en
stringlengths 1
8.65k
| vi
stringlengths 1
3.19k
|
---|---|
The aim of this study was to examine the prevalence and clinicopathological significance of K-RAS oncogene activation in endometrial carcinoma and atypical hyperplasia. We analysed K-RAS point mutation and gene amplification in 55 endometrial carcinomas using polymerase chain reaction associated with restriction fragment length polymorphism and genomic differential polymerase chain reaction. Point mutations at codon 12 of K-RAS oncogene were identified in 8 of 55 (14.5%) tumour specimens. In addition, we were unable to detect any K-RAS gene amplification in any of the endometrial carcinomas studied. No correlation was found between K-RAS gene mutation and age at onset, histological subtype, grade of differentiation, clinical stage or current patient status. We conclude that K-RAS mutation is a relatively common event in endometrial carcinomas, but with no clear prognostic value. | Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát tỷ lệ và ý nghĩa lâm sàng, giải phẫu bệnh của đột biến điểm và khuếch đại gen K-RAS ở ung thư biểu mô niêm mạc tử cung và tăng sản không điển hình. Chúng tôi tiến hành phân tích đột biến điểm và khuếch đại gen K-RAS trên 55 bệnh nhân ung thư biểu mô niêm mạc tử cung bằng phản ứng chuỗi polymerase liên quan đến đa hình đoạn giới hạn chiều dài đoạn và phản ứng chuỗi polymerase vi phân gen. Đột biến điểm codon 12 của gen K-RAS được xác định trên |
One hundred and fourteen patients with painful bone metastases participated in this randomised, dose-controlled study of the efficacy and safety of 153Sm-ethylenediaminetetramethylenephosphonate (EDTMP), a systemically administered radiopharmaceutical. Fifty-five patients received single doses of 0.5 mCi/kg and 59 patients received single doses of 1.0 mCi/kg. Treatment with 153-Sm-EDTMP produced improvement from baseline in all patient-rated efficacy assessments, including degree of pain, level of daytime discomfort, quality of sleep and pain relief. During the first 4 weeks after dose administration, when the patients evaluated efficacy daily, there were statistically significant changes from baseline with the 1.0 mCi/kg dose but not with the 0.5 mCi/kg dose. The difference between doses in visual analogue pain scores was statistically significant at week 4 (P = 0.0476). Among subsets of patients examined, female patients with breast cancer receiving 1.0 mCi/kg had the most noticeable improvement. The physicians judged that approximately half of the patients in each dose group were experiencing some degree of pain relief by week 2. This value increased to 55% for the 0.5 mCi/kg group and 70% for the 1.0 mCi/kg group at week 4. More patients in the higher dose group (54%) than in the lower dose group (44%) completed the 16-week study. A predictable level of dose-related marrow suppression was the only toxicity associated with 153Sm-EDTMP treatment. Values for platelets and WBCs reached nadirs at 3 or 4 weeks with both doses and recovered by 8 weeks. Even at their lowest point, the values were generally higher than those associated with infectious or haemorrhagic complications. Myelotoxicity was no greater in female patients than in male patients. Long-term follow-up revealed longer survival among breast cancer patients who had received the higher dose than among those who had received the lower dose. The results suggest that the 1.0 mCi/kg dose of 153Sm-EDTMP is safe and effective for the treatment of painful bone metastases. | 114 bệnh nhân ung thư vú di căn xương được đưa vào nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng về hiệu quả và tính an toàn của 153 Sm-ethylenediaminetetramethylenephosphonate (EDTMP) một dược chất phóng xạ được sử dụng có hệ thống. 55 bệnh nhân được chỉ định uống liều đơn 0,5 mCi/kg và 59 bệnh nhân chỉ định liều đơn 1,0 mCi/kg. Điều trị bằng 153 Sm-EDTMP mang lại sự cải thiện so với ban đầu trong tất cả các đánh giá hiệu quả theo phân loại bệnh nhân, bao gồm mức độ đau, mức độ khó chịu vào ban ngày, chất lượng giấc ngủ và giảm đau. Trong 4 tuần đầu sau khi uống liều, khi bệnh nhân đánh giá hiệu quả hàng ngày, có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê so với ban đầu với liều 1,0 mCi/kg nhưng không có sự thay đổi so với liều 0,5 mCi/kg. Sự khác biệt giữa các mức độ đau tương tự thị giác có ý nghĩa thống kê ở tuần thứ 4 (P = 0,0476 ). Trong số các nhóm bệnh nhân được khảo sát, bệnh nhân nữ ung thư vú được dùng liều 1,0 mCi/kg có sự cải thiện đáng kể nhất. Các bác sĩ đánh giá rằng khoảng một nửa số bệnh nhân ở mỗi nhóm liều có sự cải thiện ở tuần thứ 2. Giá trị này tăng lên 55% ở nhóm liều 0,5 mCi/kg và 70% ở nhóm liều 1,0 mCi/kg ở tuần thứ 4. Số bệnh nhân ở nhóm liều cao (54% ) nhiều hơn ở nhóm liều thấp (44% ) hoàn thành nghiên cứu 16 tuần. Mức độ ức chế tủy xương liên quan đến liều là độc tính duy nhất có liên quan đến điều trị bằng 153 Sm-EDTMP. Giá trị tiểu cầu và bạch cầu đạt ngưỡng ở tuần thứ 3 hoặc thứ 4 với cả hai liều và hồi phục ở tuần thứ 8. Ngay cả ở thời điểm thấp nhất, các giá trị này nói chung cao hơn so với các biến chứng nhiễm trùng hoặc xuất huyết. Độc tính trên tủy ở bệnh nhân nữ không lớn hơn ở bệnh nhân nam. Theo dõi lâu dài cho thấy bệnh nhân ung thư vú dùng liều cao hơn |
A prospective study of a series of 77 patients on adjuvant radiochemotherapy following surgery for high-grade gliomas was conducted to evaluate the risk of deep vein thrombosis and identify risk factors. We found a 20.8% risk of deep vein thrombosis at 12 months (standard error = 4.8%) and a 31.7% risk (standard error = 7.4%) at 24 months (Kaplan-Meier method). Twenty patients (26%) developed deep vein thrombosis with a maximum incidence within the first 7 months after surgery when chemotherapy was still being administered, often with corticosteroids. The risk factors identified were histology (glioblastoma versus anaplastic astrocytoma, P = 0.032, log rank test; 0.0485 L-ratio) and the presence of paresis (P = 0.010, log rank test; 0.0161 L-ratio). A borderline tendency was found for an association between the deep vein thrombosis site and the side of paresis (P = 0.103, Fisher's exact test). Four patients (5%) had massive pulmonary embolism, which was fatal in 3 (4%). | Nghiên cứu tiến cứu trên 77 bệnh nhân được điều trị bằng xạ trị bổ trợ sau phẫu thuật u thần kinh đệm đường tiêu hóa cấp cao nhằm đánh giá nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và xác định các yếu tố nguy cơ. Chúng tôi nhận thấy nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu ở thời điểm 12 tháng (sai số chuẩn = 4,8% ) là 20,8% và thời điểm 24 tháng (phương pháp Kaplan-Meier) là 31,7 %. 20 bệnh nhân (26% ) xuất hiện huyết khối tĩnh mạch sâu với tỷ lệ |
The aim of this study was to investigate the prevalence of anxiety and depression in cancer patients seen at the Norwegian Radium Hospital, using the Hospital Anxiety and Depression Scale (HADS), the EORTC QLQ-C33 and an ad hoc designed questionnaire. In addition, information about the patients' malignant disease and treatment was obtained. The prevalence of anxiety and depression among 716 evaluable patients was 13% and 9% respectively, as assessed with HADS. In hospitalised patients, the risk of psychiatric distress was approximately twice that of patients in the outpatient clinic. Female patients reported significantly more anxiety than men. Patients < 30 or > 70 years old expressed less anxiety than all other patients. Age or gender had no influence on the occurrence of depression. Impaired ability to continue professional work and/or daily life activities, impaired social life and previous psychiatric problems were significantly correlated with anxiety and depression as were impaired physical function, fatigue and pain. The prevalence of depression, but not anxiety, increased in the presence of distant metastases, with less than a month since diagnosis, and with relapse or progression. In the logistic regression analysis, a history of previous psychiatric problems and impaired social life were correlated with both anxiety and depression. Female gender, impaired physical activity and impaired social role function were additional predictive parameters for anxiety, whereas fatigue predicted depression. Careful attention should be paid to cancer patients displaying these problems in order to diagnose and treat depression and anxiety disorders. | Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư điều trị tại Bệnh viện Radium Na Uy, sử dụng thang đo lo âu và trầm cảm bệnh viện (HADS ), EORTC QLQ-C33 và bộ câu hỏi thiết kế đặc biệt. Đồng thời thu thập thông tin về bệnh lý ác tính và cách điều trị của bệnh nhân. Tỷ lệ lo âu và trầm cảm ở 716 bệnh nhân được đánh giá tương ứng là 13% và 9% như HADS. Nguy cơ suy nhược tâm thần ở bệnh nhân nhập viện cao gấp 2 lần so với bệnh nhân điều trị ngoại trú. Bệnh nhân nữ có tỷ lệ lo âu cao hơn nam giới. Bệnh nhân < 30 hoặc > 70 tuổi có tỷ lệ lo âu thấp hơn so với các bệnh nhân khác. Tuổi hoặc giới không ảnh hưởng đến sự xuất hiện trầm cảm. Suy giảm khả năng tiếp tục làm việc chuyên môn và/hoặc sinh hoạt, suy giảm đời sống xã hội và các vấn đề tâm thần trước đó có liên quan với lo âu và trầm cảm cũng như suy giảm chức năng thể chất, mệt mỏi và đau đớn. Tỷ lệ trầm cảm, nhưng không phải lo âu, tăng lên khi di căn xa, với thời gian dưới một tháng kể từ khi được chẩn đoán, tái phát hoặc tiến triển. Trong phân tích hồi quy logistic, tiền sử các vấn đề tâm thần và đời sống xã hội trước đó có liên quan với cả lo âu và trầm cảm. Giới nữ, suy giảm hoạt động thể chất và suy giảm chức năng vai trò xã hội là các thông số dự báo thêm cho lo âu, trong khi mệt mỏi dự báo trầm cảm. Cần chú ý những bệnh nhân ung thư biểu hiện các vấn đề này để chẩn đoán và điều trị rối loạn lo âu và trầm cảm. |
The efficacies of granisetron plus dexamethasone and granisetron alone in controlling nausea and vomiting during two consecutive cycles of moderately emetogenic chemotherapy given for up to 5 days were compared in a two-centre, randomised, double-blind, placebo-controlled crossover study. In all, 110 evaluable patients received either dexamethasone, 20 mg i.v., or matching placebo, plus open-label granisetron, 3 mg i.v., given on each chemotherapy day. At cycle 2, patients crossed over to the alternative treatment; 72 patients completed the crossover. In these 72 patients, the complete response rates over 24 h for granisetron plus dexamethasone and granisetron plus placebo in cycle 1 were 87% and 70% (ns), respectively. In cycle 2 the complete response rates over 24 h were 73% and 62% (ns). Combining the two cycles, the complete response rates over 24 h were 80.6% (granisetron plus dexamethasone) and 65.3% (granisetron plus placebo; P = 0.015). Granisetron plus dexamethasone was significantly more effective in terms of times to less than complete response (P = 0.041), to first episode of moderate/severe nausea (P = 0.04), to first episode of vomiting (0.03) and to use of rescue medication (P = 0.02). Adverse events tended to be minor, with asthenia and insomnia the most common. Of those patients who expressed a preference, 67% preferred granisetron plus dexamethasone (P < 0.05). A single dose of dexamethasone added to granisetron thus enhances the efficacy of granisetron alone in preventing nausea and vomiting after moderately emetogenic chemotherapy. | Hiệu quả của granisetron + dexamethasone và granisetron đơn thuần trong kiểm soát buồn nôn nôn trong hai chu kỳ liên tiếp hóa trị liệu gây nôn vừa phải, cho đến 5 ngày được so sánh trong một nghiên cứu cắt ngang hai trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng. Tổng cộng, 110 bệnh nhân đánh giá được sử dụng hoặc dexamethasone, 20 mg i.v., hoặc giả dược, cộng với granisetron nhãn mở, 3 mg i.v., cho mỗi ngày hóa trị. Tại chu kỳ 2, bệnh nhân chuyển sang điều trị thay thế; 72 bệnh nhân hoàn thành việc chuyển đổi. Trong số 72 bệnh nhân này, tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn trong 24 giờ đối với granisetron + dexamethasone và granisetron + giả dược trong chu kỳ 1 lần lượt là 87% và 70% ( ns ). Trong chu kỳ 2, tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn trong 24 giờ là 80,6% ( granisetron + dexamethasone) và 65,3% (granisetron + giả dược; P = 0,015 ). Granisetron + dexamethasone có hiệu quả hơn đáng kể về thời gian đáp ứng đến ít hơn đáp ứng hoàn toàn (P = 0,041) đến cơn buồn nôn vừa/nặng đầu tiên (P = 0,04) đến cơn nôn đầu tiên (0,03) và sử dụng thuốc cứu thương (P = 0,02). |
The aim of this study was to evaluate the feasibility, toxicity and efficacy of escalating doses of subcutaneous recombinant interleukin-6 (IL-6) in children with solid tumours in relapse. Recombinant IL-6 was administered subcutaneously once daily for 14 consecutive days, with a 14 day follow-up period. The starting dose for IL-6 was 1 microgram/kg/day and was escalated in subsequent patients groups until 10 micrograms/kg. Doses were escalated every 3 patients, provided that grade III or IV organ toxicity did not occur at the preceding dose level. Twelve patients were treated, three at each dose level. No grade 3-4 major organ toxicity was observed. Flu-like symptoms and fatigue were the most common side effects. All these symptoms resolved after the end of IL-6 administration. Significant increases in acute-phase proteins (CRP [C reactive protein], fibrinogen) and ESR (Erthrocyte sedimentation rate) were observed in all patients. Stimulatory effects on thrombocytopoiesis were observed at every dose level, and were maximal at 5 micrograms/kg and 10 microgram/kg. There was no tumour response observed during IL-6 administration. Pharmacokinetic profiles performed in 3 patients are consistent with previous reports in adults. IL-6 is a promising new cytokine for paediatric oncology, in particular to increase thrombocyte counts. We recommend that further studies in children proceed at a dose of 5-10 micrograms/kg/day in a once or, better, twice daily administration. | Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tính khả thi, độc tính và hiệu quả của liều tăng dần interleukin-6 tái tổ hợp dưới da ở trẻ có khối u rắn tái phát. IL-6 tái tổ hợp được tiêm dưới da một lần mỗi ngày trong 14 ngày liên tiếp, với thời gian theo dõi 14 ngày. Liều khởi đầu cho IL-6 là 1 microgam/kg/ngày và tăng dần ở các nhóm bệnh nhân tiếp theo cho đến 10 microgam/kg. Không có độc tính cấp 3-4 ở các cơ quan chính được quan sát. Triệu chứng giống cúm và mệt mỏi là tác dụng phụ thường gặp nhất. Tất cả các triệu chứng này được giải quyết sau khi kết thúc tiêm IL-6. Sự gia tăng đáng kể các protein pha cấp (CRP [protein phản ứng C], fibrinogen) và ESR (tỷ lệ lắng hồng cầu) được quan sát thấy ở tất cả các bệnh nhân. Tác dụng kích thích lên tiểu cầu được quan sát thấy ở mọi liều, và tối đa ở mức 5 microgam/kg và 10 microgam/kg. Không có phản ứng khối u được quan sát thấy trong quá trình tiêm IL-6. Hồ sơ dược động học thực hiện ở 3 bệnh nhân phù hợp với các báo cáo trước đây ở người lớn. IL-6 là một cytokine mới đầy hứa hẹn cho ung thư nhi, đặc biệt là làm tăng số lượng tiểu cầu. Chúng tôi khuyến cáo các nghiên cứu tiếp theo ở trẻ em nên tiêm liều 5-10 microgam/kg/ngày trong một lần hoặc tốt hơn, hai lần mỗi ngày. |
Gain of chromosome arm 17q has recently been reported in neuroblastoma tumours. We analysed 17q status in relation to other known prognostic features and clinical outcome in a series of 45 tumours. Chromosome 17 status was detected by cytogenetic analysis, fluorescence in situ hybridisation (FISH) anc comparative genomic hybridisation (CGH) and correlated with other clinical and genetic factors. Survival analysis was calculated by the Kaplan-Meier estimation. Twenty-eight out of 45 tumours showed 17q gain, and this was associated with established indicators of poor prognosis; stage 4 disease (P < 0.001), age above 1 year at diagnosis (P < 0.001), 1p deletion (P < 0.01), MYCN amplification (P = 0.03) and diploidy/tetraploidy (P = 0.04). 17q gain was associated with poor outcome: 3-year survival was 13.5% compared with 100% for tumours without 17q gain (P = 0.0001); and progression-free survival (PFS) was 8.1% after 3 years compared with 83% for 17q normal tumours (P = 0.0001). PFS in 28 MYCN non-amplified patients indicated that 17q status has discriminatory power within this group: PFS 0% for 17q gain (n = 14) versus 100% for normal 17q (n = 14) (P = 0.0001). This study indicates that 17q changes have prognostic significance in neuroblastoma and should be a target for molecular cytogenetic detection at diagnosis. | Độ lợi của nhiễm sắc thể 17q ở các bệnh nhân u nguyên bào thần kinh là rất cao. Chúng tôi tiến hành phân tích tình trạng nhiễm sắc thể 17q liên quan với các đặc điểm tiên lượng và kết cục lâm sàng của 45 bệnh nhân u nguyên bào thần kinh. Tình trạng nhiễm sắc thể 17q được phát hiện bằng phân tích tế bào học, lai tại chỗ huỳnh quang (FISH) và lai so sánh gen (CGH) và liên quan với các yếu tố lâm sàng và di truyền khác. Thời gian sống thêm được tính theo Kaplan-Me |
To investigate the role of selected medical conditions on the risk of ovarian cancer, we analysed data from a case-control study. Cases were 971 women below the age of 75 years with histologically confirmed epithelial ovarian cancer, admitted to a network of hospitals including the major teaching and general hospitals in the greater Milan area. Controls were 2758 women admitted to the same network of hospitals for acute, non-gynaecological, non-hormone related, non-neoplastic conditions. Obesity/severe overweight were inversely associated with the risk of ovarian cancer (multivariate relative risk, RR, 0.66, 95% confidence interval, CI, 0.52-0.85). Hyperlipidaemia was also inversely related to ovarian cancer risk, (RR 0.64, 95% CI 0.45-0.89). No relationship emerged between ovarian cancer risk and diabetes (RR 0.80, 95% CI 0.54-1.19), hypertension (RR 0.85, 95% CI 0.68-1.06), thyroid diseases (RR 0.89, 95% CI 0.63-1.13) and cholelithiasis (RR 0.86, 95% CI 0.66-1.12). A decreased frequency of ovarian cancer was seen in women with a history of uterine leiomyomas (RR 0.66, 95% CI 0.47-0.92) and benign ovarian cysts (RR 0.69, 95% CI 0.41-1.13). | Nghiên cứu này thực hiện nhằm khảo sát vai trò của một số tình trạng bệnh lý có liên quan đến nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Các trường hợp nghiên cứu gồm 971 phụ nữ dưới 75 tuổi được chẩn đoán xác định về mặt mô học ung thư biểu mô buồng trứng, điều trị tại một loạt bệnh viện bao gồm bệnh viện đa khoa và bệnh viện chuyên khoa tuyến Milan. Đối tượng điều trị là 2758 phụ nữ điều trị tại cùng một bệnh viện trong các tình trạng bệnh lý cấp tính, không phụ khoa, không liên quan đến hormone, không ung thư. Tình trạng béo phì/quá cân có mối liên quan nghịch với nguy cơ mắc ung thư buồng trứng (nguy cơ đa biến, RR, 0,66, khoảng tin cậy 95% CI, 0,52-0,85 ). Tăng lipid máu cũng có mối liên quan nghịch với nguy cơ mắc ung thư buồng trứng (RR 0,64, 95% CI 0,45-0,89 ). Không có mối liên quan giữa nguy cơ mắc ung thư buồng trứng với bệnh đái tháo đường (RR 0,80, 95% CI 0,54-1,19), tăng huyết áp (RR 0,85, 95% CI 0,68-1,06), bệnh tuyến giáp (RR 0,89, 95% CI 0,63-1,13) và sỏi (RR 0,86, 95% CI 0,66-1,12 ). Tần suất mắc ung thư buồng trứng giảm ở nhóm có tiền sử UTBMTC (RR 0,66, 95% CI 0,47-0,92) và UTBMT lành tính (RR 0,69, 95% CI 0,41-1,13). |
Between 1973 and 1993, 529 patients aged 15 years and over with Hodgkin's disease (HD) were entered into a lymphoma registry. Twenty-eight cases (1 only diagnosed at autopsy) of histologically proven HD in patients aged 70 years or older were identified. The distribution of sex, 'B' symptoms, histology and stage was not significantly different from that of younger patients, except for the fact that there were no patients aged 70 years or older with lymphocyte predominant HD. Nineteen patients were treated radically, 5 patients palliatively and 4 patients received no radiotherapy or chemotherapy. Three of the 14 patients treated with chemotherapy achieved the planned dose intensity. The cause-specific 5-year survival was 75% for patients aged 15-69 years and 28% for patients aged 70 years and over (logrank chi(2) = 43.7, P < 0.00001). The younger and older groups treated with radical intent had complete response rates of 97% and 74%, respectively (logrank chi(2) = 17.91, P < 0.00001) and relapse rates at 5 years of 27% and 56%, respectively (logrank chi(2) = 4.86, P = 0.0275). The main reason for the poorer prognosis of patients aged 70 years and over was the increasing difficulty of chemotherapy delivery associated with advancing age. | Từ năm 1973 đến 1993,529 bệnh nhân u lymphô ác tính Hodgkin từ 15 tuổi trở lên đã được đưa vào danh sách đăng ký điều trị. 28 trường hợp (1 trường hợp chỉ chẩn đoán tại giải phẫu bệnh) u lymphô ác tính Hodgkin ở bệnh nhân từ 70 tuổi trở lên đã được xác định. Phân bố giới tính, triệu chứng 'B ', mô bệnh học và giai đoạn bệnh không khác biệt nhiều so với nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, ngoại trừ không có bệnh nhân nào từ 70 tuổi trở lên |
Shifts in histological tumour type distribution, chiefly an increase in adenocarcinoma, have been reported to accompany changes in lung cancer incidence in the last two decades in the United States and several other developed countries. To elucidate this phenomenon further, we analysed population-based lung cancer incidence rates in the period 1976-1992 from the Varese province, an area with 788,000 inhabitants in Northern Italy. Rates were age-standardised on the world standard population. Overall, lung cancer had stopped increasing in males since the late 1980s, and had started declining in middle-aged men. Conversely, upward trends persisted in females up to 1991-1992. Although it decreased from 13 to 9, the male-to-female incidence ratio was, in 1991-1992 still substantially higher than in the U.S. and North Europe. Specific trends emerged according to histological type(s), with declines (males) or stabilisation (females) for squamous-cell carcinoma and gradual increases for small-cell carcinoma in males. Adenocarcinoma was the only lung cancer type whose incidence rates increased similarly (2.5-fold) in males and females thus approaching, in 1991-1992, in the two sexes combined, the rate for squamous-cell carcinoma. Although advances in diagnostic techniques may have played a role, the absolute and relative increases in the adenocarcinoma rate reflect changes in cigarette manufacture (i.e. spread of filter tips and low-nicotine low-tar cigarettes) and the decrease in smokers. | Sự thay đổi trong phân bố loại mô bệnh học của ung thư phổi, chủ yếu là sự gia tăng tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tuyến, đã được báo cáo đi kèm với sự thay đổi tỷ lệ mắc ung thư phổi trong hai thập kỷ qua ở Hoa Kỳ và một số nước phát triển. Để làm sáng tỏ hiện tượng này hơn nữa, chúng tôi đã phân tích tỷ lệ mắc ung thư phổi theo dân số trong giai đoạn 1976-1992 ở tỉnh Varese, một khu vực có 788.000 dân ở Bắc Ý. Tỷ lệ này đã được chuẩn |
We have previously demonstrated lysis of non-established cultures of human mammary carcinoma cells by parvovirus H-1, which has little effect on the proliferation of corresponding normal cultures. In the present study, we examined this effect in a number of breast-tumour specimens and found them to differ as to the amplitude of their response to parvoviral attack. We first investigated whether the differences in cell sensitivity to parvovirus infection reflected the differentiation level of the initial tumour. Among the biochemical and anatomopathological indicators of original tumour differentiation, the presence of oestrogenic receptors (ER) was found to have a predictive value as to the sensitivity of derived cultures to the cytopathic effect of H-1 virus. The ER+ tumour-derived cultures showed an increased sensitivity to the lytic effect of H-1 virus compared with the ER-tumour-derived cultures, in spite of similar average proliferation rates for the two types of cultures. The proliferation rate was more heterogeneous among ER+ tumour-derived cultures and, in this group, the faster growing cultures were also the most sensitive. This observation was corroborated by the study of established cell lines retaining ER expression under in vitro culture conditions. Oestradiol was found to increase the sensitivity of these cells to the parvovirus in parallel with induction of proliferation. This effect appeared to be mediated by ER activation, since it was not observed in the ER-negative cell line MDA-MB-231. These data point to the importance of hormonal influences and cellular parameters, notably differentiation and proliferation, in determining the extent to which human cancer cells can be targets for the cytopathic effect of parvoviruses. | Trước đây chúng tôi đã chứng minh phương pháp ly giải tế bào ung thư biểu mô tuyến vú bằng parvovirus H-1, phương pháp này ít ảnh hưởng đến sự tăng sinh của các tế bào bình thường tương ứng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã khảo sát ảnh hưởng này trên một số mẫu u vú và thấy rằng chúng khác nhau về biên độ đáp ứng của chúng với parvovirus. Đầu tiên, chúng tôi điều tra xem sự khác biệt về độ nhạy của tế bào đối với nhiễm parvovirus có phản ánh mức độ biệt hóa của khối u ban đầu hay không. Trong số các chỉ số sinh hóa và giải phẫu bệnh học của sự biệt hóa khối u ban đầu, sự hiện diện của các thụ thể estrogen (ER) được tìm thấy có giá trị tiên đoán về độ nhạy của các mẫu cấy có nguồn gốc đối với tác dụng tế bào chất của virus H-1. Các mẫu cấy từ khối u có nguồn gốc từ ER + cho thấy độ nhạy cảm với tác dụng lytic của virus H-1 tăng lên so với mẫu cấy từ khối u có nguồn gốc từ ER, mặc dù tỷ lệ tăng sinh trung bình của hai loại cấy tương tự nhau. Tỷ lệ tăng sinh là không đồng nhất giữa các mẫu cấy từ khối u có nguồn gốc từ ER + và trong nhóm này, mẫu cấy phát triển nhanh hơn cũng nhạy cảm hơn. Quan sát này được chứng minh bằng nghiên cứu các dòng tế bào đã được thiết lập giữ biểu hiện ER trong điều kiện nuôi cấy in vitro. Oestradiol được tìm thấy làm tăng độ nhạy của các tế bào này đối với parvovirus song song với sự kích thích tăng sinh. Tác dụng này dường như được trung gian bởi sự kích hoạt ER, vì nó không được quan sát thấy trong dòng tế bào âm tính với ER MDA-231. Những dữ liệu này chỉ ra tầm quan trọng của các ảnh hưởng nội tiết tố và các thông số tế bào, đặc biệt là sự biệt hóa và tăng sinh, trong việc xác định mức độ các tế bào ung thư ở người có thể là mục tiêu cho tác dụng tế bào chất của parvovirus. |
