text
stringlengths
0
308k
title
stringlengths
0
51.1k
categories
stringlengths
0
57.3k
Catocala pretiosa (tên tiếng Anh: Precious Underwing) là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy Massachusetts, Connecticut và New Jersey phía tây đến Pennsylvania và phía nam đến Virginia và North Carolina và phía tây đến Tennessee into Louisiana và Oklahoma. Subspecies texarkana có Florida tới Texas. Sải cánh dài 40–50 mm. Con trưởng thành bay từ tháng đến tháng 6. Có thể có một lứa một năm. Ấu trùng ăn Malus, Photinia arbutifolia và Prunus maritima. The larvae of ssp. texarkana have been recorded on Crataegus. *Catocala pretiosa pretiosa *Catocala pretiosa texarkana Brower, 1976 Texarkana Underwing (Florida to Texas) ssp. texarkana info ssp. pretiosa info
''Catocala pretiosa
Catocala
Lubieniów (trước đây là làng Liebenow của Đức) là một ngôi làng thuộc quận hành chính của Gmina Recz, thuộc hạt Choszczno, West Pomeranian Voivodeship, phía tây bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía đông nam Recz, về phía đông bắc của Choszczno, và về phía đông của thủ đô khu vực Szczecin. Trước năm 1945, khu vực này là một phần của Đức. Đối với lịch sử của khu vực, xem Lịch sử của Pomerania.
Lubieniów
Khadija Salum Ally Al-Qassmy (sinh ngày tháng năm 1958) là một thành viên của Quốc hội tại Quốc hội Tanzania. Cô là thành viên của đảng Mặt trận dân sự. Từ 1978-1990, cô là giáo viên của Bộ Giáo dục Zanzibar. Ngoài sự nghiệp chính trị, cô còn là một nữ doanh nhân tự làm chủ từ năm 1991. Trang web của Quốc hội Tanzania
Khadija Salum Ally Al-Qassmy
Nữ chính khách Tanzania, Nhân vật còn sống, Sinh năm 1958
Chi Cánh chuồn (danh pháp khoa học: là một chi thực vật thuộc họ Polygalaceae. Chi này có các loài sau (tuy nhiên danh sách này có thể chưa đủ): *Securidaca acuminata *Securidaca affinis *Securidaca amazonica *Securidaca angustifolia *Securidaca leiocarpa, S.F.Blake *''Securidaca Tập tin:Securidaca MS 4773.JPG
Chi Cánh chuồn
George William Russell (sinh ngày 15 tháng năm 1998) là một tay đua Công thức người Anh. Vào mùa giải 2023, Russell thi đấu cho Mercedes. George Russell là thành viên của học viện tay đua Mercedes. Anh đã đạt rất nhiều thành tích cao các giải trẻ như vô địch giải Formula Championship 2014, vô địch GP3 Series 2017 và vô địch giải Formula (Công thức 2) 2018. = Russell tiếp tục lái xe cho Williams vào năm 2020, được hợp tác bởi cựu đối thủ Công thức Nicholas Latifi. Anh đã phải bỏ cuộc tại chặng đua GP Áo, chặng đua mở đầu mùa giải do mất áp suất nhiên liệu. Anh đã bắt đầu chặng đua GP Styria vị trí thứ 11 sau một vòng phân hạng ẩm ướt, vượt qua vị trí lưới tốt nhất trước đó của anh. Anh đã đi vào sỏi những vòng đầu tiên và cuối cùng về đích vị trí thứ 16. Cả hai tay đua của Williams đều phải vật lộn để đuổi kịp các tay đua khác. Anh ấy đã bị giáng xuống cuối cùng tại chặng đua GP Anh vì không chạy chậm trong lúc cờ vàng vòng loại nhưng đã phục hồi vị trí thứ 12 trong cuộc đua. Anh ấy đã bị bắt phải bỏ cuộc khỏi chặng đua GP Bỉ sau khi một bánh lạc hướng từ chiếc xe bị tai nạn của Antonio Giovinazzi đâm vào chiếc Williams của anh. Tại chặng đua GP Tuscan, Russell xuất phát vị trí thứ 18 nhưng chạy vị trí tính điểm trong phần lớn thời gian của cuộc đua với sự hỗ trợ của nhiều lần các tay đua khác bỏ cuộc. Anh đứng vị trí thứ trước giai đoạn cờ đỏ thứ hai nhưng bắt đầu lại không tốt và cuối cùng đứng vị trí thứ 11, kém vị trí thứ 10 chưa đầy ba giây. Tại chặng đua GP Emilia Romagna, Russell đã lao ra khỏi vị trí thứ 10 khi chạy theo xe an toàn, một sự cố mà anh ấy mô tả là "sai lầm lớn nhất trong sự nghiệp của mình". chặng đua GP Sakhir 2020, do Lewis Hamilton bị nhiễm COVID-19 nên Mercedes đã chọn Russell là người đua thay. Anh giành được vị trí xuất phát thứ hai và đã vượt lên dẫn đầu sau pha xuất phát. Đáng tiếc là Mercedes đã nhiều lần pit lỗi khiến cho Russell bị tụt xuống vị trí thứ 9. Thống kê thành tích Tham khảo Liên kết ngoài == Thông tin George Russell trên trang chủ Formula1
George William Russell
Vận động viên đua xe Công thức, Người Anh, Sinh năm 1996, Người Norfolk, Nhân vật còn sống
Vang có thể là: Tên một loại nhạc cụ: vang (nhạc cụ) Tên gọi dân gian của một loài thực vật thuộc phân họ Vang: Caesalpinia sappan Rượu vang (gốc tiếng Pháp vin) Vang, Oppland, một đô thị tại Oppland, Na Uy Vang, Hedmark, một đô thị cũ tại Hedmark, Na Uy Vang, tên một làng tại Ka Choun, Campuchia
Vang
Anime on Demand là một trang web của Anh/Pháp dành cho việc stream anime hợp pháp tại Vương quốc Anh và Ireland. Được thành lập vào tháng năm 2011, trang web này là một dự án giữa nhà phân phối anime của Pháp Kazé SAS và một số nhà phân phối anime của Anh và Pháp, bao gồm Manga Entertainment, Beez Entertainment và MVM Films. Ban đầu được lưu trữ bởi Anime News Network, Phiên bản 1.0 của trang web, được lưu trữ bởi Viz Media Europe, đã ra mắt dưới dạng open beta vào tháng 12 năm 2011. Vào tháng 12 năm 2013, họ tuyên bố đóng cửa và hợp nhất trang web này với Animax UK. A Dark Rabbit Has Seven Lives C Dantalian Deadman Wonderland Future Diary Lagrange: The Flower of Rin-ne Maken-ki! Maoyu My Teen Romantic Comedy SNAFU Nichijou Nura: Rise of the Yokai Clan R-15 Persona 4: The Animation Sekai-ichi Hatsukoi Steins;Gate Tiger Bunny Twin Angel: Twinkle Paradise Un-Go Usagi Drop *Crunchyroll, một trang web stream anime quốc tế. Trang chủ chính thức
Anime on Demand
Công nghiệp anime, Công ty đặt trụ sở chính tại Paris, Công ty thành lập năm 2011
Đồn điền Plimoth Đồn điền Plimoth Đồn điền Plimoth là một bảo tàng sống Plymouth, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ là một trong số ít điểm đến trên thế giới mang lại cảm giác chân thực về cuộc sống tại thuộc địa Plymouth thành lập vào thế kỷ 17 bởi những người thực dân Anh, một số người trong số đó được gọi với cái tên "Các Cha hành hương Pilgrim". Họ nằm trong số những người đầu tiên di cư đến Mỹ để tránh cuộc đàn áp và tách tôn giáo từ Giáo hội Anh. Đó là một bảo tàng sống phi lợi nhuận được duy trì và hỗ trợ bởi các khoản đóng góp, tài trợ và có sự tham gia góp sức của các tình nguyện viên. Việc tái sáng tạo và khắc họa những bức tranh chân thực cùng các hiện vật là những ngôi nhà gỗ, những kho chứa, vật dụng trong nhà và dụng cụ sản xuất thô sơ được nghiên cứu sao chép như từ thế kỷ 17 cùng các hiện vật được trao tặng, tìm thấy trong các cuộc khai quật khảo cổ học lịch sử trong và ngoài nước. Tại Plimoth, diễn viên trong bảo tàng Plimoth mặc đúng trang phục của những người thuộc thế kỷ 17 gọi là các thông dịch viên lịch sử, và mỗi người sẽ vào vai một nhân vật có thật trong chuyến di cư năm 1627, họ trả lời câu hỏi, thảo luận về cuộc sống, quan điểm của mình và tham gia vào các công việc như nấu ăn, trồng, rèn, mộc và chăn nuôi một cách vô cùng chân thực. Một loạt các ngôi nhà của người Wampanoag được tái tạo giải thích và minh chứng về nguồn gốc và mối quan hệ tương tác với những người định cư. Ngoài ra là một trung tâm hàng thủ công và một rạp chiếu phim nơi mà những video giáo dục được trình chiếu và một trung tâm triển lãm trong nhà. Con tàu cổ Mayflower II neo đậu gần Plymouth Rock cũng là một hiện vật của bảo tàng. Các thông dịch viên hóa trang vào vai các thủy thủ và sĩ quan tàu những năm 1620. Thi thoảng sẽ có những chuyến đi trên con tàu kéo dài khoảng một tuần với đoàn "thủy thủ" sẽ là những trải nghiệm giống như những người hành hương. Thuộc địa Plymouth, lịch sử của khu định cư Plymouth tại Bắc Mỹ từ 1620 1691 Đồn điền Bảo tàng ngoài trời File:Plimoth Plantation Canoe.jpg|Đóng một con thuyền gỗ File:Plimoth Plantation vào và một cửa hàng rèn bên phải File:Plimoth Plantation File:Plimoth Plantation Mary Soule.jpg|Mary Soule, vợ của George Soule (người ký tên lên Hiệp ước Mayflower) File:Plimoth Plantation house.jpg|Một ngôi nhà File:Plimoth Plantation goats.jpg|Cảnh chăn nuôi File:Plimoth Plantation fort and meeting house.jpg|Tái tạo pháo đài phục vụ như Nhà thờ Xứ đạo đầu tiên Plymouth và một ngôi nhà họp thuộc địa, trước đây là nghĩa trang Burial Hill File:Plimoth Plantation view.jpg|Toàn cảnh pháo đài, nhìn xuống con đường đầu tiên Plymouth File:Plimoth Plantation Fort.jpg Đồn điền Plimoth "Writings of William Bradford", broadcast from Plimoth Plantation from C-SPAN's American Writers
Đồn điền Plimoth
Bảo tàng người Mỹ bản địa Massachusetts, Bảo tàng sống Massachusetts
là một chi khủng long, được Seeley mô tả khoa học năm 1883. *Danh sách khủng long
null
Khủng long, Orthomerus, Động vật tuyệt chủng, Động vật được mô tả năm 1883, Khủng long kỷ Phấn Trắng, Khủng long châu Âu, Họ Khủng long mỏ vịt, Dự án Khủng long/Theo dõi
Subligny là một xã của Pháp,tọa lạc tỉnh Yonne trong vùng tháng 2001 Serge Raimbault Xã của Yonne Subligny trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Subligny trên trang mạng của Insee Subligny sur le site du Quid Localisation de Subligny sur une carte de France et communes limitrophes Plan de Subligny sur Mapquest
Subligny
Xã của Yonne
Cô Tuyết (, là một bộ phim truyền hình Singapore, trình chiếu lần đầu năm 1996. Đệ nhị Thế chiến trôi qua đã để lại cho đảo quốc Singapore nhiều nỗi đau khổ và mất mát. Truyện phim kể về những người Singapore hiền lành và can đảm đã cố gắng vươn lên trong đắng cay. Cô Tuyết đại diện cho một lớp người Singapore như vậy. Tuổi thơ mồ côi và đói khổ nhưng vốn là một đứa trẻ ngoan ngoãn và tốt bụng, cô đã được hai vợ chồng người phu xe nhận làm con nuôi. Cô Tuyết đã nhận được sự thương yêu của cha mẹ nuôi và cô cũng chứng tỏ mình là người con hiếu thảo và đáng yêu. Những ngày tháng êm đềm qua đi, giông tố ập đến, chiến tranh cướp đi cuộc sống của cha mẹ nuôi cô, để lại cho cô người em gái tên Tuệ Tâm. Cô chăm lo cho Tuệ Tâm không chỉ vì tình thương yêu mà trong đó còn có tình cảm biết ơn đối với cha mẹ nuôi. Nhưng một sự hiểu lầm đã khiến Tuệ Tâm bỏ đi mang theo đứa con gái nhỏ và nỗi hận thù với Tuyết. Cuộc sống khổ cực đến độ Tuệ Tâm phải bán thân để nuôi con và truyền cho con cả lòng hận thù đến lúc chết. Thời gian trôi qua, con gái của Tuệ Tâm đã trở thành một nữ luật sư tài giỏi, tốt nghiệp ngoại quốc về Singapore với định trả thù. Còn cô Tuyết, với những nỗ lực không ngừng cô đã trở thành một chủ khách sạn thành công, nhưng suốt đời sống với nỗi dằn vặt về Tuệ Tâm vì không thể giải thích. Hoàng Thế Nam Hoàng Văn Vĩnh Lý Cẩm Mai Trần Thái Minh Hồng Huệ Phương Thành Kiến Huy Châu Sơ Minh Hoằng Vinh Ca khúc chủ đề: Cô Tuyết (阿雪) ** Mộc Tử (木子) soạn nhạc ** Quách Trọng Ân (郭仲恩) soạn lời ** Lương Lệ Vinh (梁麗榮) trình bày ::有谁会疼我像你那样疼 ::从早晨陪我孤单到黄昏 ::黑夜还用寂寞去等 ::又为我点亮一盏灯 ::好希望我能爱你一样深 ::当你被烦恼折腾的时分 ::有一个能倾诉的人 ::不必再饮泣吞声 ::吹呀吹的风 吹乱一生已朦胧 ::飘呀飘的云 就像你难捉摸的心 ::吹呀吹的风 吹不散你的笑容 ::飘呀飘的歌飘来飘去的人生 阿雪 phim truyền hình được lòng khán giả Việt
Cô Tuyết
Phim truyền hình Singapore, Phim năm 1996
advena' là một loài thực vật có hoa trong họ Amaryllidaceae. Loài này được (Ker Gawl.) Traub miêu tả khoa học đầu tiên năm 1953. Tập tin:Hippeastrum pratense 1.jpg Tập tin:Hippeastrum pratense 2.jpg Tập tin:Hippeastrum pratense 3.jpg Tập tin:Rhodophiala advena.jpg Thể
null
Grimmia hartmanii là một loài Rêu trong họ Grimmiaceae. Loài này được Schimp. mô tả khoa học đầu tiên năm 1860. Tập tin:Grimmia hartmanii (a, 144924-481524) 0773.JPG Tập tin:Grimmia hartmanii (a, 144924-481524) 0771.JPG Tập tin:Grimmia hartmanii (b, 144924-481524) 7150.JPG Tập tin:Grimmia hartmanii (b, 144924-481524) 7154.JPG
''Grimmia hartmanii
Grimmia
'Coleophora là một loài bướm đêm thuộc họ Coleophoridae. Nó được tìm thấy Thuỵ Điển đến Địa Trung Hải và từ Pháp đến miền nam Nga. Không rõ các đảo Địa Trung Hải. Ấu trùng ăn Salix aurita, Salix caprea và Salix cinerea. Ấu trùng có thể tìm thấy từ mùa thu đến tháng 6.
null
Coleophora, Côn trùng châu Âu
Synodontis batensoda là một loài cá da trơn thuộc họ Mochokidae. Nó phân bố không đều các vùng nước nội địa trên khắp châu Phi từ Sénégal đến Ethiopia. Nó được mô tả lần đầu tiên bởi Eduard Rüppell năm 1832 trong bài báo "Continuation of the description and figure of several new fish, in the Nile. p1-14". right Hiện tại, loài cá này đã tuyệt chủng vùng Bắc Phi, nhưng vẫn thường được tìm thấy Cairo vào mùa lũ. Ngoài ra, nó xuất hiện sông Nile trắng (White Nile), sông Nile xanh (Blue Nile), sông Baro phía đông bắc châu Phi và các lưu vực sông Chad, Niger, Sénégal, Gambia phía tây châu Phi. Nó thường sống các vùng nước có dòng chảy yếu và vùng đầm lầy giáp với các con sông lớn, nhiệt độ nước từ 23 đến 27 °C (73 đến 81 °F). Synodontis batensoda có màu xanh bạc đến xám xanh, chúng có râu màu đen, phần dưới bụng hơi đen. Thỉnh thoảng, một vài cá thể của loài này có thể có màu nâu đỏ đó. Những cá thể gần trưởng thành sẽ có những đốm màu tối lớn hai bên. mang, thay vì có đến 33 lá mang như các loài thuộc chi Synodontis khác thì chúng lại có 39 đến 42 cái. Vây lưng và vây ngực liền kề nhau. Đôi mắt to, có màu xám đen với màu nâu. Và giống như các loài Synodontis khác, loài cá này hầu như luôn bơi lộn ngược. Cá này khi trưởng thành có thể phát triển lên đến 50 cm (20 in) và nặng tới 1,5 kg (3,3 lb). Hình ảnh của Synodontis batensoda Chúng là loài ăn tạp nên thức ăn của chúng là các sinh vật phù du, tảo, mảnh vụn, côn trùng bề mặt, bọ gậy, động vật giáp xác đáy và động vật thân mềm. Nó là loài đẻ trứng và có nọc độc. Trong bể, nó là loài cá hiền lành, khỏe mạnh và thích hợp để nuôi chung với các loài cá nhỏ, nhưng nó có thể bị bắt nạt bởi các loài trong chi Synodontis hung hăng hơn. Eschmeyer, William N., ed. 1998. Catalog of Fishes. Special Publication of the Center for Biodiversity Research and Information, núm. 1, vol. 1-3. California Academy of Sciences. San Francisco, California, Estados Unidos. 2905. ISBN 0-940228-47-5. Fenner, Robert M.: The Conscientious Marine Aquarist. Neptune City, Nueva Jersey, Estados Unidos: T.F.H. Publications, 2001. Helfman, G., B. Collette D. Facey: The diversity of fishes. Blackwell Science, Malden, Massachusetts, Estados Unidos, 1997. Moyle, P. J. Cech.: Fishes: An Introduction to Ichthyology, 4a. edición, Upper Saddle River, Nueva Jersey, Estados Unidos: Prentice-Hall. Año 2000. Nelson, J.: Fishes of the World, 3a. edición. Nueva York, Estados Unidos: John Wiley and Sons. Año 1994. Wheeler, A.: The World Encyclopedia of Fishes, 2a. edición, Londres: Macdonald. Año 1985. AQUATAB
''Synodontis batensoda
Động vật được mô tả năm 1832, Cá Cameroon, Cá Ethiopia, Cá có độc
Risto Heikki Ryti (, tháng năm 1889 25 tháng 10 năm 1956) là tổng thống thứ năm của Phần Lan, từ năm 1940 đến năm 1944. Ryti bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một chính trị gia trong lĩnh vực kinh tế và là một nhân vật chính trị trong giai đoạn giữa thời kỳ chiến tranh. Ông đã thực hiện một loạt các tiếp xúc quốc tế trong thế giới của ngân hàng và trong khuôn khổ Hội quốc liên. Ryti từng là thủ tướng trong Chiến tranh mùa đông và Hòa ước Tạm thời. Sau đó ông là tổng thống trong chiến tranh Liên tục. Sau chiến tranh, Ryti là bị đơn chính trong các cuộc thử nghiệm về trách nhiệm của chiến tranh Phần Lan. Risto Ryti sinh ra Huittinen, Satakunta, một trong bảy người con trai. Cha mẹ của ông là Kaarle Evert Ryti, một nông dân, và Ida Vivika Junttila. Mặc dù đến từ nền nông nghiệp của nông dân, trong thời thơ ấu của mình, Ryti hầu như không tham gia vào công việc của trang trại lớn của gia đình, là một cậu bé có học thức và có học thức. Ông học trong thời gian ngắn tại Trường trung học Pori, và sau đó được dạy kèm nhà, trước khi ghi danh vào Đại học Helsinki năm 1906 để học luật. Ryti là người duy nhất có bảy người con vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học; Tuy nhiên ba chị em của ông cũng đã được tuyển vào đại học.
Risto Heikki Ryti
là một xã tỉnh Somme, vùng Pháp. Thị trấn này tọa lạc trên đường D42, khoảng 16 dặm Anh về phía đông bắc của Amiens. Biến động dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 350 371 319 320 335 318 Số liệu điều tra dân số từ năm 1962, dân số không tính hai lần Xã của tỉnh Somme Morlancourt trên trang mạng của INSEE Morlancourt trên trang mạng của Quid
null
Xã của Somme
'Orobanche là loài thực vật có hoa thuộc họ Cỏ chổi. Loài này được Sm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1797. Tập tin:Labkraut Wuerger.jpg Tập tin:Orobanche caryophyllacea 080608a.jpg Tập tin:126 Orobanche major.jpg Tập tin:Orobanche 120507a.jpg
null
Orobanche
Diễn giả thuyết trình bằng máy chiếu Thuyết trình là quá trình truyền tải một chủ đề tới khán giả. Nó có thể là một một bài thuyết minh, một bài giới thiệu, bài giảng hoặc bài phát biểu nhằm mục đích thông báo, thuyết phục, truyền cảm hứng, động viên, xây dựng thiện chí, trình bày một tưởng hoặc một sản phẩm mới. Phần mềm thuyết trình thường được sử dụng để tạo nội dung cho bài thuyết trình, một số chương trình còn cho phép nhiều người cùng hợp tác để thực hiện các bài thuyết trình với nhau. Thông qua các phần mềm thuyết trình rồi thực hiện có thể sử dụng và kết hợp nội dung từ các nguồn khác nhau để tạo thành một bài thuyết trình theo muốn. Những phần mềm trình chiếu trong thuyết trình phổ biến được sử dụng trên toàn cầu hiện đang được cung cấp bởi các công ty Apple, Google và Microsoft. Microsoft PowerPoint và Google Slides là công cụ hiệu quả để phát triển nội dung trình chiếu slide trong thuyết trình, trong đó Google Slides cho phép các nhóm làm việc cùng nhau bằng cách sử dụng Google Drive để cập nhật từng tài khoản khi chỉnh sửa. Các nội dung như văn bản, hình ảnh, liên kết và hiệu ứng sẽ được thêm vào phần mềm thuyết trình để cung cấp thông tin hữu ích và thống nhất của cả nhóm. Trình chiếu slide Giáo dục nghe nhìn Định nghĩa về thuyết trình Nội dung (loại, đối tượng, hình ảnh) Daria Price Bowman. (1998). Các bài thuyết trình. Madison WI: Publications Inc.
Thuyết trình
Diễn văn
Lợn cỏ là một chi động vật có vú trong họ Tayassuidae, bộ Artiodactyla. Chi này được Reichenbach miêu tả năm 1835. Loài điển hình của chi này là Dicotyles torquatus Cuvier, 1816 (= Sus tajacu Linnaeus, 1758). Chi này gồm các loài: Tập tin:Pecari de Colar.JPG Tập tin:PikiWiki Israel 33166 Peccary in Zoo-Botanical Garden Nahariya.JPG Tập tin:Collared Peccaries.jpg Tập tin:PSM V02 D153 Peccary.jpg
null
Chi động vật có vú
Nhà thờ Saint Martin Croix là một xã tỉnh Nord trong vùng Pháp. Nó nằm phía đông bắc của thành phố Lille about tính từ trung tâm. Trụ sở của Auchan, một chuỗi siêu thị, được đặt tại Croix. Villa Cavrois *Xã của tỉnh Nord INSEE commune file Official website
Croix
Xã của Nord
Ngày 19 tháng 2 là ngày thứ 50 trong lịch Gregory. Còn 315 ngày trong năm (316 ngày trong năm nhuận). *197 Hoàng đế La Mã Septimius Severus đánh bại Clodius Albinus trong trận chiến tại Lugdunum (Lyon ngày nay), trận đánh đẫm máu nhất giữa quân đội La Mã với nhau. *356 Hoàng đế Constantius II ban một chiếu chỉ lệnh đóng cửa toàn bộ đền thờ Pagan giáo trong Đế quốc La Mã. 1594 Quốc vương Zygmunt III Waza của Liên bang Ba Lan và Lietuva đăng quang quốc vương của Thụy Điển, kế vị cha ông là *1674 Anh và Hà Lan ký kết Hiệp định Westminster, kết thúc Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ ba, một điều khoản trong hiệp định là chuyển giao thuộc địa Tân Amsterdam của Hà Lan cho Anh, và khu vực được đổi tên thành New York sau đó. *1807 Cựu Phó Tổng thống Hoa Kỳ Aaron Burr bị bắt giữ tại Wakefield, Alabama vì tội phản quốc. *1811 Trận Gebora giữa Tây Ban Nha và Pháp. *1846 Tại Austin, chính phủ bang Texas mới thành lập chính thức nhậm chức. Chính phủ Cộng hòa Texas chính thức chuyển giao quyền lực cho chính phủ bang Texas sau sự kiện Hoa Kỳ sáp nhập Texas. *1861 Giai cấp nông nô bị bãi bỏ tại Nga. *1878 Thomas Edison được cấp bằng sáng chế cho máy hát đĩa. *1942 Không quân Nhật Bản oanh tạc thành phố Darwin, Úc, biến cố này thường được gọi là "Trân Châu Cảng của Úc", lần đầu tiên nước Úc bị một quốc gia khác tấn công và là một sự kiện quan trọng trên chiến trường Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. *1943 Chiến tranh thế giới thứ hai: Trận đèo Kasserine tại Tunisia bắt đầu. *1945 Chiến tranh thế giới thứ hai: Khoảng 30.000 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên đảo Io, chiến đấu với quân đội Nhật Bản đồn trú trên đảo. *1949 Nhà thơ Ezra Pound được trao giải thưởng Bollingen đầu tiên bởi Quỹ Bollingen và Đại học Yale. *1959 Anh Quốc trao quyền độc lập cho Síp, tuyên bố chính thức được thực hiện vào ngày 16 tháng năm 1960. *1965 Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo tiến hành đảo chính bất thành tại Việt Nam Cộng hòa. *1986 Trạm vũ trụ Hòa Bình của Liên Xô được phóng thành công lên không gian, trạm hoạt động cho đến năm 2001. *703 An Lộc Sơn, tướng nhà Đường và là người cầm đầu loạn An Sử nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc (m. 757) *1281 Trần Quốc Chẩn, nhà quý tộc, đại thần và tướng lĩnh quân sự Việt Nam (m. 1328) *1473 Nicolaus Copernicus, nhà toán học và thiên văn học người Ba Lan (m. 1543) *1630 Shivaji, hoàng đế Ấn Độ (m. 1680) *1743 Luigi Boccherini, nghệ sĩ violon và nhà soạn nhạc người (m. 1805) *1817 Willem III, quốc vương của Hà Lan, đại công tước của Luxembourg (m. 1890) *1833 Élie Ducommun, nhà báo người Thụy Sĩ, đoạt Giải Nobel Hòa bình (m. 1906) *1859 Svante Arrhenius, nhà hóa học người Thụy Điển, đoạt Giải Nobel hóa học (m. 1927) *1864 Đồng Khánh, vua nhà Nguyễn (m. 1889). *1880 Álvaro Obregón Salido, chính trị gia người Mexico, Tổng thống thứ 39 của Mexico (m. 1928) *1896 André Breton, nhà thơ người Pháp (m. 1966) *1924 David Ionovich Bronstein, vận động viên cờ vua người Liên Xô-Ukraina (m. 2006) *1940 Saparmurat Atayevich Niyazov, kỹ sư và chính trị gia người Liên Xô-Turkmen, tổng thống đầu tiên của Turkmenistan (m. 2006) *1944 Nhạc sĩ, ảo thuật gia Nguyễn Trung Khuyến *1946 Fujioka Kunihiro, diễn viên người Nhật Bản *1952 Murakami Ryu, tác gia người Nhật Bản *1953 Cristina Fernández de Kirchner, chính trị gia người Argentinia, tổng thống thứ 55 của Argentina *1954 Sócrates, cầu thủ bóng đá người Brasil (m. 2011) *1956 Roderick MacKinnon, nhà sinh vật học người Mỹ, đoạt Giải Nobel hóa học *1957 Falco, ca sĩ người Áo (m. 1998) *1960 Hoàng tử Andrew, thành viên vương thất các Vương quốc Khối thịnh vượng chung *1961 Justin Fashanu, cầu thủ bóng đá người Anh (m. 1998) *1966 Enzo Scifo, cầu thủ bóng đá người Bỉ *1974 Phan Thị Minh Khai, diễn viên, người dẫn chương trình Đức gốc Việt *1977 Gianluca Zambrotta, cầu thủ bóng đá người *1979 Romina Belluscio, người dẫn chương trình truyền hình người Argentina *1980 Mã Lâm, cầu thủ bóng bàn người Trung Quốc *1981 Vitas, ca sĩ người Nga *1983 Nakashima Mika, ca sĩ và diễn viên người Nhật Bản *1985 Haylie Duff, diễn viên và ca sĩ người Mỹ *1986 Kadena Reon, người mẫu và diễn viên người Nhật Bản 1986 Marta, cầu thủ bóng đá người Brasil 1986 Quách Thái Khiết, ca sĩ và diễn viên người Đài Loan *1993 Mauro Icardi, cầu thủ bóng đá người Argentina *1997 Rathavit Kijworalak, ca sĩ và diễn viên người Thái Lan *1998 Kim Jung-woo, ca sĩ người Hàn Quốc *197 Clodius Albinus, nhân vật chính trị La Mã (s. 150) *1553 Erasmus Reinhold, nhà thiên văn học và toán học người Đức (s. 1511) *1709 Tokugawa Tsunayoshi, Chinh di đại tướng quân người Nhật Bản (s. 1646) *1865 Nguyễn Phúc Hồng Kháng, tước phong Phong Lộc Quận công, hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn (s. 1837) *1897 Karl Weierstrass, nhà toán học người Đức (s. 1815) *1916 Ernst Mach, nhà vật lý học và triết gia người Áo-Séc (s. 1838) *1929 Otto Kreß von Kressenstein, tướng lĩnh người Đức (s. 1850) *1933 Lê Hồng Sơn, nhà hoạt động chính trị người Việt Nam (s. 1899) *1941 Jacques Curie, nhà vật lý học người Pháp (s. 1856) *1947 Nguyễn Ngọc Nại, du kích người Việt Nam *1951 André Gide, tác gia người Pháp, đoạt giải Nobel Văn học (s. 1869) *1952 Knut Hamsun, tác gia người Na Uy, đoạt Giải Nobel Văn học (s. 1859) *1973 Joseph Szigeti, nghệ sĩ violon người Hungaria (s. 1892) *1975 Luigi Dallapiccola, nhà soạn nhạc người (s. 1904) *1988 André Frédéric Cournand, bác sĩ và nhà sinh lý học người Pháp-Mỹ, đoạt Giải Nobel Sinh lý học và khoa (s. 1895) *1988 René Char, nhà thơ người Pháp (s. 1907) *1997 Đặng Tiểu Bình, chính trị gia người Trung Quốc (s. 1904) *2000 Friedensreich Hundertwasser, họa sĩ người Áo-New Zealand (s. 1928) *2005 Huy Cận, nhà thơ Việt Nam (s. 1919) *2013 Armen Alchian, nhà kinh tế học người Mỹ (s. 1914) *2013 Robert Coleman Richardson, nhà vật lý học người Mỹ, đoạt Giải Nobel Vật lý (s. 1937) 2015 Harper Lee, nhà văn người Mỹ, tác giả cuốn Giết con chim nhại (s. 1926). 2015 Umberto Eco, nhà văn, triết gia, nhà phê bình người Ý, tác giả cuốn Il nome della rosa (s. 1932). 2019 Don Newcombe (s. 1926) *Ngày Quân đội Mexico *Ngày Quốc kỳ Turkmenistan
19 tháng 2
Ngày trong năm
Ngày 20 tháng 5 là ngày thứ 140 (141 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 225 ngày trong năm. 325 Công đồng đầu tiên tại Nicea được triệu tập bởi Hoàng Đế La Mã Constantinus I. *1925 Giáo hoàng Piô–9 tấn phong chức Khâm sứ đầu tiên Đông Dương cho giám mục Agiuti. *1941 Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân Đức thả lính dù xuống đảo Crete, mở màn trận chiến trên đảo với quân đội Đồng Minh. *1969 Chiến tranh Việt Nam: Trận Đồi Thịt Băm tại Thừa Thiên kết thúc, Quân lực Hoa Kỳ chiếm ngọn đồi. *1983 Luc Montagnier công bố phát hiện của ông về vi-rút HIV gây bệnh liệt kháng trên tạp chí Science, là công bố đầu tiên về vi-rút này. *1989 Chính quyền Trung Quốc áp đặt thiết quân luật nhằm đối phó với các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ đang diễn ra, dẫn đến sự kiện thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn. 1717 Lê Hiển Tông, vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng cũng như là thứ 26 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam (m. 1786). 1799 Honoré de Balzac nhà vǎn hiện thực lớn của nước Pháp (m. 1850) 1830 Hector Malot, văn hào Pháp (m. 1907) *1836 Nguyễn Phúc Miên Hoang, tước phong Kiến Phong Quận công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1888) 1851 Emile Berliner, nhà phát minh người Đức, phát minh ra máy quay đĩa (m. 1929) 1883 Vua Faisal của Iraq (m. 1933). 1897 Diego Abad de Santillán nhà kinh tế, tác giả người Tây Ban Nha (m. 1983) 1908 James Stewart, huyền thoại điện ảnh Hoa Kỳ (m. 1997) 1919 Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, giám mục Công giáo người Việt, hồng tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội (1994 2005) (m. 2009) 1924 Aida Mitsuo, nhà thơ, nhà thư pháp Nhật Bản (m. 1991) 1929 Hoài An (nhạc sĩ sinh 1929), nhạc sĩ người Việt Nam 1946 Cher, diễn viên và ca sĩ người Hoa Kỳ 1948 Lệ Thủy, nghệ sĩ cải lương Việt Nam *1981 Iker Casillas, thủ môn bóng đá người Tây Ban Nha *1982 Petr Čech, thủ môn bóng đá người Cộng hòa Séc *1990 Nhã Phương, nữ diễn viên người Việt Nam *1285 John II của Jerusalem, vua đảo Síp. *1506 Cristoforo Colombo, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha gốc Ý. 1622 Osman II, Hoàng đế của đế quốc Ottoman (s. 1604) 2009 Nguyễn Bá Cẩn, thủ tướng Việt Nam Cộng hòa (s. 1930) Quốc khánh (Cameroon) Ngày căm thù sự diệt chủng của chế độ Pol Pot (Campuchia) *20
20 tháng 5
Ngày trong năm
Chongqing Airlines () là một hãng hàng không có trụ sở tại Trùng Khánh, Trung Quốc. Hãng khai thác cả dịch vụ hành khách nội địa Trung Quốc đại lục và dịch vụ hành khách quốc tế đến Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam. Chongqing Airlines có 402 nhân sự vào năm 2008. Hãng hàng không Trùng Khánh thuộc sở hữu chung của China Southern Airlines (60%) và Công ty Đầu tư Phát triển Thành phố Trùng Khánh (40%). Hãng hàng không được thành lập vào ngày 16 tháng năm 2007 và đã nhận được giấy phép hoạt động từ Cục hàng không dân dụng Trung Quốc vào ngày tháng năm 2007. Hãng hàng không Trùng Khánh đã triển khai chuyến bay đầu tiên từ Trùng Khánh đến Sân bay quốc tế Phố Đông Thượng Hải vào ngày tháng năm 2007. Airbus A321neo sử dụng Air Cabin Flex Tính đến tháng 8/2021: Máy bay Đang hoạt động Đặt hàng Hành khách Ghi chú C Y+ Y Tổng Airbus A319-100 120 128 Airbus A320-200 13 24 120 152 11 máy bay được chuyển từ China Southern Airlines Airbus A320neo 24 138 166 Airbus A321neo ACF 24 176 208 Tổng cộng 33
Chongqing Airlines
Hãng hàng không Trung Quốc
Sông Mã chảy Điện Biên qua Sơn La, Lào, Thanh Hóa ra biển Đông. Sông Mã là một con sông của Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km, trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam dài 410 km và phần trên lãnh thổ Lào dài 102 km. Lưu vực của sông Mã rộng 28.400 km², phần Việt Nam rộng 17.600 km², cao trung bình 762 m, độ dốc trung bình 17,6%, mật độ sông suối toàn lưu vực 0,66 km/km². Lưu lượng nước trung bình năm 121 m³/s tại Xã Là và 341 m³/s tại Cẩm Thủy. Sông Mã chủ yếu chảy giữa vùng rừng núi và trung du. Phù sa sông Mã là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ Việt Nam. Sông Mã chảy theo vùng trũng giữa hai dãy núi Su Xung Chảo Chai và Pu Sam Sao. Các phụ lưu của sông Mã phần lớn bắt nguồn từ hai dãy núi này. Sông Mã bắt đầu bằng hợp lưu các suối vùng biên giới Việt Lào tại xã Mường Lói phía nam huyện Điện Biên (phía nam tỉnh Điện Biên) Bản Pu Lau phía bắc xã Mường Lói nằm trên sống núi là đường phân thủy giữa Nậm Nứa chảy về tây bắc và thuộc hệ thống sông Mê Kông, với Nậm Ma chảy về đông bắc là đầu nguồn sông Mã, tên địa phương là suối Sẻ Sông chảy sang địa bàn Điện Biên Đông, dọc đường tiếp nhận nước từ một số dòng suối Háng Lìa, Điện Biên Đông. Đến Bó Sinh huyện Sông Mã thì sông Mã tiếp nhận dòng Nậm Khoai tức Nậm Hua chảy theo hướng bắc nam từ huyện Tuần Giáo đến. Từ đó sông chảy uốn lượn, với hướng chính Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La rồi qua lãnh thổ Lào Cửa khẩu Chiềng Khương. Sơn La, sông Mã tiếp tục nhận nước từ một số suối từ địa bàn Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Sốp Cộp. Lào, sông Mã chảy qua hai huyện Xiengkhor và Sop Bao của tỉnh Huaphanh, nhận thêm nước từ dòng Nậm Ét Xiengkhor. Sông trở lại Việt Nam cửa khẩu Tén Tằn huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa. Từ đây, sông chảy qua Mường Lát, Quan Hóa, trong đó một đoạn nhỏ qua huyện Quan Hóa là ranh giới hai tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Đồng thời, tại Quan Hóa, sông nhận thêm nước từ sông Luông và Nậm Niêm từ Quan Sơn chảy sang. Sông chảy qua các huyện phía bắc Thanh Hóa gồm Bá Thước, Cẩm Thủy, dọc theo ranh giới Vĩnh Lộc, Hoằng Hóa (tả ngạn phía bắc) và Yên Định, Thiệu Hóa, thành phố Thanh Hóa, Quảng Xương, Sầm Sơn (hữu ngạn phía nam) rồi đổ vào vịnh Bắc Bộ bằng ba cửa: cửa chính Lạch Hới (cửa Hới) nằm giữa huyện Hoằng Hóa và thành phố Sầm Sơn; cửa thứ hai tách ra từ Phường Tào Xuyên, Thành phố Thanh Hóa đổ ra Lạch Sung (cửa Sung, Lạch Trường) nằm giữa huyện Hậu Lộc và Hoằng Hoá; cửa thứ ba tách ra từ chỗ giáp ranh giữa Yên Định và Hoằng Hóa thành sông Lèn chảy theo ranh giới Hà Trung, Nga Sơn với Hậu Lộc ra biển.. Sông Mã có các phụ lưu lớn gồm: Sông Chu, đổ vào sông Mã Thiệu Hóa. Sông Bưởi, đổ vào sông Mã nơi giáp ranh các xã Vĩnh Hòa, Ninh Khang (huyện Vĩnh Lộc) và Yên Thái (huyện Yên Định). Sông Cầu Chày Sông Luồng, Quan Hóa. Sông Lũng Sông Sơn Trà Nậm Soi. Hệ thống sông Mã có tổng chiều dài là 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756 km², trong đó có 17.520 km² nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Tổng lượng nước trung bình hàng năm của toàn bộ hệ thống sông là 19,52 tỉ m³. Tên gọi của sông xuất phát từ tên tiếng dân tộc Thái và tiếng Lào là nậm Ma với nậm nghĩa là sông, nước. Đây cũng là tên chính thức của đoạn sông bên Lào. Theo quan niệm của người Kinh, sông có tên gọi "Mã" vì dòng nước chảy xiết như ngựa phi. Tuy nhiên, theo nghiên cứu về từ nguyên học thì Mã là âm một chữ Hán để ghi tên thật: "sông Mạ", trong đó "" là một từ tiếng Việt cổ còn lưu lại trong phương ngữ miền Trung có nghĩa là "mẹ". Và tên gốc con sông có nghĩa là "sông lớn". Sử Việt còn gọi sông Mã là Lỗi Giang. Trong cuốn sách Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy Anh xuất bản năm 1964, ông này lấy dẫn chứng lịch sử và cho rằng dòng chính của sông Mã bị thay đổi vào thời nhà Nguyễn. Theo nhận định này ngoài cửa Sung, sông Mã còn đổ ra biển bằng cửa chính là Lạch Trường với dòng chính là sông Tào Xuyên ngày nay (sử cũ gọi là dòng Ngu giang). Đầu đời Nguyễn, một trận lũ lớn đánh đắm một bè gỗ lim cửa vào sông Ngu, bè ấy bị phù sa lấp mà chẹn nghẽn đường sông, thì sông ấy mới dần dần bị hẹp lại. Sau khi dòng sông Ngu bị hẹp lại thì sông Mã trổ rộng ra ngách sông nhỏ trước kia giữa núi Hàm Rồng và núi Châu Phong, đổ ra cửa biển Lạch Hới như ngày nay. Một đoạn sông Mã từ ngã ba Bông đến cửa sông Nhà Lê thành phố Thanh Hóa từ thế kỷ đã được Vua Lê Đại Hành tổ chức khơi thông tạo tuyến kênh Nhà Lê là tuyến giao thông đường thủy nối từ kinh đô Hoa Lư tới biên giới Đèo Ngang thời Tiền Lê. Tập tin:Sông Mã phao bắc qua sông Mã nối các xã Ái Thượng và Hạ Trung của huyện Bá Thước, Thanh Hóa Cầu nối xã Phì Nhừ với xã Mường Luân, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, trên tỉnh lộ 130 Cầu qua thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, Sơn La, trục quốc lộ 4G Cầu qua thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, Sơn La Cầu treo Mường Hung, nối xã Mường Hung với quốc lộ 4G qua xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã, Sơn La Cầu trên xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã, Sơn La Cầu Chiềng Nưa, nối xã Mường Lý và xã Trung Lý, Mường Lát, Thanh Hóa Cầu thủy điện Trung Sơn, Quan Hóa, Thanh Hóa Cầu treo Bản Chiềng, nối xã Thành Sơn với xã Trung Thành, Quan Hóa, Thanh Hóa Cầu Hồi Xuân (huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Cầu Na Sài (huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Cầu La Hán (huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa). Cầu trên thủy điện Bá Thước Cầu treo Cẩm Lương, nối xã Cẩm Lương, Cẩm Thủy với quốc lộ 217 Cầu Cẩm Thủy (huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa). *Cầu phao Cẩm Vân (Nối liền hai xã Cẩm Vân và Cẩm Tân) Cầu Kiểu (nối huyện Vĩnh Lộc và Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Cầu Yên Hoành nối huyện Yên Định huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa Cầu Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc huyện Yên Định, thuộc Đường cao tốc Mai Sơn Quốc lộ 45 Cầu Hàm Rồng (thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Cầu Hoàng Long (thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Cầu Nguyệt Viên (thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Tiềm năng thủy điện lý thuyết của hệ thống sông Mã là 12 tỷ kW, tiềm năng có thể khai thác là 4.732 triệu kW và tiềm năng kinh tế là 2,43 tỷ kW. Cùng với nhiệm vụ phát điện, hệ thống này còn có nhiệm vụ thủy lợi: cấp nước cho nông nghiệp, chống lũ hạ du. Sông Mã có độ dốc nhỏ, các công trình thủy điện chủ yếu tập trung vào phụ lưu của nó là sông Chu. Tại Thanh Hóa có 14 dự án thủy điện nằm trong quy hoạch công bố 07/2015 Quy hoạch thủy điện vừa và lớn có dự án là Trung Sơn (260 MW), Thành Sơn (30 MW), Hồi Xuân (102 MW), Bá Thước (60 MW), Bá Thước (80 MW), Cẩm Thủy (28,6 MW), Cẩm Thủy (32 MW), Cửa Đạt (97 MW) và Xuân Minh (15 MW). Quy hoạch thủy điện nhỏ có dự án là Trí Năng (3,6 MW), Dốc Cáy (15 MW), Sông Âm (13 MW), Bái Thượng (6 MW) và Tam Lư (7 MW). Trước đó năm 2011 có dự án đã được dự tính thu hồi song năm 2015 một số dự án được khởi động lại. Thủy điện Sông Mã công suất 29,5 MW, tại xã Phì Nhừ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, khởi công 26/3/2016 dự kiến hoàn thành 2018 Thủy điện Mường Hung công suất 24 MW, tại xã Mường Hung, Chiềng Khoong, Chiềng Cang huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La dự kiến khởi công Quý năm 2017 phát điện vào tháng 2/2019. Thủy điện Trung Sơn công suất lắp đặt 260 MW, trên dòng chính sông Mã, xã Trung Sơn huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, khởi công 2012, dự kiến hoàn thành 2017 Thủy điện Thành Sơn công suất 30 MW, tại xã Trung Thành và Thành Sơn, huyện Quan Hóa, thời gian xây dựng 2015 2018 Thủy điện Hồi Xuân công suất 102 MW, xã Hồi Xuân và Thanh Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, khởi công 2010, dự kiến hoàn thành 2015 Thủy điện Bá Thước công suất 60 MW, tại xã Thiết Kế, huyện Bá Thước, khởi công 11/2013, hoàn thành 12/2016 Thủy điện Bá Thước công suất 80 MW, tại xã Điền Lư, huyện Bá Thước, khởi công 09/2009, hoàn thành 2013 Thủy điện Cẩm Thủy công suất 28,6 MW trên dòng chính sông Mã, bờ phải tại phố Vạc xã Cẩm Thành, bờ trái tại thôn Kim Mẫn (Kim Mỗm) xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, khởi công 10/2013, dự kiến hoàn thành 12/2016 Thủy điện Cẩm Thủy công suất 32 MW, tại xã Cẩm Ngọc và Cẩm Yên, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa Thủy điện Cửa Đạt công suất 97 MW, trên sông Chu, tại làng Cửa Đặt xã Xuân Mỹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, hoàn thành 2010 Thủy điện Xuân Minh công suất 15 MW, trên sông Chu, tại làng Xuân Minh xã Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, tái khởi động 2016 Thủy điện Dốc Cáy công suất 15 MW, tại xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, hoàn thành 2013 Thủy điện Dốc Cáy lấy nước từ hồ Cửa Đạt đoạn thuộc dòng sông Khao và xả về sông Âm Thủy điện Sông Âm công suất 13 MW, trên sông Âm tại xã Tam Văn huyện Lang Chánh tỉnh Thanh Hóa, khởi công 2010 Mã khi chảy qua cầu Hàm Rồng. Lên miền Tây xứ Thanh trên website của Tổng cục Du lịch. Sông Mã mùa xuân của Thủy Trần trên báo Tuổi Trẻ Online Buôn bè trên sông Mã của Hà Đồng trên báo Tuổi Trẻ Online Nghe trực tuyến Chào sông Mã anh hùng của Xuân Giao Lời Mã Mã Mã Mã
Sông Mã
Sông Mã, Hệ thống sông Mã, Sơ khai địa lý Lào
Orzinuovi là một đô thị thuộc tỉnh Brescia trong vùng Lombardia Ý. Đô thị này có diện tích 48 km², dân số 11.641 người. Đô thị này có các làng sau: Barco, Pudiano, Ovanengo, Coniolo. Đô thị này giáp với các đô thị sau: Barbariga, Borgo San Giacomo, Orzivecchi, Pompiano, Roccafranca, San Paolo, Soncino, Torre Pallavicina, Villachiara. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.7) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:373 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:15000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:5000 start:0 ScaleMinor increment:1000 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from:0 till: 6010 bar:1871 from:0 till: 6601 bar:1881 from:0 till: 6625 bar:1901 from:0 till: 7958 bar:1911 from:0 till: 9086 bar:1921 from:0 till: 10186 bar:1931 from:0 till: 10877 bar:1936 from:0 till: 10625 bar:1951 from:0 till: 12059 bar:1961 from:0 till: 10124 bar:1971 from:0 till: 9482 bar:1981 from:0 till: 10071 bar:1991 from:0 till: 10389 bar:2001 from:0 till: 11175 PlotData= bar:1861 at: 6010 fontsize:S text: 6.010 shift:(-8,5) bar:1871 at: 6601 fontsize:S text: 6.601 shift:(-10,5) bar:1881 at: 6625 fontsize:S text: 6.625 shift:(-10,5) bar:1901 at: 7958 fontsize:S text: 7.958 shift:(-10,5) bar:1911 at: 9086 fontsize:S text: 9.086 shift:(-10,5) bar:1921 at: 10186 fontsize:S text: 10.186 shift:(-10,5) bar:1931 at: 10877 fontsize:S text: 10.877 shift:(-10,5) bar:1936 at: 10625 fontsize:S text: 10.625 shift:(-10,5) bar:1951 at: 12059 fontsize:S text: 12.059 shift:(-10,5) bar:1961 at: 10124 fontsize:S text: 10.124 shift:(-10,5) bar:1971 at: 9482 fontsize:S text: 9.482 shift:(-10,5) bar:1981 at: 10071 fontsize:S text: 10.071 shift:(-10,5) bar:1991 at: 10389 fontsize:S text: 10.389 shift:(-10,5) bar:2001 at: 11175 fontsize:S text: 11.175 shift:(-10,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:fonte ISTAT elaborazione grafica cura di Wikipedia
Orzinuovi
Đô thị tỉnh Brescia, Khởi đầu năm 1193
Mường Lạn là xã thuộc huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên, Việt Nam. Xã Mường Lạn nằm phía nam của huyện Mường Ảng. *Phía đông giáp xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng. *Phía nam giáp xã Xa Dung, huyện Điện Biên Đông. *Phía tây và phía bắc giáp xã Nặm Lịch, huyện Mường Ảng. Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 1999, xã Mường Lạn có dân số 5.128 người Năm 2006, chính phủ điều chỉnh 3.582 ha diện tích tự nhiên và 2.307 người của xã Mường Lạn để thành lập xã Nặm Lịch, đồng thời xã Mường Lạn được chuyển từ huyện Tuần Giáo về huyện Mường Ảng mới thành lập.
