instruction
stringclasses 1
value | input
stringlengths 259
2.96k
| output
stringlengths 259
2.96k
|
---|---|---|
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chỉ cha mẹ nàng nằm yên trong phận, và nàng đã sống bên cạnh cha mẹ như một nàng tiên mẫn tài trí, xảo diệu tay chân, gieo rắc mưa móc phì nhiêu ra bốn phía.
Phần XI
Trở lại
Ra khỏi khu rừng, nhãn quang nhìn khung trời mở rộng.
Chúng tôi đã tới bên bờ những hồ nước Châalis, những hồi lang của tu viện, ngôi nhà thờ với những ngọn tiêm cung dong dỏng cao vút ngọn tháp thời phong kiến và ngôi điện nho nhỏ đã nung nấu che chở những tình ái u nùng, giữa hoàng đế Henri đệ tứ và nương tử Gabrielle tất cả đều nhuốm màu ráng đỏ hoàng hôn man mác bao phủ màu lục đậm núi ngàn.
“Đó là một phong cảnh của Walter Scott, phải không anh?” Sylvie nói.
– "Ai đã nói với em về Walter Scott?
Thế thì từ ba năm nay, em đọc sách nhiều lắm?...
Anh, anh gắng quên sách vở, và cái gì thu hút anh, cái gì anh mơ ước, ấy là chính cùng em nhìn lại ngôi tu viện cũ kỹ này.
Em nhớ đó, chính đấy là chỗ thuở nhỏ chúng mình đã trốn nhau giữa những phế tích hoang tàn.
Em nhớ không, Sylvie, khi người kiểm lâm kể cho chúng ta nghe sự tích những tu sĩ áo đỏ, thì em đã sợ hãi như thế nào?"
Anh đừng nói chuyện đó với em nữa."
– "Vậy thì em hãy ca cho anh nghe bài ca của cô gái xinh đẹp bị bắt đi khỏi khu vườn của cha mẹ, dưới cây bạch tường vi."
– "Ngày nay, người ta không ca bài đó nữa."
– "Chẳng lẽ em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?"
– Sylvie, Sylvie, anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường!
– "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và em sẽ không còn hát chúng nữa.” | – "Chẳng lẽ em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?"
– Sylvie, Sylvie, anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường!
– "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và em sẽ không còn hát chúng nữa.”
Sylvie ngân lên vài thanh âm một điệu nhạc lớn kịch trường… Hỡi ôi nàng uốn giọng cao kỳ!
Chúng tôi đã đi vòng những hồ nước bên.
Đây đồng cỏ xanh lục, xung quanh sum sê bồ đề và tiểu du, tại đây chúng tôi xưa kia từng đã múa vòng bao phen!
Tôi thở cơn tự ái, lên tiếng định nghĩa những hàng chữ trên những bức tường carlovingiens (thuộc thời đại các vua chúa Carlovingiens) và giải thích những huy hiệu huy chương nhà họ Este.
Anh đọc sách hơn em nhiều quá!
Thế thì té ra anh là một nhà thông thái?”
Tôi hơi tức vì giọng nói pha ý phiền trách của nàng.
Trước lúc bấy giờ, tôi vẫn loay hoay kiếm chừng một chỗ thích hợp để nói trở lại câu chuyện tâm sự buổi sáng; nhưng biết nói gì với nàng: phía sau, một con lừa lẽo đẽo hai tai, và một thằng bé tò mò tinh ranh, cứ thích len lỏi mò tới gần bên để nghe cái lối nói của ông kẻ chợ Parisien.
Và thế đó, tôi đã không may mở miệng kể lại cho nàng nghe sự hiển hiện kỳ ảo tại Châalis, hiện còn nằm trong kỷ niệm của tôi.
Tôi dẫn Sylvie vào chính cái căn phòng bữa trước, tại ngay cái chỗ tôi đã nghe Adrienne hát.
Tôi chờ nghe em lên tiếng nói!
Cầu sao cho giọng nói của em hãy dội lên dóng dả dưới những vòm cung điện này, và xua đuổi những thần linh đang day vò đầu óc tôi, dù là thần thiêng liêng hay ác hại!” Nàng lặp lại những lời và điệu hát: |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | – "Chẳng lẽ em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?"
– Sylvie, Sylvie, anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường!
– "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và em sẽ không còn hát chúng nữa.”
Sylvie ngân lên vài thanh âm một điệu nhạc lớn kịch trường… Hỡi ôi nàng uốn giọng cao kỳ!
Chúng tôi đã đi vòng những hồ nước bên.
Đây đồng cỏ xanh lục, xung quanh sum sê bồ đề và tiểu du, tại đây chúng tôi xưa kia từng đã múa vòng bao phen!
Tôi thở cơn tự ái, lên tiếng định nghĩa những hàng chữ trên những bức tường carlovingiens (thuộc thời đại các vua chúa Carlovingiens) và giải thích những huy hiệu huy chương nhà họ Este.
Anh đọc sách hơn em nhiều quá!
Thế thì té ra anh là một nhà thông thái?”
Tôi hơi tức vì giọng nói pha ý phiền trách của nàng.
Trước lúc bấy giờ, tôi vẫn loay hoay kiếm chừng một chỗ thích hợp để nói trở lại câu chuyện tâm sự buổi sáng; nhưng biết nói gì với nàng: phía sau, một con lừa lẽo đẽo hai tai, và một thằng bé tò mò tinh ranh, cứ thích len lỏi mò tới gần bên để nghe cái lối nói của ông kẻ chợ Parisien.
Và thế đó, tôi đã không may mở miệng kể lại cho nàng nghe sự hiển hiện kỳ ảo tại Châalis, hiện còn nằm trong kỷ niệm của tôi.
Tôi dẫn Sylvie vào chính cái căn phòng bữa trước, tại ngay cái chỗ tôi đã nghe Adrienne hát.
Tôi chờ nghe em lên tiếng nói!
Cầu sao cho giọng nói của em hãy dội lên dóng dả dưới những vòm cung điện này, và xua đuổi những thần linh đang day vò đầu óc tôi, dù là thần thiêng liêng hay ác hại!” Nàng lặp lại những lời và điệu hát: | Hỡi thiên thần, hay mau mau giáng hiện
Xuống tận cùng tĩnh-tội-giới thâm sâu…
"Thật là buồn bã!"
"Thật là tuyệt diệu… Anh tưởng đó là của Porpora, với những vần thơ được phiên dịch vào thế kỷ mười sáu."
"Em chẳng rõ", Sylvie trả lời.
Chúng tôi đã quay trở về băng qua thung lũng, men theo con đường Charlepont mà nông đan thuần phác, chẳng cần biết tới cái lẽ phải trái của từ nguyên, cứ gọi trại ra thành Châllepont.
Sylvie, ngồi trên lưng lừa đã mỏi, tựa mình vào cánh tay tôi.
Con đường vắng vẻ; tôi gắng thử tìm cách nói về những nỗi niềm trong dạ, thật tầm thường, hoặc thình lình lại thốt một tiếng rỗng tuếnh tiểu thuyết, mà – Sylvie ắt có lẽ đã có đọc qua rồi.
Và thế đó, tôi dừng lại theo phong vận rất cổ điển hào hoa, và Sylvie đôi lúc đã tỏ vẻ ngạc nhiên trước những tâm sự phơi bày nửa chừng thoắt dứt.
Lúc tới sát những bờ tường Saint-Sulpice, thì phải coi chừng cái điệu bước, cái cách đi.
Người ta băng qua những nội cỏ ướt át, có những dòng khe uốn éo quanh co.
“Cô tu nữ ra sao?” Tôi thình lình hỏi.
Anh thật là kinh khủng với cô nữ tu của anh… Ồ…!
Thật là… chuyện cô ta, thật có bề không ổn.”
Sylvie không chịu nói thêm lời nào.
Có thật rằng đàn bà cảm thấy được rất rõ rằng một lời nọ, một lời kia, thốt ở trên môi, mà không tuôn từ tấc dạ?
Không thể nghĩ như vậy được.
Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng.
Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương! |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Hỡi thiên thần, hay mau mau giáng hiện
Xuống tận cùng tĩnh-tội-giới thâm sâu…
"Thật là buồn bã!"
"Thật là tuyệt diệu… Anh tưởng đó là của Porpora, với những vần thơ được phiên dịch vào thế kỷ mười sáu."
"Em chẳng rõ", Sylvie trả lời.
Chúng tôi đã quay trở về băng qua thung lũng, men theo con đường Charlepont mà nông đan thuần phác, chẳng cần biết tới cái lẽ phải trái của từ nguyên, cứ gọi trại ra thành Châllepont.
Sylvie, ngồi trên lưng lừa đã mỏi, tựa mình vào cánh tay tôi.
Con đường vắng vẻ; tôi gắng thử tìm cách nói về những nỗi niềm trong dạ, thật tầm thường, hoặc thình lình lại thốt một tiếng rỗng tuếnh tiểu thuyết, mà – Sylvie ắt có lẽ đã có đọc qua rồi.
Và thế đó, tôi dừng lại theo phong vận rất cổ điển hào hoa, và Sylvie đôi lúc đã tỏ vẻ ngạc nhiên trước những tâm sự phơi bày nửa chừng thoắt dứt.
Lúc tới sát những bờ tường Saint-Sulpice, thì phải coi chừng cái điệu bước, cái cách đi.
Người ta băng qua những nội cỏ ướt át, có những dòng khe uốn éo quanh co.
“Cô tu nữ ra sao?” Tôi thình lình hỏi.
Anh thật là kinh khủng với cô nữ tu của anh… Ồ…!
Thật là… chuyện cô ta, thật có bề không ổn.”
Sylvie không chịu nói thêm lời nào.
Có thật rằng đàn bà cảm thấy được rất rõ rằng một lời nọ, một lời kia, thốt ở trên môi, mà không tuôn từ tấc dạ?
Không thể nghĩ như vậy được.
Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng.
Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương! | Không thể nghĩ như vậy được.
Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng.
Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương!
Tôi chẳng quen nổi với sự đó, mặc dù biết rằng có đôi cô chấp thuận một cách có ý thức cái việc để cho thiên hạ lừa dối.
Không cần là thật hay giả.
Nhưng tôi biết làm sao được.
Vả chăng, một mối tình kết giao từ thuở nhỏ, là một cái gì thiêng liêng… Sylvie, tôi đã thấy nàng từ bé, lớn dần dần, đối với tôi cũng là một đứa em gái.
Tôi không thể mở cuộc quyến rũ dã man… Một ý nghĩ khác xuyên qua óc tôi.
“Giờ này, tôi tự nhủ, ở Paris ắt là ta đương ở rạp hát… Thế thì Aurélie (tên cô đào) chiều nay đóng vai tuồng gì?
Hẳn nhiên là nàng thủ vai công chúa trong vở kịch mới.
Ở lớp thứ ba, trông nàng thật là đáng yêu nên cảm kích!...
Và trong cái xen yêu đương ở lớp hai!
Với cái anh chàng một, mặt mày nhăn nhíu…
"Anh đang cơn say suy ngẫm?” Sylvie nói và mở môi hát:
Tại Dammartin có ba cô gái đẹp:
Riêng có một cô đẹp hơn trời mai sớm…
Riêng một cô kiều diễm hơn sớm mai…
“A!
Cô này dã man thật!” Tôi thốt to, thế mà cô dám nói rằng cô không còn biết hát những điệu hát xưa!
“Nếu anh năng lui tới đây nhiều hơn một chút, thì ắt em sẽ nhớ ra nhiều điệu nữa nhưng phải lo nghĩ tới cái gì thiết thực.
Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây.
Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Phần XII
Cha Dodu |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Không thể nghĩ như vậy được.
Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng.
Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương!
Tôi chẳng quen nổi với sự đó, mặc dù biết rằng có đôi cô chấp thuận một cách có ý thức cái việc để cho thiên hạ lừa dối.
Không cần là thật hay giả.
Nhưng tôi biết làm sao được.
Vả chăng, một mối tình kết giao từ thuở nhỏ, là một cái gì thiêng liêng… Sylvie, tôi đã thấy nàng từ bé, lớn dần dần, đối với tôi cũng là một đứa em gái.
Tôi không thể mở cuộc quyến rũ dã man… Một ý nghĩ khác xuyên qua óc tôi.
“Giờ này, tôi tự nhủ, ở Paris ắt là ta đương ở rạp hát… Thế thì Aurélie (tên cô đào) chiều nay đóng vai tuồng gì?
Hẳn nhiên là nàng thủ vai công chúa trong vở kịch mới.
Ở lớp thứ ba, trông nàng thật là đáng yêu nên cảm kích!...
Và trong cái xen yêu đương ở lớp hai!
Với cái anh chàng một, mặt mày nhăn nhíu…
"Anh đang cơn say suy ngẫm?” Sylvie nói và mở môi hát:
Tại Dammartin có ba cô gái đẹp:
Riêng có một cô đẹp hơn trời mai sớm…
Riêng một cô kiều diễm hơn sớm mai…
“A!
Cô này dã man thật!” Tôi thốt to, thế mà cô dám nói rằng cô không còn biết hát những điệu hát xưa!
“Nếu anh năng lui tới đây nhiều hơn một chút, thì ắt em sẽ nhớ ra nhiều điệu nữa nhưng phải lo nghĩ tới cái gì thiết thực.
Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây.
Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Phần XII
Cha Dodu | Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây.
Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Phần XII
Cha Dodu
Tôi sắp trả lời, tôi sắp quỳ xuống bên chân nàng, tôi sắp xin đem dâng tặng nàng ngôi nhà cậu tôi, ngôi nhà tôi có thể chuộc lại được, bởi vì bọn thừa kế chúng tôi đông, và di sản nọ thì còn công hữu; nhưng lúc đó chúng tôi đã về tới Loisy mất rồi.
Bữa ăn tối đang chờ chúng tôi.
Nồi “xúp” nấu hành bốc mùi hương mộc mạc.
Nhiều bạn láng giềng được mời tới dự tiệc của ngày đưa tiễn buổi hội đi.
Tôi bỗng nhận ra ngay một ông tiều phu già, cha Dodu đó, chính ông ngày xưa đã kể cho chúng tôi nghe giữa đêm khuya những chuyện cổ tích thật vui hoặc thật khủng khiếp.
Hết làm nghề mục phu, đưa tin tức, kiểm lâm, ông lại đi chài cá, đi săn trộm thú rừng; cha Dodu, trong những giờ rỗi rảnh cũng đã từng chế tạo những chiếc xe bò hai bánh và những cái máy quáy thịt.
Trong một thời gian khá lâu, ông chuyên làm cái việc đưa dẫn người Anh Cát Lợi đi du lãm vùng Ermenonville, ông dắt họ tới nơi xưa kia Rousseau từng đã tới chiêm niệm, suy tưởng, ông kể lại cho họ nghe những ngày cuối cùng của đời triết gia nọ.
Chính ông xưa kia là thằng bé được vị triết gia nuôi để làm cái công việc là sắp đặt, chia loại các thứ hoa cỏ của mình, chính ông ta là kẻ đã được vị triết gia sai đi ngắt những nhánh độc cần đem về vắt nước vào ly cà phê sữa.
Chủ quán La Croix d’Or không thừa nhận là sự vụ đó có thật; từ đó nảy ra những oán thù kéo dài dậm duộc. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây.
Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Phần XII
Cha Dodu
Tôi sắp trả lời, tôi sắp quỳ xuống bên chân nàng, tôi sắp xin đem dâng tặng nàng ngôi nhà cậu tôi, ngôi nhà tôi có thể chuộc lại được, bởi vì bọn thừa kế chúng tôi đông, và di sản nọ thì còn công hữu; nhưng lúc đó chúng tôi đã về tới Loisy mất rồi.
Bữa ăn tối đang chờ chúng tôi.
Nồi “xúp” nấu hành bốc mùi hương mộc mạc.
Nhiều bạn láng giềng được mời tới dự tiệc của ngày đưa tiễn buổi hội đi.
Tôi bỗng nhận ra ngay một ông tiều phu già, cha Dodu đó, chính ông ngày xưa đã kể cho chúng tôi nghe giữa đêm khuya những chuyện cổ tích thật vui hoặc thật khủng khiếp.
Hết làm nghề mục phu, đưa tin tức, kiểm lâm, ông lại đi chài cá, đi săn trộm thú rừng; cha Dodu, trong những giờ rỗi rảnh cũng đã từng chế tạo những chiếc xe bò hai bánh và những cái máy quáy thịt.
Trong một thời gian khá lâu, ông chuyên làm cái việc đưa dẫn người Anh Cát Lợi đi du lãm vùng Ermenonville, ông dắt họ tới nơi xưa kia Rousseau từng đã tới chiêm niệm, suy tưởng, ông kể lại cho họ nghe những ngày cuối cùng của đời triết gia nọ.
Chính ông xưa kia là thằng bé được vị triết gia nuôi để làm cái công việc là sắp đặt, chia loại các thứ hoa cỏ của mình, chính ông ta là kẻ đã được vị triết gia sai đi ngắt những nhánh độc cần đem về vắt nước vào ly cà phê sữa.
Chủ quán La Croix d’Or không thừa nhận là sự vụ đó có thật; từ đó nảy ra những oán thù kéo dài dậm duộc. | Chủ quán La Croix d’Or không thừa nhận là sự vụ đó có thật; từ đó nảy ra những oán thù kéo dài dậm duộc.
Xưa kia người ta cũng có trách cha Dodu có sở hữu một vài bí ẩn vô tội, như là: chữa lành bệnh bò cái bằng một vài tiết kinh Thánh đọc lộn ngược, hoặc bằng một câu thơ đọc theo lối nói lái, hoặc dùng bàn chân trái mà ra dấu thập giá; nhưng từ lâu ông đã thôi không giở những trò quỷ dị đó nữa - ấy là nhớ kỷ niệm, theo ông nói, nhờ kỷ niệm những buổi trò chuyện của ông Jean-Jacques Rousseau.
Chú đó ư, chú bé Parisien kẻ chợ!
Chú tới đây mục đích là gieo mầm hư hỏng cho gái miền này?
– Tôi ấy à, cha Dodu sao lại nói kỳ cục thế?
– Chú dẫn bọn con gái vào rừng những khi chó sói không lang thang trong đó?
- Cha Dodu ôi, chính cha mới thật là một con sói già đấy nhé.
– Ta là sói chừng nào mà ta tìm ra được cừu gái tơ; nay ta chỉ còn gặp những con dê cái mà thôi, mà dê cái thì chúng biết lối tự vệ thực là tài.
Nhưng còn các chú, các chú là bọn tinh ranh quỷ quái Paris.
Ông Jean-Jacques Rousseau nói thật là có lý: “Con người ta hư hỏng tính tình trong bầu không khí nhiễm độc đô thị phồn hoa.”
"Cha Dodu ơi, cha cũng biết quá rõ là con người ta thì hư hỏng khắp chốn chốn nơi nơi.”
Cha Dodu bèn cất giọng ngâm một điệu ca nhậu nhẹt; người ta cố sức ngăn ông để ông chịu dừng lại, đừng có dấn tới cái đoạn tục tĩu trong bài ca, mà ai ai cũng thuộc lòng cả.
Ông ồ ề buông tuồng hát tuốt hết.
Chúng tôi yêu cầu cô Sylvie hát, cô từ chối, bảo rằng: ở bàn ăn, không ai hát bao giờ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chủ quán La Croix d’Or không thừa nhận là sự vụ đó có thật; từ đó nảy ra những oán thù kéo dài dậm duộc.
Xưa kia người ta cũng có trách cha Dodu có sở hữu một vài bí ẩn vô tội, như là: chữa lành bệnh bò cái bằng một vài tiết kinh Thánh đọc lộn ngược, hoặc bằng một câu thơ đọc theo lối nói lái, hoặc dùng bàn chân trái mà ra dấu thập giá; nhưng từ lâu ông đã thôi không giở những trò quỷ dị đó nữa - ấy là nhớ kỷ niệm, theo ông nói, nhờ kỷ niệm những buổi trò chuyện của ông Jean-Jacques Rousseau.
Chú đó ư, chú bé Parisien kẻ chợ!
Chú tới đây mục đích là gieo mầm hư hỏng cho gái miền này?
– Tôi ấy à, cha Dodu sao lại nói kỳ cục thế?
– Chú dẫn bọn con gái vào rừng những khi chó sói không lang thang trong đó?
- Cha Dodu ôi, chính cha mới thật là một con sói già đấy nhé.
– Ta là sói chừng nào mà ta tìm ra được cừu gái tơ; nay ta chỉ còn gặp những con dê cái mà thôi, mà dê cái thì chúng biết lối tự vệ thực là tài.
Nhưng còn các chú, các chú là bọn tinh ranh quỷ quái Paris.
Ông Jean-Jacques Rousseau nói thật là có lý: “Con người ta hư hỏng tính tình trong bầu không khí nhiễm độc đô thị phồn hoa.”
"Cha Dodu ơi, cha cũng biết quá rõ là con người ta thì hư hỏng khắp chốn chốn nơi nơi.”
Cha Dodu bèn cất giọng ngâm một điệu ca nhậu nhẹt; người ta cố sức ngăn ông để ông chịu dừng lại, đừng có dấn tới cái đoạn tục tĩu trong bài ca, mà ai ai cũng thuộc lòng cả.
Ông ồ ề buông tuồng hát tuốt hết.
Chúng tôi yêu cầu cô Sylvie hát, cô từ chối, bảo rằng: ở bàn ăn, không ai hát bao giờ. | Ông ồ ề buông tuồng hát tuốt hết.
Chúng tôi yêu cầu cô Sylvie hát, cô từ chối, bảo rằng: ở bàn ăn, không ai hát bao giờ.
Tôi đã có để ý thấy anh chàng si cô, gặp đêm trước, nay được ngồi cạnh cô, phía bên trái.
Hình như có cái gì đó trong khuôn mặt anh ta, khuôn mặt tròn vo, có cái gì đó trong đầu tóc rối bơ phờ, coi có vẻ quen quen.
Anh ta đứng lên, tới phía sau chiếc ghế tôi ngồi, nói: “Chú không nhận ra được tôi sao, chú Parisien?” Một người đàn bà, vừa trở vào phòng lúc ăn dessert, sau khi đã loay hoay dọn tiệc cho chúng tôi, lại gần ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Cậu không nhận ra người anh em bạn sữa của cậu sao?” Nếu không có lời nhắc nhở đó, ắt tôi đã ngu ngơ lố bịch mất rồi.
Tôi thốt, chính anh rồi, chính cái chàng đã kéo tôi ra khỏi cơn niết nước!” Sylvie cười rộ lên.
Đó là không kể, chú ta hôn tôi và nói, không kể cái sự việc này: thuở đó, chú có một cái đồng hồ trái quít bằng bạc thật đẹp, và lúc quay về nhà, chú lo lắng cho cái đồng hồ đó nhiều hơn lo lắng cho thân chú, bởi vì cái đồng hồ đó đã ngừng chạy.
Chú nói: “Con thú vật nó chếết đuốốối rồi, nó không kêu tích tắc nữa, cậu sẽ ngầy ngà tôi…”
"Một con thú vật ở trong một cái đồng hồ trái quít!"
Cha Dodu nói, "đó đó, người ta bày dạy cho con trẻ như rứa đó ở Paris!"
Sylvie buồn ngủ, tôi nhận thấy rằng tôi chẳng còn chiếm giữ chút gì trong trí óc nàng nữa.
Nàng lên phòng, và trong lúc tôi hôn nàng, nàng nói: “Ngày mai, anh ghé lại chơi!” |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Ông ồ ề buông tuồng hát tuốt hết.
Chúng tôi yêu cầu cô Sylvie hát, cô từ chối, bảo rằng: ở bàn ăn, không ai hát bao giờ.
Tôi đã có để ý thấy anh chàng si cô, gặp đêm trước, nay được ngồi cạnh cô, phía bên trái.
Hình như có cái gì đó trong khuôn mặt anh ta, khuôn mặt tròn vo, có cái gì đó trong đầu tóc rối bơ phờ, coi có vẻ quen quen.
Anh ta đứng lên, tới phía sau chiếc ghế tôi ngồi, nói: “Chú không nhận ra được tôi sao, chú Parisien?” Một người đàn bà, vừa trở vào phòng lúc ăn dessert, sau khi đã loay hoay dọn tiệc cho chúng tôi, lại gần ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Cậu không nhận ra người anh em bạn sữa của cậu sao?” Nếu không có lời nhắc nhở đó, ắt tôi đã ngu ngơ lố bịch mất rồi.
Tôi thốt, chính anh rồi, chính cái chàng đã kéo tôi ra khỏi cơn niết nước!” Sylvie cười rộ lên.
Đó là không kể, chú ta hôn tôi và nói, không kể cái sự việc này: thuở đó, chú có một cái đồng hồ trái quít bằng bạc thật đẹp, và lúc quay về nhà, chú lo lắng cho cái đồng hồ đó nhiều hơn lo lắng cho thân chú, bởi vì cái đồng hồ đó đã ngừng chạy.
Chú nói: “Con thú vật nó chếết đuốốối rồi, nó không kêu tích tắc nữa, cậu sẽ ngầy ngà tôi…”
"Một con thú vật ở trong một cái đồng hồ trái quít!"
Cha Dodu nói, "đó đó, người ta bày dạy cho con trẻ như rứa đó ở Paris!"
Sylvie buồn ngủ, tôi nhận thấy rằng tôi chẳng còn chiếm giữ chút gì trong trí óc nàng nữa.
Nàng lên phòng, và trong lúc tôi hôn nàng, nàng nói: “Ngày mai, anh ghé lại chơi!” | Sylvie buồn ngủ, tôi nhận thấy rằng tôi chẳng còn chiếm giữ chút gì trong trí óc nàng nữa.
Nàng lên phòng, và trong lúc tôi hôn nàng, nàng nói: “Ngày mai, anh ghé lại chơi!”
Cha Dodu ở nán lại bàn tiệc với Sylvain và anh em bạn sữa của tôi; chúng tôi nói chuyện rất lâu, quanh một chai rượu thuốc.
“Con người ta bình đẳng, cha Dodu nói giữa hai khúc ca ngâm, ta uống rượu với một gã làm bánh ngọt, cũng hệt như ta ngồi yến ẩm với một ông hoàng, bà chúa tiểu thư.
– Gã làm bánh ngọt là ai ở đâu?
– Hãy nhìn bên cạnh chú thì thấy!
Một thằng làm bánh ngọt lại có tham vọng lập gia đình.”
Người anh bạn sữa của tôi có vẻ bối rối.
Tôi đã hiểu hết mất rồi.
- Thật là một định mệnh tai quái dành cho tôi: có một người anh em bạn sữa tại một vùng lẫy lừng tăm tiến bởi Rousseau – cái người đã chủ trương bãi bỏ tệ đoan kiếm người mẹ vú!
– Cha Dodu nói cho tôi biết rằng sự vụ đã thành vấn đề: đám cưới Sylvie với chàng cao tóc quăn, anh chàng có ý định lập nghiệp, dựng một cửa hàng làm và bán bánh ngọt tại Dammartin.
Tôi không còn biết dò hỏi chi hơn.
Tôi không phải yêu sách ai cái gì nữa nữa.
Qua ngày hôm sau, chiếc xe Nanteuil-le-Haudoin chở tôi về trở lại Paris.
- Chiếc xe đi có tới năm tiếng đồng hồ.
Tôi chỉ gấp về là về tới cho kịp chiều nay.
Vào khoảng tám giờ, tôi đã ngồi chững chạc trong căn phòng quen thuộc từ bao.
Aurélie reo rắc nguồn tươi vui cảm hứng và vẻ kiều diễm thu hút của mình trên những câu thơ không tuyệt diệu mấy của Schiller. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Sylvie buồn ngủ, tôi nhận thấy rằng tôi chẳng còn chiếm giữ chút gì trong trí óc nàng nữa.
Nàng lên phòng, và trong lúc tôi hôn nàng, nàng nói: “Ngày mai, anh ghé lại chơi!”
Cha Dodu ở nán lại bàn tiệc với Sylvain và anh em bạn sữa của tôi; chúng tôi nói chuyện rất lâu, quanh một chai rượu thuốc.
“Con người ta bình đẳng, cha Dodu nói giữa hai khúc ca ngâm, ta uống rượu với một gã làm bánh ngọt, cũng hệt như ta ngồi yến ẩm với một ông hoàng, bà chúa tiểu thư.
– Gã làm bánh ngọt là ai ở đâu?
– Hãy nhìn bên cạnh chú thì thấy!
Một thằng làm bánh ngọt lại có tham vọng lập gia đình.”
Người anh bạn sữa của tôi có vẻ bối rối.
Tôi đã hiểu hết mất rồi.
- Thật là một định mệnh tai quái dành cho tôi: có một người anh em bạn sữa tại một vùng lẫy lừng tăm tiến bởi Rousseau – cái người đã chủ trương bãi bỏ tệ đoan kiếm người mẹ vú!
– Cha Dodu nói cho tôi biết rằng sự vụ đã thành vấn đề: đám cưới Sylvie với chàng cao tóc quăn, anh chàng có ý định lập nghiệp, dựng một cửa hàng làm và bán bánh ngọt tại Dammartin.
Tôi không còn biết dò hỏi chi hơn.
Tôi không phải yêu sách ai cái gì nữa nữa.
Qua ngày hôm sau, chiếc xe Nanteuil-le-Haudoin chở tôi về trở lại Paris.
- Chiếc xe đi có tới năm tiếng đồng hồ.
Tôi chỉ gấp về là về tới cho kịp chiều nay.
Vào khoảng tám giờ, tôi đã ngồi chững chạc trong căn phòng quen thuộc từ bao.
Aurélie reo rắc nguồn tươi vui cảm hứng và vẻ kiều diễm thu hút của mình trên những câu thơ không tuyệt diệu mấy của Schiller. | Aurélie reo rắc nguồn tươi vui cảm hứng và vẻ kiều diễm thu hút của mình trên những câu thơ không tuyệt diệu mấy của Schiller.
Trong cái xen vườn lá mộng, nàng trở nên tài tình trác tuyệt, phát tiết hết tinh anh.
Lớp bốn, nàng sẽ không hiện ra sân khấu, trong thời gian đó, tôi chạy đi mua một đóa hoa tại hàng bà Prévost.
Tôi bỏ vào trong đó một lá thư âu yếm, ký tên: một người không quen biết.
Tôi tự nhủ: “Đó là một cái gì yên định, gắn kết cho mai sau”, - và qua ngày mai, tôi lên đường đi qua nước Đức.
Tôi qua non nước đó làm chi!
Để thử gắng xếp đặt ổn đáng cho những lớp tơ tình.
Nếu tôi viết một cuốn tiểu thuyết, ắt chẳng bao giờ tôi có thể làm độc giả chấp thuận một chuyện tình của một trái tim đồng thời si mê hai hồng nhan một lúc.
Tôi mất Sylvie là lỗi tại tôi.
Nhưng tái ngộ một ngày đã đủ làm cho tinh thần tôi phấn phát; từ nay, tôi sẽ đặt nàng riêng một cõi, như một bức tượng với một nụ cười hiền hậu bao dung, trong điện đại Hà Thánh Khiết Hiền Thanh.
Cái nhìn của nàng đã cầm giữ tôi lại trước bờ hố thẳm.
Tôi càng xô đuổi mãnh liệt hơn nữa, cái ý tưởng đi tìm hội kiến Aurélie, để mà tranh chấp một phút với bao nhiêu kẻ tầm thường đang yêu nàng, đã sáng chói một lúc ở bên nàng rồi rụng rơi lả tả.
Một ngày nào, tôi tự nhủ, một ngày nào ta sẽ biết người thiếu nữ nọ, có hay không có, một trái tim.
Một buổi sáng, tôi đọc nhật báo thấy nói rằng Aurélie lâm bệnh.
Tôi viết thư cho nàng, từ những rặng núi tại Salzbourg. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Aurélie reo rắc nguồn tươi vui cảm hứng và vẻ kiều diễm thu hút của mình trên những câu thơ không tuyệt diệu mấy của Schiller.
Trong cái xen vườn lá mộng, nàng trở nên tài tình trác tuyệt, phát tiết hết tinh anh.
Lớp bốn, nàng sẽ không hiện ra sân khấu, trong thời gian đó, tôi chạy đi mua một đóa hoa tại hàng bà Prévost.
Tôi bỏ vào trong đó một lá thư âu yếm, ký tên: một người không quen biết.
Tôi tự nhủ: “Đó là một cái gì yên định, gắn kết cho mai sau”, - và qua ngày mai, tôi lên đường đi qua nước Đức.
Tôi qua non nước đó làm chi!
Để thử gắng xếp đặt ổn đáng cho những lớp tơ tình.
Nếu tôi viết một cuốn tiểu thuyết, ắt chẳng bao giờ tôi có thể làm độc giả chấp thuận một chuyện tình của một trái tim đồng thời si mê hai hồng nhan một lúc.
Tôi mất Sylvie là lỗi tại tôi.
Nhưng tái ngộ một ngày đã đủ làm cho tinh thần tôi phấn phát; từ nay, tôi sẽ đặt nàng riêng một cõi, như một bức tượng với một nụ cười hiền hậu bao dung, trong điện đại Hà Thánh Khiết Hiền Thanh.
Cái nhìn của nàng đã cầm giữ tôi lại trước bờ hố thẳm.
Tôi càng xô đuổi mãnh liệt hơn nữa, cái ý tưởng đi tìm hội kiến Aurélie, để mà tranh chấp một phút với bao nhiêu kẻ tầm thường đang yêu nàng, đã sáng chói một lúc ở bên nàng rồi rụng rơi lả tả.
Một ngày nào, tôi tự nhủ, một ngày nào ta sẽ biết người thiếu nữ nọ, có hay không có, một trái tim.
Một buổi sáng, tôi đọc nhật báo thấy nói rằng Aurélie lâm bệnh.
Tôi viết thư cho nàng, từ những rặng núi tại Salzbourg. | Một buổi sáng, tôi đọc nhật báo thấy nói rằng Aurélie lâm bệnh.
Tôi viết thư cho nàng, từ những rặng núi tại Salzbourg.
Lá thư nhuốm đầy chất thần bí Nhật Nhĩ Man, thì hẳn là tôi không thể mong đợi thành công gì cho lắm, nhưng cũng không đòi hỏi được hồi âm.
Tôi đặt niềm tin nơi rủi may ngẫu nhĩ và nơi những kỳ ngộ khôn dò.
Qua những bận phiêu dạt ngược xuôi, và những giờ rảnh rỗi, tôi đã định ghi tạc trong một vở kịch thơ những ân tình của nhà hội họa Colonna đối với giai nhân Laura, nàng Laura bị cha mẹ đưa vào con đường tu khổ hạnh, nàng Laura mà họa sĩ yêu cho tới lúc chết.
Có gì trong sự đó liên can tới những mối triền miên chuyên niệm của tôi.
Viết xong câu thơ cuối của vở kịch, tôi chỉ còn nghĩ tới việc quay trở về Pháp.
Còn biết nói chi nữa bây giờ?
Nói gì mà không là câu chuyện của bao người?
Tôi đã kinh qua hết thảy mọi vần xoay xuôi ngược trong những miền thử thách mà thiên hạ gọi là kịch trường.
“Tôi đã ăn vào trong mình tiếng trống chiêng, và uống vào trong mình giọng chũm chọe” như lời nói, hầu như không có nghĩa gì rõ, của những kẻ đã thụ pháp nữ thần Cérès tại Eleusis.
Câu đó chắc hẳn là có nghĩa rằng: nếu cần, phải vượt qua biên giới của cái vô nghĩa và lẽ phi lý: cái lý đối với tôi, là: chinh phục và ghi tạc hình bóng lý tưởng của mộng tưởng Lý tôi.
Aurélie đã chấp nhận thủ vai chính trong vở kịch của tôi mang từ nước Đức trở về.
Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày nàng cho phép tôi đọc vở kịch cho nàng nghe. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Một buổi sáng, tôi đọc nhật báo thấy nói rằng Aurélie lâm bệnh.
Tôi viết thư cho nàng, từ những rặng núi tại Salzbourg.
Lá thư nhuốm đầy chất thần bí Nhật Nhĩ Man, thì hẳn là tôi không thể mong đợi thành công gì cho lắm, nhưng cũng không đòi hỏi được hồi âm.
Tôi đặt niềm tin nơi rủi may ngẫu nhĩ và nơi những kỳ ngộ khôn dò.
Qua những bận phiêu dạt ngược xuôi, và những giờ rảnh rỗi, tôi đã định ghi tạc trong một vở kịch thơ những ân tình của nhà hội họa Colonna đối với giai nhân Laura, nàng Laura bị cha mẹ đưa vào con đường tu khổ hạnh, nàng Laura mà họa sĩ yêu cho tới lúc chết.
Có gì trong sự đó liên can tới những mối triền miên chuyên niệm của tôi.
Viết xong câu thơ cuối của vở kịch, tôi chỉ còn nghĩ tới việc quay trở về Pháp.
Còn biết nói chi nữa bây giờ?
Nói gì mà không là câu chuyện của bao người?
Tôi đã kinh qua hết thảy mọi vần xoay xuôi ngược trong những miền thử thách mà thiên hạ gọi là kịch trường.
“Tôi đã ăn vào trong mình tiếng trống chiêng, và uống vào trong mình giọng chũm chọe” như lời nói, hầu như không có nghĩa gì rõ, của những kẻ đã thụ pháp nữ thần Cérès tại Eleusis.
Câu đó chắc hẳn là có nghĩa rằng: nếu cần, phải vượt qua biên giới của cái vô nghĩa và lẽ phi lý: cái lý đối với tôi, là: chinh phục và ghi tạc hình bóng lý tưởng của mộng tưởng Lý tôi.
Aurélie đã chấp nhận thủ vai chính trong vở kịch của tôi mang từ nước Đức trở về.
Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày nàng cho phép tôi đọc vở kịch cho nàng nghe. | Aurélie đã chấp nhận thủ vai chính trong vở kịch của tôi mang từ nước Đức trở về.
Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày nàng cho phép tôi đọc vở kịch cho nàng nghe.
Những xen ân tình đều soạn sửa thể theo hồn em đó, thưa em.
Tôi tưởng mình đã đọc với hết cả tâm hồn, và nhất là đọc với niềm say mê phấn chấn.
Tiếp sau đó, tôi cho nàng rõ: cái người không quen biết trong hai lá thư chính là tôi.
Nàng bảo: “Anh thật là điên; nhưng mai kia hãy trở lại thăm tôi nhé… Tôi chả bao giờ gặp được một kẻ biết yêu tôi.”
Ôi người phụ nữ!
Em tìm kiếm tình yêu… Còn tôi, ấy vậy?
Những ngày sau đó, tôi viết những lá thư âu yếm nhất đời, những lá thư đẹp nhất mà bình sinh chắc hẳn nàng đã nhận được, có lẽ.
Tôi nhận được những lá hồi âm đầy lý tính.
Một phen, nàng cảm động, gọi tôi lại gần, và thú thật với tôi rằng khó mà dứt bỏ một niềm luyến ái xưa cũ hơn.
"Nếu quả thật vì tôi mà anh yêu tôi", nàng nói, "thì anh sẽ hiểu rằng tôi tôi chỉ có thể là bạn trăm năm của một kẻ duy nhất mà thôi."
Hai tháng sau, tôi nhận được một lá thư chan chứa.
Trong khoảng thời gian hai tháng đó, có kẻ cho tôi biết một chi tiết quý báu.
Chàng trai đẹp đẽ mà tôi đã từng gặp một lần tại câu lạc bộ, chàng đó đã đầu vào kỵ binh tại Algérie.
Mùa hè năm sau, có nhiều chuyến xê dịch về Chantilly.
Ban kịch sĩ cùng bọn với Aurélie trình diễn tại đó.
Theo lệnh người giám đốc ban kịch, bọn kịch sĩ lưu lại Chantilly ba hôm.
Tôi may mắn đã quen thân với ông giám đốc này từ trước.
Ông có cách điệu của nòi, có “lửa”. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Aurélie đã chấp nhận thủ vai chính trong vở kịch của tôi mang từ nước Đức trở về.
Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày nàng cho phép tôi đọc vở kịch cho nàng nghe.
Những xen ân tình đều soạn sửa thể theo hồn em đó, thưa em.
Tôi tưởng mình đã đọc với hết cả tâm hồn, và nhất là đọc với niềm say mê phấn chấn.
Tiếp sau đó, tôi cho nàng rõ: cái người không quen biết trong hai lá thư chính là tôi.
Nàng bảo: “Anh thật là điên; nhưng mai kia hãy trở lại thăm tôi nhé… Tôi chả bao giờ gặp được một kẻ biết yêu tôi.”
Ôi người phụ nữ!
Em tìm kiếm tình yêu… Còn tôi, ấy vậy?
Những ngày sau đó, tôi viết những lá thư âu yếm nhất đời, những lá thư đẹp nhất mà bình sinh chắc hẳn nàng đã nhận được, có lẽ.
Tôi nhận được những lá hồi âm đầy lý tính.
Một phen, nàng cảm động, gọi tôi lại gần, và thú thật với tôi rằng khó mà dứt bỏ một niềm luyến ái xưa cũ hơn.
"Nếu quả thật vì tôi mà anh yêu tôi", nàng nói, "thì anh sẽ hiểu rằng tôi tôi chỉ có thể là bạn trăm năm của một kẻ duy nhất mà thôi."
Hai tháng sau, tôi nhận được một lá thư chan chứa.
Trong khoảng thời gian hai tháng đó, có kẻ cho tôi biết một chi tiết quý báu.
Chàng trai đẹp đẽ mà tôi đã từng gặp một lần tại câu lạc bộ, chàng đó đã đầu vào kỵ binh tại Algérie.
Mùa hè năm sau, có nhiều chuyến xê dịch về Chantilly.
Ban kịch sĩ cùng bọn với Aurélie trình diễn tại đó.
Theo lệnh người giám đốc ban kịch, bọn kịch sĩ lưu lại Chantilly ba hôm.
Tôi may mắn đã quen thân với ông giám đốc này từ trước.
Ông có cách điệu của nòi, có “lửa”. | Theo lệnh người giám đốc ban kịch, bọn kịch sĩ lưu lại Chantilly ba hôm.
Tôi may mắn đã quen thân với ông giám đốc này từ trước.
Ông có cách điệu của nòi, có “lửa”.
Tôi theo ban kịch với danh nghĩa lãnh chúa thi nhân: tôi bàn với viên giám đốc, tôi thuyết phục ông, khuyên ông nên mở nhiều cuộc trình diễn tại Senlis và Dammartin.
Ông ta thì có ý chọn quận Compiègne; nhưng Aurélie lại biểu đồng tình với tôi.
Qua ngày hôm sau trong khi người ta lo đi điều đình với các nhà chủ cho mướn phòng, với các nhà cầm quyền địa phương, thì tôi lo thuê ngựa, và chúng tôi lên đường theo con lộ về những hồ nước Commelle để đi ăn điểm tâm tại lâu đài bà chúa Bạch.
Aurélie, ăn vận theo lối nữ kỵ sĩ, với làn tóc óng ả tung bay, vượt qua rừng trông giống như một nữ chúa thời xưa, và các nông dân dừng lại nhìn, ngây ngất.
Bà bá tước F… là người phụ nữ duy nhất họ được thấy, đã có cái phong độ uy nghiêm và kiều lệ tới mức đó, trong cái điệu chào phong vận thế kia… Sau bữa ăn, chúng tôi phi ngựa xuống các thôn làng na ná làng thôn Thụy Sĩ.
Tại đây giòng khe Nonette đang xô sóng về cho vận động các xưởng máy cưa.
Những cảnh tượng đó thân yêu xiết bao đối với tôi, nàng cũng lưu ý hân hoan, nhưng không dừng chân nán lại.
Tôi đã định dẫn Aurélie vào viếng cung điện, gần hạt Orry, ngay trên nội cỏ xanh mà xưa kia tôi đã được ngắm nhìn Adrienne lần thứ nhất.
Nàng chẳng có vẻ chi là kích động cả. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Theo lệnh người giám đốc ban kịch, bọn kịch sĩ lưu lại Chantilly ba hôm.
Tôi may mắn đã quen thân với ông giám đốc này từ trước.
Ông có cách điệu của nòi, có “lửa”.
Tôi theo ban kịch với danh nghĩa lãnh chúa thi nhân: tôi bàn với viên giám đốc, tôi thuyết phục ông, khuyên ông nên mở nhiều cuộc trình diễn tại Senlis và Dammartin.
Ông ta thì có ý chọn quận Compiègne; nhưng Aurélie lại biểu đồng tình với tôi.
Qua ngày hôm sau trong khi người ta lo đi điều đình với các nhà chủ cho mướn phòng, với các nhà cầm quyền địa phương, thì tôi lo thuê ngựa, và chúng tôi lên đường theo con lộ về những hồ nước Commelle để đi ăn điểm tâm tại lâu đài bà chúa Bạch.
Aurélie, ăn vận theo lối nữ kỵ sĩ, với làn tóc óng ả tung bay, vượt qua rừng trông giống như một nữ chúa thời xưa, và các nông dân dừng lại nhìn, ngây ngất.
Bà bá tước F… là người phụ nữ duy nhất họ được thấy, đã có cái phong độ uy nghiêm và kiều lệ tới mức đó, trong cái điệu chào phong vận thế kia… Sau bữa ăn, chúng tôi phi ngựa xuống các thôn làng na ná làng thôn Thụy Sĩ.
Tại đây giòng khe Nonette đang xô sóng về cho vận động các xưởng máy cưa.
Những cảnh tượng đó thân yêu xiết bao đối với tôi, nàng cũng lưu ý hân hoan, nhưng không dừng chân nán lại.
Tôi đã định dẫn Aurélie vào viếng cung điện, gần hạt Orry, ngay trên nội cỏ xanh mà xưa kia tôi đã được ngắm nhìn Adrienne lần thứ nhất.
Nàng chẳng có vẻ chi là kích động cả. | Tôi đã định dẫn Aurélie vào viếng cung điện, gần hạt Orry, ngay trên nội cỏ xanh mà xưa kia tôi đã được ngắm nhìn Adrienne lần thứ nhất.
Nàng chẳng có vẻ chi là kích động cả.
Thế rồi, tôi kể lại hết cho nàng nghe, tôi nói cho nàng biết cội nguồn của mối tình tôi, thoáng nhìn một lần đầu tiên trong đêm tối, chiêm bao tơ tưởng mãi về sau, cuối cùng cũng được thành tựu nơi nàng đó ạ.
Nàng chăm chú lắng nghe và bảo: “Anh không yêu tôi!
Anh chờ nghe tôi nói: “Cô đào hát và nàng tu nữ cũng là một”; anh đi tìm một bi kịch bơ vơ, thật là như vậy, chỉ có thế thôi, nhưng xen kết thúc, anh không thể nắm được.
Thôi, tôi không còn tin anh nữa.”
Lời nói đó là một tia chớp lóe.
Những phấn kích dị thường tôi cảm thụ từ bao lâu, những mộng tưởng ước mơ kia, những giòng lệ kia, những niềm tuyệt vọng và âu yếm kia… vậy là không phải tình yêu chăng?
Thế thì tình yêu là cái gì?
Đêm đó, Aurélie trình diễn tại Senlis.
Tôi tưởng nhận thấy nàng có niềm thiên ái đối với viên giám đốc kịch trường.
Ông ta tính tình thật tốt và đã giúp đỡ nàng nhiều.
Một ngày kia Aurélie nói với tôi: “Kẻ yêu tôi, chính là ông ấy.”
Phần XIV
Tờ cuối
Như vậy đó là những ảo mộng quyến rũ lung lạc và ê hoặc trong buổi thanh xuân của đời sống.
Tôi đã thử gắng ghi tạc chúng một cách không thứ tự gì lắm, nhưng nhiều tâm hồn sẽ hiểu tôi.
Những ảo tưởng cứ nối đuôi nhau mà rơi rụng, giống như lớp vỏ một trái cây, và trái cây, ấy là duyệt lịch. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi đã định dẫn Aurélie vào viếng cung điện, gần hạt Orry, ngay trên nội cỏ xanh mà xưa kia tôi đã được ngắm nhìn Adrienne lần thứ nhất.
Nàng chẳng có vẻ chi là kích động cả.
Thế rồi, tôi kể lại hết cho nàng nghe, tôi nói cho nàng biết cội nguồn của mối tình tôi, thoáng nhìn một lần đầu tiên trong đêm tối, chiêm bao tơ tưởng mãi về sau, cuối cùng cũng được thành tựu nơi nàng đó ạ.
Nàng chăm chú lắng nghe và bảo: “Anh không yêu tôi!
Anh chờ nghe tôi nói: “Cô đào hát và nàng tu nữ cũng là một”; anh đi tìm một bi kịch bơ vơ, thật là như vậy, chỉ có thế thôi, nhưng xen kết thúc, anh không thể nắm được.
Thôi, tôi không còn tin anh nữa.”
Lời nói đó là một tia chớp lóe.
