nhất đi tiếp vào vòng ứng xử 1. Tiếp đó, thí sinh xuất sắc nhất sẽ cùng nhau thi tài vòng ứng xử 2, trả lời cùng câu hỏi để chọn ra ngôi vị hoa hậu. Cuối cùng, với sự vượt trội qua vòng thi ứng xử, người đẹp chủ nhà Phan Thu Ngân đã xuất sắc bước lên bục cao nhất để nhận vương miện và vương trượng từ người tiền nhiệm hoa hậu Nguyễn Thị Ngọc Khánh. *Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền Phong 2000: Phan Thu Ngân (20 tuổi, cao 1m69, nặng 49 kg, số đo vòng 79-61-92) sinh viên đại học Văn Lang, Thành phố Hồ Chí Minh *Á hậu 1: Lê Thanh Nga (19 tuổi, cao 1m67, nặng 50 kg,số đo vòng 85-62-90) sinh viên đại học sư phạm Thái Nguyên *Á hậu 2: Nguyễn Ngọc Oanh (20 tuổi, cao 1m65, nặng 47 kg,số đo vòng 84-59-86) sinh viên đại học sư phạm Hải Phòng = *Nguyễn Ngân Hà (16 tuổi -1m70) học sinh, Thành phố Hồ Chí Minh *Phong cách trình diễn hay nhất: Bùi Việt Hà (19 tuổi -1m66) sinh viên, Thành phố Hồ Chí Minh *Người có hình thể đẹp nhất: Đặng Hương Giang (16 tuổi 1m65) học sinh, Hà Nội *Người có mái tóc đẹp nhất: Du Tố Khanh (17 tuổi 1m68) học sinh, Cần Thơ *Người mặc áo dài đẹp nhất: Nguyễn Tăng Ngọc Châu (21 tuổi 1m65) sinh viên, Thành phố Hồ Chí Minh *Người có trang phục tự chọn đẹp nhất: Đinh Nhung (20 tuổi 1m64) sinh viên trường cao đẳng nghệ thuật quân đội, Quảng Ngãi *Người có gương mặt khả ái nhất: Hoàng Nhật Mai (18 tuổi 1m63) nhân viên VASC, Hà Nội *Phạm Thiên Trang 1981 1m66 (Thành phố Hồ Chí Minh) *Nguyễn Thị Kim Phượng 1984 1m68 (Hải Phòng) *Phạm Thị Vân Anh 1984 1m69 (Hải Dương) *Nguyễn Thị Huyền Chi 1981 1m67 (Hải Phòng) *Ngô Hoàng Yến 1981 1m65 (Hải Phòng) *Trần Thị Phượng 1984 1m63 (Thanh Hoá) *H'Nep Kbour 1982 1m64 (Đak Lak) *Trần Thị Ngọc Linh 1984 1m65 (Thành phố Hồ Chí Minh) *Dương Cẩm Lynh 1982 1m62 (Đồng Nai) *Lê Thị Kiều Diễm 1984 1m65 (Tiền Giang) *Trần Thị Kim Hồng Lam 1983 1m69 (Tiền Giang) *Nguyễn Thị Anh Thư 1982 1m69 (Thành phố Hồ Chí Minh) *Đây là lần thứ liên tiếp, người đẹp đến từ thành phố Hồ Chí Minh đăng quang ngôi vị cao nhất cuộc thi hoa hậu do báo tiền phong tổ chức. *Có tới phân nửa trong tổng số 16 thí sinh khu vực phía Bắc lọt vào vòng chung kết toàn quốc đến từ Hải Phòng. Tương tự, trong 24 người đẹp miền Nam có mặt tại vòng chung kết toàn quốc, thành phố Hồ Chí Minh đóng góp 13 gương mặt. *Cả ba ngôi vị cao nhất trong hội thi người đẹp các tỉnh phía Nam đều đang sinh hoạt tại câu lạc bộ người mẫu Hoa học đường, nhà văn hóa Thanh niên thành phố Hồ Chí Minh. Câu lạc bộ nói trên cũng có tới gương mặt lọt vào vòng chung kết toàn quốc và người lọt vào top 10 người đẹp nhất, trong đó có một người lên ngôi hoa hậu. *Hoa khôi các tỉnh phía Nam Nguyễn Ngân Hà chỉ lọt vào vòng ứng xử 10 người rồi dừng lại, trong khi khôi các tỉnh phía Nam Phan Thu Ngân khá xuất thần trong cả hai vòng thi ứng xử và cuối cùng được trao vương miện hoa hậu. *Á hậu Nguyễn Thị Ngọc Oanh là khôi Người đẹp Hải PHòng 2000, năm 1999 cô lọt vào vòng chung kết Hoa hậu Việt Nam. *Hoàng Nhật Mai là Hoa hậu Ảnh năm 1996, Hoa hậu Biển Việt Nam năm 1999. *Nguyễn Tăng Ngọc Châu từng vào Top 10 Hoa hậu PNVN qua ảnh 2000. *Du Tố Khanh từng vào Top 12 Hoa hậu BIển Việt Nam 1999. *Đinh Nhung từng vào Top 10 đoạt giải Gương mặt đẹp nhất cuộc thi Tìm kiếm người đẹp thời trang Việt Nam năm 1999. *Bùi Việt Hà từng đoạt giải Gương mặt Ăn ảnh và vào top 10 Hoa hậu PNVN qua ảnh 2000. *Phạm Thiên Trang là Hoa hậu Việt Nam tại Mỹ năm 2005. *Nguyễn Thị Kim Phượng đoạt giải Nụ cười đẹp nhất cuộc thi Người đẹp Hải Phòng 2000. *Phạm Thị Vân Anh là khôi Người đẹp Hải Dương 2000, đoạt giải Trang phục dạ hội đẹp nhất và vào top 10 Hoa hậu PNVN qua ảnh 2003. *Nguyễn Thị Anh Thư đoạt giả Miss Civic, Thí sinh được yêu thích nhất, vào top 10 Hoa hậu PNVN qua ảnh 2002. Là Hoa khôi Hoa Học Đường 1998. *H'Nep Kbour là khôi Người đẹp tỉnh Đak Lak 2000. *Nguyễn Thị Huyền Chi là Hoa khôi Hải Phòng 2000, vào vòng chung kết Hoa hậu Việt Nam 1999. *Trần Thị Kim Hồng Lam là Hoa khôi sông Tiền 2000, năm 2002 cô cũng vào vòng chung kết Hoa hậu Việt Nam. *Hoa hậu Phan Thu Ngân được đề cử đại diện Việt Nam tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2001 nhưng cô đã từ chối. *Hoa khôi các tỉnh phía Nam Nguyễn Ngân Hà đã đại diện Việt Nam tại cuộc thi Hoa hậu Trái Đất 2003 và đoạt giải thưởng phụ Mái tóc đẹp nhất (Best Hair). *Đây là lần cuối cùng cuộc thi có tên gọi Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền phong. Bắt đầu từ năm 2002, cuộc thi có tên gọi mới là Hoa hậu Việt Nam. Cuộc thi Tên Danh hiệu Thứ hạng Giải thưởng đặc biệt Miss Tourism International 2002 Nguyễn Ngọc Oanh hậu Top 10 Không Miss Earth 2003 Nguyễn Ngân Hà Top 10 Không đạt giải Best Hair Miss Tourism Queen International 2004 Top 10 Không Mrs Globe 2014 1st Runner-up Goodwill Ambassador
Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền Phong 2000
Hoa hậu Việt Nam, Việt Nam năm 2000
là một chi bướm đêm thuộc phân họ Tortricinae của họ Tortricidae. *Procrica agrapha Diakonoff, 1983 *Procrica camerunica Razowski, 2002 *Procrica diarda Diakonoff, 1983 *Procrica imitans (Diakonoff, 1947) *Procrica intrepida (Meyrick, 1912) *Procrica ochrata Razowski, 2002 *Procrica ophiograpta (Meyrick, 1932) *Procrica parva Razowski, 2002 *Procrica sanidota (Meyrick, 1912) *Procrica semilutea Diakonoff, 1960 *Danh sách các chi của Tortricidae tortricidae.com
null
Archipini
2250 Stalingrad (1972 HN) là một tiểu hành tinh vành đai chính được T. Smirnova phát hiện vào ngày 18 tháng 4, năm 1972 tại Đài vật lý thiên văn Crimean. Tiểu hành tinh này được đặt theo tên của thành phố Stalingrad, bây giờ thành phố này có tên là Volgograd. JPL Small-Body Database Browser ngày 2250 Stalingrad
2250 Stalingrad
Được phát hiện bởi Tamara Mikhaylovna Smirnova
Cá nhám đầu xẻng hay cá nhám búa đầu nhỏ, cá mập đầu xẻng, tên khoa học Sphyrna tiburo, là thành viên của chi Cá nhám búa (Sphyrna) thuộc họ Cá nhám búa. Tiếng Hy Lạp Sphyrna dịch ra là búa, đề cập đến hình dạng đầu của loài cá mập này tiburo là Tiếng Taíno chỉ cá mập. Trung bình, cá nhám đầu xẻng có kích thước dài khoảng 3–5 ft (0,91-1,5 m), là một trong những con cá nhám búa nhỏ nhất. Đây là loài cá mập duy nhất có chế độ ăn tạp, chúng còn được ghi nhận là ăn cả rong biển. Database entry includes justification for why this species is of least concern
Cá nhám đầu xẻng
Động vật được mô tả năm 1758, Cá Đại Tây Dương
Xymene pumilus là một loài ốc biển săn mồi, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Muricidae, họ ốc gai. Powell B, New Zealand Mollusca, William Collins Publishers Ltd, Auckland, New Zealand 1979 ISBN 0-00-216906-1
''Xymene pumilus
Động vật chân bụng New Zealand, Xymene