Mường Lạn
Phosphor tribromide là hợp chất vô cơ có công thức PBr3. Đây là một chất lỏng không màu mà bốc khói trong không khí ẩm do thủy phân và có mùi thâm nhập mạnh. Nó được sử dụng trong phòng thí nghiệm để chuyển đổi rượu thành alkyl bromide. PBr3 được điều chế bằng cách cho phosphor đỏ dư phản ứng với brom. Phosphor dư thừa được sử dụng để ngăn ngừa sự hình thành PBr5: :2 Br2 PBr3 Bởi vì phản ứng này có tính tỏa nhiệt cao, nó thường được tiến hành với sự có mặt của một chất pha loãng như PBr3. Phosphor tribromide tương tự như như PCl3 và PF3, có cả hai tính chất của một base và một acid. Phản ứng quan trọng nhất của PBr3 là với alcohol, nơi nó thay thế một nhóm OH bằng một nguyên tử brom để tạo ra một alkyl bromide. Cả ba bromide đều có thể được chuyển. PBr3 ROH RBr HP(O)(OH)2 Cơ chế liên quan đến việc hình thành một phosphor este, sau đó là một sự thay thế SN2. :700px Do bước thay thế SN2, phản ứng này thường hoạt động tốt đối với các alcohol bâc một và bậc hai, nhưng không thành công đối với alcohol bậc ba. Trong một phản ứng tương tự, PBr3 cũng chuyển acid cacboxylic thành acyl bromide: PBr3 RCOOH RCOBr HP(O)(OH)2 Việc sử dụng chủ yếu cho Phosphor tribromide là để chuyển đổi alcohol bậc một hoặc bậc hai thành alkyl bromide. PBr3 thường cho năng suất cao hơn acid hydrobromic và nó tránh được các vấn đề về sắp xếp lại cation cacbon ví dụ ngay cả neopentyl bromide có thể được tạo ra từ alcohol với năng suất 60%. Một ứng dụng khác của PBr3 là làm chất xúc tác cho sự α-brom hóa của các acid cacboxylic. Mặc dù acyl bromide hiếm khi được sử dụng so với acyl chloride, chúng được sử dụng làm chất trung gian trong halogen hóa Ban đầu, PBr3 phản ứng với acid carboxylic để hình thành acyl bromide. Quá trình tổng thể có thể được biểu diễn dưới dạng: :350px Trên quy mô thương mại, Phosphor tribromide được sử dụng trong sản xuất dược phẩm như alprazolam, methohexital và fenoprofen. Nó cũng là một tác nhân ngăn chặn hỏa hoạn tiềm năng được quảng cáo dưới tên PhostrEx. PBr3 là chất độc và phản ứng dữ dội với nước và alcohol. Trong các phản ứng tạo ra acid phosphorric, nó như một sản phẩm phụ, khi làm việc bằng chưng cất, phải biết rằng chất này có thể phân hủy khoảng trên 160 °C để tạo ra phosphin có thể gây nổ khi tiếp xúc với không khí.
Phosphor tribromide
Hợp chất vô cơ, Hợp chất halogen của phi kim, Hợp chất brom, Hợp chất phosphor
Sister Fa (tên thật là Fatou Diatta, sinh năm 1982 tại Dakar, Sénégal) là một rapper người Sénégal và nhà hoạt động chống lại tình trạng cắt âm vật (FGM). Diatta bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một rapper vào năm 2000, khi cô thực hiện đoạn băng demo đầu tiên. Năm sau, cô biểu diễn tại Giải thưởng Hip Hop Senegal. Năm 2005, cô phát hành album đầu tiên, Hip Hop Yaw Law Fal. Năm 2008, cô đi lưu diễn Sénégal để nâng cao nhận thức về vấn đề FGM. Năm 2009, cô phát hành album đầu tay quốc tế Sarabah: Tales From the Flipside of Paradise. Năm 2011, Sarabah, một phim tài liệu về du lịch Diatta của Giáo dục Sans Cắt (tiếng Pháp cho giáo dục mà không cần cắt), công chiếu tại liên hoan nhân quyền Movies That Matter. Sarabah: Tales From the Flipside of Paradise đã nhận được một bài phê bình ấm áp từ Jon Lusk của BBC, người đã viết rằng "quá nhiều album bao gồm những giai điệu khá đơn giản dành cho người đi bộ hoặc hát khó chịu mà tiếng vang sân chơi (như Poum Poum Pa) hoặc dường như minh bạch nhắm vào thị trường nhạc chuông." Trong tờ Daily Telegraph, Mark Hudson đã cho album trên sao và viết rằng Diatta "đánh giá sự táo bạo của cô ấy trước những giai điệu truyền thống tinh tế trong lần ra mắt được làm thủ công này." Rick Anderson đã xem lại album cho Allmusic, kết luận rằng "Thật hiếm khi một nghệ sĩ hip-hop cân bằng sự nhẹ nhàng, nghiêm túc, vui vẻ và nhắn tin thành công như lần này đặc biệt là lần đầu tiên ra mắt." Diatta đã phải chịu FGM khi cô còn nhỏ. Cô đã gặp Lucas May, một nhà đạo đức học người Áo, vào năm 2005; Họ kết hôn trong vòng một tuần. Tháng năm 2006, cô và chồng chuyển đến Berlin.
Sister Fa
Nhân vật còn sống, Sinh năm 1982
'''Tổng là một tổng tỉnh Allier trong vùng Auvergne. Tổng này được tổ chức xung quanh thuộc quận Moulins. Độ cao thay đổi từ 204 (Franchesse) đến 420 (Saint-Hilaire) với độ cao trung bình 293 m. Tổng gồm xã với dân số là 532 người (điều tra năm 1999, dân số không tính trùng) 564 03160 03036 180 03440 03046 Franchesse 451 03160 03117 278 03160 03218 Saint-Hilaire 567 03440 03238 Saint-Plaisir 443 03160 03251 Vieure 268 03430 03312 Ygrande 781 03160 03320 Tổng trên trang mạng của Insee plan du canton de sur Mapquest Vị trí của tổng trên một bưu thiếp của Pháp
null
Tập (West Frisian: Skirmare) là một đô thị Hà Lan, trong tỉnh Noord-Holland. Đô thị Schermer gồm đất lấn biển Schermer và các khu vực lấn biển Oterleek, Mijzenpolder, và Eilandspolder. Schermer trung tâm dân cưChính quyền địa phương Tham khảo == Số liệu thống kê lấy từ SDU Staatscourant
null
Đô thị cũ Noord-Holland
Doctor (Bác sĩ) là tên một nhân vật trong bộ phim truyền hình dài tập của BBC về chủ đề khoa học giả tưởng mang tên Doctor Who, nhân vật này cũng xuất hiện trong nhiều ngoại truyện có liên quan, kịch âm thanh và truyện tranh có kết nối với bộ phim. Trong bộ phim, "Doctor" là bí danh mà người ngoài hành tinh trăm tuổi này tự nhận, ông du hành xuyên không gian, thời gian trên chiếc TARDIS, thường là cùng với bạn đồng hành. Tính tới hiện tại, 12 diễn viên đã thay phiên nhau đảm nhận vai diễn Doctor trong suốt toàn bộ loạt phim, với sự thay đổi từ người này qua người khác được lý giải trong kịch bản là sự thay đổi diện mạo và tính cách của nhân vật gọi là "tái sinh chức năng sinh học của chủng loài của ông cho phép họ thay đổi hoàn toàn cấu trúc tế bào và ngoại hình để hồi phục tất cả các chấn thương, lão hóa gây tử vong. Nhiều diễn viên đã đảm nhiệm vai diễn Doctor qua các thời kì, đem đến cho ông một diện mạo và nhân cách mới sau mỗi lần tái sinh. Nhân vật này nổi tiếng đến mức đã được tờ Daily Telegraph bình chọn là "Người ngoài hành tinh được yêu thích nhất Vương quốc Anh". Doctor đương nhiệm hiện nay là Doctor thứ mười ba. Diễn viên đảm nhận nhân vật này là Jodie Whittaker, người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử của phim đảm nhiệm vai diễn The Doctor. Trong cốt truyện hư cấu, Doctor là một Time Lord đến từ hành tinh Gallifrey, ông có thể du hành qua không thời gian trong cỗ máy thời gian—"bên trong lớn hơn bên ngoài"—, gọi là Tàu TARDIS (Time And Relative Dimension(s) In Space) có hình dạng bên ngoài giống một bốt điện thoại của cảnh sát những năm 1963, và bị mắc kẹt hình dạng đó đến tận bây giờ. Doctor trốn khỏi hành tinh quê nhà của mình bằng cách đánh cắp một tàu TARDIS lỗi thời (như đã tiết lộ trong tập The War Games (1969) và lên màn ảnh cho thấy Doctor đầu tiên đang chọn một tàu để lái đi trong tập "The Name of the Doctor" (2013) nhờ dùng lại các hình ảnh cũ). Kể từ đó, Doctor khám phá toàn bộ vũ trụ cùng với bạn đồng hành phần lớn là con người, bạn đồng hành thường đóng vai trò như khán giả trải nghiệm. "Doctor" thật ra không phải là tên thật của nhân vật này, tên thật của ông chưa bao giờ được tiết lộ. Ông dùng tên này như một bí danh để tự gọi bản thân mà không có bất kì giải thích thỏa đáng nào. Cuộc sống thời trẻ của Doctor trên hành tinh Gallifrey được miêu tả rất ít. Trong loạt phim cũ, kể về thời gian ông học tại học viên, rằng ông thuộc về "Prydonian chapter of Time Lords", nổi tiếng xấu xa. Trong tập "The Sound of Drums", Doctor kể rằng Time Lord Academy tổ chức lễ kết nạp cho các đứa trẻ tuổi lên 8. Một đứa trẻ Time Lord phải nhìn sâu vào Untempered Schism, một lỗ hổng trong không thời gian mà từ đó có thể nhìn thấy Time Vortex. MỘt số được truyền cảm hứng, một số thì phát điên (ông gợi rằng điều đó đã xảy ra với kẻ thù của ông, Master), số còn lại thì bỏ trốn. Khi được hỏi ông thuộc trường hợp nào, ông trả lời rằng "Oh, tôi chính là người chạy trốn đó; Kể từ đó, tôi chưa bao giờ ngừng lại!". Trong tập The Time Monster, Doctor kể rằng ông lớn lên trong một ngôi nhà cạnh núi, nơi đó có một nhà ẩn dật sống dưới gốc cây ngay sau ngôi nhà Doctor ở, và nhà ẩn dật này là người động viên ông và truyền cảm hứng cho ông mỗi khi ông tuyệt vọng. Sau này, ông có lần gặp lại người thầy thông thái này của mình, lần này là trên Trái đất là Cha K'anpo Rinpoche, trong tập Planet of the Spiders. Cảm thấy thân thế của Doctor như vậy vẫn chưa có nhiều sức hấp dẫn dưới thời Doctor thứ 7, biên kịch Andrew Cartmel, Ben Aaronovitch và Marc Platt tìm cách phát triển một hướng mới cho loạt phim. Cartmel muốn biến nhân vật này trở nên "đen tối, bí ẩn và quyền lực hơn" và biến ông thành "một lần nữa hơn cả một Time Lord bình thường" tưởng này được biết đến cái tên là "Cartmel Masterplan". Dưới thời Cartmel, bộ phim đang có định hướng đi theo cốt truyện này; tuy nhiên, bộ phim đột ngột bị ngừng sản xuất vào năm 1989 điều này làm cho tưởng này chưa bao giờ lên màn ảnh. Các đề xuất về xuất thân của Doctor sau này được tiết lộ trong một quyển tiểu thuyết của Platt năm 1997 mang tên Lungbarrow, trong quyển sách này Doctor được nói đến với tên "the Other", một trong số những nhân vật bí ẩn của người Gallifrey, một trong số các nhà đồng sáng lập nên xã hội Time Lord cùng với Rassilon và Omega. Sau một lời nguyền bí ẩn làm cho cư dân trên Gallifrey trở nên vô sinh, nhân vật Other phát triển một thiết bị gọi là Loom dùng Công nghệ Sinh học để tạo ra thế hệ Time Lords mới; cháu gái của ông Susan là đứa trẻ Gallifrey cuối cùng được sinh ra một cách tự nhiên. Để trốn thoát khỏi cuộc chiến với Rassilon, Other nhảy vào hệ thống Loom, ông bị phân rã ra thành ngàn mảnh và dần kết tụ lại thành Doctor. Thông tin về gia đình hay các người thân của Doctor rất hiếm khi xuất hiện trên phim. Trong suốt seasons đầu tiên, ông du hành cùng cô cháu gái của mình, Susan Foreman, đây có lẽ là người thân duy nhất của Doctor từng xuất hiện trong loạt phim cũ, cô có gặp lại ông trong tập kỷ niệm The Five Doctors. Trong tập phim "Smith and Jones" (2006), Doctor nói rằng mình cũng có một người anh em. Trong suốt thời kì của Doctor thứ 2, khi được hỏi về gia đình của mình, Doctor nói rằng ký ức của ông về gia đình của mình vẫn còn sống mãi trong ông, nhưng nó chỉ xuất hiện khi ông thực sự muốn và nó vẫn ngủ yên trong tâm trí ông (The Tomb of the Cybermen). Trong tập The Curse of Fenric, khi được hỏi rằng liệu ông đã từng có một gia đình hay không, Doctor thứ trả lời rằng ông cũng không rõ nữa, điều này gián tiếp ám chỉ một số phận không rõ ràng xảy ra với người thân của ông. Trong bộ phim truyền hình năm 1996, Doctor thứ lưu rằng ông có một nửa là con người, và phần người đó là từ mẹ của ông. Chi tiết này tạo sự mâu thuẫn với loạt phim cũ, trong loạt phim cũ Doctor được miêu tả là một Time Lord thuần chủng. Trong loạt phim mới, chi tiết này đã bị bác bỏ, và nhấn mạnh rằng Doctor hoàn toàn là một Time Lord. Trong suốt toàn bộ các tình huống của loạt phim mới, Doctor thường xuyên thay đổi chủ đề mỗi khi có người hỏi về gia đình của ông, như trong tập "Fear Her", "The Beast Below" và "A Good Man Goes to War". Trong tập "The Empty Child", Dr. Constantine từng nói với ông rằng, "Trước khi cuộc chiến này bắt đầu, tôi từng là một người cha và là một người ông. Giờ đây tôi chẳng là gì cả. Bây giờ tôi là một bác sĩ." Doctor thứ trả lời rằng, "Yeah. Tôi hiểu cảm giác đó mà." Câu nói này ngụ rằng có lẽ gia đình của Doctor đã chết trong Time War, sự kiện này xảy ra giữa phim truyền hình và tập đầu tiên của loạt phim mới, "Rose". Trong tập cuối cùng của Doctor thứ 10 The End of Time, một nhân vật bí ẩn, được gọi là "The Woman" trên phần credits cuối phim, nhân vật này xuất hiện chớp nhoáng trong suốt phần của tập này. Sau này bà ấy được tiết lộ là một Time Lady phe đối lập, bà phản đối kế hoạch trốn thoát khỏi Time War của Hội đồng Tối cao Time Lord với người chủ mưu là tổng thống Rasilon. Khi bà hé lộ gương mặt của mình, Doctor lập tức nhận ra bà là ai. Nhà sản xuất của bộ phim Julie Gardner từng bình luận vệ tập phim rằng, nhân vật này ban đầu được tạo ra như là một Time Lady đóng vai trò là mẹ của Doctor, tuy vậy cả cô và biên kịch Russell T. Davies đều từ chối tiết lộ danh tính thật của nhân vật này. Trong bộ phim, khi Wilfred hỏi rằng bà ta là ai, Doctor tiếp tục lãng tránh câu hỏi này, điều này làm cho tình tiết hết sức mập mờ. Trong Doctor Who: The Writer's Tale The Final Chapter, Russell Davies nói rằng ông tạo ra nhân vật này để trở thành mẹ của Doctor, và diễn viên Claire Bloom đã được phân vai này khi dự tuyển phân vai. Trong loạt phim mới, Doctor làm ra vẻ như chuyện kết hôn với bà của Susan là chưa từng xảy ra. Trong tập "The Wedding of River Song", ông chính thức kết hôn với một người bạn đồng hành của mình là River Song. Trong tập "The Name of the Doctor", Doctor nhắc cô rằng, vợ ông đang nằm sau tấm bia mộ kia, và dòng chữ khắc trên bia chính là tên của cô, khi đó Clara hỏi rằng liệu cô ấy có phải là "người cũ". Trong tập The End of Time Doctor thứ 10 từ nói rằng mình đã kết hôn với Nữ hoàng Elizabeth và nhận rằng hai người có quan hệ tình cảm sâu đậm, Doctor đùa rằng: "biệt hiệu của bà là Nữ hoàng Đồng trinh sẽ không còn nữa...". Đám cưới của họ chính thức được xuất hiện trên màn ảnh trong tập "The Day of the Doctor" dù phải chống lại Zygons. Trong tập Giáng sinh năm 2010, "A Christmas Carol", Doctor tình cờ kết hôn với Marilyn Monroe. Biên kịch Steven Moffat lưu rằng việc kết hôn với Elizabeth và Marylin Monroe có thể là không nghiêm túc và ông không tính đến lần này, câu hỏi đặt ra là Doctor đã từng có bao nhiêu người vợ, điều chắc chắn rằng Doctor đã kết hôn với bà của Susan và River Song. Nhân vật Doctor được sáng tạo ra bởi Sydney Newman, Giám độc truyền hình của BBC. Định dạng của chương trình được phát triển dựa trên chương trình The của biên kịch C. E. Webber được viết vào tháng năm 1963, sau này ông đã góp phần phát triển dự án Doctor Who. Trong tài liệu của Webber's mô tả nhân vật chính là "Một người trung niên, từ 35–40, thỉnh thoảng hay có 'tính khí thất thường.' Newman dựa trên tưởng này nhưng có vài thay đổi đáng kể so với phiên bản của Webber, Newman quyết định đặc tên nhân vật chính là Dr Who, một người đàn ông lớn tuổi, tình cờ đánh cắp một cỗ máy thời gian và chạy trốn khỏi một thế giới tương lai của mình. Không có bản ghi chép nào của Newman về tưởng này được cho là có từ hồi tháng năm 1963, nhân vật Dr Who chỉ xuất hiện lần đầu tiêntrong các tài liệu có từ tháng năm 1963 Nhân vật này được diễn lần đầu bởi William Hartnell vào năm 1963. những buổi đầu của chương trình, không hề có một thông tin nào về nhân vật Doctor: thậm chí ngay cả tên của ông, và thực tế điều đó đến nay vẫn còn là bí ẩn. Trong tập đầu tiên, An Unearthly Child, hai giáo viên của trường Coal Hill School London, là Barbara Wright và Ian Chesterton bị thu hút bởi một học sinh là Susan Foreman do có kiến thức khoa học khá đặc biệt. Họ theo dõi cô và được dẫn đến một bãi phế liệu số 76 Totter's Lane, họ gặp một ông lão kỳ lạ và nghe giọng nói của Susan vang vọng từ bên trong một cái bốt điện thoại cảnh sát màu xanh. Họ lập tức đẩy của vào và bước vào trong, họ phát hiện ra vẻ bề ngoài chỉ là để ngụy trang cho bên trong là một phi thuyền rộng lớn bất ngờ của tàu TARDIS. Người đàn ông lớn tuổi mà Susan gọi là "Ông" ("Grandfather") đã tìm cách bắt cóc Barbara và Ian để ngăn họ tiết lộ bí mật về tàu TARDIS, ông quyết định mang họ theo trong suốt chuyến hành trình không-thời gian của mình. Doctor đội một mái tóc giả màu trắng bạc và trang phục kiểu thời Edward, với chất giọng Anh đặc sệt". Hartnell rời khỏi vai diễn sau năm chống chọi với sức khỏe đang dần sa sút, vai diễn được dể lại cho diễn viên Patrick Troughton. bộ phim đã trãi qua 13 hóa thân của nhân vật Doctor. Hóa thân có nhiệm kỳ dài nhất thuộc về Doctor thứ tư, thủ diễn bởi Tom Baker trong năm. Theo cốt truyện, sự thay đổi được giải thích là quá trình tái sinh, là một quá trình sinh học giúp chửa lành và hồi sinh Time Lord khi cần kề cái chết. Từ đó giúp Time Lord có một cơ thể hoàn toàn mới. Trong tập The Deadly Assassin, khái niệm về giới hạn của các lần tái sinh được đặt ra, điều này làm cho Time Lords chỉ có thể tái sinh được 12 lần, có nghĩa là mỗi Time Lord sẽ chỉ có tối đa 13 hóa thân gồm cả hóa thân đầu tiên. Trong tập "The Time of the Doctor", Doctor được nhận một chu kỳ tái sinh mới từ các Time Lords qua khe nứt thời gian. Ông tái sinh thành Doctor thứ mười hai, diễn bởi Peter Capaldi. Quá trình phát triễn của bộ phim được kể lại trong phim tài liệu An Adventure in Space and Time, đây là một phần của kỷ niệm 50 năm ngày ra đời Doctor Who, bộ phim với diễn viên David Bradley thể hiện lại hành trình William Hartnell dến với vai diễn. John Smith Whittaker đóng vai Doctor thứ 13, đây là lần đầu tiên một người phụ nữ vào vai nhân vật này Qua các thời kỳ khác nhau cũng như qua từng lần thay đổi diễn viên, tính cách của nhân vật thay đổi rất nhiều. Bảng dưới đây liệt kê các Doctor qua các thời kỳ: Diễn viên Hiện thân Sốphần Số tập Xuất hiện lần đầu Xuất hiện lần cuối Ngày Tuổi Ngày Tuổi William Hartnell Doctor thứ nhất 134 (29 câu chuyện) 23 tháng 11 năm 1963 55 29 tháng 10 năm 1966 58 Patrick Troughton Doctor thứ 119 (21 câu chuyện) 29 tháng 10 năm 1966 46 21 tháng 06 năm 1969 49 Jon Pertwee Doctor thứ 128 (34 câu chuyện) 03 tháng 01 năm 1970 50 08 tháng 06 năm 1974 54 Tom Baker Doctor thứ 172 (41 câu chuyện) 08 tháng 06 năm 1974 40 21 tháng 03 năm 1981 47 Peter Davison Doctor thứ 69 (20 câu chuyện) 21 tháng 03 năm 1981 29 16 tháng 03 năm 1984 32 Colin Baker Doctor thứ 31 (8 câu chuyện) 16 tháng 03 năm 1984 40 06 tháng 12 năm 1986 43 Sylvester McCoy Doctor thứ 42 (12 câu chuyện) 07 tháng 09 năm 1987 44 06 tháng 12 năm 1989 46 Paul McGann Doctor thứ (2 câu chuyện) 27 tháng 05 năm 1996 36 27 tháng 05 năm 1996 36 Christopher Eccleston Doctor thứ 13 (10 câu chuyện) 26 tháng 03 năm 2005 41 18 tháng 06 năm 2005 41 David Tennant Doctor thứ 10 47 (38 câu chuyện) 18 tháng 06 năm 2005 34 01 tháng 01 năm 2010 38 Matt Smith Doctor thứ 11 43 (36 câu chuyện) 01 tháng 01 năm 2010 27 25 tháng 12 năm 2013 31 Peter Capaldi Doctor thứ 12 40 (35 câu chuyện) 23 tháng 11 năm 2013 55 25 tháng 12 năm 2017 59 Jodie Whittaker Doctor thứ 13 25 tháng 12 năm 2017 35 Trong một số ít dịp đặc biệt, các Doctor trước đó quay trở lại với vai diễn của mình, thường là diễn viên khách mời: *William Hartnell và Patrick Troughton với Jon Pertwee trong tập The Three Doctors. Ban đầu vai của Hartnell dự định sẽ có nhiều vai trò hơn, nhưng do sức khỏe của ông đang rất sa sút nên ông chỉ xuất hiện rất hạn chế. Đây là vai diễn cuối cùng ông xuất hiện trên truyền hình. *Troughton và Pertwee cùng với Peter Davison trong tập đặc biệt The Five Doctors mừng kỷ niệm 20 năm loạt phim, với một số cảnh quay chưa từng lên hình trong một tập phim bị hủy của Tom Baker và một diễn viên là Richard Hurndall đóng vai của William Hartnell (do ông đã qua đời trước đó). Tuy vậy vẫn có vài cảnh quay của Hartnell trích ra từ tập The Dalek Invasion of Earth trong lúc mở đầu câu chuyện. Baker từ chối xuất hiện lại, ông cảm thấy vẫn còn quá sớm để quay lại trong khi ông vừa mới trao vai diễn lại cho người kế nhiệm (tuy vậy sau này ông nói rằng mình rất hối tiếc khi đưa ra quyết định đó). *Patrick Troughton cùng với Colin Baker trong tập The Two Doctors. Điểm đáng chú của tập phim này là nó được sản xuất không vào dịp kỷ niệm nào cũng nhưng không phải một chương trình Children in Need (một chương trình quyên góp cho trẻ em). *Sylvester McCoy cùng với Jon Pertwee, Tom Baker, Peter Davison, Colin Baker, và Doctor đầu tiên và thứ được thay thế bằng tượng trong tập Dimensions in Time, đây là một chương trình kỷ niệm 30 năm phát sóng trong năm 1993 và lên sóng trên chương trình Children in Need. Trừ tượng mannequin của Hartnell và Troughton, các Doctor không xuất hiện cùng nhau trên màn ảnh. *Sylvester McCoy trở lại để đóng cảnh tái sinh đầu phim truyền hình năm 1996. John Hurt trong vai War Doctor. *Peter Davison với David Tennant vào năm 2007 trong chương trình đặc biệt Children in Need tập phim Time Crash. *Paul McGann trở lại với vai Doctor thứ trong phút cuối cùng và đóng cảnh tái sinh trong một tập nhỏ năm 2013 The Night of the Doctor, đây là một tập đệm cho tập đặc biệt kỷ niệm 50 năm The Day of the Doctor. Không có Doctor nào khác xuất hiện trong tập mini này, ngoại trừ hình ảnh của John Hurt xuất hiện vài giây cuối tập phim, hình ảnh lúc trẻ và âm thanh được ông cung cấp. *David Tennant xuất hiện trong tập đặc biệt kỷ niệm 50 năm cùng với Matt Smith. Tom Baker cũng xuất hiện với vai trò khách mời trong tập này nhưng trong vai người giữ viện bảo tàng National Gallery bí ẩn. Ông được nhắc đến như là tương lai của Doctor, người đã "viếng thăm lại chính mình" hay "một gương mặt quen thuộc", tuy vậy kịch bản chưa bao giờ khẳng định điều này. Cuộc trò chuyện cho rằng "có lẽ điều đó cũng chẳng quan trọng" trong khi Doctor và người quản lý bảo tàng cùng là một thực thể. *Doctor thứ nhất (William Hartnell): xuất hiện lần đầu tiên trong tập "An Unearthly Child" cùng với cô cháu gái Susan trên con tàu TARDIS, cả hai cùng hạ cánh xuống một bãi phế liệu. Ông xuất hiện dưới hình dạng một ông lão ngoài 60, trong trang phục của các quý ông thời vua Edward gồm áo choàng dài, quần tây ống xuống và một cây baton cổ điển. Tính khí của ông ban đầu không tốt, đôi khi bẩn tính và thường hay thao túng người khác, tuy vậy vào cuối thời kì của mình ông tỏ ra thân thiện và hòa nhã hơn. Sức khỏe của ông ngày càng suy yếu trong suốt tập The Tenth Planet khi phải đối đầu với Cyberman, ông suy sụp và nhờ sự giúp đỡ của TARDIS, cơ thể ông được "hồi xuân" cuối tập. Tại thời điểm này cụm từ tái sinh vẫn chưa được dùng, ông chỉ thay đổi hình dạng thành một con người trẻ hơn. *Doctor thứ 2 (Patrick Troughton): Với cơ thể trẻ hơn, ông đã tạo ra không khí mới cho bộ phim, tính cách của ông tỏ ra thân thiện hơn nhưng đôi lúc cũng có chút cáu kỉnh. Ông chạy nhảy nhiều và năng động hơn, đôi khi tỏ ra vẻ ngớ ngẩn trước mặt đối thủ. Ông ăn mặc xuề xòa hơn, đôi khi có những chiếc nón rất quái dị, điểm đặc trưng của ông là có thắt một cái nơ trên cổ áo. Ông cũng thường có các câu nói cửa miệng ngớ ngẩn. Lần tái sinh của ông có sự nhúng tay của các Timelord do vi phạm chính sách không can thiệp, ông bị ép buộc phải thay đổi hình dáng của mình và bị lưu đày xuống trái đất mà không có TARDIS của mình bởi các Time Lords trong những cảnh cuối của tập The War Games. *Doctor thứ 3 (Jon Pertwee): do bị đày xuống Trái Đất mà không có TARDIS nên cuộc hành trình của Doctor thứ chủ yếu là Trái đất và mang hơi hướng phiêu lưu hành động của James Bond. Ông thích đấu võ tay đôi với kẻ thù của mình, cũng như ông từ tiết lộ rằng mình biết Akido, Doctor thứ là type người hành động. Trang phục ông mặc có phần hơi ăn diện, ông mặc áo sơ mi có ren và áo khoác nhung, đôi lúc ông cũng mặc áo choàng kiểu Inverness, ngoài ra ông còn có bộ sưu tập xe hơi cho riêng mình. Về tính cách, thì ông có phần chuyên quyền gia trưởng, mặc dù cũng có tấm lòng bao dung và hài hước. Thời kỳ này tua vít sóng âm cũng được dùng khá nhiều trong nhiều tình huống kể cả dùng để kích hoạt boom. Đây là thời kỳ mà Master xuất hiện và kẻ thù nguy hiểm của ông, bên cạnh đó hành tinh Galifrey quê nhà của ông cũng được tiết lộ. Ông bị nhiễm độc bức xạ bởi một loại tinh thể kim loại trong hang động Great One trên hành tinh Metabilis vào cuối tập Planet of the Spiders. Đây là lần đầu tiên cụm từ "tái sinh" được sử dụng, ông tái sinh bởi sự hướng dẫn của các Timelord. *Doctor thứ 4 (Tom Baker): Ông là dạng người biết tuốt, đôi khi hơi nóng tính, nhưng có tấm lòng nhân hậu và nụ cười rạng rỡ. Trong văn hóa đại chúng, hình tượng của ông thường được nhái lại với hình ảnh "đầy răng và tóc xoăn". Ông là một người kì quái với các thú vui và thói quen lập dị. Vẻ bề ngoài của ông với chiếc khăn dài thượt đủ màu đã trở thành biểu tượng. Tuy vậy trang phục và chiếc khăn ông thường dùng cũng có nhiều thay đổi, ban đầu nó mang hơi hướng Bohemian với áo khoác len sần, cà vạt không gọn gàng và giày bốt kiểu hải tặc. Sau đó là đến thời ông mặc áo khoác nhung to màu mận chín với chiếc khăn còn dài hơn màu đỏ tía. Ông bị ngã từ trên kính thiên văn Pharos Project trong tập Logopolis và tại đây ông được hỗ trợ tái sinh bởi một nhân dạng bí ẩn được gọi là "The Watcher". Thực chất đây là hình chiếu của Doctor thứ quay trở lại để giúp ông. *Doctor thứ 5 (Peter Davison): Khác với các Doctor tiền nhiệm, ông là người khá trầm tĩnh, là một quý ông trẻ tuổi, tự tin và có tinh thần thượng võ. Nhìn chung, ông tốt bụng và tinh tế hơn, ít sử dụng bạo lực nhất so với các Doctor khác. Điều đó thể hiện qua bộ trang phục gần giống với đồng phục của vận động viên cricket thời vua Edward với một nhánh cần tây trên ngực áo. Trong thời của ông, tua vít sóng âm bị khai trừ do các biên kịch đã quá lạm dụng nó để giải quyết các vấn đề, tua vít sóng âm biến mất cho tới tận thời của 8th Doctor. Các kẻ thù trong thời kì này phải kể đến Omega, Black Guadian, Cyberman và Mara cùng sự trở lại của Silurian, Sea Devil, Master. Ông cũng có dịp hội ngộ với các hóa thân trước đây của mình trong tập The Five Doctor cùng nhau chống lại nhiều kẻ thù. Ông phải tái sinh do bị nhiễm độc Spectrox chưa tinh chế, loại khoáng sản có giá trị lớn trên hành tinh này. Thứ duy nhất giải độc được là sữa của một loài dơi sống trong lòng đất. Doctor đã lấy được sữa dơi, nhưng chỉ đủ để cứu bạn mình và ông bắt đầu tái sinh. Chất độc tàn phá cơ thể Doctor nặng nề khiến ông không rõ mình có thể qua khỏi không, Doctor gặp lại ảo ảnh của những bạn đồng hành cũ xin ông đừng chết và kẻ thù Master bảo ông chết đi, quá trình tái sinh diễn ra đầu tập The Caves of Androzani. Trong loạt phim mới, ông cũng từng trở lại và diễn chung với 10th Doctor trong một tập nhỏ Time Crash. *Doctor thứ 6 (Colin Baker): bị thương nặng sau khi Rani tấn công TARDIS làm cho phi thuyền bị đâm xuống đất đầu tập Time and the Rani. *Doctor thứ 7 (Sylvester McCoy): Chết và sau đó tái sinh tại San Francisco trong một cuộc phẫu thuật bởi các bác sĩ không có kiến thức về sinh lý cơ thể của Time Lord trong bộ phim truyền hình năm 1996. *Doctor thứ 8 (Paul McGann): Chết trên phi thuyền đang bị tai nạn trong lúc cố cứu một cô gái và yêu cầu cô ấy vào TARDIS trong tập The Night of the Doctor. Phi thuyền đâm vào hành tinh Karn, nơi Sisterhood of Karn cứu sống ông trong chốc lát và yêu cầu ông phải chọn tính cách mà ông sẽ tái sinh nếu không ông sẽ chết thực sự. Ông tái sinh thành War Doctor một nhân dạng bị lãng quên. *War Doctor (John Hurt) Chết và tái sinh do tuổi già sau khi giúp đóng băng Gallifrey vào trong một bức tranh vũ trụ khác trong tập The Day of the Doctor. *Doctor thứ 9 (Christopher Eccleston): bị thoái hóa tế bào trầm trọng sau khi hấp thụ năng lượng từ time vortex (vòng xoáy thời gian trong TARDIS) để cứu Rose Tyler trong tập The Parting of the Ways. *Doctor thứ 10 (David Tennant): bị nhiễm độc bức xạ trong lúc cố gắn cứu mạng sống của ông Wilfred Mott (ông của Donna) trong tập The End of Time. *Doctor thứ 11 (Matt Smith): già đi sau vài trăm năm sống và bảo vệ hành tinh Trenzalore, các Time Lords từ thế giới song song qua vết nứt thời gian đã chuyển cho Doctor một chu kỳ tái sinh mới, cho phép anh tiếp tục tái sinh trong tập The Time of the Doctor. *Doctor thứ 12 (Peter Capaldi): bị một Cyberman tấn công dẫn đến cái chết của ông nhưng lần nay ông đã không chấp nhận tái sinh và cố gắng giữ mình là 12th Doctor. Sau một thời gian cố gắng cầm cự ngăn chu kì tái sinh của mình ông đã gặp và du hành cùng với first Doctor nhận dạng đầu tiên của ông.Khi chuyến dụ hành kết thúc ông đã quay về TARDIS của mình và chấp nhận tái sinh. *Lawson, Mark (interviewer) (2005, December). Front Row (radio series), BBC Four. Doctor Who Radio Times covers photos of the Doctor "WHO IS DOCTOR WHO?"