Những phấn kích dị thường tôi cảm thụ từ bao lâu, những mộng tưởng ước mơ kia, những giòng lệ kia, những niềm tuyệt vọng và âu yếm kia… vậy là không phải tình yêu chăng?
Thế thì tình yêu là cái gì?
Đêm đó, Aurélie trình diễn tại Senlis.
Tôi tưởng nhận thấy nàng có niềm thiên ái đối với viên giám đốc kịch trường.
Ông ta tính tình thật tốt và đã giúp đỡ nàng nhiều.
Một ngày kia Aurélie nói với tôi: “Kẻ yêu tôi, chính là ông ấy.”
Phần XIV
Tờ cuối
Như vậy đó là những ảo mộng quyến rũ lung lạc và ê hoặc trong buổi thanh xuân của đời sống.
Tôi đã thử gắng ghi tạc chúng một cách không thứ tự gì lắm, nhưng nhiều tâm hồn sẽ hiểu tôi.
Những ảo tưởng cứ nối đuôi nhau mà rơi rụng, giống như lớp vỏ một trái cây, và trái cây, ấy là duyệt lịch. | Tôi đã thử gắng ghi tạc chúng một cách không thứ tự gì lắm, nhưng nhiều tâm hồn sẽ hiểu tôi.
Những ảo tưởng cứ nối đuôi nhau mà rơi rụng, giống như lớp vỏ một trái cây, và trái cây, ấy là duyệt lịch.
Hương vị nó đắng chua; tuy nhiên, cũng có một chất gì chát chát làm vững mạnh thêm – xin người hãy tha thứ cái lối nói sáo hủ đó của tôi.
Rousseau bảo rằng cảnh tượng thiên nhiên tồn lưu an ủi được mọi thứ.
Đôi lúc tôi tìm gặp lại những cụm rừng Clarens thân thuộc, lẫn bóng trong sương mờ, ở phía Bắc Paris.
Mọi thứ đó đã thay đổi xiết bao!
Xứ sở mơ màng còn đủ chỗ cho những luyến ái cổ kính, cho những tình duyên thuần khiết đâm bông hồi sinh trong hoài niệm, cứ như lời Hồng Lĩnh bảo Châu Phong – Ermenonville!
Ngươi đã đánh mất ngôi sao duy nhất của ngươi rồi, ngôi sao từng đã lấp lánh hai tia ngời trước con mắt của ta.
Lúc xanh lúc tía, khi lục khi hồng, như vì tinh tú mê hoặc của Aldebaran ấy là Adrienne, ấy là Sylvie, ấy là hai cánh song song phiêu bồng của một tình yêu duy nhất.
Một bên là lý tưởng tuyệt luân, một bên là thực tại êm đềm.
Còn có nghĩa gì nữa với ta ngày nay, Ermenonville!
Hỡi những cụm mây, chùm lá, và những mặt hồ và ngay cả sa mạc hoang liêu của ngươi còn nói gì với ta nữa ngày nay?
Othys, Montagny, Loisy, những thôn làng lang thang lân cận, Châalis – mà thiên hạ đang trùng tu – các ngươi chẳng còn gìn giữ chút gì của quá khứ kia!
Đôi lúc ta cần về viếng lại những nơi chốn nọ của tịch mịch mơ mòng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi đã thử gắng ghi tạc chúng một cách không thứ tự gì lắm, nhưng nhiều tâm hồn sẽ hiểu tôi.
Những ảo tưởng cứ nối đuôi nhau mà rơi rụng, giống như lớp vỏ một trái cây, và trái cây, ấy là duyệt lịch.
Hương vị nó đắng chua; tuy nhiên, cũng có một chất gì chát chát làm vững mạnh thêm – xin người hãy tha thứ cái lối nói sáo hủ đó của tôi.
Rousseau bảo rằng cảnh tượng thiên nhiên tồn lưu an ủi được mọi thứ.
Đôi lúc tôi tìm gặp lại những cụm rừng Clarens thân thuộc, lẫn bóng trong sương mờ, ở phía Bắc Paris.
Mọi thứ đó đã thay đổi xiết bao!
Xứ sở mơ màng còn đủ chỗ cho những luyến ái cổ kính, cho những tình duyên thuần khiết đâm bông hồi sinh trong hoài niệm, cứ như lời Hồng Lĩnh bảo Châu Phong – Ermenonville!
Ngươi đã đánh mất ngôi sao duy nhất của ngươi rồi, ngôi sao từng đã lấp lánh hai tia ngời trước con mắt của ta.
Lúc xanh lúc tía, khi lục khi hồng, như vì tinh tú mê hoặc của Aldebaran ấy là Adrienne, ấy là Sylvie, ấy là hai cánh song song phiêu bồng của một tình yêu duy nhất.
Một bên là lý tưởng tuyệt luân, một bên là thực tại êm đềm.
Còn có nghĩa gì nữa với ta ngày nay, Ermenonville!
Hỡi những cụm mây, chùm lá, và những mặt hồ và ngay cả sa mạc hoang liêu của ngươi còn nói gì với ta nữa ngày nay?
Othys, Montagny, Loisy, những thôn làng lang thang lân cận, Châalis – mà thiên hạ đang trùng tu – các ngươi chẳng còn gìn giữ chút gì của quá khứ kia!
Đôi lúc ta cần về viếng lại những nơi chốn nọ của tịch mịch mơ mòng. | Đôi lúc ta cần về viếng lại những nơi chốn nọ của tịch mịch mơ mòng.
Ta buồn rầu khêu dậy trong hồn mình những dấu vết thấp thoáng tàn phai của một thời đại mà cái hồn nhiên đã thành kiểu sức; đôi lúc ta mỉm cười đọc lại trên mặt đá nham, trên sườn hông hoa cương thạch, một vài câu thơ của Roucher xưa kia đã có lần ta thấy là tuyệt diệu - hoặc những câu cách ngôn phúc thiện ở phía trên một suối nước, một giòng khe, một thạch động thờ sơn thần Pan.
Những mặt hồ luống công phơi trải làn nước chết, con thiên nga không thèm ghé lội chơi.
Đã qua rồi, cái thời ông hoàng Condé về đây săn bắn; với đoàn Nương Tử cao kiêu cưỡi ngựa, cái thời còi thổi gọi nhau trùng điệp với bao nhiêu tiếng vang dội lại!...
Muốn tới Ermenonville, ngày nay không còn đường tới thẳng.
Đôi lúc tôi về theo ngả Creil và Senlis, đôi lúc theo ngả Dammartin.
Tới Dammartin, bao giờ cũng vào lúc chiều tối.
Tôi mướn phòng ngủ tại khách sạn Image Saint-Jean.
Thường thường người ta cho tôi mướn một căn phòng sạch sẽ, giấy cũ dán tường, một tấm họa treo trên chiếc gương soi.
Ngủ ấm áp dưới tấm nhung mao, bốc mùi chim nhạn biển.
Đó là loại mền thân thuộc của xứ này.
Sáng hôm sau, mở cửa sổ nhìn ra, cửa sổ lòa xòa những nhành nho với tường vi thắm đóng khung, tôi đê mê nhìn một chân trời màu lục phơi trải suốt mười dặm gió dài, với những hàng bạch dương đứng trang nghiêm như những đoàn binh dàn trận.
Vài thôn xóm rải rác đây đó nép mình bên những tháp chuông nhọn hoắt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Đôi lúc ta cần về viếng lại những nơi chốn nọ của tịch mịch mơ mòng.
Ta buồn rầu khêu dậy trong hồn mình những dấu vết thấp thoáng tàn phai của một thời đại mà cái hồn nhiên đã thành kiểu sức; đôi lúc ta mỉm cười đọc lại trên mặt đá nham, trên sườn hông hoa cương thạch, một vài câu thơ của Roucher xưa kia đã có lần ta thấy là tuyệt diệu - hoặc những câu cách ngôn phúc thiện ở phía trên một suối nước, một giòng khe, một thạch động thờ sơn thần Pan.
Những mặt hồ luống công phơi trải làn nước chết, con thiên nga không thèm ghé lội chơi.
Đã qua rồi, cái thời ông hoàng Condé về đây săn bắn; với đoàn Nương Tử cao kiêu cưỡi ngựa, cái thời còi thổi gọi nhau trùng điệp với bao nhiêu tiếng vang dội lại!...
Muốn tới Ermenonville, ngày nay không còn đường tới thẳng.
Đôi lúc tôi về theo ngả Creil và Senlis, đôi lúc theo ngả Dammartin.
Tới Dammartin, bao giờ cũng vào lúc chiều tối.
Tôi mướn phòng ngủ tại khách sạn Image Saint-Jean.
Thường thường người ta cho tôi mướn một căn phòng sạch sẽ, giấy cũ dán tường, một tấm họa treo trên chiếc gương soi.
Ngủ ấm áp dưới tấm nhung mao, bốc mùi chim nhạn biển.
Đó là loại mền thân thuộc của xứ này.
Sáng hôm sau, mở cửa sổ nhìn ra, cửa sổ lòa xòa những nhành nho với tường vi thắm đóng khung, tôi đê mê nhìn một chân trời màu lục phơi trải suốt mười dặm gió dài, với những hàng bạch dương đứng trang nghiêm như những đoàn binh dàn trận.
Vài thôn xóm rải rác đây đó nép mình bên những tháp chuông nhọn hoắt. | Vài thôn xóm rải rác đây đó nép mình bên những tháp chuông nhọn hoắt.
Ta nhìn thấy thôn Othys trước tiên, rồi thôn Eve, thôn Ver, còn thôn Ermenonville?
Nếu Ermenonville có một tháp chuông, ắt ta sẽ nhận ra được ở bên kia khu rừng, nhưng tại chốn tư tưởng triết học nọ, người ta lơ đễnh bỏ quên nhà thờ.
Sau khi hít vào phổi đầy đủ khí mát thuần khiết vo ve trên cao nguyên gió hây hây bình minh, tôi vui vẻ xuống làng thôn thăm chàng bán bánh ngọt.
Chào chú bé bỏng Parisien!” Chúng tôi đấm thoi nhau đôi cái chịu chơi theo thói bé rồi tôi leo lên một chiếc cầu thang lai rai.
Tiếng kêu mừng rỡ của hai đứa bé con bé bỏng bé chị bé em, ríu rít đón tôi.
Nụ cười gái Athénienne của Sylvie làm rạng rỡ khuôn mặt kiều lệ.
“Lời đâu kiều diễm…” Lòng chàng không nguôi, chàng tôi tự bảo mình tôi: “Kia là hạnh phúc, có lẽ; tuy nhiên…”
Đôi lúc tôi gọi nàng bằng tên Lolotte, và nàng thấy tôi có hơi giống Werther.
Trong khi bác tóc quăn cao ráo lo dọn bữa ăn chúng tôi dẫn mấy bé con đi dạo rừng, đi dạo rú, đi dạo dưới bóng cây bồ đề còn đứng đó kiên gan thu góp nhưng mảnh tàn rơi của gạch vụn lãnh cung.
Trong lúc các bé con nô giỡn tập tành bắn cung rơm, cung rạ vào cỏ mọc rạ rơm, với những mũi tên cành nhánh của cha mẹ làm cho, thì chúng tôi đọc vài bài thơ, hoặc vài trang sách mùa thu, mà ngày nay chẳng ai viết nữa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Vài thôn xóm rải rác đây đó nép mình bên những tháp chuông nhọn hoắt.
Ta nhìn thấy thôn Othys trước tiên, rồi thôn Eve, thôn Ver, còn thôn Ermenonville?
Nếu Ermenonville có một tháp chuông, ắt ta sẽ nhận ra được ở bên kia khu rừng, nhưng tại chốn tư tưởng triết học nọ, người ta lơ đễnh bỏ quên nhà thờ.
Sau khi hít vào phổi đầy đủ khí mát thuần khiết vo ve trên cao nguyên gió hây hây bình minh, tôi vui vẻ xuống làng thôn thăm chàng bán bánh ngọt.
Chào chú bé bỏng Parisien!” Chúng tôi đấm thoi nhau đôi cái chịu chơi theo thói bé rồi tôi leo lên một chiếc cầu thang lai rai.
Tiếng kêu mừng rỡ của hai đứa bé con bé bỏng bé chị bé em, ríu rít đón tôi.
Nụ cười gái Athénienne của Sylvie làm rạng rỡ khuôn mặt kiều lệ.
“Lời đâu kiều diễm…” Lòng chàng không nguôi, chàng tôi tự bảo mình tôi: “Kia là hạnh phúc, có lẽ; tuy nhiên…”
Đôi lúc tôi gọi nàng bằng tên Lolotte, và nàng thấy tôi có hơi giống Werther.
Trong khi bác tóc quăn cao ráo lo dọn bữa ăn chúng tôi dẫn mấy bé con đi dạo rừng, đi dạo rú, đi dạo dưới bóng cây bồ đề còn đứng đó kiên gan thu góp nhưng mảnh tàn rơi của gạch vụn lãnh cung.
Trong lúc các bé con nô giỡn tập tành bắn cung rơm, cung rạ vào cỏ mọc rạ rơm, với những mũi tên cành nhánh của cha mẹ làm cho, thì chúng tôi đọc vài bài thơ, hoặc vài trang sách mùa thu, mà ngày nay chẳng ai viết nữa. | Tôi quên nói rằng cái ban kịch cô Aurélie trình diễn một bận tại Dammartin, tôi có dẫn Sylvie đi xem, và tôi có hỏi em có nhận thấy rằng cô đào nọ rất giống một người phụ nữ mà em từng có biết một lần.
– Em còn nhớ chứ, cô Adreinne?”
Nàng cười rộ một tiếng thật to: “Coi tề!” Rồi dường như tự trách mình chi đó, nàng ngậm ngùi buông tiếng thở dài: “Tội quá!
Cô ấy chết tại tu viện Saint-Sulpice, vào năm 1832.”
Láng giềng đệ lục
Láng giềng khu vực xuân ba
Bốn thu bổ túc tam trùng tích ngân
Nguyệt phơi tích biệt in ngần
Lá rung mạc ngoại bé chần chờ chi
Bé Em hải diện biên thùy
Tình trong Bé Chị quyền uy ra ngoài
Trông chừng Khúc Nghệ Bé Choai
Vi từ chỉ dục vọng hoài chỉ ưng (…)
Quy lai phục niệm chưa từng
Tình trong như thể luống từng ở xa
Tót vời tình điệu kiêu sa
Vườn thơm trắng ngát hồn hoa lạc loài
Phục hồi tú cốc sơ khai
Hương trời tự nhiễm bông lài tự dưng.
Một hai năm
Tặng gà vịt một năm sương tuyết
Vịt gà xin ráo riết hai năm
Ngồi suông nhớ mãi đêm rằm
Văn thừa bích lạc nguyệt cầm tiểu man
Đêm mộng mị về hang núi lạnh
Nhìn gấu beo bên cạnh hùm thiêng
Sịch mành trở giấc u miên
Muôn vàn brigitte nằm nghiêng nghiêng cười.
Tình thứ nhất
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ hai ba bốn chín thêm mười
Bờ tang hải biển dâu xô lật úp
Bến phiêu bồng anh lật đật theo đuôi
Anh chỉ có niềm vui trong chốc lát
Và nỗi buồn cũng chốc lát như nhiên
Tình thứ nhất thoảng đi qua thấm thoát
Tới trăm năm còn thấm thoát như thường
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi quên nói rằng cái ban kịch cô Aurélie trình diễn một bận tại Dammartin, tôi có dẫn Sylvie đi xem, và tôi có hỏi em có nhận thấy rằng cô đào nọ rất giống một người phụ nữ mà em từng có biết một lần.
– Em còn nhớ chứ, cô Adreinne?”
Nàng cười rộ một tiếng thật to: “Coi tề!” Rồi dường như tự trách mình chi đó, nàng ngậm ngùi buông tiếng thở dài: “Tội quá!
Cô ấy chết tại tu viện Saint-Sulpice, vào năm 1832.”
Láng giềng đệ lục
Láng giềng khu vực xuân ba
Bốn thu bổ túc tam trùng tích ngân
Nguyệt phơi tích biệt in ngần
Lá rung mạc ngoại bé chần chờ chi
Bé Em hải diện biên thùy
Tình trong Bé Chị quyền uy ra ngoài
Trông chừng Khúc Nghệ Bé Choai
Vi từ chỉ dục vọng hoài chỉ ưng (…)
Quy lai phục niệm chưa từng
Tình trong như thể luống từng ở xa
Tót vời tình điệu kiêu sa
Vườn thơm trắng ngát hồn hoa lạc loài
Phục hồi tú cốc sơ khai
Hương trời tự nhiễm bông lài tự dưng.
Một hai năm
Tặng gà vịt một năm sương tuyết
Vịt gà xin ráo riết hai năm
Ngồi suông nhớ mãi đêm rằm
Văn thừa bích lạc nguyệt cầm tiểu man
Đêm mộng mị về hang núi lạnh
Nhìn gấu beo bên cạnh hùm thiêng
Sịch mành trở giấc u miên
Muôn vàn brigitte nằm nghiêng nghiêng cười.
Tình thứ nhất
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ hai ba bốn chín thêm mười
Bờ tang hải biển dâu xô lật úp
Bến phiêu bồng anh lật đật theo đuôi
Anh chỉ có niềm vui trong chốc lát
Và nỗi buồn cũng chốc lát như nhiên
Tình thứ nhất thoảng đi qua thấm thoát
Tới trăm năm còn thấm thoát như thường
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ | Anh chỉ có niềm vui trong chốc lát
Và nỗi buồn cũng chốc lát như nhiên
Tình thứ nhất thoảng đi qua thấm thoát
Tới trăm năm còn thấm thoát như thường
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Hồn tan vỡ song đôi trong hơi thở
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ nhì cũng đệ nhất như nhiên
Bờ dâu biển phiêu bồng trôi lật đật
Bến phiêu du chớp nhoáng mộng tang điền
Bây giờ anh dại anh điên
Biên Hòa Bệnh Viện bình yên anh về
Anh chào vĩnh biệt sơn khê
Chào anh vĩnh quyết bốn bề nhà ma.
Hồng Quần
Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
Kinh là kỳ từ châu quận tân toan
Từ xứ sở đắng cay thu đầu chết
Bước dã man sầu xé lá gieo vàng.
Lá sẽ đỏ từ vàng da mũi tẹt
Môi là mềm hoa mọc mật cong môi
Từ bờ cõi chia xương chua là ngọt
Trút lang thang từ nát mộng lên trời.
Mộng sẽ đỏ từ hoa đêm ghẹo chọc
Cánh thay hồng từ cánh đỏ cuồng điên
Từ thung lũng mù kêu mưa gọi móc
Tới phiêu du từ vầng nhật qua miền…
- Hết -
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/
Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree
Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | TỰA
Câu chuyện kể, là chuyện phi công và phi cơ.
Nhưng giọng người là giọng trần gian đi tìm linh hồn mình giữa non nước quạnh.
Văn minh, văn hóa đương phiêu bồng đợi giờ thành tựu.
Những xế chiều ký niệm đương linh cảm sương vàng bình minh.
Saint-Exupéry đã đi mất từ lâu, nhưng tiếng ngân dài trong suốt vẫn xuyên vào trong giấc chiêm bao thương nhớ của những người ở lại.
Kẻ trước, người sau, xin “dịch” đi, dịch lại những lời… Dịch, biến làm chuyển dịch cho tương giao.
Bất cứ nhìn ai cắm cúi dịch Saint-Exupéry, ta hãy xem như đó là chuyện chung của những con người rủ nhau ghé vào bờ mộng.
“Ở giữa lòng một vài đêm thâu lục nhạt, tôi đã nhìn những tia lửa băng trời thành một đường rẽ vút như một làn gió dài dàn rộng giữa muôn sao”.
SAINT-EXUPÉRY
Theo dõi giấc mộng dài của Saint-Exupéry, lại gọi ngôn ngữ Việt Nam về hạ tứ, nhiều phen phải bàng hoàng: Chúng ta đứng trước mấy lần hiểm họa của màu sắc lục hồng cứ trùng điệp rủ nhau bay, tung lên và phủ xuống.
“Phi hồng trường phát phi kiên.
Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao”.
René Char còn bảo: “Ne regardez qu’une fois la vague jeter I’ancre dans la mer.
Hãy nhìn chỉ một lần thôi, làn sóng thả neo vào lòng biển”.
Dịch văn – sao cứ gọi là dịch?
– dịch văn biến thành câu chuyện: vừa bay lên, vừa lặn xuống, vừa nối liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau.
Thật vừa vui, vừa mệt mỏi.
Ngôn ngữ đa âm đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn âm?
Đó là điều đáng xui chúng ta tư lự đăm chiêu. | Thật vừa vui, vừa mệt mỏi.
Ngôn ngữ đa âm đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn âm?
Đó là điều đáng xui chúng ta tư lự đăm chiêu.
Vì lẽ: tiết điệu đa âm có một phong thái dồi dào đương yêu cầu được tái hiện.
Đây là trường hợp: ở bên kia từ ngữ, tiết nhịp của ngôn ngữ đương nói rất nhiều.
May sao, Việt ngữ đơn âm lại giàu sang âm vận.
Nhưng không phải: ở mọi cơ hội, đều giản dị giàu sang.
Do đó cần thêm một chút chuyển giao thỏa đáng, thì lời dịch sẽ tái lập được “cung bậc” gieo vàng của nguyên ngôn.
Mà nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ mộng khi u trầm, ngậm ngùi, lúc lộng lẫy.
Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát chát vừa hắt hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với gái trên nhịp cầu hai cõi hoang vu.
“Tả nhi nữ tư tình, đãng khí hồi trường.
Tả anh hùng sự tích, nghĩa bạc vân tiêu”.
Hai điếu xì gà của một ông bạn cho tôi hôm qua, tôi vừa hút xong hết cả.
Trong bản dịch, có mấy chỗ tôi thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa âm.
Thỉnh thoảng lại bớt vài lời, ấy là bởi: Việt ngữ mang nhiều tính chất parataxique, trong khi Pháp ngữ lại triệt để là một ngôn ngữ Syntaxique.
Đất dạy ta hiểu hơn mọi sách vở.
Vì đất cưỡng kháng lại ta.
Con người tự khám phá ra mình là lúc đọ sức với trở ngại.
Nhưng muốn đạt tới, cần phải có một dụng cụ.
Cần một cái bào, hoặc một cái cày. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Thật vừa vui, vừa mệt mỏi.
Ngôn ngữ đa âm đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn âm?
Đó là điều đáng xui chúng ta tư lự đăm chiêu.
Vì lẽ: tiết điệu đa âm có một phong thái dồi dào đương yêu cầu được tái hiện.
Đây là trường hợp: ở bên kia từ ngữ, tiết nhịp của ngôn ngữ đương nói rất nhiều.
May sao, Việt ngữ đơn âm lại giàu sang âm vận.
Nhưng không phải: ở mọi cơ hội, đều giản dị giàu sang.
Do đó cần thêm một chút chuyển giao thỏa đáng, thì lời dịch sẽ tái lập được “cung bậc” gieo vàng của nguyên ngôn.
Mà nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ mộng khi u trầm, ngậm ngùi, lúc lộng lẫy.
Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát chát vừa hắt hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với gái trên nhịp cầu hai cõi hoang vu.
“Tả nhi nữ tư tình, đãng khí hồi trường.
Tả anh hùng sự tích, nghĩa bạc vân tiêu”.
Hai điếu xì gà của một ông bạn cho tôi hôm qua, tôi vừa hút xong hết cả.
Trong bản dịch, có mấy chỗ tôi thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa âm.
Thỉnh thoảng lại bớt vài lời, ấy là bởi: Việt ngữ mang nhiều tính chất parataxique, trong khi Pháp ngữ lại triệt để là một ngôn ngữ Syntaxique.
Đất dạy ta hiểu hơn mọi sách vở.
Vì đất cưỡng kháng lại ta.
Con người tự khám phá ra mình là lúc đọ sức với trở ngại.
Nhưng muốn đạt tới, cần phải có một dụng cụ.
Cần một cái bào, hoặc một cái cày. | Đất dạy ta hiểu hơn mọi sách vở.
Vì đất cưỡng kháng lại ta.
Con người tự khám phá ra mình là lúc đọ sức với trở ngại.
Nhưng muốn đạt tới, cần phải có một dụng cụ.
Cần một cái bào, hoặc một cái cày.
Trong cuộc cày bừa, người nông dân dần dà cướp giật được của thiên nhiên một vài bí nhiệm, và chân lý anh tìm được cũng là chân lý suốt cõi muôn năm.
Phi cơ cũng vậy: dụng cụ hàng không kia, cũng đặt con người trở lại trong những vấn đề cũ.
Trước nhãn quan của mình, tôi luôn nhìn thấy lại chuyến bay đêm lần đầu tại Argentine, một đêm tăm tối, nhìn xuống bình nguyên chỉ thấy một vài ánh sáng cô đơn lấp lánh thưa thớt như những vì sao.
Trong bóng tối bao la mờ mịt, mỗi ánh đèn báo biểu mỗi hiện diện huyền diệu của mỗi tâm linh.
Chốn này, người ta đang xem sách, người ta đang suy tưởng, người ta đang thổ lộ tâm tư.
Nơi kia có lẽ người ta đang dò dẫm không gian, người ta đang mỏi mòn trước những con số, tính toán mãi về tinh vân Andromède.
Chốn nọ, người ta đang yêu đương.
Đó đây, lác đác trên cánh đồng, những ánh lửa đang đòi hỏi được nuôi dưỡng, giữ gìn.
Cho đến cả những ánh đèn kín đáo nhất, của nhà thơ, của nhà giáo, của người thợ mộc.
Nhưng giữa đám sao ràn rạt sống động kia còn biết bao cánh cửa kín bưng, biết bao tinh cầu tắt lịm, biết bao con người ngủ say.
Phải gắng làm sao tiếp ứng nhau.
Phải gắng thử tương giao với một vài đốm lửa đang thưa thớt cháy trong cánh đồng bình lặng dưới kia.
I
DẶM ĐƯỜNGBAY
Thủa ấy, vào năm 1926. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Đất dạy ta hiểu hơn mọi sách vở.
Vì đất cưỡng kháng lại ta.
Con người tự khám phá ra mình là lúc đọ sức với trở ngại.
Nhưng muốn đạt tới, cần phải có một dụng cụ.
Cần một cái bào, hoặc một cái cày.
Trong cuộc cày bừa, người nông dân dần dà cướp giật được của thiên nhiên một vài bí nhiệm, và chân lý anh tìm được cũng là chân lý suốt cõi muôn năm.
Phi cơ cũng vậy: dụng cụ hàng không kia, cũng đặt con người trở lại trong những vấn đề cũ.
Trước nhãn quan của mình, tôi luôn nhìn thấy lại chuyến bay đêm lần đầu tại Argentine, một đêm tăm tối, nhìn xuống bình nguyên chỉ thấy một vài ánh sáng cô đơn lấp lánh thưa thớt như những vì sao.
Trong bóng tối bao la mờ mịt, mỗi ánh đèn báo biểu mỗi hiện diện huyền diệu của mỗi tâm linh.
Chốn này, người ta đang xem sách, người ta đang suy tưởng, người ta đang thổ lộ tâm tư.
Nơi kia có lẽ người ta đang dò dẫm không gian, người ta đang mỏi mòn trước những con số, tính toán mãi về tinh vân Andromède.
Chốn nọ, người ta đang yêu đương.
Đó đây, lác đác trên cánh đồng, những ánh lửa đang đòi hỏi được nuôi dưỡng, giữ gìn.
Cho đến cả những ánh đèn kín đáo nhất, của nhà thơ, của nhà giáo, của người thợ mộc.
Nhưng giữa đám sao ràn rạt sống động kia còn biết bao cánh cửa kín bưng, biết bao tinh cầu tắt lịm, biết bao con người ngủ say.
Phải gắng làm sao tiếp ứng nhau.
Phải gắng thử tương giao với một vài đốm lửa đang thưa thớt cháy trong cánh đồng bình lặng dưới kia.
I
DẶM ĐƯỜNGBAY
Thủa ấy, vào năm 1926. | Phải gắng làm sao tiếp ứng nhau.
Phải gắng thử tương giao với một vài đốm lửa đang thưa thớt cháy trong cánh đồng bình lặng dưới kia.
I
DẶM ĐƯỜNGBAY
Thủa ấy, vào năm 1926.
Tôi vừa được tuyển dụng làm tập sự phi công đường dài của hãng Latécoère.
Hãng này, trước Air-France và Aéropostale, từng chuyên trách liên lạc hàng không giữa Toulouse và Dakar.
Cũng như mọi đồng nghiệp khác, đến lượt tôi phải chịu những đợt thử thách dành cho những phi công tập sự trước lúc nhận cái vinh dự lái những chuyến chở thư tín.
Những cuộc tập dượt lái thử các kiểu phi cơ, những lần di chuyển giữa Toulouse và Perpignan, những bài học buồn thiu về khí tượng ở tận một căn phòng sâu hút trong một xưởng giá băng.
Chúng tôi sống trong mối e ngại những dãy núi Tây Ban Nha mà mình chưa được biết, và sống trong niềm tín phục, tôn kính những bạn đồng nghiệp lão thành.
Các vị này, chúng tôi vẫn thường gặp lại trong tiệm ăn.
Họ khó tính và cách biệt.
Khuyên bảo đàn em với giọng điệu kẻ cả kiêu kỳ.
Mỗi khi có một người trong bọn họ từ Alicante hoặc từ Casablance về chậm, áo choàng da đẫm nước, nếu trong bọn chúng tôi có kẻ rụt rè hỏi thăm về chuyến bay ấy, thì những lời đáp cộc lốc của họ cùng với cảnh trời giông bão, đã tạo cho chúng tôi một thế giới hoang đường, một thế giới đầy những cạm bẫy hiểm nghèo, những gian nan bất trắc, những vách đá sừng sững đột ngột hiện ra, những cơn lốc cuồng loạn cơ hồ muốn lật nhào cổ thụ, bật rễ tùng bách như chơi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Phải gắng làm sao tiếp ứng nhau.
Phải gắng thử tương giao với một vài đốm lửa đang thưa thớt cháy trong cánh đồng bình lặng dưới kia.
I
DẶM ĐƯỜNGBAY
Thủa ấy, vào năm 1926.
Tôi vừa được tuyển dụng làm tập sự phi công đường dài của hãng Latécoère.
Hãng này, trước Air-France và Aéropostale, từng chuyên trách liên lạc hàng không giữa Toulouse và Dakar.
Cũng như mọi đồng nghiệp khác, đến lượt tôi phải chịu những đợt thử thách dành cho những phi công tập sự trước lúc nhận cái vinh dự lái những chuyến chở thư tín.
Những cuộc tập dượt lái thử các kiểu phi cơ, những lần di chuyển giữa Toulouse và Perpignan, những bài học buồn thiu về khí tượng ở tận một căn phòng sâu hút trong một xưởng giá băng.
Chúng tôi sống trong mối e ngại những dãy núi Tây Ban Nha mà mình chưa được biết, và sống trong niềm tín phục, tôn kính những bạn đồng nghiệp lão thành.
Các vị này, chúng tôi vẫn thường gặp lại trong tiệm ăn.
Họ khó tính và cách biệt.
Khuyên bảo đàn em với giọng điệu kẻ cả kiêu kỳ.
Mỗi khi có một người trong bọn họ từ Alicante hoặc từ Casablance về chậm, áo choàng da đẫm nước, nếu trong bọn chúng tôi có kẻ rụt rè hỏi thăm về chuyến bay ấy, thì những lời đáp cộc lốc của họ cùng với cảnh trời giông bão, đã tạo cho chúng tôi một thế giới hoang đường, một thế giới đầy những cạm bẫy hiểm nghèo, những gian nan bất trắc, những vách đá sừng sững đột ngột hiện ra, những cơn lốc cuồng loạn cơ hồ muốn lật nhào cổ thụ, bật rễ tùng bách như chơi. | Thế giới của những con hắc long khổng lồ đứng chặn lối vào thung lũng, của những tràng chớp động vây bọc đầu non.
Các bạn kỳ cựu kia đã khéo nuôi dưỡng lòng kính phục của chúng tôi.
Và thỉnh thoảng trong đám người ấy có một kẻ bay đi không thấy trở về, thì ông trở thành thiên thu khả kính.
Cùng với những kỷ niệm kia, tôi nhớ lại chuyến trở về của Bury, người mà về sau sẽ tử nạn tại Corbières.
Anh phi công lão thành này vừa ngồi vào giữa bọn chúng tôi và đang mệt nhọc dùng bữa, không nói một lời, hai vai còn nặng trĩu những cố gắng đã chịu đựng trong chuyến bay.
Đó là vào tối một ngày trời xấu, một trong những ngày mà suốt con đường hàng không trời mây đen kịt tối sầm, núi rừng trùng điệp trước mắt phi công cùng theo nhau cuồn cuộn trôi trong một màu mực đen ngòm, giống như những khẩu thần công đứt mấu ầm ỹ lăn lông lốc trên boong chiếc tàu buồm thuở xưa.
Tôi nhìn Bury, tôi nuốt nước bọt, và cuối cùng đánh bạo xin hỏi liều xem cho biết chuyến bay của anh vừa rồi có phải gian nan lắm không.
Bury dường như không nghe tiếng tôi hỏi, anh nhíu trán, cúi gằm đầu trên đĩa ăn.
Trên những chiếc máy bay trần, gặp trời xấu, người ta thò đầu ra ngoài kính cửa để nhìn cho rõ cảnh vật, thì gió lạnh tạt vào tai, rít lùng bùng trong đó mãi… Chợt Bury ngẩng đầu, như có vẻ đã nghe ra câu tôi hỏi, như có vẻ sực nhớ lại, và đột ngột buông tiếng cười rộ.
Tiếng cười tuyệt diệu, Bury vốn rất ít khi cười, cái cười ngắn ngủi làm rạng ngời cơn nhọc mệt của anh. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Thế giới của những con hắc long khổng lồ đứng chặn lối vào thung lũng, của những tràng chớp động vây bọc đầu non.
Các bạn kỳ cựu kia đã khéo nuôi dưỡng lòng kính phục của chúng tôi.
Và thỉnh thoảng trong đám người ấy có một kẻ bay đi không thấy trở về, thì ông trở thành thiên thu khả kính.
Cùng với những kỷ niệm kia, tôi nhớ lại chuyến trở về của Bury, người mà về sau sẽ tử nạn tại Corbières.
Anh phi công lão thành này vừa ngồi vào giữa bọn chúng tôi và đang mệt nhọc dùng bữa, không nói một lời, hai vai còn nặng trĩu những cố gắng đã chịu đựng trong chuyến bay.
Đó là vào tối một ngày trời xấu, một trong những ngày mà suốt con đường hàng không trời mây đen kịt tối sầm, núi rừng trùng điệp trước mắt phi công cùng theo nhau cuồn cuộn trôi trong một màu mực đen ngòm, giống như những khẩu thần công đứt mấu ầm ỹ lăn lông lốc trên boong chiếc tàu buồm thuở xưa.
Tôi nhìn Bury, tôi nuốt nước bọt, và cuối cùng đánh bạo xin hỏi liều xem cho biết chuyến bay của anh vừa rồi có phải gian nan lắm không.
Bury dường như không nghe tiếng tôi hỏi, anh nhíu trán, cúi gằm đầu trên đĩa ăn.
Trên những chiếc máy bay trần, gặp trời xấu, người ta thò đầu ra ngoài kính cửa để nhìn cho rõ cảnh vật, thì gió lạnh tạt vào tai, rít lùng bùng trong đó mãi… Chợt Bury ngẩng đầu, như có vẻ đã nghe ra câu tôi hỏi, như có vẻ sực nhớ lại, và đột ngột buông tiếng cười rộ.
Tiếng cười tuyệt diệu, Bury vốn rất ít khi cười, cái cười ngắn ngủi làm rạng ngời cơn nhọc mệt của anh. | Tiếng cười tuyệt diệu, Bury vốn rất ít khi cười, cái cười ngắn ngủi làm rạng ngời cơn nhọc mệt của anh.
Anh không giải thích gì thêm nữa về sự đắc thắng của mình, anh nghiêng đầu lặng lẽ tiếp tục nhai.
Nhưng trong phòng ăn xám xịt, ngồi giữa đám công chức nhỏ đang gắng gượng tìm cách quên đi những nhọc mệt rời rã ban ngày, thì người bạn có đôi vai nặng trĩu kia mang một vẻ cao nhã lạ thường.
Qua cái bề ngoài cục mịch, ta nhìn thấy rõ vị thiên thần ảo diệu đã nhiếp phục con rồng đen.
Rồi tới ngày đến lượt tôi được gọi vào phòng ông giám đốc.
Ông điềm nhiên bảo:
- Ngày mai anh đi.
Tôi đứng yên, chờ ông cho phép lui gót.
Nhưng im lặng một lúc, ông nói thêm:
- Anh đã rõ các chỉ thị rồi chứ?
Máy bay thời đó không đảm bảo như máy bay ngày nay.
Nhiều lúc tự nhiên phát-động-cơ đột ngột vỡ toang, loảng xoảng phá-liệt hệt như tiếng chén dĩa bể.
Mình lại đương đi về hướng vùng núi Tây Ban Nha, nơi không một chỗ hạ cánh tị nạn.
“Ở đây, khi máy hỏng, thì phút chốc hỡi ôi!
Phi cơ hỏng theo liền”, chúng tôi tự bảo mình như vậy.
Nhưng một chiếc phi cơ hỏng, thay thế có khó gì.
Điều cần yếu là đừng có dại dột mù quáng lao đầu bừa xuống núi.
Vì thế cho nên mệnh lệnh ban ra nhất thiết cấm ngặt chúng tôi (nếu bất tuân, sẽ bị phạt rất nặng) không được bay qua các vùng biển mây mù mịt vây phủ các vùng núi non.
Lúc máy hỏng, nếu phi công đang len lỏi bay giữa những dải mây trắng xóa, thôi chỉ còn có thể đâm đầu vào núi mà không biết, không hay. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tiếng cười tuyệt diệu, Bury vốn rất ít khi cười, cái cười ngắn ngủi làm rạng ngời cơn nhọc mệt của anh.
Anh không giải thích gì thêm nữa về sự đắc thắng của mình, anh nghiêng đầu lặng lẽ tiếp tục nhai.
Nhưng trong phòng ăn xám xịt, ngồi giữa đám công chức nhỏ đang gắng gượng tìm cách quên đi những nhọc mệt rời rã ban ngày, thì người bạn có đôi vai nặng trĩu kia mang một vẻ cao nhã lạ thường.
Qua cái bề ngoài cục mịch, ta nhìn thấy rõ vị thiên thần ảo diệu đã nhiếp phục con rồng đen.
Rồi tới ngày đến lượt tôi được gọi vào phòng ông giám đốc.
Ông điềm nhiên bảo:
- Ngày mai anh đi.
Tôi đứng yên, chờ ông cho phép lui gót.
Nhưng im lặng một lúc, ông nói thêm:
- Anh đã rõ các chỉ thị rồi chứ?
Máy bay thời đó không đảm bảo như máy bay ngày nay.
Nhiều lúc tự nhiên phát-động-cơ đột ngột vỡ toang, loảng xoảng phá-liệt hệt như tiếng chén dĩa bể.
Mình lại đương đi về hướng vùng núi Tây Ban Nha, nơi không một chỗ hạ cánh tị nạn.
“Ở đây, khi máy hỏng, thì phút chốc hỡi ôi!
Phi cơ hỏng theo liền”, chúng tôi tự bảo mình như vậy.
Nhưng một chiếc phi cơ hỏng, thay thế có khó gì.
Điều cần yếu là đừng có dại dột mù quáng lao đầu bừa xuống núi.
Vì thế cho nên mệnh lệnh ban ra nhất thiết cấm ngặt chúng tôi (nếu bất tuân, sẽ bị phạt rất nặng) không được bay qua các vùng biển mây mù mịt vây phủ các vùng núi non.
Lúc máy hỏng, nếu phi công đang len lỏi bay giữa những dải mây trắng xóa, thôi chỉ còn có thể đâm đầu vào núi mà không biết, không hay. | Lúc máy hỏng, nếu phi công đang len lỏi bay giữa những dải mây trắng xóa, thôi chỉ còn có thể đâm đầu vào núi mà không biết, không hay.
Thế nên chị đêm ấy, một giọng nói chậm rãi đã nhấn mạnh vào những mệnh lệnh phải theo.
- Cái việc dùng địa bàn mà bay, giữa những biển mây xứ Tây Ban Nha, hừ, bảnh thật.
Nhưng…
Giọng nói càng chậm rãi hơn:
- … Nhưng chớ nên quên rằng bên dưới những biển mây kia là ngàn năm ngủ mãi.
Bỗng dưng cái bình lặng phẳng lì đơn giản ta khám phá được mỗi khi nhô lên khỏi các tầng mây, bỗng dưng đối với tôi, cái thế giới đó đã mang một ý nghĩa lạ.
Cái dịu dàng biến thành cạm bẫy.
Tôi hình dung cái cạm bẫy bát ngát trắng phau kia đương nằm duỗi thân dàn trải ngay dưới bước chân mình; dưới kia, không như thiên hạ tưởng, dưới kia chẳng hề có nô nức của loài người, dập dìu của phố thị: dưới kia chỉ có lặng lẽ thiên thu, im lìm vạn thuở.
Cái khoảnh tròn cuồn cuộn, trắng phau kia đã biến thành biên giới giữa hai cõi thực và hư, giữa hai bờ chân và ảo.
Và tôi đã linh cảm một điều: một cảnh tượng chỉ có ý nghĩa nào là; được nhìn qua một nền văn minh, một nghề nghiệp, người dân miền núi cũng nhìn mãi những biển mây, nhưng họ không nhìn ra cái tấm màn hoang đường kỳ diệu kia trong đó.
Lúc ra khỏi phòng ông giám đốc, tôi cảm thấy một niềm kiêu hãnh thơ ngây.
Tảng sáng ngày mai đây, tới lượt tôi lên đường, mang trách nhiệm về một số hành khách, mang trách nhiệm về chuyến thư tín sang Phi Châu, nhưng đồng thời cũng thấy tự thẹn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Lúc máy hỏng, nếu phi công đang len lỏi bay giữa những dải mây trắng xóa, thôi chỉ còn có thể đâm đầu vào núi mà không biết, không hay.
Thế nên chị đêm ấy, một giọng nói chậm rãi đã nhấn mạnh vào những mệnh lệnh phải theo.
- Cái việc dùng địa bàn mà bay, giữa những biển mây xứ Tây Ban Nha, hừ, bảnh thật.
Nhưng…
Giọng nói càng chậm rãi hơn:
- … Nhưng chớ nên quên rằng bên dưới những biển mây kia là ngàn năm ngủ mãi.
Bỗng dưng cái bình lặng phẳng lì đơn giản ta khám phá được mỗi khi nhô lên khỏi các tầng mây, bỗng dưng đối với tôi, cái thế giới đó đã mang một ý nghĩa lạ.
Cái dịu dàng biến thành cạm bẫy.
Tôi hình dung cái cạm bẫy bát ngát trắng phau kia đương nằm duỗi thân dàn trải ngay dưới bước chân mình; dưới kia, không như thiên hạ tưởng, dưới kia chẳng hề có nô nức của loài người, dập dìu của phố thị: dưới kia chỉ có lặng lẽ thiên thu, im lìm vạn thuở.
Cái khoảnh tròn cuồn cuộn, trắng phau kia đã biến thành biên giới giữa hai cõi thực và hư, giữa hai bờ chân và ảo.
Và tôi đã linh cảm một điều: một cảnh tượng chỉ có ý nghĩa nào là; được nhìn qua một nền văn minh, một nghề nghiệp, người dân miền núi cũng nhìn mãi những biển mây, nhưng họ không nhìn ra cái tấm màn hoang đường kỳ diệu kia trong đó.
Lúc ra khỏi phòng ông giám đốc, tôi cảm thấy một niềm kiêu hãnh thơ ngây.
Tảng sáng ngày mai đây, tới lượt tôi lên đường, mang trách nhiệm về một số hành khách, mang trách nhiệm về chuyến thư tín sang Phi Châu, nhưng đồng thời cũng thấy tự thẹn. | Tảng sáng ngày mai đây, tới lượt tôi lên đường, mang trách nhiệm về một số hành khách, mang trách nhiệm về chuyến thư tín sang Phi Châu, nhưng đồng thời cũng thấy tự thẹn.
Tôi nhận ra quả thật mình chưa chuẩn bị được chu đáo.
Tây Ban Nha không có nhiều nơi lánh nạn; gặp khi máy hỏng, biết tìm đâu một thửa ruộng để thoát thân.
Trên bản đồ khô khan tôi cắm cúi tìm nhưng chẳng thấy một vài chỉ dẫn tôi đương cần.
Lòng vừa ngại ngùng vừa kiêu hãnh, tôi tới phòng anh bạn Guillaumet để qua cái đêm trầm trọng.
Guillaumet đã quen đi lại con đường ấy trước tôi.
Guillaumet hẳn là phải biết nhiều bí quyết để nắm lấy chìa khóa mở ngõ Tây Ban Nha, tôi cần gặp Guillaumet để xin thụ nghệ.
Vừa tới phòng anh, anh tươi cười hỏi:
- Tôi biết tin rồi.
Anh mở tủ lấy chai rượu mạnh và hai cái cốc quay lại, vẫn tươi cười:
- Ta uống rượu mừng.
Anh biết đó nhé, mọi sự trôi chảy êm ru.
Anh ta gieo niềm tin tưởng hồn nhiên như đèn tỏa ánh sáng, anh chính là người về sau sẽ phá kỷ lục lái tàu thư tín tại vùng Codillère des Andes và Nam Đại Tây Dương.
Tối hôm ấy, mặc sơ mi trần, khoanh tay mỉm cười dưới ánh đèn, cái nụ cười hiền hậu bao dung, anh bảo tôi mấy lời giản dị: “Bão táp, sương mù, tuyết lạnh, thỉnh thoảng chúng sẽ làm khổ thân anh.
Hãy nghĩ tới những người trước anh đã từng gặp những chuyện ấy rồi, và hãy hân hoan tự nhủ: chuyện gì thiên hạ làm được, thì bao giờ ta cũng có thể làm nên”.
Tuy nhiên, tôi vẫn mở địa đồ ra và nhờ anh dù sao cũng nên cùng tôi xét lại cuộc hành trình. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tảng sáng ngày mai đây, tới lượt tôi lên đường, mang trách nhiệm về một số hành khách, mang trách nhiệm về chuyến thư tín sang Phi Châu, nhưng đồng thời cũng thấy tự thẹn.
Tôi nhận ra quả thật mình chưa chuẩn bị được chu đáo.
Tây Ban Nha không có nhiều nơi lánh nạn; gặp khi máy hỏng, biết tìm đâu một thửa ruộng để thoát thân.
Trên bản đồ khô khan tôi cắm cúi tìm nhưng chẳng thấy một vài chỉ dẫn tôi đương cần.
Lòng vừa ngại ngùng vừa kiêu hãnh, tôi tới phòng anh bạn Guillaumet để qua cái đêm trầm trọng.
Guillaumet đã quen đi lại con đường ấy trước tôi.
Guillaumet hẳn là phải biết nhiều bí quyết để nắm lấy chìa khóa mở ngõ Tây Ban Nha, tôi cần gặp Guillaumet để xin thụ nghệ.
Vừa tới phòng anh, anh tươi cười hỏi:
- Tôi biết tin rồi.
Anh mở tủ lấy chai rượu mạnh và hai cái cốc quay lại, vẫn tươi cười:
- Ta uống rượu mừng.
Anh biết đó nhé, mọi sự trôi chảy êm ru.
Anh ta gieo niềm tin tưởng hồn nhiên như đèn tỏa ánh sáng, anh chính là người về sau sẽ phá kỷ lục lái tàu thư tín tại vùng Codillère des Andes và Nam Đại Tây Dương.
Tối hôm ấy, mặc sơ mi trần, khoanh tay mỉm cười dưới ánh đèn, cái nụ cười hiền hậu bao dung, anh bảo tôi mấy lời giản dị: “Bão táp, sương mù, tuyết lạnh, thỉnh thoảng chúng sẽ làm khổ thân anh.
Hãy nghĩ tới những người trước anh đã từng gặp những chuyện ấy rồi, và hãy hân hoan tự nhủ: chuyện gì thiên hạ làm được, thì bao giờ ta cũng có thể làm nên”.
Tuy nhiên, tôi vẫn mở địa đồ ra và nhờ anh dù sao cũng nên cùng tôi xét lại cuộc hành trình. | Tuy nhiên, tôi vẫn mở địa đồ ra và nhờ anh dù sao cũng nên cùng tôi xét lại cuộc hành trình.
Và nghiêng thân dưới ánh đèn, tựa lên vai người bạn, tôi sống lại một phút giây bình thản của đời sống học sinh ngày cũ.
Nhưng bài học địa dư tối hôm ấy quả là một bài học dị thường.