Osteonectin is a secreted glycoprotein which is detected in a number of normal and neoplastic human tissues in vivo. It is an extracellular matrix (ECM)-associated protein which is postulated to regulate cell migration, adhesion, proliferation and matrix mineralisation and previous reports suggest that it may be modulated by steroid hormones in target tissues. The aim of this study was to measure osteonectin mRNA and protein expression in breast tumour biopsies and compare these with oestrogen (ER) and progesterone receptor (PR) levels in the same tumours. An inverse correlation was seen between osteonectin mRNA expression and ER level. Samples with low ER protein expression had a mean osteonectin mRNA level which was almost 4-fold greater than the mean level of expression observed in tumours containing high concentrations of ER protein. This inverse correlation was statistically significant. Despite the strong inverse relationship between osteonectin mRNA levels and tumour ER content, no correlation was seen when osteonectin protein concentration was measured in tumour cytosols on immunoblots and compared to ER and PR levels in the same tumours. However, since it is a secreted protein, osteonectin protein expression may not reflect cellular osteonectin levels in breast tumours. In summary, these data suggest that ER-mediated suppression of osteonectin gene expression may contribute to the less aggressive characteristics associated with receptor-positive tumours and that loss of ER expression may lead to over-expression of osteonectin and contribute to a poorer differentiated, more invasive phenotype. | Osteonectin là một glycoprotein tiết ra từ tế bào ung thư và mô lành ở người. Đây là protein liên quan đến cấu trúc nền (ECM) để điều hòa sự di chuyển, bám dính, tăng sinh và khoáng hóa của tế bào. Mục đích của nghiên cứu này là để đo lường sự biểu hiện protein và biểu hiện protein osteonectin trong sinh thiết u vú và so sánh với nồng độ protein osteonectin và protein thụ thể progesterone (PR) trong cùng một khối u. Có mối tương quan nghịch giữa sự biểu hiện protein osteonectin và mức ER. Các mẫu có biểu hiện protein osteonectin thấp có nồng độ protein osteonectin trung bình lớn hơn gần 4 lần so với mức ER trung bình của các mẫu có chứa protein ER cao. Sự tương quan nghịch này có ý nghĩa thống kê. Mặc dù có mối tương quan nghịch chặt chẽ giữa nồng độ protein osteonectin và hàm lượng ER trong khối u, nhưng không có mối tương quan nào khi nồng độ protein osteonectin trong các cytosol của khối u so với ER và PR trong cùng khối u. Tuy nhiên, do osteonectin là protein tiết ra từ tế bào nên sự biểu hiện protein osteonectin có thể không phản ánh mức osteonectin của tế bào trong khối u vú. Tóm lại, những dữ liệu này cho thấy ức chế biểu hiện gen osteonectin qua trung gian ER có thể góp phần làm giảm các đặc điểm liên quan đến khối u dương tính với thụ thể và việc mất biểu hiện ER có thể dẫn đến sự biểu hiện osteonectin quá mức và góp phần làm cho kiểu hình của khối u kém biệt hóa hơn, xâm lấn hơn. |
Following our previous results which showed that TGF-beta 1 suppressed the secretion of certain cytokines, we investigated the effects of different endogenous and exogenous factors on cytokine secretion in whole blood cell culture by using an enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA) for measurement of cytokine concentrations. Several molecules including dexamethasone, noradrenaline (NA) and ethanol differentially inhibited mitogen-induced cytokine secretion. Dexamethasone and noradrenaline suppressed secretion of IL-2, IFN alpha, IFN gamma, TNF alpha, IL-1 alpha and IL-1 beta. beta-Endorphin and Leu-Enkephalin had no significant influence on cytokine secretion. Suppression of cytokine secretion by TGF-beta 1 was further intensified significantly and dose dependently by addition of noradrenaline. GM-CSF stimulated the secretion of IL-1 alpha, IL-1 beta and TNF gamma, but had no influence on the secretion of IL-2, IFN alpha and IFN gamma. G-CSF, IL-3 and SCF did not significantly influence secretion of all cytokines tested. Thus, endogenous and exogenous factors differentially influence cytokine secretion by immunocompetent cells. | Tiếp tục với kết quả nghiên cứu trước cho thấy TGF beta 1 ức chế bài tiết một số cytokine, chúng tôi đã khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh khác nhau lên sự bài tiết cytokine trong nuôi cấy tế bào máu toàn phần bằng phương pháp ELISA. Một số phân tử bao gồm dexamethasone, noradrenaline (NA) và ethanol ức chế bài tiết cytokine do nguyên bào sinh. Dexamethasone và noradrenaline ức chế bài tiết IL-2, IFN alpha, IFN gamma, TNF alpha, IL-1 alpha và IL-1 beta. Beta-Endorphin và Leu-Enkephalin không ảnh hưởng đáng kể đến sự bài tiết cytokine. Ức chế bài tiết cytokine bằng TGF beta 1 được tăng cường đáng kể và phụ thuộc liều lượng bằng cách bổ sung noradrenaline. GM-CSF kích thích bài tiết IL-1 alpha, IL-1 beta và TNF gamma, nhưng không ảnh hưởng đến sự bài tiết IL-2, IFN alpha và IFN gamma. G-CSF, IL-3 và SCF không ảnh hưởng đáng kể đến sự bài tiết của tất cả các cytokine được khảo sát. Như vậy, các yếu tố nội sinh và ngoại sinh có ảnh hưởng khác nhau đến sự bài tiết cytokine của tế bào suy giảm miễn dịch. |
The acridine derivative m-AMCA (methyl-N-[4-(9-acridinylamino)-2-methoxyphenyl]carbamate hydrochloride), a carbamate analogue of the topoisomerase II poison amsacrine, is distinguished by its high cytotoxicity against non-cycling tumour cells. We compared the response of cultured Lewis lung carcinoma cells to m-AMCA, amsacrine and the topoisomerase I poison camptothecin. The DNA polymerase inhibitor aphidicolin reversed the cytotoxicity of camptothecin fully, that of amsacrine partially, and that of m-AMCA minimally. The ability of m-AMCA to induce the enzyme poly(ADP-ribose)polymerase (PARP) was markedly lower than that of camptothecin or amsacrine. Cell cycle responses to m-AMCA and amsacrine were similar, with slowing of progress through S-phase and arrest in G2-phase. These cell cycle changes were also observed when plateau phase cultures were exposed to drug for 1 h, washed free of drug and cultured in fresh medium, with m-AMCA having a more pronounced effect than amsacrine and camptothecin having no effect. We also examined the role of p53 protein in the response using cultured human H460 cells. Both m-AMCA and amsacrine induced p53 protein expression in proliferating but not in non-proliferating H460 cells, and induced p21WAF1 regardless of proliferation status. Both induced G1-phase cell cycle arrest. It is suggested that two cytotoxicity mechanisms can be distinguished using these drugs. The first is specific for S-phase cells, is reversed by aphidicolin and induces PARP activity. The second is cell cycle non-specific, does not induce PARP and is unaffected by aphidicolin. Camptothecin activates only the first, m-AMCA primarily the second and amsacrine activates both. | Dẫn xuất acridine của m-AMCA (methyl-N-[4-(9-acridinylamino) -2-methoxyphenyl]carbamate hydrochloride) là một chất tương tự carbamate của amsacrine độc topoisomerase II, được phân biệt bởi tính độc tế bào cao đối với các tế bào không tái tổ hợp. Chúng tôi so sánh phản ứng của tế bào ung thư phổi Lewis nuôi cấy với m-AMCA, amsacrine và camptothecin độc topoisomerase I. Chất ức chế enzyme poly(ADP-ribose) polymemmerase (PARP) của m-AMCA đã đảo ngược hoàn toàn độc tính của camptothecin, của amsacrine một phần và của m-AMCA với tác dụng giảm thiểu. Khả năng gây độc tế bào của m-AMCA là aphidicolin đảo ngược hoàn toàn độc tính của camptothecin, của amsacrine và camptothecin không có tác dụng. Chúng tôi cũng nghiên cứu vai trò của protein p53 trong phản ứng của tế bào H460 ở người nuôi cấy. Cả hai cơ chế gây độc tế bào của m-AMCA và amsacrine đều tương tự nhau, với sự tiến triển chậm qua pha S và sự ngừng hoạt động của pha G2. Cả hai đều gây ra sự ngừng hoạt động của chu kỳ tế bào G1. Có ý kiến cho rằng có thể phân biệt được hai cơ chế gây độc tế bào khi sử dụng hai loại thuốc này. Cơ chế thứ nhất đặc hiệu với tế bào pha S, bị đảo ngược bởi aphidicolin và gây ra hoạt động PARP và không bị ảnh hưởng bởi aphidicolin. Camptothecin chỉ kích hoạt lần đầu tiên, m-AMCA chủ yếu kích hoạt lần thứ hai và amsacrine kích hoạt cả hai. |
The tumour which develops most frequently in mice carrying a p53 Val135 transgene is adenocarcinoma of the lung. We established 10 cell lines from these tumours and investigated their karyotypes by detailed cytogenetic analysis using a complete set of mouse chromosome-specific paints. Consistent loss of chromosome 4 material was noted in 9 out of 10 cell lines; this loss was detected in tetraploid but not diploid cells of the same cell line, suggesting that mouse chromosome 4 plays a critical role in the progression of lung adenocarcinomas. Other frequently observed chromosome aberrations involved chromosomes 7, 5 and 8. Atypical bronchial epithelium was observed together with lung tumours and in tumour-free, apparently normal lungs indicating that mouse lung tumours induced due to the presence of a mutant p53 transgene may develop via pre-invasive lesions and thus may be effective models for the study of lung tumour progression. | U phát triển thường gặp nhất ở chuột mang gen chuyển p53 Val135 là ung thư biểu mô tuyến phổi. Chúng tôi thiết lập 10 dòng tế bào từ các khối u này và khảo sát kiểu nhân của chúng bằng phân tích tế bào học chi tiết sử dụng một bộ sơn đặc trưng nhiễm sắc thể chuột. 9/10 dòng tế bào bị mất vật liệu nhiễm sắc thể 4; sự mất mát này được phát hiện ở các tế bào tứ bội chứ không phải lưỡng bội của cùng một dòng tế bào, cho thấy nhiễm sắc thể 4 của chuột đóng vai trò quan trọng trong sự tiến triển |
This is a phase I study to determine the maximum tolerated dose (MTD) and toxicity of a combination of paclitaxel and 5-Fluorouracil (5-FU) in advanced gastric cancer patients. The patients, refractory to the PELF regimen (5-FU, leucovorin, cisplatin, epidoxorubicin), received weekly 5-FU at the fixed dose of 500 mg/m2, and escalating doses of paclitaxel every 3 weeks with a starting dose of 150 mg/m2 given as in 3-h infusion. The dose was escalated by 25 mg/m2 every 3 patients. Fifteen patients entered the study. The upper paclitaxel dose (225 mg/m2) was given to 6 patients. Up to this dose, no severe toxicity (grade 3-4) was recorded. Apart from alopecia, grade 1-2 leukopenia occurred in 5 patients and grade 1-2 neurotoxicity in 2 patients. All patients were evaluable for response (at least 2 cycles): 2 patients achieved an objective response (200 and 225 mg/m2). In 6 patients, treatment resulted in notable relief from symptoms. Out-patient paclitaxel given over 3 h and 5-FU may be combined safely for the treatment of patients with advanced gastric cancer. The recommended doses for phase II study are paclitaxel 225 mg/m2 and 5-FU 500 mg/m2. | Đây là nghiên cứu giai đoạn I nhằm xác định liều dung nạp tối đa (MTD) và độc tính của phối hợp 5-Fluorouracil (5-FU) ở bệnh nhân ung thư dạ dày tiến triển. Các bệnh nhân, chịu được phác đồ PELF (5-FU, leucovorin, cisplatin, epidoxorubicin) được uống 5-FU hằng tuần với liều cố định 500 mg/m2 và tăng dần liều paclitaxel 3 tuần một lần với liều ban đầu 150 mg/m2 như truyền 3 giờ. Tăng dần liều 25 mg/m2 3 bệnh nhân. 15 bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Liều paclitaxel cao (225 mg/m2) được dùng cho 6 bệnh nhân. Cho đến nay chưa ghi nhận độc tính nghiêm trọng (độ 3-4 ). Ngoài rụng tóc, 5 bệnh nhân giảm bạch cầu độ 1-2 và 2 bệnh nhân giảm độc thần kinh độ 1-2. Tất cả các bệnh nhân đều được đánh giá đáp ứng (ít nhất 2 chu kỳ) : 2 bệnh nhân đạt đáp ứng khách quan (200 và 225 mg/m2 ). 6 bệnh nhân, điều trị đều giảm triệu chứng đáng kể. Có thể kết hợp paclitaxel điều trị ngoại trú với liều 225 mg/m2 và 5-FU an toàn cho bệnh nhân ung thư dạ dày tiến triển. Liều khuyến cáo cho giai đoạn II là paclitaxel 225 mg/m2 và 5-FU 500 mg/m2. |
Interleukin-2 (IL-2) and interleukin-12 (IL-12) may represent the most important antitumour cytokines in human neoplasms. IL-2 blood levels decrease in advanced solid malignancies, but currently there are no data on IL-12 secretion in cancer patients. This study was performed to obtain preliminary data about IL-12 secretion in patients with solid malignant tumours, either in relation to the extension of disease, or to other cytokines, including IL-2, IL-6 and IL-10. The study included 40 solid cancer patients, 24 of whom showed distant organ metastases. Cytokine serum levels were measured by an enzyme immunoassay of blood samples collected during the morning. No patient had abnormally low levels of IL-12, but the levels were high in 14/14 (35%) patients. Mean levels of IL-12 were significantly higher in metastatic patients compared with non-metastatic patients (P < 0.05). Moreover, metastatic patients with high blood concentrations of IL-12 showed significantly lower levels of IL-10 than metastatic patients with normal IL-12 values, while no difference was seen in IL-2 mean concentrations. IL-6 mean levels were lower in metastatic patients with increased IL-12 levels, but this was non-significant. This preliminary study shows that advanced solid cancers are not characterised by a diminished secretion of IL-12, but rather IL-12 levels tend to be abnormally high in metastatic cancer patients. | Interleukin-2 (IL-2) và interleukin-12 (IL-12) có thể là các cytokine kháng độc quan trọng nhất ở bệnh nhân ung thư. Nồng độ IL-2 trong máu giảm ở các khối u ác tính dạng rắn tiến triển, nhưng hiện nay chưa có số liệu về bài tiết IL-12 ở bệnh nhân ung thư. Nghiên cứu này được thực hiện để thu thập số liệu ban đầu về bài tiết IL-12 ở bệnh nhân ung thư ác tính dạng rắn, hoặc liên quan đến sự mở rộng bệnh, hoặc liên quan đến các cytokine khác bao gồm IL-2, IL-6 và IL-10. Nghiên cứu bao gồm 40 bệnh nhân ung thư dạng rắn, trong đó 24 người có di căn xa. Nồng độ cytokine trong huyết thanh được đo bằng xét nghiệm miễn dịch enzyme của mẫu máu thu thập vào buổi sáng. Không có bệnh nhân nào có nồng độ IL-12 thấp bất thường, nhưng có 14/14 (35% ) bệnh nhân có di căn xa. Nồng độ IL-12 trung bình cao hơn có ý nghĩa thống kê ở bệnh nhân di căn so với bệnh nhân không di căn (P < 0,05 ). Hơn nữa, nồng độ IL-12 trung bình thấp hơn ở bệnh nhân di căn với nồng độ IL-12 tăng cao, nhưng không có sự khác biệt ở nồng độ IL-2 trung bình. Nồng độ IL-6 trung bình thấp hơn ở bệnh nhân di căn với nồng độ IL-12 tăng cao, nhưng không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu này cho thấy rằng ung thư dạng rắn tiến triển không phải do bài tiết IL-12 giảm mà do nồng độ IL-12 có xu hướng cao bất thường ở bệnh nhân ung thư di căn. |
OBJECTIVE To review the relation between drug use, sexual risk behaviour, and STDs including HIV in two marginalised populations--drug users and street youth. METHODS A review of recent medical and behavioural literature focusing on illustrative examples from industrialised countries. FINDINGS Injecting and other illicit drug users and street youth are both sexually active populations with a high rate of partner turnover and frequently exchange sex for money or drugs. Both STDs and HIV are prevalent among injecting and crack using individuals. Drug use may lead drug users to be less aware of or concerned about STD symptoms than others with STDs and thus increase the threshold for attending clinical services. CONCLUSIONS Given that STDs facilitate the transmission of HIV and that standard STD control programmes in general do not reach these populations, it is argued that drug users and street youth require targeted special outreach STD control programmes. | MỤC TIÊU: Đánh giá mối liên quan giữa sử dụng ma túy, hành vi nguy cơ tình dục và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (BLTQĐTD) bao gồm cả HIV ở hai nhóm dân cư bên lề-người nghiện ma túy và thanh niên đường phố. PHƯƠNG PHÁP: Đánh giá các tài liệu y học và hành vi gần đây, tập trung vào các ví dụ minh họa từ các nước công nghiệp hóa. Những người tiêm chích ma túy, người sử dụng ma túy bất hợp pháp khác và thanh niên |
OBJECTIVES To review recent research into psychological aspects of genital herpes and assess possible implications for clinical practice. METHODS Review of all papers in the field on Medline 1985-96. RESULTS Much attention has been paid to possible links between stress and recurrent genital herpes. There is no convincing evidence that stress in itself causes recurrences. It may be that recurrences are preceded by a prodromal period of altered mood. Patients with recurrences show considerable stress as a result of the disease, although most individuals eventually adjust psychologically. The impact of social support on adjustment remains unclear. The little evidence available suggests that antiviral treatments can help adjustment and the effects may perhaps outlast the period of active treatment. CONCLUSIONS Existing research gives some clues to optimal patient management but there is a need for future research to focus much more clearly on clinical issues, particularly on means of alleviating psychological distress and on the impact of antivirals. | MỤC TIÊU Nghiên cứu các khía cạnh tâm lý của bệnh Herpes sinh dục và đánh giá các tác động có thể có của thuốc đối với thực hành lâm sàng. PHƯƠNG PHÁP Nghiên cứu tất cả các tài liệu trong lĩnh vực này trên Medline 1985-1996. KẾT QUẢ Nghiên cứu đã chú ý nhiều đến mối liên quan giữa stress và bệnh Herpes sinh dục tái phát. Không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy stress là nguyên nhân gây bệnh tái phát. Có thể sự tái phát xảy ra trước một giai |
OBJECTIVE To assess patient attitudes to HSV-2 serotesting and the effect of providing detailed information regarding genital herpes, the blood test, and its implications. METHODS Consecutive genitourinary medicine clinic attenders were asked to complete an anonymous self administered questionnaire. Half received minimal additional information while the other half received a detailed information sheet. RESULTS Overall, 200 clinic attenders with a median age of 27 years (range 15-57) completed the questionnaire, 92.4% wanted to know if they, and 90.8% if their partners, had been infected with genital herpes; 65% expected testing as part of screening without further discussion. Overall, on a scale of 1-10, 2% scored 1 (equivalent to definitely not wanting a test), while 45.5% scored 10 (equivalent to definitely wanting a test). The overall median score was 9 (95% confidence interval 8-10) suggesting a strong opinion in favour of testing. The desire to test in each of five described hypothetical situations increased significantly (p < 0.001) when compared with the general desire. CONCLUSIONS Clinic attenders expressed a strong preference to be serotested for HSV-2 which was unaltered by the provision of information highlighting implications, although influenced significantly by the context in which they were asked. Should reliable tests become available the level of demand could have important implications on laboratory and counselling resources. | MỤC TIÊU: Đánh giá thái độ của người bệnh đối với xét nghiệm huyết thanh học HSV-2 và ảnh hưởng của việc cung cấp thông tin chi tiết về bệnh Herpes sinh dục, xét nghiệm máu và tác động của nó. Các nhân viên khám bệnh nội khoa thường trú được yêu cầu tự điền vào bảng câu hỏi ẩn danh. Một nửa nhận được thông tin bổ sung tối thiểu, một nửa nhận được thông tin chi tiết. KẾT QUẢ: Có 200 nhân viên khám bệnh có độ tuổi trung bình 27 tuổi (từ 15-57) |
OBJECTIVES This paper reports on the cross sectional data from the longitudinal study examining the impact of genital herpes simplex virus (HSV) infection on quality of life. In particular the report sought to study the relation between recurrence of genital HSV and coping style, mood, personality, and quality of life, among other factors. SETTING AND SUBJECTS 116 patients with a known history of genital herpes simplex infection attending the Department of Genitourinary Medicine at Chelsea and Westminster Hospital. METHODS Psychosocial factors (stress, anxiety, depression, health locus of control, personality, social support, coping skills, and quality of life) and the reported frequency of genital herpes episodes were measured using self administered questionnaires designed to examine the relation between psychosocial status and the frequency of genital HSV episodes. RESULTS The number of recurrences reported by patients was significantly related to the style of coping skills used. Higher recurrences were less likely to use problem focused coping skills of planning and active coping, and the emotion focused coping skills of positive reinterpretation and growth. There was a significant difference in the number of patients who believed that psychological stress was related to the number of recurrences they experienced. This belief was related to neuroticism on the Eysenck Personality Questionnaire scale, and not to any of the other measures investigated. CONCLUSION The findings suggest that it is the way individuals cope, and their personality characteristics rather than actual levels of psychological stress, that influence their belief in a link between recurrent genital HSV and stress. HSV may become the focus of existing concerns and be viewed as the physical manifestation of stress. | MỤC TIÊU Bài báo trình bày các số liệu cắt ngang từ nghiên cứu theo dõi dọc đánh giá ảnh hưởng của nhiễm HSV (HSV) lên chất lượng cuộc sống. Đặc biệt, nghiên cứu tìm hiểu mối liên quan giữa tái phát HSV với phong cách ứng phó, tâm trạng, tính cách, chất lượng cuộc sống và một số yếu tố khác. THÀNH PHẦN THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ LÂM SÀNG (căng thẳng, lo âu, trầm cảm, điểm kiểm soát sức khỏe, tính cách, hỗ trợ xã hội, kỹ năng ứng phó, chất lượng cuộc sống) và tần suất xuất hiện các đợt HSV được đo lường bằng bộ câu hỏi tự điền nhằm tìm hiểu mối liên quan giữa tình trạng tâm lý xã hội và tần suất xuất hiện các đợt HSV. KẾT QUẢ: Số lần tái phát của bệnh nhân có liên quan đáng kể với phong cách ứng phó được sử dụng. Số lần tái phát cao hơn có xu hướng sử dụng kỹ năng ứng phó tập trung vào vấn đề như lập kế hoạch và chủ động đối phó, và kỹ năng ứng phó tập trung vào cảm xúc như diễn giải lại và phát triển tích cực. Có sự khác biệt đáng kể về số bệnh nhân tin rằng stress tâm lý có liên quan đến số lần tái phát họ trải qua. Niềm tin này liên quan đến chứng loạn thần kinh trên thang điểm Eysenck Personality Inventory chứ không liên quan đến bất kỳ thang điểm nào khác được nghiên cứu. KẾT LUẬN: Kết quả nghiên cứu cho thấy cách đối phó và đặc điểm tính cách của các cá nhân thay vì mức độ stress tâm lý thực tế đã ảnh hưởng đến niềm tin của họ về mối liên quan giữa HSV tái phát và stress. HSV có thể trở thành tâm điểm của những mối quan tâm hiện tại và được xem như biểu hiện thể chất của stress. |
OBJECTIVES Biliary tract abnormalities are well recognised in AIDS, most frequently related to opportunistic infection with Cryptosporidium, Microsporidium, and cytomegalovirus. We noted a high frequency of pancreatic abnormalities associated with biliary tract disease. To define these further we reviewed the clinical and radiological features in these patients. METHODS Notes and radiographs were available from two centres for 83 HIV positive patients who had undergone endoscopic retrograde cholangiopancreatography for the investigation of cholestatic liver function tests or abdominal pain. RESULTS 56 patients had AIDS related sclerosing cholangitis (ARSC); 86% of these patients had epigastric or right upper quadrant pain and 52% had hepatomegaly. Of the patients with ARSC, 10 had papillary stenosis alone, 11 had intra- and extrahepatic sclerosing cholangitis alone, and 35 had a combination of the two. Ampullary biopsies performed in 24 patients confirmed an opportunistic infection in 16. In 15 patients, intraluminal polyps were noted on the cholangiogram. Pancreatograms were available in 34 of the 45 patients with papillary stenosis, in which 29 (81%) had associated pancreatic duct dilatation, often with associated features of chronic pancreatitis. In the remaining 27 patients, final diagnoses included drug induced liver disease, acalculous cholecystitis, gall bladder empyema, chronic B virus hepatitis, and alcoholic liver disease. CONCLUSION Pancreatic abnormalities are commonly seen with ARSC and may be responsible for some of the pain not relieved by biliary sphincterotomy. The most frequent radiographic biliary abnormality is papillary stenosis combined with ductal sclerosis. | ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, BỆNH NHÂN VIÊM ĐƯỜNG MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH MẠCH M |
OBJECTIVE To examine ethnic, relationship, health, and mental health factors for a cohort of women with HIV infection attending an inner London clinic. DESIGN AND METHODS Structured schedules were utilised to analyse ethnic group, family, and reproduction issues, mental and physical health for 100 women drawn consecutively from attenders at an inner London HIV clinic RESULTS 51% of the women were non-ethnic minority groups and 49% were from ethnic groups. HIV testing was often as a result of symptoms or partner illness. One in five had disclosed their status to one person only or no one. Ethnic minority women were more likely to restrict disclosure. Forty seven per cent of the women had 100 children with more children reported in ethnic minority families; 28% of the children had been tested for HIV and five were confirmed HIV positive; 9% of children were born after HIV diagnosis. Nineteen women reported one or more termination of pregnancy, the majority before HIV diagnosis. Three quarters had a partner of whom 56 knew the partner's status. Women with HIV positive partners were more likely to have children. Women kept in ignorance of partner status were more likely to be ethnic minority women. Thirty two per cent had an AIDS diagnosis, diagnosed mostly in the UK. Medical and counselling service uptake was high. Gynaecological problems were common (49% had one or more problem) and 34% had at least one hospital admission. A wide range of counselling issues were recorded, with variations over time. Suicidal issues were relevant for 13% of women (69% ideation, 31% attempts). Significant life events were noted for many women with allied coping demands. CONCLUSIONS There are a wide range of issues for women with HIV and systematic differences between ethnic and non-ethnic women and those with or without children. | MỤC TIÊU TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ VỀ DÂN SỐ, MỐI LIÊN QUAN, SỨC KHỎE, TRỊ SINH TRÙNG Ở PHỤ NỮ NỘI TRÚ TẠI PHÒNG KHÁM HIV TRONG NỘI TRÚ TẠI LÀM VIỆC Nghiên cứu này được tiến hành nhằm khảo sát các yếu tố dân tộc, gia đình, sinh sản, sức khỏe tinh thần và thể chất ở 100 phụ nữ nhiễm HIV tại một phòng khám nội thành London. KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM HIV CÓ TÍNH CHẤT DÂN SỐ 51% phụ nữ nhiễm HIV không phải dân tộc thiểu số và 49% là người dân tộc thiểu số. Xét nghiệm HIV thường do các triệu chứng hoặc bệnh của bạn tình. Cứ năm phụ nữ thì có một người tiết lộ tình trạng của mình cho một người hoặc không tiết lộ cho ai. Phụ nữ dân tộc thiểu số có xu hướng hạn chế tiết lộ tình trạng của mình. 47% phụ nữ có nhiều con hơn con ở các gia đình dân tộc thiểu số; 28% trẻ đã được xét nghiệm HIV và 5 trẻ đã được xác nhận dương tính; 9% trẻ sinh ra sau khi được chẩn đoán. 19 phụ nữ có một hoặc nhiều lần chấm dứt thai kỳ, đa số trước khi được chẩn đoán. Ba phần tư có bạn tình mà 56 người biết tình trạng của bạn tình. Phụ nữ có bạn tình dương tính có nhiều khả năng có con hơn. Phụ nữ không biết tình trạng của bạn tình có nhiều khả năng là phụ nữ dân tộc thiểu số. 32% được chẩn đoán AIDS, chủ yếu ở Anh. Tỷ lệ phụ nữ sử dụng dịch vụ y tế và tư vấn cao. Bệnh phụ khoa là phổ biến (49% có một hoặc nhiều vấn đề) và 34% nhập viện ít nhất một lần. Một loạt các vấn đề tư vấn được ghi nhận, với sự thay đổi theo thời gian. 13% có ý định tự tử (69% có ý định tự tử, 31% cố gắng tự tử |