Doctor
Doctor Who, Khoa học viễn tưởng
là một dong, hoặc phường của quận Seocho-gu, Seoul. Seocho-dong được chia thành dong riêng biệt là Seocho 1-dong, 2-dong, 3-dong và 4-dong. Đường chính là Teheranno. Trụ sở chính của công ty sản xuất mỹ phẩm chăm sóc da Skin Food nằm DaeRyung Scecho Tower gần Ga Gangnam. Đại học ** Trường đại học giáo dục quốc gia Seoul Cao trung ** Trường cao trung Seocho ** Trường cao trung Seoul ** Trường cao trung Yangjae Trung học ** Trường trung học Seocho ** Trường trung học Seoil ** Trường trung học Seoun ** Trường trung học Yeongdong Tiểu học ** Trường tiểu học thuộc đại học giáo dục quốc gia Seoul ** Trường tiểu học Seocho ** Trường tiểu học Seoil ** Trường tiểu học Wonmyeong ** Trường tiểu học Seoi ** Trường tiểu học Sinjung Ga Gangnam của và Ga đại học giáo dục quốc gia Seoul của và Ga Seocho của Ga xe buýt tốc hành Nambu của Ga Yangjae của và *Phân cấp hành chính Hàn Quốc Trang chủ Seocho-gu lifeinkorea.com Bản đồ Seocho-gu tại trang chủ Seocho-gu Văn phòng dân cư Seocho 1-dong
null
Quận Seocho
David Boo Wiklander (sinh ngày tháng 10 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá người Thụy Điển gốc Colombia thi đấu vị trí hậu vệ cho IFK Göteborg. ;IFK Norrköping *Allsvenskan: 2015
David Boo Wiklander
Sinh năm 1984, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Thụy Điển, Cầu thủ bóng đá Qviding FIF, Cầu thủ bóng đá IFK Norrköping, Cầu thủ bóng đá Hammarby Fotboll, Cầu thủ bóng đá IFK Göteborg, Cầu thủ bóng đá Allsvenskan, Cầu thủ bóng đá Superettan
Tiếng Anh Tiếng Việt Chú thích Aileron bánh lái lượn, bánh lái liệng Biplane máy bay cánh kép Canard cánh mũi Ceiling trần bay độ cao bay tối đa Delta wing cánh tam giác Dive bổ nhào Dive brake phanh bổ nhào một kiểu cánh tà trên máy bay ném bom bổ nhào Elevator bánh lái độ cao Engine động cơ Fuselage thân máy bay Horizontal stabilizer cánh đuôi ngang, cánh ổn định ngang Level flight bay ngang Monocoque máy bay thân đơn Monoplane máy bay cánh đơn Roll lộn vòng Rudder bánh lái đuôi Seaplane thủy phi cơ Straight wing cánh ngang Swept wing cánh xuôi Tail fin cánh đuôi, cánh đuôi đứng Turn lượn vòng Tiếng Anh Tiếng Việt Chú thích Aspect ratio tỉ lệ dài/rộng của cánh Direct-inject phun nhiên liệu trực tiếp Flap cánh tà Induced drag lực cản sinh ra, lực cản phát sinh Inline engine động cơ (piston) thẳng hàng Radial engine động cơ (piston) bố trí hình tròn Turbofan động cơ turbo quạt ép Turbojet động cơ turbo phản lực Turboprop động cơ turbo cánh quạt V-engine động cơ (piston) bố trí hình chữ Tiếng Anh Tiếng Việt Chú thích Rocket rocket (không điều khiển) Missile tên lửa (có dẫn hướng, có điều khiển) Tiếng Anh Tiếng Việt Chú thích ECM Phản công điện tử Electronic Counter Measures ELINT Tình báo tín hiệu điện tử signal HUD Hệ thống hiển thị thông tin trước mặt Head-up Display SEAD Trấn áp phòng không đối phương Suppression of Enemy Air Defences Hoa Kỳ Khối thịch vương chung Anh tiếng Việt (Hoa Kỳ/Anh) Chú thích Section (hay Detail) Section (hay Detail) Phi tuần/Phi tuần đến phi cơ Flight Flight Phi đội/Phi đội đến phi cơ Squadron Squadron Phi đoàn/Phi đoàn gồm nhiều phi đội Group Wing Liên đoàn bay/Không đoàn có từ phi đoàn trở lên (Đơn vị của Anh là không đoàn) Wing Group Không đoàn/Liên đoàn bay có từ liên đoàn trở lên. (Đơn vị của Anh là liên đoàn gồm từ không đoàn trở lên) Air force Air force Không lực Air command Air command Bộ tư lệnh Không quân Chú thích: Đơn vị liên đoàn và không đoàn giữa Anh và Hoa Kỳ đối nghịch nhau nên dễ gây nhầm lẫn. Đối với Hoa Kỳ thì không đoàn lớn hơn liên đoàn nhưng đối với Anh thì ngược lại liên đoàn lớn hơn không đoàn. Không lực Lục quân Không lực Hải quân Tương đương tiếng Anh Tiếng Việt Chú thích Shōtai (小隊) Shōtai (小隊) Section Tiểu đội/Biên đội/Phi tuần gồm ba đến bốn máy bay Chutai (中隊) Hikōtai (飛行隊) Flight Trung đội/Phi hành đội/Phi đội đến máy bay Hikō Sentai (飛行戦隊) Kokutai (航空隊) Squadron Phi hành chiến đội/Hàng không đội/Phi đoàn gồm ba đến bốn nhóm, đến 16 máy bay Hikōdan (飛行団) Air Group Phi hành đoàn/Liên đoàn bay có từ phi đoàn trở lên Hikō shidan (飛行師団) Air Division/Air Flotilla Phi hành Sư đoàn/Sư đoàn không quân Koku gun (航空軍) Air Army Hàng không quân/Không lực
Chú thích
Hàng không
'Aneura là một loài rêu trong họ Aneuraceae. Loài này được Stephani mô tả khoa học đầu tiên năm 1888. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
null
Aneura, Unresolved names
là một chi bướm đêm thuộc họ Geometridae và là chi duy nhất của tông Chi Lythria gồm loài sau: Tông Lythriini Herbulot, 1962 ** Chi Lythria Hübner, 1823 *** Lythria cruentaria (Hufnagel, 1767) *** Lythria plumularia (Freyer, 1831) *** Lythria purpuraria (Linnaeus, 1758) *** Lythria sanguinaria (Duponchel, 1842) *** Lythria venustata Staudinger, 1882 Withtrong Sterrhinae, Lythriini có lẽ là nhóm chị em của Rhodometrini, như được phác đồ dạng nhánh dưới đây: Lepiforum e. V. Moths and Butterflies of châu Âu and North Africa Markku Savela: Lepidoptera and some other life forms (englisch) Ian Kimber: Guide to the moths of Great Britain and Ireland Fauna Europaea, with Lythriini listed as belonging to the subfamily Larentiinae
Lythriini
Thư viện chuẩn C ngày nay là một tập hợp của các tập tin tiêu đề và thư viện các thủ tục được tiêu chuẩn hóa dùng để thiết lập các pháp toán tổng quát, như là việc xử lý I/O và dãy ký tự trong C. Khác với Pascal hay PL/I, không bao hàm sẵn các từ khoá để dùng cho tác thao tác, và như vậy, hầu như mọi chương trình đều phụ thuộc vào thư viện chuẩn để hoạt động. :Trong cả bài viết này chữ "tiêu đề" sẽ được hiểu nghĩa là "tập tin tiêu đề". Tên và đặc tính của mỗi hàm trong được chứa trong một tập tin gọi là tập tin tiêu dề nhưng sự kiến tạo thực sự của các hàm này được phân chia vào trong các tập tin thư viện. Tên và nội hàm của các tiêu đề đã trở nên thông dụng nhưng tổ chức của các thư viện này vẫn còn phân hoá. Thư viện chuẩn thường được ban hành chung với một trình dịch. Vì các trình dịch thường hay cung cấp thêm các chức năng không có trong tiêu chuẩn ANSI C, nên một thư viện chuẩn của một trình dịch đặc thù hầu như sẽ không tương thích với các thư viện chuẩn của trình dịch khác. Nhiều phần thư viện chuẩn cho thấy việc thiết kế chúng rất tốt. Tuy nhiên, một số ít, cho thấy điểm yếu sau khi được dùng rộng rãi như là hàm đọc từ đầu vào gets() (và cũng như hàm scanf() đọc dãy ký tự từ đầu vào) là một nguyên nhân của nhiều lỗi tràn bộ nhớ đệm, và hầu hết các sách hướng dẫn đều khuyến cáo tránh dùng chúng. Một khuyết điểm nữa là hàm strtok() được thiết kế như là một phân tích từ điển cơ bản nhưng rất khó dùng và dễ bị hỏng. Trước khi được tiêu chuẩn hoá, đã không cung cấp các hàm nội tại chẳng hạn là các phép toán I/O (không giống với các ngôn ngữ truyền thống như Pascal và Fortran). Theo thời gian, người trong cộng đồng của đã chia sẻ nhau các tưởng và xây dựng nên cái mà ngày nay ta gọi là thư viện chuẩn C để cung ứng các chức năng. Nhiều kiến trong đó, đã được dùng vào việc định nghĩa của ngôn ngữ lập trình tiêu chuẩn hóa C. Unix và đều đã được tạo ra Bell Labs vào cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970. Trong suốt những năm của thập niên 1970, trở nên phổ biến. Nhiều đại học và tổ chức bắt đầu tạo ra các ngôn ngữ riêng cho các đề án của họ. Đến đầu thập niên 1980, vấn đề tương thích giữa những sự kiến tạo về đã trở nên nghiêm túc. Năm 1983, ANSI thành lập một hội đồng để hoàn tất đặc tả tiêu chuẩn cho gọi là "ANSI C". Công việc này dẫn tới sự hình thành của cái gọi là chuẩn "C89" trong năm 1989. Một bộ phận của kết quả chuẩn này là một tập hợp của các thư viện phần mềm gọi là thư viện chuẩn ANSI đã ra đời. Phiên bản viết lại sau này của chuẩn đã thêm vào nhiều tập tin tiêu đề cần thiết cho thư viện. Hỗ trợ cho nhiều sự mở rộng khác nhau giữa các sư thiết lập (của C). Các tiêu đề , , và đã được thêm vào với Tu chính chuẩn số (Normative Amendment) đưược viết tắt là NA1, và được chuẩn chấp thuận vào năm 1995. Các tiêu đề , , , , , và đã được thêm vào một phiên bản mới của chuẩn là C99, phát hành năm 1999. Thư viện chuẩn ANSI bao gồm 24 tiêu đề mà có thể được bao gồm trong một đề án của người lập trình với các chỉ thị (dịch). Mỗi tiêu đề chứa một hay nhiều sự khai báo của hàm, sự định nghĩa của kiểu dữ liệu và các macro. Nội dung của các tiêu đề như sau: Thư viện chuẩn thì không được viết hoa. Nó cung cấp tập hợp cơ bản các hàm toán, điều chỉnh dãy ký tự, chuyển đổi kiểu, và các I/O cơ sở. Nó không bao gồm một tập hợp chuẩn các "kiểu thùng chứa" như trong Thư viện chuẩn C++. Nó cũng không bao gồm các bộ công cụ GUI, các công cụ mạng, và những chức năng phong phú khác như Java đã cung cấp. Lợi thế chính của một thư viện chuẩn cỡ nhỏ là nó cung ứng một môi trường làm việc của ANSI dễ dàng hơn so với các ngôn ngữ khác, và hệ quả là việc xuất chương trình sang một nền tảng mới tương đối dễ dàng hơn. Nhiều thư viện đã được phát triển để cung cấp chức năng tương đương với những thứ mà ngôn ngữ khác có trong thư viện chuẩn. Thí dụ môi trường của đề án GNOME phát triển bộ công cụ đồ họa GTK và glib, một thư viện của thùng chứa các cấu trúc dữ liệu, và có rất nhiều thí dụ nổi tiếng khác. Nhiều thư viện có nghĩa với các bộ công cụ tuyệt vời đã được chứng tỏ qua lịch sử. Một điểm đáng lưu tâm là các công cụ này thường không tương thích nhau, những người lập trình thường quen với sự khác nhau của các bộ thư viện này, và một bộ công cụ có thể khả dụng trong bất kì nền tảng nào. : Bao gồm macro assert dùng để hỗ trợ trong việc phát hiện các lỗi lô-gíc và các kiểu lỗi khác trong các phiên bản dùng để tìm lỗi của một chương trình. : Một tập hợp các hàm dùng để điều chỉnh các số phức (mới có trong chuẩn C99). : bao gồm các hàm dùng để phân lớp các ký tự bởi các kiểu hay dùng để chuyển đổi giữa chữ viết hoa và viết thường. : Dùng để thử (hay hiển thị) các lỗi được báo cáo từ các hàm thư viện. : Dùng để kiểm soát môi trường chấm động (mới có trong C99). : Bao gồm định nghĩa các hằng mà nêu ra các đặc tính xây dựng của thư viện chấm động, như là sự khác nhau nhỏ nhất của hai số chấm động (có thể có) qua _EPSILON, số lớn nhất của các chữ số của độ chính xác qua _DIG và khoảng cách của các số mà có thể biểu thị được qua _MIN và _MAX. : Dùng cho việc chuyển đổi kiểu chính xác giữa các kiểu nguyên (mới có trong C99). : Để lập trình trong ISO 646 cho các bộ ký tự khác nhau (mới có trong NA1). : Chứa định nghĩa các hằng có đặc tính đặc biệt của các kiểu nguyên, như là khoảng cách của các số mà có thể biểu thị quan _MIN, _MAX. Contains defined constants specifying the properties of the integer types, such as the range of numbers which can be represented (_MIN, _MAX). : Dùng cho setlocale() và các hằng có liên quan. Việc này được dùng để lựa chọn địa phương cần thiết. : Cho việc tính các hàm số thông dụng. : Khai báo đưuợc dùng trong việc thoát ra của nơi không có tính địa phương. : Để kiểm soát các điều kiện ngoại lệ. : Để truy cập số lượng khác nhau của các đối số được chuyển vào hàm. : Dùng cho khiểu dữ liệu Bool (mới có trong C99). : Dùng trong việc định nghĩa các kiểu nguyên khác nhau (mới có trong C99). : Cung cấp nhiều kiểu và macro hữu dụng. : Cung cấp cốt lõi của những khả năng nhập trong C. Tập tin này bao gồm họ hàm printf. : Dùng để xúc tiến nhiều phép toán, bao gồm sự chuyển đổi, các số giả ngầu nhiên, cấp phát vùng nhớ, kiểm soát quá trình, môi trường, tín hiệu, tìm kiếm, và xếp thứ tự. : Để điều chỉnh nhiều loại dãy ký tự. : Dùng cho các hàm toán kiểu thông dụng (mới có trong C99). : Để chuyển đổi giữa các định dạng khác nhau về thì giờ và ngày tháng. : Để điều chỉnh độ rộng của các dòng (dữ liệu) và nhiều loại dãy ký tự sử dụng nhiều (loại) ký tự có độ lớn (Unicode chẳng hạn). -- Đây là chìa khóa để hỗ trợ nhiều ngôn ngữ (mới có trong NA1). : Để phân lớp các ký tự có độ lớn (mới có trong NA1). :''Xem thêm Thư viện chuẩn C++ Ngôn ngữ C++ bao gồm chức năng của thư viện chuẩn ANSI nhưng được làm thêm nhiều thay đổi như là đổi tên của các tập tin tiêu đề từ sang (mặc dù đã dược lưu cho sự thay đổi, các tên kiểu-C thì vẫn sử dụng được), và C++ xếp tất cả các định danh vào trong vào trong không gian tên std. The Standard Library detailed description of the header files The Library Reference Guide
Thư viện chuẩn C
C (ngôn ngữ lập trình)
Tiếng Mono là một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Numi của hệ ngôn ngữ Ute-Aztec, là ngôn ngữ tổ tiên của người Mono. Tiếng Mono gồm hai phương ngữ, đông và tây. Cái tên "Monachi" thường dùng để chỉ phương ngữ tây và "Paiute thung lũng Owens" để chỉ phương ngữ đông. Năm 1925, Alfred Kroeber ước tính rằng tiếng Mono có 3.000 tới 4.000 người nói. chỉ còn khoảng 40 người lớn tuổi nói tiếng Mono như bản ngữ. Nó được phân loại là một ngôn ngữ "cực kỳ nguy cấp" bởi UNESCO. Nó hiện diện tại nam dãy núi Sierra Nevada, lưu vực Mono, và thung lũng Owens nằm trong California. Tiếng Mono có quan hệ gần với tiếng Bắc Paiute; cả hai được xem là những ngôn ngữ Numi. Số người bản ngữ năm 1994 là từ 37 tới 41. Đa số sống tại Northfork Rancheria và Auberry, California. Big Sandy Rancheria và Dunlap, California có từ 12 tới 14 người nói. Người Mono tại Northfork và Big Sandy Rancheria đã và đang mở các lớp dạy tiếng Mono. Dù không phải đều thông thạo, khoảng 100 người tại Northfork có hiểu biết nhất định về ngôn ngữ này. Cuối thập niên 1950, nhà ngôn ngữ học Sydney Lamb đã hoàn thành một từ điển và ngữ pháp tiếng Mono Northfork. Phương ngữ Tây Mono có một số từ mượn tiếng Tây Ban Nha, được tiếp nhận từ thời las Californias còn là thuộc địa Tây Ban Nha, cũng như từ mượn tiếng Yokuts và tiếng Miwok Bên dưới là hệ thống âm vị phương ngữ Tây Mono, theo Lamb (1958) trước saukhông làm tròn saulàm tròn Cao Không cao Đôi môi Lưỡi trước Vòm Ngạc mềm Lưỡi gà Thanh hầu thường môi hóa thường môi hóa Mũi Tắc Tắc xát Xát Bán nguyên âm Tiếng Mono là một ngôn ngữ chắp dính, sử dụng nhiều hậu tố để thêm vào gốc từ với mục đính ngữ pháp. *Hinton, Leanne. Flutes of Fire: Essays on California Indian Languages. Berkeley: Heyday Books, 1994. ISBN 0-930588-62-2. *Miller, Wick R. "Numic Languages." Handbook of North American Indians: Great Basin, Volume 11. Washington, DC: Smithsonian Institution, 1986. ISBN Mono language overview at the Survey of California and Other Indian Languages OLAC resources in and about the Mono language
Tiếng Mono
Ngôn ngữ chắp dính, Ngữ hệ Ute-Aztec, Bộ lạc Mono, Ngôn ngữ Numic, Ngôn ngữ Ute-Aztec bị đe dọa, Ngôn ngữ bản địa California, Ngôn ngữ bản địa Great Basin Bắc Mỹ
() là một xã của tỉnh Finistère, thuộc vùng Bretagne, miền tây bắc Pháp. Người dân Plouezoc'h được gọi là *Xã của tỉnh Finistère Mayors of Finistère Association INSEE IGN French Ministry of Culture list for Plouezoc'h
null
Xã của Finistère
Đại tư tế của Amun, hay Đệ nhất Tiên tri của Amun, là một danh hiệu có cấp bậc cao nhất được phong cho những tư tế của thần Amun, vị thần tối cao trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Danh hiệu này xuất hiện sớm nhất là vào đầu thời kỳ Tân vương quốc, tức là vào đầu Vương triều thứ 18. Thông qua việc sùng bái thần Amun bởi những vị quốc vương Ai Cập, các tư tế của dần nắm trong tay nhiều quyền hành dưới thời Vương triều thứ 18. Do Amun được xem là vị thần bảo hộ của cả thành phố Thebes, nên chức danh này còn được gọi là Tư tế của Amun tại Thebes. Chức tư tế của Amun tại Thebes được phân thành bậc từ cao đến thấp như sau: Đại tư tế của Amun, hay Đệ nhất Tiên tri của Amun. Đệ nhị Tư tế của Amun, hay Đệ nhị Tiên tri của Amun. Đệ tam Tư tế của Amun, hay Đệ tam Tiên tri của Amun. Đệ tứ Tư tế của Amun, hay Đệ tứ Tiên tri của Amun. tư tế, lãnh chúa Herihor và vương phi Nodjmet. Trong thời kỳ Amarna, là giai đoạn mà Pharaon Akhenaten cai trị, các tư tế của Amun bị hạn chế quyền hành rất nhiều, do vị vua này chỉ tôn sùng duy nhất thần mặt trời Aten. Một tư tế hiếm hoi được ghi nhận dưới thời kỳ này là Maya. Sau khi Akhenaten băng hà, con trai ông là Pharaon Tutankhamun mới khôi phục lại giáo phái đa thần như trước. Từ thời Pharaon Ramesses II, nhiều tể tướng trong triều được chỉ định kiêm luôn cả chức Tư tế của Amun. Vào cuối thời kỳ Tân vương quốc, quyền lực của các Đại tư tế dần trở nên mạnh mẽ, lấn lướt cả các Pharaon. Bằng chứng là việc Đại tư tế Ramessesnakht đã nắm quyền từ thời Ramesses IV đến thời Ramesses IX. Con trai ông, Amenhotep, kế nhiệm cha mình và đã xảy ra mâu thuẫn với Phó vương của Kush, Pinehesy. Pinehesy đã đánh đuổi Amenhotep về phía bắc và bao vây toàn bộ Thebes. Sau thời kỳ này, tướng Herihor và Piankh (được nghĩ là có mối quan cha vợ-con rể) đã đảm nhận danh hiệu Đại tư tế của Amun vào khoảng năm thứ 19 của Ramesses IX (khoảng năm 1080 TCN), đánh dấu sự trỗi dậy của các Đại tư tế từ đó. Hậu duệ của Piankh sau đó đã giành quyền kiểm soát toàn bộ Thượng Ai Cập, đồng cai trị với các Pharaon Vương triều thứ 21 Hạ Ai Cập. Tuy nhiên, họ không được xem là một triều đại độc lập với các đặc quyền của một Pharaon, và khoảng năm 943 TCN, sự ảnh hưởng của các tư tế Amun dần suy giảm. Hậu duệ của Đại tư tế Piankh có hai người trở thành quốc vương của Ai Cập trong thời kỳ Vương triều thứ 21, là Pharaon Psusennes I, con của Đại tư tế Pinedjem I, và Psusennes II, con của Đại tư tế Pinedjem II. đá vôi của Senenu, Đại tư tế của Amun vào cuối thời kỳ Vương triều thứ 18 (Bảo tàng Brooklyn). Đại Tư tế của Amun Pharaon Vương triều ThutyMinmontu Ahmose Vương triều thứ 18 Hapuseneb Hatshepsut Vương triều thứ 18 II Thutmose III Vương triều thứ 18 AmenemhatMery Amenhotep II Vương triều thứ 18 Amenhotep III Vương triều thứ 18 Maya Akhenaten Vương triều thứ 18 Wennefer (hay Parennefer) Vương triều thứ 18 Nebneteru Tenry Seti Vương triều thứ 19 Ramesses II Vương triều thứ 19 Roma-Roy Ramesses IIMerenptahSeti II Vương triều thứ 19 Bakenkhonsu II III Vương triều thứ 20 Ramessesnakht Ramesses IV đến Ramesses IX Vương triều thứ 20 Amenhotep Ramesses IX đến Ramesses XI Vương triều thứ 20 PiankhHerihor Ramesses XI Vương triều thứ 20 = Đại Tư tế của Amun Pharaon Ghi chú Pinedjem Con rể của Ramesses XI, và là cha của Pharaon Psusennes I. Masaharta Psusennes Con của Pinedjem I. Psusennes Con của Pinedjem I. Menkheperre Psusennes IAmenemope Con của Pinedjem I. Smendes II Già Con của Menkheperre. Pinedjem II Osorkon GiàSiamun Con của Menkheperre. Psusennes III Siamun Được nghĩ là Pharaon Psusennes II trước khi lên ngôi. Con của Pinedjem II. = Đại Tư tế của Amun Pharaon Ghi chú Iuput Shoshenq IOsorkon Con của Shoshenq I, và là anh em với Osorkon I. Shoshenq Osorkon Con của Osorkon I. Iuwelot Osorkon IShoshenq IITakelot Con của Osorkon I, và là anh em với Shoshenq II (?) và Takelot I. Smendes III Takelot Con của Osorkon I. Nimlot Osorkon II Không rõ người tiền nhiệm. Con của Osorkon II. Takelot II Con của Nimlot C, sau trở thành Pharaon kế vị ông nội là Osorkon II. = Đại Tư tế của Amun Pharaon Ghi chú Harsiese Con của Shoshenq C, sáng lập Vương triều thứ 23. Osorkon III Con của Takelot II, sau trở thành Pharaon kế vị Shoshenq VI. Osorkon Được cho là con của Pharaon Rudamun, tức cháu nội của Osorkon III.