Anh Guillaumet không dạy tôi học về Tây Ban Nha; anh biến Tây Ban Nha thành một người bạn thân ái của tôi.
Anh không hề nói qua về những song ngòi, về dân chúng, về súc vật xứ này.
Anh không nói đến thành Guadix, nhưng lại nói tới ba cây cam quanh một cánh đồng gần thành Guadix: “Anh phải lưu ý tới ba cây cam ấy, phải coi chừng, ghi chúng vào bản đồ đi…” Từ đó, ba cây cam kia chiếm nhiều chỗ trên tấm bản đồ hơn rặng núi Sierra Nevada.
Anh Guillaumet không nói gì về thành Lorca, nhưng lại nói về một cái nông trại nhỏ ở gần Lorca.
Thế là bỗng dưng cặp vợ chồng này mang một ý nghĩa vô cùng hệ trọng đối với tôi – một cặp vợ chồng sống ở đâu đâu, cách biệt tôi một ngàn rưỡi cây số, lẩn bóng mơ hồ giữa không gian.
Sống yên ổn nơi sườn non biệt lập, giống như những kẻ coi giữ hải đăng, cặp vợ chồng này sẵn sàng chạy đi tiếp cứu mọi kẻ lâm nguy.
Bài học tối hôm đó đã đánh thức những gì?
Từ cõi lãng quên, từ miền xa vắng, từ những xứ cách biệt nghìn trùng, chúng tôi đã lôi ra và dựng dậy những hình hài, những ủy khúc chi li mà không một nhà địa lý học nào ở khắp thế giới có thể biết ra.
Đối với một nhà địa dư học, thì con sông Ebre mới là đáng chú ý, vì nó chảy qua nhiều vùng đô thị lớn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tuy nhiên, tôi vẫn mở địa đồ ra và nhờ anh dù sao cũng nên cùng tôi xét lại cuộc hành trình.
Và nghiêng thân dưới ánh đèn, tựa lên vai người bạn, tôi sống lại một phút giây bình thản của đời sống học sinh ngày cũ.
Nhưng bài học địa dư tối hôm ấy quả là một bài học dị thường.
Anh Guillaumet không dạy tôi học về Tây Ban Nha; anh biến Tây Ban Nha thành một người bạn thân ái của tôi.
Anh không hề nói qua về những song ngòi, về dân chúng, về súc vật xứ này.
Anh không nói đến thành Guadix, nhưng lại nói tới ba cây cam quanh một cánh đồng gần thành Guadix: “Anh phải lưu ý tới ba cây cam ấy, phải coi chừng, ghi chúng vào bản đồ đi…” Từ đó, ba cây cam kia chiếm nhiều chỗ trên tấm bản đồ hơn rặng núi Sierra Nevada.
Anh Guillaumet không nói gì về thành Lorca, nhưng lại nói về một cái nông trại nhỏ ở gần Lorca.
Thế là bỗng dưng cặp vợ chồng này mang một ý nghĩa vô cùng hệ trọng đối với tôi – một cặp vợ chồng sống ở đâu đâu, cách biệt tôi một ngàn rưỡi cây số, lẩn bóng mơ hồ giữa không gian.
Sống yên ổn nơi sườn non biệt lập, giống như những kẻ coi giữ hải đăng, cặp vợ chồng này sẵn sàng chạy đi tiếp cứu mọi kẻ lâm nguy.
Bài học tối hôm đó đã đánh thức những gì?
Từ cõi lãng quên, từ miền xa vắng, từ những xứ cách biệt nghìn trùng, chúng tôi đã lôi ra và dựng dậy những hình hài, những ủy khúc chi li mà không một nhà địa lý học nào ở khắp thế giới có thể biết ra.
Đối với một nhà địa dư học, thì con sông Ebre mới là đáng chú ý, vì nó chảy qua nhiều vùng đô thị lớn. | Đối với một nhà địa dư học, thì con sông Ebre mới là đáng chú ý, vì nó chảy qua nhiều vùng đô thị lớn.
Họ lưu tâm làm gì tới cái khe nhỏ len lỏi giấu thân trong lá cỏ ở phía Tây thành Motril?
Bất quá nó chỉ nuôi dưỡng được vài ba chục đóa hoa mà thôi.
“Anh phải coi chừng cái khe cỏn con đó nhé.
Cánh đồng mủm mỉm, chỉ tại nó mà trở nên đáng sợ… Ghi vào ngay bản đồ đi”.
Tôi sẽ ghi nhớ nhiều ngày cái con rắn thành Motril!
Nó lập lòe tí tẹo, trông chả ra cái dạng gì gì nhiều cho lắm, thì với tiếng nước chảy xè xè, nó mê hoặc say sưa vài con ễnh ương ếch nhái, nhưng kỳ thật là tối ư nguy hiểm: nó giả vờ vô sự, nó duỗi thân thiu thiu ngủ, và nhắm mắt chỉ nửa con ngươi.
Giữa thiên đường cánh đồng tế độ vớt trầm luân, nó duỗi dài mình mẩy dưới cỏ hoa, nằm chờ tôi cách chỗ tôi ngồi đây ngót hai nghìn cây số.
Thôi cũng đủ tan rã mất thịt xương…
[1]
Tôi vẫn xin sẵn sàng chờ đợi những ba chục con cừu dàn trận sẵn nơi kia, bên sườn đồi sắp mở cuộc đánh úp: “Anh tưởng cánh đồng cỏ yên lành, vù một cái!
Ba chục con cừu bỗng loạn cuồng tung vó ngay dưới bánh phi cơ…”.
Và tôi chỉ đáp bằng một nụ cười đê mê kinh dị, trước sự hăm dọa hiểm ác kỳ tuyệt như thế kia.
Cứ từ từ như vậy, dưới ánh đèn chong, xứ Tây Ban Nha trong tấm bản đồ của tôi, cứ dần dà biến thành xứ sở của những chuyện thần tiên.
Tôi vạch dấu chữ thập những nơi tị nạn, và những chỗ cạm bẫy.
Tôi ghi dấu chỗ nông trại, chỗ ba mươi con cừu, chỗ dòng khe ẩn dạng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Đối với một nhà địa dư học, thì con sông Ebre mới là đáng chú ý, vì nó chảy qua nhiều vùng đô thị lớn.
Họ lưu tâm làm gì tới cái khe nhỏ len lỏi giấu thân trong lá cỏ ở phía Tây thành Motril?
Bất quá nó chỉ nuôi dưỡng được vài ba chục đóa hoa mà thôi.
“Anh phải coi chừng cái khe cỏn con đó nhé.
Cánh đồng mủm mỉm, chỉ tại nó mà trở nên đáng sợ… Ghi vào ngay bản đồ đi”.
Tôi sẽ ghi nhớ nhiều ngày cái con rắn thành Motril!
Nó lập lòe tí tẹo, trông chả ra cái dạng gì gì nhiều cho lắm, thì với tiếng nước chảy xè xè, nó mê hoặc say sưa vài con ễnh ương ếch nhái, nhưng kỳ thật là tối ư nguy hiểm: nó giả vờ vô sự, nó duỗi thân thiu thiu ngủ, và nhắm mắt chỉ nửa con ngươi.
Giữa thiên đường cánh đồng tế độ vớt trầm luân, nó duỗi dài mình mẩy dưới cỏ hoa, nằm chờ tôi cách chỗ tôi ngồi đây ngót hai nghìn cây số.
Thôi cũng đủ tan rã mất thịt xương…
[1]
Tôi vẫn xin sẵn sàng chờ đợi những ba chục con cừu dàn trận sẵn nơi kia, bên sườn đồi sắp mở cuộc đánh úp: “Anh tưởng cánh đồng cỏ yên lành, vù một cái!
Ba chục con cừu bỗng loạn cuồng tung vó ngay dưới bánh phi cơ…”.
Và tôi chỉ đáp bằng một nụ cười đê mê kinh dị, trước sự hăm dọa hiểm ác kỳ tuyệt như thế kia.
Cứ từ từ như vậy, dưới ánh đèn chong, xứ Tây Ban Nha trong tấm bản đồ của tôi, cứ dần dà biến thành xứ sở của những chuyện thần tiên.
Tôi vạch dấu chữ thập những nơi tị nạn, và những chỗ cạm bẫy.
Tôi ghi dấu chỗ nông trại, chỗ ba mươi con cừu, chỗ dòng khe ẩn dạng. | Tôi vạch dấu chữ thập những nơi tị nạn, và những chỗ cạm bẫy.
Tôi ghi dấu chỗ nông trại, chỗ ba mươi con cừu, chỗ dòng khe ẩn dạng.
Tôi ghi thật đúng chỗ, cái vị trí của bà chủ trại, mà các nhà địa dư học đã bỏ qua.
Lúc từ giã Guillaumet, tôi cảm thấy hai chân cần bước đi, trong cái đêm đông giá buốt này.
Tôi kéo cổ áo choàng lên và giữa đám người qua lại vô tình, tôi triền miên nghe máu tim mình tươi vui vỗ nhịp.
Len lỏi sát nách những người không quen, tôi hân hoan với niềm riêng tâm sự.
Họ không biết tôi, những người “du di man rợ” ấy, nhưng những ưu tư của họ, nhưng những hưng phấn ân tình của họ, chính tôi là kẻ được họ gửi gắm sớm hôm sau, lúc trời hồng dậy, tôi lên đường với những bọc thư tín mang theo.
Chính trong tay tôi là chỗ của mộng đời họ ký thác.
Cuộn thân mình trong chiếc áo choàng ấm áp, tôi bước đi theo nhịp bao dung của linh hồn lãnh tụ, nhưng nào họ có biết gì về tấm lòng tôi ân cần “hạ cố đến nhau” đâu.
Họ cũng chẳng hề lưu ý tới những lời nhắn gửi của đêm đông vì đâu mà hạ tứ gieo vàng cho riêng lòng lãnh tụ mông ân.
Vâng, cái đêm tĩnh mịch này có liên can tới thịt xương của tôi đó.
Và cơn bão tố nào đương soạn sửa, và sẽ gây rối rắm cho cuộc viễn du thứ nhất này, nào ai biết tới đâu.
Tinh tú mờ dần, lần lượt tắt đi, những người qua đường hồn nhiên dạo gót, làm sao mà nhìn thấy cho ra?
Tôi một mình cùng ngàn sao tâm sự.
Tôi một mình đón nhận những lời ban báo về vị trí quân thù, trước khi mở cuộc đấu tranh… |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi vạch dấu chữ thập những nơi tị nạn, và những chỗ cạm bẫy.
Tôi ghi dấu chỗ nông trại, chỗ ba mươi con cừu, chỗ dòng khe ẩn dạng.
Tôi ghi thật đúng chỗ, cái vị trí của bà chủ trại, mà các nhà địa dư học đã bỏ qua.
Lúc từ giã Guillaumet, tôi cảm thấy hai chân cần bước đi, trong cái đêm đông giá buốt này.
Tôi kéo cổ áo choàng lên và giữa đám người qua lại vô tình, tôi triền miên nghe máu tim mình tươi vui vỗ nhịp.
Len lỏi sát nách những người không quen, tôi hân hoan với niềm riêng tâm sự.
Họ không biết tôi, những người “du di man rợ” ấy, nhưng những ưu tư của họ, nhưng những hưng phấn ân tình của họ, chính tôi là kẻ được họ gửi gắm sớm hôm sau, lúc trời hồng dậy, tôi lên đường với những bọc thư tín mang theo.
Chính trong tay tôi là chỗ của mộng đời họ ký thác.
Cuộn thân mình trong chiếc áo choàng ấm áp, tôi bước đi theo nhịp bao dung của linh hồn lãnh tụ, nhưng nào họ có biết gì về tấm lòng tôi ân cần “hạ cố đến nhau” đâu.
Họ cũng chẳng hề lưu ý tới những lời nhắn gửi của đêm đông vì đâu mà hạ tứ gieo vàng cho riêng lòng lãnh tụ mông ân.
Vâng, cái đêm tĩnh mịch này có liên can tới thịt xương của tôi đó.
Và cơn bão tố nào đương soạn sửa, và sẽ gây rối rắm cho cuộc viễn du thứ nhất này, nào ai biết tới đâu.
Tinh tú mờ dần, lần lượt tắt đi, những người qua đường hồn nhiên dạo gót, làm sao mà nhìn thấy cho ra?
Tôi một mình cùng ngàn sao tâm sự.
Tôi một mình đón nhận những lời ban báo về vị trí quân thù, trước khi mở cuộc đấu tranh… | Tôi một mình cùng ngàn sao tâm sự.
Tôi một mình đón nhận những lời ban báo về vị trí quân thù, trước khi mở cuộc đấu tranh…
Tuy nhiên những khẩu lệnh trầm trọng liên can tới đời tôi, thật ra tôi đã thọ lãnh bên cạnh những tủ gương sáng chiếu, rạng ngời những quà lễ Giáng Sinh.
Trong những tủ hàng kia, dường như đã phơi bày, trong một đêm mùa đông kỳ vọng, tất cả những kho tang của mặt đất, và tôi đã đê mê hưởng thụ niềm thanh lạc của con người chực từ khước hết để ra đi.
Tôi là một chiến binh đương bị hăm dọa: tôi lưu luyến làm gì những chuỗi hạt thủy tinh dùng để trang hoàng những buổi hội, tôi nặng tình chi nữa với những chụp đèn, với những quyển sách kia.
Đứng tại đây, mà hình hài thể phách đã ký thác vào những mù sương vây phủ, những mây kéo tối sầm; đứng ở đây mà hồn phi công nghìn dặm đã nhấm thấy trước rồi, các vị chát những đêm bay.
Tôi được đánh thức dậy lúc ba giờ sáng.
Tôi đẩy mạnh cánh cửa chớp, nhận thấy trời đang mưa trên phố, tôi trang nghiêm mặc áo quần.
Nửa giờ sau, ở vệ đường, ngồi bên chiếc va ly nhỏ, tôi chờ chiếc xe buýt đến.
Biết bao bạn đồng nghiệp trước tôi, trong ngày được chuẩn nhận vào nghề, cũng đã từng ngóng đợi như tôi, lòng se se lại.
Từ góc đường, chiếc xe thời cũ đã nhô ra, tiếng kêu rầm rộ.
Đến bây giờ tới lượt mình, tôi cũng như các bạn đồng nghiệp cũ, được quyền ngồi trên chiếc ghế băng dài, chen giữa một ông ký nhà đoan chưa tỉnh ngủ và một vài công chức khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi một mình cùng ngàn sao tâm sự.
Tôi một mình đón nhận những lời ban báo về vị trí quân thù, trước khi mở cuộc đấu tranh…
Tuy nhiên những khẩu lệnh trầm trọng liên can tới đời tôi, thật ra tôi đã thọ lãnh bên cạnh những tủ gương sáng chiếu, rạng ngời những quà lễ Giáng Sinh.
Trong những tủ hàng kia, dường như đã phơi bày, trong một đêm mùa đông kỳ vọng, tất cả những kho tang của mặt đất, và tôi đã đê mê hưởng thụ niềm thanh lạc của con người chực từ khước hết để ra đi.
Tôi là một chiến binh đương bị hăm dọa: tôi lưu luyến làm gì những chuỗi hạt thủy tinh dùng để trang hoàng những buổi hội, tôi nặng tình chi nữa với những chụp đèn, với những quyển sách kia.
Đứng tại đây, mà hình hài thể phách đã ký thác vào những mù sương vây phủ, những mây kéo tối sầm; đứng ở đây mà hồn phi công nghìn dặm đã nhấm thấy trước rồi, các vị chát những đêm bay.
Tôi được đánh thức dậy lúc ba giờ sáng.
Tôi đẩy mạnh cánh cửa chớp, nhận thấy trời đang mưa trên phố, tôi trang nghiêm mặc áo quần.
Nửa giờ sau, ở vệ đường, ngồi bên chiếc va ly nhỏ, tôi chờ chiếc xe buýt đến.
Biết bao bạn đồng nghiệp trước tôi, trong ngày được chuẩn nhận vào nghề, cũng đã từng ngóng đợi như tôi, lòng se se lại.
Từ góc đường, chiếc xe thời cũ đã nhô ra, tiếng kêu rầm rộ.
Đến bây giờ tới lượt mình, tôi cũng như các bạn đồng nghiệp cũ, được quyền ngồi trên chiếc ghế băng dài, chen giữa một ông ký nhà đoan chưa tỉnh ngủ và một vài công chức khác. | Đến bây giờ tới lượt mình, tôi cũng như các bạn đồng nghiệp cũ, được quyền ngồi trên chiếc ghế băng dài, chen giữa một ông ký nhà đoan chưa tỉnh ngủ và một vài công chức khác.
Chiếc xe hôi mùi mốc, là hình ảnh những công sở bụi bặm, những bàn giấy cũ mòn, những cuộc đời tàn lụi.
Cứ khoảng năm trăm thước, chiếc xe lại dừng, để chở thêm một thầy ký, một nhà đoan, một ông thanh tra nào nữa.
Kẻ mới bước lên, buông tiếng chào, xen vào ghế; kẻ đã ngồi từ trước, chớm ngủ thiu thiu, cằn nhằn gù gật.
Rồi mọi người cùng lần lượt lịm vào giấc thiu thiu.
Trên các chặng đường trải đá gồ ghề phố Toulouse, chiếc xe đi, thật là điều ảo não… Và người phi công dặm trường ngồi chen trong đám công chức, thoạt tiên, chẳng có gì phân biệt hết… Nhưng những cột đèn cứ nối tiếp chạy dài, nhưng phi trường cứ càng gần thêm mãi, và chiếc xe chở khách cũ kỹ lắt lay kia chỉ còn là cái kén mốc, và con người từ trong đó lột xác bước ra. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Đến bây giờ tới lượt mình, tôi cũng như các bạn đồng nghiệp cũ, được quyền ngồi trên chiếc ghế băng dài, chen giữa một ông ký nhà đoan chưa tỉnh ngủ và một vài công chức khác.
Chiếc xe hôi mùi mốc, là hình ảnh những công sở bụi bặm, những bàn giấy cũ mòn, những cuộc đời tàn lụi.
Cứ khoảng năm trăm thước, chiếc xe lại dừng, để chở thêm một thầy ký, một nhà đoan, một ông thanh tra nào nữa.
Kẻ mới bước lên, buông tiếng chào, xen vào ghế; kẻ đã ngồi từ trước, chớm ngủ thiu thiu, cằn nhằn gù gật.
Rồi mọi người cùng lần lượt lịm vào giấc thiu thiu.
Trên các chặng đường trải đá gồ ghề phố Toulouse, chiếc xe đi, thật là điều ảo não… Và người phi công dặm trường ngồi chen trong đám công chức, thoạt tiên, chẳng có gì phân biệt hết… Nhưng những cột đèn cứ nối tiếp chạy dài, nhưng phi trường cứ càng gần thêm mãi, và chiếc xe chở khách cũ kỹ lắt lay kia chỉ còn là cái kén mốc, và con người từ trong đó lột xác bước ra. | Mỗi bạn đồng nghiệp cũng từng đã như tôi, một sớm mai tương tự, đã từng cảm thấy tại thân mình, trong hình hài kẻ thuộc hạ dễ bị tổn thương, chịu quyền uy của viên thanh tra cau có, bất chợt nảy nở ra con người mang trách nhiệm chuyến tàu thư đi Tây Ban Nha và Phi châu; bất chợt nảy ra con người lát nữa, giữa loạn cuồng sấm chớp, sẽ đương đầu với rặng núi Hospitalet nằm đen ngòm như một con hắc long… ba giờ sau, ấy thế; bốn giờ sau, lúc đã chiến thắng con rồng đen, người ấy sẽ hoàn toàn tự do tự mình định đoạt nên bay vòng eo biển hay nhào thẳng tới tấn công dãy núi Alcoy, đem gan liền ra thi tài đấu sức với bão tố, với biển rộng, rừng sâu.
Mỗi bạn đồng nghiệp lẫn lộn trong đám phi công vô danh dưới vòm trời đông đen kịt Toulouse, đã từng cảm thấy, dưới một buổi mai tương tự buổi mai này, cứ như lớn rộng mãi trong thân mình một vị chúa tối thượng năm giờ sau sẽ khởi sự tiện gió cất lìa dặm khơi, thả cánh bằng, nhằm phố Alicante mà hạ xuống, trong nắng hè chói rực ngày hạ huy hoàng, bỏ lại sau lưng cả một mùa đông phương Bắc, với mưa sầu tuyết hận phía sau…
Chiếc xe hàng cũ kỹ biến mất rồi, nhưng vẻ khắc khổ, điệu ì ạch gập ghềnh kia, tôi còn giữ nguyên trong kỷ niệm.
Nó tượng trưng đầy đủ sự chuẩn bị, rèn luyện cần thiết để thâm cảm một niềm vui trong khổ nhọc của nghề mình.
Mọi sự trong nghề này đều đơn giản một cách hãi hùng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Mỗi bạn đồng nghiệp cũng từng đã như tôi, một sớm mai tương tự, đã từng cảm thấy tại thân mình, trong hình hài kẻ thuộc hạ dễ bị tổn thương, chịu quyền uy của viên thanh tra cau có, bất chợt nảy nở ra con người mang trách nhiệm chuyến tàu thư đi Tây Ban Nha và Phi châu; bất chợt nảy ra con người lát nữa, giữa loạn cuồng sấm chớp, sẽ đương đầu với rặng núi Hospitalet nằm đen ngòm như một con hắc long… ba giờ sau, ấy thế; bốn giờ sau, lúc đã chiến thắng con rồng đen, người ấy sẽ hoàn toàn tự do tự mình định đoạt nên bay vòng eo biển hay nhào thẳng tới tấn công dãy núi Alcoy, đem gan liền ra thi tài đấu sức với bão tố, với biển rộng, rừng sâu.
Mỗi bạn đồng nghiệp lẫn lộn trong đám phi công vô danh dưới vòm trời đông đen kịt Toulouse, đã từng cảm thấy, dưới một buổi mai tương tự buổi mai này, cứ như lớn rộng mãi trong thân mình một vị chúa tối thượng năm giờ sau sẽ khởi sự tiện gió cất lìa dặm khơi, thả cánh bằng, nhằm phố Alicante mà hạ xuống, trong nắng hè chói rực ngày hạ huy hoàng, bỏ lại sau lưng cả một mùa đông phương Bắc, với mưa sầu tuyết hận phía sau…
Chiếc xe hàng cũ kỹ biến mất rồi, nhưng vẻ khắc khổ, điệu ì ạch gập ghềnh kia, tôi còn giữ nguyên trong kỷ niệm.
Nó tượng trưng đầy đủ sự chuẩn bị, rèn luyện cần thiết để thâm cảm một niềm vui trong khổ nhọc của nghề mình.
Mọi sự trong nghề này đều đơn giản một cách hãi hùng. | Nó tượng trưng đầy đủ sự chuẩn bị, rèn luyện cần thiết để thâm cảm một niềm vui trong khổ nhọc của nghề mình.
Mọi sự trong nghề này đều đơn giản một cách hãi hùng.
Trong cõi đó, ba năm sau, tôi đã nhận được tin anh phi công Lécrivain chết, mà lời trao đổi không quá hai câu; Lécrivain, một trong số một trăm bạn đồng nghiệp trên một con đường bay, một ngày sương hoặc một đêm mù tối, đã đi vào cõi yên nghỉ thiên thu.
Lúc ấy vào khoảng ba giờ sáng, cũng canh chầy tĩnh mịch, bỗng nghe trong bóng tối vị giám đốc lên tiếng hỏi viên thanh tra:
- Tối nay Lécrivain không thấy hạ cánh xuống Casablanca.
Và như sực tỉnh mộng dài, anh gắng cho tỉnh táo để tỏ lòng sốt sắng, anh hỏi thêm:
- A!
Từ cuối chuyến xe khách, vẳng lên một lời đáp gọn lỏn: “Không”.
Chúng tôi chờ nghe tiếp, nhưng không một tiếng nào thêm.
Và giây khắc qua, giây khắc biến, càng rõ rằng cái tiếng “không” kia, là tuyệt-đối-tiếng-không; rằng không là không những Lécrivain đã không hạ cánh xuống Casablanca, mà cũng không bao giờ anh sẽ còn hạ cánh xuống bất cứ một nơi nào được nữa.
Buổi mai đó, buổi mai mở màn chuyến bay đầu tiên của tôi, tôi cũng như các bạn đồng nghiệp, xin khuất mình nhận đủ các nghi tiết thiêng liêng của nghề nghiệp, và cảm thấy thiếu mất tự tin, lúc nhìn ra bên ngoài thấy con đường trải đá lấp loáng phản chiếu bóng đèn lồng.
Trên đường, những vũng nước đọng, từng đợt gió bay qua làm lăn tăn mặt nước. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nó tượng trưng đầy đủ sự chuẩn bị, rèn luyện cần thiết để thâm cảm một niềm vui trong khổ nhọc của nghề mình.
Mọi sự trong nghề này đều đơn giản một cách hãi hùng.
Trong cõi đó, ba năm sau, tôi đã nhận được tin anh phi công Lécrivain chết, mà lời trao đổi không quá hai câu; Lécrivain, một trong số một trăm bạn đồng nghiệp trên một con đường bay, một ngày sương hoặc một đêm mù tối, đã đi vào cõi yên nghỉ thiên thu.
Lúc ấy vào khoảng ba giờ sáng, cũng canh chầy tĩnh mịch, bỗng nghe trong bóng tối vị giám đốc lên tiếng hỏi viên thanh tra:
- Tối nay Lécrivain không thấy hạ cánh xuống Casablanca.
Và như sực tỉnh mộng dài, anh gắng cho tỉnh táo để tỏ lòng sốt sắng, anh hỏi thêm:
- A!
Từ cuối chuyến xe khách, vẳng lên một lời đáp gọn lỏn: “Không”.
Chúng tôi chờ nghe tiếp, nhưng không một tiếng nào thêm.
Và giây khắc qua, giây khắc biến, càng rõ rằng cái tiếng “không” kia, là tuyệt-đối-tiếng-không; rằng không là không những Lécrivain đã không hạ cánh xuống Casablanca, mà cũng không bao giờ anh sẽ còn hạ cánh xuống bất cứ một nơi nào được nữa.
Buổi mai đó, buổi mai mở màn chuyến bay đầu tiên của tôi, tôi cũng như các bạn đồng nghiệp, xin khuất mình nhận đủ các nghi tiết thiêng liêng của nghề nghiệp, và cảm thấy thiếu mất tự tin, lúc nhìn ra bên ngoài thấy con đường trải đá lấp loáng phản chiếu bóng đèn lồng.
Trên đường, những vũng nước đọng, từng đợt gió bay qua làm lăn tăn mặt nước. | Trên đường, những vũng nước đọng, từng đợt gió bay qua làm lăn tăn mặt nước.
Và tôi nghĩ: “Đây chuyến bay đầu… thật tình… ta không may mắn lắm.” Tôi ngẩng nhìn viên thanh tra: “Thế này có phải là xấu trời chăng?” Viên thanh tra mỏi mệt nhìn ra cửa kính: “Đâu có chắc gì?” Giọng ông cằn nhằn.
Tôi tự hỏi: bằng dấu hiệu nào mới biết được trời xấu?
Tối hôm qua, riêng với một nụ cười, anh Guillaumet đã xóa hết mọi triệu chứng không hay mà các bạn kỳ cựu đã làm chúng tôi e sợ, nhưng bây giờ tôi nhớ hết: “Kẻ nào không thuộc đường mình, thuộc từng đường sỏi, nếu y gặp một trận bão tuyết… thật đáng thương thay!
Thật đáng thương thay!...” Họ buộc lòng phải giữ thể diện với đàn em, họ lắc đầu nhìn chúng tôi chòng chọc với một lòng thương hại đáng bực phần nào, như chừng họ ái ngại nơi chúng tôi những lỡ lầm quá hồn nhiên dại dột.
Và thật vậy, đối với bao nhiêu kẻ trong chúng tôi, chuyến xe “buýt” này là nơi tị nạn cuối?
Cũng đã từng được chở đi do một tài xế lặng lẽ, một buổi mai mưa nhiều.
Tôi nhìn quanh: lốm đốm sáng trong đêm, những chấm đỏ đầu điếu thuốc như điểm nhịp hồn tư lự.
Những tư lự nhỏ nhoi giản dị của những công chức về già.
Với bao nhiêu người trong bọn tôi, những bạn đồng hành này đã đóng vai những kẻ tiễn đưa lần cuối?
Tôi bắt gặp những câu tâm sự người ta thủ thỉ trao nhau.
Tâm sự về bịnh tật, tiền tài, về những quẩn quanh gia đình cơ cực.
Chúng cho thấy những vách tường tù ngục tẻ lạnh vây hãm những tấm thân kia. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Trên đường, những vũng nước đọng, từng đợt gió bay qua làm lăn tăn mặt nước.
Và tôi nghĩ: “Đây chuyến bay đầu… thật tình… ta không may mắn lắm.” Tôi ngẩng nhìn viên thanh tra: “Thế này có phải là xấu trời chăng?” Viên thanh tra mỏi mệt nhìn ra cửa kính: “Đâu có chắc gì?” Giọng ông cằn nhằn.
Tôi tự hỏi: bằng dấu hiệu nào mới biết được trời xấu?
Tối hôm qua, riêng với một nụ cười, anh Guillaumet đã xóa hết mọi triệu chứng không hay mà các bạn kỳ cựu đã làm chúng tôi e sợ, nhưng bây giờ tôi nhớ hết: “Kẻ nào không thuộc đường mình, thuộc từng đường sỏi, nếu y gặp một trận bão tuyết… thật đáng thương thay!
Thật đáng thương thay!...” Họ buộc lòng phải giữ thể diện với đàn em, họ lắc đầu nhìn chúng tôi chòng chọc với một lòng thương hại đáng bực phần nào, như chừng họ ái ngại nơi chúng tôi những lỡ lầm quá hồn nhiên dại dột.
Và thật vậy, đối với bao nhiêu kẻ trong chúng tôi, chuyến xe “buýt” này là nơi tị nạn cuối?
Cũng đã từng được chở đi do một tài xế lặng lẽ, một buổi mai mưa nhiều.
Tôi nhìn quanh: lốm đốm sáng trong đêm, những chấm đỏ đầu điếu thuốc như điểm nhịp hồn tư lự.
Những tư lự nhỏ nhoi giản dị của những công chức về già.
Với bao nhiêu người trong bọn tôi, những bạn đồng hành này đã đóng vai những kẻ tiễn đưa lần cuối?
Tôi bắt gặp những câu tâm sự người ta thủ thỉ trao nhau.
Tâm sự về bịnh tật, tiền tài, về những quẩn quanh gia đình cơ cực.
Chúng cho thấy những vách tường tù ngục tẻ lạnh vây hãm những tấm thân kia. | Tôi bắt gặp những câu tâm sự người ta thủ thỉ trao nhau.
Tâm sự về bịnh tật, tiền tài, về những quẩn quanh gia đình cơ cực.
Chúng cho thấy những vách tường tù ngục tẻ lạnh vây hãm những tấm thân kia.
Và bất thình lình hiện ra trước mắt tôi khuôn mặt định mệnh.
Hỡi người công chức già, người bạn hiện diện nơi đây, chưa bao giờ có ai giúp anh lối thoát, anh cũng không chịu trách nhiệm gì về việc đó.
Anh đã xây dựng cuộc sống bình thản của mình bằng cách trám kín mọi ngõ nhìn ra ánh sáng.
Gió không thể đi về, vì mọi lối đều bị bít bởi xi măng.
Anh giống như những con mối.
Anh cuộn tròn trong ổn định túc mãn của anh, trong những tập tục cũ mòn, trong những thói lề ngột ngạt của cuộc sống địa phương, anh dựng bức thành u tối che lấp lối đi về của gió rộng trùng khơi, của sương hồng tinh tú.
Anh không muốn bận lòng vì những vấn đề trọng đại, anh đã khó nhọc nhiều mới quên lãng thân phận con người anh.
Anh không phải là một người cư trú trên một tinh cầu xê dịch, anh không tự nêu ra với mình những câu hỏi oái oăm: anh là người trưởng giả trung lưu phố Toulouse.
Không ai nắm lấy hai vai anh mà đẩy mạnh, khi còn kịp lúc.
Đến bây giờ, thì đã muộn.
Thể chất đã khô, nguồn tim đã cạn, xương khớp cứng rắn rồi; kể tự bây giờ, không ai còn có thể đánh thức dậy trong người anh, ấy hồn nhạc sĩ, ấy mộng thi nhân, ấy nhà thiên văn học của thuở ban đầu, chắc chắn đã có lần từng cư trú trong con người của anh.
Tôi không phàn nàn gì về những cơn mưa nữa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi bắt gặp những câu tâm sự người ta thủ thỉ trao nhau.
Tâm sự về bịnh tật, tiền tài, về những quẩn quanh gia đình cơ cực.
Chúng cho thấy những vách tường tù ngục tẻ lạnh vây hãm những tấm thân kia.
Và bất thình lình hiện ra trước mắt tôi khuôn mặt định mệnh.
Hỡi người công chức già, người bạn hiện diện nơi đây, chưa bao giờ có ai giúp anh lối thoát, anh cũng không chịu trách nhiệm gì về việc đó.
Anh đã xây dựng cuộc sống bình thản của mình bằng cách trám kín mọi ngõ nhìn ra ánh sáng.
Gió không thể đi về, vì mọi lối đều bị bít bởi xi măng.
Anh giống như những con mối.
Anh cuộn tròn trong ổn định túc mãn của anh, trong những tập tục cũ mòn, trong những thói lề ngột ngạt của cuộc sống địa phương, anh dựng bức thành u tối che lấp lối đi về của gió rộng trùng khơi, của sương hồng tinh tú.
Anh không muốn bận lòng vì những vấn đề trọng đại, anh đã khó nhọc nhiều mới quên lãng thân phận con người anh.
Anh không phải là một người cư trú trên một tinh cầu xê dịch, anh không tự nêu ra với mình những câu hỏi oái oăm: anh là người trưởng giả trung lưu phố Toulouse.
Không ai nắm lấy hai vai anh mà đẩy mạnh, khi còn kịp lúc.
Đến bây giờ, thì đã muộn.
Thể chất đã khô, nguồn tim đã cạn, xương khớp cứng rắn rồi; kể tự bây giờ, không ai còn có thể đánh thức dậy trong người anh, ấy hồn nhạc sĩ, ấy mộng thi nhân, ấy nhà thiên văn học của thuở ban đầu, chắc chắn đã có lần từng cư trú trong con người của anh.
Tôi không phàn nàn gì về những cơn mưa nữa. | Tôi không phàn nàn gì về những cơn mưa nữa.
Nghề nghiệp ảo diệu này mở rộng cho tôi một thế giới khác thường, và chỉ lát nữa thôi, tôi sẽ đọ mặt với những con rồng đen, và những đầu non với những làn chớp xanh về vây quyện.
Vâng, một thế giới mà lúc đêm tối về, tôi được thoát ly và đọc thấy phương hướng mình trong ánh vàng tinh tú.
Chúng tôi vào nghề theo lối đó, và khởi sự viễn du.
Những cuộc hành trình, thường thường chẳng xảy ra chuyện gì cho lắm.
Chúng tôi tiến sâu dần, sâu mãi vào những tầng thâm viễn của lĩnh vực mình, cũng như những kẻ lặn nước lành nghề lao mình lặn sâu xuống biển.
Ngày nay thì lĩnh vực đó được khai phá kỹ càng.
Người phi công, người thợ máy, người chuyên môn vô tuyến, không còn là những kẻ mạo hiểm phiêu lưu; họ khép mình ở trong phòng thí nghiệm.
Họ tuân theo những trò xõa lộng của kim quay, họ không còn thuận theo tiết điệu linh hoạt phiêu bồng mở phơi trong nhịp hồn phong cảnh.
Ở bên ngoài, núi non chìm trong tăm tối, nhưng chúng không còn là núi non nữa.
Chúng trở thành những sức mạnh vô hình, cần phải được tính toán độ gần xa.
Người chuyên vô tuyến, dưới bóng đèn, ngồi im ngoan ngoãn ghi những con số; người thợ máy dò hỏi bản đồ, người phi công sửa chữa lại tay lái cho đúng theo đường nếu những rặng núi xê xích, nếu những đỉnh núi nào anh đã định vượt qua bên phía sườn tả, bỗng chợt thấy hiện ra sừng sững trước mặt anh, trong lặng lẽ bí mật như một cuộc động binh quân sự. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi không phàn nàn gì về những cơn mưa nữa.
Nghề nghiệp ảo diệu này mở rộng cho tôi một thế giới khác thường, và chỉ lát nữa thôi, tôi sẽ đọ mặt với những con rồng đen, và những đầu non với những làn chớp xanh về vây quyện.
Vâng, một thế giới mà lúc đêm tối về, tôi được thoát ly và đọc thấy phương hướng mình trong ánh vàng tinh tú.
Chúng tôi vào nghề theo lối đó, và khởi sự viễn du.
Những cuộc hành trình, thường thường chẳng xảy ra chuyện gì cho lắm.
Chúng tôi tiến sâu dần, sâu mãi vào những tầng thâm viễn của lĩnh vực mình, cũng như những kẻ lặn nước lành nghề lao mình lặn sâu xuống biển.
Ngày nay thì lĩnh vực đó được khai phá kỹ càng.
Người phi công, người thợ máy, người chuyên môn vô tuyến, không còn là những kẻ mạo hiểm phiêu lưu; họ khép mình ở trong phòng thí nghiệm.
Họ tuân theo những trò xõa lộng của kim quay, họ không còn thuận theo tiết điệu linh hoạt phiêu bồng mở phơi trong nhịp hồn phong cảnh.
Ở bên ngoài, núi non chìm trong tăm tối, nhưng chúng không còn là núi non nữa.
Chúng trở thành những sức mạnh vô hình, cần phải được tính toán độ gần xa.
Người chuyên vô tuyến, dưới bóng đèn, ngồi im ngoan ngoãn ghi những con số; người thợ máy dò hỏi bản đồ, người phi công sửa chữa lại tay lái cho đúng theo đường nếu những rặng núi xê xích, nếu những đỉnh núi nào anh đã định vượt qua bên phía sườn tả, bỗng chợt thấy hiện ra sừng sững trước mặt anh, trong lặng lẽ bí mật như một cuộc động binh quân sự. | Còn những người chuyên vô tuyến canh phòng dưới đất, họ cũng ngoan ngoãn ghi chép trong cuốn sổ riêng, cũng trong phút giây ấy, chính những điều mà bạn đồng nghiệp trên phi cơ đọc ra: “Nửa đêm quá bốn mươi phút.
Trên tàu yên ổn cả.”
Các đội phi hành ngày nay đều bay như vậy đó.
Họ không có cảm giác là mình đang chuyển dịch.
Như giữa biển ban đêm họ không dựa vào đâu để định hướng.
Nhưng các máy móc đã đưa vào tràn ngập gian phòng sáng trưng này một rung động đều đều làm biến thể bản chất của nó đi.
Nhưng cả một pháp thuật vô hình cứ liên tiếp diễn ra trên các mặt kính, trong từng ngọn đèn vô tuyến, và trong các kim.
Từng phút, từng giây, những cử chỉ ẩn mật, những tiếng nói chìm tắt, sự chú ý cẩn trọng kia, còn dọn đường đi cho huyền nhiệm tới.
Và lúc giờ đã đến, người phi công hẳn nhiên là có thể dán đầu vào mặt kính mà đưa mắt nhìn ra.
Từ hư vô, hoàng kim đã nảy hột; nó chói vàng rạng rỡ trong những ánh lửa nồng: trạm nghỉ tới rồi đây.
Ấy thế tuy nhiên chúng tôi ai cũng từng có biết những chuyến đi, mà bỗng dưng, dưới ánh sáng một quan điểm riêng biệt, lúc chỉ còn cách trạm nghỉ không xa, chúng tôi chợt thấy chơ vơ… còn đáng ngậm ngùi hơn thấy mình lạc loài đất xa xôi Ấn Độ.
Như cả cuộc đời mất đi.
Trường hợp đó, Mermoz đã gặp vào lần thứ nhất anh bay qua Nam Đại Tây Dương bằng thủy phi cơ.
Chiều hôm đó, anh tiến vào vùng Pot-au-Noir. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Còn những người chuyên vô tuyến canh phòng dưới đất, họ cũng ngoan ngoãn ghi chép trong cuốn sổ riêng, cũng trong phút giây ấy, chính những điều mà bạn đồng nghiệp trên phi cơ đọc ra: “Nửa đêm quá bốn mươi phút.
Trên tàu yên ổn cả.”
Các đội phi hành ngày nay đều bay như vậy đó.
Họ không có cảm giác là mình đang chuyển dịch.
Như giữa biển ban đêm họ không dựa vào đâu để định hướng.
Nhưng các máy móc đã đưa vào tràn ngập gian phòng sáng trưng này một rung động đều đều làm biến thể bản chất của nó đi.
Nhưng cả một pháp thuật vô hình cứ liên tiếp diễn ra trên các mặt kính, trong từng ngọn đèn vô tuyến, và trong các kim.
Từng phút, từng giây, những cử chỉ ẩn mật, những tiếng nói chìm tắt, sự chú ý cẩn trọng kia, còn dọn đường đi cho huyền nhiệm tới.
Và lúc giờ đã đến, người phi công hẳn nhiên là có thể dán đầu vào mặt kính mà đưa mắt nhìn ra.
Từ hư vô, hoàng kim đã nảy hột; nó chói vàng rạng rỡ trong những ánh lửa nồng: trạm nghỉ tới rồi đây.
Ấy thế tuy nhiên chúng tôi ai cũng từng có biết những chuyến đi, mà bỗng dưng, dưới ánh sáng một quan điểm riêng biệt, lúc chỉ còn cách trạm nghỉ không xa, chúng tôi chợt thấy chơ vơ… còn đáng ngậm ngùi hơn thấy mình lạc loài đất xa xôi Ấn Độ.
Như cả cuộc đời mất đi.
Trường hợp đó, Mermoz đã gặp vào lần thứ nhất anh bay qua Nam Đại Tây Dương bằng thủy phi cơ.
Chiều hôm đó, anh tiến vào vùng Pot-au-Noir. | Như cả cuộc đời mất đi.
Trường hợp đó, Mermoz đã gặp vào lần thứ nhất anh bay qua Nam Đại Tây Dương bằng thủy phi cơ.
Chiều hôm đó, anh tiến vào vùng Pot-au-Noir.
Anh nhìn thấy trước mặt những cơn gió biển từng trận nổi lên tung bão tố, từng vòi cứ quấn siết chặt lại từng phút từng giây, như nhìn thấy một bức thành đương dựng lên, rồi bóng đêm phủ xuống che dấu mất.
Một giờ sau, anh len lỏi bay qua những đám mây, và bước vào trong một cõi bờ huyền hoặc.
Những vòi nước biển dựng đứng lên, cơn bão dồn dập cuốn lấy, quấn siết, đứng sừng sững như những cột trụ đen đủi khổng lồ của một điện đài.
Chúng to ra ở hai đầu, chịu đựng sức nặng của vòm bão giông âm u thấp tịt đè xuống.
Nhưng, xuyên qua những đường nứt nẻ của vòm đen giông gió, ánh sáng đổ xuống từng loạt long lanh, và vừng trăng tròn trịa bỗng sáng ngời lên giữa những cột trụ, vằng vặc soi trên mặt biển giá băng.
Mermoz tiếp tục bay qua những đền đài hoang phế này, xuyên ngang, duỗi dọc, chếch chếch hướng từ đường ánh sáng này đến đường ánh sáng kia, vòng quanh những cột trụ khổng lồ, nghe hải triều cuồng nộ dấy lên ì ầm không dứt, anh bay suốt bốn giờ, dọc theo những lạch trăng lai láng, tìm hướng thoát ra khỏi điện đài.
Cảnh tượng ấy đồ sộ hùng vĩ đến nỗi Mermoz khi thoát ra khỏi vùng Pot-au-Noir, mới chợt nhận thấy rằng, lúc còn lăn lóc “cuộc chơi” mình quên cả sợ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Như cả cuộc đời mất đi.
Trường hợp đó, Mermoz đã gặp vào lần thứ nhất anh bay qua Nam Đại Tây Dương bằng thủy phi cơ.
Chiều hôm đó, anh tiến vào vùng Pot-au-Noir.
Anh nhìn thấy trước mặt những cơn gió biển từng trận nổi lên tung bão tố, từng vòi cứ quấn siết chặt lại từng phút từng giây, như nhìn thấy một bức thành đương dựng lên, rồi bóng đêm phủ xuống che dấu mất.
Một giờ sau, anh len lỏi bay qua những đám mây, và bước vào trong một cõi bờ huyền hoặc.
Những vòi nước biển dựng đứng lên, cơn bão dồn dập cuốn lấy, quấn siết, đứng sừng sững như những cột trụ đen đủi khổng lồ của một điện đài.
Chúng to ra ở hai đầu, chịu đựng sức nặng của vòm bão giông âm u thấp tịt đè xuống.
Nhưng, xuyên qua những đường nứt nẻ của vòm đen giông gió, ánh sáng đổ xuống từng loạt long lanh, và vừng trăng tròn trịa bỗng sáng ngời lên giữa những cột trụ, vằng vặc soi trên mặt biển giá băng.
Mermoz tiếp tục bay qua những đền đài hoang phế này, xuyên ngang, duỗi dọc, chếch chếch hướng từ đường ánh sáng này đến đường ánh sáng kia, vòng quanh những cột trụ khổng lồ, nghe hải triều cuồng nộ dấy lên ì ầm không dứt, anh bay suốt bốn giờ, dọc theo những lạch trăng lai láng, tìm hướng thoát ra khỏi điện đài.
Cảnh tượng ấy đồ sộ hùng vĩ đến nỗi Mermoz khi thoát ra khỏi vùng Pot-au-Noir, mới chợt nhận thấy rằng, lúc còn lăn lóc “cuộc chơi” mình quên cả sợ. | Cảnh tượng ấy đồ sộ hùng vĩ đến nỗi Mermoz khi thoát ra khỏi vùng Pot-au-Noir, mới chợt nhận thấy rằng, lúc còn lăn lóc “cuộc chơi” mình quên cả sợ.
Tôi cũng nhớ lại một trong những giờ vượt biên thùy cõi thực: những tin tức vô tuyến ở những trạm hàng không ven sa mạc Sahara, tối hôm ấy hoàn toàn sai bét cả, và gây nhầm lẫn một cách thật trầm trọng cho tôi và anh chuyên viên vô tuyến Néri.
Cho đến lúc chợt nhìn thấy màu nước biển lấp loáng ở dưới kia, phía sau một hố sa mù, tôi vội bẻ lái quay về bờ đột ngột, mà chẳng rõ mình đã đâm đầu lạc nẻo ra biển khơi tự bao lâu.
Chúng tôi không còn dám chắc mình có thể vào kịp được bờ, rất có thể dầu xăng sẽ thiếu.
Mà vào cập đất liền, cũng còn phải tìm lại trạm hàng không.
Mặt trăng lại tới giờ sắp lặn mất.
Tin tức không có, không nghe được gì, chúng tôi chịu điếc, bây giờ sắp phải chịu đui.
Vừng trăng tắt lịm hẳn, như một đốm lửa tàn chìm trong sa mù giống như một dãi tuyết.
Vòm trời, trên cao, tới lượt bị mây đen vây phủ, và từ đó chúng tôi đành phải bay giữa những đám mây sa mù, trên dưới mông mông, trong một cõi bờ mù mịt, không một ánh sáng, không một sắc hình…
Những trạm hàng không, đáp lại tiếng gọi của chúng tôi, chả chỉ dẫn cho chúng tôi được chút gì cả: “Không thể tường kê phương hướng…” bởi vì tiếng gọi của chúng tôi họ nghe từ khắp nơi tới, và chẳng biết thật chính tự chỗ nào.
Bất thình lình, lúc chúng tôi tuyệt vô hi vọng, bỗng thấy ló ra một chấm sáng ở chân trời, về phía tả. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Cảnh tượng ấy đồ sộ hùng vĩ đến nỗi Mermoz khi thoát ra khỏi vùng Pot-au-Noir, mới chợt nhận thấy rằng, lúc còn lăn lóc “cuộc chơi” mình quên cả sợ.
Tôi cũng nhớ lại một trong những giờ vượt biên thùy cõi thực: những tin tức vô tuyến ở những trạm hàng không ven sa mạc Sahara, tối hôm ấy hoàn toàn sai bét cả, và gây nhầm lẫn một cách thật trầm trọng cho tôi và anh chuyên viên vô tuyến Néri.
Cho đến lúc chợt nhìn thấy màu nước biển lấp loáng ở dưới kia, phía sau một hố sa mù, tôi vội bẻ lái quay về bờ đột ngột, mà chẳng rõ mình đã đâm đầu lạc nẻo ra biển khơi tự bao lâu.