là một xã tỉnh Somme, vùng Pháp. Thị trấn này tọa lạc tại giao lộ của các đường D23 và D31, 17 dặm Anh về phía bắc của Amiens Biến động dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 1242 1265 1194 1139 1147 1176 Số liệu điều tra dân số từ năm 1962, dân số không tính hai lần Xã của tỉnh Somme (Tất cả đều bằng tiếng Pháp) Beauquesne trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Beauquesne sur le site de l'Insee Beauquesne sur le site du Quid Localisation de Beauquesne sur une carte de France et communes limitrophes Plan de Beauquesne sur Mapquest Beauquesne sur le site de la Cộng đồng các xã Doullennais
null
Xã của Somme
Mecyna lutealis là một loài bướm đêm thuộc họ Crambidae. Nó được tìm thấy phần lớn châu Âu, bao gồm Tây Ban Nha, Pháp, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ, Áo, Ý, România, Bulgaria, Macedonia, Albania và Hy Lạp. European distribution
''Mecyna lutealis
Mecyna, Động vật được mô tả năm 1833, Côn trùng châu Âu
Pectis filipes là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Harv. A.Gray mô tả khoa học đầu tiên năm 1849.
''Pectis filipes
Pectis
Tominanga aurea là một loài cá thuộc họ Atherinidae. Nó là loài đặc hữu của Indonesia. World Conservation Monitoring Centre 1996. Tominanga aurea. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày tháng năm 2007.
''Tominanga aurea
Cá Indonesia, Cá nước ngọt Indonesia
Đại hội Thể thao Đông Nam lần thứ 12 tổ chức tại Singapore từ ngày 28 tháng tháng năm 1983. Đây là lần thứ hai Singapore đăng cai kỳ SEA Games này, lần trước là vào năm 1973. Campuchia quay trở lại kỳ đại hội này với tên gọi Cộng hòa Nhân dân Campuchia. 1. 64 67 54 185 2. 49 48 53 150 3. 49 40 38 127 4. 38 38 58 134 5. 18 15 17 50 6. 16 25 40 81 7. 8. Cộng hòa Nhân dân Campuchia Tổng cộng 234 233 265 732 Percy Seneviratne (1993) Golden Moments: the S.E.A Games 1959-1991 Dominie Press, Singapore ISBN 981-00-4597-2 History of the SEA Games
Đại hội Thể thao Đông Nam lần thứ 12
Sự kiện thể thao đa môn Singapore 1983, Sự kiện thể thao đa môn năm 1983, Giải đấu thể thao quốc tế tổ chức bởi Singapore
Dụ Đế (chữ Hán: 裕帝) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử quan trọng. *Minh Dụ Đế (truy tôn) *Nam Minh Dụ Đế (truy tôn, thụy hiệu thật là Đường Dụ Vương, có thụy hiệu truy tôn khác là Hiếu Tuyên Đế) *Việt Nam Quảng Nam quốc Gia Dụ Đế (truy tôn, thuỵ hiệu thật là Cẩn Nghĩa Công, Gia Dụ Vương hoặc Gia Dụ Thái Vương) *Việt Nam Hậu Lê Triều Lê Dụ Đế *Dụ Tổ *Dụ Tông *Dụ vương *Thái Vương *Minh Dụ Đế
Dụ Đế
Hai môn phối hợp Bắc Âu tại Thế vận hội Mùa đông 2018 diễn ra tại Alpensia Cross-Country Centre. Ba nội dung của môn thi được tổ chức từ 14 tới 22 tháng năm 2018. Có tổng cộng 55 suất dành cho các vận động viên tham dự đại hội. Một quốc gia có tối đa vận động viên. Các vận động viên đạt điều kiện tham dự nếu họ có điểm số tại cúp thế giới hoặc cúp châu lục trong thời gian từ tháng năm 2016 tới 21 tháng năm 2018. Top 50 vận động viên trong danh sách phân bổ suất Olympic giành quyền tham dự. Dưới đây là lịch thi đấu của cả ba nội dung. Giờ thi đấu là +UTC+9. Ngày Giờ Nội dung 14 tháng 15:30 Đồi thường cá nhân nam 18:00 Cá nhân nam 10 km 20 tháng 19:00 Đồi lớn cá nhân nam 21:45 Cá nhân nam 10 km 22 tháng 16:30 Đồi lớn đồng đội nam 19:20 '''Đồng đội tiếp sức nam km Đồi lớn cá nhân/10 km 23:52.5 23:52.9 23:53.3 Đồi thường cá nhân/10 km 24:51.4 24:56.2 25:09.5 Đồi lớn đồng đội/4 km Vinzenz GeigerFabian RießleEric FrenzelJohannes Rydzek 46:09.8 Jan SchmidEspen AndersenJarl Magnus RiiberJørgen Graabak 47:02.5 Wilhelm DeniflLukas KlapferBernhard GruberMario Seidl 47:17.6 Có 55 vận động viên từ 16 nước tham dự. Số vận động viên trong ngoặc. Official Results Book Nordic combined
Hai môn phối hợp Bắc Âu tại Thế vận hội Mùa đông 2018
Sự kiện Thế vận hội Mùa đông 2018 2018 Thế vận hội Thế vận hội
Wendelin Werner (sinh 23 tháng năm 1968 Köln, Đức) là một nhà toán học người Pháp sinh Đức nghiên cứu về các lĩnh vực dạo ngẫu nhiên tự tránh, tiến hóa và các lý thuyết liên quan đến lý thuyết xác suất và vật lý toán. Năm 2006, tại Hội nghị Toán học Thế giới lần thứ 25 tổ chức tại Madrid, Tây Ban Nha ông được trao Huy chương Fields. Hiện tại ông là giáo sư tại Trường Đại học Paris XI và giáo sư thỉnh giảng tại École normale supérieure. Werner mang quốc tịch Pháp vào năm 1977. Sau khi học lớp dự bị Lycée Hoche, ông tiếp tục học tại École Normale Supérieure từ 1987 đến 1991. Luận án tiến sĩ ông thực hiện tại Université năm 1993 dưới sự hướng dẫn của giáo sư Jean-François Le Gall. Werner tham gia công tác chính thức tại CNRS từ 1991 đến 1997, trong thời gian này ông cũng là thành viên hai năm của Hội Leibniz tại Đại học Cambridge. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng bao gồm: Giải Fermat năm 2001, Giải Loève năm 2005, và Giải George Pólya SIAM năm 2006 cùng với các cộng sự của ông là Gregory Lawler và Oded Schramm. Ông trở thành thành viên của Viện hàn lâm Khoa học Pháp năm 2008. Ông cũng từng là một diễn viên, đóng một bộ phim của Pháp với tựa đề La Passante du Sans-Souci. Trang cá nhân Orsay CV page Citation for 2006 Pólya Prize Wendelin Werner, 2006 Fields Medal Winner CNRS press release News story BBC story W. W. presenting on hungarian "TV University" April 2007 streaming video La Passante du Sans-Souci on imdb.org Wendelin Werner filmography on imdb.org
Wendelin Werner
Sinh năm 1968, Nhà toán học Pháp, Người đoạt Huy chương Fields, Nhà toán học thế kỷ 20, Nhà toán học thế kỷ 21, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, Người Pháp gốc Do Thái, Nhân vật còn sống
tên thông thường là Multispotted grouper (cá mú nhiều chấm), là một loài cá biển thuộc chi Epinephelus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1991. E. gabriellae có phạm vi phân bố nhỏ hẹp Tây Bắc Ấn Độ Dương. Loài này chỉ được tìm thấy tại ngoài khơi bờ biển Oman, trải dài về phía tây đến phía đông Yemen, và mũi phía đông của Somalia, bao gồm Socotra. Cá trưởng thành sống xung quanh các rạn san hô và các bãi đá ngầm độ sâu khoảng từ đến 88 m; cá con sống vùng nước nông hơn. E. gabriellae trưởng thành có chiều dài cơ thể lớn nhất đo được là 70 cm; tuổi thọ tối đa dược báo cáo là 26 năm. Thân thuôn dài, hình bầu dục. Cơ thể có màu nâu xám, chi chít những chấm nhỏ màu nâu cam trên thân và cả trên vây. Đuôi hơi bo tròn, có viền trắng. Vây lưng mềm và vây hậu môn có rìa trắng và một dải đen cận rìa. Có hàng răng nhỏ không đều nhau phần giữa của hàm dưới. Số gai vây lưng: 11; Số tia vây mềm vây lưng: 14 15; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây mềm vây hậu môn: 8; Số tia vây mềm vây ngực: 17 18; Số vảy đường bên: 52 54. Thức ăn của E. gabriellae là các loài cá nhỏ hơn, động vật thân mềm và động vật giáp xác. Chúng sinh sản trong khoảng từ tháng đến tháng 10 và đạt kích thước khi trưởng thành với tổng chiều dài khoảng 40 cm; phát triển tương đối chậm. Chúng được đánh bắt trong nghề cá.
