messages
listlengths 3
3
|
---|
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Thông tin về Glyphonyx quadricollis",
"role": "user"
},
{
"content": "Glyphonyx quadricollis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Fleutiaux miêu tả khoa học năm 1940.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của Hylaeus kaszabi á",
"role": "user"
},
{
"content": "Hylaeus kaszabi là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Dathe mô tả khoa học năm 1986.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Information of Robbie Fowler is on wikipedia, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Robert Bernard \"Robbie\" Fowler (sinh ngày 9 tháng 4 năm 1975) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh và cựu tuyển thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh. Fowler được những người hâm mộ bóng đá biết đến khi còn chơi trong màu áo của Liverpool. Tại đây, Fowler ghi được tổng cộng 183 bàn thắng cho Liverpool, trong đó 128 đã ghi được tại Premier League. Sau đó anh chuyển sang chơi cho Leeds United và Manchester City, trước khi trở về Liverpool vào tháng 1 năm 2006.\nFowler đã chuyển câu lạc bộ một lần nữa 18 tháng sau đó để gia nhập cho Câu lạc bộ Cardiff City của xứ Wales. Anh đã từ chối hợp đồng gia hạn trong một năm theo hình thức \"trả lương theo những cống hiến\" với câu lạc bộ này để ký kết với Blackburn Rovers một bản hợp đồng \"trả lương theo những cống hiến\" có thời hạn một năm vào mùa hè năm 2008 và luyện tập cùng Blackburn Rovers để chuẩn bị cho mùa giải mới. Tuy nhiên, trong tháng 12 năm 2008, Anh rời Blackburn và trở thành một cầu thủ tự do. Sau đó anh từng chơi bóng ở Úc và năm 2011, anh đến chơi bóng tại Thái Lan và kết thúc sự nghiệp tại đây.\nTrong sự nghiệp của mình, anh đã khoác áo đội tuyển quốc gia Anh 26 lần, ghi được bảy bàn thắng.\nSự nghiệp thi đấu.\nTrong sự nghiệp của mình, Fowler đã từng thi đấu cho nhiều câu lạc bộ khác nhau:\nNhững năm tháng ở Anh.\nFowler là sản phẩm lừng danh của lò đào tạo trẻ Liverpool. Sinh ra và lớn lên ở Toxteth thuộc thành phố Cảng Liverpool của vùng Merseyside nước Anh. Năm 10 tuổi, Fowler được đưa đến lò đào tạo cầu thủ trẻ của Everton, nhưng chỉ sau đó một năm, danh thủ này đã quyết định chọn Liverpool là nơi phát triển tài năng. Fowler bắt đầu sự nghiệp cùng Liverpool.\nAnh gia nhập đội trẻ vào mùa hè năm 1991, Và trong ba năm tiếp theo, Fowler luôn tạo được những bất ngờ đối với huấn luyện viên đội trẻ, rồi gia nhập đội hình 1 vào sinh nhật thứ 17 của anh ngày 9 tháng 4 năm 1992. Rất nhanh chóng, anh bắt đầu có chỗ đứng trong đội hình 1 từ năm đó và trở thành cầu thủ quen thuộc của đội hình 1. khi được 18 tuổi, Fowler cùng với Jamie Redknapp và Steve McManaman được đôn lên đội một, và sau đó ba cái tên này đã tạo nên danh tiếng của lò đào tạo trẻ của Liverpool.\nThành công bắt đầu đến khi Fowler cùng Redknapp và McManaman được đôn lên đội một. Huấn luyện viên Roy Evans đã xây dựng một đội hình Liverpool xoay quay ba cầu thủ trẻ tài năng là Redknapp - Fowler – McManaman, bộ ba này đã được gọi là \"Spice Boys\", sau đó bộ ba \"Spice boys\" trở thành những tượng đài của Liverpool. Trong 8 năm khởi đầu sự nghiệp, tiền đạo này đã ghi tổng cộng 120 bàn thắng cho Quỷ đỏ vùng Merseyside.\nSự nghiệp lừng lẫy của Robbie Fowler bắt đầu từ ngày 13 tháng 1 năm 1993, khi Liverpool gặp Bolton trong khuôn khổ FA Cup, và đây cũng là trận đấu ra mắt của Fowler với cổ động viên. Ngày 22 tháng 9 năm 1993, Fowler có bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp vào lưới của Fulham trên sân Craven Cottage. Hattrick đầu tiên của Fowler vào lưới của Southampton và anh đã ghi được 18 bàn thắng trong mùa giải đầu tiên.\nVào năm 1995, anh đã lập một hattrick nhanh nhất trong lịch sử Ngoại hạng Anh trong trận gặp câu lạc bộ Arsenal trong mùa bóng 1994–1995. Kỉ lục về thời gian lập hattrick này được thiết lập trong vòng 4 phút, 32 giây. Đến nay vẫn chưa thể có cầu thủ nào phá vỡ được kỉ lục đó. Và cũng ở mùa giải 1995-1996, Fowler cũng đã thiết lập một kỷ lục cho câu lạc bộ Liverpool khi anh ghi được 20 bàn ở giải nội địa (sau này một cầu thủ khác là Toress cũng đã đạt được kỷ lục này). Trong mùa giải này, anh được vinh dự đóng nhận danh hiệu \"Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất trong năm\" trong hai năm 1995 và 1996 do \"Hiệp hội cầu thủ chuyên nghiệp Anh\" bình chọn. Danh hiệu đầu tiên của Fowler là Coca Cola Cup.\nBàn thắng vào lưới Middlesbrough trong trận lượt về mùa giải 1996 - 1997 đã giúp Fowler đánh dấu mốc 100 bàn thắng cho câu lạc bộ và với bàn thắng này, Fowler đã vượt qua kỷ lục của huyền thoại Ian Rush. Tại mùa giải 1997 - 1998, Fowler gặp phải chấn thương đầu gối rất nặng và với chấn thương này anh đã không thể cùng với đội tuyển Anh tham dự World Cup 1998 tại Pháp. Và cũng ở thời điểm này, ngôi sao mới của sân Anfield là Michael Owen đã khẳng định được vị thế của mình, đồng nghĩa với đó là vị trí chính thức trên hàng tiền đạo của Fowler bị đe doạ nghiêm trọng\nTuy vậy, sự nghiệp của Fowler lên đến đỉnh cao vào năm 2001. Đầu tiên là chức vô địch League Cup của Liverpool sau khi đánh bại câu lạc bộ Birmingham trên chấm phạt đền và Fowler được bình chọn là cầu thủ hay nhất trận đấu này. Tiếp đó là chức vô địch UEFA Cup, Một trận đấu đầy kịch tính với câu lạc bộ Alavés, trận đấu phải nhờ đến luật \"bàn thắng vàng\" và kết quả cuối cùng của trận đấu là 5–4 nghiêng về Liverpool. Nhưng trước đó hai ngày, Fowler đã cũng với đồng đội nâng cao chức vô địch danh giá FA Cup mùa giải 2001. Bàn thắng Fowler vào lưới Charlton Athletic đã khép lại một mùa bóng đầy thành công của Liverpool, và bàn thắng này đã giúp cho Liverpool giành được một suất tham dự Champions League ở mùa bóng tiếp theo.\nỞ kỳ chuyển nhượng mùa Đông năm 2001, Fowler đã chính thức chuyển sang chơi cho câu lạc bộ Leeds United với cái giá là 12,5 triệu bảng Anh, cái giá đó cũng là kỷ lục bán một cầu thủ của câu lạc bộ Liverpool, nó vẫn còn tồn tại đến bây giờ (trước đó đã có nhiều thông tin cho rằng anh sẽ chơi cho Leed với gia 10 triệu bảng). Chơi bóng cho Leeds được hai mùa bóng (2001-2003), Fowler đã quyết định rời câu lạc bộ vùng Yorkshire để chuyển sang đầu quân cho câu lạc bộ của thành phố công nghiệp lớn nhất nước Anh là Manchester City. Và Fowler cũng đã cống hiến tất cả cho Manchester City trong ba mùa bóng kế tiếp (2003-2006). Trong 3 năm cống hiến ở Man City, danh thủ này đã ghi 20 bàn thắng sau 80 lần ra sân.\nVà đến kỳ chuyển nhượng mùa Đông năm 2006, Huấn luyện viên Rafael Benítez chiến lược gia người Tây Ban Nha đã quyết định đưa định đưa Fowler trở về với sân Anfield. Một bản hợp đồng chuyển nhượng tự do từ Manchester City đã đưa Fowler trở về với Liverpool. Và trong ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 31, Fowler đã tự tặng quà cho mình bằng một bàn thắng vào lưới của Bolton. Tổng cộng trong mùa bóng này, anh đã ghi được 8 bàn thắng ghi được cho \"The Kop\" sau 30 lần ra sân.\nGắn bó với Liverpool từ 1993 - 2001, trong suốt thời gian chơi cho Liverpool, Fowler đã có tổng cộng 266 lần ra sân trong đội hình chính thức và ghi đến 128 bàn thắng cho đội bóng áo đỏ vùng Merseyside trong đó anh đã ghi hơn 120 bàn thắng tại giải Ngoại hạng Anh, Cùng với đó còn là những danh hiệu mà anh đã đạt được cùng với CLB: League Cup (1995, 2001); FA Cup, UEFA Cup, Siêu Cup châu Âu (cùng trong năm 2001), ngoài ra, anh còn đạt danh hiệu \"Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất trong năm\" trong hai năm 1995 và 1996 do \"Hiệp hội cầu thủ nhà nghề Anh\" bình chọn.\nTuy vậy, đến ngày 13 tháng 5 năm 2006, The God đã một lần nữa nói lời chào tạm biệt với Câu lạc bộ và người hâm mộ để đầu quân cho Cardiff City đương kim vô địch xứ Wales vào năm anh 32 tuổi. Đây là lần đầu tiên Fowler đá cho một đội bóng không thuộc giải ngoại hạng Anh trong suốt sự nghiệp của mình. Sau đó vào năm 2008, Fowler quay trở lại nước Anh và gia nhập vào Câu lạc bộ Blackburn Rovers. Khi đó anh đã 33 tuổi và đã qua thời kỳ đỉnh cao phong độ.\nTại Úc.\nNăm 2009, anh hoàn tất bản hợp đồng chuyển sang đầu quân cho North Queensland Fury, một câu lạc bộ của Úc. Theo bản hợp đồng này, chân sút 33 tuổi người Anh sẽ chơi cho đội bóng mới trong 2 mùa giải liên tiếp (2009 - 2010 và 2010- 2011). Hợp đồng 2 năm với North Queensland Fury được hoàn tất từ đầu tháng 2 năm 2009. Nơi ăn chốn ở cho Fowler tại Townsville được câu lạc bộ chuẩn bị chu đáo từ tháng 3 năm 2009.\nHuấn luyện viên Ian Ferguson của North Queensland Fury của đội bóng tuyên bố chọn chân sút 34 tuổi làm đội trưởng kiêm trợ lý huấn luyện viên. Sau một mùa giải khá thành công trong màu áo North Queensland Fury ở giải VĐQG Australia với 9 bàn thắng, Robbie Fowler đã quyết định chuyển đến đầu quân cho FC Perth Glory. Nguyên nhân khiến chân sút 35 tuổi không ở lại North Queensland Fury vì CLB này không thể tiếp tục đáp ứng mức lương vào khoảng 520.000 euro/năm.\nRobbie Fowler đã rời câu lạc bộ North Queensland Fury và chuyển sang chơi cho FC Perth Glory. Sau đó, Robbie Fowler khẳng đinh anh sẽ không quay trở lại Australia thi đấu cho câu lạc bộ Perth Glory trong mùa bóng thứ hai vì những lý do gia đình.\nĐến Thái Lan.\nNăm [[2011]], Câu lạc bộ Muang Thong United của [[Thái Lan]] đã chiêu mộ và Fowler đã đồng ý chơi cho Muang Thong United và Hợp đồng thi đấu cho Muang Thong có thời hạn 1 năm được ký kết, và anh sẽ là học trò của huấn luyện viên [[Henrique Calisto|Calisto]], cựu huấn luyện viên [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam|ĐTVN]]. Với việc ký hợp đồng chơi cho Muang Thong United, Fowler sẽ là cầu thủ ngoại nổi tiếng nhất ở giải [[Thai Premier League]] và cầu thủ hưởng lương cao nhất tại Giải ngoại hạng Thái Lan. Giá trị của bản hợp đồng 20 triệu [[baht]] (tương đương 660.000 [[Đô la Mỹ|USD]]).\nTrong buổi lễ ra mắt Robbie Fowler, Muang Thong United đã nhận được vinh dự lớn khi [[Thủ tướng]] mới đắc cử [[Yingluck Shinawatra]] đã cùng con trai tới dự. Để ký được hợp đồng, Fowler phải qua buổi kiểm tra y tế ngặt nghèo của tổ [[bác sĩ]] thể thao hàng đầu Thái Lan mà Muangthong thuê về để thực hiện đúng quy trình nhận cầu thủ của một câu lạc bộ chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, Fowler phải qua một cuộc vấn đáp liên quan đến nghề nghiệp và quá trình làm cầu thủ, thuyên chuyển qua các câu lạc bộ của chính anh.\nSau đó, Robbie Fowler đã ghi được bàn thắng đầu tiên cho Muang Thong United trong trận thắng [[Chiang Rai United]] 4-1 ở vòng 27 Giải vô địch Thái Lan. Đây là pha ghi bàn đầu tiên trên đất Thái của cầu thủ này. Trong trận đấu với Chiang Rai United trên sân nhà [[Sân vận động Yamaha (Thái Lan)|Yamaha]], Robbie Fowler tự xếp mình ra sân trong đội hình chính thức của Muang Thong United. Ngay từ phút 19, anh đã để lại dấu ấn với pha đánh đầu ghi bàn mở tỉ số 1-0 cho Muang Thong United.\nSau khi chấm dứt hợp đồng với Calisto, đội bóng Thái Lan, Muang Thong United đã bổ nhiệm Robbie Fowler làm [[Huấn luyện viên]] trưởng (báo chí cho rằng ông Calisto không tin dùng Fowler nên đã bị thay thế). Tuy vậy, Robbie Fowler vốn không có nhiều kinh nghiệm huấn luyện. Trước đây, anh chỉ có một thời gian ngắn làm huấn luyện viên cho 2 câu lạc bộ [[Milton Keynes Dons]] và [[Bury]] tại giải hạng Nhì của Anh. Tuy vậy, lần đầu tiên ra quân trong màu áo Muangthong với tư cách cầu thủ kiêm huấn luyện viên trưởng, Robbie Fowler đã có chiến thắng 3-1 ngay trên sân đội bóng [[SCG Samut Songkhram]] với ty số 3-1, với chiến thắng này, Muangthong tạm vượt qua Chonburi để lên ngôi nhì bảng với 47 điểm.\nThành tích đạt được.\nTính đến năm [[2011]], Robbie Fowler đã ghi được bảy bàn thắng trong 26 trận khoác áo tuyển Anh từ năm 1996-2002 và đỉnh cao trong sự nghiệp của tiền đạo này là 10 năm thi đấu cho Liverpool, giành được hai [[cúp FA]], hai [[cúp Liên đoàn Anh]], [[cúp UEFA Europa League|cúp UEFA]] và [[siêu cúp châu Âu]]. Tính đến thời điểm này, Fowler đã chơi tổng cộng 553 trận và ghi được 248 bàn thắng.\nỞ cấp độ đội tuyển quốc gia.\nỞ cấp độ đội tuyển quốc gia Fowler đã chơi cho đội tuyển Anh từ năm 1996 đến năm 2002, thi đấu được 26 trận và ghi được 7 bàn thắng. Năm 1993, cùng đội tuyển Anh vô địch giải U18 [[Châu Âu|Châu âu]].\nDanh hiệu cá nhân.\nTrong sự nghiệp thi đấu của mình, Fowler đã cùng Liverpool giành chức vô địch League Cup mùa bóng 94/95, vô địch League Cup và FA Cúp và UEFA Cúp mùa bóng 2000/2001. Trong mùa bóng này anh còn cùng Liverpool đoạt luôn [[Siêu cúp châu Âu]] 2001. Ngoài ra anh cùng được nhận danh hiệu Cầu thủ trẻ hay nhất Premiership (mùa bóng 1995, 1996) do [[Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh|PFA]] bình chọn và một Giải thưởng [[Fair Play]], trong một trận đấu khi trọng tài nhận định sai cho đội anh hưởng quả 11 m do anh vấp ngã trong khu 16,5 m chứ không phải đối phương truy cản trái phép. Biết còi đã cất lên thì không thể thay đổi, Fowler nhận đá quả 11 m và anh đã đá thật nhẹ vừa đủ lăn đến cầu môn cho thủ môn đối phương bắt. Hành động đấy được mọi người tán thưởng vì cứu cho trọng tài cái sai và không để đối thủ chết oan vì sai lầm của trọng tài.\nThống kê bàn thắng.\n391||166||31||16||44||33||45||15||511||230\n54||18||0||0||0||0||0||0||52||18\n13||2||4||2||1||0||2||0||20||4\n459||187||35||18||45||33||51||15||590||253\nDanh hiệu.\nCâu lạc bộ.\nLiverpool\nQuốc tế.\nU18 Anh\nĐánh giá.\n[[Tập tin:Fowler, Robbie.jpg|nhỏ|phải|180px|Nụ cười lạc quan của Fowler]]\nMột sự nghiệp lừng lẫy với những bàn thắng quan trọng, hàng loạt danh hiệu, vô số kỉ lục cùng nhiều tranh cãi, tai tiếng cả trong và ngoài sân cỏ. Đó là tất cả những gì khái quát nhất về tiền đạo huyền thoại một thời của sân Anfield – Robbie Fowler.\nRobbie Fowler được mọi người biết đến như một tay săn bàn bẩm sinh. \"The God\" (biệt danh của Fowler) xứng đáng là người hùng của đội bóng thành phố Cảng trong 10 năm qua. Trên trang web chính thức của Liverpool có viết về Fowler rằng: \"Robbie Fowler là người hùng của câu lạc bộ. Những bàn thắng, danh hiệu và hình ảnh anh đã in sâu nơi trái [[tim]] người hâm mộ. Một thời kỳ đen tối sau hai thảm họa liên tiếp, bóng tối dường như bao trùm lên những người yêu Liverpool. Và anh như một người cầm đuốc soi đường cho chúng tôi. Anh chính là người lèo lái con tàu Liverpool đã mất phương hướng giữa [[đại dương]] mênh mông trở lại đúng quỹ đạo\".\nDù gặt hái được khá nhiều thành công tại câu lạc bộ nhưng ở cấp đội tuyển quốc gia Fowler lại không có được danh hiệu gì. Điển hình là mùa giải 97/98, The God gặp phải chấn thương đầu gối nghiêm trọng và anh đã không thể cùng đội tuyển Anh tham dự World Cup’98 và bị mất vị trí vào tay Owen. Sau 6 năm thi đấu cho Tam sư, Fowler chỉ ghi được 7 bàn thắng sau 26 lần ra sân.\nBên cạnh những thành tích huy hoàng đó thì Fowler cũng là một cầu thủ bị [[dư luận]] chỉ trích. Ngoài việc anh là một cầu thủ, Robbie Fowler cũng là một \"trùm\" [[bất động sản]] trong giới cầu thủ. Khác với các ngôi sao bóng đá trước đây chỉ thích mở [[nhà hàng]], [[quán bar]], Fowler đã bỏ [[tiền]] ra mua khá nhiều mẫu đất và căn hộ ở các khu vực trung tâm. Hiện Robbie Fowler được coi là \"trùm\" bất động sản. Anh sở hữu đến 85 [[căn hộ]] cao cấp. Anh cũng được xếp vào top 4 cầu thủ giàu nhất ở Anh với tổng tài sản lên đến 31 triệu [[Bảng Anh]]. Có thể nói, Robbie Fowler là một tuyển thủ Anh có cuộc sống ngoài bóng đá lắm phóng đãng. Fowler từng bị mắc [[bệnh xã hội]] và là dân [[người đồng tính nam|gay]]. Khi còn chơi cho Liverpool và những lần đội tuyển Anh tập trung, anh thường bị các đồng đội trêu chọc trong [[phòng thay đồ|phòng thay quần áo]]. Những câu chuyện vui cứ tồn tại rằng trong [[phòng thay đồ]], nhiều tuyển thủ cứ hơ hớ cho đồng đội Fowler xem.\nNgoài sân cỏ, Robbie Fowler cũng là một tay chơi khét tiếng. Robbie Fowler thì khoảng thời gian nghỉ [[hè]] đằng đẵng luôn đi kèm với các màn quậy phá, [[ẩu đả]] kinh hoàng. Đặc biệt là Pha \"hít [[ma túy]]\" ăn mừng bàn thắng đầy tai tiếng trong trận gặp câu lạc bộ Everton.\nNhững vụ quậy phá của Fowler có thể kể đến là:\nLiên kết ngoài.\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Anh]]\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C.]]\n[[Thể loại:Sinh năm 1975]]\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Leeds United F.C.]]\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.]]\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Blackburn Rovers F.C.]]\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Cardiff City F.C.]]\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Premier League]]\n[[Thể loại:Tiền đạo bóng đá]]\n[[Thể loại:Nhân vật còn sống]]\n[[Thể loại:Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002]]\n[[Thể loại:Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh]]\n[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Anh ở nước ngoài]]\n[[Thể loại:Huấn luyện viên bóng đá Anh]]\n[[Thể loại:Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh]]",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Bulbophyllum systenochilum không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Bulbophyllum systenochilum là một loài phong lan thuộc chi \"Bulbophyllum\".\nTham khảo.\nsystenochilum]]",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Thông tin về Stigmella bumbegerensis",
"role": "user"
},
{
"content": "Stigmella bumbegerensis là một loài bướm đêm thuộc họ Nepticulidae. Nó được tìm thấy ở Bojan-Chongor Aimak in Mông Cổ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Rhyacophila munda không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Rhyacophila munda là một loài Trichoptera trong họ Rhyacophilidae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Wawern, Bitburg-Prüm nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Wawern là một đô thị ở huyện Bitburg-Prüm, trong bang Rheinland-Pfalz, phía tây nước Đức. Đô thị Wawern, Bitburg-Prüm có diện tích 7,64 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 296 người.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Panurginus polytrichus?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Panurginus polytrichus là một loài Hymenoptera trong họ Andrenidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1909.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Gremersdorf-Buchholz ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Gremersdorf-Buchholz là một đô thị tại huyện Vorpommern-Rügen (trước thuộc huyện Nordvorpommern), bang Mecklenburg-Vorpommern, miền bắc nước Đức.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "403 Cyane, bạn có thông tin nó ?",
"role": "user"
},
{
"content": "403 Cyane là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Auguste Charlois phát hiện ngày 18.5.1895 ở Nice, và được đặt theo tên nữ thần Cyane trong thần thoại Hy Lạp.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Kotar from the encyclopedia?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Kotar là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Satna thuộc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ.\nĐịa lý.\nKotar có vị trí Nó có độ cao trung bình là 298 mét (977 feet).\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Kotar có dân số 6863 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Kotar có tỷ lệ 53% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 66%, và tỷ lệ cho phái nữ là 40%. Tại Kotar, 18% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "2869 Nepryadva, bạn có thông tin nó ?",
"role": "user"
},
{
"content": "2869 Nepryadva (1980 RM2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 7 tháng 9 năm 1980 bởi N. Chernykh ở Nauchnyj. Nó được đặt theo tên Russian river Nepryadva, where Battle of Kulikovo was fought.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Becheln từ bách khoa toàn thư không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Becheln là một xã thuộc bang huyện Rhein-Lahn, trong bang Rheinland-Pfalz, phía tây nước Đức. Xã này có diện tích 4,41 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 645 người.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Plassac, Gironde from the encyclopedia?, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Plassac là một xã thuộc tỉnh Gironde trong vùng Nouvelle-Aquitaine tây nam nước Pháp.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn đưa thông tin về Quận Carroll, Indiana không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Quận Carroll là một quận thuộc tiểu bang Indiana, Hoa Kỳ.\nQuận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở.\nĐịa lý.\nTheo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Thông tin về Đảng Ruộng đất Belarus",
"role": "user"
},
{
"content": "Đảng Ruộng đất Belarus (, \"Agrarnaya Partya\") là một đảng chính trị theo chủ nghĩa bình quân ruộng đất và chủ nghĩa cộng sản ở Belarus có chủ trương ủng hộ chính quyền của Tổng thống Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka.\nĐảng Ruộng đất Belarus được thành lập vào năm 1992. Lãnh tụ của Đảng là Mikhas Viktaravich Shymansky. Trong cuộc Bầu cử Quốc hội Belarus năm 1994 đảng giành được 34 ghế trong Quốc hội Belarus. Đến năm 2000 đảng giành được 5 ghế, năm 2004 giành được 3 ghế, năm 2008 giành được 1 ghế.\nNgày 12 tháng 6 năm 2009 Bộ Tư pháp Belarus đã gửi một bức thư cảnh cáo đến Đảng ruộng đất Belarus vì đảng này không báo cáo cho Nhà nước về các hoạt động của đảng.\nMục tiêu.\nCương lĩnh và mục tiêu của Đảng Ruộng đất Belarus:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Chiến dịch Đăk Tô – Tân Cảnh (1967) không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Chiến dịch Đăk Tô – Tân Cảnh hay Trận Đăk Tô – Tân Cảnh năm 1967, là một trận đụng độ trực tiếp giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Hoa Kỳ, diễn ra từ ngày 3 đến 22 tháng 11 năm 1967, tại cứ điểm E42 (còn gọi là đồi Charlie) gần quốc lộ 14, thuộc xã Tân Cảnh cũ, nay thuộc địa bàn thị trấn Đăk Tô, huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum.\nLực lượng.\nLực lượng tham chiến của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có:\nLực lượng tham chiến của Quân đội Hoa Kỳ gồm có:\nLực lượng tham chiến của Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm:\nTrong trận đánh, do bị đánh trả quyết liệt, quân đội Mỹ đã phải huy động một lượng hỏa lực cực lớn. Pháo binh Mỹ đã bắn yểm trợ 151.900 viên đạn pháo (nhiều hơn lượng đạn pháo mà quân Pháp sử dụng trong trận Điện Biên Phủ). Không quân Mỹ huy động 2.101 phi vụ trực thăng chiến đấu hoặc vận tải, 2.096 phi vụ ném bom, 257 phi vụ B-52 ném bom rải thảm, ném tổng cộng hơn 10.000 tấn bom. Trung bình mỗi bộ đội Việt Nam phải hứng chịu 25 viên đạn pháo và 1,6 tấn bom do Mỹ ném xuống.\nMục tiêu.\nMục tiêu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là tiêu diệt đáng kể các đơn vị QĐHK (Quân đội Hoa Kì) đương có ở Tây Nguyên để thu hút thêm các đơn vị QĐHK khác đến Tây Nguyên là địa bàn rừng núi mà Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quen thuộc hơn. Nói ngắn gọn, đây là một trận dùng kế \"Điệu hổ li sơn\" vào thế trận bày sẵn để tiêu diệt. Mục đích của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, thu hút lực lượng chủ lực cơ động của Mỹ – VNCH lên Tây Nguyên, tạo điều kiện cho chiến trường Khu 5 và toàn Miền diệt Mỹ – VNCH (Việt Nam Cộng hòa), chống phá bình định, sẵn sàng đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ ba của Mỹ – VNCH. Quán triệt nhiệm vụ được giao, ngày 10 tháng 9. năm 1967, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định tập trung lực lượng vũ trang ba thứ quân mở chiến dịch tiến công Mỹ – VNCH ở Đăk Tô nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực Mỹ, buộc Mỹ phải điều lực lượng cơ động lên Tây Nguyên. Đồng thời tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân VNCH, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường, rèn luyện nâng cao khả năng tác chiến tập trung của bộ đội, chú trọng rút kinh nghiệm và xây dựng hoàn thiện chiến thuật \"Vận động tiến công kết hợp chốt\", nâng cao trình độ tập kích địch phòng ngự ở điểm cao.\nMục tiêu của QĐHK là tìm và diệt các đơn vị đối phương đang hoạt động tại đường 14 và đường 19. Song các đơn vị đó của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ hoạt động nhằm mục đích nghi binh để đối phương không chú ý tới sự di chuyển của Sư đoàn 1 của họ. Dù sao, di chuyển của Sư đoàn 1 vẫn bị QĐHK (Quân đội Hoa Kỳ) phát hiện nhờ tin tức do một người lính của Sư đoàn 1 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đầu hàng cung cấp.\nĐặc điểm chiến trường.\nĐịa hình khu vực tiến công chính của chiến dịch là quận Đắc Tô (Kon Tum). Quận lỵ nằm trên ngã ba đường 14 và đường 18, cách thị xã Kon Tum 40 km về phía bắc, đây là vùng thung lũng có bình độ trung bình từ 600 – 700m, chiều dọc từ bắc xuống nam khoảng 9 km, chiều ngang từ đông sang tây khoảng từ 8 km – 9 km. Khu vực tác chiến bị chia cắt thành 2 vùng phía bắc và phía nam bởi con sông Pô Kô và đường 18, có nhiều dãy núi cao có giá trị về chiến thuật mà điển hình là dãy Ngọc Bơ Biêng, nếu bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm thì toàn bộ thung lũng Đắc Tô sẽ nằm trong tầm khống chế của hỏa lực pháo binh của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhìn chung địa hình có lợi cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở thế cao hơn Quân đội Mỹ – VNCH, loại bỏ được khả năng sử dụng cơ giới của Mỹ – VNCH. Mặt khác vì vùng này chưa có các hoạt động quân sự lớn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nên khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở chiến dịch sẽ tạo được bất ngờ đối với lính Mỹ – VNCH.\nHoàn cảnh.\nSau khi đã đưa khoảng 55.000 quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, để vừa tiếp tục thực hiện chiến lược hai gọng kìm \"tìm diệt\" và \"bình định\", vừa giữ ổn định tình hình tạo hậu thuẫn cho cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào năm 1968, tướng Westmoreland tiến hành điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược, âm mưu tập trung lực lượng chuẩn bị mở cuộc phản công lần thứ 3 (mùa khô 1967-1968) trên hướng ở miền Đông Nam Bộ nhằm cải thiện tình hình. Ở Trung Trung Bộ, lính Mỹ – VNCH đánh phá, ngăn chặn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở dọc biên giới Việt – Lào, trọng điểm là ở Plây Ku và Kon Tum, tìm diệt chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, phá các căn cứ, hỗ trợ cho bình định dọc miền duyên hải.\nĐầu năm 1967, sau thất bại ở Sa Thầy, quân Mỹ vẫn tiếp tục mở các cuộc hành quân có tính chất ngăn chặn các cuộc tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào vùng Gia Lai, đường 19, Đức Cơ, Đường 21, Lạc Thiện, Quảng Nhiêu hoặc vào vùng Đắc Tô (Kon Tum). Liên tiếp cả trong mùa mưa, giao tranh giữa 2 bên hầu như không ngớt. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thực hiện được một số trận đánh khá tiêu biểu, bằng vận động tiến công hoặc bằng pháo kích (ĐKB) vào hậu phương, hậu cứ của Mỹ.