text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
Quán rượu Claddagh Ring Toà nhà thị chính Hendon Hendon là một vùng ngoại của Luân Đôn, Anh, nằm cách về phía tây bắc Charing Cross. +Dân số Hendon 1881 10.484 1891 15.843 1901 22.450 1911 38.806 1921 56.013 Sáp nhập tiểu khu Edgware 1931 115.682 1941 chiến tranh 1951 155.857 1961 151.843 không có số liệu do chiến tranh Nguồn: thống kê Liên hiệp Anh Pictures 1700 1900 Pictures 1900 1930 | Hendon | |
Ngày 23 tháng 4 là ngày thứ 113 trong mỗi năm thường (ngày thứ 114 trong mỗi năm nhuận). Còn 252 ngày nữa trong năm. *303 Thánh George (Gióoc) bị giết vì tin Chúa. *1920 Hội nghị Đại quốc dân Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập tại Ankara, nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại bắt đầu. *1949 Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được thành lập tại Thái Châu, Giang Tô trong bối cảnh Quốc-Cộng nội chiến. *1967 Tàu Soyuz đi vào quỹ đạo, mang theo một nhà du hành vũ trụ là đại tá Vladimir Komarov, khi trở lại Trái Đất thì phi thuyền rơi, nhà du hành chết. *1968 Vương quốc Anh sản xuất đồng tiền đầu tiên có số thập phân, đồng tiền 5p và 10p. *1968 Chiến tranh Việt Nam: Sinh viên phản đối Đại học Columbia Thành phố New York chiếm giữ các tòa nhà của ban quản lý nhà trường và đóng cửa trường đó. *1974 Máy bay Boeing 707 của Pan American World Airways rơi Bali, Indonesia, làm chết 107 người. *1975 Chiến tranh Việt Nam: Tại Đại học Tulane Louisiana, Tổng thống Mỹ Gerald Ford phát biểu là chiến tranh đã kết thúc đối với Hoa Kỳ. *1990 Namibia trở thành nước thứ 106 trong Liên hiệp quốc và nước thứ 50 trong Khối Thịnh vượng chung Anh (British *1993 Người dân Eritrea bỏ phiếu cho việc tách ra khỏi Ethiopia trong cuộc trưng cầu dân có sự quan sát, điều hành của Liên hiệp quốc. *1994 Các nhà vật lý học tìm được hạt hạ nguyên tử quark top. *2003 Bắc Kinh đóng cửa mọi trường học trong hai tuần vì virút cúm SARS. *1185 Vua Afonso II của Bồ Đào Nha (m.1233) *1676 Vua Frederick của Thụy Điển (m. 1751) *1791 James Buchanan, Tổng thống Mỹ thứ 15 (m. 1868) *1792 John Thomas Romney Robinson, nhà thiên văn và nhà vật lý người Ireland (m. 1882) *1858 Max Karl Ernst Ludwig Planck, nhà vật lý người Đức (m. 1947) *1897 Lester B. Pearson, Thủ tướng Canada thứ 14 (m. 1972) *1928 Shirley Temple, diễn viên Mỹ (m. 2014) *1962 Elaine Smith, diễn viên Scotland *1977 John Cena, đô vật và ca sĩ nhạc rap Hoa Kỳ *1995 Gigi Hadid, ca sĩ và diễn viên người Mỹ *1999 Son Chae-young thành viên nhóm nhạc Twice (nhóm nhạc) người Hàn Quốc *2000 Jeno, ca sỹ, vũ công nhóm NCT *2018 Hoàng tử Louis xứ Cambridge, hoàng tử thứ ba của Hoàng tử Công tước xứ Cambridge William và Công nương xứ Cambrigde Kate *1124 Vua Alexander của Scotland (s. 1078) *1251 Trần Liễu, tước hiệu An Sinh vương, cha của Đại vương Trần Hưng Đạo (s. 1211). *1616 William Shakespeare, nhà văn, nhà soạn kịch người Anh (s. 1564) *2007 Boris Yeltsin, Tổng thống đầu tiên của Nga (s. 1931) *Ngày Lễ Thánh George: **Ngày quốc gia Anh **Tổ chức như Ngày Lễ Thánh Jordi'' xứ Catalan, cho quà tặng sách vở và hoa hồng | Ngày 23 tháng 4 | Ngày trong năm |
Họ Cá nhồng (danh pháp khoa học: là một họ cá vây tia được biết đến vì kích thước lớn (một số loài có chiều dài tới 1,85 (6 ft) và chiều rộng tới 30 cm (1 ft)) và có bề ngoài hung dữ. Các loài cánày có cơ thể thuôn dài, tương đối săn chắc, được che phủ bằng các vảy nhỏ và nhẵn. Chúng được tìm thấy trong các vùng nước đại dương khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới. Tất cả các loài đều thuộc chi Một số tài liệu phân loại cá nhồng vào bộ Cá đối (Mugiliformes), và FishBase trước năm 2013 coi họ này thuộc về bộ Cá vược (Perciformes). Cụ thể xem thêm cây phát sinh chủng loài của nhóm gọi là tại đây (lấy theo Carroll 1988, Nelson 1994 và Fierstine 2001) trong bộ Cá vược. Tuy nhiên, gần đây người ta coi là họ này xếp vị trí không xác định trong nhóm (= Tập tin:barracuda barracuda hovering in the current at the Paradise Reef, Cozumel, México. Cá nhồng là cá có cơ thể thuôn dài với các quai hàm khỏe. Miệng rộng, hàm dưới hơi dài hơn hàm trên. Chúng có các răng khỏe, giống răng nanh. Các răng này không đều về kích thước và gắn với răng tại các hàm trên vòm miệng. Đầu lớn, nhọn, có bề ngoài giống như đầu cá chó. Nắp mang không có gai và được che phủ bằng các vảy nhỏ. Hai vây lưng cách nhau xa, với vây lưng thứ nhất có gai và vây lưng thứ hai có gai và tia vây mềm. Vây lưng thứ hai tương đương với vây hậu môn về kích thước và nằm gần đúng ngay phía trên nó (có thể về phía trước hoặc về phía sau một chút). Giác quan hông nổi rõ và kéo thẳng, dài từ đầu tới đuôi. Vây đuôi chẻ hoặc lõm hình lòng chảo. Nó gắn liền với một cuống đuôi to và mập. Các vây ngực nằm khá thấp hai bên hông. Bong bóng của chúng lớn. Nói chung, màu sắc của cá nhồng là màu lục sẫm hay xám phía trên và màu trắng phấn phía dưới. Đôi khi có một hàng các sọc sẫm màu hay các đốm đen trên cả hai hông. Các vây có thể hơi vàng hay tối màu. Chỉ một số loài cá nhồng có thể phát triển đến kích thước lớn. Đó là: Cá nhồng châu Âu (S. sphyraena), tìm thấy trong khu vực Địa Trung Hải và miền đông Đại Tây Dương; Cá nhồng lớn (S. barracuda), sinh sống trong khu vực duyên hải cả hai phía đông và tây Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, tây Thái Bình Dương; Cá nhồng California (S. argentea), sinh sống trong khu vực từ eo biển Puget về phía nam tới Cabo San Lucas; Cá nhồng vằn hay cá nhồng Ấn Độ (S. jello); Cá nhồng Commerson hay cá nhồng vây đen (S. commersoni). Tập tin:Diver in school of thợ lặn bên trong bầy cá nhồng răng cưa tại Koh Tao, Thái Lan. Tập tin:Great Barracuda off the Netherland nhồng lớn và cá cam ven đảo Saba, Antille thuộc Hà Lan. Tập tin:Sphyraena nhồng phương bắc (Sphyraena borealis) Tập tin:Sphyraena bầy cá nhồng đuôi vàng (Sphyraena flavicauda) ngoài khơi Dayang, Malaysia. Cá nhồng có thể bắt gặp dạng sống đơn độc hoặc thành bầy xung quanh các rạn san hô, nhưng cũng sinh sống ngoài biển khơi. Chúng là các loài cá săn mồi phàm ăn, săn theo kiểu phục kích hay nằm chờ. Chúng dựa vào sự bất ngờ và sự bùng nổ tốc độ trong thời gian ngắn (tới 43 km/h (27 dặm/h)) để bắt mồi thay vì khả năng dùng mưu mẹo. Những con cá nhồng lớn ưa thích sống đơn độc hơn những con cá nhồng nhỏ. Chúng không lảng vảng gần để bảo vệ con của mình. Cá nhồng non và nhỏ thường xuyên tụ tập thành bầy. Thức ăn của chúng bao gồm nhiều loại cá. Những con cá nhồng lớn, khi đã no nê, có thể cố gắng dồn những con mồi vào vùng nước nông và canh giữ các con mồi này cho tới khi chúng lại cần ăn tiếp. Người ta cũng thấy cá nhồng lớn đôi khi ăn thịt cả cá nhồng bé. Giống như cá mập, cá nhồng từ lâu được người ta gán cho những hình ảnh xấu như là loại cá nguy hiểm cho con người. Người ta cũng thấy những con cá nhồng bơi theo các thợ lặn trong các rạn san hô, làm cho người ta cảm thấy không yên tâm, nhưng thực ra chúng không nguy hiểm nếu không bị kích động. Do cá nhồng cũng là những loài cá ăn xác thối nên chúng có thể nhầm các thợ lặn như là những con vật săn mồi to lớn và bơi theo để ăn những gì còn sót lại sau khi con vật săn mồi kia đã ăn. Là những thợ săn ghê gớm, nên chúng có khả năng tự vệ tốt để chống lại con người nếu bị quấy rối. Việc săn bắt cá bằng lao móc cạnh cá nhồng cũng khá nguy hiểm, do chúng bị hấp dẫn bởi những con cá bị thương. Cũng có một số trường hợp cá nhồng tấn công và cắn con người, nhưng khá hiếm và có lẽ là do thị lực kém của chúng. Nói chung, chúng sẽ ngừng lại sau cú đớp đầu tiên do con người không phải là thức ăn thông thường của chúng. Việc đeo các đồ trang sức sáng màu và bóng khi bơi lội gần cá nhồng là không nên do chúng bị thu hút bởi