Multispotted grouper
Động vật được mô tả năm 1991
Chuột chũi thông thường hay Chuột chũi miền đông (Scalopus aquaticus) là một loài chuột chũi kích thước trung bình, cơ thể màu xám và là thành viên duy nhất của chi Scalopus. Tập tin:Eastern Mole range.png Tập tin:Eastern Mole North America Range.jpg Tập Tập tin:Taupinière mole-hill.JPG
Chuột chũi thông thường
Scalopus, Động vật được mô tả năm 1758, Động vật có vú México, Động vật có vú Mỹ
là một huyện (Kreis) phía bắc của Thüringen, Đức. Các huyện giáp ranh (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ) là: Harz và Saxony-Anhalt, huyện Eichsfeld in Thuringia và huyệns Osterode và Goslar Niedersachsen. Huyện được thành lập năm 1815, tỉnh Sachsen của Phổ được lập. Khu vực và thành phố Nordhausen được quản lý chung về hành chính. Năm 1882 1883, thành phố Nordhausen được đưa ra khỏi huyện và dẫn đến việc đổi tên huyện thành huyện Grafschaft Hohenstein vào năm 1888. Sau thế chiến II, huyện được đổi tên lại thành Landkreis Nordhausen, và năm 1950 thì thành phố Nordhausen lại thuộc huyện. Trong cuộc cải cách hành chính năm 1952, có nhiều đô thị được chuyển qua huyện khác.. Huyện tọa lạc các đồi phía nam núi Harz. Điểm cao nhất tại Große Ehrenberg, với độ cao 635,3 trên mực nước biển. Sông chính chảy qua huyện này là sông Zorge. Phía nam là dãy đồi Dün, Hainleite và Windleite. Thị xã không thuộc và các đô thị Bleicherode Ellrich Nordhausen Etzelsrode Friedrichsthal Hohenstein Kehmstedt Kleinbodungen Kraja Lipprechterode Niedergebra Sollstedt Werther 1. Goldene Aue Auleben Görsbach Hamma Heringen1, Urbach Uthleben Windehausen 2. Hainleite Großlohra Hainrode Kleinfurra Nohra Wipperdorf Wolkramshausen1 '''3. Buchholz Harzungen Herrmannsacker Ilfeld1 Neustadt/Harz 1thủ phủ của xã Trang mạng chính thức (tiếng Đức)
1. Goldene Aue
Huyện của bang Thüringen, Nordhausen (huyện)
Nephrodium latebrosum là một loài dương xỉ trong họ Loài này được T.Moore mô tả khoa học đầu tiên năm 1858. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
''Nephrodium latebrosum
Nephrodium, Unresolved names
Chính sách thị thực của Đông Timor có sự khác nhau giữa các nhóm khách du lịch và điểm đến. Theo luật, công dân của tất cả các quốc gia trừ khối Schengen phải xin thị thực tại trước khi đến hoặc tại cửa khẩu. Chính sách thị thực Đông Timor Đông Timor ký một thỏa thuật bãi bỏ thị thực hai chiều với vào ngày 28 tháng năm 2015 có hiệu lực tạm thời kể từ khi ký và thông qua vào ngày 15 tháng 12 năm 2015. Thỏa thuận này cho phép công dân của tất cả các nước thuộc hiệp ước Schengen lại không cần thị thực vớ tối đa 90 ngày trong khoảng thời gian 180 ngày. Cũng có miễn thị thực đối với người sở hữu hộ chiếu ngoại giao hoặc công vụ của Trung Quốc. Tất cả du khách (trừ công dân những người có thể xin khi đến bất cứ chốt biên giới nào) đến biên giới phải xin từ trước một Ủy quyền xin thị thực mà sau đó sẽ đưa cho cơ quan nhập cảnh tại biên giới. Nếu đạt được các điều kiện khác một thị thực nhập cảnh một hoặc nhiều lần có thị thực lên đến 90 ngày được cấp với phí US$30. Du khách có thể xin thị thực tại sân bay quốc tế Presidente Nicolau Lobato hoặc tại cảng biển Dili. Nếu đạt được các điều kiện khác một thị thực nhập cảnh một lần có hiệu lực lên đến 30 ngày được cung cấp với phí US$30. Thị thực quá cảnh được cung cấp để lại ít hơn ngày với phí US$20. Không có lựa chọn quá cảnh không cần thị thực nào tại Đông Timor. Xin thị thực có thể được nộp trực tuyến hoặc một trong các phái vụ ngoại giao Đông Timor trước khi đến. Ngoài việc sử hữu hộ chiếu có hiệu lực không ít hơn tháng từ ngày nhập cảnh, du khách phải đạt được các yêu cầu nghiêm ngặt để đến Đông Timor: *Ý định chuyến đi thành thật (du lịch hoặc công tác). *Thu xếp chỗ và vé máy bay khứ hồi hoặc chuyến tiếp theo. *US$150 một ngày để lại quốc gia này (đối với thị thực du lịch hoặc công tác. *US$100 cộng $50 một ngày (đối với thị thực quá cảnh). Tất cả công dân các nước có thể gia hạn thị thực đến tổng ngày lại lên đến 90 ngày bằng cách nộp đơn xin cho Cục Nhập cảnh. Phí là US$35 để gia hạn 30 ngày, hoặc US$75 để gia hạn từ 30 đến 60 ngày. Hầu hết du khách đến Đông Timor qua đường hàng không đều đến từ các quốc gia sau: Thứ tự Quốc gia 2014 2013 2012 2011 15.180 17.520 15.303 11.179 13.429 12.817 12.138 12.419 6.185 5.894 6.130 5.916 4.157 3.936 3.842 2.413 3.717 4.346 4.972 3.464 1.666 2.130 2.211 2.207 1.665 1.455 1.944 1.829 1.465 1.457 1.381 1.519 1.458 1.438 1.211 1.232 10 896 737 815 711 Tổng 59.811 77.135 57.517 50.590 *Yêu cầu thị thực đối với công dân Đông Timor Đông Timor
Chính sách thị thực của Đông Timor
Ngoại giao Đông Timor
(12231) 1986 QQ1 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Henri Debehogne Đài thiên văn La Silla Chile ngày 27 tháng năm 1986. *Danh sách các tiểu hành tinh: 12001–13000
(12231) 1986 QQ1
Được phát hiện bởi Henri Debehogne
Ned Arnel Mencía (sinh 22 tháng 10 năm 1967) là một diễn viên hài Mỹ. Phong cách phim hài ông tham gia là về chính trị thường xuyên và liên quan đến vấn đề chủng tộc, văn hóa, pháp luật hình sự, và tầng lớp xã hội. Ông được biết đến như là chủ của chương Mind of Mencía. Mencía sinh ra San Pedro Sula, Honduras là người con thứ 17 trong gia đình mười tám anh chị em. Mẹ ông, Magdelena Mencía, là người Mexico, và cha của ông, Roberto Holness, là một Honduras mà tổ tiên xa bao gồm những người nhập cư từ Đức, Anh, và quần đảo Cayman. Vào thời điểm cậu ra đời, mẹ Mencía đã xung đột với cha cậu, và từ chối đặt tên con trai theo họ cha. Họ tên cậu ghi trên giấy khai sinh của là "Ned Arnel Mencía", mặc dù Mencía đã nói rằng sự tôn trọng đối với cha cậu đã thể hiện bằng tên Holness, và được biết đến như là "Ned Holness" cho đến khi cậu lên mười tám tuổi.