\nBước vào mùa khô năm 1967, quân Mỹ – VNCH ở Tây Nguyên (gồm lực lượng của vùng 2 chiến thuật, sư đoàn 22 VNCH và sư đoàn 4 Mỹ) ra sức thăm dò các động thái của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Cuối tháng 10 năm 1967, khi phát hiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang chuẩn bị mở chiến dịch ở bắc Kon Tum, sư đoàn 4 Mỹ vội vã kết thúc cuộc hành quân Marc Acthur ở phía tây thị xã Pleiku và vùng tây bắc Gia Lai chuyển hướng về vùng rừng núi Đăk Tô. Ngày 2 tháng 11, lữ đoàn 1 của Mỹ đến Đăk Tô, chúng thiết lập sở chỉ huy hành quân tại sân bay và hình thành hai cụm quân: cụm thứ nhất ở khu vực ngã ba đường 14 và đường 18 gồm Trung đoàn 42 VNCH ở Tân Cảnh, quận lỵ Đăk Tô và sân bay Đắc Tô 1. Cụm quân thứ 2 nằm dọc đường 18, cách ngã ba Tân Cảnh 4 km về phía tây, gồm sở chỉ huy hành quân, cụm kho hậu cần của quân Mỹ và sân bay Đắc Tô 2.\nNgày 25 tháng 7 năm 1967, Đảng ủy mặt trận họp đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương và Quân khu 5 giao cho chiến trường (từ sau chiến dịch Sa Thầy (1967)) và đề ra nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong đông xuân 1967 – 1968. Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, ngày 10-9 giữa lúc bộ đội đang bước vào đợt sinh hoạt chính trị, Đảng ủy mặt trận chính thức quyết định mở chiến dịch Đắc Tô nhằm mục đích: \"Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, buộc địch phải cơ động lực lượng lên Tây Nguyên càng nhiều càng tốt, để phối hợp chiến trường với toàn miền; Thông qua tác chiến nhằm nhanh chóng nâng cao trình độ đánh tập trung của bộ đội chủ lực, tiêu diệt gọn từng đơn vị địch, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, nâng cao trình độ tác chiến của bộ đội địa phương lên một bước mới.\"\nBộ tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đề ra phương châm: \"\"Tích cực, chủ động, linh hoạt, tạo thời cơ nhử địch vào thế trận ta đã chuẩn bị sẵn, tiêu diệt từng tiểu đoàn Mỹ phản kích, phản đột kích ứng chiến bằng đường bộ và đổ bộ đường không, tiến tới đánh thiệt hại nặng đơn vị lớn hơn của chúng; thực hiện tiến công liên tục đánh vào toàn bộ đội hình chiến dịch của địch, bao vây chia cắt chiến dịch, đánh cả phía trước và phía sau, đánh vào các căn cứ hành quân chiến dịch của địch, vận dụng chiến thuật linh hoạt, kiên quyết bám trụ, vận dụng cách đánh gần, đánh chồng, đánh bồi của các binh chủng; bố trí đội hình chiến dịch có chiều sâu, có đội dự bị mạnh, có chốt chiến dịch vây hãm và uy hiếp địch buộc chúng phải ra khu quyết chiến để ta đánh tiêu diệt. Phối hợp chặt chẽ giữa quân sự, chính trị, tác chiến và địch vận\".\"\nĐiểm quyết chiến phải đạt ý đồ đánh tiêu diệt có giá trị, giảm bớt hỏa lực cực mạnh của Mỹ, và hạn chế tối đa thương vong. Tất cả những điều ấy đã được Đảng ủy và Bộ tư lệnh mặt trận phân tích kỹ. Trước hết là, sử dụng Đại đội 1 pháo binh 1 cùng với Tiểu đoàn 6 bộ binh đưa pháo lên chốt ở Ngọc Bờ Biêng. Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận khẳng định: Với công sự tốt, hỏa lực mạnh, Tiểu đoàn 6 sẽ trụ bám được ở Ngọc Bờ Biêng, biến nó thành chốt hiểm yếu buộc quân Mỹ phải ra giải tỏa.\nKhu vực Cao điểm 875 sẽ làm điểm quyết chiến của chiến dịch, đây là nơi có dải địa hình và các điểm cao nằm ở trung tâm không gian chiến dịch, mà Cao điểm 875 lại là một trong những điểm cao tương đối đột xuất, khống chế các vùng xung quanh; đồng thời cũng là cao điểm xa các trận địa pháo binh Đắk Mót - Plei Cần của Mỹ. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có thể xây dựng trận địa chốt chắc ở cao điểm này để khi quân Mỹ đổ quân vào sâu, phải lần lên đánh điểm cao, sẽ tạo được thời cơ tiêu diệt. Quá trình hành quân chiến dịch cũng là quá trình Bộ tư lệnh Mặt trận ra lệnh cho các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực (đang phụ trách địa bàn tại chỗ) cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích hoạt động để đánh lạc sự chú ý của địch, giữ bí mật cho hướng chính chiến dịch.\nKế hoạch tác chiến của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.\nVề kế hoạch tác chiến, Bộ tư lệnh của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam xác định hướng khu vực tiến công chủ yếu ở tây nam Đăk Tô (phía nam sông Pô Kô và đường 18) từ Ngọc Bơ Biêng, Ngọc Kom Liệt đến nam điểm cao 875, do sư đoàn bộ binh 1 đảm nhiệm; sẽ chia làm 3 khu chiến: khu chốt chiến dịch gồm các cụm chốt bộ binh và pháo binh ở Ngọc Bơ Biêng, Ngọc Tang, uy hiếp địch ở Đắc Tô – Tân Cảnh, là nơi khêu ngòi kéo đối phương ra, tạo thời cơ diệt đối phương ngoài công sự, do tiểu đoàn 6 của trung đoàn 24, 1 đại đội pháo 175 (2 khẩu) của đối phương đảm nhiệm. Sử dụng trung đoàn 320 của sư đoàn 1 đánh đối phương ở khu chiến thứ nhất: ở cao điểm 782, Plây Lang Lo Kram và điểm cao 823, nhằm đánh bại các đợt phản kích và đòn phản đột kích thứ nhất của đối phương. Sử dụng 2 trung đoàn 66 và 174 của sư đoàn 1 đánh địch ở khu chiến thứ 2 và là khu quyết chiến ở Ngọc Kom Liệt, Bãi Le, điểm cao 875 trong đó điểm cao 875 là trọng điểm. Tiểu đoàn pháo hỏa tiễn ĐKB của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam do sư đoàn nắm để chi viện chung.\nHướng và khu vực tiến công thứ yếu ở đông bắc Đắc Tô, gồm các điểm cao của dãy Ngọc Lan, Ngọc Sịa, điểm cao 1323, 1030 và quận lỵ Đăk Tô; do trung đoàn 24 (thiếu tiểu đoàn 6), tiểu đoàn 304, 2 đại đội đặc công, 1 đại đội cối, 1 đại đội công binh (thiếu) của tỉnh đảm nhiệm. Có nhiệm vụ đánh vào sau đội hình địch, tiêu diệt từng tiểu đoàn VNCH, từng đại đội Mỹ, dùng lối đánh nhỏ uy hiếp Tân Cảnh, khống chế sân bay Đắc Tô, đường 14 (đoạn nam, bắc Tân Cảnh) nhằm phân tán địch, hỗ trợ cho hướng chủ yếu.\nCác hướng nghi binh và phối hợp, ở Gia Lai, do trung đoàn 95, tiểu đoàn 101, 1 tiểu đoàn pháo cối hỗn hợp (6 ĐKZ 75mm, 4 cối 120mm, 4 cối 82mm) cùng lực lượng vũ trang địa phương đảm nhiệm; ở Đắc Lắc do trung đoàn 33 (thiếu), 1 tiểu đoàn bộ binh, 2 đại đội đặc công và 1 đại đội cối 82mm cùng các lực lượng vũ trang địa phương đảm nhiệm.\nBộ tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam một mặt cho các đơn vị ở sau lưng đối phương và các hướng khác đẩy mạnh hoạt động để nghi binh, đồng thời lệnh cho các đơn vị tham gia chiến dịch hành quân chiếm lĩnh trận địa sớm hơn dự định 3 đến 5 ngày. Ngày 15 tháng 10, các đơn vị trên hướng chủ yếu cơ động vào vị trí tập kết. Ngày 29 tháng 10, các đơn vị ở khu chốt chiến dịch chiếm lĩnh trận địa xong và đến ngày 2, các đơn vị cơ bản đã vào vị trí chiến đấu.\nDiễn biến.\nNgày 2 tháng 11, QĐHK lên Đăk Tô, thiết lập hai trận địa pháo ở Plei Cần và Đắk Mót. Trung đoàn 320 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được lệnh gấp rút chiếm Ngọc Dơ Lang. Khi Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 320) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vừa hành quân tới Ngọc Dơ Lang thì một tiểu đoàn bộ binh Mỹ cũng đến Ngọc Rinh Rua. 2 bên tranh chấp muốn chiếm điểm cao, nên tình huống chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Tình hình đó thúc đẩy đội hình chiến dịch của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải nhanh chóng chiếm lĩnh và khẩn trương hoàn tất mọi công tác chuẩn bị.\nChiều ngày 3 tháng 11, Mỹ dùng máy bay lên thẳng đổ một tiểu đoàn bộ binh xuống khu đồi tranh phía đông dãy Ngọc Bờ Biêng khoảng 500m và tiến lên trận địa chốt của Đại đội 11, Tiểu đoàn 6. Sư đoàn bộ binh số 4 Hoa Kỳ quyết định tấn công Sư đoàn 1 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trước, dựa vào tin do người lính tù binh từ sư đoàn 1 cung cấp. Lúc này, Sư đoàn 1 đã bố trí trận địa sẵn sàng nhưng bị bất ngờ vì thời điểm đối phương tấn công tới nơi (theo kế hoạch thì Sư đoàn 1 sẽ nổ súng vào ngày 15). Bộ đội đang đào công sự phải bước vào chiến đấu. Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 320) là đơn vị đầu tiên của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khai hỏa.\nQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam cho hai khẩu pháo 75mm bố trí ở Ngọc Bơ Biêng bắn vào sân bay Đắc Tô 2, để khêu ngòi. QĐHK phản ứng tức khắc. 10 giờ ngày 3, QĐHK đổ 2 đại đội xuống điểm cao 882 Ngọc Dơ Lang, 2 đại đội xuống Ngọc Non, đồng thời triển khai lực lượng pháo binh nhằm tiến công vào khu chốt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Ngọc Tăng, Ngọc Bơ Biêng. Qua trinh sát kỹ thuật, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam biết QĐHK sẽ dùng lữ đoàn 173 dù và lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 4 phản kích Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên 2 hướng tây, tây nam Tân Cảnh và sẽ hợp vây tại khu vực điểm cao 875. Bộ tư lệnh lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cho các đơn vị khu chốt chiến dịch kiên quyết chặn địch, sư đoàn 1 giữ kín lực lượng, chờ địch vào khu chiến để tiêu diệt.\n15 giờ 30 phút ngày 3 tháng 11, trên mỏm đồi yên ngựa dãy Ngọc Bờ Biêng, Tiểu đội 7, Đại đội 11, mở màn chiến dịch Đăk Tô bằng trận đánh quyết liệt với hai đại đội Mỹ trước chiến hào đơn vị. Các chiến sĩ nhảy lên chiến hào thu hai súng trường, một súng M79. Đây là những khẩu súng chiến lợi phẩm đầu tiên của chiến dịch.\nSáng ngày 4 tháng 11, quân Mỹ ném bom đào, bom napalm và chất độc hóa học ngay từ sáng sớm đến 8 giờ, nhiều đoạn chiến hào của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị san phẳng. Quân Mỹ bắt đầu tiến công lên chốt, song mỗi lần tiến công đều bị đánh bật trở lại, bộ binh lại gọi không quân giội bom xuống. Suốt ngày quân Mỹ đã tổ chức 8 đợt tiến công để chiếm chốt, Tiểu đội 7 có một số chiến sĩ bị thương vong, nhưng cuối cùng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn giữ được chốt.\nNgày 4 tháng 11, Lữ đoàn 173 và Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 1) QĐHK tới Tân Cảnh. Ngày 5 tháng 11, một đại đội bộ binh Mỹ bất ngờ ập đến trận địa chốt thứ hai của Đại đội 11 ở Ngọc Tang. 2 bên dùng lưỡi lê, báng súng, lựu đạn đánh giáp lá cà. Cùng với những trận đánh của bộ binh, đại đội pháo binh 1 đã dùng 2 khẩu sơn pháo 75mm bắn phá Đăk Tô. Trung đội ĐKZ ở Ngọc Tang cùng lúc vừa chặn quân Mỹ tràn xuống, vừa bắn vào sân bay đã gây thiệt hại. Trung đoàn 320 và Trung đoàn 66 chặn đánh quân Mỹ ở Điểm cao 724, 823 và pháo kích vào Ngọc Rinh Rua, tiêu diệt và tiêu hao 3 đại đội Mỹ, bắn rơi 2 trực thăng.\nNgày 6 tháng 11, một số đại đội của Lữ đoàn 173 QĐHK chiến đấu với Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. 13 giờ ngày 6/11, Mỹ đổ 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 1 trung đoàn 503 lữ đoàn 173 xuống các điểm cao: 823, 845, 882 ở dãy Ngọc Kom Liệt, hình thành 2 mũi tiến đánh vào sườn sư đoàn 1 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các chốt chiến thuật của trung đoàn 66 ở khu vực này đánh thiệt hại nặng đại đội D (Delta), bắn rơi 2 máy bay lên thẳng, thu 4 súng và 1 máy vô tuyến. Liền sau đó 2 đại đội của tiểu đoàn 4, trung đoàn 503 Mỹ đổ bộ xuống chân điểm cao 823 và đánh chiếm điểm cao này bị lực lượng trinh sát của trung đoàn 66 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam diệt 60 lính. Trong 2 ngày (6, 7 tháng 11), trung đoàn 66 tổ chức tập kích và pháo kích vào điểm cao 823, buộc tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 503 Mỹ phải bỏ điểm cao này rút về dãy Ngọc Kom Liệt. Cùng thời gian trên, tại Ngọc Dơ Lang, ngày 6, hai đại đội Mỹ từ điểm cao 882 tiến công chốt của đại đội 9 (tiểu đoàn 6) - QGP ở điểm cao 843, lính Mỹ bị diệt 20 lính nhưng chiếm điểm cao. Ngày 7, lính Mỹ từ điểm cao 843 tiến về điểm cao 724 bị đại đội 9 thuộc tiểu đoàn 6, trung đoàn 320 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vận động tiến công, diệt 10 lính, thu 6 súng của đại đội C (Charlie), tiểu đoàn 3, trung đoàn 8 Mỹ, số lính Mỹ còn lại co cụm ở điểm cao 724. Sau 3 ngày cho đến ngày 9, các đơn vị QĐHK đã chiếm được một số vị trí then chốt mà họ muốn ở khu vực có Sư đoàn 1 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.\nBộ tư lệnh chiến dịch Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhận định cả hai cánh quân Mỹ đều bị chặn đánh, nhưng có khả năng lính Mỹ còn tiến sâu hơn nữa nên lệnh cho trung đoàn 174 hành quân ra khu vực tây nam Lăng Lố Kram chuẩn bị chiến đấu. Chỉ thị cho hướng thứ yếu đánh mạnh vào Đắc Tô - Tân Cảnh và đường 14.\nNgày 8, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 320) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đột kích Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 1, Sư đoàn 4) QĐHK. Suốt các ngày 8 đến ngày 10 tháng 11, Quân Mỹ tấn công mạnh vào vị trí của Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 24) của đối phương.\nTối 8 tháng 11, tiểu đoàn 4 và đại đội 10 của tiểu đoàn 6, trung đoàn 320 tập kích lính Mỹ ở điềm cao 724; đang hành quân tiếp cận gặp địch di chuyển ra phía tây bộ đội QGP nhanh chóng vận động tiến công, diệt 100 lính, đánh thiệt hại nặng đại đội A và đại đội B của tiểu đoàn 3, trung đoàn 8 lữ đoàn 1 Mỹ. Để chi viện cho trung đoàn 320 đánh địch, sư đoàn 1 đã tổ chức cối 120mm và ĐKZ 75mm pháo kích vào Ngọc Rinh Rua và điểm cao 823, phá hủy 2 khẩu pháo, 2 máy bay lên thẳng, diệt 50 tên lính Mỹ. Từ ngày 7 đến 10 tháng 11, tại Ngọc Kom Liệt, do bị QGP tiến công dồn dập nên tiểu đoàn 4 thuộc trung đoàn 503 Mỹ từ điểm cao 823 hành quân về phía tây. Tiểu đoàn 7 của trung đoàn 66 QGP được các chốt trinh sát yểm hộ, vận động tiến công, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Mỹ này, số còn lại tiếp tục bị tiểu đoàn 8 của trung đoàn 66 tấn công. Theo thống kê của Mỹ, tiểu đoàn 4 của họ thương vong quá nửa trong trận này với 20 chết, 154 bị thương và 2 mất tích. Để đỡ mất mặt, sĩ quan chỉ huy của Mỹ, đại úy Thomas McElwain, đã cố ý báo cáo phóng đại tổn thất của quân Giải phóng: ban đầu quân Mỹ báo cáo có 80 quân Giải phóng tử trận, sau đó con số này bị sửa lại thành 175. Sau này, Thomas McElwain giải thích rằng \"Nếu anh mất quá nhiều người bị chết và bị thương, anh phải có cái gì đó để bù đắp cho điều đó\" Còn theo báo cáo của quân Giải phóng, trong các trận đánh từ ngày 8 tới 11/11/1967, họ chỉ tổn thất 32 người chết hoặc bị thương\nLữ đoàn 173 QĐHK sau khi lần lượt đổ quân xuống Cao điểm 823, 845, 882 trên dãy Ngọc Cam Liệt, bắt đầu tiến công vào sườn phải Sư đoàn 1 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, để tiến lên chiếm cao điểm 875. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam liền tập trung từng trung đoàn đánh tiêu diệt trên khu quyết chiến Ngọc Cam Liệt và Ngọc Dơ Lang.\nĐể cứu nguy, 12 giờ ngày 11 tháng 11, 2 đại đội A và B thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn 503 Mỹ từ Ngọc Kom Liệt tiến xuống, nhưng bị tiểu đoàn 8 và đại đội 12,7mm của trung đoàn 66 chặn đánh và tiêu diệt. Quân Giải phóng ước tính quân Mỹ bị thương vong khoảng 400 lính, Quân giải phóng thu 21 súng các loại, 6 vô tuyến điện; Mỹ phải dùng máy bay (cả B52) ném bom thiêu hủy và buổi chiều đổ tiếp tiểu đoàn 2 của trung đoàn 503 xuống điểm cao 845. 14 giờ cùng ngày, tại Ngọc Dơ Lang, tiểu đoàn 3, trung đoàn 8 Mỹ cho 2 đại đội đánh ra phía tây để phối hợp với lực lượng Mỹ ở điểm cao 724, bị tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn 320 QGP vận động tiến công diệt gọn đại đội B, tiêu hao nặng đại đội D, diệt 120 tên, số còn lại co về cụm ở điểm cao 724. \nCác trận đánh của 2 trung đoàn 66 và 320 thắng lợi đã chứng minh: với hình thức chiến thuật \"chốt kết hợp vận động\", bộ đội QGP có thể đánh liên tục dài ngày dưới phi pháo ác liệt của Mỹ để giành thắng lợi. Đây là trận then chốt đầu tiên của chiến dịch, làm cho quân Mỹ không thực hiện được ý đồ chia cắt chiến dịch. Diễn biến những ngày đầu chiến dịch chứng minh những phán đoán và dự kiến của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là đúng, đã nhử được Lữ đoàn 173 và Sư đoàn 4 QĐHK vào \"bẫy\" ở Đăk Tô.\nTrước tình thế Lữ đoàn 173 và Sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ bị thiệt hại lớn, Bộ chỉ huy Mỹ phải tung lực lượng dự bị gồm: hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Không Kỵ số 1 và Chiến đoàn Dù 3 VNCH sớm vào vòng chiến. Quân Mỹ tiếp tục đổ quân xuống khu vực Plei Cần và Ngọc Cam Liệt, với ý định chia cắt đội hình của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và sẽ hợp vây chiến dịch ở khu vực Cao điểm 875. Ngày 12, QĐHK dùng B-52 và pháo đánh phá vị trí của các Trung đoàn 66 và 320 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Không quân Mỹ phải dùng mỗi ngày tới 700 lần chiếc máy bay B-52 và máy bay phản lực ném bom xuống Đăk Tô.\nSáng 12 tháng 11, sau khi không quân và pháo binh bắn phá, lữ đoàn dù 173 Mỹ đổ 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 503 xuống điểm cao 845. 10 giờ lính Mỹ phản kích lên điểm cao 882. Tiểu đoàn 3 của trung đoàn 174 xuất kích kết hợp chốt diệt 2 trung đội thuộc đại đội A. Lực lượng còn lại chạy về điểm cao 845. Theo tin trinh sát kỹ thuật của QGP, ngày 12 tháng 11, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn 1 kỵ binh không vận và chiến đoàn dù 3 QLVNCH đã đến thị xã Kon Tum. Tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 12 lữ đoàn 1 sư đoàn 4 tiến ra nam Ngọc Dơ Lang. Bộ tư lệnh chiến dịch của QGP nhận định: thế trận của địch đã rối loạn nên quyết định tổ chức lực lượng kiềm chế cánh quân của lữ đoàn 1 sư đoàn 4; diệt cánh quân của lữ đoàn dù 173; dùng ĐKZ và cối 82mm kiềm chế địch ở Ngọc Dơ Lang\nNgày 13, các đơn vị hai phía giáp chiến ở một số nơi, song hỏa lực chủ yếu là do B-52 dội xuống. Quân Giải phóng miền Nam Việt Namvừa quyết giữ trận địa, vừa kết hợp xuất kích ngắn tiến công để diệt địch. Tiểu đoàn 6 Tây Ninh trên dãy Ngọc Bờ Biêng đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 1 Mỹ. Quân 2 bên có lúc xen kẽ, bộ đội đã bám những công sự, những đoạn hào còn lại, dùng lựu đạn, lưỡi lê, báng súng đánh giáp lá cà.\nNgày 14, các đơn vị của Lữ đoàn 173 QĐHK bị thiệt hại nhiều được lệnh rút về vị trí mà Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam gọi là Điểm cao 845. Vị trí này được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cố tính không đánh trước đó với mục tiêu thu hút đối phương về đó. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam dùng lực lượng của ba Trung đoàn 66, 174 và 320 để tiến đánh Lữ đoàn 173.\nHai ngày 13 và 14 tháng 11, lính Mỹ tiếp tục đánh lên điểm cao 882, tiểu đoàn 8-QGP liên tục đánh địch, loại khỏi vòng chiến đấu 100 tên Mỹ, thu 6 súng, làm chủ trận địa. Để chi viện cho trung đoàn 174, sư đoàn 1-QGP dùng cối 120mm bắn vào điểm cao 823 tiêu hao nặng đại đội C thuộc tiểu đoàn 4 trung đoàn 503, chặn đứng hỏa lực Mỹ bắn vào điểm cao 882. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến thuật, trung đoàn 174-QGP rút tiểu đoàn 3 và một bộ phận của tiểu đoàn 1 về hai bên sườn điểm cao 875.\nCùng thời gian, từ ngày 12 đến 16 tháng 1, đại đội sơn pháo 75mm - QGP tập kích 4 trận bằng hỏa lực (16 giờ ngày 12, 8 giờ và 15 giờ ngày 15, 8 giờ ngày 16) vào căn cứ tiền phương của sư đoàn 4 Mỹ ở Tân Cảnh, sân bay Đắc Tô diệt khoảng 350 tên, phá hủy 3 máy bay C130, 4 xe quân sự, 2 kho xăng, 1 kho đạn. Ở hướng đông bắc Đắc Tô, trung đoàn 24-QGP cùng bộ đội tỉnh tiến công quận lỵ Đắc Tô và Tân Cảnh, chặn đánh các toán quân ứng cứu giải tỏa của Mỹ. Điển hình là các trận của trung đoàn 24 ở Ngọc Sịa ngày 14 tháng 11, ở Tân Cảnh ngày 16 tháng 11, trận phục kích của công binh, trinh sát chiến dịch ở Plây Cần (đường 18), của tiểu đoàn 304 ở Võ Định trên đường 14 ngày 14 tháng 11.\nTrên hướng Đường 18 và đông bắc Đăk Tô, Trung đoàn 24 chủ lực tại chỗ cùng công binh và bộ đội địa phương Kon Tum đã tiến công vào quận lỵ Đăk Tô, thị trấn Tân Cảnh, chặn đánh đoàn xe vận tải chở quân ứng cứu của Mỹ, buộc quân Mỹ phải phân tán đối phó cả ở phía sau. Nổi bật nhất là trận đánh của trung đoàn 24 ở Ngọc Xia (14 tháng 11), Tân Cảnh (16 tháng 11), Cao điểm 1030, 1423 và Ngọc Van (17, 19 tháng 11) đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn Mỹ, phá hủy nhiều xe quân sự. Vào đêm 12 tháng 11, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam dùng rocket tấn công sân bay Đăk Tô. Ngày 15 tháng 11, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam dùng súng cối phá hủy 2 chiếc C-130 Hercules trên đường băng. Đêm đó Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp tục dùng súng cối tập kích, bắn trúng một container chất nổ, các vụ nổ dây chuyền đã phá hủy hơn 1.100 tấn đạn dược của Mỹ tại đây.\nSau những cố gắng tiến công chia cắt đội hình đối phương ở khu vực Ngọc Cam Liệt và Ngọc Dơ Lang không thành công, Bộ chỉ huy Mỹ buộc phải tìm cách chiếm cho được Cao điểm 875 làm bàn đạp khống chế, thực hiện đòn đánh vu hồi vào sau lưng đội hình chiến dịch củaQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam.\nNgày 17 tháng 11, hai Tiểu đoàn 1 và 2 thuộc Lữ đoàn 173 QĐHK bắt đầu tiến công để chiếm Cao điểm 875. Khi quân Mỹ chưa đến 875 đã bị Trung đoàn 66 chặn đánh, diệt từng bộ phận; Tiểu đoàn 2 QĐHK tiếp tục tiến lên 875. Nhưng tại đây, Đại đội 7 thuộc Trung đoàn 174 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã bí mật xây dựng cao điểm thành điểm chốt kiên cố. Khi quân Mỹ tiến lên, Đại đội 7 nổ súng chặn đứng được đội hình Mỹ trước chiến hào, một bộ phận xuất kích đánh tạt sườn đã tiêu diệt một số địch. Sư đoàn 1-QGP tổ chức pháo kích trận địa hỏa lực của Mỹ ở nam Ngọc Dơ Lang, điểm cao 530, phá hủy 5 pháo 105mm, 3 cối 106,7mm. 13 giờ ngày 17 tháng 11, 1 trung đội của đại đội 11, tiểu đoàn 6 QGP phòng ngự ở điểm cao 1338 đã đánh bại 10 đợt phản kích của QDDHK, diệt 100 lính Mỹ.\nSáng 18 tháng 11, hai tiểu đoàn 1 và 2 của trung đoàn 503 Mỹ chia làm 2 mũi tiến công về điểm cao 875; tiểu đoàn 1 Mỹ tiến theo sườn tây bắc điểm cao 882, đến 13 giờ 30 phút bị tiểu đoàn 8 và 1 đại đội của tiểu đoàn 9 thuộc trung đoàn 66 chặn đánh và ghìm chặt tại đây diệt 90 tên, thu 6 súng. Tiểu đoàn 2 Mỹ từ cao điểm 845 tiến chiếm đồi \"biệt kích\" ở tây bắc điểm cao 875 khoảng 1 km để tạo bàn đạp đánh sang 875. Cùng thời gian, ở đông 875, hai đại đội biệt kích, thám báo từ bãi Le tổ chức tiến công vào điểm cao 875. Từ lúc 8 giờ 30 phút ngày 18 đến 11 giờ ngày 19, đại đội 7 của tiểu đoàn 2-QGP đã chịu đựng hỏa lực phi pháo ác liệt của Mỹ (có cả B52), liên tục đẩy lùi các đợt tiến công của Mỹ, giữ vững 875. Trong lúc lính Mỹ đang tập trung lực lượng đánh lên 875, tiểu đoàn 2 (thiếu đại đội 7) và 1 đại đội của tiểu đoàn 1 trung đoàn 174 bí mật vận động tiếp cận đội hình Mỹ từ bên sườn và phía sau. 14 giờ ngày 11, sau khi QGP bắn 30 quả đạn cối vào sở chỉ huy Mỹ, 4 mũi của QGP đồng loạt xung phong vào đội hình lính Mỹ đang tập trung ở đồi Yên Ngựa, dưới chân điểm cao 875. Bị đánh bất ngờ, đội hình Mỹ rối loạn. Chớp thời cơ, đại đội 7 từ điểm cao 875 cũng xuất kích đánh xuống. Đến 17 giờ, phần lớn lính Mỹ bị tiêu diệt, số còn lại bỏ chạy bị trúng bom và đạn pháo của Mỹ chết một số. Trận đánh đã loại khỏi vòng chiến 300 tên Mỹ, ta thu 18 súng AR15 và 6 máy thông tin vô tuyến điện. Sau đó trung đoàn cho đại đội 7 chốt lại tại điểm cao 875, còn trung đoàn rút về phía sau củng cố.\nNgày 19 tháng 11, lực lượng QGP chốt ở điểm cao 1262 đánh lui 5 đợt phản kích của QDDHK, diệt 70 tên Mỹ. Ngày 20 tháng 11, chốt ở điểm cao 1294 diệt 20 tên lính Mỹ.\nKhông chiếm được cao điểm, quân Mỹ lại cho từng tốp B-52 và phản lực liên tiếp giội bom gần như san phẳng ngọn đồi, rồi lại tiến lên, nhưng lại bị Đại đội 7 đánh bật xuống. Trước chiến hào, quân Mỹ bắn xối xả, lựu đạn Mỹ ném vào chiến hào, bộ đội nhặt ném trả lại. Giao tranh ác liệt gây thương vong lớn cho cả hai bên. Tổ chiến đấu 3 người gồm Phùng Quang Chí, Bùi Xuân Lộc và Đỗ Văn Chuyên (thuộc đại đội 7) được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi nhận đã đẩy lùi hàng chục đợt phản công chỉ bằng B-40, súng AK và lựu đạn, tiêu diệt được 102 tên Mỹ, lập kỷ lục về thành tích diệt địch của một tổ 3 người trong một trận chiến đấu.\nTrên hướng đông bắc Đắc Tô - Tân Cảnh, trung đoàn 24-QGP và lực lượng vũ trang tỉnh Kom Tum đã đánh sâu vào thị xã Kon Tum và thị trấn Tân Cảnh, đường 14, tiêu diệt nhiều lính Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ phối hợp chiến dịch. Trong các ngày 17, 18, 19 tháng 11, chiến sự xảy ra ác liệt tại Ngọc Lan: 7 giờ ngày 17, tiểu đoàn 3 dù VNCH tiến công vào chốt của đại đội 7 thuộc tiểu đoàn 5 trung đoàn 24-QGP, bị đánh thiệt hại nặng, Mỹ liền đưa tiểu đoàn 2 vào tiến công, bị 2 đại đội của tiểu đoàn 5-QGP đánh bật xuống chân đồi, diệt hơn 100 lính, số còn lại cụm tại chỗ không dám tiến công. 5 giờ ngày 19, tiểu đoàn 5 bất ngờ tập kích cụm quân Mỹ này, diệt 170 lính. 2 tiểu đoàn dù VNCH bị thiệt hại nặng, QLVNCH đưa tiểu đoàn 23 biệt động quân và tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 23 biệt động quân và tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 42 lên cứu nguy, nhưng tiểu đoàn 5 đã hoàn thành nhiệm vụ phối hợp chiến dịch và rời khỏi khu vực Ngọc Lan.\nỞ Gia Lai, QGP đánh 10 trận diệt 189 lính đối phương (có 114 lính Mỹ), bắn rơi 5 máy bay, phá hủy 7 xe quân sự. Ở Đắc Lắc, QGP đánh 8 trận, diệt 250 lính đối phương (có 150 lính Mỹ), bắn rơi và phá hủy 27 máy bay (có 1 chiếc C130), phá hủy 3 khẩu pháo, 2 xe M113, 1 kho đạn, 1 kho xăng.\nNgày 19 tháng 11, trong lúc quân Mỹ đang bị kìm chặt ở khu vực Cao điểm 875, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hạ quyết tâm dùng Trung đoàn 174 từ các hướng đã chuẩn bị sẵn, thực hành trận vận động tiến công tiêu diệt hoàn toàn Tiểu đoàn 2 của Mỹ. Một số lính Mỹ sống sót cụm lại dưới chân cao điểm bị súng cối Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn diệt. Ngày 20, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phục kích diệt thêm một số tên Mỹ, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng khi đến lấy xác lính Mỹ. Trong tổng số 570 lính Mỹ tham chiến ở đồi 875, 123 lính đã chết và 252 bị thương\nTài liệu Mỹ nhận xét: \"Vừa rạng đông, quân địch dùng súng cối bắn vào vị trí đóng quân của Mỹ. Quân Bắc Việt Nam đã xây dựng từ trước một hệ thống hỏa lực với các tuyến bắn phối hợp tinh vi. Họ đã điều khiển hỏa lực để tạo ra một giải bắn có tác dụng thu hút sự chú ý của quân Mỹ, giúp cho một số bộ đội Việt Nam có thể bí mật luồn vào phía sau đội hình quân Mỹ đã ở trên đỉnh đồi. Chiến thuật nghi binh này sẽ còn phát huy hiệu quả trong suốt ngày thứ tư\".\nNgày 20 tháng 11, tiểu đoàn 2 của trung đoàn 8, lữ đoàn 1 Mỹ đổ bộ xuống bãi Le và tổ chức 7 lần tiến công lên điểm cao 875 nhưng đều bị đại đội 7-QGP bẻ gãy. Cùng ngày, một máy bay F-100 của Mỹ tới ném bom đồi 875. Viên phi công bị đèn chiếu làm lóa mắt và đã chọn sai hướng tiếp cận khi bổ nhào xuống đồi 875, khiến quả bom rơi trúng vào vị trí mà Tiểu đoàn 2 và 4 Mỹ đang đứng chân, quét sạch gần như toàn bộ sinh lực của Mỹ tại đó. 42 lính Mỹ chết và 45 lính khác bị thương sau vụ ném bom nhầm (trong cả ngày hôm đó quân Mỹ có 72 lính chết và 85 lính bị thương tại đồi 875). Tom Remington, một lính Mỹ thuộc Tiểu đoàn 2 đã điên cuồng vồ lấy một điện đài, gọi về căn cứ, gào lên: \"Hãy dừng ngay những cái máy bay bỏ mẹ kia. Không được để chúng tiếp tục ném bom. Chúng đang giết hết chúng tôi ở đây\".\nPhóng viên chiến trường Mỹ tường thuật: \"Một đơn vị Mỹ đang chiến đấu giành sự sống và trận dội bom nhầm của một máy bay không quân đã giết chết 20 lính bị thương trước đó. Tám chiếc trực thăng bị bắn hạ khi cố gắng di chuyển những người bị thương khác vào sáng hôm đó. Không có cách nào để đưa những lính bị thương hoặc bất kì ai ra khỏi chiến trường... Cách duy nhất để phân biệt người sống và người chết là khi chứng kiến pháo cối của kẻ thù dội vào. Người còn sống đổ xô không một chút xấu hổ vào những boongke bé nhỏ được đào trên đỉnh đồi, người bị thương thì quằn quại bò tới ẩn nấp sau những bụi cây đổ xuống đất.