các vật có khả năng phản chiếu ánh sáng. Cá nhồng bị đánh bắt để làm thực phẩm và để giải trí. Trong vai trò của nguồn thực phẩm, người ta thường chế biến chúng thành cá phi lê hay thành miếng. Thịt cá nhồng có hương vị tương tự như cá ngừ hay cá hồi. Các loài cá nhồng có kích thước lớn, như cá nhồng lớn, trong một số khu vực có liên quan tới các vụ ngộ độc thực phẩm với độc tố ciguatoxin. Tại miền nam Nigeria, Tây Phi, cá nhồng đánh bắt được thường được hun khói để nấu các món xúp khác nhau. Lý do là thịt cá nhồng tươi rất mềm và bị nát hết trong xúp. Cá nhồng cũng có thể đánh bắt bằng cách câu. Do chúng rất khỏe nên cần phải khá khéo léo mới có thể kéo chúng lên khỏi mặt nước. Hiện tại người ta ghi nhận 29 loài cá nhồng đã biết: Sphyraena acutipinnis Day, 1876: Cá nhồng vây chấm Sphyraena afra Peters, 1844: Cá nhồng Guinea Sphyraena arabiansis Abdussamad Retheesh, 2015: Cá nhồng Rập. Sphyraena argentea Girard, 1854: Cá nhồng Thái Bình Dương hay cá nhồng California Sphyraena barracuda (Edwards trong Catesby, 1771): Cá nhồng lớn Sphyraena borealis DeKay, 1842: Cá nhồng phương bắc Sphyraena chrysotaenia Klunzinger, 1884: Cá nhồng sọc vàng Sphyraena ensis Jordan Gilbert, 1882: Cá nhồng Mexico Sphyraena flavicauda Rüppell, 1838: Sphyraena forsteri Cuvier, 1829: Cá nhồng mắt to Sphyraena guachancho Cuvier, 1829: Cá nhồng Guachanche Sphyraena helleri Jenkins, 1901: Cá nhồng Heller Sphyraena iburiensis Doiuchi Nakabo, 2005 Sphyraena idiastes Heller Snodgrass, 1903: Cá nhồng bồ nông Sphyraena intermedia Pastore, 2009. Sphyraena japonica Cuvier, 1829: Cá nhồng Nhật Bản Sphyraena jello Cuvier, 1829: Cá nhồng vằn, cá nhồng sọc Sphyraena lucasana Gill, 1863: Cá nhồng Lucas Sphyraena Günther, 1860: Cá nhồng Australia Sphyraena obtusata Cuvier, 1829: Cá nhồng đuôi vàng, cá nhồng tù Sphyraena picudilla Poey, 1860: Cá nhồng phương nam Sphyraena pinguis Günther, 1874: Cá nhồng đỏ Sphyraena putnamae Jordan Seale, 1905: Cá nhồng răng cưa Sphyraena qenie Klunzinger, 1870: Cá nhồng vây đen Sphyraena sphyraena (L., 1758): Cá nhồng châu Âu Sphyraena stellata Morishita Motomura, 2020 Sphyraena tome Fowler, 1903. Sphyraena viridensis Cuvier, 1829: Cá nhồng miệng vàng Sphyraena waitii Ogilby, 1908. Tại Việt Nam, theo Bách khoa Toàn thư, người ta đã đánh bắt được loài cá nhồng, trong đó có cá nhồng vằn và cá nhồng đuôi vàng. Labat Jean-Baptiste (1663-1738) Nouveau voyage Isles de l'Amerique, contenant l'histoire les mour, la religion, Paris, 1742. Norman Jr F.L.S. và Fraser FC, D.Sc., F.L.S.Field Book of Giant Fishes G.P. Putnam's Sons New York 1949. Rochefort Charles D. (1605-1683) Histoire naturelle et morale des illes Antilles de l'Amerique. Sloane Hans Sir (1660-1753), A voyage to the islands of Madera, Barbados, Nieves, S. Christophers and Jamaica'' London, Printed by BM for the author, 1707-1725. Trang về cá nhồng lớn trên website của Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên Florida. Trang về cá nhồng lớn. Mục từ Sphyraenidae trên Animal Diversity Web. | Họ Cá nhồng | Động vật Bangladesh, Cá châu, Cá Malaysia, Cá Ấn Độ, Cá Bangladesh, Cá Pakistan, Cá ăn được, Cá thể thao |
Công lý và Báo thù đuổi theo Tội ác, tranh của Pierre-Paul Prud'hon, khoảng năm 1805-1808 Trả thù hay báo thù được định nghĩa là hành động thực hiện một hành động có hại đối với một người hoặc một nhóm người để đáp lại sự bất bình, có thể là thật hoặc cho là thật (trái ngược với việc chìa nốt má kia). Trả thù được sử dụng để trừng phạt một sai trái bằng cách vượt ra ngoài pháp luật. Francis Bacon đã mô tả sự trả thù là một loại "công lý hoang dã", vi phạm luật pháp. Công lý nguyên thủy hoặc công lý đáp trả thường được phân biệt với các hình thức công lý chính thức và tinh tế hơn như công lý phân phối và phán xét thiêng liêng. Nhà tâm lý học xã hội Ian Mckee tuyên bố rằng mong muốn duy trì quyền lực thúc đẩy hành vi báo thù như một phương tiện quản lý ấn tượng: "Những người báo thù có xu hướng trở thành những người được thúc đẩy bởi quyền lực và bởi khát vọng địa vị. Tôi không muốn bị mất mặt ". Hành vi báo thù đã được tìm thấy trên hầu hết các xã hội loài người. Một số xã hội khuyến khích hành vi báo thù. Những xã hội này thường coi danh dự của các cá nhân và các nhóm người có tầm quan trọng trung tâm. Do đó, trong khi bảo vệ danh tiếng của mình, một kẻ báo thù cảm thấy như thể anh ta khôi phục lại trạng thái phẩm giá và công lý của mình trước đó. Theo Michael Ignatieff, "Trả thù là một mong muốn có tính đạo đức sâu sắc để giữ niềm tin với người chết, để tôn vinh ký lức của họ bằng cách chiếm lấy lý tưởng mà người đã mất đi bỏ lại". Do đó, danh dự có thể trở thành di sản truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bất cứ khi nào danh dự bị xâm phạm, gia đình hoặc thành viên cộng đồng bị ảnh hưởng có thể cảm thấy bị buộc phải trả thù người phạm tội để khôi phục lại "sự cân bằng danh dự" ban đầu trước khi danh dự bị tổn thương. Chu kỳ bảo vệ danh dự này có thể mở rộng bằng cách đưa các thành viên gia đình và sau đó toàn bộ cộng đồng nạn nhân mới vào chu kỳ trả thù hoàn toàn mới, và khi đó trả thù có thể lan tỏa trên nhiều thế hệ. Tập Đức tuyên bố giết 2300 thường dân trong vụ thảm sát Kragujevac để trả thù 10 lính Đức bị giết. Vùng Serbia bị Đức chiếm đóng, 1941 Vòng xoáy trả thù là những chu kỳ khiêu khích và trả thù, được thúc đẩy bởi mong muốn trả thù và được các nhóm gia đình hoặc bộ lạc thực hiện trong thời gian dài. Chugns là một phần quan trọng của nhiều xã hội tiền công nghiệp, đặc biệt là khu vực Địa Trung Hải. Chúng vẫn tồn tại một số khu vực, đáng chú là Albania với truyền thống gjakmarrja hay "mối thù máu". Trong thời Trung cổ, hầu hết mọi người sẽ không coi một sự xúc phạm hoặc tổn thương là đã được giải quyết cho đến khi nó được báo thù, hoặc, ít nhất, được thanh toán bằng tiền do đó, hệ thống Anglo-Saxon rộng rãi của các khoản thanh toán weregild (theo nghĩa đen, "giá người"), thiết lập một giá trị bằng tiền nhất định cho các hành vi bạo lực nhất định nhằm cố gắng hạn chế vòng xoáy trả thù bằng cách biến trách nhiệm của một kẻ gây tội ác thành tiền. Hình thức trả thù theo kiểu nợ máu vẫn được thực hiện nhiều nơi trên thế giới, bao gồm cả khu vực người Kurd Thổ Nhĩ Kỳ và Papua New Guinea. Nhật Bản, việc tôn vinh gia đình, gia tộc hoặc lãnh chúa của một người thông qua việc giết người trả thù được gọi là "katakiuchi" (敵討ち). Những vụ giết người này cũng có thể bao gồm cả thân nhân của kẻ phạm tội. Ngày nay, katakiuchi thường được theo đuổi bởi các biện pháp hòa bình, nhưng trả thù vẫn là một phần quan trọng của văn hóa Nhật Bản. | Trả thù | Công lý |
Chiếc gối tình yêu Dakimakura với hình một nhân vật anime. (từ chữ nghĩa là "ôm" hoặc "bám lấy" và "gối"), còn được gọi là Người vợ Hà Lan, là một loại gối ôm lớn của Nhật Bản gần giống với gối chỉnh hình bên phương Tây. Chúng có hình dạng tương tự như cơ thể người. Dakimakura thường in một phụ nữ trẻ mang phong cách anime và được giới trẻ Nhật sử dụng như là "món đồ bảo vệ". phương Tây, Dakimakura được kết hợp với một chiếc gối tình yêu. Gối tình yêu là một tập hợp con của dakimakura và một loại đồ chơi tình dục bơm hơi. Chúng thường có hình ảnh với kích cỡ của các nhân vật anime hoặc diễn viên phim khiêu dâm, thường trong tư thế khêu gợi. Vào những năm 1990, dakimakura bắt đầu hòa quyện với văn hóa otaku, dẫn đến việc sản xuất áo gối có tính năng in những hình ảnh của bishōjo và bishonen từ các anime khác nhau hoặc bishōjo game. Khá nhiều áo gối dakimakura otaku lúc đầu được phát hành thông qua Cospa, một loại hàng nhân vật và cửa hàng quần áo vẫn còn tiếp tục phát hành áo gối dakimakura chính thức cho đến ngày nay. Dù có đôi lúc được gọi là người vợ Hà Lan, định nghĩa ban đầu của cụm từ này gần giống với chikufujin. An article on the release of Japanese limited edition Xbox, which includes Kasumi (from Dead or Alive Xtreme Beach Volleyball) dakimakura. | Gối, Phát minh của Nhật Bản, Otaku, Đồ chơi tình dục |