Ned Arnel Mencía
Sinh năm 1967, Nhân vật còn sống, Nam diễn viên Honduras, Nam diễn viên lồng tiếng Mỹ, Nam diễn viên sân khấu Mỹ, Phim và người giành giải Annie, Nam diễn viên điện ảnh Mỹ, Nam diễn viên truyền hình Mỹ, Nghệ sĩ hài độc thoại Mỹ, Nghệ sĩ hài Mỹ thế kỷ 21
Những cuộc phiêu lưu của Winnie () là một bộ phim hoạt hình ca nhạc năm 1977 sản xuất bởi Walt Disney Productions.
''Những cuộc phiêu lưu của Winnie
Phim của Walt Disney Animation Studios, Phim của Walt Disney Pictures, Phim hoạt hình Mỹ, Phim Mỹ, Phim ca nhạc hoạt hình, Phim về động vật, Phim dựa theo sách thiếu nhi, Phim với các sự vật được nhân hoá, Phim có cả phần người đóng và hoạt hình
Zaur Umarovich Sadayev (; sinh ngày tháng 11 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người Nga gốc Chechen. Anh chơi vị trí tiền đạo cho FC Akhmat Grozny. Anh có màn ra mắt cùng với FC Terek Grozny tại Giải bóng đá ngoại hạng Nga năm 2008. Ngày 30 tháng năm 2013, anh được chuyển đến Beitar Jerusalem của Israel cùng với Dzhabrail Kadiyev, đều là người Hồi giáo. Ngày tháng 3, Sadayev ghi bàn thắng đầu tiên cho Beitar trong trận đấu giải vô địch trước Maccabi Netanya, khi hàng trăm cổ động viên rời khỏi sân vận động. Câu lạc bộ Mùa giải Giải vô địch Giải vô địch Cúp Tổng cộng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Terek Grozny/Akhmat Grozny 2006 Russian First Division 2007 2008 Giải bóng đá ngoại hạng Nga 2009 17 17 2010 16 16 2011–12 28 31 2012–13 2013–14 2015–16 15 16 2016–17 2017–18 16 17 Tổng cộng 126 18 133 19 Beitar Jerusalem 2012–13 Giải bóng đá ngoại hạng Israel Lechia Gdańsk 2013–14 Ekstraklasa 12 14 2014–15 Tổng cộng 16 18 Lech Poznań 2014–15 Ekstraklasa 25 30 Tổng cộng sự nghiệp 174 27 14 188 32 ;Lech Poznań Ekstraklasa: 2014–15 Profile on the Giải bóng đá ngoại hạng Nga site Profile on the FC Terek Grozny site
Zaur Umarovich Sadayev
Sinh năm 1989, Người Shalinsky District, Chechen Republic, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nga, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Nga, Cầu thủ bóng đá FC Akhmat Grozny, Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga, Người Nga gốc Chechen, Người Chechen, Cầu thủ bóng đá Beitar Jerusalem F.C., Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Israel, Cầu thủ bóng đá Ekstraklasa, Cầu thủ bóng đá Lechia Gdańsk, Cầu thủ bóng đá Lech Poznań, Người Chechnya, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Thổ Nhĩ Kỳ
Tập So sánh kích thước của TRAPPIST-1 (một sao lùn siêu mát, màu đỏ bên phải) và Mặt trời (màu vàng). Một sao lùn siêu mát là một vật thể sao hoặc sao lùn nâu của lớp quang phổ có nhiệt độ hiệu dụng dưới TRAPPIST-1 là một ví dụ được biết đến rộng rãi của một ngôi sao lùn siêu mát. Loại sao lùn cực lạnh được giới thiệu vào năm 1997 bởi J. Davy Kirkpatrick, Todd J. Henry và Michael J. Irwin. Ngày nay, nó bao gồm các ngôi sao lùn có khối lượng rất thấp với các loại quang phổ M7 trở lên, và vượt ra ngoài các ngôi sao mát nhất đến các sao lùn nâu mát như loại quang phổ T6.5. Cùng nhau, chúng đại diện cho khoảng 15% các vật thể thiên văn trong khu vực sao của Mặt trời Các mô hình hình thành các hành tinh cho thấy do khối lượng thấp và kích thước nhỏ của các đĩa hành tinh nguyên sinh của chúng, những ngôi sao này có thể chứa một quần thể hành tinh giống Trái đất tương đối phong phú, từ cỡ Sao Thủy đến cỡ Trái đất thay vì siêu lớn. Trái đất và các hành tinh có khối lượng Sao Mộc. Việc phát hiện ra hệ thống TRAPPIST-1 của bảy hành tinh giống Trái đất dường như xác nhận mô hình bồi tụ này. Do phản ứng tổng hợp hydro chậm hơn so với các loại sao có khối lượng thấp khác, tuổi thọ của chúng được ước tính là hàng trăm tỷ năm với mức sống nhỏ nhất hàng nghìn tỷ năm. Khi tuổi của vũ trụ chỉ là 13,8 tỷ năm, tất cả các ngôi sao lùn lạnh lùng đều tương đối trẻ. Các mô hình dự đoán rằng vào cuối đời, những ngôi sao nhỏ nhất trong số những ngôi sao này sẽ trở thành sao lùn xanh thay vì mở rộng thành sao khổng lồ đỏ. Sau khi phát hiện các vụ nổ phát xạ vô tuyến từ sao lùn siêu âm M9 LP 944-20 vào năm 2001, một số nhà vật lý thiên văn đã bắt đầu quan sát các chương trình tại Đài quan sát Arecibo và Mảng rất lớn để tìm kiếm thêm các vật thể phát ra sóng vô tuyến. Cho đến nay, hàng trăm sao lùn siêu mát đã được quan sát bằng các kính thiên văn vô tuyến này và hơn một chục sao lùn siêu mát phát xạ như vậy đã được tìm thấy. Những khảo sát này chỉ ra rằng khoảng 5-10% các sao lùn siêu mát phát ra sóng vô tuyến. Trong số đáng chú hơn, 2MASS J10475385 2124234, với nhiệt độ 800-900 K, là sao lùn nâu phát ra sóng vô tuyến tuyệt vời nhất được biết đến. Nó là một sao lùn nâu T6.5 giữ được từ trường với cường độ lớn hơn 1,7 kG, khiến nó mạnh hơn 3000 lần so với từ trường của Trái đất.
