text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Puskin không chỉ là “Mặt trời củaa nền thi ca Nga” ở tư cách công dân mà còn là thi sĩ ca hát tình yêu. “Hầu như tình yêu, tình bạn luôn luôn là những tình cảm chi phối nhà thơ nhiều nhất và là ngọn nguồn trực tiếp nhất của hạnh phúc và đau khổcủa cả đời ông… Màu sắc chung của thơ Puskin, đặc biệt trong thơ trữ tình, là vẻ đẹp nội tâm con người và lòng nhân ái vuốt ve tâm hồn” (Biêlinxki). Cùng với Gửi 'K, Tôi yêu em là bài thơ nổi tiếng cua Puskin về tình yêu. Thời kì sống ở Pêtecbua, Puskin thường lui tới nhà vị Chủ tịch Viện hàn lâm nghệ thuật Nga để gặp gỡ những người làm nghệ thuật, và cũng vì một thiếu nữ đẹp tên là A. A. Olênhia, con gái vị chủ nhà. Mùa hè năm 1828, nhà thơ ngỏ lời cầu hôn nhưng không được nhận lời. Năm 1829, bài thơ ra đời trên cơ sở của mối tình có thực này. Thơ tình yêu của Puskin thường bắt nguồn từ những xúc cảm cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa. Do đó, đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Bài thơ Tôi yêu em đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá trị tinh thần chung của loài người: những tình cảm chân thành, cao thượng, nhân ái cùa tình yêu chứa đựng trong những lời lẽ giản dị, trong sáng nhất. Bài thơ có thế được chia thành hai phần: Bốn câu đầu, nhân vật trữ tình – tôi, khẳng định tình yêu vẫn còn nhưng xin rút lui vì không muốn gây phiền muộn cho người mình yêu. Bốn câu cuối, dồn tả các cung bậc khác nhau của tình yêu và lời khẳng định một tình yêu đằm thắm, chân thành. Điệp khúc tôi yêu em là giọng điệu chủ đạo của bài thơ Trong tiếng Nga, với hai đại từ ya và vư có thể dịch sang tiếng Việt thành một số cặp quan hệ như tôi yêu cô, anh yêu em, tôi yêu em. Đối với tiếng Việt, đại từ xưng hô chỉ đổi thay một chút là quan hệ và sắc thái tình yêu cũng đổi khác. Tôi yêu cô bộc lộ một khoảng cách xa, trang trọng, ít tình cảm, hơn nữa, từ cô trong tiếng Việt ít chỉ quan hệ tình yêu. Còn anh yêu em thì thân thiết, gần gũi quá, trong trường hợp này chưa thật phù hợp. Sử dụng tôi yêu em, bản dịch của Thúy Toàn đã diễn tả chính xác một quan hệ vừa gần vừa xa, vừa rụt rè vừa đằm thắm. Nhân vật tôi chưa thân thiết với cô gái đến mức xưng anh. Khi xưng tôi quan hệ tình yêu lại mang một sắc thái trầm tĩnh, tự tin. đúng mực, có mang ý thức về mình. Nét tinh tế trong quan hệ hai nhân vật được bộc lộ qua hai đại từ nhân xưng tôi và em này. Mở đầu bài thơ là điệp khúc khẳng định: Tôi yêu em, một lời bộc lộ chân thành xuất phát từ một trái tim trung thực, báo hiệu một tình yêu thực sự. Tôi yêu em, lời lẽ giản dị mà mang bao nỗi quyến rũ, bí ẩn muôn đời: Tôi yêu em đến nay chừng có thể Ngọn lửa tỉnh chưa hẳn đã tàn phai Lời thơ chậm rãi, tình thơ thâm trầm, kín đáo. Một sự khẳng định pha chút cân nhắc, dề dặt với những từ có thể, chưa hẳn (nguyên văn: Tinh yêu có lẽ chưa hoàn toàn lụi tắt trong tôi). Dùng một ngữ mang tính phủ định, chưa hoàn toàn lụi tắt,nhân vật trữ tình bày tỏ một tình yêu, một say mê mang dáng vẻ âm thầm, dai dẳng, dấu hiệu của những cảm xúc vững bền, của một trái tim chung thủy, không phải là sự đam mê bột phát vụt sáng lóe rồi lụi tàn ngay đấy. Mạch thơ chuyển đột ngột: Nhưng không để em bận lòng thêm nữa Hay hồn em phải gợn bóng u hoài Câu thơ toát lên cái điềm tĩnh của lí trí, cái dồn nén của cảm xúc. Điệp từ không (nguyên văn: "Mong sao nó không làm em băn khoăn thêm nữa. Tôi chẳng muốn làm em buồn vì bắt cứ lẽ gì") nhấn mạnh sự dứt khoát: cần phải dập tắt ngọn lửa tình yêu (dù chỉ là âm thầm, dai dẳng) để tránh cho em phải bận lòng, tránh cho hồn em phải gợn bóng u hoài. Lời thơ như một lời tự nhắc nhủ, một sự tự ý thức về tình yêu của mình và cũng như một lời nói bên trong đầy dịu đàng, trân trọng với hồn em. Nhưng đằng sau những lời lẽ điềm tỉnh, đúng mực ấy là bao nỗi niềm, bao sắc thái của tình yêu: có cái chua xót của thân phận vì nếu tình yêu không đem lại hạnh phúc, niềm vui mà chỉ là nỗi băn khoăn, buồn bã cho người mình yêu thì nên chấm dứt tình yêu đó; có sự chế ngự của lí trí đối với con tim: có cái cao thượng, tế nhị của tình tôi (điều quan trọng không phải là tình yêu của tôi mà là sự yên tĩnh, thanh thản của hồn em); có cái tôn thờ, sùng kính của bậc nam nhi đối với người phụ nữ. Tình yêu có thể chấm dứt vì nhiều lí do, nhưng cái lí do đầy dịu dàng, trân trọng và cao thượng ấy đối với nguời phụ nữ dễ mấy ai có được. Nếu bốn câu thơ đầu, cảm xúc có xu hướng bị dồn nén, bị lí trí chi phối thi ở bốn câu thơ sau, mạch cảm xúc lại tuôn tràn, không tuân theo mệnh lệnh của lí trí, khẳng định một tình yêu mãnh liệt không che giấu với điệp khúc tôi yêu em được nhắc lại lần thứ hai: Tôi yêu em âm thầm không hi vọng Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen Nhịp thơ nhanh hơn với những từ lúc, khi, diễn tả những trạng thái tình yêu biến đổi vô cùng, dồn dập. Nhân vật trữ tình bộc lộ thẳng thắn tâm hồn mình: một tình yêu âm thầm, không hi vọng, vừa khẳng định lại nét âm thầm (nguyên văn: Không thốt ra lời ) vừa nhấn mạnh không chút hi vọng, như tô đậm thêm nét đặc biệt của mối tình đơn phương này. Nhưng dù vậy, tình yêu ấy vẫn diễn ra với mọi sắc thái muôn thuở: Nỗi đau khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè, lòng ghen tuông giày vò. Hai câu thơ mang tính chất thú nhận đã khơi mở những lớp tình cảm phức tạp và rất con người dưới đáy sâu tâm hồn, sau lớp vỏ ngôn từ bình thản, điềm tĩnh thể hiện qua cách xưng hô, qua vẻ ngoài lặng lẽ, rụt rẽ, qua ý thức cố ghìm nén tình cảm, chỉ cho phép nói rằng tình yêu của mình chưa li tắt chứ không phải là đang bùng cháy mãnh liệt. Nhân vật trữ tình không ngại ngần mà trung thực bày tỏ: Khi hậm hực lòng ghen, nghĩa là tôi cũng chỉ như muôn người bình thường khác, cũng bị những tình cảm khổ đau, u ám muôn thuở trong tình yêu vò xé tâm can. Tuy nhiên, có ai đã từng nói, lòng ghen tuông như con rắn độc, nó bóp nghẹt trái tim, bởi vi ghen tuông trong tình yêu dần đến mất sáng suốt, như Mêđê vì thù chồng mà giết chết con mình (Mêđê – Ơriphiđơ), như Otenlô bóp chết Dexđêmôna (Ôtemlô – Sêcxpia), như Lenxki thách Onêghin đấu súng (Onêghin – Puskin), như Hoạn Thư hành hạ Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Liệu nhân vật trữ tình trong bài thơ có bị nỗi ghen tuông ngự trị làm hạ thấp con người như vậy không? Hai câu thơ cuối cùng là câu trả lời, vụt sáng lên một giá trị nhân văn, một tư thế cao thượng của con người đáng yêu ấy Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm Cầu em được người tình như tôi đã yêu em Cảm xúc bị dồn nén được giải tỏa, tuôn trào. Điệp khúc tôi yêu em được láy lại lần thứ ba với một lời khẳng định bản chất của mối tình này: Chân thành, đằm thắm. Xin lưu ý, trong điệp ngữ tôi yêu em, ở nguyên bản tiếng Nga, động từ yêu luôn được ởthể chưa hoàn thành, điều ấy có nghĩa là ngọn lửa tình yêu trong trái tim nhà thơ sẽ không bao giờ tắt, không bao giờ lụi tàn, nhạt phai. Chính là sự chân thành, đằm thắm không bao giờ nhạt phai ấy là cái gốc của tấm lòng cao thượng trong tình yêu này. Nó lí giải vì sao nhân vật trữ tình ở đoạn trên lại có một xử sự dịu dàng, tế nhị, trân trọng người mình yêu và đến cuối bài thơ lại có một lời chúc thiêng liêng, đầy vị tha: tôi cầu mong em có được một người yêu em cũng chân thành đằm thắm như tôi. Có một điều tế nhị sâu xa trong hoàn cảnh trớ trêu này. Tình yêu khi không được đền đáp thường là nỗi khổ đau, đưa đến lòng tự ái, hận thù. Nhưng nếu đó là tình yêu của một trái tim chân thật, độ lượng, nhân hậu thì dù bị cự tuyệt, con người vẫn có thể có những xử sự cao thượng. Lời cầu mong cuối bài thơ cũng còn là lời nhắn nhủ của một trái tim giàu độ lượng, chở che như nhà thơ đã viết trong một bài thơ khác: Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn Em thầm thì 'hãy' gọi tên lên Và hãy tin: còn đây một kỉ niệm Em vẫn còn sống giữa một trái tim Chính thái độ trân trọng, tôn thờ, sùng kính, “sự thuần khiết" đối với phụ nữ đã đưa bài thơ của Puskin vươn tới những giá trị nhân văn cao cả trong kho tàng thơ tình nhân loại. Tôi yêu em, bài thơ đã diễn tả một tình yêu vô vọng, thấm một sắc điệu buồn, nhưng hơn hết vẫn là sự mãnh liệt và cao thượng của trái tim con người với một mối tình không đơm hoa kết trái. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, không có biện pháp tu từ nào ngoài điệp ngữ tôi yêu em. Chất thơ của bài thơ toát ra từ những xúc cảm chân thành, ghìm nén, từ những lời nói giản dị nhưng đầy thiết tha, tế nhị và mãnh liệt, đằm thắm mà cao thượng, như Biêlinxki từng nhận định: “Đặc điểm thơ ca Puskin là khả năng phát hiện trong con người mĩ cảm và lòng nhân ái, hiểu theo nghĩa là lòng kính trọng vô hạn đối với phẩm giá con người với tư cách là con người. Tôi yêu em là một khúc hát của trái tim, là một bài thơ tình độc đáo trong thơ ca nhân loại.
Anh chị hãy phân tích bài thơ Tôi yêu em của nhà thơ Puskin
1,897
Nội dung bài viết1 Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 1 2 Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 2 3 Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Gợi ý Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 1 Hạnh phúc là gì? Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều đã từng đặt câu hỏi như vậy. Người ta có thể cảm nhận được hạnh phúc nhưng để mô tả nó 1 cách rõ ràng thì ko phải là điều đơn giản. Quan niệm về hạnh phúc thì mỗi người một kiểu và trả lời cho câu hỏi: "Hạnh phúc là gì?” cũng mỗi người một đáp án. Câu trả lời có thể gặp nhau nhưng cảm xúc thì không thể gặp nhau vì chỉ có người đó mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực mà người ta đang là kẻ trong cuộc. Chỉ có thể nói về hạnh phúc như là 1 trạng thái sung sướng vì cảm thấy thỏa mãn ý nguyện. Lắm lúc hạnh phúc lớn lao như vừa đạt được một điều gì đó rất lớn trong cuộc sống, có khi chỉ đơn giản là niềm xúc động khi nhận được 1 sự giúp đỡ hay 1 lời chia sẻ chân thành. Đối với nhiều người, hạnh phúc bắt đầu từ điều đơn giản nhất, khi mỗi sớm mai thức dậy, thấy mình sống có ích trên cõi đời. '' Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương '' ( Trịnh công Sơn ) Hạnh phúc có khi không phải tìm kiếm đâu xa xôi, mà đôi khi ta có cha có mẹ, có nụ cười trong những bữa cơm, trong những lúc gia đình cùng làm chung một công việc gì đó vui vẻ là ta cảm thấy hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc không chỉ là nụ cười, niềm vui… mà hạnh phúc có trong cả nước mắt… Đó là những giọt nước mắt vỡ òa trong niềm vui sướng của người mẹ khi thấy con ra đời khỏe mạnh, là những giọt lệ ngấn dài trên má cô gái khi nhận được từ người bạn thân lời chúc mừng sinh nhật muộn màng nhưng chân thành và ý nghĩa… Có 1 câu truyện như sau: “Một chú cún con hỏi mẹ: “Mẹ ơi, hạnh phúc là gì hở mẹ?” Chó mẹ từ tốn trả lời: “Hạnh phúc là ở khấu đuôi của con đó!” Nghe xong, chú chó liền nhảy lên cố gắng ngậm lấy khẩu đuôi của mình. Chú cố gắng hết sức nhưng vô ích. Mệt quá chú khóc nức nở nói với mẹ: “Mẹ ơi, con không thể nắm được hạnh phúc!”. Chó mẹ cười hiền từ đáp: “ Con hãy ngẩng cao đầu tiến về phía trước hạnh phúc sẽ luôn đi theo con thôi!” Như vậy, hạnh phúc là cái gì đó con người không nắm giữ được trong tầm tay, nhưng hạnh phúc không phải là cái gì đó quá xa xôi mà con người không tìm kiếm được cho mình. Hạnh phúc là khi có cái gì đó để làm, có ai đó để yêu, và có gì đó để hy vọng. Hạnh phúc đích thực bắt nguồn từ chính mình chứ không thể chịu tác động bởi những lời nói hay việc làm của người khác. Nếu một người nói rằng “Tôi không có hạnh phúc” thì chính xác là người đó sẽ không bao giờ có hạnh phúc, dù người ấy có những cái mà người khác luôn mong mỏi. Còn khi hỏi một người sống trong cảnh nghèo khó rằng họ có hạnh phúc không mà họ trả lời ta rằng “Lúc nào tôi cũng thấy hạnh phúc” thì thật sự là họ đã được hạnh phúc. Chướng ngại to lớn để có được hạnh phúc là mơ ước một hạnh phúc quá lớn. Nếu chúng ta chỉ biết tìm hạnh phúc cho riêng mình thì có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Hạnh phúc đích thực là biết sống vì người khác. Vì vậy hãy chia sẻ hạnh phúc của mình, bởi vì “ Nỗi buồn được san sẻ sẽ vơi nửa, còn hạnh phúc khi san sẻ sẽ nhân đôi”. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, hạnh phúc chỉ là một nốt nhạc hay, bay bổng hay một gam màu sáng trong bức tranh tổng thể của cuộc đời ta, là chất xúc tác cho ta thêm nghị lực, niềm vui để tiếp tục bước đi trên con đường đời chứ hạnh phúc không phải là tất cả. Nó có thể khiến con người ta cảm thấy sung sướng cực độ nhưng xét ở một khía cạnh khác, khía cạnh nằm bên kia của sợi chỉ ranh giới thì hạnh phúc cũng có thể khiến con người ta đắm chìm trong hư ảo mà bỏ quên đi những vấn đề thực tế hiện tại đang xảy ra xung quanh. Nó cũng có thể giết chết nhân cách của một con người khi nó gieo vào tâm họ hạt giống "tự phụ". Vì vậy chúng ta phải biết dừng lại đúng lúc, phải làm chủ được hạnh phúc của mình, biến cảm xúc hạnh phúc thành tư tưởng sống lạc quan yêu đời. Nếu lạc quan chúng ta sẽ thấy cuộc sống của mình thật ý nghĩa, thấy mình muốn sống và cần phải sống vì có rất nhiều việc mà mình muốn làm. Bằng ngược lại nếu tự ti, u buồn thì chúng ta sẽ không thấy được niềm vui trong cuộc sống, cảm thấy cuộc sống trôi qua thật nhàm chán vô bổ. Tóm lại, hạnh phúc đơn giản là khi bạn chịu nhìn nhận hạnh phúc bên mình. Hạnh phúc không hiện hữu trong bóng hình quá khứ hay niềm mong mỏi nơi tương lai, hạnh phúc là hạnh phúc trong thực tại nếu bạn biết nắm bắt nó ngày hôm nay. Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Bài làm 2 Đừng quá tham vọng, đừng quá sĩ diện. Hãy bằng lòng với những gì mình đang có thì sẽ cảm thấy hạnh phúc. Bằng lòng với những gì mình đang có sẽ thấy hạnh phúc, nhưng điều đó không có nghĩa là sống theo cách nước nổi bèo trôi, không cần phấn đấu, không có lí tưởng, không đam mê, không hoài bão.. Con người sống phải có mục đích, có ước mơ, hoài bão. Nhưng ước mơ hoài bão ấy phải nằm trong khả năng phấn đấu của mình – cố gắng sẽ đạt được, nếu không sẽ chỉ là viển vông, sẽ là tham vọng. Người có nhiều tham vọng sẽ luôn sống trong khổ sở, dằn vặt, hằn học, đố kị. Họ không bao giờ cảm nhận được hanh phúc. Có chị vô cùng thông minh, chuyên môn rất giỏi. Chị được đồng nghiệp và cấp trên tin tưởng bầu làm phó giám đốc phụ trách kĩ thuật của doanh nghiệp, nhưng chị luôn thắc mắc, hằn học, chị cho rằng mọi người đánh giá không đúng năng lực của chị, thủ trưởng coi thường phụ nữ. Đáng ra chức giám đốc là của chị… Sự hằn học, đố kị của chị làm khổ chị và làm chị xấu đi trong mắt mọi người. Từ sự tin tưởng, nể trọng về năng lực, mọi người chuyển sang nhìn chị bằng con mắt xem thường, xa lánh. Rồi như ông trời thử sức chị, tự nhiên ông giám đốc bị bệnh phải nằm viện để chị lên nắm quyền giám đốc. Tưởng là làm phó lâu năm thì lên trưởng chẳng khó gì. Vậy mà chị lại làm nháo nhào cả một nguồn máy đang chạy ro ro. Khi đó chị mới nhận ra rằng: chị hoàn toàn không có tố chất của một người làm kinh doanh, một người làm chính trị, một người làm lãnh đạo. Chị không biết giao dịch, không biết đối nội, đối ngoại. Bạn hàng bị mất, doanh thu bị giảm, nhân viên kêu ca… Lúc đó, chị mới thực sự tâm phục, khẩu phục ông giám đốc. Ngày chị trả lại chức giám đốc cho ông, chị thở phào, nhẹ nhõm cả người, chị thấy mình thật hạnh phúc. Có chị lấy được ông giáo sư, tiến sĩ có uy tín, có tiếng tăm. Một thời chị hãnh diện, tự hào về người chồng nổi tiếng ấy. Nhưng rồi chồng cô bạn thân của chị chỉ sau mấy phi vụ buôn bán đã phất lên như diều, đổi đến ba lần nhà mà cứ nhà sau to hơn nhà trước. Ngôi nhà đang ở trị giá cả triệu đô la. Cô bạn đi ăn sáng, đi chợ cũng bằng ô tô, đài các, sang trọng cứ như bà hoàng… Chị thấy ghen tị, ấm ức cứ len lỏi trong óc làm chị cảm thấy bực bội, khó chịu. Tự nhiên chị thấy ông chồng suốt ngày cứ miệt mài bên bàn máy tính kia thật kém còi, thật chán, thật vô tích sự… Có lúc bực lên chị bảo: Sao anh chỉ biết nhặt nhạnh từng xu thế nhỉ? Sao không nhìn những thằng ngu hơn anh nhưng giỏi kiếm tiền để mà học?… Nhìn chồng tròn mắt nhìn mình, chị càng thấy bực hơn. Một hôm, ánh mắt chị nhìn chồng lại long lanh như xưa, chị kể: “Nhà con bạn em bị tịch thu hết cả. Lão chồng nó buôn lậu, bị bắt rồi. Khổ thế… Cứ như nhà mình lại sướng…” – Lúc đấy, chị lại thấy mình hạnh phúc. Có chị nói: mỗi khi đọc báo, lên mạng, gặp những cảnh đời bất hạnh, lại thấy mình thật hạnh phúc. Hạnh phúc bởi ông chồng mình không vũ phu, hạnh phúc khi mình có một mái nhà không lo mưa bão, hạnh phúc khi mình còn cha mẹ, hạnh phúc bởi không phải thất nghiệp, hạnh phúc khi con mình ngoan ngoãn… Hạnh phúc rất đơn giản mà giá trị vô cùng. Chỉ một ánh mắt nhìn âu yếm của chồng, một lời khen của con, một câu động viên của bạn bè – đủ hạnh phúc ấm lòng. Hạnh phúc ở ngay trong tâm hồn, trong trái tim mỗi người – Bằng lòng với những gì mình đang có thì sẽ cảm thấy hạnh phúc. Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc? – Gợi ý Bước 1: Giải Thích: Hạnh phúc là gì? – Hạnh phúc là một trạng thái tâm lý của con người khi ta cảm thấy vui vẻ, thoả mãn. Đó là một khái niệm thuộc phạm vi đời sống tinh thần của con người. Đó là trạng thái tinh thần lý tưởng nhất mà con người theo đuổi. – Thế nào là hạnh phúc thật sự? Quan điểm hạnh phúc ở mỗi thời đại, mỗi con người là rất khác biệt. Có người cho rằng hạnh phúc là đạt được những gì mình mong muốn, có người lại cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền bạc, trong khi người khác lại cho rằng hạnh phúc là có một gia đình yên ấm. Cứ như thế đối với mỗi cá nhân, hạnh phúc là những cảm nhận rất khác biệt, do đó không có một định nghĩa chung cho hạnh phúc. – Nhưng vẫn có những mẫu số chung cho hạnh phúc đích thực. Đó là khi con người tìm được niềm vui và ý nghĩa trong cuộc sống của mình. Hạnh phúc ấy không dựa trên sự ích kỷ, thói vụ lợi hay những toan tính. Bước 2: Bình. – Hiện nay, ta đang sống trong thời đại mà kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên phần nào thoả mãn được nhu cầu của con người . Vì thế quan niệm về hạnh phúc cũng phần nào thay đổi. – Dẫn chứng: Trước đây trong thời kì chiến tranh, hạnh phúc đôi khi chỉ cần là được sống. Khi không có miếng ăn, hạnh phúc là một nắm cơm trắng. Bây giờ những nhu cầu về cơm ăn áo mặc phần nào đã được thoả mãn, do đó hiện nay rất nhiều quan điểm về hạnh phúc. Đó có thể là việc gặt hái nhiều trải nghiệm thông qua những chuyến du lịch bụi, cũng có thể là thức trắng hàng giờ bên bàn làm việc để nghiền ngẫm một kiến thức mới. Bước 3: Luận. – Người hạnh phúc không phải là người chưa từng trải qua những thất vọng trong cuộc sống mà là người luôn nhìn nhận những điều đó một cách tích cực, rút ra những bài học cho mình để tự tin bước tiếp. Và khi vượt qua những rào cản đó thì con người càng mạnh mẽ hơn. – Hạnh phúc không chỉ là những điều to lớn mà còn nằm trong những việc gần gũi, giản dị hằng ngày mà đôi khi ta đã vô tâm mà bỏ lỡ. Vì thế, biết cách cảm nhận những rung động từ cuộc sống thường nhật đôi khi lại đem đến những niềm hạnh phúc rất dạt dào. – Bài học: Để niềm hạnh phúc trọn vẹn, mỗi con người nên rèn luyện cho mình một sức khoẻ tốt và một trái tim luôn rộng mở để có thể cảm nhận vẻ đẹp từ cuộc sống một cách tươi mới hơn… Hạnh phúc là cảm nhận rất chủ quan, nên hãy viết về những điều khiến bạn vui vẻ và không hổ thẹn với ai khác nhé!
Anh chị suy nghĩ gì về hạnh phúc_ – Văn mẫu lớp 12
2,241
Khi mỗi người trong chúng ta làm một việc tốt, bất kể là việc gì, có ai biết rằng chúng ta đang thể hiện đức hạnh của chính mình. Hay nói cách khác như lời của nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông: “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Mỗi con người khi sinh ra đều có mặt tốt và mặt xấu. Trong mặt tốt, một phần chính là đức hạnh của mỗi người. Đức hạnh là đạo đức, là phẩm chất, là những đức tính tốt đẹp của con người, có sẵn hay phải trải qua quá trình rèn luyện mới có được. Hành động có thể được định nghĩa là những việc làm cụ thể, được bộc lộ hằng ngày, và quan trọng hơn đó là sự thể hiện của đức hạnh. Đó cũng chính là phần còn lại của mặt tốt trong mỗi người. Cả câu nói của nhà văn M. Xi-xê-rông mang ý nghĩa như chính nghĩa gốc của nó. Mọi phẩm chất tốt đẹp cần được thể hiện ở trong những hành động cụ thể. Một người không phải tự nhiên được biết đến là có đức hạnh, mà điều đó còn phụ thuộc vào những việc làm ý nghĩa mà người ấy đã làm. Đơn giản hơn, đó chỉ là những công việc bình thường, như giúp đỡ người già qua đường, nhường chỗ cho phụ nữ và trẻ em trên xe buýt hay biết quan tâm dến người khác và đối xử tốt với mọi người xung quanh. Đó chỉ là những công việc nhỏ hằng ngày được xuất phát từ một tâm hồn trong sáng, luôn hướng về cái đẹp, cái thiện, điều đó sẽ chính là sự thể hiện của đức hạnh. Người ta thường nói rằng: “ Ý nghĩa là nụ Lời nói là bông hoa Việc làm mới là quả ngọt.” Khi ta có ý nghĩa về một việc làm tốt, ta cần nói ra để xem xét. Nhưng không phải là nói suông, ta cần phải thực hiện điều đó. Chúng ta làm điều đó bằng tất cả tấm lòng, biến những điều ấy từ suy nghỉ, lời nói thành vệc làm cụ thể, như vậy mới tạo thành “quả ngọt”. Tuy vậy, vẫn có một số trường hợp cần được xem xét trong từng hoàn cảnh. Nói dối được xem là một hành động xấu và sai. Nhưng trong trường hợp một bác sĩ phải nói dối về bệnh tình của bệnh nhân để người ấy yên tâm tiếp tục điều trị, đó lại là một hành động cao cả. Thế nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều những kẻ thiếu đức hạnh. Họ nói ra những điều lớn lao, cao cả nhưng hành động thì ngược lại, vì thực chất, họ làm vậy vì những mục đích ích kỉ riêng của chính họ. Chúnh ta không loại bỏ họ mà phải làm thay đổi được những con người ấy. Một xã hội tốt đẹp là một xã hội có những con người làm nhiều việc tốt, biết tu dưỡng bản thân, hoàn thiện tâm hồn. Điều đó được xuất phát từ đức hạnh hay cũng chính là sự thể hiện của một con người có mọi phẩm chất tốt đẹp từ đức hạnh. Nhạc sỹ thiên tài người Đức Beettoven có nói “Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác”. Ý kiến đó có còn nguyên giá trị trong cuộc sống của ngày hôm nay?. “Hạnh phúc” chính là cuộc sống tốt đẹp; niềm vui, sự thỏa mãn về mặt tinh thần, tình cảm của con người …. Còn “cao quý” và “tốt đẹp” là những cụm từ có ý tôn vinh ca ngợi. Câu nói “Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác” của Beettoven thể hiện quan niệm sống đẹp ,khẳng định ca ngợi quan niệm sống hướng về cống hiến,vị tha…Trong cuộc sống, ai cũng tìm kiếm hạnh phúc nhưng quan niệm về hạnh phúc của mỗi người khác nhau. Có người coi sự thỏa mãn vật chất, tình cảm của riêng mình là hạnh phúc. Nhưng cũng có không ít người quan niệm hạnh phúc là cống hiến, là trao tặng. Đối với họ, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Beethoven quan niệm như thế. Những người biết sống vì người khác , đem lại hạnh phúc cho người khác , là những người có tấm lòng nhân hậu; có cuộc sống đầy ý nghĩa cao cả , đáng trân trọng…Thật vậy, trong cuộc sống nếu chúng ta đem lại được hạnh phúc cho người khác thì quả là tuyệt vời. Hạnh phúc đó có thể dễ dàng có được khi ta giúp đỡ một cụ giá qua đường, hay nhường chỗ cho một phụ nữ có thai trên xe buýt… Tất cả những điều đó thật đơn giản nhưng đã mang lại hạnh phúc cho người khác, làm mọi người vui vẻ. Và không dừng ở đó hạnh phúc cũng ở lại với chúng ta khi ta làm được một điều tốt đẹp, có ích cho người khác, cho xã hội. Hành động cao quý và tốt đẹp hơn, to lớn hơn chính là hạnh phúc của sự bình yên mà các anh bộ đội, các chiến sỹ Cách mạng đã đem lại cho chúng ta. Tất cả những hy sinh của các anh chỉ để đem lại hạnh phúc cho chúng ta, cho dân tộc. Hạnh phúc ở đây là sự độc lập tự do cho cả dân tộc. Thậ cao quý và tốt đẹp dáng tôn vinh biết nhướng nào! Việc đem hạnh phúc cho người khác thật đơn giản nhưng cũng rất cao quý. Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn nhiều người ngay cả việc nhỏ nhất họ cũng không làm. Một số họ chỉ biết có bản thân, toàn đem lại bất hạnh cho người khác. Trong gia đình, chúng ta cần lên án những người chồng vũ phu, đánh đập vợ con hoặc những đứa com bất hiếu chỉ ăn chơi, thoả mãn nhu cầu cá nhân, làm cha mẹ đau lòng. Tại sao những con người ấy lại nhẫn tâm đem lại sự bất hạnh cho chính những người thân yêu nhất của mình?… Ngoài xã hội, hiên có một lớp thanh niên, thay vì giúp đỡ người giá yếu , họ lại lợi dụng để cướp giất, móc túi… Những kẻ lấy sự bất hạnh của người khác làm hạnh phúc của mình cần đáng bị trừng trị!. “Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác”. Đó là một quan điểm sống mang tính nhân văn. Nếu có một điều ước thì tôi sẽ ước cho tất cả mọi người trên thế giới này đều dược hạnh phúc. Muốn vậy, ngay từ bây giờ mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm thật nhiều điều , dù lớn, dù nhỏ, để đem lại hạnh phúc cho cho mọi người, cho gia đình và cũng là cho bản thân chúng ta…
Anh chị suy nghĩ gì về quan niệm “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”
1,204
Bài cảm nhận của học sinh về tiết kĩ năng sống tại trường THCS Bài làm Ngoài các môn học kiến thức cơ bản như Toán, Văn, Tiếng Anh…. thì môn Kĩ năng sống có vai trò rất quan trọng đối với chúng em – những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. Muốn hiểu biết về thế giới và con người xung quanh chúng ta cần nỗ lực học tập để có được tri thức. Muốn có cuộc sống hạnh phúc và sự hài hòa với mọi người xung quanh, với chính mình thì bên cạnh kiến thức con người cần rèn luyện cho mình kĩ năng sống. Hiểu một cách đơn giản, kĩ năng sống là kĩ năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử, giao tiếp phù hợp với những người xung quanh, khả năng ứng phó trước các tình huống khó khăn trong cuộc sống. Khả năng đó không biểu hiện bằng lời nói mà bằng hành động cụ thể. Ví dụ: Trong học tập, hai nhóm cùng được phân công làm việc. – Nhóm thứ nhất: Người thì làm việc tích cực, người thì không làm việc. Khi tranh luận thì xảy ra cãi vã, dỗi nhau. – Nhóm thứ hai: Tất cả cùng làm việc, thảo luận đưa ra được các ý kiến, cách trao đổi luôn mang tính thiện chí, vì nhiệm vụ chung. Như vậy, nhóm hai đã thể hiện tốt kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm. Ở trường THCS Cao Bá Quát, chúng em được học môn kĩ năng sống với rất nhiều các chủ đề khác nhau như kĩ năng học và tự học, kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ năng thuyết trình…. Trong các giờ học, chúng em được thực hành các tình huống gần gũi, có thực trong cuộc sống. Ví dụ với kĩ năng học và tự học, chúng em tìm hiểu về chu trình học. Từ đó, chúng em phát hiện ra vì sao mình hay quên kiến thức; hoặc tại sao trên lớp hiểu bài mà về nhà lại không làm được bài tập. Trong bài Kĩ năng giao tiếp ứng xử, chúng em hiểu được nguyên nhân và có cách nhìn phù hợp hơn đối với những bạn ngại giao tiếp, hoặc hay nói cộc lốc. Trong giờ Kĩ năng thuyết trình em hiểu hơn về cách dùng ngôn ngữ và biện pháp để tích lũy vốn “ lời hay, ý đẹp” để tăng hiệu quả thuyết trình. Em và các bạn biết giải mã những từ vốn được dùng không phù hợp và biến chúng thành “ngôn ngữ văn minh”. Chúng em hi vọng, trong thời gian tiếp theo sẽ được tiếp tục đến với những giờ Kĩ năng sống đầy bổ ích và thú vị.
Bài cảm nhận của học sinh về tiết kĩ năng sống tại trường THCS
457
Bài viết tri ân thầy cô giáo của học sinh lớp 11 Bài làm Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền Cô và mẹ là hai cô giáo Mẹ và cô ấy hai mẹ hiền. Mẹ tôi là cô giáo đầu tiên trong cuộc đời của tôi. Ngay từ khi còn nhỏ tôi đã được mẹ hát ru bằng những làn điệu dân ca thật ấm áp, gần gũi và thiết tha. Mẹ đã dạy tôi những bài đọc tiếng Việt không bằng kiến thức chuyên môn, tác phong sư phạm mà mẹ đã truyền cho tôi tình yêu xứ sở, quê hương, tình yêu giữa con người với con người chính bằng cuộc sống hi sinh, thầm lặng của mẹ, bằng tình yêu thương con, hi sinh hết lòng vì con và trái tim luôn tận tụy vì gia đình của mẹ . Và tất nhiên, bước đến sau mẹ trong cuộc đời tôi có biết bao nhiêu thầy giáo, cô giáo đã truyền dạy cho tôi những tri thức phong phú của nhân loại, những bài học làm người mà tôi đều vô cùng ghi nhớ, coi trọng và biết ơn. Nhưng có lẽ người giáo viên mà tôi cảm thấy gần gũi, yêu thương và dường như cảm xúc đó khó có từ ngữ nào có thể diễn tả được tình cảm của tôi dành cho cô – người mẹ thứ hai trong cuộc đời của tôi . Đó chính là cô giáo Nguyễn Thị Thúy – cô giáo môn Ngữ Văn và cũng là cô giáo chủ nhiệm của tôi. Thời gian cứ trôi đi âm thầm và lặng lẽ, thấm thoát đã gần hai năm trôi qua. Tôi còn nhớ ngày đầu tiên năm lớp 10 khi được nhà trường giới thiệu cô là giáo viên chủ nhiệm lớp 10A2 của chúng tôi – một lũ học trò nghịch ngợm ngồi phía dưới ồ lên vì sung sướng. Ánh mắt của đứa nào đứa nấy sáng lên và riêng tôi, tôi cảm thấy thích thích là lạ như linh cảm về một cô giáo mà sau này với tôi là một người tiền bối, một người sẽ giúp tôi, chỉ cho tôi tìm lối đi trên con đường tương lai. Cô đứng dậy, theo lời thầy Phó hiệu trưởng giới thiệu về cô. Cô nở một nụ cười thật tươi và đưa tay vẫy chào về phía chúng tôi. Một lúc sau, chúng tôi theo cô vào lớp. Ấn tượng đầu tiên của tôi về cô là cô một con người thẳng thắn, nghiêm túc trong công việc và đặc biệt là rất quan tâm đến học trò của mình. Chỉ mới là buổi đầu tiên gặp gỡ và biết cô là chủ nhiệm lớp 10A2 mà cô trò chúng tôi đã có cảm giác như người quen lâu lắm rồi, cô thân thiện chỉ bảo cho chúng tôi những kiến thức và hành trang để bước vào những năm học cấp ba với bao nhiêu khó khăn, thử thách đang chờ chúng tôi ở phía trước . Cô tâm sự với lớp rất nhiều điều thú vị và bổ ích nữa. Bới vì lớp tôi là lớp khối D đa số nữ nên cô trò cũng dễ gần nhau hơn. Trong những ngày tiếp sau đó, tôi càng hiểu rõ về cô hơn, cô rất nghiêm khắc, có những lúc tôi cảm thấy vô cùng sợ và tự hỏi rằng tại sao cô lại phải nghiêm khắc với chúng tôi như vậy ???. Chúng tôi chỉ mới là học lớp 10 thôi mà cần gì phải nghiêm khắc thế ? các anh chị lớp 12 mới cần phải nghiêm khắc chứ? Nhưng thời gian qua đã giúp tôi trả lời được những câu hỏi ngớ ngẩn trong đầu tôi và cũng nhận ra được rằng cô muốn chúng tôi thành nề nếp từ khi mới bắt đầu, cô chỉ muốn chúng tôi trưởng thành và trở thành một con người tốt sau này, một con người khi sau này có bay ra cuộc đời rộng lớn thì phải tập cho chính bản thân mình một cách sống có nề nếp và trật tự. Cô luôn ở bên cạnh chúng tôi, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trong mọi công việc. Nhiều lần lớp được nhà trường phân dọn vệ sinh trường khi chuẩn bị có dịp lễ gì sắp đến cô đều sẵn sàng hướng dẫn, giúp đỡ cho chúng tôi, thậm chí cô cầm chổi để quét, cầm cuốc để sủi cỏ ,… Và quan trọng hơn là cô cầm viên phấn để viết lên bảng bằng cả tấm lòng với sự tận tình, nhiệt huyết vì những đứa học trò chúng tôi. Thời gian trôi qua và bây giờ tôi đã là học sinh lớp 11. Cô vẫn thế, vẫn cần mẫn, âm thầm lặng lẽ hi sinh vì lũ học trò nhiều lúc đã làm cô phải buồn phiền. Tôi rất yêu quý và nể phục cô vì dẫu cô ốm, mệt hay hôm đó không có tiết dạy nhưng cô không bao giờ bỏ 5 phút đầu giờ trên lớp, để nhắc nhở lũ học trò chúng tôi những việc của hôm nay cần phải làm và kèm theo những lời nhắc nhở đó là một câu nói động viên chúng tôi cho buổi học ngày hôm đó. Thương ánh mắt của cô thật buồn khi những lúc lớp làm cô chưa hài lòng, để cô phải lo lắng, ánh mắt lúc đó của có trĩu xuống … Tôi càng kính trọng cô hơn vì cô luôn là người mẹ công bằng với 48 đứa con nghịch ngợm, mỗi đứa mỗi tính, ương bướng có, lì lợm có … Và đặc biệt là cô luôn đứng về phía học trò chúng tôi để chúng tôi tự tin, vững bước và có đủ hành trang để bước vào cánh của đại học đang chờ đón chúng tôi phía trước . Tôi càng cảm thấy khâm phục cô hơn ở cái cách mà cô góp ý với những khuyết điểm của các bạn một cách tinh tế, cô nói khiến các bạn cảm thấy như cô đang tâm sự cùng mình . Khoảng thời gian gần hai năm qua biết bao nhiêu chuyện, chuyện buồn có, vui có .Và giờ đây, tôi đã là cô bé 17 tuổi , được cô dạy bảo trong suốt thời gian qua, tôi đã cảm thấy mình chững chạc hơn trong mọi vấn đề, từ cách nhìn về cuộc sống, cách suy nghĩ,… Một lần nữa tôi muốn nói rằng tôi mang ơn cô, cô như người mẹ thứ hai trong cuộc đời của tôi. Tôi nhớ đến câu hát mà mỗi lần mẹ tôi thường ngồi một mình làm việc và ngân nga, câu hát trong bài Người thầy: Người thầy, vẫn lặng lẽ đi về sớm trưa Từng ngày, giọt mồ hôi rơi nhòe trang giấy Để em đến bên bờ ước mơ… Cảm ơn cô, một người rất đặc biệt trong tim con… con yêu cô và yêu mái trường Nguyễn Trãi này rất nhiều. Con cũng như các bạn nếu sau này có bay ra đời sẽ chẳng bao giờ quên được nơi này – nơi đã chắp cánh cho con những ước mơ bay xa.
Bài viết tri ân thầy cô giáo của học sinh lớp 11
1,220
Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mĩ nhân không nên thấy chết yểu. Trông hoa nên thấy hoa nở, đón trăng nên thấy trăng tròn, viết sách nên viết cho xong, mĩ nhân nên thấy vui vẻ, sung sướng, nếu không thì uổng công. Ngắm đàn bà buổi sáng, nên đợi lúc phấn son xong. Có những bộ mặt xấu mà dễ coi, có những bộ mặt không xấu mà khó coi; những áng văn viết không thông (mẹo) mà khả ái, có những áng văn viết thông đọc rất chán. Điều đó, không dễ gì giảng cho hạng nông cạn hiểu được. Lấy lòng yêu hoa mà yêu mĩ nhân thì tất cả có cái thú riêng; lấy lòng yêu nhân mà yêu hoa thì thêm cái thâm tình và thêm lòng nâng niu thương tiếc. Mĩ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói; hoa hơn mĩ nhân ở chỗ tỏa hương. Nếu không được cả hai thì bỏ hương mà lựa biết nói. Thường hoa đẹp thì không thơm, cánh nhiều tầng thì không trái. Gọi mĩ nhân thì mặt đẹp như hoa, tiếng nói như chim, tinh thần như trăng, vẻ như liễu, xương như ngọc, da như băng tuyết, dáng như nước thu, lòng như thơ, không còn chỗ nào chê cả. Trong thiên hạ không có sách thì thôi, có thì phải đọc; không có rượu thôi có thì phải uống; không có núi đẹp thì thôi, có thì phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, có thì phải mến yêu, thương tiếc. Người đàn bà xấu không cho gương là thù địch vì nó là vật vô tri, nếu gương mà hữu tri thì tất đã tan tành rồi. Mua được một chậu hoa đẹp còn nâng niu thương tiếc, huống là đối với với “một hoa biết nói". Không có thơ thì rượu sơn thủy cũng vô nghĩa; nếu không có đàn bà đẹp thì trăng hoa cũng vô ích. Tài tử mà lại đẹp, giai nhân mà lại biêt làm văn đều là không thọ được. Không phải chỉ vì tạo vật đố kị, mà còn vì hạng người đó không phải bảo vật của một thời, mà là bảo vật cổ kim vạn đại, cho nên tạo hoá không muốn cho lưu lại lâu trên đời mà hoá nhàm. Lâm Ngữ Đường (Trung Quốc) Nguyễn Hiến Lê dịch
Bàn về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội
393
Con người sinh ra và lớn lên, họ luôn đối diện với nhiều cung bậc cảm xúc, nhiều trạng thái khác nhau trong cuộc sống. Xót xa là một cảm giác đau đớn, nuối tiếc vô cùng sâu sắc. Còn im lặng tức là không có hành động hay phản ứng cụ thể trước những tình huống, sự việc đáng lẽ cần có thái độ, có phản ứng. Sự im lặng ấy trở nên đáng sợ khi nó là một biểu hiện bất thường trong cách ứng xử của con người có thể gây ra cảm giác bất an cho người khác. Thực tế, chúng ta sống trong một xã hội luôn tồn tại hai loại người: kẻ xấu là người kém đạo đức, đáng khinh ghét, có thể gây hại, mang lại những điều không hay. Lời nói và hành động của họ đều không phù hợp với các quy tắc chuẩn mực đạo đức, làm tổn thương người khác và có những tác động tiêu cực đến xã hội. Ngược lại, người tốt luôn có những biểu hiện đáng quý về tư cách đạo đức, về thái độ hành vi trong các mối quan hệ và được mọi người đánh giá cao. Như vậy, thông qua câu nói của mình, Martin Luther King muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp sâu sắc: Nỗi đau đớn nuối tiếc do những lời nói và hành động của người xấu không xót xa bằng việc người tốt không có hành động thái độ hay bất kì phản ứng nào trước việc làm sai trái ấy. Khi còn nhỏ, ta không mấy khi quan tâm đến những thứ xung quanh mình mà chỉ thường quan tâm tới chính bản thân: Hôm nay sẽ được ăn món gì, sẽ học gì, sẽ có phim hoạt hình gì, có truyện tranh gì sắp ra… Lớn lên một chút, bước vào tuổi biết nghĩ, ta thấy bạn bè quay cóp trong giờ kiểm tra trong khi chính mình phải học cật lực, ta thấy bãi gửi xe gần trường thu 3.000 đồng một chiếc xe đạp trong khi đó quy định là 2.000 đồng. Rồi ta còn thấy người ta vượt đèn đỏ, lượn lách đánh võng, thấy đám côn đồ dối trá, lừa lọc bà cụ bán nước ven đường. Chứng kiến những hành động như thế, thử hỏi ai mà không bất bình? Bởi lẽ, những hành động ấy là biểu hiện của sự thấp kém về nhận thức và ý thức, nó gây ra những tổn thất cả về vật chất và tinh thần cho mọi người và xã hội. Hơn thế nữa, sự tồn tại của những lời nói và hành động của kẻ xấu cũng là biểu hiện của sự bất ổn của xã hội ở một mức độ nhất định. Xót xa trước hành động của người xấu là lẽ tất nhiên. Nhưng tại sao chúng ta lại xót xa hơn trước sự im lặng đến đáng sợ của người tốt? Trong suy nghĩ của mọi người, người tốt luôn có tư cách đạo đức, có khả năng và trách nhiệm trong việc thực hiện những hành vi đem lại lợi ích cho cộng đồng xã hội. Với phẩm chất vốn có ấy, họ không thể nào không có phản ứng trước cái xấu, cái tiêu cực, những điều “chướng tai gai mắt” trong xã hội. Vậy nên, thái độ im lặng của họ chính là một biểu hiện bất thường. Sự im lặng ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Họ im lặng bởi họ bất lực khi thấy phản ứng của mình không hề có hiệu quả. Họ im lặng khi cảm thấy cô độc, lạc lõng vì những việc tốt mình làm không nhận được sự ủng hộ của số đông. Chăm lo làm kinh tế khiến đời sống khá giả, nhưng mê mải quá nhiều lại đẩy người ta ra xa nhau hơn, lo cho lợi ích của mình hơn là lợi ích người khác. Có rất ít người sẽ la lên khi thấy một tên trộm đang trộm xe trên vỉa hè hay đứng ra bênh vực nạn nhân trong một vụ va chạm trên đường phố – nhất là kẻ gây sự lại là đám côn đồ, lưu manh. Người tốt im lặng khi họ mất niềm tin, khi họ thấy kết quả của những lời nói, hành động xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm lại trở thành sự coi nhẹ, chế nhạo của người khác, thậm chí còngây ra những tổn thương không đáng có cho chính họ. Quay trở lại câu chuyện của anh thanh niên trên chuyến xe buýt không ít người cảm thấy buồn và xót xa. Xung quanh đó có rất nhiều người đang chờ xe, nhưng đáp lại lời khẩn cầu của anh thanh niên là sự im lặng. Cuối cùng người đàn ông bơ vơ đành phải bước đi với gương mặt tuyệt vọng. Rõ ràng, muốn bắt tên trộm kia không phải là chuyện khó. Tài xế đóng cửa xe lại, yêu cầu tất cả mọi người bảo quản hành lí, gọi điện cho cơ quan chức năng khám xét từng người. Nhưng sao không ai dám lên tiếng? Phải chăng chúng ta không dám bênh vực người lương thiện, phải chăng nỗi sợ hãi cái xấu, cái ác đang giết chết dần lương tâm chúng ta? Xét cho cùng, im lặng vì bất kì lí do nào đi nữa thì đó cũng là biểu hiện của sự tha hóa ở mỗi cá nhân và cho thấy dấu hiệu bất ổn của xã hội. Nói cách khác, khi người tốt im lặng là khi xã hội đang đứng trên bờ vực của sự phá sản những giá trị tinh thần. Vậy làm thế nào để người tốt không im lặng nữa? Hãy trao quyền và khuyến khích người tốt cất lên tiếng nói của mình bằng cách lắng nghe tiếp thu ý kiến và sẵn sàng sửa đổi theo những ý kiến đóng góp đúng đắn của họ. Hãy đưa ra những chính sách bảo vệ để tránh tối đa những tổn thất mỗi khi người tốt cất tiếng nói.Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể đứng lên bảo vệ chính nghĩa, ủng hộ cái tốt điều hay, bởi có thể cá nhân ấy không đủ sức mạnh. Nhưng không có nghĩa chúng ta phải thỏa hiệp với cái xấu, cái ác. Bởi ngay cả khi không đủ sức mạnh để thay đổi nó, ta vẫn luôn có đủ quyết tâm để không đồng tình và không bị nó lôi kéo. Chúng ta đang sống trong một xã hội mà những mối quan hệ với cộng đồng đã trở nên không thể thiếu. Không ai có thể đơn độc trong cuộc sống được, vì vậy, trong quá trình đấu tranh chống lại cái ác, cần xây dựng những hiệp hội của những người cùng chí hướng mục đích để phấn đấu cho sự phát triển chung của xã hội, để người tốt có chỗ đứng và điểm tựa. Khi đó họ sẽ không ngần ngại bày tỏ ý kiến quan điểm của mình. Tất cả những gì chúng ta cần làm là sống dũng cảm, là làm những điều tốt đẹp cho cuộc sống, và để nó tự nhân bản. Ý kiến của Martin Luther King là một lời cảnh báo nghiêm khắc để cảnh tỉnh con người trước nguy cơ về sự băng hoại của những giá trị tinh thần, biểu hiện những hành vi ứng xử của con người trong đời sống. Có người đã nói: “Lùi bước cho cái xấu cũng là một tội ác”. Hãy nhớ rằng, cái xấu chỉ mạnh khi nó thấy cái tốt dường như đồng tình với nó. Và nó sẽ bị rút hết không khí và tắt thở khi chúng ta nhìn nó với ánh mắt khinh miệt và xa lánh. Đây là một ý kiến thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển chung của toàn xã hội. Đó cũng là một thái độ đúng, tích cực, xuất phát từ nhận thức về yêu cầu đối với hành vi của con người trong một xã hội tiến bộ, nhân văn. Khi đơn độc một mình, người tốt sẽ trở nên yếu đuối, nhu nhược và thất bại cay đắng. Họ chỉ đủ mạnh khi họ kết nối với nhau trong một tập thể, trong một xã hội biết coi trọng giá trị nhân văn đích thực của con người. Trước sự im lặng của người tốt, xót xa là điều khó tránh song điều đó là chưa đủ mà ta còn phải hành động, phải có những giải pháp tích cực để thay đổi hiện trạng đó trong mỗi cá nhân con người và toàn xã hội. Mỗi chúng ta luôn mong muốn xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, mà ở đó con người được sống trong yên vui hạnh phúc. Hãy coi câu nói của Martin Luther King là một bài học, hãy xắn tay áo lên và hành động ngay từ hôm nay, bắt đầu từ những việc nhỏ bé nhất mà chúng ta có thể. Tôi tin rằng điều đó không phụ thuộc vào tuổi tác, mạnh yếu hay giàu nghèo, mà bất kì ai cũng làm được. Đừng bao giờ thỏa hiệp và làm ngơ trước cái xấu, bạn nhé!
Bàn về sự im lặng đáng sợ của người tốt
1,577
Trong kho tàng cao dao dân ca Việt Nam thì con cò được biết đến như một hình ảnh biểu tượng cho người nông dân chân lấm tay bùn và thân phận của người phụ nữ. Những câu ca dao về con cò luôn vang lên mãi trong kí ức của mỗi người về lời ru của bà, lời hát của mẹ. Và bài thơ “con cò mà đi ăn đêm” là một tác phẩm xuất sắc do dân gian sáng tạo ra có sức suy ngẫm triết lí cao. Con cò là một hình ảnh thân thuộc trên những cánh đồng miền quê”cánh cò bay lả bay la”, là người bạn thân thiết của nhà nông, miệt mài mò mẫm kiếm ăn tối ngày. Chính cánh cò từ nhiều năm qua đã ăn sâu vào tiềm thức, vào tâm hồn của tuổi thơ qua lời ru êm ái của mẹ.Và trong bài thơ “ con cò mà đi ăn đêm cũng mang một ý nghĩa như thế” “Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” Rõ ràng đây là một cách nói ngược, bởi vì trong tiềm thức của người dân thì chỉ có con vạc mới đi ăn đêm chứ không phải là con cò. Sự trái ngược này như một sự kết nối sự nhận định trái ngược về tính chất và thuộc tính của nó. Ở đây thì việc ăn đêm không chỉ là phản ánh động thái mà người dân con quan niệm như một tính chất nhằm nói lên sư gian truân vất vả của con cò trong cuộc sống, nó phải đi kiếm ăn cả ban ngày lẫn ban đêm. Câu thơ “đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” lại là một nghịch lí bởi con cò thường chọn những cành cây thanh mảnh và cao để đậu và bám chân vào , nghịch lí bởi khi đậu hay khi bay cò không bao giờ có tư thế lộn cổ như một số loài chim khác, vậy mà… lại có câu tiếp theo : “Ông ơi ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng” Khi bị lộn cổ uống ao rồi còn cầu xin con người rủ lòng thương , bình thường thực tế thì con cò yếu đuối mảnh mai cho nên gặp người là bay đi vì chúng sợ săn bứt. Ngay trong tình thế này nó cũng tìm cách để lên tiếng, đúng là ngược đời. Là một con vật nhưng khi ở trong tình thế này lại chỉ đường mách nước cho ông đang sắp bắt nó, đúng là nghịch lí ở đời mà. Đã thế lại còn yêu cầu người ta thịt mình thì thịt cả : “Có xáo thì xáo nước trong Chớ xáo nước đục đau lòng cò con” Theo như quan niệm của dân gian thì nước xáo của con cò thường có màu trong vì nó gầy không có mỡ cũng không có nhiều chất, có làm thế nào cũng không thể trong được nữa, vậy mà nó lại nói có xáo thì xáo nước trong, đúng là quá nghịch lí phải không nào. Hơn nữa cò là một loài vật thường hay mò mẫm trong những vũng nước đục chứ có sạch bao giờ đâu. Đó là cách nói ngược khiến cho câu thơ thêm phần vui nhộn và độc đáo. Đó là sự hóm hỉnh hài hước của những người nông dân xưa, tuy lao động mệt nhọc nhưng vẫn không hề quản ngại, lấy niềm vui bầu bạn xua tan mệt mỏi. Con cò được nêu lên trong bài ca dao được ví giống như thân phận yếu đuối của người phụ nữ. Đó còn là hình ảnh chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam xưa. Bài ca là một câu chuyện khá hay và hài hước, lấy con cò làm nhân vật trung tâm để liên hệ tới hình ảnh và số phận vất vả của người dân lao động thời bấy giờ và người phụ nữ xưa. Đó chính là tấm gương trong sáng cho thế hệ con cháu noi theo.
Bình giảng bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm..
684
Trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam ngoài những bài thơ nói về cuộc sống của người dân lao động vất vả nhưng luôn có niềm vui ,thì bên cạnh đó còn có những bài ca dao nói về tình yêu đôi lứa. Nổi bật trong đó phải kể đến nhất đó là bài ca dao rất đỗi thân thương mộc mạc chân thành nhưng không đến được với nhau , đó là bài ”trèo lên cây bưởi hái hoa”. Bài thơ kể về chuyện tình cảm động của một đôi trai gái yêu nhau nhưng lại không có duyên đến với nhau. Hai câu thơ đầu mở ra trước mắt chúng ta thật mộc mạc và chân thành đó là : “Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân” Có thể hiểu được đây là hành động gian khổ của chàng trai khi phải trèo lên rồi lại bước xuống thềm nhà để hái hoa bưởi rồi hái nụ tầm xuân. Trèo lê cây bưởi hái hoa chủ yếu nhằm gợi hứng và có tác dụng đưa đẩy bắt vần rất khéo léo. Chắc hẳn có rất nhiều người tò mò vì hành động của chàng trai, tạo sao lại không làm việc khác mà lại đi hái hoa ? nhưng khi chúng ta hiểu được rõ tâm ý của nhà thơ thì chúng ta mới thấy được cái hay của nó. Thực chất đây chỉ là một hành động trong tâm trí, trong tưởng tượng của chính nhà thơ hay đó là những hành động trong tâm trí của chàng trai để chống lai sự nhớ nhung của mình giành cho cô gái. Trước hết chúng ta thấy được rằng nụ tầm xuân là một loài hoa họ với hoa hồng mộc hoang dại, nó được biết đến là một loài hoa có màu trắng nhưng ở đây nụ tầm xuân lại có màu xanh “nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” màu xanh ấy phải chăng là màu xanh của những chàng trai si tình, màu xanh của hi vọng nhưng cuối cùng người con gái người anh yêu thương đã đi lấy chồng. Từ “xuân” trong “nụ tầm xuân” gợi mở cho người đọc về một tuổi trẻ, hoài niệm về thời thơ ấu “Chạm vào một nhánh Tầm Xuân, Vẫn xanh biếc nụ, vẫn ngần ấy hương. ” Người con trai si tình ấy bất lực khi người con gái mình yêu thương đã đi lấy chồng, điều đó càng khẳng định được rõ ràng ở trong những vần thơ” Em đã có chồng anh tiếc lắm thay”, đây như một lời than thân của chàng trai, câu thơ hiện lên một cách cao đẹp của chàng trai si tình, biết buồn tủi cho thân phận mình, tiếc vì không được cưới người mình yêu. Tiếp theo chúng ta thấy rõ được đến lượt cô gái giãi bày tâm trạng của mình. Những lời nói giống như đang trách móc và than thở nhưng vẫn dùng những lời nhẹ nhàng: “Ba đồng một mớ trầu cau Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không” Cô gái trách móc chàng trai pha chút giận hờn nhưng cũng không hề nặng lời mà nhẹ nhàng tình cảm.Chỉ ba đồng một mớ trầu cau thế mà chàng trai lại không mua làm tan vỡ hết tất cả những dự định của hai người. Thì ra đến đây chúng ta mới hiểu rõ được hai người yêu nhau nhưng vì chàng trai không ngỏ lời cho nên cô gái đã đi lấy chồng,làm vợ người khác và bây giờ không còn là ngày xưa nữa. “Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng, như cá cắn câu Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thuở nào ra” Chim vào lồng, cá cắn câu ý nói người phụ nữ khi đã lấy chồng rồi thì không thể tự do đươc nữa, cũng không thể gặp gỡ hẹn hò. Hoa đã có chủ thì không thể thay đổi được gì . Câu thơ trên đã nêu lên thực tại của người con gái khi đã về nhà chồng chỉ biết cam chịu theo số phận chứ không thể làm được gì hơn. Hai câu”như cá cắn câu, như chim vào lồng” diễn tả một cuốc sống sau khi về nhà chồng giống như bị bó hẹp. Và hai câu cuối cùng như một câu hỏi tu từ giống như hai người vẫn đang còn quyến luyến nhau không nỡ xa rời. Câu hỏi cuối bài thơ cũng chính là câu hỏi của những người phụ nữ ở xã hội thời phong kiến xưa mà không có lời giải đáp .Từ nỗi đau đó hiện lên một lễ giáo phong kiến khắt khe nghiệt ngã , đằng sau đó là niềm khát khao tha thiết cháy bỏng về một tình yêu thực sự.
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa…
808
Trong kho tàng Ca dao dân ca của Việt Nam rất phong phú, những câu ca dao dân ca luôn hiện hữu trong lời ru của bà, lời hát của mẹ từ thủa mới lọt lòng.Trở về với ca dao làm chúng ta cảm thấy được hình ảnh cũng như cũng cách về tình cảm của con người rất đỗi mến thương của ông cha ta từ thủa ấy. Và bài ca dao tát nước đầu đình là một trong những bài thể hiện rõ nhất về tình cảm mộc mạc chân thành của ông cha ta. Bài ca dao bắt đầu từ những lời thơ giản dị và gần gũi với đời thường. Đó cũng chính là hoàn cảnh hay là cái cớ để chàng trai có thể bày tỏ tình cảm của mình đối với cô gái mà mình đang yêu. Qua câu thơ chúng ta lại càng thấy tình cảm lứa đôi hiện lên ở chốn thôn quê thật mộc mạc, giản dị,yên bình với những câu thơ mộc mạc chân tình nhưng cũng không kém phần thi : “Hôm qua tát nước đầu đình Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen. Có được thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà ? Áo anh sứt chỉ đường tà, Vợ con chưa có, mẹ già chưa khâu, Áo anh sứt chỉ đã lâu. Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng” Hiện lên đầu bài thơ là hình ảnh tát nước đầu đình quá quen thuộc, mang hơi thở chốn thôn quê. Đó là một nét đẹp truyền thống và bây giờ nét đẹp đó lai được xuất hiện trong bài ca dao này. Hình ảnh đôi trai gái tát nước ở gần nhau và chàng trai lấy cớ bỏ quên chiếc áo trên một cành hoa sen, rằng kêu nếu cô gái kia nhặt được thì cho anh xin lại. Chiếc áo giống như một vật để làm tin, nó cũng được xuất hiện trong cả một câu ca dao khác đó là “ Yêu nhau cởi áo cho nhau- Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”. Tình cảm ấy không thể lấy vàng bạc hay là châu báu ra để đo lường được, tình yêu của họ lan ra cả mái đình, đẹp đẽ và nhẹ nhàng thắm thiết biết bao nhiêu. Tình yêu đó không hề nhuốm màu danh lợi giống như bông hoa sen thơm ngát tinh khiết kia. Nếu như ở thời hiện đại để làm tin thì có nhẫn bạc, vòng vàng còn ngày xưa chỉ cần một chiếc áo màu nâu đất sờn vai đã là một kỉ vật to lớn lắm rồi. Bằng hoàn cảnh ấy ,chàng trai bắt đầu bày tỏ tình cảm của mình một cách hóm hỉnh mà không để mất lòng một cô gái nào. Chàng trai đã mượn hình ảnh áo sứt chỉ để nói lên hoàn cảnh của mình, và nói mẹ già chưa may là ý bảo mình chưa có vợ , nếu mà mẹ chưa may thì chắc chắn chưa có ai may cho.Anh chàng này đang ngỏ lời để mong có người bầu bạn sớm khuya nâng khăn sửa túi cho mình Như vậy qua đó chúng ta thấy được tình yêu nam nữ thời xưa thật đẹp thật đúng nghĩa với người làng quê. Tình yêu ấy xuất hiện từ mái đình, từ đường làng ngõ xóm. Và chính kỉ vật làm tin đó cũng rất tự nhiên và đơn giản biết bao . Trước những lí do đặc biệt ấy, chàng trai đã tiếp tục mạnh dạn gạ gẫm tán tỉnh cô gái bằng một thứ tình cảm chân thành không hề có vụ lợi "Khâu rồi anh sẽ trả công Đến lúc lấy chồng, anh sẽ giúp cho, Giúp cho một thúng xôi vò Một con lợn béo, một vò rượu tăm, Giúp cho đôi chiếu em nằm, Đôi chăn em đắp, đôi chằm em đeo, Giúp cho quan tám tiền cheo, Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau…” Từ những lời tán tỉnh ấy càng cho chúng ta thấy được rằng đó là những lời hẹn hò của chàng trai dành cho cô gái.Hẹn hò một cuộc sống tuy không giàu sang nhưng cơ đầy đủ cơm ăn áo mặc . Ngày xưa ông cha ta yêu nhau không bao giờ nói từ anh yêu em hay em yêu anh bởi vì họ ngại ngùng,bẽn lẽn . Đó chính là nét đẹp của chốn thôn quê, rõ ràng người con trai thích nhưng lại không nói nên lời. Chàng trai ấy tỏ tình một cách tế nhị nhưng lại rất hóm hỉnh. Mượn hình ảnh của chiếc áo ngỏ ý khâu cho anh rồi anh sẽ trả công bằng một đám cưới.Một đám cưới bao gồm xôi vò, lợn béo, rượu tăm rồi đến cả đôi chiếu mà em nằm, đôi chăn em đắp đều được hiện ra trước mắt. với những hình ảnh chân quê và mộc mạc ấy nó đã thể hiện một cách sâu sắc cái hồn của làng Việt. Như vậy qua đó chúng ta có thể thấy được rằng trong bài ca dao đã thể hiện được một cách rõ ràng về tình yêu của chàng trai với cô gái, đồng thời qua đó cũng thấy được những nét đẹp ở miền quê ,tình yêu đó được diễn tả qua những mái đình, với ao làng, với công việc lao động hằng ngày, thật đáng quý biết bao phải không nào.
Bình giảng bài ca dao Tát nước đầu đình
905
Trần Tuấn Khải (1894 – 1983) bút danh chính là Á Nam; ngoài ra còn các bút Hiệu khác: Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền, Xử Sĩ, Giang Hồ Tản Nhân…Ông là một trong những nhà thơ cùng thời với thi sĩ Tản Đà. Thơ của Trần Tuấn Khải mang nội dung yêu nước và nỗi niềm tâm sự bất đắc chí của một tâm hồn yêu đời, yêu quê hương nhưng rồi buồn chán vì bất lực. Giọng thơ du dương thiết tha cứ quyện lấy vương vấn hồn người. “Gánh nước đêm” là một ví dụ điển hình. "Gánh nước đêm" sáng tác năm 1917, in trong tập "Duyên nợ phù sinh" (1921) chứa chan nặng tình non nước. Bài thơ mượn chuyện một cô gái gánh nước vào đêm khuya để qua đó kín đáo gửi gắm tâm sự của nhà thơ đối với những chiến sĩ cách mạng, những vị anh hùng dân tộc. Qua đó thức tỉnh tinh thần yêu nước, bảo vệ dân tộc. Bài thơ nói lên tâm sự của người phụ nữ gánh nước giữa đêm khuya thanh vắng, đường sá xa xôi, đòn gánh nặng oằn trên đôi vai bé nhỏ. Hình ảnh người phụ nữ càng lúc càng khuất dần trong màn đêm bủa giăng thật cảm động. Nhưng chỉ hiểu nội dung bài thơ một cách đơn giản như thế thì cái hay của bài thơ sẽ không trọn vẹn. Đối chiếu với hoàn cảnh lịch sử nước ta lúc bấy giờ, bài thơ này sáng tác năm 1917, cách mạng nước ta lâm vào tình trạng khó khăn, bế tắc, nhiều chiến sĩ cách mạng bị đàn áp dã man. Cụ thể, khởi nghĩa của binh lính Huế (1916) do Thái Phiên và Trần Cao Vân cầm đầu đã thất bại. Vua Duy Tân bị giặc bắt và bị đày ra đảo Rê-uy-ni-ông ở châu Phi. Thái Phiên và Trần Cao Vân bị xử tử. Ngay năm 1917, cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Đội Cấn cầm đầu nổ ra đêm 30, rạng sáng ngày 31 – 08 – 1917 thất bại. Đội Cấn tự sát. Khi đó, Nguyễn Ái Quốc, đang bôn ba khắp châu Phi, Mỹ, Âu để tìm đường giải phóng cho dân tộc. Đến tháng 12 – 1917, Nguyễn Ái Quốc mới trở lại Pháp. Đầu tiên, xét về nghĩa tường minh, bốn câu đầu mở ra một không gian "xa tít", "mù mịt", sông thì rộng, trời thì khuya. Tương phản với cảnh tối tăm, bao la… ấy là chỉ có một mình "em", một mình cô gái. Càng trở nên bé nhỏ, cô đơn và lẻ loi. Cảnh khuya vắng vẻ, thân gái dặm trường, càng nghe rõ tiếng "kĩu kịt" của đòn gánh. Câu thơ bốn tiếng, nhịp thơ gấp như tiếng thở hồi hộp, lo âu của người con gái gánh nước đêm: "Em bước chân xa Con đường xa tít Con sông mù mịt Nặng gánh em trở ra về…" Đến 2 câu thơ tiếp theo, đột nhiên số từ được mở rộng dần đến 10 từ, 12 từ: "Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai". Bóng tối như bủa vây, vì sông rộng và nước sâu, nước lại cạn thì việc gánh nước càng nhiều khó khăn hơn. Cử chỉ "ngoảnh cổ trông", biểu lộ nỗi cô đơn, lẻ loi, trông đợi, kiếm tìm. Sự "nặng nề" đôi vai là do hoàn cảnh, nên "em dám kêu ai"', than mà chẳng hề dám trách. Hình ảnh cô gái gánh nước đêm khuya chính là hình ảnh người yêu nước, người làm cách mạng thời bấy giờ; gặp nhiều khó khăn, lẻ loi, tận lòng trung hiếu. Đó là cảm nhận của Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông đã dành nhiều cảm thương cho họ. Con đường cứu nước những năm bài thơ ra đời thật mù mịt và xa xôi biết mấy: “Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời, Con dã tràng lấp bể biết đời nào xong?” Biết bao tấm gương ái quốc nhiệt thành, bao chí sĩ dứt bỏ gia đình quê hương, ôm chí lớn lên đường. Họ là những con người phi thường "đội đá vá trời", nhưng chí lớn không thành chẳng khác nào công con dã tràng xe cát lấp bể. Cảm hứng thơ khơi nguồn từ thần thoại, ca dao, cho ta nhiều liên tưởng về một sự đánh giá: "nghĩ tiếc công", "Biết đời nào xong?”. Đó là sự trân trọng, cảm phục, biết ơn, lo âu. Màu sắc bi quan thời cuộc bao trùm vần thơ: “Nước non gánh nặng, Cái đức ông chồng hay hỡi, có hay? Em trở vai này…!. Mặc dù sông rộng, trời khuya, em vẫn dấn thân "em trở vai này”. Hai câu cuối mang tính hàm ẩn. Đó là một câu hỏi có giá trị thức tỉnh . Những ai đó, những "đức ông chồng" còn "ngủ yên trong đời chật" hãy biết rằng gánh nước non vô cùng nặng nề, vẫn còn đó, sao lại nỡ để "Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng…" Lời thơ giản dị mà ý tứ sâu xa. Từ hình ảnh một chị nhà quê gánh nước đêm tha thẩn tâm sự lại nói đến nỗi nặng lòng vì gánh nước non mà những khi đêm khuya khoảng vắng lại có tiếng thở dài não nuột. Đó mới chính là cái tài của Á Nam Trần Tuấn Khải. Bài thơ như một tiếng thở dài, nhưng dù than thở đấy, người đàn bà ấy vẫn không hề bỏ cuộc, không vứt bỏ gánh nước mà chỉ kiên nhẫn “em trở vai này” để rồi tiếp tục bước đi. Cũng như tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam với bao phong trào yêu nước, đâu có bị kẻ thù đàn áp cũng không bao giờ bị dập tắt. Và như những "đức ông chồng" lúc nào cũng có thể ghé vai đỡ đần cho vợ, nghiệp cứu nước không bao giờ là muộn vẫn chờ đợi mọi người. Chính điều này khiến bài thơ bi mà không lụy! Thông qua hình ảnh ẩn dụ của người con gái gánh nước đêm, Trần Tuấn Khải đã rất thành công trong việc khéo léo thể hiện tâm trạng, nỗi lòng lo lắng trước thế sự rối ren của nước nhà. Tuy rằng cái nhìn của nhà thơ về vận mệnh nước nhà có phần u uất nhưng không hề tiêu cực, mất niềm tin. Không những vậy còn có giá trị thức tỉnh đáng trân trọng.
Bình giảng bài thơ Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải
1,095
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy. Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"… và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử. Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường: "Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí bóng xuân sang". Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế! Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta. Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà th ơ thì mùa xuân ào đến: "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, Bao cô thôn nữ hát trên đồi". Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng" như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)… Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời", trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự "chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát: "Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây Thầm thì với ai ngồi dưới trúc Nghe ra ý vị và thơ ngây". Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy. Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây", lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một "mùa xuân chín". Và còn có tiếng thầm thì "thầm thì với ai…" dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ ngây…". Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân "đang chín" dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn: "Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi". "Đám xuân xanh ấy" là các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" (Xuân Diệu). Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…". Một nét bút truyền thống cổ điển "xuân hướng lão" xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn. Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức: "Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một không gian cụ thể: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế. "Mùa xuân chín" là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. "Mùa xuân chín" lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, "sực nhớ… " và "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"…
Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
1,741
Yêu là cảm xúc rất khó diễn tả. Mỗi chúng ta ai cũng đã từng ít nhất 1 lần biết yêu là gì? Và Xuân Quỳnh đã rất chân thành chia sẻ những trải nghiệm đáng quý ấy, khi viết lên bài thơ SÓNG đầy cảm xúc này. Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ đang trong độ tuổi hai mươi. Tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mẻ, luôn rực cháy chất trẻ trung mănh liệt, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể. Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Chúng cùng phản ảnh các khía cạnh tương phản dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ tạo nên một cái nhìn bao quát về sóng. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Cùng hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đỉnh của chính mình. Trên hành trình ấy, điểm xuất phát của sóng tưởng chừng đã được lí giải rõ ràng: sóng bắt đầu từ gió. Nhưng rồi những băn khoăn cứ nối tiếp cho đến lúc không thể giải đáp (và cũng không cần giải đáp) bằng lí trí, đó cũng là lúc tầng tầng lớp lớp nghĩa của sóng hiện ra: con sóng của biển khơi tạo ra sóng thơ, con sóng thơ dào dạt của tâm hồn làm xuất hiện con sóng của tình yêu bất tận. Và khi đã thành sóng tình thì không bao giờ có thể lí giải dược khi nào ta yêu nhau? Những liên tưởng điệp trùng dào đạt đã nối kết dược con người với không gian biển khơi. Gắn với thế giới riêng tư của Anh và Em là cặp hình ảnh sóng – bờ: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức. Con sóng Xuân Quỳnh sâu kín, tinh tế trong một nỗi nhớ cháy lòng của tình yêu. Nỗi nhớ gói gọn trong thời gian của một ngày đêm nhưng đủ sức dồn nén dung lượng tình yêu của cả một đời người. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lí trong mơ còn thức. Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, không khoanh vùng địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy bằng tất cả sự nhạy cảm của lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho một cái tôi của con người luôn vững tin ở tình yêu. Hành trình Tình Yêu cũng là hành trình tự thử thách của lòng kiên trì bền bỉ để đạt mục đích của mỗi một cá nhân. Với Xuân Quỳnh thì cái nhìn về cuộc đời của chị thật nhân hậu và nồng nàn: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ. Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Hình ảnh Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường: trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biên lớn. Mỗi một quan hệ riêng tư sẽ làm đẹp thêm cho lẽ sống thời đại "Người yêu người, sống để yêu nhau" (Tố Hữu). Nó không chỉ là tinh thần của con người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tâm lòng luôn tha thiết với sự sống, với tình yêu. Trong biển lớn tình yêu cuộc đời hôm nay, đã có biết bao con sóng đã tới bờ, đang tới bờ và tìm về bờ, bến đậu của đời người. Tình yêu vẫn luôn luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi, để mọi người đi tìm những lới giải đáp cho ẩn số tình yêu trong một hành trình tìm kiếm không mệt mỏi. "Sóng" của Xuân Quỳnh vẫn vỗ những nhịp yêu thương, giúp những người đang yêu thêm tự tin vào chính mình. Hãy cứ yêu đi, yêu hết mình và cuồng nhiệt! Bởi yêu là 1 trải nghiệm cực kì thú vị trong cuộc đời mỗi con người.
Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
852
Bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên được rút ra từ tập thơ “Ánh sáng và phù sa”, là một trong những thành tựu xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945. Bài thơ là tiếng lòng của một người con, người chiến sĩ, là lòng biết ơn, tình yêu, sự gắn bó với nhân dân, với đất nước của một tâm hồn thơ đã tìm thấy con đường soi sáng cho những tác phẩm của mình – đó là đời sống nhân dân và đất nước. Bài thơ có một lời đề từ bằng khổ thơ bốn câu: “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu” Cả Tổ quốc đều rộn ràng, nhộn nhịp xây dựng cuộc sống mới cùng Tây Bắc. Không cần ở tại nơi ấy, cùng bà con xây dựng đất nước, những một lòng vẫn nhớ về Tây Bắc, Tây Bắc luôn ở trong tim. Lời đề từ của bài thơ như tiếng lòng của một người con đã đi xa nhưng trong lòng vẫn luôn hướng về Tây Bắc. Bài thơ mở đầu bằng lời thúc giục: “ Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi ,sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất Nay dạt dào đã chính trái đầu xuân Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương” Những lời giục giã nhân vật “anh”, cũng là đại biểu cho những người đang loay hoay với cái tôi nhỏ bé, chưa tìm được lí tưởng của mình, cũng như đang giục giã chính mình. Đi đi, lên tàu đi, lên Tây Bắc đi, bởi vì “Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”.Đã đi rất nhiều, rất xa, đã trăn trở , rồi cuối cùng nhận ra, về Tây Bắc đi, để “gặp lại Mẹ yêu thương”. Đoạn thơ tiếp theo là tất cả những kỉ niệm mà tác giả đã có ở nơi Tây Bắc: “ Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ …. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” Đoạn thơ thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của một người con đã đi xa nay được trở về với Tây Bắc. Tác giả so sánh việc được trở lại với nhân dân như “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, “chiếc nôi ngừng gặp cánh tay đưa”. Những hình ảnh thật đẹp, nhưng cũng thật gần gũi. Về với nhân dân, là về với cội nguồn, về với nơi nuôi dưỡng tâm hồn, là thuận theo những gì tự nhiên nhất. Về với nhân dân, là khát vọng sau bao tháng ngày đợi chờ. Niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân còn được thể hiện qua những hình ảnh, những con người cụ thể. Là nhớ người anh du kích, thằng em liên lạc, những người không tiếc xương máu để hoàn thành nhiệm vụ, những người luôn quan tâm đến đồng đội, hơn chính bản thân mình. Là mế với ơn nuôi sâu sắc, cả đời người chiến sĩ ấy cũng không thể nào quên. Nhớ con người, nhớ luôn cả cảnh vật nơi đây. Nhớ những ngày sương giăng mây phủ đầy trời. Nỗi niềm nhớ thương sâu sắc đã đúc kết lại thành triết lí sâu sắc: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn” Trong mạch cảm xúc nhớ nhung, tác giả đột ngột chuyển sang một thứ cảm xúc khác, đó là tình yêu: “ Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét …. Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” Tình yêu của nhà thơ thật đẹp, thật thiêng liêng nhưng cũng thật gần gũi. Tình yêu cũng có một sức mạnh thật lớn, làm cho “đất lạ hóa quê hương”. Kết lại, vẫn là lòng yêu miền đất Tây Bắc ấy, có tình yêu là chất xúc tác, những con người ấy càng thêm yêu Tây Bắc. Đoạn kết bài thơ là khúc hát lên đường gợi lại khí thế hừng hực: “ Đất nước gọi hay lòng ta gọi … Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân” Là lời giục giã của đất nước, hay chính là tiếng lòng của một con người mong mỏi về với nhân dân, với Tây Bắc. Nỗi nhớ đã thôi thúc khát vọng trở về. Những hình ảnh đẹp như tương lai, như tưởng tượng của nhà thơ về Tây Bắc, về những ngày tươi sáng đang chờ. Bài thơ đầy chất trí tuệ nhưng cũng dạt dào cảm xúc, là một bài thơ tiêu biểu đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Chế Lan Viên. Không chỉ thế, bài thơ còn là tiếng lòng của một người con khi được trở về với nhân dân, với đất nước, tìm được lí tưởng và nguồn nuôi dưỡng cho hồn thơ của mình.
Bình giảng bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
907
Tất cả, năm khổ thơ với vỏn vẹn trăm từ, thoáng qua như một phim tài liệu cực ngắn. Nhưng do đâu điệu buồn của nó chưa thôi day dứt lớp người ở những năm cuối của thế kỷ 20, mà phần lớn xa lạ với Hán học và có khi chưa một lần nhìn thấy hình ảnh ông đồ khăn đóng, áo the của một thời ! Những bạn đọc của thời mở cửa, đang háo hức với một ngoại ngữ phổ biến hơn cả thứ tiếng đã thay thế chữ nghĩa của ông đồ ngày nào, đồng cảm thế nào với bài thơ ? Họ tìm thấy điều gì gần gủi ở ông già cô đơn ấy khi ngay những kẻ cùng thời đã tỏ ra hững hờ ? Trong một bài phỏng vấn, tác giả đã giải đáp hộ điều mà bao lâu những bạn đọc tinh ý lấy làm ngờ. Đúng là nhà thơ có dụng ý mượn hình ảnh hoa đào và không khí bùi ngùi, man mác của Thôi Hộ trong bài Đường thi lưu danh thiên cổ. Lạ cho loài hoa nổi tiếng phương Đông, đẹp và sang đến thế, lại thêm một lần bị thi nhân bắt chứng kiến chuyện biệt ly, dâu bể. Ai chẳng biết so về nhan sắc với mỹ nhân thì chỉ thiệt thòi cho ông đồ già, nhưng sự vắng bóng của ông khi hoa đào y như năm cũ lại nở — hợp qui luật thiên nhiên mà cũng vô tình biết bao — vẫn gây được hiệu quả tình cảm và nghệ thuật. Không có cái chắt lọc, đài các như ngôn ngữ Thôi Hộ. Ngôn ngữ của Vũ hiền lành, giản dị, nhịp điệu chậm rãi, khoan thai như bất giác lây lan phong thái của nhân vật “Ông đồ”. So với “Mái chèo mơ để bâng khuâng trôi đến – Một phương trời mây lạc bóng trăng khuya.” cũng chính của tác giả và cùng một đề tài hoài cổ, thì thấy rõ lối hành văn giản dị ở đây là kết quả của sự dụng công. Sự gò bó và giọng đều đều thường thấy ở thơ ngũ ngôn lại giúp cho bài thơ mở đầu có giọng khách quan, kềm chế tình cảm. Hai khổ thơ toàn tả thực cũng hỗ trợ tốt cho mục đích này : “Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ ……………. Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài.” Nhưng chỉ qua khổ thơ thứ 3, giọng khách quan này liền bị phá vỡ bởi hai câu thơ vào loại xuất thần : “Giấy đỏ buồn không thắm – Mực đọng trong nghiên sầu..” Chao ôi, đến hoa mà phương Đông tin là có thần, có hồn còn vô tình “y cựu tiếu đông phong”, nghĩa là hóa ra vẫn là loài vô tri, vô giác, nói chi hạng giấy, mực. Thứ mực phảng phất sầu và loại giấy buồn mà không thắm ấy chỉ có thể là thứ giấy và mực bị nhòe đi, rưng rưng trước mắt nguời biết chuyện đấy thôi ! Màu giấy đỏ và sắc hoa đào. Những xác lá vàng lay lắt rơi rơi quanh cái dáng đen sẫm, bất động của ông đồ già. Tình người nhạt dần theo mỗi khổ thơ: “Nhưng mỗi năm một vắng Người thuê viết nay đâu ? ……………. Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay.” Cho đến khi lụi tàn hẳn, và đất trời hình như cũng muốn hòa vào cuộc ngậm ngùi chung bằng làn mưa bụi bay và cái tiết trời bỗng dưng da diết. Cảnh ấy, sắc ấy, tình ấy hòa hợp với nhau đưa cảm xúc cao dần để tiếng thở dài cuối cùng: “Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ ?” trở nên sâu lắng hơn, lay động tình người hơn. Ở mặt khác bài thơ lại đan chéo những cặp đối nghịch: cái tất bật của khách qua đường và sự đơn độc của ông đồ, cái buồn thấu xương của kiếp người bên cảnh phố phường rộn ràng mừng xuân mới, và bất nhẫn làm sao, sự lặng lẽ của người đại diện cuối cùng của nền Hán học tàn tạ, lặng lẽ cả lúc rút lui, lại diễn ra ở một nơi ồn ào, trần ai bậc nhất trên thế gian: hè phố ! Cái đám tang tự đưa giữa phố đông hững hờ mà người tri âm duy nhất lại có mặt khi cỗ xe khuất bóng từ lâu rồi ! Có sự dồn nén thái quá những cặp hòa hợp và đối nghịch trên vuông thơ nhỏ hẹp có 100 từ này. Nhưng là sự thái quá làm nên kiệt tác. Mỗi chúng ta sau phút lặng người, và gần như tránh mặt nhau vì cái cảm giác đồng trách nhiệm nào đó, bỗng bắt đầu giành nhau lên tiếng. Nhưng tất cả như bị hút, bị dạt đi trong cái từ trường do chính sự im lặng của nhân vật. Vâng, âm thanh có trọng lượng nhất mà bài thơ tạo được chính là sự im lặng tuyệt đối của ông đồ. Nó đè nặng lên tim. Nó khuấy động não bộ. Nó tạo trạng thái tinh thần bất ổn cần thiết để đối mặt với bất cứ một vấn đề nghiêm túc nàọ. Có điều đâu thực sự là v/đ, là tầng cảm xúc chính của bài thơ ? Theo Hoài Thanh thì “Ông Đồ” là “lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đang đi về cõi chết”, những con người mà một thời họ đã “xúm nhau lại chế giễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ lậu”. Nhà phê bình đã có một trích dẫn quan trọng từ bức thư của chính Vũ Đình Liên: “Ông chính là di tích đáng thương của một thời tàn”, và dựa vào ý này, tác giả “Thi nhân Việt Nam” kết luận: “Bài thơ của người có thể xem là một việc nghĩa cử” Sẽ là một chuyện thất lễ và dường như vô lý nữa khi nghi ngờ ý kiến của chính tác giả và nhà phê bình uy tín. Nhưng khi ở một đoạn khác, Hoài Thanh gọi đối tượng của nhà thơ bằng cụm từ không úp mở “Những kẻ thân tàn ma dại” đang “đi về cõi chết” thì chúng tôi e rằng giọng tuyên ngôn hùng hồn mà ông bắt buộc phải dùng khi hạ huyệt thơ cũ và tôn xưng vị trí của thơ mới có ảnh hưởng phần nào tới việc bình thơ chăng ? Nếu đọc một bài thơ khác cũng cùng điệu hoài cổ, bài “Lòng ta là một hàng thành quách cổ”, chúng ta nhận ra giọng thương tiếc trang trọng hơn là lối thương hại của kẻ thắng cuộc. Và tiếng thở dài băn khoăn ở cuối bài thơ “Ông Đồ” có một chiều sâu hơn thứ tình cảm biết điều của người đang đi dự tang lễ, đang đi làm chuyện nghĩa cử. Khi một cực là Đường Thi với Thôi Hộ, và cực kia là ý thơ của Francois Villon (Làm sao tìm lại được tuyết năm xưa ? Mais où sont les neiges d’antan ?) đã gợi hứng cho “Ông Đồ” như chính tác giả thừa nhận, thì cái sầu thuần một màu tê tái trong cả hai dòng thơ Đông Tây rõ ràng cùng một gam màu với điệu buồn trong những câu thơ của Vũ Đình Liên. Nói khác đi, sự dùng dằng kẻ ở người đi trong cõi nhân tình không thể giản đơn, rành rẽ mới, cũ như những nhà chính luận mong muốn. Nghệ thuật luôn cần cái lung linh mê hoặc dễ len vào hồn người\. Nhưng hoài cổ ở đây không phải là tiếc nuối thứ chữ “rồng bay phg múa” của ông đồ. Từ ngày ông đồ già không trở lại, x/h đã mấy lần chứng kiến cảnh thay bậc, đổi ngôi về ngôn ngữ — bản thân nhà thơ là một người giỏi tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ đã thay thế thứ chữ mà ông đồ đã viết trên giấy hồng điều thuở nào — nhưng không thấy s/tác nào về “Ông đồ” Tây hay “Ông đồ” Nga … xuất hiện. Chưa nói dẫu có, chúng cũng không thể tạo được sự đồng cảm rộng rãi như đã thấy với “Ông đồ”. Sự thực, sự thay đổi từ Hán học qua Tây học có một ý nghĩa đặc biệt của nó. Suốt bao thế kỷ, Hán học gắn với dân tộc, gắn với những giá trị nhân bản của phương Đông. Đấy là thứ chữ ông cha ta đã dùng để trước tác. Nó không những là ngôn ngữ hành chính, thi cử mà còn là ngôn ngữ tâm linh của đền chùa, kinh kệ, văn tế… Tựa như gác chuông, tháp chùa, hình ảnh ông đồ, câu đối… từ lâu đã thân thuộc với mọi người\. Đã đành việc thế chân của Tây học là một tất yếu của thời đại và của hoàn cảnh đất nước ngày đó. Chưa nói cái học từ chương, nệ cổ đã góp phần suy vi sức mạnh của dân tộc. Nhưng một dân tộc tự trọng từng trải qua bao thế kỷ tự chủ và từng dùng chữ Hán như ngôn ngữ chính của một quốc gia độc lập, không thể quên rằng Tây học đã “nhập khẩu” vào đất nước mình như một áp đặt cùng với tàu chiến và đại bác, mà cảnh sụp đổ của cái học cũ luôn gợi lại vết thương vong quốc của mình. Và có thể vượt qua ý đồ của t/g và nhà phê bình, bài thơ đã tìm thêm được sự đồng cảm trong tâm thức dao động, phức tạp của cả một dân tộc trong buổi giao thời khi giá trị tr/thống có nguy cơ mai một. Trong lúc cái mới chưa thu phục được nhân tâm, nó đánh vào lòng tự trọng bị xúc phạm và cả tâm lý phù suy, xót thương kẻ khó. Mặt khác, nó còn gợi tâm trạng khắc khoải đi tìm nguồn cội trước một cuộc triển lãm khổng lồ của những cảnh lố lăng, kệch cỡm thường thấy ở các buổi giao thời. Sự biểu lộ tình cảm với ông đồ già và sự lưu luyến với hình ảnh đã mai một ấy trong lòng bạn đọc suốt hơn nửa thế kỷ qua, hẳn phản ảnh những tâm sự phức tạp, những ưu tư đa dạng hơn chúng ta tưởng. Cuối thế kỷ 20, con tàu Việt Nam lại đang qua ngã rẽ mới. Không còn không khí tủi buồn thuở nào. Đất nước đang lạc quan. Nhưng tình tự về nguồn và việc xác lập lại những giá trị tinh thần đã được thử thách của dân tộc ở mặt nào đó sẽ gặp thách thức. Buổi “giao thời” hôm nay vẫn hứa hẹn những hoạt cảnh lố lăng, lai căng mà hơn một lần chúng ta đã chứng kiến. Sự vồ vập với những giá trị ngoại lai đáng nghi ngại, thái độ “vô tri bất mộ” đối với di sản quý báu của người đi trước, và nói riêng mặt ngôn ngữ, tiếng nói cha ông đang có nguy cơ trở thành một thứ “ngoại ngữ” thất sủng ngay trên quê hương mình. Và vì vậy, người ta vẫn còn ngậm ngùi, băn khoăn khi đọc “Ông Đồ”. Việc rút lui lặng lẽ không đơn từ khiếu nại của ông không chỉ gợi thương tâm, mà tiếp tục mời gọi, khuấy động những vấn đề sâu xa cho xã hội cùng suy ngẫm.
Bình giảng bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
1,944
Nguyễn Bính là nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong “Thi nhân Việt Nam” cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi 20 đã làm gần một ngàn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều loại thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát ở những bài thơ ấy, “ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta”, ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là “hồn xưa của đất nước”. Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao… Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi: “Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?” Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ “Tương tư”, rút trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang’’ (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tủi hờn: “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”… Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng. Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh. giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ao ước khao khát. Từ chỗ gọi "nàng”: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” đã chuyển thành tiếng “em” gần gũi, thân thiết yêu thương: “Nhà em có một giàn giầu …” Cách xưng hô từ “tôi” – “nàng” dần đến “em” – “anh” thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn. Giầu (trầu) với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ: “Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng” Điệp ngữ “nhà … có một” làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng “hai thôn chung lại một làng” chẳng xa xôi mấy, nhưng “giàn giầu” nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và” hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chìỉ“có một” chưa chưa có đôi. Chữ một trong 2 câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu – cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư “gỡ mãi chẳng ra” Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Có xa xôi mấy mà tình xa xôi? Biết cho ai, hỏi ai người biết cho? Bao giờ bến mới gặp đò? Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng: “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?’’ Cả một thời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Một lối nói bỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cùng thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với cấu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một mơ ước hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn. Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giá vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian như giầu – cau, thôn Đoài – thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khao khát tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. “Tương tư” thấm vào nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng.
Bình giảng bốn câu cuối bài thơ Tương tư của thi sĩ Nguyễn Bính
734
Lửa thiêng (1940) của Huy Cận là một tập thơ sáng giá trong Thơ mới Việt Nam. Phong cảnh trong Lửa thiêng, nhất là trong các bài thơ Vạn lí tình, Tràng giang, Đẹp xưa… đều đượm một nỗi buồn man mác: Tôi ngã ba sông nước bốn bề Nửa chiều gà lạ gáy trên đê… Đó là con sông Thâm bên núi Mồng Gà thuộc Hương Sơn (Hà Tĩnh), quê hương thân yêu của nhà thơ. Trong Tràng giang, một nỗi buồn như dồn nén thấm sâu vào cảnh vật và lan xa muôn vàn con sóng, nhất là bốn câu kết của bài thơ: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn củng nhớ nhà. Bao trùm cả bài thơ là một không gian nghệ thuật bao la, thật đẹp và cũng thật buồn. Có sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. Có lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu. Có lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng… và trước mắt nhà thơ là một khung cảnh bao la, vắng vẻ: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Khổ cuối nói đến hoàng hôn trên tràng giang. Một cái nhìn xa vời vợi. Trước mắt nhà thơ là những núi mây nhô lên, đùn lên lớp lớp màu trắng bạc. Cảnh sắc thiên nhiên rất tráng lệ. Bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thầm trong khoảnh khắc hoàng hôn nên màu mây ở cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy. Giữa cái bao la mênh mộng bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. Cánh chim dang chở nặng bóng chiều, bay vội vã. Trên cái nền tím sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều hôm, hiện lên những núi bạc mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai nét vẽ ấy tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ: Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi… (Bà Huyện Thanh Quan), Chim hôm thoi thóp về rừng… (Nguyễn Du). Nghệ thuật tương phản giữa cánh chim nghiêng nhỏ bé và mờ dần với núi mây bạc hùng vĩ, với trời đất bao la đã làm cho cảnh đất trời và tràng giang thêm mênh mông hơn, xa vắng hơn, và cũng buồn hơn. Bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy được thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người hữu hạn. Một cánh chim, một núi mây bạc… cũng dẫn hồn ta đi về mọi nẻo, đến với mọi phía chân trời: Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm – Mặt đất mây đùn cửa ải xa (Đỗ Phủ). Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm bằng một tứ thơ Đường: Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu đã viết: Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Tàn Đà dịch) Huy Cận nhìn cao rồi nhìn xa theo tràng giang vời con nước, ở trên nhà thơ đã phủ định: Mênh mông không một chuyến đò ngang – Không cầu gợi chút niềm thân mật… thì ở đây, ông lại nói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận phương nào xa xôi. Thơ Huy Cận hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lí suy tưởng. Một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lặng. Cảnh sắc trong Tràng giang đẹp mà buồn. Tình quê, lòng quê trong bốn câu kết thật vô cùng sâu sắc, thắm thiết. Đó là những vần thơ mãi mãi vương vấn lòng người trong mọi thời gian và không gian. Thơ thất ngôn trong Tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ nếu đứng tách riêng ra sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm hứng mà tác giả đã viết trong lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nỗi buồn bâng khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê hương. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp điệp trong lòng người đọc bấy lâu nay. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Tràng giang đã và đang mang theo bao vạn lí tình trong hồn ta.
Bình giảng bốn câu kết trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận
820
Từ nơi em gửi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn… "Những đoàn quân trùng trùng ru trộn" được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn Đóng, Trường Sơn Tây là hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 30 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. ở bốn khổ thơ đầu, giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng: Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi. Hai câu đầu như một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên tự nhiên của người lính Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi". Các điệp ngữ: “không có… không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí ác liệt chiến trường, vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xc vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiệm trong khói lửa. Một tư thế chiến đấu rất đẹp: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Cái ngồi "ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: "Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ “nhìn" đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ. Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước. "Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…”; các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng" chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái" đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi" như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành “tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười hu ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính: Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già, Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách: Không có kính, ừ thì có bụi, Không có kính, ừ thì ướt áo. Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước: Không có kính, ừ thì ướt áo, Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước. Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thơ hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca. Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về gian khổ, ác liệt chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.
Bình giảng bốn khổ thơ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
933
Tràng giang là một trong những bài thơ nổi.tiếng nhất của Huy Cận “hầu như trở thành cô điển” (Xuân Diệu). Cảm hứng của bài thơ được gợi mở từ một buổi chiêu mùa thu năm 1939, khi tác già đứng ở bờ nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước và nghĩ về kiếp người thật bé nhỏ, cô đơn, không biết trôi dạt về đâu. Tuy nhiên, bài thơ không chí do sông Hồng gợi cảm mà còn mang những cảm xúc chung về bao dòng sông khác của quê hương, đất nước. Do vậy, cảnh sóng nước trong bài thơ đẹp và buồn, nhưng cũng thật quen thuộc và thân thiết với mỗi người Việt Nam. Qua bài thơ, ta cũng thấy được nồi sầu vũ trụ của Huy Cận. Đó là cảm giác cô liêu trước cái vô cùng của trời đất mênh mông. Tiếp tục ý thơ đã được gợi mở ra từ khổ một. Huy Cận đã đưa thêm những nét cạ thô để diễn ta cái bé nhỏ, cô đơn, xa vắng và nỗi buồn của hồn người đã thấm sâu vào tạo vật,ở đây Huy Cận đã dùng hàng loạt những hình ảnh và từ ngữ gợi buồn: “cồn” giữa dòng sông vốn gợi sự trống vắng, đơn độc, nay thêm “cồn nhỏ" lại càng buồn hơn: hơn nữa với từ “lơ thơ“ ở trước và “gió điu hiu” ở sau thì không chỉ buồn mà còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo. Huy Cận có lần tâm sự rằng, khi khổ thơ trên ông đã chịu ảnh hưởng vần thơ trong Chinh phụ ngâm khúc: Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo Bến Phì gió thối đìu hiu mấy gò Câu thơ thứ hai hiện có hai cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “đầu” nghĩa là “không”, giữa nơi không gian rộng lớn, vắng vẻ đó không có cả tiếng chợ chiều quen thuộc làm cho khung cảnh thêm buồn vắng. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, có tiếng xao xác của chợ chiều, nhưng âm thanh đó quá nhỏ bé nên nó tạo không khí cho cảnh vật vui hơn, sinh động hơn mà trái lại càng vắng vẻ, quạnh hiu. Vì vậy, khi phân tích theo một trong hai cách này đều được chấp nhận, miễn là nêu lên dược cái không khí tàn tạ, buồn vắng và quạnh hiu. Không gian thơ vụt lớn lên và mở ra đến bao la vô tận. Đây chính là cảm xúc vũ trụ thật mãnh liệt mà tinh tế của Huy Cận: khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác về khoảng cách bầu trời – mặt đất sẽ trở nên hữu hạn, còn khi mặt trời chìm dần xuống thì ánh nắng hắt lên cao sẽ làm cho bầu trời trở nên trong xanh hơn và như bị dầy lên cao đến vô cùng. Khi ấy cái nhìn của con người từ dưới lên sẽ thấy bầu trời sâu thảm “sâu chót vót ” Huy Cận không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu” vì nó vừa gợi độ cao, vừa gợi cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời hoàng hôn, từ “chót vót” lại càng làm tăng thêm cái rợn ngợp của khung cảnh. Đến câu thơ sau, cùng với độ “sâu" của bầu trời là cái bề rộng bao la của vũ trụ và độ dài của con sông. Tất cả là một vẻ đẹp hùng vĩ nhưng hoang vắng gợi rõ nỗi buồn cô đơn, thấm thía, niềm “bâng khuâng” mơ hồ của con người trước vũ trụ, trước “trời rộng, sông dài”. Trong không gian ba chiều mênh mông, bát ngát như thế, hình ảnh của bến sông hiện lên đã nhỏ bé, đơn độc, lại là “bến cô liêu” thì càng thêm vẻ chơ vơ, lạnh lẽo, buồn vắng. Thủ pháp nghệ thuật tương phản đã được Huy Cận sử dụng rất thành công, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Huy Cận nói riêng, các nhà thơ lãng mạn nói chung, đã đem tâm trạng buồn, cô đơn của mình “phủ lên thiên nhiên”. Tuy nhiên ở bề sâu của nỗi sầu vũ trụ ấy vần là tình yêu thắm thiết đối với quê hương đất nước. Điều đó lí giái vì sao nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san Tổ quốc”.
Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận_ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
754
Thơ ca cổ đã dành cho mùa thu một vị trí cực kì sang trọng và danh dự. "Thu hứng" của Đỗ Phủ, "Tì bà hành" của Bạch Cư Dị,… "Thu vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến, "Cảm thu tiễn thu" của Tản Đà, v.v… đó là những bài thơ thu tuyệt tác mà trong chúng ta, ai cũng biết. Trong nền "Thơ mới" 1932- 1941. Xuân Diệu là nhà thơ có nhiều duyên nợ với mùa thu: "Đây mùa thu tới", "Thơ duyên", "Nguyệt cầm",… Mùa thu trong thơ Xuân Diệu là mùa thu của tình yêu, của lòng thương nhớ: "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần,… Trăng nhớ Tầm Dươnng, nhạc nhớ người " ("Nguyệt cầm"). Tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, khát khao hạnh phúc… đươc thi sĩ diễn một cách tài hoa, tinh tế trong bài thơ "Đây mùa thu tới", in trong tập "Thơ thơ” xuất bản năm 1938. Bài thơ gợi tả cảnh sắc mùa thu và mội nỗi buồn man mác bâng khuâng đang tỏa rộng và thâm sâu vào tạo vật và lòng người. Hình thiếu nữ là một nét rất mới, rất đẹp trong bài thơ thu này. Sắc thu đẹp. Hồn thu buồn. Giọng thơ nhẹ nhàng, thấm thía. Đây là khổ thơ đầu bài "Đây mùa thu tới": "Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng"… Cặp câu 1, 2 đặc tả một dáng thu buồn: "rặng liễu". Hàng liễu, dặm liễu, "rặng liễu" như "đứng chịu tang" nghiêng mình ven đường và soi bóng xuống hồ. "Đìu hiu" nghĩa là vắng vẻ và buồn bã. Trong khí thu se lạnh, gió thu hiu hắt, sương thu mỏng và mơ màng, những rặng liễu, khóm liễu rủ lá, buông dài như mái tóc nàng cô phụ. Lá liễu dài, nhỏ, mỏng manh như sợi tơ, sợi tóc óng ánh, ướt đẫm sương thu, tưởng như "lệ ngàn hàng" từ cõi lòng tang tóc tuôn xuống: "Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng". Tả tóc liễu, lệ liễu cũng là nói lên hồn thu buồn muôn thuở. Đó là những vần thơ tuyệt bút. Nguyễn Du đã từng viết về liễu trong "Truyện Kiều": "Lơ thơ tơ liễu buông mành…" – Liễu trong thơ cổ tượng trưng cho vẻ đẹp yểu điệu, thướt tha của giai nhân. Xuân Diệu đã sáng tạo nên một hình ảnh đẹp và buồn về liễu. Cây liễu buổi đầu thu được miêu tả qua một dáng hình lặng lẽ, đau thương, một tâm tình cô đơn, sầu khổ. Cả một trời thu mênh mang "đìu hiu đứng chịu tang" cùng liễu. Thu đến, đất trời cũng chuyển vần theo thu. Thi sĩ vốn đa tình, đa cảm đứng lặng lẽ trầm ngâm chợt mơ hồ nghe thấy bước đi của mùa thu chầm chậm, nhè nhẹ: "Đây mùa thu tới mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng"… Câu thơ như một tiếng reo khẽ thốt lên, vừa ngạc nhiên vừa vồn vã. Nhịp thơ 4/3 diễn tả bước thu sang. Giọng thơ xôn xao như cất tiếng đón chào. Hẳn lòng người đã bấy lâu ngóng đợi thu về. Tả mùa thu đến với bao mong nhớ đợi chờ, với bao vồn vã đón chào, đó là ý thu cũng là cảm thu như thi sĩ Tản Đà từng nói đến. Sau khi tả dáng thu, Xuân Diệu nói đến sắc thu: "Với áo mơ phai dệt lá vàng". Màu vàng bao trùm nhiều bài thơ cổ nói về mùa thu. Có nắng vàng. Có trăng vàng. Và có lá vàng, hoa cúc vàng. "Thu đến cây nào chẳng lạ lùng' (Nguyễn Trãi). "Rừng thu từng bước xen hồng" ("Truyện Kiều"). "Sắc đâu nhuộm ố quan hà – cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương" (Tản Đà). "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" (Nguyễn Khuyến). Ngạc nhiên, xúc động trước bước đi êm nhẹ của mùa thu, Xuân Diệu thú vị phát hiện ra cả một trời thu bao la" với áo mơ phai dệt lá vàng". Một cái nhìn tinh tế sắc màu cây cỏ. Trên cái nền vàng nhạt “mơ phai" dần dần ửng lên, sáng lên một màu vàng tươi khắp vườn cây, ngàn lá. Rõ ràng là thu mới đến, buổi thu sơ mới có màu "mơ phai" ấy. Cái màu vàng ấy đã tạo ra một không gian nghệ thuật đầy thi vị. Nó gợi tả vẻ đẹp tươi sáng, thanh nhẹ của mùa thu Hà Nội, mùa thu quê hương vô cùng đáng yêu và thân thuộc đối với mỗi chúng ta. Chữ "dệt" trong câu thơ như một nét vẽ tinh vi, mỏng thoáng trên gam màu rực rỡ, điểm tô cái hồn thu được cảm nhận. Nói rằng Xuân Diệu là nhà thơ của cảm giác, của xúc giác thật là chí lí. Thơ lãng mạn 1932-1941 tả mùa thu bao giờ cũng đẹp mà buồn. Có nỗi buồn bâng khuâng trong "Thu rừng" của Huy Cận. Có nỗi buồn ngơ ngác trong "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư: "Con nai vàng ngơ ngác – Đạp trên lá vàng khô". Có vẻ đẹp kì ảo, huyền diệu trong "Tiếng trúc tuyệt vời" của Thế Lữ. Và còn có nỗi buồn mơ hồ xa xăm: "Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa của nhìn xa nghĩ ngợi gì". Tính nhạc trong thơ Xuận Diệu rất phong phú. Đọc đoạn thơ ta tưởng như nghe một khúc hát mùa thu. Có tiếng láy "đìu hiu" như một nốt nhạc trầm buồn. Có ba vần bằng ngân nga rung động: "tang – hùng – vùng". Có điệp ngữ vang ngân như một điệp khúc: "Đây mùa thu tới //mùa thu tới". Có cách ngắt nhịp 4/3 như bước đi của mùa thu. Và còn có một vần lưng độc đáo: "tới" vần với "với" (mùa thu tới – Vài áo mơ phai dệt lá vàng). Xuân Diệu đã có lần nói: "Thiếu nhạc, thơ mất hay cũng như hoa đẹp mà không hương vậy". "Đây mùa thu tới" có bốn khổ thơ, mỗi khổ thơ là một bức tranh thu đẹp mà buồn, tất cả hợp thành một bộ tứ bình xinh xắn. Đây là khổ thơ đầu miêu tả dáng thu và sắc thu. Sau khi đọc những bài thơ cổ, đọc tiếp thơ thu của Xuân Diệu, ta cảm thấy tâm hồn mình giàu có thêm nhiều. Qua đoạn thơ trên, ta cảm nhận được hồn thu qua dáng liễu, qua sắc thu và bước thu êm. Hàng lệ liễu, sắc vàng mơ phai của lá thu là những chi tiết nghệ thuật đầy ấn tượng. Thi sĩ Xuân Diệu đã đem cái tài hoa, cái đa tình góp vào hồn thu muôn thuở.
Bình giảng khổ thơ sau đây trong bài Đây mùa thu tới_ Rặng liễu…dệt lá vàng
1,143
Nếu ví Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là một bức tranh thu thì bốn khổ thơ có thể coi như bộ tứ bình hợp làm nên kiệt tác ấy. Trong đó, khổ thơ thứ hai tuy chỉ là một mảng nhỏ nhưng là mảng màu đậm nhất, sống động nhất, đã thâu tóm bước đi của mùa thu trong một góc vườn: Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Những luồng run rầy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh Mùa thu đã đến thật rồi. Từ phút giao mùa đầy ngỡ ngàng “Đây mùa thu tới, mùa thu tới", sang khổ hai, mùa thu đã bất đầu hành trình xâm chiếm của nó ở cấp độ vĩ mô, từ những tế bào của sự sống: Hơn một loài hoa đã rụng cành Câu thơ mang đậm phong cách Xuân Diệu. Tại sao lại là "Hơn một loài hoa’’ chứ không phải "Đã mấy loài hoa rụng dưới cành” như Thế Lữ đă từng sửa cho Xuân Diệu? “Một là duy nhất nhưng "hơn một” thì cái thế độc tôn ấy đã bị phá vỡ. “Hơn một" chứ không phải “nhiều” vì mùa thu chỉ mới vừa chạm ngõ đất trời, chỉ mới vừa dột những đường chỉ đầu tiên của chiếc “do mơ phai” tuyệt đẹp. Cách diễn đạt mới lạ, độc đáo mà tinh tế và chính xác vô cùng. Nhưng không chỉ dừng lại ở sự tàn phai, rơi rụng cua “Bỗng hoa rứt cánh rơi không tiếng” ( Ý thu), mùa thu còn tràn saug những cảnh vật khác. Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Thu đến thì lá chuyển màu, điều này Xuân Diệu không phai là người đầu tiên nói đến. Nhưng khắc một chữ “rủa" với âm vực thấp, nặng để miêu tả những biến chuyển tinh vi ấy,chàng thi sĩ say mê Rimbaud và Veriain đã mượn cách diễn đạt của Pháp để tạo nên thế xung đột gay gắt và sự thắng thế từ từ của mùa thu. Thế đến hay ở đây đã làm cho sự tương phản giữa sức sống và tàn phai, giừa hệ và thu càng thêm mãnh liệt. Bức tranh dịu dàng với sắc “mơ phai” ở khổ một đã được chấm phá thêm hai mảng màu đậm, làm nổi bật lên hình hài, vết dấu của mùa thu. Chính vì vậy mà tuy không có một chữ “thu”, bước đi của mùa thu trong câu thơ vẫn hiện nên rõ nét. Và không chỉ cảm nhận mùa thu bằng thị giác, Xuân Diệu còn mở rộng hồn mình để đón nhận “những luồng run rẩy" của cảm xúc, của mùa thu: Những luồng run rẩy rung rinh lá Biện pháp điệp phụ âm ở khô đầu lại một lần nữa tỏ ra vô cùng đắc địa. Bốn âm rung v liên tiếp không chỉ khắc họa tinh tế chuyển động run rẩy của lá cây mà còn khiến câu thơ đọc lên cũng nghe rung rinh một điệu nhạc. Có người vè đoán rằng “luồng run rẩy” ở đây là luồng gió nhưng nếu vậy thì câu thơ chỉ dừng lại ở việc tả chứ đâu gợi rét, đâu thể chuyển tải được những cảm nhận tinh vi, bén nhạy ở nhà thơ. “Luồng run rẩy” ở đây chính là cái rùng minh của cây lá, là luồng run rẩy của cảm súc “khắp mình tôi run rẩy tựa dây đàn”. Tâm hồn nhà thơ mong manh quá, đa cảm quá, tưởng như chỉ cần chạm khẽ, đụng hờ cũng rung lên những tiếng tơ lòng. Lấy chuyển động của cây để tả gió, gợi rét, làm cái rét tuy không hiên ra mà như thấm sâu, ngấm vào từng dòng nhựa sống. Cái tài, cái độc đáo của Xuân Diệu chính là ở chỗ đó. Khổ thơ kết thúc ở hình ảnh những nhánh cây khô gầy, gân guốc như chạm khắc lên nền trời. Mùa thu đã hoàn tất giai đoạn của một hành trình đi tới. Nó không chỉ tước hết lá trên cành mà còn tước đi cả sự sống, cả dáng vẻ mạnh mẽ của những thân cây. Cây cối dường như cũng trở nên yếu đuối hơn, như thu mình lại trong nỗi cô đơn, buồn bã: Cây bên đường trụi lá đứng tần ngần Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái (Tiếng gió) Và lòng người cũng chùng xuống, nao nao trong nỗi buồn man mác mà lắng sâu. Đôi nhánh khô gày xương mỏng manh Câu thơ bảy chữ mà đã có đến sáu thanh bằng, tạo cảm giác ngưng đọng, ngừng nghĩ như dấu lặng giữa ban nhạc, (lẽ dư ba, dư âm của khổ thơ ngân mãi và bắc cầu sang khổ thứ ba. Tuy chỉ là bốn câu trong bài. Đó y mùa thu tới nhưng nếu đứng một mình, khổ thơ trên có thể sánh ngang với một bài tứ tuyệt hoàn mĩ bởi sự dồn nén của cảm xúc, nói ít nhưng gợi nhiều Vần lá hoa lá cỏ cây – những thi liệu cổ điển, nhưng đến với Xuân Diệu, dưới lăng kính một tâm hồn “dào dạt sức sống", chúng bỗng như được thổi một luồng gió mới. mang nặng cảm quan của tác giả. Và đằng sau những dòng chữ run rẩy, xao động kia phải chăng là nỗi ám ảnh khôn nguôi về thời gian của Xuân Diệu, là sự “vội vàng“, cuống quýt trước “độ phai tàn sắp sửa” cua cái đẹp, của thiên nhiên. Bức tranh mùa thu không chỉ đóng khung trong 28 chữ mà như cựa quậy, xôn xao trên mặt giấy, trong lòng người. Ngòi bút tài hoa của Xuân Diệu như tung hoành trên trang giấy, chấm phá mảng kia mà tạo nên cái hồn của khung cảnh. Khổ thơ đã góp một phần không nhỏ làm nên thành công cho toàn bài cũng như chứng tỏ lời nhận định của tác giả thi nhân Việt Nam: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới" là hoàn toàn chính xác.
Bình giảng khổ thơ thứ hai trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu
1,013
Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông: Song song đôi bướm trắng Phất phới phấn hoa bay. (Buổi sớm mùa xuân) Ta cảm một sắc xuân tươi xinh rực rỡ trong thơ của thi hào Nguyễn Du: Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Truyện Kiều) Ta rạo rực dõi nhìn một cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc: Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song. (Đánh du- Hồ Xuân Hương) Và đây là thơ xuân của Thanh Hải: Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc ơi con chim chiền chiện Hót chi mù vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng… Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của "Huế đẹp và thơ", quê mẹ hương yêu của thi sĩ Thanh Hải. Hai câu thơ đầu là một sắc xuân tươi xinh rực rỡ tắm mát tâm hồn chúng ta. Vần thơ như một tiếng nói thốt lên khi ngạc nhiên chợt thấy một cảnh đẹp mà lòng xôn xao xúc động: Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc. Có sông và hoa. Có màu “xanh” của dòng sông làm nền để tô điểm màu "tím biếc" của hoa, bông hoa xuân mới "mục", mới nở. Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bùi thư trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tố Hữu tâm sự: Hương Giang ơi, dòng sông êm Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình… “Bông hoa tím biếc" mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội: Hoa lục bình tím củ bờ sông. Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh" thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non lơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “tím biếc” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp. Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”: Ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời. “Ơi” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiện hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiện làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiện hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa: ,"Chiền chiện hót lúa tốt bời bời "(Tục ngữ). Hai tiếng "hót chi” rất gợi cảm, là cách nói "dịu ngọt” của bà con “xứ Huế chúng miềng". Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế. Một cử chỉ rất tao nhã đáng yêu: Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. "Từng giọt long lanh rơi" cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiện từ trời cao vọng đến, "rơi" xuống? Cái cử chỉ “đưa tay… hứng” thể hiện một hồn thơ chan hòa với thiên nhiên, đất ười, tạo vật. Thơ đích thực mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao: Mặt trời lên càng tỏ Bông lúa chín thêm vàng Sương treo trên đầu cỏ Sương lại cùng long lanh Bay vút tận trời xanh Chiền chiện cao tiếng hót… (Thăm lúa – Trần Hữu Thung) Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương mai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên. Mùa xuân nho nhỏ là một bức thơ xuân kiệt tác của Thanh Hải. Ông viết bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, một tháng trước lúc ông qua đời. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là khát vọng mùa xuân muôn đời.
Bình giảng khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
882
Thâm Tâm (1917-1950) là một trong những gương mặt thi ca tiểu biểu thời "tiền chiến". Ông xuất hiện trong "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh với một bài thơ, bài "Tống biệt hành". Nó như tấm đá hoa cương khắc tên nhà thơ, làm vẻ vang một đời thi sĩ bất tử với năm tháng. Trong cuốn "Thơ với lời bình", Vũ Quần Phương viết: “Nếu chọn mười bài thơ hay của giai đoạn Thơ mới chắc chắn có "Tống biệt hành” Thâm Tâm chỉ để lại khoảng 20 bài thơ. Bài "Tống biệt hành" được ông viết năm 1940. Bài thơ viết về một cuộc tống biệt, về nỗi lòng kẻ ở người đi trong cuộc tống biệt ấy. "Tống biệt hành" là bài hành nói về cuộc đưa tiễn, tống tiễn người đi xa. Thơ cổ, nhất là Đường thi nói về đề tài tống biệt khá nhiều. Các nhà thơ Việt Nam… cũng có một số bài "hành" nổi tiếng nói về những cuộc li biệt, tống biệt. Bài hành này của Thâm Tâm viết theo thể thất ngôn vừa kế thừa vừa cách tân, mang một nội dung khá mới và một vẻ đẹp nghệ thuật đặc sắc. Một âm điệu mênh mang bao trùm toàn bài hành. Trong nhận xét và bình bài “Tống biệt hành”, nhà văn Hoài Thanh viết: "Nó đã làm sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ… nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại". Người đi xa được nói đến trong bài thơ là một "li khách", gạt bỏ thói nhi nữ thường tình, ôm chí lớn lên đường. Bài thơ đã thể hiện lòng mến yêu, sự ngưỡng mộ và trân trọng đối với người lên đường đi xa vì nghĩa lớn. Bốn câu thơ đầu điễn tả tâm trạng xao xuyến của lòng người – kẻ ở người đi trong cảnh tống biệt: "Đưa người ta không đưa qua sông, Sao có tiếng sóng ở trong lòng ? Bóng chiều không thắm, không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?" về câu trúc, về thanh điệu, giọng thơ, hình ảnh… của bốn câu thơ này rất đặc biệt, đầy ấn tượng. Câu 2 và câu 4 là hai câu hỏi tu từ, song hành và hô ứng nhau: "Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?" và "Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?". Câu thơ thứ nhất toàn thanh bằng gợi lên cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, nao nao buồn: "Đưa người ta không đưa qua sông". Nhà thơ như đang tự nói với lòng mình. Nhân vật trữ tình như có một sự phân thân mang tính lưỡng ngôn, tâm tình. Câu thứ hai bỗng nổi lên 4 thanh trắc tưởng như có âm vang lớp lớp sóng vỗ trong lòng người đưa tiễn: "Sao có tiếng sóng ở trong lòng”. Bến đò, dòng sông và chiều tà, hoàng hôn được các thi nhân sử dụng như là một biểu tượng, một chứng nhân về nỗi buồn li biệt, và đã viết nên những vần thơ tuyệt bút về tình bạn thủy chung ở đời: "Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường giang thiên tế lưu" (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh hạo Nhiên chi Quảng Lăng) "Nước sông trắng, mây vàng tuôn, Kẻ đi người ở, cơn buồn bên sông” (Thơ Đỗ Phủ – Tản Đà dịch) "Đình hôm tiếng sáo não nùng, Anh đi bến Sở, tôi trông đường Tần" (Thơ Trịnh Cốc – Ngô Tất Tố dịch) Trong bài “Tống biệt hành" của Thâm Tâm, cuộc sống biệt được nhắc đến không diễn ra trên một bến đò, dòng sông nào, thế mà vẫn có "tiếng sóng ở trong lòng", chẳng đưa liễn vào hoàng hôn mà vẫn "đầy hoàng hôn trong mắt trong ?". Nỗi buồn li biệt như được nhân lên trong chiều sâu của lòng người, tỏa rộng vô hạn trong không gian và '-hời gian. Những con sóng của tình lưu luyến, nhớ thương như dâng lên, vỗ vào lòng người đi xa, kẻ ở lại. Và ở cặp mắt xanh trong của li khách như chứa "đầy hoàng hôn", vương vấn nhiều man mác nhớ thương. Hai câu thơ trên liên kết với 2 chữ "li kliách" trong khổ thơ tiếp theo làm ta liên tưởng đến người đi xa tuy không qua sông Dịch Thủy như Kinh Kha thuở nào, chẳng hề có thái tử Đan đưa tiễn, nhưng với hình ảnh "tiếng sóng ở trong lòng", ta vẫn cảm thấy hơi lạnh của gió sóng, vần thơ tràn ngập một nỗi buồn mênh mang, liên hồi, vô tận. Những lớp sóng cứ dâng lên, vỗ mãi trong lòng kẻ đưa tiễn người thân đi xa. Câu thơ mang ý vị cổ kính, bi tráng và kín đáo vì đã sử dụng một điển tích. Cách diễn đạt, cách nói rất mới, đúng là thơ lãng mạn thời "tiền chiến". Mới ở cách đặt cân hỏi và mới ở "tiếng sóng ở trong lòng". Tiếng sóng ấy chính là tâm trạng của người đưa tiễn: "Đưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng?" Hai câu 3, 4 nói lên nỗi lòng của người đi xa. Mặc đầu li khách lên đường với một quyết tâm phi thường "Chí lớn chưa về bàn tay không", và "Ba năm mẹ già cũng đừng mong", tuy mọi thương nhớ,… được nén lại, được giấu kín ở trong lòng, nhưng vẫn hé lộ trong ánh mắt trong: "Bóng chiều không thắm, không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?" Thơ cổ thường lấy ngoại cảnh để biểu hiện tâm trạng bằng những ước lệ. Thâm Tâm cũng mượn ngoại cảnh và dùng ước lệ nhưng có thêm chi tiết về thời gian, lấy thời gian để hiểu đạt tâm tình: "Bóng chiều không thắm, không vàng vọt". Nơi đưa tiễn chẳng có bến đò dòng sông, lúc chia li chẳng phải ngày tàn, chỉ diễn ra ở một nơi bình thường, vào một buổi chiều bình thường như bao buổi chiều khác, bầu trời "không thắm, không vàng vọt", nhưng kẻ sắp đi xa lại "đầy hoàng hôn trong mắt trong". Màu hoàng hôn chứa đầy trong mắt trong là màu sắc tâm tưởng, màu biệt li: buồn và lo. Đi vì nghĩa lớn: một đi quyết không trở về (bàn tay không). Một gia cảnh trĩu lòng: mẹ già, hai chị và "em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc". Người ra đi tất phải buồn lo và thương nhớ, lưu luyến. Li khách đâu phải là gỗ đá. Nhưng cũng không phải là kẻ tầm thường, đã ôm chí lớn và quyết tâm lên đường. Chữ "đầy" gợi tả chiều sâu, bể rộng, chiều dài của nỗi buồn dâng lên trong lòng li khách. Hai chữ "trong" đồng âm mà dị nghĩa. Chữ "trong" đứng trước chỉ sự chứa đựng, chữ "trong" cuối cầu tả ánh mắt của khách lên đường, một tráng sĩ với phong độ trẻ trung, với nhiều khát vọng bay cao, bay xa, một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển được! Câu thơ "Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong" cho thấy ngòi bút của Thâm Tâm rất tinh tế trong biểu hiện cảm xúc và tâm trạng của “ li khách". Trong hai khổ thơ tiếp theo, tác giả nói rõ nỗi lòng “li khách": "Ta biết người buồn chiều hôm trước"… "Ta biết người buồn sáng hôm nay"… Những câu thơ ấy đã tạo nên tính hệ thống của ngôn ngữ thi ca. Và đó là mội trong những yếu tố, tính chất làm nên vẻ đẹp của ngôn ngữ văn chương, đưa thi phẩm "Tống biệt hành" lên hàng tuyệt bút trong nền "Thơ mới" (1932-1941). Cuộc biệt li được nói đến trong khổ thơ này thấm đượm một không khí buồn. Người đưa tiễn man mác. Khách đi xa thì nén lại, giấu kín vào đáy lòng bao nỗi buồn lo và thương nhớ trước lúc giã biệt gia đình và bạn bè, nhưng ánh mắt vẫn nhiều buồn thương "đầy hoàng hôn trong mắt trong". Chất nhân tình được nói lên một cách rất chân thực và rất thơ. Người đi xa có thể vì nghĩa lớn…, vì thế hình ảnh "li khách" trong bài thơ đã để lại trong lòng ta nhiều ngưỡng mộ. Nỗi buồn của người đưa tiễn và "li khách" là nỗi buồn lành mạnh và rất chính đáng của con người. Có nỗi buồn ấy, trái tim ấy mới có lẽ sống đẹp, quyết tâm lên đường vì nghĩa lớn. Để diễn tả không khí đưa tiễn, thể hiện tâm trạng của "ta" và của "người", Thâm Tâm đã lựa chọn ngôn từ, sáng tạo hình ảnh rất thần tình. Đặc biệt đã tạo nên một không khí thiêng liêng, cổ kính, bi tráng để lại nhiều ám ảnh trong lòng người. Nhạc điệu chơi vơi, mênh mang, lan tỏa. Câu thơ đầy âm ba, dư vị, vần thơ phong phú, có cả vần chân phối hợp với vần lưng "không – sông – trong – lòng – không – không – trong – trong". Các phụ âm vang diễn tả sự xao xuyến, vương vấn. Các câu hỏi tu từ, những điệp từ, điệp cú, song hành hô ứng (sao có tiếng sóng… sao đầy hoàng hôn…) đã làm cho khổ thơ phong phú về chất thơ và nhạc điệu, cảm xúc và hình tượng cả ở tâm trạng và ngoại cảnh. Có thể nói, đây là một đoạn thơ hay và rất độc đáo về chất thơ và hồn thơ của Thâm Tâm. "Tống biệt hành" là "một bài ca không bao giờ quên"…
Bình giảng khổ thơ đầu bài Tống biệt hành của Thâm Tâm
1,611
Làm thơ từ năm mười sáu tuổi, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào trong phong trào Thơ mới. Một trong những bài thơ đặc sắc về thiên nhiên, đất nước và con người là Đây thôn Vĩ Dạ. Khổ thơ mở đầu sau đây miêu tả thiên nhiên xứ Huế vô cùng gợi cảm, hòa vào một tình cảm nhớ thương đằm thắm, bâng khuâng, tiêu biểu cho một nét phong cách thơ Hàn Mạc Tử: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có kết cấu ba đoạn. Khổ thơ thứ nhất, tả vườn cây dưới ánh nắng ban mai thanh tân, tinh khiết. Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh trời, trăng, mây nước mang nét buồn xa vắng. Khổ thơ cuối là nỗi lòng nao nao, mơ mộng bởi bóng hình thiếu nữ xứ Huế. Thôn Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái cây tươi bốn mùa, với những ngôi nhà duyên dáng… đi vào văn học qua câu thơ tuyệt bút: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Nhưng đâu phải chỉ có thiên nhiên gợi niềm ấp yêu tuyệt diệu mà quanh quẩn đâu đó còn cả bóng dáng con người quen thuộc, có tấm lòng chờ đợi thiết tha. Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Câu thơ là một lời mời mọc, cũng có thể là một lời trách móc thân tình. Ngôn ngữ chọn lọc mà như ngẫu nhiên phóng bút. “Sao anh không về” vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm. Hãy về thôn Vĩ, một thôn Vĩ tràn ngập ánh nắng ban mai: Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Thôn Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp. Nắng sớm ban mai tràn ngập không gian. Những tàu lá cau xanh mướt vươn lên đón tia nắng sớm, vô vàn hạt sương đêm đọng lại, lấp lánh màu ngọc bích. Lời thơ thật hồn nhiên. “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo vui nhưng cũng thật điêu luyện: từ mướt thật đắt và xanh như ngọc mang nghĩa tượng trưng gợi tả độc đáo. Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Lá trúc thì mảnh mai, thanh tú. Nhiều cành lá xếp lên nhau, lay nhẹ theo làn gió thoảng ban mai, dưới ánh nắng sớm, che ngang in bóng như chữ điền trên khuôn mặt người thôn Vĩ. Hay khuôn mặt người thôn Vĩ hồn hậu vuông vắn chữ điền? Có thể là cả hai: hình ảnh vừa thực, vừa có phần hư ảo lung linh trong niềm nhớ của lòng người. Câu thơ được cách điệu hóa, mang ý nghĩa tượng trưng. Vườn cây mượt mà đó phải là quê hương những con người hiền hòa. đôn hậu. Con người chợt xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên và hình ảnh con người cùng thiên nhiên hòa hợp trong vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng. Mạch thơ êm nhẹ, ý thơ chuyển dịch: sau lời mời mọc dễ thương (câu 1 cảnh vật hiện lên trước mắt với màu sắc tươi tắn (câu 2,3) và con người hiền hòa xuất hiện, với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng), khổ thơ biểu hiện nét đẹp nên thơ của con người và cảnh vật xứ Huế. Qua đó,ý thơ cũng gợi lên một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, một nỗi bâng khuâng, xa xôi mờ ảo, như trong câu cuối của bài thơ: Ai biết tình ai có đậm đà? Có ý kiến cho rằng cảnh vật hiện ra trong một số bài thơ của Hàn Mặc Tử đậm đà màu sắc dân tộc. Thật vậy, nếu không gắn bó máu thịt với quê hương Hàn Mạc Tử khó viết được những câu thơ trác tuyệt như trên. Bên cạnh những bài thơ hay về quê hương đất nước của Thế Lữ, Xuân Diệu. Huy Cận, Chế Lan Viên, Anh Thơ…. mấy câu thơ mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử. đã góp phần khẳng định giá trị của phong trào Thơ mới vào những năm ba mươi của thế kỉ XX, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học nước ta trong nửa đầu thế kỉ này.
Bình giảng khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử_ Sao anh không về chơi thôn Vĩ…Lá trúc che ngang mặt chữ điền
776
Nội dung bài viết1 Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 2 Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Đoàn kết là cội nguồn của sức mạnh và chiến thắng. Bởi vậy, từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã chú trọng đến việc giáo dục tinh thấn đoàn kết qua những huyền thoại đẹp như Sự tích trăm trứng, Quả bầu mẹ,…Thiêng liêng thay là ý nghĩa của hai tiếng đồng bào. Nó khẳng định rằng tất cả các dân tộc sinh sống trên non sông đất nước này đều do cùng một mẹ sinh ra. Bài học về đoàn kết còn được gửi gắm trong những câu ca dao làm rung động lòng người: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Câu ca dao trên là một chân lí lớn lao về truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc. Sự gắn bó của tình giai cấp, nghĩa đồng bào được đem so sánh với miếng nhiễu điều (một loại lụa quý màu đỏ, dệt từ tơ tằm) phủ trên chiếc giá gương (chiếc khung để gắn gương soi). Miếng nhiễu ấy che phủ cho tấm gương khỏi bụi, mãi mãi sáng trong. Tấm gương kia cũng làm tôn thêm vẻ đẹp, vẻ quý của miếng nhiễu điều. Hai vật ấy luôn luôn khăng khít bên nhau, bổ sung giá trị cho nhau. Ý nghĩa câu ca dao không dừng ở đó. Sâu xa hơn, nó chứa đựng một lời khuyên nghĩa tình thắm thiết: Người trong một nước phải thương nhau cùng. Sống trên đất nước này, dù người trên rừng, kẻ dưới biển, dù người Kinh hay người Thượng, chúng ta phải luôn nhớ rằng các dân tộc đều là con của một mẹ sinh ra, đều là dòng giống Lạc Hồng. Đó chính là sợi dây vô hình mà hết sức thiêng liêng kết nối các thành viên trong cộng động để tạo nên xã hội. Trong cuộc đời, không ai có thể tồn tại được nếu sống cách biệt với mọi người. Tách mình ra khỏi ràng buộc quan hệ với gia đình, giai cấp và dân tộc thì chẳng khác nào tự tiêu diệt vì cá nhân không thể làm nên sức mạnh. Chỉ có một cộng đồng thống nhất về ý chí, gắn bó chặt chẽ về quyền lợi mới tạo nên được sức mạnh dựng nước và giữ nước, mới sáng tạo ra những của cải vật chất, tinh thần làm giàu cho xã hội. Bài học đoàn kết đã được chứng minh qua thực tế mấy ngàn năm lịch sử của nước ta. Trải qua bao cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, sức mạnh của truyền thồng đoàn kết đã tạo nên những chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh,… Dân tộc Việt Nam nhờ đoàn kết mà tồn tại và không ngừng phát triển. Đoàn kết trong thời chiến để giữ nước, đoàn kết trong thời bình để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Nhận thức ấy phải được thấm sâu vào mỗi con người. Chúng ta là con một cha, nhà một nóc, Thịt với xương, tim óc dính liền(thơ Tố Hữu). Thương yêu, cưu mang giúp đỡ nhau trong lúc yên vui cũng như trong cơn hoạn nạn, ấy là đạo lí làm người – là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết, thương yêu giai cấp, giống nòi là cơ sở của tình yêu quê hương, đất nước. Tinh thần ấy được thể hiện qua những việc làm cụ thể hằng ngày: một hành động giúp đỡ người già cả, tàn tật, người gặp khó khăn hoạn nạn; một phong trào cứu trợ đồng bào vùng bị thiên tai; một phong trào đền ơn đáp nghĩa rộng khắp; những lớp học tình thương mở nơi hang cùng ngõ hẻm, đem ánh sáng văn hóa đến với trẻ em nghèo…Tất cả những việc làm ấy là kết quả của một cách sống coi trọng nhân nghĩa, là kết quả của bài học tương thân, tương ái lưu luyến đã bao đời. Bên cạch cách sống đẹp đẽ ấy thì cách sống ích kỉ, chỉ biết quyền lợi cá nhân thì đáng phê phán. Thờ ơ trước nỗi đau của người khác, tệ hại hơn là vui sướng trên nỗi khổ cực, mất mát của đồng bào, đó là biểu hiện sự suy thoái về đạo đức và nhân cách. Xã hội mới không chấp nhận những kẻ nhưu vậy vào cộng đồng dân tộc. Trong thời đại hôm nay, câu ca dao trên vẫn giữ nguyên ý nghĩa nhân sinh của nó. Kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, chúng ta hãy kề vai sát cánh bên nhau để xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Trên đường đi tới tương lai tươi sáng, lời Bác Hồ dạy luôn luôn là nguồn sức mạnh cho cả dân tộc: Đoàn kết , đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Bài làm 2 Đất nước được tồn tại và phát triển, con người Việt Nam được ấm no, hạnh phúc một phần cũng nhờ truyền thống đoàn kết từ xưa đến nay của dân tộc ta. Người dân Việt Nam đã cùng nhau đứng lên, cùng nhau hợp lực để chống lại bao gian nguy, bao khó khăn, tai biến mới tồn tại và phát triển đến ngày nay. Để nhắc nhở các thế hệ sau phải luôn luôn giữ mãi tinh thần đoàn kết, ca dao Việt Nam có câu: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Đó là lời dạy ân cần, tha thiết nhất của ông cha ta để lại cho con cháu như bài học ở đời. Ngôn ngữ Việt Nam thật đa dạng và nhiều ý nghĩa. Ca dao Việt Nam thật phong phú, thật gợi cảm. Câu ca dao trên cũng thế. Nó bao hàm một ý nghĩa thật sâu sắc. Nhiễu điều là tâm nhiễu đó được phủ lên mặt gương để giúp gương không bị ố mờ theo năm tháng. Đó là vật vô tri, vô giác mà cũng có thể che chở cho nhau để được tồn tại, để phục vụ cho đời. Song câu ca dao trên không dừng lại ở ý nghĩa ấy. Nó còn ngụ một ẩn ý sâu xa: Những con người cùng sống trong một đất nước thì phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Đó là lẽ sống, là đạo lí làm người. Tình đoàn kết sẽ giúp chúng ta vượt qua trở ngại gian lao, cho ta thêm sức mạnh để tiến vững mải. Tình đoàn kết là yếu tố quan trọng giúp ta tồn tại và phát triển trong xã hội. Câu ca dao trên là lời khuyên răn chân thành nhất của ông cha ta, là hướng đi, là ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ sau. Thật vậy, câu ca dao trên là sự đúc kết kinh nghiệm hoàn hảo nhất của tổ tiên để lại. Nếu không nhờ tấm vải đỏ che chở thì gương có còn trong sáng mãi được không? Tất nhiên, tấm gương ấy sẽ mờ theo năm tháng. Lúc đó vải không còn sử dụng được mà gương cũng thế. Cũng vậy, con người cần phải có tình đoàn kết. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho ta thấy rõ điều đó. Thắng lợi vẻ vang của dân ta ngày nay đâu phải dễ dàng có được. Đó là bao sức người, sức của đồng bào ta đã hợp nhất với nhau. Tất cả và tất cả đã cùng nhau đứng lên tạo nên sức mạnh thần kì để đánh đổ giặc ngoại xâm. Tình đoàn kết luôn là động lực chủ yếu đưa đến những thành công rực rỡ. Nếu không có tinh thần đoàn kết thì liệu xã hội có còn tồn tại đến ngày nay không? Tinh thần đoàn kết luôn được nhân dân ta giữ mãi trong bất kì hoàn cảnh nào. Thiên tai lũ lụt, hạn hán tuy tàn phá thật khốc liệt nhưng nhờ sự đoàn kết, gắn bó, nhân dân ta đã cùng nhau chống lai, vượt qua tất cả. Nói chung, nếu con người không biết đoàn kêt. hợp sức lực với nhau thì sẽ không thể nào tồn tại được, tình đoàn kết sẽ đem đến cho mọi người những kết quả tốt đẹp nhất. Nhưng còn có nhiều người tự hỏi ràng: Tại sao người trong một nước thì phải đoàn kết với nhau? Một điều thật dễ hiểu. Bởi lẽ mỗi chúng ta đều chung một dòng giống, cùng chung một dân tộc, một tiếng nói, cùng sống trên một lãnh thổ. Những điểm chung đó là sợi dây ràng buộc, giúp những người trong một nước gắn bó với nhau. Chúng ta thử nghĩ nếu không may đất nước bị lâm nguy, chẳng lẽ tất cả chúng ta được an vui sinh tồn? Hoặc khi có thiên tai, lũ lụt xảy ra thi tất cả chúng ta sẽ cùng nhau hứng chịu Do đó người trong một nước thì phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đó là tình nghĩa đồng bào cùng sống trên một lãnh thổ. .Chính tình cảm thiêng liêng đó đã giúp cách mạng Việt Nam vượt qua mọi phong ba bão tap va cập bến vinh quang như hiện nay. Hiểu được ý nghĩa vô cùng sâu sắc ấy, mỗi chúng ta cần phải làm gì để thực hiện đúng lời dạy trên? Chúng ta phải biết giúp đỡ lần nhau khi hoạn nạn, khó khăn. Chẳng hạn như chúng ta phải đóng góp, giúp đỡ trẻ em tàn tật, mồ côi, những đồng bào bị bão lụt… Hơn nữa, khi có giặc ngoại xâm tất cả phải cùng nhau đứng lên chống giặc. Tình thương là thứ tình cảm được bộc lộ rõ rệt nhất qua nhiều hành động cụ thể. Có như thế. Đất nước mới tồn tại, cuộc sống nhân dân ta mới ấm no hạnh phúc Trong tình hình đất nước đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khó khăn, phức tạp thì câu ca dao trên có ý nghĩa rất quan trọng. Mỗi người cần phải thể hiện tình đoàn kết, gắn bó nhau hơn nữa để đưa đất nước ngày một đi lên. Tình đoàn kết sẽ là động lực là sức manh đưa đất nước đến những thắng lợi vẻ vang. Tuy nhiên, trong thực tế không phải ai cũng hiểu và làm điều đó. Bởi vậy, chúng ta phải phê phán những thái độ sống thiếu trách nhiệm, phê phán những kể sống bàng quan với mọi người, thờ ơ trước những khó khăn của đất nước, của đồng bào. Những kẻ ấy đáng bị lên án đáng quét sạch đi. Tất cả chúng ta phải cùng nhau đi lên, cùng nhau xây dựng đất nước theo lời Bác dạy: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công. Tóm lại, câu ca dao trên là bài học sâu sắc nhất, là lời khuyên chân thành nhất của ông cha ta. Đó là đạo lí, là lẽ sống giúp cho thế hệ sau vươn tới tương lai tươi sáng. Tình thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau sẽ đưa chúng ta vượt qua tất cả. Từ đó, mỗi con người sẽ luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức và nhất là tình thương đồng loại. Tẩt cả sẽ cùng nhau hợp lực đưa đất nước ngày một đi lên. Riêng em, em nghĩ mình cần phải giúp đỡ những bạn gặp nhiều khó khãn trong học tập, những bạn không có điều kiện đến trường. Em sẽ cùng các bạn xây dựng tập thể lớp ngày thêm vững mạnh. Làm được như thế, em cảm thây cuộc sống sẽ có ý nghĩa hơn, đời sống sẽ trở nên phong phú, thú vị hơn.
Bình luận câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng – Văn mẫu lớp 7
2,098
Nội dung bài viết1 Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 2 3 Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 3 4 Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 4 Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu. Tiếng đàn ngọt ngào và sâu lắng ấy đã diễn tả đời sống tâm tình của con người Việt Nam từ bao đời nay. Ca dao dân ca có sức mạnh lớn lao, nó cho ta bao bài học về tình thương, đạo lí. Trên chặng đường lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước vẻ vang, ông cha ta luôn luôn nhắc nhở con cháu: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" Bầu và bí là hai loại cây thân thuộc của mỗi vườn quê, của mỗi gia đình nông dân Việt Nam. Là loại cây leo, nhưng bầu và bí lại "khác giống ". Hoa bí vàng, hoa bầu trắng nhạt. Quả bí thì dài, quá bầu thì tròn. Bầu chớ ngại bí nhám hơn bầu mà cách biệt nhau. Tuy "khác giống", nhưng bí và bầu lại "chung giàn" nghĩa là chung cảnh ngộ, chung điều kiện sống, gần gũi bên nhau, chở che nhau để mình tươi tồn tại. Khi trời ấm áp mùa xuân, mưa nắng thuận hoà mùa hạ, đất màu tươi tốt, thì bí bầu chung hưởng, hoa trái trĩu cành. Gặp lúc nắng hạn bão tố, sâu bệnh, giàn đổ "lá gãy cành rơi" thì bí và bầu cùng chung hoạn nạn, cay đắng ngọt bùi có nhau. Cho nên thật tự nhiên và giản dị "Bầu ơi thương lấy bí cùng". Bầu và bí là hai biểu tượng để nói về tình người và tình đời. Dưới hình thức ẩn dụ, nhân hoá và cảm thán, giọng thơ vang lên ngọt ngào, thấm thìa, câu ca dao nêu lên một lời khuyên vừa nhẹ nhàng tế nhị vừa sâu sắc chân thành cho mỗi chúng ta. Chín mươi triệu người Việt Nam tuy "khác giống", là Kinh, Thượng hay Mán, Mường, v.v…, là miền Bắc hay miền Nam, ở miền xuôi hay miền ngược, chúng ta có chung một Tổ quốc, một lịch sử, một nền văn hoá, một cơ đồ Việt Nam,… Chúng ta có thể khác nhau về gia đình, về cảnh ngộ, điều kiện sống, về trình độ văn hoá… nhưng lại đang tồn tại bên nhau, đang sống, học tập và làm ăn trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong cộng đồng người Việt, chúng ta có bao cái "chung" như bí và bầu "chung một giàn" vậy. Chung Tổ quốc, ấy là nghĩa đồng bào. "Một giọt máu đào hơn ao nước lã". Chung làng xóm, phố phường, ấy là tình đồng hương. Chung trường, lớp, ấy là tình đồng học, bạn đồng môn. Ta còn có tình đồng nghiệp, tình đồng cảnh cùng chung ước mơ, hoài bão, v.v… Những nét "chung" ấy đã gắn bó mọi tâm hồn Việt Nam, xây nên tình yêu thương nhân dân đất nước. Tóm lại, câu ca dao đã nêu lên bài học tình thương, đạo lí, nhắc nhở chúng ta biết yêu thương, đùm bọc, chở che, giúp đỡ lẫn nhau để xây dựng cuộc sống ấm lo, hạnh phúc lâu dài. Tại sao phải biết sống trong tình yêu thương đùm bọc? Vì sự tồn tại mà mỗi con người Việt nam luôn luôn đặt tình Tổ quốc, nghĩa đồng bào lên trên hết, trước hết, thiêng liêng, cao cả lắm. Vì cuộc sống mà mọi thành viên trong cộng đồng người Việt gắn bó với nhau, vinh nhục, đau khổ, khát khao lo toan, yêu thương, hận thù, cay đắng ngọt bùi cùng chung chịu và chia sẻ. Bị ngoại bang xâm lăng, nước mất nhà tan, sống trong cảnh trâu ngựa, mọi con người Việt Nam đoàn kết yêu thương, cùng quyết tâm đuổi giặc, cứu nước. Không ai có thể sống trong cô độc mà được hạnh phúc? Cuộc sống biến động, thiên tai địch họa triền miên, chỉ có tình thương yêu mới cho ta sức mạnh để vượt qua mọi thử thách và chiến thắng. Tình thương yêu, chở che… còn cho ta niềm tin để "Đi tới và làm nên thắng trận", hướng tới một ngày mai ca hát: "Còn non, còn nước, còn người …". Một nghìn năm Bắc thuộc, một thế kỉ bị thực dân Pháp thống trị, lịch sử đã cho ta bài học về tình thương yêu đoàn kết dân tộc. Đạo lí dân tộc ta coi trọng tình yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. "Anh em như thể chân tay … Người trong một nước thì thương nhau cùng… Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ", v.v… . Bằng máu, mồ hôi và nước mắt, bằng kinh nghiệm sống qua bốn nghìn năm lao động và chiến đấu, nhân dân ta đã lấy tình thương để tạo nên bản sắc dân tộc, bản lĩnh giống nòi. Chúng ta tự hào về truyền thống nhân nghĩa, nhân ái cao đẹp đã hun đúc nên sức mạnh Việt Nam. "Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" Tiếng gọi thiết tha của cha ông hay lời non nước? Trên hành trình đi tới ngày mai, mỗi con người Việt Nam có nghĩa vụ xây đắp đạo lí tình thương vì một nước Việt Nam giàu đẹp. Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 2 Trái bầu xanh, trái bí xanh, theo gió trong lành cất tiếng hát vui chung. Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn… Câu ca dao xưa đã thành bài hát ngân nga khắp nơi nơi như một lời nhắn nhủ những người dân nước Việt hãy giữ vững truyền thống thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống. Bầu và bí là hai giống cây khác nhau nhưng thường được người nông dân trồng chung trên một rẻo đất ở bờ ao, góc vườn; thường leo chung trên một giàn. Vì thế bầu và bí trở nên gần gũi, thân thiết. Cùng chung một điều kiện sống, cùng chung số phận, cho nên bầu và bí đừng vì lí do nào đó mà xa rời nhau. Bầu chớ chê bí xấu hơn bầu, bí cũng chớ vì hoa bí thì vàng còn hoa bầu thì trắng, quả bí thì dài, quả bầu thì tròn để rồi ganh ghét, xa lánh nhau. Vì sao vậy? bầu và bí tuy hai giống khác nhau nhưng cùng chung một họ. Mưa thuận gió hoà, bầu bí chung hưởng. Gặp khi nắng hạn, bầu bí cùng chịu đựng. Nếu chẳng may gặp cơn gió bão, thân bí giập, quả bí rụng, có lẽ nào bầu một mình tươi tốt như xưa? Câu ca dao mượn chuyện bầu bí để nói chuyện con người, chuyện cuộc đời. Ông cha ta đã cho con cháu một lời khuyên chân thành, kín đáo mà thiết tha, tế nhị. Sống ở trên đời, không ai giống ai. Mỗi người có một nguồn gốc, hoàn cảnh, điều kiện sống riêng. Tuy vậy, mọi người vẫn có những chỗ giống nhau. Anh em ruột thịt có chung cha mẹ. Bạn bè cùng lứa chung trường, chung lớp, chung thầy cô, chung sách vở. Hàng xóm láng giềng chung đường đi lối lại. Dù có khác nhau về điều kiện làm ăn, về lứa tuổi, ngành nghề, nhưng tất cả đều chung quê hương, đất nước. Những cảnh ngộ chung, những nét giống nhau đã làm nên mối quan hệ ràng buộc, gắn bó, là cơ sở để gần gũi, cảm thông. Và chính vì cái chung ấy mà mỗi người phải biết thương yêu đùm bọc, nhường nhịn sẻ chia để công việc chung được tốt đẹp, cảnh ngộ chung được cải thiện, hạnh phúc chung được giữ vững. Không ai có thể sống riêng lẻ, tách biệt vì tình thương làm cho con người gắn bó với nhau hơn và cuộc sống của mỗi người sẽ tốt đẹp hơn. Trong những thời kì nước ta bị ngoại bang xâm lược, nhân dân Việt Nam dẫu có người sang, kẻ hèn; người giàu, kẻ nghèo; người hạnh phúc, kẻ bất hạnh… nhưng tất cả đều chung nỗi khổ mất nước, nỗi nhục nô lệ, chung một mong ước độc lập, tự do. Chính vì vậy mà mọi người đã thương yêu, đoàn kết lại thành một khối để chống quân cướp nước. Đó là nhu cầu tình cảm tự nhiên và cũng là điều kiện sống còn trước những hiểm hoạ đe doạ vận mệnh của đất nước, dân tộc. Dân tộc ta chủ yếu sống bằng nghề nông. Trong sản xuất, thời tiết và điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thu hoạch. Nếu mọi người không chung sức đắp đê chống lụt, trồng rừng ngăn lũ thì khó có thể bảo vệ được mùa màng và thành quả lao động phải vất vả một nắng hai sương mới làm ra được. Trong điều kiện sống khắc nghiệt, nếu không biết nương tựa vào nhau thì làm sao tồn tại nổi? Mối quan hệ chặt chẽ đã làm cho tình thương nảy nở và người Việt Nam đã coi đó là truyền thống quý báu tự bao đời. Ca dao Việt Nam còn có câu: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng. Cho dù cuộc sống ngày càng thay đổi, con người hiện đại chú ý nhiều đến quyền lợi cá nhân nhưng truyền thống đoàn kết và lòng nhân ái của dân tộc ta vẫn có giá trị trường tồn. Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 3 Mỗi chúng ta khi còn bé hẳn không quên đến câu chuyện hoạt hình bầu và bí. Chúng được trồng chung một giàn nhưng khi bầu bí một tên xấu lừa gạt mà mặc cho những lời khuyên của bí, bầu vẫn đi theo người xấu kia. Bí không trách bầu mà âm thầm quan tâm bầu đến khi bầu bị kẻ xâu hãm hại thì bí đã anh dũng ra tay cứu giúp bầu. chính vì thế mà nhân gian ta cũng có câu nói về câu chuyện kia: “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” Tuy nhiên câu nói trên còn ẩn trong đó rất nhiều những ý nghĩa sâu xa khác, vậy những ý nghĩa đó là gì? Bầu và bí là hai loại cả cùng là dạng cây leo, thường thì người ta cho hai loại quả này leo chung một giàn nên vì thế mới nói được rằng chúng chung một giàn. Tuy nhiên ông cha ta nói như vậy không phải là hiểu theo nghĩa đen của nó mà là nghĩa bóng kia. nghĩa bóng của nó là gì?. Bầu và bí đại diện cho những con người chúng ta, bầu chung một giàn với bí cũng giống như mỗi chúng ta cùng chung một đất nước, một quê hương, cùng một trái đất nhân loại. Như vậy câu tục ngữ trên có ý muốn nói rằng mỗi chúng ta hãy biết yêu thương cứu giúp lẫn nhau tuy rằng không cùng một bố mẹ sinh ra, không cùng một đất nước nhưng có cái chung là đều là con người, cùng sống trên trái đất này. Nói một cách dễ hiểu hơn thì ý nghĩa của nó là tình thương của những con người không cùng giống nòi, nguồn gốc. Câu nói trên được thể hiện rất rõ trong cuộc sống của chúng ta mà trước hết là trong phạm vi cùng chung làng xóm quê hương, chung một cội nguồn chôn rau cắt rốn. Nhân dân ta rất trọng tình nghĩa, đó là một nét đẹp tiêu biểu của nhân dân ta. Làng xóm luôn là những người thân tín nhất của mỗi chúng ta, đương nhiên nói ở đây là những hàng xóm tích cực chứ không phải những hàng xóm không tốt. Ông cha ta thường có câu “bán anh em xa mua làng giềng gần là như thế”. Mỗi chúng ta rất đều sống với nhau bằng một tình thương làng trên xóm dưới, dù đi đâu thì người cùng làng cùng xã sẽ được ưu tiên cũng như yêu quý hơn. Mỗi nhà một người sinh ra khác nhau thế nhưng khi gặp phải khó khăn thì không ai đứng nhìn cả. Đơn giản là khi một người bị hỏng xe giữa đường thì nếu như gặp người cùng làng cùng xã dẫu cho không biết nhau, dẫu không cùng một mẹ sinh ra nhưng chúng ta cũng sẵn sằng giúp đỡ người đó. Hay là khi một nhà trong xóm bị kẻ trộm lấy mất những đồ quý giá trong nhà. Khi nghe được những tiếng hô hoán của họ thì tất cả những người hàng xóm sẽ đi chạy sang và giúp đỡ nhiệt tình trong chuyện đi bắt kẻ trộm ấy. Đó là biểu hiện tình thương của những người không chung người sinh ra. Không chỉ trong phạm vi làng xóm mà tình thương mà “bí” dành cho “bầu” còn được thể hiện ở phạm vi rộng hơn đó là đất nước. Cuộc sống này có biết bao nhiêu người lầm than ngày đêm vẫn còn sống trong cảnh màn trời chiếu đất trong khi đó thì có những người ăn không hết còn có cái để vất đi, hay cãi nhau với vợ con có thể thẳng tay ném một vật quý giá mà không hề cảm thấy tiếc. Chính vì thế mà những người giàu có của ăn không hết kia nên chia sẻ những gì mình có cho những người nghèo khổ kia. Đó chính là những hành động của người thương người. Tuy rằng không cùng nòi giống nhưng cùng chung một đất nước. Trên khắp những miền quê từ thành phố cho đến nông thôn đâu đâu ta cũng thấy những con người nghèo khổ như thế. Ngay chính thủ đô Hà Nôi cũng có, những khu nhà ổ chuột những con người phải chịu cảnh sống dưới những hầm đường bộ, mùa đông lạnh như thế với chúng ta thì phải đắp chăn bông mới vừa còn với họ chỉ có mảnh vải che thân nền lát những tờ báo. Họ đang nằm co ro vì cái buốt lạnh của thời tiết. Và khi ấy rất cần một sự quan tâm, có thể thấy rằng hiện nay chính phủ ta đã có những chính sách quan tâm đến những thành phần dân cư như thế. Mọi người chung tay góp một số ít những quần áo, đồ đạc hay tiền của của bản thân. Đó chính biểu hiện của tình thương dân tộc. Tình thương ấy còn vượt ra khỏi phạm vi biên giới nữa. Những nước phát triển giúp đỡ những nước nghèo. Như chúng ta đã biết thì ngày nay xu hướng của thế giới là hợp tác phát triển đôi bên cùng có nợ. Tuy nhiên thì có rất nhiều khoản tiền mà những nước phát triển tự nguyện cho không đê giúp đỡ khó khăn của những nước đang phát triển hay là khó phát triển. Ví dụ như Nhật Bản đã đầu tư một suất học bổng tại trường ở Hà Nội nhằm khuyến khích học tập của các bạn sinh viên. Như vậy có thể thấy rằng câu nói “ Bầu ơi thương lấy bình cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” là một câu nói mang nét tư tưởng đạo lí con người vô cùng cao cả và giàu ý nghĩa. Mỗi con người chúng ta sống là biết yêu thương chính những người thân yêu của mình. Không chỉ thế mà còn yêu lấy con người cùng chung một đất nước, một hành tinh này. Điều đó thể hiện tinh thần nhân văn cao đẹp trong chúng ta. Bình luận câu ca dao: Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Bài làm 4 Ca dao Việt Nam là kho tàng kinh nghiệm sống cũng là kho lưu trữ truyền thống đạo lí, tình cảm của nhân dân ta từ xa xưa. Trong cuộc sống không ngừng đấu tranh với thiên nhiên và chiến đấu chông kẻ thù chung, tổ tiên ta đã từng khuyên dặn nhau: “Bầu ơi thương thấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Câu ca dao có ý nghĩa gì? Đó là một lời căn dặn về tình yêu thương đùm bọc. Bầu và bí tuy là hai giống khác nhau nhưng lại được trồng chung một mảnh đất, leo chung một giàn, tức là cùng chung cảnh ngộ, có chung một điều kiện sống, chớ có ghét bỏ nhau, mà phải thương lấy nhau. Bầu chớ chê bí nhám hơn bầu. Bí cũng chớ đừng vì hoa bí vàng, hoa bầu thì trắng, quả bí thì dài, quả bầu thì tròn mà xa rời nhau. Vì sao vậy? Vì đã chung một giàn tức là cùng chung phận. Mưa thuận gió hòa ư? Bầu, bí rồi cùng khô héo với nhau. Một ngày kia nếu chẳng may giàn đổ, bí mà thân gãy lá rụng, chẳng lẽ bầu lại một mình giữ được tươi xanh? Nghĩa đen của câu ca dao là thế. Nhưng tất nhiên câu ca không phải được tạo nên để kêu gọi cây bầu cây bí là những giống vô tri. Bằng cách diễn đạt kín đáo thường gặp của ca dao, tục ngữ, đằng sau biện pháp nhân hóa, câu ca dao này ngụ một ẩn ý sâu xa, một lời khuyên vừa kín đáo vừa chân thành, một lời kêu gọi thiết tha cho con người. Người ta ở đời, không phải ai cũng như ai, người ta có thể “khác giống”, khác nhau về nguồn gốc, về hoàn cảnh, điều kiện sống riêng, có người là “giống bầu”, có người là “giống bí”. Nhưng bên trên những cái khác nhau đó, nhiều người, nhiều lúc, lại có chỗ giống nhau, cùng sống chung trong những điều kiện, những cảnh ngộ như nhau, cùng “chung một giàn” với nhau. Trong một xã hội, ta có biết bao cái chung như vậy. Chung Tổ quốc, ấy là tình đồng bào. Chung làng xóm, ấy làtình đồng hương. Chung trường học, ấy là tình đồng môn. Chung cảnh ngộ, ấy là bạn đồng cảnh. Chung một nghề, ấy là bạn đồng nghiệp. Chung họ hàng, ấy là tình đồng tông… Vượt lên trên những khác biệt nhỏ, vì sự giống nhau của một điều chung lớn, con người phải biết thương yêu nhau, giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau, đoàn kết với nhau. Vì sao vậy? Bởi vì chính tình cảnh “chung một giàn” giữa người này vởi người khác tạo nên cho con người mối quan hệ ràng buộc, những đau khổ và hạnh phúc chung, những niềm vui nỗi buồn chung, những lo liệu và khát khao chung, những thương yêu và hận thù chung. Chẳng hạn, trong những thời kì đất nước bị ngoại bang thống trị, như thời ngàn năm Bắc thuộc hoặc gần một trăm năm Pháp thuộc, người Việt Nam, có người sang, kẻ hèn, người làm thầy, kẻ làm thợ, “khác giông” với nhau vì nhiều thứ nhưng tất cả đều chịu cái khổ của người dân mất nước, cái nhục chung của người dân nô lệ và có chung niềm mong muôn nước nhà được giải phóng, dân tộc được tự do. Vì những điều chung ấy, mọi người Việt Nam phải thương lấy nhau, bảo vệ nhau, đoàn kết gắn bó với nhau. Đó không chỉ là đòi hỏi của tình cảm mà còn là yêu cầu sống còn trước sự ức hiếp, đe dọa của kẻ thù chung. Dưới ách thống trị của giai cấp phong kiến, những người nông dân, dẫu khác nhau vì nhiều thứ, vẫn cùng chung nhau những tai họa và đau khổ: mưa nắng bão lụt của trời đất, sưu thuế, phu phen của vua quan, tô tức của địa chủ, đè nén ức hiếp của cường hào. Nếu không nương tựa vào nhau khi khốn khó, giúp đỡ nhau khi tắt lửa tối đèn, làm sao họ có thể tồn tại được qua hàng ngàn năm? Theo em, câu ca dao trên hẳn đã ra đời từ mấy ngàn năm qua, khi nhân dân Việt Nam phải đương đầu với nhiều kẻ thù, đối phó với nhiều tai họa. Đã có những lời kêu gọi như thế: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Hoặc: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Câu ca dao trên là sự tổng hợp những kinh nghiệm sống rất phong phú, là bài học lớn mà nhân dân ta đã thu hoạch được qua hàng trăm, hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Đó là một lời nhắn nhủ thiếttha của cha ông truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, là lời kêu gọi tình tương ái tương thân, yêu thương đoàn kết. Hơn lúc nào hết, trong những khó khăn gian khổ, mỗi người dân Việt Nam phải suy nghĩ và hành động theo lời nhắn nhủ của câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy hí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Câu ca dao làm cho em hiểu vì sao nhân dân ta chiến thắng bao kẻ xâm lăng tàn bạo để bảo vệ Tổ quốc, nòi giống. Ngày nay, câu ca dao ấy vẫn là lời kêu gọi đoàn kêt thương yêu đối với người dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổquốc xã hội chủ nghĩa.
Bình luận câu ca dao_ Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn – Văn mẫu lớp 9
3,757
Bình luận câu cổ ngữ: Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều – Bài làm của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Ngọc quý lắm! Sống ở trên đời đã mấy người có ngọc làm gia bảo, làm đồ trang sức, làm tài sản? Thế mà cổ ngữ lại có câu: "Ngọc vô cùng quý giá, nhựng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều". Một sự so sánh nhiều ý nghĩa, giúp cho mỗi chúng ta hiểu rõ và trân trọng giá trị của ngọc tâm hồn. Ngọc còn có tên là hạt minh châu rất quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, hơn hẳn vàng, Ngọc rất cứng, có màu sắc lóng lánh, đủ loại: bạch ngọc, hồng ngọc, ngọc lam, huyền ngọc, ngọc lưu li… Ngọc được chế tác thành nhiều vật dụng tuyệt đẹp: chén ngọc, ấn ngọc, tượng ngọc, đồ nữ trang… Trên thị trường thế giới, có những viên ngọc giá nhiều triệu đô la. Thật vậy, ngọc vô cùng quý giá. Đã mấy ai sỡ hữu được ngọc; có ngọc làm tài sản, làm đồ gia bảo? "Nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều" – tại sao? Trong câu cổ ngữ này, ngọc tâm hồn là một ẩn dụ, một hình tượng nhằm khẳng định, ngợi ca tâm hồn đẹp hơn, trong sáng hơn, quý giá hơn thứ ngọc vật chất. Tâm hồn thì người nào chẳng có. nhưng ngọc tâm hồn thì không phải ai cũng có. Không phải đá nào cũng có ngọc. "Người ba đấng, của ba loài" (Tục ngữ). Không phân biệt tuổi tác, giới tính, học vấn, địa vị xã hội… mà có ngọc tâm hồn. Một em bé học sinh nhảy xuống hồ Bảy Mẫu cứu bạn thoát khỏi chết đuối. Một cụ già "thất thập cổ lai hi", trước lúc qua đời gửi lại số tiền tiết kiệm, với lời trăng trối "gửi tặng các cháu mồ côi". Một thầy thuốc giàu y đức cứu chữa được nhiều người bệnh mà không hề lấy tiền công, tiền thuốc,… Đó là những tấm gương sáng ngời ngọc tâm hồn mà báo chí từng ngợi ca, hàng triệu người ngưỡng mộ. Không phải có học vấn cao, chức vụ cao, giàu sang phú quý… mà có ngọc tâm hồn. Người có ngọc tâm hồn là người giàu tình thương, thương mình, thương người, biết san sẻ, đồng cảm, cưu mang đồng loại. Có tấm lòng "thương người như thể thương thân", coi trọng tình người hơn vàng bạc… là có ngọc tâm hồn. Phong cách sống của người có ngọc tâm hồn rất đẹp: thanh cao, bao dung, lễ độ. Khổng Tử có nói: "Văn nhã, hòa khí, khiêm tốn là cốt cách kẻ sĩ". Phải chăng văn nhã, hòa khí, khiêm tốn là ngọc tâm hồn? Cách ứng xứ của người có ngọc tâm hồn bất cứ hoàn cảnh nào, tình thế nào đều thể hiện một tâm thế, một bản lĩnh rất đẹp, như người xưa đã nói: "Phú quý bất năng dăm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Ngọc tâm hồn là một giá trị tinh thần, có thể biến đổi trong thời gian và không gian. Nó có thể phai mờ, cũng có thể mỗi ngày thêm tỏa sáng. Cho nên phải tu dưỡng, rèn luyện như ông cha từng nhắc nhở: "Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Trang sách giáo khoa và những lời dạy dỗ, giáo huấn của thầy cô giáo là những nhân tố bồi đắp nuôi dưỡng ngọc tâm hồn của tuổi trẻ. Tiếng ru, điệu hát của bà, của mẹ là chất liệu hình thành và làm sáng trong ngọc tâm hồn của tuổi thơ. Có đứa con, đứa cháu nào dám quên? Mẹ ru cái lẽ ở đời, Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn. Bà ru mẹ, mẹ ru con, Liệu mai sau các con còn nhớ chăng? (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa – Nguyễn Du) Nhân dân ta có nhiều câu ca trở thành điệu ru, tiếng hát nói về ngọc tâm hồn, mà nhiều người luôn nhắc nhở để làm bài học: – Thà chết vinh còn hơn sống nhục. – Chết trong còn hơn sống đục. – Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. – Ngọc kia có giũa có mài, Mới thành hữu dụng kẻo hoài ngọc đi. Tóm lại, "Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều". Ngọc tâm hồn là thứ tài sản tinh thần vô giá của đời người. Tuổi trẻ cần phấn đấu học tập văn hóa ngoại ngữ, khoa học kĩ thuật, và rèn luyện tu dưỡng đạo đức để có ngọc tâm hồn, ngẩng cao đầu trước thiên hạ. Đừng nên "ăn xổi ở thì", mà phải biết: "Vô kiến tiểu lợi, vô cầu tốc thành", nghĩa là không coi trọng cái lợi nhỏ trước mắt, không vội vàng để mong thành đạt.
Bình luận câu cổ ngữ_ Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều – Văn mẫu lớp 9
823
Nội dung bài viết1 Bình luận câu nói: Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia – Bài làm 1 2 Bình luận câu nói: Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia – Bài làm 2 Bình luận câu nói: Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia – Bài làm 1 Một trong những đức tính tốt đẹp nhất của con người là lòng nhân hậu. Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia. Nhân hậu là gì? Nhân là lòng thương người; nhân hậu là tình thương bao la, mênh mông và sâu sắc đối với mọi người. Cảm thông với cảnh ngộ, với nỗi niềm của đồng loại là đồng cảm: biết chia ngọt, sẻ bùi, biết xót thương với những người bất hạnh là san sẻ. Cây có cội, nước có nguồn: nhân hậu như cội, như nguồn; đồng cảm, san sẻ tựa như cội. như nguồn của lòng nhân hậu. Hơn 2.000 năm về trước, Khổng Tử đã ca ngợi cái nhân của con người; và ngài đã khẳng định: Nhân là cái gốc của đạo lí; kẻ có nhân mới có thể tích đức, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trên đời đầy ngang trái, bất công, thảm cảnh. Người có lòng nhân hậu tựa như ngọn lứa, như ánh sáng góp phần xua tan bóng tối. đem lại hơi ấm và hạnh phúc cho đồng loại, đem lại niềm vui và hi vọng của kẻ cô đơn, người bần cùng, bất hạnh. Một bát cơm cho người hành khất, một tấm áo cho người rét giữa mùa đông lạnh lẽo, một chén thuốc cho người ốm đau, một lời an ủi, động viện cho người hoạn nạn,… đó là những cử chỉ, hành động, những biểu hiện cụ thể trong nhân hậu, sự đồng cảm, san sẻ. Nhân dân ta giàu lòng nhân ái, “thương người như thể thương thân”, trong hoạn nạn cơ hàn biết ‘lá lành đùm lá rách”, nhường cơm sẻ áo cho nhau. Lời ru, tiếng hát của bà, của mẹ, đã in sâu vào tâm hồn tuổi thơ mỗi chúng ta: '‘Thấy người hoạn nạn thì thương, thấy người đói rét, ta nhường áo cơm”. Một chữ ‘‘thương’' in đậm trong lòng tuổi học trò qua những trang thơ văn của dân tộc giàu giá trị nhân đạo. Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. (Ca dao) Thương nhau chia củ sắn lùi. Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. (Tố Hữu) Những nhân vật như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, những em bé đáng thương như cái Tí trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, những cụ già đau khổ như lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao… đã để lại trong lòng người bao tiếng thở dài, bao giọt nước mắt. Vì văn sĩ, thi sĩ có trái tim nhân hậu bao la nên câu thơ lời văn mới trở thành tiếng khóc muôn đời mai sau: Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. (Truyện Kiều) Đất nước ta trải qua 30 năm chiến tranh (1945-1975), hàng triệu người đã ngã xuống trong mưa bom bão đạn của quân xâm lược, hàng chục vạn cô nhi quả phụ, hàng trăm nghìn nạn nhân chất độc da cam, là vết thương chiến tranh. Thiên tai. hạn hán. lũ lụt, bão tố xảy ra triền miên. Chính trong cảnh ngộ ấy, ta càng thấm thía về truyền thống nhân ái bao la của dân tộc, ta càng tự hào về đạo lí của nhân dân ta. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. (Ca dao) Những quỹ tình thương, những mái nhà tình nghĩa, các phong trào cứu trợ nhân đạo dân vùng bị thiên tai, vùng sâu, vùng xa đã làm bớt bao nỗi đau, bao hoàn cánh khó khăn của đồng bào. Và qua đó, ta càng hiểu một cách sâu sắc chân lí tỏa sáng tâm hồn dân tộc: “Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia". Người nhân hậu là người đẹp nhất. Sống trong tình thương là sống hạnh phúc nhất. Bình luận câu nói: Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia – Bài làm 2 Trong truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân nổi bật lên hình ảnh những con người vô cùng yêu mến dù nghèo khó và nạn đói, cái chết đang rình dập vồ lấy họ bất kì lúc nào nhưng họ vẫn đồng cảm và chia sẽ lẫn nhau. Bà cụ Tứ một người mẹ đầy lòng thương người và nhân hậu, Thị một người phụ nữ hiện thân của cái đói, người đấy nhưng mà lại bị nhặt như cọng rơm cọng rác ngoài đường và khi về nhà Tràng Thị cũng đồng cảm và vẫn quyết định ở lại. Tác giả và bạn đọc nói những con người ấy đang đồng cảm và chia sẻ với nhau mà có câu “Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia”. Vậy thì họ có nhân hậu chăng? Nhân hậu được hiểu là một phẩm chất cao đẹp của con người chúng ta, nó giống như vị tha, bao dung, nhân ái. Nhân là con người, còn hậu là có hậu , đôn hậu, tốt bụng, hiền lành. Vì thế nhân hậu là lòng tốt của con người đối với con người. Mà có lòng nhân hậu thì mới biết đồng cảm và chia sẻ, bởi vì một con người tốt thương mình, thương người thì sẽ dễ đồng cảm với người khác và chia sẻ cho họ. Những biểu hiện của đồng cảm và chia sẻ trong cuộc sống diễn ra như thế nào? Thứ nhất là sự đồng cảm và chia sẻ ngay chính trong gia đình của mình. Những gánh nặng nhọc nhằn của ba mẹ nếu như chúng ta là một người nhân hậu, biết thương yêu quý trọng những gì bố mẹ làm cho thì chúng ta sẽ đồng cảm với nỗi nhọc nhằn ấy và thật sự biết ơn những gì mà bố mẹ đã làm cho mình. Sự đồng cảm đó thể hiện khi bạn thấy mắt mình cay cay và rơi lệ khi thấy những giọt mồ hôi trên mặt mình nhỏ từng giọt lớn xuống mặt đất khi ấy từ tận trong trái tim của bạn sẽ có thúc đẩy bạn đi đến sự chia sẻ là chạy đến bên lau mồ hôi cho mẹ, hay cũng có thể là làm giúp mẹ công việc đó. Anh chị em trong gia đình cũng vậy,mặc dù trẻ con thì có nhiều lúc tranh giành lẫn nhau nhưng khi thấy chị em của mình khóc hay đau thì lòng mình tự dưng cũng rất đau, một niềm thương của một con người nhân hậu kéo theo đó là hành động chăm sóc chị em mình. Không những thế nó còn được biểu hiện trong tất cả các mối quan hệ trong xã hội thậm chí là cả những người không hề quen biết nữa. cuộc sống này nhiều khi thật lắm những điều bất công, có những người thì ăn no áo mặc không hết có những người thì lại vừa phải chịu tạt nguyền dị dạng, chân tay không có thì có cuộc sống nghèo khổ. Chính lúc ấy là lúc cần những con người nhân hậu biết đồng cảm sẻ chia để mang đến những niềm vui hạnh phúc khi được quan tâm trong cuộc sống của họ. Bạn bè và những mối quan hệ xung quanh chúng ta thì lòng nhan hậu thể hiện khi bạn bè gặp hoạn nạn thì chúng ta không bỏ mặc mà quan tâm nếu có khả năng có thể giúp bạn thoát khỏi sự khó khăn đó. Trong xã hội ngày nay biết bao nhiêu con người đang ngày đêm kiếm sống trên những bãi rác, chịu cảnh màn trời chiều đất. Biết bao nhiêu em bé phải gọi một người không quen biết là mẹ nhưng chính người mẹ đó lại không nuôi em mà chính là em nuôi mẹ đó. Không được đi học em phải đi làm bán những mặt hàng nhỏ. Nếu không bán được thì em sẽ không được ăn thậm chí là bị đánh những con người nhân hậu thì sẽ biết thương cho số phận của em, biết rằng em chẳng được tiền nhưng vẫn cứ cho để em không bị ăn đánh. Đó chẳng phải là một sự chia sẻ hay sao?. Những người không nhân hậu thì chắc chắn không thể lam được như thế. Như vậy có thể thấy câu nói kia hoàn toàn đúng, nhân hậu sẽ mang đến biết bao nhiêu niềm vui hạnh phúc, sự quan tâm cho những con người gặp hoàn cảnh khó khăn cũng như kém may mắn. đó là một đức tính tốt đẹp mà mối chúng ta cần phát huy hết mình và luôn luôn giúp đỡ đồng cảm sẻ chia bạn nhé!
Bình luận câu nói_ Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia – Văn mẫu lớp 12
1,504
Bình luận câu tục ngữ Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho – Bài làm của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Trong xã hôi phong kiến xưa kia, phần lớn của cải do người dân lao động làm ra rơi vào tay giai cấp bóc lột. Bọn chúng sống xa hoa, phè phỡn trên mồ hôi nước mắt dân nghèo. Thằng còng làm cho thằng ngay ăn, Ngồi mát ăn bát vàng là những sự thật phũ phàng diễn ra hằng ngày. Bởi thế, ông cha ta thể hiện rõ ràng quan điểm của mình về lao động và hưởng thụ; qua đó phản ánh mơ ước, khát khao sự công bằng, hợp lí trong xã hội: Có làm thì mới có ăn Không dưng ai dễ đem phần đến cho Câu tục ngữ trên đúc kết một nguyên tắc sống bất di bất dịch dưới môt hình thức mộc mạc, giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng. Có làm thì mới có ăn – đó là một thực tế hiển nhiên ai cũng thấy rõ. Có lao động mới làm ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ đời sống con người. Lao động đem lại niềm vui cho mỗi người. Lao động thúc đẩy sự phát triển không ngừng của xã hội. Con người phải làm việc, trước hết là để nuôi sống bản thân, sau đó góp phần xây dựng cuộc sống chung của cả cộng đồng. Khác với các sinh vật khác sống dựa vào thức ăn có sẵn kiếm được trong thiên nhiên, con người phải lao động sáng tạo, làm ra mọi của cải phục vụ đời sống. Trên đồng ruộng nông dân vất vả quanh năm đổ mồ hôi, sôi nước mắt làm ra củ khoai, hạt lúa nuôi đời. Trong nhà máy, công xưởng, người thợ ngày đêm miệt mài sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Đó là những người lao động chân chính. Họ xứng đáng được hưởng thành quả của mình và xứng đáng được xã hội tôn trọng. Nếu việc phân phối thành quả lao động thực sự dựa trên mức độ cống hiến của mỗi người thì nó sã đem lại công bằng và hợp lí. Đồng thời mỗi cá nhân sẽ tự đánh giá được năng lực bản thân, từ đó có tinh thần tự chủ, tự tin, sáng tạo trong lao động. Giá trị con người vì vậy được khẳng định một cách khách quan và đúng đắn hơn. Công bằng, hợp lí là một trong những động lực thúc đẩy quá trình phát triển của mọi lĩn vực xã hội. Dưới chế độ cũ, quyền lợi của giai cấp thống trị gắn liền với quyền lợi của giai cấp bóc lột. Do vậy nên nguyên tắc Có làm thì mới có ăn khó có thể thực hiện được. Vai trò của người lao động không được đánh giá đúng mức. Người làm ra của cải vật chất lại phải sống nghèo khổ, thiếu thốn. Trong khi đó kẻ không làm thì lại được hưởng thụ rất nhiều. Điều đó tạo ra sự bất công xã hội, đẩy mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, khiến nền kinh tế ngừng trệ và suy thoái. Câu tục ngữ trên đây vừa là quan niệm đúng đắn của nhân dân ta về cống hiến và hưởng thụ vừa là lời cảnh cáo phê phán những kẻ bóc lột, ăn bám. Qua câu tục ngữ, người xưa còn khẳng định lao động là tiêu chuẩn, là thước đo phẩm giá con người. Kẻ nào không yêu lao động, vô trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời thì không xứng đáng làm người. Ý nghĩa đúng đắn và tích cực của quan niệm này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc phân phối trong xã hội ta ngày nay: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Tất cả những người trong độ tuổi lao động phải làm việc. Mỗi người cống hiến cho gia đình, xã hôi theo năng lực của mình. Nguyên tắc phân phối công bằng sẽ thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển, đem đến cho xã hội những tiến bộ tốt đẹp. Sự công bằng và hợp lí sẽ trả lại giá trị cao quý đích thực cho người lao động, phá vỡ cơ sở của mọi tiêu cực như lười biếng, ỷ lại, tham nhũng… Trong tình hình đất nước ta hiện nay đang trên đà đổi mới, ý nghĩa câu tục ngữ trên đây càng được khẳng định là đúng đắn và khoa học. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự đóng góp tích cực của mỗi cá nhân vào sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ nguyên tắc công bằng xã hội, chẳng bao lâu nữa, đất nước ta sẽ thực sự giàu mạnh, đủ sức sánh vai với các cường quốc trên thế giới, như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.
Bình luận câu tục ngữ Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho – Văn mẫu lớp 7
850
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ Pháp: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu – Bài làm 1 2 Bình luận câu tục ngữ Pháp: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu – Bài làm 2 Bình luận câu tục ngữ Pháp: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu – Bài làm 1 Tiền bạc là một vật dụng được lưu thông trong xã hội, có tác dụng thúc đẩy và phát triển ngành mậu dịch. Nó là một thứ “tài sản đặc biệt” gắn bó thiết thân đối với mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia. Đã có nhiều câu tục ngữ, câu thơ, bài ca dao… nói về tiền bạc, về đồng tiền. Người Pháp có câu tục ngữ nói về tiền bạc từng được nhiều người nhắc đến: “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu”. Câu tục ngữ đã nêu bật được “hai mặt” của đồng tiền, tùy theo cách sử dụng và người sừ dụng, mà có khi "tiền bạc là người đầy tớ trung thành", có khi nó biến thành “người chủ xấu”. Trên thương trường, trong cuộc sống hằng ngày, ta càng thấy rõ tính chất “hai mặt” của tiền bạc. “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành” khi người sử dạng nó vào mục đích tốt đẹp, lương thiện; làm chủ được nó. Trái lại, khi tiền bạc đã được sử dụng sai, mục đích, dùng tiền bạc để gây ra bao điều xấu xa, bất lương, tội ác… thì nó đã trở thành “người chủ xấu”. Lúc ấy, người sứ dụng đồng tiền đã trở thành tên nô lệ của tiền bạc, kẻ thù ác vô cùng xấu xa. Vì thế. câu tục ngữ khuyên mọi người phải biết sống lương thiện, biết làm chú đồng tiền, đừng vì hám bạc, hám tiền, hám lợi mà gây ra bao điều xấu xa, tội lỗi. Tại sao “tiền bạc là người đầy tớ trung thành?”. Bằng lao động mà kiếm được tiền bạc, đó là tiền bạc trong sạch, là thứ tài sản chân chính. Người nông dân bán nông phẩm sau những ngày tháng dầm mưa dãi nắng: cán bộ, công nhân, thầy giáo, thầy thuốc được phát lương và nhận lương; nhà kinh doanh có tài làm ăn (theo khuôn khổ pháp luật) mà trở thành tỷ phú… có thể nói, đó là thứ tiền bạc, thứ tài sản “trong sạch”, chính đáng. Đồng tiền làm ra ấy lại dùng để mua bán. chi tiêu, dùng vào những nhu cầu thiết yếu của đời sống hằng ngày, biết chi tiêu hợp lí, tiết kiệm, biết dùng để san sẻ, cưu mang bà con nghèo khổ đóng góp vào quỹ tình thương, quỹ công ích… thi lúc đó “tiền bạc là người đầy tớ trung hành". Người chủ của những tiền bạc ấy là ông chủ chân chính; nhân ái tỏa sáng tâm hồn họ. Qua các cuộc vận động hiện nay như cứu trợ nạn nhân bị chất độc da cam, cứu giúp đồng bào vùng bị bão lụt, giúp bà con ở các vùng sâu, vùng xa, ta thấy bao gương tốt. người tốt, việc tốt xuất hiện. Các em nhỏ học lớp Một, lớp Hai… bớt tiền quà ủng hộ 1000 đồng, cụ già về hưu dành một số tiền nhỏ, cán bộ công nhãn viên ủng hộ một ngày lương ai cũng muốn được san sẻ cùng đồng loại, được chia ngọt sẻ bùi, được “lá lành đùm lá rách''. những trường hợp này, tiền bạc đã làm nổi bật tâm đức, làm sáng tỏ tình người, thể hiện đạo lí “thương người như thể thương thân”. Tiền bạc có một sức mạnh ghê gớm. “Có tiền mua tiên cũng dược”, “Đồng tiền là Tiên, là Phật, là sức bật lò xo…” – đó là những câu thường được nhiều người nhắc lại. Tại sao, có khi, có nơi, có người tiền bạc lại trở thành “người chủ xấu”. Con người ta rất dễ bị đồng tiền lung lạc. Khi người ta trở thành nô lệ của tiền bạc, bị đồng tiền sai khiến, dùng đồng tiền vào những chuyện bất lương, thì lúc đó tiều bạc đã trớ thành “người chủ xấu” rất đáng sợ. Con người lúc ấy sẽ bị đồng tiền sai khiến, hành hạ. Trong xã hội. ta thấy nhan nhản đó đây bao kẻ làm đầy tớ cho “ông chủ xấu” đồng tiền. Có kẻ ăn tiêu xả láng “quen thói bốc rời” như chàng Thúc Sinh trong Truyện Kiều. Có hàng trăm nam nữ thanh niên ăn chơi sa đọa, dùng thuốc lắc, nhảy múa trong vũ trường bị công an “tóm” đưa về đồn. Có nhiều vị “quan to’’ dấn thân vào con đường “làm ăn" bất chính, chỉ một chữ kí, một cái “gật đầu” mà thu về hàng ti bạc, hàng triệu đô… rồi rơi vào vòng lao lí, tù tội! Cái giá “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng” từng được báo chí “bôi danh”. Khi tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thì tiền bạc quả là đã trở thành “ông chủ xấu’ của không ít vị quan tham bụng phệ! Ta thấy và khinh bỉ bao kẻ mồm thì tụng câu “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" một cách lem lém, nhưng trong bóng tối, trong hậu trường lại đếm đô la một cách thoăn thoắt, tài tình. Tiền bạc -“ông chủ xấu” đã biến họ thành kẻ “mọt dân”, kẻ đạo đức giả. Có kẻ vì quá nghèo khổ mà trở thành nô lệ đồng tiền, thật đáng thương. Có kẻ vì quá tham lam mà cướp của, giết người! Vì tiền bạc mà vợ chồng phải li dị. Vì tiền bạc mà có đứa con giết bố mẹ, đứa cháu giết ông bà, đứa anh giết em, đứa em giết chị, gâv ra bao vụ án mạng rùng rợn. Những kẻ lừa thầy phản bạn, các vụ việc như chạy chức, chạy quyền, chạy khen thưởng, chạy điểm, mua bằng cấp, bán học hàm, học vị (giáo sư rởm, tiến sĩ rởm) đều do “ông chú xấu" là tiền bạc gây ra! “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mô”; "Tiền tài hai chữ son khuyên ngược! Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”; “còn bạc, còn tiền, còn đệ tử/ Hết xôi, hết rượu, hết ông tôi": “có tiền việc ấy mà xong nhỉ/ Đời trước làm quan cũng thế a?”; “‘Nén bạc đâm toạc tờ giấy”… đó là những câu thơ, câu tục ngữ mà nhiều người dã biết nói về “mặt trái” của đồng tiền, châm biếm tiền bạc là “ỏng ch ủ xâu Sống ở đời, ai cũng muốn được giàu sang phú quý, ai cũng hiểu “vạn khổ bất như bần”. Giữa thời kinh tế thị trường, kinh doanh làm giàu đã và đang được luật pháp và xã hội khuyến khích, nhiều nông dân triệu phú, nhiều nhà kinh doanh trẻ có nhiều triệu đô xuất hiện trên mọi miền đất nước. Hãy học giói, bước vào đời, đem tài năng thi thố với thiên hạ và làm giàu để góp phần làm cho đất nước hùng cường thịnh vượng. Câu tục ngữ của người Pháp được bàn tới ở đây là bài học sâu sắc, nó nhắc nhở mỗi chúng ta biết sống đẹp, biết lao động làm giàu, được sống sung sướng hạnh phúc. Giàu tiền bạc mà lương thiện, nhân ái. Giàu tiền bạc mà không bao giờ tham lam để“hoàng kim hắc nhân tâm". Bình luận câu tục ngữ Pháp: Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu – Bài làm 2 Sống ở đời có biết bao người trọng tình nghĩa, xem tiền bạc là vật ngoài thân, là công cụ tầm thường. tuy nhiên không ai phủ nhận vai trò của tiền bạc. Từ khi xuất hiện nó được xem là vật ngang giá chung, mang lại thuận tiện cho việc trao đổi, mua bán. Nó thúc đẩy kinh tế, thúc đẩy ngoại thương của mỗi quốc gia phát triển. Nhưng cũng chính bởi vai trò to lớn ấy mà trong xã hội có nhiều kẻ bị cuốn hút vì tiền mà sẵn sàng chà đạp lên tất cả: tình thương, trách nhiệm…. Khái quát về vai trò, vị trí của đồng tiền trong xã hội, tục ngữ Pháp có câu : "Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu". Câu tục ngữ trên đúng với mọi người với mọi thời kì, đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay. theo nghĩa thông thường "tớ" là người hầu hạ, phục dịch, "chủ" là người nắm quyền, điều khiển, sai khiến. Khi "tiền bạc là người tớ tốt" chính là lúc con người ta làm chủ được đồng tiền, sử dụng nó vào mục đích tốt. Còn lúc đồng tiền lên làm chủ thì con người bị điều khiển, bị chi phối bởi đồng tiefn. Qua vài chữ tuy rất ngắn nhưng câu tục ngữ mang ý nghĩa sâu săc. Nó khuyên răn con người phải biết làm chủ, không nên nô lệ bởi đồng tiền. Trong bất kì xã hội nào, đồng tiền cũng có một giá trị to lớn. Nó giúp con người thuận lợi trong trao đổi mua bán hàng ngày. Thứ lật lại lịch sử xem, nếu không có cái ngày mà con người phát minh ra đồng tiền thì chắc chắn xã hội sẽ không phát triển như ngày hôm nay và không ai có thể tưởng tượng ra nổi cảnh mua bán diễn ra như thế nào? Đổi lúa lấy vải như ngày xửa ngày xưa chăng? Chính bởi cái giá trị to lớn của đồng tiền trong cuộc sống như thế nên hằng ngày biết bao con người làm việc cật lực, thậm chí bất chấp nguy hiểm để kiếm ra tiền. Có thể vì cuộc sống mưu sinh gia đình, thương lũ con gầy đói rách rưới mà bác nông dân vất vả một nắng hai sương trên cánh đồng; dù nắng gắt hay mưa lạnh thì những tấm thân gầy guộc ấy vẫn cam chịu chỉ mong kiếm thêm bát cơm. Có thể vì muốn thoát nghèo, hướng đến tương lai tốt đẹp hơn mà bao học sinh nỗ lực, thức khuya dạy sớm, ngày đêm học tập. Và có thể trong tâm thức họ vẫn văng vẳng lời căn dặn giản dị của người cha : "Nghề nông mình khổ lắm con à ! Chỉ có con đường học tập mới giúp con thoát khỏi cái nghèo truyền kiếp mà đời ông, đời cha, đời chú phải gánh chịu",…. Ngoài ra, đơn giản chỉ vì họ quan niệm "có tiền là có tất cả" mà họ bỏ công sức ra lao động. Nếu không có giá trị lớn thì chắc chắn đồng tiền không cần được bảo quản cẩn thận. Và chắc chắn các ngân hàng cũng đâu cần bảo vệ, canh giữ. Nhưng không phải vì có giá trị mà đồng tiền luôn mang lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Tùy vào mỗi cá nhân người sử dụng mà đồng tiền tốt hay xấy. Nó chỉ thực sự đúng là "đồng tiền" khi ở trong tay một con người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Hay nói cách khác nó chỉ là nó theo đúng nghĩa khi nó là đầy tớ cho một người tốt. Đồng tiền giúp con người trang trải cuộc sống mưu sinh hằng ngày cho gia đình. Trong mọi xã hội đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, đồng tiền càng có vai trò to lớn. Dù biết rằng tiền bạc chỉ là công cụ mưu sinh cho con người nhưng khong thể sống tốt nếu thiếu nó. Tiền bạc giúp con người thỏa mãn nhu cầu vật chất lẫn tinh thần. Tiền bạc đôi khi còn là con số đại diện cho tấm lòng cao cả, cho mục đích tương thân tương ái. Hằng năm con người phải gánh chịu bao thiên tai: lũ lụt, hạn hán, núi lửa, động đất….. Nếu trong lúc khó khăn ấy không có đồng tiền trợ giúp, ủng hộ thì chắc chắn ít mấy ai sống nổi. Ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân làm từ thiện xuất hiện chính là để đưa đồng tiền tương thân tương ái của đồng bào mình đến tay những con người thực sự cần nó. những đồng vốn hỗ trợ cho vay ấy đã giúp bao người dân xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống. những đứa trẻ nghèo mạnh dạn bước chân đến trường, những cô cậu sinh viên tự tin hơn trong giảng đường đại học bởi họ được các tổ chức, cơ quan nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện. Có tiền, chàng Từ Hải mới cứu được nàng Kiều ra khỏi lầu xanh và giúp nàng báo ân báo oán. Có tiền con người ta mới có thể có đủ điều kiện để đảm bảo cuộc sống của con người về vật chất lẫn tinh thần. Dùng tiền đúng lúc, đúng chỗ cho những mục đích tốt đẹp thì nó thực sự là người tớ tốt. Nó phục vụ cho con người, mang lại hạnh phúc cho cá nhân, gia đình, tạo hòa bình, ổn định cho cộng đồng xã hội. như vậy vai trò của đồng tiền trong cuộc sống là không thể phủ nhận. Nhưng cũng vì sức mạnh to lớn trong đời sống mà đồng tiền đã tạo nên một ma lực đáng sợ đối với con người, đặc biệt với những kẻ tham lam. Nhiều người lười lao động, lại còn tham lam, sẵn sàng làm mọi việc phi pháp để hái ra số tiền lớn một cách nhanh nhất. Nào là trộm cắp, buôn lậu, mại dâm, ma túy,…. chúng không từ một hành vi nào. Vì đồng tiền chúng nhẫn tâm gieo rắc cái chết trắng cho nhân loại. "Thói tham chợt thấy hơi đồng là mê" đã gây dựng ở kẻ tham thói ích kỉ "khổng lồ" và lòng nhẫn tâm "vô độ", biến con người thành kẻ bất lương. Những kẻ rủng rỉnh túi tiền thì ăn chơi đua đòi làm phát sinh bao tệ nạn xã hội. Ngày xưa thì quan trên, quan dưới, quan cha, quan con ăn chơi sa đọa, làm càng làm bậy. Ngày nay những cậu ấm cô chiêu được nâng niu chiều chuộng đâm ra hư hỏng. Từ những cuộc tụ tập bạn bè thâu đếm suốt sáng đến ma túy, thuốc lắc, đua xe, quậy phá là khoảng cách ngắn nhất, không ai có thể lường trước được hậu quả. Rồi nhiều kẻ đã có chức, có quyền, có tiền mà vẫn hám tiền, bao nhiêu cũng không đủ cho vào túi tham lam không đáy của chúng. Trong văn học có biết bao Nghị Hách, Nghị Quế… giàu có mà vẫn đè đầu cưỡi cổ dân lành để móc tiền. Đến cả quan như lão Huyện Hinh mà cũng lấy chân giấu đi, cướp trắng trợn đồng hào của bà lão đi kiện thì thật đáng sợ. Ngày nay cách moi tiền của các quan cao chức lớn không phải không có mà rất kín đáo, chúng ăn chặn tiền bằng những thủ đoạn rất tinh vi. Kê khai khống, làm giấy tờ giả, có gì khó. Thậm chí cả quan cửa khẩu, kiểm lâm mà cũng buôn lậu…. Ma lực của đồng tiền quá lớn đã kéo biết bao con người vào vòng xoáy của nó : Nhiều lúc, tiền bạc còn là thước đo tình cảm con người : "Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi". (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Chỉ vì tranh giành của cải mà anh em bất hòa. Chỉ vì thiếu thốn vợ chồng lục đục, sinh cãi vã dẫn đến li hôn. Nếu như không sống trong xã hội không bị đồng tiền ngự trị, chắc chắn lão Gô-ri-ô sẽ có một đám tang tốt hơn, không phải chịu cảnh không người thân, không họ hàng. Chính sức cuốn hút quá lớn của đồng tiền mà nhiều người bị mê hoặc, bị nô lệ. Đồng tiền trở thành ông chủ sai khiến con người làm điều tội lỗi. Tóm lại, tiền bạc có vai trò quan trọng đối với cuộc sống, có sức cuốn hút lớn đối với con người và không phải ai cũng làm chủ được mình trước sức hút mãnh liệt của vòng xoáy ấy. Những con người liêm chính, chí công vô tư thì sẽ không bao giờ vấp ngã trước đồng tiền. Nhưng để trở thành những con người như vậy thì mỗi cá nhân phải cố gắng phấn đấu, tu dưỡng đạo đức. Đồng tiền như con dao hai lưỡi nhưng để tránh được mặt sắc nhọn nguy hiểm thì phải từ con người mà ra. Hãy làm chủ đồng tiền, đừng để nó làm chủ mình.
Bình luận câu tục ngữ Pháp_ Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu – Văn mẫu lớp 12
2,846
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Bài làm 2 3 Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Bài làm 3 Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu tục ngữ nêu lên những kinh nghiệm trong việc đánh giá nhìn nhận con người thông qua cách nhìn nhận, đánh giá một sự vật, một đồ vật cụ thể. “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” là một câu tục ngữ thuộc loại trên. Nó vừa đúng cả nghĩa đen, vừa đúng cả nghĩa bóng. Vì trước hết nó nêu lên một kinh nghiệm để nhìn nhận về chất lượng một đồ vật bằng gỗ mà ta dùng thường ngày. Đồ vật bằng gỗ đó được sơn một lớp sơn hào nhoáng, nhìn mặt ngoài ta thấy nó đẹp nhưng thực chất gỗ của nó ra sao thì ta chưa biết được. “Nước sơn” chính là mặt ngoài, mặt trang trí, tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn về hình thức. Nhưng “nước sơn” cũng có thể che giấu đi cái chất gỗ tạp bên trong. Gỗ là nguyên liệu làm nên đồ vật. Nếu gỗ không tốt, thì các đồ vật ta dùng cũng chóng hỏng. Khi đó “nước sơn” cũng không thể cứu nỗi sự hỏng nát của các đồ vật. Một con người cũng vậy, tư tưởng, đạo đức, cái quyết định không phải là hình thức bên ngoài mà là phẩm chất tư tưởng, đạo đức của người đó. Hình thức bên ngoài: Đẹp hay xấu, giảm dị hay diêm dúa… ta dễ nhận ran gay, qua một cái nhìn nhưng còn phẩm chất bên trong, người đó nhân hậu hay ích kỉ, cao cả hay thấp hèn, trung thực hay giả đối… thì phải sống lâu với nhau mà biết được. Mà đã là con người thì cuộc sống tồn tại chủ yếu là thông qua các mối quan hệ giữa người với người. Trong các mối quan hệ này, muốn sống lâu dài với nhau được, quả thực con người phải tôn trọng nhau, yêu thương nhau… Không thể sớm nắng, chiều mưa! Thực tế có những người, son phấn lòe loẹt chưng diện hết mốt này đến mốt khác,nói năm xem ra cũng nhẹ nhàng, quyến rũ… nhưng tiếp xúc và gần gũi một thời gian ta sẽ thấy họ thuộc loại ăn xổi, ở thì, lừa thầy, dối bạn, coi thường cả bố mẹ. Tuy rằng nội dung, phẩm chất là cái quyết định nhưng cũng không thể xem thường hình thức bên ngoài. Bởi hình thức là cái đập vào mắt ta trước tiên. Mà con mắt của ai thì cũng thích nhìn cái đẹp, một phong cách đẹp, một khuôn mặt đẹp, một bộ quần áo đẹp… ai mà chả thích ngắm! Thực ra câu tục ngữ trên không hề có ý xem nhẹ hình thức mà chú yếu là so sánh giữa nội dung và hình thức để thấy nội dung quan trọng hơn hình thức. Điều đó là đúng. Nhưng hình thức cũng hết sức quan trọng. Hình thức góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp của nội dung. Gỗ tốt không mối mọt, có độ bền lâu, nhưng lại đánh bóng, sơn mài, thì lại vừa tốt, vừa đẹp chứ sao? Con người cũng vậy, vừa có phẩm chất tốt, lại vừa có vẻ đẹp của hình thức bên ngoài, từ cái dáng hình đến nụ cười, giọng nói, từ cử chỉ đến cách ăn mặc, đi đứng… thì ai mà chẳng thích sống gần, thích làm bạn với nhau? Chính vì vậy mà bên cạnh câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” lại có câu “Cái răng, cái tóc là gốc con người”. Hơn nữa trong cuộc sống của con người có những hiện tượng rất khó tách bạch đâu là nội dung, đâu là hình thức, bởi lẽ ở đó hình thức và nội dung, cả hai cái đều quan trọng cả. Một lời nói nhẹ nhàng trước một sai lầm của bạn, giọng nói chưa phải là nội dung của câu nói nhưng quả thật nó cũng phản ánh một thái độ, một phương pháp, một cách xử thế… đó không phải là nội dung thì là gì nữa? Tóm lại, nội dung và hình thức, cái bên ngoài và cái bên trong thống nhất, có quan hệ chặt chẽ và liên hệ với nhau. Nội dung quyết định giá trị và hình thức góp phần nâng cao giá trị của nội dung. Khi muốn xem một con người, ta phải xem xét cả hai mặt: Nội dung và hình thức. Trong cuộc sống của mỗi con người, ai cũng có thể rèn luyện để cho phẩm chất của mình ngày càng tốt hơn và ai cũng có thể làm đẹp thêm hình thức bên ngoài của mình từ cách ăn mặc đến giao tiếp để góp phần làm cho xã hội thêm văn minh, lịch thiệp. “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”là một lời khuyên của cha ông ta, luôn đúng cho mọi thế hệ. Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Bài làm 2 Từ thực tế cuộc sống vất vả, gian nan và đầy thử thách, nhân dân ta đã rút ra cách đánh giá, nhìn nhận sự vật và con người. Người xưa thường Ăn lấy chắc, mặc lấy bền và coi trọng phẩm chất bên trong hơn là hình thức bên ngoài. Điều đó thể hiện qua câu tục ngữ: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Quan điểm đấy đúng hay không đúng? Trong hoàn cảnh ngày nay, nó có còn giữ nguyên giá trị hay không? Chúng ta hãy thử cùng nhau bình luận. Tất cả các sự vật đều có hai mặt: nội dung và hình thức. Mặt nội dung còn gọi là chất lượng của sản phẩm thường được đánh giá cao. Thực tế cho thấy các đồ vật (giường, tủ, bàn ghế,… ) làm bằng gỗ tốt, gỗ quý có thời gian sử dụng rất lâu dài và càng về sau càng đẹp. Người ta chỉ cần bào nhẵn rồi đánh bóng chúng bằng một lớp véc-ni là đủ. Trong khi đó, những đồ dùng bằng gỗ xấu, gỗ tạp bên ngoài lại hay được sơn phết hào nhoáng. Dù có đẹp đến đâu chăng nữa thì chúng cũng rất mau hỏng. Vì thế cho nên mọi người chuộng tốt, chuộng bền mà coi nhẹ hình thức của đồ vật. Nghĩa đen của câu tục ngữ trên là như vậy. Nhưng cũng như bao câu tục ngữ khác, câu Tốt gỗ hơn tốt nước sơn còn hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc hơn. Đó là lời khuyên thiết thực, đúng đắn về cách nhìn nhận, đánh giá con người. Chúng ta thấy rõ tính nhất quán trong việc khẳng định sự hơn hẳn của nội dung bên trong so với hình thức bên ngoài. Lời khuyên này rất đúng vì nó được đúc kết từ kinh nghiệm sống của nhiều thế hệ. Đánh giá một con người cần phải trải qua thời gian khá dài, không thể chủ quan, hồ đồ, rất dễ dẫn đến sai lầm, thậm chí gây nên những hậu quả tai hại khó lường. Tại sao người xưa cho rằng nội dung bên trong (phẩm chất tốt) hơn hẳn hình thức bên ngoài? Điều mà ai cũng phải thừa nhận là người có đạo đức tốt, trình độ hiểu biết sâu rộng, năng lực làm việc cao sẽ làm được nhiều việc hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngược lại, không có được những phẩm chất tốt đẹp ấy thì khó có thể thành công trên đường đời, cho dù con người ấy hình thức bên ngoài có hào nhoáng, đẹp đẽ đến đâu chăng nữa. Người xưa đã dùng cách gọi hàm ý châm biếm những kẻ chỉ có hình thức bên ngoài, hay dùng hình thức bên ngoài để lừa bịp người khác, để che giấu những xấu xa, khuyết điểm bên trong… là loại Tốt mã giẻ cùi , nói thẳng ra là vô dụng, chẳng có giá trị gì. Trên cơ sở quan điểm của người xưa, ngày nay chúng ta nên đánh giá con người như thế nào cho đúng? Chúng ta đều biết là giữa nội dung và hình thức có mối tương quan với nhau. Nội dung quyết định hình thức, hình thức làm tăng thêm giá trị cho nội dung. Vì vậy, khi nhận xét đánh giá về một người nào đó, chúng ta hãy bình tĩnh, sáng suốt tìm hiểu, phân tích để có được những kết luận đúng đắn và chính xác nhất. Thống nhất với quan điểm của người xưa, chúng ta vẫn lấy phẩm chất (đạo đức, tài năng,… ) làm tiêu chuẩn cơ bản, làm thước đo giá trị con người. Hãy căn cứ vào chất lượng và mục đích của công việc mà đánh giá người tốt, kẻ xấu và hãy đặt người ấy vào mối quan hệ với gia đình, nhà trường, xã hội. Người tốt là người có lương tâm và trách nhiệm với bản thân, với mọi người. Chú trọng nội dung nhưng chúng ta cũng không nên xem nhẹ hình thức, bởi hình thức phần nào phản ảnh nội dung. Xưa nay, các bậc vĩ nhân, các nhà bác học… thường rất giản dị. Giản dị nhưng nghiêm túc và tôn trọng mình, tôn trọng người khác. Trái lại, những kể thích phô trương hình thức thì bên trong lại hời hợt và trống rỗng. Nếu kết hợp được một cách hài hòa giữa nội dung và hình thức, tất nhiên giá trị con người sẽ tăng lên rất nhiều. Tuy câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn xuất hiện đã khá lâu nhưng cho đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị. Câu tục ngữ là một lời khuyên sáng suốt, thiết thực trong cách đánh giá sự vật và con người trong mọi hoàn cảnh, đồng thời đó cũng là lời cảnh tỉnh đối với những ai chỉ chạy theo hình thức hào nhoáng bên ngoài mà quên đi phẩm chất tốt đẹp- yếu tố cơ bản tạo nên giá trị đích thực của một con người. Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Bài làm 3 Trong cuộc sống, đôi lúc ta chỉ nhìn hình thức bên ngoài của một người mà đánh giá họ. Và điều đó là không đúng. Giá trị của một người không được đánh giá bởi hình thức bên ngoài mà được đánh giá bằng nội dung bản chất bên trong người đó. Vì vậy ông bà ta ngày xưa có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Câu này tuy ngắn ngọn nhưng nó mang ý nghĩa rất sâu sắc và là một kinh nghiệm sống quý báu mà ông bà ta để lại. “Gỗ “là chất liệu để đóng bàn, ghế, tủ quần áo.”Nước Sơn” là dụng cụ để quét lên cho bàn ghế đẹp hơn, bền hơn. Tuy nghĩa đen là thế nhưng thật chất ý nghĩa sâu sắc của nó là khuyên người ta không nên nhìn hình thức bên ngoài mà đánh giá phẩm chất thật sự của một con người. Khi đánh giá một vật ta không nên nhìn hình thức của nó mà hãy xem chất lượng của nó. Nhiều người khi đi mua bàn ghế chỉ lo nhìn bề ngoài thấy đẹp là mua nhưng không biết đằng sau hình thức đẹp đẽ đó là một thứ gỗ mục nát. Một sản phẩm tuy bề ngoài không đẹp nhưng chất lượng thì đem về rất hữu dụng và còn xài được bền nữa. Vì vậy chất lượng là cái quan trọng nhất. Trong cuộc sống ta cũng vậy, không ai hoàn chỉnh về cả hình thức và nội dung. Có những người bề ngoài bảnh bao nhưng suốt ngày chỉ biết đi lừa bịp người khác. Có những người nhìn vẻ ngoài tầm thường nhưng bên trong lại là một người hiểu biết, thông minh. Một người con gái đẹp nhưng nói năng vô lễ không tôn trọng ai thì chỉ bị người ta khinh thường. Còn một người bình thường nhưng nói năng lễ phép, thông minh tài giỏi thì vẫn được người đời kính trọng. Khi đánh giá một con người chúng ta phải dựa trên đạo đức và tại năng của người đó vì đó là cái giá trị thật sự của một con người.Nhưng trong thực tế đôi khi hình thức và nội dung đi chung thì rất là đẹp. Một món hàng vừa đẹp vừa chất lượng thì ai nhìn cũng thích. Một người ăn mặc lịch sự nói năng lịch, thông minh tài giỏi thì ai nhìn vào cũng mến. Do đó cái đẹp lý tưởng chính là khi có cả nội dung và hình thức. Trong cuộc sống còn nhiều người chỉ xem trọng vẻ bề ngoài mà quên đi cái nội dung bên trong. Những người này thật đáng phê phán. Khi họ làm vậy một ngày nào đó họ sẽ thấy cái hại của nó. Vì vậy ngay từ bây giờ mỗi học sinh chúng ta phải rèn luyện đạo đức và phẫm chất thật tốt để. Phải luôn ghi nhớ những điều tốt. Tóm lại câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn “muốn khuyên ta không được đánh giá người khác chỉ bằng hình thức bên ngoài mà còn phải xem xét nội dung – phẩm chất, tài năng của người đó vì đó là giá trị chân chính của một con người. Và chúng ta phải sống bằng chính thực lực của mình không được lừa dối, giả tạo với mọi người.