Chúng tôi không còn dám chắc mình có thể vào kịp được bờ, rất có thể dầu xăng sẽ thiếu.
Mà vào cập đất liền, cũng còn phải tìm lại trạm hàng không.
Mặt trăng lại tới giờ sắp lặn mất.
Tin tức không có, không nghe được gì, chúng tôi chịu điếc, bây giờ sắp phải chịu đui.
Vừng trăng tắt lịm hẳn, như một đốm lửa tàn chìm trong sa mù giống như một dãi tuyết.
Vòm trời, trên cao, tới lượt bị mây đen vây phủ, và từ đó chúng tôi đành phải bay giữa những đám mây sa mù, trên dưới mông mông, trong một cõi bờ mù mịt, không một ánh sáng, không một sắc hình…
Những trạm hàng không, đáp lại tiếng gọi của chúng tôi, chả chỉ dẫn cho chúng tôi được chút gì cả: “Không thể tường kê phương hướng…” bởi vì tiếng gọi của chúng tôi họ nghe từ khắp nơi tới, và chẳng biết thật chính tự chỗ nào.
Bất thình lình, lúc chúng tôi tuyệt vô hi vọng, bỗng thấy ló ra một chấm sáng ở chân trời, về phía tả. | Bất thình lình, lúc chúng tôi tuyệt vô hi vọng, bỗng thấy ló ra một chấm sáng ở chân trời, về phía tả.
Một niềm vui tràn ngập, Néri nghiêng mình xuống bên tôi, và tôi nghe anh hát.
Nhất định đó là trạm nghỉ, nhất định đó là ánh ngọn đèn pha, bởi vì bãi Sahara đêm tới thì tối mò mò, suốt xứ nằm chết lịm, làm gì có ánh sáng.
Nhưng ánh sáng chỉ lấp lánh một tí, đã tắt ngay.
Chúng tôi đã nhằm một vì sao mà bay tới.
Một vì sao sắp lặn, nên thấy hiện ở chân trời, hiện ra chỉ trong vài phút, giữa mây mờ, sương bạc.
Rồi từ đó, chúng tôi cứ thấy lần lượt xuất hiện những đốm ánh sáng khác, lại cứ xoay hướng nhằm theo, khắc khoải trong mơ hồ hy vọng.
Thấy đốm lửa sáng hơi lâu, liền thử xem có thật chăng đó là lối sống.
Néri gọi trạm Cisneros: “Thấy lửa rồi; các bạn hãy tắt ngọn lửa pha đi và thắp lại ba lần.”
Trạm Cisneros chớp ngọn lửa pha của họ ba lần, nhưng đốm ánh sáng chúng tôi đuổi theo thì vẫn cứ lửng lơ, không nháy; lại một vì sao, làm sao lung lạc được.
Xăng đã cạn, nhưng mỗi lúc thấy chiếc mồi vàng, chúng tôi lại đuổi theo mà đớp; mỗi lần thấy đích thị là trạm nghỉ chân, là con đường sống, rồi lại đành đích thị bỏ rơi và đuổi theo một vì sao khác.
Từ đó chúng tôi cảm thấy lạc lõng chìm ngập trong khoảng rộng liên hành tinh, chơi vơi giữa hàng trăm tinh cầu xa hút, biền biệt đuổi theo riêng một tinh cầu thiết thực, tinh cầu của riêng đời sống chúng tôi, chứa đựng những phong cảnh đầm ấm quen thân, những căn nhà bậu bạn, những luyến ái dịu dàng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Bất thình lình, lúc chúng tôi tuyệt vô hi vọng, bỗng thấy ló ra một chấm sáng ở chân trời, về phía tả.
Một niềm vui tràn ngập, Néri nghiêng mình xuống bên tôi, và tôi nghe anh hát.
Nhất định đó là trạm nghỉ, nhất định đó là ánh ngọn đèn pha, bởi vì bãi Sahara đêm tới thì tối mò mò, suốt xứ nằm chết lịm, làm gì có ánh sáng.
Nhưng ánh sáng chỉ lấp lánh một tí, đã tắt ngay.
Chúng tôi đã nhằm một vì sao mà bay tới.
Một vì sao sắp lặn, nên thấy hiện ở chân trời, hiện ra chỉ trong vài phút, giữa mây mờ, sương bạc.
Rồi từ đó, chúng tôi cứ thấy lần lượt xuất hiện những đốm ánh sáng khác, lại cứ xoay hướng nhằm theo, khắc khoải trong mơ hồ hy vọng.
Thấy đốm lửa sáng hơi lâu, liền thử xem có thật chăng đó là lối sống.
Néri gọi trạm Cisneros: “Thấy lửa rồi; các bạn hãy tắt ngọn lửa pha đi và thắp lại ba lần.”
Trạm Cisneros chớp ngọn lửa pha của họ ba lần, nhưng đốm ánh sáng chúng tôi đuổi theo thì vẫn cứ lửng lơ, không nháy; lại một vì sao, làm sao lung lạc được.
Xăng đã cạn, nhưng mỗi lúc thấy chiếc mồi vàng, chúng tôi lại đuổi theo mà đớp; mỗi lần thấy đích thị là trạm nghỉ chân, là con đường sống, rồi lại đành đích thị bỏ rơi và đuổi theo một vì sao khác.
Từ đó chúng tôi cảm thấy lạc lõng chìm ngập trong khoảng rộng liên hành tinh, chơi vơi giữa hàng trăm tinh cầu xa hút, biền biệt đuổi theo riêng một tinh cầu thiết thực, tinh cầu của riêng đời sống chúng tôi, chứa đựng những phong cảnh đầm ấm quen thân, những căn nhà bậu bạn, những luyến ái dịu dàng. | Của riêng một tinh cầu chứa đựng… Tôi sẽ nói cùng các anh về cái hình ảnh đã hiện ra trước mắt tôi, và có lẽ các anh sẽ xem là ngây dại.
Nhưng nằm giữa lòng hiểm họa, con người ta vẫn còn mãi những đòi hỏi, những yêu sách của con người, và tôi thấy đói, và tôi thấy khát.
Nếu tìm ra được Cisneros chúng tôi sẽ hạ cánh xuống lấy thêm xăng, và tiếp tục lên đường bay tới Casablanca, hạ cánh giữa cảnh bình minh mát mẻ.
Tuy còn sớm, nhiều quán rượu cũng đã mở cửa rồi… Néri và tôi sẽ ngồi vào bàn, bình yên vui vẻ nhắc lại đêm qua mà cười thỏa thuê, trước những chiếc bánh nóng hổi và tách cà phê sữa thơm.
Néri và tôi sẽ đón nhận tặng vật bình minh kia của cuộc sống.
Bà già nhà quê chỉ gặp đấng Chí Cao của mình qua một hình ảnh vẽ, một chiếc mề đay, một tràng chuỗi hạt: chúng tôi cũng vậy, muốn được chúng tôi hiểu ra, thì thiên hạ hãy nói lên bằng ngôn ngữ đơn giản.
Đối với tôi, niềm vui sống dồn tụ hết vào trong miếng ăn đầu tiên nọ, thơm tho nóng hổi, trong tách sữa pha cà phê bột mình do đó con người ta mới cảm thong được với những vườn cỏ yên lành, với những đồn điền xa lạ, với những ngày mùa nô nức, với mặt đất ưu tư… Giữa bao nhiêu tinh cầu, chỉ có một tinh cầu cung cấp cho chúng tôi cái bát thức ăn thơm tho buổi sáng.
Nhưng éo le thay những nghìn trùng nước thẳm đương chồng chất giữa con tàu chúng tôi và miền đất thân yêu đó.
Tất cả của cải trần gian nằm gọn trong hột bụi lạc loài giữa hằng hà sa số ngôi sao. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Của riêng một tinh cầu chứa đựng… Tôi sẽ nói cùng các anh về cái hình ảnh đã hiện ra trước mắt tôi, và có lẽ các anh sẽ xem là ngây dại.
Nhưng nằm giữa lòng hiểm họa, con người ta vẫn còn mãi những đòi hỏi, những yêu sách của con người, và tôi thấy đói, và tôi thấy khát.
Nếu tìm ra được Cisneros chúng tôi sẽ hạ cánh xuống lấy thêm xăng, và tiếp tục lên đường bay tới Casablanca, hạ cánh giữa cảnh bình minh mát mẻ.
Tuy còn sớm, nhiều quán rượu cũng đã mở cửa rồi… Néri và tôi sẽ ngồi vào bàn, bình yên vui vẻ nhắc lại đêm qua mà cười thỏa thuê, trước những chiếc bánh nóng hổi và tách cà phê sữa thơm.
Néri và tôi sẽ đón nhận tặng vật bình minh kia của cuộc sống.
Bà già nhà quê chỉ gặp đấng Chí Cao của mình qua một hình ảnh vẽ, một chiếc mề đay, một tràng chuỗi hạt: chúng tôi cũng vậy, muốn được chúng tôi hiểu ra, thì thiên hạ hãy nói lên bằng ngôn ngữ đơn giản.
Đối với tôi, niềm vui sống dồn tụ hết vào trong miếng ăn đầu tiên nọ, thơm tho nóng hổi, trong tách sữa pha cà phê bột mình do đó con người ta mới cảm thong được với những vườn cỏ yên lành, với những đồn điền xa lạ, với những ngày mùa nô nức, với mặt đất ưu tư… Giữa bao nhiêu tinh cầu, chỉ có một tinh cầu cung cấp cho chúng tôi cái bát thức ăn thơm tho buổi sáng.
Nhưng éo le thay những nghìn trùng nước thẳm đương chồng chất giữa con tàu chúng tôi và miền đất thân yêu đó.
Tất cả của cải trần gian nằm gọn trong hột bụi lạc loài giữa hằng hà sa số ngôi sao. | Nhưng éo le thay những nghìn trùng nước thẳm đương chồng chất giữa con tàu chúng tôi và miền đất thân yêu đó.
Tất cả của cải trần gian nằm gọn trong hột bụi lạc loài giữa hằng hà sa số ngôi sao.
Và nhà thiên văn học Néri muốn tìm ra hột bụi đó, vẫn phải đành van khấn mãi những vì sao.
Thình lình nắm tay anh chạm mạnh vào vai tôi.
Trên tờ giấy anh trao, tôi đọc: “Mọi sự tốt đẹp, tôi vừa nhận được một điện tín huy hoàng…” Tim đập mạnh, tôi chờ anh chép xong năm sáu chữ sắp cứu thoát chúng tôi.
Rồi tôi đón nhận tặng vật vô giá của nhà trời.
Từ Casablanca đánh tới, là nơi chúng tôi từ biệt đêm hôm qua.
Vì tống đạt chậm trễ, tới bây giờ bỗng đột ngột nó vào tay chúng tôi, đi xa hai nghìn cây số, giữa mây và mù, lạc lõng trên biển khơi.
Điện tín đó do viên đại diện chính phủ tại phi trường Casablanca đánh tới.
Tôi đọc: “Thưa ông Saint-Exupéry, tôi buộc lòng phải yêu cầu Ba Lê phạt ông, ông đã bay quá sát các nhà chứa, lúc khởi hành tại Casablanca.” Quả thật tôi có bay quá sát các nhà chứa.
Quả thật nữa ấy là ông đại diện kia phàn nàn cũng chỉ do trách nhiệm nghề nghiệp.
Nếu đứng tại phòng giấy một phi trường, ắt là tôi đã xấu hổ nghe lời quở trách đó.
Nhưng nó lại tìm tới chúng tôi ở chính một nơi nó không có quyền tìm tới.
Nó lên điệu sai bét, cả giọng cả lời, giữa những ngôi sao quá lẻ tẻ, giữa sương mù giăng mắc, giữa những hương vị hãi hùng của biển khơi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nhưng éo le thay những nghìn trùng nước thẳm đương chồng chất giữa con tàu chúng tôi và miền đất thân yêu đó.
Tất cả của cải trần gian nằm gọn trong hột bụi lạc loài giữa hằng hà sa số ngôi sao.
Và nhà thiên văn học Néri muốn tìm ra hột bụi đó, vẫn phải đành van khấn mãi những vì sao.
Thình lình nắm tay anh chạm mạnh vào vai tôi.
Trên tờ giấy anh trao, tôi đọc: “Mọi sự tốt đẹp, tôi vừa nhận được một điện tín huy hoàng…” Tim đập mạnh, tôi chờ anh chép xong năm sáu chữ sắp cứu thoát chúng tôi.
Rồi tôi đón nhận tặng vật vô giá của nhà trời.
Từ Casablanca đánh tới, là nơi chúng tôi từ biệt đêm hôm qua.
Vì tống đạt chậm trễ, tới bây giờ bỗng đột ngột nó vào tay chúng tôi, đi xa hai nghìn cây số, giữa mây và mù, lạc lõng trên biển khơi.
Điện tín đó do viên đại diện chính phủ tại phi trường Casablanca đánh tới.
Tôi đọc: “Thưa ông Saint-Exupéry, tôi buộc lòng phải yêu cầu Ba Lê phạt ông, ông đã bay quá sát các nhà chứa, lúc khởi hành tại Casablanca.” Quả thật tôi có bay quá sát các nhà chứa.
Quả thật nữa ấy là ông đại diện kia phàn nàn cũng chỉ do trách nhiệm nghề nghiệp.
Nếu đứng tại phòng giấy một phi trường, ắt là tôi đã xấu hổ nghe lời quở trách đó.
Nhưng nó lại tìm tới chúng tôi ở chính một nơi nó không có quyền tìm tới.
Nó lên điệu sai bét, cả giọng cả lời, giữa những ngôi sao quá lẻ tẻ, giữa sương mù giăng mắc, giữa những hương vị hãi hùng của biển khơi. | Nó lên điệu sai bét, cả giọng cả lời, giữa những ngôi sao quá lẻ tẻ, giữa sương mù giăng mắc, giữa những hương vị hãi hùng của biển khơi.
Chúng tôi nắm trong tay mình vận mệnh mình, vận mệnh chuyến thư và vận mệnh con tàu; cầm tay lái mà tìm phương hướng sống, kể cũng đã khổ nhọc lắm thay, thế mà kẻ kia còn đuổi theo trút hận!
Nhưng chúng tôi không hề phát cáu, trái lại, Néri và tôi lại còn khoái chí vui cười hể hả khôn xiết.
Ở đây chúng tôi là chúa tể, lời đe dọa kia vụt giúp chúng tôi khám phá ra điều ấy.
Anh cai này há không biết rằng chúng tôi đã là đại úy hay sao?
Anh ta phá rối giấc mơ của chúng tôi, giữa lúc chúng tôi còn bận bách bộ từ sao Bắc đẩu tới Nhân mã cung, giữa lúc cái việc duy nhất ngang tầm chúng tôi và xui chúng tôi bận bịu, là sự phản bội kia của vừng nguyệt…
Bổn phận cấp bách, bổn phận duy nhất của quả hành tinh nơi con người kia phát lộ, ấy là làm thế nào cung cấp cho chúng tôi những con số chính xác giúp chúng tôi tính toán với các vì sao.
Thế mà những con số kia lại sai bét cả.
Ngoài việc ấy ra, tạm thời trái đất chỉ nên câm miệng.
Và Néri viết: “Đã lẽ họ tìm cách dẫn ta về hơn là làm cái trò khỉ ấy”.
“Họ” đối với Néri, tóm thâu mọi dân tộc địa cầu, với các thượng hạ nghị viện, với các đội hải lục quân và hoàng đế của họ.
Và đọc lại bức điện tín của một tên cuồng muốn gây sự với chúng tôi, chúng tôi bẻ lái con tàu về phía sao Mercure. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nó lên điệu sai bét, cả giọng cả lời, giữa những ngôi sao quá lẻ tẻ, giữa sương mù giăng mắc, giữa những hương vị hãi hùng của biển khơi.
Chúng tôi nắm trong tay mình vận mệnh mình, vận mệnh chuyến thư và vận mệnh con tàu; cầm tay lái mà tìm phương hướng sống, kể cũng đã khổ nhọc lắm thay, thế mà kẻ kia còn đuổi theo trút hận!
Nhưng chúng tôi không hề phát cáu, trái lại, Néri và tôi lại còn khoái chí vui cười hể hả khôn xiết.
Ở đây chúng tôi là chúa tể, lời đe dọa kia vụt giúp chúng tôi khám phá ra điều ấy.
Anh cai này há không biết rằng chúng tôi đã là đại úy hay sao?
Anh ta phá rối giấc mơ của chúng tôi, giữa lúc chúng tôi còn bận bách bộ từ sao Bắc đẩu tới Nhân mã cung, giữa lúc cái việc duy nhất ngang tầm chúng tôi và xui chúng tôi bận bịu, là sự phản bội kia của vừng nguyệt…
Bổn phận cấp bách, bổn phận duy nhất của quả hành tinh nơi con người kia phát lộ, ấy là làm thế nào cung cấp cho chúng tôi những con số chính xác giúp chúng tôi tính toán với các vì sao.
Thế mà những con số kia lại sai bét cả.
Ngoài việc ấy ra, tạm thời trái đất chỉ nên câm miệng.
Và Néri viết: “Đã lẽ họ tìm cách dẫn ta về hơn là làm cái trò khỉ ấy”.
“Họ” đối với Néri, tóm thâu mọi dân tộc địa cầu, với các thượng hạ nghị viện, với các đội hải lục quân và hoàng đế của họ.
Và đọc lại bức điện tín của một tên cuồng muốn gây sự với chúng tôi, chúng tôi bẻ lái con tàu về phía sao Mercure. | Và đọc lại bức điện tín của một tên cuồng muốn gây sự với chúng tôi, chúng tôi bẻ lái con tàu về phía sao Mercure.
Một ngẫu nhiên hết sức kỳ lạ bỗng cứu thoát chúng tôi: tới lúc không còn chút hy vọng tìm ra trạm Casneros, buộc lòng phải bay đâm ngang vào bờ biển, tôi đành quyết định giữ mãi hướng đó mà bay cho tới khi cạn hết xăng.
Như vậy họa chăng may ra có khỏi rơi chìm trong đáy biển.
Tai hại thay, những ngọn đèn pha phỉnh phờ đã lôi tôi tới đâu, có trời mà biết!
Tai hại thay, sa mù dằng dặc buộc chúng tôi dấn liền trong đêm tối căm căm, chắc gì sẽ cho phép chúng tôi hạ cánh vuông tròn nơi đất liền mà không tai nạn!
Nhưng đến nước này còn nói chi nữa chuyện chọn lựa hơn thua.
Cảnh huống đã quá rõ rệt, tôi chỉ biết nhún vai lúc Néri chuyền cho tôi xem một điện tín, một điện tín nếu đến sớm một giờ, ắt đã cứu thoát chúng tôi: “Cisneros bây giờ mới chịu cho biết vị trí chúng ta.
Cisneros chỉ: khoảng chừng hai trăm mười sáu khả nghi…” Cisneros không còn chìm trong tăm tối heo hút.
Cisneros đã hiện ra rõ ràng, đích thực, ở phía tả của chúng tôi.
Hai đứa chúng tôi trao đổi nhau vài tiếng.
Cả hai cùng một ý: còn lo lắng tìm tới Cisneros, là còn làm trầm trọng thêm mối nguy cơ không vào kịp đất liền.
Và Néri đáp: “Chỉ còn một giờ xăng bay, phải theo hướng chin mươi bốn.”
Trong khi đó, các trạm hàng không lần lượt thức giấc.
Trong đối thoại giữa chúng tôi, giờ xen thêm những “giọng nói” của Agadir, của Casablanca, của Dakar. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Và đọc lại bức điện tín của một tên cuồng muốn gây sự với chúng tôi, chúng tôi bẻ lái con tàu về phía sao Mercure.
Một ngẫu nhiên hết sức kỳ lạ bỗng cứu thoát chúng tôi: tới lúc không còn chút hy vọng tìm ra trạm Casneros, buộc lòng phải bay đâm ngang vào bờ biển, tôi đành quyết định giữ mãi hướng đó mà bay cho tới khi cạn hết xăng.
Như vậy họa chăng may ra có khỏi rơi chìm trong đáy biển.
Tai hại thay, những ngọn đèn pha phỉnh phờ đã lôi tôi tới đâu, có trời mà biết!
Tai hại thay, sa mù dằng dặc buộc chúng tôi dấn liền trong đêm tối căm căm, chắc gì sẽ cho phép chúng tôi hạ cánh vuông tròn nơi đất liền mà không tai nạn!
Nhưng đến nước này còn nói chi nữa chuyện chọn lựa hơn thua.
Cảnh huống đã quá rõ rệt, tôi chỉ biết nhún vai lúc Néri chuyền cho tôi xem một điện tín, một điện tín nếu đến sớm một giờ, ắt đã cứu thoát chúng tôi: “Cisneros bây giờ mới chịu cho biết vị trí chúng ta.
Cisneros chỉ: khoảng chừng hai trăm mười sáu khả nghi…” Cisneros không còn chìm trong tăm tối heo hút.
Cisneros đã hiện ra rõ ràng, đích thực, ở phía tả của chúng tôi.
Hai đứa chúng tôi trao đổi nhau vài tiếng.
Cả hai cùng một ý: còn lo lắng tìm tới Cisneros, là còn làm trầm trọng thêm mối nguy cơ không vào kịp đất liền.
Và Néri đáp: “Chỉ còn một giờ xăng bay, phải theo hướng chin mươi bốn.”
Trong khi đó, các trạm hàng không lần lượt thức giấc.
Trong đối thoại giữa chúng tôi, giờ xen thêm những “giọng nói” của Agadir, của Casablanca, của Dakar. | Trong khi đó, các trạm hàng không lần lượt thức giấc.
Trong đối thoại giữa chúng tôi, giờ xen thêm những “giọng nói” của Agadir, của Casablanca, của Dakar.
Đài vô tuyến của các thành phố đã báo tin cấp cứu cho các phi trường.
Những giám đốc các phi trường đã báo tin cho anh em biết.
Thế là lần lượt họ xúm quanh chúng tôi như quanh giường người bệnh.
Sốt sắng vô ích rồi, dù sao cũng là sốt sắng.
Ân cần khuyên bảo cũng hoài thôi, nhưng sao mà thân ái thế!
Bất thình lình Toulouse xen tới.
Toulouse, đầu đường; Toulouse, khởi điểm; Toulouse, cách bốn nghìn cây số heo hút ở cuối trời.
Toulouse vụt chen vào trong câu chuyện, không kèn không trống, hỏi ngay: “Máy của các anh có phải là chiếc F… (tôi quên số hiệu) – Đúng thế.
– Vậy các anh còn đủ hai giờ xăng nữa.
Bình chứa xăng này không phải là thứ thông thường.
Bay về Cisneros đi.”
Thế đó, những cần thiết do nghề nghiệp nêu ra, đã biến dạng cho cõi đời chuyển hình, cho cuộc sống mỗi ngày càng phong phú thêm.
Và đáo cùng, cũng chẳng cần chi tới những đêm bay đặc biệt như thế này mới mở ra trước nhãn giới phi công đường trường một ý nghĩa tân kỳ ở giữa lòng những cảnh tượng cũ.
Cái phong cảnh thông thường đều đặn, không thay không đổi, vốn từng gây nhàm chán cho khách bộ hành, đối với đội phi công cũng đã biến hình khác hẳn.
Cái khối mây bàng bạc chắn ngang chân trời, đối với phi công không còn là cảnh trí: nó sắp sửa liên can tới bắp thịt, khớp xương người lái máy, nó sắp nêu lên cho phi công nhiều vấn đề cần giải đáp. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Trong khi đó, các trạm hàng không lần lượt thức giấc.
Trong đối thoại giữa chúng tôi, giờ xen thêm những “giọng nói” của Agadir, của Casablanca, của Dakar.
Đài vô tuyến của các thành phố đã báo tin cấp cứu cho các phi trường.
Những giám đốc các phi trường đã báo tin cho anh em biết.
Thế là lần lượt họ xúm quanh chúng tôi như quanh giường người bệnh.
Sốt sắng vô ích rồi, dù sao cũng là sốt sắng.
Ân cần khuyên bảo cũng hoài thôi, nhưng sao mà thân ái thế!
Bất thình lình Toulouse xen tới.
Toulouse, đầu đường; Toulouse, khởi điểm; Toulouse, cách bốn nghìn cây số heo hút ở cuối trời.
Toulouse vụt chen vào trong câu chuyện, không kèn không trống, hỏi ngay: “Máy của các anh có phải là chiếc F… (tôi quên số hiệu) – Đúng thế.
– Vậy các anh còn đủ hai giờ xăng nữa.
Bình chứa xăng này không phải là thứ thông thường.
Bay về Cisneros đi.”
Thế đó, những cần thiết do nghề nghiệp nêu ra, đã biến dạng cho cõi đời chuyển hình, cho cuộc sống mỗi ngày càng phong phú thêm.
Và đáo cùng, cũng chẳng cần chi tới những đêm bay đặc biệt như thế này mới mở ra trước nhãn giới phi công đường trường một ý nghĩa tân kỳ ở giữa lòng những cảnh tượng cũ.
Cái phong cảnh thông thường đều đặn, không thay không đổi, vốn từng gây nhàm chán cho khách bộ hành, đối với đội phi công cũng đã biến hình khác hẳn.
Cái khối mây bàng bạc chắn ngang chân trời, đối với phi công không còn là cảnh trí: nó sắp sửa liên can tới bắp thịt, khớp xương người lái máy, nó sắp nêu lên cho phi công nhiều vấn đề cần giải đáp. | Cái khối mây bàng bạc chắn ngang chân trời, đối với phi công không còn là cảnh trí: nó sắp sửa liên can tới bắp thịt, khớp xương người lái máy, nó sắp nêu lên cho phi công nhiều vấn đề cần giải đáp.
Phi công phải lưu ý tới tự ban đầu, phi công phải ước độ, cân nhắc; một ngôn ngữ riêng biệt đương kết buộc đôi bên.
Này đây mõm núi, tuy đó còn xa: nó sắp mang khuôn mặt nào thế?
Dưới trời trăng sáng, nó là cái mốc định phương hướng thuận tiện.
Nhưng nếu phi công phải bay trong đêm tăm, giữa sa mù vây bọc, hướng sai đường mà khó chữa lại phương, mà hoang mang không rõ được vị trí mình, thì mõm núi kia lại biến thành thuốc nổ, suốt đêm dài hăm dọa, như hệt một quả mìn nằm ngâm trong nước biển trôi dạt bình bồng, biến biển khơi thành nguy cơ mọi nẻo.
Trùng khơi cũng thiên hình vạn trạng.
Đối với hành khách ngồi im thu hình trên ghế, thì bão tố thế nào, họ có thấy ra đâu: từ trên cao chín tầng nhìn xuống, sóng trùng trông phẳng phiu phớt phớt, lớp lớp mù sa bình yên bất động.
Thấy gì chăng nữa, là những đợt rộng màu nước trắng phau phau trải như những cánh quạt khổng lồ, với những đường gân mơ hồ khía bọt, như đông thành băng giá thế thôi.
Đối với đội phi công, mọi sự khác hẳn.
Họ nhận ra rằng những chốn đó là chỗ đất cấm ngăn, không bao giờ được hạ cánh.
Những tàn lá quạt kia không khác gì những cánh hoa chứa đầy nhựa độc.
Cho dẫu hành trình sau trước vẫn bình yên, người phi công yên dặm bay nào đó, cũng không hề nhìn phong cảnh như ngắm cảnh tượng trước nhãn quan. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Cái khối mây bàng bạc chắn ngang chân trời, đối với phi công không còn là cảnh trí: nó sắp sửa liên can tới bắp thịt, khớp xương người lái máy, nó sắp nêu lên cho phi công nhiều vấn đề cần giải đáp.
Phi công phải lưu ý tới tự ban đầu, phi công phải ước độ, cân nhắc; một ngôn ngữ riêng biệt đương kết buộc đôi bên.
Này đây mõm núi, tuy đó còn xa: nó sắp mang khuôn mặt nào thế?
Dưới trời trăng sáng, nó là cái mốc định phương hướng thuận tiện.
Nhưng nếu phi công phải bay trong đêm tăm, giữa sa mù vây bọc, hướng sai đường mà khó chữa lại phương, mà hoang mang không rõ được vị trí mình, thì mõm núi kia lại biến thành thuốc nổ, suốt đêm dài hăm dọa, như hệt một quả mìn nằm ngâm trong nước biển trôi dạt bình bồng, biến biển khơi thành nguy cơ mọi nẻo.
Trùng khơi cũng thiên hình vạn trạng.
Đối với hành khách ngồi im thu hình trên ghế, thì bão tố thế nào, họ có thấy ra đâu: từ trên cao chín tầng nhìn xuống, sóng trùng trông phẳng phiu phớt phớt, lớp lớp mù sa bình yên bất động.
Thấy gì chăng nữa, là những đợt rộng màu nước trắng phau phau trải như những cánh quạt khổng lồ, với những đường gân mơ hồ khía bọt, như đông thành băng giá thế thôi.
Đối với đội phi công, mọi sự khác hẳn.
Họ nhận ra rằng những chốn đó là chỗ đất cấm ngăn, không bao giờ được hạ cánh.
Những tàn lá quạt kia không khác gì những cánh hoa chứa đầy nhựa độc.
Cho dẫu hành trình sau trước vẫn bình yên, người phi công yên dặm bay nào đó, cũng không hề nhìn phong cảnh như ngắm cảnh tượng trước nhãn quan. | Cho dẫu hành trình sau trước vẫn bình yên, người phi công yên dặm bay nào đó, cũng không hề nhìn phong cảnh như ngắm cảnh tượng trước nhãn quan.
Những sắc màu trên mây, những sắc màu dưới đất, những dấu vết gió dàn trên mặt biển, những bóng hoàng vân hoặc ráng đỏ chiều hôm, đâu có phải để cho mình thưởng ngoạn, chính là để cho người suy tưởng, ưu tư.
Cũng như thể người nông dân đi xem xét ruộng đồng, còn phải chú ý đoán xem thời tiết, coi chừng qua trăm nghìn tiên triệu, nhịp động của xuân đi, xuân đến, của băng giá hăm dọa đương về, của mưa dầm đương tới, thì phi công cũng vậy, cũng phải xem dò dấu hiệu mà đo bước tuyết về, mù sa sắp phủ, hoặc đêm sắp tới sẽ hạnh phúc hồng vàng…
Máy móc ban sơ tưởng như chừng xui anh lìa xa những vấn đề thiên nhiên lớn rộng, thật ra lại buộc người quy phục vào đó một cách nghiêm mật hơn.
Một mình giữa tòa án mênh mông mở ra một cơn bão dậy, người phi công phải binh vực khối thư tín của mình trước lời kết tội của ba hung thần sơ thủy: non ngàn, biển thẳm và bão giông.
II
BẠN ĐỒNG NGHIỆP
1
Vài người bạn anh em, có Mermoz trong đó, đã thiết lập con đường Pháp từ Casablanca tới Dakar, xuyên qua Sahara chưa quy phục.
Máy thời đó không vững chắc, một lần máy hỏng, Mermoz lọt vào tay người Maures; họ do dự không giết anh, cầm tù anh mười lăm hôm, rồi cho chuộc tiền.
Mermoz thoát nạn, lại tiếp tục lái máy bay thư tín ngang qua những khu vực cũ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Cho dẫu hành trình sau trước vẫn bình yên, người phi công yên dặm bay nào đó, cũng không hề nhìn phong cảnh như ngắm cảnh tượng trước nhãn quan.
Những sắc màu trên mây, những sắc màu dưới đất, những dấu vết gió dàn trên mặt biển, những bóng hoàng vân hoặc ráng đỏ chiều hôm, đâu có phải để cho mình thưởng ngoạn, chính là để cho người suy tưởng, ưu tư.
Cũng như thể người nông dân đi xem xét ruộng đồng, còn phải chú ý đoán xem thời tiết, coi chừng qua trăm nghìn tiên triệu, nhịp động của xuân đi, xuân đến, của băng giá hăm dọa đương về, của mưa dầm đương tới, thì phi công cũng vậy, cũng phải xem dò dấu hiệu mà đo bước tuyết về, mù sa sắp phủ, hoặc đêm sắp tới sẽ hạnh phúc hồng vàng…
Máy móc ban sơ tưởng như chừng xui anh lìa xa những vấn đề thiên nhiên lớn rộng, thật ra lại buộc người quy phục vào đó một cách nghiêm mật hơn.
Một mình giữa tòa án mênh mông mở ra một cơn bão dậy, người phi công phải binh vực khối thư tín của mình trước lời kết tội của ba hung thần sơ thủy: non ngàn, biển thẳm và bão giông.
II
BẠN ĐỒNG NGHIỆP
1
Vài người bạn anh em, có Mermoz trong đó, đã thiết lập con đường Pháp từ Casablanca tới Dakar, xuyên qua Sahara chưa quy phục.
Máy thời đó không vững chắc, một lần máy hỏng, Mermoz lọt vào tay người Maures; họ do dự không giết anh, cầm tù anh mười lăm hôm, rồi cho chuộc tiền.
Mermoz thoát nạn, lại tiếp tục lái máy bay thư tín ngang qua những khu vực cũ. | Mermoz thoát nạn, lại tiếp tục lái máy bay thư tín ngang qua những khu vực cũ.
Khi con đường hàng không Mỹ mở ra, Mermoz luôn luôn tiên phong, được giao phó việc nghiên cứu quãng đường từ Buenos-Aires tới Santiago, và con đường vượt Sahara, anh còn phải thiết lập một đường bay ngang dãy Andes.
Người ta giao anh sử dụng một phi cơ chỉ bay tới độ cao năm ngàn hai trăm thước.
Nhưng những ngọn Codilère lại cao tới bảy ngàn thước.
Và cất cánh bay tìm những khoảng thấp khả dĩ cho phép phi cơ băng qua.
Sau những ngày dạn dày sinh tử với cát, giờ tới lượt Mermoz phải liều thân thi gan với núi, với những mõm nhọn tung từng đợt tuyết trong gió bay, với những bóng mờ cảnh vật trước lúc bão giông, với những cơn lốc cuốn cờ ác liệt thổi cuồng giữa hai vách tường non giáp trĩ, đụng độ một lần, là một lần rút dao nhọn xáp lá cà thập tử nhất sinh.
Mermoz hồn nhiên lao mình vào những trận đấu ấy, chả cần biết chút gì về phía địch, chả cần ngẫm lại xem con người còn có thể sống còn, sau cuộc siết, cơn ôm.
Mermoz chỉ biết thử dọn đường giùm kẻ khác.
Rồi một bận, vì mê mải dọn đường giùm, chàng bất chợt thấy mình làm tên tù cho dãy Andes vây hãm.
Hạ cánh trên một vùng cao bốn nghìn thước, bốn mặt tứ vi là thành đá dựng, suốt hai ngày liền, anh và người thợ máy cố tìm lối thoát thân.
Chỉ còn liều ván chót với rủi may chơi cái nước “nhứt chín nhì bù” với ngẫu nhĩ, thử lao phi cơ vào khoảng trống, cứ cho nó lăn trên mặt đất gồ ghề, lướt tới vực sâu mà lao bừa xuống. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Mermoz thoát nạn, lại tiếp tục lái máy bay thư tín ngang qua những khu vực cũ.
Khi con đường hàng không Mỹ mở ra, Mermoz luôn luôn tiên phong, được giao phó việc nghiên cứu quãng đường từ Buenos-Aires tới Santiago, và con đường vượt Sahara, anh còn phải thiết lập một đường bay ngang dãy Andes.
Người ta giao anh sử dụng một phi cơ chỉ bay tới độ cao năm ngàn hai trăm thước.
Nhưng những ngọn Codilère lại cao tới bảy ngàn thước.
Và cất cánh bay tìm những khoảng thấp khả dĩ cho phép phi cơ băng qua.
Sau những ngày dạn dày sinh tử với cát, giờ tới lượt Mermoz phải liều thân thi gan với núi, với những mõm nhọn tung từng đợt tuyết trong gió bay, với những bóng mờ cảnh vật trước lúc bão giông, với những cơn lốc cuốn cờ ác liệt thổi cuồng giữa hai vách tường non giáp trĩ, đụng độ một lần, là một lần rút dao nhọn xáp lá cà thập tử nhất sinh.
Mermoz hồn nhiên lao mình vào những trận đấu ấy, chả cần biết chút gì về phía địch, chả cần ngẫm lại xem con người còn có thể sống còn, sau cuộc siết, cơn ôm.
Mermoz chỉ biết thử dọn đường giùm kẻ khác.
Rồi một bận, vì mê mải dọn đường giùm, chàng bất chợt thấy mình làm tên tù cho dãy Andes vây hãm.
Hạ cánh trên một vùng cao bốn nghìn thước, bốn mặt tứ vi là thành đá dựng, suốt hai ngày liền, anh và người thợ máy cố tìm lối thoát thân.
Chỉ còn liều ván chót với rủi may chơi cái nước “nhứt chín nhì bù” với ngẫu nhĩ, thử lao phi cơ vào khoảng trống, cứ cho nó lăn trên mặt đất gồ ghề, lướt tới vực sâu mà lao bừa xuống. | Chỉ còn liều ván chót với rủi may chơi cái nước “nhứt chín nhì bù” với ngẫu nhĩ, thử lao phi cơ vào khoảng trống, cứ cho nó lăn trên mặt đất gồ ghề, lướt tới vực sâu mà lao bừa xuống.
Trong cơn lông lốc đó, phi cơ đạt tốc độ đủ để tuân theo tay lái điều khiển.
Mermoz liền lật ngược hướng phi cơ lên đối diện với một mõm núi nhô, chạm vào, lướt qua, và bao nhiêu nước chảy ra đầy ứ các ống dẫn, phi cơ sau bảy phút bay đã trở lại làm nủng, nguy rồi, thì bỗng nhiên trước mắt Mermoz cánh đồng Chili dàn rộng dưới kia, man mác như bờ cõi Thiên đường.
Qua ngày hôm sau, Mermoz lại xoay chiều trở lại, khởi sự lần nữa liều lĩnh vẫy vùng.
Lúc dãy Andes đã hoàn toàn chịu khuất phục, khi những cồn cao, mô thấp đã được lướt qua, điểm lại, kỹ thuật của chữ, của nghề, trong ngoài bảy tám, đã nắm vững tỏ tường, thì Mermoz liền đem giao lại quãng đường tròn trịa trơn tru cho bạn Guillaumet, rồi lo tới việc khai phá lối đi những hoa nguyệt não nùng trong cách điệu bay đêm.
Những trạm hàng không thuở ấy chưa tổ chức hoàn hảo cách đốt đèn soi tỏ lối đi nẻo về cho lữ khách đi đêm, và ở các phi cảng u u, lúc khách biên đình Mermoz ghé lại, thường chỉ thấy lơ láo vài ngọn lửa xăng gầy guộc đón người.
Tuy vậy, người vẫn chu toàn cho cuộc, và mở được con đường cho êm dịu giao hoan.
Lúc bờ cõi bóng đêm đã hoàn toàn quy thuận, Mermoz lại giũ áo lên đường ra biển gạ gẫm với trùng khơi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chỉ còn liều ván chót với rủi may chơi cái nước “nhứt chín nhì bù” với ngẫu nhĩ, thử lao phi cơ vào khoảng trống, cứ cho nó lăn trên mặt đất gồ ghề, lướt tới vực sâu mà lao bừa xuống.
Trong cơn lông lốc đó, phi cơ đạt tốc độ đủ để tuân theo tay lái điều khiển.
Mermoz liền lật ngược hướng phi cơ lên đối diện với một mõm núi nhô, chạm vào, lướt qua, và bao nhiêu nước chảy ra đầy ứ các ống dẫn, phi cơ sau bảy phút bay đã trở lại làm nủng, nguy rồi, thì bỗng nhiên trước mắt Mermoz cánh đồng Chili dàn rộng dưới kia, man mác như bờ cõi Thiên đường.
Qua ngày hôm sau, Mermoz lại xoay chiều trở lại, khởi sự lần nữa liều lĩnh vẫy vùng.
Lúc dãy Andes đã hoàn toàn chịu khuất phục, khi những cồn cao, mô thấp đã được lướt qua, điểm lại, kỹ thuật của chữ, của nghề, trong ngoài bảy tám, đã nắm vững tỏ tường, thì Mermoz liền đem giao lại quãng đường tròn trịa trơn tru cho bạn Guillaumet, rồi lo tới việc khai phá lối đi những hoa nguyệt não nùng trong cách điệu bay đêm.
Những trạm hàng không thuở ấy chưa tổ chức hoàn hảo cách đốt đèn soi tỏ lối đi nẻo về cho lữ khách đi đêm, và ở các phi cảng u u, lúc khách biên đình Mermoz ghé lại, thường chỉ thấy lơ láo vài ngọn lửa xăng gầy guộc đón người.
Tuy vậy, người vẫn chu toàn cho cuộc, và mở được con đường cho êm dịu giao hoan.
Lúc bờ cõi bóng đêm đã hoàn toàn quy thuận, Mermoz lại giũ áo lên đường ra biển gạ gẫm với trùng khơi. | Tuy vậy, người vẫn chu toàn cho cuộc, và mở được con đường cho êm dịu giao hoan.
Lúc bờ cõi bóng đêm đã hoàn toàn quy thuận, Mermoz lại giũ áo lên đường ra biển gạ gẫm với trùng khơi.
Nhờ đó mà lần đầu tiên năm 1931, thư tín đã dập dìu được chuyên chở trong bốn ngày, bay rộng cánh từ Toulouse tới Buenos-Aires.
Chuyến trở về lần nọ, Mermoz bị hết xăng giữa Nam Đại Tây Dương, đành hạ cánh trên dặm khơi dậy sóng.
Một con tàu thủy đến cứu anh, cứu bạn đồng đội, và thư tín vẹn toàn.
Thế đó, Mermoz đã lần lượt khai phá từ sa mạc, tới núi non, từ đêm tăm tới biển lộng.
Hơn một lần rơi trên cát, trên non, trong bóng đêm và trên mặt biển.
Và mỗi lúc thoát hiểm quay về, là mãi mãi để trở lại ra đi.
Sau mười hai năm nghề nghiệp ngang dọc, một lần nữa anh lại vượt qua Nam Đại Tây Dương, rồi một tin điển vắn vủn đánh về, báo cho anh em hay rằng anh bị hỏng máy ở tay phải, phía sau.
Rồi thôi, chỉ còn lặng lẽ.
Cái tin nghe không có gì đáng ngại, nhưng sau mười phút im lặng, tất cả các đài vô tuyến trên đường từ Paris tới Buenos-Aires cùng khởi sự ngóng tìm, khắc khoải.
Bởi vì nếu trong cuộc sống hằng ngày, mười phút chậm trễ chẳng có nghĩa mấy thì ở đây, đối với chiếc phi cơ thư tín, mười phút trễ tràng mang một ý nghĩa trầm trọng vô song.
Ở giữa lòng khoảng thời gian lặng câm vắn vủn nọ, có khép tròn một biến cố, cho tới bây giờ không ai rõ sự việc xảy ra sao.
Dù không đâu, dù thê thảm, biến cố kia cũng đã xảy ra rồi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tuy vậy, người vẫn chu toàn cho cuộc, và mở được con đường cho êm dịu giao hoan.
Lúc bờ cõi bóng đêm đã hoàn toàn quy thuận, Mermoz lại giũ áo lên đường ra biển gạ gẫm với trùng khơi.
Nhờ đó mà lần đầu tiên năm 1931, thư tín đã dập dìu được chuyên chở trong bốn ngày, bay rộng cánh từ Toulouse tới Buenos-Aires.
Chuyến trở về lần nọ, Mermoz bị hết xăng giữa Nam Đại Tây Dương, đành hạ cánh trên dặm khơi dậy sóng.
Một con tàu thủy đến cứu anh, cứu bạn đồng đội, và thư tín vẹn toàn.
Thế đó, Mermoz đã lần lượt khai phá từ sa mạc, tới núi non, từ đêm tăm tới biển lộng.
Hơn một lần rơi trên cát, trên non, trong bóng đêm và trên mặt biển.
Và mỗi lúc thoát hiểm quay về, là mãi mãi để trở lại ra đi.
Sau mười hai năm nghề nghiệp ngang dọc, một lần nữa anh lại vượt qua Nam Đại Tây Dương, rồi một tin điển vắn vủn đánh về, báo cho anh em hay rằng anh bị hỏng máy ở tay phải, phía sau.
Rồi thôi, chỉ còn lặng lẽ.
Cái tin nghe không có gì đáng ngại, nhưng sau mười phút im lặng, tất cả các đài vô tuyến trên đường từ Paris tới Buenos-Aires cùng khởi sự ngóng tìm, khắc khoải.
Bởi vì nếu trong cuộc sống hằng ngày, mười phút chậm trễ chẳng có nghĩa mấy thì ở đây, đối với chiếc phi cơ thư tín, mười phút trễ tràng mang một ý nghĩa trầm trọng vô song.
Ở giữa lòng khoảng thời gian lặng câm vắn vủn nọ, có khép tròn một biến cố, cho tới bây giờ không ai rõ sự việc xảy ra sao.
Dù không đâu, dù thê thảm, biến cố kia cũng đã xảy ra rồi. | Ở giữa lòng khoảng thời gian lặng câm vắn vủn nọ, có khép tròn một biến cố, cho tới bây giờ không ai rõ sự việc xảy ra sao.
Dù không đâu, dù thê thảm, biến cố kia cũng đã xảy ra rồi.
Định mệnh đã đưa lời phán quyết bất khả vãn hồi: một bàn tay sắt đã buộc đội phi hành hạ cách xuống biển, hoặc chẳng hề gì, hoặc chịu tan hoang.
Nhưng bản án kia không tuyên bố ra cho những kẻ chờ mong được biết.
Ai trong chúng ta chẳng từng rõ những hy vọng cứ mong manh dần, cái lặng lẽ câm nín cứ trầm trọng từng phút từng giây, như một cơn bệnh hãi hùng.
Chúng ta hy vọng, nhưng giờ khắc trôi, và tới lúc thôi thế!
Những bạn hữu đã đi, đã không về được nữa, đã đành yên nghỉ thiên thu trong lòng biển khơi một Nam Đại Tây Dương kia đã bao lần ngẩng mặt nhìn ai trên trời cao vạch đường ngang lối dọc.
Mermoz hẳn đã nằm giấu thân ở trong vòng sự nghiệp, giống như người thợ gặt kết bó xong xuôi lượm lúa, ngả người nằm xuống ngủ giữa đồng.
Mỗi lần một bạn hữu tử nạn theo lối đó, cái chết của anh thoạt xem ra cũng chỉ là một chuyện thường tình, trong vòng nghề nghiệp; và thoạt tiên, có lẽ không xui lòng ta khó chịu bằng một cái lối chết khác.
Vâng, anh bạn đã ra đi, xa dời mất tích, anh đã chịu đón nhận sự biến thể cuối cùng của trạm nghỉ nghịch lữ nhân gian; nhưng sự hiện diện của anh từ đây vắng thiếu, dẫu sao cũng chưa làm ta não lòng trong sâu thẳm tâm linh bằng sự thiết thân thiếu cơm thiếu áo.
Có lẽ… vâng…
Vì chúng ta vốn sống trong thói quen chờ mong lâu ngày những tao ngộ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Ở giữa lòng khoảng thời gian lặng câm vắn vủn nọ, có khép tròn một biến cố, cho tới bây giờ không ai rõ sự việc xảy ra sao.
Dù không đâu, dù thê thảm, biến cố kia cũng đã xảy ra rồi.
Định mệnh đã đưa lời phán quyết bất khả vãn hồi: một bàn tay sắt đã buộc đội phi hành hạ cách xuống biển, hoặc chẳng hề gì, hoặc chịu tan hoang.
Nhưng bản án kia không tuyên bố ra cho những kẻ chờ mong được biết.
Ai trong chúng ta chẳng từng rõ những hy vọng cứ mong manh dần, cái lặng lẽ câm nín cứ trầm trọng từng phút từng giây, như một cơn bệnh hãi hùng.
Chúng ta hy vọng, nhưng giờ khắc trôi, và tới lúc thôi thế!
Những bạn hữu đã đi, đã không về được nữa, đã đành yên nghỉ thiên thu trong lòng biển khơi một Nam Đại Tây Dương kia đã bao lần ngẩng mặt nhìn ai trên trời cao vạch đường ngang lối dọc.
Mermoz hẳn đã nằm giấu thân ở trong vòng sự nghiệp, giống như người thợ gặt kết bó xong xuôi lượm lúa, ngả người nằm xuống ngủ giữa đồng.
Mỗi lần một bạn hữu tử nạn theo lối đó, cái chết của anh thoạt xem ra cũng chỉ là một chuyện thường tình, trong vòng nghề nghiệp; và thoạt tiên, có lẽ không xui lòng ta khó chịu bằng một cái lối chết khác.