AIM The British Andrology Society recommends screening semen donors for sexually transmitted infections to minimise the risk of pathogen transmission to the mother and fetus. The aim was to review recent findings of semen donor screening and, if appropriate, recommend changes to the screening protocol. SUBJECTS 175 consecutive men attending for STD screening between January 1992 and December 1995 who had been preselected by the Department of Obstetrics and Gynaecology as suitable semen donors. METHODS Retrospective review of case notes and group comparison of demographic and sexual history data. RESULTS 11 men (6%) had evidence of infection, excluding CMV seropositivity, at their first STD screen. After semen donation, 109 men (63%) were rescreened and, of these, 12% had positive findings. Positive findings at initial screening were predicted by a history of more than one partner in the preceding 6 months (OR 7.11, 95% CI 1.66-30.4) but it did not predict rescreening findings. Other factors such as age, marital status, employment status or past STDs were not predictive for either screen. DISCUSSION Less than 20% of initial volunteers meet the full criteria of high quality post-thaw semen, no transmissible genetic disorders, and no transmissible pathogens. Sexual history may predict but would not alone preclude all positive STD screening findings. It is essential that sequential STD screening of donors continues and that genitourinary physicians should be involved in this process. Validation of newer diagnostic techniques as screening tests in this setting is required. | Hội khoa học về bệnh học vi rút (AIM) của Anh khuyến cáo người cho tinh dịch để phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục nhằm giảm thiểu nguy cơ lây truyền mầm bệnh cho mẹ và thai nhi. Mục đích là để xem xét những phát hiện gần đây của người cho tinh dịch và nếu phù hợp thì đề xuất thay đổi quy trình xét nghiệm. Đối tượng là 175 người đàn ông tham gia xét nghiệm sàng lọc bệnh lây truyền qua đường tình dục từ tháng 1/1992 đến tháng 12/1995 được khoa Sản-Khoa Sản lựa chọn là người cho tinh dịch phù hợp. Phương pháp hồi cứu hồ sơ bệnh án và so sánh nhóm dữ liệu nhân khẩu học và tiền sử tình dục. KẾT QUẢ 11 người đàn ông (6% ) có bằng chứng nhiễm bệnh, không tính huyết thanh CMV, tại lần xét nghiệm sàng lọc bệnh lây truyền qua đường tình dục đầu tiên. Sau khi hiến tinh dịch, 109 người (63% ) được xét nghiệm sàng lọc lại và trong số này có 12% kết quả dương tính. Các kết quả dương tính ở lần xét nghiệm sàng lọc ban đầu được dự đoán bởi tiền sử có nhiều hơn một bạn tình trong 6 tháng trước đó (OR 7,11, KTC 95% 1,66-30,4) nhưng không dự đoán được kết quả tái khám. Các yếu tố khác như tuổi, tình trạng hôn nhân, tình trạng việc làm hoặc bệnh lây truyền qua đường tình dục trước đây không được dự đoán cho cả hai lần xét nghiệm. Dưới 20% người tình nguyện ban đầu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về tinh dịch chất lượng cao sau rã đông, không có rối loạn di truyền lây truyền, không có tác nhân gây bệnh lây truyền qua đường tình dục. Tiền sử tình dục có thể dự đoán nhưng không loại trừ tất cả các kết quả sàng lọc bệnh lây truyền qua đường tình dục. Điều quan trọng là phải tiếp tục xét nghiệm sàng lọc bệnh lây truyền qua đường tình dục liên tiếp của người cho tinh dịch và các bác sĩ chuyên khoa sinh dục-tiết niệu nên tham gia vào quá trình này. Việc xác nhận các kỹ thuật chẩn đoán mới hơn làm xét nghiệm sàng lọc trong bối cảnh này là cần thiết. |
OBJECTIVES To screen for certain STD markers in a group of male clients of female sex workers. METHOD Condoms with seminal fluid were collected at 10 "massage parlours" in Copenhagen. The seminal fluid samples were examined for HIV antibodies, markers of hepatitis B virus (HBV), Chlamydia trachomatis, and Mycoplasma genitalium. RESULTS All samples (n = 332) were negative for HIV antibodies. Out of 327 samples examined for HBV markers 32 (9.8%) were positive for HBV core antibodies, one of which was also positive for HBV antigen. C trachomatis could be demonstrated in six out of 122 (4.9%) samples and M genitalium in one out of 122 samples. CONCLUSIONS The finding of a C trachomatis prevalence of 4.9% is considerable higher than expected in men with a presumed age of 35-55 years. The demonstration of a prevalence of HBV markers of 9.8% indicates that these clients have an increased risk of HBV infection, a finding that further consolidates the recommendation of HBV vaccination of sex workers. As shown in this study, STD transmission in commercial sex may also have the client as the source. | THỰC TRẠNG XÉT NGHIỆM MỘT SỐ CHỈ SỐ LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN LAO ĐỘNG NAM THUỐC TRÊN BỆNH NHÂN LAO ĐỘNG TẠI CHĂM SÓC SẢN PHẨM TRUYỀN LIỆU TẠI 10 "KHUẨN LÂM SÀNG" T |
BACKGROUND It has been established that lack of circumcision increases the risk of urinary tract infection in infants. During the first six months, the presence of foreskin is associated with a greater quantity and a higher concentration of uropathogens in the periurethral area. Very little is known about this association in older males. OBJECTIVE To compare the periurethral bacteriology of uncircumcised healthy males of more than one year of age. METHODS The periurethral area of 125 uncircumcised and 46 circumcised healthy males (mean age, 26.5 and 28.3 years, respectively) was swabbed and cultured for facultative and anaerobic bacteria, genital mycoplasmas and Chlamydia trachomatis. RESULTS Facultative Gram positive cocci predominated in both groups (62% and 80%, respectively). Pure culture of facultative Gram negative rods was more common in uncircumcised males (17% v 4% in circumcised males, p = 0.01). Streptococci, strict anaerobes and genital mycoplasmas were found almost exclusively in uncircumcised males of more than 15 years of age. No case of C trachomatis was identified. CONCLUSIONS The higher prevalence of potential uropathogens in the subpreputial space is in accordance with a previous finding of increased risk of urinary tract infection in uncircumcised young men. Our results also support the role of the prepuce as a reservoir for sexually transmitted organisms. | TRỞ LẠI: thiếu bao quy đầu làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu ở trẻ sơ sinh. Trong 6 tháng đầu, sự hiện diện của bao quy đầu làm tăng số lượng và nồng độ tác nhân gây bệnh trong vùng quanh hậu môn. Rất ít nghiên cứu về mối liên quan này ở trẻ lớn tuổi. Mục tiêu: So sánh đặc điểm vi khuẩn vùng quanh hậu môn ở 125 trẻ nam khỏe mạnh trên 1 tuổi chưa cắt bao quy đầu và 46 trẻ nam khỏe mạnh trên 1 tuổi (tuổi trung bình lần lượt là 26,5 và 28,3) được lấy mẫu và nuôi cấy vi khuẩn Gram dương không tiêu diệt, vi khuẩn gây bệnh và vi khuẩn gây bệnh, vi khuẩn gây bệnh cơ quan sinh dục và vi khuẩn gây bệnh Chlamydia trachomatis. Kết quả nghiên cứu cho thấy cocci gram dương không tiêu diệt chiếm ưu thế ở cả 2 nhóm (62% và 80% ). Nuôi cấy vi khuẩn Gram âm đơn thuần phổ biến hơn ở nam giới chưa cắt bao quy đầu (17% v 4% ở nam giới đã cắt bao quy đầu, p = 0,01 ). Liên cầu khuẩn, vi khuẩn kỵ khí và vi khuẩn gây bệnh cơ quan sinh dục hầu như chỉ được tìm thấy ở nam giới trên 15 tuổi. Không có trường hợp nào bị nhiễm C trachomatis. Kết luận: Tỷ lệ các tác nhân gây bệnh tiềm tàng trong vùng hậu môn cao hơn so với một nghiên cứu trước đây về nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu ở nam giới chưa cắt bao quy đầu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng ủng hộ vai trò của tiền chất như một nguồn dự trữ các tác nhân lây truyền qua đường tình dục. |
OBJECTIVES To examine the acceptability of genitourinary medicine (GUM) clinics (for STDs) to homosexual and bisexual men. DESIGN A cross sectional survey of men using "gay" venues and groups in the West Midlands region of the UK. Data were collected using an anonymous self-completed questionnaire. RESULTS 848 completed questionnaires were returned. Two thirds of the respondents reported "safer" sexual behaviour. Those who had ever attended a GUM clinic (55%) differed little in their safer sexual behaviour from those who had never attended. The acceptability of the service was assessed using a range of indicators: the majority of the attendees had told a doctor, nurse or health adviser they have sex with men; and just over half had found all staff to be friendly, helpful or not homophobic. A quarter of attendees found talking about sexual matters difficult; these were less likely to have found the service acceptable. Over half (54%) of the study respondents had not been vaccinated against hepatitis B. Those who had been vaccinated were more likely: to have found the service acceptable; to have found talking about sexual matters easy; and to report safer sexual behaviour. CONCLUSIONS These findings suggest that many homosexual and bisexual men who may need to use the GUM service have not done so. There is a need to improve the acceptability of the service and to further promote hepatitis B vaccination. | MỤC TIÊU: Đánh giá khả năng chấp nhận dịch vụ của phòng khám Y học sinh dục-tiết niệu (GUM) đối với người đồng tính nam và song tính. |
We have undertaken an analysis of semen from HIV infected men with regard to sperm counts and motility, non-spermatozoal cells, and viral nucleic acid. Regression analysis showed that sperm concentration and motility were positively associated with blood CD4 cell count. By contrast, non-spermatozoal cell concentration (round cells) was inversely related to CD4 count. Extracellular HIV RNA was detected in the majority of semen samples and proviral DNA in a minority. Percoll gradient washing of 12 semen samples yielded six samples containing adequate sperm concentration for analysis. This washing procedure reduced prewash extracellular RNA to below detectable limits in all cases; proviral DNA present in two of the six prewash samples was also reduced to below detectable limits after washing. We conclude that semen washing before artificial insemination may reduce the risk of HIV transmission from an infected man to an uninfected woman. However, further evidence from prospective analyses of such an approach is required. | Chúng tôi tiến hành phân tích tinh dịch của những người đàn ông nhiễm HIV về số lượng tinh trùng và khả năng vận động, tế bào không tinh trùng và acid nucleic virus. Phân tích hồi quy cho thấy nồng độ tinh trùng và khả năng vận động có mối tương quan thuận với số lượng tế bào CD4 trong máu. Ngược lại, nồng độ tế bào không tinh trùng (tế bào tròn) có mối tương quan nghịch với số lượng tế bào CD4. RNA ngoại bào được phát hiện trong phần lớn các mẫu tinh dịch và DNA provirus trong một số |
Vaginal anaerobic infection is the most common cause of vaginal discharge in women. We present a case of recurrent vaginal anaerobic infection and cervical carcinoma and discuss the association of the two conditions. More frequent cytology/colposcopy may be indicated in women who give a history of recurrent or persistent vaginal anaerobic infection. | Nhiễm khuẩn kỵ khí âm đạo là nguyên nhân thường gặp nhất gây ra dịch tiết âm đạo ở phụ nữ. Chúng tôi trình bày một trường hợp nhiễm khuẩn kỵ khí âm đạo tái diễn và ung thư cổ tử cung và tìm hiểu mối liên quan của hai tình trạng này. Tế bào học/phẫu thuật nội soi thường gặp hơn ở những phụ nữ có tiền sử nhiễm khuẩn kỵ khí âm đạo tái diễn hoặc kéo dài. |
AIMS To evaluate the histological changes seen in liver biopsies after interferon (IFN) treatment in patients with chronic hepatitis C and human immunodeficiency virus (HIV) infection. METHODS Twenty four intravenous drug users with chronic hepatitis C were investigated histologically before beginning a 12 month course of IFN treatment and 18 months later. Twelve were HIV positive, without opportunistic or other viral infections (group A), and 12 were HIV negative (group B). RESULTS According to alanine amino-transferase concentrations, four sustained responders and eight non-responders were found in group A; six sustained responders, five relapsers, and one non-responder were found in group B. HCV RNA became negative in one sustained responder of group A and in the six sustained responders of group B. When histological findings of biopsies performed before therapy and 18 months later were compared, no significant changes in the mean value of Knodell's index and subindices were found in group A, whereas in group B Knodell's index, piecemeal necrosis, and focal hepatocellular necrosis decreased significantly. CONCLUSIONS In chronic hepatitis C, coinfection with HIV showed a tendency towards a lower response to IFN, although this did not reach statistical significance; however, none of the HIV positive patients developed cirrhosis during the follow up and this should be considered in clinical management of such patients. | Đánh giá sự thay đổi mô bệnh học ở bệnh nhân viêm gan C mạn và nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV ). Phương pháp nghiên cứu: 24 người nhiễm HIV được điều tra mô bệnh học trước khi bắt đầu điều trị IFN 12 tháng và sau 18 tháng. 12 người dương tính với HIV, không có cơ hội nhiễm HIV hoặc nhiễm virus khác (nhóm A) và 12 người âm tính với HIV (nhóm B ). Theo nồng độ alanine amino-transferase, 4 người đáp ứng kéo dài và 8 người không đáp ứng ở nhóm A; 6 người đáp ứng kéo dài, 5 người đáp ứng lại và 1 người không đáp ứng ở nhóm B. HCV RNA âm tính ở 1 người đáp ứng kéo dài của nhóm A và 6 người đáp ứng kéo dài của nhóm B. Khi so sánh các kết quả mô bệnh học của các sinh thiết trước và sau 18 tháng, không có sự thay đổi đáng kể về giá trị trung bình của chỉ số Knodell và các chỉ số ở nhóm A, trong khi ở nhóm B chỉ số Knodell hoại tử từng phần và hoại tử tế bào gan khu trú giảm đáng kể. KẾT LUẬN: Ở bệnh nhân viêm gan C mạn, đồng nhiễm HIV có xu hướng đáp ứng thấp hơn với IFN, mặc dù điều này không có ý nghĩa thống kê; tuy nhiên, không có bệnh nhân dương tính nào bị xơ gan trong quá trình theo dõi và điều này nên được xem xét trong quản lý lâm sàng. |
AIMS To compare the application of a non-radioactive in situ hybridisation (ISH) technique with an immunocytochemical technique for the detection of human parvovirus B19 in formalin fixed, paraffin wax embedded sections of macerated fetal tissue. METHODS Archived samples of liver, lung or kidney from 19 human fetuses were investigated for parvovirus B19 using a full length digoxigenin labelled DNA probe of 5.5 kb; bound probe was detected using an anti-digoxigenin (alkaline phosphatase) conjugate and visualised using NBT/BCIP. Immunocytochemical detection of parvovirus B19 was performed using a monoclonal mouse antiparvovirus B19 antiserum, with a streptavidin-biotin complex (horse radish peroxidase) method. Cases were selected to provide a range of diagnostic certainty and a range of degrees of macerative degeneration. RESULTS Parvovirus B19 was found in 15 of 19 cases using the B19 ISH technique compared with 8 of 19 cases using the immunocytochemical technique. The four negative cases were all controls known to be parvovirus B19 free. All ISH positive cases showed excellent staining with low background regardless of extent of maceration and tissue type. In comparison, sections stained by the immunocytochemical method showed considerable non-specific immunoreactivity in many cases, particularly with severe maceration. Kidney and lung tissues gave the cleanest results. CONCLUSIONS ISH is more effective than the immunocytochemical technique for the detection of human parvovirus B19 in macerated fetal tissue. The lack of detectable background staining with the ISH technique led to easier interpretation suggesting that this technique should be the method of choice for the investigation of parvovirus B19 in macerated postmortem tissues. | So sánh kết quả của kỹ thuật lai tại chỗ không phóng xạ (ISH) với kỹ thuật hóa mô miễn dịch để phát hiện parvovirus B19 ở người trên các đoạn mô bào thai được ngâm tẩm bằng sáp parafin cố định. Các mẫu gan, phổi, thận của 19 bào thai người được khảo sát về parvovirus B19 bằng digoxigenin có kích thước đầy đủ 5,5 kb; đầu dò được phát hiện bằng liên hợp khángdigoxigenin (alkaline phosphatase) và được định dạng bằng NBT/BCIP. Các trường hợp được chọn để xác định độ chính xác và mức độ thoái hóa của parvovirus B19. Kết quả cho thấy 15/19 trường hợp sử dụng kỹ thuật ISH đều có kết quả nhuộm tốt, nền nhuộm thấp, không có biến chứng ở mức độ và loại mô. Các phần nhuộm bằng kỹ thuật hóa mô miễn dịch cho kết quả khả quan, không có biến chứng ở mức độ nặng. Kết quả cho thấy các phần nhuộm bằng kỹ thuật hóa mô miễn dịch cho kết quả khả quan hơn so với kỹ thuật hóa mô miễn dịch cho kết quả chẩn đoán parvovirus B19 ở người. Việc thiếu kỹ thuật nhuộm nền phát hiện được đã dẫn đến cách giải thích dễ dàng hơn cho thấy kỹ thuật này nên được lựa chọn để khảo sát parvovirus B19 trên các mô bào thai sau khi chết. |
AIM To obtain insight into the effects of oestrogen on extracellular matrix (ECM) in the postmenopausal endometrium. METHODS The distribution of the components of the ECM, including collagen types I, III, IV, and VI, and laminin, was investigated in the human postmenopausal endometrium by an indirect immunofluorescence method with specific monoclonal antibodies and a polyclonal antibody. Collagens were also extracted from the endometrial tissues of postmenopausal women who had or had not been treated with oestrogen for three weeks. RESULTS Immunohistochemical studies demonstrated that type I collagen was the predominant interstitial collagen, and that types III and VI collagens were absent or very sparsely distributed in the stroma of the postmenopausal endometrium. However, types I, III, and VI collagens were diffusely localised in the stroma of the postmenopausal endometrium after administration of oestrogen. Even though type IV collagen was not seen in the basement membrane of the endometrial glands in the endometrium of postmenopausal women in the absence of oestrogen treatment, both type IV collagen and laminin were localised exclusively in the basement membrane of the endometrial glands in the postmenopausal endometrium after three weeks of oestrogen treatment. The level of type III collagen relative to that of type I collagen was significantly increased (p < 0.01) in the endometrium of oestrogen treated postmenopausal women compared with non-treated postmenopausal women. CONCLUSIONS Conjugated equine oestrogen might induce changes in the distribution of components and in the composition of the ECM in the endometrium of postmenopausal women. | Nghiên cứu tác dụng của estrogen trên nền ECM ở phụ nữ mãn kinh. |
AIMS To analyse osteoblast function in 153 cases of established osteoporosis as previous work has indicated that osteoporosis is a heterogeneous condition characterised by different patterns of osteoclast and osteoblast dysfunction. METHODS Histomorphometric data from 153 cases with established osteoporosis was used to analyse osteoblast function, using the following parameters: osteoblast number was assessed using the ratio of osteoblast surface to bone surface (ObS:BS); the percentage of active osteoblasts was assessed by using mineralising surface as a proportion of osteoid surface (sLS + dLS/OS); and the efficiency of active osteoblasts was assessed using the ratio of double to total labelled surface (dLS:tLS). The values of each parameter were standardised using age and sex matched control data and a three dimensional matrix was used to identify groups of patients with similar patterns of altered function. RESULTS The largest group (60 cases) showed a reduction in all three parameters, while a small group (9 cases) had normal osteoblast function. However, one group showed reduction in osteoblast number only (23 cases), while another group showed a normal number of osteoblasts but both reduced percentage and efficiency of activity (14 cases). The results also suggest that efficiency of activity falls first and that this eventually leads to exit from the active pool. CONCLUSIONS These results demonstrate the presence of heterogeneity of osteoblast dysfunction in osteoporosis, indicating that the disease is caused by interference at a variety of target sites along the pathway of osteoblast proliferation, differentiation, and activation. Greater understanding of this pathway and of the variety of alterations in the pathway that can occur in osteoporosis may allow more focused therapy for different patient groups identified on the basis of histomorphometric analysis. | Phân tích chức năng của nguyên bào xương ở 153 bệnh nhân loãng xương đã được xác định như nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng loãng xương là một tình trạng không đồng nhất, đặc trưng bởi các kiểu hình khác nhau của nguyên bào xương và rối loạn chức năng của nguyên bào xương. Phương pháp mô tả chức năng của nguyên bào xương từ 153 bệnh nhân loãng xương đã được xác định được sử dụng để phân tích chức năng của nguyên bào xương, sử dụng các thông số sau: Số lượng nguyên bào xương được đánh giá bằng tỷ lệ bề mặt nguyên bào xương so với bề mặt xương (ObS: BS); tỷ lệ phần trăm nguyên bào xương hoạt động được đánh giá bằng cách sử dụng bề mặt khoáng hóa như một tỷ lệ bề mặt xương (sLS + dLS/OS); và hiệu quả của nguyên bào xương hoạt động được đánh giá bằng tỷ lệ gấp đôi so với tổng số bề mặt (dLS: tLS ). Giá trị của mỗi thông số được chuẩn hóa sử dụng dữ liệu đối chứng phù hợp với lứa tuổi và giới tính và một ma trận ba chiều được sử dụng để xác định nhóm bệnh nhân có kiểu hình thay đổi chức năng tương tự. KẾT QUẢ: Nhóm lớn nhất (60 trường hợp) cho thấy cả ba chỉ số đều giảm, trong khi một nhóm nhỏ (9 trường hợp) có chức năng nguyên bào xương bình thường. Tuy nhiên, một nhóm chỉ giảm số lượng nguyên bào xương (23 trường hợp) trong khi một nhóm khác cho thấy số lượng nguyên bào xương bình thường nhưng cả hai đều giảm cả tỷ lệ phần trăm và hiệu quả hoạt động (14 trường hợp ). Kết quả cũng cho thấy hiệu quả hoạt động giảm trước và cuối cùng dẫn đến thoát khỏi nhóm hoạt động. KẾT LUẬN: Những kết quả này cho thấy sự hiện diện của rối loạn chức năng nguyên bào xương trong loãng xương, cho thấy bệnh được gây ra bởi sự can thiệp tại nhiều vị trí đích trên con đường tăng sinh, biệt hóa và kích hoạt nguyên bào xương. Hiểu rõ hơn về con đường này và sự đa dạng của các thay đổi trong con đường có thể xảy ra ở bệnh nhân loãng xương có thể cho phép điều trị tập trung hơn cho các nhóm bệnh nhân khác nhau được xác định trên cơ sở phân tích mô hình. |
AIMS To establish the common pathogens associated with infective vulvovaginitis in young girls in the local population and to determine current management of this condition. METHODS A prospective laboratory based survey was carried out over 19 months. A questionnaire was then sent to local general practitioners and hospital doctors. RESULTS One hundred and six swabs were received during the study period of which 43 (40.5%) yielded organisms recognised as causes of vulvovaginitis. The most common pathogen was group A beta haemolytic streptococcus (19), with Haemophilus influenzae the second most common (11). Candida was isolated on nine occasions. The users' questionnaire had an overall response rate of 52%. Forty one per cent of respondents nominated candida as the most common cause of this condition. Forty six per cent were aware that beta haemolytic streptococci caused juvenile vulvovaginitis, but only four (3.6%) knew that H influenzae was a possible pathogen. The most popular agent for empirical treatment of vulvovaginitis was topical clotrimazole cream, although 24 respondents (22%) prescribed antibiotics that are active against both group A beta haemolytic streptococci and H influenzae. CONCLUSIONS Although H influenzae is the second most common infective cause of juvenile vulvovaginitis in the local population, most doctors managing these patients were unaware of its importance and may not be prescribing appropriate empirical treatment. | Xác định một số tác nhân gây bệnh viêm âm hộ thường gặp và cách xử trí hiện tại. |
AIM To determine whether Helicobacter pylori releases cysteamine into gastric juice as cysteamine is known to be ulcerogenic. METHODS Samples of fasting gastric juice were collected from 22 individuals (four women); 10 subjects were H pylori negative. The presence of infection was confirmed by examination and culture of gastric biopsies. Cysteamine in gastric juice was measured by reversed phase gradient high performance liquid chromatography with a detection limit of 10 mumol/l. RESULTS Cysteamine was not detected in any of the gastric juice samples or in extracts of cultured H pylori. CONCLUSIONS If H pylori produces cysteamine then the amounts produced are insignificant and are unlikely to explain the association between H pylori infection and the development of duodenal ulcer disease. | Xác định sự có mặt của cysteamine trong dịch vị dạ dày do H.pylori gây loét. |
AIMS To clarify a clinical entity of juvenile polyposis of the stomach compared with generalised juvenile gastrointestinal polyposis. METHODS The clinicopathological features of juvenile polyposis dominantly involving the stomach at initial presentation were reviewed in 12 patients (three new patients and nine from the literature). These were compared with 29 cases of generalised juvenile gastrointestinal polyposis. RESULTS There were three men and nine women with juvenile polyposis of the stomach, aged 10-63 years. Hypoproteinaemia was present in nine patients, anaemia in seven, and a family history of intestinal polyposis in seven. No patient presented with a congenital abnormality. During the observation period, two patients developed colonic juvenile polyps. Gastric polyps invariably affected the antrum and extended to the fundus, eventually becoming more numerous, larger, and more pedunculated. Ten patients required gastrectomy for associated malignancy or uncontrolled protein losing gastropathy. Histological examinations of the resected specimens demonstrated neoplastic tissue arising from juvenile polyps in four of the 12 patients. Atypism in these mixed polyps varied from adenoma to well or moderately differentiated adenocarcinoma. CONCLUSIONS Juvenile polyposis of the stomach has malignant potential, and may be a separate entity from generalised juvenile gastrointestinal polyposis. | Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một số đặc điểm lâm sàng của đa pô-líp vị thành niên (Polyposis) dạ dày so với đa pô-líp tiêu hóa (Polyposis) vị thành niên. |
