en
stringlengths
1
8.65k
vi
stringlengths
1
3.19k
For eight years, the Prevention of Maternal Mortality (PMM) Network in West Africa designed, implemented and evaluated projects to reduce barriers to care for women with obstetric complications. Many valuable lessons were learned concerning program development and implementation. A multidisciplinary approach enabled the Network to address the various aspects of the problem; collaboration between teams encouraged the sharing of resources and experiences; and collaboration with government and communities enhanced project sustainability. Capacity building through long-term, systematic technical support resulted in a Network of proficient researchers. Existing human and material resources were utilized to enhance the feasibility and sustainability of projects--a strategy that could be adopted in other developing countries. Cost-tracking was used as a management and evaluation tool. The collective experience of the Network offers guidance for program planners and researchers working on maternal mortality in developing countries.
Trong 8 năm, Mạng lưới Phòng ngừa tử vong bà mẹ (PMM) ở Tây Phi đã thiết kế, triển khai và đánh giá các dự án nhằm giảm rào cản chăm sóc phụ nữ bị biến chứng sản khoa. Nhiều bài học quý giá đã học được liên quan đến việc phát triển và thực hiện chương trình. Cách tiếp cận đa ngành cho phép Mạng lưới giải quyết nhiều khía cạnh của vấn đề; sự hợp tác giữa các nhóm khuyến khích chia sẻ tài nguyên và kinh nghiệm; và hợp tác với chính phủ và cộng đồng tăng cường tính bền vững của dự án. Xây dựng năng lực thông qua hỗ
The Prevention of Maternal Mortality (PMM) Network designed and tested projects for reducing maternal deaths. The focus was on improving the availability, quality and utilization of emergency obstetric care (EmOC) for women with serious complications. Teams' projects included interventions in health facilities (to improve skills and services and reduce delays in treatment) and in communities (to address lack of transport, funds and information concerning obstetric complications). The teams' results, reported in this volume, offer several lessons for program planners. Despite difficult conditions in the project countries, the teams demonstrated that it is almost always possible to make improvements in the delivery of EmOC. Their work shows that EmOC can be improved not only by concentrating on hospitals and physicians, but also by focusing on peripheral facilities and other qualified staff. The teams' findings regarding utilization of EmOC suggest that more people utilize services when they know them to be functioning well. Community efforts, including education and mobilization, have a role to play in improving utilization once services are in place. Improving EmOC need not be costly, because in many areas the necessary facilities exist and staff are already in place.
Mạng lưới phòng chống tử vong bà mẹ (PMM) đã thiết kế và thử nghiệm các dự án giảm tử vong bà mẹ. Trọng tâm là cải thiện tính sẵn có, chất lượng và sử dụng dịch vụ sản khoa cấp cứu cho phụ nữ có biến chứng nặng. Các dự án của nhóm bao gồm can thiệp tại các cơ sở y tế (để cải thiện kỹ năng và dịch vụ và giảm sự chậm trễ trong điều trị) và tại cộng đồng (để giải quyết tình trạng thiếu vận chuyển, kinh phí và thông tin liên quan đến biến chứng sản khoa ). Kết quả của nhóm, được báo cáo
The experience of the PMM Network offers several insights for donors seeking to work on maternal mortality, particularly in Africa where the risk of maternal death is highest. First, the projects provide evidence that multidisciplinary operations research can result in the development and implementation of successful, relatively low-cost interventions. In addition, the work of PMM highlights the need for greater donor funding to build and support partnerships--to include researchers, communities and policymakers--that enhance sustainability of efforts. Finally, the work of the teams confirms the benefits of donor commitment to building local capacity.
Kinh nghiệm của mạng lưới PMM cho thấy nhiều nhà tài trợ đang tìm cách giải quyết tử vong bà mẹ, đặc biệt ở châu Phi, nơi có nguy cơ tử vong bà mẹ cao nhất. Đầu tiên, các dự án cung cấp bằng chứng cho thấy nghiên cứu hoạt động đa ngành có thể giúp phát triển và thực hiện thành công các can thiệp chi phí tương đối thấp. Ngoài ra, công việc của PMM nhấn mạnh sự cần thiết của tài trợ nhiều hơn để xây dựng và hỗ trợ các quan hệ đối tác-bao gồm các nhà nghiên cứu, cộng đồng và các nhà hoạch định chính sách
Up to now, the carcinogenicity of a substance, i.e., its cancer-causing effect, has been usually determined with the help of extensive animal testing. The in ovo carcinogenicity assay (IOCA) has been suggested as a rapid and inexpensive, non-animal, method for carcinogenicity testing and for experimental studies on mechanisms of carcinogenesis. The substance to be tested is injected into a fertilized ovum. No later than four days before the hatching date, the embryos are released, and the liver is removed for identifying the effect of hepatocarcinogens. Histological, cytological and molecular biological alterations of the embryonic liver have been induced with a variety of chemical carcinogens. After sufficiently high doses of hepatocarcinogens, tubular structures predominate in the liver and replace the normal trabecular pattern. The cell and nuclear size of the hepatocytes in embryonic liver is severely increased after exposure to chemical carcinogens over a wide dose range including doses that fail to elicit cytotoxicity in the embryonic liver.
Cho đến nay, khả năng gây ung thư của một chất, tức là tác dụng gây ung thư của nó, thường được xác định nhờ sự giúp đỡ của các thử nghiệm trên động vật. Thử nghiệm gây ung thư in ovo (IOCA) đã được đề xuất là phương pháp nhanh chóng và rẻ tiền, không dùng trên động vật để thử nghiệm khả năng gây ung thư và cho các nghiên cứu thực nghiệm về cơ chế gây ung thư. Chất thử nghiệm được tiêm vào trứng đã thụ tinh. Không quá bốn ngày trước ngày trứng nở, phôi được giải phóng và gan được loại bỏ để xác định tác dụng của các chất gây ung thư gan. Sự thay đổi mô học, tế bào học và sinh học phân tử của gan phôi đã được gây ra bởi nhiều loại chất gây ung thư. Sau khi dùng liều đủ cao, cấu trúc ống gan chiếm ưu thế ở gan và thay thế mô hình ba mô bình thường. Kích thước tế bào và kích thước nhân của tế bào gan ở gan phôi tăng nghiêm trọng sau khi tiếp xúc với các chất gây ung thư hóa học trong một liều lượng lớn, bao gồm cả liều không gây độc tế bào ở gan phôi.
We have cloned and characterized a human gene encoding TP2 (telomerase-associated protein 2), a protein with similarity to reverse transcriptases and the catalytic telomerase subunits from Saccharomyces cerevisiae and Euplotes aediculatus. Indirect immunofluorescence revealed that TP2 was localized to the nucleus. Using antibodies to endogenous and epitope-tagged TP2, we found that TP2 was associated specifically with human telomerase activity and the recently identified telomerase-associated protein TP1. Mutation of conserved residues within the reverse transcriptase domain of TP2 severely reduced associated telomerase activity. These results suggest that telomerase is an evolutionarily conserved multisubunit complex composed of both structural and catalytic subunits.
Chúng tôi đã nhân bản và mô tả đặc điểm gen mã hóa TP2 (protein liên quan đếntelomerase 2) ở người, một protein có sự tương đồng với các enzyme phiên mã ngược và các tiểu đơn vị telomerase xúc tác của Saccharomyces cerevisiae và Euplotes aediculatus. Phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp cho thấy TP2 được định vị vào nhân tế bào. Sử dụng kháng thể đối với TP2 nội sinh và mang nhãn hiệu, chúng tôi phát hiện TP2 có liên quan đặc hiệu với hoạt động của tel
Promoter-proximal pausing during transcriptional elongation is an important way of regulating many diverse loci, including the human hsp70 gene. Pausing of RNA polymerase can be enhanced by chromatin structure. We demonstrate that activation of hsp70 leads to disruption of transcribed chromatin in front of RNA polymerase. In vivo, disruption of chromatin in the first 400 bp of the transcribed region of hsp70 following heat shock is resistant to the transcriptional inhibitor alpha-amanitin. Disruption of chromatin farther downstream also occurs following activation but is sensitive to alpha-amanitin, suggesting that polymerase movement is needed to disrupt distal portions of the hsp70 gene. In vitro, disruption of transcribed chromatin is dependent on the presence of the human heat shock factor 1 (HSF1) activation domains. These experiments demonstrate that HSF1 can direct disruption of chromatin in transcribed regions. We suggest that this is one of the mechanisms used by HSF1 to facilitate transcriptional elongation.
Tạm dừng vùng gần trong quá trình kéo dài phiên mã là một cách quan trọng để điều hòa nhiều vùng khác nhau, trong đó có gen hsp70 ở người. Việc tạm dừng RNA polymerase có thể được tăng cường bởi cấu trúc chromatin. Chúng tôi chứng minh rằng sự kích hoạt hsp70 dẫn đến sự phá vỡ chất nhiễm sắc phiên mã ở phía trước RNA polymerase. Trong cơ thể sống, sự phá vỡ chất nhiễm sắc ở 400 bp đầu tiên của vùng hsp70 sau sốc nhiệt có khả năng kháng chất ức chế phiên mã alpha-amanit
Upon infection of human cells, the herpes simplex virus protein VP16 associates with the endogenous cell-proliferation factor HCF. VP16 can also associate with HCFs from invertebrates, suggesting that VP16 mimics a cellular protein whose interaction with HCF has been conserved. Here, we show that VP16 mimics the human basic leucine-zipper protein LZIP, which, through association with HCF, may control cell-cycle progression. VP16 and LZIP share a tetrapeptide motif-D/EHXY-used to associate with human HCF. The LZIP-related Drosophila protein BBF-2/dCREB-A contains this HCF-binding motif, indicating that the LZIP-HCF interaction has been conserved during metazoan evolution.
Khi nhiễm tế bào người, protein virus herpes simplex VP16 liên kết với yếu tố phát triển tế bào nội sinh HCF. VP16 cũng có thể liên kết với các HCF từ động vật không xương sống, cho thấy VP16 bắt chước một protein tế bào có tương tác với HCF đã được bảo tồn. Ở đây, chúng tôi chỉ ra rằng VP16 bắt chước protein LZIP-zipper cơ bản của con người, thông qua liên kết với HCF, có thể kiểm soát sự tiến triển chu kỳ tế bào. V
In mice, the imprinted Igf2 gene (expressed from the paternal allele), which encodes a growth-promoting factor (IGF-II), is linked closely to the reciprocally imprinted H19 locus on chromosome 7. Also imprinted (expressed from the maternal allele) is the Igf2r gene on chromsome 17 encoding the type 2 IGF receptor that is involved in degradation of excess IGF-II. Double mutant embryos carrying a deletion around the H19 region and also a targeted Igf2r allele, both inherited maternally, have extremely high levels of IGF-II (7- and 11-fold higher than normal in tissues and serum, respectively) as a result of biallelic Igf2 expression (imprint relaxation by deletion of H19-associated sequence) in combination with lack of the IGF2R-mediated IGF-II turnover. This excess of IGF-II causes somatic overgrowth, visceromegaly, placentomegaly, omphalocele, and cardiac and adrenal defects, which are also features of the Beckwith-Wiedemann syndrome (BWS), a genetically complex human disorder associated with chromosomal abnormalities in the 11p15.5 region where the IGF2 gene resides. In addition, the double mutant mouse embryos exhibit skeletal defects and cleft palate, which are manifestations observed frequently in the Simpson-Golabi-Behmel syndrome, another overgrowth disorder overlapping phenotypically, but not genetically, with BWS.
Ở chuột nhắt trắng, gen Igf2 in dấu (biểu hiện từ alen ở người cha) mã hóa một yếu tố thúc đẩy tăng trưởng (IGF-II) có mối liên hệ chặt chẽ với locus H19 in dấu đối ứng trên nhiễm sắc thể 7. Gen Igf2r in dấu trên nhiễm sắc thể 17 mã hóa thụ thể IGF type 2 có liên quan đến sự suy giảm IGF-II dư thừa. Phôi hai mang gen IGF-II bị xóa xung quanh vùng H19 và một alen Igf2r nhắm mục tiêu, cả hai đều có mức IGF-II rất cao (cao hơn 7 lần và 11 lần so với bình thường trong mô và huyết thanh) do sự biểu hiện Igf2 qua trung gian IGF-II. Sự dư thừa IGF-II này gây ra sự phát triển quá mức ở thể soma, thể tạng, nhau thai, hạch bạch huyết, và các khuyết tật về tim và thượng thận, là những đặc điểm của hội chứng Beckwith-Wiedemann (BWS ), một rối loạn di truyền phức tạp ở người liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể ở vùng 11p15.5 nơi chứa gen IGF2. Ngoài ra, phôi chuột đột biến kép có các khuyết tật về xương và hở vòm miệng, biểu hiện thường thấy trong hội chứng Simpson-Golabi-Behmel, một rối loạn phát triển quá mức khác có sự trùng lặp về kiểu hình nhưng không liên quan đến BWS.
Previous studies suggest that plectin, a versatile cytoskeletal linker protein, has an important role in maintaining the structural integrity of diverse cells and tissues. To establish plectin's function in a living organism, we have disrupted its gene in mice. Plectin (-/-) mice died 2-3 days after birth exhibiting skin blistering caused by degeneration of keratinocytes. Ultrastructurally, hemidesmosomes and desmosomes appeared unaffected. In plectin-deficient mice, however, hemidesmosomes were found to be significantly reduced in number and apparently their mechanical stability was altered. The skin phenotype of these mice was similar to that of patients suffering from epidermolysis bullosa simplex (EBS)-MD, a hereditary skin blistering disease with muscular dystrophy, caused by defects in the plectin gene. In addition, plectin (-/-) mice revealed abnormalities reminiscent of minicore myopathies in skeletal muscle and disintegration of intercalated discs in heart. Our results clearly demonstrate a general role of plectin in the reinforcement of mechanically stressed cells. Plectin (-/-) mice will provide a useful tool for the study of EBS-MD, and possibly other types of plectin-related myopathies involving skeletal and cardiac muscle, in an organism amenable to genetic manipulation.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy plectin, một protein liên kết đa năng của khung xương tế bào, có vai trò quan trọng trong việc duy trì tính toàn vẹn cấu trúc của các tế bào và mô đa dạng. Để xác định chức năng của plectin trong một sinh vật sống, chúng tôi đã phá vỡ gen của nó ở chuột nhắt trắng. Chuột chết sau sinh 2-3 ngày biểu hiện phồng rộp da do thoái hóa tế bào keratinocyte. Về mặt cơ sở hạ tầng, thể bán liên kết và thể liên kết có vẻ không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, ở chuột thiếu plectin, thể bán liên kết giảm đáng kể về số lượng và rõ ràng là sự ổn định cơ học của chúng đã bị thay đổi. Kiểu hình da của những con chuột này tương tự như bệnh nhân bị bong tróc biểu bì bullosa đơn giản (EBS) - MD, một bệnh phồng rộp da di truyền với chứng loạn dưỡng cơ do các khiếm khuyết của gen plectin. Ngoài ra, plectin (-/-) chuột thể hiện những bất thường giống như bệnh myopatore nhỏ ở cơ xương và sự tan rã của đĩa đệm trong tim. Kết quả của chúng tôi cho thấy vai trò chung của plectin trong việc củng cố các tế bào bị stress cơ học. Plectin (-/-) chuột sẽ là một công cụ hữu ích cho nghiên cứu bệnh EBS-MD và có thể là các loại bệnh liên quan đến plectin khác liên quan đến cơ xương và cơ tim ở một sinh vật có thể điều khiển được bằng các thao tác di truyền.
Upon ligand binding, the receptors of the TGFbeta family phosphorylate Smad proteins, which then move into the nucleus where they activate transcription. To carry out this function, the receptor-activated Smads 1 and 2 require association with the product of deleted in pancreatic carcinoma, locus 4 (DPC4), Smad4. We investigated the step at which Smad4 is required for transcriptional activation. Smad4 is not required for nuclear translocation of Smads 1 or 2, or for association of Smad2 with a DNA binding partner, the winged helix protein FAST-1. Receptor-activated Smad2 takes Smad4 into the nucleus where they form a complex with FAST-1 that requires these three components to activate transcription. Smad4 contributes two functions: Through its amino-terminal domain, Smad4 promotes binding of the Smad2/Smad4/FAST-1 complex to DNA; through its carboxy-terminal domain, Smad4 provides an activation function required for Smad1 or Smad2 to stimulate transcription. The dual function of Smad4 in transcriptional activation underscores its central role in TGFbeta signaling.
Khi liên kết phối tử, các thụ thể của protein phosphat Smad thuộc họ TGFbeta sẽ di chuyển vào nhân tế bào, kích hoạt phiên mã. Để thực hiện chức năng này, Smads 1 và 2 được kích hoạt bởi thụ thể đòi hỏi phải kết hợp với sản phẩm đã bị loại bỏ trong ung thư biểu mô tuyến tụy, locus 4 (DPC4) Smad4. Chúng tôi đã nghiên cứu bước cần thiết để Smad4 hoạt hóa phiên mã. Smad4 không cần thiết cho sự chuyển vị hạt nhân của Smads 1 hoặc 2, hoặc cho
The induction of neurite outgrowth by NGF is a transcription-dependent process in PC12 cells, but the transcription factors that mediate this process are not known. Here we show that the bHLH transcriptional repressor HES-1 is a mediator of this process. Inactivation of endogenous HES-1 by forced expression of a dominant-negative protein induces neurite outgrowth in the absence of NGF and increases response to NGF. In contrast, expression of additional wild-type HES-1 protein represses and delays response to NGF. Endogenous HES-1 DNA-binding activity is post-translationally inhibited during NGF signaling in vivo, and phosphorylation of PKC consensus sites in the HES-1 DNA-binding domain inhibits DNA binding by purified HES-1 in vitro. Mutation of these sites generates a constitutively active protein that strongly and persistently blocks response to NGF. These results suggest that post-translational inhibition of HES-1 is both essential for and partially mediates the induction of neurite outgrowth by NGF signaling.
Sự phát triển của tế bào thần kinh do NGF là một quá trình phụ thuộc phiên mã ở tế bào PC12, nhưng các yếu tố phiên mã làm trung gian cho quá trình này vẫn chưa được biết. Ở đây, chúng tôi chỉ ra rằng chất ức chế phiên mã bHLH HES-1 là chất trung gian của quá trình này. Sự bất hoạt của HES-1 nội sinh bằng cách buộc biểu hiện một protein âm tính trội gây ra sự phát triển của tế bào thần kinh trong trường hợp không có NGF và làm tăng phản ứng với NGF
Mutations that influence lin-12 activity in Caenorhabditis elegans may identify conserved factors that regulate the activity of lin-12/Notch proteins. We describe genetic evidence indicating that sel-10 is a negative regulator of lin-12/Notch-mediated signaling in C. elegans. Sequence analysis shows that SEL-10 is a member of the CDC4 family of proteins and has a potential human ortholog. Coimmunoprecipitation data indicate that C. elegans SEL-10 complexes with LIN-12 and with murine Notch4. We propose that SEL-10 promotes the ubiquitin-mediated turnover of LIN-12/Notch proteins, and discuss potential roles for the regulation of lin-12/Notch activity by sel-10 in cell fate decisions and tumorigenesis.
Đột biến ảnh hưởng đến hoạt động của lin-12 trong vi khuẩn Caenorhabditis elegans có thể xác định các yếu tố bảo tồn điều hòa hoạt động của protein lin-12/Notch. Chúng tôi mô tả bằng chứng di truyền chỉ ra rằng sel-10 là chất điều hòa âm tính của tín hiệu trung gian lin-12/Notch trong vi khuẩn C.elegans. Phân tích trình tự cho thấy SEL-10 là thành viên của họ protein CDC4 và có tiềm năng hình thái trực giao ở người. Dữ
The Arabidopsis gai mutant allele confers a reduction in gibberellin (GA) responsiveness. Here we report the molecular cloning of GAI and a closely related gene GRS. The predicted GAI (wild-type) and gai (mutant) proteins differ only by the deletion of a 17-amino-acid segment from within the amino-terminal region. GAI and GRS contain nuclear localization signals, a region of homology to a putative transcription factor, and motifs characteristic of transcriptional coactivators. Genetic analysis indicates that GAI is a repressor of GA responses, that GA can release this repression, and that gai is a mutant repressor that is relatively resistant to the effects of GA. Mutations at SPY and GAR2 suppress the gai phenotype, indicating the involvement of GAI, SPY, and GAR2 in a signaling pathway that regulates GA responses negatively. The existence of this pathway suggests that GA modulates plant growth through derepression rather than through simple stimulation.
Alen đột biến Arabidopsis gai làm giảm đáp ứng gibberellin (GA ). Ở đây, chúng tôi báo cáo về sự nhân bản phân tử của GAI và một gen có quan hệ gần gũi với GRS. Các protein GAI (loại hoang dã) và gai (đột biến) được dự đoán chỉ khác nhau ở chỗ đoạn 17-amino-acid bị xóa khỏi vùng đầu cuối amino. GAI và GRS chứa các tín hiệu định vị hạt nhân, một vùng tương đồng với yếu tố phiên mã giả định và các motif
This study explores signal transduction pathways that function during mating and infection in the opportunistic, human fungal pathogen Cryptococcus neoformans. The gene encoding a G-protein alpha subunit homolog, GPA1, was disrupted by homologous recombination. The gpa1 mutant strain was viable but exhibited a defect in mating in response to nitrogen starvation. Additionally, the gpa1 mutant strain failed to induce two well-established virulence factors-melanin synthesis, in response to glucose starvation; and capsule production, in response to iron limitation. As a consequence, virulence of the gpa1 mutant strain was significantly attenuated in an animal model of cryptococcal meningitis. Reintroduction of the wild-type GPA1 gene complemented the gpa1 mutant phenotypes and restored mating, melanin and capsule production, and virulence. Similarly, exogenous cAMP also suppressed the gpa1 mutant phenotypes, restoring mating and production of melanin and capsule. These observations support a model in which GPA1 has a role in sensing diverse environmental signals required for mating and virulence by regulating cAMP metabolism in C. neoformans.
Nghiên cứu này khảo sát các đường dẫn truyền tín hiệu hoạt động trong quá trình giao phối và nhiễm trùng ở vi nấm cơ hội Cryptococcus neoformans ở người. Gen mã hóa cho tiểu đơn vị alpha của protein G, GPA1, bị phá vỡ bởi sự tái tổ hợp tương đồng. Chủng đột biến GPA1 là khả thi nhưng thể hiện một khiếm khuyết trong giao phối do đáp ứng với đói nitơ. Ngoài ra, chủng đột biến GPA1 không thể tạo ra hai yếu tố độc lực đã được thiết lập tốt-tổng hợp melanin, đáp ứng với
Genetic analysis was applied to identify novel genes involved in G protein-linked pathways controlling development. Using restriction enzyme-mediated integration (REMI), we have identified a new gene, Pianissimo (PiaA), involved in cAMP signaling in Dictyostelium discoideum. PiaA encodes a 130-kD cytosolic protein required for chemoattractant receptor and G protein-mediated activation of the 12 transmembrane domain adenylyl cyclase. In piaA- null mutants, neither chemoattractant stimulation of intact cells nor GTPgammaS treatment of lysates activates the enzyme; constitutive expression of PiaA reverses these defects. Cytosols of wild-type cells that contain Pia protein reconstitute the GTPgammaS stimulation of adenylyl cyclase activity in piaA- lysates, indicating that Pia is directly involved in the activation. Pia and CRAC, a previously identified cytosolic regulator, are both essential for activation of the enzyme as lysates of crac- piaA- double mutants require both proteins for reconstitution. Homologs of PiaA are found in Saccharomyces cerevisiae and Schizosaccaromyces pombe; disruption of the S. cerevisiae homolog results in lethality. We propose that homologs of Pia and similar modes of regulation of these ubiquitous G protein-linked pathways are likely to exist in higher eukaryotes.
Nghiên cứu di truyền học đã được áp dụng để xác định các gen mới liên quan đến các con đường liên kết protein G kiểm soát sự phát triển. Sử dụng phương pháp tích hợp enzyme trung gian giới hạn (REMI ), chúng tôi đã xác định được một gen mới, Pianissimo (PiaA) liên quan đến tín hiệu cAMP trong Dictyostelium discoideum. PiaA mã hóa một protein cytosolic 130 kD cần thiết cho thụ thể hóa trị và kích hoạt qua trung gian protein G của 12 miền xuyên màng adeny
African trypanosomes such as Trypanosoma brucei undergo antigenic variation in the bloodstream of their mammalian hosts by regularly changing the variant surface glycoprotein (VSG) gene expressed. The transcribed VSG gene is invariably located in a telomeric expression site. There are multiple expression sites and one way to change the VSG gene expressed is by activating a new site and inactivating the previously active one. The mechanisms that control expression site switching are unknown, but have been suggested to involve epigenetic regulation. We have found previously that VSG genes in silent (but not active) expression sites contain modified restriction endonuclease cleavage sites, and we have presented circumstantial evidence indicating that this is attributable to the presence of a novel modified base beta-D-glucosyl-hydroxymethyluracil, or J. To directly test this, we have generated antisera that specifically recognize J-containing DNA and have used these to determine the precise location of this modified thymine in the telomeric VSG expression sites. By anti J-DNA immunoprecipitations, we found that J is present in telomeric VSG genes in silenced expression sites and not in actively transcribed telomeric VSG genes. J was absent from inactive chromosome-internal VSG genes. DNA modification was also found at the boundaries of expression sites. In the long 50-bp repeat arrays upstream of the promoter and in the telomeric repeat arrays downstream of the VSG gene, J was found both in silent and active expression sites. This suggests that silencing results in a gradient of modification spreading from repetitive DNA flanks into the neighboring expression site sequences. In this paper, we discuss the possible role of J in silencing of expression sites.
Các trypanosome châu Phi như Trypanosoma brucei có sự biến đổi kháng nguyên trong máu của vật chủ là động vật có vú bằng cách thường xuyên thay đổi biểu hiện gen glycoprotein bề mặt (VSG ). Gen VSG phiên mã nằm ở vị trí biểu hiện telomeric. Có nhiều vị trí biểu hiện và một cách để thay đổi gen VSG là kích hoạt một vị trí mới và làm bất hoạt vị trí hoạt động trước đó. Cơ chế kiểm soát sự chuyển đổi vị trí biểu hiện vẫn chưa được biết rõ, nhưng đã được đề xuất có liên quan đến sự điều hòa biểu sinh. Trước đây, chúng tôi đã phát hiện các gen VSG ở các vị trí biểu hiện im lặng (nhưng không hoạt động) chứa các vị trí phân cắt endonuclease bị hạn chế đã biến đổi, và chúng tôi đã trình bày bằng chứng gián tiếp chỉ ra rằng điều này có thể là do sự hiện diện của một cơ sở mới beta-D-glucosyl-hydroxymethyluracil hay J. Để kiểm tra trực tiếp điều này, chúng tôi đã tạo ra kháng thể đặc biệt nhận ra gen J ở các vị trí biểu hiện im lặng chứ không phải ở các gen VSG được phiên mã chủ động. J không có mặt trong các gen VSG nội nhiễm sắc thể không hoạt động. Sự biến đổi DNA cũng được tìm thấy ở ranh giới của các vị trí biểu hiện. Trong các chuỗi lặp 50bp dài ở phía trên của promoter và ở các chuỗi lặp telomeric ở phía dưới của gen VSG, J được tìm thấy ở cả hai vị trí biểu hiện im lặng và hoạt động. Điều này cho thấy sự im lặng dẫn đến một sự biến đổi lan truyền từ các sườn DNA lặp đi lặp lại vào các chuỗi biểu hiện lân cận. Trong bài báo này, chúng tôi thảo luận về vai trò có thể có của J trong sự im lặng của các vị trí biểu hiện.
Discs large (Dlg) was the first identified member of an increasingly important class of proteins called membrane-associated guanylate kinase homologs (MAGUKs), which are often concentrated at cell junctions and contain distinct peptide domains named PDZ1-3, SH3, HOOK, and GUK. Dlg is localized at and required for the formation of both septate junctions in epithelial cells and synaptic junctions in neurons. In the absence of Dlg, epithelia lose their organization and overgrow. We tested the functions of each domain of Dlg in vivo by constructing transgenic flies expressing altered forms of the protein. In the first set of experiments each domain was examined for its ability to correctly target an epitope-tagged Dlg to pre-existing septate junctions. Based on these results the Hook domain is necessary for localization of the protein to the cell membrane and the PDZ2 is required for restricting the protein to the septate junction. In the second set of experiments each domain was tested for its role in growth regulation and organization of epithelial structure. These results show that PDZ1 and GUK are apparently dispensable for function, PDZ2 and PDZ3 are required for growth regulation but not for epithelial structure, and SH3 and HOOK are essential for both aspects of function. The results demonstrate the functional modularity of Dlg and clarify the functions of individual MAGUK domains in regulating the structure and growth of epithelial tissue.
