text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Puskin không chỉ là “Mặt trời củaa nền thi ca Nga” ở tư cách công dân mà còn là thi sĩ ca hát tình yêu. “Hầu như tình yêu, tình bạn luôn luôn là những tình cảm chi phối nhà thơ nhiều nhất và là ngọn nguồn trực tiếp nhất của hạnh phúc và đau khổcủa cả đời ông… Màu sắc chung của thơ Puskin, đặc biệt trong thơ trữ tình, là vẻ đẹp nội tâm con người và lòng nhân ái vuốt ve tâm hồn” (Biêlinxki). Cùng với Gửi 'K, Tôi yêu em là bài thơ nổi tiếng cua Puskin về tình yêu. Thời kì sống ở Pêtecbua, Puskin thường lui tới nhà vị Chủ tịch Viện hàn lâm nghệ thuật Nga để gặp gỡ những người làm nghệ thuật, và cũng vì một thiếu nữ đẹp tên là A. A. Olênhia, con gái vị chủ nhà. Mùa hè năm 1828, nhà thơ ngỏ lời cầu hôn nhưng không được nhận lời. Năm 1829, bài thơ ra đời trên cơ sở của mối tình có thực này. Thơ tình yêu của Puskin thường bắt nguồn từ những xúc cảm cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa. Do đó, đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Bài thơ Tôi yêu em đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá trị tinh thần chung của loài người: những tình cảm chân thành, cao thượng, nhân ái cùa tình yêu chứa đựng trong những lời lẽ giản dị, trong sáng nhất. Bài thơ có thế được chia thành hai phần: Bốn câu đầu, nhân vật trữ tình – tôi, khẳng định tình yêu vẫn còn nhưng xin rút lui vì không muốn gây phiền muộn cho người mình yêu. Bốn câu cuối, dồn tả các cung bậc khác nhau của tình yêu và lời khẳng định một tình yêu đằm thắm, chân thành. Điệp khúc tôi yêu em là giọng điệu chủ đạo của bài thơ Trong tiếng Nga, với hai đại từ ya và vư có thể dịch sang tiếng Việt thành một số cặp quan hệ như tôi yêu cô, anh yêu em, tôi yêu em. Đối với tiếng Việt, đại từ xưng hô chỉ đổi thay một chút là quan hệ và sắc thái tình yêu cũng đổi khác. Tôi yêu cô bộc lộ một khoảng cách xa, trang trọng, ít tình cảm, hơn nữa, từ cô trong tiếng Việt ít chỉ quan hệ tình yêu. Còn anh yêu em thì thân thiết, gần gũi quá, trong trường hợp này chưa thật phù hợp. Sử dụng tôi yêu em, bản dịch của Thúy Toàn đã diễn tả chính xác một quan hệ vừa gần vừa xa, vừa rụt rè vừa đằm thắm. Nhân vật tôi chưa thân thiết với cô gái đến mức xưng anh. Khi xưng tôi quan hệ tình yêu lại mang một sắc thái trầm tĩnh, tự tin. đúng mực, có mang ý thức về mình. Nét tinh tế trong quan hệ hai nhân vật được bộc lộ qua hai đại từ nhân xưng tôi và em này. Mở đầu bài thơ là điệp khúc khẳng định: Tôi yêu em, một lời bộc lộ chân thành xuất phát từ một trái tim trung thực, báo hiệu một tình yêu thực sự. Tôi yêu em, lời lẽ giản dị mà mang bao nỗi quyến rũ, bí ẩn muôn đời: Tôi yêu em đến nay chừng có thể Ngọn lửa tỉnh chưa hẳn đã tàn phai Lời thơ chậm rãi, tình thơ thâm trầm, kín đáo. Một sự khẳng định pha chút cân nhắc, dề dặt với những từ có thể, chưa hẳn (nguyên văn: Tinh yêu có lẽ chưa hoàn toàn lụi tắt trong tôi). Dùng một ngữ mang tính phủ định, chưa hoàn toàn lụi tắt,nhân vật trữ tình bày tỏ một tình yêu, một say mê mang dáng vẻ âm thầm, dai dẳng, dấu hiệu của những cảm xúc vững bền, của một trái tim chung thủy, không phải là sự đam mê bột phát vụt sáng lóe rồi lụi tàn ngay đấy. Mạch thơ chuyển đột ngột: Nhưng không để em bận lòng thêm nữa Hay hồn em phải gợn bóng u hoài Câu thơ toát lên cái điềm tĩnh của lí trí, cái dồn nén của cảm xúc. Điệp từ không (nguyên văn: "Mong sao nó không làm em băn khoăn thêm nữa. Tôi chẳng muốn làm em buồn vì bắt cứ lẽ gì") nhấn mạnh sự dứt khoát: cần phải dập tắt ngọn lửa tình yêu (dù chỉ là âm thầm, dai dẳng) để tránh cho em phải bận lòng, tránh cho hồn em phải gợn bóng u hoài. Lời thơ như một lời tự nhắc nhủ, một sự tự ý thức về tình yêu của mình và cũng như một lời nói bên trong đầy dịu đàng, trân trọng với hồn em. Nhưng đằng sau những lời lẽ điềm tỉnh, đúng mực ấy là bao nỗi niềm, bao sắc thái của tình yêu: có cái chua xót của thân phận vì nếu tình yêu không đem lại hạnh phúc, niềm vui mà chỉ là nỗi băn khoăn, buồn bã cho người mình yêu thì nên chấm dứt tình yêu đó; có sự chế ngự của lí trí đối với con tim: có cái cao thượng, tế nhị của tình tôi (điều quan trọng không phải là tình yêu của tôi mà là sự yên tĩnh, thanh thản của hồn em); có cái tôn thờ, sùng kính của bậc nam nhi đối với người phụ nữ. Tình yêu có thể chấm dứt vì nhiều lí do, nhưng cái lí do đầy dịu dàng, trân trọng và cao thượng ấy đối với nguời phụ nữ dễ mấy ai có được. Nếu bốn câu thơ đầu, cảm xúc có xu hướng bị dồn nén, bị lí trí chi phối thi ở bốn câu thơ sau, mạch cảm xúc lại tuôn tràn, không tuân theo mệnh lệnh của lí trí, khẳng định một tình yêu mãnh liệt không che giấu với điệp khúc tôi yêu em được nhắc lại lần thứ hai: Tôi yêu em âm thầm không hi vọng Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen Nhịp thơ nhanh hơn với những từ lúc, khi, diễn tả những trạng thái tình yêu biến đổi vô cùng, dồn dập. Nhân vật trữ tình bộc lộ thẳng thắn tâm hồn mình: một tình yêu âm thầm, không hi vọng, vừa khẳng định lại nét âm thầm (nguyên văn: Không thốt ra lời ) vừa nhấn mạnh không chút hi vọng, như tô đậm thêm nét đặc biệt của mối tình đơn phương này. Nhưng dù vậy, tình yêu ấy vẫn diễn ra với mọi sắc thái muôn thuở: Nỗi đau khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè, lòng ghen tuông giày vò. Hai câu thơ mang tính chất thú nhận đã khơi mở những lớp tình cảm phức tạp và rất con người dưới đáy sâu tâm hồn, sau lớp vỏ ngôn từ bình thản, điềm tĩnh thể hiện qua cách xưng hô, qua vẻ ngoài lặng lẽ, rụt rẽ, qua ý thức cố ghìm nén tình cảm, chỉ cho phép nói rằng tình yêu của mình chưa li tắt chứ không phải là đang bùng cháy mãnh liệt. Nhân vật trữ tình không ngại ngần mà trung thực bày tỏ: Khi hậm hực lòng ghen, nghĩa là tôi cũng chỉ như muôn người bình thường khác, cũng bị những tình cảm khổ đau, u ám muôn thuở trong tình yêu vò xé tâm can. Tuy nhiên, có ai đã từng nói, lòng ghen tuông như con rắn độc, nó bóp nghẹt trái tim, bởi vi ghen tuông trong tình yêu dần đến mất sáng suốt, như Mêđê vì thù chồng mà giết chết con mình (Mêđê – Ơriphiđơ), như Otenlô bóp chết Dexđêmôna (Ôtemlô – Sêcxpia), như Lenxki thách Onêghin đấu súng (Onêghin – Puskin), như Hoạn Thư hành hạ Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Liệu nhân vật trữ tình trong bài thơ có bị nỗi ghen tuông ngự trị làm hạ thấp con người như vậy không? Hai câu thơ cuối cùng là câu trả lời, vụt sáng lên một giá trị nhân văn, một tư thế cao thượng của con người đáng yêu ấy Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm Cầu em được người tình như tôi đã yêu em Cảm xúc bị dồn nén được giải tỏa, tuôn trào. Điệp khúc tôi yêu em được láy lại lần thứ ba với một lời khẳng định bản chất của mối tình này: Chân thành, đằm thắm. Xin lưu ý, trong điệp ngữ tôi yêu em, ở nguyên bản tiếng Nga, động từ yêu luôn được ởthể chưa hoàn thành, điều ấy có nghĩa là ngọn lửa tình yêu trong trái tim nhà thơ sẽ không bao giờ tắt, không bao giờ lụi tàn, nhạt phai. Chính là sự chân thành, đằm thắm không bao giờ nhạt phai ấy là cái gốc của tấm lòng cao thượng trong tình yêu này. Nó lí giải vì sao nhân vật trữ tình ở đoạn trên lại có một xử sự dịu dàng, tế nhị, trân trọng người mình yêu và đến cuối bài thơ lại có một lời chúc thiêng liêng, đầy vị tha: tôi cầu mong em có được một người yêu em cũng chân thành đằm thắm như tôi. Có một điều tế nhị sâu xa trong hoàn cảnh trớ trêu này. Tình yêu khi không được đền đáp thường là nỗi khổ đau, đưa đến lòng tự ái, hận thù. Nhưng nếu đó là tình yêu của một trái tim chân thật, độ lượng, nhân hậu thì dù bị cự tuyệt, con người vẫn có thể có những xử sự cao thượng. Lời cầu mong cuối bài thơ cũng còn là lời nhắn nhủ của một trái tim giàu độ lượng, chở che như nhà thơ đã viết trong một bài thơ khác: Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn Em thầm thì 'hãy' gọi tên lên Và hãy tin: còn đây một kỉ niệm Em vẫn còn sống giữa một trái tim Chính thái độ trân trọng, tôn thờ, sùng kính, “sự thuần khiết" đối với phụ nữ đã đưa bài thơ của Puskin vươn tới những giá trị nhân văn cao cả trong kho tàng thơ tình nhân loại. Tôi yêu em, bài thơ đã diễn tả một tình yêu vô vọng, thấm một sắc điệu buồn, nhưng hơn hết vẫn là sự mãnh liệt và cao thượng của trái tim con người với một mối tình không đơm hoa kết trái. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, không có biện pháp tu từ nào ngoài điệp ngữ tôi yêu em. Chất thơ của bài thơ toát ra từ những xúc cảm chân thành, ghìm nén, từ những lời nói giản dị nhưng đầy thiết tha, tế nhị và mãnh liệt, đằm thắm mà cao thượng, như Biêlinxki từng nhận định: “Đặc điểm thơ ca Puskin là khả năng phát hiện trong con người mĩ cảm và lòng nhân ái, hiểu theo nghĩa là lòng kính trọng vô hạn đối với phẩm giá con người với tư cách là con người. Tôi yêu em là một khúc hát của trái tim, là một bài thơ tình độc đáo trong thơ ca nhân loại.
Anh chị hãy phân tích bài thơ Tôi yêu em của nhà thơ Puskin
1,897
Nội dung bài viết1 Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 1 2 Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 2 3 Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Gợi ý Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 1 Hạnh phúc là gì? Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều đã từng đặt câu hỏi như vậy. Người ta có thể cảm nhận được hạnh phúc nhưng để mô tả nó 1 cách rõ ràng thì ko phải là điều đơn giản. Quan niệm về hạnh phúc thì mỗi người một kiểu và trả lời cho câu hỏi: "Hạnh phúc là gì?” cũng mỗi người một đáp án. Câu trả lời có thể gặp nhau nhưng cảm xúc thì không thể gặp nhau vì chỉ có người đó mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực mà người ta đang là kẻ trong cuộc. Chỉ có thể nói về hạnh phúc như là 1 trạng thái sung sướng vì cảm thấy thỏa mãn ý nguyện. Lắm lúc hạnh phúc lớn lao như vừa đạt được một điều gì đó rất lớn trong cuộc sống, có khi chỉ đơn giản là niềm xúc động khi nhận được 1 sự giúp đỡ hay 1 lời chia sẻ chân thành. Đối với nhiều người, hạnh phúc bắt đầu từ điều đơn giản nhất, khi mỗi sớm mai thức dậy, thấy mình sống có ích trên cõi đời. '' Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương '' ( Trịnh công Sơn ) Hạnh phúc có khi không phải tìm kiếm đâu xa xôi, mà đôi khi ta có cha có mẹ, có nụ cười trong những bữa cơm, trong những lúc gia đình cùng làm chung một công việc gì đó vui vẻ là ta cảm thấy hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc không chỉ là nụ cười, niềm vui… mà hạnh phúc có trong cả nước mắt… Đó là những giọt nước mắt vỡ òa trong niềm vui sướng của người mẹ khi thấy con ra đời khỏe mạnh, là những giọt lệ ngấn dài trên má cô gái khi nhận được từ người bạn thân lời chúc mừng sinh nhật muộn màng nhưng chân thành và ý nghĩa… Có 1 câu truyện như sau: “Một chú cún con hỏi mẹ: “Mẹ ơi, hạnh phúc là gì hở mẹ?” Chó mẹ từ tốn trả lời: “Hạnh phúc là ở khấu đuôi của con đó!” Nghe xong, chú chó liền nhảy lên cố gắng ngậm lấy khẩu đuôi của mình. Chú cố gắng hết sức nhưng vô ích. Mệt quá chú khóc nức nở nói với mẹ: “Mẹ ơi, con không thể nắm được hạnh phúc!”. Chó mẹ cười hiền từ đáp: “ Con hãy ngẩng cao đầu tiến về phía trước hạnh phúc sẽ luôn đi theo con thôi!” Như vậy, hạnh phúc là cái gì đó con người không nắm giữ được trong tầm tay, nhưng hạnh phúc không phải là cái gì đó quá xa xôi mà con người không tìm kiếm được cho mình. Hạnh phúc là khi có cái gì đó để làm, có ai đó để yêu, và có gì đó để hy vọng. Hạnh phúc đích thực bắt nguồn từ chính mình chứ không thể chịu tác động bởi những lời nói hay việc làm của người khác. Nếu một người nói rằng “Tôi không có hạnh phúc” thì chính xác là người đó sẽ không bao giờ có hạnh phúc, dù người ấy có những cái mà người khác luôn mong mỏi. Còn khi hỏi một người sống trong cảnh nghèo khó rằng họ có hạnh phúc không mà họ trả lời ta rằng “Lúc nào tôi cũng thấy hạnh phúc” thì thật sự là họ đã được hạnh phúc. Chướng ngại to lớn để có được hạnh phúc là mơ ước một hạnh phúc quá lớn. Nếu chúng ta chỉ biết tìm hạnh phúc cho riêng mình thì có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Hạnh phúc đích thực là biết sống vì người khác. Vì vậy hãy chia sẻ hạnh phúc của mình, bởi vì “ Nỗi buồn được san sẻ sẽ vơi nửa, còn hạnh phúc khi san sẻ sẽ nhân đôi”. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, hạnh phúc chỉ là một nốt nhạc hay, bay bổng hay một gam màu sáng trong bức tranh tổng thể của cuộc đời ta, là chất xúc tác cho ta thêm nghị lực, niềm vui để tiếp tục bước đi trên con đường đời chứ hạnh phúc không phải là tất cả. Nó có thể khiến con người ta cảm thấy sung sướng cực độ nhưng xét ở một khía cạnh khác, khía cạnh nằm bên kia của sợi chỉ ranh giới thì hạnh phúc cũng có thể khiến con người ta đắm chìm trong hư ảo mà bỏ quên đi những vấn đề thực tế hiện tại đang xảy ra xung quanh. Nó cũng có thể giết chết nhân cách của một con người khi nó gieo vào tâm họ hạt giống "tự phụ". Vì vậy chúng ta phải biết dừng lại đúng lúc, phải làm chủ được hạnh phúc của mình, biến cảm xúc hạnh phúc thành tư tưởng sống lạc quan yêu đời. Nếu lạc quan chúng ta sẽ thấy cuộc sống của mình thật ý nghĩa, thấy mình muốn sống và cần phải sống vì có rất nhiều việc mà mình muốn làm. Bằng ngược lại nếu tự ti, u buồn thì chúng ta sẽ không thấy được niềm vui trong cuộc sống, cảm thấy cuộc sống trôi qua thật nhàm chán vô bổ. Tóm lại, hạnh phúc đơn giản là khi bạn chịu nhìn nhận hạnh phúc bên mình. Hạnh phúc không hiện hữu trong bóng hình quá khứ hay niềm mong mỏi nơi tương lai, hạnh phúc là hạnh phúc trong thực tại nếu bạn biết nắm bắt nó ngày hôm nay. Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 2 Đừng quá tham vọng, đừng quá sĩ diện. Hãy bằng lòng với những gì mình đang có thì sẽ cảm thấy hạnh phúc. Bằng lòng với những gì mình đang có sẽ thấy hạnh phúc, nhưng điều đó không có nghĩa là sống theo cách nước nổi bèo trôi, không cần phấn đấu, không có lí tưởng, không đam mê, không hoài bão.. Con người sống phải có mục đích, có ước mơ, hoài bão. Nhưng ước mơ hoài bão ấy phải nằm trong khả năng phấn đấu của mình – cố gắng sẽ đạt được, nếu không sẽ chỉ là viển vông, sẽ là tham vọng. Người có nhiều tham vọng sẽ luôn sống trong khổ sở, dằn vặt, hằn học, đố kị. Họ không bao giờ cảm nhận được hanh phúc. Có chị vô cùng thông minh, chuyên môn rất giỏi. Chị được đồng nghiệp và cấp trên tin tưởng bầu làm phó giám đốc phụ trách kĩ thuật của doanh nghiệp, nhưng chị luôn thắc mắc, hằn học, chị cho rằng mọi người đánh giá không đúng năng lực của chị, thủ trưởng coi thường phụ nữ. Đáng ra chức giám đốc là của chị… Sự hằn học, đố kị của chị làm khổ chị và làm chị xấu đi trong mắt mọi người. Từ sự tin tưởng, nể trọng về năng lực, mọi người chuyển sang nhìn chị bằng con mắt xem thường, xa lánh. Rồi như ông trời thử sức chị, tự nhiên ông giám đốc bị bệnh phải nằm viện để chị lên nắm quyền giám đốc. Tưởng là làm phó lâu năm thì lên trưởng chẳng khó gì. Vậy mà chị lại làm nháo nhào cả một nguồn máy đang chạy ro ro. Khi đó chị mới nhận ra rằng: chị hoàn toàn không có tố chất của một người làm kinh doanh, một người làm chính trị, một người làm lãnh đạo. Chị không biết giao dịch, không biết đối nội, đối ngoại. Bạn hàng bị mất, doanh thu bị giảm, nhân viên kêu ca… Lúc đó, chị mới thực sự tâm phục, khẩu phục ông giám đốc. Ngày chị trả lại chức giám đốc cho ông, chị thở phào, nhẹ nhõm cả người, chị thấy mình thật hạnh phúc. Có chị lấy được ông giáo sư, tiến sĩ có uy tín, có tiếng tăm. Một thời chị hãnh diện, tự hào về người chồng nổi tiếng ấy. Nhưng rồi chồng cô bạn thân của chị chỉ sau mấy phi vụ buôn bán đã phất lên như diều, đổi đến ba lần nhà mà cứ nhà sau to hơn nhà trước. Ngôi nhà đang ở trị giá cả triệu đô la. Cô bạn đi ăn sáng, đi chợ cũng bằng ô tô, đài các, sang trọng cứ như bà hoàng… Chị thấy ghen tị, ấm ức cứ len lỏi trong óc làm chị cảm thấy bực bội, khó chịu. Tự nhiên chị thấy ông chồng suốt ngày cứ miệt mài bên bàn máy tính kia thật kém còi, thật chán, thật vô tích sự… Có lúc bực lên chị bảo: Sao anh chỉ biết nhặt nhạnh từng xu thế nhỉ? Sao không nhìn những thằng ngu hơn anh nhưng giỏi kiếm tiền để mà học?… Nhìn chồng tròn mắt nhìn mình, chị càng thấy bực hơn. Một hôm, ánh mắt chị nhìn chồng lại long lanh như xưa, chị kể: “Nhà con bạn em bị tịch thu hết cả. Lão chồng nó buôn lậu, bị bắt rồi. Khổ thế… Cứ như nhà mình lại sướng…” – Lúc đấy, chị lại thấy mình hạnh phúc. Có chị nói: mỗi khi đọc báo, lên mạng, gặp những cảnh đời bất hạnh, lại thấy mình thật hạnh phúc. Hạnh phúc bởi ông chồng mình không vũ phu, hạnh phúc khi mình có một mái nhà không lo mưa bão, hạnh phúc khi mình còn cha mẹ, hạnh phúc bởi không phải thất nghiệp, hạnh phúc khi con mình ngoan ngoãn… Hạnh phúc rất đơn giản mà giá trị vô cùng. Chỉ một ánh mắt nhìn âu yếm của chồng, một lời khen của con, một câu động viên của bạn bè – đủ hạnh phúc ấm lòng. Hạnh phúc ở ngay trong tâm hồn, trong trái tim mỗi người – Bằng lòng với những gì mình đang có thì sẽ cảm thấy hạnh phúc. Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Gợi ý Bước 1: Giải Thích: Hạnh phúc là gì? – Hạnh phúc là một trạng thái tâm lý của con người khi ta cảm thấy vui vẻ, thoả mãn. Đó là một khái niệm thuộc phạm vi đời sống tinh thần của con người. Đó là trạng thái tinh thần lý tưởng nhất mà con người theo đuổi. – Thế nào là hạnh phúc thật sự? Quan điểm hạnh phúc ở mỗi thời đại, mỗi con người là rất khác biệt. Có người cho rằng hạnh phúc là đạt được những gì mình mong muốn, có người lại cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền bạc, trong khi người khác lại cho rằng hạnh phúc là có một gia đình yên ấm. Cứ như thế đối với mỗi cá nhân, hạnh phúc là những cảm nhận rất khác biệt, do đó không có một định nghĩa chung cho hạnh phúc. – Nhưng vẫn có những mẫu số chung cho hạnh phúc đích thực. Đó là khi con người tìm được niềm vui và ý nghĩa trong cuộc sống của mình. Hạnh phúc ấy không dựa trên sự ích kỷ, thói vụ lợi hay những toan tính. Bước 2: Bình. – Hiện nay, ta đang sống trong thời đại mà kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên phần nào thoả mãn được nhu cầu của con người . Vì thế quan niệm về hạnh phúc cũng phần nào thay đổi. – Dẫn chứng: Trước đây trong thời kì chiến tranh, hạnh phúc đôi khi chỉ cần là được sống. Khi không có miếng ăn, hạnh phúc là một nắm cơm trắng. Bây giờ những nhu cầu về cơm ăn áo mặc phần nào đã được thoả mãn, do đó hiện nay rất nhiều quan điểm về hạnh phúc. Đó có thể là việc gặt hái nhiều trải nghiệm thông qua những chuyến du lịch bụi, cũng có thể là thức trắng hàng giờ bên bàn làm việc để nghiền ngẫm một kiến thức mới. Bước 3: Luận. – Người hạnh phúc không phải là người chưa từng trải qua những thất vọng trong cuộc sống mà là người luôn nhìn nhận những điều đó một cách tích cực, rút ra những bài học cho mình để tự tin bước tiếp. Và khi vượt qua những rào cản đó thì con người càng mạnh mẽ hơn. – Hạnh phúc không chỉ là những điều to lớn mà còn nằm trong những việc gần gũi, giản dị hằng ngày mà đôi khi ta đã vô tâm mà bỏ lỡ. Vì thế, biết cách cảm nhận những rung động từ cuộc sống thường nhật đôi khi lại đem đến những niềm hạnh phúc rất dạt dào. – Bài học: Để niềm hạnh phúc trọn vẹn, mỗi con người nên rèn luyện cho mình một sức khoẻ tốt và một trái tim luôn rộng mở để có thể cảm nhận vẻ đẹp từ cuộc sống một cách tươi mới hơn… Hạnh phúc là cảm nhận rất chủ quan, nên hãy viết về những điều khiến bạn vui vẻ và không hổ thẹn với ai khác nhé!
Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc_ – Văn mẫu lớp 12
2,241
Khi mỗi người trong chúng ta làm một việc tốt, bất kể là việc gì, có ai biết rằng chúng ta đang thể hiện đức hạnh của chính mình. Hay nói cách khác như lời của nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông: “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Mỗi con người khi sinh ra đều có mặt tốt và mặt xấu. Trong mặt tốt, một phần chính là đức hạnh của mỗi người. Đức hạnh là đạo đức, là phẩm chất, là những đức tính tốt đẹp của con người, có sẵn hay phải trải qua quá trình rèn luyện mới có được. Hành động có thể được định nghĩa là những việc làm cụ thể, được bộc lộ hằng ngày, và quan trọng hơn đó là sự thể hiện của đức hạnh. Đó cũng chính là phần còn lại của mặt tốt trong mỗi người. Cả câu nói của nhà văn M. Xi-xê-rông mang ý nghĩa như chính nghĩa gốc của nó. Mọi phẩm chất tốt đẹp cần được thể hiện ở trong những hành động cụ thể. Một người không phải tự nhiên được biết đến là có đức hạnh, mà điều đó còn phụ thuộc vào những việc làm ý nghĩa mà người ấy đã làm. Đơn giản hơn, đó chỉ là những công việc bình thường, như giúp đỡ người già qua đường, nhường chỗ cho phụ nữ và trẻ em trên xe buýt hay biết quan tâm dến người khác và đối xử tốt với mọi người xung quanh. Đó chỉ là những công việc nhỏ hằng ngày được xuất phát từ một tâm hồn trong sáng, luôn hướng về cái đẹp, cái thiện, điều đó sẽ chính là sự thể hiện của đức hạnh. Người ta thường nói rằng: “ Ý nghĩa là nụ Lời nói là bông hoa Việc làm mới là quả ngọt.” Khi ta có ý nghĩa về một việc làm tốt, ta cần nói ra để xem xét. Nhưng không phải là nói suông, ta cần phải thực hiện điều đó. Chúng ta làm điều đó bằng tất cả tấm lòng, biến những điều ấy từ suy nghỉ, lời nói thành vệc làm cụ thể, như vậy mới tạo thành “quả ngọt”. Tuy vậy, vẫn có một số trường hợp cần được xem xét trong từng hoàn cảnh. Nói dối được xem là một hành động xấu và sai. Nhưng trong trường hợp một bác sĩ phải nói dối về bệnh tình của bệnh nhân để người ấy yên tâm tiếp tục điều trị, đó lại là một hành động cao cả. Thế nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều những kẻ thiếu đức hạnh. Họ nói ra những điều lớn lao, cao cả nhưng hành động thì ngược lại, vì thực chất, họ làm vậy vì những mục đích ích kỉ riêng của chính họ. Chúnh ta không loại bỏ họ mà phải làm thay đổi được những con người ấy. Một xã hội tốt đẹp là một xã hội có những con người làm nhiều việc tốt, biết tu dưỡng bản thân, hoàn thiện tâm hồn. Điều đó được xuất phát từ đức hạnh hay cũng chính là sự thể hiện của một con người có mọi phẩm chất tốt đẹp từ đức hạnh. Nhạc sỹ thiên tài người Đức Beettoven có nói “Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác”. Ý kiến đó có còn nguyên giá trị trong cuộc sống của ngày hôm nay?. “Hạnh phúc” chính là cuộc sống tốt đẹp; niềm vui, sự thỏa mãn về mặt tinh thần, tình cảm của con người …. Còn “cao quý” và “tốt đẹp” là những cụm từ có ý tôn vinh ca ngợi. Câu nói “Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác” của Beettoven thể hiện quan niệm sống đẹp ,khẳng định ca ngợi quan niệm sống hướng về cống hiến,vị tha…Trong cuộc sống, ai cũng tìm kiếm hạnh phúc nhưng quan niệm về hạnh phúc của mỗi người khác nhau. Có người coi sự thỏa mãn vật chất, tình cảm của riêng mình là hạnh phúc. Nhưng cũng có không ít người quan niệm hạnh phúc là cống hiến, là trao tặng. Đối với họ, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Beethoven quan niệm như thế. Những người biết sống vì người khác , đem lại hạnh phúc cho người khác , là những người có tấm lòng nhân hậu; có cuộc sống đầy ý nghĩa cao cả , đáng trân trọng…Thật vậy, trong cuộc sống nếu chúng ta đem lại được hạnh phúc cho người khác thì quả là tuyệt vời. Hạnh phúc đó có thể dễ dàng có được khi ta giúp đỡ một cụ giá qua đường, hay nhường chỗ cho một phụ nữ có thai trên xe buýt… Tất cả những điều đó thật đơn giản nhưng đã mang lại hạnh phúc cho người khác, làm mọi người vui vẻ. Và không dừng ở đó hạnh phúc cũng ở lại với chúng ta khi ta làm được một điều tốt đẹp, có ích cho người khác, cho xã hội. Hành động cao quý và tốt đẹp hơn, to lớn hơn chính là hạnh phúc của sự bình yên mà các anh bộ đội, các chiến sỹ Cách mạng đã đem lại cho chúng ta. Tất cả những hy sinh của các anh chỉ để đem lại hạnh phúc cho chúng ta, cho dân tộc. Hạnh phúc ở đây là sự độc lập tự do cho cả dân tộc. Thậ cao quý và tốt đẹp dáng tôn vinh biết nhướng nào! Việc đem hạnh phúc cho người khác thật đơn giản nhưng cũng rất cao quý. Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn nhiều người ngay cả việc nhỏ nhất họ cũng không làm. Một số họ chỉ biết có bản thân, toàn đem lại bất hạnh cho người khác. Trong gia đình, chúng ta cần lên án những người chồng vũ phu, đánh đập vợ con hoặc những đứa com bất hiếu chỉ ăn chơi, thoả mãn nhu cầu cá nhân, làm cha mẹ đau lòng. Tại sao những con người ấy lại nhẫn tâm đem lại sự bất hạnh cho chính những người thân yêu nhất của mình?… Ngoài xã hội, hiên có một lớp thanh niên, thay vì giúp đỡ người giá yếu , họ lại lợi dụng để cướp giất, móc túi… Những kẻ lấy sự bất hạnh của người khác làm hạnh phúc của mình cần đáng bị trừng trị!. “Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác”. Đó là một quan điểm sống mang tính nhân văn. Nếu có một điều ước thì tôi sẽ ước cho tất cả mọi người trên thế giới này đều dược hạnh phúc. Muốn vậy, ngay từ bây giờ mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm thật nhiều điều , dù lớn, dù nhỏ, để đem lại hạnh phúc cho cho mọi người, cho gia đình và cũng là cho bản thân chúng ta…
Anh chị suy nghĩ gì về quan niệm “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”
1,204
Bài cảm nhận của học sinh về tiết kĩ năng sống tại trường THCS Bài làm Ngoài các môn học kiến thức cơ bản như Toán, Văn, Tiếng Anh…. thì môn Kĩ năng sống có vai trò rất quan trọng đối với chúng em – những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. Muốn hiểu biết về thế giới và con người xung quanh chúng ta cần nỗ lực học tập để có được tri thức. Muốn có cuộc sống hạnh phúc và sự hài hòa với mọi người xung quanh, với chính mình thì bên cạnh kiến thức con người cần rèn luyện cho mình kĩ năng sống. Hiểu một cách đơn giản, kĩ năng sống là kĩ năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử, giao tiếp phù hợp với những người xung quanh, khả năng ứng phó trước các tình huống khó khăn trong cuộc sống. Khả năng đó không biểu hiện bằng lời nói mà bằng hành động cụ thể. Ví dụ: Trong học tập, hai nhóm cùng được phân công làm việc. – Nhóm thứ nhất: Người thì làm việc tích cực, người thì không làm việc. Khi tranh luận thì xảy ra cãi vã, dỗi nhau. – Nhóm thứ hai: Tất cả cùng làm việc, thảo luận đưa ra được các ý kiến, cách trao đổi luôn mang tính thiện chí, vì nhiệm vụ chung. Như vậy, nhóm hai đã thể hiện tốt kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm. Ở trường THCS Cao Bá Quát, chúng em được học môn kĩ năng sống với rất nhiều các chủ đề khác nhau như kĩ năng học và tự học, kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ năng thuyết trình…. Trong các giờ học, chúng em được thực hành các tình huống gần gũi, có thực trong cuộc sống. Ví dụ với kĩ năng học và tự học, chúng em tìm hiểu về chu trình học. Từ đó, chúng em phát hiện ra vì sao mình hay quên kiến thức; hoặc tại sao trên lớp hiểu bài mà về nhà lại không làm được bài tập. Trong bài Kĩ năng giao tiếp ứng xử, chúng em hiểu được nguyên nhân và có cách nhìn phù hợp hơn đối với những bạn ngại giao tiếp, hoặc hay nói cộc lốc. Trong giờ Kĩ năng thuyết trình em hiểu hơn về cách dùng ngôn ngữ và biện pháp để tích lũy vốn “ lời hay, ý đẹp” để tăng hiệu quả thuyết trình. Em và các bạn biết giải mã những từ vốn được dùng không phù hợp và biến chúng thành “ngôn ngữ văn minh”. Chúng em hi vọng, trong thời gian tiếp theo sẽ được tiếp tục đến với những giờ Kĩ năng sống đầy bổ ích và thú vị.