Đại tư tế của Amun
Amun, Danh hiệu Ai Cập cổ đại
Germany's Next Topmodel, Mùa 6 là mùa thứ sáu của Germany's Next Topmodel (thường được viết tắt là GNTM) được phát sóng trên mạng lưới truyền hình Đức ProSieben. Chương trình bắt đầu phát sóng vào ngày tháng năm 2011. Người chiến thắng của mùa giải này là Jana Beller, 20 tuổi từ Recklinghausen. Cô giành được: hợp đồng người mẫu với OneEins GmbH Management Lên ảnh bìa tạp chí Xuất hiện trong chiến dịch quảng cáo cho Maybelline Gilette Venus Giải thưởng tiền mặt trị giá 100.000€ từ Sony Ericsson chiếc Suzuki Swift Sport (Tuổi tính từ ngày dự thi) Thí sinh Tuổi Chiều cao Quê quán Bị loại Hạng Melek Civantürk 19 Stuttgart Tập 26 (dừng cuộc thi) Chiara Breder 16 Dortmund Tập Lilia Doubrovina 16 Stuttgart Valerie Blum 20 Gladbeck Tập 23 (dừng cuộc thi) Concetta Mazza 18 Böblingen 22 Ivon Zito 18 Stuttgart 21 Christien Fleischhauer 22 Berlin Tập 20 Amira Regaieg 20 Hof an der Saale 19 Franziska König 18 Potsdam Tập 18 Simone Rohrmüller 18 Cham Tập 17 Tahnee Keller 20 Stuttgart 16 Paulina Kaluza 17 Bremen Tập 15–14 Natascha Beil 20 Frankfurt Florence Lodevic 21 Luxembourg Tập 10 13 Sarah Jülich 18 Cologne 12–11 Isabel Rath 23 Mannheim Joana Damek 20 Augsburg Tập 11 10 Jil Goetz 16 Stuttgart Marie-Luise Schäfer 21 Eisenach Tập 12 Lisa Könnecke 16 Heilbronn Tập 13 Sihe Jiang 17 Bremen Tập 14 Anna-Lena Schubert 20 Erding Tập 15 5–4 Aleksandra Nagel 20 Oldenburg Amelie Klever 16 Hilden Tập 16 Rebecca Mir 18 Aachen Jana Beller 20 Recklinghausen +Thứ tự gọi tên của Heidi Thứ tự Tập 10 11 12 13 14 15 16 Joana Joana Rebecca Rebecca Jana Jana Amelie Jana Amelie Jana Rebecca Jana Sarah Tahnee Rebecca Joana Joana Amelie Joana Lisa Amelie Aleksandra Aleksandra Amelie Jana Rebecca Jana Amelie Lisa Rebecca Joana Lisa Jil Jana Jana Rebecca Amelie Valerie Sihe Lisa Lisa Aleksandra Jana Sihe Rebecca Amelie Tahnee Aleksandra Aleksandra Sarah Paulina Aleksandra Amelie Rebecca Lisa Aleksandra Aleksandra Rebecca Aleksandra Amelie Rebecca Paulina Amelie Jil Paulina Jana Rebecca Sihe Sihe Jil Natascha Amelie Florence Amelie Amelie Jil Rebecca Lisa Lisa Natascha Jil Sarah Jil Simone Florence Isabel Rebecca Sihe Aleksandra Joana Jana Lisa Jana Aleksandra Joana Amelie Jil 10 Franziska Rebecca Paulina Florence Sihe Florence Aleksandra Sihe Joana 11 Amira Amira Franziska Tahnee Aleksandra Jil Isabel JilSarahSihe Sarah 12 Christien Simone Jana Natascha Sihe Isabel Sarah Isabel 13 Simone Paulina Jil Sihe Isabel Sarah Sihe Florence 14 Florence Concetta Simone Isabel Tahnee Natascha Paulina 15 Franziska Valerie Amira Joana Jana Natascha 16 Concetta Ivon Isabel Natascha Tahnee 17 Isabel Christien Sihe Sarah Simone 18 Sihe Natascha Franziska 19 Lilia Lisa Florence Amira 20 Sarah Jana Christien Christien 21 Chiara Florence Ivon 22 Isabel Concetta 23 Ivon Tahnee Valerie 24 Melek Lilia 25 Rebecca Chiara 26 Paulina Thí sinh được miễn loại Thí sinh bị loại Thí sinh bị loại trước khi đánh giá Thí sinh dừng cuộc thi Thí sinh không bị loại khi rơi vào cuối bảng Thí sinh chiến thắng cuộc thi Thứ tự gọi tên chỉ lần lượt từng người an toàn Trong tập 3, Valerie dừng cuộc thi. Trong tập 4, thứ tự gọi tên của Franziska, Lisa Simone không được hiện. Trong tập 6, không ai bị loại. Trong tập 9, Jil, Sarah Sihe rơi vào cuối bảng nhưng không ai bị loại. Tập 2: Ảnh chân dung vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp khi trang điểm Tập 3: Kinh hoàng London Underworld theo cặp Tập 4: Bên trong điện cao thế Tập 5: Gợi cảm bên trong khách sạn với người mẫu nam Tập 6: Những cô gái phụ tá trên trực thăng Tập 7: Cirque du Soleil Tập 8: Tạo dáng trong đồ lót trước lửa theo cặp Tập 10: Khiêu vũ với Mark Ballas Tập 11: Người mẹ Hipster theo kiểu Rococo Tập 12: Quảng cáo giày Tập 13: Tạo dáng dưới nước Tập 14: Ảnh chân dung vẻ đẹp với ong Tập 15: Đi bộ trên đường; Ảnh bìa tạp chí
Germany's Next Topmodel, Mùa 6
Hạt giống số Thelma Long đánh bại Jenny Staley 6-3, 6-4 trong trận chung kết để giành chức vô địch Đơn nữ tại Giải quần vợt vô địch quốc gia Úc 1954. Các tay vợt xếp hạt giống được liệt kê bên dưới. Thelma Long là nhà vô địch; các tay vợt khác biểu thị vòng mà họ bị loại. Thelma Long (Vô địch) Mary Hawton (Bán kết) Jenny Staley (Chung kết) Beryl Penrose (Vòng hai) Helen Angwin (Vòng hai) Norma Ellis (Vòng một) Fay Muller (Vòng hai) Dorn Fogarty (Vòng một) Hazel Redick-Smith (Tứ kết) Julia Wipplinger (Vòng một) Chung kếtCác vòng đầu=Nhánh 1=Nhánh 2Giải quần vợt vô địch quốc gia Úc Đơn nữ
Vô địch
Giải quần vợt vô địch quốc gia Úc theo năm Đơn nữ, Quần vợt Úc năm 1954
Đô trưởng (ký hiệu là C), hay Si thăng trưởng (ký hiệu là B), là một cung thể trưởng dựa trên nốt Đô (C), tức Si thăng (B), bao gồm các nốt sau: Đô (C), Rê (D), Mi (E), Fa (F), Sol (G), La (A), Si (B) và Đô (C). Bộ khóa của nó không có dấu thăng hoặc giáng. Cung thể thứ tương ứng của Đô trưởng là La thứ và cung thể thứ song song của nó là Đô thứ. Gam của cung Đô trưởng gồm có: \override #'stencil ##f \relative c' \clef treble \key \major \time 7/4 c4 c2 20 trong số 104 bản giao hưởng của Joseph Haydn thuộc cung Đô trưởng, khiến nó trở thành cung thể được sử dụng nhiều thứ hai của ông, chỉ đứng sau âm Rê trưởng. Trong số 134 bản giao hưởng bị gán nhầm cho Haydn mà H. C. Robbins Landon liệt kê trong danh mục của mình, có 33 bản thuộc cung Đô trưởng, nhiều hơn bất kỳ bản nhạc nào khác. Trước khi phát minh ra van cho dụng cụ kèn đồng thau, Haydn không viết phần trumpet và timpani trong các bản giao hưởng của mình, ngoại trừ những phần có cung Đô trưởng. Landon viết rằng "cho đến năm 1774, Haydn mới sử dụng kèn trumpet và timpani trong một bản nhạc khác ngoài Đô trưởng ... và sau đó chỉ sử dụng một cách ít ỏi." Hầu hết các bản giao hưởng của Haydn sử dụng Đô trưởng đều được dán nhãn "lễ hội" và chủ yếu mang tâm trạng kỷ niệm. Wilfrid Mellers tin rằng Bản giao hưởng số 41 của Mozart, được viết bằng âm Đô trưởng, "đại diện cho sự chiến thắng của ánh sáng". (Xem thêm Danh sách các bản giao hưởng viết tại cung Đô trưởng). Nhiều tác phẩm và bối cảnh của Te Deum (những bản thánh ca La-tinh) trong thời kỳ cổ điển đều thuộc Đô trưởng. Mozart và Haydn đã viết phần lớn những bài đó của họ bằng Đô trưởng. Gounod, trong một bài phê bình về Bản giao hưởng thứ ba của Sibelius, nói rằng "chỉ có Chúa mới sáng tác Đô trưởng". Sáu bài riêng của ông được viết bằng Đô trưởng. Trong số hai bản giao hưởng chính của Franz Schubert, bản thứ nhất có biệt danh là "Little major" và bản thứ hai là "Great major". "The Entertainer" của Scott Joplin cũng được viết bằng cung Đô trưởng. Nhiều nhạc sĩ đã chỉ ra rằng mỗi cung thể âm nhạc đêu gợi lên những cảm xúc cụ thể. kiến này được khám phá sâu hơn trong một chương trình radio có tên The Signature Series. Nhạc sĩ nổi tiếng người Mỹ Bob Dylan tuyên bố cung Đô trưởng là "cung thể âm nhạc của sức mạnh, nhưng cũng là cung thể âm nhạc của sự hối tiếc." Bản giao hưởng số của Sibelius thuộc cung Đô trưởng và cung đó có tầm quan trọng lớn trong các bản giao hưởng trước đây của ông. Johann Sebastian Bach ** Toccata, Adagio and Fugue in major, BWV 564 ** Cello Suite No. 3, BWV 1009 Joseph Haydn ** Cello Concerto No. (1761–65) ** Symphony No. 7, Le Midi (1761) ** Symphony No. 60, Il distratto (1774) ** Symphony No. 82, The Bear (1786) ** String Quartet No. 32, The Bird (1781) ** String Quartet No. 62, Emperor (1797–98) ** Mass No. 10, Missa in tempore belli (1796) Wolfgang Amadeus Mozart ** 12 biến tấu dựa trên "Ah vous dirai-je, Maman", KV 265 ** Concerto cho Kèn, đàn Hạc và dàn nhạc giao hưởng (Mozart) ** Piano Concerto No. 8, KV 246 ("Lutzow") ** Piano Concerto No. 13, KV 415 ** Piano Concerto No. 21, KV 467 ** Piano Concerto No. 25, KV 503 ** Piano Sonata No. 1, KV 279 ** Piano Sonata No. 7, KV 309 ** Piano Sonata No. 10, KV 330 ** Piano Sonata No. 16, KV 545 ** String Quartet No. 19, KV 465 ("Dissonance") ** Symphony No. 16, KV 128 ** Symphony No. 22, KV 162 ** Symphony No. 28, KV 200 ** Symphony No. 34, KV 338 ** Symphony No. 36, KV 425 ("Linz") ** Symphony No. 41, KV 551 ("Jupiter") Ludwig van Beethoven ** Piano Sonata No. 3, Op. 2, No. ** Piano Concerto No. 1, Op. 15 ** Symphony No. 1, Op. 21 ** Rondo Op. 51 No. ** Piano Sonata No. 21, Op. 53 ("Waldstein") ** Triple Concerto for violin, cello, and piano in major, Op. 56 (1803) ** Mass in major, Op. 86 Franz Schubert ** Wanderer Fantasy, Op. 15 D. 760 ** Symphony No. (Little) ** Symphony No. 9, D. 944 ("Great") ** String Quintet in major, D. 956 Felix Mendelssohn ** Wedding March from A Midsummer Night's Dream Frédéric Chopin ** Introduction and Polonaise brillante for cello and piano, Op. ** Etude Op. 10 No. "Waterfall" ** Etude Op. 10 No. "Toccata" ** Mazurka Op. 67 No. Robert Schumann ** Toccata, Op. ** Fantasie in C, Op. 17 ** Arabeske, Op. 18 ** Symphony No. 2, Op. 61 Georges Bizet ** Symphony in Jean Sibelius ** Symphony No. 3, Op. 52 (1907) ** Symphony No. 7, Op. 105 (1924) Maurice Ravel ** Boléro Igor Stravinsky ** Symphony in (1940) Sergei Prokofiev ** Piano Concerto No. 3, Op. 26 (1921) ** Symphony No. (original version), Op. 47 (1930) ** Symphony No. (revised version), Op. 112 (1947) Dmitri Shostakovich ** Symphony No. 7, Op. 60 ("Leningrad") Terry Riley ** In C Điệu tính Trưởng và thứ Hợp âm Tên và ký hiệu hợp âm
Đô trưởng
Cung thể âm nhạc, Nhạc khúc Đô trưởng, Lý thuyết âm nhạc
Cyathea tripinnata là một loài dương xỉ trong họ Cyatheaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1906. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
''Cyathea tripinnata
Cyathea, Unresolved names
Phân họ Suinae của họ Lợn là một phân họ của động vật có vú bao gồm ít nhất một số thành viên sinh hoạt trong họ Suidae và gần nhất với lợn nhà và các loài liên quan, chẳng hạn như babirusas. Một số loài tuyệt chủng trong phân họ Suidae được xếp vào phân họ khác hơn Suinae. Tuy nhiên, việc phân loại các thành viên đã tuyệt chủng của Suoidea-nhóm lớn hơn bao gồm các thành viên của Suidae, họ lợn lòi Pecari (Tayassuidae) và phân loại khác nhau khác nhau về số lượng các phân họ trong Suidae. *Nhóm Suini **Chi (Miocene) **Chi (Miocene tới Pleistocene) **Chi (Miocene tới Pliocene) **Chi (Miocene) **Chi Sus (Miocene tới Recent) *Nhóm Potamochoerini **Chi (Pliocene tới Pleistocene) **Chi Hylochoerus (Pleistocene tới Recent) **Chi (Miocene tới Pleistocene) **Chi (Miocene tới Recent) **Chi (Miocene tới Pliocene) *Nhóm †Hippohyini **Chi †Hippohyus (Miocene tới Pleistocene) **Chi †Sinohyus (Miocene) **Chi †Sivahyus (Miocene tới Pliocene) *Nhóm Phacochoerini **Chi (Pliocene tới Pleistocene) **Chi (Pliocene tới Recent) **Chi (Pliocene, Pleistocene) **Chi (Pleistocene) *Nhóm Babyrousini **Chi Babyrousa (Pleistocene đến hiện tại) *Grubb, P. 2005. Order Artiodactyla. Pp. 637–722 in Wilson, D.E. and Reeder, D.M. (eds.). Mammal Species of the World: taxonomic and geographic reference. 3rd ed. Baltimore: The Johns Hopkins University Press, vols., 2142 pp. ISBN *McKenna, M.C. and Bell, S.K. 1997. Classification of Mammals: Above the species level. New York: Columbia University Press, 631 pp. ISBN *Orliac, M.J., Antoine, P.-O. and Ducrocq, S. 2010. Phylogenetic relationships of the Suidae (Mammalia, new insights on the relationships within Suoidea (subscription required). Zoologica Scripta 39:315–330. *Van der Made, J. 2010. The pigs and "Old World peccaries" (Suidae and Suoidea, Artiodactyla) from the Miocene of Sandelzhausen (southern Germany): phylogeny and an update
Phân họ
Họ Lợn
24701 Elyu-Ene 15 tháng 11 năm 1990 La Silla E. W. Elst 24702 1991 OR 18 tháng năm 1991 Palomar H. E. Holt 24703 1991 PA tháng năm 1991 Kiyosato S. Otomo 24704 tháng năm 1991 La Silla E. W. Elst 24705 tháng năm 1991 La Silla E. W. Elst 24706 tháng năm 1991 La Silla E. W. Elst 24707 tháng năm 1991 La Silla E. W. Elst 24708 tháng năm 1991 La Silla E. W. Elst 24709 Mitau tháng năm 1991 La Silla E. W. Elst 24710 tháng năm 1991 Palomar H. E. Holt 24711 Chamisso tháng năm 1991 Tautenburg Observatory F. Börngen 24712 Boltzmann 12 tháng năm 1991 Tautenburg Observatory F. Börngen, L. D. Schmadel 24713 Ekrutt 12 tháng năm 1991 Tautenburg Observatory F. Börngen, L. D. Schmadel 24714 10 tháng năm 1991 Palomar H. E. Holt 24715 15 tháng năm 1991 Palomar H. E. Holt 24716 14 tháng năm 1991 Palomar H. E. Holt 24717 1991 SA 16 tháng năm 1991 Kiyosato S. Otomo 24718 1991 SW 30 tháng năm 1991 Siding Spring R. H. McNaught 24719 30 tháng năm 1991 Siding Spring R. H. McNaught 24720 16 tháng năm 1991 Palomar H. E. Holt 24721 1991 TJ tháng 10 năm 1991 Siding Spring R. H. McNaught 24722 1991 TK tháng 10 năm 1991 Siding Spring R. H. McNaught 24723 tháng 10 năm 1991 Kitt Peak Spacewatch 24724 1991 UN 18 tháng 10 năm 1991 Kushiro S. Ueda, H. Kaneda 24725 31 tháng 10 năm 1991 Kushiro S. Ueda, H. Kaneda 24726 1991 VY tháng 11 năm 1991 Kitami A. Takahashi, K. Watanabe 24727 tháng 11 năm 1991 Kushiro S. Ueda, H. Kaneda 24728 Scagell 11 tháng 11 năm 1991 Stakenbridge B. G. W. Manning 24729 13 tháng 11 năm 1991 Kiyosato S. Otomo 24730 tháng 11 năm 1991 Kiyosato S. Otomo 24731 tháng 11 năm 1991 Kitt Peak Spacewatch 24732 tháng năm 1992 La Silla E. W. Elst 24733 29 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24734 Kareness 10 tháng năm 1992 Siding Spring D. I. Steel 24735 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24736 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24737 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24738 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24739 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24740 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24741 tháng năm 1992 La Silla UESAC 24742 tháng năm 1992 La Silla E. W. Elst 24743 1992 NF tháng năm 1992 Palomar E. F. Helin 24744 26 tháng năm 1992 La Silla E. W. Elst 24745 1992 QY 29 tháng năm 1992 Palomar E. F. Helin 24746 tháng năm 1992 La Silla E. W. Elst 24747 tháng năm 1992 La Silla E. W. Elst 24748 Nernst 16 tháng năm 1992 Tautenburg Observatory F. Börngen, L. D. Schmadel 24749 Grebel 24 tháng năm 1992 Tautenburg Observatory F. Börngen, L. D. Schmadel 24750 Ohm 24 tháng năm 1992 Tautenburg Observatory F. Börngen, L. D. Schmadel 24751 Kroemer 21 tháng năm 1992 Tautenburg Observatory F. Börngen 24752 1992 UN 19 tháng 10 năm 1992 Kushiro S. Ueda, H. Kaneda 24753 28 tháng 10 năm 1992 Kitami K. Endate, K. Watanabe 24754 Zellyfry 31 tháng 10 năm 1992 Okutama T. Hioki, S. Hayakawa 24755 28 tháng 10 năm 1992 Kushiro S. Ueda, H. Kaneda 24756 1992 VF tháng 11 năm 1992 Uto F. Uto 24757 1992 VN tháng 11 năm 1992 Kitami M. Yanai, K. Watanabe 24758 1992 WZ 17 tháng 11 năm 1992 Dynic A. Sugie 24759 18 tháng 11 năm 1992 Okutama T. Hioki, S. Hayakawa 24760 18 tháng 12 năm 1992 Caussols E. W. Elst 24761 Ahau 28 tháng năm 1993 Palomar C. S. Shoemaker, E. M. Shoemaker 24762 25 tháng năm 1993 Oizumi T. Kobayashi 24763 20 tháng năm 1993 Caussols E. W. Elst 24764 20 tháng năm 1993 Caussols E. W. Elst 24765 17 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24766 17 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24767 17 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24768 17 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24769 21 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24770 21 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24771 19 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24772 19 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24773 19 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24774 19 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24775 19 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24776 19 tháng năm 1993 La Silla UESAC 24777 1993 JY 14 tháng năm 1993 La Silla E. W. Elst 24778 Nemsu 24 tháng năm 1993 Palomar C. S. Shoemaker, D. H. Levy 24779 Presque Isle 23 tháng năm 1993 Palomar C. S. Shoemaker, D. H. Levy 24780 19 tháng năm 1993 Palomar E. F. Helin 24781 12 tháng năm 1993 Palomar PCAS 24782 17 tháng năm 1993 La Silla E. W. Elst 24783 16 tháng năm 1993 La Silla H. Debehogne, E. W. Elst 24784 13 tháng 10 năm 1993 Palomar H. E. Holt 24785 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24786 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24787 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24788 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24789 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24790 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24791 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24792 10 tháng 10 năm 1993 La Silla H. Debehogne 24793 1993 UT 22 tháng 10 năm 1993 Oohira T. Urata 24794 Kurland 20 tháng 10 năm 1993 La Silla E. W. Elst 24795 tháng năm 1994 Kushiro S. Ueda, H. Kaneda 24796 tháng năm 1994 La Silla E. W. Elst 24797 tháng năm 1994 Palomar PCAS 24798 tháng năm 1994 Palomar PCAS 24799 10 tháng năm 1994 La Silla E. W. Elst 24800 10 tháng năm 1994 La Silla E. W. Elst
null
'Cuphea là một loài thực vật có hoa trong họ Lythraceae. Loài này được Kunth mô tả khoa học đầu tiên năm 1824. Tập tin:Cuphea micropetala Jardin Botanique de Lyon DSC05388.JPG Tập tin:Cuphea micropetala Jardin Botanique de Lyon DSC05387.JPG
null
Cuphea
Ray Santilli (sinh ngày 30 tháng năm 1958) là một nhạc sĩ, nhà sản xuất nhạc và nhà sản xuất phim người Anh. Ông nổi tiếng nhờ khai thác cảnh quay đoạn phim gây tranh cãi "khám nghiệm tử thi người ngoài hành tinh" vào năm 1995 và là chủ đề của bộ phim Alien Autopsy của hãng Warner Brothers. Santilli chào đời tại Luân Đôn nước Anh trong một gia đình vốn là dân nhập cư gốc Ý. Ông đã trải qua thời thơ ấu êm đềm của mình Islington Luân Đôn. Ray Santilli khởi nghiệp chuyên môn vào năm 1974 với tư cách là một nhạc sĩ tự do được thuê chơi trong các buổi thu âm, nhà sản xuất nhạc và nhà phân phối âm nhạc. Năm 1982, Santilli thành lập hãng AMP Entertainment chuyên sản xuất và quảng bá các buổi diễn trong ngày. Năm 1981, Santilli sản xuất album Tweets có chứa ca khúc The Birdy Song. Năm 1985, ông tự lập "Music Broadcasting Services Ltd", một hãng thu âm độc lập phụ trách độc quyền Danh mục nhạc phim của Walt Disney Audio Vương quốc Anh. Năm 1987, Santilli sản xuất đĩa hát từ thiện mang tên The Wishing Well với sự góp mặt của Boy George, Dollar, Grace Kennedy dành cho Bệnh viện Nhi đồng Great Ormond Street. Năm 1991, Santilli đứng ra thành lập Merlin Group. Công ty chuyên thu âm lại các bản hit với các nghệ sĩ gốc. Merlin cũng sản xuất và tiếp thị một số chương trình truyền hình đặc biệt. Năm 1994, Santilli cho lập hãng Orbital Media Ltd chuyên sản xuất một loạt phim tài liệu truyền hình và phim truyền hình. Santilli được nhiều người biết đến nhất với tuyên bố đã phát hiện ra đoạn phim mô tả quá trình khám nghiệm tử thi của một sinh vật ngoài hành tinh (Alien Autopsy). Đoạn phim Alien Autopsy, được cho là thi thể người ngoài hành tinh từ cái gọi là sự cố UFO tại Roswell, đã được phát sóng cho khán giả trên toàn thế giới vào ngày 28 tháng năm 1995. Bộ phim và đội ngũ tham gia làm phim đều thừa nhận đó là một trò lừa bịp, mặc dù Santilli vẫn khẳng định nó là thật dù ông đã thay đổi câu chuyện của mình nhiều lần. Ông còn tuyên bố chính hãng Kodak đã phân tích bộ phim và xác nhận ngày công chiếu, nhưng khi có người đòi gửi lại bộ phim kèm theo những hình ảnh xác thực, Santilli luôn một mực từ chối. Năm 2006, câu chuyện về Ray Santilli và vụ khám nghiệm tử thi người ngoài hành tinh là chủ đề trong bộ phim Alien Autopsy của hãng Warner Brothers với sự tham gia của hai diễn viên người Anh là Ant Dec. Dec đóng vai Ray Santilli với Ant là đối tác kinh doanh ngoài đời thực và là bạn thân của Santilli tên là Gary Shoefield. Cùng năm đó, Ray Santilli tuyên bố rằng các phần của đoạn phim khám nghiệm tử thi người ngoài hành tinh đã được 'phục hồi'. Năm Phim Vai trò Chú thích 1994 The Beatles, The Long and Winding Road: The Life and Times Đồng sản xuất Phim tài liệu truyền hình 1994 The Life of Bruce Lee Giám đốc sản xuất Phim tài liệu truyền hình 1994 Batmad Nhà sản xuất, Biên kịch Phim truyền hình 1995 Alan Shearer: Sheer Magic Nhà sản xuất Video tài liệu 1995 Alien Autopsy: (Fact or Fiction?) Nhà sản xuất không được ghi công, diễn viên Phim tài liệu truyền hình 1995 The Doctors, 30 Years of Time Travel and Beyond Giám đốc sản xuất Video tài liệu 1999 Bruce Lee: The Legend Lives On Nhà sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Phim truyền hình 2001 Elvis: The Missing Years Nhà sản xuất, Giám đốc Video tài liệu 2001 The Beatles... Off the Record: Newsreel Footage 1964-1966 Nhà sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Phim tài liệu truyền hình 2002 John Lennon: The Messenger Nhà sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Phim tài liệu truyền hình 2002 Beckham Mania: The Kick Off Nhà sản xuất Phim tài liệu truyền hình 2002 George Harrison: The Quiet One Nhà sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Video tài liệu 2002 Irish Tenor Trio: Classic Irish Christmas Nhà sản xuất, Biên kịch Phim truyền hình 2003 Alien Signs: Undeniable Evidence The Message Giám đốc sản xuất Phim tài liệu truyền hình 2003 Elvis: The Journey Đồng sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Phim truyền hình 2004 Bob Marley: Spiritual Journey Đồng Giám đốc sản xuất, Writer, Director, Editor Phim truyền hình 2004 Benny Goodman: Legends in Concert The Last Performance Nhà sản xuất, Đạo diễn Phim truyền hình 2004 Jimi Hendrix: The Last 24 Hours Giám đốc sản xuất, Biên kịch Phim tài liệu truyền hình 2005 Elvis: The Last 24 Hours Nhà sản xuất Phim truyền hình 2005 Nat King Cole: For Sentimental Reasons Đồng sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Phim truyền hình 2005 Viva Joe Strummer: The Clash and Beyond Nhà sản xuất, Biên kịch Video tài liệu 2005 Marc Bolan: Ride On Nhà sản xuất Video tài liệu 2005 Tom Jones: Up Close and Personal Đồng sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Phim truyền hình 2005 Johnny Cash: The Man in Black His Early Years Giám đốc sản xuất Video tài liệu 2005 Frank Sinatra: Reflection Nhà sản xuất, Biên kịch Phim tài liệu truyền hình 2006 Clash: The Joe Strummer Story Nhà sản xuất Phim truyền hình 2006 Dean Martin: Reflection Nhà sản xuất, Biên kịch Phim tài liệu truyền hình 2006 Alien Autopsy Giám đốc sản xuất, Diễn viên khách mời đóng vai chính mình Phim hài 2006 Thin Lizzy: Outlawed The Real Phil Lynott Giám đốc sản xuất Phim tài liệu truyền hình 2006 Elvis Presley and Johnny Cash: The Road Show Giám đốc sản xuất Video tài liệu 2007 Bob Marley Freedom Road Giám đốc sản xuất Phim tài liệu 2008 Blue Rendezvous Nhà sản xuất, Biên kịch, Đạo diễn Phim truyền hình 2012 One Direction: All for One Giám đốc sản xuất Phim tài liệu 2013 Hendrix on Hendrix Giám đốc sản xuất Phim tài liệu Cuộc phỏng vấn với Ray Santilli Câu chuyện đời tôi của Ray Santilli
Ray Santilli
Sinh năm 1958, Nhân vật còn sống, Người Luân Đôn, Nhạc sĩ Anh, Người Anh gốc, Nam nghệ sĩ guitar Anh, Nhà sản xuất nhạc Anh, Nhà sản xuất phim Anh
Richard Križan (sinh 23 tháng năm 1997) là một cầu thủ bóng đá Slovakia thi đấu cho FC Nitra vị trí hậu vệ. Križan ra mắt chuyên nghiệp cho FC Nitra trước MŠK Žilina ngày 22 tháng năm 2017. FC Nitra Futbalnet
Richard Križan
Sinh năm 1997, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Slovakia, Hậu vệ bóng đá, Cầu thủ bóng đá FC Nitra, Người huyện Levice
là một công ty phát triển trò chơi điện tử Nhật Bản liên kết với The Pokémon Company. Do Ishihara Tsunekazu thành lập vào tháng 11 năm 1995, với sự hỗ trợ của Iwata Satoru, vào thời điểm đó vẫn đang là chủ tịch của Hal Laboratory, cũng như là người kế nhiệm công ty Ape Inc của Itoi Shigesato công ty nổi tiếng nhất với việc tạo ra thẻ bài Pokémon, thiết kế đồ chơi Pokémon và phát triển các trò chơi điện tử khác nhau. Chủ tịch hiện tại là Tanaka "Hip" Hirokazu trước đây được biết đến với vai trò sản xuất và soạn nhạc cho nhiều trò chơi khác của Nintendo. Công ty có trụ sở chính tại Chiyoda, Tokyo, gần ga tàu điện Ichigaya Station. Ape, Inc thành lập vào tháng năm 1989 với Itoi Shigesato là giám đốc điều hành (CEO). Chủ tịch Nintendo Hiroshi Yamauchi muốn hỗ trợ tài năng mới trong lĩnh vực thiết kế trò chơi này. Thích công việc của Itoi, ông đề xuất tưởng của công ty cho Itoi và đầu tư vào nó. Nhân viên của Ape bao gồm Tsunekazu Ishihara, người sau này trở thành CEO của the Pokémon Company, và Ashura Benimaru Itoh, một họa sĩ minh họa nổi tiếng. Họ bắt đầu làm việc với Mother, phát hành vào 27 tháng năm 1989. Âm nhạc sáng tác bởi Tanaka Hip, người sau này trở thành CEO thứ hai của Creatures. Nhóm tiếp tục phát triển "Mother 2", phương Tây gọi là EarthBound . Khi việc phát triển trò chơi này bắt đầu chững lại, Iwata Satoru của HAL Laboratory đã được đưa vào để giúp đỡ dự án. Trò chơi phát hành tại Nhật Bản vào ngày 27 tháng năm 1994. Nhóm Ape đã bị giải thể vào năm 1995. Creatures, Inc. thành lập ngày tháng 11 năm 1995 dưới quyền CEO Ishihara Tsunekazu và cựu nhân viên từ Ape. Trước đây, Creatures có trụ sở chính trên tầng của Sudachō, Chiyoda, Tokyo. Sau đó, họ chuyển đến tòa nhà năm tầng của Nihonbashi, Chūō, Tokyo. Creature cũng nổi tiếng với việc tạo ra các thẻ bài Pokémon và trò chơi nhượng quyền thương mại Pokémon. Ape/Creatures đã phát triển hoặc đóng góp vào quá trình phát triển của những trò chơi sau phát triển đồng phát triển hỗ trợ phát triển phát hành Năm Tựa Hệ máy Nhà phát triển Vai trò Ghi chú 1989 Mother NES Ape Phát triển Ban đầu chỉ có Nhật Bản. Phát hành lại trên toàn thế giới vào năm 2015 với tên gọi EarthBound Beginnings. 1993 Monopoly SNES Đồng phát triển Độc quyền Nhật Bản. 1994 EarthBound SNES Ape, HAL Đồng phát triển Phát hành với tên Mother tại Nhật Bản. 1995 Mario's Picross Game Boy Ape, Jupiter Đồng phát triển 1995 Tamori's Picross SNES Ape, Jupiter Đồng phát triển Một loạt trò chơi nhỏ phân phối qua mạng Satellaview, trùng với một chương trình radio của Tamori nổi tiếng Nhật Bản. Độc quyền Nhật Bản. 1995 SNES Tomcat System Phát hành Xuất bản chung bởi Tomy và Ape. Độc quyền Nhật Bản. 1995 Mario's Super Picross SNES Ape, Jupiter Đồng phát triển Độc quyền Nhật Bản 2003 Mother 1+2 Ape, HAL Bản chuyển thể Băng tổng hợp Mother và Mother 2. Độc quyền Nhật Bản. Năm Tựa Hệ máy Nhà phát triển Vai trò Ghi chú 1996 Picross 2 Game Boy Creatures, Jupiter Đồng phát triển Độc quyền Nhật Bản 1997 Mini Yonku GB: Let's Go Game Boy Đồng phát triển Dựa trên trò chơi đua xe mini yonku. Độc quyền Nhật Bản 1998 Game Boy Camera Game Boy Nintendo R&D1, Creatures, Game Freak, Jupiter Đồng phát triển phần mềm. 1998 Pokémon Stadium (Bản tiếng Nhật) Nintendo 64 Nintendo EAD Độc quyền Nhật Bản 1998 Hey You, Pikachu! Nintendo 64 Ambrella Tạo mẫu Pokémon. 1998 Pokémon Trading Card Game Hudson, Creatures Lập kế hoạch, thiết kế trò chơi, thiết kế thẻ bài. 1999 Super Smash Bros. Nintendo 64 HAL Tạo mẫu Pokémon, thiết kế mở đầu. 1999 Pokémon Snap Nintendo 64 HAL Phần minh họa 2D, Tạo mẫu Pokémon. 1999 Pokémon Stadium (bản quốc tế) Nintendo 64 Nintendo EAD Phần minh họa 2D, Tạo mẫu Pokémon. Phiên bản nâng cấp của Pokémon Stadium gốc. Phát hành tại Nhật Bản với tên gọi Pokemon Stadium 2. 2000 Pokémon Stadium 2 Nintendo 64 Nintendo EAD Tạo mẫu Pokémon. Phát hành tại Nhật Bản với tên Pokemon Stadium Gold Silver. 2000 (cancelled) Mother 3: The End of the Pig King Nintendo 64 HAL Character modeling. Đã hủy vào năm 2000. Đừng nhầm lẫn với game GBA Mother 3. Xem thêm: Quá trình phát triển Mother 3. 2001 Chee-Chai Alien Game Boy Color Creatures Phát triển Độc quyền Nhật Bản 2001 Pokémon Card GB2: GR-dan Sanjo! Game Boy Color Hudson, Creatures Lập kế hoạch, thiết kế trò chơi, thiết kế thẻ. Độc quyền Nhật Bản Phụ đề dịch là Here Comes Team GR!, và đôi khi là The Invasion of Team GR! 2001 Super Smash Bros. Melee GameCube HAL Mô hình nhân vật, màn chơi và hình tượng. Thiết kế phim mở đầu. 2003 Pokémon Colosseum GameCube Genius Sonority Tạo mẫu Pokémon. 2005 Nonono Puzzle Chailien Game Boy Advance Đồng phát triển Độc quyền Nhật Bản, Chailien đôi khi đọc là Chairian. 2005 Pokémon XD: Gale of Darkness GameCube Genius Sonority Tạo mẫu Pokémon. 2006 Pokémon Ranger Nintendo DS HAL 2006 Project Hacker: Kakusei Nintendo DS Red Entertainment Hỗ trợ nhà phát triển. Độc quyền Nhật Bản 2006 Pokémon Battle Revolution Wii Genius Sonority Tạo mẫu Pokémon. 2007 Pokemon Battrio Arcade Tạo mẫu Pokémon, thiết kế thùng. Thùng máy Arcade. Độc quyền Nhật Bản 2008 Pokémon Ranger: Shadows of Almia Nintendo DS Creatures Phát triển 2008 Personal Trainer: Walking Nintendo DS Nintendo NSD, Creatures, Engines Đồng phát triển phần mềm 2009 PokéPark Wii: Pikachu's Adventure Wii Creatures Phát triển 2010 Nintendo DS Creatures Phát triển 2011 Pokémon Card Game: How to Play DS Nintendo 3DS Creatures, ZENER WORKS Đồng phát triển Hướng dẫn chơi Pokémon Trading Card Game, được tặng kèm với một bộ bài có tên là Beginning Set. Độc quyền Nhật Bản 2011 Pokédex 3D Nintendo 3DS Creatures Phát triển Ứng dụng miễn phí. Đã ngừng sau ngày tháng 10 năm 2012. 2011 PokéPark 2: Wonders Beyond Wii Creatures Phát triển 2012 Pokémon Dream Radar Nintendo 3DS Creatures, Game Freak Đồng phát triển 2012 Pokédex 3D Pro Nintendo 3DS Creatures Phát triển Phiên bản nâng cấp của Pokédex 3D. Ứng dụng trả phí, không giống như tiền thân của nó. 2012 Pokédex for iOS iOS Creatures Phát triển Đã ngừng vào ngày 30 tháng 11 năm 2015. 2013 Pokémon X and Y Nintendo 3DS Game Freak Tạo mẫu Pokémon. 2016 Pokémon Go iOS, Android Niantic Tạo mẫu Pokémon. 2016 Pokkén Tournament Wii Bandai Namco Studios Tạo mẫu Pokémon. 2016 Detective Pikachu Nintendo 3DS Creatures Phát triển 2019 Pokémon Sword and Shield Nintendo Switch Game Freak Tạo mẫu Pokémon. Trang chủ, tiếng Nhật Trang chủ, tiếng Nhật (phiên bản lưu trữ)
Ape Inc
Công ty đồ chơi Nhật Bản, Công ty trò chơi điện tử của Nhật Bản, Công ty phát triển trò chơi điện tử, Công ty trò chơi điện tử thành lập năm 1995
Hòa Ân là một xã thuộc huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Xã Hòa Ân nằm trung tâm huyện Cầu Kè, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Thông Hòa *Phía tây giáp thị trấn Cầu Kè và xã Hòa Tân *Phía nam giáp xã Châu Điền *Phía bắc giáp xã Tam Ngãi. Xã Hòa Ân có diện tích 20,97 km², dân số năm 2019 là 8.558 người, mật độ dân số đạt 408 người/km². Xã Hòa Ân được chia thành ấp: Bà My, Giồng Dầu, Giồng Lớn, Thông Thảo, Trà Kháo. Ngày tháng năm 1998, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 13/1998/NĐ-CP về việc thành lập xã Hòa Tân trên cơ sở điều chỉnh 1.261,72 ha diện tích tự nhiên và 5.198 nhân khẩu của xã Hòa Ân. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Hòa Ân có 2.097,18 ha diện tích tự nhiên và 8.181 nhân khẩu. Ngày 15 tháng 10 năm 2019, Hội đồng Nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Nghị quyết 157/NQ-HĐND về việc sáp nhập ấp Sóc Kha vào ấp Bà My.
Hòa Ân
là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Labiak J.Prado mô tả khoa học đầu tiên năm 2008. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Thể
null
Unresolved names
(sinh ngày 11 tháng năm 1954) là nhà luật học người Nhật Bản. Ông từng giữ chức vụ Phó Tư pháp tại Tòa án Tối cao Nhật Bản từ năm 2017 đến năm 2022. Hiện ông đang giữ chức vụ làm Thẩm phán và Chánh án Tòa án Tối cao Nhật Bản.
null
Chánh án Tòa án Tối cao Nhật Bản, Nhân vật còn sống
Đường sắt Talyllyn () là một đường sắt khổ hẹp được bảo tồn tại Wales có chiều dài từ Tywyn Trên bờ biển Mid-Wales đến ga Nant Gwernol gần làng Abergynolwyn. Tuyến đường sắt này được mở vào năm 1865 để vận chuyển đá phiến từ các mỏ đá Bryn Eglwys tới Tywyn và là tuyến đường sắt hẹp đầu tiên được Anh Quốc ủy quyền bởi Đạo luật Quốc hội để vận chuyển hành khách bằng bằng đầu máy hơi nước. Mặc dù đầu tư quá thấp, tuyến này vẫn mở, và năm 1951nó trở thành tuyến đường sắt đầu tiên trên thế giới được các tình nguyện viên bảo tồn như một tuyến đường sắt di sản. Kể từ khi được bảo tồn, tuyến đường sắt này đã hoạt động như một điểm thu hút khách du lịch, được bán đi bán lại qua tay nhiều chủ và được đầu tư mở rộng độ dài đường ray và bổ sung các toa tàu mới. Năm 1976, mở rộng mở dọc theo đường dây khoáng sản cũ từ Abergynolwyn đến ga mới tại Nant Gwernol. Năm 2001, tổ chức bảo tồn kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, và năm 2005 xây dựng lại và mở rộng lại bến tàu Tywyn Wharf, bao gồm một cơ sở rộng mở rộng cho Bảo tàng Đường hầm đường hẹp. Tuyến đường sắt Skarloey hư cấu, là một phần của The Railway Series của các cuốn sách dành cho trẻ em bởi The Rev. W. Awdry, đã dựa trên tuyến đường sắt Talyllyn. Việc bảo tồn tuyến đường sắt đã truyền cảm hứng cho phim của Ealing Comedy tựa The Titfield Thunderbolt.
Đường sắt Talyllyn
Giao thông Wales
Đế quốc thuộc địa là một tập hợp các quốc gia hoặc một phần lãnh thổ các quốc gia (gọi là thuộc địa) bị xâm chiếm, sở hữu và khai thác bởi một nước đế quốc thực dân. Thông thường, kể từ đầu thời cận đại đến nay là các đế quốc xuất phát từ Châu Âu, điển hình là Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Đức, Bỉ. Đế chế thuộc địa đầu tiên nổi lên với một cuộc chạy đua thăm dò hàng hải giữa các cường quốc hàng hải châu Âu Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong thế kỷ XV. Lý do thúc đẩy ban đầu của việc mở rộng là truyền giáo và thương mại. Điều này cũng được thúc đẩy bởi Châu Âu cần con đường mới sang phương Đông khi vùng Cận Đông bị Đế quốc Ottoman chiếm lấy. Về sau, được thúc đẩy bởi những tưởng mới về chủ nghĩa tư bản phát triển từ thời kỳ Phục hưng châu Âu. Đế quốc Anh ** Lãnh thổ ủy nhiệm của Úc ** Lãnh thổ ủy nhiệm của New Zealand ** Lãnh thổ ủy nhiệm của Nam Phi ** Sudan thuộc Anh-Ai Cập Đế quốc Áo Đế quốc Áo Hung Đế quốc thuộc địa Bỉ Đế quốc Bồ Đào Nha Công quốc Courland và Semigallia Đế quốc Đan Mạch Đế quốc thuộc địa Đức Đế quốc Hà Lan Đế quốc Mỹ Đế quốc Na Uy Đế quốc Nga Đế quốc Nhật Bản Đế quốc Ottoman Đế quốc thuộc địa Pháp Đế quốc Tây Ban Nha Đế quốc Thụy Điển Đế quốc Cuộc tranh luận về các đế quốc khác: Chủ nghĩa bành trướng Chile Xâm lược của Vương quốc Morocco *23x23px Muscat và Oman Chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa Mở rộng lãnh thổ của Thái Lan Tập tin:The British Empire.png|Đế quốc Anh Tập tin:Belgian colonial empire.png|Đế quốc thuộc địa Bỉ Tập tin:All areas of the world that were once part of the Portuguese Empire.png|Đế quốc Bồ Đào Nha Tập and quốc Đan Mạch Tập tin:German colonial.PNG|Đế quốc thuộc địa Đức Tập quốc Hà Lan Tập tin:The Russian quốc Nga Tập tin:Japanese Empire (orthographic quốc Nhật Bản Tập quốc Ottoman Tập quốc thuộc địa Pháp Tập tin:Map of the Spanish Empire.png|Đế quốc Tây Ban Nha Tập tin:Swedish Empire.png|Đế quốc Thụy Điển Tập tin:Italian Empire total.png|Đế quốc Tập tin:American bases quốc Mỹ Tập tin:Norwegian Hereditary Empire excluding quốc Na Uy Tập Monarchy (1914).svg|Đế quốc Áo-Hung
Đế quốc thuộc địa
Đế quốc, Chủ nghĩa đế quốc, Lịch sử chủ nghĩa thực dân, Đế quốc hải ngoại
Euphorbia fulgens là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Karw. ex Klotzsch mô tả khoa học đầu tiên năm 1834. Tập tin:Starr 071024-0280 Euphorbia fulgens.jpg Tập tin:Starr 071024-0279 Euphorbia fulgens.jpg
''Euphorbia fulgens
Melicope reflexa là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (H. St. John) T.G. Hartley B.C. Stone mô tả khoa học đầu tiên năm 1989.