Đĩa lớn (Dlg) là thành viên đầu tiên được xác định của một nhóm protein ngày càng quan trọng được gọi là tương đồng guanylate kinase liên kết màng (MAGUKs ), thường tập trung ở các mối nối tế bào và chứa các miền peptide riêng biệt có tên PDZ1-3, SH3, HOOK và GUK. Dlg được định vị tại và cần thiết cho sự hình thành cả hai mối nối vách trong tế bào biểu mô và mối nối synap trong tế bào thần kinh. Khi không có Dlg, biểu
Patterning of the compound eye begins at the posterior edge of the eye imaginal disc and progresses anteriorly toward the disc margin. The advancing front of ommatidial differentiation is marked by the morphogenetic furrow (MF). Here we show by clonal analysis that Hedgehog (Hh), secreted from two distinct populations of cells has two distinct functions: It was well documented that Hh expression in the differentiating photoreceptor cells drives the morphogenetic furrow. Now we show that, in addition, Hh, secreted from cells at the posterior disc margin, is absolutely required for the initiation of patterning and predisposes ommatidial precursor cells to enter ommatidial assembly later. These two functions of Hh in eye patterning are similar to the biphasic requirement for Sonic Hh in patterning of the ventral neural tube in vertebrates. We show further that Hh induces ommatidial development in the absence of its secondary signals Wingless (Wg) and Dpp and that the primary function of Dpp in MF initiation is the repression of wg, which prevents ommatidial differentiation. Our results show that the regulatory relationships between Hh, Dpp, and Wg in the eye are similar to those found in other imaginal discs such as the leg disc despite obvious differences in their modes of development.
Sự tạo hình của mắt hợp chất bắt đầu ở rìa sau của đĩa tưởng tượng và tiến triển dần dần về phía rìa đĩa. Phía trước của sự phân hóa thể mờ (ommatidial dicrospherebung) được đánh dấu bằng đường rãnh hình thái di truyền (MF ). Bằng cách phân tích vô tính ở đây chúng tôi chỉ ra rằng Hedgehog (Hh) được tiết ra từ hai quần thể tế bào riêng biệt có hai chức năng riêng biệt: đã được chứng minh là biểu hiện củaHh trong các tế bào cảm quang (photoreceptor cell) điều khiển đường rãnh hình thái di truyền. Bây giờ chúng tôi chỉ ra rằng, ngoài việc tiết raHh, được tiết ra từ các tế bào ở rìa đĩa sau, là tuyệt đối cần thiết cho sự khởi đầu của sự tạo hình và đặt các tế bào tiền thân hình mờ vào trong sự hình thành thể mờ sau này. Hai chức năng này củaHh trong tạo hình mắt tương tự như yêu cầu hai pha củaHh ở hình thái ống thần kinh thất ở động vật có xương sống. Chúng tôi cũng chỉ ra rằngHh tạo hình thể mờ khi không có tín hiệu thứ cấp làWg và Dpp và chức năng chính của Dpp trong sự khởi đầu của MF là sự ức chế của giảobào, điều này ngăn cản sự phân hóa thể mờ. Kết quả của chúng tôi cho thấy mối quan hệ điều hòa giữaHh, Dpp và Wg trong mắt tương tự như mối quan hệ được tìm thấy trong các đĩa tưởng tượng khác như đĩa chân mặc dù có sự khác biệt rõ ràng về cách thức phát triển của chúng.
The Drosophila Ras1 gene is required for proper cell fate specification throughout development, and the loss-of-function phenotype of Ras1 suggests an additional role in cell proliferation or survival. A direct role for RAS1 in promoting cell proliferation, however, has not been established. We show that expression of an activated form of RAS1 (RAS1V12) during Drosophila imaginal disc development is sufficient to drive ectopic cell proliferation and hyperplastic tissue growth. In addition, expression of RAS1V12 induces widespread cell death in the imaginal discs, including cells not expressing the transgene, which results in ablation of adult structures. Loss-of-function mutations in the genes encoding RAF, MEK, MAPK and KSR dominantly suppress RAS1V12-induced cell proliferation. Furthermore, two RAS effector loop mutations (E37G and Y40C) that block the RAS-RAF interaction, also suppress RAS1V12-induced proliferation, consistent with a requirement for the MAPK cascade during the RAS1 mitogenic response. These two RAS effector loop mutants, however, retain some activity and can act synergistically with a MAPK gain-of-function mutation, suggesting that RAS1 may also act through signaling pathway(s) distinct from the MAPK cascade.
Gen Ras1 của ruồi giấm là cần thiết cho sự xác định số phận tế bào thích hợp trong suốt quá trình phát triển, và kiểu hình mất chức năng của Ras1 cho thấy vai trò bổ sung trong sự tăng sinh hoặc sống sót của tế bào. Tuy nhiên, vai trò trực tiếp của RAS1 trong việc thúc đẩy sự tăng sinh tế bào vẫn chưa được xác định. Chúng tôi cho thấy sự biểu hiện của một dạng hoạt hóa của RAS1 (RAS1V12) trong quá trình phát triển đĩa tưởng tượng của ruồi giấm là đủ để thúc đẩy sự tăng
The mesoderm of Xenopus laevis arises through an inductive interaction in which signals from the vegetal hemisphere of the embryo act on overlying equatorial cells. One candidate for an endogenous mesoderm-inducing factor is activin, a member of the TGFbeta superfamily. Activin is of particular interest because it induces different mesodermal cell types in a concentration-dependent manner, suggesting that it acts as a morphogen. These concentration-dependent effects are exemplified by the response of Xbra, expression of which is induced in ectodermal tissue by low concentrations of activin but not by high concentrations. Xbra therefore offers an excellent paradigm for studying the way in which a morphogen gradient is interpreted in vertebrate embryos. In this paper we examine the trancriptional regulation of Xbra2, a pseudoallele of Xbra that shows an identical response to activin. Our results indicate that 381 bp 5' of the Xbra2 transcription start site are sufficient to confer responsiveness both to FGF and, in a concentration-dependent manner, to activin. We present evidence that the suppression of Xbra expression at high concentrations of activin is mediated by paired-type homeobox genes such as goosecoid, Mix.1, and Xotx2.
Vùng trung bì của Xenopus laevis phát sinh thông qua tương tác quy nạp, trong đó các tín hiệu từ bán cầu sinh dưỡng của phôi tác động lên các tế bào xích đạo nằm phía trên. Một ứng cử viên cho yếu tố gây ra vùng trung bì nội sinh là activin, một thành viên của siêu họ TGFbeta. Activin được đặc biệt quan tâm vì nó gây ra các loại tế bào trung bì khác nhau theo cách phụ thuộc nồng độ, cho thấy nó hoạt động như một hình thái. Những hiệu ứng phụ thuộc nồng độ này được minh họa bằng phản ứng của Xbra
A mature inner ear is a complex labyrinth containing multiple sensory organs and nonsensory structures in a fixed configuration. Any perturbation in the structure of the labyrinth will undoubtedly lead to functional deficits. Therefore, it is important to understand molecularly how and when the position of each inner ear component is determined during development. To address this issue, each axis of the otocyst (embryonic day 2.5, E2.5, stage 16-17) was changed systematically at an age when axial information of the inner ear is predicted to be fixed based on gene expression patterns. Transplanted inner ears were analyzed at E4.5 for gene expression of BMP4 (bone morphogenetic protein), SOHo-1 (sensory organ homeobox-1), Otx1 (cognate of Drosophila orthodenticle gene), p75NGFR (nerve growth factor receptor) and Msx1 (muscle segment homeobox), or at E9 for their gross anatomy and sensory organ formation. Our results showed that axial specification in the chick inner ear occurs later than expected and patterning of sensory organs in the inner ear was first specified along the anterior/posterior (A/P) axis, followed by the dorsal/ventral (D/V) axis. Whereas the A/P axis of the sensory organs was fixed at the time of transplantation, the A/P axis for most non-sensory structures was not and was able to be re-specified according to the new axial information from the host. The D/V axis for the inner ear was not fixed at the time of transplantation. The asynchronous specification of the A/P and D/V axes of the chick inner ear suggests that sensory organ formation is a multi-step phenomenon, rather than a single inductive event.
Tai trong trưởng thành là một mê cung phức tạp chứa nhiều cơ quan cảm giác và cấu trúc phi cảm giác trong một cấu hình cố định. Bất kỳ sự xáo trộn nào trong cấu trúc của mê cung chắc chắn sẽ dẫn đến những thiếu hụt chức năng. Do đó, điều quan trọng là phải hiểu được vị trí của từng thành phần tai trong được xác định như thế nào và khi nào trong quá trình phát triển. Để giải quyết vấn đề này, mỗi trục của tai trong (nốt ngày 2.5, E2.5, giai đoạn 16-17) đã được thay đổi một cách có hệ thống ở độ tuổi khi thông tin trục của tai trong được dự đoán là cố định dựa trên mô hình biểu hiện gen. Tai trong cấy ghép được phân tích ở E4.5 cho biểu hiện gen của BMP4 (protein hình thái xương) và SOHo-1 (nội ô cơ quan cảm giác-1); Otx1 (nhận biết gen orthodenticle Drosophila); p75NGFR (thụ thể yếu tố tăng trưởng thần kinh); và Msx1 (nội ô đoạn cơ); hoặc ở E9 cho sự hình thành cơ quan cảm giác. Kết quả của chúng tôi cho thấy, đặc điểm trục của tai trong ở gà con xảy ra muộn hơn dự kiến và đặc điểm khuôn mẫu của cơ quan cảm giác tai trong được xác định dọc theo trục trước/sau (A/P) và sau đó là trục lưng/thống thất (D/V ). Trong khi trục A/P của cơ quan cảm giác được cố định tại thời điểm cấy ghép, trục A/P của hầu hết các cấu trúc phi cảm giác không được cố định và có thể được xác định lại theo thông tin trục mới từ vật chủ. Trục D/V của tai trong không cố định tại thời điểm cấy ghép. Đặc điểm không đồng bộ của trục A/P và trục D/V của tai trong gà con cho thấy sự hình thành cơ quan cảm giác là một hiện tượng đa bước, chứ không phải là một sự kiện quy nạp đơn lẻ.
DeltaEF1 is a DNA binding protein containing a homeodomain and two zinc finger clusters, and is regarded as a vertebrate homologue of zfh-1 (zinc finger homeodomain-containing factor-1) in Drosophila. In the developing embryo, deltaEF1 is expressed in the notochord, somites, limb, neural crest derivatives and a few restricted sites of the brain and spinal cord. To elucidate the regulatory function of deltaEF1 in mouse embryogenesis, we generated deltaEF1 null mutant (deltaEF1null(lacZ)) mice. The deltaEF1null(lacZ) homozygotes developed to term, but never survived postnatally. In addition to severe T cell deficiency of the thymus, the deltaEF1null(lacZ) homozygotes exhibited skeletal defects of various lineages. (1) Craniofacial abnormalities of neural crest origin: cleft palate, hyperplasia of Meckel's cartilage, dysplasia of nasal septum and shortened mandible. (2) Limb defects: shortening and broadening of long bones, fusion of carpal/tarsal bone and fusion of joints. (3) Fusion of ribs. (4) Sternum defects: split and asymmetric ossification pattern of the sternebrae associated with irregular sternocostal junctions. (5) Hypoplasia of intervertebral discs. These results indicate that deltaEF1 has an essential role in regulating development of these skeletal structures. Since the skeletal defects were not observed in deltaEF1deltaC727 mice, deltaEF1 bears distinct regulatory activities which are dependent on different domains of the molecule.
DeltaEF1 là protein liên kết DNA chứa một nhóm đồng vận và hai cụm ngón tay kẽm, được coi là một yếu tố đồng vận của động vật có xương sống zfh-1 (yếu tố đồng vận ngón tay kẽm-1) ở ruồi giấm. Trong giai đoạn phôi phát triển, deltaEF1 biểu hiện ở dây sống, cơ thể, chi, dẫn xuất mào thần kinh và một số vị trí hạn chế của não và tủy sống. Để làm sáng tỏ chức năng điều hòa của deltaEF1 trong quá trình hình thành phôi chuột, chúng tôi đã tạo ra các chuột có đột biến deltaEF1 null (deltaEF1null (lacZ) ). Các đồng hợp tử delta phát triển đến giai đoạn cuối nhưng không bao giờ sống sót sau khi sinh. Ngoài sự thiếu hụt tế bào T trầm trọng của tuyến ức, các đồng hợp tử deltaEF1null (lacZ) còn biểu hiện các khuyết tật về xương của nhiều dòng khác nhau. (1) Các bất thường về xương sọ có nguồn gốc mào thần kinh: hở vòm miệng, tăng sản sụn Meckel, loạn sản vách ngăn mũi và ngắn xương hàm dưới. (2) Khiếm khuyết chi: ngắn và mở rộng các xương dài, hợp nhất xương cổ tay/xương cổ tay và hợp nhất các khớp. (3) Hợp nhất xương sườn. (4) Khiếm khuyết về xương ức: xương cùng cụt bị tách rời và không đối xứng. (5) Mất sản sinh xương của đĩa đệm. Những kết quả này cho thấy deltaEF1 có vai trò thiết yếu trong điều hòa sự phát triển của các cấu trúc xương này. Do các khiếm khuyết về xương không được quan sát thấy ở chuột deltaEF1deltaC727, nên deltaEF1 mang các hoạt động điều hòa riêng biệt phụ thuộc vào các miền khác nhau của phân tử.
The inner ear develops from the otic vesicle, a one-cell-thick epithelium, which eventually transforms into highly complex structures including the sensory organs for balance (vestibulum) and hearing (cochlea). Several mouse inner ear mutations with hearing and balance defects have been described but for most the underlying genes have not been identified, for example, the genes controlling the development of the vestibular organs. Here, we report the inactivation of the homeobox gene, Nkx5-1, by homologous recombination in mice. This gene is expressed in vestibular structures throughout inner ear development. Mice carrying the Nkx5-1 null mutation exhibit behavioural abnormalities that resemble the typical hyperactivity and circling movements of the shaker/waltzer type mutants. The balance defect correlates with severe malformations of the vestibular organ in Nkx5-1(-/-) mutants, which fail to develop the semicircular canals. Nkx5-1 is the first ear-specific molecule identified to play a crucial role in the formation of the mammalian vestibular system.
Tai trong phát triển từ túi tai, một biểu mô dày một tế bào, cuối cùng biến đổi thành các cấu trúc phức tạp bao gồm các cơ quan cảm giác cho sự cân bằng (vòi tai) và thính giác (vòi tai).
Mutation of the Unc5h3 (formally known as rcm) gene has important consequences on neuronal migration during cerebellar development. Unc5h3 transcripts are expressed early (embryonic day 8.5) in the hindbrain region and later in the cerebellar primordia. In Unc5h3 mutant embryos, both the development and initial migration of Purkinje cell progenitors occur as in wild-type controls. The rhombic lip, from which granule cell precursors arise, also appears to form normally in mutants. However, at E13.5, an abnormal subpopulation of granule cell and Purkinje cell precursors becomes detectable in rostral areas of the Unc5h3 mutant brain stem. These ectopic cerebellar cells increase in number and continue moving in a rostral direction throughout the remainder of embryogenesis and early stages of postnatal development invading the lateral regions of the pontine area and eventually the inferior colliculus. Cell proliferation markers demonstrate the mitotic nature of these subpial ectopic granule neurons indicating the displacement of the rostral external germinal layer in mutant animals. Our data suggest that establishment of the rostral cerebellar boundary may rely on chemorepulsive signaling events that require UNC5H3 expressed by cerebellar neurons and extracellular ligands that are functionally related to the UNC5H3-binding, guidance molecule netrin1. Although the phenotype resulting from the Unc5h3 mutation is apparently limited to the formation of the cerebellum, additional sites of Unc5h3 expression are also found during development suggesting the compensatory function of other genes.
Đột biến trên gen Unc5h3 (được biết đến với tên gọi rcm) gây ra những hậu quả quan trọng đối với sự di chuyển tế bào thần kinh trong quá trình phát triển tiểu não. Biểu hiện của gen Unc5h3 thể hiện sớm (embryonic day 8.5) ở vùng não sau và sau đó ở tiểu não nguyên thủy. Ở phôi đột biến Unc5h3, sự phát triển và di chuyển ban đầu của tế bào tiền thân tế bào Purkinje xảy ra như ở nhóm chứng. Môi hình thoi, nơi tiền thân tế bào hạt phát sinh, cũng hình thành bình thường ở các đột biến. Tuy nhiên, tại E13.5, một tiểu quần thể tế bào hạt và tiền thân tế bào Purkinje bất thường có thể phát hiện được ở vùng bụng dưới của thân não đột biến Unc5h3. Các tế bào ngoại bào tiểu não tăng số lượng và tiếp tục di chuyển theo hướng bụng dưới trong suốt thời gian còn lại của quá trình phát triển phôi và giai đoạn đầu của quá trình phát triển sau sinh, xâm lấn vào các vùng bên của vùng cầu não và cuối cùng là vùng thân dưới. Các dấu hiệu tăng sinh tế bào cho thấy bản chất nguyên phân của các tế bào ngoại bào hạt dưới niêm mạc này cho thấy sự dịch chuyển của lớp mầm bên ngoài vỏ não ở động vật đột biến. Dữ liệu của chúng tôi cho thấy việc hình thành ranh giới tiểu não giữa hai vỏ não có thể dựa vào các tín hiệu ngoại bào đòi hỏi UNC5H3 được biểu hiện bởi các tế bào thần kinh tiểu não và các phối tử ngoại bào có liên quan đến chức năng của UNC5H3-gắn kết, hướng dẫn phân tử netrin1. Mặc dù kiểu hình do đột biến Unc5h3 rõ ràng chỉ giới hạn ở sự hình thành tiểu não, nhưng các vị trí bổ sung của biểu hiện Unc5h3 cũng được tìm thấy trong quá trình phát triển cho thấy chức năng bù của các gen khác.
It has been reported that members of the fibroblast growth factor (FGF) family can induce additional limb formation in the flank of chick embryos. The phenotype of the ectopic limb depends on the somite level at which it forms: limbs in the anterior flank resemble wings, whereas those in the posterior flank resemble legs. Ectopic limbs located in the mid-flank appear chimeric, possessing characteristics of both wings and legs; feather buds are present in the anterior halves with scales and claws in the posterior halves. To study the mechanisms underlying the chimerism of these additional limbs, we cloned chick Tbx5 and Tbx4 to use as forelimb and hindlimb markers and examined their expression patterns in FGF-induced limb buds. We found that Tbx5 and Tbx4 were differentially expressed in the anterior and posterior halves of additional limb buds in the mid-flank, respectively, consistent with the chimeric patterns of the integument. A boundary of Tbx5/Tbx4 exists in all ectopic limbs, indicating that the additional limbs are essentially chimeric, although the degree of chimerism is dependent on the position. The boundary of Tbx5/Tbx4 expression is not fixed at a specific position within the interlimb region, but dependent upon where FGF was applied. Since the ectopic expression patterns of Tbx5/Tbx4 in the additional limbs are closely correlated with the patterns of their chimeric phenotypes, it is likely that Tbx5 and Tbx4 expression in the limb bud is involved in determination of the forelimb and hindlimb identities, respectively, in vertebrates.
Các thành viên trong họ yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (FGF) có thể gây ra sự hình thành chi thêm ở bên sườn phôi gà. Kiểu hình của chi ngoại bào phụ thuộc vào mức độ soma mà nó hình thành: chi ở bên sườn trước giống cánh trong khi chi ở bên sườn sau giống chân. Chi ngoại bào nằm ở giữa sườn có hình dạng khảm, có đặc điểm của cả cánh và chân; chồi lông có mặt ở nửa trước có vảy và móng ở nửa sau. Để nghiên cứu cơ chế của chi ngoại bào, chúng tôi đã tạo dòng vô tính hai chi Tbx5 và Tbx4 để sử dụng làm dấu ấn chi trước và chi sau và khảo sát mô hình biểu hiện của chúng trên chồi chi do FGF tạo ra. Chúng tôi nhận thấy Tbx5 và Tbx4 biểu hiện khác biệt ở nửa trước và nửa sau của chồi chi thêm ở giữa sườn, phù hợp với mô hình khảm của lớp vỏ. Chúng tôi nhận thấy Tbx5 và Tbx4 biểu hiện khác biệt ở nửa trước và nửa sau của chồi chi thêm, tương ứng, phù hợp với mô hình khảm của lớp vỏ. Ranh giới của Tbx5 và Tbx4 không cố định ở một vị trí cụ thể trong vùng gian chi, mà phụ thuộc vào vị trí FGF được sử dụng. Do mô hình biểu hiện ngoại bào của Tbx5/Tbx4 ở chi thêm tương quan chặt chẽ với mô hình kiểu hình khảm của chúng, nên có khả năng biểu hiện Tbx5 và Tbx4 ở chồi chi có liên quan đến việc xác định đặc điểm đặc trưng của chi trước và chi sau ở động vật có xương sống.
Transcriptional silencing can reflect heritable, epigenetic inactivation of genes, either singly or in groups, during the life-time of an organism. This phenomenon is exemplified by parent-of-origin-specific inactivation events (genomic imprinting) for a subset of mammalian autosomal genes, such as H19. Very little is known, however, about the timing and mechanism(s) of silencing of the paternal H19 allele during mouse development. Using a novel in situ approach, we present evidence that the silencing of the paternal H19 allele is progressive in the trophectodermal lineage during early mouse development and generates variegated expression patterns. The silencing process apparently involves recruitment of histone deacetylases since the mosaic paternal-specific H19 expression reappears in trichostatin A-treated mouse conceptuses, undergoing in vitro organogenesis. Moreover, the paternal H19 alleles of PatDup.d7 placentas, in which a region encompassing the H19 locus of chromosome 7 is bipaternally derived, partially escape the silencing process and are expressed in a variegated manner. We suggest that allele-specific silencing of H19 share some common features with chromatin-mediated silencing in position-effect variegation.
Im lặng ghi chép có thể phản ánh sự bất hoạt di truyền, biểu sinh của các gen, đơn lẻ hoặc theo nhóm, trong suốt vòng đời của một sinh vật. Hiện tượng này được minh họa bằng các sự kiện bất hoạt đặc trưng cha-mẹ (dấu ấn gen) đối với một tập hợp con của các gen nhiễm sắc thể thường của động vật có vú, như H19. Tuy nhiên, người ta biết rất ít về thời gian và cơ chế của sự im lặng của alen H19 trong quá trình phát triển của chuột. Sử dụng phương pháp mới tại chỗ, chúng tôi đưa
The identity and developmental pattern of the four organ types constituting the flower is governed by three developmental functions, A, B and C, which are defined by homeotic genes and established in two adjacent whorls. In this report we morphologically and genetically characterise mutants of two genes, STYLOSA (STY) and FISTULATA (FIS) which control floral homeotic meristem- and organ-identity genes and developmental events in all floral whorls. The morphology of the reproductive organs in the first and second whorls of sty fis double mutant flowers indicate that the two genes are part of the mechanism to prevent ectopic expression of the C-function in the perianth of wild-type flowers. This is verified by the detection of the expansion of the expression domain of the class C gene PLENA (PLE) towards the perianth. Interestingly, in the second whorl of sty and fis mutants, spatial differences in stamenoid features and in the pattern of ectopic expression of the PLE gene were observed. This suggests that, with respect to the negative control of PLE, petals are composed of two regions, a lateral and a central one. Mutation in ple is epistatic to most of the sty/fis-related homeotic defects. PLE, however, is not the primary target of STY/FIS control, because dramatic reduction of expression of FIMBRIATA, meristem identity genes (FLORICAULA and SQUAMOSA) and of class B organ identity genes (GLOBOSA) occur before changes in the PLE expression pattern. We propose that STY/FIS are hierarchically high-ranking genes that control cadastral component(s) of the A-function. SQUAMOSA as a potential target of this control is discussed. Retarded growth of second whorl organs, subdivision of third whorl primordia and the failure to initiate them in sty/fis mutants may be mediated by the FIMBRIATA gene.
Đặc điểm hình thái và đặc điểm phát triển của bốn loại cơ quan cấu thành nên hoa được chi phối bởi ba chức năng phát triển A, B và C, được xác định bởi các gen đồng nhất và được thiết lập trong hai vòng thân liền kề. Trong nghiên cứu này, chúng tôi mô tả đặc điểm hình thái và di truyền của hai gen STYLOSA (STY) và FISTULATA (FIS ), hai gen kiểm soát các gen liên quan đến đặc điểm mô cơ quan và các gen liên quan đến đặc điểm mô cơ quan và các sự kiện phát triển ở tất cả các vòng thân của hoa. Đặc điểm hình thái của các cơ quan sinh sản ở vòng thân thứ nhất và thứ hai của hoa dị hình hai lá mầm cho thấy hai gen này là một phần của cơ chế ngăn chặn sự biểu hiện ngoại lai của chức năng C ở lá mầm của hoa dại. Điều này được kiểm chứng bằng cách phát hiện sự mở rộng miền biểu hiện của gen PLENA (PLE) thuộc nhóm gen C đối với lá mầm. Điều thú vị là, ở vòng thân thứ hai của đột biến gen sty và fis, sự khác biệt về không gian giữa các đặc điểm của nhị lá mầm và của các gen đồng nhất cơ quan nhóm B (GLOBOSA) đã được quan sát thấy. Điều này cho thấy, đối với sự kiểm soát âm tính của gen PLE, các cánh hoa được cấu tạo từ hai vùng, một bên và một trung tâm. Đột biến ở lá mầm có biểu hiện ở ngoài màng phổi đối với hầu hết các khuyết tật liên quan đến nội môi của sty/fis. Tuy nhiên, PLE không phải là mục tiêu chính của STY/FIS, bởi vì sự giảm mạnh biểu hiện của các gen FIMBRIATA, các gen đồng nhất phân tử (FLORICAULA và SQUAMOSA) và của các gen đồng nhất cơ quan nhóm B (GLOBOSA) đã xảy ra trước khi có sự thay đổi trong biểu hiện của gen PLE. Chúng tôi đề xuất rằng STY/FIS là các gen có thứ bậc cao kiểm soát thành phần địa chấn của
The divergent homeobox gene Hex exhibits three notable expression patterns during early mouse development. Initially Hex is expressed in the primitive endoderm of the implanting blastocyst but by 5.5 dpc its transcripts are present only in a small patch of visceral endoderm at the distal tip of the egg cylinder. Lineage analysis shows that these cells move unilaterally to assume an anterior position while continuing to express Hex. The primitive streak forms on the opposite side of the egg cylinder from this anterior Hex expression domain approximately 24 hours after the initial anterior movement of the distal visceral endoderm. Thus, Hex expression marks the earliest unequivocal molecular anteroposterior asymmetry in the mouse embryo and indicates that the anteroposterior axis of the embryo develops from conversion of a proximodistal asymmetry established in the primitive endoderm lineage. Subsequently, Hex is expressed in the earliest definitive endoderm to emerge from the streak and its expression within the gut strongly suggests that the ventral foregut is derived from the most anterior definitive endoderm and that the liver is probably the most anterior gut derivative. Hex is also an early marker of the thyroid primordium. Within the mesoderm, Hex is transiently expressed in the nascent blood islands of the visceral yolk sac and later in embryonic angioblasts and endocardium. Comparison with flk-1 (T. P. Yamaguchi et al., Development 118, 489-498, 1993) expression indicates that Hex is also an early marker of endothelial precursors but its expression in this progenitor population is much more transient than that of flk-1, being downregulated once endothelial cell differentiation commences.
Trong giai đoạn phát triển ban đầu của chuột, gen nội ô Hex thể hiện ba kiểu biểu hiện đặc trưng. Ban đầu Hex biểu hiện ở lớp da trong nguyên thủy của phôi nang, nhưng đến 5,5 dpc thì các bản phiên mã của nó chỉ hiện diện ở một mảng nhỏ nội tạng ở đầu xa của ống noãn. Phân tích dòng dõi cho thấy các tế bào này đơn phương di chuyển tới vị trí phía trước trong khi vẫn tiếp tục biểu hiện Hex. Các đường sọc nguyên thủy hình thành ở phía đối diện của ống noãn từ vùng biểu hiện Hex phía trước này khoảng 24 giờ sau khi chuyển động phía trước ban đầu của nội tạng ở phía xa. Như vậy, biểu hiện Hex đánh dấu sự bất đối xứng trước phân tử rõ ràng sớm nhất ở phôi chuột và chỉ ra rằng trục trước của phôi phát triển từ sự chuyển đổi của một sự bất đối xứng gần được thiết lập trong dòng dõi nội tạng nguyên thủy. Sau đó, Hex được biểu hiện ở lớp da trong cuối nguyên thủy sớm nhất xuất hiện từ đường sọc và biểu hiện của nó trong ruột gợi ý mạnh mẽ rằng phần trước bụng của phôi có nguồn gốc từ phần nội tạng trong cùng nguyên thủy nhất và gan có lẽ là dẫn xuất trước ruột nhất. Hex cũng là một dấu hiệu sớm của nguyên thủy tuyến giáp. Trong lớp mạc giữa, Hex được biểu hiện thoáng qua trong các đảo máu non của túi noãn hoàng nội tạng và sau đó là trong các nguyên bào mạch và nội tâm mạc phôi. So sánh với biểu hiện flk-1 (T. P. Yamaguchi và cộng sự, Development 118, 489-498, 1993) chỉ ra rằng Hex cũng là dấu hiệu sớm của tiền thân nội mô nhưng biểu hiện của nó trong quần thể tiền thân này thoáng qua hơn nhiều so với flk-1, bị điều hòa giảm đi khi quá trình biệt hóa tế bào nội mô bắt đầu.