sao lùn siêu mát
Sao dãy chính nhóm, Sao lùn nâu
John Hamburg (sinh ngày 26 tháng năm 1970) là một nhà biên kịch, đạo diễn phim và nhà sản xuất điện ảnh người Mỹ. Hamburg được sinh ra tại Manhattan, là con trai của Joan Hamburg và Morton I. Hamburg. Gia đình anh là người Do Thái. Anh tốt nghiệp Đại học Brown vào năm 1992 với bằng lịch sử. Anh sau đó tham gia học tại Trường Nghệ thuật Tisch School of the Arts và Đại học New York. Vợ của Hamburg là nữ diễn viên Christina Kirk. Sau khi phim ngắn Tick do anh đạo diễn được khởi chiếu tại Liên hoan phim Sundance năm 1996, Hamburg biên kịch và đạo diễn bộ phim Safe Men năm 1998. Anh sau đó nhanh chóng có được thành công lớn khi tham gia đồng biên kịch cho hai phim điện ảnh Meet the Parents và Zoolander, và trở lại với ghế đạo diễn với tác phẩm Along Came Polly. Anh cũng là nhà đồng biên kịch cho phần phim tiếp nối của Meet the Parents, lần lượt là Meet the Fockers và Gặp gỡ thông gia: Nhóc Fockers. Năm 2009, Hamburg đảm nhiệm vị trí biên kịch kiêm đạo diễn cho phim điện ảnh hài nổi tiếng I Love You, Man. Năm 2016, Hamburg là một trong những người tham gia viết kịch bản cho tác phẩm Trai đẹp lên sàn, một tác phẩm điện ảnh đã thu về 56 triệu USD doanh thu so với kinh phí 50 triệu USD bỏ ra, và đồng thời anh cũng đảm nhiệm phần kịch bản cũng như vị trí đạo diễn cho phim điện ảnh Bố vợ đối đầu chàng rể của hãng 20th Century Fox. Năm Phim Vị trí Đạo diễn Sản xuất Biên kịch 1998 Safe Men 2000 Meet the Parents 2001 Zoolander 2004 Along Came Polly Meet the Fockers 2009 I Love You, Man 2010 Gặp gỡ thông gia: Nhóc Fockers 2015 Drunk Wedding 2016 Trai đẹp lên sàn Bố vợ đối đầu chàng rể
John Hamburg
Sinh năm 1970, Đạo diễn điện ảnh Mỹ, Nhà sản xuất phim Mỹ, Nam biên kịch Mỹ, Đạo diễn truyền hình Mỹ, Cựu sinh viên Đại học Brown, Nhân vật còn sống, Nhà văn Thành phố New York, Người Manhattan, Đạo diễn điện ảnh từ New York
Trịnh Việt Hùng (sinh ngày 01 tháng 10 năm 1977) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Phó Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên và kiêm nhiệm các vị trí lãnh đạo hành pháp tỉnh Thái Nguyên. Ông nguyên là Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên; Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy huyện Đồng Hỷ; Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Trịnh Việt Hùng là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Quản lý đất đai, Cử nhân Kinh tế nông nghiệp, Thạc sĩ Kinh tế nông nghiệp, Tiến sĩ Quản trị kinh doanh, Cao cấp lý luận chính trị. Trong sự nghiệp của mình, ông có hơn 25 năm học tập và công tác đều tại tỉnh Thái Nguyên. Trịnh Việt Hùng sinh ngày 01 tháng 10 năm 1977 tại xã Hồng Thái, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông lớn lên và theo học phổ thông tại quê nhà. Năm 1995, ông tới thành phố Thái Nguyên, theo học Trường Đại học Nông lâm, Đại học Thái Nguyên, nhận bằng Cử nhân Nông nghiệp chuyên ngành Quản lý đất đai và Kinh tế nông nghiệp vào năm 1999. Sau đó, ông học cao học tại trường, nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế nông nghiệp. Từ năm 2012, ông là nghiên cứu sinh tại Khoa Sau đại học, Đại học Thái Nguyên, bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ đề tài: Mô hình dự báo thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Tỉnh Thái Nguyên, trở thành Tiến sĩ Quản trị kinh doanh vào năm 2015. Ngày 24 tháng năm 2004, ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam, trở thành đảng viên chính thức vào ngày 24 tháng năm 2005. Trong quá trình hoạt động Đảng và Nhà nước, ông theo học các khóa tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Từ ngày 20 tháng đến 15 tháng năm 2020, ông theo học lớp bồi dưỡng kiến thức mới dành cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng dưới khóa giảng dạy của Ban Tổ chức Trung ương và Học viện Hồ Chí Minh. Hiện ông cư trú tại Tổ dân phố 15, Phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1999, sau khi tốt nghiệp Đại học Thái Nguyên, Trịnh Việt Hùng bắt đầu sự nghiệp của mình, ông được tuyển dụng vào vị trí Chuyên viên Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên. Sau đó, ông được chuyển sang làm Chuyên viên Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Năm 2012, ông được bổ nhiệm làm Phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên rồi thăng chức thành Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên vào tháng năm 2014. Trong giai đoạn này, ông được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên bầu bổ sung làm Tỉnh ủy viên, được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên điều động về huyện Đồng Hỷ, nhậm chức Bí thư Huyện ủy Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Tháng 10 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015 2020, ông được bầu làm Tỉnh ủy viên. Sau đó, Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên khóa XII bầu ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên vào tháng 12 năm 2015, tiếp tục trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân khóa XIII, nhiệm kỳ 2016 2021. Tháng 11 năm 2019, kỳ hợp bất thường Tỉnh ủy Thái Nguyên đã bầu ông làm Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, giới thiệu và bầu làm Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Đến ngày 21 tháng năm 2020, ông được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên. Ngày 11 tháng 10 năm 2020, tại kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX, khóa 2020 2015, Trịnh Việt Hùng được bầu làm Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Trong kỳ họp đầu tiên của Tỉnh ủy khóa XX, ông tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên. Chiều ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIII, thực hiện nội dung kiện toàn cơ quan lãnh đạo, miễn nhiệm và bầu cử các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân tỉnh. Các đại biểu nhất trí miễn nhiệm Vũ Hồng Bắc, bầu Trịnh Việt Hùng làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Sau đó, ngày 21 tháng 12 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã phê chuẩn vị trí này của ông. Ngày 30 tháng năm 2021, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Trịnh Việt Hùng được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh (Việt Nam) Danh sách Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Việt Nam nhiệm kỳ 2016 2021 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII Ủy viên dự khuyết Trung ương khóa XIII Trịnh Việt Hùng
Trịnh Việt Hùng
Sinh năm 1977, Nhân vật còn sống, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Người Thái Nguyên, Người Hải Dương, Người họ Trịnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII
Tập nhiễm nước là một vấn đề môi trường gây ảnh hưởng tới môi trường nước. Bức ảnh này cho thấy bọt nổi trên mặt sông New River khi nó đi vào Hoa Kỳ từ Mexico. Các vấn đề môi trường là những hành vi có hại do ảnh hưởng của hoạt động con người đến môi trường. Bảo vệ môi trường là việc thực hiện các hành vi bảo vệ môi trường tự nhiên xuất phát từ cá nhân, tổ chức hay các cấp chính quyền, vì lợi ích của cả môi trường và con người. Chủ nghĩa môi trường, là một phong trào vận động xã hội và vận động môi trường hướng đến giải quyết vấn đề môi trường thông qua tuyên truyền, giáo dục, và các hoạt động xã hội. Cacbon dioxide là một trong các khí nhà kính tồn tại trong khí quyển, đã có nồng độ vượt quá 400 phần triệu (NOAA) (với tổng nồng độ các khí nhà kính vượt quá 455 phần triệu) (Theo báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu). Con số này đã được coi là điểm tới hạn cao nhất. "Lượng khí nhà kính trong khí quyển đã vượt trên ngưỡng có khả năng gây ra các biến đổi khí hậu nguy hiểm. Chúng ta đã nằm trong nguy hiểm nhiều vùng nhiễm...Không còn là vấn đề của năm sau, hay thập kỷ sau, nó là vấn đề của hiện tại." Văn phòng Điều phối các vấn đề Nhân đạo Liên Hợp Quốc (OCHA) đã tuyên bố "Biến đổi khí hậu không phải là vấn đề của một tương lai xa xôi. Nó chính