AIMS Errors in reporting International Normalised Ratios (INR) may be corrected by assignment of a System International Sensitivity Index (System ISI). This 57 centre study tests the validity of several procedures for INR correction. METHODS Prothrombin times of eight lyophilised coumarin calibrants, a lyophilised normal pool calibrant, and eight frozen coumarin plasmas were determined at each centre. The calibrants were calibrated using international reference preparations. The eight frozen coumarin plasmas were calibrated in a four centre international exercise. The relations tested were: (a) the logarithm of local prothrombin time against the logarithm of reference prothrombin time; (b) reference INR against local prothrombin time; and (c) logarithm of reference INR against logarithm of local prothrombin time. These methods were analysed by both linear and orthogonal regression. RESULTS All system groups required correction, the mean percentage deviation of the uncorrected data from the calibrated values was 19.0%. There was also considerable variation in INR, with the coefficient of variance (CV) ranging from 11.30 to 17.29%. Correction of INR was possible with all methods (CV reduced to < 7%). However, only when a plot of the logarithm of local prothrombin time against the logarithm of reference prothrombin time was fitted by orthogonal regression, or a plot of logarithm of reference INR against logarithm of local prothrombin time was fitted by either type of regression analysis, did the best fit line through the calibrant plasmas also pass close to the local mean normal prothrombin time. CONCLUSIONS While INR correction may be achieved by all the above methods, that relating log reference INR to log local prothrombin time by linear regression analysis is the simplest to perform. | Lỗi AIMS khi báo cáo Tỷ lệ chuẩn quốc tế (INR) có thể được sửa chữa bằng cách gán Chỉ số độ nhạy quốc tế hệ thống (System ISI ). Nghiên cứu này thực hiện để kiểm tra tính hợp lệ của một số quy trình hiệu chỉnh INR. Các phương pháp hiệu chỉnh METHODS Prothrombin của 8 chất hiệu chỉnh coumarin đông khô, 1 bể hoạt động bình thường được đông khô và 8 plasmas coumarin đông lạnh được xác định ở mỗi trung tâm. Các chất hiệu chỉnh được hiệu chỉnh bằng các chế phẩm tham chiếu quốc tế. Tám plasmas coumarin đông lạnh được hiệu chỉnh trong một bài tập quốc tế tại bốn trung tâm. Các mối tương quan được kiểm tra là: ( a) logarit thời gian prothrombin cục bộ so với logarit thời gian prothrombin tham chiếu; ( b) INR tham chiếu so với thời gian prothrombin cục bộ; và (c) logarit thời gian INR tham chiếu so với logarit thời gian prothrombin cục bộ. Các phương pháp này được phân tích bằng cả hồi quy tuyến tính và trực giao. KẾT QUẢ Tất cả các nhóm hệ thống đều cần hiệu chỉnh, với độ lệch trung bình của các dữ liệu không được hiệu chỉnh so với giá trị hiệu chỉnh là 19,0% và cũng có sự khác biệt đáng kể về INR, với hệ số sai số (CV) từ 11,30 đến 17,29 %. Hiệu chỉnh INR có thể thực hiện được bằng tất cả các phương pháp (CV giảm xuống < 7% ). Tuy nhiên, chỉ khi một đồ thị logarit thời gian prothrombin cục bộ so với logarit thời gian prothrombin tham chiếu được lắp bằng hồi quy trực giao, hoặc một đồ thị logarit thời gian INR tham chiếu so với logarit thời gian prothrombin cục bộ, thì mới có thể hiệu chỉnh đường truyền tốt nhất qua các plasmas hoạt động và đi gần với thời gian prothrombin trung bình cục bộ. KẾT LUẬN: Mặc dù hiệu chỉnh INR có thể thực hiện bằng tất cả các phương pháp trên, nhưng việc liên |
The AromaScan system was used to analyse vaginal swabs from 68 women attending a genitourinary clinic. Using clinical criteria, subjects were assessed for bacterial vaginosis. After training the AromaScan system to recognise patterns generated from four patients with and four patients without bacterial vaginosis, 16 of the 17 (94%) remaining subjects were correctly identified as having the condition. The positive predictive value of the test was 61.5%. These results indicate that the AromaScan technology may be of value as a screening test for bacterial vaginosis. | Hệ thống AromaScan được sử dụng để phân tích mẫu dịch âm đạo của 68 phụ nữ tham gia một phòng khám sinh dục-tiết niệu. Sử dụng các tiêu chí lâm sàng, các đối tượng được đánh giá về nhiễm khuẩn âm đạo. Sau khi đào tạo hệ thống AromaScan để nhận biết các mẫu hình phát sinh từ 4 bệnh nhân có và 4 bệnh nhân không nhiễm khuẩn âm đạo, 16/17 (94% ) đối tượng còn lại được xác định chính xác. Giá trị tiên đoán dương tính của thử nghiệm là 61,5 %. Kết quả này cho thấy |
A hepatocellular carcinoma was resected from a liver allotransplant after the patient's original organ had been removed because of a liver carcinoma. DNA analysis was performed to explore the origin of the carcinoma cells. DNA extracted from the carcinoma tissue, from the carcinoma free liver tissue, and from other cells of the recipient underwent polymerase chain reaction amplification for seven microsatellite systems and the X-Y amelogenin system. The allelic pattern from the carcinoma tissue was identical with that from the patient and differed from the DNA profile of the liver tissue. The result confirmed the assumption that the carcinoma tissue had originated from the patient and not from the donor. | Ung thư biểu mô tế bào gan được cắt bỏ từ mô ghép gan sau khi cơ quan ban đầu của bệnh nhân đã được cắt bỏ do ung thư biểu mô gan. Phân tích DNA được thực hiện để tìm hiểu nguồn gốc của tế bào ung thư biểu mô. DNA chiết xuất từ mô ung thư biểu mô, từ mô gan tự do ung thư và từ các tế bào khác của người nhận được khuếch đại phản ứng chuỗi polymerase cho bảy hệ thống microsatellite và hệ thống amelogenin X-Y. Mô allelic của ung thư biểu mô giống hệt với mô của bệnh nhân |
A rare case of lymphoepithelial cyst of the pancreas is reported. Microscopically the cyst content consisted of keratinous material and the walls were lined by mature squamous epithelium surrounded by dense lymphoid tissue. Immunohistochemistry showed diffuse reactivity for CD20 and CD3 in the lymphoid tissue and uniform positivity for cytokeratins in the squamous epithelium. Although the histogenesis of lymphoepithelial cysts of the pancreas is not understood, awareness of this lesion is helpful in differentiating it from other pancreatic cystic lesions. | U nang biểu mô tế bào tụy là một trường hợp hiếm gặp. Về mặt vi thể, u nang gồm vật liệu keratin và thành u được lót bởi biểu mô vảy trưởng thành bao quanh bởi mô bạch huyết dày đặc. Hóa mô miễn dịch cho thấy khả năng khuếch tán CD20 và CD3 trong mô bạch huyết và sự tương đồng với cytokeratin trong biểu mô vảy. Mặc dù chưa rõ về sự hình thành mô bệnh học của u nang biểu mô tế bào tụy, nhưng việc nhận biết u nang này có thể giúp phân biệt với các tổn thương khác ở tụy. |
This new generation of SRIF analogs offer exciting opportunities to improve hormone hypersecretion in patients with GH- and TSH-secreting pituitary adenomas and possibly even in patients harboring prolactinomas and non-functioning tumors. Future development of novel analogs with improved affinity for both SSTR2 and SSTR5 may have even greater potency to suppress pituitary hormone hypersecretion and block adenoma growth. | Thế hệ tương tự SRIF mới này mang lại cơ hội thú vị để cải thiện tăng tiết hormone ở bệnh nhân u tuyến yên tiết GH và TSH và thậm chí có thể ở cả những bệnh nhân mang prolactinomas và khối u không hoạt động. Sự phát triển trong tương lai của các chất tương tự mới với ái lực cải thiện cho cả SSTR2 và SSTR5 có thể có khả năng ức chế tăng tiết hormone tuyến yên và ngăn chặn sự phát triển của adenoma. |
We have studied the physiological and clinical relevance of measurements of serum total and free IGF-I and IGF-binding protein-3 (IGFBP-3) in 57 previously untreated patients with active acromegaly (32 males, 25 females; mean age 47 years) as compared with sex- and age-matched normal healthy controls. Serum total and free IGF-I, but not IGFBP-3, are suitable biochemical parameters for screening for acromegaly. In acromegalics, the mean 24 h serum GH, total IGF-I and IGFBP-3 levels tend to decrease with age. However, in our series of patients, mean 24 h serum GH levels, IGFBP-3, total and free IGF-I do not correlate with disease activity in acromegaly. | Chúng tôi đã nghiên cứu sự phù hợp về sinh lý và lâm sàng của các chỉ số IGF-I tổng số và tự do, protein liên kết IGF-3 (IGFBP-3) trong huyết thanh ở 57 bệnh nhân to cực hoạt động trước đây (32 nam, 25 nữ; tuổi trung bình 47 tuổi) so với nhóm chứng bình thường về giới và tuổi. IGF-I tổng số và tự do trong huyết thanh, không phải IGFBP-3, là các thông số sinh hóa phù hợp để sàng lọc bệnh to cực |
Elevated growth hormone is a cardinal feature of acromegaly from the biological view point. Growth hormone stimulates IGF-I secretion and that of its major binding protein IGFBP-3. In these circumstances, where hyperinsulinaemia is present, IGFBP-1 levels, which are inversely related to insulin, are suppressed. Failure of suppression of growth hormone after oral glucose (> 2 mU/l (1 microgram/l) is the cardinal biochemical feature of acromegaly. IGF-I values at diagnosis are almost invariably raised. There is some overlap in the value of basal IGFBP-3 between normal subjects and acromegalics. For monitoring purposes, growth hormone values, either basal or during the day are useful. There is overlap in the values of IGF-I and IGFBP-3 between normal subjects and patients on treatment. Prognosis in acromegaly is determined by persistent elevation of growth hormone levels above 5 mU/l (2.5 micrograms/ l). More data are required for the prognostic use of IGF-I. | Hormon tăng trưởng tăng cao là một đặc điểm chính của bệnh to cực theo quan điểm sinh học. Hormon tăng trưởng kích thích tiết IGF-I và ức chế nồng độ protein liên kết chính IGFBP-3 của bệnh. Trong những trường hợp này, khi có tăng sán lá gan lớn, nồng độ IGFBP-1 có liên quan nghịch với insulin bị ức chế. Thất bại trong ức chế Hormon tăng trưởng sau khi uống glucose (> 2 mU/l (1 microgram/l) là đặc điểm sinh hóa chính của bệnh to cực. Giá trị |
At present, there is growing evidence implicating GH and/or IGF-I in the intricate cascade of events connected with the regulation of heart development and hypertrophy. Moreover, GH excess and/or deficiency have been shown to include in their advanced clinical manifestations almost always an impaired cardiac function, which may reduce life expectancy. This finding is related both to a primitive impairment of heart structure and function and to metabolic changes such as hyperlipidemia, increase of body fat and premature atherosclerosis. Patients with childhood or adulthood-onset GH deficiency have a reduced left ventricular mass and ejection fraction and the indexes of left ventricular systolic function remain markedly depressed during exercise. Conversely, in acromegaly the cardiac enlargement, which is disproportionate to the increase in size of other internal body organs, has been a rather uniform finding. The severity of the acromegalic cardiomyopathy was reported to be correlated better with the disease duration than with circulating GH and/or IGF-I levels. Myocardial hypertrophy with interstitial fibrosis, lymphomononuclear infiltration and areas of monocyte necrosis often results in concentric hypertrophy of both ventricles. The treatment of GH deficiency and excess improved cardiac function. Interestingly, based on the evidence that GH increases cardiac mass, recombinant GH was administered to patients with idiopathic dilated cardiomyopathy. It increased the myocardial mass and reduced the size of the left ventricular chamber, resulting in improvement of hemodynamics, myocardial energy metabolism and clinical status. These promising results open new perspectives for the use of GH in heart failure. | Hiện nay, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự tồn tại của GH và/hoặc IGF-I trong chuỗi sự kiện phức tạp liên quan đến sự điều hòa phát triển và phì đại của tim. Hơn nữa, sự dư thừa và/hoặc thiếu hụt GH luôn đi kèm với sự suy giảm chức năng tim, có thể làm giảm tuổi thọ. Phát hiện này liên quan đến sự suy yếu nguyên thủy về cấu trúc và chức năng tim cũng như sự thay đổi về chuyển hóa như tăng lipid máu, tăng mỡ trong cơ thể và xơ vữa động mạch sớm. Bệnh nhân thiếu hụt GH ở trẻ em hoặc trưởng thành có sự giảm khối lượng và phân suất tống máu thất trái và các chỉ số chức năng tâm thu thất trái vẫn bị suy giảm rõ rệt trong quá trình tập luyện. Ngược lại, ở bệnh to cực, sự phì đại của tim, không tương xứng với sự gia tăng kích thước của các cơ quan nội tạng khác, là một phát hiện khá thống nhất. Mức độ nặng của bệnh cơ tim to cực được báo cáo có liên quan tốt hơn với thời gian mắc bệnh so với mức lưu hành GH và/hoặc IGF-I. Sự phì đại của cơ tim kèm theo xơ hóa mô kẽ, thâm nhiễm lympho và các vùng hoại tử bạch cầu đơn nhân thường dẫn đến phì đại đồng tâm của cả hai tâm thất. Việc điều trị thiếu hụt GH và cải thiện chức năng tim. Thú vị là, dựa trên bằng chứng cho thấy GH làm tăng khối lượng tim, GH tái tổ hợp được sử dụng cho bệnh nhân giãn cơ tim vô căn. GH tái tổ hợp làm tăng khối lượng cơ tim và giảm kích thước buồng thất trái, cải thiện huyết động, chuyển hóa năng lượng và tình trạng lâm sàng. Những kết quả đầy hứa hẹn này mở ra những hướng mới trong việc sử dụng GH trong điều trị suy tim. |
Within a period of fourteen years 531 operations for growth hormone (GH)-secreting adenomas were carried out. In this consecutive series 73% of the 396 patients who underwent primary transsphenoidal surgery achieved basal GH levels below 5 micrograms/l, and 58% also had an adequate suppression following an oral glucose tolerance test (OGTT). Slightly less favourable results were found in patients requiring surgery following an initial therapy. However, 41% of 121 such patients, who had either been operated upon previously or who had received external or internal irradiation, nevertheless achieved basal GH levels below 5 micrograms/l after the surgical reintervention. Normal suppression of serum GH during an OGTT was observed in 23% of these patients. The overall complication rate was low and tumour recurrences were very rare. To facilitate easier tumour removal, octreotide was preoperatively administered in 53 patients undergoing primary surgery of large adenomas. Recurrences were documented in a few exceptional cases. These data support our previous experience that once a normal suppression of growth hormone has been documented following surgery of pituitary adenomas, the long-term outcome is favourable. | Trong 14 năm, 531 ca phẫu thuật u tuyến yên tiết hormone tăng trưởng đã được thực hiện. Trong số 396 bệnh nhân được phẫu thuật lần đầu, 73% có mức GH cơ sở dưới 5 microgam/l, 58% có sự ức chế đầy đủ sau khi uống test OGTT. Kết quả có ít thuận lợi hơn ở những bệnh nhân cần phẫu thuật sau điều trị ban đầu. Tuy nhiên, 41% trong số 121 bệnh nhân đã được phẫu thuật hoặc đã được chiếu xạ ngoài hoặc trong khi phẫu thuật vẫn có mức GH cơ sở dưới 5 microgam/l sau can thiệp lại. 23% bệnh nhân có mức GH bình thường trong quá trình OGTT. Tỷ lệ biến chứng chung thấp và rất hiếm khi tái phát. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cắt bỏ u, trước phẫu thuật 53 bệnh nhân được sử dụng thuốc octreotide. Tỷ lệ tái phát đã được ghi nhận ở một số trường hợp đặc biệt. Những số liệu này đã củng cố kinh nghiệm trước đây của chúng ta rằng một khi đã có sự ức chế hormone tăng trưởng bình thường sau phẫu thuật u tuyến yên thì kết quả lâu dài là thuận lợi. |
The extracellular calmodulin-binding proteins (CaMBPs) were investigated in body fluids of animals by using the biotinylated calmodulin gel overlay method. Four major CaMBPs with molecular masses of 24, 31.5, 44/45 and 94 kDa were detected in serum, two of 24 and 63 kDa in bovine milk and three of 14, 24 and 52 kDa in human saliva. It suggested that extracellular CaMBPs exist commonly in body fluids of animals, and this result may provide a new clue for understanding the role of extracellular calmodulin. | Các protein liên kết với peaceodulin ngoại bào (CaMBPs) được khảo sát trong dịch cơ thể động vật bằng phương pháp phủ gel calmodulin biotinyl hóa. Bốn CaMBPs chính có khối lượng phân tử 24,31,5,44/45 và 94 kDa được phát hiện trong huyết thanh, hai trong số 24 và 63 kDa trong sữa bò và ba trong số 14,24 và 52 kDa trong nước bọt của người. Kết quả này cho thấy CaMBPs ngoại bào |
The present study was undertaken to determine the effect of GH administration on GH and IGF-I receptors in skeletal muscle compared with liver in growing pigs. Plasma IGF-I and GH-binding protein (GHBP) levels were also determined. Twelve Large White pigs (castrated males) were treated daily with 100 micrograms pituitary porcine GH (pGH) per kg body weight or vehicle for 41 days intramuscularly. Relative to controls, pGH administration increased plasma IGF-I concentrations by 3.3-fold. Administration of pGH had no effect on plasma GHBP levels. In liver, 125I-labelled bovine GH (bGH)-specific binding (P < 0.05) and GH receptor (GHR) mRNA levels (P < 0.05) were higher in pGH-treated than in control pigs. In longissimus dorsi (LD), 125I-labelled bGH specific binding did not differ significantly between the two groups while GHR mRNA levels (P < 0.05) were lower in pGH-treated than in control pigs. Administration of pGH had no effect on 125I-labelled bGH-specific binding and GHR mRNA levels in trapezius (TR). 125I-Labelled IGF-I-specific binding in liver was unaffected by pGH administration. Similarly, in liver, LD and TR, IGF-I receptor mRNA levels were not different between pGH-treated and control animals. It can be concluded that (1) GH binding and IGF-I receptor mRNA are not affected by GH in skeletal muscle, (2) GH influences GHR in a tissue-specific manner and (3) hepatic GHR and GHBP levels are not co-regulated. | Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của việc sử dụng pGH lên các thụ thể GH và IGF-I trong cơ xương so với gan ở lợn đang tăng trưởng. Protein liên kết IGF-I và GHBP (GHBP) trong huyết tương cũng được xác định. 12 con lợn trắng lớn (con đực đã thiến) được điều trị tiêm bắp mỗi ngày 100 microgam GH (pGH) tuyến yên (pGH) / kg trọng lượng cơ thể hoặc phương tiện vận chuyển trong 41 ngày. So với nhóm chứng, pGH làm tăng nồng độ IGF-I trong huyết tương gấp 3,3 lần. Sử dụng pGH không ảnh hưởng đến nồng độ GHBP trong huyết tương. Ở gan, 125I gắn kết đặc hiệu với bGH (P < 0,05) và mRNA thụ thể (GHR) ( P < 0,05) ở bò cao hơn ở lợn bình thường. Ở cá thể giun kéo dài (LD) 125I gắn kết đặc hiệu với bGH (P < 0,05) và ở lợn bình thường (TR ). 125I gắn kết đặc hiệu với IGF-I ở gan không bị ảnh hưởng bởi pGH. Tương tự, ở gan, LD và TR, nồng độ mRNA của thụ thể IGF-I không khác biệt giữa động vật được điều trị pGH và động vật bình thường. Có thể kết luận rằng (1) sự gắn kết của GH và mRNA của thụ thể IGF-I không bị ảnh hưởng bởi GH ở cơ xương, (2) sự ảnh hưởng của GH lên GHR theo cách đặc hiệu của mô và (3) sự ảnh hưởng của GHR và GHBP ở gan không được điều hòa cùng nhau. |
The regulation of mouse cellular retinoic acid-binding protein-I (CRABP-I) gene expression by the retinoids and thyroid hormones was examined, by using a beta-galactosidase (lacZ) reporter gene and a CRABP-I specific antibody, in transgenic mouse embryos and a mouse embryonal carcinoma cell line P19. The CRABP-lacZ reporter gene expression recapitulated the expression pattern of endogenous CRABP-I in the developing central nervous system. In mid-gestation mouse embryos the expression of both the transgene and the endogenous protein was elevated under the condition of hypovitaminosis A, suggesting that depletion of retinoic acid (RA) induced CRABP-I expression in embryos. Consistently, this reporter was suppressed by RA in P19 cells. In co-transfection experiments it was demonstrated that the expression of RAR beta, RAR gamma or RXR alpha suppressed this reporter expression. In experiments designed to alter the thyroid hormone status in animals it was demonstrated that both the reporter gene and the endogenous CRABP-I expression were reduced by triiodothyronine injection and were elevated in a hypothyroidic condition induced by feeding with iodine-deficient diet supplemented with 6-propyl-2-thiouracil. In co-transfection experiments it was also demonstrated that the expression of T3R beta suppressed the reporter expression in P19 cells. It was concluded that RA had a suppressive effect on CRABP-I gene expression in embryos and P19 cells and the effect could be mediated through RAR beta, RAR gamma or RXR alpha. A role of thyroid hormones in CRABP-I gene expression and vitamin A metabolism in animals is discussed. | Sự điều hòa biểu hiện gen protein liên kết acid retinoic (CRABP-I) của tế bào chuột bằng retinoid và hormone tuyến giáp đã được khảo sát bằng cách sử dụng gen phóng xạ beta-galactosidase (lacZ) và kháng thể đặc hiệu CRABP-I ở phôi chuột biến đổi gen và dòng tế bào ung thư biểu mô phôi chuột P19. Biểu hiện gen phóng xạ CRABP-lacZ đã tóm tắt lại biểu hiện của CRABP-I nội sinh trong hệ thần kinh trung ương đang phát triển. Ở phôi chuột mang thai giữa kỳ, sự biểu hiện của cả gen chuyển gen và protein nội sinh đều tăng cao trong điều kiện thiếu vitamin A, cho thấy sự suy giảm của acid retinoic (RA) đã gây ra biểu hiện CRABP-I ở phôi. Sự biểu hiện này đã bị ức chế một cách nhất quán bởi RA trong tế bào P19. Trong các thí nghiệm đồng biến đổi gen, đã chứng minh rằng sự biểu hiện của gen phóng xạ beta, RAR gamma hoặc RXR alpha đã ức chế sự biểu hiện phóng xạ này. Trong các thí nghiệm được thiết kế để thay đổi tình trạng hormone tuyến giáp ở động vật, đã chứng minh rằng cả gen phóng xạ và biểu hiện CRABP-I nội sinh đều bị giảm khi tiêm triiodothyronine và tăng cao trong điều kiện suy giáp gây ra bởi chế độ ăn thiếu iốt có bổ sung 6-propyl-2-thiouracil. Trong các thí nghiệm đồng biến đổi gen, đã chứng minh rằng sự biểu hiện của gen T3R beta ức chế sự biểu hiện phóng xạ ở các tế bào P19. Kết luận rằng RA có tác dụng ức chế sự biểu hiện gen CRABP-I ở phôi và tế bào P19 và tác dụng này có thể được trung gian thông qua RAR beta, RAR gamma hoặc RXR alpha. Vai trò của hormone tuyến giáp trong biểu hiện gen CRABP-I và chuyển hóa vitamin A ở động vật được thảo luận. |
The ontogeny of the IGF endocrine system was investigated in 15 young lambs before and after weaning at 62 days of age. Before weaning, plasma IGF-I concentrations were higher in rams than ewes, and plasma concentrations of IGF-II and IGF-binding protein-3 (IGFBP-3) also tended to be higher in rams than in ewes. Feed intake of ewes and rams was restricted after weaning to remove sex differences in feed intake. Plasma concentrations of IGF-I and IGFBP-3 did not differ between rams and ewes at 100 days of age, but plasma IGF-II was higher in rams than in ewes at this time. Since circulating concentrations of GH were higher in rams than in ewes at 100 days of age, this implies that the restricted feed intake blocked the IGF-I and IGFBP-3 responses to GH. We conclude that sex differences in circulating IGF-I and IGFBP-3 concentrations in the growing lamb alter with age, and are not present when nutrition is restricted. | Sự phát triển của hệ nội tiết IGF được khảo sát ở 15 con cừu non trước và sau cai sữa ở 62 ngày tuổi. Trước cai sữa, nồng độ IGF-I huyết tương ở cừu đực cao hơn cừu cái và nồng độ IGF-II và protein liên kết IGF-3 (IGFBP-3) trong huyết tương cũng cao hơn ở cừu đực so với cừu cái. Lượng thức ăn của cừu cái và cừu đực bị hạn chế sau cai sữa để loại bỏ sự khác biệt về giới tính trong lượng thức ăn. Nồng độ IGF-I và IGFBP-3 trong huyết tương không khác biệt giữa cừu đực và cừu cái ở 100 ngày tuổi, nhưng IGF-II ở cừu đực cao hơn cừu cái tại thời điểm này. Vì nồng độ GH lưu hành ở cừu đực cao hơn cừu cái ở 100 ngày tuổi, điều này ngụ ý rằng lượng thức ăn hạn chế đã ngăn chặn phản ứng IGF-I và IGFBP-3 đối với GH. Chúng tôi kết luận rằng sự khác biệt về giới tính trong nồng độ IGF-I và IGFBP-3 lưu hành ở cừu non tăng trưởng thay đổi theo tuổi và không xuất hiện khi dinh dưỡng bị hạn chế. |
alpha 2-Macroglobulin (alpha 2-M), a major serum glycoprotein, has been implicated as a low-affinity binding protein for inhibin and activin. In serum, alpha 2-M exists as two major species, a native form that is abundant and stable, and a transformed ('fast') species that is rapidly cleared from the circulation via alpha 2-M receptors. In this study inhibin, activin and their major binding protein follistatin were investigated for their ability to bind to the native or transformed species of purified human alpha 2-M. Using native PAGE and size exclusion chromatography, radiolabelled inhibin, activin and follistatin bound to the transformed alpha 2-M. Inhibin and follistatin did not bind significantly to native alpha 2-M, whereas activin was able to bind to the native species but with a lower capacity compared with that to transformed alpha 2-M. Under reducing conditions, binding of these hormones to alpha 2-M was abolished. These findings implicate alpha 2-M as a mechanism whereby inhibin, activin and follistatin may be removed from the circulation through alpha 2-M receptors, but also whereby activin can be maintained in the circulation through its ability to bind to native alpha 2-M. | Alpha 2-Macroglobulin (alpha 2-M) là một glycoprotein chính trong huyết thanh, được xem là protein liên kết với inhibin và activin có ái lực thấp. Trong huyết thanh, alpha 2-M tồn tại như hai loài chính, một dạng tự nhiên phong phú và ổn định, và một dạng biến nạp (nhanh) nhanh chóng bị loại khỏi lưu thông qua thụ thể alpha 2-M. Trong nghiên cứu này inhibin, activin và protein liên kết chính follistatin được nghiên cứu về khả năng liên kết với loài tự nhiên hoặc biến nạp của alpha 2-M tinh khiết ở người. Sử dụng sắc ký PAGE tự nhiên và sắc ký loại trừ kích thước, phóng xạ inhibin, activin và follistatin liên kết với alpha 2-M biến nạp. Các chất ức chế và follistatin không liên kết đáng kể với alpha 2-M tự nhiên, trong khi activin có khả năng liên kết với loài tự nhiên nhưng với công suất thấp hơn so với alpha 2-M biến nạp. Trong điều kiện giảm, sự liên kết của các hormone này với alpha 2-M bị loại bỏ. Những phát hiện này cho thấy alpha 2-M là một cơ chế giúp cho inhibin, activin và follistatin có thể bị loại bỏ khỏi lưu thông qua thụ thể alpha 2-M, nhưng cũng nhờ đó activin có thể được duy trì trong lưu thông thông qua khả năng liên kết với alpha 2-M tự nhiên. |
ACTH(1-39), and several shorter N- and/or C-terminally truncated fragments of ACTH, with and without N-terminal acetylation and/or C-terminal amidation, were tested for binding on a single eukaryotic cell line transiently and independently expressing the melanocortin MC1, MC3, MC4 and MC5 receptors. The results show that none of these MC receptors has specific binding epitopes for the ACTH peptides beyond the amino acid sequence of alpha-MSH, when tested for their ability to compete with 125I-labelled [Nle4,D-Phe7]alpha-MSH and ACTH. The MC3 receptor favours the natural desacetylated N-terminal end of the ACTH peptides, and it has generally more than 10-fold higher affinity for the ACTH peptides than the MC4 receptor. Considering earlier anatomical localisation data, together with the present data, we suggest that the MC3 receptor is the most likely candidate of the MC receptors to mediate the short-loop negative feedback release of corticotrophin-releasing factor (CRF) caused by ACTH/MSH peptides. | Các đoạn cắt ngắn ACTH (1-39) và một số đoạn cắt ngắn N-và/hoặc C-của ACTH, có và không có acetyl hoá đầu cuối N và/hoặc amid hoá đầu cuối C, đã được thử nghiệm liên kết trên một dòng tế bào nhân chuẩn đơn lẻ thoáng qua và biểu hiện độc lập các thụ thể melanocortin MC1, MC3, MC4 và MC5. Kết quả cho thấy không có thụ thể MC nào có epitope liên kết đặc hiệu cho các peptide ACT |