Among the different sources of genetic parthenocarpy described in tomato, the mutation referred to as parthenocarpic fruit (pat) is of particular interest because of its strong expressivity and because it confers earlier ripening, higher fruit set and enhanced fruit quality. As a pleiotropic effect, pat flowers have aberrantly developing androecia and reduced male and female fertility. In this work we extend the early description of the pat phenotype by investigating the expression of parthenocarpy in three different environments and by using light and scanning electron microscopy to analyse the development of male and female floral organs. The degree of parthenocarpy was high in the three experimental environments and was characterised by a precocious initiation of ovary growth to pre-anthesis floral stages. Aberrations in anther development were evident at flower bud stages and resulted in shorter, irregular and teratoid organs. Ectopic production of carpel-like structures bearing external ovules was evident in the most severely altered androecia. Analysis of ovule development revealed that a fraction of pat ovules becomes aberrant from very early stages, having defective integument growth. Meiosis was irregular in aberrant ovules and megaspore or gamete production was severely hampered. The described pat syndrome suggests that parthenocarpy in this mutant could be a secondary effect of a gene controlling, at early stages, organ identity and development.
Trong số các nguồn gen parthenocarpy được mô tả ở cà chua, đột biến parthenocarpy (pat) đặc biệt được quan tâm vì khả năng biểu hiện mạnh mẽ của nó, đồng thời nó giúp quả chín sớm hơn, bộ quả cao hơn và chất lượng quả được nâng cao hơn. Là một hiệu ứng pleiotropic, hoa pat có hiện tượng androecia phát triển bất thường, làm giảm khả năng sinh sản của cả nam và nữ. Trong công trình này, chúng tôi mở rộng mô tả ban đầu về kiểu hình pat bằng cách nghiên cứu biểu hiện của parthen
We are investigating how Drosophila imaginal disc cells establish and maintain their appendage-specific determined states. We have previously shown that ectopic expression of wingless (wg) induces leg disc cells to activate expression of the wing marker Vestigial (Vg) and transdetermine to wing cells. Here we show that ectopic wg expression non-cell-autonomously induces Vg expression in leg discs and that activated Armadillo, a cytosolic transducer of the Wg signal, cell-autonomously induces Vg expression in leg discs, indicating that this Vg expression is directly activated by Wg signaling. We find that ubiquitous expression of wg in leg discs can induce only dorsal leg disc cells to express Vg and transdetermine to wing. Dorsal leg disc cells normally express high levels of decapentaplegic (dpp) and its downstream target, optomotor-blind (omb). We find that high levels of dpp expression, which are both necessary and sufficient for dorsal leg development, are required for wg-induced transdetermination. We show that dorsalization of ventral leg disc cells, through targeted expression of either dpp or omb, is sufficient to allow wg to induce Vg expression and wing fate. Thus, dpp and omb promote both dorsal leg cell fate as well as transdetermination-competent leg disc cells. Taken together, our results show that the Wg and Dpp signaling pathways cooperate to induce Vg expression and leg-towing transdetermination. We also show that a specific vg regulatory element, the vg boundary enhancer, is required for transdetermination. We propose that an interaction between Wg and Dpp signaling can explain why leg disc cells transdetermine to wing and that our results have implications for normal leg and wing development.
Chúng tôi đang nghiên cứu cách thức mà các tế bào đĩa tưởng tượng của ruồi giấm thiết lập và duy trì các trạng thái được xác định cụ thể ở phần phụ của chúng. Trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng biểu hiện ngoại lai của tế bào không có cánh (wg) kích hoạt biểu hiện của dấu hiệu cánh Vestigial (Vg) và chuyển xác định thành tế bào cánh. Ở đây, chúng tôi chỉ ra rằng biểu hiện ngoại lai của wg không có tế bào gây ra biểu hiện Vg một cách tự động ở đĩa chân và Armadillo được kích hoạt, một bộ chuyển
The aly, can, mia and sa genes of Drosophila are essential in males both for the G2-meiosis I transition and for onset of spermatid differentiation. Function of all four genes is required for transcription in primary spermatocytes of a suite of spermatid differentiation genes. aly is also required for transcription of the cell cycle control genes cyclin B and twine in primary spermatocytes. In contrast can, mia and sa are required for accumulation of twine protein but not twine transcript. We propose that the can, mia and sa gene products act together or in a pathway to turn on transcription of spermatid differentiation genes, and that aly acts upstream of can, mia and sa to regulate spermatid differentiation. We also propose that control of translation or protein stability regulates entry into the first meiotic division. We suggest that a gene or genes transcribed under the control of can, mia and sa allow(s) accumulation of twine protein, thus coordinating meiotic division with onset of spermatid differentiation.
Các gen aly, can, mia và sa của ruồi giấm là thiết yếu ở ruồi giấm đực, vừa cho quá trình chuyển tiếp G2-meiosis I vừa cho sự khởi đầu của sự biệt hóa tinh trùng. Chức năng của cả bốn gen này là cần thiết cho việc phiên mã ở tế bào tinh trùng nguyên sinh của một bộ các gen biệt hóa tinh trùng. aly cũng cần thiết cho việc phiên mã các gen điều khiển chu trình tế bào cyclin B và dây bện ở tế bào tinh trùng nguyên sinh. Ngược lại, can, mia và sa cần tích lũy protein dây bện chứ không
In Arabidopsis thaliana, shoot redifferentiation and root redifferentiation can be induced at high frequency from hypocotyl and root explants by a two-step culture method. Tissues are precultured on callus-inducing medium and then transferred onto shoot-inducing medium for shoot redifferentiation or onto root-inducing medium for root redifferentiation. In an attempt to dissect these organogenic processes genetically, we characterized the responses in tissue culture of srd1, srd2 and srd3 mutants that were originally isolated as temperature-sensitive strains with defects in shoot redifferentiation (Yasutani, I., Ozawa, S., Nishida, T., Sugiyama, M. and Komamine, A. (1994) Plant Physiol. 105, 815-822). These mutants exhibited temperature sensitivity at different steps of organogenesis, which allowed the identification of three states associated with organogenic competence: IC (incompetent); CR (competent with respect to root redifferentiation); and CSR (competent with respect to shoot and root redifferentiation). Hypocotyl explants were shown to be in the IC state at the initiation of culture and to enter the CSR state, via the CR state, during preculture on callus-inducing medium, whereas root explants seemed to be in the CR state at the initiation of culture. The transition from IC to CR and that from CR to CSR appeared to require the functions of SRD2 and SRD3, respectively. It appears that explants in the CSR state redifferentiate shoots with the aid of the products of SRD1 and SRD2 when transplanted onto shoot-inducing medium. Histological examination of the srd mutants revealed that the function of SRD2 is required not only for organogenesis but also for the reinitiation of cell proliferation in hypocotyl explants during culture on callus-inducing medium. Linkage analysis using RFLP markers indicated that SRD1, SRD2, and SRD3 are located at the lower region, the central region, and the upper region of chromosome 1, respectively.
Ở cây Arabidopsis thaliana, có thể tạo ra sự biệt hóa chồi và biệt hóa rễ ở tần số cao từ mẫu trụ dưới lá mầm và mẫu rễ bằng phương pháp nuôi cấy hai bước. Mô được nuôi cấy trên môi trường tạo mô sẹo và sau đó chuyển sang môi trường tạo chồi để tái biệt hóa chồi hoặc chuyển sang môi trường tạo rễ để tái biệt hóa rễ. Trong nỗ lực nhằm phân tích các quá trình tạo sinh cơ thể này về mặt di truyền, chúng tôi đã mô tả các phản ứng trong nuôi cấy mô của các đột biến srd1, srd2 và srd3 mà ban đầu được phân lập như các chủng nhạy cảm với nhiệt độ có các khuyết tật trong tái biệt hóa chồi (Yasutani, I., Ozawa, S., Nishida, T., Sugiyama, M.và Komamine, A. (1994) Plant Physiol. 105, 815-822 ). Các đột biến này thể hiện độ nhạy cảm với nhiệt độ ở các bước khác nhau của quá trình sinh cơ thể, cho phép xác định ba trạng thái liên quan đến năng lực sinh cơ thể: IC (không đủ năng lực); CR (có năng lực đối với tái biệt hóa rễ); và CSR (có năng lực đối với tái biệt hóa chồi và rễ ). Mẫu trụ dưới lá mầm ở trạng thái IC khi bắt đầu nuôi cấy và vào trạng thái CSR thông qua trạng thái CR khi nuôi cấy trên môi trường tạo mô sẹo, trong khi mẫu rễ dường như ở trạng thái CR khi bắt đầu nuôi cấy. Sự chuyển tiếp từ IC sang CR và từ CR sang CSR dường như đòi hỏi các chức năng của SRD2 và SRD3 tương ứng. Có vẻ như mẫu ở trạng thái CSR biệt hóa chồi với sự hỗ trợ của các sản phẩm SRD1 và SRD2 khi cấy lên môi trường tạo mô sẹo. Việc kiểm tra mô học của các đột biến srd cho thấy chức năng của SRD2 là không chỉ cần thiết cho sự sinh cơ thể mà còn cho sự tái tạo tăng sinh tế bào ở mẫu trụ dưới lá mầm trong quá trình nuôi cấy trên môi trường tạo mô sẹo. Phân tích liên kết sử dụng marker RFLP cho thấy SRD1, SRD2 và SRD3 lần lượt nằm ở vùng dưới
Early cleavages of the marine nematode Enoplus brevis are symmetrical and occur in synchrony. At the 2- to 16-cell stages, blastomeres are indistinguishable. The progeny of blastomeres was investigated by intracellular injections of fluorescent dyes and horse radish peroxidase. One blastomere of the 2-cell embryo gives rise to a compact group of cells occupying about half of an embryo. The border between labeled and unlabeled cells differs in each embryo dividing it to anterior-posterior, left-right or intermediate parts. At the 8-cell stage, one blastomere gives rise to only endoderm, whereas the other blastomeres produce progeny that form multiple cell types, including nerve, muscle and hypoderm cells, in various proportions. Thus the fates of the blastomeres of early E. brevis embryos, with the exception of the endoderm precursor, are not determined. The process of gastrulation in E. brevis is very similar to that in Caenorhabditis elegans and other nematodes. At the beginning of gastrulation, the 2-celled endoderm precursor lies on the surface of embryo and then sinks inwards. After labeling of cells on the ventral side (near endoderm precursor) at the beginning of gastrulation, their progeny differentiate predominantly into body muscles or pharyngeal cells of the first stage larva. Cells that are located more laterally give rise mainly to neurons. The dorsal blastomeres differentiated principally into hypoderm cells. Our study suggests that a precise cell lineage is not a necessary attribute of nematode development.
Sự phân cắt sớm của tuyến trùng biển Enoplus brevis là đối xứng và xảy ra đồng bộ. Ở giai đoạn 2-16 tế bào, phôi phôi không thể phân biệt được phôi phôi. Sự phát triển của phôi phôi được khảo sát bằng tiêm nội bào thuốc nhuộm huỳnh quang và peroxidase củ cải ngựa. Một phôi phôi 2 tế bào phát triển thành một nhóm tế bào nhỏ chiếm khoảng một nửa phôi. Ranh giới giữa các tế bào được dán nhãn và không dán nhãn khác nhau ở mỗi phôi, chia thành phần trước-sau, trái-phải hoặc trung gian. Ở giai đoạn 8 tế bào, một phôi chỉ phát triển thành tế bào nội bì, trong khi các phôi khác tạo ra các tế bào con với nhiều loại tế bào, bao gồm tế bào thần kinh, cơ và tế bào dưới da, với tỷ lệ khác nhau. Như vậy, số phận của phôi phôi E. brevis, ngoại trừ tiền thân nội bì, không được xác định. Quá trình hình thành phôi dạ ở E. brevis rất giống với quá trình hình thành phôi Caenorhabditis elegans và các tuyến trùng khác. Vào thời điểm bắt đầu hình thành phôi, tiền thân nội bì 2 tế bào nằm trên bề mặt của phôi và sau đó chìm vào trong. Sau khi dán nhãn các tế bào ở phía bụng (gần tiền thân nội bì) vào thời điểm bắt đầu hình thành phôi dạ, các tế bào con phân biệt chủ yếu thành cơ hoặc tế bào hầu của ấu trùng giai đoạn đầu. Các tế bào nằm ở phía bên chủ yếu phát triển thành tế bào thần kinh. Các phôi nang ở lưng phân biệt chủ yếu thành tế bào dưới da. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một dòng tế bào chính xác không phải là một thuộc tính cần thiết của sự phát triển tuyến trùng.
Previous investigations involving continuous blood pressure (BP) monitoring have shown an important alteration of the 24-hour BP profile in patients with obstructive sleep apnea syndrome (OSAS). We investigated the impact of REM sleep on the 24-hour BP cycle in 16 severe OSAS male patients (mean respiratory disturbance index = 66 +/- 16 events/hour of sleep), with hypertension (mean BP 162 +/- 21/105 +/- 11 mmHg World Health Organization (WHO) protocol). Two successive nights of polysomnography were performed, and arterial BP was monitored continuously during the second 24-hour period after brachial artery cannulation. During the daytime, subjects were kept awake and supine. At 3 p.m. BP was continuously monitored during quiet supine wakefulness for 20 minutes. Systolic, diastolic and mean BP and heart rate (HR) were analyzed and tabulated in mean values of 5 minute segments. Sleep/wake information were correlated with cardiovascular variables. Each uninterrupted REM sleep period was identified and comparison between the period of quiet supine wakefulness and REM sleep HR and BP values was performed. 8 OSAS patients presented a normal drop of the mean arterial BP during the nocturnal REM sleep periods compared to quiet supine wakefulness (mean value = -10.8 +/- 7.3 mmHg) ("dippers") while the other 8 subjects ("REM sleep non dippers"), revealed an elevated mean arterial BP during REM sleep (mean value = 18.9 +/- 10.9 mm Hg). The absence of the normal circadian BP dip seen during the nocturnal sleep period is considered as an indication of vascular risk. The REM sleep non dipping may play a role in this risk.
Các nghiên cứu trước đây có liên quan đến theo dõi huyết áp liên tục (HA) cho thấy có sự thay đổi quan trọng về hồ sơ HA 24 giờ ở bệnh nhân mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ. Chúng tôi đã điều tra ảnh hưởng của giấc ngủ REM đến chu kỳ HA 24 giờ ở 16 bệnh nhân mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ nặng (chỉ số rối loạn hô hấp trung bình = 66 +/- 16 sự kiện/giờ ngủ) và tăng huyết áp (HA trung bình 162 +/- 21/105 +/- 11 mmHg theo quy trình của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ). Hai đêm liên tiếp được thực hiện đo đa ký hô hấp, và HA động mạch được theo dõi liên tục trong thời gian 24 giờ thứ hai sau khi đã được tăng áp động mạch cánh tay. Ban ngày, đối tượng được thức và nằm ngửa. Vào lúc 3 giờ chiều, HA được theo dõi liên tục trong thời gian tỉnh ngủ nằm ngửa trong 20 phút. HA tâm thu, tâm trương, huyết áp trung bình và nhịp tim được phân tích và lập bảng theo các đoạn trung bình 5 phút. Thông tin về giấc ngủ/thức có mối tương quan với các biến số tim mạch. Mỗi chu kỳ ngủ REM liên tục được xác định và so sánh giữa thời gian tỉnh ngủ nằm ngửa và ngủ nằm ngửa với thời gian HR và HA trung bình trong giấc ngủ nằm ngửa. 8 bệnh nhân mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ nằm ngửa có HA trung bình giảm trong thời gian ngủ nằm ngửa so với thời gian tỉnh ngủ nằm ngửa (giá trị trung bình = -10,8 +/- 7,3 mmHg) trong khi 8 bệnh nhân khác ("không ngủ nằm ngửa") cho thấy HA động mạch trung bình tăng trong thời gian ngủ nằm ngửa với giá trị trung bình = 18,9 +/- 10,9 mm Hg).
Acute renal failure is a serious problem following heart transplantation. In first uncontrolled clinical trials, Urodilatin revealed beneficial effects in the prophylaxis and therapy of acute renal failure following heart and liver transplantation. Here, we present the first randomized, placebo-controlled, double-blind study on 24 patients following heart transplantation to investigate whether prophylactic i.v. Urodilatin infusion can prevent acute renal failure requiring renal replacement therapy. Postoperative drug management was characterized by intravenous application of high furosemide, cyclosporine, and vancomycin doses. Urodilatin infusion was started postoperatively with a dose of 40 ng / kg bw / min for 6 days. 6 of the 12 patients in the Urodilatin group and 6 of the 12 patients in the placebo group had a stable diuresis (3 - 4 l / day) during the study period of 6 days. In contrast, the remaining 6 patients of each group developed oliguria / anuria and required subsequent hemofiltration / hemodialysis. Cumulative duration of hemofiltration (88 +/- 7.39 hours in the placebo treated patients versus 44 +/- 5.35 hours in the Urodilatin treated patients, p < 0. 05) as well as frequency of hemodialysis (3.0 +/- 0.49 times in the placebo group vs 1.2 +/- 0.29 times in the Urodilatin group, p < 0. 05) were significantly reduced using Urodilatin. Mean arterial blood pressure was stable during the Urodilatin infusion period and was not different to that observed in placebo patients. We conclude that Urodilatin does not reduce the incidence of acute renal failure and the subsequent requirement for hemofiltration / hemodialysis in our patient population, but seems to reduce the duration of hemofiltration and frequency of hemodialysis compared to the placebo group.
Suy thận cấp là một vấn đề nghiêm trọng sau ghép tim. Trong thử nghiệm lâm sàng không đối chứng đầu tiên, Urodilatin cho thấy tác dụng có lợi trong dự phòng và điều trị suy thận cấp sau ghép tim và gan. Ở đây, chúng tôi trình bày nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng, mù đôi đầu tiên trên 24 bệnh nhân sau ghép tim để khảo sát liệu truyền Urodilatin dự phòng có thể ngăn ngừa suy thận cấp cần điều trị thay thế hay không. Điều trị thuốc sau phẫu thuật được đặc trưng bằng cách tiêm tĩnh mạch liều cao furosemide, cyclosporin và vancomycin. Truyền Urodilatin được bắt đầu sau phẫu thuật với liều 40 ng / kg bw / phút trong 6 ngày. 6 trong số 12 bệnh nhân ở nhóm Urodilatin và 6 trong số 12 bệnh nhân ở nhóm giả dược có lợi tiểu ổn định (3-4 l / ngày) trong thời gian nghiên cứu 6 ngày. Ngược lại, 6 bệnh nhân còn lại trong mỗi nhóm phát triển thiểu niệu / vô niệu và phải lọc máu / chạy thận nhân tạo sau đó. Thời gian lọc máu trung bình (88 +/- 7,39 giờ ở bệnh nhân điều trị giả dược so với 44 +/- 5,35 giờ ở bệnh nhân điều trị bằng Urodilatin, p < 0,05) cũng như tần suất chạy thận nhân tạo (3,0 +/- 0,49 lần ở nhóm giả dược so với 1,2 +/- 0,29 lần ở nhóm Urodilatin, p < 0,05) đã giảm đáng kể khi sử dụng Urodilatin. Huyết áp trung bình trong thời gian sử dụng Urodilatin ổn định và không khác biệt so với thời gian sử dụng ở bệnh nhân giả dược. Chúng tôi kết luận rằng Urodilatin không làm giảm tỷ lệ suy thận cấp và nhu cầu lọc máu / chạy thận nhân tạo sau này trong quần thể bệnh nhân của chúng tôi, nhưng có vẻ làm giảm thời gian lọc máu và tần suất chạy thận nhân tạo so với nhóm giả dược.
The arterial wall structure degenerates with increasing age, elastin fibers decrease while collagen increases. We investigated the elastic properties of the aorta and iliac arteries to determine the relationship between aging and arterial mechanics. The regional elasticity of the aorta and iliac arteries was determined at five different sites in 40 normotensive patients aged 32 to 78 years. A combined procedure for arterial blood pressure measurement and arterial cross-sectional area determination was employed to calculate the parameters of compliance and pulse wave velocity. The descending thoracic and abdominal aorta showed significant correlations between age and elasticity. No correlation was observed at the aortic bifurcation. A significant correlation between age and pulse wave velocity was apparent in the common iliac artery, whereas compliance showed no significant correlation to age. In the external iliac artery as well, no significant correlation between age and elasticity could be found. Arterial elasticity decreases with age, but this process does not progress uniformly at all sites of the arterial system. The difference in elasticity between these basic types of arteries diminishes throughout life. At the aortic bifurcation, mechanical aging seems to proceed faster than at unbifurcated arterial segments.
Sự thoái hóa cấu trúc thành động mạch theo tuổi, sợi elastin giảm trong khi collagen tăng. Chúng tôi khảo sát đặc điểm đàn hồi động mạch chủ và động mạch chậu để xác định mối liên quan giữa lão hóa và cơ học động mạch. Độ đàn hồi vùng của động mạch chủ và động mạch chậu được xác định tại năm vị trí khác nhau ở 40 bệnh nhân bình thường tuổi từ 32 đến 78. Đo huyết áp động mạch kết hợp với xác định diện tích cắt ngang động mạch được sử dụng để tính toán độ tuân thủ và vận tốc sóng xung. Động mạch chủ ngực và bụng có mối tương quan đáng kể giữa tuổi và độ đàn hồi. Không thấy mối tương quan ở nhánh rẽ động mạch chủ. Có mối tương quan đáng kể giữa tuổi và vận tốc sóng xung rõ ràng ở động mạch chậu chung, trong khi đó sự tuân thủ không có mối tương quan đáng kể với tuổi. Ở động mạch chậu ngoài cũng vậy, không thấy mối tương quan đáng kể giữa tuổi và độ đàn hồi. Độ đàn hồi động mạch giảm theo tuổi, nhưng quá trình này không diễn ra đồng đều ở tất cả các vị trí của hệ thống động mạch. Sự khác biệt về độ đàn hồi giữa các loại động mạch cơ bản này giảm dần theo tuổi. Ở nhánh rẽ động mạch chủ, lão hóa cơ học có vẻ tiến triển nhanh hơn ở các đoạn động mạch không phân chia.
Both inhaled nitric oxide (NO) and inhaled prostacyclin have been shown to selectively decrease pulmonary hypertension of various origin. The aim of the present study was to assess the potential of the NO donor sodium nitroprusside (SNP) to elicit selective pulmonary vasodilation. SNP spontaneously liberates nitric oxide in the presence of reducing substances like cysteine or glutathione, ubiquitous in many different tissues. Inhaled as an aerosol in 3 healthy lambs presenting pulmonary hypertension induced by infusion of a thromboxane analogue, low concentrations of SNP (0.02-0.6 mg/ml) revealed no effect at all. In contrast, high concentrations of SNP (1.0-20.0 mg/ml) lowered pulmonary artery pressure in conjunction with systemic arterial hypotension, suggesting systemic resorption of SNP with subsequent release of its nitroso-group. Selective pulmonary vasodilation was never observed. In conclusion, the present results do not support a selective effect of inhaled SNP in the pulmonary circulation.
Cả hai loại khí dung nitric oxide (NO) và khí dung tuyến tiền liệt (PTTT) đều được chứng minh là có tác dụng giảm tăng áp động mạch phổi có nguồn gốc khác nhau. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khả năng của natri nitroprusside (SNP) cho NO trong việc làm giãn mạch phổi chọn lọc. SNP giải phóng nitric oxide một cách tự nhiên với sự có mặt của các chất khử như cysteine hoặc glutathione, có mặt ở nhiều mô khác nhau. Khí dung của 3 con cừu khỏe mạnh bị
Two extracts of St. John s Wort were compared with respect to their action on in vivo monitored field potentials from four brain areas of the freely moving rat. Quantitative assessment of the drug action revealed a late onset (3 to 4 hours after oral application) and main effects on the frontal cortex. Changes consisted in electrical power alterations reminiscent of the action of antidepressive and/or analgesic drugs. Particular frequency bands affected first line were alpha1 and alpha2, which in some way are related to serotonergic and dopaminergic transmission. From this it is concluded that St. Johns Wort could be used for the indication of depression with predictable success. The extract labeled "K" turned out to be superior especially after repetitive application and could thus far be used for further studies.
Hai cao chiết từ cây St. John 's Wort được so sánh với tác dụng của chúng trên điện trường được theo dõi in vivo từ bốn vùng não của chuột di chuyển tự do. Đánh giá định lượng tác dụng của thuốc cho thấy chuột khởi phát muộn (3-4 giờ sau khi uống) và ảnh hưởng chính lên vỏ não trước. Những thay đổi bao gồm thay đổi công suất điện gợi nhớ đến tác dụng của thuốc chống trầm cảm và/hoặc giảm đau. Các dải tần số đặc biệt ảnh hưởng đến dòng đầu tiên là alpha1 và alpha2, theo một cách nào đó có liên quan
Central pontine myelinolysis (CPM) is a rare syndrome generally linked to hyponatremia. Autopsy and imaging studies described demyelination in the central pons, in some cases combined with thalamic, internal capsular, hemispheric and cerebellar white matter lesions. The clinical syndrome and prognosis spans from asymptomatic patients displaying only imaging lesions to coma and death. Frequent findings are pyramidal tract and pseudobulbar signs. No effective treatment is known. Alcohol abuse is often associated. The imaging pattern of CPM is unique and generally accepted as diagnostic when other causes such as ischemia, multiple sclerosis, tumors, radiation, or pharmacological effects are ruled out. However, the exact mechanism of this selective process of demyelination remains obscure. The current major controversy concerns the role of therapeutic efforts of sodium level restoration in the etiology of CPM. We present a case of CPM where no hyponatremia was found. We hypothesize that (1) iatrogenic sodium restoration may not in all cases of CPM be the putative mechanism, (2) the clinical onset of CPM may in some patients represent a delayed response to an initially asymptomatic demyelination, and (3) normal admission sodium levels do not exclude the diagnosis of CPM.
Mất myelin cầu não trung ương (CPM) là hội chứng hiếm gặp, thường liên quan đến hạ natri máu. Các nghiên cứu giải phẫu bệnh và hình ảnh học mô tả hiện tượng mất myelin ở cầu não trung ương, trong một số trường hợp kết hợp với tổn thương vùng đồi, vỏ trong, bán cầu và tiểu não. Hội chứng lâm sàng và tiên lượng kéo dài từ bệnh nhân không có triệu chứng chỉ biểu hiện tổn thương hình ảnh đến hôn mê và tử vong. Các phát hiện thường xuyên là đường tháp hình chóp và dấu hiệu pseudobulbar. Không có
Soluble cell adhesion molecules such as sICAM-1 in serum and other biological fluids are suggested as being useful diagnostic parameters for a variety of diseases. Since increased concentrations during diseases are frequently less pronounced compared to other parameters, we tested whether it would be necessary to align the time of blood collection during the course of a clinical trial. In the 9 volunteers of our trial we found a statistically significant effect at the point in time of blood collection and corresponding serum concentrations of sICAM-1 (p < 0.01). The deviation of the concentrations at a certain time from the daily mean in each individual was seen to be as high as 15%. Our data suggest that daytime variations of serum sICAM-1 concentrations should be taken into consideration when longitudinal observations are planned.
Các phân tử liên kết tế bào hòa tan như sICAM-1 trong huyết thanh và các dịch sinh học khác được đề xuất là các thông số chẩn đoán hữu ích cho nhiều loại bệnh. Nồng độ tăng trong bệnh thường ít rõ rệt hơn so với các thông số khác, do đó chúng tôi khảo sát liệu có cần thiết phải điều chỉnh thời gian lấy máu trong quá trình thử nghiệm lâm sàng hay không. Trong 9 người tình nguyện tham gia thử nghiệm, chúng tôi đã tìm thấy tác dụng có ý nghĩa thống kê tại thời điểm lấy máu và nồng độ sICAM-1 tương ứng
We used a new approach called panhandle polymerase chain reaction (PCR) to clone an MLL genomic translocation breakpoint in a case of acute lymphoblastic leukemia of infancy in which karyotype analysis was technically unsuccessful and did not show the translocation partner. Panhandle PCR amplified known MLL sequence 5' of the breakpoint and 3' sequence from the unknown partner gene from a DNA template with an intrastrand loop schematically shaped like a pan with a handle. The 7-kb panhandle PCR product contained the translocation breakpoint in MLL intron 8. The partner DNA included unique nonrepetitive sequences, Alu and mammalian apparent LTR-retrotransposon (MaLR) repetitive sequences, and a region of homology to expressed sequence tags. MaLR sequences have not been found before near leukemia-associated translocation breakpoints. The nonrepetitive sequences were not homologous to known partner genes of MLL. Screening of somatic cell hybrid and radiation hybrid lines by PCR and fluorescence in situ hybridization analysis of normal metaphase chromosomes mapped the partner DNA to chromosome band 4q21. Reverse transcriptase-PCR identified an MLL-AF-4 chimeric mRNA, indicating that panhandle PCR identified a fusion of MLL with a previously uncharacterized AF-4 intronic sequence. Panhandle PCR facilitates cloning translocation breakpoints and identifying unknown partner genes.
