instruction
stringclasses
1 value
input
stringlengths
259
2.96k
output
stringlengths
259
2.96k
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi gắng uống vài ba ngụm ê-te. Thật không khác gì nuốt dao nhọn vào cổ họng. Và một tí chút rượu 900, nhưng vẫn thấy cổ họng như tắc nghẽn. Tôi đào một cái lỗ hổng trong cát, tôi nằm vào, và lấy cát phủ lên khắp mình. Chỉ còn khuôn mặt nhô ra. Prévot có tìm thấy một ít cọng cây khô, đem nhúm lửa, và lửa sẽ tàn đi, trong chốc lát. Thà chị lơ láo nện gót giầy mà hơn. Cổ họng tôi vẫn tắt nghẽn, triệu chứng chẳng lành gì, tuy vậy mà cảm thấy có dễ chịu hơn. Thấy bình thản nhiều, nhiều hơn những tưởng. Thật có đâu dám hy vọng thế này. Dù muốn dù không, dù tôi cũng đương ra đi phiêu dạt du hành, tay chân ôn tồn trói chặt, nằm ở boong chiếc tàu mua bán hắc nô, đề huề sao, hỡi muôn sao ở trên trời có biết! Tôi đương bình an nhìn lên tự dưới. Nhưng chắc rằng… có lẽ… đã bình an thanh thản, thì ắt là không còn thống khổ chi nhiều… Tôi khong còn cảm thấy lạnh, chỉ cần một điều kiện là đừng có ngứa ngáy mà ngọ nguậy một thớ thịt nào đó ở trong mình. Thế rồi thì tôi quên luôn cái thân tôi ngủ yên trong lớp cát. Tôi sẽ không ngọ nguậy nữa, và như vậy sẽ không còn đau đớn nữa bao giờ. Vả chăng, vả chăng thì con người đau đớn có chi mô… Phía sau những bao nhiêu bứt rứt khổ lụy dày vò, còn có cuộc hợp tấu đề huề của từng cơn mỏi rủi phối liệt với từng trận cuồng điên mê sảng. Và mọi vật bỗng đổi dạng biến thành những trang sách đầy hình ảnh hương màu, điều hòa theo nhịp những cuồng lưu, hơi dã man một chút, của những mộng thần tiên sự tích dào dạt trôi dòng… Phi hồng trường phát phi kiên.
Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao… Thì mới lúc nãy, gió rượt đuổi thân tôi chạy đi như chết, và để trớ tránh nó tôi phải quanh quất chạy vòng như con thú rừng bị hãm lạc, chết điếng cái cõi lòng giữa tuyệt địa điêu linh. Rồi hơi ra hổn hển: như có một cái đầu gối dũng mãnh của quân thù đè cứng trên trái phổi của tôi. Và tôi vẫy vùng chống lại cái khối nặng ma quái thiên thần, yêu tinh tiên nữ. Tôi chẳng bao giờ cô đọc trong sa mạc bơ vơ. Đôi bên đồng thuyền tung chưởng lực căm căm không o bồng, không o bế. Tới bây giờ mới thấy đây, là thấy mình không còn tin ở bốn bể huyễn tượng, thì tôi rút lui về mình, khép mình lại trong lòng mình, khép mắt lại trong mi tôi, và tôi không còn rục rịch một chút xíu động đậy nào cả. Toàn thể cái thác lũ ngập tràn hình ảnh nọ nó cuốn phăng, tôi cảm thấy cái đó thật rõ rệt, toàn thể cái thác lũ kia nó cuốn tôi về một cõi mộng tĩnh mịch thanh bình: những dòng sông thiên thu chìm yên vui êm dịu vào trong lớp lớp điệp trùng của vạn đại biển khơi. Vĩnh biệt thôi, hỡi anh em của đời tôi thương mến. Lỗi không tại tôi, nếu tấm thân con người không chịu đựng được nổi ba ngày không uống. Xưa, tôi không tin rằng mình lại là tên tù chung thân của giếng nước như thế. Xưa, tôi không ngờ mình chỉ còn có được ngần ấy vắn vủn thời gian tự do.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao… Thì mới lúc nãy, gió rượt đuổi thân tôi chạy đi như chết, và để trớ tránh nó tôi phải quanh quất chạy vòng như con thú rừng bị hãm lạc, chết điếng cái cõi lòng giữa tuyệt địa điêu linh. Rồi hơi ra hổn hển: như có một cái đầu gối dũng mãnh của quân thù đè cứng trên trái phổi của tôi. Và tôi vẫy vùng chống lại cái khối nặng ma quái thiên thần, yêu tinh tiên nữ. Tôi chẳng bao giờ cô đọc trong sa mạc bơ vơ. Đôi bên đồng thuyền tung chưởng lực căm căm không o bồng, không o bế. Tới bây giờ mới thấy đây, là thấy mình không còn tin ở bốn bể huyễn tượng, thì tôi rút lui về mình, khép mình lại trong lòng mình, khép mắt lại trong mi tôi, và tôi không còn rục rịch một chút xíu động đậy nào cả. Toàn thể cái thác lũ ngập tràn hình ảnh nọ nó cuốn phăng, tôi cảm thấy cái đó thật rõ rệt, toàn thể cái thác lũ kia nó cuốn tôi về một cõi mộng tĩnh mịch thanh bình: những dòng sông thiên thu chìm yên vui êm dịu vào trong lớp lớp điệp trùng của vạn đại biển khơi. Vĩnh biệt thôi, hỡi anh em của đời tôi thương mến. Lỗi không tại tôi, nếu tấm thân con người không chịu đựng được nổi ba ngày không uống. Xưa, tôi không tin rằng mình lại là tên tù chung thân của giếng nước như thế. Xưa, tôi không ngờ mình chỉ còn có được ngần ấy vắn vủn thời gian tự do.
Xưa, tôi không tin rằng mình lại là tên tù chung thân của giếng nước như thế. Xưa, tôi không ngờ mình chỉ còn có được ngần ấy vắn vủn thời gian tự do. Người ta tưởng con người ta có thể ra đi và bước thẳng tới được tự do… Người ta không nhìn thấy cái sợi dây kết liền mình vào giếng, cái sợi dây kết liền mình vào bụng dạ là cõi lòng của đất, kết liền như cuống rốn ruột rà. Nếu người ta cao hứng bước thêm một bước nữa, là chết. Trừ ra mối đau khổ của các anh chị em, tôi chẳng còn chi để tiếc. Nói cho cùng thì tôi cũng đã lãnh cái phần hơn. Nếu một mai tôi trở về, ắt tôi sẽ bắt đầu làm hệt trở lại. Mà giữa những thị thành, thật chẳng còn cái đời sống của con người ta đâu. Đây không phải vấn đề phi cơ, phi công hàng không, hàng khí, chi cả. Phi cơ, không phải là một cứu cánh, phi cơ là một phương tiện. Không phải vì phi cơ mà người ta liều thân vào sinh ra tử. Cũng như không phải vì cái cày, mà bác nông phu chịu lam lũ giữa ruộng nương. Nhưng bằng phi cơ, người ta bay xa lìa phố thị và rời bỏ được những kế toán âm u, và tìm ra trở lại một chân lý thuần phác nông điền. Người ta làm một công việc của con người, và người ta biết những băn khoăn tư lự của con người. Người ta tiếp xúc với gió, với sao, với đêm tối, với cát, với biển. Người ta tranh mưu đấu kế với những sức mạnh thiên nhiên. Người ta chờ bình minh như kẻ làm vườn chờ xuân lại. Người ta đợi bến yên nghỉ như một miền đất hứa, và người ta tìm chân lý cho mình trong tinh tú chơi vơi. Tôi sẽ không phiền hà gì hết.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Xưa, tôi không tin rằng mình lại là tên tù chung thân của giếng nước như thế. Xưa, tôi không ngờ mình chỉ còn có được ngần ấy vắn vủn thời gian tự do. Người ta tưởng con người ta có thể ra đi và bước thẳng tới được tự do… Người ta không nhìn thấy cái sợi dây kết liền mình vào giếng, cái sợi dây kết liền mình vào bụng dạ là cõi lòng của đất, kết liền như cuống rốn ruột rà. Nếu người ta cao hứng bước thêm một bước nữa, là chết. Trừ ra mối đau khổ của các anh chị em, tôi chẳng còn chi để tiếc. Nói cho cùng thì tôi cũng đã lãnh cái phần hơn. Nếu một mai tôi trở về, ắt tôi sẽ bắt đầu làm hệt trở lại. Mà giữa những thị thành, thật chẳng còn cái đời sống của con người ta đâu. Đây không phải vấn đề phi cơ, phi công hàng không, hàng khí, chi cả. Phi cơ, không phải là một cứu cánh, phi cơ là một phương tiện. Không phải vì phi cơ mà người ta liều thân vào sinh ra tử. Cũng như không phải vì cái cày, mà bác nông phu chịu lam lũ giữa ruộng nương. Nhưng bằng phi cơ, người ta bay xa lìa phố thị và rời bỏ được những kế toán âm u, và tìm ra trở lại một chân lý thuần phác nông điền. Người ta làm một công việc của con người, và người ta biết những băn khoăn tư lự của con người. Người ta tiếp xúc với gió, với sao, với đêm tối, với cát, với biển. Người ta tranh mưu đấu kế với những sức mạnh thiên nhiên. Người ta chờ bình minh như kẻ làm vườn chờ xuân lại. Người ta đợi bến yên nghỉ như một miền đất hứa, và người ta tìm chân lý cho mình trong tinh tú chơi vơi. Tôi sẽ không phiền hà gì hết.
Người ta chờ bình minh như kẻ làm vườn chờ xuân lại. Người ta đợi bến yên nghỉ như một miền đất hứa, và người ta tìm chân lý cho mình trong tinh tú chơi vơi. Tôi sẽ không phiền hà gì hết. Từ ba ngày nay, tôi đã bước đi, tôi đã chịu khát, tôi đã dõi theo những lối đi nẻo về trên lớp cát, tôi đã lấy giọt sương làm hoài vọng của mình. Tôi đã tìm cách đi về tiếp nối với đồng loại của tôi, đồng loại của tôi mà từ lâu tôi từng lãng quên không nhớ ra đâu là nơi họ cư trú trên Trái Đất. Và đó là những tư lự âu lo của kẻ sống. Tôi không thể không xem chúng quan trọng hơn cái sự vụ chọn một chiều một rạp ca vũ một xem chơi. Tôi không còn hiểu nữa những đám người trong những chuyến xe lửa ngoại ô, những con người vẫn tin mình vốn là người từ trước đến bây giờ đó vậy, và thật ra đã bị một áp lực nào mà chính họ không hề cảm thấy, bị một áp lực đẩy vào chỗ: bị dồn vào cái thế tự biến mình thành cái công cụ được sử dụng, để phẩm cách dồi nặn theo. Những ngày Chủ Nhật vô nghĩa tủn mủn lai rai của họ, họ đã đem những gì để nhét vào cho đầy ắp, những lúc họ hớn hở tự do? Một bận nọ, ở Nga, tôi có nghe người ta chơi bừa bãi nhạc Mozart trong một xưởng máy. Tôi có viết truyện ấy ra. Tôi có nhận được hai trăm lá thư chửi rủa. Tôi không oán trách gì những kẻ ưa thích nhất cái loại quán ca vũ lai rai tồi, để nghe nhạc hú hí như thiên lôi. Tôi trách những kẻ đứng chủ trương những quán ca vũ thiên lôi hú. Tôi không chịu chấp thuận cái việc người ta phá hoại cho “toi đâm” đồi phế con người.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Người ta chờ bình minh như kẻ làm vườn chờ xuân lại. Người ta đợi bến yên nghỉ như một miền đất hứa, và người ta tìm chân lý cho mình trong tinh tú chơi vơi. Tôi sẽ không phiền hà gì hết. Từ ba ngày nay, tôi đã bước đi, tôi đã chịu khát, tôi đã dõi theo những lối đi nẻo về trên lớp cát, tôi đã lấy giọt sương làm hoài vọng của mình. Tôi đã tìm cách đi về tiếp nối với đồng loại của tôi, đồng loại của tôi mà từ lâu tôi từng lãng quên không nhớ ra đâu là nơi họ cư trú trên Trái Đất. Và đó là những tư lự âu lo của kẻ sống. Tôi không thể không xem chúng quan trọng hơn cái sự vụ chọn một chiều một rạp ca vũ một xem chơi. Tôi không còn hiểu nữa những đám người trong những chuyến xe lửa ngoại ô, những con người vẫn tin mình vốn là người từ trước đến bây giờ đó vậy, và thật ra đã bị một áp lực nào mà chính họ không hề cảm thấy, bị một áp lực đẩy vào chỗ: bị dồn vào cái thế tự biến mình thành cái công cụ được sử dụng, để phẩm cách dồi nặn theo. Những ngày Chủ Nhật vô nghĩa tủn mủn lai rai của họ, họ đã đem những gì để nhét vào cho đầy ắp, những lúc họ hớn hở tự do? Một bận nọ, ở Nga, tôi có nghe người ta chơi bừa bãi nhạc Mozart trong một xưởng máy. Tôi có viết truyện ấy ra. Tôi có nhận được hai trăm lá thư chửi rủa. Tôi không oán trách gì những kẻ ưa thích nhất cái loại quán ca vũ lai rai tồi, để nghe nhạc hú hí như thiên lôi. Tôi trách những kẻ đứng chủ trương những quán ca vũ thiên lôi hú. Tôi không chịu chấp thuận cái việc người ta phá hoại cho “toi đâm” đồi phế con người.
Tôi trách những kẻ đứng chủ trương những quán ca vũ thiên lôi hú. Tôi không chịu chấp thuận cái việc người ta phá hoại cho “toi đâm” đồi phế con người. Tôi, tôi sung sướng trong nghề nghiệp tôi. Tôi cảm thấy mình đích thị nông dân của những bến trạm nghỉ. Trong chuyến tàu ngoại ô, tôi nghe thấy niềm tan rã giữa lòng mình, mối thống khổ tủi buồn còn thăm thẳm khôn tả hơn tại đây. Tại đây, nói cho cùng, còn hào hoa lộng lẫy xiết bao!... Tôi đã chơi cuộc, tôi đã thua. Có chi đâu mà oán hối. Đó là trong lẽ hằng của nghề nghiệp, Nhưng, dù sao, tôi cũng đã hít vào phổi mình, cái trận gió trùng dương… Ai đã một phen có nếm mùi gió nọ, sẽ không quên được cái vị nồng mật dịu dị thường kia. Phải vậy chăng ru, hỡi các bạn bè thân thuộc? Và nói vậy cũng phải chăng là nêu ra cái việc nên sống theo cách điệu mạo hiểm cho gặp nguy biến đầy người. Cái lối nói đó thật là khoác lác kiêu kỳ. Cái dũng của bọn đấu bò, thật tôi không muốn. Cái tôi yêu chuộng, không phải là cái nguy hiểm nguy cơ. Tôi biết tôi yêu cái gì. Hình như trời sắp trắng ra. Tôi chìa một cánh tay ra khỏi cát. Một tấm vải dù căng ở ngay tầm tay, tôi sờ xem, nó vẫn khô ran. Chờ vậy, sương đọng lại lúc bình minh. Nhưng bình minh tới, trắng ở chân trời, mà không thấm ướt cho mấy tấm vải chúng tôi. Lúc đó những ý nghĩ của tôi trở nên lộn xộn chút ít và tôi nghe mình nói: “Tại đây có một trái tim khô… một trái tim khô… một trái tim khô không biết làm nên giọt lệ”. Cổ họng chúng ta chưa tắc nghẽn: còn phải bước đi. 7
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi trách những kẻ đứng chủ trương những quán ca vũ thiên lôi hú. Tôi không chịu chấp thuận cái việc người ta phá hoại cho “toi đâm” đồi phế con người. Tôi, tôi sung sướng trong nghề nghiệp tôi. Tôi cảm thấy mình đích thị nông dân của những bến trạm nghỉ. Trong chuyến tàu ngoại ô, tôi nghe thấy niềm tan rã giữa lòng mình, mối thống khổ tủi buồn còn thăm thẳm khôn tả hơn tại đây. Tại đây, nói cho cùng, còn hào hoa lộng lẫy xiết bao!... Tôi đã chơi cuộc, tôi đã thua. Có chi đâu mà oán hối. Đó là trong lẽ hằng của nghề nghiệp, Nhưng, dù sao, tôi cũng đã hít vào phổi mình, cái trận gió trùng dương… Ai đã một phen có nếm mùi gió nọ, sẽ không quên được cái vị nồng mật dịu dị thường kia. Phải vậy chăng ru, hỡi các bạn bè thân thuộc? Và nói vậy cũng phải chăng là nêu ra cái việc nên sống theo cách điệu mạo hiểm cho gặp nguy biến đầy người. Cái lối nói đó thật là khoác lác kiêu kỳ. Cái dũng của bọn đấu bò, thật tôi không muốn. Cái tôi yêu chuộng, không phải là cái nguy hiểm nguy cơ. Tôi biết tôi yêu cái gì. Hình như trời sắp trắng ra. Tôi chìa một cánh tay ra khỏi cát. Một tấm vải dù căng ở ngay tầm tay, tôi sờ xem, nó vẫn khô ran. Chờ vậy, sương đọng lại lúc bình minh. Nhưng bình minh tới, trắng ở chân trời, mà không thấm ướt cho mấy tấm vải chúng tôi. Lúc đó những ý nghĩ của tôi trở nên lộn xộn chút ít và tôi nghe mình nói: “Tại đây có một trái tim khô… một trái tim khô… một trái tim khô không biết làm nên giọt lệ”. Cổ họng chúng ta chưa tắc nghẽn: còn phải bước đi. 7
Cổ họng chúng ta chưa tắc nghẽn: còn phải bước đi. 7 Ngọn gió Tây vẫn thổi, ngọn gió Tây làm khô thân người trong chín giờ. Cuống họng tôi chưa kín nghẽn, nhưng khô cứng và đau đớn lắm. Tôi đã thấy chừng chừng rồi, một cái gì cò cưa, rát rát. Chẳng bao lâu nữa, sẽ khởi sự cơn ho, cơn ho tôi từng nghe người ta mô tả, và tôi đương đợi chờ. Lưỡi tôi, nghe thật khó chịu. Nhưng trầm trọng nhất, là tôi đã bắt đầu chớm thấy những chấm sáng long lanh. Lúc những chấm đó biến thành đỏ rực, là lúc tôi sẽ ngã thân nằm dài. Chúng tôi lợi dụng chút mát trời ban sáng. Chúng tôi biết rằng lúc nắng lên tràn, thì như thiên hạ, chúng ta sẽ không còn bước đi bước đứng. Lúc nắng lên tràn… khi nàng lên trắng… Chúng tôi không có quyền ra mồ hôi. Cái khí mát này chỉ là khí mát của mười tám phần trăm chất ẩm. Cơn gió này đương thổi là cơn gió từ sa mạc thổi qua. Và, dưới cơn ve vuốt lừa dối và mơn man, thì máu trong thân chúng tôi bốc hơi thành khói. Chúng tôi có ăn một ít nho ngày đầu. Từ ba ngày trời, có ăn một nửa trái cam và một nửa cái bánh bèo mật ngọt. Nếu còn chi đó nữa để ăn chơi, thì bói đâu ra chút nước bọt để nhai, nuốt? Nhưng tôi không hề thấy đói một tí, chỉ thấy khát. Và tưởng chừng từ nay sẽ thấy, thấy hơn cả khát, đó là thấy những hiệu quả của cơn khát phiêu bồng. Cổ họng này cứng đờ như cờ đứng, không gió du. Cái lưỡi này nắn bằng thạch cao, hay kết tinh bằng chất vôi, tình đá? Cái cò ke khản khản, dây dưa rát rát này, và cái vị gớm guốc làm sao ở trong miệng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cổ họng chúng ta chưa tắc nghẽn: còn phải bước đi. 7 Ngọn gió Tây vẫn thổi, ngọn gió Tây làm khô thân người trong chín giờ. Cuống họng tôi chưa kín nghẽn, nhưng khô cứng và đau đớn lắm. Tôi đã thấy chừng chừng rồi, một cái gì cò cưa, rát rát. Chẳng bao lâu nữa, sẽ khởi sự cơn ho, cơn ho tôi từng nghe người ta mô tả, và tôi đương đợi chờ. Lưỡi tôi, nghe thật khó chịu. Nhưng trầm trọng nhất, là tôi đã bắt đầu chớm thấy những chấm sáng long lanh. Lúc những chấm đó biến thành đỏ rực, là lúc tôi sẽ ngã thân nằm dài. Chúng tôi lợi dụng chút mát trời ban sáng. Chúng tôi biết rằng lúc nắng lên tràn, thì như thiên hạ, chúng ta sẽ không còn bước đi bước đứng. Lúc nắng lên tràn… khi nàng lên trắng… Chúng tôi không có quyền ra mồ hôi. Cái khí mát này chỉ là khí mát của mười tám phần trăm chất ẩm. Cơn gió này đương thổi là cơn gió từ sa mạc thổi qua. Và, dưới cơn ve vuốt lừa dối và mơn man, thì máu trong thân chúng tôi bốc hơi thành khói. Chúng tôi có ăn một ít nho ngày đầu. Từ ba ngày trời, có ăn một nửa trái cam và một nửa cái bánh bèo mật ngọt. Nếu còn chi đó nữa để ăn chơi, thì bói đâu ra chút nước bọt để nhai, nuốt? Nhưng tôi không hề thấy đói một tí, chỉ thấy khát. Và tưởng chừng từ nay sẽ thấy, thấy hơn cả khát, đó là thấy những hiệu quả của cơn khát phiêu bồng. Cổ họng này cứng đờ như cờ đứng, không gió du. Cái lưỡi này nắn bằng thạch cao, hay kết tinh bằng chất vôi, tình đá? Cái cò ke khản khản, dây dưa rát rát này, và cái vị gớm guốc làm sao ở trong miệng.
Cổ họng này cứng đờ như cờ đứng, không gió du. Cái lưỡi này nắn bằng thạch cao, hay kết tinh bằng chất vôi, tình đá? Cái cò ke khản khản, dây dưa rát rát này, và cái vị gớm guốc làm sao ở trong miệng. Những cảm giác đó rất mới lạ đối với tôi. Chắc hẳn nước sẽ làm dứt được những thứ này, nhưng tôi không có kỷ niệm nào để cho phép gán phương thuốc kia vào sự chữa chạy cho những cảm giác nọ. Cái khát cứ trở cơn dần dà, để biến thành một chứng bịnh, và trở cơn mãi mãi để không còn là một nỗi ước ao. Cái bịnh cứ tăng tăng, cái thèm thuồng cứ bớt bớt. Cái ước ao cứ giảm giảm, cái chứng tật cứ gia gia. Cái đường qua thiên mộng càng thiên tẩy giờ… Tưởng chừng những giếng, những màu, những mật, đã bắt đầu mang lại những hình ảnh bớt não nhân. Tôi quên đi, tôi quên mất cái màu cam phong nhụy rạng rỡ ban đầu, cũng như tôi dường quên lãng hết những ân tình tôi trút gửi, tôi trao. Ngõ ban sơ, hạnh hôm nào. Liễu yêu bài động mận đào rã riêng. Hương sầu điệp điệp mao quyên. Hai người con gái tự tiền kiếp sinh…[8] Thôi rồi, tôi đã quên, quên hết rồi, có lẽ… Chúng tôi ngồi lại, nhưng lại phải đi. Chúng tôi từ bỏ những trường đình, viễn độ. Sau năm trăm thước lết bết bước đi, chúng tôi rã rời ngã lăn ra cát. Cảm thấy một niềm vui bát ngát được duỗi dài lưng ra. Đá dọc đường thưa bớt, cách bức thêm. Bây giờ chúng tôi bước đi trên cát. Cách hai cây số, tại trước mặt chúng tôi là những đụn gò. Trên những đụn gò kia, vài chấm xanh cây lè tè lốm đốm.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cổ họng này cứng đờ như cờ đứng, không gió du. Cái lưỡi này nắn bằng thạch cao, hay kết tinh bằng chất vôi, tình đá? Cái cò ke khản khản, dây dưa rát rát này, và cái vị gớm guốc làm sao ở trong miệng. Những cảm giác đó rất mới lạ đối với tôi. Chắc hẳn nước sẽ làm dứt được những thứ này, nhưng tôi không có kỷ niệm nào để cho phép gán phương thuốc kia vào sự chữa chạy cho những cảm giác nọ. Cái khát cứ trở cơn dần dà, để biến thành một chứng bịnh, và trở cơn mãi mãi để không còn là một nỗi ước ao. Cái bịnh cứ tăng tăng, cái thèm thuồng cứ bớt bớt. Cái ước ao cứ giảm giảm, cái chứng tật cứ gia gia. Cái đường qua thiên mộng càng thiên tẩy giờ… Tưởng chừng những giếng, những màu, những mật, đã bắt đầu mang lại những hình ảnh bớt não nhân. Tôi quên đi, tôi quên mất cái màu cam phong nhụy rạng rỡ ban đầu, cũng như tôi dường quên lãng hết những ân tình tôi trút gửi, tôi trao. Ngõ ban sơ, hạnh hôm nào. Liễu yêu bài động mận đào rã riêng. Hương sầu điệp điệp mao quyên. Hai người con gái tự tiền kiếp sinh…[8] Thôi rồi, tôi đã quên, quên hết rồi, có lẽ… Chúng tôi ngồi lại, nhưng lại phải đi. Chúng tôi từ bỏ những trường đình, viễn độ. Sau năm trăm thước lết bết bước đi, chúng tôi rã rời ngã lăn ra cát. Cảm thấy một niềm vui bát ngát được duỗi dài lưng ra. Đá dọc đường thưa bớt, cách bức thêm. Bây giờ chúng tôi bước đi trên cát. Cách hai cây số, tại trước mặt chúng tôi là những đụn gò. Trên những đụn gò kia, vài chấm xanh cây lè tè lốm đốm.
Đá dọc đường thưa bớt, cách bức thêm. Bây giờ chúng tôi bước đi trên cát. Cách hai cây số, tại trước mặt chúng tôi là những đụn gò. Trên những đụn gò kia, vài chấm xanh cây lè tè lốm đốm. Cái lớp giáp sắt đen sì, tôi vốn không thích nó bằng màu cát. Đó là màu sa mạc hồng vàng. Tôi tưởng nhận ra rồi, ồ sa mạc… Bây giờ thì chúng tôi kiệt sức, cứ mỗi hai trăm thước chân đi. - Cũng gắng mà bước đi, ít ra là tới cái cụm cây bé bỏng lưa thưa kia, dù sao chăng nữa. Đó là giới hạn tuột cùng. Tám ngày sau, chúng tôi sẽ có dịp dùng ô tô mà xét lại, lúc noi dấu mà lần mò tìm trở lại chiếc “Simoun”, mới hay rằng cái cố gắng cuối cùng kia là cố gắng tới tám mươi cây số. Thế thì chúng tôi đã đi đủ trong hai ống chân mình gần được hai trăm cây. Làm sao còn có thể tiếp tục? Hôm qua, tôi đi không hy vọng. Hôm nay, những tiếng nọ đã mất trụi hết ý nghĩa. Hôm nay chúng tôi bước đi là ấy bởi bước đi. Bước đi là bởi vì đi bước. Hẳn cũng hệt là bò cày trên ruộng. Hôm qua tôi mộng ước những Thiên Đường cam mọc. Hôm qua tôi mơ tưởng những đào nguyên suối chảy. Nhưng hôm nay, đối với tôi, không còn cái gọi là cái đào nguyên thiên đường. Tôi không còn tin ở sự tồn tại đâu đó những trái cam. Tôi không thấy gì hết cả. Tôi chỉ duy có thấy ở trong mình, là duy chỉ không một cái chi chi, ngoài cái đồ sộ của khô cằn tim máu. Tôi sắp té nhào, và tôi không biết tới tuyệt vọng. Tôi cũng chẳng biết khổ đau là cái gì.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đá dọc đường thưa bớt, cách bức thêm. Bây giờ chúng tôi bước đi trên cát. Cách hai cây số, tại trước mặt chúng tôi là những đụn gò. Trên những đụn gò kia, vài chấm xanh cây lè tè lốm đốm. Cái lớp giáp sắt đen sì, tôi vốn không thích nó bằng màu cát. Đó là màu sa mạc hồng vàng. Tôi tưởng nhận ra rồi, ồ sa mạc… Bây giờ thì chúng tôi kiệt sức, cứ mỗi hai trăm thước chân đi. - Cũng gắng mà bước đi, ít ra là tới cái cụm cây bé bỏng lưa thưa kia, dù sao chăng nữa. Đó là giới hạn tuột cùng. Tám ngày sau, chúng tôi sẽ có dịp dùng ô tô mà xét lại, lúc noi dấu mà lần mò tìm trở lại chiếc “Simoun”, mới hay rằng cái cố gắng cuối cùng kia là cố gắng tới tám mươi cây số. Thế thì chúng tôi đã đi đủ trong hai ống chân mình gần được hai trăm cây. Làm sao còn có thể tiếp tục? Hôm qua, tôi đi không hy vọng. Hôm nay, những tiếng nọ đã mất trụi hết ý nghĩa. Hôm nay chúng tôi bước đi là ấy bởi bước đi. Bước đi là bởi vì đi bước. Hẳn cũng hệt là bò cày trên ruộng. Hôm qua tôi mộng ước những Thiên Đường cam mọc. Hôm qua tôi mơ tưởng những đào nguyên suối chảy. Nhưng hôm nay, đối với tôi, không còn cái gọi là cái đào nguyên thiên đường. Tôi không còn tin ở sự tồn tại đâu đó những trái cam. Tôi không thấy gì hết cả. Tôi chỉ duy có thấy ở trong mình, là duy chỉ không một cái chi chi, ngoài cái đồ sộ của khô cằn tim máu. Tôi sắp té nhào, và tôi không biết tới tuyệt vọng. Tôi cũng chẳng biết khổ đau là cái gì.
Tôi chỉ duy có thấy ở trong mình, là duy chỉ không một cái chi chi, ngoài cái đồ sộ của khô cằn tim máu. Tôi sắp té nhào, và tôi không biết tới tuyệt vọng. Tôi cũng chẳng biết khổ đau là cái gì. Tôi rất tiếc: nỗi sầu đau, nếu còn cảm thấy, ắt sầu đau sẽ là một cái gì êm dịu và ngọt như nước. Người ta thương hại cho phận mình, người ta cảm thương mình như một người bạn. Nhưng tôi không còn có bạn nữa ở cõi đời này. Người ta sẽ tìm thấy tôi, người ta sẽ ngó vào mắt tôi thấy nó cháy bỏng, người ta sẽ tưởng rằng tôi đã có kêu gọi nhiều, đau khổ lắm. Nhưng những hăm hở, nhưng những tiếc thương, nhưng những sầu đau êm ái, đó vẫn là những kho phong phú, những giàu sang của cải. Còn tôi, tôi chẳng còn gì là của cải nữa. Những nàng gái tươi, gặp cơn chiều của ân tình đầu tiên trở chứng, các nàng nếm mùi sầu khổ, và khóc than. Sầu khổ dính liền với những nhiệt tình tồn sinh run rẩy. Còn tôi, tôi không có nữa những khổ sầu. Tôi không còn tiết ra nước bọt, nhưng tôi cũng không còn ngay cả cái tiết ra và cấu tạo những hình ảnh êm ái để hướng về mà có thể năn nỉ than van. Mặt trời đã thiêu nướng mất nguồn lệ ngọt ở trong tôi. Thế tuy nhiên, tôi vừa chớm có thấy cái chi thế? Một luồng hy vọng dậy cơn trào lướt qua tôi như một trận lăn tăn trên trùng dương gợn bọt. Dấu hiệu gì vừa mới cấp báo linh tính tôi, trước khi đập vào tâm thức tôi như thế? Không một chút gì đã thay đổi, mà mọi sự đã đổi thay.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi chỉ duy có thấy ở trong mình, là duy chỉ không một cái chi chi, ngoài cái đồ sộ của khô cằn tim máu. Tôi sắp té nhào, và tôi không biết tới tuyệt vọng. Tôi cũng chẳng biết khổ đau là cái gì. Tôi rất tiếc: nỗi sầu đau, nếu còn cảm thấy, ắt sầu đau sẽ là một cái gì êm dịu và ngọt như nước. Người ta thương hại cho phận mình, người ta cảm thương mình như một người bạn. Nhưng tôi không còn có bạn nữa ở cõi đời này. Người ta sẽ tìm thấy tôi, người ta sẽ ngó vào mắt tôi thấy nó cháy bỏng, người ta sẽ tưởng rằng tôi đã có kêu gọi nhiều, đau khổ lắm. Nhưng những hăm hở, nhưng những tiếc thương, nhưng những sầu đau êm ái, đó vẫn là những kho phong phú, những giàu sang của cải. Còn tôi, tôi chẳng còn gì là của cải nữa. Những nàng gái tươi, gặp cơn chiều của ân tình đầu tiên trở chứng, các nàng nếm mùi sầu khổ, và khóc than. Sầu khổ dính liền với những nhiệt tình tồn sinh run rẩy. Còn tôi, tôi không có nữa những khổ sầu. Tôi không còn tiết ra nước bọt, nhưng tôi cũng không còn ngay cả cái tiết ra và cấu tạo những hình ảnh êm ái để hướng về mà có thể năn nỉ than van. Mặt trời đã thiêu nướng mất nguồn lệ ngọt ở trong tôi. Thế tuy nhiên, tôi vừa chớm có thấy cái chi thế? Một luồng hy vọng dậy cơn trào lướt qua tôi như một trận lăn tăn trên trùng dương gợn bọt. Dấu hiệu gì vừa mới cấp báo linh tính tôi, trước khi đập vào tâm thức tôi như thế? Không một chút gì đã thay đổi, mà mọi sự đã đổi thay.
Dấu hiệu gì vừa mới cấp báo linh tính tôi, trước khi đập vào tâm thức tôi như thế? Không một chút gì đã thay đổi, mà mọi sự đã đổi thay. Mặt cát phẳng lì này, những gò đống mấp mô này, những cụm cây lưa thưa lục nhạt nọ, không còn kết thành một phong cảnh nữa, mà đã trở nên một cảnh trí. Một cảnh trí còn trống không, nhưng hoàn toàn được soạn sửa. Anh ta cũng đang cơn chấn động kinh ngạc như tôi, nhưng anh cũng không hiểu sao ra sao cả về cái niềm hưng khởi đột ngột ở trong mình. Tôi thề với anh là sắp có xảy ra một cái gì tại đây tại đó. Tôi thề với anh là sa mạc đã xao động linh hồn. Tôi thề với anh là cảnh vắng vẻ tịch liêu này đã đột nhiên tha thiết gây muôn vàn cảm xúc yêu đương, xao xuyến hơn mười trận huyên náo tại công trường. Trong sa mạc đã có bóng vang gì!... Chúng tôi đã lạc nẻo đánh mất lối đồng loại đi về, chúng tôi đã bị gạt rơi ra ngoài vòng bộ lạc, chúng tôi đã chịu mười phen cô độc giữa cõi trần, bị bỏ quên bởi một cuộc mênh mông điệp trùng di trú, và bỗng nhiên bây giờ chúng tôi nhận thấy ở bên mình, tạc trên cát, lõm vào sâu, những bàn chân ghi chép dấu hiệu huyền ảo của con người. - Nhìn đây, Prévot, tại đây hai người đã chia tay… - Tại đây, một con lạc đà có quỳ gối xuống… - Tại đây… Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn chưa được giải cứu. Trong vài giờ nữa, người ta sẽ không còn có thể giải cứu được chúng tôi. Cái bước đi của cơn khát, một phen cơn ho đã bắt đầu, bước đi của cơn khát, nó quá nhanh. Và cổ họng chúng tôi…
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Dấu hiệu gì vừa mới cấp báo linh tính tôi, trước khi đập vào tâm thức tôi như thế? Không một chút gì đã thay đổi, mà mọi sự đã đổi thay. Mặt cát phẳng lì này, những gò đống mấp mô này, những cụm cây lưa thưa lục nhạt nọ, không còn kết thành một phong cảnh nữa, mà đã trở nên một cảnh trí. Một cảnh trí còn trống không, nhưng hoàn toàn được soạn sửa. Anh ta cũng đang cơn chấn động kinh ngạc như tôi, nhưng anh cũng không hiểu sao ra sao cả về cái niềm hưng khởi đột ngột ở trong mình. Tôi thề với anh là sắp có xảy ra một cái gì tại đây tại đó. Tôi thề với anh là sa mạc đã xao động linh hồn. Tôi thề với anh là cảnh vắng vẻ tịch liêu này đã đột nhiên tha thiết gây muôn vàn cảm xúc yêu đương, xao xuyến hơn mười trận huyên náo tại công trường. Trong sa mạc đã có bóng vang gì!... Chúng tôi đã lạc nẻo đánh mất lối đồng loại đi về, chúng tôi đã bị gạt rơi ra ngoài vòng bộ lạc, chúng tôi đã chịu mười phen cô độc giữa cõi trần, bị bỏ quên bởi một cuộc mênh mông điệp trùng di trú, và bỗng nhiên bây giờ chúng tôi nhận thấy ở bên mình, tạc trên cát, lõm vào sâu, những bàn chân ghi chép dấu hiệu huyền ảo của con người. - Nhìn đây, Prévot, tại đây hai người đã chia tay… - Tại đây, một con lạc đà có quỳ gối xuống… - Tại đây… Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn chưa được giải cứu. Trong vài giờ nữa, người ta sẽ không còn có thể giải cứu được chúng tôi. Cái bước đi của cơn khát, một phen cơn ho đã bắt đầu, bước đi của cơn khát, nó quá nhanh. Và cổ họng chúng tôi…
Trong vài giờ nữa, người ta sẽ không còn có thể giải cứu được chúng tôi. Cái bước đi của cơn khát, một phen cơn ho đã bắt đầu, bước đi của cơn khát, nó quá nhanh. Và cổ họng chúng tôi… Nhưng tôi, tôi tin tưởng ở cái đoàn người, đoàn người đang đong đưa nhịp bước đâu đó, trong sa mạc này. Chúng tôi vậy là còn bước đi, và hốt nhiên tôi nghe tiếng gà gáy. Guillaumet từng có bảo tôi: “Vào khoảng cuối, tôi nghe tiếng gà gáy trong non núi Andes. Tôi cũng có nghe những đường hỏa xa xe lửa chạy…”. Tôi nhớ lại câu chuyện anh kể đó, chính vào cái lúc con gà nọ gáy lên, và tôi tự bảo: “Đầu tiên, chính con mắt tôi nó phỉnh phờ tôi. Đó chắc là tại tác dụng của cơn khát. Tai tôi chịu đựng bền bỉ hơn…”. Nhưng Prévot nắm chặt cánh tay tôi: - Anh có nghe chứ? - Thế thì… thế thì… Thế thì, chú ngốc ôi, chắc chắn đứt đi rồi, thế thì đó là sự sống… Tôi còn bị một ảo ảnh cuối cùng: ba con chó đuổi nhau. Prévot, Prévot cũng có nhìn, Prévot không thấy chi hết. Nhưng chúng tôi là hai đứa đã cùng song song đưa rộng cánh tay về một người Bedouin đó. Chúng tôi là hai thằng cả hai cùng song song hai miệng một lời gào lên hết bao nhiêu hơi mòn trong tàn rơi lá phổi. Chúng tôi là hai đứa cả hai đủ hai thằng đầy ngập tiếng hạnh phúc cười ra!... Nhưng giọng chúng tôi không đủ dội xa ba mươi thước. Dây gân trong cổ họng và miệng mồm đã quá khô. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau không ra thành tiếng, đã tắt nghẽn cả lời, mà nào có nhận biết đó ra đâu!
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Trong vài giờ nữa, người ta sẽ không còn có thể giải cứu được chúng tôi. Cái bước đi của cơn khát, một phen cơn ho đã bắt đầu, bước đi của cơn khát, nó quá nhanh. Và cổ họng chúng tôi… Nhưng tôi, tôi tin tưởng ở cái đoàn người, đoàn người đang đong đưa nhịp bước đâu đó, trong sa mạc này. Chúng tôi vậy là còn bước đi, và hốt nhiên tôi nghe tiếng gà gáy. Guillaumet từng có bảo tôi: “Vào khoảng cuối, tôi nghe tiếng gà gáy trong non núi Andes. Tôi cũng có nghe những đường hỏa xa xe lửa chạy…”. Tôi nhớ lại câu chuyện anh kể đó, chính vào cái lúc con gà nọ gáy lên, và tôi tự bảo: “Đầu tiên, chính con mắt tôi nó phỉnh phờ tôi. Đó chắc là tại tác dụng của cơn khát. Tai tôi chịu đựng bền bỉ hơn…”. Nhưng Prévot nắm chặt cánh tay tôi: - Anh có nghe chứ? - Thế thì… thế thì… Thế thì, chú ngốc ôi, chắc chắn đứt đi rồi, thế thì đó là sự sống… Tôi còn bị một ảo ảnh cuối cùng: ba con chó đuổi nhau. Prévot, Prévot cũng có nhìn, Prévot không thấy chi hết. Nhưng chúng tôi là hai đứa đã cùng song song đưa rộng cánh tay về một người Bedouin đó. Chúng tôi là hai thằng cả hai cùng song song hai miệng một lời gào lên hết bao nhiêu hơi mòn trong tàn rơi lá phổi. Chúng tôi là hai đứa cả hai đủ hai thằng đầy ngập tiếng hạnh phúc cười ra!... Nhưng giọng chúng tôi không đủ dội xa ba mươi thước. Dây gân trong cổ họng và miệng mồm đã quá khô. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau không ra thành tiếng, đã tắt nghẽn cả lời, mà nào có nhận biết đó ra đâu!