''Melicope reflexa
Melicope
Quận Confolens là một quận của Pháp, nằm tỉnh Charente, vùng Quận này có tổng và 63 xã. Các tổng của quận Confolens là: Chabanais Confolens-Nord Confolens-Sud Montemboeuf Saint-Claud Các xã của quận Confolens, và mã INSEE là: 1. Abzac (16001) 2. Alloue (16007) 3. Ambernac (16009) 4. (16016) 5. (16035) 6. Benest (16038) 7. Brigueuil (16064) 8. Brillac (16065) 9. Chabanais (16070) 10. Chabrac (16071) 11. (16076) 12. (16085) 13. Chassenon (16086) 14. Chassiecq (16087) 15. (16096) 16. Chirac (16100) 17. Confolens (16106) 18. Esse (16131) 19. Exideuil (16134) 20. Genouillac (16149) 21. Hiesse (16164) 22. La Péruse (16259) 23. Le Bouchage (16054) 24. Le Grand-Madieu (16157) 25. Le Lindois (16188) 26. Le Vieux-Cérier (16403) 27. Les Pins (16261) 28. Lessac (16181) 29. Lesterps (16182) 30. Lussac (16195) 31. Lésignac-Durand (16183) 32. Manot (16205) 33. Massignac (16212) 34. Mazerolles (16213) 35. Mazières (16214) 36. Montembœuf (16225) 37. Montrollet (16231) 38. Mouzon (16239) 39. Nieuil (16245) 40. Oradour-Fanais (16249) 41. Parzac (16255) 42. Pleuville (16264) 43. Pressignac (16270) 44. (16192) 45. Roussines (16289) 46. Saint-Adjutory (16293) 47. (16306) 48. Saint-Claud (16308) 49. Saint-Coutant (16310) 50. (16322) 51. (16329) 52. Saint-Mary (16336) 53. (16337) 54. (16345) 55. Saulgond (16363) 56. Sauvagnac (16364) 57. Suaux (16375) 58. Suris (16376) 59. Turgon (16389) 60. Verneuil (16398) 61. (16416) 62. Épenède (16128) 63. Étagnac (16132) Confolens trên trang Viện quốc gia Pháp và Nghiên cứu kinh tế (INSEE, tiếng Pháp) Confolens
Quận Confolens
Tam nan () đề cập đến thế phải chọn một trong ba lựa chọn, trong đó mỗi lựa chọn đều có vẻ không thể chấp nhận hoặc không thuận lợi. Thuật ngữ này (tiếng Đức) là một tân ngữ từ tiếng Hy Lạp dilemma ám chỉ đến tình trạng tiến thoái lưỡng nan, phải chọn một trong hai lựa chọn. Có hai cách để miêu tả một tam nan: Quyền chọn từ ba lựa chọn không thuận lợi, một trong số đó phải được chọn. Quyền chọn ba khả năng không thuận lợi, trong đó chỉ được chọn hai cái cùng một lúc hoặc trong đó có một sự lệ thuộc theo tỉ lệ nghịch giữa ba kích cỡ (càng tới gần một cơ hội nào, thì càng cách xa một hoặc hai cái khác). Việc đề cập đến thuật ngữ này đến từ nhà truyền giáo Anh Philip Henry từ năm 1672. Sau đó vào năm 1725 và độc lập với Henry, Isaac Watts cũng sử dụng thuật ngữ này. Một trong những người đầu tiên mà mô tả một tam nan là triết gia Hy Lạp Epikur, người bác bỏ quan điểm một Đức Chúa Trời thì toàn năng và nhân từ Với quan điểm trên ông đưa ra các luận đề sau đây: 1. Nếu Đức Chúa Trời muốn, nhưng không thể ngăn ngừa điều ác, thì Ngài không phải là toàn năng. 2. Nếu Đức Chúa Trời có khả năng, nhưng không muốn ngăn ngừa điều ác, thì Ngài là người không tốt. 3. Nếu Đức Chúa Trời muốn và có thể ngăn ngừa được điều ác, tại sao lại có điều ác? Mặc dù những tuyên bố này theo truyền thống là của Epicurus, nhưng cũng có quan điểm rằng tuyên bố này đã được thực hiện bởi một người hoài nghi từ trước đó, có thể là Karneades
Tam nan
Biện hộ học Kitô giáo
John Riordan là một chủ ngân hàng người Mỹ đã có công lao cứu giúp mạng sống của 105 người Việt Nam vào những ngày cuối cùng trong Sự kiện 30 tháng năm 1975. Ông được mệnh danh là "Oskar Schindler trong chiến tranh Việt Nam". Vào những ngày đầu tháng năm 1975, Riordan đang là phụ tá Quản lý một chi nhánh của ngân hàng Citibank Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Ông nhận được lệnh di tản cùng với những nhân viên người Mỹ khác khi lực lượng quân đội Bắc Việt sắp sửa tấn công thành phố (về sau là thủ đô của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) vào những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Riordan ban đầu tuân theo lệnh di tản và được đưa tới Hồng Kông. Tại Hồng Kông, Riordan đã bắt đầu lên kế hoạch tìm cách giải cứu các đồng nghiệp người Việt không đủ điều kiện di tản (vì họ không phải là người Mỹ) và những ai từng làm việc với người Mỹ có khả năng bị Việt Cộng xử tử. Ông đã đề xuất nhiều phương án lên Citibank và chính phủ Mỹ nhưng nhiều lần bị từ chối. Cuối cùng, Citibank đã nói với ông ta là nên ngừng các nỗ lực cứu trợ của mình hoặc là bị đuổi việc. Ngày 19 tháng năm 1975, Riordan đã bay trở lại Sài Gòn một mình. Ông cố gắng tập hợp tất cả các đồng nghiệp người Việt và gia đình họ (tổng cộng là 105 người) và giấu họ trong căn biệt thự của ông và một căn nhà gần đó. Mặc dù người Mỹ được di tản trước, nhưng ngân hàng vẫn mở cửa làm việc với nhân viên người Việt cho đến ngày 25 tháng mới chính thức đóng cửa. Chẳng còn sự lựa chọn nào khác, Riordan đã quyết định khai nhận bừa nhóm nhân viên này là người nhà của mình để họ hội đủ điều kiện di tản trên chiếc máy bay chở hàng hóa của quân đội Mỹ. Ông lập tức lái xe đến phi trường và điền đơn xác nhận thân nhân của 105 người Việt này. Sau đó, mới trở về đưa họ ra phi trường để di tản. Liên tục trong ngày kế tiếp, ông đã liều lĩnh lập lại điều này tới mười lần. Đích thân Riordan đi với nhóm cuối cùng lên máy bay một vài ngày trước khi Sài Gòn thất thủ. Riordan không những không bị Citibank sa thải mà còn được tuyên dương như một anh hùng, công ty đã hào phóng bỏ ra một triệu USD để tái định cư toàn bộ nhân viên người Việt và giúp họ tìm kiếm việc làm Mỹ. Tuy nhiên, câu chuyện này phần lớn không được dư luận biết đến mãi cho đến tháng 10 năm 2013 khi cuộc đời của Riordan được mô tả sơ lược trên kênh 60 Minutes. Riordan là người đồng tính công khai.
John Riordan
Năm sinh không rõ, Nhân vật còn sống, Chủ ngân hàng người Mỹ, Người Mỹ Việt Nam, Nhân viên Citigroup, Nhân viên quân sự LGBT người Mỹ, Người đồng tính nam
() là một đô thị đông nam Hà Lan. Đô thị này được lập năm 2001 từ các đô thị Sittard, Geleen và Born. Dân số tổng cộng là 96.000 người (2007), là đô thị đông dân thứ Limburg (sau Maastricht với 125.000 dân). Về phía tây, Sittard-Geleen giáp với Bỉ, còn phía đông giáp Đức. Born, Broeksittard, Buchten, Einighausen, Geleen, Graetheide, Grevenbicht, Guttecoven, Holtum, Limbricht, Munstergeleen, Windraak, Obbicht, Papenhoven, Schipperskerk và Sittard. Trang mạng chính thức For 24/7 view on the Markt in Sittard
null
Đô thị Limburg Hà Lan
Vị trí của sống núi giữa Đại Tây Dương Tập tin:Pangea animation núi là trung tâm của sự tan vỡ siêu lục địa Pangaea cách đây 180 triệu năm. Tập tin:Mid Atlantic vết nứt chạy dọc theo sống núi giữa Đại Tây Dương Iceland Tập tin:Iceland Mid-Atlantic Ridge núi giữa Đại Tây Dương Iceland Sống núi giữa Đại Tây Dương là một sống núi giữa đại dương, cũng là ranh giới mảng tách giãn chạy giữa đáy của Đại Tây Dương, và là dãy núi dài nhất trên thế giới. Nó chia tách mảng Á-Âu với mảng Bắc Mỹ phía Bắc Đại Tây Dương, và mảng châu Phi với mảng Nam Mỹ phía Nam Đại Tây Dương. Sống núi này kéo dài từ điểm nối ba với sống núi Gakkel (sống núi giữa Bắc Băng Dương) phía đông nam Greenland về phía nam đến nối ba Bouvet Nam Đại Tây Dương. Mặc dù sống núi giữa Đại Tây Dương hầu hết nằm dưới nước, một phần trong đó có thể cao hơn mực nước biển. Các phần của sống núi bao gồm quần đảo Iceland hay còn được gọi là sống núi Reykjanes. Dãy núi dưới Đại Tây Dương lần đầu tiên được Matthew Fontaine Maury nói đến vào năm 1850. Dãy núi này được phát hiện trong quá trình thám hiểm của HMS Challenger vào năm 1872. Một nhóm các nhà khoa học trên tàu với sự dẫn đầu của Charles Wyville Thomson, đã phát hiện một đới nâng lớn nằm giữa Đại Tây Dương trong khi thăm dò địa hình để đặt cáp viễn thông xuyên Đại Tây Dương. Sự tồn tại của một sống núi như thế đã được xác nhận bởi tàu ngầm của Hoa Kỳ năm 1925. Vào thập niên 1950, bản đồ đáy đại dương trên Trái Đất được thành lập bởi Bruce Heezen, Maurice Ewing, Marie Tharp và những người khác, cho thấy rằng sống núi giữa Đại Tây Dương có địa hình đáy biển rất kỳ lạ bao gồm các thung lũng và các dãy núi, với thung lũng trung tâm có hoạt động địa chấn và là chấn tâm của một số trận động đất. Ewing và Heezen đã phát hiện rằng sống núi là một phần trong tổng số 40.000 km của hệ thống các sống núi giữa đại dương kéo dài liên tục trên đáy của tất cả các đại dương trên Trái Đất. Việc phát hiện ra hệ thống sống núi toàn cầu dẫn đến học thuyết tách giãn đáy biển và sự chấp nhận một cách tổng quát về học thuyết trôi dạt lục địa của Alfred Wegener. Sống núi giữa Đại Tây Dương bao gồm cả thung lũng tách giãn nằm dưới sâu chạy dọc theo trung của sống núi và hầu như chạy dọc theo toàn chiều dài của sống núi. Thung lũng này đánh dấu một ranh giới hiển nhiên giữa các mảng kiến tạo, nơi mà macma từ dưới quyển manti tràn lên bề mặt đáy biển và phun trào dạng dung nham để tạo thành các vật liệu vỏ mới của các mảng. gần xích đạo, sống núi giữa Đại Tây Dương bị cắt ra thành sống núi Bắc Đại Tây Dương và sống núi Nam Đại Tây Dương bởi rãnh Romanche, đó là một rãnh đại dương hẹp với độ sâu tối đa là 7,758 (25,453 ft), là một trong những vị trí sâu nhất của Đại Tây Dương. Tuy nhiên, rãnh này không liên quan gì đến ranh giới giữa các mảng Bắc Mỹ và Nam Mỹ, cũng như các mảng Á-Âu và châu Phi. Các quần đảo từ bắc đến nam được liệt kê bên dưới kèm theo độ cao đỉnh cũng như vị trí của chúng: Bắc bán cầu (sống núi Bắc Đại Tây Dương): #Jan Mayen (Beerenberg, 2.277 (71° 06' vĩ bắc, 08° 12' kinh tây), thuộc Bắc Băng Dương #Iceland Vatnajökull, 2.109,6 (64° 01' vĩ bắc, 16° 41' kinh tây), sống núi xuyên qua #Açores (Ponta do Pico hay Pico Alto, trên đảo Pico, 2.351 m, tại tọa độ () #Bermuda (Town Hill, trên đảo Main, 76 (32° 18′ vĩ bắc, 64° 47′ kinh tây) (Bermuda được hình thành trên sống núi, nhưng hiện tại nằm về phía tây của sống núi) #Đảo đá Saint Peter và Paul (Đảo Tây Nam, 22,5 m, tại toạ độ Nam bán cầu (sống núi nam Đại Tây Dương): #Đảo Ascension (đỉnh là núi Green, 859 m, 7° 59' vĩ nam, 14° 25' kinh tây) #Tristan da Cunha (đỉnh Queen Mary, 2.062 m, 37° 05' vĩ nam, 12° 17' kinh tây) #Đảo Gough (đỉnh Edinburgh, 909 m, 40° 20' vĩ nam, 10° 00' kinh tây) #Đảo Bouvet (Olavtoppen, 780 m, 54° 24' vĩ nam, 03° 21' kinh đông) :Giải thích một cách tổng quát về các sống núi giữa đại dương có thể xem thêm sống núi giữa đại dương và tách giãn đáy biển Sống núi thực chất là điểm nằm trên cao của đới nâng giữa Đại Tây Dương là chỗ đang nhô lên chạy dọc theo chiều dài của Đại Tây Dương với phần đỉnh là các điểm cao nhất của đường nhô lên này. Các chỗ nhô cao này là do lực của dòng đối lưu bên trong quyển mềm đẩy vỏ đại dương và thạch quyển lên. Ranh giới tách giãn hình thành đầu tiên trong kỷ Trias khi một loạt các địa hào ba nhánh hợp lại trên siêu lục địa Pangaea để hình thành sống núi. Thường thì chỉ hai trong ba nhánh của địa hào dạng như trên cấu thành nên một ranh giới tách giãn. Các nhánh không thành công trong việc tách giãn được gọi là aulacogen, và các aulacogen của sống núi giữa Đại Tây Dương thậm chí trở thành các thung lũng sông lớn được thấy dọc theo châu Mỹ và châu Phi (bao gồm cả sông Mississippi, sông Amazon và sông Niger). Sống núi nằm sâu khoảng 2.500 mét (8.200 ft) dưới mực nước biển, trong khi các sườn của nó nằm sâu hơn 5.000 mét. Bồn trũng Fundy trên Đại Tây Dương dọc theo bờ biển Bắc Mỹ giữa New Brunswick và Nova Scotia Canada là một dấu hiệu của sống núi giữa Đại Tây Dương cổ. *Khối núi Atlantis Evans Rachel. Plumbing Depths to Reach New Heights: Marie Tharp Explains Marine Geological Maps." The Library of Congress Information Bulletin. tháng 11 năm 2002.
Sống núi giữa Đại Tây Dương
Các sống núi ngầm của Đại Tây Dương, Kiến tạo mảng, Môi trường Iceland, Địa chất Đại Tây Dương, Địa chất Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha
Rivel là một xã của Pháp, nằm tỉnh Aude trong vùng Occitanie. Người dân địa phương trong tiếng Pháp gọi là Rivelois. Rivel trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Rivel
Rivel
Hình 1: Ống nano cacbon bị biến dạng khi đặt trong điện trường hướng xiên. Trong vật lý phân tử, độ võng tĩnh điện là sự biến dạng của cấu trúc nano dạng thanh dưới tác động của điện trường. Hiện tượng này có nguồn gốc từ các tương tác tĩnh điện giữa điện trường và các điện tích trong vật chất. Sự biến dạng này thường được quan sát thấy trên các thanh nano có dạng mút thừa (trong đó một trong hai đầu của thanh được cố định). Trong các vật liệu nano, ống nano cacbon là ví dụ điển hình cho hiện tượng võng tĩnh điện. Cơ chế hiện tượng võng tĩnh điện do phân cực điện có thể được hiểu như sau: Hình 2: Điện tích trong vật liệu phân cực điện dưới tác động của điện trường ngoài Hình 3: Điện trường tương tác với moment lưỡng cực điện xoay thanh nano theo chiều điện trường. Khi một vật liệu được đưa vào điện trường E, dưới tác động của điện trường, điện tích dương (màu đỏ) có xu hướng dịch chuyển theo chiều điện trường, và điện tích âm (màu đen) có xu hướng dịch chuyển ngược chiều điện trường, tạo ra lưỡng cực điện cảm ứng (hình 2). Sự tương tác giữa moment lưỡng cực điện và điện trường tạo ra moment xoắn (T), có xu hướng xoay thanh nano theo phương của điện trường (hình 3). Hiện tượng này tương tự việc đặt một thanh nam châm trong từ trường, cực âm của thanh nam châm sẽ bị hút về cực dương của từ trường và ngược lại, cực dương của thanh nam châm bị hút về cực âm của từ trường. Khi một đầu bị cố định, thanh nano sẽ bị uốn cong theo phương điện trường, đây là hiện tượng võng tĩnh điện (hình 1). Trong trường hợp ống nano cacbon bị cố định một đầu, nó sẽ bị uốn cong theo phương của điện trường. Như vậy, moment xoắn và độ cứng của ống nano cacbon có tính xung khắc. Biến dạng này mới được quan sát trong các thí nghiệm, và sẽ là một đặc tính có nhiều triển vọng trong việc phát triển hệ nano cơ điện tử trong tương lai. Gần đây, đã có những báo cáo khoa học về việc ứng dụng ống nano cacbon trong hệ nano cơ điện tử, đó là làm rơ le nano, công tắc nano, nhíp nano và thiết bị phản hồi trong bộ nhớ, cảm biến hoặc truyền động. Cùng với đó, các nghiên cứu lý thuyết cũng được đưa ra để có cái nhìn đầy đủ về độ võng tĩnh điện của ống nano cacbon.
độ võng tĩnh điện
Vật lý phân tử
Puplinge là một đô thị thuộc bang Geneva Thụy Sĩ. Đô thị này giáp tỉnh Haute-Savoie vùng Rhône-Alpes đông nam Pháp. Đô thị Puplinge gồm các làng Mon-Idée và Cornier. Đô thị Puplinge giáp các đô thị Choulex, Presinge và Thônex. Puplinge Nhà thờ mới Puplinge Theo Cục thống kê Liên bang Thụy Sĩ (Office fédéral de la statistique), Puplinge có tổng diện tích là đất và hạ tầng, đất nông nghiệp, đất rừng. Cũng theo Cục thống kê Liên bang, dân số của Puplinge là 2086 người vào năm 2008 Sau đây là biểu đô lịch sử biến động dân số của Puplinge giữa năm 1850 và 2008 Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.7) id:back id:bars ImageSize width:550 height:400 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:2300 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:back BarData= bar:1850 text:1850 bar:1860 text:1860 bar:1870 text:1870 bar:1880 text:1880 bar:1890 text:1890 bar:1900 text:1900 bar:1910 text:1910 bar:1920 text:1920 bar:1930 text:1930 bar:1940 text:1940 bar:1950 text:1950 bar:1960 text:1960 bar:1970 text:1970 bar:1980 text:1980 bar:1990 text:1990 bar:2000 text:2000 bar:2008 text:2008 PlotData= color:bars width:25 align:left bar:1860 from:0 till:291 bar:1870 from:0 till:271 bar:1880 from:0 till:258 bar:1890 from:0 till:269 bar:1900 from:0 till:267 bar:1910 from:0 till:250 bar:1920 from:0 till:249 bar:1930 from:0 till:246 bar:1940 from:0 till:259 bar:1950 from:0 till:274 bar:1960 from:0 till:342 bar:1970 from:0 till:616 bar:1980 from:0 till:1732 bar:1990 from:0 till:2209 bar:2000 from:0 till:2258 bar:2008 from:0 till:2086 PlotData= bar:1860 at:291 fontsize:S text:291 shift:(-12,5) bar:1870 at:271 fontsize:S text:271 shift:(-12,5) bar:1880 at:258 fontsize:S text:258 shift:(-12,5) bar:1890 at:269 fontsize:S text:269 shift:(-12,5) bar:1900 at:267 fontsize:S text:267 shift:(-12,5) bar:1910 at:250 fontsize:S text:250 shift:(-12,5) bar:1920 at:249 fontsize:S text:249 shift:(-12,5) bar:1930 at:246 fontsize:S text:246 shift:(-12,5) bar:1940 at:259 fontsize:S text:259 shift:(-12,5) bar:1950 at:274 fontsize:S text:274 shift:(-12,5) bar:1960 at:342 fontsize:S text:342 shift:(-12,5) bar:1970 at:616 fontsize:S text:616 shift:(-12,5) bar:1980 at:1732 fontsize:S text:1732 shift:(-12,5) bar:1990 at:2209 fontsize:S text:2209 shift:(-12,5) bar:2000 at:2258 fontsize:S text:2258 shift:(-12,5) bar:2008 at:2086 fontsize:S text:2086 shift:(-12,5) TextData= fontsize:S pos:(19,32) text:Évolution de la population de Puplinge depuis 1850 fontsize:S pos:(20,20) text:Source OFS Trang mạng chính thức Prison Site WikiMapia Picture of Puplinge
Puplinge
Hệ sinh dục hay hệ sinh sản (tiếng Latinh: systemata genitalia) là một hệ cơ quan bao gồm các cơ quan cùng làm nhiệm vụ sinh sản. Nhiều chất không-sống như hormone và pheromone cũng là những vật chất quan trọng của hệ sinh dục. Không giống như nhiều hệ cơ quan khác, cấu trúc của hệ phụ thuộc vào những sự khác biệt về giới tính của cá thể trong loài, đặc biệt là những loài đơn tính. Những sự khác biệt này cho phép sự kết hợp của vật chất di truyền giữa hai cá thể riêng biệt, tạo khả năng đa dạng và phù hợp về gen của thế hệ con cháu. động vật có vú, các cơ quan chính của hệ sinh sản bao gồm các cơ quan sinh dục ngoài (dương vật và âm hộ) và một loạt các cơ quan sinh dục trong bao gồm tinh hoàn và tử cung. Bệnh của hệ sinh sản con người rất phổ biến và phổ biến, đặc biệt là bệnh lây truyền qua đường tình dục với tính nhiễm trùng. Hầu hết các động vật có xương sống có hệ sinh sản tương tự nhau bao gồm tuyến sinh dục, ống dẫn và lỗ sinh dục. Tuy vậy, có sự khác biệt rất lớn của sự thích nghi và sinh sản trong mỗi nhóm động vật có xương sống. Động vật có xương sống đều có chung các yếu tố chính trong hệ thống sinh sản. Tất cả chúng đều có các cơ quan sản sinh ra tinh trùng và trứng. các con cái, những tuyến sinh dục này sau đó được nối với ống dẫn sinh sản để mở ra bên ngoài cơ thể, điển hình là lỗ sinh sản, nhưng đôi khi đến một lỗ đặc biệt như âm đạo. = Hệ sinh dục của con người thường bao gồm quá trình thụ tinh trong bằng cách quan hệ tình dục Trong quá trình này, người nam đưa dương vật đã cương cứng của mình vào âm đạo của người nữ và xuất tinh ra tinh dịch có chứa tinh trùng Sau đó, tinh trùng di chuyển qua âm đạo và cổ tử cung vào tử cung hoặc ống dẫn trứng để thụ tinh với trứng Sau khi thụ tinh và làm tổ thành công, quá trình mang thai của thai nhi sẽ xảy ra trong tử cung của phụ nữ khoảng chín tháng, quá trình này được gọi là mang thai người. Quá trình mang thai kết thúc bằng việc sinh con sau khi chuyển dạ Quá trình chuyển dạ bao gồm các cơ của tử cung co lại, cổ tử cung giãn ra và em bé ra ngoài âm đạo (cơ quan sinh dục của phụ nữ). Trẻ sơ sinh và trẻ em của con người gần như không nơi nương tựa và cần sự chăm sóc của cha mẹ mức độ cao trong nhiều năm. Một kiểu chăm sóc quan trọng của cha mẹ là sử dụng các tuyến vú vú phụ nữ để nuôi con. Hệ sinh sản của phụ nữ có hai chức năng: Đầu tiên là sản xuất tế bào trứng, và chức năng thứ hai là bảo vệ và nuôi dưỡng con cái cho đến khi ra đời. Hệ thống sinh sản nam giới có một chức năng, đó là sản xuất và lưu giữ tinh trùng. Con người có mức độ phân hóa giới tính cao Ngoài sự khác biệt hầu hết mọi cơ quan sinh sản, nhiều khác biệt thường xảy ra các đặc điểm sinh dục thứ cấp = Hệ sinh dục nam là một loạt các cơ quan nằm bên ngoài cơ thể và xung quanh vùng xương chậu của nam giới góp phần vào quá trình sinh sản. Chức năng trực tiếp chính của hệ thống sinh sản nam là cung cấp tinh trùng của giống đực để thụ tinh với noãn. Các cơ quan sinh sản chính của nam giới có thể được chia thành ba loại. Hạng mục đầu tiên là sản xuất và lưu trữ tinh trùng. Quá trình sản xuất diễn ra trong tinh hoàn được đặt trong bìu điều chỉnh nhiệt độ, tinh trùng chưa trưởng thành sẽ đi đến mào tinh để phát triển và lưu trữ. Loại thứ hai là các tuyến sản xuất chất lỏng phóng tinh bao gồm túi tinh, tuyến tiền liệt và ống dẫn tinh Loại cuối cùng là những loại được sử dụng để giao cấu và lắng đọng tinh trùng bên trong nam giới, chúng bao gồm dương vật, niệu đạo, ống dẫn tinh và tuyến Cowper Các đặc điểm giới tính phụ chính bao gồm: vóc dáng to hơn, vạm vỡ hơn, giọng nói trầm ấm, lông mặt và lông cơ thể, vai rộng và táo Adam phát triển. Một nội tiết tố sinh dục quan trọng của nam giới là androgen, và đặc biệt là testosterone Tinh hoàn tiết ra một loại hormone kiểm soát sự phát triển của tinh trùng. Hormone này cũng chịu trách nhiệm cho sự phát triển các đặc điểm thể chất nam giới như lông mặt và giọng nói trầm. = Hệ sinh dục nữ của con người là một loạt các cơ quan chủ yếu nằm bên trong cơ thể và xung quanh vùng xương chậu của phụ nữ góp phần vào quá trình sinh sản Hệ sinh dục nữ của con người bao gồm ba phần chính: âm hộ, dẫn đến âm đạo, cửa âm đạo, đến tử cung; tử cung, nơi chứa thai nhi đang phát triển; và buồng trứng, nơi tạo ra noãn của phụ nữ. Vú có tham gia vào giai đoạn làm cha mẹ, nhưng trong hầu hết các phân loại, chúng không được coi là một phần của hệ sinh dục nữ. Âm đạo ra đến bên ngoài với âm hộ, cũng bao gồm môi âm hộ, âm vật và niệu đạo trong khi giao hợp khu vực này được bôi trơn bởi chất nhờn do tuyến Bartholin tiết ra Âm đạo được gắn với tử cung thông qua cổ tử cung, trong khi tử cung được gắn với buồng trứng thông qua các ống dẫn trứng Mỗi buồng trứng chứa hàng trăm noãn noãn đơn). Khoảng 28 ngày một lần, tuyến yên tiết ra một loại hormone kích thích một số trứng phát triển và lớn lên. Một noãn được phóng thích và nó đi qua ống dẫn trứng vào tử cung. Các hormone do buồng trứng tạo ra để chuẩn bị cho tử cung tiếp nhận noãn. Trứng phát triển và chờ đợi tinh trùng để thụ tinh. Khi điều này không xảy ra, tức là không có tinh trùng để thụ tinh, niêm mạc tử cung, được gọi là nội mạc tử cung, và buồng trứng không được thụ tinh sẽ rụng mỗi chu kỳ thông qua quá trình kinh nguyệt Nếu noãn được thụ tinh bởi tinh trùng, nó sẽ bám vào nội mạc tử cung và thai nhi sẽ bắt đầu phát triển. = Tập con thú có túi sơ sinh bú sữa, ảnh chụp trong túi của mẹ nó Tập hình Didactic của hệ thống niệu sinh dục có vú. Hầu hết các hệ thống sinh sản của động vật có vú đều tương tự nhau, tuy nhiên, có một số khác biệt đáng chú giữa động vật có vú không phải con người và con người. Ví dụ, động vật có vú đực hầu hết có một dương vật được giữ bên trong cho đến khi cương cứng, và hầu hết có xương dương vật Ngoài ra, con đực của hầu hết các loài không có khả năng sinh sản tình dục liên tục như con người. Giống như con người, hầu hết các nhóm động vật có vú đều có tinh hoàn nằm trong bìu, tuy nhiên, những nhóm khác có tinh hoàn nằm trên thành bụng, và một số nhóm động vật có vú, chẳng hạn như voi, có tinh hoàn ẩn nằm sâu trong các khoang cơ thể gần thận. Hệ thống sinh sản của thú có túi là duy nhất chỗ con cái có hai âm đạo, cả hai đều mở ra bên ngoài qua một lỗ nhưng dẫn đến các ngăn khác nhau trong tử cung; con đực thường có dương vật hai ngạnh, tương ứng với hai âm đạo của nữ. Thú có túi thường nuôi con của chúng trong một túi bên ngoài chứa núm vú mà đứa con sơ sinh của loài này sẽ bám vào để phát triển sau khi đã ra ngoài tử cung. Ngoài ra, động vật có túi có một bìu độc đáo. Con thú có túi sơ sinh dài 15mm (5/8 in) bò theo bản năng vài inch (15 cm), trong khi bám vào lông, trên đường đi đến túi của mẹ nó. Tử cung và âm đạo là duy nhất đối với động vật có vú không có vùng tương đồng chim, bò sát, động vật lưỡng cư hoặc cá. vị trí của tử cung đối với các nhóm có xương sống, có một ống dẫn trứng chưa sửa đổi trực tiếp dẫn đến một lỗ huyệt, mà là một lỗ dùng chung cho cả giao hợp, nước tiểu, và phân Thú đơn huyệt (tức là thú mỏ vịt và echidna ), một nhóm động vật có vú đẻ trứng, cũng không có tử cung và âm đạo, và về mặt này có hệ thống sinh sản giống như của loài bò sát. = các loài chó nhà, sự thành thục sinh dục (dậy thì) xảy ra trong độ tuổi từ đến 12 tháng đối với cả con đực và con cái, mặc dù điều này có thể bị trì hoãn đến hai tuổi đối với một số giống chó lớn. = Hệ sinh sản của ngựa cái chịu trách nhiệm kiểm soát quá trình mang thai, sinh đẻ và cho con bú, cũng như chu kỳ động dục và hành vi giao phối của chúng. Hệ sinh sản của ngựa đực chịu trách nhiệm về hành vi tình dục của nó và các đặc điểm giới tính phụ (chẳng hạn như lông gáy rậm hơn). = Chim đực và cái có một lỗ huyệt, một khe hở mà qua đó trứng, tinh trùng, và chất thải đi qua. Sự giao hợp được thực hiện bằng cách ấn hai môi của các lỗ huyệt lại với nhau, chúng được biết đến như một cơ quan tương tự như dương vật của động vật có vú Con cái đẻ trứng được bao trong nước ối, trong đó thai nhi tiếp tục phát triển sau khi rời cơ thể con cái. Không giống như hầu hết các động vật có xương sống, chim cái thường chỉ có một buồng trứng và ống dẫn trứng chức năng. Như một nhóm, các loài chim, giống như động vật có vú, được ghi nhận vì mức độ chăm sóc của cha mẹ cao đối với con non. = Các loài bò sát hầu như đều dị giới tính, với sự thụ tinh bên trong thông qua các lỗ huyệt. Một số loài bò sát đẻ trứng trong khi những loài khác là động vật đẻ con. Các cơ quan sinh sản được tìm thấy trong lỗ huyệt của loài bò sát. Hầu hết các loài bò sát đực đều có cơ quan giao cấu, cơ quan này thường là dạng thụt vào hoặc dạng ngược và được ẩn bên trong cơ thể. rùa và cá sấu, con đực có một cơ quan trung gian giống như dương vật, trong khi rắn đực và thằn lằn đực mỗi con có một cặp cơ quan giống như dương vật. Tập con ếch đực thường có màu lông sặc sỡ đang chờ đợi nhiều con cái tới đẻ trứng hàng loạt = Hầu hết các loài lưỡng cư biểu hiện sự thụ tinh bên ngoài của trứng, thường là trong nước, mặc dù một số loài lưỡng cư có thụ tinh trong. Tất cả đều có các tuyến sinh dục bên trong, được ghép nối,và kết nối bằng các ống dẫn đến lỗ huyệt. = Cá thể hiện một loạt các chiến lược sinh sản khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các loài cá đều đẻ trứng và có biểu hiện thụ tinh ngoài. Trong quá trình này, con cái sử dụng cloaca của mình để giải phóng một lượng lớn giao tử của chúng, được gọi là đẻ trứng vào nước và một hoặc nhiều con đực giải phóng một chất dịch màu trắng có chứa nhiều tinh trùng lên trên trứng chưa được thụ tinh. Các loài cá khác là cá đẻ trứng và có sự hỗ trợ thụ tinh bên trong nhờ vây bụng hoặc vây hậu môn được biến đổi thành một cơ quan tương tự như dương vật của con người. Một phần nhỏ các loài cá là cá đẻ trứng sống, và được gọi chung là cá đẻ con sống Các tuyến sinh dục của cá thường là các cặp buồng trứng hoặc tinh hoàn. Hầu hết các loài cá đều là dị giới tính nhưng một số loài là lưỡng tính hoặc đơn tính Động vật không xương sống có hệ thống sinh sản vô cùng đa dạng, điểm chung duy nhất có thể là chúng đều đẻ trứng. Ngoài ra, ngoài động vật chân đầu và động vật chân khớp, gần như tất cả các động vật không xương sống khác đều lưỡng tính và có thụ tinh ngoài = Tất cả các loài động vật chân đầu đều dị giới tính và sinh sản bằng cách đẻ trứng Hầu hết các loài cephalopod có quá trình thụ tinh bán trong, trong đó con đực đặt các giao tử của mình vào bên trong khoang áo của con cái hoặc khoang màng tinh để thụ tinh với noãn được tìm thấy trong buồng trứng đơn của con cái. Tương tự như vậy, động vật chân đầu đực chỉ có một tinh hoàn duy nhất. con cái của hầu hết các loài động vật chân đầu, các tuyến bao trứng giúp trứng phát triển. "Dương vật" hầu hết các loài động vật chân đầu đực không có vỏ Coleoidea là một phần cuối dài và cơ bắp của ống sinh tinh được sử dụng để chuyển các tế bào sinh tinh sang một cánh tay đã biến đổi gọi là heocotylus Đến lượt nó, nó được sử dụng để chuyển các tế bào tinh trùng cho con cái. những loài thiếu cánh tay này, thì "dương vật" dài và có thể vươn ra ngoài khoang bao và chuyển trực tiếp các tế bào sinh tinh đến con cái. = Hầu hết các loài côn trùng đều sinh sản theo kiểu đẻ trứng. Trứng được con cái tạo ra trong một cặp buồng trứng Tinh trùng được tạo ra từ con đực một bên tinh hoàn hoặc thường là hai bên tinh hoàn, được truyền sang con cái trong quá trình giao phối bằng cơ quan sinh dục ngoài. Tinh trùng được lưu trữ bên trong con cái trong một hoặc nhiều ống sinh tinh Vào thời điểm thụ tinh, trứng di chuyển dọc theo ống dẫn trứng để được tinh trùng thụ tinh và sau đó bị tống ra khỏi cơ thể ("đẻ"), trong hầu hết các trường hợp thông qua một ống dẫn trứng. = Nhện có thể có một hoặc hai tuyến sinh dục, nằm phần bụng. Lỗ sinh dục thường nằm mặt dưới của đoạn bụng thứ hai. hầu hết các loài, con đực chuyển tinh trùng cho con cái trong một gói, hoặc túi chứa tinh trùng Các nghi thức tán tỉnh phức tạp đã phát triển nhiều loài nhện để đảm bảo việc chuyển giao tinh trùng an toàn cho con cái. Các loài nhiện thường đẻ trứng theo bọc, chúng nở thành những con non giống con trưởng thành. Tuy nhiên, bọ cạp là loài để trứng trong cơ thể mẹ hoặc sinh con ngoài, tùy thuộc vào loài, và chúng mang các con non sống khi con non còn nhỏ. Trong số tất cả các sinh vật sống, hoa, là cơ cấu sinh sản của thực vật có hoa, là loài đa dạng nhất về mặt thể chất và thể hiện sự đa dạng tương ứng về phương thức sinh sản. Cây mà không phải là thực vật có hoa tảo xanh, rêu, rêu tán, rêu sừng, dương xỉ và thực vật hạt trần như cây lá kim cũng có giao tiếp phức tạp giữa thích ứng hình thái và các yếu tố môi trường trong sinh sản hữu tính của họ. Hệ thống nhân giống, hoặc cách thức tinh trùng từ cây này thụ tinh với noãn của cây khác, phụ thuộc vào hình thái sinh sản và là yếu tố quan trọng nhất quyết định cấu trúc di truyền của các quần thể thực vật không đơn bội. Christian Konrad Sprengel (1793) đã nghiên cứu sự sinh sản của thực vật có hoa và lần đầu tiên người ta hiểu rằng quá trình thụ phấn liên quan đến cả tương tác sinh học và phi sinh học Sự sinh sản của nấm rất phức tạp, phản ánh sự khác biệt về lối sống và cấu tạo di truyền trong vương quốc đa dạng của sinh vật này. Người ta ước tính rằng một phần ba tổng số nấm sinh sản bằng cách sử dụng nhiều hơn một phương pháp nhân giống; ví dụ, sự sinh sản có thể xảy ra trong hai giai đoạn khác biệt rõ ràng trong vòng đời của một loài, teleomorph và anamorph Các điều kiện môi trường kích hoạt các trạng thái phát triển được xác định về mặt di truyền dẫn đến việc tạo ra các cấu trúc chuyên biệt cho sinh sản hữu tính hoặc vô tính. Những cấu trúc này hỗ trợ sinh sản bằng cách phân tán hiệu quả các bào tử hoặc các trụ mầm chứa bào tử. *Hệ sinh dục nam *Hệ sinh dục nữ Sinh dục
Hệ sinh dục
'Conus là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Conidae, họ ốc cối. Giống như tất cả các loài thuộc chi Conus, chúng là loài săn mồi và có nọc độc. Chúng có khả năng "đốt" con người, do vậy khi cầm chúng phải hết sức cẩn thận. The Conus Biodiversity website
null
Động vật được mô tả năm 2008