Chúng tôi sử dụng phương pháp mới gọi là phản ứng chuỗi trùng hợp panhandle (PCR) để nhân bản điểm ngắt đoạn chuyển đoạn gen MLL trong một trường hợp bệnh bạch cầu tăng lympho bào cấp tính ở trẻ nhỏ, trong đó phân tích nhân đồ không thành công về mặt kỹ thuật và không thể hiện đối tác chuyển đoạn. PCR Panhandle khuếch đại trình tự MLL 5 'điểm ngắt đoạn và trình tự 3' đã biết từ gen đối tác chưa biết từ một mẫu DNA với một vòng lặp intrastrand có hình dạng như một cái
p300, which was originally cloned as a nuclear binding target of the adenovirus E1A oncoprotein, forms a family with cyclic-AMP response element binding protein (CREB)-binding protein (CBP). p300/CBP are considered to be transcriptional coactivators that connect the basal transcriptional machinery to various DNA-binding transcriptional factors. p300/CBP are implicated in both cell differentiation and regulation of cell-cycle. We identify here that the p300 gene is fused to the MLL gene and that in-frame MLL-p300 fusion protein is generated in acute myeloid leukemia (AML) with t(11; 22)(q23; q13). These findings suggest that the basis for the leukemogenesis of t(11; 22)-AML is the inability of p300 to regulate cell-cycle and cell differentiation after fusion with MLL.
P300/CBP được nhân bản vô tính như một đích liên kết hạt nhân của adenovirus E1A oncoprotein, tạo thành họ protein liên kết protein liên kết cyclic-AMP (CREB) ( CBP ).p300/CBP được coi là các đồng hoạt hóa phiên mã, kết nối cơ chế phiên mã cơ bản với các yếu tố phiên mã liên kết DNA khác nhau. p300/CBP có liên quan đến cả sự biệt hóa tế bào và điều hòa chu kỳ tế bào
Chronic graft-versus-host disease (GVHD) is likely caused by donor T lymphocytes. Because unmodified blood stem cell grafts contain one log more T lymphocytes than unmodified marrow grafts, we evaluated the incidence of chronic GVHD in previously reported 37 blood stem cell recipients and 37 computer-matched historical control marrow recipients (Bensinger et al, Blood 88:2794, 1996). All patients have been followed until death, relapse, or occurrence of chronic GVHD or for a minimum of 2 years. In a univariable proportional hazards regression model, the relative risk of developing clinical chronic GVHD (includes clinical limited and clinical extensive disease) by 2 years posttransplant among the peripheral blood stem cell recipients compared with the marrow recipients was 2.22 (95% confidence interval, 1.04 to 4.74; P = .039). For clinical extensive chronic GVHD, the relative risk was 2.37 (95% confidence interval, 1.07 to 5. 29; P = .035). In multivariable analyses, considering also the covariables of patient age, patient cytomegalovirus serostatus, and donor cytomegalovirus serostatus, the relative risks of clinical chronic GVHD and clinical extensive chronic GVHD were also greater than 2 (P < .05). We conclude that the transplantation of unmanipulated filgrastim-mobilized blood stem cells may result in a relatively high incidence of chronic GVHD.
Bệnh ghép máu mạn tính chống chủ (GVHD) có thể do tế bào lympho T của người hiến gây ra. Do các tế bào gốc máu không biến đổi chứa nhiều tế bào lympho T hơn các tế bào ghép tủy không biến đổi nên chúng tôi đã đánh giá tỷ lệ mắc bệnh mạn tính ở 37 người nhận tế bào gốc máu và 37 người nhận tủy có đối chứng tương ứng với máy tính (Bensinger và cộng sự, Blood 88: 2794, 1996 ). Tất cả bệnh nhân đều được theo dõi cho đến khi chết, tái phát
Chemotherapy produces extended remissions, and potential cures, in a small minority of patients with acute myeloid leukemia (AML). We explored whether potentially cured patients were at increased risk of subsequent invasive cancer and were able to return to work. Potentially cured patients were defined as those in first or second complete remission (CR) for at least 3 years based on hazard rates for recurrence or death in CR, which declined sharply after this time. Patients who received allogeneic marrow transplant were excluded. We used questionnaires, phone contact, and chart review to obtain information about subsequent cancer and work status. The number of patients who developed invasive cancer was compared with the number expected based on age, gender, and years of follow-up using the Connecticut Tumor Registry. A total of 215 patients met our criteria for potential cure: 203 in first CR and 12 in second CR (of 1,663 treated between 1965 and December, 1992). At a median of 9.2 years from first or second CR, 163 (76%) remain alive in CR. Fifteen patients developed 18 invasive cancers (expected number of patients, 8.8; observed/expected, 1.70; 95% CI, 0.96 to 2.84; P = . 06). Patients initially treated between 1973 to 1979, patients above the potentially cured cohort's median age of 40 years, and those who presented with abnormalities of chromosomes 5 and/or 7 were more likely to develop subsequent cancer, whereas the observed/expected ratio for younger patients was 1.05 (95% CI, 0.13 to 3.80; P = .56). Seventy-four percent of the patients who were working full-time and who were under age 50 at time of treatment for AML have been working full-time in the last 6 months. Only 17 of 56 patients who are currently not working cited physical limitation as the reason. Patients with potentially cured AML are likely to be able to return to work, and at least if younger do not, on average, have an increased risk of invasive cancer.
Một số ít bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính có khả năng tái phát sau điều trị hóa chất và có thể điều trị khỏi. Dựa trên tỷ lệ nguy cơ tái phát hoặc tử vong sau điều trị hóa chất, bệnh nhân có khả năng được điều trị sẽ có khả năng trở lại làm việc trong ít nhất 3 năm. Những bệnh nhân được ghép tủy đồng loại sẽ được loại trừ. Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi, liên lạc qua điện thoại và xem xét biểu đồ để có được thông tin về tình trạng bệnh và tình trạng lao động sau điều trị hóa chất. Số bệnh nhân phát triển thành ung thư xâm lấn được so sánh với số dự kiến dựa trên tuổi, giới tính và số năm theo dõi qua Cơ quan đăng ký khối u Connecticut. Tổng cộng có 215 bệnh nhân đáp ứng tiêu chí khả năng điều trị: 203 ở CR thứ nhất và 12 ở CR thứ hai (từ 1.663 bệnh nhân điều trị từ 1965 đến 12/1992 ). Trung vị là 9,2 năm kể từ CR thứ nhất và thứ hai, 163 (76% ) sống sót trong CR. 15 bệnh nhân phát triển thành 18 bệnh ung thư xâm lấn (dự kiến số lượng bệnh nhân là 8,8; quan sát/dự kiến là 1,70; 95% CI, 0,96-2,84; P = 0,06 ). Bệnh nhân điều trị hóa chất lần đầu từ 1973 đến 1979, bệnh nhân trên 40 tuổi và những người có bất thường nhiễm sắc thể 5 và/hoặc 7 có nhiều khả năng phát triển thành ung thư sau điều trị, trong khi tỷ lệ quan sát/dự kiến ở nhóm bệnh nhân trẻ là 1,05 (95% CI, 0,13-3,80; P = 0,56 ). 74% bệnh nhân đang làm việc toàn thời gian và dưới 50 tuổi tại thời điểm điều trị AML đã làm việc toàn thời gian trong 6 tháng qua. Chỉ có 17 trong số 56 bệnh nhân hiện không làm việc cho thấy có sự hạn chế về thể chất. Bệnh nhân có khả năng chữa khỏi AML có khả năng trở lại làm việc và ít nhất nếu nhóm trẻ tuổi không có nguy cơ mắc ung thư xâm lấn.
The safety and efficacy of filgrastim as an adjunct to acute myeloid leukemia (AML) induction and consolidation therapy was assessed in this prospective double-blind, randomized, placebo-controlled, multicenter trial. A total of 521 consecutive de novo AML patients aged 16 or more years were randomized to receive filgrastim (5 microg/kg/d subcutaneously) or placebo after standard induction as well as consolidation chemotherapy. Blinded study drug was given from 24 hours after chemotherapy until the absolute neutrophil count was >/=1.0 x 10(9)/L for 3 consecutive days. The overall complete remission rate was 68%. After a median follow-up of 24 months (range 5 to 40) the median disease-free survival was 10 months (95% confidence interval [CI], 8.7 to 10.8) and the median overall survival was 13 months (95%CI, 12.2 to 14.6). These did not differ between treatment groups. Patients receiving filgrastim experienced neutrophil recovery 5 days earlier after induction 1 than those receiving placebo (P < .0001). This was accompanied by reductions in the duration of fever (7 v 8.5 days; P = .009), parenteral antibiotic use (15 v 18.5 days; P = .0001), and hospitalization (20 v 25 days; P = .0001). Similar reductions were seen after induction 2 and the consolidation courses. There was a significant reduction in the number of patients requiring systemic antifungal therapy in the filgrastim group during induction treatment (34% v 43%; P = .04). In conclusion, filgrastim is safe in that it had no negative impact on the prognosis of the AML patients. In addition, it effectively reduced the duration of neutropenia, leading to significant clinical benefits by reducing the duration of fever; requirement for parenteral anti-infectives, specifically amphotericin B; and the duration of hospitalization.
Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của filgrastim trong điều trị hỗ trợ sau điều trị bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (BLTQĐTN) bằng phương pháp can thiệp, ngẫu nhiên, có đối chứng, đa trung tâm. 521 BN BLTQĐTN từ 16 tuổi trở lên được chọn ngẫu nhiên để điều trị filgrastim liều 5 microg/kg/d dưới da hoặc dùng giả dược sau can thiệp. Nghiên cứu được tiến hành mù từ 24 giờ sau can thiệp cho đến khi số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối >/= 1,0 x 10 (9) / L trong 3 ngày liên tiếp. Tỷ lệ thuyên giảm hoàn toàn là 68 %. Sau thời gian theo dõi trung bình 24 tháng (từ 5 đến 40) thời gian sống thêm trung bình là 10 tháng (độ tin cậy 95% ( CI) 8,7 đến 10,8) và thời gian sống thêm trung bình là 13 tháng (95% CI, 12,2 đến 14,6).
To evaluate the usefulness of magnetic resonance imaging for the quantitative determination of hepatic iron, we examined 43 patients with thalassemia major and assessed the influence of pathologic changes in the liver on the precision of estimates of the hepatic iron concentration. Tissue signal intensities were measured from magnetic resonance T1-weighted images derived from gradient-echo (GE) pulse sequences and the ratio of the signal intensity of liver to muscle calculated. By excluding patients (n = 9) having a signal intensity ratio (SIR) less than or equal to 0.2, a linear relationship with hepatic iron was found and subsequent analyses were limited to these 34 patients. In 27 patients with hepatic fibrosis, an overall correlation of -0.848 was found between hepatic iron and SIR. By contrast, in the seven patients with no fibrosis, the correlation coefficient (-0.993) was significantly greater (P < .0001). Despite the differences in correlation, the regression line between hepatic iron and SIR for the patients with no fibrosis did not differ significantly with respect to either slope or intercept from that of the patients with fibrosis. Thus, the presence of fibrosis did not seem to affect the pattern of the relationship between hepatic iron and the SIR, but rather to increase the variability of the relationship. Clinically, the presence of fibrosis makes estimates of hepatic iron derived from magnetic resonance imaging so variable as to be of little practical use in the management of transfusional iron overload.
Để đánh giá giá trị của cộng hưởng từ trong việc xác định định lượng sắt ở gan, chúng tôi tiến hành khảo sát 43 bệnh nhân mắc bệnh thiếu máu não cấp và đánh giá ảnh hưởng của các biến đổi bệnh lý ở gan đến việc ước tính nồng độ sắt ở gan. Cường độ tín hiệu mô gan được đo từ các chuỗi xung T1-weighted (SIR) gradient-echo (GE) và tỷ lệ cường độ tín hiệu gan trên cơ gan được tính toán. Bằng cách loại trừ những bệnh nhân (n = 9) có tỷ lệ cường độ tín hiệu (SIR) nhỏ hơn hoặc bằng 0,2, mối liên quan tuyến tính với sắt ở gan đã được tìm thấy và phân tích tiếp theo được giới hạn trong 34 bệnh nhân này. Ở 27 bệnh nhân xơ hóa gan, mối liên quan tổng thể được tìm thấy giữa sắt ở gan và SIR là -0,848. Ngược lại, ở bảy bệnh nhân không xơ hóa, hệ số tương quan (- 0,993) lớn hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,0001 ). Mặc dù có sự khác biệt về tương quan, đường hồi quy giữa sắt ở gan và SIR ở những bệnh nhân không xơ hóa không có sự khác biệt đáng kể về độ dốc hoặc khoảng cách giữa chúng với bệnh nhân xơ hóa. Như vậy, sự hiện diện của xơ hóa dường như không ảnh hưởng đến mô hình của mối liên quan giữa sắt ở gan và SIR, mà làm tăng sự biến đổi của mối liên quan. Trên lâm sàng, sự hiện diện của xơ hóa làm cho các ước tính về sắt ở gan từ cộng hưởng từ rất khác nhau, ít được sử dụng trong thực tiễn điều trị quá tải sắt qua đường truyền.
von Willebrand factor (vWF ) in the presence of botrocetin induces p72(syk) activation, assessed as its autophosphorylated level and in vitro kinase assays, the transient association of p72(syk) with p60(c-src), and the translocation of p60(c-src) and p54/58(lyn) to cytoskeletal fractions. Jararaca glycoprotein Ib-binding protein (GPIb-BP), which specifically binds to GPIb, abolished these phenomena, suggesting that they are mediated by the vWF-GPIb interaction. These tyrosine kinase-related events were not inhibited by GRGDS peptide (plus EGTA), indicating that GPIIb/IIIa is not involved in the observed responses. Shc, an adaptor protein, was also tyrosine phosphorylated by the botrocetin-vWF activation. When GPIb was immunoprecipitated with nonfunctional monoclonal antibodies (MoAbs) directed against GPIb, a kinase activity was found to associate with GPIb upon botrocetin-vWF activation. On the other hand, anti-GPIb MoAbs that inhibit the vWF-GPIb interaction did not coprecipitate a kinase activity. Because the recovery of GPIb did not differ significantly, it is suggested that the excessive presence of inhibitory anti-GPIb MoAb dissociated a kinase activity from GPIb. Phosphoamino acid analysis showed that the kinase activity was that of a tyrosine kinase. The identity of the tyrosine kinase and the mode of interaction with the cytoplasmic region of GPIb await to be determined. Our findings suggest that the tyrosine kinase associated with GPIb serves at a most proximal step in the signal transduction pathway involved in the vWF-GPIb-induced platelet activation, which leads to other tyrosine kinase-related intracellular signals.
Yếu tố von Willebrand vWF (vWF) khi có mặt botrocetin sẽ kích hoạt p72 (syk) được đánh giá là tự quang phosphoryl hóa và in vitro kinase, sự liên kết thoáng qua của p72 (syk) với p60 (c-src) và sự chuyển vị của p60 (c-src) và p54/58 (lyn) tới các phân đoạn xương tế bào. Protein liên kết Jararaca glycoprotein Ib (GPIb-BP) đặc biệt liên kết với GPIb đã loại bỏ các hiện tượng này, cho thấy chúng được trung gian bởi tương tác vWF-GPIb. Các sự kiện liên quan đến tyrosine kinase này không bị ức chế bởi peptide GRGDS (cộng với EGTA ), cho thấy GPIIb/IIIa không tham gia vào các phản ứng quan sát được. Shc, một protein điều hợp, cũng bị ức chế bởi kháng thể đơn dòng không hoạt động (MoAbs) chống lại GPIb, một hoạt động kinase đã được tìm thấy liên kết với GPIb khi kích hoạt botrocetin-vWF. Mặt khác, hoạt tính chống GPIb MoAbs ức chế tương tác vWF-GPIb không đồng nhất với hoạt tính kinase. Do sự phục hồi của GPIb không khác biệt đáng kể, nên sự hiện diện quá mức của kháng thể kháng GPIb ức chế đã tách hoạt tính kinase khỏi GPIb. Phân tích axit phosphoamino cho thấy hoạt tính kinase là của một tyrosine kinase. Nhận dạng tyrosine kinase và phương thức tương tác với vùng tế bào chất của GPIb vẫn còn đang được xác định. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tyrosine kinase liên quan đến GPIb đóng vai trò ở bước gần nhất trong con đường dẫn truyền tín hiệu liên quan đến sự kích hoạt tiểu cầu do vWF-GPIb gây ra, dẫn đến các tín hiệu nội bào liên quan đến tyrosine kinase khác.
A French kindred with autosomal dominant hereditary renal amyloidosis was found to have a novel mutation in the fibrinogen Aalpha-chain gene. In this kindred, renal disease appeared early in life and led to terminal renal failure at an early age. Renal transplantation resulted in rapid destruction of the allograft by amyloid deposition within 2 years. Amyloid fibril protein isolated from a transplanted kidney was found to contain a novel, hybrid peptide of 49 residues whose N-terminal 23 amino acids were identical to residues 499 to 521 of normal fibrinogen Aalpha-chain. The remainder of the peptide (26 residues) represented a completely new sequence for mammalian proteins. DNA sequencing documented that the new sequence was the result of a single nucleotide deletion at position 4897 of the fibrinogen Aalpha-chain gene that gives a frame-shift at codon 522 and premature termination at codon 548. The contributions toward fibrillogenesis of the two portions of the amyloid fibril protein, ie, N-terminal fibrinogen sequence and C-terminal novel sequence, are presently unknown. However, the early onset and rapid reoccurrence of amyloid in renal transplants is unlike the clinical course with other amyloid proteins having single amino acid substitutions that give hereditary renal amyloidosis. Liver transplantation to stop synthesis of this abnormal hepatic derived protein should be considered early in the course of the disease.
Bệnh thoái hóa tinh bột thận do di truyền đã được phát hiện ở người Pháp có đột biến mới trên gen chuỗi fibrinogen Aalpha. Bệnh xuất hiện sớm ở tuổi trẻ và dẫn đến suy thận giai đoạn cuối. Ghép thận đã nhanh chóng phá hủy các mảnh ghép do sự lắng đọng amyloid trong vòng 2 năm. Protein sợi amyloid phân lập từ thận cấy ghép được tìm thấy có chứa một peptide mới, lai gồm 49 chuỗi với 23 amino acid đầu N giống hệt với chuỗi fibrinogen Aalpha bình thường. Phần còn lại của peptide (26 chuỗi) đại diện cho một trình tự hoàn toàn mới đối với protein động vật có vú. Giải trình tự ADN cho thấy trình tự mới là kết quả của việc xóa nucleotide đơn ở vị trí 4897 của gen chuỗi fibrinogen Aalpha tạo ra sự dịch chuyển khung ở codon 522 và kết thúc sớm ở codon 548. Hiện nay, những đóng góp đối với quá trình hình thành fibrillogen của hai phần protein sợi amyloid, ví dụ, trình tự fibrinogen đầu N và trình tự mới đầu C, vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, sự khởi phát sớm và tái phát nhanh chóng của amyloid trong ghép thận không giống như trên lâm sàng với các protein amyloid khác có sự thay thế amino acid đơn tạo ra thoái hóa tinh bột thận di truyền. Ghép gan để ngăn chặn sự tổng hợp protein có nguồn gốc bất thường này ở gan nên được xem xét sớm trong quá trình phát triển bệnh.
A 58-year-old man experienced episodes of fever, vomiting, and diarrhea over a 2-year period. The laboratory evaluation during these attacks consistently disclosed thrombocytopenia, leukopenia, and elevated liver enzymes. A liver biopsy performed at one of these attacks showed a typical picture of granulomatous hepatitis. In retrospect, all episodes seemed to be associated with the ingestion of quinine. Indeed, such a correlation was established by a challenge with quinine. By using flow cytometry, quinine-dependent IgG antibodies to platelets were detected in the patient serum. By a two-color flow cytometric assay, the patient serum was also found to hold quinine-dependent antibodies specific for neutrophils, T lymphocytes, and B lymphocytes. Moreover, serum absorbed with neutrophils in the presence of quinine continued to react with platelets, T lymphocytes, and B lymphocytes; serum that was absorbed with mononuclear cells continued to react with neutrophils and platelets. These experiments indicated that the antigen targets were different on platelets, neutrophils, and lymphocytes. Further, the patient serum in the presence of quinine immunoprecipitated surface-labeled platelet proteins with electrophoretic mobilities closely resembling those of glycoprotein (GP) Ib/IX and GPIIb/IIIa. By a modified monoclonal antibody-specific immobilization of platelet antigens assay, the patient serum in the presence of quinine reacted with platelet GPIb/IX and GPIIb/IIIa. Also, the patient serum in the presence of quinine immunoprecipitated an uncharacterized 15-kD double-band from surface-labeled granulocyte proteins. We conclude that our patient's thrombocytopenia, neutropenia, and lymphocytopenia were caused by quinine-dependent antibodies and that these antibodies recognized cell lineage-specific epitopes.
Một bệnh nhân nam 58 tuổi, trải qua các giai đoạn sốt, nôn và tiêu chảy trong khoảng thời gian 2 năm. Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy liên tục có sự giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu và tăng men gan. Sinh thiết gan tại một trong các giai đoạn này cho thấy hình ảnh điển hình của viêm gan hạt. Nhìn lại, tất cả các giai đoạn dường như đều liên quan đến việc uống quinine. Trên thực tế, mối tương quan này được thiết lập bởi một thách thức với quinine. Bằng phương pháp đếm tế bào học dòng chảy, các kháng thể IgG phụ thuộc quinine với tiểu cầu được phát hiện trong huyết thanh bệnh nhân. Bằng phương pháp đo tế bào học dòng chảy hai màu, huyết thanh bệnh nhân cũng được tìm thấy có chứa các kháng thể phụ thuộc quinine đặc hiệu cho bạch cầu trung tính, bạch cầu lympho T và bạch cầu lympho B. Hơn nữa, huyết thanh được hấp thụ với bạch cầu trung tính khi có quinine tiếp tục phản ứng với tiểu cầu, bạch cầu lympho T và bạch cầu lympho B; huyết thanh được hấp thụ với các tế bào đơn nhân tiếp tục phản ứng với bạch cầu trung tính và tiểu cầu. Các thí nghiệm này chỉ ra rằng các đích kháng nguyên khác nhau trên tiểu cầu, bạch cầu trung tính và lympho bào. Hơn nữa, huyết thanh bệnh nhân khi có các protein tiểu cầu được đánh dấu bề mặt quinine với các hoạt động điện di đặc hiệu gần giống với các protein glycoprotein (GP) Ib/IX và GPIIb/IIIa. Bằng phương pháp bất động kháng thể đơn dòng biến đổi của kháng nguyên tiểu cầu, huyết thanh bệnh nhân khi có quinine phản ứng với tiểu cầu GPIb/IX và GPIIb/IIIa. Ngoài ra, huyết thanh bệnh nhân khi có quinine miễn dịch phản ứng với một dải kép 15kD không đặc trưng của các protein bạch cầu hạt được đánh dấu bề mặt. Chúng tôi kết luận rằng các kháng thể này đã nhận diện được các dòng tế bào đặc hiệu của bệnh nhân.
Microvascular endothelial cells (EC) have multiple functions in inflammatory responses, including the production of chemoattractants that enhance leukocyte transmigration into tissues. Chemotactic protein, 10 kD (CP-10), is an S100 protein with potent chemotactic activity for myeloid cells in vitro and in vivo and is expressed in neutrophils and lipopolysaccharide (LPS)-activated macrophages. We show here that CP-10 is induced in murine endothelioma cell lines (bEnd-3, sEnd-1, and tEnd-1) after activation with LPS and interleukin-1 (IL-1) but not tumor necrosis factor alpha (TNFalpha) or interferon gamma (IFNgamma). Induction was not mediated by endogenous release of IL-1 or TNFalpha and was not directly upregulated by phorbol myristate acetate, calcium ionophore, or vitamin D3. EC were exquisitely sensitive to IL-1 activation (3.4 U/mL) and CP-10 mRNA induction with IL-1 occurred earlier (8 hours) than with LPS (12 hours). Furthermore, some microvessels and capillaries in delayed-type hypersensitivity lesions expressed cytoplasmic CP-10. Responses to LPS and not IL-1 in vitro were regulated by the degree of cell confluence and by TNFalpha costimulation. The related MRP-14 mRNA had a different induction pattern. Monomeric and homodimeric CP-10 upregulated by activation was predominantly cell-associated. EC-derived CP-10 may contribute to amplification of inflammatory processes by enhancing leukocyte shape changes and transmigration in the microcirculation.
Tế bào nội mô mạch máu (EC) có nhiều chức năng trong đáp ứng viêm, bao gồm sản xuất hóa chất tăng cường di cư bạch cầu vào mô. Protein hóa trị, 10 kD (CP-10) là protein S100 có hoạt tính hóa trị mạnh đối với tế bào tuỷ in vitro và in vivo, biểu hiện ở bạch cầu trung tính và đại thực bào lipopolysaccharide (LPS ). Ở đây chúng tôi chỉ ra rằng CP-10 được gây ra ở các dòng tế bào nội mô chuột (bEnd-
Recombinant adeno-associated viruses (rAAV) have been proposed to be gene transfer vehicles for hematopoietic stem cells with advantages over other virus-based systems due to their high titers and relative lack of dependence on cell cycle for target cell integration. We evaluated rAAV vector containing a LacZ reporter gene under the control of a cytomegalovirus (CMV) promoter in the context of primary human CD34+CD2- progenitor cells induced to undergo T-cell differentiation using an in vitro T-lymphopoiesis system. Target cells from either adult bone marrow or umbilical cord blood were efficiently transduced, and 71% to 79% CD2+ cells expressed a LacZ marker gene mRNA and produced LacZ-encoded protein after exposure to rAAV-CMV-LacZ. The impact of transgene expression on the differentiation of T cells was assessed by sequential quantitation of immunophenotypic subsets of virus-exposed cells and no alteration was noted compared with control. The durability of transgene expression was assessed and found to decay by day 35 with kinetics dependent on the multiplicity of infection. In addition, vector DNA was absent from CD4 or CD8 subselected CD3+ cells by DNA-polymerase chain reaction. These data suggest that rAAV vectors may result in robust transgene expression in primitive cells undergoing T-cell lineage commitment without toxicity or alteration in the pattern of T-cell differentiation. However, expression is transient and integration of the transgene unlikely. Recombinant AAV vectors are potentially valuable gene transfer tools for the genetic manipulation of events during T-cell ontogony but their potential in gene therapy strategies for diseases such as acquired immunodeficiency syndrome is limited.
Vi rút liên quan đến các tuyến tái tổ hợp (rAAV) đã được đề xuất là phương tiện chuyển gen cho tế bào gốc tạo máu có ưu thế hơn các hệ thống dựa trên vi rút khác do hiệu giá cao và tương đối ít phụ thuộc vào chu kỳ tế bào để tích hợp tế bào đích. Chúng tôi đã đánh giá vector rAAV chứa gen phóng xạ LacZ dưới sự kiểm soát của promoter cytomegalovirus (CMV) trong bối cảnh tế bào tiền thân CD34+CD2 được tạo ra để biệt hóa tế bào T bằng hệ thống T-lymphopoiesis in vitro. Các tế bào đích từ tủy xương người trưởng thành hoặc máu dây rốn được chuyển hóa hiệu quả, và 71% đến 79% các tế bào CD2+ biểu hiện gen LacZ mRNA và tạo ra protein mã hóa LacZ sau khi tiếp xúc với rAAV-CMV-LacZ. Tác động của biểu hiện gen chuyển lên sự biệt hóa tế bào T được đánh giá bằng các định lượng liên tiếp các tập hợp con kiểu hình miễn dịch của các tế bào bị phơi nhiễm và không có sự thay đổi nào so với đối chứng. Độ bền biểu hiện của gen chuyển được đánh giá và phát hiện phân rã vào ngày thứ 35 với các động học phụ thuộc vào tính đa bội của nhiễm. Ngoài ra, DNA vector không có mặt trong các tế bào CD4 hoặc CD8 được chọn lọc bằng phản ứng chuỗi polymerase DNA. Những dữ liệu này cho thấy vector rAAV có thể tạo ra biểu hiện gen mạnh mẽ trong các tế bào nguyên thủy có sự biểu hiện của dòng tế bào T mà không gây độc hoặc không có sự thay đổi trong mô hình biệt hóa tế bào T. Tuy nhiên, sự biểu hiện của gen chuyển chỉ thoáng qua và không thể tích hợp được. Vector AAV tái tổ hợp là công cụ có giá trị tiềm năng trong việc điều chỉnh gen của các sự kiện trong quá trình di truyền tế bào T nhưng tiềm năng của chúng trong các chiến lược điều trị gen đối với các bệnh như hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải còn hạn chế.
The continual recirculation of lymphocytes between the blood, tissues, and lymph is essential for the coordination and dissemination of immune responses. We have compared the functional and phenotypic properties of lymphocytes isolated from blood and lymph, the two major migratory populations. Lymph-borne lymphocytes migrated readily into the lymphatic recirculation pathway, but greater than one third of all peripheral blood lymphocytes (PBLs) were excluded from the lymphatic circuit and showed an enhanced migration to the spleen. Phenotypic analysis showed that most non-recirculating PBLs were B cells. The migration competence of B cells correlated with the surface expression of CD21 and L-selectin; recirculating B cells expressed both of these molecules, whereas non-recirculating B cells lacked both antigens. These results establish that blood contains distinct pools of lymphocytes that differ in their recirculation competence. Clearly, blood sampling is not an efficient method to directly measure the status of the recirculating immune system, and implies important constraints and restrictions in the interpretation of experimental or clinical data that include phenotypic and quantitative analyses of blood lymphocytes.