Dây gân trong cổ họng và miệng mồm đã quá khô. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau không ra thành tiếng, đã tắt nghẽn cả lời, mà nào có nhận biết đó ra đâu! Nhưng người Bedouin kia và con lạc đà của anh, vừa hiện hình ra từ phía sau gò cồn nọ, coi kìa, đã lững thững, chậm chạp, đi xa. Có thể rằng anh ta đi một mình, không còn ai nữa… Một hung thần oan nghiệt đã xui khiến anh ta tới gần cho chúng tôi ngó thấy, rồi xô mất bóng anh ta đi… Mà chúng tôi thì không làm sao, cho ống chân chạy được nữa. Một người Ả Rập khác từ trên đụn gò, trắc diện nhô ra. Chúng tôi gào lên, nhưng lời câm không ra tiếng. Chúng tôi tơi tả đưa tay khoát rối bời, có cảm tưởng như mình đương vẽ ngập vào vòm trời những dấu hiệu mênh mông. Nhưng người Bedouin kia vẫn nhìn về bên phải… Và tới bây giờ, anh chậm rãi xoay đầu thêm một chút rất thong dong. Chỉ trong một giây vàng thiểm động, anh chớm sẽ nghiêng mình xoay mặt thêm chút nữa, thì trời đất sẽ thành tựu song song. Vạn vật sẽ vuông tròn viên mãn trong một thoáng phiêu bồng chợt ngẫu nhĩ ra hoa: hết khát hết đói, hết chết, hết ảo ảnh, hết hết. Một chút xoay nghiêng, càn khôn biến thành vũ trụ. Chỉ cử động một nửa thân hình, chỉ dạo mắt một cái đưa quanh, là anh tạo ra đời sống, và trông anh như một đấng thần linh… Nhiệm màu đã tới… Anh đạp cát đi lại phía chúng tôi, như một thiên thần bước trên mặt biển… Người Ả Rập giản dị nhìn chúng tôi. Anh đưa tay ấn vào vai chúng tôi, chúng tôi vâng lời.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Dây gân trong cổ họng và miệng mồm đã quá khô. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau không ra thành tiếng, đã tắt nghẽn cả lời, mà nào có nhận biết đó ra đâu! Nhưng người Bedouin kia và con lạc đà của anh, vừa hiện hình ra từ phía sau gò cồn nọ, coi kìa, đã lững thững, chậm chạp, đi xa. Có thể rằng anh ta đi một mình, không còn ai nữa… Một hung thần oan nghiệt đã xui khiến anh ta tới gần cho chúng tôi ngó thấy, rồi xô mất bóng anh ta đi… Mà chúng tôi thì không làm sao, cho ống chân chạy được nữa. Một người Ả Rập khác từ trên đụn gò, trắc diện nhô ra. Chúng tôi gào lên, nhưng lời câm không ra tiếng. Chúng tôi tơi tả đưa tay khoát rối bời, có cảm tưởng như mình đương vẽ ngập vào vòm trời những dấu hiệu mênh mông. Nhưng người Bedouin kia vẫn nhìn về bên phải… Và tới bây giờ, anh chậm rãi xoay đầu thêm một chút rất thong dong. Chỉ trong một giây vàng thiểm động, anh chớm sẽ nghiêng mình xoay mặt thêm chút nữa, thì trời đất sẽ thành tựu song song. Vạn vật sẽ vuông tròn viên mãn trong một thoáng phiêu bồng chợt ngẫu nhĩ ra hoa: hết khát hết đói, hết chết, hết ảo ảnh, hết hết. Một chút xoay nghiêng, càn khôn biến thành vũ trụ. Chỉ cử động một nửa thân hình, chỉ dạo mắt một cái đưa quanh, là anh tạo ra đời sống, và trông anh như một đấng thần linh… Nhiệm màu đã tới… Anh đạp cát đi lại phía chúng tôi, như một thiên thần bước trên mặt biển… Người Ả Rập giản dị nhìn chúng tôi. Anh đưa tay ấn vào vai chúng tôi, chúng tôi vâng lời.
Nhiệm màu đã tới… Anh đạp cát đi lại phía chúng tôi, như một thiên thần bước trên mặt biển… Người Ả Rập giản dị nhìn chúng tôi. Anh đưa tay ấn vào vai chúng tôi, chúng tôi vâng lời. Tại đây không còn chủng tộc, không còn ngôn ngữ, không còn phân chia… Chỉ còn có người du mục nghèo kia đã đặt lên vai chúng tôi hai bàn tay thiên sứ. Chúng tôi chờ, úp trán lên cát. Và bây giờ chúng tôi nằm dài, bụng đè trên bãi, hụp đầu vào chậu nước mà uống như nghé bò con. Người Bedouin thấy vậy và hốt hoảng buộc chúng tôi mỗi lúc uống, mỗi lúc dừng. Nhưng anh vừa buông tay, chúng tôi lại hụp đầu vào chậu nước trở lại. Ồ nước ạ, ngươi không vị, không màu, không mùi hương, không ai xác định được ngươi có nghĩa là gì, người ta thưởng thức ngươi và không biết ngươi ra sao. Ngươi không cần thiết cho sự sống: ngươi là sự sống. Ngươi đem lại một khoái cảm dị thường không thể giải thích bằng giác quan, ngươi dìu du khoái về cho thấm nhập vào thân thể chúng ta. Cùng với ngươi, bao nhiêu quyền uy được giao trả lại cho chúng ta, những quyền uy mà chúng ta đã đành lìa bỏ. Nhờ lượng ngươi bao dung, bao nhiêu nguồn suối cạn của buồng tim bỗng dạt dào trở lại. Ngươi là của cải to lớn nhất thế gian, và cũng mỏng manh lãng đãng nhất, ngươi thanh khiết thế nào ở giữa dạ trái đất của chúng ta. Người ta có thể nằm chịu chết bên cạnh một ngọn suối nước có hàm chất khổ thổ. Người ta có thể nằm chết bên một cái hồ nước mặn. Người ta có thể chết với hai lít nước sương có lẫn lộn vài chất muối.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhiệm màu đã tới… Anh đạp cát đi lại phía chúng tôi, như một thiên thần bước trên mặt biển… Người Ả Rập giản dị nhìn chúng tôi. Anh đưa tay ấn vào vai chúng tôi, chúng tôi vâng lời. Tại đây không còn chủng tộc, không còn ngôn ngữ, không còn phân chia… Chỉ còn có người du mục nghèo kia đã đặt lên vai chúng tôi hai bàn tay thiên sứ. Chúng tôi chờ, úp trán lên cát. Và bây giờ chúng tôi nằm dài, bụng đè trên bãi, hụp đầu vào chậu nước mà uống như nghé bò con. Người Bedouin thấy vậy và hốt hoảng buộc chúng tôi mỗi lúc uống, mỗi lúc dừng. Nhưng anh vừa buông tay, chúng tôi lại hụp đầu vào chậu nước trở lại. Ồ nước ạ, ngươi không vị, không màu, không mùi hương, không ai xác định được ngươi có nghĩa là gì, người ta thưởng thức ngươi và không biết ngươi ra sao. Ngươi không cần thiết cho sự sống: ngươi là sự sống. Ngươi đem lại một khoái cảm dị thường không thể giải thích bằng giác quan, ngươi dìu du khoái về cho thấm nhập vào thân thể chúng ta. Cùng với ngươi, bao nhiêu quyền uy được giao trả lại cho chúng ta, những quyền uy mà chúng ta đã đành lìa bỏ. Nhờ lượng ngươi bao dung, bao nhiêu nguồn suối cạn của buồng tim bỗng dạt dào trở lại. Ngươi là của cải to lớn nhất thế gian, và cũng mỏng manh lãng đãng nhất, ngươi thanh khiết thế nào ở giữa dạ trái đất của chúng ta. Người ta có thể nằm chịu chết bên cạnh một ngọn suối nước có hàm chất khổ thổ. Người ta có thể nằm chết bên một cái hồ nước mặn. Người ta có thể chết với hai lít nước sương có lẫn lộn vài chất muối.
Người ta có thể nằm chịu chết bên cạnh một ngọn suối nước có hàm chất khổ thổ. Người ta có thể nằm chết bên một cái hồ nước mặn. Người ta có thể chết với hai lít nước sương có lẫn lộn vài chất muối. Nước ạ, ngươi không bằng lòng chịu pha lẫn, ngươi không chịu đựng sự biến chất, ngươi là một Tố Nga băng tuyết rất mực ngại ngùng. [9] Nhưng ngươi chan rưới tràn lan trong chúng ta một nguồn vui đơn sơ bất tuyệt. Còn anh, anh Bédouin xứ Libye, anh đã giải cứu chúng tôi, nhưng anh sẽ vĩnh viễn phai mất hình ảnh trong ký ức chúng tôi. Tôi sẽ không bao giờ nhớ lại gương mặt anh. Anh là con Người, và anh hiện ra với gương mặt tất cả những con người cùng trong một lúc. Anh chẳng bao giờ nhìn rõ mặt chúng tôi, nhưng gặp một lần anh đã nhận ra được chúng tôi rồi. Anh là người anh em thân thích. Và tới lượt tôi, tôi sẽ nhận ra anh trong gương mặt tất cả mọi người. Anh hiện ra với chúng tôi trong phong độ lai láng cao vời, và bao dung nhân hậu, như một đấng Chí Tôn và có quyền lực ban cho nước uống. Tất cả bạn hữu của tôi, tất cả kẻ thù của tôi, cùng bước tới bên trong hình hài của anh, và tôi không còn một kẻ thù nào ở thế gian này nữa cả. VIII NGƯỜI TA 1 Một lần nữa tôi tới sát mép một chân lý mà tôi không hiểu được. Tôi đã tưởng mình lâm vào tuyệt địa, tôi đã tưởng mình chạm tới chỗ tận cùng tuyệt vọng và, một phen chấp nhận chịu khước từ không màng gì nữa hết, thì tôi đã rõ được lẽ thanh thản yên vui.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Người ta có thể nằm chịu chết bên cạnh một ngọn suối nước có hàm chất khổ thổ. Người ta có thể nằm chết bên một cái hồ nước mặn. Người ta có thể chết với hai lít nước sương có lẫn lộn vài chất muối. Nước ạ, ngươi không bằng lòng chịu pha lẫn, ngươi không chịu đựng sự biến chất, ngươi là một Tố Nga băng tuyết rất mực ngại ngùng. [9] Nhưng ngươi chan rưới tràn lan trong chúng ta một nguồn vui đơn sơ bất tuyệt. Còn anh, anh Bédouin xứ Libye, anh đã giải cứu chúng tôi, nhưng anh sẽ vĩnh viễn phai mất hình ảnh trong ký ức chúng tôi. Tôi sẽ không bao giờ nhớ lại gương mặt anh. Anh là con Người, và anh hiện ra với gương mặt tất cả những con người cùng trong một lúc. Anh chẳng bao giờ nhìn rõ mặt chúng tôi, nhưng gặp một lần anh đã nhận ra được chúng tôi rồi. Anh là người anh em thân thích. Và tới lượt tôi, tôi sẽ nhận ra anh trong gương mặt tất cả mọi người. Anh hiện ra với chúng tôi trong phong độ lai láng cao vời, và bao dung nhân hậu, như một đấng Chí Tôn và có quyền lực ban cho nước uống. Tất cả bạn hữu của tôi, tất cả kẻ thù của tôi, cùng bước tới bên trong hình hài của anh, và tôi không còn một kẻ thù nào ở thế gian này nữa cả. VIII NGƯỜI TA 1 Một lần nữa tôi tới sát mép một chân lý mà tôi không hiểu được. Tôi đã tưởng mình lâm vào tuyệt địa, tôi đã tưởng mình chạm tới chỗ tận cùng tuyệt vọng và, một phen chấp nhận chịu khước từ không màng gì nữa hết, thì tôi đã rõ được lẽ thanh thản yên vui.
Tôi đã tưởng mình lâm vào tuyệt địa, tôi đã tưởng mình chạm tới chỗ tận cùng tuyệt vọng và, một phen chấp nhận chịu khước từ không màng gì nữa hết, thì tôi đã rõ được lẽ thanh thản yên vui. Tưởng chừng như trong giờ phút đặc thù đó, người ta chợt khám phá ra chính mình, và người ta trở thành bạn thiết của chính mình. Không có gì có thể chiếm ưu thắng trước cái niềm viên mãn sung thiệm, đáp ứng mọi đòi hỏi cốt yếu, một nhu cầu thiết thân nào đó ở trong ta, mà bấy lâu nay ta không để bụng quan hoài. Bonnafous, tôi thiết nghĩ, Bonnafous từng lãng phí thân mình trong những cuộc theo đuổi bóng vang mây gió, Bonnafous đã thâm cảm niềm bình thản thanh thoát kia. Guillaumet phiêu bồng trong tuyết giá, cũng thâm cảm nỗi niềm đó. Còn tôi, tôi làm sao quên được cảnh huống mình. Làm sao quên được rằng một phen lấp thân trong cát tới tận mang tai, một phen suýt chết vì khát nước, mà còn cảm thấy máu tim ấm cúng êm đềm túc mục đến thế dưới vòm sao vây phủ? Làm thế nào giúp cho niềm phơi phới nọ có được dịp phi dương? Mọi sự trong con người đều bao hàm mâu thuẫn, ai cũng biết thế. Người ta bảo đảm cơm nước cho anh chàng nọ để anh rảnh rang sáng tác, thì anh ta lại ngủ khì; kẻ anh hùng chinh phục chiến thắng rạch đôi sơn hà xong, bỗng đâm ra nhu nhược mềm dịu như hồn đàn bà; kẻ hào hoa phóng dật, nếu được ban cấp của cải giàu sang, lại đổ ra bo bo biển lận.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi đã tưởng mình lâm vào tuyệt địa, tôi đã tưởng mình chạm tới chỗ tận cùng tuyệt vọng và, một phen chấp nhận chịu khước từ không màng gì nữa hết, thì tôi đã rõ được lẽ thanh thản yên vui. Tưởng chừng như trong giờ phút đặc thù đó, người ta chợt khám phá ra chính mình, và người ta trở thành bạn thiết của chính mình. Không có gì có thể chiếm ưu thắng trước cái niềm viên mãn sung thiệm, đáp ứng mọi đòi hỏi cốt yếu, một nhu cầu thiết thân nào đó ở trong ta, mà bấy lâu nay ta không để bụng quan hoài. Bonnafous, tôi thiết nghĩ, Bonnafous từng lãng phí thân mình trong những cuộc theo đuổi bóng vang mây gió, Bonnafous đã thâm cảm niềm bình thản thanh thoát kia. Guillaumet phiêu bồng trong tuyết giá, cũng thâm cảm nỗi niềm đó. Còn tôi, tôi làm sao quên được cảnh huống mình. Làm sao quên được rằng một phen lấp thân trong cát tới tận mang tai, một phen suýt chết vì khát nước, mà còn cảm thấy máu tim ấm cúng êm đềm túc mục đến thế dưới vòm sao vây phủ? Làm thế nào giúp cho niềm phơi phới nọ có được dịp phi dương? Mọi sự trong con người đều bao hàm mâu thuẫn, ai cũng biết thế. Người ta bảo đảm cơm nước cho anh chàng nọ để anh rảnh rang sáng tác, thì anh ta lại ngủ khì; kẻ anh hùng chinh phục chiến thắng rạch đôi sơn hà xong, bỗng đâm ra nhu nhược mềm dịu như hồn đàn bà; kẻ hào hoa phóng dật, nếu được ban cấp của cải giàu sang, lại đổ ra bo bo biển lận.
Những chủ nghĩa chính trị, tin quyết là mình mở lối khai hóa tốt tươi cho con người, những chủ nghĩa li bì kia, đối với chúng ta thật chẳng có chi cần ích liên can cả, nếu tự ban đầu ta chẳng biết cái loại người nào sẽ được khai hóa tốt tươi ra. Kẻ sắp nảy nở là ai? Chúng ta không phải một bầy mục súc cần nuôi cho đông đảo để ăn thịt hoặc để lấy phân, hoặc để lùa vào đồi sim mà thẫn thờ bá láp, và sự xuất hiện của một Pascal bần cùng lại nặng ý nghĩa hơn ba kẻ lai rai lùa bò hoặc chăn dê thịnh vượng. Cái cốt yếu, cái anh hoa, cái tường vi hương tính, cái kỷ độ phát tiết phiêu bồng, đố ai dám biết mình tiên đoán được cho ru! Mỗi kẻ trong chúng ta đều có rõ những niềm vui lừng vai phố chị, những nỗi sướng chấn động khe em, ấm cúng tại chính cái chốn cái nơi mà không có gì của ban sơ dám lên lời hẹn ước sẽ mai sau là tổ vọng tự ban đầu. Những niềm trước vui sướng đó còn lưu lại trong ta xiết bao ngậm ngùi tiếc thương tơ tưởng mãi, những cựu tình vàng sự bốc ô hinh, những vân yên về sau sầu bến cũ, những thứ đó lung trạo đến thế nào mà xui ta nhớ nhung tới cái độ yêu dấu luôn cả những khốn đốn vô ngần ta phải chịu, nếu những khốn đốn nọ giúp ta thâu góp được những vui kia. Chúng ta đứa nào cũng đều có khoan khoái lạ thường lúc gặp lại những thằng bạn cũ, mà thấy lại những diễm kiều huyền ảo của những kỷ niệm tồi tàn. Chúng ta biết gì đâu, ngoài cái điều: có những điều kiện khôn hiểu gây mạch đời dào dạt cho chúng ta. Chân lý của con người nằm tại đâu như vậy?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Những chủ nghĩa chính trị, tin quyết là mình mở lối khai hóa tốt tươi cho con người, những chủ nghĩa li bì kia, đối với chúng ta thật chẳng có chi cần ích liên can cả, nếu tự ban đầu ta chẳng biết cái loại người nào sẽ được khai hóa tốt tươi ra. Kẻ sắp nảy nở là ai? Chúng ta không phải một bầy mục súc cần nuôi cho đông đảo để ăn thịt hoặc để lấy phân, hoặc để lùa vào đồi sim mà thẫn thờ bá láp, và sự xuất hiện của một Pascal bần cùng lại nặng ý nghĩa hơn ba kẻ lai rai lùa bò hoặc chăn dê thịnh vượng. Cái cốt yếu, cái anh hoa, cái tường vi hương tính, cái kỷ độ phát tiết phiêu bồng, đố ai dám biết mình tiên đoán được cho ru! Mỗi kẻ trong chúng ta đều có rõ những niềm vui lừng vai phố chị, những nỗi sướng chấn động khe em, ấm cúng tại chính cái chốn cái nơi mà không có gì của ban sơ dám lên lời hẹn ước sẽ mai sau là tổ vọng tự ban đầu. Những niềm trước vui sướng đó còn lưu lại trong ta xiết bao ngậm ngùi tiếc thương tơ tưởng mãi, những cựu tình vàng sự bốc ô hinh, những vân yên về sau sầu bến cũ, những thứ đó lung trạo đến thế nào mà xui ta nhớ nhung tới cái độ yêu dấu luôn cả những khốn đốn vô ngần ta phải chịu, nếu những khốn đốn nọ giúp ta thâu góp được những vui kia. Chúng ta đứa nào cũng đều có khoan khoái lạ thường lúc gặp lại những thằng bạn cũ, mà thấy lại những diễm kiều huyền ảo của những kỷ niệm tồi tàn. Chúng ta biết gì đâu, ngoài cái điều: có những điều kiện khôn hiểu gây mạch đời dào dạt cho chúng ta. Chân lý của con người nằm tại đâu như vậy?
Chúng ta biết gì đâu, ngoài cái điều: có những điều kiện khôn hiểu gây mạch đời dào dạt cho chúng ta. Chân lý của con người nằm tại đâu như vậy? Chân lý không phải là cái gì có thể minh giải, minh thị, biểu minh được. Nếu trong đám đất này chứ không trong đám đất khác, cây cam đâm rễ mạnh và kết trái nhiều, thì đám đất đó là chân lý của cam. Nếu tôn giáo nọ, nếu văn hóa nọ, nếu giai độ giá trị nọ, nếu thể thức hoạt động nọ, chứ không phải thể thức kia, giai độ văn hóa tôn giáo kia, giúp cho nảy nở viên mãn trong con người ta nỗi sung thiệm lai láng vuông tròn, và giải phóng được trong mình con người ta một vị lãnh chúa lộng lẫy vốn không tự giác được chính mình từ trước, thì quả thật cái giai độ giá trị nọ, cái văn hóa dưỡng dục nọ, cái thể thức hoạt tồn nọ, chính là cái chân lý của người ta. Thôi xin nàng luận lý học hãy cứ liều liệu mà xoay xở để mài miệt biện minh cho đời sống đó nhé. Suốt tập sách này tôi có kể một vài kẻ trong cái số người dường có nghe theo tiếng gọi của khuynh hướng tối thượng, đã có chọn sa mạc hoặc hàng không, cũng như những kẻ khác ắt có chọn cổng vào tu viện; nhưng tôi chỉ vi bội mục đích của tôi, nếu tôi đã tỏ ra có vẻ như muốn nhiếp dẫn các bạn hãy tán tụng trước tiên là những con người. Cái đáng tán tụng trước tiên, ấy là cái mảnh đất làm căn cớ thiết lập nên những con người vậy. Hẳn là khuynh hướng có đóng một vai trò. Có kẻ khép mình trong quán hàng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chúng ta biết gì đâu, ngoài cái điều: có những điều kiện khôn hiểu gây mạch đời dào dạt cho chúng ta. Chân lý của con người nằm tại đâu như vậy? Chân lý không phải là cái gì có thể minh giải, minh thị, biểu minh được. Nếu trong đám đất này chứ không trong đám đất khác, cây cam đâm rễ mạnh và kết trái nhiều, thì đám đất đó là chân lý của cam. Nếu tôn giáo nọ, nếu văn hóa nọ, nếu giai độ giá trị nọ, nếu thể thức hoạt động nọ, chứ không phải thể thức kia, giai độ văn hóa tôn giáo kia, giúp cho nảy nở viên mãn trong con người ta nỗi sung thiệm lai láng vuông tròn, và giải phóng được trong mình con người ta một vị lãnh chúa lộng lẫy vốn không tự giác được chính mình từ trước, thì quả thật cái giai độ giá trị nọ, cái văn hóa dưỡng dục nọ, cái thể thức hoạt tồn nọ, chính là cái chân lý của người ta. Thôi xin nàng luận lý học hãy cứ liều liệu mà xoay xở để mài miệt biện minh cho đời sống đó nhé. Suốt tập sách này tôi có kể một vài kẻ trong cái số người dường có nghe theo tiếng gọi của khuynh hướng tối thượng, đã có chọn sa mạc hoặc hàng không, cũng như những kẻ khác ắt có chọn cổng vào tu viện; nhưng tôi chỉ vi bội mục đích của tôi, nếu tôi đã tỏ ra có vẻ như muốn nhiếp dẫn các bạn hãy tán tụng trước tiên là những con người. Cái đáng tán tụng trước tiên, ấy là cái mảnh đất làm căn cớ thiết lập nên những con người vậy. Hẳn là khuynh hướng có đóng một vai trò. Có kẻ khép mình trong quán hàng.
Cái đáng tán tụng trước tiên, ấy là cái mảnh đất làm căn cớ thiết lập nên những con người vậy. Hẳn là khuynh hướng có đóng một vai trò. Có kẻ khép mình trong quán hàng. Có kẻ khẩn thiết bước theo con đường của mình một cách tuyệt đối thiết tha, theo một hướng đi tối yếu: trong lịch sử tuổi thơ của những kẻ nọ, ta tìm thấy trở lại những manh nha của niềm hưng phấn khả dĩ minh giải được định mệnh nào của họ đã nhiếp dẫn họ đi theo. Nhưng Lịch Sử, được nhìn thao láo về sau, lúc mọi sự đã thành tựu rồi, Lịch Sử lại gây ảo tưởng lẩn thẩn. Bởi rằng những hưng phấn, hăm hở nói trên, ta có thể tìm nhận thấy ra nơi hầu hết mọi người. Chúng ta đều có biết những anh chàng bán quán, nhân một đêm nào có bão giông đắm thuyền, nhân một đêm nào có hỏa hoạn, bỗng dưng anh chàng lai rai nọ đột ngột trút bỏ bản chất bê bết đi, và hiển lộ ở trong vòng những hào quang lộng lẫy: anh chàng tỏ ra cao cả hơn chính mình. Và anh chàng cũng không lầm về tính chất niềm sung mãn thiệm túc của anh: đêm đắm tàu, đêm hỏa hoạn kia, sẽ mãi mãi là cái đêm vô song của đời anh. Nhưng vì thiếu những cơ hội mới, thiếu đất thuận lợi, thiếu tôn giáo nghiêm mật yêu sách, những anh chàng lại ngủ khì trở lại, kê đầu trên gối mộng mà vắng bóng chiêm bao, và quên, quên tuốt, không còn tin tưởng nữa nơi tinh thể hoằng viễn của chính mình. Quả thật, khuynh hướng quả có giúp cho con người tự giải thoát: nhưng cũng cần làm sao để giải tỏa cho những khuynh hướng được nảy hột vọt ra.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cái đáng tán tụng trước tiên, ấy là cái mảnh đất làm căn cớ thiết lập nên những con người vậy. Hẳn là khuynh hướng có đóng một vai trò. Có kẻ khép mình trong quán hàng. Có kẻ khẩn thiết bước theo con đường của mình một cách tuyệt đối thiết tha, theo một hướng đi tối yếu: trong lịch sử tuổi thơ của những kẻ nọ, ta tìm thấy trở lại những manh nha của niềm hưng phấn khả dĩ minh giải được định mệnh nào của họ đã nhiếp dẫn họ đi theo. Nhưng Lịch Sử, được nhìn thao láo về sau, lúc mọi sự đã thành tựu rồi, Lịch Sử lại gây ảo tưởng lẩn thẩn. Bởi rằng những hưng phấn, hăm hở nói trên, ta có thể tìm nhận thấy ra nơi hầu hết mọi người. Chúng ta đều có biết những anh chàng bán quán, nhân một đêm nào có bão giông đắm thuyền, nhân một đêm nào có hỏa hoạn, bỗng dưng anh chàng lai rai nọ đột ngột trút bỏ bản chất bê bết đi, và hiển lộ ở trong vòng những hào quang lộng lẫy: anh chàng tỏ ra cao cả hơn chính mình. Và anh chàng cũng không lầm về tính chất niềm sung mãn thiệm túc của anh: đêm đắm tàu, đêm hỏa hoạn kia, sẽ mãi mãi là cái đêm vô song của đời anh. Nhưng vì thiếu những cơ hội mới, thiếu đất thuận lợi, thiếu tôn giáo nghiêm mật yêu sách, những anh chàng lại ngủ khì trở lại, kê đầu trên gối mộng mà vắng bóng chiêm bao, và quên, quên tuốt, không còn tin tưởng nữa nơi tinh thể hoằng viễn của chính mình. Quả thật, khuynh hướng quả có giúp cho con người tự giải thoát: nhưng cũng cần làm sao để giải tỏa cho những khuynh hướng được nảy hột vọt ra.
Quả thật, khuynh hướng quả có giúp cho con người tự giải thoát: nhưng cũng cần làm sao để giải tỏa cho những khuynh hướng được nảy hột vọt ra. Đêm thinh không, đêm sa mạc… là những cơ hội ngẫu nhĩ hiếm hoi, không đi tràn lan tới để hiến thân mình cho mọi người thiên hạ. Ấy tuy nhiên, lúc cảnh huống giậy giàng về náo động, thì tất cả mọi người cùng biểu thị lai láng những nhu cầu xao xuyến như nhau. Tôi không đi xa đề tài, nếu đem kể lại đây một đêm tại Tây Ban Nha đã thức tỉnh cho tôi nhìn vỡ lẽ ra sự vụ nọ. Tôi đã nói quá nhiều về một vài kẻ riêng tây, và bây giờ tôi muốn nói về mọi kẻ. Chuyện tại mặt trận Madrid, tôi tới viếng với tư cách phóng viên. Tối hôm đó, tại một cái hầm trú ẩn, tôi dùng bữa với một vị đại úy trẻ. 2 Chúng tôi đang trò chuyện thì điện thoại reo. Đối thoại kéo dài: một cuộc tấn công do bản doanh truyền lệnh, một cuộc tấn công phi lý não nùng, tuyệt vô hy vọng, quyết chiếm lấy vài căn nhà thuộc vùng ngoại ô thợ thuyền, đã biến thành những pháo đài xi măng. Viên đại úy nhún vai và quay trở lại bảo: “Những đứa nào trong bọn chúng ta sẽ thò đầu đi tiên phong…”, rồi anh ta đẩy hai ly cô-nhắc lại, một cho viên đội đang ngồi tại đó, và một cho tôi. Anh bảo viên đội: - Anh ra trước hết, với tôi. Uống đi, rồi ngủ một trận nhé. Viên đội đã đi ngủ rồi. Quanh chiếc bàn ấy, chúng tôi mười hai người cùng thức. Trong căn phòng kín bưng ấy, không một tia sáng lọt ra ngoài, ánh chói gay gắt quá, khiến tôi nháy nheo mãi hai mắt.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Quả thật, khuynh hướng quả có giúp cho con người tự giải thoát: nhưng cũng cần làm sao để giải tỏa cho những khuynh hướng được nảy hột vọt ra. Đêm thinh không, đêm sa mạc… là những cơ hội ngẫu nhĩ hiếm hoi, không đi tràn lan tới để hiến thân mình cho mọi người thiên hạ. Ấy tuy nhiên, lúc cảnh huống giậy giàng về náo động, thì tất cả mọi người cùng biểu thị lai láng những nhu cầu xao xuyến như nhau. Tôi không đi xa đề tài, nếu đem kể lại đây một đêm tại Tây Ban Nha đã thức tỉnh cho tôi nhìn vỡ lẽ ra sự vụ nọ. Tôi đã nói quá nhiều về một vài kẻ riêng tây, và bây giờ tôi muốn nói về mọi kẻ. Chuyện tại mặt trận Madrid, tôi tới viếng với tư cách phóng viên. Tối hôm đó, tại một cái hầm trú ẩn, tôi dùng bữa với một vị đại úy trẻ. 2 Chúng tôi đang trò chuyện thì điện thoại reo. Đối thoại kéo dài: một cuộc tấn công do bản doanh truyền lệnh, một cuộc tấn công phi lý não nùng, tuyệt vô hy vọng, quyết chiếm lấy vài căn nhà thuộc vùng ngoại ô thợ thuyền, đã biến thành những pháo đài xi măng. Viên đại úy nhún vai và quay trở lại bảo: “Những đứa nào trong bọn chúng ta sẽ thò đầu đi tiên phong…”, rồi anh ta đẩy hai ly cô-nhắc lại, một cho viên đội đang ngồi tại đó, và một cho tôi. Anh bảo viên đội: - Anh ra trước hết, với tôi. Uống đi, rồi ngủ một trận nhé. Viên đội đã đi ngủ rồi. Quanh chiếc bàn ấy, chúng tôi mười hai người cùng thức. Trong căn phòng kín bưng ấy, không một tia sáng lọt ra ngoài, ánh chói gay gắt quá, khiến tôi nháy nheo mãi hai mắt.
Viên đội đã đi ngủ rồi. Quanh chiếc bàn ấy, chúng tôi mười hai người cùng thức. Trong căn phòng kín bưng ấy, không một tia sáng lọt ra ngoài, ánh chói gay gắt quá, khiến tôi nháy nheo mãi hai mắt. Tôi đã có dòm liếc ra ngoài một cái, trước đó năm phút, qua một lỗ hở ẩn kín ở trong vách tường. Vén tấm vải che cái lỗ hở nọ, tôi nhìn thoáng ra ngoài thấy dưới bóng trăng rờn rợn khí u cốc, những căn nhà hoang phế như nhà ma mời quỷ đi về. Lúc đặt mảnh vải trở lại trên cái lỗ hổng đã dòm xong, tôi có cảm tưởng như mình đã lau chùi giúp ai cái ánh vàng của chị nguyệt, như lau chùi một vệt dầu loang lai láng. Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn giữ gìn trong hai mắt cái hình ảnh những pháo đài rờn rợn lục pha lam. Mấy anh lính này chắc hẳn sẽ đi không mong kỳ hậu hội, nhưng họ làm thinh theo tiết tháo thói nhà. Cuộc tấn công này cũng là theo lẽ hằng nghề nghiệp. Quân mạc tiếu… Người ta thò tay hốt một nắm ở trong cái kho người dự trữ. Người ta thò tay vốc một nắm ở trong cái vựa thóc tích tụ tháng ngày. Người ta đưa tay gieo hột, vãi giống, cho rớt vào đường xẻ ruộng nương, mai sau mọc mạ. Và cô-nhắc bây giờ cũng là bồ đào mỹ tửu thiên thu, thì chúng tôi xin uống. Bên phải tôi, người ta lạo xạo đánh cờ. Bên trái tôi, người ta gieo câu nói rỡn. Tại đây tôi ở chốn nào? Một chàng lướt khướt cơn tỉnh cơn say mò mẫm bước vào. Anh đưa tay ve vuốt chòm râu rậm rì hi hữu, và đưa hai con mắt cợt làn như mơn trớn chúng tôi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Viên đội đã đi ngủ rồi. Quanh chiếc bàn ấy, chúng tôi mười hai người cùng thức. Trong căn phòng kín bưng ấy, không một tia sáng lọt ra ngoài, ánh chói gay gắt quá, khiến tôi nháy nheo mãi hai mắt. Tôi đã có dòm liếc ra ngoài một cái, trước đó năm phút, qua một lỗ hở ẩn kín ở trong vách tường. Vén tấm vải che cái lỗ hở nọ, tôi nhìn thoáng ra ngoài thấy dưới bóng trăng rờn rợn khí u cốc, những căn nhà hoang phế như nhà ma mời quỷ đi về. Lúc đặt mảnh vải trở lại trên cái lỗ hổng đã dòm xong, tôi có cảm tưởng như mình đã lau chùi giúp ai cái ánh vàng của chị nguyệt, như lau chùi một vệt dầu loang lai láng. Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn giữ gìn trong hai mắt cái hình ảnh những pháo đài rờn rợn lục pha lam. Mấy anh lính này chắc hẳn sẽ đi không mong kỳ hậu hội, nhưng họ làm thinh theo tiết tháo thói nhà. Cuộc tấn công này cũng là theo lẽ hằng nghề nghiệp. Quân mạc tiếu… Người ta thò tay hốt một nắm ở trong cái kho người dự trữ. Người ta thò tay vốc một nắm ở trong cái vựa thóc tích tụ tháng ngày. Người ta đưa tay gieo hột, vãi giống, cho rớt vào đường xẻ ruộng nương, mai sau mọc mạ. Và cô-nhắc bây giờ cũng là bồ đào mỹ tửu thiên thu, thì chúng tôi xin uống. Bên phải tôi, người ta lạo xạo đánh cờ. Bên trái tôi, người ta gieo câu nói rỡn. Tại đây tôi ở chốn nào? Một chàng lướt khướt cơn tỉnh cơn say mò mẫm bước vào. Anh đưa tay ve vuốt chòm râu rậm rì hi hữu, và đưa hai con mắt cợt làn như mơn trớn chúng tôi.
Tại đây tôi ở chốn nào? Một chàng lướt khướt cơn tỉnh cơn say mò mẫm bước vào. Anh đưa tay ve vuốt chòm râu rậm rì hi hữu, và đưa hai con mắt cợt làn như mơn trớn chúng tôi. Làn sóng mắt lướt trên ly cô-nhắc, lờ lững ngó lơ đi, lại trở về vuốt ve cô-nhắc, xoay một cái, đậu vào thân đại úy, rất mực vòi vĩnh van nài. Đại úy âm ỷ cười ngầm, hoang vu một cách. Anh chàng chớm dậy cơn hy vọng mê ly, cũng nhoẻn miệng cười theo, hoang vu một cách. Một trận phiêu bồng mỉm miệng đã lan tràn lung trạo khắp mặt cô bác đương hiện diện bà con. Đại úy khẽ dịu dàng kéo lùi chai yểu điệu, làn mắt anh chàng chợt trở cơn ra trò tuyệt vọng, một trận hú tìm lất lây thơ dại đã động tình mở cõi ra phơi, tịch mịch khinh khiêu, im lìm vũ lộng, chập chờn trong xiết bao làn khói thuốc vươn lên, trong mòn hao vợi tàn đêm trắng lậu, trong hình ảnh sắp đi về trấu lặng lẽ của chiến trận ngày mai, ấy đó là mơ? Và chúng tôi chịu chơi trong cuộc, khép kín cõi mình rất ấm trong cái hầm tàu phiêu dạt đương trôi, trong khi ngoài kia hốt tung, hốt hấng, những tiếng nổ ròn gia bội như cơn sóng từng đợt điệp trùng vỗ trên mặt biển khơi. Những người kia chốc nữa sẽ trút sạch làu làu những mồ hôi hiện đại, những tơ tưởng bồ đào cô-nhắc trì diên, những nhơ bẩn bám đầy thân trong chờ đợi, giữa những cơn nước hòa hoa đổ quán của canh trường chiến trận đêm thâu. Tôi cảm thấy họ tới sát mép bờ của thuần thanh thánh thiết.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tại đây tôi ở chốn nào? Một chàng lướt khướt cơn tỉnh cơn say mò mẫm bước vào. Anh đưa tay ve vuốt chòm râu rậm rì hi hữu, và đưa hai con mắt cợt làn như mơn trớn chúng tôi. Làn sóng mắt lướt trên ly cô-nhắc, lờ lững ngó lơ đi, lại trở về vuốt ve cô-nhắc, xoay một cái, đậu vào thân đại úy, rất mực vòi vĩnh van nài. Đại úy âm ỷ cười ngầm, hoang vu một cách. Anh chàng chớm dậy cơn hy vọng mê ly, cũng nhoẻn miệng cười theo, hoang vu một cách. Một trận phiêu bồng mỉm miệng đã lan tràn lung trạo khắp mặt cô bác đương hiện diện bà con. Đại úy khẽ dịu dàng kéo lùi chai yểu điệu, làn mắt anh chàng chợt trở cơn ra trò tuyệt vọng, một trận hú tìm lất lây thơ dại đã động tình mở cõi ra phơi, tịch mịch khinh khiêu, im lìm vũ lộng, chập chờn trong xiết bao làn khói thuốc vươn lên, trong mòn hao vợi tàn đêm trắng lậu, trong hình ảnh sắp đi về trấu lặng lẽ của chiến trận ngày mai, ấy đó là mơ? Và chúng tôi chịu chơi trong cuộc, khép kín cõi mình rất ấm trong cái hầm tàu phiêu dạt đương trôi, trong khi ngoài kia hốt tung, hốt hấng, những tiếng nổ ròn gia bội như cơn sóng từng đợt điệp trùng vỗ trên mặt biển khơi. Những người kia chốc nữa sẽ trút sạch làu làu những mồ hôi hiện đại, những tơ tưởng bồ đào cô-nhắc trì diên, những nhơ bẩn bám đầy thân trong chờ đợi, giữa những cơn nước hòa hoa đổ quán của canh trường chiến trận đêm thâu. Tôi cảm thấy họ tới sát mép bờ của thuần thanh thánh thiết.
Tôi cảm thấy họ tới sát mép bờ của thuần thanh thánh thiết. Nhưng còn một khắc nào chậm rãi, thì cứ ở lại nấn ná thong dong nhảy cỡn cho kéo dài tới đâu cơn nhảy thì tới đó nhảy cơn cái vũ khúc mê ly của gã say tình rượu, trút bình nốc chén, thù tạc chiêu đăm. Và đuổi theo cho tới chỗ kiệt cùng của đuổi theo, cái cuộc cờ kỳ tuyệt trên vạn lý biển dâu. Họ kéo dài ra cái cơn sống cuộc đời nhứt thì thiên tải, được chút nào có thể, thì được chút đó thể hiện ra. Nhưng họ đã lên giây cái đồng hồ đánh hiệu nó ngự tròn trên một cái giá kệ chơi vơi. Thì bọn người kia sẽ đứng lên, vươn mình, nai nịt. Đại úy sẽ vớ khẩu súng lục trúc mai ái giắt vào mình. Chàng rượu dứt áo với thiếp men. Và mọi người sẽ chậm rãi nối đuôi nhau theo con đường du lang lài lài giôn lên thong dong ghé lại như dặn dò rất mực với một mảnh xanh ngần hình chữ nhật hương lừng chị nguyệt bích liên thiên. Họ sẽ nói vài cái đơn sơ như: “Tấn công cà gật… Chiến địa chết bằm… Tiền tuyến toi đâm…” hoặc “Cái rét chịu chơi… Gió sầu tay tổ”. Rồi các cha nội sẽ phóng ầm ra xông tới. Đến giờ, tôi chứng kiến cơn tỉnh giấc của viên đội. Anh nằm ngủ duỗi dài trên một chiếc giường sắt, giữa những đống vôi gạch đổ nát trong một xó căn hầm. Tôi tưởng mình cũng có biết cái hương vị của giấc ngủ kia không khắc khoải không hoang mang, nhưng bình yên hạnh phúc làm sao!
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi cảm thấy họ tới sát mép bờ của thuần thanh thánh thiết. Nhưng còn một khắc nào chậm rãi, thì cứ ở lại nấn ná thong dong nhảy cỡn cho kéo dài tới đâu cơn nhảy thì tới đó nhảy cơn cái vũ khúc mê ly của gã say tình rượu, trút bình nốc chén, thù tạc chiêu đăm. Và đuổi theo cho tới chỗ kiệt cùng của đuổi theo, cái cuộc cờ kỳ tuyệt trên vạn lý biển dâu. Họ kéo dài ra cái cơn sống cuộc đời nhứt thì thiên tải, được chút nào có thể, thì được chút đó thể hiện ra. Nhưng họ đã lên giây cái đồng hồ đánh hiệu nó ngự tròn trên một cái giá kệ chơi vơi. Thì bọn người kia sẽ đứng lên, vươn mình, nai nịt. Đại úy sẽ vớ khẩu súng lục trúc mai ái giắt vào mình. Chàng rượu dứt áo với thiếp men. Và mọi người sẽ chậm rãi nối đuôi nhau theo con đường du lang lài lài giôn lên thong dong ghé lại như dặn dò rất mực với một mảnh xanh ngần hình chữ nhật hương lừng chị nguyệt bích liên thiên. Họ sẽ nói vài cái đơn sơ như: “Tấn công cà gật… Chiến địa chết bằm… Tiền tuyến toi đâm…” hoặc “Cái rét chịu chơi… Gió sầu tay tổ”. Rồi các cha nội sẽ phóng ầm ra xông tới. Đến giờ, tôi chứng kiến cơn tỉnh giấc của viên đội. Anh nằm ngủ duỗi dài trên một chiếc giường sắt, giữa những đống vôi gạch đổ nát trong một xó căn hầm. Tôi tưởng mình cũng có biết cái hương vị của giấc ngủ kia không khắc khoải không hoang mang, nhưng bình yên hạnh phúc làm sao!