\" Một phóng viên Nhật Bản đi cùng Lữ đoàn dù 173 Mỹ đã thuật lại rằng: \"Tại cao điểm 875 gần biên giới, bộ đội chính quy Bắc Việt Nam đã đánh những đòn rất dữ dội, xác và ba lô của lính Mỹ tử trận chất cao như núi.\"\nCho đến 12 giờ ngày 22 tháng 11, đại đội 7 quân Giải phóng vẫn giữ vững chốt. Do dự trữ đạn dược không còn nhiều, chủ trương của Bộ tư lệnh chiến dịch của Quân Giải phóng là khi giải quyết xong thương binh, liệt sĩ sẽ bỏ chốt. Thực hiện ý định đó, 18 giờ 40 phút ngày 22, quân Giải phóng bỏ chốt 875, chỉ để 1 trung đoàn 12,7mm và 1 trung đoàn cối 82mm cơ động kiềm chế địch. Quân Mỹ tiến lên đồi chỉ gặp một số hỏa điểm thưa thớt, những cuộc chạm súng lớn đã không xảy ra. Đến 24 giờ, lính Mỹ lên được đỉnh đồi 875 thì QGP đã rút.\nĐến ngày 27 tháng 11, lính QGP tại Cao điểm 875 lại diệt gọn một đại đội dù Mỹ, kết thúc chiến dịch Đăk Tô. Bộ chỉ huy Mỹ cho máy bay ồ ạt lên ném bom napalm trong một phạm vi rộng để tiêu hủy trận địa. Ngày 28 tháng 11, lực lượng dự bị của Lữ đoàn 173 cùng Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 12 QĐHK tới tham chiến, nhưng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chủ động rút lui.\nKết quả.\nChiến dịch Đăk Tô tiêu hao sinh lực lính Mỹ nhiều hơn bất kì trận đánh nào trong cuộc chiến trước đó, nhưng chính quyền Mỹ vẫn tuyên bố đó như một chiến thắng khác, nhằm tăng giá trị cho thông điệp mà Tướng William Westmoreland gửi tới Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia ở Washington vào cuối tháng 11 khi tuyên bố năm 1968 \"\"sẽ là năm kết thúc chiến tranh\".\"\nĐể có lý do tuyên bố \"chiến thắng\", tướng Westmoreland tuyên bố quân Mỹ đã giết chết 1.200 binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng một số tương đương bị thương. Thiếu tướng William B. Rossen, Phó chỉ huy MACV thì ước tính rằng phía Việt Nam đã mất từ 1.000 đến 1.400 binh sĩ. Tuy nhiên, con số thiệt hại của bộ đội Việt Nam do các tướng Mỹ đưa ra bị cho là phóng đại, bởi thực tế lính Mỹ chỉ thu giữ được 94 vũ khí cộng đồng và 275 vũ khí cá nhân của đối phương (các tướng Mỹ thường thổi phồng con số thương vong của đối phương để có lý do tuyên bố \"chiến thắng\"). Sau này, một đại đội trưởng Mỹ đã tố cáo rằng: trong một trận đánh, đại đội anh ta bị thương vong 78 người và báo cáo chỉ tìm thấy 10 quân Giải phóng tử trận, tướng Westmoreland rất tức giận vì quân Mỹ tổn thất nhiều hơn hẳn đối phương, và ông ta đã cố tình sửa lại con số 10 trở thành \"475 kẻ địch bị giết\", và công bố nó như là báo cáo hoạt động chính thức Và không phải tất cả các chỉ huy Mỹ đều đồng tình với kiểu tuyên bố dối trá đó. Tướng Thủy quân lục chiến John Chaisson phản đối việc tướng Westmoreland tuyên bố phóng đại thương vong của đối thủ: \"Đó có phải là một chiến thắng không, khi bạn mất 362 chiến hữu trong ba tuần và chỉ đếm được 1.200 thi thể giả mạo của đối phương?\"\nVề phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, họ tuyên bố đã đánh 57 trận, có 12 trận phòng ngự, 5 trận vận động tiến công kết hợp chốt, 6 trận vận động tiến công, 15 trận pháo kích, 1 trận phục kích, 1 trận tập kích, 1 trận tiến công thị trấn; loại khỏi vòng chiến 3.000 lính đối phương, trong đó có 2.000 lính Mỹ, phá hỏng nặng 2 sân bay, bắn rơi và phá hủy 38 máy bay (có 3 chiếc C130), phá hủy 7 xe quân sự (có 2 xe thiết giáp). Toàn chiến dịch, Quân Giải phóng đã loại khỏi vòng chiến 4.570 lính đối phương (có 4.030 lính Mỹ); phá hỏng 3 sân bay, bắn rơi và phá hủy 70 máy bay, phá hủy 18 khẩu pháo, 52 xe quân sự có 16 xe thiết giáp, 2 kho đạn, 3 kho xăng, thu 104 súng các loại và 17 máy vô tuyến điện; diệt gần hết 2 tiểu đoàn Mỹ, đánh thiệt hại nặng 6 tiểu đoàn (có 4 tiểu đoàn Mỹ) và 6 đại đội (có 2 đại đội Mỹ); đánh thiệt hại nặng lữ đoàn 173 dù VNCH và lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 4 Mỹ.\nPhóng viên chiến trường Peter Arnett, người đã chứng kiến trận đánh và có những cuộc đàm thoại với John Paul Vann và một số sĩ quan quân đội thẳng thắn, thì kết luận \"\"năm 1967 là màn dựng lên cho ván bài quân đội kết thúc ở Việt Nam vào năm 1968\".\" Quân Mỹ thương vong hàng ngàn người chỉ để chiếm được những ngọn đồi hoang vu không giá trị, trong khi đó Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thì không cố giành giật trận địa mà mục đích chính là tiêu hao quân Mỹ càng nhiều càng tốt. Peter Arnett kết luận: \"Chỉ huy Mỹ vẫn còn phân tích Việt Nam theo kiểu Chiến tranh thế giới thứ hai, còn những người cộng sản phân tích tình hình dựa vào cuộc chiến hất cẳng Pháp những năm 1950\". Về lâu dài, chiến lược này sẽ khiến quân viễn chinh Mỹ kiệt sức, sa lầy giống như người Pháp trước đó\nVề phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, trận Đăk Tô 1967 được coi là một chiến thắng lớn vì đã tiêu hao nặng những đơn vị thiện chiến nhất của Mỹ và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Các đơn vị tham gia chiến dịch đã được Đảng tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất. Xã luận Báo Quân đội nhân dân, ngày 29/11/1967 ghi: \"Chiến thắng Đăk Tô đã ghi thêm vào trang sử quyết thắng của dân tộc ta những nét vàng son chói lọi... là một trong những chiến thắng lớn nhất mở đầu Đông - Xuân quyết thắng 1967-1968 của miền Nam anh hùng\". Đây là một trong 3 chiến dịch trên địa bàn Tây Nguyên trong chiến tranh chống Mỹ được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất: Chiến dịch Plây Me năm 1965, Chiến dịch Đăk Tô 1967 và Chiến dịch Đắk Siêng 1970\nÝ nghĩa.\nChiến thắng Đăk Tô 1967 thể hiện Quân Giải phóng hoàn toàn đủ khả năng đánh thắng đội quân viễn chinh Mỹ trang bị hiện đại. Bên cạnh đó còn khẳng định vai trò không thể thiếu của nhân dân Tây Nguyên nói riêng và toàn miền Nam nói chung trong các hoạt động của Quân Giải phóng",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Information of Sông Lòng Tàu is on wikipedia, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Sông Lòng Tàu, còn được gọi là Lòng Tảo là một phân lưu của sông Đồng Nai chảy qua huyện Cần Giờ và đổ vào vịnh Gành Rái .\nDòng chảy.\nSông Đồng Nai sau khi nhận nước của sông Sài Gòn xuôi xuống Nhà Bè thì chia làm hai. Nhánh phía tây là sông Soài Rạp chảy ra cửa Soài Rạp. Nhánh phía đông là sông Lòng Tàu chảy ra vịnh Gành Rái.\nSông Lòng Tàu có tầm sâu trung bình là 15 m, chảy quanh co cắt ngang rừng Sác trước khi đổ ra Biển Đông.\nSông Lòng Tàu chảy đến xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch thì chia làm hai nhánh. Nhánh về phía tây là sông Đồng Tranh chảy về phía cửa Soài Rạp, còn nhánh về phía đông tiếp tục mang tên Lòng Tàu chảy xuống Ngã Bảy nơi sông Dừa đổ vào. Tính từ ngã ba nơi sông Lòng Tàu tách ra khỏi sông Đồng Nai đến chỗ sông Ngã Bảy tách ra, Lòng Tàu dài khoảng 75 km. Từ Ngã Bảy ra biển, khúc hạ lưu sông này còn được gọi là sông Ngã Bảy.\nĐến xã Thạnh An, Cần Giờ, sông Đồng Tranh và sông Ngã Bảy lại hợp lưu rồi đổ ra vịnh Gành Rái.\nThủy vận.\nSông Lòng Tàu là một tuyến giao thông đường thủy quan trọng ở Đông Nam Bộ, nơi các tàu biển từ Biển Đông đi qua cửa sông Ngã Bảy vào cập Cảng Sài Gòn. Sông Soài Rạp có bề ngang rộng hơn sông Lòng Tàu nhưng lòng sông lại cạn vì hay bị cát lấp nên về mặt giao thông, sông Lòng Tàu là thủy lộ chính nối liền Sài Gòn và biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Micro- từ bách khoa toàn thư không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Micro (ký hiệu: \"µ\") là một tiền tố được viết liền trước một đơn vị đo lường quốc tế để chỉ ước số nhỏ hơn 1.000.000 lần hay 10−6.\nĐộ lớn này được công nhận từ năm 1960, theo tiếng Hy Lạp nghĩa là \"nhỏ\".",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn đưa thông tin về Luxey nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Luxey là một xã, thuộc tỉnh Landes trong vùng Nouvelle-Aquitaine. Xã này có diện tích 160,07 km², dân số năm 2006 là 689 người. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 87 mét trên mực nước biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Schoonhoven không ?",
"role": "user"
},
{
"content": " (dân số: 12,195 ) là một thành phố và đô thị ở phía tây Hà Lan, trong tỉnh Zuid-Holland. Đô thị này có diện tích 6,96 km² (trong đó 0,67 km² là diện tích mặt nước). Đây là đô thị nhỏ thứ ba ở Hà Lan tính theo diện tích (sau Bennebroek và Rozenburg).",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cho xin thông tin về Liniers, Vienne nhé",
"role": "user"
},
{
"content": "Liniers là một xã, tọa lạc ở tỉnh Vienne trong vùng Nouvelle-Aquitaine, Pháp. Xã này có diện tích 16,19 km², dân số năm 2006 là 504 người. Xã nằm ở khu vực có độ cao trung bình 200 m trên mực nước biển.\nDân địa phương danh xưng tiếng Pháp là Linarois.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Gerdiella alvesi nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Gerdiella alvesi là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Cancellariidae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Bang Yai (huyện) không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Bang Yai () là một huyện (\"amphoe\") ở phía tây của tỉnh Nonthaburi, miền trung Thái Lan.\nLịch sử.\nĐơn vị hành chính này được lập năm 1917 làm tiểu huyện (\"King Amphoe\") thông qua việc chia tách từ huyện Bang Kruai and Bang Bua Thong. Năm 1921, đơn vị này được nâng lên thành huyện. Ban đầu có tên là Bang Mae Nang, ngày 19 tháng 10 năm 1930, tên được đổi thành Bang Yai, tên gốc của huyện Bang Kruai.\nĐịa lý.\nCác huyện giáp ranh (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ) là Sai Noi, Bang Bua Thong, Mueang Nonthaburi, Bang Kruai, và Phutthamonthon của tỉnh Nakhon Pathom.\nHành chính.\nHuyện này được chia thành 6 phó huyện (\"tambon\"), các đơn vị này lại được chia ra thành 66 làng (\"muban\"). Có hai thị trấn (\"thesaban tambon\") - Bang Muang nằm trên một phần của \"tambon\" Bang Muang, Bang Laen và Sao Thong Hin, và Bang Yai nằm trên một phần của \"tambon\" Bang Mae Nang, Bang Yai and Ban Mai. Có 6 Tổ chức hành chính tambon.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Eschata?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Eschata là một chi bướm đêm thuộc họ Crambidae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Eleutherodactylus pipilans nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Eleutherodactylus pipilans là một loài ếch trong họ Leptodactylidae.\nNó được tìm thấy ở Guatemala và México.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vườn nông thôn, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ (\"tirailleurs tonkinois\") là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ. Họ được chỉ huy bởi sĩ quan Pháp, và tham chiến trong một số trận giao chiến với quân Trung Hoa trong cuộc Chiến tranh Pháp-Thanh, và cũng tham gia tiễu phạt các cuộc nổi dậy của người Việt chống lại Pháp trong Cuộc bình định Bắc Kỳ.\nNguồn gốc.\nTrong cuộc biến cố Bắc kỳ 1873, Francis Garnier cho tuyển mộ các đơn vị dân quân Bắc Kỳ, phần nhiều là các tín đồ Công giáo, là những người không có thiện cảm và thiếu trung thành với triều đình Tự Đức, vốn vẫn đối xử không nương tay với họ. Các toán quân này chỉ tồn tại trong vài tuần, và bị giải tán khi người Pháp rút khỏi Bắc Kỳ vào mùa xuân năm 1874. Tuy nhiên, thí nghiệm này cũng chứng tỏ cho người Pháp thấy tiềm năng của việc tuyển mộ binh lính phụ trợ ngay tại Bắc kỳ.\nViệc triển khai các đơn vị quân hỗ trợ người Việt được tiến hành trước hết tại Nam Kỳ, với việc người Pháp thành lập một trung đoàn bộ binh An Nam năm 1879 (thường được gọi là \"lính tập An Nam\", \"lính tập Sài Gòn\" hay là \"lính tập Nam Kỳ\" - hay lính khố đỏ).\nTrong khoảng những năm 1883 và 1885, quân Pháp hết sức bận rộn đánh dẹp quân cờ đen tại Bắc Kỳ, cũng như chống lại các lực lượng quân Việt và Trung Hoa. Các chỉ huy Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ nối tiếp nhau sử dụng các lực lượng hỗ trợ Bắc Kỳ bằng cách này hay cách khác. Việc thiết lập các trung đoàn chính quy \"lính tập Bắc kỳ\" (hay lính khố đỏ Bắc kỳ) năm 1884 đã có tiền lệ là việc thí nghiệm lập ra các đội lính tập do tướng Bouët và Đô đốc Courbet tiến hành từ nửa cuối năm 1883. Quân Pháp sử dụng vài trăm quân cờ vàng như một toán quân hỗ trợ, trong các cuộc giao tranh chống lại quân cờ đen trong các trận đánh xảy ra vào tháng 8 năm 1883. Quân cờ vàng, dưới sự chỉ huy của một viên chỉ huy người Hy Lạp, là một tay phiêu lưu mạo hiểm, tên là Georges Vlavianos, vốn từng tham gia trong cuộc viễn chinh do Garnier tiến hành đánh Bắc kỳ năm 1873, đánh khá tốt trong vai trò quân xung kích tiền phương trong Trận Phủ Hoài (15 tháng 8 năm 1883) và Trận Palan (1 tháng 9 năm 1883), nhưng bị giải tán nhanh chóng sau cuộc giao tranh, vì chúng rất vô kỷ luật.\nLực lượng viễn chinh Pháp do Đô đốc Amédée Courbet chỉ huy trong trận Sơn Tây bao gồm bốn tiểu đoàn bộ binh lính mộ người An Nam từ Nam kỳ. Lực lượng này cũng có một đơn vị riêng biệt gồm 800 lính mộ Bắc kỳ, gọi là \"tirailleurs tonkinois\", tức lính khố đỏ (hay lính tập) Bắc kỳ, dưới quyền chỉ huy của \"chỉ huy tiểu đoàn\" Bertaux-Levillain. Rất nhiều người trong số lính mộ Bắc kỳ đó là những kẻ đã phục vụ dưới trướng Vlavianos trong các trận giao chiến hồi mùa thu, và tái nhập ngũ phục vụ người Pháp sau khi tiểu đoàn Cờ vàng bị giải tán. Đô đốc Courbet không kiếm được các đại úy Pháp để chỉ huy các đại đội này, và họ chỉ đóng vai trò không đáng kể trong trận chiến tại chiến lũy Phù Sa trong trận Sơn Tây ngày 14 và 16 tháng 12. Số lính khố đỏ Nam kỳ, ngược lại, chiến đấu dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp, giành được nhiều chiến công trong trận chiếm chiến lũy Phù Sa.\nTướng Charles-Théodore Millot, người lên thay Đô đốc Courbet làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Bắc kỳ tháng 2 năm 1884, rất tin tưởng vào hiệu quả việc sử dụng các lực lượng phụ trợ người bản xứ. Millot cho rằng nếu các đội quân người bản xứ được chỉ huy bởi sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, họ sẽ chiến đấu hiệu quả hơn nhiều, và còn không có vấn đề kỷ luật, như quân Cờ vàng. Để kiểm nghiệm lý thuyết của mình, ông ta tổ chức các toán quân phụ trợ Bắc kỳ dưới quyền Bertaux-Levillain thành các đại đội quân chính quy, mỗi đại đội được đặt dưới quyền chỉ huy của một đại úy thủy quân đánh bộ. Một số đại đội này tham gia trận Bắc Ninh (tháng 3 năm 1884) và trận Hưng Hóa (tháng 4 năm 1884). Tới tháng 5 năm 1884, trong thành phần lực lượng viễn chinh Pháp đã có đến 1.500 quân phụ trợ người bản xứ Bắc kỳ\nThiết lập và tổ chức.\nHài lòng trước những chiến tích thu được của đội lính mộ Bắc kỳ trong các trận giao tranh hồi tháng 3 và 4 năm 1884, tướng Millot quyết định chính thức hóa các đơn vị này bằng cách thành lập hai trung đoàn lính mộ Bắc kỳ \"tirailleurs\" (tức bộ binh, hay còn gọi là lính khố đỏ, mỗi trung đoàn gồm 3.000 quân, tổ chức thành ba tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn gồm 4 đại đội, mỗi đại đội có 250 lính, chỉ huy bởi các sĩ quan hải quân đánh bộ giàu kinh nghiệm. Mô hình này được sử dụng mấy năm trước tại Nam kỳ, nay được áp dụng cho các trung đoàn lính mộ Bắc kỳ. Theo sắc lệnh ngày 12 tháng 5 năm 1884, tướng Millot thành lập các trung đoàn bộ binh Bắc kỳ số 1 và 2. Các trung đoàn này được chỉ huy bởi Trung tá de Maussion và Trung tá Berger, là hai sĩ quan kỳ cựu, có nhiều chiến công trong các chiến dịch mà các tướng Bouët và Courbet chỉ huy. Các tiểu đoàn trưởng dưới quyền họ là Tonnot, Jorna de Lacale, Lafont, Merlaud, Pelletier và Pizon.\nDo không có đủ sĩ quan hải quân đánh bộ chỉ huy, hai trung đoàn này ban đầu không được thành lập với đầy đủ quân số. Trong vài tháng, các đơn vị này chỉ gồm 9 đại đội, chia làm hai tiểu đoàn. Tuy nhiên, việc tuyển quân vẫn tiếp tục trong suốt mùa hè năm 1884 và tới 30 tháng 10 cả hai trung đoàn này đã đạt đủ quân số 3.000 người.\nMột phương thức được tướng Millot thực hiện để đẩy nhanh việc tuyển quân là sử dụng lính đào ngũ từ quân cờ đen. Có khoảng vài trăm quân cờ đen đầu hàng Pháp tháng 7 năm 1884, sau khi quân Pháp hạ thành Hưng Hóa và Tuyên Quang, và xin được phục vụ quân Pháp. Tướng Millot cho phép họ nhập vào các trung đoàn lính mộ Bắc kỳ như một đại đội độc lập, và họ được phái đến một đồn lẻ của Pháp trên sông Đáy dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp có thiện cảm với họ, Thiếu úy Bohin. Nhiều sĩ quan Pháp khác tỏ ra hoảng sợ trước việc tướng Millot sẵn lòng tin tưởng quân cờ đen, và Bohin được mệnh danh là \"le condamné à mort\" - tức coi như đã chết. Trên thực tế, quân cờ đen đáp lại sự tử tế của thiếu úy, và trong vòng vài tháng, phục vụ tốt dưới trướng ông này, tham gia một số cuộc càn quét quân nổi dậy người Việt và giặc cướp. Tuy nhiên, trong đêm ngày 25 tháng 12 năm 1884, họ đào ngũ hàng loạt, mang theo vũ khí, quân trang quân dụng và bỏ chạy về phía sông Đà. Họ cũng giết một trung sỹ người Bắc kỳ khi người này định báo động, nhưng không đụng đến thiếu úy Bohin đang ngủ say. Có lẽ là họ bị chấn động trước ưu thế của quân Thanh trên chiến trường Bắc kỳ, và mất lòng tin vào khả năng chiến thắng của quân Pháp, nên quyết định gia nhập trở lại vào hàng ngũ quân Cờ đen, rồi tham gia trong trận Tuyên Quang. Thí nghiệm thất bại của tướng Millot không được người kế nhiệm ông là tướng Brière de l'Isle lặp lại, và người Pháp từ đó về sau không tìm cách sáp nhập quân Cờ đen vào thành phần các trung đoàn bộ binh Bắc kỳ nữa.\nTrung đoàn bộ binh Bắc kỳ thứ ba được Tướng de Courcy thành lập bởi sắc lệnh ra ngày 28 tháng 7 năm 1885. Trung đoàn thứ tư được Tướng Warnet thành lập với sắc lệnh ngày 19 tháng 2 năm 1886.\nHoạt động trong Chiến tranh Pháp-Thanh.\nĐại đội 8, trung đoàn số 1 Bắc kỳ (Đại úy Dia, trung úy Goullet) là một bộ phận trong đoàn quân Pháp đánh hạ thành Tuyên Quang ngày 2 tháng 6 năm 1884. Đại đội này cũng tham gia trong cuộc hành binh dưới quyền tướng Duchesne để giải vây cho thành Tuyên Quang tháng 11 năm 1884, tham chiến trong trận Yu Oc. Tiếp đó, với tư cách là một bộ phận của lực lượng đồn trú Tuyên Quang, đơn vị này chiến đấu rất anh dũng cùng hai đại đội Lê Dương Pháp trong trận vây hãm Tuyên Quang (tháng 11 năm 1884 tới tháng 3 năm 1885).\nĐại đội 12, trung đoàn 1 Bắc kỳ (Đại úy Bouchet, trung úy Delmotte và Bataille) tham chiến trong trận Bắc Lệ (23-24 tháng 6 năm 1884) và trận Lam (6 tháng 10 năm 1884) trong chiến dịch Kép. Trung úy Bataille bị thương nặng trong cuộc giao chiến tại Lam và binh lính của ông do không có chỉ huy, tháo lui trước quân Thanh. Việc họ tháo lui đã tạo ra một lỗ hổng nguy hiểm tại trung tâm đội hình quân Pháp, và chỉ nhờ sự có mặt tình cờ của một tiểu đoàn bộ binh mà lỗ hổng này được bịt lại. Về cuối trận đánh, quân Pháp phản công, và quân bộ binh Bắc kỳ của Bataille giao chiến trong cuộc tấn công cuối cùng.\nĐại đội 1, trung đoàn 1 Bắc kỳ (Đại tá de Beauquesne) tham chiến trong trận Núi Bóp (4 tháng 1 năm 1885).\nTiểu đoàn 1, trung đoàn 1 Bắc kỳ (\"chỉ huy tiểu đoàn\" Jorna de Lacale) và tiểu đoàn 1, trung đoàn 2 (\"chỉ huy tiểu đoàn\" Tonnot) tham gia trong trận Lạng Sơn (tháng 2 năm 1885). Tiểu đoàn của Tonnot cũng tham chiến kịch liệt trong trận Bắc Vie (Bắc Vi?) (12 tháng 2 năm 1885).\nĐại đội 1, trung đoàn 2 Bắc kỳ (Đại úy Geil) giao chiến trong trận Đồng Đăng (23 tháng 2 năm 1885).\nĐại đội 7, trung đoàn 1 Bắc kỳ (Đại úy Granier, trung úy Donnat) trinh sát chiến lũy của quân Thanh trước khi trận Hóa Mộc (2 tháng 3 năm 1885) và bị tổn thất nặng trong loạt súng đầu tiên từ phía quân Thanh. Trung úy Donnat cũng bị thương trong cuộc giao tranh này.\nTrung đội của trung úy Fayn thuộc đại đội 1 của đại úy Dufoulon, trung đoàn 1 Bắc kỳ, gồm 50 binh sĩ, đánh đuổi một cánh quân Thanh, Việt và Mường tại Thai That (Thạch Thất) gần Sơn Tây trong ngày 18 tháng 4 năm 1885. Cuộc chạm trán diễn ra chỉ 4 ngày sau khi cuộc ngưng bắn giữa quân Pháp và quân Thanh tại Bắc kỳ có hiệu lực. Sự hùng dũng của quân bộ binh Bắc kỳ trong trận chiến này được tuyên dương rộng rãi bởi các chỉ huy Pháp, và được ghi nhớ trong bản nhật lệnh của Tướng Brière de l'Isle ra ngày 26 tháng 4.\nTham khảo.\nTiếng Pháp\nTiếng Anh",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Nymphargus ignotus ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Nymphargus ignotus là một loài ếch trong họ Centrolenidae, formerly placed in \"Cochranella\". Chúng là loài đặc hữu của Colombia.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng mây ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới và sông.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Bộ Xây dựng (Việt Nam) nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Bộ Xây dựng Việt Nam là cơ quan của Chính phủ Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: xây dựng, vật liệu xây dựng, nhà ở và công sở, kiến trúc, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng nông thôn, hạ tầng kỹ thuật đô thị, quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật. Tiền thân của bộ là Bộ Thủy lợi và Bộ Kiến trúc được Quốc hội khóa I, Kỳ họp thứ 5, ngày 20 tháng 9 năm 1955 thành lập. Bộ trưởng hiện nay là Nguyễn Thanh Nghị.\nCơ cấu tổ chức.\nCác đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp phục vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước.\n\"(Theo Điều 3, Nghị định số 52/2022/NĐ-CP ngày 8 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ)\"\nVụ án 19 lần vỡ đường ống nước sông Đà.\nNgày 17-7-2014, cử tri nêu bức xúc khi Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo tiếp xúc cử tri tại Q.Hoàn Kiếm: “Trung bình cứ hai tháng đường ống nước Sông Đà lại vỡ một lần. Thậm chí những ngày gần đây, chỉ trong ba ngày mà đường ống nước này vỡ liên tiếp hai lần. (tổng cộng 9 lần)\" Theo ông Thảo, nguyên nhân dẫn đến vỡ đường ống nước Sông Đà thì có nhiều, nhưng trọng tâm nhất vẫn là chất lượng đường ống do chính Vinaconex sản xuất. “ \nTrước đó, sau nhiều lần vỡ đường ống, ngày 19/6/2014, Bộ Xây dựng cũng đã có văn bản cho biết nguyên nhân trực tiếp gây vỡ tuyến ống truyền tải nước sông Đà là do chất lượng ống không đồng đều, đường ống được làm bằng vật liệu composite, không chịu được lực uốn và biến dạng. Ngày 14/7/2015, Cơ quan CSĐT - Bộ Công an tống đạt quyết định khởi tố bị can 7 cán bộ thuộc Công ty Cổ phần Ống sợi thủy tinh Vinaconex, Ban quản lý dự án cấp nước sông Đà, cùng một số đơn vị liên quan về hành vi “Vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”.\nNgày 15/7/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an có kết luận điều tra bổ sung đã xác định: Sau 18 lần vỡ đường ống nước Công ty Cổ phần nước sạch Vinaconex đã phải bỏ ra 13,4 tỷ đồng để khắc phục sửa chữa, 177.000 hộ dân không được cấp nước trong thời gian 343 giờ, lượng nước không được cấp là 1,5 triệu m3. Doanh nghiệp khai thác dự án phải đầu tư thêm số tiền hơn 1.000 tỷ đồng để xây dựng khẩn cấp thêm một đường ống mới. Thiệt hại là đặc biệt nghiêm trọng.\nTrong hồ sơ chuyển tới VKSND Tối cao, cơ quan này đề nghị truy tố 9 bị can gồm: Hoàng Thế Trung (nguyên giám đốc), Nguyễn Văn Khải (nguyên phó giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước sông Đà - Hà Nội- Ban Quản lý dự án); Trương Trần Hiển (nguyên trưởng phòng Vật tư thiết bị Ban Quản lý dự án); Trần Cao Bằng (nguyên giám đốc Công ty CP ống sợi thủy tinh Vinaconex), Vũ Thanh Hải (nguyên phó giám đốc Công ty CP ống sợi thủy tinh Vinaconex); Đỗ Đình Trì (nguyên trưởng đoàn tư vấn giám sát của Công ty CP nước và môi trường VN - Viwase) cùng Nguyễn Biên Hùng, Hoàng Quốc Thống, Bùi Minh Quân, đều nguyên cán bộ của Viwase.\nTheo kết quả điều tra bổ sung, từ năm 2004, HĐQT Vinaconex lúc đó gồm các ông: Phí Thái Bình (Chủ tịch), Nguyễn Văn Tuân (Tổng giám đốc), Tô Ngọc Thành, Hoàng Hợp Thương và Vũ Đình Chầm (các ủy viên) không thực hiện đúng quy định pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng công trình khi quyết định thay đổi vật liệu tuyến ống, đưa vào sử dụng vật liệu composite sợi thủy tinh chưa được thẩm định. Cơ quan tố tụng xác định các ông Bình, Tuân, Thành, Thương, Chầm đã có dấu hiệu của tội vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng theo điều 229 Bộ luật Hình sự, nhưng không có động cơ vụ lợi. Trong quá trình điều tra họ khai báo thành khẩn, hợp tác với cơ quan điều tra để làm rõ bản chất vụ án, có nhân thân tốt, nhiều đóng góp cho ngành xây dựng, vi phạm lần đầu. Việc ra các quyết định trái quy định là muốn công trình nhanh, giá thành rẻ, cho nên liên ngành tư pháp trung ương thấy rằng không cần thiết phải xử lý hình sự đối với các thành viên HĐQT Vinaconex.\nLãnh đạo VKSND Tối cao đã yêu cầu Vụ 3 kiểm tra, xem xét lại vụ việc \"không khởi tố lãnh đạo Vinaconex\", lo ngại việc không khởi tố cựu phó chủ tịch Hà Nội cùng 4 lãnh đạo chủ chốt của Vinaconex sẽ tạo tiền lệ xấu khi xử lý án tương tự.\nTô Linh Hương, sinh năm 1988, con gái Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng CSVN, ủy viên Bộ Chính trị Tô Huy Rứa, vào ngày 14/4/2012 lúc mới 24 tuổi, đã được bầu vào vị trí Chủ tịch Hội đồng Quản trị của công ty Vinaconex - PVC nhiệm kỳ bốn năm 2012-2016.\nTheo Công ty CP nước sạch Vinaconex (Viwasupco), tối 14-9-2016, nhân viên của công ty trong quá trình kiểm tra đường ống để duy tu bảo dưỡng định kỳ đã phát hiện ra điểm xung yếu, nước rò rỉ và phun lên mặt đất ở đoạn qua Km21 + 600, Đại lộ Thăng Long. Công ty phải tạm ngừng cấp nước cho hơn 70 nghìn hộ dân. Sự cố được khắc phục trong đêm và đã cấp nước trở lại cho người dân. Đây đã là lần thứ 19 đường ống này bục vỡ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Pseudoeurycea amuzga",
"role": "user"
},
{
"content": "Pseudoeurycea amuzga là một loài kỳ giông trong họ Plethodontidae.\nNó là loài đặc hữu của México.\nMôi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.\nNó bị đe dọa do mất môi trường sống.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mandurah",
"role": "user"
},
{
"content": "Mandurah là một thành phố ở bang Tây Úc, Úc, cách thủ phủ bang Perth 72 km về phía nam. Thành phố có dân số 85.814 người (năm 2010).\nĐịa lý.\nKhí hậu.\nTương tự như Perth, Mandurah có khí hậu Địa Trung Hải điển hình (phân loại Köppen \"Csa\") với mùa hè khô nóng và mùa đông ôn hòa, ẩm ướt. Trong suốt mùa hè (từ tháng 12 đến tháng 2), nhiệt độ trung bình cao là 27 °C trong khi trung bình thấp là 19 °C. Tuy nhiên, thường có một vài ngày vượt quá 40 °C vào cuối mùa hè. Vào mùa đông (từ tháng 6 đến tháng 8), nhiệt độ trung bình cao là 18 °C (64 °F) trong khi trung bình thấp là 9 °C. Vị trí gần đại dương của Mandurah giúp điều hòa nhiệt độ ban ngày. Do đó, băng giá hầu như không xảy ra trong thành phố ngoại trừ ở các vùng ngoại ô như Greenfields. Trạm thời tiết của Mandurah được mở vào năm 2001 và nằm ngay trên đường bờ biển.\nMandurah có lượng mưa khoảng 850 mm/năm, tuy nhiên các xu hướng gần đây cho thấy con số này đã giảm đáng kể. Hầu hết các trận mưa mùa đông thường kèm theo gió lớn và bão với khả năng gây thiệt hại trên diện rộng, khiến Mandurah trở thành một trong những thành phố lộng gió nhất ở Úc. Điều kiện khí hậu của Mandurah cũng gây nên mật độ lốc xoáy cao.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Loxostege?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Loxostege là một chi bướm đêm thuộc họ Crambidae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Anomalocosmoecus blancasi không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Anomalocosmoecus blancasi là một loài Trichoptera thuộc họ Limnephilidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Information of Least Chub is on wikipedia, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Iotichthys phlegethontis là một loài cá vây tia trong họ Cyprinidae, là loài duy nhất trong chi 'Iotichthys\". Nó chỉ được tìm thấy ở Hoa Kỳ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Gia Bình",