Bình luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Văn mẫu lớp 7
2,342
Tục ngữ, thành ngữ là kho tàng kinh nghiệm quý giá mà người xưa để lại cho chúng ta. Câu tục ngữ tiêu biểu nói về kinh nghiệm ứng xử ở đời được nhiều người biết đến là câu: Một điều nhịn, chín điều lành. Trong câu tục ngữ trên có hai khái niệm là nhịn và lành. Nhịn là đức tính nhẫn nại, nhún nhường, luôn giữ hòa khí trong giao tiếp, ứng xử. Lành là kết quả tốt đẹp, thỏa đáng, đúng như mong muốn. Bằng cách so sánh cường điệu: một điều với chín điều, câu tục ngữ nhấn mạnh hiệu quả mà con người đạt được khi biết giữ thái độ nhường nhịn, ôn hòa trong cuộc sống. Tại sao một điều nhịn lại bằng chín điều lành? Xưa nay, cuộc sống bao giờ cũng đa dạng và phức tạp. Con người không sống đơn lẻ mà sống trong cộng đồng, tập thể, với rất nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Cuộc sống luôn vận động đi lên là động lực lôi cuốn con người, mà con người lại là chủ thể của cuộc sống nên cần phải đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Muốn vậy, con người phải đoàn kết, hợp tác với nhau, cần xác định được mâu thuẫn nào là cơ bản, là chủ yếu, để tìm ra cách giải quyết tốt nhất, tránh rạn vỡ, tổn thất. Như vậy, nhịn vừa là cách sống, phẩm chất sống, vừa là phương pháp ứng xử quan trọng ở đời. Vậy đối tượng nhịn là những ai và cần nhịn như thế nào? Có nhiều tình huống, nhiều mối quan hệ đa dạng đang diễn ra hằng ngày mà chúng ta là người trong cuộc. Trước hết là trong tình cảm vợ chồng – mối quan hệ gắn bó keo sơn kể từ khi hẹn hò thề thốt cho đến khi đầu bạc răng long. Bản chất cuộc sống là luôn luôn mâu thuẫn bởi nó vừa thống nhất, vừa đối lập cho nên chuyện xích mích là thường tình, tự nhiên. Nhưng khi vợ chồng không đồng quan điểm thì chúng ta nên ứng xử theo phương châm: Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào khê. Khi chồng say rượu to tiếng thì vợ nên nói năng nhẹ nhàng hoặc im lặng. Khi vợ cáu gắt, kêu ca việc nhà việc cửa thì chồng nên an ủi, động viên để không khí gia đình trở lại ấm êm. Mở rộng ra ngoài xã hội, mỗi người đều có những mối quan hệ với bạn bè đồng nghiệp, đồng chí, với người cao tuổi, cấp lãnh đạo v.v… Bạn bè không cho ta tiền bạc, vật chất mà cho ta lời khuyên nhủ, sự chia sẻ… Giàu vì bạn là vậy. Nhờ bạn bè, ta có thể vượt lên trong những hoàn cảnh khó khăn, trắc trở. Đồng nghiệp là những người cùng hội cùng thuyền. Chúng ta nên lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp và luôn giữ thái độ hòa nhã khi đối thoại, tránh đối đầu để tăng cường sức mạnh tập thể nhằm thực hiện mục đích và lí tưởng chung. Sử sách còn lưu truyền giai thoại về hai vị anh hùng dân tộc thời Trần là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và Thái sư Trần Quang Khải. Vốn có hiềm khích về quyền lợi trong dòng tộc, nhưng Trần Hưng Đạo đã vì vận mệnh của đất nước mà khéo léo giãi bày tâm sự với Trần Quang Khải, ông đã đích thân ân cần múc nước tắm cho Thái sư để bày tỏ thành tâm thiện ý của mình. Hai vị danh tướng đã biết đặt cái chung lên trên cái riêng, cùng chỉ huy quân dân nhà Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông! Nguyễn Trãi sau khi giúp Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, lập nên nghiệp lớn, đã dốc hết tài đức phò vua xây dựng đất nước. Nhưng khi triều đình của vua Lê Thái Tổ bị bọn gian thần, quyền thần thao túng, khuynh đảo thì Nguyễn Trãi đã lui về ở ẩn tại Côn Sơn để giữ trọn khí tiết và lòng trung hiếu với sơn hà, xã tắc. Còn đối với kẻ thù, chúng ta nên ứng xử như thế nào cho đúng? Đó là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải có thái độ mềm mỏng, khôn khéo, linh hoạt và sáng suốt. Mối quan hệ với kẻ thù là mối quan hệ đối đầu, vì vậy trong đấu tranh chúng ta phải kiên quyết giữ vững lập trường, không khoan nhượng; nhưng về phương pháp đấu tranh thì tiến thoái, cương nhu uyển chuyển. Khi quân địch mạnh hơn hẳn, chúng ta nên tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng và làm cho kẻ địch chủ quan; đôi khi, phải nhẫn nhục, cam chịu để giữ gìn bí mật và tìm cách đối phó. Ngày xưa, các thế hệ tiền bối thường có cách ứng xử khôn ngoan với kẻ thù phương Bắc để giữ tình giao hảo, tránh họa binh đao, xây dựng nền hòa bình lâu dài cho đất nước. Ở thời đại ngày nay, sự hội nhập toàn cầu và nền kinh tế thị trường muôn màu muôn vẻ nhiều khi gây nên những áp lực lớn làm cho con người dễ bị ức chế, bức xúc. Thái độ bàng quan, vô cảm của quan chức; thói quan liêu, hách dịch của lãnh đạo dễ gây ra những phản ứng tức thời, thậm chí dẫn đến xung đột đáng tiếc. Những lúc đó đòi hỏi chúng ta phải biết bình tĩnh kiềm chế, không nên có thái độ, hành động tỏ ra đối đầu bởi nó sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường. Giữa nhịp điệu sống dồn dập, hối hả, con người càng phải biết trở về với văn hóa truyền thống, cần học tập những giá trị tinh thần quý báu được gửi gắm trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ. Câu tục ngữ: Một điều nhịn, chín điều lành ngắn gọn mà hàm súc. Đó là triết lí sống, là phương châm ứng xử khôn ngoan không chỉ cho mỗi người mà còn vận dụng cho cả cộng đồng dân tộc. Nó không những nhắc nhở về cách ứng xử tế nhị mà còn dạy chúng ta phương pháp đấu tranh khôn khéo và có hiệu quả nhất để đạt được mục đích của mình.
Bình luận câu tục ngữ _ Một điều nhịn, chín điều lành_
1,097
Bình luận câu tục ngữ: Anh em khinh trước, làng nước khinh sau – Văn mẫu lớp 12 Trong dân gian vẫn lưu truyền nhiều câu tục ngữ nói về khen chê, khinh trọng. Mỗi câu tục ngữ là một bài học sâu sắc có tác dụng giáo dục đối với bất cứ ai, nhất là lớp người trẻ tuổi trong xã hội. Câu tục ngữ sau đây, nhiều người vẫn nhớ, vẫn nhắc: Anh em khinh trước, làng nước khinh sau. Khinh là sự đánh giá và chê bai, coi thường. Chữ khinh thường gắn liền với các từ ngữ: khinh thường, khinh bỉ, coi khinh… Một kẻ nào đó, nhân cách lèm nhèm, có việc làm xấu xa, thối nát… sẽ bị mọi người coi khinh và xa lánh. Trong gia đình. con cháu bất hiếu, vợ chồng bất hòa, anh em lục đục, sẽ bị mọi người trong nhà, trong gia tộc “khinh trước”. Một kẻ mà đã bị “anh em khinh trước” là kẻ vô cùng suy đôn; từ cử chỉ thái độ đến hành động, việc làm đều xấu xa, đồi bại, phương hại đến đạo lí, nếp nhà, hành động, việc làm đều xấu xa, đồi bại, phương hại đến đạo lí, nếp nhà, đến gia phong. Những kẻ cờ bạc rượu chè, nhác làm siêng ăn, tham lam, tục tằn… sẻ bị “anh em khinh trước”. Và khi đã bị “anh em khinh trước” thì con người ấy không còn chỗ đứng trong xóm dưới làng trên, trong làng ngoài xã nữa. Khi đã bị “làng nước khinh sau" thì con người ấy còn dám vác mặt đi đâu nữa. Chỉ còn cúi gầm mặt mà đi. Mọi quan hệ hàng xóm láng giềng chẳng còn gì nữa. Mọi người đều “sợ” và xa lánh. Kẻ bị làng nước coi khinh sẽ sống trong cô độc, tủi nhục, làm hại đến danh dự chồng con, vợ con; làm nhục ông bà, cha mẹ, anh em. “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau”, câu tục ngữ nghĩ có tám chữ, điệp lại hai lần chữ “khinh” đã nói lên một cách cô đúc sức mạnh của gia phong, của lệ làng. Câu tục ngữ nêu bật sức mạnh tính giáo dục đạo đức của gia đình và làng xã; chỉ cần nghe ông bà, cha mẹ nhắc lại một lần là con cháu nhớ mãi. Nhờ đó mà nếp nhà được giữ gìn, gia phong được đề cao, thuần phong mĩ tục được phát triển. Kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam có nhiều câu nêu bật sự khinh trọng, khen chê của cộng đồng đối với một con người nào, nhất là đối với những kẻ sa sút, sa đọa, tha hóa. “Bia miệng” thế gian thật đáng sợ. – Hôm kia kẻ đón người đưa. Bây chừ đi sớm về trưa một mình. – Ngày xưa võng lọng nghênh ngang, Bây giờ cúi mặt mo nang che đầu. Xây dựng nền đạo đức mới, xây dựng gia đình văn hóa, thiết nghĩ câu tục ngữ “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau” có tác dụng gấp nhiều lần những bài luận thuyết dài dòng.
Bình luận câu tục ngữ_ Anh em khinh trước, làng nước khinh sau – Văn mẫu lớp 12
520
Câu tục ngữ "Chết trong hơn sống đục" từ lâu đã thành lẽ sống gắn liền với phẩm chất dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, khi xã hội đã có nhiều thay đổi, có những giá trị cũ đảo lộn thì câu tục ngữ ấy vẫn luôn luôn đúng! Trước hết, câu tục ngữ này hướng chúng ta đến một cách sống biết tự trọng của con người có nhân cách, qua lối so sánh nhằm khẳng định một sự lựa chọn dứt khoát. "Chết trong" là dám chấp nhận đánh đổi cả mạng sống của mình để giữ lòng thiện,không thay đổi chí hướng, trọng danh dự hơn mạng sống của bản thân. Còn "sống đục" là cách sống của loại người tiểu nhân bỉ ổi, sẵn sàng bán rẻ danh dự lương tâm để cầu mong vơ vét chút lợi lộc cho riêng mình. Quan niệm từ câu tục ngữ này có sự gặp gỡ với tinh thần: "Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục" của hạng người quân tử trong xã hội ngày xưa. Thực chất từ lối so sánh này ta có thể nhận ra mối quan hệ giữa danh – lợi, tinh thần – vật chất, có ý nghĩa to lớn, quan hệ đến sự sống – cái chết của con người. Thực tế trong lịch sử dân tộc cũng như trong các mối quan hệ của đời sống, chúng ta đã chứng kiến nhiều tấm gương sáng đã sống đúng theo tinh thần của cha ông đúc kết ngàn đời nay. Trần Bình Trọng "thà làm ma nước Nam hơn làm vương đất Bắc" đã sẵn sàng chấp nhận cái chết quyết không quỳ gối đầu hàng tướng giặc Thoát Hoan, bao anh hùng nghĩa sĩ hy sinh được Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" cũng sống đúng tinh thần "Thà chết mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu tiếng đầu Tây, ở với man di rất khổ". Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã có bao chiến sĩ kiên cường nêu gương hy sinh anh dũng, vượt qua sự cám dỗ vật chất của kẻ thù, một lòng kiên trung với cách mạng. Và lịch sử cũng ghi lại và phỉ nhổ bọn người bán nước cầu vinh như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Trong xã hội hiện đại dường như tìm một tấm gương sáng theo tinh thần "Chết trong hơn sống đục" khó hơn nhiều, bởi lẽ xung quanh có bao nhiêu sự quyến rũ của bả vinh hoa. Có những người kiên cường trong chiến đấu nhưng lại gục ngã giữa đời thường chỉ vì ham bổng lộc, quyền chức sẵn sàng hại người, thủ đoạn man trá để vơ vét cho đầy túi tham. Các hiện tượng tham nhũng hối lộ tham ô cũng như sự thoái hóa đạo đức trong đội ngũ công bộc của dân khiến cho những ai có lương tri đều cảm thấy nhức nhối. Tuy nhiên vẫn có những người dũng cảm dám đứng lên trực diện đấu tranh với kẻ xấu, cái ác, sẵn sàng chấp nhận trù dập để cho công lý thắng lợi, họ có thể là những con người bình thường vô danh nhưng đáng để chúng ta nể phục. Muốn sống đúng theo lẽ sống tốt đẹp này, chúng ta cũng cần tự nhìn nhận lại bản thân, điều chỉnh tu dưỡng chính mình, biết nhìn thẳng vào những sai lầm và rèn luyện bản lĩnh đấu tranh loại trừ cái xấu, không nể nang bao che, không a dua nịnh hót, không để bị cuốn vào vòng xoáy của lợi danh, tham quyền cố vị… Có như vậy, mỗi chúng ta mới thật sự trưởng thành, chiến thắng bản thân để hoàn thiện nhân cách. Câu tục ngữ "Chết trong hơn sống đục" là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta, là truyền thống tốt đẹp mà mỗi người cần trân trọng, gìn giữ và phát huy.
Bình luận câu tục ngữ_ Chết trong hơn sống đục
674
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ: Cái nết đánh chết cái đẹp – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Bình luận câu tục ngữ: Cái nết đánh chết cái đẹp – Bài làm 2 3 Bình luận câu tục ngữ: Cái nết đánh chết cái đẹp – Bài làm 3 Bình luận câu tục ngữ: Cái nết đánh chết cái đẹp – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Nói về nhan sắc và đức hạnh trong mối quan hệ của con người, nhân dân ta có câu tục ngữ: "Cái nết đánh chết cái đẹp". Chúng ta cần hiểu và quan niệm thế nào cho đúng về câu tục ngữ trên? Bằng hình thức nhân hóa, câu lục ngữ khẳng định "Cái nết đánh chết cái đẹp". "Cái nết" là tính nết, đức hạnh, tư tưởng, tình cảm của con người. "Nết" ở đây là nết xấu, tính xấu cho nên có thể "đánh chết" làm hại đến nhan sắc, cái đẹp hình thức bên ngoài cửa mỗi người. Câu tục ngữ bao hàm một nghĩa rộng, nó nêu lên một bài học, một nhận xét sấu sắc. Đạo đức là cái gốc của con người. Người vô đạo đức là con người không có nhân cách. Đức hạnh được coi trọng hơn nhan sắc. Nội dung là cơ bản, nội dung quyết định hình thức. Câu tục ngữ hoàn toàn đúng. Con người được biểu hiện ở hai mặt: tâm hồn và dung nhan. Dung nhan là ngoại hình, diện mạo, thể chất, nhan sắc,… Có người đẹp tâm hồn. Có người nhan sắc đẹp. Có người vừa đẹp nết vừa đẹp người. Con người dù có đẹp về nhan sắc, áo quần có sang trọng, trang điểm son phấn xinh tươi nhưng cái nết lại xấu, nghĩa là lười biếng, thô lỗ, tục tằn trong giao tiếp, ích kỉ, tham lam, bất hiếu với cha mẹ, bất nghĩa với nhân dân, v.v… thì tất sẽ bị mọi người cười chê, xa lánh. Sắc đẹp của hạng người ấy chẳng mang lại danh giá vì ác thay "Cái nết đánh chết cái đẹp". Ngược lại, nếu một người không có sắc đẹp nhưng lại có đạo đức tốt, nhan cách đẹp tất sẽ được mọi người yêu mến, tin cậy. Đồ vật cũng vậy, hình thức choáng lộn bên ngoài không thể nào che đậy được thực chất bên trong. Giá trị sử dụng của đồ vật là ở sự lâu bền, tiện lợi, tính hiệu quả của nó đối với cuộc sống của con người, đâu phải ở chỗ nước sơn, nước mạ bóng lộn. Qua đó ta càng thấy ý nghĩa sâu sắc của câu tục ngữ: "Cái nết đánh chết cái đẹp". Câu tục ngữ trên còn chứa đựng một triết lí sâu sắc: Nội dung quyết định hình thức, nội dung quan trọng hơn hình thức. Vì thế nhân dân ta mới có câu tục ngữ tương tự: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người" hoặc: "Tốt danh hơn lành áo" Điều đó nói lên đầu óc thực tế của con người Việt Nam. Nhân dân ta rất biết thưởng thức cái đẹp, nhưng nếu chỉ là cái đẹp bề ngoài mà nội dung không ra gì thì họ rất ghét, chẳng ưa chuộng gì. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu câu tục ngữ trên một cách biện chứng: trong "cái đẹp" đã bao hàm "cái nết", bao hàm tư tưởng, tình cảm, trí tuệ "đẹp" của con người Các cuộc thi hoa hậu ở nước ta trong những năm qua, những hoa hậu, á hậu, những hoa khôi "nổi danh tài sắc" Bắc Nam là những cô gái có hình thể đẹp, nhan sắc đẹp, trí tuệ và đức hạnh đẹp, tiêu biểu cho sắc đẹp Việt Nam: kiều diễm, duyên dáng. Vì thế, một thanh niên điển trai đức độ, một thiếu nữ sắc nước hương trời nết na … là mẫu người lí tưởng của xã hội. Cái nết, cái đẹp của người học sinh là vẻ đẹp hình thức và tâm hồn, là đức trí, thể, mĩ được biểu hiện ở gương mặt sáng ngời, thể lực tốt, chăm học, chăm làm ngoan ngoãn, Lễ phép, biết kính thầy mến bạn, giàu tình thương và nhiều mơ ước. Tâm hồn đẹp, trí tuệ đẹp, nhan sắc đẹp là cái đẹp hoàn thiện đáng yêu và trân trọng. Câu tục ngữ "Cái nết đánh chết cái đẹp" cho ta một bài học sâu sắc về trau dồi đạo đức, nhân cách. Nó chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. Gia đình ta, mái trường ta, đất nước ta cần có nhiều người đẹp như Bác Hồ đã nói: "Mỗi người tổt là một bông hoa đẹp. Đất nước ta là cả một vườn hoa đẹp". Bình luận câu tục ngữ: Cái nết đánh chết cái đẹp – Bài làm 2 Từ bao giờ đến bây giờ, ca dao tục ngữ luôn có sức đồng cảm mãnh liệt và sâu sắc. Nó ra đời giữa những vui buồn trong cuộc sống của loài người và nó sẽ kết bạn với con người cho đến ngày tận thế. Bởi từ xưa đến nay, những câu thành ngữ, ca dao, tục ngữ mà ông cha ta đã để lại cho thế hệ con cháu vẫn luôn là lời răn dạy giúp con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ và tầm cao của giá trị sống. Trong số đó, những câu ca dao, tục ngữ nói về phẩm chất và đức hạnh luôn là thiết yếu nhất, bởi lẽ phẩn chất và đức hạnh là chuẩn mực cao nhất trong nhân cách của con người: “Cái nết đánh chết cái đẹp” Trong mỗi con người đều có cái ác, cái thiện; mặt xấu và mặt đẹp. Không ai là hoàn thiện cả – “Nhân vô thập toàn”. Có người cho rằng: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Nhưng câu nói ấy chỉ mang tính tương đối mà không hoàn toàn đúng. Một người có cái nết là một người lúc nào cũng hướng về người khác, có hành vi tốt và có đạo đức đẹp (theo quan niệm của Phật giáo). Còn đối với “cái đẹp” ta có thể hiểu rằng “cái đẹp” là hình thức, diện mạo bên ngoài; một người sẽ được cho là đẹp khi những đường nét của người ấy đạt đến sự tối cao của cái được gọi là “sắc đẹp hoàn hảo”. Cũng như câu nói của Bác: “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” thì “Cái nết đánh chết cái đẹp” cũng vậy! Người có nết nhưng không đẹp sẽ là người không được ưa nhìn nhưng luôn được mọi người yêu quý bởi cái nết của mình. Ngược lại, người được tạo hóa ưu ái phú cho nhan sắc kiều diễm nhưng lại không có nết cả bên ngoài lẫn bên trong tâm thức, thì con người này sẽ luôn là tâm điểm của mọi sự chú ý và cứ như thế họ sẽ chẳng đoái hoài gì đến cái nết – một trong những phẩm chất thiết yếu của con người. Với con người như vậy thì hẳn rằng ngoài sự chú ý của người khác đối với mình vì sắc đẹp vốn có của bản thân họ sẽ chẳng nhận được gì cả vì đã tự đánh mất cái nết vốn có của mình. Theo quan niệm của phương Đông: “Nhân chi sơ tính bổn thiện” – con người từ khi sinh ra thì ai cũng có cái thiện ở trong tâm. Nhưng cái thiện đso có được phát huy trọn vẹn hay không thì còn phụ thuộc vào quá trình tôi rèn nhân phẩm của mỗi chúng ta. Tạo hóa đã tạo ra con người không thập toàn để con người đi theo hai trường phái đối lập: có nết và chẳng ưa nhìn; có sắc và luôn lúng sâu vào những hoa mĩ về ngoài. Nhưng con người vẫn có thể bừng tỉnh khỏi những “hố sâu không đáy” và vươn lên với chính bản thân mình để hướng ý thức, đạo đức của mình vươn tới chân, thiện, mỹ. Một người có nết và biết làm đẹp cho bản thân của mình thì sẽ là người hoàn hảo, bởi trên đời này, không có người nào là xấu, mà chỉ có người không biết làm đẹp. cũng như thế, một người đã có sẵn ưu thế về sắc đẹp thì chỉ cần bỏ thời gian ra và rèn luyện lại cái nết của mình một cách tự giác thì cũng sẽ trở thành một người thập toàn, thập mĩ và nhận được sự quý mến của nhiều người. “Cái nết đánh chết cái đẹp” Câu nói như có vẻ mang tính khẳng định nhưng lại không hẳn là như vậy. Dường như nó chỉ đúng về một phương diện, khía cạnh nào đó. Nhưng nếu xét tổng thể thì có vẻ như câu nói ấy đã bị sai lệch về mặt bản chất. Mỗi con người đều có mặt tốt và mặt xấu ở trong lòng. Vậy ta phải biết làm cho phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phẩn xấu bị mất dần đi. Bình luận câu tục ngữ: Cái nết đánh chết cái đẹp – Bài làm 3 Tốc độ phát triển xã hội ngày một tăng khiến nhiều chuẩn mực đạo đức bị xem nhẹ, toàn cầu hóa khiến nhiều bản sắc văn hóa khu vực bị mai một, song, những bài học đạo đức mà người xưa để lại thì mãi mãi vẫn có ý nghĩa sâu sắc đối với những tâm hồn người Việt Nam. "Cái nết đánh chết cái đẹp" là một trong những câu tục ngữ Việt cần được gìn giữ. ĐẸP, theo ngôn ngữ mỹ thuật là sự cân đối hài hòa về hình khối và màu sắc, theo ý nghĩa nhân văn là sự tinh tế của tâm hồn. Đẹp dễ thu hút sự quan tâm của không chỉ con người mà gần như mọi giống loài trong vũ trụ là vẻ đẹp của hình thể, vẻ đẹp kiểu dáng của sản phẩm, vẻ đẹp cảnh sắc của thiên nhiên. Đẹp dễ đi vào lòng người và tồn tại theo năm tháng là nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp đó không thể nhìn thấy bằng mắt, không ghi lại được bằng camera nhưng mà ai cũng cảm nhận được, khi bạn có nét đẹp tâm hồn, người ta nói bạn là người tốt. Đẹp là phạm trù của con người nên nó có chuẫn mực nhất định và được tác động bởi nhiều yếu tố, một trong những yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến vẻ đẹp con người là nết na. NẾT là tác phong sinh hoạt và thái độ ứng xử của con người bao gồm hành vi, cử chỉ, lời nói, dáng vẻ… Trong khi ĐẸP hình thức chủ yếu do bẩm sinh thì NẾT chủ yếu do tập luyện, nếu nét đẹp tâm hồn chỉ có thể cảm nhận thì Nết có thể nhìn thấy thậm chí ghi lại bằng máy ảnh, nết là yếu tố quan trọng làm cho người đẹp càng đẹp thêm, là cái duyên tạo thêm sự hấp dẫn cho người đẹp, ngược lại nếu không có nết người ta nói bạn vô duyên. Một người không đẹp nhưng nết na luôn được nhiều người yêu quý, ngược lại người đẹp nhưng vô duyên không nết thì như một bông hoa di động, ít có kẻ dám gần. Thử nghĩ xem hầu hết các diễn viên đều đẹp và khi họ diễn vai thiện với phong cách chuẩn mực, cử chỉ dịu dàng, lời lẽ khiêm tốn thì ai cũng thích, nhưng khi vào vai phản diện thô kệch, đanh đá, vô duyên thì bị mắng nhiếc thậm tệ, rõ ràng cái nết tạo nên sự đánh giá khác biệt, nói cách khác, chính NẾT mới quyết định giá trị của con người chớ không phải ĐẸP, bởi thế câu tục ngữ "Cái nết đánh chết cái đẹp" của người xưa vẫn còn vẹn nguyên giá trị cho đến bây giờ và mai sau nữa.
Bình luận câu tục ngữ_ Cái nết đánh chết cái đẹp – Văn mẫu lớp 9
2,057
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Quảng Ninh 2 Bình luận câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 2 3 Bình luận câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 3 Bình luận câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Quảng Ninh Sống phải có bản lĩnh. Nhờ có bản lĩnh mà ta có thể vượt qua mọi thử thách trên đường đời và đi tới thành công. Nói về bản lĩnh sống, dân gian có câu tục ngữ thật là chí lí: "Có chí thì nên" "Chí" là lòng quyết tâm, sự kiên trì nhẫn nại. Chí cũng là tự minh phấn đấu, vươn lên, không ỷ vào người khác. Chí là chí khí, sự bền bỉ. "Nên" có nghĩa là thắng lợi, thành công, sự tốt đẹp mà ta thu được. "Có chí" là điều kiện, là nguyên nhân; "nên" là hệ quả, kết quả. Câu tục ngữ thật cô đúc, ngắn gọn chỉ có 4 từ mà nêu iên một bài học sâu sắc, nhắc nhở mọi người hãy rèn luyện ý chí, tình thần bền bỉ, lòng quyết tâm để vượt qua mọi Ihử thách, khó khăn, vươn lên giành nhiều thắng lợi và gặt hái được nhiều thành công. Có chí tức là đã có bản lĩnh sống rất đẹp. Không được nhầm lẫn "chí" với "trí", "Trí" là trí tuệ, lí trí, trí khôn, sự hiểu biết, trí thông minh. Nhờ học hỏi mà ta có trí. Nhờ rèn luyện trong thử thách và gian khổ mà ta có chí. Trí và chí là hai phẩm chất tốt đẹp nhất của con người. Mọi tài năng lỗi lạc xưa nay đều có chí và có trí hơn người. "Có chí" thì mới có thể chịu đựng được, đứng vững được trước mọi thử thách khó khăn, không bị gục ngã trước thất bại tạm thời. Đi học, đi làm, sản xuất, kinh doanh, v.v… đều cần có chí. Chí càng cao sức càng bền mới đi tới thành công. Đường đời khó khăn (thế lộ nan) nên ta phải có chí. Đường xa, núi cao, dốc thẳm, sông sâu, tuyết dày…phải có chí mới vượt qua được. Đi thi là phải có chí "cá vượt Vũ Môn". Kéo pháo vào đánh Pháp ở Điện Biên, bộ đội ta đã thể hiện quyết tâm: "Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi". "Nước chảy đá mòn", "Kiến tha lâu cũng đầy tổ", "Có công mài sắt có ngày nên kim", tất cả đều nói lên cái chí. Tuổi trẻ chúng ta trên đường học tập, tiến quân vào mặt trận khoa học kĩ thuật cũng phải có chí mới có thể thực hiện được ước mơ hoài bão của mình, mới có thể đem tài sức góp phần xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Học tập câu tục ngữ "Có chí thì nên" ta càng thêm thấm thía lời dạy của Bác Hồ: "Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển, Quyết chí ắt làm nên" Bình luận câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 2 Trong cuộc sống không có một thành công nào có được mà không trải qua bao gian lao, thử thách. Không một chiến thắng nào giành được mà không phải khó khăn. Con người có kiên trì thì sẽ làm nên thắng lợi. Bởi vậy tục ngữ có câu “Có chí thì nên”. Câu tục ngữ ngắn gọn nhưng hàm chứa ý nghĩa thật lớn. Chí chính là nghị lực, ý chí của mỗi con người, nó giúp con người đi đến thành công. Ý chí rất quan trọng trong cuộc đời ta, ý chí giúp con người vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đạt được ý nguyện. Có tài năng mà không có ý chí thì cũng khó làm nên việc lớn, có tài mà ngại khó ngại khổ thì cũng không thể đi đến đích, không dễ gì gặt hái thành công. Để thấy được tầm quan trong của ý chí, chúng ta hãy đi ngược thời gian trở về với các chặng đường lịch sử đã qua, học tập đức tính kiên trì nhẫn nại của người xưa. Một trong những tấm gương về ý chí là anh học trò nghèo thông minh, hiếu học Châu Trí. Vì nhà nghèo, anh phải nương náu cửa chùa, hằng ngày quét lá đa để đốt lửa lấy ánh sáng mà học. Tuy gian khổ nhưng anh không nản chí trong việc học tập của mình. Cuối cùng, người học trò ấy đã đỗ đầu kì thi Hương và thành tài, công danh rạng rỡ, người đời ca ngợi. Cũng tấm gương như ông ở làng Dương Miện, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Hiền sống vào thời vua Trần Thái Tông đã có chí lớn trong học tập. Vì nhà nghèo nên phải đi ở chăn trâu cho phú ông, Nguyễn Hiền muốn học nhưng không được đến trường, chỉ học lỏm, đứng ngoài hè của lớp học để nghe trộm lời thầy giảng. Nguyễn Hiền không ngừng tôi luyện kiến thức, lúc học trên lưng trâu, khi viết xuống mặt đất.. Thế rồi, về sau Nguyễn Hiền đỗ Trạng Nguyên. Nếu không có chí học tập thì làm sao ông có được những phút giây huy hoàng đó? Gần chúng ta nhất là Hồ Chí Minh, Bác đã thực hiện hoài bão cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Lí tưởng của Bác được thực hiện nhờ ý chí và nghị lực. Nhờ tài đức vẹn toàn và ý chí nên Bác đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ. Noi gương Bác, nhân dan Việt Nam đã dụng ý chí của mình để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chúng ta đã chiến thắng kẻ thù, thống nhất đất nước. Nếu không có ý chí thì chúng ta mãi sống trong cảnh lầm than, nô lệ. Ý chí đã giúp dân tộc Việt Nam có được hòa bình, tự chu, độc lập, tự do. Ngày nay, ý chí rất cần thiết với mỗi con người, nó được thể hiện ở nhiều lĩnh vực của đời sống. Trong học tập, đã có biết bao tấm gương sáng từ những học sinh nghèo vượt khó, học sinh khuyết tật vượt khó. Một tấm gương mà ai cũng biết đó là anh Nguyễn Ngọc Kí, tuy bại liệt hai tay từ nhỏ, anh quyết không cam chịu số phận. Ý chí đã thôi thúc anh viết bằng chân. Dù rất khó khăn, nhưng anh vẫn kiên trì khổ công tập luyện. Ý chí đã giúp anh đạt ý nguyện: viết được chữ và viết rất đẹp. Không những thế, anh lại còn trở thành thầy giáo giỏi. Ý chí đã giúp anh vượt qua số phận, hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Tấm gương về ý chỉ của thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí là động lực giúp những người khuyết tật vươn lên, hòa nhập với cộng đồng. Trong lao động sản xuất, cũng có không ít gia đình từ chỗ đói nghèo đã vươn lên làm giàu bằng ý chí, họ không nản lòng trước khó khăn của cuộc sống, họ chịu khó học tập, đúc kết kinh nghiệm trong quá trình lao động và cuối cùng cũng có được cuộc sống ấm no hạnh phúc. Những hình ảnh trên đã thể hiện tính đúng đắn của câu tục ngữ Có chí thì nên. Bởi thế, ta không lí gì mà chùn bước trước những khó khăn trong học tập hoặc lao động, làm việc. Không nên ỷ lại những năng lực sẵn có của mình mà buông xuôi đi việc rèn luyện, học tập không ngừng. Cũng không nên tự ti bởi năng lực hạn chế của mình mà bỏ cuộc, rút lui. Một người học sinh nếu chịu khó học tập thì sẽ có kết quả tốt đẹp, sẽ có đủ tri thức bước vào tương lai đang chờ ở phía trước. Còn nếu ta sợ khổ cực, không chịu khó học tập thì làm sao có tương lai tươi sáng. Quá trình học tập không phải lúc nào cũng thuận lợi nên cần phải có ý chí vươn lên, chúng ta hãy thực hiện lời dạy của Bác: Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên. Dù việc lớn đến đâu, khó khăn đến mức nào chăng nữa, nhưng có ý chí thì sẽ vượt qua. Đúng như lời răn dạy: Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi, e sông. Ngại khó, ngại khổ nghĩa là không có ý chí. Thực tế cuộc sống cho thấy biết bao thanh niên không có ý chí đã trở thành hư hỏng, cuộc sống của họ chẳng có ý nghĩa gì, họ là mối lo của gia đình, xã hội. Cuộc đời của những người không ý chí sẽ tẻ nhạt và đơn điệu biết bao, còn những ai có ý chí thì sẽ đem lại những thành quả tốt đẹp. Nói tóm lại, tục ngữ “Có chí thì nên” là lời khuyên sâu sắc giúp con người thấy được giá trị của ý chí, nghi lực. Không có tinh thần vượt khó thì làm sao có thể làm chủ cuộc đời, có được tương lai tươi sáng. Ý chí sẽ giúp ta vượt qua mọi trở ngại trong học tập cũng như trong cuộc sống. Bình luận câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 3 “Không có gì nghèo bằng không có tài, không có gì hèn bằng không có chí”. (Uông Cách) Trên đường đời, ai trong chúng ta không một lần gặp thất bại vì “nhân vô thập toàn”, nhưng con người dễ nản chí khi gặp khó khăn trở ngại. Bởi vậy, ông cha ta ngàn xưa đã khuyên nhủ ta phải cốgắng vươn lên mới đạt được thành công.Câu tục ngữ “Có chí thì nên” đã được truyền lại từ bao đời nay như bài học quý giá. Đây chính là bí quyết để thành công trong cuộc sống. Vậy “có chí thì nên” có ý nghĩa như thế nào? “Chí” là gì? Là hoài bão, lí tưởng tốt đẹp, ý chí, nghị lực, sự kiên trì. Chí là điều cần thiết để con người vượt qua trở ngại. “Nên” là thế nào? Là sự thành công, thành đạt trong mọi việc. Vậy “có chí thì nên” nghĩa là thế nào? Câu tục ngữ nhằm khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của ý chí trong cuộc sống. Khi ta làm bất cứ một việc gì, nếu chúng ta có ý chí, nghị lực và sự kiên trì thì nhất định chúng ta sẽ vượt qua được mọi khó khán, trở ngại để đi đến thành công. Một tấm gương tiêu biểu cho tinh thần rèn luyện y chí để thành công chính là Cao Bá Quát. Thuở nhỏ, Cao Bá Quát đãnổi tiếng vềtài văn thơ đối đáp thông minh và tài hoa, song chữ viết rất xấu. Tính khí tuy ngông ngạo, nghịch ngợm nhưng Cao Bá Quát Tất chịu khó và kiên trì trong học tập. Học và làm, bao giờ ông cũng thực hiện đến nơi đến chốn, là được mới chịu. Việc tập viết chữ cho tốt là một ví dụ. Đêm đến, Cao Bá Quát thường thức khuya miệt mài trên trang giấy để tập viết. Buồn ngủ, ông tự buộc tóc mình lên xà nhà để mỗi lần “gật” bị tóc giật đau phải tỉnh lại. Chân muốn chạy, ông buộc chân vào cạnh bàn. Tự mình “trị” mình, Cao Bá Quát kiên trì, không tự tha thứ, nản lòng. Do đó, sau này chữ ông rất đẹp, đẹp như “rồng bay phượng múa”. Mẫu chữ đẹp của ông hiện nay còn lưu lại trong bài đề tựa cuối cùng của Mai Am thi tập của công chúa Lại Đức, tự Thục Khanh, hiệu Mai Am, con gái vua Minh Mệnh. Tấm gương tiêu biểu nhất về “có chí thì nên” chính là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bác Hồ kết thúc bản di chúc bằng câu: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Mong muốn, ý chí, quyết tâm của Bác đã được thể hiện ngay từ thời niên thiếu. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, Bác vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kì. Người cha bị triều đình khiển trách vì “hành vi của hai con trai”. Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Nguyễn Tất Thành quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình. Với ý chí quyết tâm mạnh mẽ, Bác đã đi tìm đường cứu nước. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Bác lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp trong vai phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Bác phải chịu muôn vàn gian khổ khi ở nước ngoài, trong những ngày tháng bị giam cầm ở Trung Quốc. Bác đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thành công, thống nhất đất nước, đem lại độc lập tự do cho dân tộc. “Sức mạnh không đến từ thể chất. Nó đến từ ý chí bất khuất”. Tại sao người có ý chí, nghị lực sẽ thành công? Bởi vì đây là một đức tính không thể thiếu được trong cuộc sống khi ta làm bất cứ việc gì. Đường đời không bao giờ bằng phẳng mà luôn có những khó khăn, thử thách. Chonên muốn thành công đều phải trải qua một quá trình, một thời gian rèn luyện lâu dài. Có khi thành công đó lại được đúc rút kinh nghiệm từ nhiều thất bại khác nhau. Chính ý chí, nghị lực, lòng kiên trì là sức mạnh giúp ta đi đến thành công. Càng gian nan chịu đựng thử thách trong công việc thì sự thành công càng vinh quang, càng đáng tự hào. “Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên”. (HồChí Minh) Thật đáng thương cho những người nản chí, nhụt chí! Đây là những con người khi gặp thất bại, khó khăn, thử thách thì tỏ ra tuyệt vọng. Họ không cố gắng vượt qua mà chỉ biết ngồi than thân trách phận. Những người này không chì làm hại chính bản thân mình vì không thành công trên đường đời, mà còn làm hại cả gia đình, xã hội. “Đường đi khó không khó vì ngăn sông, cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. (Nguyễn Bá Học) Đối với học sinh chúng ta, câu tục ngữ trên có ý nghĩa sâu sắc vì trong học tập và rèn luyện, muốn thành công, học sinh cần phải rèn luyện ý chí, không ngừng nỗ lực vượt khó khăn, thử thách để đạt mục đích. Chúng ta phải biết rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, ý chí của mình ngay từ lúc nhỏ, đặc biệt là ý chí cầu tiến. Vì có như vậy mới trở thành nét sống đẹp trong mỗi con người. Người học sinh cần tu dưỡng ý chí, bắt đầu từ những việc nhỏ, để khi ra đời làm được việc lớn. “Học vấn có chùm rễđắng ngắt nhưng hoa quả lại rất ngọt ngào”. (Ngạn ngữ Nga) Tóm lại, câu tục ngữ “Có chí thì nên” khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn trong cuộc sống. Khi chúng ta bắt đầu làm bất cứ một việc gì đó, nếu ta có ý chí nghị lực và sự kiên trì quyết tâm nhất định thì chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn trở ngại để đi đến thành công, chiến thắng như bài thơ Đi đường mà Bác Hồ đã đúc kết: “Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”
Bình luận câu tục ngữ_ Có chí thì nên – Văn mẫu lớp 9
2,801
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định 2 Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 2 3 Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 3 4 Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 4 Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Ta thấy không một thắng lợi nào mà không gặp những khó khăn, thử thách, không một thành công nào mà không phải bước qua bom đạn, chông gai. Cái chính là con người có kiên trì, có quyết tâm vượt qua hay không? Hiểu được điều đó, từ ngàn xưa, nhân dân ta nhắc nhở nhau: Có công mài sắt, có ngày nên kim Câu tục ngữ cho đến hôm nay vẫn là một kinh nghiệm rèn luyện bản thân vô cùng quý giá. Câu tục ngữ thật ngắn gọn, hàm súc mà ý nghĩa của nó thật lớn lao. Với hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, ông cha ta đã khuyên chúng ta phải biết kiên trì, chịu thương chịu khó thì làm công việc gì cũng đạt hiệu quả cao. Không phải việc gì dù dễ đến đâu chúng ta cũng gặt hái được kết quả ngay được. Có công thì mới có quả. Có chịu khó rèn luyện thì chúng ta mới vượt qua gian lao thử thách để hoàn thành công việc được giao. Vâng! Câu tục ngữ là một chân lý sáng ngời, là một chiếc gương để mọi người tự rèn luyện. Chân lý đúc kết qua quá trình lao động sản suất gian khổ của nhân dân ta. Có đặt vấn đề vào thực tế cuộc sống của chúng ta hôm nay mới có thể thấu hiểu được cái tinh tế của người xưa. Một người học sinh phải trải qua thời gian " mài đũng quần" trên ghế nhà trường suốt mười mấy năm mới có thể đủ tri thức để bước vào cuộc sống. Trong cuộc sống chúng ta phải không ngừng rèn luyện, tự học thì mới thành tài. Một người phải rèn luyện trong khó khan, lao động chăm chỉ lao động cần cù mới có được tay nghề cao và làm ra được những sản phẩm tốt, làm giàu cho xã hội. Nhưng sự rèn luyện ấy không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi hoàn toàn, cái chính là chúng ta phải biết làm chủ ý chí, nghị lực của mình để vượt qua những khso khan ấy. Tự rèn luyện nhưng chúng ta cũng phải tự đề ra phương pháp hợp lý. Rèn luyện không có nghĩa là khổ luyện. Rèn luyện phải biết kế hợp giữa những ưu điểm sẵn có của mình và những điều mình học tập của người khác, biến mặt yếu thành mặt mạnh, được như vậy, chúng ta phải biến dần dần từng bước, tìm cách khắc phục mọi khó khăn. Người học sinh muốn giỏi toàn diện thì không được nản lòng trước những bài toán hiểm hóc, bài văn khó làm. Hơn nữa, trong cuộc sống chúng ta, tương lai luôn ở phía trước, hiện tại thì luôn cận kề bên ta nhắc ta không chỉ lúc nào cũng mơ đến một ngày mai tốt đẹp mà phải trui rèn từ hôm nay. Nói tóm lại, muốn gặt hái được kết quả mỹ mãn, chúng ta phải kiên nhẫn từng bước một như câu tục ngữ: Có chí thì nên Thế nhưng, trong thực tế cuộc sống, bên cạnh những tấm gương tốt, còn có những kẻ ngại khó, ngại khổ, nhất là trong giới học sinh chúng ta còn nhiều bạn nản lòng trước bài toán khó, chùn bước trước bài sử, bài văn dài hoặc coi thường những bài học đơn giản. Không thiếu những bạn có quyết tâm ban đầu nhưng khi đối đầu với khó khăn thì bỏ cuộc. Có người còn quan niệm rằng mình đã đủ tài buông xuôi phần rèn luyện, coi thường những ưu điểm của người khác. Và nghiêm trọng hơn cả trong xa hội còn khó khan hôm nay, có bạn coi thường việc học và cho đó là không cần thiết, không chịu "mài sắt". Liệu những người đó có đạt được kết quả như mình mong ước hay không? Chúng ta hãy nhớ, một thiên tài có một phần là năng khiếu còn chín phần còn lại là lao động và rèn luyện. Biết bao nhà bác học trên thế giới lúc nhỏ đã gặp biết bao trở ngại, nhưng bằng quyết tâm và sự kiên trì, họ đã vượt qua tất cả để thành đạt trong cuộc đời và cống hiến cho nhân loại những công trình vô giá, họ đã "nên kim" như mình mong ước. Ích lợi của việc rèn luyện kiên trì là như thế đấy! Là một học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ rèn luyện cho mình mà còn góp phần xây dựng cho đất nước mai sau. Đất nước ta hôm nay còn rất nhiều gian khổ, dân tộc ta còn thua kém, thiệt thòi so với các nước, các dân tộc khác. Vì vậy mỗi con người trong chúng ta lại càng phải hiểu rõ và làm theo lới khuyên của ông bà: "Có công mài sắt, có ngày nên kim" chúng ta không được cho phép mình lùi bước trước khó khan và phải hiểu đó là trách nhiệm là nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Vậy chúng ta phải rèn luyện như thế nào để đạt được kết quả tốt? Theo em, muốn đạt được kết quả tốt trong học tập cũng như trong lao động sản xuất, trước hết, chúng ta phải luôn luôn khiêm tốn, tự coi mình là dốt đẻ nhắc nhở bản thân luôn học hỏi. Chúng ta không có quyền nản lòng trước công việc khso khan, không được nản lòng trước gian nan. Hãy luôn nhớ đến sự nhẫn nại của ông cha ta trong lao động sản xuất. Hãy nhớ đến những thành quả lao dộng mà cha anh chúng ta đã gặt hái được mà nhắc nhở mình rằng "Có công mài sắt, có ngày nên kim". Câu tục ngữ là một bài học đối với tất cả mọi người. Đó là một lời khuyên rất chân tình, sâu sắc với những ai còn nóng nảy hấp tấp trong công việc và tăng thêm quyết tâm cho những ai có ý chí muốn phấn đấu vươn lên. Là học sinh, em luôn coi câu tục ngữ là phương châm là tấm gương để tự rèn luyện bản thân trở thành con người có ích cho chính mình và cho xã hội như lời Bác Hồ đã khuyên: Sống ở trên đời người cũng vậy Gian nan rèn luyện mới thành công (Nghe tiếng giã gạo) Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 2 Tục ngữ là trí khôn muôn đời của nhân dân. Mỗi câu tục ngữ là một bài học lớn. Một trong những bài học ấy được đúc kết trong câu tục ngữ hàm súc: Có công mài sắt có ngày nên kim Câu tục ngữ đã nêu lên một chân lí lớn bằng một hình ảnh tượng trưng đầy sức thuyết phục. Sắt là một loại kim loại cứng nhưng mài mãi cũng sẽ thành cây kim nhỏ. Đó là một sự cố gắng, kiên trì phi thường. Từ thỏi sắt to trở thành cái kim nhỏ phải tốn bao công sức, mồ hôi mới có được. Mới nghĩ đến, ta đã thấy ngại ngùng. Chẳng ai hơi đâu ngồi kì công mài sắt thành kim như thế. Công việc này tưởng như khó khăn không thể làm nổi. Thế mà vẫn có người không quản gian lao, không sá công phu, vẫn gắng sức làm cho kì được. Cho nên cây kim dù rất nhỏ bé, không đáng gì nhưng nó là thành quả của biết bao sự cố gắng, kiên trì nhẫn nại. Nghĩa đen của câu tục ngữ chỉ là việc mài sắt thành kim, nhưng nếu suy ra nghĩa bóng thì thật là rộng. Đó là một lời khuyên, một bài học mà ông cha ta đã đúc kết từ ngàn đời truyền lại cho con cháu hôm nay và mai sau. Đó là lời răn dạy: Có sự kiên trì nhẫn nại và quyết tâm lớn thì việc gì cũng làm xong cho dù việc đó rất khó khăn, tưởng như không thể hoàn thành được. Bác Hồ từng dạy: “Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên” cũng là nói về tinh thần không ngại khó. Qua lời Bác dạy ta càng hiểu thêm về sức mạnh của lòng kiên trì, bền bỉ. Có quyết tâm lớn thì việc gì cũng làm được, cho dù đó là việc “đào núi và lấp biển”. Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao tấm gương tiêu biểu đã “mài sắt” để có ngày “nên kim”. Tấm gương ấy không đâu xa lạ, đó chính là Bác Hồ – Nguời Cha của dân tộc. Đất nước ta được hòa bình tự do như ngày hôm nay chính là một phần nhờ vào lòng kiên trì “bền vững chí” của Bác. Khi còn là chàng thanh niên trẻ tuổi, Bác đã từ biệt mọi người ra đi tìm đường cứu nước. Ở nơi đất khách quê người Bác đã làm mọi việc để kiếm sống: làm phụ bếp trên tàu, làm người cào tuyết giữa mùa đông giá lạnh ở châu Âu… Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya (Chế Lan Viên – Người đi tìm hình của nước) Biết bao nhiêu vất vả cực nhọc, Bác chẳng sờn lòng, Bác kiên trì đi đến tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới để tìm hiểu con đường giải phóng dân tộc của họ. Cuối cùng sự kiên nhẫn của Bác đã được đền đáp xứng đáng. Người đã tìm thấy con đường đi cho dân tộc thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than. Tấm gương Bác Hồ chói sáng và rực rỡ, trước hết là ở chỗ “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Gần gũi với chúng ta không ít những tấm gương sáng đáng khâm phục. Nhà thơ Nguyễn Khuyến nổi tiếng là “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Những sáng tác của ông là kết quả của một sự rèn luyện không ngừng, không biết mệt mỏi “lao tâm khổ tứ”. Thiên tài không thể một sáng một chiều mà thành công được. Một nhà văn phương Tây đã khẳng định: “Thiên tài là một sự kiên nhẫn lâu dài”. Quả đúng như vậy. Để trở thành một nhà thơ lớn, Nguyễn Khuyến đã trải qua cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu. Theo giai thoại: ông nhà nghèo, mỗi buổi sớm đến trường phải mang theo một cái giậm để sau buổi bình văn đi bắt cá. Quê ông vốn là đồng chiêm trũng nên có rất nhiều. Có những buổi sớm rất lạnh, thầy đồ vẫn thất anh học trò nghèo lam lũ dưới ao sâu. Tối về nhà, không có đèn, anh học trò Nguyễn Khuyến học người xưa bỏ đom đốm vào vỏ trứng hoặc ánh trăng để học bài. Tài năng của Nguyễn Khuyến không chỉ ở thông minh mà còn là sự kiên trì nhẫn nại. Trong lao động, tấm gương của nhà bác học Lương Định Của đúng là một bằng chứng hùng hồn. Để lai tạo một giống lúa mới có năng suất cao, có khả năng chống rầy tốt, ông phải làm việc vô cùng vất vả, khó nhọc. Hàng ngày từ tờ mờ đất , ông đa ra ruộng lội bì bõm nghiên cứu, thử nghiệm đến tối mịt mới về. Qua vài vụ lúa, một giống lúa mới được tạo thành. Chính sự kiên nhẫn bền bỉ của ông đã đem no ấm đen cho đời. Rồi Mai An Tiêm, rõ ràng nhờ chăm chỉ, kiên trì đã làm chủ cuộc sống nơi đảo hoang không một bóng người. Trên thế giới, không ai là không biết nhà bác học người Pháp Pie Quyri và Mari Quyri. Họ đã kì công trong bốn năm trời lọc đi lọc lại tám tấn bã quặng để tìm một phần mười gam chất phóng xạ radium. Thế mới biết, muốn tìm ra một nguyên tố hóa học cũng đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì mãnh liệt. Không chỉ học tập những con người nổi tiếng, mà tấm gương của những người lao động xung quanh mình cũng rất đáng tuyên dương, ở huyện em, mọi người đều yêu quí chị Lan. Chị bị liệt tay phải và một chân. Tuy phải viết bằng tay trái và đi lại khó khăn song chị là học sinh giỏi toàn điện, vừa rồi hai tác phẩm chị đã viết được xuất bản gây tiếng vang lớn. Em nghĩ chị cũng là tấm gương của lòng kiên trì đáng cho chúng ta học tập. Qua các tấm gương trên, em thấy mình còn phải cố gắng nhiều, trước hết là lòng kiên trì nhẫn nại, không quản khó khăn vất vả để trở thành người công dân tốt. Đó là bước mở đầu của quá trình hình thành nhân cách con người. Là một đứa con trong gia đình, em phải học tập tốt để xứng đáng với lòng tin yêu của cha mẹ. Là một công dân của đất nước, em phải cố gắng tu dưỡng nhiều để trở thành chủ nhân của tương lai. Lời khuyên răn của ông cha luôn đúng đắn, thiết thực. Nó sẽ có ý nghĩa lớn hơn khi ta thực hiện tốt lời dạy đó. Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 3 Trong cuộc sống , ngoài sự thông minh cua cá nhân thì đức tính chăm chỉ, cần cù cũng góp phần đến sự thành công. Vì vậy câu nói : “ Có công mài sắt, có ngày nên kim” của ông bà ta luôn đúng qua mọi thế hệ. Vậy câu nói đó có nghĩa là gì? Nếu hiểu theo nghĩa đen thì câu nói này có nghĩa là dù cho cục sắt có to lớn đến mấy đi chăng nữa nhưng nếu ta chăm chỉ, bỏ công sức ra mài thì cục sắt sẽ thành cây kim nhỏ bé thôi. Nếu ta hiểu rộng ra thì ta sẽ thấy hàm ý của câu là việc gì dù có khó khăn đến mấy đi chăng nữa nhưng nếu ta chăm chỉ, cần cù thì việc lớn sẽ thành việc nhỏ bé. Trong học tập cũng vậy, người chăm chỉ là người luôn học và làm bài đầy đủ, làm thêm các bài tập để nâng cao kiến thức của mình, tìm hiểu học hỏi những gì mà mình chưa biết, chăm chú và ghi chép những gì mà mình chưa biết…Trong công việc cũng vậy, người chăm chỉ là người luôn học hỏi những gì mình chưa biết để nâng cao tay nghề, siêng năng, tự giác hoàn thành công việc đươc giao ra… Chăm chỉ là một đức tính quan trọng không thể thiếu của mỗi người. Nó góp phần tạo nên sự thành công trong mọi việc, được người khác yêu mến, kính trọng, khâm phục. Chẳng hạn như nhà bác học nổi tiếng Ê-đi-sơn dù chỉ mới học xong tiểu học thôi nhưng với sư chăm chỉ, cần cù ông đã sáng chế ra những phát minh vĩ đại cho nhân loại. Hay như chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta, Bác đã học được nhiều thứ tiếng nhờ sự chăm chỉ, cần cù của mình. Ông bà ta đã từng nói: “ Cần cù bù thông minh “ . Nếu như ta không thông minh như những người khác thì ta có thể chăm chỉ để hoàn thiện mình hơn. Nếu ta chăm chỉ thì làm một việc gì đấy ắt sẽ thành công. Chẳng hạn như trong học tập nếu như một bài toán khó người này giải chỉ trong mười phút, nhưng người khác thì phải giải trong ba mươi phút. Nhưng không sao cả. Nếu chúng ta chăm chỉ, siêng năng thì đến một lúc nào đó ta sẽ giỏi bằng hoặc thậm chí hơn người đó. Có một nhà bác học nói rằng: “ Con người chỉ có một phần trăm là thông minh còn chín mươi chín phần trăm còn lại là cần cù”. Các bạn thử nghĩ xem chín mươi chín phần trăm với một phần trăm thì cái nào lớn hơn? Việc chúng ta có thể đạt một phần trăm đó hay không phụ thuộc rất nhiều vào chín mươi chín phần trăm còn lại. Một người dù có thông minh đến mấy dù không chăm chỉ thì cũng coi như vô ích mà thôi. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho người nào lười biếng. Chính họ là người đã tự phá huỷ đi tương lai của chính mình. Chính họ là người tự mình làm cho người khac coi thường, khinh rẻ, không tôn trọng. Và tất nhiên là cũng không có được thành công trong cuộc sống. Vậy để tự rèn luyện chăm chỉ cho mình em đã tự lập ra một thời gian biểu phù hợp cho mình, đi học thì học và làm bài đầy đủ trước khi đến lớp. Giơ tay phát biểu xây dựng bài trong lớp. Cố gắng tìm tòi học hỏi những gì mình chưa biết từ mọi người xung quanh. Để đạt được thành công trong cuộc sống mỗi người phải tự rèn luyện mình và nhất là đức tính chăm chỉ. Chì có như vậy thì mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ theo ý mình. Bình luận câu tục ngữ: Có công mài sắt có ngày nên kim – Bài làm 4 Câu tục ngữ được chia làm hai vế, mỗi vế có 4 từ. Hai vế này có hai cặp từ tương ứng với nhau: “Có công – có ngày ; mài sắt – nên kim”. Một vế chỉ sự nỗ lực, một vế chỉ thành quả đạt được. Cây kim tuy nhỏ nhưng nó rất có ích, tròn trịa, trơn bóng, sắc nét. Để mài được một cây kim như vậy thì thật là khó. Câu tục ngữ này mượn hình ảnh cây kim để nói lên được phẩm chất cao quý truyền thống của dân tộc Việt Nam từ hàng nghìn đời nay. Từ những việc nhỏ như quét nhà, nấu cơm đến những việc lớn như xây dựng đất nước, chống giặc ngoại xâm. Những thành tựu hiện nay mà ông cha ta đạt được đã minh chứng cho điều đó. Những tháp chùa cổ kính có giá trị, một số công trình nghệ thuật nổi tiếng như tháp Chương Sơn, chuông chùa Trùng Quang… với những đường nét hoa văn thanh thoát, mạnh mẽ, thể hiện tinh thần thượng võ, yêu nước. Và một thành tựu lớn nhất của ông cha ta đó chính là xây dựng nên được một quốc gia văn minh, nhân dân đồng lòng, đất nước yên bình. Công cuộc dựng, giữ , phát huy, đổi mới đất nước đó đã thể hiện được sự bền bỉ, chịu thương chịu khó, sự sáng tạo, lao động kiên cường của ông cha ta. Trong lao động sản xuất, nhân dân ta cũng đã có những việc làm và kết quả đạt được để khẳng định ý nghĩa của câu tục ngữ trên là hoàn toàn đúng. Từ xưa tới giờ, đất nước ta đã gặp phải những khó khăn rất lớn, từ những thảm hoạ thiên nhiên như lụt lội, bão bùng đến những cuộc chiến tranh do con người tạo ra nhưng nhờ sự cố gắng, chịu đựng, vượt khó mà chúng ta đã khắc phục được những trở ngại đó. Và trong học tập thì điều đó lại càng được khẳng định rõ nét hơn. Những em bé chập chững bước vào lớp một, tập toẹ đánh vần, viết chữ đến những năm tháng tiếp theo lên lớp, phải kiên trì cần cù mới mong đạt được kết quả tốt trên con đường học tập của mình. Trong đường đời cũng vậy, những danh nhân, thương gia, thi sĩ, nhà nho, nhà văn nổi tiếng cũng từng phải vất vả, hi sinh, sử dụng những kiến thức mình có nhưng không thể thiếu đi và phải luôn gắn liền với sự kiên trì, chuyên cần, sáng tạo mới có thể thành đạt. Những tấm gương chăm học, những tấm gương chịu khó như Bác Hồ là một điển hình rõ nét nhất. Bác đã phải vất vả làm việc, chịu khó học tiếng nước ngoài, đi bôn ba khắp nơi để tìm đường cứu nước. Thật hiếm ai như vậy! Và cũng nhờ những sự nỗ lực đó mà đất nước ta mới được tự hào về một danh nhân, một vị lãnh tụ vĩ đại nổi tiếng mà khắp năm, châu bốn bể đều biết tới. Câu tục ngữ trên với hình thức ngôn từ dân dã nhưng thật ngắn gọn súc tích, bao hàm những ý nghĩa sâu sa. Đó chính là những đúc kết lâu đời trong quá trình lao động, kinh nghiệm chiến đấu, sản xuất và cả trong đời thường cuộc sống của ông cha ta. Nó như một bài học quý báu, một thông điệp hữu dụng, một lời dạy chân tình rằng: “Hãy biết tu dưỡng, rèn luyện những đức tính, phẩm chất kiên trì, nhẫn nại, chịu khó, cần cù, sáng tạo, kết hợp với khả năng vốn có của bản thân để làm nên một sức mạnh vô địch vượt mọi gian truân, vất vả trong cuộc sống, những trở ngại éo le nhất mà đi tới thành công, thắng lợi”. Nào chúng ta hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ nhất như học tập chăm chỉ, lao động cần cù để trở thành con ngoan trò giỏi, trở thành chủ nhân tương lai của đất nước nhé !
Bình luận câu tục ngữ_ Có công mài sắt có ngày nên kim – Văn mẫu lớp 9
3,759
Ngoài kho tàng câu da cao, thành ngữ, ngạn ngữ nổi tiếng thì chúng ta còn có một kho tàng về tục ngữ rất phong phú. Có thể nói rằng cha ông ta không chỉ sử dụng những câu ca dao để truyền tải những tư tưởng đạo lí mà họ còn khéo léo dùng những câu tục ngữ súc tích ngắn gọn để truyền tải một ý nghĩa nào đó và những câu tục ngữ đó vẫn còn có ý nghĩa mãi cho tới ngày nay. Một trong những câu tục ngữ chúng ta muốn nói đến ở đây đó chính là câu “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”. Theo như nghĩa đen thì chúng ta thấy được kiến là một con vật nhỏ bé và yếu ớt biết nhường nào ,nó chỉ mong manh gió thổi cũng có thể làm bay được. Là một sinh vật sống ở dưới đất hoặc ở trên các cành cây. Hoạt động của nó là tha thức ăn về tổ ,tuy chúng nhỏ bé là vậy nhưng mà chúng rất chăm chỉ cần mẫn trong công việc của mình . Chính sự kiên trì đó đã giúp cho nó tha được thức ăn nhanh đầy tổ của mình. Vậy chúng ta phải hiểu được ông cha ta muốn nói gì ở loài sinh vật này hay chỉ đơn thuần là một câu nói theo nghĩa đen. Có thể thấy được rằng ca dao tục ngữ dạy cho chúng ta một đức tính kiên trì ,lấy tiểu thành đại và lấy nhỏ để góp lớn. Nói tóm lại là muốn nói tới sự chăm chỉ của con người chúng ta. Trước hết sự chăm chỉ cần mẫn ấy rất cần trong công việc học tập. Những tri thức lớn lao về vũ trụ chúng ta phải mất cả một đời để nghiên cứu chứ không thể là ngày một ngày hai hay là tiếp thu một cách sơ sài nhanh chóng được. Thế cho nên chúng ta rất cần sự kiên trì và nhẫn nại đến cùng, có khó khăn đến đâu thì cũng không được làm cho bản thân nản chỉ. Ông cha ta đã từng có câu :cần cù bù thông minh hay có công mài sắt có ngày nên kim. Thật đúng như vậy, câu nói ấy nhằm dạy cho chúng ta một đức tính kiên trì trong học tập. Còn trong bất kì một công việc gì thì chúng ta cũng phải chăm chỉ. Cuộc sống xoay quanh chúng ta vốn còn có những khó khăn trước mắt nhưng không được gục ngã mà chúng ta phải kiên trì để vượt qua. Cuộc sống từ khi sinh ra chúng ta đều có đau khổ và hạnh phúc không ai giống ai, đó là do tạo hóa sinh ra .giống như việc chẳng có thành công nào mà rải toàn hoa hồng cả, chúng ta phải đi qua những chông gai khó khăn rồi mới mong có được thành công cho bản thân.Chính vì vậy mà chúng ta cần phải kiên trì vì nếu không có sự kiên trì, không có niềm tin thì chúng ta không thể nào vượt qua được những chông gai ấy. Qua đây chúng ta có thể thấy được câu tục ngữ có một sức sống tiềm tàng và mãnh liệt với hàng nghìn năm tuổi của nó. Những ý nghĩa, tư tưởng luôn được chất chứa trong những câu ca dao tục ngữ ấy , chính vì thế mà ở đây chúng ta học được đức tính kiên trì để vượt qua những khó khăn chông gai trong cuộc sống. Hãy sống kiên trì như con kiến kia, tuy nhỏ bé là vậy nhưng nếu kiên trì thì nó sẽ mang lại thắng lơi, thành công lớn.
Bình luận câu tục ngữ_ Kiến tha lâu cũng đầy tổ
628
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định 2 Bình luận câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách – Bài làm 2 3 Bình luận câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách – Bài làm 3 Bình luận câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Dân tộc ta lớn lên trên dải đát hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương sóng gió. Người Việt Nam đã từng chịu không biết bao nhiêu tai trời ách nước: giặc giả, bão lụt, hỏa hoạn, mất mùa, đói kém, … Cứ mỗi lần vượt qua một khó khan, nhân dân ta lại nhắc nhở nhau cách sống. Lá lành đùm lá rách Ta cần tìm hiểu ý nghãi và giá trị của câu tục ngữ này như thế nào để hiểu cho đúng lời nhắn gửi của ông cha để lại? Câu tục ngữ gợi lên một bài học về đạo lý làm người, về quan hệ giữa con người với nhau. Người ta ở đời, có người, có lúc gặp phải khó khan thiếu thốn, hoạn nan. Lúc ấy, nếu chỉ một mình tự xoay sở lấy thì thật khó mà vượt qua. Trong hoàn cảnh đó, sự giúp đỡ của người khác, sự chia sẻ của người khác là rất quan trọng. Sự đùm bọc lẫn nhau trong cơn hoạn nạn là một cách sống cần thiết đầy nhân ái. Xét về giá trị của câu tục ngữ, ta thấy có một giá trị thiết thực. Nói "Lá lành đùm lá rách" là nói đến thái độ nhường cơm sẻ áo giữa nhừng người vốn chung cảnh ngộ, trong cùng một cộng đồng trên cùng một đất nước. Tuy có "lành" có "rách" nhưng cũng là "lá". Đây là chia sẻ, là thông cảm. Khi một người bị hoạn nạn, thì những người không bị hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ, đó là "lá lành đùm lá rách". Sự giúp đỡ của từng người có thể không nhều, nhưng nhiều người hợp lại thì sự giúp đỡ trở nên rất có ý nghãi, có thể giúp cho người họa nạn vượt qua cơn hoạn nạn. Khi một phường, một vùng gặp hoạn nạn, thì những vùng bên cạnh cùng hợp lại, mỗi người một ít, mỗi nhà một ít, mỗi phường, mỗi tỉnh, mỗi huyện một ít, kết quả thành ra rất to lớn. "Lá lành đùm lá rách", đó là cách sống và đạo lý đã có tự ngàn xưa của nhân dân Việt Nam. Có lẽ chính vì thế mà nhân dân Việt Nam đã vượt lên bao khó khăn có lúc tưởng chừng không vượt nột để mãi mãi tồn tại vừng vàng. Người ta nói: "Miếng khi đói bằng gói khi no". Trong khi gặp hoạn nạn, người bị ít khó khan còn chia sẻ cả với người nhiều khó khan hơn. Giá trị nhân bản là ở đó. Trải qua hơn ba mươi năm chiến tranh, rồi trong gần hai chục năm trở lại đây, truyền thống "lá lành đùm lá rách" đã được nhân dân ta phát huy một cách mạnh mẽ. Chỉ nói riêng mấy năm gần đây, trên đất nước ta đã bao nhiêu lần thiên nhiên gây ra tai họa ghê ghớm. Những trận bão tàn phá miền Trung, rồi lũ lụt ở đồng bằng Nam Bộ … làm cho đồng ruộng bị tàn phá, lúa, hoa màu bị mất sạch, bao nhiêu nhà cửa, bệnh viện, trường học … bị phá hủy. Những khi miền Trung, miền Nam gặp hoạn nạn, khó khan, cả nước quan tâm theo dõi, kịp thời chia buồn và cứu trợ. Nhờ sự giúp đỡ kịp thời của cả nước, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh, dần dần các vùng này đã trở lại cuộc sống bình thường. Những tin tức về trận lũ vừa được loan báo, những lời kêu gọi đã được phát đi thì những hành động hưởng ứng đã đáp lại ngay. Có người góp vào quỹ cứu trợ hàng triệu đồng, cũng có bạn nhỏ tự mình mang đến một hai nghìn bạc vốn dành dụm từ món tiền ăn sáng của mình để góp phần nhỏ bé. Một khía cạnh nào đó, hành động "Lá lành đùm lá rách" không phải chỉ có ý nghĩa giúp đỡ người khác, mà chính là giúp đỡ mình. Thường khi gói bánh, lá lành nằm bên ngoài, lá rách nằm bên trong để gói. Gói như vậy thì chiếc bánh mới kín, mới cứng. Giúp người khác, chia sẻ với người khác để người khác, làng khác, tỉnh khác … vượt lên khó khan, đứng vững, chính là góp phần cho đất nước đứng vững, vượt lên. Cuối cùng, cái kết quả tốt đẹp ấy, mỗi người đều được hưởng. Bởi vậy, "Lá lành đùm lá rách" không còn là phương châm cho những hành động nhất thời, đặc biệt, mà đã trở thành một cách sống tốt đẹp trong cuộc sống của chúng ta. Hằng ngày, vẫn có những người lặng lẽ quyên góp chút ít tiền bạc, quần áo cho một trại phong, một trại nuôi dưỡng người già neo đơn, một trại trẻ mồ côi, một gia đình khó khan, một người tàn tật, … Nhân những dịp lễ tết, những người trong phường lại chạnh nhớ để chia sẻ với những bà con nghèo còn thiếu thốn. "Lá lành đùm lá rách", câu nói ngày xưa chỉ mang một ý nghĩa hẹp, nhằm kêu gọi sự đùng bọc lẫn nhau trong một nhà, một họ hay rông lắm là một làng. Càng ngày, cùng với sự phát triển của đời sống, sự hiểu biết của con người, ý nghĩa của câu nói càng mang một nội dung nhân đạo sâu sắc và rộng rãi. Đây là một câu nói của tình thương đầy tính nhân đạo. Trong một xã hội, không có một sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh của tình thương. Tình thương càng phát triển thành tình cảm chung của mọi người, thành nếp sống phổ biến của xã hội thì tội ác cũng sẽ thu hẹp lại, xã hội sẽ ổn đinh hơn, tốt đẹp hơn. Cái thiện sẽ đẩy lùi cái ác. Riêng bản thân em, câu tục ngữ "Lá lành đùm lá rách" cũng gợi cho em nhiều suy nghĩ. Trong trường, trong lớp em, có không ít bạn có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều bạn đi học với chiếc áo vá, với cái bụng lép, ngoài giờ học còn phải vất cả phụ giúp cha mẹ kiếm sống hoặc tự nuôi mình. Nếu em bỏ đi một món mua sắm, tiêu xài chưa cần thiết, em cũng có thể giúp cho bạn mình đỡ chút khó khan. Nhiều người làm được như vậy chắc chắn sẽ có ý nghãi lớn hơn. "Lá lành đùm lá rách" thật là một cách nói đầy sáng tạo và sâu sắc của người xưa. Tục ngữ không chỉ là văn chương mà còn là triết lý. Sống là phải quan tâm đến người khác, phải chia sẻ khó khăn cùng người khác. Đạo lý sống ấy thật tốt đẹp mà ngày nay ta cần nuôi dưỡng phát huy. Bình luận câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách – Bài làm 2 Lao động tình thương, lẽ phải là vẻ đẹp tính cách của con người Việt Nam. Đặc biệt, tình thương là biểu hiện cao quý của đạo lí dân tộc. Kho làng văn học dân gian có nhiều bài ca dao, tục ngữ tuyệt hay nói về tình thương người. Một trong những câu tục ngữ được cha ông nhắc nhở con cháu là câu: "Lá lành đùm lá rách. ” Chúng ta cần tìm hiểu câu tục ngữ trên thế nào cho đúng? “Lá lành, lá rách” là hai trạng thái sống tương phản của cỏ cây trong thiên nhiên. “Đùm” nghĩa là đùm bọc, bao bọc, che chở, bảo vệ. “Lá lành đùm lá rách”: Lá lành" đùm bọc, bao bọc. che chở, bảo vệ cho “lá rách" để cùng tồn lại trong một cơ thể sống của cây cỏ nước nắng gió, thời gian. “Lá rách” có được "lá lành" đùm bọc, chở che thì đất trời mới có màu xanh, mới có sự sinh sôi nảy nở của thực vật. Hình ảnh bình dị, dân dã mà xúc động lòng người: sự đùm bọc của những người bình dân. Nhân dân ta mượn cây cỏ làm ẩn dụ nói lên mối quan hệ giữa con người với con người. “Lá lành” – biểu tượng nói về những con người có cuộc đời ấm no, hạnh phúc, vui tươi, khoẻ mạnh. “Lá rách”- biểu tượng chỉ những con người bất hạnh, đói rét, ốm đau. họan nạn… Lấy biểu tượng “Lá lành đùm lá rách”, nhân dân ta nhắc nhắc nhở mọi người biết thương yêu, đùm bọc đồng loại, biết tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, vượt qua họan nạn khó khăn, cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc lâu dài. Có thể nói, câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách” nêu lên bài học đạo lí về tình thương nhằm giáo dục mọi người. Câu tục ngữ "Lá lành đùm lá rách” là hoàn toàn đúng. Nó biểu dương mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó trong nhãn dán ta từ bao đời nay. Cùng sinh sống trong một vùng quê, một đường phố, học chung một mái trường, với tình làng nghĩa xóm, lúc tắt lửa tối đen có nhau, ngọt bùi đắng cay cùng chia sẻ. Vì tình người và nghĩa đồng bào mà mọi người đều biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, biết sống đẹp “Lá lành đùm lá rách”. Cuộc sống đầy rẫy khó khăn. Khi gặp thiên tai, dịch, họa, lúc hoạn nạn… mọi người biết dựa vào nhau trên tình thương yêu. Nhờ thế mà cuộc sống đẹp đẽ hơn, đầy màu sắc ý vị hơn. Nào ai sống biệt lập, sống cô đơn, ích kỉ mà được hạnh phúc thật sự bao giờ? Mọi người đùm bọc, che chở, thương yêu nhau… sẽ cho ta thêm sức mạnh, sống nhân đạo hơn, xã hội ngày một văn minh, tốt đẹp hơn. Mọi người trong cộng đồng phải biết tương thân tương ái để mưu cầu hạnh phúc và làm sáng đẹp đạo lí của dân tộc 'Thương người như thể thương thân”. Bài học mà câu tục ngữ "Lá lành đùm lá rách " neu lổn luôn luôn mới mẻ với mọi người. Nó nhắc ta biết hướng thiện và làm việc thiện. Tính nhân ái là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta được hun đúc qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước tình thương là thước đo phẩm chất, nhân cách của mỗi thành viên trong gia đình, ngoài xã hội. Tình thương phải thể hiện được bằng việc làm cụ thể: săn sóc người già yếu. bệnh tật, an ủi người đau thương, giúp đỡ trẻ mồ côi, chi viện cho đồng bào bị thiên tai, dịch bệnh. Một miếng khi đói bằng một gói khi no; một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; chị ngã em nâng… lá lành đùm lá rách là như vậy. “Gia huấn ca " tương truyền là của Nguyễn Trãi(?) có những vần thơ đầy tình người: "Tiếng rằng ngày đói, tháng đông, Thương người bớt miệng, bớt lòng mà cho. Miếng khi đói, gói khi no, Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng "… Mấy chục năm chiến tranh, bão lụt cơ hàn triền miên… thế mà nhân dân ta vẫn vượt qua để đi tới. Phong trào giúp đỡ miền Trung bị bão lụt, quỹ giúp đỡ học sinh nghèo, trẻ mồ côi, phong trào xoá đói giảm nghèo… do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động dã được đông đảo nhân dân ta hưởng ứng nhiệt liệt. Một ngày công, một quyển vở, một chiếc áo… gửi tặng nói lên tấm lòng thơm thảo nghĩa tình, làm cho tình yêu thương đoàn kết dân tộc thêm keo sơn, gắn bó. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã viết: "Đứa ăn mày cũng trời sinh, Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không ''. Tình thương người được nhân lên dưới ánh sáng cách mạng: “Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Đó không chỉ là câu thơ đẹp mà còn là tấm lòng đẹp, tình nhân ái, nghĩa đồng bào, đồng chí và là biểu hiện sâu sắc nhất "Lá lành đùm lá rách". Tóm lại câu tục ngữ nêu lên một triết lí sống đẹp: người với người là bạn nên ai cũng phải biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Con người chi dẹp khi sống giàu tình thương. Xã hội không chỉ đẹp vì sự giàu sang vật chất mà còn vì văn minh, nhân ái. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta phấn đấu vì một mục tiêu cao cả: dân giàu nước mạnh. Đến với một ngày mai tốt đẹp ấy, mọi người Việt Nam càng cần yêu thương, giúp đỡ nhau hơn. Đời đã đẹp và tình người càng thêm đẹp. Bình luận câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách – Bài làm 3 Đoàn kết, tương thân tương ái là một tình cảm đặc biệt và nổi bật trong nhân sinh quan của mỗi con người Việt Nam xưa và nay. Nhờ vậy mà dân tộc ta đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, thử thách, thiên tai, dịch bệnh…, đứng vững vàng giữa năm châu, bốn bể. Đã có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ trong kho tàng ca dao, tục ngữ của dân tộc đề cập đến vấn đề này. Câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách” là một trong số đó. Câu tục ngữ trên cho ta thấy bài học làm người, phản ánh mối quan hệ tình cảm đậm đà giữa người với người. Nghĩa đen của câu tục ngữ phản ánh một hiện tượng rất đỗi bình thường trong sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ta. Đó là việc dùng lá để gói hàng, ngày xưa thì lá thông dụng được dùng để gói mọi thứ. Khi lá bị rách thì người ta sẽ lấy một tấm lá khác bao bọc bên ngoài cho. thêm phần chắc chắn. Nhưng không chỉ vậy, hình ảnh “lá lành”, “lá rách” ở đây mang ý nghĩa tượng trưng cho con người chúng ta trong những hoàn cảnh, thời điểm khác nhau. “Lá lành” là con người lúc yên ổn, thuận lợi, giàu có. Còn ngược lại “lá rách” là con người lúc sa cơ, thất thế, nghèo khó. Bằng lối nói tượng trưng, dùng hình ảnh cụ thể và giản dị, câu tục ngữ ngụ ý khuyên chứng ta nên biết chia sẻ, giúp đỡ, cảm thông, xót thương những người bị rơi vào cảnh ngộ cùng quẫn, cô đơn. Câu tục ngữ đã thể hiện mối quan hệ tình cảm tốt đẹp đậm đà của nhân dân ta từ xưa đến nay trong xã hội. Đoàn kết, tương thân tương ái vốn là một truyền thống tốt đẹp đáng tự hào của dân tộc ta. Ngoài câu tục ngữ trên, trong kho tàng ca dao, tục ngữ còn rất nhiềụ^câu tương tự như thế: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người chung một nước phải thương nhau cùng” hay “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”… Các câu trên đều khuyên nhủ ta: Hễ là đồng bào thì nên đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với nhau trên tinh thần tương thân tương ái, không nên thờ ơ, ngoảnh mặt, quay lưng trước nỗi bất hạnh của người khác; mà trái lại, phải luôn luôn quan tâm, giúp đỡ, đùm bọc, che chở người khó khăn, thất thế. Những người giàu có nên yêu thương, giúp đỡ cho những người nghèo khổ, nhất là những khi họ gặp hoạn nạn, tai ương. Những người có địa vị cao trong xã hội nên tạo điều kiện giúp đỡ quần chúng được sống một đời sông ấm no, hạnh phúc. Đúng như tinh thần của người xưa đã từng khuyên dạy: “Thấy ai đói rách thì thương, Rét thường cho mặc, đói thường cho ăn”. Trong đời sống xã hội, hoàn cảnh con người dễ thay đổi thất thường, khi thành công khi thất bại, khi được khi mất, khi giàu có khi nghèo khổ. Vì thế tinh thần tương thân tương ái giúp cho xã hội tránh được mầm móng chia rẽ, xung đột, xây dựng được tình đoàn kết, tương thân tương ái. Điều đó cho thấy rằng lòng nhân ái hay tình cảm nhân đạo chính là một phẩm chất tốt đẹp mà mỗi cá nhân cần phải có để lấy đó làm nền tảng xây dựng nên một xã hội bình đẳng, thân ái, hoà bình, ổn định. Cũng phải nhận ra rằng thờ ơ trước nỗi đau, bất hạnh của ngữời khác là một thói xấu, một thái độ ích kỉ, vô lương tâm. Trong đời sống còn nhiều khó khăn của xã hội ta hiện nay, hơn lúc nào hết, lòng nhân ái, tình cảm thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, phải được nâng lên thành ý thức tự giác trong mỗi con người chúng ta. Câu tục ngữ này đã được tiếp nối bao đời trong các thế hệ người Việt, khẳng định truyền thống cao quý trong đạo lí làm người của dân tộc ta. Chính nhờ sự đoàn kết keo sơn, tinh thần tương thân tương ái đậm đà nèn trải qua bao cuộc xâm lược dã man, nhân dân vẫn bảo vệ được nền độc lập, bảo vệ được sự sống còn, vững mạnh của đất nước cho đến ngày nay. Và một điều quan trọng nữa là “Lá lành đùm lá rách” nghĩa là người khoè mạnh, bình thường phải giúp đỡ người yếu đuối, khó khăn là một bổn phận cần thiết nhưng không được xuất phát từ động cơ cá nhân thấp hèn và cũng không phải là hành động ban ơn kiểu bố thí; mà nhất thiết là phải bắt nguồn từ lòng nhân ái hay tình cảm nhân đạo thực sự. Và người được giúp đỡ cũng không được ỷ lại, hoàn toàn sống nhờ vào tình thương xót của người khác để trở nên thụ động, biếng nhác, mà phải biết vươn lên hoàn cảnh. Tóm lại, tình yêu thương, đùm bọc nhau là một truyền thống tốt đẹp về đạo lí làm người của dân tộc ta đã được giữ vững và phát huy qua nhiều thế hệ, giai đoạn lịch sử của đất nước. Ngày nay truyền thống ấy cần được kế thừa và phát huy manh mẽ hơn nữa. Mỗi người chứng ta phải có ý thức đoàn kết tương ái, tương thân, tương trợ lẫn nhau trong sinh hoạt, học tập, sẵn sàng, tích cực tham gia các công tác cứu trợ xã hội, hoạt động từ thiện. Đồng thời, hơn ai hết, thanh niên chúng ta cần kiên quyết chống tư tưởng ỷ lại, đề cao tinh thần tự lực cánh sinh.
Bình luận câu tục ngữ_ Lá lành đùm lá rách – Văn mẫu lớp 9
3,218
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Bài làm 1 2 Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Bài làm 2 3 Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Bài làm 3 4 Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Dàn ý Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Bài làm 1 Người xưa cho rằng trăm hay là sự hiểu biết về lí thuyêt, tay quen là kĩ năng thực hành, nghĩa là người làm công việc nào đó trở nên thuần thục điêu luyện, đạt được hiệu quả nhất định. So sánh giữa “trăm hay” không bằng “tay quen”, chẳng qua người xưa muốn đề cao, chú trọng người trực tiếp làm ra sản phẩm, coi nhẹ người chỉ hiểu biết lí thuyết. Thực ra, nếu nhìn vào thao tác của người lao động và sô sản phẩm anh ta tạo ra thì ý nghĩa câu tục ngữ trên là đúng. Vì trong lao động sản xuất, có người được tiếp thu nhiều nguồn tri thức, hiểu rộng, biết nhiều nhưng khi làm (thực hành) lại tỏ ra lúng túng, thao tác chậm chạp, hiệu quả thấp, thậm chí thất bại… Từ thực tế đó mà người xưa cho rằng: tay quen hơn hẳn trăm hay. Tay quen là sự thuần thục trong lao động sản xuất, phần lớn người lao động trưởng thành từ thực tế, họ không được học hành qua các trường lớp nào, việc làm được lặp đi lặp lại, mùa này qua mùa khác nên thuần thục, giỏi giang, có kinh nghiệm để vận dụng vào thực tê lao động sản xuất. Câu tục ngữ đúng khi vận dụng vào nền sản xuất nhỏ, chủ yêu là tiểu nông chậm phát triển, lao động sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cùng sự may rủi của thiên nhiên. Nếu vận dụng ý nghĩa câu tục ngữ vào thực tế công cuộc lao động sản xuất ngày nay thì có mặt chưa đúng, chưa hài hòa. Thực ra lí thuyết và thực hành có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ cho nhau. Lí thuyết giúp cho thực hành hiệu quả cao, tạo cho thực hành có kĩ năng, kĩ xảo hơn, tránh được những thiệt hại đáng tiếc xảy ra. Rút ngắn được thời gian mà hiệu quả vẫn cao. Trong thời đại khoa học ngày nay, tri thức rất quan trọng. Tri thức tạo ra lí thuyết, tri thức vận dụng vào thực hành. Lí thuyết và thực hành cùng chung một nhiệm vụ là thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, góp phần xây dựng đất nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bác hồ dạy chúng ta: “học đi đôi với hành”. Do đó, ta không thể coi “trăm hay” thua “tay quen” được, mà tay quen và trăm hay có mối quan hệ mật thiết, khăng khít, hỗ trợ cho nhau. Vì học mà không hành thì học vô ích. Nếu chú trọng hành mà không học, không nắm vững khoa học kĩ thuật thì hành cũng gặp trở ngại, năng suất thấp. Học đi đôi với hành là phương châm đúng đắn với mọi ngành, mọi nghề, đã và đang vận dụng có hiệu quả trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước, trong việc đưa khoa học kĩ thuật vào lao động sản xuất, tạo ra nhiều của cải vật chất, tinh thần, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống con người, xây dựng xă hội văn minh, giàu đẹp. Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Bài làm 2 Từ xưa đến nay, mỗi quan hệ giữa lí thuyết và thực hành trở thành quan tâm của mọi người. Xuất phát từ thực tế của một nền kinh tế chậm triển trước kia, ông cha ta nói "Trăm hay không bằng tay quen''. Câu tục ngữ trên nhằm đề cao vai trò của thực hành quan trọng hơn lý thuyết. Vậy nội dung ấy đúng hay sai? Ngày nay ta cần hiểu quan niệm như thế nào cho hợp lí? Câu tục ngữ có hai vế: "Trăm hay" là cách nói mộc mạc, có nghĩa là biết hàng trăm điều tức là biết nhiều, lí thuyết giỏi. Còn "tay quen" có nghĩa là thaọ việc, làm thuần thục, nói cách khác là thực hành giỏi, thành thạo công việc. Như vậy, câu tục ngữ "Trăm hay không bằng tay quen" muốn khẳng định biết lí thuyết nhiều cũng không thể bằng thói quen thành thạo công việc. Nếu lấy chất lượng, số lượng sản phẩm được làm ra để làm thước đo năng lực, để đánh giá người lao động thì ý nghĩa câu tục ngữ trên là đúng. Bởi thực hành mới trực tiếp sản xuất ra hàng hoá, mới làm ra của cài vật chất. Và tất nhiên phải quen tay mới thuần thục công việc cho nên người lao động, công nhân mới làm ra những sản phẩm có chất lượng và có số lựợng cao. Trong thực tế, đã có biết bao người hiểu rộng, biết nhiều lí thuyết nhưng khi bắt tay vào thực hành lại lúng túng, dẫn đến thất bại. Ngược lại, có những người không được học hành, không được đào tạo ở một trường lớp nào cả, nhưng với những thực tế lao động, từ những kinh nghiệm trong quá trình rèn luyện được tích luỹ họ trở thành người có tay nghề giỏi. Đó là những người thợ máy lâu năm, những thợ thủ công lành nghề theo kiểu cha truyền con nối nên họ có tay nghề cao, làm việc có hiệu quả ít ai sánh được. Vì lẽ đó mà cha ông ta đã định vai trò quan trọng của thực hành trong đời sống hàng ngày. Đồng thời qua đó ông cha ta cũng có thái độ trân trọng, đề cao người lao động trực làm ra của cải vật chất cho xã hội tiêu dùng. Đối với một nước nông nghiệp lạc hậu thì nội dung câu tục ngữ trên có thế chấp nhận. Tuy nhiên, bên cạnh điều chấp nhận đó, ta cũng thấy rõ mặt chưa đúng của câu tục ngữ. Bởi lẽ, thói quen kinh nghiệm, thành thạo công việc dù có quan trọng như thế nào cũng không phải là tất cả. Muốn tinh thông nghề nghiệp thì ngoài "quen tay" còn phải có "trăm hay" mới được. Nếu như chỉ "quen tay” thành thạo việc thì người thợ thủ công không thể chuyển công việc của sang sản xuất bằng máy móc để có năng suất cao được. Như vậy tư tưởng “trăm hay không bằng tay quen" không chỉ thể hiện qua việc coi thường học vấn coi thường khoa học mà còn thể hiện tư tưởng tự mãn với thói quen sẵn có của mình; đồng thời nó cũng biểu hiện một khuynh hướng bảo thủ. Bởi vì thành quả của "tay quen" ấy, con người không dễ gì chịu tiếp thu tư tưởng mới, kĩ thuật mới bao giờ. Đó là một trơ ngại cho sự tiến bộ, cho thời đại Khoa học kĩ thuật và kinh tế tri thức. Ngày nay trong thời đại khoa học kĩ thuật đang phát triển mạnh thì sự hiểu tri thức, "trăm hay" của con người rất là cần thiết. Bởi có "thực hành" nào không cần đến "lí thuyết" đâu. Có nắm vững lí thuyết ta mới thực hành dễ và đạt kết quả cao. Lí thuyết chỉ đạo cho thực hành, và thực hành là để nghiệm lại, bổ sung và nâng cao hoàn thiện cho lí thuyết. Lí thuyết giỏi với thành thạo việc sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn. Vì vậy ta không nên xem nhẹ bất cứ một mặt nào mà phải kết hợp tác hai chiều giữa lí thuyết và thực hành. Ta cũng nên hiểu rằng có học mà người thực hành chỉ là lí thuyết suông. Thực hành mà không biết lí thuyết thì việc gì cũng gặp khó khăn. Do đó ta mới đánh giá đúng mức mỗi liên quan giữa lí thuyết và thực hành. Tóm lại, câu tục ngữ "Trăm hay không bằng tay quen" tuy có đề cao vai trò của kĩ năng thực hành, đề cao năng lực thành thạo công việc thì đó cũng là khía cạnh rất có ý nghĩa trong việc đào tạo người lao động mới. Và đế đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của xã hội ngày nay, ta thấy phương châm "Học phải đi đôi với hành", "trăm tay" đi liền với "tay quen" là đúng đắn và phù hợp nhất. Hiểu và thực hiện tốt được điều này không những ta góp phần đổi mới cuộc sống mà ta còn phát huy tính sáng tạo ngày càng cao để phục vụ đời sống con người, đưa đất nước tiến vào hội nhập và phát triển cùng thế giới. Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Bài làm 3 Trong hoạt động sản xuất lao động xưa kia, ông cha ta luôn có xu hưởng tích lũy lại các tri thức, kinh nghiệm lại cho con cháu các đời sau. Tuy nhiên, cũng vì lúc bấy giờ không có chữ viết, người Việt Nam chủ yếu là nông dân, không được tiếp xúc nhiều với sách vở, tri thức. Vì vậy, cách thức duy nhất mà các con cháu của các thế hệ sau lĩnh hội được những kinh nghiệm sản xuất của cha ông ta đời trước, đó chính là thông qua những câu tục ngữ, ca dao được truyền miệng. Những câu tục ngữ được ông cha ta sáng tác dựa trên những kinh nghiệm, tri thức thực tế, có đặc điểm là rất ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, súc tích mà rất vần. Trong số những câu tục ngữ được truyền từ đời này qua đời khác ấy, có câu tục ngữ “Trăm hay không bằng tay quen”. Câu tục ngữ “Trăm hay không bằng tay quen” là câu tục ngữ mà ông cha ta muốn nhấn mạnh đến vai trò của những thói quen lao động, và trong cách nhìn nhận, đánh giá của ông cha ta thì “trăm cái hay” là điều rất tốt, được khuyến khích, nhưng nó cũng không bằng ‘hay quen” tức là khả năng vận dụng vào thực hành. Sự am hiểu nhiều nhưng khi không được đưa vào thực tế của sản xuất thì nó cũng mãi chỉ là lí thuyết xuông, không hề có gí trị. Vì vậy, ông cha ta đã có câu tục ngữ “trăm hay không bằng tay quen” để nói đến vị trí cốt yếu của việc thực hành, của sự vận dụng vào thực tế. “Trăm hay” ở đây ta có thể hiểu nó là những cái tri thức, hiểu biết, sự am hiểu của con người về thế giới tự nhiên, về con người, sự vật hiện tượng. Sự hiểu biết này không chỉ góp phần mở mang tầm hiểu biết của con người trong cuộc sống, từ đó có những phản ứng, tri thức thích hợp khi gặp những trường hợp, tình huống cụ thể nào đó. Từ rất xa xưa, dù không có chữ viết, con người cũng không có điều kiện được tiếp xúc với sách vở. Nhưng cũng không vì thế mà con người coi thường hay lơ là việc học hỏi, tìm tòi những hiểu biết, những tri thức mới, cách thức tuy có khác chúng ta ngày nay, đó là họ chỉ dựa vào sự quan sát và đánh giá thực tế. Nhưng về mục đích cuối cùng thì đều giống nhau. Tuy chỉ là hoạt động sản xuất nông nghiệp nhưng cũng đòi hỏi rất nhiều những kĩ năng, không chỉ đơn thuần là bỏ ra sức lực, những giọt mồ hôi mà có thể đạt được một mùa vụ tốt nhất, để sản xuất một mùa thóc, người nông dân phải cần rất kĩ lưỡng, tỉ mỉ qua từng giai đoạn, như làm đất cyaf bừa, tát nước vào ruộng cho đất mềm và tơi xốp, cấy lúa theo hàng, chăm sóc lúa và cuối cùng là biết được độ chín của lúa để làm hoạt động thu hoạch. Những hoạt động này nghe thì có vẻ đeon gian nhưng khi thực hiện vào trong thực tế thì không hề đơn giản một chút nào. Trong hoàn cảnh sản xuất nông nghiệp có chút khắt khe như vậy. Nếu như con người không có chút lí thuyết, không hiểu biết gì về công việc đồng áng, thì hoạt động sản xuất nông nghiệp không thể diễn ra, hoặc nếu có thể diễn ra thì cũng không thể cho một mùa màng bội thu như mong muốn. Vì vậy mà xưa nay ông cha ta cũng rất coi trọng việc “trăm biết”. Nếu trăm biết là nói về sự tích lũy tri thức, học hỏi những kinh nghiệm của sản xuất, của lao động thì câu “trăm làm” ông cha ta lại nhấn mạnh đến phần thực hành của việc học hỏi, tích lũy ấy. Theo đó,trăm làm chỉ sự cần mẫn, chăm chỉ của con người trong quá trình sản xuất, tăng gia hoạt động nông nghiệp. Chính sự cần mẫn của hoạt động ấy là yếu tố quyết định nhất xem việc sản xuất có thành công hay không, hay mất mùa, thất bại. Ở trong câu tục ngữ “Trăm hay không bằng tay làm” vẫn đề cao lợi ích của việc học hỏi, tìm tòi, tích lũy những kinh nghiệm. Bởi nó chính là yếu tố tiền đề để những người nông dân có những tri thức sản xuất, có thể qua đó mà vận dụng vào thực tiễn sản xuất. Tuy nhiên, ông cha ta cũng nhấn mạnh, nếu những tri thức ấy không được vận dụng vào thực tiễn mà chỉ tồn tại dạng lí thuyết trong đầu óc của chúng ta thì chúng hoàn toàn vô ích, bởi sự hiểu biết ấy không có gí trị, nó không được đem vào thực tế mà tồn tại như một thứ dùng để trang trí, để trưng bày. Mặt khác, thông qua việc cần cù, siêng năng trong ao động, sản xuất thì con người còn có thể tự tạo ra kinh nghiệm, chính sự gần gũi, quen thuộc trong hoạt động sản xuất sẽ mang lại cho con người những thói quen, mà lâu dần hình thành những kinh nghiệm, kĩ năng cần thiết cho việc sản xuất. Vì suy cho cùng thì những tri thức, hiểu biết cũng xuất phát từ thực tế mà ra, con người tìm tòi, học hỏi những tri thức mới cũng là để phục vụ cho thực tiễn, cũng là mong muốn làm cho cuộc sống con người trở lên tốt đẹp hơn. Như vậy, câu tục ngữ “Trăm hay không bằng hay làm” không hề phủ nhận đi vai trò của việc hiểu biết,của việc ham học hỏi, tìm tòi. Ngược lại còn có sự khuyến khích với sự tích cực ấy. Tuy nhiên, các tác giả dân gian càng khẳng định, nhấn mạnh yếu tố “hay làm” bởi đó là sự vận dụng tất yếu của việc hay biết vào sản xuất, đưa hay biết từ lí thuyết vào thực tế của hoạt động sản xuất. Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen – Dàn ý A. YÊU CẦU CỦA ĐỀ BÀI 1. Thể loại: Kiểu bài bình luận về vấn đề xã hội. 2.Nội dung – Câu tục ngữ được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống, do đó, khi bình luận cần làm nổi rõ: + Tầm quan trọng của kĩ năng thực hành (tay quen). + Mối quan hệ giữa lí thuyết (trăm hay) và thực hành. + Bình luận mở rộng vấn đề: phê phán việc coi trọng lí thuyết, coi nhẹ thực hành và ngược lại. Tư liệu: Kiến thức đã học từ bộ môn khác và thực tế đời sống. B.DÀN BÀI 1. ĐẶT VẤN ĐỀ – Nêu ý nghĩa, tầm quan trọng giữ lí thuyết và thực hành: “Học đi đôi với hành”. Và định kiến lệch giữa lí thuyết và thực hành. – Dẫn đề bài (câu tục ngữ). 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Vừa bình luận vừa giải thích ý nghĩa câu tục ngữ về mặt đúng và chưa đúng, có thể bình luận xen kẽ, hoặc tách từng phần riêng rẽ. + Ý đúng của câu tục ngữ. – Nếu nắm vững lí thuyết mà chưa một lần qua thực hành thì sẽ gặp khó khăn, thậm chí dẫn đến thất bại, gây hậu quả xấu. – Thực tế có người không được học hành qua các trường lớp nhưng do đúc kết được kinh nghiệm, hoặc thói quen được lặp đi lặp lại nhiều lần với một công việc nào đó nên khi làm có kĩ năng và đạt kết quả. Ý nghĩa này chỉ áp dụng ở hoàn cảnh xã hội mà nền kinh tế còn lạc hậu, khoa học kĩ thuật chưa phát triển. + Ý chưa đúng của câu tục ngữ: – Coi trọng thực hành mà xem nhẹ lí thuyết. Thực ra lí thuyết được xây dựng từ thực tiễn nên lí thuyết giúp cho thực hành đạt được hiệu quả cao, tạo cho thực hành có kĩ năng hơn, tránh được thiệt hại đáng tiếc xảy ra. + Từ đó mọi người cần coi trọng lí thuyết và thực hành, đó là mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ. Đúng như lời Bác Hồ dạy: “Học đi đôi với hành”. 3. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Muốn đạt được hiệu quả cao trong học tập, lao động sản xuất thì phải kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành. Thực hành càng nhiều thì lí thuyết càng sáng tỏ. Lí thuyết phù hợp với thực tiễn thì thực hành càng đạt hiệu quả cao.
Bình luận câu tục ngữ_ Trăm hay không bằng tay quen – Văn mẫu lớp 10
3,006
Trong một buổi sinh hoạt tổ học tập, các bạn tranh luận về câu tục ngữ: Ăn cây nào, rào cây nấy. Một số bạn cho rằng câu tục ngữ đó hoàn toàn đúng, một số bạn khác cho rằng câu tục ngữ đó hoàn toàn sai. Hãy trình bày ý kiến của anh (chị) về câu tục ngữ trên – Văn mẫu lớp 7 Câu tục ngữ Ăn cây nào, rào cây nấy của người xưa không ngờ hôm nay lại trở thành đề tài bình luận sôi nổi của tổ em. Đó có phải là sự thể hiện của một trong nhiều quan niệm sống ở đời? Nhiều bạn cho rằng câu tục ngữ này đúng ít, sai nhiều, nhưng cũng có bạn lại khẳng định nó hoàn toàn đúng. Ai cũng có dùng lí lẽ để chứng minh cho ý kiến của mình. Theo em, câu tục ngữ trên có mặt đúng và có măt cho đúng. Nghĩa chính của câu tục ngữ trên là: Ăn quả cây nào thì phải vun xới, giữu gìn, bảo vệ cây ấy. Nhưng cũng giống như bao câu tục ngữ ngắn gọn và hàm xúc khác, ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở đó. Sâu xa hơn, câu tục ngữ trên là một lời khuyên nhủ chúng ta phải bảo vệ, gắn bó với môi trường, với nguồn sống. Đặt câu tục ngữ vào hoàn cảnh ra đời của nó cách xa thời đại ngày nay bao thế kỉ, khi mà nền kinh tế tiểu nông còn thô sơ, lạc hậu theo chế độ tự cung tự cấp thì chúng ta mới thấy được mặt đúng của nó. Lúc bấy giờ, từng người, từng nhà phải hoàn toàn tự lo cho cuộc sống của bản thân , gia đình. Nhu cầu cuộc sống rất thấp, rất đơn giản nên sự trao đổi, ràng buộc giữa người với người chưa phức tạp lắm. Vì vậy, người ta phải gắn bó chặt chẽ và có ý thức bảo vệ nơi sinh ra và nuôi dưỡng mình. Câu tục ngữ trên rất đúng khi nó là một lời phê phán lối sống thực dụng, ích kỉ hại nhân, chỉ biết bo co giữ lấy quyền lợi vật chất cho riêng mình mà thờ ơ, thậm chí xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Lối sống ấy đã bị nhân dân ta nhiều lần đả kích và lên án : Của mình thì dữ bo bo, Của người thì thả cho bò nó ăm. Trên đây là mặt đúng của câu tục ngữ, còn mặt chưa đúng của câu tục ngữ ở chỗ nào? Nếu câu tục ngữ trên là phát ngôn của một quan niệm sống mang nặng tính cá nhân thực dụng và ích kỉ thì nó rất đáng cho chúng ta phê phán. Tại sao như vậy? Bởi vì mỗi con người là một thành viên của cộng đồng : gia đình, tập thể, xã hội. Trong cuộc sống hằng ngày, mọi người đều có mối quan hệ đa chiều với nhau, không ai có thể phủ nhận thực tế này. Chúng ta thấy rõ là người nông dân cày cấy trên đồng ruộng, dầu dãi một nắng hai sương, làm ra của khoai, hạt lúa nuôi đời. Người công nhân trong nhà máy, xí nghiệp sản xuất ra hằng trăm , hàng ngàn mặt hàng phục vụ nhu cầu đời sống. Người thầy đứng trên bục giảng truyền đạt kiến thức cho con em nhân dân. Người chiến sĩ ngày đêm nắm chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc…Tất cả đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó, nếu chỉ khư khư bảo vệ lợi ích của riêng mình mà không biết đến lợi ích toàn cục thì sẽ là một sai lầm lớn. Có những quyền lợi của cả cộng đồng ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới quyền lợi của mỗi cá nhân, đó là quyền lợi của giai cấp, dân tộc. Nhân dân ta cũng đã có câu: Nước mất thì nhà tan. Và như vậy thì quyền lợi của mỗi người cũng chẳng còn. Quan niện sống ích kỉ, thực dụng nhiều khi biến con người thành nạn nhân của chính nó. Kẻ ích kỉ hẹp hòi là kẻ suy thoái về mặt đạo đức, sống tách rời và đi ngược lại truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc. Theo em, quan niệm sống đúng đắn là quan niệm: Mình vì mọi người, mọi người vì mình. Sống trong một tập thể, mỗi người phải có trách nhiệm chăm lo, vun đắp và góp phần xây dựng quyền lợi chung, bởi trong đó có quyền lợi của cá nhân mình. Xã hội mới không phủ nhận quyền lợi cá nhân mà ngược lại rất tôn trọng, nếu nó không xâm phạm tới quyền lợi của người khác, của tập thể, giai cấp và dân tộc. Thực tế ngày nay cho thấy có biết bao bạn học sinh giỏi đã đem lại vinh dự cho bản thân, gia đình và nhà trường. Bao người làm ăn giỏi góp phần ích nước, lợi nhà, dân giàu, nước mạnh. Qua buổi thảo luận về câu tục ngữ: Ăn cây nào, rào cây nấy, chúng em hiểu ra được nhiều điều. Tuy các ý kiến chưa phải là đã thống nhất với nhau hoàn toàn nhưng điều ai cũng thấy là cách sống chỉ biết mình không còn phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay nên trước sau, nó sẽ bị loại trừ. Có như vậy, xã hội mới phát triển theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp.