We undertook the present studies to determine if clodronate-containing liposomes have direct effects on Leydig cells. Macrophages and Leydig cells were isolated and maintained separately in culture. Following treatment with clodronate-containing liposomes, macrophages were killed in a dose-response fashion over a range of 5-200 microliters liposomes. By comparison, a 500 microliters dose was required to kill Leydig cells, but this was not dependent upon clodronate since liposomes containing buffer elicited an identical response. The concentration of testosterone in medium from Leydig cells treated with clodronate-containing liposomes was significantly reduced compared with untreated cells. However, we subsequently found that liposomes can adsorb testosterone. Therefore, testosterone production was determined at various times following removal of liposomes from Leydig cells, thereby circumventing this complication. It was found that testosterone production was not altered by liposomes under these conditions. Finally, free clodronate had no effect on testosterone production, even at doses representing the amount present within the 500 microliters dose of liposomes. In summary, clodronate-containing liposomes killed testicular macrophages at a far smaller dose than required to kill Leydig cells. Most importantly, neither liposomes no free clodronate had a direct effect on testosterone production. Thus, clodronate-containing liposomes represent a valuable tool to study Leydig cell-macrophage interactions. | Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định liposome chứa clodronate có ảnh hưởng trực tiếp đến tế bào Leydig hay không. Đại thực bào và tế bào Leydig được phân lập và duy trì riêng biệt trong nuôi cấy. Sau khi điều trị bằng liposome chứa clodronate, đại thực bào được tiêu diệt theo liều lượng đáp ứng trong khoảng 5-200 microlit liposome. Để so sánh, cần một liều 500 microlit để tiêu diệt tế bào Leydig, nhưng điều này không phụ thuộc vào clodronate vì liposome chứa chất đệm tạo ra phản ứng giống hệt nhau. Nồng độ testosterone trong môi trường từ tế bào Leydig được điều trị bằng liposome chứa clodronate giảm đáng kể so với các tế bào không được điều trị. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi phát hiện liposome có thể hấp phụ testosterone. Do đó, việc sản xuất testosterone không bị thay đổi bởi liposome trong những điều kiện này. Cuối cùng, clodronate tự do không ảnh hưởng đến sản xuất testosterone, ngay cả ở liều lượng bằng với liều liposome 500 microlit. Tóm lại, liposome chứa clodronate không có tác dụng trực tiếp đến sản xuất testosterone. Quan trọng nhất, cả liposome và đại thực bào tinh hoàn đều không có clodronate tự do có tác dụng trực tiếp đến sản xuất testosterone. Do đó, liposome chứa clodronate là một công cụ có giá trị để nghiên cứu tương tác tế bào Leydig-đại thực bào. |
Growth hormone (GH) increases the amount of insulin-like growth factor-I (IGF-I) mRNA in rat skeletal muscle, but this effect has not been demonstrated in human muscle. An autocrine effect of IGF-I produced in muscle may be an important determinant of the increased muscle mass associated with GH therapy. Thus, we examined IGF-I mRNA abundance in skeletal muscle biopsy samples taken 10 h after a subcutaneous injection of GH (0.03 mg/kg, n = 6) or placebo (normal saline, n = 5) in men and women over 60 years of age. Relative tissue concentrations of IGF-I mRNA were evaluated with a competitive reverse transcriptase-polymerase chain reaction assay. Mean plasma IGF-I concentrations rose steadily after the GH injection, and were 74% higher in the GH group than in the control group at the time of the muscle biopsies. There was no consistent difference between the GH and control groups in muscle IGF-I mRNA abundance when expressed in relation to total RNA or polyadenylated RNA. However, one GH-treated subject had three times more IGF-I mRNA, relative to polyadenylated RNA, than the average control subject. There was no effect of GH on levels of mRNAs encoding the most abundant myofibrillar proteins, actin and myosin heavy chain. These data do not support the hypothesis that increased IGF-I mRNA abundance in skeletal muscle is required for the anabolic effect of GH in people over 60 years of age. | Hormon tăng trưởng (GH) làm tăng lượng mRNA giống Insulin-I (IGF-I) trong cơ xương chuột, nhưng hiệu quả này chưa được chứng minh ở cơ người. Tác dụng tự tiết của IGF-I được tạo ra trong cơ có thể là yếu tố quyết định sự gia tăng khối lượng cơ liên quan đến liệu pháp GH. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành khảo sát sự phong phú của IGF-I mRNA trong mẫu mô sinh thiết cơ xương được lấy trong 10 giờ sau tiêm dưới da IGF (0,03 mg/kg, n = 6) hoặc giả dược (nước muối thường, n = 5) ở nam và nữ trên 60 tuổi. Nồng độ IGF-I mRNA tương đối trong mô được đánh giá bằng phản ứng chuỗi trùng hợp sao chép ngược cạnh tranh. Nồng độ IGF-I trung bình trong huyết tương tăng đều sau tiêm GH, cao hơn 74% ở nhóm GH so với nhóm chứng tại thời điểm sinh thiết cơ. Không có sự khác biệt nhất quán giữa nồng độ IGF-I mRNA của nhóm chứng và nhóm chứng khi biểu hiện với RNA tổng số hoặc RNA polyadenyl. Tuy nhiên, một đối tượng điều trị bằng IGF có nồng độ IGF-I mRNA cao gấp 3 lần so với RNA polyadenylat so với nhóm chứng. Không có ảnh hưởng của GH lên nồng độ mRNA mã hóa các protein myofibrillar, actin và myosin chuỗi nặng. Những số liệu này không ủng hộ giả thuyết cho rằng sự gia tăng nồng độ IGF-I mRNA trong cơ xương là cần thiết cho hiệu quả đồng hóa của GH ở người trên 60 tuổi. |
Three forms of gonadotropin-releasing hormone (GnRH) are isolated and identified here by chemical sequence analysis for one species of tilapia, Oreochromis niloticus, and by HPLC elution position for a second species of tilapia, O. mossambicus. Of the three GnRH forms in O. mossambicus, chicken GnRH-II (cGnRH-II) and sea bream GnRH (sbGnRH) are present in greater abundance in the brain and pituitary than salmon GnRH (sGnRH). These three native forms of GnRH are shown to stimulate the release of prolactin (PRL) from the rostral pars distalis (RPD) of the pituitary of O. mossambicus in vitro with the following order of potency: cGnRH-II > sGnRH > sbGnRH. In addition, a mammalian GnRH analog stimulated the release of PRL from the pituitary RPD incubated in either iso-osmotic (320 mosmol/l) or hyperosmotic (355 mosmol/l) medium, the latter normally inhibiting PRL release. The response of the pituitary RPD to GnRH was augmented by co-incubation with testosterone or 17 beta-estradiol. The effects of GnRH on PRL release appear to be direct effects on PRL cells because the RPD of tilapia contains a nearly homogeneous mass of PRL cells without intermixing of gonadotrophs. Our data suggest that GnRH plays a broad role in fish, depending on the species, by affecting not only gonadotropins and growth hormone, but also PRL. | GnRH giải phóng gonadotropin (GnRH) được phân lập và xác định ở đây bằng phân tích trình tự hóa học đối với một loài cá rô phi, Oreochromis niloticus, và bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) đối với một loài cá rô phi thứ hai, O. mossambicus. GnRH ở gà (O. mossambicus) có nhiều trong não và tuyến yên hơn so với GnRH ở cá hồi (sGnRH ). GnRH ở động vật có vú được chứng minh là có tác dụng kích thích giải phóng prolactin (PRL) từ phân đoạn rìa (RPD) của tuyến yên (O. mossambicus) in vitro với hiệu lực theo thứ tự sau: cGnRH-II > sGnRH > sbGnRH. Ngoài ra, GnRH tương tự ở động vật có vú có tác dụng kích thích giải phóng PRL từ môi trường iso-osmotic (320 mosmol/l) hoặc hyperosmotic (355 mosmol/l) thường ức chế sự giải phóng PRL. Phản ứng của RPD tuyến yên với GnRH được tăng cường bằng cách nuôi cấy đồng thời với testosterone hoặc 17 beta-estradiol. Tác dụng của GnRH lên giải phóng PRL dường như là tác động trực tiếp lên tế bào PRL bởi vì RPD của cá rô phi chứa khối lượng tế bào PRL gần như đồng nhất mà không có sự pha trộn của các tuyến sinh dục. Dữ liệu của chúng tôi cho thấy GnRH không chỉ ảnh hưởng đến các gonadotropin và hormone tăng trưởng mà còn ảnh hưởng đến PRL. |
The effects of altered thyroid states on lipid peroxidation, antioxidant capacity, and susceptibility to oxidative stress of rat tissues were examined. Hypothyroidism was induced by administering methimazole in drinking water for 15 days. Hyperthyroidism was elicited by a 10-day treatment of hypothyroid rats with tri-iodothyronine (10 micrograms/100 g body weight). In tissues of hypothyroid rats the lipid peroxidation was not modified, whereas in hyperthyroid rats lipid peroxidation increased in liver and heart but not in skeletal muscle. The glutathione peroxidase activity increased significantly in heart and muscle of hypothyroid rats and in muscle of hyperthyroid rats. The glutathione reductase activity was not modified in tissues of hypothyroid and hyperthyroid rats. In both rat groups the whole antioxidant capacity of tissues decreased, but significantly only in liver and heart. The results obtained studying the response to oxidative stress in vitro indicated that the susceptibility to oxidative challenge was increased in all tissues of hyperthyroid rats and in heart and muscle of hypothyroid animals. These results are explainable in terms of tissue variations in haemoprotein content and/or of antioxidant capacity. Since it has been reported that hypothyroidism offers in vivo protection against free radical damage, we suggest that such an effect could be due to greater effectiveness of cellular defence systems different from antioxidant ones. | Nghiên cứu đã khảo sát ảnh hưởng của sự thay đổi trạng thái tuyến giáp lên sự oxy hóa peroxid hóa lipid, khả năng chống oxy hóa và tính nhạy cảm với stress oxy hóa của mô chuột cống trắng. Gây suy giáp bằng cách cho uống methimazole trong 15 ngày. Gây suy giáp bằng cách cho chuột cống trắng uống tri-iodothyronine trong 10 ngày (10 microgam/100 g trọng lượng cơ thể ). Hoạt tính peroxid hóa lipid trên mô của chuột cống trắng không thay đổi, trong khi đó ở chuột cống trắng hoạt tính peroxid hóa lipid tăng lên ở gan và tim chứ không tăng lên ở cơ xương. Hoạt tính của glutathion peroxidase tăng lên đáng kể ở tim và cơ của chuột cống trắng và cơ của chuột tăng sản. Hoạt tính reductase của glutathion không thay đổi trên mô của chuột cống trắng và chuột cống trắng. Ở cả hai nhóm, toàn bộ khả năng chống oxy hóa của mô giảm, chỉ có ở gan và tim. Kết quả nghiên cứu đáp ứng với stress oxy hóa in vitro cho thấy, tính nhạy cảm với thách thức oxy hóa tăng lên ở tất cả các mô của chuột cống trắng và ở tim và cơ của động vật suy giáp. Những kết quả này có thể giải thích được dưới dạng sự biến đổi hàm lượng haemoprotein trong mô và/hoặc khả năng chống oxy hóa. Vì đã có báo cáo cho rằng suy giáp có khả năng bảo vệ trong cơ thể chống lại các tổn thương gốc tự do, chúng tôi cho rằng hiệu quả này có thể là do sự khác biệt về hệ thống bảo vệ tế bào so với hệ thống chống oxy hóa. |
Postmenopausal bone loss is primarily due to estrogen deficiency. Recent clinical observation demonstrate that GH increases bone mass in GH deficient patients. The present study investigates whether estrogen regulates GH action and GH receptor expression in osteoblasts. 17 beta-estradiol or GH added to the culture medium as single substances did not influence rat osteosarcoma cell proliferation nor human osteoblast-like (hOB) cell proliferation. However, together they synergistically induced osteoblast proliferation (rat osteosarcoma cells 160.1 +/- 15.5% of control cells; human osteoblast-like cells 159.6 +/- 5.1% of control cells). 17 beta-estradiol stimulated 125I-GH binding and GH receptor (GHR) mRNA levels in rat osteosarcoma cells. The stimulatory effect of estradiol was time dependent, reaching a peak after 8 h of incubation with 17 beta-estradiol (binding 216.9 +/- 27.8% and mRNA 374.6 +/- 30.8% of control). The finding that estradiol stimulated 125I-GH binding was confirmed in human osteoblast-like cells. In these cells, 17 beta-estradiol (10(-12) M) increased 125I-GH binding to 203.8 +/- 3.6% of control levels. We conclude that estrogen stimulates GH activity as well as GH binding and GHR mRNA levels in osteoblasts. These findings indicate that estrogen potentiates the effect of GH at the receptor level. | Mất xương sau mãn kinh chủ yếu do thiếu hụt estrogen. Các quan sát lâm sàng gần đây cho thấy GH làm tăng khối lượng xương ở bệnh nhân thiếu hụt GH. Nghiên cứu này khảo sát liệu estrogen có điều chỉnh hoạt động GH và biểu hiện thụ thể GH ở nguyên bào xương hay không. 17 beta-estradiol hoặc GH được thêm vào môi trường nuôi cấy như các chất đơn lẻ không ảnh hưởng đến sự tăng sinh tế bào xương và sự tăng sinh tế bào giống xương (hOB) ở chuột. Tuy nhiên, chúng cùng nhau gây ra sự tăng sinh nguyên bào xương (tế bào xương của chuột 160,1 +/- 15,5% so với tế bào đối chứng; tế bào giống xương của người 159,6 +/- 5,1% so với tế bào đối chứng). 17 beta-estradiol kích thích liên kết 125I-GH và mRNA (GHR) mRNA ở tế bào xương của chuột. Tác dụng kích thích của estradiol phụ thuộc vào thời gian, đạt đỉnh điểm sau 8 giờ nuôi cấy với 17 beta-estradiol (liên kết 216,9 +/- 27,8% và mRNA 374,6 +/- 30,8% so với đối chứng). Kết quả cho thấy estradiol kích thích liên kết 125I-GH đã được xác nhận ở tế bào giống xương của người. Trong các tế bào này, 17 beta-estradiol (10 (- 12) M) làm tăng 125I-GH liên kết lên 203,8 +/- 3,6% so với đối chứng. Chúng tôi kết luận rằng estrogen kích thích hoạt động GH cũng như liên kết GH và mRNA GHR ở nguyên bào xương. Những phát hiện này cho thấy estrogen làm tăng tác dụng của GH ở mức độ thụ thể. |
Treatment of mice with IGF-I stimulates T and B cell development. We showed that overexpression of IGF-II in transgenic FVB/N mice only stimulated T cell development. In the present study, we further addressed the in vivo effects of IGF-II in the absence of IGF-I to get more insight into the potential abilities of IGF-II to influence T and B cell development. To this end, we studied lymphocyte development in IGF-II transgenic Snell dwarf mice that are prolactin, GH and thyroid-stimulating hormone deficient and as a consequence show low serum IGF-I levels. We showed that T cell development was stimulated to the same extent as in IGF-II transgenic FVB/N mice. Furthermore, IGF-II increased the number of nucleated bone marrow cells and the number of immature B cells without having an effect on the number of mature B cells in spleen and bone marrow. Our data show that IGF-II has preferential effects on T cell development compared with B development, and that these preferential effects also occur in the absence of measurable IGF-I levels. | Điều trị chuột bằng IGF-I có tác dụng kích thích sự phát triển tế bào T và B. Chúng tôi đã chứng minh rằng sự biểu hiện quá mức của IGF-II ở chuột FVB/N chuyển gen chỉ kích thích sự phát triển tế bào T. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu tác dụng trong cơ thể của IGF-II khi không có IGF-I để có thêm hiểu biết về khả năng ảnh hưởng của IGF-II đến sự phát triển tế bào T và B. Để đạt được mục đích này, chúng tôi đã nghiên cứu sự phát triển tế bào lympho ở chuột lùn Snell chuyển gen IGF-II là prolactin, GH và hormone kích thích tuyến giáp và kết quả là nồng độ IGF-I huyết thanh thấp. Chúng tôi đã chứng minh rằng sự phát triển tế bào T được kích thích đến mức tương đương với chuột FVB/N chuyển gen IGF-II. Hơn nữa, IGF-II làm tăng số lượng tế bào tủy xương có nhân và số lượng tế bào B chưa trưởng thành mà không ảnh hưởng đến số lượng tế bào B trưởng thành ở lá lách và tủy xương. Dữ liệu của chúng tôi cho thấy IGF-II có tác dụng ưu tiên đối với sự phát triển tế bào T so với sự phát triển tế bào B và những tác dụng ưu tiên này cũng xảy ra khi không có mức IGF-I có thể đo lường được. |
This in vitro study on MCF-7 and ZR-75-1 breast cancer cells showed that the antiproliferative action of glucocorticosteroids (GCS) on breast cancer cells is weakened by a high oxidative activity of 11 beta-hydroxysteroid dehydrogenase (11 beta-HSD; EC 1.1.1.146): both endogenic as well as synthetic GCS (dexamethasone, prednisolone) were metabolised to hormonally inactive 11-dehydro metabolites. This enzymatic shield protected the breast cancer cells from the antiproliferative action of GCS. Continuous exposure of breast cancer cells to GCS resulted in enhanced 11 beta-HSD activity. The intracellular GCS concentration was further reduced by this feedback and thus the antiproliferative effect was additionally weakened. These mechanisms of GCS deactivation could be influenced by inhibiting 11 beta-HSD with the liquorice compound glycyrrhetinic acid (GLY). In MCF-7 and ZR-75-1 cultures the antiproliferative effect of GCS was significantly increased by GLY. | Nghiên cứu in vitro trên tế bào ung thư vú MCF-7 và ZR-75-1 cho thấy tác dụng chống tăng sinh của glucocorticosteroid (GCS) trên tế bào ung thư vú bị suy yếu do hoạt tính oxy hóa cao của 11 beta-hydroxysteroid dehydrogenase (11 beta-HSD; EC 1.1.1.146) : cả GCS nội sinh cũng như tổng hợp (dexamethasone, prednisolone) đều được chuyển hóa thành các chất |
In the past, the detection of fetal damage has tended to be restricted to the naked eye identification of major malformations, with the period of organ maturation being relatively neglected. Increasingly, however, unbiased design-based stereology is being used in developmental toxicological studies. In the field of intrauterine growth retardation, such methods are capable of providing new insights into fetal vulnerability during critical periods in organogenesis, with consequences for both post-natal and adult disease. | Trước đây, việc phát hiện các tổn thương thai nhi có xu hướng bị hạn chế ở việc xác định dị tật lớn bằng mắt thường, trong đó thời kỳ trưởng thành của cơ quan tương đối bị bỏ qua. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều phương pháp lập thể dựa trên thiết kế không thiên vị đang được sử dụng trong các nghiên cứu độc tính học phát triển. Trong lĩnh vực chậm tăng trưởng trong tử cung, các phương pháp này có khả năng cung cấp những hiểu biết mới về tính dễ bị tổn thương của thai nhi trong các giai đoạn quan trọng trong quá trình hình thành cơ quan, với hậu quả đối |
This paper presents the conclusions of a workshop entitled 'Impact of Molecular Genetics on the Classification of Renal Cell Tumours', which was held in Heidelberg in October 1996. The focus on 'renal cell tumours' excludes any discussion of Wilms' tumour and its variants, or of tumours metastatic to the kidneys. The proposed classification subdivides renal cell tumours into benign and malignant parenchymal neoplasms and, where possible, limits each subcategory to the most commonly documented genetic abnormalities. Benign tumours are subclassified into metanephric adenoma and adenofibroma, papillary renal cell adenoma, and renal oncocytoma. Malignant tumours are subclassified into common or conventional renal cell carcinoma; papillary renal cell carcinoma; chromophobe renal cell carcinoma; collecting duct carcinoma, with medullary carcinoma of the kidney; and renal cell carcinoma, unclassified. This classification is based on current genetic knowledge, correlates with recognizable histological findings, and is applicable to routine diagnostic practice. | Nghiên cứu này trình bày kết luận của hội thảo " Tác động của di truyền học phân tử đối với việc phân loại các khối u tế bào thận " tổ chức tại Heidelberg tháng 10 năm 1996. Trọng tâm nghiên cứu " khối u tế bào thận " không bao gồm bất kỳ thảo luận nào về khối u Wilms và các biến thể của nó, hoặc về các khối u di căn sang thận. Việc phân loại này phân chia các khối u tế bào thận thành các khối u nhu mô lành tính và ác tính, và nếu có thể, giới hạn từng tiểu thể thành các bất thường |
Many tumour therapies act by inducing a cellular damage response pathway mediated by the tumour suppressor protein p53. Alternative outcomes of p53 induction include apoptosis or transient cell-cycle arrest, both thought to require the transcriptional activity of wild-type p53. Current research highlights the action of a p53-activated gene, p21Cip1/WAF1/Sdi1, which encodes a cyclin-kinase inhibitor important in mediating p53-dependent cell-cycle arrest, while programmed cell death in response to DNA damage requires transcriptionally active p53 but not activation of p21Cip1/WAF1/Sdi1. This review examines the roles of p53 and p21Cip1/WAF1/Sdi1 in controlling cell proliferation, in the light of a new study on expression of p53 and p21Cip1/WAF1/Sdi1 in squamous cell carcinoma of the larynx. | Nhiều liệu pháp điều trị u hoạt động bằng cách tạo ra một con đường đáp ứng tổn thương tế bào qua trung gian protein ức chế khối u p53. Kết quả thay thế của kích ứng p53 bao gồm chết rụng tế bào hoặc bắt giữ chu kỳ tế bào thoáng qua, cả hai đều được cho là đòi hỏi hoạt tính phiên mã của p53 hoang dại. Nghiên cứu hiện nay nhấn mạnh hoạt động của gen kích hoạt p53, p21Cip1/WAF1/Sdi1, mã hóa chất ức chế cyclin kinase quan trọng trong việc làm trung |
The various grading systems proposed for renal cell carcinomas all suffer from problems related to inter-observer variability. Some of these grading systems are based, either partially or wholly, on morphonuclear criteria, such as nuclear size and shape, anisonucleosis, and chromatin pattern. These criteria can be quantitatively (and thus objectively) evaluated by means of the computer-assisted microscopic analysis of Feulgen-stained nuclei. In the present work, 39 quantitative variables, including two morphometric, 28 chromatin pattern-related, and nine DNA ploidy level-related, were computed for 65 renal cell carcinomas. The actual diagnostic information contributed by each variable was determined by means of multifactorial statistical analysis (discriminant analysis) and two artificial intelligence-related methods of data classification (the decision tree and production rule methods). The results show that quantitative information, as provided by the computer-assisted microscopy of Feulgen-stained nuclei and analysed by means of artificial intelligence-related methods of data classification, contributes significant diagnostic information for the grading of renal cell carcinoma, thus reducing the problem of inter-observer reproducibility. | Các phương pháp phân độ khác nhau được đề xuất cho ung thư biểu mô tế bào thận đều có những vấn đề liên quan đến sự biến đổi quan sát liên quan. Một số phương pháp phân độ dựa trên một phần hoặc toàn bộ các tiêu chí hình thái hạt nhân như kích thước và hình dạng hạt nhân, tình trạng tăng sinh nhân và kiểu hình nhiễm sắc thể. Các tiêu chí này có thể được đánh giá định lượng (và khách quan) bằng phân tích bằng kính hiển vi có sự hỗ trợ của máy tính đối với 65 loại ung thư biểu mô tế bào thận. Trong công trình này, 39 biến số định lượng, bao gồm 2 biến số hình thái, 28 biến số kiểu hình nhiễm sắc thể và 9 biến số mức độ phân bội ADN, đã được tính toán cho 65 loại ung thư biểu mô tế bào thận. Thông tin chẩn đoán thực tế đóng góp bởi mỗi biến số được xác định bằng phân tích thống kê đa yếu tố (phân tích sự phân biệt đối xử) và hai phương pháp phân loại dữ liệu liên quan đến trí tuệ nhân tạo (phương pháp cây quyết định và quy tắc sản xuất ). Kết quả cho thấy, thông tin định lượng, được cung cấp bởi kính hiển vi có sự hỗ trợ của máy tính đối với các loại nhân nhuộm Feulgen và được phân tích bằng các phương pháp phân loại dữ liệu liên quan đến trí tuệ nhân tạo, góp phần quan trọng trong việc phân loại ung thư biểu mô tế bào thận, làm giảm khả năng tái tạo quan sát liên quan. |
In this study, 105 non-papillary renal cell carcinomas (RCCs) have been examined for allelic loss at the chromosome 8p12-21.1, 9p21, and 14q24.2-qter regions, each by two highly polymorphic microsatellites. Loss of heterozygosity (LOH) was detected at both chromosome 8p and 9p in 33 per cent of the cases and at chromosome 14q in 45 per cent of the tumours. A correlation of variables such as size, grade, and stage of tumours with these specific genetic alterations showed that loss of chromosomes 8p and 9p, and especially loss of chromosome 14q regions, is significantly associated with a higher grade of tumour and the combined LOH at these chromosomal sites with advanced tumour stage. These genetic alterations did not show any correlation with the size of non-papillary RCCs. This study suggests that genetic markers at the above-mentioned chromosomal sites can predict the clinical outcome of non-papillary RCCs. | Trong nghiên cứu này, 105 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào thận không phải nhú đã được khám đánh giá tổn thương alen tại các vùng nhiễm sắc thể 8p12-21.1, 9p21 và 14q24.2-qter, mỗi vùng được xác định bởi hai vi vệ tinh có độ đa hình cao. Tổn thương dị hợp tử được phát hiện ở cả hai vùng nhiễm sắc thể 8p và 9p chiếm 33% các trường hợp và ở nhiễm sắc thể 14q chiếm 45% các trường hợp. Sự tương quan giữa |
p21WAF1/Cip1 is a recently identified gene involved in cell cycle regulation through cyclin-CDK-complex inhibition. The expression of this gene in several cell lines seems to be induced by wild-type, but not mutant, p53. p21WAF1/Cip1 expression has been studied at both mRNA and protein levels in a series of 49 normal mucosae and squamous cell carcinomas of the larynx. A significant association was found between mRNA and protein expression in tumours (P < 0.0001). p21WAF1/Cip1 expression was strongly associated with squamous cell differentiation of carcinomas, because six of seven (86 per cent) undifferentiated carcinomas (grade 4) showed very low levels of p21WAF1/Cip1 expression, whereas 41 out of 42 (98 per cent) carcinomas with squamous cell differentiation (grades 1-3) had normal or high levels of p21WAF1/Cip1 expression (P < 0.0001). In addition, p21WAF1/Cip1 expression was topologically related to the squamous differentiation of tumour cells with a distribution similar to that seen in normal squamous epithelium. No correlation was found between p21WAF1/Cip1 expression and the global S-phase of the carcinomas. p53 mutations (exons 5-9) were found in ten carcinomas with p21WAF1/Cip1 expression, but no p53 mutations were detected in three p21WAF1/Cip1-negative tumours. In conclusion, p21WAF1/Cip1 expression is frequently upregulated in squamous cell carcinomas of the larynx and is associated with tumour cell differentiation. p21WAF1/Cip1 expression in these tumours is independent of p53 gene mutations. | Biểu hiện của gen p21WAF1/Cip1 ở một số dòng tế bào có thể do p53 gây ra, nhưng không phải đột biến. Biểu hiện của gen này ở p21WAF1/Cip1 đã được nghiên cứu ở cả hai mức độ mRNA và protein trong một loạt 49 niêm mạc bình thường và ung thư biểu mô tế bào vảy của thanh quản. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa biểu hiện của gen p21WAF1/Cip1 (P < 0,0001 ). Biểu hiện của gen p21WAF1/Cip1 có liên quan chặt chẽ với sự biệt hóa tế bào vảy của ung thư biểu mô, bởi vì 6/7 (86% ) ung thư biểu mô không biệt hóa (độ 4) biểu hiện ở mức rất thấp, trong khi đó 41/42 (98% ) ung thư biểu mô có biệt hóa tế bào vảy (độ 1-3) biểu hiện ở mức bình thường hoặc cao (P < 0,0001 ). Ngoài ra, biểu hiện của gen p21WAF1/Cip1 có liên quan về mặt tô pô với sự biệt hóa tế bào vảy của ung thư biểu mô vảy. Không tìm thấy mối liên quan giữa biểu hiện của gen p21WAF1/Cip1 với pha S toàn cầu của ung thư biểu mô vảy. Biểu hiện p53 (exons 5-9) được tìm thấy ở 10 loại ung thư biểu mô với p21WAF1/Cip1, nhưng không phát hiện đột biến p53 ở 3 loại ung thư biểu mô giai đoạn S âm tính với p21WAF1/Cip1. Kết luận, biểu hiện của gen p21WAF1/Cip1 thường xuyên bị điều hòa tăng trong ung thư biểu mô tế bào vảy của thanh quản và có liên quan với sự biệt hóa tế bào của khối u. Biểu hiện p21WAF1/Cip1 ở các khối u này không phụ thuộc vào đột biến gen p53. |