|
Đặng Tiểu Bình giản thể: 邓小平; phồn thể: 鄧小平; bính âm: Dèng Xiǎopíng; 22 tháng năm 1904 19 tháng năm 1997), tên khai sinh là Đặng Tiên Thánh (邓先聖) là một nhà chính trị người Trung Quốc, ông là Lãnh đạo tối cao của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ năm 1978 đến năm 1992. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Đặng lên nắm quyền và lãnh đạo Trung Quốc qua một loạt những cải cách kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng, người Trung Quốc thường gọi ông với danh xưng "kiến trúc sư của Trung Quốc hiện đại". Sinh ra trong một gia đình địa chủ có học thức tỉnh Tứ Xuyên, Đặng học tập và làm việc tại Pháp trong những năm 1920, nơi ông đã trở thành một người đi theo chủ nghĩa Mác Lênin. Ông gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1923. Trong thời gian trở lại Trung Quốc, Đặng gia nhập tổ chức đảng Thượng Hải, trở thành một chính ủy của Hồng quân Trung Quốc những khu vực nông thôn. Năm 1931, ông bị giáng cấp do việc ủng hộ Mao Trạch Đông, nhưng được thăng cấp trở lại trong Hội nghị Tuân Nghĩa 1935. Khoảng cuối những năm thập niên 30, Đặng được xem là một "nhà cách mạng kì cựu" bởi vì ông đã từng tham gia cuộc Vạn lý trường chinh. Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, Đặng làm việc Tây Tạng cũng như vùng Tây Nam Trung Quốc nhằm củng cố sự quản lý của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Với vai trò là Tổng thư ký trong những năm thập niên 1950, Đặng đứng đầu Chiến dịch chống cánh hữu được phát động bởi Mao và có công lớn trong việc cải cách nền kinh tế Trung Quốc sau chiến dịch Đại nhảy vọt (1958-1960). Tuy nhiên, những chính sách kinh tế của Đặng đã khiến ông mất đi sự ủng hộ của Mao Trạch Đông và bị thanh trừng hai lần trong Cách mạng văn hóa. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Đặng trở thành lãnh tụ tối cao Trung Quốc trong tháng 12 năm 1978. Lên lãnh đạo một đất nước bao phủ bởi xung đột xã hội, vỡ mộng với thức hệ và rối loạn do những nguyên nhân từ các chính sách của thời kỳ Mao Trạch Đông nắm quyền, Đặng đã bắt đầu mang đất nước vào khuôn khổ. Từ năm 1977 tới đầu năm 1979, ông đã tổ chức kì thi đại học cao đẳng trong Trung Quốc sau khi bị gián đoạn bởi Cách mạng văn hóa trong 10 năm, khởi xưởng chính sách lịch sử Cải cách mở cửa Trung Quốc, phát động Chiến tranh biên giới Việt Trung. Trong tháng năm 1980, ông bắt đầu cải tổ lại nền chính trị Trung Quốc bằng cách đặt ra giới hạn nhiệm kỳ cho các quan chức và đề xuất một sửa đổi mang tính hệ thống đối với Hiến pháp lần thứ ba của Trung Quốc. Trong những năm thập niên 80, Đặng ủng hộ chính sách kế hoạch hóa gia đình nhằm đối phó với khủng hoảng gia tăng dân số Trung Quốc, thực hiện chính sách Giáo dục bắt buộc và đưa ra Chương trình 863 cho khoa học và kĩ thuật. Mặc dù Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ có chức vụ nguyên thủ quốc gia hay đứng đầu chính phủ hoặc Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc nhưng nhiều người gọi ông là "kiến trúc sư" của một kiểu tư tưởng mới mà kết hợp tư tưởng chủ nghĩa xã hội với thị trường tự do, được gọi là "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc". Ông mở cửa Trung Quốc giao lưu với thị trường thế giới, những chính sách phát triển Trung Quốc thành một trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới và tăng chất lượng cuộc sống của hàng trăm triệu người. Đặng được bình chọn là Nhân vật của năm của tạp chí Time năm 1978 và 1985. Ông bị chỉ trích vì ra lệnh trấn áp những người biểu tình trong sự kiện Thiên An Môn, nhưng được khen ngợi cho sự tái khẳng định của ông về chương trình cải cách trong chuyến đi xuống phía Nam năm 1992 cũng như sự kiện bàn giao Hồng Kông cho Trung Quốc năm 1997. Tập tin:Student Deng Xiaoping in lúc 16 tuổi, đang học tại Pháp (1921) Tổ tiên của Đặng có thể có nguồn gốc từ Mai Huyện, Quảng Đông, một vùng định cư xa xưa của người Khách Gia và đã chuyến đến sống tại Tứ Xuyên trong nhiều thế hệ. Con gái của Đặng là Đặng Lâm viết trong cuốn Cha của tôi Đặng Tiểu Bình rằng tổ tiên của Đặng có thể nhưng không chắc chắn là người Khách Gia. Sau này, người ta xác định Đặng có quê tổ quận Thanh Nguyên, địa cấp thị Cát An, tỉnh Giang Tây Đặng sinh ngày 22 tháng năm 1904 tại thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện Quảng An, phía đông tỉnh Tứ Xuyên. Cha của Đặng, Đặng Thiệu Xương (tự Văn Minh), một địa chủ khá giả và từng học tại Đại học Luật và Khoa học Chính trị Thành Đô. Ông là một người nổi bật địa phương và là hội viên của một hội nhóm hoạt động bí mật nhằm lật đổ triều đình Mãn Thanh, Mẹ của Đặng, Đàm Thị đã mất sớm sau khi sinh Đặng, ông có ba anh em trai: Đặng Tiên Liệt, Đặng Tiểu Bình, Đặng Khẩn, và ba chị gái. Cha của Đặng có bốn người vợ, người vợ thứ nhất mất sớm mà không có con, mẹ của Đặng là vợ thứ hai và người vợ thứ ba sinh được một trai, bà thứ tư (Hạ Bá Căn) sinh được trai, gái. Mẹ đẻ Đặng Tiểu Bình mất sớm, nên sau này ông đã mời mẹ kế Hạ Bá Căn từ quê lên thủ đô sống chung cùng gia đình ông. Lúc tuổi Đặng được gửi tới một ngôi trường truyền thống của Trung Quốc, sau đó lúc tuổi ông đã học ngôi trường hiện đại hơn. Mẹ của ông, họ là Dan, chết sớm, để lại Đặng, ba anh trai và ba chị gái. Người vợ đầu của Đặng, một bạn học của ông từ Moskva, đã mất tuổi 24 chỉ vài ngày sau khi sinh người con đầu tiên của Đặng, một bé gái nhưng cũng đã mất sau đó. Người vợ thứ hai của ông, Jin Weiying đã bỏ ông sau khi Đặng phải chịu cuộc tấn công chính trị năm 1933. Người vợ thứ ba của ông là Zhuo Lin là con gái của một nhà tư bản công nghiệp Hồ Nam. Bà trở thành một thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1938 và kết hôn với Đặng một năm sau đó. Họ đã có năm người con: gái và trai. Tập tin:Deng của Đặng trên thẻ nhân viên của nhà máy giày Hutchinson Pháp Khi lần đầu Đặng đi học, người thầy của ông đã phản đối cái tên của ông là "Xiānshèng" (先聖), mà gọi ông là "Xīxián" (希賢), tên bao gồm các chữ "khao khát" và "lòng tốt", với những ẩn về sự sáng suốt. Mùa hè năm 1919, Đặng tốt nghiệp trường Trùng Khánh. Ông và 80 bạn học khác đã đi bằng tàu tới Pháp (bằng vé hạng chót) để tham gia "Phong trào làm việc chăm chỉ-học tập chuyên cần", một chương trình học tập và làm việc trong tổng số 4,001 người Trung Quốc tham gia khoảng năm 1927. Đặng là người trẻ nhất trong nhóm, lúc đó mới 15 tuổi. Wu Yuzhang, lãnh đạo địa phương của phong trào trong trường Chongqing, đã kết nạp Đặng và chú của ông vào phong trào. Cha của Đặng đã vô cùng ủng hộ con trai mình tham gia chương trình làm việc và học tập hải ngoại. Đêm trước khi khởi hành, cha của Đặng đã hỏi ông về những điều ông đã hứa để học tại Pháp. Ông đã lặp lại những từ ông đã học từ những người thầy của mình "để học kiến thức và chân lý từ phương Tây để cứu Trung Quốc". Đặng đã nhận thức được rằng, Trung Quốc đang chịu nhiều đau khổ to lớn, và rằng người Trung Quốc phải có một nền giáo học hiện đại để cứu đất nước của họ. Tháng 12 năm 1920, chiếc tàu André Lyon của Pháp đã khởi hành tới Marseille với 210 học sinh bao gồm Đặng. Đặng lúc ấy 16 tuổi đã nhập học trường trung học Bayeux và Châtillon, nhưng ông đã dành hầu hết thời gian làm việc Pháp. Công việc đầu tiên của ông là thợ lắp ráp tại công ty sắt Le Creusot và thép La một vùng ngoại phía Tây Nam Paris. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên sau này, khi sự nghiệp chính trị của Đặng là đi xuống và ông đã được gửi tới làm việc trong một nhà máy máy kéo năm 1974 ông đã làm thợ lắp ráp lần nữa và đã chứng minh bản thân vẫn giữ những kĩ năng bậc thầy. La Đặng gặp Chu Ân Lai, Nhiếp Vinh Trăn, Cai Hesen, Zhao Shiyan và Li Whenhai. Dưới sự ảnh hưởng của những sinh viên lớn tuổi hơn Pháp, Đặng đã bắt đầu nghiên cứu chủ nghĩa Marx và tham gia truyền bá tác phẩm. Năm 1921 ông đã gia nhập Liên minh những người cộng sản trẻ Trung Quốc châu Âu. Vào năm 1924, ông đã gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc và trở thành một trong những lãnh đạo của Tổng chi nhánh liên minh trẻ châu Âu. Trong năm 1926 Đặng tới Liên Xô và học tại Đại học Tôn Trung Sơn tại Moscow, tại đây ông có một người bạn học là Tưởng Kinh Quốc, con trai của Tưởng Giới Thạch. Cuối năm 1927, Đặng Tiểu Bình rời khỏi Moskva để trở về Trung Quốc, gia nhập quân đội của Phùng Ngọc Tường, một nhà lãnh đạo quân đội Tây Bắc Trung Quốc, người đã yêu cầu sự giúp đỡ của Liên Xô trong cuộc đấu tranh với các nhà lãnh đạo địa phương khác trong khu vực. Vào thời điểm đó, Liên Xô, thông qua Quốc tế cộng sản, một tổ chức quốc tế hỗ trợ các phong trào cộng sản trên khắp thế giới đã hỗ trợ liên minh của Đảng Cộng sản Trung Quốc với Quốc dân đảng (KMT) được thành lập bởi Tôn Trung Sơn. Đặng Tiểu Bình đến Tây An, thành trì của Phùng Ngọc Tường, tháng năm 1927 với nỗ lực ngăn chặn sự phá vỡ liên minh giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản. Sau khi liên minh giữa Quốc Dân Đảng và Cộng sản tan rã, Phùng Ngọc Tường đứng về phía Tưởng Giới Thạch và những người cộng sản như Đặng Tiểu Bình buộc phải chạy trốn. Năm 1929, ông lãnh đạo cuộc nổi dậy tỉnh Quảng Tây chống lại chính quyền của Quốc dân đảng. Cuộc nổi dậy thất bại và ông đến Giang Tây. Mặc dù Đặng có liên quan tới phong trào cách mạng Mác-xít Trung Quốc, nhà sử học Mobo Gao đã viết rằng: Sau khi rời quân đội Phùng Ngọc Tường phía tây bắc, Đặng Tiểu Bình đến thành phố Vũ Hán, trụ sở của những người cộng sản. Vào thời điểm đó, ông bắt đầu sử dụng biệt danh "Tiểu Bình" và nắm giữ các vị trí nổi bật trong bộ máy Đảng. Ông tham gia phiên họp khẩn cấp vào ngày tháng năm 1927, trong đó theo chỉ thị của Liên Xô, Đảng cách chức Tổng bí thư của Trần Độc Tú và Cù Thu Bạch. Vũ Hán, Ông lần đầu gặp Mao Trạch Đông, người được các nhà lãnh đạo của Liên Xô ủng hộ. Giữa năm 1927 và năm 1929, Đặng Tiểu Bình sống Thượng Hải, tại đây ông giúp tổ chức các cuộc biểu tình, tuy nhiên bị chính quyền Quốc dân đảng khủng bố tàn bạo. Trong giai đoạn này, Đặng kết hôn với một người phụ nữ ông từng gặp Moskva, Trương Tích Viên. Bắt đầu từ năm 1929, ông tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại Quốc dân đảng Quảng Tây. Sự vượt trội của quân Tưởng Giới Thạch đã gây ra thương vong lớn cho quân của Đảng Cộng sản. Chiến lược đối đầu của lãnh đạo Đảng là một thất bại vì đã gây nhiều thương vong. Câu trả lời cho thất bại này đã xúc tác cho một trong những điều khó hiểu nhất trong tiểu sử của Đặng Tiểu Bình: tháng năm 1931, ông rời tiểu đoàn của Quân đội Cộng sản và chỉ xuất hiện một thời gian sau đó tại Thượng Hải. Tiểu sử chính thức về Đặng Tiểu Bình nói rằng ông đã bị cấp trên buộc tội bỏ trốn khỏi khu vực chiến đấu trước khi đến Thượng Hải. Mặc dù ông không bị trừng phạt Thượng Hải, giai đoạn này vẫn chưa rõ ràng và nó được sử dụng để chống lại ông về sự tận tụy của Đặng với Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Sau khi trở về Thượng Hải, Đặng Tiểu Bình biết được vợ ông bị sốt hậu sản và qua đời. Ngoài ra, ông phát hiện ra rằng nhiều đồng đội cũ của ông đã chết vì cuộc đàn áp của Quốc dân đảng chống lại Đảng Cộng sản. Những chiến dịch chống Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiều thành phố là một trở ngại đối với Đảng cộng sản và đặc biệt đối với các cố vấn Liên Xô. Trái ngược với cuộc cách mạng tổ chức tại thành thị, dựa trên kinh nghiệm của Liên Xô, lãnh đạo Mao Trạch Đông đã nhìn nhận nông dân là lực lượng cách mạng chính Trung Quốc. một vùng miền núi của tỉnh Giang Tây, Mao Trạch Đông thiết lập một hệ thống chiến khu theo mô hình cộng sản, tiền đề của một Trung Hoa tương lai dưới chủ nghĩa cộng sản. Tại một trong những đô thị quan trọng nhất Giang Tây, Thụy Kim, Đặng Tiểu Bình đảm nhiệm chức vụ Bí thư Đảng ủy vào mùa hè năm 1931. Năm 1933, ông trở thành giám đốc bộ phận tuyên truyền của Tỉnh ủy Giang Tây. Đó là lúc ông kết hôn với một phụ nữ trẻ ông gặp Thượng Hải tên là Kim Duy Ánh. Những thành công tại Giang Tây khiến các nhà lãnh đạo đảng quyết định chuyển đến Giang Tây. Cuộc đối đầu giữa Mao Trạch Đông, các lãnh đạo đảng với những cố vấn Liên Xô ngày càng trở nên căng thẳng và cuộc tranh tranh giành quyền lực giữa hai bên đã dẫn đến việc giáng chức Đặng Tiểu Bình, người ủng hộ tưởng của Mao. Bất chấp lục đục nội bộ, Giang Tây trở thành địa phương đầu tiên được Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát. Giang Tây thậm chí còn phát hành tem và tiền giấy dưới danh nghĩa của Đảng Cộng sản, quân đội Tưởng Giới Thạch quyết định tấn công Giang Tây. Đặng Tiểu Bình trong quân phục của quân đội Quốc dân Đảng, 1937 Vào tháng 10 năm 1934, do bị bao vây bởi quân đội của Tưởng Giới Thạch, những người Cộng sản buộc phải rời khỏi Giang Tây. Lịch sử đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc. Việc sơ tán rất khó khăn vì Quân Tưởng Giới Thạch đã chiếm giữ các vị trí trọng yếu. Vượt qua địa hình núi non và xa xôi, khoảng 100.000 người đã trốn thoát khỏi Giang Tây, bắt đầu một cuộc rút lui chiến lược qua nội địa Trung Quốc và kết thúc một năm sau, khi khoảng 8.000 đến 9.000 người sống sót đến tỉnh Thiểm Tây. Trong hội nghị vào đầu tháng 3, một nhóm chính trị được gọi là 28 người Bolshevik (những người theo chủ nghĩa Marx chính thống), do Bác Cổ và Vương Minh dẫn đầu, bị lật đổ và Mao Trạch Đông trở thành lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình một lần nữa trở thành nhân vật cấp cao trong Đảng. Cuộc đối đầu giữa quân Tưởng và quân Mao tạm thời bị gián đoạn, do cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Trung Quốc buộc Quốc dân đảng phải thành lập liên minh lần thứ hai với những người cộng sản để bảo vệ đất nước chống lại sự xâm lăng của Nhật Bản. Cuộc xâm lược của quân Nhật vào năm 1937 đánh dấu sự khởi đầu của cuộc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai. Trong cuộc xâm lược, Đặng Tiểu Bình vẫn còn trong khu vực được kiểm soát bởi những người Cộng sản phía bắc, nơi ông giữ vai trò phó chỉ huy sư đoàn được tổ chức lại của quân đội Cộng sản. Từ tháng năm 1937 cho đến tháng năm 1938, ông sống trong các tu viện Phật giáo và các ngôi đền dãy núi Ngũ Đài Sơn. Vào tháng năm 1938, ông được bổ nhiệm làm Ủy viên chính trị của sư đoàn 129 của Quân đoàn số 18 do Lưu Bá Thừa chỉ huy, bắt đầu một quan hệ đối tác lâu dài với Lưu. Đặng là chỉ huy chính trong những cuộc xung đột với người Nhật giáp với tỉnh Sơn Tây, Hà Nam và Hà Bắc, sau đó đến Diên An, nơi Mao đã thành lập những cơ sở cách mạng. Trong một chuyến đi của ông tới Diên An năm 1939, ông đã kết hôn lần thứ với, Zhuo Lin, một người phụ nữ trẻ gốc Côn Minh. Đặng được xem là một "nhà cách mạng kỳ cựu" bởi vì sự tham gia của ông trong Vạn lý trường chinh. Ông đảm nhiệm một vai trò lãnh đạo trong chiến dịch Cuộc tấn công 100 trung đoàn, nơi đã làm gia tăng vị thế của ông. Tập với Lưu Thừa Bá (bên phải) Sau thất bại của Nhật Bản trong Thế chiến II, Đặng Tiểu Bình đã đi đến Trùng Khánh, thành phố nơi Tưởng Giới Thạch thành lập chính phủ của mình trong cuộc xâm lược của Nhật Bản, để tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản. Kết quả của những cuộc đàm phán này không tích cực và cuộc đối đầu quân sự giữa hai đảng tiếp tục ngay sau cuộc họp tại Trùng Khánh. Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Đặng Tiểu Bình thực hiện một vai trò quan trọng là lãnh đạo chính trị và ủy viên chính trị của Quân đội số do Lưu Bá Thừa chỉ huy. Ông cũng tham gia phổ biến những tưởng của Mao Trạch Đông, trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản. Công việc chính trị và thức hệ của ông, cùng với tư cách là cựu chiến binh của Vạn lý trường chinh, đã đặt ông vào một vị trí đặc quyền trong đảng để chiếm giữ các chức vụ cao sau khi Đảng Cộng sản đánh bại Tưởng Giới Thạch và thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vào ngày tháng 10 năm 1949, Đặng tham gia buổi lễ thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Bắc Kinh. Tại thời điểm đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kiểm soát hoàn toàn phía Bắc, nhưng vẫn có những phần phía Nam được kiểm soát bởi Quốc dân Đảng. Ông trở thành nhà lãnh đạo chịu trách nhiệm bình định phía Tây Nam Trung Quốc, với vai trò là bí thư thứ nhất của Cục Tây Nam. Tổ chức này có nhiệm vụ tiếp quản phần cuối cùng chiếm được mà một phần phần của đất nước vẫn được cai quản bởi Quốc dân Đảng. Chính phủ Quốc dân Đảng bị đánh bật khỏi Quảng Châu và rút lui đến Trùng Khánh. đây, Tưởng Giới Thạch và con trai Tưởng Kinh Quốc, một bạn học cũ của Đặng Moskva muốn ngăn chặn cuộc tấn công của lực lượng Đảng cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của Đặng, quân đội Cộng sản chiếm được Trung Khánh vào cuối tháng 11 năm 1949 và tiến vào Thành Đô, thành trì cuối cùng của Tưởng Giới Thách một vài ngày sau đó. Tại thời điểm đó, Đặng trở thành thị trưởng Trùng Khánh, trong khi ông vẫn kiêm nhiệm lãnh đạo Đảng phía Tây Nam, nơi lực lượng quân đội Cộng sản đã đổi tên thành Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, dẹp tan sự chống cự của những thế lực ủng hộ Quốc dân Đảng. Trong năm 1950, Đảng cộng sản đã làm chủ toàn bộ Trung Hoa và chiếm lấy Tây Tạng. Đặng Tiểu Bình sống năm Trùng Khánh, thành phố nơi ông đã học trong thời trẻ trước khi sang Pháp. Trong năm 1952, Ông tới Bắc Kinh, nơi ông đã giữ nhiều vị trí khác nhau trong chính phủ trung ương. Đặng (bên trái ngoài cùng) gặp gỡ với Đạt lai lạt ma thứ 14, năm 1954 Tháng năm 1952, ông được cử làm Phó Tổng lý (Phó Thủ tướng) Chính vụ viện (sau đổi là Quốc vụ viện), kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-kinh tế. Năm 1955, ông cùng Lâm Bưu được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1956, ông vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, làm Tổng Bí thư Ban bí thư Trung ương, đứng cuối cùng (thứ 6) trong Ban Thường vụ sau Mao Trạch Đông (Chủ tịch Đảng), Lưu Thiếu Kì, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân (đều là Phó Chủ tịch Đảng). Năm 1966, trong Cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình bị phê phán nặng nề là "tên số hai trong Đảng đi theo chủ nghĩa tư bản", rồi bị cách chức vụ. Từ năm 1969 đến năm 1972, hai vợ chồng ông bị đưa về Giang Tây, con cái đều bị bắt đi cải tạo các tỉnh khác. Ngày 20 tháng năm 1973, Đặng Tiểu Bình rời Giang Tây, quay trở lại Trung Nam Hải (Bắc Kinh), sau khi được phục hồi công tác. Ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, rồi Phó Chủ tịch Đảng. Về mặt chính quyền, ông trở lại cương vị Phó Thủ tướng, rồi Phó Thủ tướng thứ nhất. Khi Chu Ân Lai lâm bệnh nặng, ông chủ trì công việc của Quốc vụ viện. Năm 1976, sau khi Chu Ân Lai mất, nhóm chống đối ("bè lũ bốn tên") viện cớ Đặng Tiểu Bình có tư tưởng phản cách mạng và tác động đến Mao Trạch Đông, vì vậy ông lại bị Mao Trạch Đông cách chức, chỉ còn danh hiệu đảng viên và hộ khẩu Bắc Kinh. Ông là người phát động phong trào biểu tình ủng hộ cố thủ tướng Chu Ân Lai ngày tháng năm 1976. Sau khi "bè lũ bốn tên" bị lật đổ, Đặng Tiểu Bình được khôi phục tất cả các chức vụ (1978): Phó Chủ tịch Đảng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng. Tập tin:Zhou Li bên trái với chủ tịch tương lai Lý Tiên Niệm và Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1963 Mao lo sợ rằng những chính sách cải cách kinh tế của Đặng và Lưu có thể dẫn sự phục hồi chủ nghĩa tư bản và kết thúc Cách mạng Trung Quốc. Cho lí do này và nhiều lý do khác nữa, Mao đã đưa ra Cách mạng Văn hóa năm 1966, trong khoảng thời gian này Đặng đã bị mất sự ủng hộ và bị buộc rút lui khỏi tất cả chức vụ của ông. Trong suốt Cách mạng Văn hóa, ông và gia đình là mục tiêu của Hồng vệ binh, họ đã bỏ tù con trai cả của ông, Đặng Phác Phương, Đặng Phác Phương bị tra tấn và bị ném ra ngoài của sổ từ tầng năm 1968, trở thành một người tàn phế. Vào tháng 10 năm 1969, Đặng Tiểu Bình được gửi tới nhà máy máy kéo Xinjian thuộc vùng nông thôn Giang Tây để làm việc như một công nhân. Trong năm tại đây, Đặng đã dành thời gian rỗi của ông để viết. Ông bị đấu tố khắp cả nước, nhưng cấp độ thấp hơn so với Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ. Sau khi người kế tục thứ hai của Mao, phó Chủ tịch đảng Lâm Bưu bị chết trong một tai nạn máy bay năm 1971 (theo một báo cáo ông đang cố gắng trốn khỏi Trung Quốc sau khi thất bại trong một cuộc đảo chính chống lại Mao), Đặng Tiểu Bình (người đã từng là chính ủy của Quân đoàn số trong nội chiến) trở thành lãnh đạo quân sự ảnh hưởng nhất còn lại. Khi Thủ tướng Chu Ân Lai, người nếu sống đủ lâu có lẽ là người kế vị thứ ba của Mao, đã mắc bệnh ung thư, Đặng trở thành sự lựa chọn của Chu như là người kế nhiệm, nghĩa rằng ông có thể về lý thuyết là người kế vị của Mao. Chu đã thuyết phục đưa Đặng trở lại chính trường năm 1974 với vai trò là Phó thủ tướng thứ nhất, trong thực tế điều hành công việc Thủ tướng. Đặng đã tập trung tái cấu trúc nền kinh tế đất nước và nhấn mạnh sự thống nhất như là bước đi đầu tiên bằng cách nâng sản lượng sản xuất. Ông đã cẩn thận, tuy nhiên, để tránh mâu thuẫn với tư tưởng Mao Trạch Đông. Tháng một năm 1975, ông đã được bầu thêm chức Phó chủ tịch của Đảng trong Ủy ban trung ương lần thứ 10 cho lần đầu tiên trong vai trò đảng viên của ông. Li Desheng đã từ chức trong sự tán thành của ông. Đặng là một trong năm phó chủ tịch Đảng, với Chu là phó chủ tịch thứ nhất. Tập tin:Gerald and Betty Ford meet with Deng Xiaoping, 1975 giữa với tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford (trái)1975 Trong thời gian này, Đặng đã thành lập Phòng Nghiên cứu Chính trị, lãnh đạo bởi những tri thức như Hu Qiaomu, Yu Guangyuan và Hu Sheng, được giao phó để tiếp cận nghiên cứu những cải cách chính trị và kinh tế. Ông đã lãnh đạo nhóm của mình và quản lý dự án trong giới hạn Quốc vụ viện, để tránh mối nghi ngờ của Tứ nhân bang. Cách mạng văn hóa chưa kết thúc, và một nhóm chính trị cánh tả cấp tiến được gọi là Tứ nhân bang, lãnh đạo bởi vợ của Mao là Giang Thanh, đã cạnh tranh quyền lực trong Đảng. Tứ nhân bang đã xem Đặng như là đối thủ lớn nhất của họ. Mao, cũng đã nghi ngờ rằng Đặng sẽ phá hủy danh tiếng của Cách mạng văn hóa, chính sách mà Mao xem như là một trong những sáng kiến vĩ đại nhất. Khoảng cuối năm 1975, Đặng được yêu cầu để viết ra một loạt những thứ gọi là Tự phê bình. Mặc dù ông đã thừa nhận có một quan điểm tư tưởng không phù hợp trong khi đang giải quyết những công việc của đảng và quốc gia, ông đã miễn cưỡng thừa nhận rằng những chính sách của ông là sai về cơ bản. Sự đối địch của ông và Tứ nhân bang càng lớn hơn, và Mao dường như ngả về Tứ nhân bang. Mao đã từ chối tự phê bình của Đặng và yêu cầu Ban chấp hành trung ương Đảng để "thảo luận những sai lầm hoàn toàn của Đặng". Chu Ân Lai chết vào tháng năm 1976, gây ra nỗi đau buồn cho cả quốc gia. Chu là một nhân vật quan trọng trong đời sống chính trị của Đặng, cái chết của ông đã làm mất đi sự ủng hộ còn lại cho Đặng trong Ban chấp hành Trung ương. Sau khi Đặng phát biểu ca ngợi Chu tại lễ tang, Tứ nhân bang, với sự cho phép của Mao, đã bắt đầu cái gọi là chiến dịch "Phê bình Đặng và Phản đối Sự phục hồi của Những thành phần Cánh hữu". Hoa Quốc Phong, không phải Đặng, được chọn làm người kế tục Mao với tư cách Thủ tướng vào ngày tháng năm 1976. Sau khi Mao qua đời vào ngày tháng năm 1976 và việc Bè lũ bốn tên bị loại bỏ vào tháng 11 năm 1976, Đặng nổi lên như một lãnh đạo trên thực tế của Trung Quốc. Trước khi Mao mất, chỉ có vị trí trong chính phủ ông đang giữ là Phó thủ tướng thứ nhất của Hội đồng nhà nước, nhưng Hoa Quốc Phong muốn loại bỏ những thành phần cực đoan trong Đảng và thành công loại trừ Bè lũ bốn tên. Vào ngày 22 tháng năm 1977, Đặng được phục hồi chức vụ Phó chủ tịch của Ủy ban trung ương, Phó Chủ tịch của Ủy ban quân sự và Tổng tư lệnh của Bộ tổng tham mưu Quân giải phóng Trung Quốc. Từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12 năm 1978, Hội nghị công tác trung ương đã diễn ra với sự tham dự của lãnh đạo các tỉnh, các quân khu, và Trung ương Đảng, chính phủ, và cơ quan quốc phòng. Chương trình nghị sự ban đầu tập trung vào các vấn đề trong nước phát triển nông nghiệp và chính sách kinh tế trong các năm 1979 và 1980 và không bao gồm tình hình Đông Dương, trái với khẳng định đã nêu của King Chen. Cuộc họp đã có một bước ngoặt bất ngờ khi Trần Vân (Chen Yun), một nhà hoạch định kinh tế kế hoạch cho Mao, phát biểu vào ngày 12 tháng 11 nhấn mạnh họ trước tiên phải giải quyết các hậu quả để lại của Cách mạng Văn hoá. Chương trình nghị sự sau đó đã chuyển sang vấn đề phục chức cho các đảng viên cấp cao trước đây bị truy tố trong Cách mạng Văn hoá và sang hướng chỉ trích liên minh Hoa Uông vì tiếp tục theo đuổi chính sách tư tưởng cực tả. Cuộc họp kết thúc với quyết định triệu tập Hội nghị TW của Đại hội Đảng khoá 11, đây Trần Vân đã trở thành Phó Chủ tịch ĐCSTQ, củng cố vị thế chính trị của Đặng Tiểu Bình. Với bầu không khí chính trị thay đổi Bắc Kinh, các quyết định của Đặng dần trở lên có ảnh hưởng cao tại chính trường Trung Quốc. Cuối cùng, bằng sự chuẩn bị kĩ lưỡng huy động sự ủng hộ trong nội bộ đảng, Đặng đã đánh bại Hoa, người từng xá tội cho ông và loại bỏ Hoa khỏi vị trí lãnh đạo cấp cao đang nắm giữ vào khoảng năm 1980. Đặng bãi bỏ Cách mạng Văn hóa và trong năm 1977 và đưa ra "Mùa xuân Bắc Kinh". Trong khi đó, ông đã thúc đẩy việc bãi bỏ hệ thống lý lịch giai cấp. Dưới hệ thống này, Đảng cộng sản Trung Quốc đã cởi bỏ những rào chắn cho những người mà được cho là có liên hệ với giai cấp địa chủ; sự cởi bỏ của nó đã cho phép một nhóm người ủng hộ khôi phục thị trường tư nhân để họ gia nhập Đảng cộng sản. Đặng đã dần dần loại bỏ những đối thủ chính trị của ông. Bằng cách khuyến khích những chỉ trích đại chúng về Cách mạng văn hóa, ông đã làm suy yếu những người mà đã có được vị trí hiện tại của họ nhờ những việc họ đã làm trong sự kiện, trong khi củng cố những vị trí đồng minh của ông mà đã bị thanh trừng trong thời gian này. Đặng cũng nhận được một thỏa thuận lớn về sự ủng hộ của người dân. Khi Đặng dần dần củng cố quyền lực Đảng cộng sản, Hoa đã được thay thế bởi Triệu Tử Dương với vai trò thủ tướng năm 1980, và bằng Hồ Diệu Bang với chức vụ Tổng bí thư năm 1981, mặc dù trong thực tế Hoa là người được Mao Trạch Đông chọn như người kế tục ông với tư cách là "lãnh đạo tối cao" của Đảng cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Những quyết định quan trọng đã luôn được thực hiện nhà của Đặng Trung Nam Hải với một cuộc họp riêng với cán bộ cao cấp khác, được gọi là Bát đại nguyên lão, đặc biệt với Trần Vân và Lý Tiên Niệm. Đặng đã nắm quyền hành với tư cách là "lãnh tụ tối cao" mặc dù ông chưa bao giờ giữ những vị trí hàng đầu của đảng, và đã dần dần loại bỏ ba lãnh đạo đảng, bao gồm Hồ Diệu Bang. Đặng vẫn còn ảnh hưởng lớn tới Đảng cộng sản Trung Quốc, tuy nhiên sau năm 1987 những chức vụ của ông chỉ là Chủ nhiệm Ủy ban Cố Vấn Đảng Cộng Sản Trung Quốc và chủ tịch Ủy ban quân sự trung ương Đảng cộng sản. Với việc Đặng trở thành nhân vật số một mới của Trung Quốc có nghĩa rằng các vấn đề lịch sử và tư tưởng xung quoanh Mao Trạch Đông phải được giải quyết thích đáng. Bởi vì Đặng mong muốn những cải cách sâu rộng, nó đã không thể cho ông tiếp tục theo con đường cứng rắn của Mao là những chính sách "đấu tranh giai cấp" và những chiến dịch đại chúng. Trong năm 1982 Ban chấp hành TW Đảng đã phát hành một tài liệu được đặt tên là "Bàn về những vấn đề lịch sử khác nhau kể từ sự thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Quốc". Mao vẫn giữ địa vị của ông như là một "người Mác xít, nhà cách mạng vô sản, nhà quân sự vĩ đại", và là người thành lập và dẫn đường không thể chối cãi của đất nước và quân đội. "Những chính sách tốt của ông phải được xem xét trước những sai lầm của ông", tài liệu đã viết công khai. Bản thân Đặng đã bình luận rằng Mao: "bảy phần tốt, ba phần xấu". Tài liệu cũng đưa Mao ra khỏi những trách nhiệm chính của ông về Cách mạng Văn hóa (mặc dù nó đã tuyên bố rằng "Sai lầm của Mao là đã bắt đầu Cách mạng văn hóa") để "chống lại bè lũ cách mạng" của Bè lũ bốn tên và Lâm Bưu. Tháng năm 1978, sau khi đã ổn định đất nước sau thời kì hỗn loạn chính trị, Đặng đã thăm Bangkok, Kuala Lumpur và Singapore và đã gặp Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu. Đặng đã rất ấn tượng với sự phát triển kinh tế của Singapore, cây xanh, nhà ở, và sau đã gửi mười nghìn người Trung Quốc tới Singapore và các nước khắp thế giới để học những kinh nghiệm của họ và mang những kiến thức họ trở lại phục vụ đất nước.Lý Quang Diệu, đã khuyên Đặng dừng việc đưa Hệ tư tưởng Cộng sản tới Đông Nam Á, lời khuyên mà Đặng sau đó nghe theo. Nhờ sự ủng hộ của những lãnh đạo đảng khác-những người đã phục hồi lại những vị trí của họ, từ năm 1978 việc nắm quyền của Đặng là không thể tránh khỏi. Mặc dù Hoa Quốc Phong giữ chính thức những vị trí cấp cao trong Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, vị trí của ông, với sự ủng hộ ít ỏi, trở nên càng khó khăn. Vào năm 1978, trong suốt thời gian Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 11, Đặng đã nắm quyền. Tập tin:Deng Xiaoping and Jimmy Carter at the arrival ceremony for the Vice Premier of China. NARA và Jimmy Carter tại lễ tiếp đón Bắt đầu từ năm 1979, những cải cách kinh tế đã được thúc đẩy theo mô hình thị trường, trong khi những lãnh đạo vẫn giữ phong cách hùng biện kiểu Cộng sản cũ. Hệ thống hợp tác xã lần lượt được hủy bỏ và những người nông dân đã bắt đầu có nhiều tự do hơn để quản lý đất đai họ đã canh tác và bán sản phẩm của họ ra chợ. Tại thời điểm đó, nền kinh tế Trung Quốc đã mở cửa để buôn bán quốc tế. Vào ngày 1, tháng năm 1979, Hoa Kỳ đã công nhận Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, gạt Đài Loan sang một bên, và việc tiếp xúc giữa Trung Quốc và phương Tây đã bắt đầu phát triển. Vào cuối năm 1978, công ty hàng không vũ trụ Boeing đã thông báo bán Boeing 747 cho nhiều hãng máy bay Trung Quốc, và công ty đồ uống Coca-Cola đã công bố đại chúng định của họ mở kế hoạch sản xuất tại Thượng Hải. Đầu năm 1979, Đặng đã nhận một lời mời thăm chính thức từ Hoa Kỳ, gặp Tổng thống Jimmy Carter Washington cũng như gặp nhiều nghị sỹ. Trung Quốc đã khẳng định rằng cựu tổng thống Richard Nixon được mời tới buổi tiệc chính thức Nhà Trắng, một biểu tượng biểu thị thái độ quả quyết của họ và mặt khác, mong muốn của họ với sáng kiến của Nixon. Trong suốt chuyến thăm; Đặng đã thăm Trung tâm không gian Johnson Houston, cũng như văn phòng chính của Coca-Cola và Boeing Atlanta và Seatle. Với những cuộc viếng thăm nghĩa, Đặng đã thể hiện rõ ràng rằng những ưu tiên hàng đầu của một chế độ Trung Quốc mới là phát triển kinh tế và khoa học kĩ thuật. Mối quan hệ Trung-Nhật