Bình luận câu tục ngữ_ Ăn cây nào rào cây ấy – Văn mẫu lớp 7
937
Nội dung bài viết1 Bình luận câu tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Bình luận câu tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn – Bài làm 2 Bình luận câu tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Tục ngữ Việt Nam giàu có, óng ánh sắc màu trí tuệ. Nó đúc rút bao kinh nghiệm quý báu trong dân gian. Là bài học nhân sinh, là cách ứng xử … nó dạy khôn, dạy khéo để làm người. Chỉ một chuyện học mà nhân dân ta có bao câu tục ngữ mang tính giáo dục sâu sắc. Một trong những câu tục ngữ đó là câu: "Đi một ngày đàng học một sàng khôn " . Chúng ta cần hiểu câu tục ngữ này như thế nào cho đúng và đầy đủ? "Một ngày" so với một năm là ngắn. "Một ngày" trong một đời người trăm năm là vô cùng cực ngắn. "Đi một ngày đàng" đối với khách bộ hành thì quãng đường đi được có là bao ? Thế nhưng nhân dân ta lại khẳng định là "học một sàng khôn". "Khôn" là điều hay, điều tốt, cái mới mẻ rất bổ ích đối với mọi người để mở mang trí tuệ, trau dồi nhân cách. "Sàng" là công cụ lao động, đan bằng tre, nứa của nhà nông dùng để sàng gạo. "Sàng khôn " là biểu tượng chỉ khối lượng kiến thức rất lớn, rất nhiều mà người bộ hành đã "học" được sau một hành trình, "đi một ngày đàng". Tóm lại, câu tục ngữ có 2 vế tương phản đối lập với cách nói thậm xưng trong mối tương quan 2 vế: đi ít mà học được nhiều, qua đó khẳng định một chân ụ, đề cao một bài học kinh nghiệm, nhằm khuyên nhủ mọi người biết đi nhiều để mở rộng tầm mắt và sự hiểu biết, sống nhiều, học hỏi trong thực tế cuộc sống. Tại sao "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn"? Câu tục ngữ "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn " là hoàn toàn đúng ! Học ở trường, học trong sách vở, học thầy, học bạn. Chúng ta còn cần phải biết học hỏi trong thực tế cuộc sống rộng lớn của xã hội. Nhân dân là ông thầy vĩ đại của mỗi chúng ta. Học tập trong thực tế cuộc sống là phương thức học tập khòa học nhất: học đi đôi với hành, học tập gắn liền với lao động sản xuất và hoạt động xã hội. Nếu chỉ biết quanh quẩn trong bốn bức tường lớp học, cách học tập như thế đã xa rời cuộc sống, học sinh bước vào đời sẽ lúng túng, thiếu năng động. Cá không thể xa rời nước, chim không thể thoát li bầu trời, người đi học cũng vậy, học tập cũng không thể tách rời thực tế cuộc sống xã hội. Đi rộng biết nhiều, "Đi một ngày đàng" tầm mắt được mở rộng, thấy được bao cảnh lạ, tiếp xúc được nhiều người, nghe được bao nhiêu điều hay lẽ phải của thiên hạ. Từ đó mà biết suy xét: xa lánh điều xấu kẻ xấu, học tập cái hay, noi gương người tốt việc tốt; "học một sàng khôn" là như vậy. "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn " là cách học tập và giáo dục kết hợp chặt chẽ giữa 3 môi trường: gia đình – nhà trường – xã hội. Kiến thức sách vở được củng cố khắc sâu. Sự hiểu biết được, mở rộng và nâng cao. Cùng với trang sách học đường, ta có thêm pho sách cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Những hoạt động của thầy và trò như ngoại khóa, cắm trại, đi tham quan là rất bổ ích. Nó đem lại nhiều sinh khí cho trường học. Học sinh được dến với đồng quê, nhà máy, danh lam thắng cảnh … mà yêu thêm nhân dân lao động, tự hào với quê hương đất nước. Đi hội Lim ta thấy được cái hay của câu hát "Liền anh liền chị … ". "Bèo dạt mây trôi … " của làn điệu dân ca Quan họ tuyệt vời. Đến với đền Hùng, ta trở về cội nguồn, lòng ta xôn xao bài ca tình nghĩa: "Ai về Phú Thọ cùng ta, Nhớ ngày giỗ Tổ tháng ba mồng mười. Dù ai đi ngược về xuôi, Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba" Đến với Ba Đình lịch sử, viếng lăng Bác Hồ, xúc động trước cuộc đời cách mạng sôi nổi, phong phú của lãnh tụ, mỗi học sinh chúng ta mới thấy hết cái hay của vần thơ Viễn Phương: "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng, Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ" (Viếng lăng Bác) Thi hào Nguyễn Du đã từng viết: "Nghe khúc hát thôn quê mới học được lời nói trong nghề trồng dâu, gai". Văn hào Gorơki tuy chưa bước qua ngưỡng cửa trường Đại học, nhưng nhờ tự học mà đã trở thành một danh nhân văn hóa thế giới và ông đã từng nói: "Dòng sông Vônga và thảo nguyên mênh mông là những trường đại học của tôi". "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn" là một bài học vô cùng sâu sắc đối với mỗi người. Sau thời cắp sách là thời làm ăn và tự học; học trong công việc, học trong cuộc đời. Và có đi đường, có sống nhiều, lặn lội với dời mới biết đường đi khó, lắm thử thách gian nan. Phải có quyết tâm vượt khó, có bản lĩnh chiếm lấy tầm cao để thực hiện hoài bão của mình: "Đi đường mới biết gian lao, Núi cao rồi lại núi cao trập trùng; Núi cao lên đến tận cùng, Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non" ("Đi đường" – Hồ Chí Minh) Câu tục ngữ trên cho ta thấy đầu óc thực tế của người lao động. Nhân dân ta hiếu học, nhưng thuở xưa, mấy ai được cắp sách đến trường ? Cho nên trong dân gian lưu truyền nhiều câu tục ngữ đề cao việc học hỏi trong thực tế cuộc sống: – "Đi một buổi chợ, học một mớ khôn". – "Qua một chuyến đò ngang, học một sàng mới lạ". – "Ở nhà nhất mẹ nhì con, Ra đường còn lắm kẻ giỏi hơn ta". – v.v … Trên con đường học tập đi tới một ngày mai đẹp, học sinh chúng ta phải chăm chỉ, cố gắng, coi "sách vở là vũ khí, lớp học là chiến trường " như A. Mixi đã dạy. Phải khắc sâu vào trái tim: "Không thầy đố mày làm nên", "Học thầy không tày học bạn". Phải coi trọng lởi khuyên của ông bà cha mẹ: "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Chỉ có điều là phải khiêm tốn, biết quan sát, lắng nghe, biết suy ngẫm thật, giả, tốt, xấu … thì việc học hỏi trong thực tế cuộc sống mới thu được nhiều điều "khôn" mà ta hằng mong muốn. Bình luận câu tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn – Bài làm 2 Xã hội loài người phát triển được như ngày nay là nhờ quá trình tìm hiểu, nhận thức, tích lũy và không ngừng nâng cao tri thức của tất cả các dân tộc trên thế giới. Tri thức rất cần thiết đối với con người. Muốn có tri thức phải học hỏi. Học trong sách vờ, học từ thực tế cuộc sống. Ông cha ta xưa kia đã nhận thức rất đúng đắn về vai trò của việc học nên đã khuyên nhủ, động viên con cháu: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Xã hội Việt Nam trước đây là xã hội phong kiến còn nhiều bảo thủ, lạc hậu. Người dân quanh năm suốt tháng chỉ quanh quẩn trong lũy tre xanh, ranh giới của cộng đồng làng xã. Có người suốt đời chẳng bước ra khỏi cổng làng. Số người được đi xa để ăn học hoặc làm việc rất hiếm hoi. Vì vậy, trình độ hiểu biết của mọi người nói chung khó mà mở rộng hoặc nâng cao lên được. Tuy vậy trong sự ràng buộc của tư tưởng báo thủ, lạc hậu, vẫn lóe lên những tia sáng nhận thức về sự cần thiết phải học hỏi để nâng cao hiểu biết. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Chỉ cần “đi một ngày đàng” ý nói thời gian ít ỏi và quãng đường không xa là bao so với nơi ta sinh sống thì ta đã học được một sàng khôn (hình ảnh cụ thể, gần gũi để chứa đựng một khái niệm trừu tượng, đó là sự hiểu biết của con người). Nếu chịu khó đi thì ta sẽ học được nhiều bài học bổ ích trong cuộc đời, bởi trên khắp các nẻo đường đất nước, nơi nào cũng có vô vàn những điều hay, điều lạ. Để động viên tinh thần học hỏi, dân gian đã có những câu có nội dung tương tự như câu tục ngữ trên: “Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân cũng trải – Đồng Nai cũng từng”; “Làm trai đi đó đi đây – Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn. Điều đó chứng tỏ ông cha ta đã nhận thức được rằng, việc nâng cao hiểu biết là điều quan trọng cần thiết và phải khuyến khích. Hiểu biết càng nhiều, con người càng có cách xử thế đúng đắn trong quan hệ gia đình và xã hội. Trình độ hiểu biết tạo điều kiện cho con người làm việc tốt hơn, đạt hiệu quả hơn. Hiện nay, chuyện đi đó đi đây không còn là chuyện hiếm có như xưa. Ai cũng có quyền tự do đi lại, học hành, kể cả ra nước ngoài. Học hỏi bằng con đường tham quan, du lịch; học hỏi bằng con đường du học. Nhưng mục đích cuối cùng vẫn là để tiếp thu những kinh nghiệm, những kiến thức khoa học, tiến bộ của những loại nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển Việt Nam thành một đất nước giàu mạnh mà vẫn giữ được bản sắc và truyền thống dân tộc. Học hỏi không phải là chuyện ngày một ngày hai, mà là chuyện của cả đời người. Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở cuộc sống. Việc nâng cao hiểu biết là rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi người. Vì vậy, chúng ta phải có mục đích và phương pháp học tập đúng đắn để đạt được hiệu quả cao. Có tri thức, chúng ta mới làm chú được bản thân, mới đóng góp hữu ích cho gia đình, xã hội. Học vấn làm đẹp con người. Đó cũng là điều ông cha muốn nhắn gửi đến chúng ta. Câu tục ngữ: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn là lời khuyên quý báu của người xưa; đến nay nó vẫn được lưu giữ trong hành trang của tuổi trẻ trên con đường tạo dựng sự nghiệp.
Bình luận câu tục ngữ_ Đi một ngày đàng học một sàng khôn – Văn mẫu lớp 9
1,881
Nội dung bài viết1 Bình luận hai câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Bình luận hai câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn – Bài làm 2 3 Bình luận hai câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn – Bài làm 3 Bình luận hai câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Kiến thức nhân loại mênh mông vô tận, phải có nhà khoa học nghiên cứu, có người thầy giảng dậy thì lớp trẻ học sinh mới tiếp thu được. Vai trò của người thầy trong nhà trường rất quan trọng, thầy dẫn dắt hướng dẫn để học sinh tiếp thu, suy nghĩ … Từ xưa, nhân dân ta cũng đồng quan niệm đó nên có câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên Học trong nhà trường chưa đủ, phải học thêm ngoài xã hội và bạn bè để mở rộng kiến thức, nên tục ngữ có câu: Học thầy không tày học bạn Quan niệm của nhân dân ta qua hai câu tục ngữ có gì mâu thuẫn, có gì chưa thỏa đáng? Chúng ta nên hiểu việc học thầy và học bạn thế nào cho đúng? Thực ra, xét cho cùng, hai câu tục ngữ này cugnx chẳng mâu thuẫn nhau vì đều nói về vai trò của người thầy đối với người học. Hai câu chỉ khác nhau ở mức độ. Câu đầu coi người thầy dạy trò có vai trò, tác dụng quyết định tuyệt đối ở người học. Câu sau không phủ nhận hoàn toàn mà chỉ khuyên thêm vai trò, tác dụng của việc học thầy rộng hơn học bạn, học cuộc đời. Hai câu tục ngữ đều có mặt đúng và mặt chưa đúng, hay nói chính xác hơn, cả hai đều nhìn nhận vấn đề chưa được thỏa đáng. Nói "Không thầy đố mày làm nên" thì quả là đề cao vai trò của người thầy, coi trọng thầy có vai trò rất lớn trong sự trưởng thành của người học trò. Đúng là người thầy có vai trò rất lớn trong sự thành đạt, trong sự "làm nên" của người học trò nhưng không phải là quyết định tất cả. Người học trò còn có nỗ lực chủ quan, có sự phấn đấu bản thân đẻ tiếp thu kiến thứ, học hỏi tay nghề. Có những điều học hỏi được có khi không phải do ông thầy dạy cho mà còn là do tự mình tiếp nhận trong cuộc sống, gia đình , bạn bè … chỉ bảo nữa. Nhờ thầy chỉ bảo, nắm chấc kiến thức, trò còn liên tưởng, suy ra, mở rộng, nâng cao, sáng tạo … Nói "Học thầy không tày học bạn" thì lại có phần hạ thấp vai trò của người thầy, đề cao không đúng mức vai trò của bạn bè trong quá trình học tập. Nếu nói rằng bạn bè có vai trò giúp đỡ, hỗ trợm bảo ban nhau để cùng học tập tốt hơn thì chúng ta dễ chấp nhận, nhưng nói "không tày" thì quả là quá đáng. Hơn nữa bạn bè chỉ có thể giúp nhau học tốt khi biết thương yêu nhau, khi có cùng chung chí hướng, cùng nhau rèn luyện phấn đấu vươn lên. Trong việc học hành của mỗi người, không phải lúc nào ta cũng gặp được những người bạn tốt luôn luôn sẵn sàng chỉ bảo giúp đỡ chúng ta một cách chân thành vô tư. Cho nên, coi nhẹ vai trò, tác dụng của người thầy, đề cao việc học hỏi ở bạn bè, cho rằng ở bạn có kết quả hơn là học ở thầy là không đúng. Chúng ta cần phải đánh giá hai câu tục ngữ cho rõ để hiểu và thông cảm với lời nói của người xưa. Người bình dân xưa kia thường dùng những lời ngắn gọn, hàm súc để đúc kết kinh nghiệm sống và truyền đạt một ý tưởng có tính chất răn dạy. Để đạt mục đích đó, họ thường có lối nói phóng đại, một chiều để khẳng định. Đó thường là cách nói của tục ngữ. Hơn nữa, trong xã hội xưa thì cả câu tục ngữ mà ta bàn đến ở đây không phải chỉ để đề cập đến vấn đề giáo dục trong một nhà trường như nhà trường hiện nay. Nó có thể nói đến việc học chữ , mà chắc phần chủ yếu nói đến việc học nghề. Nếu nói đến việc dạy nghề, học nghề thì trong cả hai câu đó, phần đúng sẽ nhiều hơn. Chúng ta cũng cần biết rằng cách dạy chữ, học chữ ngày xưa cũng chẳng khác gì bây giờ nhiều lắm. Ngày xưa đau có trường hợp như chúng ta bây giờ. Ngày xưa chỉ có một ông thầy ( mà người ta họi là thầy đồ nho), ông thầy này dạy tất cả, người học trò có khi phải theo học ông thầy này suốt cuộc đời cho đến khi thành đạt, học từ những chữ đơn giản đầu tiên cho đến "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy) là vậy. Còn trong học nghề (nghề thợ mộc, thợ rèn, thợ đóng cối …) thì có thể người thầy chỉ dạy những hiểu biết và thao tác cơ bản lúc đầu, còn phần lớn người học đạt tới thành công, tinh thông nghề nghiệp là do quá trình hoạt động nghề nghiệp và do các bạn thợ chỉ bảo chính. Hiểu như vậy, chúng ta chắc sẽ đánh giá được hai câu tục ngữ này đúng hơn. Tuy nhiên lời hay ý đẹp của người xưa là để chúng ta áp dụng vào hoàn cảnh ngày nay. Trong học tập ở nhà trường hiện nay, chúng ta phải thấy được rằng hai câu tục ngữ này thật đáng ghi nhớ. Nó bổ sung ý nghĩa cho nhau để cùng nhau đi tới chân lý. Nó chỉ cho chúng ta hai nơi học hỏi tốt nhất: học ở thầy và học ở bạn. "Người thầy" dạy là người có trình độ hiểu biết cao, có khả năng sư phạm, còn học bạn lại có thực tế, cùng trang lứa, suy rộng ra, học ngoài xã hội. Hai câu tục ngữ đề có giá trị cả. Bình luận hai câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn – Bài làm 2 Từ thuở bé, ai trong chúng ta cũng đều được cha mẹ dạy rằng: “Không thầy đố mày làm nên” nhưng chắc hẳn chúng ta cũng đều không mấy xa lạ với câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn”. Với lớp nghĩa bề mặt thì hai câu tục ngữ này dường như mâu thuẫn với nhau nhưng chúng lại có chung điểm đến, đó là sự khẳng định vai trò của kiến thức nhà trường và thực tế được bó gọn trong hai chữ “học” và “hành”: Không thầy đố mày làm nên. Câu tục ngữ muốn khẳng định vai trò của người thầy. Không có thầy dạy, không được tiếp thu những kinh nghiệm và kiến thức của thầy thì con người không thể làm nên sự nghiệp. Trên cơ sở hiểu rõ ý nghĩa của câu tục ngữ, ta thấy nó khẳng định một chân lí đúng. Thầy, tượng trưng cho kiến thức của nhà trường hay những lí thuyết sách vở ban đầu. Con người từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành thì mọi yếu tố tác động của môi trường bên ngoài sẽ hình thành nên nhân cách và trí tuệ. Vì vậy, để có thể trở thành một con người có tri thức thì con người phải được giáo dục, dạy dỗ cẩn thận từ những điều sơ đẳng nhất. Chính vì thế, để đạt hiệu quả học tập, phải cần đến sự truyền đạt có hệ thống của người thầy. Thầy dạy bảo điều hay lẽ phải và rèn luyện học trò nên người. Quả thật, đây là một nhân tố vô cùng quan trọng đôi với việc học tập của mỗi con người. Lê-nin đã từng có câu nói bất hủ: “Học, học nữa, học mãi”, dường như cả kho kiến thức trời bể và bao la ấy để con người khai thác và tìm tòi cả đời mà chỉ bó hẹp trong vai trò của người thầy thì chưa đủ. Vì vậy mới có câu tục ngữ thứ hai: Học thầy không tày học bạn. Khác với câu tục ngữ thứ nhất, câu tục ngữ thứ hai khẳng định vai trò của bạn bè trong việc học tập. ơ đây, bạn bè mở ra một lớp nghĩa rộng: bạn bè trong cả cuộc đời, nó tượng trưng cho những kinh nghiệm được vận dụng và những kiến thức trong thực tế. Học thầy không tày học bạn – câu tục ngữ nâng cao vai trò của bạn bè trong việc học tập. Dựa vào lớp nghĩa trên thì có thể nói câu tục ngữ không hề sai. Thực hành là sự vận dụng của lí thuyết và những kiến thức do thực hành là những kiến thức ta chỉ có thể tìm được trong cuộc sống, mà ở đây, nhân tố chủ yếu đóng vai trò quan trọng không phải ai khác ngoài bạn bè, những người cùng sống gần gũi bên ta. Thực hành cũng là một yêu cầu thiết yếu trong học tập. Cả hai câu tục ngữ đều mang lí lẽ đúng đắn, nhìn về mặt ngữ nghĩa lại thấy chúng mâu thuẫn nhau nhưng thật ra sợi dây liên kết chúng là mối quan hệ mang tính chất bổ sung. Ta thường nghe: “Học phải đi đôi với hành”. Bởi “học” và “hành” trong hai từ ghép học tập và thực hành mang tính chất song song. Những lí thuyết cơ bản ban đầu là nền tảng, là cơ sở của việc thực hành về sau. Học để làm gì vậy? Nếu cứ học mãi thì cũng phải có mục đích chứ? Đơn giản chỉ vì học, tìm tòi, sáng tạo để vận dụng cái được học vào những công việc có ích, đóng góp cho bản thân và xã hội. Do đó mà càng thấy rõ được mối quan hệ gắn bó khắng khít và tính chất bể sung cho nhau của hai câu tục ngữ. Nếu chỉ cần kiến thức sách vở mà không khai thác tác dụng cúa nó thì dù kiến thức trong đầu nhiều đến mấy cũng sẽ bị tồn đọng và như một mớ sách vở tẻ nhạt, vô nghĩa trong trí óc, lại có thể mai một dần. Nhưng nếu không có kiến thức cơ bản bước đầu thì không thể biết cách thao tác thực hành để có thể làm việc được. Lúc đó công việc sẽ được thực hành một cách không có hệ thống và chi tiết. Do đó sẽ không mang lại hiệu quả công việc, đồng thời lại có thể gây nhiều thiệt hại và tốn thất. Nếu kết hợp bài học của cả hai câu tục ngữ tức là đánh giá cao vai trò của cả lí thuyết lẫn thực hành thì chắc chắn việc học tập sẽ đem lại kết quả tốt trong cả lao động trí óc lẫn lao động chân tay. Hai câu tục ngữ khép lại đồng thời cũng mở ra một chân lí sâu sắc trong sự nghiệp học tập của cuộc đời mỗi con người. Phải luôn kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí thuyết và thực hành đế có thể làm được những công việc có ích cho xã hội. Con người chỉ có giá trị và giàu lên nhờ kho tàng tri thức là vì thế. Bình luận hai câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn – Bài làm 3 ‘‘Học thầy không tày học bạn” câu tục ngữ được đúc kết từ quá trình sống và kinh nghiệm sống của cha ông ta, nhưng đã làm cho nhiều thế hệ cháu con đâm ra hoang mang. Vì sao? Vì một câu tục ngữ nhưng lại có hai lời khuyên. Vậy có mâu thuẫn hay không? Xin thưa rằng không: vì cả hai bể sung cho nhau, giúp ta ta có sự học toàn diện hơn. "Không thầy đố mày làm nên" là một phát ngôn khẳng định rõ ràng, dứt khoát về vai trò của người thầy dạy. Đã đi học là phải có hai đối tượng: người dạy (thầy (cô) giáo) và người học (học sinh). Và dù có sách trong tay, học sinh chúng ta vẫn rất cần sự chỉ bảo, hướng dẫn. uốn nắn của các thầy. Đó chính là phương pháp, là kĩ năng học sao cho tốt. Thầy đâu chỉ thực hiện chức năng "cầm tay chỉ việc" mà phải chỉ ra đường hướng, cách thức, kĩ năng… Như vậy, thầy giáo là người đứng trên ta một bậc về tầm hiểu biết tri thức xã hội, đạo lí làm người và nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống. Tôn sư trọng đạo luôn là bài học đạo lí và cũng là nét đẹp nhân văn truyền thống của dân tộc ta: "Muốn sang thì bắc cầu kiều. Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy" (ca dao). Câu Học thầy không tày học bạn" (hoặc "Học thầy chẳng tày học bạn có nghĩa là học thầy không bằng học bạn. Bạn ở đây là bạn bè, những người cùng trang lứa, cùng vào vai người đi học, cùng nhiều hoàn cảnh và điều kiện khác nữa. Xuất phát điểm như nhau nhưng trong cuộc đua tri thức lại có thể không giống nhau: Người tiếp thu nhanh, người tiếp thu chậm; người giỏi môn này, người trội hơn môn kia. Vậy là có khi trong một lớp học nào đó, sẽ có "người cao người thấp", xếp hạng bao giờ cũng có người đứng đầu, người "đội sổ". "Thua thầy một vạn không bằng thua bạn một li". Bởi theo lẽ thường, học trò đi học, thua kém thầy là chuyện đương nhiên; nhưng kém một bạn nào đó dễ làm cho ta cảm thấy tự ái, ngượng ngùng, xấu hổ: "Cũng cơm, cũng gạo, cũng thầy! Mà sao em kém thế này, em ơi!" (ca dao). Muốn không "thua chị kém em ', chúng ta phải học hỏi với tinh thần cầu thị. Đừng có ngại, hay sĩ diện hão. Bác Hồ từng căn dặn: "Học ở trường, học ở trong sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân". Vậy thì, học ở trường chính là học từ thầy cô, còn học lẫn nhau chính là học từ bạn bè đấy. Đó cũng chính là một cách học tối ưu. "Một tai nghe thầy, một tai nghe bạn/ về nhà mẹ giáng, thế là thành… mười tai". Hai câu tục ngữ "Không thầy đố mày làm nên" và "Học thầy không tày học bạn" là hai lời khuyên chí lí, hai bài học có giá trị bổ sung cho nhau để đưa ta tới chân trời tri thức một cách hiệu quả nhất. Trong kho tàng thành ngữ tục ngữ dân gian, cũng không hiếm gì các cặp tục ngữ tưởng như nghịch lí mâu thuẫn. Chẳng hạn: "Giọt máu đào hơn ao nước lã" (Ý nói tình anh em, máu mủ ruột già là cao cả, rất hệ trọng) với "Bán anh em. xa mua láng giềng gần" (Phải quan hệ với hàng xóm láng giềng sao cho phải, bởi trong nhiều hoàn cảnh, do anh em xa xôi cách trở không có điều kiện giúp đỡ. chính những người láng giềng tốt bụng kia lại vô cùng hữu ích vào những khi tắt lửa tối đèn). Đây là hai câu tục ngữ nằm trong hai bối cảnh khác nhau về cách ứng xử tình huống mà mỗi người nên xử lí sao cho hợp lẽ. Hay là hai câu "Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân" và "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn", lại thể hiện hai quan niệm liên quan đến cùng về một hiện tượng (quần áo, trang phục). Một câu nói về cách tận dụng trang phục để làm tăng vẻ đẹp hình thể, còn câu kia nói về một quan niệm giá trị thẩm mĩ trong cuộc đời (cốt lõi, bản chất mới là cái quyết định). Chúng vẫn hoàn toàn đúng nếu chúng ta xét trong từng hoàn cảnh phát ngôn.
Bình luận hai câu tục ngữ_ Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn – Văn mẫu lớp 9
2,803
Mỗi chúng ta đều có một mục tiêu cần phải chinh phục, ai cũng có ước mơ đạt được thành công trong cuộc đời. Nhưng làm thế nào để có thể đạt được thành công mỹ mãn? Nhà triết học Hi Lạp Platon có một câu nói nổi tiếng: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. Câu nói của Platon có thể hiểu là muốn chinh phục một mục tiêu nào đó, trước hết mỗi người cần phải tự vượt qua chính mình. Thành bại trong cuộc sống trước hết bắt nguồn từ chính bản thân. “Chiến thắng bản thân” chính là sự khẳng định lòng tự tin ở mỗi người. Quả thật, xét trong đời sống, từ những việc vá trời lấp biển đến một việc cỏn con bình thường, điều đầu tiên con người cần phải tự tin. Nếu thiếu tự tin, con người sẽ không đủ bản lĩnh để vượt qua những thử thách, khó khăn trong cuộc sống. Khi bắt tay vào một công việc nào, chúng ta cũng phải xác định rõ mục tiêu và xem xét khả năng của mình để đạt mục tiêu đó. Một học sinh nếu thiếu lòng tự tin sẽ dễ nản chí trước những bài tập khó, nhưng nếu học sinh đó bình tĩnh xem kỹ lí thuyết, vận dụng các phương pháp làm bài một cách hợp lí thì sẽ giải quyết nhanh gọn vấn đề. Một công nhân tiếp xúc với kỹ thuật mới, nếu như thiếu tự tin thì sẽ cảm thấy vô cùng khó khăn, nhưng nếu kiên trì thì sẽ thành công. Trong cuộc sống không thiếu những tấm gương như vậy Lòng tự tin là cơ sở để con người chiến thắng chính mình. Bên cạnh đó còn đòi hỏi sự kiên trì và lòng say mê để có thể theo đuổi công việc của mình. Các danh nhân trên thế giới đều là những con người hội đủ các tố chất trên để đạt được những thành tựu rực rỡ trong sự nghiệp của mình. Thắng không kiêu, bại không nản, thiết nghĩ cũng là một trong những yếu tố giúp con người chiến thắng chính mình. Lòng kiêu căng cũng như thái độ tự ti đều là những mầm mống làm con ngườ ikhông thể vượt qua chính mình. Tương tự với ý kiến của Platon, học giả Nguyễn Bá Học cũng từng phát biểu: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Danh tướng Napoleon cũng từng nói “Thắng cả vạn địch quân không khó bằng chiến thắng chính mình!”. Thiết nghĩ, mỗi chúng ta cần phải tự rèn luyện cho mình những phẩm chất cần thiết để vươn lên trong học tập, rèn luyện và đóng góp công sức một cách thiết thực nhất cho sự phát triển xã hội.
Bình luận về câu nói_ Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất của Platon
481
Bình luận về gương, noi gương và nêu gương – Văn mẫu lớp 12 Gương là một vật dụng, một đồ dùng mà hầu như gia đình nào cũng có, người con gái nào cũng có. Soi gương để điểm trang, để tự ngắm nghía, tự kiểm tra mặt mũi của bản thân hàng ngày. Soi gương trước lúc đi học, đi làm là một thói quen đẹp. một nếp sống đẹp. Cô thôn nữ soi gương xuống mặt giếng khơi. Chàng trai thợ mộc Thanh Hoa, mài lưỡi rìu, lưỡi bào… để ngắm vuốt. Các tráng sĩ thời xưa vừa mài gươm dưới bóng trăng, vừa ngắm hàm râu én, mày ngài… Ngày nay, trong các siêu thị có bày bán đủ loại gương soi đủ dáng hình kích cỡ… thật đẹp, làm hài lòng các “nữ thượng đế”. Nói đến gương, ta nghĩ ngay đến nghĩa bóng, đó là tấm gương tinh thần, tấm gương cuộc đời. Cha mẹ sông cần kiệm, hiền lành… làm gương cho con cái. Anh chị hiếu thảo, chăm học, chăm làm… làm gương cho các em. Thầy, cô giáo dạy giỏi, chăm sóc thương yêu học trò, nêu cao gương sáng trong nhà trường. Những tấm gương của các anh hùng liệt sĩ sáng mãi ngàn thu: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù tì nào cũng đánh thắng!”. Cán bộ phải “cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư", phải là “công bộc của dân”. Việc học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay là để cán bộ, đảng viên, thanh niên… trở thành những tấm gương sáng trong xă hội. Đã có gương sáng tất có gương mờ. Có không ít huynh trưởng hoen ố tâm hồn. Có không ít đảng viên, cán bộ tha hóa về đạo đức, tham ô, đục khoét… trương ra bộ mặt hoen ố, nhân cách méo mó. Đó là những gương xấu, để lại tiếng dơ, bị nhân dân khinh bỉ. Gương mắt là điều nên biết. Mắt là cửa sổ tâm hồn. Mắt là tấm gương để nhìn nhận, phân biệt trắng/đen; tròn/méo; tốt/xấu; nhân nghĩa/bất nhân bất nghĩa; trung thành/ phản trác; cần cù/lười nhác; thật thà/gian dối… Nhà thơ mù đất Đồng Nai – Nguyễn Đình Chiểu – trong thế kỉ XIX có nhiều câu thơ nói về mắt, về đạo (làm người), và gương mắt, ai được đọc qua một lần là nhớ mãi: Sự đời thà khuất đôi tròng thịt, Lòng dạo xin tròn một tấm gương. Sau trời thúc quý tan mây, Sông trong biển lặng mắt thầy sáng ra. Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng, Bốn biển âu ca hiệp một nhà. (Ngư tiểu y thuật vấn đáp) Tố Hữu dùng hình ảnh “gương vỡ lại lành” và “Cây khô đâm cành nở hoa" để nói về sự hồi sinh, phục hưng: Đời ta gương vỡ lại lành, Cây khô cây lại đâm cành nở hoa. (30 năm đời ta có Đảng) Ai cũng có đôi mắt để nhìn, để quan sát, phải biết nhìn cho tinh tường mọi sự vật, đừng có “nhìn gà hóa cáo!”. Biết sống đẹp, nghĩa là biết noi gương và nêu gương (gương sáng).
Bình luận về gương, noi gương và nêu gương – Văn mẫu lớp 12
532
Nội dung bài viết1 Bình luận về tinh thần dũng cảm – Bài làm 1 2 Suy nghĩ của anh chị về lòng dũng cảm – Bài làm 2 3 Nghị luận xã hội về tinh thần dũng cảm – Bài làm 3 4 Bình luận về tinh thần dũng cảm – Bài làm 4 Bình luận về tinh thần dũng cảm – Bài làm 1 Bác Hồ đã dạy thiếu nhi: “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Đó là ba phẩm chất tốt đẹp cần có của mỗi người, nhất là đối với tuổi trẻ chúng ta. Trong bài văn này, tôi chỉ bàn về tinh thần dũng cảm, lòng dũng cảm. Vậy thế nào là dũng cảm? – Trước hết phải hiểu thế nào là dũng? – Dũng là sức mạnh và tinh thần trên hẳn mức bình thường, tạo khả năng đương đầu với sức chống đối, với nguy hiểm để làm nên những việc nên làm. Dũng thường đi đối với trí, để có trí dũng song toàn; cũng trường hợp hữu dũng vô mưu. Dũng cảm nghĩa là có dũng khí dám đương đầu với chống đối, với nguy hiểm để làm những việc nên làm. Trong ngôn ngữ dân tộc ta có những từ ngữ gần nghĩa với dũng cảm là: dũng khí, dũng mãnh, quả cảm, dùng sĩ, dùng tướng… Đó là những từ cùng trường từ nghĩa.. Dũng cảm được thể hiện ở tinh thần và hành động. Không sợ khó, sợ khổ, sợ hi sinh, là tinh thần dũng cảm. Dám đối mặt với mọi thách thức, không lùi bước trước mọi khó khăn nguy hiểm là dũng cảm. cổ ngữ có câu ca ngợi những con người chân chính là: “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói lên sự thật với động cơ tốt đẹp là dũng cảm. Dám xông vào nơi nguy hiểm, xông vào rừng tên biển giáo của quân giặc để chiến đấu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng… là hành động dũng cảm. Chiến đấu hi sinh đến giọt máu cuối cùng, bắn đến viên đạn cuối cùng là hành động dũng cảm. Tình cảm yêu nước đã phát huy cao độ tinh thần dũng cảm của nhân dân ta tạo thành khí phách anh hùng, chủ nghĩa anh hùng. Tố Hữu đã có những vần thơ thật đẹp. thật hay ca ngợi truyền thống cao quý của dân tộc: Dân ta gan dạ anh hùng Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn Các chiến sĩ Điện Biên trải qua 55 ngày đêm trong mưa bom bão đạn của giặc Pháp, đã “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, đã “lấy lưng chèn pháo”, đã “thân chôn làm giá súng, đầu bịt lỗ châu mai”, … đem máu xương và chí khí dũng cảm lập nên chiến công “chấn động địa cầu”. Bài ca Điện Biên là bài ca yêu nước, lòng dũng cảm, chí khí anh hùng của quân đội ta, nhân dân ta, của tuổi trẻ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Các trang sử vàng, các chiến công chói lọi của dân tộc ta từ xưa tới nay như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử… đều được làm nên bằng máu xương, băng truyền thống yêu nước và tinh thần chiến đấu dũng cảm của bao thế hệ, của triệu triệu con người Việt. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn biểu lộ một ý chí căm thù sôi sục lũ giặc Nguyên Mông, một tinh thần dũng cảm chiến đấu quvết xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc. Hơn 700 năm đã trôi qua, tiếng hịch vẫn bừng bừng khí thế “Sát Thát"; “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chí căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng’’. Bình Ngô đại cáo cùa Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca của dân tộc ta trong thế kỉ XV. Tinh thần chiến đấu dũng cảm của nghĩa quân Lam Sơn đã tạo nên khí phách anh hùng quyết thắng: Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc. Đánh hai trận, tan tác chim muông Văn thơ yêu nước và cách mạng nói nhiều đến lòng kiên trung, ý chí sắt đá, lòng dũng cảm của các nhà chí sĩ, chiến sĩ, quyết “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” (Phan Bội Châu). Họ hiên ngang trước xà lim, máy chém của quân thù. Trước mọi thứ thách nặng nề của chốn lao tù đế quôc, người chiến sĩ cách mạng vẫn bất khuất hiên ngang: Kiên trì và nhẫn nại, Không chịu lùi một phân, Vật chất tuy đau khổ, Không nao núng tinh thẩn. Tinh thần dũng cảm, lòng dũng cảm không chỉ được thế hiện trong chiến đấu, trước thứ thách giữa cái sống và cái chết, giữa bại và thắng, giữa nhục và vinh, mà còn được biểu hiện trong sinh hoạt đời thường. Biết nhận ra thiếu sót, khuyết điểm, lỗi lầm của mình, đế sửa chữa, đế khắc phục tự vươn lên, hoàn thiện nhân cách của mình là dũng cảm. Dũng cảm nhìn thấy điếm yếu của mình là một việc làm không đơn giản vì sợ mất uy tín trước đồng loại, vì mang tâm lí “dại gì tự vạch áo cho người xem lưng!" Trong học tập, ta thường bắt gặp cậu học trò này dấu dốt, cô nữ sinh kia dấu dốt, nhưng chỉ vì thiếu tinh thần dũng cảm mà không có tinh thần nỗ lực vươn lên. Trái với tinh thần dũng cảm là gì? – là sợ sệt, là run rợ, khiếp sợ, khiếp đảm, là phách lạc hồn xiêu, là bạt vía kinh hồn… Trong xã hội,, những kẻ tham sống sợ chết là loại người hèn nhát, thường bị đối phương lợi dụng. Loại người ngày khi đứng trước mọi nguy hiểm chết chóc sẽ trở thành kẻ đầu hàng phản bội. Rèn luyện tinh thần dũng cảm không hề đơn giản. Dân ta có câu: “Có gan đi lính, giỏi tinh đi buôn”, gan là gan góc dũng cảm. Phải xông pha, vật lộn với cuộc sống, có vào sinh ra tử chiến đấu, dám xả thân vì việc nghĩa, biết rèn luyện ý chí như tôi thép qua lửa đỏ, và phải trải qua nhiều thời gian năm tháng mới có thể hình thành phẩm chất đức tính cao quý đó. Những tấm gương ngời sáng như Lê Văn Tám, Kim Đồng, Vừ A Dính, Phạm Ngọc Đa… là những thiếu niên anh hùng dũng cảm. Những người bắt cướp hoặc băng qua dòng nước lũ để cứu tài sản và tính mạng của nhân dân là những tấm gương dũng cảm, giàu đức hi sinh được ca ngợi. Những tấm gương dũng cảm ấy mãi mãi sáng ngời trong cuộc đời và sử sách, để tuổi trẻ chúng ta noi gương học tập. Tinh thần dũng cảm khi được nâng cao sẽ trớ thành bản lĩnh, khí phách: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" như của các chiến sĩ cảm tử quân Hà Nội trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến (20-12-1946). Bàn về tinh thần dũng cảm, ta ghi nhớ sâu sắc vào lòng, ta mãi mãi ngưỡng mộ những chiến sĩ yêu nước của dân tộc ta đã nêu cao khí tiết lẫm liệt trước mọi kẻ thù tàn bạo: “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”. Suy nghĩ của anh chị về lòng dũng cảm – Bài làm 2 Một con tằm phải trải qua đau đớn để tự chui ra khỏi cái kén và trở thành con bướm bíêt bay. Một hạt giống nằm sâu trong lòng đất nảy mầm phải tự vươn thẳng lên xuyên qua tầng đất dày để thành cây cứng cáp. Những thử thách đã làm nên giá trị của sự thành công và ta sẽ không thể vượt qua được những thử thách ấy để thành công nếu không có lòng dũng cảm. Dũng cảm là dám đương đầu với mọi khó khăn, gian lao vất vả, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì công l‎‎í, không sợ hãi, hèn yếu mà bỏ cuộc;dám vượt qua mọi thử thách, thậm chí là giới hạn của chính mình, chiến thắng bản thân để hoàn thành mục đích đề ra. Dũng cảm là một đức tính cao đẹp, vô cùng cần thiết, luôn được đề cao từ xưa đến nay. Thế nên mới nói, dũng cảm ảnh hưởng rất lớn đối với mỗi còn người. Lòng dũng cảm giúp ta chấp nhận hậu quả sau mỗi quyết định, dám đứng lên sau mỗi lần vấp ngã, đương đầu với những nỗi khổ đau và quan trọng hơn hết là tạo cho ta sức mạnh để chiến thắng chính mình, vượt qua số phận mà đến với thành công. Không chỉ vậy, lòng dũng cảm còn là động lực giúp ta đứng lên bảo vệ công lí, động cơ nâng cao tình thần tương thân tương ái giữ người với người và cuối cùng nâng cao hơn là tình yêu Tổ quốc. Ta có thể thấy dù trong thời kì nào đi chăng nữa thì luôn có sự hiện diện của lòng dũng cảm. Thời xưa thì có Trần Bình Trọng thà “ làm ma nước Nam chứ không làm vương đất Bắc”, thời chống Pháp, chống Mỹ thì có anh Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng để đoàn quân tiến về phía trước hay các cô gái Ngã ba Đồng Lộc không ngại hiểm nguy phá đá mở đường cho đoàn xe tiến tới.Và trong cuộc sống hiện nay của thời kì đổi mới, lại cũng có không ít những tấm gương về lòng dũng cảm vô cùng đáng khâm phục như các bác xe ôm Võ Việt Cường ở chợ Tân Định tay không bắt cướp, cậu học trò Phạm Văn Phong cứu sống cả ba người bị chết đuối trong lúc đang đi bắt ốc trên ghe ,… Bởi vậy nếu nói rằng lòng dũng cảm quả thực trở thành phẩm chất tạo nên những bậc anh hùng thì quả thực không sai. Lòng dũng cảm cần thiết là vậy nhưng đáng buồn thay khi cũng vẫn còn đó những con người hèn nhát nhu nhược. Họ mới gặp chút khó khắn đã sớm chán nản,thoái lui rồi càn dấn sâu vào con đường sai trai hay tự kết liễu đời mình như những trường hợp tự tử vì thi rớt đại học hay thất tình mà ta vẫn thường nghe thấy trên báo đài.Bên cạnh đó, ta cũng cần phân biệt lòng dũng cảm thực sự với sự bồng bột liều lĩnh nhất thời hùa theo những điều sai trái, bất chấp lời khuyên răng của mọi người để rồi không chỉ hại người mà còn hại đến mình. Vậy làm sao để rèn luyện được lòng dũng cảm?Thế nên học sinh chúng ta cần phải có đủ bản lĩnh, không sợ hãi khi đối đầu với khó khăn mà và cố gắng học tập thật tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Chúng ta cần rèn luyện lòng dũng hằng ngày, từ những việc nhỏ nhất. Người có lòng dũng cảm, dám hy sinh lợi ích cá nhân của mình đấu tranh vì lợi ích chung của cộng đồng xã hội sẽ được mọi người kính trọng mến phục. Do đó, ngày nay thì tuổi trẻ chúng ta cần phải không ngừng rèn luyện cho mình lòng dũng cảm, cùng với các đức tính khác ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để ngày càng hoàn thiện bản thân,sớm trở thành một người thành công,công dân tốt phục vụ cho xã hội, cho đất nước. Nghị luận xã hội về tinh thần dũng cảm – Bài làm 3 Cuộc sống là một cuộc hành trình mà trên đó con người sẽ gặp nhiều khó khăn, gian khổ. Khó khăn trong việc chiếm lĩnh tri thức, khó khăn trong việc xử lí các mối quan hệ, thậm chí là khó khăn trong việc giữ gìn và bảo vệ cuộc sống… Vậy điều gì tạo nên sức mạnh cho con người tồn tại và sống tốt trong cuộc đời? Đó là lòng dũng cảm. Dũng cảm nghĩa là có dũng khí vươn lên, đối đầu với nguy hiểm, khó khăn để làm những việc có ích cho cuộc sống của chính mình cũng như cho xã hội. Ta thấy những người dũng cảm có ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống yêu nước nồng nàn, có lòng nhân ái thiết tha nên sẽ là cơ sở để sinh ra lòng dũng cảm. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta đã biết đến nhiều gương các anh hùng đã dũng cảm hi sinh thân mình để bảo vệ đất nước. Đó là những La Văn Cầu, Phan Đình Giót, Lê Văn Tám…Các anh đã cho ta một bài học về sự dũng cảm. Biết đương đầu với hoàn cảnh, ý chí, nghị lực và lòng dũng cảm sẽ làm nên những điều giá trị. Đứng trước quân thù tàn ác mà họ không bao giờ khuất phục, các chiến sĩ vẫn hô vang những khẩu hiệu cổ vũ đấu tranh giành độc lập. Hay những thiếu niên nhi đồng tuổi chưa đến chín mười, ra tay giết giặc diệt loài xâm lăng. Anh đội viên Kim Đồng rất dũng cảm, giặc đến nhà vẫn cố sức giấu cán bộ, anh ngã xuống mà không một tiếng kêu. Còn chú bé Lượm tuổi nhỏ mà vượt qua mặt trận, Đạn bay vèo vèo, không sợ nguy hiểm, đi vào chốn bom rơi lửa đạn mà vẫn vui tươi, yêu đời, đến khi ngã xuống mà chú vẫn còn cầm chắc trong tay ngọn lúa, vẫn giữ lòng dũng cảm. Phải có một tinh thần, một nghị lực, một lòng yêu nước lớn lao thì mới có những sự hi sinh, cống hiến như vậy. Dũng cảm còn biểu hiện trong sự lựa chọn con đường đi cho mình, dù biết rằng con đường đó gian nan, là dao kề cổ súng kề thân. Là thân sống chỉ như một nửa, nhưng họ vẫn quyết tâm theo Đảng, theo cách mạng. Vì họ có lòng tin vào lí tưởng của Bác, của Đảng Cộng sản, vào lòng tin của chính mình. Còn nhớ ngày nào chàng trai Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mà chỉ đưa hia bàn tay ra mà nói: Đây! Tiền đây…Phải dũng cảm, sáng suốt lựa chọn lắm thì Người mới ra đi tìm đường cứu nước trong hoàn cảnh như vậy. Trên mặt trận ta có những anh hùng, trong lao động sản xuất ta cũng có những anh hùng lao động. Họ là những chiến sĩ trên mặt trận hậu phương, dù không tay gươm tay súng nhưng họ có tay cuốc tay cầy dũng cảm vẫn làm việc trong bom đạn ào ào dội xuống. Bà má Hậu Giang, những chị Hai năm tấn…là những tấm gương về một hậu phương giỏi, một hậu phương dũng cảm kiên cường. Họ vừa phải chiến đấu, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ mà hậu phương giao phó, trong chiến tranh họ vẫn chắc tay súng, vững tay cầy. Chiến tranh thường tạo nên những anh hùng, nhưng không phải chỉ chiến tranh mới có anh hùng. Ngay trong thời bình thì những tấm gương về người dũng cảm, về anh hùng thời đại mới cũng rất nhiều. Hiện nay, Việt Nam còn là nước nghèo, mặc dù đã phát triển nhưng đời sống ở một số nơi vẫn còn khó khăn. Điều đặc biệt là những nơi khó khăn như vậy lại thường ươm mầm cho những sự vượt khó, sáng tạo. Và vì thế sự dũng cảm còn là sự vươn lên, vượt qua hoàn cảnh để sống tốt hơn, con người biết vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Chúng ta đã chứng kiến nhiều những bạn tật nguyền nhưng không mặc cảm mà đã tự mình học tập, phấn đấu để trở thành những “hiệp sĩ” trong các ngành khoa học. Họ đã dũng cảm vượt lên số phận của mình để hòa nhập với cuộc sống xã hội. Nhiều thanh niên sau khi học ở thành phố đã quyết định đi lên những vùng khó khăn để làm kinh tế. Hay những cô giáo chịu bỏ lại cuộc sống đầy đủ của mình nơi đô thị phồn hoa để gánh cái chữ lên non dạy cho các em vùng cao. Tất cả đã hi sinh cuộc sống riêng tư của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Hay một cậu bé đã nhảy vào dòng lũ để cứu bạn mình, đã làm chúng ta phải cảm động vô cùng. Xã hội ta đang đứng trước nhiều tệ nạn, sự phát triển của các tệ nạn này càng lan rộng. Có những cá nhân lại thờ ơ lãnh đạm trước những tiêu cực đang diễn ra trước mắt mình. Nhưng cũng có người mạnh dạn tố cáo những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật của bọn xấu. Chúng ta được biết đến một thầy giáo ở tỉnh Hà Tây đã đưa ra những tiêu cực trong thi cử tại tỉnh nhà mà không sợ một thế lực nào cả. Ai cũng nhìn thấy nhưng không phải ai cũng làm được như vậy. Đó là sự dũng cảm biết đứng lên tố cáo, đưa cái xấu ra trước pháp luật. Những việc như vậy rất được xã hội tuyên dương. Còn nhiều tấm gương sẵn sàng đứng về phía lẽ phải, họ đã lên tiếng nói những lời nói mà trước kia nhiều người muốn nói nhưng không nói được. Đối với những học sinh thì sao? Lòng dũng cảm được thể hiện trong sự vươn lên học tập tốt trong hoàn cảnh khó khăn, rồi biết đấu tranh cho những tiêu cực ở học đường. Trong các ngôi trường không thiếu những bạn học sinh đã mạnh dan tố cáo những hành vi sai trái của bạn bè cũng như của giáo viên. Gần đây ở một số trường cao đẳng, đại học xảy ra tình trạng sinh viên dùng tiền để mua điểm, hay giáo viên có những hành vi trái với đạo đức nghề nghiệp…làm xã hội rất bức xúc. Những người trong cuộc thường làm ngơ, vì sợ nếu tố giác những việc làm trái với nguyên tắc đó. Họ không một chút nghi ngại mà thẳng thắn trình bày trước cơ quan pháp luật, với mong muốn làm trong sạch nghành Giáo dục. Là một học sinh thì không chỉ biết tránh xa những tiêu cực, mà còn phải dũng cảm đưa chúng ra ánh sáng. Lòng dũng cảm cũng sẽ trở nên gần gũi hơn khi bạn biết nói ra những gì sai trái xung quanh mình. Dũng cảm không là những gì xa xôi, nó ở ngay trong chính mỗi người, điều quan trọng là phải thể hiện và rèn luyện nó ra sao mà thôi. Sự dũng cảm sẽ giúp gì cho ta? Tất cả những tấm gương về lòng dũng cảm ở trên đều cho ta thấy rằng lòng dũng cảm đã nâng giá trị của bản thân lên rất nhiều. Nó khẳng định sức mạnh của con người trước những thế lực của tự nhiên và xã hội. Như chúng ta biết, sự đấu tranh giữa kẻ xấu và người tốt là cuộc đấu cần đến sự chấp nhận đương đầu với gian nguy, có khi là một mất một còn. Nhưng nếu ta dũng cảm chiến đấu đến cùng thì cái xấu bao giờ cũng tiêu diệt. Và khi đó con người thật là vĩ đại, vì ta làm được những gì mà người khác sợ không thể làm. Chính đó sẽ giúp cho xã hội của ta thêm phát triển, ngày càng tốt đẹp hơn. Vì xã hội sẽ ngày càng loại dần tiêu cực, bất công nhờ sự dũng cảm của mỗi người. Nếu được như vậy, con người sẽ có lòng tin vào cuộc sống hiện tại, họ sẽ vui sống để đón chờ một tương lai tươi sáng phía trước. Sự dũng cảm còn giúp con người tạo dựng những giá trị vật chất và tinh thần. Một người có hoàn cảnh khó khăn mà dũng cảm vượt qua mọi thử thách họ sẽ lớn lên nhiều, họ có thể tự tạo lập cho mình cuộc sống riêng. Như vậy lòng dũng cảm còn thúc đẩy sự tự lập trong mỗi con người. Khi họ thành công họ sẽ tin vào bản thân, tin vào khả năng có thực của mình và họ sẽ tiếp tục dũng cảm vượt lên trên cuộc sống. Nói về lòng dũng cảm nghe ta rất dễ, nhưng để rèn luyện và thực hiện nó thì không phải đơn giản. Trong thời chiến thì đó được làm nên từ lòng yêu nước, yêu cách mạng, nhưng trong thời bình lòng dũng cảm cần được bồi đắp bằng lòng yêu thương con người, yêu cái thiện, yêu cái đẹp, ghét cái xấu. Đặc biệt, cần biết được đâu là cái ác, cái xấu để đứng lên đấu tranh, thì cần có một kiến thức, vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội. Những thứ đấy đâu mà có? Không có ở đâu khác có từ sách vở, từ những bài học giáo dục công dân, bài văn, bài sử…cho ta thấy đâu là chân, thiện, mĩ. Những kiến thức đã có thì cần phải rèn kĩ năng, thái độ cho mình để có niềm tin rằng mình sẽ vượt qua những khó khăn, thử thách. Lòng dũng cảm màn giá trị lớn lao. Nơi nào có sự dũng cảm thì nơi đó cái xấu sẽ không có cơ hội xuất hiện. Nhưng để có lòng dũng cảm thì không phải dễ dàng. Thế hệ trẻ ngày nay vẫn phải biết hoàn thiện lòng dũng cảm của mình. Lòng dũng cảm sẽ giúp hình thành một nhân cách tốt cho thế hệ trẻ. Nếu thế hệ trẻ ngày nay không dũng cảm đương đầu với thử thách thì họ sẽ không đưa được đất nước của mình phát triển, họ sẽ trở thành những người sống thu mình, khép kín, luôn trong sự lo lắng, sống thiếu bản lĩnh. Mỗi người cần quyết tâm rèn luyện lòng dũng cảm, để chúng ta sống tốt hơn, để xã hội của ta hoàn toàn trong sạch, thực sự có đủ điều kiện để chúng ta phát triển toàn diên. Bình luận về tinh thần dũng cảm – Bài làm 4 Mỗi ai trong chúng ta đều có những ước mơ, lí tưởng sống khác nhau. Dù khác nhau nhưng chúng đều có những nét đẹp khó có từ nào có thể diễn tả nổi. Ước mơ, lí tưởng sống là đẹp như thế nhưng con đường đi đến ước mơ, thực hiện lí tưởng có dễ dàng không. Thật sự là không và hành trang đầu tiên để bắt tay vào thực hiện ước mơ chính là lòng dũng cảm. Vậy lòng dũng cảm là gì và tại sao nó lại quan trọng đến như vậy? Lòng dũng cảm là dám đối mặt với sự thật dù nó có khó khăn và rất gian nan, là không trốn tránh, là tinh thần luôn lạc quan để vượt qua bao sóng gió của cuộc sống. Đất nước Việt Nam có bao tấm gương về lòng dũng cảm nhưng lòng dũng cảm chúng ta đang và sẽ đề cập đến là lòng dũng cảm trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Cuộc sống vốn có những khó khăn, thử thách cả thất vọng, nỗi buồn. Vậy nên trong chúng ta rất cần có lòng dũng cảm để vượt qua, để luôn là chính mình và để không có bất cứ điều gì có thể che khuất ước mơ, lí tưởng, hoài bão của chúng ta. Người ta thường nói hạnh phúc là thực hiện được những ước mơ, mong muốn, khát vọng. Vậy hạnh phúc chỉ đến với những người có lòng dũng cảm. Dũng cảm làm theo tiếng gọi thực hiện ước mơ của trái tim, dũng cảm nhìn nhận những lỗi lầm để rút kinh nghiệm và còn phải dũng cảm để tiếp bước trên con đường đi đến ước mơ, hoài bão. Nói như vậy thì cuộc sống hạnh phúc mới phức tạp, gian nan và nhiều chông gai làm sao. Tôi cũng đã có lần nghĩ như vậy nhưng lại tự hỏi mình có thật sự mong muốn có một cuộc sống bình yên, không bao giờ gặp chông gai, sóng gió trong cuộc sống. Và cuối cùng câu trả lời của tôi lại là không, thật lạ kì làm sao! Vì tôi biết nếu cuộc sống của tôi là một con đường dài, luôn được trải đầy hoa hồng thì cuộc sống sẽ nhạt nhẽo và tôi có thể trở thành một người ngu dốt nhất thế giới. Lí do là vì tôi chẳng bao giờ bị va chạm để lớn khôn. Tôi không bao giờ cho rằng mình đã ở trên đỉnh của sự thành công, tôi luôn muốn tiếp tục dũng cảm tiếp bước mỗi ngày để có thể thực hiện hết ước mơ này đến hoài bão kia. Dù ít hay nhiều, chắc chắn là ai cũng vấp ngã. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta là những con người dũng cảm nhưng chúng ta chưa nhận thấy. Ví dụ như khi bé, chúng ta tập đi những bước đầu tiên và thường ngã lên ngã xuống, khi ngã rồi thì chúng ta đã không ngồi luôn một chỗ mà lại dũng cảm đứng lên đi tiếp. Vậy chúng ta mới có thể đi được. Vậy lòng dũng cảm đã được ông trời ban sẵn trong lòng tất cả chúng ta. Tại sao chúng ta không làm nó bùng cháy dậy, làm cho ngọn lửa của lòng dũng cảm luôn cháy trong mỗi trái tim chúng ta để không có thử thách, chông gai nào có thể làm chúng ta gục ngã. Con đường đi đến ước mơ của mọi người không bao giờ giống nhau nhưng chúng đều có một điểm chung là không con đường nào bằng phẳng cả. Chính lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta dám đối mặt với những thăng trầm trên con đường theo đuổi ước mơ, chính lòng dũng cảm cho ta biết những sai phạm của chính bản thân, chính lòng dũng cảm giúp ta vươn lên, khẳng định mình,… Lòng dũng cảm rất cần trong mỗi con người. Tự đáy lòng mỗi người đều tồn tại một khát vọng. Trên đường thực hiện khát vọng ai ai cũng gặp chông gai và những người không có lòng dũng cảm sẽ không thể thực hiện được khát vọng tự đáy lòng mình, hoài bão bị chôn vùi vì trước những khó khăn ấy, họ đã chọn một quyết định sai. Đó là không dũng cảm vượt lên, phó thác cho số phận, trốn tránh khó khăn, tự than thân trách phận để rồi gục ngã trong cơn giông tố của cuộc đời. Tóm lại, chúng ta phải dám nghĩ dám làm, không để ước mơ, khát vọng, hoài bão bị chôn vùi. Dũng cảm vượt lên bao chông gai để ước mơ trở thành hiện thực. Nếu chưa biết mục đích và ước mơ thì dũng cảm, mạnh dạng vẽ ra con đường đi đến ước mơ. Nếu đã có mục đích, ước mơ thì dũng cảm thực hiện và dũng cảm đứng dậy, không sợ thất bại trên con đường mà mình đã chọn..
Bình luận về tinh thần dũng cảm – Văn mẫu lớp 12
4,690
Nội dung bài viết1 Bình luận về đức tính siêng năng cần cù – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Bình luận về đức tính siêng năng cần cù – Bài làm 2 3 Bình luận về đức tính siêng năng cần cù – Bài làm 3 Bình luận về đức tính siêng năng cần cù – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Siêng năng, cần cù là phẩm chất tốt đẹp của người lao động, mà học sinh chúng ta, tuổi trẻ chúng ta phải rèn luyện hằng ngày. Chăm chi làm việc và học hành một cách đều đặn, thường xuyên thì gọi là siêng năng cần cù nghĩa là chăm chỉ, chịu khó một cách thường xuyên trong bất cứ công việc nào, nhất là trong lao động và học tập. Có quý trọng thì giờ, mới biết cần cù, siêng năng. Có biết coi thì giờ quý như vàng bạc thì mới có ý thức chăm chỉ, chịu khó trong lao động sản xuất, trong học hành luyện trí, luyện tài. Có siêng năng, cần cù mới có ý thức không để thì giờ trôi qua một cách vô ích. vô vị. Biết dùi mài kinh sử, biết suy nghĩ vận động, vươn lên học hỏi những điều mới mẻ, những kiến thức khoa học hiện đại thì mới có thể nói là cần cù, siêng năng. Thức khuya dậy sớm. chăm chỉ làm ăn, vượt qua mọi khó khăn thì mới gọi là siêng năng, chịu khó. Người thợ coi tám giờ lao động là vàng ngọc. Người nông dân cuốc bẫm cày sâu, một nắng hai sương đế làm nên những mùa vàng bội thu, những cánh đồng đầy khoai xanh tốt. cần cù, siêng năng để làm ra của cải vật chất, để sáng tạo nên mọi giá trị tinh thần để làm cho cuộc sống ngày một ấm no hạnh phúc, làm cho đất nước, xã hội ngày một thêm giàu có. Muốn được sống trong ấm no, hạnh phúc thì phải siêng năng, cần cù. “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ đem phần đến cho” là một lời khuyên chí lí. Muốn dân giàu, nước mạnh thì người người phải lao dộng, nhà nhà phải lao động; lao động một cách cần cù. siêng năng. Nhân dân ta, đặc biệt là người nông dân rất siêng năng, cần cù. Có biết bao bài ca dao ngợi ca phẩm chất cao quý của họ: Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu, Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày. Ai ơi, bưng bát cơm đầy, Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng. Trên đời, xưa và nay. cái đáng quý là lao động, người đáng quý là người lao động. Chính nhân dân lao động đã giáo dục chúng ta lòng yêu nước và đức tính cần cù, siêng năng. Nhờ siêng nàng, cần cù mà mỗi chúng ta không sợ khó, sợ khổ, biết bền bỉ. nhẫn nại trong làm ăn, trong học hành. Trái với siêng năng, cần cù là lười biếng, là “nhác làm siêng ăn”, là lãng phí thì giờ, trở thành kẻ sống thừa, vô tích sự. Châm biếm ke lười biếng, nhân dân ta có câu ca: Đời người chỉ một gang tay Ai hay ngủ ngày còn một nửa gang. Kẻ "hay ngủ ngày" là kẻ lười biếng, chi biết “há miệng chờ sung”. Học sinh chúng ta, tuổi trẻ chúng ta phải chăm học chăm làm, phải siêng năng thức khuya dậy sớm, chịu khó cần cù học hành, luyện tập thì mới nên người. Phải biết “học ngày chưa đủ, tranh thủ học đêm”. Trong đợt ôn tập, kiểm tra, thi cứ, học sinh phải siêng năng, phải cần cù ôn luyện. Có chịu khó, có nỗ lực cao thì mới có thể vươn lên học khá, học giỏi, mới giành được điểm cao trong thi cử? Học tập hôm nay là để có ngày mai đúng ý nghĩa. Đó là một ngày mai lao động sáng tạo, ấm no, hạnh phúc. Siêng năng và cần cù hôm nay là để có một ngày mai tươi đẹp… Bình luận về đức tính siêng năng cần cù – Bài làm 2 Siêng năng cần cù là một phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người, từ học sinh cho tới người lao động ai cũng cần phải rèn luyện đức tính này hằng ngày bởi vì nó có tầm quan trọng tới cuộc sống chúng ta và hướng tới cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất. Vậy thì siêng năng cần cù là gì? Đó là chăm chỉ làm việc và chăm chỉ học tập một cách thường xuyên và đều đặn, đó người ta gọi là siêng năng. Còn cần cù là chăm chỉ chịu khó làm việc, cho dù khó khăn cũng không bỏ cuộc, nhất là trong học tập và trong lao động. Người ta thường bảo thời gian quý như vàng như bạc , chính vì thế cho nên những ai biết quý trọng thời gian thì mới chịu khó làm việc, chịu khó siêng lao động, học hành. Có siêng năng cần cù thì mới có ý thức, không để cho thời gian của mình trôi qua một cách lãng phí bởi như vậy là vô ích. Cần cù siêng năng là biết dùi mài kinh sử, biết tim tòi những cái khó trong học tập để vươn lên tầm cao mới, khám phá ra những kiến thức khoa học hiện đại. Thức khuya dậy sớm và chăm chỉ làm ăn , vượt qua những khó khăn, khổ cực thì đó mới gọi là siêng năng, chịu khó. Người học sinh đi học thì cần phải biết cố gắng vươn lên trong học tập, bài nào không hiểu thì tìm tòi ra lời giải đáp . Đó mới gọi là cần cù. Người thợ coi giờ lao động của mình là vàng ngọc cho nên cố gắng làm hết mình để không lãng phí thời gian. Người nông dân cày sâu cuốc bẫm một nắng hai sương là để làm nên mùa màng bội thu, họ cần cù siêng năng để làm ra từng hạt lúa hạt gạo, để có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Và muốn được no ấm và giàu có thì phải biết siêng năng cần cù, biết vươn lên trong từng thời khắc của cuộc sống. Từ trước cho tới nay, cái đáng quý nhất là người lao đọng, và người đáng quý nhất đó là người lao động. Chính nhân dân lao động đã giáo dục cho chúng ta về lòng yêu nước và về đức tính cần cù. Nhờ có siêng năng cần cù mà mỗi chúng ta không sợ gian lao khó khăn hay vất vả gì, luôn nhẫn nại kiên trì trong làm ăn, trong học hành. Trái với siêng năng cần cù là lười biếng , đó là những người “siêng ăn nhác làm” chỉ biết hưởng thụ chứ không chịu động não suy nghĩ hay làm việc, họ trở thành kẻ sống thừa và vô tích sự trước mặt người khác và luôn khiến cho người khác phải chê cười. Là người học sinh, chúng ta phải biết chăm chỉ làm ăn, phải biết thức khuya dậy sớm chịu khó học hành thì mới nên người, mới xây dựng cho tương lai của bản thân và xã hội tốt đẹp được. Nhất là trong các kì thì thì cần phải siêng năng ôn luyện, không được thấy khó mà nản chí. Có chịu khó nỗ lực hết mình thì mới có thể vươn lên học khá học giỏi, mới giành được điểm tốt. Những người siêng năng cần cù thường hay được mọi người kính nể và cũng là tấm gương đẹp để mọi người noi theo. Học sinh cần cù thì được thầy yêu bạn mến còn người lao động cần cù thì được mọi người thán phục. Học tập hôm nay để có một ngày mai đúng nghĩa. Đó là một ngày mai ấm no, hạnh phúc tươi sáng hơn. Chăm chỉ cần cù đưa ta tới những thứ tốt đẹp trong cuộc sống cho nên chúng ta cần phải biết quý trọng hơn nữa. Bình luận về đức tính siêng năng cần cù – Bài làm 3 Cần cù là một đức tính tốt đẹp, một phẩm chất cao quý mà ai cũng cần rèn luyện, tu dưỡng. Chăm chỉ, chịu khó một cách thường xuyên thì gọi là cần cù. Gần nghĩa với cần cù là siêng năng. Ta thường nói: cần cù, siêng năng học hành; cần cù. siêng năng lao động, làm ăn. Mọi thành quả mọi hoa thơm trái ngọt trên đời đều do sức lao động cần cù làm ra: “Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người sỏi đá cũng thành cơm “ (Hoàng Trung Thông) Nhờ cần cù, siêng năng mới biến trí lực và thời gian thành kiến thức, học vấn, của cải vật chất, giá trị tinh thần. Người cần cù, siêng năng mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Có thức khuya dậy sớm, có nấu sử sôi kinh hàng chục năm trời mới có thế thành ông tú, ông cử, ông nghè. Có thức khuya đậy sớm, cuốc bẫm cày sâu, một nắng hai sương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mới làm nên những mùa vàng, những bát cơm đầy dẻo thơm. Làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm ”, (‘mỗi người làm việc bằng hai ” là cần cù, siêng năng. Có nhiều bài ca dao ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, chịu khó của người dân cày Việt Nam mà hầu như ai cũng thuộc: Cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi, bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần “ Người thợ mỏ có cần cù, chịu khó mới chui vào hầm lò khai thác than, mới đứng bên máy suốt tám tiếng đồng hồ để sản xuất. Cần cù, siêng năng gắn liền với sáng tạo. Vì thế mới có câu: “Cần cù bù thông minh”. Trái với cần cù là lười nhác, lười biếng, là nhác làm siêng ăn. Nhân dân ta đã châm biếm những kẻ lười biếng: “Đời người có một gang tay, Ai hay ngủ ngàv còn một nửa gang. “ Kẻ nhác làm siêng ăn thật đáng chê: “Ăn no rồi lại nằm khoèo, Nghe giục trống chèo vác bụng đi xem. Học sinh biết chăm học, chăm làm, tích cực tham gia vào phong trào “Nghìn việc tốt ”, để xây dựng trường lớp, không chỉ để gắn liền học đi đôi với hành mà còn để rèn luyện, tu dưỡng đức tính cần cù, siêng năng. Người cần cù, siêng năng thì luôn tay làm việc, đầu óc luôn suy nghĩ, mới cảm thấy thì giờ là vàng ngọc. Cần cù, siêng năng là phẩm chất cần có để phát huy tài năng và trí sáng tạo. Cuộc đời của các nhà bác học là tấm gương sáng về đức tính cần cù học tập, nghiên cứu, lao động bền bỉ… để tuổi trẻ chúng ta noi theo.
Bình luận về đức tính siêng năng cần cù – Văn mẫu lớp 9
1,865
Nội dung bài viết1 Bình luận về ứng xử lịch sự, văn minh – Bài làm 1 2 Bình luận về ứng xử lịch sự, văn minh – Bài làm 2 Bình luận về ứng xử lịch sự, văn minh – Bài làm 1 Phép đối xử lịch sự với người khác là một nghệ thuật sống. Nghệ thuật sống có thể gói gọn trong sáu chữ: văn nhã, hòa khí, khiêm tốn. Văn nhã, tức là phải biết sử dụng những từ ngữ giao tiếp như: xin chào, cảm ơn, tạm biệt, xin thứ lỗi… và sử dụng cho đúng lúc. Nét mặt, giọng nói, cứ chỉ phải nhẹ nhàng, trang trọng, kính cẩn, thân mật. lịch thiệp… Hòa khí: tức là khi nói chuyện phải bình tĩnh, từ tốn, nhẹ nhàng, nội dung câu chuyện phải có tình, có lí, biểu cảm: tránh suồng sã, khiếm nhã; tránh nói to, cười to, vừa nói, vừa vung tay. Khiêm tốn: không khoe khoang, nói ít mà nghe nhiều, biết lắng nghe, không cướp lời. Người khiêm tốn thường sống chân thành, chân thật, cởi mở; ý tứ lúc đi xe, đi đường: không nên tranh lấn mà biết nhường nhịn. Nói tóm lại phải đề cao chữ “lễ”, đúng như Khống Tử đã nói: “Bất học lễ vô dĩ lập”, nghĩa là không học lễ nghĩa thì không nên người. Ở trường phải kính thầy, quý bạn, ở nhà phải hiếu để ra ngoài xã hội phải lễ phép, ứng xử lịch sự là biết tôn trọng, kính trọng người khác, mà thực chất là tự trọng bản thân mình. Nếu thô lỗ, cục căn, vô lễ… là tự hạ thấp nhân cách mình. Ứng xử lịch sự là phong cách sống văn minh, sống có văn hóa. Bình luận về ứng xử lịch sự, văn minh – Bài làm 2 Phép cư xử lịch sự với những người xung quanh là cả một nghệ thuật sống. Nghệ thuật này có thể gói gọn chỉ trong sáu chữ: văn nhã, hòa khí, và khiêm tốn. Văn nhã, nghĩa là phải biết sử dụng những từ ngữ trong giao tiếp như: xin chào, cảm ơn, xin thứ lỗi, tạm biệt… và dùng cho đúng lúc. Từ nét mặt, giọng nói, cho đến cử chỉ phải thật nhẹ nhàng, trang trọng và kính cẩn. Cũng như phải thể hiện được sự thân mật, lịch thiệp… Hòa khí: Hòa khí ở đây tức là khi chúng ta nói chuyện thì phải giữ được sự bình tĩnh, từ tốn, và nhẹ nhàng. Nội dung của câu chuyện phải có tình, phải có lí. Đặc biệt cần lưu ý tránh những biểu cảm: suồng sã, khiếm nhã. Không nên nói to, cười to, hay vừa nói vừa vung tay. Khiêm tốn: là không được khoe khoang, là người nói ít mà nghe nhiều hơn, người biết lắng nghe và không cướp lời của người đang đối thoại với mình. Những con người khiêm tốn vẫn thường sống rất chân thành, chân thật và cởi mở. Luôn nhắc nhở bản thân phải có ý tứ biết nhường nhịn, không nên tranh lấn với người khác. Nói tóm lại, mỗi chúng ta phải luôn đề cao chữ “lễ”, như Khổng Tử từng nói: “Bất học lễ vô dĩ lập”, có nghĩa là nếu không học lễ nghĩa thì sẽ không nên người. Ở trường thì phải biết kính thầy, quý bạn. Ở nhà thì phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, biết nhường nhịn em nhỏ, ngoan ngoãn nghe lời người lớn. Ngoài xã hội phải biết ứng xử lịch sự, biết tôn trọng, kính trọng người khác và cũng là tự trọng cho chính bản thân mình. Nếu có những cách hành xử thô lỗ, cục cằn, vô lễ… thì sẽ tự hạ thấp đi nhân cách bản thân. Ứng xử lịch sự là một sống văn minh, sống có văn hóa.
Bình luận về ứng xử lịch sự, văn minh – Văn mẫu lớp 12
641
Bình luận ý kiến: Đúng giờ là một cử chỉ đẹp – Văn mẫu lớp 9 Trong giao tiếp hàng ngày giữa cộng đồng, mõi người thường có một nét riêng nào đó, để lại ấn tượng sâu sắc, hoặc văn minh lịch sự, hoặc khiếm nhã, hoặc trang nhã, hoặc thô lỗ đáng chê…trước cặp mắt bàn dân thiên hạ. Tục ngữ có câu nói về ấn tượng trong giao tiếp: "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần". Lại có câu nói về cử chỉ, về chuyện đúng giờ: "Đúng giờ là một cử chỉ đẹp" Thế nào là cử chỉ? Thế nào là cử chỉ đẹp? – Cử chỉ là việc làm biểu lộ một thái độ nào đó. Cử chỉ đẹp biểu lộ một thái độ văn minh, lịch sự, một nhân cách văn hóa, một cách ững xử rất trang trọng, tự trọng, nhân văn, theo đạo lỹ và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ví dụ : lễ phép chào hỏi người mà mình gặp, nhường bước cho người lớn tuổi, người già; lên xa buýt nhường ghế cho phụ nữ mang thai, cho em nhỏ, cho người tàn tật, cho người già … Trong học hành, trong lao động, trong hội họp, bất cứ ai cũng phải chấp hành đúng giờ, bởi lẽ "đúng giờ là một cử chỉ đẹp"; nếu không biết, hoặc thực hiện "không đúng giờ" là thiếu văn minh lịch sự, đáng chê trách. Tại sao đúng giờ lại là một cử chỉ đẹp? Ngày xưa, nhân dân ta sống và lao động theo tiếng gà gáy, theo bóng mặt trời. Gà gáy sáng thì ra đồng: "Lao xao gà gáy rạng ngày/ Vai vác cái cày, tay dắt con trâu/ Bước chân xuống cánh đồng sâu/ Mắt nhắm mắt mở, đuổi trâu ra cày …" (ca dao). Và khi "mặt trời xuống núi, bóng nhá nhem tối, vợ chồng bước vội về nhà". "Hai sương một nắng" là nếp sống lao động cần cù của nhà nông xưa nay. Không biết dân ta biết sống và làm ăn theo đồng hồ từ năm tháng nào? Ngày nay, nhân dân ta hầu như ai cũng sống, cũng sinh hoạt, cũng học hành , làm ăn theo đồng hồ, theo giờ giấc. Trường học, cơ quan, nhà máy, công sở … đều có nội quy. Tàu xe đi, đến, máy bay khởi hành, hạ cánh đều có lịch trình theo tuyến, hành khách phải đúng giờ. Hội họp, lễ tết, hội hè, hiếu hỉ … cũng có kế hoạch, có ngày tháng giờ giấc, người nào liên quan phải chấp hành, phải thực hiện đúng giờ giấc, không thể tùy tiện được. Đúng giờ là một cử chỉ đẹp. Đẹp vì thể hiện một phong cách khoa học, đạo đức, văn minh, lịch sự. Trong trường học, chú bảo vệ đánh trống báo giờ học, giờ ra chơi, giờ tan học phải thật đúng giờ. Thầy cô giáo vào lớp, giảng dạy, hết bài, hết tiết học, phải đúng giờ, không thể vào muộn để học sinh ngồi chờ, không thể kéo dài lê thê tiết học. Nếu sai giờ là thiếu gương mẫu, đáng chê trách. Học sinh phải đi học đúng giờ, không nên học hành bữa đực bữa cái! Hội họp phải đúng lịch đúng giờ, không nên đăng đàn nói lan man "nói dài, nói dai, nói dại" để cử tọa phải chép miệng, ngáp vặt…và coi thường! Nhân viên đến cơ quan, công nhân vào nhà máy, ai cũng phải thực hiện nghiêm túc "8 giờ vàng ngọc" không nên tùy tiện "đi muộn về sớm"! Đúng giờ là một cử chỉ đẹp thể hiện lòng tự trọng và biết tôn trọng mọi người. Ăn cơm, đi ăn cỗ mà đến muộn để mọi người phải ngồi chờ thì sao coi được! Đi họp mà đi muộn sẽ bị mọi người nhìn bằng cặp mắt coi thường. Đúng giờ là một cử chỉ đẹp thể hiện một ý thức coi thì giờ quý như vàng bạc. Thời giờ trôi qua nhanh, thì giờ một đi không trở lại cho nên phải đúng giờ, không được lề mề, không được phung phí thì giờ. Có đúng giờ mới có thể tạo nên giá trị của cải vật chất và giá trị tinh thần. Những người đi họp chỉ vì "cái phong bao" thì họ chẳng quan tâm đến chuyện đúng giờ hay nội dung cuộc họp! Tóm lại, đúng giờ là một cử chỉ đẹp thể hiện một nếp sống khoa học văn minh, biểu hiện một nhân cách văn hóa vừa biết tự trọng và coi thì giờ quý báu như vàng bạc. Mỗi người trong chúng ta cần có ý thức và nếp sống đúng giờ, coi trọng "văn hóa đúng giờ" để học tập, làm ăn và sống gương mẫu.
Bình luận ý kiến_ Đúng giờ là một cử chỉ đẹp – Văn mẫu lớp 9
805
Nội dung bài viết1 Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 2 3 Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 3 4 Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 4 Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Tinh thần đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh việt Nam. Trong bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang, nhân dân ta đã phát huy cao độ tình yêu thương, đoàn kết dân tộc để chiến thắng thù trong giặc ngoài, để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bài học về đoàn kết đã ăn sâu vào tâm hồn nhân dân, kết tinh thành ca dao, tục ngữ như một niềm tin về chân lí sâu sắc, cao đẹp: "Một cây làm chằng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao" "Một cây" không thể làm nên non, nên núi, nên rừng. Đó là một sự thật hiển nhiên, ai cũng dễ dàng nhận thấy. Nhưng "ba cây" tượng trưng cho nhiều cây, cho rừng cây thì có thể tạo nên "non", nên "núi", không chỉ là "núi thấp" mà là "núi cao". Từ "một cây" đã chuyển thành "ba cây", số lượng đã thay đổi từ ít thành nhiều nên chất lượng cũng biến đổi. Yếu tố quyết định của sự vận động từ "lượng" biến thành "chất" là sự "chụm lại" của "ba cây", của số đông. Như thế mới có "núi cao". "Chụm lại" là hành động, là biểu hiện tâm lí thể hiện sự đồng tâm nhất trí, sự hợp lực và sự đoàn kết gắn bó. "Cây" trong câu tục ngữ được nhân hóa, trở thành ẩn dụ, một biểu tượng rất sống động và thấm thía nói lên tình yêu thương, tinh thần đoàn kết của cộng đồng, của dân tộc. Câu tục ngữ: "Một cây làm chằng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao" đã nêu lên một bài học vô cùng quý báu về sự hợp lực, về tinh thần đoàn kết để tạo nên sức mạnh to,lớn của cộng đồng dân tộc. Lịch sử và cuộc sống, thơ văn và thực tế đã có biết bao sự việc, hình ảnh sống động nói về đoàn kết và sức mạnh đoàn kết của nhân dân ta. Từ thời xa xưa, với công cụ thô sơ, người Việt đã bạt rừng, lấn biển, đắp đê đào kênh để làm nên những cánh đồng màu mỡ, bát ngát mênh mông: "Việt Nam đất nước ta ơi! Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn?" (Nguyễn Đinh Thi) Thần thoại dân tộc Lô Lô đã kể lại hình ảnh đoàn người đông đảo, đồng sức đồng lòng, bền bỉ và dũng cảm kéo nhau "đi san mặt đất" để xây dựng cuộc sống hạnh phúc lâu dài: "Giống nào cũng không đi – Người gọi nhau làm lấy – Nhiều sức chung một lòng – San mặt đắt cho phẳng – Nhiều tay chung một ý – San mặt đất làm ăn". "Nhiều sức" và "nhiều tay" lại biết "chung một lòng", "chung một ý" nên mới có sức mạnh to lớn "san mặt đất làm ăn" như vậy. Con đê sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam, v.v… sừng sững như những dãy trường thành, ngăn lũ, bảo vệ những cánh đồng màu mỡ thẳng cánh cò bay là biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết và ý chí của triệu triệu con người Việt Nam qua hàng ngàn năm lao động quyết tâm chiến thắng thiên tai để được sống trong ấm no, hạnh phúc. Trong chiến đấu cũng vậy, đoàn kết là sức mạnh vô địch để giáng trả và đánh thẳng quân xâm lược. Hội nghị Diên Hồng đời Trần với tiếng hô "Quyết chiến! Quyết chiến!" của các bô lão "tuổi già thế kỉ" biểu thị cho lòng yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và tướng sĩ để đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Cho đến nay, câu nói của người anh hùng Trần Quốc Tuấn vẫn còn in sâu trong lòng người vê bài học đại đoàn kết dân tộc: "Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức". Đoàn kết để đánh giặc. Đoàn kết để khắc phục khó khăn, để chiến thắng "giặc dốt, giặc đói", "giặc ngoại xâm", để khắc phục khó khăn nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chí Minh qua bài thơ Hòn đá nhằm giáo dục nhân dân ta bài học về sức mạnh "Ba cây chụm lại nên hòn núi cao": "Hòn đá to Hòn đá nặng Nhiều người nhắc Nhắc lên đặng!" Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vừa qua, Mặt trận Liên Việt, "Mặt trận đoàn kết" dưới sự lãnh đạo của Đảng là tổ chức yêu nước của nhân dân ta thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành Công" Ngày nay trên con đường phát triển nền nông nghiệp, công nghiệp hiện đại, văn hóa tiên tiến… phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, nhân dân ta đã và đang nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc khép lại quá khứ, hướng về tương lai. Hàng triệu con người đồng tâm, nhất trí, góp sức, góp tiền của… cùng nhau xây dựng Tổ quốc. Hầu như địa phương nào cũng có những thành tựu đầy tự hào biểu thị sức mạnh đoàn kết dân tộc trong kiến thiết hòa bình. Thủy điện Hòa Bình, thủy điện Trị An, thủy điện Y-a-ly, công trình tải điện 500KV xuyên Việt, công cuộc khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long… Mỗi công trình là một bài ca hào hùng về lao động sáng tạo và đoàn kết toàn dân. Câu tục ngữ: "Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm tại nên hòn núi cao" hàm chứa bài học đoàn kết vô cùng sâu sắc. Đoàn kết không chỉ cho ta sức mạnh vô địch mà còn là suối nguồn của hạnh phúc, yêu thương và no ấm. Nó như ngọn lửa thần kì thắp sáng niềm tin và lòng tự hào dân tộc. Sức mạnh Việt Nam, tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 2 Tục ngữ Việt Nam rất phong phú và thể hiện ở mọi mặt của đời sống xã hội. Nó là lời đúc kết những kinh nghiệm của cha ông và được chuyển thành vần thơ rồi để lại cho con cháu học tập và rèn luyện, trong đó có câu: “Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Câu tục ngữ nói lên sức mạnh của sự đồng lòng, đoàn kết, gợi lên hình ảnh rất sinh động: một cây bé nhỏ, đơn độc thì “làm chẳng nên non” nhưng “ba cây chụm lại” thì “nên hòn núi cao”. “Ba cây” chỉ là cách nói ước lệ, khái quát của dân gian ý chỉ “nhiều cây thì sẽ nên rừng”.Nhưng nếu chỉ nói chuyện cây và núi thì câu tục ngữ đã không sống lâu bền trong dân gian Việt Nam như vậy. “Một cây” và “ba cây” là hình ảnh của cá nhân và tập thể. Và “non”, “núi cao” là hình ảnh của những công việc khó khăn, nặng nhọc. Bằng những kinh nghiệm xương máu của mình, ông cha ta đã đưa ra một nhận định: một cá nhân đơn lẻ thì khó làm nên việc lớn; muốn làm được những công việc khó khăn, vất vả con người phải biết đoàn kết, hợp lực với nhau. Đó chính là bài học về tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng. Lời răn dạy của cha ông thể hiện trong câu tục ngữ được dân tộc ta chứng minh qua nhiều thế hệ bằng thực tế cuộc sống chiến đấu và lao động của dân tộc. Trong những cuộc kháng chiến gian khó, nguy hiểm nhất của dân tộc, nhân dân ta vẫn đoàn kết một lòng vượt qua để chiến đấu và chiến thắng. Thế kỉ mười ba, đất nước ta phải đương đầu với kẻ thù hùng mạnh nhất thếgiới khi ấy: quân xâm lược Mông – Nguyên. “Vó ngựa Mông – Nguyên chạy tới đâu cỏ cây không mọc được đến đấy”, chúng đã đi từ Đông sang Tây, chiếm được những vùng đất đai rộng lớn và nay cũng ôm mộng xâm lược Đại Việt. Nhưng nhân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vua tôi nhà Trần đã không cam tâm chịu thua. Vua Trần đã tổ chức nhiều hội nghị nhằm lấy ý kiến và tập hợp sức mạnh toàn quân, toàn dân. Từ hội nghị Bình Than đến hội nghị Diên Hồng, đâu đâu cũng vang lên tiếng hô “Đánh! Đánh!”. Với sức mạnh như vũ bão của cả một dân tộc, ba lần quân Mông – Nguyên xâm lược là ba lần chúng phải rút chạy nhục nhã. Bước vào thế kỉ hai mươi, thế kỉ của những giông bão thời đại, đối mặt với sự xâm lược của hai đế quốc hùng mạnh nhất thế giới: thực dân Pháp, đế quốc Mĩ, dân tộc ta vẫn phát huy tinh thần đoàn kết keo sơn. Bác Hồ đã kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” “bất kể đàn ông, đàn bà, người già, trẻ nhỏ không phân biệt tôn giáo đẳng cấp” đều đứng lên chống giặc. Ngay cả khi miền Bắc đã được giải phóng, miền Bắc vẫn gồng mình chung tay sản xuất để chi viện cho miền Nam đánh Mĩ. Những phong trào lao động sản xuất nổi lên như sóng cồn: “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Lao động giỏi”, “Cờ ba nhất”, “Ba sẵn sàng”… Và rồi, qua những năm trường kì kháng chiến gian khổ, cách mạng đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Từ Cách mạng tháng Tám đến chiến thắng của dân tộc là bản hùng ca ca ngợi sức mạnh của tinh thần đoàn kết, ý chí sắt đá và trí tuệ phi thường của con người Việt Nam bé nhỏ. Sau này Bác Hồ đã tổng kết: “Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy (yêu nước) lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước…”. Trong cuộc sống, thậm chí cũng như trong lịch sử đã chứng minh về những hạn chế của sự đơn độc. Đó là cha con Hồ Quý Ly vì cướp ngôi nhà Trần làm mất lòng dân nên phải đơn phương trong cuộc chống giặc Minh xâm lược: “Không sợ đánh giặc chỉ sợ lòng dân không theo”. Và quả thực, nhà Hồ đã không đoàn kết được nhân dân làm mất nước ta vào tay giặc. Đó còn là bè lũ Lê Chiêu Thống làm li tán lòng người để kẻ thù ngoại bang tranh thủ cơ hội xâm lược nước ta… Lịch sử sẽ mãi lấy đó làm những bài học đắt giá. Ngày nay, tiếp thu bài học của cha ông, đất nước ta đang phát huy sức mạnh đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân để xây dựng đời sống đưa đất nước phát triển hội nhập với thế giới. Để xứng đáng với vai trò của những chủ nhân tương lai của đất nước, những người học sinh chúng em cần biết học tập tinh thần đoàn kết để xây dựng tập thể lớp vững mạnh và đặc biệt là để tạo nên mối quan hệ hòa thuận, yêu thương trong gia đình của mình. Câu tục ngữ có ý nghĩa thật lớn lao đối với thế hệ trẻ chúng ta. Hiểu rõ về ý nghĩa của câu tục ngữ, dân tộc Việt Nam có sự gắn bó đoàn kết chặt chẽ hơn, mọi khó khăn gian khổ đều được vượt qua và nhanh chóng sánh vai với năm châu bốn bể. Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 3 Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân ta thực hiện tốt bài học đoàn kết nên đã liên tục vượt qua trở ngại để giành độc lập dân tộc. tinh thần đoàn kết ấy đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc và hơn thế nữa đã được đúc kết thành một chân lý giàu hình ảnh qua hai câu: “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Phải chăng bài học quý ấy đã được thực tế cuộc sống và lịch sử chứng minh để có thể mãi mãi là phương châm tốt đẹp cho chúng ta? Người xưa đã quan sát thực tế, mượn hình ảnh thiên nhiên để so sánh với con người. thực vây, một cây đứng riêng lẻ, dù có to đến đau vẫn rất đơn so với một rừng cây, và tất nhiên càng nhỏ bé đối với thiên nhiên bao la, đối với vũ trụ mênh mông. Do vậy, trước gió bão to, cây lớn đó có thể bị bẻ gãy. Trái lại, ba cây mọc gần nhau, cành lá tạo thành một khoảng rộng hơn có thể nương tựa vào nhau trước sức gió mạnh, rễ cũng đan xen nhau để cùng bám chặt đất nên khó bị bật rễ. Tất cả tạo thành một sức mạnh bề thế, vững chắc, tương tự như hòn núi cao. Qua các hình ảnh quen thuộc và cách ví von có phần cường điệu hóa nói trên, câu ca dao gợi một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là sự hợp quần, là tinh thần đoàn kêt của tập thể con người. Nếu sự gắn bó của các loài cây kia tạo nên một sức mạnh thì tại sao con người không đoàn kết, gắn bó với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp để dễ dàng thành công. Đó chính là lời khuyên chân thành, là ý nghã thiết thực mà người xưa muốn gửi gắm đến chúng ta. Trước hết trong cuộc sống, sức mạnh tập thể đã nhiều lần giúp ta vượt qua trở ngại về vật chất lẫn tinh thần. Một con đê núng thế cần rất nhiều bao đất, cần rất nhiều bàn tay, công sức của toàn thể nhân dân. Một con bệnh ngặt nghèo cần được tập thể bác sỹ hội chẩn, tìm phương cứu chữa. Nhiều bộ óc và tài năng tập hợp lại mới có kết quả tốt đẹp và chính xác về công trình lớn lao… Tinh thần đoàn kết không những giúp cho ta vượt qua những trở ngai trong cuộc sống, trong lao động để đi đến thành công mà còn rất cần thiết trong công cuộc đấu tranh giành độc lập trước hiểm hoại ngoại xâm. Những trang sử hào hùng của dân tộc ta càng hiểu rõ tinh thần đoàn kết của dân tộc ta rất đáng tự hào, đó là những sức mạnh tạo nên những chiến công oanh liệt. Ngay từ trong gia đình, nếu ta yêu thương nhau, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, cả gia đình được hòa thuận, hạnh phúc.ở xóm làng nếu biết đoàn kết một lòng thì tất cả sẽ yên vui, những tệ nạn xấu xa như trộm cắp, ma túy khó lòng xâm nhập. Nếu người dân cả nước biết đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau thì hoạn nạn nào không được khắc phục, khó khăn nào không vượt qua. Chúng ta thấy giá trị của “ba cây chụm lai..” thật quý báu. Đoàn kết là sức mạnh vô địch, là phương châm sống và hành động để tồn tại và hạnh phúc. Qua đây, chúng ta càng thấy rõ được giá trị của sự đoàn kết và ai trong mỗi chúng ta còn cách sống đơn độc xin hãy có một suy nghĩ khác và hãy đoàn kết nhau để tạo nên một sức mạnh dân tộc. Chứng minh câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non… – Bài làm 4 Từ ngày xưa, con người đã nhận thức được rằng để có thể tồn tại và phát triển, cần phải đoàn kết. Đoàn kết đế sống, đoàn kết để vượt qua những trở lực ghê gớm của thiên nhiên… Chính vì thế, qua câu tục ngữ giàu hình ảnh, ông cha ta đã khuyên chúng ta phải đoàn kết: Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Đoàn kết tạo nên sức mạnh, giúp chúng ta làm nên những việc lớn. Thực tế cuộc sống chiến đấu và lao động của dân tộc ta từ xưa tới nay đã chứng minh điều đó. Đất nước Việt Nam có được như ngày hôm nay là do đâu? Non sông Việt Nam ta đẹp đẽ như ngày hôm này là nhờ đâu? Phải chăng chính là nhờ tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân. Ngay từ buổi đầu lịch sử, đất nước đã bị quân xâm Ịược phương Bắc như Tống, Nguyên, Minh, Thanh… tràn sang cướp phá. Chúng muốn thôn tính Đại Việt, bắt nhân dân ta làm nô lệ. Nhưng dân tộc ta đã đoàn kết một lòng, vùng dậy đấu tranh, đánh đuổi q'uân thù. Quân dân nhà Trần đoàn kết nhất trí, đồng tâm giết giặc đã lập nên những chiến công lừng lẫy muôn đời. Từ các vị bô lão trong hội nghị Diên Hồng đến thiếu niên Trần Quốc Toản, từ lão tướng Trần Hưng Đạo đến người thanh niên đan sọt làng Phù ủng… đều đồng lòng “Sát Thát”. Sức mạnh của lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết đã làm nên chiến thắng vinh quang rất đáng tự hào. Sang thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam đất không rộng, người không đông nhưng đã đánh bại hai đế quốc. Nếu chỉ tính sức mạnh quốc gia bàng sự giàu có, bằng trình độ kĩ thuật hiện đại, bằng vũ khí tối tân,bằng số lượng binh lính… thì Việt Nam ta đã tiến hành một cuộc chiến tranh không cân sức bằng cách đoàn kết với các dân tộc yêu hòa bình và chính nghĩa trên khắp năm châu kể cả nhân dân Pháp, Mĩ… Vì thế, chúng ta có đủ sức mạnh để làm nên chiến thắng vĩ đại. Trong công cuộc xây dựng cuộc sống, đoàn kết cũng tạo ra những sức mạnh phi thường. Nhìn những con đê sừng sững hai bên bờ sông Hồng, sông Đuống, sông Thái Bình… có từ lâu đời làm nhiệm vụ ngăn lũ lụt, bảo vệ mùa màng cho cả vùng châu thổ Bắc Bộ, chúng ta càng thấy rõ hiệu quả to lớn của tinh thần đoàn kết. Công trình thủy điện sông Đà đưa ánh sáng đến cho mọi nhà không thể hoàn thành được nếu thiếu bàn tay khối óc của hàng triệu kĩ sư, công nhân Việt Nam và chuyên gia các nước bạn. Những giàn khoan trên biển Đông khai thác dầu khí làm giàu cho đất nước cũng là kết quả của sức mạnh đoàn kết. Có thể kể thêm rất nhiều, rất nhiều ví dụ khác nữa để chứng minh. Ca dao với những hình ảnh giản dị nhưng lại chứa đựng một triết lí sống sâu sắc. Bác Hồ cũng đã từng nêu ra phương châm có tính chiến lược toàn Đảng, toàn dân: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Nối tiếp truyền thống yêu nước của ông cha, học sinh chúng em tuy nhỏ tuổi nhưng đã biết xây dựng tinh thần đoàn kết trong tổ, trong lớp, trong trường. Tinh thần đoàn kết đã tăng thêm sức mạnh cho chúng em học tập và rèn luyện đạt kết quả tốt hơn.
Chứng minh câu tục ngữ_ Một cây làm chẳng nên non… – Văn mẫu lớp 8
3,368
Nội dung bài viết1 Chứng minh lời khuyên Có công mài sắt, có ngày nên kim – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Chứng minh lời khuyên Có công mài sắt, có ngày nên kim – Bài làm 2 Chứng minh lời khuyên Có công mài sắt, có ngày nên kim – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Trong cuộc sống, tất nhiên ai cũng muốn thành công, nhưng con đường dẫn đến thành công thường quanh co khúc khuỷu và lắm chông gai. Để động viên con cháu vững chí, bền gan phấn đấu và tin tưởng ở thắng lợi, ông cha ta có câu tục ngữ: Có công mài sắt, có ngày nên kim. Câu tục ngữ nêu lên hai vế. Vế đầu là điều kiện: Có công mài sắt. Vế sau là kết quả đạt được: có ngày nên kim. Hai vế đều có bốn tiếng, trong đó hai tiếng một tương ứng với nhau: có công / có ngày, mài sắt / nên kim. Trong hoàn cảnh xã hội thời xưa, muốn biến sắt thành kim, không có phép màu nào cả ngoài công sức lao động cần cù của con người. Ai cũng biết cây kim thật bé nhỏ nhưng cũng thật hoàn hảo. Thân kim tròn và nhỏ. Đầu kim nhọn, phần cuối có một lỗ bé xíu để luồn chỉ qua. Cây kim là một vật có ích được làm bằng sắt. Từ sắt nên kim là một quá trình tôi luyện, mài dũa công phu. Ai có công mài sắt sẽ có ngày nên kim. Đức kiên nhẫn, bền bỉ chính là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công. Thực tế cuộc sống cho ta thấy lời khẳng định trên là hoàn toàn có cơ sở. Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta thường phải thực hiện chiến lược trường kì kháng chiến. Từ cuộc kháng chiến chống quân Minh của vua tôi nhà Lê cách đây mấy thế kỉ cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ của nhân dân ta trong suốt mấy chục năm qua, tất cả đều thể hiện ý chí, nghị lực kiên cường, bất khuất của toàn dân tộc. Cuối cùng, chúng ta đã thắng lợi vẻ vang, giữ vững chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của đất nước. Trong đời sống lao động sản xuất, nhân dân ta cũng đã thể hiện đức tính kiên nhẫn, bền bỉ đáng khâm phục. Nhìn con đê sừng sững ven sông Hồng chúng ta mới hiểu được tổ tiên ta đã kiên trì, nhẫn nại tới mức nào để tạo ra bức tường thành ngăn dòng nước lũ, bảo vệ mùa màng. Trong học tập, đức kiên trì lại càng cần thiết để giúp ta thành công. Từ một em bé sáu tuổi vào học lớp Một, bắt đầu cầm phấn tập viết chữ O đầu tiên cho đến khi biết đọc, biết viết, biết làm toán rồi lần lượt mỗi năm một lớp, phải mất 12 năm mới tiếp thu xong những kiến thức phổ thông. Trong quá trình lâu dài ấy, nếu không kiên trì luyện tập, cố gắng học hành, làm sao có thể đạt được kết quả tốt. Người bình thường đã vậy, với những người tật nguyền như Nguyễn Ngọc Kí, ý chí phấn đấu càng phải cao hơn gấp bội để vượt mọi khó khăn . Vốn bị liệt hai tay từ nhỏ, anh đã luyện viết và làm mọi việc bằng chân. Đức kiên trì đã giúp anh chiến thắng số phận. Anh học xong phổ thông, đại học và trở thành thầy giáo, một nhà giáo ưu tú. Từ những kinh nghiệm đúc kết trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã khuyên thanh niên: Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên. Việc tu dưỡng, rèn luyện của mỗi con người phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Kinh nghiệm của thế hệ trước sẽ là bài học quý báu, là lời củ vũ động viên thanh thiếu niên không ngừng phấn đấu trong cuộc sống. Câu tục ngữ ngắn gọn, súc tích nhưng bao hàm ý tứ sâu xa. Ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm từ cuộc sống chiến đấu và lao động, nhằm khuyên nhủ mọi người phải kiên trì , nhẫn nại để có thể vượt qua những khó khăn, thử thách, đi tới thành công. Trong hoàn cảnh hiện nay, ngoài đức tính kiên trì nhẫn nại, theo em còn cần phải vận dụng óc thông minh, sáng tạo để đạt được hiệu quả cao nhất trong học tập, lao động; góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Chứng minh lời khuyên Có công mài sắt, có ngày nên kim – Bài làm 2 Tục ngữ dân gian là kho tàng trí tuệ của muôn đời mà mỗi câu là một bài học lớn. Một trong những bài học ấy được nhân dân ta đúc kết và khuyên dạy trong câu: Có công mài sắt có ngày nên kim Tục ngữ thường xây dựng những chân lí dựa trên những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng. Câu tục ngữ này cũng vây. Tác giả dân gian đang nói đến một quá trình đem thanh sắt vừa to vừa cứng mà mài thành cây kim nhỏ. Công việc ấy tưởng chừng như không thể nào làm nổi bởi nó vừa khó lại vừa tốn công tốn sức. Thế nhưng vẫn có người không quản ngại gian nan, vẫn gắng sức và làm cho kì được. Nghĩa đen của câu tục ngữ là nói việc mài sắt thành kim nhưng nghĩă bóng của nó lại là một bài học nhân sinh quý giá. Câu tục ngữ của cha ông khuyên dạy chúng ta: làm việc gì cũng phải kiên trì, nhẫn nại, cố gắng và quyết tâm. Có được tinh thần như thế thì công việc dẫu có khó khăn gian khổ đến đâu, chung ta cũng có thể hoàn thành. Chúng ta đã từng được đọc, được nghe nhiều câu chuyện. Trong những câu chuyện ấy, chắc chúng ta cũng đã gặp không ít những tấm gương về lòng nhân oai kiên trì. Ta hãy nhớ đến tấm gương anh Ký. Dù đã bị liệt cả hai tay thế nhưng cái mong ước được đến trường đã thôi thúc anh ngày đêm quyết tâm khổ luyện. Anh tập viết bằng chân một cách khó khăn và khổ sở. Những dòng chữ đều tiên nghuệch ngoạc, dọc ngang, uốn lượn khiến anh rất buồn lòng. Thế nhưng anh vẫn quyết tâm và rồi cuối cùng anh đã vượt qua số phận. Anh đã trở thành một người thầy giáo ưu tú, được bao thế hệ học sinh kính trọng, mến yêu. Bên cạnh tấm gương anh Nguyễn Ngọc Ký chúng ta hãy nhớ đến cuộc đời của nhà thơ Đỗ Phủ. Chắc chẳng ai trong chúng ta có thể phù nhận được tài thơ kiệt xuất của ông. Thế nhưng thi sĩ lừng danh bậc nhất Trung Hoa ấy lại có một cuộc đời rất vất vả đớn đau. Ông gần như suốt đời phải sống lang thang phiêu bạt. Nhà nghèo lại phải thường xuyên chạy loạn chiến tranh, nhiều lúc Đỗ Phủ muốn bỏ ngay nghiệp văn chương. Bởi những bài thơ của ông không thể làm ấm lòng con trẻ và không thể chữa được bệnh cho bố mẹ già. Thế nhưng cũng bằng một sự quyêt tâm rất lớn, nhà thơ đã vươn lên để vừa vẫn duy trì cuộc sống vừa lại có thể theo đuổi nghiệp văn chương. Trong lao động chúng ta cũng phải nể phục nhũng tấm gương như nhà bác học Lương Định Của – một kĩ sư nông nghiệp xuất sắc của nước ta. Những năm nước nhà còn chìm trong đói kém, anh đã không quản đêm ngày và thời tiết lội bì bõm trên những đám ruộng mà thử nghiệm, mà nghiên cứu để tìm ra giống lúa mới có năng suất cao hơn. Rồi những tấm gương như Anh-xtanh, Nô-ben, Men-đê-lê-ép… tất cả những nhà khoa học ấy để vươn được tới những thành công thì họ cũng đã phải chịu hàng trăm lần thất bại. Và chắc chắc nếu không có đủ niềm tin và nghị lực thì họ đã không thể trở thành những nhà khoa học nổi tiếng với những phát minh mang ý nghĩa lớn lao. Câu tục ngữ của nhân dân ta đúng là một lời khuyên qúy giá. Nó nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn rèn luyện để có lòng kiên trì nhẫn nại và ý chí quyết tâm. Có như vậy, chúng ta mới dễ dàng vượt qua những khó khăn vất và để trở thành những người công dân tốt và làm việc nhiều điều hữu ích cho cuộc sống của mỗi chúng ta.