là nguyên nhân chính ẩn sau sự tăng nhu cầu hỗ trợ nhân đạo và chúng ta đang nhìn thấy hậu quả của nó. Số người bị ảnh hưởng và những thiệt hại gây ra bởi thời tiết khắc nghiệt lớn chưa từng thấy." Hơn nữa, OHCA cho biết: Số vụ thiên tai đang tăng lên. Khoảng 70% các thiên tai hiện tại có liên quan đến biến đổi khí hậu, tăng từ khoảng 50% thời điểm hai thập kỷ trước đây. Những thảm họa này gây ảnh hưởng đến nhiều người hơn và với cái giá rất đắt. Trong thập kỷ qua, 2,4 tỷ người đã bị ảnh hưởng bởi các thiên tai do biến đổi khí hậu, so với 1.7 tỷ người trong thập kỉ trước đó. Chi phí cho ứng phó thiên tai đã tăng gấp mười lần giữa năm 1992 và năm 2008. Những cơn mưa siêu lớn đột ngột đầy sức hủy diệt, những cơn bão nhiệt đới dữ dội, lũ lụt và hạn hán xảy ra liên tiếp với cường độ tăng dần, cùng với sự dễ tổn thương của các cộng động dân cư địa phương trong trước sự thiếu vắng các hành động can thiệp mạnh mẽ. Sự hủy hoại môi trường gây ra bởi con người là một vấn đề toàn cầu, và là một vấn nạn xảy ra mỗi ngày. Dự kiến năm 2050 dân số toàn cầu được dự kiến sẽ tăng thêm tỷ người,đạt mức 9.6 tỷ người (Sự sống hành tinh xanh 24). Các tác động của con người tới trái Đất có thể được nhìn thấy từ nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề chính là sự tăng nhiệt độ, và theo các báo cáo "Khí hậu đang thay đổi của chúng ta", sự nóng lên toàn cầu mà đã xảy ra trong vòng 50 năm qua chủ yếu là do hoạt động con người (Walsh, et al. 20). Kể từ năm 1895, nhiệt độ trung bình của Mỹ đã tăng lên từ 1.3 °F để 1.9 °F, với hầu hết sự tăng lên nằm trong khoảng năm 1970 (Walsh, et al. 20). Các vấn đề môi trường lớn hiện tại bao gồm biến đổi khí hậu, nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Các vận động hành lang về bảo tồn nhằm bảo vệ loài nguy cấp và bảo vệ bất kỳ môi trường tự nhiên có hệ sinh thái có giá trị, vấn đề thực phẩm biến đổi gen và ấm lên toàn cầu. Mức độ hiểu biết về Trái Đất đã tăng lên đáng kể trong thời gian gần đây thông qua khoa học, đặc biệt là với các ứng dụng của các phương pháp khoa học. Khoa học môi trường giờ đây là một ngành khoa học được nghiên cứu và giảng dạy nhiều trường đại học. Đây được coi là một cơ sở quan trọng cho giải quyết các vấn đề môi trường. Một lượng lớn dữ liệu đã được thu thập và viết thành các báo cáo, với một trong những ấn phẩm phổ biến thuộc loại này là Hiện trạng môi trường. Một báo cáo quan trọng gần đây là Đánh giá Hệ sinh thái Thiên niên kỷ, với sự tham gia của 1200 nhà khoa học và được công bố năm 2005, đã cho thấy mức tác động cao mà con người đang gây ra trên dịch vụ hệ sinh thái. Vấn đề môi trường được giải quyết tại một địa phương, quốc gia hay trên tầm quốc tế bởi các tổ chức chính phủ. Cơ quan quốc tế lớn nhất được thành lập năm 1972, là Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tập hợp 83 quốc gia, 108 cơ quan chính phủ, 766 tổ chức Phi chính phủ và 81 tổ chức quốc tế cùng khoảng 10,000 chuyên gia và nhà khoa học từ các quốc gia trên khắp thế giới. Một số tổ chức phi chính phủ quốc tế như Hòa bình xanh, Bạn của Trái Đất hay Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Các chính phủ ban hành chính sách môi trường và luật môi trường nhiều mức độ khác nhau trên khắp thế giới. xem Chi phí do nhiễm, và Chi phí do sự ấm lên toàn cầu Bền vững là chìa khóa để ngăn chặn hoặc giảm bớt ảnh hưởng của các vấn đề môi trường. Hiện đã có những bằng chứng khoa học rõ ràng cho thấy con người đang sống không bền vững, và cũng chưa từng có những nỗ lực tập thể cần thiết để đưa mức sử dụng tài nguyên thiên nhiên của con người trở lại giới hạn bền vững. Để con người sống bền vững, tài nguyên thiên nhiên của Trái Đất phải được sử dụng mức độ mà nó có thể tự hồi phục (và bằng cách hạn chế sự nóng lên toàn cầu). Những sự quan tâm về môi trường đã thúc đẩy sự hình thành của các đảng phái xanh, các đảng chính trị tìm kiếm phương án giải quyết các vấn đề môi trường. Các đảng này đã hình thành đầu tiên tại Úc, New Zealand và Đức nhưng hiện nay đã xuất hiện tại rất nhiều quốc gia khác. Số phim làm về các vấn đề môi trường đang tăng dần, đặc biệt về biến đổi khí hậu và sự nóng lên toàn cầu. Phim Một sự thật khó chịu của Al Gore năm 2006 đã gặt hái được nhiều thành công về doanh thu và truyền thông. Danh sách các bài viết chủ đề môi trường Tác động của con người đến môi trường Vấn đề toàn cầu Các vấn đề Danh sách những vấn đề môi trường (bao gồm giảm nhẹ và bảo tồn) Các vấn đề cụ thể *Tác động môi trường của nông nghiệp *Tác động môi trường của giao thông hàng không *Tác động môi trường của hồ chứa nước *Tác động môi trường của công nghiệp năng lượng *Tác động môi trường của đánh cá *Tác động môi trường của thủy lợi *Tác động môi trường trong khai thác mỏ *Tác động môi trường của sơn *Tác động môi trường của giấy *Tác động môi trường của thuốc trừ sâu *Tác động môi trường của công nghệ nano *Tác động môi trường của vận chuyển *Tác động môi trường của chiến tranh
Các vấn đề môi trường
Sồi là tên gọi chung của khoảng 400 loài cây gỗ hay cây bụi thuộc chi của họ Sồi. "Sồi" cũng có thể xuất hiện trong tên gọi của các loài thuộc các chi có quan hệ họ hàng, đáng chú là Lithocarpus (sồi đá) hay chi Fagus (còn được gọi là dẻ gai). Chi này là bản địa của Bắc bán cầu, và bao gồm các loài thường xanh hay sớm rụng lá, sinh sống trong khu vực từ các vĩ độ hàn đới tới khu vực nhiệt đới châu và châu Mỹ. Các loài sồi có lá mọc vòng, với mép lá xẻ thùy nhiều loài; một số loài có mép lá xẻ khía răng cưa hay mép lá nguyên. Hoa là kiểu đuôi sóc, ra hoa vào mùa xuân. Quả là dạng quả kiên được gọi là quả đấu, mọc ra trong một cấu trúc hình chén; mỗi quả đấu chứa hạt (hiếm khi hay 3) và mất 6–18 tháng để chín, phụ thuộc vào loài. Nhóm sồi thường xanh được phân biệt do nó chứa các loài có lá thường xanh, nhưng trên thực tế không phải là một nhóm khác biệt về mặt phát sinh loài mà thay vì thế nó chứa các loài nằm rải rác và phân tán trong cây phát sinh loài của chi Quercus. Chi Quercus được phân chia thành phân chi và một loạt các tiết đoạn. Phân chi Quercus được chia thành các đoạn: Đoạn Quercus (đồng nghĩa: và chứa các loài sồi trắng tại châu Âu, châu và Bắc Mỹ. Vòi nhụy ngắn; quả đấu chín sau tháng và có vị ngọt hay hơi đắng; bên trong vỏ quả đấu không lông. Lá gần như thiếu gai cứng trên các chóp thùy của chúng, thường là thuôn tròn. Đoạn sồi Hungary và các họ hàng tại châu Âu và châu Á. Vòi nhụy dài; quả đấu chín trong khoảng tháng và có vị đắng; bên trong vỏ quả đấu không lông. Đoạn Mesobalanus có quan hệ gần với đoạn Quercus và đôi khi được gộp trong đó. Đoạn Cerris, sồi Thổ Nhĩ Kỳ và các họ hàng tại châu Âu và châu Á. Vòi nhụy dài; quả đấu chín trong 18 tháng và có vị rất đắng; bên trong vỏ quả đấu không lông. Lá của chúng thường có các chóp thùy nhọn, với các gai cứng tại chóp thùy. Đoạn sồi thường xanh Canyon và các họ hàng, tại tây nam Hoa Kỳ và tây bắc México. Vòi nhụy ngắn, quả đấu chín trong 18 tháng và có vị rất đắng. Bên trong vỏ quả đấu có lông tơ. Lá thường có các chóp thùy nhọn, với các gai cứng tại chóp thùy. Đoạn Lobatae (đồng nghĩa: sồi đỏ tại Bắc Mỹ, Trung Mỹ và miền bắc Nam Mỹ. Vòi nhụy dài, quả đấu chín trong 18 tháng và có vị rất đắng. Bên trong vỏ quả đấu có lông tơ. Quả kiên thật sự được bọc trong lớp da mỏng, bám sát, dạng giấy. Lá thường có các chóp thùy nhọn, với các gai cứng tại thùy. Sồi với quả dạng chén-vòng tại Đông và Đông Nam Á. Cây gỗ thường xanh cao tới 10–40 m. Chúng khác biệt với phân chi Quercus chỗ chúng có quả đấu với các chén khác biệt mang các vòng vẩy liên trưởng; chúng cũng có các quả đấu mọc thành cụm dày dặc, mặc dù điều này không đúng với tất cả các loài. Quần thực vật Trung Hoa coi là một chi khác biệt, nhưng phần lớn các nhà phân loại học khác chỉ coi nó là phân chi của chi Quercus. Nó chứa khoảng 150 loài. Tập tin:Quercus trắng lai ghép, có lẽ là Quercus stellata Quercus muhlenbergii. sồi Tamme-Lauri là cây dày nhất và lâu đời nhất Estonia, được trồng vào khoảng năm 1326 Tập tin:Marktræ (Quercus).JPG Tập tin:Quercus robur.jpg Tập File:Zwei Eicheln.jpg File:Галл Gall Шикалка Pflanzengalle Flora of North America: Quercus Flora of China: Quercus Flora of China Flora Europaea: Quercus Oak Trees of the Lowcountry (South Carolina) -- Beaufort County Library Oaks from Bialowieza Forest Common Oaks of Florida Oak leaves and their use in aquariums Oaks of the world