"role": "user"
},
{
"content": "Gia Bình là một huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.\nHuyên Gia Bình nằm bên bờ nam sông Đuống, là một huyện chủ yếu là nông nghiệp, gần đây mới thành lập một khu công nghiệp với quy mô còn khá nhỏ. Có cầu Bình Than nối với quốc lộ 18 đi các tỉnh thành lân cận như Hà Nội, Hải Dương...\nĐịa lý.\nHuyện Gia Bình nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Ninh, huyện lỵ là thị trấn Gia Bình, nằm cách thành phố Bắc Ninh khoảng 25 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 35 km, có vị trí địa lý:\nLịch sử.\nGia Bình là vùng đất cổ phù sa màu mỡ bên sông Đuống, nên từ ngàn xưa đã có cư dân Việt cổ về đây sinh cơ lập nghiệp và để lại dấu ấn là những khu cư trú mộ táng, địa danh, di tích và tín ngưỡng. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở xã Lãng Ngâm có di chỉ cư trú và mộ táng với những di vật bằng đồng như: rìu, búa, giáo, mác thuộc văn hóa Đông Sơn (cách ngày nay khoảng 4000 năm). Đó còn là hiện tượng tín ngưỡng, hàng loạt các làng xã nằm ven sông Đuống và sông Bái Giang thờ \"Lạc Thị đại vương\" (tức dòng dõi Lạc Long Quân) là các bậc thủy tổ dân tộc, tiêu biểu là đình Văn Lãng của thôn Đại Bái thờ \"Lạc Thị đại vương\" còn giữ được sắc phong niên đại Cảnh Hưng 44 (1783) cho biết khá rõ về người được thờ như sau: \"Sắc phong cho ba vị đại vương thuộc dòng dõi Lạc Long Quân linh thiêng ở Đại Việt. Là tinh khí tạo thành, do núi sông hun đúc. Gốc từ trăm trứng mà ra, lập ra cơ đồ ở cõi trời Nam. Mở nền thịnh trị một phương, từ phía Bắc trở lại trừ diệt tai ách, khiến cho mạch nước được yên, từng che chở cho dân ta, tiếng tăm lừng lẫy, thật là đáng được ca ngợi. Vì nhà vua mới lên ngôi báu, trông coi việc chính sự, xét về lễ là được nâng bậc, nhà vua phong cho mỹ tự, lại gia phong cho là Đại Việt Lạc Thị linh ứng phong công trí đức cương nghị ba vị đại vương\".\nThời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng đất Gia Bình thuộc bộ Vũ Ninh và để lại dấu ấn đậm nét ở ngôi đền thờ Cao Lỗ Vương (xã Cao Đức). Theo thần tích cho biết ông là tướng tài giúp An Dương Vương xây dựng quốc gia Âu Lạc, xây thành Cổ Loa, có công chế tạo \"nỏ thần\" đánh giặc giữ nước.\nNgày 5 tháng 8 năm 1472, Lê Thái Tông mất tại Lệ Chi Viên (nay thuộc xã Đại Lai), thọ 20 tuổi. Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ bị kết tội giết vua. Ba họ nhà Nguyễn Trãi bị tru di. (\"Xem Vụ án Lệ Chi Viên\").\nThời chống Bắc thuộc, vùng đất này thuộc hai huyện An Bình và Nam Định. Đời Lý Trần thuộc huyện An Định lộ Bắc Giang. Thời Lê sơ, huyện An Định được đổi là Gia Định, thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Thời Nguyễn, vua Minh Mệnh năm thứ nhất (1820) huyện đổi tên là Gia Bình. Xưa kia, lỵ sở của huyện Gia Bình ở xã Bảo Khám. Năm 1820 được chuyển về xã Đông Bình. Năm 1888 chuyển đến xã Nhân Hữu. Năm 1841 chuyển về xã Khoái Khê. Năm 1920 chuyển về núi Nghĩa Thắng thuộc dãy Thiên Thai, xã Đông Cứu ngày nay.\nTrong kháng chiến chống Pháp, để phù hợp với tình hình kháng chiến, tháng 8/1950, huyện Gia Bình và Lương Tài sáp nhập làm một lấy tên là huyện Gia Lương, thuộc tỉnh Bắc Ninh.\nNăm 1962, tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang hợp nhất thành một tỉnh lấy tên là tỉnh Hà Bắc, huyện Gia Lương thuộc tỉnh Hà Bắc.\nNăm 1997, tỉnh Bắc Ninh được tái lập, huyện Gia Lương thuộc tỉnh Bắc Ninh.\nTheo Nghị định số 68/1999/NĐ-CP huyện Gia Bình được tách ra từ huyện Gia Lương với 13 xã.\nTheo Nghị định số 37/2002/NĐ-CP, thành lập thị trấn Gia Bình - thị trấn huyện lỵ huyện Gia Bình trên cơ sở 213,08 ha diện tích tự nhiên và 3.198 nhân khẩu của xã Xuân Lai; 71,92 ha diện tích tự nhiên và 1.389 nhân khẩu của xã Đại Bái; 151,39 ha diện tích tự nhiên và 3.085 nhân khẩu của xã Đông Cứu.\nSau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị trấn Gia Bình: xã Xuân Lai còn lại 1.084,35 ha diện tích tự nhiên và 8.251 nhân khẩu; xã Đại Bái còn lại 627,46 ha diện tích tự nhiên và 8.665 nhân khẩu; xã Đông Cứu còn lại 666,28 ha diện tích tự nhiên và 7.301 nhân khẩu; thị trấn Gia Bình có 436,39 ha diện tích tự nhiên và 7.672 nhân khẩu.\nTừ đó, huyện Gia Bình có 1 thị trấn và 13 xã như ngày nay.\nHành chính.\nHuyện Gia Bình có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Gia Bình (huyện lỵ) và 13 xã: Bình Dương, Cao Đức, Đại Bái, Đại Lai, Đông Cứu, Giang Sơn, Lãng Ngâm, Nhân Thắng, Quỳnh Phú, Song Giang, Thái Bảo, Vạn Ninh, Xuân Lai.\nDanh sách các đơn vị hành chính thuộc huyện Gia Bình\nĐô thị.\nHuyện Gia Bình hiện có 2 đô thị loại V (Gia Bình và Nhân Thắng). Theo quy hoạch chung đô thị tỉnh Bắc Ninh thì Gia Bình sẽ có thêm 1 đô thị loại V nữa là xã Cao Đức, đồng thời mở rộng đô thị Gia Bình thêm xã Đông Cứu và nâng cấp Nhân Thắng thành Thị trấn Nhân Thắng.\nGiao thông.\nHàng không.\nSân bay Gia Bình của Bộ Công An đã được quy hoạch nằm trên địa phận xã Xuân Lai\nLàng nghề.\nGia Bình thuộc vùng đất Kinh Bắc cũng có một số làng nghề từ lâu, với làng Đại Bái là nổi tiếng. Nhóm nghề dịch vụ chưa phát triển nhiều ngay cả những nơi như trung tâm thị trấn và ở Ngụ, Bùng là nơi phát triển nhất huyện cũng chỉ dừng lại ở việc kinh doanh các mặt hàng thiết yếu. Nông nghiệp với nhiều loại cây vụ đông và cây màu như cà rốt, dưa, hành, tỏi, chuối bãi... Huyện không có nhiều các làng nghề. Các nghề như mây tre đan Lập Ái, bột lọc Ngụ hầu như đến nay đã không còn tồn tại. Các làng còn lại cần khôi phục để tạo nét văn hóa, đặc trưng của vùng đất Gia Bình:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của 2066 Palala á",
"role": "user"
},
{
"content": "2066 Palala (1934 LB) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 4 tháng 6 năm 1934 bởi C. Jackson ở Johannesburg.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Maaseik (huyện), bạn có thông tin nó ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Huyện Maaseik (; ) là một trong ba huyện hành chính ở tỉnh Limburg, Bỉ. Đây không phải là huyện hành chính. Các đô thị Bocholt, Bree, Kinrooi, Meeuwen-Gruitrode, Dilsen-Stokkem và Maaseik đều thuộc huyện tư pháp Tongeren, còn các đô thị còn lại thuộc huyện tư pháp Hasselt.\nCác đô thị.\nHuyện hành chính Maaseik bao gồm các đô thị sau:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của Mos, Tây Ban Nha á",
"role": "user"
},
{
"content": "Mos là một đô thị trong tỉnh Pontevedra, Galicia, Tây Ban Nha. Đô thị này có dân số 13996 người (2005).",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cho xin thông tin về Hooge nhé",
"role": "user"
},
{
"content": "Hooge là một đảo, đô thị ở ngoài khơi nước Đức. Đô thị này có diện tích 5,78 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2006 là 81 người.\nHooge có 9 khu vực dân cư:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về 5893 Coltrane không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "5893 Coltrane (1982 EF) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 15 tháng 3 năm 1982 bởi Z. Vavrova ở Klet, Cộng hòa Séc.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tôi cần thông tin về Villers-Hélon ở Wikipedia",
"role": "user"
},
{
"content": " Villers-Hélon là một xã ở tỉnh Allier, vùng Hauts-de-France thuộc miền bắc nước Pháp.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn đưa thông tin về Cryptopylos nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Cryptopylos là một chi thực vật có hoa trong họ Họ Lan.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Kỷ Mẫn công không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Kỷ Mẫn công (chữ Hán: 杞湣公; trị vì: 486 TCN-471 TCN), tên là Tự Duy, là vị vua thứ 18 của nước Kỷ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.\nÔng là con của Kỷ Ly công - vua thứ 17 nước Kỷ. Năm 487 TCN, Kỷ Ly công mất, ông lên nối ngôi vua.\nNăm 471 TCN, ông bị em là Tự Át Lộ giết hại để giành ngôi báu, tức là Kỷ Ai công. Ông làm vua tất cả 16 năm.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn đưa thông tin về Lestrimelitta glabrata nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Lestrimelitta glabrata là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Camargo & Moure mô tả khoa học năm 1990.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Give me information about Thảo nguyên Á-Âu from the wiki, in vn language",
"role": "user"
},
{
"content": " \nTrong địa lý tự nhiên Đông Âu và Trung Á, thảo nguyên châu Âu hay còn gọi là steppe, chỉ đến các đồng cỏ gần như không có cây gỗ (trừ các vùng gần sông và hồ) nằm trên lục địa Á-Âu; nó giống như các kiểu đồng cỏ khác, nhưng đồng cỏ thường có cỏ cao, trong khi thường có cỏ thấp ở thảo nguyên. Nó có thể có khí hậu nửa sa mạc, hay có cỏ hay cây bụi, hoặc có cả hai, tùy mùa và vĩ độ. Kiểu đồng cỏ này không có tại Việt Nam và tên gọi của nó trong một số ngôn ngữ Slav là степь (Nga) hay степ (Bulgaria, Ukraina), được vay mượn sang một số ngôn ngữ Tây Âu thành steppe (Đức, Pháp, Anh) hay Esteppa/Steppa (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italy) v.v\nThuật ngữ này cũng có thể để nói tới khí hậu ở những miền quá khô để thể hỗ trợ rừng, nhưng không đủ khô để được gọi là sa mạc. Nó thường gặp ở những miền không nhiều mưa. Đất ở thảo nguyên thường cũng ẩm hơn ở sa mạc nhưng quá khô để hỗ trợ rừng. Thảo nguyên nóng vào mùa hè và lạnh vào mùa đông, mưa trung bình 250–500 mm mỗi năm.\nCây cối thường cao hơn 30 cm, thí dụ cỏ grama xanh và cỏ trâu, cây xương rồng, ngải đắng, speargrass, và những thực vật nhỏ giống cây hướng dương. Các động vật bao gồm cáo Corsac, chuột Mông Cổ (\"Meriones unguiculatus\"), linh dương Saiga, linh miêu, và chim ưng Saker (\"Falco cherrug\").\nKhu vực thảo nguyên lớn nhất thế giới, thường được gọi là \"Đại Thảo nguyên\", nằm ở miền trung Nga và các quốc gia lân cận thuộc Trung Á. Thảo nguyên Hắc Hải kéo dài từ Ukraina ở phía tây tới dãy núi Ural và biển Caspi ở phía đông. Về phía đông của biển Caspi, thảo nguyên mở rộng qua Turkmenistan, Uzbekistan và Kazakhstan tới các dãy núi Altai, Koppet Dag và Thiên Sơn. Về phía bắc, ở phía đông của dãy Ural là các cánh rừng taiga thuộc đồng bằng Tây Siberi, kéo dài gần như là tới ven bờ Bắc Băng Dương.\nMột khu vực thảo nguyên lớn khác nằm ở miền trung Hoa Kỳ và miền tây Canada. Thảo nguyên Bình nguyên Cao (\"High Plains\") (Hoa Kỳ) là phần xa nhất về phía tây của khu vực Đại Bình nguyên (\"Great Plains\"). Một thảo nguyên quan trọng, đáng chú ý vì không được xếp loại trong số các sa mạc, là Sertão ở đông bắc Brasil.\nMột số thảo nguyên cũng được thấy ở các khu vực chuyển tiếp từ khu vực có khí hậu Địa Trung Hải sang khu vực sa mạc, chẳng hạn Tijuana, Baja California và tại các khu vực bị thiếu độ ẩm do các hiệu ứng chắn mưa, chẳng hạn như ở Zaragoza, Tây Ban Nha.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Give me information about Khu quốc hội 5, Oregon from the wiki, in vn language",
"role": "user"
},
{
"content": "Khu quốc hội số 5 của Oregon đại diện cho vùng trung duyên hải của Oregon băng qua Salem, phía bắc giáp các khu ngoại ô miền nam của Portland, và phía đông giáo đỉnh của Núi Hood. Nó bao gồm các quận Lincoln, Marion, Polk, Tillamook, phần lớn Quận Clackamas, một phần Quận Benton và Quận Multnomah. Nó có thêm phần hiện tại của Quận Multnomah từ Khu quốc hội số 3 trong lần phân chia lại các khu quốc hội tại Oregon vào năm 2002 nhưng nó mất một phần đáng kể phía bắc Quận Clackamas về cho Khu quốc hội số 3.\nKhu quốc hội này do đảng viên Dân chủ Kurt Schrader, người được bầu lên năm 2008 để thay thế Darlene Hooley nghỉ hưu, làm đại diện tại Hạ viện Hoa Kỳ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Argia infrequentula, bạn có thông tin nó ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Argia infrequentula là một loài chuồn chuồn kim trong họ Coenagrionidae.\n\"Argia infrequentula\" được miêu tả khoa học năm 1946 bởi Fraser.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "5111 Jacliff",
"role": "user"
},
{
"content": "5111 Jacliff (1987 SE4) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 29 tháng 9 năm 1987 bởi E. Bowell ở Flagstaff.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về 2070 Humason không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "2070 Humason là một tiểu hành tinh được phát hiện tại ở Đài thiên văn Goethe Link gần Brooklyn, Indiana bởi Chương trình tiểu hành tinh Indiana.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn đưa thông tin về Đại học Potsdam nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Đại học Potsdam (tiếng Đức: \"Universität Potsdam\") là một trường đại học công nằm ở Potsdam, gần Berlin, Đức. Trường có bốn cơ sở ở Potsdam, Brandenburg, bao gồm Trung tâm mới ở Sanssouci và Babelsberg Park.\nĐại học Potsdam là một trong những đại học lớn nhất ở Brandenburg với nhiều ngành đào tạo khác nhau, vùng Potsdam và Berlin cũng là một trong những vùng tập trung nhiều trung tâm nghiên cứu của nước Đức. Có khoảng hơn 8.000 nhân viên và các nhà khoa học, học giả làm việc tại trường. Trường cũng lọt vào danh sách \"Excellence in Teaching\" của Stifterverband für die Deutsche Wissenschaft (Trung tâm sáng tạo trong hệ thống khoa học Đức của cộng đồng doanh nghiệp) và tổ chức hội nghị Bộ trưởng giáo dục và Văn hóa trong các bang thuộc Cộng hòa liên bang Đức (Kultusministerkonferenz).\nHọc sau đại học.\nTrong bảng xếp hạng gần đây của Trung tâm giáo dục đại học và phát triển (CHE). chương trình đào tạo thạc sĩ khoa học chính trị, thạc sĩ quản lý công và thạc sĩ quản lý hành chính của Đại học Potsdam được xếp hạng trong top cao nhất tại Đức và tại châu Âu. Theo thứ hạng bình chọn trên Tuần báo nổi tiếng DIEZEIT của Đức, Potsdam cũng được đánh giá là điểm đến thú vị nhất để bạn tới học thạc sĩ và tiến sĩ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn đưa thông tin về Chuông nguyện hồn ai (định hướng) không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Chuông nguyện hồn ai là tên cuốn tiểu thuyết được xuất bản năm 1940 của nhà văn Ernest Hemingway. Ngoài ra \"Chuông nguyện hồn ai\", hoặc tên nguyên bản tiếng Anh For Whom the Bell Tolls, còn có thể là:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Louin, Deux-Sèvres ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Louin là một xã trong tỉnh Deux-Sèvres trong vùng Nouvelle-Aquitaine ở phía tây nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao từ 73-160 mét trên mực nước biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Châteaubleau từ bách khoa toàn thư không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Châteaubleau là một xã ở tỉnh Seine-et-Marne, thuộc vùng Île-de-France ở miền bắc nước Pháp.\nDân số.\nNgười dân ở đây được gọi là \"Castelblotins\".\nĐiều tra dân số năm 1999, there were 263 người.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tôi cần thông tin về Andrew Johnson ở Wikipedia",
"role": "user"
},
{
"content": "Andrew Johnson (29 tháng 12 năm 1808 - 31 tháng 7 năm 1875) là tổng thống thứ 17 của Hoa Kỳ và tại nhiệm từ năm 1865 đến năm 1867. Ông vốn là phó tổng thống và lên làm tổng thống khi tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát năm 1865. Ông là một thành viên Đảng Dân chủ, nhưng đồng ứng cử với Lincoln với tư cách đại diện Đảng Liên minh Dân tộc trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1864. Sau khi Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc, Johnson mới bắt đầu nhậm chức Tổng thống. Ông ủng hộ việc sát nhập nhanh chóng của các tiểu bang đã ly khai trước cuộc nội chiến vào lại Liên minh nhưng lại không có biện pháp hay điều luật nào bảo vệ cho các nô lệ trước đây. Điều này đã gây ra sự bất hòa với Quốc hội Hoa Kỳ, cơ quan nhà nước lúc bấy giờ được kiểm soát bởi Đảng Cộng hòa, và cuối cùng dẫn đến việc Hạ viện luận tội ông. Tuy nhiên, ông vẫn may mắn giữ được chức vụ Tổng thống khi Thượng viện quyết định tha bổng ông với cách biệt thuận-chống chỉ có 1 lá phiếu. Với cương vị Tổng thống, có lẽ thành công lớn nhất mà Johnson mang lại cho đất nước chính là thương vụ Alaska.\nTiểu sử.\nJohnson được sinh ra trong một gia đình nghèo khó tại vùng Raleigh, Bắc Carolina, do đó ông không có cơ hội được đi học. Với nghề thợ may, ông đã làm việc tại nhiều thị trấn khác nhau ở biên cương trước khi quyết định lập nghiệp tại Greeneville, Tennessee. Ông từng làm ủy viên hội đồng thành phố và thị trưởng trước khi được bầu vào Hạ viện tiểu bang Tennessee vào năm 1835. Sau một thời gian ngắn làm việc tại Thượng viện tiểu bang Tennessee, Johnson đắc cử làm dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ năm 1843 và ông đã làm việc tại đây 5 nhiệm kỳ 2 năm. Ông trở thành Thống đốc tiểu bang Tennessee trong khoảng 4 năm, và sau đó được các nhà lập pháp của tiểu bang bầu làm Thượng nghị sĩ tại Thượng viện Hoa Kỳ năm 1857. Trong suốt những năm làm việc tại Quốc hội, ông cố gắng để giúp Đạo luật Nhà ở được thông qua, và sau cùng, đạo luật này cũng đã được thi hành không lâu sau khi ông rời Thượng viện năm 1862. Khi mà các tiểu bang miền Nam, bao gồm cả Tennessee, ly khai để thành lập Liên minh miền nam Hoa Kỳ, Johnson vẫn giữ một mối quan hệ thân thiết với Liên bang miền bắc. Ông là Thượng nghị sĩ duy nhất từ Liên minh miền Nam vẫn giữ chức vụ của mình tại Liên bang sau khi biết tin tiểu bang ông đại diện đã ly khai khỏi nhà nước.\nDưới thời Abraham Lincoln.\nNăm 1862, Lincoln đã bổ nhiệm ông làm Thống đốc quân sự của tiểu bang Tennessee sau khi phần lớn lãnh thổ ở đây đã được quân Liên bang lấy lại. Vào năm 1864, Johnson, với tư cách là một thành viên Đảng Dân chủ ủng hộ phe Liên bang miền bắc và một người dân miền nam chống đối sự ly khai của các tiểu bang và cuộc Nội chiến, là một sự lựa chọn hợp lý để trở thành đồng ứng cử của Lincoln trong cuộc tái tránh cử chức Tồng thống năm đó. Với thông điệp về đoàn kết dân tộc, hai người đã dễ dàng đắc cử trong cuộc đua vào Nhà trắng năm đó. Khi Johnson tuyên thệ nhậm chức vào tháng 3 năm 1865, ông đã có một bài phát biểu lan man, và sau đó, ông đã phải tự giấu mình để tránh sự chế giễu của dư luận. Sáu tuần sau đó, ông lên làm Tổng thống khi Lincoln bị ám sát.\nTổng thống.\nJohnson đã thực hiện chính sách Tái thiết riêng của mình bằng cách ban hành một loạt các tuyên bố chỉ đạo các tiểu bang ly khai trong thời Nội chiến phải tổ chức các cuộc hội nghị và bầu cử để cải cách chính quyền dân sự của họ. Khi các vị lãnh đạo cũ của phe Liên minh trở về, và các tiểu bang miền Nam thông qua Luật da đen (Black Codes) nhằm tước quyền tự do dân sự của những người nô lệ đã được giải phóng trước đây, những hành động này đã khiến các thành viên Đảng Cộng hòa ở Quốc hội từ chối đại diện bỏ phiếu cho các tiểu bang này và tiến hành đề xướng một đề luật khác để bãi bỏ việc làm của những người miền Nam. Mặc dù Johnson phủ quyết đạo luật chống lại người miền Nam, các thành viên Đảng Cộng hòa trong Quốc hội đã gạt bỏ sự phủ quyết của ông và tạo nên một khuôn khổ làm việc trong suốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ Tổng thống của Johnson. Tổng thống Johnson cũng là một người chống đối Tu Chánh án thứ 14 của Hiến pháp - một điều luật trao quyền công dân cho những nô lệ trước đây. Năm 1866, Johnson đã thực hiện một chuyến du lịch khắp quốc gia - điều mà trước đây chưa vị Tổng thống nào làm - để thúc đẩy mọi người ủng hộ các chính sách hành pháp của ông và nhằm phá vỡ sự đối lập của phe Cộng hòa. Khi sự xung đột giữa các nhánh trong chính phủ leo thang, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Tenure of Office để hạn chế việc Johnson sa thải các thành viên Nội các. Khi Johnson kiên trì trong việc cố gắng miễn nhiệm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh (tiền thân của Bộ Quốc phòng) lúc bấy giờ là Edwin Stanton, ông đã bị Hạ viện luận tội nhưng không bị kết án ở Thượng viện cũng như bị cách chức. Sau khi thất bại trong cuộc tuyển chọn ứng viên Tổng thống của Đảng Dân chủ năm 1868, Johnson rời Nhà trắng vào năm 1869.\nHậu tổng thống.\nTrở về Tennessee sau nhiệm kỳ Tổng thống, Johnson tìm kiếm sự minh chứng chính trị và đạt được điều ấy khi ông một lần nữa đắc cử trở thành Thượng nghị sĩ vào năm 1875. Sự kiện này đã giúp ông trở thành vị cựu Tổng thống duy nhất làm việc trong Thượng viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Johnson đã không may qua đời sau khi nhận chức vụ được 5 tháng. Trong sự nghiệp chính trị của mình, ông nhận được nhiều chỉ trích vì phản đổi mạnh mẽ việc Liên bang muốn đảm bảo quyền lợi cho những người Mỹ gốc Phi. Cũng vì lý do này, ông bị các nhà sử học đánh giá là một trong những vị Tổng thống tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.\nĐánh giá.\nÔng được cho là người đã gây ra một sai lầm lớn trong lịch sử nước Mỹ, đó là ngay sau cuộc nội chiến, Andrew Johnson đã quyết định đứng về phía người da trắng tại các bang miền Nam và ngăn cản việc mở rộng quyền con người ở các bang miền Nam (tại các bang miền Nam chỉ bãi bỏ chế độ nô lệ mà thôi). \"Nước Mỹ vẫn đang tiếp tục phải trả giá cho sai lầm của Andrew Johnson\", đó là ý kiến của giáo sư sử học danh dự Michael Le Benedict thuộc trường Đại học Ohio.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Information of Giải Heinz Hopf is on wikipedia, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Giải Heinz Hopf là một giải thưởng của trường ETH Zurich, được trao cho \"công trình khoa học xuất sắc trong lãnh vực Toán học thuần túy\". \nGiải được đặt theo tên nhà toán học Đức Heinz Hopf (1894–1971), giáo sư toán học ở ETH Zürich từ năm 1931 tới 1965, và được trao mỗi 2 năm, bắt đầu từ tháng 10 năm 2009. \nSố tiền thưởng của giải này là 30.000 Franc Thụy Sĩ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Lophostethus?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Lophostethus là một chi bướm đêm thuộc họ Sphingidae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Thông tin về (52996) 1998 UL32",
"role": "user"
},
{
"content": "(52996) 1998 UL32 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện qua chương trình tiểu hành tinh Beijing Schmidt CCD ở trạm Xinglong ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày 29 tháng 10 năm 1998.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Kiến thức hoặc thông tin về Bouglainval",
"role": "user"
},
{
"content": " Bouglainval là một xã thuộc tỉnh Eure-et-Loir trong vùng Centre-Val de Loire ở bắc trung bộ nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao từ 122-171 mét trên mực nước biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Gumillea nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Gumillea là một chi thực vật hạt kín chỉ chứa 1 loài với danh pháp Gumillea auriculata và chỉ được biết đến từ một mẫu vật duy nhất, được thu thập vào cuối thế kỷ 18 tại Peru. Nó được Hipólito Ruiz López và José Antonio Pavón đặt tên.\nGeorge Bentham và Joseph Hooker đặt nó trong họ Cunoniaceae và xử lý này đã từng được Adolf Engler cũng như phần lớn các tác giả khác tuân theo. Tuy nhiên, xử lý bao hàm toàn diện nhất về họ Cunoniaceae trong thời gian sau này đã loại nó ra khỏi họ này. Năm 2009, Armen Leonovich Takhtadjan đã đặt \"Gumillea\" vào họ Simaroubaceae. Một bài báo năm 2007 về họ Simaroubaceae chứa danh sách các chi trong họ. Chi \"Gumillea\" không có trong danh sách này, nhưng các tác giả cũng không cung cấp danh sách hay đoạn viết về các chi bị loại ra.\n\"Gumillea\" cũng đã từng được coi là từ đồng nghĩa của \"Picramnia\" nhưng nguồn cuối cùng của thông tin này là mờ mịt và nó không được nhắc tới trong bất kỳ xử lý nào gần đây của chi \"Picramnia\". Đáng để lưu ý rằng, trên bản in thạch bản của mình cho \"Gumillea\", Ruiz và Pavón đưa ra 11 noãn hoặc hạt chưa thuần thục, được tách ra từ một bầu nhụy 2 ngăn. Nhưng bầu nhụy trong \"Picramnia\" thường có 3 tới 4 ngăn (hiếm khi 2) và ở đây luôn luôn có 2 noãn mỗi ngăn.\nCó thể xác định được các mối quan hệ của \"Gumillea\" nếu DNA có thể được tách ra từ mẫu vật đang tồn tại. DNA đã từng được khuếch đại từ các mẫu vật có độ tuổi tương tự. Tuy nhiên, bất kỳ vật liệu nào được sử dụng trong nghiên cứu như vậy có thể là không bao giờ thay thế được.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Bádenas nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": " \nBádenas là một đô thị trong tỉnh Teruel, Aragon, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số 2004 (INE), đô thị này có dân số là 19 người.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tôi cần thông tin về Vông vang ở Wikipedia",
"role": "user"
},
{
"content": "Vông vang hay còn gọi bông vang, bông vàng, bụp vang, hoàng quỳ (danh pháp hai phần: Abelmoschus moschatus) là loài cây thuốc và cây lấy tinh dầu thuộc họ Cẩm quỳ được Medik. mô tả khoa học lần đầu năm 1787. Đây là loài bản địa của Ấn Độ.\nHạt vông vang có thể cho tinh dầu giống mùi xạ hương, tuy nhiên hiện nay đã bị cấm sử dụng do không an toàn đối với người. Vông vang cũng được dùng làm thuốc.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của Calais candezei á",
"role": "user"
},
{
"content": "Calais candezei là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Murray miêu tả khoa học năm 1868.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Atelopus tricolor?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Atelopus tricolor (tên tiếng Anh là \"Three-coloured Harlequin Toad\") là một loài cóc trong họ Bufonidae.\nNó được tìm thấy ở Bolivia và Peru.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất nơi sống.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Information of Wormaldia algirica is on wikipedia, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Wormaldia algirica là một loài Trichoptera trong họ Philopotamidae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tôi cần thông tin về Tinodes adjaricus ở Wikipedia",
"role": "user"
},
{
"content": "Tinodes adjaricus là một loài Trichoptera trong họ Psychomyiidae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cho xin thông tin về Bò Charolais nhé",
"role": "user"
},
{