Tôi tưởng mình cũng có biết cái hương vị của giấc ngủ kia không khắc khoải không hoang mang, nhưng bình yên hạnh phúc làm sao! Nó xui tôi nhớ lại cái ngày đầu tiên trong sa mạc Libye, Prévot và tôi, mắc nghẽn giữa trời, không nước uống, mắc nghẽn giữa cát nghe hiểm họa trùng trùng, và trước khi cơn khát trở nên quá điêu linh, chúng tôi vẫn còn có thể ngủ được một lần, chỉ một lần thôi hai giờ thẳng giấc. Lúc nhắm hai con mắt lại, khởi sự vào giấc ngủ, tôi đã có cảm tưởng mình sử dụng một quyền hành kỳ diệu: quyền khước bỏ thế giới hiện hữu. Làm chủ một tấm hình hài chưa lên cơn náo động, còn để tôi túc mục yên bình, đối với tôi lúc đó, một phen đã vùi đầu trong hai cánh tay rồi, thì chẳng còn cái gì phân biệt chia xa cái đêm của tôi với một đêm hạnh phúc. Cũng vậy, viên đội nằm khoanh tròn mà ngủ, không ra dạng hình người, và lúc những kẻ vào gọi anh dậy đã thắp một ngọn nến lên và cắm nó vào một miệng chai, thì thoạt tiên tôi chẳng biện biệt được cái gì ra cái gì đương nhô lên khỏi cái đống lù lù vô dạng, trừ ra đôi giày lính. Đôi giày thật bự, có đóng đinh, bọc sắt, đôi giày của người lao công hay của người phu khuân vác ở bến tàu. Anh chàng này mang nơi chân những khí cụ làm việc, và tất cả mọi thứ trên thân anh cũng toàn là khí cụ: bao đạn, súng lục, giây da, nịt lưng. Anh mang đủ yên cương, giàm, ách, đầy đủ các mã cụ của một con ngựa cày bừa. Tại Maroc, nơi những hầm sâu, ta thường thấy những con ngựa mù kéo cối xay.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi tưởng mình cũng có biết cái hương vị của giấc ngủ kia không khắc khoải không hoang mang, nhưng bình yên hạnh phúc làm sao! Nó xui tôi nhớ lại cái ngày đầu tiên trong sa mạc Libye, Prévot và tôi, mắc nghẽn giữa trời, không nước uống, mắc nghẽn giữa cát nghe hiểm họa trùng trùng, và trước khi cơn khát trở nên quá điêu linh, chúng tôi vẫn còn có thể ngủ được một lần, chỉ một lần thôi hai giờ thẳng giấc. Lúc nhắm hai con mắt lại, khởi sự vào giấc ngủ, tôi đã có cảm tưởng mình sử dụng một quyền hành kỳ diệu: quyền khước bỏ thế giới hiện hữu. Làm chủ một tấm hình hài chưa lên cơn náo động, còn để tôi túc mục yên bình, đối với tôi lúc đó, một phen đã vùi đầu trong hai cánh tay rồi, thì chẳng còn cái gì phân biệt chia xa cái đêm của tôi với một đêm hạnh phúc. Cũng vậy, viên đội nằm khoanh tròn mà ngủ, không ra dạng hình người, và lúc những kẻ vào gọi anh dậy đã thắp một ngọn nến lên và cắm nó vào một miệng chai, thì thoạt tiên tôi chẳng biện biệt được cái gì ra cái gì đương nhô lên khỏi cái đống lù lù vô dạng, trừ ra đôi giày lính. Đôi giày thật bự, có đóng đinh, bọc sắt, đôi giày của người lao công hay của người phu khuân vác ở bến tàu. Anh chàng này mang nơi chân những khí cụ làm việc, và tất cả mọi thứ trên thân anh cũng toàn là khí cụ: bao đạn, súng lục, giây da, nịt lưng. Anh mang đủ yên cương, giàm, ách, đầy đủ các mã cụ của một con ngựa cày bừa. Tại Maroc, nơi những hầm sâu, ta thường thấy những con ngựa mù kéo cối xay.
Anh mang đủ yên cương, giàm, ách, đầy đủ các mã cụ của một con ngựa cày bừa. Tại Maroc, nơi những hầm sâu, ta thường thấy những con ngựa mù kéo cối xay. Tại đây, trong cái hầm này, dưới ánh le lói lắt lay đỏ nhợt nhạt của ngọn nến, người ta cũng đang đánh thức một con ngựa mù để xô nó vào cuộc phiêu bồng với tiết điệu cối xay. Thầy đội rục rịch thong dong, lò gương mặt còn ngái ngủ ra một chút, miệng lằm bằm chẳng rõ nói chi. Nhưng lại xoay trở vào tường, không muốn tỉnh giấc, còn muốn rúc sâu vào trong đáy thẳm của giấc ngủ như rúc vào trong cõi bình an bụng mẹ, như lặn xuống đáy nước sâu hang, hai nắm tay loay hoay mở khép như bấu vào một cục rong rêu đen sì đong đưa tròn xinh đâu đố ai biết, để ghì thân ở lại đáy luân trầm. Thôi đành phải gỡ ngón tay chàng ra vậy. Chúng tôi ngồi lên giường anh, một người nhẹ đưa cánh tay luồn dưới cổ anh và mỉm cười nâng cái đầu nặng như thiên lôi nọ. Thật cũng có bề êm dịu giống như trong ấm áp chuồng ngựa cái cảnh tượng dịu dàng của đôi lứa ngựa cụng đầu vào cổ nhau cho cọ cọ. Trong đời tôi chưa hề thấy gì thân ái như thế. Viên đội gắng một lần cuối để trở vào trong những cơn mộng vui tươi của mình, để từ khước cái vũ trụ của chúng ta đầy rẫy những cốt mìn, những mòn hao, những canh dài giá buốt; nhưng chậm mất rồi. Một cái gì đương lung trạo bức bách, một cái gì đi tới tự bên ngoài. Như tiếng chuông nhà trường sáng Chủ Nhật chầm chậm đánh thức cậu học trò bị phạt.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Anh mang đủ yên cương, giàm, ách, đầy đủ các mã cụ của một con ngựa cày bừa. Tại Maroc, nơi những hầm sâu, ta thường thấy những con ngựa mù kéo cối xay. Tại đây, trong cái hầm này, dưới ánh le lói lắt lay đỏ nhợt nhạt của ngọn nến, người ta cũng đang đánh thức một con ngựa mù để xô nó vào cuộc phiêu bồng với tiết điệu cối xay. Thầy đội rục rịch thong dong, lò gương mặt còn ngái ngủ ra một chút, miệng lằm bằm chẳng rõ nói chi. Nhưng lại xoay trở vào tường, không muốn tỉnh giấc, còn muốn rúc sâu vào trong đáy thẳm của giấc ngủ như rúc vào trong cõi bình an bụng mẹ, như lặn xuống đáy nước sâu hang, hai nắm tay loay hoay mở khép như bấu vào một cục rong rêu đen sì đong đưa tròn xinh đâu đố ai biết, để ghì thân ở lại đáy luân trầm. Thôi đành phải gỡ ngón tay chàng ra vậy. Chúng tôi ngồi lên giường anh, một người nhẹ đưa cánh tay luồn dưới cổ anh và mỉm cười nâng cái đầu nặng như thiên lôi nọ. Thật cũng có bề êm dịu giống như trong ấm áp chuồng ngựa cái cảnh tượng dịu dàng của đôi lứa ngựa cụng đầu vào cổ nhau cho cọ cọ. Trong đời tôi chưa hề thấy gì thân ái như thế. Viên đội gắng một lần cuối để trở vào trong những cơn mộng vui tươi của mình, để từ khước cái vũ trụ của chúng ta đầy rẫy những cốt mìn, những mòn hao, những canh dài giá buốt; nhưng chậm mất rồi. Một cái gì đương lung trạo bức bách, một cái gì đi tới tự bên ngoài. Như tiếng chuông nhà trường sáng Chủ Nhật chầm chậm đánh thức cậu học trò bị phạt.
Một cái gì đương lung trạo bức bách, một cái gì đi tới tự bên ngoài. Như tiếng chuông nhà trường sáng Chủ Nhật chầm chậm đánh thức cậu học trò bị phạt. Cậu đã quên hết những bàn ghế, những bảng đen phấn trắng, những bài chép phạt. Cậu mơ màng nghĩ tới những cuộc chơi ngoài đồng; luống công. Tiếng chuông dội mãi và nghiêm khốc lôi cậu trở vào giữa cuộc bất công của nhân gian, không cách gì cưỡng nổi. Cũng tương tự thế, viên đội dần dà thu nhận trở về cái tấm thân hao mòn nhọc mệt, cái tấm thân dạn dày lăn lóc chán chường, cái tấm thân mà mình không còn thiết tới nữa, nhưng biết trút cái của phá gia nọ đi đâu, cái tấm thân sắp sửa phải nếm lại mùi tiền oan, nghiệt chướng trong lạnh lẽo sực tỉnh cơn, những rã rời đốt khớp, những tàn rụng da xương, rồi tới cái khối nặng yên cương giàm ách, rồi cái cuộc chạy lịch kịch cuồng điên, rồi cái chết. Cái chết cũng chẳng đến nỗi nào, nhưng não dạ là cái chết oan gia: cái máu tuôn bầy nhầy đống vũng, cái mười ngón tay nhúng vào gượng gạo chống chỏi đứng lên, cái hổn hển thở từng cơn, cái giá buốt chạy khắp châu thân hay bước tự bốn bề ùa vào vây bọc; cái chết cũng chưa đến nỗi nào, nhưng còn cái tồi tàn của cuộc chết. Nhìn viên đội, tôi tư lự mãi, tôi gẫm lại cái cảnh ảo não của mình lần kia tỉnh giấc, cái cuộc dồn dập gia tăng của khát, của nắng, của cát, mình phải đưa thân ra mang lấy, gánh vào, ôi đời, ôi mộng, cái mộng đời tôi không được phép chọn theo tình tự tôi chiêm bao. Nhưng anh đã đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi trong con mắt:
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Một cái gì đương lung trạo bức bách, một cái gì đi tới tự bên ngoài. Như tiếng chuông nhà trường sáng Chủ Nhật chầm chậm đánh thức cậu học trò bị phạt. Cậu đã quên hết những bàn ghế, những bảng đen phấn trắng, những bài chép phạt. Cậu mơ màng nghĩ tới những cuộc chơi ngoài đồng; luống công. Tiếng chuông dội mãi và nghiêm khốc lôi cậu trở vào giữa cuộc bất công của nhân gian, không cách gì cưỡng nổi. Cũng tương tự thế, viên đội dần dà thu nhận trở về cái tấm thân hao mòn nhọc mệt, cái tấm thân dạn dày lăn lóc chán chường, cái tấm thân mà mình không còn thiết tới nữa, nhưng biết trút cái của phá gia nọ đi đâu, cái tấm thân sắp sửa phải nếm lại mùi tiền oan, nghiệt chướng trong lạnh lẽo sực tỉnh cơn, những rã rời đốt khớp, những tàn rụng da xương, rồi tới cái khối nặng yên cương giàm ách, rồi cái cuộc chạy lịch kịch cuồng điên, rồi cái chết. Cái chết cũng chẳng đến nỗi nào, nhưng não dạ là cái chết oan gia: cái máu tuôn bầy nhầy đống vũng, cái mười ngón tay nhúng vào gượng gạo chống chỏi đứng lên, cái hổn hển thở từng cơn, cái giá buốt chạy khắp châu thân hay bước tự bốn bề ùa vào vây bọc; cái chết cũng chưa đến nỗi nào, nhưng còn cái tồi tàn của cuộc chết. Nhìn viên đội, tôi tư lự mãi, tôi gẫm lại cái cảnh ảo não của mình lần kia tỉnh giấc, cái cuộc dồn dập gia tăng của khát, của nắng, của cát, mình phải đưa thân ra mang lấy, gánh vào, ôi đời, ôi mộng, cái mộng đời tôi không được phép chọn theo tình tự tôi chiêm bao. Nhưng anh đã đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi trong con mắt:
Nhưng anh đã đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi trong con mắt: - Tới giờ? Chính đó là lúc con người xuất hiện. Chính tại đây là chỗ con người đứng ngoài vòng dự toán của luận lý: viên đội mỉm cười! Tà dục nào lung trạo suốt tâm linh? Tôi nhớ lại một đêm Paris. Đêm đó, Mermoz và tôi đã yến tiệc tạc thù với vài bè bạn, mừng một chu niên nào đó chẳng nhớ. Tinh sương tờ mờ, hai đứa còn ngồi tại quán rượu, chán chường vô độ vì cái vô độ của uống, đã ăn, đã cười, đã nói đến ăm ắp buồn nôn rã rời vô lối. Nhưng trời hửng sáng, Mermoz đột ngột chụp lấy cánh tay tôi bóp mạnh đến nỗi nghe cả mấy móng tay anh bấm vào. “Anh nhớ chứ, giờ này tại Dakar…”. Giờ này các anh thợ máy đang dụi mắt, lột lớp vải bọc chong chóng phi cơ, giờ này phi công đi hỏi khí tượng, giờ này mặt đất chỉ còn đón bàn chân nao nức của bạn đồng nghiệp qua lại dập dìu. Trời ửng hồng rồi, yến tiệc soạn sửa rồi, nhưng cho ai kia, khăn bàn trải ra rồi cho một lễ hội mà chúng tôi sẽ không làm thực khách tham dự. Những kẻ khác đang liều mình… “Tại đây sao mà dơ dáng…” Mermoz dứt lời. Còn anh, anh đội, yến hội nào anh được mời vào tham dự, rất đáng liều thân? Trước kia, tôi đã từng được nghe anh thổ lộ tâm tình. Anh đã từng kể lại chuyện đời anh: một chân kế toán lai rai đâu đó tại Barcelone, tại đây anh đã tháng ngày biên chép hàng ngàn con số, và anh không bận tâm nhiều vì những chia rẽ trong nước anh.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhưng anh đã đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi trong con mắt: - Tới giờ? Chính đó là lúc con người xuất hiện. Chính tại đây là chỗ con người đứng ngoài vòng dự toán của luận lý: viên đội mỉm cười! Tà dục nào lung trạo suốt tâm linh? Tôi nhớ lại một đêm Paris. Đêm đó, Mermoz và tôi đã yến tiệc tạc thù với vài bè bạn, mừng một chu niên nào đó chẳng nhớ. Tinh sương tờ mờ, hai đứa còn ngồi tại quán rượu, chán chường vô độ vì cái vô độ của uống, đã ăn, đã cười, đã nói đến ăm ắp buồn nôn rã rời vô lối. Nhưng trời hửng sáng, Mermoz đột ngột chụp lấy cánh tay tôi bóp mạnh đến nỗi nghe cả mấy móng tay anh bấm vào. “Anh nhớ chứ, giờ này tại Dakar…”. Giờ này các anh thợ máy đang dụi mắt, lột lớp vải bọc chong chóng phi cơ, giờ này phi công đi hỏi khí tượng, giờ này mặt đất chỉ còn đón bàn chân nao nức của bạn đồng nghiệp qua lại dập dìu. Trời ửng hồng rồi, yến tiệc soạn sửa rồi, nhưng cho ai kia, khăn bàn trải ra rồi cho một lễ hội mà chúng tôi sẽ không làm thực khách tham dự. Những kẻ khác đang liều mình… “Tại đây sao mà dơ dáng…” Mermoz dứt lời. Còn anh, anh đội, yến hội nào anh được mời vào tham dự, rất đáng liều thân? Trước kia, tôi đã từng được nghe anh thổ lộ tâm tình. Anh đã từng kể lại chuyện đời anh: một chân kế toán lai rai đâu đó tại Barcelone, tại đây anh đã tháng ngày biên chép hàng ngàn con số, và anh không bận tâm nhiều vì những chia rẽ trong nước anh.
Anh đã từng kể lại chuyện đời anh: một chân kế toán lai rai đâu đó tại Barcelone, tại đây anh đã tháng ngày biên chép hàng ngàn con số, và anh không bận tâm nhiều vì những chia rẽ trong nước anh. Nhưng một thằng bạn anh bỗng tòng quân, rồi một thằng thứ hai, rồi một thằng thứ ba, và anh bỗng ngạc nhiên nhận thấy mình đang chịu một cơn biến đổi dị thường: công việc làm bỗng dần dần thấy tẻ nhạt vô nghĩa. Những vui chơi, những lo nghĩ, những tiện nghi tủn mủn, thảy thảy biến thành những thứ gì đâu của một xa xôi quá vãng. Nhưng đó chưa phải là cái hệ trọng. Cho tới lúc nghe tin một thằng bạn chết, tử trận bên Malaga. Thằng bạn cũng chẳng phải là chí thiết chi cho lắm mà nói tới ý muốn trả thù cho nó. Còn như nói về chính trị, thì đó lại là thứ chẳng bao giờ anh quan tâm. Thế tuy nhiên, cái tin kia lại phóng tới trên mình, trên căn số tủn mủn đời mình, mạnh như trận gió biển. Một thằng bạn nhìn anh sáng nọ: - Đi chứ ta? Hai đứa “đi chứ ta – đi chứ” đã lên đường tới đó, tại chốn kia. Và hình ảnh chợt đến để giải thích với tôi cái chân lý mà anh không tìm được lời để diễn tả, nhưng tính cách hiển nhiên của nó đã chi phối lòng anh. Vào mùa chim di thê, lúc những bầy vịt trời từng đợt bay ngang qua trời rộng, thì chúng gây nên những triều sóng dị thường tại những miền đất ở phía dưới dặm mây bay.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Anh đã từng kể lại chuyện đời anh: một chân kế toán lai rai đâu đó tại Barcelone, tại đây anh đã tháng ngày biên chép hàng ngàn con số, và anh không bận tâm nhiều vì những chia rẽ trong nước anh. Nhưng một thằng bạn anh bỗng tòng quân, rồi một thằng thứ hai, rồi một thằng thứ ba, và anh bỗng ngạc nhiên nhận thấy mình đang chịu một cơn biến đổi dị thường: công việc làm bỗng dần dần thấy tẻ nhạt vô nghĩa. Những vui chơi, những lo nghĩ, những tiện nghi tủn mủn, thảy thảy biến thành những thứ gì đâu của một xa xôi quá vãng. Nhưng đó chưa phải là cái hệ trọng. Cho tới lúc nghe tin một thằng bạn chết, tử trận bên Malaga. Thằng bạn cũng chẳng phải là chí thiết chi cho lắm mà nói tới ý muốn trả thù cho nó. Còn như nói về chính trị, thì đó lại là thứ chẳng bao giờ anh quan tâm. Thế tuy nhiên, cái tin kia lại phóng tới trên mình, trên căn số tủn mủn đời mình, mạnh như trận gió biển. Một thằng bạn nhìn anh sáng nọ: - Đi chứ ta? Hai đứa “đi chứ ta – đi chứ” đã lên đường tới đó, tại chốn kia. Và hình ảnh chợt đến để giải thích với tôi cái chân lý mà anh không tìm được lời để diễn tả, nhưng tính cách hiển nhiên của nó đã chi phối lòng anh. Vào mùa chim di thê, lúc những bầy vịt trời từng đợt bay ngang qua trời rộng, thì chúng gây nên những triều sóng dị thường tại những miền đất ở phía dưới dặm mây bay.
Vào mùa chim di thê, lúc những bầy vịt trời từng đợt bay ngang qua trời rộng, thì chúng gây nên những triều sóng dị thường tại những miền đất ở phía dưới dặm mây bay. Lũ vịt nhà, ngong ngóng nhìn lên, như dường bị nhiếp dẫn bởi đường bay lớn rộng của hàng ngũ vịt trời xếp theo hình tam giác dìu dặt tiện gió lướt đi, lũ vịt nhà bỗng dang cách sập sè vụng về đạp nhảy. Tiếng gọi hoang vu đã đánh thức dậy nơi chúng những tàn tích hoang vu nào chẳng rõ. Và bỗng dưng trong một phút, lũ vịt nhà biến làm chim di thê thiên tẩy. Bỗng dưng trong cái đầu âm u bé bỏng cứng rắn kia, vốn chỉ ghi lại quẩn quanh những hình ảnh ao con, nước đục, sâu đen, chuồng tối, thoắt thôi bỗng trào dậy những cơn phiêu bồng thênh thang lục địa, hương vị những gió dàn trên mặt sóng mênh mông, những địa lý đại dương, những họa đồ đại hải… Con vật ngu ngơ vẫn không biết rằng cái óc não bé bỏng của mình lại đủ rộng để mang chứa được bao nhiêu là kỳ quan kiều diễm, thế mà đột nhiên nó đã đập cánh chịu chơi, khinh thường hột thóc, khi dễ con sâu, và muốn mình phải trở nên vịt trời hoang vu náo động. Nhưng tôi nhớ nhiều nhất là mấy con nai sa mạc cũ: tại Juby ngày trước tôi có nuôi mấy con nai sa mạc, tục gọi là linh dương. Bọn chúng tôi thủa đó, tại xứ xa xôi kia, ai ai cũng có nuôi linh dương tròn trịa đôi mắt.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Vào mùa chim di thê, lúc những bầy vịt trời từng đợt bay ngang qua trời rộng, thì chúng gây nên những triều sóng dị thường tại những miền đất ở phía dưới dặm mây bay. Lũ vịt nhà, ngong ngóng nhìn lên, như dường bị nhiếp dẫn bởi đường bay lớn rộng của hàng ngũ vịt trời xếp theo hình tam giác dìu dặt tiện gió lướt đi, lũ vịt nhà bỗng dang cách sập sè vụng về đạp nhảy. Tiếng gọi hoang vu đã đánh thức dậy nơi chúng những tàn tích hoang vu nào chẳng rõ. Và bỗng dưng trong một phút, lũ vịt nhà biến làm chim di thê thiên tẩy. Bỗng dưng trong cái đầu âm u bé bỏng cứng rắn kia, vốn chỉ ghi lại quẩn quanh những hình ảnh ao con, nước đục, sâu đen, chuồng tối, thoắt thôi bỗng trào dậy những cơn phiêu bồng thênh thang lục địa, hương vị những gió dàn trên mặt sóng mênh mông, những địa lý đại dương, những họa đồ đại hải… Con vật ngu ngơ vẫn không biết rằng cái óc não bé bỏng của mình lại đủ rộng để mang chứa được bao nhiêu là kỳ quan kiều diễm, thế mà đột nhiên nó đã đập cánh chịu chơi, khinh thường hột thóc, khi dễ con sâu, và muốn mình phải trở nên vịt trời hoang vu náo động. Nhưng tôi nhớ nhiều nhất là mấy con nai sa mạc cũ: tại Juby ngày trước tôi có nuôi mấy con nai sa mạc, tục gọi là linh dương. Bọn chúng tôi thủa đó, tại xứ xa xôi kia, ai ai cũng có nuôi linh dương tròn trịa đôi mắt.
Bọn chúng tôi thủa đó, tại xứ xa xôi kia, ai ai cũng có nuôi linh dương tròn trịa đôi mắt. Chúng tôi nhốt chúng nó trong một căn nhà bằng dây kẽm đan mắt cáo, để ở ngoài trời, bởi vì linh dương cần có những ngọn nước của gió động phi tuyền, và không có giống gì yếu thơ, ngây dại, mãnh khảnh du dương bằng linh dương được cả. Bắt về nuôi lúc chúng còn bé, chúng vẫn sống được, và đưa mõm gặm nhai tại trong bàn tay người đút. Chúng bằng lòng để cho người vuốt ve, và dụi cái mõm ướt của chúng vào giữa lòng sũng của bàn tay chúng ta. Và ta tưởng chúng đã thuần tính, chịu dan díu cư trú với người, và quen thuộc nết nhau. Ta tưởng đã che chở được chúng trước sức xâm nhập của mối sầu khôn tả, khó hiểu lạ lùng, vốn âm ỷ nung nấu hao mòn hồn linh dương trong lặng lẽ, và đưa chúng nó tới cái chết vô hạn êm đềm… Nhưng một ngày kia bỗng ta thấy chúng thẫn thờ tỳ cặp sừng bé bỏng vào tấm lưới kẽm gai, hướng đầu về phía sa mạc. Một sức nam châm đang hút linh hồn óng ả của linh dương. Chúng không biết rằng chúng trốn tránh con người ta. Chén sữa ta mang lại cho chúng, chúng vẫn tiến đến uống. Chúng cũng đứng yên đưa hình hài cho ta vuốt, chúng vẫn dụi mõm vào lòng bàn tay chúng ta, càng thân ái thiết tha muôn vàn hơn nữa.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Bọn chúng tôi thủa đó, tại xứ xa xôi kia, ai ai cũng có nuôi linh dương tròn trịa đôi mắt. Chúng tôi nhốt chúng nó trong một căn nhà bằng dây kẽm đan mắt cáo, để ở ngoài trời, bởi vì linh dương cần có những ngọn nước của gió động phi tuyền, và không có giống gì yếu thơ, ngây dại, mãnh khảnh du dương bằng linh dương được cả. Bắt về nuôi lúc chúng còn bé, chúng vẫn sống được, và đưa mõm gặm nhai tại trong bàn tay người đút. Chúng bằng lòng để cho người vuốt ve, và dụi cái mõm ướt của chúng vào giữa lòng sũng của bàn tay chúng ta. Và ta tưởng chúng đã thuần tính, chịu dan díu cư trú với người, và quen thuộc nết nhau. Ta tưởng đã che chở được chúng trước sức xâm nhập của mối sầu khôn tả, khó hiểu lạ lùng, vốn âm ỷ nung nấu hao mòn hồn linh dương trong lặng lẽ, và đưa chúng nó tới cái chết vô hạn êm đềm… Nhưng một ngày kia bỗng ta thấy chúng thẫn thờ tỳ cặp sừng bé bỏng vào tấm lưới kẽm gai, hướng đầu về phía sa mạc. Một sức nam châm đang hút linh hồn óng ả của linh dương. Chúng không biết rằng chúng trốn tránh con người ta. Chén sữa ta mang lại cho chúng, chúng vẫn tiến đến uống. Chúng cũng đứng yên đưa hình hài cho ta vuốt, chúng vẫn dụi mõm vào lòng bàn tay chúng ta, càng thân ái thiết tha muôn vàn hơn nữa.
Chén sữa ta mang lại cho chúng, chúng vẫn tiến đến uống. Chúng cũng đứng yên đưa hình hài cho ta vuốt, chúng vẫn dụi mõm vào lòng bàn tay chúng ta, càng thân ái thiết tha muôn vàn hơn nữa. Nhưng ta vừa thả lỏng ngón tay buông chúng ra, ta mới nhận thấy rằng sau một lúc động mình tuyết bạch chúng nhảy tung tăng có chiều như vui, có chiều như hạnh phúc hân hoan bỗng nhiên chúng bị thu hút trở lại bởi niềm gì khác đó, và quay trở lại bên lưới kẽm gai, tì đầu vào kẽm đan mắt cáo. Và nếu ta không can thiệp vào nữa, chúng nằm yên tại đó, cũng chẳng gắng phá chuồng, chẳng chống chọi vì với cái lưới chắn ngang, chỉ giản dị tỳ cặp sừng bé bỏng vào đó, cúi cổ thấp ngẩn ngơ, lặng thinh cho tới chết. Phải chăng mùa yêu đương náo động, phải chăng tuần ân ái than van, hoặc phải chăng chỉ là khát vọng thiết tha một cuộc nhảy tung trời khiêu dược cho phí sức ngất hơi? Gặng hỏi nàng, nàng chẳng nói cho ta hay. Hỡi ôi, từ thủa sơ sinh, ngay khi hai con mắt còn chưa mở mi ra, các cô bé đã vội lìa vú mẹ mà lọt sang tay người. Các cô nào có hay có biết một tý gì đâu của chất hằng sa mạc, của thói thường tự do, của hương lừng hưng dật, phong dụ tình trai. Con đực là cái gì, các cô không rõ. Nhưng các anh, các anh thông thạo hơn nhiều. Cái điều xui các cô trở cơn xao xác, cái sự khiến các cô trở chứng kiếm tìm, cái đó các anh biết rõ, và duy chỉ khoảng rộng tuyết mù là có thể thành tựu giúp các cô thôi. Các cô muốn trở thành linh dương và nhảy múa theo tiết nhịp linh dương.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chén sữa ta mang lại cho chúng, chúng vẫn tiến đến uống. Chúng cũng đứng yên đưa hình hài cho ta vuốt, chúng vẫn dụi mõm vào lòng bàn tay chúng ta, càng thân ái thiết tha muôn vàn hơn nữa. Nhưng ta vừa thả lỏng ngón tay buông chúng ra, ta mới nhận thấy rằng sau một lúc động mình tuyết bạch chúng nhảy tung tăng có chiều như vui, có chiều như hạnh phúc hân hoan bỗng nhiên chúng bị thu hút trở lại bởi niềm gì khác đó, và quay trở lại bên lưới kẽm gai, tì đầu vào kẽm đan mắt cáo. Và nếu ta không can thiệp vào nữa, chúng nằm yên tại đó, cũng chẳng gắng phá chuồng, chẳng chống chọi vì với cái lưới chắn ngang, chỉ giản dị tỳ cặp sừng bé bỏng vào đó, cúi cổ thấp ngẩn ngơ, lặng thinh cho tới chết. Phải chăng mùa yêu đương náo động, phải chăng tuần ân ái than van, hoặc phải chăng chỉ là khát vọng thiết tha một cuộc nhảy tung trời khiêu dược cho phí sức ngất hơi? Gặng hỏi nàng, nàng chẳng nói cho ta hay. Hỡi ôi, từ thủa sơ sinh, ngay khi hai con mắt còn chưa mở mi ra, các cô bé đã vội lìa vú mẹ mà lọt sang tay người. Các cô nào có hay có biết một tý gì đâu của chất hằng sa mạc, của thói thường tự do, của hương lừng hưng dật, phong dụ tình trai. Con đực là cái gì, các cô không rõ. Nhưng các anh, các anh thông thạo hơn nhiều. Cái điều xui các cô trở cơn xao xác, cái sự khiến các cô trở chứng kiếm tìm, cái đó các anh biết rõ, và duy chỉ khoảng rộng tuyết mù là có thể thành tựu giúp các cô thôi. Các cô muốn trở thành linh dương và nhảy múa theo tiết nhịp linh dương.
Các cô muốn trở thành linh dương và nhảy múa theo tiết nhịp linh dương. Tốc độ tung bay theo nhịp nhún nhảy của một trăm ba chục cây số một giờ, dặt dìu, lướt gió, các cô muốn biết thế nào là trận nhảy thẳng băng trên hoàng sa trực tuyến, thế nào là chợt dừng phiêu hốt, thế nào là chợt vút thẳng lên cao, như bất thình lình tại đây, tại đó, những tia lửa hừng đột ngột từ lòng cát vọt lên. Sá gì lũ sài lang rình rập, nếu chân lý của linh dương là phải nếm cái vị kinh hoàng, cái mùi hoảng vía, cái lạc phách xiêu hồn riêng đủ sức xô ép các cô vào cõi mộng tự vượt quá mình, để nảy hột tinh anh giữa tuyền oa lộng múa. Sá gì sư tử kim mao, nếu chân lý của linh dương là được quyền nhập vào cơn nắng mặt trời để vỡ tan hình hài trong móng nhọn! Bạn nhìn chúng và bạn nghĩ: à ra thế, các cô này đương chịu trận tư hương. Tư hương là khát vọng quê nào của chân trời gì chẳng biết… Đối tượng của khát khao, cái đó là thật, nhưng lại không lời để nói được nó ra. Còn chúng ta, chúng ta đang thiếu thốn cái gì? Anh đội ơi, anh tìm ra cái gì tại đây khả dĩ đem lại cho anh cái cảm tưởng mình không vi bội định mệnh của mình? Có lẽ cái cánh tay huynh đệ nâng đầu anh lúc anh còn ngái ngủ, mà sẻ chia chung? Ái ngại giùm, là kẻ đứng rẽ riêng mà nhìn ngó. Nhưng trong tình giao hảo, còn có một độ cao vời hảo hợp, tại đó lòng tri ân, lòng thương hại, cùng không còn nghĩa nữa. Tại đó người ta hô hấp như một tên tù được thoát ly cùm xích.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Các cô muốn trở thành linh dương và nhảy múa theo tiết nhịp linh dương. Tốc độ tung bay theo nhịp nhún nhảy của một trăm ba chục cây số một giờ, dặt dìu, lướt gió, các cô muốn biết thế nào là trận nhảy thẳng băng trên hoàng sa trực tuyến, thế nào là chợt dừng phiêu hốt, thế nào là chợt vút thẳng lên cao, như bất thình lình tại đây, tại đó, những tia lửa hừng đột ngột từ lòng cát vọt lên. Sá gì lũ sài lang rình rập, nếu chân lý của linh dương là phải nếm cái vị kinh hoàng, cái mùi hoảng vía, cái lạc phách xiêu hồn riêng đủ sức xô ép các cô vào cõi mộng tự vượt quá mình, để nảy hột tinh anh giữa tuyền oa lộng múa. Sá gì sư tử kim mao, nếu chân lý của linh dương là được quyền nhập vào cơn nắng mặt trời để vỡ tan hình hài trong móng nhọn! Bạn nhìn chúng và bạn nghĩ: à ra thế, các cô này đương chịu trận tư hương. Tư hương là khát vọng quê nào của chân trời gì chẳng biết… Đối tượng của khát khao, cái đó là thật, nhưng lại không lời để nói được nó ra. Còn chúng ta, chúng ta đang thiếu thốn cái gì? Anh đội ơi, anh tìm ra cái gì tại đây khả dĩ đem lại cho anh cái cảm tưởng mình không vi bội định mệnh của mình? Có lẽ cái cánh tay huynh đệ nâng đầu anh lúc anh còn ngái ngủ, mà sẻ chia chung? Ái ngại giùm, là kẻ đứng rẽ riêng mà nhìn ngó. Nhưng trong tình giao hảo, còn có một độ cao vời hảo hợp, tại đó lòng tri ân, lòng thương hại, cùng không còn nghĩa nữa. Tại đó người ta hô hấp như một tên tù được thoát ly cùm xích.
Nhưng trong tình giao hảo, còn có một độ cao vời hảo hợp, tại đó lòng tri ân, lòng thương hại, cùng không còn nghĩa nữa. Tại đó người ta hô hấp như một tên tù được thoát ly cùm xích. Chúng tôi có biết niềm hảo hợp đó, lúc chúng tôi bay từng đội hai phi cơ vượt qua miền Rio de Oro thuở đó còn chưa quy thuận. Tôi không một lần nào nghe thấy kẻ lâm nạn cảm tạ người giải nguy. Thường thường chúng tôi lại còn chưởi bới nhau chán chê nữa là khác, nhân những cuộc lây lất nhọc nhằn chuyền các bao thư tín từ phi cơ này sang phi cơ khác tại các trạm nghỉ: “Thằng toi đâm! Tao mà bị hỏng máy lúc đó lại tại mày, mày bướng bỉnh như quỷ gặp thiên lôi, cứ điên rồ đòi bay cao hai nghìn thước cho được, giữa cơn gió thổi ngược chiều! Nếu mày biết thân mà nghe theo tao bay thấp, thì có phải đã tới Port Etienne rồi không! Và đứa kia đã liều thân phụng hiến, lại một phen thấy xấu hổ nhận ra mình làm một cái thứ “toi đâm” hoặc “lồi hang” chi đó. Nếu nói cảm tạ nhau, thì cảm tạ thằng kia vì cái vụ gì mới được chứ? Nó cũng có cái quyền vào sinh ra tử trên cuộc sống của chúng tôi đối với nó. Chúng tôi đều là các cành nhánh của một thân cây. Mày cứu tao, thì tao rất lấy làm kiêu hãnh được có một thằng bạn chịu chơi như mày! Anh đội ơi, nó mà ái ngại giùm anh thì còn ra thể thống gì nữa. Mà tại sao nó phải ái ngại, nó là kẻ sắp trang bị anh đủ đầy để anh đi ra ngoài kia chịu chết. Các anh chia nhau một hiểm nguy, các anh đảm nhận cuộc liều thân đứa này vì đứa khác.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhưng trong tình giao hảo, còn có một độ cao vời hảo hợp, tại đó lòng tri ân, lòng thương hại, cùng không còn nghĩa nữa. Tại đó người ta hô hấp như một tên tù được thoát ly cùm xích. Chúng tôi có biết niềm hảo hợp đó, lúc chúng tôi bay từng đội hai phi cơ vượt qua miền Rio de Oro thuở đó còn chưa quy thuận. Tôi không một lần nào nghe thấy kẻ lâm nạn cảm tạ người giải nguy. Thường thường chúng tôi lại còn chưởi bới nhau chán chê nữa là khác, nhân những cuộc lây lất nhọc nhằn chuyền các bao thư tín từ phi cơ này sang phi cơ khác tại các trạm nghỉ: “Thằng toi đâm! Tao mà bị hỏng máy lúc đó lại tại mày, mày bướng bỉnh như quỷ gặp thiên lôi, cứ điên rồ đòi bay cao hai nghìn thước cho được, giữa cơn gió thổi ngược chiều! Nếu mày biết thân mà nghe theo tao bay thấp, thì có phải đã tới Port Etienne rồi không! Và đứa kia đã liều thân phụng hiến, lại một phen thấy xấu hổ nhận ra mình làm một cái thứ “toi đâm” hoặc “lồi hang” chi đó. Nếu nói cảm tạ nhau, thì cảm tạ thằng kia vì cái vụ gì mới được chứ? Nó cũng có cái quyền vào sinh ra tử trên cuộc sống của chúng tôi đối với nó. Chúng tôi đều là các cành nhánh của một thân cây. Mày cứu tao, thì tao rất lấy làm kiêu hãnh được có một thằng bạn chịu chơi như mày! Anh đội ơi, nó mà ái ngại giùm anh thì còn ra thể thống gì nữa. Mà tại sao nó phải ái ngại, nó là kẻ sắp trang bị anh đủ đầy để anh đi ra ngoài kia chịu chết. Các anh chia nhau một hiểm nguy, các anh đảm nhận cuộc liều thân đứa này vì đứa khác.
Mà tại sao nó phải ái ngại, nó là kẻ sắp trang bị anh đủ đầy để anh đi ra ngoài kia chịu chết. Các anh chia nhau một hiểm nguy, các anh đảm nhận cuộc liều thân đứa này vì đứa khác. Trong phút giây đó, người ta nhận ra cái niềm hảo hợp kia không cần lời phô diễn nữa. Tôi đã hiểu cái cuộc: “đi chứ ta – đi chứ” của anh. Nếu ở Barcelone anh đã nghèo nàn, cô đơn sau buổi làm công việc, nếu ngay cả tấm thân anh cũng không nơi lưu trú, thì tại đây anh cảm thấy mình đang thành tựu nghiệp mình, mình đang đi vào cõi của xứ miền bất tuyệt đại hòa đồng. Anh, con người bị ruồng bỏ, bây giờ anh được đón nhận bởi tình thương. Tôi chẳng cần biết là thật hay không, là hợp luận lý hay không, những cái tiếng văn hóa to lớn của những người làm chính trị, những tiếng đó có lẽ đã gieo mầm rắc mống vào trong con người anh. Nếu những tiếng đó đã lung trạo được anh, và đâm chồi ra được, như những hạt giống đâm được chồi ra, thì ấy bởi là chúng đã đáp ứng được khát vọng của anh. Riêng anh là quan tòa xét đoán. Riêng đất đai nhận ra được hạt lúa của mình. 3 Liên kết các anh em bởi một mục đích chung nằm ngoài vòng chúng ta, chỉ khi đó chúng ta mới đề huề hô hấp, và kinh nghiệm cho ta thấy rằng yêu thương không phải là nhìn qua ngó lại nhau, mà ấy là cùng nhìn ngó chung về một hướng. Chỉ thật là bạn hữu lúc cùng liên kết trong một đoạn dây leo núi, hướng lên một chóp, tại đó bồ bịch lại trùng phùng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mà tại sao nó phải ái ngại, nó là kẻ sắp trang bị anh đủ đầy để anh đi ra ngoài kia chịu chết. Các anh chia nhau một hiểm nguy, các anh đảm nhận cuộc liều thân đứa này vì đứa khác. Trong phút giây đó, người ta nhận ra cái niềm hảo hợp kia không cần lời phô diễn nữa. Tôi đã hiểu cái cuộc: “đi chứ ta – đi chứ” của anh. Nếu ở Barcelone anh đã nghèo nàn, cô đơn sau buổi làm công việc, nếu ngay cả tấm thân anh cũng không nơi lưu trú, thì tại đây anh cảm thấy mình đang thành tựu nghiệp mình, mình đang đi vào cõi của xứ miền bất tuyệt đại hòa đồng. Anh, con người bị ruồng bỏ, bây giờ anh được đón nhận bởi tình thương. Tôi chẳng cần biết là thật hay không, là hợp luận lý hay không, những cái tiếng văn hóa to lớn của những người làm chính trị, những tiếng đó có lẽ đã gieo mầm rắc mống vào trong con người anh. Nếu những tiếng đó đã lung trạo được anh, và đâm chồi ra được, như những hạt giống đâm được chồi ra, thì ấy bởi là chúng đã đáp ứng được khát vọng của anh. Riêng anh là quan tòa xét đoán. Riêng đất đai nhận ra được hạt lúa của mình. 3 Liên kết các anh em bởi một mục đích chung nằm ngoài vòng chúng ta, chỉ khi đó chúng ta mới đề huề hô hấp, và kinh nghiệm cho ta thấy rằng yêu thương không phải là nhìn qua ngó lại nhau, mà ấy là cùng nhìn ngó chung về một hướng. Chỉ thật là bạn hữu lúc cùng liên kết trong một đoạn dây leo núi, hướng lên một chóp, tại đó bồ bịch lại trùng phùng.