Chứng minh lời khuyên Có công mài sắt, có ngày nên kim – Văn mẫu lớp 7
1,496
Nội dung bài viết1 Chứng minh thiên nhiên là người bạn tốt của con người – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Chứng minh thiên nhiên là người bạn tốt của con người – Bài làm 2 Chứng minh thiên nhiên là người bạn tốt của con người – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. (Tế Hanh) Cái gì đã hiện diện và gắn bó nhà thơ với quê hương? Phải nói là thiên nhiên – với không khí nồng mặn riêng của biển, màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi – tất cả như một mái ấm gắn bó với nhà thơ từ lúc mới lọt lòng mẹ…Do vậy, có ý kiến cho rằng "thiên nhiên là người bạn tốt cùa con người. Con người cần yêu mến và bảo vệ thiên nhiên". Nhận định ấy đã được chứng minh hùng hồn qua thực tiễn cuộc sống quanh ta. Trước hết, ta cần xác định thiên nhiên là gì mà gần gũi gắn bó với ta như một người bạn tốt? Điều đó thật quen thuộc với ta, thiên nhiên gồm tất cả những gì đang hiện hữu quanh ta mà không hoàn toàn do bàn tay ta xây dựng nên. Đó là bầu trời, mặt đất, núi cao, sông rộng, suối rừng, cây cỏ, chim muông… Tất cả như đã có sẵn ở quanh ta, đợi chờ bước chân ta tìm đến, chiêm ngưỡng… Tất cả như muốn giúp đỡ ta, nhự những bạn tốt của ta, cho nên ta cần yêu mến và bảo vệ thiên nhiên. Thực vậy, mọi vật dụng của ta đều bắt nguồn từ thiên nhiên, dù đơn sơ như mái nhà tranh, nhà sàn hay hiện đại như nhà gạch, bê tông, từ giàn dị như hạt cơm hay thanh cành như bánh cốm. Thiên nhiên là nguồn cung cấp vô tận cho con người: Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự thuở nào. (Huy Cận) Con người ngày càng tiến bộ, khoa học kĩ thuật càng phát triển nhưng không hoàn toàn thay thế được thiên nhiên. Ta chỉ cải tạo thiên nhiên mà thôi. Phải nói là nhân loại càng văn minh, ta càng nhận ra giá trị to lớn, vô tận của thiên nhiên. Càng hiểu biết về y học, ta càng yêu quý không khí trong lành, càng sợ không khí, dòng nước ô nhiễm. Như vậy, một vấn đề mới được đặt ra. thiên nhiên cần ta yêu mến, bảo vệ để có thể phục vụ ta lâu dài, tốt đẹp hơn. Thực vậy, rừng không những đã cung cấp cho ta những tài nguyên quý giá mà còn giữ ỗn định khí hậu cho ta. Nếu ta phá rừng bừa bãi, sẽ gây xáo trộn khi hậu, rất tai hại. Từ nguồn sáng và nguồn sổng bất diệt là Mặt Trời, ta hiểu tại sao cỏ được màu xanh của lá, hơi ấm của mùa hạ, nét đẹp của chiều thu. Đối lập với Mặt Trời là Mặt Trăng, ta càng hiểu giá trị của màu xanh Trái Đất cũng như màu vàng của ánh trăng. Ta đã biết trên mặt trăng không không khí nhưng trăng là ánh vàng hiền dịu tỏa sáng trần gian, trăng điều hòa con nước… Bên cạnh Mặt Trăng, Mặt Trời, những con sông, những dòng suối không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, mà còn có giá trị thiết thực để ta lưu thông và xây dựng nhà máy thủy điện… Thiên nhiên trong lành, thoáng đãng là nơi thu hút khách du lịch từ thảnh phố đông đúc trở về nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vào cuối tuần, cuối tháng. Thiên nhiên là người bạn giúp ta lấy lại sức khỏe sau những ngày làm việc mệt nhọc. Màu xanh hoa lá, tiếng suối bên rừng, chim bay bướm lượn… tất cả đều an ủi tâm hồn ta, giúp ta quên sầu muộn ưu tư. Biết bao văn nhân, thi sĩ trước thiên nhiên và vì thiên nhiên, đã cảm xúc và sáng tạo nên những tác phẩm nổi tiếng về thơ, văn, nhạc, họa. Thiên nhiên chính là nguồn cảm hứng vô tận để sáng tác văn học nghệ thuật, là người bạn muôn đời của văn nghệ sĩ và bất cứ ai yêu mến thiên nhiên. Không chỉ nghệ sĩ sáng tác từ thiên nhiên mà cả khoa học, như Archimede đã tìm ra sức đẩy của nước – từ người bạn thiên nhiên – khi ông tắm. Newton khi nhìn quả táo rơi đã tìm ra định luật về sự rơi tự do. Quả thực thiên nhiên là nguồn sáng tạo vô tận của con người trên mọi lãnh vực, là người bạn tốt của con người. Ai trong chúng ta không nhớ câu Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du. Sự gắn bó, thân thiết của thiên nhiên với con người thật chặt chẽ, sự cảm thông thật tuyệt vời sâu sắc: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. Còn ai thấu hiểu nỗi buồn li biệt Thúy Kiều – Thúc Sinh hơn vầng trăng xẻ kia? Chính vì hiểu được sự ích lợi và cần thiết của thiên nhiên, Nhà nước ta đã lên tiếng kêu gọi, cảnh báo phải bảo vệ thiên nhiên như bảo vệ lá phổi của mình. Hiện nay Nhà nước ta đã có những đạo luật nghiêm cấm việc săn bắt nhiều giống chim và thú quý. Nhiều vùng đã giữ gìn được những khu rừng nguyên sinh. Việc trồng rừng được quy hoạch, phối hợp với việc khai thác rừng một cách đúng mức. Con người đã có rất nhiều cố gắng nhằm ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường tự nhiên. Thiên nhiên đòi hỏi được bảo vệ chặt chẽ và có hiệu quả để con người được thiên nhiên phục vụ hiệu quả hơn. Nếu thiên nhiên bị hủy hoại, con người sẽ mất đi ngôi nhà chung thân yêu và hạnh phúc của mình, mất đi người bạn tốt nhất của mình vậy! Hiểu được sự cần thiết của thiên nhiên đối với cuộc sống con người, ta phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn thiên nhiên như một người bạn quý. Hơn lúc nào hết, chúng ta hãy thực hiện cấp bách nhiệm vụ bảo vệ thiên nhiên để tạo cho mình một cuộc sống tốt đẹp trong bầu không khí trong lành của thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ là bạn tốt mà còn là tấm gương cống hiến cao cả nhất: Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình. Chứng minh thiên nhiên là người bạn tốt của con người – Bài làm 2 Con người đã trải qua hàng triệu năm để tiến hóa và phát triển, trong suốt quãng thời gian dài đó con người có thể tồn tại được là nhờ sự che chở, giúp đỡcủa thiên nhiên. Có người từng ví thiên nhiên là người bạn tốt của con người. Không sai, thiên nhiên giúp đỡ con người trong nhiều mặt, bởi vậy con người cần phải yêu mến và bảo vệ thiên nhiên. Thiên nhiên là tất cả những điều kiện tự nhiên, nhân tạo tồn tại xung quanh con người như đất, nước , không khí, rừng, biển … Trong toàn thể tổ hợp của môi trường thì thiên nhiên chiếm một phần rất lớn. Đất và nước là nhân tố chủ yếu tạo nên quả đất, trong đó đất chiếm 1/4 thể tích và là nơi sinh sống của nhiều loại động vật, kể cả con người. Lòng đất còn được nhiều nơi sử dụng để ẩn náo, xây dựng đường ngầm, hay khách sạn dưới lòng đất. Dưới lòng đất còn có nhiều loại khoáng sản quí giá và nguồn nước ngầm mà con người đang sử dụng. Đất là yếu tố quan trọng để duy trì sự sống của mọi loài thực vật. Thử hỏi thế giới sẽ ra sao nếu không còn mặt đất! Nước cũng vậy, nước chiếm 3/4 thể tích trái đất. Nước là nơi sinh sống của nhiều loại động vật, nước cung cấp năng lượng cho con người và động vật, có thể nói nước là nhịp tim thứ hai của mọi cơ thể sống. Con người hô hấp nhờ oxi trong không khí; không chỉ oxi mà không khí còn chứa nhiều loại khí quan trọng khác như cacbon, hidro, là những nguyên tố hóa học tạo nên nhiều loại công cụ và vật liệu tiên tiến giúp đỡ con người trong cuộc sống hiện đại. Không chỉ con người mà tất cả mọi loài sinh vật điều duy trì được sự sống nhờ oxi trong không khí. Thế nới thấy không khí quan trọng với quả địa cầu biết chừng nào! Thiên nhiên bao la vô kể, nhưng một trong những món quà quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người là những cánh rừng. phải kể đén là cánh rường nguyên sinh Amazon bạc ngàn, rộng lớn, đó là nơi sinh sống của hàng triệu loài động thực vật, là ngôi nhà chung của nhiều loại sinh vật quý hiếm trên thế giới, là điều kiện nghiên cứu của những nhà khoa học nổi tiếng. Đất nước chúng ta cũng có nhiều khu rừng nổi tiếng, với đa dạng các loài sinh vật, đem lại nguồn lợi lớn cho người dân.Việt Nam được thiên nhiên ưu ái không chỉ về rừng vàng mà còn có biển bạc với đương bờ biển kaos dài hơn ba nghìn km từ Vịnh Bắc Bộ đến Mũi Cà Mau. Quả là biển bạc khi hàng năm dân ta thu về hàng chục ngàn tấn tôm cá, là nguồn sống, cơ ngơi của những ngư dân lấy biển làm nhà. Nhiều bãi biển còn là địa điểm thu hhuts khách du lịch mang lại nguồn kinh tế lướn cho nghành du lịc nước nhà. Thế đấy, chỉ cần một vài ví dụ cũng đủ để thấy được vai trò quan trọng của thiên nhiên. Không những cung cấp lwoij ích vật chất mà thiên nhiên còn đáp ứng nhu cầu về mặt tinh thần cho con người. Qua hàng thế kỉ nhiều thi sĩ vẫn lấy thiên nhiên làm nguồn cảm hứng cho ngòi bút của mình. Như đại thi hào Nguyên Du với tác phẩm Đoạn trương tân thanh nổi tiếng đi vào lòng người, tác phẩm này thành côn là nhờ sự khéo léo của tác giả khi ông lấy vẻ đẹp thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp con người, lấy hình ảnh thiên nhiên để gợi tả tâm trạng con người: Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da hay Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Cả Hồ chủ tịch, thơ của người gắn liền với thiên nhiên với vẻ đẹp của tạo hóa mà làm thành kiệt tác, đặc biệt ánh trăng người đồng hành không thơ thiếu trong bất cứ tập thơ nào của người: Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ Hay lấy sự chuyển giao của thiên nhiên mà làm thành thơ ca, lấy sự rung động của thiên nhiên mà ví như lòng người đang xao động: Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời (Thanh Hải) Thiên nhiên giúp đỡ con người về kinh tế trong đời sống nhưng người bạn tốt này đã đi vào thơ ca tự bao giờ chẳng biết. Từ thời xa xưa con người sống phụ thuộc vào thiên nhiên thế nhưng cuộc sống đã phát triển và dần dà con người đã thống trị thiên nhiên. Việc đó đem lại rất nhiều lợi ích nhưng con người đã không biết sử dụng một cách có hiệu quả mà đang khai thác một cách quá lố, thiên nhiên thật sự bao la nhưng nó không phải là vô tận. Người Việt Nam tự hào vì chúng ta có rừng vàng biển bạc mà một số người lại cứ phụ thuộc vào rừng, biển, khai thác rừng bừa bãi, đánh bắt thủy sản với thái độ vô lương tâm, rừng bị trộm gỗ, săn bứt động vật trái phép để lấy mật lấy da. Nhiều cánh rừng xanh chỉ sau một đêm mà trở nên trơ trọi, chim chóc mất nhà dáo dác bay… Biển cũng đang ngày một ô nhiểm vì rác thải của con ngườivà nghiêm trọng hơn là nạn tràn dầu đã xảy ra trên biển Thái Bình Dương đã để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Đất và không khí cũng đang ô nhiễm nặng nề đe dọa đến sự tồn tại dài lâu của trái đât. Tất cả hậu quả con người đang và sẽ bị gánh chịu là do sự thiếu ý thức của một bộ phận lớn con người, khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên mà chưa biết bảo vệ thiên nhiên cũng như bảo vệ chính bản thân mình. Để thiên nhiên không bao giờ nổi giận, để thiên nhiên luôn là bạn tốt của con người thì quan trọng nhất là con người phải yêu mến và bảo vệ thiên nhiên từ những hành động nhỏ như không vứt rác bừa bãi, nhặt rác.
Chứng minh thiên nhiên là người bạn tốt của con người – Văn mẫu lớp 8
2,279
Có lẽ mỗi người trong chúng ta vẫn luôn băn khoăn về năng lực thực sự của bản thân. Có không ít người hoang mang hay mặc cảm mình luôn thua kém người khác. Tuy nhiên, đại thi hào Đức Goethe đã có một ý kiến thật xác đáng : “Chưa thử sức thì không bao giờ biết năng lực của mình”. Suy cho cùng, khi bắt tay vào một công việc nào đó cũng chính là lúc chúng ta đang thử sức của chính mình. Có nhiều người vẫn tỏ ra chủ quan khi phát biểu những câu đại loại như “dao giết gà ai đem mổ trâu” nhưng khi bắt tay vào việc thì lại tỏ ra lúng túng, không xử lý được những vướng mắc nhỏ nhặt. Bên cạnh đó lại có những người luôn tỏ ra rụt rè nhút nhát, không dám thử sức mình trong những công việc mới mẻ, vì vậy mà những người này cũng không sáng tạo được gì có ích cho cuộc sống. Trong tác phẩm “Bà lão Idecghin” của nhà văn M.Gorki có hình tượng chàng Đan-kô xé toang lồng ngực lấy tim làm đuốc thắp đường cho đoàn người tiến lên, chàng đã động viên mọi người: “Suy nghĩ không thể hất bỏ được tảng đá trên đường ta đi, hãy gạt nó sang một bên và nào, đi đi, cùng tiến bước!”. Câu chuyện ấy tiêu biểu cho vẻ đẹp con người dám nghĩ, dám làm và dám đối mặt với thử thách. Chỉ có thật sự thử sức của bản thân, con người mới đánh giá chính mình một cách chính xác, để có thể điều chỉnh kịp thời, có đối sách thích hợp để xử l công việc một cách hoàn hảo. Có khi nào chúng ta đứng rước một công việc hoàn toàn mới mẻ mà không có một chút lúng túng. Nhưng những người có ý chí thì công việc ấy chính là một dịp thử sức. Vậy thì tại sao chúng ta không thử sức mình. Dám chấp nhận thất bại cũng là một dịp rèn luyện để đi đến thành công. Còn những người mang tư tưởng ngại khó thì nhất định không thể giải quyết tốt công việc, những người như vậy tự mình đánh mất cơ hội của chính mình. Cuộc sống chính là một môi trường thử thách, ở đó không có chỗ cho những người thiếu tự tin. Tuy nhiên, lòng tin cũng cần có một phương pháp tốt để thực hiện tốt công việc, chỉ qua cọ xát, con người mới có thêm kinh nghiệm để tránh những sai lầm, qua đó cũng tự bồi đắp cho mình năng lực suy đoán, năng lực hành động. Một người dám thử thách cũng là một người có bản lĩnh, có niềm tin vào bản thân và có đủ quyết tâm, nghị lực thực hiện công việc đến cùng.
Có ý kiến cho rằng “Chưa thử sức thì không bao giờ biết hết năng lực của mình” (Goethe). Anh chị suy nghĩ như thế nào_
487
Cảm nghĩ của em về các hoạt động của trường THCS Bài làm Trường THCS Cao Bá Quát – ngôi trường mà em hằng ao ước, nơi em được tham gia các hoạt động vô cùng bổ ích và lí thú! Các hoạt động của trường đều rất vui. Đầu tiên là phải kể đến “Đêm hội trăng rằm”. Trong đêm hội mỗi lớp sẽ chuẩn bị một tiết mục văn nghệ và trưng bày mâm cỗ trung thu dự thi. Với tiết mục văn nghệ múa hát “Chiếc đèn ông sao” đạt giải Nhất và mâm cỗ trung thu đầy sáng tạo lớp em đã đạt giải Nhì trong đêm hội. Tại ngôi trường mới, lần đầu tiên chúng em được tham gia một đêm hội do cả tập thể lớp tao nên: tự chuẩn bị tập luyện các tiết mục chu đáo, tự trang trí mâm ngũ quả và đặc biệt là được phá cỗ dưới sân trường vui vẻ. Chương trình diễn ra thật vui nhộn dưới ánh trăng tròn sáng vằng vặc trên bầu trời thật là ý nghĩa. Sau đêm hội trăng rằm, một hoạt động đặc biệt nhất trong năm và chúng em thật vinh dự khi cũng góp một phần nhỏ cho buổi lễ: Đón bằng công nhận trường chuẩn Quốc gia vào ngày 20/11/2018. Trước buổi lễ, mọi người đều bận rộn chuẩn bị cho buổi lễ với hi vọng thành công rực rỡ. Cuối cùng buỗi lễ đã diễn ra vô cùng thành công và tốt đẹp. Nhân buổi lễ, mỗi học sinh chúng em được nhận một chiếc cốc kỉ niệm của nhà trường. Đó là điều vinh dự nhất của chúng em khi được góp một phần nhỏ tạo nên một trường học xứng đáng với danh hiệu chuẩn Quốc gia. Kỳ thi học kỳ I qua đi, nhà trường đã tổ chức cho chúng em đi tham quan học tập ngoại khóa tại Đền Đô và khu trải nghiệm Quảng Ninh Gate. Tại đền Đô, em được tìm hiểu thêm về lịch sử thời Lý và được thắp nén nhang cho những vị vua đáng kính. Đến với khu trải nghiệm Quảng Ninh Gate, em cùng các bạn được chơi các trò chơi dân gian như bắt cá, làm gốm, kéo co, làm bánh, trò chơi cảm giác mạnh và về tình đoàn kết. Trải nghiệm thú vị hơn khi lớp em và học sinh toàn trường nghỉ ngơi tại nhà sàn. Đây lần đầu tiên em đi tham quan xa cùng các bạn mới của mình. Dù chuyến đi tham quan đã qua lâu rồi nhưng đó sẽ là kỉ niêm em sẽ không bao giờ quên. Ngoài các hoạt động nổi bật đó, chúng em còn được tham gia “Tuần lễ Tiếng Anh”, giải bóng đá Hội khỏe Phủ Đổng CBQ Cup. Tuần lễ Tiếng Anh giúp em cải thiện cách phát âm và nói. Cả tuần lễ chúng em đều sử dụng khi giao tiếp, chào hỏi các thầy cô bằng Tiếng Anh, thật thú vị. Đặc biệt trong giải bóng đá CBQ Cup – phần thi mà các bạn nam và các anh luôn chờ đợi, thật không may lớp em gặp phải nhà vô địch tương lai – lớp 6A5, nên bị loại ngay từ vòng bảng. Đúng như dự đoán lớp 6A5 đã vô địch khối sáu, nhì là lớp 6A6. Các bạn ấy đá rất hay và thi đấu với tinh thần quyết tâm cao đạt giải. Em rất mong năm sau lớp em có thể qua được vòng bảng và trở thành lớp đăng quang nhận cup vô địch của trường như lớp 9A1.
Cảm nghĩ của em về các hoạt động của trường THCS
608
Dọc theo những con phố đầy gió, những bông hoa li ti bay vào tóc vào áo và làn hương thơm thoang thoảng cứ quấn lấy người đi đường, một loài hoa một loài cây khiến cho phố phường xuyến xao , tim ta loạn nhịp vì nó- Hoa sữa. hoa sữa gợi đến những mùa nhớ những năm tháng xưa cũ, hoa sữa nồng nàn, quyện với gió thu tạo ra những cảm giác xuyến xang, không thể hiểu nổi. Và cứ mỗi lúc gió thổi mạnh hơn hoa sữa gợi tới miền kỉ niệm những kí ức tưởng chừng ai đã bỏ quên một thời đã xa. Hồi còn là học sinh, là những cô cậu học trò tinh nghịch bên cạnh những hàng hoa phượng đỏ rực là hình ảnh những chùm hoa trắng muốt nhưng cảm giác không lạnh lẽo mà là rất gần gũi. những bông hoa sữa cứ nồng nàn theo gió bay bay , để lại rơi rớt những cánh hoa như muốn chao nghiêng với kỉ niệm. những cánh hoa được ép trong những cuốn nhật kí những câu thơ những trang viết. Những năm tháng ấy, hoa sữa vẫn giữ mãi những trang kí ức đẹp đẽ. Không phải một loài hoa nào cũng có sức cuốn hút mãnh liệt tới như vậy. Tỏa bóng dưới những hàng gạch sân trường, những gốc hoa sữa với những cô cậu học trò tíu tít nói chuyện với nhau, những kỉ niệm học trò. Dường như hình ảnh ấy cứ ám ảnh lấy những cô cậu học trò non nớt. Và khi tiếng trống tan trường vang lên, những cành hoa sữa như vẫy tay chào như hẹn gặp lại sớm Những cơn mưa trên những cành hoa sữa chợt làm tỉnh giấc những lá cành đẹp đẽ. Không có gì khiến cho hoa sữa phai nhạt đi hương sắc của chúng. Dường như sức sống mãnh liệt khiến chúng bám trụ dưới cái nắng cái rét và cái gió khô khốc của mùa hè.Những chiếc là chụm lại với nhau như những bông hoa màu xanh với những cánh hoakhổng lồ. Dường như hương thơm của hoa sữa là một thứ mà không ai không ấn tượng. Và tôi mỗi lần chạm tới những cảm xúc bâng khuâng trong tôi cũng là do hương hoa sữa gợi nhớ tới. Tôi lại bắt đầu mơ mộng về Hà nội – Đúng Hà Nội phố với những hàng hoa sữa rợp bóng, một Hà Nội hào hoa mà cũng cổ kính. cứ mỗi mùa hoa sữa tàn đi, những hạt hoa sữa nở bung ra , bay theo gió như tìm tới những vùng đất mới. Những chú chim rít như cất lên bản tình ca khiến cho khung cảnh càng thêm lãng mạn,. Những năm tháng trôi đi nhanh chóng, những hàng cây như là những người bạn thân. Mỗi lần gặp lại cảm xúc bồi hồi không thể tả, cảm xúc không kể xiết, yêu thương đầy ắp.
Cảm nghĩ của em về loài cây mà em yêu thích
501
Cảm nghĩ của em về mái trường cấp 2 Bài làm Đã bao giờ bạn nhớ về mái trường xưa, mái trường trung học cơ sở nơi mà bạn từng đi qua và dừng chân tại đó trên bước đường trưởng thành. Với tôi, mái trường trung học cơ sở đưa tôi rời khỏi những ngây thơ, rời khỏi những gì mà người lớn hay cho là trẻ con. Chính nơi đây tôi học được cách kết bạn, chính nơi đây tôi hiểu được sự cố gắng và học tập quan trọng đến nhường nào, cũng chính nơi đây là nơi đầu tiên cho tôi đặt nền tảng cho ước mơ và tương lai của bản thân. Ngôi trường trung học cơ sở mà tôi học nằm trong một tỉnh nhỏ, không khí nơi đó rất trong lành, nắng thì nhẹ chẳng gây gắt, gió thì chỉ là những cơn gió thoảng đến mùa có lạnh lắm thì cũng chỉ làm ta thấy hơi lạnh đôi chút cũng chẳng rét buốt. Ngôi trường đó là nơi tôi bắt đầu học mọi thứ để làm nền tảng cho tôi bước vào đời, nơi có những người bạn do tôi làm quen, do tôi dùng sự chân thành để trở nên thân thiết là nơi mà thầy cô yêu thương học sinh nhưng lại chẳng thể hiện mà chỉ để lại cho chúng tôi những la mắng khi không học bài, để lại những lời nhắc nhở tuy nhỏ nhẹ nhưng đối với chúng tôi là răn đe. Tuy là nói vậy nhưng thật ra thầy cô luôn quan tâm đến chúng tôi, có gì không hiểu thầy cô luôn sẳn sàng giải đáp. Nơi đó là nơi để lại cho tôi nhiều kí ức và kỉ niệm, nơi mà mỗi giờ ra chơi chúng tôi phải tập trung ngoài sân tập bài thể dục nhịp điệu, nơi mà những trò chơi dân gian luôn được ưa thích nhất là những trò như đá cầu, nhảy dây hay thậm trí là banh đũa, ngoài những giờ ra chơi thoải mái thì chúng tôi còn cùng nhau họp nhóm, cùng làm bài tập chỉ cho nhau những lỗi sai và cũng gây ra nhiều tranh cãi khi mỗi người một đáp án khác nhau. Là những lần cả lớp cùng cố gắng để xếp hạng trường có thể đứng đầu về tác phong nề nếp cũng như năng lực học tập, là những ngày cuối tuần khi họp lớp luôn bị nêu tên trên bảng và bị phạt có lẽ đó là những giây phút căng thẳng nhất của thời học sinh cấp hai . Tuổi học trò đi qua mau để lại cho chúng tôi những giờ học thêm dai dẳng chẳng dứt, ngoài học chính chúng tôi còn cố gắng để bổ sung kiến thức để ôn tập lại những gì đã học một cách tốt nhất chuẩn bị cho kì thi bước vào cấp ba, bước vào ngôi trường mới, ngôi trường với chuyên nghành chúng tôi muốn học sau này. Những ngày tháng đó bận rộn và vất vả, ai cũng muốn bước vào ngôi trường mới để thực hiện những ước mơ, thực hiện những gì mà bản thân mong muốn bao lâu nay nhưng khi đi rồi cũng là lúc chia tay thầy cô, chia tay bạn bè, mỗi đứa một phương mỗi đứa một ước mơ khác nhau chẳng thể đi cùng nhau mãi. Chỉ bấy nhiêu thôi mà thấy buồn, mái trường mà tôi gắn bó suốt 4 năm rồi tôi cũng phải xa, con đường quen thuộc từ xa lại cảm thấy gần, những hàng quán trên đường tự lúc nào đã nhớ như in trong đầu, tất cả những điều ấy đều là những kỉ niệm, kỉ niệm đẹp nhưng chẳng thể níu giữ.
Cảm nghĩ của em về mái trường cấp 2
638
Cảm nghĩ của em về ngôi trường THCS Bài làm Trường THCS Cao Bá Quát – ngôi nhà của những ước mơ, một ngôi trường tuyệt vời. Mặc dù mới gắn bó được một học kỳ những tôi đã có biết bao kỷ niệm gắn bó vui buồn nơi đây. Vừa bước vào cổng trường, chúng ta có thể thấy hai hàng cây xanh như những chiếc đèn thắp sáng cho lũ học trò nhỏ chúng tôi. Khung cảnh của trường thật đáng ngưỡng mộ. Các khu nhà được chia rất rõ ràng và khoa học. Khu A là khu hiệu bộ, khu B,C là nơi dành cho các lớp học của chúng tôi. Khu D là các phòng học chức năng. Tôi thích nhất là sân khấu. Nơi đây diễn ra các hoạt động vui chơi, tổ chức các ngày lễ lớn và sinh hoạt dưới cờ. Bên phải sân khấu là cột cờ, bên trên treo lá cờ đỏ sao vàng, tượng trung cho đất nước Việt Nam thân yêu và các anh hung đã anh dung hi sinh để bảo vệ tổ quốc, dân tộc. Bên trái là những bồn hoa và công trình măng non của các chi đội. Những bông hoa nở rực rỡ tươi thắm làm tăng thêm vẻ đẹp đầy màu sắc cho ngôi trường. Dường như những bông hoa đó rất muốn nói lời cảm ơn tới các bạn nhỏ vì đã quan tâm, chăm sóc. Học tại nơi đây chúng tôi nhận được sự dạy dỗ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo. Tôi vẫn thường tự hỏi: “Tại sao thầy cô lại luôn mang đến cho chúng em tất cả kiến thức mà thầy cô có được”. Đến bây giờ tôi mới hiểu được thầy cô luôn muốn chúng tôi thành tài, luôn mong chúng tôi nên người giữa biển đời mênh mông rộng lớn. Một biển đời còn lắm chông gai, gian khổ, đang cần những đôi tay của thầy cô dìu dắt trên con đường lạ lẫm kia. Con đường ấy đang ở tương lại và tôi sẽ mãi hướng về nơi ấy , một nơi hy vọng cho tương lai tốt đẹp. Giờ đây không gì sánh bằng đi học cả. Tôi đã học được rất nhiều điều ở ngôi trường này. Tôi được bạn bè quý mến , được thầy cô yêu thương , quan tâm tôi rất nhiều , nhưng người muốn chúng tôi thành đạt là ngôi trường và thầy cô đây. “Trường sẽ mãi là trường này đây , một ngôi trường đang ở trước mắt con, ngôi trường thân thương , luôn yêu các đàn con nhỏ. Thầy cô ơi , thầy cô cũng mãi là người dìu dắt mang đến cho chúng con kiến thức rộng mở đưa con đến tương lai còn xa kia ấy. Nơi được gọi là bờ bến tương lai.” Tôi nguyện làm đứa con ngoan của trường những biết là sẽ không thể nào được thế. Tôi mãi khắc ghi sâu kỉ niệm bên trường yêu dấu. Tôi sẽ không bao giờ quên một kỉ niệm vô giá không có vậ giá trị nào sánh bằng. Trường tôi là thế đấy, tôi yêu trường THCS Cao Bá Quát vô cùng!
Cảm nghĩ của em về ngôi trường THCS
540
Nội dung bài viết1 Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Bài làm 3 Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Trong đời sống tinh thần đa dạng và phong phú của con người thì tình cha con là một trong những tình cảm máu thịt thiêng liêng, sâu đậm nhất. Công lao to lớn của người cha được nhắc đến rất nhiều trong ca dao, dân ca: Công cha như núi Thái Sơn… , Con có cha như nhà có nóc, Phụ tử tình thâm… Người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa đáng tin cậy cho vợ con. Ngày xưa, mọi việc lớn như làm nhà, tậu ruộng, tậu trâu, dựng vợ gả chồng cho con cái… thường là do người cha quyết định. Trách nhiệm của người cha rất nặng nề. Con cái ngoan hay hư, chủ yếu tùy thuộc vào sự bảo ban dạy dỗ của người cha. Bên cạnh người mẹ dịu dàng là người cha nghiêm khắc. Dẫu cách thức biểu hiện tình thương yêu có khác nhau nhưng bậc cha mẹ nào cũng mong muốn nuôi dạy con cái trưởng thành về mọi mặt, đúng như dân gian đã nói : Con hơn cha là nhà có phúc. Trong lúc người mẹ hàng ngày chẳng quản vất vả nhọc nhằn, lo lắng cho các con từ bát cơm, tấm áo thì người cha ngoài những thứ đó ra còn phải nghĩ đến việc dạy dỗ, truyền kinh nghiệm sống mà mình đã đánh đổi mồ hôi nước mắt, để các con được những bài học thiết thực khi bước vào đời. Thật hạnh phúc cho những đứa con được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ! Có biết bao người cha chấp nhận thiệt thòi về mình, dành tất cả thuận lợi cho con cái. Em đọc trên báo và xem truyền hình thấy những người cha lam lũ, quần quật làm những việc như : quét rác, đội than, đội trấu, đạp xích lô… không từ nan bất cứ chuyện gì, miễn là lương thiện để kiếm tiền nuôi đàn con ăn học đến nơi đến chốn. Gần nhà em có một bác người Quảng Ngãi, tuổi hơn năm chục, làm nghề mài dao kéo. Ngày ngày, bác rong ruổi khắp nơi trên chiếc xe đạp cà tàng với vài hòn đá mài và thùng nước nhỏ. Bác vào thành phố đã hơn ba năm, kể từ khi anh con trai lớn thi đậu đại học Bách khoa. Mỗi lúc kể về những đứa con ngoan, bác rất mãn nguyện, đôi mắt ánh lên vẻ tự hào : "Nhà bác nghèo lắm ! Được mấy đứa con, đứa nào cũng ham học và học giỏi. Năm nay cô con gái thứ hai cũng đậu đại học Sư phạm. Bác ráng làm kiếm ngày vài chục ngàn, cha con đùm túm nuôi nhau. Mình chẳng có chi cho các con thì cho chúng cái chữ, cái nghề !". Em thấy ở bác có những nét rất giống cha em, một người thợ cơ khí bình thường, quanh năm làm việc với máy móc, dầu mỡ. Đôi bàn tay của cha chai sần, thô ráp, mạnh mẽ nhưng ấm áp lạ thường. Có thể nói rằng trong gia đình em, cha làm nhiều mà hưởng thụ ít. Cha giống mẹ ở chỗ nhường nhịn hết cho đàn con những miếng ngon, miếng lành, còn mình chỉ cơm dưa cơm mắm qua ngày. Đức tính nổi bật của cha em là cần cù, chịu khó, hết lòng vì vợ con.Tuy công việc thường xuyên bận bịu, cha vẫn cố dành thời gian quan tâm chăm sóc đến việc học hành của các con. Cha em ít lời, chỉ nói những câu nào đáng nói như nhắc nhở, uốn nắn khuyết điểm hay động viên, khen ngợi khi các con làm được điều tốt, điều hay. Cha dạy chúng em lòng tự trọng và tính tự lập. Có lần cha bảo : "Đã là người thì phải có ý chí, không được ngại khó, ngại khổ. Càng khó càng phải làm bằng được." Em quý nhất cha em ở thái độ tôn trọng mọi người trong gia đình. Có việc gì không vừa ý, cha bình tĩnh phân tích chứ không la lối, chửi bới. Bởi thế cho dù tính cha nghiêm khắc mà vẫn dễ gần, từ vợ con đến hàng xóm láng giềng đều nể phục. Cứ nghe những lời cha nói, nhìn những việc cha làm, em học được rất nhiều điều hay, điều tốt. Cha thường bảo con cái lấy cha mẹ làm gương nên cha rất giữ gìn ý tứ. Chúng em yêu kính cha, cố gắng chăm học, chăm làm để cha mẹ vui lòng. Đó cũng là cách đền đáp chữ hiếu cụ thể và thiết thực nhất. Cảm ơn nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã nói giúp tuổi thơ chúng em những suy nghĩ tốt đẹp về cha mẹ: Cha sẽ là cánh chim, đưa con đi thật xa. Mẹ sẽ là cành hoa, cho con cài lên ngực. Cha mẹ là lá chắn, che chở suốt đời con… Ngày mai con khôn lớn, bay đi khắp mọi miền. Con đừng quên con nhé, ba mẹ là quê hương! Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Bài làm 2 Từ khi lọt lòng, không ai là không được nghe tiếng ầu ơ của mẹ ru con, của bà ru cháu. Vì vậy, những đứa trẻ được tình yêu của mẹ bao bọc thì đều yêu thương mẹ. Nhưng tôi thì khác, cho dù bố không chăm sóc tôi được như mẹ nhưng tôi vẫn yêu bố hơn. Trong gia đinh, người cha luôn là ngọn núi cao ngất, là chỗ dựa vững chắc cho đứa con, là điểm tựa mỗi khi con gặp sóng gió. Không ai là không tự hào khi có một người cha như vậy phải không? Tôi càng hiểu rõ tình cảm ấy vào một ngày mẹ tôi đi công tác xa nhà. Sáng hôm đi học, bố dặn tôi nhớ mang theo áo mưa. Tôi chợt nghĩ. Trời nắng thế thì sao có thể mưa được nên tôi vội chạy đến trường mặc kệ lời gọi của bố tôi. Chỉ một lúc sau, mây đen ùn ùn kéo tới, ngồi trong lớp mà tôi thấy nao nao, nhớ lại lời nhắc nhở của bố mà tôi thấy ân hận. Trời cứ mưa, mưa rả rích một lúc rồi lại ào ào mưa như thác. Những tiếng sấm rền vang khiến cho tôi nghĩ đến cảnh phải ở trường một mình. Tôi ước gì lúc đó mình nghe lời bố thì sao đến thế này. Tan học, tôi chạy thẳng về nhà mặc cho trời vẫn cứ mưa như trút. Đến tối, người tôi nóng ran, tôi thiếp đi trong cơn lo sợ. Trong đầu tôi vẫn in rõ hình ảnh buổi sáng hôm ấy. Bố tôi nhẹ nhàng đắp khăn lên trán tôi rồi dặn dò tôi. Tôi tự cảm thấy ân hận vì việc làm buổi sáng. Bàn tay bố thô ráp nhẹ nhàng, an ủi tôi. Lúc ấy, tôi mới hiểu được tình cha con thiêng liêng đến thế nào? Trông ngoài thì bố lạnh lùng lắm nhưng trong tim bố luôn cháy lên một tình yêu vô bờ bến đối với con. Nếu ai không có một người cha thì đó là một thiệt thòi rất lớn. Bạn hãy thử tưởng tượng mà xem, mất đi một vòng bảo vệ, một chỗ dựa vững chắc mỗi khi gặp sóng gió thì sẽ thế nào? Chỉ cần một cái xoa đầu của bố cũng đủ tiếp thêm cho ta sức mạnh. Tình cảm ấy cứ nuôi dưỡng tâm hồn ta đến bến bờ xa lạ. Bố luôn là người chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, luôn là người chăm sóc con cái thực sự một cách chu đáo. Hay cứ yêu thương bố như vậy bởi vì những tình cảm của cha con và cả một cuộc sống âm thầm lặng lẽ, chỉ cho mà không nhận. Bố chính là một món quà vô cùng quý giá mà thượng đế ban tặng cho chúng ta đó. Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Bài làm 3 Đối với bản thân mỗi chúng ta, mẹ luôn là người vô cùng quan trọng trong đời. Mẹ chính là người đã mang nặng đẻ đau, sinh ra chúng ta, là người chăm lo cho ta từng bữa ăn, từng giấc ngủ và dạy cho ta những điều tốt đẹp để ta vững bước trên đường đời. Những câu hát ru và dòng sữa ấm của mẹ vẫn luôn in đậm sâu trong ký ức và tiềm thức mỗi con người. Riêng đối với tôi, một đứa trẻ đã không còn mẹ kể từ khi lên 3 tuổi thì ký ức của tôi về mẹ không có nhiều. Chỉ còn tồn tại những cảm giác thân thuộc, cảm giác gần gũi mỗi khi ai đó nhắc về mẹ. Người quan trọng nhất với tôi lúc này chỉ có cha. Người cha thân yêu của tôi. Bởi cha phải mang trách nhiệm vừa là cha, những cũng vừa thay mẹ chăm sóc đứa con bé bỏng. Một tay cha đã nuôi dạy tôi nên người. Sáng nào cha cũng dạy từ rất sớm để chuẩn bị bữa sáng cho tôi. Cha biết đứa con gái bé bỏng vẫn thích được ăn cơm rang, nên vào buổi tối hôm trước thì cha thường nấu nhiều cơm để sáng hôm sau còn cơm nguội rang cho tôi. Cơm cha rang rất ngon, nhờ vậy mà lúc nào tôi cũng có thể ăn được hai bát hoặc nhiều hơn. Không những thế, cha cũng thường hay chuẩn bị áo quần mỗi sáng cho tôi đi học. Cha vẫn luôn dạy tôi rằng, là con gái phải biết ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ. Vì thế nên dù quần áo của tôi không nhiều, nhưng bộ nào cũng đều được cha tôi giặt, là phẳng rồi treo sẵn trong tủ cho tôi. Sau khi đã ăn sáng và thay quần áo xong, cha trở tôi đi học trên chiếc xe máy cũ mà ông nội đã để lại cho cha trước khi ông qua đời. Chiếc xe ấy dù đã rất cũ những đó là tất cả tài sản mà hai cha con có. Nhà tôi vì ở xa trường, đường lại khó đi nên ngày nào cha cũng phải trở tôi đi học, rồi lại đón tôi về. Cho dù trời nắng, hay trời mưa đi nữa. Có một lần khi trở tôi đi học về, do đường trơn trượt nên cha bị ngã xe nặng lắm. Vậy mà chưa khi nào cha cảm thấy vất vả và cáu lên với tôi. Tôi nhớ, có lần tôi còn trách cha vì đến đón tôi muộn, để tôi phải ngóng chờ, bị đói bụng. Nhưng cha thì chỉ hiền từ mỉm cười và nói xin lỗi tôi. Lúc ấy tôi thực sự cảm thấy hối hận vì đã trách cha vô cùng, cảm thương cho người cha đã vất vả nuôi tôi khôn lớn. Cuộc sống của hai cha con cũng rất vất vả, cha làm thợ xây để có những đồng tiền trang trải cho gia đình. Những ngôi nhà quanh đây cũng đều có phần cha tôi xây nên. Tôi luôn yêu quý và tự hào về người cha đáng kính của mình. Cho dù mẹ tôi không còn nữa, dù cho đôi khi tôi có cảm thấy tủi thân và thiệt thòi vì thiếu đi tình yêu thương của người mẹ. Nhưng những suy nghĩ đó cũng chỉ là thoáng qua, bởi bên cạnh tôi vẫn luôn có một người mẹ thứ hai đó là cha. Chỉ có 2 cha con nương tựa vào nhau, nên dù là con gái nhưng chuyện gì tôi cũng tâm sự hết với cha. Có những khi cha ủng hộ suy nghĩ của tôi, nhưng cũng có những lúc cha không đồng ý, và cha lại chỉ cho tôi những lời khuyên bổ ích, để tôi biết thế nào là đúng, là sai? Cha vẫn thay mẹ hàng ngày chăm lo cho tôi mọi thứ, chăm lo từ mỗi bữa ăn cho đến giấc ngủ. Cha khéo tay lắm, bất cứ món gì cha cũng đều nấu rất ngon. Nhất là món thịt kho tàu, mỗi khi được cha nấu cho ăn món này thì tôi đều có thể chén sạch nồi cơm. Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ cha vẫn luôn dặn tôi phải sắp xếp sách vở kỹ càng trước để chuẩn bị cho ngày hôm sau. Nếu mai có lỡ dạy muộn thì cũng không vì vội vàng mà quên sách vở. Những lời dạy đó của cha đã giúp tôi ngày một trưởng thành hơn rất nhiều. Là con gái nên có nhiều khi tôi nhớ mẹ da diết, thế nhưng rồi nhanh chóng tôi lại nghĩ tới người cha đang từng ngày bên tôi và vui lên. Có cha ở bên mình, tôi thấy như có đủ sức mạnh để vượt qua được mọi chuyện và làm được mọi thứ. Trong mọi suy nghĩ của tôi, cha luôn là một người tuyệt vời nhất trên đời này. Dù cho cuộc sống này có vất vả thế nào đi nữa, thì tôi cũng luôn tự dặn lòng mình phải cố gắng hết sức học tập thật tốt, để cha luôn cảm thấy hãnh diện về đứa con gái bé bỏng này. Tôi sẽ luôn nghe, và không bao giờ làm cha phải buồn lòng. Để cha luôn mạnh khỏe, và sống hạnh phúc bên tôi.
Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu – Văn mẫu lớp 7
2,342
Truyện Ếch ngồi đáy giếng đã mượn chuyện loài vật để bóng gió, kín đáo nói về chuyện con người. Từ câu chuyện kể về cách nhìn nhận, đánh giá thế giới bên ngoài chỉ qua cái miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch, truyện ngầm phê phán những kẻ hiểu biết hạn hẹp mà lại hay huênh hoang, khoác lác. Qua đó nhằm khuyên nhủ mọi người phải cố gắng mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của mình, không nên chủ quan, kiêu ngạo. Tuy ngắn nhưng bố cục của truyện cũng chia thành hai phần rõ rệt:phần đầu kể về hoàn cảnh sống và trình độ hiểu biết ít ỏi của con ếch. Còn phẩn hai kể về hậu quả tai hại của thái độ chủ quan kiêu ngạo. Từ đó rút ra bài học cho mọi người. Nội dung truyện như sau: Vì sống lâu trong một cái giếng nhỏ hẹp nên ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng cái vung, còn nó thì oai như một vị chúa tể. Một năm nọ, trời mưa to, nước giếng tràn bờ, đưa ếch ra ngoài. Quen thói cũ, nó nhâng nháo đưa mắt nhìn lên bầu trời, chẳng thèm để ý gì đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp. Tác giả dân gian đã khéo léo tưởng tượng ra bối cảnh của truyện và tâm lí nhân vật. Tại sao con ếch lại có những suy nghĩ thiển cận như vậy? Bởi ếch sống dưới đáy một cái giếng nhỏ nên từ dưới giếng nhìn lên, nó thây bầu trời bé xíu như cái vung nồi. Ngày nào cũng thấy như vậy nên nó khẳng định bầu trời chỉ to bằng ngần ấy mà thôi. Dưới giếng lâu nay cũng chỉ có một vài loài vật nhỏ bé tầm thường như nhái, cua, ốc… Mỗi khi ếch cất tiếng kêu Ồm ộp vang đông, các loài vật kia đều hoảng sợ. Chi tiết này vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Giếng nhỏ lại sâu, khi có tiếng động thi âm vang rất lớn. Giống như ở nông thôn xưa, hễ nhà ai có việc gi thì cả xóm, cả làng đều biết. Làng lại xa vua, xa quan nên bọn cường hào ác bá tha hổ tác oai tác quái, nhũng nhiễu dân lành. Trong thế giới quá nhỏ bé ấy, ếch tự cho mình là chúa tể nên chẳng coi ai ra gì. Chưa bao giờ nò được biết thêm về một môi trường khác, một thế giới khác, cho nền tầm nhìn của nó rất hạn hẹp, trình độ hiểu biết ít ỏi, thấp kém. Thế nhưng ếch lại chủ quan, kiêu ngạo, tự cho là mình tài giỏi hơn tất cả. Điều đó đã thành thói quen, thành tật xấu của nó. Thế rồi một tình huống bất ngờ xảy ra làm đảo lộn tất cả. Sau một cơn mưa lớn, nước giếng đầy tràn, đẩy ếch ra ngoài. Hoàn cảnh sống của ếch đã đột ngột thay đổi, từ một phạm vi rất hẹp là đáy giếng tới một phạm vi rất rộng là không gian mênh mông. Lúc đầu, ếch cứ tưởng mặt đất cũng giống như đáy giếng kia, bầu trời trên đầu nó lúc này cũng chỉ là bầu trời mà nó đã quen nhìn qua miệng giếng bấy lâu nay và nó vẫn là chúa tể. Nhưng mặt đất thì mênh mông mà bầu trài thì bát ngát. Muốn tồn tại, ếch phải thay đổi cách nhìn, cách sống. Nhưng quen thói cũ, ếch nghênh ngang đi lại khắp nơi và cất tiếng kêu Ồm ộp. Cơn mưa lớn chỉ làm thay đổi hoàn cảnh sống chứ không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ếch mà nguyên nhân chính là thói kiêu ngạo, chủ quan của nó. Thông qua truyện, người xưa khuyên chúng ta dù sống trong hoàn cảnh nào thì vẫn phải cố gắng học tập để mở rộng tầm nhìn và tầm hiểu biết. Bên cạnh trường học còn có trường đời. Đời là biển cả bao la về tri thức và kinh nghiệm, phải biết khắc phục những hạn chế của mình và không ngừng học hỏi để có được trình độ học vấn cao và tầm nhìn xa rộng; không nên chủ quan, kiêu ngạo vì chủ quan! kiêu ngạo dễ dẫn đến thất bại trong sự nghiệp và trong cuộc đời. Chúng ta nên suy ngẫm kĩ về những bài học mà truyện đặt ra, chớ nên tự biến mình thành Ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung.
Cảm nghĩ của em về truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng
771
Nội dung bài viết1 Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 1 2 Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 3 4 Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 4 Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 1 Con người, đặt bản thân là trung tâm, luôn có rất nhiều mối quan hệ xoay quanh. Có những người, những mỗi quan hệ chỉ thoáng qua nhưng cũng có những người hay những mối quan hệ bằng một cách nào đó luôn gắn bó với ta, đi theo ta trong suốt cuộc đời. Tình bạn là một mối quan hệ như vậy. Trong cuộc đời mình, ai cũng có ít nhất là một vài người bạn. Tình bạn không đến từ một người, nó là sự sẻ chia, thông cảm, là sự thấu hiểu về nhau giữa hai người. Một tình bạn đẹp phải xuất phát từ sự chân thành, trong sáng, vô tư và tin tưởng. Những điều này tưởng như đơn giản nhưng đó lại là điều kiện tiên quyết để khởi đầu một tình bạn đẹp. Con người luôn sợ cô đơn, luôn muốn có người đáng tin tưởng để có thể sẻ chia, tâm sự nhưng cũng luôn dè chừng, cảnh giác với những người muốn chạm vào cảm xúc của họ. Cũng phải thôi, thật tồi tệ nếu một người bạn coi là bạn, lắng nghe những điều họ sẻ chia biết đâu sau đó lại đem những câu chuyện của bạn ra làm trò đùa. Tình bạn cũng không thể bền vững nếu không trong sáng, có mục đích hay để lợi dụng lẫn nhau. Chúng ta không thể gọi một người là bạn mà luôn phải đề phòng họ. Để hai người khác nhau trở thành bạn của nhau cần rất lớn sự thấu hiểu. Bởi mỗi người sẽ có một tính cách khác nhau. Dẫu có thể có nét tương đồng nhưng điểm khác nhau sẽ vẫn rất lớn. Sự thấu hiểu đối với nhau không dễ dàng có được, nó cần phải có thời gian để vun đắp, có khó khăn hoạn nạn để thử thách và trưởng thành. Phải có sự sẻ chia, thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau giữa hai người bạn mới có thể khiến họ hiểu nhau hơn. Mặt khác, con người không hoàn hảo, luôn có những thói quen xấu bên cạnh những cái tốt. Muốn tình bạn được bền lâu, ta không được bao che dung túng trước những thói quen xấu này. Rất khó để có được một tình bạn nhưng một tình bạn đẹp sẽ khiến cuộc sống của ta thi vị hơn rất nhiều. Thật bình yên khi gặp khó khăn mà luôn có người sẵn sàng đưa tay giúp đỡ hay khi có tâm sự có người yên lặng ngồi bên lắng nghe. Cũng thật hạnh phúc khi có tin tưởng chia sẻ với ta những điều giản dị. Và thật ấm áp khi có người luôn nhớ những thói quen nhỏ nhặt của ta để khi ta đi đâu, làm gì họ sẽ lại quan tâm, nhắc nhở. Nếu tìm được một người bạn như thế bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc và đầy đủ vì bạn sẽ không phải lo âu hay đối mặt với những nỗi cô đơn hay sợ hãi trước cuộc sống tẻ nhạt. Tình bạn là một món quà thiêng liêng và cao quý mà chúng ta cần trân trọng. Phải có tình bạn thì cuộc sống của chúng ta mới thật sự có ý nghĩa. Coi trọng tình bạn, nó sẽ đơm hoa kết trái và nảy nở mãi mãi không tàn lụi, là một vi thuốc tinh thần giúp ta luôn vững vàng trong cuộc sống hay khi đối mặt với khó khăn thử thách. Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 2 Trong đời sống tinh thần của con người, có rất nhiều tình cảm thiêng liêng như tình cha con, mẹ con, tình anh em, tình thầy trò, bè bạn… Nhu cầu về tình bạn là nhu cầu cần thiết và quan trọng, vì vậy mà trong ca dao, dân ca có nhiều câu rất cảm động về vấn đề này: Bạn bè là nghĩa tương tri, Sao cho sau trước một bề mới yên. Hoặc: Ai về ta gởi bức thơ, Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao ?! Hoặc: Chim lạc bầy thương cây nhớ cội, Xa bạn xa bè, lặn lội tìm nhau. Có những tình bạn lưu danh muôn thuở trong văn chương như Lưu Bình với Dương Lễ, Bá Nha với Chung Tử Kì, như Nguyễn Khuyến với Dương Khuê… Trong cuộc sống xung quanh ta cũng có rất nhiều tình bạn đẹp đẽ. Vậy thế nào là một tình bạn đẹp? Theo em, trước hết đó phải là một tình cảm chân thành, trong sáng, vô tư và đầy tin tưởng mà những người bạn thân thiết dành cho nhau. Tình bạn bước đầu thường được xây dựng trên cơ sở cảm tính nhiều hơn lí tính. Trong số đông bạn bè chung trường, chung lớp, ta chỉ có thể chọn và kết thân với một vài người. Đó là những người mà ta có thiện cảm thực sự, hiểu ta và có chung sỏ thích với ta, mặc dù là cùng hoặc không cùng cảnh ngộ. Tình bạn trong sáng không chấp nhận những toan tính nhỏ nhen, vụ lợi và sự đố kị hơn thua. Hiểu biết, thông cảm và sẵn sàng chia sẻ vui buồn, sướng khổ với nhau, đó mới thực sự là bạn tốt. Còn những kẻ: Khi vui thì vỗ tay vào, Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai không xứng đáng được coi là bạn. Đã là bạn thân thì thường dễ dàng xuê xoa, bỏ qua những thói hư tật xấu của nhau. Đó là một sai lầm nên tránh. Nể nang, bao che… chỉ làm cho bạn dấn sâu hơn vào con đường tiêu cực mà thôi. Trong tình huống như thế, bạn rất cần những lời khuyên đúng đắn, sáng suốt và đầy tình thân ái. Giúp bạn sửa chữa sai lầm cũng chính là giúp mình, giữ cho mình đi trên đường ngay lối thẳng dể tu dưỡng thành người hữu ích. Một yếu tố cơ bản để giữ cho tình bạn được bền lâu chính là niềm tin tưởng. Tin bạn cũng như tin mình, luôn nghĩ về bạn bè vổi những điều tốt dẹp. Có như vậy bạn bè mới trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của ta trong cuộc đời. Tục ngữ có câu: Học thầy không tày học bạn với nội dung đề cao vai trò của bạn bè không chỉ trong phạm vi học hành mà còn ở nhiều mặt khác. Bạn tốt là gương sáng cho ta noi theo, nhiều lúc bạn đóng vai trò người thầy dẫn dắt, chỉ vẽ cho ta những điều hay lẽ phải. Đường đời vạn nẻo không ít gian nan, thử thách. Trên con đường dằng dặc ấy, nếu có được vài người bạn tâm giao cùng chí hướng, cùng quyết tâm, kề vai sát cánh thì lòng ta ấm áp thêm nhiều và nghị lực cũng tăng lên gấp bội. Vì những lẽ đó mà tình bạn cao quý là một món quà tinh thần vô giá dành cho những ai biết tôn trọng và nâng niu nó. Tình bạn không phải tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một quá trình gắn bó dài lâu giữa những người bạn trung thành, thân thiết. Ta hãy thử hình dung cuộc sống của một người không có bạn bè sẽ tẻ nhạt và cô độc biết bao nhiêu ! Cuộc sống ấy u ám như mặt đất thiếu ánh mặt trời, như khu vườn hoang vắng thiếu sắc màu rực rỡ của những bông hoa, thiếu tiếng chim ríu rít trong vòm lá. Nói tóm lại, đó là cuộc sống buồn bã và vô vị. Tình bạn đáng yêu, đáng quý như vậy nên chúng ta phải biết giữ gìn, vun trồng cho nó mãi mãi xanh tươi. Đối với tuổi trẻ, tình bạn lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Nào! Chúng ta hãy dang rộng vòng tay, nối kết tình bạn bè và tình thân ái. Các bạn ơi hãy nhớ: Tình bạn – đó là niềm hạnh phúc lớn lao của mỗi con người! Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 3 Trong cuộc đời mỗi người ngoài tình cảm gia đình còn có tình cảm bạn bè. Đó là một thứ tình cảm vô cùng quý giá, nó có thể giúp người ta vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống, hơn nữa đó còn là chỗ dựa tinh thần giúp ta quên đi những nỗi buồn, những vất vả khó khăn trong cuộc sống. Trong văn chương, chúng ta cũng bắt gặp những tác phẩm ca ngợi tình bạn như Lưu Bình – Dương Lễ. Một người sẵn sàng đưa vợ mình đến giúp đỡ bạn trong lúc bạn gặp khó khăn, bế tắc. Hay như tích Trung Quốc có Bá Nha Tử Kì: Một người bạn ra đi, người ở lại không muốn đánh đàn nữa vì nghĩ rằng chẳng còn ai có thể hiểu được tiếng đàn của mình như người bạn đã mất. Hay như Tú Xương cũng có bài thơ Khóc Dương Khuê để nói lên tình cảm của mình với bạn. Đó có được những mối thâm tình ấy chắc chắn họ đã có những kỉ niệm sâu sắc bên nhau và hơn thế đó là sự đồng cảm, đồng điệu về tâm hồn. Và trong cuộc sống đời thường chúng ta cũng bắt gặp những tình bạn chân thành và đáng quý. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường em cũng chứng kiến những tình bạn như thế. Đó là những đôi bạn cùng giúp nhau học tập. Em đã từng chứng kiến hai người bạn chơi rất thân với nhau, song giữa họ lại co điểm khác là người thì học giỏi Văn, người thì học giỏi Toán. Tuy nhiên, trong những lần kiểm tra, họ không hề cho nhau chép bài dẫu hai người ngồi cùng bàn và sát nhau. Sau một thời gian, em thấy cả hai đều học tốt cả hai môn. Lúc đầu ai cũng tưởng họ cho nhau chép bài, nhưng sự thực thì họ đã giúp nhau khắc phục nhược điểm của từng người. Bạn học giỏi Toán thì giúp người giỏi Văn học Toán tốt hơn và ngược lại. Hai bạn đã giúp cho nhau có được kiến thức một cách chắc chắn. Như vậy trong học tập cũng như trong công việc, giúp nhau không có nghĩa là cho nhau một sự vật cụ thể mà có thể giúp nhau con đường, phương pháp để đạt được hiệu quả. Đó mới chính là một tình bạn chân chính, chân thành. Ngoài ra tình bạn tốt còn giúp cho nhau vượt qua những nỗi buồn về tinh thần. Đó là khi người bạn của mình gặp chuyện không vui mình có thể đến để chia sẻ, động viên, an ủi họ. Điều đó cũng được minh chứng qua tình bạn của em với Ngọc. Em với Ngọc học cùng lớp, ngồi cùng một chỗ và cùng chung khu tập thể. Hàng ngày em và Ngọc cùng nhau đi học, khi về cả hai cùng về và ăn cơm trưa xong em sang nhà Ngọc ôn bài, cùng nhau làm bài tập, và cùng bàn bạc, suy tính trước những bài khó. Trước đây, trong các môn học em ngại nhất là môn tiếng Anh, thế nhưng có Ngọc động viên, giúp đỡ nên chỉ trong một thời gian ngắn em đã tiến bộ hơn nhiều. Em còn nhớ có hôm Ngọc bỏ cả bữa trưa để giảng giải cho em hiểu và thuộc bằng được một số cấu trúc ngữ pháp. Nhờ sự tận tình chỉ giúp của Ngọc đến giờ em đã thích học môn tiếng Anh. Ngoài việc giúp đỡ nhau trong học tập em và Ngọc còn thường xuyên chia sẻ với em những chuyện vui buồn trong gia đình, trong lớp học. Mỗi khi buồn mà được chia sẻ với Ngọc em cảm thấy nỗi buồn của em như vơi đi một nửa. Tình bạn của em và Ngọc dường như mỗi ngày lại gắn bó hơn. Và em tin rằng đó là tình bạn chân thành nhất. Em nhận ra rằng: tình bạn chân thành là một tình bạn được xây dựng xuất phát từ lòng quý mến, đồng cảm, không chút vụ lợi, tính toán. Tình bạn đó có thể đem đến cho nhau niềm vui và hạnh phúc, đặc biệt là trong những lúc khó khăn, hoạn nạn. Cảm nghĩ của em về tình bạn – Bài làm 4 Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao tình cảm đẹp, nào là: tình cha con, tình mẫu tử, tình thầy trò… nhưng đối với tôi "Cảm nghĩ tình bạn" là cao quý, đẹp đẽ nhất. Có bao giờ các bạn ngồi suy nghĩ lại người bạn luôn bên mình chia sẽ những niềm vui, nỗi buồn không? Và các bạn hiểu thế nào là "Tình bạn"? "Tình bạn" không phải một sớm một chiều ta cóđược mà là cả một quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau trong thời gian dài. Một người bạn tốt là người luôn chắp nhận những thiếu sót của mình, giúp đỡ mình vượt qua khó khăn, luôn bên mình mỗi khi mình cần vàđều đáng có là luôn tin tưởng nhau… Tôi đã từng có một người bạn có thể nói là rất thân. Chúng tôi đã học chung với nhau những bảy năm trong cùng một lớp vậy mà giờđây hai đứa học riêng ra. Tuy vậy nhưng tình bạn cảu chúng tôi vẫn còn mãi. Tôi nhớ có lần bi điểm kém, tôi rất buồn nên bạn đãđến bên tôi nở một nụ cười thay cho lời động viên, bỗng dưng tôi thấy lòng mình nhưđang được sưởi ấm bởi những tia sáng tình bạn. Và cũng từ lần ấy tôi lại thân thiết với bạn hơn. Đi đâu chúng tôi cũng đi cùng nhau, làm gì cũng cùng nhau… và cả hai đều quyết tâm học thật giỏi đểđạt được ước mơ của mình. Có thể nói tôi và bạn ấy như hình với bóng. Nên nhiều lúc tôi nghĩ: "Không biết rồi sẽ ra sao nếu tôi và bạn ấy không còn học chung nữa? và rồi tự trả lời " Không có chuyện đóđâu, tôi và bạn sẽ không xa nhau đâu." và nếu điều ấy xảy ra có lẽ tôi sẽ chỉ biết khóc mà thôi. Nhưng rồi những suy nghĩấy không làm tôi bận tâm nữa khi bạn ấy nói: " Linh à, nếu có một ngày chúng ta không còn học chung nữa thì bạn đừng buồn nha, tuy chúng ta không gặp nhau nhưng tâm hồn của chúng ta luôn nghĩ về nhau mà!" câu nói ấy của bạn như một lời động viên cho tôi sau này vì bây giờ chúng tôi vẫn đang ở bên nhau, vẫn là bạn thân của nhau mà. Và nhà thơ Nguyễn Khuyến đã sáng tác bài thơ " Bạn đến chơi nhà" trong một hoàn cảnh thiếu thốn không có gìđãi bạn nhằm tô đậm tình bạn thắm thiết của hai người. Quả không sai " Tình bạn" là một tình cảm thiêng liêng nhất cảu tuổi học trò chúng ta. Nếu có một ai đãđánh mất đi tình bạn sẽ cảm thấy vô cùng côđơn khi thiếu vắng những người bạn. Các bạn hãy cố gắng giữ gìn những phút giây tuyệt vời bên người bạn ấy vì trên con đường học tập chúng ta không chỉ cần có thầy cô, cha mẹ mà còn cần có những người bạn nữa. "Tình bạn mãi là thắm thiết Có bạn bè chia sẽ niềm vui Nếu có bạn mà không có tôi Thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa" Hãy cùng tôi bồi đắp cho những tình bạn thật đẹp nha các bạn! Cảm nghĩ của em về tình bạn – Dàn ý I. Mở bài: giới thiệu vấn đề Trong cuộc sống, ngoài tình cảm gia đình, thầy trò,… thì tình bạn là một tình cảm đẹp và cần thiết với mỗi chúng ta. Từ xa xưa thì ông bà ta đã có những câu nói rất hay về tình bạn như: “ bạn có nhớ về ta chăng? Ta về nhớ bạn như trăng với trời”. bên cạnh đó còn có câu như: “ trăng lên khỏi núi mặc trăng, tình ta với bạn khăng khăng một niềm”. những câu thơ hay nói lên một tình bạn đjep, một tình bạn chung thủy, vậy chúng ta có thể nào định nghĩa về tình bạn. chắc hẳn rất khó để định nghĩa về tình cảm này. Nhà văn Nicole Osteropski đã có một định nghĩa về tình bạn rất hay “ tình bạn trước hết phải phê bình về sai lầm của bạn, của đồng chí, phải nghiêm chỉnh giúp đỡ bạn, đồng chí sữa chửa sai lầm”. vậy tình bạn là gi, ta cùng đi tìm hiểu. II. Thân bài 1. Khẳng định tình bạn trước hết cần phải có sự chân thành – Mình chân thành với bạn thì bạn mới tin mình – Khi bạn có long tin với mình thì bạn mới bộc lộ những băng khoăng thắc mắc và chia sẻ với mình. – Sự chân thành là cơ sở của tình bạn chân chính và bền lâu 2. Thể hiện sự chân thành trong tình bạn – Phải tin bạn, không lừa dối, không vụ lợi – Thong cảm, chia sẻ khó khăn với bạn – Đồng cảm với bạn bất cứ chuyện vui buồn, khó khăn – Rộng lượng tha thứ những lỗi lầm của bạn – Gắn bó tình bạn thân thiết với tập thể, không chia rẻ khỏi tập thể. 3. Phê bình những sai lầm của bạn – Phê bình sai lầm giúp bạn sữa sai, tình bạn ngày tốt hơn – Nể nang, che giấu điều xấu của bạn sẽ làm bạn chậm tiến và tình bạn chậm phát triển – Nêu dẫn chứng về tình bạn tốt, giúp nhau vượt qua khó khăn 4. Cách phê bình như thế nào mới là đúng – Phê bình phải xuất phát từ long yêu thương bạn – Nhưng phải nguyên tắc, không bỏ qua những sai lầm nghiêm trọng của bạn – Biện pháp giúp đỡ phải khôn khéo, linh hoạt và phù hợp với hoàn cảnh – Bao dung, vui mừng với sự tiến bộ của bạn III. Kết bài – Nêu ý nghĩa về tình bạn – Liên hệ bản thân
Cảm nghĩ của em về tình bạn
3,123
Mùa xuân là mùa đoàn tụ là mùa mọi người được đoàn viên với gia đình, là khi con người chúng ta dành cho nhau những tình cảm ấm áp. Từng đàn én bay liệng và hình ảnh những đóa đào đóa mai hiện ra là những dấu hiệu đầu tiên cảu mùa xuân. Những hạt mưa phùn của mùa xuân cũng trở nên khác ngày thương, không qua to không quá bé, nó như để làm dịu đi không khí và tăng thêm cái se se của thời tiết ngày xuân. Những cành lộc non phơi phới trải mình ra đón cái tươi mới, cái tinh tinh túy của trời đất, vươn ra đâm chồi nảy lộc. Mùa xuân còn là mùa của ngày tết truyền thống, mọi người cùng quây quần bên nhau với nồi bánh chưng, lửa đỏ rực, rồi tí tách cháy. Những mâm ngũ quả cùng với cành đào chúm chím nụ, tạo nên một cái tết đậm chất truyền thống của người Việt. Và với sự tinh tế và tài tình cảu mình Bằng Việt đã sáng tác ra bài Mùa xuân của tôi như một kỉ niệm một khoảnh khắc , những kỉ niệm của tác giả về xuân hà nội. Được trích từ tùy bút “ tháng giêng mơ về trăng non, rét ngọt “ in trong tập “ thương nhớ mười hai”. Tác phẩm mùa xuân của tôi đươc viết khi tác giả Bằng việt sống trong cảnh chia cắt đất nước, và hơn thế tác giả phải sống trong vùng của Mỹ ngụy xâm chiếm. Trong tình trạng này, tình yêu dành cho quê hương đất nước càng trỗi dậy, cháy bỏng và bằng cách thể hiện tình yêu và tình cảm của mình trong những trang sách qua những câu chữ của mình để bày tỏ sự nhớ mong da diết về những kỉ niệm ngày xuân đất trời hà nội. Với sự tài tình trong sử dụng biện pháp so sánh, khi so sánh tình yêu dành cho mùa xuân hà nội với những tình yêu lớn lao “ai bảo được non đừng thương nước, ong bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió, ai cấm được trai đừng thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”. Những tình cảm như vô hình ấy lại hiện hữu rất rõ khi ai đó lại đọc được những tâm tư tình cảm ẩn chứa dưới những từ ngữ. Những hình ảnh về cuộc sống sinh hoạt đời thường cùng với những cảnh vật thân quen của mùa xuân được tái hiện rõ ràng trong tác phẩm. Những hình ảnh ấy thật giản dị, đó là hình ảnh những người Hà thành luôn mang trong mình một khí chất, một phong thái thanh lịch , nhẹ nhàng. Hình ảnh mùa xuân “ mưa riêu riêu” hai từ riêu riêu khiến chúng ta xốn xang bao nhiêu. Không chỉ có hình ảnh mưa phùn – một nét đặc trưng của mùa xuân mà còn cả những âm thanh quen thuộc “ tiếng trống chèo” vang vọng lại từ xa và cả những câu hát thấm đượm tình cảm mặn mà mà bao năm gắn bó tác giả có được. Với giọng điệu nhẹ nhàng nhưng lại thấm đầy chất văn chất thi ca trong tác phẩm, mùa xuân của tôi gợi lại cho độc giả bao điều mới lạ về một mùa xuân rất riêng mà cũng rất gần gũi thân thương ở Hà nội. Tình yêu quê hương , yêu con người thấm nhuần vào từng câu chữ , với những hình ảnh và từ ngữ tả thực , tác phẩm mùa xuân của tôi dễ dàng đi vào lòng người.
Cảm nghĩ về bài Mùa xuân của tôi của nhà thơ Vũ Bằng
634
Nội dung bài viết1 Cảm nghĩ về bố của em – Bài làm 1 2 Cảm nghĩ về bố của em – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ về bố của em – Bài làm 3 Cảm nghĩ về bố của em – Bài làm 1 Chiều nay cơn mưa rào chợt đến, thì thào rót vào tai những điệu buồn thôn dã, khiến lòng tôi nhớ về người cha nơi quê nghèo, đã một thời cùng tôi rong ruổi trên những bước đường xa lặng lẽ, mênh mông. Dòng sông, bao giờ cũng âm thầm cuộn chảy và mạch đời vẫn sống mãi giữa tháng năm, những gì đã qua đi thì không bao giờ trở lại và nét chữ cũng phai mờ theo dấu vết thời gian. Nhưng đối với tôi, những kỷ niệm đó, nó hầu như sống mãi, cứ ngỡ như mới hôm qua. Những hình bóng thân thương, những kỷ niệm vui buồn bên cha, luôn hiện hữu mãi trong lòng tôi. Cha! Là duy nhất, là tất cả. Vâng, cha là tất cả. Hầu như mọi người trong chúng ta, khi nói về công ơn dưỡng dục, phần lớn thường nghĩ về mẹ. Có mấy ai nhớ rằng, trong từng nhịp thở của ta là có cả một vùng trời bao la mà cha dành tặng. Tuy âm thầm lặng lẽ, nhưng chan chứa vạn tình thương. Càng nghĩ đến cha, tôi thấy mình dâng lên niềm thổn thức. Bóng chiều chóng qua, màn đêm buông xuống, đất trời đang tràn ngập dưới ánh trăng vàng lung linh,lặng lẽ. Giờ này, có lẽ cha vẫn còn thức!… Cha ơi! Nói đến cha, hình bóng thân thương ngày nào trong tôi bỗng sống lại, tôi bâng khuâng nghĩ về ngày ấy. Vâng, có lẽ đó là những chuỗi ngày đối với tôi vừa là êm đềm, vừa là phong ba bão táp. Ngày đó, gia đình tôi nghèo khổ lắm, tôi phải xa mẹ trong hạn cuộc biệt ly của thế thái nhân tình, như bèo hợp để mà tan. Đêm đến, trong ngôi nhà nhỏ, chỉ hai bóng hình cha và con in trên tường vách. Càng nghĩ, càng thấy thương cha, thương nhiều lắm. Đối với tôi lúc này mà nói, thì tôi chẳng thấy buồn gì cả, nhưng sao trong tận đáy lòng bỗng nghe trống vắng, không có sự nuông chiều, không có người nhõng nhẽo, mà ngược lại hầu như thường xuyên đón nhận những lời răn đe và ánh mắt nghiêm nghị của cha. Thế nhưng, dù nghiêm khắc, ít nói nhưng tình thương cha dành cho, tôi cảm nhận được. Đêm đến, cha thay mẹ ôm ấp tôi vào lòng, sưởi ấm cho tôi ngon giấc. Những lúc mưa to, gió lớn sợ tôi giật mình tỉnh giấc, cha lo lắng không yên. Những đêm hè đến, cha cùng tôi ngắm trăng, ngắm những vì sao lấp lánh, cùng bát ngát nương rẫy ngô khoai. Lẳng lặng trong đêm,những điệu nhạc buồn của những chú ểnh ương khi trời vừa tạnh, trên những vũng nước,cùng những điệu nhạc buồn của những chú dế rên rỉ đâu đây. Ôi thật tuyệt! Nghe như một khúc nhạc ly kỳ được hòa tấu bằng một dàn âm thanh tổng hợp. Những giây phúc ấy, chính là niềm hạnh phúc vô biên mà mấy ai diễm phúc có được. Bên cha, tôi thấy ấm áp và an toàn làm sao! Cái cảm giác đó khó mà dùng ngôn từ để diễn tả hết được. Vì con, cha hi sinh tất cả, những năm tháng thanh xuân của thời trai trẻ,bao nhiêu tình thương, cha dành hết cho con, nuôi con khôn lớn. Thương cha lam lũ một đời Tìm trong xa vắng những lời xa xưa Bồng bềnh gió đẩy mây đưa Bơ vơ con đứng bóng mưa ngập lòng.​ Nhiều lúc ngồi suy ngẫm lại, tôi thấy thương cha vô ngần. Thật đúng với câu “tấm lòng của người cha là một tuyệt tác của tạo hóa”, sự hiện diện của cha là sự có mặt của lòng dũng mãnh trong hành động và lặng lẽ trong tình thương. Giờ đây, tôi còn nhớ rất rõ, có một lần về thăm nhà, sau bao nhiêu năm xa cách, cảm giác vui mừng lúc đó không thể nào diễn tả hết được. Lúc ấy, tôi chỉ mới 15 tuổi, là một bé con lâu ngày mới được về thăm nhà. Cha thấy tôi, ông mừng lắm, thay vì ôm chằm lấy tôi như người mẹ, nhưng không, ông chỉ nở một nụ cười đầy hoan hỷ. Nhưng rồi chẳng được bao ngày thì “bèo hợp để tan, người gần để ly biệt”, tôi phải ra đi khi sương khuya còn đang lung linh trên đầu cây ngọn cỏ, khi màn đêm cô tịnh đang chuyển dần cho bình minh ló dạng, cánh đồng cỏ mênh mông đang xào xạc vẫy chào để tiễn bước chân tôi. Cha vội vã dụi vào tay tôi một ít tiền rồi đứng lặng yên nhìn chiếc xe từ từ lăn bánh đưa tôi khuất bóng và mất hút trong rừng cây. Trong cái tờ mờ ấy, tôi chợt nhận ra đôi mắt cha đang buồn bã nhìn theo, như cố níu lại những giọt lệ sắp lăn dài trong vùng trời thương nhớ. Cha nhìn theo tôi, tuy không nói một lời nhưng chính là nói tất cả. Tôi hiểu và tôi rất hiểu về cha, tôi mỉm cười, một nụ cười như được giải tỏa một điều gì đó. Tôi ngẩn mặt lên nhìn theo những hàng cây, cố tìm hình bóng cha giữa hàng cây sâu thẳm, nhưng tất cả chợt hiện ra rồi tan theo sương mờ. Mãi cho đến hôm nay, dù trên vạn nẻo đường sương gió, tôi luôn có cảm giác cha vẫn đâu đó âm thầm theo mỗi bước chân tôi. Dẫu giờ đây, tôi không còn bé nữa, cũng như cha ngày một cằn cỗi với năm tháng, như bóng xế chiều tà, tôi vẫn thấy cha hiên ngang sừng sững như ngọn núi Thái Sơn hùng vĩ, lúc nào cũng che chắn cho con giữa ngàn cơn bão tố. Bởi lẽ, “cha là duy nhất, một trái tim cho con được thở, cha là ánh sáng một bầu trời bao la rộng mở…Cha! Là cánh gió, nâng con lên vút tận trời cao”. Cảm nghĩ về bố của em – Bài làm 2 Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để chúng ta thương yêu và dành nhiều tình cảm. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất của bạn là ai chưa? Với mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh chị hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng hạn. Còn riêng tôi, hình ảnh người bố sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này. Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác. Trong suốt cuộc đời bố có lẽ không bao giờ được sống trong sự sung sướng, vui vẻ. Bốn mươi tuổi khi chưa đi được nửa chặng đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh tật: Đầu tiên đó chỉ là những cơn đau dạ dày, rồi tiếp đến lại xuất hiện thêm nhiều biến chứng. Trước đây, khi còn khỏe mạnh, bao giờ bố cũng rất phong độ. Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay: Thay vì những cánh tay cuồn cuộn bắp, giờ đây chỉ còn là một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng lông mày rậm, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khuôn mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật không thể làm mất đi tính cách bên trong của bố, bố luôn là một người đầy nghị lực, giàu tự tin và hết lòng thương yêu gia đình. Gia đình tôi không khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc vào đồng tiền bố mẹ kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm đau nhưng bố chưa bao giờ chịu đầu hàng số mệnh. Bố cố gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm yên lòng mọi người trong gia đình, cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động của mình từ nghề xe lai. Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt trời đã ngã bóng từ lâu. Mái tóc bố đã dần bạc đi trong sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với những người bình thường nhưng với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ có những lúc phải chở khách đi đường xa, đường sốc thì những cơn đau dạ dạy của bố lại tái phát. Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng to nhiệt độ tới 38-48 độ C, hay những ngày mưa ngâu rả rích cả tháng 7, tháng 8, rồi cả những tối mùa đông lạnh giá, bố vẫn cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong khách qua đường. Tôi luôn tự hào và hãnh diện với mọi người khi có được một người bố giàu đức hy sinh, chịu thương, chịu khó như vậy. Nhưng có phải đâu như vậy là xong. Mỗi ngày bố đứng như vậy thì khi trở về những cơn đau quằn quại lại hành hạ bố. Nhìn khuôn mặt bố nhăn nhó lại, những cơn đau vật vã mà bố phải chịu đựng, tôi chỉ biết òa lên mà khóc. Nhìn thấy bố như vậy, lòng tôi như quặn đau hơn gấp trăm ngàn lần. Bố ơi, giá như con có thể mang những cơn đau đó vào mình thay cho bố, giá như con có thể giúp bố kiếm tiền thì hay biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố được vui hơn, con sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho con được không? Những lúc ấy, tôi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ muốn với bố đừng đi làm nữa, tôi có thể nghỉ học, như vậy sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tôi có thể kiếm được tiền và chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc chắn là bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi nhiều lắm. Bố luôn nói rằng bố sẽ luôn chiến đấu. Chiến đấu cho tới những chút sức lực cuối cùng để có thể nuôi chúng tôi ăn học thành người. Bố rất quan tâm đến việc học của chúng tôi. Ngày xưa bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ học. Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được, bố luôn bày dạy cho mấy chị em học bài. Trong những bữa cơm bố thường nhắc chúng tôi cách sống, cách làm người sao cho phải đạo. Tôi phục bố lắm, bố thuộc hàng mấy nghìn câu Kiều, hàng trăm câu châm ngôn, danh ngôn nổi tiếng… Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm một bác sĩ và sẽ chữa bệnh cho bố, sẽ kiếm tiền để phụng dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở dang trong tuổi trẻ của bố. Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tôi một con đường sáng ngời, bởi đó là con đường của học vấn, chứ không phải là con đường đen tối của tiền bạc. Tôi sẽ luôn lấy những lời bố dạy để sống, lấy bố là gương sáng để noi theo. Và tôi khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang, là một người cao cả, đứng đắn, lòng kiên trì chịu khó mà còn bởi cách sống lạc quan, vô tư của bố. Mặc dù những thời gian rảnh rỗi của bố còn lại rất ít nhưng bố vẫn trồng và chăm sóc khu vườn trước nhà để cho nó bao giờ cũng xanh tươi. Những giỏ phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào mỗi buổi sáng; những cây thiết ngọc lan có bao giờ mang trên mình một cái lá héo nào? Những cây hoa lan, hoa nhài có bao giờ không tỏa hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó luôn có một bàn tay ấm áp chở che, chăm sóc, không những yêu hoa mà bố còn rất thích nuôi động vật. Tuy nhà tôi bao giờ cũng có hai chú chó con và một chú mèo và có lúc bố còn mang về những chiếc lồng chim đẹp nữa. Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với bệnh tật, tôi chưa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc trốn tránh sự thật, bố luôn đối mặt với “tử thần”, bố luôn dành thời gian để có thể làm được tất cả mọi việc khi chưa quá muộn. Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia đình đã dần khá lên, khi các chị tôi đã có thể kiếm tiền, thì bố lại bỏ chị em tôi, *****, bỏ gia đình này để ra đi về thế giới bên kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được gặp lại. Giờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ phải tự đứng dậy và đi tiếp bằng đôi chân của mình, bởi bố đi xa, sẽ không còn ai nâng đỡ, che chở, động viên tôi nữa. Bố có biết chăng nơi đây con cô đơn buồn tủi một mình không? Tại sao nỡ bỏ con ở lại mà đi hả bố? Nhưng con cũng cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài học nữa, đó chính là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những gì đang có, hãy yêu thương những người xung quanh mình hơn, và đặc biệt hãy quan tâm, chăm sóc cho bố của mình, tha thứ cho bố, khi bố nóng giận và nỡ mắng mình bởi bố luôn là người yêu thương nhất của chúng ta. Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ không còn bệnh tật, sẽ thoát khỏi cuộc sống thương đau này. Và bố hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy của bố, sẽ luôn thương yêu, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng mà bố đã rọi đường cho con đi. Hình ảnh của bố sẽ luôn ấp ủ trong lòng con. Những kỷ niệm, những tình cảm bố dành cho con, con sẽ ôm ấp, trân trọng, nó như chính linh hồn của mình. Cảm nghĩ về bố của em – Bài làm 3 Bố – sao tiếng gọi lại tha thiết, thân thương đến vậy? Người bố, đó là người đã sinh thành ra chúng ta, đã nuôi dưỡng chúng ta. Bố là mái ấm che chở, bảo vệ cho chúng ta, là trụ cột vững chắc trong gia đình. Em cũng có một người bố mẫu mực. Dáng bố trông thật to cao và em cũng rất hãnh diện vì cái dáng đó của bố đối với bạn bè. Bố là một người rất yêu thương em. Có một câu chuyện mà em còn nhớ mãi. Chả là thế này, ngày xưa, nhà em nghèo lắm. Tết đến, cả gia đình em ra phố chơi xuân như mọi gia đình khác. Thấy con người ta, tay đứa nào cũng cầm quà do bố mẹ tặng mà con mình lại không có. Bố thương em quá, nghĩ em tủi thân liền bỏ ngay chiếc áo mới được cho để đi đổi lấy tiền mua quà cho em vui. Khi nhận được món quà ấy, em cảm thấy rất vui mừng, hạnh phúc. Nhưng sau đó, em lại thấy chạnh lòng thương bố, vì em mà bố đã đánh đổi cả cái áo quý giá nhất cho em để em được hạnh phúc. Em cảm thấy rất xấu hổ vì đã có nhiều lần không nghe lời như không làm bài tập, cãi lại lời bố mẹ. Dù rất chiều em như vậy đó. Thế nhưng chiều thì chiều nhưng bố vẫn luôn luôn nghiêm khắc dạy bảo em. Những lần đi chơi không xin phép là những trận đòn nhừ tử đau đến chết. Bố rất tâm lý, bố luôn dùng những lời lẽ phải trái để khuyên răn cho em mỗi khi em mắc lỗi. Chỉ đến lần thứ hai thì bố mới dùng đến roi vọt. Bố luôn luôn hướng đến cái tốt cho em, tránh điều xấu xa cho con mình. Chỉ một biểu hiện bất bình thường nhất thôi là: trong bữa ăn, bố chỉ toàn gắp thức ăn sang bát em và mẹ mà chẳng bao giờ cho mình. Những gì tốt đẹp là bố mình dành cho em hết. Bố thương em nên rất lo đến tương lai học hành của em. Bố không bao giờ tiếc một thứ gì để cho em được học. Đối với em, bố cho rằng chẳng có nhiệm vụ nào khác ngoài ăn học. Tuy nhiên, bố không chỉ cho em học mà còn nhắc nhở em cả về thể thao nữa. Nghĩ là làm, thế là trong thời gian biểu của em có thêm một hoạt động nữa, đó là vào sáng sớm, cả hai bố con cùng dậy đi chạy bộ quanh hồ. Cũng có khi, vào buổi chiều, nếu rỗi, em có thể theo bố đi tập cử tạ. Nhờ thế mà em cũng có một sức khỏe, thể lực khá tốt. Bố có lúc còn dạy em đánh ghi ta nữa. Nhìn những ngón tay điêu luyện lướt trên dây đàn, em cảm thấy quá thán phục và cảm ơn ông trời đã ban cho em một người bố rất tốt và tâm lý với em. Bố thương em như thế đó. Tinh yêu thương mà bố dành cho em là vô bờ bến. Em cảm nhận được tình yêu ấy nên em cũng rất thương bố. Em luôn luôn muốn làm bố thật vui vẻ để trả ơn cho bố. Công bố đúng như một bài ca dao: "Công cha như núi Thái Sơn" hay " Công cha như núi ngất trời" Giờ, bố em đã đi công tác xa được gần một tháng. Em nhớ bố quá. sắp tết rồi, thời tiết sẽ lạnh lắm. Bố ơi, bố phải mặc nhiều áo ấm đấy nhé! Bố phải giữ sức khỏe đấy, nếu không sẽ bị cảm. Bố có biết thiếu bố, con cảm thấy buồn và cô đơn đến thế nào không? Con chỉ mong sao, bố sẽ quay trở về ngay lập tức để con sẽ ôm chầm lấy bố để chỉ nói một câu, một câu thôi. Đó là: Con yêu bố!
Cảm nghĩ về bố của em – Văn mẫu lớp 7
3,147
Cảm nghĩ về mái trường THCS thân yêu của em Bài làm Với cuộc đời mỗi người, quãng đời học sinh là tuyệt vời, trong sáng và đẹp đẽ nhất. Quãng thời gian quý báu ấy của chúng ta gắn bó với biết bao ngôi trường yêu dấu. Có người yêu ngôi trường tiểu học, có người lại nhớ mái trường mầm non. Nhưng với tôi, hơn tất cả, tôi yêu nhất mái trường cấp hai – nơi tôi đang học – đơn giản bởi chính nơi đây tôi đã và đang lưu giữ được nhiều cảm xúc thiêng liêng nhất. Ngôi trường của tôi là một ngôi trường mới, khang trang và đẹp đẽ với những dãy nhà cao tầng được sơn màu vàng mang tên vị danh nhân trong lịch sử vẻ vang của dân tộc Cao Ba Quát. Từng phòng học lúc nào cũng vang lên lời giảng bài ân cần của thầy cô, tiếng phát biểu dõng dạc hay tiếng cười nói hồn nhiên, vô tư, trong sáng của những bạn học sinh. Sân trường rộng rãi, thoáng mát nhờ những hàng cây xanh tươi xào xạc lá và những cơn gió nhè nhẹ. Đây thật là nơi lí tưởng chúng tôi chơi đùa. Tôi yêu lắm sân trường này. Mỗi khoảng đất, mỗi chiếc ghế đá đều in dấu những kỉ niệm của tôi về những lần đi học hay chơi đùa cùng bạn bè hay cũng có thể là những buổi dọn vệ sinh vất vả mà vui không kể xiết. Cây vẫn đứng đó, lá vẫn reo vui như ngày tôi vào lớp sáu, ngỡ ngàng nhìn khoảng sân đẹp đẽ – thứ tài sản quý báu mà bắt đầu từ ngày ấy tôi cũng được “chia phần”!. Vâng, mọi thứ vẫn vẹn nguyện chỉ có chúng tôi là đang lớn lên. Thấm thoát hơn một năm đã trôi qua, giờ tôi đã là học sinh lớp bảy. Thời gian ơi, xin hãy ngừng trôi để tôi mãi là cô học sinh trung học cơ sở để tôi được sống mãi dưới mái trường này! Và nơi đây cũng lưu giữ bao kỉ niệm đẹp đẽ về những người thầy cô, những đứa bạn bè mà tôi yêu quý. Thầy cô của tôi luôn dịu dàng mà nghiêm khắc, hết lòng truyền lại cho tôi bao bài học quý giá. Với tôi, thầy cô như những người cha, người mẹ thứ hai dạy dỗ chúng tôi thành người. Những người bạn lại là những người đồng hành tuyệt vời luôn sát cánh bên tôi trên con đường học tập. Tất cả là những người anh, người chị, người em thân thiết và gắn bó với nhau trong một đại gia đình rộng lớn. Mỗi khi buồn bã hay thất vọng, chỉ cần nghĩ tới ánh mắt trìu mến của thầy cô, nụ cười hồn nhiên của bạn bè, tôi lại thấy lòng như ấm áp hơn. Và tôi hiểu rằng, tuy không nói ra nhưng các bạn của tôi mọi người cũng cùng chung suy nghĩ ấy. Ngôi trường còn ghi dấu không thể nào phai trong tôi vì những ngày kỉ niệm tưng bừng, rộn rã ; những buổi liên hoan vui vẻ, ồn ào. Ngày khai trường, tết Trung thu, ngày hai mươi tháng mười một… những ngày tháng tuyệt vời lần lượt trôi đi để lại trong tôi bao nuôi tiếc về hôm qua và hi vọng về những ngày phía trước. Tôi bỗng cảm thấy lòng buồn man mác. Chỉ còn hai năm nữa là tôi sẽ phải rời xa mái trường này. Tôi sẽ lại học ở những ngôi trường mới, có những thầy cô bạn bè mới… liệu những tháng ngày đẹp đẽ có được kéo dài lâu? Thời gian trôi đi, tuổi thơ trôi đi như những làn sóng dập dềnh ra khơi không thể trở lại. Nhưng có một thứ mãi ở lại cùng tôi, đó chính là hình bóng mái trường cấp hai yêu dấu – Trường THCS Cao Bá Quát!
Cảm nghĩ về mái trường THCS thân yêu của em
670
Nội dung bài viết1 Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 1 2 Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 3 4 Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 4 5 Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 5 Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 1 Với mỗi người, ngôi nhà là tổ ấm yêu thương. Nơi ấy có biết bao người thân yêu đã vun vén hạnh phúc cho ta. Nhưng có một ngôi nhà nữa, ngôi nhà ghi dấu một thời thơ trẻ sôi nổi, đầy hăm hở của tuổi thơ ta. Nó ôm ấp biết bao nhiêu kỉ niệm về tình thầy, tình bạn. Nó chắp cánh cho những ước mơ của ta bay tới chân trời trí tuệ! Ngôi nhà ấy,chính là ngôi trường mà mỗi sáng, mỗi chiều vang vang tiếng trẻ thơ của ta! Với tôi, ngôi trường mang tên Trạng nguyên toán học LTV, nơi tôi từng gắn bó, nơi ấy mãi mãi đẹp một vẻ đẹp thiêng liêng trong đời tôi! Trường tôi đấy! Ngôi trường nằm trên đường LQĐ, thuộc P LTK. Cổng trường trang nghiêm mang tên LTV mở về hướng nam. Cả sân trường trùm phủ một màu xanh cây lá. Cây xà cừ vạm vỡ vươn những cánh tay lực lưỡng ,với cái nhìn trầm tư, hồi tưởng. Những cây phượng vàng thân sần sùi như cụ già lớn tuổi vươn những cành to với những lá li ti căng dày trên cao để những chấm nắng lọt qua như những mắt nhìn tinh nghịch. Hàng bàng đứng trang nghiêm, đêù tăm tắp trước lớp, xoè những chiếc lá to làm thành những chiếc dù lớn như thương yêu, che chở .Và ở nơi ấy, mỗi lớp học như một mái ấm yêu thương! Không biết từ lúc nào tôi đã yêu và gắn bó với ngôi trường đến thế ! Bây giờ đây ngôi trường cứ như thế, giang vòng tay đón chúng tôi mỗi sớm mỗi chiều. Và cứ như thế, ngôi trường đã là ngôi nhà biết mấy thương yêu của tuổi thơ tôi ! Đã bao lần ngồi ở lớp học nhìn ra toàn quang cảnh sân trường, trong lòng tôi biết bao xúc động. Nhìn chiếc ghế đá im lìm dưới bóng râm mát của sân trường như chờ đợi, như nhớ thương, như trông ngóng Tôi cứ miên man nghĩ về biết bao thế hệ học trò như tôi đã từng gắn bó, từng trưởng thành và đã bay vào cuộc sống bao la với biết bao khát vọng. Phải chăng ở nơi này đây đã có biết bao thầy cô giáo đã gắn bó cả tuổi thanh xuân của mình bằng tình yêu trẻ thơ để rồi phải chia xa nơi này cùng với bao nỗi nhớ!Cũng chính ở nơi ngôi trường thân yêu này, những tuổi thơ như tôi đã được yêu thương, và đã được trưởng thành. Tôi thầm nghĩ, ở nơi này mỗi gốc cây, mỗi chiếc lá đều được ươm niềm hy vọng của thầy cô và mãi mãi xanh màu kỉ niệm . Trường tôi đẹp lắm! mọi người đều nhận thấy như thế. Riêng với tôi, trường tôi còn đẹp một vẻ đẹp thiêng liêng bởi ở nơi này tất cả đều lấp lánh một tâm hồn. Viên phấn trắng trên tay thầy đã dẫn đường cho bao thế hệ nối tiếp nhau cùng trưởng thành để rồi từ nơi này bao thế hệ cùng nhau đi xây đắp vẻ đẹp của cuộc đời. Lời giảng của thầy cô đã không đi vào không gian bao la mà đi đến tâm hồn. Đấy là những lời nhắc nhở, động viên, tin tưởng. Thầy cô đã truyền đến chúng tôi không chỉ kiến thức, không chỉ truyền thống văn hoá của dân tộc mình, một dân tộc đã gìn giữ và xây dựng đất nước này bằng mồ hôi và máu, một dân tộc mà mỗi trang lịch sử nghe sang sảng lời thề cứu nước.Tiếng trống trường như tiếng gọi của con tim, bồi hồi, lo lắng. Bây giờ đây ở những phương trời xa xôi của Tổ Quốc mến yêu, có biết bao tấm lòng đang ngày đêm nhớ về quê hương cùng với hình ảnh ngôi trường thân yêu này Rồi mai đây ngôi trường này sẽ khác. Những cánh cửa, những mặt bàn mặt ghế cùng bao nét chữ mang tên bạn bè tôi, tất cả sẽ không còn nữa. Trường tôi sẽ khác, sẽ được xây mới từ cổng ngõ tường rào, rồi tường vôi sẽ vàng tươi hơn, rồi cành lá ở sân trường sẽ dày lên hơn Nhưng trong tâm hồn tôi, ngôi trường yêu dấu vẫn không mất đi, bởi nó gắn với tình thầy, tình bạn rất đổi thiêng liêng ! Giờ đây ngôi trường cứ như thế,. trống trường như tiếng gọi của con tim, bồi hồi, lo lắng. Cũng chính ở nơi ngôi trường thân yêu này, những tuổi thơ như tôi đã được yêu thương, và đã được trưởng thành. Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 2 Trong cuộc đời của mỗi người, chắc ai cũng từng đến trường để tiếp thu những kiến thức, những điều mới mẻ mà thầy cô và bạn bè mang lại. Ngôi trường, nơi ươm những ước mơ, nơi để lại biết bao nhiêu là kỷ niệm vui lẫn kỷ niệm buồn của thời áo trắng – một thời để nhớ một thời để thương. Ở một vùng đất xa xôi của tỉnh Gia Lai đến Huế để học tập, em đã được gia đình và thầy cô tạo điều kiện để vào học ở ngôi trường Trung Học Cơ Sở – Ngôi trường mang tên người chiến sĩ cách mạng lão thành Phan Đăng Lưu mà các thế hệ anh chị đã đi qua. Bước vào lớp học mới, bạn bè, thầy cô, chuyện gì cũng mới, đã làm cho bản thân mình cảm thấy lúng túng, rụt rè bối rối… Trong đầu suy nghĩ, bạn bè ở đây sẽ nhìn mình với một ánh mắt khác lạ, không thiện cảm. Nhưng ngược lại các bạn ở đây rất hồn nhiên, giúp đỡ tôi vào lúc khó khăn nhất, các bạn đã đến hỏi thăm, tâm sự, sẻ chia những chuyện trong lớp, tuyệt vời vô cùng tập thể lớp, những kỷ niệm còn mãi trong lòng tôi. Ngồi trong lớp, những giờ ra chơi nhìn sân trường thấy các bạn đùa vui rất đỗi hồn nhiên và sáng trong như màu áo trắng, các bạn nam thì đá cầu, đuổi bắt; đó đây những tà áo dài bay bay trong gió; và dưới những gốc phượng già nhóm nữ sinh nào đang tụm năm tụm bảy bàn tán chuyện của ngày qua, ngày mai… và chính ở ngôi trường này người thầy đã để lại cho tôi ấn tượng nhiều nhất chính là thầy Phó Hiệu trưởng, thầy chăm lo cho học sinh hết mực, thầy đã không phân biệt giữa học sinh giỏi và học sinh yếu, thầy đã giúp đỡ rất nhiều về mặt vật chất lẫn tinh thần của những bạn học sinh nghèo hiếu học… thầy luôn làm những việc mà khả năng thầy có. Đó cũng chính là trách nhiệm mà người thầy đem đến cho mỗi học sinh thân yêu của mình, yêu biết mấy những tấm lòng nhân hậu cùng trách nhiệm mà thầy trao cho. Cũng có những giờ ra chơi, em xòe tay buộc gió, có lúc bất chợt thấy một người thầy khác cuối hành lang. Thầy đứng một mình thôi và hình như có bụi phấn nào đó đang rơi rơi trên mái đầu tóc bạc, trên bàn tay gầy guộc. Rồi có những giờ ra chơi, em không còn vô tư khi thấy thầy sau khói thuốc cuối hành lang. Thầy nghĩ gì? Thầy ơi! Vùng khói thuốc bung lên làm mái tóc bạc nay lại bạc thêm, em nhớ mãi thầy ơi! Đó là thầy chủ nhiệm của tôi, Thầy đã lặng lẽ chăm lo cho chúng tôi từng chút một, và những năm tháng cuối cấp này thầy càng lặng lẽ hơn. Có một ngôi trường và thầy cô giáo đẹp như một bài ca không thể nào quên. Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 3 Với cuộc đời mỗi người, quãng đời học sinh là tuyệt vời, trong sáng và đẹp đẽ nhất. Quãng thời gian quý báu ấy của chúng ta gắn bó với biết bao ngôi trường yêu dấu. Có người yêu ngôi trường tiểu học, có người lại nhớ mái trường mầm non. Nhưng với tôi, hơn tất cả, tôi yêu nhất mái trường cấp hai – nơi tôi đang học – đơn giản bởi chính nơi đây tôi đã và đang lưu giữ được nhiều cảm xúc thiêng liêng nhất. Ngôi trường của tôi là một ngôi trường mới, khang trang và đẹp đẽ với những dãy nhà cao tầng được sơn màu vàng, được lợp mái tôn đỏ tươi. Từng phòng học lúc nào cũng vang lên lời giảng bài ân cần của thầy cô, tiếng phát biểu dõng dạc hay tiếng cười nói hồn nhiên, vô tư, trong sáng của những bạn học sinh. Sân trường rộng rãi, thoáng mát nhờ những hàng cây xanh tươi xào xạc lá và những cơn gió nhè nhẹ. Đây thật là nơi lí tưởng chúng tôi chơi đùa. Tôi yêu lắm sân trường này. Mỗi khoảng đất, mỗi chiếc ghế đá đều in dấu những kỉ niệm của tôi về những lần đi học hay chơi đùa cùng bạn bè hay cũng có thể là những buổi dọn vệ sinh vất vả mà vui không kể xiết. Cây vẫn đứng đó, lá vẫn reo vui như ngày tôi vào lớp sáu, ngỡ ngàng nhìn khoảng sân đẹp đẽ – thứ tài sản quý báu mà bắt đầu từ ngày ấy tôi cũng được "chia phần"!. Vâng, mọi thứ vẫn vẹn nguyện chỉ có chúng tôi là đang lớn lên. Thấm thoát hơn một năm đã trôi qua, giờ tôi đã là học sinh lớp bảy. Thời gian ơi, xin hãy ngừng trôi để tôi mãi là cô học sinh trung học cơ sở để tôi được sống mãi dưới mái trường này! Và nơi đây cũng lưu giữ bao kỉ niệm đẹp đẽ về những người thầy cô, những đứa bạn bè mà tôi yêu quý. Thầy cô của tôi luôn dịu dàng mà nghiêm khắc, hết lòng truyền lại cho tôi bao bài học quý giá. Với tôi, thầy cô như những người cha, người mẹ thứ hai dạy dỗ chúng tôi thành người. Những người bạn lại là những người đồng hành tuyệt vời luôn sát cánh bên tôi trên con đường học tập. Tất cả là những người anh, người chị, người em thân thiết và gắn bó với nhau trong một đại gia đình rộng lớn. Mỗi khi buồn bã hay thất vọng, chỉ cần nghĩ tới ánh mắt trìu mến của thầy cô, nụ cười hồn nhiên của bạn bè, tôi lại thấy lòng như ấm áp hơn. Và tôi hiểu rằng, tuy không nói ra nhưng các bạn của tôi mọi người cũng cùng chung suy nghĩ ấy. Ngôi trường còn ghi dấu không thể nào phai trong tôi vì những ngày kỉ niệm tưng bừng, rộn rã ; những buổi liên hoan vui vẻ, ồn ào. Ngày khai trường, tết Trung thu, ngày hai mươi tháng mười một… những ngày tháng tuyệt vời lần lượt trôi đi để lại trong tôi bao nuôi tiếc về hôm qua và hi vọng về những ngày phía trước. Tôi bỗng cảm thấy lòng buồn man mác. Chỉ còn hai năm nữa là tôi sẽ phải rời xa mái trường này. Tôi sẽ lại học ở những ngôi trường mới, có những thầy cô bạn bè mới… liệu những tháng ngày đẹp đẽ có được kéo dài lâu? Có nhạc sĩ nào đã viết: “Tuổi thơ như áng mây, rồi sẽ mãi bay về cuối trời. Thời gian xoá những kỉ niệm dấu yêu”. Vậy thì tôi mong có thể gửi lòng mình vào nơi cuối trời ấy để mãi được sống bên mái trường cấp hai thân yêu của mình. Thời gian trôi đi, tuổi thơ trôi đi như những làn sóng dập dềnh ra khơi không thể trở lại. Nhưng có một thứ mãi ở lại cùng tôi, đó chính là hình bóng mái trường cấp hai yêu dấu. Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 4 Trường THCS Đan Hà từ khi tái lập đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhà nước giao cho, đã có 13 khóa học sinh ra trường, các em đã trở thành công dân có ích, có học vấn phổ thong, nhiều em có trình độ Đại học, cao đẳng, THCN và có học vấn phổ thông vững vàng. Trường THCS Đan Hà – Hạ Hòa – Phú Thọ, mái trường dưới tán lá cọ ở vùng thượng huyện Hạ Hòa, mái trường tôi yêu, mái trường thân thiện, mái trường của tình thầy trò, tình bạn bè, mái trường ghi dấu bao nhiêu kí ức, bao kỷ niệm êm đềm thời tôi mới về trường công tác . Cứ nghĩ đến trường, lòng tôi lại dạt dào bao cảm xúc. Trường THCS Đan Hà, tôi yêu bạn vô cùng! Tôi yêu từng dãy nhà, từng phòng học, từng phòng làm việc, tất cả được xếp trang nghiệm theo hình chữ U. Tôi yêu màu ve xanh, tỏa mát giữa nắng trời rực rỡ, yêu những ô cửa màu mận tím – cảnh cửa đã mở ra bao nhiêu ước mơ, khát vọng trong tâm hồn trẻ thơ, đưa biết bao thế hệ học trò bay cao, bay xa. Tôi yêu mái nhà như một mảng sắc cầu vồng rơi xuống sân trường . Tôi yêu từng ngọn cây, sợi cỏ, hạt cát ở nơi đây, bởi nó gắn với tôi ngay sau khi trường tái lập. Tôi yêu sân trường không nhiều diện tích nhưng luôn rộng mở, nâng đỡ từng bước nhảy, bước đi, từng trò chơi dân gian của các cô cậu học trò trong những giờ ra chơi. Tôi quý bác trống luôn nghiêm túc nhưng không hề dữ dằn, bác luôn chăm chỉ, đúng lúc , đúng thời gian ,báo cho các em biết giờ giấc, rèn luyện các em học sinh vào nề nếp, nội quy. Ôi! Tiếng trống, bao nhiêu âm thanh là bấy nhiêu cung bậc cảm xúc. Giờ học đến, tiếng trống gấp gáp, vội vàng, nhắc nhở các em học sinh đừng ham chơi, giờ học đã bắt đầu. Tiếng trống rộn ràng, chạy vào lớp học, mời gọi các em ra sân chơi, xua tan mệt nhọc, căng thẳng sau mỗi giờ lên lớp. Tiếng trống nhịp nhàng: 1,2,1, 2,1,2…vào các giờ thể dục giữ giờ, rèn luyện thể hình, sức khỏe cho các em. Trường THCS Đan Hà- mái trường nơi tôi đang giảng dạy không chỉ đẹp vì màu ve, cánh cổng…mà còn đẹp bởi bóng cây xanh tỏa mát sân trường. Tôi yêu những hàng phượng vỹ hoa đỏ rực một góc trời, tôi yêu hàng bàng xum xuê, xanh mát, xòe tán rộng như những chiếc ô khổng lồ. Tôi yêu hàng keo thẳng tắp, lá yểu điệu, phất phơ trong gió. Tôi yêu, tôi nhớ những lời dạy bảo của các thầy cô lớn tuổi, tôi trân trọng những lời chỉ bảo của đồng nghiệp. Tôi yêu và tự hào về mái trường, đã có biết bao nhiêu thế hệ học sinh trưởng thành dưới bàn tay dìu dắt của các thầy cô. Tên tuổi các em : Phạm Văn Hiếu, Phạm Hồng Sơn, Mai Phương Anh, Triệu Đình Đa, Triệu Đình Nghệ, Triệu Thị Hải Yến, Mai Tiến Tần, Mai Thị Thơm…vvđã làm rạng rỡ thêm thành tích của nhà trường. Trường học là ngôi nhà thứ hai của rất nhiều thế hệ học trò, là cái nôi nuôi các em khôn lớn, thầy cô là cha, là mẹ, là bạn bè thân thiết như anh em, gắn bó bền chặt. Mái trường làm cho tôi lớn lên từng ngày, từng giờ, chắp cánh cho học sinh bay cao, bay xa…Tôi yêu, tôi quý, tôi tự hào về mái trường này vô cùng, mái trường trung du dưới tán lá cọ. Trường THCS Đan Hà. Cảm nghĩ về mái trường thân yêu – Bài làm 5 Mỗi người đều có một tuổi thơ. Tuổi thơ là quãng thời gian đẹp đẽ và quý giá nhất của mỗi người. Trong tuổi thơ luôn có một ngôi nhà rộng lớn, ngôi nhà không chỉ chứa ta mà còn chứa cả thầy cô giáo, bạn bè, kiến thức và tình cảm. Ngôi nhà ấy ai cũng biết, cũng yêu, đó chính là Mái trường thân yêu. Mái trường thật rộng lớn, tất cả đều mở rộng đón ta. Dù có lớn thế nào đi chăng nữa thì mái trường vẫn ấm áp, ngọt ngào và đẹp đến kì lạ. Mái trường là cái nôi của tri thức, bước đường của tương lai, là bài ca của tình bạn,… là tất cả những gì của ta. Có thể nói mái trường luôn sát cánh bên ta, là con đường rộng, dài, đầy chông gai nhưng cũng thắm đượm tình cảm. Nếu như để định nghĩa về mái trường thì quả thật rất nhiều nhưng nếu ai đó thực sự có mái trường trong trái tim thì mới hiểu được sâu sắc điều đó. Mái trường như một dấu ấn ngọt ngào nhưng cũng đầy nước mắt. Nhớ ngày còn bé khi ta lần đầu tiên cắp sách tới trường. Đối với ta lúc đó mái trường mới xa lạ, bí ẩn làm sao. Mọi thứ đều lạ lẫm, tất cả đều phải thay đổi. Ta đã được vào một thế giới mới, ta phải tự bước trên chính đôi chân nhỏ bé của mình. Nhưng sát cánh bên ta sẽ là bạn bè dìu dắt, dẫn đường chỉ lối cho ta là thầy có. Mái trường sẽ mở ra và tiếp nhận ta, chăm sóc và yêu thương ta không kém gì gia đình. Thời gian trôi qua để lại trong ta biết bao kỉ niệm. Giờ đây ta đã có kỉ niệm về mái trường; mọi thứ thật gần gũi, thân thiết và làm cho ta cảm thấy hạnh phúc. Mái trường đã cho ta quá nhiều, những thứ ấy ta đều phải nhớ, phải trân trọng, coi nó như thứ quý giá. Và thử tưởng tượng xem một ngày kia bạn sẽ rời xa mái trường. Và khi ngày ấy đến, nước mắt ai sẽ rơi, trái tim ai sẽ buồn, lòng ai sẽ đau? Đó chính là ta, bởi vì trong tim ta đã có mái trường, ta yêu thương và quý trọng mái trường. Mai đây, dù có đi đâu xa thì trái tim ta vẫn hướng về mái trường, về tuổi thơ. Mái trường là ngôi nhà thứ hai của ta. Nơi đây đã cho ta nhiêu điều quí giá, luôn cổ vũ, động viên ta dù có thế nào. Cám ơn mái trường, tình yêu tuổi thơ của ta.