cũng đã cải thiện đáng kể. Đặng đã dùng Nhật Bản như một bài học về một cường quốc đang phát triển nhanh chóng, thiết lập một ví dụ điển hình cho nền kinh tế Trung Quốc. Tập tin:Visit of Chinese Vice Premier Deng Xiaoping to Johnson Space Center và vợ ông được chỉ dẫn bởi Johnson Space Center Giám đốc Christopher C. Kraft Đặng đã trích dẫn câu tục ngữ "Vấn đề không phải là mèo trắng hay mèo đen, nếu nó bắt chuột nó là một con mèo tốt". Quan điểm đó chính là những phương thức chủ nghĩa tư bản đã vận hành. Đặng đã làm việc với đội của ông, đặc biệt là Triệu Tử Dương, người năm 1980 đã thay thế Hoa Quốc Phong làm thủ tướng, và Hồ Diệu Bang, người năm 1980 đã giữ vị trí tổng bí thư đảng. Đặng như vậy đã nắm quyền lực và bắt đầu tập trung vào những mục tiêu của "bốn hiện đại hóa"(kinh tế, nông nghiệp, khoa học và phát triển kĩ thuật và phòng thủ đất nước). Ông đã tuyên bố một kế hoạch tham vọng về việc mở cửa và mở rộng tự do kinh tế. Chỉ trong một vài năm họ đã làm những điều kì diệu khi cả thế giới theo dõi trong kinh ngạc. Vị trí quyền lực cuối cùng vẫn giữ bởi Hoa Quốc Phong là chủ tịch Ủy ban quân sự Trung ương, đã bị tước đi bởi Đặng năm 1981. Tuy nhiên quá trình hiện đại hóa quân đội thực hiện chậm chạp. Một cuộc chiến tranh biên giới diễn ra với Việt nam trong năm 1977-79 đã gây ra những thay đổi thiếu khôn ngoan. Cuộc chiến làm hoang mang cho giới quan sát, nhưng Xiaoming Zhang thuyết phục Đặng rằng cuộc chiến có nhiều mục tiêu: dừng sự mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực, đạt được sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho bốn mục tiêu hiện đại hóa của ông, và huy động Trung Quốc cho cuộc cải tổ và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đặng cũng tìm cách củng cố quyền lực của ông quân đội Trung Quốc, và chứng minh cho thế giới rằng Trung Quốc có khả năng chiến đấu trong một cuộc chiến thật sự. Zhang nghĩ sự trừng phạt Việt Nam do việc họ đã xâm lược Campuchia là một nguyên nhân không quan trọng. Trong cuộc chiến này, lực lượng Trung Quốc đã tỏ ra quá yếu kém trong những vấn đề như trang thiết bị, chiến thuật, lãnh đạo, và kinh nghiệm chiến trường. Sự đe dọa quân sự đến từ Liên Xô, nước mạnh hơn nhiều về quân sự dù ít lính hơn bởi vì Liên Xô đã tiến xa hơn về vũ khí và công nghệ. Đặng đã quyết định rằng Trung Quốc đầu tiên phải có một sự tiến bộ về cơ sở hạng tầng khoa học dân sự trước khi nó có thể hi vọng làm ra những vũ khí hiện đại. Vì vậy ông đã tập trung việc giảm quân số, cho những người lớn tuổi, những quan chức tham nhũng và vây cánh của họ nghỉ hưu. Ông đã nhấn mạnh việc tuyển dụng nhiều thanh niên có nền giáo dục tốt hơn những người có thể điều khiển công nghệ cao khi điều đó dứt khoát sẽ xảy ra. Để thay vào sự bổ nhiệm và tham nhũng trong quân đoàn, ông đã áp đặt kỉ luật nghiêm khắc trong tất cả các cấp bậc. Trong năm 1982 ông đã thành lập một ủy ban mới cho Khoa học, Kĩ thuật và Công nghiệp cho Quốc phòng để kế hoạch sử dụng sự phát triển công nghệ trong lĩnh vực dân sự. Đặng đã làm rất ít để cải thiện mối quan hệ nghèo nàn với Brezhnev và Kremlin trong những năm đầu cầm quyền của ông. Ông đã tiếp tục tuân thủ đường lối chủ nghĩa Mao về thời kì Chia rẽ Xô-Trung mà Liên Xô như những siêu cường quốc "bá chủ" như Hoa Kỳ, nhưng nó đe dọa tới Trung Quốc hơn bởi vì hai nước biên giới sát nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ với Liên Xô đã cải thiện kể từ khi Mikhail Gorbachev nắm quyền năm 1985, và cuối cùng đã khôi phục quan hệ cấp quốc gia với việc Đặng họp với Gorbachev năm 1989 trong Hội nghị Xô Trung 1989. Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện đại và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Ngày 28 tháng năm 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ nhằm bình thường hoá quan hệ hai nước. Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng năm 1979, Đặng Tiểu Bình triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam. Ngày 17 tháng năm 1979, Đặng Tiểu Bình đưa khoảng từ 300 ngàn đến 600 ngàn quân tấn công Việt Nam. Sự kiện này được ghi nhận là chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 mà kéo dài cho tới 1990 (xem Xung đột Việt–Trung 1979–90). Tập tin:Deng Thatcher 3.JPG|thumb|Một mô hình được dựng lại về cuộc gặp giữa Đặng Tiểu Bình và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher, năm 1984, Thâm Quyến Động cơ chính của Trung Quốc trong tấn công Việt Nam là kiềm chế tham vọng Việt Nam Đông Nam Á, ngăn chặn mối đe dọa Việt Nam đối với an ninh quốc gia Trung Quốc và phơi bày chỗ yếu của Liên Xô. định của Đặng Tiểu Bình nêu công khai là "dạy cho Việt Nam một bài học" đã tạo ra một ấn tượng sai lệch rằng mục đích chính của cuộc chiến chỉ đơn giản là một "hành động trả thù". Ngay từ đầu, Bắc Kinh đã hạn chế nghiêm ngặt các mục tiêu, thời gian và phạm vi, và tiến hành chiến tranh tránh vượt hơn một cuộc xung đột biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam đưa quân đánh đuổi chế độ Pol Pot Campuchia, một đồng minh của Trung Quốc, Trung Quốc mở rộng mục tiêu gồm cả việc xâm lược vùng Tây Bắc Việt Nam. Suốt một thời gian dài sau đó, chính sách bao vây kinh tế và pháo kích biên giới của Đặng Tiểu Bình đã gây nhiều khó khăn cho Việt Nam. Từ năm 1980 trở đi, Đặng đã lãnh đạo sự phát triển kinh tế và về mặt chính trị đã thương lượng với thủ tướng Anh để hoàn lại lãnh thổ Hồng Kông, cuộc gặp cá nhân với Thủ tướng Anh lúc ấy là Margaret Thatcher. Thatcher đã tham dự cuộc gặp với hi vọng giữ sự quản lý của Anh lên Bán đảo Hồng Kông và Cửu Long- hai trong ba phần lãnh thổ hợp thành của thuộc địa- nhưng điều đó đã được từ chối dứt khoát bởi Đặng. Những kết quả đàm phán được gọi là Tuyên bố chung Trung-Anh được ký vào 19 tháng 12 năm 1984, thứ đã chính thức vạch ra sự trả lại của Anh tới Trung Quốc thuộc địa Hồng Kông của họ vào năm 1997. Chính phủ Trung Quốc đã cam kết tôn trọng hệ thống kinh tế và quyền tự do dân sự của thuộc địa Anh trong 50 năm sau khi bàn giao. Dưới sức ép từ Trung Quốc, năm 1987 Bồ Đào Nha đồng trả lại Ma Cao năm 1999, với một thỏa thuận tổng thể giống với Hồng Kông. Để quản lý hai lãnh thổ mới được trả về, Đặng đã dựa trên một nguyên tắc chính trị được đề ra bởi ông mà ông gọi là "một quốc gia, hai chế độ", điều ám chỉ tới việc cùng tồn tại dưới một quyền lực chính trị với những hệ thống kinh tế khác nhau của cộng sản và tư bản. Mặc dù lý thuyết này được áp dụng cho Hồng Kông và Ma Cao, Đặng có vẻ cũng muốn làm điều này với Đài Loan. Vào tháng 10 năm 1987, trong Kì họp toàn thể của Đại hội nhân dân quốc gia, Đặng được bầu lại với chức vụ Chủ tịch quân ủy trung ương, nhưng ông đã từ chức Chủ tịch của Ủy ban cố vấn Trung ương và được kế tục bởi Trần Vân. Đặng tiếp tục để chủ trì và phát triển cải cách và mở cửa như là chính sách cơ bản. và ông đã đưa ra ba bước cho chiến lược phát triển nền kinh tế Trung Quốc, trong vòng năm: bước một, gấp đôi GNP năm 1980 và bảo đảm rằng người dân đủ cơm ăn và áo mặc, điều đã đạt được vào cuối những năm thập kỉ 1980; bước hai, tăng gấp lần GNP năm 1980 khi thế kỉ 20 kết thúc, điều đã đạt được năm 1995 trước mốc đã đề ra; bước thứ 3, tăng phần trăm theo đầu người GNP, tới mức của những nước phát triển trung bình khoảng năm 2050, tại thời điểm đó, người Trung Quốc sẽ thật sự sung túc và hiện đại hóa sẽ được thực hiện cơ bản. Cải thiện những mối quan hệ với thế giới bên ngoài là điều thứ hai trong hai bước thay đổi khôn ngoan quan trọng được vạch ra trong chương trình cải cách của Đặng được đặt tên là "Cải cách và Mở cửa" (Gaige Kaifang). Xã hội, chính trị hệ thống kinh tế Trung Quốc sẽ trải qua những thay đổi quan trọng trong thời kì Đặng nắm quyền. Những mục tiêu cải cách của Đặng được