Nasopharyngeal carcinoma (NPC) is rare in most parts of the world but occurs with high incidence in certain regions, such as South-East Asia. Two major histological types of NPC are recognized, non-keratinizing carcinoma and squamous cell carcinoma. Non-keratinizing NPCs, which include undifferentiated NPC, are invariably associated with Epstein-Barr virus (EBV) infection, regardless of the geographical or ethnic origin of the patients. By contrast, conflicting results have been published concerning a possible association of squamous cell NPC with the virus. To address this question, squamous cell NPCs have been collated from an area where NPC is endemic, Hong Kong, and from two regions where NPC occurs with a lower incidence, Chengdu, PR China, and Birmingham, United Kingdom. In situ hybridization for the detection of the small EBV-encoded nuclear RNAs (EBERs) demonstrated that all 22 cases from Hong Kong were EBV-positive. By contrast, EBV was detectable in 7 of 19 cases from central China, and in 3 of 7 cases from the U.K. Expression of the virus-encoded latent membrane protein 1 (LMP1) was detected in 3 of 32 EBV-positive squamous cell NPCs. These results indicate that the association of squamous cell NPCs with EBV shows geographical variability in a manner which is reminiscent of the situation encountered in Burkitt's lymphoma. This suggests that squamous cell NPCs are a pathogenetically heterogeneous group of tumours distinct from non-keratinizing NPCs. | Ung thư vòm họng hiếm gặp ở hầu hết các vùng trên thế giới nhưng có tỷ lệ cao ở một số khu vực nhất định như Đông Nam Á. Ung thư vòm họng hiếm gặp ở hai loại mô học chính là ung thư vòm họng không nhiễm keratin hóa và ung thư biểu mô tế bào vảy. Ung thư vòm họng không nhiễm keratin hóa bao gồm ung thư vòm họng không biệt hóa luôn luôn liên quan đến nhiễm virus Epstein-Barr, bất kể nguồn gốc địa lý hay dân tộc của bệnh nhân. Ngược lại, các kết quả mâu thuẫn đã được công bố liên quan đến khả năng liên quan của ung thư vòm họng tế bào vảy với virus. Để giải quyết vấn đề này, các ung thư vòm họng tế bào vảy đã được thu thập từ một khu vực nơi ung thư vòm họng là đặc hữu, Hồng Kông và từ hai khu vực nơi ung thư vòm họng tế bào vảy xuất hiện với tỷ lệ thấp hơn, Thành Đô, Trung Quốc và Birmingham, Vương quốc Anh. Lai tạo tại chỗ để phát hiện RNA hạt nhân nhỏ mã hóa EBV (EBERs) chứng minh rằng tất cả 22 trường hợp từ Hồng Kông đều dương tính với EBV. Ngược lại, EBV có thể phát hiện được ở 7 trong số 19 trường hợp từ miền Trung Trung Quốc, và 3 trong số 7 trường hợp từ Vương quốc Anh biểu hiện protein màng tiềm ẩn mã hóa EBV 1 (LMP1) đã được phát hiện ở 3 trong số 32 NPC tế bào vảy dương tính với EBV. Các kết quả này cho thấy mối liên quan của ung thư vòm họng tế bào vảy với EBV cho thấy sự khác biệt về địa lý so với các loại ung thư vòm họng tế bào không nhiễm keratin hóa. |
Proteolysis is an essential component of wound healing but, if uncontrolled, it may lead to degradation of the neo-matrix and a delay in wound repair. Despite numerous reports of impaired wound healing associated with increasing age, the control of proteolysis is completely unknown. Tissue inhibitor of matrix metalloproteinases (TIMP)-1 and -2 inhibit the activity of matrix metalloproteinases and the pattern of regulation of these molecules determines in part the spatial and temporal regulation of proteolytic activity. This study reports on TIMP-1 and -2 protein localization using immunocytochemistry in healing wounds of healthy subjects of different ages from day 1 to 6 months post-wounding, and has quantified the mRNA levels for both inhibitors using reverse transcriptase-polymerase chain reaction (RT-PCR). TIMP-1 and TIMP-2 proteins are up-regulated from 24 h post-wounding, with a decrease in staining intensity by day 7 for TIMP-2 and by day 14 for TIMP-1. Steady-state mRNA levels for both TIMPs were significantly greater in normal young skin than in aged skin. In the young, there was a significant increase in mRNA expression for TIMP-1 and -2 by day 3 post-wounding, which decreased by day 14 and had returned to basal levels at day 21. In the wounds of the aged subjects, basal levels were observed for TIMP-1 and -2 at all time-points. These results suggest that intrinsic cutaneous ageing is associated with reduced levels of TIMP mRNA both in normal skin and during acute wound repair. These levels may be instrumental in dermal tissue breakdown in normal skin, retarded wound healing, and the predisposition of the elderly to chronic wound healing states. | Phân giải protein là một thành phần thiết yếu cho quá trình liền vết thương, nhưng nếu không được kiểm soát, nó có thể dẫn đến sự thoái hóa của mô neo-matrix và làm chậm quá trình sửa chữa vết thương. Mặc dù có nhiều báo cáo về sự suy giảm quá trình liền vết thương liên quan đến tuổi cao, nhưng việc kiểm soát quá trình phân giải protein vẫn chưa được biết rõ. Chất ức chế mô của các metalloproteinases ma trận (TIMP) -1 và -2 ức chế hoạt động của các metalloproteinases ma trận và mô hình điều hòa của các phân tử này quyết định một phần sự điều hòa không gian và thời gian của hoạt động phân giải protein. Nghiên cứu này báo cáo sự điều chỉnh nội vùng protein TIMP-1 và -2 bằng phương pháp hóa mô miễn dịch trong quá trình liền vết thương của các đối tượng khỏe mạnh ở các độ tuổi khác nhau từ ngày 1 đến 6 tháng sau khi bị thương, và đã định lượng được nồng độ của cả hai chất ức chế bằng phản ứng chuỗi sao chép ngược (RT-PCR). Protein TIMP-1 và TIMP-2 được điều hòa tăng từ 24 giờ sau khi bị thương, với cường độ nhuộm giảm từ ngày thứ 7 đối với TIMP-2 và giảm từ ngày thứ 14 đối với TIMP-1. Nồng độ mRNA trạng thái ổn định ở cả hai nhóm da ở người trẻ lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với người già. Ở nhóm trẻ, sự biểu hiện của mRNA đối với TIMP-1 và -2 tăng đáng kể vào ngày thứ 3 sau khi bị thương, giảm vào ngày thứ 14 và trở lại mức cơ sở vào ngày thứ 21. Ở các vết thương của người già, nồng độ cơ sở được quan sát ở tất cả các thời điểm đối với TIMP-1 và -2. Kết quả này cho thấy quá trình lão hóa da nội tại liên quan đến sự giảm nồng độ của mRNA TIMP ở cả da bình thường và trong quá trình sửa chữa vết thương cấp tính. Những mức độ này có thể là công cụ trong quá trình phá vỡ mô da ở người bình thường, làm chậm quá trình liền vết thương và khuynh hướng của người cao tuổi đến tình trạng vết thương |
The mechanisms are poorly understood by which p53 can stimulate different downstream events, including growth arrest, DNA repair, and apoptosis, after DNA damage. Changes in protein levels do not predict a particular p53 response, but it is possible that differences in functional activities such as transactivation are important. The present report describes the successful use of a specific p53 reporter plasmid transfected into primary murine hepatocytes to evaluate p53 transactivation activity over time after two different genotoxic injuries (gamma-irradiation, 15 Gy and UV-c irradiation, 10 J/m2) known to produce p53-dependent growth arrest in this cell type. The results show that UV injury to hepatocytes was followed by a transient increase in transcriptional activation of the reporter plasmid by p53 and that this response preceded changes in p53 protein levels, as assessed by immunocytochemistry. By contrast, gamma-irradiation injury failed to induce detectable changes in either transactivation activity or hepatocyte p53 protein levels. The data show that p53 responses to DNA damage are dependent on both cell and injury type and suggest that in hepatocytes they can be independent of protein concentration and specific transcriptional activity. The results have implications for how particular dysfunctional p53 mutations in carcinogenesis could alter hepatocyte responses to different DNA injuries. | Các cơ chế mà p53 có thể kích thích các sự kiện hạ nguồn khác nhau, bao gồm ngừng tăng trưởng, sửa chữa DNA và chết rụng tế bào sau tổn thương DNA. Sự thay đổi mức protein không dự đoán được đáp ứng p53 cụ thể, nhưng có thể sự khác biệt trong các hoạt động chức năng như hoạt hóa chuyển gen là rất quan trọng. Báo cáo này mô tả việc sử dụng thành công một plasmid phóng xạ p53 cụ thể được chuyển vào tế bào gan chuột nguyên sinh để đánh giá hoạt tính hoạt hóa p53 theo thời gian sau hai tổn thương độc tính gen khác nhau (tia gamma, 15 Gy và tia UV-c, 10 J/m2) được biết là tạo ra sự ngưng tăng trưởng phụ thuộc p53 ở loại tế bào này. Kết quả cho thấy, sau khi bị chiếu xạ tia cực tím vào tế bào gan, p53 làm tăng hoạt tính phiên mã của plasmid phóng xạ và đáp ứng này đã diễn ra trước khi có sự thay đổi mức protein p53, được đánh giá bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Ngược lại, tổn thương do chiếu xạ gamma không thể gây ra sự thay đổi có thể phát hiện được trong hoạt tính hoạt hóa hoặc protein p53 của tế bào gan. Dữ liệu cho thấy, đáp ứng của p53 đối với tổn thương DNA phụ thuộc vào cả loại tế bào và loại tổn thương và gợi ý rằng ở tế bào gan, chúng có thể độc lập với nồng độ protein và hoạt tính phiên mã cụ thể. Các kết quả này có ý nghĩa về cách thức mà các đột biến rối loạn chức năng p53 cụ thể trong quá trình gây ung thư có thể làm thay đổi đáp ứng của tế bào gan đối với các tổn thương DNA khác nhau. |
The CTLA4 receptor is a CD28 homologue which induces inhibitory effect on activated T-cells. Peripheral T-cells proliferate spontaneously in CTLA4-deficient mice. These results led to an analysis of CTLA4 expression in human lymphomas (n = 82) including Hodgkin's disease (HD) and non-Hodgkin's lymphomas (NHLs), using immunohistochemistry. CTLA4 was present in neoplastic cells from most (10/11) T-cell malignancies, except for anaplastic and lymphoblastic subtypes (0/4). Malignant B-cells from rare (3/55) B-NHLs (all of follicular subtype) were also CTLA4-positive. Other B-NHLs (52/55) were negative in malignant B-cells and occasionally positive in T-cells. Reactive small lymphocytes, but not Reed-Sternberg cells, from all (12/12) HD cases were strongly CTLA4-positive. The CTLA4 ligands CD80 and CD86 were simultaneously expressed in most CTLA4-negative lymphoma cases. CTLA4 is thus expressed either in the reactive or in the malignant cell populations, depending on the lymphoma subtype. These results provide new insights leading towards therapeutic strategies based either on enhancement of anti-tumour immunity by CTLA4 blockade in reactive lymphocytes or on triggering of a CTLA4-mediated inhibitory pathway in lymphoma cells. | Thụ thể CTLA4 là một tương đồng CD28 gây ức chế tế bào T hoạt hóa. Tế bào T ngoại vi sinh sôi tự phát ở chuột nhắt trắng bị thiếu CTLA4. Kết quả này đã dẫn đến việc phân tích biểu hiện CTLA4 ở chuột nhắt trắng (n = 82) bao gồm bệnh Hodgkin (HD) và không Hodgkin (NHL) bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. CTLA4 có mặt ở tế bào tân sinh từ hầu hết (10/11) trường hợp |
In 20-30 per cent of human breast cancers, the receptor tyrosine kinases epidermal growth factor receptor (EGFR) and c-erbB2 are overexpressed. This overexpression leads to increased mitogenic signalling and is correlated with poor prognosis. Overexpression of associated adaptor proteins, like Grb2, can also induce upregulation of signalling pathways. In this study, the expression of the Grb2 adaptor protein was determined in both normal human breast tissue and mammary cancers, using immunoblotting experiments and immunostaining on paraffin-embedded tissue sections. Both biochemical and immunohistochemical techniques revealed overexpression of Grb2 in all breast cancer specimens. In addition, although Grb2 protein is described as localized in the cytoplasm, it can also be detected in the nucleus, both in normal and in tumour breast tissue. In tumour breast tissue, 58 per cent of Grb2 protein is found in the nucleus, while 37 per cent is detected in the cytoplasm. In normal breast tissue, 22 per cent of Grb2 is found in the nucleus and 70 per cent in the cytoplasm. These findings indicate that in human breast cancer, Grb2 is overexpressed and appears to be predominantly localized in the nucleus. | Trong 20-30% bệnh nhân ung thư vú ở người, tyrosine kinase (EGFR) và c-erbB2 (c-erbB2) biểu hiện quá mức. Sự biểu hiện quá mức này dẫn đến tăng tín hiệu sinh nguyên phân và có liên quan đến tiên lượng xấu. Sự biểu hiện quá mức của các protein điều hợp như Grb2 cũng có thể gây ra sự điều hòa các con đường truyền tín hiệu. Trong nghiên cứu này, sự biểu hiện của protein điều hợp Grb2 đã được xác định ở cả mô vú bình thường và ung thư vú, sử dụng các thí nghiệm Immunoblotting và nhuộm miễn dịch trên các phần mô nhúng paraffin. Cả hai kỹ thuật sinh hóa và hóa mô miễn dịch đều cho thấy sự biểu hiện quá mức của Grb2 trong tất cả các mẫu bệnh phẩm ung thư vú. Ngoài ra, mặc dù protein Grb2 được mô tả là cục bộ trong tế bào chất, nó cũng có thể được phát hiện trong nhân, cả trong mô vú bình thường và trong khối u. Trong mô vú, 58% protein Grb2 được tìm thấy trong nhân, trong khi 37% được phát hiện trong tế bào chất. Trong mô vú bình thường, 22% Grb2 được tìm thấy trong nhân và 70% trong tế bào chất. Những phát hiện này chỉ ra rằng trong ung thư vú ở người, Grb2 được biểu hiện quá mức và dường như chủ yếu được định vị trong nhân. |
Some women with benign breast disease eventually develop breast cancer. The mammary gland undergoes tissue remodelling according to hormonal influences, involving a balance between quiescence, proliferation, and mechanisms of cell death. Proliferation and/or apoptotic events could therefore be investigated to help understand the mechanisms of benign lesion formation and identify mastopathies with a poor prognosis. bcl-2 expression was analysed by immunohistochemistry in 75 benign mastopathies. Protein levels were quantitated with an image analyser in various epithelial structures on frozen sections, including adenoses, fibroadenomas, ductal epithelial hyperplasias, cysts, and apparently normal surrounding lobules and ducts. bcl-2 levels were equivalent in apparently normal lobules and ducts, as well as in cysts and ductal hyperplasias. bcl-2 staining was significantly higher in fibroadenomas, known to be of lobular origin [mean = 10.1, quantitative immunochemistry score (QIC) arbitrary units (AU), n = 19], than in normal lobules (mean = 5.1 AU, n = 43, P = 7 x 10(-5). bcl-2 levels in normal lobules and ducts varied according to the menstrual cycle, being higher during the follicular than the luteal phase (P = 1.8 x 10(-2) and P = 1.7 x 10(-2), respectively). This was further supported by a statistical link (P = 5 x 10(-3) between high levels of circulating progesterone and weak bcl-2 staining in lobules and ducts. This progesterone-dependent variation was absent in fibroadenomas. No statistical correlation was found between bcl-2 expression and circulating levels of oestradiol, and follicle-stimulating or luteotrophic hormones. Although these are only preliminary results, they suggest an influence of progesterone on bcl-2 expression which might be lost in fibroadenomas. A hypothesis is proposed concerning the potential involvement of altered regulation of the apoptotic process in the formation of such benign lesions. | Một số phụ nữ mắc bệnh vú lành tính cuối cùng phát triển thành ung thư vú. Tuyến vú trải qua quá trình tái tạo mô theo ảnh hưởng của hormone, liên quan đến sự cân bằng giữa sự yên lặng, tăng sinh và cơ chế chết của tế bào. Sự tăng sinh và/hoặc chết rụng tế bào có thể được nghiên cứu để giúp hiểu cơ chế hình thành tổn thương lành tính và xác định các bệnh mastopathies với tiên lượng xấu. Biểu hiện bcl-2 được phân tích bằng phương pháp hoá mô miễn dịch ở 75 bệnh nhân lành tính. Nồng độ protein được định lượng bằng máy phân tích hình ảnh ở các cấu trúc biểu mô khác nhau trên các phần đông lạnh, bao gồm adenoses, u xơ, u tăng sinh biểu mô ống, u nang và các thuỳ và ống xung quanh có vẻ bình thường. Nồng độ bcl-2 tương đương ở các thuỳ và ống bình thường, cũng như ở u nang và u ống. Nồng độ nhuộm bcl-2 cao hơn đáng kể ở u xơ tuyến, được biết là có nguồn gốc từ thuỳ (trung bình = 10,1 AU, n = 43, P = 7 x 10 (-5) ), so với ở thuỳ bình thường (trung bình = 5,1 AU, n = 43, P = 7 x 10 (-5) ). Nồng độ bcl-2 ở thuỳ và ống bình thường thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt, trong nang cao hơn so với pha hoàng thể (P = 1,8 x 10 (-2) và P = 1,7 x 10 (-2) ). Sự thay đổi phụ thuộc progesterone này không có trong u xơ tuyến. Không tìm thấy mối tương quan thống kê giữa sự biểu hiện bcl-2 với nồng độ oestradiol lưu thông và các hormone kích thích nang hoặc tăng sinh hoàng thể. Mặc dù đây chỉ là kết quả ban đầu, nhưng chúng cho thấy có sự ảnh hưởng của progesterone lên sự biểu hiện bcl-2 và có thể bị mất đi trong u xơ tuyến. Một giả thuyết được đề xuất liên quan đến khả năng thay đổi quá trình apoptotic trong sự hình thành các tổn thương lành tính này. |
Parathyroid hormone-related protein (PTHrP) is the cause of humoral hypercalcaemia of malignancy and interacts with parathyroid hormone (PTH) receptors. Breast cancer cells produce PTHrP in vitro and in vivo. The breast cancer cell line MCF-7, which products PTHrP and expresses PTHrP receptors, proliferates in response to PTHrP. The aim of these studies was to determine the tissue location of PTHrP/PTH receptors (PTHrPR) in primary breast carcinomas and to establish whether they had the potential to respond to PTHrP. The cellular location of mRNA for the PTHrP/PTH receptor was identified using in situ hybridization in primary breast carcinomas and normal breast tissue. Immunohistochemistry for PTHrP was carried out on the same specimens. Tumours were assessed and scored by two observers using the product of intensity of signal and number of positive tumour cells (possible range 0-9). Tumours were also assessed for Ki-67 expression by counting positive nuclei. Non-malignant ductular epithelium expressed mRNA for the PTHrP receptor (mean score 2.6, range 1-4). Breast carcinomas (mean score 4.4, range 0-9) showed variable expression of PTHrP receptor mRNA: eight tumours were negative, 50 had scores similar to normal breast tissue, and 49 had higher scores for the receptor. Levels of expression of the receptor within the primary breast carcinomas were unrelated to immunohistochemical detection of PTHrP or to any standard prognostic factor. There was a significant (P = 0.05) relationship between Ki-67 and PTHrPR expression in individual tumours. The presence of PTHrP and its receptor in normal breast epithelium and breast carcinomas demonstrates that most breast tumours are able to respond to PTHrP. The Ki-67 data suggest that PTHrP is a potential autocrine growth factor in primary breast carcinoma. | Protein liên quan đến hormone tuyến cận giáp (PTHrP) là nguyên nhân gây tăng calci máu thể dịch và có tương tác với các thụ thể hormone tuyến cận giáp (PTH ). Tế bào ung thư vú sản xuất PTHrP in vitro và in vivo. Dòng tế bào ung thư vú MCF-7, sản phẩm PTHrP và biểu hiện thụ thể PTHrP, sinh sôi để đáp ứng với PTHrP. Mục đích của nghiên cứu này là xác định vị trí tế bào của thụ thể PTHrP/PTH trong ung thư vú nguyên phát và xác định khả năng đáp ứng với PTHrP. Vị trí tế bào của mRNA đối với thụ thể PTHrP/PTH được xác định bằng cách lai tại chỗ ở ung thư vú nguyên phát và mô vú bình thường. Hóa mô miễn dịch cho PTHrP được thực hiện trên cùng một mẫu bệnh phẩm. Các khối u được đánh giá và cho điểm bởi hai nhà quan sát sử dụng sản phẩm cường độ tín hiệu và số lượng tế bào dương tính (có thể từ 0-9). |
That carotid body tumours have a genetic aetiology is suggested by the familial occurrence of the neoplasm. Environmental influences are also implied by the fact that the tumour is more common in those living at high altitudes. However, the mechanism of development of sporadic tumours occurring at sea level, which account for the majority of cases, remains unknown. It has become increasingly clear that the deregulation of programmed cell death is a critical component in multistep tumourigenesis. Previous studies have demonstrated a high frequency of bcl-2 expression in the tumours arising from cells derived from the neural crest and tumour cell lines of neural origin. This investigation was undertaken to determine whether similar molecular events occur in human carotid body tumours. Western and Northern analysis revealed that the tumours expressed the 26 kD protein and bcl-2 transcripts. Immunoperoxidase staining, using a monoclonal anti-bcl-2 antibody, revealed that 11 out of 13 specimens stained positively for bcl-2. These results suggest that the deregulation of programmed cell death may be a critical component in the multistep tumourigenesis of carotid body tumours and that the expression of oncoprotein bcl-2 may contribute to the generation of such tumours. | U động mạch cảnh có một đặc điểm di truyền được cho là do gia đình xuất hiện khối u. Ảnh hưởng môi trường cũng được cho rằng u thường gặp ở những người sống ở vùng cao. Tuy nhiên, cơ chế phát triển của các khối u lẻ tẻ ở mực nước biển, chiếm đa số các trường hợp, vẫn chưa được biết rõ. Ngày càng rõ ràng rằng việc loại bỏ điều hòa chết theo chương trình của tế bào là một thành phần quan trọng trong sự hình thành khối u nhiều bước. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh tần suất biểu hiện của bcl-2 cao trong các khối u phát sinh từ các tế bào có nguồn gốc từ mào thần kinh và các dòng tế bào có nguồn gốc thần kinh. Nghiên cứu này được thực hiện để xác định sự kiện phân tử tương tự có xảy ra ở người hay không. Phân tích Western và Northern cho thấy các khối u biểu hiện protein 26 kD và sự phiên mã bcl-2. Nhuộm immunoperoxidase, sử dụng kháng thể đơn dòng kháng bcl-2, cho thấy 11 trong số 13 mẫu được nhuộm dương tính với bcl-2. Kết quả này cho thấy việc loại bỏ điều hòa chết theo chương trình của tế bào có thể là một thành phần quan trọng trong sự hình thành khối u nhiều bước của động mạch cảnh và sự biểu hiện của oncoprotein bcl-2 có thể góp phần tạo ra khối u. |
In the present study, the expression and prognostic role of the CD44 splicing variants v5 and v6 were immunohistochemically investigated in 418 curatively resected gastric carcinomas. CD44v5 was expressed in 65.3 per cent (n = 273) and CD44v6 in 77.0 per cent (n = 322) of the tumours. Whereas the expression of CD44v5 was correlated with advanced pT categories, with lymph node involvement, and with the presence of blood and lymphatic vessel invasion, such a correlation could not be found for the variant v6. As shown by univariate analysis, patients with CD44v5-positive tumours had a significantly shorter overall survival than patients with CD44v5-negative tumours (P = 0.049). In contrast, expression of CD44v6 had no impact on prognosis (P = 0.574). In a multivariate analysis including the prognostic parameters pT category and pN category, as well as blood and lymphatic vessel invasion, the prognostic impact of CD44v5 expression could not, however, be maintained. Although in the present study the expression of CD44v5 was correlated with a more aggressive tumour type, these data suggest that neither CD44v5 nor CD44v6 can predict survival in patients with gastric cancer, nor is their expression a suitable tool for identifying subgroups of patients who may be at higher risk. | Trong nghiên cứu này, sự biểu hiện và vai trò tiên lượng của các biến thể nối CD44 v5 và v6 đã được khảo sát trên 418 bệnh nhân ung thư dạ dày được cắt bỏ có điều trị. CD44v5 biểu hiện ở 65,3% ( n = 273) và CD44v6 ở 77,0% ( n = 322 ). Trong khi sự biểu hiện của CD44v5 tương quan với các nhóm pT tiến triển, sự tham gia của hạch, sự xâm lấn mạch máu và bạch huyết thì sự biểu hiện của CD44v5 không thể hiện tương quan với các biến thể v6. Phân tích đơn biến cho thấy, bệnh nhân có khối u dương tính với CD44v5 có thời gian sống thêm ngắn hơn đáng kể so với bệnh nhân có khối u âm tính với CD44v5 (P = 0,049 ). Ngược lại, sự biểu hiện của CD44v6 không thể hiện được tiên lượng (P = 0,574 ). Trong phân tích đa biến bao gồm các thông số tiên lượng pT và pN, cũng như sự xâm lấn mạch máu và bạch huyết, sự biểu hiện của CD44v5 không thể hiện được tiên lượng (P = 0,574 ). Tuy nhiên, trong một phân tích đa biến bao gồm các thông số tiên lượng pT và pN, sự xâm lấn mạch máu và bạch huyết, sự biểu hiện của CD44v5 không thể khẳng định được sự tồn tại của khối u ở bệnh nhân ung thư dạ dày. Mặc dù trong nghiên cứu này sự biểu hiện của CD44v5 tương quan với một loại u ác tính hơn, nhưng cả CD44v5 và CD44v6 đều không thể dự đoán được sự sống còn ở bệnh nhân ung thư dạ dày, cũng như sự biểu hiện của chúng không phải là một công cụ thích hợp để xác định các nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao hơn. |
Assessment of oestrogen and progesterone receptors (ER and PgR) in breast cancer is widely used for the prediction of response to endocrine therapy and as a prognostic marker. Cytosolic assays have been replaced in many centres by immunochemical techniques, which have many advantages including applicability to small samples, simplicity, and cost-effectiveness. This study describes the generation and characterisation of two novel murine monoclonal antibodies recognizing ER and PgR, designated NCL-ER-6F11 and NCL-PGR respectively, which are effective in heat-treated formalin-fixed, paraffin-embedded tissue. The antibodies have been characterized by Western blotting and by immunohistochemistry on normal and pathological breast and other tissues. NCL-ER-6F11 has been shown to compare favourably with a currently available ER antibody. These antibodies may prove of value in the assessment of hormone receptor status in human breast cancer. | Đánh giá thụ thể estrogen và progesterone (ER và PGR) trong ung thư vú được sử dụng rộng rãi trong dự đoán đáp ứng với liệu pháp nội tiết và là một dấu hiệu tiên lượng. Các xét nghiệm cytosolic đã được thay thế ở nhiều trung tâm bằng các kỹ thuật miễn dịch hóa học có nhiều ưu điểm như dễ áp dụng cho các mẫu nhỏ, đơn giản và hiệu quả về chi phí. Nghiên cứu này mô tả việc tạo ra và đặc điểm của hai kháng thể đơn dòng mới nhận diện ER và PGR, có tên gọi tương ứng là NCL- |