Kế hoạch phá hoại việc sản xuất vũ khí hạt nhân của Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai là một chuỗi những chiến dịch, trọng tâm vào năm 1943 phá hủy nhà máy Vermork sản xuất nước nặng nhằm làm chậm kế hoạch sản xuất vũ khí hạt nhân của Đức Quốc Xã. Kế hoạch đã thành công, góp phần làm chậm giấc mơ bom hạt nhân của Adolf Hitler, mà theo các sử gia, nếu như không có vụ này thì chưa biết cuộc chiến sẽ xoay chiều ra sao, nhất là trong trường hợp chiến tranh kéo dài và Hoa Kỳ thất bại trong dự án Manhattan. Mặc dù chương trình nguyên tử của Hitler gặp không ít khó khăn bởi sai lầm của nhà vật lý Werner Heisenberg khi dùng nước nặng thay cho than chì để làm tác nhân điều tiết trong quá trình chế tạo Urani. Nước nặng không chỉ kém hiệu quả hơn than chì mà còn khó sản xuất với số lượng lớn. Điều này đồng nghĩa với việc phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung cấp từ nhà máy Vemork Na Uy. Đáng chú nhất là chủ nghĩa bài Do Thái. Tầng đầu tiên của vật lý năng lượng cao (Einstein, Bohr, Fermi, và Robert Oppenheimer) đã làm nhiều nghiên cứu Đức, đều là người Do Thái hay trong trường hợp của Enrico Fermi, kết hôn với người Do Thái. Robert Oppenheimer, một người Mỹ gốc Do Thái, cũng bởi niềm xác tín và đi theo xã hội chủ nghĩa, và đã liên kết với Đảng Cộng sản. Khi họ rời Đức, chỉ có một nhà vật lý nguyên tử còn lại Đức là Werner Heisenberg. Năm 1934, nhà máy Vemork của Na Uy do Công ty Norsk Hydro điều hành là nơi sản xuất nước nặng đầu tiên trên thế giới. Vào thời điểm đó, các khoa học gia đã biết được rằng nước nặng có thể dùng trong quá trình sản xuất vũ khí hạt nhân. Ngày tháng năm 1940, Đức Quốc Xã chiếm Na Uy. Trước đó, mặc dù Na Uy là quốc gia trung lập nhưng do biết được phát hiện của Otto Hahn trong việc kiểm soát neutron bằng nước nặng nên Cơ quan Tình báo quân sự Pháp Deuxième đã cử ba sĩ quan là trung tá Mossé, đại úy Muller và đại úy Knall Demars đến Na Uy, hỏi "mượn" ông Albert giám đốc nhà máy Vermork toàn bộ 185 kg nước nặng rồi chuyển về Pháp vì sợ nó lọt vào tay quân Đức Quốc Xã. Năm 1941, khi Đức Quốc Xã chiếm nước Pháp, nhà khoa học hạt nhân người Pháp là Frédéric Joliot-Curie đã chôn giấu 185 kg nước nặng ấy trong hầm Ngân hàng Banque de France rồi chuyển nó đến Bordeaux, đưa lên tàu Broompark sang Anh. Tuy nhiên, do nhà máy Vermork vẫn còn đủ khả năng sản xuất nước nặng nên với Khối Đồng Minh, Vermork là một hiểm họa cận kề vì Đức Quốc xã sẽ dùng nó để chế tạo bom nguyên tử. Sau khi chiếm được nhà máy nước nặng Vermork, Đức Quốc Xã lập tức đẩy nhanh chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử dưới sự lãnh đạo của Otto Hahn. Từ tháng năm 1940, nhà máy Vermork bắt đầu sản xuất nước nặng với công suất 100 kg/tháng. Theo tính toán của Otto Hahn, để làm ra một quả bom nguyên tử thì phải cần đến 5.000 kg nước nặng nên Adolf Hitler đã ban hành một chỉ thị đặc biệt, yêu cầu phải bảo vệ Vermork bằng mọi giá, Vì vậy, phá hủy nhà máy Vermork là yêu cầu cấp thiết của Khối Đồng Minh. Gần một năm sau ngày Đức chiếm Na Uy, Cơ quan Hành động đặc biệt Anh quốc SOE chỉ thị cho điệp viên nằm vùng người Na Uy cao nguyên Hardanger, phía trên nhà máy Vermork, chuẩn bị đón một nhóm biệt kích SOE. Do tính sai hướng gió lúc nhảy dù, nhóm biệt kích mất ba ngày di chuyển mới gặp được điệp viên Na Uy. Hệ quả là lúc điệp viên Na Uy mở điện đài liên lạc với Trung tâm chỉ huy SOE thì nơi đây nghi ngờ cả nhóm đã lọt vào tay quân Đức bởi lẽ theo kế hoạch, 12 tiếng đồng hồ kể từ khi nhóm SOE nhảy dù rồi khi gặp nhau, phía Na Uy phải báo cáo về London nhưng họ lại im lặng suốt ngày. Cuộc điện đàm bị bộ phận mã thám của Cơ quan Tình báo quân đội Đức Abwehr phát hiện, nhóm SOE và điệp viên phải chạy trốn vì bị lính Đức săn lùng nên kế hoạch đặt mìn phá hủy nhà máy nước nặng Vermork bị hủy bỏ. Ngày 19 tháng 10 năm 1942, một lần nữa SOE tiếp tục thực hiện một chiến dịch với mục đích phá hủy nhà máy Vermork. Bằng cách sử dụng hai tàu lượn Airspeed Horsa, mỗi chiếc gồm phi công điều khiển và 15 biệt kích, được kéo bởi máy bay ném bom Handley Page Halifax, cất cánh từ sân bay Skitten, Anh dự định hạ cánh xuống mặt hồ Mosvatn đã đóng băng, gần nhà máy Vermork. Không may, tàu lượn đưa họ xuống khu vực lại gặp nạn trong điều kiện thời tiết cực xấu. Những dân quân Na Uy đã không thể tiếp cận khu vực tàu lượn lâm nạn và tất cả những người sống sót đều bị Đức Quốc xã hành quyết. = Ngày 11 và 12 tháng năm 1943, các máy bay Handley Page Halifax của Không quân Hoàng gia Anh lần lượt thả xuống các vị trí cách nhà máy Vermork từ đến km những thùng chứa lương thực, trang thiết bị và biệt kích người Na Uy, biệt kích SOE chỉ huy bởi thiếu tá Jens-Anton Poulsson nhảy dù xuống. Ngày 16 tháng năm 1943, nhóm này gặp được nhóm người Na Uy (với mật danh Swallow) đang ẩn trốn trong rừng sau chiến dịch Freshman thất bại. Họ thống nhất cuộc tấn công phá hủy nhà máy nước nặng Vermork sẽ được tiến hành vào nửa đêm ngày 27, rạng sáng ngày 28 tháng 2. Các cuộc trinh sát của biệt kích SOE diễn ra vào các đêm 19, 20, 21 cho thấy sau chiến dịch Freshman, Đức Quốc Xã đã gài mìn những nơi nghi ngờ quân Anh có thể dùng để đột nhập, đồng thời đặt thêm nhiều đèn pha, bố trí các đội tuần tra xung quanh nhà máy. Riêng với cây cầu dài 75m bắc qua sông Mana, cửa ngõ chính dẫn vào nhà máy, được bảo vệ bởi một đại đội đặc biệt tinh nhuệ Schutzstaffel cùng xe bọc thép và nhiều súng đại liên. Điểm mấu chốt là họ có được một nhân viên tình báo người Na Uy tên Skinnarland làm việc trong Nhà máy Vemork cũng như Johansen nhân viên trực kỹ thuật người Na Uy sẵn sàng hợp tác. Nhờ vậy, nắm được rõ tình hình và hoạch định kế hoạch tấn công. Theo kế hoạch, họ sẽ xuất phát từ dưới khe núi, cách chỗ cây cầu bắc qua sông Mana km. Tiếp theo, họ vượt sông Mana đã đóng băng rồi leo lên ngọn đồi đối diện với nhà máy Vermork. Sau đó họ đi dọc tuyến đường sắt dẫn thẳng vào sân nhà máy. Tuyến đường sắt không hề có lính canh vì quân Đức tin rằng người Anh không thể nào đi lên từ dưới khe núi vì nó cao 372 với hầu hết là những gờ đá dựng đứng. = 22 giờ 30 phút ngày 27 tháng 2, nhóm phá hủy nhà máy Vermork gồm biệt kích SOE và biệt kích Na Uy bắt đầu xuất phát, số còn lại làm nhiệm vụ dự phòng. giờ 30 phút ngày 28 tháng 2, họ tiếp cận cánh cổng bằng sắt của nhà máy sau khi đã bố trí biệt kích Na Uy làm nhiệm vụ chặn hậu. Theo lệnh của thiếu tá Jens-Anton Poulsson, cả tám biệt kích SOE sẽ cùng ông xuống tầng hầm nằm sâu dưới đất 10,3 m, nơi đặt các máy điện phân còn biệt kích Na Uy lại để đánh trả lính Đức Quốc Xã nếu bị phát hiện. Thiếu tá Jens-Anton Poulsson chia nhóm SOE làm hai, mỗi nhóm mang theo một balô thuốc nổ, đi thẳng đến cánh cửa dẫn xuống tầng hầm nhưng nó đã bị khóa. Cánh cửa dẫn xuống hầm đặt máy điện phân là một dạng cửa cuốn, điều khiển bằng dây cáp. Vì vậy cách chọn lựa duy nhất là xuống bằng đường ống đặt cáp. Hai người trong nhóm biệt kích là Joachim Ronneberg và Kayser nhanh chóng trèo lên đỉnh trục rồi trườn người vào lỗ trục. Khéo léo lách qua những bó dây cáp, cả hai xuống đến tầng hầm. Sau khi đã vào bên trong căn hầm đặt các máy điện phân hydro để cho ra amonia cùng sản phẩm phụ là nước nặng, người duy nhất mà nhóm biệt kích gặp là Johansen. Johansen dẫn họ đến hai máy điện phân đang hoạt động. Ngay lập tức Joachim Ronneberg mở ba lô, lần lượt đặt những thỏi thuốc nổ hình cây xúc xích vào tua bin của máy điện phân rồi bấm đồng hồ hẹn giờ để họ đủ thời gian rút lui nhưng trước khi rút, họ sẽ cố bỏ lại khẩu súng tiểu liên Thompson với mục đích đánh lừa quân Đức là lực lượng quân đội Anh tập kích chứ không phải là du kích quân Na Uy, phòng việc quân Đức tàn sát dân địa phương để trả thù. Kết quả: khoảng 3.000 kg nước nặng tức sản lượng của nhà máy trong hoặc tháng bị phá hủy hoàn toàn. Lập tức, 3.000 lính Đức được tung ra để truy lùng nhưng biệt kích SOE bằng ván trượt tuyết đã vượt 400 km đến Thụy Điển, biệt kích khác đi Oslo để hỗ trợ phong trào kháng chiến Milorg. Riêng nhóm điệp viên Na Uy và anh thợ bảo trì Johansen, họ tản mát trong những làng xóm xung quanh như những người dân thường, chờ đợi những nhiệm vụ tiếp theo. Chỉ hai tháng sau, Đức đã cho tái thiết Nhà máy Vemork. Các toán đặc công Na Uy tiếp tục lên kế hoạch tấn công nhưng không thực hiện được do binh lính Đức Quốc xã canh phòng nghiêm ngặt quá. Mãi cho đến cuối năm 1943, phe đồng minh mới tiến hành các cuộc không kích nhắm vào nhà máy này. Giữa tháng 11 năm 1943, Không quân Hoàng gia Anh và Không quân Hoa Kỳ mở đợt tấn công với 143 máy bay ném bom hạng nặng Boeing B-17 Flying Fortress với 711 quả bom. Gần cuối tháng, họ đánh nhà máy thủy điện Rjukan để cắt đứt nguồn cung cấp điện năng cho nhà máy Vermork. Tuy nhiên, do những trận bão tuyết và gió lớn mùa đông đã khiến bom rơi tản mát nên nhà máy Vermork vẫn còn có thể sản xuất nước nặng, thậm chí là nhiều hơn với máy điện phân. Trước tình hình đó, nhà khoa học Otto Hahn đề nghị di chuyển toàn bộ số nước nặng nhà máy Vermork về Đức, lúc ấy có khoảng 1.500 kg. Theo kế hoạch, những thùng nước nặng sẽ đi xe lửa từ nhà máy Vermork xuống thung lũng Rjukan rồi chất lên một chiếc phà, vượt qua hồ Tinn và lại tiếp tục lên xe lửa về Đức và thời gian thực hiện được Otto Hahn ấn định là nửa đêm ngày 20 tháng năm 1944. Trong lúc tại Đức, ngoài 500 kg nước nặng đã thu được từ năm 1940 đến ngày nhà máy bị biệt kích SOE phá hủy, cộng với 1.500 kg sẽ đưa về thì các nhà khoa học hạt nhân Đức cũng khẩn trương xây dựng một nhà máy sản xuất nước nặng khác miền Nam nước Đức, nhằm cung cấp đủ số lượng cần thiết cho một quả bom nguyên tử. Hitler đồng với phương án này. Chỉ ngày sau khi cuộc họp diễn ra, nội dung về việc di chuyển 1.500 kg nước nặng nhà máy Vermork đã được một điệp viên nằm vùng của SOE tại Berlin gửi về London. Không chút chậm trễ, SOE chỉ thị cho Knut Haukelid, điệp viên người Na Uy nằm vùng Vermork, phải tổ chức một cuộc tấn công phá hủy chiếc phà chở nước nặng. Knut Haukelid tuyển dụng được hai người và một trong hai người này là Lier Hansen, thợ máy trên chiếc phà được dùng để chở 1.500 kg nước nặng. Theo kế hoạch, Lier Hansen sẽ đặt kg thuốc nổ trong hầm máy. Sau đó, lợi dụng bóng tối, anh ta sẽ lẻn xuống nước một cách êm thấm rồi bơi vào bờ. Khi phà nổ, xem như Hansen đã thiệt mạng nên gia đình anh ta không sợ bị quân Đức trả thù. 17 giờ 50 phút ngày 20 tháng năm 1944, Lier Hansen khoác chiếc túi đồ nghề lên phà như thường lệ nhưng trong túi có kg thuốc nổ và kíp nổ, còn Knut Haukelid đóng vai một người đưa tiễn thân nhân, đứng gần đó để cảnh giới. Đến 21 giờ 30 tối, chiếc đầu máy xe lửa kéo theo ba toa chở những thùng nước nặng xuất hiện, 12 lính Đức nhanh chóng bốc nó lên phà. Tổng cộng có tất cả 15 thùng. Đến 22 giờ, lại có thêm vài người dân lên phà. dưới hầm máy, Lier Hansen bắt đầu chỉnh đồng hồ hẹn giờ kíp nổ. Đến 23 giờ 20 phút, chiếc phà phát nổ và chìm ngay chỗ nước sâu nhất cùng 14 người dân Na Uy, 12 lính Đức làm nhiệm vụ bốc vác và 15 thùng nước nặng. Ngay sau vụ nổ, lính Đức từ nhà máy Vermork tràn xuống rồi lập các chốt kiểm soát một số vị trí xung quanh hồ. Đến sáng, trên mặt hồ xuất hiện chiếc thùng và điều này có nghĩa là số nước nặng trong thùng không được đổ đúng khối lượng nên nó mới nổi lên. Theo suy đoán của Khối Đồng Minh, có thể nó lại được đưa về Đức nhưng với vài trăm kg nước nặng, quả bom nguyên tử của Hitler chỉ còn là ảo vọng. Với chiến công phá hủy thành công nguồn nước nặng duy nhất của phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Joachim Ronneberg được trao tặng nhiều huân huy chương cao quý cho những cống hiến của mình. Người ta còn cho xây dựng một viện bảo tàng và bức tượng to bằng người thật của Ronneberg trước Tòa thị chính thành phố Ålesund, Na Uy. mặt trước đế chân tượng có khắc dòng chữ "Hòa bình và tự do không tự nhiên mà có". Câu chuyện về biệt đội phá hoại nhà máy Vemork trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã trở thành đề tài và tư liệu cho các nhà làm phim xây dựng thành các bộ phim ăn khách, đồng thời các sử gia cũng viết ra nhiều quyển sách tham khảo hữu ích: Phim "Heroes of Telemark" do Anh sản xuất (1965) Bộ phim dài tập "The Heavy Water War" của Đài Truyền hình NRK Na Uy (2015) *Sách "Hunting Hitler's Nukes: The Secret Race to Stop the Nazi Bomb" (Truy tìm hạt nhân của Hitler: Cuộc chạy đua bí mật ngăn quả bom phát xít) của tác giả Damie Lewis Dự án Manhattan
Cơ quan Hành động đặc biệt Anh quốc SOE
Amoni tungstat là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học Muối này tồn tại dưới dạng chất rắn màu trắng không ổn định, tan tốt trong nước. Nếu cho axit tungstic tác dụng với dung dịch amonia, muối axit sẽ được tạo thành thay vì muối trung hòa. Nhưng axit tungstic hydrat hóa sẽ tạo ra muối trung hòa dạng chất rắn màu trắng, tan trong nước. Nó rất dễ mất amonia. Trộn đúng tỉ lệ wolfram(VI) oxit và dung dịch amonia cũng sẽ tạo ra muối: :WO3 2NH3 H2O (NH4)2WO4 Amoni tungstat không ổn định. thể rắn, nó chỉ được biết đến dưới dạng muối khan. Amoni tungstat trong dung dịch dễ dàng phản ứng với khí hydro sulfide hoặc hydro selenide để tạo ra các muối thio- hoặc selenotungstat. :(NH4)2WO4 2H2X (NH4)2WO2X2 2H2O :(NH4)2WO4 4H2X (NH4)2WX4 4H2O (X S, Se)
Amoni tungstat
Hợp chất amoni
(biệt dược Drixoral) là một loại thuốc kết hợp có chứa các chất kháng histamin maleat và decongestant sulfate Thuốc được sản xuất bởi Schering-Plough và được sử dụng để điều trị các triệu chứng liên quan đến dị ứng và cảm lạnh như ngứa và chảy nước mắt, chảy nước mũi, nghẹt mũi và xoang và hắt hơi. Vì có chứa nên việc mua thuốc Hoa Kỳ đã bị hạn chế nghiêm trọng bởi Đạo luật Dịch bệnh Methamphetamine năm 2005 vì lo ngại rằng bất kỳ sản phẩm nào có chứa pseudoephedrine đều có thể được sử dụng để sản xuất Kể từ năm 2008, Drixoral đã bị nhà sản xuất Merck (trước đây là loại bỏ hoàn toàn khỏi thị trường Mỹ. Trang web của công ty đã cập nhật thuộc tính "thay đổi địa điểm sản xuất" thành "sản phẩm không chắc sẽ có sẵn đến năm 2010".
Drixoral)
Daewoo K3 là súng máy hạng nhẹ được phát triển bởi Hàn Quốc. Nó là loại vũ khí thứ ba của Hàn Quốc sau Daewoo K1 và Daewoo K2. Daewoo K3 được phát triển dựa theo khẩu FN Minimi của Bỉ và khẩu M249 của Hoa Kỳ. Daewoo K3 có hình dáng tương tự khẩu FN Minimi và sử dụng loại đạn 5,56x45mm NATO. Lợi thế của nó là nhẹ hơn khẩu M60 và có thể sử dụng chung hộp đạn của Daewoo K1 và Daewoo K2. Nó có thể gắn chân chống chữ để dùng cho các tổ hoả lực hay gắn trên bệ chống ba chân để bắn vị trí cố định. Hệ thống ngắm của súng này sử dụng thước ngắm và bộ phận xác định chiều gió. Nòng súng được thiết kế để có thể tháo lắp dễ dàng. Cơ chế hoạt động của súng là trích khí và khóa nòng xoay. Daniel Watters. The 5.56 45mm: 2006 ". Gun Zone Kopassus Kopaska Specijalne Postrojbe Republike Indonezije (in Croatian). Hrvatski Vojnik Magazine. "Philippine Army. Army Troopers Newsmagazine Vol.2 No.9 ". Philippine Army. K1 through K7 images K3 image at Modern Firearms Daewoo K3 bắn thử nghiệm
Daewoo K3
Súng máy, Súng Hàn Quốc
Serqueux là một xã thuộc tỉnh Seine-Maritime trong vùng Normandie miền bắc nước Pháp. Lịch sử dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 2006 879 816 767 764 853 987 1089 Starting in 1962: Population without duplicates *Xã của tỉnh Seine-Maritime *Seine-Maritime *Normandy INSEE Serqueux on the Quid website
Serqueux
Xã của Seine-Maritime
Miron Białoszewski (1960). Miron Białoszewski (người đầu tiên bên trái, hàng dưới) cùng với bạn học của mình Tập Mộ của Miron Białoszewski tại Nghĩa trang Powązki Warszawa. Miron Białoszewski sinh ngày 30 tháng năm 1922, Warszawa mất ngày 17 tháng năm 1983, là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà viết kịch và diễn viên người Ba Lan. Białoszewski học ngôn ngữ học tại Đại học Warszawa trong thời kỳ Đức chiếm đóng Ba Lan. Sau khi Khởi nghĩa Warszawa kết thúc, ông bị đưa đến trại lao động Đức Quốc Xã, và trở về Warszawa vào cuối Thế chiến II. Ban đầu, ông làm việc tại bưu điện trung tâm, sau đó ông là phóng viên của một số tạp chí nổi tiếng và tạp chí dành cho trẻ em. Năm 1955, Białoszewski tham gia thành lập một nhà hát nhỏ tên là Teatr na Tarczyńskiej, nơi ông công chiếu các vở kịch Wiwisekcja và Osmędeusze của mình, và diễn cùng với Ludmiła Murawska. Cùng năm, Białoszewski cùng với nhà thơ Ba Lan nổi tiếng Zbigniew Herbert đăng bài viết trên tạp chí Życie literackie Białoszewski là người đồng tính và trong nhiều năm, anh ta chung một căn hộ tại số phố Dąbrowskiego với người bạn đời của mình, họa sĩ Leszek Soliński. Cuốn hồi ký được đánh giá cao, Pamiętnik powstania warzawskiego ("Hồi ký về khởi nghĩa Warszawa ") được xuất bản năm 1970 (và được dịch sang tiếng Anh năm 1977). Năm 1982, ông được trao Giải thưởng Jurzykowski bởi Quỹ Alfred Jurzykowski có trụ sở tại New York. Ông qua đời vì một cơn đau tim vào ngày 17 tháng năm 1983. Nhiều giấy mực dành cho việc phân tích phê bình các tác phẩm của Białoszewski đáng chú nhất là của các nhà văn và học giả như Czesław Miłosz, Maria Janion, Stanisław Barańczak, Jan Błoński, Kazimierz Wyka và Artur Sandauer. :* Obroty rzeczy (1956) :* Rachunek zachciankowy (1959) :* Mylne wzruszenia (1961) :* Było było (1965) :* Wiersze (1976) :* Poezje wybrane (1976) :* Miron Białoszewski trong tập thơ Poeci Polscy (1977) :* Odczepić się (1978) :* Wiersze wybrane dobrane (1980) :* Trzydzieści lat wierszy (1982) :* Oho (1985) :* Teatr Osobny (1973) :* Rozkurz (1980) :* Stara proza nowe wiersze (1984) :* Obmapywanie Europy. Aaameryka. Ostatnie wiersze (1988 di cảo) :* Pamiętnik powstania (1970) Bản dịch tiếng Anh của Madeline Levine: A Memoir of the Warszawa Uprising (1977, 1991) :* Donosy (1973) :* Szumy, zlepy, ciągi (1976) :* Zawał (1977) :* sobie (1981) :* Konstancin'' (1991 di cảo) Văn học Ba Lan bằng tiếng Anh. Bản dịch: Miron Białoszewski Miron Białoszewski tại Culture.pl The Kingdom of Insignificance: Miron Białoszewski and the Quotidian, the Queer, and the Traumatic Hồi ký về cuộc nổi dậy Warszawa Thơ Ba Lan thời hậu chiến Hybrid Humour: Comedy in Transcultural Perspectives The Historicity of Experience: Modernity, the Avant-Garde, and the Event Miron Bialoszewski: Radical Quest Beyond Dualisms
Miron Białoszewski
Nhà thơ LGBT, Nhà văn đồng tính nam, Mất năm 1983, Sinh năm 1922
Al Qatrun, Al Katrun, Gatrone, hay Al Gatrun (القطرون trong tiếng Rập) là một ngôi làng tại quận Murzuq miền nam Libya trên con đường chính giữa Tchad và Niger. Nơi đây có một lãnh sự quán của Niger. Trạm kiếm soát biên giới cách làng 310 km về phía nam tại Tumu đã bị đóng cửa, những người muốn nhập cảnh Libya từ Niger sẽ đến Al Qatrun. Satellite map of al-Qatrun at Maplandia.com Search for Al Qatrun in the MSN Encarta atlas
Al Qatrun
Khu dân cư Libya
Tập tin:Naga Jolokia Ấn Độ Naga Jolokia (naga morich, bhut jolokia), một trong những giống ớt cay nhất thế giới với mức độ 1.040.000 SHU. Thang đo Scoville biểu thị mức độ cay của các loại ớt do một dược sỹ người Mỹ Wilbur Scoville đề xuất năm 1912 khi ông làm việc tại công ty Parke Davis Detroit. Mục đích của ông là xây dựng một phương pháp nhằm đo lường hàm lượng capsaicin, hợp chất hóa học tạo ra độ cay của ớt thông qua cơ quan cảm giác. Để xác lập thang đo, ban đầu Wilbur Scoville pha tinh chất ớt tươi với nước đường. Hợp chất này do một nhóm (thường là năm người) thử, nếu vẫn còn cảm thấy cay thì tiếp tục pha loãng. Khi gần như không còn cảm giác cay nữa thì mức độ pha loãng sẽ được dùng để xác định độ cay của ớt. Chẳng hạn, một loại ớt không có chất capsaicin thì có độ cay bằng không, có nghĩa là ngay cả khi không pha loãng thì cũng vẫn thấy không cay. Đối với các loại ớt cay thì một độ cay 300.000 có nghĩa là tinh chất từ ớt này phải được pha loãng 300.000 lần thì mới không còn cảm nhận được có chất capsaicin. Phương pháp này có điểm yếu là dựa vào cảm nhận chủ quan của người thử vì không phải ai cũng cảm nhận giống nhau (ví dụ người Thái và người châu Âu sẽ cảm nhận độ cay khác nhau). Độ Scoville Loại ớt Naga Jolokia 350.000–577.000 Red Savina Habanero 100.000–350.000 Ớt Habanero, ớt Scotch bonnet 100.000–200.000 Rocoto, ớt cay Jamaica, Piri piri 50.000–100.000 Ớt mắt chim, ớt Malagueta, ớt Chiltepin, ớt Pequin 30.000–50.000 Ớt Cayenne, ớt Ají ớt Tabasco 10.000–23.000 Ớt Serrano 7.000–8.000 Xốt Tabasco 5.000–10.000 Ớt Wax 2.500–8.000 Ớt Jalapeño 4.500–5.000 Ớt New Mexico 2.500–5.000 Xốt Tabasco (ớt Tabasco) 1.500–2.500 Ớt Rocotillo 1.000–1.500 Ớt Poblano, xốt Texas Pete 600–800 Xốt Tabasco (ớt xanh) 500–2500 Ớt Anaheim 100–500 Pimento Pepperoncini, Tabasco sauce (Sweet Spicy) Ớt chuông Độ Scoville Loại chất 16,000,000,000 Resiniferatoxin 5,300,000,000 Tinyatoxin 16,000,000 Capsaicin 15,000,000 9,200,000 Nonivamide 9,100,000 8,600,000 Homocapsaicin, 160,000 Shogaol 100,000 Piperine 60,000 Gingerol 16,000 Capsiate Để thuận tiện khi sử dụng trong ngành ẩm thực, độ Scoville cũng được trình bày dưới dạng bảng đếm từ đến 10. Bảng Scoville giản hóa Độ Cảm nhận (chủ quan) Đơn vị Scoville Ví dụ Không cay 100 Tiêu, ớt Hàn Quốc Hơi cay 100 500 Paprika mềm Khá cay (the the) 500 1.000 Ớt Anaheim Cay 1000 1.500 Ớt Ancho Cay nóng (cay nồng) 1500 2500 Ớt Espelette Cay mạnh 2500 5000 Ớt Chimayo Cay cháy lưỡi (cay xé lưỡi) 5000 15.000 Ớt Cayenne Cay bỏng lưỡi 15.000 30.000 Ớt Cascabel Cay như thiêu đốt 30.000 50.000 Ớt Árbol Phát hỏa (cay xóc) 50.000 100.000 Ớt tabasco 10 Bùng nổ 100.000 trở lên Ớt habanero
SHU
Gia vị, Đơn vị đo
là thành phố thủ đô của Aruba. Thành phố này có 32.748 dân (năm 2008). Thành phố Oranjestad nằm bờ nam của đảo, gần khu vực cuối phía tây. Thị xã này được xây xung quanh pháo đài Zoutman ngay sau khi pháo đài này được xây năm 1796 và Oranjestad đã trở thành thủ đô của Aruba kể từ đó. Tên thành phố này được đặt tên theo vua Willem van Oranje-Nassau (William of Orange-Nassau), người thừa kế thứ nhất của triều Orange. Một phần thành phố này được tạo dựng bằng một loạt các đợt lấn biển. Oranjestad có Sân bay quốc tế Queen Beatrix nằm cách trung tâm 2,5 km. Oranjestad có Universiteit van Aruba, một trường đại học chuyên về các ngành luật và kinh tế.
null
là một chi thực vật có hoa trong họ, Orchidaceae. *Danh sách các chi Phong lan Tập tin:Platanthera psycodes.jpg Tập tin:Platanthera algeriensis.jpg *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (1999). Genera Orchidacearum 1. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2001). Genera Orchidacearum 2. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2003). Genera Orchidacearum 3. Oxford Univ. Press *Berg Pana, H. 2005. Handbuch der Dictionary of Orchid Names. Dizionario dei nomi delle orchidee. Ulmer, Stuttgart
null
Diphylax, Danh sách các chi phong lan
Hạng Tỉnh Tiếng Nhật Diện tích Hokkaidō 北海道 83.452,47 Iwate 岩手県 15.278,51 Fukushima 福島県 13.782,54 Nagano 長野県 12.598,48 Niigata 新潟県 12.582,37 Akita 秋田県 11.612,11 Gifu 岐阜県 10.598,18 Aomori 青森県 9.606,26 Yamagata 山形県 9.323.34 10 Kagoshima 鹿児島県 9.132,42 11 Hiroshima 広島県 8.476,95 12 Hyōgo 兵庫県 8.392,42 13 Shizuoka 静岡県 7.328,61 14 Kochi 高知県 7.104,70 15 Okayama 岡山県 7.008,63 16 Kumamoto 熊本県 6.908,45 17 Miyagi 宮城県 6.861,51 18 Shimane 島根県 6.707,32 19 Miyazaki 宮崎県 6.684,67 20 Tochigi 栃木県 6.408,28 21 Gunma 群馬県 6.363,16 22 Yamaguchi 山口県 6.110,76 23 Ibaraki 茨城県 6.095,62 24 Ōita 大分県 5.804,24 25 Mie 三重県 5.776,40 26 Ehime 愛媛県 5.676,44 27 Chiba 千葉県 5.156,15 28 Aichi 愛知県 5.153,81 29 Fukuoka 福岡県 4.971,01 30 Wakayama 和歌山県 4.725,55 31 Kyoto 京都府 4.612,93 32 Yamanashi 山梨県 4.465,37 33 Toyama 富山県 4.247,22 34 Fukui 福井県 4.188,76 35 Ishikawa 石川県 4.185,32 36 Tokushima 徳島県 4.145,26 37 Nagasaki 長崎県 4.092,80 38 Shiga 滋賀県 4.017,36 39 Saitama 埼玉県 3.767,09 40 Nara 奈良県 3.691,09 41 Tottori 鳥取県 3.507,19 42 Saga 佐賀県 2.439,23 43 Kanagawa 神奈川県 2.415,42 44 Okinawa 沖縄県 2.271,30 45 Tokyo 東京都 2.187,08 46 Osaka 大阪府 1.893,18 47 Kagawa 香川県 1.861,70 Ghi chú: km² Xem thêm === Danh sách các tỉnh Nhật Bản theo dân số
null
Đại dịch COVID-19 đã được ghi nhận lần đầu tiên tại Curaçao vào ngày 13 tháng năm 2020. Trường hợp là một người đàn ông 68 tuổi đang đi nghỉ Hà Lan. Vào ngày 13 tháng năm 2020, Thủ tướng Eugene Rhuggenaath đã công bố trường hợp xác nhận đầu tiên về coronavirus tại nước này một người đàn ông 68 tuổi đến từ Hà Lan và đang đi nghỉ Curaçao. Trường hợp thứ hai đã được dự kiến vì nó là người phối ngẫu của trường hợp đầu tiên. Kể từ đó, tất cả những người đã tiếp xúc với cặp đôi này đã được thử nghiệm. Hầu hết các trường hợp được đưa ra âm tính nhưng kết quả của hai trường hợp vẫn không chắc chắn và đang được theo dõi. Sau thông báo, nước này tuyên bố rằng tất cả các chuyến bay đến từ châu Âu sẽ bị tạm dừng. Vào ngày 18 tháng năm 2020, trường hợp được chẩn đoán đầu tiên nước này (người đàn ông 68 tuổi người Hà Lan) đã chết tại Trung tâm tế Curaçao. Hai trường hợp khác vẫn đang được điều trị kể từ ngày 23. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, Curaçao ghi nhận 45,986 trường hợp nhiễm COVID-19 và 295 trường hợp tử vong.
null
Nhà đầu tư là người tham gia vào một hay nhiều vụ đầu tư dưới các hình thức khác nhau. Nhà đầu tư có thể là một cá nhân, một doanh nghiệp, một tổ chức. Phần lớn các nhà đầu tư khi bỏ tiền ra đầu tư đều nhằm thu về lợi ích kinh tế, đó là hoạt động đầu tư kinh doanh, sản xuất. Một số ít hơn, thường là đơn vị thuộc nhà nước, đầu tư công cộng nhằm mang lại lợi ích cho xã hội, như việc xây dựng các công trình dân sinh, phúc lợi. Các nhà đầu tư bao gồm: các tổ chức tín dụng Nhà nước và tư nhân như ngân hàng, các công ty tài chính, các quỹ tín dụng, các nhà đầu tư cá nhân, giới phân tích tài chính và báo chí lĩnh vực tài chính,... Cụm từ này còn được dùng trong ngành tài chính nhằm miêu tả một nhóm người hay công ty thường xuyên mua chứng khoán, cổ phiếu hay trái phiếu để có được lãi tài chính đánh đổi cho việc cung cấp vốn để phát triển một công ty nào đấy. Cụm từ này cũng áp dụng cho những cá nhân hay tổ chức mua và nắm giữ các tài sản trong một thời gian dài với phân tích và nhận định sẽ có được lãi vốn, không vì thu nhập ngắn hạn. Để định nghĩa rõ hơn về nhà đầu tư, có thể tham khảo thêm định nghĩa của Benjamin Graham về đầu tư: "Hoạt động đầu tư là một quá trình, thông qua phân tích kỹ lưỡng và cẩn trọng, có thể đảm bảo an toàn vốn và thu lời thỏa đáng. Tất cả những hoạt động không đáp ứng được những yêu cầu trên là đầu cơ."
Nhà đầu tư
Quỹ đầu tư, Nghề nghiệp tài chính, Nhà đầu tư
'''Tổng là một tổng tỉnh trong vùng d'Azur. Tổng gồm xã với dân số 10 591 người (điều tra năm 1999, dân số không tính trùng) Manosque 145 (1) 04100 04112 Montfuron 166 04110 04128 Pierrevert 280 04860 04152 (1) một phần của xã. Quận của Tổng của Xã của Danh sách các tổng ủy viên hội đồng của Tổng trên trang mạng của Insee Vị trí của tổng trên bản đồ nước Pháp
null
là một xã, nằm tỉnh Vosges trong vùng Grand Est của Pháp. Xã này có diện tích 8,21 km², dân số năm 1999 là 207 người. Xã này nằm khu vực có độ cao trung bình 490 trên mực nước biển. Biến động dân số (Nguồn: INSEE) 1962 1968 1975 1982 1990 1999 188 239 182 193 201 207 Số liệu từ năm 1962: Dân số không tính trùng trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia
null
Xã của Vosges
Graeme Carr (sinh ngày 28 tháng 10 năm 1978) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh. Ông thi đấu 11 trận cho Scarborough tại Football League Third Division mùa giải 1998–99.
Graeme Carr
Sinh năm 1978, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Anh, Hậu vệ bóng đá, Cầu thủ bóng đá Scarborough F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League, Cầu thủ bóng đá Workington A.F.C.
là một loại thuốc được sử dụng trong tiết niệu như một thuốc chống co thắt. Nó làm thư giãn các cơ trơn và được sử dụng để làm giảm trương lực bàng quang trong điều trị tần suất tiết niệu và tiểu không tự chủ. Thư giãn cơ gây ra bởi terodiline, có lẽ là do hoạt động đối kháng anticholinergic và calci. Tuy nhiên, nó cũng chặn các kênh IKr (Kv11.1) (xem gen hERG) vì vậy có thể gây rủi ro cho các điểm xoắn. Độc tính trên tim này phụ thuộc vào nồng độ.
null
Amin
Aegiphila macrantha là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được Ducke mô tả khoa học đầu tiên năm 1925. Tập tin:Aegiphila macrantha Ducke Tập tin:Aegiphila macrantha Ducke Tập tin:Aegiphila macrantha Ducke Tập tin:Aegiphila macrantha Ducke
''Aegiphila macrantha
Aegiphila
Jdidet Eljisr (), cũng được phiên âm là Judaydat al-Jisr, là một ngôi làng Syria nằm Al-Janudiyah Nahiyah huyện Jisr al-Shughur, Idlib. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), Jdidet Eljisr có dân số 407 trong cuộc điều tra dân số năm 2004. Đó là một ngôi làng Kitô giáo.
Jdidet Eljisr
Đây là danh sách các lâu đài Belarus. *Babruysk fortress *Brest Fortress, được biết đến với tên Brest-Litovsk fortress *Hrodna Old Castle *Hrodna New Castle *Hnezna Church *Hajciunishki *Halshany Castle *Tower of Kamyanyets *Kletsk Castle *Kopys *Kosava, Belarus *Kreva Castle *Liahavichy *Lida Castle *Lubcha Castle *Quần thể lâu đài Mir *Muravanka Church *Navahrudak Castle *Lâu đài Nesvizh *Pischalauski *Ruzhany Palace *Smalyany Castle *Slutsk Castle *Shklow Castle *Synkavichy Castle *Svislach Castle *Zaslawye
null
Lâu đài Belarus, Danh sách lâu đài châu Âu
Vùng trũng Sian hoặc lưu vực Oversian () là một vùng đất thấp nằm biên giới giữa Ba Lan và Ukraine dọc theo sông San. Hầu hết khu vực này nằm Ba Lan ngoại trừ một phần nhỏ phía đông nam là Ukraine. Vùng đất thấp nằm giữa Vùng cao Malopolska, Carpathian Foothills, Vùng cao Opillia và Roztochia. phía đông nam, nó kéo dài đến Vùng trũng Dniester qua Phân chia San-Dniester. Vùng trũng Sian là một vùng trũng kiến tạo dọc theo chân đồi của dãy núi Carpathian được lấp đầy bởi tầng Miocene (dày lên tới bao phủ bởi băng và bồi tụ phù sa. Nó bao gồm các cao nguyên trên cao (cao nhất là Tarnohorod) bị chia cắt bởi các thung lũng của các dòng sông, như sông Tanew, sông Liubachivka, sông Shklo và sông Vyshnia. Hoàng thổ có thể được tìm thấy các phần của cao nguyên, và cồn cát nằm một số vùng cát của nó. Một phần lớn các khu rừng vùng đất thấp đã bị chặt phá, mặc dù rừng thông xen lẫn linh sam và bạch dương xảy ra vùng cát của khu vực, và rừng linh sam trộn lẫn với cây trăn và cây phong mọc trên đất nặng hơn. Vùng đất thấp có mật độ dân số 80 người km 2; dân số chủ yếu là (75%) người nông thôn. Sian Lowland tại Bách khoa toàn thư của Ukraine
Vùng trũng Sian
Đồng bằng Ba Lan
Phấn mắt tím đậm thoa một bên mắt Phấn mắt là một loại mỹ phẩm tô thoa trên mí mắt và dưới lông mày. Thường được dùng để khiến cho đôi mắt người thoa nổi bật hoặc trông hấp dẫn hơn. Phấn mắt có thể tăng chiều sâu và chiều rộng cho đôi mắt, bổ sung màu mắt, khiến cho đôi mắt trông lớn hơn, hoặc chỉ cần thu hút sự chú vào mắt. Phấn mắt có nhiều màu sắc và kết cấu khác nhau. Thường dạng phấn bột và mica, nhưng cũng có thể dạng lỏng, bút chì, kem hoặc mousse. Các nền văn minh trên toàn thế giới sử dụng phấn mắt chủ yếu nữ giới nhưng cũng đôi khi nam giới. Trong xã hội phương Tây, nó được xem như loại mỹ phẩm nữ tính, ngay cả khi được nam giới sử dụng. Theo phong cách Gothic, phấn mắt màu đen hoặc màu sẫm tương tự và các loại trang điểm mắt khác phổ biến cả hai giới. Nhiều người sử dụng phấn mắt chỉ để cải thiện diện mạo của họ, nhưng nó cũng thường được sử dụng trên sân khấu và các vở kịch khác, để tạo nên cái nhìn đáng nhớ, với màu sắc tươi sáng, đậm. Tùy thuộc vào sắc tố và tông màu da, ảnh hưởng của phấn mắt thường đem đến vẻ quyến rũ và thu hút sự chú ý. Sử dụng phấn mắt cố gắng tái tạo hình bóng mắt tự nhiên mà một số phụ nữ thể hiện do màu sắc tương phản tự nhiên trên mí mắt của họ. Phấn mắt tự nhiên có thể bao phủ bất cứ nơi nào từ bóng láng bóng cho đến mí mắt, đến tông màu hồng hào, hoặc thậm chí ánh nhìn màu bạc.