Vâng, anh bạn đã ra đi, xa dời mất tích, anh đã chịu đón nhận sự biến thể cuối cùng của trạm nghỉ nghịch lữ nhân gian; nhưng sự hiện diện của anh từ đây vắng thiếu, dẫu sao cũng chưa làm ta não lòng trong sâu thẳm tâm linh bằng sự thiết thân thiếu cơm thiếu áo.
Có lẽ… vâng…
Vì chúng ta vốn sống trong thói quen chờ mong lâu ngày những tao ngộ. | Có lẽ… vâng…
Vì chúng ta vốn sống trong thói quen chờ mong lâu ngày những tao ngộ.
Nhưng vì những bạn hữu dặm dài, ở rải rác khắp nơi, từ Paris tới Santiago xứ Chili, biệt lập nhau có phần như những người lính canh không cùng nhau hỏi chuyện.
Cần trận ngẫu nhĩ những cuộc viễn du, mới bất ngờ tụ họp đâu đó những phần tử rải rác của đại gia đình nghề nghiệp.
Quanh chiếc bàn ăn một chiều tối, tại Casablanca, tại Dakar, tại Buenos-Aires, hằng hằng những năm tròn im lặng, người ta khơi trở dậy những câu chuyện bỏ dở ngày xưa, người ta thắt trở lại những mối dây ràng buộc mình vào trong những kỷ niệm.
Mặt đất tròn té ra kể ra cũng là vừa hoang tiêu vừa phong phú.
Phong phú vì những khu vườn ẩn kín, giấu thân, khó lui vào mà viếng, mà vẫn luôn luôn nằm đợi đó chờ lúc nghề nghiệp sẽ luôn luôn còn cơ hội dắt dẫn ta về, một chiều xuân dâng, một thu hồng tạ.
Các bạn hữu, xa ta vì đời xô đẩy, xa ta vì cuộc sống không cho phép ta nghĩ tới họ nhiều, nhưng họ vẫn còn ở tại một nơi nào đó chẳng biết, lặng lẽ và bị lãng quên, nhưng xiết bao trung thành chung thủy!
Và nếu trên đường đi chợt gặp, họ còn nắm lấy vai ta lắc mạnh, vồ vập vui mừng!
Vâng, vâng, quả thế, chúng ta quen mong đợi chầy ngày…
Nhưng dần dà chợt thấy rằng cái tiếng cười trong trẻo của kẻ kia không bao giờ ta nghe trở lại nữa, ta chợt thấy rằng khu vườn êm dịu nọ sẽ muôn đời là vườn cấm với ta.
Tới lúc bấy giờ, mối đau lòng mới trỗi dậy niềm tang tóc thật sự mới khởi đầu.
Không da diết, đoạn trường, nhưng pha mùi chát chát. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Có lẽ… vâng…
Vì chúng ta vốn sống trong thói quen chờ mong lâu ngày những tao ngộ.
Nhưng vì những bạn hữu dặm dài, ở rải rác khắp nơi, từ Paris tới Santiago xứ Chili, biệt lập nhau có phần như những người lính canh không cùng nhau hỏi chuyện.
Cần trận ngẫu nhĩ những cuộc viễn du, mới bất ngờ tụ họp đâu đó những phần tử rải rác của đại gia đình nghề nghiệp.
Quanh chiếc bàn ăn một chiều tối, tại Casablanca, tại Dakar, tại Buenos-Aires, hằng hằng những năm tròn im lặng, người ta khơi trở dậy những câu chuyện bỏ dở ngày xưa, người ta thắt trở lại những mối dây ràng buộc mình vào trong những kỷ niệm.
Mặt đất tròn té ra kể ra cũng là vừa hoang tiêu vừa phong phú.
Phong phú vì những khu vườn ẩn kín, giấu thân, khó lui vào mà viếng, mà vẫn luôn luôn nằm đợi đó chờ lúc nghề nghiệp sẽ luôn luôn còn cơ hội dắt dẫn ta về, một chiều xuân dâng, một thu hồng tạ.
Các bạn hữu, xa ta vì đời xô đẩy, xa ta vì cuộc sống không cho phép ta nghĩ tới họ nhiều, nhưng họ vẫn còn ở tại một nơi nào đó chẳng biết, lặng lẽ và bị lãng quên, nhưng xiết bao trung thành chung thủy!
Và nếu trên đường đi chợt gặp, họ còn nắm lấy vai ta lắc mạnh, vồ vập vui mừng!
Vâng, vâng, quả thế, chúng ta quen mong đợi chầy ngày…
Nhưng dần dà chợt thấy rằng cái tiếng cười trong trẻo của kẻ kia không bao giờ ta nghe trở lại nữa, ta chợt thấy rằng khu vườn êm dịu nọ sẽ muôn đời là vườn cấm với ta.
Tới lúc bấy giờ, mối đau lòng mới trỗi dậy niềm tang tóc thật sự mới khởi đầu.
Không da diết, đoạn trường, nhưng pha mùi chát chát. | Tới lúc bấy giờ, mối đau lòng mới trỗi dậy niềm tang tóc thật sự mới khởi đầu.
Không da diết, đoạn trường, nhưng pha mùi chát chát.
Thật vậy, không có gì thay thế nổi người bạn đường đã bỏ đi.
Người ta không tự tạo được cho mình những bạn già thân ái.
Không có gì sánh kịp cái kho tàng những kỉ niệm chia nhau, những ngày giờ cùng chung hoạn nạn, những cằn nhằn gây gổ, những thành thật giải hòa, những chân tình ở trong nhịp tim máu.
Mất đi, làm sao tạo ra trở lại.
Trồng một cây sồi, cây phong, cây bồ đề, và mong sắp được nằm mơ dưới bóng lá nay mai, đó là ảo mộng.
Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây, tỉa hột, nhưng ngày tháng trôi, năm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu từng người rơi rụng mất.
Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, cái con người trơ trụi sẽ còn nghe rõ trong hoang lieu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất.
Đó là bài học của Mermoz và những bạn khác đã dạy tôi.
Sự cao quý của một nghề có lẽ trước tiên là: kết hợp con người lại; chỉ một điều hòa hoa quý trọng, ấy là tình bạn trong giao tế trần gian.
Nếu làm việc chỉ nhằm riêng những mục đích vật chất, chúng ta sẽ tự xây tù ngục cho mình.
Chúng ta khép mình cô đơn trong đó, với những đống tiền, đống bạc tàn lụi như tro than, chẳng thể nào mang lại chút sinh thú nào có nghĩa cho sự sống. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tới lúc bấy giờ, mối đau lòng mới trỗi dậy niềm tang tóc thật sự mới khởi đầu.
Không da diết, đoạn trường, nhưng pha mùi chát chát.
Thật vậy, không có gì thay thế nổi người bạn đường đã bỏ đi.
Người ta không tự tạo được cho mình những bạn già thân ái.
Không có gì sánh kịp cái kho tàng những kỉ niệm chia nhau, những ngày giờ cùng chung hoạn nạn, những cằn nhằn gây gổ, những thành thật giải hòa, những chân tình ở trong nhịp tim máu.
Mất đi, làm sao tạo ra trở lại.
Trồng một cây sồi, cây phong, cây bồ đề, và mong sắp được nằm mơ dưới bóng lá nay mai, đó là ảo mộng.
Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây, tỉa hột, nhưng ngày tháng trôi, năm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu từng người rơi rụng mất.
Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, cái con người trơ trụi sẽ còn nghe rõ trong hoang lieu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất.
Đó là bài học của Mermoz và những bạn khác đã dạy tôi.
Sự cao quý của một nghề có lẽ trước tiên là: kết hợp con người lại; chỉ một điều hòa hoa quý trọng, ấy là tình bạn trong giao tế trần gian.
Nếu làm việc chỉ nhằm riêng những mục đích vật chất, chúng ta sẽ tự xây tù ngục cho mình.
Chúng ta khép mình cô đơn trong đó, với những đống tiền, đống bạc tàn lụi như tro than, chẳng thể nào mang lại chút sinh thú nào có nghĩa cho sự sống. | Chúng ta khép mình cô đơn trong đó, với những đống tiền, đống bạc tàn lụi như tro than, chẳng thể nào mang lại chút sinh thú nào có nghĩa cho sự sống.
Nếu tôi tìm lại trong kỷ niệm mình những hình ảnh nào ghi tạc sâu xa, nếu tôi dò tính lại những ngày giờ nào đáng kể, thì chắc chắn rằng tôi sẽ tìm thấy được những gì không một thứ tiền của nào tạo nổi.
Người ta không thể mua được những tình bạn Mermoz, của một bạn đường mà riêng những giờ kham khổ sống chung đã gắn chặt họ vào đời ta mãi mãi.
Cái đêm bay ngày nọ, với những tinh tú trên trời, cái niềm thanh thản trong vương quyền chúa tể bát ngát vài giờ, làm sao đem bạc tiền mà mua cho được.
Cái hình sắc tân kỳ của cõi sống hiện ra sau dặm đường trắc trở, những cây cối kia, những hoa lá nọ, những thân hình phụ nữ với những nụ cười tươi mát nồng thắm yêu đời, cái cuộc đời vừa được trao lại chúng tôi vào lúc sương hồng mai sớm, bản hòa âm dìu dặt của hằng hằng sự vật nhỏ nhoi đương trao chúng tôi một phần thưởng, một tặng vật vô song, bạc tiền không mua được.
Và không mua được cái đêm sống giữa những người không đề huề giao hảo tôi còn nhớ lại bữa nay.
Chúng tôi gồm ba đội phi cơ của hãng Aéropostale chịu bí lối tại bờ Rio de Oro, lúc trời sắp tối.
Anh bạn Riguelle hạ cánh trước hết, vì gãy trục; một bạn khác, Bourgat, bay đến để đón phi đội Riguelle về, nhưng máy anh cũng bị hỏng luôn.
Tuy hỏng nhẹ, nhưng cũng đủ gắn chặt anh tại mặt đất.
Tôi đến sau cùng nhưng vừa hạ cánh, thì trời vừa tối. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chúng ta khép mình cô đơn trong đó, với những đống tiền, đống bạc tàn lụi như tro than, chẳng thể nào mang lại chút sinh thú nào có nghĩa cho sự sống.
Nếu tôi tìm lại trong kỷ niệm mình những hình ảnh nào ghi tạc sâu xa, nếu tôi dò tính lại những ngày giờ nào đáng kể, thì chắc chắn rằng tôi sẽ tìm thấy được những gì không một thứ tiền của nào tạo nổi.
Người ta không thể mua được những tình bạn Mermoz, của một bạn đường mà riêng những giờ kham khổ sống chung đã gắn chặt họ vào đời ta mãi mãi.
Cái đêm bay ngày nọ, với những tinh tú trên trời, cái niềm thanh thản trong vương quyền chúa tể bát ngát vài giờ, làm sao đem bạc tiền mà mua cho được.
Cái hình sắc tân kỳ của cõi sống hiện ra sau dặm đường trắc trở, những cây cối kia, những hoa lá nọ, những thân hình phụ nữ với những nụ cười tươi mát nồng thắm yêu đời, cái cuộc đời vừa được trao lại chúng tôi vào lúc sương hồng mai sớm, bản hòa âm dìu dặt của hằng hằng sự vật nhỏ nhoi đương trao chúng tôi một phần thưởng, một tặng vật vô song, bạc tiền không mua được.
Và không mua được cái đêm sống giữa những người không đề huề giao hảo tôi còn nhớ lại bữa nay.
Chúng tôi gồm ba đội phi cơ của hãng Aéropostale chịu bí lối tại bờ Rio de Oro, lúc trời sắp tối.
Anh bạn Riguelle hạ cánh trước hết, vì gãy trục; một bạn khác, Bourgat, bay đến để đón phi đội Riguelle về, nhưng máy anh cũng bị hỏng luôn.
Tuy hỏng nhẹ, nhưng cũng đủ gắn chặt anh tại mặt đất.
Tôi đến sau cùng nhưng vừa hạ cánh, thì trời vừa tối. | Tuy hỏng nhẹ, nhưng cũng đủ gắn chặt anh tại mặt đất.
Tôi đến sau cùng nhưng vừa hạ cánh, thì trời vừa tối.
Chúng tôi quyết định phải cứu phi cơ anh Bourgat, và muốn nên việc, phải đành chờ mai sáng.
Một năm trước, hai bạn Gourp và Erable hỏng máy tại đây, bị bọn người phiến loạn giết chết.
Chúng tôi biết rằng ngày nay bọn phiến loạn tụ tập được ba trăm tay súng đang đóng trại gần xa đây đó tại Bojador.
Ba lần hạ cánh xuống đây, tất từ xa chúng tôi đã bị họ trông thấy, và có lẽ đêm nay là đêm cuối cùng chúng tôi thức cũng nên.
Chúng tôi sắp đặt cẩn thận để qua đêm.
Chúng tôi mang năm, sáu thùng chứa hàng xuống, trút bỏ hàng ra rồi xếp các thùng trống thành vòng tròn, và trong mỗi đáy thùng, chúng tôi thắp một ngọn nến nhỏ, giống như thắp ở đáy chòi lính canh.
Gió thổi qua vẫn làm cho lay lắt.
Giữa lòng sa mạc, trên lớp vỏ trơ trụi của địa cầu, chúng tôi đã thiết lập một khu làng, giữa sự cô tịch giống thuở sơ khai vắng vẻ.
Tụ họp nghỉ qua đêm nơi địa điểm lớn rộng khu làng nọ, nơi dãi đất cát với những ánh lửa nến leo lét, chúng tôi chờ đợi.
Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi bình minh, hoặc chờ đợi người Maures đến.
Tôi không hiểu vì đâu cái đêm đó lại phảng phất hương vị một đêm Noel.
Chúng tôi kể cho nhau nghe những kỷ niệm, chúng tôi nô đùa, chúng tôi ca hát.
Chúng tôi đã hưởng được chính cái mùi hương ôn nhiệt thiêng liêng nhè nhẹ phảng phất giữa lòng một buổi lễ phong phú vui tươi.
Ấy thế, nhưng thật ra chúng tôi nghèo vô hạn.
Gió, cát và sao trên trời. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tuy hỏng nhẹ, nhưng cũng đủ gắn chặt anh tại mặt đất.
Tôi đến sau cùng nhưng vừa hạ cánh, thì trời vừa tối.
Chúng tôi quyết định phải cứu phi cơ anh Bourgat, và muốn nên việc, phải đành chờ mai sáng.
Một năm trước, hai bạn Gourp và Erable hỏng máy tại đây, bị bọn người phiến loạn giết chết.
Chúng tôi biết rằng ngày nay bọn phiến loạn tụ tập được ba trăm tay súng đang đóng trại gần xa đây đó tại Bojador.
Ba lần hạ cánh xuống đây, tất từ xa chúng tôi đã bị họ trông thấy, và có lẽ đêm nay là đêm cuối cùng chúng tôi thức cũng nên.
Chúng tôi sắp đặt cẩn thận để qua đêm.
Chúng tôi mang năm, sáu thùng chứa hàng xuống, trút bỏ hàng ra rồi xếp các thùng trống thành vòng tròn, và trong mỗi đáy thùng, chúng tôi thắp một ngọn nến nhỏ, giống như thắp ở đáy chòi lính canh.
Gió thổi qua vẫn làm cho lay lắt.
Giữa lòng sa mạc, trên lớp vỏ trơ trụi của địa cầu, chúng tôi đã thiết lập một khu làng, giữa sự cô tịch giống thuở sơ khai vắng vẻ.
Tụ họp nghỉ qua đêm nơi địa điểm lớn rộng khu làng nọ, nơi dãi đất cát với những ánh lửa nến leo lét, chúng tôi chờ đợi.
Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi bình minh, hoặc chờ đợi người Maures đến.
Tôi không hiểu vì đâu cái đêm đó lại phảng phất hương vị một đêm Noel.
Chúng tôi kể cho nhau nghe những kỷ niệm, chúng tôi nô đùa, chúng tôi ca hát.
Chúng tôi đã hưởng được chính cái mùi hương ôn nhiệt thiêng liêng nhè nhẹ phảng phất giữa lòng một buổi lễ phong phú vui tươi.
Ấy thế, nhưng thật ra chúng tôi nghèo vô hạn.
Gió, cát và sao trên trời. | Chúng tôi đã hưởng được chính cái mùi hương ôn nhiệt thiêng liêng nhè nhẹ phảng phất giữa lòng một buổi lễ phong phú vui tươi.
Ấy thế, nhưng thật ra chúng tôi nghèo vô hạn.
Gió, cát và sao trên trời.
Đúng là thể điệu khắc khổ của kẻ tu hành.
Nhưng trên thảm cát ánh sáng lờ mờ kia, sáu bảy người với những bàn tay trắng, đã chia nhau không biết bao nhiêu của quý vô hình.
Vâng, chúng tôi đã gặp trở lại nhau rồi.
Trong bao lâu, người ta bước đi sát cánh nhau, nhưng mỗi người im lìm mỗi cõi, có nói cũng chỉ nói những tiếng vu vơ.
Nhưng giờ đây, hiểm họa đến.
Ta chợt thấy mình cùng nhau ở chung một đoàn thể.
Hồn mở rộng do khám phá những hồn khác bên mình.
Nhìn nhau môi cười rộng rãi.
Như tên tù nọ được giải phóng đương ngây ngất nhìn mặt biển bao la.
2
Guillaumet, tôi xin nói đôi lời về anh, nhưng sẽ không làm phiền anh mà vụng về nhắc mãi tới lòng can trường hoặc tài năng nghề nghiệp của anh.
Tôi sẽ nói tới những gì khác kia, khi kể lại cuộc phiêu liêu đẹp nhất của anh.
Có một đức tính không tên.
Gọi là tính “trang trọng”, có lẽ cũng được, nhưng chưa đủ.
Vì đức tính này còn có thể đi đôi với sự tươi cười hồn nhiên vui hứng nữa.
Chính đó cũng là đức tính của anh thợ làm sườn nhà, lúc anh ngồi trước mảnh gỗ như ngồi trước một người bạn đồng đẳng, ngang vai, rồi anh sờ mó, nắn nót, ước độ chiều dọc chiều ngang, anh không đối xử nó theo lối khinh bạc, anh thu hết khả năng, tài sức của mình ra sử dụng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chúng tôi đã hưởng được chính cái mùi hương ôn nhiệt thiêng liêng nhè nhẹ phảng phất giữa lòng một buổi lễ phong phú vui tươi.
Ấy thế, nhưng thật ra chúng tôi nghèo vô hạn.
Gió, cát và sao trên trời.
Đúng là thể điệu khắc khổ của kẻ tu hành.
Nhưng trên thảm cát ánh sáng lờ mờ kia, sáu bảy người với những bàn tay trắng, đã chia nhau không biết bao nhiêu của quý vô hình.
Vâng, chúng tôi đã gặp trở lại nhau rồi.
Trong bao lâu, người ta bước đi sát cánh nhau, nhưng mỗi người im lìm mỗi cõi, có nói cũng chỉ nói những tiếng vu vơ.
Nhưng giờ đây, hiểm họa đến.
Ta chợt thấy mình cùng nhau ở chung một đoàn thể.
Hồn mở rộng do khám phá những hồn khác bên mình.
Nhìn nhau môi cười rộng rãi.
Như tên tù nọ được giải phóng đương ngây ngất nhìn mặt biển bao la.
2
Guillaumet, tôi xin nói đôi lời về anh, nhưng sẽ không làm phiền anh mà vụng về nhắc mãi tới lòng can trường hoặc tài năng nghề nghiệp của anh.
Tôi sẽ nói tới những gì khác kia, khi kể lại cuộc phiêu liêu đẹp nhất của anh.
Có một đức tính không tên.
Gọi là tính “trang trọng”, có lẽ cũng được, nhưng chưa đủ.
Vì đức tính này còn có thể đi đôi với sự tươi cười hồn nhiên vui hứng nữa.
Chính đó cũng là đức tính của anh thợ làm sườn nhà, lúc anh ngồi trước mảnh gỗ như ngồi trước một người bạn đồng đẳng, ngang vai, rồi anh sờ mó, nắn nót, ước độ chiều dọc chiều ngang, anh không đối xử nó theo lối khinh bạc, anh thu hết khả năng, tài sức của mình ra sử dụng. | Guillaumet ạ, trước đây tôi có đọc một câu chuyện người ta kể về anh để ca tụng chuyện phiêu lưu mạo hiểm của anh, và tôi thấy cần phải đính chính lại cái hình ảnh lệch lạc về anh đó.
Trong câu chuyện ấy, người ta thấy anh bướng bỉnh tung nhiều câu nói có điệu “ba gai”, tuồng như người ta tưởng lòng can trường là phải biết hạ mình chế giễu nhau theo lối nhạo báng của học sinh nghịch ngợm.
Người ta không hiểu anh, Guillaumet ạ.
Nhạo báng những địch thủ của anh, trước khi đương đầu với họ, đó là điều anh thấy không cần thiết gì hết.
Đối diện một cơn giông bão, anh nhận xét: “Đây là một cơn giông bão”.
Anh chấp thuận nó, anh ước độ lực lượng của nó.
Tôi xin đưa ra đây những kỷ niệm của mình để làm chứng cho anh.
Suốt năm mươi giờ đồng hồ, anh biệt tích, trong một mùa đông, nhân một chuyến bay qua dãy núi Andes.
Từ Patagonie về, tôi vội vã theo phi công Deley đi Mendoza.
Suốt năm ngày liền, hai chúng tôi bay sục sạo khắp vùng núi non trùng điệp, mà chẳng tìm thấy gì cả.
Hai chiếc phi cơ không thể đủ được.
Chúng tôi tưởng rằng một trăm đội phi cơ, bay suốt một trăm năm, vị tất đã bay hết các ngõ ngách mà sưu tầm đầy đủ trong các dãy núi khổng lồ này, với những ngọn cao tới bảy nghìn thước.
Chúng tôi mất hết hy vọng.
Bọn cướp buôn lậu tại vùng này, gan lì dữ tợn là thế, chỉ đưa cho năm quan tiền là khiến chúng giết người như ngóe, thế mà chúng đã từ nan không chịu mạo hiểm làm đoàn cứu trợ, dấn thân vào những triền núi chênh vênh này.
Chúng bảo: “Chúng tôi sẽ mất mạng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Guillaumet ạ, trước đây tôi có đọc một câu chuyện người ta kể về anh để ca tụng chuyện phiêu lưu mạo hiểm của anh, và tôi thấy cần phải đính chính lại cái hình ảnh lệch lạc về anh đó.
Trong câu chuyện ấy, người ta thấy anh bướng bỉnh tung nhiều câu nói có điệu “ba gai”, tuồng như người ta tưởng lòng can trường là phải biết hạ mình chế giễu nhau theo lối nhạo báng của học sinh nghịch ngợm.
Người ta không hiểu anh, Guillaumet ạ.
Nhạo báng những địch thủ của anh, trước khi đương đầu với họ, đó là điều anh thấy không cần thiết gì hết.
Đối diện một cơn giông bão, anh nhận xét: “Đây là một cơn giông bão”.
Anh chấp thuận nó, anh ước độ lực lượng của nó.
Tôi xin đưa ra đây những kỷ niệm của mình để làm chứng cho anh.
Suốt năm mươi giờ đồng hồ, anh biệt tích, trong một mùa đông, nhân một chuyến bay qua dãy núi Andes.
Từ Patagonie về, tôi vội vã theo phi công Deley đi Mendoza.
Suốt năm ngày liền, hai chúng tôi bay sục sạo khắp vùng núi non trùng điệp, mà chẳng tìm thấy gì cả.
Hai chiếc phi cơ không thể đủ được.
Chúng tôi tưởng rằng một trăm đội phi cơ, bay suốt một trăm năm, vị tất đã bay hết các ngõ ngách mà sưu tầm đầy đủ trong các dãy núi khổng lồ này, với những ngọn cao tới bảy nghìn thước.
Chúng tôi mất hết hy vọng.
Bọn cướp buôn lậu tại vùng này, gan lì dữ tợn là thế, chỉ đưa cho năm quan tiền là khiến chúng giết người như ngóe, thế mà chúng đã từ nan không chịu mạo hiểm làm đoàn cứu trợ, dấn thân vào những triền núi chênh vênh này.
Chúng bảo: “Chúng tôi sẽ mất mạng. | Chúng bảo: “Chúng tôi sẽ mất mạng.
Dãy Andes mùa đông không thả một ai về.” Lúc Deley và tôi hạ cánh tại Santiago, các sĩ quan người Chili cũng khuyên chúng tôi nên đình chỉ việc tìm kiếm.
Người bạn của các anh rớt xuống núi cho dẫu có may mắn khỏi giập thân, cũng không tài nào chống nổi với cái lạnh ban đêm.
Ở trên đó, cái lạnh ban đêm vừa chạm vào người, lập tức biến thân người thành băng đá.” Và khi tôi cất cánh bay lần nữa, xuyên qua các bờ tường dựng đứng và những cột trụ khổng lồ trong dãy Andes, thì tôi có cảm tưởng như chừng mình không còn đi tìm kiếm anh nữa, mà đương lặng lẽ canh giữ, chăm sóc tấm thân anh đương nằm đâu đó trong một ngôi nhà thờ tuyết băng.
Sau cùng, qua ngày thứ Bảy, trong lúc tôi dùng bữa giữa hai chuyến bay nơi một quán ăn tại Mendoza, bỗng có người đẩy cửa kêu.
Chỉ vài tiếng thôi:
- Guillaumet… còn sống!
Và tất cả những người lạ mặt ngồi tại đó cũng mừng rỡ ôm nhau hôn.
Mười phút sau, tôi cất cánh, chở theo hai anh thợ máy, Lefebvre và Abri.
Bốn mươi phút sau, tôi hạ cánh dọc theo một quãng đường vì nhận ra, chẳng rõ vì sao lại nhận ra, cái chiếc xe đương chở anh đi chẳng rõ đi đâu, nhưng hướng về phía San Raphael.
Một sự tao ngộ kỳ diệu lạ lùng, chúng tôi cùng khóc, chúng tôi ôm giập anh trong tay mình, anh còn sống đó, anh được tái sinh, anh tự mình ban cho mình phép lạ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chúng bảo: “Chúng tôi sẽ mất mạng.
Dãy Andes mùa đông không thả một ai về.” Lúc Deley và tôi hạ cánh tại Santiago, các sĩ quan người Chili cũng khuyên chúng tôi nên đình chỉ việc tìm kiếm.
Người bạn của các anh rớt xuống núi cho dẫu có may mắn khỏi giập thân, cũng không tài nào chống nổi với cái lạnh ban đêm.
Ở trên đó, cái lạnh ban đêm vừa chạm vào người, lập tức biến thân người thành băng đá.” Và khi tôi cất cánh bay lần nữa, xuyên qua các bờ tường dựng đứng và những cột trụ khổng lồ trong dãy Andes, thì tôi có cảm tưởng như chừng mình không còn đi tìm kiếm anh nữa, mà đương lặng lẽ canh giữ, chăm sóc tấm thân anh đương nằm đâu đó trong một ngôi nhà thờ tuyết băng.
Sau cùng, qua ngày thứ Bảy, trong lúc tôi dùng bữa giữa hai chuyến bay nơi một quán ăn tại Mendoza, bỗng có người đẩy cửa kêu.
Chỉ vài tiếng thôi:
- Guillaumet… còn sống!
Và tất cả những người lạ mặt ngồi tại đó cũng mừng rỡ ôm nhau hôn.
Mười phút sau, tôi cất cánh, chở theo hai anh thợ máy, Lefebvre và Abri.
Bốn mươi phút sau, tôi hạ cánh dọc theo một quãng đường vì nhận ra, chẳng rõ vì sao lại nhận ra, cái chiếc xe đương chở anh đi chẳng rõ đi đâu, nhưng hướng về phía San Raphael.
Một sự tao ngộ kỳ diệu lạ lùng, chúng tôi cùng khóc, chúng tôi ôm giập anh trong tay mình, anh còn sống đó, anh được tái sinh, anh tự mình ban cho mình phép lạ. | Một sự tao ngộ kỳ diệu lạ lùng, chúng tôi cùng khóc, chúng tôi ôm giập anh trong tay mình, anh còn sống đó, anh được tái sinh, anh tự mình ban cho mình phép lạ.
Chính sau đó, anh nói một câu, câu đầu tiên có đầu đuôi sau những cơn mê man bất tỉnh, một câu biểu diễn một tinh thần con người bất khuất: “Cái điều tôi đã làm, tôi xin thề với các anh, không bao giờ một con vật nào đã làm cả.”[2]
Về sau, anh kể lại tai nạn cho chúng tôi nghe.
Một trận bão trút xuống, suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ, một lớp tuyết dày năm thước trên triền núi Andes ngó qua địa phận Chili, lớp tuyết lấp kín khung trời, những người Mỹ hãng Pan-Air đã quay về hết.
Nhưng anh thì vẫn cất cánh bay tìm một kẽ hở trên không.
Xế về phía Nam, anh tìm ra nó, cái cạm bẫy kia, và lờ lững bay trên từng cao sáu nghìn năm trăm thước, anh cưỡi trên mây mù chỉ cao sáu nghìn thước và để ló ra riêng những chóp núi thật cao, anh bay, hướng về chân trời Argentine.
Những luồng không khí thổi xuống thường gây cho phi công một cảm giác khó chịu dị thường.
Máy vẫn quay đều, nhưng phi cơ bị dìm xuống mãi.
Ta cố gượng hướng tàu trở lên để giữ vững độ cao, phi cơ mất tốc lực, yếu đi dần dần: ta cứ bị nhận chìm xuống mãi.
Ta đành phải lơi tay, ngại rằng khi nãy đã hướng mũi lên quá trớn, bây giờ ta lại phải thả lỏng cho xê xích qua tả, qua hữu, nép vào bên những đỉnh núi thuận tiện, nương vào những sườn non nào vừa cản gió vừa đưa đà, nhưng ta vẫn tuần tự bị dìm xuống. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Một sự tao ngộ kỳ diệu lạ lùng, chúng tôi cùng khóc, chúng tôi ôm giập anh trong tay mình, anh còn sống đó, anh được tái sinh, anh tự mình ban cho mình phép lạ.
Chính sau đó, anh nói một câu, câu đầu tiên có đầu đuôi sau những cơn mê man bất tỉnh, một câu biểu diễn một tinh thần con người bất khuất: “Cái điều tôi đã làm, tôi xin thề với các anh, không bao giờ một con vật nào đã làm cả.”[2]
Về sau, anh kể lại tai nạn cho chúng tôi nghe.
Một trận bão trút xuống, suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ, một lớp tuyết dày năm thước trên triền núi Andes ngó qua địa phận Chili, lớp tuyết lấp kín khung trời, những người Mỹ hãng Pan-Air đã quay về hết.
Nhưng anh thì vẫn cất cánh bay tìm một kẽ hở trên không.
Xế về phía Nam, anh tìm ra nó, cái cạm bẫy kia, và lờ lững bay trên từng cao sáu nghìn năm trăm thước, anh cưỡi trên mây mù chỉ cao sáu nghìn thước và để ló ra riêng những chóp núi thật cao, anh bay, hướng về chân trời Argentine.
Những luồng không khí thổi xuống thường gây cho phi công một cảm giác khó chịu dị thường.
Máy vẫn quay đều, nhưng phi cơ bị dìm xuống mãi.
Ta cố gượng hướng tàu trở lên để giữ vững độ cao, phi cơ mất tốc lực, yếu đi dần dần: ta cứ bị nhận chìm xuống mãi.
Ta đành phải lơi tay, ngại rằng khi nãy đã hướng mũi lên quá trớn, bây giờ ta lại phải thả lỏng cho xê xích qua tả, qua hữu, nép vào bên những đỉnh núi thuận tiện, nương vào những sườn non nào vừa cản gió vừa đưa đà, nhưng ta vẫn tuần tự bị dìm xuống. | Nghe chừng như cả cõi trời cùng đề hều hạ thấp xuống một phen.
Ta cảm thấy như mình bị mắc nghẹn trong một tai nạn càn khôn.
Ta luống cuống cố gắng quay trở lui, mong tìm gặp những khu vực nào ở phía sau mà không khí sẽ nâng mình lên vững chắc và tròn đầy như một cột trụ.
Nhưng còn cột trụ nào đâu.
Mọi vật rã tan, cả đất trời cùng rủ nhau băng hoại, và ta lướt qua giữa tàn phế, hướng về một làn mây đương nhu thuận dâng lên, mềm mỏng lại bên mình và yểu điệu quyện lấy thân ta vào ở giữa.
Anh bảo: “Tôi suýt chịu bó tay, đành buông mình cho nó hãm, nhưng còn chút cứng đầu chưa chịu tin thuận đâu.
Ta gặp những luồng khí trút xuống ở phía trên những đám mây xem có bề bất động, ấy chỉ vì cùng một độ cao như nhau, chúng ôm lấy nhau tụ lại nghỉ yên triền miên bất tận.
Mọi sự sao mà kỳ dị thế ở những vùng non cao.”
Ôi những đám mây!
“Vừa mắc nghẽn trong đó, tôi liền thả lơi tay lái, bấu chặt vào ghế để khỏi bị bắn tung ra ngoài.
Phi cơ rít lên, lắc mạnh, dày vò thân tôi, những sợi nịt da gặm vào thịt vai, và suýt đứt.
Sương giá đổ tràn bụi trắng, tôi mất hết mọi khả năng điều khiển, quay tròn như chiếc nón chơi vơi, xoay tít từ cao sáu nghìn xuống ba nghìn thước rưỡi.
Xuống tới ba nghìn thước rưỡi, tôi chợt thấy một khối đen bằng phẳng, giúp tôi lấy lại thăng bằng cho phi cơ.
Đó là một mặt hồ, tôi kịp nhận ra: hồ Laguna Diamante. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nghe chừng như cả cõi trời cùng đề hều hạ thấp xuống một phen.
Ta cảm thấy như mình bị mắc nghẹn trong một tai nạn càn khôn.
Ta luống cuống cố gắng quay trở lui, mong tìm gặp những khu vực nào ở phía sau mà không khí sẽ nâng mình lên vững chắc và tròn đầy như một cột trụ.
Nhưng còn cột trụ nào đâu.
Mọi vật rã tan, cả đất trời cùng rủ nhau băng hoại, và ta lướt qua giữa tàn phế, hướng về một làn mây đương nhu thuận dâng lên, mềm mỏng lại bên mình và yểu điệu quyện lấy thân ta vào ở giữa.
Anh bảo: “Tôi suýt chịu bó tay, đành buông mình cho nó hãm, nhưng còn chút cứng đầu chưa chịu tin thuận đâu.
Ta gặp những luồng khí trút xuống ở phía trên những đám mây xem có bề bất động, ấy chỉ vì cùng một độ cao như nhau, chúng ôm lấy nhau tụ lại nghỉ yên triền miên bất tận.
Mọi sự sao mà kỳ dị thế ở những vùng non cao.”
Ôi những đám mây!
“Vừa mắc nghẽn trong đó, tôi liền thả lơi tay lái, bấu chặt vào ghế để khỏi bị bắn tung ra ngoài.
Phi cơ rít lên, lắc mạnh, dày vò thân tôi, những sợi nịt da gặm vào thịt vai, và suýt đứt.
Sương giá đổ tràn bụi trắng, tôi mất hết mọi khả năng điều khiển, quay tròn như chiếc nón chơi vơi, xoay tít từ cao sáu nghìn xuống ba nghìn thước rưỡi.
Xuống tới ba nghìn thước rưỡi, tôi chợt thấy một khối đen bằng phẳng, giúp tôi lấy lại thăng bằng cho phi cơ.
Đó là một mặt hồ, tôi kịp nhận ra: hồ Laguna Diamante. | Xuống tới ba nghìn thước rưỡi, tôi chợt thấy một khối đen bằng phẳng, giúp tôi lấy lại thăng bằng cho phi cơ.
Đó là một mặt hồ, tôi kịp nhận ra: hồ Laguna Diamante.
Tôi từng biết hồ kia nằm khoanh trong đáy hố, đáy hang một thung lũng phiêu bồng, mà một phía sườn lại nép bên ngọn hỏa sơn Maipu cao sáu nghìn chín trăm thước.
Tuy thoát khỏi đám mây, tôi vẫn còn choáng váng quáng lòa vì những cơn lốc tuyết dày đặc, và không thể rời mặt hồ thân ái mà khỏi đâu đầu vào một trong các sườn núi bọc quanh hang.
Tôi đành bay vòng quanh hồ, ở độ cao ba chục thước, cho tới lúc kiệt xăng.
Sau hai giờ loanh quanh lăn lóc, tôi hạ cánh đậu lại, và phi cơ lật úp.
Tôi thoát ra khỏi tàu thì bão tố đánh tôi ngã ngữa.
Tôi lồm cồm gượng dậy trên hai chân, thì bão tố đánh tôi nhào sấp.
Không còn cách gì nữa, tôi đành lui cui chui vào dưới sườn tàu, và moi một lỗ hổng trong màu tuyết lạnh để trú thân.
Tuyết ơi, hãy ôm thân ta cho ấm nhé.
Rồi tôi cuộn quanh mình những bao chứa thư tín, và suốt bốn mươi tiếng đồng hồ tôi nằm đó chờ đợi, nghe mùi tuyết bốc hơi.
Sau đó, bão im, gió lặng, tôi bắt đầu bước.
Bước đi năm ngày bốn đêm…”
Nhưng còn chi là tấm thân anh nữa!
Anh trở về gặp lại chúng tôi, nhưng hình hài gày đét như vôi khô, teo thân như một bà lão.
Ngay chiều hôm đó, tôi đưa anh lên phi cơ chở anh về lại Mendoza, những chăn nệm trắng tinh phủ ngập thân anh như ôm ấp.
Nhưng không làm sao cho anh lành lại được.
Anh lóng cóng trong tấm hình hài mệt mỏi, trằn qua trở lại mãi vẫn không giúp nó ngủ yên. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Xuống tới ba nghìn thước rưỡi, tôi chợt thấy một khối đen bằng phẳng, giúp tôi lấy lại thăng bằng cho phi cơ.
Đó là một mặt hồ, tôi kịp nhận ra: hồ Laguna Diamante.
Tôi từng biết hồ kia nằm khoanh trong đáy hố, đáy hang một thung lũng phiêu bồng, mà một phía sườn lại nép bên ngọn hỏa sơn Maipu cao sáu nghìn chín trăm thước.
Tuy thoát khỏi đám mây, tôi vẫn còn choáng váng quáng lòa vì những cơn lốc tuyết dày đặc, và không thể rời mặt hồ thân ái mà khỏi đâu đầu vào một trong các sườn núi bọc quanh hang.
Tôi đành bay vòng quanh hồ, ở độ cao ba chục thước, cho tới lúc kiệt xăng.
Sau hai giờ loanh quanh lăn lóc, tôi hạ cánh đậu lại, và phi cơ lật úp.
Tôi thoát ra khỏi tàu thì bão tố đánh tôi ngã ngữa.
Tôi lồm cồm gượng dậy trên hai chân, thì bão tố đánh tôi nhào sấp.
Không còn cách gì nữa, tôi đành lui cui chui vào dưới sườn tàu, và moi một lỗ hổng trong màu tuyết lạnh để trú thân.
Tuyết ơi, hãy ôm thân ta cho ấm nhé.
Rồi tôi cuộn quanh mình những bao chứa thư tín, và suốt bốn mươi tiếng đồng hồ tôi nằm đó chờ đợi, nghe mùi tuyết bốc hơi.
Sau đó, bão im, gió lặng, tôi bắt đầu bước.
Bước đi năm ngày bốn đêm…”
Nhưng còn chi là tấm thân anh nữa!
Anh trở về gặp lại chúng tôi, nhưng hình hài gày đét như vôi khô, teo thân như một bà lão.
Ngay chiều hôm đó, tôi đưa anh lên phi cơ chở anh về lại Mendoza, những chăn nệm trắng tinh phủ ngập thân anh như ôm ấp.
Nhưng không làm sao cho anh lành lại được.
Anh lóng cóng trong tấm hình hài mệt mỏi, trằn qua trở lại mãi vẫn không giúp nó ngủ yên. | Nhưng không làm sao cho anh lành lại được.
Anh lóng cóng trong tấm hình hài mệt mỏi, trằn qua trở lại mãi vẫn không giúp nó ngủ yên.
Tấm thân anh không quên được đá và tuyết.
Chúng đã ghi tạc dấu vết nơi thân anh rồi.
Tôi nhìn khuôn mặt anh đen sạm, sưng vù giống như một trái ủng bị bóp bầm dập.
Anh xấu quá, và khốn khổ vô chừng, anh mất những khí cụ huy hoàng để làm việc, anh sử dụng chúng thế nào: hai bàn tay cứng đờ, và lúc muốn hô hấp anh ngồi dậy bên giường, thì hai bàn chân cóng đờ thõng xuống như hai khối thịt thừa.
Cuộc hành trình của anh, vẫn chưa kết liễu, anh còn hổn hển hồi hộp thở, và mỗi khi anh trở đầu trên gối để tìm nguôi lãng, thì một chuỗi dài hình ảnh liên tiếp tới, anh không ngăn được, những hình ảnh rập rình bí mật đâu đó, bỗng ùa vào ngập cả đầu óc anh.
Anh phải đấu đi, chọi lại mãi hàng mấy chục lần với những quân thù cứ chết đi, sống lại.
Tôi đổ thuốc cho anh:
- Gắng uống đi, bạn!
- Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất nhất… anh biết…
Võ sĩ thắng cuộc, nhưng bị những đòn quá nặng, anh sống trở lại cuộc phiêu lưu kỳ dị của mình.
Anh cởi gỡ ra từng đoạn một.
Và trong câu chuyện đêm dài bữa nọ, tôi đã nhìn thấy anh lầm lũi bước đi, không gậy chống, không dây ràng, không lương thực, lần mò theo mãi những truông đèo, dốc dựng, năm nghìn thước rưỡi cao, hoặc dò dẫm vòng theo những thành đá đứng sững, chân anh rướm máu, đầu gối rã, tay trầy, trong cơn lạnh bốn mươi độ đêm khuya. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nhưng không làm sao cho anh lành lại được.
Anh lóng cóng trong tấm hình hài mệt mỏi, trằn qua trở lại mãi vẫn không giúp nó ngủ yên.
Tấm thân anh không quên được đá và tuyết.
Chúng đã ghi tạc dấu vết nơi thân anh rồi.
Tôi nhìn khuôn mặt anh đen sạm, sưng vù giống như một trái ủng bị bóp bầm dập.
Anh xấu quá, và khốn khổ vô chừng, anh mất những khí cụ huy hoàng để làm việc, anh sử dụng chúng thế nào: hai bàn tay cứng đờ, và lúc muốn hô hấp anh ngồi dậy bên giường, thì hai bàn chân cóng đờ thõng xuống như hai khối thịt thừa.
Cuộc hành trình của anh, vẫn chưa kết liễu, anh còn hổn hển hồi hộp thở, và mỗi khi anh trở đầu trên gối để tìm nguôi lãng, thì một chuỗi dài hình ảnh liên tiếp tới, anh không ngăn được, những hình ảnh rập rình bí mật đâu đó, bỗng ùa vào ngập cả đầu óc anh.
Anh phải đấu đi, chọi lại mãi hàng mấy chục lần với những quân thù cứ chết đi, sống lại.
Tôi đổ thuốc cho anh:
- Gắng uống đi, bạn!
- Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất nhất… anh biết…
Võ sĩ thắng cuộc, nhưng bị những đòn quá nặng, anh sống trở lại cuộc phiêu lưu kỳ dị của mình.
Anh cởi gỡ ra từng đoạn một.
Và trong câu chuyện đêm dài bữa nọ, tôi đã nhìn thấy anh lầm lũi bước đi, không gậy chống, không dây ràng, không lương thực, lần mò theo mãi những truông đèo, dốc dựng, năm nghìn thước rưỡi cao, hoặc dò dẫm vòng theo những thành đá đứng sững, chân anh rướm máu, đầu gối rã, tay trầy, trong cơn lạnh bốn mươi độ đêm khuya. | Dần dần máu hao, sức kiệt, hồn mòn, anh bước đi, nhẫn nại, kiên gan như con kiến, quay giật lùi tìm lối khác để bọc quanh những trở ngại gồ ghề, té xuống, đứng lên, leo trở lại, cố vượt qua những dốc ác hại đưa tới hố sâu, không chịu ban cho mình một phút nghỉ ngơi, vì anh biết rõ: nằm một lần xuống bên tuyết, là vĩnh viễn không còn dịp đứng lên.
Mỗi lần trượt dốc, anh phải vội vã đứng lên để khỏi biến thân thành đá.
Cái lạnh dị thường cứ mỗi phút giây làm anh cóng lại, và lúc trượt chân té, nếu chần chờ thở một chút cho cam, thì sau đó, hỡi ôi!
còn muốn đứng lên, thì thịt xương đã chết cứng.
Anh chống lại mọi cám dỗ.
Anh bảo: nằm ở trong lòng tuyết, con người ta mất tuốt hết linh tính tự vệ.
Đi suốt hai, ba, bốn ngày đường, con người chỉ còn có cầu mong giấc ngủ.
Tôi cũng ước mong được ngủ.
Nhưng tự nghĩ: vợ tôi, nếu tin là tôi còn sống, ắt tin là tôi đương đi.
Bạn hữu tôi, cũng tin rằng tôi đương đi.
Mọi người cùng tin cậy nơi tôi.
Tôi là một thằng tồi nếu tôi dừng bước lại.”
Và anh bước đi, và anh lấy mũi dao con rạch da giày, mỗi ngày rạch thêm chút nữa, nhân vì hai bàn chân anh cóng giá phồng ra, cần rạch giày cho nới ra, bàn chân mới nằm yên trong đó được.
Anh kể cho tôi nghe tâm sự kỳ lạ này:
“Tới ngày thứ hai, anh thấy chứ, cái công việc lớn nhất phải làm, ấy là ngăn không cho mình suy nghĩ.
Tôi đau đớn quá, và tình cảnh quá âm u. Để còn đủ can đảm bước đi, tôi không được nhìn vào tình cảnh nữa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Dần dần máu hao, sức kiệt, hồn mòn, anh bước đi, nhẫn nại, kiên gan như con kiến, quay giật lùi tìm lối khác để bọc quanh những trở ngại gồ ghề, té xuống, đứng lên, leo trở lại, cố vượt qua những dốc ác hại đưa tới hố sâu, không chịu ban cho mình một phút nghỉ ngơi, vì anh biết rõ: nằm một lần xuống bên tuyết, là vĩnh viễn không còn dịp đứng lên.
Mỗi lần trượt dốc, anh phải vội vã đứng lên để khỏi biến thân thành đá.
Cái lạnh dị thường cứ mỗi phút giây làm anh cóng lại, và lúc trượt chân té, nếu chần chờ thở một chút cho cam, thì sau đó, hỡi ôi!
còn muốn đứng lên, thì thịt xương đã chết cứng.
Anh chống lại mọi cám dỗ.
Anh bảo: nằm ở trong lòng tuyết, con người ta mất tuốt hết linh tính tự vệ.
Đi suốt hai, ba, bốn ngày đường, con người chỉ còn có cầu mong giấc ngủ.
Tôi cũng ước mong được ngủ.
Nhưng tự nghĩ: vợ tôi, nếu tin là tôi còn sống, ắt tin là tôi đương đi.
Bạn hữu tôi, cũng tin rằng tôi đương đi.
Mọi người cùng tin cậy nơi tôi.
Tôi là một thằng tồi nếu tôi dừng bước lại.”
Và anh bước đi, và anh lấy mũi dao con rạch da giày, mỗi ngày rạch thêm chút nữa, nhân vì hai bàn chân anh cóng giá phồng ra, cần rạch giày cho nới ra, bàn chân mới nằm yên trong đó được.
Anh kể cho tôi nghe tâm sự kỳ lạ này:
“Tới ngày thứ hai, anh thấy chứ, cái công việc lớn nhất phải làm, ấy là ngăn không cho mình suy nghĩ.
Tôi đau đớn quá, và tình cảnh quá âm u. Để còn đủ can đảm bước đi, tôi không được nhìn vào tình cảnh nữa. | Tôi đau đớn quá, và tình cảnh quá âm u. Để còn đủ can đảm bước đi, tôi không được nhìn vào tình cảnh nữa.
Khốn thay, khó mà kiểm soát khối óc mình, nó làm việc như cái bánh xe quay.
Nhưng tôi cũng có thể chọn cho nó một vài hình ảnh.
Tôi xô óc mình vào một cuộc phim, bắt nó suy ngẫm về một cuốn sách.
Và phim với sách cứ vùn vụt sổ tung ra.
Chẳng mấy chốc mà hết trụi, tôi lại rơi trở vào tình trạng trước mắt.
Không còn cách gì khác được.
Lại lao đầu vào những kỷ niệm khác…”
Tuy nhiên, có một lần, trượt chân anh té nằm quay trên tuyết, úp thân vào dán chặt đó, anh bỏ cuộc, không muốn đứng lên.