"content": "Bò Charolais là một giống bò thịt có nguồn gốc từ vùng Charolles của nước Pháp, đây là một trong số giống lâu đời, có nguồn gốc từ vùng núi hẻo lánh Jura và sau đó phát triển mạnh ở vùng Charolles, miền Trung nước Pháp.\nĐặc điểm.\nBò Charolais nặng trung bình từ 900 kg đến 1.100 kg, chúng có kết cấu cơ thể cân đối, cơ bắp nổi rõ, lớn nhanh và hiệu quả sản xuất thịt bò cao. Chúng có hoặc không có sừng. Màu chủ yếu là trắng kem. Tuy nhiên cũng có con màu vàng tối. Vì giống bò này là lớn nhanh, to con, cơ bắp nổi rõ vì vậy khối lượng thịt xẻ cao.\nCon đực nặng 1200-1.300kg con cái 700–800 kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt trên 65%. Bò đực giống Charolais đạt khối lượng 800–900 kg ở 500 ngày tuổi. Bò có tính trầm, hiền lành và chịu kham khổ. Nhược điểm của bò Charolais là chất lượng thịt chưa cao như bò Angus. Bê sơ sanh có khối lượng lớn nên nhiều ca sanh khó, tỷ lệ nuôi sống của bê chưa cao.\nKỷ lục.\nCon bò có kỷ lục lớn nhất hiện nay là Barnsford Ferny nặng hai tấn, tương đương một con hà mã trưởng thành, được cho là cá thể bò lớn nhất tại Anh. Nó cao hơn hai mét và nặng gần hai tấn, tương đương một con hà mã trưởng thành và gấp đôi những con bò khác. Nó được nuôi để lấy giống và đã nhân giống ra 50 con bê trong trang trại Người dân ở các nơi khác cũng đến đây để lấy giống. Ít nhất 100 con bê khác đã ra đời bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo trong năm qua. Tại trang trại, con bò trắng này sống cùng 20 cá thể khác với chế độ ăn uống giống nhau.\nLai tạo.\nBò lai Charolaise là kết quả lai kinh tế giữa đực giống bò charolaise với bò cái lai Sind để tạo đàn bò lai F1 nuôi lấy thịt. Đây là phẩm giống năng suất và tỷ lệ thịt xẻ cao. Con lai F1 Charolais có màu lông trắng kem đến kem ánh sữa, chân thấp, mình tròn, cơ bắp nổi rõ. Lông trán dài và xoăn. Mắt trắng, viền mắt và gương mũi có màu lang hồng. Tính hiền dễ nuôi, được người dân ưa chuộng. Khối lượng bê sơ sinh 20 – 23,1 kg, 12 tháng tuổi 173 kg, lúc 24 tháng tuổi đạt 335 kg.Tăng trọng 560 g/ngày. Tỷ lệ thịt xẻ 53 – 55 %. Tỷ lệ thịt tinh 44%.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tiếng Wallon ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Tiếng Wallon (tiếng Wallon: \"Walon\") là một trong những ngôn ngữ nhỏ của nhóm Rôman (thuộc hệ Ấn-Âu). Những người sử dụng tiếng Wallon chủ yếu cư ngụ tại nước Bỉ (và một ít tại nước Pháp và nước Hoa Kỳ). Có 600.000 người sử dụng tiếng Wallon, nhưng họ cũng sử dụng ngôn ngữ khác. Tiếng Wallon là một ngôn ngữ trong Nhóm ngôn ngữ Oïl như tiếng Pháp.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Alincthun từ bách khoa toàn thư nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Alincthun là một xã ở tỉnh Pas-de-Calais trong vùng Hauts-de-France.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Kiến thức hoặc thông tin về Đông Tân (phường)",
"role": "user"
},
{
"content": "Đông Tân là một phường thuộc thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.\nĐịa lý.\nPhường Đông Tân nằm ở phía tây thành phố Thanh Hóa, nằm vắt ngang qua hai quốc lộ là quốc lộ 45 và quốc lộ 47, có vị trí địa lý:\nPhường có diện tích 4,42 km², dân số năm 2019 là 8.515 người, mật độ dân số đạt 1.926 người/km².\nLịch sử.\nTừ thời nhà Nguyễn đến trước Cách mạng tháng Tám, xã Đông Tân thuộc tổng Quang Chiểu, gồm các thôn: Phù Lưu (làng Trầu, xã Phù Lưu), Viện Giang (làng Vèn, xã An Hoạch), An Hoạch Thượng hay Yên Hoạch Thượng (làng Nhồi Thượng, xã An Hoạch) và thôn Đông..\nNăm 1977, các xã hữu ngạn sông Chu thuộc huyện Thiệu Hóa sáp nhập với huyện Đông Sơn thành huyện Đông Thiệu, xã Đông Tân thuộc huyện Đông Thiệu.\nNăm 1982, huyện Đông Thiệu đổi lại là huyện Đông Sơn, xã Đông Tân lại thuộc huyện Đông Sơn.\nNgày 21 tháng 4 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 40/2006/NĐ-CP<ref name=\"40/2006/NĐ-CP\"></ref>. Theo đó, thành lập thị trấn Nhồi trên cơ sở 184,34 ha diện tích tự nhiên, 4.577 người của xã Đông Hưng và 3 ha diện tích tự nhiên, 478 người của xã Đông Tân.\nSau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Đông Tân còn lại 451,39 ha diện tích tự nhiên và 7.401 người.\nNgày 29 tháng 2 năm 2012, xã Đông Tân được chuyển từ huyện Đông Sơn về thành phố Thanh Hóa.\nNgày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1108/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập các phường thuộc thành phố Thanh Hóa (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021). Theo đó, thành lập phường Đông Tân trên cơ sở toàn bộ 4,42 km² diện tích tự nhiên và 8.515 người của xã Đông Tân.\nVăn hóa.\nDi chỉ khảo cổ học.\nDi chỉ Bãi Vác: Di chỉ khảo cổ học được phát hiện tại cánh đồng Bãi Vác. Vốn là bãi tha ma, dân địa phương đã đào một mộ hợp chất và nhặt nhiều gốm thô; đào thám sát 4m², tầng văn hoá dày từ 0,40 m đến 0,60 m, có nhiều gốm và than tro, có một chân chạc gốm.\nKinh tế - xã hội.\nKinh tế của phường Đông Tân khá phát triển do có nghề khai thác đá để sản xuất đá mỹ nghệ xuất khẩu và sản xuất vật liệu xây dựng.\nTrên địa bàn phường có 1 trường tiểu học, 1 trường trung học cơ sở và 1 trường trung học phổ thông dân lập.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Nyctibates corrugatus từ bách khoa toàn thư nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Nyctibates corrugatus là một loài ếch thuộc họ Arthroleptidae. Chúng là đại diện duy nhất của chi Nyctibates. Loài này có ở Cameroon, Guinea Xích Đạo, và Nigeria.\nMôi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông ngòi.\nChúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cho xin thông tin về Sinarella nhé",
"role": "user"
},
{
"content": "Sinarella là một chi bướm đêm thuộc họ Erebidae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Egloffstein không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Egloffstein là một đô thị thuộc huyện Forchheim trong bang Bayern nước Đức. Đô thị Egloffstein có diện tích 28,04 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2006 là 2023 người.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Doeringiella cingillata?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Doeringiella cingillata là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Moure mô tả khoa học năm 1954.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Hilary Swank?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Hilary Ann Swank (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1974) là một nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng người Mỹ. Sự nghiệp diễn xuất phim ở Hollywood của cô bắt đầu bằng một vai nhỏ trong phim \"Buffy the Vampire Slayer\" (1992) rồi một vai lớn trong phim \"The Next Karate Kid\" (1994), nơi cô đóng vai Julie Pierce, người phụ nữ đầu tiên được sensei (\"thầy\") Keisuke Miyagi che chở.\nCô được biết đến nhờ thành tích đoạt 2 Giải Oscar cho hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất: lần đầu trong vai Brandon Teena, một transgender man (FTM) (\"phụ nữ chuyển phái tính thành nam giới\") trong phim \"Boys Don't Cry\" (1999), và vai nữ võ sĩ quyền Anh Maggie Fitzgerald trong phim \"Million Dollar Baby\" (2004). Cô là nữ diễn viên duy nhất của thập niên 2000 chiến thắng 2 lần giải Oscar cho hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong vòng 10 năm. Tạp chí \"Time\" đã ghi tên cô 1 trong số 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới vào 2005.\nCuộc đời.\nSwank sinh tại thành phố Lincoln, Nebraska, là con gái của Judy (nhũ danh Clough), làm nghề thư ký và vũ nữ, và Stephen Swank, từng là sĩ quan trong \"Lực lượng phòng không quốc gia\" (Air National Guard) rồi sau đó làm nghề đi chào hàng. Cô có một anh (em trai) tên Dan. Nhiều người trong gia tộc của cô tới từ Ringgold County, Iowa. Swank bắt đầu từ chỗ thấp kém như một đứa trẻ lớn lên từ một trailer park (\"khu dành cho các xe moóc cắm trại\") gần hồ Samish ở Bellingham, tiểu bang Washington, từ khi cô 6 tuổi, sau khi đã cư ngụ ở Spokane, tiểu bang Washington. Swank tự mô tả thời thơ ấu của mình như một \"outsider\" (\"người bên lề xã hội\"), luôn cảm thấy mình chỉ \"thuộc về một nhân vật tiểu thuyết (khi đọc truyện), hoặc nhân vật trong phim (khi xem phim)\", và do đó đã gợi hứng cho cô trở thành một diễn viên sau này.\nKhi Swank lên 9 tuổi, cô đóng kịch lần đầu trong vở \"The Jungle Book\". Cô bắt đầu diễn kịch ở nhà trường và cộng đồng, trong đó có \"đoàn kịch Bellingham\" (\"Bellingham Theatre Guild\"). Cô học trường Trung học Sehome ở Bellingham cho tới năm 16 tuổi. Swank cũng tham gia đua tranh trong các Thế vận hội Thanh thiếu niên (\"Junior Olympics\") và tranh giải vô địch bơi lội tiểu bang Washington; và được xếp hạng 5 trong môn thể dục đa năng của tiểu bang (điều này có lợi cho cô khi đóng phim \"The Next Karate Kid\" (1994) và các năm sau đó).\nCha mẹ Swank ly thân khi cô 13 tuổi, mẹ cô ủng hộ nguyện vọng trở thành diễn viên của con gái, đã chuyển chỗ ở tới Los Angeles, và họ sống trong chiếc xe hơi của mình, cho tới khi người mẹ dành giụm đủ tiền để thuê 1 căn hộ. Swank đã mô tả mẹ mình như nguồn cảm hứng cho sự nghiệp diễn viên và cuộc sống của cô. Ở California, Swank ghi tên học Trường Trung học South Pasadena (sau này cô bỏ trường) và bắt đầu nghề diễn viên chuyên nghiệp. Cô giúp mẹ trả tiền thuê nhà bằng số tiền cô kiếm được khi xuất hiện trên các chương trình truyền hình như \"Evening Shade\" và \"Growing Pains\".\nSự nghiệp.\nNăm 1994, Swank đóng phim \"The Next Karate Kid\" với Pat Morita. Đây là phim thứ 4 và là phim chót của bộ phim \"Karate Kid\".\nTháng 9 năm 1997, Swank thủ vai người mẹ đơn độc Carly Reynolds trong phim \"Beverly Hills, 90210\". Ban đầu, cô được hứa đó sẽ là vai diễn kéo dài 2 năm, nhưng bị đình chỉ sau 16 tập vào tháng 1 năm 1998. Sau này, Swank nói cô bị choáng váng khi bị cắt vai diễn, và nghĩ rằng: \"Nếu mình không đủ sức diễn cho phim \"90210\", thì mình cũng chẳng đủ khả năng cho bất cứ phim nào\".\nTuy nhiên, việc sa thải này lại là một đột phá may mắn cho Swank, giải thoát cho cô để đi thử giọng cho vai Brandon Teena trong phim \"Boys Don't Cry\". Swank giảm độ béo mập 7% để chuẩn bị cho vai diễn này. Nhiều nhà phê bình hoan nghênh cô như nữ diễn viên xuất sắc nhất năm 1999. Diễn xuất của Swank cuối cùng đã làm cho cô đoạt được Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất và Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Rồi sau đó cô lại đoạt 2 giải này lần nữa khi diễn vai nữ võ sĩ quyền Anh trong phim đoạt giải Oscar là phim \"Million Dollar Baby\" năm 2004 của Clint Eastwood, vai diễn mà cô phải luyện tập trên võ đài và có được 19 pounds cơ bắp.\nThành công của Swank có nghĩa là cô đã gia nhập hàng ngũ của Vivien Leigh, Helen Hayes, Sally Field và Luise Rainer như các nữ diễn viên chỉ được đề cử cho giải Oscar 2 lần và đều đoạt cả hai. Cô là nữ diễn viên trẻ thứ ba đoạt 2 giải Oscar cho nữ diễn viên xuất sắc nhất (sau Rainer và Jodie Foster).\nSau khi đoạt \"giải Oscar\" lần thứ hai, cô nói: \"Tôi không biết mình đã làm được điều gì trên đời này để xứng đáng với vinh dự này. Tôi chỉ là một cô gái từ \"khu dành cho các xe moóc cắm trại\" đã có một ước mơ\". Swank đã chỉ kiếm được 75$ mỗi ngày khi đóng phim \"Boys Don't Cry\", với số tiền tổng cộng là 3.000$. Số tiền cô kiếm được là quá thấp (theo một giai thoại trong \"60 Minutes\") đến nỗi không đủ tiêu chuẩn cho bảo hiểm sức khỏe.\nĐầu năm 2006, Swank ký một hợp đồng 3 năm làm phát ngôn viên cho hãng Guerlain (một hãng sản xuất nước hoa cho phụ nữ). Năm 2007, Swank đóng vai chính và làm chủ nhiệm phim \"Freedom Writers\", một phim về đời thực của 1 giáo viên đã truyền cảm hứng cho một lớp trường trung học tại California. Nhiều người xem cho rằng diễn xuất của Swank có ấn tượng rất tốt, với một nhà phê bình nhận xét rằng cô \"đem lại sự tín nhiệm\" cho vai diễn. \nSwank đóng vai chính trong phim \"The Reaping\", một phim kinh dị, công chiếu ngày 5.4.2007, trong đó cô đóng vai một người vạch trần các hiện tượng tôn giáo. Swank đã thuyết phục các chủ nhiệm di chuyển cảnh dàn dựng phim từ New England tới Deep South, và phim được quay ở Baton Rouge, Louisiana khi trận bão Katrina tràn vào đây. Swank cũng xuất hiện trong một phim hài lãng mạn \"P.S. I Love You\" cùng với Gerard Butler, một nam diễn viên mà cô rất ca ngợi. Phim này được công chiếu vào cuối năm 2007.\nSwank được nhận một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood ngày 8.1.2007. Ngôi sao của nàng là ngôi sao thứ 2.325 được thưởng.\nTạp chí \"Variety\" online viết trong tháng 2 năm 2008, rằng Swank sẽ đóng vai Amelia Earhart, và là đồng chủ nhiệm phim mang tên \"Amelia\". Việc quay phim sẽ diễn ra trong mùa hè năm 2008 tại một số địa điểm quốc tế. Swank cũng được gán cho sẽ đóng vai chính trong bản phim làm lại \"Intimate Strangers\" của Hollywood.\nĐời tư.\nSwank đã từng nói rằng mình là \"một diễn viên, chứ không phải một người nổi tiếng\" và đã tự mô tả mình là \"một người ru rú ở nhà\". Swank tự coi mình là một người duy linh, dù không là thành viên của một tôn giáo có tổ chức. Cô từng nói mình \"thiên về điền kinh và yêu thể thao\".\nSwank bày tỏ các vấn đề sức khỏe tiềm tàng, trong đó có mức thủy ngân trong người cao, qua một số việc chuẩn bị cho các vai diễn của mình, trong đó có việc tăng và giảm thể trọng khi đóng phim \"Boys Don't Cry\" và \"The Black Dahlia\". Cô nói rằng mình sẽ \"làm những gì cần thiết để vai diễn đáng tin cậy và để làm việc\".\nSwank kết hôn với nam diễn viên Chad Lowe ngày 28.9.1997. Hai người gặp nhau năm 1992, khi quay phim \"Quiet Days in Hollywood\", một phim video trực tiếp. Swank cảm thấy xấu hổ vì quên cảm ơn Lowe khi nhận phát biểu sau khi nhận giải Oscar lần đầu, năm 2000. Vào lúc đoạt giải Oscar lần thứ hai, năm 2005, Lowe là người đầu tiên mà cô cảm ơn. Tuy nhiên, ngày 9 tháng 1 năm 2006, đôi vợ chồng đã ly thân. Trong các cuộc phỏng vấn sau đó, Swank bày tỏ hy vọng là họ sẽ giải hòa, nhưng ngày 1 tháng 11 năm 2007, họ thông báo là sẽ ly dị. Năm 2007, Swank xác nhận mình đã hẹn hò với John Campisi, người đại lý của mình. Họ đã kết thúc mối quan hệ vào tháng 5 năm 2012.\nVào ngày 18 tháng 8 năm 2018, Swank đã kết hôn với Philip Schneider.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của Sheikhupura á",
"role": "user"
},
{
"content": "Sheikhupura hay Shekhupur (), tên cũ Kot Dayal Das () hay Singhpuria () hay Virkgarh (ورک گڑھ), là một thành phố công nghiệp thuộc Punjab, phía tây bắc Lahore ở Pakistan. Thành phố có dân số ước tính năm 2010 là 426.980 người. Đây là thành phố lớn thứ 16 quốc gia này. Thành phố nổi tiếng với các địa điểm lịch sử, địa phương gọi là Qila Shaikhupura, bởi vì nó là một thành phố pháo đài được xây dựng bởi hoàng đế Mughal Jahangir. Tên gọi Sheikhupura lấy từ tên hiệu của Jahangir, người có được gọi tên là Sheikhu bởi bố ông Akbar Vĩ đại. Thành phố là nơi đóng trụ sở của quận Sheikhupura và có cự ly khoảng 35 km so với Lahore.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Cancellaria nassa nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Cancellaria nassa là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Cancellariidae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Ferrera Erbognone",
"role": "user"
},
{
"content": "Ferrera Erbognone là một đô thị ở tỉnh Pavia trong vùng Lombardia của Ý, có cự ly khoảng 45 km về phía tây nam của Milan và khoảng 25 km về phía tây nam của Pavia. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 1.137 người và diện tích là 19,6 km².\nFerrera Erbognone giáp các đô thị sau: Galliavola, Lomello, Mezzana Bigli, Ottobiano, Pieve del Cairo, Sannazzaro de' Burgondi, Scaldasole, Valeggio.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cho tôi thông tin về Chất lỏng từ wiki nha",
"role": "user"
},
{
"content": "Chất lỏng là một chất lưu gần như không nén mà thay đổi hình dạng cho phù hợp với hình dạng của vật chứa nó nhưng vẫn giữ một khối lượng gần như liên tục không phụ thuộc vào áp suất. Nó là một trong bốn trạng thái cơ bản của vật chất (các trạng thái khác là chất rắn, chất khí và plasma), và là trạng thái duy nhất có thể tích xác định nhưng không có hình dạng cố định. Chất lỏng được tạo thành từ các hạt vật chất dao động cực nhỏ, chẳng hạn như nguyên tử, được giữ với nhau bằng liên kết giữa các phân tử. Giống như chất khí, chất lỏng có thể chảy và có hình dạng của vật chứa nó. Hầu hết các chất lỏng chống lại sự nén, mặc dù những chất khác có thể bị nén. Không giống như chất khí, chất lỏng không phân tán để lấp đầy mọi không gian của vật chứa, và duy trì một mật độ khá ổn định. Một tính chất đặc biệt của trạng thái lỏng là sức căng bề mặt, dẫn đến hiện tượng thấm ướt. Nước cho đến nay là chất lỏng phổ biến nhất trên Trái Đất.\nMật độ của một chất lỏng thường là gần với mật độ của một chất rắn, và cao hơn nhiều so với chất khí. Do đó, chất lỏng và chất rắn đều được gọi là vật chất ngưng tụ. Mặt khác, vì chất lỏng và chất khí có chung khả năng chảy nên cả hai đều được gọi là chất lưu. Mặc dù nước lỏng có nhiều trên Trái Đất, trạng thái vật chất này thực sự ít phổ biến nhất trong vũ trụ đã biết, vì chất lỏng yêu cầu một phạm vi nhiệt độ/áp suất tương đối hẹp để tồn tại. Hầu hết các vật chất đã biết trong vũ trụ đều ở thể khí (với dấu vết của vật chất rắn có thể phát hiện được) như các đám mây giữa các vì sao hoặc ở dạng plasma từ bên trong các ngôi sao.\nGiới thiệu.\nChất lỏng là một trong bốn trạng thái cơ bản của vật chất, với các trạng thái khác là chất rắn, chất khí và plasma. Một chất lỏng là một chất lưu. Không giống như chất rắn, các phân tử trong chất lỏng có độ tự do chuyển động lớn hơn nhiều. Lực liên kết các phân tử với nhau trong chất rắn chỉ là tạm thời trong chất lỏng, cho phép chất lỏng chảy trong khi chất rắn vẫn cứng.\nChất lỏng, giống như chất khí, hiển thị các đặc tính của chất lưu. Chất lỏng có thể chảy, giả sử có hình dạng của một thùng chứa, và nếu được đặt trong một thùng kín, sẽ phân phối áp suất tác dụng đồng đều lên mọi bề mặt trong thùng chứa. Nếu chất lỏng được đặt trong túi, nó có thể được ép thành bất kỳ hình dạng nào. Không giống như chất khí, chất lỏng gần như không thể nén được, có nghĩa là nó chiếm một thể tích gần như không đổi trong một phạm vi áp suất rộng; nó thường không giãn nở để lấp đầy không gian có sẵn trong thùng chứa mà tạo thành bề mặt riêng của nó và không phải lúc nào nó cũng có thể dễ dàng trộn lẫn với chất lỏng khác. Những đặc tính này làm cho một chất lỏng thích hợp cho các ứng dụng như thủy lực.\nCác hạt chất lỏng được liên kết chắc chắn nhưng không cứng nhắc. Chúng có thể tự do di chuyển xung quanh nhau, dẫn đến mức độ linh động của các hạt bị hạn chế. Khi nhiệt độ tăng, dao động của các phân tử tăng lên làm cho khoảng cách giữa các phân tử tăng lên. Khi chất lỏng đạt đến điểm sôi, các lực kết dính liên kết các phân tử chặt chẽ với nhau sẽ phá vỡ và chất lỏng chuyển sang trạng thái khí (trừ khi xảy ra quá nhiệt). Nếu giảm nhiệt độ, khoảng cách giữa các phân tử trở nên nhỏ hơn. Khi chất lỏng đạt đến điểm đóng băng, các phân tử thường sẽ khóa lại thành một trật tự rất cụ thể, được gọi là kết tinh, và các liên kết giữa chúng trở nên cứng hơn, chuyển chất lỏng thành trạng thái rắn (trừ khi xảy ra hiện tượng siêu lạnh).\nVí dụ.\nChỉ có hai nguyên tố là chất lỏng ở điều kiện tiêu chuẩn về nhiệt độ và áp suất: thủy ngân và brom. Bốn nguyên tố khác có nhiệt độ nóng chảy cao hơn một chút so với nhiệt độ phòng: franci, xêzi, gali và rubidi. Hợp kim kim loại ở thể lỏng ở nhiệt độ phòng bao gồm NaK, hợp kim kim loại natri-kali, galinstan, chất lỏng hợp kim dễ chảy và một số hỗn hống (hợp kim liên quan đến thủy ngân).\nCác chất tinh khiết là chất lỏng ở điều kiện bình thường bao gồm nước, etanol và nhiều dung môi hữu cơ khác. Nước ở trạng thái lỏng có tầm quan trọng sống còn trong hóa học và sinh học; nó được cho là một điều cần thiết cho sự tồn tại của sự sống.\nChất lỏng vô cơ bao gồm nước, magma, dung môi không nước vô cơ và nhiều axit.\nChất lỏng quan trọng hàng ngày bao gồm dung dich nước như chất tẩy hộ gia đình, hỗn hợp của các chất khác nhau như dầu khoáng và xăng, nhũ tương dấm hoặc mayonnaise, huyền phù như máu, và chất keo như sơn và sữa.\nNhiều loại khí có thể được hóa lỏng bằng cách làm lạnh, tạo ra chất lỏng như oxy lỏng, nitơ lỏng, hydro lỏng và heli lỏng. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại khí đều có thể bị hóa lỏng ở áp suất khí quyển. Ví dụ, carbon dioxide chỉ có thể được hóa lỏng ở áp suất trên 5,1 atm.\nMột số vật liệu không thể được phân loại trong ba trạng thái cổ điển của vật chất; chúng có đặc tính giống chất rắn và giống chất lỏng. Ví dụ bao gồm các tinh thể lỏng, được sử dụng trong màn hình LCD và màng sinh học.\nĐặc điểm.\nHình dạng của chất lỏng được xác định bởi vật chứa nó nên có thể nói các hạt chất lỏng (thường là các phân tử) có thể chuyển động tự do trong khối chất lỏng, nhưng chúng tạo thành một bề mặt rõ ràng không nhất thiết phải giống với bình chứa. Không giống với chất khí, hình dạng của nó không khớp hoàn toàn với bình chứa. \nỞ nhiệt độ bên dưới điểm sôi, chất lỏng sẽ bốc hơi, trừ khi bình được đậy kín, cho đến khi nồng độ hơi của nó đạt đến trạng thái áp suất riêng phần cân bằng ở thể khí. Do đó, không có chất lỏng nào tồn tại trong môi trường chân không tuyệt đối. Bề mặt chất lỏng ứng xử như một màng đàn hồi do xuất hiện sức căng bề mặt cho phép tạo thành các giọt và bong bóng. Hiện tượng mao dẫn là một trường hợp của sức căng bề mặt. Chỉ có chất lỏng mới thể hiện tính không trộn lẫn và tính dính ướt. Hỗn hợp của hai chất lỏng không trộn lẫn được thường gặp nhất trong đời sống hàng ngày là dầu thực vật và nước. Hỗn hợp tương tự khác của các chất lỏng có thể trộn lẫn là nước và rượu. Các chất lỏng ở tại điểm sôi tương ứng sẽ chuyển thành khí (trừ khi đun quá sôi), và tại điểm đông nó chuyển thành chất rắn (trừ khi quá lạnh). Thậm chí bên dưới điểm sôi chất lỏng bốc hơi trên bề mặt của nó. Các vật thể khi nhúng trong chất lỏng sẽ có hiện tượng đẩy nổi, là hiện tượng cũng được quan sát trong các chất lưu khác, nhưng là một trường hợp rất đặc biệt trong chất lỏng vì chúng có tỷ trọng cao. Các thành phần của chất lỏng trong hợp chất có thể tách riêng biệt bởi quá trình chưng cất phân đoạn.\nThể tích của một lượng chất lỏng được xác định bởi nhiệt độ và áp suất của nó. Trừ khi thể tích này khích hoàn toàn với thể tích của bình chứa, thì cần xem xét đến một hoặc nhiều bề mặt của nó. Các chất lỏng trong trường trọng lực, cũng giống như tất cả các chất lỏng khác, đều tác động áp suất lên các mặt của bình chứa cũng như những vật bên trong chúng. Áp suất này được truyền đi theo tất cả các hướng và tăng dần khi càng xuống sâu. Trong các nghiên cứu về động lực học chất lưu, các chất lỏng thường được sử dụng như là chất không nén được, đặc biệt khi nghiên cứu dòng không nén được.\nNếu chất lỏng chỉ chịu tác dụng của trọng lực, thì áp suất formula_1 tại một điểm xác định bởi\nvới:\nCông thức trên dùng để tính áp suất tai một điểm bất kỳ với áp suất tại mặt thoáng là 0, và không tính đến ảnh hưởng của sức căng bề mặt.\nCác chất lỏng thường giãn nở khi bị nung nóng, và co lại khi bị lạnh. Nước ở nhiệt độ trong khoảng 0 °C và 4 °C là một trường hợp ngoại lệ; đó là lý do tại sao các tảng băng lại nổi. Các chất lỏng có độ nén rất ít: ví dụ, tỷ trọng của nước không thay đổi một cách rõ ràng trừ khi tác dụng áp suất lên đến hàng trăm bar, vào khoảng 4000 bar (58,000 psi), nước chỉ giảm 11% khối lượng.\nCác chất lỏng thường gặp khác như dầu khoáng và dầu hỏa, và ở dạng hỗn hợp như sữa, máu, và các dung dịch gốc nước khác như thuốc tẩy. Chỉ có sáu nguyên tố ở dạng lỏng trong điều kiện nhiệt độ và áp suất trong phòng như: thủy ngân (chất lỏng đặc), brom, franci, xêzi, gali và rubidi. Trong nghiên cứu về định cư trên các hành tinh, nước lỏng được xem là cần thiết cho sự tồn tại của sự sống.\nTính chất cơ học.\nThể tích.\nLượng chất lỏng thường được tính bằng đơn vị thể tích theo đơn vị SI là mét khối (m³), và đơn vị thường được sử dụng là đề-xi-mét khối (dm³), còn gọi là lít (1l=1dm³=0.001m³), và xăng-ti-mét khối (cm³), còn gọi là mi-li-lít (1ml=1 cm³=0.001l=10−6m³).\nThể tích của một lượng chất lỏng được cố định bởi nhiệt độ và áp suất của nó. Chất lỏng thường nở ra khi nóng lên và co lại khi nguội. Nước giữa 0 °C và 4 °C là một ngoại lệ đáng chú ý.\nMặt khác, chất lỏng có khả năng nén rất nhỏ. Ví dụ, nước sẽ chỉ nén 46,4 phần triệu cho mỗi đơn vị tăng áp suất khí quyển (bar). Ở áp suất khoảng 4000 bar (400 megapascal hoặc 58.000 psi) ở nhiệt độ phòng, nước chỉ giảm 11% về thể tích. Tính năng không chịu nén làm cho chất lỏng thích hợp để truyền công suất thủy lực, bởi vì sự thay đổi áp suất tại một điểm trong chất lỏng được truyền đến mọi phần khác của chất lỏng một cách không ảnh hưởng và rất ít năng lượng bị mất dưới dạng nén.\nTuy nhiên, khả năng nén không đáng kể dẫn đến các hiện tượng khác. Tiếng đập của các đường ống, được gọi là búa nước, xảy ra khi một van đóng đột ngột, tạo ra một áp suất cực lớn tại van truyền ngược lại trong hệ thống với vận tốc âm thanh. Một hiện tượng khác gây ra bởi sự không nén được của chất lỏng là sự xâm thực. Bởi vì chất lỏng có độ đàn hồi nhỏ nên theo nghĩa đen, chúng có thể bị kéo ra xa ở những khu vực có độ nhiễu loạn cao hoặc thay đổi hướng đột ngột, chẳng hạn như mép sau của chân vịt thuyền hoặc một góc nhọn trong đường ống. Chất lỏng trong vùng có áp suất thấp (chân không) bốc hơi và tạo thành bong bóng, sau đó sẽ xẹp xuống khi chúng đi vào vùng có áp suất cao. Điều này khiến chất lỏng lấp đầy các hốc do bong bóng để lại với lực cục bộ cực lớn, làm xói mòn bất kỳ bề mặt rắn nào liền kề.\nÁp suất và sức nổi.\nTrong trường hấp dẫn, chất lỏng tạo áp suất lên các mặt của vật chứa cũng như lên bất cứ vật gì bên trong chất lỏng. Áp suất này được truyền theo mọi hướng và tăng theo độ sâu. Nếu chất lỏng nằm yên trong một trọng trường đều, áp suất formula_6 ở độ sâu formula_7 được đưa ra bởi \nformula_8\ntrong đó\nĐối với một vùng nước mở ra không khí, formula_12 sẽ là áp suất khí quyển.\nChất lỏng tĩnh trong trường hấp dẫn đều cũng biểu hiện hiện tượng nổi, khi các vật thể chìm trong chất lỏng chịu một lực thuần do sự thay đổi áp suất theo độ sâu. Độ lớn của lực bằng trọng lượng của chất lỏng bị dịch chuyển bởi vật và hướng của lực phụ thuộc vào khối lượng riêng trung bình của vật ngâm. Nếu khối lượng riêng \"nhỏ\" hơn khối lượng riêng của chất lỏng thì lực nổi \"hướng lên\" và vật nổi, ngược lại nếu khối lượng riêng \"lớn hơn\" thì lực nổi \"hướng xuống\" và vật chìm. Đây được gọi là nguyên tắc Archimedes.\nBề mặt.\nTrừ khi thể tích của chất lỏng khớp chính xác với thể tích của vật chứa nó, nếu không sẽ quan sát thấy một hoặc nhiều bề mặt. Sự hiện diện của một bề mặt tạo ra những hiện tượng mới không có trong chất lỏng khối lượng lớn. Điều này là do một phân tử ở bề mặt chỉ sở hữu liên kết với các phân tử chất lỏng khác ở phía bên trong của bề mặt, điều này ngụ ý một lực ròng kéo các phân tử bề mặt vào trong. Một cách tương đương, lực này có thể được mô tả dưới dạng năng lượng: có một lượng năng lượng cố định liên quan đến việc tạo thành một bề mặt của một khu vực nhất định. Đại lượng này là một thuộc tính vật chất được gọi là sức căng bề mặt, tính bằng đơn vị năng lượng trên một đơn vị diện tích (đơn vị SI: J / m 2). Chất lỏng có lực liên phân tử mạnh có xu hướng có sức căng bề mặt lớn hơn.\nMột hàm ý thực tế của sức căng bề mặt là chất lỏng có xu hướng giảm thiểu diện tích bề mặt của chúng, tạo thành các giọt và bong bóng hình cầu trừ khi có các ràng buộc khác. Sức căng bề mặt cũng là nguyên nhân của một loạt các hiện tượng khác, bao gồm sóng bề mặt, hoạt động của mao dẫn, thấm ướt và gợn sóng. Trong chất lỏng bị giam giữ ở kích thước nano, các hiệu ứng bề mặt có thể đóng vai trò chi phối vì - so với một mẫu chất lỏng vĩ mô - một phần lớn hơn nhiều phân tử nằm gần bề mặt.\nSức căng bề mặt của chất lỏng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thấm ướt của nó. Hầu hết các chất lỏng thông thường có lực căng nằm trong khoảng hàng chục mJ / m 2, vì vậy các giọt dầu, nước hoặc keo có thể dễ dàng kết hợp và dính vào các bề mặt khác, trong khi các kim loại lỏng như thủy ngân có thể có lực căng lên tới hàng trăm mJ / m 2, do đó các giọt không dễ dàng kết hợp với nhau và bề mặt có thể chỉ ướt trong các điều kiện cụ thể.\nCăng thẳng bề mặt của các chất lỏng thông thường chiếm một phạm vi giá trị tương đối hẹp, tương phản mạnh với sự thay đổi rất lớn được thấy trong các đặc tính cơ học khác, chẳng hạn như độ nhớt.