Phấn mắt
Mỹ phẩm
Merouane Anane (sinh ngày 31 tháng năm 1990 Algiers) là một cầu thủ bóng đá người Algérie. Hiện tại anh thi đấu cho CR Belouizdad Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Algérie. Ngày 25 tháng năm 2010, Anane ra mắt cho CR Belouizdad khi đá chính trước MC Saïda tại vòng đầu tiên của Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Algérie 2010–11. Anane bị thay ra phút 60 và CR Belouizdad thất bại 2-1. Ngày 30 tháng 11 năm 2011, Anane được triệu tập vào đội tuyển U-23 quốc gia Algérie bởi huấn luyện viên Azzedine Aït Djoudi vào trại tập luyện ngày Algiers. Ngày 16 tháng 11 năm 2011, anh được lựa chọn vào đội hình của Algérie tham dự Giải vô địch bóng đá U-23 châu Phi 2011 Maroc.
Merouane Anane
Sinh năm 1990, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Algérie, Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Algérie, Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Algérie, Cầu thủ bóng đá CR Belouizdad, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá U-23 châu Phi 2011, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Algérie, Nhân vật thể thao từ Algiers
Sở thú Děčín (tiếng Séc: Zoologická zahrada Děčín Pastýřská stěna) là một sở thú (vườn thú) thành phố Děčín, Cộng hòa Séc. Sở thú Děčín được thành lập vào năm 1948, và chính thức mở cửa vào năm 1949. Nhà sáng lập là doanh nhân Děčín Ludvík Grác. Trong những năm sở thú bắt đầu hoạt động, có khoảng 40 đến 50 loài động vật sinh sống đây, chẳng hạn như: Các loài gấu, khỉ đầu chó, sói Carpathian, hươu sao, cừu Mouflon, kền kền, gà lôi, cò và diệc. Năm 1956, vườn thú đón thêm một con sư tử, một cặp lạc đà, một con linh cẩu và một con vạc. Trong những năm tiếp theo, số lượng loài không ngừng tăng lên với những cái tên như: nhím, đà điểu emu, lạc đà không bướu và gấu trúc. Năm 1958, số lượng động vật đây đạt khoảng 300 con thuộc 98 loài và khoảng 200 con cá cảnh. Theo thống kê đến năm 2014, sở thú Děčín có khoảng 400 động vật thuộc hơn 150 loài, trong số đó có nhiều loài quý hiếm khó gặp Cộng hòa Séc. Sở thú Děčín là thành viên của các tổ chức có quy mô châu Âu và thế giới, chẳng hạn như: Hiệp hội vườn thú và thủy cung thế giới (WAZA) Liên minh các vườn thú Séc và Slovakia (UCSZ) Hiệp hội vườn thú và thủy cung châu Âu (EAZA) Hiệp hội các nhà giáo dục vườn thú quốc tế (IZE) Hệ thống thông tin loài quốc tế (ISIS). Trang web chính thức (bằng tiếng Séc)
Sở thú Děčín
Sở thú Cộng hòa Séc
USS Walke (DD-723) là một tàu khu trục lớp Allen M. Sumner được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Chuẩn đô đốc Henry A. Walke (1809–1896), người tham gia cuộc Chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ và cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, và tiếp tục phục vụ sau đó trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam cho đến khi xuất biên chế năm 1974 và bị bán để tháo dỡ một năm sau đó. Walke được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, thêm bốn Ngôi sao Chiến trận nữa trong Chiến tranh Triều Tiên, và thêm bảy Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Việt Nam. Walke được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bath Iron Works Corp. Bath, Maine vào ngày tháng năm 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 10 năm 1943; được đỡ đầu bởi bà Douglas Dillon, và nhập biên chế tại Xưởng hải quân Boston vào ngày 21 tháng năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân John C. Zahm. Sau khi được trang bị tại Xưởng hải quân Boston, Walke khởi hành vào ngày 12 tháng năm 1944 để đi Washington, D.C., nơi nó viếng thăm từ ngày 14 đến ngày 18 tháng trước khi hướng đến khu vực quần đảo Bermuda để chạy thử máy và huấn luyện. Nó quay trở về Boston, Massachusetts vào ngày 19 tháng để bảo trì trước khi đi đến Norfolk, Virginia để thực tập tiếp nhiên liệu qua mạn tốc độ cao cùng với tàu chở dầu dưới sự chứng kiến của các quan chức thuộc Văn phòng Tàu chiến. Sang đầu tháng 4, nó di chuyển từ Hampton Roads đến Key West, Florida, nơi nó thử nghiệm thiết bị sonar mới trong chiến tranh chống tàu ngầm. Hoàn thành nhiệm vụ vào ngày 17 tháng 4, con tàu quay trở lại Norfolk, đến nơi hai ngày sau đó, và trải qua một tháng tiếp theo huấn luyện các ê-kíp hạt nhân thủy thủ đoàn mới cho những tàu khu trục mới được chế tạo. Vào ngày 12 tháng 5, Walke lên đường đi New York, đến nơi vào ngày hôm sau, để rồi lại lên đường hướng sang vùng biển Châu Âu một ngày sau đó để tham gia cuộc Đổ bộ Normandy. Nó đi đến Greenock, Scotland vào ngày 24 tháng 5, và trong thành phần Đội khu trục 119 nó tham gia cuộc đổ bộ từ ngày tháng đến ngày 26 tháng 6. Trong các ngày và tháng 6, nó đã bắn phá bờ biển, phá hủy các công sự và vị trí súng máy đối phương cũng như giúp đánh trả các đợt phản công của các đơn vị thiết giáp Đức. Trong các ngày 23 và 24 tháng 6, nó hỗ trợ các hoạt động quét mìn trong hoạt động bắn phá Cherbourg và đấu pháo tay đôi với những khẩu đội pháo bờ biển đối phương. Khi các đơn vị trên bộ của phe Đồng Minh đẩy cuộc chiến lui sâu vào lục địa bên ngoài tầm hải pháo, Walke rời vùng biển Châu Âu vào ngày tháng 7, về đến Xưởng hải quân Boston vào ngày tháng 7; sau khi được sửa chữa, rồi huấn luyện ôn tập ngoài khơi Casco Bay, Maine trước khi khởi hành hướng xuống phía Nam, đi đến Norfolk vào ngày 26 tháng 8. Bốn ngày sau, nó rời Norfolk hộ tống cho tàu sân bay để đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương, ngang qua kênh đào Panama và San Diego, California, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 9. Chiếc tàu khu trục thực hành huấn luyện tại vùng biển quần đảo Hawaii trong gần một tháng, rồi lên đường vào ngày 23 tháng 10 trong thành phần hộ tống cho thiết giáp hạm Đi ngang qua Eniwetok và đảo Manus, nó đi đến Ulithi vào ngày tháng 11, nơi nó gia nhập Đội đặc nhiệm 38.4 thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 38, lực lượng tàu sân bay nhanh của Đệ tam Hạm đội. Walke cùng đội đặc nhiệm khởi hành ngay ngày hôm đó cho một loạt các cuộc không kích xuống các mục tiêu tại Philippines. Nó quay trở về Ulithi vào ngày 22 tháng 11, thả neo tại đây cho đến ngày 27 tháng 11, khi nó cùng Đội khu trục 60 lên đường hướng đến Philippines. Nó đi đến vịnh San Pedro tại đảo Leyte vào ngày 29 tháng 11, nơi nó gia nhập Đội đặc nhiệm 77.2 thuộc Đệ thất Hạm đội để hoạt động trong vịnh Leyte. Nó quay trở lại vịnh San Pedro vào ngày tháng 12, lại đây cho đến ngày tháng 12, khi nó lên đường cùng Đội đặc nhiệm 78.3 để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên vịnh Ormoc bên bờ biển phía Tây đảo Leyte. Binh lính của Sư đoàn 77 Bộ binh đổ bộ lên bờ vào ngày tháng 12 mà chỉ gặp sự kháng cự trên bộ yếu ớt, nhưng phía Nhật Bản tung ra những cuộc tấn công tự sát hàng loạt bằng máy bay Kamikaze nhắm vào các tàu chiến tham gia cuộc tấn công. Nó đã trợ giúp cho tàu khu trục khi ba trong số chín chiếc Kamikaze tấn công đã đâm trúng con tàu bạn; sau khi cứu vớt những người sống sót, nó đánh đắm Mahan bằng ngư lôi và hải pháo. Trên đường quay trở lại vịnh San Pedro vào ngày hôm sau, nó giúp bắn rơi một máy bay tấn công; và sau khi về đến nơi an toàn, nó hoạt động trong khu vực vịnh San Pedro và vịnh Leyte cho đến ngày 13 tháng 12. Walke lên đường cùng Đội đặc nhiệm 77.3 để hỗ trợ cho cuộc tấn công lên Mindoro, trong thành phần Lực lượng Hỗ trợ gần dưới quyền Chuẩn đô đốc Berkley, bao gồm một tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và sáu tàu khu trục khác. Nó đi đến ngoài khơi hòn đảo vào ngày 15 tháng 12, hộ tống bảo vệ phòng không và chống tàu ngầm cho các tàu chiến hạng nặng, và đã tham gia phá hủy tàu khu trục Nhật Wakaba bị mắc cạn trước đó. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nó quay trở lại vịnh Leyte, bị nhiều máy bay đối phương tấn công trên đường đi nhưng đã chống trả có kết quả, và về đến vịnh San Pedro an toàn vào ngày 18 tháng 12. Walke (giữa bên phải), cùng với thiết giáp hạm và hai tàu khu trục khác bảo vệ cho cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen, tháng 1, 1945 Walke lại Leyte cho đến ngày tháng 1, 1945, khi nó lên đường hướng sang vịnh Lingayen để tham gia cuộc tấn công lên Luzon. Những tàu quét mìn Hoa Kỳ tiến vào vịnh bốn ngày sau đó, và chiếc tàu khu trục đã hộ tống cho chúng để hỗ trợ hỏa lực và phòng không. Trong ngày hôm đó, bốn máy bay tiêm kích lục quân Nakajima Ki-43 "Oscar" tiếp cận chiếc tàu khu trục từ bên mạn phải phía mũi tàu, bay sát mặt nước. Con tàu đã nổ súng vào những kẻ tấn công, thành công trong việc bắn rơi hai chiếc đi đầu; tuy nhiên chiếc thứ ba cho dù bị bắn trúng nhiều phát vẫn lao vào, đâm trúng cầu tàu của Walke bên mạn trái, bùng lên thành một quả cầu lửa. Quả bom nó mang theo không phát nổ nhưng xuyên qua suốt con tàu cạnh trung tâm thông tin tác chiến. Chiếc tàu khu trục bị mất điện, liên lạc vô tuyến và radar, cũng như hệ thống điều khiển hỏa lực dàn pháo chính và ngư lôi. Hai phút sau khi bị chiếc Kamikaze thứ nhất đâm trúng, chiếc máy bay "Oscar" tấn công tự sát thứ tư tiếp cận từ phía đuôi bên mạn phải; nó bị hỏa lực phòng không của tháp pháo 5-inch số được điều khiển tại chỗ cùng các khẩu Bofors 40 mm và Oerlikon 20 mm bên mạn phải đối đầu. Đối thủ bị bắn cháy và rơi xuống biển trước khi đến được mục tiêu, giúp cho con tàu tránh khỏi bị đâm trúng thêm lần thứ hai. Không lâu sau đó, việc điều khiển con tàu được chuyển sang tháp chỉ huy phụ phía đuôi và các đám cháy được kiểm soát sau 15 phút. Trong suốt trận chiến, cho dù bị thương nặng và bị bỏng, Hạm trưởng của Walke, Trung tá Hải quân George F. Davis vẫn tiếp tục điều khiển con tàu và chỉ huy những hoạt động của thủy thủ đoàn để cứu con tàu. Chỉ sau khi biết chắc con tàu nổi được và an toàn, ông mới chuyển giao quyền chỉ huy cho hạm phó để được cứu chữa. Trung tá Davis qua đời do vết thương quá nặng nhiều giờ sau đó; ông được truy tặng Huân chương Danh dự do đã hoạt động dũng cảm quên mình, và còn tiếp tục được vinh danh khi tên ông được đặt cho một tàu khu trục lớp Forrest Sherman, chiếc Walke tiếp tục hoạt động cùng Đội đặc nhiệm 77.2 cho đến khi cuộc đổ bộ diễn ra vào ngày tháng 1. Nó rời khu vực vào ngày hôm sau cùng Đơn vị Đặc nhiệm 78.4.2 để quay trở về Leyte, về đến vịnh San Pedro vào ngày 13 tháng 1. Nó được sửa chữa tạm thời trong hai ngày, rồi lên đường hướng đến quần đảo Admiralty, và tiếp tục được sửa chữa tại Manus từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 1. Con tàu tiếp tục hành trình quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Trân Châu Cảng, đi vào Xưởng hải quân Mare Island vào ngày tháng 2, nơi nó được sửa chữa triệt để những hư hại trong chiến đấu. Sau khi việc sửa chữa hoàn tất vào ngày tháng 4, chiếc tàu khu trục lại lên đường đi sang vùng chiến sự, ngang qua Trân Châu Cảng, Eniwetok và Ulithi. Walke tham gia Chiến dịch Okinawa từ ngày 10 tháng 5, thoạt tiên trong vai trò cột mốc radar canh phòng để cảnh báo sớm các cuộc không kích tự sát của đối phương và dẫn đường cho máy bay tiêm kích làm nhiệm vụ tuần tra chiến đấu trên không (CAP). Đến ngày 24 tháng 6, nó được lệnh gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 32, lực lượng hỗ trợ đổ bộ, và hoạt động cho đến ngày 23 tháng 7. Con tàu rời khu vực quần đảo Ryūkyū vào ngày hôm sau hộ tống một lực lượng đặc nhiệm đi đến Leyte, rồi được bảo trì tại vịnh San Pedro từ ngày 28 tháng đến ngày 14 tháng 8. Nó cùng tàu khu trục chị em lên đường để gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm 38, nhưng chỉ gia nhập Đội đặc nhiệm 38.3 vào ngày 18 tháng 8, ba ngày sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng kết thúc cuộc xung đột. Con tàu chuyển sang hộ tống cho Đội đặc nhiệm 38.1 từ ngày 10 tháng 9. Walke lại vùng biển Nhật Bản cho đến ngày 30 tháng 9, khi nó lên đường quay trở về vùng bờ biển Tây Bắc Hoa Kỳ ngang qua Guam, về đến Seattle, Washington vào ngày 24 tháng 10, và hoạt động dọc theo vùng bờ Tây cho đến mùa Xuân năm sau. Nó khởi hành từ San Diego vào ngày 18 tháng 3, 1946 cho một chuyến đi đến Trân Châu Cảng, quay trờ về San Diego vào ngày 10 tháng 4, và lại đây cho đến ngày 13 tháng 5. Nó lại đi đến quần đảo Hawaii vào ngày 19 tháng 5, rồi tiếp tục hành trình hai ngày sau đó hướng sang phía Tây về phía quần đảo Marshall. Con tàu đi đến đảo san hô Bikini vào ngày 26 tháng 5, và trong hai tháng tiếp theo đã tham gia Chiến dịch Crossroads, những cuộc thử nghiệm bom nguyên tử tại hòn đảo này. Nó quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 8, nhưng tiếp tục hành trình ngay ngày hôm sau để quay về vùng bờ Tây, về đến San Diego vào ngày 22 tháng 8. Nó trải qua ba tháng tiếp theo được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island. Sau khi hoàn tất việc đại tu, Walke quay trở lại San Diego vào ngày 15 tháng 11, và lại đây cho đến hết năm đó. Vào ngày tháng 1, 1947, nó rời San Diego để đi Trân Châu Cảng, nơi nó hoạt động cùng tàu sân bay và sau đó là với chiếc trong một nhiệm vụ đặc biệt do Tư lệnh Không lực Hạm đội Thái Bình Dương đỡ đầu. Hoàn thành nhiệm vụ này vào ngày tháng 5, nó tham gia một đơn vị được cử đến Sydney, Australia để tham dự lễ kỷ niệm Trận chiến biển Coral. Con tàu quay trở về San Diego vào giữa tháng 6, và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 30 tháng 6, 1947. USS Walke ngoài khơi Triều Tiên, khoảng năm 1952-1953. Sau khi bị bỏ không gần ba năm cùng Đội San Diego, Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, Walke được cho nhập biên chế trở lại vào ngày tháng 10, 1950 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Marshall F. Thompson. Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện dọc theo vùng bờ Tây, nó rời San Diego vào ngày tháng 1, 1951 để hướng sang khu vực Viễn Đông, bắt đầu một lượt phục vụ kéo dài sáu tháng trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Nó sửa chữa những hư hại sau khi trải qua một cơn bão trên đường đi tại Yokosuka, Nhật Bản trước khi gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77 ngoài khơi bờ biển Triều Tiên. Ngoài nhiệm vụ hộ tống chống tàu ngầm cho các tàu sân bay nhanh thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 77, Walke còn di chuyển gần bờ tham gia hoạt động phong tỏa các cảng đối phương như Wonsan, Songjin, Chongjin và Chuminjin, đồng thời bắn phá các tuyến đường giao thông đường bộ và đường sắt. Đang khi di chuyển cùng Lực lượng Đặc nhiệm 77 cách ngoài khơi bờ biển Triều Tiên vào ngày 12 tháng 6, nó trúng phải một quả mìn hoặc một quả ngư lôi, làm hư hại nặng lườn tàu bên mạn trái, làm thiệt mạng 26 thành viên thủy thủ đoàn và làm bị thương thêm 40 người khác. Walke được sửa chữa tạm thời tại Sasebo trước khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ, rồi đi vào Xưởng hải quân Mare Island vào tháng để được sửa chữa triệt để, cũng như hoàn tất một đợt đại tu. Con tàu quay trở lại vùng chiến sự Triều Tiên vào tháng 6, 1952, tiếp tục vai trò hộ tống cho Lực lượng Đặc nhiệm 77, xen kẻ với những hoạt động bắn phá bờ biển. Đợt hoạt động này kéo dài cho đến tháng 1, 1953, khi nó quay trở về Long Beach, California, và tiến hành những hoạt động thường lệ dọc theo vùng bờ Tây. Đến tháng 7, chiếc tàu khu trục lại tham gia cùng Lực lượng Đặc nhiệm 77 ngoài khơi bờ biển Triều Tiên để hộ tống các tàu sân bay nhanh; tuy nhiên vào lúc này, một thỏa thuận ngừng bắn đã được các bên can dự ký kết, nên các hoạt động của nó diễn ra trong bối cảnh thanh bình. Trong khoảng thời gian từ khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào tháng 7, 1953 cho đến khi xảy ra Sự kiện vịnh Bắc Bộ vào tháng 8, 1964 làm leo thang cuộc xung đột tại Việt Nam, Walke luân phiên những lượt bố trí phục vụ trong thời bình tại khu vực Tây Thái Bình Dương với những hoạt động thường lệ tại vùng bờ Tây Hoa Kỳ ngoài khơi Long Beach. Trong giai đoạn này, nó đã sáu lần được phái sang Viễn Đông, hoạt động như một đơn vị thuộc Đệ Thất hạm đội, và thường trong thành phần một lực lượng hộ tống chống tàu ngầm cho các tàu sân bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 77. Nó đôi khi cũng được huy động vào nhiệm vụ tuần tra tại eo biển Đài Loan, và cũng thường xuyên viếng thăm các cảng như Sasebo và Yokosuka tại Nhật Bản và vịnh Subic thuộc Philippines. Trên đường quay về nhà sau lượt hoạt động năm 1956-1957, nó chuyển hướng xuống Nam Thái Bình Dương để viếng thăm Brisbane, Australia trước khi quay trở về Long Beach vào ngày 28 tháng 4, 1957. Khi không được bố trí sang Viễn Đông, Walke hoạt động dọc theo vùng bờ Tây, tiến hành các cuộc huấn luyện chống tàu ngầm và tác xạ cùng các buổi thực hành độc lập; tuy nhiên nó trải qua phần lớn thời gian cảng nhà để đại tu và sửa chữa. Vào năm 1961, nó trải qua một đợt nâng cấp theo Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội II (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization), khi những cảm biến và vũ khí chống tàu ngầm được nâng cấp, bao gồm dàn phóng ngư lôi mới, trung tâm thông tin hành quân được hiện đại hóa, bổ sung sàn đáp và hầm chứa phía sàn sau để mang theo một máy bay trực thăng không người lái Gyrodyne QH-50 DASH chống tàu ngầm, và tăng cường một bộ sonar với độ sâu thay đổi. Walke khởi hành từ Long Beach vào ngày 24 tháng 3, 1965 để hướng sang Viễn Đông, ghé qua Trân Châu Cảng trước khi đi đến Yokosuka, Nhật Bản vào ngày 30 tháng 4. Nó lại lên đường vào ngày tháng để hướng sang Philippines, đi vào vịnh Manila vào ngày 10 tháng 5, nơi nó tham gia cùng các tàu chiến khác thuộc hải quân các nước trong Khối SEATO. Lên đường hai ngày sau đó, lực lượng này tham gia cuộc tập trận "Sea Horse", trước khi nó đi đến Bangkok, Thái Lan vào ngày 22 tháng 5, thực hiện chuyến viếng thăm cảng trong hai ngày. Con tàu quay trở lại vịnh Subic, Philippines vào ngày 28 tháng 5, và sang tháng nó đã ghé thăm Hong Kong trên đường hướng sang Sasebo, Nhật Bản để bảo trì. Nó lại các cảng Nhật Bản cho đến đầu tháng 7, rồi viếng thăm Cao Hùng, Đài Loan và trải qua một giai đoạn bốn tuần lễ tuần tra tại eo biển Đài Loan. Walke trực tiếp can dự vào cuộc chiến tranh vào tháng 8, 1965, khi nó phục vụ hộ tống chống tàu ngầm cho Đội đặc nhiệm 70.4 tại Trạm Yankee trong vịnh Bắc Bộ. Nó rời vùng biển Việt Nam vào ngày 17 tháng 8, trải qua năm ngày bảo trì tại vịnh Subic trước khi quay trở lại Trạm Yankee vào ngày 27 tháng 8, tiếp tục phục vụ chống tàu ngầm cho Đội đặc nhiệm 70.4. Đến ngày tháng 9, con tàu tiến gần bờ biển để hỗ trợ hải pháo cho lực lượng chiến đấu trên bộ, nhiệm vụ này kéo dài cho đến ngày tháng 9, khi nó gia nhập trở lại Đội đặc nhiệm 70.4 tại Trạm Yankee. Đi đến Yokosuka vào ngày 19 tháng 9, con tàu được bảo trì trong bốn ngày trước khi khởi hành vào ngày 23 tháng để quay trở về Hoa Kỳ. Walke trải qua thời gian còn lại của năm 1965 và những tháng đầu năm 1966 cho những hoạt động thường lệ dọc theo vùng bờ Tây, hầu hết là những lượt thực tập chống tàu ngầm. Nó rời Long Beach vào ngày tháng cho một đợt bố trí khác sang khu vực Tây Thái Bình Dương; tuy nhiên, đang khi băng qua phá nước phía ngoài cảng, một đám cháy lớn xảy ra trong phòng nồi hơi phía sau. Những nỗ lực của đội kiểm soát hư hỏng đã dập tắt được đám cháy, nhưng đang khi được kéo quay trở lại cảng Long Beach vào ngày 10 tháng 6, dây cáp bị đứt và con tàu bị mắc cạn. Cuối ngày hôm đó, chiếc tàu khu trục đi vào Xưởng hải quân Long Beach để sửa chữa những hư hỏng của cả hệ thống động lực lẫn lườn tàu. Hoàn tất việc sửa chữa vào ngày 18 tháng 7, Walke được tiếp liệu và chất đạn dược trước khi lên đường đi sang Viễn Đông, ghé qua Yokosuka một chặng ngắn vào ngày tháng để tiếp nhiên liệu trước khi đi đến Sasebo hai ngày sau đó. Nó lại đây cho đến ngày tháng 8, khi nó lên đường đi sang Trạm Yankee để gia nhập thành phần hộ tống chống tàu ngầm cho Đội đặc nhiệm 77.9. Nó tách khỏi đội đặc nhiệm vào ngày 16 tháng để đi Cao Hùng, Đài Loan, và làm nhiệm vụ tuần tra eo biển Đài Loan cho đến ngày 12 tháng 9, khi nó quay trở lại Trạm Yankee. Chỉ ba ngày sau, một cơn bão đã khiến con tàu phải đi đến ẩn náu tại vịnh Subic. Nó lại phục vụ cùng Đội đặc nhiệm 77.9 từ ngày 17 đến ngày 22 tháng 9, khi nó đi đến vùng biển ngoài khơi Luzon để tham gia cuộc tập trận "Silverskate" của Khối SEATO. Walke quay trở lại vùng biển Việt Nam vào ngày 29 tháng 9, và đã trực chiến gần bờ để hỗ trợ hải pháo cho lực lượng trên bộ; nhiệm vụ này kéo dài cho đến ngày tháng 10, khi nó quay trở lại Philippines cho một lượt tập trận khác cùng Khối SEATO trước khi đi vào vịnh Subic, nơi nó được bảo trì cạnh tàu tiếp liệu khu trục Nó rời vịnh Subic vào ngày 18 tháng 10 và đi đến Trạm Yankee vào ngày 20 tháng 10, nơi nó phục vụ cùng các tàu sân bay trong tám ngày. Sau khi ghé qua Hong Kong nó lên đường hướng đến Đài Loan, và trong bốn tuần lễ tiếp theo đã làm nhiệm vụ tuần tra eo biển Đài Loan. Hoàn tất nhiệm vụ vào ngày tháng 12, nó khởi hành đi Yokosuka, nơi con tàu được bảo trì từ ngày đến ngày tháng 12, rồi lên đường quay trở về nhà. Nó về đến Long Beach vào ngày 20 tháng 12. Tàu chở dầu đang tiếp nhiên liệu cho và Walke, khoảng năm 1966. Walke hoạt động thường lệ tại chỗ từ Long Beach trong bảy tháng tiếp theo, hầu hết dành cho các cuộc tập trận chống tàu ngầm cùng các tàu sân bay. Nó rời Long Beach để hướng sang khu vực Tây Thái Bình Dương vào ngày 17 tháng 8, đi ngang qua Trân Châu Cảng, và đi đến Yokosuka vào ngày 24 tháng 9. Nó hoạt động thực hành chống tàu ngầm từ các cảng Nhật Bản cho đến ngày 18 tháng 10, khi nó khởi hành đi sang Trạm Yankee, và gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77 trong vịnh Bắc Bộ vào ngày 23 tháng 10. Con tàu hoạt động trong thành phần hộ tống chống tàu ngầm cho các tàu sân bay cho đến ngày 14 tháng 11, khi nó rút lui về Philippines, và đi đến vịnh Subic vào ngày 16 tháng 11, lại đây trong mười ngày để được bảo trì. Sau đó nó lại ra khơi tham gia một cuộc tập trận chống tàu ngầm "Silverskate" khác, hoàn tất vào ngày 28 tháng 11. Walke quay trở lại khu vực vịnh Bắc Bộ để tiếp tục phục vụ cùng các tàu sân bay tại Trạm Yankee; nhiệm vụ này kéo dài cho đến ngày 11 tháng 12, khi chiếc tàu khu trục áp sát bờ biển để hỗ trợ cho binh lính chiến đấu trên bộ tại khu vực trách nhiệm của Quân đoàn 1. Đến ngày 17 tháng 12, nó di chuyển lên phía Bắc áp sát khu phi quân sự phân cách giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam để hỗ trợ cho lực lượng đang tác chiến tại khu vực lân cận. Nó rời vùng biển Việt Nam vào ngày 19 tháng 12 để đi Sasebo, và đến nơi vào ngày 23 tháng 12. Walke khởi hành từ Sasebo vào ngày tháng 1, 1968 để quay trở lại vùng biển Việt Nam, đi đến vùng chiến sự vào ngày tháng 1, và trải qua một tháng tiếp theo hoạt động trong vai trò bắn hải pháo hỗ trợ cho cuộc chiến trên bộ. Nó lên đường đi Sasebo vào ngày 20 tháng 2, nơi con tàu được bảo trì, và tiếp nối bằng những lượt thực tập chống tàu ngầm trong biển Nhật Bản. Nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 24 tháng 3, và về đến Long Beach vào ngày tháng 4. Chiếc tàu khu trục đi vào Xưởng hải quân Long Beach vào ngày 14 tháng cho một đợt đại tu kéo dài bốn tháng, và sau khi hoàn tất vào tháng 9, nó chạy thử máy rồi hoạt động thường lệ dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ. Walke khởi hành từ Long Beach vào ngày 29 tháng 3, 1969 cho lượt biệt phái cuối cùng sang khu vực Tây Thái Bình Dương, đi ngang qua Trân Châu Cảng và đi đến Yokosuka vào ngày 26 tháng 4. Nó lại lên đường vào ngày 30 tháng để đi sang vịnh Bắc Bộ, nơi nó gia nhập cùng các tàu sân bay nhanh vào ngày tháng và phục vụ chống tàu ngầm cho đến ngày 15 tháng 5. Chiếc tàu khu trục đi đến vịnh Subic để bảo trì, rồi viếng thăm cảng Manila trước khi trở ra khơi vào ngày 26 tháng tham gia cuộc Tập trận "Sea Spirit" của Khối SEATO. Nó quay trở lại vịnh Subic vào ngày tháng 6, lại đây cho đến ngày 10 tháng 6, khi nó quay trở lại vùng biển Việt Nam sau khi ghé qua Cao Hùng, Đài Loan. Nó đi đến Trạm Yankee vào ngày 19 tháng 6, nơi nó phục vụ chống tàu ngầm cho Đội đặc nhiệm 77.3 cho đến tháng 7. Con tàu viếng thăm Cao Hùng một lần nữa từ ngày đến ngày 15 tháng 7, trước khi đi đến Sasebo vào ngày 17 tháng 7. Walke rời Sasebo vào ngày 18 tháng để tham gia cuộc Tập trận "Sea King", trước khi quay trở lại Sasebo một thời gian ngắn. Nó lên đường quay trở lại vùng biển Việt Nam và đi đến Trạm Yankee vào ngày 25 tháng 7, phục vụ tại đây cho đến ngày tháng 8, khi nó đi đến Cao Hùng và viếng thăm cảng này từ ngày đến ngày 14 tháng 8. Con tàu tiếp tục viếng thăm Hong Kong từ ngày 15 đến ngày 22 tháng 8, rồi quay trở lại Trạm Yankee vào ngày 25 tháng và phục vụ tại đây cho đến ngày 21 tháng 9. Nó đi đến vịnh Subic vào ngày 23 tháng 9, và lại căn cứ này trong năm ngày trước khi quay trở lại vùng chiến sự tại Việt Nam. Nó hỗ trợ hải pháo cho cuộc chiến tại khu vực trách nhiệm của Quân đoàn và Đà Nẵng cho đến ngày tháng 10, khi nó lên đường đi Nhật Bản. Walke được bảo trì tại Sasebo từ ngày đến ngày 17 tháng 10, rồi lên đường để tập trận cùng tàu sân bay trong biển Nhật Bản. Sau khi viếng thăm Sasebo cùng một chặng dừng tại Okinawa, nó đi đến Yokosuka để chuẩn bị cho hành trình quay trở về nhà. Chiếc tàu khu trục khởi hành vào ngày tháng 11 để quay về vùng bờ Tây, ghé qua Midway và Trân Châu Cảng trước khi về đến Long Beach vào ngày 21 tháng 11. Walke tiếp tục hoạt động tại chỗ dọc theo vùng bờ Tây trong năm phục vụ sau cùng. Nó được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Puget Sound vào ngày 30 tháng 11, 1970, và được đưa về Đội Columbia River thuộc Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày tháng 2, 1974, và con tàu được bán cho hãng General Metals tại Tacoma, Washington vào ngày 16 tháng 4, 1975 để tháo dỡ. Walke được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, bốn Ngôi sao Chiến trận trong Chiến tranh Triều Tiên, và thêm bảy Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Việt Nam. Bài này có các trích dẫn từ nguồn Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng: Bài này có các trích dẫn từ nguồn Naval Vessel Register thuộc phạm vi công cộng: navsource.org: USS Walke hazegray.org: USS Walke
USS ''Walke'' (DD-723)
Lớp tàu khu trục Allen M. Sumner
Wiang Chai () là một huyện (‘‘amphoe’’) miền trung của tỉnh Chiang Rai, phía bắc Thái Lan. Các huyện giáp ranh là (từ phía tây theo chiều kim đồng hồ) Mueang Chiang Rai, Wiang Chiang Rung, Phaya Mengrai và Thoeng của tỉnh Chiang Rai. Nguồn nước quan trọng của vùng này là Kok River. Tiểu huyện (King Amphoe) đã được thành lập ngày 17 tháng năm 1974, khi ba tambon Wiang Chai, Thung Ko and Pha Ngam được tách khỏi Mueang Chiang Rai. Đơn vị này đã được nâng thành huyện ngày 25 tháng năm 1979. Huyện này được chia thành phó huyện (tambon), các đơn vị này lại được chia thành 70 làng (muban). Thị trấn (thesaban tambon) Wiang Chai nằm trên một phần của tambon Wiang Chai and Mueang Chum. Ngoài ra có Tổ chức hành chính tambon (TAO). Số TT Tên Tên tiếng Thái Số làng Dân số 2. Wiang Chai เวียงชัย 18 10.990 3. Pha Ngam ผางาม 13 9.170 4. Wiang Nuea เวียงเหนือ 11 6.649 6. Don Sila ดอนศิลา 17 9.984 8. Mueang Chum เมืองชุม 11 7.325 Các con số mất là các tambo nay thuộc huyệnWiang Chiang Rung. amphoe.com Wiang Chai
Wiang Chai
Hiệp hội Quốc tế các Trò chơi động, viết tắt là ISDG (International Society of Dynamic Games) là một tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận quốc tế hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển các trò chơi động. ISDG thành lập ngày 09 tháng năm 1990 tại Helsinki, Phần Lan, tại "Hội nghị quốc tế lần thứ về trò chơi năng động và ứng dụng", tổ chức tại trường Đại học Công nghệ Helsinki (Helsinki University of Technology).. ISDG được một ban điều hành dưới sự chủ trì của chủ tịch. Chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội là giáo sư Tamer Basar. Các mục tiêu của ISDG là: Quảng bá và thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng của lý thuyết trò chơi động. Một trò chơi động, được định nghĩa như là một mô hình cho một tình huống ra quyết định, quá trình cạnh tranh hoặc xung đột liên quan đến một số tác nhân hoặc ra quyết định trong sự tương tác năng động. Phổ biến thông tin khoa học thông qua tất cả các dịch vụ hỗ trợ thuận tiện chấp nhận được. ISDG đạt được những mục tiêu này bằng cách tổ chức hoặc phối hợp tổ chức hội nghị chuyên đề, hội nghị, hội thảo và xuất bản tạp chí tiêu chuẩn cao cấp: International Game Theory Review (tại Singapore), và Biên niên sử của trò chơi động (Annals of Dynamic Games). Thiết lập liên kết với cộng đồng khoa học quốc tế và đặc biệt là với các hiệp hội khác về lý thuyết trò chơi, tối ưu hóa, phân tích quyết định và hệ thống động. Helsinki University of Technology Game Theory Society ISDG. Russian Chapter
Hiệp hội Quốc tế các Trò chơi động
Lý thuyết trò chơi, Hiệp hội chuyên môn
là một chi bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Chi này được miêu tả khoa học năm 1894 bởi Buysson. Các loài trong chi này gồm: aethiops (Herbst, 1806) cirratipilis (Candèze, 1865) colossus (LeConte, 1861) confusus Fleutiaux, 1936 cribrosus (LeConte, 1853) dissimilis Fleutiaux, 1936 gougeleti (Fairmaire, 1859) insitivus (Germar, 1824) maurus (LeConte, 1853) morosus (Candèze, 1882) parvus (Vats Chauhan, 1992) serrifer (Candèze, 1873) yakuanus'' Kishii, 1982 Thể
null
là một chi của Họ Cá bống trắng Chi này hiện hành có các loài sau đây được ghi nhận: Barbulifer antennatus J. E. Böhlke C. R. Robins, 1968 (Barbulifer) Barbulifer ceuthoecus (D. S. Jordan C. H. Gilbert, 1884) (Bearded goby) Barbulifer enigmaticus Joyeux, Van Tassell Macieira, 2009 (Goateed goby) Barbulifer mexicanus Hoese Larson, 1985 (Saddlebanded goby) Barbulifer pantherinus (Pellegrin, 1901)
null
Họ Cá bống trắng