Anh như người võ sĩ, kiệt tận linh hồn vì một cú đấm, rời rã hết thiết tha, nằm nghe từng tiếng đếm, từng giây rơi trong một thế giới nào xa lạ, cho tới tiếng mười là tiếng chung cục, hết phân bua.
“Tôi đã làm những gì tôi có thể làm được, mà lòng tôi không còn hy vọng nữa, vì lẽ gì còn nằng nặc kéo dài cuộc khổ hình cho thêm tội, làm chi?” Anh chỉ cần khép hai mắt lại, là hòa giải yên vui hết với đời.
Là xóa hết giữa đời, những đá nhọn, tuyết băng.
Chớm khép xong hai làn mi huyền diệu, diễm ảo về rồi: hết bão giông đánh ngã, hết trượt chân té xuống, hết da thịt nát nhừ, hết nghiệp chướng tiền oan trong tấm thân mang lê lết khối đời quá nặng, thân bước như con bò, mà khối nặng hơn xe.
Thôi rồi, cái lạnh hãi hùng là thuốc độc, anh đã nhấm phải rồi, và bây giờ lòng phơi phới nghe ma túy ngấm vào xương.
Cuộc sống của anh dồn quanh quả tim máu đập. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi đau đớn quá, và tình cảnh quá âm u. Để còn đủ can đảm bước đi, tôi không được nhìn vào tình cảnh nữa.
Khốn thay, khó mà kiểm soát khối óc mình, nó làm việc như cái bánh xe quay.
Nhưng tôi cũng có thể chọn cho nó một vài hình ảnh.
Tôi xô óc mình vào một cuộc phim, bắt nó suy ngẫm về một cuốn sách.
Và phim với sách cứ vùn vụt sổ tung ra.
Chẳng mấy chốc mà hết trụi, tôi lại rơi trở vào tình trạng trước mắt.
Không còn cách gì khác được.
Lại lao đầu vào những kỷ niệm khác…”
Tuy nhiên, có một lần, trượt chân anh té nằm quay trên tuyết, úp thân vào dán chặt đó, anh bỏ cuộc, không muốn đứng lên.
Anh như người võ sĩ, kiệt tận linh hồn vì một cú đấm, rời rã hết thiết tha, nằm nghe từng tiếng đếm, từng giây rơi trong một thế giới nào xa lạ, cho tới tiếng mười là tiếng chung cục, hết phân bua.
“Tôi đã làm những gì tôi có thể làm được, mà lòng tôi không còn hy vọng nữa, vì lẽ gì còn nằng nặc kéo dài cuộc khổ hình cho thêm tội, làm chi?” Anh chỉ cần khép hai mắt lại, là hòa giải yên vui hết với đời.
Là xóa hết giữa đời, những đá nhọn, tuyết băng.
Chớm khép xong hai làn mi huyền diệu, diễm ảo về rồi: hết bão giông đánh ngã, hết trượt chân té xuống, hết da thịt nát nhừ, hết nghiệp chướng tiền oan trong tấm thân mang lê lết khối đời quá nặng, thân bước như con bò, mà khối nặng hơn xe.
Thôi rồi, cái lạnh hãi hùng là thuốc độc, anh đã nhấm phải rồi, và bây giờ lòng phơi phới nghe ma túy ngấm vào xương.
Cuộc sống của anh dồn quanh quả tim máu đập. | Thôi rồi, cái lạnh hãi hùng là thuốc độc, anh đã nhấm phải rồi, và bây giờ lòng phơi phới nghe ma túy ngấm vào xương.
Cuộc sống của anh dồn quanh quả tim máu đập.
Một thứ gì êm dịu quý giá vô ngần đương thu mình nép ở trung tâm cơ thể.
Tâm thức anh bắt đầu lìa bỏ dần dần những miền xa xôi quá ở trong thân, trong tấm hình hài hỗn mang là thú vật, chở tràn đầy oan khổ ngập vai, giờ đây đã bước vào cõi vô minh hững hờ của Vân thạch.
Những hoang mang thắc mắc cũng dịu rồi.
Tiếng gọi của chúng tôi, anh không còn nghe nữa, đúng hơn, anh nghe vọng về như tiếng gọi chiêm bao.
Trong nhịp bước chiêm bao, anh hài lòng đáp lại, hân hoan bước rộng theo về, nhìn trước mặt mình rạng rỡ những lạc thú phơi xanh.
Anh lướt đi trong cõi đó; miền xứ mộng, với thân mình, dìu dặt chuyển như ru!
Guillaumet, anh nhất quyết rồi, không bằng lòng nghe chúng tôi kêu gọi nữa.
Anh keo kiết, anh khước từ, không trở về họp mặt nữa với anh em.
Nhưng ân hận về từ đáy thẳm tâm tư.
Trong cơn mơ, bỗng dưng anh thốt những lời, nêu nhiều chi tiết tỉ mỉ: “Tôi đã nghĩ tới vợ tôi.
Tiền bảo hiểm của tôi, chắc sẽ giúp em khỏi đói khổ.
Chắc vậy, nhưng… nhưng việc bảo hiểm…”
Trường hợp một phi công mất tích luật pháp chỉ xem anh chết thật sự, là bốn năm sau.
Chi tiết đó đập mạnh vào trí anh, xóa tan mọi hình ảnh khác.
Anh nằm duỗi dài úp sấp trên một sườn dốc tuyết.
Mùa hè tới, thân anh sẽ theo bùn cuốn trôi đi, vùi sâu dưới một u cốc nào trong dãy núi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Thôi rồi, cái lạnh hãi hùng là thuốc độc, anh đã nhấm phải rồi, và bây giờ lòng phơi phới nghe ma túy ngấm vào xương.
Cuộc sống của anh dồn quanh quả tim máu đập.
Một thứ gì êm dịu quý giá vô ngần đương thu mình nép ở trung tâm cơ thể.
Tâm thức anh bắt đầu lìa bỏ dần dần những miền xa xôi quá ở trong thân, trong tấm hình hài hỗn mang là thú vật, chở tràn đầy oan khổ ngập vai, giờ đây đã bước vào cõi vô minh hững hờ của Vân thạch.
Những hoang mang thắc mắc cũng dịu rồi.
Tiếng gọi của chúng tôi, anh không còn nghe nữa, đúng hơn, anh nghe vọng về như tiếng gọi chiêm bao.
Trong nhịp bước chiêm bao, anh hài lòng đáp lại, hân hoan bước rộng theo về, nhìn trước mặt mình rạng rỡ những lạc thú phơi xanh.
Anh lướt đi trong cõi đó; miền xứ mộng, với thân mình, dìu dặt chuyển như ru!
Guillaumet, anh nhất quyết rồi, không bằng lòng nghe chúng tôi kêu gọi nữa.
Anh keo kiết, anh khước từ, không trở về họp mặt nữa với anh em.
Nhưng ân hận về từ đáy thẳm tâm tư.
Trong cơn mơ, bỗng dưng anh thốt những lời, nêu nhiều chi tiết tỉ mỉ: “Tôi đã nghĩ tới vợ tôi.
Tiền bảo hiểm của tôi, chắc sẽ giúp em khỏi đói khổ.
Chắc vậy, nhưng… nhưng việc bảo hiểm…”
Trường hợp một phi công mất tích luật pháp chỉ xem anh chết thật sự, là bốn năm sau.
Chi tiết đó đập mạnh vào trí anh, xóa tan mọi hình ảnh khác.
Anh nằm duỗi dài úp sấp trên một sườn dốc tuyết.
Mùa hè tới, thân anh sẽ theo bùn cuốn trôi đi, vùi sâu dưới một u cốc nào trong dãy núi. | Chi tiết đó đập mạnh vào trí anh, xóa tan mọi hình ảnh khác.
Anh nằm duỗi dài úp sấp trên một sườn dốc tuyết.
Mùa hè tới, thân anh sẽ theo bùn cuốn trôi đi, vùi sâu dưới một u cốc nào trong dãy núi.
Nhưng anh cũng biết rằng ở phía trước anh chừng năm mươi thước, có một mõm đá nhô lên: “Tôi nghĩ, nếu mình gắng đứng lên, chắc sẽ bò tới được mõm đá ấy.
Nếu mình kê xác mình vào mõm đá thì mùa hè tới, người ta sẽ tìm ra được xác mình ngay.”
Đứng lên rồi, anh bước đi, đi trong hai đêm, hai ngày.
Nhưng anh không nghĩ là mình sẽ đi được xa.
“Nhiều dấu hiệu cho tôi biết sắp tận số rồi.
Anh biết, cứ hai giờ một lượt, tôi phải dừng chân để xẻ da giày cho nới rộng ra, để lấy tuyết xoa bóp hai bàn chân sưng vù, hoặc để cho trái tim nghỉ ngơi một chút.
Nhưng đến những ngày chót, tôi mất hẳn trí nhớ.
Tôi đứng lên đi trở lại, cũng khá lâu rồi, bỗng chợt nhớ: mỗi một lần, mình đã bỏ quên lại một vật gì.
Lần thứ nhất, bỏ quên chiếc găng tay, đó không phải là chuyện chơi được giữa cái giá lạnh này.
Tôi đã tháo ra, đặt ở trước mặt mình, và đứng lên đi mà quên không nhặt.
Rồi tới lượt cái đồng hồ.
Mỗi lần nghỉ chân, mỗi lần mất mát…
“Cái gì cứu thoát, chỉ còn là bước chân đi.
Luôn luôn vẫn là một bước, một bước, bước, bước trở lại hoài hoài…” |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chi tiết đó đập mạnh vào trí anh, xóa tan mọi hình ảnh khác.
Anh nằm duỗi dài úp sấp trên một sườn dốc tuyết.
Mùa hè tới, thân anh sẽ theo bùn cuốn trôi đi, vùi sâu dưới một u cốc nào trong dãy núi.
Nhưng anh cũng biết rằng ở phía trước anh chừng năm mươi thước, có một mõm đá nhô lên: “Tôi nghĩ, nếu mình gắng đứng lên, chắc sẽ bò tới được mõm đá ấy.
Nếu mình kê xác mình vào mõm đá thì mùa hè tới, người ta sẽ tìm ra được xác mình ngay.”
Đứng lên rồi, anh bước đi, đi trong hai đêm, hai ngày.
Nhưng anh không nghĩ là mình sẽ đi được xa.
“Nhiều dấu hiệu cho tôi biết sắp tận số rồi.
Anh biết, cứ hai giờ một lượt, tôi phải dừng chân để xẻ da giày cho nới rộng ra, để lấy tuyết xoa bóp hai bàn chân sưng vù, hoặc để cho trái tim nghỉ ngơi một chút.
Nhưng đến những ngày chót, tôi mất hẳn trí nhớ.
Tôi đứng lên đi trở lại, cũng khá lâu rồi, bỗng chợt nhớ: mỗi một lần, mình đã bỏ quên lại một vật gì.
Lần thứ nhất, bỏ quên chiếc găng tay, đó không phải là chuyện chơi được giữa cái giá lạnh này.
Tôi đã tháo ra, đặt ở trước mặt mình, và đứng lên đi mà quên không nhặt.
Rồi tới lượt cái đồng hồ.
Mỗi lần nghỉ chân, mỗi lần mất mát…
“Cái gì cứu thoát, chỉ còn là bước chân đi.
Luôn luôn vẫn là một bước, một bước, bước, bước trở lại hoài hoài…” | Rồi tới lượt cái đồng hồ.
Mỗi lần nghỉ chân, mỗi lần mất mát…
“Cái gì cứu thoát, chỉ còn là bước chân đi.
Luôn luôn vẫn là một bước, một bước, bước, bước trở lại hoài hoài…”
“Điều tôi đã làm, tôi thề với anh, không bao giờ một con vật làm thế.” Câu nói cao cả nhất tôi được nghe trong đời mình, câu nói phân định vị trí con người, thiết lập danh dự con người, xếp đặt lại những trật tự tôn ti chính thực, câu nói đó, lại trở về trong ký ức tôi.
Anh đã ngủ yên, tâm linh đã bay bổng, tâm trí vùi lấp, nhưng từ mảnh hình hài rời rạc, tan rã, cháy ran kia, tâm linh sắp về trở lại mỗi lần anh thức giấc, và lại chế ngự tấm thân.
Vậy thì, tấm thân chỉ là một dụng cụ tốt, tấm thân chỉ là một tên giúp việc mà thôi.
Và niềm kiêu hãnh của người sử dụng khí cụ tốt, anh cũng biết diễn tả đàng hoàng, Guillaumet ạ.
“Thiếu lương thực, anh biết đó, ngày thứ ba… tim máu tôi chẳng thể còn đập mạnh nữa… Và đây!
Dọc theo một bờ dốc đứng, tôi bu bám leo quanh, chới với giữa khoảng không nhìn xuống hố thẳm, moi từng lỗ hổng trong đất để đặt nắm tay vào, thì bỗng nghe như tim mình tan rã.
Nó ngần ngừ như sắp ngất, nó đập thêm.
Nó đập ngẩn ngơ loạn nhịp.
Tôi cảm thấy rằng nếu nó dùng dằng thêm tí nữa, một giây nữa thôi là tôi buông tay bỏ cuộc.
Tôi không nhúc nhích nữa, tôi lắng nghe nhịp thở trong mình.
Chưa bao giờ, anh biết đó, chưa bao giờ trên phi cơ tôi từng đã cảm thấy mình kết chặt vào động cơ nhiều như lần nọ tôi cảm thấy mình gắn chặt vào trái tim mình, trong vài phút, mật thiết vô song. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Rồi tới lượt cái đồng hồ.
Mỗi lần nghỉ chân, mỗi lần mất mát…
“Cái gì cứu thoát, chỉ còn là bước chân đi.
Luôn luôn vẫn là một bước, một bước, bước, bước trở lại hoài hoài…”
“Điều tôi đã làm, tôi thề với anh, không bao giờ một con vật làm thế.” Câu nói cao cả nhất tôi được nghe trong đời mình, câu nói phân định vị trí con người, thiết lập danh dự con người, xếp đặt lại những trật tự tôn ti chính thực, câu nói đó, lại trở về trong ký ức tôi.
Anh đã ngủ yên, tâm linh đã bay bổng, tâm trí vùi lấp, nhưng từ mảnh hình hài rời rạc, tan rã, cháy ran kia, tâm linh sắp về trở lại mỗi lần anh thức giấc, và lại chế ngự tấm thân.
Vậy thì, tấm thân chỉ là một dụng cụ tốt, tấm thân chỉ là một tên giúp việc mà thôi.
Và niềm kiêu hãnh của người sử dụng khí cụ tốt, anh cũng biết diễn tả đàng hoàng, Guillaumet ạ.
“Thiếu lương thực, anh biết đó, ngày thứ ba… tim máu tôi chẳng thể còn đập mạnh nữa… Và đây!
Dọc theo một bờ dốc đứng, tôi bu bám leo quanh, chới với giữa khoảng không nhìn xuống hố thẳm, moi từng lỗ hổng trong đất để đặt nắm tay vào, thì bỗng nghe như tim mình tan rã.
Nó ngần ngừ như sắp ngất, nó đập thêm.
Nó đập ngẩn ngơ loạn nhịp.
Tôi cảm thấy rằng nếu nó dùng dằng thêm tí nữa, một giây nữa thôi là tôi buông tay bỏ cuộc.
Tôi không nhúc nhích nữa, tôi lắng nghe nhịp thở trong mình.
Chưa bao giờ, anh biết đó, chưa bao giờ trên phi cơ tôi từng đã cảm thấy mình kết chặt vào động cơ nhiều như lần nọ tôi cảm thấy mình gắn chặt vào trái tim mình, trong vài phút, mật thiết vô song. | Chưa bao giờ, anh biết đó, chưa bao giờ trên phi cơ tôi từng đã cảm thấy mình kết chặt vào động cơ nhiều như lần nọ tôi cảm thấy mình gắn chặt vào trái tim mình, trong vài phút, mật thiết vô song.
Tôi bảo trái tim tôi: Nào!
Quả là một trái tim làm bằng chất tốt!
Nó do dự đôi chút, rồi đập trở lại như thường… Anh biết không, tôi tự hào vì trái tim tôi nhiều lắm!”
Trong căn phòng tại Mendoza bữa đó, tôi chăm sóc anh, cuối cùng anh ngủ một giấc mê man hổn hển.
Tôi nghĩ thầm: nếu có người nói anh can đảm, thì anh sẽ nhún vai.
Và người ta vẫn cứ phụ anh hoài, nếu người ta ca ngợi anh khiêm tốn.
Anh đứng xa vời biên kia, biệt lập hẳn cái đức tính từ tốn tầm thường nọ!
Và nếu anh nhún vai, ấy chỉ vì anh mang niềm phóng khoáng của con người thấu hiểu lẽ đời trên mặt đất thị phi.
Anh biết rằng một khi sa vào vòng biến cố, con người bỗng nhiên hết sợ hãi.
Con người chỉ kinh hoàng trước cái lạ lùng khôn dò.
Nhưng một phen chạm mặt nó rồi, nó không còn là lạ lùng bất trắc nữa.
Nhất là khi dò xét nó với sự trầm trọng sáng suốt kia.
Lòng can đảm của Guillaumet, trước hết, là hiệu quả của lòng cương trực.
Đức tính thật sự của anh lại không phải là đó.
Sự cao cả của anh, ấy là tự cảm thấy mình mang trách nhiệm.
Trách nhiệm với mình, với bao thư tín, trách nhiệm đối với những bạn hữu hoài mong.
Anh cầm trong tay những vui buồn của họ.
Trách nhiệm đối với những gì mới mẻ đang được xây dựng dưới kia, nơi chốn của nhân gian sinh hoạt, mà dù cách biệt, anh vẫn phải dự phần. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chưa bao giờ, anh biết đó, chưa bao giờ trên phi cơ tôi từng đã cảm thấy mình kết chặt vào động cơ nhiều như lần nọ tôi cảm thấy mình gắn chặt vào trái tim mình, trong vài phút, mật thiết vô song.
Tôi bảo trái tim tôi: Nào!
Quả là một trái tim làm bằng chất tốt!
Nó do dự đôi chút, rồi đập trở lại như thường… Anh biết không, tôi tự hào vì trái tim tôi nhiều lắm!”
Trong căn phòng tại Mendoza bữa đó, tôi chăm sóc anh, cuối cùng anh ngủ một giấc mê man hổn hển.
Tôi nghĩ thầm: nếu có người nói anh can đảm, thì anh sẽ nhún vai.
Và người ta vẫn cứ phụ anh hoài, nếu người ta ca ngợi anh khiêm tốn.
Anh đứng xa vời biên kia, biệt lập hẳn cái đức tính từ tốn tầm thường nọ!
Và nếu anh nhún vai, ấy chỉ vì anh mang niềm phóng khoáng của con người thấu hiểu lẽ đời trên mặt đất thị phi.
Anh biết rằng một khi sa vào vòng biến cố, con người bỗng nhiên hết sợ hãi.
Con người chỉ kinh hoàng trước cái lạ lùng khôn dò.
Nhưng một phen chạm mặt nó rồi, nó không còn là lạ lùng bất trắc nữa.
Nhất là khi dò xét nó với sự trầm trọng sáng suốt kia.
Lòng can đảm của Guillaumet, trước hết, là hiệu quả của lòng cương trực.
Đức tính thật sự của anh lại không phải là đó.
Sự cao cả của anh, ấy là tự cảm thấy mình mang trách nhiệm.
Trách nhiệm với mình, với bao thư tín, trách nhiệm đối với những bạn hữu hoài mong.
Anh cầm trong tay những vui buồn của họ.
Trách nhiệm đối với những gì mới mẻ đang được xây dựng dưới kia, nơi chốn của nhân gian sinh hoạt, mà dù cách biệt, anh vẫn phải dự phần. | Anh cầm trong tay những vui buồn của họ.
Trách nhiệm đối với những gì mới mẻ đang được xây dựng dưới kia, nơi chốn của nhân gian sinh hoạt, mà dù cách biệt, anh vẫn phải dự phần.
Trách nhiệm chút ít đối với định mệnh con người, trong vòng khả năng của anh trên công việc.
Anh thuộc thành phần những sinh vật rộng, hài lòng chấp thuận đưa vòm lá cành mình, che phủ giúp những chân mây.
Làm người, ấy là nhận trách nhiệm.
Ấy là biết tủi thẹn trước những khốn cùng, khổ lụy, không do mình mà ra.
Ấy là biết kiêu hãnh vì một chiến thắng của bạn mình thu hoạch.
Ấy là, lúc đặt tảng đá của riêng mình, mà cảm thấy góp phần xây dựng một cõi chung.
Người ta cứ muốn lẫn lộn hạng người đó với những tay đấu bò, hoặc với những kẻ lăn lóc cuộc chơi.
Người ta ca tụng lòng dũng cảm dám chết của họ.
Nhưng tôi xem nhẹ lòng khinh thường sự chết.
Nếu nó không bắt nguồn từ một ý thức về trách nhiệm phải mang và mình chấp thuận, thì sự xem thường cái chết chỉ là dấu hiệu cằn cỗi của tinh thần, hoặc ngông cuồng của tuổi trẻ.
Tôi có biết một chàng trai đã tự sát.
Tôi chẳng biết cuộc tình duyên lỡ dở nào đã xui giục anh cẩn thận cho một viên đạn vào tim.
Tôi không biết anh nghe theo tiếng gọi lãng mạn văn chương nào cám dỗ mà lại tỉ mỉ mang găng trắng vào tay, nhưng tôi nhớ rằng cái cảnh tượng chán chường kia, đã gây cho tôi một cảm giác khó chịu; không có gì cao cả, chỉ là tầm thường khốn đốn mà thôi.
Thế thì, phía sau gương mặt dễ thương nọ, bên trong khối óc người trai kia, trước đây chả có gì ráo. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Anh cầm trong tay những vui buồn của họ.
Trách nhiệm đối với những gì mới mẻ đang được xây dựng dưới kia, nơi chốn của nhân gian sinh hoạt, mà dù cách biệt, anh vẫn phải dự phần.
Trách nhiệm chút ít đối với định mệnh con người, trong vòng khả năng của anh trên công việc.
Anh thuộc thành phần những sinh vật rộng, hài lòng chấp thuận đưa vòm lá cành mình, che phủ giúp những chân mây.
Làm người, ấy là nhận trách nhiệm.
Ấy là biết tủi thẹn trước những khốn cùng, khổ lụy, không do mình mà ra.
Ấy là biết kiêu hãnh vì một chiến thắng của bạn mình thu hoạch.
Ấy là, lúc đặt tảng đá của riêng mình, mà cảm thấy góp phần xây dựng một cõi chung.
Người ta cứ muốn lẫn lộn hạng người đó với những tay đấu bò, hoặc với những kẻ lăn lóc cuộc chơi.
Người ta ca tụng lòng dũng cảm dám chết của họ.
Nhưng tôi xem nhẹ lòng khinh thường sự chết.
Nếu nó không bắt nguồn từ một ý thức về trách nhiệm phải mang và mình chấp thuận, thì sự xem thường cái chết chỉ là dấu hiệu cằn cỗi của tinh thần, hoặc ngông cuồng của tuổi trẻ.
Tôi có biết một chàng trai đã tự sát.
Tôi chẳng biết cuộc tình duyên lỡ dở nào đã xui giục anh cẩn thận cho một viên đạn vào tim.
Tôi không biết anh nghe theo tiếng gọi lãng mạn văn chương nào cám dỗ mà lại tỉ mỉ mang găng trắng vào tay, nhưng tôi nhớ rằng cái cảnh tượng chán chường kia, đã gây cho tôi một cảm giác khó chịu; không có gì cao cả, chỉ là tầm thường khốn đốn mà thôi.
Thế thì, phía sau gương mặt dễ thương nọ, bên trong khối óc người trai kia, trước đây chả có gì ráo. | Thế thì, phía sau gương mặt dễ thương nọ, bên trong khối óc người trai kia, trước đây chả có gì ráo.
Có chăng chỉ là hình ảnh một cô gái nhỏ nào ngốc nghếch giống như trăm vạn cô khác mà thôi.
Trước một phận số lai rai nghèo nàn như vậy, tôi bỗng nghĩ tới một cái chết đích đáng của con người.
Cái chết của một kẻ làm vườn, kẻ từng bảo tôi: “Ông biết chứ… đôi lúc xới đất, mồ hôi ra như tắm.
Tôi bị chứng đau xương, nên ống chân khổ lắm, tôi rủa thầm công việc đày đọa này.
Ấy thế, mà hôm nay, tôi lại muốn xới đất, xới đất hôm nay, xới vào lòng đất… Xới đất, ha!
Còn gì tự do bằng lúc miệt mài xới đất!
Nhưng rồi, ai sẽ xén tỉa cây cối của tôi đây?” Ông bỏ lại một khu vườn hoang phế.
Ông bỏ lại một địa cầu hoang phế.
Ông đã gửi gắm hết tình yêu cho xiết bao miền đất, và trút hết tâm hồn cho tất cả cây cối trần gian.
Chính ông ta là người phóng khoáng, là kẻ hào hoa, đại nhân quân tử vậy.
Chính ông ta là y hệt Guillaumet, con người dũng cảm, lúc ông ta nhân danh Tạo Vật của mình mà liều thân chống lại thần chết.
III
PHI CƠ
Sá gì, Guillaumet ạ, sá gì những chuyện đó: ngày ngày, đêm đêm, nếu công việc anh làm là quẩn quanh xem xét bên những máy đo sức ép, là giữ thăng bằng trên những tuyến chuyển nghi, là thăm chừng tiếng chạy của động cơ, là phải liệu đảm đương trên hai vai mình mười hai tấn kim khí: những vấn đề được đặt ra với anh, đáo cùng, vẫn là những vấn đề con người ta, và thoắt thôi, anh bước ngang nhiên vào giữa cõi cao cả tót vời của người dân miền núi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Thế thì, phía sau gương mặt dễ thương nọ, bên trong khối óc người trai kia, trước đây chả có gì ráo.
Có chăng chỉ là hình ảnh một cô gái nhỏ nào ngốc nghếch giống như trăm vạn cô khác mà thôi.
Trước một phận số lai rai nghèo nàn như vậy, tôi bỗng nghĩ tới một cái chết đích đáng của con người.
Cái chết của một kẻ làm vườn, kẻ từng bảo tôi: “Ông biết chứ… đôi lúc xới đất, mồ hôi ra như tắm.
Tôi bị chứng đau xương, nên ống chân khổ lắm, tôi rủa thầm công việc đày đọa này.
Ấy thế, mà hôm nay, tôi lại muốn xới đất, xới đất hôm nay, xới vào lòng đất… Xới đất, ha!
Còn gì tự do bằng lúc miệt mài xới đất!
Nhưng rồi, ai sẽ xén tỉa cây cối của tôi đây?” Ông bỏ lại một khu vườn hoang phế.
Ông bỏ lại một địa cầu hoang phế.
Ông đã gửi gắm hết tình yêu cho xiết bao miền đất, và trút hết tâm hồn cho tất cả cây cối trần gian.
Chính ông ta là người phóng khoáng, là kẻ hào hoa, đại nhân quân tử vậy.
Chính ông ta là y hệt Guillaumet, con người dũng cảm, lúc ông ta nhân danh Tạo Vật của mình mà liều thân chống lại thần chết.
III
PHI CƠ
Sá gì, Guillaumet ạ, sá gì những chuyện đó: ngày ngày, đêm đêm, nếu công việc anh làm là quẩn quanh xem xét bên những máy đo sức ép, là giữ thăng bằng trên những tuyến chuyển nghi, là thăm chừng tiếng chạy của động cơ, là phải liệu đảm đương trên hai vai mình mười hai tấn kim khí: những vấn đề được đặt ra với anh, đáo cùng, vẫn là những vấn đề con người ta, và thoắt thôi, anh bước ngang nhiên vào giữa cõi cao cả tót vời của người dân miền núi. | Không thua gì một thi sĩ, anh cũng biết thưởng thức màu sương trắng giục bình minh.
Từ đáy thâm u những đêm bay bất trắc, anh đã từng mong đợi màu hoa mộng mờ ảo hiện ra như chùm bông man mác, cái ánh lạ tuôn từ lòng đất tối, lên trào ngập cõi đông.
Cái mạch nước giếng ngầm diễm ảo đó, đôi lần ở ngay trước mặt, đã chan hòa rất chậm rãi, và đã cứu sống anh lúc anh tưởng rằng mình đương chết.
Việc sử dụng một khí cụ khoa học vẫn không thể biến anh thành một gã chuyên môn khô cỗi.
Tôi tưởng rằng những kẻ quá kinh hãi trước những tiến bộ của ngành khoa học chuyên môn, chắc là họ đã nhầm lẫn không phân biệt rõ phương tiện và cứu cánh.
Kẻ nào đấu tranh trong hy vọng duy nhất nhằm vào những kết quả vật chất tiện nghi, hẳn nhiên là không thu hoạch được chút gì đáng giá cho cuộc sống.
Nhưng máy móc không phải là cứu cánh.
Phi cơ không phải là cứu cánh: nó chỉ là một dụng cụ.
Một dụng cụ cũng như cái cày.
Nếu ta tưởng rằng máy móc làm hư nát con người, ấy có lẽ rằng chúng ta thiếu thời gian để lui gót ra sau và nhìn rõ lại, và xét đoán về những ảnh hưởng, những tác dụng của biến dịch nhanh chóng như những biến dịch chúng ta đã trải qua.
Có nghĩa gì mấy đâu, một trăm năm của lịch sử máy móc đem so ra với hai trăm ngàn năm lịch sử của loài người.
Quả thật chúng ta chỉ mới chớm khởi sự ngồi vào cư trú trong gian nhà mới mẻ, mà quả thật là chưa được xây dựng hoàn thành. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Không thua gì một thi sĩ, anh cũng biết thưởng thức màu sương trắng giục bình minh.
Từ đáy thâm u những đêm bay bất trắc, anh đã từng mong đợi màu hoa mộng mờ ảo hiện ra như chùm bông man mác, cái ánh lạ tuôn từ lòng đất tối, lên trào ngập cõi đông.
Cái mạch nước giếng ngầm diễm ảo đó, đôi lần ở ngay trước mặt, đã chan hòa rất chậm rãi, và đã cứu sống anh lúc anh tưởng rằng mình đương chết.
Việc sử dụng một khí cụ khoa học vẫn không thể biến anh thành một gã chuyên môn khô cỗi.
Tôi tưởng rằng những kẻ quá kinh hãi trước những tiến bộ của ngành khoa học chuyên môn, chắc là họ đã nhầm lẫn không phân biệt rõ phương tiện và cứu cánh.
Kẻ nào đấu tranh trong hy vọng duy nhất nhằm vào những kết quả vật chất tiện nghi, hẳn nhiên là không thu hoạch được chút gì đáng giá cho cuộc sống.
Nhưng máy móc không phải là cứu cánh.
Phi cơ không phải là cứu cánh: nó chỉ là một dụng cụ.
Một dụng cụ cũng như cái cày.
Nếu ta tưởng rằng máy móc làm hư nát con người, ấy có lẽ rằng chúng ta thiếu thời gian để lui gót ra sau và nhìn rõ lại, và xét đoán về những ảnh hưởng, những tác dụng của biến dịch nhanh chóng như những biến dịch chúng ta đã trải qua.
Có nghĩa gì mấy đâu, một trăm năm của lịch sử máy móc đem so ra với hai trăm ngàn năm lịch sử của loài người.
Quả thật chúng ta chỉ mới chớm khởi sự ngồi vào cư trú trong gian nhà mới mẻ, mà quả thật là chưa được xây dựng hoàn thành. | Quả thật chúng ta chỉ mới chớm khởi sự ngồi vào cư trú trong gian nhà mới mẻ, mà quả thật là chưa được xây dựng hoàn thành.
Mọi sự quanh ta, đổi thay quá chóng: giao tế giữa đời, giao dịch làm ăn, điều kiện công việc, thói nhà, phong tục… Tâm lý của chúng ta cũng bị tơi bời điên đảo, ngay tận trong cơ sở u trầm nhất.
Những ý niệm về biệt ly, về xa vắng, về cách trở, về trùng lai, không mang chứa những thực cũ, mặc dù từ ngữ diễn đạt vẫn là từ ngữ xưa.
Để lĩnh hội cõi sống ngày nay, chúng ta dùng một ngôn ngữ thiết lập vì cõi sống hôm qua.
Và đời sống của quá khứ dường như tương ứng với bản chất của chúng ta hơn, chỉ riêng vì một lẽ: nó đáp lại đúng lời, cho cái ngôn ngữ chúng ta.
Mỗi tiến bộ một ngày, mỗi đẩy xa chúng ta một chút, xa dời mãi những tập quán chúng ta vừa chớm bén quen hơi, và quả thật chúng ta làm những kẻ thiên di trên đất trích, chưa hoàn thành được cái tổ quốc chung.
Tất cả chúng ta là kẻ man di, mà những đồ chơi mới đương làm ngất ngây choáng mắt.
Những cuộc tung cánh phi cơ không có ý nghĩa nào khác.
Cái nọ bay cao hơn cái kia một chút, cái kia chạy chóng hơn cái nớ một phần.
Vậy chúng ta quên mất cái do lai xui chúng ta lao đầu mà xô cho máy chạy.
Tạm thời là thế, cái cuộc chạy tưng bừng, nó che lấp cái đối tượng là cứu cánh, hoặc do lai.
Mãi mãi than ôi vẫn rồi ra rứa.
Đối với người thực dân đi xây trời đế quốc, cái ý nghĩa cuộc đời là chinh phục cho mau.
Người quân nhân khinh thường kẻ thực dân. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Quả thật chúng ta chỉ mới chớm khởi sự ngồi vào cư trú trong gian nhà mới mẻ, mà quả thật là chưa được xây dựng hoàn thành.
Mọi sự quanh ta, đổi thay quá chóng: giao tế giữa đời, giao dịch làm ăn, điều kiện công việc, thói nhà, phong tục… Tâm lý của chúng ta cũng bị tơi bời điên đảo, ngay tận trong cơ sở u trầm nhất.
Những ý niệm về biệt ly, về xa vắng, về cách trở, về trùng lai, không mang chứa những thực cũ, mặc dù từ ngữ diễn đạt vẫn là từ ngữ xưa.
Để lĩnh hội cõi sống ngày nay, chúng ta dùng một ngôn ngữ thiết lập vì cõi sống hôm qua.
Và đời sống của quá khứ dường như tương ứng với bản chất của chúng ta hơn, chỉ riêng vì một lẽ: nó đáp lại đúng lời, cho cái ngôn ngữ chúng ta.
Mỗi tiến bộ một ngày, mỗi đẩy xa chúng ta một chút, xa dời mãi những tập quán chúng ta vừa chớm bén quen hơi, và quả thật chúng ta làm những kẻ thiên di trên đất trích, chưa hoàn thành được cái tổ quốc chung.
Tất cả chúng ta là kẻ man di, mà những đồ chơi mới đương làm ngất ngây choáng mắt.
Những cuộc tung cánh phi cơ không có ý nghĩa nào khác.
Cái nọ bay cao hơn cái kia một chút, cái kia chạy chóng hơn cái nớ một phần.
Vậy chúng ta quên mất cái do lai xui chúng ta lao đầu mà xô cho máy chạy.
Tạm thời là thế, cái cuộc chạy tưng bừng, nó che lấp cái đối tượng là cứu cánh, hoặc do lai.
Mãi mãi than ôi vẫn rồi ra rứa.
Đối với người thực dân đi xây trời đế quốc, cái ý nghĩa cuộc đời là chinh phục cho mau.
Người quân nhân khinh thường kẻ thực dân. | Mãi mãi than ôi vẫn rồi ra rứa.
Đối với người thực dân đi xây trời đế quốc, cái ý nghĩa cuộc đời là chinh phục cho mau.
Người quân nhân khinh thường kẻ thực dân.
Nhưng cái mục đích cuộc chinh phục kia, há là chẳng đắp xây của gã thực dân được thành tựu?
Và thế đó, trong niềm phấn phát hứng thú trước những tiến triển của mình, chúng ta xô con người vào phục dịch công cuộc thiết lập đường rầy, cất cao nhà máy, khơi hầm đào mỏ, xẻ giếng dầu hôi.
Chúng ta có quên đi chút ít một điều: những xây dựng kia, cốt là phụng sự con người.
Đức lý của chúng ta, trong thời gian chinh phục là một đức lý quân nhân.
Nhưng bây giờ, chúng ta phải đóng vai trò đúng điệu thực dân.
Chúng ta phải làm sao cho cái căn nhà mới mẻ, chưa ra hình dạng rõ ràng, phải làm sao cho nó thành sống động.
Chân lý, với kẻ này, là thiết lập; chân lý, với kẻ kia, là cư trú.
Ngôi nhà của chúng ta hẳn là lần hồi sẽ thân thiết với con người hơn.
Cả máy móc cũng vậy, máy móc càng tinh xảo, máy móc càng nép mặt ở phía sau cái vai trò mình đóng; máy móc càng hoàn bị, máy móc càng xóa mình thin thít ở bên kia cái công dụng mình đưa ra. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Mãi mãi than ôi vẫn rồi ra rứa.
Đối với người thực dân đi xây trời đế quốc, cái ý nghĩa cuộc đời là chinh phục cho mau.
Người quân nhân khinh thường kẻ thực dân.
Nhưng cái mục đích cuộc chinh phục kia, há là chẳng đắp xây của gã thực dân được thành tựu?
Và thế đó, trong niềm phấn phát hứng thú trước những tiến triển của mình, chúng ta xô con người vào phục dịch công cuộc thiết lập đường rầy, cất cao nhà máy, khơi hầm đào mỏ, xẻ giếng dầu hôi.
Chúng ta có quên đi chút ít một điều: những xây dựng kia, cốt là phụng sự con người.
Đức lý của chúng ta, trong thời gian chinh phục là một đức lý quân nhân.
Nhưng bây giờ, chúng ta phải đóng vai trò đúng điệu thực dân.
Chúng ta phải làm sao cho cái căn nhà mới mẻ, chưa ra hình dạng rõ ràng, phải làm sao cho nó thành sống động.
Chân lý, với kẻ này, là thiết lập; chân lý, với kẻ kia, là cư trú.
Ngôi nhà của chúng ta hẳn là lần hồi sẽ thân thiết với con người hơn.
Cả máy móc cũng vậy, máy móc càng tinh xảo, máy móc càng nép mặt ở phía sau cái vai trò mình đóng; máy móc càng hoàn bị, máy móc càng xóa mình thin thít ở bên kia cái công dụng mình đưa ra. | Cả máy móc cũng vậy, máy móc càng tinh xảo, máy móc càng nép mặt ở phía sau cái vai trò mình đóng; máy móc càng hoàn bị, máy móc càng xóa mình thin thít ở bên kia cái công dụng mình đưa ra.
Dường như mọi cố gắng kỹ nghệ của con người, mọi bài toán chi ly, những bao đêm dài thao thức chỉ nhằm tới một điều là đạt tới chỗ đơn sơ, như tuồng cần phải qua kinh nghiệm hằng hằng của nghìn nghìn thế hệ, mới có thể khơi dẫn dần dần đường cong cây cột, nét nhịp mạn tàu, thân liễu yếu phi cơ tròn xinh như thể… như thể một lần là cho tới tột cõi nguyên trinh mà trả về cho ban sơ cái đường cong đồi vú, cái đài các đôi vai.
Tưởng chừng cái việc làm của kĩ sư, của thợ vẽ, của các viên cán sự trong phòng nghiên cứu, chỉ như hình là mài giũa và xóa bôi, cho nhẹ nhàng nảy ra cái then cài, cái chốt cọ, cho thăng bằng uyển chuyển cái cánh mộng phi cơ, cho đến chỗ làm sao cho người ta không ngờ ra được nữa, cho người ta ngó nhìn mà không thấy cái chắp víu đôi bên, là mép thân, là miền cánh, làm sao cho thiên hạ phiêu bồng trước hình thể mở phơi, lai láng làm sao như giờ đây mới thật là thoát tục, láng như ngời, như ngẫu nhĩ chung đôi tuyết bạch trơn tru như mịn màng đầu gió, duy nhất hiện hình là đặc tính của thi ca.
Tuồng như cái tuyệt vời hảo hợp chỉ đạt tới một lần là không phải lúc chẳng cần thêm, mà chính ra là cái khi không còn chi để rứt bớt ra một phần nào được nữa.
Ở tột cùng tiến triển, hồn máy móc đã mờ xóa phiêu du.
Tuyệt hảo của phát minh cũng lăm le về chỗ quên mình là minh phát. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Cả máy móc cũng vậy, máy móc càng tinh xảo, máy móc càng nép mặt ở phía sau cái vai trò mình đóng; máy móc càng hoàn bị, máy móc càng xóa mình thin thít ở bên kia cái công dụng mình đưa ra.
Dường như mọi cố gắng kỹ nghệ của con người, mọi bài toán chi ly, những bao đêm dài thao thức chỉ nhằm tới một điều là đạt tới chỗ đơn sơ, như tuồng cần phải qua kinh nghiệm hằng hằng của nghìn nghìn thế hệ, mới có thể khơi dẫn dần dần đường cong cây cột, nét nhịp mạn tàu, thân liễu yếu phi cơ tròn xinh như thể… như thể một lần là cho tới tột cõi nguyên trinh mà trả về cho ban sơ cái đường cong đồi vú, cái đài các đôi vai.
Tưởng chừng cái việc làm của kĩ sư, của thợ vẽ, của các viên cán sự trong phòng nghiên cứu, chỉ như hình là mài giũa và xóa bôi, cho nhẹ nhàng nảy ra cái then cài, cái chốt cọ, cho thăng bằng uyển chuyển cái cánh mộng phi cơ, cho đến chỗ làm sao cho người ta không ngờ ra được nữa, cho người ta ngó nhìn mà không thấy cái chắp víu đôi bên, là mép thân, là miền cánh, làm sao cho thiên hạ phiêu bồng trước hình thể mở phơi, lai láng làm sao như giờ đây mới thật là thoát tục, láng như ngời, như ngẫu nhĩ chung đôi tuyết bạch trơn tru như mịn màng đầu gió, duy nhất hiện hình là đặc tính của thi ca.
Tuồng như cái tuyệt vời hảo hợp chỉ đạt tới một lần là không phải lúc chẳng cần thêm, mà chính ra là cái khi không còn chi để rứt bớt ra một phần nào được nữa.
Ở tột cùng tiến triển, hồn máy móc đã mờ xóa phiêu du.
Tuyệt hảo của phát minh cũng lăm le về chỗ quên mình là minh phát. | Ở tột cùng tiến triển, hồn máy móc đã mờ xóa phiêu du.
Tuyệt hảo của phát minh cũng lăm le về chỗ quên mình là minh phát.
Và, cũng như trong khí cụ, mọi cái gì máy móc hiện thể bên ngoài đã dần dà xóa bóng, và có đến với ta cũng tự nhiên như ngẫu sinh là một hòn sỏi biển trơn tròn, mà ngẫu sinh lại sinh từ sóng rộng, thì cũng vậy, cái tuyệt vời đáng nên tán tụng, là cái máy ta dùng, chính trong lần được dịch sử, đã dần dà tự biến dạng để người quên.
Xưa kia chúng ta tiếp xúc với phi cơ như chạm vào hồn phức tạp.
Nhưng ngày nay quen nết, ta quên mất mình đang gửi nhịp với một động cơ sầu tỏa đương quay.
Thế là tới đây, nó đã đáp ứng với chức vụ của mình, là quay vù, quay tít, như tim đập trong lồng, và cũng vậy, nào ai biết bên phổi mình đang có một quả tim quay.
Ai lưu tâm lưu ý tới.
Khí cụ ta dùng thân thuộc, đã mất hút lưu tâm.
Ở bên kia khí cụ, và xuyên qua khí cụ, là ấy cõi sơ khai thiên nhiên sơ thủy ta tìm về bắt gặp lại, đó trùng lai – cõi thiên nhiên của chàng làm vườn, của chú hàng hải, của bác thi nhân.
Ấy rằng với nước, ấy rằng với hơi, ấy rằng với không khí, là ấy của người phi công cất cánh tiếp xúc đề huề.
Lúc động cơ tung nhịp, lúc con tàu đã rạch sóng biển khơi, triều nước dâng, vỗ vào mạn tàu rột rột như rập rình chiêng dậy, quân nhạc ngân theo, thì con người có thể dõi theo việc làm kia bằng cách đo cật gan mình động đậy. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Ở tột cùng tiến triển, hồn máy móc đã mờ xóa phiêu du.
Tuyệt hảo của phát minh cũng lăm le về chỗ quên mình là minh phát.
Và, cũng như trong khí cụ, mọi cái gì máy móc hiện thể bên ngoài đã dần dà xóa bóng, và có đến với ta cũng tự nhiên như ngẫu sinh là một hòn sỏi biển trơn tròn, mà ngẫu sinh lại sinh từ sóng rộng, thì cũng vậy, cái tuyệt vời đáng nên tán tụng, là cái máy ta dùng, chính trong lần được dịch sử, đã dần dà tự biến dạng để người quên.
Xưa kia chúng ta tiếp xúc với phi cơ như chạm vào hồn phức tạp.
Nhưng ngày nay quen nết, ta quên mất mình đang gửi nhịp với một động cơ sầu tỏa đương quay.
Thế là tới đây, nó đã đáp ứng với chức vụ của mình, là quay vù, quay tít, như tim đập trong lồng, và cũng vậy, nào ai biết bên phổi mình đang có một quả tim quay.
Ai lưu tâm lưu ý tới.
Khí cụ ta dùng thân thuộc, đã mất hút lưu tâm.
Ở bên kia khí cụ, và xuyên qua khí cụ, là ấy cõi sơ khai thiên nhiên sơ thủy ta tìm về bắt gặp lại, đó trùng lai – cõi thiên nhiên của chàng làm vườn, của chú hàng hải, của bác thi nhân.
Ấy rằng với nước, ấy rằng với hơi, ấy rằng với không khí, là ấy của người phi công cất cánh tiếp xúc đề huề.
Lúc động cơ tung nhịp, lúc con tàu đã rạch sóng biển khơi, triều nước dâng, vỗ vào mạn tàu rột rột như rập rình chiêng dậy, quân nhạc ngân theo, thì con người có thể dõi theo việc làm kia bằng cách đo cật gan mình động đậy. | Nó chấn động thế nào, thì ta cũng cảm rõ được từng phút, từng giây, chiếc thủy phi cơ càng tăng tốc độ, càng thu nhập thêm uy quyền trên làn sóng phân vân.
Người phi công cảm thấy, trong cái khối mười lăm tấn kim khí kia, đang soạn sửa một hương nồng thuần thục, sắp dậy trào đưa toàn khối bay lên.
Người phi công đưa tay nắm chặt thêm các tay lái, và dần dà thu nhập hết quyền hành nọ, như đón về một tặng vật ai trao.
Nắm được tặng vật rồi, thì mọi bộ phận tay lái tự biến thành những sứ giả của quyền uy.
Lúc quyền uy đã thục, người phi công chỉ cần làm một cử động nhẹ như chơi, nhẹ hơn vịn tay vào cành hái quả, là quá đủ để tách rời khỏi sóng nước cái thân con tàu yểu điệu, và đưa nó lên bầu trời dàn mộng giữa thương khung.
IV
TÀU BAY VÀ TRÁI ĐẤT
1
Đã đành tàu bay là máy móc nhưng cũng là một khí cụ phân tích tuyệt hảo.
Khí cụ đó giúp ta khám phá khuôn mặt thật của địa cầu.
Trải bao thế kỷ, đường sá quả thật đã đánh lừa chúng ta.
Chúng ta nằm trong tình trạng vị Nữ Vương xưa kia từng muốn viếng con dân để xem trăm họ có hân hoan an cư lạc nghiệp dưới sự trị vì của mình không.
Nhưng bọn triều thần muốn lừa dối Nữ Vương, bèn sắp đặt vài khung cảnh tốt đẹp dọc đường trên lối Nữ Vương đi, và thuê bọn ca sĩ chờ sẵn để múa khúc. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nó chấn động thế nào, thì ta cũng cảm rõ được từng phút, từng giây, chiếc thủy phi cơ càng tăng tốc độ, càng thu nhập thêm uy quyền trên làn sóng phân vân.
Người phi công cảm thấy, trong cái khối mười lăm tấn kim khí kia, đang soạn sửa một hương nồng thuần thục, sắp dậy trào đưa toàn khối bay lên.
Người phi công đưa tay nắm chặt thêm các tay lái, và dần dà thu nhập hết quyền hành nọ, như đón về một tặng vật ai trao.
Nắm được tặng vật rồi, thì mọi bộ phận tay lái tự biến thành những sứ giả của quyền uy.
Lúc quyền uy đã thục, người phi công chỉ cần làm một cử động nhẹ như chơi, nhẹ hơn vịn tay vào cành hái quả, là quá đủ để tách rời khỏi sóng nước cái thân con tàu yểu điệu, và đưa nó lên bầu trời dàn mộng giữa thương khung.
IV
TÀU BAY VÀ TRÁI ĐẤT
1
Đã đành tàu bay là máy móc nhưng cũng là một khí cụ phân tích tuyệt hảo.