Oesophageal leiomyomatosis and idiopathic eosinophilic oesophagitis are both extremely rare. The former is a diffuse proliferation of smooth muscle in the muscularis propria, whilst the latter is an idiopathic inflammatory condition, thought to be associated with background atopy and characterized by an infiltrate of eosinophils throughout the full thickness of the oesophagus. However, two recent cases of oesophageal leiomyomatosis showed similar full thickness infiltration of the oesophageal wall by eosinophils and this inflammatory cell infiltrate was investigated in conjunction with one case of idiopathic eosinophilic oesophagitis. All three had a similar allergic profile characterized by CD45RO-positive primed T-lymphocytes, EG2-positive (i.e., activated) eosinophils, and tryptasepositive mast cells, together with gene expression for interleukin 4. Previous descriptions of leiomyomatosis describe an association with systemic mastocytosis and urticaria and the possibility that there is a common underlying allergic component to both disorders is raised. | Viêm thực quản do leiomyomatosis và viêm thực quản do bạch cầu ái toan vô căn đều rất hiếm gặp. Bệnh lý Leiomyomatosis là sự tăng sinh lan tỏa của cơ trơn trong cơ co giật, trong khi viêm thực quản do leiomyomatosis là một tình trạng viêm vô căn, được cho là có liên quan đến nội soi nền và được đặc trưng bởi sự xâm nhập của bạch cầu ái toan vào trong toàn bộ bề dày thực quản. Tuy nhiên, hai trường hợp viêm thực quản do leiomyomatosis gần đây cho thấy sự xâm nhập của bạch cầu ái toan vào |
A highly sensitive method for light microscopic immunohistochemistry is described. The increased sensitivity compared with current methodologies is based on the horseradish peroxidase-catalysed deposition of biotinylated tyramine at the sites of immunoreactivity, followed by the detection of the biotin with streptavidin biotin horseradish peroxidase complex. This method is of general applicability in immunohistochemistry and has several important advantages over currently used immunohistochemical detection procedures. The most significant advantage is that several antibodies which to data have been non-reactive, even in antigen-retrieval formalin-fixed, was-embedded sections, now show strong and reproducible immunoreactivity using biotinylated tyramine amplification. In addition, many other antibodies can be used at significantly higher dilutions. | Mô tả một phương pháp có độ nhạy cao trong hóa mô miễn dịch bằng kính hiển vi quang học. Độ nhạy cao hơn so với phương pháp hiện nay dựa trên sự lắng đọng tyramine biotinylated có xúc tác ở các vị trí hoạt hóa miễn dịch, tiếp theo là phát hiện biotin bằng phức hợp peroxidase streptavidin biotin. Phương pháp này có khả năng ứng dụng chung trong hóa mô miễn dịch và có một số ưu điểm quan trọng so với các phương pháp phát hiện hóa mô miễn dịch hiện nay. Ưu điểm đáng kể nhất là một số kháng thể mà theo dữ liệu |
OBJECTIVES To investigate the effect of milk supplementation on total body bone mineral acquisition in adolescent girls. DESIGN 18 month, open randomised intervention trial. SUBJECTS 82 white girls aged 12.2 (SD 0.3) years, recruited from four secondary schools in Sheffield. INTERVENTION 568 ml (one pint) of whole or reduced fat milk per day for 18 months. MAIN OUTCOME MEASURES Total body bone mineral content and bone mineral density measured by dual energy x ray absorptiometry. Outcome measures to evaluate mechanism included biochemical markers of bone turnover (osteocalcin, bone alkaline phosphatase, deoxypyridinoline, N-telopeptide of type I collagen), and hormones important to skeletal growth (parathyroid hormone, oestradiol, insulin-like growth factor I). RESULTS 80 subjects completed the trial. Daily milk intake at baseline averaged 150 ml in both groups. The intervention group consumed, on average, an additional 300 ml a day throughout the trial. Compared with the control group, the intervention group had greater increases of bone mineral density (9.6% v 8.5%, P = 0.017; repeated measures analysis of variance) and bone mineral content (27.0% v 24.1%, P = 0.009). No significant differences in increments in height, weight, lean body mass, and fat mass were observed between the groups. Bone turnover was not affected by milk supplementation. Serum concentrations of insulin-like growth factor I increased in the milk group compared with the control group (35% v 25%, P = 0.02). CONCLUSION Increased milk consumption significantly enhances bone mineral acquisition in adolescent girls and could favourably modify attainment of peak bone mass. | ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG TĂNG KHOÁNG XƯƠNG CỦA THỰC HÀNH TRONG TĂNG KHOÁNG XƯƠNG Ở TRẺ EM TUỔI TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜ |
OBJECTIVE To test the hypothesis that liveborn infants conceived by intracytoplasmic sperm injection are at an increased risk of having a major birth defect. DESIGN Reclassification of the birth defects reported in infants born after intracytoplasmic sperm injection in Belgium and comparison with prevalence estimated in Western Australian population by means of same classification system. SETTING AND SUBJECTS 420 liveborn infants who were conceived after intracytoplasmic sperm injection in Belgium and 100,454 liveborn infants in Western Australia delivered during the same period. MAIN OUTCOME MEASURES Estimates of birth prevalence of birth defects and comparisons of odds ratios between cohort conceived after intracytoplasmic sperm injection and Western Australian infants. RESULTS Infants born after intracytoplasmic sperm injection were twice as likely as Western Australian infants to have a major birth defect (odds ratio 2.03 (95% confidence interval 1.40 to 2.93); P = 0.0002) and nearly 50% more likely to have a minor defect (1.49 (0.48 to 4.66); P = 0.49). Secondary data-led analyses, to be interpreted with caution, found an excess of major cardiovascular defects (odds ratio 3.99), genitourinary defects (1.33), and gastrointestinal defects (1.84), in particular cleft palate (5.11) and diaphragmatic hernia (7.73). CONCLUSIONS These results do not confirm the apparently reassuring results published by the Belgian researchers of intracytoplasmic sperm injection. Further research is clearly required. Meanwhile, doctors practising intracytoplasmic sperm injection should bear this alternative interpretation in mind when they counsel couples and obtain informed consent for the procedure. | THỰC TRẠNG: Thử nghiệm giả thuyết trẻ sinh ra sống thụ tinh trong ống nghiệm có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh lớn. THIẾT KẾ PHÂN LOẠI THAY THẾ TRÊN TRẺ EM SINH SẢN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP THUỐC TRUNG ƯƠNG |
OBJECTIVE To measure within-person change in scores on the short form general health survey (SF-36) by age, sex, employment grade, and disease status. DESIGN Longitudinal study with a mean of 36 months (range 23-59 months) follow up, with screening examination and questionnaire to detect physical and psychiatric morbidity. SETTING 20 civil service departments originally located in London. PARTICIPANTS 5070 male and 2197 female office based civil servants aged 39-63 years. MAIN OUTCOME MEASURES Change in the eight scales of the SF-36 (adjusted for baseline score and length of follow up) and effect sizes (adjusted change standard deviation of differences). RESULTS Within-person declines (worsening health) with age were greater than estimated by cross sectional data alone. General mental health showed greater declines among younger participants (P for linear trend < 0.001). Employment grade was inversely related to change; lower grades had greater deteriorations than higher grades (P < 0.001 for each scale in men; P < 0.05 for each scale in women except general health perceptions and role limitations due to physical problems). The greatest declines were seen among participants with disease at baseline, with the effects of physical and psychiatric morbidity being additive. Effect sizes ranged from 0.20 to 0.65 in participants with both physical and psychiatric morbidity. CONCLUSIONS Health functioning, as measured by the SF-36, changed in hypothesised directions with age, employment grade, and disease status. These changes occurred within a short follow up period, in an occupational, high functioning cohort which has not been the subject of intervention, suggesting that the SF-36 is sensitive to changes in health in general populations. | ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI TỔNG THỂ THEO CHUẨN MỰC SF-36 THEO ĐẶC ĐIỂM TỔNG SỐ 36 TUỔI (SF-36) THEO THỜI GIAN THEO TỪNG THÁNG, TUỔI LAO ĐỘNG VÀ TÌNH TRẠNG BỆNH HỌC. THIẾT KẾ ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU TRỊ THEO SF-36 (từ 23-59 tháng ), với khám sàng lọc và bộ câu hỏi để phát hiện bệnh lý thể chất và tâm thần. THÀNH LẬP 20 đơn vị dịch vụ công ban đầu đặt tại London. 5070 công chức nam và 2197 nữ công chức trong độ tuổi 39-63. BIỆN PHÁP CHÍNH THỨC ĐIỀU TRỊ TOÀN BỘ SF-36 (ĐIỀU TRỊ TỔNG THỂ VÀ THỜI GIAN THEO ĐẶC ĐIỂM) VÀ KÍCH HOẠT (ĐIỀU TRỊ ĐIỀU TRỊ SF-36 THEO ĐẶC ĐIỂM (P < 0,001 ). TỔNG THỂ THEO ĐẶC ĐIỂM THEO ĐẶC ĐIỂM (P < 0,001) ( P < 0,001) ( P < 0,001) ( P < 0,001) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0,05) ( P < 0 |
OBJECTIVE To determine whether histopathologists with deficient colour vision make more errors in slide interpretation than those with normal colour vision. DESIGN Examination of projected transparencies of histopathological slides under standardised conditions by subjects whose colour discriminating ability was accurately assessed. SETTING Departments of histopathology in 45 hospitals in the United Kingdom. SUBJECTS 270 male histopathologists and medical laboratory scientific officers. MAIN OUTCOME MEASURES Number of slides correctly identified by subjects whose colour vision was measured on the Ishihara, City University, and Farnsworth-Munsell 100 hue tests. RESULTS Mean (SD) scores (out of 10) for doctors with colour deficient vision were 9.4 (0.7) v 9.9 (0.4) for controls (P < 0.01) and 7.5 (1.6) v 9.4 (0.7) for scientific officers (P < 0.001). When subjects with colour deficient vision were categorised into severe, moderate, or mild, there was a significant trend towards those with severe deficiency making more mistakes (P < 0.001). CONCLUSIONS Histopathologists and medical laboratory scientific officers should have their colour vision tested; if they are found to have a severe protan or deutan deficiency, they should be advised to adopt a safe system of working. | MỤC TIÊU: Xác định các bác sĩ mô bệnh học có thị lực kém có nhiều sai sót trong giải thích hình ảnh so với các bác sĩ có thị lực bình thường hay không. Thiết kế hình ảnh trong suốt của hình ảnh mô bệnh học trong điều kiện tiêu chuẩn đối với các đối tượng có khả năng phân biệt màu sắc được đánh giá chính xác. Thiết lập khoa mô bệnh học tại 45 bệnh viện ở Vương quốc Anh. Đối tượng nghiên cứu là 270 bác sĩ nam giới chuyên khoa mô bệnh học và cán bộ khoa học phòng thí nghiệm. Các biện pháp chính xác để |
Health and development planners have tended to see women primarily in context of their reproductive role. As a result, solutions to women's health needs have been restricted to expanding and improving maternal and child health systems. There has recently been a major shift in direction, largely because of the influence of the world conference on population and development held in Cairo in 1994. Dr Guiseppe Benagiano, director of the special programme of research, development and research training in human reproduction based at the WHO, says, "We need to remind ourselves constantly that reproductive health is not simply a biomedical issue but one with serious implications for our general health and by extension, for all our efforts in human social and economic development." The 1993 world development report on health identified the lack of a clear strategy for engaging women in health care and suggested that child health services, prenatal care, treatment of sexually transmitted diseases, and family planning services should be provided jointly at convenient times. In an example of this, the Chilean Institute of Reproductive Medicine now offers integrated family planning services at the same time as child health services, and Thailand is experimenting with mobile health clinics to reach women in their homes. As the proportion of elderly women increases, old age is increasingly being seen as a female issue. With the impact of urbanisation and industrialisation, more of these women are living isolated lives, often suffering from chronic debilitating diseases. In his opening statement to the global commission on women's health in April 1995 which focused on health conditions of women in old age, Dr Hiroshi Nakajima, the WHO's director general, said: "Our goal should not be solely to extend lives in the physical sense, but to ensure that the added years are worth living." | Các nhà hoạch định về sức khoẻ và phát triển có xu hướng nhìn nhận phụ nữ chủ yếu trong bối cảnh vai trò sinh sản của họ. Kết quả là, các giải pháp đối với nhu cầu sức khoẻ của phụ nữ bị hạn chế trong việc mở rộng và cải thiện hệ thống chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Gần đây đã có một sự thay đổi lớn trong định hướng, phần lớn là do ảnh hưởng của hội nghị thế giới về dân số và phát triển được tổ chức tại Cairo năm 1994. Tiến sĩ Guiseppe Benagiano, giám đốc chương trình nghiên cứu, phát triển và đào tạo đặc biệt về sinh sản của con người có trụ sở tại WHO, nói: "Chúng ta cần liên tục nhắc nhở bản thân rằng sức khoẻ sinh sản không chỉ đơn thuần là vấn đề y sinh mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ tổng quát của chúng ta và mở rộng ra, đối với tất cả những nỗ lực của chúng ta trong sự phát triển kinh tế xã hội của loài người." Báo cáo phát triển thế giới về sức khoẻ năm 1993 đã xác định việc thiếu một chiến lược rõ ràng để lôi kéo phụ nữ vào lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và đề nghị rằng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ trẻ em, chăm sóc trước khi sinh, điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục và kế hoạch hoá gia đình nên được cung cấp cùng lúc vào những thời điểm thuận tiện. Một ví dụ là Viện Y học Sinh sản Chile hiện đang cung cấp các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình tích hợp đồng thời với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ trẻ em, và Thái Lan đang thử nghiệm các phòng khám sức khoẻ di động để tiếp cận phụ nữ tại nhà. Khi tỷ lệ phụ nữ cao tuổi tăng lên, tuổi già đang ngày càng được coi là vấn đề của phụ nữ. Với tác động của đô thị hoá và công nghiệp hoá, ngày càng có nhiều phụ nữ sống một mình, thường mắc các bệnh suy nhược mãn tính. Trong tuyên bố khai mạc của mình trước uỷ ban toàn cầu về sức khoẻ phụ nữ vào tháng 4 năm 1995 tập trung vào tình trạng sức khoẻ của phụ nữ ở tuổi già, Tiến sĩ Hiroshi Nakajima, Tổng giám đốc WHO, đã phát biểu: "Mục tiêu của chúng ta không nên chỉ đơn thuần là kéo dài tuổi thọ theo nghĩa thể chất, mà phải đảm bảo rằng những năm tháng thêm vào đó là đáng sống |
Antepartum fetal assessment is used in pregnancies at high risk for perinatal morbidity and mortality. Current testing options include the fetal movement count, the nonstress test, the contraction stress test and the biophysical profile. Vibroacoustic stimulation is a useful adjunctive procedure. All of these modalities have limitations. A strict protocol for antepartum fetal surveillance that is applicable to all patients is not possible. However, a testing approach based on general principles and guidelines can be followed. | Đánh giá thai nhi kháng sinh được sử dụng trong những thai kỳ có nguy cơ cao về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong chu sinh. Các phương pháp xét nghiệm hiện nay bao gồm đếm số lượng chuyển động của thai nhi, xét nghiệm không áp lực, xét nghiệm áp lực co bóp và hồ sơ sinh lý. Kích thích Vibroacoustic là một phương pháp bổ trợ hữu ích. Tất cả các phương pháp này đều có hạn chế. Không thể áp dụng quy trình giám sát thai nhi kháng sinh nghiêm ngặt cho tất cả bệnh nhân. Tuy nhiên, có thể áp dụng phương pháp xét nghiệm dựa trên nguyên tắc |
Blood pressure should be measured during health maintenance visits in all children three years of age and older. Cholesterol levels should be obtained in children with a family history of hypercholesterolemia or premature coronary artery disease and in children with other risk factors, such as hypertension, smoking or obesity. Preparticipation screening for sports participation should include a detailed questionnaire regarding the athlete's personal or family history of syncope, sudden death or arrhythmia, as well as measurement of blood pressure, auscultation of the heart and evaluation of upper and lower extremity pulses. | Trẻ em từ 3 tuổi trở lên cần được đo huyết áp trong các lần khám sức khỏe định kỳ. Trẻ có tiền sử gia đình tăng cholesterol máu, bệnh mạch vành sớm và trẻ có các yếu tố nguy cơ khác như tăng huyết áp, hút thuốc lá, béo phì cần được đo nồng độ cholesterol. Sàng lọc trước khi tham gia thể thao cần có bộ câu hỏi chi tiết về tiền sử cá nhân hoặc gia đình của vận động viên bị ngất, đột tử hoặc rối loạn nhịp tim, đo huyết áp, chẩn đoán tim, đánh giá xung huyết trên và dưới. |
Delirium is an acute confusional state with a fluctuating course. Since the syndrome of delirium is associated with derangements of cognition, attention and level of consciousness, it can cause behaviors that are difficult to manage. Hallucinations, agitation, insomnia and anxiety are common in the delirious patient. Behavioral and pharmacologic interventions can be used while the underlying etiology of delirium is sought. Nonpharmacologic measures include frequent reassurance, environmental cues to reorient the patient and the judicious use of physical restraints. Haloperidol, which has negligible anticholinergic effects, is the drug most often used to treat the symptoms of delirium. Short-acting benzodiazepines may be useful in patients with delirium caused by alcohol withdrawal, but these agents may cause increased agitation in elderly patients and patients with hepatic dysfunction. | Mê sảng là một trạng thái rối loạn cấp tính với diễn biến thay đổi thất thường. Hội chứng mê sảng có liên quan đến sự rối loạn nhận thức, sự chú ý và mức độ ý thức, do đó có thể gây ra những hành vi khó kiểm soát. Ảo giác, kích động, mất ngủ và lo lắng là triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân mê sảng. Các can thiệp hành vi và dược lý có thể được sử dụng trong khi tìm nguyên nhân tiềm ẩn của mê sảng. Các biện pháp phi dược lý bao gồm thường xuyên trấn an, tín hiệu môi trường để định hướng lại bệnh nhân và sử |
Diabetes mellitus is a common disease frequently managed by family physicians. Because of its high prevalence and associated comorbidity, diabetes mellitus has received a great deal of attention from several specialty organizations. The American Diabetes Association, the American Board of Family Practice and the Centers for Disease Control and Prevention have published specific practice guidelines and recommendations for the care of diabetic patients. These recommendations include annual comprehensive foot examinations, yearly ophthalmologic screening for retinopathy, and urinalysis for microalbuminuria. The use of angiotensin converting enzyme inhibitors is advocated for the majority of diabetic patients with proteinuria or hypertension. Based on recent evidence, improved glycemic control is also increasingly advocated. Compliance with practice guidelines by primary care physicians has historically been poor. Mechanisms such as the use of patient problem lists and diabetic flow sheets can serve as reminders to physicians and can facilitate closer adherence to practice guidelines. | Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh lý thường gặp, thường được quản lý bởi các bác sĩ gia đình. Do tỷ lệ mắc bệnh cao và có nhiều bệnh đi kèm nên bệnh ĐTĐ đã nhận được sự quan tâm rất lớn từ một số tổ chức chuyên khoa. Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ, Hội đồng Thực hành Gia đình Hoa Kỳ và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ đã công bố các hướng dẫn thực hành và khuyến cáo cụ thể về chăm sóc bệnh nhân ĐTĐ. Các khuyến cáo này bao gồm khám bàn chân toàn diện hàng năm, khám mắt hàng năm |
Most migraine patients need only abortive treatment for their headaches. By the time they present to a physician, they have already tried many over-the-counter medications for headache relief. Prioritizing treatment according to headache severity and associated symptoms will help the physician determine the most appropriate medications to use. Narcotics should be reserved for use only in patients unresponsive to adequate trials of non-narcotic agents. In some patients, the recurrent nausea and vomiting can be as disabling as the pain; antiemetic agents are an important adjunct to analgesic therapy in these patients. Sumatriptan and dihydroergotamine are more expensive than other migraine agents but have distinct therapeutic advantages in patients with moderate to severe headaches. Some patients experience rebound headache from overuse of analgesics and other headache medications. Educating patients about self-help measures and avoidance of triggers is an important element in the effective management of migraine headaches. | Hầu hết bệnh nhân đau nửa đầu chỉ cần điều trị phá thai cho cơn đau đầu. Đến thời điểm đến khám, bệnh nhân đã thử nhiều thuốc không kê đơn để giảm đau đầu. Ưu tiên điều trị theo mức độ đau đầu và các triệu chứng liên quan sẽ giúp bác sĩ xác định thuốc thích hợp nhất để sử dụng. Thuốc giảm đau chỉ nên được sử dụng ở những bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc không gây nghiện. Ở một số bệnh nhân, buồn nôn và nôn tái phát có thể gây mất khả năng điều trị cũng như cơn đau; thuốc chống nôn là một thuốc bổ trợ quan trọng cho |
Successful interaction with patients who are deaf or hard of hearing requires an understanding of background issues, including the significance of the age of onset of deafness, the patient's choice of language, the patient's cultural identification and educational history, and the type of hearing loss. All of these factors should influence the physician's interview techniques and use of resources. | Tương tác thành công với bệnh nhân điếc hoặc nặng thính giác đòi hỏi sự hiểu biết về các vấn đề nền, bao gồm tầm quan trọng của độ tuổi khởi phát điếc, lựa chọn ngôn ngữ của bệnh nhân, nhận dạng văn hóa và lịch sử học tập của bệnh nhân và loại mất thính lực. Tất cả các yếu tố này cần ảnh hưởng đến kỹ thuật phỏng vấn và sử dụng nguồn lực của bác sĩ. |
BACKGROUND Having observed in recent years that the theophylline dose requirements needed to attain peak serum concentrations of 10 to 20 micrograms/ml infrequently reached previously described mean values, we hypothesized that a downward shift in the range of dose requirements had occurred among patients with asthma. STUDY DESIGN We examined dosage requirements needed to attain peak serum concentrations of 10 to 20 micrograms/ml in all patients with chronic asthma treated with theophylline by the Pediatric Allergy and Pulmonary Clinic at the University of Iowa from 1990 to 1994 (n = 300) and at the Pediatric Pulmonary Clinic at the University of Florida from 1992 to 1995 (n = 93). We then compared these doses to previous dose requirements from 1978 to 1983 determined in the same manner. RESULTS Despite similar mean peak serum concentrations during both time periods (14 micrograms/ml), mean theophylline dosage requirements during the period of this study were approximately 25% lower among all age groups than those previously observed (p < 0.001). There were no significant differences in mean dosage requirements between the Iowa and Florida patients in any age group examined. CONCLUSIONS Theophylline dose requirements needed to attain serum concentrations of 10 to 20 micrograms/ml have decreased significantly from those on which current dosing recommendations are based. This suggests a decrease in mean clearance of the population. | NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ THỰC HÀNH TỐC DỤNG THUỐC THEO DÕI CHO NGƯỜI BỆNH NHIỄM KHUẨN THUỐC THEO DÕI TRONG NĂM 2012 Chúng tôi đã tiến hành khảo sát nồng độ liều dùng từ 10 đến 20 microgam/ml trong huyết thanh ở tất cả các bệnh nhân hen phế quản mạn được điều trị bằng theophylline tại phòng khám dị ứng phổi thuộc Đại học Iowa từ năm 1990 đến năm 1994 (n = 300) và phòng khám Nhi ở Đại học Florida từ năm 1992 đến năm 1995 (n = 93 ). Sau đó chúng tôi so sánh các liều này với liều dùng trước đó từ năm 1978 đến năm 1983 được xác định theo cùng một cách. KẾT QUẢ Mặc dù nồng độ đỉnh trung bình trong huyết thanh của cả hai giai đoạn đều tương đương nhau (14 microgam/ml) nhưng liều dùng theophylline trung bình trong thời gian nghiên cứu thấp hơn khoảng 25% ở tất cả các nhóm tuổi so với các nhóm tuổi đã được khảo sát (p < 0,001 ). Không có sự khác biệt về liều dùng trung bình giữa bệnh nhân Iowa và Florida ở bất kỳ nhóm tuổi nào được khảo sát. KẾT LUẬN liều Theophylline cần thiết để đạt nồng độ đỉnh trong huyết thanh từ 10 đến 20 microgam/ml đã giảm đáng kể so với các liều dùng hiện tại. Điều này cho thấy sự giảm độ thanh thải trung bình của dân số. |
Ethanol is a well-known inducer of CYP2E1; whether or not it is an inducer of other cytochromes has not been investigated systematically. The aim of our study was to evaluate the impact of ethanol consumption on the activity of CYP1A2, which has been shown to be influenced by drugs (inhibited or induced). We evaluated CYP1A2 activity by the ratio of the molar urinary concentrations of the three end products of paraxanthine demethylation of caffeine to the molar concentration of a paraxanthine 8-hydroxylation product. This urinary metabolite ratio has previously been shown to correlate with caffeine clearance. The caffeine metabolites were measured in urine collected during the 3 hours after oral administration of 200 mg caffeine. The caffeine test was performed in 12 smokers (> 25 cigarettes/day) and 12 nonsmokers, all of whom were alcoholic inpatients (daily intake > 100 mg absolute ethanol), within the first 3 days of their hospital stay and after 14 days of abstinence from ethanol. In alcoholic patients who were smokers the molar urinary concentration ratio was 3.14 +/- 0.97 before withdrawal and 4.01 +/- 0.92 after 14 days of abstinence from ethanol. In contrast, in alcoholic patients who were nonsmokers it was 2.62 +/- 0.95 and 2.18 +/- 0.96 before and after withdrawal, respectively. In volunteers who were smokers the molar urinary concentration ratio was 5.02 +/- 1.51, whereas in volunteers who were nonsmokers it was 3.22 +/- 1.46. Our results confirm the well-known induction of CYP1A2 activity by tobacco smoking and show that this induction is masked by long-term ethanol consumption. | Ethanol là một chất gây cảm ứng nổi tiếng của CYP2E1; liệu nó có phải là một chất gây cảm ứng của các cytochrome khác hay không vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Mục đích của nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá tác động của việc tiêu thụ ethanol lên hoạt động của CYP1A2, chất đã được chứng minh là chịu ảnh hưởng của thuốc (bị ức chế hoặc gây ra ). Chúng tôi đánh giá hoạt động của CYP1A2 bằng tỷ lệ nồng độ mol nước tiểu của ba sản phẩm cuối cùng của paraxanthine demethylation caffeine so với nồng độ mol của một sản phẩm paraxanthine 8-hydroxylation. Tỷ lệ chất chuyển hóa nước tiểu này trước đây đã được chứng minh là tương quan với độ thanh thải caffeine. Các chất chuyển hóa caffeine được đo trong nước tiểu thu thập trong 3 giờ sau khi uống 200 mg caffeine. Xét nghiệm caffeine được thực hiện ở 12 người hút thuốc (> 25 điếu thuốc/ngày) và 12 người không hút, tất cả đều là bệnh nhân nội trú nghiện rượu (liều uống > 100 mg ethanol tuyệt đối) trong vòng 3 ngày đầu sau khi cai và sau 14 ngày. Ở những bệnh nhân nghiện rượu là người hút thuốc, tỷ lệ nồng độ mol nước tiểu lần lượt là 3,14 +/- 0,97 trước khi cai và 4,01 +/- 0,92 sau 14 ngày cai. Ngược lại, ở những bệnh nhân nghiện rượu là người không hút thuốc, tỷ lệ nồng độ mol nước tiểu lần lượt là 2,62 +/- 0,95 trước và sau khi cai. Ở những người tình nguyện là người hút thuốc, tỷ lệ nồng độ mol nước tiểu lần lượt là 5,02 +/- 1,51, trong khi ở những người không hút thuốc, tỷ lệ này là 3,22 +/- 1,46. Kết quả của chúng tôi khẳng định sự gây cảm ứng nổi tiếng của CYP1A2 bằng cách hút thuốc lá và cho thấy sự gây cảm ứng này bị che khuất bởi việc tiêu thụ ethanol lâu dài. |