Chỉ thật là bạn hữu lúc cùng liên kết trong một đoạn dây leo núi, hướng lên một chóp, tại đó bồ bịch lại trùng phùng. Nếu không thì tại sao ngay giữa thế kỷ tiện nghi an lạc này, chúng ta lại cảm thấy một niềm vui viên mãn đến thế, lúc chia nhau những thức ăn cuối cùng trong sa mạc? Trước sự vụ đó, những dự tính của những nhà xã hội học còn có nghĩa lý chi? Đối với tất cả những ai trong chúng tôi đã từng biết niềm vui tót vời của những lần cứu nạn trong Sahara, mọi khoái lạc đều tủn mủn tầm phào. Có lẽ vì vậy mà thế giới ngày nay đang khởi sự rạn vỡ quanh ta. Ai cũng động cơn say cuồng vì những tôn giáo đang hứa hẹn với họ niềm vui túc mục tròn đầy kia. Tất cả chúng ta, bằng những tiếng mâu thuẫn nhau lốp đốp, chúng ta cùng phô diễn những kiền tình, hưng phấn giống nhau. Chúng ta chia rẽ nhau trên bình diện những phương sách, chúng là kết quả của những luận lý, chúng ta không chia rẽ nhau vì mục đích: mục đích giống nhau. Từ đó, ta đừng nên kinh ngạc. Kẻ nào không hay biết gì cả về cõi bí nhiệm tiềm ẩn trong mình, nhưng chợt một lần cảm thấy nó trở cơn thức giấc trong một căn nhà hầm của những người chủ trương vô chính phủ tại Barcelone, nhân vì chứng giám và tham dự những hy sinh, tương thân tương trợ, những hình ảnh nghiêm mật của công chính, kẻ đó suốt đời sẽ biết riêng một chân lý: chân lý của người vô chính phủ.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chỉ thật là bạn hữu lúc cùng liên kết trong một đoạn dây leo núi, hướng lên một chóp, tại đó bồ bịch lại trùng phùng. Nếu không thì tại sao ngay giữa thế kỷ tiện nghi an lạc này, chúng ta lại cảm thấy một niềm vui viên mãn đến thế, lúc chia nhau những thức ăn cuối cùng trong sa mạc? Trước sự vụ đó, những dự tính của những nhà xã hội học còn có nghĩa lý chi? Đối với tất cả những ai trong chúng tôi đã từng biết niềm vui tót vời của những lần cứu nạn trong Sahara, mọi khoái lạc đều tủn mủn tầm phào. Có lẽ vì vậy mà thế giới ngày nay đang khởi sự rạn vỡ quanh ta. Ai cũng động cơn say cuồng vì những tôn giáo đang hứa hẹn với họ niềm vui túc mục tròn đầy kia. Tất cả chúng ta, bằng những tiếng mâu thuẫn nhau lốp đốp, chúng ta cùng phô diễn những kiền tình, hưng phấn giống nhau. Chúng ta chia rẽ nhau trên bình diện những phương sách, chúng là kết quả của những luận lý, chúng ta không chia rẽ nhau vì mục đích: mục đích giống nhau. Từ đó, ta đừng nên kinh ngạc. Kẻ nào không hay biết gì cả về cõi bí nhiệm tiềm ẩn trong mình, nhưng chợt một lần cảm thấy nó trở cơn thức giấc trong một căn nhà hầm của những người chủ trương vô chính phủ tại Barcelone, nhân vì chứng giám và tham dự những hy sinh, tương thân tương trợ, những hình ảnh nghiêm mật của công chính, kẻ đó suốt đời sẽ biết riêng một chân lý: chân lý của người vô chính phủ.
Và kẻ nào có lần đã mang thân canh gác bảo vệ một đoàn thể nữ tu bé bỏng quỳ gối kinh hoàng trong những tu viện Tây Ban Nha, kẻ đó sẽ nguyện suốt đời liều thân cho giáo hội. Lúc Mermoz phóng phi cơ tới triền núi Andes thuộc địa phận Chili, mang niềm tin thắng cuộc trong lòng, nếu ta bảo anh rằng anh lầm to, rằng một lá thư của một người buôn bán có lẽ không đáng để anh liều thân như thế, thì Mermoz ắt hẳn đã cười anh. Chân lý, ấy là cái con người đang nảy nở ở trong anh, lúc anh vượt dãy Andes. Nếu anh muốn chứng minh cho thấy thảm khốc ghê tởm của chiến tranh, với một kẻ không từ chối chiến tranh, anh đừng coi họ là dã man, tìm hiểu họ trước khi phê phán họ. Ta thử gẫm chuyện vị sĩ quan chỉ huy một đồn binh tiền tuyến trong buổi chiến tranh tại Rif, đồn binh đó nằm ép giữa hai ngọn núi địch. Một đêm nọ, ông đón tiếp phái đoàn thương thuyết từ dãy núi phía Tây xuống. Đang uống trà với nhau thì súng nổ. Quân địch dãy núi phía Đông tới đánh đồn. Vị chỉ huy muốn xua các vị quân sứ phái đoàn thương thuyết đi, để rảnh tay ra trận, thì các vị này đáp: “Chúng tôi là khách của ngài tối nay, Thượng Đế không cho phép chúng tôi bỏ ngài…”. Thế là họ nhập vào hàng ngũ thuộc hạ của ông, giải thoát đồn ông, rồi leo trở về sào huyệt chơi vơi như tổ ó đầu non của họ. Rồi tới lượt họ soạn sửa tấn công. Trước một ngày, họ phái sứ giả tới: - Tối hôm trước, chúng tôi có giúp ngài… - Chính thế. - Chúng tôi đã bắn ba trăm viên đạn… - Chính thế. - Phát hoàn số đạn ấy lại chúng tôi, là phải lẽ.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Và kẻ nào có lần đã mang thân canh gác bảo vệ một đoàn thể nữ tu bé bỏng quỳ gối kinh hoàng trong những tu viện Tây Ban Nha, kẻ đó sẽ nguyện suốt đời liều thân cho giáo hội. Lúc Mermoz phóng phi cơ tới triền núi Andes thuộc địa phận Chili, mang niềm tin thắng cuộc trong lòng, nếu ta bảo anh rằng anh lầm to, rằng một lá thư của một người buôn bán có lẽ không đáng để anh liều thân như thế, thì Mermoz ắt hẳn đã cười anh. Chân lý, ấy là cái con người đang nảy nở ở trong anh, lúc anh vượt dãy Andes. Nếu anh muốn chứng minh cho thấy thảm khốc ghê tởm của chiến tranh, với một kẻ không từ chối chiến tranh, anh đừng coi họ là dã man, tìm hiểu họ trước khi phê phán họ. Ta thử gẫm chuyện vị sĩ quan chỉ huy một đồn binh tiền tuyến trong buổi chiến tranh tại Rif, đồn binh đó nằm ép giữa hai ngọn núi địch. Một đêm nọ, ông đón tiếp phái đoàn thương thuyết từ dãy núi phía Tây xuống. Đang uống trà với nhau thì súng nổ. Quân địch dãy núi phía Đông tới đánh đồn. Vị chỉ huy muốn xua các vị quân sứ phái đoàn thương thuyết đi, để rảnh tay ra trận, thì các vị này đáp: “Chúng tôi là khách của ngài tối nay, Thượng Đế không cho phép chúng tôi bỏ ngài…”. Thế là họ nhập vào hàng ngũ thuộc hạ của ông, giải thoát đồn ông, rồi leo trở về sào huyệt chơi vơi như tổ ó đầu non của họ. Rồi tới lượt họ soạn sửa tấn công. Trước một ngày, họ phái sứ giả tới: - Tối hôm trước, chúng tôi có giúp ngài… - Chính thế. - Chúng tôi đã bắn ba trăm viên đạn… - Chính thế. - Phát hoàn số đạn ấy lại chúng tôi, là phải lẽ.
Trước một ngày, họ phái sứ giả tới: - Tối hôm trước, chúng tôi có giúp ngài… - Chính thế. - Chúng tôi đã bắn ba trăm viên đạn… - Chính thế. - Phát hoàn số đạn ấy lại chúng tôi, là phải lẽ. Vị đại úy, vốn người hào hoa quân tử, không thể lợi dụng cái chút ưu thế trong cuộc chơi, nó có được là do lòng quân tử hào hoa của phía địch. Ông hoàn lại họ những viên đạn ngày mai họ sẽ dùng để đánh ông. Chân lý đối với con người, là cái gì làm con người thành một con người. Khi một kẻ nọ vốn biết giữ gìn phong thể trung chính trong giao tế, trung thực đàng hoàng trong cuộc chơi, trung tín trong quý chuộng nhau can tràng tâm phúc “một lời đã biết đến ta”, khi kẻ đó gẫm tới cái cõi cao thượng trong bầu không khí mình được “phép” hoạt du, và gẫm ra cái miền lai rai tử tế của kẻ gian dối mỵ dân nếu gặp dịp thì ắt cũng đã tỏ tình tương giao huynh đệ với cũng chính mấy ông Ả Rập này bằng những vỗ vai bá cổ, cũng ắt đã nịnh nọt họ và đồng thời làm nhục nhã họ (toujours amicalement, bien entendu! ), kẻ ấy nếu gặp ta, nghe ta bảo rằng chàng vị tất đã hành động đúng đường khôn ngoan khôn khéo, thì hẳn y chỉ chào ta bằng một niềm thương hại pha chút khinh bỉ. Và chính chàng ta có lý đó. Nhưng mà anh cũng sẽ có lý như thường, nếu anh ghét chiến tranh. Muốn hiểu con người và những như cầu của nó, muốn biết nó trong phần cốt thiết, thì chẳng nên đem những chân lý hiển nhiên của ta ra mà cho chúng chọi nhau lại qua lốp đốp. Tất cả các anh đều luôn luôn có lý. Luận lý minh giải được mọi sự.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Trước một ngày, họ phái sứ giả tới: - Tối hôm trước, chúng tôi có giúp ngài… - Chính thế. - Chúng tôi đã bắn ba trăm viên đạn… - Chính thế. - Phát hoàn số đạn ấy lại chúng tôi, là phải lẽ. Vị đại úy, vốn người hào hoa quân tử, không thể lợi dụng cái chút ưu thế trong cuộc chơi, nó có được là do lòng quân tử hào hoa của phía địch. Ông hoàn lại họ những viên đạn ngày mai họ sẽ dùng để đánh ông. Chân lý đối với con người, là cái gì làm con người thành một con người. Khi một kẻ nọ vốn biết giữ gìn phong thể trung chính trong giao tế, trung thực đàng hoàng trong cuộc chơi, trung tín trong quý chuộng nhau can tràng tâm phúc “một lời đã biết đến ta”, khi kẻ đó gẫm tới cái cõi cao thượng trong bầu không khí mình được “phép” hoạt du, và gẫm ra cái miền lai rai tử tế của kẻ gian dối mỵ dân nếu gặp dịp thì ắt cũng đã tỏ tình tương giao huynh đệ với cũng chính mấy ông Ả Rập này bằng những vỗ vai bá cổ, cũng ắt đã nịnh nọt họ và đồng thời làm nhục nhã họ (toujours amicalement, bien entendu! ), kẻ ấy nếu gặp ta, nghe ta bảo rằng chàng vị tất đã hành động đúng đường khôn ngoan khôn khéo, thì hẳn y chỉ chào ta bằng một niềm thương hại pha chút khinh bỉ. Và chính chàng ta có lý đó. Nhưng mà anh cũng sẽ có lý như thường, nếu anh ghét chiến tranh. Muốn hiểu con người và những như cầu của nó, muốn biết nó trong phần cốt thiết, thì chẳng nên đem những chân lý hiển nhiên của ta ra mà cho chúng chọi nhau lại qua lốp đốp. Tất cả các anh đều luôn luôn có lý. Luận lý minh giải được mọi sự.
Tất cả các anh đều luôn luôn có lý. Luận lý minh giải được mọi sự. Cái anh chàng nọ cũng cứ có ý luôn, cái anh chàng đem trút lên đầu những gã lưng gù tất cả những hoạn nạn thống khổ trần gian. Nếu chúng ta một mai mở cuộc chiến tranh chống bọn lưng gù, thì chúng ta cũng sẽ mau hăm hở nhiệt thành lắm đó. Chúng ta sẽ trả thù tội ác của bọn gù lưng. Và quả thật bọn gù lưng cũng làm nên tội ác của lưng gù. Muốn thử giải khai cái phần cốt yếu nọ, cần phải tạm quên những mối chia rẽ trong chốc lát, những mối chia rẽ bất hòa, một khi đã chấp nhận, sẽ lôi theo cả một quyển Kinh Thánh thiêng liêng chứa những chân lý cứng đen như đá không bao giờ nhúc nhích, không bao giờ rục rịch, và mở đường cho tinh thần cuồng tín… kể từ… tự đó… mà ra… Người ta có thể chia thiên hạ ra làm hai loại người, người phía hữu và người phía tả, người gù lưng và người không lưng gù, người phát xít và người dân chủ, và hỡi ôi, những phân biệt chia xa kia đố ai mà kích bác cho được. Nhưng, bạn cũng biết đó, chân lý là cái gì dung-dị-hóa cảnh đời, chớ đâu phải là cái gì tạo lập cõi hỗn độn nhà ma. Chân lý, đó là cái ngôn ngữ giải khai phơi mở cái phổ cập hòa đồng. Newton không có “phát minh” một định luật ẩn giấu lâu ngày theo cách điệu một lời giả ngữ mê, ngôn ẩn. Newton đã thực hiện một công trình sáng tạo. Ông đã thiết lập một thứ ngôn ngữ trần gian khả dĩ đồng thời diễn tả sự rụng rơi của một quả táo trên hai hàng cỏ mọc bờ đồng, hoặc sự vụ mặt trời đỏ đăng thiên.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tất cả các anh đều luôn luôn có lý. Luận lý minh giải được mọi sự. Cái anh chàng nọ cũng cứ có ý luôn, cái anh chàng đem trút lên đầu những gã lưng gù tất cả những hoạn nạn thống khổ trần gian. Nếu chúng ta một mai mở cuộc chiến tranh chống bọn lưng gù, thì chúng ta cũng sẽ mau hăm hở nhiệt thành lắm đó. Chúng ta sẽ trả thù tội ác của bọn gù lưng. Và quả thật bọn gù lưng cũng làm nên tội ác của lưng gù. Muốn thử giải khai cái phần cốt yếu nọ, cần phải tạm quên những mối chia rẽ trong chốc lát, những mối chia rẽ bất hòa, một khi đã chấp nhận, sẽ lôi theo cả một quyển Kinh Thánh thiêng liêng chứa những chân lý cứng đen như đá không bao giờ nhúc nhích, không bao giờ rục rịch, và mở đường cho tinh thần cuồng tín… kể từ… tự đó… mà ra… Người ta có thể chia thiên hạ ra làm hai loại người, người phía hữu và người phía tả, người gù lưng và người không lưng gù, người phát xít và người dân chủ, và hỡi ôi, những phân biệt chia xa kia đố ai mà kích bác cho được. Nhưng, bạn cũng biết đó, chân lý là cái gì dung-dị-hóa cảnh đời, chớ đâu phải là cái gì tạo lập cõi hỗn độn nhà ma. Chân lý, đó là cái ngôn ngữ giải khai phơi mở cái phổ cập hòa đồng. Newton không có “phát minh” một định luật ẩn giấu lâu ngày theo cách điệu một lời giả ngữ mê, ngôn ẩn. Newton đã thực hiện một công trình sáng tạo. Ông đã thiết lập một thứ ngôn ngữ trần gian khả dĩ đồng thời diễn tả sự rụng rơi của một quả táo trên hai hàng cỏ mọc bờ đồng, hoặc sự vụ mặt trời đỏ đăng thiên.
Ông đã thiết lập một thứ ngôn ngữ trần gian khả dĩ đồng thời diễn tả sự rụng rơi của một quả táo trên hai hàng cỏ mọc bờ đồng, hoặc sự vụ mặt trời đỏ đăng thiên. Chân lý, không phải là cái gì có thể minh giải, chân lý là cái gì giản dị hóa cho mê cung. Ích gì đâu việc bàn luận về những lý thuyết, những quan niệm luận, những ý thức hệ? Nếu tất cả chúng đều có thể chứng minh, thì tất cả chúng cũng chọi nhau thảy thảy, và những luận bàn kia chỉ gây tuyệt vọng cho sự giải cứu con người. Trong khi đó thì con người, khắp nơi, quanh ta, vẫn bày tỏ những nhu cầu giống nhau như hệt. Chúng ta muốn được giải thoát. Kẻ đào một nhát cuốc muốn biết nhát cuốc có một ý nghĩa nào. Và nhát cuốc của kẻ tội đồ, đương làm nhục nhã tội đồ, không giống nhát cuốc của người khai mỏ, đang làm lớn rộng tinh thần người khai mỏ. Ngục tù áp bức không nằm trong cái việc đào nhát cuốc. Lao lực không có gì đáng tởm, vật chất không có gì đáng ghê. Ao tù thống khổ nằm tại nơi: đào một nhát cuốc mà chẳng thấy ý nghĩa của nhát cuốc, những nhát cuốc không kết liền kẻ đào đất vào với đoàn thể loài người. Và chúng ta muốn thoát ra khỏi ao tù. Tại Âu Châu có hai trăm triệu người sống dở chết dở, vì không thấy ý nghĩa đời mình ở đâu, và họ mong nảy nở. Kỹ nghệ đã lôi rứt họ lìa ra khỏi ngôn ngữ truyền thống điền dã, phỉ phong thuần hức, và nhốt kín họ vào trong những xóm “thương mại bình khang khổng lồ” giống như những nhà ga lựa tàu, đầy rẫy ngổn ngang những dãy toa đen đủi như than.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ông đã thiết lập một thứ ngôn ngữ trần gian khả dĩ đồng thời diễn tả sự rụng rơi của một quả táo trên hai hàng cỏ mọc bờ đồng, hoặc sự vụ mặt trời đỏ đăng thiên. Chân lý, không phải là cái gì có thể minh giải, chân lý là cái gì giản dị hóa cho mê cung. Ích gì đâu việc bàn luận về những lý thuyết, những quan niệm luận, những ý thức hệ? Nếu tất cả chúng đều có thể chứng minh, thì tất cả chúng cũng chọi nhau thảy thảy, và những luận bàn kia chỉ gây tuyệt vọng cho sự giải cứu con người. Trong khi đó thì con người, khắp nơi, quanh ta, vẫn bày tỏ những nhu cầu giống nhau như hệt. Chúng ta muốn được giải thoát. Kẻ đào một nhát cuốc muốn biết nhát cuốc có một ý nghĩa nào. Và nhát cuốc của kẻ tội đồ, đương làm nhục nhã tội đồ, không giống nhát cuốc của người khai mỏ, đang làm lớn rộng tinh thần người khai mỏ. Ngục tù áp bức không nằm trong cái việc đào nhát cuốc. Lao lực không có gì đáng tởm, vật chất không có gì đáng ghê. Ao tù thống khổ nằm tại nơi: đào một nhát cuốc mà chẳng thấy ý nghĩa của nhát cuốc, những nhát cuốc không kết liền kẻ đào đất vào với đoàn thể loài người. Và chúng ta muốn thoát ra khỏi ao tù. Tại Âu Châu có hai trăm triệu người sống dở chết dở, vì không thấy ý nghĩa đời mình ở đâu, và họ mong nảy nở. Kỹ nghệ đã lôi rứt họ lìa ra khỏi ngôn ngữ truyền thống điền dã, phỉ phong thuần hức, và nhốt kín họ vào trong những xóm “thương mại bình khang khổng lồ” giống như những nhà ga lựa tàu, đầy rẫy ngổn ngang những dãy toa đen đủi như than.
Từ đáy thẳm những phường xóm thợ thuyền, họ muốn được thức giấc. Cũng có kẻ, mắc nghẽn trong guồng máy xô bồ nghiệp nghề đủ lối, họ không còn hưởng được những niềm vui của kẻ tiên khu khai khẩn, những niềm vui tôn giáo, những niềm vui của người bác học. Người ta tưởng, muốn nâng cao đời sống của họ, chỉ cần ban áo quần, cấp lương thực, đáp ứng lại những nhu cầu của họ. Và người ta đã dần dà gây dựng cho họ nên anh chàng tiểu tư sản lai rai, hoặc anh làm chính trị thôn làng, hoặc tay chuyên môn không có đời sống nội tâm. Người ta cho họ học tập đủ đầy, nhưng người ta không bồi dưỡng, hàm dục họ. Cái kẻ tưởng rằng văn hóa là miệt mài nhớ nhiều công thức, kẻ đó quan niệm văn hóa một cách thật là ngậm ngùi thiểu não. Một cậu học sinh hạng bét tại trường chuyên nghiệp cũng biết về thiên nhiên và những định luật của thiên nhiên nhiều hơn Descartes và Pascal. Nhưng chàng ta làm sao có được cái khả năng vận dụng tinh thần như những con người đó? Tất cả mọi người cùng âm thầm cảm thấy nhu cầu được nảy nở. Nhưng có những giải pháp đánh lừa. Cho con người vận binh phục nhất tề vào thân, chắc là có thể làm cho y hăm hở nao nức. Y sẽ hát to những bản quân ca, và cùng bạn đồng đội bẻ bánh đề huề chia nhau ăn rộn rịp. Y sẽ tìm ra cái điều y kiếm, là cái hương vị hòa đồng đại thể. Nhưng từ cái miếng bánh cung cấp cho y, y sẽ ra sao nữa?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Từ đáy thẳm những phường xóm thợ thuyền, họ muốn được thức giấc. Cũng có kẻ, mắc nghẽn trong guồng máy xô bồ nghiệp nghề đủ lối, họ không còn hưởng được những niềm vui của kẻ tiên khu khai khẩn, những niềm vui tôn giáo, những niềm vui của người bác học. Người ta tưởng, muốn nâng cao đời sống của họ, chỉ cần ban áo quần, cấp lương thực, đáp ứng lại những nhu cầu của họ. Và người ta đã dần dà gây dựng cho họ nên anh chàng tiểu tư sản lai rai, hoặc anh làm chính trị thôn làng, hoặc tay chuyên môn không có đời sống nội tâm. Người ta cho họ học tập đủ đầy, nhưng người ta không bồi dưỡng, hàm dục họ. Cái kẻ tưởng rằng văn hóa là miệt mài nhớ nhiều công thức, kẻ đó quan niệm văn hóa một cách thật là ngậm ngùi thiểu não. Một cậu học sinh hạng bét tại trường chuyên nghiệp cũng biết về thiên nhiên và những định luật của thiên nhiên nhiều hơn Descartes và Pascal. Nhưng chàng ta làm sao có được cái khả năng vận dụng tinh thần như những con người đó? Tất cả mọi người cùng âm thầm cảm thấy nhu cầu được nảy nở. Nhưng có những giải pháp đánh lừa. Cho con người vận binh phục nhất tề vào thân, chắc là có thể làm cho y hăm hở nao nức. Y sẽ hát to những bản quân ca, và cùng bạn đồng đội bẻ bánh đề huề chia nhau ăn rộn rịp. Y sẽ tìm ra cái điều y kiếm, là cái hương vị hòa đồng đại thể. Nhưng từ cái miếng bánh cung cấp cho y, y sẽ ra sao nữa?
Y sẽ tìm ra cái điều y kiếm, là cái hương vị hòa đồng đại thể. Nhưng từ cái miếng bánh cung cấp cho y, y sẽ ra sao nữa? Người ta có thể đào bới trở ra những ngẫu tượng tà ma, và làm sống trở dậy những thần thoại hồ đồ hay hữu lý, ta có thể làm sống trở dậy những huyền thoại lung lạc như Liên Đức lý thuyết, Đại Nhật Nhi Man chủ nghĩa, hoặc La Mã Đế Quốc chủ nghĩa. Người ta có thể làm ngất ngây dân Đức bằng cái men ngây ngất được là người Đức phiêu bồng, và là đồng bào của Beethoven –Tố-Như-Tử, và đồng quận của Nietzsche – Liệp-Hộ-Hồng-Sơn. Người ta có thể làm say sưa tót vời ngay cả kẻ giữ hầm rượu vốn đã tuyệt diệu say sưa. Và quả thật điều đó dễ làm hơn là gây dựng nên một Beethoven ở trong con người coi kho rượu. Nhưng những ngẫu tượng kia là những tà ma khát máu. Những ma cà rồng vốn thuộc loài ăn thịt. Kẻ chịu chết vì cuộc tiến bộ của trí năng kiến thức, chịu chết vì lo chữa bệnh tật, kẻ đó phụng sự đời sống lúc chịu chết đi. Chết để bành trướng đất đai, mở rộng bờ cõi, có lẽ cũng là việc đẹp lắm, nhưng chiến tranh ngày nay lại tàn phá mất những gì nó tưởng đang bồi dưỡng. Ngày nay, chiến tranh không còn là vấn đề chịu hy sinh một ít máu để hồi sinh một giống nòi. Chiến tranh, từ cái ngày nó được trị liệu, được giải quyết bằng phi cơ và bom đạn chất độc, chiến tranh chỉ là chuyện đổ máu điêu tàn.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Y sẽ tìm ra cái điều y kiếm, là cái hương vị hòa đồng đại thể. Nhưng từ cái miếng bánh cung cấp cho y, y sẽ ra sao nữa? Người ta có thể đào bới trở ra những ngẫu tượng tà ma, và làm sống trở dậy những thần thoại hồ đồ hay hữu lý, ta có thể làm sống trở dậy những huyền thoại lung lạc như Liên Đức lý thuyết, Đại Nhật Nhi Man chủ nghĩa, hoặc La Mã Đế Quốc chủ nghĩa. Người ta có thể làm ngất ngây dân Đức bằng cái men ngây ngất được là người Đức phiêu bồng, và là đồng bào của Beethoven –Tố-Như-Tử, và đồng quận của Nietzsche – Liệp-Hộ-Hồng-Sơn. Người ta có thể làm say sưa tót vời ngay cả kẻ giữ hầm rượu vốn đã tuyệt diệu say sưa. Và quả thật điều đó dễ làm hơn là gây dựng nên một Beethoven ở trong con người coi kho rượu. Nhưng những ngẫu tượng kia là những tà ma khát máu. Những ma cà rồng vốn thuộc loài ăn thịt. Kẻ chịu chết vì cuộc tiến bộ của trí năng kiến thức, chịu chết vì lo chữa bệnh tật, kẻ đó phụng sự đời sống lúc chịu chết đi. Chết để bành trướng đất đai, mở rộng bờ cõi, có lẽ cũng là việc đẹp lắm, nhưng chiến tranh ngày nay lại tàn phá mất những gì nó tưởng đang bồi dưỡng. Ngày nay, chiến tranh không còn là vấn đề chịu hy sinh một ít máu để hồi sinh một giống nòi. Chiến tranh, từ cái ngày nó được trị liệu, được giải quyết bằng phi cơ và bom đạn chất độc, chiến tranh chỉ là chuyện đổ máu điêu tàn.
Chiến tranh, từ cái ngày nó được trị liệu, được giải quyết bằng phi cơ và bom đạn chất độc, chiến tranh chỉ là chuyện đổ máu điêu tàn. Mỗi bên nấp sau một bức tường xi măng, mỗi bên, không làm gì hơn được, thì chỉ còn biết đêm đêm đưa các phi đội len vào trong nội địa của địch mà dội bom ở giữa ruột rà địch, cho tan hoang tim phổi địch, tại trung tâm sinh hoạt của địch, làm tê cóng sản xuất và thương mại của địch. Bên nào tan nát sau, thì bên đó thắng. Và đôi bên tha hồ mà mục nát song song. Trong một thế giới biến thành sa mạc, chúng ta khao khát tìm lại bạn hữu: vị bánh mì bẻ chia nhau giữa bạn bè đồng đội đã xui chúng tôi chấp nhận những giá trị của chiến tranh. Nhưng chúng tôi không cần chiến tranh mới tìm thấy hơi ấm của những chen vai thích cánh trong cuộc chạy đua về chung một đích. Chiến tranh lừa gạt chúng tôi rồi. Lòng căm thù không thêm gì vào niềm hưng phấn trong cuộc. Chúng ta liên đới nhau, cùng phiêu dạt trên một quả hành tinh, cùng là thủy thủ trên một con tàu trên mặt biển. Những nền minh chọi nhau, nếu đã làm thuận lợi thiếp thiết cho những tổng hợp mới, thì đó là điều rất tốt, nhưng nếu để điển diệt nhau thì thật là tàn khốc. Muốn giải thoát chúng ta, chỉ cần giúp nhau ý thức được một mục đích chung nó kết nối mọi người lại, thì hợp nhẽ nhất là nên tìm mục đích đó tại nơi nào nó đoàn kết tất cả chúng ta. Nhà giải phẫu đi thăm bệnh nhân, không có lắng tai nghe những lời than thở của bệnh nhân: qua người bệnh nọ, ông ta tìm chữa chạy cho chính Con Người.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chiến tranh, từ cái ngày nó được trị liệu, được giải quyết bằng phi cơ và bom đạn chất độc, chiến tranh chỉ là chuyện đổ máu điêu tàn. Mỗi bên nấp sau một bức tường xi măng, mỗi bên, không làm gì hơn được, thì chỉ còn biết đêm đêm đưa các phi đội len vào trong nội địa của địch mà dội bom ở giữa ruột rà địch, cho tan hoang tim phổi địch, tại trung tâm sinh hoạt của địch, làm tê cóng sản xuất và thương mại của địch. Bên nào tan nát sau, thì bên đó thắng. Và đôi bên tha hồ mà mục nát song song. Trong một thế giới biến thành sa mạc, chúng ta khao khát tìm lại bạn hữu: vị bánh mì bẻ chia nhau giữa bạn bè đồng đội đã xui chúng tôi chấp nhận những giá trị của chiến tranh. Nhưng chúng tôi không cần chiến tranh mới tìm thấy hơi ấm của những chen vai thích cánh trong cuộc chạy đua về chung một đích. Chiến tranh lừa gạt chúng tôi rồi. Lòng căm thù không thêm gì vào niềm hưng phấn trong cuộc. Chúng ta liên đới nhau, cùng phiêu dạt trên một quả hành tinh, cùng là thủy thủ trên một con tàu trên mặt biển. Những nền minh chọi nhau, nếu đã làm thuận lợi thiếp thiết cho những tổng hợp mới, thì đó là điều rất tốt, nhưng nếu để điển diệt nhau thì thật là tàn khốc. Muốn giải thoát chúng ta, chỉ cần giúp nhau ý thức được một mục đích chung nó kết nối mọi người lại, thì hợp nhẽ nhất là nên tìm mục đích đó tại nơi nào nó đoàn kết tất cả chúng ta. Nhà giải phẫu đi thăm bệnh nhân, không có lắng tai nghe những lời than thở của bệnh nhân: qua người bệnh nọ, ông ta tìm chữa chạy cho chính Con Người.
Nhà giải phẫu đi thăm bệnh nhân, không có lắng tai nghe những lời than thở của bệnh nhân: qua người bệnh nọ, ông ta tìm chữa chạy cho chính Con Người. Nhà giải phẫu nói một ngôn ngữ chung. Cũng vậy, nhà lý học khi ông nghiền ngẫm những phương trình huyền diệu nhờ đó ông lĩnh hội được cùng một lúc cả nguyên tử và cả giải tinh vân. Cho đến anh mục tử đơn sơ, cũng vậy nữa. Vì cái kẻ âm thầm coi sóc vài con cừu dưới ánh sao, nếu anh ta ý thức được vai trò của mình, sẽ nhận thấy mình không chỉ là một tên đày tớ. Mà một tuần binh, một người lính canh, một trường sở trụ. Mà mỗi lính canh đều mang trách nhiệm cho toàn quốc. Anh tưởng rằng kẻ mục tử kia không mong giác ngộ? Tại chiến tuyến Madrid, tôi từng có viếng một nhà trường dựng lên cách các chiến hào năm trăm thước, phía sau một bờ tường đá nhỏ, trên một ngọn đồi. Một thầy cai dạy thực vật học tại đó. Thầy cầm một đóa mỹ nhân thảo, thầy tách rời từng bộ phận mỏng manh của đóa hoa, thầy “thu hút” tới bao nhiêu người râu ria vượt từ các vùng bùn lầy lân cận, lũ lượt kéo tới như đoàn hành hương, không kể gì lửa đạn. Họ ngồi xếp bằng xung quanh thầy cai, chống cằm trên tay, chăm chú lắng nghe thầy giảng. Họ nhíu mày, cắn chặt hàm răng lại, họ không hiểu gì mấy tí, nhưng người ta đã bảo họ: “Các ông là những kẻ man rợ như lồi hang, chưa thoát hẳn cuộc sống toi đâm ăn lông ở lỗ, phải gắng tiến cho kịp nhân loại chớ!” và họ vội vã lịch kịch kéo bước tiến lên cho kịp.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhà giải phẫu đi thăm bệnh nhân, không có lắng tai nghe những lời than thở của bệnh nhân: qua người bệnh nọ, ông ta tìm chữa chạy cho chính Con Người. Nhà giải phẫu nói một ngôn ngữ chung. Cũng vậy, nhà lý học khi ông nghiền ngẫm những phương trình huyền diệu nhờ đó ông lĩnh hội được cùng một lúc cả nguyên tử và cả giải tinh vân. Cho đến anh mục tử đơn sơ, cũng vậy nữa. Vì cái kẻ âm thầm coi sóc vài con cừu dưới ánh sao, nếu anh ta ý thức được vai trò của mình, sẽ nhận thấy mình không chỉ là một tên đày tớ. Mà một tuần binh, một người lính canh, một trường sở trụ. Mà mỗi lính canh đều mang trách nhiệm cho toàn quốc. Anh tưởng rằng kẻ mục tử kia không mong giác ngộ? Tại chiến tuyến Madrid, tôi từng có viếng một nhà trường dựng lên cách các chiến hào năm trăm thước, phía sau một bờ tường đá nhỏ, trên một ngọn đồi. Một thầy cai dạy thực vật học tại đó. Thầy cầm một đóa mỹ nhân thảo, thầy tách rời từng bộ phận mỏng manh của đóa hoa, thầy “thu hút” tới bao nhiêu người râu ria vượt từ các vùng bùn lầy lân cận, lũ lượt kéo tới như đoàn hành hương, không kể gì lửa đạn. Họ ngồi xếp bằng xung quanh thầy cai, chống cằm trên tay, chăm chú lắng nghe thầy giảng. Họ nhíu mày, cắn chặt hàm răng lại, họ không hiểu gì mấy tí, nhưng người ta đã bảo họ: “Các ông là những kẻ man rợ như lồi hang, chưa thoát hẳn cuộc sống toi đâm ăn lông ở lỗ, phải gắng tiến cho kịp nhân loại chớ!” và họ vội vã lịch kịch kéo bước tiến lên cho kịp.
Lúc ta ý thức được vai trò của ta, dù vai trò mờ nhạt mấy đi nữa, thì khi đó ta mới thấy hạnh phúc. Chỉ khi đó ta mới sống yên bình và chết yên bình, bởi vì cái gì đem lại một ý nghĩa cho cuộc sống cũng đem lại một ý nghĩa cho cái chết. Cái chết êm dịu xiết bao nếu nó nằm trong vòng tuần hoàn ổn định của mọi sự, lúc một nông dân miền Provence đi tới chung cục đời mình, đem ký thác cho con mình thừa kế cái tài sản gồm những con dê cái, và những cây ô liu, để mai sau tới lượt chúng sẽ giao phó lại cho cháu họ. Trong dòng dõi điền dã, con người ta chỉ chết một nửa đời mà thôi. Mỗi đời sống cứ theo nhau lần lượt mà rạn nứt như một quả đậu khô nứt vỏ, để cái hạt nó nẩy ra con người ta đón nhận. Một lần, tôi có dịp đứng cạnh ba người nông dân trước giường mẹ họ lúc bà lâm chung. Vâng, cảnh tượng thật là đau đớn. Lần thứ nhì, cuống rốn đứt ngang. Lần thứ nhì, một cái gút sổ tung: cái gút nối kết thế hệ trước với thế hệ sau. Ba đứa con thấy mình lẻ loi, còn phải học hỏi một trăm điều, thiếu mất một bàn ăn để quây quần ngày giỗ, thiếu mất một từ - cực quy tụ tình thương. Nhưng trong lần tử biệt đó, tôi cũng nhận thấy rằng đời sống có thể được ban cấp một lần thứ hai. Những người con ấy, tới lượt họ, họ cũng làm kẻ đầu đàn, tâm điểm cho sự tập trung đoàn kết, họ thành tộc trưởng, cho tới giờ họ sẽ trao quyền điều khiển lại cho lứa đầu thơ dại hiện đang chơi đùa ngoài sân.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lúc ta ý thức được vai trò của ta, dù vai trò mờ nhạt mấy đi nữa, thì khi đó ta mới thấy hạnh phúc. Chỉ khi đó ta mới sống yên bình và chết yên bình, bởi vì cái gì đem lại một ý nghĩa cho cuộc sống cũng đem lại một ý nghĩa cho cái chết. Cái chết êm dịu xiết bao nếu nó nằm trong vòng tuần hoàn ổn định của mọi sự, lúc một nông dân miền Provence đi tới chung cục đời mình, đem ký thác cho con mình thừa kế cái tài sản gồm những con dê cái, và những cây ô liu, để mai sau tới lượt chúng sẽ giao phó lại cho cháu họ. Trong dòng dõi điền dã, con người ta chỉ chết một nửa đời mà thôi. Mỗi đời sống cứ theo nhau lần lượt mà rạn nứt như một quả đậu khô nứt vỏ, để cái hạt nó nẩy ra con người ta đón nhận. Một lần, tôi có dịp đứng cạnh ba người nông dân trước giường mẹ họ lúc bà lâm chung. Vâng, cảnh tượng thật là đau đớn. Lần thứ nhì, cuống rốn đứt ngang. Lần thứ nhì, một cái gút sổ tung: cái gút nối kết thế hệ trước với thế hệ sau. Ba đứa con thấy mình lẻ loi, còn phải học hỏi một trăm điều, thiếu mất một bàn ăn để quây quần ngày giỗ, thiếu mất một từ - cực quy tụ tình thương. Nhưng trong lần tử biệt đó, tôi cũng nhận thấy rằng đời sống có thể được ban cấp một lần thứ hai. Những người con ấy, tới lượt họ, họ cũng làm kẻ đầu đàn, tâm điểm cho sự tập trung đoàn kết, họ thành tộc trưởng, cho tới giờ họ sẽ trao quyền điều khiển lại cho lứa đầu thơ dại hiện đang chơi đùa ngoài sân.
Tôi nhìn người mẹ, người đàn bà nhà quê già nua với khuôn mặt yên bình và nghiêm khắc, môi cắn chặt, cái khuôn mặt biến thành đá lạnh. Và tôi nhận ra khuôn mặt những người con trong đó. Khuôn mặt bà mẹ đã nắn đúc khuôn mặt con. Tấm thân bà mẹ đã đúc thân thể những người con tráng kiện. Và bây giờ, bà nằm yên tan nát, nhưng giống hệt một trái khô đã trao hạt cho đời. Tới lượt con cái bà sẽ đúc nên những tấm thân con người khác, bằng xương máu mình. Tại nông thôn, người ta không chết. Bà mẹ chết rồi, bà mẹ sống muôn năm. Đoạn trường, vâng, nhưng giản dị xiết bao là hình ảnh đó của giây dòng dõi trường tại, lần lượt trút bỏ dọc đường những vỏ khô tóc bạc da mồi, mà thẳng bước tới một chân lý u huyền nào, qua bao bận thay hình đổi dạng. Vì thế cho nên, cũng trong đêm đó, tiếng chuông chiêu hồn tại thôn bản nọ vẳng nghe như chất chứa những gì không phải tuyệt vọng đau thương, mà dạt dào một niềm hân hoan ẩn kín dịu dàng. Tiếng chuông tiễn đưa người chết, tiếng chuông đón tiếp lễ rửa tội người còn, cũng vang một giọng, và tối nay lại vang lên báo hiệu giờ nối tiếp của hai thế hệ giao nhau. Và người ta cảm thấy một niềm thanh thản bàng bạc khi nghe tiếng chuông mừng một bà lão đi về trong lòng đất yên vui. Cái gì chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, chậm rãi như sự tiến triển của một thân cây? Ấy là cuộc sống mà cũng là ý thức tâm linh. Một tiến triển thăng cao huyền bí!
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi nhìn người mẹ, người đàn bà nhà quê già nua với khuôn mặt yên bình và nghiêm khắc, môi cắn chặt, cái khuôn mặt biến thành đá lạnh. Và tôi nhận ra khuôn mặt những người con trong đó. Khuôn mặt bà mẹ đã nắn đúc khuôn mặt con. Tấm thân bà mẹ đã đúc thân thể những người con tráng kiện. Và bây giờ, bà nằm yên tan nát, nhưng giống hệt một trái khô đã trao hạt cho đời. Tới lượt con cái bà sẽ đúc nên những tấm thân con người khác, bằng xương máu mình. Tại nông thôn, người ta không chết. Bà mẹ chết rồi, bà mẹ sống muôn năm. Đoạn trường, vâng, nhưng giản dị xiết bao là hình ảnh đó của giây dòng dõi trường tại, lần lượt trút bỏ dọc đường những vỏ khô tóc bạc da mồi, mà thẳng bước tới một chân lý u huyền nào, qua bao bận thay hình đổi dạng. Vì thế cho nên, cũng trong đêm đó, tiếng chuông chiêu hồn tại thôn bản nọ vẳng nghe như chất chứa những gì không phải tuyệt vọng đau thương, mà dạt dào một niềm hân hoan ẩn kín dịu dàng. Tiếng chuông tiễn đưa người chết, tiếng chuông đón tiếp lễ rửa tội người còn, cũng vang một giọng, và tối nay lại vang lên báo hiệu giờ nối tiếp của hai thế hệ giao nhau. Và người ta cảm thấy một niềm thanh thản bàng bạc khi nghe tiếng chuông mừng một bà lão đi về trong lòng đất yên vui. Cái gì chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, chậm rãi như sự tiến triển của một thân cây? Ấy là cuộc sống mà cũng là ý thức tâm linh. Một tiến triển thăng cao huyền bí!