Khí cụ đó giúp ta khám phá khuôn mặt thật của địa cầu.
Trải bao thế kỷ, đường sá quả thật đã đánh lừa chúng ta.
Chúng ta nằm trong tình trạng vị Nữ Vương xưa kia từng muốn viếng con dân để xem trăm họ có hân hoan an cư lạc nghiệp dưới sự trị vì của mình không.
Nhưng bọn triều thần muốn lừa dối Nữ Vương, bèn sắp đặt vài khung cảnh tốt đẹp dọc đường trên lối Nữ Vương đi, và thuê bọn ca sĩ chờ sẵn để múa khúc. | Nhưng bọn triều thần muốn lừa dối Nữ Vương, bèn sắp đặt vài khung cảnh tốt đẹp dọc đường trên lối Nữ Vương đi, và thuê bọn ca sĩ chờ sẵn để múa khúc.
Trừ hai vệ đường mỏng manh như sợi chỉ nhiếp dẫn thị quan, Nữ Vương chẳng còn nhìn thấy gì khác nữa, chẳng hay biết thêm chút gì khác nữa về vương quốc của mình, và không ngờ rằng nơi vùng đồng không mông quạnh xa xa, nhân dân lầm than đói rét đang nguyền rủa bà.
Chúng ta đi trên những dặm đường quanh co ngang dọc.
Đường đi vốn ưa tránh những vùng đất khô cỗi gập ghềnh, cát sỏi khô khan.
Đường thuận theo nhu cầu con người, đường nối liền những mạch nguồn này với nguồn nước khác.
Đường đưa dẫn bước chân nông phu từ vựa lúa ra bờ ruộng xanh, đường đón súc vật mỗi chiều về chuồng yên nghỉ, và đưa súc vật mỗi sáng ra đồng cỏ non.
Đường giao nối làng này với xóm nọ, và trai gái hai miền gá nghĩa với nhau.
Thảng hoặc có con đường nào liều băng qua sa mạc, thì có phải rằng nó khôn khéo chạy ngoòng ngoèo để gặp cho được những vùng có bóng dừa râm mát bên nước xanh?
Chúng ta bị đường sá phỉnh phờ, cũng như bị độ lượng của từ tâm lừa dối.
Những cuộc viễn du trải bao phen đi ngang qua những dải đất phì nhiêu, những vườn hoa quả mật, những bãi cỏ xanh, và từ đó về sau, trong bao ngày tháng, chúng ta hồn nhiên tô điểm cho lộng lẫy, cái ngục tù vây hãm thân ta.
Trái đất này, chúng ta tưởng là êm đềm, dịu ngọt lắm.
Nhưng mắt ta bỗng sáng tỏ mất rồi.
Với phi cơ, ta đi con đường thẳng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nhưng bọn triều thần muốn lừa dối Nữ Vương, bèn sắp đặt vài khung cảnh tốt đẹp dọc đường trên lối Nữ Vương đi, và thuê bọn ca sĩ chờ sẵn để múa khúc.
Trừ hai vệ đường mỏng manh như sợi chỉ nhiếp dẫn thị quan, Nữ Vương chẳng còn nhìn thấy gì khác nữa, chẳng hay biết thêm chút gì khác nữa về vương quốc của mình, và không ngờ rằng nơi vùng đồng không mông quạnh xa xa, nhân dân lầm than đói rét đang nguyền rủa bà.
Chúng ta đi trên những dặm đường quanh co ngang dọc.
Đường đi vốn ưa tránh những vùng đất khô cỗi gập ghềnh, cát sỏi khô khan.
Đường thuận theo nhu cầu con người, đường nối liền những mạch nguồn này với nguồn nước khác.
Đường đưa dẫn bước chân nông phu từ vựa lúa ra bờ ruộng xanh, đường đón súc vật mỗi chiều về chuồng yên nghỉ, và đưa súc vật mỗi sáng ra đồng cỏ non.
Đường giao nối làng này với xóm nọ, và trai gái hai miền gá nghĩa với nhau.
Thảng hoặc có con đường nào liều băng qua sa mạc, thì có phải rằng nó khôn khéo chạy ngoòng ngoèo để gặp cho được những vùng có bóng dừa râm mát bên nước xanh?
Chúng ta bị đường sá phỉnh phờ, cũng như bị độ lượng của từ tâm lừa dối.
Những cuộc viễn du trải bao phen đi ngang qua những dải đất phì nhiêu, những vườn hoa quả mật, những bãi cỏ xanh, và từ đó về sau, trong bao ngày tháng, chúng ta hồn nhiên tô điểm cho lộng lẫy, cái ngục tù vây hãm thân ta.
Trái đất này, chúng ta tưởng là êm đềm, dịu ngọt lắm.
Nhưng mắt ta bỗng sáng tỏ mất rồi.
Với phi cơ, ta đi con đường thẳng. | Trái đất này, chúng ta tưởng là êm đềm, dịu ngọt lắm.
Nhưng mắt ta bỗng sáng tỏ mất rồi.
Với phi cơ, ta đi con đường thẳng.
Vừa cất cánh, ta đã rời xa những con đường đề huề thung dung tìm giếng nước, tìm trại chăn nuôi, hoặc tung tăng từ đô thị này đến đô thị khác.
Từ nay thoát vòng cương tỏa êm ấm, không cần men tới những bờ giếng nước gần gũi như xưa, chúng ta nhắm thẳng tới những mục đích ở cuối trời.
Bắt đầu từ đó, từ độ cao giữa thương khung lướt gió đi thẳng tắp, chúng ta chợt nhận ra căn cớ cốt thiết ở hạ tầng, những đá, những cát, những muối, nơi đó đời sống đôi khi ngại ngùng liều nảy nở lác đác đó đây, như một tí rêu bám vào những khe hở giữa gạch vụn điêu tàn.
Thế là chúng ta đã biến thành những nhà lý học hóa học, sinh vật học đi khảo sát những nền văn minh đang trang hoàng những góc mềm u cốc và đôi lúc bất ngờ gặp chỗ phong khí tốt, bỗng mở phơi lộng lẫy dị thường.
Thế là chúng ta từ đó đứng trên tầm vũ trụ thương khung, mà nghiên cứu con người qua tấm kính tròn như qua những dụng cụ khảo sát.
Thế là từ đó chúng ta bắt đầu đọc trở lại pho lịch sử trần gian.
2
Nhằm phía eo bể Magellan, hơi xế một chút về phía Nam Rio Gallegos, người phi công bay ngang qua một vùng phún thạch cũ.
Những phún thạch rã rời đó đè nặng trên cánh đồng nơi đây, một lớp dày hai mươi thước.
Rồi bay ngang một vùng phún thạch thứ hai như thế, rồi một vùng phún thạch thứ ba, và từ đấy trở đi, mỗi mỏm đá nhô, mỗi cồn cao gò thấp hai trăm thước, cũng mang riêng một miệng lửa bên sườn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Trái đất này, chúng ta tưởng là êm đềm, dịu ngọt lắm.
Nhưng mắt ta bỗng sáng tỏ mất rồi.
Với phi cơ, ta đi con đường thẳng.
Vừa cất cánh, ta đã rời xa những con đường đề huề thung dung tìm giếng nước, tìm trại chăn nuôi, hoặc tung tăng từ đô thị này đến đô thị khác.
Từ nay thoát vòng cương tỏa êm ấm, không cần men tới những bờ giếng nước gần gũi như xưa, chúng ta nhắm thẳng tới những mục đích ở cuối trời.
Bắt đầu từ đó, từ độ cao giữa thương khung lướt gió đi thẳng tắp, chúng ta chợt nhận ra căn cớ cốt thiết ở hạ tầng, những đá, những cát, những muối, nơi đó đời sống đôi khi ngại ngùng liều nảy nở lác đác đó đây, như một tí rêu bám vào những khe hở giữa gạch vụn điêu tàn.
Thế là chúng ta đã biến thành những nhà lý học hóa học, sinh vật học đi khảo sát những nền văn minh đang trang hoàng những góc mềm u cốc và đôi lúc bất ngờ gặp chỗ phong khí tốt, bỗng mở phơi lộng lẫy dị thường.
Thế là chúng ta từ đó đứng trên tầm vũ trụ thương khung, mà nghiên cứu con người qua tấm kính tròn như qua những dụng cụ khảo sát.
Thế là từ đó chúng ta bắt đầu đọc trở lại pho lịch sử trần gian.
2
Nhằm phía eo bể Magellan, hơi xế một chút về phía Nam Rio Gallegos, người phi công bay ngang qua một vùng phún thạch cũ.
Những phún thạch rã rời đó đè nặng trên cánh đồng nơi đây, một lớp dày hai mươi thước.
Rồi bay ngang một vùng phún thạch thứ hai như thế, rồi một vùng phún thạch thứ ba, và từ đấy trở đi, mỗi mỏm đá nhô, mỗi cồn cao gò thấp hai trăm thước, cũng mang riêng một miệng lửa bên sườn. | Rồi bay ngang một vùng phún thạch thứ hai như thế, rồi một vùng phún thạch thứ ba, và từ đấy trở đi, mỗi mỏm đá nhô, mỗi cồn cao gò thấp hai trăm thước, cũng mang riêng một miệng lửa bên sườn.
Không có gì giống những hỏa sơn ngạo nghễ như ngọn Vésuve: chỉ là những miệng núi lửa mở ngay giữa đồng bằng.
Nhưng ngày nay, yên tĩnh đã trở về.
Một yên tĩnh như xui ta ngạc nhiên, giữa một khung cảnh lỗi nhịp.
Xưa kia đây chính là nơi của hàng nghìn ngọn núi rầm rộ đua nhau hút lửa từ đáy thẳm để tung lên ì ầm.
Mà ngày nay chỉ còn một vùng vắng lặng, với nhiều đỉnh núi đen đủi, giá băng.
Xa hơn nữa, có nhiều núi lửa xưa hơn đã bắt đầu phủ cỏ vàng óng.
Thỉnh thoảng lại thấy mọc một vài cây trong sũng núi, trông như một cành hoa nở trong một chiếc chậu xưa.
Dưới màu ánh sáng man mác như tà dương, dải đất bằng nhuốm vẻ xinh tươi, một lớp cỏ thấp phủ đều, trông như một mảnh vườn có bàn tay chăm sóc.
Mặt đất phẳng phiu, phải nhìn kỹ mới thấy miệng lửa khổng lồ có nhô lên chút ít.
Một con thỏ vụt chạy, một con chim vỗ cánh, sự sống đã chiếm cứ một giải tinh cầu mới, vì đất ngọt đã bám vào.
Lúc sắp rời Punta Arenas, các miệng lửa cuối cùng hầu đã được lấp cạn.
Một dải cỏ phủ khắp nơi, uyển chuyển theo nhịp cong vòng của triền núi lửa: từ nay phong cảnh chỉ còn giữ riêng một nét hòa ái, dịu dàng.
Mỗi khe hở, mỗi hang thô, được khâu vá trở lại bằng đường tơ trinh bạch thơm lừng.
Mặt đất mượt như nhung, những triền sương xuôi dốc, đó ai còn nhớ ra nữa cái lai lịch hãi hùng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Rồi bay ngang một vùng phún thạch thứ hai như thế, rồi một vùng phún thạch thứ ba, và từ đấy trở đi, mỗi mỏm đá nhô, mỗi cồn cao gò thấp hai trăm thước, cũng mang riêng một miệng lửa bên sườn.
Không có gì giống những hỏa sơn ngạo nghễ như ngọn Vésuve: chỉ là những miệng núi lửa mở ngay giữa đồng bằng.
Nhưng ngày nay, yên tĩnh đã trở về.
Một yên tĩnh như xui ta ngạc nhiên, giữa một khung cảnh lỗi nhịp.
Xưa kia đây chính là nơi của hàng nghìn ngọn núi rầm rộ đua nhau hút lửa từ đáy thẳm để tung lên ì ầm.
Mà ngày nay chỉ còn một vùng vắng lặng, với nhiều đỉnh núi đen đủi, giá băng.
Xa hơn nữa, có nhiều núi lửa xưa hơn đã bắt đầu phủ cỏ vàng óng.
Thỉnh thoảng lại thấy mọc một vài cây trong sũng núi, trông như một cành hoa nở trong một chiếc chậu xưa.
Dưới màu ánh sáng man mác như tà dương, dải đất bằng nhuốm vẻ xinh tươi, một lớp cỏ thấp phủ đều, trông như một mảnh vườn có bàn tay chăm sóc.
Mặt đất phẳng phiu, phải nhìn kỹ mới thấy miệng lửa khổng lồ có nhô lên chút ít.
Một con thỏ vụt chạy, một con chim vỗ cánh, sự sống đã chiếm cứ một giải tinh cầu mới, vì đất ngọt đã bám vào.
Lúc sắp rời Punta Arenas, các miệng lửa cuối cùng hầu đã được lấp cạn.
Một dải cỏ phủ khắp nơi, uyển chuyển theo nhịp cong vòng của triền núi lửa: từ nay phong cảnh chỉ còn giữ riêng một nét hòa ái, dịu dàng.
Mỗi khe hở, mỗi hang thô, được khâu vá trở lại bằng đường tơ trinh bạch thơm lừng.
Mặt đất mượt như nhung, những triền sương xuôi dốc, đó ai còn nhớ ra nữa cái lai lịch hãi hùng. | Mỗi khe hở, mỗi hang thô, được khâu vá trở lại bằng đường tơ trinh bạch thơm lừng.
Mặt đất mượt như nhung, những triền sương xuôi dốc, đó ai còn nhớ ra nữa cái lai lịch hãi hùng.
Cỏ tơ non mọc ở mép đồi, đã xóa nhòa những âm u vết tích.
Và đây, thành phố ở tận tít trời Nam tận cùng thế giới, nhân vì ngẫu nhĩ gặp được chút linh khí của một chút bùn mềm, đã được thành lập phong nhiêu giữa những phún thạch nguyên sơ và dương băng biển Nam heo hút.
Sát ngay cạnh những chất đá đen sì, phồn hoa kia sao mà xui lòng xao xuyến: huyền diệu của con người, dị thường của tao ngộ.
Ta không biết vì đâu, ta không rõ bởi cách nào người du khách nọ đến viếng những khu vườn này, những khu vườn chỉ cho phép cư trú một thời gian quá ngắn, một chu kỳ địa chất, bằng cách nào viễn khách về đây một ngày giữa thiên thu nghe hồng ân chan rưới.
Tôi hạ cánh giữa tịch mịch chiều vàng.
Hãy nhìn ta tựa lưng vào bờ giếng mà ngó gái giữa thanh xuân.
Cách nhau hai bước, tôi càng thấy rõ cái lẽ huyền nhiệm kiếp người… Trong một thế giới mà sự sống giao tiếp dễ dàng với sự sống, mà những cành hoa giữa lòng gió hồn nhiên hôn phối với những cành hoa, một thế giới mà con thiên nga nào cũng quen biết mọi con thiên nga, trong thế giới đó, chỉ riêng con người là xây dựng căn lầu mộng cô đơn.
Phần tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng.
Một giấc mộng “đầu hoa ngang ngửa thắm” của gái xuân, càng chia xa nường biệt lập, tôi biết làm sao mà tìm cái lối vào trong nẻo đó, ở trong kia? |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Mỗi khe hở, mỗi hang thô, được khâu vá trở lại bằng đường tơ trinh bạch thơm lừng.
Mặt đất mượt như nhung, những triền sương xuôi dốc, đó ai còn nhớ ra nữa cái lai lịch hãi hùng.
Cỏ tơ non mọc ở mép đồi, đã xóa nhòa những âm u vết tích.
Và đây, thành phố ở tận tít trời Nam tận cùng thế giới, nhân vì ngẫu nhĩ gặp được chút linh khí của một chút bùn mềm, đã được thành lập phong nhiêu giữa những phún thạch nguyên sơ và dương băng biển Nam heo hút.
Sát ngay cạnh những chất đá đen sì, phồn hoa kia sao mà xui lòng xao xuyến: huyền diệu của con người, dị thường của tao ngộ.
Ta không biết vì đâu, ta không rõ bởi cách nào người du khách nọ đến viếng những khu vườn này, những khu vườn chỉ cho phép cư trú một thời gian quá ngắn, một chu kỳ địa chất, bằng cách nào viễn khách về đây một ngày giữa thiên thu nghe hồng ân chan rưới.
Tôi hạ cánh giữa tịch mịch chiều vàng.
Hãy nhìn ta tựa lưng vào bờ giếng mà ngó gái giữa thanh xuân.
Cách nhau hai bước, tôi càng thấy rõ cái lẽ huyền nhiệm kiếp người… Trong một thế giới mà sự sống giao tiếp dễ dàng với sự sống, mà những cành hoa giữa lòng gió hồn nhiên hôn phối với những cành hoa, một thế giới mà con thiên nga nào cũng quen biết mọi con thiên nga, trong thế giới đó, chỉ riêng con người là xây dựng căn lầu mộng cô đơn.
Phần tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng.
Một giấc mộng “đầu hoa ngang ngửa thắm” của gái xuân, càng chia xa nường biệt lập, tôi biết làm sao mà tìm cái lối vào trong nẻo đó, ở trong kia? | Phần tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng.
Một giấc mộng “đầu hoa ngang ngửa thắm” của gái xuân, càng chia xa nường biệt lập, tôi biết làm sao mà tìm cái lối vào trong nẻo đó, ở trong kia?
Làm sao nghe ra, làm sao biết rõ những cơn man mác trong nhịp bước gái tơ đi, lững thững chiều hôm về căn nhà cha mẹ, mắt lim dim khép mở hai hàng, hai môi má núng đồng tiền mở nụ, một mình mỉm cười với gió đẩy tà xiêm, một mình em hay, một mình em biết, một mình rộn lên những trận viễn du khai phá, những mộng tưởng phát minh, nhưng u hương rập rình quân nhạc dối nhau xiêu đình đổ quán… Nàng đã tự thiết lập một điện đài bí ẩn trong một vương quốc rẽ riêng, bằng những gì của riêng ai đem lại, bằng những gì gã tình nhân đăm chiêu tơ tưởng?
Bằng những lặng lẽ của anh?
Từ đó về sau, đối với em, chỉ riêng chàng là hoàng tử chí tôn, ngoài chàng ra, người người trong thiên hạ thảy thảy lưu manh man dại côn đồ?
Em khép thân ngà trong một cõi, kín đáo hơn giấu vào một viễn cách hành tinh, em che lấp đời riêng trong những lối đi về kiều diễm, trong những thói nhà băng tuyết, trong những âm vang dìu dặt của ký ức não nùng phỉ phong.
Sinh ra từ giữa lòng núi lửa, từ giữa lòng thảo hoa, từ giữa chất muối trùng khơi thổi mặn, mới đó hôm qua, nay em đã thành Tiên Nữ.
Tôi tựa lưng vào bờ giếng.
Những người đàn bà già nua tới đây lấy nước.
Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một cử động tôi đòi ấy thôi.
Một bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Phần tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng.
Một giấc mộng “đầu hoa ngang ngửa thắm” của gái xuân, càng chia xa nường biệt lập, tôi biết làm sao mà tìm cái lối vào trong nẻo đó, ở trong kia?
Làm sao nghe ra, làm sao biết rõ những cơn man mác trong nhịp bước gái tơ đi, lững thững chiều hôm về căn nhà cha mẹ, mắt lim dim khép mở hai hàng, hai môi má núng đồng tiền mở nụ, một mình mỉm cười với gió đẩy tà xiêm, một mình em hay, một mình em biết, một mình rộn lên những trận viễn du khai phá, những mộng tưởng phát minh, nhưng u hương rập rình quân nhạc dối nhau xiêu đình đổ quán… Nàng đã tự thiết lập một điện đài bí ẩn trong một vương quốc rẽ riêng, bằng những gì của riêng ai đem lại, bằng những gì gã tình nhân đăm chiêu tơ tưởng?
Bằng những lặng lẽ của anh?
Từ đó về sau, đối với em, chỉ riêng chàng là hoàng tử chí tôn, ngoài chàng ra, người người trong thiên hạ thảy thảy lưu manh man dại côn đồ?
Em khép thân ngà trong một cõi, kín đáo hơn giấu vào một viễn cách hành tinh, em che lấp đời riêng trong những lối đi về kiều diễm, trong những thói nhà băng tuyết, trong những âm vang dìu dặt của ký ức não nùng phỉ phong.
Sinh ra từ giữa lòng núi lửa, từ giữa lòng thảo hoa, từ giữa chất muối trùng khơi thổi mặn, mới đó hôm qua, nay em đã thành Tiên Nữ.
Tôi tựa lưng vào bờ giếng.
Những người đàn bà già nua tới đây lấy nước.
Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một cử động tôi đòi ấy thôi.
Một bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ. | Những người đàn bà già nua tới đây lấy nước.
Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một cử động tôi đòi ấy thôi.
Một bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ.
Ngày mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng hình ảnh một đứa bé lạc loài, sầu khổ không nguôi.
Tôi là kẻ lạ tới đây.
Tôi không biết, không biết gì hết cả.
Thế giới họ, tôi không thể bước vào.
Những yêu thương, những ganh ghét, những niềm vui của con người cả một tấn tuồng rộng lớn đó diễn ra trong khung cảnh bé bỏng xiết bao.
Từ đâu con người khơi dẫn được về cho mình nguồn khát vọng vô biên.
Từ đâu con người vốn bị phó mặc cho rủi may, bị vất ra sống trên một miền đất mà phún thạch hỏa sơn còn hâm hấp nóng, mà những trận bão cát sắp tới, mà những cơn mưa tuyết sắp về, còn hăm dọa mãi!
Nền văn minh của họ chỉ là một lớp vàng mạ mỏng manh: Hỏa Sơn sẽ xóa, sẽ bôi.
Một biển mới sẽ dâng triều.
Phố thị này tưởng như xây trên một dải đất đai đích thực, tưởng chừng lòng đất còn phong phiêu trong những chiều sâu độ thẳm như miền đất Beauce.
Người ta quên mất rằng, ở nơi này hay chốn khác, cuộc sống vẫn là xa xỉ phẩm, và ở dưới bước chân của con người, không bao giờ có một mảnh đất sâu dày nùng hậu, bất cứ nơi đâu.
Những điều đó được minh chứng rõ rệt do một cái hồ tôi gặp được ở cách thành Punta Arenas vài ba dặm đường. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Những người đàn bà già nua tới đây lấy nước.
Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một cử động tôi đòi ấy thôi.
Một bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ.
Ngày mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng hình ảnh một đứa bé lạc loài, sầu khổ không nguôi.
Tôi là kẻ lạ tới đây.
Tôi không biết, không biết gì hết cả.
Thế giới họ, tôi không thể bước vào.
Những yêu thương, những ganh ghét, những niềm vui của con người cả một tấn tuồng rộng lớn đó diễn ra trong khung cảnh bé bỏng xiết bao.
Từ đâu con người khơi dẫn được về cho mình nguồn khát vọng vô biên.
Từ đâu con người vốn bị phó mặc cho rủi may, bị vất ra sống trên một miền đất mà phún thạch hỏa sơn còn hâm hấp nóng, mà những trận bão cát sắp tới, mà những cơn mưa tuyết sắp về, còn hăm dọa mãi!
Nền văn minh của họ chỉ là một lớp vàng mạ mỏng manh: Hỏa Sơn sẽ xóa, sẽ bôi.
Một biển mới sẽ dâng triều.
Phố thị này tưởng như xây trên một dải đất đai đích thực, tưởng chừng lòng đất còn phong phiêu trong những chiều sâu độ thẳm như miền đất Beauce.
Người ta quên mất rằng, ở nơi này hay chốn khác, cuộc sống vẫn là xa xỉ phẩm, và ở dưới bước chân của con người, không bao giờ có một mảnh đất sâu dày nùng hậu, bất cứ nơi đâu.
Những điều đó được minh chứng rõ rệt do một cái hồ tôi gặp được ở cách thành Punta Arenas vài ba dặm đường. | Những điều đó được minh chứng rõ rệt do một cái hồ tôi gặp được ở cách thành Punta Arenas vài ba dặm đường.
Nằm vây bọc giữa cây cối cằn cỗi và nhà cửa lè tè, trông thiểu não như một cái ao con trong sân nông trại, vì lẽ gì nó lại tuân theo nhịp động của thủy triều biển khơi, cũng hằng hằng dâng lên rút xuống.
Giữa bao nhiêu thực tại yên tĩnh quanh mình, những lau vàng trúc vỏ, những trẻ con nô đùa, cái hồ kia đêm ngày kiên nhẫn kéo dài hơi thở chậm chạp theo tiết nhịp bốn bên, nhưng vẫn âm thầm tuân theo những định luật khác.
Dưới mặt nước bằng phẳng, dưới lớp băng giá im lìm, dưới mái chèo của chiếc ghe hư nát duy nhất nơi đây – uy lực của mặt trăng đương âm thầm tác động.
Những xoáy nước lũ của hải triều đương ngấm ngầm thao túng khối nước đen ngòm này, tận trong đáy thẳm thâm u, những tương ứng tiếp thông dị thường đương tiếp tục cuộc phối hóa, từ vùng loanh quanh đó cho tới tận eo biển Magellan, dưới làn cỏ hoa mỏng mảnh.
Cái hồ kia rộng không quá trăm thước, nằm ở ngưỡng cửa lối đi vào thành phố thiên hạ sống rất bình an vững chãi trong cõi đất con người.
Vâng, cái hố kia đã phập phồng đập theo nhịp múa tim đại hải.
3
Chúng ta cư trú trên một tinh cầu lưu ly chuyển dịch.
Lâu lâu, nhờ chiếc phi cơ vạch nẻo, tinh cầu bỗng phơi mở ngọn nguồn mình: một cái hồ âm thầm liên lạc với mặt trăng đã biểu lộ những tương quan ẩn kín.
Và tôi còn biết những dấu hiệu khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Những điều đó được minh chứng rõ rệt do một cái hồ tôi gặp được ở cách thành Punta Arenas vài ba dặm đường.
Nằm vây bọc giữa cây cối cằn cỗi và nhà cửa lè tè, trông thiểu não như một cái ao con trong sân nông trại, vì lẽ gì nó lại tuân theo nhịp động của thủy triều biển khơi, cũng hằng hằng dâng lên rút xuống.
Giữa bao nhiêu thực tại yên tĩnh quanh mình, những lau vàng trúc vỏ, những trẻ con nô đùa, cái hồ kia đêm ngày kiên nhẫn kéo dài hơi thở chậm chạp theo tiết nhịp bốn bên, nhưng vẫn âm thầm tuân theo những định luật khác.
Dưới mặt nước bằng phẳng, dưới lớp băng giá im lìm, dưới mái chèo của chiếc ghe hư nát duy nhất nơi đây – uy lực của mặt trăng đương âm thầm tác động.
Những xoáy nước lũ của hải triều đương ngấm ngầm thao túng khối nước đen ngòm này, tận trong đáy thẳm thâm u, những tương ứng tiếp thông dị thường đương tiếp tục cuộc phối hóa, từ vùng loanh quanh đó cho tới tận eo biển Magellan, dưới làn cỏ hoa mỏng mảnh.
Cái hồ kia rộng không quá trăm thước, nằm ở ngưỡng cửa lối đi vào thành phố thiên hạ sống rất bình an vững chãi trong cõi đất con người.
Vâng, cái hố kia đã phập phồng đập theo nhịp múa tim đại hải.
3
Chúng ta cư trú trên một tinh cầu lưu ly chuyển dịch.
Lâu lâu, nhờ chiếc phi cơ vạch nẻo, tinh cầu bỗng phơi mở ngọn nguồn mình: một cái hồ âm thầm liên lạc với mặt trăng đã biểu lộ những tương quan ẩn kín.
Và tôi còn biết những dấu hiệu khác. | Lâu lâu, nhờ chiếc phi cơ vạch nẻo, tinh cầu bỗng phơi mở ngọn nguồn mình: một cái hồ âm thầm liên lạc với mặt trăng đã biểu lộ những tương quan ẩn kín.
Và tôi còn biết những dấu hiệu khác.
Dọc bờ biển vây dọc dãy Sahara, từ Capjuby tới Cisneros, thỉnh thoảng ta lại bay qua một vùng cao nguyên với những sầm lĩnh đột nham hình nón cắt, mà bề rộng xê xích giữa khoảng vài ba trăm thước tới vài ba mươi cây số.
Duy có điều đặc biệt là: bề cao của chúng lại suýt soát khoảng ba trăm thước, không xê dịch chi nhiều.
Lạ nữa là: không những chúng cao như nhau, mà lại còn giống nhau về màu sắc, về chất đất và hình thù bờ dốc, mép ghềnh.
Cũng như thể những cột trụ một điện đài nào xưa, nhô chơ vơ trên mặt cát còn như nhắc gợi cho ta nhớ rằng, xưa kia, tòa nhà huy hoàng thế nào, mà giờ đây tàn phế, chỉ còn chút vết tích thế kia… thì, cũng vậy, những đột nham, sầm lĩnh này cũng chứng minh với ta rằng xưa kia chúng hẳn phải nằm chung trong một toàn thể của một vùng cao nguyên lớn rộng.
Thuở con đường Casablanca-Dakar mới mở, trong những năm đầu phi cơ còn mong manh yếu ớt, thì chúng tôi thường, hoặc vì máy hỏng, hoặc nhân đi tìm kiếm, cứu trợ những phi cơ bay lạc, mà phải hạ cánh xuống những vùng phiến loạn, thổ dân không ôn hòa.
Nhưng cát, bản chất vẫn dối trá; ngó như là bền vững, đâu ngờ có lúc phải sa lầy.
Còn những giãi ruộng muối xưa, tưởng đâu rắn chắc như nhựa trải đường, tưởng đâu cũng vang động dòn dã dưới gót chân đi, ngờ đâu nó cũng lại thường lún mất dưới vòng bánh phi cơ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Lâu lâu, nhờ chiếc phi cơ vạch nẻo, tinh cầu bỗng phơi mở ngọn nguồn mình: một cái hồ âm thầm liên lạc với mặt trăng đã biểu lộ những tương quan ẩn kín.
Và tôi còn biết những dấu hiệu khác.
Dọc bờ biển vây dọc dãy Sahara, từ Capjuby tới Cisneros, thỉnh thoảng ta lại bay qua một vùng cao nguyên với những sầm lĩnh đột nham hình nón cắt, mà bề rộng xê xích giữa khoảng vài ba trăm thước tới vài ba mươi cây số.
Duy có điều đặc biệt là: bề cao của chúng lại suýt soát khoảng ba trăm thước, không xê dịch chi nhiều.
Lạ nữa là: không những chúng cao như nhau, mà lại còn giống nhau về màu sắc, về chất đất và hình thù bờ dốc, mép ghềnh.
Cũng như thể những cột trụ một điện đài nào xưa, nhô chơ vơ trên mặt cát còn như nhắc gợi cho ta nhớ rằng, xưa kia, tòa nhà huy hoàng thế nào, mà giờ đây tàn phế, chỉ còn chút vết tích thế kia… thì, cũng vậy, những đột nham, sầm lĩnh này cũng chứng minh với ta rằng xưa kia chúng hẳn phải nằm chung trong một toàn thể của một vùng cao nguyên lớn rộng.
Thuở con đường Casablanca-Dakar mới mở, trong những năm đầu phi cơ còn mong manh yếu ớt, thì chúng tôi thường, hoặc vì máy hỏng, hoặc nhân đi tìm kiếm, cứu trợ những phi cơ bay lạc, mà phải hạ cánh xuống những vùng phiến loạn, thổ dân không ôn hòa.
Nhưng cát, bản chất vẫn dối trá; ngó như là bền vững, đâu ngờ có lúc phải sa lầy.
Còn những giãi ruộng muối xưa, tưởng đâu rắn chắc như nhựa trải đường, tưởng đâu cũng vang động dòn dã dưới gót chân đi, ngờ đâu nó cũng lại thường lún mất dưới vòng bánh phi cơ. | Còn những giãi ruộng muối xưa, tưởng đâu rắn chắc như nhựa trải đường, tưởng đâu cũng vang động dòn dã dưới gót chân đi, ngờ đâu nó cũng lại thường lún mất dưới vòng bánh phi cơ.
Lớp muối vỡ tan, mở rộng một giãi bùn đen hôi hám.
Thế nên chi, chúng tôi thà cam chịu hạ cánh trên những cao nguyên kia, mỗi khi trường hợp cho phép; ấy chỉ vì chúng không bao giờ che dấu những cạm bẫy bên trong.
Sự bảo đảm ấy, bởi đâu mà có?
Ấy là nhờ một thứ cát trắng, rắn chắc, nặng hạt do những vỏ hào, vỏ hến tí hon tụ hội, dồn ghép lại, làm thành những đống đồ sộ đun ra.
Trên mặt cao nguyên, những đống lài lài còn nguyên vẹn mặt mày, nhưng nếu ta lần theo triền dốc mà đi xuống, sẽ thấy có chỗ vỡ ra từng mảng, có chỗ ghép chặt lại nhau.
Xuống tới chân dãy cao nguyên, nơi các thứ vỏ ấy dồn tụ lâu năm nhất, thì còn thuần một chất đá vôi không pha trộn phiêu bồng.
Thuở hai anh bạn Reine và Serre bị những thổ dân bất hảo thộp được cầm tù, tôi có dịp chở một sứ giả người Maure tới hạ cánh xuống một trong những vùng này.
Trước khi từ giã người đó, tôi cùng anh ấy lân la tìm xem thử có con đường nào sẽ giúp anh ngày mai lần mò xuống được.
Nhưng khắp bốn mặt đều là những bức tường thẳng tắp đổ xuống hố thẳm, không một lối nào khả dĩ cho phép thoát thân.
Tuy nhiên trước khi cất cánh bay tìm chốn khác, tôi còn nấn ná dò hỏi nơi đây. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Còn những giãi ruộng muối xưa, tưởng đâu rắn chắc như nhựa trải đường, tưởng đâu cũng vang động dòn dã dưới gót chân đi, ngờ đâu nó cũng lại thường lún mất dưới vòng bánh phi cơ.
Lớp muối vỡ tan, mở rộng một giãi bùn đen hôi hám.
Thế nên chi, chúng tôi thà cam chịu hạ cánh trên những cao nguyên kia, mỗi khi trường hợp cho phép; ấy chỉ vì chúng không bao giờ che dấu những cạm bẫy bên trong.
Sự bảo đảm ấy, bởi đâu mà có?
Ấy là nhờ một thứ cát trắng, rắn chắc, nặng hạt do những vỏ hào, vỏ hến tí hon tụ hội, dồn ghép lại, làm thành những đống đồ sộ đun ra.
Trên mặt cao nguyên, những đống lài lài còn nguyên vẹn mặt mày, nhưng nếu ta lần theo triền dốc mà đi xuống, sẽ thấy có chỗ vỡ ra từng mảng, có chỗ ghép chặt lại nhau.
Xuống tới chân dãy cao nguyên, nơi các thứ vỏ ấy dồn tụ lâu năm nhất, thì còn thuần một chất đá vôi không pha trộn phiêu bồng.
Thuở hai anh bạn Reine và Serre bị những thổ dân bất hảo thộp được cầm tù, tôi có dịp chở một sứ giả người Maure tới hạ cánh xuống một trong những vùng này.
Trước khi từ giã người đó, tôi cùng anh ấy lân la tìm xem thử có con đường nào sẽ giúp anh ngày mai lần mò xuống được.
Nhưng khắp bốn mặt đều là những bức tường thẳng tắp đổ xuống hố thẳm, không một lối nào khả dĩ cho phép thoát thân.
Tuy nhiên trước khi cất cánh bay tìm chốn khác, tôi còn nấn ná dò hỏi nơi đây. | Nhưng khắp bốn mặt đều là những bức tường thẳng tắp đổ xuống hố thẳm, không một lối nào khả dĩ cho phép thoát thân.
Tuy nhiên trước khi cất cánh bay tìm chốn khác, tôi còn nấn ná dò hỏi nơi đây.
Tôi cảm thấy trong mình một niềm vui – thơ ngây có lẽ - một niềm thích thú được dịp ngẫu nhĩ ghi dấu chân mình tại một mảnh đất mà có lẽ từ thiên cổ tới nay, người cũng như vật, chưa bao giờ xâm nhập tới.
Không một người Maure người mọi nào có thể vượt tới gần cái chỗ doanh trại hoang liêu này mà mở cuộc tấn công.
Không một người Âu người Ấn nào đã từng đến thám hiểm khu vực này.
Tôi bước đi trên một thứ cát tuyệt vời hoang vắng, tuyệt diệu hoang trinh.
Tôi là kẻ đầu tiên làm con người thứ nhứt đã ngồi xuống đưa bàn tay mà hốt thứ bụi vàng vô giá đó, và đong lên đổ xuống, và lúc lắc trong lòng bàn tay của mình, và đê mê nhìn phấn vàng thong dong chảy giọt.
Vâng, tôi là kẻ đầu tiên tới phá vỡ cõi tịch mịch này.
Trên khuôn mặt khối dương băng này, kể từ thiên thu kể lại, chưa hề có phát sinh một lá cỏ, tôi xin làm hạt giống của gió xa mang về, bằng chứng đầu tiên của cuộc sống ái ân lần thứ nhất.
Một ngôi sao mọc, tôi liếc mắt lên.
Tôi nghĩ rằng cái mặt phẳng trắng phau này, từ muôn vạn kỷ, chỉ riêng gửi tấm trinh thể của mình cho tinh tú soi bóng mà thôi.
Tấm thảm, tấm gương trinh bạch trải ra dưới vòm trời trong suốt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Nhưng khắp bốn mặt đều là những bức tường thẳng tắp đổ xuống hố thẳm, không một lối nào khả dĩ cho phép thoát thân.
Tuy nhiên trước khi cất cánh bay tìm chốn khác, tôi còn nấn ná dò hỏi nơi đây.
Tôi cảm thấy trong mình một niềm vui – thơ ngây có lẽ - một niềm thích thú được dịp ngẫu nhĩ ghi dấu chân mình tại một mảnh đất mà có lẽ từ thiên cổ tới nay, người cũng như vật, chưa bao giờ xâm nhập tới.
Không một người Maure người mọi nào có thể vượt tới gần cái chỗ doanh trại hoang liêu này mà mở cuộc tấn công.
Không một người Âu người Ấn nào đã từng đến thám hiểm khu vực này.
Tôi bước đi trên một thứ cát tuyệt vời hoang vắng, tuyệt diệu hoang trinh.
Tôi là kẻ đầu tiên làm con người thứ nhứt đã ngồi xuống đưa bàn tay mà hốt thứ bụi vàng vô giá đó, và đong lên đổ xuống, và lúc lắc trong lòng bàn tay của mình, và đê mê nhìn phấn vàng thong dong chảy giọt.
Vâng, tôi là kẻ đầu tiên tới phá vỡ cõi tịch mịch này.
Trên khuôn mặt khối dương băng này, kể từ thiên thu kể lại, chưa hề có phát sinh một lá cỏ, tôi xin làm hạt giống của gió xa mang về, bằng chứng đầu tiên của cuộc sống ái ân lần thứ nhất.
Một ngôi sao mọc, tôi liếc mắt lên.
Tôi nghĩ rằng cái mặt phẳng trắng phau này, từ muôn vạn kỷ, chỉ riêng gửi tấm trinh thể của mình cho tinh tú soi bóng mà thôi.
Tấm thảm, tấm gương trinh bạch trải ra dưới vòm trời trong suốt. | Tôi nghĩ rằng cái mặt phẳng trắng phau này, từ muôn vạn kỷ, chỉ riêng gửi tấm trinh thể của mình cho tinh tú soi bóng mà thôi.
Tấm thảm, tấm gương trinh bạch trải ra dưới vòm trời trong suốt.
Tim tôi chợt nhói mạnh một cái, như bàng hoàng trước một phát minh huyền ảo, lúc chợt thấy… cách mình chừng vài mươi thước, nằm lửng lơ trên tấm thảm pha lê, rõ ràng một viên sỏi đen bất động.
Tôi nằm đè thân trên lớp vỏ hến dày ba trăm thước.
Toàn khối khổng lồ ấy tuyệt đối chống lại sự hiện hữu vô tình vô lý của viên sỏi kia.
Trong lòng sâu dưới đất hẳn nhiên là phải có những hòn đá lửa đương ngủ yên, giữa lòng địa cầu nghìn năm thai nghén, nhưng cái phép nhiệm màu ảo diệu nào lại có thể xô một viên sỏi từ đáy thẳm nhô lên tới tận mặt trắng phau phau này?
Tim phập phồng như đứt chỉ xổ tung, tôi đưa tay nhặt của quý: một viên sỏi đen, rắn chắc, to bằng ngón tay, nặng như kim khí, tạc hình tượng một giọt lệ long lanh.
Nhưng đâu là linh hồn khóe mắt?
Một tấm thảm trải dưới một gốc táo, chỉ đón những trái táo.
Một tấm thảm trải dưới vòm trời sao, chỉ hứng được những hạt sương sao rụng.
Chưa bao giờ một tinh thạch chỉ dẫn rõ được cội nguồn mình một cách tuyệt đối hiển nhiên như thế.
Và hồn nhiên mắt mở nhìn trời, tôi nghĩ rằng từ ngọn táo thanh thiên kia, tất còn nhiều quả rụng.
Tôi sẽ tìm ra chúng ngay tại chỗ chúng đã rơi, vì tự vạn kỷ nhớ nhung lần mò đi tới, chưa có gì có thể di động những trái lạ ghi tạc nhịp gót thiên thu.
Chúng không giống một vật thể nào khác ở đây. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi nghĩ rằng cái mặt phẳng trắng phau này, từ muôn vạn kỷ, chỉ riêng gửi tấm trinh thể của mình cho tinh tú soi bóng mà thôi.
Tấm thảm, tấm gương trinh bạch trải ra dưới vòm trời trong suốt.
Tim tôi chợt nhói mạnh một cái, như bàng hoàng trước một phát minh huyền ảo, lúc chợt thấy… cách mình chừng vài mươi thước, nằm lửng lơ trên tấm thảm pha lê, rõ ràng một viên sỏi đen bất động.
Tôi nằm đè thân trên lớp vỏ hến dày ba trăm thước.
Toàn khối khổng lồ ấy tuyệt đối chống lại sự hiện hữu vô tình vô lý của viên sỏi kia.
Trong lòng sâu dưới đất hẳn nhiên là phải có những hòn đá lửa đương ngủ yên, giữa lòng địa cầu nghìn năm thai nghén, nhưng cái phép nhiệm màu ảo diệu nào lại có thể xô một viên sỏi từ đáy thẳm nhô lên tới tận mặt trắng phau phau này?
Tim phập phồng như đứt chỉ xổ tung, tôi đưa tay nhặt của quý: một viên sỏi đen, rắn chắc, to bằng ngón tay, nặng như kim khí, tạc hình tượng một giọt lệ long lanh.
Nhưng đâu là linh hồn khóe mắt?
Một tấm thảm trải dưới một gốc táo, chỉ đón những trái táo.
Một tấm thảm trải dưới vòm trời sao, chỉ hứng được những hạt sương sao rụng.
Chưa bao giờ một tinh thạch chỉ dẫn rõ được cội nguồn mình một cách tuyệt đối hiển nhiên như thế.
Và hồn nhiên mắt mở nhìn trời, tôi nghĩ rằng từ ngọn táo thanh thiên kia, tất còn nhiều quả rụng.
Tôi sẽ tìm ra chúng ngay tại chỗ chúng đã rơi, vì tự vạn kỷ nhớ nhung lần mò đi tới, chưa có gì có thể di động những trái lạ ghi tạc nhịp gót thiên thu.
Chúng không giống một vật thể nào khác ở đây. | Tôi sẽ tìm ra chúng ngay tại chỗ chúng đã rơi, vì tự vạn kỷ nhớ nhung lần mò đi tới, chưa có gì có thể di động những trái lạ ghi tạc nhịp gót thiên thu.
Chúng không giống một vật thể nào khác ở đây.
Và tức khắc, tôi vội vã khởi sự sưu tầm để yên định giả thuyết.
Tôi lần hồi góp nhặt nhiều viên ngọc cuội, theo nhịp trung bình mỗi mẫu một viên.
Viên nào cũng mang hình đá lửa nguội.
Viên nào cũng lóng lánh rắn chắc như huyền kim.
Và thế đó, từ trên cao nguyên bát ngát là một vũ – lượng – kế tinh cầu, bằng một súc đồ kinh dị, bàng hoàng nghe tiếng gọi của sử lịch mang mang, tôi đã chứng giám trận mưa lửa diên trì trên thời gian đổ giọt.
4
Nhưng huyền diệu nhất là giữa cảnh này, giữa tấm thảm nam châm kia và bầu trời sao nọ, nằm trên tấm lưng tròn của tinh cầu phiêu dạt, sao lại có một tâm thức con người để đón nhận ẩn ngữ trận mưa kia, để cho trận mưa kia có thể soi bóng vào, như soi vào gương thơ ngây vậy.
Ngồi trên một nền khoáng chất, một cơn mơ là một nhiệm màu.
Và tôi nhớ lại một cơn mơ.
Một lần đó, rơi cánh trên một vùng cát dày, tôi chờ trời sáng.
Dưới bóng trăng, những ngọn đồi vàng nằm phơi sườn cong lưng lấp loáng, và sườn tối bên kia men lần lên tới đường vạch của ánh sáng chia bờ, phân biệt đôi bên.
Khung cảnh hoang liêu nửa mờ nửa tỏ, vừa yên lành như trong giờ nghỉ việc, vừa câm nín như một cạm bẫy khôn lường, tôi nằm tròn ở giữa lòng cảnh vật, ngủ thiu thiu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi sẽ tìm ra chúng ngay tại chỗ chúng đã rơi, vì tự vạn kỷ nhớ nhung lần mò đi tới, chưa có gì có thể di động những trái lạ ghi tạc nhịp gót thiên thu.
Chúng không giống một vật thể nào khác ở đây.
Và tức khắc, tôi vội vã khởi sự sưu tầm để yên định giả thuyết.
Tôi lần hồi góp nhặt nhiều viên ngọc cuội, theo nhịp trung bình mỗi mẫu một viên.
Viên nào cũng mang hình đá lửa nguội.
Viên nào cũng lóng lánh rắn chắc như huyền kim.
Và thế đó, từ trên cao nguyên bát ngát là một vũ – lượng – kế tinh cầu, bằng một súc đồ kinh dị, bàng hoàng nghe tiếng gọi của sử lịch mang mang, tôi đã chứng giám trận mưa lửa diên trì trên thời gian đổ giọt.
4
Nhưng huyền diệu nhất là giữa cảnh này, giữa tấm thảm nam châm kia và bầu trời sao nọ, nằm trên tấm lưng tròn của tinh cầu phiêu dạt, sao lại có một tâm thức con người để đón nhận ẩn ngữ trận mưa kia, để cho trận mưa kia có thể soi bóng vào, như soi vào gương thơ ngây vậy.
Ngồi trên một nền khoáng chất, một cơn mơ là một nhiệm màu.
Và tôi nhớ lại một cơn mơ.
Một lần đó, rơi cánh trên một vùng cát dày, tôi chờ trời sáng.
Dưới bóng trăng, những ngọn đồi vàng nằm phơi sườn cong lưng lấp loáng, và sườn tối bên kia men lần lên tới đường vạch của ánh sáng chia bờ, phân biệt đôi bên.
Khung cảnh hoang liêu nửa mờ nửa tỏ, vừa yên lành như trong giờ nghỉ việc, vừa câm nín như một cạm bẫy khôn lường, tôi nằm tròn ở giữa lòng cảnh vật, ngủ thiu thiu. | Khung cảnh hoang liêu nửa mờ nửa tỏ, vừa yên lành như trong giờ nghỉ việc, vừa câm nín như một cạm bẫy khôn lường, tôi nằm tròn ở giữa lòng cảnh vật, ngủ thiu thiu.
Lúc sực tỉnh, tôi chỉ nhìn thấy vũng trời đêm, tôi đang nằm duỗi lưng trên chóp đỉnh một ngọn đồi, hai tay vòng trên ngực, mặt đối mặt với cái hồ xa nọ đầy sao.
Chưa kịp hiểu ra những vực sâu đó là gì, tôi choáng váng tưởng mình sắp rơi tòm vào trong đó, không một chiếc rễ cây để bám, không một cành lá để bu, không một mái nhà để bấu.
Từ đầu tới chân, tôi nhận ra là mình đang dính liền da với đất.
Tôi khoan khoái yên tâm phó thác sức nặng thân mình cho đất giữ.
Và cảm thấy sức hút của tình đất tuyệt vời tối thượng như tình yêu.
Tôi cảm thấy đất đỡ lấy lưng tôi, đất nâng tôi lên, đất cầm tôi ở lại, đất đưa dẫn tôi vào khoảng rộng đêm mờ.