Sự tái tuần hoàn liên tục của tế bào lympho giữa máu, mô và hạch là điều cần thiết cho sự phối hợp và phát tán đáp ứng miễn dịch. Chúng tôi đã so sánh đặc điểm chức năng và kiểu hình của tế bào lympho phân lập từ máu và hạch, hai quần thể di cư chính. Tế bào lympho từ hạch dễ dàng di chuyển vào chu trình tái tuần hoàn bạch huyết, nhưng hơn một phần ba tế bào lympho máu ngoại vi (PBL) đã bị loại khỏi mạch bạch huyết và cho thấy sự gia tăng di chuyển đến lá lách. Phân tích kiểu hình cho thấy hầu hết các PBL không tái tuần hoàn là tế bào B. Khả năng di chuyển của tế bào B tương quan với biểu hiện bề mặt của CD21 và L-selectin; tế bào B tái tuần hoàn biểu hiện cả hai phân tử này, trong khi tế bào B không tái tuần hoàn thiếu cả hai kháng nguyên. Các kết quả này khẳng định rằng máu chứa các nhóm tế bào lympho khác nhau về khả năng tuần hoàn. Rõ ràng, lấy mẫu máu không phải là phương pháp hiệu quả để đo trực tiếp tình trạng của hệ thống miễn dịch tuần hoàn, và hàm ý những hạn chế và hạn chế quan trọng trong việc giải thích các dữ liệu thực nghiệm hoặc lâm sàng bao gồm phân tích kiểu hình và định lượng tế bào lympho máu.
Using fluorescence in situ hybridization (FISH) and probes located on 12p12.1 to 13.3, we studied the breakpoints of 23 patients who had various hematologic malignant diseases and who had 12p13-balanced translocations (21 patients), inversion (1 patient), or insertion (1 patient). Among them, 14 patients had breakpoints within YAC964c10, which contains the TEL (ETV6 ) gene and in 12 of these with balanced translocations or insertion, the FISH results suggested that TEL was involved. Two of the 14 patients, patients no. 13 and 14, had breakpoints in YAC 964C10 that were centromeric to TEL but telomeric to KIP1. In the other 9 patients whose breakpoints did not fall within the YAC, the breakpoints were found telomeric to the YAC in at least three different locations on distal 12p. These results indicated that TEL was involved in only half (12 of 23) of the patients with balanced 12p13 rearrangements and that there probably were several other breakpoint cluster regions on 12p13, suggesting that genes other than TEL were involved in these rearrangements.
Sử dụng kỹ thuật lai tại chỗ huỳnh quang (FISH) và các đầu dò tại các điểm 12p12.1 đến 13.3, chúng tôi nghiên cứu điểm gãy của 23 bệnh nhân có bệnh lý huyết học ác tính khác nhau và chuyển đoạn cân bằng 12p13 (21 bệnh nhân) hoặc đảo ngược (1 bệnh nhân) hoặc chèn thêm (1 bệnh nhân ). Trong số đó, 14 bệnh nhân có điểm gãy trên YAC964c10 chứa gen TEL (ETV6 ), trong đó 12 bệnh nhân chuyển đoạn cân bằng hoặc chèn thêm, kết quả FISH cho thấy có liên quan đến TEL. Hai trong số 14 bệnh nhân, số 13 và 14, có điểm gãy trên YAC 964C10 trung tâm với TEL nhưng có telomeric với KIP1. 9 bệnh nhân khác không có điểm gãy trên YAC, các điểm gãy được tìm thấy có telomeric với YAC ở ít nhất ba vị trí khác nhau ở xa điểm 12p. Kết quả này cho thấy TEL chỉ liên quan đến một nửa (12 trong số 23) bệnh nhân có sự sắp xếp lại cân bằng 12p13 và có thể có một số vùng điểm gãy khác trên 12p13, cho thấy các gen khác TEL có liên quan đến sự sắp xếp lại này.
Primary effusion lymphoma (PEL) represents a novel B-cell non-Hodgkin's lymphoma (NHL) type associated with Kaposi's sarcoma-associated herpesvirus infection and typically growing as lymphomatous effusions in the body cavities. The precise B-cell subset from which PEL originates as well as the biologic mechanisms responsible for its peculiar growth pattern are unclear. In this study, we have analyzed PEL for the expression status of CD138/syndecan-1, a molecule selectively associated with late stages of B-cell differentiation and implicated in cell-to-cell and cell-to-extracellular matrix interactions. PEL patient samples (n = 7) and cell lines (n = 5) were investigated by multiple approaches, including immunocytochemistry, flow cytometry, RNA analysis, and Western blot studies. For comparison, lymphomatous effusions other than PEL (n = 13) and tissue-based NHL (n = 103) were also tested. Expression of CD138/syndecan-1 associates at high frequency with PEL (5 of 7 patient samples and 5 of 5 cell lines), whereas it is consistently absent among other lymphomatous effusions (n = 13). The CD138/syndecan-1 isoform expressed by PEL has an average molecular weight of 420 kD, which is substantially different from that of CD138/syndecan-1 molecules generally expressed by plasma cells. These data, along with previous immunophenotypic evidence, unequivocally define that PEL cells represent a preterminal stage of B-cell differentiation and may bear implications for the peculiar growth pattern of this lymphoma.
U lymphô ác tính tràn dịch nguyên phát (PEL) là một loại u lymphô ác tính tế bào B không Hodgkin mới (NHL) liên quan đến bệnh sarcoma Kaposi và thường phát triển thành tràn dịch tế bào lympho trong khoang cơ thể. Các cơ chế sinh học của PEL là nguồn gốc chính xác của PEL và cơ chế sinh học của nó chưa được làm sáng tỏ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân tích biểu hiện của CD138/syndecan-1, một phân tử có liên quan có chọn lọc với các giai đoạn biệt hóa tế bào B và có liên quan đến tương tác giữa tế bào với tế bào và giữa tế bào với tế bào ngoại bào. Các mẫu bệnh phẩm PEL (n = 7) và dòng tế bào (n = 5) đã được nghiên cứu bằng nhiều phương pháp, bao gồm hóa mô miễn dịch, đếm tế bào dòng, phân tích RNA và nghiên cứu Western blot. Để so sánh, các mẫu bệnh phẩm PEL khác với PEL (n = 13) và NHL mô cũng đã được thử nghiệm. Biểu hiện của CD138/syndecan-1 liên quan với tần số cao với PEL (5 trên 7 mẫu bệnh phẩm và 5 trên 5 dòng tế bào) trong khi nó luôn vắng mặt trong số các mẫu khác (n = 13).
Granulocyte-macrophage colony-stimulating factor (GM-CSF ) and tumor necrosis factor alpha (TNFalpha) have been implicated in the pathogenesis of the fatal childhood disease termed juvenile myelomonocytic leukemia (JMML). We used a severe combined immunodeficient/nonobese diabetic (SCID/NOD) mouse model of JMML and examined the effect of inhibiting these cytokines in vivo with the human GM-CSF antagonist and apoptotic agent E21R and the anti-TNFalpha monoclonal antibody (MoAb) cA2 on JMML cell growth and dissemination in vivo. We show here that JMML cells repopulated to high levels in the absence of exogeneous growth factors. Administration of E21R at the time of transplantation or 4 weeks after profoundly reduced JMML cell load in the mouse bone marrow. In contrast, MoAb cA2 had no effect on its own, but synergized with E21R in virtually eliminating JMML cells from the mouse bone marrow. In the spleen and peripheral blood, E21R eliminated JMML cells, while MoAb cA2 had no effect. Importantly, studies of mice engrafted simultaneously with cells from both normal donors and from JMML patients showed that E21R preferentially eliminated leukemic cells. This is the first time a specific GM-CSF inhibitor has been used in vivo, and the results suggest that GM-CSF plays a major role in the pathogenesis of JMML. E21R might offer a novel and specific approach for the treatment of this aggressive leukemia in man.
Yếu tố kích thích sinh sản bạch cầu hạt nhân (GM-CSF) và yếu tố hoại tử khối u alpha (TNFalpha) có liên quan đến bệnh sinh của bệnh bạch cầu nguyên bào tuỷ trẻ em (JMML) gây tử vong. Chúng tôi sử dụng chuột nhắt trắng JMML (JMML) trên mô hình chuột suy giảm miễn dịch kết hợp/không mắc bệnh tiểu đường (SCID/NOD) và khảo sát tác dụng ức chế các cytokine này in vivo của chất đối kháng GM-CSF và chất diệt tế bào chết (apoptotic agent E21R) và kháng thể đơn dòng kháng TNFalpha (MoAb) cA2 trên sự phát triển và phổ biến của tế bào JMML in vivo. Ở đây, chúng tôi chứng minh rằng các tế bào JMML tái phát ở mức độ cao trong trường hợp không có yếu tố tăng trưởng ngoại sinh. Sử dụng E21R tại thời điểm cấy ghép hoặc 4 tuần sau khi giảm tải lượng tế bào JMML sâu trong tủy xương chuột. Ngược lại, MoAb cA2 không có tác dụng, nhưng phối hợp với E21R trong việc loại bỏ hầu như tế bào JMML khỏi tủy xương chuột. Ở lá lách và máu ngoại vi, E21R loại bỏ được tế bào JMML, trong khi MoAb cA2 không có tác dụng. Điều quan trọng là, các nghiên cứu trên chuột được ghép đồng thời với tế bào từ cả người cho và bệnh nhân JMML cho thấy E21R ưu tiên loại bỏ tế bào bạch cầu. Đây là lần đầu tiên một chất ức chế đặc hiệu GM-CSF được sử dụng trên cơ thể người, và kết quả cho thấy GM-CSF đóng vai trò chính trong bệnh sinh của JML. E21R có thể đưa ra một hướng tiếp cận mới và cụ thể trong điều trị bệnh bạch cầu ở người.
We previously reported that the abl promoter (Pa) undergoes de novo DNA methylation in the course of chronic myelocytic leukemia (CML). The clinical implications of this finding are the subject of the present study in which samples of CML patients, including a group treated with interferon alpha (IFNalpha) were surveyed. The methylation status of the abl promoter was monitored by polymerase chain reaction (PCR) amplification of the Pa region after digestion with several site-methylation sensitive restriction enzymes. Some 74% of the DNA samples from blood and marrow drawn in the chronic phase were nonmethylated, similar to control samples from non-CML patients. The remaining 26% were partially methylated in the abl Pa region. The latter samples were derived from patients who were indistinguishable from the others on the basis of clinical presentation. Methylated samples were mostly derived from patients known to have a disease of longer duration (26 months v 7.5 months, P = .01). Samples of 30 IFNalpha-treated patients were sequentially analyzed in the course of treatment. Fifteen patients with no evidence of Pa methylation before treatment remained methylation-free. The remainder, who displayed Pa methylation before treatment, reverted to the methylation-free status. The outcome is attributed to IFNalpha therapy, as the Pa methylation status was not reversed in any of the patients treated with hydroxyurea. Methylation of the abl promoter indicates a disease of long-standing, most likely associated with a higher probability of imminent blastic transformation. It appears to predict the outcome of IFNalpha therapy far better than the cytogenetic response.
Trước đây chúng tôi đã báo cáo rằng chất kích thích tố abl (Pa) trải qua quá trình methyl hóa DNA de novo trong quá trình phát triển bệnh bạch cầu tăng lympho bào cấp (BTBML).
The translocation t(12; 21)(p13; q22) is difficult to detect by classic cytogenetics. However, using fluorescence in situ hybridization (FISH) and by screening for the TEL/AML1 rearrangement by the polymerase chain reaction (PCR), it has been demonstrated to be the most frequent known structural chromosomal abnormality in childhood acute lymphoblastic leukemia (ALL). It is closely correlated with a B-cell precursor (BCP) phenotype and is considered a favorable prognostic factor. However, little is known about the incidence of the translocation in relapsed patients and the duration of complete remission (CR) in children expressing the TEL/AML1 fusion gene. We therefore examined 49 bone marrow samples from children with ALL at first or second relapse that were consecutively mailed to our laboratory to test for the presence of t(12; 21) using reverse transcriptase (RT)-PCR. The TEL/AML1 rearrangement could be identified in nine of 44 (20%) of the patients, a result similar to the reported incidence at diagnosis. Most of the TEL/AML1-positive children showed no adverse clinical features at diagnosis (eg, white blood cell [WBC] count <100 x 10(9)/L or age <10 years), and regarding these data, there were no differences versus children who were negative for the fusion gene. However, the period of remission was about 1 year longer in children expressing TEL/AML1 (P = .046), and the majority of relapses in this group appeared late (<2 years after diagnosis). Our findings therefore reinforce the urgent need for further prospective studies with a long follow-up period to determine the true prognostic significance of t(12; 21) and to avoid premature changes of treatment strategies.
Sự chuyển đoạn t (12; 21) ( p13; q22) là khó phát hiện bằng di truyền tế bào học kinh điển. Tuy nhiên, sử dụng lai tại chỗ huỳnh quang (FISH) và sàng lọc chuyển đoạn TEL/AML1 bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR) đã được chứng minh là bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể thường gặp nhất ở trẻ em bị bệnh bạch cầu tăng lympho bào cấp (ALL).
Structural analysis of naturally processed peptides bound to the HLA class I and class II molecules of chronic myeloid leukemia (CML) blast cells was performed to characterize the antigen processing and autoantigen repertoire in this hematopoietic malignancy. Self-peptides derived from the carboxy-terminal end of the breakpoint cluster region (bcr) protein, as well as several differentiation stage- and tissue-specific self-antigens characteristic of early stages of myeloid differentiation, such as c-fes, c-pim, granulocyte-macrophage colony-stimulating factor receptor alpha chain, proteinase 3, and cathepsin G, were identified. A common characteristic of several of the high copy-number self-peptides identified in this study is the participation of their parent proteins in signal transduction or myeloid effector function. Because bcr-abl junctional peptides bind to a limited number of major histocompatibility complex (MHC) class I alleles, an effective peptide-based immunotherapy strategy for CML requires identification of further tumor-associated or tissue-specific peptide antigens binding to common MHC alleles such as HLA-A2. The differentiation stage- and tissue-specific MHC-bound peptides found in this study, as well as the naturally processed proteins from which they are derived, may represent autoantigens towards which T-cell responses may potentially be developed for immunotherapy of hematopoietic malignancies such as CML.
Phân tích cấu trúc các peptide tự nhiên liên kết với phân tử HLA lớp I và lớp II của tế bào blast myeloid mạn tính (BLTQĐTB) được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm xử lý kháng nguyên và tự kháng nguyên trong bệnh lý ác tính tạo máu này. Các peptide tự sinh ra từ đầu carboxy của protein cụm điểm gãy (bcr ), cũng như một số đặc điểm tự kháng nguyên đặc hiệu ở giai đoạn biệt hóa và mô của các giai đoạn đầu của sự biệt hóa dòng tủy như c-fes, c-p
CGP 57148 is a compound of the 2-phenylaminopyrimidine class that selectively inhibits the tyrosine kinase activity of the ABL and the platelet-derived growth factor receptor (PDGFR) protein tyrosine kinases. We previously showed that CGP 57148 selectively kills p210BCR-ABL-expressing cells. To extend these observations, we evaluated the ability of CGP 57148 to inhibit other activated ABL tyrosine kinases, including p185BCR-ABL and TEL-ABL. In cell-based assays of ABL tyrosine phosphorylation, inhibition of ABL kinase activity was observed at concentrations similar to that reported for p210BCR-ABL. Consistent with the in vitro profile of this compound, the growth of cells expressing activated ABL protein tyrosine kinases was inhibited in the absence of exogenous growth factor. Growth inhibition was also observed with a p185BCR-ABL-positive acute lymphocytic leukemia (ALL) cell line generated from a Philadelphia chromosome-positive ALL patient. As CGP 57148 inhibits the PDGFR kinase, we also showed that cells expressing an activated PDGFR tyrosine kinase, TEL-PDGFR, are sensitive to this compound. Thus, this compound may be useful for the treatment of a variety of BCR-ABL-positive leukemias and for treatment of the subset of chronic myelomonocytic leukemia patients with a TEL-PDGFR fusion protein.
CGP 57148 là hợp chất thuộc nhóm 2-phenylaminopyrimidine có tác dụng ức chế chọn lọc hoạt tính tyrosine kinase của ABL và tyrosine kinase của protein từ tiểu cầu (PDGFR ). Trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng CGP 57148 giết chết có chọn lọc các tế bào có p210BCR-ABL. Để mở rộng các quan sát này, chúng tôi đã đánh giá khả năng ức chế hoạt tính tyrosine kinase khác của A
Tumor-derived DNA has been shown in various cell-free body fluids. In this study, soluble tumor-derived DNA was analyzed in serum and plasma samples of patients with B-cell malignancies. DNA was extracted from tumor cell specimens as well as serum and plasma samples collected from 110 patients with non-Hodgkin's lymphoma and acute B-precursor lymphoblastic leukemia and was subjected to polymerase chain reaction (PCR) analysis for rearranged immunoglobulin heavy chain DNA. In 54% of serum or plasma samples analyzed at different times before and during treatment, clonal DNA from a rearranged immunoglobulin heavy chain locus was detectable. When examined at diagnosis and before any treatment, clonotypic DNA was found in serum or plasma of 86% of the patients. Serum or plasma from patients with systemic or bulky disease was uniformly PCR positive, whereas clonotypic DNA was also recovered from the serum or plasma from the majority of patients with limited disease stages. Degradation of clonal DNA by nucleases in vitro was shown to be one cause of false-negative PCR results. This technical drawback can be relieved by adding a nuclease inhibitor like EDTA, ie, by using plasma instead of serum for PCR analysis. Treatment of patients with cytotoxic drugs was followed by rapid clearance of DNA from the peripheral blood, suggesting that soluble tumor-derived DNA might be associated with viable and proliferating tumor cells. Follow-up studies showed a close correlation of persisting soluble tumor-derived DNA with resistant disease or early relapse. In summary, these data suggest that tumor-derived DNA can be detected in serum or plasma of the majority of patients with B-cell malignancies and that testing of serum or plasma for tumor-associated DNA may be a novel parameter for monitoring response to treatment.
DNA từ khối u đã được chứng minh trong các dịch cơ thể không có tế bào. Trong nghiên cứu này, DNA từ khối u hòa tan được phân tích trong mẫu huyết thanh và huyết tương của bệnh nhân u lympho tế bào B ác tính. DNA được chiết tách từ mẫu tế bào u cũng như mẫu huyết thanh và huyết tương của 110 bệnh nhân u lympho tế bào B không Hodgkin và bệnh bạch cầu lymphoblastic tiền B cấp tính và được phân tích chuỗi polymerase (PCR) để tìm DNA chuỗi nặng globulin miễn dịch được sắp xếp lại. Trong 54% mẫu huyết thanh và huyết tương được phân tích tại các thời điểm khác nhau trước và trong quá trình điều trị, DNA dòng vô tính từ một locus chuỗi globulin miễn dịch được sắp xếp lại đã được phát hiện. Khi được kiểm tra tại thời điểm chẩn đoán và trước khi điều trị, 86% bệnh nhân đã tìm thấy DNA dạng vô tính trong huyết thanh hoặc huyết tương. DNA từ bệnh nhân mắc bệnh toàn thân hoặc bệnh nhân mắc bệnh cồng kềnh đều có PCR dương tính, trong khi DNA dạng vô tính cũng được thu hồi từ huyết thanh hoặc huyết tương của đa số bệnh nhân với giai đoạn bệnh hạn chế. Sự thoái hóa của DNA dạng vô tính bằng nuclease in vitro được chứng minh là một trong những nguyên nhân gây ra kết quả PCR âm tính sai. Nhược điểm kỹ thuật này có thể được khắc phục bằng cách thêm một chất ức chế nuclease như EDTA, ví dụ như bằng cách sử dụng huyết tương thay cho huyết thanh để phân tích PCR. Điều trị cho bệnh nhân sử thuốc gây độc tế bào được theo dõi bằng cách nhanh chóng thanh thải DNA từ máu ngoại vi, cho thấy DNA từ khối u hòa tan có thể liên quan đến khả năng sinh sôi và sinh sôi của tế bào khối u. Các nghiên cứu tiếp theo cho thấy mối tương quan chặt chẽ giữa DNA từ khối u hòa tan với bệnh kháng hoặc tái phát sớm. Tóm lại, những dữ liệu này cho thấy có thể phát hiện DNA từ khối u trong huyết thanh hoặc huyết tương của đa số bệnh nhân mắc bệnh ác tính tế bào B và xét nghiệm DNA liên quan đến khối u trong huyết thanh hoặc huyết tương có thể là một thông số mới để theo dõi đáp ứng điều trị
Mitochondrial iron overload in acquired idiopathic sideroblastic anemia (AISA) may be attributable to mutations of mitochondrial DNA (mtDNA), because these can cause respiratory chain dysfunction, thereby impairing reduction of ferric iron (Fe3+) to ferrous iron (Fe2+). The reduced form of iron is essential to the last step of mitochondrial heme biosynthesis. It is not yet understood to which part of the respiratory chain the reduction of ferric iron is linked. In two patients with AISA we identified point mutations of mtDNA affecting the same transmembrane helix within subunit I of cytochrome c oxidase (COX I; ie, complex IV of the respiratory chain). The mutations were detected by restriction fragment length polymorphism analysis and temperature gradient gel electrophoresis. One of the mutations involves a T --> C transition in nucleotide position 6742, causing an amino acid change from methionine to threonine. The other mutation is a T --> C transition at nt 6721, changing isoleucine to threonine. Both amino acids are highly conserved in a wide range of species. Both mutations are heteroplasmic, ie, they establish a mixture of normal and mutated mitochondrial genomes, which is typical of disorders of mtDNA. The mutations were present in bone marrow and whole blood samples, in isolated platelets, and in granulocytes, but appeared to be absent from T and B lymphocytes purified by immunomagnetic bead separation. They were not detected in buccal mucosa cells obtained by mouthwashes and in cultured skin fibroblasts examined in one of the patients. In both patients, this pattern of involvement suggests that the mtDNA mutation occurred in a self-renewing bone marrow stem cell with myeloid determination. Identification of two point mutations with very similar location suggests that cytochrome c oxidase plays an important role in the pathogenesis of AISA. COX may be the physiologic site of iron reduction and transport through the inner mitochondrial membrane.
Sự quá tải sắt trong ty thể ở bệnh nhân thiếu máu Sideroblastic vô căn mắc phải có thể là do đột biến mtDNA ty thể (mtDNA) gây rối loạn chức năng chuỗi hô hấp, do đó làm suy giảm sự khử sắt (Fe3+) thành sắt (Fe2+). Dạng khử sắt là yếu tố cần thiết cho bước cuối cùng của quá trình sinh tổng hợp heme ty thể. Hiện nay chưa hiểu được sự suy giảm sắt có liên quan đến phần nào của chuỗi hô hấp. Ở hai bệnh nhân AISA, chúng tôi đã xác định được đột biến điểm của mtDNA ảnh hưởng đến cùng một chuỗi xoắn xuyên màng trong tiểu đơn vị I của cytochrome c oxidase (COX I; tức là phức IV chuỗi hô hấp).
Decomposition of hydrogen peroxide (H2O2 ) at physiological levels was studied in human erythrocytes by means of a recently developed sensitive H2O2 assay. The exponential decay of H2O2 in the presence of purified erythrocyte catalase was followed down to 10(-9) mol/L H2O2 at pH 7.4. H2O2 decomposition by purified erythrocyte glutathione peroxidase (GPO) could be directly observed down to 10(-7) mol/L H2O2 . No enzyme inhibition was observed at these low H2O2 concentrations. Catalase and GPO activities can be determined separately in a titrated mixture of purified enzymes, which simulates the conditions of H2O2 removal by the erythrocyte. Experiments with fresh human hemolysate allowed us to determine H2O2 decomposition by catalase and GPO using these enzymes in their original quantitative ratio. The different kinetics of these enzymes are shown: H2O2 decomposition by catalase depends linearly on H2O2 concentration, whereas that by GPO becomes saturated at concentrations above 10(-6) mol/L H2O2. Even at very low H2O2 concentrations GPO reaches only approximately 8% of the rate at which catalase simultaneously degrades H2O2. These data indicate an almost exclusive role for catalase in the removal of H2O2 in normal human erythrocytes.
Sự phân hủy của hydro peroxit (H2O2) ở mức sinh lý được nghiên cứu trên hồng cầu người bằng phương pháp phân tích H2O2 nhạy mới được phát triển. Sự phân rã theo cấp số nhân của H2O2 với sự có mặt của catalaza hồng cầu tinh khiết được theo dõi xuống 10 (- 9) mol/L H2O2 ở pH 7.4. Sự phân hủy H2O2 bằng glutathion peroxidase hồng cầu tinh khiết (GPO) có thể được quan sát trực tiếp xuống 10 (- 7)
The possibility that serum ferritin is a secreted protein and an acute phase reactant regulated by inflammatory hormones and iron was examined in a hepatic cell line that secretes plasma proteins. Differentiated rat hepatoma cells released albumin and ferritin into the medium, as determined by rocket immunoelectrophoresis and isolation of ferritin by standard procedures plus immunoaffinity chromatography, following labeling with radioactive amino acid. Administration of interleukin-1-beta (IL-1) or tumor necrosis factor-alpha (TNF) doubled the amounts of ferritin released into the medium over 24 and 48 hours. Together, the cytokines had more than an additive effect. Albumin secretion was diminished by IL-1, but not TNF. Iron, administered as an iron dextran complex or as a 1:1 chelate with nitrilotriacetate (Fe-NTA), also enhanced ferritin release, but had no effect on albumin. Intracellular ferritin concentrations did not change significantly with cytokine treatment, but increased in response to iron. With or without treatments, release of ferritin and albumin from cells into the medium was inhibited by brefeldin A, an inhibitor of Golgi function. The effect of each of the cytokines and of iron on ferritin and albumin was also blocked by dichlorofuranosylbenzimidazole (DRB), an inhibitor of transcription. The stimulatory effect of Fe-NTA on ferritin secretion was diminished by TNF, and this was partially counteracted by IL-1, indicating additional regulatory complexity. These results show for the first time that hepatic cells secrete ferritin, that this ferritin secretion is regulated by iron and inflammatory cytokines, and that the mechanisms of regulation differ from those for intracellular ferritin. The results would explain why serum ferritin increases in inflammation or when iron flux is enhanced.
Khả năng ferritin huyết thanh là một protein tiết và là chất phản ứng giai đoạn cấp tính được điều hòa bởi các hormone viêm và sắt đã được khảo sát trên một dòng tế bào gan tiết protein huyết tương. Các tế bào ung thư gan chuột đã giải phóng albumin và ferritin vào môi trường, được xác định bằng phương pháp miễn dịch điện di tên lửa và phân lập ferritin bằng quy trình chuẩn cộng với sắc ký ái lực miễn dịch, sau đó dán nhãn bằng amino acid phóng xạ. Sử dụng interleukin-1-beta (IL-1) hoặc yếu tố hoại tử khối u-alpha (TNF) đã tăng gấp đôi lượng ferritin tiết vào môi trường trong 24 và 48 giờ. Các cytokine kết hợp lại không có tác dụng phụ. Sự tiết albumin bị giảm bởi IL-1, nhưng không phải TNF. Sắt, được sử dụng dưới dạng phức hợp dextran sắt hoặc chelate 1: 1 với nitrilotriacetate (Fe-NTA) cũng tăng cường giải phóng ferritin, nhưng không có tác dụng đối với albumin. Nồng độ ferritin nội bào không thay đổi đáng kể khi điều trị bằng cytokine, nhưng tăng lên khi đáp ứng với sắt. Có hoặc không điều trị, sự giải phóng ferritin và albumin từ tế bào vào môi trường bị ức chế bởi brefeldin A, chất ức chế chức năng Golgi. Tác dụng của từng cytokine và sắt đối với ferritin và albumin cũng bị chặn bởi dichlorofuranosylbenzimidazole (DRB) chất ức chế phiên mã. Tác dụng kích thích của Fe-NTA đối với sự tiết ferritin bị giảm bởi TNF và bị IL-1 phản kháng, cho thấy có sự phức tạp điều hòa khác nhau. Kết quả này lần đầu tiên cho thấy các tế bào gan tiết ra ferritin, sự tiết ferritin này được điều hòa bởi sắt và các cytokine gây viêm, cơ chế điều hòa khác với cơ chế điều hòa ferritin nội bào. Kết quả này giải thích tại sao ferritin huyết thanh tăng trong viêm hoặc khi tăng dòng sắt.
We present a novel G1091 to A mutation in the human liver and red blood cell (RBC) pyruvate kinase (PK) gene causing severe hemolytic anemia. In two families, three children were severely PK-deficient compound heterozygotes exhibiting the G1091 to A mutation and a common G1529 to A mutation on the other allele. In one family, the mother, a G1091 to A heterozygote, later had a second baby with a new husband, also a G1091 to A carrier. The baby was homozygous for the G1091 to A mutation and died 6 weeks after birth from severe hemolysis. Both mutant alleles were expressed at the RNA level. The G1091 to A mutation results in the substitution of a conserved glycine by an aspartate in domain A of RBC PK, whereas the G1529 to A mutation leads to the substitution of a conserved arginine residue with glutamine in the C-domain. Molecular modelling of human RBC PK, based on the crystal structure of cat muscle PK, shows that both mutations are located outside the catalytic site at the interface of domains A and C. The mutations are likely to disrupt the critical conformation of the interface by introducing alternative salt bridges. In this way the Gly364 to Asp and Arg510 to Gln substitutions may cause PK deficiency by influencing the allosteric properties of the enzyme.