Cái gì chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, chậm rãi như sự tiến triển của một thân cây? Ấy là cuộc sống mà cũng là ý thức tâm linh. Một tiến triển thăng cao huyền bí! Từ một phún thạch hỏa sơn nung nấu, từ một chất dẻo tinh tú, từ một tế bào sinh động huyền diệu nảy mầm, chúng ta thoát thai và dần dà, tiến triển tuyệt vời cho tới lúc viết những bản dao ca, và ước lượng những giải ngân hà. Bà mẹ không những chỉ truyền cuộc sống cho con: bà mẹ còn dạy cho con học một ngôn ngữ, ký thác cho con gói hành tranh thu nhặt bao ngày trải qua bao thế kỷ, cái kho di sản tinh thần mà bà đã đón nhận, gồm những truyền thống, những khái niệm, những truyền kỳ, tất cả những gì làm nên sự chia biệt giữa Newton, Shakespeare và con người thái cổ ở trong hang tối. Cái điều ta cảm thấy lúc ta đói, cái cơn đói của khát vọng đã giục những người lính Tây Ban Nha lướt qua lửa đạn mà học bài thực vật, cái cơn đói đã xui Mermoz bay qua Nam Đại Tây Dương, hoặc khiến kẻ nọ tới gạ gẫm với nàng thơ, cái điều ta cảm thấy đó là: cuộc phôi dựng chưa hoàn tất, và chúng ta còn phải ý thức về mình và về vũ trụ. Chúng ta phải bắc cầu gieo nhịp trong đêm tăm. Những kẻ không biết tới điều đó, là riêng những kẻ thờ ơ vị kỷ mà làm nề nếp cho lối sống họ tưởng là khôn ngoan, là minh trí. Nhưng khôn ngoan đó là khôn vặt. Thảy thảy trong đời đều chối bỏ cái loại khôn kia. Ô, những bạn hữu, những bạn hữu thân mến của tôi, xin các anh làm chứng giúp: chúng ta thật sự cảm thấy sung sướng là những lúc nào? 4
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cái gì chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, chậm rãi như sự tiến triển của một thân cây? Ấy là cuộc sống mà cũng là ý thức tâm linh. Một tiến triển thăng cao huyền bí! Từ một phún thạch hỏa sơn nung nấu, từ một chất dẻo tinh tú, từ một tế bào sinh động huyền diệu nảy mầm, chúng ta thoát thai và dần dà, tiến triển tuyệt vời cho tới lúc viết những bản dao ca, và ước lượng những giải ngân hà. Bà mẹ không những chỉ truyền cuộc sống cho con: bà mẹ còn dạy cho con học một ngôn ngữ, ký thác cho con gói hành tranh thu nhặt bao ngày trải qua bao thế kỷ, cái kho di sản tinh thần mà bà đã đón nhận, gồm những truyền thống, những khái niệm, những truyền kỳ, tất cả những gì làm nên sự chia biệt giữa Newton, Shakespeare và con người thái cổ ở trong hang tối. Cái điều ta cảm thấy lúc ta đói, cái cơn đói của khát vọng đã giục những người lính Tây Ban Nha lướt qua lửa đạn mà học bài thực vật, cái cơn đói đã xui Mermoz bay qua Nam Đại Tây Dương, hoặc khiến kẻ nọ tới gạ gẫm với nàng thơ, cái điều ta cảm thấy đó là: cuộc phôi dựng chưa hoàn tất, và chúng ta còn phải ý thức về mình và về vũ trụ. Chúng ta phải bắc cầu gieo nhịp trong đêm tăm. Những kẻ không biết tới điều đó, là riêng những kẻ thờ ơ vị kỷ mà làm nề nếp cho lối sống họ tưởng là khôn ngoan, là minh trí. Nhưng khôn ngoan đó là khôn vặt. Thảy thảy trong đời đều chối bỏ cái loại khôn kia. Ô, những bạn hữu, những bạn hữu thân mến của tôi, xin các anh làm chứng giúp: chúng ta thật sự cảm thấy sung sướng là những lúc nào? 4
Thảy thảy trong đời đều chối bỏ cái loại khôn kia. Ô, những bạn hữu, những bạn hữu thân mến của tôi, xin các anh làm chứng giúp: chúng ta thật sự cảm thấy sung sướng là những lúc nào? 4 Và tới đây, tại trang cuối cuốn sách này, tôi nhớ lại những công chức già đã “tháp tùng” tôi, buổi bình minh chuyến thư đầu tiên nọ, thuở may mắn được chọn đi, chúng tôi soạn sửa lột xác để nên người. Họ vẫn rất giống chúng tôi, nhưng lại không biết rằng mình đói. Quá nhiều là cái đám người mà thiên hạ để ngủ yên. Cách đây mấy năm, nhân một chuyến viễn du bằng xe lửa, tôi có ý muốn viếng cái quê hương đang chạy trên đường rầy, trong đó tôi giam mình ba ngày, chịu đựng ba ngày cái tiếng sào sạo bên tai. Tôi đi dọc suốt con tàu đêm, từ đầu tới cuối, khoảng một giờ khuya. Những toa giường ngủ, trống vắng cả. Những toa hạng nhất cũng trống vắng. Nhưng những toa hạng ba thì chứa ngổn ngang hàng trăm thợ thuyền Ba Lan mất việc làm tại đất Pháp phải tìm về quê hương. Tôi dọc theo hành lanh tiến lên, bước qua thân mình những người nằm ngủ. Đứng dưới những ngọn đèn tàu, nhìn vào toa chung chạ giống một phòng ngủ công cộng, nghe nồng hơi đồn binh hoặc cảnh sát cục, tôi thấy cả một đám người hỗn độn nằm ngửa ngang mặc cho tàu tốc hành dồi dập. Cả một lũ người đắm trong ác mộng, đang quay về cõi khốn cùng. Những cái đầu to cạo trọc gối bừa bãi trên thành gỗ những băng dài.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thảy thảy trong đời đều chối bỏ cái loại khôn kia. Ô, những bạn hữu, những bạn hữu thân mến của tôi, xin các anh làm chứng giúp: chúng ta thật sự cảm thấy sung sướng là những lúc nào? 4 Và tới đây, tại trang cuối cuốn sách này, tôi nhớ lại những công chức già đã “tháp tùng” tôi, buổi bình minh chuyến thư đầu tiên nọ, thuở may mắn được chọn đi, chúng tôi soạn sửa lột xác để nên người. Họ vẫn rất giống chúng tôi, nhưng lại không biết rằng mình đói. Quá nhiều là cái đám người mà thiên hạ để ngủ yên. Cách đây mấy năm, nhân một chuyến viễn du bằng xe lửa, tôi có ý muốn viếng cái quê hương đang chạy trên đường rầy, trong đó tôi giam mình ba ngày, chịu đựng ba ngày cái tiếng sào sạo bên tai. Tôi đi dọc suốt con tàu đêm, từ đầu tới cuối, khoảng một giờ khuya. Những toa giường ngủ, trống vắng cả. Những toa hạng nhất cũng trống vắng. Nhưng những toa hạng ba thì chứa ngổn ngang hàng trăm thợ thuyền Ba Lan mất việc làm tại đất Pháp phải tìm về quê hương. Tôi dọc theo hành lanh tiến lên, bước qua thân mình những người nằm ngủ. Đứng dưới những ngọn đèn tàu, nhìn vào toa chung chạ giống một phòng ngủ công cộng, nghe nồng hơi đồn binh hoặc cảnh sát cục, tôi thấy cả một đám người hỗn độn nằm ngửa ngang mặc cho tàu tốc hành dồi dập. Cả một lũ người đắm trong ác mộng, đang quay về cõi khốn cùng. Những cái đầu to cạo trọc gối bừa bãi trên thành gỗ những băng dài.
Cả một lũ người đắm trong ác mộng, đang quay về cõi khốn cùng. Những cái đầu to cạo trọc gối bừa bãi trên thành gỗ những băng dài. Đàn ông, đàn bà, con nít, lăn lộn từ phải sang trái, như bị dày vò bởi tiếng xe chạy ì ầm, những rung chuyển nhồi xóc hăm dạo mãi không nguôi. Họ tìm không ra chỗ yên thân trong giấc ngủ. Và tôi thấy dường như họ đã mất hết nửa tính chất con người, bị xô đẩy trôi dạt từ đầu này tới cuối nọ châu Âu bởi những cuồng lưu kinh tế, bị đánh bật ra khỏi căn nhà phương Bắc, ra khỏi khu vườn bé bỏng với ba chậu phong lữ thảo mà ngày xưa tôi đã từng có dịp ngắm xem tại khung cửa sổ những nhà thợ mỏ Ba Lan. Họ chỉ gom góp mang theo những đồ dùng bếp núc, những chăn màn, gói trong những cái bọc cột bó lôi thôi luộm thuộm. Còn những gì họ đã ve vuốt thân yêu, những gì họ đã nuôi dưỡng thuần thục, chăm sóc ân cần suốt bốn năm hay năm năm lưu trú tại đất Pháp, con mèo, con chó và chậu phong lữ thảo, họ đành phải hy sinh bỏ lại, chỉ mang theo những nồi niêu nấu nướng. Một đứa bé ôm vú mẹ mà bú, người mẹ mỏi mệt quá, trông như đương ngủ. Cuộc sống đang chuyền nhau trong hỗn độn thê thảm của chuyến đi kia. Một cái sọ trơn trụi nặng nề như một hòn đá. Một thân thể gập lại trong giấc ngủ nham nhở, bọc trong lớp áo quần lao động, lồi lõm nhấp nhô. Con người anh giống như một khối đất sét. Là thế đó, trong đêm tăm, những vật lênh đênh trôi dạt tấp bừa tại đây, không ra cái hình thù gì cả.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cả một lũ người đắm trong ác mộng, đang quay về cõi khốn cùng. Những cái đầu to cạo trọc gối bừa bãi trên thành gỗ những băng dài. Đàn ông, đàn bà, con nít, lăn lộn từ phải sang trái, như bị dày vò bởi tiếng xe chạy ì ầm, những rung chuyển nhồi xóc hăm dạo mãi không nguôi. Họ tìm không ra chỗ yên thân trong giấc ngủ. Và tôi thấy dường như họ đã mất hết nửa tính chất con người, bị xô đẩy trôi dạt từ đầu này tới cuối nọ châu Âu bởi những cuồng lưu kinh tế, bị đánh bật ra khỏi căn nhà phương Bắc, ra khỏi khu vườn bé bỏng với ba chậu phong lữ thảo mà ngày xưa tôi đã từng có dịp ngắm xem tại khung cửa sổ những nhà thợ mỏ Ba Lan. Họ chỉ gom góp mang theo những đồ dùng bếp núc, những chăn màn, gói trong những cái bọc cột bó lôi thôi luộm thuộm. Còn những gì họ đã ve vuốt thân yêu, những gì họ đã nuôi dưỡng thuần thục, chăm sóc ân cần suốt bốn năm hay năm năm lưu trú tại đất Pháp, con mèo, con chó và chậu phong lữ thảo, họ đành phải hy sinh bỏ lại, chỉ mang theo những nồi niêu nấu nướng. Một đứa bé ôm vú mẹ mà bú, người mẹ mỏi mệt quá, trông như đương ngủ. Cuộc sống đang chuyền nhau trong hỗn độn thê thảm của chuyến đi kia. Một cái sọ trơn trụi nặng nề như một hòn đá. Một thân thể gập lại trong giấc ngủ nham nhở, bọc trong lớp áo quần lao động, lồi lõm nhấp nhô. Con người anh giống như một khối đất sét. Là thế đó, trong đêm tăm, những vật lênh đênh trôi dạt tấp bừa tại đây, không ra cái hình thù gì cả.
Con người anh giống như một khối đất sét. Là thế đó, trong đêm tăm, những vật lênh đênh trôi dạt tấp bừa tại đây, không ra cái hình thù gì cả. Và tôi nghĩ: vấn đề không nằm trong hoàn cảnh khốn cùng nọ, trong dơ bẩn nọ, trong xấu xí hỗn độn nọ. Nhưng chính người đàn ông đó, chính người đàn bà đó, một ngày xưa ngẫu nhĩ gặp nhau, và người đàn ông chắc đã mỉm cười nhìn người đàn bà: sau buổi làm việc, chắc hẳn anh ta có mang hoa tới tặng nàng. Nhút nhát vụng về, có lẽ anh đã run như cầy sấy vì sợ bị từ khước. Nhưng người đàn bà, vốn bản chất tự nhiên là đong đưa làm đỏm, người đàn bà tin chắc ở cái duyên hấp dẫn của mình, có lẽ nàng đã thích đùa rỡn để chàng đâm lo cưới. Và anh chàng ngày nay chỉ còn là cái máy để cuốc đất, để đập đe bửa củi, anh chàng ấy xưa kia đã từng biết rung động bàng hoàng trong mối khắc khoải êm dịu làm sao. Chỗ huyền bí, là những kẻ đó đã biến thành những đống đất sét nọ. Họ đã chịu qua cái khuôn đúc ác nghiệt nào, như một thứ máy dát, đã tạc ra hình thù oan uổng thế này? Một con vật già, còn giữ cái duyên già lưu lại cho cái duyên trẻ. Thì tại sao cái chất đất thó tốt đẹp của con người lại chịu hủy hoại như điêu đứng thế kia? Tôi tiếp tục đi tuần du giữa cái đám người ngủ hắt hiu thấp thỏm nọ, như não nùng là chốn… Một tiếng ồn mơ hồ thoang thoảng gồm những giọng ngáy ồ ồ, những than thở âm u, những tiếng giày thô cọ vào gỗ, của những kẻ thân xác rã một bên, trằn trọc tìm lăn sang bên khác.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Con người anh giống như một khối đất sét. Là thế đó, trong đêm tăm, những vật lênh đênh trôi dạt tấp bừa tại đây, không ra cái hình thù gì cả. Và tôi nghĩ: vấn đề không nằm trong hoàn cảnh khốn cùng nọ, trong dơ bẩn nọ, trong xấu xí hỗn độn nọ. Nhưng chính người đàn ông đó, chính người đàn bà đó, một ngày xưa ngẫu nhĩ gặp nhau, và người đàn ông chắc đã mỉm cười nhìn người đàn bà: sau buổi làm việc, chắc hẳn anh ta có mang hoa tới tặng nàng. Nhút nhát vụng về, có lẽ anh đã run như cầy sấy vì sợ bị từ khước. Nhưng người đàn bà, vốn bản chất tự nhiên là đong đưa làm đỏm, người đàn bà tin chắc ở cái duyên hấp dẫn của mình, có lẽ nàng đã thích đùa rỡn để chàng đâm lo cưới. Và anh chàng ngày nay chỉ còn là cái máy để cuốc đất, để đập đe bửa củi, anh chàng ấy xưa kia đã từng biết rung động bàng hoàng trong mối khắc khoải êm dịu làm sao. Chỗ huyền bí, là những kẻ đó đã biến thành những đống đất sét nọ. Họ đã chịu qua cái khuôn đúc ác nghiệt nào, như một thứ máy dát, đã tạc ra hình thù oan uổng thế này? Một con vật già, còn giữ cái duyên già lưu lại cho cái duyên trẻ. Thì tại sao cái chất đất thó tốt đẹp của con người lại chịu hủy hoại như điêu đứng thế kia? Tôi tiếp tục đi tuần du giữa cái đám người ngủ hắt hiu thấp thỏm nọ, như não nùng là chốn… Một tiếng ồn mơ hồ thoang thoảng gồm những giọng ngáy ồ ồ, những than thở âm u, những tiếng giày thô cọ vào gỗ, của những kẻ thân xác rã một bên, trằn trọc tìm lăn sang bên khác.
Và mãi mãi vẫn âm thầm gõ nhịp là cái tiếng động liên miên ì ầm của con tàu nghe như tiếng sỏi bị sóng vỗ bật trên bãi biển. Tôi ngồi đối diện với một cặp vợ chồng. Giữa người cha và người mẹ, đứa con thu hình chen ở giữa mà ngủ. Trong giấc ngủ, nó trở mình, và gương mặt nó hiện ra dưới bóng đèn. Một gương mặt thật đáng yêu. Cặp vợ chồng kia đã đẻ ra một thứ trái tươi óng ả. Từ những khối luộm thuộm nặng nề rách rưới kia, đã nảy ra một thành tựu viên mãn duyên dáng yêu kiều. Tôi nghiêng mình nhìn vầng trán trơn tru, cái miệng phụng phịu núng nính, tôi tự nhủ: đây là khuôn mặt nhạc sĩ, đây là Mozart lúc nhỏ, đây là một hứa hẹn đẹp đẽ của đời sống. Những hoàng tử thơ dại trong những câu chuyện thần tiên, cũng vậy mà thôi: Nếu được che chở, nâng niu, bồi dưỡng, nó sẽ thành đạt vô chừng! Khi trong vườn có một đóa hồng nở do nhiều giống ghép thành, một đóa thanh tân, thôi thì các bác làm vườn thi nhau trầm trồ không ngớt tiếng. Người ta để riêng nó ra, người ta chăm sóc, hậu đãi. Nhưng không có kẻ làm vườn chăm sóc cho con người ta. Chú Mozart bé này cũng như bao đứa bé khác, sẽ không thoát khỏi cái máy dát gọt. Mozart sẽ tìm thấy những khoái cảm tuyệt vời trong thứ âm nhạc thối tha: giữa xú khí những hàng cà phê khiêu vũ, Mozart bị lên án mất rồi. Tôi quay trở về toa mình. Tôi tự nhủ: những người kia không hề đau đớn với thân phận họ. Và đây không phải lòng bác ái đang xui tôi bứt rứt. Đây không phải việc lân mẫn xót xa trên một vết thương thiên thu còn chảy máu trở lại.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Và mãi mãi vẫn âm thầm gõ nhịp là cái tiếng động liên miên ì ầm của con tàu nghe như tiếng sỏi bị sóng vỗ bật trên bãi biển. Tôi ngồi đối diện với một cặp vợ chồng. Giữa người cha và người mẹ, đứa con thu hình chen ở giữa mà ngủ. Trong giấc ngủ, nó trở mình, và gương mặt nó hiện ra dưới bóng đèn. Một gương mặt thật đáng yêu. Cặp vợ chồng kia đã đẻ ra một thứ trái tươi óng ả. Từ những khối luộm thuộm nặng nề rách rưới kia, đã nảy ra một thành tựu viên mãn duyên dáng yêu kiều. Tôi nghiêng mình nhìn vầng trán trơn tru, cái miệng phụng phịu núng nính, tôi tự nhủ: đây là khuôn mặt nhạc sĩ, đây là Mozart lúc nhỏ, đây là một hứa hẹn đẹp đẽ của đời sống. Những hoàng tử thơ dại trong những câu chuyện thần tiên, cũng vậy mà thôi: Nếu được che chở, nâng niu, bồi dưỡng, nó sẽ thành đạt vô chừng! Khi trong vườn có một đóa hồng nở do nhiều giống ghép thành, một đóa thanh tân, thôi thì các bác làm vườn thi nhau trầm trồ không ngớt tiếng. Người ta để riêng nó ra, người ta chăm sóc, hậu đãi. Nhưng không có kẻ làm vườn chăm sóc cho con người ta. Chú Mozart bé này cũng như bao đứa bé khác, sẽ không thoát khỏi cái máy dát gọt. Mozart sẽ tìm thấy những khoái cảm tuyệt vời trong thứ âm nhạc thối tha: giữa xú khí những hàng cà phê khiêu vũ, Mozart bị lên án mất rồi. Tôi quay trở về toa mình. Tôi tự nhủ: những người kia không hề đau đớn với thân phận họ. Và đây không phải lòng bác ái đang xui tôi bứt rứt. Đây không phải việc lân mẫn xót xa trên một vết thương thiên thu còn chảy máu trở lại.
Và đây không phải lòng bác ái đang xui tôi bứt rứt. Đây không phải việc lân mẫn xót xa trên một vết thương thiên thu còn chảy máu trở lại. Những kẻ mang vết thương kia không hề cảm thấy mình bị thương. Bị tổn thương, bị xúc phạm tại đây, dường như là toàn thể nhân loại, chứ không phải là một cá nhân. Tôi không tin ở lòng thương hại. Cái xui tôi bứt rứt là quan điểm kẻ làm vườn. Điều xui tôi bứt rứt không phải là sự khốn cùng kia, vì con người ta dù sao rồi cũng nằm yên trong đó được như bọn lười biếng ôm bồng cái “con lười biếng” mà nằm yên. Bao nhiêu thế hệ người Đông Phương sống trong hẩm hiu hiu hắt mà vẫn hài lòng. Điều xui tôi bứt rứt, những tổ chức tô cháo bình dân không giải tỏa được. Điều xui tôi bứt rứt, không phải chuyện đói rách lồi lõm đó, không phải cảnh xấu xa tồi tàn đó. Điều xui tôi bứt rứt là trong mỗi con người kia, có một Mozart bị giết hại. Chỉ có Tinh Thần thổi qua đất thó, là có thể tạo nên con Người. Nguyễn Du: “Ai ngờ một phút tan tành thịt xương” Biển mây vùng vẫy ngang tang. Dẫn mình đi bỏ suối vàng như không. [2] André Malraux, trong Les Voix du Silence, ở cuối tập, trang 639, có tỏ ý không hài lòng với câu này. Malraux chắc là không đọc cuốn sách Saint-Exupéry, nên lầm nghĩa lời nói; tách rời khỏi tiết mạch câu chuyện dị thường, lời nói cô lập chơ vơ, mất hết chân trời viễn vọng. Một kẻ vào sinh ra tử, vừa thoát tay thần chết mở môi nói lời đó lúc nhìn thấy mặt bạn bên mình, bình diện lập tức ở về phía-bên-kia.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Và đây không phải lòng bác ái đang xui tôi bứt rứt. Đây không phải việc lân mẫn xót xa trên một vết thương thiên thu còn chảy máu trở lại. Những kẻ mang vết thương kia không hề cảm thấy mình bị thương. Bị tổn thương, bị xúc phạm tại đây, dường như là toàn thể nhân loại, chứ không phải là một cá nhân. Tôi không tin ở lòng thương hại. Cái xui tôi bứt rứt là quan điểm kẻ làm vườn. Điều xui tôi bứt rứt không phải là sự khốn cùng kia, vì con người ta dù sao rồi cũng nằm yên trong đó được như bọn lười biếng ôm bồng cái “con lười biếng” mà nằm yên. Bao nhiêu thế hệ người Đông Phương sống trong hẩm hiu hiu hắt mà vẫn hài lòng. Điều xui tôi bứt rứt, những tổ chức tô cháo bình dân không giải tỏa được. Điều xui tôi bứt rứt, không phải chuyện đói rách lồi lõm đó, không phải cảnh xấu xa tồi tàn đó. Điều xui tôi bứt rứt là trong mỗi con người kia, có một Mozart bị giết hại. Chỉ có Tinh Thần thổi qua đất thó, là có thể tạo nên con Người. Nguyễn Du: “Ai ngờ một phút tan tành thịt xương” Biển mây vùng vẫy ngang tang. Dẫn mình đi bỏ suối vàng như không. [2] André Malraux, trong Les Voix du Silence, ở cuối tập, trang 639, có tỏ ý không hài lòng với câu này. Malraux chắc là không đọc cuốn sách Saint-Exupéry, nên lầm nghĩa lời nói; tách rời khỏi tiết mạch câu chuyện dị thường, lời nói cô lập chơ vơ, mất hết chân trời viễn vọng. Một kẻ vào sinh ra tử, vừa thoát tay thần chết mở môi nói lời đó lúc nhìn thấy mặt bạn bên mình, bình diện lập tức ở về phía-bên-kia.
Một kẻ vào sinh ra tử, vừa thoát tay thần chết mở môi nói lời đó lúc nhìn thấy mặt bạn bên mình, bình diện lập tức ở về phía-bên-kia. - “Anh Saint-Exupréry, anh thấy đó chứ? Bạn anh đây, tôi giỏi hơn con vật “một chút”, anh hài lòng vì thằng bạn của anh đi. Không bao giờ một con vật làm cái việc tôi đã làm. Vậy mọi con người hãy hân hoan hài hòa đi chứ.” Nếu đẩy sang bình diện lập luận trí thức, ắt là cái tinh thần vừa bi tráng, vừa tươi vui kia sẽ bị tổn thương, hoặc biến mất. Camus cũng cuộc sống một lần bác một câu nói của Saint-Exupréry (xem L’Été). Nhưng do một phép lập ngôn của trường hợp yêu sách. Vốn hoàn toàn chấp thuận nhau, mà người tư tưởng đôi khi phải giả vờ bác nhau trước mặt mọi người. Điệu bài bác kia không hề hiểm độc. Trái lại, nó phơi mở những chân trời giúp kẻ khác lên đường tư tưởng nhận định lại phương hướng, phương vị của mình. [3] Cước chú Đến đây tôi cảm thấy cần trở lại với cước chú ở trong trang 57. André Malraux viết như thế này: “Nhân bản chủ nghĩa, không phải là nói: “Cái điều tôi đã làm, không một con vật nào ắt đã làm”; nhân bản chủ nghĩa, là nói: “Chúng tôi đã khước từ cái mà con thú vật trong chúng tôi đã muốn, và chúng tôi muốn tìm thấy trở lại con người ở mọi nơi nào chúng tôi đã tìm thấy những gì chà đạp nó”.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Một kẻ vào sinh ra tử, vừa thoát tay thần chết mở môi nói lời đó lúc nhìn thấy mặt bạn bên mình, bình diện lập tức ở về phía-bên-kia. - “Anh Saint-Exupréry, anh thấy đó chứ? Bạn anh đây, tôi giỏi hơn con vật “một chút”, anh hài lòng vì thằng bạn của anh đi. Không bao giờ một con vật làm cái việc tôi đã làm. Vậy mọi con người hãy hân hoan hài hòa đi chứ.” Nếu đẩy sang bình diện lập luận trí thức, ắt là cái tinh thần vừa bi tráng, vừa tươi vui kia sẽ bị tổn thương, hoặc biến mất. Camus cũng cuộc sống một lần bác một câu nói của Saint-Exupréry (xem L’Été). Nhưng do một phép lập ngôn của trường hợp yêu sách. Vốn hoàn toàn chấp thuận nhau, mà người tư tưởng đôi khi phải giả vờ bác nhau trước mặt mọi người. Điệu bài bác kia không hề hiểm độc. Trái lại, nó phơi mở những chân trời giúp kẻ khác lên đường tư tưởng nhận định lại phương hướng, phương vị của mình. [3] Cước chú Đến đây tôi cảm thấy cần trở lại với cước chú ở trong trang 57. André Malraux viết như thế này: “Nhân bản chủ nghĩa, không phải là nói: “Cái điều tôi đã làm, không một con vật nào ắt đã làm”; nhân bản chủ nghĩa, là nói: “Chúng tôi đã khước từ cái mà con thú vật trong chúng tôi đã muốn, và chúng tôi muốn tìm thấy trở lại con người ở mọi nơi nào chúng tôi đã tìm thấy những gì chà đạp nó”.
Nguyên văn: L’ humanisme, ce n’est pas dire: “Ce que j’ai fait, aucun animal ne l’aurait fait”, c’est dire: “Nous avons refusé ce que voulait en nous la bête, et nous voulons retrouve l’homme partout où nous avons tronvé ce qui L’écrase”. “Cái điều tôi đã làm, không một con vật nào ắt đã làm”, câu đó, lúc Malraux trích dẫn, ông bỏ bớt vài lời không cần yếu. Số là Saint-Exupéry viết trong Terre des Hommes thế này: “Ce que j’ai fait, je te le jure, jamais aucune bête ne l’éaurait fait” (trang 51). Và tới trang 59, ông bỏ bớt chữ “te” (Ce que j’ai fait, je le jure, jamais aucune bête ne l’aurait fait). Kể ra, danh từ “nhân bản chủ nghĩa” cũng là một danh từ nên tránh, vì cũng như tiếng “giá trị”, nó đã bị đầu độc bởi biết bao nhiêu thế kỷ triết học Tây Phương (Xem Martin Heidegger – Lettre sur l’Humanisme). Nhưng muốn dùng chơi, cũng chẳng sao. Miễn là dùng trong một dòng suy tư xa thẳm hơn về cỗi nguồn. Tuy nhiên, cái điều đáng trách Malraux nhất là ở chỗ: câu nói của ông đưa ra hoàn toàn đúng – cái mới chết! – đúng theo tinh thần của chính Saint-Exupéry nữa, nhưng lại không thể đúng với một linh hồn thuần phác anh-dũng-sơ nguyên như Guillaumet, đương vùng vẫy chống với Tử Thần vì tinh thần trách nhiệm. Và chính Saint-Exupéry mến phục tuyệt đối người bạn chí thiết của mình, cũng là bởi lẽ đó. Ông không thuận nghe theo câu nói của Saint-Exupéry?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nguyên văn: L’ humanisme, ce n’est pas dire: “Ce que j’ai fait, aucun animal ne l’aurait fait”, c’est dire: “Nous avons refusé ce que voulait en nous la bête, et nous voulons retrouve l’homme partout où nous avons tronvé ce qui L’écrase”. “Cái điều tôi đã làm, không một con vật nào ắt đã làm”, câu đó, lúc Malraux trích dẫn, ông bỏ bớt vài lời không cần yếu. Số là Saint-Exupéry viết trong Terre des Hommes thế này: “Ce que j’ai fait, je te le jure, jamais aucune bête ne l’éaurait fait” (trang 51). Và tới trang 59, ông bỏ bớt chữ “te” (Ce que j’ai fait, je le jure, jamais aucune bête ne l’aurait fait). Kể ra, danh từ “nhân bản chủ nghĩa” cũng là một danh từ nên tránh, vì cũng như tiếng “giá trị”, nó đã bị đầu độc bởi biết bao nhiêu thế kỷ triết học Tây Phương (Xem Martin Heidegger – Lettre sur l’Humanisme). Nhưng muốn dùng chơi, cũng chẳng sao. Miễn là dùng trong một dòng suy tư xa thẳm hơn về cỗi nguồn. Tuy nhiên, cái điều đáng trách Malraux nhất là ở chỗ: câu nói của ông đưa ra hoàn toàn đúng – cái mới chết! – đúng theo tinh thần của chính Saint-Exupéry nữa, nhưng lại không thể đúng với một linh hồn thuần phác anh-dũng-sơ nguyên như Guillaumet, đương vùng vẫy chống với Tử Thần vì tinh thần trách nhiệm. Và chính Saint-Exupéry mến phục tuyệt đối người bạn chí thiết của mình, cũng là bởi lẽ đó. Ông không thuận nghe theo câu nói của Saint-Exupéry?
Và chính Saint-Exupéry mến phục tuyệt đối người bạn chí thiết của mình, cũng là bởi lẽ đó. Ông không thuận nghe theo câu nói của Saint-Exupéry? … “Je hais mon époque”, écrivait avant sa mort Saint-Exupéry, pour des raisons qui ne sont pas très éloignées de celles don’t j’ai parlé. Mais, si bouleversant que se soit ce cri, venant de lui qui a aimé les homes dans ce qui’ils ont d’admirable, nous ne le prendrons pas à notre compte. Quelle tentation, pourtan, à certaines heures, de se détourner de ce monde morne et décharné! Mais cette époque est la nôtre et nous ne pouvons vivre en nous haissant”. (L’ÉTÉ – trang 117) Xin dịch: … “Tôi thù ghét thời đại tôi”, không bao lâu trước ngày ông chết, Saint-Exupéry đã viết thế, vì những lý do không quá xa biệt với những lý do tôi vừa nói tới. Nhưng, cho dẫu tiếng kêu kia xui cảm kích bàng hoàng thảng thốt bao nhiêu đi nữa, tiếng kêu vọng tới từ ông ta, là kẻ đã yêu thương con người trong những gì đáng kính phục nhất nơi con người, tiếng kêu kia chúng ta vẫn sẽ không nhận về phần mình được. Tuy nhiên, quyến rũ xiết bao là, đôi giờ đôi lúc, niềm mong muốn quay mặt lánh xa cái cõi trần u buồn và xương xẩu đến cỗi cằn này! Nhưng thời đại này là thời đại chúng ta và chúng ta không thể sống mà căm thù, đầy đọa nhau”.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Và chính Saint-Exupéry mến phục tuyệt đối người bạn chí thiết của mình, cũng là bởi lẽ đó. Ông không thuận nghe theo câu nói của Saint-Exupéry? … “Je hais mon époque”, écrivait avant sa mort Saint-Exupéry, pour des raisons qui ne sont pas très éloignées de celles don’t j’ai parlé. Mais, si bouleversant que se soit ce cri, venant de lui qui a aimé les homes dans ce qui’ils ont d’admirable, nous ne le prendrons pas à notre compte. Quelle tentation, pourtan, à certaines heures, de se détourner de ce monde morne et décharné! Mais cette époque est la nôtre et nous ne pouvons vivre en nous haissant”. (L’ÉTÉ – trang 117) Xin dịch: … “Tôi thù ghét thời đại tôi”, không bao lâu trước ngày ông chết, Saint-Exupéry đã viết thế, vì những lý do không quá xa biệt với những lý do tôi vừa nói tới. Nhưng, cho dẫu tiếng kêu kia xui cảm kích bàng hoàng thảng thốt bao nhiêu đi nữa, tiếng kêu vọng tới từ ông ta, là kẻ đã yêu thương con người trong những gì đáng kính phục nhất nơi con người, tiếng kêu kia chúng ta vẫn sẽ không nhận về phần mình được. Tuy nhiên, quyến rũ xiết bao là, đôi giờ đôi lúc, niềm mong muốn quay mặt lánh xa cái cõi trần u buồn và xương xẩu đến cỗi cằn này! Nhưng thời đại này là thời đại chúng ta và chúng ta không thể sống mà căm thù, đầy đọa nhau”.
Nhưng thời đại này là thời đại chúng ta và chúng ta không thể sống mà căm thù, đầy đọa nhau”. Camus nhìn nhận sự cao nhã hoằng viễn của Saint-Exupéry, nhưng ông phải buộc lòng viết câu cuối – thể theo một phép lập ngôn mà trạng huống thời đại nọ ở Âu Châu đương đòi hỏi thiết tha, sau những cuộc đau đớn của Saint-Exupéry, của Nietzsche… đã đành lòng chịu mang tất cả những nguyền rủa của nhân gian – để cho trong nhân gian, con người còn có thể sống trở lại. Đó chính là cái phần Im-pensé (Ungedachte) trong tác phẩm của nhà tư tưởng sâu rộng. Đó cũng chính là cái chỗ xui nhà tư tưởng đau lòng: “Il n’est pas une vérité qui ne porte avec elle son amertume”. (Camus): không một chân lý nào không mang theo với mình niềm cay đắng của nó. Còn đối với những người lơ đễnh, không bao giờ chịu chậm rãi tư lự, thì chúng ta có thể lý luận theo lối trực tiếp này – và như vậy, đành phải cay đắng làm tổn thương Camus một cách tối ư bất công: Chẳng hạn, ta thử nói thế này: “Ông Camus nghe lộn rồi. Ông bảo: “Nous ne pouvons vivre en haissant”. Chúng ta không thể căm thù đày đọa nhau mà sống được. Nhưng Saint-Exupéry có căm thù ai đâu. Ông căm thù cái thời đại ông đã xui con người này, con người nọ biến thành những sài lang. Mà những thị, phi, đen, trắng đều bị xô đẩy lộn phèo đi tất cả. Kẻ vô tội phải vào tù. Kẻ giết người lại lên án người khác sát nhân. Nếu thỉnh thoảng Saint-Exupéry có công kích kịch liệt một vài kẻ, cũng là với tinh thần nọ, ở tầng thâm viễn nọ.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhưng thời đại này là thời đại chúng ta và chúng ta không thể sống mà căm thù, đầy đọa nhau”. Camus nhìn nhận sự cao nhã hoằng viễn của Saint-Exupéry, nhưng ông phải buộc lòng viết câu cuối – thể theo một phép lập ngôn mà trạng huống thời đại nọ ở Âu Châu đương đòi hỏi thiết tha, sau những cuộc đau đớn của Saint-Exupéry, của Nietzsche… đã đành lòng chịu mang tất cả những nguyền rủa của nhân gian – để cho trong nhân gian, con người còn có thể sống trở lại. Đó chính là cái phần Im-pensé (Ungedachte) trong tác phẩm của nhà tư tưởng sâu rộng. Đó cũng chính là cái chỗ xui nhà tư tưởng đau lòng: “Il n’est pas une vérité qui ne porte avec elle son amertume”. (Camus): không một chân lý nào không mang theo với mình niềm cay đắng của nó. Còn đối với những người lơ đễnh, không bao giờ chịu chậm rãi tư lự, thì chúng ta có thể lý luận theo lối trực tiếp này – và như vậy, đành phải cay đắng làm tổn thương Camus một cách tối ư bất công: Chẳng hạn, ta thử nói thế này: “Ông Camus nghe lộn rồi. Ông bảo: “Nous ne pouvons vivre en haissant”. Chúng ta không thể căm thù đày đọa nhau mà sống được. Nhưng Saint-Exupéry có căm thù ai đâu. Ông căm thù cái thời đại ông đã xui con người này, con người nọ biến thành những sài lang. Mà những thị, phi, đen, trắng đều bị xô đẩy lộn phèo đi tất cả. Kẻ vô tội phải vào tù. Kẻ giết người lại lên án người khác sát nhân. Nếu thỉnh thoảng Saint-Exupéry có công kích kịch liệt một vài kẻ, cũng là với tinh thần nọ, ở tầng thâm viễn nọ.
Kẻ vô tội phải vào tù. Kẻ giết người lại lên án người khác sát nhân. Nếu thỉnh thoảng Saint-Exupéry có công kích kịch liệt một vài kẻ, cũng là với tinh thần nọ, ở tầng thâm viễn nọ. Ông không hề căm giận con người”. Nhưng lý luận như vậy là lý luận theo lối hời hợt thông thường trên bình diện tục tĩu, rất cần thiết đối với số đông – và cũng làm tổn thương chân lý không phải ít. Vì chân lý uyên viễn bao giờ cũng phải hiện ra trong tính chất bội nhị, hàm hỗn – đó là cái mà người Tây Phương gọi là: La Duplicité de l’Être: tính chất bội nhị của Tồn Thể. Đó không phải là điều có thể giải đáp tại đây. Vì vội vã giải đáp tại đây là phản bội câu hỏi ngay – ngay từ trên cơ sở, suy tư vậy. Câu đáp, nó nằm tại trong suy gẫm lặng lẽ của từng người soạn sửa tương ứng về sau. Và trường hợp: một lời cước chú mà phải chia ra làm hai đoạn, ấy cũng là trong tinh thần tôn trọng tính cách bội nhị của Tồn Thể trường lưu vậy. Nhưng cái “vậy” lặp lại hai lần, ba lượt, bốn phen, năm trận, chưa chắc gì đã đúng là cái “hệt”. Vì: câu hỏi, tự trong tinh thể của nó đã mang ý nghĩa một lời đáp – theo nghĩa một tặng vật hàm hỗn vô song cánh mây khép mở. Nói vậy nghe chừng không hợp lý. Nhưng cái Lý nguyên sơ trong tình thế của nó là gì? Khi cái lý nguyên sơ biến thành luận lý hoặc nhà trường (logique) rồi cái luận lý học nhà trường biến thành tiểu luận lý nhà trại (logistique) – thì chúng ta sa ngay vào giữa mê hồn trận ngày nay.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Kẻ vô tội phải vào tù. Kẻ giết người lại lên án người khác sát nhân. Nếu thỉnh thoảng Saint-Exupéry có công kích kịch liệt một vài kẻ, cũng là với tinh thần nọ, ở tầng thâm viễn nọ. Ông không hề căm giận con người”. Nhưng lý luận như vậy là lý luận theo lối hời hợt thông thường trên bình diện tục tĩu, rất cần thiết đối với số đông – và cũng làm tổn thương chân lý không phải ít. Vì chân lý uyên viễn bao giờ cũng phải hiện ra trong tính chất bội nhị, hàm hỗn – đó là cái mà người Tây Phương gọi là: La Duplicité de l’Être: tính chất bội nhị của Tồn Thể. Đó không phải là điều có thể giải đáp tại đây. Vì vội vã giải đáp tại đây là phản bội câu hỏi ngay – ngay từ trên cơ sở, suy tư vậy. Câu đáp, nó nằm tại trong suy gẫm lặng lẽ của từng người soạn sửa tương ứng về sau. Và trường hợp: một lời cước chú mà phải chia ra làm hai đoạn, ấy cũng là trong tinh thần tôn trọng tính cách bội nhị của Tồn Thể trường lưu vậy. Nhưng cái “vậy” lặp lại hai lần, ba lượt, bốn phen, năm trận, chưa chắc gì đã đúng là cái “hệt”. Vì: câu hỏi, tự trong tinh thể của nó đã mang ý nghĩa một lời đáp – theo nghĩa một tặng vật hàm hỗn vô song cánh mây khép mở. Nói vậy nghe chừng không hợp lý. Nhưng cái Lý nguyên sơ trong tình thế của nó là gì? Khi cái lý nguyên sơ biến thành luận lý hoặc nhà trường (logique) rồi cái luận lý học nhà trường biến thành tiểu luận lý nhà trại (logistique) – thì chúng ta sa ngay vào giữa mê hồn trận ngày nay.
Khi cái lý nguyên sơ biến thành luận lý hoặc nhà trường (logique) rồi cái luận lý học nhà trường biến thành tiểu luận lý nhà trại (logistique) – thì chúng ta sa ngay vào giữa mê hồn trận ngày nay. Tôi xin đưa một thí dụ cụ thể, cho thấy cái luận lý nó có thể đưa ta tới Ngõ Cụt nào của lý luận: Ông Jésus, ông Lão Tử, cũng nhận thấy và nhìn ra rằng trẻ con là Thánh, trẻ con theo cho nghĩa con trẻ, chứ không phải trẻ con là ù lì trẻ con. Mà thánh là kẻ “dạy” người. Vậy thì trẻ con phải dạy người. Ngược lại, người nào đòi dạy trẻ con là người đó làm loạn xã hội, cần phải bài trừ. Muốn bài trừ bọn người đông đảo đó, cần phải tổ chức những đoàn thể lớn, những đảng phái mạnh thì mới có cơ chống nổi và bài trừ. Làm sao rúc vào trường để bài trừ họ? Trước tiên, phải đập phá nhà trường!!! Jean Walh bài bác Heidegger cũng lý luận gần giống như vậy, Sartre bài bác Camus cũng giống như vậy. Xin cử ra một thí dụ đơn sơ hơn nữa: Dịch văn thơ bao giờ cũng phải tôn trọng nguyên tác tận trong mạch ngầm tinh thể của tinh thần nó. Vậy bản dịch đúng tất nhiên phải là bản dịch phơi mở được mọi tinh túy của nguyên tác trên mọi bình diện nó di chuyển ở mọi chốn, mọi nơi. Và do đó mọi bản dịch đúng về một tác phẩm phải có một nội dung hình thể giống hệt như nhau. Nhưng xét ra, tự cổ chí kim, chưa hề có hai bản dịch nào, lại giống hệt nhau về cả nội dung lẫn hình thức. Vậy biết làm sao mà nhìn cho ra cái bản dịch đúng. Vì cái đúng, cái chân xác bao giờ cũng là chỗ để mọi cái “phải” chịu đồng quy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Khi cái lý nguyên sơ biến thành luận lý hoặc nhà trường (logique) rồi cái luận lý học nhà trường biến thành tiểu luận lý nhà trại (logistique) – thì chúng ta sa ngay vào giữa mê hồn trận ngày nay. Tôi xin đưa một thí dụ cụ thể, cho thấy cái luận lý nó có thể đưa ta tới Ngõ Cụt nào của lý luận: Ông Jésus, ông Lão Tử, cũng nhận thấy và nhìn ra rằng trẻ con là Thánh, trẻ con theo cho nghĩa con trẻ, chứ không phải trẻ con là ù lì trẻ con. Mà thánh là kẻ “dạy” người. Vậy thì trẻ con phải dạy người. Ngược lại, người nào đòi dạy trẻ con là người đó làm loạn xã hội, cần phải bài trừ. Muốn bài trừ bọn người đông đảo đó, cần phải tổ chức những đoàn thể lớn, những đảng phái mạnh thì mới có cơ chống nổi và bài trừ. Làm sao rúc vào trường để bài trừ họ? Trước tiên, phải đập phá nhà trường!!! Jean Walh bài bác Heidegger cũng lý luận gần giống như vậy, Sartre bài bác Camus cũng giống như vậy. Xin cử ra một thí dụ đơn sơ hơn nữa: Dịch văn thơ bao giờ cũng phải tôn trọng nguyên tác tận trong mạch ngầm tinh thể của tinh thần nó. Vậy bản dịch đúng tất nhiên phải là bản dịch phơi mở được mọi tinh túy của nguyên tác trên mọi bình diện nó di chuyển ở mọi chốn, mọi nơi. Và do đó mọi bản dịch đúng về một tác phẩm phải có một nội dung hình thể giống hệt như nhau. Nhưng xét ra, tự cổ chí kim, chưa hề có hai bản dịch nào, lại giống hệt nhau về cả nội dung lẫn hình thức. Vậy biết làm sao mà nhìn cho ra cái bản dịch đúng. Vì cái đúng, cái chân xác bao giờ cũng là chỗ để mọi cái “phải” chịu đồng quy.
Vậy biết làm sao mà nhìn cho ra cái bản dịch đúng. Vì cái đúng, cái chân xác bao giờ cũng là chỗ để mọi cái “phải” chịu đồng quy. Mà như ta thấy, trong hàng triệu bản dịch chẳng có bản nào là đồng quy cho một bản nào. Vậy tất nhiên mọi bản đều sai be bét cả. Đã sai, còn giữ làm gì. Phải nên vội vã đốt hết một cách thật hấp tấp. Không còn một bản dịch nào còn lý do để tồn tại. Bởi đâu mà có tình huống thảm thê nọ? Nguyên do có lẽ bởi vì: chúng ta quên suy gẫm về tiếng tồn tại. Tồn tại không hẳn là tồn lưu. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng lý do. Lý (lý) do không hẳn là Do Lý. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng “hấp tấp vội vã”. Vội vã không hẳn là vội vàng. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng sai và tiếng đúng. Sai không hẳn là quấy; đúng không hẳn là chính xác; chính xác không hẳn là xác thực; xác thực không hẳn là nghiêm mật – nghĩa là lầm lẫn một cách tai hại hai tiếng: l’exactitude và la pensée. L’exactitude scientifique không phải là la rigueur de la pensée, chúng cùng thiết yếu ở lĩnh vực mình, nhưng hoàn toàn không có gì gần nhau – từ trong bản chất. Hai tiếng đó hoàn toàn biệt lập nhau. Có lẽ tại vì bấy lâu nay người ta thấy chúng gần nhau quá! Và có lẽ nhất, là tại nhà tư tưởng biến thành triết học gia. Mà triết-học-gia là quên mất “gia” là “nhà”, mà chỉ còn nhớ “bác” là “học”. Triết gia biến làm bác học giả. Và cả học giả, cả triết gia cũng có mặc cảm tự-ti-điên-đảo trước khoa học. Như vậy vừa phụ mình lại vừa phụ khoa học.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Vậy biết làm sao mà nhìn cho ra cái bản dịch đúng. Vì cái đúng, cái chân xác bao giờ cũng là chỗ để mọi cái “phải” chịu đồng quy. Mà như ta thấy, trong hàng triệu bản dịch chẳng có bản nào là đồng quy cho một bản nào. Vậy tất nhiên mọi bản đều sai be bét cả. Đã sai, còn giữ làm gì. Phải nên vội vã đốt hết một cách thật hấp tấp. Không còn một bản dịch nào còn lý do để tồn tại. Bởi đâu mà có tình huống thảm thê nọ? Nguyên do có lẽ bởi vì: chúng ta quên suy gẫm về tiếng tồn tại. Tồn tại không hẳn là tồn lưu. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng lý do. Lý (lý) do không hẳn là Do Lý. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng “hấp tấp vội vã”. Vội vã không hẳn là vội vàng. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng sai và tiếng đúng. Sai không hẳn là quấy; đúng không hẳn là chính xác; chính xác không hẳn là xác thực; xác thực không hẳn là nghiêm mật – nghĩa là lầm lẫn một cách tai hại hai tiếng: l’exactitude và la pensée. L’exactitude scientifique không phải là la rigueur de la pensée, chúng cùng thiết yếu ở lĩnh vực mình, nhưng hoàn toàn không có gì gần nhau – từ trong bản chất. Hai tiếng đó hoàn toàn biệt lập nhau. Có lẽ tại vì bấy lâu nay người ta thấy chúng gần nhau quá! Và có lẽ nhất, là tại nhà tư tưởng biến thành triết học gia. Mà triết-học-gia là quên mất “gia” là “nhà”, mà chỉ còn nhớ “bác” là “học”. Triết gia biến làm bác học giả. Và cả học giả, cả triết gia cũng có mặc cảm tự-ti-điên-đảo trước khoa học. Như vậy vừa phụ mình lại vừa phụ khoa học.
Triết gia biến làm bác học giả. Và cả học giả, cả triết gia cũng có mặc cảm tự-ti-điên-đảo trước khoa học. Như vậy vừa phụ mình lại vừa phụ khoa học. Nhưng khoa học hoằng viễn tự buộc mình phải chọn lĩnh vực mình, mà vẫn nguyện cầu cho nhà tư tưởng phải trưởng thành mà thành tựu cho tư tưởng để cùng nhau góp sức giải cứu con người trong hiểm họa về sau, để cùng mong sớm có ngày trùng ngộ bắt tay nhau qua bốn biển giữa một nhà. Nhưng nhà tan và biển mất. Mọi nhà khoa học hoằng viễn hẳn phải nguyện cầu chừng đó. Ngờ đâu nhà tư tưởng lại ưa làm nô lệ ru rú theo đuổi khoa học: lúc nào thấy tư tưởng có-vẻ-không-khoa-học, thì vội vã cho đó không phải là tư tưởng. Do đó, cố công gắng sức làm sao chứng minh cho rõ ràng rằng: tư tưởng của mình thật có tinh thần khoa học một cây! Rồi lại cố công chứng minh một việc thừa, một việc ai ai cũng rõ: phân biệt khoa học và tinh thần khoa học! Người tư tưởng triết gia nào, trong thời đại chúng ta, mang nặng mặc cảm nhiều nhất đối với khoa học? Ấy không ngờ lại là Merleau-Ponty! Ông khá hơn Sartre ở chỗ ông không có mauvaise foi. Ông thua hẳn Sartre về cái thông minh và tài hoa. Cả hai ông cùng thiếu mất cái tinh thần – là cái cốt yếu của tư tưởng Phương Đông. Phương Đông không hẳn là của riêng đông phương. Nerval, Hoelderlin vẫn là những thi nhân tư tưởng Đông Phương. Ngược lại người Đông Phương ngày nay phần đông lại là người nô lệ cho Tây Phương. Suốt đời viết tiếng Việt mà vẫn là văn sĩ Pháp.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Triết gia biến làm bác học giả. Và cả học giả, cả triết gia cũng có mặc cảm tự-ti-điên-đảo trước khoa học. Như vậy vừa phụ mình lại vừa phụ khoa học. Nhưng khoa học hoằng viễn tự buộc mình phải chọn lĩnh vực mình, mà vẫn nguyện cầu cho nhà tư tưởng phải trưởng thành mà thành tựu cho tư tưởng để cùng nhau góp sức giải cứu con người trong hiểm họa về sau, để cùng mong sớm có ngày trùng ngộ bắt tay nhau qua bốn biển giữa một nhà. Nhưng nhà tan và biển mất. Mọi nhà khoa học hoằng viễn hẳn phải nguyện cầu chừng đó. Ngờ đâu nhà tư tưởng lại ưa làm nô lệ ru rú theo đuổi khoa học: lúc nào thấy tư tưởng có-vẻ-không-khoa-học, thì vội vã cho đó không phải là tư tưởng. Do đó, cố công gắng sức làm sao chứng minh cho rõ ràng rằng: tư tưởng của mình thật có tinh thần khoa học một cây! Rồi lại cố công chứng minh một việc thừa, một việc ai ai cũng rõ: phân biệt khoa học và tinh thần khoa học! Người tư tưởng triết gia nào, trong thời đại chúng ta, mang nặng mặc cảm nhiều nhất đối với khoa học? Ấy không ngờ lại là Merleau-Ponty! Ông khá hơn Sartre ở chỗ ông không có mauvaise foi. Ông thua hẳn Sartre về cái thông minh và tài hoa. Cả hai ông cùng thiếu mất cái tinh thần – là cái cốt yếu của tư tưởng Phương Đông. Phương Đông không hẳn là của riêng đông phương. Nerval, Hoelderlin vẫn là những thi nhân tư tưởng Đông Phương. Ngược lại người Đông Phương ngày nay phần đông lại là người nô lệ cho Tây Phương. Suốt đời viết tiếng Việt mà vẫn là văn sĩ Pháp.
Nerval, Hoelderlin vẫn là những thi nhân tư tưởng Đông Phương. Ngược lại người Đông Phương ngày nay phần đông lại là người nô lệ cho Tây Phương. Suốt đời viết tiếng Việt mà vẫn là văn sĩ Pháp. Cũng như có kẻ suốt đời – tức là một trăm năm – viết tiếng Pháp mà vẫn là văn sĩ Việt. Xem lại cái bài ông công kích Einstein mà buồn cười vỡ mật. (Và phải bấm bụng nín cho khỏi cười). Và cái việc buồn cười nhất lại là: ông công kích kịch liệt nhà khoa học Einstein, mà lại vô tình đưa những luận chứng do tinh thần khoa học hạ đẳng đã ngấm ngầm tác động tâm linh ông ở tiềm thức, mặc dù bao lần ông vùng vẫy để thoát ly. Trường hợp Sartre cũng khó mà phận biệt được là ông cũng quá nhiều mauvaise foi (mauvaise foi không hẳn là ác ý) hoặc là ông ta muốn mở một cuộc đùa (đùa không hẳn là chơi) hoặc chịu chơi trong nhất cuộc kỳ - vẫn một cuộc đùa đồ sộ giữa mê hồn trận hiện đại – theo tinh thần ông gán cho một nhân vật: “Tại sao anh làm điều xấu? Vì điều tốt, thiên hạ đã làm rồi”. Cái nguy nhất là tới đây, ta lại phải nêu câu hỏi: Biết đâu chính Merleau-Ponty cũng lại thử đùa rỡn-một-trận với tinh thần hùng vĩ của Einstein??? Nếu không thì tại sao ông lại lý luận như trẻ con, theo lối Platon bàn việc Thi Ca??? Nêu được câu hỏi đó, là biết luận lý tồn lưu, theo nghĩa: luận lý về cái lý-Lô-Gô sơ nguyên ban thủy (nên nhớ sơ, nguyên, ban, thủy, xin được hiểu mỗi tiếng theo hai nghĩa bội nhị khác nhau – hai nghĩa vừa xa vừa gần nhau). Có thể giải thích cụ thể hơn, rõ ràng hơn nữa không?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nerval, Hoelderlin vẫn là những thi nhân tư tưởng Đông Phương. Ngược lại người Đông Phương ngày nay phần đông lại là người nô lệ cho Tây Phương. Suốt đời viết tiếng Việt mà vẫn là văn sĩ Pháp. Cũng như có kẻ suốt đời – tức là một trăm năm – viết tiếng Pháp mà vẫn là văn sĩ Việt. Xem lại cái bài ông công kích Einstein mà buồn cười vỡ mật. (Và phải bấm bụng nín cho khỏi cười). Và cái việc buồn cười nhất lại là: ông công kích kịch liệt nhà khoa học Einstein, mà lại vô tình đưa những luận chứng do tinh thần khoa học hạ đẳng đã ngấm ngầm tác động tâm linh ông ở tiềm thức, mặc dù bao lần ông vùng vẫy để thoát ly. Trường hợp Sartre cũng khó mà phận biệt được là ông cũng quá nhiều mauvaise foi (mauvaise foi không hẳn là ác ý) hoặc là ông ta muốn mở một cuộc đùa (đùa không hẳn là chơi) hoặc chịu chơi trong nhất cuộc kỳ - vẫn một cuộc đùa đồ sộ giữa mê hồn trận hiện đại – theo tinh thần ông gán cho một nhân vật: “Tại sao anh làm điều xấu? Vì điều tốt, thiên hạ đã làm rồi”. Cái nguy nhất là tới đây, ta lại phải nêu câu hỏi: Biết đâu chính Merleau-Ponty cũng lại thử đùa rỡn-một-trận với tinh thần hùng vĩ của Einstein??? Nếu không thì tại sao ông lại lý luận như trẻ con, theo lối Platon bàn việc Thi Ca??? Nêu được câu hỏi đó, là biết luận lý tồn lưu, theo nghĩa: luận lý về cái lý-Lô-Gô sơ nguyên ban thủy (nên nhớ sơ, nguyên, ban, thủy, xin được hiểu mỗi tiếng theo hai nghĩa bội nhị khác nhau – hai nghĩa vừa xa vừa gần nhau). Có thể giải thích cụ thể hơn, rõ ràng hơn nữa không?
Có thể giải thích cụ thể hơn, rõ ràng hơn nữa không? Về cái lối luận lý tồn lưu? Xin cử một thí dụ cụ thể về cái lối luận lý tồn-lưu-phiêu-bồng vì rất mực cụ thể mà biến thành siêu thể: Bấy lâu nay ta nghĩ rằng ta-tư-tưởng. Làm sao có thể tin như thế được? Bởi vì thật ra ta không tư tưởng, mà chính tư tưởng về với chúng ta. Ai chẳng thường kinh nghiệm điều này: nhiều lúc ta vò đầu, bứt tóc, ngắt lông, mà nào có nghĩ ra cái tư tưởng nào đâu. Bỗng một bình minh (theo nghĩa bóng: bình minh có thể là hoàng hôn, có thể là nửa đêm gà gáy bỗng dưng sau một giấc chiêm bao, từ đâu chẳng rõ) ta – “A ha! Thử hỏi: nếu tư tưởng không về với ta trong chiêm bao mà ứng mộng, theo lối Đạm Tiên về với Kiều, thì làm sao ta lại thấy ra, mà kêu to như thế? Lúc ta tìm thì nó không tới; ta tìm dữ, thì chính ta điên đầu. Sau một giấc chiêm bao ta phiêu bồng theo cánh bướm, bỗng tư tưởng đến với ta như đã đến với Trang Tử, hoặc lớn hơn đôi chút, theo cánh bướm dìu về. Người bị ảnh hưởng tâm lý học Tây Phương hạ đẳng, sẽ lôi những giải thích lai rai về tâm lý ra mà bác ý kiến trên đây. Họ bảo: “Không thể nói là tư tưởng đến với ta. Chính là ta tìm ra tư tưởng. Cứ thử luận lý theo cái thí dụ anh nêu ra. Anh tưởng rằng khi anh ngủ, là anh triệt để ngủ nướng như lá cỏ? Lúc anh ngủ, tiềm thức anh vẫn tiếp tục làm việc một cách sâu thẳm mà minh mẫn vô cùng. Rồi tỉnh cơn ngủ, trở giấc trút trận chiêm bao, anh tưởng rằng: bỗng dưng mà tư tưởng đến?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Có thể giải thích cụ thể hơn, rõ ràng hơn nữa không? Về cái lối luận lý tồn lưu? Xin cử một thí dụ cụ thể về cái lối luận lý tồn-lưu-phiêu-bồng vì rất mực cụ thể mà biến thành siêu thể: Bấy lâu nay ta nghĩ rằng ta-tư-tưởng. Làm sao có thể tin như thế được? Bởi vì thật ra ta không tư tưởng, mà chính tư tưởng về với chúng ta. Ai chẳng thường kinh nghiệm điều này: nhiều lúc ta vò đầu, bứt tóc, ngắt lông, mà nào có nghĩ ra cái tư tưởng nào đâu. Bỗng một bình minh (theo nghĩa bóng: bình minh có thể là hoàng hôn, có thể là nửa đêm gà gáy bỗng dưng sau một giấc chiêm bao, từ đâu chẳng rõ) ta – “A ha! Thử hỏi: nếu tư tưởng không về với ta trong chiêm bao mà ứng mộng, theo lối Đạm Tiên về với Kiều, thì làm sao ta lại thấy ra, mà kêu to như thế? Lúc ta tìm thì nó không tới; ta tìm dữ, thì chính ta điên đầu. Sau một giấc chiêm bao ta phiêu bồng theo cánh bướm, bỗng tư tưởng đến với ta như đã đến với Trang Tử, hoặc lớn hơn đôi chút, theo cánh bướm dìu về. Người bị ảnh hưởng tâm lý học Tây Phương hạ đẳng, sẽ lôi những giải thích lai rai về tâm lý ra mà bác ý kiến trên đây. Họ bảo: “Không thể nói là tư tưởng đến với ta. Chính là ta tìm ra tư tưởng. Cứ thử luận lý theo cái thí dụ anh nêu ra. Anh tưởng rằng khi anh ngủ, là anh triệt để ngủ nướng như lá cỏ? Lúc anh ngủ, tiềm thức anh vẫn tiếp tục làm việc một cách sâu thẳm mà minh mẫn vô cùng. Rồi tỉnh cơn ngủ, trở giấc trút trận chiêm bao, anh tưởng rằng: bỗng dưng mà tư tưởng đến?
Lúc anh ngủ, tiềm thức anh vẫn tiếp tục làm việc một cách sâu thẳm mà minh mẫn vô cùng. Rồi tỉnh cơn ngủ, trở giấc trút trận chiêm bao, anh tưởng rằng: bỗng dưng mà tư tưởng đến? Vì anh đã từng nghĩ lui, nghĩ tới, nghĩ tỉnh, nghĩ say, nghĩ miên man bồn chồn trong trận ngủ, rồi cuối cùng anh thu hoạch được kết quả, chớ nào đâu có phải là tự dưng mà tư tưởng đến với anh”. Lời ông bạn thật là chí lý. Nhưng có mà quỷ sứ nó nghe. Bởi rằng: hễ người đứng đắn mà nghe câu đó lọt được vào trong cái lỗ tai, thì té ra những lời ông Jésus, ông Lão Tử, tất nhiên phải là sai bét hết. Lời nào của ông Lão, ông Jésus? Xin bỏ lửng lời đáp vậy. Vì trên đây cũng đã có bỏ lửng một cách không bỏ lửng một chút nào rồi. - Thôi đừng nói rỡn nữa chứ. Có thật là tư tưởng tới với ta không? Hay thật là ta tư tưởng tới? Đáp rằng: thật ra là thể (không phải thế) thật; thật ra là thể gọi, ta thưa; thật ra là ta tạm thể gọi, và tư tưởng tồn thể đáp lời; ta kêu, và tồn lưu gieo giọt; ta xin uống và tồn lưu ban khen ngọt cho. Vậy thì rõ ràng là hai cách nói đều đúng cả, đúng mỗi bên một cách – là bội nhị tịch hạp song liêm. “Vì trong lẽ phải, có người có ta” là vậy. Và vì vậy, nên cái chỗ tối cao là vô ngôn, không lời. Hoặc có nói lời thì nói bi bô cà lăm theo lối con trẻ không trẻ con. Để ý: Nên nhớ rằng ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Sai một con toán, bán một con trâu”. Nên nhớ thêm rằng: người phẩm bình mà chẻ lệch một chút con toán, thì người tư tưởng phải bán hai con trâu.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lúc anh ngủ, tiềm thức anh vẫn tiếp tục làm việc một cách sâu thẳm mà minh mẫn vô cùng. Rồi tỉnh cơn ngủ, trở giấc trút trận chiêm bao, anh tưởng rằng: bỗng dưng mà tư tưởng đến? Vì anh đã từng nghĩ lui, nghĩ tới, nghĩ tỉnh, nghĩ say, nghĩ miên man bồn chồn trong trận ngủ, rồi cuối cùng anh thu hoạch được kết quả, chớ nào đâu có phải là tự dưng mà tư tưởng đến với anh”. Lời ông bạn thật là chí lý. Nhưng có mà quỷ sứ nó nghe. Bởi rằng: hễ người đứng đắn mà nghe câu đó lọt được vào trong cái lỗ tai, thì té ra những lời ông Jésus, ông Lão Tử, tất nhiên phải là sai bét hết. Lời nào của ông Lão, ông Jésus? Xin bỏ lửng lời đáp vậy. Vì trên đây cũng đã có bỏ lửng một cách không bỏ lửng một chút nào rồi. - Thôi đừng nói rỡn nữa chứ. Có thật là tư tưởng tới với ta không? Hay thật là ta tư tưởng tới? Đáp rằng: thật ra là thể (không phải thế) thật; thật ra là thể gọi, ta thưa; thật ra là ta tạm thể gọi, và tư tưởng tồn thể đáp lời; ta kêu, và tồn lưu gieo giọt; ta xin uống và tồn lưu ban khen ngọt cho. Vậy thì rõ ràng là hai cách nói đều đúng cả, đúng mỗi bên một cách – là bội nhị tịch hạp song liêm. “Vì trong lẽ phải, có người có ta” là vậy. Và vì vậy, nên cái chỗ tối cao là vô ngôn, không lời. Hoặc có nói lời thì nói bi bô cà lăm theo lối con trẻ không trẻ con. Để ý: Nên nhớ rằng ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Sai một con toán, bán một con trâu”. Nên nhớ thêm rằng: người phẩm bình mà chẻ lệch một chút con toán, thì người tư tưởng phải bán hai con trâu.
Để ý: Nên nhớ rằng ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Sai một con toán, bán một con trâu”. Nên nhớ thêm rằng: người phẩm bình mà chẻ lệch một chút con toán, thì người tư tưởng phải bán hai con trâu. Tôi không thể tự biết mình đã buộc những ông tư tưởng hiện đại phải bán đi mỗi ông là mấy chục con trâu. Nhưng ai ai cũng phải nhận thấy rằng các nhà phê bình – dù chấp nhận, dù kích bác – đã từng buộc tôi bán đứng nhiều nhất là một triệu rưỡi con trâu tồn lưu, và ít nhất là một phần tư con bò tồn thể. Suy rộng ra theo tinh thần đó, chúng ta bỗng chợt thấy rằng từ lâu lắm, người Trung Hoa, người Tây Phương, cũng vì tính sai một con toán tồn lưu, mà Việt Nam và một số bạn hẩm hiu, đã phải bán thật là nhiều con trâu. Đột nhiên tôi sực nhớ thêm điều này, nó cũng giúp nhiều cho cuộc tồn lưu tư tưởng: Đọc Saint-Exupéry, lúc nào ta thấy ông nói nghe đúng, rành rẽ, ấy chính là chỗ ông phải buộc lòng hạ thấp tư tưởng của mình. Trái lại, lúc nào xem chừng ông viết có vẻ ba rơi hoặc ba gai ba góc, ấy chính là lúc tư tưởng lên tới tột cao tồn thể phiêu bồng. Như lúc ông nói về cứu cánh và phương tiện là lúc tư tưởng xuống thấp tới mức thông thường. Trái lại, lúc tư tưởng lên cao viễn nhất là lúc ông nói tới gái Sa Mạc, người Maure và Bonnafous. Vì Maure đọc trại ra thành Mô. Mà “mô” có nghĩa là một câu hỏi tự tại, nghĩa là tự mình tìm ra lời đáp ngay ở trong mình. Bởi vì “mô” vừa có ý nghĩa nghi vấn (Mi ở mô? ), vừa có nghĩa xác định lẽ hư vô (Tôi có biết chi mô!).
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Để ý: Nên nhớ rằng ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Sai một con toán, bán một con trâu”. Nên nhớ thêm rằng: người phẩm bình mà chẻ lệch một chút con toán, thì người tư tưởng phải bán hai con trâu. Tôi không thể tự biết mình đã buộc những ông tư tưởng hiện đại phải bán đi mỗi ông là mấy chục con trâu. Nhưng ai ai cũng phải nhận thấy rằng các nhà phê bình – dù chấp nhận, dù kích bác – đã từng buộc tôi bán đứng nhiều nhất là một triệu rưỡi con trâu tồn lưu, và ít nhất là một phần tư con bò tồn thể. Suy rộng ra theo tinh thần đó, chúng ta bỗng chợt thấy rằng từ lâu lắm, người Trung Hoa, người Tây Phương, cũng vì tính sai một con toán tồn lưu, mà Việt Nam và một số bạn hẩm hiu, đã phải bán thật là nhiều con trâu. Đột nhiên tôi sực nhớ thêm điều này, nó cũng giúp nhiều cho cuộc tồn lưu tư tưởng: Đọc Saint-Exupéry, lúc nào ta thấy ông nói nghe đúng, rành rẽ, ấy chính là chỗ ông phải buộc lòng hạ thấp tư tưởng của mình. Trái lại, lúc nào xem chừng ông viết có vẻ ba rơi hoặc ba gai ba góc, ấy chính là lúc tư tưởng lên tới tột cao tồn thể phiêu bồng. Như lúc ông nói về cứu cánh và phương tiện là lúc tư tưởng xuống thấp tới mức thông thường. Trái lại, lúc tư tưởng lên cao viễn nhất là lúc ông nói tới gái Sa Mạc, người Maure và Bonnafous. Vì Maure đọc trại ra thành Mô. Mà “mô” có nghĩa là một câu hỏi tự tại, nghĩa là tự mình tìm ra lời đáp ngay ở trong mình. Bởi vì “mô” vừa có ý nghĩa nghi vấn (Mi ở mô? ), vừa có nghĩa xác định lẽ hư vô (Tôi có biết chi mô!).
Mà “mô” có nghĩa là một câu hỏi tự tại, nghĩa là tự mình tìm ra lời đáp ngay ở trong mình. Bởi vì “mô” vừa có ý nghĩa nghi vấn (Mi ở mô? ), vừa có nghĩa xác định lẽ hư vô (Tôi có biết chi mô!). Còn Bonnafous có nghĩa là Bon-à-faire-le-fou. Leftou est foudroyant comme la foudre est ondoyante. [4] Saint-Exupéry đưa ra cái lý do duy nhất đã quyết định sự chọn lựa của ông. Đối với chúng ta, câu hỏi nêu ra tại đây là: vì sao cái lý do kia lại đủ sức quyết định? Đáp: chính bởi lúc chọn lựa là nhắm mắt theo linh cảm, nghĩa là: sự chọn lựa mang tính chất tin-yêu-không-chọn-lựa. Nghĩa là: cái lý do sơ thủy đã bất chấp cái lý do của luận-lý-lý-trí eo hẹp nhà trường.. Trên một bình diện tư tưởng khác, cũng rất âm thầm, cũng theo thể điệu chiêm bao mộng triệu ta lại nhận thấy rằng trước kia, cách Saint-Exupéry một thế kỷ, Gérard de Nerval và Hoelderkin cũng đã từng linh cảm như vậy… Ngày nay, người Tây Phương tìm tới chúng ta, để xin một bài học tư tưởng, thì họ lại ngạc nhiên thấy chúng ta không chịu đóng vai bậc thầy, lại cứ đòi theo đuôi họ, ở mọi lĩnh vực. Những chủ nghĩa, những học thuyết của họ, họ vốn biết là cặn bã của văn minh Tây Phương đang điêu tàn, thì chúng ta o bế như đào tiên. Họ tự hỏi: tại sao Đông Phương có một lực lượng tinh thần khủng khiếp trong truyền thống, lại không chịu sử dụng nó để đánh lại chúng ta, thì không bao giờ người Tây Phương chúng ta chịu đầu hàng cả. Trái lại, nếu họ đưa tinh thần Á Đông ra, thì lập tức chúng ta buông tay.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mà “mô” có nghĩa là một câu hỏi tự tại, nghĩa là tự mình tìm ra lời đáp ngay ở trong mình. Bởi vì “mô” vừa có ý nghĩa nghi vấn (Mi ở mô? ), vừa có nghĩa xác định lẽ hư vô (Tôi có biết chi mô!). Còn Bonnafous có nghĩa là Bon-à-faire-le-fou. Leftou est foudroyant comme la foudre est ondoyante. [4] Saint-Exupéry đưa ra cái lý do duy nhất đã quyết định sự chọn lựa của ông. Đối với chúng ta, câu hỏi nêu ra tại đây là: vì sao cái lý do kia lại đủ sức quyết định? Đáp: chính bởi lúc chọn lựa là nhắm mắt theo linh cảm, nghĩa là: sự chọn lựa mang tính chất tin-yêu-không-chọn-lựa. Nghĩa là: cái lý do sơ thủy đã bất chấp cái lý do của luận-lý-lý-trí eo hẹp nhà trường.. Trên một bình diện tư tưởng khác, cũng rất âm thầm, cũng theo thể điệu chiêm bao mộng triệu ta lại nhận thấy rằng trước kia, cách Saint-Exupéry một thế kỷ, Gérard de Nerval và Hoelderkin cũng đã từng linh cảm như vậy… Ngày nay, người Tây Phương tìm tới chúng ta, để xin một bài học tư tưởng, thì họ lại ngạc nhiên thấy chúng ta không chịu đóng vai bậc thầy, lại cứ đòi theo đuôi họ, ở mọi lĩnh vực. Những chủ nghĩa, những học thuyết của họ, họ vốn biết là cặn bã của văn minh Tây Phương đang điêu tàn, thì chúng ta o bế như đào tiên. Họ tự hỏi: tại sao Đông Phương có một lực lượng tinh thần khủng khiếp trong truyền thống, lại không chịu sử dụng nó để đánh lại chúng ta, thì không bao giờ người Tây Phương chúng ta chịu đầu hàng cả. Trái lại, nếu họ đưa tinh thần Á Đông ra, thì lập tức chúng ta buông tay.
Trái lại, nếu họ đưa tinh thần Á Đông ra, thì lập tức chúng ta buông tay. [5] Trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, thường thấy những nhân vật chính trong giờ bị khốn đốn, trong nguy cơ thập tử nhất sinh, đột nhiên giác ngộ được thứ võ công giáp trĩ thượng thừa, bước vào quai nhai cảnh giới, tự giải phóng kinh mạch một cách huyền diệu, và thành tựu tinh thể của cái đẹp Võ Công Siêu Đẳng. Bạn đọc cũng nên giở lại đoạn 4 chương IV (trang…) nhìn lại gương mặt U già… Và, một câu nói riêng biệt của Saint-Exupéry: “Mon plus lointain souvenir? J’avais une gouvernante Tyrolienne, qui s’appelait Paula. Kỷ niệm xa xôi xưa cũ nhất của tôi? Xưa kia tôi có một người vú già vốn quê quán ở Tyrol, và tên gọi là Paula ạ”. [7] Nons sommes embarqués – lời bất hủ của Pascal, có nghĩa là: “chúng ta đáp tàu”, dù muốn dù không, bị xô ra đời sống là suốt trăm năm phải lên đường, phiêu du trong cõi, phiêu dạt biển khơi, phiêu linh lục hải, phiêu lạt thường hồ, phiêu bồng vào hố thẳm của Cực Chung. [8] Chắc là Saint-Exupéry rất quên và rất nhớ hai người con gái tại một Oasis xứ Argentine, gần quận Concordia, tao phùng buổi nọ…(Xem lại chương V ở trước, trang 112-113… ) [9] Cước chú Ý tại ngôn ngoại – hoặc ngôn tại ý ngoại – là ở tại đây. Xin bạn đọc đoán ý chỗ ý tại ngôn ngoại trong câu trên của Saint-Exupéry, theo viễn tượng Tồn Lưu Tây Phương. “… Das zunaechst Befremdliche bleibt jedoch dies: Sein schickt sich uns zu, indem es zugleich sein Wesen entzieht dieses im Entzug verbirgt”.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Trái lại, nếu họ đưa tinh thần Á Đông ra, thì lập tức chúng ta buông tay. [5] Trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, thường thấy những nhân vật chính trong giờ bị khốn đốn, trong nguy cơ thập tử nhất sinh, đột nhiên giác ngộ được thứ võ công giáp trĩ thượng thừa, bước vào quai nhai cảnh giới, tự giải phóng kinh mạch một cách huyền diệu, và thành tựu tinh thể của cái đẹp Võ Công Siêu Đẳng. Bạn đọc cũng nên giở lại đoạn 4 chương IV (trang…) nhìn lại gương mặt U già… Và, một câu nói riêng biệt của Saint-Exupéry: “Mon plus lointain souvenir? J’avais une gouvernante Tyrolienne, qui s’appelait Paula. Kỷ niệm xa xôi xưa cũ nhất của tôi? Xưa kia tôi có một người vú già vốn quê quán ở Tyrol, và tên gọi là Paula ạ”. [7] Nons sommes embarqués – lời bất hủ của Pascal, có nghĩa là: “chúng ta đáp tàu”, dù muốn dù không, bị xô ra đời sống là suốt trăm năm phải lên đường, phiêu du trong cõi, phiêu dạt biển khơi, phiêu linh lục hải, phiêu lạt thường hồ, phiêu bồng vào hố thẳm của Cực Chung. [8] Chắc là Saint-Exupéry rất quên và rất nhớ hai người con gái tại một Oasis xứ Argentine, gần quận Concordia, tao phùng buổi nọ…(Xem lại chương V ở trước, trang 112-113… ) [9] Cước chú Ý tại ngôn ngoại – hoặc ngôn tại ý ngoại – là ở tại đây. Xin bạn đọc đoán ý chỗ ý tại ngôn ngoại trong câu trên của Saint-Exupéry, theo viễn tượng Tồn Lưu Tây Phương. “… Das zunaechst Befremdliche bleibt jedoch dies: Sein schickt sich uns zu, indem es zugleich sein Wesen entzieht dieses im Entzug verbirgt”.
“… Das zunaechst Befremdliche bleibt jedoch dies: Sein schickt sich uns zu, indem es zugleich sein Wesen entzieht dieses im Entzug verbirgt”. Dịch theo thông thường, thì rằng: “Cái đầu tiên đáng xui ngạc nhiên vẫn lại là cái này: Tồn Lưu tự trao thân cho chúng ta, chính trong lúc mà Tinh Thể của nó, thì nó lại để vắng thiếu mất, nó che giấu Tinh Thể của nó trong sự vắng bóng kia”. Diễn dịch nghiêm mật ý đó theo những yêu sách của Ngôn Ngữ Việt thì rằng: “Điều đầu tiên đáng ngạc nhiên Ấy là cái vậy tuy nhiên thế này: Tồn Lưu tự cấp hai tay Hai hàng khép mở hai dày mỏng dâng Tặng trao Tinh Thể ngại ngùng Xuân Vân nép mặt, Thu Mồng dấu mi”. Dịch sang Hán văn, thì rằng: Ban sơ khả dĩ thị Lưu Tồn Tự phó thân ban cấp tử tôn Sa hợp tức phân hồn hướng hậu Lộ nùng tinh thể ẩn tinh thôn.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đi Vào Cõi Thơ Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u … Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông: Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghiệu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết: Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ Trí Hải đa tàm trúc loạn ty Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình. Nhưng có ai ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ: Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ. Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn… Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn. Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho.
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn. Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn. Ông đáp: - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng. Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời Hội cũ Xin viết xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. - “Giờ nao nức của một thời trẻ dại?”. Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ… Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều “phải nói” với mọi người “muốn nghe”, với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”. Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng có chi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne. Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn. Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn. Ông đáp: - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng. Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời Hội cũ Xin viết xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. - “Giờ nao nức của một thời trẻ dại?”. Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ… Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều “phải nói” với mọi người “muốn nghe”, với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”. Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng có chi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne. Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc.
Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne. Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa một đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo. Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: - “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (……..) Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?”. Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch! Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn cứ như thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác. Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu. Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời hội cũ. Vì lệ trào, hay vì quá long lanh? Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng niệm cho thơ. Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng? Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang… Áo nào màu xanh?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne. Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa một đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo. Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: - “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (……..) Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?”. Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch! Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn cứ như thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác. Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu. Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời hội cũ. Vì lệ trào, hay vì quá long lanh? Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng niệm cho thơ. Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng? Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang… Áo nào màu xanh?
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang… Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối? Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông, đem quà cho ông một đôi giép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây. Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời hội cũ Áo màu xanh Không xanh mãi Trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn. Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ? Mình là thân bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn? Phải có nhìn thấy gương mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng. Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang… Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối? Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông, đem quà cho ông một đôi giép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây. Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời hội cũ Áo màu xanh Không xanh mãi Trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn. Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ? Mình là thân bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn? Phải có nhìn thấy gương mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng. Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzsche. Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải? Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du: Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn trường: Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi: Đếm tóc bạc Tuổi đời Chưa Đủ Bụi đường dài Gót Mỏi Đi Quanh Tiết điệu cũng rời rạc như gót mỏi đi quanh. Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm giã từ mọi yêu thương? Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa Ngược nước Xuôi ngàn… Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường vôi nhạt nhòa ủ rũ ngục tù. Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzsche. Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải? Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du: Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn trường: Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi: Đếm tóc bạc Tuổi đời Chưa Đủ Bụi đường dài Gót Mỏi Đi Quanh Tiết điệu cũng rời rạc như gót mỏi đi quanh. Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm giã từ mọi yêu thương? Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa Ngược nước Xuôi ngàn… Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường vôi nhạt nhòa ủ rũ ngục tù. Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương. * Trương Cam Vũ Trương Cam Vũ là người thy sỹ đã dịch Truyện Kiều ra Hán Thi. Bản dịch đạt tới mức tối đa của tinh thể Hoa Thi. Chúng tôi đã bàn nhiều trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều. * René Crayssac René Crayssac là thy sỹ Pháp đã đem Truyện Kiều dịch ra thơ Pháp. Bản dịch huyền diệu ở chỗ: Ông đã đòi hỏi ở Pháp Ngữ một thể điệu nào Pháp Ngữ vốn không có, và đùng một cái, Nguyễn Du trong bản Pháp mang đầy rẫy tinh thể Cựu Hy Lạp Homère. Sự tình này được đề cập tới trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều. * Huy Cận Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa Yêu một người ta dâng cả tình thương Câu thơ đó dường như là cái chìa khóa mở đường vào cung thành Lửa Thiêng. Huy Cận chẳng khi nào trực tiếp nói tới tình yêu một cách quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan ra như Nguyễn Bính. Huy Cận kín đáo ngậm ngùi. Và thỉnh thoảng vài lời chân thành thăm thẳm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu kia vào một cõi thống thiết cổ kim chưa từng có. Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ Tình đi mau sầu ở lại lâu dài Ta đã để hồn tan trong tiếng thở Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai Bốn câu đơn giản thiết tha đôn hậu thượng thừa như thế, chính là vùng khí hậu riêng biệt để toàn thể cuốn Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi về ngưng tụ hết mọi màu hương vang bóng. Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du - Hà Tĩnh.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương. * Trương Cam Vũ Trương Cam Vũ là người thy sỹ đã dịch Truyện Kiều ra Hán Thi. Bản dịch đạt tới mức tối đa của tinh thể Hoa Thi. Chúng tôi đã bàn nhiều trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều. * René Crayssac René Crayssac là thy sỹ Pháp đã đem Truyện Kiều dịch ra thơ Pháp. Bản dịch huyền diệu ở chỗ: Ông đã đòi hỏi ở Pháp Ngữ một thể điệu nào Pháp Ngữ vốn không có, và đùng một cái, Nguyễn Du trong bản Pháp mang đầy rẫy tinh thể Cựu Hy Lạp Homère. Sự tình này được đề cập tới trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều. * Huy Cận Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa Yêu một người ta dâng cả tình thương Câu thơ đó dường như là cái chìa khóa mở đường vào cung thành Lửa Thiêng. Huy Cận chẳng khi nào trực tiếp nói tới tình yêu một cách quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan ra như Nguyễn Bính. Huy Cận kín đáo ngậm ngùi. Và thỉnh thoảng vài lời chân thành thăm thẳm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu kia vào một cõi thống thiết cổ kim chưa từng có. Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ Tình đi mau sầu ở lại lâu dài Ta đã để hồn tan trong tiếng thở Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai Bốn câu đơn giản thiết tha đôn hậu thượng thừa như thế, chính là vùng khí hậu riêng biệt để toàn thể cuốn Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi về ngưng tụ hết mọi màu hương vang bóng. Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du - Hà Tĩnh.
Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du - Hà Tĩnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi bất khả tư nghì. Tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh. Chỉ những thiên tài Hồng Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh. Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc “Lữ” huyền hoặc của Dịch Kinh. Khổng Tử đã chu du theo một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người ngày nay không thể nào quan niệm được ra. Xa nhau mười mấy tỉnh dài Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung Tâm tình một nẻo quê chung Người về cố quận muôn trùng ta đi. Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc “Lữ” như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại. Trông vời trời biển mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong. Dừng cương nghỉ ngựa non cao Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon Đi rồi khuất ngựa sau non Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du - Hà Tĩnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi bất khả tư nghì. Tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh. Chỉ những thiên tài Hồng Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh. Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc “Lữ” huyền hoặc của Dịch Kinh. Khổng Tử đã chu du theo một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người ngày nay không thể nào quan niệm được ra. Xa nhau mười mấy tỉnh dài Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung Tâm tình một nẻo quê chung Người về cố quận muôn trùng ta đi. Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc “Lữ” như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại. Trông vời trời biển mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong. Dừng cương nghỉ ngựa non cao Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon Đi rồi khuất ngựa sau non Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu.
Trông vời trời biển mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong. Dừng cương nghỉ ngựa non cao Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon Đi rồi khuất ngựa sau non Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu. Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ phong cảnh của ông không ai đi kịp; thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng. Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong Truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ tinh hoa trong một bài “Thuyền Đi” của Huy Cận. Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước trường giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau. Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Trông vời trời biển mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong. Dừng cương nghỉ ngựa non cao Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon Đi rồi khuất ngựa sau non Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu. Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ phong cảnh của ông không ai đi kịp; thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng. Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong Truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ tinh hoa trong một bài “Thuyền Đi” của Huy Cận. Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước trường giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau. Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.
Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang. Các bạn thử thong dong hình dung lại cái khối Đường Thi Vương Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích, Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có một cái gì lọt ngoài vòng lục bát Huy Cận kia chăng. Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ. Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamur-ti. Nghĩ rằng cũng đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái phận con ngợm. Đó chính là cái lõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ, và hỡi những đứa chẳng thi sỹ trung niên. Cái trò ma quái lóc lăn nọ, kể cũng đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Tú Bà đã bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia. Cái tinh thần nô lệ không tự biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào, mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do, đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn - càng mỗi phen cho thấy hiện thị lù lù cái linh hồn đĩ điếm.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang. Các bạn thử thong dong hình dung lại cái khối Đường Thi Vương Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích, Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có một cái gì lọt ngoài vòng lục bát Huy Cận kia chăng. Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ. Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamur-ti. Nghĩ rằng cũng đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái phận con ngợm. Đó chính là cái lõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ, và hỡi những đứa chẳng thi sỹ trung niên. Cái trò ma quái lóc lăn nọ, kể cũng đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Tú Bà đã bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia. Cái tinh thần nô lệ không tự biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào, mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do, đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn - càng mỗi phen cho thấy hiện thị lù lù cái linh hồn đĩ điếm.
Chúng ta thà chui vào một cái hang dế đen ngòm, một cái hang chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui, cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để nằm ngủ, hơn là phải đi thức tỉnh tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia. Người Việt Nam vốn là người thơ mộng thy sỹ nhất thế giới (Chỉ riêng cái màu da vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lại luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mồng của mình cho những thứ sách vở thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marilyn những da đen phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế. Lâu lâu lại còn ca ngợi tài hoa ông Kút Xếp, tài liệu ông Vương Dương Minh. Thôi thì thôi cũng chìu lòng Cũng cho nghỉ nghị trong vòng lai rai. Huy Cận cũng đã có phen gián tiếp giải oan cho mọi người lưu lạc: Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang Sầu đã chín xin người thôi hãy hái Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường… Huy Cận nói cái lời gì bao la như thế? - Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường? Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ. Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng:
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chúng ta thà chui vào một cái hang dế đen ngòm, một cái hang chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui, cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để nằm ngủ, hơn là phải đi thức tỉnh tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia. Người Việt Nam vốn là người thơ mộng thy sỹ nhất thế giới (Chỉ riêng cái màu da vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lại luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mồng của mình cho những thứ sách vở thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marilyn những da đen phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế. Lâu lâu lại còn ca ngợi tài hoa ông Kút Xếp, tài liệu ông Vương Dương Minh. Thôi thì thôi cũng chìu lòng Cũng cho nghỉ nghị trong vòng lai rai. Huy Cận cũng đã có phen gián tiếp giải oan cho mọi người lưu lạc: Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang Sầu đã chín xin người thôi hãy hái Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường… Huy Cận nói cái lời gì bao la như thế? - Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường? Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ. Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng:
- Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường? Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ. Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng: “Chư Phật vô lượng phương tiện lực, chư pháp vô quyết định hướng; vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực, hoặc thuyết nhứt thiết bất thực, hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc thuyết phi thực phi bất thực…” (Xem Sương Bình Nguyên, trang 490). Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch Kinh, chúng ta đọc lại ngôn ngữ thi ca của Khổng Tử: “Hữu thiên địa, nhiên hậu vận vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chỉ dĩ Mông. Vật chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Nhu giả ẩm thực chi đạo dã… Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ Sư… vân vân vân vân vân vân…” Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra một chân lý mà không có sách vở học giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis sơ nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện thị một cách phong nhiêu dị thường trong hai câu mở đầu bài “Thuyền Đi”: Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên. Thuyền đi Thuyền đi là nước đi, thời gian đi, hay đời người đi? Nhưng tại sao bài thơ “Thuyền đi” của Huy Cận lại xa vắng mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa nay? Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế? Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
- Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường? Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ. Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng: “Chư Phật vô lượng phương tiện lực, chư pháp vô quyết định hướng; vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực, hoặc thuyết nhứt thiết bất thực, hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc thuyết phi thực phi bất thực…” (Xem Sương Bình Nguyên, trang 490). Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch Kinh, chúng ta đọc lại ngôn ngữ thi ca của Khổng Tử: “Hữu thiên địa, nhiên hậu vận vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chỉ dĩ Mông. Vật chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Nhu giả ẩm thực chi đạo dã… Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ Sư… vân vân vân vân vân vân…” Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra một chân lý mà không có sách vở học giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis sơ nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện thị một cách phong nhiêu dị thường trong hai câu mở đầu bài “Thuyền Đi”: Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên. Thuyền đi Thuyền đi là nước đi, thời gian đi, hay đời người đi? Nhưng tại sao bài thơ “Thuyền đi” của Huy Cận lại xa vắng mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa nay? Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế? Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế? Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ dong miền viễn khơi Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau Bài thơ mười hai câu cả thảy. Mười hai câu lục bát Huy Cận trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa chiền Á Đông, một tượng vân thạch, hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp. Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Một cái gì bỗng dưng về giữa hai câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc? Phải là Thời Gian của Vĩnh Viễn về trì ngự trong Phusis Mở Phơi? Là về trong một Sát Na của Viên Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp? Cuộc Nảy Nở của Càn Khôn đang phơi mở thịnh triều trì ngự trong tiếng “trăng lên, triều lên”. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện trong những tiếng “gió về trong lúc, trăng lên, đang chiều…” Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm thiên hình vạn trạng qua những tiếng Vĩnh Thể và Tồn Lưu, Thời Gian và Thời Thể. Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du. Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế? Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ dong miền viễn khơi Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau Bài thơ mười hai câu cả thảy. Mười hai câu lục bát Huy Cận trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa chiền Á Đông, một tượng vân thạch, hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp. Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Một cái gì bỗng dưng về giữa hai câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc? Phải là Thời Gian của Vĩnh Viễn về trì ngự trong Phusis Mở Phơi? Là về trong một Sát Na của Viên Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp? Cuộc Nảy Nở của Càn Khôn đang phơi mở thịnh triều trì ngự trong tiếng “trăng lên, triều lên”. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện trong những tiếng “gió về trong lúc, trăng lên, đang chiều…” Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm thiên hình vạn trạng qua những tiếng Vĩnh Thể và Tồn Lưu, Thời Gian và Thời Thể. Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du. Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du. Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Trong bài thơ Huy Cận, cuộc Lễ Hội ấy đang hiễn hiện trong cảnh trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua cuộc Lữ. Thiên Nhiên rộng rãi đang lên lời giục giã người lên đường lữ thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi trong mỗi bước chân đi. Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi Ra đi như thế là kết hợp vũ trụ vào trong nhịp lưu ly của tại thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng kín quanh quẩn trong nếp quen thuộc nhân tuần. - “Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai!”. Cái nghĩa thời của cuộc Lữ to lắm lắm thay! Nỗi ưu phiền của sông nước kia là một niềm kỳ vọng, một niềm chúc phúc lên đường. Sang đêm thuyền đã xa rồi Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng Thế thì các cuộc đi kia đã khiến cho sự hiện diện của kẻ đi càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện. Kẻ đi và toàn thể cái khối gì đang đi? Và do đó một cõi mênh mông nào đang phát hiện tinh thể? Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du. Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Trong bài thơ Huy Cận, cuộc Lễ Hội ấy đang hiễn hiện trong cảnh trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua cuộc Lữ. Thiên Nhiên rộng rãi đang lên lời giục giã người lên đường lữ thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi trong mỗi bước chân đi. Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi Ra đi như thế là kết hợp vũ trụ vào trong nhịp lưu ly của tại thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng kín quanh quẩn trong nếp quen thuộc nhân tuần. - “Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai!”. Cái nghĩa thời của cuộc Lữ to lắm lắm thay! Nỗi ưu phiền của sông nước kia là một niềm kỳ vọng, một niềm chúc phúc lên đường. Sang đêm thuyền đã xa rồi Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng Thế thì các cuộc đi kia đã khiến cho sự hiện diện của kẻ đi càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện. Kẻ đi và toàn thể cái khối gì đang đi? Và do đó một cõi mênh mông nào đang phát hiện tinh thể? Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von.
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von. Thời gian được thời thể hóa. Thời thể được thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng cửu mà con người vong thể ngày nay chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo đuôi danh từ lí nhí, đem phân chia cắt xén thời gian ra làm khoảnh khắc tủn mủn, rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma trơi nào thiểu não. Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau Cuộc ra đi như thế trở thành cuộc lên đường lữ thứ tìm lại tinh thể mình. - Hãy trở thành… Nhà ngươi là gì, hãy trở thành cái ấy. “Deviens ce que tu es” - Té ra con người phải đi một cuộc mười lăm năm, rồi ra mới nhận chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó? - phát nguyện đại từ bi? Đức Khổng còn khổng lồ nói lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật vô ngần: “Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả, vạn vật, duy cố thụ chi dĩ Truân… Truân giả doanh dã. Truân giả vạn vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…” Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von. Thời gian được thời thể hóa. Thời thể được thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng cửu mà con người vong thể ngày nay chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo đuôi danh từ lí nhí, đem phân chia cắt xén thời gian ra làm khoảnh khắc tủn mủn, rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma trơi nào thiểu não. Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau Cuộc ra đi như thế trở thành cuộc lên đường lữ thứ tìm lại tinh thể mình. - Hãy trở thành… Nhà ngươi là gì, hãy trở thành cái ấy. “Deviens ce que tu es” - Té ra con người phải đi một cuộc mười lăm năm, rồi ra mới nhận chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó? - phát nguyện đại từ bi? Đức Khổng còn khổng lồ nói lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật vô ngần: “Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả, vạn vật, duy cố thụ chi dĩ Truân… Truân giả doanh dã. Truân giả vạn vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…” Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu.
Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…” Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu. Nhưng thật ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng bát ngát nên tự nhiên như nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội vào đáy thẳm thiên nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia cũng là thông tuệ của tâm thể thiên tài. Chết Chân quấn quít rồi đến ngày nghỉ bước Miệng trao lời rồi đến buổi làm thinh Thân có đôi chờ lúc ngủ một mình Không bạn lứa cũng không mền ấm nóng Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống Ở trên đời - đầu ấy ngửng lên cao Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí Một dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷ Ngày sẽ về gió sẽ mát hoa tươi Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc Còn biết gì đất ở trên kia Bướm bay chi! Tay nhậy đã chia lìa Tình gọi đó nhưng lòng thôi bắt mộng Bỏ chung chạ để nằm khô một bóng Chẳng ai vào an ủi nắm bàn tay Khổ bao nhiêu cho một kẻ hằng ngày Tìm thế giới để làm khuây lẻ chiếc. Huy Cận tặng Thần Chết một bài thơ cảm động. Nói là tặng Thần Chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Hình dạng của Thần Chết đã ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao? Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết. Cái chết trông dị dạng quá.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…” Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu. Nhưng thật ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng bát ngát nên tự nhiên như nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội vào đáy thẳm thiên nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia cũng là thông tuệ của tâm thể thiên tài. Chết Chân quấn quít rồi đến ngày nghỉ bước Miệng trao lời rồi đến buổi làm thinh Thân có đôi chờ lúc ngủ một mình Không bạn lứa cũng không mền ấm nóng Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống Ở trên đời - đầu ấy ngửng lên cao Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí Một dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷ Ngày sẽ về gió sẽ mát hoa tươi Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc Còn biết gì đất ở trên kia Bướm bay chi! Tay nhậy đã chia lìa Tình gọi đó nhưng lòng thôi bắt mộng Bỏ chung chạ để nằm khô một bóng Chẳng ai vào an ủi nắm bàn tay Khổ bao nhiêu cho một kẻ hằng ngày Tìm thế giới để làm khuây lẻ chiếc. Huy Cận tặng Thần Chết một bài thơ cảm động. Nói là tặng Thần Chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Hình dạng của Thần Chết đã ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao? Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết. Cái chết trông dị dạng quá.
Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết. Cái chết trông dị dạng quá. Mà hằng ngày vô tình ta sống theo lối chết đó. Tuy không đến nỗi căm căm gớm guốc như thế, nhưng cũng tai hại điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái hình hài cuộc sống. Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng. Xin một lần thử thong dong nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi. Thì từ đó rất có thể rằng cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con giế con giun… Mọi mọi sinh vật sẽ mọi mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẳn. Và cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi của yêu thương. Chính Ngài đã có cái dụng tâm giống như chàng Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh tử ra nói lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm để dìu tồn sinh về bỉ ngạn… Cái chết được thể nghiệm sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vô thượng của con người mang một cái sống phù du. Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết. Cái chết trông dị dạng quá. Mà hằng ngày vô tình ta sống theo lối chết đó. Tuy không đến nỗi căm căm gớm guốc như thế, nhưng cũng tai hại điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái hình hài cuộc sống. Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng. Xin một lần thử thong dong nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi. Thì từ đó rất có thể rằng cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con giế con giun… Mọi mọi sinh vật sẽ mọi mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẳn. Và cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi của yêu thương. Chính Ngài đã có cái dụng tâm giống như chàng Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh tử ra nói lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm để dìu tồn sinh về bỉ ngạn… Cái chết được thể nghiệm sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vô thượng của con người mang một cái sống phù du. Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt.
Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt. Tinh thể của con người là: sinh - thể - cho - tử - vong? Thì tử diệt tử vong chính là Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể. Sinh Thể sẽ ôm cái Tặng Vật vô ngần đó mà đi khắp mặt biển dâu lảo đảo. Em quốc sắc, em thiên hương, em hoàng hậu, em nữ chúa, em giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào da đen… Thảy thảy mọi mọi em em cùng chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng hơn cái da đen? Cái da trắng văn minh hơn cái da đỏ? Buổi hội trần gian sẽ từ đó mà mất vui. Thì lễ hội mất đi cái gọi là. Ban sơ xuân xanh ngày đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng: Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Hội đạp thanh mất đi cái ý nghĩa vô ngần của thanh đạp, một phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy, theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh, mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là tảo mộ… Ai chết đó? Hay ấy tiếng yêu thương Của cuộc đời… Tiếng đau thương đó của cuộc đời dội vào cuộc sống, thì cuộc sống đổi hình thay dạng… Tôi nhớ lại ngày tháng chuyển dịch Những thay hình đổi dạng mở phơi Trong ly nước mộng tuyệt vời Mối sầu dao động nỗi đời giao thoa (Apollinaire) Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt. Tinh thể của con người là: sinh - thể - cho - tử - vong? Thì tử diệt tử vong chính là Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể. Sinh Thể sẽ ôm cái Tặng Vật vô ngần đó mà đi khắp mặt biển dâu lảo đảo. Em quốc sắc, em thiên hương, em hoàng hậu, em nữ chúa, em giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào da đen… Thảy thảy mọi mọi em em cùng chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng hơn cái da đen? Cái da trắng văn minh hơn cái da đỏ? Buổi hội trần gian sẽ từ đó mà mất vui. Thì lễ hội mất đi cái gọi là. Ban sơ xuân xanh ngày đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng: Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Hội đạp thanh mất đi cái ý nghĩa vô ngần của thanh đạp, một phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy, theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh, mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là tảo mộ… Ai chết đó? Hay ấy tiếng yêu thương Của cuộc đời… Tiếng đau thương đó của cuộc đời dội vào cuộc sống, thì cuộc sống đổi hình thay dạng… Tôi nhớ lại ngày tháng chuyển dịch Những thay hình đổi dạng mở phơi Trong ly nước mộng tuyệt vời Mối sầu dao động nỗi đời giao thoa (Apollinaire) Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại.
(Apollinaire) Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng… Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Hay tiếp tục làm thy sỹ phiêu bồng? Làm nhà thương mãi đi buôn? Làm gì thì làm, cũng hơn là làm Caligula vậy. Ngày còn đi học, hai bài thơ “Chết”, “Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học, chẳng thiết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu! Thế cũng là một cách chịu chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin Marilyn Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy tháng. Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế. Bây giờ tôi xin chậm rãi chép bài “Nhạc Sầu” ra tặng nàng. Mong rằng ở dưới suối vàng nàng hãy bỏ chút thì giờ đọc giải trí cho vui. Nhạc buồn chi lắm thế Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương Sương hay chính bụi phai tàn lả tả Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa lá Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh Môi tái nhạt nào cười mà héo vậy Ai chết đó! Trục xoay và bánh đẩy Xe tang đi về tận thế giới nào Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ Trần gian sao? Đây thành phố đang quen Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
(Apollinaire) Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng… Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Hay tiếp tục làm thy sỹ phiêu bồng? Làm nhà thương mãi đi buôn? Làm gì thì làm, cũng hơn là làm Caligula vậy. Ngày còn đi học, hai bài thơ “Chết”, “Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học, chẳng thiết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu! Thế cũng là một cách chịu chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin Marilyn Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy tháng. Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế. Bây giờ tôi xin chậm rãi chép bài “Nhạc Sầu” ra tặng nàng. Mong rằng ở dưới suối vàng nàng hãy bỏ chút thì giờ đọc giải trí cho vui. Nhạc buồn chi lắm thế Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương Sương hay chính bụi phai tàn lả tả Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa lá Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh Môi tái nhạt nào cười mà héo vậy Ai chết đó! Trục xoay và bánh đẩy Xe tang đi về tận thế giới nào Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ Trần gian sao? Đây thành phố đang quen Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ Trần gian sao? Đây thành phố đang quen Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy Và ngựa ôi đi nhịp đằm chớ nhảy Kẻo thân đau chưa quên nệm giường đời Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi Người đã chết. Một vài ba đầu cuối Dăm bảy lòng thương tiếc đến bên mồ Để cho hồn khi sắp xuống hư vô Còn được thấy trên mặt người ấm áp Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp Xe tang đi xin đường chớ ghập ghềnh Không gian ơi xin hẹp bớt mông mênh Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt Và ngươi nữa tiếng gió buồn thê thiết Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn Hàng cờ đen như bóng quạ chập chờn Báo tin xấu dẫn hồn người đã xế Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương Tiếng nức nở gởi gió dường quạnh quẽ Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế… (Huy Cận) Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà những tà áo phấp phới. Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết. Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử Thần, là điều tối kị. Ta lân la chơi đùa với nó, thì nó rút mòn xương tủy ta. Bây giờ nên ngâm chơi vài vần “Tặng Em Mười Sáu” của Huy Cận: Tặng em mười sáu Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót Để tay ngời nối lại với tay anh Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ Trần gian sao? Đây thành phố đang quen Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy Và ngựa ôi đi nhịp đằm chớ nhảy Kẻo thân đau chưa quên nệm giường đời Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi Người đã chết. Một vài ba đầu cuối Dăm bảy lòng thương tiếc đến bên mồ Để cho hồn khi sắp xuống hư vô Còn được thấy trên mặt người ấm áp Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp Xe tang đi xin đường chớ ghập ghềnh Không gian ơi xin hẹp bớt mông mênh Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt Và ngươi nữa tiếng gió buồn thê thiết Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn Hàng cờ đen như bóng quạ chập chờn Báo tin xấu dẫn hồn người đã xế Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương Tiếng nức nở gởi gió dường quạnh quẽ Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế… (Huy Cận) Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà những tà áo phấp phới. Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết. Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử Thần, là điều tối kị. Ta lân la chơi đùa với nó, thì nó rút mòn xương tủy ta. Bây giờ nên ngâm chơi vài vần “Tặng Em Mười Sáu” của Huy Cận: Tặng em mười sáu Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót Để tay ngời nối lại với tay anh Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh
Tặng em mười sáu Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót Để tay ngời nối lại với tay anh Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh Một giải lụa quấn qua hồn đây đó Nỗi vui cũ ngày nay anh lại có Thêu đời hồng anh nói ít lời hoa Em ca lừng cho bốn phía sinh ca Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới Hãy đẹp giọng khúc huy hoàng vời vợi Nhạc tưng bừng tuôn chảy tự hồn vui Thuyền du dương anh cầm lái em mui Chèo một nhịp hò khoan cùng vũ trụ Em mười sáu ấy hoa đời đương nụ Nở xuân quang anh vừa quá hai mươi Ta nối tay tròn kết một vòng tươi Mà vẫn lấy cuộc đời. Em có thấy Trong máu thắm dòng vui luôn tiếp chảy Suối hân hoan cuồn cuộn sóng dương hòa Làm nụ cười cho vạn vật muôn hoa Em! Nào ta hát bài Thiên Cổ Lạc (Huy Cận) Nguồn thơ vui nhất của Việt Nam nằm trong Huy Cận. Mà nguồn thơ buồn nhất Việt Nam cũng là nơi Huy Cận. Sự đó không còn chi đáng nên ngạc nhiên. Huy Cận đã sống trọn vẹn với linh hồn mình, vì thế ông sống trọn linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp mặt buồn vui của nhân thế. Từ Nguyễn Du đến chúng ta bây giờ, chỉ có một Huy Cận mà thôi. Một J. Leiba, Kiên Giang, Hồ Dzếnh mà thôi. Và mọi mọi chúng ta cũng từ đó mà mọi mọi được có một nguồn thơ duy nhất của ta ta mọi mọi mà thôi. Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng? Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tặng em mười sáu Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót Để tay ngời nối lại với tay anh Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh Một giải lụa quấn qua hồn đây đó Nỗi vui cũ ngày nay anh lại có Thêu đời hồng anh nói ít lời hoa Em ca lừng cho bốn phía sinh ca Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới Hãy đẹp giọng khúc huy hoàng vời vợi Nhạc tưng bừng tuôn chảy tự hồn vui Thuyền du dương anh cầm lái em mui Chèo một nhịp hò khoan cùng vũ trụ Em mười sáu ấy hoa đời đương nụ Nở xuân quang anh vừa quá hai mươi Ta nối tay tròn kết một vòng tươi Mà vẫn lấy cuộc đời. Em có thấy Trong máu thắm dòng vui luôn tiếp chảy Suối hân hoan cuồn cuộn sóng dương hòa Làm nụ cười cho vạn vật muôn hoa Em! Nào ta hát bài Thiên Cổ Lạc (Huy Cận) Nguồn thơ vui nhất của Việt Nam nằm trong Huy Cận. Mà nguồn thơ buồn nhất Việt Nam cũng là nơi Huy Cận. Sự đó không còn chi đáng nên ngạc nhiên. Huy Cận đã sống trọn vẹn với linh hồn mình, vì thế ông sống trọn linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp mặt buồn vui của nhân thế. Từ Nguyễn Du đến chúng ta bây giờ, chỉ có một Huy Cận mà thôi. Một J. Leiba, Kiên Giang, Hồ Dzếnh mà thôi. Và mọi mọi chúng ta cũng từ đó mà mọi mọi được có một nguồn thơ duy nhất của ta ta mọi mọi mà thôi. Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng? Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu.
Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng? Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu. Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về Mùa Xuân ca hót. Xứ xa xuôi vô ngần thân thuộc? Khi gió nắng vào reo um khóm lá? Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn? Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín? Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa? Họ đơn sơ hồn nhiên như thế. Sao ta lại cầu kỳ buộc họ phải cầu kỳ gay cấn như ta? Họ có đòi hỏi chi đâu? Họ chẳng bao giờ tranh giành địa vị? Chẳng bao giờ chịu làm thần tượng. Chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng… Khi ta đến các ngươi đà đến cả Có Thiên Nhiên Suối Chị với Rừng Anh Cỏ vạn dại đã quen chiều óng ả Liễu thiên thu từng thuộc lối buông mành Thơ Huy Cận dịu dàng như thế đốt cháy bỏng máu me ta bởi ông đơn giản ca ngâm. Đừng ai nỡ đem gán bừa cho họ những gì họ chẳng hề có bận tâm. Bao phen chúng ta từng tàn nhẫn một cách quá vô tình. Và vì thế, họ đành quay lưng trốn chạy. Kêu gọi buổi chiều về bên mình để tâm sự cô đơn: Chiều ơi hãy xuống thăm ta với Thiên hạ lìa xa đời trống không Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng Thiên hạ lìa xa? Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng? Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu. Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về Mùa Xuân ca hót. Xứ xa xuôi vô ngần thân thuộc? Khi gió nắng vào reo um khóm lá? Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn? Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín? Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa? Họ đơn sơ hồn nhiên như thế. Sao ta lại cầu kỳ buộc họ phải cầu kỳ gay cấn như ta? Họ có đòi hỏi chi đâu? Họ chẳng bao giờ tranh giành địa vị? Chẳng bao giờ chịu làm thần tượng. Chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng… Khi ta đến các ngươi đà đến cả Có Thiên Nhiên Suối Chị với Rừng Anh Cỏ vạn dại đã quen chiều óng ả Liễu thiên thu từng thuộc lối buông mành Thơ Huy Cận dịu dàng như thế đốt cháy bỏng máu me ta bởi ông đơn giản ca ngâm. Đừng ai nỡ đem gán bừa cho họ những gì họ chẳng hề có bận tâm. Bao phen chúng ta từng tàn nhẫn một cách quá vô tình. Và vì thế, họ đành quay lưng trốn chạy. Kêu gọi buổi chiều về bên mình để tâm sự cô đơn: Chiều ơi hãy xuống thăm ta với Thiên hạ lìa xa đời trống không Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng Thiên hạ lìa xa? Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng.
Thiên hạ lìa xa đời trống không Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng Thiên hạ lìa xa? Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng. Mỗi người mỗi đánh lạc mất linh hồn tinh thể mình, và mỗi mỗi đầy đọa nhau dằng dặc… Đã mấy năm rồi thơ nở hoa Trang vui cũng lúc lệ buồn nhòa Giòng đời cũng nặng sầu lưu thủy Tóc nặng sầu tư gió thổi tà Chiều ơi gặp gỡ đã đòi cơn Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn Một buổi xưa kia phòng vắng bạn Đó ngày quen biết với cô đơn Buổi hoàng hôn dị thường nào xưa kia Nguyễn Du đã nhìn và tâm sự? Vì lời thơ thân thiết vẫn như âm thầm báo hiệu một bình minh sắp mọc trong hoang liêu: Có lúc xa người bởi quá yêu Than ôi sông núi lại buồn nhiều Mây xa lạc gió bên trời vắng Đời bạt lòng ta lại gặp chiều. * Nguyễn Du Nguyễn Du cũng như Camus, lúc nào linh hồn ông nói đúng tiếng nói của hồn ông, thì lời thơ biến ra làm thơ phong cảnh. Điều nên lưu tâm là: phong cảnh Nguyễn Du tuyệt nhiên không liên can chi tới loại thơ phong cảnh của bọn chuyên môn tả thực. Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân. (Xem Mùa Thu trong Thi Ca) * Hồ Xuân Hương Lối tả cảnh của Hồ Xuân Hương nhằm vào chỗ: phá vỡ tinh thể của phong cảnh đi, cưỡng bức thiên nhiên, để giúp vạn vật hiện lại nguyên hình trong tinh thể thiên nhiên phusis thiết cốt. Bà táo bạo gan liền lỳ lợm như những Sade, Lautréa-mont. * Ngoạ Long Sinh
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thiên hạ lìa xa đời trống không Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng Thiên hạ lìa xa? Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng. Mỗi người mỗi đánh lạc mất linh hồn tinh thể mình, và mỗi mỗi đầy đọa nhau dằng dặc… Đã mấy năm rồi thơ nở hoa Trang vui cũng lúc lệ buồn nhòa Giòng đời cũng nặng sầu lưu thủy Tóc nặng sầu tư gió thổi tà Chiều ơi gặp gỡ đã đòi cơn Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn Một buổi xưa kia phòng vắng bạn Đó ngày quen biết với cô đơn Buổi hoàng hôn dị thường nào xưa kia Nguyễn Du đã nhìn và tâm sự? Vì lời thơ thân thiết vẫn như âm thầm báo hiệu một bình minh sắp mọc trong hoang liêu: Có lúc xa người bởi quá yêu Than ôi sông núi lại buồn nhiều Mây xa lạc gió bên trời vắng Đời bạt lòng ta lại gặp chiều. * Nguyễn Du Nguyễn Du cũng như Camus, lúc nào linh hồn ông nói đúng tiếng nói của hồn ông, thì lời thơ biến ra làm thơ phong cảnh. Điều nên lưu tâm là: phong cảnh Nguyễn Du tuyệt nhiên không liên can chi tới loại thơ phong cảnh của bọn chuyên môn tả thực. Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân. (Xem Mùa Thu trong Thi Ca) * Hồ Xuân Hương Lối tả cảnh của Hồ Xuân Hương nhằm vào chỗ: phá vỡ tinh thể của phong cảnh đi, cưỡng bức thiên nhiên, để giúp vạn vật hiện lại nguyên hình trong tinh thể thiên nhiên phusis thiết cốt. Bà táo bạo gan liền lỳ lợm như những Sade, Lautréa-mont. * Ngoạ Long Sinh
Bà táo bạo gan liền lỳ lợm như những Sade, Lautréa-mont. * Ngoạ Long Sinh Là một thiên tài thy sỹ thâm cảnh rằng ngôn ngữ Trung Hoa không còn sinh lực nữa để bước một bước khổng lồ thi ca ngôn ngữ Việt Nam, Pháp, Đức, Anh. Nên ông xô ùa nguồn thơ Trung Hoa vào văn chương vũ hiệp. Vì lý do đó, nên ban sơ sách vũ hiệp của ông không được hưởng ứng chan hòa như sách của Kim Dung. Nhưng một phen đã kiên nhẫn theo dõi ông một thời gian, ắt sẽ thấy tâm tình cháy bỏng. Trong sách ông không có những loại tên hề Shakespeare. Nhưng có những ngôn từ “hề ngầm”. Cũng đốt cháy bỏng linh hồn ta như thế. Sách của ông còn mở ra một khoảng vắng lặng để cho Dịch Kinh tương ứng với Phật Giáo và thành tựu một bước đường tối hậu cho sử lịch Đông Phương. * Rimbaud Mỗi phen muốn nói tới thơ Rimbaud, thì lập thời ta gác bút bình luận, nắm lấy ngọn bút tái tạo thi ca. Để có thể cho hai làn sóng bành bái cùng song song dâng lên, đập vỡ vào nhau cho hiện ra một tinh thể nào khác. Với Nguyễn Du, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Quang Dũng, ta vẫn thường sử dụng phép “cưỡng bức” kia. Nhưng cái âm thanh riêng biệt thoát từ hai triều sóng tuôn ra, âm thanh đó sẽ ngân lên như thế nào, và dội vào đâu để vọng lại? Cuối cùng đành phải quay sang cuộc làm thơ vịnh sách vũ hiệp. * Paul Eluard Là thiên tài riêng biệt Tây Phương đích đáng là hóa thân của Đức Khổng. Khổng Tử đi vào mê cung hiện đại, Khổng Tử biến làm Paul Eluard, René Char, Albert Camus, hoặc André Gide.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Bà táo bạo gan liền lỳ lợm như những Sade, Lautréa-mont. * Ngoạ Long Sinh Là một thiên tài thy sỹ thâm cảnh rằng ngôn ngữ Trung Hoa không còn sinh lực nữa để bước một bước khổng lồ thi ca ngôn ngữ Việt Nam, Pháp, Đức, Anh. Nên ông xô ùa nguồn thơ Trung Hoa vào văn chương vũ hiệp. Vì lý do đó, nên ban sơ sách vũ hiệp của ông không được hưởng ứng chan hòa như sách của Kim Dung. Nhưng một phen đã kiên nhẫn theo dõi ông một thời gian, ắt sẽ thấy tâm tình cháy bỏng. Trong sách ông không có những loại tên hề Shakespeare. Nhưng có những ngôn từ “hề ngầm”. Cũng đốt cháy bỏng linh hồn ta như thế. Sách của ông còn mở ra một khoảng vắng lặng để cho Dịch Kinh tương ứng với Phật Giáo và thành tựu một bước đường tối hậu cho sử lịch Đông Phương. * Rimbaud Mỗi phen muốn nói tới thơ Rimbaud, thì lập thời ta gác bút bình luận, nắm lấy ngọn bút tái tạo thi ca. Để có thể cho hai làn sóng bành bái cùng song song dâng lên, đập vỡ vào nhau cho hiện ra một tinh thể nào khác. Với Nguyễn Du, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Quang Dũng, ta vẫn thường sử dụng phép “cưỡng bức” kia. Nhưng cái âm thanh riêng biệt thoát từ hai triều sóng tuôn ra, âm thanh đó sẽ ngân lên như thế nào, và dội vào đâu để vọng lại? Cuối cùng đành phải quay sang cuộc làm thơ vịnh sách vũ hiệp. * Paul Eluard Là thiên tài riêng biệt Tây Phương đích đáng là hóa thân của Đức Khổng. Khổng Tử đi vào mê cung hiện đại, Khổng Tử biến làm Paul Eluard, René Char, Albert Camus, hoặc André Gide.