Sồi
Họ Cử
Nga có thể chỉ đến một trong các khái niệm sau: Nga (俄, Росси́я, Rossiya) hay Liên bang Nga, một quốc gia Liên Bang nằm Đông Âu và miền Bắc châu Á, là quốc gia có lãnh thổ rộng nhất thế giới hiện nay. Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết (CCCP hay USSR), còn gọi tắt là Liên Xô, là một quốc gia liên bang theo chế độ xã hội chủ nghĩa tồn tại từ năm 1922 đến 1991. Trong khoảng thời gian này nó là quốc gia có lãnh thổ đất liền rộng nhất thế giới. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Liên bang Nga, quốc gia lớn nhất trong Liên bang Xô Viết, sau khi Liên Xô sụp đổ thì nó trở thành Liên Bang Nga hiện nay. Cộng hòa Liên bang Dân chủ Nga, một quốc gia Liên bang chỉ tồn tại trong ngày duy nhất trong năm 1918. Cộng hòa Nga, quốc gia tồn tại trong tháng trong năm 1917, đứng đầu là một chính phủ lâm thời Nga. Đế quốc Nga (1721 tháng 2/1917) Nước Nga Sa hoàng (1547 1721) Đại công quốc Moskva (1283 1547) Cộng hòa Novgorod (1136 1478) Nga Kiev hay Kievan Rus' tồn tại từ khoảng năm 880 cho đến khi sụp đổ dưới vó ngựa Mông Cổ vào năm 1240 Đại Nga, bao gồm phần lãnh thổ Nga nằm phía Tây dãy Ural (trừ khu vực Tatarstan). Tiểu Nga, bao gồm một phần lãnh thổ hiện nay của Ukraina. Novorossiya (Tân Nga), bao gồm vùng lãnh thổ Nam Ukraina, Nam Nga và vùng Bessarabia. Hắc Nga (Чорная Русь), bao gồm phần lãnh thổ nằm xung quanh khu vực Navahrudak miền Tây Belarus ngày nay. Hồng Nga (Червона Русь hay Russia Rubra), bao gồm phần Đông Galicia. Bạch Nga, bao gồm phần lãnh thổ phía Đông của Belarus. *Loài Coix aquatica thuộc họ Hòa thảo, hoặc chi Coix theo nghĩa rộng. Nga (娥): *Mặt Trăng *Người phụ nữ đẹp Russia (định hướng) Rus (định hướng) Rus (tên)
Nga
là một chi ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống biển thuộc họ Muricidae, họ ốc gai. Các loài thuộc chi Dermomurex bao gồm: Dermomurex agnesae Vokes, 1995 Dermomurex alabastrum (A. Adams, 1864) Dermomurex angustus (Verco, 1895) Dermomurex binghamae Vokes, 1992 Dermomurex glicksteini Petuch, 1987 Dermomurex goldsteini Tenison Woods, 1876 Dermomurex gunteri Vokes, 1985 Dermomurex indentatus (Carpenter, 1857) Dermomurex kaicherae (Petuch, 1987) Dermomurex neglecta (Habe Kosuge, 1971) Dermomurex obeliscus (A. Adams, 1853) Dermomurex olssoni Vokes, 1989 Dermomurex pacei Petuch, 1988 Dermomurex pauperculus (C. B. Adams, 1850) Dermomurex raywalkeri Houart, 1986 Dermomurex sarasuae Vokes, 1992 Dermomurex scalaroides (Blainville, 1829) Dermomurex worsfoldi Vokes, 1992 Dermomurex bakeri (Hertlein Strong, 1951) Dermomurex elizabethae (McGinty, 1940) Dermomurex africanus Vokes, 1978 Dermomurex bobyini (Kosuge, 1984) Dermomurex gofasi Houart, 1996 Dermomurex infrons Vokes, 1974 Dermomurex myrakeenae (Emerson D'Attilio, 1970) Dermomurex wareni Houart, 1990 Dermomurex abyssicolus (Crosse, 1865) Dermomurex antecessor Vokes, 1975 Dermomurex cunninghamae (Berry, 1964) Dermomurex leali Houart, 1991 Dermomurex oxum Petuch, 1979 Dermomurex sepositus Houart, 1993 Dermomurex triclotae Houart, 2001 Dermomurex trondleorum Houart, 1990 Dermomurex antonius Vokes, 1974 Dermomurex howletti Vokes, 1995 Dermomurex pasi Vokes, 1993 Dermomurex colombi Houart, 2006
null
Muricidae
Lực lượng vũ trang là lực lượng chiến đấu của nhà nước nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh, quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Do tính chất nhiệm vụ đặc biệt không cho người phi hành quân đội, công an và dân quân khu vực không cho ai vào cho nên lực lượng này được hưởng những chế độ đặc biệt. Nó được trang bị vũ khí cùng với những quyền hạn rất lớn. Thông thường, các nước, dù khác nhau về hệ thống chính trị hay địa lý, nhưng lực lượng vũ trang vẫn bao gồm những lực lượng chính là quân đội, công an và dân quân. Có nhiều nước chỉ tính quân đội. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia, chống ngoại xâm. Công an có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự nội địa. Dân quân là lực lượng bán vũ trang, thường được các quốc gia tổ chức như là một lực lượng dự phòng nhằm huy động sức mạnh từ số đông quần chúng. Ngoài ra, còn một lực lượng nữa cũng nằm trong lực lượng vũ trang là lực lượng an ninh, có trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia. Tùy theo tổ chức nhà nước mà các bộ phận này được đặt các cơ quan quản lý khác nhau. Thông thường, quân đội được đặt dưới quyền điều động của Bộ Tổng tham mưu (hay Hội đồng tham mưu liên quân), lực lượng an ninh do Ủy ban An ninh Quốc gia điều động, còn cảnh sát thuộc quyền của Bộ Nội vụ. Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ. Trong đó, lực lượng Quân đội nhân dân bao gồm Lục quân, Hải quân, Phòng không Không quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và chịu sự điều động của Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng Công an nhân dân bao gồm An ninh và Cảnh sát, chịu sự quản lý của Bộ Công An. Lực lượng Dân quân tự vệ là lực lượng quản lý hỗn hợp của Bộ Quốc phòng và cơ quan hành chính địa phương. Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Việt Nam là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Chức vụ này thường do Chủ tịch nước đảm nhiệm, trừ một trường hợp ngoại lệ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được trao chức Tổng Tư lệnh khi đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Lực lượng vũ trang
Chính phủ, Quân đội, Quân sự
Vương quốc Valencia (tiếng Valencia: Regne de València; tiếng Tây Ban Nha: Reino de Valencia; tiếng La Tinh: Regnum Valentiae), nằm bờ biển phía Đông của Bán đảo Iberia, là một trong những vương quốc cấu thành nên Vương quyền Aragon. Khi Vương quyền Aragon hợp nhất theo liên hiệp vương triều với Vương quyền Castile để tạo thành Vương quốc Tây Ban Nha, thì Vương quốc Valencia trở thành một lãnh thổ cấu thành nên chế độ quân chủ Tây Ban Nha. Vương quốc Valencia chính thức được thành lập vào năm 1238 khi người Moor Taifa của Valencia thất bại trong quá trình Năm 1707, nó đã bị giải thể, cùng với các thành phần khác của vương quyền của Aragon, bởi Philip của Tây Ban Nha, bằng Sắc lệnh Nueva Planta, do kết quả của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Trong suốt thời gian tồn tại, Vương quốc Valencia được cai trị bởi các luật lệ và thể chế được nêu trong Furs (điều lệ) của Valencia. Các ranh giới và bản sắc của cộng đồng Valencia thuộc Tây Ban Nha hiện tại về cơ bản là ranh giới của Vương quốc Valencia trước đây. Robert Ignatius Burns. The Crusader Kingdom of Valencia: Reconstruction on Frontier. Harvard University Press, 1967. Vicente Coscollá Sanz, La Valencia musulmana
Vương quốc Valencia
Lịch sử Cộng đồng Valencia, Vương quyền Aragon, Cựu quốc gia trên bán đảo Iberia, Lịch sử cận đại Tây Ban Nha, Cựu vương quốc, Cựu quốc gia châu Âu, Cựu quốc gia quân chủ châu Âu
Hồn Trương Ba, da hàng thịt có thể là: Sự tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt về chuyện một người đánh cờ giỏi tên là Trương Ba khi chết sớm đã được Đế Thích cho sống lại trong xác của một người hàng thịt. Kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Phim truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt, do đạo diễn Nguyễn Quang Dũng thực hiện năm 2006.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt
Beltrán là một khu tự quản thuộc tỉnh Cundinamarca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Beltrán đóng tại Beltrán Khu tự quản Beltrán có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng năm 2005, khu tự quản Beltrán có dân số 1630 người.