Bài cảm nhận của học sinh về tiết kĩ năng sống tại trường THCS
457
Bài viết tri ân thầy cô giáo của học sinh lớp 11 Bài làm Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền Cô và mẹ là hai cô giáo Mẹ và cô ấy hai mẹ hiền. Mẹ tôi là cô giáo đầu tiên trong cuộc đời của tôi. Ngay từ khi còn nhỏ tôi đã được mẹ hát ru bằng những làn điệu dân ca thật ấm áp, gần gũi và thiết tha. Mẹ đã dạy tôi những bài đọc tiếng Việt không bằng kiến thức chuyên môn, tác phong sư phạm mà mẹ đã truyền cho tôi tình yêu xứ sở, quê hương, tình yêu giữa con người với con người chính bằng cuộc sống hi sinh, thầm lặng của mẹ, bằng tình yêu thương con, hi sinh hết lòng vì con và trái tim luôn tận tụy vì gia đình của mẹ . Và tất nhiên, bước đến sau mẹ trong cuộc đời tôi có biết bao nhiêu thầy giáo, cô giáo đã truyền dạy cho tôi những tri thức phong phú của nhân loại, những bài học làm người mà tôi đều vô cùng ghi nhớ, coi trọng và biết ơn. Nhưng có lẽ người giáo viên mà tôi cảm thấy gần gũi, yêu thương và dường như cảm xúc đó khó có từ ngữ nào có thể diễn tả được tình cảm của tôi dành cho cô – người mẹ thứ hai trong cuộc đời của tôi . Đó chính là cô giáo Nguyễn Thị Thúy – cô giáo môn Ngữ Văn và cũng là cô giáo chủ nhiệm của tôi. Thời gian cứ trôi đi âm thầm và lặng lẽ, thấm thoát đã gần hai năm trôi qua. Tôi còn nhớ ngày đầu tiên năm lớp 10 khi được nhà trường giới thiệu cô là giáo viên chủ nhiệm lớp 10A2 của chúng tôi – một lũ học trò nghịch ngợm ngồi phía dưới ồ lên vì sung sướng. Ánh mắt của đứa nào đứa nấy sáng lên và riêng tôi, tôi cảm thấy thích thích là lạ như linh cảm về một cô giáo mà sau này với tôi là một người tiền bối, một người sẽ giúp tôi, chỉ cho tôi tìm lối đi trên con đường tương lai. Cô đứng dậy, theo lời thầy Phó hiệu trưởng giới thiệu về cô. Cô nở một nụ cười thật tươi và đưa tay vẫy chào về phía chúng tôi. Một lúc sau, chúng tôi theo cô vào lớp. Ấn tượng đầu tiên của tôi về cô là cô một con người thẳng thắn, nghiêm túc trong công việc và đặc biệt là rất quan tâm đến học trò của mình. Chỉ mới là buổi đầu tiên gặp gỡ và biết cô là chủ nhiệm lớp 10A2 mà cô trò chúng tôi đã có cảm giác như người quen lâu lắm rồi, cô thân thiện chỉ bảo cho chúng tôi những kiến thức và hành trang để bước vào những năm học cấp ba với bao nhiêu khó khăn, thử thách đang chờ chúng tôi ở phía trước . Cô tâm sự với lớp rất nhiều điều thú vị và bổ ích nữa. Bới vì lớp tôi là lớp khối D đa số nữ nên cô trò cũng dễ gần nhau hơn. Trong những ngày tiếp sau đó, tôi càng hiểu rõ về cô hơn, cô rất nghiêm khắc, có những lúc tôi cảm thấy vô cùng sợ và tự hỏi rằng tại sao cô lại phải nghiêm khắc với chúng tôi như vậy ???. Chúng tôi chỉ mới là học lớp 10 thôi mà cần gì phải nghiêm khắc thế ? các anh chị lớp 12 mới cần phải nghiêm khắc chứ? Nhưng thời gian qua đã giúp tôi trả lời được những câu hỏi ngớ ngẩn trong đầu tôi và cũng nhận ra được rằng cô muốn chúng tôi thành nề nếp từ khi mới bắt đầu, cô chỉ muốn chúng tôi trưởng thành và trở thành một con người tốt sau này, một con người khi sau này có bay ra cuộc đời rộng lớn thì phải tập cho chính bản thân mình một cách sống có nề nếp và trật tự. Cô luôn ở bên cạnh chúng tôi, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trong mọi công việc. Nhiều lần lớp được nhà trường phân dọn vệ sinh trường khi chuẩn bị có dịp lễ gì sắp đến cô đều sẵn sàng hướng dẫn, giúp đỡ cho chúng tôi, thậm chí cô cầm chổi để quét, cầm cuốc để sủi cỏ ,… Và quan trọng hơn là cô cầm viên phấn để viết lên bảng bằng cả tấm lòng với sự tận tình, nhiệt huyết vì những đứa học trò chúng tôi. Thời gian trôi qua và bây giờ tôi đã là học sinh lớp 11. Cô vẫn thế, vẫn cần mẫn, âm thầm lặng lẽ hi sinh vì lũ học trò nhiều lúc đã làm cô phải buồn phiền. Tôi rất yêu quý và nể phục cô vì dẫu cô ốm, mệt hay hôm đó không có tiết dạy nhưng cô không bao giờ bỏ 5 phút đầu giờ trên lớp, để nhắc nhở lũ học trò chúng tôi những việc của hôm nay cần phải làm và kèm theo những lời nhắc nhở đó là một câu nói động viên chúng tôi cho buổi học ngày hôm đó. Thương ánh mắt của cô thật buồn khi những lúc lớp làm cô chưa hài lòng, để cô phải lo lắng, ánh mắt lúc đó của có trĩu xuống … Tôi càng kính trọng cô hơn vì cô luôn là người mẹ công bằng với 48 đứa con nghịch ngợm, mỗi đứa mỗi tính, ương bướng có, lì lợm có … Và đặc biệt là cô luôn đứng về phía học trò chúng tôi để chúng tôi tự tin, vững bước và có đủ hành trang để bước vào cánh của đại học đang chờ đón chúng tôi phía trước . Tôi càng cảm thấy khâm phục cô hơn ở cái cách mà cô góp ý với những khuyết điểm của các bạn một cách tinh tế, cô nói khiến các bạn cảm thấy như cô đang tâm sự cùng mình . Khoảng thời gian gần hai năm qua biết bao nhiêu chuyện, chuyện buồn có, vui có .Và giờ đây, tôi đã là cô bé 17 tuổi , được cô dạy bảo trong suốt thời gian qua, tôi đã cảm thấy mình chững chạc hơn trong mọi vấn đề, từ cách nhìn về cuộc sống, cách suy nghĩ,… Một lần nữa tôi muốn nói rằng tôi mang ơn cô, cô như người mẹ thứ hai trong cuộc đời của tôi. Tôi nhớ đến câu hát mà mỗi lần mẹ tôi thường ngồi một mình làm việc và ngân nga, câu hát trong bài Người thầy: Người thầy, vẫn lặng lẽ đi về sớm trưa Từng ngày, giọt mồ hôi rơi nhòe trang giấy Để em đến bên bờ ước mơ… Cảm ơn cô, một người rất đặc biệt trong tim con… con yêu cô và yêu mái trường Nguyễn Trãi này rất nhiều. Con cũng như các bạn nếu sau này có bay ra đời sẽ chẳng bao giờ quên được nơi này – nơi đã chắp cánh cho con những ước mơ bay xa.
Bài viết tri ân thầy cô giáo của học sinh lớp 11
1,220
Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mĩ nhân không nên thấy chết yểu. Trông hoa nên thấy hoa nở, đón trăng nên thấy trăng tròn, viết sách nên viết cho xong, mĩ nhân nên thấy vui vẻ, sung sướng, nếu không thì uổng công. Ngắm đàn bà buổi sáng, nên đợi lúc phấn son xong. Có những bộ mặt xấu mà dễ coi, có những bộ mặt không xấu mà khó coi; những áng văn viết không thông (mẹo) mà khả ái, có những áng văn viết thông đọc rất chán. Điều đó, không dễ gì giảng cho hạng nông cạn hiểu được. Lấy lòng yêu hoa mà yêu mĩ nhân thì tất cả có cái thú riêng; lấy lòng yêu nhân mà yêu hoa thì thêm cái thâm tình và thêm lòng nâng niu thương tiếc. Mĩ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói; hoa hơn mĩ nhân ở chỗ tỏa hương. Nếu không được cả hai thì bỏ hương mà lựa biết nói. Thường hoa đẹp thì không thơm, cánh nhiều tầng thì không trái. Gọi mĩ nhân thì mặt đẹp như hoa, tiếng nói như chim, tinh thần như trăng, vẻ như liễu, xương như ngọc, da như băng tuyết, dáng như nước thu, lòng như thơ, không còn chỗ nào chê cả. Trong thiên hạ không có sách thì thôi, có thì phải đọc; không có rượu thôi có thì phải uống; không có núi đẹp thì thôi, có thì phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, có thì phải mến yêu, thương tiếc. Người đàn bà xấu không cho gương là thù địch vì nó là vật vô tri, nếu gương mà hữu tri thì tất đã tan tành rồi. Mua được một chậu hoa đẹp còn nâng niu thương tiếc, huống là đối với với “một hoa biết nói". Không có thơ thì rượu sơn thủy cũng vô nghĩa; nếu không có đàn bà đẹp thì trăng hoa cũng vô ích. Tài tử mà lại đẹp, giai nhân mà lại biêt làm văn đều là không thọ được. Không phải chỉ vì tạo vật đố kị, mà còn vì hạng người đó không phải bảo vật của một thời, mà là bảo vật cổ kim vạn đại, cho nên tạo hoá không muốn cho lưu lại lâu trên đời mà hoá nhàm. Lâm Ngữ Đường (Trung Quốc) Nguyễn Hiến Lê dịch
Bàn về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội
393
Con người sinh ra và lớn lên, họ luôn đối diện với nhiều cung bậc cảm xúc, nhiều trạng thái khác nhau trong cuộc sống. Xót xa là một cảm giác đau đớn, nuối tiếc vô cùng sâu sắc. Còn im lặng tức là không có hành động hay phản ứng cụ thể trước những tình huống, sự việc đáng lẽ cần có thái độ, có phản ứng. Sự im lặng ấy trở nên đáng sợ khi nó là một biểu hiện bất thường trong cách ứng xử của con người có thể gây ra cảm giác bất an cho người khác. Thực tế, chúng ta sống trong một xã hội luôn tồn tại hai loại người: kẻ xấu là người kém đạo đức, đáng khinh ghét, có thể gây hại, mang lại những điều không hay. Lời nói và hành động của họ đều không phù hợp với các quy tắc chuẩn mực đạo đức, làm tổn thương người khác và có những tác động tiêu cực đến xã hội. Ngược lại, người tốt luôn có những biểu hiện đáng quý về tư cách đạo đức, về thái độ hành vi trong các mối quan hệ và được mọi người đánh giá cao. Như vậy, thông qua câu nói của mình, Martin Luther King muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp sâu sắc: Nỗi đau đớn nuối tiếc do những lời nói và hành động của người xấu không xót xa bằng việc người tốt không có hành động thái độ hay bất kì phản ứng nào trước việc làm sai trái ấy. Khi còn nhỏ, ta không mấy khi quan tâm đến những thứ xung quanh mình mà chỉ thường quan tâm tới chính bản thân: Hôm nay sẽ được ăn món gì, sẽ học gì, sẽ có phim hoạt hình gì, có truyện tranh gì sắp ra… Lớn lên một chút, bước vào tuổi biết nghĩ, ta thấy bạn bè quay cóp trong giờ kiểm tra trong khi chính mình phải học cật lực, ta thấy bãi gửi xe gần trường thu 3.000 đồng một chiếc xe đạp trong khi đó quy định là 2.000 đồng. Rồi ta còn thấy người ta vượt đèn đỏ, lượn lách đánh võng, thấy đám côn đồ dối trá, lừa lọc bà cụ bán nước ven đường. Chứng kiến những hành động như thế, thử hỏi ai mà không bất bình? Bởi lẽ, những hành động ấy là biểu hiện của sự thấp kém về nhận thức và ý thức, nó gây ra những tổn thất cả về vật chất và tinh thần cho mọi người và xã hội. Hơn thế nữa, sự tồn tại của những lời nói và hành động của kẻ xấu cũng là biểu hiện của sự bất ổn của xã hội ở một mức độ nhất định. Xót xa trước hành động của người xấu là lẽ tất nhiên. Nhưng tại sao chúng ta lại xót xa hơn trước sự im lặng đến đáng sợ của người tốt? Trong suy nghĩ của mọi người, người tốt luôn có tư cách đạo đức, có khả năng và trách nhiệm trong việc thực hiện những hành vi đem lại lợi ích cho cộng đồng xã hội. Với phẩm chất vốn có ấy, họ không thể nào không có phản ứng trước cái xấu, cái tiêu cực, những điều “chướng tai gai mắt” trong xã hội. Vậy nên, thái độ im lặng của họ chính là một biểu hiện bất thường. Sự im lặng ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Họ im lặng bởi họ bất lực khi thấy phản ứng của mình không hề có hiệu quả. Họ im lặng khi cảm thấy cô độc, lạc lõng vì những việc tốt mình làm không nhận được sự ủng hộ của số đông. Chăm lo làm kinh tế khiến đời sống khá giả, nhưng mê mải quá nhiều lại đẩy người ta ra xa nhau hơn, lo cho lợi ích của mình hơn là lợi ích người khác. Có rất ít người sẽ la lên khi thấy một tên trộm đang trộm xe trên vỉa hè hay đứng ra bênh vực nạn nhân trong một vụ va chạm trên đường phố – nhất là kẻ gây sự lại là đám côn đồ, lưu manh. Người tốt im lặng khi họ mất niềm tin, khi họ thấy kết quả của những lời nói, hành động xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm lại trở thành sự coi nhẹ, chế nhạo của người khác, thậm chí còngây ra những tổn thương không đáng có cho chính họ. Quay trở lại câu chuyện của anh thanh niên trên chuyến xe buýt không ít người cảm thấy buồn và xót xa. Xung quanh đó có rất nhiều người đang chờ xe, nhưng đáp lại lời khẩn cầu của anh thanh niên là sự im lặng. Cuối cùng người đàn ông bơ vơ đành phải bước đi với gương mặt tuyệt vọng. Rõ ràng, muốn bắt tên trộm kia không phải là chuyện khó. Tài xế đóng cửa xe lại, yêu cầu tất cả mọi người bảo quản hành lí, gọi điện cho cơ quan chức năng khám xét từng người. Nhưng sao không ai dám lên tiếng? Phải chăng chúng ta không dám bênh vực người lương thiện, phải chăng nỗi sợ hãi cái xấu, cái ác đang giết chết dần lương tâm chúng ta? Xét cho cùng, im lặng vì bất kì lí do nào đi nữa thì đó cũng là biểu hiện của sự tha hóa ở mỗi cá nhân và cho thấy dấu hiệu bất ổn của xã hội. Nói cách khác, khi người tốt im lặng là khi xã hội đang đứng trên bờ vực của sự phá sản những giá trị tinh thần. Vậy làm thế nào để người tốt không im lặng nữa? Hãy trao quyền và khuyến khích người tốt cất lên tiếng nói của mình bằng cách lắng nghe tiếp thu ý kiến và sẵn sàng sửa đổi theo những ý kiến đóng góp đúng đắn của họ. Hãy đưa ra những chính sách bảo vệ để tránh tối đa những tổn thất mỗi khi người tốt cất tiếng nói.Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể đứng lên bảo vệ chính nghĩa, ủng hộ cái tốt điều hay, bởi có thể cá nhân ấy không đủ sức mạnh. Nhưng không có nghĩa chúng ta phải thỏa hiệp với cái xấu, cái ác. Bởi ngay cả khi không đủ sức mạnh để thay đổi nó, ta vẫn luôn có đủ quyết tâm để không đồng tình và không bị nó lôi kéo. Chúng ta đang sống trong một xã hội mà những mối quan hệ với cộng đồng đã trở nên không thể thiếu. Không ai có thể đơn độc trong cuộc sống được, vì vậy, trong quá trình đấu tranh chống lại cái ác, cần xây dựng những hiệp hội của những người cùng chí hướng mục đích để phấn đấu cho sự phát triển chung của xã hội, để người tốt có chỗ đứng và điểm tựa. Khi đó họ sẽ không ngần ngại bày tỏ ý kiến quan điểm của mình. Tất cả những gì chúng ta cần làm là sống dũng cảm, là làm những điều tốt đẹp cho cuộc sống, và để nó tự nhân bản. Ý kiến của Martin Luther King là một lời cảnh báo nghiêm khắc để cảnh tỉnh con người trước nguy cơ về sự băng hoại của những giá trị tinh thần, biểu hiện những hành vi ứng xử của con người trong đời sống. Có người đã nói: “Lùi bước cho cái xấu cũng là một tội ác”. Hãy nhớ rằng, cái xấu chỉ mạnh khi nó thấy cái tốt dường như đồng tình với nó. Và nó sẽ bị rút hết không khí và tắt thở khi chúng ta nhìn nó với ánh mắt khinh miệt và xa lánh. Đây là một ý kiến thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển chung của toàn xã hội. Đó cũng là một thái độ đúng, tích cực, xuất phát từ nhận thức về yêu cầu đối với hành vi của con người trong một xã hội tiến bộ, nhân văn. Khi đơn độc một mình, người tốt sẽ trở nên yếu đuối, nhu nhược và thất bại cay đắng. Họ chỉ đủ mạnh khi họ kết nối với nhau trong một tập thể, trong một xã hội biết coi trọng giá trị nhân văn đích thực của con người. Trước sự im lặng của người tốt, xót xa là điều khó tránh song điều đó là chưa đủ mà ta còn phải hành động, phải có những giải pháp tích cực để thay đổi hiện trạng đó trong mỗi cá nhân con người và toàn xã hội. Mỗi chúng ta luôn mong muốn xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, mà ở đó con người được sống trong yên vui hạnh phúc. Hãy coi câu nói của Martin Luther King là một bài học, hãy xắn tay áo lên và hành động ngay từ hôm nay, bắt đầu từ những việc nhỏ bé nhất mà chúng ta có thể. Tôi tin rằng điều đó không phụ thuộc vào tuổi tác, mạnh yếu hay giàu nghèo, mà bất kì ai cũng làm được. Đừng bao giờ thỏa hiệp và làm ngơ trước cái xấu, bạn nhé!