Cảm nghĩ về mái trường thân yêu
3,234
Nội dung bài viết1 Cảm nghĩ về mẹ của em – Bài làm 1 2 Cảm nghĩ về mẹ của em – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ về mẹ của em – Bài làm 3 4 Cảm nghĩ về mẹ của em – Dàn ý Cảm nghĩ về mẹ của em – Bài làm 1 Tôi đã từng nghĩ mình là đứa trẻ rất hạnh phúc bởi tôi được lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ và sự che chở rộng lớn của bố. Bố mẹ luôn hy sinh để dành cho tôi những gì tốt đẹp nhất. Tôi thực sự khắc ghi tình nghĩa của bố mẹ trong lòng, Mẹ là người đã sinh ra tôi và nuôi dưỡng tôi thành người. Em luôn biết ơn và kính yêu mẹ rất nhiều! Sẽ không có từ ngữ nào có thể diễn tả được hết sự bao la của tình mẫu tử “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình”. Tình cảm của mẹ dành cho tôi từ khi mang thai cho đến khi sinh tôi ra trên cuộc đời và nuôi dạy tôi nên người. Tôi nghe bà ngoại kể lại, ngày còn bé tôi rất là bướng bỉnh và nghịch ngợm nên mẹ rất vất vả. Bố thì đi làm xa nhà, có những đêm tôi quấy mẹ vì trông tôi mà thức cả đêm bế tôi, nét mặt mẹ tái nhợt hẳn đi vì mệt. Bà ngoại phải nấu cháo gà cho mẹ ăn để lấy sức. Những lúc tôi bị ốm mẹ lo lắng đưa tôi đi khám hết viện này đến viện khác để mong tìm được bác sĩ khám bệnh tốt nhất và chữa khỏi bênh cho cho tôi. Từ khi có tôi, mẹ dường như không có thời gian cho riêng mình nữa, không còn những buổi găp b ạn bè mà lúc nào cũng là thời gian của hai mẹ con. Đi đâu mẹ cũng đưa tôi đi cùng, Các bác hàng xóm ai cũng khen tôi ngoan và mập mạp nên mẹ vui lắm. Buổi tối trước khi đi ngủ mẹ thường hát ru tôi hoặc kể chuyện cổ tích cho tôi nghe, hình ảnh cô Tấm, Lọ Lem, cô bé quàng khăn đỏ giờ vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi! Cảm ơn những câu chuyện mẹ kể đã đưa tôi vào giấc ngủ ngon. qua những nhân vật mẹ kể đã cho tôi thêm nhận thức về giá trị của cuộc sống và đã nuôi dưỡng tâm hồn tô nên người. Bài văn phát biểu cảm nghĩ của em về người mẹ thân yêu. Khi tôi lớn lên mẹ vất vả hơn, vì mẹ sẽ phải dạy cho tôi rất nhiều thứ để tôi trưởng thành hơn và hoàn thiện mình. Mẹ dạy tôi đọc thật rõ ràng mạch lạc, viết sao cho thật ngay ngắn thẳng hàng vì người ta nói “nét chữ nết người”. Mẹ dạy tôi sắp xếp sách vở ngăn nắp, quần áo gọn gàng để khi cần sẽ tìm thấy ngay. Mẹ dạy con gái mẹ phải đi đứng và nói chuyện với người lớn tuổi như thế nào cho lễ phép, đúng lễ nghĩa. Mỗi khi mẹ vào bếp nấu ăn, mẹ thường bảo tôi vào cùng để mẹ dạy con nấu các món ăn. Mẹ bảo “là người phụ nữ thì phải biết nấu những món ăn ngon cho gia đình”. Mỗi khi tôi yếu lòng hoặc gặp những khó khăn trong cuộc sống, tôi thường tìm đến mẹ để chia sẻ để tâm sự. Những lúc đó, mẹ lắng nghe tôi nói và khẽ gật đầu. Ánh mắt, nụ cười và những cái gật đầu khe khẽ của mẹ đã làm tôi cảm thấy được an ủi và sẻ chia. Lời khuyên của mẹ đã cho tôi thêm sức mạnh và tự tin để làm mọi việc tốt hơn. Mẹ không những là người mẹ đáng kính mà còn là người bạn thân thiết của tôi trong cuộc đời. Đối với tôi, mẹ là người phụ nữ quan trọng và tuyệt vời nhất. Mẹ à! Con thực sự rất biết ơn những công lao của mẹ dành cho con. Những gì con có được ngày hôm nay đều là do công sức của bố mẹ nuôi dạy. Tình nghĩa của mẹ dành cho con con biết sẽ không thể nào báo đáp, nhờ có mẹ mà con gái của mẹ đã thực sự trưởng thành và đang là một người công dân tốt của gia đình, trường lớp và của xã hội. Con sẽ luôn cố gắng học tập thật tốt để mẹ cảm thấ yên tâm. Và con sẽ luôn cố gắng để hoàn thiện mình để trở thành người phụ nữ tuyệt vời như mẹ! Con cảm ơn những điều tốt đẹp nhất mẹ đã dành cho con, trên chặng đường con đang đi con rất cần có mẹ ở bên cạnh. Cảm nghĩ về mẹ của em – Bài làm 2 Sau những giờ học căng thẳng trên lớp hay khi có chuyện buồn, tôi chỉ mong trở về nhà thật nhanh để nhìn thấy người mẹ thân yêu của tôi. Với tôi, mẹ là người vô cùng quan trọng, chẳng ai có thể thay thế mẹ của tôi. Với tôi, mẹ là người sinh thành, nuôi nấng, chở che … Mẹ là niềm hạnh phúc của đời tôi. Mẹ luôn dành cho tôi những tình cảm yêu thương, tốt đẹp nhất. Mẹ tôi đã gần bốn mươi tuổi. Mẹ có dáng người thon thả, làn da mẹ màu dám nắng. Tóc mẹ dài đến ngang vai, màu hoe vàng. Mẹ có khuôn mặt phúc hậu. Khi nhìn gương mặt ấy tôi biết mẹ yêu tôi đến nhường nào. Khi tôi buồn, tôi ốm, đôi mắt mẹ trũng sâu hằn lên những nỗi lo lắng suy tư. Tôi vui, mắt mẹ ánh lên những tia sáng hy vọng. Tôi yêu nhất ở mẹ đôi mắt, đôi mắt mẹ là cánh cửa của tâm hồn mà mẹ luôn dang rộng để đón tôi vào. Nhưng tôi yêu quý mẹ còn bởi những gì tốt đẹp mẹ mang đến cho tôi. Mẹ rất thích công việc của mình – nghề giáo viên. Nhưng sau khi sinh ra tôi và em tôi, mẹ phải nghỉ một năm ở nhà để chăm sóc anh em tôi. Mẹ hy sinh tất cả để cho gia đình mình có giây phút đầm ấm bên nhau. Mẹ dạy anh em tôi học bài trên lớp, cách nói năng, cư xử với mọi người. Khi chúng tôi sai là mẹ lại nhẹ nhàng nhắc nhở. Mẹ nói em tôi là con gái nên phải cẩn thận, khéo léo. Mẹ thường cho em tôi đi chợ để học cách chọn rau quả, thịt, cá … Lúc nấu ăn mẹ cũng cho nó phụ cùng, vừa nấu mẹ vừa giảng giải, hướng dẫn chuyện bếp núc. Vì mẹ tôi là giáo viên dạy nhiều bộ môn nên chuyện học hành của anh em tôi môn nào mẹ cũng hướng dẫn được. Tôi lớn lên được như bây giờ, đã biết khóc biết cười đúng cảm xúc của mình, tôi cười, mẹ cũng mỉm cười làm niềm vui của tôi nhân lên nhiều lần. Khi tôi buồn, mẹ chia sẻ làm nỗi buồn của tôi vơi bớt đi. Mẹ luôn chia sẻ niềm vui nỗi buồn cùng tôi. Với tôi, mẹ là người phụ nữ hoàn mĩ nhất thế gian. Mẹ ơi! Mẹ là người mà con yêu thương nhất! Cuộc đời con không thể không có mẹ, mẹ dạy cho con những điều hay để con có thể nhìn thấy tương lai tươi sáng. Con sẽ học thật tốt để không phụ lòng mong mỏi của mẹ. Con mong mẹ sẽ sống mãi bên con, con yêu mẹ lắm, mẹ của con! Cảm nghĩ về mẹ của em – Bài làm 3 Từ khi chào đời,cất tiếng khóc đầu tiên, mỗi chúng ta đều được vòng tay âu yếm cử cha mẹ che chở cho đến khi trưởng thành.Đối với tôi, gia đình là trên hết. Cha mẹ luôn quan tâm,chăm sóc và bảo vệ tôi. Nhưng có lẽ người luôn giành tình cảm cho tôi nhiều nhất mài chỉ có một.Đó là người mẹ kính yêu của tôi. "Đêm nay con ngủ giấc tròn​ Mẹ là ngọn gió của con suốt đời"​ Trong cuộc đời này,có ai lại không được lớn lên trong vòng tay của mẹ,được nghe tiếng ru ầu ơ ngọt ngào có ai lại không dược chìm vào giấc mơ trong gió mát tay mẹ quạt mỗi trưa hè oi ả. Và trong cuộc đời này, có ai yêu con bằng mẹ, có ai suốt đời vì con giống mẹ, có ai săn sàng sẻ chia ngọt bùi cùng con như mẹ. Với tôi cũng vậy, mẹ là người quan tâm đến tôi nhất và cũng là người mà tôi yêu thương và mang ơn nhất trên đời này. Tôi vẫn thường nghĩ rằng mẹ tôi không đẹp. Không đẹp vì không có cái nước da trắng, khuôn mặt tròn phúc hậu hay đôi mắt long lanh… mà mẹ chỉ có khuôn mặt gầy gò, rám nắng, vấng trán cao, những nếp nhăn của cái tuổi 40, của bao âu lo trong đời in hằn trên khóe mắt. Nhưng bố tôi bảo mẹ đẹp hơn những phụ nữ khác ở cái vẻ đẹp trí tuệ. Đúng vậy, mẹ tôi thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát lắm. Trên cương vị của một người lãnh đạo, ai cũng nghĩ mẹ là người lạnh lùng, nghiêm khắc. có những lúc tôi cũng nghĩ vậy. nhưng khi ngồi bên mẹ, bàn tay mẹ âu yếm vuốt tóc tôi, mọi ý nghĩ đó tan biến hết. Tôi có cả giác lâng lâng, xao xuyến khó tả, cảm giác như chưa bao giờ tôi được nhận nhiều yêu thương đến thế. Dường như một dòng yêu thương mãnh liệt qua bàn tay mẹ truyền vào sâu trái tim tôi, qua ánh mắt, đôi môi trìu mến, qua nụ cười ngọt ngào, … qua tất cả những gì của mẹ. tình yêu ấy chỉ khi người ta gần bên mẹ lâu rồi mói cảm thấy đuợc thôi. Từ nhỏ đến lớn, tôi đón nhận tình yêu vô hạn của mẹ như một ân huệ, một điều đương nhiên. Trong con mắt một đứa trẻ, mẹ sinh ra là để chăm sóc con. Chưa bao giờ tôi tư đặt câu hỏi: Tại sao mẹ chấp nhận hy sinh vô điều kiện vì con? . Mẹ tốt, rất tốt với tôi nhưng có lúc tôi nghĩ mẹ thật quá đáng, thật… ác. Đã bao lần, mẹ mắng tôi, tôi đã khóc. Khóc vì uất ức, cay đắng chứ đâu khóc vì hối hận. Rồi cho đến một lần… Tôi đi học về, thấy mẹ đang đọc trộm nhật ký của mình. Tôi tức lắm, giằng ngay cuốn nhật ký từ tay mẹ và hét to:“ Sao mẹ quá đáng thế! Đây là bí mật của con, mẹ không có quyền động vào. Mẹ ác lắm, con không cần mẹ nữa! ” Cứ tưởng, tôi sẽ ăn một cái tát đau điếng. Nhưng không mẹ chỉ lặng người, hai gò má tái nhợt, Khóe mắt rưng rưng. Có gì đó khiến tôi không dám nhìn thẳng vào mắt mẹ.Tôi chạy vội vào phòng, khóa cửa mặc cho bố cứ gọi mãi ở ngoài. Tôi đã khóc, khóc nhiều lắm, ướt đẫm chiếc gối nhỏ. Đêm càng về khuya, tôi thao thức, trằn trọc. Có cái cảm giác thiếu vắng, hụt hẫng mà tôi không sao tránh được. Tôi đã tự an ủi mình bằng cách tôi đang sống trong một thế giới không có mẹ, không phải học hành, sẽ rất hạnh phúc. Nhưng đó đâu lấp đầy dược cái khoảng trống trong đầu tôi. Phải chăng tôi thấy hối hận? Phải chăng tôi đang thèm khát yêu thương? … Suy nghĩ miên man làm tôi thiếp đi dần dần. Trong cơn mơ màng, tôi cảm thấy như có một bàn tay ấm áp, khẽ chạm vào tóc tôi, kéo chăn cho tôi. Đúng rồi tôi đang mong chờ cái cảm giác ấy, cảm giác ngọt ngào đầy yêu thương. Tôi chìm đắm trong giây phút dịu dàng ấy, cố nhắm nghiền mắt vì sợ nếu mở mắt, cảm giác đó sẽ bay mất, xa mãi vào hư vô và trước mắt ta chỉ là một khoảng không thực tại. Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi cảm thấy căn nhà sao mà u buồn thế. Có cái gì đó thiếu đi. Sáng đó, tôi phải ăn bánh mỳ, không có cơm trắng như mọi ngày. Tôi đánh bạo, hỏi bố xem mẹ đã đi đâu. Bố tôi bảo mẹ bị bệnh, phải nằm viện một tuần liền. Cảm giác buồn tủi đã bao trùm lên cái khối óc bé nhỏ của tôi. Mẹ nằm viện rồi ai sẽ nấu cơm, ai giặt giũ, ai tâm sự với tôi? Tôi hối hận quá, chỉ vì nóng giận quá mà đã làm tan vỡ hạnh phúc của ngôi nhà nhỏ này. Tại tôi mà mẹ ốm. Cả tuần ấy, tôi rất buồn. Nhà cửa thiếu nụ cười của mẹ sao mà cô độc thế. Bữa nào tôi cũng phải ăn cơm ngoài, không có mẹ thì lấy ai nấu những món tôi thích. Ôi sao tôi nhớ đén thế những món rau luộc, thịt hầm của mẹ quá luôn. Sau một tuần, mẹ về nhà, tôi là người ra đón mẹ đầu tiên. Vừa thấy tôi, mẹ đã chạy đến ôm chặt tôi. Mẹ khóc, nói: “ Mẹ xin lỗi con, mẹ không nên xem bí mật của con. Con … con tha thứ cho mẹ, nghe con.” Tôi xúc động nghẹn ngào, nước mắt tuôn ướt đẫm. Tôi chỉ muốn nói: “ Mẹ ơi lỗi tại con, tại con hư, tất cả tại con mà thôi. ” . Nhưng sao những lời ấy khó nói đến thế. Tôi đã ôm mẹ, khóc thật nhiều. Chao ôi! Sau cái tuần ấy tôi mới thấy mẹ quan trọng đến nhường nào. Hằng ngày, mẹ bù đầu với công việc mà sao mẹ như có phép thần. Sáng sớm, khi còn tối trời, mẹ đã lo cơm nước cho bố con. Rồi tối về, mẹ lại nấu bao nhiêu món ngon ơi là ngon. Những món ăn ấy nào phải cao sang gì đâu. Chỉ là bữa cơm bình dân thôi nhưng chứa chan cái niềm yêu tương vô hạn của mẹ. Bố con tôi như những chú chim non đón nhận từng giọt yêu thương ngọt ngào từ mẹ. Những bữa nào không có mẹ, bố con tôi hò nhau làm việc toáng cả lên. Mẹ còn giặt giũ, quét tước nhà cửa… việc nào cũng chăm chỉ hết. Mẹ đã cho tôi tất cả nhưng tôi chưa báo đáp được gì cho mẹ. Kể cả những lời yêu thương tôi cũng chưa nói bao giờ. Đã bao lần tôi trằn trọc, lấy hết can đảm để nói với mẹ nhưng rồi lại thôi, chỉ muốn nói rằng: Mẹ ơi, bây giờ con lớn rồi, con mới thấy yêu mẹ, cần mẹ biết bao. Con đã biết yêu thương, nghe lời mẹ. Khi con mắc lỗi, mẹ nghiêm khắc nhắc nhở, con không còn giận dỗi nữa, con chỉ cúi đầu nhận lỗi và hứa sẽ không bao giờ phạm phải nữa. Khi con vui hay buồn, con đều nói với mẹ để được mẹ vỗ về chia sẻ bằng bàn tay âu yếm, đôi mắt dịu dàng. Mẹ không chỉ là mẹ của con mà là bạn, là chị… là tất cả của con. Con lớn lên rồi mới thấy mình thật hạnh phúc khi có mẹ ở bên để uốn nắn, nhắc nhở. Có mẹ giặt giũ quần áo, lau dọn nhà cửa, nấu ăn cho gia đình. Mẹ ơi, mẹ hy sinh cho con nhiều đến thế mà chưa bao giờ mẹ đòi con trả công. mẹ là người mẹ tuyệt vời nhất, cao cả nhất, vĩ đại nhất. Đi suốt đời này có ai bằng mẹ đâu. Có ai sẵn sàng che chở cho con bất cứ lúc nào. Ôi mẹ yêu của con! Giá như con đủ can đảm để nói lên ba tiếng: “ Con yêu mẹ! ” thôi cũng được. Nhưng con đâu dũng cảm, con chỉ điệu đà ủy mỵ chứ đâu được nghiêm khắc như mẹ. Con viết những lời này, dòng này mong mẹ hiểu lòng con hơn. Mẹ đừng nghĩ có khi con chống đối lại mẹ là vì con không thích mẹ. Con mãi yêu mẹ, vui khi có mẹ, buồn khi mẹ gặp điều không may. mẹ là cả cuộc đời của con nên con chỉ mong mẹ mãi mãi sống để yêu con, chăm sóc con, an ủi con, bảo ban con và để con được quan tâm đến mẹ, yêu thương mẹ trọn đời. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất trên đời này. Tình cảm ấy đã nuôi dưỡng bao con người trưởng thành, dạy dỗ bao con người khôn lớn. Chính mẹ là nguời đã mang đến cho con thứ tình cảm ấy. Vì vậy, con luôn yêu thương mẹ, mong được lớn nhanh để phụng dưỡng mẹ. Và con muốn nói với mẹ rằng: “ Con dù lớn vẫn là con mẹ. Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con. Cảm nghĩ về mẹ của em – Dàn ý I. Mở bài – Có thể dẫn dắt bằng một đôi câu thư hay bài hát liêu quan đến mẹ: MẸ TÔI Bạn đừng cười khi trông thấy mẹ tôi Ngày với tháng cứ mang đôi sọt rách Chiếc xe đạp lâu năm ốc vít kêu cành cạch… Tấm áo cũ nhàu mòn rách cả hai vai. Bạn đừng cười khi mỗi buổi sớm mai Mẹ thức giấc từ canh hai mờ mịt Lọ mọ nồi xoong, thái rau gà, rau vịt Rồi lại vội vàng, rối rít đạp xe. Bạn đừng cười khi thấy mẹ dừng xe Và nhặt nhạnh từng thanh tre, thanh gỗ Mẹ báo "Mấy thứ này không có dùng thì khô Tiền chẳng có nhiều, nhặt cho đỡ phải mua." Bạn đừng cười khi thấy mẹ già nua Vẫn còng lưng vượt qua từng con dốc Những thứ mẹ mang nào vỏ chai, giấy lốc Sắt vụn, nhôm, đồng… một lũ nhóc lớn khôn. Bạn đừng cười khi gió rét mùa đông Sương lạnh ngắt, từng cơn giông ập tới Vẫn có một người khom lưng đạp xe rất vội Sóng gió cuộc đời không không ngăn nổi vòng lăn. Bạn đừng cười, cười trên những gian nan Những lo toan mà mẹ tôi chịu đựng Cả cuộc đời mẹ vẫn đang gồng sức Để gia đình có những khúc ca vui. Tôi tự hào vì có mẹ của tôi Một người mẹ luôn lôi thôi, lem luốc Nhưng trái tim có ai so bì được Cả tấm lòng, là ngọn đuốc sáng soi. Cầu mong Người sẽ ở mãi bên tôi! (Trích “Những bài thơ hay về mẹ”) – Mẹ là người sinh thành, dưỡng dục, nuôi ta khôn lớn thành người. Mẹ tôi tên là…? II. Thân bài 1. Miêu tả Mẹ – Vóc dáng, ngoại hình: + Lớn tuổi: theo thời gian, tuổi mẹ ngày càng cao. + Tóc đã điểm vài sợi bạc: tóc mẹ đă có lấm tấm vài sợi bạc vì phải chăm lo cho gia đình của mình. + Đôi mắt: vẫn còn tinh anh, nhìn rõ. + Nụ cười: ấm áp, hồn hậu + Đôi bàn tay: gầy gầy, xương xương vì phải buôn gánh bán bưng ngoài trời mưa gió với biết bao khổ cực. + Vóc người: cân đối. + Trang phục: thường hay mặc những trang phục giản dị, phù hợp với hoàn cảnh. – Tính cách: + Đối với mọi người xung quanh: luôn quan tâm, giúp đỡ. + Đối với gia đình: luôn yêu thương, quan tâm, chăm lo chu đáo. + Đối với bản thân: nghiêm khắc và có trách nhiệm trong mọi việc. 2. Kể một kỉ niệm sâu sắc giữa em và me – Trời mưa to, gió lớn; mẹ nhắc tôi không nên đi chơi. – Tôi cãi lời mẹ, nghe theo lời rủ rê cùa bạn bè để đi chơi đá banh với chúng bạn trong mưa to. – Thế nhưng, sau cuộc chơi đó tôi bị bệnh sốt nặng. – Mẹ nhìn tôi nằm trên giường bệnh với sự trìu mến. – Không những không có lấy một lời la mắng, mẹ còn chạy đôn chạy đáo mua thuốc cho tôi trong đêm mưa to gió lớn với biết bao lo lắng cho tôi. – Tôi cảm thấy thật hối hận và trách cứ bản thân. – Tôi hứa với lòng sẽ không bao giờ cãi lời mẹ như vậy nữa. – Kỉ niệm ấy luôn theo tôi đến tận bây giờ và gây trong tôi một nỗi niềm sâu sắc về mẹ của mình. 2. Cảm nhân về Mẹ – Mẹ là người mà tôi luôn quý trọng và tôn thờ. – Không gì có thể thay thế cho mẹ. III. Kết bài – Cuộc sống của tôi sẽ buồn chán và vô vị biết bao nếu thiếu vắng hình bóng của mẹ. – Tôi hứa rằng sẽ luôn chăm lo học hành, ngoan ngoãn để trở thành con ngoan trò giỏi, không làm buồn lòng mẹ mình nữa.
Cảm nghĩ về mẹ của em – Văn mẫu lớp 7
3,528
Cảm nghĩ về ngày Tết cổ truyền của dân tộc Bài làm Lại thêm một mùa đông qua đi và nhường chỗ cho mùa xuân, vậy là mọi thứ đều chuẩn bị thêm một tuổi. Ôi, mùa xuân! Mùa của những vườn hoa khoe sắc thắm. Mùa của những vạn vật sinh sôi, của đất trời tươi mới. Và cũng vào thời gian này, ngày tết cổ truyền – Tết Nguyên Đán cũng đang rất gần với chúng ta. Tết Nguyên Đán là ngày Tết cổ truyền của Việt Nam. Khi Tết đến tôi được về quê, được ăn cỗ và được lì xì. Tết đến khi mùa xuân đến. Mùa xuân cho ta một không khí ấm áp. Mùa xuân cũng là điểm khởi đầu của một năm mới. Xuân đến những nụ hoa dần hé nở, cây cối lại châm chồi, nảy lộc. Tết đến, người ta đi chợ sắm Tết, chuẩn bị những cành đào đẹp, mổ lợn, giã giò, gói bánh chưng, trang hoàng câu đối Tết… Trong ngày Tết, các cụ già được con cháu mừng thọ, các cháu nhỏ thì nôn nóng được lì xì và mặc áo đẹp. Tết đến, tôi được cùng người thân đi du xuân đón năm mới, được đón giao thừa trong đêm 30. Tết Nguyên Đán là dịp nghỉ ngơi của mọi người sau một năm lao động mệt nhọc, là thời khắc đón chào một năm mới với bao điều hạnh phúc và ước mơ. Ai ai trong chúng cũng đều mong chờ ngày Tết đến, một cái Tết thật trọn vẹn. Tôi còn nhớ màu xanh của lá dong, hình ảnh mà bố mẹ ngồi lau lá, gói bánh. Trông cái bánh vuông vức, xanh và rất đẹp và rồi cái giờ phút ngồi trông bánh chưng rất ấm áp và có cái gì đó đang reo trong lòng. Bây giờ đã lớn, tôi cũng tranh phần trông bánh với bố mẹ. Có năm tôi rủ mấy đứa bạn thân cùng ngồi vây quanh bếp để trông bánh chưng chín. Và ngồi bán tán về những sự kiện diễn ra năm sắp qua và những dự định cho một năm mới nhiều niềm vui và hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười và có những thành công trên con đường học tập của năm tới. Tôi có cảm giác rất vui và hạnh phúc. Gần Tết công việc tất bật và bộn bề, ai cũng muốn giải quyết cho xong những công việc còn đang dở dang Tết là một phần kí ức tuổi thơ tôi, đã ngấm vào máu thịt tôi từ lúc nào không hay. Tôi yêu Tết Nguyên Đán, yêu cái Tết cổ truyền của dân tộc tôi. Nó luôn đem đến cho con người những khởi đầu mới, những mới mẻ để con người cùng nhau khám phá. Và hơn thế nữa, chúc cho tất cả mọi người đón một năm mới thật vui vẻ và hạnh phúc bên những người thân yêu, những người quan trọng với chúng ta.
Cảm nghĩ về ngày Tết cổ truyền của dân tộc
502
Nội dung bài viết1 Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 2 Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 4 Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Dàn ý Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 Nguyễn Quang Sáng là nhà văn nam bộ,các tác phẩm của ông chủ yếu viết về con người và cuộc sống ở Nam Bộ, các tác phẩm của ông chủ yếu viết về con người và cuộc sống ở Nam Bộ. Trong đó ” chiếc lược ngà” là một truyện ngắn tiêu biểu được viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đang diễn ra ác liệt, điều đáng chú ý là truyện được viết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh nhưng lại tập trung nói về tình người cụ thể là tình cha con. Tình cảm ấy được diễn ra sâu sắc cảm động từ hai phía bé Thu và ông Sáu. Nhưng có lẽ xúc động và gây ám ảnh với người đọc hơn cả là tình cảm của con người – bé Thu dành cho người cha đáng kính của mình. Cũng giống như bao em bé ở Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, bé thu có một hình ảnh đặc biệt. Thu là cô bé khoảng tám tuổi, con gái đầu lòng và cũng là con gái duy nhất của ông Sáu, khi ba đi vào chiến trường Thu mới một tuổi và tám năm sau ba em trở về nhưng lại có vết thẹo trên mặt khiến Thu không nhận ra ba của mình. Đến khi em nhận ra và tình cảm cha con thức dậy trong em mãnh liệt cũng là lúc ông Sáu phải trở về chiến khu, chính trong hoàn cảnh đó bé Thu đã bộc lộ rõ nét cá tính và tình cảm đáng yêu đáng mến. Trước hết, bé Thu là một em bé có cá tính mạnh mẽ cứng cỏi nhưng đồng thời cũng mang nét hồn nhiên ngây thơ của con trẻ. Gặp lại con sau những tháng năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con nhưng thật chớ chêu, đạp lại sự vồ vập của người cha bé Thu lại ngờ vực lảng tránh: ” Nghe gọi, con bé giật mình tròn mắt nhìn. nó ngơ ngac lạ lùng” với bé Thu lúc này ông Sáu như người xa lạ, khi ông chầm chậm bước tới giọng lập bập run run ” ba đây con, ba đây con” thì mặt nó bỗng tái đi và kêu thét lên” Má, má” đó là tiếng kêu sợ hãi và tìm người cầu cứu. Đặc biệt, mấy ngày ông Sáu ở nhà Thu tỏ ra rất ương ngạnh bướng bỉnh và ông Sáu càng muốn gần con thì bé Thu càng tỏ ra lạnh nhạt xa cách. Tâm lý và thái độ ấy của bé Thu được thể hiện qua hàng loạt chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động ” nó chỉ nói chống không với ông Sáu mà không chịu gọi ba” kể cả trong lúc bé nhất định không chịu nhờ không chắt nước nồi cơm to đang sôi, rồi khi má giục gọi ba vào ăn cơm nó vẫn cứ nói chống ” cơm chín rồi, vô ăn cơm”. Cách gọi này không phải Thu là cô bé vô lễ mà thể hiện cá tính ương ngạnh ở em. đặc biệt hành động em hất tung cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho ra khỏi chén. Cuối cùng bị ông Sáu tức giận đánh cho một cái thì nó bỏ về nhà ngoại. Những hành động và thái độ đó khiến cho ông Sáu và người đọc rất đau lòng, bởi còn gì đau đớn hơn thì một người cha khao khát được gặp con được thương con mà lại bị con mình chối bỏ cự tuyệt hoàn toàn. Tuy nhiên, sự ương ngạnh của bé Thu là hoàn toàn không đáng trách trong hoàn cảnh xa cách va cách trở của chiến tranh, Thu còn quá nhỏ để thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của đời sống và người lớn cũng chưa ai kịp chuẩn bị cho em những kĩ năng. vì thế Thu không tin ông Sáu là ba em chỉ vì ông có vét thẹo khác với người ba trong bức hình chụp chung với má mà em được biết, phản ứng tâm lý ấy của Thu là hoàn toàn tự nhiên thể hiện nét hồn nhiên, ngây thơ của trẻ con. Đồng thời, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ cứng cỏi, tình cảm trong em sâu sắc chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó là ba mình. Như vậy ” cứng đầu” của Thu ẩn chứa sự kiêu hãnh trẻ thơ và một tình yêu dành cho ” người cha khác” với người cha trong bức hình chụp chung với má nó. Cái tính ương ngạnh là thế nhưng khi nhận ra ông Sáu chính là ba của mình thì tình yêu thương ba sâu nặng ở bé Thu được nhân lên gấp bội. Trong đêm bỏ về bà ngoại, bé Thu được bà ngoại giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt của ba nó là cho Tây bán thương. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái là ân hận, hối tiếc ” nghe bà kể nằm lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế, trong buổi cuối cùng trước lúc ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu thay đổi đột ngột. Nó không bướng bỉnh hay cau màu nhăn nhó nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu khi đối diện với ông Sáu ‘ đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao” đằng sau đôi mắt ấy đang xáo động bao ý nghĩ, bao tình cảm và sau lời từ biệt của ông Sáu,” thôi ba đi nghe con” thì tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra mạnh mẽ hối hả và cuống quýt. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ” ba” sau tám năm. Tiếng gọi ấy chan chứa bao tình cảm gây được bao xúc động: ” tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa” đó là tiếng ba mà: ” nó cố đè nén trong bao năm nay như vỡ tung ra từ đáy lòng nó” cùng với tiếng gọi đó là những cử chỉ khiến người kể chuyện, bà con hàng xóm và cả người đọc chúng ta xúc động đến lao lòng ” nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, nhà văn không viết nhiều, chỉ vàu chi tiết nhỏ ấy cũng đủ để người đọc cảm nhận tình yêu thương ruột thịt. nồng nàn mà bé Thu dành cho ba của mình, trong giây phút ấy, bé Thu không chỉ thấy yêu ba, thương ba mà rất tự hào về ba nên: ” nó hôn ba nó cùng khắp, hôn tóc, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài trên má ba”. có lẽ vì rất tiếc thời gianqua không nhận ba nên nó muốn níu kéo ba ở lại ” không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con”, nhưng rồi ý thức được công việc của ba, công việc của kháng chiến của đất nước nên khi bà ngoại giải thích Thu đã rời khỏi vòng tay ba. Điều này làm ta hiểu thêm một điều: “ tình yêu và niềm tin tự hào về ba đã trở thành sức mạnh thôi thúc rèn rũa để sau này Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm. Tình yêu thương ba của bé Thu để lại bao ấn tượng trong lòng bạn đọc là nhờ vào cách xây dựng nhân vật rất thành công của Nguyễn Quang Sáng. trước hết, tác giả đặt nhân vật bé Thu vào tình huống chuyện rất éo le để nhân vật bộc lộ rõ nét cá tính và tình cảm của mình, đặc biệt Nguyễn Quang Sáng còn rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, mọi hành động thái độ của Thu trong hai thời điểm trước và sau khi nhận ông Sáu là ba đều biểu hiện trái ngược hoàn toàn. Tất cả đều bắt nguồn từ tình cảm sâu sắc dành cho người cha ma em hằng kính yêu, tôn thờ, có thể nói rằng, với một tâm hồn nhạy cảm chan chứa yêu thương, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách cảm động tinh tế. Có thể nói chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm nhưng hình ảnh nhân vật bé Thu và câu chuyện ” chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn để lại bao ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc về một em bé vừa hồn nhiên, cứng cỏi, vừa có tình yêu thương ba sâu sắc, mãnh liệt, qua nhân vật bé Thu, ta càng thấm thía hơn tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp, thấm thía hơn phụ tử thiêng liêng, cao đẹp, thấm thía những mất mát đau thương mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình đồng thời ta hãy trân trọng cuộc sống hòa bình mà mình đang được hưởng hôm nay. Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 Một cô bé Thu ương bướng, ngang ngạnh. Một cô giao liên thông minh gan dạ. Đó là tất cả những gì tôi yêu mến, khâm phục ở Thu. Những phẩm chất đó đã được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết rất hay, rất cảm động trong truyện ngắn Chiếc lược ngà. Câu chuyện mà mỗi lần đọc lên trong tôi lại trào dâng những cảm xúc mãnh liệt nhất. Từ nhỏ Thu đã không được ba nựng nịu, không được ba ôm ấp chiều chuộng nhưng trong trái tim ngây thơ của Thu vẫn in đậm hình bóng người ba thân yêu qua những lần xem hình ba chụp. Ba – đó là cả một chuỗi dài nhớ nhung không bao giờ nguôi trong Thu. Vậy mà cô bé lại không chịu nhận ba trong lần ba về phép. Những ngày ở nhà mặc cho ông Sáu vỗ về, Thu vẫn lạnh nhạt coi ông Sáu chẳng bằng người dưng, tình huống gay cấn khiến tôi đọc lên cứ hồi hộp, tâm trạng tôi cũng như bác Ba tin rằng Thu sẽ phải chịu thua, phải gọi ông Sáu bằng "Ba", nhưng không, cái tính bướng bỉnh, gan lì của Thu càng về cuối truyện càng lộ rõ. Em kiên quyết không chịu nhận ba. Em đã hành động không phải với ông Sáu: hất cái trứng ông gắp cho tung tóe cả mâm, Ba đã đánh Thu, tuy vậy em không khóc, lẳng lặng bỏ sang nhà ngoại. Em đang dỗi đấy, bằng chứng là em cố tình khua dây lòi tói rổn rảng. Đủ thấy em ương ngạnh biết bao. Tôi vẫn tự hỏi: Tại sao Thu cố chấp vậy, không tin rằng đó là ba mình khi mà cả bác Ba, cả mẹ – những người mà Thu tin tưởng nhất đều khẳng định đó là ba Thu. Những thắc mắc ấy đã dẫn tôi đọc tiếp câu chuyện. Khi được ngoại giải thích vết thẹo của ba, Thu lăn lộn, thở dài trên giường như người lớn. Chắc Thu phải suy nghĩ mông lung lắm, ân hận lắm. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ rằng: Thu không nhận ba chỉ vì một vết thẹo. Lí do thật trẻ con quá phải không các bạn? Tôi không hề trách Thu bởi tôi hiểu Thu ương bướng, không chịu nhận ba cũng chỉ vì Thu rất yêu ba, Thu không nghĩ đó là ba mình. Em chỉ muốn dành tình cảm cho người ba thân yêu mà hình ảnh vẫn khác sâu trong trái tim nhỏ bé của mình. Đó chính là đỉnh cao của tình yêu thương. Tình cảm của Thu dành cho ba sâu sắc quá, cảm động quá các bạn nhỉ? Khi chợt nhận ra thì đã muộn, ông Sáu lại phải chia tay mọi người vào chiến trường. Thật bất ngờ, lúc đó tình cha con như trỗi dậy, tiếng "ba" thân thương mà tận giờ phút ấy Thu mới thốt ra được. Tiếng "ba" như xé đi sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người. Thu như sự không giữ được ba, bấu chặt lấy ba mà hôn lên má, hôn lên cả vết thẹo đã từng làm Thu sợ. Đọc đến đây tôi xúc động đến nghẹn ngào. Tình cảm đó như ngọn lửa đang bùng cháy trong tâm hồn Thu, lúc này em yêu ba hơn bao giờ hết. Bây giờ bé Thu mới ngoan ngoãn làm sao, khác với bé Thu trước đây quá! Một lần nữa Thu lại phai xa ba. Thấm thoắt Thu đã lớn, rồi bất ngờ có tin báo ba đã mất. Đau khổ đến tột cùng, em xin má đi giao liên. Thu muốn trả thù cho ba. Tình cảm của Thu vói ba thật ấm nồng thiêng liêng quá. Trong thời kháng chiến chống Mĩ Tố Hữu có viết: Tuốt gươm không chịu sống quỳ Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu Lớp cha trước, lớp con sau Đủ thành đồng chí chung câu quân hành Những vần thơ ca ngợi lớp trẻ thật hào hùng! Nay tôi lại gặp cái hào hùng anh dũng ấy ở chính cô giao liên – bé Thu ngày xưa. Nguyễn Quang Sáng viết: Cô có cái mũi thính để có thể ngửi thấy đâu là thằng Tây, đâu là ngụy. Có thật thế không nhỉ? Hay là ông khâm phục cái tài cái trí của cô rồi nói và viết vậy? Còn tôi, tôi không chỉ yêu quý khâm phục cô vì cái tài trí mà còn khâm phục cô vì lòng gan dạ, yêu Tổ Quốc. Khi bác Ba gặp và trao cho cô cái lược ngà mà người ba đã khuất của mình để lại, đôi mắt Thu tròn to hơn, xúc động hơn, ngực phập phồng. Tôi hiểu Thu đang xúc động lắm, sung sướng lắm, giọt lệ vỡ ra tràn đầy mi mắt. Thu khóc, Thu đã khóc bởi quá bất ngờ. Biết bác Ba nói dối nhưng tôi tin rằng Thu không trách bác và coi bác như một người ba thứ hai của mình, người ba đã mang lại cho cô niềm vui mà cô đã tìm kiếm mười năm trời. Càng đọc tác phẩm, tôi càng thấy đáng yêu làm sao một bé Thu hồn nhiên bướng bỉnh, một cô giao liên dũng cảm, thông minh. Và cảm động thay tình cha con ấm nồng sâu nặng của hai thế hệ cùng đi trên một con đường cách mạng. Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm, đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng Ba, hay khi hất cái trứng mà anh Sáu cho xuống, cuối cùng khi anh Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị anh Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người “cha chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy, không giống anh Sáu, không phải bởi thời gian đã làm anh Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm hiến dạng khuôn mặt anh Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thế biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiều sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phỏng sau này. Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lí của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” Có cảm giác bé Thu sợ anh Sáu sẽ nhìn thấy những giọt nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ cô bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già giặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Trong khi “Chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế. Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tình cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nạy, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luồn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó, cưng nựng nó, săn sóc, chăm lo cho nó, làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chút ấn tượng nào về cha, song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào, cao lớn nhường nào, có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao? Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lạ kia làm bố. Khi đến ngày anh Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó”. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên Ba…, vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa. Tiếng kêu Ba từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng một cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giàu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu. Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Dàn ý I) Mở bài – Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn về tình cha con sâu nặng. – Với nhân vật chính là bé Thu – một cô bé đã phải lớn lên trong một gia đình vắng bóng người cha. II) Thân bài + Luận điểm 1 : bé thu trong những ngày đầu gặp cha _Luận cứ 1: lúc mới gặp cha – Giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác , lạ lùng. – Mặt tái đi, vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. => Sự hồn nhiên ngây thơ , ngạc nhiên xen lẫn sợ hãi. _Luận cứ 2 : những ngày ông Sáu ở nhà – Anh Sáu càng vỗ về thì lại càng đẩy ra. – Không chịu gọi anh Sáu là ba, cứ xem như người lạ. – Không chịu gọi ba vào ăn cơm , thấy má giận nó chỉ nói trổng. – Nhờ anh Sáu chắt nước nồi cơm một cách miễn cưỡng, tiếp tục nói trổng. – Được anh Sáu gắp trứng vào tô nhưng lại hất ra , tuy bị đánh nhưng không khóc rồi chạy sang nhà ngoại. => Thể hiện sự mạnh mẽ, pha chút bướng bỉnh. + Luận điểm 2 : khi bé thu đã nhận ra cha mình – Nhận ra tình cha con thật chất , lòng vô cùng ân hận. – Không còn bướng bĩnh, lạnh lùng. – Hôn khắp người, ôm chặt không cho cha đi. => Lòng thương cha vô bờ bến , biết hối hận về những gì mình đã làm. III) Kết bài -Bé Thu tuy có nhiều tính cách khác nhau nhưng suy cho cùng vẫn là một cô bé rất yêu thương cha. -Bằng cách miêu tả tâm lí và xây dựng hình ảnh nhân vật bé Thu sâu sắc, tác giả đã đem đến người đọc một câu chuyện về tình cha con cảm động.
Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
4,148
Nội dung bài viết1 Cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà – Bài làm 1 2 Cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà – Bài làm 2 Cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà – Bài làm 1 Ông Sáu là một trong hai nhân vật chính trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.Ông có một cuộc sống bình thường như bao người dân bình thường khác sống trong thời kì lúc bấy giờ : cuộc sống bị chi phối bởi chiến tranh. Nhưng ở ông vẫn toát lên lòng yêu nước; lòng yêu thương vợ con, gia đình.Có lẽ bởi vậy mà ông Sáu đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng cũng như tình cảm sâu sắc. Như đã nói trên, ông Sáu là một trong hai nhân vật chính của tác phẩm. Nhân vật này được tác giả xây dựng một cách khá công phu để qua đó xây dựng chủ đề của tác phẩm : những đau thương và tình người trong chiến tranh. Ông Sáu đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đó là những ngày tháng không thể nào quên của ông Sáu cũng như của toàn nhân dân Việt Nam.Vì lòng yêu nước và vì độc lập của dân tộc mà ông Sáu đã ra đi để lại người vợ trẻ và đứa con nhỏ còn chưa biết gọi ba. Trong ông luôn thường trực nỗi nhớ nhà , nhớ con da diết.Với ba ngày phép, ông đã hi vọng được nghe tiếng ba từ đứa con gái bé bỏng của mình. Nhưng ông lại không đạt được mong ước nhỏ nhoi ấy. Tình cha con của ông với bé Thu bị chia cắt. Tại sao ư? Đó là bởi vết sẹo dài trên mặt ông. Vết sẹo ấy là hậu quả mà chiến tranh đã để lại trên khuôn mặt ông. NỖi khát khao. tình cha con của ông không được trọn vẹn. Đó phải chăng là một tội ác nữa của chiến tranh : chia cắt tình cảm cha con. VÀ rồi đến khi bé Thu nhận ông rồi, ông lại phải lên đường ngay. Lí do ở đây lại là chiến tranh. Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh. Sao cuộc đồi và số phận của ông Sáu lại đều do chiến tranh chi phối như vậy. Thật quá phi nghĩa. Chiến tranh- nó chỷ mang lại cho con người đau khổ mà thôi. Mà đâu chỷ ông Sáu mới phải chịu sự chi phối của chiến tranh, cuộc đời ông còn giống với rất rất nhiều những người dân Việt Nam khác nữa. Điều đó làm cho ta cảm thấy đau xót thay cho những cảnh đừoi bất hạnh trong chiến tranh và làm ta nhận ra sự phi nghĩa, sự phi nhân tính của chiến tranh. Có lẽ bởi vì cuộc đời và số phận bị chi phối bởi chiến tranh mà trong ông Sáu là một tình yêu nước tha thiết.Ông đã gạt bỏ tình riêng của mình để lên đường cứu quốc. Có được mấy người cha bỏ lại đứa con nhỏ của mình để lên đường tìm lại độc lập tự do dân tộc. Có được mấy người cha khi vừa mới được đứa con yêu quý của mình nhận làm ba đã lên đường ra mặt trận ngay. Không phải là ông sợ nếu như ở lại lâu hơ sẽ bị phạt mà bởi ông lo nếu như cso việc gấp ở mặt trận mà lại không có mặt thỳ không thể hiến sức mình để bảo vệ cho Tổ quốc được. Ông yêu nước. Điều đó không ai có thể phủ nhận đươc. Và chính điều đó đã làm cho người đọc cảm thấy khâm phục nơi con người ông vì ông đã quên đi cái tình riêng để cống hiến cho cái lớn lao hơn, cho cái tính yêu chung của cả dân tộc. Có lẽ rằng nổi bật nhất nơi con người ông không phải là tình yêu nước mà đó là tình yêu gia đình, đặc biệt là đứa con gái bé bỏng của ông. Khi được nghỉ phép về thăm nhà, ông đã không thể chờ đến khi ghe cập bến mà đã nhảy phắt lên bờ gọi con. Điều này cũng là lẽ tất nhiên thôi. Ông đã xa con gái, xa gia đình trong tám năm trời ròng rã. Tám năm là khoảng thời gian quá dài để kìm nén trong lòng một nỗi nhớ. Và rồi cuối cùng nỗi nhớ ấy cũng được bộc lộ. Ông chạy đến bên con, gọi con bằng tất cả tâấ lòng mình. Nhưng, nhưng và nhưng tình cảm nỗi nhớ của ông như rơi xuống vực thẳm. Bé Thu sợ hãi và chạy **t vào nhà khi vừa thấy ông. Chắc chắn rằng trong ông lúc đó là sự đau khổ đến tột cùng. Ông yêu con lắm nhưng nó có biết không. Nó đã bỏ ông lại với sự cô đơn mà ông không thể ngờ tới. Trong ba ngày phép ông đã cố gắng rất nhiều để được nghe một tiếng ba từ bé Thu. Nhưng những gì ông mong đợi dường như đều trở nên vô vong. Bé Thu cứng đầu, dứt khoát không chịu gọi ông là ba. Trong ông Sáu là sự thất vọng vô cùng.Và rồi đến tận ngày ông đi, bé Thu vẫn cứ khép mình ở một góc nhà, không chịu tạm biệt ba – con người mà đi rồi có lẽ sẽ không trở về. Và rồi đến khi ông Sáu mở lời trước, tạm biệt bé Thu trước, điều bất ngờ đã xảy ra. Thu ôm chầm lấy ba mà gọi tiếng ba. Tiếng Ba đã dồn nén từ tám năm nay. Mọi người chứng kiến câu truyện đều xúc động trước tình cảnh đáng thương của hai cha con. Có lẽ sự xúc động ấy truyền cả sang cho người đọc. Người đọc xúc động bởi vì cuối cùng ông Sáu cũng đã được nghe thấy tiếng ba mà ông hằng mong mỏi, xúc động vì tình phụ tử của hai cha con ông thật quá đẹp đẽ và thiêng liêng.Nhưng rồi đến lúc được con nhận, ông lại phải rời khỏi nhà ngày. Ông đã hứa với Thu rằng sẽ làm cho cô bé một chiếc lược ngà. Ông yêu con mình lắm, ông không muốn xa nó đâu nhưng vì tiếng gọi của tổ quốc, ông lại phải xa con lần thứ hai. Ở ngoài chiến khu, ông vẫn nuôi trong mình nỗi yêu và nhớ con da diết. Ông ngồi làm chiếc lược cho con gái một cách đầy tỉ mỉ . Cái tỉ mỉ ấy có lẽ cũng gióng với cái tình yêu thương da diết ông dành cho con. Rồi đến khi làm xong chiếc lược, cứ mỗi lần rảnh rỗi là ông lại lâấ ra mà ngắ mà nghía cho thỏa nỗi lòng nhớ con da diết.Dù trong bất kể hoàn cảnh nào cuũn vậy thôi, ông luôn dành cho bé Thu tất cả những tình cảm thiêng liêng, đáng trân trọng nhất. Điều đó khiến cho ta thêm yêu quý con người này với vai trò là một người cha, cũng như xúc động trước những tình cảm mà ông dành cho con gái mình. Không chỉ có thế, ta còn thấy ở ông Sáu là sự cam chịu. Ông xa nhà tám năm trời, chưa một lần về thăm nhà. Đối với nhiều người nếu rơi vào hoàn cảnh này thỳ chắc họ sẽ đảo ngũ mà về nhà với vợ với con. Nhưng với ông Sáu thỳ không. Ông vẫn cố chịu đựng, cố kìm nén cảm xúc của mình để làm nốt nhiệm vụ còn dang dở. Người đọc chắc hẳn thấy cảm phục trước sự chịu đuụng về tinh thần cũng như cố gắng vượt lên chính mình, vượt lên nỗi nhớ của bản thân trong con người ông Sáu. Cuối cùng, một điều mà ít ai để ý thấy ở ông Saú. Đó là ông luôn vững lòng tin về chiến thắng của toàn dân tộc. Ông giao lại chiếc lược ngà cho ông Ba – người bạn đã cùng với ông về thăm nhà khi xưa- và mong ông Ba sẽ giao tận tay cho con gái mình chiếc lược ngà mà ông luôn giữ gìn cẩn thận. Ông Sáu chắc chắc rằng rồi một ngày đất nước sẽ hoàn toàn được độc lập và ông Ba sẽ gặp được bé Thu ngày nào và chiếc lược ngà sẽ được giao cho đúng chủ nhân của nó. Điều này cho ta thấy yêu mến con người này, con người tin vào dân tộc và cũng cảm thấy tiếc thương vô hạn cho một con người có tâm hồn đẹp đẽ như vậy mà phải hy sinh trên chiến trường gian khổ. Có lẽ nhaâ vật để lại được những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc là do cái nghệ thuật xây dựng nhaâ vật tài tình của tác giả Nguyễn quang sáng.nhaâ vật dã được tác giả xây dựng qua những tiìnhhuống dặc sắc, những tình huống đã làm cho nhân vật tự bộc lộ mình.Tác giả còn miêu tả nhân vật qua những tâm lí sâu sắc và cũng thật chân thực.Những tâm lí ấy , tác giả xây dựng được chân thực như vậy là bởi vốn sống phong phú của tác giả, vốn sống đã đem lại thành công cho tác phẩm này. Ông Sáu với cuộc đời bị chi phối bởi chiến tranh và tình cảnh éo le ấy đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm. Qua đó người đọc cũng hiểu thêm về những người đi trước cũng như thêm khaâ phục, kính trọng, tự hào về họ – những con người đã cống hiến hết mình vì tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà – Bài làm 2 Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy. Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy. Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia 2 cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ra đi đánh giặc lừ năm 1946 mãi đến năm 1954, hòa bình lặp lại, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày ra đi hộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con đã 8, 9 tuổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi "ba" một tiếng cũng không trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ "nhận ra" ba mình và kêu thét lên: “Ba… ba!". Ông ôm con "rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con". Ông Sáu đã ra đi với nỗi nhớ thương vợ con không thể nào kể xiết. Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. vết thẹo dài trên má phải – vết thương chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa! Ông đã ra đi, mang theo hình ảnh vợ con, với lời hứa mang về cho con gái chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt "sao mình lại đánh con" cứ giày vò ông mãi. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát… do quân giặc đem đến cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta có bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá. Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ mới ở lại miền Nam "nằm vùng" hoạt động bí mật. Trong những ngày ở rừng, ở cứ bị giặc ruồng bố triền miên. Thiếu gạo phải ăn bắp. Gian khổ và nguy hiểm. Cái chết bủa vây cuộc chiến đấu thầm lặng. Ông Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 li của giặc Mĩ thành chiếc cưa nhỏ, đã tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn có khắc dòng chữ: "Yêu nhớ tặng Thu con cua ba". Chiếc lược ngà với dòng chữ ấy mang theo bao tình cảm sâu nặng của người cha đối với đứa con bé bỏng. Tình thương con của ông Sáu thật vô cùng tha thiết. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta hi sinh chiến đấu vì đâ’t nước và dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con. Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng của người lính về tình phụ – tử sâu nặng mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chính vì thế, khi bị trúng đạn máy bay Mĩ bắn vào ngực, lúc hấp hối, ông "đưa tay vào túi, móc cây lược" đưa cho bạn, nhìn bạn hồi lâu rồi tắt thở… Ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là "ngôi mộ bằng giữa rừng sâu!". Nhưng chỉ có "tình cha con là khânỉi thế chết được!”. Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện Chiếc lược ngà sâu nặng về tình cha – con. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về hi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hộ anh hùng đi trước mở đường đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh. Truyện Chiếc lược ngà và hình ảnh ông Sáu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩa về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đã đổ xương máu làm nên. Và bài học "uống nước nhớ nguồn, càng thêm thấm thía.
Cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà
2,531
Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca truyền thống để giãi bày tâm sự, vẻ đẹp thánh thiện, sự chiêm nghiệm… và trong mỗi thể loại thơ trăng lại mang một nét đẹp riêng, độc đáo: thể thơ năm chữ ngắn gọn, giản dị mà có sức chứa đến lạ kì, Nguyễn Duy đã mở đầu bài thơ bằng một hồi ức xa xăm về trăng: Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Chất thơ mộc mạc tự nhiên như lời.kể chuyện tâm tình thủ thỉ điệp từ hồi cứ mồi lần nhắc đến là một kỉ niệm thân thương lại hiện về trong miền kí ức của tác giả. Nguyễn Duy nhớ về tuổi thơ êm đềm hạnh phúc nơi ruộng đồng, nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ nơi núi rừng – những thăng trầm, vui buồn cua cuộc sống, sự trưởng thành lớn lên của một con người ở mọi nơi, mọi lúc đều có sự chia sẻ của Trăng người bạn tri kỉ. Tri kĩ vì trăng hiểu người; trăng đồng cảm với người trong cảnh hàn vi cơ cực, và những tình cảm thủy chung son sắt mà trăng và người đã có trong lúc đắng cay, những khi ngọt bùi; tình cảm ấy thật bền chặt, sâu sắc; không phô trương hoa mĩ mà bình dị, tự nhiên, không chút vụ lợi toan tính: Trần trụi với thiên thiên hồn nhiên như cây cỏ Trăng và người – hai hình tượng thơ cứ sóng đôi nhau trong một tứ thơ nhưng trăng thì hiển hiện cụ thể con người lại bị che khuất, giấu đi. Cứ ngỡ cái hiển hiện phải lên tiếng vậy mà Nguyễn Duy để cho cái bị che khuất, cái ẩn lên tiếng trước. Và tứ thơ không phải là lời kể mà chuyển thành độc thoại từ nội tâm con người, lời hối lỗi muộn màng. Trăng gắn bó với người là thế tri kỉ là thế vậy mà nhà thơ phải thảng thốt lên: ngỡ không sao quên được cái vầng trăng nghĩa tình. Cuộc sống còn có bao điều ta không ngờ đến được, cái hạnh phúc bình dị, giản đơn ta đã có đôi khi lại để tuột khỏi tay, tự mình đánh mất mình, đánh mất cả những gì thiêng liêng quý giá nhất. Con người trước dòng đời đua chen xô đẩy, cái hào nhoáng, hoa mĩ, tráng lệ trước mắt ánh điện cứa gương đã khiến họ quên đi những hạnh phúc bình dị thuở nào; quên đi những ki niệm một thời vất vả khó khăn và cũng vô tình lãng quên đi một người bạn tri kỉ ân tình: Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường Hình ảnh vầng trăng ở hai khổ thơ trên không được so sánh ví von như một con người mà chỉ đố người đọc ngầm hiểu, sang khổ thơ thứ hai này, hình ảnh vầng trăng được nhân cách hóa thành một con người cụ thể. Cứ ngờ vẫn là con người ấy – tri kỉ và nghĩa tình lắm, vậy mà… không! Trăng vẫn tri kỉ, nghĩa tình đấy chứ, chỉ có lòng người không còn tri kỉ với trăng, chỉ coi trăng như một người qua đường, người dưng, nước lã: xa lạ, lạnh nhạt như chưa hề quen biết, chưa hề gặp mặt; một sự thật phũ phàng bởi lòng người thay đổi khôn lường, nào ai đoán trước được. Quỹ đạo của cuộc sống và dòng đời trong đục khiến con người cứ tất bật, hối hả, chìm trong nhịp sống gấp gáp làm ăn. Nhưng cuộc đời lại là một chuỗi những quy luật nhân – quả nối tiếp nhau, con người có lúc may, lúc rủi, lúc thành công, khi thất bại, lúc vui buồn và sự đổi ngôi là tất yếu để mỗi người tự hoàn thiện mình hơn: Thình lình đèn điện tắt/ Phòng buyn đinh tối om. Một sự kiện bình thường, ngẫu nhiên trong cuộc sống hiện đại được Nguyễn Duy đưa vào trong thơ và sử dụng tài tình thành điểm thắt nút, đẩy bài thơ lên đến cao trào: bởi nếu như không có cảnh hôm ấy chắc mấy ai đã nhìn lại mình mà suy xét bản thân để nhận ra sự thay đổi vô tình của mình. Thình lình đèn điện tắt phòng buyn đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn Cả khổ thơ là một chuỗi những hành động liên tục, kế tiếp nhau, nhanh, dồn dập gấp gáp để rồi ngỡ ngàng, ngạc nhiên không nói thành lời: Đột ngột vầng trăng tròn. Ta bỗng dưng tự hỏi tại sao lại là trăng tròn mà không là trăng khuyết? Một câu hỏi thật khó trả lời bởi tròn khuyết vốn là quy luật của tự nhiên. Còn trăng ở đây đã được nhân cách hóa với những suy nghĩ, tâm tư rất con người, rất đời thường vậy mà: Trăng vẫn tròn vành vạnh / Kể chi người vô tình. Cái khuyết trong tâm hồn con người bỗng trở nên ngại ngùng xấu hổ trước trăng, trước sự vẹn tròn; chung thủy trước sau như một của trăng. Phải chi trăng cứ khuyết đi cho lòng người đã ân hận, đỡ hổ thẹn với trăng: Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng Một khoảng khắc im lặng trong hiện thực nhưng trong nội tâm con người nỗi xúc động trào dâng đến đỉnh điểm. Mọi ký ức của một thời xa xăm, một thời gian khó, gắn bó thuở nào bỗng dội về trước mặt: Trăng! Đó là những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm hạnh phúc. Trăng! Đó là đồng là bể, là quê hương làng xóm và những người thân yêu ruột thịt. Trăng! Đó còn là sông là rừng, là những người đồng chí anh em. Trăng! Đó là những vui buồn – hạnh phúc, những đắng cay ngọt bùi một thuở. Thế mà lòng người đã sớm quên mau để bây giờ chợt giật mình, chợt sực tỉnh, xót xa ân hận, để phải rưng rưng không nói thành lời. Lại một lần nữa hình ảnh trăng được nhân hóa. Đó không phái là mặt trăng bình thường nữa. Đó là khuôn mặt của một người bạn đã từng tri kỷ với những người đang sống, đang hiển hiện trước trăng. Qua bao nhiêu biến động thăng trầm, người bạn ấy vẫn thủy chung son sất, bao dung độ lượng, nhân ái như thuở nào. Nhà thơ Nguyễn Duy đã tìm được một điểm nhìn vừa thông minh vừa sắc sảo; tinh tế mà cụ thể, chi tiết. Tại sao không phải là trăng chênh chếch; trăng xa xa hay trăng lấp ló mà lại là trăng trên đỉnh đầu để phải ngửa mặt lên nhìn mặt? Phải chăng đó cũng là dụng ý của tác giả? Bởi trăng bao dung, độ lượng là thế. Từ diểm nhìn của nhà thơ, ánh trăng cứ lan tỏa ra mênh mông; soi rọi chiếu sáng. Một không gian mênh mông rộng lớn phủ đầy ánh trãng, ngập chìm trong ánh trăng – thứ ánh sáng ngọc ngà tinh khiết. Thời gian và không gian (trăng rọi đỉnh đầu) trong khổ thơ đã khiến ta nhận thấy nó không phải là sớm nhưng cũng chưa đến nỗi muộn để không nhận ra mọi thứ. Phải chăng nhà thơ đã đồng nhất thời gian trong hiện thực và thời gian trong tâm tưởng con người? Hình ảnh trăng ở đây đã lên đến đỉnh điểm thành công của tác giả. Nó chứa đựng một ý nghĩa thật lớn lao sâu sắc, một giá trị nhân văn to lớn. Trăng không còn là trăng của thiên nhiên; không phải là trăng ví như một con người mà nó mang ý nghĩa tượng trưng cho cả một lớp người, một thế hệ. Một thế hệ với bao cống hiến hi sinh trong những thời khắc gian khó, ác liệt; những năm tháng cam go thử thách khi đất nước lâm nguy để đến khi trở về cuộc sống đời thường – đất nước thanh bình, họ lại bình dị đến đạm bạc, không chút đòi hỏi, bon chen danh vọng. Trong số họ có những người không may mắn được trở về; có những người còn gửi lại nơi chiến trường một phần cơ thể và những di chứng chiến tranh cho thế hệ con cái; có những người được Tổ quốc quê hương biết đến song vẫn còn có những người tài sản chi là chiếc ba lô sờn vai vì trận mạc và cuộc sống của họ chỉ diễn ra âm thầm lặng lẽ bình dị như bao người bình thường khác nhưng họ vẫn sống và giữ trọn nghĩa tình với quê hương, đất nước, với những người đồng chí đồng đội của mình. Một tấm lòng cao cả, bao dung, độ lượng, một niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tình cảm của họ vẫn tròn vành vạnh, trước sau như một đâu kể cho những người vô tình, những người lãng quên. Trăng lại trở về với chính nó; giản dị tự nhiên, mộc mạc: Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình. Nghệ thuật láy khiến hình ảnh thơ được khắc sâu, in đậm trong tâm tưởng con người, khiến con người phải tự vấn lại lương tâm, tự suy xét lại bản thân. Hai câu cuối bài là lời kết nhẹ nhàng nhưng khá sâu sắc, tạo nên sức lắng cho bài thơ. Cái giật mình của tác giá hay cũng chính là điều Nguyễn Duy muốn gửi gắm, nhắn nhủ mỗi chúng ta: cuộc sống hôm nay dẫu ồn ào náo nhiệt; dẫu cho mỗi con người chi có một chút khoảnh khắc để giật mình sực tỉnh nhìn lại chính mình nhưng điều đó sẽ làm cho cuộc sống có ý nghĩa và giá trị biết bao. Lời thơ không triết lý, chau chuốt nhưng đã để lại trong lòng người đọc dòng suy nghĩ về nhân tình thế thái; quá khứ và hiện tại luôn song hành nhắc nhở hoàn thiện mỗi con người; chính nghệ thuật dùng sự hồi tưởng, tự đấu tranh, suy nghĩ trong nội tâm con người đã làm nên thành công, khiến bài thơ còn mãi với thời gian.
Cảm nhận bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
1,756
Nguyễn Trãi được biết đến là một vị anh hùng dân tộc đồng thời là thi nhân với những tác phẩm để đời. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng qua nhiều sáng tác và mỗi bài thơ đều mang tâm trạng và nỗi niềm sâu thẳm của ông.Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bức tranh mùa hè nơi miền quê, đồng thời là lời giãi bày tâm sự của ông. Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài và nổi bật là “Cảnh ngày hè”. Tìm hiểu bài thơ, người đọc đã được đến gần hơn với một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông. Câu thơ đầu tiên, ta đọc sao tâm thế của tác giả có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế. “Rồi hóng mát thuở ngày trường” Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi ngồi dưới bóng cây nhàn nhã hóng mát. Đối lập giữa sự tất bật, bận rộn với công việc nơi triều chính và sự rỗi rãi hiếm hoi nơi làng quê. Câu thơ là một câu lục ngôn ngắt nhịp 1/2/3, chữ “rồi” đứng riêng một nhịp vừa nhấn mạnh cảm rỗi rãi, vừa như một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “ thường ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Ba chữ “thuở ngày giác trường”-nhịp dài nằm cuối câu càng làm cho một ngày như dài thêm, cảm giác thư thái, sự sảng khoái sung sướng như kéo dài ra. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa. Đối lập giữa bức tranh ngày hè tràn đầy hình ảnh, màu sắc, âm thanh với chốn quan trường tù túng thiếu sinh khí. Theo Nguyễn Trãi trở về với thiên nhiên là cách tốt nhất để thanh lọc tâm hồn, hồi sinh sức sống. Bức tranh thiên nhiên trong những câu tiếp theo thực chất là quan niệm sống, bức tranh tâm hồn của Ức Trai: Hòe lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phùn thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Ba câu thơ có rất nhiều động từ vận động diễn tả trạng thái xô đẩy cựa quậy, sự vận động từ bên trong của sự vật muốn trào phun ra ngoài “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tòa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè.Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời… Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên: Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. “Lao xao” lúc này chính là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn. Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vần vẹn tấm lòng son: Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Hơn nữa, không phải riêng cho dân mình mà ông muốn cuộc sống đó phải “đủ khắp đòi phương” nghĩa là cho muôn dân trên mọi nơi. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình không chấp nhận Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no. Thời gian trong bài thơ diễn ra trong một ngày nhưng hình ảnh sự vật được bao quát rất lớn có xa – gần, cao – thấp, rộng- hẹp, hiên, ao, lầu, làng, chợ; có hiện tại tương lai; có thiên nhiên con người cuộc sống; có đa âm thanh, đa đường nét , đa màu sắc; có bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh, có tình yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống; và có cả những lời giáo huấn sâu sắc về cách sống phải luôn hướng về đời sống của muôn dân trăm họ. Bài thơ xứng đáng được người đời đánh giá cao và trân trọng. “Cảnh ngày hè” đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu. Quả thực, Nguyễn Trãi xứng đáng với câu thơ của vua Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
1,888
Nội dung bài viết1 Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 2 Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 3 Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 4 Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Dàn ý Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu thời kì chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sự bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng của tình phụ tử. Truyện ngắn này được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nội dung truyện là tình cha con của cha con ông Sáu và thông qua đó nói lên sự ngặt nghèo, éo le mà chiến tranh đem lại. Tuy đây là một đề tài muôn thuở trong văn chương nhưng chính vìthế giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc. Truyện xoay quanh đề tài tình cảm cha con ông Sáu mà tác giả Nguyễn Quang Sáng đã chú trọng đặc biệt đến nhân vật bé Thu – một nhân vật có nội tâm đầy sự mâu thuẫn. Thu là một cô bé phải sống xa cha từ nhỏ. Tuy vậy trong tâm tưởng của Thu, hình ảnh người cha phải xa cách từ lâu luôn luôn tồn tại qua những tấm ảnh. Mặc dù yêu cha là thế nhưng khi gặp cha rồi Thu lại có những hành động mâu thuẫn với suy nghĩ của mình. Khi nghe tiếng ông Sáu gọi con, Thu đã không hề mừng rỡ như ông Sáu vẫn tưởng, nó giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ lùng, chớp mắt nhìn như muốn hỏi, thậm chí mặt nó bỗng tái mét rồi vụt chạy và kêu thét lên. Đều là những cử chỉ mà không ai ngời tới – những cử chỉ thể hiện sự sợ hãi khác thường giữa cha và con. Không chỉ có thế, hành động của Thu còn chứa đầy sự lạnh nhạt và lảng tránh. Kịch tính câu chuyện được đẩy lên cao khi bé Thu nấu cơm. Nó góp phần tạo nên độ căng của mạch kể. Cái nồi cơm quá to, con bé cần có sự giúp đỡ của người lớn nhưng nó đã nhất quyết không chịu gọi ba, không chịunhờ vả. Đỉnh điểm nữa là khi bé Thu hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gắp cho. Đây là một hành động rất tự nhiên và hợp lí của Thu để qua đó, cá tính mạnh mẽ của cô bé dần được biểu lộ. Thương con là thế nhưng ông Sáu vẫn không giữ nổi bình tĩnh, ông vung tay đánh vào mông nó và hét lên sao mày cứng đầu quá vậy hả. Bị ba đánh Thu không khóc như ông Ba tưởng, nó chỉ lặng lẽ đứng dậy và sang nhà bà ngoại. Thì ra nguyên nhân là vết sẹo trên mặt ba nó. Nó không chấp nhận bất cứ lời giải thích nào kể cả lời giải thích của mẹ nó. Quả là những suy nghĩ rất trẻ con nhưng chính điều đó đà làm cho câu chuyện trở nên rất thật. Đến khi nghe ngoại kểvề vết thẹo của ba, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn, tất cả như giúp Thu giải tỏa nỗi lòng mình nhưng bên cạnh đó, nó cũng rất ân hận và hối tiếc vì những ngày qua đã không chịu nhận ba. Cao trào của câu chuyện lại được đẩy lên khi ông Sáu chia tay vợ con lên đường, bé Thu bỗng thét lên “Ba…a… a… ba!”. Tiếng kêu như xé lòng, xót xa, tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Cùng với những biểu hiện vội vã, hối hả, tác giả đà để Thu bộc lộ hết những tình cảm, nỗi nhớ thương dành cho ba và trong đó có cả sự hối hận. Đây như một chi tiết biết nói. Không có chi tiết nàycâu chuyện sẽ mất đi hẳn một phần giá trị và sẽ trở nên nhạt nhẽo. Niềm vui sướng khi vừa tìm thấy cha con tưởng như không bao giờ còn thấy nữa, niềm vui sướng vượt ra ngoài sức tưởng tượng đã vượt qua mọi khoảng cách khiến người đọc không thể cầm lòng, về sau, khi dã trưởng thành Thu nối gót cha làm giao liên phục cho kháng chiến cũng là vì cha, vì trả thù cho cha. Qua nhân vật ông Ba, Nguyễn Quang Sáng đã dành cho Thu bao tình cảm quý mến và trân trọng, ông cảm thông với cái ương bướng, cứng đầu của một cô bé chỉ vì vết sẹo chiến tranh trên mặt người lính từ mặt trận trở về mà một tiếng ba cũng không chịu gọi. Hình ảnh bé Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba, cùng với cử chỉ giang cả hai chân bấu chặt lấy ba nó mãi mãi là hình ảnh rất cảm động của tình cha con giữa thời máu lửa. Giây phút từ biệt ấy đã trở thành vĩnh biệt. Nỗi buồn từ câu chuyện đã làm ta càng thêm thấm thìa sự ác nghiệt của chiến tranh. Trong truyện, tác giả không chỉ chú ý tới tình cảm của nhân vật bé Thu mà tình cảm yêu thương con sâu nặng của ông Sáu đã nhắc đến rất nhiều. Ngày ông đi bộ đội, Thu còn rất bé, nhưng tình cha con trong ông luôn tồn tại mãnh liệt. Lần nào vợ ông đến thăm, ông cũng hỏi thăm con. Đây chính là sự yêu thương của người cha làm cách mạng xa nhà, không được gặp con. Khi về thăm nhà, những tưởng mong đợi được gặp con, được nghe con gọi ba từng phút đã được thực hiện nhưng không, bom đạn đã làm thay đổi hình hài ông, vết thẹo dài trên má – vết thương chiến tranh đã làm cho đứa con gái thương yêu bé bỏng không nhận ra ngườicha nữa. Khi không được đón nhận tình cảm, ông Sáu trở nên suy sụp, đau đớn và đáng thương. Trước sự ứng xử lạnh nhạt của bé Thu, ông vẫn luôn dành mọi hành động thương yêu cho con, trong ánh mắt của ông luôn tràn đầy tình phụ tử không bờ bến. Ông đã tìm mọi cách để sát lại gần con hơn, ông gắp trứng cá cho con nhưng khi cao trào của câu chuyện là Thu hất cái trứng cá đi thì ông đã không kiềm chế nổi, ông đã đánh con. Đánh con để giải tỏa những bức xúc tinh thần, điều đó càng chứng tỏ ông rất yêu con. Với ông cái khao khát được gặp lại vợ con cũng không được trọn vẹn. Đó là kịch của thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lên đường, ông mới chỉ nhận được một khoảnh khắc hạnh phúc là khi bé Thu nhận ra ba mình và gọi một tiếng ba. Ông ôm con, rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Ông đã ra đi với nỗi thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết, với lời hứa mang về cho con chiếc lược ngà và nỗi ân hận ray rứt vì sao mình lại đánh con cứ giày vò ông mãi. Lời dặn dò của đứa con gái bé bỏng “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba” ông luôn cất kín trong lòng. Tất cả tình thương yêu của ông đã được dồn cả vào cây lược ngà tự làm cho con. Có khúc ngà, ông Sáu hớn hở như bắt được quà. Chính qua chi tiết giàu sức gợi cảm này mà ta thấy được phút giây sung sướng đã khiến người cha như một đứa trẻ. Ông làm cho con chiếc lược ngà rất tỉ mỉ và thận trọng. Ông ngồi cưa từng chiếc răng, khổ công như một người thợ bạc. Làm xong lược, ông lại cẩn thận khắc dòng chữ yêu nhớ tặng Thu con của ba. Tất cả những chi tiết trên đều làm ta vô cùng cảm động nhưng cảm động nhất có lẽ phải là chi tiết anh lấy cây lược ngà mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Mỗi lần anh chải tóc, ta lại liên tưởng đến một lần anh gửi gắm yêu thương vào chiếc lược nhỏ xinh. Nhưng không may là ông Sáu đã hi sinh, nhưng tình phụ tử thì không thể chết. Lúc hấp hối, ông đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho ông Ba, nhìn hồi lâu rồi tắt thở. Tuy không một lời nói nhưng cái nhìn của ông Sáu quả thật đã chứa bao nỗi niềm ở bên trong, những nỗi niềm chưa được nói. Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện yêu thương con hết mực sẽ mãi còn. Chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của thời chiến tranh. Nó buộc người đọc chúng ta phải suy nghĩ về những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã đem đến cho con người đang sống trên mảnh đất này. Qua đó tác giả cũng muốn nêu lên thái độ không đồng tình với chiến tranh của chính mình. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã rất thành công trong việc kết hợp kể với miêu tả nội tâm nhân vật, xây dựng nội tâm mâu thuẫn nhưng rất nhất quán về tính cách. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất dưới góc nhìn của ông Ba. Điều đó làm cho sự việc trở nên khách quan, tin cậy và xác thực, tạo điều kiện cho người đọc bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểuvà xúc động trước tâm trạng của từng nhân vật. Hơn nữa truyện lại có sự sắp xếp rất chặt chẽ với nhiều tình huống bất ngờ làm cho người đọc cảm thấy hứng thú và cuốn hút khi đọc. Truyện đã làm sống lại quãng thời gian đánh giặc giữ nước và thông qua đó tác giả muốn người đọc phải nghĩ và thấm thìa nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!”. Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh. Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh. Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông thơ ấu(1985),…Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những câu truyện đời thường nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ chống Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một đề tài dường như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình. Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này. Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi. Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu. Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ.Bên cạnh hình ảnh bé Thu,hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết.Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha.Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông.Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối.Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén,chứa chất trong lòng.Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm con,chẳng làm gì được cho con,nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con phần nào.Giá gì không có cái bi kịch ấy,giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn,thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ,hạnh phúc.Nhưng sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau,có lúc dồn nén,có lúc lại thương xót,có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”,tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ!Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình.Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”).”Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt.Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con.”Khi ông Sáu tùm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”,” Ông thận trọng tỉ,mỉ…”,”Ông gò lưng khắc từng nét…”Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm.Tất cả tình yêu,nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình.Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình,dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời.Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi,móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc. Người mất,người còn nhưng kỷ vật duy nhất,gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại,chiếc lược ngà vẫn còn ở đây.Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm,kỳ diệu,là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con.Có thể chiếc lược ấy chưa chải đượcmais tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện,và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là “Chiếc lược ngà”!) Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất,là tổ ấm gia đình không còn trọn vẹn.(Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa ở truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”). Đó thật sự là tội ác,những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra.Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau,chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thác,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường.Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích,làm nhà nhà li tán,người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng, “Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại,thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con.Nhân vật ông Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng,phải là người từng trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương,gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu,nhân hậu mà rất kiên cường,bất khuất,nha văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật,sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động,bất ngờ,hơn nữa lại có giọng văn dung di,cảm động! Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt,có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng,với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu. Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê Chợ Mới, An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: Loại truyện ngắn , tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Truyện ngắn Chiếc lược ngà viết năm 1966 khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Văn bản trong sách giáo khoa là đoạn trích phần giữa của truyện. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt ba không còn giống trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra ba, tình cảm cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc ngà voi để tặng con. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cho người bạn để gửi về cho con. Truyện đã thể hiện tình cảm cha con sâu sắc trong hai tình huống: Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mông nhớ đứa con vào việc làm một cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hy sinh khi chưa kịp tặng món quà ấy cho con gái. Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha đối với đứa con: Đó là tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng thật dứt khoát, rạch ròi. Thu còn có một nét cá tính và sự cứng cỏi đến mức ương ạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Qua những diễn biến tâm lí của bé, ta thấy tác giả tỏ ra am hiểu tâm lý trẻ con và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương mất mát, éo le do chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lý. Một yếu tố nghệ thuật nữa góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai một người bạn của ông Sáu, không chỉ chứng kiến mà còn bày tỏ sự đồng cảm với nhân vật. Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Dàn ý I. Mở bài: Có những câu chuyện dù phải đọc nhiều lần ta vẫn không thể nhớ. Lại có những câu chuyện dù chỉ đọc một lần ta vẫn không thể quên. Có những hạnh phúc muộn màng và ngắn ngủi khiến ta phải trào nước mắt. Có những tình cảm nồng ấm và thiêng liêng mà ta chỉ cảm nhận được trong tổ ấm gia đình… Tất cả những ấn tượng ấy đều có từ truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một truyện ngắn dung dị nhưng gây xúc động lòng người trước tình cảm sâu nặng của cha con ông Sáu. II.Thân bài: 1. Khái quát tác phẩm Chiếc lược ngà ( Dẫn dắt vào bài ): Tác phẩm được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt Điều đáng chú ý là truyện ngắn này viết trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người – cụ thể ở đây là tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh và tình đồng chí của những người cán bộ cách mạng. Tình phụ tử thiêng liêng được miêu tả thật cảm động ở cả hai phía : người cha cán bộ cách mạng và đứa con gái nhỏ. Đó không chỉ là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản bền vững, mà còn được thể hiện trong hoàn cảnh ngặt nghèo, éo le và trong cuộc sống nhiều gian khổ, hi sinh của người cán bộ cách mạng. Vì thế, tình cảm ấy càng đáng trân trọng và đồng thời nó cũng cho thấy những nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống bình thường của mọi người. 2. Tình cảm gia đình, tình phụ thử thiêng liêng, cảm động trong những năm tháng chiến tranh. a. Tình cảm của bé Thu dành cho cha của mình: Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Từ nhỏ đến hồi tám tuổi, em chỉ được biết ba, hình dung ba qua ảnh và qua lời kể của bà và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở, ôm ấp của người cha. Chắc Thu phải từng giờ từng phút trông chờ, ao ước gặp ba em lắm! * Thái độ và tình cảm của bé Thu khi người cha từ chiến trường về thăm nhà: – Nhưng thật bất ngờ, thái độ và hành động của Thu lại hoàn toàn trái ngược với sự trông ngóng, sốt ruột của người cha mong gặp con sau nhiều năm xa cách; trái ngược với sự mong đợi, suy nghĩ ở người đọc về cuộc hội ngộ đầy cảm động của hai cha con. Tình thương yêu cha của bé Thu được thể hiện một cách hết sức bất thường. Đó là dứt khoát chối bỏ người cha hiện tại mà em cho là không phải cha mình, để dành trọn vẹn tình thương yêu cho người cha mà em hằng mong nhớ. – Thoạt đầu, khi nhìn thấy ông Sáu vui mừng vồ vập nhận Thu là con, em tỏ ra lảng tránh, lạnh nhạt và xa cách tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng…bỏ chạy và cầu cứu Má!Má!.Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rât dễ sợ đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình. – Suốt mấy ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu hoàn toàn lạnh lùng trước tình cảm vồ vập của người cha. Ông Sáu càng xích lại gần, bé Thu càng lùi xa. Ông Sáu càng yêu thương, bé Thu càng lảng tránh. Tác giả đã chứng tỏ tài năng của mình trong việc xây dựng nhân vật một bé gái tám tuổi bướng bỉnh và gan góc. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới. Nó nhất quyết không chịu nhận ba, không gọi ba vì thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má. Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ. Chi tiết gọi “trổng” và chi tiết chắt nước cơm đã khắc hoạ nổi bật sự đáo để hồn nhiên của bé Thu. Đặc biệt là chi tiết bé Thu hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu "con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Đành rằng trẻ con chỉ tin vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết được sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào, và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của nó, nhưng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ của bé Thu sau này trở thành lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu. Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của người lạ, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng “ba” trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi thu khiến ta khâm phục. Nếu ai thực sự hiểu được điều đó, sẽ thấy Thu không đáng ghét mà đáng yêu vô cùng. * Thái độ và tình cảm của bé Thu khi người cha chuẩn bị lên đường. – Sự nghi ngờ của Thu được giải toả khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vệt thẹo dài trên má. Nghe bà kể, nó nằm in lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn. Sự miêu tả nội tâm gián tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em – yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận. – Hôm sau trở về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn rầu Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng , nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái xôn xao của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào “ Thôi ba đi nghe con” thì nỗi niềm trong em bật tung thành tiếng “ Ba…….a…a” Tiếng kêu của nó như tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:-Ba!Không cho ba đi nữa!Ba ở nhà với con! .Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi. Song, trái ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba em thì em nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha. Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lý và hành động của Thu được miêu tả sinh động, sát với tâm lý lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha. b. Tình cảm của ông Sáu dành cho Thu: Trong Chiếc lược ngà , tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiên. * Tình cảm của ông Sáu dành cho con trong chuyến về thăm nhà: – Cũng như bao người nông dân Việt Nam khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương để lên đường đi chiến đấu,để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, ước mơ cháy bỏng trong lòng ông. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi: “Sao không cho con bé lên cùng?”. Không được gặp con ông đành ngắm con qua ảnh vậy…Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. – Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông Sáu đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách… – Người đọc sẽ nhớ mãi hình ảnh một người cha, người cán bộ cách mạng xúc động dang hai tay chờ đón đứa con gái bé bỏng duy nhất của mình ùa vào lòng sau tám năm xa cách. Mong mỏi ngày trở về, nóng lòng được nhìn thấy con, được nghe tiếng gọi thân thương từ con, ông Sáu thực sự bị rơi vào sự hụt hẫng:anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy. Mong mỏi bao nhiêu thì đau đớn bấy nhiêu. Ông cũng không ngờ rằng chính bom đạn chiến tranh vừa là nguyên nhân gián tiếp, vừa là nguyên nhân trực tiếp của nỗi đau đớn ấy. Tám năm xa vợ xa con, ở nhà được ba ngày rồi lại lên đường, và ra đi mãi… Ba ngày ông được ở nhà ông chẳng đi đâu xa, để được gần gũi, vỗ về bù đắp những ngày xa con. Lòng người cha ấy đau đớn biết nhường nào khi đứa con là máu mủ của mình gọi mình bằng người ta. Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi. Cử chỉ gắp từng miếng trứng cá cho con cho thấy ông Sáu là người sống tình cảm, sẵn sàng dành cho con tất cả những gì tốt đẹp nhất. Và chao ôi là hình ảnh hai đôi mắt của hai cha con trong thời khắc chia xa: "Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao. Người cha ấy sẽ ra đi khi chưa được gọi bằng ba lấy một lần. Đến tận giây phút cuối cùng, khi không còn thời gian để chăm sóc vỗ về nữa, ông mới thực sự được làm cha. Đó là sự thiệt thòi, là sự hi sinh không thể xem là nhỏ của người chiến sĩ cách mạng. Dầu sau này ông Sáu có hi sinh cả tính mạng của mình. – Có một chi tiết rất đắt giá mà người đọc mãi không thể nào quên trong buổi chia tay.Đó là khi “ông xúc động đến phát khóc” trước tình cảm mãnh liệt của đứa con, trước tiếng “ba” vỡ oà mà bấy lâu nay ông chờ đợi. “Không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”.Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ, ông có thể ra đi với một yên tâm rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây tưng phút mong ông quay về. * Tình cảm của ông Sáu dành cho con khi ở khu căn cứ. – Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của con: “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Phải chăng, bao nhiêu tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc từng nét chữ lên sống lưng lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.Cây lược ấy, dòng chữ ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm ngía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời– Chiếc lược ngà . Cho nên,cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị. – Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. “Trong giờ phút cuối cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho dù đến khi không còn nữa ông chưa một lần được chải tóc cho con. Người kể chuyện, đồng đội của ông Sáu đã bộc lộ một sự đồng cảm và xúc động thực sự khi kể lại câu chuyện. Có lẽ, không ai hiểu nhau hơn những người đồng đội, gần nhau hơn những người đồng đội. Cho nên, sau này, khi trao tận tay Thu chiếc lược, giữa thu và người đồng đội của cha mình nảy nở một tình cảm giống như tình cha con. Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Hình ảnh ông Sáu – người chiến sĩ Cách mạng, người cha trong truyện Chiếc lược ngà đã để lại bao thổn thức trong lòng người đọc.Ông là hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. 3. Đánh giá vài nét về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: – Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của ông Sáu và bé Thu. Để khi gấp lại trang sách, người đọc sẽ mãi nhớ những khoảnh khắc éo le mà cũng nhiều xúc động, thiêng liêng của tình cha con sâu sắc. Cái mất mát to lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không được tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tạo đã gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi luỵ xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xích lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.Tác phẩm để lại cho chúng ta những suy nghĩ khó quên như thế! – Chiếc lược ngà cũng là một truyện ngắn tiêu biểu chp phong cách sáng tác của nhà văn. Ông đã thực sự thành công trong việc xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu. Có thể nói rằng, với một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng chan chứa yêu thương, nhất là đối với trẻ em, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế. Ngoài ra, tác giả cũng rất thành công trong việc lựa chọn ngôi kể và ngôn ngữ lời thoại mang đậm chất địa phương Nam Bộ….đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Tất cả đã góp phần tạo nên sức thuyết phục, hấp dẫn cho chủ đề tư tưởng của tác phẩm. III. Kết bài: Chiếc lược ngà là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện về nhân dân yêu nước và anh dũng. Câu chuyện về tình cha con bất tử. Bằng một sự cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong chiến tranh, ông đã gợi lên niềm tự hào về phẩm giá con người, nét đẹp về tình cảm, về tâm hồn của con người Việt Nam trong thương đau. Thật vậy, trên mảnh đất này, ở mỗi gia đình, mỗi thế hệ, mỗi con người trong những năm tháng đã qua cũng có rất nhiều tình cảm cap đẹp thiết tha khác mà ta cần phải trân trọng, giữ gìn và vun đắp.
Cảm nhận của em về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
9,035
Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng, nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng kiệt tác. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thơ phú. Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Phú thường đạm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán, theo lời phú có thể, có vần và đăng đối theo cặp câu thơ tạo nên tính quy phạm rất rõ trong thể phú. Hiện nay, chưa rõ Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng giang phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài: Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu, ta có thể đoán được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất tức là vào khoảng 1301 – 1354. Nội dung bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc. Mở đầu bài phú là cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng. Đó là cảm xúc dạt dào cảm hứng lịch sử của một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do. Nhân vật khách chính là tác giả đã được khách thể hoá trong vai một nghệ sĩ thích ngao du, yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cũng say mê tìm hiểu lịch sử oai hùng của dân tộc. Bằng bút pháp khoa trương, cường điệu, tác giả đã nêu bật sở thích ngao du sơn thuỷ và trình độ hiểu biết, trải nghiệm sâu rộng của nhân vật trữ tình : Khách có kẻ : Giương buồm giong gió chơi vơi, Lướt bể chơi trăng mải miết. Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương, Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt. Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết. Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều, Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết. Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Truơng Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là nguời cuơng trực, học vấn uyên thâm nhưng con nguời ông phóng khóang và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến. Sự phóng khoáng ấy còn đuợc thể hiện rõ hơn trong câu thơ “Giương buồm giong gió chơi vơi”, khách là một tao nhân khoáng đạt chơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nuớc, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là nguời đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tuợng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con nguời yêu thiên nhiên, yêu đất nuớc lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình. Đêm thì mải miết chơi với ánh trăng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt. “Nơi có nguời ở- Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là nguời đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tuợng trưng nói lên tâm hồn nguời thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phuơng là niềm vui thú. Các địa danh: Nguyên Tuơng, Ngũ Hồ… mà tác giả nhắc tới đều mang tính chất ước lệ, tượng trưng lấy trong sử sách Trung Quốc. Tác giả đi thăm các danh lam thắng cảnh này chủ yếu bằng sách vở và trí tưởng tượng của mình. Điều đó càng khẳng định vẻ đẹp thiên nhiên có thể lọt vào mắt xanh của tác giả vốn rất khó tìm. Thế nhưng tác giả lại đặt chân đến những địa danh quen thuộc của đất nước như : cửa Đại Than,… bến Đông Triều,…và dừng lại ở sông Bạch Đằng… Khung cảnh thiên nhiên vùng sông nước Bạch Đằng hiện lên trước mắt tác giả mỗi lúc một rõ nét : Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều, Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu. Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước trời một mầu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả rhực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang -Dịch nghĩa ). Con sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ. Trở lại chiến trường xưa, nơi ghi dấu bao chiến công hiển hách vào thời điểm cuối mùa thu, tác giả thấy khung cảnh thiên nhiên tuy không có gì thay đổi nhưng đã đượm vẻ lạnh lẽo, hoang vu, vì vậy mà động lòng hoài cổ: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu. Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu. Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu ! Thời gian vô tình, nghiệt ngã đã và đang làm phai mờ những dấu tích lịch sử khiến lòng người trầm lắng, suy tư. Đây là nới diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Những “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộc Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu Khách đang đắm chìm trong tâm trạng hoài niệm thì các bô lão từ xa đi tới làm cho khách giật mình sực tỉnh trở về với hiện tại. Trận thủy chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng năm xưa được các bô lão kể lại cho khách nghe một cách hào hứng. Cảm xúc chủ đạo của bài phú là sự ngợi ca chiến công lẫy lừng của cha ông ta trên dòng sông lịch sử này. Chính vì thế, đến đoạn thơ thứ hai, tác giả chuyển sang mượn lời các bô lão – những người đã từng chứng kiến và tham gia trận Bạch Đằng kể lại trận chiến oai hùng này: “Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao” … Thuyền tàu muôn đội, Tinh kì phấp phới. Hùng hổ sáu quân, Giáo gươm sáng chói. … Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi Chỉ với một đoạn thơ ngắn mà tác giả đã tái hiện được không khí hào hùng của trận đánh với sự đông đảo của lực lượng tham chiến và sự dữ dội của cuộc chiến “thư hùng chưa phân” khiến cho cả trời đất mờ mịt, như sắp đổi dời. Các trận đánh tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo., sự đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước luôn trong tình trạng lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Nghe các bậc tiền bối kể lại diễn biến từng trận đánh. Ngay từ đầu, quân ta và quân địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Nghệ thuật đối đã nêu bật không khí chiến trận bừng bừng : Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói, Trận đánh được thua chửa phân, Chiến lũy bắc nam chống đối. Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí : quân dân ta với ý chí quyết tâm cùng lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa ; quân địch thì thế cường với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt : Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi. Đây là những hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ lớn lao, được đặt trong thế đối lập: nhật nguyệt / mờ, trời đất / đổi, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động địa. Nguyên nhân của cuộc đối đầu quyết liệt ấy chính là mưu mô thâm hiểm của quân xâm lược phương Bắc, cho dù có khác nhau về thời gian nhưng thống nhất ở mục đích cướp nước Đại Việt bằng được : Kìa : Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối. Những tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi ! Tác giả chỉ rõ sức mạnh ghê gớm của quân Nguyên – một lực lượng vô cùng tinh nhuệ dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt, đồng thời cũng nhắc lại chuyện thời Ngô Quyền, Lưu Cung tức vua Nam Hán lập chước lừa dối để nhằm xâm lược nước Nam. Chuyện Bồ Kiên nước Tần khi dẫn quân vào đánh nước Tấn huênh hoang tuyên bố: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác giả mượn ý này để nói những đạo quân xâm lược trước đây và hiện nay đều ỷ thế quân đông tướng mạnh, đều ngạo mạn tưởng rằng chỉ một trận đánh là dẹp được bốn cõi, thu phục nước Nam. Nhưng chúng đâu có ngờ sức mạnh “Sát Thát” của quân dân nhà Trần đã được đất trời ủng hộ : Thế nhưng : Trời cũng chiều người, Hung đồ hết lối ! Bằng cách sử dụng điển cố và lối nói khoa trương, tác giả đã ngầm so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng với những trận thuỷ chiến vang dội nhất trong lịch sử phương Bắc : Khác nào khi xưa : Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay, Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi. Hình ảnh đặc tả tan tác tro bay và hoàn toàn chết trụi nhấn mạnh tính chất khốc liệt của trận chiến và sự thất bại thảm hại của quân giặc. Theo quy luật của trời đất, cuối cùng thì người chính nghĩa chiến thắng, còn lũ hung đồ hết lối, chuốc nhục muôn đời: Đến nay nước sông tuy chảy hoài, Mà nhục quân thù khôn rửa nổi ! Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi. Đến nay nước tuy sông chảy hoài đối lập với hình ảnh “Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”. Câu thơ vừa tả thực, vừa tạo sự liên tưởng so sánh thú vị. Dòng nước cứ mải miết trôi đi, thời gian qua đi, người xưa cảnh cũ rồi cũng thay đổi nhưng mưu mô xâm lược cùng thất bại của quân thù thì mãi mãi không gì gột rửa nổi. Đó là bài học đắt giá cảnh tỉnh tham vọng xâm lược phi nghĩa. Bên cạnh đó thì những câu thơ trên cũng khẳng định sức mạnh to lớn và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của những người chiến thắng. Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng đầy tự hào, tạo cảm hứng phấn khích cho tác giả. Lời kể không dài dòng mà súc tích, cô đọng, tuy khái quát nhưng vẫn gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh một cách sinh động. Các câu trong đoạn này tuy dài ngắn khác nhau nhưng đều mang âm hưởng hào hùng, đanh thép. Nhà thơ từ miêu tả, tự sự rồi suy ngẫm về sự vinh phục, về sự thắng bại trong lịch sử ta.: Tuy nhiên : Từ có vũ trụ, đã có giang san. Quả là : Trời đất cho nơi hiểm trở, Cũng nhờ : Nhân tài giữ cuộc điện an. Đoạn thơ này nhắc lại ý thức về chủ quyền độc lập của đất nước đã được đặt ra và khẳng định trong bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt. Một cõi sông núi nước Nam tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia phương Bắc, điều ấy đã được phân định rõ ràng trong sách Trời (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư). Quan niệm về mối quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân (Trời – Đất – Người) cũng tiếp tục được khẳng định. Trong đó, trời đất hiểm trở giữ vai trò quan trọng, nhưng chính con người mới là chủ thể trong sự nghiệp giữ nước : Nhân tài giữ cuộc điện an. Con người làm nên chiến thắng ở đây là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc. Tác giả đưa ra bằng chứng lịch sử xác thực: Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm. Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…đều là nhân tài. Điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước. Tác giả sử dụng lối so sánh, nhắc đến vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín để lại võ công lừng lẫy, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt. Đoạn văn miêu tả dòng sông, kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất, màu sắc tráng lệ, hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình biểu lộ niềm tự hào dân tộc – sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả thật tráng lệ nên thơ tạo nên vẻ đẹp văn chương trong Bạch Đằng giang phú: Hội nào bằng hội Mạnh Tân : như vương sư họ Lã, Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : như quốc sĩ họ Hàn. Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng, Bởi đại vương coi thế giặc nhàn. Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn. Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mở hội nghị tướng sĩ, vương hầu ở bến Bình Than cũng giống như vương sư Lã Vọng, người đời Ân, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ tàn ác ; tựa như bậc quốc sĩ Hàn Tín, người đời Hán, đã giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thuỷ. Nguồn cội của chiến thắng to lớn ở Bạch Đằng chính là do tài trí sáng suốt của người lãnh đạo. Sự thật là sau hai lần thất bại, năm 1287 giặc Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?”. Hưng Đạo Đại Vương tâu: “Năm nay đánh giặc nhàn ”. Cách nhìn nhận thế giặc dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà dựa trên tài thao lược và niềm tin vào sức mạnh toàn dân cùng kinh nghiệm trải qua hai cuộc kháng chiến trước đây. Đó là một câu nói, một chi tiết của hiện thực đã đi vào văn chương muôn đời, thể hiện được tinh thần, hào khí Đông A và tầm vóc của một dân tộc anh hùng. Hai bài ca ở đoạn cuối là niềm tự hào về non sông hùng vĩ gắn với các chiến công lịch sử và thể hiện quan niệm của tác giả về yếu tố quyết định trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước chính là con người. Bài ca đầu là lời bình luận của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí : những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong, còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh thiên cổ : Sông Đằng một dải dài ghê, Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông Những người bất nghĩa tiêu vong, Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Phần cuối bài phú là những lời ngợi ca của các bô lão và lữ khách về dòng sông huyền thoại, về đất nước và con người Việt Nam anh hùng. Tác giả đã dành những lời khen tặng, ngợi ca dành cho những vị anh hùng mà đứng đầu là hai vị vua nhà Trần: Anh minh hai vị thánh quân, Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh Giặc tan muôn thuở thanh bình, Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. Hai vị “thánh quân” ở đây là vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, côt mình đức cao”. Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm hoạ ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” – đó là nguồn sức mạnh Việt. Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái “đức cao” lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất. Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.