Beltrán
Khu tự quản của Colombia
Vidángoz là một đô thị trong tỉnh và cộng đồng tự trị Navarre, Tây Ban Nha. Đô thị này có dân số là 106 người, diện tích 39,22 km2. Đô thị nằm độ cao 775 trên mực nước biển, cách tỉnh lỵ 87 km. Đô thị Vidángoz nằm khu vực hỗn hợp, nơi tiếng Tây Ban Nha và tiếng Basque đều là ngôn ngữ chính thức sử dụng trong lĩnh vực hành chính. Các đô thị giáp ranh: Burgui, Igal và Roncal. Biến động dân số 1996 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 117 114 114 115 113 113 115 115 114 111 111 Nguồn: Vidángoz et instituto de estadística de navarra Vidangoz
Vidángoz
Bhilai Charoda là một thành phố và khu đô thị của quận Durg thuộc bang Chhattisgarh, Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Bhilai Charoda có dân số 87.170 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Bhilai Charoda có tỷ lệ 72% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 80%, và tỷ lệ cho phái nữ là 64%. Tại Bhilai Charoda, 13% dân số nhỏ hơn tuổi.
Bhilai Charoda
Canolo là một đô thị tỉnh Reggio Calabria trong vùng Calabria, Ý, có cự ly khoảng 70 km về phía tây nam của Catanzaro và khoảng 50 km về phía đông bắc của Reggio Calabria. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 901 người và diện tích là 28,2 km². Canolo giáp các đô thị: Agnana Calabra, Cittanova, Gerace, Mammola, San Giorgio Morgeto. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:4000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:2905 bar:1871 from: till:3028 bar:1881 from: till:1925 bar:1901 from: till:2002 bar:1911 from: till:2192 bar:1921 from: till:2158 bar:1931 from: till:2334 bar:1936 from: till:2190 bar:1951 from: till:2267 bar:1961 from: till:1898 bar:1971 from: till:1468 bar:1981 from: till:1278 bar:1991 from: till:1104 bar:2001 from: till:957 PlotData= bar:1861 at:2905 fontsize:XS text: 2905 shift:(-8,5) bar:1871 at:3028 fontsize:XS text: 3028 shift:(-8,5) bar:1881 at:1925 fontsize:XS text: 1925 shift:(-8,5) bar:1901 at:2002 fontsize:XS text: 2002 shift:(-8,5) bar:1911 at:2192 fontsize:XS text: 2192 shift:(-8,5) bar:1921 at:2158 fontsize:XS text: 2158 shift:(-8,5) bar:1931 at:2334 fontsize:XS text: 2334 shift:(-8,5) bar:1936 at:2190 fontsize:XS text: 2190 shift:(-8,5) bar:1951 at:2267 fontsize:XS text: 2267 shift:(-8,5) bar:1961 at:1898 fontsize:XS text: 1898 shift:(-8,5) bar:1971 at:1468 fontsize:XS text: 1468 shift:(-8,5) bar:1981 at:1278 fontsize:XS text: 1278 shift:(-8,5) bar:1991 at:1104 fontsize:XS text: 1104 shift:(-8,5) bar:2001 at:957 fontsize:XS text: 957 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Dữ liệu từ ISTAT Geosite of Canolo Southern Geologic Area Southern Geologic Area
Canolo
Đô thị tỉnh Reggio Calabria, Đô thị Thành phố trung tâm Reggio Calabria
NGC 7418 là tên của một Thiên hà xoắn ốc trung gian nằm trong chòm sao Thiên Hạc. Vị trí của nó cách Trái Đất khoảng 60 triệu năm ánh sáng. Người phát hiện ra thiên hà này là John Herchel vào ngày 30 tháng năm 1834. NGC 7418 có tâm sáng nằm trong "thanh chắn". Thanh chắn này xuất hiện rất rõ ràng trên ảnh hồng ngoại trong khi chiều dài của bước sóng quang học của nó lại yếu hơn và thấm chí không hề tạo thành thanh chắn. Vòng xoắn ốc của nó bắt nguồn từ hai điểm cuối của thanh chắn. Phần bên trong của NGC 7418 có những điểm nút trong khi phần bên ngoài thì không. Từ điểm nhìn của trái đất, NGC 7418 nghiêng một góc 42 độ. Các nhà nghiên cứu tin rằng phần trung tâm của nó có một Lỗ đen siêu khối lượng. Ước tính khối lượng của lỗ đen ấy khoảng từ đến 15 triệu (106.58 0.59) khối lượng mặt trời. Phần trung tâm của nó còn có một cụm quần tinh rất lớn với khối lượng gần bằng 60 triệu (107.78 0.19) lần khối lượng mặt trời. Sự tồn tại của cụm sao lớn này không phủ nhận sự tồn tại của lỗ đen siêu khối lượng kia, điều này cũng giống như Ngân hà của chúng ta và Thiên hà Tiên Nữ. Những ngôi sao phần trung tâm của NGC 7418 là những ngôi sao trẻ, chưa đầy 100 triệu năm tuổi. Một vụ nổ siêu tân tinh đã được quan sát thiên thế này là SN 1983 bởi L. E. Gonzalez tại núi Cero El Roble, Chile. Vị trí là 11" tây và 52" nam tính từ điểm sáng trung tâm. Vào ngày tháng năm 1983, cấp sao biểu kiến của nó đạt 15.5. Theo như quan sát, đây là thiên hà thuộc chòm sao Thiên Hạc. Dưới đây là một số dữ liệu khác: Xích kinh Độ nghiêng Dịch chuyển đỏ (Redshift) 0.004837 0.000017 Vận tốc xuyên tâm (Tốc độ xuyên tâm) 1,450 km/s Khoảng cách 59.1 8.5 Mly (18.2 2.6 Mpc) Cấp sao biểu kiến 11.0 Loại SAB(rs)cd Kích thước biểu kiến 3′.5 2′.6 NGC 7418 on SIMBAD
NGC 7418
Chòm sao Thiên Hạc