Bàn về sự im lặng đáng sợ của người tốt
1,577
Trong kho tàng cao dao dân ca Việt Nam thì con cò được biết đến như một hình ảnh biểu tượng cho người nông dân chân lấm tay bùn và thân phận của người phụ nữ. Những câu ca dao về con cò luôn vang lên mãi trong kí ức của mỗi người về lời ru của bà, lời hát của mẹ. Và bài thơ “con cò mà đi ăn đêm” là một tác phẩm xuất sắc do dân gian sáng tạo ra có sức suy ngẫm triết lí cao. Con cò là một hình ảnh thân thuộc trên những cánh đồng miền quê”cánh cò bay lả bay la”, là người bạn thân thiết của nhà nông, miệt mài mò mẫm kiếm ăn tối ngày. Chính cánh cò từ nhiều năm qua đã ăn sâu vào tiềm thức, vào tâm hồn của tuổi thơ qua lời ru êm ái của mẹ.Và trong bài thơ “ con cò mà đi ăn đêm cũng mang một ý nghĩa như thế” “Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” Rõ ràng đây là một cách nói ngược, bởi vì trong tiềm thức của người dân thì chỉ có con vạc mới đi ăn đêm chứ không phải là con cò. Sự trái ngược này như một sự kết nối sự nhận định trái ngược về tính chất và thuộc tính của nó. Ở đây thì việc ăn đêm không chỉ là phản ánh động thái mà người dân con quan niệm như một tính chất nhằm nói lên sư gian truân vất vả của con cò trong cuộc sống, nó phải đi kiếm ăn cả ban ngày lẫn ban đêm. Câu thơ “đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” lại là một nghịch lí bởi con cò thường chọn những cành cây thanh mảnh và cao để đậu và bám chân vào , nghịch lí bởi khi đậu hay khi bay cò không bao giờ có tư thế lộn cổ như một số loài chim khác, vậy mà… lại có câu tiếp theo : “Ông ơi ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng” Khi bị lộn cổ uống ao rồi còn cầu xin con người rủ lòng thương , bình thường thực tế thì con cò yếu đuối mảnh mai cho nên gặp người là bay đi vì chúng sợ săn bứt. Ngay trong tình thế này nó cũng tìm cách để lên tiếng, đúng là ngược đời. Là một con vật nhưng khi ở trong tình thế này lại chỉ đường mách nước cho ông đang sắp bắt nó, đúng là nghịch lí ở đời mà. Đã thế lại còn yêu cầu người ta thịt mình thì thịt cả : “Có xáo thì xáo nước trong Chớ xáo nước đục đau lòng cò con” Theo như quan niệm của dân gian thì nước xáo của con cò thường có màu trong vì nó gầy không có mỡ cũng không có nhiều chất, có làm thế nào cũng không thể trong được nữa, vậy mà nó lại nói có xáo thì xáo nước trong, đúng là quá nghịch lí phải không nào. Hơn nữa cò là một loài vật thường hay mò mẫm trong những vũng nước đục chứ có sạch bao giờ đâu. Đó là cách nói ngược khiến cho câu thơ thêm phần vui nhộn và độc đáo. Đó là sự hóm hỉnh hài hước của những người nông dân xưa, tuy lao động mệt nhọc nhưng vẫn không hề quản ngại, lấy niềm vui bầu bạn xua tan mệt mỏi. Con cò được nêu lên trong bài ca dao được ví giống như thân phận yếu đuối của người phụ nữ. Đó còn là hình ảnh chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam xưa. Bài ca là một câu chuyện khá hay và hài hước, lấy con cò làm nhân vật trung tâm để liên hệ tới hình ảnh và số phận vất vả của người dân lao động thời bấy giờ và người phụ nữ xưa. Đó chính là tấm gương trong sáng cho thế hệ con cháu noi theo.
Bình giảng bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm..
684
Trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam ngoài những bài thơ nói về cuộc sống của người dân lao động vất vả nhưng luôn có niềm vui ,thì bên cạnh đó còn có những bài ca dao nói về tình yêu đôi lứa. Nổi bật trong đó phải kể đến nhất đó là bài ca dao rất đỗi thân thương mộc mạc chân thành nhưng không đến được với nhau , đó là bài ”trèo lên cây bưởi hái hoa”. Bài thơ kể về chuyện tình cảm động của một đôi trai gái yêu nhau nhưng lại không có duyên đến với nhau. Hai câu thơ đầu mở ra trước mắt chúng ta thật mộc mạc và chân thành đó là : “Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân” Có thể hiểu được đây là hành động gian khổ của chàng trai khi phải trèo lên rồi lại bước xuống thềm nhà để hái hoa bưởi rồi hái nụ tầm xuân. Trèo lê cây bưởi hái hoa chủ yếu nhằm gợi hứng và có tác dụng đưa đẩy bắt vần rất khéo léo. Chắc hẳn có rất nhiều người tò mò vì hành động của chàng trai, tạo sao lại không làm việc khác mà lại đi hái hoa ? nhưng khi chúng ta hiểu được rõ tâm ý của nhà thơ thì chúng ta mới thấy được cái hay của nó. Thực chất đây chỉ là một hành động trong tâm trí, trong tưởng tượng của chính nhà thơ hay đó là những hành động trong tâm trí của chàng trai để chống lai sự nhớ nhung của mình giành cho cô gái. Trước hết chúng ta thấy được rằng nụ tầm xuân là một loài hoa họ với hoa hồng mộc hoang dại, nó được biết đến là một loài hoa có màu trắng nhưng ở đây nụ tầm xuân lại có màu xanh “nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” màu xanh ấy phải chăng là màu xanh của những chàng trai si tình, màu xanh của hi vọng nhưng cuối cùng người con gái người anh yêu thương đã đi lấy chồng. Từ “xuân” trong “nụ tầm xuân” gợi mở cho người đọc về một tuổi trẻ, hoài niệm về thời thơ ấu “Chạm vào một nhánh Tầm Xuân, Vẫn xanh biếc nụ, vẫn ngần ấy hương. ” Người con trai si tình ấy bất lực khi người con gái mình yêu thương đã đi lấy chồng, điều đó càng khẳng định được rõ ràng ở trong những vần thơ” Em đã có chồng anh tiếc lắm thay”, đây như một lời than thân của chàng trai, câu thơ hiện lên một cách cao đẹp của chàng trai si tình, biết buồn tủi cho thân phận mình, tiếc vì không được cưới người mình yêu. Tiếp theo chúng ta thấy rõ được đến lượt cô gái giãi bày tâm trạng của mình. Những lời nói giống như đang trách móc và than thở nhưng vẫn dùng những lời nhẹ nhàng: “Ba đồng một mớ trầu cau Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không” Cô gái trách móc chàng trai pha chút giận hờn nhưng cũng không hề nặng lời mà nhẹ nhàng tình cảm.Chỉ ba đồng một mớ trầu cau thế mà chàng trai lại không mua làm tan vỡ hết tất cả những dự định của hai người. Thì ra đến đây chúng ta mới hiểu rõ được hai người yêu nhau nhưng vì chàng trai không ngỏ lời cho nên cô gái đã đi lấy chồng,làm vợ người khác và bây giờ không còn là ngày xưa nữa. “Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng, như cá cắn câu Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thuở nào ra” Chim vào lồng, cá cắn câu ý nói người phụ nữ khi đã lấy chồng rồi thì không thể tự do đươc nữa, cũng không thể gặp gỡ hẹn hò. Hoa đã có chủ thì không thể thay đổi được gì . Câu thơ trên đã nêu lên thực tại của người con gái khi đã về nhà chồng chỉ biết cam chịu theo số phận chứ không thể làm được gì hơn. Hai câu”như cá cắn câu, như chim vào lồng” diễn tả một cuốc sống sau khi về nhà chồng giống như bị bó hẹp. Và hai câu cuối cùng như một câu hỏi tu từ giống như hai người vẫn đang còn quyến luyến nhau không nỡ xa rời. Câu hỏi cuối bài thơ cũng chính là câu hỏi của những người phụ nữ ở xã hội thời phong kiến xưa mà không có lời giải đáp .Từ nỗi đau đó hiện lên một lễ giáo phong kiến khắt khe nghiệt ngã , đằng sau đó là niềm khát khao tha thiết cháy bỏng về một tình yêu thực sự.
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa…
808
Trong kho tàng Ca dao dân ca của Việt Nam rất phong phú, những câu ca dao dân ca luôn hiện hữu trong lời ru của bà, lời hát của mẹ từ thủa mới lọt lòng.Trở về với ca dao làm chúng ta cảm thấy được hình ảnh cũng như cũng cách về tình cảm của con người rất đỗi mến thương của ông cha ta từ thủa ấy. Và bài ca dao tát nước đầu đình là một trong những bài thể hiện rõ nhất về tình cảm mộc mạc chân thành của ông cha ta. Bài ca dao bắt đầu từ những lời thơ giản dị và gần gũi với đời thường. Đó cũng chính là hoàn cảnh hay là cái cớ để chàng trai có thể bày tỏ tình cảm của mình đối với cô gái mà mình đang yêu. Qua câu thơ chúng ta lại càng thấy tình cảm lứa đôi hiện lên ở chốn thôn quê thật mộc mạc, giản dị,yên bình với những câu thơ mộc mạc chân tình nhưng cũng không kém phần thi : “Hôm qua tát nước đầu đình Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen. Có được thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà ? Áo anh sứt chỉ đường tà, Vợ con chưa có, mẹ già chưa khâu, Áo anh sứt chỉ đã lâu. Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng” Hiện lên đầu bài thơ là hình ảnh tát nước đầu đình quá quen thuộc, mang hơi thở chốn thôn quê. Đó là một nét đẹp truyền thống và bây giờ nét đẹp đó lai được xuất hiện trong bài ca dao này. Hình ảnh đôi trai gái tát nước ở gần nhau và chàng trai lấy cớ bỏ quên chiếc áo trên một cành hoa sen, rằng kêu nếu cô gái kia nhặt được thì cho anh xin lại. Chiếc áo giống như một vật để làm tin, nó cũng được xuất hiện trong cả một câu ca dao khác đó là “ Yêu nhau cởi áo cho nhau- Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”. Tình cảm ấy không thể lấy vàng bạc hay là châu báu ra để đo lường được, tình yêu của họ lan ra cả mái đình, đẹp đẽ và nhẹ nhàng thắm thiết biết bao nhiêu. Tình yêu đó không hề nhuốm màu danh lợi giống như bông hoa sen thơm ngát tinh khiết kia. Nếu như ở thời hiện đại để làm tin thì có nhẫn bạc, vòng vàng còn ngày xưa chỉ cần một chiếc áo màu nâu đất sờn vai đã là một kỉ vật to lớn lắm rồi. Bằng hoàn cảnh ấy ,chàng trai bắt đầu bày tỏ tình cảm của mình một cách hóm hỉnh mà không để mất lòng một cô gái nào. Chàng trai đã mượn hình ảnh áo sứt chỉ để nói lên hoàn cảnh của mình, và nói mẹ già chưa may là ý bảo mình chưa có vợ , nếu mà mẹ chưa may thì chắc chắn chưa có ai may cho.Anh chàng này đang ngỏ lời để mong có người bầu bạn sớm khuya nâng khăn sửa túi cho mình Như vậy qua đó chúng ta thấy được tình yêu nam nữ thời xưa thật đẹp thật đúng nghĩa với người làng quê. Tình yêu ấy xuất hiện từ mái đình, từ đường làng ngõ xóm. Và chính kỉ vật làm tin đó cũng rất tự nhiên và đơn giản biết bao . Trước những lí do đặc biệt ấy, chàng trai đã tiếp tục mạnh dạn gạ gẫm tán tỉnh cô gái bằng một thứ tình cảm chân thành không hề có vụ lợi "Khâu rồi anh sẽ trả công Đến lúc lấy chồng, anh sẽ giúp cho, Giúp cho một thúng xôi vò Một con lợn béo, một vò rượu tăm, Giúp cho đôi chiếu em nằm, Đôi chăn em đắp, đôi chằm em đeo, Giúp cho quan tám tiền cheo, Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau…” Từ những lời tán tỉnh ấy càng cho chúng ta thấy được rằng đó là những lời hẹn hò của chàng trai dành cho cô gái.Hẹn hò một cuộc sống tuy không giàu sang nhưng cơ đầy đủ cơm ăn áo mặc . Ngày xưa ông cha ta yêu nhau không bao giờ nói từ anh yêu em hay em yêu anh bởi vì họ ngại ngùng,bẽn lẽn . Đó chính là nét đẹp của chốn thôn quê, rõ ràng người con trai thích nhưng lại không nói nên lời. Chàng trai ấy tỏ tình một cách tế nhị nhưng lại rất hóm hỉnh. Mượn hình ảnh của chiếc áo ngỏ ý khâu cho anh rồi anh sẽ trả công bằng một đám cưới.Một đám cưới bao gồm xôi vò, lợn béo, rượu tăm rồi đến cả đôi chiếu mà em nằm, đôi chăn em đắp đều được hiện ra trước mắt. với những hình ảnh chân quê và mộc mạc ấy nó đã thể hiện một cách sâu sắc cái hồn của làng Việt. Như vậy qua đó chúng ta có thể thấy được rằng trong bài ca dao đã thể hiện được một cách rõ ràng về tình yêu của chàng trai với cô gái, đồng thời qua đó cũng thấy được những nét đẹp ở miền quê ,tình yêu đó được diễn tả qua những mái đình, với ao làng, với công việc lao động hằng ngày, thật đáng quý biết bao phải không nào.
Bình giảng bài ca dao Tát nước đầu đình
905
Trần Tuấn Khải (1894 – 1983) bút danh chính là Á Nam; ngoài ra còn các bút Hiệu khác: Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền, Xử Sĩ, Giang Hồ Tản Nhân…Ông là một trong những nhà thơ cùng thời với thi sĩ Tản Đà. Thơ của Trần Tuấn Khải mang nội dung yêu nước và nỗi niềm tâm sự bất đắc chí của một tâm hồn yêu đời, yêu quê hương nhưng rồi buồn chán vì bất lực. Giọng thơ du dương thiết tha cứ quyện lấy vương vấn hồn người. “Gánh nước đêm” là một ví dụ điển hình. "Gánh nước đêm" sáng tác năm 1917, in trong tập "Duyên nợ phù sinh" (1921) chứa chan nặng tình non nước. Bài thơ mượn chuyện một cô gái gánh nước vào đêm khuya để qua đó kín đáo gửi gắm tâm sự của nhà thơ đối với những chiến sĩ cách mạng, những vị anh hùng dân tộc. Qua đó thức tỉnh tinh thần yêu nước, bảo vệ dân tộc. Bài thơ nói lên tâm sự của người phụ nữ gánh nước giữa đêm khuya thanh vắng, đường sá xa xôi, đòn gánh nặng oằn trên đôi vai bé nhỏ. Hình ảnh người phụ nữ càng lúc càng khuất dần trong màn đêm bủa giăng thật cảm động. Nhưng chỉ hiểu nội dung bài thơ một cách đơn giản như thế thì cái hay của bài thơ sẽ không trọn vẹn. Đối chiếu với hoàn cảnh lịch sử nước ta lúc bấy giờ, bài thơ này sáng tác năm 1917, cách mạng nước ta lâm vào tình trạng khó khăn, bế tắc, nhiều chiến sĩ cách mạng bị đàn áp dã man. Cụ thể, khởi nghĩa của binh lính Huế (1916) do Thái Phiên và Trần Cao Vân cầm đầu đã thất bại. Vua Duy Tân bị giặc bắt và bị đày ra đảo Rê-uy-ni-ông ở châu Phi. Thái Phiên và Trần Cao Vân bị xử tử. Ngay năm 1917, cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Đội Cấn cầm đầu nổ ra đêm 30, rạng sáng ngày 31 – 08 – 1917 thất bại. Đội Cấn tự sát. Khi đó, Nguyễn Ái Quốc, đang bôn ba khắp châu Phi, Mỹ, Âu để tìm đường giải phóng cho dân tộc. Đến tháng 12 – 1917, Nguyễn Ái Quốc mới trở lại Pháp. Đầu tiên, xét về nghĩa tường minh, bốn câu đầu mở ra một không gian "xa tít", "mù mịt", sông thì rộng, trời thì khuya. Tương phản với cảnh tối tăm, bao la… ấy là chỉ có một mình "em", một mình cô gái. Càng trở nên bé nhỏ, cô đơn và lẻ loi. Cảnh khuya vắng vẻ, thân gái dặm trường, càng nghe rõ tiếng "kĩu kịt" của đòn gánh. Câu thơ bốn tiếng, nhịp thơ gấp như tiếng thở hồi hộp, lo âu của người con gái gánh nước đêm: "Em bước chân xa Con đường xa tít Con sông mù mịt Nặng gánh em trở ra về…" Đến 2 câu thơ tiếp theo, đột nhiên số từ được mở rộng dần đến 10 từ, 12 từ: "Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai". Bóng tối như bủa vây, vì sông rộng và nước sâu, nước lại cạn thì việc gánh nước càng nhiều khó khăn hơn. Cử chỉ "ngoảnh cổ trông", biểu lộ nỗi cô đơn, lẻ loi, trông đợi, kiếm tìm. Sự "nặng nề" đôi vai là do hoàn cảnh, nên "em dám kêu ai"', than mà chẳng hề dám trách. Hình ảnh cô gái gánh nước đêm khuya chính là hình ảnh người yêu nước, người làm cách mạng thời bấy giờ; gặp nhiều khó khăn, lẻ loi, tận lòng trung hiếu. Đó là cảm nhận của Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông đã dành nhiều cảm thương cho họ. Con đường cứu nước những năm bài thơ ra đời thật mù mịt và xa xôi biết mấy: “Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời, Con dã tràng lấp bể biết đời nào xong?” Biết bao tấm gương ái quốc nhiệt thành, bao chí sĩ dứt bỏ gia đình quê hương, ôm chí lớn lên đường. Họ là những con người phi thường "đội đá vá trời", nhưng chí lớn không thành chẳng khác nào công con dã tràng xe cát lấp bể. Cảm hứng thơ khơi nguồn từ thần thoại, ca dao, cho ta nhiều liên tưởng về một sự đánh giá: "nghĩ tiếc công", "Biết đời nào xong?”. Đó là sự trân trọng, cảm phục, biết ơn, lo âu. Màu sắc bi quan thời cuộc bao trùm vần thơ: “Nước non gánh nặng, Cái đức ông chồng hay hỡi, có hay? Em trở vai này…!. Mặc dù sông rộng, trời khuya, em vẫn dấn thân "em trở vai này”. Hai câu cuối mang tính hàm ẩn. Đó là một câu hỏi có giá trị thức tỉnh . Những ai đó, những "đức ông chồng" còn "ngủ yên trong đời chật" hãy biết rằng gánh nước non vô cùng nặng nề, vẫn còn đó, sao lại nỡ để "Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng…" Lời thơ giản dị mà ý tứ sâu xa. Từ hình ảnh một chị nhà quê gánh nước đêm tha thẩn tâm sự lại nói đến nỗi nặng lòng vì gánh nước non mà những khi đêm khuya khoảng vắng lại có tiếng thở dài não nuột. Đó mới chính là cái tài của Á Nam Trần Tuấn Khải. Bài thơ như một tiếng thở dài, nhưng dù than thở đấy, người đàn bà ấy vẫn không hề bỏ cuộc, không vứt bỏ gánh nước mà chỉ kiên nhẫn “em trở vai này” để rồi tiếp tục bước đi. Cũng như tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam với bao phong trào yêu nước, đâu có bị kẻ thù đàn áp cũng không bao giờ bị dập tắt. Và như những "đức ông chồng" lúc nào cũng có thể ghé vai đỡ đần cho vợ, nghiệp cứu nước không bao giờ là muộn vẫn chờ đợi mọi người. Chính điều này khiến bài thơ bi mà không lụy! Thông qua hình ảnh ẩn dụ của người con gái gánh nước đêm, Trần Tuấn Khải đã rất thành công trong việc khéo léo thể hiện tâm trạng, nỗi lòng lo lắng trước thế sự rối ren của nước nhà. Tuy rằng cái nhìn của nhà thơ về vận mệnh nước nhà có phần u uất nhưng không hề tiêu cực, mất niềm tin. Không những vậy còn có giá trị thức tỉnh đáng trân trọng.