là bài hát của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Mĩ Lady Gaga. Đây là đĩa đơn thứ ba trích từ đĩa mở rộng (EP) The Fame Monster (2009) của cô. Bài hát được sáng tác và sản xuất bởi Lady Gaga và RedOne. Về mặt âm nhạc, bài hát mang giai điệu europop. Bài hát được đánh giá tích cực bởi các nhà phê bình. Họ cho rằng giai điệu của "Alejandro" bị chịu ảnh hưởng bởi các nhóm nhạc như ABBA hay Ace of Base. Sau khi phát hành, bài hát xuất hiện trong các bảng xếp hạng tại các quốc gia Úc, Vương quốc Anh, Canada, New Zealand, Thụy Điển và Hoa Kỳ và đứng vị trí quán quân tại các quốc gia Phần Lan, Ba Lan, Nga, Bulgaria và Romania. "Alejandro" là ca khúc thứ bảy liên tiếp lọt vào top-ten bảng xếp hạng danh giá Billboard Hot 100. Video âm nhạc của "Alejandro" được đạo diễn bởi nhiếp ảnh gia Steven Klein và lấy cảm hứng từ tình cảm của Gaga với những người đồng tính nam, với cảnh Gaga khiêu vũ với họ và đôi lúc họ bán khỏa thân. Video được các nhà phê bình khen ngợi, nhưng cũng bị những tín đồ Thiên chúa giáo phản bác do có nhiều hình ảnh bị coi là báng bổ tôn giáo. Xuyên suốt clip, Lady Gaga chọn màu chủ đạo là màu đỏ (màu máu) và màu đen sẫm. Thật ra, hãng đĩa của Lady Gaga muốn chọn ca khúc Dance in the Dark làm đĩa đơn thứ cho album The Fame Monster thay vì "Alejandro" nhưng cô nhất quyết không chịu. Một cuộc tranh cãi gay gắt đã nổ ra và cuối cùng thì hãng đĩa cũng đồng và được phép bấm máy dưới sự hướng dẫn của đạo diễn "Steven Klein". Lady Gaga cho biết: "Video này nói về tình bạn trong sáng giữa tôi và những người đàn ông đồng tính. Nó như một lời thú nhận về sự ghen tị của tôi đối với sự dũng cảm của họ sự dũng cảm bắt buộc phải có một khi họ muốn bên người họ yêu. Tôi nghĩ việc là một dân đồng tính lộ diện với xã hội về bản chất của mình đòi hỏi phải có một nghị lực phi thường. Tôi trân trọng điều đó và đứng trên lập trường một người phụ nữ tôi không phải lúc nào cũng có tính chiếm hữu hoàn toàn. Trong clip, tôi khao khát muốn có được tình yêu của những người bạn đồng giới, nhưng họ một mực không yêu tôi.". Tập Gaga trong trang phục nữ tu, bên cạnh là người bạn trai "Alejandro" đã khuất của cô. Một thời gian khá lâu kể từ khi đĩa đơn gây tranh cãi Telephone được phát hành thì đến ngày 23 tháng năm 2010, trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Women's Wear Daily, Lady Gaga tiết lộ ca khúc "Alejandro" đã được chọn làm đĩa đơn tiếp theo cho EP The Fame Monster cùng với đạo diễn Steven Klein sẽ trực tiếp chỉ đạo thực viện video cho ca khúc này. Tuy nhiên vẫn như thường lệ, Lady Gaga lại khá kín tiếng về sản phẩm sắp tới của mình. Trong khi đại đa số những nghệ sĩ khác thường tung hàng loạt những đoạn video quảng cáo cũng như một số bức ảnh trước khi MV của họ ra mắt thì Lady Gaga lại rất hạn chế để "lộ hàng". Việc làm này âu cũng có mục đích của nó vì Gaga muốn tác phẩm của cô trông thật hoàn hảo, thật tỉ mỉ từng li từng tí cho đến giây phút cuối cùng mới có thể gây bất ngờ trọn vẹn, đạt đến một thành công nhất định trên thị trường quốc tế. Ban đầu, video "Alejandro" dự định sẽ được xây dựng như một phần tiếp theo của MV Telephone còn đang dang dở trước đó, nhưng sau này Lady Gaga đã thay đổi quyết định và cô sẽ thực hiện việc này vào một tương lai gần. Sau những thông tin được tiết lộ về "Alejandro", trên các diễn đàn lại tràn ngập nhiều lời bàn tán của người hâm mộ và họ vô cùng háo hức để được thưởng thức MV này. Giữ đúng lời hứa, đến ngày tháng năm 2010, trong cuộc phỏng vấn với chương trình truyền hình Larry King Live, Lady Gaga đã tung ra một đoạn clip ngắn từ video Alejandro để mọi người được thưởng thức và đúng với mục đích quảng cáo, đoạn clip này chỉ dài vỏn vẹn 19 giây. Đến thời điểm này, cả thế giới mới có thể tận mắt chứng kiến những hình ảnh táo bạo giống như của nữ hoàng nhạc pop Madonna và nữ ca sĩ da màu Janet Jackson. Bởi trong "Alejandro", cả Gaga và những vũ công nam đều có kiểu tóc ngắn giống như clip Rhythm Nation của Janet pha trộn nét cổ điển kiểu Like Prayer của Madonna. Ca khúc lại một lần nữa nhận được nhiều lời khen ngợi tích cực từ phía nhà phê bình bởi Lady Gaga đã rất thành công trong việc chưa một lần nào các clip của cô trùng lặp về tưởng với bất cứ một ngôi sao nào khác. Nhưng trong "Alejandro", cô lại va chạm tới không ít tới ranh giới như người đồng tính hay tu sĩ… Điều này chắc chắn sẽ gây ra một làn sóng phản hồi, cả tích cực và phản đối.... Video được công chiếu trên trang web chính thức và trên trang mạng xã hội YouTube/ Vevo của Lady Gaga vào ngày tháng năm 2010, buổi trưa EDT (8 tháng năm 2010, 16:00 UTC). Hiện tại clip Alejandro có khoảng trên 250 triệu lượt người xem trên YouTube, và khi video mới được tung ra, chỉ trong vòng 10 phút, trang web của cô đã bị sập vì lượng người truy cập quá đông. Phát biểu về Lady Gaga, nhà nhiếp ảnh thời trang danh tiếng Steve Klein cho biết: "Cô ấy thích những anh hùng ca và video này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Lady. Chúng tôi kết hợp các điệu nhảy với lối tường thuật và tính siêu thực trong ca khúc. Quá trình này thể hiện niềm khao khát của Gaga nhằm tiết lộ những tình cảm trong trái tim của cô ấy và sự chịu đựng bấy lâu của tâm hồn một người phụ nữ". Chỉ với hai tông màu đen và trắng, nhưng video Alejandro vẫn thu hút được sự chú bởi những cảnh nóng bỏng với hình ảnh các vũ công nam hấp dẫn trong trang phục bán khỏa thân và cảnh Lady Gaga "quằn quại" trên giường ngủ. Tuy nhiên, vừa mới phát hành được một thời gian, "Alejandro" đã vấp phải không ít lời chỉ trích lớn đối với dư luận về các hình ảnh bạo lực, gợi cảm trong ca khúc. Lý do là bởi trong video có không ít những hình ảnh liên quan đến tôn giáo, và một trong số đó là sự xuất hiện của cây thánh giá trong cảnh phòng the đầy trần tục. Đây bị cho là sự xúc phạm nặng nề đối với đạo thiên chúa linh thiêng. Nhưng sau đó đạo diễn Steven Klein đã lên tiếng và ông trả lời rằng video "Alejandro" không mang bất cứ nghĩa tiêu cực nào cả: "Video Alejandro lột tả cuộc chiến dữ dội mà nhân vật phải trải qua, cuộc chiến giữa phần tối của thế giới này với sự cứu rỗi của tâm hồn. Chính vì vậy mà đoạn cuối MV, Lady Gaga đã lựa chọn trở thành một nữ tu, và nguyên nhân miệng và mắt của cô ấy biến mất là bởi cô ấy đã rút khỏi thế giới tối để chuyên tâm cầu nguyện và suy ngẫm." Tập Gaga nuốt tràng hạt, một trong những cảnh bị cho là xúc phạm tới Thiên Chúa giáo. Tuy không chỉ chịu sự phản đối của dư luận mà video "Alejandro" còn bị nữ ca sĩ thành danh cùng thời với Lady Gaga Katy Perry mạnh miệng lên tiếng phản bác. Lúc đầu, Katy Perry đã viết trên trang Twitter của cô rằng: "Sử dụng những hình ảnh và lời lẽ xúc phạm chỉ để mua vui thì cũng chẳng khác gì những trò câu khách rẻ tiền". Tuy Katy không chỉ đích xác tên ai, nhưng ai cũng có thể đoán người bị Katy chỉ trích chính là Lady Gaga. Nhưng sau đó, Katy đã lên tiếng phủ nhận và cho rằng cô viết những lời lẽ đó trên Twitter chẳng có gì liên quan đến Gaga và cô tôn trọng những việc người khác làm. Mặc dù vậy, nhưng rồi một thời gian sau, Katy Perry đã chính thức lên tiếng về Alejandro với những ngôn từ vô cùng gay gắt và nặng nề: "Rõ ràng Alejandro chỉ là một MV ca nhạc câu khách rẻ tiền với những hình ảnh gợi dục và tôn giáo. Thật không hiểu nổi tại sao cô ta lại có thể mặc một bộ đồ của nữ tu sỹ để thực hiện MV này. Tôi thấy phát sợ khi thấy cô ta nuốt… tràng hạt…". Thậm chí Katy Perry còn tỏ khinh thường những hình ảnh trong Alejandro: "Tôi thật không thể tưởng tượng được sao cô ta lại có thể kết hợp được cả tâm linh và tình dục với nhau. Đây là một sự báng bổ khó chấp nhận và thật xấu xa. Tôi không phủ nhận việc mình đã từng hôn một cô gái nhưng tôi không bao giờ làm việc đó khi đang ôm một cây thánh giá. Thánh giá là một vật thiêng liêng nơi thánh đường. Nó không thể mang vào… phòng ngủ được". Tuy vậy, Katy cũng đã khẳng định trong cuộc phỏng vấn rằng:"Như tôi đã nói rất nhiều lần trên Twitter, tôi là một fan lớn của Lady Gaga, của Madonna và của Russell Brand. Nhưng cho dù sự việc có thế nào đi chăng nữa thì phản ứng này của Katy cũng như giới phê bình, người hâm mộ hay của chính Lady Gaga chỉ khiến cho "Alejandro" càng thêm nổi tiếng và "hút khách" mà thôi. Tập tin:Lady Gaga trình diễn "Alejandro" trong chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour. Tuy bị dư luận phản đối, nhưng ca khúc lại rất thành công trên thị trường quốc tế. Tại Hoa Kỳ, Alejandro ra mắt lần đầu tiên tại vị trí 72 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào ngày 17 tháng năm 2010. Bài hát dừng lại tại vị trí thứ 5, giúp Lady Gaga trở thành nữ nghệ sĩ duy nhất phá vỡ kỷ lục của ca sĩ R&B Monica khi có đĩa đơn liên tiếp trích từ cùng một tập nhạc, lọt vào top ten tại thị trường Mỹ. Ca khúc xuất hiện trên hai bảng xếp hạng Mainstream Top 40 vị trí 35 và Hot Digital Songs tại vị trí 71 sau khi tiêu thụ được 24.000 bản download kỹ thuật số theo như thống kê của Nielsen Soundscan. Được một thời gian dao động vị trí xếp hạng, Alejandro leo lên giành đến #4 trên Mainstream Top 40, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Lady Gaga không giành được vị trí quán quân. Bài hát cũng ra mắt trên bảng xếp hạng Hot Dance Club Songs tại vị trí 40 và giành được vị trí đầu bảng vào ngày tháng năm 2010. Ca khúc đã bán được 1.924.000 lượt tải kỹ thuật số theo Nielsen Soundscan trên bảng xếp hạng này. Canada, Alejandro đứng vị trí 78 trên Canadian Hot 100 vào ngày tháng năm 2010 và leo lên đến vị trí thứ vào ngày tháng năm 2010. Ngày tháng năm 2010, ca khúc ra mắt tại vị trí 49 Úc trên bảng xếp hạng ARIA Singles Chart, đáng lẽ bài hát đã giành ngôi vị quán quân nhưng vì lúc đó Lady Gaga chưa phát hành video cho Alejandro nên đành đứng thứ và sau đó tuột hạng dần. "Alejandro" được chứng nhận đĩa bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Úc (ARIA) dành cho việc tiêu thụ hết 70.000 bản chỉ trong một tuần. Ca khúc đồng thời cũng ra mắt vị trí thứ 35 tại New Zealand vào ngày 21 tháng năm 2010 và sau đó đã giành được vị trí thứ 11. Cùng với việc phát hành EP The Fame Monster, "Alejandro" xuất hiện trên UK Singles Chart vị trí thứ 75 vào ngày 29 tháng 11 năm 2009 do doanh số tiêu thụ bằng việc download kỹ thuật số. Tại thị trường Châu Âu, ca khúc giành vị trí quán quân Bungary, Phần Lan, Rumani, Ba Lan, Israel..., đứng vị trí tốp Bỉ, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hungary, Ireland, Ý, Hà Lan, Na Uy, Slovakia, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Đây là ca khúc thứ hai của Lady Gaga dứng đầu bảng xếp hạng Russian Airplay Chart Nga. Bài hát đã giúp Lady Gaga lập kỷ lục nữ nghệ sĩ nước ngoài duy nhất hiện nay khi có đĩa đơn trích từ cùng một album đứng ngôi vị số bảng xếp hạng này (vị trí đầu bảng lần thứ nhất là ca khúc Bad Romance). Sở dĩ Lady Gaga nhận được kỷ lục này vì tuy Nga là nước nằm trong lãnh địa Châu Âu nhưng bảng xếp hạng âm nhạc của nước này rất khó lọt vào, một phần cũng vì lý do thị hiếu, tập quán nghe nhạc của khán giả tại Nga không phù hợp với nền nhạc sôi nổi, hiện đại nước ngoài. Digital download "Alejandro" 4:34 The Remixes EP "Alejandro" (Afrojack Remix) 4:48 "Alejandro" (Rusko's Papuseria Remix) 3:53 "Alejandro" (Dave Audé Remix) 7:15 "Alejandro" (Skrillex Remix) 5:49 "Alejandro" (Kim Fai Remix) 7:20 "Alejandro" (The Sound of Arrows Remix) 3:57 "Alejandro" (Bimbo Jones Remix) 6:40 "Alejandro" (Kleerup Remix) 5:22 French CD Single "Alejandro" (Radio Edit) 3:58 "Alejandro" (Dave Audé Radio Remix) 3:51 "Alejandro" (Bimbo Jones Radio Edit Remix) 3:19 UK CD Single "Alejandro" 4:34 "Alejandro" (Dave Audé Remix) 7:15 UK 7" Vinyl "Alejandro" 4:34 "Alejandro" (Bimbo Jones Remix) 6:40 UK iTunes Bundle "Alejandro" 4:34 "Alejandro" (Music Video) 8:44 Lady Gaga trích dẫn, giọng hát, hợp tác sản xuất, sắp xếp thanh nhạc Eelco Bakker kỹ thuật âm thanh Robert Orton pha trộn âm thanh RedOne sản xuất, dụng cụ và lập trình, sắp xếp giọng hát, chỉnh sửa giọng hát, âm thanh kỹ thuật, sao lưu giọng hát Johnny Severin chỉnh sửa giọng hát Nguồn: Bảng xếp hạng (2009/2010) Vị trícao nhất Australian Singles Chart Austrian Singles Chart Belgian Singles Chart (Flanders) Belgian Singles Chart (Wallonia) Brazilian Hot 100 Airplay 1 Bulgarian Airplay Chart 1 Canadian Hot 100 Czech Airplay Chart 1 Danish Singles Chart Dutch Top 40 European Hot 100 Singles Finnish Singles Chart 1 French Singles Chart German Airplay Chart 1 German Singles Chart Hungarian Airplay Chart 1 Hungarian Singles Chart Irish Singles Chart Italian Singles Chart New Zealand Singles Chart 11 Israeli Singles Chart 1 Norwegian Singles Chart Polish Airplay Chart 1 Romanian Airplay Chart 1 Russian Airplay Chart 1 Slovak Airplay Chart Spanish Singles Chart Swedish Singles Chart Swiss Singles Chart UK Singles Chart US Billboard Hot 100 US Hot Dance Club Songs 1 US Pop Songs 20px United World Chart Quốc gia Chứng nhận(Theo doanh số) Úc Bạch kim Bỉ Vàng Đan Mạch Bạch kim Pháp Vàng Đức Bạch kim Đa bạch kim New Zealand Vàng Nga 3× Bạch kim Tây Ban Nha Bạch kim Thụy Điển Bạch kim Thụy Sĩ Bạch kim Liên hiệp Anh Vàng Bảng xếp hạng (2010) Vị trí Australian Singles Chart 50 Austrian Singles Chart 10 Flanders Singles Chart 17 Wallonia Singles Chart 15 Canadian Hot 100 14 Danish Singles Chart 19 Dutch Top 40 21 European Hot 100 Singles 16 German Singles Chart 19 Hungarian Airplay Chart Italian Singles Chart Romanian Airplay Chart Russian Love Radio Chart Spanish Singles Chart Swiss Singles Chart US Billboard Hot 100 33 US Hot Dance Club Songs 21 US Pop Songs 25 Vùng Ngày Định dạng Thụy Điển tháng 11 năm 2010 Tải kỹ thuật số Đĩa đơn quảng cáo Bỉ Hoa Kỳ 20 tháng 4, 2010 Mainstream radio, Rhythm, Crossover Bỉ 18 tháng 5, 2010 The Remixes EP Tải kỹ thuật số Canada Đan Mạch Pháp Hà Lan Na Uy Bồ Đào Nha Thụy Điển Thụy Sĩ Hoa Kỳ Maxi Single, EP, Tải kỹ thuật số Hoa Kỳ 15 tháng 6, 2010 The Remixes EP CD Single Vương Quốc Anh 28 tháng 6, 2010 CD Single, 7" Đức tháng 7, 2010 CD Single Lady Gaga Alejandro (The Monster Ball Tour) Nokia Theatre in Los Angeles. Time Warner
Digital download
Đĩa đơn năm 2010, Bài hát của Lady Gaga, Bài hát năm 2009, Đĩa đơn quán quân Billboard Hot Dance Club Songs, Đĩa đơn quán quân tại Phần Lan, Đĩa đơn quán quân tại Rumani, Bài hát được viết bởi Lady Gaga, Đĩa đơn của Interscope Records, Đĩa đơn quán quân tại Ba Lan
tigrinum' là một loài thực vật thuộc họ Orchidaceae. Đây là loài đặc hữu của phía tây Vân Nam (Trung Quốc). Một dạng riêng biệt đã được đặt tên vào năm 2005, ban đầu nó được coi như một loài riêng: Paphiopedilum tigrinum f. smaragdinum (Z.J.Liu S.C.Chen) O.Gruss China Plant Specialist Group 2004. Paphiopedilum tigrinum. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng năm 2007. tigrinum
null
là một siêu anh hùng hư cấu và nhân vật anh hùng tokusatsu đầu tiên ra mắt trong loạt Ultra Series do Tsuburaya Productions sản xuất. Sự có mặt của nhân vật này trong làng giải trí thế giới đã giúp ra đời dòng phim kyodai Hero với vô số các chương trình như Godman và Iron King. Ultraman lần đầu xuất hiện trong vai trò nhân vật chính bên cạnh nhân vật người chưa chuyển hóa Hayata Shin trong bộ phim truyền hình dài tập Ultraman (1966–67), phát sóng trong 39 tập phim. Sau thành công của Ultraman, Tsuburaya đã sáng tạo ra một bộ phim kyodai hero nữa, nằm trong dự án Ultra Series của họ và đặt tên là Urutora Seven. Cả hai bộ phim đều nằm trong chung một thể loại với những người hùng rất giống nhau, nhưng lại không hề có gốc gác nào liên hệ với nhau. Phải đến khi Kaettekita Urutoraman (Return of Ultraman) ra đời bốn năm sau, cụ thể là vào năm 1971 thì Ultraman và Ultra Seven mới kết hợp trong cùng một đầu truyện. Sự kiện này như xây chắc quyết định của Tsuburaya Productions khi đưa Ultra Series theo con đường tập trung vào một Ultraman mới trong mỗi series mới. Nguyên mẫu nhân vật trong hình dạng người hùng khổng lồ mặc đồ đỏ pha bạc đã trở thành một thương hiệu hết sức nổi tiếng và tiếp tục có mặt trong nhiều tác phẩm của chuỗi Ultra Series. Ngoài ra, anh còn sở hữu rất nhiều những chi tiết mang tính thương hiệu, làm cho anh được nhiều khán giả nhớ tới đến nay như bộ đèn Hẹn giờ màu, thế đứng Specium Ray hay tiếng hét biểu tượng Trong loạt phim, những tiếng gằn và tiếng thét biểu tượng "Shuwatch" của Ultraman là giọng của Nakasone Masao người lồng tiếng anh dưới hình hài thực tập 33 trong cuộc chiến của anh với Alien Mefilas. Đoạn hội thoại của anh tập và tập 39 là giọng của Kondō Hisashi, còn tập 15 anh được lồng tiếng bởi Ishizaka Koji người kể chuyện từ tập đến tập 19. Trong những lần xuất hiện sau, Ultraman tái sử dụng tiếng gằn khi anh được lồng tiếng bởi Kurobe Susumu (diễn viên của Hayata Shin) hoặc chỉ đơn giản là im lặng trong suốt thời gian lên hình. Người hóa thân trong bộ đồ Ultraman là Furuya Bin trong mùa phim đầu tiên. Bin sau đó tiếp tục thủ vai nhân vật Amagi thuộc Đội bảo vệ Ultra một trong các nhân vật nằm trong sê-ri hậu bản Urutora Seven. những tác phẩm Ultra Series hậu bản về sau, Ultraman được thủ vai bởi nhiều diễn viên lồng tiếng và người đóng thế. Mặc dù Kurube Susumu sau này đôi khi đảm nhận vai Hayata hay tự mình lồng tiếng cho Ultraman (mặc dù tiếng gằn của anh vẫn được tái sử dụng từ diễn viên quá cố Nakasone Masao), nhưng vẫn có vài dịp khác anh được lồng tiếng bởi các diễn viên lồng tiếng khác. Thương hiệu Ultraman đã thu về 7,4 tỷ USD tiền bán phụ phẩm từ năm 1966 đến 1987, tương đương với hơn 17 tỷ USD nếu tính lạm phát. Ultraman là nhân vật được có bản quyền ăn khách thứ thế giới thập niên 1980 chủ yếu nhờ danh tiếng của nhân vật tại thị trường châu Á. Nhà biên kịch Kinjo Tetsuo lúc đầu tưởng tượng ra hình ảnh một sinh vật bò sát nằm xuyên thiên hà và đặt tên là Bemler tức tiền thân của Ultraman sau này. Sinh vật này có thể phát triển kích thước lên tới với thiết kế là sự kết hợp giữa Garuda và Tengu. Mẫu thiết kế mang nhiều dấu ấn nhất do Narita Tohl và nhà điêu khắc Sasaki Akira thực hiện với tưởng về một người ngoài hành tinh màu xám. Cả ba bộ đồ cơ thể của Ultraman đã được sáng chế cho chương trình, tất cả chúng đều được thiết kế sao cho phù hợp với cơ thể của diễn viên Furuya Bin. Rất nhiều cải tiến lên bộ đồ Ultraman được thực hiện trong quá trình sê-ri phát triển. Mẫu bộ đồ đầu tiên có tên là Mẫu (tập đến 13), kế đó là Mẫu (14–29) và cuối cùng là Mẫu (từ tập 30 trở đi). Bộ Mẫu có chiếc mặt nạ được làm từ nhựa FRP và phủ một lớp cao su, mang lại cho Ultraman một gương mặt "bị nhiều nếp nhăn". Chiếc mặt nạ lúc đầu được thiết kế có dạng để miệng mở, nhưng lớp phủ cao su đã che mắt mảng miệng đó. Furuya Bin có nhắc đến rằng Loại không vừa với anh và nó làm cho anh buộc phải khom người xuống một chút. Sau khi Mẫu bộc lộ những hạn chế, thì Mẫu đã được làm ra để khắc phục chúng. Chiếc mặt nạ của Mẫu đã loại bỏ các chức năng để miệng mở và phủ lớp cao su, thay vào đó là một phiên bản toàn FRP. Một số nhân viên trong ê-kíp làm phim không hề biết về những thay đổi mới Mẫu và thấy ngạc nghiên khi khuôn mặt của Ultraman bỗng biến đổi đột ngột từ gương mặt giống người ngoài hành tinh sang gương mặt có hình dáng như "mặt nạ sắt". Mẫu có kích thước to hơn so với Mẫu và theo lời Furuya kể thì: "Nó vừa với tôi hơn và đệm lót, làm cho Ultraman trông có vẻ cơ bắp hơn". Bộ Mẫu là một mẫu biến thể cái tiến của Mẫu với những tinh chỉnh nhỏ các góc trên khuôn mặt như mắt, miệng và tai. Dòng tựa của Ultraman bằng tiếng Anh. Kaettekita Urutoraman (1971): Xuất hiện trong tập 38, anh và Ultra Seven đã hợp tác để giải cứu Urutoraman Jakku khỏi bị Alien Nackle đánh bại. Mặc dù không xuất hiện cảnh mở đầu, song anh liên lạc với Go/Urutoraman Jakku bằng thần giao cách cảm tập 51. Trong tập 51, anh được lồng tiếng bởi diễn viên Yatsu Isao (谷津勲). Ultraman Ace (1972): Xuất hiện trong các tập 1, 13, 14, 26 và 27 nhưng trong tất cả những tập phim này, cảnh duy nhất mà nhân vật nói chuyện nằm tập 13 với giọng lồng tiếng của diễn viên Tsujimura Mahito (辻村真人). Bộ đồ anh mặc trong tập chỉ đơn giản là được sơn lại từ bộ của Ultraman Jack. Ultraman Taro (1973): Xuất hiện trong các tập 1, 25, 33, 34 và 40. tập 1, anh nằm trong đội Urutora Kyōdai (hay Ultra Brothers) chứng kiến sự hợp thể giữa Urutoraman Tarō và Kotaro rồi sau đó chuyển Chuông Ultra đến Tháp Ultra tập 25. hai tập 33 và 34, anh và các thành viên còn lại của Urutora Kyōdai đã sát cánh cùng Taro trên Trái Đất nhằm chiến đấu với Alien Temperor. Trong tập 40, anh là người đầu tiên giao chiến với Tyrant trên hành tinh Uranus, nhưng cuối cùng bị đánh bại. *Ultraman Leo (1974): Xuất hiện trong các tập 38 và 39. Nhân vật được lồng tiếng bởi Ultraman 80: Ultraman được nhắc đến bởi Urutoraman Eiti trong cuộc chiến chống lại Alien Baltan VI, khi anh ta sử dụng vầng sáng của mình để hạ gục đối phương. Urutoraman Sutōrī (1984): Horiuchi Kenyu là diễn viên nhận vai này. Urutoraman Zeasu (1986): Ultraman được nhắc đến nhiều lần trong phần phim này, khi bức tượng khổng lồ hình chân dung anh nhân lễ kỷ niệm 30 năm ra đời sê-ri đã bị Cotton-Poppe nhanh chóng ăn hết sạch. Khi Zeasu tung chiêu Speciu-shula Ray trước gương, hình ảnh Ultraman có thể nhìn thấy qua phần phản chiếu. Ultraman Tiga (1996): Xuất hiện trong tập 49, Ultraman đã hỗ trợ Ultraman Tiga để đánh bại quái vật Yanakahgi. Anh được lồng tiếng bởi diễn viên Futamata Issei (二又 一成). Urutoraman Mebiusu ando Urutora Kyōda (2006): Trong phần phim này, các nhân vật Ultraman, Utra Seven, Urutoraman Jakku và Urutoraman Ēsu đã phong ấn phản diện Yapool và tên siêu thú U-Killersaurus của xuống đáy hồ Kobe bằng năng lượng của họ. Urutoraman Mebiusu (2006): Sau những sự kiện phần phim trước, Ultraman trở lại trong tập 47 và 50 của bộ phim. Sau khi Alien Mefilas tẩy não toàn bộ người dân và biến họ thành đầy tớ của y, Mirai đã tìm kiếm sự giúp đỡ của Hayata nhưng anh ta lại chẳng thể làm gì, bởi những hành động của Mefilas không gây nguy hiểm cho người dân. Urutora Gyarakushī Daikaijū Batoru (2007): Ultraman truy đuổi tên quỷ Alien Raybrad nhưng bị đánh bại và bị hóa đá trong một ngọn núi trên hành tinh Boris, cho đến khi Reimon và đội ZAP SPACY đến giải cứu anh. Ultraman trả ơn cho đội Pendragon bằng cách tấn công King Joe Black để giúp nhân loại có đủ thời gian tránh khỏi sự hủy diệt của Boris. Urutora Gyarakushī Daikaijū Batoru Nebā Endingu Odessei (2008): Ultraman trở lại trong tập phim cuối với Ultra Seven để giải cứu đội ZAP SPACY khỏi quái vật Alien Raybrad. Cùng lúc ấy, Seven cũng đòi lại Capsule Monster Miclas từ tay Rei. Urutoraman Mebiusu Gaiden Gōsuto Ribāsu (2009): Ultraman nằm trong đội Urutora Kyōdai chứng kiến sự ra đi của Ace và Taro sau khi ngăn chặn Ultra Sign của Hikari. Daikaijū Batoru Urutora Ginga Densetsu Za Mūbī (2009): Sau khi Belial trốn thoát, Ultraman nằm trong số các Ultra Warriors cố gắng ngăn chặn Belial tiến gần tới Tia lửa Plasma. Ultraman Zero THE MOVIE: Chōkessen! Beriaru Ginga Teikoku (2010): Ultraman nằm trong các thành viên của đội Space Garrison nghiên cứu tàn tích của Darklop và hiến tặng ánh sáng của mình cho quả cầu du hành của Zero để nhân vật này có thể chuyển tới một vũ trụ khác. Ultraman Ginga (2013): Cùng với Urutora Kyōdai, Ultraman là một trong các chiến binh của cuộc chiến Dark Spark nhằm chiến đấu với Zetton, nhưng sớm bị Dark Lugiel nguyền rủa Spark Doll trong lúc anh và Space Garrisons cố bảo vệ Taro. Trong tập phim phụ, một bản sao Spark Doll của Ultraman được Chigusa tái sử dụng để đấu lại Zetton, khi mà Zetton bị điều khiển bởi Alien Magma tay sai cũ của Dark Lugiel. Trước đó vào năm 2013, Ginga đã được giới thiệu trong một buổi lễ khi loạt Ultra Series được ghi nhận là chương trình có nhiều hậu bản và ngoại truyện nhất với một tấm bằng ghi danh của Sách Kỷ lục Guinness. Urutoraman Ginga Gekijō Supesharu Urutora Kaijū Hīrō Dairansen! (2014): Ultraman nằm trong số các bản vẽ phác thảo của Tomoya trong cuốn sách của ông, để rồi một sóng năng lượng kỳ lạ từ vũ trụ đã hiện thực hóa các Ultraman và các bản vẽ khác thành những Spark Doll. Ultraman Orb (2016): Ultraman là người đã phong ấn Maga-Zetton, để rồi Zetton bị thức tỉnh một thời điểm nào đó ngay trước khi bối cảnh của bộ phim diễn ra. Maga-Zetton tìm đến giao đấu với Ultraman Orb và bị đánh bại, nhưng trận tái đấu sau đó đã biến cả một khu rừng thành một vùng miệng núi lửa âm ỉ. Cùng với Tiga, năng lực của Ultraman được truyền qua Urutoraman Ōbu khi sử dụng chiêu thức Spacium Zeperion, cho phép anh ta sử dụng năng lực của Ultraman. Ultraman Jīdo (2017): Cùng với đội Urutora Kyōdai, Ultraman đã tham gia một trận đánh với Belial trước khi anh bị bắt trong Crisis Impact. Sức mạnh của anh tồn tại được nhờ có Urutoraman Kapuseru (ウルトラマンカプセル), do Riku sử dụng nó cùng lúc với Belial Capsule để tạo ra Ultraman Jīdo. Theo đạo diễn Sakamoto Koichi, đây là chiêu thức vừa sử dụng sức mạnh tàn bạo của Belial, vừa giữ được trái tim công lý của Ultraman. Urutora Gyarakushī Faito (2019): Cùng với các thành viên của Urutora Kyōdai, Ultraman từng giao đấu với Ultra Dark-Killer và giành chiến thắng khi trao năng lượng của mình cho Taro. Sau khi quỷ dữ hồi sinh và lập nên Liên minh Bóng tối, Urutora Kyōdai đã tập hợp các anh hùng thế hệ mới và quan sát họ chiến đấu từ Vùng đất Ánh sáng. Dưới đây là những lần xuất hiện của Ultraman và Hayata trong các sản phẩm ngoài những bộ phim truyền hình về nhân vật, chẳng hạn như manga và tiểu thuyết chuyển thể. Ngày 16 tháng năm 2015, Tsuburaya Productions đã cho phát một video bị khóa theo vùng trên trang Youtube chính thức của hãng, lấy nhan đề là "Ultraman_n/a" mà không có bất kì dòng mô tả nào. Trong đoạn clip là hình Ultraman đang mở miệng tính năng này lúc đầu định đưa vào bộ Mẫu A, song đã bị lược bỏ. Tháng năm 2019, một tác phẩm điện ảnh chuyển thể dựa theo nguyên mẫu Ultraman đã được công bố với tựa Shin Ultraman do Higuchi Shinji làm đạo diễn và Anno Hideaki chắp bút kịch bản (trước đây hai người từng hợp tác trong dự án Shin Gojira của Toho). Bộ phim dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2021 và đã công bố dàn ê-kíp làm phim sau đó tháng. Ngày 15 tháng 2, trong hội chợ người hâm mộ Tsubucon do Tsuburaya Production tổ chức, mẫu thiết kế Ultraman đã được tiết lộ với các chi tiết lấy từ ấn tượng ban đầu của Narita Tohl về nhân vật, nhưng lại thiếu Bộ đèn hẹn giờ. *Ultraman là nhân vật chính trong bộ manga nổi tiếng Ultraman Chotoshi Gekiden. Trong đĩa OVA năm 1996, anh được lồng tiếng bởi Trong bộ manga Ultraman The First (2003), vai trò của Ultraman và Hayata vẫn hệt loạt truyền hình nguyên tác, bởi bộ manga giống như một dạng tái diễn giải loạt phim truyền hình trên các trang truyện tranh. Trong bộ manga Ultraman Story 0 (2005), Ultraman là người đầu tiên trong chủng tộc của anh bị đột biến thành người khổng lồ sau khi Tia lửa Plasma phát ra khắp thế giới của họ. Trong bộ manga Ultraman (2011) lấy bối cảnh một vũ trụ song song, khi mà Ultraman là chiến binh Ultra duy nhất đặt chân đến Trái Đất. Nhiều năm sau khi người khổng lồ ấy rời khỏi Trái Đất, ký ức của Hayata Shin (được lồng tiếng bởi Sugō Takayuki trong Motion Comic) về Ultraman bị xóa sạch và anh có được một cuộc sống ổn định bên gia đình nhỏ của mình với một cậu con trai tên Hayata Shinjiro. Hayata còn trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau khi rời nhiệm sở SSSP. Trong bộ tiểu thuyết chuyển thể Ultraman do Kinjo Tetsuo chắp bút kịch bản vào tháng năm 1967, mặt lịch sử hình thành nhân vật Ultraman cũng giống hệt như bản phim truyền hình. Another Genesis là tên một loạt tiểu thuyết ra đời vào năm 2012 đã thay đổi đáng kể mẫu thiết kế Ultraman. Sau khi hủy diệt Vùng đất Ánh sáng bằng đôi tay của Ultraman Beriaru, Ultraman rơi vào cảnh sống ẩn dật và phát điên, hạ quyết tâm phục dựng lại quê nhà đã bị phá hủy của mình bằng cách săn lùng những mảnh vở của Tia lửa Plasma. Anh lần đầu có mặt trong chương và giao đấu với một ác nhân khổng lồ tên Antlar kẻ bị đột biến do dính dáng đến những mảnh vỡ của Tia lửa Plamsa. Cuối cùng Ultraman đã dùng chính mảnh vỡ ẩy đâm Antlar đến chết. Ultraman đã xuất hiện trong đoạn cao trào của cuốn tiểu thuyết Ready Player One của nhà văn Ernest Cline; trong cảnh này, nhân vật chính của bộ truyện Wade Owen Watts/Parzival lấy được tính năng Beta Capsule và biến hình thành Ultraman để chiến đấu với Nolan kẻ điều khiển Mekagojira. Trong bản chuyển thể điện ảnh năm 2019, đạo diễn Steven Spielberg do không giành được bản quyền của Ultraman nên đã thay thế vai trò của Ultraman trong nguyên tác bằng Iron Giant và RX-78-2 Gundam. Trong game Kyoei Toshi, Ultraman xuất hiện trong cấp chơi đầu tiên khi đối đầu với kẻ mạo danh mình tên là Imitation Ultraman (về sau danh tính thật của kẻ giả được tiết lộ là Alien Zarab). Trận chiến của họ vô tình làm cho cả thành phố gặp nguy hiểm, đặc biệt là những người chơi (hóa thân trong các vai dân thường) buộc phải tìm mọi cách để trốn thoát khỏi thành phố, và trận chiến trở thành chướng ngại vật lớn nhất mà họ từng gặp phải. Ultraman là một trong những nhân vật có khả năng kích hoạt trong tựa game Monster Strike cài trên ứng dụng di động một phần của thương vụ hợp tác với Ultra Series. Khi người chơi sử dụng cú "Strike Shot", Ultraman sẽ bắt đầu tung ra đòn đánh mạnh nhất của mình là Specium Ray, Tháng 11 năm 2019, Marvel Comics thông báo rằng hãng truyện tranh của Mỹ đã hợp tác với Tsuburaya Productions để cho xuất bản các đầu truyện tranh và graphic novel Ultraman, lấy tựa là The Rise of Ultraman, dự kiến bắt đầu phát hành vào năm 2020. Loạt truyện này được dùng để giới thiệu Ultraman với khán giả thế hệ mới. Todd Gilchrist của IGN đã miêu tả cả Hayata và Ultraman là "mẫu nhân vật kiểu Peter Parker muốn trở thành siêu anh hùng bất cứ khi nào có người ngoài hành tinh đến xâm lăng Trái Đất (thông thường xảy ra ít nhất một lần mỗi tập phim); kế đó là vài cảnh chiến đấu khá vụng về, rồi cuối cùng thế giới được cứu khỏi nạn hủy diệt." Ông cũng cho rằng nguyên nhân làm nên danh tiếng của loạt phim là bởi sự tương tác trực tiếp của Hayata với khán giả, những vụ án điều tra của SSSP, hoặc trận đại chiến của Ultraman với những con quái vật và người ngoài hành tinh "chỉ cân xứng nhau khi anh ta tung đòn tay và chớp mắt". Ông chấm loạt phim điểm 8/10. Trong lúc đánh giá trọn bộ DVD của Ultraman, một cây viết khác của IGN là R. L. Shaffer lại miêu tả Ultraman là "một sinh vật đến từ ngoài Trái Đất có kích cỡ khổng lồ như tòa nhà chọc trời nhằm bảo vệ chúng ta khỏi những con quái vật, người ngoài hành tinh và các ác nhân khác sở hữu kích cỡ không hề kém cạnh. Mỗi tuần Ultraman đã và đang kết liễu một kẻ phản diện cực vui nhộn, phá hủy các thị trấn, làng xá, rừng và thành phố." Tuy nhiên, ông thừa nhận bộ phim "mang lại cái cảm giác phim độc, chủ yếu nhờ vào những con quái vật và những trận đánh mãn nhãn." Ông chấm loạt phim điểm 8/10. Một cửa hàng tại Kyoto, Nhật Bản có trưng bày tượng nhỏ hình Ultraman trước cửa hiệu. Một trong những trò đùa nổi tiếng nhất trong văn hóa Nhật Bản là cảnh phim trích ra từ tập 34 của Ultraman, khi mà Hayata nhầm thìa cà ri với Beta Capsule trong lúc vội vàng cố biến hình và ngăn chặn quái vật Skydon nhảy xuống Trái Đất. Cảnh này do Jissoji Akio nghĩ ra và trong lúc bị Nonagase Samaji một đạo diễn khác của Ultraman phàn nàn, lượng xem tập phim đã tăng cao chót vót và chứng minh độ nổi tiếng của cảnh phim. Cũng bởi trò đùa này mà một số phương tiện truyền thông của Nhật (chủ yếu là trong anime và manga) có xu hướng đem một sự việc ra giễu nhại bằng cách lặp lại cùng một sai lầm hoặc đơn giản là sử dụng một cặp thìa tượng trưng cho đôi mắt của Ultraman. Ngoài ra, một đô vật người Mexico cũng sỏ hữu bí danh dùng trong các trận đấu là Ultraman. Tên của con trai anh là Ultraman Jr. Dù không liên quan nhưng một đô vật người Mexico khác tên là Starman cũng từng sử dụng cái tên Ultraman Jr. Thất bại của Ultraman dưới tay Zetton tập 39 đã gây tác động lớn đến khán giả, nhiều đến mức nó như một nguồn cảm hứng cho các đô vật chuyên nghiệp người Nhật như Onita Atsushi và Maeda Akira lấy làm hy vọng "báo thù cho người anh hùng đã tử trận" trong sự nghiệp của họ. Tháng năm 2007, một video nổi tiếng trên Internet tên là Omoide wa Okkusenman! đã phủ sóng khắp Nhật Bản và nhanh chóng gây sốt. Ca khúc miêu tả một ca sĩ vừa hồi tưởng về thời thơ ấu của mình và những người bạn cụ thể là những lần bắt chước Ultraman và Sebun, vừa nhận ra cuộc sống của bản thân anh và họ đã biến đổi ra sao. Tháng cùng năm, Ultraman là vị khách mời đặc biệt tại lễ trao giải Hugo. Chú thích Tài liệu đọc thêm Ultraman trong Tsuburaya Productions Ultraman trong website tiếng Anh của Tsuburaya Productions Ultraman tại Internet Movie Database Hayata Shin tại Internet Movie Database
Chú thích
Nhân vật trong Ultra Series, Siêu anh hùng Nhật Bản, Nhân vật truyền hình giới thiệu năm 1966, Người khổng lồ hư cấu