Cảm nhận về bài phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu
3,393
Nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài Lượm vào năm 1949, in trong tập thơ Việt Bắc. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lượm là bài thơ tự sự – trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất anh dũng của chu bé liên lạc, hồn nhiên, nhí nhảnh, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương mình. Hình ảnh nhân vật Lượm xuyên suốt trong bài thơ. Trong năm khổ thơ đầu, bằng cái nhìn trìu mến thân thương, tác giả đã miêu tả một chú bé rất đáng yêu: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh. Ca nô đội lệch Mồm huýt sáo vang con chim chích Nhảy trên đường vàng… Nhắc đến Lượm, người đọc nhớ đến hai khổ thơ này, bởi đây là hai khổ thơ đầy ấn tượng về một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, xinh xinh, nhanh nhẹn hồn nhiên, nhí nhảnh vui tươi. Những từ láy loát choắt, xinh xinh, thoăn thoát, nghênh nghềnh được dùng rất gợi hình gợi cảm, cùng với thể thơ bốn chữ và nhịp thơ nhanh, tạo âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh rất phù hợp với một chú bé như Lượm. Một hình ảnh so sánh đẹp như con chim chích – nhảy trên đường vàng… gợi lên trước mắt chúng ta một chú bé hồn nhiên yêu đời. Thật thú vị! Nhà thơ Lê Đức Thọ cũng có bài thơ Em bé liên lạc, ông cũng hình dung em như một con chim non vui tươi ở những câu kết: Ngày mai trên quãng đường trắng Có em bé lại dẫn đường bên anh. Miệng cười chân bước nhanh nhanh, Như con chim nhỏ trên cành vui tươi. Có lẽ không còn hình ảnh nào có thể thay thế cho được hình ảnh con chim nhỏ và chỉ có hình ảnh này mới thể hiện được vẻ đẹp trẻ thơ của chú bé liên lạc. Bao trùm lên tất cả là cái tình của nhà thơ, cái nhìn trìu mến, thân thương của tác giả đối với chú bé. Phải yêu quí Lượm lắm thì mới miêu tả Lượm hay đến như vậy! Người đọc yêu biết bao cái cười híp mí, má đỏ bồ quân của chú, nhưng càng yêu hơn niềm vui được tham gia kháng chiến của chú bé: Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà! Nhà thơ miêu tả Lượm vui như con chim sổ lồng. Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng. Đó là niềm vui chung của cả thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của chú bé Lượm Đáng yêu hơn là tiếng chào: Thôi chào đồng chí vừa tinh nghịch dí dỏm, lại vừa đứng đắn nghiêm trang, bởi em đã tham gia kháng chiến như mọi người, như chú của em vậy. Trong tiếng chào ấy ta thấy vang lên một niềm tự hào kiêu hãnh rất trẻ con, và rất đáng yêu-của Lượm. Ấn tượng của cuộc gặp gỡ vẫn còn giữ nguyên vẹn nét đẹp đẽ, vui tươi, ấm áp trong lòng tác giả, thì bỗng nhiên có tin Lượm hy sinh. Câu thơ bốn tiếng được ngắt làm hai dòng, bị gãy đôi như một tiếng nấc: Ra thế Lượm ơi! Đó là nỗi sửng sốt, xúc động đến nghẹn ngào. Và nhà thơ hình dung ngay ra cảnh tượng chú bé hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ: Một hôm nào đó Như bao hôm nào Chú đồng chí nhỏ Bỏ thư vào bao Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư để “thượng khẩn” Sợ chi hiểm nghèo? Để rồi lại nghẹn ngào gọi em một lần nữa: Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi! Lượm đã hy sinh anh dũng như một chiến sĩ thực thụ ở trên, nhà thơ còn gọi em bằng cháu, và ở đây khi kể lại cảnh Lượm hy sinh. Tố Hữu đã gọi chú bàng những lời xưng hô trang trọng: Chú đồng chí nhỏ và có tới hai lần gọi như thế. Việc làm của em, sự hy sinh cao đẹp của em khiến em xứng đáng được nhà thơ gọi như thế. Phải chăng đó là lòng cảm phục của một cán bộ cách mạng đối với một em thiếu nhi anh hùng. Nhưng rồi cuối cùng, tình cảm công dân ấy lại quay về tình chú – cháu. Nhà thơ lại gọi Lượm bằng tiếng cháu thân thương khi miêu tả cái chết đẹp đẽ cua em giữa đồng lúa quê hương: Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng… Cánh đồng quê hương như vòng nôi, như vòng tay của mẹ, ấm êm dịu dàng đón em vào lòng. Em chết mà tay vẫn nắm chặt bông lúa, quê hương và hương lúa vẫn bao bọc quanh em như ru em vào giấc ngủ đẹp của tuổi thơ anh hùng. Em chết mà hồn bay giữa đồng, vừa thiêng liêng vừa gần gũi biết bao! Không yêu mến, xót thương, cảm phục Lượm thì không thể miêu tả một cái chết hồn nhiên và lãng mạn đến như thế! Đó là cái chết của những thiên thần nhỏ bé. Thiên thần nhỏ bé ấy đã bay đi để lại bao tiếc thương cho chúng ta, như Tố Hữu đã nghẹn ngào, đau xót gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt: Lượm ơi còn không? Câu thơ đứng riêng thành một khổ thơ, như một câu hỏi xoáy sâu vào lòng người đọc. Nếu không có cái tình với Lượm thì nhà thơ làm sao lại day dứt thế được! Câu hỏi ngân vang ấy, tưởng chừng như không có câu trả lời, nhưng chính tác giả đã trả lời bằng hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng. Hai khổ thơ cuối láy lại khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba như một điệp khúc để khẳng định Lượm vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, sống mãi trong lòng tác giả. Bài thơ hết nhưng ý thơ lại mở ra vẫn còn tiếp nối mãi trong lòng người đọc hình ảnh một chú bé liên lạc hồn nhiên mà dũng cảm, đáng yêu và đáng cảm phục. Lượm vẫn còn công mãi trong lòng chúng ta như bài ca bất diệt về tuổi thơ trong sáng đã hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc. Với thể thơ bốn chữ, một thể thơ dân gian truyền thống phù hợp với lối kể chuyện có nhịp kể nhanh. Với cách ngắt đôi câu thơ đột ngột, và nghệ thuật tách câu thơ thành một khổ thơ riêng rất độc đáo, kết hợp với cách sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán… Lượm thật sự là một bài thơ hay, cảm động về một tấm gương bé bỏng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Cảm nhận về bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu
1,224
Trong các bài thơ viết về Bác Hồ, Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc, gây cho em nhiều xúc động nhất. Bao trùm toàn bài thơ là niềm thương cảm vô hạn, lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ vĩ đại. Câu thơ mở đầu "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác" như một lời nói nghẹn ngào của đứa con đi xa trở về thăm viếng hương hồn Bác Hồ kính yêu. Tình cảm ấy là tình cảm chung của đồng bào và chiến sĩ miền Nam đối với lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Nhà thơ đứng lặng đi, trầm ngâm từ phía xa nhìn lăng Bác. Hàng tre để lại cho anh nhiều cảm xúc và liên tưởng thấm thía. Màu tre xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam luôn luôn gắn bó với tâm hồn của Bác. Bác đã "đi xa "nhưng tâm hồn Bác vẫn gắn bó thiết tha với quê hương xứ sở: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Cây tre, "hàng tre xanh xanh"… "đứng thẳng hàng" ẩn hiện thấp thoáng tnrớc lăng Bác. Cây tre đã được nhân hóa như biểu tượng ca ngợi dáng đứng của con người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, mộc mạc, thanh cao… Hình ảnh cây tre trong lời thơ của Viễn Phương biểu thị niềm tự hào dân tộc làm cho mỗi chúng ta cảm nhận sâu sắc về phẩm chất cao quý của Bác Hồ cũng như của con người Việt Nam trong bốn nghìn năm lịch sử. Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại có nhiều bài thơ nói đến hình ảnh mặt trời: "Mặt trời chân lí chói qua tim "( Từ ấy – Tố Hữu). "Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi – Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng" (Nguyễn Khoa Điềm). Viễn Phương có một lối nói rất hay và sáng tạo, đem đến cho em nhiều liên tưởng thú vị: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng, Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Ở đây "mặt trời… rất đỏ" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho đạo đức, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng sáng ngời của Bác. Mặt trời thiên nhiên thì vĩnh hằng cũng tựa như tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ đời đời bất tử. Viễn Phương đã ví dòng người vô tận đến viếng lăng Bác như "Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ".Mỗi người Việt Nam đến viếng Bác với tất cả tấm lòng kính yêu và biết ơn vô hạn. Ai cũng muốn đến dâng lên Người những thành tích tốt đẹp, những bông hoa tươi thắm nảy nở trong sản xuất, chiến đấu và học tập. Hương hoa của hồn người, hương hoa của đất nước kính dâng Người. Cách nói của Viễn Phương rất hay và xúc động: lòng thương tiếc, kính yêu Bác Hồ gắn liền với niềm tự hào của nhân dân ta – nhớ Bác và làm theo Di chúc của Bác. Khổ cuối, cảm xúc thơ dồn nén, sâu lắng, làm xúc động lòng em. Lời hứa thiêng liêng của nhà thơ đối với hương hồn Bác trước khi trở lại miền Nam thật vô cùng chân thành. Câu mở đầu nhà thơ viết: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"… đến đây, anh lại nghẹn ngào nói: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt"… Biết bao lưu luyến, buồn thương! Ra về trong muôn dòng lệ "thương trào nước mắt". Xúc động tột cùng, nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa, để được mãi mãi sống bên Người. Ba lần nhà thơ nhấc lại hai chữ "muốn làm" như thế giọng thơ trở nên thiết tha, cảm động. Những câu thơ của Viễn Phương vừa giàu hình tượng vừa dào dạt biểu cảm, đã khơi gợi trong tâm hồn em bao tình thương tiếc và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu. Trong câu thơ của Viễn Phương tuy có tiếng khóc nhưng không làm cho chúng ta bi lụy, yếu mềm, trái lại, nó đã nâng cánh tâm hồn chúng ta: Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn" (Bác ơi – Tố Hữu) Ai cũng cảm thấy phải sống xứng đáng, phải sống đẹp để trở thành "cây tre trung hiếu" của đất nước quê hương: Mai về miền Nam, thương trào nước mắt, Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây, Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. "Cây tre trung hiếu" là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo, thể hiện đạo lí sáng ngời của con người Việt Nam tận trung với nước, tận hiếu với dân, đời đời trung thành với sự nghiệp cách mạng của Bác. Bác Hồ đã đi xa, nhưng hình ảnh Bác, sự nghiệp cách mạng và công đức của Bác vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương đã thể hiên rất hay và chân thành tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
891
Trong kho tàng văn học cổ Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm kiệt xuất nhất. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép, giá trị nhân đạo cao cả, mà còn vì nghệ thuật miêu tả cảnh đặc sắc. Nhiều bức tranh tứ thời xuân, hạ, thu, đông sinh động, gợi cảm. Có bức tranh cảnh chiều xuân, có bức tranh là tâm cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích, … Cảnh nào cũng có dụng ý dự báo những biến động của đời nhân vật. Nguyễn Du đã lấy cảnh ngày xuân tươi đẹp trong sáng nhưng đã ẩn chứa những mầm mống buồn bã của Thuý Kiều. Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là một đoạn thơ tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên tài tình, tuyệt diệu của Nguyễn Du. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cảnh ngày xuân đẹp như một bức tranh. Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc hoạ: “Ngày xuân con én đưa thoi Thềm quang chín chục đã ngoài sáu mươi ”. Giữa bầu trời bao la mêng mông là những cánh én bay qua, bay lại như đưa thoi. Nó vừa gợi được cánh én như con thoi bay qua, bay lại chao lượn, vừa thể hiện được thời gian ngày xuân đang trôi nhanh . Nhà thơ mượn cách nói của dân gian, thời gian thấm thoát thoi đưa. Cảnh ngày xuân hiện nên trong thơ ông vừa bình dị vừa sống động . Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi đã ngoài sáu mươi. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của Nguyễn Du mang những nét rất riêng. Hai chữ “Thiều quang” để thể hiện mùa xuân đã sang tháng ba. Hai chữ ấy đã gợi nên màu hồng của ánh xuân, cái đầm ấm của khí xuân, cái mêng mông bao la của đất trời. Câu thơ đã thể hiện được không gian mùa xuân thật trong sáng. Bức tranh mùa xuân ấy còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải ra, lan rộng như tấm thảm tới tận chân trời: “ Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”. Người đọc đều cảm nhận thấy nhà thơ Nguyễn du đã tiếp thu những yếu tố miêu tả của câu thơ cổ Trung Quốc . “Phương thảo liên thiên bích Lệ chi sổ điển hoa ”. Nhưng ở đây, Nguyễn Du đã có điểm sáng tạo. Ông đã thiên về miêu tả sắc trắng của bông hoa. Dùng phép đảo ngữ đưa tính từ “trắng” lên trước cụm từ “vài bông hoa”để cùng với tính từ “xanh ” ở câu trên. Câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành bức hoạ với gam màu dịu dàng. Trên nền xanh của cỏ biếc, điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng đã tạo thành một bức gấm thêu tuyệt đẹp. Nếu như 2 câu thơ của câu thơ cổ Trung Quốc chỉ là sự lắp ghép ngôn từ thiếu sinh khí và sức sống thì với 2 câu thơ của Nguyễn Du, những nhành cây ngọn cỏ như đang cựa dậy, ứa ra những giọt nhựa sống của mùa xuân, gợi được nhiều hơn về mùa xuân: vừa tinh khôi, giàu sức sống lại vừa nhẹ nhàng tinh khiết. Bốn câu thơ đầu là một bức tranh về ngày xuân bằng ngôn từ. Bức tranh ấy đẹp, bình dị mà thơ mộng. Đó là bức tranh có màu sắc hài hoà, dịu dàng, tươi tắn. Đó là màu xanh của cỏ màu trắng của hoa lê. Bức tranh ấy có không gian mênh mông, khoáng đạt. Có những cánh én đang chao lượn, có màu hồng của ánh thềm quang. Vẽ được bức trang xuân hoa lê như vậy đã thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với cảnh vật ngày xuân của Nguyễn Du . Cảnh ngày xuân càng trở lên đẹp thêm , sinh động thêm bởi nhà thơ còn miêu tả lễ hội mùa xuân . “ Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh ”. Điệp từ “lễ là…hội là…”có tính chất liệt kê để gợi lên cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra từ bao đời nay. Sau đó nhà thơ đã miêu tả cụ thể cảnh chảy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt: “Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm ”. Trên khắp nẻo đường gần xa, những dòng người cuồn cuộn chảy hội có biết bao yến anh , tài tử, giai nhân dập dìu, vai sánh vai, chân nối chân cùng nhịp bước. Dòng người chảy hội tấp nập, ngựa xe cuồn cuộn. Nhà thơ đã rất khéo léo dùng hàng loạt các từ láy “nô nức, dập dìu ” rồi các từ ghép “yến anh, tài tử , giai nhân …” kết hợp với các ẩn dụ, so sánh “như nước, như nêm” để gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra trên khắp các miền quê đất nước . Đọc tiếp đoạn thơ ta còn thấy Nguyễn Du thể hiện đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ. “ Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay ”. Câu thơ có giá trị tạo hình lớn. Bởi lẽ, nhà thơ đã dùng phép đảo ngữ đưa từ “ngổn ngang ” lên đầu câu thơ để diễn tả những ngôi mộ liền kề nhau. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và người đã chết, hiện tại và quá khứ, đồng hiện trong những gò đống ngổn ngang trong lễ tảo mộ . Những “thoi vàng vó ” được rắc ra, tiền vàng được đốt tro bay lả tả bao trùm hết không gian để gửi cho người đã khuất. Cái tâm thánh thiện và niềm tin chất phác đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử giai nhân và ba chị em Kiều không chỉ cầu mong cho các vong linh đã khuất mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao điều mơ ước về tương lai, hạng phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về. Giá trị nhân văn của những câu thơ đã làm cho người đọc rất xúc động . Sáu câu thơ cuối đã ghi lại cảnh chị em Thuý Kiều đi tảo mộ đang lần bước trở về nhà. Lúc này, mặt trời đã là là gác núi, ngày hội, ngày vui đã trôi qua. “Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về ”. Nhịp thơ chậm rãi , diễn tả cuộc sống như ngừng trôi. Tâm tình của chị em Thuý Kiều thơ thẩn, cử chỉ thì dang tay, nhịp chân thì bước dần, không gian thì yên tĩnh, lắng lại. Công việc lúc hoàng hôn hiện lên trong mắt nhìn của chị em Thuý Kiều càng trở nên nhỏ bé:. “Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảch có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê ”, phong cảnh thanh thanh, dòng nước “nao nao uốn quanh”, “dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Nhà thơ đã rất khéo léo sử dụng hàng loạt các từ láy để gợi tả những cảnh vật nhỏ bé, êm đềm. Phải chăng sự nao nao của dòng nước uốn quanh không chỉ thể hiện sự nhẹ nhàng, êm đềm của dòng nước đang chảy mà còn diễn tả tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc, sự dung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan , ngày tàn . Nói tóm lại, bằng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên theo trình tự thời gian không gian kết hợp tả với gợi tả cảnh thể hiện tâm trạng. Từ ngữ giàu chất tạo hình sáng tạo nghệ thuật đối lập sử dụng từ ghép từ láy. Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp đẽ khoáng đạt tinh khôi thanh khiết mới mẻ và đầy sức sống cảnh lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt và tâm trạng xốn sang náo nức của chị em Thuý Kiều khi đi hội tâm trạnh buồn lưu luyến bâng khuâng khi trở về. Qua đây ta thấy Nguyễn Du là người yêu thiên nhiên hiểu lòng người có tài khi miêu tả. Đoạn thơ đem đến cho chúng ta cảm nhận được không khí mùa xuân giúp ta thêm yêu thiên nhiên quê hương đất nước.
Cảm nhận về bức tranh trong Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du
1,464
Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt.Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời ngay trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành. Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng , kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến. Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến: ‘’Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Những nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt nguồn từ chính hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng nước độc, thuốc men không có nên quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó: ‘’ Giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến: ‘’ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”. Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc: ‘’ Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều, thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng. Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh: ’Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời; Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh; Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.
Cảm nhận về hình tượng người lính trong bài Tây Tiến
1,134
Cảm nhận về hình tượng Rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành Bài làm Nguyễn Trung Thành là nhà văn đã từng gắn bó với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. “Rừng xà nu” là sự nối tiếp đề tài miền núi trên bối cảnh của thời đại chống Mĩ. Hình tượng cây xà nu là một hình tượng nghệ thuật bao trùm tác phẩm, đã gây ấn tượng sâu đậm tring lòng độc giả về sức sống bất diệt của rừng xà nu. Từ đó, hình tượng này gợi lên rất nhiều suy nghĩ về phẩm chất cao đẹp của đồng bào Tây Nguyên kiên cường , bất khuất. Khi trở lại miền Nam trong những ngày chống Mỹ ác liệt, Nguyễn Trung Thành đã đặt chân lên khu rừng phía Tây Thừa Thiên và bắt gặp được những cánh rừng xà nu bạt ngạy. Ông đã thực sự say mê vẻ đẹp hùng vĩ, khỏe mạnh của loại cây này. Trước khi viết truyện ngắn “Rừng xà nu” , Nguyễn Trung Thành tâm sự rằng ông đã từng tâm niệm: Dù viết về ai, về chuyện gì, thì tác phẩm phải mang tên “Rừng xà nu” và truyện ngắn này sẽ “bắt đầu bằng một khu rừng xà nu, kết thúc bằng một cánh rừng xà nu xa mờ bất tận”. Lối kết cấu đầu cuối tương ứng hay kết cấu vòng tròn này sẽ tạo nên một âm hưởng sử thi hào hùng. Nó như một cái nền vững chãi để nhà văn triển khai câu chuyện đầy đau thương và anh dũng. Những trang sử bi hùng của dân làng Xô Man lần lượt hiện lên trên cái nền của rừng xà nu kiên cường, bất khuất như phẩm chất tuyệt vời của người dân nơi đây. Cây xà nu tham dự vào đồi sống vật chất và tinh thần của dân làng Xô Man. “Lửa xà nu cháy giần giật trong mỗi bếp nhà dân làng Xô man, trong đống lửa nhà ưng”. Khi Tnú trở về đơn vị, cụ Mết và Dít tiễn đưa anh “ra đến rừng xà nu gần con nước lớn”. Cây xà nu cũng chứng kiến mọi tâm tình , mỗi bước trưởng thành của dân làng Xô Man bất khuất. Lúc còn nhỏ, Tnú và Mai học chữ trên tấm bảng nứa được xông bằng khói xà nu đen kịt. Cây xà nu lớn bên đường nhắc Tnú nhớ lại ngày gặp Mai lần đầu tiên khi vượt ngục trở về. “Kỉ niệm đó cứa vào lòng anh một nhát dao nứa”. giặc tra tấn Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay anh. Lửa xà nu đã thử thách sức chịu đựng , lòng trung thành của Tnú với cách mạng. Anh đã cắn nát môi, máu anh mặn chát ở đầu lưỡi để chịu đựng cơn đau vì nhớ đến lời dặn của Anh Quyết: “Người cộng sản không hề kêu van”. Dân làng Xô Man nổi dậy với ánh đuốc xà nu rực sáng khắp rừng trong đêm đồng khởi. Đống lửa lớn nhà ưng soi rõ xác mười tên giặc nằm ngổn ngang,… Qua nghệ thuật miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành, người đọc cảm nhận rõ hơn mối quan hệ máu thịt giữa hình tượng cây xà nu với con người dân làng Xô Man. Khi miêu tả con người , Nguyễn Trung Thành hay ví với cây xà nu. Ngược lại, khi nói về cây xà nu, nhà văn hay dùng hình ảnh, từ ngữ về con người để thể hiện. Cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xà nu lớn”. Cây xà nu bị đạn đại bắc chặt đứt ngang nửa thân mình được nhà văn miêu tả như nỗi đau và sự căm hận của con người. Những vết thương của cây xà nu chóng lành “như trên một thân thể cường tráng”. Rừng xà nu bạt ngàn bao bọc dân làng Xô Man được nahf văn cảm nhận nhưu chúng đang “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình tượng cây xà nu vừa mang gái trị tả thực về một loại cây đặc biệt ở núi rừng Tây Nguyên, đồng thời mang ý nghĩa khái quát, biểu tượng cho số phận và phẩm chất của đồng bào Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng. Rừng xà nu tượng trưng cho những đau thương, mất mát lớn lao và niềm uất hận khôn nguôi của đồng bào Tây Nguyên trong những năm Mĩ – Diệm khủng bố ác liệt. Cánh rừng xà nu được miêu tả ở đầu thiên truyện “nằm trong tâm đại bác của đồn giặc”, ngày nào cũng bị bắn phá hai lần. Quan hình ảnh này, tác giả đã dựng lên bối cảnh cuộc sống dân làng Xô man, một sự sống trong tư thế đối diện với cái chết, một sự sinh tồn đáng đứng trước mối đe dọa của diệt vong. Rừng xà nu phải gánh chịu nhiều đau thương bởi quân thù tàn bao. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ à ào như một trận bão”. Đó là hình ảnh thật về cây xà nu, rừng xà nu hứng chịu bom đạn của kẻ thù, nhưng cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân làng Xô man bị bọn thằng Dục đàn áp, sát hại đến nỗi “tiếng kêu khóc dậy cả làng”, gợi nhắc cái chết thảm thương của bà Nhan bị “chặt đầu, cột tóc treo đầu súng”, anh Xút bị “treo cổ lê cây vả đầu làng”, Mai và con bị tra tấn bằng trận mưa roi cây sắt cho đến chết. Hình ảnh dòng nhựa xà nu ứa ra từ chỗ vết thương “dần dần bầm lại”, đồng bào Tây Nguyên được cô nén lại thành từng khối, chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ thành sức mạnh phản kháng. Cây xà nu dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành có sức chịu đựng ghê gớm và sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi. Nhà văn đã phát hiện “trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy”. Đó là yếu tố cơ bản để rừng xà nu vượt qua ranh giới của sự sống và cái chết mà tồn tại mà vươn lên. Rừng xà nu có sự sinh tồn thật diệu kì. Hàng ngàn, hàng vạn cây xà nu tạo thành các cánh rừng xà nu hùng vĩ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng”. Vẻ đẹp cường tráng của cây xà nu, rừng xà nu và cũng chính là biểu tượng tinh thần cho đồng bào Tây Nguyên trong những năm chiến đấu chống Mĩ ác liệt. Cây xà nu tượng trưng cho các thế hệ con người kế tiếp nhau trưởng thành trong bão táp chiến tranh, kế tiếp nhau đứng lên chống giặc. “Cạnh một cây xà nu mới gục ngã đã có bốn , năm cây con mọc lên, ngon xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế cho những cây xà nu đã ngã. Sự sống từng phú, từng giờ sinh sôi, vượt lên cái chết. “Anh Quyết hi sinh thì có Tnú thay thế, Mai ngã xuống thì có Dít lớn lên thay thế chị”.Bên cạnh cụ Mết sừng sứng như một cây xà nu cổ thụ thì là thằng bé Heng là thế hệ mới, lớn lên sẵn sàng kế tục sự nghiệp đánh giặc của cha anh. Cây xà nu tượng trưng cho khát vọng tự do luôn hướng về cách mạng của Đồng bào Tây Nguyên. Trong rừng, cây xà nu là loại cây ham ánh nắng và khí trời “cũng có ít loại cây ham ánh nắng mặt trời đế thế”, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp tục lấy ánh nắng , thứ ánh sáng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp”. Nhà văn đã sử dụng những động từ mạnh như “ham, phóng, tiếp lấy” để thể hiện niềm khao khát sống, kgar năng sống tiềm tàng mãnh liệt, luôn hướng về ánh sáng của cây xà nu. Ngoài nghĩa thực nó còn mang nghĩa tượng trưng cho dân làng khao khát tự do, cho khát vọng hướng về lí tưởng cách mạng của đồng bào Tây Nguyên. Cây xà nu ham ánh nắng và khí trời để phát triển, cũng như người Tây Nguyên tìm đến ánh sáng của Đảng của cách mạng thì mới có cuộc sống tự do và hạnh phúc. Ý nghĩa tượng trưng này đã làm tăng thêm chất thơ, chất lãng mạn và chiều sâu của nhiều tầng ý nghĩa cho hình tượng cây xà nu , rừng xà nu. Khi miêu tả cánh rừng xà nu đau thương nhưng kiên cường bất khuất, nhà văn viết những câu văn đẹp, gây ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. đó là những dòng tả cảnh hiếm có trong văn xuôi chống Mĩ, chúng được tạo khắc thành hình khối, tạo nên hương vị, ánh sáng và sức nóng. Bằng bút pháp lãng mạn và cảm hứng sử thi hùng tráng, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hình tượng rừng xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Cảm nhận về hình tượng Rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
1,614
Cảm nhận về nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành Bài làm Nguyễn Trung Thành là nhà văn rất có duyên với vùng đất đỏ bazan Tây Nguyên . Hai tác phẩm thành công nhất của ông đều viết về cuộc sống, con người, về mảnh đất hùng vĩ, hoang sơ. Đó là tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” năm 1954 và truyện ngắn “Rừng xà nu” sáng tác năm 1965. Đặc biệt “Rừng xà nu” được đánh giá là thiên sử thi Tây Nguyên thời kì kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm đã tái hiện con đường đấu tranh giành tự do đầy đau khổ, mất mát, hi sinh và vinh quang của những người dân Xô man bất khuất kiên cường. Rừng xà nu thể hiện xu thế lịch sử ấy và là một bản anh hùng ca về con người Tây Nguyên anh dũng , bấy khuất , mà tiêu biểu là nhân vật Tnú – một chiến sĩ trung kiên, như là một thế hệ mới của mảnh đất Tây Nguyên. Câu chuyện cảu Tnú là câu chuyện của một người , một đời mà cũng là câu chuyện của một thời. Cụ Mết già làng kể câu chuyện về Tnú không biết bao nhiêu lần, và dặn con cháu phải lưu truyền từ đời này sang đời khác. Tnú sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ. Các nhân vật trong những truyện cổ Tây nguyên thường có số phạn như vạy. Nuôi sống Tnú, dạy dỗ Tnú nên người là cả dân làng Xô Man. Tnú nợ dân làng Xô Man cả cuộc đời mình. Nguyễn Trung Thành dành phần lớn chiều dài của tác phẩm để ghi lại lời kể chuyện của người già làng bên bếp lửa. Anh chính là người con ưu tú nhất của làng Xô Man anh hùng. Cuộc đời Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của đồng bào Tây Nguyên. Bọn Mĩ – Diệm bắt những người nuôi giấu cán bộ cách mạng “Nó treo cổ anh Xít lên cây vả đầu làng”, rồi đe dọa: “Ai nuôi cộng sản thì coi đó!” Tnú không sợ, vẫn cùng với Mai, cô bạn gái nhỏ, vào rừng với anh Quyết , bảo vệ anh Quyết . Thậm chí, có đêm, Tnú ngủ luôn ngoài rừng vì sợ “giặc lùng, không ai dẫn cán bộ chạy”. Tuổi nhỏ nhưng Tnú đã thể hiện ý chí, tinh thần cách mạng kiên cường. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động “nó cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng” khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Nhưng đi giao liên thì đầu Tnú “sáng lạ lùng. Giặc vây các ngả đường, Tnú leo lên một cây cao nhìn quanh một cây cao nhìn quanh một lượt rồi “xé rừng mà đi”, lọt qua tất cả các vòng. Qua sông, Tnú “không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thằng Mĩ – Diễm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Chứng kiến cảnh vợ con bị những trận mưa roi sắt của kẻ thù, Tnú một mình xong ra khi không có vũ khí. Giặc tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tayy anhh, Tnú cảm nhận cái nóng khủng khiếp nhưng không hề kêu van mà cắn răng chịu đựng , tự động viên mình “Không! Tnú sẽ không kêu.Không” “Mười đầu ngón tay thành mười ngọn đuốc”. Nhưng Tnú “không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay”, mà “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng”. Đó là một sự chuyển hóa kì lạ, từ gọn lửa bình thường trở thành ngọn lửa tinh thần căm hờn ngày cnagf bùng cháy trong lòng. Tinh thần kiên cường, bất khuất ăn sâu vào tận huyết quản của Tnú. Xa bản làng ba năm, tuy nhớ nhà, nhớ quê hương, nhưng phải được cấp trên cho phép anh mới về và chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép. Bị giặc phục kích, bhongj súng giặc “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú nuốt luôn cái bí mạt của anh Quyết gửi về huyện. giặc tra tấn dã man. Chúng giải anh về làng, bắt Tnú khai người nào là cộng sản. Anh đặt tay lên bụng mình nói: “Ở đây này!” Lưng anh đầy những vết dao chém của lũ giặc. Tnú đã bất khuất hiên ngang, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Anh có bao giờ quên lời cụ Mết dạy: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn!” Cụ Mết nói vềTnú “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” Tnú yêu thương tất cả mọi người, Tnú muốn sống để đền đáp công ơn của dân làng Xô Man đã cho cuộc đời mình. Tnú gắn bó và nắm rõ từng ngả đường, từng cánh rừng quê hương nên khi đi liên lạc “xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây” Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng gốc cây, nghe tiếng chày giã gạo từ xa , lòng anh xao xuyến bồi hồi “cố giữ bình tĩnh, nhưng ngực anh vẫn đập hồi , chân vấp mãi mấy cái rễ cây ở chỗ quẹo vào làng. Tnú nhớ đến những người đàn bà, những cô gái Strá, mẹ anh, Mai, Dít… một đời tần tảo ở quê anh. Khi Mai sinh con “Tnú phải xẻ đôi tấm dồ ra cho Mai điệu con”. Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn dã man anh không kìm được nỗi đau đang đốt cháy lòng mình “anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay” . Tnú yêu thương vợ con, căm thù đốt cháy trong hai con mắt – một chi tiết dữ dội, bi thương. Khi một ngòn đòn của thằng Dục quật trúng vào người đứa bé, tiếng đứa bé ré lên rồi im bặt . Mai đã gục xuống , không còn sức mạnh nào có thể giữ được Tnú. Thét len một tiếng, Tnú nhảy xổ vào giữa bọn lính. Hành động ấy xuất phát từ tình yêu thương vợ con và lòng căm thù giặc nơi Tnú. Nhưng đơn độc và không có vũ khí trong tay, Tnú không cứu được vợ con, bản thân anh còn bị nhục hình đau đơn. Hung chắc rằng anh không hề hối hận, vì anh đã có mặt bên vợ con vào phút giây cuối cùng, chia sẻ cùng họ nỗi đau tinh thần và thể xác. Tnú luôn mang trong tim ba mối thù: thù của bản thân, thù của gia đình, thù của buôn làng. Cuộc đời bi tráng và con đường đến với cách mạng của Tnú điển hình cho con đường đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên , góp phần làm sáng tỏ chân lí thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cash mạng, đấu tranh vũ trang là con đường tất yêu để tự giải phóng. Tnú là nhân vật có tính sử thi, số phận và phẩm chất của anh tiêu biểu cho con người Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung, được ngợi ca bằng những hình ảnh giản dị nhwung đầy kiêu dũng, bằng giọng văn day mê hùng tráng. Góp phần làm phong phú thêm chân dung con người Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ.
Cảm nhận về nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành
1,307
Trong quá trình lao động sản xuất nhân dân ta đã sáng tác được ra những câu chuyện những tác phẩm tuyệt vời kể về cuộc đời , số phận chiến công của các tù trưởng anh hùng như Đam San , Đăm Di , Xinh Nhã , …được đánh giá cao và có tầm ảnh hưởng lớn đối với người đọc . Truyện Đăm Săn là một tác phẩm như thế và đây cũng là một trong những tác phẩm sử thi của dân tộc Ê đê Tây Nguyên và là một trong những tác phẩm hay nhất trong kho tàng dân tộc Việt Nam. Tác phẩm nói về người tù trưởng mang tên Đăm Săn cũng chính là câu chuyện về cộng đồng thị tộc Ê đê trong buổi đầu lịch sử. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng Đam San có vẻ đẹp toàn diện từ ngoại hình , lời nói , hành động đến nhân cách và lí tưởng sống . Sử thi là thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian , có quy mô lớn , ngôn ngữ có vần nhịp , hình tượng hào hùng hoành tráng , kể về những biến cố trọng đại của cộng đồng , lưu truyền bằng phương thức hát –kể khan . Sử thi có hai loại là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng . Sử thi Đam San là sử thi anh hùng tiêu biểu nhất của các dân tộc Tây Nguyên . Tác phẩm đã tái dựng lại đời sống đầy biến động của cộng đồng người Ê đê cổ đại qua hàng loạt những chiến công của người anh hùng Đam San : đánh thắng các tù trưởng Sắt , Kên Kên , mở mang buôn làng , chặt cây Sơmuk , bắt ông Trời phải làm theo mình , chinh phục nữ thần mặt trời , … Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây ( SGK Ngữ văn 10 ) nằm ở giữa tác phẩm , kể về chiến công Đam San đánh thắng tù trưởng Sắt cứu vợ, bảo vệ thành công sự ấm no , hòa bình của buôn làng . Trong Đoạn trích , Đam San đã tỏ rõ mình là người anh hùng qua việc khiêu chiến , giao chiến trong bốn hiệp , chiến thắng Mtao Mxây, thuyết phục tôi tớ Mtao Mxây theo mình và ăn mừng chiến thắng. Trước hết , Đam san là người có vẻ đẹp ngoại hình hoàn mĩ theo quan niệm của người Ê đê cổ đại . Vẻ đẹp của chàng được miêu tả bằng những mĩ từ trang trọng , giọng điệu sùng kính, thái dộ ngưỡng mộ , tự hào. Đam San có giọng nói hào sảng , vang dộng khi ra lệnh cho tôi tớ chuẩn bị lễ vật cúng thần , mời tất cả buôn làng , ra lệnh đánh chiêng trong khắp buôn . Chàng có hình dáng phi thường , vạm vỡ , khẻo đẹp , đậm chất tự nhiên Tây Nguyên . Tóc chàng dài thả xuống đầy cái nong hoa ; bắp chân to bằng cây xà ngang , bắp đùi to bằng ống bễ , sức ngang sức voi đực , hơi thở ầm ầm tựa sấm , mắt long lanh như chim ghếch ăn hoa tre . Trang phục của chàng oai nghiêm , thể hiện sức mạnh , uy quyền và sự giàu có : ngực quán chéo một tấm mền chiến , khoác tấm áo chiến , có đủ gươm giáo . Chàng nhiều của cải , sung túc , có chiêng đống , voi bầy , la nhiều , bạn bè như nêm như xếp , các tù trưởng khác khiêng lễ vật đến kết thân , cả thần linh cũng biết tiếng tăm của chàng. Chàng là niềm tự hào của cả bộ tộc . Vẻ đẹp của chàng hoang dã , gần tự nhiên . Sự giàu có , phồn vinh của chàng cũng là sự hùng mạnh của buôn làng. Trong cuộc giao chiến, tài năng , phẩm chất anh hùng của Đam San thể hiện rõ nhất trong cuộc giao chiến với Mtao Mxây , trong tư thế đối lập hoàn toàn với kẻ thù. Đam San chiến dấu với Mtao M xây nhằm mục đích chính đáng là cứu vợ bảo vệ hạnh phúc gia đnh , bảo vệ danh dự cá nhân và cộng đồng , bảo vệ giữ gìn sự bình yên , phồn thịnh của buôn làng, đều là lẽ đúng, đứng ở bên chính nghĩa. Khi giao chiến, Đam San được miêu tả trong thế so sánh với Mtao M xây . Tác giả dân gian thường miêu tả Mtao M xây trước để làm nền tôn vinh tài năng , sức mạnh của Đam San. Cuộc chiến diễn ra trong bốn hiệp . Hiệp 1 , Đam San Đam San nhường kể thù múa khiên trước ; hiệp 2 : cả hai cùng múa khiên , Mtao M xây chém trượt Đam San ; hiệp 3 Đam San đớp được miếng trầu của vợ , đam trúng Mtao M xây nhưng hắn không chết ; hiệp 4 : ông Trời mách nước Đam San giết được kẻ thù .Vẻ đẹp Đam Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của mơ-tao Mơ-xây. Đam San chủ động tự tin khiêu chiến , đến tận chân cầu thang nhà Mtao M xây thách đấu mặc dù kẻ thù có lợi thế đất nhà , giàu có, được trang bị vũ khí tinh xảo, có bề ngoài uy nghi đáng sợ . Tù trưởng Sắt hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự hiện diện của chàng. Hình ảnh Đam Săn cùng những bạn bè đồng minh của chàng hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh với khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp cùng khí thế hừng hực “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”. Hình ảnh so sánh thật đặc trưng đã làm đậm nét phi thường của người anh hùng. Tư thế ấy lại gắn liền hành động thách thức chặt ống tre thành ba khúc, xô đổ hàng rào hàm chứa sức mạnh tuyệt luân của chàng. Khi giáp chiến cùng Đam Săn, dù ngôn ngữ sử thi miêu tả mơ-tao Mơ-xây cũng rất đẹp, rất dũng mãnh nhưng vẫn lộ ra sự khiếp nhược trước Đam Săn. Lời nói củahắn với chàng lộ ra sự hèn nhát “đừng đâm ta lúc ta đang xuống nhé”. Đáp lại, Đam Săn đã bộc lộ sự khinh bỉ kẻ thù bằng tư thế đàng hoàng của mình: “Tao không thèm đâm mày trước lúc mày xuống! Ngay con heo nái nhà mày tao cũng có thèm chém đâu!”. Trong cuộc giao chiến , bất cứ lúc nào Đam San cũng tỏ ra chủ động , tự tin , bình tĩnh , dũng mãnh , chiến đấu kiên cường , hành động kiên quyết. Chàng múa khiên rất khỏe , đẹp , nhanh : một lần xốc tới vượt một đồi tranh , một lần xốc tới vượt một đồi lồ ô , vun vút qua phía đông , phía tây ; múa khiên như gió bão gió lốc , khiến chòi lẫm đổ lăn lóc , cây cối chết rụi , khiến ba lần quả núi rạn nứt , ba đồi tranh bật rễ bay tung. Nghệ thuật cường điệu đã cho thấy sức mạnh và tài năng phi thường của Đăm Săn. Đam Săn không hề đơn độc trong cuộc chiến vì danh dự này. Chính nghĩa thuộc về chàng khi các tù trưởng bạn hùng mạnh giúp chàng giành lại người vợ yêu quí . Đồng thời, chàng còn được sự trợ giúp của ông Trời. Người anh hùng sử thi luôn có mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên. Sang hiệp thứ hai hắn đã đuối sức và cầu cứa Hơ Nhị ném cho hắn một miếng trầu nhưng cô đã không ném cho hắn mà ngược lại là dành cho chồng. Nhận được miếng trầu từ tay vợ sức mạnh của Đăm Săn càng tăng lên gấp bội chàng múa khiên như gió bão như lốc “núi ba lần rạn nứt ba đồi tranh bật rễ” cây giáo thần của Đăm Săn nhằm vào đùi, vào người Mtao Mxây mà phóng tới, mà đâm vào nhưng không thủng. Trận chiến đã lên đến đỉnh điểm khiến Đăm Săn thấm mệt. Bước sang hiệp giao đấu thứ hai, Đăm Săn vừa chạy, vừa mộng thấy ông trời, rồi được ông trời chỉ dẫn. Sáng tạo nên chi tiết kì ảo thú vị này, tác giả dân gian đã huyền thoại hóa người anh hùng sử thi để ca ngợi của chàng. Việc Đăm Săn được ông trời giúp đỡ không hạ thấp tài năng của chàng mà trái lại càng tăng thêm thanh thế uy danh của Đăm Săn. Nó chứng tỏ cuộc chiến của chàng là cuộc chiến chính nghĩa nên được thần linh trợ giúp. Tuy nhiên, ông trời cũng chỉ là người mách nước còn quyết định vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào hành động trực tiếp của Đăm Săn. Bừng tỉnh sau lời “cố vấn” của ông trời, Đăm Săn càng nhanh nhẹn, quyết liệt và dứt khoát. Nhanh như chớp chàng “chộp ngay . . . kẻ địch” khiến cho “cái giáp của Mtao Mxây . . . loảng xoảng”. Hắn thảm bại, chạy trốn cầu xin Đăm Săn nhưng Đăm Săn không hề khoan nhượng. Chàng kể tội, kết án kẻ thù rồi “đâm phập . . . ngoài đường”. Hành động đó của chàng không hề thể hiện Đăm Săn là một kẻ dã man ,khát máu, nó là lối hành xử quen thuộc, thường thấy ở các thủ lĩnh anh hùng thời cổ đại khi kẻ thù xúc phạm tới danh dự, điều thiêng liêng, cao quý nhất của họ. Trái hẳn với Đam San , Mtao Mxây rất kém cói , hèn nhát . Lúc đầu hắn huyênh hoang tự nhận mình là học trò của thần Rồng ,là tướng quen đi xéo nát đất thiên hạ nhưng khi giao chiến thì hắn múa khiên lạch xạch như quả mướp khô , được nhường đánh trước thì đâm trượt Đam San , khi yếu thế thì chạy trốn quanh chuồng lợn , chuồng trâu , khi bị thua thì cầu xin giữ lại tính mạng . Trong đoạn giao chiến , Đam San hiện lên là người anh hùng tài giỏi, quả cảm, giàu tinh thần thượng võ, Đam San chính là kết tinh sức mạnh ,vể đẹp, y chí, khát vọng của cả cộng đồng .Ngôn ngữ tả hành động chiến đấu của Đam San giàu nhịp điệu , hình ảnh , chất thơ , sử dụng nhiều phép so sánh cường điệu , liệt kê trùng điệp dày đặc . Sau khi chiến thắng , Đam San không tiến hành giết chóc đẫm máu mà thuyết phục , kêu goi tôi tớ của Mtao m xây theo chàng . Thái độ kêu gọi của chàng rất nhiệt thành, tận tình, vồn vã, thuyết phục ba lần, chàng trực tiếp đến gõ cửa từng nhà để kêu gọi. Lời kêu gọi thể hiện l‎ tưởng anh hùng của Đam San : thống nhất các buôn làng , khát vọng hòa bình , phồn vinh , giàu mạnh , thống nhất lợi ích cá nhân chàng và lợi ích của cả buôn làng . Đáp lại lời kêu gọi của Đam San , tôi tớ của M-tao M-xây nô nức đem theo của cải về với chàng . Điều đó thể hiện uy tín của Đam San với cộng đồng , khát vọng hòa bình , giàu mạnh của chàng phù hợp với nguyện vọng chung của dân làng cũng như người Ê đê cổ đại. Kết thúc trân đấu chàng về bản tổ chức ăn mừng. Lễ ăn mừng chiến thắng là một chuỗi những ngày hội dài “kéo dài hết mùa khô” và được tổ chức: linh đình và sang trọng; đông vui, nhộn nhịp; với đầy đủ phong tục tập quán của đồng bào Ê- đê Tây Nguyên. Nổi bật giữa đám đông hoan hỉ ấy tất yếu phải là người anh hùng Đam Săn – tù trưởng hùng mạnh ít ai sánh kịp. Ngay cả trong không khí yên bình của cộng đồng, vẻ đẹp ấy vẫn nổi bật từ ngoại hình đến hành động: mái tóc dài cuồn cuộn thả xuống một cái chiêng, uống rượu không bao giờ say, ăn uống không bao giờ thấy no. Hơn thế nữa, ngôn ngữ phóng đại của sử thi đã so sánh chàng ngang sức mạnh thần linh: “Oai linh vang đến tận thần núi phía Đông, đến tận thần núi phía Tây”. Hình ảnh Đam Săn sau chiến công này được mô tả phóng đại và như một điệp khúc vang vọng niềm tự hào về người anh hùng tiêu biểu của cộng đồng: “Và người ta bàn tán không cùng, rằng Đam Săn quả thật là một tù trưởng dũng cảm, không bao giờ chịu lùi bước. Chàng ta mang chăn choàng trên vai, tay đeo vòng, cầm gươm chạm trổ sắc bén…Đam Săn hùng cường ngay từ trong lòng mẹ”. Vẻ đẹp ấy chỉ có thể xuất hiện trong sử thi anh hùng, chỉ có ngôn ngữ sử thi mới đem lại những vẻ đẹp độc đáo đến thế! Và lần ăn mừng bấy giờ cũng là khúc khải hoàn ca của bộ tộc Đăm Săn cho ta thấy sự phát triển, giàu có, hùng mạnh của bộ tộc Đăm Săn sau khi chàng giành chiến thắng. tô đậm và khắc sâu ý nghĩa thời đại của chiến tranh bộ tộc trong sự phát triển của cộng đồng. Với ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh giàu nhạc điệu cùng phép so sánh và cường điệu độc đáo, ngôn ngữ trang trọng , giàu hình ảnh , chất thơ , nhạc điệu , lời kể hấp dẫn qua chiến công của Đăm Săn tác phẩm đề cao hình tượng oai phong dũng mãnh đề cao tài năng đề cao hạnh phúc gia đình tha thiết với cuộc sống phồn vinh bình yên của cộng đồng của người anh hùng Đam Săn qua đó làm nổi bật phẩm chất khát vọng cao đẹp của người xưa. Đoạn trích đã đem lại cho ta những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đam Săn trong chiến công bảo vệ buôn làng, đem lại bình yên cho bến nước. Lời kể chuyện hấp dẫn cùng ngôn ngữ miêu tả khoa trương tạo được dấu ấn đặc sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn đặc trưng của sử thi. Sử thi anh hùng Đam Săn quả thật đã hình thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền của dân tộc Ê-Đê, thành di sản quí báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử thi rực rỡ với vẻ đẹp “một đi không trở lại”
Cảm nhận về nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxay
2,562
Nguyễn Minh Châu với tác phẩm tiêu biểu cho cả phong cách lẫn nghệ thuật là "Chiếc thuyền ngoài xa” là thuộc trong số những nhà văn mở đường tài năng, tinh anh nhất cho văn học nước ta hiện nay. Quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường đã được thể hiện rõ trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Ở tác phẩm này ông thật sự thành công với nghệ thuật miêu tả nhân vật, ông đã xây dựng được các nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nhân vật Phùng là một người quý trọng và say mê nghề nghiệp nhiếp ảnh của mình, anh được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh thuyền và biển trong sương mù vào giữa tháng bảy để in trong bộ lịch năm sau. Chính vì muốn tìm tới những điều mới lạ và đẹp đẽ cho nên Phùng đã tìm về vùng ven biển miền Trung nơi chiến trường xưa. Phùng còn là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp. Trước vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật, tâm hồn người nghệ sĩ trở nên khó tả: “tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào…tôi tưởng như chính mình vừa tham gia vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Trong giờ phút thăng hoa cùng cái đẹp anh cảm nhận cái đẹp chính là đạo đức”. Là người yêu cái đẹp khi mà được chứng kiến được chạm vào vẻ đẹp ấy thì quả là một điều tuyệt vời khó có thể diễn tả nổi Muốn có được những khoảnh khắc và bức hình ăn ý, Phùng đã bỏ ra thời gian là một tuần lễ suy nghĩ tìm kiếm, phục kích mới chụp được một bức ảnh ưng ý, một cảnh đắt trời cho.Trong tác phẩm này, anh không chỉ là người yêu cái đẹp mà thờ ơ với mọi thứ mà còn là người căm ghét áp bức bất công, dám đối diện với cái ác và hành động chống lại cái ác. Sau phút ngỡ ngàng thấy cái ác, diễn ra ngay trước mắt, Phùng đã phản xạ một cách tự nhiên như một người yêu sự công bằng. Anh vội vàng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy đến ngăn cản người đàn ông vũ phu. Là người từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người. Anh vẫn giữ quan điểm từ thời chiến tranh “cái xấu ắt là từ phía địch”, vì thế anh đã ngộ nhận “gã đàn ông vũ phu kia hẳn là từng đi lính ngụy”, rồi đặt ra một câu hỏi “ lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?”, Anh cho rằng hành động của anh là hành động của một người anh hùng “tôi nện hắn ta bằng tay không nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay của một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay của một người lính đã từng mười năm cầm súng”. Hình ảnh người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.người đàn bà ấy thật đáng cảm thông trân trọng sâu sắc chính bởi vì đức bao dung chịu thương chịu khó của người..Chồng của bà la 1 người đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài,những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào. Những người như Phùng khi chứng kiến cảnh tượng đó phải trăn trở đối phó ra sao. Chính vì thế cốt truyện đóng góp một phần quan trọng không kém trong khắc họa những nội dung của tác phẩm.Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người , Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ. Từ đó ta rút ra một triết lí nhân sinh sâu sắc rằng:” Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá.Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống. Với lời kể tự nhiên và giống như tác giả cũng đang là người chứng kiến tất cả những cảnh đó cho nên những cảnh và cảm xúc tới với độc giả thật tự nhiên và đầy những nghệ thuật điển hình giúp tác phẩm ngày một thành công và giàu ý nghĩa hơn.Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.
Cảm nhận về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
978
Nội dung bài viết1 Cảm xúc của em trước nụ cười của mẹ – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định 2 Cảm xúc của em trước nụ cười của mẹ – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ của em về nụ cười của mẹ – Bài làm 3 4 Cảm xúc của em trước nụ cười của mẹ – Bài làm 4 Cảm xúc của em trước nụ cười của mẹ – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Mẹ! Tiếng gọi đầu tiên lúc rời nôi khi còn thơ bé. Mẹ là con đò rẽ nước, xuôi ngược dòng đời, chở gánh nặng qua bao ghềnh thác. Dẫu biết con là gánh nặng của đời mẹ nhưng sao môi kia không ngừng nở nụ cười? Nụ cười ấy đối với tôi là một món quà vô giá, đã tiếp cho tôi thêm niềm tin, sức mạnh và nghị lực để vươn lên trong sống. Từ thuở còn thơ, tôi đã có cái may mắn được nhìn thấy nụ cười của mẹ: một nụ cười tràn đầy tình cảm. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất trên đời. Thật bất hạnh thay cho bao người không được ngắm nụ cười của mẹ. Đau đớn thay cho những kẻ lại vùi dập, hắt hủi nụ cười ấy. Có ai đó bảo rằng: “Nụ cười làm con người ta được cuộc gần nhau hơn”. Vâng, chính nụ cười ấy đã giúp tôi thấu hiểu hết tình thương con vô bờ bến của mẹ, một tình cảm mà không gì có thể mua được. Và nụ cười ấy là cả một vũ trụ bao la mà tôi không khám phá hết được. Nhưng tôi biết nó là sức mạnh dìu tôi đứng dậy mỗi khi vấp ngã, là niềm tin, là lẽ sống của đời tôi. Nhưng đâu phải lúc nào nụ cười của mẹ cũng giống nhau. Mỗi khi tôi ngoan, mẹ cười, một nụ cười yêu thương, vui vẻ. Nó làm tôi thấy rằng mình đã làm cái gì đó lớn lao cho mẹ. Rồi nụ cười của mẹ động viên, khuyến khích mỗi khi tôi đạt điểm cao. Nụ cười ấy làm cho niềm vui nhân lên gấp bội, làm cho tôi thấy cuộc sống này tươi đẹp biết bao khi có mẹ trên đời. Đôi lúc tôi có chuyện buồn, mẹ vẫn cười nhưng là nụ cười an ủi, vỗ về. Nụ cười ấy như ngọn lửa hồng, sưởi ấm con tim non trẻ đang lo lắng, thổn thức… Có gì đẹp trên đời hơn thế, khi biết rằng mẹ đang ở bên tôi. Nụ cười mẹ sưởi ấm lòng tôi, đã tiếp thêm cho tôi sức mạnh. Nhưng cũng có lúc vắng nụ cười của mẹ! Và khi ấy, tôi càng nhận ra nụ cười mẹ là một “gia tài” lớn đối với tôi… Cảm xúc của em trước nụ cười của mẹ – Bài làm 2 Từ thuở ấu thơ cho đến bây giờ, em ghi nhớ mãi có lẽ là nụ cười của mẹ. Nụ cười của mẹ luôn nở trên môi trong suốt thời gian chăm sóc nuôi em lớn lên như hôm nay. Nụ cười của mẹ là cả một tình yêu đối với em. Từ lúc nhỏ em đã thấy mẹ làm công việc vất vã cho gia đình em nhưng trên khuôn mặt mẹ luôn nở nụ cười rạng rỡ và hạnh phúc. Nụ cười của mẹ đã an ủi em khi ba đánh. Nhiều lần, em bị ốm nặng, mẹ đã chăm sóc em thật chu đáo. Mỗi khi mẹ buồn rầu, em cảm thấy khuôn mặt mẹ vắng nụ cười. Lúc ấy em lo lắng biết bao. Em đến bên mẹ :”Mẹ ơi! Sao mẹ buồn thế, mẹ buồn con phải không?” Mẹ nói:”Không sao, mẹ chỉ hơi mệt. Mẹ nghĩ ngơi một chút sẽ khỏi” Em mong mẹ khỏi bệnh thật nhanh để em lại thấy nụ cười của mẹ. Em luôn giúp đỡ mẹ để mẹ vui lòng, luôn có nụ cười trên môi. Và nụ cười của mẹ theo suốt cuộc đời, động viên khích lệ em vững bước trên đường đời. Em sẽ tự hào về nụ cười của mẹ. Một người mẹ kính yêu của em. Cảm nghĩ của em về nụ cười của mẹ – Bài làm 3 Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” Khi nghe đến câu tục ngữ này thì em lại chợt nghĩ đến nụ cười của mẹ , hiền hậu , dịu dàng . Tuy chỉ là một nụ cười giản đơn nhưng nó đã giúp em có nhiều nghị lực vượt qua những khó khăn để bước trên con đường đời của mình. Năm nay mẹ đã ngoài bốn mươi . Trên trán đã xuất hiện những nếp nhăn , mái tóc đã điểm bạc . Mọi thứ có thể thay đổi nhưng trên đôi môi mẹ , có một thứ mà không bao giờ thay đổi theo thời gian đó chính là đó chính là nụ cười . Có lẽ nó rất giản đơn với mọi người , không thể sánh bằng những viên kim cương lấp lánh ở tiệm vàng bạc đá quý sang trọng . Nhưng đối với em nụ cười trên đôi môi mẹ không có bất cứ giá trị nào có thể đánh đổi . Mỗi khi cười , mẹ để lộ hàm răng trắng ngần và đều như hai hàng bắp , nhưng lúc ấy trông mẹ rất đẹp như một cô tiên vậy. Cho đến bây giờ , em vẫn còn nhớ nụ cười hạnh phúc của mẹ khi em khoe những điểm mười đỏ chói trên từng trên từng bài kiểm tra của mình . Tuy không nói nhưng em vẫn cảm nhận được nụ cười hạnh phúc của mẹ . Trên đời chắc chắn ai cũng trải qua giai đoạn tập nói , tập đi . Em cũng vậy , khi chập chững đi những bước chân đầu tiên trên quãng đời của mình , những khi vấp ngã mẹ luôn đứng phía trước để đỡ em dậy và nở một nụ cười hạnh phúc như nói rằng : “ Hãy cố lên con cuộc đời phía trước vẫn còn gian nan , có thể con sẽ vấp ngã nhưng hãy đứng dậy và đi tiếp . Đừng bỏ cuộc ! Con nhất định sẽ thành công “ . Khi vào lớp một , mẹ dắt em đến trường và đã bỏ em lại với hai hàng nước mắt lăn trên má . Nhưng em hiểu rằng : “ Em phải cố gắng đi trên con đường học vấn này và cố gắng học thật nhiều , thật nhiều , bởi trên thế giới này kiến thức là vô hạn mà sự hiểu biết của mình là hữu hạn . Học thật giỏi để trở thành người có ích cho xã hội và cũng để trông thấy nụ cười hạnh phúc , vui sướng của mẹ “ . Nhưng có lần , vì mãi chơi không học bài nên em bị điểm kém . Sợ mẹ mắng , nên em đã nói dối là mình đạt điểm mười . Mẹ rất sung sướng và hạnh phúc , nhưng mẹ vui bao nhiêu thì trong lòng em lại cảm thấy ray rứt bấy nhiêu . Đã nhiều lần em định đi xin lỗi mẹ và cuối cùng em đã đến gặp mẹ và nói tất cả . Trái với suy nghĩ của em là mẹ sẽ nổi giận và quất vào mông em mấy roi . Nhưng không , mẹ vẫn nở nụ cười và nói rằng mẹ đã biết tất cả khi cô giáo gọi điện đến nhà và thông báo kết quả học tập sa sút của em . Không những không trách mà mẹ còn khen em : “ Con giỏi lắm , biết tự nhận lỗi của mình mà không để người khác chê trách , nhắc nhở . Nhưng không có nghĩa là cứ mắc lỗi rồi xin lỗi . Hãy nhớ nhé con yêu của mẹ ! “ . Từ đó em cố gắng học thật giỏi và không bao giờ lười biếng nữa . Khi nhận được tin đứt ruột đồng bào miền Trung lại quặn đau vì những cơn bão gây ra . Mẹ đã động viên mọi người đóng góp , giúp đỡ đồng bào miền Trung . Mọi người đã nhiệt tình ủng hộ , em cũng đã đập con heo đất để dành từ Tết đến nay để quyên góp . Đôi môi mẹ lại nở một nụ cười , nhưng nụ cười này là thể hiện tấm lòng yêu thương người vô bờ bến của mẹ . Gỉa sử mai này mẹ không còn trên đời và ở bên cạnh em để lo lắng và chăm sóc , lo lắng cho em nữa . không còn để nâng em dậy những lúc vấp ngã khó khăn của cuộc đời . Nhưng giả sử vẫn là giả sử , mẹ vẫn sẽ ỡ mãi bên cạnh em và em sẽ cố gắng học thật giỏi để trở thành bác sĩ chữa trị cho mọi người và đặc biệt là cho mẹ em để mẹ có thể sống lâu hơn và bên cạnh em . Để em được nhìn thấy nụ cười của mẹ và chắc chắn rằng em sẽ không thể nào quên nụ cười ấy , nụ cười hiền hậu , dịu dàng . Cảm xúc của em trước nụ cười của mẹ – Bài làm 4 Mặc dù không ai có thể không chết một lần nhưng dù mẹ có ra đi thì em vẫn cố gắng học thật giỏi để hòan thành tốt công việc của mình , để trên thiên đàng , mẹ sẽ trông thấy được những thành công mà em gặt hái được cũng chính là công lao mà mẹ đã sinh thành và nuôi dạy em đến ngày hôm nay . Trời đã quá trưa. Nắng hè gay gắt chiếu xuống mặt đất. Trên cánh đồng làng vẫn nhấp nhô bóng người đang lúi húi làm cỏ lúa, trong đó có mẹ của em. Từ trên đường nhìn xuống, em thấy chiếc nón cũ chỉ đủ che cho mái đầu của mẹ, còn lưng áo nâu bạc ướt đẫm mồ hôi vẫn phơi ra dưới nắng. Em cất tiếng gọi "Mẹ ơi! Con mang cơm ra đây này! Mẹ nghỉ tay ăn cơm đã!". Mẹ ngẩng đầu nên đáp lại: "Ừ! Mẹ vào ngay đây!". Rồi mẹ vác chiếc cào cỏ trên vai, nhẹ nhàng vén từng bụi lúa, lấy lối bước lên bờ. Mẹ khoan khoái vốc từng vốc nước mát trong của dòng mương chạy ngang cánh đồng để rửa mặt. Nụ cười hiền hậu làm rạng rỡ gương mặt đầy đặn rám nắng của mẹ. Mẹ em năm nay tuổi đã gần bốn mươi, dáng người đậm chắc, khỏe mạnh. Mọi việc lớn nhỏ một tay mẹ lo hết vì bố em là bộ đội, đóng quân tít tận vùng biên giới phía Bắc, ít có dịp về nhà. Quanh năm, mẹ quần quật làm việc, cấy hái ngoài đồng, nắng mưa chẳng quản. Làng xóm đều khen mẹ em tính nết hiền hòa, đảm đang, tháo vát và mừng cho ông bà nội có được người con dâu hiền thảo. Em thương mẹ lắm! Ngoài giờ học, em thường giúp mẹ những việc lặt vặt như quét dọn, tưới rau, cho gà cho lợn ăn… Mẹ khen em ngoan và cười bảo: "Mẹ muốn rèn cho con đức tính cần cù, chăm chỉ, chứ ngần ấy việc, mẹ làm chỉ loáng cái là xong". Em hiểu ý và cố gắng hơn để san sẻ bớt nỗi nhọc nhằn của mẹ. Ngày mùa, cánh đồng làng em vàng rực một màu lúa chín. Hương lúa thơm nồng quyện với hương hoa cau, hoa bưởi thơm ngát tỏa lan khắp xóm thôn. Mọi người đều náo nức trước vụ mùa bội thu. Niềm vui hiện rõ trong giọng nói, ánh mắt, nụ cười của mẹ. Tưởng chừng bao vất vả, gian nan đều tan biến. Tuy còn nhỏ nhưng em đã hiểu rằng bát cơm em ăn, tấm áo em mặc, quyển sách quyển vở em học… đều được đổi bằng mồ hôi của mẹ em. Đêm đêm, mẹ thức cùng em cho tói khi nào em học bài và làm bài xong thì mẹ mới buông màn đi ngủ. Bố vắng nhà nên mẹ em vừa phải làm người mẹ dịu dàng, vừa phải làm người cha nghiêm khắc. Những lời động viên mộc mạc, chân tình cùng với nụ cười đôn hậu của mẹ làm cho lòng em thêm ấm áp và tin tưởng. Em nhớ có lần lỡ tay làm vỡ chiếc bình cắm hoa bằng thủy tinh của bố mua vào dịp Tết năm ngoái. Vì lo sợ nên em đã đổ tội cho chú mèo tam thể. Tối hôm ấy, sau khi dọn dẹp xong, mẹ gọi em ra sân nói chuyện. Hai mẹ con ngồi trên chiếc chõng tre kê dưới gốc cau. Dải Ngân Hà bàng bạc vắt ngang qua bầu trời đêm lấp lánh sao. Trăng sáng in rõ bóng cây trên mặt sân, mỗi khi gió thổi lại rung rinh, lay động. Em hồi hộp chờ đợi và cũng mang máng đoán ra điều mẹ sẽ nói. Tiếng mẹ cất lên khe khẽ chỉ vừa đủ để em nghe: "Thu à! Lúc chiều, mẹ biết là con nói dối. Nếu con lỡ tay đánh vỡ chiếc bình, con cứ mạnh dạn, thành thật nhận lỗi, ông bà và mẹ sẽ chẳng trách con đâu. Nhưng sự dối trá của con làm cho cả nhà buồn đấy! Lần sau đừng như thế nữa nghe chưa, con gái của mẹ!". Nghe mẹ nói, nước mắt em ứa ra. Em khóc vì xấu hổ và ân hận. Em ôm lấy mẹ và lí nhí xin lỗi. Mẹ vuốt tóc em, thủ thỉ: "Thôi, đừng khóc nữa con! Mẹ tin rằng con sẽ không bao giờ biến mình thành kẻ dối trá đáng ghét! Nào, hãy ngẩng đầu lên!" Em nắm chặt đôi bàn tay chai sần của mẹ và ngước mắt nhìn. Dưới ánh trăng, nụ cười khoan dung của mẹ mới đẹp làm sao! Trái tim em cất lên tiếng gọi thiết tha: "Mẹ! Mẹ kính yêu của con! Con sẽ cố gắng làm theo lời mẹ dạy để trở thành một đứa con ngoan!"
Cảm xúc của em trước nụ cười của mẹ – Văn mẫu lớp 7
2,409
Cảm xúc của học sinh khối 12 khi rời nghế nhà trường Bài làm Kính thưa các quý vị đại biểu! Kính thưa các thầy cô giáo! Thưa các bạn học sinh thân mến! Con xin tự giới thiệu, con là Văn Quỳnh Anh, học sinh lớp 12A1, trường THPT Hoàng Mai. Hôm nay con rất vinh dự được thay mặt cho hơn 600 học sinh khối 12, khóa học 2016-2019 được nói lên những cảm xúc của mình nhân Lễ tri ân học sinh ra trường. Kính thưa thầy cô! Thế là lại thêm một mùa phượng nở, một mùa chia tay! Mới đây thôi mà đã ba năm học trôi qua, ba năm kể từ ngày đầu tiên chúng con bước vào cánh cổng trường THPT Hoàng mai. Ba năm, quãng thời gian quá ngắn ngủi so với cuộc đời của mỗi con người nhưng cũng đủ để mỗi thế hệ học trò chúng con gắn bó với nơi đây, gắn bó với thầy cô, bè bạn. Ba năm ấy đã để lại bao kỷ niệm buồn – vui để rồi khi rời xa mỗi người đều giữ cho riêng mình một kí ức. Còn nhớ, ba năm trước đây, khi con bước chân vào cổng trường THPT Hoàng Mai với cảm giác bỡ ngỡ xen chút lo âu của ngày đầu tiên nhập trường. Con, khi ấy vẫn là một cô học trò hồn nhiên vô tư. Con, khi ấy vẫn luôn mong mùa hè đến thật sớm để được chơi đùa thỏa thích. Con, khi ấy luôn mong thời gian trôi thật nhanh để mình được ra trường, được trưởng thành. Con, khi ấy ngơ ngác, lạ lẫm khi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên má các anh chị lớp 12 buổi ra trường. Chỉ là ra trường thôi mà! Đáng lẽ phải vui khi mình trưởng thành hơn chứ?… Vậy mà hôm nay, trong khoảnh khắc này đây, con mới thật sự cảm nhận được hết hai tiếng “chia tay”. Ra trường, có nghĩa là sẽ chẳng còn được là cô học trò hồn nhiên, vô tư nữa. Những trang lưu bút chuyền tay nhau, những kỉ niệm của ba năm … tất cả sẽ chỉ còn là kí ức. Trong lòng con chợt dâng lên nỗi buồn mơn man khó tả. Mỗi mùa phượng nở, mỗi khi dàn đồng ca của mùa hè ngân lên là lại một lần diễn ra sự chia xa của một thế hệ học trò, một thời áo trắng. Chợt có cái gì đó cay cay trong khóe mắt! Bây giờ con mới thấm thía cái triết lý của trái tim mà nhà thơ Chế Lan Viên đã nói hộ lòng người: Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” Kính thưa thầy cô! Đã ba năm chúng con được học dưới mái trường này, 3 năm chúng con gắn bó với thầy cô, ba năm chúng con được trưởng thành trong vòng tay yêu thương, dìu dắt, nâng đỡ, dạy bảo tận tình của thầy cô. Tất cả chúng con, những học trò đến từ những miền quê khác nhau đều cảm thấy mình thật sự may mắn và tự hào khi được sống và học tập dưới mái nhà chung này. Nơi đây chúng con đã được thầy cô trang bị cho một nền tảng kiến thức vững chắc để bước vào đời. Bằng tất cả lòng yêu thương, tâm huyết, thầy cô đã truyền dạy cho chúng con. Có thể chúng con không nhớ hết từng bài giảng nhưng chúng con sẽ không thể quên những dáng hình tận tụy bên bục giảng thân quen. Thầy cô đã âm thầm lặng lẽ suốt cuộc đời mình chở biết bao nhiêu chuyến đò cập bến tương lai. Chúng con đã được truyền dạy không chỉ kiến thức sách vở mà cả những bài học làm người. Thầy cô dạy cho chúng con biết yêu thương, chia sẻ, dạy cho chúng con biết chấp nhận thất bại và dạy cho chúng con biết đứng lên khi vấp ngã…. Còn nhiều lắm những yêu thương, còn nhiều lắm những bài học sâu lắng… Công ơn lớn lao của thầy cô chúng con khó có thể đền đáp được. Vậy mà có những lúc chúng con đã khiến thầy cô phải buồn lòng bởi lỗi lầm mình gây ra. Nhưng thầy cô vẫn luôn rộng lòng tha thứ cho những suy nghĩ bồng bột, cho những hành động dại dột của tuổi học trò, cho chúng con cơ hội để sửa chữa lỗi lầm. Công ơn của thầy cô làm sao có thể kể hết bằng trang giấy, nét bút này. Xin cho phép chúng con được gửi tới thầy cô những lời tri ân sâu sắc nhất trong giây phút thiêng liêng của buổi lễ ngày hôm nay. Cảm ơn thầy cô, những người cha, người mẹ đã không quản ngại khó khăn, vất vả để dìu dắt, che chở cho chúng con, cho chúng con nền tảng vững chắc để bước vào đời. Cảm ơn thầy cô cho chúng con có cơ hội bày tỏ lòng mình. Chúng con sẽ mãi khắc ghi trong lòng công ơn thầy cô. Và chúng con tin rằng dưới sự dìu dắt của thầy cô, dù có gặp bao sóng gió thì những chuyến đò tiếp theo cũng sẽ cập bến bờ hạnh phúc. Để bày tỏ lòng biết ơn của mình, con xin thay mặt cho hơn 600 bạn học sinh khối 12 xin hứa sẽ cố gắng hết mình để đạt kết quả cao nhất trong kì thi tốt nghiệp và kì đại học sắp tới. Có vậy chúng con mới không phụ công ơn dạy dỗ của cha mẹ, thầy cô, xứng đáng là đàn anh, đàn chị của các em học sinh khối 10 & 11, là học sinh của trường THPT Hoàng mai. Cuối cùng con xin kính chúc các quí vị đại biểu, các thầy cô giáo sức khỏe, hạnh phúc. Chúc các em khối 10, 11 có một kì nghỉ hè vui vẻ bên gia đình, chúc các bạn học sinh khối 12 đạt kết quả cao trong hai kì thi sắp tới. Con xin chân thành cảm ơn!
Cảm xúc của học sinh khối 12 khi rời nghế nhà trường
1,033
Cảm xúc ngày vào Đội của em Bài làm Thế là tư hôm nay em được kết nạp vào Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Em vô cùng xúc động,bao đêm em thao thức chờ đón được đeo khăn đỏ tươi thắm trên vai. Sáng ngày 22-3- 2019, em dậy thật sớm, quần áo chỉnh tề cùng các bạn đến trường. Em nhìn thấy đã có bạn đã tập đeo khăn từ ở nhà . Lớp 3C chúng em nhanh chóng xếp hàng và lên xe theo sự hướng dẫn của cô giáo và anh hướng dẫn viên đến Văn Miếu Quốc Tử Giám để làm lễ kết nạp Đội.. Ngồi trên xe, lòng em vừa hồi hộp vừa lo lắng. Quãng đường dường như ngắn lại vì tiếng nói chuyện và cười đùa ríu rít của các bạn trên xe. Đến nơi, chúng em nhanh chóng xếp hàng trên khoảng sân rộng ở Văn Miếu Quốc Tử Giám . Sau nghi lễ dâng hương vô cùng trang nghiêm, chúng em được nghe lời căn dặn của cô Tổng phụ trách. Giây phút hồi hộp mà chúng em mong chờ bấy lâu đã đến, cô Tổng phụ trách đọc quyết định và danh sách học sinh được kết nạp Đội. Cô giáo chủ nhiệm dịu dàng đặt lên vai em chiếc khăn quàng đỏ thắm. Giây phút đó thật thiêng liêng vì em như được mang trên vai mình một phần của lá cờ Tổ Quốc. Em cảm thấy mình như đã lớn thêm và trưởng thành hơn. Chiếc khăn quàng đỏ như nhắc nhở em phải học tập thật tốt, tu dưỡng đạo đức để xứng đáng là Đội viên gương mẫu của Đội. Em hứa sẽ học tập thật tốt, cố gắng rèn luyện cả về đạo đức, trí thức để xứng đáng là Đội viên ưu tú, con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Cảm xúc ngày vào Đội của em
327
Cảm xúc về mùa hè của em Bài làm Mùa hè, mùa của những cánh phượng cháy đỏ rực trong nắng, mùa của những bông bằng lăng tím mộng mơ, mùa của dàn nhạc giao hưởng mà những chú ve sầu mải miết sáng tạo, mùa của những chuyến đi chơi xa, mùa chia tay, mùa của nỗi nhớ. Mùa hè đến cũng là mùa thi và là mùa chia tay của các em học sinh với mái trường với thầy cô. Mỗi khi nhắc đến mùa hè trong Tôi lại có cảm giác nao nao đến khó tả, buồn vui lẫn lộn. Vui vì sắp được nghỉ hè, được đi những nơi mà tôi thích, nhưng lại buồn khi nhớ về mái trường, đồng nghiệp và các em học sinh thân yêu! Hè đã về! Trong mỗi chúng ta, chắc rằng ai cũng có một hoặc nhiều mùa hè để nhớ. Để rồi bất giác khi nghe tiếng ve sầu kêu, bất giác nhìn thấy cành phượng vĩ đỏ rực sẽ chợt thấy lòng mình xốn xang. Buồn có, vui có, tiếc nuối có. Buồn về một thời đã xa, vui vì những kỷ niệm tuổi thơ đã qua nay trở thành dấu ấn đẹp nhất trong cuộc đời Tôi và mỗi người. Tiếc nuối về những tháng ngày tuổi trẻ hồn nhiên, mải mê rong chơi, những ngày hè thật đẹp! Hè về, đối với những người đã đi qua một miền tuổi thơ nhiều “dữ dội” như chúng tôi là những trưa hè nắng giòn tan. Chúng Tôi những đứa trẻ nông thôn túm tụm rủ nhau đi bắt dế chọi, đánh khăng, bắn bi, tối đến lũ trẻ con lại rủ nhau đi bắt ếch có hôm chúng Tôi mỗi đứa được cả rỏ ếch,… Để rồi nhiều năm qua đi, mỗi lần ve kêu báo hè về, trong lòng mỗi người lại thổn thức và nuối tiếc, nhớ về một thời đã xa…
Cảm xúc về mùa hè của em
323
Nội dung bài viết1 Cảm xúc về một con vật nuôi của nhà em – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Cảm xúc về một con vật nuôi của nhà em – Bài làm 2 3 Cảm nghĩ về một con vật nuôi của nhà em – Bài làm 3 Cảm xúc về một con vật nuôi của nhà em – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Hôm nay cô giáo ra đề làm văn. Cô yêu cầu tôi kể về kỉ niệm với một con vật nuôi mà tôi từng thân thiết. Không một chút đắn đo, tôi cầm bút kể về chú chó " Lúc", một con chó mà gia đình tôi ai cũng coi như một người thân. " Lúc" là cách tôi gọi tắt tên của nó. Thật ra tên đầy đủ của nó là" Lucky". Ba tôi đặt cho nó cái tên đó vì ông tin vào câu dân gian truyền miệng: " Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang". Số là thế này, một hôm, khi đứng trông hàng, anh Hải, người giúp việc cho ba tôi, thấy một con chó ngơ ngác chạy qua, vẻ mặt thất thần hỏang hốt. Anh bèn huýt gió gọi nó đứng lại. Ai ngờ nó vào nhà thật và nằm im phủ phục trước thềm. Anh lấy cơm cho nó ăn rồi vỗ về bảo nó nằm im đợi chủ đến tìm.Không ngờ, một ngày, rồi hai ngày ….trôi qua mà chẳng ai đi tìm nó cả. Thế là gia đình tôi nuôi luôn từ đó. Phải nói Lucky không phải là chó quý mà chỉ là một con chó đẹp vậy thôi. Nó là chó Việt 100%. Có lẽ chủ trước nuôi nó để thịt hay sao đó nên khi về nhà tôi nó đã bị thiến rồi. Do vậy nó mập tròn ú ụ. Cân dễ phải 20 kg ( Lần chích ngừa cho nó tôi đã có cân). Lông lại vàng óng ả nữa trông rất đáng yêu. Chỉ có điều cái mõm dài và hàm răng nhe ra nhọn hoắt trông rất đáng sợ. Ấy thế nhưng Lúc lại rất hiền. Ai vuốt cũng được và gặp ai cu cậu cũng mừng. Anh Hải thường trêu nó là chó" hữu nghị" và không tin tưởng chút nào vào việc giữ nhà của nó. Lúc đầu tôi cũng coi thường nó. Hay nói đúng hơn là tôi không ghét cũng không thương. Nhưng rồi nhiều chuyện xảy ra khiến tôi phải đổi thay thái độ. Đó là mỗi khi tôi đi học về, nó nằm trước cửa, đợi tôi từ xa. Và khi tôi chưa thấy nó là nó đã nhìn thấy tôi rồi. Nó chạy xồ ra mừng tôi tíu tít. Lúc đó cái đuôi của nó cứ gọi là ngoáy tít, hai chân trước chồm lên như thể muốn ôm chòang lấy tôi. Miệng thì khẽ kêu lên sung sướng. Đã thế ánh mắt lại đầy biểu cảm thiết tha, bảo sao tôi không cảm động. Cứ thế ngày lại qua ngày, tôi mến nó lúc nào không hay. Càng mến Lucky hơn khi một ngày kia nó lập công bắt chuột! Bạn có tin không khi chó mà biết bắt chuột như mèo. Nhưng là sự thật đấy. Số là cửa hàng nhà tôi đồ đạc rất nhiều nên lũ chuột thường hay ẩn nấp. Má lại ghét mèo nên không chịu nuôi. Thế là lũ chuột hòanh hành dữ dội. Một bữa nọ , Lúc đang nằm lim dim thìnghe tiếng rục rịch của lũ chuột đuổi nhau sau tủ kệ. Lúc vểnh tai lên, hai chân trước duỗi dài nghe ngóng…Thế rồi một anh " Tí" rửng mỡ chạy xẹt qua. Không chần chừ, Lúc vươn mình chồm tới. Anh " Tí" chới với bị Lúc ngoạm liền. Lúc cắn chặt , lắc lắc đầu ra chiều hí hửng đem lại khoe với ba tôi. Ba cầm xác chuột liệng vào thùng rác rồi khen Lúc giỏi, Lúc tài. Từ đó được khuyến khích, Lúc càng ra tay diệt chuột và lập thêm nhiều chiến công hơn nữa. Mẹ tôi vì thế càng yêu Lúc hơn. Thấm thoắt vậy mà Lúc đã ở với gia đình tôi được7 năm rồi. Biết bao kỉ niệm buồn vui của gia đình mà có Lúc cùng chia sẻ. Thậm chí anh Hai tôi đi học xa nhà mất những bốn năm mà khi về Lúc vẫn mừng, vẫn nhớ. Do vậy cả nhà tôi ai cũng yêu quý Lúc. Ba tôi thường nói với chúng tôi rằng nó không còn là một con chó nữa mà là một thành viên thân thiết của gia đình. Với tôi, tôi không thể tưởng tượng một ngày nào đó khi đi học về mà không thấy nó ra mừng. Nếu nó bị " bắt cóc" …eo ôi, tôi chết mất. Do vậy tôi chỉ cầu trời cho nó được sống mãi với gia đình tôi. Tôi sẽ chăm sóc nó như thể đó là em út của tôi vậy Cảm xúc về một con vật nuôi của nhà em – Bài làm 2 Ò ó o o…Đó là tiếng gáy của chú gà trống nhà tôi. Chú như người bạn đang gọi tôi dậy sớm học bài và cùng chú thưởng thức buổi bình minh. Tiếng gáy của chú lúc lảnh lót, trong trẻo, lúc rộn rã, rành rọt như một điệu đàn sôi động trong buổi mai hồng. Tiếng đàn ấy tựa hồ muốn các bạn gần xa đâu đó lắng nghe, muốn xua tan màn đêm u tối còn phảng phất, muốn mọi thứ bừng tỉnh dậy sau một giấc ngủ say nồng. Rồi điệu đàn ấy dồn dập hơn như thúc giục mọi người thức giấc. Tôi đã thức dậy theo tiếng gọi của âm vang bình minh – tiếng gọi của bạn gà trống đáng yêu. Tôi đã có lần quan sát chú thật lâu, thật kĩ. Chú thật đẹp mã! Một buổi sáng, chú đứng trước thềm trông oai vệ như một dũng sỹ của họ nhà gà. Chú đi chững chạc, thỉnh thoảng đứng lại cất thêm vài tiếng gáy. Lúc ấy chú dồn hơi đầy ngực, ngửa mặt lên cao và gập người trông thật giống người nghệ sỹ thổi kèn đồng. Tiếng gáy của chú đã để lại trong tôi một cái gì sâu thẳm, giống như nhịp đập của thời gian và cũng giống như lời nhắn gọi con người bắt tay vào nhiệm vụ mới đang chờ. Bởi thế, tôi rất thích làm bạn với chú, thích vuốt ve bộ lông mịn màng của chú. Nghe tiếng tôi gọi mỗi sáng, chú nhảy thình thịch, mang theo ánh ban mai trên bộ lông sặc sỡ. Đôi mắt chú long lanh như hai hạt cườm, có lúc sáng rực lên, lấp lánh; cũng có lúc, chú thấp thỏm đợi chờ…Rồi có những lúc chú quanh quẩn bên chân tôi. Cái mào đỏ lắc lư, cái miệng hé mở như muốn tâm sự cùng tôi, muốn nói với tôi những điều thầm kín tự đáy lòng. Tôi vội vàng cho chú nắm thóc. Chú tục tục như muốn nói lời cảm ơn người chủ nhỏ. Có lẽ chú cũng sống rất tình cảm với đồng bọn nên thường có lũ gà mái bên cạnh. Bới được con giun, chú tục tục gọi lũ gà mái đến xơi. Các chị gà mái vừa ăn vừa thì thầm bàn chuyện đẻ trứng trong ngày. Chú gà trống đáng yêu chỉ biết liếc mắt nhìn như nghe ngóng, có lúc chú vỗ đồm độp đôi cánh như muốn động viên các bạn gà mái hãy chăm chỉ đẻ trứng, nuôi con. Khi tạm rời mảnh sân nhỏ thân quen, chú còn tục tục mấy tiếng vui tai rổi nhảy phốc lên cành cây gáy vang. Chú thật vui khi mọi vật và con người bắt tay vào việc. Chú hớn hở cùng họ hàng nhà gà đi kiếm mồi, tìm những con giun đang ẩn nấp trong lòng đất, tìm những con sâu đang chui dưới luống rau. Chú cùng các bạn làm việc, hoạt động. Tuy bận rộn như thế nhưng chú không quên công việc báo giờ giấc của mình. Tiếng gáy của chú là hiệu lệnh hoạt động cho con người. Nhờ có chú mà tôi học bài đúng giờ giấc, nghỉ ngơi hợp lý. Tiếng gáy của chú như lời nhắn gọi tôi không quên nhiệm vụ học tập, không để thời gian trôi đi vô vị, hãy làm nhiều điều có ích trong cuộc sống. Đúng như lời thơ Bế Kiến Quốc đã viết: Ngày hôm qua ở lại. Trong vở hồng của con Con học hành chăm chỉ. Là ngày qua vẫn còn. Cảm nghĩ về một con vật nuôi của nhà em – Bài làm 3 Đầu xuân năm nay, ở hội thi nuôi trâu bò béo khỏe của làng, con trâu tơ nhà em đã giành được giải nhất. Em vui mừng và hãnh diện vì bao công lao vất vả chăm sóc nó nay đã được đáp đền xứng đáng. Cách đây hai năm, bố em lặn lội sang tận Phú Thọ để tìm mua một con nghé tốt. Em còn nhớ hôm bố dẫn nghé về, cả xóm kéo đến xem, nhiều người trầm trồ khen con nghé đẹp. Bố tươi cười bảo em : "Bố giao nó cho con đấy ! Con có thích không ?". Em nhảy cẳng lên mừng rỡ. Thế là từ nay, em đã có thêm một người bạn mới. Nghé con dễ thương vô cùng ! Trên đầu, cặp sừng non mới nhú. Đôi mắt to tròn ngơ ngác nhìn cảnh vật lạ lẫm xung quanh. Thân hình nó mập mạp, cân đối, bốn chân vững chãi, cái đuôi ngắn phe phẩy đuổi ruồi. Giữa đám đông ồn ào, ý chừng cu cậu sợ nên cứ hốt hoảng kêu : "Nghé ọ ! Nghé ọ… ọ… ọ !". Em đỡ lấy sợi thừng từ tay bố, dắt nghé vào chiếc chuồng mới ở góc vườn. Trên nền đất nện, em đã rải một lượt rơm. Bó cỏ tươi non và máng nước sạch đặt ngay cạnh cửa. Đêm ấy lạ chuồng, nghé con không ngủ được. Nó bồn chồn giậm chân gõ móng rồi lạ cất tiếng gọi mẹ. Em vuốt ve cổ nghé rồi thì thầm vào tai nó: "Anh biết là em đang nhớ mẹ ! Ngoan nào ! Ăn no ngủ kĩ rồi sáng mai anh cho em ra đồng chơi nhé !". Chẳng biết là nghé có hiểu gì không nhưng sau đó nó cúi xuống ngoạm một nắm cỏ tươi, lặng lẽ nhai. Nhìn nó, tự dưng trong lòng em dâng lên một tình thương mến lạ lùng ! Sáng sớm hôm sau, em dắt nghé ra đồng. Dưới làn mưa xuân bay lất phất, cỏ hai bện vệ đường xanh mướt, lún phún như mạ non. Không gian trong lành, thoang thoảng mùi hương man mác của đồng quê. Nghé con tung tăng gặm cỏ, chốc chốc lại chạy quẳng lên vài bước. Xuân qua, hè đến. Chiều chiều, em dắt nghé ra triền sông gần nhà cho nghé tắm. Nghé ngâm mình trong làn nước mát, chỉ hở cái đầu. Em lấy nắm rơm kì cọ cho nghé thật sạch. Nghé giỡn chán ghê, em dắt nó lên bờ. Cu cậu rùng mình vẩy nước, hai lỗ mũi đen ướt thở phì phì, ra vẻ thích thú và khoan khoái lắm. Thấm thoắt hai năm đã trôi qua, nghé con đã lớn thành chú trâu tơ to khỏe. Cặp sừng cong vút, đầu lớn, trán gồ, tai to, mắt sáng. Các bắp thịt ở lưng, ở vai nổi lên săn chắc dưới làn da đen bóng. Trâu tơ khỏe và biết nghe lời chủ. Nó đỡ đần cho gia đình em rất nhiều trong công việc nhà nông. Em rất thích được nằm ngửa trên cái lưng rộng như cánh phản của chú trâu tơ, ung dung hóng mát vào những chiều hè lồng lộng gió nồm nam ; tha hồ ngắm những đám mây đủ hình dạng đang lãng đãng bay về phía trời xa. Chú trâu tơ thong dong gặm cỏ. Mùi cỏ gấu, cỏ mật hăng hăng thơm ngọt hòa cùng hương lúa trổ đòng… tạo nên hương vị quen thuộc của quê hương.
Cảm xúc về một con vật nuôi của nhà em – Văn mẫu lớp 7
2,067
Nội dung bài viết1 Cảm xúc về một người thân trong gia đình – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên 2 Cảm nghĩ về một người thân trong gia đình – Bài làm 2 3 Cảm xúc về một người thân trong gia đình – Bài làm 3 Cảm xúc về một người thân trong gia đình – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên Sau những giờ học căng thẳng trên lớp hay mỗi khi có chuyện buồn, em chỉ mong trở về nhà thật nhanh để được nhìn thấy bóng dáng thân thương, yêu quý của ông nội. Với em, ông nội là một người vô cùng quan trọng. Em không chỉ yêu thương, kính trọng mà còn vô cùng biết ơn vì những bài học quý báu ông dành cho em. Ông nội em năm nay đã gần tám mươi tuổi. Tuy thế, ông vẫn thật khỏe mạnh. Ông có dáng người đậm và chắc, bước đi điềm tĩnh, khoan thai. Râu tóc của ông đã bạc trắng nhưng da dẻ vẫn hồng hào. Đôi mắt của ông không còn màu đen trong tinh anh mà đã thoáng màu mờ đục, khi đọc sách, người thường phải dùng đến cặp kính lão cất cẩn thận trong hộp. Râu ông mọc dài đến ngang ngực. Đôi lúc, hình ảnh của ông khiến em nghĩ đến một ông tiên, ông Bụt nào đó trong cổ tích. Đặc biệt, hai cánh tay của ông con khá săn chắc, thỉnh thoảng, ông vẫn xách những xô nước mà em phải ì ạch mãi không chuyển được. Nhìn ông đánh đàn trâu ra bờ mương chăn không ai tin được tuổi ông đã đến vậy. Ông cũng rất ít ốm đau, các cô bác hàng xóm thường khen: “Ông thật có phúc!”. Riêng em, em hiểu rõ tại sao sức khoẻ của ông lại tốt như thế. Ấy là vì ông rất chăm tập thể dục. Sáng sáng, ông dậy sớm làm vệ sinh cá nhân rồi lên tầng thượng tập tạ. Buổi chiều, ông lại gọi em, hai ông cháu chạy bộ trong sân trường tiểu học. Thêm nữa còn là chế độ ăn uống của ông. Mỗi bữa ông ăn nhất định một số lượng cơm, ăn nhiều rau và mỗi ngày uống một chén rượu nhỏ. Điều em khâm phục nhất là ông giữ chế độ tập luyện và ăn uống rất điều độ. Em học được ở ông tính tự giác và kỉ luật cao; theo tấm gương ấy của ông, em học bài và làm bài đều đặn, cố gắng không để những việc riêng làm ảnh hưởng đến chuyện học tập. Không chỉ vậy, ông còn là một tấm gương mẫu mực về lối sống trong gia đình khiến mọi người yêu quý, kính trọng. Ông sống tiết kiệm, ngăn nắp và điềm tĩnh. Phòng riêng của ông lúc nào cũng gọn gàng, sạch sẽ; Ông thường tự quét dọn, sắp xếp lấy phòng mình, ít khi phiền đến con cháu. Mỗi dịp lễ Tết, bố mẹ em lại muốn mua biếu ông quần áo hoặc bộ cần câu mới nhưng ông đều từ chối nói rằng để cho cu Tít (là em) ăn học. Đôi khi, bố mẹ em có điều gì to tiếng với nhau, ông lại nhẹ nhàng hòa giải, nhắc nhở rằng phải biết lấy hòa thuận trong gia đình làm trọng, tránh cãi vã lẫn nhau ảnh hưởng không tốt đến con cái. Riêng em, từ nhỏ đến lớn, em giống như cái bóng nhỏ loắt choắt theo chân ông. Với em, ông vừa cưng chiều vừa nghiêm khắc dạy dỗ. Được ai biếu tặng tiền, ông đều gọi bố mẹ em đến nói rằng ông “cho thằng Tít”, dặn bố mẹ em phải biết cách tiêu cho con. Lương hưu hàng tháng, ông cũng trích ra để khi thì mua cho em sách vở, lúc lại mua quà hay mua quần áo mới cho em. Những lúc rảnh rỗi, ông còn dạy em làm diều, làm đèn Trung thu, câu cá,… Thậm chí, ông còn làm “quân sư” cho em khi em gặp những chuyện không hay, khó xử nữa. Bởi thế, với em, nhắc đến ông là nhắc đến bao niềm yêu thương đầy thiêng liêng, xúc động. Ông nội thật là một cây cao bóng cả tỏa mát trên mái nhà của gia đình em. Yêu quý ông, em ước ông sống thật lâu để em được học từ ông những điều hay điều đẹp. Em cũng tự nhủ phải cố gắng học thật giỏi để làm ông vui lòng! Cảm nghĩ về một người thân trong gia đình – Bài làm 2 Đã biết bao bài thơ, bài văn nói về mẹ, nói về những tình cảm thân thiết nhất của mẹ dành cho con. Ôi! Mẹ kính yêu của con! Không có một nhà văn nào, lời bài hát nào có thể sánh được tình cảm của mẹ. Nếu có một ông Tiên hiện ra và ban cho con một điều ước, con sẽ ước rằng: Mẹ sẽ sống mãi mãi trên cõi đời này, luôn đi bên con và sát cánh mãi mãi bên con. Giá như điều đó trở thành sự thật, dù có phải chờ đợi thật lâu thì con vẫn hi vọng mong ước đó sẽ trở thành sự thật. Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Con không biết hết được những câu thơ, bài hát nói về mẹ, nhưng con vẫn hiểu rằng, mẹ là cất cả. Tình mẹ được so sánh với biển Thái Bình nhưng trong tâm trí mỗi người, mẹ còn hơn cả biển rộng lớn, bao la, ngút ngàn ấy. Con yêu mẹ nhiều lắm, nhiều hơn cả chân trời vô tận không biết đâu là bến bờ. Và tình cảm của con sẽ không bao giờ thay đổi, mãi mãi sẽ như vậy. Mẹ tần tảo nuôi con từng ngày từng giờ. Nhớ dáng hôm nào mẹ lặng lẽ đưa theo con ra chợ bán rau, rồi đến tối mịt mới đưa con về nhà. Hay cả những lần mẹ chơi với con vui vẻ, sung sướng biết nhường nào,… giờ đây chỉ còn là kí ức. Khi con đã lớn khôn, con đã hiểu được trong niềm vui sướng ấy, mẹ có biêt bao nhiêu nhọc nhằn, vất vả hằn trên vầng trán cao. Và mẹ đã kìm nén nước mắt để cho con được nở nụ cười ngây thơ, tinh nghịch như bao đứa trẻ khác. Mẹ đã che chở cho con đến khi trưởng thành, nuôi con lớn khôn để mong một ngày con sẽ có ích cho xã hội. Mẹ ơi! Ngày đó không còn xa nữa đâu! Con hứa sẽ không phụ công sinh dưỡng của mẹ. Con biết mẹ tưởng rằng con đã quên kí ức xa xưa vì con còn bé, nhưng con không hề quên. Người dạy con nói tiếng đầu tiên là mẹ, người dắt con chập chững bước những bước đi đầu tiên cũng là mẹ. Mẹ sưởi ấm cho con khi gió mùa đông bắc tràn về, quạt mát cho con khi mùa hè nóng nực tràn đến. Tất cà những điều đó con đều khắc ghi từng kỉ niệm trong lòng. Lời ru của mẹ êm đềm như dòng suôi chảy, thướt tha như gió mùa thu, đưa con đi đến những miền cổ tích xa xưa. Ngay cả đến khi con lớn, mẹ vẫn luôn sát cánh bên con, cùng con đi trên những chặng đường học gian nan. Mẹ là ánh nắng mặt trời lấp lánh rọi sáng cho con trên con đường đầy khoảng trống phía trước, sưởi ấm cho con qua con đường khó khăn ấy. Con hiểu mỗi bước đi của con đều khắc ghi những tình cảm thiết tha, êm đềm của mẹ. Cảm xúc về một người thân trong gia đình – Bài làm 3 Đêm mùa hè, gió nồm nam lồng lộng thổi trong những lũy tre ven làng, đem theo hương lúa chín vào đến tận ngóc ngách xóm thôn. Trên bầu trời đêm thăm thẳm, muôn vạn vì sao nhấp nháy tinh nghịch như mắt trẻ thơ. Trăng non đầu tháng cong cong như lưỡi liềm bạc, tỏa ánh sáng mờ mờ xuống mặt đất ẩm sương. Trong vườn, tiếng côn trùng rỉ rả hòa cùng tiếng ếch nhái uôm oam văng vẳng ngoài đồng. Làng quê đang chìm dần vào giấc ngủ an lành sau một ngày làm lụng vất vả. Trên chiếc võng đay mắc giữa hai gốc cau trước sân nhà, em nằm sát bên bà, lắng nghe bà kể chuyện. Bà em là một kho tàng cổ tích, ca dao. Bà thuộc làu nhiều chuyện và kể rất hay ! Đã thành thói quen, trước khi đi ngủ, bao giờ em cũng đòi bằng được bà kể cho nghe vài chuyện. Bà em năm nay tuổi đã ngoài bảy mươi nhưng sức khỏe vẫn dẻo dai và trí óc còn minh mẫn lắm ! Mái tóc bạc trắng búi gọn sau đầu. Gương mặt đầy đặn, phúc hậu. Đôi mắt nheo nheo với ánh nhìn ấm áp hiền từ cùng nụ cười độ lượng tạo cho bà vẻ cởi mở, thân thiện, rất dễ gần. Ông em mất từ lúc bà còn rất trẻ. Một nách hai con nhỏ, bà quần quật làm việc nuôi con. Bố em kể rằng lúc học hết cấp hai, thấy bà quá vất vả, bố đã xin nghỉ học để đỡ đần nhưng bà nhất quyết không cho. Bà chỉ có một mong ước là các con học hành nên người để cuộc sống sau này đỡ khổ. Hiểu lòng bà, bố em đã phấn đấu trờ thành kĩ sư nông nghiệp và cô Thủy em của bố giờ đây là giáo viên dạy Toán ở trường Trung học phổ thồn của huyện. Tuy cuộc sống vật chất còn khó khăn so với nhiều nhà trong làng nhưng bà em rất tự hào về những người con thành đạt và hiếu thảo. Em yêu bà lắm ! Chuyện ở nhà, ở lớp… em hay hỏi ý kiến bà và bao giờ cũng nhận được từ bà những lời khuyên đúng đắn, chí tình. Bà thường chỉ bảo cho em những điều cần thiết trong cuộc sống như danh dự, uy tín, cung cách cư xử với người trên, với bạn bè sao cho tốt, cho hay. Những câu tục ngữ, ca dao quen thuộc đã thấm rất sâu vào suy nghĩ và trở thành lời ăn tiếng nói tự nhiên hằng ngày của bà đối với con cháu trong nhà và họ hàng, làng xóm. Mỗi khi em tỏ ra ngại khó, bà khuyên : "Có chí thì nên". Lúc đùa vui, em lỡ cười to nói lớn, bà nhẹ nhàng nhắc nhở : "Con gái phải nết na, ý tứ". Được sự chở che, bao bọc và dạy dỗ của bà, em thấy mình vô cùng hạnh phúc ! Nhà nghèo, của cải chẳng có gì đáng giá nhưng em vẫn tự hào với truyền thống tốt đẹp của gia đình : Đói cho sạch, rách cho thơm. Đấy là thứ tài sản quý báu nhất mà bà em để lại cho con cháu.