Bình giảng bài thơ Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải
1,095
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy. Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"… và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử. Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường: "Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí bóng xuân sang". Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế! Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta. Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà th ơ thì mùa xuân ào đến: "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, Bao cô thôn nữ hát trên đồi". Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng" như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)… Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời", trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự "chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát: "Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây Thầm thì với ai ngồi dưới trúc Nghe ra ý vị và thơ ngây". Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy. Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây", lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một "mùa xuân chín". Và còn có tiếng thầm thì "thầm thì với ai…" dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ ngây…". Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân "đang chín" dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn: "Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi". "Đám xuân xanh ấy" là các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" (Xuân Diệu). Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…". Một nét bút truyền thống cổ điển "xuân hướng lão" xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn. Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức: "Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một không gian cụ thể: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế. "Mùa xuân chín" là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. "Mùa xuân chín" lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, "sực nhớ… " và "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"…
Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
1,741
Yêu là cảm xúc rất khó diễn tả. Mỗi chúng ta ai cũng đã từng ít nhất 1 lần biết yêu là gì? Và Xuân Quỳnh đã rất chân thành chia sẻ những trải nghiệm đáng quý ấy, khi viết lên bài thơ SÓNG đầy cảm xúc này. Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ đang trong độ tuổi hai mươi. Tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mẻ, luôn rực cháy chất trẻ trung mănh liệt, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể. Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Chúng cùng phản ảnh các khía cạnh tương phản dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ tạo nên một cái nhìn bao quát về sóng. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Cùng hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đỉnh của chính mình. Trên hành trình ấy, điểm xuất phát của sóng tưởng chừng đã được lí giải rõ ràng: sóng bắt đầu từ gió. Nhưng rồi những băn khoăn cứ nối tiếp cho đến lúc không thể giải đáp (và cũng không cần giải đáp) bằng lí trí, đó cũng là lúc tầng tầng lớp lớp nghĩa của sóng hiện ra: con sóng của biển khơi tạo ra sóng thơ, con sóng thơ dào dạt của tâm hồn làm xuất hiện con sóng của tình yêu bất tận. Và khi đã thành sóng tình thì không bao giờ có thể lí giải dược khi nào ta yêu nhau? Những liên tưởng điệp trùng dào đạt đã nối kết dược con người với không gian biển khơi. Gắn với thế giới riêng tư của Anh và Em là cặp hình ảnh sóng – bờ: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức. Con sóng Xuân Quỳnh sâu kín, tinh tế trong một nỗi nhớ cháy lòng của tình yêu. Nỗi nhớ gói gọn trong thời gian của một ngày đêm nhưng đủ sức dồn nén dung lượng tình yêu của cả một đời người. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lí trong mơ còn thức. Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, không khoanh vùng địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy bằng tất cả sự nhạy cảm của lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho một cái tôi của con người luôn vững tin ở tình yêu. Hành trình Tình Yêu cũng là hành trình tự thử thách của lòng kiên trì bền bỉ để đạt mục đích của mỗi một cá nhân. Với Xuân Quỳnh thì cái nhìn về cuộc đời của chị thật nhân hậu và nồng nàn: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ. Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Hình ảnh Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường: trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biên lớn. Mỗi một quan hệ riêng tư sẽ làm đẹp thêm cho lẽ sống thời đại "Người yêu người, sống để yêu nhau" (Tố Hữu). Nó không chỉ là tinh thần của con người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tâm lòng luôn tha thiết với sự sống, với tình yêu. Trong biển lớn tình yêu cuộc đời hôm nay, đã có biết bao con sóng đã tới bờ, đang tới bờ và tìm về bờ, bến đậu của đời người. Tình yêu vẫn luôn luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi, để mọi người đi tìm những lới giải đáp cho ẩn số tình yêu trong một hành trình tìm kiếm không mệt mỏi. "Sóng" của Xuân Quỳnh vẫn vỗ những nhịp yêu thương, giúp những người đang yêu thêm tự tin vào chính mình. Hãy cứ yêu đi, yêu hết mình và cuồng nhiệt! Bởi yêu là 1 trải nghiệm cực kì thú vị trong cuộc đời mỗi con người.
Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
852
Bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên được rút ra từ tập thơ “Ánh sáng và phù sa”, là một trong những thành tựu xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945. Bài thơ là tiếng lòng của một người con, người chiến sĩ, là lòng biết ơn, tình yêu, sự gắn bó với nhân dân, với đất nước của một tâm hồn thơ đã tìm thấy con đường soi sáng cho những tác phẩm của mình – đó là đời sống nhân dân và đất nước. Bài thơ có một lời đề từ bằng khổ thơ bốn câu: “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu” Cả Tổ quốc đều rộn ràng, nhộn nhịp xây dựng cuộc sống mới cùng Tây Bắc. Không cần ở tại nơi ấy, cùng bà con xây dựng đất nước, những một lòng vẫn nhớ về Tây Bắc, Tây Bắc luôn ở trong tim. Lời đề từ của bài thơ như tiếng lòng của một người con đã đi xa nhưng trong lòng vẫn luôn hướng về Tây Bắc. Bài thơ mở đầu bằng lời thúc giục: “ Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi ,sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất Nay dạt dào đã chính trái đầu xuân Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương” Những lời giục giã nhân vật “anh”, cũng là đại biểu cho những người đang loay hoay với cái tôi nhỏ bé, chưa tìm được lí tưởng của mình, cũng như đang giục giã chính mình. Đi đi, lên tàu đi, lên Tây Bắc đi, bởi vì “Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”.Đã đi rất nhiều, rất xa, đã trăn trở , rồi cuối cùng nhận ra, về Tây Bắc đi, để “gặp lại Mẹ yêu thương”. Đoạn thơ tiếp theo là tất cả những kỉ niệm mà tác giả đã có ở nơi Tây Bắc: “ Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ …. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” Đoạn thơ thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của một người con đã đi xa nay được trở về với Tây Bắc. Tác giả so sánh việc được trở lại với nhân dân như “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, “chiếc nôi ngừng gặp cánh tay đưa”. Những hình ảnh thật đẹp, nhưng cũng thật gần gũi. Về với nhân dân, là về với cội nguồn, về với nơi nuôi dưỡng tâm hồn, là thuận theo những gì tự nhiên nhất. Về với nhân dân, là khát vọng sau bao tháng ngày đợi chờ. Niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân còn được thể hiện qua những hình ảnh, những con người cụ thể. Là nhớ người anh du kích, thằng em liên lạc, những người không tiếc xương máu để hoàn thành nhiệm vụ, những người luôn quan tâm đến đồng đội, hơn chính bản thân mình. Là mế với ơn nuôi sâu sắc, cả đời người chiến sĩ ấy cũng không thể nào quên. Nhớ con người, nhớ luôn cả cảnh vật nơi đây. Nhớ những ngày sương giăng mây phủ đầy trời. Nỗi niềm nhớ thương sâu sắc đã đúc kết lại thành triết lí sâu sắc: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn” Trong mạch cảm xúc nhớ nhung, tác giả đột ngột chuyển sang một thứ cảm xúc khác, đó là tình yêu: “ Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét …. Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” Tình yêu của nhà thơ thật đẹp, thật thiêng liêng nhưng cũng thật gần gũi. Tình yêu cũng có một sức mạnh thật lớn, làm cho “đất lạ hóa quê hương”. Kết lại, vẫn là lòng yêu miền đất Tây Bắc ấy, có tình yêu là chất xúc tác, những con người ấy càng thêm yêu Tây Bắc. Đoạn kết bài thơ là khúc hát lên đường gợi lại khí thế hừng hực: “ Đất nước gọi hay lòng ta gọi … Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân” Là lời giục giã của đất nước, hay chính là tiếng lòng của một con người mong mỏi về với nhân dân, với Tây Bắc. Nỗi nhớ đã thôi thúc khát vọng trở về. Những hình ảnh đẹp như tương lai, như tưởng tượng của nhà thơ về Tây Bắc, về những ngày tươi sáng đang chờ. Bài thơ đầy chất trí tuệ nhưng cũng dạt dào cảm xúc, là một bài thơ tiêu biểu đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Chế Lan Viên. Không chỉ thế, bài thơ còn là tiếng lòng của một người con khi được trở về với nhân dân, với đất nước, tìm được lí tưởng và nguồn nuôi dưỡng cho hồn thơ của mình.
Bình giảng bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
907
Tất cả, năm khổ thơ với vỏn vẹn trăm từ, thoáng qua như một phim tài liệu cực ngắn. Nhưng do đâu điệu buồn của nó chưa thôi day dứt lớp người ở những năm cuối của thế kỷ 20, mà phần lớn xa lạ với Hán học và có khi chưa một lần nhìn thấy hình ảnh ông đồ khăn đóng, áo the của một thời ! Những bạn đọc của thời mở cửa, đang háo hức với một ngoại ngữ phổ biến hơn cả thứ tiếng đã thay thế chữ nghĩa của ông đồ ngày nào, đồng cảm thế nào với bài thơ ? Họ tìm thấy điều gì gần gủi ở ông già cô đơn ấy khi ngay những kẻ cùng thời đã tỏ ra hững hờ ? Trong một bài phỏng vấn, tác giả đã giải đáp hộ điều mà bao lâu những bạn đọc tinh ý lấy làm ngờ. Đúng là nhà thơ có dụng ý mượn hình ảnh hoa đào và không khí bùi ngùi, man mác của Thôi Hộ trong bài Đường thi lưu danh thiên cổ. Lạ cho loài hoa nổi tiếng phương Đông, đẹp và sang đến thế, lại thêm một lần bị thi nhân bắt chứng kiến chuyện biệt ly, dâu bể. Ai chẳng biết so về nhan sắc với mỹ nhân thì chỉ thiệt thòi cho ông đồ già, nhưng sự vắng bóng của ông khi hoa đào y như năm cũ lại nở — hợp qui luật thiên nhiên mà cũng vô tình biết bao — vẫn gây được hiệu quả tình cảm và nghệ thuật. Không có cái chắt lọc, đài các như ngôn ngữ Thôi Hộ. Ngôn ngữ của Vũ hiền lành, giản dị, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai như bất giác lây lan phong thái của nhân vật “Ông đồ”. So với “Mái chèo mơ để bâng khuâng trôi đến – Một phương trời mây lạc bóng trăng khuya.” cũng chính của tác giả và cùng một đề tài hoài cổ, thì thấy rõ lối hành văn giản dị ở đây là kết quả của sự dụng công. Sự gò bó và giọng đều đều thường thấy ở thơ ngũ ngôn lại giúp cho bài thơ mở đầu có giọng khách quan, kềm chế tình cảm. Hai khổ thơ toàn tả thực cũng hỗ trợ tốt cho mục đích này : “Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ ……………. Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài.” Nhưng chỉ qua khổ thơ thứ 3, giọng khách quan này liền bị phá vỡ bởi hai câu thơ vào loại xuất thần : “Giấy đỏ buồn không thắm – Mực đọng trong nghiên sầu..” Chao ôi, đến hoa mà phương Đông tin là có thần, có hồn còn vô tình “y cựu tiếu đông phong”, nghĩa là hóa ra vẫn là loài vô tri, vô giác, nói chi hạng giấy, mực. Thứ mực phảng phất sầu và loại giấy buồn mà không thắm ấy chỉ có thể là thứ giấy và mực bị nhòe đi, rưng rưng trước mắt nguời biết chuyện đấy thôi ! Màu giấy đỏ và sắc hoa đào. Những xác lá vàng lay lắt rơi rơi quanh cái dáng đen sẫm, bất động của ông đồ già. Tình người nhạt dần theo mỗi khổ thơ: “Nhưng mỗi năm một vắng Người thuê viết nay đâu ? ……………. Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay.” Cho đến khi lụi tàn hẳn, và đất trời hình như cũng muốn hòa vào cuộc ngậm ngùi chung bằng làn mưa bụi bay và cái tiết trời bỗng dưng da diết. Cảnh ấy, sắc ấy, tình ấy hòa hợp với nhau đưa cảm xúc cao dần để tiếng thở dài cuối cùng: “Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ ?” trở nên sâu lắng hơn, lay động tình người hơn. Ở mặt khác bài thơ lại đan chéo những cặp đối nghịch: cái tất bật của khách qua đường và sự đơn độc của ông đồ, cái buồn thấu xương của kiếp người bên cảnh phố phường rộn ràng mừng xuân mới, và bất nhẫn làm sao, sự lặng lẽ của người đại diện cuối cùng của nền Hán học tàn tạ, lặng lẽ cả lúc rút lui, lại diễn ra ở một nơi ồn ào, trần ai bậc nhất trên thế gian: hè phố ! Cái đám tang tự đưa giữa phố đông hững hờ mà người tri âm duy nhất lại có mặt khi cỗ xe khuất bóng từ lâu rồi ! Có sự dồn nén thái quá những cặp hòa hợp và đối nghịch trên vuông thơ nhỏ hẹp có 100 từ này. Nhưng là sự thái quá làm nên kiệt tác. Mỗi chúng ta sau phút lặng người, và gần như tránh mặt nhau vì cái cảm giác đồng trách nhiệm nào đó, bỗng bắt đầu giành nhau lên tiếng. Nhưng tất cả như bị hút, bị dạt đi trong cái từ trường do chính sự im lặng của nhân vật. Vâng, âm thanh có trọng lượng nhất mà bài thơ tạo được chính là sự im lặng tuyệt đối của ông đồ. Nó đè nặng lên tim. Nó khuấy động não bộ. Nó tạo trạng thái tinh thần bất ổn cần thiết để đối mặt với bất cứ một vấn đề nghiêm túc nàọ. Có điều đâu thực sự là v/đ, là tầng cảm xúc chính của bài thơ ? Theo Hoài Thanh thì “Ông Đồ” là “lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đang đi về cõi chết”, những con người mà một thời họ đã “xúm nhau lại chế giễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ lậu”. Nhà phê bình đã có một trích dẫn quan trọng từ bức thư của chính Vũ Đình Liên: “Ông chính là di tích đáng thương của một thời tàn”, và dựa vào ý này, tác giả “Thi nhân Việt Nam” kết luận: “Bài thơ của người có thể xem là một việc nghĩa cử” Sẽ là một chuyện thất lễ và dường như vô lý nữa khi nghi ngờ ý kiến của chính tác giả và nhà phê bình uy tín. Nhưng khi ở một đoạn khác, Hoài Thanh gọi đối tượng của nhà thơ bằng cụm từ không úp mở “Những kẻ thân tàn ma dại” đang “đi về cõi chết” thì chúng tôi e rằng giọng tuyên ngôn hùng hồn mà ông bắt buộc phải dùng khi hạ huyệt thơ cũ và tôn xưng vị trí của thơ mới có ảnh hưởng phần nào tới việc bình thơ chăng ? Nếu đọc một bài thơ khác cũng cùng điệu hoài cổ, bài “Lòng ta là một hàng thành quách cổ”, chúng ta nhận ra giọng thương tiếc trang trọng hơn là lối thương hại của kẻ thắng cuộc. Và tiếng thở dài băn khoăn ở cuối bài thơ “Ông Đồ” có một chiều sâu hơn thứ tình cảm biết điều của người đang đi dự tang lễ, đang đi làm chuyện nghĩa cử. Khi một cực là Đường Thi với Thôi Hộ, và cực kia là ý thơ của Francois Villon (Làm sao tìm lại được tuyết năm xưa ? Mais où sont les neiges d’antan ?) đã gợi hứng cho “Ông Đồ” như chính tác giả thừa nhận, thì cái sầu thuần một màu tê tái trong cả hai dòng thơ Đông Tây rõ ràng cùng một gam màu với điệu buồn trong những câu thơ của Vũ Đình Liên. Nói khác đi, sự dùng dằng kẻ ở người đi trong cõi nhân tình không thể giản đơn, rành rẽ mới, cũ như những nhà chính luận mong muốn. Nghệ thuật luôn cần cái lung linh mê hoặc dễ len vào hồn người\. Nhưng hoài cổ ở đây không phải là tiếc nuối thứ chữ “rồng bay phg múa” của ông đồ. Từ ngày ông đồ già không trở lại, x/h đã mấy lần chứng kiến cảnh thay bậc, đổi ngôi về ngôn ngữ — bản thân nhà thơ là một người giỏi tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ đã thay thế thứ chữ mà ông đồ đã viết trên giấy hồng điều thuở nào — nhưng không thấy s/tác nào về “Ông đồ” Tây hay “Ông đồ” Nga … xuất hiện. Chưa nói dẫu có, chúng cũng không thể tạo được sự đồng cảm rộng rãi như đã thấy với “Ông đồ”. Sự thực, sự thay đổi từ Hán học qua Tây học có một ý nghĩa đặc biệt của nó. Suốt bao thế kỷ, Hán học gắn với dân tộc, gắn với những giá trị nhân bản của phương Đông. Đấy là thứ chữ ông cha ta đã dùng để trước tác. Nó không những là ngôn ngữ hành chính, thi cử mà còn là ngôn ngữ tâm linh của đền chùa, kinh kệ, văn tế… Tựa như gác chuông, tháp chùa, hình ảnh ông đồ, câu đối… từ lâu đã thân thuộc với mọi người\. Đã đành việc thế chân của Tây học là một tất yếu của thời đại và của hoàn cảnh đất nước ngày đó. Chưa nói cái học từ chương, nệ cổ đã góp phần suy vi sức mạnh của dân tộc. Nhưng một dân tộc tự trọng từng trải qua bao thế kỷ tự chủ và từng dùng chữ Hán như ngôn ngữ chính của một quốc gia độc lập, không thể quên rằng Tây học đã “nhập khẩu” vào đất nước mình như một áp đặt cùng với tàu chiến và đại bác, mà cảnh sụp đổ của cái học cũ luôn gợi lại vết thương vong quốc của mình. Và có thể vượt qua ý đồ của t/g và nhà phê bình, bài thơ đã tìm thêm được sự đồng cảm trong tâm thức dao động, phức tạp của cả một dân tộc trong buổi giao thời khi giá trị tr/thống có nguy cơ mai một. Trong lúc cái mới chưa thu phục được nhân tâm, nó đánh vào lòng tự trọng bị xúc phạm và cả tâm lý phù suy, xót thương kẻ khó. Mặt khác, nó còn gợi tâm trạng khắc khoải đi tìm nguồn cội trước một cuộc triển lãm khổng lồ của những cảnh lố lăng, kệch cỡm thường thấy ở các buổi giao thời. Sự biểu lộ tình cảm với ông đồ già và sự lưu luyến với hình ảnh đã mai một ấy trong lòng bạn đọc suốt hơn nửa thế kỷ qua, hẳn phản ảnh những tâm sự phức tạp, những ưu tư đa dạng hơn chúng ta tưởng. Cuối thế kỷ 20, con tàu Việt Nam lại đang qua ngã rẽ mới. Không còn không khí tủi buồn thuở nào. Đất nước đang lạc quan. Nhưng tình tự về nguồn và việc xác lập lại những giá trị tinh thần đã được thử thách của dân tộc ở mặt nào đó sẽ gặp thách thức. Buổi “giao thời” hôm nay vẫn hứa hẹn những hoạt cảnh lố lăng, lai căng mà hơn một lần chúng ta đã chứng kiến. Sự vồ vập với những giá trị ngoại lai đáng nghi ngại, thái độ “vô tri bất mộ” đối với di sản quý báu của người đi trước, và nói riêng mặt ngôn ngữ, tiếng nói cha ông đang có nguy cơ trở thành một thứ “ngoại ngữ” thất sủng ngay trên quê hương mình. Và vì vậy, người ta vẫn còn ngậm ngùi, băn khoăn khi đọc “Ông Đồ”. Việc rút lui lặng lẽ không đơn từ khiếu nại của ông không chỉ gợi thương tâm, mà tiếp tục mời gọi, khuấy động những vấn đề sâu xa cho xã hội cùng suy ngẫm.