Tôi nhận thấy quả thật mình được gắn liền vào trái đất do một sức mạnh thu hút giống như một sức mạnh gắn liền ta vào chiếc xe, ở những đoạn đường quanh, xe lái quẹo.
Tôi khoan khoái trong nhịp kề vai góp vú, đất ôi!
người chung tình đúc ái, người vững bền đem ổn định tình yêu, yên lành là thế đó.
Ta cảm thấy dưới thân mình cái boong tàu cong phồng của con thuyền đưa ta vào viễn du trong cõi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Khung cảnh hoang liêu nửa mờ nửa tỏ, vừa yên lành như trong giờ nghỉ việc, vừa câm nín như một cạm bẫy khôn lường, tôi nằm tròn ở giữa lòng cảnh vật, ngủ thiu thiu.
Lúc sực tỉnh, tôi chỉ nhìn thấy vũng trời đêm, tôi đang nằm duỗi lưng trên chóp đỉnh một ngọn đồi, hai tay vòng trên ngực, mặt đối mặt với cái hồ xa nọ đầy sao.
Chưa kịp hiểu ra những vực sâu đó là gì, tôi choáng váng tưởng mình sắp rơi tòm vào trong đó, không một chiếc rễ cây để bám, không một cành lá để bu, không một mái nhà để bấu.
Từ đầu tới chân, tôi nhận ra là mình đang dính liền da với đất.
Tôi khoan khoái yên tâm phó thác sức nặng thân mình cho đất giữ.
Và cảm thấy sức hút của tình đất tuyệt vời tối thượng như tình yêu.
Tôi cảm thấy đất đỡ lấy lưng tôi, đất nâng tôi lên, đất cầm tôi ở lại, đất đưa dẫn tôi vào khoảng rộng đêm mờ.
Tôi nhận thấy quả thật mình được gắn liền vào trái đất do một sức mạnh thu hút giống như một sức mạnh gắn liền ta vào chiếc xe, ở những đoạn đường quanh, xe lái quẹo.
Tôi khoan khoái trong nhịp kề vai góp vú, đất ôi!
người chung tình đúc ái, người vững bền đem ổn định tình yêu, yên lành là thế đó.
Ta cảm thấy dưới thân mình cái boong tàu cong phồng của con thuyền đưa ta vào viễn du trong cõi. | người chung tình đúc ái, người vững bền đem ổn định tình yêu, yên lành là thế đó.
Ta cảm thấy dưới thân mình cái boong tàu cong phồng của con thuyền đưa ta vào viễn du trong cõi.
Tôi cảm thấy rõ ràng mình đương được chở đi xa; cho đến nỗi, nếu bỗng nhiên nghe từ lòng đất dậy, những ì ầm của con tàu xê dịch, hì hục cọ siết tiến đi, những rên rỉ của con thuyền buồm cũ nát kiệt sức gắng gổ vào bờ, hoặc những tiếng kêu chát chát của những chiếc Sà-Lúp gặp trở ngại nên trở con, vâng, nếu bỗng nhiên nghe trỗi dậy những âm thanh đó thì lòng tôi hẳn là vẫn điềm nhiên không kinh ngạc chút nào.
Trong lòng đất vẫn còn nguyên im lặng.
Nhưng cái sức hút kề vai kia đã biểu lộ thâm tình, dặt dìu, bền bỉ, trung thành sau trước, từ vạn đại tới trăm năm.
Tôi cư trú thanh bình trong quê hương nọ, cũng như thể những tên tù tào dịch, kết vào với khối chì, đã nằm yên đáy biển khơi, không nhúc nhích.
Tôi lại ngẫm tới thân phận mình, lạc lõng giữa Sa mạc, bị hăm dọa từng cơn, chịu bơ vơ giữa cát vàng mù tăm và ngàn sao vằng vặc, xa dời trên ngàn dặm những từ cực của ân tình câm nín, bởi vô hạn vắng im.
Tôi biết rằng muốn quay về trùng ngộ tôi còn phải chịu hằng hằng ngày tháng lang thang, nếu không chiếc phi cơ nào tìm tới, hoặc là nếu mai đây bọn người Maure không cắt đầu tôi mà chấm dứt.
Tôi chỉ còn là tôi cái con người phù du lưu lạc giữa cát hững hờ và trăng sao hờ hững, giữa cát không bờ và sao không bến.
Chỉ riêng còn ý thức được niềm êm dịu thở mà thôi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | người chung tình đúc ái, người vững bền đem ổn định tình yêu, yên lành là thế đó.
Ta cảm thấy dưới thân mình cái boong tàu cong phồng của con thuyền đưa ta vào viễn du trong cõi.
Tôi cảm thấy rõ ràng mình đương được chở đi xa; cho đến nỗi, nếu bỗng nhiên nghe từ lòng đất dậy, những ì ầm của con tàu xê dịch, hì hục cọ siết tiến đi, những rên rỉ của con thuyền buồm cũ nát kiệt sức gắng gổ vào bờ, hoặc những tiếng kêu chát chát của những chiếc Sà-Lúp gặp trở ngại nên trở con, vâng, nếu bỗng nhiên nghe trỗi dậy những âm thanh đó thì lòng tôi hẳn là vẫn điềm nhiên không kinh ngạc chút nào.
Trong lòng đất vẫn còn nguyên im lặng.
Nhưng cái sức hút kề vai kia đã biểu lộ thâm tình, dặt dìu, bền bỉ, trung thành sau trước, từ vạn đại tới trăm năm.
Tôi cư trú thanh bình trong quê hương nọ, cũng như thể những tên tù tào dịch, kết vào với khối chì, đã nằm yên đáy biển khơi, không nhúc nhích.
Tôi lại ngẫm tới thân phận mình, lạc lõng giữa Sa mạc, bị hăm dọa từng cơn, chịu bơ vơ giữa cát vàng mù tăm và ngàn sao vằng vặc, xa dời trên ngàn dặm những từ cực của ân tình câm nín, bởi vô hạn vắng im.
Tôi biết rằng muốn quay về trùng ngộ tôi còn phải chịu hằng hằng ngày tháng lang thang, nếu không chiếc phi cơ nào tìm tới, hoặc là nếu mai đây bọn người Maure không cắt đầu tôi mà chấm dứt.
Tôi chỉ còn là tôi cái con người phù du lưu lạc giữa cát hững hờ và trăng sao hờ hững, giữa cát không bờ và sao không bến.
Chỉ riêng còn ý thức được niềm êm dịu thở mà thôi. | Tôi chỉ còn là tôi cái con người phù du lưu lạc giữa cát hững hờ và trăng sao hờ hững, giữa cát không bờ và sao không bến.
Chỉ riêng còn ý thức được niềm êm dịu thở mà thôi.
Ấy thế tuy nhiên, tôi bắt gặp mình tràn đầy cơn mộng.
Những cơn mộng về không tiếng động, êm như nước suối xuôi miền, và thoạt tiên, tôi chưa hiểu cái niềm lâng lâng đương xâm nhập.
Không tiếng, không lời, không hình ảnh, chỉ duy nhất là mối thâm cảm một hiện diện, một tình bằng hữu rất gần gũi đâu đây, và được linh cảm đoán ra nửa phần đâu đó.
Tôi nhắm mắt, buông mình xuôi theo những thiên hoa loạn trụy nhiếp dẫn của kỷ niệm đầu khe.
Một nơi nào đó, có một khu vườn xum xuê tùng bách, bối và bồ đề, và một ngôi nhà cũ tôi yêu.
Ngôi nhà ở gần hay ở xa, điều đó không cần yếu.
Ngôi nhà không thể che ấm thân tôi, không còn cho tôi trọ nữa, điều đó cũng không can hệ gì.
Vì đây là ở trong cơn mộng: chỉ cần ngôi nhà kia là có thật trong đời, thế là đủ để đi về tràn ngập suốt đêm nay.
Tôi không còn một tấm thân rớt giữa hoang vu, tôi đã định xong phương hướng, tôi là đứa con thơ dại của ngôi nhà, lòng mang những kỷ niệm mùi hương, không khí mát hành lang gió về hây hẩy, lòng ấm áp cho ngôi nhà.
Cả đến những tiếng ếch nhái trong hồ, cũng lại về trong cơn mơ góp điệu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi chỉ còn là tôi cái con người phù du lưu lạc giữa cát hững hờ và trăng sao hờ hững, giữa cát không bờ và sao không bến.
Chỉ riêng còn ý thức được niềm êm dịu thở mà thôi.
Ấy thế tuy nhiên, tôi bắt gặp mình tràn đầy cơn mộng.
Những cơn mộng về không tiếng động, êm như nước suối xuôi miền, và thoạt tiên, tôi chưa hiểu cái niềm lâng lâng đương xâm nhập.
Không tiếng, không lời, không hình ảnh, chỉ duy nhất là mối thâm cảm một hiện diện, một tình bằng hữu rất gần gũi đâu đây, và được linh cảm đoán ra nửa phần đâu đó.
Tôi nhắm mắt, buông mình xuôi theo những thiên hoa loạn trụy nhiếp dẫn của kỷ niệm đầu khe.
Một nơi nào đó, có một khu vườn xum xuê tùng bách, bối và bồ đề, và một ngôi nhà cũ tôi yêu.
Ngôi nhà ở gần hay ở xa, điều đó không cần yếu.
Ngôi nhà không thể che ấm thân tôi, không còn cho tôi trọ nữa, điều đó cũng không can hệ gì.
Vì đây là ở trong cơn mộng: chỉ cần ngôi nhà kia là có thật trong đời, thế là đủ để đi về tràn ngập suốt đêm nay.
Tôi không còn một tấm thân rớt giữa hoang vu, tôi đã định xong phương hướng, tôi là đứa con thơ dại của ngôi nhà, lòng mang những kỷ niệm mùi hương, không khí mát hành lang gió về hây hẩy, lòng ấm áp cho ngôi nhà.
Cả đến những tiếng ếch nhái trong hồ, cũng lại về trong cơn mơ góp điệu. | Cả đến những tiếng ếch nhái trong hồ, cũng lại về trong cơn mơ góp điệu.
Tôi cần có trăm nghìn trụ mốc như thế để tìm lại thân mình, để khám phá những vắng mặt xa xưa nào đó đã làm nên mùi hương sa mạc ngày nay, để tìm ra ý nghĩa cho sự vắng lặng này làm nên bởi muôn nghìn vắng lặng, và trong cõi đó, ễnh ương, ếch nhái cũng ngừng kêu.
Không, tôi không còn nằm giữa cát và sao.
Tôi chỉ xin thu nhận của ngoại vật một lời nhắn lạnh.
Cả hương vị của Vô Cùng tôi tưởng nó mang lại cho mình, giờ đây tôi mới rõ nguyên lai.
Tôi thấy trở lại những chiếc tủ lớn trịnh trọng giữa căn nhà; chúng hé ra cho thấy những chồng nệm chăn trắng tinh như tuyết.
Người U già tấp tểnh nhảy như một con chuột non, từ tủ này qua tủ khác, hai tay không ngớt soát tìm, tung ra, xếp lại, đếm từng tấm chăn trắng và kêu: “Trời ơi, chết mất”, mỗi khi có chỗ mòn rách làm tổn thương cho sự trường tồn của căn nhà.
Rồi liền tay, U vụt chạy tới ánh đèn, nhấp nhem hai con mắt mòn buồn, hối hả phục vụ một cái gì trường tại hơn U, một đấng thiêng liêng hay một con tàu lớn.
U già ơi, tôi phải nói về U đó.
Thưa U, xưa ấy, mỗi khi ở xa về, sau những cuộc du lịch đầu tiên của tuổi trẻ, thì bao giờ tôi cũng nhìn thấy U tay kim tay chỉ, cả thân người ngập trong lớp chăn trắng, và mỗi năm khuôn mặt mỗi nhăn nhíu thêm, và bao giờ cũng tự tay U chăm sóc những tấm chăn cho chúng tôi ngủ.
Sao cho chăn ngủ không nhàu, sao cho khăn trải bàn tiệc không thủng, những buổi hội pha lê rạng rỡ kia… |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Cả đến những tiếng ếch nhái trong hồ, cũng lại về trong cơn mơ góp điệu.
Tôi cần có trăm nghìn trụ mốc như thế để tìm lại thân mình, để khám phá những vắng mặt xa xưa nào đó đã làm nên mùi hương sa mạc ngày nay, để tìm ra ý nghĩa cho sự vắng lặng này làm nên bởi muôn nghìn vắng lặng, và trong cõi đó, ễnh ương, ếch nhái cũng ngừng kêu.
Không, tôi không còn nằm giữa cát và sao.
Tôi chỉ xin thu nhận của ngoại vật một lời nhắn lạnh.
Cả hương vị của Vô Cùng tôi tưởng nó mang lại cho mình, giờ đây tôi mới rõ nguyên lai.
Tôi thấy trở lại những chiếc tủ lớn trịnh trọng giữa căn nhà; chúng hé ra cho thấy những chồng nệm chăn trắng tinh như tuyết.
Người U già tấp tểnh nhảy như một con chuột non, từ tủ này qua tủ khác, hai tay không ngớt soát tìm, tung ra, xếp lại, đếm từng tấm chăn trắng và kêu: “Trời ơi, chết mất”, mỗi khi có chỗ mòn rách làm tổn thương cho sự trường tồn của căn nhà.
Rồi liền tay, U vụt chạy tới ánh đèn, nhấp nhem hai con mắt mòn buồn, hối hả phục vụ một cái gì trường tại hơn U, một đấng thiêng liêng hay một con tàu lớn.
U già ơi, tôi phải nói về U đó.
Thưa U, xưa ấy, mỗi khi ở xa về, sau những cuộc du lịch đầu tiên của tuổi trẻ, thì bao giờ tôi cũng nhìn thấy U tay kim tay chỉ, cả thân người ngập trong lớp chăn trắng, và mỗi năm khuôn mặt mỗi nhăn nhíu thêm, và bao giờ cũng tự tay U chăm sóc những tấm chăn cho chúng tôi ngủ.
Sao cho chăn ngủ không nhàu, sao cho khăn trải bàn tiệc không thủng, những buổi hội pha lê rạng rỡ kia… | Sao cho chăn ngủ không nhàu, sao cho khăn trải bàn tiệc không thủng, những buổi hội pha lê rạng rỡ kia…
Tôi vào phòng U may vá, tôi ngồi trước mặt U, tôi kể U nghe những nguy hiểm suýt giết người tôi, để làm U khiếp đảm, để cho U biết chút ít về thế giới chúng ta, để lung lạc U coi thử… Tôi không thay đổi chút nào, U bảo.
Còn bé, tôi cũng đã biết nghịch cho rách áo như thiên lôi – Trời ơi!
– nghịch cho trầy chân lở gối, rồi mò về cho U băng bó, y hệt tối nay.
Không, U ạ, tôi không phải ngoài vườn chạy về với U đâu, tôi từ tận cùng trái đất về đây, mang trong mình mùi cô đơn chát chát, mang trong thân thể những cơn lốc cuồng phong, mang trong mạch máu những màu trắng lộng lẫy những miền nhiệt đới cuối trời xa.
Cố nhiên U bảo rằng bọn trẻ chỉ biết nhảy đùa, chỉ biết bẻ chân cho gãy rồi tưởng mình khỏe lắm hử.
Tôi đã thấy xa hơn thửa vườn nhà.
Nếu U biết bóng cây vườn nhà là nhỏ!
Nếu U biết bóng cây chìm mất giữa những cát, những đá, những rú thẳm rừng sâu, những ao tù lầy lội của thế gian mình.
U biết chăng những vùng man rợ có con người chợt gặp ta, là lập tức tì súng lên vai.
U có biết là có những vùng sa mạc, ngủ trong đó là nằm trong giá lạnh, không nhà, không giường, không chăn nệm, thưa U…
- Trời, dã man, U bảo.
Tôi không phá nổi niềm tin vững chắc của U, cũng như khó mà phá vỡ đức tin của một người đàn bà giúp việc nhà thờ.
Và tôi ái ngại cho căn số tầm thường của U đã làm U thành người mù lòa, nghễnh ngãng… |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Sao cho chăn ngủ không nhàu, sao cho khăn trải bàn tiệc không thủng, những buổi hội pha lê rạng rỡ kia…
Tôi vào phòng U may vá, tôi ngồi trước mặt U, tôi kể U nghe những nguy hiểm suýt giết người tôi, để làm U khiếp đảm, để cho U biết chút ít về thế giới chúng ta, để lung lạc U coi thử… Tôi không thay đổi chút nào, U bảo.
Còn bé, tôi cũng đã biết nghịch cho rách áo như thiên lôi – Trời ơi!
– nghịch cho trầy chân lở gối, rồi mò về cho U băng bó, y hệt tối nay.
Không, U ạ, tôi không phải ngoài vườn chạy về với U đâu, tôi từ tận cùng trái đất về đây, mang trong mình mùi cô đơn chát chát, mang trong thân thể những cơn lốc cuồng phong, mang trong mạch máu những màu trắng lộng lẫy những miền nhiệt đới cuối trời xa.
Cố nhiên U bảo rằng bọn trẻ chỉ biết nhảy đùa, chỉ biết bẻ chân cho gãy rồi tưởng mình khỏe lắm hử.
Tôi đã thấy xa hơn thửa vườn nhà.
Nếu U biết bóng cây vườn nhà là nhỏ!
Nếu U biết bóng cây chìm mất giữa những cát, những đá, những rú thẳm rừng sâu, những ao tù lầy lội của thế gian mình.
U biết chăng những vùng man rợ có con người chợt gặp ta, là lập tức tì súng lên vai.
U có biết là có những vùng sa mạc, ngủ trong đó là nằm trong giá lạnh, không nhà, không giường, không chăn nệm, thưa U…
- Trời, dã man, U bảo.
Tôi không phá nổi niềm tin vững chắc của U, cũng như khó mà phá vỡ đức tin của một người đàn bà giúp việc nhà thờ.
Và tôi ái ngại cho căn số tầm thường của U đã làm U thành người mù lòa, nghễnh ngãng… | Tôi không phá nổi niềm tin vững chắc của U, cũng như khó mà phá vỡ đức tin của một người đàn bà giúp việc nhà thờ.
Và tôi ái ngại cho căn số tầm thường của U đã làm U thành người mù lòa, nghễnh ngãng…
Nhưng đêm nay, nằm trong bãi Sahara, trơ trụi giữa biển cát và trời sao, tôi cảm thấy U không phải là không có lý.
Những gì đã xảy đến trong tôi, tôi không rõ.
Sức hút của đất kết chặt tôi vào đất, trong lúc bao nhiêu vì sao đều có sức nam châm.
Một sức hút khác lại kéo dẫn tôi về lại với tôi.
Sức nặng của tôi đang xô tôi về bao nhiêu chuyện.
Những chuyện trong cơn mơ còn thực hơn những đụn cát, thực hơn vầng trăng, thực hơn mọi vật hiện diện bây giờ.
Huyền diệu của một ngôi nhà, không ở chỗ nó che đụt cho ta, sưởi ấm cho ta, không phải vì ta là chủ nhân các bức tường của nó.
Huyền diệu của một ngôi nhà chính ở chỗ nó chậm rãi lần hồi kết tụ lại trong ta những mạch nguồn thương mến.
Ở chỗ nó cấu thành, trong đáy thẳm tâm linh, cái khối đất thâm u, để từ đấy tuôn ra những cơn mơ dạt dào như suối nước.
Sahara, Sahara của ta ơi, cả một dãi hoang vắng của Người bỗng huyễn hoặc động hồn bởi một người đàn bà se chỉ.
V
MÀU XANH SA MẠC
Tôi đã nói rất nhiều về Sa mạc cho anh nghe, nên trước khi tiếp tục nói thêm về nó nữa, tôi muốn tả một màu xanh ốc đảo, một khóm ô-a-xi… Khóm tôi nhớ lại đây, không nằm sâu trong sa mạc Sahara.
Một phép màu nhiệm nữa của phi cơ là đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi không phá nổi niềm tin vững chắc của U, cũng như khó mà phá vỡ đức tin của một người đàn bà giúp việc nhà thờ.
Và tôi ái ngại cho căn số tầm thường của U đã làm U thành người mù lòa, nghễnh ngãng…
Nhưng đêm nay, nằm trong bãi Sahara, trơ trụi giữa biển cát và trời sao, tôi cảm thấy U không phải là không có lý.
Những gì đã xảy đến trong tôi, tôi không rõ.
Sức hút của đất kết chặt tôi vào đất, trong lúc bao nhiêu vì sao đều có sức nam châm.
Một sức hút khác lại kéo dẫn tôi về lại với tôi.
Sức nặng của tôi đang xô tôi về bao nhiêu chuyện.
Những chuyện trong cơn mơ còn thực hơn những đụn cát, thực hơn vầng trăng, thực hơn mọi vật hiện diện bây giờ.
Huyền diệu của một ngôi nhà, không ở chỗ nó che đụt cho ta, sưởi ấm cho ta, không phải vì ta là chủ nhân các bức tường của nó.
Huyền diệu của một ngôi nhà chính ở chỗ nó chậm rãi lần hồi kết tụ lại trong ta những mạch nguồn thương mến.
Ở chỗ nó cấu thành, trong đáy thẳm tâm linh, cái khối đất thâm u, để từ đấy tuôn ra những cơn mơ dạt dào như suối nước.
Sahara, Sahara của ta ơi, cả một dãi hoang vắng của Người bỗng huyễn hoặc động hồn bởi một người đàn bà se chỉ.
V
MÀU XANH SA MẠC
Tôi đã nói rất nhiều về Sa mạc cho anh nghe, nên trước khi tiếp tục nói thêm về nó nữa, tôi muốn tả một màu xanh ốc đảo, một khóm ô-a-xi… Khóm tôi nhớ lại đây, không nằm sâu trong sa mạc Sahara.
Một phép màu nhiệm nữa của phi cơ là đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí. | Một phép màu nhiệm nữa của phi cơ là đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí.
Phía sau vành tròn cửa kính con tàu, anh làm nhà sinh vật học nghiên cứu về đám người chen chúc trần gian, anh nhìn bằng con mắt vô tư, lòng không mảy may rung động, những phố thị kia nằm giữa đồng bằng, nơi trung tâm những đường ngang lối dọc xòe ra chia về chân trời bốn ngã.
Và giống như những đường mạch máu nuôi thân, mang tụ mật hoa đất đồng về nuôi phố thị.
Nhưng một mũi kim quay chợt rung động trên máy đo sức ép, và cụm cây xanh ấy, dưới kia, đã biến thành một vũ trụ.
Anh làm tên tù, hãm thân trong một bãi cỏ giữa một khu vườn đang ôm mộng ngủ yên.
Cách trở không ước lượng độ xa xôi.
Xa xôi không hẳn là cách biệt.
Bức tường ngăn một khu vườn xứ nhà vẫn có thể khép bọc nhiều bí mật hơn trường thành vạn lý Trung Hoa, và linh hồn một cô gái nhỏ vẫn có thể được che giữ bằng sự im lặng, còn kín đáo hơn cả giữa giãi cát dày dằng dặc che giấu những Oasis trong Sahara.
Tôi kể lại đây cái lần ghé lại chốn kia một buổi.
Chốn ấy ở gần Concordia, xứ Argentine, nhưng cũng có thể là một nơi nào bất cứ: bí mật tràn lan là như vậy, ai biết chắc chắn là hẳn riêng chỗ nào.
Tôi hạ cánh trên một khoảng đồng, không hề biết là mình sắp được sống một chuyện thần tiên.
Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt, và cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.
- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay… |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Một phép màu nhiệm nữa của phi cơ là đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí.
Phía sau vành tròn cửa kính con tàu, anh làm nhà sinh vật học nghiên cứu về đám người chen chúc trần gian, anh nhìn bằng con mắt vô tư, lòng không mảy may rung động, những phố thị kia nằm giữa đồng bằng, nơi trung tâm những đường ngang lối dọc xòe ra chia về chân trời bốn ngã.
Và giống như những đường mạch máu nuôi thân, mang tụ mật hoa đất đồng về nuôi phố thị.
Nhưng một mũi kim quay chợt rung động trên máy đo sức ép, và cụm cây xanh ấy, dưới kia, đã biến thành một vũ trụ.
Anh làm tên tù, hãm thân trong một bãi cỏ giữa một khu vườn đang ôm mộng ngủ yên.
Cách trở không ước lượng độ xa xôi.
Xa xôi không hẳn là cách biệt.
Bức tường ngăn một khu vườn xứ nhà vẫn có thể khép bọc nhiều bí mật hơn trường thành vạn lý Trung Hoa, và linh hồn một cô gái nhỏ vẫn có thể được che giữ bằng sự im lặng, còn kín đáo hơn cả giữa giãi cát dày dằng dặc che giấu những Oasis trong Sahara.
Tôi kể lại đây cái lần ghé lại chốn kia một buổi.
Chốn ấy ở gần Concordia, xứ Argentine, nhưng cũng có thể là một nơi nào bất cứ: bí mật tràn lan là như vậy, ai biết chắc chắn là hẳn riêng chỗ nào.
Tôi hạ cánh trên một khoảng đồng, không hề biết là mình sắp được sống một chuyện thần tiên.
Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt, và cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.
- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay… | Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt, và cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.
- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay…
Nhưng qua một khúc quanh, một chòm cây xuất hiện dưới trăng vàng, và sau chòm cây là ngôi nhà ấy.
Thấp, nặng, to, gần như một cung thành.
Cung điện của huyền hoặc hoang đường, ta vừa bước qua ngõ rộng, liền được đưa vào một cõi trú yên tĩnh, chắc chắn, được bảo đảm bền vững như trong một nhà tu.
Rồi hiện ra hai thiếu nữ.
Gái trang nghiêm nhìn tôi sòng sọc, như hai vị quan tòa giữ cửa một cấm cung: cô nhỏ tuổi bĩu môi trề ra một cái, cầm chiếc đũa gỗ lục gõ nhè nhẹ lên mặt đất, rồi lúc giới thiệu xong, hai cô chìa tay cho tôi bắt, không nói nửa lời, với một kẻ thách đố lạ lùng, và biến mất.
Tôi vừa vui vừa thích thú.
Sự việc sao đơn sơ, lặng lẽ và lén chùng như cái tiếng đầu tiên của một niềm bí ẩn.
Ở Paraguay, tôi từng đã yêu một thứ cỏ ngạo đời cắc cớ, cứ lò đầu trong kẹt đá lót đường ở thủ đô, một loại cỏ của rừng thẳm nào vô hình mà hiện diện, cứ mò vào thành phố coi chừng thử con người còn ở đấy hay thôi, coi chừng thử xem đã tới giờ cần nên xô những lớp đá sỏi kia cho nhào chơi tí chút.
Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một giàu sang quá lớn.
Nhưng tại nơi đây, tôi đã bàng hoàng thán phục. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt, và cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.
- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay…
Nhưng qua một khúc quanh, một chòm cây xuất hiện dưới trăng vàng, và sau chòm cây là ngôi nhà ấy.
Thấp, nặng, to, gần như một cung thành.
Cung điện của huyền hoặc hoang đường, ta vừa bước qua ngõ rộng, liền được đưa vào một cõi trú yên tĩnh, chắc chắn, được bảo đảm bền vững như trong một nhà tu.
Rồi hiện ra hai thiếu nữ.
Gái trang nghiêm nhìn tôi sòng sọc, như hai vị quan tòa giữ cửa một cấm cung: cô nhỏ tuổi bĩu môi trề ra một cái, cầm chiếc đũa gỗ lục gõ nhè nhẹ lên mặt đất, rồi lúc giới thiệu xong, hai cô chìa tay cho tôi bắt, không nói nửa lời, với một kẻ thách đố lạ lùng, và biến mất.
Tôi vừa vui vừa thích thú.
Sự việc sao đơn sơ, lặng lẽ và lén chùng như cái tiếng đầu tiên của một niềm bí ẩn.
Ở Paraguay, tôi từng đã yêu một thứ cỏ ngạo đời cắc cớ, cứ lò đầu trong kẹt đá lót đường ở thủ đô, một loại cỏ của rừng thẳm nào vô hình mà hiện diện, cứ mò vào thành phố coi chừng thử con người còn ở đấy hay thôi, coi chừng thử xem đã tới giờ cần nên xô những lớp đá sỏi kia cho nhào chơi tí chút.
Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một giàu sang quá lớn.
Nhưng tại nơi đây, tôi đã bàng hoàng thán phục. | Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một giàu sang quá lớn.
Nhưng tại nơi đây, tôi đã bàng hoàng thán phục.
Bởi vì tất cả tại đây cùng thi đua nhau mà tàn phế, và tàn phế một cách đáng yêu, đáng yêu say đắm, tàn phế theo điệu một cây cổ thụ đầy rêu trên mình, và vỏ da nứt rạn vì thời gian, tàn phế theo lối chiếc ghế gỗ dài nằm im để cho người hai thế hệ uyên ương tới ngồi tình tự.
Tại đây, ghế, bàn, tủ cái, tủ con, đều mòn rã, những cánh cửa rạc rời, những ghế dựa long chân.
Tuy nhiên, đồ đạc hư, không được chữa, mà chùi rửa thì lại được chùi rửa với tất cả nhiệt tình.
Tất cả đều sạch sẽ, bóng nhoáng, sáng trưng.
Phòng khách vì thế có một bộ mặt nồng nã dị thường, như khuôn mặt một bà lão nhăn nheo.
Vách rạn, tường hư, trần nứt, tôi đăm chiêu yêu dấu, và si mê nhiều nhứt là cái sàn nhà loang lổ, sập chỗ này, xiêu chỗ nọ, như chiếc thang tàu thủy lay lắt phiêu bồng, nhưng nhất thiết luôn luôn được lau chùi bóng lộn.
Ôi ngôi nhà kỳ ảo, không gợi gì là cẩu thả lai rai, chỉ xui lòng không cùng kính thán.
Mỗi năm qua, càng gia tăng mùi hương cho dáng điệu, thêm một chút nồng cho khuôn mặt phức tạp đa duyên, thêm một chút đượm lừng cho đựng tụ mối nhiệt thành trong bầu không khí giao loan, cũng như thêm một chút hiểm nguy cho cuộc hành trình phải đi trên con đường từ phòng khách tới phòng ăn.
Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng như thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi.
Cái lỗ kia, đâu có tại người oái oăm mà có. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một giàu sang quá lớn.
Nhưng tại nơi đây, tôi đã bàng hoàng thán phục.
Bởi vì tất cả tại đây cùng thi đua nhau mà tàn phế, và tàn phế một cách đáng yêu, đáng yêu say đắm, tàn phế theo điệu một cây cổ thụ đầy rêu trên mình, và vỏ da nứt rạn vì thời gian, tàn phế theo lối chiếc ghế gỗ dài nằm im để cho người hai thế hệ uyên ương tới ngồi tình tự.
Tại đây, ghế, bàn, tủ cái, tủ con, đều mòn rã, những cánh cửa rạc rời, những ghế dựa long chân.
Tuy nhiên, đồ đạc hư, không được chữa, mà chùi rửa thì lại được chùi rửa với tất cả nhiệt tình.
Tất cả đều sạch sẽ, bóng nhoáng, sáng trưng.
Phòng khách vì thế có một bộ mặt nồng nã dị thường, như khuôn mặt một bà lão nhăn nheo.
Vách rạn, tường hư, trần nứt, tôi đăm chiêu yêu dấu, và si mê nhiều nhứt là cái sàn nhà loang lổ, sập chỗ này, xiêu chỗ nọ, như chiếc thang tàu thủy lay lắt phiêu bồng, nhưng nhất thiết luôn luôn được lau chùi bóng lộn.
Ôi ngôi nhà kỳ ảo, không gợi gì là cẩu thả lai rai, chỉ xui lòng không cùng kính thán.
Mỗi năm qua, càng gia tăng mùi hương cho dáng điệu, thêm một chút nồng cho khuôn mặt phức tạp đa duyên, thêm một chút đượm lừng cho đựng tụ mối nhiệt thành trong bầu không khí giao loan, cũng như thêm một chút hiểm nguy cho cuộc hành trình phải đi trên con đường từ phòng khách tới phòng ăn.
Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng như thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi.
Cái lỗ kia, đâu có tại người oái oăm mà có. | Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng như thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi.
Cái lỗ kia, đâu có tại người oái oăm mà có.
Không ai chịu trách nhiệm cả.
Đó là sự vụ thời gian.
Người ta ngang nhiên không xin lỗi nhau, đó là cách điệu huy hoàng của vương chúa.
Người ta không bảo tôi: “Chúng tôi cũng có thể trám cái lỗ kia lại, chúng tôi có tiền, tuy nhiên…” Người ta cũng chả bảo tôi – tuy nhiên là chuyện thật – “Chúng tôi thuê cái đó tại nhà chủ ở thành phố, thời hạn ba mươi năm.
Thành phố phải liệu tu bổ lấy.
Bên nào cũng nằng nặc…” Người ta coi thường, không giải thích, và tôi phải thán phục cái phong độ đĩnh đạc kia.
Nhiều lắm là người ta nhắc tôi:
- Hừ!
Hư hỏng chút ít đó…
Nhưng với cái giọng thật nhẹ nhàng, nên tôi ngờ là các bạn tôi đây chả lấy đó làm điều chi cho ráo.
Tôi đâu dám tưởng ra một đoàn thợ nề, thợ mộc, thợ trần nhà, lũ lượt tới giữa một bầu quá khứ thơ ngây dịu ngọt như thế; mà đem bầy ra một mớ những đồ nghề sắc tục hỗn mang, và trong tám ngày liền, loay hoay làm lại cho ta một ngôi nhà khác, xa lạ hoàn toàn, ta chưa hề biết, tư tưởng tới viếng thăm?
Một ngôi nhà không quá khứ mông lung, không niềm riêng man mác, không ẩn mật gốc tròn, không kín bưng hầm méo, không xó hóc hang xiêu – một thứ sa lông nơi tòa nhị sảnh?
Trong ngôi nhà có lắm ngõ ngách oái oăm này, hai cô gái có biến mất cũng là chuyện tự nhiên.
Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm sao, khi mà căn phòng khách cũng đã chứa một kho tàng của vựa thóc! |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng như thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi.
Cái lỗ kia, đâu có tại người oái oăm mà có.
Không ai chịu trách nhiệm cả.
Đó là sự vụ thời gian.
Người ta ngang nhiên không xin lỗi nhau, đó là cách điệu huy hoàng của vương chúa.
Người ta không bảo tôi: “Chúng tôi cũng có thể trám cái lỗ kia lại, chúng tôi có tiền, tuy nhiên…” Người ta cũng chả bảo tôi – tuy nhiên là chuyện thật – “Chúng tôi thuê cái đó tại nhà chủ ở thành phố, thời hạn ba mươi năm.
Thành phố phải liệu tu bổ lấy.
Bên nào cũng nằng nặc…” Người ta coi thường, không giải thích, và tôi phải thán phục cái phong độ đĩnh đạc kia.
Nhiều lắm là người ta nhắc tôi:
- Hừ!
Hư hỏng chút ít đó…
Nhưng với cái giọng thật nhẹ nhàng, nên tôi ngờ là các bạn tôi đây chả lấy đó làm điều chi cho ráo.
Tôi đâu dám tưởng ra một đoàn thợ nề, thợ mộc, thợ trần nhà, lũ lượt tới giữa một bầu quá khứ thơ ngây dịu ngọt như thế; mà đem bầy ra một mớ những đồ nghề sắc tục hỗn mang, và trong tám ngày liền, loay hoay làm lại cho ta một ngôi nhà khác, xa lạ hoàn toàn, ta chưa hề biết, tư tưởng tới viếng thăm?
Một ngôi nhà không quá khứ mông lung, không niềm riêng man mác, không ẩn mật gốc tròn, không kín bưng hầm méo, không xó hóc hang xiêu – một thứ sa lông nơi tòa nhị sảnh?
Trong ngôi nhà có lắm ngõ ngách oái oăm này, hai cô gái có biến mất cũng là chuyện tự nhiên.
Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm sao, khi mà căn phòng khách cũng đã chứa một kho tàng của vựa thóc! | Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm sao, khi mà căn phòng khách cũng đã chứa một kho tàng của vựa thóc!
Khi người ta đoán chắc rằng bất cứ một ngăn tủ nhỏ nào mở hé ra cũng sẽ thấy đổ ào xuống nào những xấp thư vàng xạm, những giấy tờ, những thư chứng, khế ước của cụ cố ngày xưa, và vô số những chiếc chìa khóa, nhiều gấp mấy lần số ổ khóa trong nhà, và cố nhiên không chìa nào ăn nhập ổ nào cả!
Những chìa khóa tuyệt vời vô dụng, ngẫm mà xem thì lý trí chỉ xin chịu lơ láo đầu hàng, chúng xui ta mơ màng nghĩ tới những kho hầm dưới đất; những đống tiền vàng.
- Xin hạ cố sang phòng ăn.
Phảng phất khắp nơi một mùi thư viện cũ từ phòng này sang phòng khác, vẫn man mác hương trầm, thơm tho hơn tất cả những mùi hương trong thiên hạ.
Và tôi thích nhất cái cảnh tượng dời các ngọn đèn.
Những cây đèn thật sự, to và nặng, người ta phải mang dời từ phòng này sang phòng khác, như cái thời xa thăm thẳm trong tuổi thơ tôi, dời đèn đi thì bao nhiêu hình bóng huyền ảo chập chờn di động nhảy múa trên những bức tường.
Rồi, một khi những ngọn đèn nằm yên đâu vào đó, thì những dãi ánh sáng tỏa từng vùng cũng nằm im, bất động, và những khoảng tối lớn rộng xung quanh cũng không xê dịch nữa, chỉ còn nghe tiếng gỗ kêu răng rắc ở trong đó mà thôi.
Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như lúc biến mất trước đây. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm sao, khi mà căn phòng khách cũng đã chứa một kho tàng của vựa thóc!
Khi người ta đoán chắc rằng bất cứ một ngăn tủ nhỏ nào mở hé ra cũng sẽ thấy đổ ào xuống nào những xấp thư vàng xạm, những giấy tờ, những thư chứng, khế ước của cụ cố ngày xưa, và vô số những chiếc chìa khóa, nhiều gấp mấy lần số ổ khóa trong nhà, và cố nhiên không chìa nào ăn nhập ổ nào cả!
Những chìa khóa tuyệt vời vô dụng, ngẫm mà xem thì lý trí chỉ xin chịu lơ láo đầu hàng, chúng xui ta mơ màng nghĩ tới những kho hầm dưới đất; những đống tiền vàng.
- Xin hạ cố sang phòng ăn.
Phảng phất khắp nơi một mùi thư viện cũ từ phòng này sang phòng khác, vẫn man mác hương trầm, thơm tho hơn tất cả những mùi hương trong thiên hạ.
Và tôi thích nhất cái cảnh tượng dời các ngọn đèn.
Những cây đèn thật sự, to và nặng, người ta phải mang dời từ phòng này sang phòng khác, như cái thời xa thăm thẳm trong tuổi thơ tôi, dời đèn đi thì bao nhiêu hình bóng huyền ảo chập chờn di động nhảy múa trên những bức tường.
Rồi, một khi những ngọn đèn nằm yên đâu vào đó, thì những dãi ánh sáng tỏa từng vùng cũng nằm im, bất động, và những khoảng tối lớn rộng xung quanh cũng không xê dịch nữa, chỉ còn nghe tiếng gỗ kêu răng rắc ở trong đó mà thôi.
Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như lúc biến mất trước đây. | Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như lúc biến mất trước đây.
Chắc là vừa rồi họ đã mang thức ăn cho chó, cho chim chóc họ nuôi, họ đã mở cửa sổ cho đêm xanh trăng tỏ đi vào, và đã hít vào trong hai lồng ngực mênh mông những mùi hương ân tình của hoa cỏ trong cơn gió đêm lẽo đẽo bay về.
Giờ đây, hai cô mở tấm khăn ăn, kín đáo nhìn tôi, thận trọng dò xét, tự hỏi không biết có nên sắp đặt tôi vào nằm trong số những thú vật thân thuộc họ nuôi.
Bởi vì hai cô cũng đã có một con kỳ đà, một con cầy hôi, một con chồn, một con khỉ và một bầy ong.
Mọi thứ đó sống chung lộn lạo, ăn ý hợp tình nhau lắm, họp thành một thiên đường mới mẻ ở trên đất trần gian.
Hai cô trị vì trên mọi thú vật ở thế gian, vuốt ve chúng với những bàn tay nhỏ ngón thon thon, cho chúng ăn, cho chúng uống, kể cho chúng nghe những câu chuyện mà từ con cầy hôi tới bầy ong đông đảo, thảy đều chăm chú lắng tai.
Và tôi dám nghĩ rằng hai cô gái linh hoạt đến thế, ắt phải đem tất cả óc xét đoán tế nhị của mình ra để mà nhận định về cái gã đàn ông ngồi đối diện, nhận định nhanh, kín đáo và đúng vô cùng.
Hồi tôi còn nhỏ, các chị tôi cũng thường “cho điểm” những người khách lần đầu tiên tới dự tiệc trong nhà.
Và mỗi khi câu chuyện tàn bỗng nhiên nghe giữa lặng lẽ vang lên một tiếng:
- Mười một!
Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt đùa thích thú trong đó.
Tôi đã từng biết trò chơi đó nên bây giờ thấy ngài ngại chút ít. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như lúc biến mất trước đây.
Chắc là vừa rồi họ đã mang thức ăn cho chó, cho chim chóc họ nuôi, họ đã mở cửa sổ cho đêm xanh trăng tỏ đi vào, và đã hít vào trong hai lồng ngực mênh mông những mùi hương ân tình của hoa cỏ trong cơn gió đêm lẽo đẽo bay về.
Giờ đây, hai cô mở tấm khăn ăn, kín đáo nhìn tôi, thận trọng dò xét, tự hỏi không biết có nên sắp đặt tôi vào nằm trong số những thú vật thân thuộc họ nuôi.
Bởi vì hai cô cũng đã có một con kỳ đà, một con cầy hôi, một con chồn, một con khỉ và một bầy ong.
Mọi thứ đó sống chung lộn lạo, ăn ý hợp tình nhau lắm, họp thành một thiên đường mới mẻ ở trên đất trần gian.
Hai cô trị vì trên mọi thú vật ở thế gian, vuốt ve chúng với những bàn tay nhỏ ngón thon thon, cho chúng ăn, cho chúng uống, kể cho chúng nghe những câu chuyện mà từ con cầy hôi tới bầy ong đông đảo, thảy đều chăm chú lắng tai.
Và tôi dám nghĩ rằng hai cô gái linh hoạt đến thế, ắt phải đem tất cả óc xét đoán tế nhị của mình ra để mà nhận định về cái gã đàn ông ngồi đối diện, nhận định nhanh, kín đáo và đúng vô cùng.
Hồi tôi còn nhỏ, các chị tôi cũng thường “cho điểm” những người khách lần đầu tiên tới dự tiệc trong nhà.
Và mỗi khi câu chuyện tàn bỗng nhiên nghe giữa lặng lẽ vang lên một tiếng:
- Mười một!
Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt đùa thích thú trong đó.
Tôi đã từng biết trò chơi đó nên bây giờ thấy ngài ngại chút ít. | - Mười một!
Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt đùa thích thú trong đó.
Tôi đã từng biết trò chơi đó nên bây giờ thấy ngài ngại chút ít.
Và càng ngượng ngùng bối rối hơn, vì cảm thấy hai vị quan tòa quá am tường ngành ngọn.
Những vị phán quan đã quen phân biệt những con vật giảo hoạt với những con vật thơ ngây, biết xem bước chân chồn đi mà nhận ra khi nó lành, khi nó dữ, lúc nào nó cho phép lại bên gùn ghè, lúc nào nó phát cáu cự tuyệt.
Những vị quan tòa tài ba như thế, gieo làn khía cạnh mà thấu suốt những đợt động triều, tận đáy thẳm tâm linh.
Tôi yêu mến những cặp mắt tinh ranh và những tâm hồn ngay thẳng đó, nhưng thật cũng rất mong họ thay đổi cách chơi.
Tôi đớn hèn, tôi sợ cái điểm “mười một”, nên vồn vã chuyền muối cho hai cô, rót rượu cho hai cô, những lúc ngẩng lên nhìn vẫn thấy trở lại trong đôi mắt hai cô vẫn nguyên vẻ trang trọng dịu dàng của những vị quan tòa không ai lung lạc được.
Nịnh họ có lẽ cũng vô ích: họ không hề biết khoe khoang phù phiếm.
Không khoe khoang phù phiếm, nhưng rất có lộng lẫy tự kiêu, và không cần nhớ tới tôi, họ cũng tự gán cho mình nhiều thứ tốt tươi mà chắc tôi không dám nói.
Tôi cũng không mong đem nghề nghiệp mình mà lòe ai được, vì chắc gì lái phi cơ đã táo gan bằng việc leo lên chót vót ngọn dương ngô đồng mà thăm chơi một cái tổ chim, coi chừng xem cái tổ chim non mới nở đã mọc cánh tốt tươi chưa, và chào qua các bạn tí hon cho tốt tươi một tiếng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng | - Mười một!
Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt đùa thích thú trong đó.
Tôi đã từng biết trò chơi đó nên bây giờ thấy ngài ngại chút ít.
Và càng ngượng ngùng bối rối hơn, vì cảm thấy hai vị quan tòa quá am tường ngành ngọn.
Những vị phán quan đã quen phân biệt những con vật giảo hoạt với những con vật thơ ngây, biết xem bước chân chồn đi mà nhận ra khi nó lành, khi nó dữ, lúc nào nó cho phép lại bên gùn ghè, lúc nào nó phát cáu cự tuyệt.
Những vị quan tòa tài ba như thế, gieo làn khía cạnh mà thấu suốt những đợt động triều, tận đáy thẳm tâm linh.
Tôi yêu mến những cặp mắt tinh ranh và những tâm hồn ngay thẳng đó, nhưng thật cũng rất mong họ thay đổi cách chơi.
Tôi đớn hèn, tôi sợ cái điểm “mười một”, nên vồn vã chuyền muối cho hai cô, rót rượu cho hai cô, những lúc ngẩng lên nhìn vẫn thấy trở lại trong đôi mắt hai cô vẫn nguyên vẻ trang trọng dịu dàng của những vị quan tòa không ai lung lạc được.
Nịnh họ có lẽ cũng vô ích: họ không hề biết khoe khoang phù phiếm.
Không khoe khoang phù phiếm, nhưng rất có lộng lẫy tự kiêu, và không cần nhớ tới tôi, họ cũng tự gán cho mình nhiều thứ tốt tươi mà chắc tôi không dám nói.
Tôi cũng không mong đem nghề nghiệp mình mà lòe ai được, vì chắc gì lái phi cơ đã táo gan bằng việc leo lên chót vót ngọn dương ngô đồng mà thăm chơi một cái tổ chim, coi chừng xem cái tổ chim non mới nở đã mọc cánh tốt tươi chưa, và chào qua các bạn tí hon cho tốt tươi một tiếng. | Hai nàng tiên lặng lẽ vẫn dò chừng cẩn thận bữa ăn của tôi, tôi bắt gặp mãi cái nhìn kín đáo của họ, cho đến nỗi tôi nao lòng không còn biết nói chi.
Bỗng dưng mà im lặng, và trong cơn im lặng đó, bỗng dưng nghe như có cái gì thổ, “xít, xít” dưới sàn nhà, sè sè lướt dưới bàn ăn rồi nín bặt.
Tôi ngạc nhiên, ngước mắt tò mò.
Cô em nhỏ tuổi, bây giờ như chừng đã hài lòng trong sự nhận xét của mình nhưng còn muốn thử thêm cú chót cho thật chắc vàng thau, cô gặm sâu vào mẩu bánh mỳ với hàm răng non man rợ, cô mới vắn tắt cắt nghĩa cho tôi nghe bằng một dáng dấp thơ ngây băng tuyết, cô muốn làm cho cái gã mọi rợ trước mắt mình phải sửng sốt một trận mà chơi, nếu thật tình gã ta đúng là thằng mọi rợ:
- Mấy con rắn lục đó.
Và ngậm môi, nín lặng, hài lòng, như tuồng lời giải thích chất hằng phỉ phong kia hẳn là phải đủ đầy lắm lắm đối với kẻ nào không quá tối dạ lần khần.
Cô chị liếc nhìn tôi một cái thật nhanh để xem thử cái cơn đầu tôi phản ứng ra sao, và cả hai cùng một lần cúi gầm xuống dĩa ăn một khuôn mặt kiều diễm dịu dàng thơ ngây nhất ở trong cõi trăm năm.
Té ra là rắn lục…
Hồn hồn ngạc ngạc, những lời đó rúc từ môi miệng của tôi ra.
Những thứ của lạ đa đoan kia đã bò lòn vào trong ống chân tôi, nghe có tiếng nhột nhột cho cái trái chân, và đó là té ra mấy con rắn lục…
May làm sao là tôi mỉm cười.
Và không có chiều gượng gạo.
Hẳn hay cô nàng đã cảm thấy chứ ru! |