\nDẫn lưu.\nMột tính chất vật lý quan trọng đặc trưng cho dòng chảy của chất lỏng là độ nhớt. Một cách trực quan, độ nhớt mô tả khả năng chống dòng chảy của chất lỏng.\nVề mặt kỹ thuật hơn, độ nhớt đo lường khả năng chống biến dạng của chất lỏng ở một tốc độ nhất định, chẳng hạn như khi nó bị cắt ở vận tốc hữu hạn. Một ví dụ cụ thể là chất lỏng chảy qua một đường ống: trong trường hợp này chất lỏng trải qua biến dạng cắt vì nó chảy chậm hơn gần thành ống hơn là gần tâm. Kết quả là, nó thể hiện khả năng chống chảy của nhớt. Để duy trì dòng chảy, phải tác dụng một lực bên ngoài, chẳng hạn như sự chênh lệch áp suất giữa các đầu ống.\nĐộ nhớt của chất lỏng giảm khi nhiệt độ tăng.\nKiểm soát chính xác độ nhớt rất quan trọng trong nhiều ứng dụng, đặc biệt là ngành bôi trơn. Một cách để đạt được sự kiểm soát như vậy là pha trộn hai hoặc nhiều chất lỏng có độ nhớt khác nhau theo tỷ lệ chính xác. Ngoài ra, tồn tại các chất phụ gia khác nhau có thể điều chỉnh sự phụ thuộc vào nhiệt độ của độ nhớt của dầu bôi trơn. Khả năng này rất quan trọng vì máy móc thường hoạt động trong một phạm vi nhiệt độ (xem thêm chỉ số độ nhớt).\nTính chất nhớt của chất lỏng có thể là Newton hoặc không Newton. Chất lỏng Newton thể hiện một đường cong ứng suất / biến dạng tuyến tính, có nghĩa là độ nhớt của nó không phụ thuộc vào thời gian, tốc độ cắt hoặc lịch sử tốc độ cắt. Ví dụ về chất lỏng Newton bao gồm nước, glycerin, dầu máy, mật ong hoặc thủy ngân. Chất lỏng phi Newton là chất lỏng có độ nhớt không phụ thuộc vào các yếu tố này và đặc (tăng độ nhớt) hoặc loãng (giảm độ nhớt) khi bị cắt. Ví dụ về chất lỏng không phải của Newton bao gồm tương cà, sốt mayonnaise, gel ủ tóc, bột nặn hoặc dung dịch tinh bột.\nĐộ co giãn khi bị hạn chế.\nChất lỏng hạn chế có thể biểu hiện các tính chất cơ học khác so với chất lỏng dạng khối. Ví dụ, chất lỏng bị giam dưới milimét (ví dụ như trong khoảng cách giữa các bức tường cứng) thể hiện phản ứng cơ học giống như chất rắn và có mô đun cắt đàn hồi tần số thấp lớn đáng ngạc nhiên, quy mô theo lũy thừa nghịch đảo của chiều dài giam.\nTruyền âm thanh.\nTốc độ của âm thanh trong chất lỏng được cho bởi formula_13 với formula_14 là mô đun khối của chất lỏng và formula_15 là tỉ trọng. Ví dụ, nước có môđun khối khoảng 2,2 GPa và mật độ 1000 kg/m 3, cho \"c\" = 1,5 km / s.\nỨng dụng.\nChất lỏng có nhiều ứng dụng như bôi trơn, dung môi, và chất làm lạnh. Trong hệ thống thủy lực, chất lỏng được dùng để truyền năng lượng.\nTrong lĩnh vực nghiên cứu chuyển động giữa các bề mặt, các chất lỏng được nghiên cứu các tính chất của chúng dùng làm các chất bôi trơn. Các chất bôi trơn như dầu được chọn vì các đặc điểm về độ nhớt và dòng chảy của nó ổn định trong một khoảng nhiệt độ làm việc của các bộ phận. Các loại dầu thường được dùng trong các động cơ, hộp số, gia công các chi tiết máy, và hệ thống thủy lực vì tính bôi trơn tốt của chúng.\nNhiều chất lỏng được dùng làm dung môi để hòa tan các chất lỏng khác hoặc chất rắn. Các dung dịch có nhiều ứng dụng như sơn, keo dán. Naptha và acetone thường được dùng trong công nghiệp để làm sạch dầu, mỡ, và tar từ các bộ phận máy móc. Dịch cơ thể là những dung dịch gốc nước.\nCác chất hoạt động bề mặt thường được tìm thấy trong xà phồng và chất tẩy rửa. Các dung môi như alcohol thường được dùng làm chất kháng sinh. Chúng có trong mỹ phẩm, mực, và laser nhuộm lỏng. Chúng được dùng trong công nghiệp thực phẩm như chiết xuất dầu thực vật. \nChất lỏng dẫn nhiệt tốt hơn chất khí, và có khả năng tạo thành dòng chảy để giải nhiệt từ các bộ phận cơ khí. Nhiệt có thể được loại bỏ bằng kênh chất lỏng đi qua bộ giải nhiệt hoặc nhiệt có thể được loại bỏ bằng chất lỏng qua quá trình bốc hơi. Các chất làm mát như nước hoặc glycol được dùng để giữ cho động cơ không quá nóng. Các chất làm mát được dùng trong các lò phản ứng hạt nhân gồm nước và các kim loại lỏng như natri hoặc bismuth. Nhiên liệu đẩy lỏng được dùng để làm mát các buồng đốt đẩy của tên lửa. Trong quá trình gia công, nước và dầu được sử dụng để loại bỏ nhiệt dư sinh ra, có thể nhanh chóng làm hỏng cả chi tiết gia công và dụng cụ. Trong mồ hôi, đổ mồ hôi loại bỏ nhiệt từ cơ thể con người bằng cách làm bay hơi. Trong ngành công nghiệp sưởi ấm, thông gió và điều hòa không khí (HVAC), các chất lỏng như nước được sử dụng để truyền nhiệt từ khu vực này sang khu vực khác.\nTương tự, chất lỏng thường được sử dụng trong nấu ăn vì đặc tính truyền nhiệt tốt hơn. Ngoài khả năng dẫn điện tốt hơn, vì chất lỏng ấm hơn nở ra và tăng lên trong khi các khu vực lạnh hơn co lại và chìm xuống, chất lỏng có độ nhớt động học thấp có xu hướng truyền nhiệt thông qua đối lưu ở nhiệt độ khá ổn định, tạo thành chất lỏng thích hợp để chần, đun sôi hoặc chiên. Tốc độ truyền nhiệt thậm chí còn cao hơn có thể đạt được bằng cách ngưng tụ một chất khí thành chất lỏng. Tại điểm sôi của chất lỏng, tất cả nhiệt năng được sử dụng để gây ra sự thay đổi pha từ chất lỏng sang chất khí mà không kèm theo sự tăng nhiệt độ và được lưu trữ dưới dạng thế năng hóa học. Khi chất khí ngưng tụ lại thành chất lỏng, nhiệt năng thừa này được giải phóng ở nhiệt độ không đổi. Hiện tượng này được sử dụng trong các quá trình như hấp. Vì chất lỏng thường có các điểm sôi khác nhau, nên các hỗn hợp hoặc dung dịch của chất lỏng hoặc chất khí thường có thể được tách ra bằng cách chưng cất, sử dụng nhiệt, lạnh, chân không, áp suất hoặc các phương tiện khác. Quá trình chưng cất có thể được tìm thấy trong mọi thứ, từ sản xuất đồ uống có cồn, đến nhà máy lọc dầu, đến chưng cất đông lạnh các khí như argon, oxy, nitơ, neon hoặc xenon bằng cách hóa lỏng (làm lạnh chúng dưới điểm sôi riêng lẻ của chúng).\nChất lỏng là thành phần chính của hệ thống thủy lực, chúng lợi dụng định luật Pascal để cung cấp năng lượng cho chất lỏng. Các thiết bị như máy bơm và bánh xe nước đã được sử dụng để thay đổi chuyển động của chất lỏng thành cơ học từ thời cổ đại. Dầu được cưỡng bức thông qua các bơm thủy lực, truyền lực này đến các xi lanh thủy lực. Thủy lực có thể được tìm thấy trong nhiều ứng dụng, chẳng hạn như phanh và hộp số ô tô, thiết bị hạng nặng và hệ thống điều khiển máy bay. Máy ép thủy lực khác nhau được sử dụng rộng rãi trong sửa chữa và sản xuất, để nâng, ép, kẹp và tạo hình.\nChất lỏng đôi khi được sử dụng trong các thiết bị đo lường. Nhiệt kế thường sử dụng sự giãn nở nhiệt của chất lỏng, chẳng hạn như thủy ngân, kết hợp với khả năng chảy của chúng để chỉ ra nhiệt độ. Áp kế sử dụng trọng lượng của chất lỏng để chỉ áp suất không khí.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Stigmella ovata?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Stigmella ovata là một loài bướm đêm thuộc họ Nepticulidae. Nó được tìm thấy ở tỉnh Neuquen, Argentina.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Thông tin về Le Riols",
"role": "user"
},
{
"content": " Le Riols là một xã thuộc tỉnh Tarn trong vùng Occitanie ở phía nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 150 mét trên mực nước biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sturmpanzer IV",
"role": "user"
},
{
"content": "Sturmpanzer IV(được đánh số thứ tự là Sturmpanzer 43 hoặc Sd. Kfz. 166) là tên một loại pháo tự hành được lắp trên khung tăng Panzer-IV được Đức Quốc xã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sturmpanzer IV tham gia một số trận đánh như: trận Vòng cung Kursk, trận Anzio, trận đổ bộ Normandie và trận nổi loạn Warsaw. Sturmpanzer IV còn có biệt danh là Brummbär (biệt danh này được đặt bởi người Anh nhưng người Đức không gọi như vậy). Bộ binh Đức đặt biệt danh cho Sturmpanzer IV là \"Stupa\". \nPhát triển.\nSturmpanzer IV là một mẫu thiết kế dựa trên khung tăng Panzer IV nhằm hỗ trợ bộ binh một cách tốt nhất trong việc tấn công các lô cốt và công sự, đặc biệt là trong nội thành. Kết quả là Sturmpanzer IV có thêm được một khoảng trống nhỏ nữa, lớp giáp trước dày thêm và có chỗ đặt pháo mới rộng hơn. Sturmpanzer IV được trang bị pháo 15 cm Sturmhaubitze (StuH) 43 L/12, được thiết kế và phát triển bởi Skoda. Sturmpanzer IV thường bắn loại đạn nổ-công phá 15 cm sIG 33. Kho của nó chứa được khoảng 38 viên đạn (được thay bằng chất nổ công phá). Sturmpanzer IV sử dụng ống ngắm 15 cm sIG 33. Sturmpanzer IV được trang bị súng phụ MG-34 được đặt bên trong, sự xếp đặt các thiết bị và vũ khí của nó có nhiều điểm giống với phiên bản xe tăng tự hành StuG-III Ausf. G. Một vài phiên bản đời sau được trang bị súng phụ MP-40.\nNhững phiên bản đời trước có trọng lượng quá nặng so với khung tăng gây áp lực quả lớn lên bộ truyền lực và hệ thống treo. Bản thiết kế đời sau đã cải thiện tốt việc này bằng cách gia cố thêm cho khung tăng.\nVào tháng 10 năm 1943, chương trình giảm trọng lượng pháo StuH-43 được thực hiện. Trọng lượng hiện tại của nó (1500 kg) được giảm xuống 800 kg - sau này được đổi tên thành pháo StuH-43/1. Ngoài ra phiên bản này còn được gia cố thêm giáp, đắp thêm cho giáp mặt trước của Sturmpazer-IV thêm 10 mm thép nữa.\nSản xuất.\nSê-ri đầu.\nSê-ri đầu tiên được sản xuất khoảng 60 chiếc bắt đầu từ tháng 4 năm 1943. Năm mươi hai chiếc trong số đó sử dụng khung tăng Panzer-IV Ausf. G và 8 chiếc còn lại sử dụng khung tăng Panzer-IV Ausf. E và F. Nửa số đó được tái sản xuất theo sê-ri thứ 2 vào tháng 12 năm 1943. \nSê-ri thứ hai.\nViệc sản xuất sê-ri thứ hai được bắt đầu từ tháng 12 năm 1943 đến tháng 3 năm 1944 với khoảng 60 chiếc được xuất xưởng. Phiên bản này có khoang bên trong rộng hơn nhưng bọc giáp mỏng (thể hiện trong trận vòng cung Kursk, phần lớn số Sturmpanzer-IV bị phá huỷ). Toàn bộ số còn lại được rút về để sửa chữa.\nSê-ri thứ ba.\nViệc sản xuất sê-ri thứ ba được bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1944. Với một số thay đổi so với phiên bản thứ hai, trang bị pháo StuH-43/1. \nSê-ri thứ tư.\nSê-ri thứ tư được bắt đầu sản xuất vào năm 1944 đến cuối cuộc chiến. Phiên bản này gồm nhiều thay đổi mạnh mẽ. Sê-ri thứ tư sử dụng khung tăng Panzer-IV Ausf. J, động cơ HL120TRM112 (động cơ mới). Phần tháp pháo được nâng lên phía trước một chút-thích hợp với nòng pháo tăng tự hành, giáp trước được gia cố thêm. Súng máy MG-34 với hơn 600 viên đạn. Vị trí của người chỉ huy là ở giữa ngăn tăng, có thể điều khiển được một súng máy nhỏ lắp trên miệng tháp pháo hở (nếu có). \nLịch sử hoạt động.\nSturmpanzer-IV lần đầu tiên tham gia sư đoàn Sturmpanzer-Abteilung 216 là vào tháng 4 năm 1943. Đến tháng 5 năm 1943, nó được chuyển đến Amiens bằng xe lửa nhằm chuẩn bị tham gia trận Kursk. Có tổng cộng ba nhánh công ty sản xuất Sturmpanzer-IV, có nhiệm vụ sản xuất 14 chiếc/tháng. Toàn bộ số Sturmpanzer-IV được di chuyển đến Liên Xô vào ngày 10 tháng 6 năm 1943 để chuẩn bị cho chiến dịch Citadel - chính là trận Kursk. Để sẵn sàng hành động, Sturmpanzer được phần vào sư đoàn cơ động schweres Panzerjäger Regiment 656 (\"Heavy Anti-tank Regiment 656\") - nhận lệnh từ cụm tập đoàn quân số 9. Nó hỗ trợ bắn phá từ phía Dnepropetrovsk-Zaporozhe đến tận tháng 8. Sư đoàn rút về Đức theo các lực lượng khác sau khi thua trận Kursk.\nKhi quân Đồng Minh tiến đến xuống Anzio vào ngày 22 tháng 1 năm 1944, sư đoàn xe tăng hạng nặng của Đức (trong đó có Sturmpanzer-IV) đã giao chiến một trận ác liệt với thiết giáp Đồng Minh tại thung lũng Po. Cuộc chiến đấu duy trì đến tận năm 1945 khi quân Đồng Minh dùng lực lượng đông hơn đẩy toàn bộ sư đoàn xe tăng hạng nặng ra khỏi đất Ý.\nSư đoàn Sturmpanzer-Abteilung 217 được cử đến Normandy cùng với sư đoàn Panzer-Kompanie 40 và Panzer-Ersatz Abteilung 18 vào ngày 20 tháng 4 năm 1944 (thêm 14 chiếc nữa được chuyển đến vào tháng 5). Các trận giao đấu giữa thiết giáp Đức và Đồng Minh xảy ra tại nhiều nơi như Condé sur Noireau, Caen,…. Vào ngày 19 tháng 8, sư đoàn cử 17 chiếc Sturmpanzer-IV phòng vệ 3 cứ điểm chính của Đức. Trận đấu diễn ra quyết liệt giữa lực lượng thiết giáp hai phe. Đến tháng 10, toàn bộ sư đoàn chỉ còn lại 22 chiếc Sturmpanzer-IV. Đến tháng 1 năm 1945, phần lớn số xe còn lại đã bị bắt hoặc bị phá huỷ trong trận Ardennes. Số còn lại rút lui về được và bị thu giữ tại Ruhr Pocket vào tháng 4 năm 1945.\nSư đoàn thiết giáp Sturmpanzer-Abteilung 219 được cử đến Hungary vào giữa tháng 9 năm 1944 nhằm bảo vệ khu vực sản xuất vũ khí của Đức tại đây. Sau các trận giao tranh và bị máy bay Đồng Minh ném bom, chỉ còn 10 chiếc còn sót lại. Vào ngày 19 tháng 10, những cuộc ném bom liên tục của quân Đồng Minh đã làm cho chuyến bay tiếp viện quân sự cho số tăng ở đây bị chậm trễ. Số Sturmpanzer-IV còn lại di chuyển lên Budapest và bị lực lượng Hồng Quân bắt giữ.\nNhững chiếc còn sót lại.\nHiện tại còn khoảng 4 chiếc Sturmpanzer-IV còn sót lại. Một số bảo tàng còn giữ là:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about 7365 Sejong?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "7365 Sejong (1996 QV1) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 18 tháng 8 năm 1996 bởi K. Watanabe ở Sapporo. Nó được đặt theo tên King Sejong, the fourth king thuộc Joseon Dynasty ở Korea.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Nausnitz không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Nausnitz là một đô thị thuộc huyện Saale-Holzland, trong bang Thüringen, Đức. Đô thị Nausnitz có diện tích 1,42 km².",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của Sougé, Loir-et-Cher á",
"role": "user"
},
{
"content": "Sougé là một xã thuộc tỉnh Loir-et-Cher trong vùng Centre-Val de Loire miền trung nước Pháp.\nXem thêm.\nCommunes near Sougé:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cho tôi thông tin về Vignec từ wiki nha",
"role": "user"
},
{
"content": "Vignec là một xã thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées trong vùng Occitanie khu vực tây nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 800 mét trên mực nước biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Bovenau from the encyclopedia?, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Bovenau là một thị trấn thuộc huyện Rendsburg-Eckernförde, bang Schleswig-Holstein.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Compsodrillia haliostrephis, bạn có thông tin nó ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Compsodrillia haliostrephis là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Turridae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Omus dejeani from the encyclopedia?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Omus dejeani là một loài bọ cánh cứng trong họ Cicindelidae được tìm thấy ở British Columbia đến bắc California trong các khu rừng rậm ven biển. Đây là loài lớn nhất trong chi với chiều dài từ 15 đến 20 mm.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về The Bronx nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "The Bronx là một trong năm Quận của Thành phố New York. The Bronx là Quận nằm ở vị trí phía cận bắc nhất trong số các quận của Thành phố New York và cũng là Quận mới thành lập trong số 62 Quận của Tiểu Bang New York. The Bronx nằm ở phía Đông Bắc giáp với Quận Manhattan và giáp phía Nam của Quận Westchester (của Tiểu Bang). Đây là Quận duy nhất của Thành phố nằm phần lớn trên đất liền của khu vực Đông Bắc Mỹ (trong khi đó bốn Quận còn lại nằm trên các hòn đảo hoặc bán đảo trừ Marble Hill, một phần diện tích nhỏ của quận Manhattan). Năm 2009, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ ước tính rằng dân số quận là 1.391.903 người vào ngày 1 tháng 7 năm 2008, với diện tích đất là 109 km² (42 dặm vuông Anh), đứng hạng thứ tư về dân số và diện tích đất, đứng hạng ba về mật độ dân số so với 5 quận của thành phố.\nThe Bronx bị sông Bronx chia cắt thành một khu vực có nhiều đồi hơn bên phía tây, gần quận Manhattan. Phần phía đông của nó bằng phẳng hơn nằm gần quận Queens và quận Long Island. Tây Bronx bị sáp nhập vào Thành phố New York (lúc đó phần lớn thành phố chỉ có phần đất Manhattan) vào năm 1874, và phần phía đông sông Bronx vào năm 1895. The Bronx đầu tiên có chính danh riêng là khi nó trở thành một quận của Thành phố Đại New York (\"City of Greater New York\") vào năm 1898. Quận Bronx (quận của tiểu bang New York), có cùng ranh giới với quận thành phố The Bronx, bị tách ra khỏi quận New York (quận tiểu bang) vào năm 1912 và bắt đầu tự nó hoạt động và năm 1914. Mặc dù the Bronx là quận tiểu bang đông dân thứ ba tại Hoa Kỳ nhưng khoảng một phần tư đất đai của nó là không gian trống, trong đó có Nghĩa trang Woodlawn, công viên Van Cortlandt, Công viên Vịnh Pelham, Vườn thực vật New York và Vườn thú Bronx nằm trong trung tânm và phía bắc của quận trên vùng đất được bảo tồn ở cuối thế kỷ 19 khi phát triển đô thị từ từ tiến về phía bắc từ quận Manhattan với đường sá, cầu và đường sắt.\nNgười bản thổ Mỹ Lenape (Delaware) dần dần bị các dân định cư từ Hà Lan và Vương quốc Anh buột phải đầu của nó bùng nổ từ giữa thế\nLTrong quận The Bronx có khu quốc hội nghèo nhất Hoa Kỳ nhưng quận cũng có đa dạng các khu dân cư trong đó có khu Riverdale và Country Club giàu có. The Bronx, đặc biệt là Nam Bronx, có sự sa sút mạnh về dân số, nhà cửa, và chất lượng cuộc sống trong các thập niên 1960 và 1970, lên đến cực độ khi có một loại các vụ đốt phá. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã thấy có dấu hiệu giới hạn về sự hồi sinh.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Panasonic nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": " trước đây là từ năm 1935 đến 2008 và phiên bản đầu tiên của từ 2008 đến 2022, là một tập đoàn đa quốc gia hàng đầu của Nhật Bản, có trụ sở chính tại Kadoma, Osaka. Nó được thành lập bởi Kōnosuke Matsushita vào năm 1918 như một nhà sản xuất đèn sợi đèn Ngoài điện tử tiêu dùng, trong thế kỷ 20 cuối, Panasonic là nhà sản xuất lớn nhất thế giới, Panasonic cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ đa dạng, bao gồm pin sạc đa năng, hệ thống ô tô và hàng không, hệ thống công nghiệp, cũng như cung cấp dịch vụ xây dựng và cải tạo nhà cửa.\nPanasonic được niêm yết chính trên Sở giao dịch chứng khoán Tokyo và là thành phần của các chỉ số Nikkei 225 và TOPIX 100. Nó cũng được niêm yết phụ trên Sở giao dịch chứng khoán Nagoya.\nTên công ty.\nTừ năm 1935 đến ngày 1 tháng 10 năm 2008, tên công ty là \"Matsushita Electric Industrial Co.\" (MEI). Vào ngày 10 tháng 1 năm 2008, công ty thông báo rằng nó sẽ đổi tên thành \"Panasonic Corporation\", có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2008, để phù hợp với tên thương hiệu toàn cầu của nó là \"Panasonic\". Thay đổi tên được thông qua tại cuộc họp cổ đông vào ngày 26 tháng 6 năm 2008, sau khi tham khảo ý kiến của gia đình Matsushita.\nVào năm 2022, Panasonic công bố kế hoạch tổ chức lại chia tách công ty thành Tập đoàn Panasonic Holdings (trước đây là Panasonic Corporation) và chuyển đổi các phân ngành thành các công ty con; Phân ngành Cập nhật Lối sống trở thành phân ngành mang tên Panasonic Corporation sau tổ chức lại. Tổ chức lại này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2022.\nTên thương hiệu.\nPanasonic Corporation bán gần như tất cả các sản phẩm và dịch vụ của mình trên toàn thế giới dưới thương hiệu Panasonic, đã loại bỏ thương hiệu Sanyo vào quý đầu tiên năm 2012. Công ty đã bán các sản phẩm dưới nhiều tên thương hiệu khác nhau trong quá trình phát triển của mình.\nVào năm 1927, Matsushita chọn tên thương hiệu cho một sản phẩm đèn mới. Vào năm 1955, công ty bắt đầu đặt thương hiệu \"PanaSonic\" cho loa và đèn để phục vụ thị trường ngoài Nhật Bản, đây là lần đầu tiên công ty sử dụng tên thương hiệu \"Panasonic\". Công ty bắt đầu sử dụng tên thương hiệu vào năm 1965 cho các thiết bị âm thanh. Việc sử dụng nhiều thương hiệu đã kéo dài trong một số thập kỷ. Trong khi \"National\" đã là thương hiệu hàng đầu trên hầu hết các sản phẩm Matsushita, bao gồm âm thanh và hình ảnh, \"National\" và \"Panasonic\" đã được kết hợp vào năm 1988 dưới tên National Panasonic sau thành công toàn cầu của thương hiệu Panasonic.\nVào năm 1974, Motorola đã bán thương hiệu và cơ sở của mình Quasar cho Matsushita.\nVào tháng 5 năm 2003, công ty thông báo rằng \"Panasonic\" sẽ trở thành thương hiệu toàn cầu của mình và ra mắt khẩu hiệu toàn cầu \"Panasonic ideas for life.\" Công ty bắt đầu thống nhất các thương hiệu của mình thành \"Panasonic\" và vào tháng 3 năm 2004, thay thế \"National\" trên các sản phẩm và biển quảng cáo ngoài trời, trừ những nơi ở Nhật Bản. Vào tháng 1 năm 2008, công ty thông báo rằng nó sẽ loại bỏ thương hiệu \"National\" tại Nhật Bản, thay thế bằng thương hiệu toàn cầu \"Panasonic\" vào tháng 3 năm 2010. Vào tháng 9 năm 2013, công ty thông báo sửa đổi khẩu hiệu đã tồn tại 10 năm để thể hiện rõ hơn tầm nhìn của công ty: \"A Better Life, A Better World.\"\nRasonic là một thương hiệu của Công ty Shun Hing Electric Works and Engineering Co. Ltd (信興電工工程有限公司), một công ty đã nhập khẩu sản phẩm mang thương hiệu Panasonic và National kể từ thời kỳ Matsushita Electric Industrial, và cũng đã bán các sản phẩm MEI/Panasonic dưới các tên thương hiệu gốc. Vào tháng 6 năm 1994, Panasonic Shun Hing Industrial Devices Sales (Hong Kong) Co., Ltd. (松下信興機電(香港)有限公司) và Panasonic SH Industrial Sales (Shenzhen) Co., Ltd. (松下電器機電(深圳)有限公司) đã được thành lập thông qua liên doanh giữa Matsushita Electric Industrial và Shun Hing Group tương ứng, làm cho Rasonic trở thành một thương hiệu sản phẩm cho MEI và sau đó là Panasonic Corporation.\nVào tháng 9 năm 2014, Panasonic thông báo rằng họ sẽ tái sinh thương hiệu Technics.\nLịch sử.\nThế kỷ 20.\nPanasonic, khi đó là Matsushita Electric, được thành lập vào năm 1918 bởi Kōnosuke Matsushita như một nhà cung cấp ổ cắm đèn đôi. Vào những năm 1920, Matsushita bắt đầu thường xuyên ra mắt các sản phẩm. Năm 1927, ông sản xuất một dòng đèn xe đạp là dòng sản phẩm đầu tiên được tiếp thị với thương hiệu \"National\". Trong Thế chiến II, công ty đã vận hành nhà máy tại Nhật Bản và các khu vực khác của châu Á, sản xuất các linh kiện điện và các thiết bị như đèn, máy điện, ủi điện, thiết bị không dây và các ống chân không đầu tiên.\nSau chiến tranh, tập đoàn Matsushita, vốn đã bị chia thành MEI và MEW do sự tan rã áp đặt của lực lượng chiếm đóng, đã tái tụ hợp một cách không hoàn hảo như một \"Keiretsu\" và bắt đầu cung cấp đài radio và các thiết bị gia dụng sau chiến tranh tại Nhật Bản, cũng như các loại xe đạp. Anh trai em vợ của Matsushita, Toshio Iue, đã thành lập Sanyo như một nhà thầu phụ cho các linh kiện sau Thế chiến II. Sanyo đã phát triển trở thành một đối thủ cạnh tranh với Matsushita, nhưng sau đó đã được Panasonic mua lại vào tháng 12 năm 2009.\nVào năm 1961, Matsushita đã đi du lịch đến Hoa Kỳ và gặp các nhà phân phối Mỹ. Công ty bắt đầu sản xuất các chiếc TV cho thị trường Mỹ dưới thương hiệu \"Panasonic\" và mở rộng việc sử dụng thương hiệu này tới châu Âu vào năm 1979.\nCông ty sử dụng thương hiệu National bên ngoài Bắc Mỹ từ những năm 1950 đến 1970 (thương hiệu này không thể sử dụng tại Hoa Kỳ vì đã có người sử dụng trước đó). Không thể sử dụng tên thương hiệu National đã dẫn đến việc tạo ra thương hiệu Panasonic tại Hoa Kỳ. Trong vài thập kỷ tiếp theo, Matsushita đã tung ra nhiều sản phẩm khác, bao gồm TV màu đen trắng (1952), máy xay sinh tố, tủ lạnh (1953), Nồi cơm điện (1959), TV màu và lò vi sóng (1966).\nCông ty ra mắt loa âm thanh cao cấp tại Nhật Bản vào năm 1965 với thương hiệu \"Technics\". Dòng sản phẩm các thành phần stereo chất lượng cao này đã trở thành sự lựa chọn ưa thích trên toàn thế giới, với các sản phẩm nổi tiếng như đầu đĩa SL-1200, nổi tiếng với hiệu suất cao, độ chính xác và độ bền. Trong suốt những năm 1970 và đầu những năm 1980, Matsushita tiếp tục sản xuất các thiết bị điện tử chất lượng cao dành cho thị trường đặc thù, như đài radio sóng ngắn, và phát triển dòng sản phẩm thành công với các bộ thu âm thanh stereo, máy nghe CD và các thành phần khác. Năm 1968, Matsushita bắt đầu sản xuất máy nén xoắn cho máy điều hòa không khí và năm 1971, họ bắt đầu sản xuất máy làm lạnh hấp thụ, cũng cho ứng dụng điều hòa không khí. Năm 1972, Matsushita thành lập nhà máy nước ngoài đầu tiên tại Malaysia. Năm 1973, Matsushita thành lập \"Anam National\", liên doanh với Tập đoàn Anam ở Hàn Quốc. Năm 1983, Matsushita tung ra máy tính \"Panasonic Senior Partner\", máy tính được hoàn toàn tương thích với IBM PC, là máy tính được sản xuất tại Nhật Bản đầu tiên. Một năm sau đó, Panasonic phát hành \"Panasonic Executive Partner\", máy tính xách tay giá rẻ đầu tiên với màn hình plasma. Khoảng thời gian này, công ty cũng giới thiệu máy điều hòa không khí inverter.\nNăm 1984, Matsushita thành lập nhãn hiệu phần mềm \"Panasoft\", phát hành phần mềm cho máy tính MSX từ năm 1984 đến 1989. Công ty cũng sản xuất các máy tính MSX của riêng mình, như Panasonic FS-A1. Vào tháng 11 năm 1990, Matsushita đã đồng ý mua lại công ty truyền thông Mỹ, MCA Inc., tiền thân của cả Universal Music Group và Universal Pictures, với giá 6,59 tỷ USD. Việc mua lại này diễn ra sau khi Sony mua lại Columbia Pictures, đối thủ chính của Matsushita. Vào thời điểm đó, Matsushita đã chiếm ưu thế dẫn đầu thị trường video gia đình với vị trí hàng đầu trong thị trường điện tử. Họ đã được củng cố bởi chuẩn VHS, tiêu chuẩn thực tế cho băng ghi hình tiêu dùng do Matsushita và JVC cùng giới thiệu. Được truyền cảm hứng bởi sự táo bạo của Sony trong việc chiếm lĩnh Hollywood, Matsushita tin rằng họ cũng có thể trở thành nhà lãnh đạo trong ngành công nghiệp phim. Tuy nhiên, Matsushita sau đó đã bán 80% cổ phần MCA cho Tập đoàn Seagram với giá 7 tỷ USD vào tháng 4 năm 1995, do bị đánh giá thấp về tính biến động cao của ngành công nghiệp phim. Năm 1992, Matsushita sản xuất Panasonic FS-A1GT, mẫu máy tính cuối cùng của máy tính MSX turbo R. Năm 1998, Matsushita bán Anam National cho Anam Electronics.\nNăm 2000 đến nay.\nVào ngày 2 tháng 5 năm 2002, Panasonic Canada kỷ niệm 35 năm thành lập tại nước này bằng việc quyên góp 5 triệu đô la để hỗ trợ xây dựng một \"thành phố âm nhạc\" trên bờ biển Toronto.\nNăm 2005, Matsushita Toshiba Picture Display Co. Ltd. (một liên doanh giữa Matsushita và Toshiba được thành lập vào năm 2002) đã ngừng sản xuất màn hình CRT tại nhà máy của họ ở Horseheads, New York. Một năm sau đó, vào năm 2006, họ đã ngừng sản xuất tại nhà máy ở Malaysia do gánh chịu những tổn thất nặng nề. Năm 2007, họ đã mua lại liên doanh từ Toshiba, cuối cùng kết thúc toàn bộ hoạt động sản xuất.\nVào ngày 19 tháng 1 năm 2006, Matsushita thông báo rằng họ sẽ ngừng sản xuất các loại TV analog (chiếm 30% tổng doanh số TV của họ) từ tháng sau, để tập trung vào TV kỹ thuật số. Vào cuối năm 2006, Matsushita bắt đầu đàm phán với Công ty Kenwood để bán và tách JVC ra khỏi công ty. Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 2008, JVC và Kenwood sáp nhập để tạo ra Công ty JVCKenwood.\nVào ngày 3 tháng 11 năm 2008, Panasonic và Sanyo công bố rằng họ đang tiến hành đàm phán hợp nhất, kết quả cuối cùng là Panasonic mua lại Sanyo. Việc hợp nhất được hoàn thành vào tháng 12 năm 2009 và tạo ra một tập đoàn với doanh thu hơn 11,2 nghìn tỷ yên (khoảng 110 tỷ USD).\nSau thông báo rằng Pioneer sẽ ngừng sản xuất các màn hình plasma HDTV Kuro của mình, Panasonic đã mua nhiều bằng sáng chế và tích hợp các công nghệ này vào các màn hình plasma của riêng mình. Vào tháng 4 năm 2011, thông báo rằng Panasonic sẽ cắt giảm số lượng nhân viên làm việc đi 40.000 người vào cuối năm tài chính 2012 nhằm tối ưu hóa các hoạt động trùng lắp. Việc cắt giảm này tương đương khoảng 10% tổng số nhân viên của tập đoàn.