Bình giảng bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
1,944
Nguyễn Bính là nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong “Thi nhân Việt Nam” cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi 20 đã làm gần một ngàn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều loại thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát ở những bài thơ ấy, “ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta”, ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là “hồn xưa của đất nước”. Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao… Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi: “Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?” Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ “Tương tư”, rút trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang’’ (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tủi hờn: “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”… Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng. Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh. giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ao ước khao khát. Từ chỗ gọi "nàng”: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” đã chuyển thành tiếng “em” gần gũi, thân thiết yêu thương: “Nhà em có một giàn giầu …” Cách xưng hô từ “tôi” – “nàng” dần đến “em” – “anh” thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn. Giầu (trầu) với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ: “Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng” Điệp ngữ “nhà … có một” làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng “hai thôn chung lại một làng” chẳng xa xôi mấy, nhưng “giàn giầu” nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và” hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chìỉ“có một” chưa chưa có đôi. Chữ một trong 2 câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu – cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư “gỡ mãi chẳng ra” Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Có xa xôi mấy mà tình xa xôi? Biết cho ai, hỏi ai người biết cho? Bao giờ bến mới gặp đò? Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng: “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?’’ Cả một thời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Một lối nói bỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cùng thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với cấu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một mơ ước hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn. Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giá vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian như giầu – cau, thôn Đoài – thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khao khát tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. “Tương tư” thấm vào nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng.
Bình giảng bốn câu cuối bài thơ Tương tư của thi sĩ Nguyễn Bính
734
Lửa thiêng (1940) của Huy Cận là một tập thơ sáng giá trong Thơ mới Việt Nam. Phong cảnh trong Lửa thiêng, nhất là trong các bài thơ Vạn lí tình, Tràng giang, Đẹp xưa… đều đượm một nỗi buồn man mác: Tôi ngã ba sông nước bốn bề Nửa chiều gà lạ gáy trên đê… Đó là con sông Thâm bên núi Mồng Gà thuộc Hương Sơn (Hà Tĩnh), quê hương thân yêu của nhà thơ. Trong Tràng giang, một nỗi buồn như dồn nén thấm sâu vào cảnh vật và lan xa muôn vàn con sóng, nhất là bốn câu kết của bài thơ: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn củng nhớ nhà. Bao trùm cả bài thơ là một không gian nghệ thuật bao la, thật đẹp và cũng thật buồn. Có sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. Có lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu. Có lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng… và trước mắt nhà thơ là một khung cảnh bao la, vắng vẻ: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Khổ cuối nói đến hoàng hôn trên tràng giang. Một cái nhìn xa vời vợi. Trước mắt nhà thơ là những núi mây nhô lên, đùn lên lớp lớp màu trắng bạc. Cảnh sắc thiên nhiên rất tráng lệ. Bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thầm trong khoảnh khắc hoàng hôn nên màu mây ở cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy. Giữa cái bao la mênh mộng bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. Cánh chim dang chở nặng bóng chiều, bay vội vã. Trên cái nền tím sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều hôm, hiện lên những núi bạc mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai nét vẽ ấy tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ: Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi… (Bà Huyện Thanh Quan), Chim hôm thoi thóp về rừng… (Nguyễn Du). Nghệ thuật tương phản giữa cánh chim nghiêng nhỏ bé và mờ dần với núi mây bạc hùng vĩ, với trời đất bao la đã làm cho cảnh đất trời và tràng giang thêm mênh mông hơn, xa vắng hơn, và cũng buồn hơn. Bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy được thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người hữu hạn. Một cánh chim, một núi mây bạc… cũng dẫn hồn ta đi về mọi nẻo, đến với mọi phía chân trời: Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm – Mặt đất mây đùn cửa ải xa (Đỗ Phủ). Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm bằng một tứ thơ Đường: Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu đã viết: Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Tàn Đà dịch) Huy Cận nhìn cao rồi nhìn xa theo tràng giang vời con nước, ở trên nhà thơ đã phủ định: Mênh mông không một chuyến đò ngang – Không cầu gợi chút niềm thân mật… thì ở đây, ông lại nói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận phương nào xa xôi. Thơ Huy Cận hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lí suy tưởng. Một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lặng. Cảnh sắc trong Tràng giang đẹp mà buồn. Tình quê, lòng quê trong bốn câu kết thật vô cùng sâu sắc, thắm thiết. Đó là những vần thơ mãi mãi vương vấn lòng người trong mọi thời gian và không gian. Thơ thất ngôn trong Tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ nếu đứng tách riêng ra sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm hứng mà tác giả đã viết trong lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nỗi buồn bâng khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê hương. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp điệp trong lòng người đọc bấy lâu nay. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Tràng giang đã và đang mang theo bao vạn lí tình trong hồn ta.
Bình giảng bốn câu kết trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận
820
Từ nơi em gửi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn… "Những đoàn quân trùng trùng ru trộn" được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn Đóng, Trường Sơn Tây là hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 30 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. ở bốn khổ thơ đầu, giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng: Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi. Hai câu đầu như một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên tự nhiên của người lính Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi". Các điệp ngữ: “không có… không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí ác liệt chiến trường, vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xc vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiệm trong khói lửa. Một tư thế chiến đấu rất đẹp: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Cái ngồi "ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: "Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ “nhìn" đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ. Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước. "Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…”; các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng" chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái" đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi" như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành “tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười hu ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính: Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già, Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách: Không có kính, ừ thì có bụi, Không có kính, ừ thì ướt áo. Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước: Không có kính, ừ thì ướt áo, Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước. Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thơ hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca. Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về gian khổ, ác liệt chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.
Bình giảng bốn khổ thơ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
933
Tràng giang là một trong những bài thơ nổi.tiếng nhất của Huy Cận “hầu như trở thành cô điển” (Xuân Diệu). Cảm hứng của bài thơ được gợi mở từ một buổi chiêu mùa thu năm 1939, khi tác già đứng ở bờ nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước và nghĩ về kiếp người thật bé nhỏ, cô đơn, không biết trôi dạt về đâu. Tuy nhiên, bài thơ không chí do sông Hồng gợi cảm mà còn mang những cảm xúc chung về bao dòng sông khác của quê hương, đất nước. Do vậy, cảnh sóng nước trong bài thơ đẹp và buồn, nhưng cũng thật quen thuộc và thân thiết với mỗi người Việt Nam. Qua bài thơ, ta cũng thấy được nồi sầu vũ trụ của Huy Cận. Đó là cảm giác cô liêu trước cái vô cùng của trời đất mênh mông. Tiếp tục ý thơ đã được gợi mở ra từ khổ một. Huy Cận đã đưa thêm những nét cạ thô để diễn ta cái bé nhỏ, cô đơn, xa vắng và nỗi buồn của hồn người đã thấm sâu vào tạo vật,ở đây Huy Cận đã dùng hàng loạt những hình ảnh và từ ngữ gợi buồn: “cồn” giữa dòng sông vốn gợi sự trống vắng, đơn độc, nay thêm “cồn nhỏ" lại càng buồn hơn: hơn nữa với từ “lơ thơ“ ở trước và “gió điu hiu” ở sau thì không chỉ buồn mà còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo. Huy Cận có lần tâm sự rằng, khi khổ thơ trên ông đã chịu ảnh hưởng vần thơ trong Chinh phụ ngâm khúc: Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo Bến Phì gió thối đìu hiu mấy gò Câu thơ thứ hai hiện có hai cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “đầu” nghĩa là “không”, giữa nơi không gian rộng lớn, vắng vẻ đó không có cả tiếng chợ chiều quen thuộc làm cho khung cảnh thêm buồn vắng. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, có tiếng xao xác của chợ chiều, nhưng âm thanh đó quá nhỏ bé nên nó tạo không khí cho cảnh vật vui hơn, sinh động hơn mà trái lại càng vắng vẻ, quạnh hiu. Vì vậy, khi phân tích theo một trong hai cách này đều được chấp nhận, miễn là nêu lên dược cái không khí tàn tạ, buồn vắng và quạnh hiu. Không gian thơ vụt lớn lên và mở ra đến bao la vô tận. Đây chính là cảm xúc vũ trụ thật mãnh liệt mà tinh tế của Huy Cận: khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác về khoảng cách bầu trời – mặt đất sẽ trở nên hữu hạn, còn khi mặt trời chìm dần xuống thì ánh nắng hắt lên cao sẽ làm cho bầu trời trở nên trong xanh hơn và như bị dầy lên cao đến vô cùng. Khi ấy cái nhìn của con người từ dưới lên sẽ thấy bầu trời sâu thảm “sâu chót vót ” Huy Cận không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu” vì nó vừa gợi độ cao, vừa gợi cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời hoàng hôn, từ “chót vót” lại càng làm tăng thêm cái rợn ngợp của khung cảnh. Đến câu thơ sau, cùng với độ “sâu" của bầu trời là cái bề rộng bao la của vũ trụ và độ dài của con sông. Tất cả là một vẻ đẹp hùng vĩ nhưng hoang vắng gợi rõ nỗi buồn cô đơn, thấm thía, niềm “bâng khuâng” mơ hồ của con người trước vũ trụ, trước “trời rộng, sông dài”. Trong không gian ba chiều mênh mông, bát ngát như thế, hình ảnh của bến sông hiện lên đã nhỏ bé, đơn độc, lại là “bến cô liêu” thì càng thêm vẻ chơ vơ, lạnh lẽo, buồn vắng. Thủ pháp nghệ thuật tương phản đã được Huy Cận sử dụng rất thành công, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Huy Cận nói riêng, các nhà thơ lãng mạn nói chung, đã đem tâm trạng buồn, cô đơn của mình “phủ lên thiên nhiên”. Tuy nhiên ở bề sâu của nỗi sầu vũ trụ ấy vần là tình yêu thắm thiết đối với quê hương đất nước. Điều đó lí giái vì sao nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san Tổ quốc”.
Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận_ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
754
Thơ ca cổ đã dành cho mùa thu một vị trí cực kì sang trọng và danh dự. "Thu hứng" của Đỗ Phủ, "Tì bà hành" của Bạch Cư Dị,… "Thu vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến, "Cảm thu tiễn thu" của Tản Đà, v.v… đó là những bài thơ thu tuyệt tác mà trong chúng ta, ai cũng biết. Trong nền "Thơ mới" 1932- 1941. Xuân Diệu là nhà thơ có nhiều duyên nợ với mùa thu: "Đây mùa thu tới", "Thơ duyên", "Nguyệt cầm",… Mùa thu trong thơ Xuân Diệu là mùa thu của tình yêu, của lòng thương nhớ: "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần,… Trăng nhớ Tầm Dươnng, nhạc nhớ người " ("Nguyệt cầm"). Tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, khát khao hạnh phúc… đươc thi sĩ diễn một cách tài hoa, tinh tế trong bài thơ "Đây mùa thu tới", in trong tập "Thơ thơ” xuất bản năm 1938. Bài thơ gợi tả cảnh sắc mùa thu và mội nỗi buồn man mác bâng khuâng đang tỏa rộng và thâm sâu vào tạo vật và lòng người. Hình thiếu nữ là một nét rất mới, rất đẹp trong bài thơ thu này. Sắc thu đẹp. Hồn thu buồn. Giọng thơ nhẹ nhàng, thấm thía. Đây là khổ thơ đầu bài "Đây mùa thu tới": "Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng"… Cặp câu 1, 2 đặc tả một dáng thu buồn: "rặng liễu". Hàng liễu, dặm liễu, "rặng liễu" như "đứng chịu tang" nghiêng mình ven đường và soi bóng xuống hồ. "Đìu hiu" nghĩa là vắng vẻ và buồn bã. Trong khí thu se lạnh, gió thu hiu hắt, sương thu mỏng và mơ màng, những rặng liễu, khóm liễu rủ lá, buông dài như mái tóc nàng cô phụ. Lá liễu dài, nhỏ, mỏng manh như sợi tơ, sợi tóc óng ánh, ướt đẫm sương thu, tưởng như "lệ ngàn hàng" từ cõi lòng tang tóc tuôn xuống: "Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng". Tả tóc liễu, lệ liễu cũng là nói lên hồn thu buồn muôn thuở. Đó là những vần thơ tuyệt bút. Nguyễn Du đã từng viết về liễu trong "Truyện Kiều": "Lơ thơ tơ liễu buông mành…" – Liễu trong thơ cổ tượng trưng cho vẻ đẹp yểu điệu, thướt tha của giai nhân. Xuân Diệu đã sáng tạo nên một hình ảnh đẹp và buồn về liễu. Cây liễu buổi đầu thu được miêu tả qua một dáng hình lặng lẽ, đau thương, một tâm tình cô đơn, sầu khổ. Cả một trời thu mênh mang "đìu hiu đứng chịu tang" cùng liễu. Thu đến, đất trời cũng chuyển vần theo thu. Thi sĩ vốn đa tình, đa cảm đứng lặng lẽ trầm ngâm chợt mơ hồ nghe thấy bước đi của mùa thu chầm chậm, nhè nhẹ: "Đây mùa thu tới mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng"… Câu thơ như một tiếng reo khẽ thốt lên, vừa ngạc nhiên vừa vồn vã. Nhịp thơ 4/3 diễn tả bước thu sang. Giọng thơ xôn xao như cất tiếng đón chào. Hẳn lòng người đã bấy lâu ngóng đợi thu về. Tả mùa thu đến với bao mong nhớ đợi chờ, với bao vồn vã đón chào, đó là ý thu cũng là cảm thu như thi sĩ Tản Đà từng nói đến. Sau khi tả dáng thu, Xuân Diệu nói đến sắc thu: "Với áo mơ phai dệt lá vàng". Màu vàng bao trùm nhiều bài thơ cổ nói về mùa thu. Có nắng vàng. Có trăng vàng. Và có lá vàng, hoa cúc vàng. "Thu đến cây nào chẳng lạ lùng' (Nguyễn Trãi). "Rừng thu từng bước xen hồng" ("Truyện Kiều"). "Sắc đâu nhuộm ố quan hà – cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương" (Tản Đà). "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" (Nguyễn Khuyến). Ngạc nhiên, xúc động trước bước đi êm nhẹ của mùa thu, Xuân Diệu thú vị phát hiện ra cả một trời thu bao la" với áo mơ phai dệt lá vàng". Một cái nhìn tinh tế sắc màu cây cỏ. Trên cái nền vàng nhạt “mơ phai" dần dần ửng lên, sáng lên một màu vàng tươi khắp vườn cây, ngàn lá. Rõ ràng là thu mới đến, buổi thu sơ mới có màu "mơ phai" ấy. Cái màu vàng ấy đã tạo ra một không gian nghệ thuật đầy thi vị. Nó gợi tả vẻ đẹp tươi sáng, thanh nhẹ của mùa thu Hà Nội, mùa thu quê hương vô cùng đáng yêu và thân thuộc đối với mỗi chúng ta. Chữ "dệt" trong câu thơ như một nét vẽ tinh vi, mỏng thoáng trên gam màu rực rỡ, điểm tô cái hồn thu được cảm nhận. Nói rằng Xuân Diệu là nhà thơ của cảm giác, của xúc giác thật là chí lí. Thơ lãng mạn 1932-1941 tả mùa thu bao giờ cũng đẹp mà buồn. Có nỗi buồn bâng khuâng trong "Thu rừng" của Huy Cận. Có nỗi buồn ngơ ngác trong "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư: "Con nai vàng ngơ ngác – Đạp trên lá vàng khô". Có vẻ đẹp kì ảo, huyền diệu trong "Tiếng trúc tuyệt vời" của Thế Lữ. Và còn có nỗi buồn mơ hồ xa xăm: "Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa của nhìn xa nghĩ ngợi gì". Tính nhạc trong thơ Xuận Diệu rất phong phú. Đọc đoạn thơ ta tưởng như nghe một khúc hát mùa thu. Có tiếng láy "đìu hiu" như một nốt nhạc trầm buồn. Có ba vần bằng ngân nga rung động: "tang – hùng – vùng". Có điệp ngữ vang ngân như một điệp khúc: "Đây mùa thu tới //mùa thu tới". Có cách ngắt nhịp 4/3 như bước đi của mùa thu. Và còn có một vần lưng độc đáo: "tới" vần với "với" (mùa thu tới – Vài áo mơ phai dệt lá vàng). Xuân Diệu đã có lần nói: "Thiếu nhạc, thơ mất hay cũng như hoa đẹp mà không hương vậy". "Đây mùa thu tới" có bốn khổ thơ, mỗi khổ thơ là một bức tranh thu đẹp mà buồn, tất cả hợp thành một bộ tứ bình xinh xắn. Đây là khổ thơ đầu miêu tả dáng thu và sắc thu. Sau khi đọc những bài thơ cổ, đọc tiếp thơ thu của Xuân Diệu, ta cảm thấy tâm hồn mình giàu có thêm nhiều. Qua đoạn thơ trên, ta cảm nhận được hồn thu qua dáng liễu, qua sắc thu và bước thu êm. Hàng lệ liễu, sắc vàng mơ phai của lá thu là những chi tiết nghệ thuật đầy ấn tượng. Thi sĩ Xuân Diệu đã đem cái tài hoa, cái đa tình góp vào hồn thu muôn thuở.