Đột biến mới G1091-A ở gan người và gen hồng cầu pyruvate kinase (PK) gây thiếu máu tan máu nghiêm trọng. Trong hai gia đình, ba trẻ em bị thiếu hụt nghiêm trọng hợp chất dị hợp tử PK biểu hiện đột biến G1091-A và đột biến G1529-A trên alen kia. Trong một gia đình, người mẹ, một dị hợp tử G1091-A, sau đó sinh con thứ hai với người chồng mới, cũng mang gen G1091-A. Đứa trẻ mang đột biến G1091-A đồng hợp tử và chết sau 6 tuần sinh do tan máu nghiêm trọng. Cả hai alen đều biểu hiện ở mức độ RNA. Đột biến G1091-A dẫn đến sự thay thế một glycine được bảo tồn bằng một aspartate trong miền A của RBC PK, trong khi đột biến G1529-A dẫn đến sự thay thế dư lượng arginine được bảo tồn bằng glutamine trong miền C. Mô hình phân tử của RBC PK của người, dựa trên cấu trúc tinh thể của cơ mèo PK, cho thấy cả hai đột biến đều nằm ngoài vị trí xúc tác ở giao diện của miền A và C. Các đột biến này có khả năng phá vỡ cấu trúc quan trọng của giao diện bằng cách đưa vào các cầu nối muối thay thế. Bằng cách này, sự thay thế Gly364-Asp và Arg510-Glun có thể gây thiếu hụt PK do ảnh hưởng đến tính chất dị lập thể của enzyme.
Hematopoietic growth factors allow dose escalation of chemotherapy. This approach may potentially reduce the quality and quantity of hematopoietic stem cells. The capacity of stem cells recovered after dose intensification to support myeloablative therapy is unknown. In patients with previously untreated advanced follicular lymphoma, trilineage hematopoietic engraftment was compared in two sequential trials of induction therapy (standard dose cyclophosphamide, doxorubicin, vincristine, prednisone [CHOP] without growth factors or dose intensification CHOP supported by granulocyte colony-stimulating factor [G-CSF ]) followed by identical myeloablative therapy and autologous stem cell support. Neutrophil, platelet, and red blood cell (RBC) engraftment were compared on days 100, 180, and 360 after stem cell reinfusion. Despite similar patient characteristics including reinfusion of comparable numbers of marrow mononuclear cells, after stem cell transplantation, a highly significant prolongation of neutrophil and platelet engraftment was seen in patients who received high dose CHOP and G-CSF in comparison to standard dose CHOP. These findings suggest that dose intensified chemotherapy and G-CSF recruited stem cells into a proliferative phase and that G-CSF allowed retreatment at a time when stem cells were susceptible to damage by cytotoxic therapy. Such inadequate hematologic engraftment after myeloablative therapy might be avoided by either shortening the time that growth factor support is administered, lengthening the interval between cycles, or attempting to repetitively harvest additional stem cells either from the marrow or peripheral blood. Therefore, intensification of chemotherapy with growth factor support must be used with caution if stem cells are to be used to support myeloablative therapy.
Yếu tố tăng trưởng tạo máu làm tăng liều điều trị. Điều này có thể làm giảm chất lượng và số lượng tế bào gốc tạo máu. Khả năng phục hồi của tế bào gốc sau tăng liều hỗ trợ điều trị u lymphô ác tính chưa được biết rõ. Ở những bệnh nhân u lymphô ác tính nang tiến triển chưa được điều trị trước đó, cấy ghép tạo máu trilineage được so sánh trong hai thử nghiệm liên tiếp của liệu pháp cảm ứng (liều tiêu chuẩn cyclophosphamide, doxorubicin, vincristine, prednisone (CHOP) không có yếu tố tăng trưởng hoặc tăng liều CHOP hỗ trợ bởi yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt (G-CSF ), tiếp theo là liệu pháp tế bào gốc tự thân và tế bào gốc tự thân. Cấy ghép bạch cầu trung tính, tiểu cầu và hồng cầu được so sánh vào các ngày thứ 100,180 và 360 sau khi tái tưới máu. Mặc dù đặc điểm bệnh nhân tương tự bao gồm tái tưới máu của số lượng tế bào đơn nhân tương đương, nhưng sau khi cấy ghép tế bào gốc, số lượng tế bào gốc tăng sinh và tế bào gốc tăng sinh đã được kéo dài đáng kể ở những bệnh nhân được điều trị bằng CHOP và G-CSF liều cao so với CHOP liều tiêu chuẩn. Những phát hiện này cho thấy hóa trị liệu tăng liều và G-CSF đã thu được tế bào gốc vào giai đoạn tăng sinh và G-CSF cho phép rút lui vào thời điểm tế bào gốc dễ bị tổn thương bởi liệu pháp gây độc tế bào. Việc sử dụng không đầy đủ các yếu tố tăng trưởng này có thể tránh được bằng cách rút ngắn thời gian điều trị bằng các yếu tố tăng trưởng, kéo dài khoảng thời gian giữa các chu kỳ hoặc cố gắng thu nhận lặp đi lặp lại các tế bào gốc bổ sung từ tủy hoặc máu ngoại vi. Do đó, cần thận trọng khi sử dụng hóa trị liệu tăng liều hỗ trợ yếu tố tăng trưởng nếu sử dụng tế bào gốc để hỗ trợ điều trị u lymphô ác tính.
Phenotypic analysis of hematopoietic stem and progenitor cells (HSCs) has been an invaluable tool in defining the biology of stem cell populations. We have recently described the production of AC133, a monoclonal antibody (MoAb) that binds to a novel cell surface antigen present on a CD34(bright) subset of human HSCs. This antigen is a glycosylated protein with a molecular weight of 120 kD. Here, we report the molecular cloning of a cDNA encoding this antigen and show that it does not share homology with any previously described hematopoietic or other cell surface antigen(s). The AC133 polypeptide has a predicted size of 97 kD and contains five-transmembrane (5-TM) domains with an extracellular N-terminus and a cytoplasmic C-terminus. Whereas the expression of tetraspan (4-TM) and 7-TM molecules is well documented on mature and immature hematopoietic cells and leukocytes, this 5-TM type of structure containing two large (255-amino acid [aa] and 290-aa) extracellular loops is unique and does not share sequence homology with any known multi-TM family members. Expression of this protein appears limited to bone marrow in normal tissue by immunohistochemical staining; however, Northern analysis suggests that the mRNA transcript is present in a variety of tissues such as the kidney, pancreas, placenta, and fetal liver. The AC133 antigen is also expressed on subsets of CD34+ leukemias, suggesting that it may be an important early marker for HSCs, as well as the first described member of a new class of TM receptors.
Phân tích kiểu hình của tế bào gốc tạo máu và tế bào tiền thân (TBGM) là một công cụ vô giá trong việc xác định đặc điểm sinh học của quần thể tế bào gốc. Gần đây, chúng tôi đã mô tả việc sản xuất AC133, một kháng thể đơn dòng (MoAb) liên kết với một kháng nguyên bề mặt tế bào mới có mặt trên một tập hợp con CD34 (sáng) của TBGM ở người. Kháng nguyên này là một protein glycosyl hóa với trọng lượng phân tử 120 kD. Ở đây, chúng tôi báo cáo sự nhân bản phân tử của một cDNA mã hóa kháng nguyên này và cho thấy nó không có sự tương đồng với bất kỳ kháng nguyên tạo máu hoặc kháng nguyên bề mặt tế bào nào khác đã được mô tả trước đây. Polypeptide AC133 có kích thước dự đoán là 97 kD và chứa các miền 5-transmembrane (5-TM) với một đầu N ngoại bào và một đầu C tế bào chất. Trong khi sự biểu hiện của các phân tử tetraspan (4-TM) và 7-TM được dự đoán là có trên các tế bào tạo máu trưởng thành và chưa trưởng thành, cấu trúc 5-TM này chứa hai vòng ngoại bào lớn (255-amino acid (aa) và 290-aa) là duy nhất và không có sự tương đồng trình tự với bất kỳ thành viên đa TM nào đã biết. Sự biểu hiện của protein này chỉ giới hạn ở tủy xương trong mô bình thường bằng nhuộm hóa mô miễn dịch; tuy nhiên, phân tích Northern cho thấy sự biểu hiện của mRNA có mặt ở nhiều mô khác nhau như thận, tụy, nhau thai và gan của thai nhi. Kháng nguyên AC133 cũng được biểu hiện trên các tập hợp con của bệnh bạch cầu CD34+, cho thấy nó có thể là một dấu hiệu sớm quan trọng đối với TBGM cũng như là thành viên đầu tiên được mô tả của một lớp thụ thể TM mới.
Autosomal dominant hypophosphatemic rickets (ADHR) is an inherited disorder of isolated renal phosphate wasting, the pathogenesis of which is unknown. We performed a genome-wide linkage study in a large kindred to determine the chromosome location of the ADHR gene. Two-point LOD scores indicate that the gene is linked to the markers D12S314 [Z(theta) = 3.15 at theta = 0.0], vWf [Z(theta) = 5.32 at theta = 0.0], and CD4 [Z(theta) = 3.53 at theta = 0.0]. Moreover, multilocus analysis indicates that the ADHR gene locus is located on chromosome 12p13 in the 18-cM interval between the flanking markers D12S100 and D12S397. These data are the first to establish a chromosomal location for the ADHR locus and to provide a framework map to further localize the gene. Such studies will permit ultimate identification of the ADHR gene and provide further insight into phosphate homeostasis.
Bệnh còi xương giảm phát tự phát (ADHR) là một bệnh di truyền do lãng phí phosphat thận cô lập, chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu liên kết gen trên diện rộng trên một quần thể lớn để xác định vị trí nhiễm sắc thể của gen ADHR. Điểm LOD 2 điểm cho thấy gen liên kết với các dấu ấn D12S314 [Z (theta) = 3,15 tại theta = 0,0], vWf [Z (theta) = 5,32 tại the
Complete interferon-gamma receptor 1 (IFNgammaR1) deficiency has been identified previously as a cause of fatal bacillus Calmette-Guérin (BCG) infection with lepromatoid granulomas, and of disseminated nontuberculous mycobacterial (NTM) infection in children who had not been inoculated with BCG. We report here a kindred with partial IFNgammaR1 deficiency: one child afflicted by disseminated BCG infection with tuberculoid granulomas, and a sibling, who had not been inoculated previously with BCG, with clinical tuberculosis. Both responded to antimicrobials and are currently well without prophylactic therapy. Impaired response to IFN-gamma was documented in B cells by signal transducer and activator of transcription 1 nuclear translocation, in fibroblasts by cell surface HLA class II induction, and in monocytes by cell surface CD64 induction and TNF-alpha secretion. Whereas cells from healthy children responded to even low IFN-gamma concentrations (10 IU/ml), and cells from a child with complete IFNgammaR1 deficiency did not respond to even high IFN-gamma concentrations (10,000 IU/ml), cells from the two siblings did not respond to low or intermediate concentrations, yet responded to high IFN-gamma concentrations. A homozygous missense IFNgR1 mutation was identified, and its pathogenic role was ascertained by molecular complementation. Thus, whereas complete IFNgammaR1 deficiency in previously identified kindreds caused fatal lepromatoid BCG infection and disseminated NTM infection, partial IFNgammaR1 deficiency in this kindred caused curable tuberculoid BCG infection and clinical tuberculosis.
Sự thiếu hụt hoàn toàn thụ thể interferon-gamma 1 (IFNgammaR1) đã được xác định trước đây là nguyên nhân gây nhiễm trực khuẩn Calmette-Guérin (BCG) gây tử vong với u hạt lepromatoid, và nhiễm khuẩn lao không do lao lan truyền (NTM) ở trẻ em chưa được tiêm chủng BCG. Ở đây chúng tôi báo cáo một trẻ có họ hàng bị thiếu hụt IFNgammaR1 một phần: một trẻ bị nhiễm BCG lan truyền với u hạt lao, và một trẻ em họ
Uncoupling protein-2 and -3 (UCP2 and UCP3) are mitochondrial proteins that show high sequence homology with the brown adipocyte-specific UCP1. UCP1 induces heat production by uncoupling respiration from ATP synthesis. UCP2 is widely expressed in human tissues, whereas UCP3 expression seems restricted to skeletal muscle, an important site of thermogenesis in humans. We have investigated the regulation of UCP2 and UCP3 gene expression in skeletal muscle and adipose tissue from lean and obese humans. UCP2 and -3 mRNA levels were not correlated with body mass index (BMI) in skeletal muscle, but a positive correlation (r = 0.55, P < 0.01, n = 22) was found between UCP2 mRNA level in adipose tissue and BMI. The effect of fasting was investigated in eight lean and six obese subjects maintained on a hypocaloric diet (1,045 kJ/d) for 5 d. Calorie restriction induced a similar 2-2.5-fold increase in UCP2 and -3 mRNA levels in lean and obese subjects. To study the effect of insulin on UCP gene expression, six lean and five obese subjects underwent a 3-h euglycemic hyperinsulinemic clamp. Insulin infusion did not modify UCP2 and -3 mRNA levels. In conclusion, the similar induction of gene expression observed during fasting in lean and obese subjects shows that there is no major alteration of UCP2 and -3 gene regulation in adipose tissue and skeletal muscle of obese subjects. The increase in UCP2 and -3 mRNA levels suggests a role for these proteins in the metabolic adaptation to fasting.
Không tách phân tử protein (UCP2 và -3) là các protein ty thể có trình tự tương đồng cao với UCP1 đặc trưng cho tế bào mỡ nâu. UCP1 sinh nhiệt bằng cách tách hô hấp từ quá trình tổng hợp ATP. UCP2 biểu hiện rộng rãi trong các mô cơ thể người, trong khi UCP3 dường như chỉ giới hạn trong cơ xương, một vị trí quan trọng của sự sinh nhiệt ở người. Chúng tôi đã nghiên cứu sự điều hòa biểu hiện gen UCP2 và UCP3 trong cơ xương và mô mỡ từ người gầy và béo phì. Nồng độ UCP2 và -3 mRNA không tương quan với chỉ số khối cơ thể (BMI) ở cơ xương, nhưng có mối tương quan thuận (r = 0,55, P < 0,01, n = 22) giữa nồng độ UCP2 mRNA trong mô mỡ và BMI. Nghiên cứu tác dụng của nhịn ăn trên 8 đối tượng gầy và 6 đối tượng béo phì duy trì chế độ ăn giảm calo (1.045 kJ/d) trong 5 d ngày. Hạn chế calo gây tăng tương tự 2-2,5 lần nồng độ UCP2 và -3 mRNA ở người gầy và béo phì. Để nghiên cứu tác dụng của insulin lên biểu hiện gen UCP, 6 đối tượng gầy và 5 người béo phì được kẹp tăng insulin máu do thiếu máu cục bộ 3 giờ. Truyền insulin không làm thay đổi nồng độ UCP2 và -3 mRNA. Kết luận, sự tương đồng về biểu hiện gen quan sát được trong nhịn ăn ở người gầy và béo phì cho thấy không có sự thay đổi lớn về điều hòa gen UCP2 và -3 ở người béo phì và cơ xương. Sự gia tăng nồng độ UCP2 và -3 mRNA cho thấy vai trò của các protein này trong sự thích nghi về mặt trao đổi chất với nhịn ăn.
Basal cell carcinoma (BCC) is the most common skin cancer in humans, and although metastasis rarely occurs, the tumor cells are nevertheless able to invade and destroy the surrounding tissue. Intralesional injection of IFN-alpha has been found to be highly effective in inducing BCC regression by an unknown mechanism. We show that in untreated patients, BCC cells express CD95 ligand, but not the receptor, which may allow tumor expansion by averting the attack of activated CD95 receptor-positive lymphoid effector cells. The CD95 ligand of BCC cells is functional as CD95-positive cells incubated on BCC cryosections become apoptotic and are lysed. In IFN-alpha-treated patients BCC cells express not only CD95 ligand but also CD95 receptor, whereas the peritumoral infiltrate that mainly consists of CD4+ T cells predominantly contains CD95 receptor and only few CD95 ligand-positive cells. Thus, in treated patients BCC most likely regresses by committing suicide through apoptosis induction via CD95 receptor-CD95 ligand interaction.
Ung thư biểu mô tế bào đáy (UTBMBĐ) là ung thư da phổ biến nhất ở người, và mặc dù hiếm khi di căn, các tế bào khối u vẫn có khả năng xâm nhập và phá hủy các mô xung quanh. Tiêm IFN-alpha trực tiếp có hiệu quả cao trong việc gây ra sự thoái triển của UTBMBĐ bằng một cơ chế chưa được biết rõ. Chúng tôi cho thấy ở những bệnh nhân không được điều trị, các tế bào BCC biểu hiện phối tử CD95, nhưng không biểu hiện thụ thể, có thể cho phép sự mở rộng khối u bằng cách ngăn chặn sự tấn công của các tế bào tác động thụ thể CD95 dương tính. Phối tử CD95 của tế bào BCC hoạt động khi tế bào dương tính CD95 ủ trên các mô BCC bị chết rụng và bị ly giải. Ở những bệnh nhân được điều trị bằng IFN-alpha, tế bào BCC không chỉ biểu hiện phối tử CD95 mà còn biểu hiện thụ thể CD95, trong khi đó, sự xâm nhập vào phúc mạc chủ yếu bao gồm các tế bào T CD4+ chủ yếu chứa thụ thể CD95 và chỉ có một số ít tế bào dương tính với phối tử CD95. Do đó, ở những bệnh nhân được điều trị, UTBMBĐ có nhiều khả năng thoái triển bằng cách tự tử thông qua quá trình gây chết rụng tế bào thông qua tương tác thụ thể CD95-CD95.
Transgenic mice overexpressing a constitutively active human TGF-beta1 under control of the rat phosphoenolpyruvate carboxykinase regulatory sequences developed fibrosis of the liver, kidney, and adipose tissue, and exhibited a severe reduction in body fat. Expression of the transgene in hepatocytes resulted in increased collagen deposition, altered lobular organization, increased hepatocyte turnover, and in extreme cases, hemorrhage and thrombosis. Renal expression of the transgene was localized to the proximal tubule epithelium, and was associated with tubulointerstitial fibrosis, characterized by excessive collagen deposition and increased fibronectin and plasminogen activator inhibitor-1 immunoreactivity. Pronounced glomerulosclerosis was evident, and hydronephrosis developed with low penetrance. Expression of TGF-beta1 in white and brown adipose tissue resulted in a lipodystrophy-like syndrome. All white fat depots and brown fat pads were severely reduced in size, and exhibited prominent fibroplasia. This reduction in WAT was due to impaired adipose accretion. Introduction of the transgene into the ob/ob background suppressed the obesity characteristic of this mutation; however, transgenic mutant mice developed severe hepato- and splenomegaly. These studies strengthen the link between TGF-beta1 expression and fibrotic disease, and demonstrate the potency of TGF-beta1 in modulating mesenchymal cell differentiation in vivo.
Chuột biến đổi gen biểu hiện quá mức TGF-beta1 hoạt động cấu thành dưới sự kiểm soát của phosphoenolpyruvate carboxykinase, gây xơ hóa gan, thận, mô mỡ và giảm mỡ nghiêm trọng. Biểu hiện của gen chuyển trong tế bào gan làm tăng sự lắng đọng collagen, thay đổi tổ chức thuỳ, tăng sự luân chuyển tế bào gan, và trong trường hợp nặng có xuất huyết và huyết khối. Biểu hiện của gen chuyển được tập trung vào biểu mô ống lượn gần, có liên quan với xơ hóa mô ống lượn đặc trưng bởi sự lắng
Although bile acid transport by bile duct epithelial cells, or cholangiocytes, has been postulated, the details of this process remain unclear. Thus, we performed transport studies with [3H]taurocholate in confluent polarized monolayers of normal rat cholangiocytes (NRC). We observed unidirectional (i.e., apical to basolateral) Na+-dependent transcellular transport of [3H]taurocholate. Kinetic studies in purified vesicles derived from the apical domain of NRC disclosed saturable Na+-dependent uptake of [3H]taurocholate, with apparent Km and Vmax values of 209+/-45 microM and 1.23+/-0.14 nmol/mg/10 s, respectively. Reverse transcriptase PCR (RT-PCR) using degenerate primers for both the rat liver Na+-dependent taurocholate-cotransporting polypeptide and rat ileal apical Na+-dependent bile acid transporter, designated Ntcp and ASBT, respectively, revealed a 206-bp product in NRC whose sequence was identical to the ASBT. Northern blot analysis demonstrated that the size of the ASBT transcript was identical in NRC, freshly isolated cholangiocytes, and terminal ileum. In situ RT-PCR on normal rat liver showed that the message for ASBT was present only in cholangiocytes. Immunoblots using a well-characterized antibody for the ASBT demonstrated a 48-kD protein present only in apical membranes. Indirect immunohistochemistry revealed apical localization of ASBT in cholangiocytes in normal rat liver. The data provide direct evidence that conjugated bile acids are taken up at the apical domain of cholangiocytes via the ASBT, and are consistent with the notion that cholangiocyte physiology may be directly influenced by bile acids.
Mặc dù vận chuyển acid mật bằng các tế bào biểu mô ống mật chủ, hay còn gọi là tế bào đường mật, đã được giả định, nhưng các chi tiết của quá trình này vẫn chưa rõ ràng. Do đó, chúng tôi đã thực hiện các nghiên cứu vận chuyển với taurocholate trong các đơn bào phân cực hợp lưu của tế bào đường mật bình thường ở chuột cống trắng. Chúng tôi quan sát thấy sự vận chuyển một chiều (tức là apical đến basolateral) của Na+ phụ thuộc vào tế bào đường mật của taurocholate ở chuột cống trắng. Các nghiên cứu động học
Irreversible exit from the cell cycle precludes the ability of cardiac muscle cells to increase cell number after infarction. Using adenoviral E1A, we previously demonstrated dual pocket protein- and p300-dependent pathways in neonatal rat cardiac myocytes, and have proven that E2F-1, which occupies the Rb pocket, suffices for these actions of E1A. By contrast, the susceptibility of adult ventricular cells to viral delivery of exogenous cell cycle regulators has not been tested, in vitro or in vivo. In cultured adult ventricular myocytes, adenoviral gene transfer of E2F-1 induced expression of proliferating cell nuclear antigen, cyclin-dependent protein kinase 4, cell division cycle 2 kinase, DNA synthesis, and apoptosis. In vivo, adenoviral delivery of E2F-1 by direct injection into myocardium induced DNA synthesis, shown by 5'-bromodeoxyuridine incorporation, and accumulation in G2/M, by image analysis of Feulgen-stained nuclei. In p53(-)/- mice, the prevalence of G1 exit was more than twofold greater; however, E2F-1 evoked apoptosis and rapid mortality comparably in both backgrounds. Thus, the differential effects of E2F-1 on G1 exit in wild-type versus p53-deficient mice illustrate the combinatorial power of viral gene delivery to genetically defined recipients: E2F-1 can override the G1/S checkpoint in postmitotic ventricular myocytes in vitro and in vivo, but leads to apoptosis even in p53(-)/- mice.
Sự thoát khỏi chu kỳ tế bào không hồi phục ngăn cản khả năng tăng số lượng tế bào cơ tim sau nhồi máu. Sử dụng adenovirus E1A, trước đây chúng tôi đã chứng minh các con đường phụ thuộc protein túi kép và p300 ở tế bào cơ tim chuột sơ sinh và đã chứng minh rằng E2F-1, chiếm túi Rb, đủ cho các hoạt động này của E1A. Ngược lại, tính nhạy cảm của tế bào thất trưởng thành đối với sự cung cấp virus điều hòa chu kỳ tế bào ngoại sinh chưa được thử nghiệm, in vitro hoặc in
Obesity is associated with diabetes, and leptin is known to be elevated in obesity. To investigate whether leptin has a direct effect on insulin secretion, isolated rat and human islets and cultured insulinoma cells were studied. In all cases, mouse leptin inhibited insulin secretion at concentrations within the plasma range reported in humans. Insulin mRNA expression was also suppressed in the cultured cells and rat islets. The long form of the leptin receptor (OB-Rb) mRNA was present in the islets and insulinoma cell lines. To determine the significance of these findings in vivo, normal fed mice were injected with two doses of leptin. A significant decrease in plasma insulin and associated rise in glucose concentration were observed. Fasted normal and leptin receptor-deficient db/db mice showed no response to leptin. A dose of leptin, which mimicked that found in normal mice, was administered to leptin-deficient, hyperinsulinemic ob/ob mice. This caused a marked lowering of plasma insulin concentration and a doubling of plasma glucose. Thus, leptin has a powerful acute inhibitory effect on insulin secretion. These results suggest that the action of leptin may be one mechanism by which excess adipose tissue could acutely impair carbohydrate metabolism.
Béo phì có liên quan đến bệnh đái tháo đường, và leptin được biết là có thể làm tăng tỷ lệ này. Để khảo sát tác động trực tiếp của leptin lên quá trình tiết insulin, chúng tôi tiến hành phân lập chuột, tiểu đảo và nuôi cấy tế bào ung thư biểu mô tế bào biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô tế bào ung thư biểu mô
HIV infection is characterized by the reduction of the CD4+, CD45RA+, CD26+, and CD28+ lymphocyte subsets and of the in vitro production of IL-2, IL-4, and interferon-gamma; on the contrary, chemokine production is usually increased. These abnormalities are only partially restored by antiretroviral chemotherapy. Therapy with interleukin-2 has been proposed to restore the functions of the immune system, but the mechanisms by which IL-2 exerts its activities are unknown. The aim of this study was to define the effects of rIL-2 administration on CD4+, CD45RA+, CD45R0+, and CD26+ lymphocytes and on the in vitro production of IL-2, IL-4, IL-10, IFN-gamma, RANTES, and sCD30 in HIV+ patients. 10 HIV+ patients with CD4 cell counts between 200 and 500 cells/mm3 were treated with six cycles of subcutaneous recombinant IL-2 administration, in combination with zidovudine and didanosine. This therapeutic regimen resulted in a remarkable increase in the number of CD4+ cells and in the prolonged reduction of the levels of viremia. CD45R01 cells were expanded during the first cycle of therapy, while CD45RA+/CD26+ cells predominated after the third cycle. At this time, the in vitro production of IL-2, IL-4, IFN-gamma, and sCD30 were significantly upregulated. These results demonstrate that rIL-2 in HIV+ patients induces the reconstitution of the CD4/CD45RA lymphocytes subtype. This expanded cell population recovered the ability to produce in vitro IL-2, IL-4, and IFN-gamma. These effects may be beneficial to HIV+ patients by improving their immune response to microorganisms or vaccines.
Nhiễm HIV đặc trưng bởi sự suy giảm tập hợp tế bào lympho CD4+, CD45RA+, CD26+, và CD28+ và sự sản sinh in vitro của IL-2, IL-4, và interferon-gamma; ngược lại, sự sản sinh chemokine thường tăng lên. Những bất thường này chỉ được phục hồi một phần bằng hóa trị liệu kháng retrovirus. Liệu pháp interleukin-2 đã được đề xuất để phục hồi chức năng của hệ miễn dịch, nhưng cơ chế hoạt động của IL-2 vẫn chưa được biết rõ. Mục đích của nghiên cứu này là xác định tác dụng của việc sử dụng interleukin-2 lên tế bào lympho CD4+, CD45RA+, CD45R0+, CD26+ và sản sinh IL-2, IL-4, IL-10, IFN-gamma, RANTES, và sCD30 in vitro trên bệnh nhân nhiễm HIV +. 10 bệnh nhân nhiễm HIV + có số lượng tế bào CD4 từ 200 đến 500 tế bào/mm3 được điều trị bằng 6 chu kỳ tái tổ hợp IL-2 dưới da kết hợp với zidovudine và didanosine. Phác đồ điều trị này đã làm tăng đáng kể số lượng tế bào lympho CD4+ và kéo dài thời gian phục hồi. Số lượng tế bào CD45R01 được mở rộng trong chu kỳ điều trị đầu tiên, trong khi số lượng tế bào CD45RA+/CD26+ chiếm ưu thế sau chu kỳ thứ 3. Tại thời điểm này, sự sản sinh IL-2, IL-4, IFN-gamma và sCD30 in vitro đã được điều chỉnh tăng lên đáng kể. Kết quả này cho thấy rIL-2 ở bệnh nhân nhiễm HIV + đã phục hồi khả năng sản sinh phân nhóm tế bào lympho CD4/CD45RA. Sự mở rộng này có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân nhiễm HIV + bằng cách cải thiện đáp ứng miễn dịch với vi sinh vật hoặc vắc xin.
Transgenic mice overexpressing the human growth hormone gene develop mammary carcinomas. Since human growth hormone gene can activate both the growth hormone receptor (GHR) and the prolactin (PRL) receptor (PRLR), it is not clear which receptor system is responsible for the malignant transformation. To clarify the receptor specificity, we created transgenic mice with two different genes: (a) transgenic mice overexpressing the bovine growth hormone (bGH) gene having high levels of bGH only activating the GHR and also high serum levels of IGF-I; and (b) transgenic mice overexpressing the rat PRL (rPRL) gene that have elevated levels of PRL (one line 150 ng/ml and one line 13 ng/ml) only binding to the PRLR and with normal IGF-I levels. When analyzed histologically, all of the PRL transgenic female mice developed mammary carcinomas at 11-15 mo of age. Only normal mammary tissue was observed among the bGH transgenic animals and the controls. Cell lines established from a tumor produced rPRL and expressed PRLR. In organ culture experiments, an auto/paracrine effect of rPRL was demonstrated. In conclusion, activation of the PRLR is sufficient for induction of mammary carcinomas in mice, while activation of the GHR is not sufficient for mammary tumor formation.