\nVào tháng 10 năm 2011, Panasonic thông báo rằng họ sẽ cắt giảm kinh doanh TV lỗ bằng cách ngừng sản xuất TV plasma tại nhà máy ở Amagasaki, tỉnh Hyogo vào tháng 3 năm 2012, đồng thời cắt giảm 1.000 việc làm. Ngoài ra, họ đã bán một số công ty sản xuất thiết bị gia dụng của Sanyo cho Haier.\nVào tháng 1 năm 2012, Panasonic thông báo đã ký kết thỏa thuận với Myspace về dự án mới của họ, Myspace TV. Myspace TV sẽ cho phép người dùng xem truyền hình trực tiếp trong khi trò chuyện với người dùng khác trên máy tính xách tay, máy tính bảng hoặc trực tiếp trên màn hình TV. Với sự hợp tác này, Myspace TV sẽ được tích hợp vào các dòng TV Panasonic Viera.\nVào ngày 11 tháng 5 năm 2012, Panasonic thông báo kế hoạch mua 76,2% cổ phần của FirePro Systems, một công ty đặt tại Ấn Độ chuyên cung cấp giải pháp bảo vệ hạ tầng và an ninh như hệ thống cảnh báo cháy, hệ thống chống cháy, giám sát video và quản lý tòa nhà. Vào tháng 4 năm 2012, Panasonic tách ra Sanyo DI Solutions, một công ty sản xuất máy ảnh kỹ thuật số. Phù hợp với dự đoán của công ty về tổn thất ròng lên tới 765 tỷ yên, vào ngày 5 tháng 11 năm 2012, giá cổ phiếu đã giảm xuống mức thấp nhất từ tháng 2 năm 1975 với 388 yên. Trong năm 2012, giá cổ phiếu đã giảm 41%. Vào ngày 14 tháng 11 năm 2012, Panasonic thông báo sẽ cắt giảm 10.000 việc làm và tiến hành các hoạt động chia tách thêm.\nVào ngày 18 tháng 5 năm 2013, Panasonic thông báo rằng họ sẽ đầu tư 40 triệu USD để xây dựng một nhà máy tại Bình Dương, Việt Nam, nhà máy này đã hoàn thành vào năm 2014. Vào tháng 7 năm 2013, Panasonic đồng ý mua 13% cổ phần của nhà sản xuất thiết bị gia dụng Slovenia, Gorenje, với giá khoảng 10 triệu Euro. Vào tháng 7 năm 2013, Panasonic ký kết thỏa thuận với Sony Corporation để phát triển Archival Disc, một định dạng đĩa quang được mô tả là dùng cho mục đích lưu trữ dữ liệu lâu dài. Trong thông cáo báo chí sau thông báo tại IFA 2013, Panasonic thông báo rằng họ đã mua \"dịch vụ giám sát video Cameramanager\" với ý định mở rộng phạm vi của mình đến các giải pháp dựa trên đám mây.\nNăm 2014, Panasonic Healthcare đã được mua bởi KKR (Kohlberg Kravis Roberts). Sau đó, Panasonic Healthcare đã đổi tên thành PHC. Vào tháng 7 năm 2014, thông báo rằng Panasonic đã đạt được thỏa thuận cơ bản với Tesla Motors để tham gia vào Gigafactory, nhà máy pin mà nhà sản xuất ô tô điện Mỹ dự định xây dựng tại Hoa Kỳ. Vào tháng 8 năm 2014, Tesla cho biết nhà máy sẽ được xây dựng ở khu vực Tây Nam hoặc Tây của Hoa Kỳ vào năm 2020. Nhà máy trị giá 5 tỷ USD sẽ tạo việc làm cho 6.500 người và giảm chi phí pin của Tesla đi 30%. Công ty cho biết đang xem xét các địa điểm tiềm năng ở Nevada, Arizona, Texas, New Mexico và California. Vào tháng 10 năm 2014, Panasonic thông báo rằng đầu tư ban đầu của họ vào nhà máy pin của Tesla Motors sẽ đạt \"tỷ lệ hàng chục tỷ\" yên, theo CEO của công ty.\nVào tháng 11 năm 2014, Panasonic thông báo hợp tác với Photon Interactive để tạo ra biển hiệu số thông minh và cá nhân hóa trong các cửa hàng.\nVào tháng 1 năm 2015, Panasonic thông báo rằng họ đã ngừng sản xuất TV tại Trung Quốc và dự định thanh lý liên doanh của họ tại Shandong. Vào tháng 3 năm 2015, Panasonic thông báo kế hoạch mua nhà cung cấp dịch vụ viễn thông qua vệ tinh ITC Global của Hoa Kỳ. Vào tháng 4 năm 2015, Panasonic thông báo dòng sản phẩm mới và khởi động lại thương hiệu tại Nam Phi. Công ty dự định sử dụng Nam Phi như một bước nhảy vọt vào châu Phi, với Nigeria và Ai Cập là các mục tiêu ban đầu. Vào tháng 6 năm 2015, Panasonic đạt được thỏa thuận với ba công ty cung cấp năng lượng Úc (Red Energy, Ergon Energy và ActewAGL) để thử nghiệm các lựa chọn lưu trữ pin tại gia. Vào tháng 11 năm 2015, Panasonic thông báo rằng họ đã thành lập một nhà máy mới tại Suzhou, Trung Quốc, thông qua công ty con của mình, Panasonic Ecology Systems Co., Ltd, để sản xuất một loại bộ lọc hạt chất xúc tác được phủ màng chất xúc tác cho hệ thống khử chất thải trong khí thải động cơ diesel. Vào tháng 11 năm 2015, Panasonic bắt đầu bán các sản phẩm nông sản được thu hoạch trong nước từ cơ sở nông nghiệp trong nhà của họ với thương hiệu Veggie Life tại Singapore, từ trang trại rau thủy canh trong nhà đầu tiên được cấp phép ở quốc gia sử dụng công nghệ của Panasonic.\nVào tháng 2 năm 2016, Panasonic và thành phố Denver hình thành một đối tác chính thức nhằm biến Denver trở thành \"thành phố thông minh\" hàng đầu ở Hoa Kỳ. Joseph M. Taylor, chủ tịch và CEO của Panasonic Corp. of America, đã trình bày kế hoạch cho đối tác này trong bốn lĩnh vực chính: nhà ở và văn phòng nhỏ thông minh, năng lượng và tiện ích, giao thông và dịch vụ thành phố, và tòa nhà thông minh. Do sự cạnh tranh gia tăng từ Trung Quốc, thị phần ô tô điện Li-ion của Panasonic đã giảm từ 47% vào năm 2014 xuống còn 34% vào năm 2015. Vào tháng 6 năm 2016, Tesla thông báo rằng Panasonic sẽ là nhà cung cấp độc quyền các viên pin cho mẫu xe hạng trung Model 3. Các viên pin cho dòng sedan cao cấp Model S và SUV Model X cũng sẽ được cung cấp bởi Panasonic. Vào đầu năm 2016, Chủ tịch Panasonic Kazuhiro Tsuga đã xác nhận một kế hoạch đầu tư tổng cộng khoảng 1,6 tỷ USD của công ty để xây dựng Gigafactory với công suất đầy đủ. Tuy nhiên, sau khi số lượng đặt hàng của Tesla Model 3 được công bố vào tháng 4, Panasonic đã tiến tới kế hoạch sản xuất sớm hơn và thông báo về việc phát hành trái phiếu trị giá 3,86 tỷ USD, hầu hết số tiền này sẽ được đầu tư vào Gigafactory. Vào năm 2016, Panasonic ra mắt một chiếc TV trong suốt. Vào tháng 7 năm 2016, Panasonic công bố sự quan tâm của mình trong việc thâu tóm các công ty trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy. Theo một nguồn tin, công ty đã dành riêng 10 triệu USD để sử dụng trong việc thâu tóm hoặc liên doanh.\nVào tháng 8 năm 2018, công ty thông báo rằng để tránh các vấn đề thuế tiềm tàng, Panasonic sẽ chuyển trụ sở châu Âu từ Anh đến Amsterdam vào tháng 10, khi Brexit đang đến gần.\nVào ngày 25 tháng 9 năm 2018, Panasonic trở thành một trong những thành viên sáng lập của Liên minh L-Mount và thông báo về việc ra mắt hai máy ảnh không gương lật full-frame và một loạt ống kính L-Mount của họ vào năm 2019. Panasonic Lumix S1R với cảm biến 47 megapixel và Panasonic Lumix S1 với cảm biến 24 megapixel sẽ là hai máy ảnh không gương lật full-frame đầu tiên được Panasonic sản xuất và sẽ cung cấp dịch vụ hỗ trợ Lumix Pro cho các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Hai máy ảnh này cũng sẽ được trang bị công nghệ ổn định hình ảnh kép giúp các nhiếp ảnh gia khi chụp ở điều kiện ánh sáng thấp.\nVào năm 2019, Panasonic đã bán các công ty bán dẫn và hệ thống an ninh (camera an ninh). Công ty cũng quyết định hoàn toàn rời khỏi lĩnh vực màn hình LCD vào năm 2021, đánh dấu sự kết thúc của hoạt động sản xuất màn hình, nhằm tập trung nguồn lực vào lĩnh vực ô tô và công nghiệp. Nhà máy LCD của Panasonic tại Himeji, tỉnh Hyogo, sẽ được đưa vào sửa chữa để sản xuất pin ô tô.\nVào năm 2020, Panasonic rút lui khỏi ngành kinh doanh máy bán hàng tự động vì không đạt được lợi nhuận, tụt hậu so với các đối thủ Fuji Electric, Sanden và Glory. Trong khi đó, Panasonic đã đầu tư để sở hữu 20% cổ phần của Blue Yonder, một công ty phần mềm quản lý chuỗi cung ứng trước đây được biết đến với tên JDA Software, làm sâu sắc hơn quá trình tích hợp công nghệ kết nối công nghiệp của công ty trước đây với các sản phẩm của Blue Yonder đã diễn ra từ một năm trước. Vào ngày 19 tháng 11 năm 2020, Panasonic thông báo về kế hoạch cải cách dự kiến hoàn thành vào năm 2022, trong đó công ty tách các công ty thuộc lĩnh vực kinh doanh thành các công ty con hoàn toàn thuộc sở hữu của mình, đồng thời chuyển đổi thành công ty mẹ mang tên \"Panasonic Holdings Corporation\". Kế hoạch của Panasonic tương tự như kế hoạch của đối thủ Sony đã thực hiện vào ngày 1 tháng 4 năm 2021, khi Sony Corporation trở thành Sony Group Corporation.\nVào tháng 1 năm 2021, công ty thông báo rằng nó sẽ chấm dứt hoạt động sản xuất tấm pin mặt trời của mình. Vào tháng 3 năm 2021, đã có thông tin cho biết Panasonic sẽ mua Blue Yonder với giá 6,45 tỷ đô la Mỹ sau khi mua 20% cổ phần của Blue Yonder với số tiền 86 tỷ yên vào năm 2020. Giao dịch này được coi là một trong những giao dịch lớn nhất kể từ năm 2011. Vào tháng 6 năm 2021, đã có thông tin cho biết Panasonic đã bán toàn bộ cổ phần của mình trong Tesla với giá 3,6 tỷ đô la Mỹ.\nVào tháng 8 năm 2022, đã có thông tin cho biết công ty, là một nhà cung cấp cho Tesla, đang trong cuộc thảo luận để xây dựng một nhà máy pin ô tô điện mới tại Hoa Kỳ, với Oklahoma được xem là ứng cử viên hàng đầu. Điều này sẽ được thực hiện bên cạnh nhà máy đã được kế hoạch tại Kansas. Mỗi nhà máy sẽ có khả năng tương tự nhau.\nTrong nửa đầu năm 2022, Panasonic xếp thứ tư trên thế giới với tỷ lệ thị phần 10% theo SNE research. Xây dựng nhà máy pin tại Kansas đã bắt đầu vào tháng 11 năm 2022. Cho đến ngày 31 tháng 3 năm 2012, Panasonic có khoảng 330.000 nhân viên (giảm xuống còn khoảng 260.000 vào tháng 3 năm 2020) và khoảng 580 công ty con. Năm 2012, Panasonic có tổng doanh thu là 7.846.216 triệu JPY, trong đó 53% được tạo ra tại Nhật Bản, 25% tại châu Á (không tính Nhật Bản), 12% tại châu Mỹ và 10% tại châu Âu. Công ty đã đầu tư tổng cộng 520.216 triệu JPY vào nghiên cứu và phát triển trong năm 2012, tương đương với 6,6% tổng doanh thu của công ty trong năm đó.\nNăm 2012, Panasonic đã nắm giữ tổng cộng 140.146 bằng sáng chế trên toàn cầu. Trong ba thập kỷ từ những năm 1980 đến những năm 2000, Panasonic là nhà nộp đơn bằng sáng chế hàng đầu thế giới. Theo một nghiên cứu của Văn phòng Bằng sáng chế châu Âu năm 2020, số lượng bằng sáng chế liên quan đến pin mà Panasonic đã nộp từ năm 2000 đến năm 2018 là cao thứ hai trên thế giới. Năm 2021, báo cáo hàng năm về các chỉ số Sở hữu trí tuệ thế giới của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) xếp hạng số lượng đơn đăng ký bằng sáng chế của Panasonic dưới hệ thống Bảo hiểm Sáng chế là thứ 10 trên thế giới, với 1.611 đơn đăng ký được công bố trong năm 2020. Vị trí này tăng từ vị trí thứ 12 trước đó vào năm 2019 với 1.567 đơn đăng ký.\nĐến tháng 7 năm 2020, hoạt động của Panasonic được tổ chức thành bảy \"công ty lĩnh vực\": Thiết bị gia dụng, Giải pháp cho Cuộc sống, Giải pháp kết nối, Ô tô, Giải pháp Công nghiệp và hai chi nhánh quốc tế giám sát hoạt động kinh doanh tại Hoa Kỳ và châu Á. Mỗi công ty này có thể bao gồm nhiều công ty con thực hiện hoạt động thực tế.\nThành tích môi trường.\nPanasonic được xếp hạng ở vị trí chung thứ 11 (trên 16) trong Hướng dẫn của Greenpeace về Công nghệ Xanh, hướng dẫn xếp hạng các nhà sản xuất điện tử dựa trên các chính sách và thực tiễn nhằm giảm tác động của họ đối với khí hậu, sản xuất các sản phẩm xanh hơn và làm cho hoạt động của họ bền vững hơn. Công ty là một trong số những nhà điểm cao nhất về tiêu chí Sản phẩm, được khen ngợi về vòng đời tốt của sản phẩm và số lượng sản phẩm không chứa chất nhựa polyvinyl clorua (PVC). Nó cũng đạt điểm tối đa về hiệu suất năng lượng của sản phẩm với 100% TV của nó đáp ứng tiêu chuẩn mới nhất của Energy Star và vượt quá yêu cầu về tiêu thụ điện chờ.\nTuy nhiên, điểm số của Panasonic bị ảnh hưởng bởi điểm số thấp về tiêu chí Năng lượng, trong đó Hướng dẫn cho biết công ty phải tập trung vào việc giảm lượng khí nhà kính (GHG) theo kế hoạch, đặt mục tiêu giảm lượng khí thải GHG ít nhất 30% vào năm 2015 và tăng sử dụng năng lượng tái tạo vào năm 2020.\nNăm 2014, một bài viết trên \"The Guardian\" cho biết Panasonic sẽ trả thêm cho công nhân nước ngoài làm việc tại Trung Quốc một khoản \"tiền nguy hiểm\" như một khoản bồi thường cho ô nhiễm không khí mãn tính mà họ phải chịu trong quá trình làm việc.\nNăm 2020, Panasonic tham gia WIPO GREEN với tư cách đối tác chính thức trong nỗ lực giải quyết biến đổi khí hậu.\nVào tháng 2 năm 2022, tờ Wall Street Journal đưa tin rằng Panasonic đã đạt được mức \"gần như tương đương với không\" khí thải carbon dioxide tại nhà máy ở Trung Quốc, nhà máy có lượng khí thải carbon dioxide cao nhất của hãng.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của Lockheed Martin F-35 Lightning II á",
"role": "user"
},
{
"content": "F-35 Lightning II (Tia chớp) (viết tắt: F-35) là tên gọi chung cho 3 biến thể máy bay khác nhau dựa trên thiết kế cơ sở X-35 của dự án phát triển máy bay tiêm kích phối hợp (JSF) một chỗ ngồi, có khả năng tàng hình và thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau như yểm trợ cận chiến, ném bom chiến thuật...\nDự án JSF là dự án nghiên cứu và chế tạo vũ khí lớn nhất của Hoa Kỳ và các nước đồng minh kể từ sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thể hiện qua số lượng máy bay dự tính chế tạo trong khoảng thời gian tới năm 2035 lên tới hàng nghìn chiếc, trung bình dự kiến chế tạo hơn 100 chiếc mỗi năm.\nViệc phát triển nó đã được đưa vào kế hoạch tài chính của Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và các chính phủ đồng minh khác. Nó được thiết kế và chế tạo bởi tập đoàn Lockheed Martin và các nhà thầu quốc phòng chủ chốt khác là Pratt & Whitney, BAE Systems và Northrop Grumman. Tổng kinh phí ước tính phục vụ nghiên cứu phát triển, thử nghiệm và chế tạo số lượng máy bay 2,456 chiếc (trong đó có 14 chiếc dùng để thử nghiệm) của cả ba biến thể lên tới 406.1 tỷ đô la Mỹ \nCũng vì khoản tiền dự kiến bỏ ra để phát triển, chế tạo và vận hành số lượng máy bay trên rất lớn lại chỉ tập trung vào tay 2 nhà thầu chính là Lockheed Martin và Pratt & Whitney, nên chương trình được sự quan tâm rất lớn của truyền thông trong nước Mỹ và rất nhiều nước khác. Các hãng đối thủ, như Boeing cũng theo dõi rất sát sao từng pha phát triển của chương trình và tìm cách công bố các thông tin bất lợi về chương trình nhằm gây trở ngại cho việc đàm phán các đơn đặt hàng của Lockheed Martin.\nLịch sử phát triển.\nĐịnh hướng phát triển:.\nChương trình máy bay tiêm kích bom phối hợp (JSF) được gộp lại từ 2 nền tảng thiết kế:\nCuối cùng chương trình dựa trên thiết kế cơ sở, phát triển các biến thể khác nhau, tuy nhiên chia sẻ sự tương đồng ở mức tối đa các bộ phận của chúng:\nKhởi đầu, các phiên bản thử nghiệm X-32 và X-35.\nChương trình Joint Strike Fighter đặt ra nhiều yêu cầu cho một kiểu máy bay chiến đấu chung thay thế cho các loại máy bay đang có. Hợp đồng phát triển chính thức JSF được ký kết vào ngày 16-11-1996. Một mẫu minh họa của thiết kế X-35 đã bay năm 2000;\nHợp đồng phát triển và trình diễn hệ thống (SDD) được dành cho hãng Lockheed Martin vào ngày 26-10-2001, nhà cung cấp mẫu thử nghiệm X-35 vốn đã chiến thắng mẫu X-32 của hãng Boeing. Các quan chức của Bộ quốc phòng Mỹ và Anh Quốc tuyên bố rằng X-35 vượt trội hơn X-32, mặc dù cả hai đáp ứng và vượt các yêu cầu đặt ra. Tên đặt cho kiểu máy bay chiến đấu mới là \"F-35\" tạo ra sự ngạc nhiên cho chính hãng Lockheed, vốn thường gọi tên trong nội bộ hãng là \"F-24\".\nĐặt tên.\nNgày 7-7-2006, Không quân Hoa Kỳ chính thức thông báo tên của F-35 là Lightning II nhằm tôn vinh chiếc máy bay chiến đấu cánh quạt 2 động cơ thời Thế Chiến thứ II P-38 Lightning và chiếc phản lực thời kỳ chiến tranh lạnh English Electric Lightning của Anh Quốc. Bộ phận máy bay của hãng English Electric đã được sáp nhập vào BAC, tiền thân của thành viên phát triển F-35 là BAE Systems. Những cái tên trước đây đã từng được đề nghị đặt gồm có: Kestrel, Phoenix, Piasa, Black Mamba và Spitfire II. Tên Lightning II cũng đã từng là tên trong nội bộ công ty đặt cho chiếc máy bay mà sau này chính thức trở thành F-22 Raptor.\nĐặc điểm thiết kế.\nF-35 trông giống như một đứa em nhỏ hơn, một động cơ và trông bình thường hơn so với đàn anh mượt mà hai động cơ F-22 Raptor, và dĩ nhiên, vay mượn một số yếu tố thiết kế của nó.\nThiết kế F-35B bố trí động cơ dựa trên thiết kế máy bay Convair 200 năm 1972 mà Lockheed Martin được thừa hưởng khi thâu tóm General Dynamics. Ống xả kiểu 3BSD dựa trên công nghệ đã phát triển từ trước của Pratt & Whitney từ năm 1967.\nĐể giành lợi thế trong đấu thầu dự án X-35 Lockheed Martin đã chi tiền để công ty Yakovlev của Liên Xô chế thử một số mẫu Yak-141 mà Yakovlev đã xây dựng thiết kế cơ sở nhưng không có tiền và khách hàng tiềm năng để triển khai trong thập niên 90.\nĐổi lại, Lockheed Martin có quyền thu thập các tham số bay thử và qua đó tích lũy kinh nghiệm về chế tạo máy bay có khả năng hạ cánh thẳng đứng. Việc này gây ra những suy đoán về sự tương đồng của F-35B với kiểu máy bay hoàn toàn khác hẳn là Yakovlev Yak-141 \"Freestyle\".\nKỹ thuật tàng hình làm cho chiếc máy bay khó bị phát hiện bởi các radar tần số cao như băng tần C, Ku, X và 1 phần băng tần S.\nMột vài điểm cải tiến so với thế hệ máy bay chiến đấu hiện tại là:\nMặc dù kỹ thuật hiển thị thông tin lên mũ bay (helmet-mounted display) đã áp dụng trên một số máy bay chiến đấu thế hệ IV như JAS 39 Gripen của Thụy Điển, F-35 sẽ là máy bay đầu tiên mà kỹ thuật này sẽ hoàn toàn thay thế cho kỹ thuật hiển thị thông tin trước mặt (head-up display).\nCác Hệ thống Điện tử.\nCảm biến chính của F-35 là radar kiểu tương phản pha chủ động AN/APG-81, thiết kế bởi Northrop Grumman Electronic Systems. Nó được bổ sung bởi hệ thống EOTS (Electro-Optical Targeting System; Nhận biết mục tiêu quang-điện tử) gắn dưới mũi máy bay, thiết kế bởi Lockheed Martin và BAE. Các cảm biến quang-điện tử khác được phân bố trên thân máy bay là một phần của hệ thống AN/AAS-37 hoạt động như là hệ thống cảnh báo tên lửa, dẫn đường và bay đêm.\nTỉ số lực đẩy/khối lượng.\nKiểu cải biến F-35B có nguy cơ giảm các tính năng cơ động vì các trang bị nâng thẳng làm nó nặng hơn quá mức – đến 1 tấn (2.200 lbs) hay 8%. Để bù lại, Lockheed Martin đã tăng cường lực đẩy động cơ, giảm trọng lượng hơn 1 tấn do vỏ bọc máy bay mỏng hơn, thu nhỏ ngăn chứa vũ khí trong thân máy bay và cánh đứng, dẫn lại một phần lực đẩy sang ống thoát chính; và thiết kế lại kết nối cánh-thân, một phần hệ thống điện, và phần máy bay ngay sau khoang lái.\nGiải pháp chứa vũ khí bên trong thân nhằm tàng hình và tối ưu khí động học, nhưng làm cho quá trình kiểm tra tính tương thích vũ khí trở nên khó khăn hơn.\nThử nghiệm.\nChiếc F-35A (phiên bản dành cho Không lực Hoa Kỳ) lăn bánh lần đầu tại Fort Worth, Texas, Hoa Kỳ vào ngày 19-02-2006. Nó trải qua quá trình thử nghiệm mở rộng trên mặt đất tại căn cứ Fort Worth của Không lực Hải quân trong mùa Thu 2006.\nVào ngày 15-09-2006, kiểu động cơ có đốt sau F135 được tích hợp và được đốt thử nghiệm, và việc thử nghiệm động cơ hoàn tất vào ngày 18-09 sau khi được thử nghiệm cố định tại chỗ có đốt sau toàn phần (công suất tối đa). Vào ngày 15-09-2006, F-35 hoàn tất chuyến bay đầu tiên mỹ mãn.\nTrục trặc và lỗi thiết kế.\nTính đến năm 2013, chương trình F-35 bị tìm ra có đến 363 lỗi có thể phát sinh 719 vấn đề, một số lượng đáng kinh ngạc cho một dự án vốn đã tốn 400 tỷ USD.\nNgày 11/10/2018, trung tâm kỹ thuật F-35 thông báo ngừng tất cả hoạt động của F-35 trên thế giới để kiểm tra kỹ thuật. Sau 4 ngày, 80% F-35 đã vượt qua bài kiểm tra cấp tốc và được phép bay trở lại.\nGiá thành.\nMột vấn đề của F-35 là giá của máy bay ngày càng cao với chi phí đã đội lên đến 93% tính từ kế hoạch năm 2001. Nhưng chất lượng sản phẩm thì bị chỉ trích là \"Có khả năng gây vấn đề nghiêm trọng\" với tỷ lệ buộc phải sửa và làm lại là 16%. Theo dự tính ban đầu, mỗi chiếc F-35 sẽ có giá khoảng 70 triệu USD/chiếc (xấp xỉ giá một chiếc F-15), tuy nhiên do chậm trễ và các lỗi phát sinh, tới năm 2011 giá thành mỗi chiếc F-35 được ước tính đã lên tới 120-145 triệu USD tùy phiên bản.\nNăm 2014, chi phí vận hành mỗi chiếc F-35 tốn đến 67.548 USD mỗi giờ bay (cao hơn cả F-22).\nTheo Winslow Wheeler, người phụ trách chương trình cải cách quân sự Straus (Straus Military Reform Project), Trung tâm nghiên cứu tình báo quốc phòng Mỹ thì F-35 bị đánh giá là \"không đạt được hiệu quả kỳ diệu mà một số người cố gắng thúc đẩy, đây là một sự thất bại lớn trên một số phương diện, có thể nói là thụt lùi. Lực lượng không quân Hoa Kỳ xứng đáng có một máy bay tốt hơn và người đóng thuế xứng đáng có một sản phẩm rẻ hơn nhiều\". Pierre Sprey, kỹ sư chỉ huy thiết kế F-16 Fighting Falcon, đã phân tích rằng việc cố gắng nhồi nhét quá nhiều công dụng cho F-35 làm cho nó \"chẳng tốt trong việc gì cả\".\nCựu Bộ trưởng Quốc phòng Anh Nick Harvey đã lên tiếng chỉ trích chương trình phát triển máy bay F-35 của Mỹ và khẳng định: \"Bạn có thể tranh luận với nhau rằng đó là một trong những con voi màu trắng biết bay lớn nhất trong lịch sử... Giờ thì bạn có thể chắc chắn rằng, đây là một chương trình vô dụng nhất trong lịch sử\".\nTính cơ động.\nF-35 đã thất bại trước F-16 (được chế tạo từ năm 1974) trong cuộc tập trận tháng 1/2015. Cuộc không chiến giả định diễn ra trên vùng trời gần căn cứ không quân Edwards ở bang California. Trận đối đầu này diễn ra hồi tháng 1/2015 nhưng bản báo cáo của phi công điều khiển F-35 chỉ mới rò rỉ cho giới truyền thông vào tháng 6/2015.\nBài kiểm tra năng lực F-35 diễn ra trong điều kiện cận chiến ở độ cao 3.000 - 9.000 m. Cụ thể, một chiếc F-35 đọ sức tay đôi về tốc độ, hỏa lực và độ linh hoạt với một chiếc F-16. Đáng lưu ý, F-35 tham gia thao diễn mà không mang theo bất cứ thùng dầu nào và hoạt động trong trạng thái nhẹ nhất còn F-16 vẫn chở theo 2 bình nhiên liệu phụ. Bước vào không chiến, 2 máy bay vờn nhau ở cự ly gần, vừa né hỏa lực vừa dùng mọi vũ khí được trang bị để \"bắn hạ\" đối phương. Trong báo cáo dài 5 trang gửi lên cấp trên, viên phi công điều khiển F-35 chê bai thậm tệ cỗ máy đắt đỏ này. Theo ông, F-35 quá kềnh càng và có vấn đề về khí động học khiến máy bay không đủ độ linh hoạt và khả năng xoay xở để giáp lá cà trên không. Dù đã cố hết sức, F-35 vẫn không thể đưa F-16 vào tầm ngắm hoặc né đạn. Đó là chưa kể do \"ỷ\" có khả năng tàng hình nên các nhà thiết kế đã hạn chế tốc độ tối đa của F-35 vào khoảng 1.930 km/giờ (gấp 1,6 lần tốc độ âm thanh). Do đó, một khi đã bị phát hiện thì máy bay không thể nào chạy thoát trước chiếc F-16 có tốc độ cao hơn.\nNgoài ra, phi công còn chỉ trích chiếc mũ bay có giá đến nửa triệu USD và được quảng cáo là có thể giúp người đội quay đầu thoải mái và có tầm nhìn bao quát. Trong báo cáo, phi công cho rằng chiếc mũ này quá to so với buồng lái chật hẹp của F-35, khiến anh ta không thể nhìn phía sau hoặc ngước lên. Trên thực tế, trong cuộc không chiến, chiếc F-35 nhiều lần bị F-16 tập kích từ phía sau. Theo trang FlightGlobal, viên phi công, vốn từng có kinh nghiệm điều khiển các loại chiến đấu cơ F-15E, F-16 và F/A-18F, kết luận là \"chẳng có lý do gì để ngồi chiến đấu trong F-35\".\nSau vụ tai tiếng này, Bộ Quốc phòng Mỹ lên tiếng rằng chiếc F-35 tập trận không được trang bị các chức năng như \"bản thật\" và đây chỉ là \"bản nháp\". Thiếu tướng Không quân Jeffrey L. Harrigian tuyên bố: cơ động chưa bao giờ là thuộc tính chủ đạo của F-35, thế mạnh của nó là khả năng tàng hình. Quan điểm của nhóm thiết kế là phát triển một tiêm kích đặc biệt cho không chiến tầm xa hơn là quần vòng ở tầm gần. Tuy nhiên, chuyên gia kiêm giám đốc Viện Chính sách và Chiến lược Australia cho rằng những công nghệ mà F-35 sở hữu chưa chứng minh được tính hiệu quả. Giả sử đối phương phá vỡ liên kết giữa F-35 và máy bay chỉ huy cảnh báo sớm tầm xa (AWACS), khi đó, F-35 phải tác chiến độc lập với các hệ thống sẵn có. Tiêm kích của Mỹ từ lợi thế của thợ săn có thể trở thành con mồi cho các chiến đấu cơ hiện đại vì khi đó, những điểm yếu về tốc độ chậm, không chiến tầm gần kém sẽ bộc lộ.\nChuyên gia này cho rằng người Mỹ đã quên bài học đắt giá ở chiến trường Việt Nam trong dự án F-35: Thập niên 1960, với loại máy bay F-4 Phantom với radar mạnh và tên lửa tầm xa, các chỉ huy Mỹ từng tự tin là \"không chiến tầm gần sẽ đi vào dĩ vãng\", tuy nhiên thực tế chiến trường lại khác hẳn: những chiếc MiG nhanh nhẹn đã dùng chiến thuật cận chiến khiến ưu thế tên lửa và radar của F-4 trở nên vô dụng, và ngay cả những chiếc MiG-17 lạc hậu cũng đã hạ được nhiều chiếc F-4 với chiến thuật này.\nNgày 12/7, Tướng Joseph F. Dunford, người sắp tiếp nhận chức Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, đã có bài phát biểu trước Ủy ban Quân lực Thượng viên Mỹ, thừa nhận rằng các cơ quan liên quan đang rà soát lại chương trình phát triển và sản xuất máy bay F-35 của nước này.\nNhà báo David Axe đã ví von mẫu tiêm kích này với các chiến đấu cơ F-105 của Mỹ từng thất bại trước MiG-21 trong chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, trong khi F-105 có ưu thế về tốc độ bay thẳng đối với hầu hết các đối thủ thì F-35 ngày này còn chậm chạp hơn cả các máy bay chiến đấu của Sukhoi và Mikoyan (Nga), Thẩm Dương và Thành Đô (Trung Quốc).\nĐộ tin cậy.\nKhi thử nghiệm F-35 đã xuất hiện những lỗi trong thiết kế như nhiều vết nứt vỡ trên máy bay mà lẽ ra không thể có với lượng thời gian bay chỉ mới bằng 1/10 thời gian dự tính khiến việc bảo dưỡng tốn nhiều tiền hơn dự tính. Các lỗi chính khác của dòng máy bay F-35 là hệ thống hiển thị công nghệ cao của mũ phi công hoạt động rất đáng thất vọng, hệ thống bơm nhiên liệu để lại nhiên liệu trên bề mặt máy bay, hệ thống cung cấp điện dự phòng không đảm bảo an toàn... Mẫu F-35C được chế tạo để sử dụng trên tàu sân bay thì lại không thể đáp trên tàu sân bay vì một khiếm khuyết nghiêm trọng ở phần đuôi.\nF-35 không chịu được sét đánh và hiện tại loại máy bay đã bị cấm hoạt động tại các khu vực thường xuyên có giông và khi hoạt động thì phải cách các khu vực này ít nhất 25 dặm. Hệ thống tạo khí trơ OBIGGS cần phải được thiết kế lại để duy trì một lượng chính xác oxy trong bình nhiên liệu để bảo vệ chúng trong trường hợp bị sét đánh. Thiết kế cung cấp nhiên liệu cũng có vấn đề, hệ thống thông gió không cho nó bay cao hơn 6.000 m cũng như tốc độ không được vượt quá 1.829 m/phút.\nLốp của biến thể F-35 dành cho Lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ \"Bị ăn mòn với tốc độ không thể chấp nhận được khi hoạt động như một máy bay chiến đấu bình thường\". Loại lốp mà Dunlop hiện đang cung cấp đã được cải tiến, nhưng chất lượng vẫn không thể chấp nhận được.\nMẫu F-35B dùng trên tàu sân bay thì đang gặp vấn đề với nhiệt lượng khí đẩy của mình khi sức nóng làm hỏng đường băng cũng như nhiều hệ thống gần sàn đáp có thể bị hư hỏng do F-35B hạ cánh và cất cánh quá gần với các loại vũ khí, ăng-ten, cửa thoát nhiên liệu, ống dẫn nhiên liệu, thuyền cứu sinh, lan can, lưới bảo vệ, một số thiết bị điện và hầu hết các thiết bị khác.\nRađa của máy bay thường không làm việc và áo bay quá nóng. Với vấn đề bảo trì thì thay vì chỉ mất hai tiếng như kế hoạch để thay thế động cơ thì máy bay mất đến 52 tiếng. Nó cũng sẽ gặp trục trặc khi qua đêm ở nhiệt độ 15 °C vì thế nó phải được cất trong nhà có máy sưởi. Máy bay đã không đáng tin cậy như mong đợi và cần bảo dưỡng nhiều hơn dự kiến. F-35 cũng không thể cất cánh hoặc động cơ bị tắt đột ngột nếu nhiên liệu tiếp cho nó đang ở nhiệt độ trên 40 độ C, khiến việc bảo trì và tiếp nhiên liệu ở những vùng khí hậu nóng trở nên rắc rối (phải xây bãi đỗ râm mát, hoặc gắn máy làm mát cho các xe chở nhiên liệu). Những quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, Australia, Israel... sẽ vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng loại tiêm kích tối tân mà họ định mua sẽ không thể cất cánh khi nhiệt độ vượt quá ngưỡng cho phép vào mùa hè.