Bình giảng khổ thơ sau đây trong bài Đây mùa thu tới_ Rặng liễu…dệt lá vàng
1,143
Nếu ví Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là một bức tranh thu thì bốn khổ thơ có thể coi như bộ tứ bình hợp làm nên kiệt tác ấy. Trong đó, khổ thơ thứ hai tuy chỉ là một mảng nhỏ nhưng là mảng màu đậm nhất, sống động nhất, đã thâu tóm bước đi của mùa thu trong một góc vườn: Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Những luồng run rầy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh Mùa thu đã đến thật rồi. Từ phút giao mùa đầy ngỡ ngàng “Đây mùa thu tới, mùa thu tới", sang khổ hai, mùa thu đã bất đầu hành trình xâm chiếm của nó ở cấp độ vĩ mô, từ những tế bào của sự sống: Hơn một loài hoa đã rụng cành Câu thơ mang đậm phong cách Xuân Diệu. Tại sao lại là "Hơn một loài hoa’’ chứ không phải "Đã mấy loài hoa rụng dưới cành” như Thế Lữ đă từng sửa cho Xuân Diệu? “Một là duy nhất nhưng "hơn một” thì cái thế độc tôn ấy đã bị phá vỡ. “Hơn một" chứ không phải “nhiều” vì mùa thu chỉ mới vừa chạm ngõ đất trời, chỉ mới vừa dột những đường chỉ đầu tiên của chiếc “do mơ phai” tuyệt đẹp. Cách diễn đạt mới lạ, độc đáo mà tinh tế và chính xác vô cùng. Nhưng không chỉ dừng lại ở sự tàn phai, rơi rụng cua “Bỗng hoa rứt cánh rơi không tiếng” ( Ý thu), mùa thu còn tràn saug những cảnh vật khác. Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Thu đến thì lá chuyển màu, điều này Xuân Diệu không phai là người đầu tiên nói đến. Nhưng khắc một chữ “rủa" với âm vực thấp, nặng để miêu tả những biến chuyển tinh vi ấy,chàng thi sĩ say mê Rimbaud và Veriain đã mượn cách diễn đạt của Pháp để tạo nên thế xung đột gay gắt và sự thắng thế từ từ của mùa thu. Thế đến hay ở đây đã làm cho sự tương phản giữa sức sống và tàn phai, giừa hệ và thu càng thêm mãnh liệt. Bức tranh dịu dàng với sắc “mơ phai” ở khổ một đã được chấm phá thêm hai mảng màu đậm, làm nổi bật lên hình hài, vết dấu của mùa thu. Chính vì vậy mà tuy không có một chữ “thu”, bước đi của mùa thu trong câu thơ vẫn hiện nên rõ nét. Và không chỉ cảm nhận mùa thu bằng thị giác, Xuân Diệu còn mở rộng hồn mình để đón nhận “những luồng run rẩy" của cảm xúc, của mùa thu: Những luồng run rẩy rung rinh lá Biện pháp điệp phụ âm ở khô đầu lại một lần nữa tỏ ra vô cùng đắc địa. Bốn âm rung v liên tiếp không chỉ khắc họa tinh tế chuyển động run rẩy của lá cây mà còn khiến câu thơ đọc lên cũng nghe rung rinh một điệu nhạc. Có người vè đoán rằng “luồng run rẩy” ở đây là luồng gió nhưng nếu vậy thì câu thơ chỉ dừng lại ở việc tả chứ đâu gợi rét, đâu thể chuyển tải được những cảm nhận tinh vi, bén nhạy ở nhà thơ. “Luồng run rẩy” ở đây chính là cái rùng minh của cây lá, là luồng run rẩy của cảm súc “khắp mình tôi run rẩy tựa dây đàn”. Tâm hồn nhà thơ mong manh quá, đa cảm quá, tưởng như chỉ cần chạm khẽ, đụng hờ cũng rung lên những tiếng tơ lòng. Lấy chuyển động của cây để tả gió, gợi rét, làm cái rét tuy không hiên ra mà như thấm sâu, ngấm vào từng dòng nhựa sống. Cái tài, cái độc đáo của Xuân Diệu chính là ở chỗ đó. Khổ thơ kết thúc ở hình ảnh những nhánh cây khô gầy, gân guốc như chạm khắc lên nền trời. Mùa thu đã hoàn tất giai đoạn của một hành trình đi tới. Nó không chỉ tước hết lá trên cành mà còn tước đi cả sự sống, cả dáng vẻ mạnh mẽ của những thân cây. Cây cối dường như cũng trở nên yếu đuối hơn, như thu mình lại trong nỗi cô đơn, buồn bã: Cây bên đường trụi lá đứng tần ngần Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái (Tiếng gió) Và lòng người cũng chùng xuống, nao nao trong nỗi buồn man mác mà lắng sâu. Đôi nhánh khô gày xương mỏng manh Câu thơ bảy chữ mà đã có đến sáu thanh bằng, tạo cảm giác ngưng đọng, ngừng nghĩ như dấu lặng giữa ban nhạc, (lẽ dư ba, dư âm của khổ thơ ngân mãi và bắc cầu sang khổ thứ ba. Tuy chỉ là bốn câu trong bài. Đó y mùa thu tới nhưng nếu đứng một mình, khổ thơ trên có thể sánh ngang với một bài tứ tuyệt hoàn mĩ bởi sự dồn nén của cảm xúc, nói ít nhưng gợi nhiều Vần lá hoa lá cỏ cây – những thi liệu cổ điển, nhưng đến với Xuân Diệu, dưới lăng kính một tâm hồn “dào dạt sức sống", chúng bỗng như được thổi một luồng gió mới. mang nặng cảm quan của tác giả. Và đằng sau những dòng chữ run rẩy, xao động kia phải chăng là nỗi ám ảnh khôn nguôi về thời gian của Xuân Diệu, là sự “vội vàng“, cuống quýt trước “độ phai tàn sắp sửa” cua cái đẹp, của thiên nhiên. Bức tranh mùa thu không chỉ đóng khung trong 28 chữ mà như cựa quậy, xôn xao trên mặt giấy, trong lòng người. Ngòi bút tài hoa của Xuân Diệu như tung hoành trên trang giấy, chấm phá mảng kia mà tạo nên cái hồn của khung cảnh. Khổ thơ đã góp một phần không nhỏ làm nên thành công cho toàn bài cũng như chứng tỏ lời nhận định của tác giả thi nhân Việt Nam: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới" là hoàn toàn chính xác.
Bình giảng khổ thơ thứ hai trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu
1,013
Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông: Song song đôi bướm trắng Phất phới phấn hoa bay. (Buổi sớm mùa xuân) Ta cảm một sắc xuân tươi xinh rực rỡ trong thơ của thi hào Nguyễn Du: Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Truyện Kiều) Ta rạo rực dõi nhìn một cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc: Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song. (Đánh du- Hồ Xuân Hương) Và đây là thơ xuân của Thanh Hải: Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc ơi con chim chiền chiện Hót chi mù vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng… Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của "Huế đẹp và thơ", quê mẹ hương yêu của thi sĩ Thanh Hải. Hai câu thơ đầu là một sắc xuân tươi xinh rực rỡ tắm mát tâm hồn chúng ta. Vần thơ như một tiếng nói thốt lên khi ngạc nhiên chợt thấy một cảnh đẹp mà lòng xôn xao xúc động: Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc. Có sông và hoa. Có màu “xanh” của dòng sông làm nền để tô điểm màu "tím biếc" của hoa, bông hoa xuân mới "mục", mới nở. Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bùi thư trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tố Hữu tâm sự: Hương Giang ơi, dòng sông êm Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình… “Bông hoa tím biếc" mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội: Hoa lục bình tím củ bờ sông. Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh" thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non lơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “tím biếc” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp. Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”: Ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời. “Ơi” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiện hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiện làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiện hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa: ,"Chiền chiện hót lúa tốt bời bời "(Tục ngữ). Hai tiếng "hót chi” rất gợi cảm, là cách nói "dịu ngọt” của bà con “xứ Huế chúng miềng". Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế. Một cử chỉ rất tao nhã đáng yêu: Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. "Từng giọt long lanh rơi" cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiện từ trời cao vọng đến, "rơi" xuống? Cái cử chỉ “đưa tay… hứng” thể hiện một hồn thơ chan hòa với thiên nhiên, đất ười, tạo vật. Thơ đích thực mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao: Mặt trời lên càng tỏ Bông lúa chín thêm vàng Sương treo trên đầu cỏ Sương lại cùng long lanh Bay vút tận trời xanh Chiền chiện cao tiếng hót… (Thăm lúa – Trần Hữu Thung) Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương mai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên. Mùa xuân nho nhỏ là một bức thơ xuân kiệt tác của Thanh Hải. Ông viết bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, một tháng trước lúc ông qua đời. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là khát vọng mùa xuân muôn đời.
Bình giảng khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
882
Thâm Tâm (1917-1950) là một trong những gương mặt thi ca tiểu biểu thời "tiền chiến". Ông xuất hiện trong "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh với một bài thơ, bài "Tống biệt hành". Nó như tấm đá hoa cương khắc tên nhà thơ, làm vẻ vang một đời thi sĩ bất tử với năm tháng. Trong cuốn "Thơ với lời bình", Vũ Quần Phương viết: “Nếu chọn mười bài thơ hay của giai đoạn Thơ mới chắc chắn có "Tống biệt hành” Thâm Tâm chỉ để lại khoảng 20 bài thơ. Bài "Tống biệt hành" được ông viết năm 1940. Bài thơ viết về một cuộc tống biệt, về nỗi lòng kẻ ở người đi trong cuộc tống biệt ấy. "Tống biệt hành" là bài hành nói về cuộc đưa tiễn, tống tiễn người đi xa. Thơ cổ, nhất là Đường thi nói về đề tài tống biệt khá nhiều. Các nhà thơ Việt Nam… cũng có một số bài "hành" nổi tiếng nói về những cuộc li biệt, tống biệt. Bài hành này của Thâm Tâm viết theo thể thất ngôn vừa kế thừa vừa cách tân, mang một nội dung khá mới và một vẻ đẹp nghệ thuật đặc sắc. Một âm điệu mênh mang bao trùm toàn bài hành. Trong nhận xét và bình bài “Tống biệt hành”, nhà văn Hoài Thanh viết: "Nó đã làm sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ… nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại". Người đi xa được nói đến trong bài thơ là một "li khách", gạt bỏ thói nhi nữ thường tình, ôm chí lớn lên đường. Bài thơ đã thể hiện lòng mến yêu, sự ngưỡng mộ và trân trọng đối với người lên đường đi xa vì nghĩa lớn. Bốn câu thơ đầu điễn tả tâm trạng xao xuyến của lòng người – kẻ ở người đi trong cảnh tống biệt: "Đưa người ta không đưa qua sông, Sao có tiếng sóng ở trong lòng ? Bóng chiều không thắm, không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?" về câu trúc, về thanh điệu, giọng thơ, hình ảnh… của bốn câu thơ này rất đặc biệt, đầy ấn tượng. Câu 2 và câu 4 là hai câu hỏi tu từ, song hành và hô ứng nhau: "Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?" và "Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?". Câu thơ thứ nhất toàn thanh bằng gợi lên cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, nao nao buồn: "Đưa người ta không đưa qua sông". Nhà thơ như đang tự nói với lòng mình. Nhân vật trữ tình như có một sự phân thân mang tính lưỡng ngôn, tâm tình. Câu thứ hai bỗng nổi lên 4 thanh trắc tưởng như có âm vang lớp lớp sóng vỗ trong lòng người đưa tiễn: "Sao có tiếng sóng ở trong lòng”. Bến đò, dòng sông và chiều tà, hoàng hôn được các thi nhân sử dụng như là một biểu tượng, một chứng nhân về nỗi buồn li biệt, và đã viết nên những vần thơ tuyệt bút về tình bạn thủy chung ở đời: "Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường giang thiên tế lưu" (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh hạo Nhiên chi Quảng Lăng) "Nước sông trắng, mây vàng tuôn, Kẻ đi người ở, cơn buồn bên sông” (Thơ Đỗ Phủ – Tản Đà dịch) "Đình hôm tiếng sáo não nùng, Anh đi bến Sở, tôi trông đường Tần" (Thơ Trịnh Cốc – Ngô Tất Tố dịch) Trong bài “Tống biệt hành" của Thâm Tâm, cuộc sống biệt được nhắc đến không diễn ra trên một bến đò, dòng sông nào, thế mà vẫn có "tiếng sóng ở trong lòng", chẳng đưa liễn vào hoàng hôn mà vẫn "đầy hoàng hôn trong mắt trong ?". Nỗi buồn li biệt như được nhân lên trong chiều sâu của lòng người, tỏa rộng vô hạn trong không gian và '-hời gian. Những con sóng của tình lưu luyến, nhớ thương như dâng lên, vỗ vào lòng người đi xa, kẻ ở lại. Và ở cặp mắt xanh trong của li khách như chứa "đầy hoàng hôn", vương vấn nhiều man mác nhớ thương. Hai câu thơ trên liên kết với 2 chữ "li kliách" trong khổ thơ tiếp theo làm ta liên tưởng đến người đi xa tuy không qua sông Dịch Thủy như Kinh Kha thuở nào, chẳng hề có thái tử Đan đưa tiễn, nhưng với hình ảnh "tiếng sóng ở trong lòng", ta vẫn cảm thấy hơi lạnh của gió sóng, vần thơ tràn ngập một nỗi buồn mênh mang, liên hồi, vô tận. Những lớp sóng cứ dâng lên, vỗ mãi trong lòng kẻ đưa tiễn người thân đi xa. Câu thơ mang ý vị cổ kính, bi tráng và kín đáo vì đã sử dụng một điển tích. Cách diễn đạt, cách nói rất mới, đúng là thơ lãng mạn thời "tiền chiến". Mới ở cách đặt cân hỏi và mới ở "tiếng sóng ở trong lòng". Tiếng sóng ấy chính là tâm trạng của người đưa tiễn: "Đưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng?" Hai câu 3, 4 nói lên nỗi lòng của người đi xa. Mặc đầu li khách lên đường với một quyết tâm phi thường "Chí lớn chưa về bàn tay không", và "Ba năm mẹ già cũng đừng mong", tuy mọi thương nhớ,… được nén lại, được giấu kín ở trong lòng, nhưng vẫn hé lộ trong ánh mắt trong: "Bóng chiều không thắm, không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?" Thơ cổ thường lấy ngoại cảnh để biểu hiện tâm trạng bằng những ước lệ. Thâm Tâm cũng mượn ngoại cảnh và dùng ước lệ nhưng có thêm chi tiết về thời gian, lấy thời gian để hiểu đạt tâm tình: "Bóng chiều không thắm, không vàng vọt". Nơi đưa tiễn chẳng có bến đò dòng sông, lúc chia li chẳng phải ngày tàn, chỉ diễn ra ở một nơi bình thường, vào một buổi chiều bình thường như bao buổi chiều khác, bầu trời "không thắm, không vàng vọt", nhưng kẻ sắp đi xa lại "đầy hoàng hôn trong mắt trong". Màu hoàng hôn chứa đầy trong mắt trong là màu sắc tâm tưởng, màu biệt li: buồn và lo. Đi vì nghĩa lớn: một đi quyết không trở về (bàn tay không). Một gia cảnh trĩu lòng: mẹ già, hai chị và "em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc". Người ra đi tất phải buồn lo và thương nhớ, lưu luyến. Li khách đâu phải là gỗ đá. Nhưng cũng không phải là kẻ tầm thường, đã ôm chí lớn và quyết tâm lên đường. Chữ "đầy" gợi tả chiều sâu, bể rộng, chiều dài của nỗi buồn dâng lên trong lòng li khách. Hai chữ "trong" đồng âm mà dị nghĩa. Chữ "trong" đứng trước chỉ sự chứa đựng, chữ "trong" cuối cầu tả ánh mắt của khách lên đường, một tráng sĩ với phong độ trẻ trung, với nhiều khát vọng bay cao, bay xa, một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển được! Câu thơ "Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong" cho thấy ngòi bút của Thâm Tâm rất tinh tế trong biểu hiện cảm xúc và tâm trạng của “ li khách". Trong hai khổ thơ tiếp theo, tác giả nói rõ nỗi lòng “li khách": "Ta biết người buồn chiều hôm trước"… "Ta biết người buồn sáng hôm nay"… Những câu thơ ấy đã tạo nên tính hệ thống của ngôn ngữ thi ca. Và đó là mội trong những yếu tố, tính chất làm nên vẻ đẹp của ngôn ngữ văn chương, đưa thi phẩm "Tống biệt hành" lên hàng tuyệt bút trong nền "Thơ mới" (1932-1941). Cuộc biệt li được nói đến trong khổ thơ này thấm đượm một không khí buồn. Người đưa tiễn man mác. Khách đi xa thì nén lại, giấu kín vào đáy lòng bao nỗi buồn lo và thương nhớ trước lúc giã biệt gia đình và bạn bè, nhưng ánh mắt vẫn nhiều buồn thương "đầy hoàng hôn trong mắt trong". Chất nhân tình được nói lên một cách rất chân thực và rất thơ. Người đi xa có thể vì nghĩa lớn…, vì thế hình ảnh "li khách" trong bài thơ đã để lại trong lòng ta nhiều ngưỡng mộ. Nỗi buồn của người đưa tiễn và "li khách" là nỗi buồn lành mạnh và rất chính đáng của con người. Có nỗi buồn ấy, trái tim ấy mới có lẽ sống đẹp, quyết tâm lên đường vì nghĩa lớn. Để diễn tả không khí đưa tiễn, thể hiện tâm trạng của "ta" và của "người", Thâm Tâm đã lựa chọn ngôn từ, sáng tạo hình ảnh rất thần tình. Đặc biệt đã tạo nên một không khí thiêng liêng, cổ kính, bi tráng để lại nhiều ám ảnh trong lòng người. Nhạc điệu chơi vơi, mênh mang, lan tỏa. Câu thơ đầy âm ba, dư vị, vần thơ phong phú, có cả vần chân phối hợp với vần lưng "không – sông – trong – lòng – không – không – trong – trong". Các phụ âm vang diễn tả sự xao xuyến, vương vấn. Các câu hỏi tu từ, những điệp từ, điệp cú, song hành hô ứng (sao có tiếng sóng… sao đầy hoàng hôn…) đã làm cho khổ thơ phong phú về chất thơ và nhạc điệu, cảm xúc và hình tượng cả ở tâm trạng và ngoại cảnh. Có thể nói, đây là một đoạn thơ hay và rất độc đáo về chất thơ và hồn thơ của Thâm Tâm. "Tống biệt hành" là "một bài ca không bao giờ quên"…