Cảm xúc về một người thân trong gia đình – Văn mẫu lớp 7
1,891
Nội dung bài viết1 Dựa vào Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tuớng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những nguời lãnh đạo anh minh – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa 2 Dựa vào Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tuớng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những nguời lãnh đạo anh minh – Bài làm 2 3 Dựa vào Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tuớng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những nguời lãnh đạo anh minh – Bài làm 3 Dựa vào Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tuớng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những nguời lãnh đạo anh minh – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Đối với một quốc gia, nhắc đến những nhà lãnh đạo đất nước là nhắc đến những người đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước hay tổ chức quân sự, văn hoá… Đứng trên cương vị một nhà lãnh đạo, trước hết họ phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng, nhận định đúng tình hình đất nước, từ đó xác định đúng nhiệm vụ của cả dân tộc. Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, uyên bác thông hiểu kim cổ đông tây. Vị vua đầu tiên của triều Lý đã nhắc đến gương chuyển đô của vua Bàn Canh nhà Thương, nhà Chu. Trần Quốc Tuấn lại nêu gương những anh hùng hào kiệt, biết xả thân vì chủ tướng vì đất nước: Do Vu, Dự Nhượng, Kỉ Tín,… Có thể nói, biết "ôn cố” để "tri tân" là một trong những tố chất không thể thiếu của một nhà lãnh đạo. Và từ việc "nhớ chuyện cũ", các nhà lãnh đạo tài ba đã thể hiện thiên năng "biết chuyện mới, chuyện đời nay” rất tài tình. Nhà Đinh, Lê "không noi theo dấu cũ Thương Chu" giữ nguyên vị trí kinh đô tại Hoa Lư mà đất Hoa Lư chỉ là chốn núi rừng hiểm trở, khắc nghiệt. Điều đó khiến thời vận đất nước gặp nhiều trắc trở. Lịch sử cũng đã chứng minh điều đó, hai nhà Đinh Lê triều vận ngắn ngủi, nhân dân gặp nhiều khó khăn.. Có thể nói, việc phê phán hai triều Đinh, Lê một phần lớn đã thể hiện tầm nhìn lãnh đạo của Lí Công Uẩn. Ông đã nhìn rõ một thực tế quan trọng: đất nước đang bước vào thời bình, Hoa Lư không còn phù hợp với vị thế kinh đô nữa! Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Từ thực tế của việc giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần một và thái độ của chúng hiện nay, ông đã thấu rõ nguy cơ của một cuộc chiến chống xâm lược. Sang nước ta, quân Nguyên Mông “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt Tể phụ”, “đi lại nghênh ngang”, bắt dân ta cống nạp khoáng sản, vàng bạc.. Vậy rõ ràng, chúng chưa hề thấm thía bài học từ thất bại của cuộc xâm lược lần một và đang mưu mô cuộc chiến tranh ăn cướp lần hai. Giặc như vậy còn lực lượng quân sĩ ta thì sao? Vị nguyên soái lỗi lạc thêm một lần đau xót khi chứng kiến thực cảnh binh sĩ dưới quyền lơ là mất cảnh giác trước nguy cơ mất nước. Họ “hoặc thích chọi gà, hoặc mê tiếng hát”, chơi cờ… Ông cay đắng chỉ ra một điều tất yếu là khi giặc đến những thú vui ấy chỉ trở thành tai họa “cựa gà trống không đâm thủng áo giáp của giặc”, “tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai", “mẹo đánh cờ không thể dùng làm mưu lược nhà binh”… Từ việc nhìn nhận thấu suốt tình hình đất nước, các nhà lãnh đạo anh minh đều xác định rõ nhiệm vụ của quân và dân. Điều quan trọng là họ có những quyết định đúng đắn, những hành động táo bạo để đưa đất nước đển được bến bờ của sự bình yên và phát triển. Lí Thái Tổ xác định nhiệm vụ hiện tại là cần dời đô khỏi Hoa Lư. Nhưng dời đô đến đâu? "Thành Đại La.. là nơi trung tâm trời đất,có thế rồng cuộn hổ ngồi lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta chỉ có nơi đây là thánh địa”. Từ việc có ý thức sâu sắc ưu thế của thành Đại La đối với việc phát triển đất nước, Lí Thái Tổ đã có quyết định đúng đắn là thiên đô về mảnh đất văn hiến này. Trần Quốc Tuấn trên cương vị Tổng chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đã khẳng định ý chí đánh giặc của toàn dân tộc đồng thời khuyên khích, động viên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Ông khuyên quân sĩ phải biết “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”, phải biết ra sức tập luyện để sẵn sàng chiến đấu. Không chỉ vậy, ông còn soạn thảo “Binh thư yếu lược” làm sách lược cho binh sĩ tập luyện, rèn quân. Dựa vào Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tuớng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những nguời lãnh đạo anh minh – Bài làm 2 Có thễ nói dân tộc VN đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, đó là một truyền thống rất đáng tự hào. Đất nước sống đời thái bình, no ấm chính là nhờ tài đức của các vị vua, các vị tướng sĩ văn võ song toàn như Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ), Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo Vương). Họ là những người lãnh đạo anh minh suốt đời vì vận mệnh của đất nước. Dựa vào văn bản “Chiếu dời đô” Lý Công Uẫn và văn bản “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn chúng ta sẽ làm sáng tỏ điều đó. Như chúng ta đã biết, Lý Công Uẩn vốn là người thông minh nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều chiến công. Vì thế, khi Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Lý Công Uẫn lên ngôi đã lập tức quyết định dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La, bởi nhà vua hiễu rõ Đại La chính là vùng đất mà nhân dân sẽ sống no ấm, đất nước được hưng thịnh đời đời. Lý Công Uẩn quyết định như thế không phải theo ý riêng mình mà chính là lo cho vận nước, hợp với lòng dân. Người viết “Chiếu dời đô” bày tỏ mục đích dời đô là: “vân mệnh trời”, “theo ý dân”, “thấy thuận thiên thì thay đổi”, dời đến nơi “trung tâm trời đất”, tiện hướng “nhìn sông dựa núi”,… “nơi đây là thánh địa”. Đọc văn bản “chiếu dời đô” ta cảm nhận Lý Công Uẩn không chỉ là 1 vị vua có tài mà còn có đức, ông xứng đáng là vị vua anh minh bậc tiên đế muôn đời. Quyết định dời đô của ông là rất sáng suốt bởi vì kinh đô Đại La đã vững mạnh suốt 200 năm, có nghĩa là nhân dân thái bình, no ấm trong suốt thời gian đó (kinh đô Đại La_Thăng Long_chính là thủ đô Hà Nội ngày nay, linh hồn của VN) Thời kì nhân dân Đại Việt phải đương đầu với quân Nguyên_Mông hung hãn, vị nguyên soái Trần Quốc Tuấn tức Hưng Đạo Vương đã ba lần cầm quân đánh bại quân xâm lược. Ông xứng đáng là một vị anh hùng của dân tộc. Trước năm 1285, Trần Quốc Tuấn đã viết bài “Hịch tướng sĩ” với mục đích kêu gọi tướng sĩ học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ đễ chuẩn bị đánh quân xâm lược. Bài Hịch có sức thuyết phục rất cao bởi lập luận sắc bén, có tình có lý. Trong bài Hịch Trần Quốc Tuấn sáng suốt nêu gương các trung thần nghĩa sĩ của Trung Quốc đễ đánh vào lòng tự tôn của các tướng sĩ dưới quyền. Ông nhắc lại cách đối xử thân tình của mình đến với họ, chỉ cho họ thấy tội ác của giặc, bày tỏ tấm lòng của mình trước vận mệnh của đất nước. Trần Quốc Tuấn đã phản ánh phê phán sự bàng quan vô trách nhiệm của các tướng sĩ. Vạch ra nguy cơ nước mất nhà tan, rồi lật ngược vấn đề: Nếu tướng sĩ lo học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ thì mọi người được sử sách lưu danh. Với cách lập luận như thế, Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy, khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc của tất cả mọi người. Trần Quốc Tuấn vốn là con nhà võ nhưng thấu đáo sự học làm người, nắm rõ “tam cương, ngũ thường”. Ông xứng đáng là 1 tấm gương để chiến sĩ noi theo. Trong kho tàng văn học nước nhà “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn xứng đáng là một “An thiên cỗ hùng văn”, “tiếng kèn xung trận hào hùng”, mãi mãi nhân dân thời Trần (thế kỉ 13) và mọi đời sau sẽ không bao giờ quên công đức của ông. Nói tóm lại, lịch sử đất nước Việt Nam có những trang vàng chói lọi là nhờ vào những vị vua, vị tướng anh minh như Lý Công Uẫn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… Họ là tấm gương sáng ngời đễ đời sau soi vào đó mà học tập. Chúng ta tưởng nhớ đến Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân giành độc lập ngày hôm nay. Chúng ta chắc chắn Bác đã noi gương những người đi trước. Sống xứng đáng với sự hi sinh của họ. Bác đã từng nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Và người cũng đã ân cần dạy tuổi trẻ “có tài mà không có đức thì là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Dựa vào Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tuớng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những nguời lãnh đạo anh minh – Bài làm 3 Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại. Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hưởng quyết định đến vận mệnh đất nước. Đọc lại áng văn Chiếu dời đô của Lí Công uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, chúng ta thấy sáng ngời nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vôcùng to lớn trong sự phát triển của dân tộc dù lúc đất nước lâm nguy hay thái bình, thịnh vượng. Đất nước có giặc, hoạ ngoại xâm đe doạ nền hòa bình của dân tộc cũng là lúc cần đến những vị tướng tài ba. Trần Quốc Tuấn ghi dấu trong lịch sử dân tộc và để lại ấn tượng sâu đậm về một võ tướng có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn gắn tên mình với Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử. Là người đã bẻ gẫy ý đồ xâm lược hung hăng của đế quốc Nguyên – Mông. Nhà quân sự kiệt xuất này có những chiến công hiển hách là nhờ ông quan tâm tới vận mệnh nước nhà bằng trái tim và ý chí của một anh hùng dân tộc. Cái tâm và cái tài của một vị tướng, một người con yêu nuớc,trung với vua được thể hiện rõ nét trong áng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Đọc “Hịch tướng sĩ” ta ngỡ như nghe tiếng nói của cha ông, của non nước. Nó nồng nàn tinh thần yêu nước, biểu hiện lòng câm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù, không chỉ là của riêng Trần Hưng Đạo mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc yêu tự do và giàu tự trọng. Trước tai hoạ đang đến gần : quân Mông – Nguyên lăm le xâm lược lần thứ hai với tâm địa không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt mọc dưới vó ngựa của năm mươi vạn quân. Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ một lòng đương đầu với cuộc chiến sống còn. Nhũng lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm, những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã chỉra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giặc và những việc cần làm để chống giặc. Trần Quốc Tuấn đau nỗi đau của dân tộc, nhục cái nhục quốc thể. Tác giả ngứa mắt khi thấy “sứ giặc đi lại nghênh ngang”, ngứa tai khi chúng “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình”. Tác giả rất khinh bỉ, đã “vật hoá” chúng, gọi là “dê chó”, là “hổđói”. Ông mượn những tấm gương bậc nghĩa sĩ trung thần đã xả thân vì đất nước, vì nhân dân để khích lệ lòng tự trọng ởcác tướng sĩ. Ông cũng biết lấy những suy nghĩ, việc làm của mình để khơi dậy lòng yêu nước của họ Viết cho tướng sĩ, nhưng ta thấy ông phơi trải tấm lòng mình, Trần Quốc Tuấn không khỏi băn khoăn lo lắng, đến độ quên ăn,mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột. Nỗi lo lắng đó được ông bày tỏ với binh sĩ: “Ta thường đến bữa quên ăn,nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Không chỉcăm thù giặc mà Trần Quốc Tuấn còn nguyện hi sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trâm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Trần Quốc Tuấn quả là một con người yêu nước thương dân, ông đúng là tấm gương sáng cho binh sĩ noi theo để mà biết hy sinh bản thân vì nước vì dân. Một vị tướng tài ba, ngoài lòng yêu nước, tài năng quân sự, họ còn phải biết yêu thương, dạy bảo binh sĩ. Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Ông luôn quan tâm, chia sẻ, xem binh sĩ như những người anh em khi xông pha trận mạc cũng như khi thái bình. Cũng chính nhờ tình cảm đó, ông đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ. Nhưng yêu thương, lo lắng cho binh sĩ không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ nhẹ nhàng mà là nghiêm khắc, quyết liệt phê phán những việc làm thái độ sai trái của họ: thờ ơ, bàng quan trước vận mệnh Tổquốc lâm nguy, quên mất trách nhiệm của mình đối với vận mệnh tổ quốc và nếu các tướng sĩ không nghe theo thì hiểm họa trước mắt thật đau xót: “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào Những lời giáo huấn của ông đã thức tỉnh biết bao binh lính, giúp họ nhận thức hơn vềđộc lập dân tộc. Và hơn hết là chỉ ra những việc cần làm đó là hãy đề cạo cảnh giác, đoàn kết trước nguy cơ mất nước. Ông đã thảo cuốn binh thư yếu lược đểcác tướng sĩ học theo, từ bỏ lối sống xa hoa, chuyên chăm vào việc rèn luyện võ nghệ để mọi người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ để có thể chiến thắng được kẻ thù xâm lược. Chăm học “Binh thư yếu lược” cũng là một cách rèn luyện đểchiến thắng quân thù. Thật hả hê khi nghĩ đến giây phút chúng ta chiến thắng, chưa đánh giặc nhưng Trần Quốc Tuấn đã ca khúc khải hoàn “chẳng những thân ta kiếp này đắc chí mà đến các người trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền Lời tâm sự của Trần Quốc Tuấn với các tướng sĩ thật chân thành khiến các tướng sĩ một lòng khâm phục vị tướng tài vì xã tắc mà dám hi sinh, dám chiến đấu. Những con người ưu tú như Trần Quốc Tuấn quả là bậc danh tướng có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh điều mà Trần Quốc Tuấn đã nói. Cùng với sự đồng lòng toàn dân toàn quân, Việt Nam đã dành thắng lợi trước kẻ thù hùng mạnh nhất thời kì đó. Trong đó vai trò lãnh đạo của người lãnh đạo đóng vai trò quyết định, ông được nhân dân Việt Nam tôn thờ gọi là Đức Thánh Trân. Ta bắt gặp lại chí khí, tài năng của ông trong những nhà quân sự tài ba của thế kỉ XX đã làm nên huyền thoại Điện Biên Phủ, làm nên đại thắng Mùa xuân 1975. Đấy là trong thời chiến, ngay cả khi đất nước thái bình ta cũng không thể không cần một vị vua anh minh, hiền tài biết lo cho trăm họ. Và một trong những vị vua tài giỏi, lỗi lạc của đất nước là Lí Công uẩn, ông là người đầu tiên lập nên triều đại nhà Lí ở nước ta. Ông là người thông minh, nhân ái, yêu nước thương dân, có chí lớn và lập được nhiều chiến công. Lí Công uẩn luôn mong muốn đất nước được thịnh trị, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Chính vì thế, ông nhận thấy Hoa Lư không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Vì ông muốn đóng đô ởnơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu nên ông đã ban bố Chiếu dời đô vào năm 1010 để “trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân ”, tỏ bày ý định rời kinh đô cũ từ Hoa Lư (Ninh Bình)khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế. Nơi đấy không phải là Hoa Lư chật hẹp, mà là một nơi địa thế rộng, bằng, đất đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi về tất cả mọi mặt thì nhân dân được ấm no, thanh bình, việc dời đô đã hợp với thiên thời địa lợi nhân hòa. Nơi ấy là thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Sau đó, ông đổi tên kinh đô thành Thăng Long. Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt rất lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt. Cũng là khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lí – triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao vòi vọi. Kinh đô Thăng Long quả là cái nối lập đểnghiệp cho muôn đời là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời. Lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế. Mỗi lần dời là một thử thách của dân tộc. Đó phải là quyết định của những đầu óc ưu tú nhất thời đại. Nói cách khác, không có ý chí quyết tâm lớn, không có tầm nhìn thấu cả tương lai thì Lí Công uẩn không thể nói đến chuyện dời đô. Mởđầu bài chiếu, nhà vua giải thích tại sao lại dời đô. Và bằng lập luận ngắn gọn nhưng sắc sảo, cùng với dẫn chừng thiết thực, nhà vua đã khẳng định: việc dời đô không phải là hành động, là ý muốn nhất thời của một người. Nó là biểu hiện cho xu thế tất yếu của lịch sử. Lí Công uẩn tuyệt vời là đã hiểu được khát vọng của nhân dân, khát vọng của lịch sử. Dân tộc Việt không chỉ là nước độc lập. Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông, nhân tâm con người phải thu về một mối. Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành quốc gia thống nhất vững mạnh, ông tâm đắc và rất vui vì tìm một nơi “trung tâm của trời đất”, nơi có thể“rồng cuộn hổngồi”, hào hứng nói tới cái nơi “đúng ngôi nam bắc đông tây" lại “nhìn sông dựa núi”. Nơi đây là mảnh đất lí tưởng dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt, muôn vật rất mực phong phú tốt tươi.” Thật cảm động trước tấm lòng của vị vua anh minh, quan tâm tới nhân dân, tìm chốn lập đô cũng vì dân, mong cho dân được hạnh phúc. Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt rất lớn. Nó đánh dáu sự đất thành của dân tộc Đại Việt. Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên, đưa đất nước trở thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc. Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏý định với các quan trong triều ý định dời đô giàu sức thuyết phục. Những điều vua nói cách đây cả ngàn năm nhưng hôm nay nhìn lại vẫn giữ nguyên tính chân lí của nó. Trải qua bao thăng trầm, con rồng ấy vẫn bay lên bầu trời như thách thức sự vô hạn của thời gian.“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổđộc đáo, đặc sắc, đúng là khẩu khí của bậc đế vương. Đó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ. Triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lí Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình. Đọc lại áng văn “Chiếu dời đô “của Lí Công uẩn và bản hùng văn bất hủ muôn đời “Hịch tướng sĩ“ của Trần Quốc Tuấn, chúng ta thấy sáng ngời nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong trường kì phát triển của dân tộc và thời nào cũng vậy dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam cầnlàm những nhà lãnh đạo giàu tâm và tài như vậy.
Dựa vào Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tuớng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những nguời lãnh đạo anh minh – Văn mẫu lớp 8
3,886
Nội dung bài viết1 Dựa vào cách tổ chức cuộc họp em đã biết, em hãy cùng các bạn tập tổ chức một cuộc họp tổ – Bài làm 1 2 Dựa vào cách tổ chức cuộc họp em đã biết, em hãy cùng các bạn tập tổ chức một cuộc họp tổ – Bài làm 2 Dựa vào cách tổ chức cuộc họp em đã biết, em hãy cùng các bạn tập tổ chức một cuộc họp tổ – Bài làm 1 HỌP TỔ BÀN BẠC CÁC TIẾT MỤC VĂN NGHỆ CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP ĐỘI 15 – 5 a) Lí do và mục đích cuộc họp: Thưa các bạn! Hôm nay, tổ chúng ta họp bàn về việc chuẩn bị 3 tiết mục văn nghệ góp cùng với lớp đế chào mừng ngày sinh nhật Đội Thiêu nién Tiền phong Hồ Chí Minh 15 – 5. b) Tình hình hiện nay của tổ và yêu cầu của lớp: Trong cuộc họp của tổ trưởng với ban cán bộ lớp có cô giáo chủ nhiệm dự hôm thứ sáu tuần qua, tổ ta được lớp phân công 3 tiết mục, gồm: 1 đơn ca, 1 song ca và 1 tiết mục kể chuyện hoặc ngâm thơ hay múa đều được. Từ khi nhận nhiệm vụ trở về, tôi có suy nghĩ như thế này: về văn nghệ, khả năng cua tổ ta rất lớn, nhiều bạn hát hay múa đẹp, như bạn Ngân, bạn Thảo, bạn Phương, bạn Hằng và nhiều bạn khác nữa. Tuy nhiên, vì chưa trao đổi bàn bạc chung cả tổ, nên tôi đề nghị các bạn thảo luận cho ý kiến xác định cụ thể các tiết mục rồi sau đó ta lấy tinh thần xung phong, được không các bạn? c) Kết luận phân công: Sau khi thảo luận và lấy tinh thần xung phong của các bạn, tôi tổng hợp lại như sau: – Quyết định chọn 3 tiết mục, gồm: 1 đơn ca, 1 song ca và 1 múa. – Đơn ca giaọ cho bạn Ngân (tự tập). – Song ca giao cho Phương với Hằng (tự tập). – Múa giao cho: Ngân, Thảo, Phương, Hằng (mỗi buổi chiều tập1 tiếng, từ thứ 2 đến thứ 6). – Tổ trưởng chịu trách nhiệm liên hệ với cô Diễm Trang nhờ cô đến chỉ đạo, tập múa. Dựa vào cách tổ chức cuộc họp em đã biết, em hãy cùng các bạn tập tổ chức một cuộc họp tổ – Bài làm 2 HỌP TỔ BÀN VỀ VIỆC GIÚP ĐỠ MỘT BẠN TRONG TỔ GẶP KHÓ KHĂN a) Lí do và mục đích cuộc họp tổ: Thưa các bạn! Hôm nay, tổ chúng ta họp bàn về việc giúp đỡ một bạn trong tổ đang gặp khó khăn bỏ học, để bạn ấy quay trở lại cùng học với chúng ta. Đó là bạn Thành. b) Hoàn cảnh của bạn Thành. Theo tôi được biết, hoàn cảnh gia đình của bạn Thành hết sức vất vả. Bấ của bạn ấy bị tai nạn giao thông đã mất hai năm nay. Bạn là con đầu, sau bạn còn hai em nữa. Đứa nhỏ út mới bốn tuổi, hàng ngày phải theo mẹ của bạn ấy đi bán vé số dạo để kiếm sống. Thời gian qua, bạn ấy đi học một buổi, còn một buổi cũng đi bán vé số giúp gia đình. Tôi nghĩ, chắc vì đời sống khó khăn quá, nên bạn ấy mới nghỉ học. Vì vậy, trong cuộc họp tổ hôm nay, tôi đề nghị các bạn bàn bạc thảo luận xem có cách gì giúp đỡ bạn Thành không, may ra bạn ấy còn có cơ hội trở lại học tập vởi chúng ta?. c) Biện pháp giúp đỡ: Vừa rồi chúng ta có nhiều ý kiến rất hay, tôi xin tổng hợp lại và kết luận như sau: + Chúng ta đến nhà bàn bạc với bạn ấy cố gắng quay trở lại học tiếp. + Báo cáo cụ thể hoàn cảnh gia đình của bạn Thành với cô chủ nhiệm, để cô vận động cả lớp ủng hộ Thành cả về tinh thần lẫn vật chất. + Ngoài việc bạn Thành vẫn tiếp tục học một buổi, bán vé số một buổi, tổ còn liên hệ với đại lí báo để nhận bán báo “Khăn quàng đỏ”. Mỗi thành viên trong lớp mua 1 quyển, đồng thời vận động các lớp khác mua (được bao nhiêu quý bấy nhiêu), chỉ tiêu là bán được 100 quyển. Số tiền hoa hồng bán được ủng hộ cho bạn Thành. + Trích tiền ăn sáng của mỗi người mỗi ngày từ 200 đồng đến 500 đồng bỏ vào thùng tiết kiệm của tổ đặt ở lớp. Tổ trưởng, chịu trách nhiệm quản lí. Cuối tháng mở thùng, gửi cho bạn ấy.
Dựa vào cách tổ chức cuộc họp em đã biết, em hãy cùng các bạn tập tổ chức một cuộc họp tổ – Văn mẫu lớp 3
785
Nội dung bài viết1 Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 1 2 Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 2 3 Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 3 4 Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 4 5 Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 5 Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 1 Chúng ta cần làm gì để bảo vệ môi trường? Đó là câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta, chúng ta cần phải trả lời câu hỏi này. Theo em, bảo vệ môi trường không phải trách nhiệm riêng của một người, của một tập thể mà nó là trách nhiệm của cả cộng đồng. Mỗi người đều phải có ý thức bảo vệ môi trường sống chung. Môi trường xanh, sạch đẹp sẽ giúp cho cuộc sống của chúng ta trở lên tốt hơn. Từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ phòng học đến sân trường… Chỗ nào sạch đẹp, thoáng mát nhiều cây xanh không khí cũng trở lên trong lành, sức khoẻ sẽ trở lên tốt và đảm bảo hơn. Điều đó là mong muốn của tất cả mọi người. Hiện nay em thấy lớp học của chúng ta chưa được sạch sẽ cho lắm, rác, giấy vụn vẫn còn vứt lung tung, cây xanh còn ít. Còn ngoài đường, vỉa hè thùng rác công cộng tuy nhiên mọi người chưa mấy chú tâm mà thường tiện tay vứt rác xuống đường phố khiến cho đường phố không còn sạch đẹp nữa. Để bảo vệ môi trường chúng ta cần có ý thức : Không nên vứt rác bừa bãi, không xả nước bẩn xuống ao hò, ngõ xóm.lớp học cần phải quét dọn thường xuyên, không được phá hoại , bẻ cây xanh, ngắt hoa… và tuyên truyền cho mọi người thấy tầm quan trọng của môi trường sạch đẹp, và trách nhiệm chung của mọi người bảo vệ môi trường. Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 2 Tôi cho rằng bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả cộng đồng, học sinh chúng ta lại càng cần hơn về ý thức và trách nhiệm đó, bởi vì chúng ta là người chủ tương lai của đất nước. Nhìn vào thực tế cuộc sống chung quanh tôi thấy lớp mình, trường mình còn bẩn. Rác rưởi vứt bừa bãi khắp nơi, nhất là ở sân trường, lớp học, vừa trực nhật xong đã thấy có rác: rác trong hộc bàn, rác góc lớp, rác hành lang, rác dưới các gốc cổ thụ… Đế bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp, theo tôi, ai cũng phải xây dựng cho mình ý thức và trách nhiệm bảo vệ chung: không vứt rác bừa bãi, không xả nước bẩn xuống ao hồ, không bẻ cây xanh, nhà cửa, lớp học, trường học phải sạch sẽ, thoáng mát. Làm được như thế là chúng ta đã góp phần bảo vệ môi trường. Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 3 Theo em, môi trường sạch đẹp là một trong những yếu tố quan trọng làm cho cuộc sống trở lên tươi đẹp hơn. Trước mắt em thấy lớp học của chúng ta cũng như không gian tại trường ta chưa được sạch. Rác, giấy vụn còn chưa được để vào nơi quy định, chỗ nào cũng thấy giấy vụn, vỏ kẹo mà các bạn chưa có ý thức vứt rác vào thùng rác theo quy định. Còn nhũng nơi công cộng như thư viện, vườn hoa hay công viên ý thức của mọi người vứt rác đúng nơi quy định còn tệ hơn rác vứt xuất hiện ở mọi nơi, sau đó mưa rác bị cuốn theo tới các ao ngòi, sông … khiến cho nước trở lên bản và ô nhiễm hơn. Tất cả những việc làm đó đều ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của con người. Để bảo vệ môi trường xanh, sạch đẹp tôi nghĩ chúng ta cần có ý thức bảo vệ môi trường sống chung một cách thường xuyên và ở mọi lúc mọi nơi. Không xả nước bẩn xuống sông ngòi, ao hồ, phải thường xuyên quét dọn nhà cửa , phố xá. không vứt rác bừa bãi, bẻ cây xanh mà thay vào đó chúng ta hãy tích cực chăm sóc và trồng mới cây cối giúp cho môi trường sống của ta ngày càng sạch đẹp và văn minh hơn. Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 4 Ở lớp, cô giáo thường dạy chúng em rằng để trở thành người có ích cho xã hội thì chúng em phải biết bảo vệ môi trường. Vì môi trường là những gì tồn tại xung quanh chúng ta, và vô cùng cần thiết đối với cuộc sống của con người. Hiện tại môi trường đất, nước, không khí đang bị ô nhiễm rất nặng nề do con người tàn phá, hủy hoại. Khu dân cư chỗ em ở, mọi người thường xuyên vứt rác ra sông ngoài đầu ngõ. Có một vài hộ gia đình thì vứt rác ra đường gây mất vệ sinh đường phố, ảnh hưởng đến những gia đình xung quanh, mặc dù các bác tổ dân phố đã nhắc nhở nhưng họ vẫn cố tình vi phạm. Ở trường em, cũng có nhiều bạn trong giờ ra chơi gấp đồ chơi bằng giấy như máy bay, tàu thủy, khi không chơi nữa thì vứt giấy ra sân trường hoặc vứt vỏ kẹo, bánh ra lớp gây mất vệ sinh. Những hành động đó đã làm ảnh hưởng đến môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến chúng ta. Là học sinh, em sẽ luôn rèn luyện cho mình ý thức và thói quen bảo vệ môi trường. Em cùng các bạn sẽ cùng nhau vệ sinh lớp học thật sạch sẽ, luôn vứt rác đúng nơi quy định để trường lớp luôn sạch đẹp và các bạn học sinh sẽ có môi trường tốt để học tập. Vào những dịp Tết trồng cây, chúng em sẽ cùng nhau trồng những loại cây vừa làm bóng mát cho sân trường vừa giúp cho không khí trong lành. Em và các bạn sẽ cùng nhau bảo vệ môi trường, bạn nào có hành vi phá hoại hoặc làm ảnh hưởng đến môi trường chúng em sẽ cùng nhau phê bình và có hình thức xử phạt. Bên cạnh đó, chúng em sẽ cùng các bác ở tổ dân phố giữ gìn đường phố luôn sạch, không có rác thải. Đồng thời nhắc nhở mọi người có ý thức bảo vệ môi trường, không nên vứt rác vừa bãi và không thải đồ rác, nước thải ra sông hồ gây mất vệ sinh đặc biệt sẽ ảnh hưởng đến nguồn nước và không khí nơi chúng ta sinh sống. Với những hành động nhỏ như vậy, chúng em sẽ cố gắng thực hiện thật tốt và thường xuyên nhắc nhở mọi người bảo vệ môi trường như bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta. Em cần làm gì để bảo vệ môi trường? – Bài làm 5 Bảo vệ môi trường là một trong những phong trào rất tiêu biểu của trường chúng em. Em cùng các bạn luôn luôn đề cao tinh thần đó. Chúng ta cần làm gì để bảo vệ môi trường? Đó là câu hỏi đặt ra mà mỗi một chúng ta cần phải trả lời. Theo tôi, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả cộng đồng. Mỗi người đều phải có ý thức bảo vệ. Môi trường xanh, sạch, đẹp sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta tốt hơn. Từ nhà ra ngõ, từ ngõ đến trường v.v… Chỗ nào cũng sạch sẽ thoáng mát, nhiều cây xanh, không khí sẽ trong lành, sức khỏe sẽ được đảm bảo. Điều đó ai cũng mong muốn. Hiện nay, tôi thấy lớp ta, trường ta nơi tập trung đông người, chưa được sạch sẽ lắm, rác rưởi còn vứt lung tung, cây xanh còn ít. Còn ngoài đường phố thì tuy có thùng rác công cộng nhưng không mấy ai chịu bỏ rác vào thùng, bạ đâu vứt đấy, làm cho cảnh quan đường phố không đẹp. Để bảo vệ môi trường, tôi thấy chúng ta phải luôn có ý thức bảo vệ môi trường cụ thể là: Không vứt rác bừa bãi, không xả nước bẩn xuống ao hồ, chăm quét dọn nhà cửa, ngõ xóm, trường lớp, không bẻ cây ngắt hoa… và tuyên truyền cho mọi người luôn có ý thức và trách nhiệm chung về bảo vệ môi trường.
Em cần làm gì để bảo vệ môi trường_ – Văn mẫu lớp 4
1,457
Nội dung bài viết1 Em hãy chọn một số câu hát châm biếm và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Em hãy chọn một số câu hát châm biếm và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy – Bài làm 2 Em hãy chọn một số câu hát châm biếm và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Trong ca dao – dân ca, ngoài những câu hát yêu thương, tình nghĩa, những câu hát than thân… còn nhiều câu hát mang nội dung hài hước, châm biếm nhằm phơi bày các hiện tượng ngược đời, phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng ngược đời, những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười trong xã hội. Dưới đây là những bài được phổ biến rộng rãi trong dân gian: 1. Cái có lặn lội bờ ao, Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng? Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đem thừa trống canh. 2. Số cô chẳng giàu thì nghèo Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà Số cô có mẹ có cha Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. 3. Con cò chết rũ trên cây, Cò con mở lịch xem ngày làm ma. Cà cuống uống rượu la đà, Chim ri ríu rít bò ra lấy phần, Chào mào thì đánh trống quân, Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao. 4. Cậu cai nón dấu lông gàm Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Ba năm được một chuyến sai, Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. Những câu hát châm biếm phê phán các thói hư tật xấu qua một số hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và qua lối nói trào lộng gây cười. Bài thứ nhất là lời giới thiệu, quảng cáo về nhân vật chú tôi. Chân dung của người chú là bức biếm họa được vẽ toàn bằng những nét giễu cợt, mỉa mai. Hai câu mở đầu: Cái cò lặn lội bờ ao, Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng làm nhiệm vụ bắt vần và chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật. Cô yếm đào là hình ảnh tương phản với hình ảnh của nhân vật chú tôi. Chiếc yếm đào tượng trưng cho những cô gái nông thôn trẻ, đẹp. Xứng đáng lấy cô yếm đào phải là chàng trai chăm chỉ, giỏi giang chứ không thể là người có nhiều thói hư tật xấu. Cái cò giới thiệu vềchú của mình với cái giọng cố làm ra vẻ phô trương, trịnh trọng: Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Ý nghĩa phê phán, chỉ trích nằm cả ở từ hay. Theo cách hiểu dân gian thì hay có nghĩa là tài giỏi, nhưng trong văn cảnh này thì nó có nghĩa ngược lại. Tưởng hay lam hay làm, ai dè lại hay rượu hay chè đến mức nghiện ngập, bê tha. Ý mỉa mai của từ hay còn hàm chứa ở tầng nghĩa sâu hơn nữa. Tuổi thanh niên sức dài vai rộng mà không lo chí thú làm ăn, lại chấp nhận sống đời tầm gửi thì quả là chẳng đáng mặt làm trai. Người xưa có câu: Làm trai cho đáng nên trai, xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên… để khẳng định khí phách nam nhi. Bên cạnh đó cũng có câu: Đời người ngắn một gang tay, Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang với nội dung phê phán những kẻ siêng ăn nhác làm. Nhân vật chú tôi trong bài ca dao trên là loại người như thế. Câu ca dao đã cụ thể hóa sự lười biếng của nhân vật chú tôi thành những điều ước trái lẽ tự nhiên: Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh để được tha hồ ngủ. Vậy là ngoài tật nghiện rượu, nghiện chè, chú tôi lại còn thêm nghiện … ngủ (!) Rõ là con người lắm thói hư tật xấu, rất đáng chê cười. Thông thường, để tác thành việc nhân duyên cho ai, người đứng ra mai mối phải nói tốt, nói đẹp cho người đó. Nhưng ở bài ca dao này thì ngược lại. Bài ca dùng ngôn ngữ hài hước, châm biếm để giới thiệu nhân vật chú tôi – tiêu biểu cho hạng người bất tài vô dụng. Liệu có cô yếmđào nào đủ can đảm để trao thân gởi phận cho những "anh chồng" như thế?! Bài ca dao thứ hai nhai lại lời của ông thầy bói nói với người xem bói. Nó chỉ "ghi âm" một cách khách quan chứ không đưa ra lời bình luận, đánh giá nào. Đây là nghệ thuật dùng "gậy ông đập lưng ông", có tác dụng gây cười và châm biếm rất thâm thúy. Chúng ta thử nghe xem ông thầy bói giỏi giang kia đã phán những gì? Ông ta phán toàn những chuyện hệ trọng mà người đi xem bói ( là nữ) rất quan tâm: giàu – nghèo, cha – mẹ, chồng – con. Chuyện nào thầy cũng nói vanh vách và hết sức cụ thể. Chỉ buồn cười là thầy nói theo kiểu nước đôi (!). Thầy khẳng định chắc như đinh đóng cột những sự việc hiển nhiên mà người trần mắt thịt nào cũng thấy, cũng biết, chẳng cần đến thần thánh phán bảo qua miệng lưỡi trơn tru, dẻo quẹo của thầy. Dân gian quan niệm rằng con người ta có số. Mỗi người một số phận khác nhau, có kẻ giàu, người nghèo, có kẻ sang, người hèn. Thầy bói phán: Số cô không giàu thì nghèo, có nghĩa là bất luận thế nào thì lời thầy cũng đều đúng cả (!) Nói về ba ngày Tết, tục ngữ có câu: Đói quanh năm, no ba ngày Tết. Dù giàu dù nghèo thì mỗi nhà cũng cố mà lo cho được miếng thịt, đĩa xôi để cúng tổ tiên, ông bà, đó là lẽ đương nhiên. Nhà cô Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà, chắc chắn là thế, thầy chẳng có nói sai đâu (?!) Tính chất trào lộng, châm biếm của bài ca dao được đẩy lên tới đỉnh điểm ở những lời thầy phán về phụ mẫu: Số cô có mẹ có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông và về nhân duyên: Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai. Điệp từ Số cô được đặt ở đầu mỗi câu và lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người đọc hình dung lão thầy bói cố làm ra vẻ trịnh trọng, thiêng liêng nhưng thực chất là thủ đoạn lừa bịp để moi tiền của những người nhẹ dạ,c ả tin. Tiếng cười đả kích, phê phán bật lên từ đó. Ca dao có câu châm biếm hạng người lười biếng, chuyên đi lừa đảo, dụ dỗ người khác: Thầy đi xem bói cho người, Số thầy thì để cho ruồi nó bâu. Cách nói ỡm ờ nước đôi trong bài đã lật tẩy bản chất giả dối của những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng lòng tin của người khác để kiếm tiền. Bài ca dao cũng phê phán sự mê tín đến mức mù quáng của không ít người trong xã hội đương thời. Với nội dung tích cực như vậy nên cho đến nay, bài ca dao vẫn nóng hổi ý nghĩa thời sự. Bài ca dao thứ ba vẽ lên cảnh tượng một đám ma theo tục lệ cũ. Mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, một hạng người trong xã hội. Con cò tượng trưng cho người nông dân nghèo. Cà cuống tượng trưng cho những kẻ có máu mặt như lí trưởng, chánh tổng và đám chức dịch trong làng. Lũ chim ri, chào mào gợi liên tưởng đến bọn cai lệ, lính lệ tay sai. Chim chích giống như anh mõ chuyên đi rao việc làng trong các tích chèo cổ. Người xưa chọn các con vật để "đóng vai" như thế là nhằm mục đích mượn thế giới loài vật để nói về xã hội loài người (giống truyện ngụ ngôn). Từng con vật với những đặc điểm riêng là hình ảnh sinh động tiêu biểu cho từng loại người, hạng người trong xã hội phong kiến đương thời. Do vậy mà nội dung châm biếm, phê phán của bài ca dao trở nên kín đáo hơn, sâu sắc hơn. Cảnh được miêu tả trái ngược với cảnh tượng thường thấy ở một đám ma. Cuộc đánh chén lu bù, vui vẻ diễn ra trong không khí tang tóc. Con cò có thể chết vì đói khát, vì bệnh tật nhưng cái chết thương tâm của nó lại bị biến thành dịp kiếm chác béo bở cho những kẻ bất nhân, bất nghãi. Bài ca dao châm biếm hủ tục ma chay trong xã hội cũ. Tàn dư của hủ tục ấy đến nay vẫn còn, chúng ta cần phê phán mạnh mẽ để loại trừ nó ra khỏi đời sống văn minh. Bài ca dao thứ tư miêu tả chân dung anh chàng cai lệ – kẻ đứng đầu đám lính canh gác và phục dịch ở công đường phủ, huyện thời xưa. Chỉ cần vài nét cơ bản là bức biếm họa sinh động về chân dung cậu cai đã hiện lên đầy đủ trước mắt người đọc. Trước tiên, phải kể đến cái bề ngoài nhố nhăng của cậu cai. Đầu đội nón dấu lông gà chứng tỏ cậu cai là lính, nhưng chi tiết ngón tay đeo nhẫn lại đặc tả tính thích phô trương, làm dáng và trai lơ của cậu. Tính cách này cũng được miêu tả trong một số bài ca dao khác, ví dụ như: Cậu cai buông áo em ra, Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa… Lâu lâu được các quan phủ, quan huyện sai phái đi làm một công việc nào đó, dù là việc vặt thì cậu cai cũng coi đó là dịp may để pho trương "quyền lực". Khổ nỗi về hình thức, cậu cai chẳng có gì ra hồn để thị oai với thiên hạ. Do vậy mà cậu phải vất vả xoay sở sao cho đủ bộ: Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. Chính cách ăn mặc xộc xệch, tạm bợ ấy tự nó đã nói lên cái thân phận bé mọn đến thảm hại của kẻ đầy tớ chốn công đường. Đã vậy mà cậu cai vẫn còn cố khoe mẽ, vênh váo, cáo mượn oai hùm để bắt nạt người dân nghèo thấp cổ bé họng. Nghệ thuật trào lộng trong bài ca dao này thật đặc sắc. Người xưa châm biếm ngay trong cách gọi chàng cai lệ là cậu cai, mới nghe qua tưởng trân trọng nhưng thực ra đó là thái độ mỉa mai, phê phán thói háo danh đến mức lố lăng, kệch cỡm của những kẻ có tí chức quyền, dù là bé cỏn con, không đáng kể. (Cai: chức vụ thấp nhất trong quân đội thời phong kiến). Chân dung cậu cai được phơi bày chỉ vẻn vẹn trong hai dòng lục bát và cái gọi là uy quyền của cậu cai tất tật cũng chỉ có bấy nhiêu thôi. Bài ca dao đặc tả chân dung nhân vật bằng vài nét "điểm chỉ" rất chọn lọc và đắc địa. Qua trang phục và công việc, cậu cai xuất hiện như một kẻ bắng nhắng, đáng cười. Tác giả dân gian đã sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại để châm biếm cái gọi là quyền hành và thân phận thảm hại của cậu cai. Chi tiết: Ba năm được một chuyến sai là phóng đại. Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê cũng là phóng đại. Thế nhưng đằng sau chuyện như đùa ấy lại là một sự thật khác: Cậu cai đã bỏ tiền túi ra thuê mướn quần áo, thì chắc "cậu" phải cố tìm cách kiếm chác để gỡ gạc lại cho bõ chuyến sai ba năm mới có một lần. Thời trước, tiếp xúc với hạng cai đội, dân nghèo thường phải chịu sự sách nhiễu củachúng. Vì vậy, họ rất hiểu và coi thường hạng người này. Bức biếm họa bằng ngôn ngữ đã thể hiện thái độ mỉa mai, khinh ghét pha chút thương hại của người dân đối với đám tay sai của giai cấp phong kiến thống trị. Đọc bài ca dao trên, chúng ta không chỉ hả hê trước thái độ châm biếm, đả kích của nhândân lao động mà còn thích thú bởi đời sống tinh thần phong phú, lạc quan yêu đời của họ. Sức sống mãnh liệt của ca dao – dân ca xuất phát từ niềm tin bất diệt đó. Em hãy chọn một số câu hát châm biếm và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy – Bài làm 2 Trong kho tàng – dân ca Việt Nam, cùng với những bài ca về tình cảm gia đình, những bài ca tình yêu quê hương đất nước, con người, những tiếng hát than thân, mảng ca dao châm biếm chiếm một số lượng đáng kể. Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Qua các hình thức ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược vù phóng đại, v.v. những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, ngược đời, phê phán những thói hư, tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười, đáng chê trách trong cuộc sống. Nói khác đi, ca dao châm biếm là vũ khí tinh thần sắc bén của nhân dân ta. Trong số hàng trăm, hàng ngàn câu ca dao châm biếm, bốn bài trong văn bản Những câu hát châm biếm và ba bài đọc thêm mà học sinh lớp 7 được học có lẽ là tiêu biểu nhất. Trước hết, chúng ta thử điểm mặt xem đối tượng nhân dân ta châm biếm, chê trách là hạng người nào, là hiện tượng gì ? Đó là "chú tôi" – một chàng trai làng – nào đó, là một ông thầy bói, là một "cậu cai" (trong bài học chính). Đó là một ông thầy cúng luôn tay gõ chập cheng, là "con mèo" – một loại quan chức, địa chủ trong làng. Đó còn là ông "quan tướng" (trong phần đọc thêm), về hiện tượng xã hội, ca dao châm biếm tập trung nói tới việc ma chay trong làng (bài 3, văn bản chính), hoặc cưới hỏi, lễ bái ở đình chùa… Tất cả những chân dung con người ấy điển hình cho loại người vô công rồi nghề, loại người chức sắc, quan lại từ nhỏ đến lớn, loại người chuyên nghề mê tín dị đoan,… Họ lười biếng, bê tha, gian dối, tàn ác, sách nhiễu nhân dân, gây ra biết bao hiện tượng tiêu cực trong xóm ngoài làng, gieo biết bao đau khổ cho nhân dân. Họ thật đáng cười, đáng chê trách và lên án. Trước hết là cái anh chàng "chú tồi" mà tác giả bài ca muốn giới thiệu với "cô yếm đào" xinh đẹp, trẻ trung. "Chú" lười biếng và lắm thói hư, tật xấu. "Chú" nghiện rượu (hay tửu, hay tăm), nghiện chè (hay nước chè đặc), thường ngủ muộn, thích nằm dài mong nhiều "ngày mưa", ước đêm kéo dài (thừa trống canh) để không phải ra đồng cày ruộng. Tác giả bài ca đã sử dụng điệp từ ("hay" nhắc lại bốn lần, "ngày" hai lần, "ước" hai lần, "đêm" hai lần) gợi cảm giác kéo dài, quanh quẩn, rất bức bối, khó chịu. Đồng thời, lối chơi chữ, nói ngược (hay tửu, hay tăm, hay nước chè đặc,…) bên ngoài có vẻ như khen ông chú tài giỏi, nhưng thực ra là để giễu cợt, chê trách. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán khá sâu cay. Tiếp sau chân dung "chú tôi" là chân dung ông thầy bói và "cậu cai". Ở bài thứ hai, tác giả nhại lời thầy bói, ghi âm nguyên văn những lời phán của thầy trước một cô gái mê tín. Thầy đoán về những điều gì và phán thế nào ? Toàn là những điều quan trọng mà cô "đệ tử" ước ao điều tốt lành, điều mới mẻ. Nhưng thầy phán toàn là những lời vô nghĩa, những điều vốn nó như thế, hiển nhiên chẳng cần bói toán, suy đoán gì cả. "Số cô chẳng giàu thì nghèo – Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà…", đấy là thầy đoán về "tài lộc" của cô gái. Còn về "gia cảnh", về "nhân duyên" thì… "cô có mẹ, mẹ là đàn bà, có cha, cha là đàn ông, cô sẽ có chồng, có chồng sẽ có con, con gái hoặc con trai"… Rõ ràng cái nhà ông thầy bói này chỉ ba hoa, mồm mép, nói những điều ai cũng biết. Tục ngữ ta có câu "thầy bói nói mò". Ông thầy bói này không chí "nói mò" mà nói lăng nhăng, vô vị, thật đáng cười. Đáng cười hơn nữa là giọng nói của thầy. Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật "nói nước đôi", nói phóng đại, càng nói càng vô vị, vô nghĩa. Rõ ràng, bài ca dao đã phê phán những ke hành nghề mê tín dị doan, lừa bịp lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, bài ca cũng giễu cợt, phê phán những người ít hiểu biết, thiếu niềm tin cuộc sống, tìm đến sự bói toán, lễ bái vu vơ, phản khoa học, nhiều khi thêm lo nghĩ không cần thiết "Bói ra ma, quét nhà ra rác". Cha ông ta từng nhắc nhở như thế. Phê phán ông thầy bói, bài ca dao đồng thời cảnh tỉnh chúng ta. Còn "cậu cai" – trong bài thứ tư – thì có gì đáng phê phán và cách phê phán thế nào ? Chân dung "cậu cai" được vẽ bằng hai nét đối chọi nhau. Hằng ngày cậu ăn mặc khá sang trọng, nào "nón dấu lông gà", nào "ngón tay đeo nhẫn". Nhưng khi có công việc, cần sự sang trọng, cần uy quyển thì "Áo ngắn đi mượn, quần dài di thuê", nghĩa là cậu chẳng có của cải, tài năng đích thực gì. Đó là một thân phận rởm, uy quyền rởm mà thôi ! Tác giả dân gian đã dùng nghệ thuật đối lập (bên ngoài oai vệ bên trong tầm thường) kết hợp với cường điệu (ba năm một chuyến sai, áo mượn, quần thuê) để hạ bệ "cậu cai", cũng có nghĩa là châm biếm, phê phán tầng lớp thống trị xưa. Chúng lố lăng, bắng nhắng, nhưng bản chất thì rất tầm thường, quyền hành thảm hại đến nực cười… Cũng với chân dung con người cụ thể, ca dao châm biếm còn vẽ lại khá nhiều bức tranh xã hội dáng chê trách. Đó là cảnh một đám tang ở nông thôn trong bài ca dao thứ ba. Điều thú vị là tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng. Các nhân vật trong đám tang đều là những con vật. Tang chủ là gia đình cò – một loại nhà nghèo, thân phận bé mọn. Có người thân chết, "cò con" lo "làm ma", vừa đau thương vừa bối rối. Vậy mà những bạn bè, người thân xa gần kéo đến thì ồn ào, nhốn nháo, không phải để chia buồn, giúp đỡ việc tang. Trái lại, "cà cuống" thì uống rượu. Chim ri thì "lấy phần". Chào mào "đánh trống". Chim chích "vác mõ đi rao", chắc là để báo tin cho cả làng biết, tiếp tục kéo đến… Mỗi con vật ẩn dụ một loại người trong làng xóm, đủ cả già trẻ, trai gái, bề trên, kẻ dưới,… Những từ đặc tả, từ láy, từ ghép "la đà", "ríu rít", "cởi trần",… chụp được những chân dung cử chỉ, hành động thật cụ thể, rất rõ nét. Cảnh tượng ấy hoàn toàn không hợp với việc tang. Một việc đáng buồn thương, nghiêm chính bỏng trớ nên một màn hài kịch, thành cuộc đánh chén, chia chác om sòm. Thật chua chát, đáng cười và … đáng khóc. Bài ca dao đã nghiêm khắc phê phán một hủ tục của làng quê ngày xưa… Mỗi bài một giọng điệu, với những biện pháp nghệ thuật, bật ra những tiếng cười khác nhau, nhưng chùm ca dao châm biếm này đều giống nhau là: nghiêm khắc phê phán những con người xấu xa, những hiện tượng xã hội tiêu cực. Đó là vũ khí tinh thần sắc bén mà nhân dân ta đã sử dụng để mong muốn xoá bỏ những cái xấu, cái ác, mong muốn xây dựng một xã hội, những con người lành mạnh, lương thiện. Tuy đây là lời người xưa, nói về ngày xưa, nhưng đọc, rồi hiểu và suy ngẫm, chúng ta vẫn thấm thía những bài học thiết thực cho ngày nay…
Em hãy chọn một số câu hát châm biếm và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy – Văn mẫu lớp 7
3,601
Em hãy chọn một số câu hát than thân và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy – Bài làm của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay. Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu: 1. Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? 2. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. 3. Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu? Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần… ). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ. Câu 1: Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy. Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh có lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò dang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình: Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao lỗi éo le, ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời. Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu: Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?! Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thồng trị trong xã hội cũ luôn muố dồn người bị trị vào bước đường cùng?! Cao hơn ý nghĩa của một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị. Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận cuat người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến: Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí soi tỏ. Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng coa thêm. Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,… ) bởi nghĩ rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiên cho những cảnh ngộ thương tâm gây xúc động thấm thía. Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn ládâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm bé nhỏ lia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy, người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng là mấy. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát. Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chím bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?! Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói đến nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau đớn do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thình không mà nào có ai để ý. Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, trách phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng. Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sống nước miền Nam. Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mù u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay. Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muốn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ. Tóm lại, cả bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung thân thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo đói xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ chấm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thống trị kéo dài bao thế kỉ. Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, mỗi khi đọc những bài ca dao trên, chúng ta lại càng hiểu, càng thương hơn ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đóinghèo trong rơm rạ của một dĩ vãng đen tối đã lùi xa.
Em hãy chọn một số câu hát than thân và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy – Văn mẫu lớp 7
1,890
Nội dung bài viết1 Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Long An 2 Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình – Bài làm 2 3 Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình – Bài làm 3 Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Long An Em là Hoàng Đức Hải, học sinh lớp 6A trường Trung học cơ sở Lý Tự Trọng, phường 4, thị xã Tân An, tỉnh Long An. Em là con trai lớn trong nhà. Dưới em là bé út Hoàng Mai, rất hay nhõng nhẽo nên có biệt danh là Mít Ướt. Ba em là bộ đội biên phòng, thường xuyên công tác xa nhà. Mẹ em là công nhân xí nghiệp may xuất khẩu của tỉnh. Vì hoàn cảnh gia đình còn nhiều khó khăn nên em sớm biết lo. Buổi sáng khoảng năm giờ rưỡi, khi chú gà trống nhà bác Mười kế bên cất tiếng gáy vang là em đã thức giấc. Dưới bếp, mẹ em đang nấu bữa sáng. Tập thể dục xong, em chạy bộ khoảng hơn cây số dọc theo quốc lộ. Khí trời mát mẻ, trong lành khiến em thấy khỏe khoắn hẳn ra. Em bắt tay vào quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp các thứ cho gọn gàng, ngăn nắp. Em thay mẹ nhắc nhở em gái chuẩn bị sách vở. Ăn sáng xong, hai anh em cùng đi học. Ngôi trường khang trang chỉ cách nhà độ chừng cây số. Buổi trưa, khi mẹ nấu cơm, em cho gà ăn, thay nước uống cho chúng và lượm những quả trứng hồng bỏ vào chiếc giỏ nhựa lót rơm. Đàn gà mấy chục con, mỗi ngày đẻ hơn hai chục trứng là nguồn thu nhập thêm của gia đình em. Bữa cơm đơn giản với ba món: trứng chiên, đậu đũa xào và canh bí xanh nấu tôm khô. Ba mẹ con ăn rất ngon miệng. Mẹ em tranh thủ chợp mắt. Bé Mai cũng "tranh thủ" nằm gọn trong lòng mẹ. Em ra ngoài hiên, nằm đu đưa trên chiếc võng dù màu xanh lá cây của ba rồi cũng thiu thiu ngủ. Lúc em thức dậy thì mẹ đã đi làm. Nắng chiều chiếu chếch qua khung cửa sổ, in những sọc vàng trên nền gạch. Đã đến giờ tự học. Em xem lại những bài buổi sáng và giải mấy bài toán cô yêu cầu. Bé Mai cũng chăm chỉ học. Chỉ khi nào gặp chỗ khó Mai mới hỏi em. Buổi tối, mấy mẹ con quây quần trò chuyện. Mẹ nhắc nhiều về ba. Chúng em cũng mong Tết nhanh tới, ba sẽ được nghỉ phép về nhà. Mới nghĩ đến đây, em đã thấy vui hẳn lên! Sau khi xem xong mục Thời sự và Vườn âm nhạc trên tivi, em và bé Mai ngồi vào bàn học. Chuyện đó đã thành nếp. Em cố gắng rèn cho mình những thói quen tốt như biết sử dụng thời gian vào những việc làm có ích cho bản thân và gia đình. Em cảm thấy mình đã lớn lên nhiều. Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình – Bài làm 2 Mỗi người đều dành một ngày của mình cho các hoạt động khác nhau, người thì học tập, người làm việc…Và dưới đây là một ngày hoạt động của em. Đó là hoạt động của ngày hôm qua, ngày thứ Hai đầu tuần sau hai ngày nghỉ là thứ Bảy và Chủ nhật để bước vào một tuần học tập mới. Em học buổi sáng và buổi học bắt đầu từ lúc bảy giờ vì vậy đồng hồ báo thức của em luôn được đặt lúc sáu giờ sáng. Đúng giờ, đồng hồ báo thức reo vang, em thức dậy và vươn vai tập bài thể dục buổi sáng quen thuộc chỉ trong năm phút. Sau đó em đi đánh răng, rửa mặt sạch sẽ và ăn sáng. Tô mì nấu với trứng đã được mẹ chuẩn bị sẵn đặt ngay ngắn trên bàn đang đợi em. Sau khi bữa sáng đã xong, em liền thay quần áo em chọn cho mình chiếc áo trắng và quần sẫm mầu vì hôm nay là thứ hai đầu tuần có buổi chào cờ, khăn quàng đỏ, mũ ca nô và sách vở đã được em chuẩn bị từ tối hôm trước. Em chải tóc gọn gàng và đạp xe đến trường. Hôm nay có năm tiết, một tiết chào cờ và bốn tiết học trên lớp. Những tiết học cứ thế trôi qua cho đến tiết cuối cùng, rồi tiếng trống trường đã điểm báo hiệu kết thúc buổi học. Hôm nào cũng vậy cứ đến trưa là cái bụng lại đói meo, nhưng vẫn phải cố gắng đạp xe về nhà. Vì năm tiết nên chúng em về đến nhà cũng khá muộn, về nhà bố mẹ em đã ăn cơm rồi để riêng hai phần ra phần em và chị gái em cũng học cấp ba nên về muộn hơn em. Mẹ giục em đi ăn cơm kẻo đói, em vội vã đi thay quần áo, rửa mặt và ăn cơm trưa. Sau khi đã ăn no em lên giường đi ngủ khoảng một tiếng và thức dậy tiếp tục ngày hoạt động của mình. Em thức dậy lúc hai giờ chiều, vì chiều nay được nghỉ nên em sẽ ở nhà học bài và giúp mẹ một số công việc nhà. Trời khá là nắng nên tranh thủ khi trời chưa mát, em ngồi vào bàn học xem qua một số bài tập thầy cô giao để giảm bớt gánh nặng bài tập vào buổi tối. Mày mò với đống bài tập nhưng mãi không ra em liền gọi Hương – đứa bạn học cùng lớp ở ngay cạnh nhà em sang và hai đứa cùng giải bài tập. Khi số bài tập đã được giải quyết gần hết, Hương về nhà còn em đi nhổ cỏ vườn rau và tưới rau giúp mẹ. Thấy trời cũng bắt đầu tối, em quét sân quét nhà sạch sẽ và lấy rau chuẩn bị bữa tối. Chị gái em chuẩn bị ôn thi đại học nên khá bận với việc học tập nên không có nhiều thời gian giúp đỡ bố mẹ. Còn em, chương trình học cũng không phải quá vất vả nên có nhiều thời gian rảnh hơn chị. Bữa tối đã được chuẩn bị xong, em đợi bố mẹ đi làm và chị gái đi học về ăn cơm. Tranh thủ lúc đợi em đi tắm và thu quần áo, gấp xếp gọn gàng vào tủ. Khi mọi người đã về đầy đủ, cả nhà ăn cơm rất vui vẻ, mẹ khen em nhỏ mà đã giúp đỡ được mẹ rất nhiều việc. Chị em thấy vậy tỏ vẻ ganh tỵ với em và bảo: “chẳng qua chị bận học thôi nhé!”, em mỉm cười sung sướng, ăn cơm xong chị gái em nhận việc rửa bát, còn em thì ngồi vào bàn học giải quyết số bài tập còn lại và chuẩn bị sách vở cho ngày mai. Xong xuôi, em xem ti vi với bố mẹ một lúc rồi đi ngủ sớm để ngày mai thức dậy cho đúng giờ. Đi ngủ em nghĩ về một ngày hoạt động của mình với nhiều việc thật ý nghĩa. Một ngày hoạt động trôi qua với nhiều việc làm, tuy mệt mỏi nhưng em cảm thấy rất vui vì đã học tập thật hiệu quả và giúp đỡ bố mẹ một số công việc dù rất nhỏ. Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình – Bài làm 3 Chào các bạn! Tôi là Võ Thạch Đức Tín , học sinh lớp 6C – trường Trung học cơ sở Nguyễn Nghiêm. Tôi đã bước vào một cấp học mới và cảm thấy mình thay đổi nhiều hơn khi bước vào năm học này- năm học mà tôi chính thức trở thành học sinh Trung học cơ sở. Và tôi bắt đầu trưởng thành hơn từ những hoạt động của mình trong một ngày. Buổi sáng, tôi không chờ mẹ gọi rồi nhõng nhẽo một hồi lâu như trước nữa, tôi đánh thức mình vào lúc 5 giờ 30 nhờ cô bạn đồng hồ mà mẹ mua cho tôi khi tôi lên lớp 6. Tôi đánh răng, rửa mặt, tập thể dục và tự chuẩn bị bữa ăn sáng cho mình. Sau khi ăn sáng xong, tôi khoác trên mình bộ đồng phục mới và hào hứng đi đến trường lúc 6 giờ 30 bằng chiếc xe đạp đã gắn bó với tôi được 2 năm. Lên lớp 6, chương trình học của chúng tôi không còn như trước, chúng tôi học theo tiết. Buổi sáng tôi thường học 4 tiết, sau mỗi tiết học chúng tôi được giải lao 5 phút. Vì đã rèn luyện thân thể và ăn uống đầy đủ trước khi đến lớp nên tôi học tập sôi nổi hơn, mạnh dạn hơn. Tan học, tôi về nhà lúc 10 rưỡi. Đây cũng là lúc mẹ đã chuẩn bị xong bữa trưa cho cả nhà. Tôi ăn cơm cùng gia đình, nghe và chia sẻ những câu chuyện của bố, mẹ và em. Tôi giúp mẹ rửa bát, dọn nhà trước khi nghỉ trưa. Bố tôi thường dặn hai chị em: giờ trưa các con nên nghỉ 1- 2 giờ, nên trong thời gian biểu của cả hai chị em đều có thêm dòng chữ: Nghỉ trưa 12 giờ 30 đến 13 giờ 30. Sau giấc ngủ trưa, bố mẹ đi làm, tôi đánh thức em dậy, hai chị em tôi học bài. Đây là thời gian tôi xem lại bài lúc sáng được thầy cô truyền đạt, tôi cũng tranh thủ dạy em viết chữ và tập đọc. Khi đã hoàn thành việc học, tôi thường đọc những câu chuyện mà mình yêu thích. Trong giá sách của tôi luôn có: Dế Mèn phiêu lưu ký, Nỗi muộn phiền sau giờ học; Số phận của chú bé đánh trống; góc sân và khoảng trời… Tôi không cảm thấy chán nản bởi: đọc sách với tôi là một niềm đam mê. Vào 5 rưỡi chiều, tôi và em cùng rửa ấm chén và lau nhà. Trước kia, mẹ thường làm công việc này sau khi ăn xong bữa tối, tôi đã học và làm được những công việc đó để giúp mẹ đỡ vất vả. Hơn nữa, kỳ nghỉ hè vừa rồi mẹ cũng đã dạy tôi nấu cơm, luộc rau. Trước khi mẹ về, tôi cũng đã làm xong những việc phụ đó. Niềm tự hào, vui vẻ hiện lên trên khuôn mặt của bố mẹ tôi sau giờ tan sở. Tôi ăn tối cùng gia đình lúc 7 giờ 30. Chị em tôi nghỉ khoảng 30 phút sau khi ăn để chuẩn bị học bài. Tôi dành 2 tiếng buổi tối cho bài tập về nhà, bài tập nâng cao và chuẩn bị trước bài ngày hôm sau. Việc học đó giúp bản thân tôi nắm vững kiến thức hơn và luôn chủ động trước khi đến lớp. 10 giờ 30, tôi bắt đầu đi ngủ, tôi luôn được mẹ kể cho nghe những câu chuyện: cổ tích có, ngụ ngôn có, chuyện về bà, về mẹ ngày xưa…Nhờ mẹ mà tôi ngủ ngon giấc hơn. Tôi cũng đã kết thúc một ngày như vậy! Chúng ta sẽ lớn lên bằng những hoạt động có nghĩa từng ngày đúng không các bạn?
Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình – Văn mẫu lớp 6
1,939
Nội dung bài viết1 Em hãy kể về tâm tình của cây lúa – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định 2 Em hãy kể về tâm tình của cây lúa – Bài làm 2 Em hãy kể về tâm tình của cây lúa – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Tôi là cây lúa. Họ hàng nhà lúa chúng tôi có mặt ở nhiều nơi trên thế giới đã mấy ngàn năm nay. Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng tôi đã gắn bó thân thiết với con người. Bằng hạt gạo – hạt ngọc của trời ban cho. Lang Liêu đã làm nên bánh chưng, bánh giầy, tượng trung cho Trời và Đất – để kính dâng lên các bậc Tiên Vương và mừng thọ vua Hùng. Cuộc đời cây lúa chúng tôi gắn liền với niềm vui, nỗi buồn của con người. Chúng tôi lớn lên từ những hạt thóc giống chín mẩy, vàng ươm. Sau mấy tháng nằm nghỉ ngơi trong bồ lúa, anh em chúng tôi được đem ra ngâm vào nước ba sôi hai lạnh. Nước ấm làm chúng tôi tỉnh hẳn người. Sự sống trong chúng tôi bừng dậy. Chúng tôi uống no nước và rồi vài ngày sau, những chiếc rễ trắng tinh đã nhú ra. Một sớm mai hồng, chúng tôi được đem gieo trên những mảnh ruộng phẳng như chiếu trải. Mùi bùn ngai ngái khiến chúng tôi ngây ngất. Ánh nắng ấm áp bạn ngày, làn sương mát dịu ban đêm giúp chúng tôi nảy mầm đâm lá thành những cây mạ xinh xinh. Có bác nông dân chăm sóc chúng tôi kĩ lắm. Đủ nước, đủ phân nên chị em chúng tôi lớn nhanh như thổi, chẳng mấy chốc đã ra dáng những cây mạ trưởng thành. Thế rồi vào một ngày đẹp trời, chúng tôi được nhổ lên, bó thành từng bó. Từ đó, chị em chúng tôi bước qua một giai đoạn mới của cuộc đời: từ cây mạ biến thành cây lúa. Cứ vài ba dảnh mạ được cấy thành một gốc. Gốc này cách gốc kia mỗi chiều chừng ba tấc. Đang quen sống quây quần ấm áp bên nhau, giờ bị tách riêng ra, lúc đầu chúng tôi cảm thấy trống trải và lạnh lẽo. Phải mất chừng hơn tuần, chúng tôi mới bén rễ trên đất mới. màu xanh của lá thẫm dần và thân thể chúng tôi cứng cáp hẳn lên. Bộ rễ cần cù hút màu mỡ nuôi cây. Dần dà, chúng tôi đã trở thành những bụi lúa đầy đặn và tươi tốt. Bụi nọ mọc sát bên bụi kia tạo thành một tấm thảm xanh mênh mông, mỗi khi gió thổi qua lại dập dờn như sóng biển. Ngày tháng trôi qua, chúng tôi đã thành lúa thì con gái và được chăm sóc kĩ lưỡng hơn. Các cô bác nông dân thường xuyên nhổ cỏ, bón phân, xịt thuốc trừ sây rầy phá hoại lúa nên sức khỏe của chúng tôi rất tốt. Một hôm, trong gió sớm thoang thoảng mùi thơm ngọt thật dễ chịu. Đầu bờ, có tiếng reo vui: Ồ, lúa đã làm đòng rồi đây này, bà con ơi! Rồi những bàn tay vuốt ve trìu mến trên thân lúa. Chúng tôi thầm cảm ơn những bàn tay chai sần, rám nắng của người nông dân một nắng hai sương vất vả trên đồng ruộng. Bao mồ hôi của họ đã đổ xuống đất này. Họ hàng nhà lúa chúng tôi không phụ ơn người. Tháng năm, mùa lúa chín, cả cánh đồng phủ một màu vàng rực như kén tằm. Màu vàng của nằng, màu vàng của lúa làm sáng cả một vùng quê thanh bình, gợi cảm giác ấm no, sung túc. Đoàn người tay liềm, tay hái đổ ra đồng gặt lúa. Tiếng cắt lúa soàn soạt, tiếng máy tuốt lúa rào rào xen lẫn tiếng nói cười rộn rã. Âm thanh náo nức vang khắp cánh đồng. Theo chân người, chúng tôi về với từng sân phơi. Tới đâu tôi cũng thấy những đống lúa như những đống vàng cao ngất – sản phẩm của một vụ mùa bội thu. Quang cảnh xóm làng thật nhộn nhịp và trong lòng chúng tôi cũng trào dâng một niềm vui khó tả. Sau mấy ngày phơi mình dưới ánh nắng vàng chói chang, chúng tôi được quạt sạch rồi đổ vào bồ, vào vựa. Có chúng tôi, người nông dân sẽ có được nhiều thứ hàng hóa cần thiết phục vụ cho đời sống. Chính chúng tôi đã tạo nên những ngôi nhà ngói mới, thay thế những mái tranh nghèo. Bộ mặt nông thôn ngày một tươi đẹp hơn là nhờ sự đóng góp không nhỏ của họ hàng nhà lúa chúng tôi. Chúng tôi vui sướng vì đã giúp ích cho con người. Nhân đây, chúng tôi xin gửi đến các bạn học sinh lời nhắn nhủ chân thành đã có cách đây hàng ngàn năm: Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần. Em hãy kể về tâm tình của cây lúa – Bài làm 2 Bạn có biết không, chúng tôi lớn lên từ những hạt giống bé nhỏ. Mọi người rất yêu quý chúng tôi. Họ không bao giờ động đến chúng tôi cả những khi trong nhà thiếu gạo ăn. Một buổi sáng vừa thức dậy, tôi bỗng nghe tiếng rào rào, thì ra các hạt giốngchúng tôi đang thi nhau lao xuống một hồ nước mênh mông. Chu cha! Lâu lắm anh em chúng tôi mới được tắm mát thỏa thuê, thích ơi là thích! Chò' mãi không thấy người ta vót lên, bọn tôi đâm ra lo lắng. Ngộp quá, tôi “ách xì” nảy một cái mầm nhỏ xíu xinh xinh như một que tăm. Giờ phút huy hoàng bỗng đến với chúng tôi: tất cả được rải xuống đồng ruộng bờ ngang bò' dọc đều tăm tắp như ô bàn cờ. Sáng chiều, các anh chị “kĩ thuật viên” chăm sóc bọn tôi chu đáo như mẹ như cha. Họ đo độ ẩm, độ phèn bằng các chai lọ lỉnh kỉnh, thật buồn cười. Một cậu bé loắt choắt chạy đi chạy lại xua bọn chim quái ác chỉ rình mổ xuống chúng tôi. Cậu bé mải chơi nên thỉnh thoảng chim lại có dịp sà xuống bất và tha đi một người trong bọn chúng tôi. Cũng may, ngày qua ngày chúng tôi không còn là mầm non nữa mà trở thành những chàng thiếu niên áo xanh tràn trề nhựa sông. Xung quanh chúng tôi, ai cũng nhướng cao lên để ngắm nhìn, tận hưởng cảnh đất trời bao la. Các bác nông dân càng thăm chúng tôi thường xuyên hơn. Nhìn màu xanh mơn mởn tỏa khắp cánh đồng, mỗi người đều nở một nụ cười sung sướng, sông trong tình thương nồng thắm ấy chúng tôi khá chững chạc. Một ngày kia đang vui đùa “rất nhộn” thì một đoàn người kéo đến, mang theo quang gánh. “Pliựt! Phựt! ” chúng tôi bị nhổ lên. Bản thân tôi cũng bị một bàn tay tóm lấy nhấc khỏi mặt đất. Tôi đau đớn thét lên… Tỉnh dậy tôi thấy mình đang nằm sóng đều với một số bạn và một vòng dây thít ngang mình đến nghẹt thở. Sò' lên đầu tôi giật thót cả người. Trời ơi! Còn đâu mái tóc xanh mượt mà tôi thường lấy làm hãnh diện. Trước mặt tôi, bác nông dân cũng đang xén bót tóc của anh em tôi. Bác nói an ủi: “Các cháu đừng buồn, làm thế này là để đỡ mất nước”. Lão trâu khổng lồ đứng bên bác ngôn lấy ngôn để lọn tóc đã cắt rời của chúng tôi một cách ngon lành. Sau đó, người ta đưa chúng tôi đến một nơi xa, tách chúng tôi thành nhóm nhỏ, cắm xuống một -mảnh ruộng đầy nước. Có bạn tuyên bối “Chúng ta sẽ sông vĩnh viễn ỏ' nơi này”. Thật vậy, thức ăn sẩn sàng, tất cả chúng tôi chỉ việc “đánh chén” cho no rồi lại ngủ. Thấm thoát chúng tôi lớn lên nhanh như thổi. Ai đi ngang qua cánh đồng cũng phải trầm trồ: “Lúa ở đây tốt quá nhỉ”. Một bữa kia, giặc Rầy Nâu ồ ạt tấn công chúng tôi, chúng tôi phải ra sức chống đỡ. Người ta đổ lên đầu lên cổ chúng tôi nào phân, nào thuốc trừ sâu để hỗ trợ chúng tôi. Khi thấy bọn Rầy Nâu ngao ngán rút lui, chúng tôi vô cùng hả hê, thích thú. Ngày qua tháng lại, chẳng mấy chốc chúng tôi ngứa miệng khạc ra ngoài một sợi tơ trắng tinh, mịn màng. Các bạn tôi chung quanh cũng vậy. Chúng tôi lo chăm chút cho chùm bông ấy. Đêm đêm.tôi nhắc bông hé miệng ra đón sương. Tôi cũng không quên cấp cho nó dòng sữa trắng, thổi phình hạt lúa ra. Đến độ nào đó tôi ngừng cho sữa. Ánh nắng chói chang ấm áp của Mặt Trời nghiêm khắc hong khô đặc quánh dòng sữa tôi đã cho. Nghiễm nhiên, tôi trở thành người mẹ của mấy mươi đứa con lít nhít. Hôm qua các bác nông dân đến thăm bọn tôi. Họ bàn tán sẽ chọn trong chúng tôi những ai khỏe mạnh nhất, có lực nảy tốt nhất thì họ giữ lại làm hạt ggiống. Số còn lại sẽ được nhập kho làm nguồn lương thực nuôi sông toàn dân. Chúng tôi chỉ mong nhân dân luôn luôn được ăn no để có sức khỏe giúp ích cho đời. Giọng cây lúa nhỏ dần… Em thong thả bước dọc bờ đê, vừa đi vừa ngẫm nghĩ: Cây lúa tuy nhỏ bé nhưng rất có ích. Em tự hứa với mình là phải cố gắng học hành rèn luyện thế nào để lớn lên làm được như cây lúa: “Thà sống ít mà có ích nhiều! ”. Em mỉm cười rảo bước trở về con đường quen thuộc,
Em hãy kể về tâm tình của cây lúa – Văn mẫu lớp 7
1,680
Em hãy tả một cây mà em yêu thích nhất Bài làm Xuân ,hạ , thu, đông, mỗi mùa một vẻ. Xuân ấm áp, hạ nóng bức, thu se lạnh, đông lạnh giá. Cây bang cũng vậy, thật kì diệu biết bao. Nhìn từ xa, cây bàng như cái ô khổng lồ, che mát một góc sân trường. Thân cây bàng màu nâu sẫm, sần sùi, to đến mức ba bốn đúa học sinh ôm vừa. Vài rễ cây trồi lên mặt đất. Mùa xuân vùa đến, cây bàng nhú lộc non xanh nõn, vươn vai dưới ánh nắng xuân ấm áp. Chúng tắm , vui đùa thỏa thích trong trận mưa phùn giăng giăng. Xuân hết, mùa hạ sang, lúc những trận mưa rào ào tới, cũng là lúc lá bang đã lớn. Lá to bằng bàn tay tôi, khoác chiếc áo xanh lá đậm. Tán lá xum xuê, tạo thành chiếc ô xanh mát. Giữa trưa hè nóng nực, lũ chim chóc tha hồ tránh nắng, thi hát ca trong vòm cây. Giờ ra chơi, chúng tôi cùng nhau ngồi dưới gốc cây trò chuyện, cùng ngắm nhìn ngôi trường thân yêu. Có lẽ , lúc này đây những kỉ niệm về ngôi trường, bên cây bang sẽ mãi trong quên trong kí ức của tôi. Rồi mùa hè trôi qua, để nhường chỗ cho mùa thu, mùa tựu trường. Lũ học trò lại được gặp lại nhau, gặp lại thầy cô, gặp lại cây bang. Mùa thu, tiết trời se se lạnh. Mọi người khoác chiếc áo ấm hơn, cây bàng cũng thay chiếc áo vàng tươi. Chẳng mấy chốc, mùa đông mang lạnh giá đến, gió buốt phương Bắc làm u ám cả bầu trời. Cây bàng thay chiếc áo đỏ đồng ấm áp. Nhưng với sự khắc nghiệt của mùa đông, những chiếc lá co ro, lìa than mẹ, trở về với đất. Bên dưới gốc, hiện một tấm thảm đỏ đồng. Cành lá xơ xác. Lòng tôi có cảm giác man mác buồn. Nhưng tôi chợt hiểu ra, đây là vòng quay của một đời cây.
Em hãy tả một cây mà em yêu thích nhất
348
Ngôi nhà là nơi quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi con người. Đó là nơi mà hằng ngày cùng em chia sẻ biết bao vui buồn , hạnh phúc bên những người thân yêu! Sau mỗi buổi học ở trường, em thường mong mẹ đến đón về ngôi nhà nhỏ bé của mình. Nơi ấy, mọi thứ đã quá đỗi thân thương đối với em. Đó là một ngôi nhà nằm khiêm tốn trong khu tập thể bệnh viện cách trường em học khoảng hai cây số. Dù được xây cách đây ba năm nhưng trông còn rất mới và đẹp. Tường nhà được phun sơn hồng nhạt nên bền màu và sáng sủa . Cánh cửa chính ra vào mới được bố em sơn lại tuần trước, trông mới và bóng loáng. Cửa kính, cửa chớp đều được mẹ em lau chùi sạch bóng. Nhà em gồm hai tầng. Phòng khách và bếp ở dưới tầng một.Tầng hai có hai phòng: một phòng của bố mẹ và một phòng dành riêng cho em nghỉ ngơi và học tập. Giữa phòng khách được kê bộ sa lông màu nâu trông thật trang nhã. Mẹ em đặt một lọ hoa tươi trên bàn làm cho căn phòng càng thêm sinh động. Trên tường phòng có treo bức tranh phong cảnh một vùng quê ven biển chiều hoàng hôn. Kia nữa, chiếc đồng hồ quả lắc ông bà em để lại lâu lắm rồi, sau mỗi giờ lại buông những tiếng chuông thánh thót ngân nga. Phía trong, là gian bếp nâu ăn một bàn ăn đặt cạnh đó. Mẹ em sắp xếp đồ rất gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ: một chạn bát mi ni, một bộ bếp ga nhỏ và tủ lạnh để đồ ăn… Trên tầng hai, phòng của bố mẹ em có kê một giường ngủ, một tủ đựng quần áo, một bàn làm việc. Ở cửa sổ trông về hướng nam làm cho căn phòng này luôn luôn thoáng mát. Bố mẹ em xếp đặt rất ngăn nắp, trong căn phòng này lúc nào cũng sạch sẽ ấm cúng. Phòng dành cho em được bố mẹ quan tâm nhiều hơn cả. Năm ngoái, bố mua về cho em một bộ bàn ghế có gắn cả giá sách rất tiện lợi. Em thích lắm. Nằm cạnh chiếc giường xinh xinh là chiếc tủ đựng quần áo. Mẹ em luôn nhắc nhở và giúp em sắp xếp đồ đạc gọh gàng. Chỗ nào trong ngôi nhà em cũng thấy yêu thích. Tuy nó không có đồ đạc sang trọng nhưng có đủ tiện nghi và thoáng mát. Em yêu quý ngôi nhà của mình lắm! Nó gắn bó với em đã rất lâu rồi. Em cảm thấy rất tuyệt khi được sống trong ngôi nhà này cùng gia đình thân yêu của mình.
Em hãy tả về ngôi nhà thân yêu của mình
469
Nội dung bài viết1 Em hãy tự giới thiệu về bản thân – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên 2 Em hãy tự giới thiệu về bản thân – Bài làm 2 3 Em hãy tự giới thiệu về bản thân – Bài làm 3 Em hãy tự giới thiệu về bản thân – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên Thân mến chào các bạn! Tôi là Trần Thanh Mai, học sinh lớp 6B, trường Trung học cơ sở Lương Thế Vinh, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Gia đình tôi có 6 người: ông, bà nội, ba, mẹ và hai chị em tôi. Ông, bà nội là cán bộ đã hưu trí. Ba, mẹ tôi đều là giáo viên. Em trai tôi có cái tên rất đẹp: Trần Thanh Trúc. Nhà tôi số 22A /46 đường Võ Văn Tần, phường 6, quận 3, cách trường chỉ vài trăm mét. Ngày ngày, tôi vẫn thường đi bộ đến trường. Giống như ông nội và ba, tôi rất yêu thích thiên nhiên. Căn nhà của gia đình tôi tuy không rộng lắm nhưng luôn luôn có màu xanh của cây kiểng; màu vàng hoa cúc, màu đỏ thắm của hoa hồng… mà ông và ba tôi trồng trong những chiếc chậu đặt trước hàng hiên. Ở góc bàn học của tôi kê cạnh cửa sổ, mẹ tôi treo một giò phong lan hoàng điệp, mỗi bông hoa giống hệt một chú bướm vàng xinh xắn. Trước hiên là chiếc lồng chim với chú chích chòe than có giọng hót giòn giã và trong vắt. Tôi kính trọng ông bà, ba mẹ và yêu quý em trai nhỏ của tôi. Sau một ngày lao động, học tập, bữa cơm tối là lúc gia đình tôi sum họp đầy đủ, đông vui nhất. Tôi tìm thấy ở mái ấm gia đình một nguồn động viên tinh thần rất lớn trong học tập và trong cuộc sống. Ở lớp, tôi có nhiều bạn bè, cả nam lẫn nữ. Tuy mỗi người một tính nhưng chúng tôi chơi với nhau rất thân, luôn đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau. Nhân buổi giao lưu này, tôi rất mong được làm quen với tất cả các bạn! Em hãy tự giới thiệu về bản thân – Bài làm 2 Đỗ Hồng Giang là tên mà ba mẹ đặt cho lúc em mới ra đời. Nhưng mọi người trong nhà vẫn quen gọi em là Bé Còi. Cái tên đó xem ra rất hợp với thân hình nhỏ nhắn và nói đúng hơn là còi cọc của em. Ăn rất khoẻ nhưng em nghịch cũng dữ nên mẹ bảo em không thể lớn được. Tuy là con gái nhưng em nghịch như tụi con trai. Mỗi buổi chiều đi học về em thường cùng tụi thằng Sơn, thằng Phúc xách chai đi đổ dế. Hôm nào chán tụi em lại rủ nhau đi đánh đáo, đánh khẳng. Trong nhà em toàn bi, ảnh, quay, không thể kiếm đâu ra một con búp bê hay một bộ đồ hàng cả. Ba thường vừa cười vừa trêu em “đáng lẽ Bé Còi nhà ta phải là con trai mới đúng”. Những lúc như thế em thường đỏ mặt bỏ chạy. Nghịch ngợm là vậy nhưng em cũng chăm học lắm nhé! Ở lớp Bé Còi toàn đứng đầu thôi. Năm ngoái em còn được nhà trường cử đi thi học sinh giỏi môn Toán nữa đấy. Mơ ước lớn nhất của em là được trở thành phi công, lái những chiếc máy bay thật lớn, thật to bay lên bầu trời cao vàtrong xanh trên kia. Em tin chắc rằng mình sẽ thực hiện được ước mơ đó. Em hãy tự giới thiệu về bản thân – Bài làm 3 Mới bước vào cấp hai nên trong lớp có khá nhiều bạn mới, chính vì vậy hôm nay trên lớp, cô giáo bảo mỗi bạn viết một bản tự giới thiệu về bản thân để nộp cho cô giáo bao gồm các thông tin về bản thân và một số thông tin có liên quan khác. Và đây là bản tự giới thiệu về bản thân của em. Em tên là Lan, họ và tên đầy đủ là Nguyễn Thị Ngọc Lan. Sinh ngày 16/07/2003. Năm nay em mười một tuổi, hiện là học sinh lớp 6A trường trung học cơ sở Tân Khánh, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Em thích đọc truyện đặc biệt là truyện Đô rê mon và thám tử lừng danh Cô nan, nghe nhạc và xem phim hoạt hình, nghe các bài hát của thiếu nhi, ngoài ra em còn rất thích đi chơi cùng gia đình như vào các kì nghỉ hè bố mẹ đều đưa em về quê thăm mọi người hoặc tổ chức một chuyến tham quan cùng mọi người trong xóm. Không chỉ đi chơi với gia đình mà còn thích các buổi đi chơi tập trung cùng với lớp như các buổi cắm trại toàn trường, đi dã ngoại do nhà trường tổ chức. Món ăn ưa thích của em là là món sườn xào chua ngọt, đặc biệt là do mẹ em làm. Em còn có một sở thích đặc biệt là sưu tập rất nhiều con búp bê rồi may váy, quần áo cho chúng nó. Hiện giờ nhà em đã có một bộ sưu tập rất nhiều các bé búp bê rất dễ thương. Em còn thích nuôi các loài động vật như chó, mèo nhưng lại rất sợ gián, chuột và một số loài côn trùng khác. Môn học yêu thích của em là môn Ngữ văn và Lịch sử, em thích quan sát mọi vật xung quanh và đưa chúng vào những bài văn của mình, mong muốn tìm hiểu về lịch sử hào hùng của dân tộc, về một thời chiến đấu oanh liệt của ông cha ta. Đó là sở thích còn về sở ghét thì em ghét bị người khác nói dối, dù chỉ là những việc nhỏ nhất, ghét thịt chó và tôm hay nói đúng hơn là không ăn được hai món đó vì khi ăn vào em bị dị ứng dẫn đến nổi những nốt đỏ trên da. Chắc mỗi bạn ai cũng có một hoặc nhiều ước mơ và em cũng vậy,ước mơ của em sau này là thi đỗ vào một trường đại học và khi ra trường sẽ trở thành một cô giáo dạy Văn, Nhà em ở thị trấn Hương Sơn – huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên. Em sống cùng bố mẹ và một em trai đang học lớp Một. Em rất mong được kết bạn và làm quen với các bạn cùng lứa tuổi. Em nghĩ qua bài giới thiệu về bản thân mình, các bạn trong lớp sẽ hiểu thêm về nhau hơn. Từ đó xây dựng nên một lớp học đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
Em hãy tự giới thiệu về bản thân – Văn mẫu lớp 6
1,158
Em hãy viết một bài văn hoàn chỉnh trình bày những hiểu biết và những suy nghĩ, tình cảm của mình về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chi Minh – Văn mẫu lớp 3 Hàng ngày đến lớp, đến trường nhìn thấy các anh chị lớp trên huy hiệu măng non trên ngực lấp lánh và chiếc khăn quàng đỏ thắm trên vai, sao mà xinh mà đẹp đến thế, tự hào đến thế! Ước ao một ngày nào đó, em cũng được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đội cũng tự hào với chiếc huy hiệu lấp lánh trên ngực và chiếc khăn quàng đỏ thắm trên vai cùng với các bạn tung tăng đến trường. Ngày chị Hai vào Đại học, trước lúc đi, chị còn dặn em: “Toàn bộ sách vở chị để trên giá sách, nhớ giữ gìn cẩn thận để sau này mà học. Còn cuốn “Điều lệ Đội Thiếu nhi Tiền-Phong Hồ Chí Minh" chị để ở góc trái cạnh cuốn Điều lệ Đoàn viên tầng hai của giá sách, em đọc kĩ đi mà phấn đấu. Đến học kì hai, những đội viên “Sao Nhi đồng” chăm ngoan học giỏi là được kết nạp vào đội đấy, phải phấn đấu tốt nghe cưng!” Cuốn “Điều lệ Đội” em đã đọc vài lần rồi như lời chị Hai dặn. Cuốn Điều lệ đã giúp em hiểu biết khá nhiều về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đội được thành lập vào ngày 15 – 5 – 1941 tại Pác Bó, Cao Bằng với tên gọi “Đội Nhi đồng cứu quốc”. Mới đầu, Đội chỉ có năm người. Đó là anh Nông Văn Dền bí danh là Kim Đồng làm Đội trưởng, và bốn anh chị nữa là: Nông Văn Thần, Lí Văn Tịnh, Lí Thị Mì, Lí Thị Xậu là những đội viên. Từ năm 1941 đến nay, Đội đã qua bốn lần đổi tên: từ Đội Nhi đồng cứu quốc (1941) đến Đội Thiếu nhi tháng Tám (1951), rồi Đội Thiếu niên Tiền phong.(1956), và đến năm 1970, Đội được đối tên thành Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh” cho đến bây giờ. Chiếc huy hiệu măng non có hình một búp măng xanh khỏe mạnh nổi bật trên nền cờ Tố quốc cùng với chiếc khăn quàng màu đỏ thắm là biểu tượng của Đội. Niềm tự hào cua tuổi thơ chúng em. Bài “Đội ca” được nhạc sĩ Phong Nhã sáng tác là bài hát truyền thống của Đội với âm điệu thật tươi trẻ, thật hào hùng luôn cuốn hút chúng em trong những ngày lễ hội nhân dịp kỉ niệm ngày sinh nhật Đội hay “Hội khỏe Phù Đổng” được tổ chức hằng năm. Học kì hai này, nhất định em sẽ phấn đầu để được đứng trong hàng ngũ Đội Thiếu niên Tiền phong mang tên Bác như lời chị Hai đã dặn.
Em hãy viết một bài văn hoàn chỉnh trình bày những hiểu biết và những suy nghĩ, tình cảm của mình về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chi Minh – Văn mẫu lớp 3
488
Giải thích bài ca dao: Rủ nhau xuống bể mò cua …- Văn mẫu lớp 8 Trong nhịp sống ồn ào hiện thời, có lẽ chúng ta đã quen với những âm thanh sôi động hối hả của các loại nhạc pop, rock… mà cứ tưởng như tâm hồn ta được nuôi dưỡng, được lớn lên từ những khúc nhạc hiện đại này. Trong đời bạn, đã bao giờ bạn đọc đi đọc lại để suy ngẫm về ý nghĩa của một bài ca dao nào đó để những âm hưởng ngọt ngào, dịu nhẹ lắng đọng trong tâm hồn? Nơi đó là cội nguồn và bản sắc làm nên vẻ đẹp độc đáo cho văn học, cho âm nhạc của dân tộc mình. Cũng không cần phải tìm kiếm ở đâu xa lạ, ta hãy đến với sự kì diệu của thơ, của ngôn ngữ, của nhạc điệu trong bài ca dao sau: Rủ nhau xuống bể mò cua, Đem về nấu quả mơ chua trên rừng. Em ơi chua ngọt đã từng, Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau. Tìm hiểu sâu ý nghĩa của bài ca dao, ta mới cảm nhận được hết sự mộc mạc chân chất và tinh tế trong tâm hồn dân tộc. Để hiểu rõ ý nghĩa ẩn chứa trong bài ca dao, ta cần nắm được nội dung của bài. Phải chăng đây là một lời tâm tình, nhắn nhủ của người xưa về lòng chung thủy. Lòng chung thủy là biểu hiện cao nhất, đẹp đẽ nhất trong đạo lí làm người. Tác giả dân gian đã dùng hình ảnh ẩn dụ để nói về cuộc sống mà nơi đây có hai con người đã gắn bó với nhau trong gian khổ, trong sung sướng. Rừng, bể là những nơi thường xảy ra bão táp, sóng gió, luôn có mối nguy hiểm rình rập con người. Họ cùng rủ nhau xuống bể, cùng đem về, từ ngữ mang ý nghĩa thật hàm súc mà bình dị. Nó giúp ta hình dung được đây là một cuộc sống hạnh phúc. Hai con người gắn bó cùng nhau, đi đâu cũng có nhau, cùng trải qua bao vui buồn sướng khổ. Họ đã từng trải qua những gian khó, lúc lên thác xuống ghềnh, luôn có nhau. Thực tế đã chứng minh tấm lòng chung thủy của họ: Rủ nhau xuống bể mò cua, Đem về nấu quả mơ chua trên rừng. Đôi lứa ở đây đang sống trong vị ngọt của tình yêu, tuy rằng vẫn còn đó những vị đắng của cuộc đời. Ở hai câu sau, ta gặp hai cụm từ non xanh, nước bạc. Khi nói về non và nước, chúng ta thường liên tưởng đến sự vĩnh hằng của thiên nhiên. Nhưng ở đây non xanh, nước bạc chỉ sự đổi thay. Từ câu ca dao này, ta hiểu được rằng cuộc sống dù có nhiều đổi thay, nhưng cuối cùng người ta vẫn hướng về sự thủy chung, gắn bó. Trái tim không tự đếm nhịp đập của mình, nhưng ta có thể đo được tần số nhịp đập cùa trái tim khi ta muốn tìm hiểu về nó. Cũng như khi sáng tác bài ca dao, tác giả dân gian có lẽ cũng không trải qua quá trình giải thích, phân tích tình cảm của mình. Nhưng ta tìm hiểu ý nghĩa của bài ca dao để không mơ hồ, không thờ ơ với những lời nói như gan ruột của người xưa gửi gắm trong ca dao. Có lẽ ít khi ta dừng lại để ngẫm nghĩ rằng mình đã và đang sống như thế nào. Nhưng khi đọc bài ca dao, ta thấy được lòng chung thủy, sự gắn bó trong tình người. Đó là sức mạnh giúp con người có thể vượt qua mọi gian khổ để đi tới hạnh phúc, và khi đạt được hạnh phúc cần có ý thức giữ gìn. Tôi thường liên tưởng đến một ý thơ của nhà thơ Chế Lan Viên: Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn. Phải chăng vị muối làm nên chất mặn cho ca dao đó là cuộc sống với bao đắng cay nhọc nhằn của người lao động và trong cuộc sống đó, tâm hồn của họ luôn lấp lánh một tình yêu cuộc sống. Có lẽ lớn lao hơn hết là những lời nhắn nhủ sâu thẳm của người xưa về đạo lí, nghĩa tình. Đến bây giờ và mãi mãi về sau, ta còn cảm nhận được sức ngân vang đến vô cùng của những vần thơ dân dã.
Giải thích bài ca dao_ Rủ nhau xuống bể mò cua …- Văn mẫu lớp 8
759
Nội dung bài viết1 Giải thích câu ca dao: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Giải thích câu ca dao: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần – Bài làm 2 3 Giải thích câu ca dao: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần – Bài làm 3 Giải thích câu ca dao: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Ca dao không chỉ là những câu lục bát trữ tình thể hiện tình yêu đôi lứa muôn màu muôn vẻ mà còn là bài học đạo đức và cách ứng xử mẫu mực mang tính nhân hậu của dân tộc ta. Tiêu biểu là câu: "Anh em như thể chân tay, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần" Câu ca dao thật giản dị, gần gũi mà chứa đựng bao điều đáng cho ta suy nghĩ. Trước tiên ta cần hiểu ý nghĩa một số hình ảnh như tay chân và rách lành. Tay và chân là hai bộ phận của con người, hỗ trợ cho nhau. Anh em trong một gia đình cũng vậy, đều cùng cha mẹ sinh ra, đều sống chung trong một mái nhà, cùng lớn lên, có quan hệ tình cảm gắn bó với nhau. Anh giúp em, em giúp anh. Mối quan hệ đó giống như mối quan hệ giữa tay và chân. Qua hình ảnh so sánh ở câu thứ nhất, nhân dân ta nêu lên tình cảm khăng khít giữa anh em. Chính tình cảm này sẽ là cơ sở cho cách cư xử giữa anh em sau này. Lành chỉ lúc đầỵ đủ sung sướng, rách chỉ khi nghèo khổ thiếu thốn. Hoàn cảnh có thể thay đổi song anh em vẫn phải thương yêu nhau, đùm bọc nhau, không hề thay đổi. Câu ca dao trên đã nêu lên một vấn đề đạo đức, đồng thời cũng là vấn đề tình cảm cơ bản của con người: tình anh em. Anh em do cha mẹ sinh ra, sống trong một gia đình, khi bé, sống chung với nhau, yêu thương nhau đã đành. Lúc lớn lên, cũng phải giữ mãi tình cảm cao quý đó. Dù hoàn cảnh sống sướng, khổ khác nhau, anh em vẫn phải quan tâm, săn sóc giúp đỡ lẫn nhau. Giữ mãi tình anh em thắm thiết là bổn phận của mỗi con người trong gia đình. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta được lưu truyền và thể hiện qua câu ca dao trên. Yêu thương, đùm bọc nhau là đạo đức, là nhân cách rất nhân bản của con người nói chung. Do vậy, gia đình nào yêu thương hòa thuận với nhau thi gia đình đó được hạnh phúc, cha mẹ được an vui lúc tuổi già. Truyền thống cao đẹp và nhân bản đó còn được thể hiện rộng lớn hơn giữa đồng bào trong một đất nước mà đặc biệt, giữa dân tộc này với dân tộc khác mỗi khi có thiên tai như hạn hán, lũ lụt… Tình yêu thương đùm bọc đó đã tạo điều kiện cho người bị nạn vượt qua những khó khăn trước mắt và có niềm an ủi tinh thần để vươn lên. Tình anh em là tình ruột thịt gắn bó, gần gũi với nhau rất mật thiết như tay và chân của một cơ thể. Ai cũng có cha mẹ và anh em. Do vậy, câu ca dao trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi người. Bài học ứng xử ấy lại thể hiện bằng những hình ảnh đơn giản và gần gũi biết bao. Nếu tay chân không giúp đỡ nhau thì cơ thể sẽ ra sao? Nếu anh em không đùm bọc nhau thì cha mẹ có vui lòng không? Yêu thương, giúp đỡ nhau là cách sống đẹp của con người có đạo đức trong phạm vi gia đình là tình anh em và trong phạm vi lớn rộng hơn là tình dân tộc và nhân loại. Giải thích câu ca dao: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần – Bài làm 2 Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần Câu ca dao đã dùng hình ảnh so sánh để khẳng định tình cảm khắng khít giữa anh và em trong gia đình. Vật được đem ra so sánh là tay va chân trong cơ thể con ngừờiT Tay và chân là hai bộ phận của một cơ thể có quan hệ khắng khít với nhau, hỗ trợ cho nhau. Tay và chân giúp con người có khả năng lao động để làm ra của cải vật chất. Nếu mất một trong hai bộ phận trên thì con người khó hoạt động và khả năng hoạt động bị giảm bớt. Điều này rõ ràng cho thấy sự cần thiết của cả tay lẫn chân đối với cơ thể của con người. Anh em trong gia đình cũng vậy, đều sông chung trong một mái nhà, cùng lớn lên có quan hệ tình cấm gắn bó với nhau. Anh có thể giúp em và ngược lại, em có thể giúp anh. Mối quan hệ đó giống như mối quan hệ giữa tay và chân. Qua hình ảnh so sánh Anh em như thể tay chân nhân dân ta muôn nêu lên tình cảm khăng khít giữa anh em, giữa những người trong gia dinh. Chính tình cảm đó sẽ là cơ sở xây dựng mối quan hệ thuận hòa, cách cư xử giữa anh em với nhau. Nếu ở câu trên là hình ảnh so sánh thì câu dưới Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần là hình ảnh tượng trưng mang nhiều ý nghĩa biểu cảm. “Rách”, “lành” chỉ hai hoàn cảnh sống khác nhau. “Rách” tượng trưng cho cuộc sống khó khăn,, khổ sở. “Lành” tượng trưng cho hoàn cảnh sống thuận lợi, sung túc. ơ đây dù trong hoàn canh nao “rách” hay “lành” cũng đều phải đùm bọc lấy nhau. Đó là lời khuyên về cách cư xử của anh em trong một gia đình, trong mọi hoàn cảnh khác nhau. Lúc đói, khi no, lúc sung sướng, khi thiêu thốn… hoàn cảnh có thể thay đổi nhưng đã là anh em thì lúc nào cũng phải yêu thương nhau đùm bọc lẫn nhau. Tình cảm thiêng liêng này không có lí do nào, tình huống nào làm thay đổi được. Tình anh em mãi mãi thắm thiết. Câu ca dao nêu lên một vấn đề đạo đức đồng thời cũng là vấn đề tình cảm: tình anh em. Trong gia đình, anh em đã từng sống chung với nhau từ thuở bé. Đến lúc lớn lên, dù mỗi người có bận bịu vì cuộc sống, vì gia đình riêng thì cũng phải giữ mãi tình cảm cao đẹp đó. Dù hoàn cảnh có khác nhau, người sông sung sướng, hạnh phúc, người sống nghèo khổ đói nghèo thì anh em vẫn phải quan tâm, săn sóc cho nhau. Giữ mãi tình cảm tốt đẹp ấy là bổn phận của mỗi người con trong gia đình. Yêu thương hòa thuận với nhau là đạo đức, là nhân cách của con người. Gia đình nào có được anh em biết yêu thương, đùm bọc cho nhau là gia đình đó có hạnh phúc. Ông cha ta khuyên bảo nhắc nhở con cháu phải duy trì tốt tình cảm cao quý đó trong gia đình là vì đây là truyền thống đẹp đẽ của dân tộc. Hơn nữa, trong thực tế cuộc sông cũng như lịch sử đã khẳng định – chính tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa anh em trong gia đình được nhân rộng ra là tình thương yêu đồng loại – đã giúp cho nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn thử thách mà tưởng chừng như nhân dân ta không vượt qua được. Những thiên tai lũ lụt đã gây biết bao tang thương dói khổ cho dân lành, nếu không có tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau, tình anh em một nhà, một nước, thì liệu đất nước ta, dân tộc ta đứng dậy nổi không? Cũng như trải qua những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nhân dân ta cần có sự “đùm bọc” đỡ đần như tiếp thêm sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Tình anh em là một quan hệ tình cảm mà ai ai cũng cần, cũng gặp phải. Vì thế, câu ca dao trên có ý nghĩa to lớn vô cùng. Nó là bài học đạo đức được diễn đạt bằng hình ảnh thật gần gũi và hàm súc. Ngoài việc giáo dục tình cảm anh em trong gia đình, câu ca dao còn khuyên nhủ mọi người trong xã hội phải biết thương yêu nhau, thủy chung với nhau. Câu ca dao đã nêu lên một vấn đề có ý nghĩa lớn đối với mỗi người: phải biết yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau – khi mà cuộc sống ngày càng diễn ra những cảnh tượng đau lòng về mối quan hệ gia đình. Ngày nay, mỗi người đọc câu ca dao trên cần suy gẫm để hiểu cho hết ý nghĩa của nó để sống' đẹp hơn theo như lời khuyên nhủ của cha ông. Giải thích câu ca dao: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần – Bài làm 3 Ca dao không những là tiếng nói tình cảm dạt dào mà còn là một kho tàng kinh nghiệm sống, lưu trữ truyền thống đạo lí, tình cảm của nhân dân ta. Từ nghìn xưa nói về anh em ta trong một gia đình nên cư xử với nhau như thế nào, ca dao đã khuyên nhủ mọi người. Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Câu ca dao trên mở đầu bằng hình ảnh so sánh: “Anh em như thể tay chân”, một lối nói quen thuộc của nhân dân lao động giống như "bầu" và “bí”, "dây trầu và cây cau", "gà cùng một mẹ"… Ai cũng biết “tay” và “chân” là hai bộ phận của một cơ thể con người có quan hệ không thể tách rời, luôn luôn khăng khít hỗ trợ cho nhau. Khác nào anh em trong một gia đình, đều cùng một cha mẹ sinh ra, dưới một mái ấm tình thương, có chung với nhau vô vàn kỉ niệm. Do đó, mà có quan hệ tình cảm gắn bó nhau. Anh em có thể giúp đỡ, đùm bọc nhau giống như quan hệ giữa “tay” và “chân” vậy. Hình ảnh so sánh sinh động và cụ thể trên đây giúp ta hiểu được tình cảm khăng khít giữa anh chị em. Tình cảm này là nền tảng cho cách đối xử mà câu thứ hai đề cập: “Rách, lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”. “Rách”, “lành” là hình ảnh tượng trưng giúp ta hình dung hai hoàn cảnh sống trái ngược nhau. “Rách” tượng trưng cho cuộc sống khó khăn, cơ cực, sa cơ lỡ vận. Trái lại, “lành” tượng trưng cho cuộc sống thuận chèo mát mái, sung túc, ấm no. Câu thứ hai là lời khuyên về cách cư xử của anh em một nhà trong các hoàn cảnh biến động của đời. Dẫu khi no, khi đói, khi đầy đủ và khi thiếu thốn, lúc nào anh em cũng phải nâng đỡ, đùm bọc lấy nhau trong tình thương yêu máu thịt. Đã là anh em đừng vì hoàn cảnh sống đổi thay mà tình cảm đậm nhạt biến thiên theo. Câu ca dao trên khẳng định một vấn đề đạo lí mà cũng là vấn đề tình cảm: Đó là tình anh em trong một gia đình. Từ tuổi bé thơ, sống chung với nhau yêu thương, khắng khít nhau như tay chân, anh em, khi lớn lên dù trong hoàn cảnh sống nào cũng phải lưu tâm, giúp đỡ đùm bọc thương yêu nhau. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Vì vậy, giữ trọn vẹn tình anh em ruột thịt thắm thiết chính là bổn phận của mọi thành viên trong gia đình Đây là vấn đề mà nghìn xưa cha ông vẫn quan tâm. Do đó, cùng một ý nghĩa này, ngoài câu ca dao trên, ta còn đọc được nhiều câu khác: Chị ngã em nâng Khôn ngoan đối đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. Môi hở răng lạnh. Đủ thấy hai câu ca dao trên có một ý nghĩa khá lớn. Đó là bài học đạo lí về tình anh em được thể hiện bằng hình ảnh cụ thể sinh động và gợi cảm. Tuy nhiên chúng ta nên hiểu ý nghĩa của hai câu ca đao trên rộng hơn nữa là mọi người trong nước, trong xã hội đều là “đồng bào” đều là “anh em” nên đều phải biết yêu thương nhau, đùm bọc nhau và chung thủy với nhau theo một đạo lí lớn hơn nữa: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Để tiến đến một ngày mai: Quan san muôn dặm một nhà Bốn phương vô sản đều là anh em. Ngày nay, hai câu ca dao ấy vẫn còn có tác dụng lớn lao, giúp chúng ta suy ngẫm để hiểu đầy đủ ý nghĩa và cố gắng làm theo bài học đạo lí của ông cha từ nghìn đời để lại khuyên nhủ cháu con…
Giải thích câu ca dao_ Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần – Văn mẫu lớp 8
2,284
Nguồn học là vô tận và con người đứng trước kiến thức rộng lớn của nhân loại lại trở thành một loài sinh vật bé nhỏ, nó giống như hạt cát giữa sa mạc rộng lớn. Kiến thức là vô tận , nếu con người chúng ta cứ sống mãi trong khuôn phép cứ tự cho mình là tài giỏi thì quả thật là thiệt thòi. Chính vì chúng ta không tiếp thu là tạo cơ hội cho người khác giỏi hơn mình. Như Lê Nin cũng đã có một câu hoàn toàn đúng đắn khi nói về vấn đề này “ Hoc, Học nữa, Học mãi”. Vậy theo như chũng ta hiểu câu nói thì đầu tiên chúng ta phải hiểu học là gì? Học chính là tiếp thu chắt lọc những tinh hoa những nét đẹp của văn hóa và tri thức nhân loại , học là học hỏi là rèn luyện và không ngừng trau dồi cho vốn kiến thức hạn hẹp của mình. Học không chỉ có học về những kiến thức về văn hóa xã hội hay khoa học mà còn học cả cách ứng xử cách giao tiếp và đó cả là một văn hóa. Một người không thể từ khi sinh ra đã giỏi và đã trở thành một người có vốn kiến thức uyên thâm. Ngay cả những bác học và những thiên tài cho dù họ có thông minh tới mấy nhưng họ không bắt tay vào nghiên cứu thì suy cho cùng họ cũng thất bại. Vậy câu nói của Lê Nin hoàn toàn là đúng đắn. Học không chỉ bó hẹp ở nhà trường từ kiến thức mà thầy cô giáo truyền đạt lại mà còn là cả học ở trong sách vở trong báo chí. Và ngày nay khi công nghệ phát triển mạnh mẽ thì mạng Internet là một nguồn cho chúng ta tham khảo vô cùng bổ ích và lí thú. Nếu chúng ta biết tận dụng thì nó vô cùng có ích không những cho hiện tại mà cả sau này. Học , học nữa học mãi là cách mà chúng ta không ngừng trau dồi nâng cao nhận thức của bản thân về kiến thức của bản thân mình. Như bác học Đác Uyn một lần được con gái hỏi vì chuyện tại sao cha của cô trở thành bác học mà vẫn thức khuya tôi luyện tìm tòi. Nhưng câu trả lời của ông lại gây một điều bất ngờ đó chính là “ Bác học không có nghĩa là ngừng học” Như chúng ta thấy có những cuj già những người đã lớn tuổi nhưng ngày ngày vẫn đọc sách vẫn ngâm nga những câu thơ trong những cuốn sách thời xưa. Học không chỉ là tính toán mà nó còn là đọc và chiêm nghiệm. Họ tuổi già sức yếu nhưng điều đó không có nghĩa là họ dừng lại mọi con đường đi đến với kiến thức. Ngày nay, bên cạnh những người ngày đêm miệt mài với sách vở với trau dồi rèn luyện cho bản thân thì cũng không ít những người lại chây lười, và bên cạnh đó lại có những người tự cao tự đại không muốn tiếp thu của ai một điều gì và luôn tự cho mình là đúng. Những người như vậy cần phải phê bình và tốt hơn là bản thân họ tự phê bình. Câu nói của Lê Nin mặc dù trải qua bao nhiêu thời gian nhưng nó vẫn luôn là một câu nói đầy động lực cho bất cứ một con người nào. Học, học nữa, học mãi để luôn là người linh hoạt và hiểu biết để bắt kịp với thời đại
Giải thích câu nói của Lê nin_ Học, học nữa, học mãi
618