Chuột biến đổi gen có gen hormone tăng trưởng biểu hiện quá mức ở người sẽ phát triển ung thư biểu mô tuyến vú. Vì gen hormone tăng trưởng ở người có thể kích hoạt cả thụ thể hormone tăng trưởng (GHR) và thụ thể prolactin (PRL) ( PRLR ), nên không rõ hệ thống thụ thể nào chịu trách nhiệm cho sự biến đổi ác tính của tế bào này. Để làm rõ tính đặc hiệu của thụ thể, chúng tôi đã tạo ra chuột biến đổi gen với hai gen khác nhau: ( a) chuột biến đổi gen biểu hiện quá mức gen hormone tăng trưởng bò (bGH) có nồng độ bGH cao chỉ kích hoạt GHR và nồng độ IGF-I trong huyết thanh cao; và (b) chuột biến đổi gen biểu hiện quá mức gen PRL (rPRL) ở chuột có nồng độ PRL (một dòng 150 ng/ml và một dòng 13 ng/ml) chỉ gắn với PRLR và với nồng độ IGF-I bình thường. Khi phân tích mô học, tất cả chuột nhắt biến đổi gen đều phát triển ung thư biểu mô tuyến vú ở độ tuổi 11-15. Chỉ có mô vú bình thường được quan sát thấy ở động vật biến đổi gen bGH và nhóm chứng. Các dòng tế bào hình thành từ một khối u tạo ra rPRL và biểu hiện PRLR. Trong thí nghiệm nuôi cấy nội tạng, tác dụng tự động/paracrine của rPRL đã được chứng minh. Kết luận, kích hoạt gen PRLR là đủ để gây ung thư biểu mô tuyến vú ở chuột, trong khi kích hoạt gen GHR không đủ để hình thành khối u tuyến vú.
Endothelial cells initiate the inflammatory response by recruiting and activating leukocytes. IL-6 is not an agonist for this, but we found soluble IL-6 receptor alpha-subunit (IL-6Ralpha), with their constitutive IL-6 synthesis, stimulated endothelial cells to synthesize E-selectin, intracellular adhesion molecule-1, vascular cellular adhesion molecule-1, IL-6, and IL-8, and to bind neutrophils. Neutrophils express significant amounts of IL-6Ralpha and upon stimulation shed it: this material activates endothelial cells through a newly constituted IL-6 receptor. Retrograde signaling from PMN activated in the extravascular compartment to surrounding endothelial cells will recruit more and a wider variety of leukocytes. The limiting signal is a soluble receptor, not a cytokine.
Các tế bào nội mô khởi đầu phản ứng viêm bằng cách thu nạp và kích hoạt các bạch cầu. IL-6 không phải là chất chủ vận cho phản ứng này, nhưng chúng tôi đã tìm thấy alpha-tiểu đơn vị thụ thể IL-6 hòa tan (IL-6Ralpha) với sự tổng hợp IL-6 cấu thành của chúng, các tế bào nội mô kích thích tổng hợp E-selectin, phân tử bám dính nội bào 1, phân tử bám dính tế bào mạch máu 1, IL-6 và IL-8 và liên kết với bạch cầu
Multiple clinical trials have shown the efficacy of adoptively transferred allogeneic antigen-specific T cells for the treatment of viral infections and relapsed hematologic malignancies. In contrast, the therapeutic potential of autologous antigen-specific T cells has yet to be established since it has been technically difficult to generate sufficient numbers of these T cells, ex vivo. A major obstacle to the success of this objective derives from our inability to simply and rapidly isolate and/or expand large numbers of highly efficient antigen presenting cells (APCs) for repetitive stimulations of antigen-specific T cells in vitro. We show that autologous CD40-activated B cells represent a readily available source of highly efficient APC that appear to have several important advantages over other APCs for ex vivo T cell expansion including: (a) methodological simplicity necessary to generate continuously large numbers of APCs from just 50 cm3 of peripheral blood without loss of APC function; (b) capacity to induce high peak T cell proliferation and interferon-gamma production without IL-10 production; (c) ease in cryopreservation; and (d) markedly reduced cost. We, therefore, contend that CD40-activated B cells are an alternative source of highly efficient APCs with which to generate antigen-specific T cells ex vivo for autologous adoptive immunotherapy.
Nhiều thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy hiệu quả của các tế bào T đặc hiệu kháng nguyên được chuyển giao thích ứng trong điều trị nhiễm virus và các bệnh lý ác tính về huyết học tái phát. Ngược lại, tiềm năng điều trị của các tế bào T đặc hiệu kháng nguyên tự thân vẫn chưa được thiết lập vì việc tạo ra đủ số lượng tế bào T ex vivo về mặt kỹ thuật là rất khó khăn. Trở ngại chính cho sự thành công của mục tiêu này xuất phát từ việc chúng ta không thể đơn giản và nhanh chóng cô lập và/hoặc mở rộng một số lượng lớn tế bào trình diện
Cytokines, in particular tumor necrosis factor-alpha (TNF-alpha), have significant effects on energy metabolism and appetite although their mechanisms of action are largely unknown. Here, we examined whether TNF-alpha modulates the production of leptin, the recently identified fat-specific energy balance hormone, in cultured adipocytes and in mice. TNF-alpha treatment of 3T3-L1 adipocytes resulted in rapid stimulation of leptin accumulation in the media, with a maximum effect at 6 h. This stimulation was insensitive to cycloheximide, a protein synthesis inhibitor, but was completely inhibited by the secretion inhibitor brefeldin A, indicating a posttranslational effect. Treatment of mice with TNF-alpha also caused a similar increase in plasma leptin levels. Finally, in obese TNF-alpha-deficient mice, circulating leptin levels were significantly lower, whereas adipose tissue leptin was higher compared with obese wild-type animals. These data provide evidence that TNF-alpha can act directly on adipocytes to regulate the release of a preformed pool of leptin. Furthermore, they suggest that the elevated adipose tissue expression of TNF-alpha that occurs in obesity may contribute to obesity-related hyperleptinemia.
Các cytokine, đặc biệt là TNF-alpha, có tác dụng đáng kể lên quá trình chuyển hóa năng lượng và sự thèm ăn mặc dù cơ chế hoạt động của chúng phần lớn chưa được biết đến. Ở đây, chúng tôi nghiên cứu xem liệu TNF-alpha có điều chỉnh việc sản xuất leptin, một hormone cân bằng năng lượng đặc hiệu chất béo mới được xác định, ở tế bào mỡ nuôi cấy và ở chuột nhắt trắng hay không. Điều trị bằng TNF-alpha cho tế bào mỡ 3T3-L1 đã kích thích tích lũy leptin nhanh chóng, với hiệu quả tối đa ở 6 giờ. Sự kích thích này không nhạy cảm với cycloheximide, một chất ức chế tổng hợp protein, nhưng bị ức chế hoàn toàn bởi chất ức chế tiết brefeldin A, cho thấy tác dụng sau dịch mã. Điều trị chuột bằng TNF-alpha cũng gây ra sự gia tăng tương tự trong huyết tương leptin. Cuối cùng, ở chuột béo phì thiếu leptin, nồng độ leptin lưu thông thấp hơn đáng kể, trong khi leptin mô mỡ cao hơn so với động vật hoang dã béo phì. Những dữ liệu này cung cấp bằng chứng cho thấy TNF-alpha có thể tác động trực tiếp lên tế bào mỡ để điều chỉnh việc giải phóng một lượng leptin đã được hình thành. Hơn nữa, chúng cho thấy sự gia tăng biểu hiện mô mỡ của TNF-alpha xảy ra ở chuột béo phì có thể góp phần làm tăng leptin máu liên quan đến béo phì.
Mucin 1 (MUC1) is a large complex glycoprotein that is highly expressed in breast cancer, and as such could be a target for immunotherapy. In mice, human MUC1 is highly immunogenic, particularly when conjugated to mannan, where a high frequency of CD8(+) MHC-restricted cytotoxic T lymphocytes is induced, accompanied by tumor protection. On this basis, a clinical trial was performed in which 25 patients with advanced metastatic carcinoma of breast, colon, stomach, or rectum received mannan-MUC1 in increasing doses. After 4 to 8 injections, large amounts of IgG1 anti-MUC1 antibodies were produced in 13 out of 25 patients (with antibody titers by ELISA of 1/320-1/20,480). Most of the antibodies reacted to the epitopes STAPPAHG and PAPGSTAP. In addition, T cell proliferation was found in 4 out of 15 patients, and CTL responses were seen in 2 out of 10 patients. Mannan-MUC1 can immunize patients, particularly for antibody formation, and to a lesser extent, cellular responses. It remains to be seen whether such responses have antitumor activity.
Mucin 1 (MUC1) là một glycoprotein phức tạp lớn được biểu hiện cao trong ung thư vú, do đó có thể là mục tiêu của liệu pháp miễn dịch. Ở chuột, MUC1 có khả năng miễn dịch cao, đặc biệt khi kết hợp với mannan, nơi gây ra tế bào lympho T CD8 (+) MHC hạn chế, kèm theo bảo vệ khối u. Trên cơ sở đó, một thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện trên 25 bệnh nhân ung thư vú, đại tràng, dạ dày hoặc trực tràng tiến triển được tiêm mannan-M
The endothelium plays an important role in maintaining the vascular homeostasis by releasing vasodilator substances, including prostacyclin (PGI2), nitric oxide (NO), and endothelium-derived hyperpolarizing factor (EDHF). Although the former two substances have been investigated extensively, the importance of EDHF still remains unclear, especially in human arteries. Thus we tested our hypothesis that EDHF plays an important role in human arteries, particularly with reference to the effect of vessel size, its vasodilating mechanism, and the influences of risk factors for atherosclerosis. Isometric tension and membrane potentials were recorded in isolated human gastroepiploic arteries and distal microvessels (100-150 microm in diameter). The contribution of PGI2, NO, and EDHF to endothelium-dependent relaxations was analyzed by inhibitory effects of indomethacin, NG-nitro- L-arginine, and KCl, respectively. The nature of and hyperpolarizing mechanism by EDHF were examined by the inhibitory effects of inhibitors of cytochrome P450 pathway and of various K channels. The effects of atherosclerosis risk factors on EDHF-mediated relaxations were also analyzed. The results showed that (a) the contribution of EDHF to endothelium-dependent relaxations is significantly larger in microvessels than in large arteries; (b) the nature of EDHF may not be a product of cytochrome P450 pathway, while EDHF-induced hyperpolarization is partially mediated by calcium-activated K channels; and (c) aging and hypercholesterolemia significantly impair EDHF-mediated relaxations. These results demonstrate that EDHF also plays an important role in human arteries.
Nội mô đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng nội môi mạch máu bằng cách giải phóng các chất làm giãn mạch bao gồm prostacyclin (PGI2), nitric oxide (NO) và yếu tố tăng phân cực nội mô (EDHF ). Mặc dù hai chất này đã được nghiên cứu rộng rãi, tầm quan trọng của EDHF vẫn chưa rõ ràng, đặc biệt là ở động mạch người. Vì vậy, chúng tôi đã kiểm chứng giả thuyết của chúng tôi rằng EDHF đóng vai trò quan trọng trong các động mạch người, đặc biệt là ảnh hưởng của kích thước mạch, cơ chế giãn mạch và ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch. Căng đẳng cự và điện thế màng được ghi nhận ở các động mạch dạ dày và các vi mạch xa (đường kính 100-150 microm) ở người. Sự đóng góp của PGI2, NO và EDHF vào giãn nội mô được phân tích bởi tác dụng ức chế của indomethacin, NG-nitro-L-arginine và KCl tương ứng. Bản chất và cơ chế tăng phân cực của EDHF được kiểm tra bởi tác dụng ức chế của các chất ức chế trên con đường cytochrome P450 và các kênh K khác nhau. Tác động của các yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch lên giãn nội mô cũng được phân tích. Kết quả cho thấy (a) sự đóng góp của EDHF vào giãn nội mô ở các vi mạch lớn hơn đáng kể so với các động mạch lớn; (b) bản chất của EDHF có thể không phải là sản phẩm của con đường cytochrome P450, trong khi đó quá trình tăng phân cực gây ra bởi EDHF được trung gian một phần bởi các kênh K kích hoạt canxi; (c) lão hóa và tăng cholesterol máu làm suy yếu đáng kể giãn EDHF qua trung gian. Kết quả này chứng minh rằng EDHF cũng đóng vai trò quan trọng trong các động mạch người.
In cystic fibrosis (CF), defective function of the cystic fibrosis transmembrane conductance regulator (CFTR) in airway epithelial cells and submucosal glands results in chronic pulmonary infection with Pseudomonas aeruginosa. The pulmonary infection incites an intense host inflammatory response, causing progressive suppurative pulmonary disease. Mouse models of CF, however, fail to develop pulmonary disease spontaneously. We examined the effects of bronchopulmonary infection on mice homozygous for the S489X mutation of the CFTR gene using an animal model of chronic Pseudomonas endobronchial infection. Slurries of sterile agarose beads or beads containing a clinical isolate of mucoid P. aeruginosa were instilled in the right lung of normal or CF mice. The mortality of CF mice inoculated with Pseudomonas-laden beads was significantly higher than that of normal animals: 82% of infected CF mice, but only 23% of normal mice, died within 10 d of infection (P = 0.023). The concentration of inflammatory mediators, including TNF-alpha, murine macrophage inflammatory protein-2, and KC/N51, in bronchoalveolar lavage fluid in CF mice 3 d after infection and before any mortality, was markedly elevated compared with normal mice. This inflammatory response also correlated with weight loss observed in both CF and normal littermates after inoculation. Thus, this model may permit examination of the relationship of bacterial infections, inflammation, and the cellular and genetic defects in CF.
Ở bệnh xơ nang, chức năng của chất điều hòa dẫn truyền màng xơ nang (CFTR) trong các tế bào biểu mô đường hô hấp và tuyến dưới niêm mạc dẫn đến nhiễm trùng phổi mạn tính do Pseudomonas aeruginosa. Nhiễm trùng phổi kích thích phản ứng viêm dữ dội ở vật chủ, gây bệnh phổi mủ tiến triển. Tuy nhiên, các mô hình chuột nhắt không phát triển bệnh phổi một cách tự nhiên. Chúng tôi tiến hành khảo sát ảnh hưởng của nhiễm trùng phế quản lên sự đồng hợp tử của đột biến S489X của gen CFTR trên chuột nhắt trắng nhiễm trùng nội mô mạn tính do Pseudomonas aeruginosa. Các hạt agarose vô trùng hoặc hạt có chứa một phân lập P.aeruginosa được tiêm vào phổi phải của chuột bình thường hoặc chuột bị nhiễm trùng phổi. Tỷ lệ tử vong của chuột bị nhiễm trùng phổi do Pseudomonas-laden cao hơn đáng kể so với chuột bình thường: 82% chuột bị nhiễm trùng, nhưng chỉ có 23% chuột bình thường, chết trong vòng 10 ngày sau nhiễm trùng (P = 0,023 ). Nồng độ các chất trung gian gây viêm bao gồm TNF-alpha, protein viêm đại thực bào murine và KC/N51 trong dịch rửa phế quản ở chuột bị nhiễm trùng phổi sau 3 ngày nhiễm trùng và trước khi có tử vong tăng rõ rệt so với chuột bình thường. Phản ứng viêm này cũng tương quan với sự sụt cân ở cả chuột bị nhiễm trùng phổi và các con bình thường sau tiêm chủng. Như vậy, mô hình này có thể cho phép khảo sát mối liên quan giữa nhiễm trùng, viêm và các khiếm khuyết về tế bào và di truyền ở chuột bị nhiễm trùng phổi mạn tính do Pseudomonas aeruginosa.
Vascular proliferative disorders are characterized by the proliferation of vascular smooth muscle cells (SMCs) and excessive extracellular matrix synthesis. We found that bone morphogenetic protein-2 (BMP-2) inhibited serum-stimulated increases in DNA synthesis and cell number of cultured rat arterial SMCs in a fashion quite different from that in the case of transforming growth factor-beta1 (TGF-beta1). In addition, TGF-beta1 stimulated collagen synthesis in SMCs, whereas BMP-2 did not. In an in vivo rat carotid artery balloon injury model, the adenovirus-mediated transfer of the BMP-2 gene inhibited injury-induced intimal hyperplasia. These results indicate that BMP-2 has the ability to inhibit SMC proliferation without stimulating extracellular matrix synthesis, and suggest the possibility of therapeutic application of BMP-2 for the prevention of vascular proliferative disorders.
Tăng sinh mạch máu được đặc trưng bởi sự tăng sinh tế bào cơ trơn mạch máu (SMCs) và tổng hợp ma trận ngoại bào quá mức. Chúng tôi nhận thấy protein hình thái xương-2 (BMP-2) ức chế sự tăng sinh DNA và số lượng tế bào của SMCs nuôi cấy động mạch chuột theo cách hoàn toàn khác với trường hợp biến đổi yếu tố tăng trưởng-beta1 (TGF-beta1 ). Ngoài ra, TGF-beta1 kích thích tổng hợp collagen ở SMCs, trong khi B
Non-insulin-dependent diabetes mellitus (NIDDM) is caused by peripheral insulin resistance and impaired beta cell function. Phosphofructo-1-kinase (PFK1) is a rate-limiting enzyme in glycolysis, and its muscle subtype (PFK1-M) deficiency leads to the autosomal recessively inherited glycogenosis type VII Tarui's disease. It was evaluated whether PFK1-M deficiency leads to alterations in insulin action or secretion in humans. A core family of four members was evaluated for PFK1-M deficiency by DNA and enzyme-activity analyses. All members underwent oral and intravenous glucose tolerance tests (oGTT and ivGTT) and an insulin-sensitivity test (IST) using octreotide. Enzyme activity determinations in red blood cells showed that the father (46 yr, body mass index [BMI] 22. 4 kg/m2) and older son (19 yr, BMI 17.8 kg/m2) had a homozygous, while the mother (47 yr, BMI 28.4 kg/m2) and younger son (13 yr, BMI 16.5 kg/m2) had a heterozygous PFK1-M deficiency. DNA analyses revealed an exon 5 missense mutation causing missplicing of one allele in all four family members, and an exon 22 frameshift mutation of the other allele of the two homozygously affected individuals. The father showed impaired glucose tolerance, and the mother showed NIDDM. By ivGTT, both parents and the older son had decreased first-phase insulin secretion and a diminished glucose disappearance rate. The IST showed marked insulin resistance in both parents and the older, homozygous son, and moderate resistance in the younger son. PFK1-M deficiency causes impaired insulin secretion in response to glucose, demonstrating its participation in islet glucose metabolism, and peripheral insulin resistance. These combined metabolic sequelae of PFK-1 deficiency identify it as a candidate gene predisposing to NIDDM.
Bệnh đái tháo đường không phụ thuộc insulin (NIDDM) là do sự đề kháng insulin ngoại biên và suy giảm chức năng tế bào beta. Phosphofructo-1-kinase (PFK1) là enzyme giới hạn tỷ lệ trong đường phân, và sự thiếu hụt của nó dẫn đến bệnh glycogenosis lặn tự phát type VII Tarui. Bệnh được đánh giá sự thiếu hụt PFK1-M dẫn đến thay đổi hoạt động insulin hay bài tiết insulin ở người. Một gia đình cốt lõi gồm bốn thành viên được đánh giá về sự thiếu hụt PFK1-M bằng phân tích hoạt tính enzyme và DNA. Tất cả các thành viên đều được xét nghiệm dung nạp glucose đường uống và đường tĩnh mạch (oGTT và ivGTT) và xét nghiệm nhạy cảm insulin (IST) sử dụng octreotide. Kết quả xét nghiệm hoạt tính enzyme trong hồng cầu cho thấy cha (46 năm, chỉ số khối cơ thể (BMI) 22,4 kg/m2) và con trai lớn tuổi (19 năm, BMI 17,8 kg/m2) đều bị suy giảm khả năng dung nạp glucose, trong khi đó mẹ (47 năm, BMI 28,4 kg/m2) và con trai nhỏ tuổi (13 năm, BMI 16,5 kg/m2) bị thiếu hụt PFK1-M dị hợp tử. Kết quả xét nghiệm DNA cho thấy có sự giảm tiết insulin ở cả cha và mẹ và con trai lớn tuổi, đồng hợp tử, và giảm khả năng tiết insulin ở con trai nhỏ tuổi. Thiếu hụt PFK1-M làm suy giảm khả năng bài tiết insulin do đáp ứng với glucose, chứng tỏ sự tham gia của nó trong quá trình chuyển hóa glucose đảo và kháng insulin ngoại biên. Những di chứng chuyển hóa kết hợp của thiếu hụt PFK-1 xác định nó là một gen ứng cử viên cho bệnh NIDDM.
Vitamin C concentrations in the brain exceed those in blood by 10-fold. In both tissues, the vitamin is present primarily in the reduced form, ascorbic acid. We identified the chemical form of vitamin C that readily crosses the blood-brain barrier, and the mechanism of this process. Ascorbic acid was not able to cross the blood-brain barrier in our studies. In contrast, the oxidized form of vitamin C, dehydroascorbic acid (oxidized ascorbic acid), readily entered the brain and was retained in the brain tissue in the form of ascorbic acid. Transport of dehydroascorbic acid into the brain was inhibited by d-glucose, but not by l-glucose. The facilitative glucose transporter, GLUT1, is expressed on endothelial cells at the blood-brain barrier, and is responsible for glucose entry into the brain. This study provides evidence showing that GLUT1 also transports dehydroascorbic acid into the brain. The findings define the transport of dehydroascorbic acid by GLUT1 as a mechanism by which the brain acquires vitamin C, and point to the oxidation of ascorbic acid as a potentially important regulatory step in accumulation of the vitamin by the brain. These results have implications for increasing antioxidant potential in the central nervous system.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hàm lượng vitamin C trong não vượt quá 10 lần so với trong máu. Ở cả hai mô, vitamin C đều có mặt ở dạng axít ascorbic bị khử. Chúng tôi đã xác định được dạng hóa học của vitamin C dễ dàng vượt qua hàng rào máu não và cơ chế của quá trình này. Trong nghiên cứu của chúng tôi, axit ascorbic không thể vượt qua hàng rào máu não. Ngược lại, dạng oxy hóa của vitamin C, axit dehydroascorbic (axit ascorbic bị oxy hóa) dễ dàng đi vào não và được giữ lại trong mô não dưới dạng axít ascorbic. Vận chuyển axit dehydroascorbic vào não bị ức chế bởi d-glucose, nhưng không phải bởi l-glucose. Chất vận chuyển glucose thuận lợi, GLUT1, được biểu hiện trên các tế bào nội mô ở hàng rào máu não và chịu trách nhiệm cho việc đưa glucose vào não. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy GLUT1 cũng vận chuyển axit dehydroascorbic vào não. Những phát hiện này xác định việc vận chuyển axit dehydroascorbic bằng GLUT1 như một cơ chế mà theo đó não nhận được vitamin C, và chỉ ra rằng quá trình oxy hóa axit ascorbic là một bước điều hòa quan trọng trong việc tích lũy vitamin của não. Những kết quả này có ý nghĩa đối với việc tăng tiềm năng chống oxy hóa trong hệ thần kinh trung ương.
We investigated the mechanism by which inosine, a metabolite of adenosine that accumulates to > 1 mM levels in ischemic tissues, triggers mast cell degranulation. Inosine was found to do the following: (a) compete for [125I]N6-aminobenzyladenosine binding to recombinant rat A3 adenosine receptors (A3AR) with an IC50 of 25+/-6 microM; (b) not bind to A1 or A2A ARs; (c) bind to newly identified A3ARs in guinea pig lung (IC50 = 15+/-4 microM); (d) lower cyclic AMP in HEK-293 cells expressing rat A3ARs (ED50 = 12+/-5 microM); (e) stimulate RBL-2H3 rat mast-like cell degranulation (ED50 = 2.3+/-0.9 microM); and (f) cause mast cell-dependent constriction of hamster cheek pouch arterioles that is attenuated by A3AR blockade. Inosine differs from adenosine in not activating A2AARs that dilate vascular smooth muscle and inhibit mast cell degranulation. The A3 selectivity of inosine may explain why it elicits a monophasic arteriolar constrictor response distinct from the multiphasic dilator/constrictor response to adenosine. Nucleoside accumulation and an increase in the ratio of inosine to adenosine may provide a physiologic stimulus for mast cell degranulation in ischemic or inflamed tissues.
Inosine, một chất chuyển hóa của adenosine tích lũy > 1 mM ở mô thiếu máu cục bộ, kích thích tế bào mast thoái hoá. Inosine được tìm thấy có tác dụng như sau: ( a) cạnh tranh cho thụ thể adenosine A3 tái tổ hợp (A3AR) của chuột cống với IC50 là 25 +/- 6 microM; (b) không liên kết với A1 hoặc A2A AR; (c) liên kết với A3AR mới được xác định ở phổi chuột lang (IC50 =
Systemic delivery of specific therapeutic proteins by a parenteral route of administration is a recognized practice in the management of several gene defects and acquired diseases. As an alternative to repetitive parenteral administration, gene therapy may provide a novel means for systemic delivery of therapeutic proteins while improving patient compliance and therapeutic efficacy. However, for gene therapy to be an efficacious and safe approach to the clinical management of such diseases, gene expression must be tightly regulated. These investigations demonstrate precise in vivo control of protein expression from cells that are engineered to secrete human growth hormone (hGH) in response to stimulation by rapamycin. The cells were implanted intramuscularly into nu/nu mice and stimulated by intravenous or oral administration of rapamycin. In vivo experiments demonstrate that the activity and pharmacokinetics of rapamycin determine the level of serum hGH that result from the engineered cells. In addition, responsiveness of the cells to rapamycin, number of cells implanted, hGH expression kinetics, and the pharmacokinetics of hGH itself, also influence the circulating levels of hGH after rapamycin stimulation. Controlled manipulation of several of these parameters, either independently or in combination, allows for precise regulation of circulating hGH concentration in vivo.
Điều trị protein đặc hiệu bằng đường tiêm là một thực hành được công nhận trong việc kiểm soát một số khiếm khuyết gen và các bệnh mắc phải. Để thay thế cho việc tiêm lặp đi lặp lại, liệu pháp gen có thể cung cấp một phương tiện mới để điều trị protein toàn thân đồng thời cải thiện sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân và hiệu quả điều trị. Tuy nhiên, để liệu pháp gen là một phương pháp hiệu quả và an toàn trong việc kiểm soát lâm sàng các bệnh như vậy, biểu hiện gen phải được điều chỉnh chặt chẽ. Các nghiên cứu này đã chứng minh sự kiểm soát chính xác biểu hiện protein từ các tế bào được thiết kế để tiết hormone tăng trưởng của con người (hGH) để đáp ứng với kích thích bởi rapamycin. Các tế bào được cấy ghép vào cơ bắp chuột nu/nu và được kích thích bằng cách tiêm tĩnh mạch hoặc uống rapamycin. Các thí nghiệm in vivo chứng minh rằng hoạt tính và dược động học của rapamycin quyết định nồng độ hGH huyết thanh do tế bào được thiết kế. Ngoài ra, phản ứng của tế bào đối với rapamycin, số lượng tế bào cấy ghép, động lực biểu hiện hGH và dược động học của chính hGH cũng ảnh hưởng đến nồng độ hGH lưu thông sau khi kích thích rapamycin. Thao tác có kiểm soát một số thông số này, độc lập hoặc kết hợp, cho phép điều chỉnh chính xác nồng độ hGH lưu thông trong cơ thể.
Fanconi anemia (FA) consists of a group of at least five autosomal recessive disorders that share both clinical (e.g., birth defects and hematopoietic failure) and cellular (e.g., sensitivity to cross-linking agents and predisposition to apoptosis) features with each other. However, a common pathogenetic link among these groups has not been established. To identify genetic pathways that are altered in FA and characterize shared molecular defects, we used mRNA differential display to isolate genes that have altered expression patterns in FA cells. Here, we report that the expression of an interferon-inducible gene, MxA, is highly upregulated in cells of FA complementation groups A, B, C, and D, but it is suppressed in FA group C cells complemented with wild-type FAC cDNA as well as in non-FA cells. A posttranscriptional mechanism rather than transcriptional induction appears to account for MxA overexpression. Forced expression of MxA in Hep3B cells enhances their sensitivity to mitomycin C and induces apoptosis, similar to the FA phenotype. Thus, MxA is a downstream target of FAC and is the first genetic marker to be identified among multiple FA complementation groups. These data suggest that FA subtypes converge onto a final common pathway, which is intimately related to the interferon signaling mechanism. Constitutive activity of this pathway may explain a number of the phenotypic features of FA, particularly the pathogenesis of bone marrow failure.