* Paul Eluard Là thiên tài riêng biệt Tây Phương đích đáng là hóa thân của Đức Khổng. Khổng Tử đi vào mê cung hiện đại, Khổng Tử biến làm Paul Eluard, René Char, Albert Camus, hoặc André Gide. Như Lai biến làm Saint John Perse, Walt Whit-man, Dylan Thomas. Trang Tử biến làm Jean Paul Sartre. Nguyễn Du bước hụt một bước, ắt có thể biến thành Simone Weil. * Mai Vân Thu Mai Vân Thu rất ít làm thơ. Nhưng mỗi bài thơ của cô mang tính chất riêng biệt - là tính chất không tuổi không tên. Không ai rõ đó là xao xuyến hay vui tươi, buồn rầu hay hoan lạc. Thơ của cô xóa hết mọi biên giới trong bảy mối tình cảm của con người. Độc giả thử đọc một bài sau đây: Ra Đời Hoa đắm đuối lìa cành rớt xuống Mùa xuân xanh thu muộn hai hàng Song song từ giã lên đàng Cơn mưa chếnh choáng ngựa vàng ướt lưng Màu thấm thoát xưa từng đã luống Hương gây ngô cuồn cuộn quen rồi Đường trường điểm gạch tô vôi Non trùng điệp giục ra đời ai đi. * Trần Cũ Một Tôi thích mấy bài thơ đơn giản sau đây của Trần Cũ Một. Nếp áo Đã phai nếp áo sông hồ Chuyện vàng đá cũng nếp xô đi rồi Âm thanh ray rứt nửa đời Thoảng dư hương ấy về nơi vong tình Ngủ yên hằng cửu nín thinh Càng xa vó ngựa trường đình năm nào. Buông rơi Chắc gì cố quận còn nghe Mưa xuân thấm thoát bờ tre giậu vàng Hai bàn tay nắm một hàng Cỏ thơm ký ức muộn màng chim kêu. Vân hoa Môi vàng nửa giọt máu hoa Dấu in hằng cửu đã xa mây vàng Trang hồng rứt bỏ từng trang Mùa xuân cố quận nhớ nàng không tên. * Vương Quốc Quyên
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
* Paul Eluard Là thiên tài riêng biệt Tây Phương đích đáng là hóa thân của Đức Khổng. Khổng Tử đi vào mê cung hiện đại, Khổng Tử biến làm Paul Eluard, René Char, Albert Camus, hoặc André Gide. Như Lai biến làm Saint John Perse, Walt Whit-man, Dylan Thomas. Trang Tử biến làm Jean Paul Sartre. Nguyễn Du bước hụt một bước, ắt có thể biến thành Simone Weil. * Mai Vân Thu Mai Vân Thu rất ít làm thơ. Nhưng mỗi bài thơ của cô mang tính chất riêng biệt - là tính chất không tuổi không tên. Không ai rõ đó là xao xuyến hay vui tươi, buồn rầu hay hoan lạc. Thơ của cô xóa hết mọi biên giới trong bảy mối tình cảm của con người. Độc giả thử đọc một bài sau đây: Ra Đời Hoa đắm đuối lìa cành rớt xuống Mùa xuân xanh thu muộn hai hàng Song song từ giã lên đàng Cơn mưa chếnh choáng ngựa vàng ướt lưng Màu thấm thoát xưa từng đã luống Hương gây ngô cuồn cuộn quen rồi Đường trường điểm gạch tô vôi Non trùng điệp giục ra đời ai đi. * Trần Cũ Một Tôi thích mấy bài thơ đơn giản sau đây của Trần Cũ Một. Nếp áo Đã phai nếp áo sông hồ Chuyện vàng đá cũng nếp xô đi rồi Âm thanh ray rứt nửa đời Thoảng dư hương ấy về nơi vong tình Ngủ yên hằng cửu nín thinh Càng xa vó ngựa trường đình năm nào. Buông rơi Chắc gì cố quận còn nghe Mưa xuân thấm thoát bờ tre giậu vàng Hai bàn tay nắm một hàng Cỏ thơm ký ức muộn màng chim kêu. Vân hoa Môi vàng nửa giọt máu hoa Dấu in hằng cửu đã xa mây vàng Trang hồng rứt bỏ từng trang Mùa xuân cố quận nhớ nàng không tên. * Vương Quốc Quyên
Cỏ thơm ký ức muộn màng chim kêu. Vân hoa Môi vàng nửa giọt máu hoa Dấu in hằng cửu đã xa mây vàng Trang hồng rứt bỏ từng trang Mùa xuân cố quận nhớ nàng không tên. * Vương Quốc Quyên Vương Quốc Quyên làm thơ nhiều, nhưng chẳng chịu in ra sách. Chỉ thỉnh thoảng gửi cho tôi vài bài “Ngẫu Hứng”. Cô bảo rằng bài nào cũng ngẫu nhiên làm khoảng năm giờ sáng, làm xong vài bài thì buông bút, lo việc tảo tần, bếp núc… Chim kêu Nửa tiếng chim kêu lạc giọng rồi Đồng hoang chừ cỏ lấp hai nơi Chữ nghiêng trang giấy đêm về sáng Gà gáy biên cương tiếng lộn lời Nửa tiếng chim kêu nào thánh thót Một đời quang gánh đất chia đôi Đò giang xuôi ngược đêm trì hoãn Nam bắc mù sương một mảnh trời. Mưa nắng Ngày chan chứa lục hồng thưa rậm Giữa đêm tăm quỳ bẩm thiên tiên Tôi nay mất cõi quên miền Tản cư năm tháng trận phiền dây dưa Tình phố xá cuộc mua cơn bán Đứa con thơ khóc khản cổ rồi Chim bay mất bóng lưng trời Quỳ xin tiên nữ một lời cuối sương. * Tiêu Quỳnh Cô người Thừa Thiên, nhưng gốc gác vốn là Hà Tĩnh. Chép ra đây vài bài để độc giả thưởng thức chút khí hậu của hai vùng đất thơ mộng nhất Việt Nam. Tao phùng Tao phùng bến nước đầu hoa Xuân đi như mộng trái đà sang thu Vườn xuân ghi chữ sa mù Một vùng giếng ngọc giọt từ từ ngân. Biệt ly Biệt ly đầy rẫy can trường Quan san nhuộm bóng vô thường nước mây Não nùng khăn đỏ choàng vai Nào xin một lúc nào hai ba hàng. Đọc sách Đọc trang khung cửa của người Xuê xoang ngộ hội còn vui hội hè Đường tơ bích lục sắt se
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cỏ thơm ký ức muộn màng chim kêu. Vân hoa Môi vàng nửa giọt máu hoa Dấu in hằng cửu đã xa mây vàng Trang hồng rứt bỏ từng trang Mùa xuân cố quận nhớ nàng không tên. * Vương Quốc Quyên Vương Quốc Quyên làm thơ nhiều, nhưng chẳng chịu in ra sách. Chỉ thỉnh thoảng gửi cho tôi vài bài “Ngẫu Hứng”. Cô bảo rằng bài nào cũng ngẫu nhiên làm khoảng năm giờ sáng, làm xong vài bài thì buông bút, lo việc tảo tần, bếp núc… Chim kêu Nửa tiếng chim kêu lạc giọng rồi Đồng hoang chừ cỏ lấp hai nơi Chữ nghiêng trang giấy đêm về sáng Gà gáy biên cương tiếng lộn lời Nửa tiếng chim kêu nào thánh thót Một đời quang gánh đất chia đôi Đò giang xuôi ngược đêm trì hoãn Nam bắc mù sương một mảnh trời. Mưa nắng Ngày chan chứa lục hồng thưa rậm Giữa đêm tăm quỳ bẩm thiên tiên Tôi nay mất cõi quên miền Tản cư năm tháng trận phiền dây dưa Tình phố xá cuộc mua cơn bán Đứa con thơ khóc khản cổ rồi Chim bay mất bóng lưng trời Quỳ xin tiên nữ một lời cuối sương. * Tiêu Quỳnh Cô người Thừa Thiên, nhưng gốc gác vốn là Hà Tĩnh. Chép ra đây vài bài để độc giả thưởng thức chút khí hậu của hai vùng đất thơ mộng nhất Việt Nam. Tao phùng Tao phùng bến nước đầu hoa Xuân đi như mộng trái đà sang thu Vườn xuân ghi chữ sa mù Một vùng giếng ngọc giọt từ từ ngân. Biệt ly Biệt ly đầy rẫy can trường Quan san nhuộm bóng vô thường nước mây Não nùng khăn đỏ choàng vai Nào xin một lúc nào hai ba hàng. Đọc sách Đọc trang khung cửa của người Xuê xoang ngộ hội còn vui hội hè Đường tơ bích lục sắt se
Quan san nhuộm bóng vô thường nước mây Não nùng khăn đỏ choàng vai Nào xin một lúc nào hai ba hàng. Đọc sách Đọc trang khung cửa của người Xuê xoang ngộ hội còn vui hội hè Đường tơ bích lục sắt se Mưa xuân sớm dứt nắng hè vội sang. Bắc Nam hai ngả lộn đường Đông Tây trùng ngộ phi thường âm thanh Dẫu sao nguồn cũ sao đành Mấy lòng hạ tứ đã thành chiêm bao? Ngủ gục Chạnh ngủ gục một phen buồn bã Sầu khổ ôi em ạ em ôi Đêm nay tờ mộng rách rồi Máu me bồi phụng rã rời xãu xương Đường phía trước còn vương hoa phấn? Nẻo phía sau từng trận tan hoang Tâm thành thể lệ hỗn mang Ngủ vùi tái điệp nghe tràng giang đi. * Lục Vân Bình Bài thơ sau của Lục Vân Bình tình cờ tôi đọc được. Không rõ thi sĩ này ở đâu. Ngày xế Ngày xế đi qua xóm nhẹ nhàng Chuông chùa vọng tiếng gọi đa mang Ai về kết áo vàng tơ cỏ Phương trượng từ đàm có hỏi han Chung nhật thiết tha gào tiếng cuối Mây trời bỗng loãng mất dư vang Mai kìa chìm tắt giòng thơ suối Mạch động âm thầm hết thở than. * Xuân Diệu Dường như thuở bấy giờ ông linh cảm rằng ngày mai chỉ còn đau khổ và tan nát trên mặt đất quê hương, nên trong tiếng thơ thanh xuân của ông, ông đã dốc hết ra một lần tất cả niềm vui và nỗi buồn của thời đại. Gửi hương cho gió Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng Mất một đời thơm trong kẽ núi Không người du tử đến nhằm hang Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều Là truyền tin thắm gọi tình yêu Song le hoa đợi càng thêm tủi Gió mặc hồn hương nhạt với chiều Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Quan san nhuộm bóng vô thường nước mây Não nùng khăn đỏ choàng vai Nào xin một lúc nào hai ba hàng. Đọc sách Đọc trang khung cửa của người Xuê xoang ngộ hội còn vui hội hè Đường tơ bích lục sắt se Mưa xuân sớm dứt nắng hè vội sang. Bắc Nam hai ngả lộn đường Đông Tây trùng ngộ phi thường âm thanh Dẫu sao nguồn cũ sao đành Mấy lòng hạ tứ đã thành chiêm bao? Ngủ gục Chạnh ngủ gục một phen buồn bã Sầu khổ ôi em ạ em ôi Đêm nay tờ mộng rách rồi Máu me bồi phụng rã rời xãu xương Đường phía trước còn vương hoa phấn? Nẻo phía sau từng trận tan hoang Tâm thành thể lệ hỗn mang Ngủ vùi tái điệp nghe tràng giang đi. * Lục Vân Bình Bài thơ sau của Lục Vân Bình tình cờ tôi đọc được. Không rõ thi sĩ này ở đâu. Ngày xế Ngày xế đi qua xóm nhẹ nhàng Chuông chùa vọng tiếng gọi đa mang Ai về kết áo vàng tơ cỏ Phương trượng từ đàm có hỏi han Chung nhật thiết tha gào tiếng cuối Mây trời bỗng loãng mất dư vang Mai kìa chìm tắt giòng thơ suối Mạch động âm thầm hết thở than. * Xuân Diệu Dường như thuở bấy giờ ông linh cảm rằng ngày mai chỉ còn đau khổ và tan nát trên mặt đất quê hương, nên trong tiếng thơ thanh xuân của ông, ông đã dốc hết ra một lần tất cả niềm vui và nỗi buồn của thời đại. Gửi hương cho gió Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng Mất một đời thơm trong kẽ núi Không người du tử đến nhằm hang Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều Là truyền tin thắm gọi tình yêu Song le hoa đợi càng thêm tủi Gió mặc hồn hương nhạt với chiều Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Không người du tử đến nhằm hang Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều Là truyền tin thắm gọi tình yêu Song le hoa đợi càng thêm tủi Gió mặc hồn hương nhạt với chiều Tản mác phương ngàn lạc gió câm Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm Tình yêu muôn thuở vẫn là hương Biết mấy lòng thơm mở giữa đường Đã mất tình yêu trong gió rủi Không người thấu rõ đến nguồn thương Thiên hạ vô tình nhận ước mơ Nhận rồi không hiểu mộng và thơ Người si muôn kiếp là hoa núi Uổng nhụy lòng tươi tặng khách hờ. (Xuân Diệu) Xuân Diệu có chỗ đặc biệt là: ông nói tới niềm bi đát tồn sinh, ông nói rốt ráo cùng cực, mà vẫn ẩn ẩn một chút mỉm cười mát mẻ. Những hình tượng ông vẽ ra bay múa rộn ràng khiến cho thảm kịch trở thành một ân huệ mưa móc. Nỗi đời gay cấn biến làm màu sắc phiêu du. Đoạn trường trở thành mùi hương rớt hột. Người thi sĩ vốn tiềm tàng một chứa chất một tư lự hoằng viễn của những linh hồn thượng đạt, nên ngôn ngữ quay cuồng đủ hướng vẫn qui về thể thái phiêu nhiên niêm hoa vi tiếu của Khổng Tử điềm đạm trang nghiêm; niêm hoa vi tiếu của Như Lai heo hút man mác; niêm hoa vi tiếu của Long Thọ Bồ Tát và Heidegger đi bước nghiêm mật trừu tượng trong ngôn ngữ quẩn quẩn quanh quanh thoáng hiện thoáng ẩn: niêm hoa vi tiếu của Huy Cận suốt bình sinh thốt tiếng ngậm ngùi; niêm hoa vi tiếu của Trang Tử “mộ tứ nhi triêu tam, triêu tứ nhi mộ tam”.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Không người du tử đến nhằm hang Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều Là truyền tin thắm gọi tình yêu Song le hoa đợi càng thêm tủi Gió mặc hồn hương nhạt với chiều Tản mác phương ngàn lạc gió câm Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm Tình yêu muôn thuở vẫn là hương Biết mấy lòng thơm mở giữa đường Đã mất tình yêu trong gió rủi Không người thấu rõ đến nguồn thương Thiên hạ vô tình nhận ước mơ Nhận rồi không hiểu mộng và thơ Người si muôn kiếp là hoa núi Uổng nhụy lòng tươi tặng khách hờ. (Xuân Diệu) Xuân Diệu có chỗ đặc biệt là: ông nói tới niềm bi đát tồn sinh, ông nói rốt ráo cùng cực, mà vẫn ẩn ẩn một chút mỉm cười mát mẻ. Những hình tượng ông vẽ ra bay múa rộn ràng khiến cho thảm kịch trở thành một ân huệ mưa móc. Nỗi đời gay cấn biến làm màu sắc phiêu du. Đoạn trường trở thành mùi hương rớt hột. Người thi sĩ vốn tiềm tàng một chứa chất một tư lự hoằng viễn của những linh hồn thượng đạt, nên ngôn ngữ quay cuồng đủ hướng vẫn qui về thể thái phiêu nhiên niêm hoa vi tiếu của Khổng Tử điềm đạm trang nghiêm; niêm hoa vi tiếu của Như Lai heo hút man mác; niêm hoa vi tiếu của Long Thọ Bồ Tát và Heidegger đi bước nghiêm mật trừu tượng trong ngôn ngữ quẩn quẩn quanh quanh thoáng hiện thoáng ẩn: niêm hoa vi tiếu của Huy Cận suốt bình sinh thốt tiếng ngậm ngùi; niêm hoa vi tiếu của Trang Tử “mộ tứ nhi triêu tam, triêu tứ nhi mộ tam”.
Niêm hoa vi tiếu của Xuân Diệu “lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng, xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi”… Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phũ phàng Mất một đời thơm trong kẽ núi Không người du tử đến nhằm hang Trong kẽ núi? Là nơi chốn của những hang hốc ngổn ngang um tùm cỏ mọc. Hương hoa mất cả một đời thơm trong kẽ núi. Nghĩa là gió phũ phàng không đem hương hoa về đồng nội thôn làng thôn ổ, cho nhân gian tiếp đón. Gió phụ phàng đẩy hương vào trong kẽ núi tối om om, lạnh căm căm, chịu đọa đày trong quạnh hiu tù ngục. Một đời thơm mất đi trong kẽ núi đá đờ đẫn ra như thế, thì kể cũng đà thiểu não lắm thay. Còn khốn đốn hơn tình cảnh Thuý Kiều lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Bởi vì lênh đênh là trôi dạt. Trôi dạt thì còn dịp được tấp vào bờ. Hoặc còn mong lưu ly thì được gặp bàn tay tế độ của Thúc, của Từ… Mà cho dẫu không gặp bàn tay nào cả, thì riêng cái việc được lưu ly cũng là thơ mộng. Có chìm, có nổi, có dìu dặt, có nhấp nhô. Còn như cái sự tình mất một đời thơm trong kẽ núi, là cái sự tình ngột ngạt, không khác chi bị vùi chôn trong nấm mồ, chẳng khác chi cái nhà mồ Siêu Hình Học Âu Châu đã chôn vùi sấp ngửa Nerval Hölderlin. Bị vùi chôn ngột thở, hy vọng có người du tử nào ngẫu nhiên đi nhằm hang trúng hố, mà cứu ra? Nhưng núi non thì trùng trùng điệp điệp, hang hố thì hàng triệu ngổn ngang, nằm ù lỳ trong tịch mịch. Hy vọng được cứu thoát là hy vọng của tuyệt vô hy vọng. Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Niêm hoa vi tiếu của Xuân Diệu “lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng, xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi”… Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phũ phàng Mất một đời thơm trong kẽ núi Không người du tử đến nhằm hang Trong kẽ núi? Là nơi chốn của những hang hốc ngổn ngang um tùm cỏ mọc. Hương hoa mất cả một đời thơm trong kẽ núi. Nghĩa là gió phũ phàng không đem hương hoa về đồng nội thôn làng thôn ổ, cho nhân gian tiếp đón. Gió phụ phàng đẩy hương vào trong kẽ núi tối om om, lạnh căm căm, chịu đọa đày trong quạnh hiu tù ngục. Một đời thơm mất đi trong kẽ núi đá đờ đẫn ra như thế, thì kể cũng đà thiểu não lắm thay. Còn khốn đốn hơn tình cảnh Thuý Kiều lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Bởi vì lênh đênh là trôi dạt. Trôi dạt thì còn dịp được tấp vào bờ. Hoặc còn mong lưu ly thì được gặp bàn tay tế độ của Thúc, của Từ… Mà cho dẫu không gặp bàn tay nào cả, thì riêng cái việc được lưu ly cũng là thơ mộng. Có chìm, có nổi, có dìu dặt, có nhấp nhô. Còn như cái sự tình mất một đời thơm trong kẽ núi, là cái sự tình ngột ngạt, không khác chi bị vùi chôn trong nấm mồ, chẳng khác chi cái nhà mồ Siêu Hình Học Âu Châu đã chôn vùi sấp ngửa Nerval Hölderlin. Bị vùi chôn ngột thở, hy vọng có người du tử nào ngẫu nhiên đi nhằm hang trúng hố, mà cứu ra? Nhưng núi non thì trùng trùng điệp điệp, hang hố thì hàng triệu ngổn ngang, nằm ù lỳ trong tịch mịch. Hy vọng được cứu thoát là hy vọng của tuyệt vô hy vọng. Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng
Hy vọng được cứu thoát là hy vọng của tuyệt vô hy vọng. Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng Biết bao hoa đẹp? Hoa đẹp của rừng thẳm rừng thiêng? Loại hoa đó không giống loại hoa của phồn hoa son phấn. Loại hoa đó u nùng như rừng thẳm âm u. Loại hoa đó mọc từ uyên nguyên vũ trụ. Từ giữa lòng tịch hạp của càn khôn. Nó tin cậy đem ký thác tinh thể nó cho gió. Thấy gió phiêu bồng chịu chơi, nó hân hoan gửi hương cho gió. Thì đùng một cái, vừa gửi đi, thoắt thấy mình chết đắm. Tại sao gió không mang nó đi tỏa ra man mác bốn chân trời chân mây tứ hải. Gió lại chơi khăm đưa nó vào trong kẽ núi bịt bùng. Cái tiếng phụ phàng chọi lại đem gửi. Là tin cậy mới đem ra. Bốn câu tiếp chậm rãi nói ra sự tình trớ trêu cắc cớ: Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều Lá truyền tin thắm gọi tình yêu Song le hoa đợi càng thêm tủi Gió mặc hồn hương nhạt với chiều… Mọi tiếng không một tiếng nào không nói ra cớ sự ảo não. Hoa bản chất vốn là phù du. Đợi nhiều như thế thì còn gì tinh thể của hoa: Gió mặc hồn hương nhạt với chiều Chiều là hoàng hôn. Đêm tối là dặm khuya ngất tạnh mù khơi. Ngất tạnh mù khơi là câm nín. Không một âm thanh tương ứng vọng lại suốt rừng cao, lũng thấp, cồn bãi lè tè. Tản mác phương ngàn lạc gió câm Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm Gió câm? Nó câm bởi vì nó điếc. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó không điếc. Nó không điếc thì ắt nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Hy vọng được cứu thoát là hy vọng của tuyệt vô hy vọng. Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng Biết bao hoa đẹp? Hoa đẹp của rừng thẳm rừng thiêng? Loại hoa đó không giống loại hoa của phồn hoa son phấn. Loại hoa đó u nùng như rừng thẳm âm u. Loại hoa đó mọc từ uyên nguyên vũ trụ. Từ giữa lòng tịch hạp của càn khôn. Nó tin cậy đem ký thác tinh thể nó cho gió. Thấy gió phiêu bồng chịu chơi, nó hân hoan gửi hương cho gió. Thì đùng một cái, vừa gửi đi, thoắt thấy mình chết đắm. Tại sao gió không mang nó đi tỏa ra man mác bốn chân trời chân mây tứ hải. Gió lại chơi khăm đưa nó vào trong kẽ núi bịt bùng. Cái tiếng phụ phàng chọi lại đem gửi. Là tin cậy mới đem ra. Bốn câu tiếp chậm rãi nói ra sự tình trớ trêu cắc cớ: Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều Lá truyền tin thắm gọi tình yêu Song le hoa đợi càng thêm tủi Gió mặc hồn hương nhạt với chiều… Mọi tiếng không một tiếng nào không nói ra cớ sự ảo não. Hoa bản chất vốn là phù du. Đợi nhiều như thế thì còn gì tinh thể của hoa: Gió mặc hồn hương nhạt với chiều Chiều là hoàng hôn. Đêm tối là dặm khuya ngất tạnh mù khơi. Ngất tạnh mù khơi là câm nín. Không một âm thanh tương ứng vọng lại suốt rừng cao, lũng thấp, cồn bãi lè tè. Tản mác phương ngàn lạc gió câm Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm Gió câm? Nó câm bởi vì nó điếc. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó không điếc. Nó không điếc thì ắt nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp.
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm Gió câm? Nó câm bởi vì nó điếc. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó không điếc. Nó không điếc thì ắt nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp. Dưới rừng cũng như trên rừng, hai ngả đều lạnh giá câm nín cả hai. Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá Nếu rơi trên đất còn khả dĩ gọi là. Mà nếu rơi được trên giòng khe thì càng may mắn hơn nữa. Nhưng hoa đẹp rơi trên đá? Rơi trên đá thì còn ra cái thể thống gì? Thì cũng tỷ như cô Marceline rơi rụng cái hồng nhan mình trên cái hình hài anh chàng Michel (L’Immoraliste). Hoặc cái chú Jan chạm phải cái phũ phàng cứng rắn của cô em gái Martha. Hoặc cái cứng nuồng Caesonia Seiphion vấp phải cái khối Caligula sa mạc. Sa mạc phát tiết anh hoa ra ngoài một phen thì sự tình đi tới chỗ trầm trọng bất khả vãn hồi. Jésus Christ phải lên Calvaire, song song với hai tên trộm cướp… Tình yêu muôn thuở vẫn là hương Biết mấy lòng thơm mở giữa đường Đã mất tình yêu trong gió rủi… Cái trận gió rủi kia đã đem tai họa đến cho gia đình Nguyễn Trãi. Đã xô Nguyễn Du về giữa triều đình Gia Long. Đó là nơi chốn phát tiết tiếng thơ xưa kia: Kim cổ vô cùng giang mạc mạc. Và: Chắc chi thiên hạ đời nay Mà đem non nước làm rầy chiêm bao Và: Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ Tuổi bao nhiêu? Đã sinh cùng nước cùng thì Cùng ta không biệt mà ly bao giờ? Không biệt mà ly có nghĩa là: mất hết mọi tương ứng thông cảm. Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế cõi đời không còn là cõi sống của con người ta.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm Gió câm? Nó câm bởi vì nó điếc. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó không điếc. Nó không điếc thì ắt nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp. Dưới rừng cũng như trên rừng, hai ngả đều lạnh giá câm nín cả hai. Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá Nếu rơi trên đất còn khả dĩ gọi là. Mà nếu rơi được trên giòng khe thì càng may mắn hơn nữa. Nhưng hoa đẹp rơi trên đá? Rơi trên đá thì còn ra cái thể thống gì? Thì cũng tỷ như cô Marceline rơi rụng cái hồng nhan mình trên cái hình hài anh chàng Michel (L’Immoraliste). Hoặc cái chú Jan chạm phải cái phũ phàng cứng rắn của cô em gái Martha. Hoặc cái cứng nuồng Caesonia Seiphion vấp phải cái khối Caligula sa mạc. Sa mạc phát tiết anh hoa ra ngoài một phen thì sự tình đi tới chỗ trầm trọng bất khả vãn hồi. Jésus Christ phải lên Calvaire, song song với hai tên trộm cướp… Tình yêu muôn thuở vẫn là hương Biết mấy lòng thơm mở giữa đường Đã mất tình yêu trong gió rủi… Cái trận gió rủi kia đã đem tai họa đến cho gia đình Nguyễn Trãi. Đã xô Nguyễn Du về giữa triều đình Gia Long. Đó là nơi chốn phát tiết tiếng thơ xưa kia: Kim cổ vô cùng giang mạc mạc. Và: Chắc chi thiên hạ đời nay Mà đem non nước làm rầy chiêm bao Và: Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ Tuổi bao nhiêu? Đã sinh cùng nước cùng thì Cùng ta không biệt mà ly bao giờ? Không biệt mà ly có nghĩa là: mất hết mọi tương ứng thông cảm. Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế cõi đời không còn là cõi sống của con người ta.
Cùng ta không biệt mà ly bao giờ? Không biệt mà ly có nghĩa là: mất hết mọi tương ứng thông cảm. Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế cõi đời không còn là cõi sống của con người ta. Lúc Jésus Christ nói với Ponce Pilate: “Vương quốc ta không phải là cõi đời này” thì ý Ngài muốn nói gì như thế? Nói xong câu đó, thì Ngài im lặng. Ponce Pilate hỏi: “Bọn chúng lên án Ngài lan tràn như thế, Ngài nghĩ sao?” Jésus Christ vẫn im lặng. Ấy bởi vì câu nói trên của Ngài đã là lời đáp cho mọi câu hỏi rồi. Ngài không phải là con dân của non nước này, thì luật lệ của non nước này sao có thể lên án Ngài. Ngài chỉ ghé lại viếng chơi giây lát, ôn tồn tâm sự phút giây, rồi phiêu nhiên nhi khứ, như đã phiêu nhiên như lai… Mọi oan nghiệt trần gian thế là được gột rửa sạch sẽ vệ sinh. Trong trận lặng lẽ kia của Ngài, chẳng còn ai giết ai, chẳng còn ai anh hùng hữu hận… Ngài đã đóng xong vai trò của thân thể ở trong cuộc hý trường hư vô kim cổ vô cùng giang mạc mạc. Bài thơ của Xuân Diệu không có nói ra như thế. Lời thơ Nguyễn Trãi cũng không. Nhưng nó đã bao hàm tất cả những gì chuẩn bị cho linh hồn con người ta thể hội sự tình kia, trong cái thể điệu thi ca hiu hiu hắt hắt. Nó nói chuyện hoa rừng mà không phải chuyện hoa rừng. Nó nói chuyện người thơ, mà không hẳn là chuyện người thơ. Nó nói một đường để người ta nghe một ngả. Nó nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử biên. Mà thử biên cũng có thể là vô biên vô tế.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cùng ta không biệt mà ly bao giờ? Không biệt mà ly có nghĩa là: mất hết mọi tương ứng thông cảm. Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế cõi đời không còn là cõi sống của con người ta. Lúc Jésus Christ nói với Ponce Pilate: “Vương quốc ta không phải là cõi đời này” thì ý Ngài muốn nói gì như thế? Nói xong câu đó, thì Ngài im lặng. Ponce Pilate hỏi: “Bọn chúng lên án Ngài lan tràn như thế, Ngài nghĩ sao?” Jésus Christ vẫn im lặng. Ấy bởi vì câu nói trên của Ngài đã là lời đáp cho mọi câu hỏi rồi. Ngài không phải là con dân của non nước này, thì luật lệ của non nước này sao có thể lên án Ngài. Ngài chỉ ghé lại viếng chơi giây lát, ôn tồn tâm sự phút giây, rồi phiêu nhiên nhi khứ, như đã phiêu nhiên như lai… Mọi oan nghiệt trần gian thế là được gột rửa sạch sẽ vệ sinh. Trong trận lặng lẽ kia của Ngài, chẳng còn ai giết ai, chẳng còn ai anh hùng hữu hận… Ngài đã đóng xong vai trò của thân thể ở trong cuộc hý trường hư vô kim cổ vô cùng giang mạc mạc. Bài thơ của Xuân Diệu không có nói ra như thế. Lời thơ Nguyễn Trãi cũng không. Nhưng nó đã bao hàm tất cả những gì chuẩn bị cho linh hồn con người ta thể hội sự tình kia, trong cái thể điệu thi ca hiu hiu hắt hắt. Nó nói chuyện hoa rừng mà không phải chuyện hoa rừng. Nó nói chuyện người thơ, mà không hẳn là chuyện người thơ. Nó nói một đường để người ta nghe một ngả. Nó nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử biên. Mà thử biên cũng có thể là vô biên vô tế.
Nó nói một đường để người ta nghe một ngả. Nó nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử biên. Mà thử biên cũng có thể là vô biên vô tế. Vô biên vô tế cũng có thể là hư vô mà cũng có thể là không phải là hư vô. Non nước ta không phải ở cõi đời này nhưng vì sao ta lại về đây và gieo Phúc Âm vào cho non nước? Gieo vào cho non nước, mà vẫn biết trước rằng non nước chẳng nghe ra. Non nước chẳng nghe ra thì công gieo là công uổng. Công uổng là luống công lao. Thế tại sao lại bận lòng gieo rắc? Bận lòng gieo rắc mà lòng dạ vẫn chẳng bận tâm. Chẳng bận tâm sao có sự đoạn trường. Sao có sự vụ đoạn trường tân thanh? Đã có đoạn trường tân thanh sao còn gọi là góp nhặt lời quê mua vui một vài trống canh cũng được? Mua vui chơi một cuộc sao còn thở than “bất tri tam bách dư niên hậu?”. Nêu câu hỏi lai rai ráo riết như thế rốt cuộc ta chạm phải cái gì? Ấy là lời thơ hắt hiu đồng Bương Cấn: Bao giờ ta gặp em lần nữa Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa Đã hết sắc màu chinh chiến cũ Còn có bao giờ em nhớ ta? Triệt ngộ cái lẽ ẩn mật trong nếp gấp thi ca, từ đó về sau chẳng bao giờ ta còn dám trách chúa Jésus mâu thuẫn. Tại sao lúc Ngài bảo là non nước này chẳng phai non nước của Ngài, rồi lúc lâm biệt, ngài lại thở than: “Hỡi Thượng Đế! Vì sao Người bỏ rơi con!”. * Chế Lan Viên Một tinh thần quân bình sáng suốt, lại cứ nói mãi chuyện điên. Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma. Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng, và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nó nói một đường để người ta nghe một ngả. Nó nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử biên. Mà thử biên cũng có thể là vô biên vô tế. Vô biên vô tế cũng có thể là hư vô mà cũng có thể là không phải là hư vô. Non nước ta không phải ở cõi đời này nhưng vì sao ta lại về đây và gieo Phúc Âm vào cho non nước? Gieo vào cho non nước, mà vẫn biết trước rằng non nước chẳng nghe ra. Non nước chẳng nghe ra thì công gieo là công uổng. Công uổng là luống công lao. Thế tại sao lại bận lòng gieo rắc? Bận lòng gieo rắc mà lòng dạ vẫn chẳng bận tâm. Chẳng bận tâm sao có sự đoạn trường. Sao có sự vụ đoạn trường tân thanh? Đã có đoạn trường tân thanh sao còn gọi là góp nhặt lời quê mua vui một vài trống canh cũng được? Mua vui chơi một cuộc sao còn thở than “bất tri tam bách dư niên hậu?”. Nêu câu hỏi lai rai ráo riết như thế rốt cuộc ta chạm phải cái gì? Ấy là lời thơ hắt hiu đồng Bương Cấn: Bao giờ ta gặp em lần nữa Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa Đã hết sắc màu chinh chiến cũ Còn có bao giờ em nhớ ta? Triệt ngộ cái lẽ ẩn mật trong nếp gấp thi ca, từ đó về sau chẳng bao giờ ta còn dám trách chúa Jésus mâu thuẫn. Tại sao lúc Ngài bảo là non nước này chẳng phai non nước của Ngài, rồi lúc lâm biệt, ngài lại thở than: “Hỡi Thượng Đế! Vì sao Người bỏ rơi con!”. * Chế Lan Viên Một tinh thần quân bình sáng suốt, lại cứ nói mãi chuyện điên. Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma. Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng, và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan?
Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma. Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng, và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan? Người Chàm đã diệt vong, cũng như người Troyens đã diệt vong, người da đỏ đã diệt vong. Người người kẻ kẻ mọi mọi da da đã diệt vong, và tiếp tục xô ùa nhau vào diệt vong. Thì kẻ yêu đời chỉ còn biết gọi: - Thần chết ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền… * Nguyễn Trãi Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả. Nguyễn Du đã vì Nguyễn Trãi mà dựng một tòa tân thanh lặng lẽ. Thy sỹ đời sau cũng vì Nguyễn Trãi mà tiếp tục làm thơ không lời. Thảm kịch nhà Nguyễn Trãi dựng lên nước mắt mọi người toàn khối bất công oan nghiệt con người phải nai lưng ra gánh vác. Còn đâu chỗ để nêu ra vấn đề Chiến Tranh hay Hòa Bình? Hòa bình cũng thôi… Chắc chi dâu biển nỗi đời Mà đem non nước làm lời non sông… * Nguyên Sa Có lẽ ông Nguyên Sa nhãn giới rộng rãi, nhìn xuôi ngược quá tỏ rõ ngọn ngành dâu biển, nên lời thơ của ông trở thành nửa thực, nửa rỡn, nửa thâm thiết, nửa hững hờ. Và có một sức quyến rũ khác hẳn mọi lối thơ xưa nay. Cả thơ, cả văn của ông, đều có như là một loại thần dược của thiên nhiên trao gửi cho trần gian bối rối. Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít. * Đỗ Long Vân
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma. Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng, và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan? Người Chàm đã diệt vong, cũng như người Troyens đã diệt vong, người da đỏ đã diệt vong. Người người kẻ kẻ mọi mọi da da đã diệt vong, và tiếp tục xô ùa nhau vào diệt vong. Thì kẻ yêu đời chỉ còn biết gọi: - Thần chết ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền… * Nguyễn Trãi Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả. Nguyễn Du đã vì Nguyễn Trãi mà dựng một tòa tân thanh lặng lẽ. Thy sỹ đời sau cũng vì Nguyễn Trãi mà tiếp tục làm thơ không lời. Thảm kịch nhà Nguyễn Trãi dựng lên nước mắt mọi người toàn khối bất công oan nghiệt con người phải nai lưng ra gánh vác. Còn đâu chỗ để nêu ra vấn đề Chiến Tranh hay Hòa Bình? Hòa bình cũng thôi… Chắc chi dâu biển nỗi đời Mà đem non nước làm lời non sông… * Nguyên Sa Có lẽ ông Nguyên Sa nhãn giới rộng rãi, nhìn xuôi ngược quá tỏ rõ ngọn ngành dâu biển, nên lời thơ của ông trở thành nửa thực, nửa rỡn, nửa thâm thiết, nửa hững hờ. Và có một sức quyến rũ khác hẳn mọi lối thơ xưa nay. Cả thơ, cả văn của ông, đều có như là một loại thần dược của thiên nhiên trao gửi cho trần gian bối rối. Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít. * Đỗ Long Vân
Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít. * Đỗ Long Vân Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào. Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… mang tâm hồn thi sĩ dấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi. * Nhất Hạnh Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên. Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây Phương. Nhưng riêng gì Thượng Tọa Nhất Hạnh lâm vào trường hợp bi thiết đó? Và ngay cả một thiên tài Nhượng Tống cũng không thoát khỏi ma lực của tinh thần khoa học đời nay. * Trần Trọng Kim Trần Trọng Kim cũng là một thiên tài thi sỹ. Ông dịch thơ Đường không đạt tới cái độ tài hoa của Tản Đà, nhưng trong mạch ngầm lại thâm hậu hơn Tản Đà. Tản Đà bị tẩu hỏa nhập ma. Trần Trọng Kim lại là người duy nhất trong thế kỷ này, giữ vững được tâm hồn trong niềm tịch nhiên bất động giữa mọi phong ba. Tản Đà chú giải Truyện Kiều một cách thô thiển lệch lạc quá. Trái lại Trần Trọng Kim có những ghi chú hoằng đại âm thầm. * Chu Mạnh Trinh Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ, quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một bước đặc biệt.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít. * Đỗ Long Vân Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào. Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… mang tâm hồn thi sĩ dấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi. * Nhất Hạnh Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên. Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây Phương. Nhưng riêng gì Thượng Tọa Nhất Hạnh lâm vào trường hợp bi thiết đó? Và ngay cả một thiên tài Nhượng Tống cũng không thoát khỏi ma lực của tinh thần khoa học đời nay. * Trần Trọng Kim Trần Trọng Kim cũng là một thiên tài thi sỹ. Ông dịch thơ Đường không đạt tới cái độ tài hoa của Tản Đà, nhưng trong mạch ngầm lại thâm hậu hơn Tản Đà. Tản Đà bị tẩu hỏa nhập ma. Trần Trọng Kim lại là người duy nhất trong thế kỷ này, giữ vững được tâm hồn trong niềm tịch nhiên bất động giữa mọi phong ba. Tản Đà chú giải Truyện Kiều một cách thô thiển lệch lạc quá. Trái lại Trần Trọng Kim có những ghi chú hoằng đại âm thầm. * Chu Mạnh Trinh Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ, quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một bước đặc biệt.
* Chu Mạnh Trinh Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ, quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một bước đặc biệt. Lời cổ kính mà tân kỳ. Bằng một cánh phấp phới, ông bay vút một cơn. Trái lại, “Chinh Phụ Ngâm Khúc” bằng Hán ngữ của Đặng Trần Côn, ắt chẳng khiến một thiên tài Trung Hoa nào chịu sửng sốt. * Thanh Tâm Tuyền Thanh Tâm Tuyền như một vị tướng lãnh gan lì, sử dụng một loại võ công chỉ riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới. Mọi kẻ về sau học tập võ công ấy đều thất bại. Công lực thâm hậu, Thanh Tâm Tuyền lại còn trẻ quá, do đó, ông bước đi trên trận địa một cách quá ngang nhiên, chả bao giờ ông bận tâm tới những môn võ công khác của những đối thủ, bất kể chúng là thiên tài hay là chẳng. * Thế Phong Thế Phong hùng hậu ngang tàng, bướng bỉnh, khó tính. Bài thơ đi ào ào, lúc chan hoà tâm sự, lúc cộc lốc phiêu nhiên. Thơ cảm động vô cùng, mà cũng lắm phen khiến người ta cười bật ra tiếng. Thơ ông Thế Phong là chỗ kết tụ của một tâm hồn tế nhị khôn hàn và một nỗi gàn bướng không tả. Ông làm giàu cho thi ca hiện đại không phải ít. * J. Leiba Trong J. Leiba có một Từ Hải thời xưa yêu Thúy Kiều, lại có một Đạo sỹ giũ áo tơ tình, đi theo cánh hạc, mà vẫn ngoảnh đầu nhìn mãi phồn hoa thơ mộng ở phía sau. Đúng là một loại Thanh Tùng Tử chịu chơi: Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá Lệ lòng mong cạn chốn am Không Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt Quên hết người quen chốn bụi hồng Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
* Chu Mạnh Trinh Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ, quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một bước đặc biệt. Lời cổ kính mà tân kỳ. Bằng một cánh phấp phới, ông bay vút một cơn. Trái lại, “Chinh Phụ Ngâm Khúc” bằng Hán ngữ của Đặng Trần Côn, ắt chẳng khiến một thiên tài Trung Hoa nào chịu sửng sốt. * Thanh Tâm Tuyền Thanh Tâm Tuyền như một vị tướng lãnh gan lì, sử dụng một loại võ công chỉ riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới. Mọi kẻ về sau học tập võ công ấy đều thất bại. Công lực thâm hậu, Thanh Tâm Tuyền lại còn trẻ quá, do đó, ông bước đi trên trận địa một cách quá ngang nhiên, chả bao giờ ông bận tâm tới những môn võ công khác của những đối thủ, bất kể chúng là thiên tài hay là chẳng. * Thế Phong Thế Phong hùng hậu ngang tàng, bướng bỉnh, khó tính. Bài thơ đi ào ào, lúc chan hoà tâm sự, lúc cộc lốc phiêu nhiên. Thơ cảm động vô cùng, mà cũng lắm phen khiến người ta cười bật ra tiếng. Thơ ông Thế Phong là chỗ kết tụ của một tâm hồn tế nhị khôn hàn và một nỗi gàn bướng không tả. Ông làm giàu cho thi ca hiện đại không phải ít. * J. Leiba Trong J. Leiba có một Từ Hải thời xưa yêu Thúy Kiều, lại có một Đạo sỹ giũ áo tơ tình, đi theo cánh hạc, mà vẫn ngoảnh đầu nhìn mãi phồn hoa thơ mộng ở phía sau. Đúng là một loại Thanh Tùng Tử chịu chơi: Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá Lệ lòng mong cạn chốn am Không Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt Quên hết người quen chốn bụi hồng Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm.
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá Lệ lòng mong cạn chốn am Không Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt Quên hết người quen chốn bụi hồng Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm. Nhưng thử hỏi: - Một loại Từ Hải mà đi tu, thì tu sao trót? Làm sao gột rửa cho xong trong máu me mình, cái hình ảnh em Thúy một phen kia. Con dẫu trần tâm đã sạch rồi Lòng từ vương một chút thương ai Một câu thơ như thế quả là thừa sức xô ùa hết thảy mọi thi ca kim cổ đông tây đi mất hết. Con dẫu trần tâm đã sạch rồi Lòng từ vương một chút thương ai Thương ai? Một chút kia mang toàn khối tình và tự và đạo và tôi và giáo và lý và phù sinh hư ảo trên trang hải phiêu bồng. J. Leiba ắt đã có diễm phúc gặp một người yêu dịu dàng. Người yêu có lẽ mệnh bạc? Nhưng vì thuở nàng còn tồn tại bình sinh, chàng vì cớ gì đã đi xa nàng như thế? - Quyết lòng dứt áo ra đi? Thanh gươm yên ngựa lên đường ruổi rong? Chúng ta chẳng rõ gì hết về J. Leiba. Ông chỉ gửi lại trong thơ mấy lời chân thành bi thiết nhất của một can tràng hy hữu như một niềm bí mật ngàn xưa… Đã thế thì tôi đi cứ đi Ta cùng hồng kiếp có vương gì Một cười trả lại người thiên hạ Cả tấm thân này lẫn mộng kia … Đâu đấy mồ thu tiếng dế than Lòng ta xao xuyến ngựa lên đàng Hồ ly mấy bóng lan bờ cỏ Đêm tối tìm về ngủ mả hoang. * Bùi Như Sơn Ông không làm thơ nhiều, vì tính ông ham chơi chẳng thiết chi chuyện thơ thẩn. Thỉnh thoảng ông gieo vài vần ghẹo ông Nguyễn Du. Đọc phải bật cười ra tiếng. Gọi là gặp gỡ giữa đường Họa là người dưới suối vàng quên nhau
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá Lệ lòng mong cạn chốn am Không Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt Quên hết người quen chốn bụi hồng Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm. Nhưng thử hỏi: - Một loại Từ Hải mà đi tu, thì tu sao trót? Làm sao gột rửa cho xong trong máu me mình, cái hình ảnh em Thúy một phen kia. Con dẫu trần tâm đã sạch rồi Lòng từ vương một chút thương ai Một câu thơ như thế quả là thừa sức xô ùa hết thảy mọi thi ca kim cổ đông tây đi mất hết. Con dẫu trần tâm đã sạch rồi Lòng từ vương một chút thương ai Thương ai? Một chút kia mang toàn khối tình và tự và đạo và tôi và giáo và lý và phù sinh hư ảo trên trang hải phiêu bồng. J. Leiba ắt đã có diễm phúc gặp một người yêu dịu dàng. Người yêu có lẽ mệnh bạc? Nhưng vì thuở nàng còn tồn tại bình sinh, chàng vì cớ gì đã đi xa nàng như thế? - Quyết lòng dứt áo ra đi? Thanh gươm yên ngựa lên đường ruổi rong? Chúng ta chẳng rõ gì hết về J. Leiba. Ông chỉ gửi lại trong thơ mấy lời chân thành bi thiết nhất của một can tràng hy hữu như một niềm bí mật ngàn xưa… Đã thế thì tôi đi cứ đi Ta cùng hồng kiếp có vương gì Một cười trả lại người thiên hạ Cả tấm thân này lẫn mộng kia … Đâu đấy mồ thu tiếng dế than Lòng ta xao xuyến ngựa lên đàng Hồ ly mấy bóng lan bờ cỏ Đêm tối tìm về ngủ mả hoang. * Bùi Như Sơn Ông không làm thơ nhiều, vì tính ông ham chơi chẳng thiết chi chuyện thơ thẩn. Thỉnh thoảng ông gieo vài vần ghẹo ông Nguyễn Du. Đọc phải bật cười ra tiếng. Gọi là gặp gỡ giữa đường Họa là người dưới suối vàng quên nhau
Thỉnh thoảng ông gieo vài vần ghẹo ông Nguyễn Du. Đọc phải bật cười ra tiếng. Gọi là gặp gỡ giữa đường Họa là người dưới suối vàng quên nhau Trở về chân lệch gót sau Trâm đầu lọt giữa tư trào hoang mang Gia đình ông xưa kia bị thảm họa vì kháng chiến. Mấy mươi người chỉ còn sống sót dăm ba. Thuở bấy giờ ông chỉ là một thằng bé mười một tuổi đầu. Từ đó, đối với ông đoạn trường nhân gian là chuyện cố kỳ nhiên. Chả phải nhọc lòng nghĩ tới nữa. Một trái bom rơi trúng miệng hầm Đã đành sự thể lạnh căm căm Một mình ra đứng đầu khe núi Quên mất thân mình một với trăm Bài thơ nào của ông cũng chỉ có bốn câu. Cưới vợ, ông cũng chỉ tặng vợ có bốn câu. Hỏng thi, ông cũng chỉ có bốn câu vịnh cuộc: Lăn lóc trường thi một trận rồi Rụng rơi từ một tới hai nơi Ra người thiên hạ cười chi thế Tớ chẳng vui lòng cuộc chịu chơi Nhớ lại thuở nhỏ đi câu cá ở bờ khe, ông viết: Cá đi nguồn suối xa rồi Buông câu tuổi dại mộng ngồi phồn hoa Tình đi như gió giang hà Nằm nghe giấc ngủ chan hòa tử sinh Ông trao tôi một xấp giấy gồm hai chục bài. Ông bảo: “Các hạ chậm chậm mà đọc. Tháng sau ta sẽ trao thêm cho nhà ngươi một bài bốn câu nữa cho đủ bộ”. * Phạm Quang Bình Phạm Quang Bình mười sáu tuổi. Nhưng vẻ mặt trông như đứa bé mới lên năm. Phạm Quang Bình là em ruột Phạm Đình Liên, một nhân vật phong nhã tài hoa đủ điệu, nhưng lại chẳng hề làm thơ, chỉ vùi đầu đọc truyện vũ hiệp quanh năm. Có năng khiếu đặc biệt phi thường toán học mà lại thích làm thơ. Mẹ cha vất vả quanh năm