Bình giảng khổ thơ đầu bài Tống biệt hành của Thâm Tâm
1,611
Làm thơ từ năm mười sáu tuổi, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào trong phong trào Thơ mới. Một trong những bài thơ đặc sắc về thiên nhiên, đất nước và con người là Đây thôn Vĩ Dạ. Khổ thơ mở đầu sau đây miêu tả thiên nhiên xứ Huế vô cùng gợi cảm, hòa vào một tình cảm nhớ thương đằm thắm, bâng khuâng, tiêu biểu cho một nét phong cách thơ Hàn Mạc Tử: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có kết cấu ba đoạn. Khổ thơ thứ nhất, tả vườn cây dưới ánh nắng ban mai thanh tân, tinh khiết. Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh trời, trăng, mây nước mang nét buồn xa vắng. Khổ thơ cuối là nỗi lòng nao nao, mơ mộng bởi bóng hình thiếu nữ xứ Huế. Thôn Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái cây tươi bốn mùa, với những ngôi nhà duyên dáng… đi vào văn học qua câu thơ tuyệt bút: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Nhưng đâu phải chỉ có thiên nhiên gợi niềm ấp yêu tuyệt diệu mà quanh quẩn đâu đó còn cả bóng dáng con người quen thuộc, có tấm lòng chờ đợi thiết tha. Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Câu thơ là một lời mời mọc, cũng có thể là một lời trách móc thân tình. Ngôn ngữ chọn lọc mà như ngẫu nhiên phóng bút. “Sao anh không về” vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm. Hãy về thôn Vĩ, một thôn Vĩ tràn ngập ánh nắng ban mai: Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Thôn Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp. Nắng sớm ban mai tràn ngập không gian. Những tàu lá cau xanh mướt vươn lên đón tia nắng sớm, vô vàn hạt sương đêm đọng lại, lấp lánh màu ngọc bích. Lời thơ thật hồn nhiên. “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo vui nhưng cũng thật điêu luyện: từ mướt thật đắt và xanh như ngọc mang nghĩa tượng trưng gợi tả độc đáo. Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Lá trúc thì mảnh mai, thanh tú. Nhiều cành lá xếp lên nhau, lay nhẹ theo làn gió thoảng ban mai, dưới ánh nắng sớm, che ngang in bóng như chữ điền trên khuôn mặt người thôn Vĩ. Hay khuôn mặt người thôn Vĩ hồn hậu vuông vắn chữ điền? Có thể là cả hai: hình ảnh vừa thực, vừa có phần hư ảo lung linh trong niềm nhớ của lòng người. Câu thơ được cách điệu hóa, mang ý nghĩa tượng trưng. Vườn cây mượt mà đó phải là quê hương những con người hiền hòa. đôn hậu. Con người chợt xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên và hình ảnh con người cùng thiên nhiên hòa hợp trong vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng. Mạch thơ êm nhẹ, ý thơ chuyển dịch: sau lời mời mọc dễ thương (câu 1 cảnh vật hiện lên trước mắt với màu sắc tươi tắn (câu 2,3) và con người hiền hòa xuất hiện, với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng), khổ thơ biểu hiện nét đẹp nên thơ của con người và cảnh vật xứ Huế. Qua đó,ý thơ cũng gợi lên một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, một nỗi bâng khuâng, xa xôi mờ ảo, như trong câu cuối của bài thơ: Ai biết tình ai có đậm đà? Có ý kiến cho rằng cảnh vật hiện ra trong một số bài thơ của Hàn Mặc Tử đậm đà màu sắc dân tộc. Thật vậy, nếu không gắn bó máu thịt với quê hương Hàn Mạc Tử khó viết được những câu thơ trác tuyệt như trên. Bên cạnh những bài thơ hay về quê hương đất nước của Thế Lữ, Xuân Diệu. Huy Cận, Chế Lan Viên, Anh Thơ…. mấy câu thơ mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử. đã góp phần khẳng định giá trị của phong trào Thơ mới vào những năm ba mươi của thế kỉ XX, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học nước ta trong nửa đầu thế kỉ này.
Bình giảng khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử_ Sao anh không về chơi thôn Vĩ…Lá trúc che ngang mặt chữ điền
776
Nội dung bài viết1 Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 2 Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Đoàn kết là cội nguồn của sức mạnh và chiến thắng. Bởi vậy, từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã chú trọng đến việc giáo dục tinh thấn đoàn kết qua những huyền thoại đẹp như Sự tích trăm trứng, Quả bầu mẹ,…Thiêng liêng thay là ý nghĩa của hai tiếng đồng bào. Nó khẳng định rằng tất cả các dân tộc sinh sống trên non sông đất nước này đều do cùng một mẹ sinh ra. Bài học về đoàn kết còn được gửi gắm trong những câu ca dao làm rung động lòng người: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Câu ca dao trên là một chân lí lớn lao về truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc. Sự gắn bó của tình giai cấp, nghĩa đồng bào được đem so sánh với miếng nhiễu điều (một loại lụa quý màu đỏ, dệt từ tơ tằm) phủ trên chiếc giá gương (chiếc khung để gắn gương soi). Miếng nhiễu ấy che phủ cho tấm gương khỏi bụi, mãi mãi sáng trong. Tấm gương kia cũng làm tôn thêm vẻ đẹp, vẻ quý của miếng nhiễu điều. Hai vật ấy luôn luôn khăng khít bên nhau, bổ sung giá trị cho nhau. Ý nghĩa câu ca dao không dừng ở đó. Sâu xa hơn, nó chứa đựng một lời khuyên nghĩa tình thắm thiết: Người trong một nước phải thương nhau cùng. Sống trên đất nước này, dù người trên rừng, kẻ dưới biển, dù người Kinh hay người Thượng, chúng ta phải luôn nhớ rằng các dân tộc đều là con của một mẹ sinh ra, đều là dòng giống Lạc Hồng. Đó chính là sợi dây vô hình mà hết sức thiêng liêng kết nối các thành viên trong cộng động để tạo nên xã hội. Trong cuộc đời, không ai có thể tồn tại được nếu sống cách biệt với mọi người. Tách mình ra khỏi ràng buộc quan hệ với gia đình, giai cấp và dân tộc thì chẳng khác nào tự tiêu diệt vì cá nhân không thể làm nên sức mạnh. Chỉ có một cộng đồng thống nhất về ý chí, gắn bó chặt chẽ về quyền lợi mới tạo nên được sức mạnh dựng nước và giữ nước, mới sáng tạo ra những của cải vật chất, tinh thần làm giàu cho xã hội. Bài học đoàn kết đã được chứng minh qua thực tế mấy ngàn năm lịch sử của nước ta. Trải qua bao cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, sức mạnh của truyền thồng đoàn kết đã tạo nên những chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh,… Dân tộc Việt Nam nhờ đoàn kết mà tồn tại và không ngừng phát triển. Đoàn kết trong thời chiến để giữ nước, đoàn kết trong thời bình để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Nhận thức ấy phải được thấm sâu vào mỗi con người. Chúng ta là con một cha, nhà một nóc, Thịt với xương, tim óc dính liền(thơ Tố Hữu). Thương yêu, cưu mang giúp đỡ nhau trong lúc yên vui cũng như trong cơn hoạn nạn, ấy là đạo lí làm người – là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết, thương yêu giai cấp, giống nòi là cơ sở của tình yêu quê hương, đất nước. Tinh thần ấy được thể hiện qua những việc làm cụ thể hằng ngày: một hành động giúp đỡ người già cả, tàn tật, người gặp khó khăn hoạn nạn; một phong trào cứu trợ đồng bào vùng bị thiên tai; một phong trào đền ơn đáp nghĩa rộng khắp; những lớp học tình thương mở nơi hang cùng ngõ hẻm, đem ánh sáng văn hóa đến với trẻ em nghèo…Tất cả những việc làm ấy là kết quả của một cách sống coi trọng nhân nghĩa, là kết quả của bài học tương thân, tương ái lưu luyến đã bao đời. Bên cạch cách sống đẹp đẽ ấy thì cách sống ích kỉ, chỉ biết quyền lợi cá nhân thì đáng phê phán. Thờ ơ trước nỗi đau của người khác, tệ hại hơn là vui sướng trên nỗi khổ cực, mất mát của đồng bào, đó là biểu hiện sự suy thoái về đạo đức và nhân cách. Xã hội mới không chấp nhận những kẻ nhưu vậy vào cộng đồng dân tộc. Trong thời đại hôm nay, câu ca dao trên vẫn giữ nguyên ý nghĩa nhân sinh của nó. Kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, chúng ta hãy kề vai sát cánh bên nhau để xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Trên đường đi tới tương lai tươi sáng, lời Bác Hồ dạy luôn luôn là nguồn sức mạnh cho cả dân tộc: Đoàn kết , đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 2 Đất nước được tồn tại và phát triển, con người Việt Nam được ấm no, hạnh phúc một phần cũng nhờ truyền thống đoàn kết từ xưa đến nay của dân tộc ta. Người dân Việt Nam đã cùng nhau đứng lên, cùng nhau hợp lực để chống lại bao gian nguy, bao khó khăn, tai biến mới tồn tại và phát triển đến ngày nay. Để nhắc nhở các thế hệ sau phải luôn luôn giữ mãi tinh thần đoàn kết, ca dao Việt Nam có câu: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Đó là lời dạy ân cần, tha thiết nhất của ông cha ta để lại cho con cháu như bài học ở đời. Ngôn ngữ Việt Nam thật đa dạng và nhiều ý nghĩa. Ca dao Việt Nam thật phong phú, thật gợi cảm. Câu ca dao trên cũng thế. Nó bao hàm một ý nghĩa thật sâu sắc. Nhiễu điều là tâm nhiễu đó được phủ lên mặt gương để giúp gương không bị ố mờ theo năm tháng. Đó là vật vô tri, vô giác mà cũng có thể che chở cho nhau để được tồn tại, để phục vụ cho đời. Song câu ca dao trên không dừng lại ở ý nghĩa ấy. Nó còn ngụ một ẩn ý sâu xa: Những con người cùng sống trong một đất nước thì phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Đó là lẽ sống, là đạo lí làm người. Tình đoàn kết sẽ giúp chúng ta vượt qua trở ngại gian lao, cho ta thêm sức mạnh để tiến vững mải. Tình đoàn kết là yếu tố quan trọng giúp ta tồn tại và phát triển trong xã hội. Câu ca dao trên là lời khuyên răn chân thành nhất của ông cha ta, là hướng đi, là ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ sau. Thật vậy, câu ca dao trên là sự đúc kết kinh nghiệm hoàn hảo nhất của tổ tiên để lại. Nếu không nhờ tấm vải đỏ che chở thì gương có còn trong sáng mãi được không? Tất nhiên, tấm gương ấy sẽ mờ theo năm tháng. Lúc đó vải không còn sử dụng được mà gương cũng thế. Cũng vậy, con người cần phải có tình đoàn kết. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho ta thấy rõ điều đó. Thắng lợi vẻ vang của dân ta ngày nay đâu phải dễ dàng có được. Đó là bao sức người, sức của đồng bào ta đã hợp nhất với nhau. Tất cả và tất cả đã cùng nhau đứng lên tạo nên sức mạnh thần kì để đánh đổ giặc ngoại xâm. Tình đoàn kết luôn là động lực chủ yếu đưa đến những thành công rực rỡ. Nếu không có tinh thần đoàn kết thì liệu xã hội có còn tồn tại đến ngày nay không? Tinh thần đoàn kết luôn được nhân dân ta giữ mãi trong bất kì hoàn cảnh nào. Thiên tai lũ lụt, hạn hán tuy tàn phá thật khốc liệt nhưng nhờ sự đoàn kết, gắn bó, nhân dân ta đã cùng nhau chống lai, vượt qua tất cả. Nói chung, nếu con người không biết đoàn kêt. hợp sức lực với nhau thì sẽ không thể nào tồn tại được, tình đoàn kết sẽ đem đến cho mọi người những kết quả tốt đẹp nhất. Nhưng còn có nhiều người tự hỏi ràng: Tại sao người trong một nước thì phải đoàn kết với nhau? Một điều thật dễ hiểu. Bởi lẽ mỗi chúng ta đều chung một dòng giống, cùng chung một dân tộc, một tiếng nói, cùng sống trên một lãnh thổ. Những điểm chung đó là sợi dây ràng buộc, giúp những người trong một nước gắn bó với nhau. Chúng ta thử nghĩ nếu không may đất nước bị lâm nguy, chẳng lẽ tất cả chúng ta được an vui sinh tồn? Hoặc khi có thiên tai, lũ lụt xảy ra thi tất cả chúng ta sẽ cùng nhau hứng chịu Do đó người trong một nước thì phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đó là tình nghĩa đồng bào cùng sống trên một lãnh thổ. .Chính tình cảm thiêng liêng đó đã giúp cách mạng Việt Nam vượt qua mọi phong ba bão tap va cập bến vinh quang như hiện nay. Hiểu được ý nghĩa vô cùng sâu sắc ấy, mỗi chúng ta cần phải làm gì để thực hiện đúng lời dạy trên? Chúng ta phải biết giúp đỡ lần nhau khi hoạn nạn, khó khăn. Chẳng hạn như chúng ta phải đóng góp, giúp đỡ trẻ em tàn tật, mồ côi, những đồng bào bị bão lụt… Hơn nữa, khi có giặc ngoại xâm tất cả phải cùng nhau đứng lên chống giặc. Tình thương là thứ tình cảm được bộc lộ rõ rệt nhất qua nhiều hành động cụ thể. Có như thế. Đất nước mới tồn tại, cuộc sống nhân dân ta mới ấm no hạnh phúc Trong tình hình đất nước đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khó khăn, phức tạp thì câu ca dao trên có ý nghĩa rất quan trọng. Mỗi người cần phải thể hiện tình đoàn kết, gắn bó nhau hơn nữa để đưa đất nước ngày một đi lên. Tình đoàn kết sẽ là động lực là sức manh đưa đất nước đến những thắng lợi vẻ vang. Tuy nhiên, trong thực tế không phải ai cũng hiểu và làm điều đó. Bởi vậy, chúng ta phải phê phán những thái độ sống thiếu trách nhiệm, phê phán những kể sống bàng quan với mọi người, thờ ơ trước những khó khăn của đất nước, của đồng bào. Những kẻ ấy đáng bị lên án đáng quét sạch đi. Tất cả chúng ta phải cùng nhau đi lên, cùng nhau xây dựng đất nước theo lời Bác dạy: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công. Tóm lại, câu ca dao trên là bài học sâu sắc nhất, là lời khuyên chân thành nhất của ông cha ta. Đó là đạo lí, là lẽ sống giúp cho thế hệ sau vươn tới tương lai tươi sáng. Tình thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau sẽ đưa chúng ta vượt qua tất cả. Từ đó, mỗi con người sẽ luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức và nhất là tình thương đồng loại. Tẩt cả sẽ cùng nhau hợp lực đưa đất nước ngày một đi lên. Riêng em, em nghĩ mình cần phải giúp đỡ những bạn gặp nhiều khó khãn trong học tập, những bạn không có điều kiện đến trường. Em sẽ cùng các bạn xây dựng tập thể lớp ngày thêm vững mạnh. Làm được như thế, em cảm thây cuộc sống sẽ có ý nghĩa hơn, đời sống sẽ trở nên phong phú, thú vị hơn.
Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Văn mẫu lớp 7
2,098
README.md exists but content is empty. Use the Edit dataset card button to edit it.
Downloads last month
3
Edit dataset card