\nTheo những thông tin được chính Không quân Mỹ xác nhận vào ănm 2019 thì mỗi khi F-35 bay vượt tường âm thanh (Mach 1,2) thì lớp sơn tàng hình của nó sẽ bị bong tróc, khiến F-35 bị mất khả năng tàng hình. Do vậy, không quân Mỹ đã phải yêu cầu phi công không được bay vượt quá tốc độ âm thanh trong các chuyến bay huấn luyện, bởi nếu không thì cứ sau mỗi chuyến bay, F-35 sẽ phải đưa vào nhà xưởng để sơn lại lớp vỏ, điều này rất tốn kém về thời gian và chi phí.\nVũ khí.\nMũ phi công được sản xuất bởi Công ty RCESA, có giá hơn 500.000 USD mỗi chiếc. Nhiều phi công thử nghiệm báo cáo họ đã bị chóng mặt, mất phương hướng trong không gian khi điều khiển F-35, nghiêm trọng tới mức họ phải tắt dữ liệu và hạ cánh \"thủ công\". Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do độ trễ nhất định của việc chuyển tín hiệu lên chiếc mũ, do máy tính của F-35 còn phải xác định xem phi công đang nhìn đi đâu để chuyển lệnh tới camera tương ứng. Một vấn đề nữa là không giống HUD gắn cố định trên máy bay, mũ của F-35 được thiết kế để phi công có thể quay đầu tự do bên trong, nên khi máy bay rung lắc trong lúc bay, phi công cũng sẽ thấy hình ảnh nhảy múa trước mắt.\nCác lỗi kỹ thuật của mũ điều khiển khiến phi công của các chiếc máy bay có giá trên 100 triệu USD buộc phải bay trong tình trạng mù. Thay vì giúp phi công nhìn thấy tất cả các vật thể xung quanh, chiếc mũ bay hiện đại do BAE sản xuất khiến phi công bị rối tung lên vì đưa ra quá nhiều hình ảnh từ radar và camera. Một sự cố có tên gọi \"ánh lục lờ mờ\" hoàn toàn có thể đã gây ra thảm họa đối với 3 phi công Anh hiện tại đang huấn luyện. Bạn chỉ có thể hiển thị một lượng thông tin có hạn trước khi phi công bị loạn lên và các hình ảnh bắt đầu lẫn vào với nhau, đặc biệt là khi bay đêm. Các thông tin về tốc độ, độ cao, góc hạ cánh và cất cánh cũng như mức nhiên liệu và hệ thống vũ khí cộng với hình ảnh quang cảnh xung quanh khiến mọi thứ bị quá tải kết quả là phi công chẳng nhìn thấy gì. Việc này làm cho việc bay loại máy này gần như không thể được.\nViệc sử dụng chế độ đốt hậu của máy bay trong thời gian dài có thể khiến lớp sơn tàng hình ở phần đuôi máy bay bị bong ra. Kết quả là F-35 bị cấm bay siêu âm khi Lockheed tìm giải pháp xử lý. Sau khi xử lý xong, họ sẽ phải sơn lại 78 chiếc máy bay đã ra khỏi dây chuyền sản xuất. Hệ thống camera được dùng để thay thế cho việc phi công phải ngoái đầu lại phía sau lại có những điểm mù, khiến phi công không thu được hết hình ảnh. Máy bay không thể ném bom, tham gia không chiến hoặc hỗ trợ bộ binh. Nguyên nhân đơn giản, do phần mềm cần thiết giúp nó có thể hoạt động hoàn chỉnh vẫn chưa hoàn thiện. Quan chức phụ trách thử nghiệm của Bộ Quốc phòng Mỹ là J. Michael Gilmore nói khả năng chiến đấu duy nhất của chúng hiện nay chỉ là lao thẳng vào máy bay khác tự sát. Nếu F-35 tải phần mềm Block 2B và tham gia chiến đấu ngay bây giờ, chúng sẽ cần sự hỗ trợ lớn từ các máy bay thế hệ 4 khác để chống lại các mối đe dọa nhằm vào bản thân. Nói một cách khác, chiếc máy bay lính thủy đánh bộ kỳ vọng có thể tham chiến trong năm 2015 không chỉ được trang bị tồi mà còn cần sự bảo vệ của những chiếc máy bay mà chúng ra đời để thay thế.\nCác phi công chiến đấu của Mỹ cũng đã nhìn ra những nhược điểm của F-35. Họ cho rằng các nhà sản xuất đã hứa hẹn quá nhiều, và F-35 có thể không đáp ứng được hết kì vọng. Nhiều người cũng nghi ngờ tính năng tàng hình của F-35. Chuyện muôn thuở của máy bay tàng hình, đó là kết cấu khí động học sẽ phải thay đổi nhiều, để phục vụ cho tính năng tàng hình của máy bay.\nĐặc điểm quan trọng nhất của loại máy bay này là tàng hình lại bị cho là có thể bị vô hiệu hóa bởi rada băng tần VHF và đây cũng không phải là một bí mật lớn. Những nghiên cứu mới đây đều chứng minh rằng, sóng dài đặc biệt có hiệu quả trong việc phát hiện các mục tiêu tàng hình, nhất là khi bước sóng bằng 2 lần kích thước mục tiêu. Để có thể tàng hình trước VHF thì trước tiên phải gỡ bỏ đuôi của máy bay nhưng chưa biết nên làm như thế nào. Những gì mà F-35 thực sự đang có là chức năng \"tấn công điện tử\" hay còn gọi là EA trong con mắt các nhà quân sự. Nó cũng có một hệ thống radar ngụy trang - BAE Systems ALE -70. Nhưng cả hai chức năng này đều nhằm mục đích đánh chặn tên lửa chứ không ngăn chặn việc bị phát hiện.\nSự tham gia của quốc tế.\nCác khách hàng đầu tiên cũng như là nhà tài trợ tài chính của chương trình là Hoa Kỳ và Anh Quốc. 8 quốc gia khác cũng tài trợ cho việc phát triển máy bay, và sẽ quyết định trong năm 2007 sẽ mua máy bay hay không. Tổng chi phí phát triển máy bay là hơn 40 tỷ đô la Mỹ (được tài trợ phần lớn bởi Hoa Kỳ), và việc mua khoảng 2.400 máy bay được ước tính sẽ tốn kém thêm khoảng 200 tỷ đô la Mỹ nữa.\nCó 3 cấp độ tham gia của các nước khác. Các cấp độ nói chung phản ảnh vai trò về tài chính, mức độ chuyển giao công nghệ và các gói thầu phụ mở ra cho các công ty quốc gia, và các đơn đặt hàng mà các quốc gia có thể sản xuất. Anh Quốc là nước duy nhất thuộc đồng minh cấp 1, đóng góp khoảng 2,5 tỷ đô la Mỹ hay là 10% chi phí phát triển máy bay, theo một Bản ghi nhớ ký năm 1995 để Anh Quốc chính thức tham gia đề án này. Các đồng minh cấp 2 là Ý (1 tỷ đô la Mỹ) và Hà Lan (800 triệu đô la Mỹ). Các nước cấp 3 là Canada (440 triệu đô la Mỹ), Thổ Nhĩ Kỳ (175 triệu đô la Mỹ), Úc (144 triệu đô la Mỹ), Na Uy (122 triệu đô la Mỹ), Đan Mạch (110 triệu đô la Mỹ). Israel và Singapore cũng đã tham gia như các thành viên cộng tác của dự án.\nMột vài quốc gia thành viên đã công khai bày tỏ ý định từ bỏ chương trình JSF, một cách bóng gió hay cảnh báo rằng trừ khi được nhận nhiều hợp đồng phụ hay chuyển giao công nghệ, họ sẽ từ bỏ JSF để chuyển sang Eurofighter Typhoon, Saab Gripen, Dassault Rafale, hoặc đơn giản là nâng cấp số máy bay hiện có. Na Uy đã nhiều lần đe dọa sẽ ngừng hỗ trợ trừ khi được đảm bảo gia tăng thị phần công nghiệp. Tuy nhiên, Na Uy đã đồng ý ký kết tất cả các bản ghi nhớ, kể cả bản mới nhất chi tiết hóa việc sản xuất của chương trình JSF trong tương lai. Dù vậy, họ vẫn cho biết sẽ tăng cường và cũng cố việc hợp tác với các đối thủ của JSF là Typhoon và Gripen.\nVương Quốc Anh.\nAnh Quốc dự định mua các phiên bản của F-35 cho Không quân và Hải quân Hoàng gia Anh.\nPhía Anh Quốc càng ngày càng bày tỏ lo ngại phía Mỹ không cho phép tiếp cận các kỹ thuật cho phép họ duy trì và nâng cấp những chiếc F-35 mà không có sự can thiệp của Mỹ. Đây được hiểu là liên quan đến phần mềm của máy bay. Trong 5 năm, các viên chức Anh đã khiếu nại về đảm bảo sẽ được chuyển giao công nghệ. Yêu cầu này, vốn được sự ủng hộ của chính quyền Bush, lại bị ngăn chặn luôn bởi Hạ nghị sĩ Henry Hyde, người nói rằng Anh Quốc cần thắt chặt luật pháp ngăn không cho chuyển giao trái phép các kỹ thuật tiên tiến của Mỹ cho bên thứ ba.\nChủ tịch BAE Systems là Mike Turner than phiền rằng phía Mỹ đã từ chối không cho phép công ty ông truy cập mã nguồn máy bay. Vào ngày 21 tháng 12 2005, một bài viết trên tờ Glasgow Herald trích lời Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện Anh nói rằng \"Anh Quốc có thể cân nhắc có nên tiếp tục tham gia chương trình\" nếu không được quyền truy cập. Huân tước Baron Drayson, viên chức Bộ Quốc phòng Anh, khẳng định mạnh mẽ hơn nhân chuyến thăm Washington vào tháng 5-2006: \"Chúng tôi mong việc chuyển giao công nghệ phần mềm sẽ diễn ra. Nếu không nếu không chúng tôi không thể mua những chiếc máy bay này,\" và ông nói đến một \"kế hoạch B\" nếu việc thương lượng thất bại. Đây có thể ám chỉ đến việc phát triển một phiên bản dành cho hải quân của Eurofighter Typhoon.\nVào ngày 27 tháng 5-2006, Tổng thống George W. Bush và Thủ tướng Tony Blair tuyên bố rằng \"Cả hai chính phủ đồng ý rằng Anh Quốc có quyền sử dụng, sở hữu, nâng cấp và duy trì thành công JSF như là Anh Quốc có chủ quyền trên loại máy bay này.\" Dù vậy, cho đến tháng 12-2006 vẫn còn nỗi lo ngại về vấn đề chuyển giao kỹ thuật. Đến ngày 12 tháng 12 2006, Huân tước Drayson ký bản thỏa thuận về điều kiện cho sự tham gia của Anh Quốc, như là, truy cập mã nguồn phần mềm và sở hữu việc sử dụng. Thỏa thuận cho phép \"sự điều khiển liên tục không gián đoạn của Anh Quốc\" trong việc điều khiển máy bay. Drayson nói rằng Anh Quốc sẽ \"không cần nhờ đến một công dân Mỹ trong hệ thống chỉ huy của chính chúng ta\". Ông lại nói, dù sao, Anh Quốc vẫn đang xem xét một \"Kế hoạch B\" chưa xác định nhằm thay thế cho việc mua JSF.\nVào ngày 25 tháng 7-2007, Bộ Quốc phòng Anh xác nhận đã đặt đóng mới 2 hàng không mẫu hạm kiểu Queen Elizabeth, cho phép triển khai những chiếc F-35B đặt mua.\nÚc.\nTháng 5-2005, Chính phủ Úc tuyên bố quyết định mua JSF dự định vào năm 2006 sẽ hoãn lại đến năm 2008, quá nhiệm kỳ của chính phủ hiện nay. Úc, giống như Anh Quốc, từng nhấn mạnh họ cần được quyền truy cập mọi phần mềm cần thiết để cải biến và sửa chữa máy bay. Nghiên cứu của Không quân Hoàng gia Úc khẳng định F-35 \"là kiểu máy bay phù hợp nhất cho nhu cầu của Úc\".\nĐã xảy ra tranh luận tại Úc là liệu F-35 có phải là kiểu máy bay chiến đấu phù hợp cho Không quân Hoàng gia Úc. Các báo cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, các nhóm vận động hành lang và các chính trị gia đưa ra những nghi ngờ liệu nó có sẵn sàng kịp thay thế cho đội bay tấn công F-111 và tiêm kích F/A-18 Hornet cũ kỹ không? Một số phê phán cho là chiếc F-22 đắt tiền hơn hoặc là Eurofighter có thể là những lựa chọn tốt hơn; cả hai đều cho tầm bay xa hơn, khả năng cận chiến và tốc độ siêu âm với giá không đắt hơn F-35 bao nhiêu — và vấn đề được đưa ra xem xét tại Quốc hội Úc vào tháng 7-2006.\nTrong tuyên bố đưa ra vào tháng 8-2006, Bộ trưởng Quốc phòng Úc, Tiến sĩ Brendan Nelson cho biết rằng trong khi F-35 vẫn nhận được sự hỗ trợ từ phía chính quyền, Úc bắt đầu xem xét các kiểu máy bay khác nếu F-35 tỏ ra không phù hợp. Vào tháng 10-2006, Phó Đô Đốc John Blackburn, Phó tư lệnh Không quân Hoàng gia Úc, công bố rằng Không quân đã loại bỏ khả năng mua một kiểu máy bay tấn công trung gian để bù vào việc chậm trễ của chương trình F-35, và tin rằng chiếc F-35 là phù hợp. Tuy vậy, ngày 6 tháng 3 2007, TS. Nelson công bố Chính phủ Úc sẽ mua 24 chiếc F/A-18E/F Super Hornet từ hãng Boeing để lấp vào chỗ trống do máy bay tấn công ném bom F-111 nghỉ hưu để lại, trị giá 6 tỷ đô la Úc. Dù sao, TS. Nelson nói ông tiếp tục tán thành việc mua F-35. Phát biểu trên truyền hình Úc vào tháng 3-2007, TS. Nelson nhấn mạnh rằng 5% tính năng của F-35 là thông tin tuyệt mật, nhưng \"chính 5% đó là giá trị nhất\".\nVào ngày 13 tháng 12-2006, Bộ trưởng Nelson đã ký Bản ghi nhớ về việc sản xuất, duy trì và tiếp tục phát triển JSF. Thỏa thuận này đặt ra khung hợp tác cho việc sở hữu và hỗ trợ JSF trọn đời. Úc dự định mua 100 chiếc F-35A trị giá khoảng 16 tỷ đô la Úc.\nThổ Nhĩ Kỳ.\nVào ngày 12 tháng 7-2002, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành thành viên quốc tế thứ 7 của chương trình JSF, sau Anh Quốc, Ý, Hà Lan, Canada, Đan Mạch và Na Uy. Thổ Nhĩ Kỳ ký kết bản ghi nhớ tham gia vào việc sản xuất F-35 vào ngày 25 tháng 1-2007, dự định sẽ đặt hàng 100 chiếc F-35A CTOL dành cho Không quân trị giá 11 tỷ đô la Mỹ. Số máy bay này sẽ được sản xuất nhượng quyền tại Thổ Nhĩ Kỳ bởi Turkish Aerospace Industries (TAI).\nThỏa thuận sơ bộ giữa TAI và Northrop Grumman ISS (NGISS) International được ký vào ngày 6 tháng 2-2007, theo đó TAI trở thành nhà thầu chính thứ hai cung cấp phần thân giữa của F-35 trong chương trình JSF. Số lượng thân giữa sản xuất bởi TAI sẽ được xác định căn cứ vào số lượng F-35 Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đặt mua cũng như số lượng F-35 bán được toàn thế giới. Thỏa thuận này trị giá trên 3 tỷ đô la Mỹ.\nCác quốc gia khác.\nIsrael.\nTrong năm 2003, Israel ký kết một thỏa thuận trị giá 20 triệu Đô la Mỹ, để tham gia nhóm phát triển và thử nghiệm hệ thống (SDD: system development and demonstration) F-35 với tư cách là \"thành viên hợp tác an ninh\" (SCP: security cooperation participant). Năm 2006 Không lực Israel (IAF) cho biết F-35 là phần cốt lõi của kế hoạch tái trang bị, và Israel dự định mua trên 100 chiếc F-35A trị giá ước lượng 5 tỷ đô la Mỹ để thay thế dần phi đội F-16 của họ. Sau khi sự tham gia của Israel bị tạm ngưng do sự cố hợp đồng mua bán vũ khí với Trung Quốc, họ đã được tạm thời gia nhập trở lại nhóm phát triển F-35 vào ngày31 tháng 7-2006.\nẤn Độ.\nF-35 được giới thiệu cho Không quân Ấn Độ vào tháng 7-2007. Đây được hiểu là một phần của dự án nhằm bán chiếc F-16 như là một máy bay chiến đấu đa năng cho Không quân Ấn Độ.\nCác phiên bản.\nF-35 được phát triển thành 3 phiên bản khác nhau đáp ứng nhu cầu của những người dùng khác nhau.\nF-35A.\nF-35A là kiểu cất cánh và hạ cánh thông thường (CTOL-conventional takeoff and landing) dự định trang bị cho Không lực Hoa Kỳ và không quân các nước khác. Đây là phiên bản nhỏ nhất, nhẹ nhất, và là phiên bản duy nhất được trang bị pháo GAU-22/A gắn bên trong thân. Khẩu pháo 25 mm này được phát triển từ loại pháo M61 Vulcan 20 mm được trang bị trên các loại máy bay chiến đấu của Không lực Hoa Kỳ kể từ thời F-104 Starfighter, và cũng được trang bị trên loại máy bay AV-8B Harrier II của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.\nF-35A không chỉ tương đương với F-16 về độ cơ động, phản ứng nhanh, chịu trọng lực G cao, nhưng còn vượt trội ở tính tàng hình, tải trọng, tầm bay với nhiên liệu chứa bên trong, thiết bị dẫn đường, sử dụng hiệu quả, hỗ trợ và khả năng sống sót. Nó cũng có khả năng trang bị thiết bị laser và cảm biến hồng ngoại.\nF-35B.\nF-35B là phiên bản kiểu máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng (STOVL-short take-off vertical landing). Về kích thước F-35B tương đương với F-35A của Không quân, hy sinh một phần lượng nhiên liệu mang theo dành cho hệ thống hạ cánh thẳng đứng. Giống như AV-8B Harrier II, pháo trang bị được gắn trong một trụ treo dưới cánh. Bay thẳng đứng là một tính năng thử thách nhất, và sau hết, là yếu tố quyết định trong thiết kế.\nThay cho các động cơ nâng, hay là các đầu xoay trên cánh quạt và ống xả của động cơ như kiểu Harrier lắp động cơ Pegasus, F-35B dùng một ống xả \"hướng hành trình\" ở đuôi máy bay (ống xả phía sau hướng xuống dưới), và một quạt nâng vận hành bằng trục tiên tiến, sáng chế của Lockheed Martin và phát triển bởi Rolls-Royce. Giống như kiểu động cơ turbo-cánh quạt gắn trong thân, lực xoay trục động cơ được phân bổ một phần ra phía trước bởi một hộp số đến một cặp cánh quạt lắp thẳng đứng, xoay ngược chiều nhau, bố trí phía trước động cơ chính ở giữa máy bay. Khí nén qua động cơ được thoát qua một cặp ống xả trong cánh hai bên thân, trong khi quạt nâng sẽ cân bằng lực đẩy phần đuôi. Hệ thống này gần giống với kiểu Yak-141 của Nga và VJ 101D/E của Đức, hơn là các thiết kế STOVL trước đây, như là Harrier với ống xả xoay được.\nĐộng cơ của F-35B có hiệu quả khuếch đại luồng khí thổi, gần giống như kiểu động cơ turbo-cánh quạt có hiệu quả đẩy luồng khí không cháy ở vận tốc thấp hơn, và đạt được hiệu quả tương đương như động cơ chính của máy bay Harrier, vốn to nhưng không hiệu quả ở tốc độ siêu âm. Giống như các động cơ nâng, các thiết bị bổ sung này làm nặng máy bay hơn khi bay, nhưng lực nâng mạnh hơn cũng giúp gia tăng tải trọng hữu ích khi cất cánh. Quạt mát hơn cũng giảm thiểu những tác hại của luồng khí nóng và mạnh gây ra cho lớp phủ đường băng hay sân đáp của hàng không mẫu hạm. Mặc dù mang đầy tính rủi ro và phức tạp, hệ thống được thiết kế đã hoạt động tốt và làm hài lòng các quan chức của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.\nTrong quá trình phát triển, Lockheed sử dụng 2 khung máy bay khác nhau để thử nghiệm: khung X-35A (sau này được cải biến thành X-35B), và khung X-35C lớn hơn. Động cơ cho F-35 cải tiến từ kiểu Pratt & Whitney F119 hay GE Rolls Royce F136 dành cho máy bay chiến đấu, trong khi biến thể STOVL của F136 tích hợp cụm quạt nâng của Rolls-Royce.\nĐược tranh luận nhiều nhất là sự trình diễn đầy thuyết phục khả năng của X-35 ở vòng cuối trong chương trình thử nghiệm máy bay chiến đấu JSF, trong đó chiếc X-35B STOVL cất cánh trong vòng 150 m (500 ft), bay ở tốc độ siêu âm, và hạ cánh thẳng đứng—một thách thức mà chiếc Boeing X-32 không thể vượt qua.\nPhiên bản này được dự định sẽ thay thế cho các kiểu sau cùng của máy bay Harrier Jump Jet, là kiểu máy bay chiến đấu STOVL đầu tiên trên thế giới được đưa vào hoạt động. Không quân Hoàng gia và Hải quân Hoàng gia Anh sẽ sử dụng phiên bản này để thay thế kiểu máy bay Harrier GR7/GR9. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ sẽ dùng F-35B để thay thế cho cả hai loại máy bay chiến đấu AV-8B Harrier II. Dù vậy không quân Hoa Kỳ hiện đã từ chối loại máy bay này.\nF-35C.\nPhiên bản F-35C dành cho hải quân sẽ có cánh lớn hơn và gấp được, diện tích các cánh điều khiển lớn hơn nhằm giúp điều khiển dễ dàng ở tốc độ thấp, và hệ thống hạ cánh chắc chắn hơn để chịu tải trọng khi hạ cánh trên hàng không mẫu hạm. Diện tích cánh lớn hơn giúp gia tăng tầm bay và tải trọng, tầm bay đạt gấp đôi F/A-18C Hornet với nhiên liệu chứa bên trong, đạt đến mức tương đương với máy bay F/A-18E/F Super Hornet vốn nặng hơn nhiều.\nHải quân Hoa Kỳ dự định mua 480 F-35C để thay thế cho F/A-18 các kiểu A, B, C và D – vốn đã đưa vào để thay các loại máy bay tấn công tầm xa tốc độ thấp A-7 Corsair và A-6 Intruder. Nó cũng được dùng như lực lượng bổ sung có tính tàng hình cho đội bay F/A-18E/F Super Hornet. Vào ngày 27-06-2007, phiên bản F-35C đạt được quy trình duyệt xét CDR (Air System Critical Design Review), điều này cho phép bắt đầu đưa F-35C vào kế hoạch sản xuất thử (Low Rate Initial Production).\nĐặc điểm kỹ thuật.\nLưu ý: một số thông tin chỉ là ước lượng.\nVũ khí năng lượng định hướng.\nVũ khí năng lượng định hướng có thể gắn được trên phiên bản F-35A CTOL (cất cánh và hạ cánh thông thường), việc bỏ bớt quạt nâng thẳng đứng giúp tiết kiệm chỗ được 2,8 m³ (100 ft³) giúp bổ sung một máy phát dẫn động bằng trục mạnh đến 27.000 hp (20 MW). Một số khái niệm vũ khí mới, bao gồm vũ khí laser bán dẫn và vũ khí chùm sóng ngắn năng lượng cao, sắp được đưa ra sử dụng.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Information of Murad V is on wikipedia, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": " \nMurad V (1840 – 1904) là vị sultan thứ 33 của Đế quốc Ottoman, chỉ trị vì vào năm 1876.\nTiểu sử.\nHoàng tử Mehmed Murad sinh ngày 21 tháng 9 năm 1840, tại kinh đô Constantinopolis. Là con trai của sultan Abdul Mejid I và Sevk-Efza Sultana người gốc Kavkaz. Hoàng tử Murad có được một nền giáo dục tốt, học tiếng Pháp. Ông mua nhiều sách từ Pháp và đọc chúng trong thời gian rảnh. Ông rất thích văn học. Ông ưa chuộng Ziya Pasha và Namik Kemal, hai nhà văn nổi tiếng thời ấy. Ông vô cùng yêu thích văn hóa phương Tây, chơi đàn pianô và sáng tác các bản nhạc kiểu phương Tây. Hoàng tử Murad đã từng đi thăm viếng châu Âu cùng với người chú là sultan Abdul Aziz. Trong chuyến viếng thăm này ông học hỏi nhiều điều từ châu Âu và kết bạn với Thái tử Anh là Edward (sau này lên làm vua Anh Edward VII).\nSultan Murad V là một ông vua rất xa hoa và phung phí. Murad V lên kế vị năm 1876, sau khi Abdul Aziz bị lật đổ. Khi làm vua ông đã đánh mất lòng tín nhiệm của những người ủng hộ vì không quan tâm đến cải tổ lại đế quốc đang suy thoái. Ông chỉ trị vì được 93 ngày. Ngày 31 tháng 8 năm 1876 ông bị hạ bệ, vua em Abdul Hamid II lên nối ngôi. Cựu hoàng Murad V qua đời 28 năm sau đó, ngày 29 tháng 8 năm 1904 và được chôn cất gần lăng mộ của mẹ ông tại Thánh đường Hồi giáo Yeni.\nHôn nhân.\nCác vợ của Murad V:",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cho xin thông tin về Dima rolwalingensis nhé",
"role": "user"
},
{
"content": "Dima rolwalingensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Schimmel miêu tả khoa học năm 2006.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Saint-Sylvestre-sur-Lot từ bách khoa toàn thư nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": " Saint-Sylvestre-sur-Lot là một xã thuộc tỉnh Lot-et-Garonne trong vùng Nouvelle-Aquitaine phía tây nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 54 mét trên mực nước biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Melesse không ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Melesse là một xã trong tỉnh Ille-et-Vilaine, thuộc vùng hành chính Bretagne của nước Pháp, có dân số là 5.164 người (thời điểm 1999). Thành phố lớn gần đấy là Rennes (cách 12 km). Cũng nằm gần đấy là Saint-Malo và Mont-Saint-Michel.\nDân số.\nNgười dân ở Melesse được gọi là \"Melessiens\".",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Antillophos durianoides từ bách khoa toàn thư nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Antillophos durianoides là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Buccinidae.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Flétrange nha ?",
"role": "user"
},
{
"content": "Flétrange là một \"xã\" trong tỉnh Moselle, vùng Grand Est đông bắc nước Pháp.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Mình cần thông tin của Australobiosis gladiocincta á",
"role": "user"
},
{
"content": "Australobiosis gladiocincta là một loài Trichoptera thuộc họ Hydrobiosidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Information of Tài khoản Microsoft is on wikipedia, in Vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Tài khoản Microsoft (tiếng Anh: Microsoft Account) hay MSA (trước đó có tên là Microsoft Passport, .NET Passport, Microsoft Passport Network, và Windows Live ID) là một dịch vụ web đăng nhập đơn được phát triển và cung cấp bởi Microsoft cho phép người dùng đăng nhập vào các trang web (như Outlook.com), các thiết bị (ví dụ như máy tính và máy tính bảng Windows 10, điện thoại Windows Phone, hay máy chơi game Xbox), và ứng dụng (bao gồm Visual Studio) sử dụng một tài khoản.\nKhái quát sản phẩm.\nPhần lớn các trang web sử dụng Windows Live ID là các trang và dịch vụ của Microsoft như Hotmail, MSNBC, MSN, Xbox Live của Xbox 360, .NET Messenger Service hay các thuê bao MSN, nhưng cũng có những công ty khác liên kết với Microsoft để sử dụng nó, như Expedia và Hoyts. Người dùng Hotmail hay MSN sẽ tự động có một Windows Live ID tương ứng với tài khoản của họ. Những dữ liệu đăng nhập gần nhất của người dùng đã bắt đầu cho phép làm mục tiêu quảng cáo cá nhân bởi những nhà quảng cáo sử dụng Microsoft adCenter.\nWindows XP của Microsoft có một tùy chọn để liên kết một tài khoản người dùng Windows tới một Windows Live ID (chú ý rằng nó xuất hiện dưới tên là.NET Passport và Microsoft Passport (Network)), đăng nhập người dùng vào Windows Live ID bất cứ khi nào họ đăng nhập Windows.\nMối liên hệ giữa Windows Live ID với Windows CardSpace, một thành phần của Windows Vista, hiện không rõ có hay không; Kiến trúc sư trưởng về ID của Microsoft, Kim Cameron, đã đặt ra câu hỏi cho Windows Live ID về Luật Định danh của nó, nhiều cái trong số này đã bị vi phạm bởi Windows Live ID.\nKhái quát về kỹ thuật.\nKhi một người dùng mới bước vào một máy chủ thương mại, anh ta thoạt đầu sẽ được chuyển hướng đến máy chủ xác nhận gần nhất, họ sẽ hỏi anh ta tên người dùng và mật khẩu thông qua một kết nối bảo mật SSL, trừ khi người dùng có thể trình ra một GLOBALAUTH-cookie. Ngược lại, một người dùng mới được chấp nhận sẽ (a) có một GLOBALAUTH-cookie được mã hóa trong một khoảng thời gian nhất định được cài trên máy của anh ta và (b) nhận được một thẻ ID được mã hóa triple DES đã được đồng ý từ trước, giữa sự xác minh và máy chủ thương mại. Thẻ ID này sau đó được gửi đến máy chủ thương mại, theo đó máy chủ sẽ tạo ra một LOCALAUTH-cookie được mã hóa trên máy người dùng, cũng giới hạn thời gian. Việc sử dụng những cookie LOCAL và GLOBAL này cho những máy chủ xác minh và thương mại sẽ ngăn ngừa yêu cầu xác minh trong khoảng thời gian cố định, như trong giao thức Kerberos.\nNếu người dùng thoát ra khỏi Windows Live ID, những cookie này sẽ được xóa bỏ; tuy nhiên, người dùng thường bối rối với những chức năng đăng xuất của máy chủ thương mại khác, và thường vô tình để lại những cookie nguyên vẹn. Dịch vụ cũng dựa trên người dùng có cho phép trình duyệt của họ gửi cookie lên server.\nSau những lần cập nhật gần đây của Windows XP, một số người dùng đã gặp phải những cửa sổ popup yêu cầu họ nhập vào Windows Live ID bất cứ khi nào họ chọn vào thư mục codice_1, bất kể họ có ID đó hay sử dụng những dịch vụ đó hay không. Điều này có thể được ngăn ngừa bằng cách xóa mục \"My web sites on MSN\" ra khỏi thư mục con NetHood trong thư mục này, đó chính là nguyên nhân gây nên do liên tục truy cập vào mạng.\nGiấy phép số và những chỉ trích đầu tiên.\nWindows Live ID (vào thời kỳ Microsoft Passport) đã bị chỉ trích bởi người được ủy quyền thay mặt cho các thành viên của Hội Biên giới Điện tử (Electronic Frontier Foundation), Deborah Pierce, như là một đe dọa tiềm tàng đến quyền riêng tư sau khi có phát hiện là Microsoft sẽ có toàn quyền truy cập và sử dụng thông tin khách hàng. Các điều khoản riêng tư nhanh chóng được Microsoft cập nhật để làm dịu đi sự lo sợ của người dùng.\nNhững vấn đề về bảo mật.\nWindows Live ID được sử dụng bởi nhiều dịch vụ để chứng minh quyền sở hữu của địa chỉ email của một người dùng. Tuy nhiên một lỗ hổng bảo mật đã được tìm thấy trong Windows Live ID vào 17 tháng 6 2007 bởi Erik Duindam, một nhà phát triển web ở Hà Lan, sau đó đã báo cáo đây là \"một lỗi nguy cấp được tạo ra bởi những nhà lập trình Microsoft mà từ đó cho phép mọi người tạo ra một ID cho bất kỳ địa chỉ email ảo nào.\" \nVấn đề đã tăng lên xung quanh đường dẫn xác nhận email nhận được khi đăng ký một tài khoản Windows Live ID mới. Một tiến trình dược tìm thấy cho phép người dùng đăng ký những địa chỉ email sai hoặc đã được sử dụng. Sau khi đăng ký với một địa chỉ email hợp pháp mà người dùng đã truy cập được, một đường dẫn xác nhận được gửi đến. Tuy nhiên, trước khi sử dụng nó, người dùng được phép thay đổi địa chỉ email ban đầu đến một email khác chưa tồn tại, hoặc một địa chỉ mail đang được dùng bởi một người dùng khác. Sau khi đăng xuất lần thứ hai và xác nhận sử dụng đường dẫn đầu tiên, hệ thống Microsoft chỉ đơn giản xác nhận tài khoản sử dụng địa chỉ email sai hoặc không dùng đến. Điều này cho thấy có những nguy cơ khi về danh tính và riêng tư, ví dụ như một đồng nghiệp sẽ giả làm giám đốc của người dùng hoặc một phóng viên giả dạng làm nhà đầu tư bằng cách dùng Windows Live Messenger.\nVấn đề này đã được tiếp thu và sửa chữa bởi Microsoft vào 19 tháng 6 2007. Nếu không có xác nhận địa chỉ email, Microsoft sẽ gắn một cảnh báo vào bất kỳ tin nhắn nhanh nào được gửi từ Windows Live Messenger trong tương lai, sẽ xuất hiện theo kiểu \"fake@emailaddress (E-mail Address Not Verified).\" Tuy nhiên, các tài khoản hiện tại với địa chỉ email giả mạo vẫn còn được hoạt động tính đến 20 tháng 6 năm 2007 mà không có cảnh báo gì. Microsoft không cung cấp thông tin gì hơn về sự ảnh hưởng của lỗ hổng bảo mật này.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.",
"role": "system"
},
{
"content": "Can you provide information about Oecetis horatius?, in vietnamese language",
"role": "user"
},
{
"content": "Oecetis horatius là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.",
"role": "assistant"
}
] |