Thiếu máu Fanconi (FA) bao gồm một nhóm gồm ít nhất 5 rối loạn lặn tự phát có chung cả đặc điểm lâm sàng (dị tật bẩm sinh và suy tạo máu) và tế bào (độ nhạy cảm với các tác nhân liên kết chéo và khuynh hướng chết theo chương trình) với nhau. Tuy nhiên, mối liên hệ gây bệnh chung giữa các nhóm này vẫn chưa được thiết lập. Để xác định con đường di truyền bị thay đổi trong FA và đặc trưng cho các khuyết tật phân tử chung, chúng tôi sử dụng biểu hiện vi phân mRNA để phân lập các
Re-epithelialization of skin wounds depends upon the migration of keratinocytes from the cut margins of the wound and is enhanced when human keratinocytes are covered with occlusive dressings that induce hypoxia. In this study, two independent migration assays were used to compare cellular motility on connective tissue components under normoxic or hypoxic conditions. Human keratinocytes apposed to collagens or fibronectin exhibited increased motility when subjected to hypoxic (0.2 or 2% oxygen) conditions compared with normoxic (9 or 20% oxygen) conditions. When compared with normoxic cells, hypoxic keratinocytes exhibited increased expression and redistribution of the lamellipodia-associated proteins (ezrin, radixin, and moesin). Furthermore, hypoxic keratinocytes demonstrated decreased secretion of laminin-5, a laminin isoform known to inhibit keratinocyte motility. Hypoxia did not alter the number of integrin receptors on the cell surface, but did induce enhanced secretion of the 92-kD type IV collagenase. These data demonstrate that hypoxia promotes human keratinocyte motility on connective tissue. Hypoxia-driven motility is associated with increased expression of lamellipodia proteins, increased expression of collagenase and decreased expression of laminin-5, the locomotion brake for keratinocytes.
Tái biểu mô vết thương da phụ thuộc vào sự di chuyển của tế bào keratinocyte từ rìa vết thương và được tăng cường khi tế bào keratinocyte được che phủ bởi lớp băng kín gây giảm oxy máu. Trong nghiên cứu này, hai phép thử di chuyển độc lập được sử dụng để so sánh khả năng vận động của tế bào trên thành phần mô liên kết trong điều kiện thiếu oxy hoặc bình thường. Tế bào keratinocyte ở người được cho là có chứa collagen hoặc fibronectin thể hiện sự tăng khả năng vận động khi bị thiếu oxy (0,2 hoặc 2% oxy) so với điều kiện bình thường (9 hoặc 20% oxy ). Khi so sánh với tế bào bình thường, tế bào keratinocyte thiếu oxy biểu hiện tăng và phân phối lại các protein liên quan đến thể què (ezrin, radixin và moesin ). Hơn nữa, tế bào keratinocyte thiếu oxy biểu hiện giảm tiết laminin-5, một đồng dạng laminin được biết đến là có tác dụng ức chế sự vận động của tế bào keratinocyte. Thiếu oxy không làm thay đổi số lượng thụ thể integrin trên bề mặt tế bào, nhưng đã làm tăng tiết collagenase loại IV 92 kD. Những dữ liệu này cho thấy rằng thiếu oxy thúc đẩy sự vận động của tế bào keratinocyte ở người. Sự vận động giảm oxy có liên quan đến sự tăng biểu hiện của protein quèllipodia, tăng biểu hiện của collagenase và giảm biểu hiện của laminin-5, phanh vận động của tế bào keratinocyte.
Myocardial glucose use is regulated by competing substrates and hormonal influences. However, the interactions of these effectors on the metabolism of exogenous glucose and glucose derived from endogenous glycogen are not completely understood. In order to determine changes in exogenous glucose uptake, glucose oxidation, and glycogen enrichment, hearts were perfused with glucose (5 mM) either alone, or glucose plus insulin (40 microU/ml), glucose plus acetoacetate (5 mM), or glucose plus insulin and acetoacetate, using a three tracer (3H, 14C, and 13C) technique. Insulin-stimulated glucose uptake and lactate production in the absence of acetoacetate, while acetoacetate inhibited the uptake of glucose and the oxidation of both exogenous glucose and endogenous carbohydrate. Depending on the metabolic conditions, the contribution of glycogen to carbohydrate metabolism varied from 20-60%. The addition of acetoacetate or insulin increased the incorporation of exogenous glucose into glycogen twofold, and the combination of the two had additive effects on the incorporation of glucose into glycogen. In contrast, the glycogen content was similar for the three groups. The increased incorporation of glucose in glycogen without a significant change in the glycogen content in hearts perfused with glucose, acetoacetate, and insulin suggests increased glycogen turnover. We conclude that insulin and acetoacetate regulate the incorporation of glucose into glycogen as well as the relative contributions of exogenous glucose and endogenous carbohydrate to myocardial energy metabolism by different mechanisms.
Việc sử dụng glucose ở cơ tim được điều hòa bởi các chất nền cạnh tranh và các ảnh hưởng nội tiết tố. Tuy nhiên, sự tương tác của các tác nhân này đối với quá trình chuyển hóa glucose ngoại sinh và glucose có nguồn gốc từ glycogen nội sinh vẫn chưa hoàn toàn được hiểu rõ. Để xác định sự thay đổi trong hấp thu glucose ngoại sinh, quá trình oxy hóa glucose và làm giàu glycogen, tim được truyền glucose (5 mM) đơn độc hoặc glucose cộng với insulin (40 microU/ml), glucose cộng với acetoacetate (5 mM) hoặc glucose cộng với insulin và acetoacetate, sử dụng kỹ thuật ba chất đánh dấu (3H, 14C và 13C ). Sự hấp thu glucose theo kích thích insulin và sản xuất lactate trong trường hợp không có acetoacetate, trong khi acetoacetate ức chế sự hấp thu glucose và quá trình oxy hóa cả glucose ngoại sinh và carbohydrate nội sinh. Tùy thuộc vào điều kiện trao đổi chất, sự đóng góp của glycogen vào quá trình chuyển hóa carbohydrate thay đổi từ 20-60 %. Việc bổ sung acetoacetate hoặc insulin làm tăng sự kết hợp của glucose ngoại sinh vào glycogen gấp đôi, và sự kết hợp của cả hai có tác dụng phụ đối với sự kết hợp glucose vào glycogen. Ngược lại, hàm lượng glycogen ở cả ba nhóm đều tương tự nhau. Sự tăng cường kết hợp glucose vào glycogen mà không thay đổi đáng kể hàm lượng glycogen ở tim được truyền glucose, acetoacetate và insulin cho thấy sự tăng tốc độ chuyển hóa glycogen. Chúng tôi kết luận rằng insulin và acetoacetate điều hòa sự kết hợp glucose vào glycogen cũng như sự đóng góp tương đối của glucose ngoại sinh và carbohydrate nội sinh vào quá trình chuyển hóa năng lượng cơ tim bằng các cơ chế khác nhau.
We have investigated the antidiabetic action of troglitazone in aP2/DTA mice, whose white and brown fat was virtually eliminated by fat-specific expression of diphtheria toxin A chain. aP2/DTA mice had markedly suppressed serum leptin levels and were hyperphagic, but did not gain excess weight. aP2/DTA mice fed a control diet were hyperlipidemic, hyperglycemic, and had hyperinsulinemia indicative of insulin-resistant diabetes. Treatment with troglitazone alleviated the hyperglycemia, normalized the tolerance to intraperitoneally injected glucose, and significantly decreased elevated insulin levels. Troglitazone also markedly decreased the serum levels of cholesterol, triglycerides, and free fatty acids both in wild-type and aP2/DTA mice. The decrease in serum triglycerides in aP2/DTA mice was due to a marked reduction in VLDL- and LDL-associated triglyceride. In skeletal muscle, triglyceride levels were decreased in aP2/DTA mice compared with controls, but glycogen levels were increased. Troglitazone treatment decreased skeletal muscle, but not hepatic triglyceride and increased hepatic and muscle glycogen content in wild-type mice. Troglitazone decreased muscle glycogen content in aP2/DTA mice without affecting muscle triglyceride levels. The levels of peroxisomal proliferator-activated receptor gamma mRNA in liver increased slightly in aP2/DTA mice and were not changed by troglitazone treatment. The results demonstrate that insulin resistance and diabetes can occur in animals without significant adipose deposits. Furthermore, troglitazone can alter glucose and lipid metabolism independent of its effects on adipose tissue.
Tác dụng hạ glucose huyết của troglitazone trên chuột nhắt trắng aP2/DTA. Chất béo màu nâu và trắng của chất độc bạch hầu như được loại bỏ bởi sự biểu hiện đặc hiệu chất béo của chuỗi độc tố bạch hầu A. Chuột aP2/DTA ức chế rõ rệt nồng độ leptin huyết thanh và tăng glucose máu nhưng không tăng cân quá mức. Chế độ ăn chuột đối chứng là tăng lipid máu, tăng glucose máu và tăng insulin máu là dấu hiệu của bệnh đái tháo đường kháng insulin. Điều trị bằng troglitazone làm giảm rõ rệt tình trạng tăng glucose máu, bình thường hóa khả năng dung nạp glucose tiêm phúc mạc và làm giảm đáng kể nồng độ insulin. Troglitazone cũng làm giảm rõ rệt nồng độ cholesterol, triglyceride và acid béo tự do ở cả chuột bình thường và chuột bình thường aP2/DTA. Sự giảm triglyceride huyết thanh ở chuột aP2/DTA là do giảm rõ rệt triglyceride liên quan đến VLDL và LDL. Ở chuột bình thường, triglyceride giảm so với chuột đối chứng nhưng lại tăng nồng độ glycogen. Điều trị bằng troglitazone làm giảm nồng độ cơ xương nhưng không làm giảm triglyceride ở gan và làm tăng hàm lượng glycogen gan và cơ ở chuột bình thường. Nồng độ mRNA của thụ thể kích hoạt peroxisomal ở gan tăng nhẹ ở chuột aP2/DTA và không bị thay đổi bởi điều trị bằng troglitazone. Kết quả cho thấy kháng insulin và bệnh đái tháo đường có thể xảy ra ở động vật mà không có sự tích tụ mỡ đáng kể. Hơn nữa, troglitazone có thể làm thay đổi chuyển hóa glucose và lipid độc lập với tác động của nó lên mô mỡ.
The intermediate filament vimentin might play a key role in vascular resistance to mechanical stress. We investigated the responses to pressure (tensile stress) and flow (shear stress) of mesenteric resistance arteries perfused in vitro from vimentin knockout mice. Arteries were isolated from homozygous (Vim-/-, n = 14) or heterozygous vimentin-null mice (Vim+/-, n = 5) and from wild-type littermates (Vim+/+, n = 9). Passive arterial diameter (175+/-15 micron in Vim+/+ at 100 mmHg) and myogenic tone were not affected by the absence of vimentin. Flow-induced (0-150 microl/min) dilation (e. g., 19+/-3 micron dilation at 150 mmHg in Vim+/+) was significantly attenuated in Vim-/- mice (13+/-2 micron dilation, P < 0.01). Acute blockade of nitric oxide synthesis (NG-nitro- L-arginine, 10 microM) significantly decreased flow-induced dilation in both groups, whereas acute blockade of prostaglandin synthesis (indomethacin, 10 microM) had no significant effect. Mean blood pressure, in vivo mesenteric blood flow and diameter, and mesenteric artery media thickness or media to lumen ratio were not affected by the absence of vimentin. Thus, the absence of vimentin decreased selectively the response of resistance arteries to flow, suggesting a role for vimentin in the mechanotransduction of shear stress.
Vimentin sợi trung gian có thể đóng vai trò quan trọng trong kháng lực cơ học của mạch máu. Chúng tôi nghiên cứu phản ứng với áp lực (ứng suất kéo dãn) và dòng chảy (ứng suất cắt) của các động mạch kháng lực mạc treo truyền in vitro từ chuột nhắt trắng bị loại bỏ vimentin. Các động mạch được phân lập từ chuột đồng hợp tử (Vim-/-, n = 14) hoặc chuột không đồng hợp tử (Vim+/-, n = 5) và từ chuột lang hoang dã (Vim+/+, n = 9
The mechanisms that regulate vascular resistance in the liver are an area of active investigation. Previously, we have shown that nitric oxide (NO) modulates hepatic vascular tone in the normal rat liver. In this study, the production of NO is examined in further detail by isolating sinusoidal endothelial cells (SEC) from the rat liver. Endothelial NO synthase (eNOS) was present in SEC based on Western blotting and confocal immunofluorescence microscopy. Exposure of SEC to flow increased the release of NO. To investigate the relevance of these in vitro findings to the intact liver, we modified an in situ perfusion system to allow for direct measurement of NO release from the hepatic vasculature. NO was released from the hepatic vasculature in a time-dependent manner, and administration of N-monomethyl-L-arginine reduced NO release and increased portal pressure. Immunostaining of intact liver demonstrated eNOS localization to endothelial cells lining the hepatic sinusoids. These findings demonstrate that SEC in vitro and in vivo express eNOS and produce NO basally, and increase their production in response to flow. Additionally, an increase in portal pressure concomitant with the blockade of NO release directly demonstrates that endogenous endothelial-derived NO modulates portal pressure.
Các cơ chế điều chỉnh sức cản mạch máu gan là một lĩnh vực đang được nghiên cứu. Trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng nitric oxide (NO) có khả năng điều chỉnh trương lực mạch máu gan ở gan chuột bình thường. Trong nghiên cứu này, việc sản xuất NO được khảo sát chi tiết hơn bằng cách phân lập tế bào nội mô hình sin (SEC) từ gan chuột. NO synthase nội mô (eNOS) đã có mặt trong SEC dựa trên phương pháp Western blotting và immunofluorescence. Sự tiếp xúc của SEC với dòng chảy đã làm tăng khả năng giải phóng NO. Để khảo sát sự phù hợp của các kết quả này với gan nguyên vẹn, chúng tôi đã điều chỉnh hệ thống tưới máu tại chỗ cho phép đo trực tiếp sự giải phóng NO từ mạch máu gan. NO được giải phóng từ mạch máu gan phụ thuộc vào thời gian, và sử dụng N-monomethyl-L-arginine làm giảm sự giải phóng NO và tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Miễn dịch cho gan nguyên vẹn đã chứng minh sự định vị eNOS với các tế bào nội mô nằm trên các xoang tắc nghẽn. Những phát hiện này cho thấy SEC thể hiện eNOS và tạo ra NO cơ bản, đồng thời tăng sản xuất NO để đáp ứng với dòng chảy. Ngoài ra, sự gia tăng áp lực tĩnh mạch cửa đồng thời với sự phong tỏa giải phóng NO trực tiếp chứng minh rằng NO có nguồn gốc nội sinh có khả năng điều chỉnh áp lực tĩnh mạch cửa.
Detection of specific nuclear transcripts by fluorescence in situ hybridization (FISH) has constituted a major breakthrough in the study of the organization of transcription in the cell nucleus. Using the model of heat shock genes, we present an optimized procedure for nuclear transcripts that provides high efficiency for RNA detection and good preservation of cell morphology and nuclear texture. Using this procedure, we designed an original high-efficiency methodology combining FISH and fluorescence immunocytochemistry (FICC), which is used here for the simultaneous detection of heat-shock protein (hsp) nuclear transcripts and the specific heat-shock transcription factor 1 (HSF1). We show that the nuclear accumulation sites of HSF1 in heat-shocked cells do not correspond to the sites of transcription of the hsp70 gene.
Phát hiện các bảng phiên mã hạt nhân cụ thể bằng lai tại chỗ huỳnh quang (FISH) đã tạo nên bước đột phá lớn trong nghiên cứu tổ chức phiên mã trong nhân tế bào. Sử dụng mô hình gen sốc nhiệt, chúng tôi trình bày một quy trình tối ưu cho việc phiên mã hạt nhân, cung cấp hiệu quả cao trong phát hiện RNA và bảo tồn tốt hình thái và kết cấu hạt nhân tế bào. Sử dụng quy trình này, chúng tôi đã thiết kế một phương pháp hiệu quả cao ban đầu kết hợp giữa FISH và hóa mô miễn dịch huỳnh quang (F
Activin stimulates the synthesis and secretion of follicle-stimulating hormone (FSH). It inhibits the synthesis and release of growth hormone (GH). It acts on gonadotropes by stimulating the synthesis of gonadotropin-releasing hormone (GnRH) receptors. To test activin's effects on GnRH target cells, pituitary cells from diestrous or proestrous rats were exposed to media with and without 60 ng/ml activin for 24 hr and stimulated with biotinylated GnRH (Bio-GnRH). The populations were double-labeled for Bio-GnRH and/or luteinizing hormone-beta (LH-beta), FSH-beta, or GH antigens. In both diestrous and proestrous rats, activin stimulated more LH and FSH cells and increased the percentages of GnRH target cells. In diestrous rats, activin stimulated increases in the average area and density of Bio-GnRH label on target cells. In addition, more FSH, LH, and GH cells bound Bio-GnRH. The increment in binding by gonadotropes was not as great as that normally seen from diestrus to proestrus, suggesting that additional factors (such as estradiol) may be needed. These data suggest that activin plays an important role in the augmentation of Bio-GnRH target cells normally seen before ovulation. Its actions on GH cells may reflect a role in the transitory change from a somatotrope to a somatogonadotrope that is seen from diestrus to proestrus.
Hoạt hóa kích thích tổng hợp và bài tiết hormone kích thích nang trứng (FSH ). Hoạt hóa kích thích tổng hợp và giải phóng hormone tăng trưởng (GH ). Hoạt hóa kích thích tuyến sinh dục (TSH) bằng cách kích thích tổng hợp thụ thể GnRH giải phóng gonadotropin (GnRH ). Để kiểm tra tác dụng của activin trên tế bào đích GnRH, chuột đực hoặc cái được tiếp xúc với môi trường có và không có enzyme kích hoạt 60 ng/ml trong 24 giờ và được kích thích bằng GnRH biotinyl hóa (Bio-GnRH ). Các quần thể chuột được đánh dấu kép cho các kháng nguyên sinh học (Bio-GnRH) và/hoặc luteinizing hormone beta (LH-beta) và FSH-beta. Ở chuột đực và chuột cái, activin kích thích tăng diện tích và mật độ trung bình của các tế bào đích sinh học (Bio-GnRH) gắn với các tế bào đích. Ngoài ra, nhiều tế bào FSH, LH và GH gắn với Bio-GnRH. Sự gia tăng liên kết của các tế bào đích sinh dục (GH) không lớn như thường thấy từ động dục đến tiền động dục, cho thấy có thể cần thêm các yếu tố bổ sung (như estradiol ). Những dữ liệu này cho thấy activin đóng vai trò quan trọng trong sự tăng cường các tế bào đích sinh học (Bio-GnRH) như thường thấy trước rụng trứng. Hoạt động của activin lên tế bào GH có thể phản ánh vai trò trong sự thay đổi tạm thời từ một somatotrope thành một somatogonadotrope như thường thấy từ động dục đến tiền động dục.
We examined the distribution of copper-zinc superoxide dismutase (CuZnSOD) in adult rat central nervous system by light and electron microscopic immunocytochemistry, using an affinity-purified polyclonal antibody. The enzyme appeared to be exclusively localized in neurons. No immunoreactivity was seen in non-neuronal cells. The staining intensity was variable, depending on the brain region and, within the same region, on the neuron type. Highly immunoreactive elements included cortical neurons evenly distributed in the different layers, hippocampal interneurons, neurons of the reticular thalamic nucleus, and Golgi, stellate, and basket cells of the cerebellar cortex. Other neurons, i.e., pyramidal cells of the neocortex and hippocampus, Purkinje and granule cells of the cerebellar cortex, and the majority of thalamic neurons, showed much weaker staining. In the spinal cord, intense CuZnSOD immunoreactivity was present in many neurons, including motor neurons. Pre-embedding immunoelectron microscopy of the neocortex, hippocampus, reticular thalamic nucleus, and cerebellar cortex showed cytosolic and nucleoplasmic labeling. Moreover, single membrane-limited immunoreactive organelles identified as peroxisomes were often found, even in neurons that appeared weakly stained at the light microscopic level. In double immunogold labeling experiments, particulate CuZnSOD immunoreactivity co-localized with catalase, a marker enzyme for peroxisomes, thus demonstrating that in neural tissue CuZnSOD is also present in peroxisomes.
Chúng tôi tiến hành phân bố enzyme CuZnSOD (CuZnSOD) ở chuột cống trưởng thành bằng phương pháp hóa mô miễn dịch bằng kính hiển vi điện tử và ánh sáng. Kết quả cho thấy enzyme chỉ phân bố ở tế bào thần kinh trung ương. Không có hoạt tính miễn dịch ở tế bào thần kinh. Cường độ nhuộm thay đổi tùy thuộc vào vùng não và cùng một vùng trên loại tế bào thần kinh. Các yếu tố hoạt tính miễn dịch cao bao gồm tế bào thần kinh vỏ não phân bố đều ở các lớp khác nhau, tế bào thần kinh trung gian hồi hải mã, tế bào thần kinh nhân võng mạc và Golgi, tế bào thần kinh dạng phúc mạc và tế bào thần kinh dạng giỏ ở vỏ tiểu não. Các tế bào thần kinh khác như tế bào hình chóp ở vỏ não và đồi thị, tế bào Purkinje và tế bào hạt ở vỏ tiểu não và phần lớn tế bào thần kinh vùng đồi thị có màu sắc yếu hơn. Hoạt tính miễn dịch CuZnSOD mạnh có mặt ở nhiều tế bào thần kinh, bao gồm cả tế bào thần kinh vận động. Trên kính hiển vi điện di tế bào của vỏ não, đồi thị, nhân võng mạc và vỏ tiểu não, tế bào thần kinh có màu sắc tế bào và tế bào hạt thường được phân lập ở các tế bào thần kinh có màu sắc yếu ở mức độ hiển vi ánh sáng. Trong thí nghiệm phân lập hai lớp, hoạt tính miễn dịch CuZnSOD được đồng phân với catalase, một enzyme đánh dấu peroxisomes, chứng minh rằng trong mô thần kinh, CuZnSOD cũng có mặt trong peroxisomes.
Pro-thyrotropin-releasing hormone (pro-TRH) has been shown to be present throughout the central nervous system and in several peripheral tissues. In adrenals, TRH immunoreactivity has been reported but not characterized. We show here that two rat pro-TRH-derived peptides, TRH and prepro-TRH[160-169] (Ps4), were detected in extracts of rat adrenal glands by enzyme immunoassay. Endogenous TRH and Ps4 were purified by gel exclusion chromatography and reverse-phase HPLC. Structural identification of each peptide was achieved by chromatographic comparison with synthetic standards. By using the indirect immunofluorescence technique, TRH-immunoreactive cell bodies were found rather widely scattered outside the adrenal, in the brown adipose tissue in which the gland is embedded. These immunofluorescent cells have the typical appearance of mast cells and are metachromatic after histological staining with acidic Toluidine Blue. Our findings suggest that pro-TRH-derived peptides exist in rat mast cells.
Hormon giải phóng pro-thyrotropin (pro-TRH) đã được chứng minh có mặt trong toàn bộ hệ thần kinh trung ương và một số mô ngoại biên. Ở tuyến thượng thận, hoạt tính miễn dịch TRH đã được báo cáo nhưng chưa được mô tả đặc điểm. Ở đây, chúng tôi chỉ ra rằng hai peptide có nguồn gốc pro-TRH, TRH và prero-TRH (160-169) ( Ps4) đã được phát hiện trong dịch chiết tuyến thượng thận của chuột bằng phương pháp miễn dịch enzyme. T
Quantitation of antigen concentration in cell and tissue samples typically requires antigen extraction, which precludes antigen localization in the same sample. Similarly, antigen immunolocalization in fixed cells or tissue sections provides limited information about antigen concentration. We have developed a rapid and sensitive assay for simultaneous antigen localization and quantitation in cell and tissue samples that does not involve antigen extraction, radioactive materials, or image analysis. Fixed cells and/or tissue sections are used with antigen-specific enzyme-linked probes to generate soluble reaction products that are spectrophotometrically quantifiable and deposited reaction products that are microscopically localizable. The amount of soluble reaction product is dependent on several variables, including antigen concentration, probe specificity and sensitivity, sample size, and enzyme reaction time. These variables can be experimentally controlled so that soluble reaction product is proportional to antigen concentration in the sample. This assay was used in multiple applications including detection of Ki-67 nuclear antigen immunoreactivity in human brain tumors, in which it showed a clear relationship with visually determined Ki-67 cell labeling indexes. This assay, termed the Midwestern assay, should be applicable to a wide variety of antigens in both clinical and research samples.
Định lượng nồng độ kháng nguyên trong các mẫu tế bào và mô thường đòi hỏi phải tách chiết kháng nguyên, trong đó không cho phép định vị nội tại kháng nguyên trong cùng một mẫu. Tương tự, việc định vị và miễn dịch kháng nguyên trong các tế bào hoặc phần mô cố định cũng cung cấp thông tin hạn chế về nồng độ kháng nguyên. Chúng tôi đã phát triển một phương pháp định lượng và định vị kháng nguyên nhanh nhạy để định vị và định vị đồng thời kháng nguyên trong các mẫu tế bào và mô mà không cần phải tách chiết kháng nguyên, vật liệu phóng xạ hay phân tích hình ảnh. Các tế bào và/hoặc phần mô cố định được sử dụng với các đầu dò liên kết enzyme đặc hiệu kháng nguyên để tạo ra các sản phẩm phản ứng hòa tan có thể định lượng bằng quang phổ và các sản phẩm phản ứng lắng đọng có thể định vị được bằng kính hiển vi. Lượng sản phẩm phản ứng hòa tan phụ thuộc vào một số biến số, bao gồm nồng độ kháng nguyên, độ đặc hiệu và độ nhạy của đầu dò, kích thước mẫu và thời gian phản ứng của enzyme. Những biến số này có thể được kiểm soát bằng thực nghiệm để sản phẩm phản ứng hòa tan tỷ lệ thuận với nồng độ kháng nguyên trong mẫu. Phương pháp này đã được sử dụng trong nhiều ứng dụng, bao gồm phát hiện hoạt tính miễn dịch của kháng nguyên hạt nhân Ki-67 trong các khối u não ở người, trong đó nó cho thấy mối liên hệ rõ ràng với các chỉ số đánh dấu tế bào Ki-67 được xác định bằng mắt thường. Phương pháp này, được gọi là phương pháp phân tích vùng Trung Tây (TWA ), có thể áp dụng cho nhiều loại kháng nguyên trong cả lâm sàng và nghiên cứu.
Neuropeptide Y (NPY) and peptide YY (PYY) are structurally related peptides that are considered to mediate inhibitory actions on gastrointestinal motility, secretion, and blood flow. Several receptor subtypes for these peptides have been identified and the Y1, Y2, Y4/PP1, Y5, and Y5/PP2/Y2b receptors have been cloned. In this article we report the immunocytochemical localization of the Y1 receptor to myenteric and submucosal nerve cell bodies, endothelial cells, and scattered endocrine-like cells of rat intestinal tract. Moreover, double immunofluorescence demonstrates that subpopulations of the Y1 receptor-positive nerve cell bodies are immunopositive for NPY, vasoactive intestinal polypeptide, and nitric oxide synthase. In part, such co-localizations were made possible by use of peroxidase-mediated deposition of tyramide, which permitted use of antisera derived from the same species. Our observations suggest the existence of multiple neuronal, endothelial, and endocrine target sites for NPY and PYY and that some of the actions of these regulatory peptides can be mediated by vasoactive intestinal peptide and nitric oxide synthase.
Neuropeptide Y (NPY) và peptide YY (PYY) là các peptide có liên quan đến cấu trúc được coi là trung gian cho các hoạt động ức chế nhu động, bài tiết và lưu lượng máu. Một số phân nhóm thụ thể của các peptide này đã được xác định và các thụ thể Y1, Y2, Y4/PP1, Y5 và Y5/PP2/Y2b đã được nhân bản vô tính. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo sự nội địa hóa miễn dịch của thụ thể Y1 đối với các
Gene-specific probes labeled with fluorescein, Texas Red, and digoxigenin-11 dUTP (DIG) were used for RT in situ PCR hybridization to detect PIG-A gene (phosphatidylinositol glycan class A) transcripts. The PIG-A gene is responsible for biosynthesis of the glycosylphosphatidyl-inositol (GPI) anchor. Lack of GPI anchor expression due to mutations can cause an acquired clonal hematologic disorder called paroxysmal nocturnal hemoglobinuria (PNH). In this RT in situ PCR study, two types of labeling methods, a direct method (using fluorescein and Texas Red) and an indirect method (using DIG-11 dUTP) were compared. Both were successfully applied to detect and localize the PIG-A gene transcripts within single cells of the cell lines AA2, H9, and JY. Furthermore, similar results for sensitivity and reproducibility were obtained. Advantages and disadvantages of the different labeling techniques are discussed. In addition, peripheral blood mononuclear cells from PNH patients were also included in this study.
Các đầu dò đặc hiệu gen có dán nhãn fluorescein, Texas Red và digoxigenin-11 dUTP (DIG) được sử dụng để lai tạo gen PIG-A tại chỗ (RT in situ PCR) nhằm phát hiện các bản phiên mã của gen PIG-A (phosphatidylinositol glycan class A ). Gen PIG-A chịu trách nhiệm sinh tổng hợp neo glycosylphosphatidyl-inositol (GPI ). Sự thiếu biểu hiện neo GPI do đột