OBJECTIVES To characterize the population pharmacokinetic of riluzole in patients with amyotrophic lateral sclerosis (ALS). METHODS One hundred patients with ALS who were participating in a multicenter phase III dose-ranging trial of riluzole were sampled on 179 visits. The sampling strategy (two samples per visit) was varied across patients to define the population kinetic profile (full screen). Riluzole plasma levels were determined by HPLC, and the data were analyzed by nonlinear mixed-effect modeling (NONMEM program) with use of a one-compartment structural model. The model incorporated interoccasion (visit-to visit) variability. RESULTS In the basic one-compartment pharmacokinetic model, interindividual variability in plasma clearance (51.4%) was higher than intraindividual (visit-to-visit) variability (28.0%), indicating uniform pharmacokinetic behavior during long-term therapy. Riluzole clearance was independent of dosage (25 to 100 mg twice daily), treatment duration (up to 10 months), age, and renal function; gender and smoking were the most important patient covariates, with hepatic function having lesser influence. Typical value of clearance was 51.4 L/hr for a nonsmoking male patient. It was 32% lower in women than in men and 36% lower in nonsmokers than in smokers. Gender- and smoking-related variations in riluzole exposure at the recommended dosage (50 mg twice daily) were within the range of exposures achieved (with no untoward effect) in this dose-ranging study. CONCLUSION The pharmacokinetics of riluzole has been characterized in patients during long-term therapy. Riluzole clearance is independent of dose and treatment duration. Within-patient variability is low. Gender and smoking status are the main covariates to explain interpatient variability. | MỤC TIÊU ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG DẪN TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT Ở BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT Ở BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT Ở BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT Ở BỆN |
BACKGROUND AND OBJECTIVES The effect of chronic viral hepatitis on liver function may vary from none to hepatic failure. Changes in function are usually the result of impaired hepatocyte function or altered vascular flow and architecture. Conventional liver function tests usually cannot distinguish contributions from these mechanisms or indicate degree of hepatic metabolic dysfunction. An alternative approach is to measure the hepatic metabolism of a highly extracted compound whose oral clearance and systemic bioavailability are dependent on both hepatocyte function and degree of portosystemic shunt. METHODS The stereoselective metabolism of racemic mephenytoin (100 mg oral dose) was investigated in 35 patients with chronic viral hepatitis and compared with 153 healthy subjects. The mephenytoin R/S enantiomeric ratio and cumulative excretion of the 4'-hydroxymephenytoin metabolite in a 0- to 8-hour urine sample were used in addition to serum bile acid levels and pathologic examination of biopsy specimens to assess the severity of hepatic dysfunction and portosystemic shunting. RESULTS The patients as a group excreted less 4'-hydroxymephenytoin and had a smaller R/S enantiomeric ratio of mephenytoin. The two measures were discriminatory between the patient groups classified by either serum cholylglycine level or pathologic examination of biopsy specimens. Combination of the two measures of mephenytoin metabolism allowed the patients to be classified into three groups: normal hepatocyte function without portosystemic shunt, normal hepatocyte function with portosystemic shunt, and low hepatocyte function with or without portosystemic shunt. CONCLUSION This study has shown the potential usefulness of mephenytoin metabolism as a sensitive indicator of hepatic pathologic condition with an ability to discriminate between contributory alternative mechanisms. | GIẢM NGHÈO VÀ MỤC TIÊU CỦA VIÊM GAN CHỨNG CHỨNG CỦA VI RÚT CHỦNG VỚI CHỨC NĂNG GAN CÓ TÍNH CHẤT GAN TỪ NGƯỜI BỆNH TRONG GIAI ĐOẠN CỦA VIÊM GAN CHỦNG VI RÚT CHUYỂN HÓA Ở NGƯỜI BỆNH VI RÚT CHUYỂN HÓA Nghiên cứu này đã cho thấy tác dụng của viêm gan virus mạn tính lên chức năng gan có thể khác nhau từ không đến suy gan. Những thay đổi về chức năng gan thường là kết quả của sự suy giảm chức năng tế bào gan hoặc thay đổi lưu lượng và kiến trúc mạch máu. Các xét nghiệm chức năng gan thông thường không thể phân biệt sự đóng góp với các cơ chế này hoặc chỉ ra mức độ rối loạn chuyển hóa ở gan. Một cách tiếp cận khác là đo lường sự chuyển hóa ở gan của một hợp chất chiết xuất cao có độ thanh thải miệng và sinh khả dụng toàn thân phụ thuộc vào cả chức năng tế bào gan và mức độ shunt hệ thống. Sự chuyển hóa stereoselective mephenytoin (100 mg uống) được khảo sát ở 35 bệnh nhân viêm gan virus mạn và so sánh với 153 đối tượng khỏe mạnh. Tỷ lệ enantiomeric mephenytoin R/S và bài tiết tích lũy của chất chuyển hóa 4 '-hydroxymephenytoin trong nước tiểu 0-8 giờ được sử dụng cùng với nồng độ acid mật huyết thanh và xét nghiệm bệnh lý của các mẫu sinh thiết để đánh giá mức độ nặng của rối loạn chức năng gan và shunt hệ thống. Kết quả: Các bệnh nhân được bài tiết ít hơn 4'-hydroxymephenytoin và có tỷ lệ enantiomeric mephenytoin thấp hơn. Hai biện pháp phân biệt được nhóm bệnh nhân được phân loại bằng cholylglycine huyết thanh hoặc xét nghiệm bệnh lý của các mẫu sinh thiết. Kết hợp hai biện pháp chuyển hóa mephenytoin cho phép phân loại bệnh |
OBJECTIVES To explore the pharmacodynamic effects of the new promotile agent SDZ HTF 919, a selective partial 5-HT4 receptor agonist, in healthy subjects. METHODS A pharmacodynamic model was applied to prolong colonic transit by dietary means. Subsequently, the effects of twice-daily multiple doses of SDZ HTF 919 (1, 5, 25, and 100 mg) were investigated in a randomized, double-blind, placebo-controlled parallel-group study with 12 subjects per dose level. The sequential design with three study periods of 7 days each included intake of a self-selected diet, a liquid formula diet with soluble fiber supplementation, and a fiber-supplemented diet together with either SDZ HTF 919 or placebo administration. Stool characteristics (frequency and consistency) and total colonic transit times (with use of radiopaque markers) were recorded in each study period. RESULTS SDZ HTF 919 was well tolerated at all dose levels. The frequency of loose stool and headache increased with higher doses. After a fiber-supplemented diet intake, the median stool frequency decreased from 8 1/2-9 to 5-7 defecations per study period. SDZ HTF 919 in doses of 25 and 100 mg twice a day increased the stool frequency (p < 0.05). Stool consistency was softened by all but the lowest SDZ HTF 919 dose. A fiber-supplemented diet prolonged total colonic transit time in all groups by 45 hours on average. Twice-a-day administration of SDZ HTF 919 for 6 days in addition to a fiber-supplemented diet significantly shortened the total colonic transit time only at the 5 mg dose. The lack of effect at lower and higher SDZ HTF 919 doses suggests a biphasic dose-response relationship for total colonic transit time. CONCLUSIONS The suitability of total colonic transit time measurements in healthy subjects as a surrogate marker should be confirmed by patient studies. | MỤC TIÊU VỀ TÁC DỤNG DƯỢC LƯỢNG CỦA SDZ HTF 919, một chất chủ vận chọn lọc một phần thụ thể 5-HT4, trên đối tượng người khỏe mạnh. Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát tác dụng dược lực học của chế phẩm mới SDZ HTF 919 (1,5,25 và 100 mg) trên đối tượng người khỏe mạnh. Sau đó, nghiên cứu được tiến hành trên 12 đối tượng với mỗi liều thử nghiệm, sử dụng chế độ ăn đa ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng. Nghiên cứu được tiến hành theo trình tự, mỗi chu kỳ 7 ngày, mỗi chu kỳ gồm chế độ ăn uống đơn, chế độ ăn sữa công thức có bổ sung chất xơ hòa tan và chế độ ăn bổ sung chất xơ kết hợp với SDZ HTF 919 hoặc dùng giả dược. Các đặc điểm phân (tần số và độ đặc hiệu) và thời gian đại tràng chuyển hóa toàn phần (có sử dụng marker phóng xạ) được ghi nhận trong mỗi chu kỳ nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu ghi nhận đặc điểm phân (tần số và độ đặc hiệu) và thời gian đại tràng chuyển hóa toàn phần (với SDZ HTF 919 ở tất cả các liều thử nghiệm. Tần suất phân lỏng và đau đầu tăng khi liều cao hơn. Sau khi bổ sung chất xơ, tần suất phân giảm từ 8 1 ⁇ 2-9 lần/chu kỳ nghiên cứu xuống còn 5-7 lần đại tiện/chu kỳ. SDZ HTF 919 ở liều 25 và 100 mg hai lần/ngày làm tăng tần suất phân (p < 0,05 ). Độ đặc hiệu của phân được làm mềm ở tất cả các mức trừ mức thấp nhất của SDZ HTF 919. Chế độ ăn bổ sung chất xơ kéo dài thời gian đại tràng toàn phần ở tất cả các nhóm trung bình 45 giờ. Sử dụng SDZ HTF 919 hai lần/ngày trong 6 ngày cùng với chế độ ăn bổ sung chất xơ, thời gian đại tràng chuyển hóa toàn phần chỉ giảm 5 mg/lần. Việc thiếu tác dụng ở liều thấp hơn và cao hơn gợi ý mối liên quan giữa liều dùng và đáp ứng hai pha. Kết luận về sự phù hợp của các chỉ số thay |
The dose-related protective effects of montelukast, a potent and selective cysteinyl leukotriene-receptor antagonist, against exercise-induced bronchoconstriction were investigated in a five-period, randomized, incomplete-block, crossover study with montelukast (0.4, 2, 10, 50 mg) and placebo. The study subjects were 27 nonsmoking, healthy stable patients with asthma (mean forced expiratory volume in 1 second [FEV1], 82.0% predicted) who demonstrated a > or = 20% decrease in FEV1 while beta-agonist was withheld for 6 hours before treadmill exercise. The standard exercise challenge was performed 20 to 24 hours, and again 32 to 36 hours, after the second of two once-daily doses. The effect of oral montelukast on exercise was measured by the area above the postexercise percentage decrease in FEV1 versus time curve from 0 to 60 minutes [AUC(0-60)], the maximal percentage decrease in FEV1 after exercise, and time after maximal decrease to recovery of FEV1 to within 5% of the preexercise baseline. Twenty to 24 hours after administration, montelukast caused dose-related protection, while providing similar protection against exercise-induced bronchoconstriction at the two highest doses. The AUC(0-60) values (mean +/- SD) were 637 +/- 898, 715 +/- 870, 988 +/- 1147, and 927 +/- 968 min. % for 50, 10, 2, and 0.4 mg montelukast, respectively, and 1193 +/- 1097 min. % for placebo (p = 0.003). No important clinical effect was present 36 hours after dosing. Montelukast was generally well tolerated at all dose levels. In conclusion, montelukast caused dose-related protection against exercise-induced bronchoconstriction at the end of a once-daily dosing interval. Protection against exercise-induced bronchoconstriction can be used to determine appropriate dose selection. | Tác dụng bảo vệ liên quan đến liều của thuốc đối kháng thụ thể cysteinyl leukotriene mạnh và chọn lọc, chống co thắt phế quản do gắng sức được khảo sát trong một nghiên cứu chia làm 5 giai đoạn, ngẫu nhiên, khối lượng không đầy đủ, có đối chứng với thuốc đối kháng đơn thuốc (0,4, 2, 10, 50 mg) và giả dược. Đối tượng nghiên cứu là 27 bệnh nhân hen phế quản không hút thuốc, thể tích thở ra trung bình trong 1 giây (FEV1) được dự đoán là 82,0% ) có biểu hiện giảm > hoặc = 20% FEV1 trong khi thuốc đối kháng beta được giữ lại 6 giờ trước khi tập luyện trên máy chạy bộ. Thử thách tập luyện tiêu chuẩn được thực hiện trong 20 đến 24 giờ, và lặp lại trong 32 đến 36 giờ, sau lần thứ hai của hai liều mỗi ngày. Tác dụng của thuốc đối kháng đơn thuốc đối với việc tập luyện được đo bằng diện tích trên tỷ lệ phần trăm FEV1 giảm so với đường cong thời gian từ 0 đến 60 phút (AUC (0-60) ), tỷ lệ phần trăm FEV1 giảm sau khi tập luyện và thời gian sau khi giảm tối đa để phục hồi FEV1 trong vòng 5% của đường cơ sở khi tập luyện. Sau 24 giờ, thuốc montelukast gây bảo vệ liên quan đến liều, đồng thời mang lại tác dụng tương tự chống co thắt phế quản do gắng sức ở hai liều cao nhất. Giá trị AUC (0-60) ( trung bình +/- SD) lần lượt là 637 +/- 898, 715 +/- 870, 988 +/- 1147 và 927 +/- 1097 phút,% đối với giả dược (p = 0,003 ). Không có tác dụng lâm sàng quan trọng nào xuất hiện sau 36 giờ dùng thuốc. Montelukast thường dung nạp tốt ở tất cả các liều. Kết luận, montelukast gây bảo vệ liên quan đến liều đối với co thắt phế quản do gắng sức ở cuối mỗi đợt dùng thuốc một ngày. Có thể sử dụng |
OBJECTIVE On the basis of previous animal studies, we hypothesized that dexamethasone may reduce the expression of L-selectin on neutrophils and lymphocytes in healthy men. METHODS A double-blind, randomized, placebo-controlled, and three-way crossover trial was conducted in nine healthy men. Every subject received four identical infusions of saline solution, 0.04 mg/kg dexamethasone, or 1.0 mg/kg dexamethasone during three observation periods of 48 hours each. RESULTS Dexamethasone time and dose dependently decreased the L-selectin expression on neutrophils and lymphocytes as measured by flowcytometry. This effect occurred with a time lag of 8 hours after start of treatment: the L-selectin binding index of neutrophils decreased by a maximum of -50% (confidence interval [CI], -37% to -63%) and that of lymphocytes by -26% (CI, -8% to -45%) at 32 hours after the start of treatment with high-dose dexamethasone (p < 0.016). Low-dose dexamethasone had only a transient effect on L-selectin expression of lymphocytes and a less pronounced effect on L-selectin expression of neutrophils. CONCLUSION Dexamethasone time and dose dependently decreases L-selectin expression on neutrophils and lymphocytes in health men, an effect that is less pronounced than that previously reported for animals. | MỤC TIÊU: Trên cơ sở các nghiên cứu trên động vật trước đây, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng dexamethasone có thể làm giảm biểu hiện L-selectin trên bạch cầu trung tính và tế bào lympho ở người khỏe mạnh. PHƯƠNG PHÁP: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng và đối chứng ba chiều trên 9 người khỏe mạnh. Mỗi đối tượng được truyền bốn lần dung dịch muối giống nhau, 0,04 mg/kg dexamethasone hoặc 1 |
A pregnant woman who was addicted to heroin rapidly withdrew from illicit drugs after the onset of a 4 mg/day buprenorphine treatment. In the newborn's blood, urine, and meconium 20 hours after birth, high concentrations of buprenorphine and its metabolite norbuprenorphine were detected, with a higher buprenorphine/norbuprenorphine ratio than in adults, possibly as a consequence of immature hepatic function; no illicit drugs were found. The child had a weak withdrawal syndrome on the second day of life and recovered rapidly. The measured buprenorphine daily dose ingested by the newborn through mother's milk was very low (3.28 micrograms) and probably had little pharmacologic effect because no withdrawal signs could be noted when maternal feeding was later abruptly interrupted. Further investigations are required to determine whether buprenorphine can be considered to be a good alternative to methadone in the treatment of pregnant heroin addicts to prevent marked withdrawal syndromes in newborns. | Phụ nữ mang thai nghiện heroin nhanh chóng rút khỏi các chất gây nghiện sau khi bắt đầu điều trị bằng buprenorphine liều 4 mg/ngày. Trong máu, nước tiểu và mô đệm 20 giờ sau sinh, nồng độ buprenorphine và chất chuyển hóa norbuprenorphine cao hơn ở người lớn, có thể do chức năng gan chưa trưởng thành; không tìm thấy chất gây nghiện. Trẻ có hội chứng cai thuốc yếu vào ngày thứ hai của cuộc đời và hồi phục nhanh chóng. Liều buprenorphine đo được hàng ngày mà trẻ sơ sinh uống qua sữa mẹ rất |
A patient who had taken a stable dose of phenytoin for 2 years had a coronary stent placed for unstable angina and ticlopidine was added to his therapeutic regimen. Twenty-five days later, he was hospitalized with acute symptomatic phenytoin toxicity and a serum concentration of 46.5 micrograms/ml. Determination of metabolic genotype revealed that the patient had a wild-type genotype for CYP2C9, CYP2C19, and CYP2D6. Using human liver microsomes, we showed that ticlopidine is a potent inhibitor of cytochrome P450 2C19, with an estimated inhibition constant (Ki) of 3.7 +/- 0.2 mumol/L. The influence of ticlopidine on CYP2C9, the other cytochrome P450 isoform that metabolizes phenytoin, is relatively weak, with a calculated Ki of 38.8 +/- 27 mumol/L. These data suggest that, in this patient, phenytoin toxicity was caused by inhibition of CYP2C19 by ticlopidine, and the data emphasize the importance of CYP2C19 in the metabolism of phenytoin. | Bệnh nhân đã uống phenytoin ổn định trong 2 năm, được đặt stent mạch vành để điều trị đau thắt ngực không ổn định và được bổ sung ticlopidine vào phác đồ điều trị. 25 ngày sau, bệnh nhân nhập viện với độc tính phenytoin có triệu chứng cấp tính và nồng độ 46,5 microgam/ml. Xác định kiểu gen chuyển hóa cho thấy bệnh nhân có kiểu gen hoang dại CYP2C9, CYP2C19 và CYP2D6. Sử dụng microsome gan người, chúng tôi cho thấy ticlopidine là chất ức chế mạnh cytochrome P450 2C19, với hằng số ức chế ước tính (Ki) là 3,7 +/- 0,2 mumol/L. Ảnh hưởng của ticlopidine lên CYP2C9, đồng phân cytochrome P450 khác có khả năng chuyển hóa phenytoin là tương đối yếu, với Ki tính toán là 38,8 +/- 27 mumol/L. Những số liệu này cho thấy, ở bệnh nhân này, độc tính phenytoin là do ức chế CYP2C19 bởi ticlopidine, và các dữ liệu nhấn mạnh tầm quan trọng của CYP2C19 trong quá trình chuyển hóa phenytoin. |
OBJECTIVE To assess our institution's initial experience with the clinical utility of endoscopic ultrasound (EUS)-guided fine needle aspiration. STUDY DESIGN Prospective analysis of the clinical utility of EUS-guided FNA. RESULTS Fifty-three patients underwent EUS-guided FNA of 64 sites, 28 for pancreatic masses, 15 for lymph nodes, 10 for solid lesions, 7 for cystic masses, 2 for submucosal masses and 2 for perigastrointestinal fluid. A cytopathologist was present during all procedures. An average of four passes (range, one to nine) was required to make a diagnosis in the 22 patients with pancreatic malignancies. There was one possible complication among the 53 patients. In 36 of the 53 patients, the combination of diagnostic EUS findings and cytologic diagnosis made a major change in the patient's management. CONCLUSION Because of its ability to affect patient management, EUS-guided FNA will become a more commonly used procedure, especially at oncologic centers. Since the number of fine needle passes needed for diagnosis is quite variable, it is important to have a cytopathologist participate in these procedures. | MỤC TIÊU: Đánh giá kinh nghiệm ban đầu của chúng tôi về tác dụng lâm sàng của chọc hút kim nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm nội soi (EUS ). Nghiên cứu tiến cứu mô tả tiến cứu tác dụng lâm sàng của chọc hút kim nhỏ dưới hướng dẫn của EUS. KẾT QUẢ 53 bệnh nhân được chọc hút kim nhỏ dưới hướng dẫn của EUS gồm 64 vị trí, 28 khối u tụy, 15 hạch, 10 tổn thương thể rắn, 7 khối u nang, 2 khối u dưới niêm mạc và 2 dịch |
OBJECTIVE To evaluate the significance of atypical squamous cells of undetermined significance (ASCUS) by correlating the histologic findings following a diagnosis of ASCUS on a cervical cytologic smear. STUDY DESIGN Eighty-four smears that had been called ASCUS over a five-month period and that had corresponding histologic material were reviewed independently. Only 52 of the 84 cases on which a consensus was reached were retained for the current study. RESULTS The breakdown of the follow-up histologic diagnoses was as follows: 28 cases (54%) were negative (without squamous intraepithelial lesions [SIL]); 22 cases (42%) showed SILs, of which 14 (27%) were low grade, 5 (10%) were high grade and 3 (5%) had SILs that could not be further classified because of fragmentation of the endocervical curettings. Finally, two cases (4%) proved to be invasive cervical carcinoma on histology despite smears that were satisfactory and not limited by the quantity or quality of material; in these the discrepancy was attributed to sampling error. CONCLUSION Patients whose cervical cytologic smears fall into the category of ASCUS may, on follow-up, exhibit a wide spectrum of findings, ranging from no pathologic abnormality to frequent SIL and even to invasive carcinoma in rare instances. A diagnosis of ASCUS on smears warrants careful follow-up and investigation. | Đánh giá ý nghĩa của tế bào vảy không điển hình có ý nghĩa thống kê (ASCUS) bằng cách so sánh các kết quả mô học sau chẩn đoán ASCUS trên mẫu tế bào cổ tử cung. Nghiên cứu thiết kế 84 mẫu tế bào được gọi là ASCUS trong thời gian 5 tháng và có chất liệu mô học tương ứng được xem xét độc lập. Chỉ có 52 trong số 84 trường hợp đạt được sự đồng thuận trong nghiên cứu này. Kết quả phân tích mô học sau theo dõi như sau: 28 trường hợp (54% ) |
OBJECTIVE To test the ability of cytotechnologists to recognize and accurately interpret selected architectural, cellular and nuclear features presented on a high-definition television (HDTV) and to make a reliable diagnosis with HDTV. STUDY DESIGN A total of 1,122 features considered diagnostic of different endocervical columnar cell abnormalities were selected from 50 smears from 48 women with the help of a motor-driven-stage microscope by five observers who had knowledge of the final diagnosis. The selected and stored features were presented on an HDTV and evaluated in five successive sessions without knowledge of the final diagnosis. RESULTS Specific types of features were correctly identified in a high number of cases. Considerable interobserver variability was demonstrated in the scoring of grades of expression of features. Overrated and under-rated monitor diagnoses were related to overvalued and undervalued features. From a group of 437 images that were correctly diagnosed by four or five observers, five features proved to be highly related to the correct diagnosis. CONCLUSION Observers were capable of making a reliable diagnosis on features, selected by other observers, when presented on an HDTV. An overall correct diagnosis was made in 93% of cases. | Mục tiêu: Kiểm tra khả năng nhận biết và giải thích chính xác các đặc điểm kiến trúc, tế bào và nhân được lựa chọn trên tivi HDTV và chẩn đoán chính xác bằng HDTV. Nghiên cứu thiết kế: Tổng cộng 1.122 đặc điểm chẩn đoán các bất thường tế bào cột cổ tử cung khác nhau được lựa chọn từ 50 mẫu của 48 phụ nữ với sự hỗ trợ của kính hiển vi điện tử giai đoạn, được thực hiện bởi năm quan sát viên có kiến thức về chẩn đoán cuối cùng. Các đặc điểm được lựa chọn và lưu trữ được trình bày |
OBJECTIVE To determine the accuracy and reliability of ultrasound (US)-guided fine needle aspiration cytology (FNAC) over blind aspiration in gallbladder masses. STUDY DESIGN We performed FNAC in 107 cases of carcinoma of the gallbladder; blind aspiration was done in 71 patients (66.36%) and US-guided aspiration in 36 (33.64%). In cases where FNAC after the first aspiration showed the aspirate to be inflammatory, acellular (inconclusive) or suspicious for malignancy, FNAC was repeated under US guidance. Diagnosis was later confirmed by histopathology in all cases. RESULTS After the first aspiration, gallbladder malignancy was confirmed in 77 (71.96%) cases. Of these 77 cases, 34 underwent US-guided aspiration, and the remaining 43 underwent blind aspiration. Cases with inflammatory or acellular (inconclusive) aspirates or that were suspicious for malignancy after the first aspiration underwent a second aspiration under ultrasonic guidance. On the second aspiration of 30 cases, 16 (53.33%) proved to be of adenocarcinoma, 7 (23.33%) were suspicious for malignancy, 5 (16.66%) were inflammatory, and 2 (6.66%) were acellular. Diagnosis was later confirmed by histopathology in all cases. US-guided FNAC had diagnostic accuracy of 95% as compared to 60% on blind aspiration. There was no major complication or needle tract recurrence of the disease. CONCLUSION US-guided FNAC is safe, rapid, reliable, cost-effective and accurate in diagnosing gallbladder carcinoma. | ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KHÁM THANG TRÊN ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BẰNG KỸ THUẬT KHÁM XÉT NGHIỆM HUYẾT THANG BẰNG XÉT NGHIỆM HUYẾT THANG BẰNG SIÊU ÂM Chúng tôi tiến hành chọc hút tế bào bằng kim nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm (US) trên 107 trường hợp ung thư túi mật, chọc hút mù có tỷ lệ 71 trường hợp (66,36% ) và chọc hút mù có 36 trường hợp (33,64% ). Các trường hợp chọc hút có thể là viêm, không có kết luận hoặc nghi ngờ ác tính, chẩn đoán sau đó được xác định bằng giải phẫu bệnh học. Kết quả sau chọc hút lần 1 xác định có 77 trường hợp (71,96% ) khối u túi mật ác tính. Trong số 77 trường hợp có 34 trường hợp (34,34% ) được chọc hút dưới hướng dẫn của US, 43 trường hợp còn lại được chọc hút mù. Các trường hợp có viêm hoặc không có kết luận hoặc nghi ngờ ác tính sau lần chọc hút thứ nhất được chọc hút mù lần 2 dưới hướng dẫn của siêu âm. Trên 30 trường hợp, có 16 (53,33% ) trường hợp là ung thư biểu mô tuyến, 7 (23,33% ) trường hợp nghi ngờ ác tính, 5 (16,66% ) trường hợp là viêm, 2 (6,66% ) trường hợp là u tế bào. Chẩn đoán sau đó được xác định bằng giải phẫu bệnh học. Chọc hút tế bào dưới hướng dẫn của US có độ chính xác chẩn đoán là 95% so với 60% khi chọc hút mù. Không có biến chứng nặng hay tái phát đường kim của bệnh. Kết luận chọc hút tế bào dưới hướng dẫn của US là an toàn, nhanh, đáng tin cậy, tiết kiệm chi phí và chính xác trong chẩn đoán ung thư túi mật. |