tóm tắt bởi "Bốn hiện đại hóa", đó là nông nghiệp, công nghiệp, khoa học và công nghệ, và quân sự. Chiến lược cho việc đạt được những mục tiêu trong việc trở thành một quốc gia hiện đại, công nghiệp là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đặng đã thảo luận rằng Trung Quốc đang trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội nguyên thủy và nhiệm vụ của đảng là hoàn thiện điều gọi là "chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc" và "tìm kiếm bản chất vấn đề từ những thứ xác thực". (Điều đó khá giống với lý thuyết của Lenin trong Chính sách kinh tế mới trong những năm 1920, mà đã lập luận rằng Liên Xô đã không tiến đủ sâu vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản và do đó cần chủ nghĩa tư bản một cách giới hạn để phát triển đầy đủ phương tiện sản xuất của nó). Những giải thích trong Chủ nghĩa Mao đã làm giảm vai trò của hệ tư tưởng trong việc quyết định kinh tế. Giảm những nguyên tắc cộng sản nhưng không nhất thiết chỉ trích Chủ nghĩa Marx Lenin, Đặng đã nhấn mạnh rằng "chủ nghĩa xã hội không có nghĩa là chia sẻ sự nghèo khó". Lý thuyết của ông biện bạch cho sự sự thừa nhận thị trường tự do được viết như sau: Khác với Hoa Quốc Phong, Đặng đã tin rằng không chính sách nào nên bị từ chối hoàn toàn đơn giản bởi vì nó không tỏ ra đồng với Mao. Không giống với nhiều lãnh đạo bảo thủ như Trần Vân, Đặng không phản đối tới những chính sách lên các lĩnh vực mà chúng giống với một trong trong số các chính sách được tìm thấy trong các quốc gia tư bản. Những nền tảng chính trị linh hoạt trong mối quan hệ với chủ nghĩa xã hội được ủng hộ mạnh mẽ bởi những trích dẫn như: Mặc dù Đặng đã đưa ra lý thuyết nền tảng và ủng hộ chính trị để cho phép cải cách kinh tế xảy ra, sự nhất trí chung giữa những sử gia là chỉ một vài cải cách kinh tế mà Đặng đã giới thiệu được tạo ra bởi chính bản thân ông. Thủ tướng Chu Ân Lai, ví dụ, đã tiên phong cho Bốn hiện đại hóa nhiều năm trước Đặng. Ngoài ra, nhiều cải cách có thể được giới thiệu bởi những lãnh đạo địa phương, thường không được cho phép trực tiếp bởi chính quyền trung ương. Nếu thành công và triển vọng, những cải cách đó sẽ được chấp nhận bởi những khu vực rộng lớn khác và cuối cùng được giới thiệu cả nước. Một ví dụ được trích dẫn thường xuyên là "hệ thống kinh tế hộ gia đình", chính sách ban đầu bí mật được thực hiện bởi một làng nông thôn nghèo tại lúc mà có thể rủi ro bị kết án là "phản cách mạng". Kinh nghiệm đó đã chứng minh thành công. Đặng công khai củng hộ nó và nó sau đó được chấp nhận khắp cả nước. Nhiều cải cách khác bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm của những quốc gia phát triển châu Á, gọi là Bốn con hổ châu Á. Điều đó tương phản rõ nét với khuôn mẫu trong cải tổ thực hiện bởi Mikhail Gorbachev mà những cải cách chính được tạo ra bởi chính Gorbachev. Những cải cách tiếp cận từ dưới lên của Đặng, tương phản với tiếp cận từ trên xuống của perestroika, có thể là một nhân tố then chốt trong những thành công của ông. Những cải cách của Đặng thật sự bao gồm việc đưa vào việc điều hành kế hoạch hóa, tập trung hóa nền kinh tế vĩ mô bởi những nhà kỹ trị, từ bỏ những kiểu chiến dịch quần chúng về xây dựng kinh tế. Tuy nhiên không giống phong cách Xô viết, sự điều hành gián tiếp thông qua cơ chế thị trường. Đặng đã duy trì di sản của Mao để mức độ nào đó mà ông đã nhấn mạnh vai trò hàng đầu của năng suất nông nghiệp và đã khuyến khích một sự phân quyền quan trọng của việc thực hiện quyết định trong những hợp tác xã kinh tế nông thôn và kinh tế hộ cá thể nông dân. cấp địa phương, khích lệ vật chất, phần nào hơn tuyên truyền chính trị, được dùng để thúc đẩy lực lượng lao động, bao gồm cho phép người nông dân kiểm thêm thu nhập bằng việc bán sản phẩm tư nhân của họ theo giá thị trường. Những cuộc biểu tình và bạo loạn trên quảng trường Thiên An Môn, kết thúc vào ngày tàn sát tháng năm 1989, là một loạt những cuộc biểu tình trong và gần quảng trường Thiên An Môn trong Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa khoảng từ 15 tháng tới tháng năm 1989, năm mà nhiều chính phủ cộng sản khác trên thế giới sụp đổ. Những cuộc biểu tình xảy ra bởi sự kiện cái chết của Hồ Diệu Bang, một quan chức cải cách được hậu thuẫn bởi Đặng nhưng bị gạt ra bởi Bát đại nguyên lão và những người bảo thủ trong bộ chính trị. Nhiều người đã không hài lòng với phản ứng chậm chạp của đảng và sự chuẩn bị đám tang tương đối lặng lẽ. Quần chúng đau buồn đã bắt đầu đổ ra đường Bắc Kinh và các trường đại học trong những khu vực xung quanh. Bắc Kinh đám đông tập trung tại Đài tưởng niệm Anh hùng nhân dân quảng trường Thiên An Môn. Sự đau buồn đã trở thành một sự kết nối quần chúng về sự tức giận chống lại nạn gia đình trị trong chính phủ, sự thải hồi bất công và cái chết sớm của Hồ, và vai trò đằng sau hậu trường của các nguyên lão trong Bộ chính trị. Khắp mọi nơi của đám tang Hồ, cuộc biểu tình đạt tới con số 100.000 người quảng trường Thiên An Môn. Trong khi những người biểu tình thiếu một nguyên nhân thống nhất hoặc lãnh đạo, người tham gia đã đưa vấn đề tham nhũng trong chính phủ và một vài tiếng nói đã kêu gọi cho tự do kinh tế và cải cách dân chủ trong cấu trúc của chính phủ trong khi những người khác kêu gọi phải ít độc đoán hơn và bớt tập trung hóa hình thức của chủ nghĩa xã hội. Vào năm 1989, Sự kiện Thiên An Môn diễn ra. Đây là cuộc biểu tình đòi dân chủ của các sinh viên Trung Quốc. Một số nguồn cho rằng Đặng Tiểu Bình theo phe ủng hộ sự thay đổi trong nền kinh tế Trung Quốc, cùng với một số đồng minh như Triệu Tử Dương. Không có một báo cáo chính xác về vai trò của Đặng Tiểu Bình trong cuộc biểu tình, dù có một số người tin rằng ông ta đã tham gia vào việc ra lệnh cho quân đội trấn áp cuộc biểu tình. Theo ước đoán của tờ New York Times thì có ít nhất 10,000 thường dân thiệt mạng trong cuộc đụng độ. Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung Quốc thực hiện lùng bắt một cách có quy mô những người ủng hộ phong trào này, giới hạn các nhà báo nước ngoài và kiểm duyệt tất cả báo chí trong nước. Sự kiện này bị các nước phương Tây lên án, cho đến tận ngày nay đa số người dân Trung Quốc không biết đến sự kiện này do Trung Quốc kiểm duyệt rất gắt gao. Một tàu tuần tra mà Đặng đã dùng khi thực hiện chuyến đi xuống phía Nam, 1992Một cách chính thức, Đặng đã quyết định rút lui khỏi những vị trí cấp cao nhất khi ông đã từ chức Chủ tịch của Ủy ban quân ủy trung ương trong năm 1989, và đã rút khỏi sân khấu chính trị Trung Quốc năm 1992, tuy nhiên, vẫn trong thời kỳ Đặng Tiểu Bình. Ông đã tiếp tục xem như là "nhà lãnh đạo tối cao" của đất nước, được tin rằng đã kiểm soát phía sau hậu trường. Đặng được công nhận chính thức như là "kiến trúc sư của cải cách kinh tế Trung Quốc và hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa Trung Quốc". Đối với Đảng cộng sản, ông được tin là đã thiết lập một hình mẫu tốt cho cán bộ những người mà không chịu nghỉ hưu khi họ tuổi cao. Ông đã phá vỡ những qui ước trước đây về việc nắm giữ chức vụ suốt đời, một truyền thống mà có thể vẫn còn cho tới năm 2018 với việc Tập Cận Bình phá bỏ giới hạn nhiệm kỳ. Ông thường được noi tới một cách đơn giản là Đồng chí Tiểu Bình, với không danh hiệu kèm theo. Do sự kiện Thiên An Môn, quyền lực của Đặng đã suy giảm đáng kể và có những sự chống đối về việc cải cách của Đặng trong Đảng cộng sản. Để xác nhận lại những cải cách này, mùa xuân năm 1992, Đặng đã thực hiện chuyến đi nổi tiếng xuống phía Nam, thăm Quảng Châu, Thâm Quyến, Châu Hải và đón năm mới Thượng Hải, sử dụng chuyến đi như là một phương pháp xác nhận lại những chính sách kinh tế của ông sau khi ông nghỉ hưu. Chuyến đi xuống phía Nam được xem xét một cách rộng rãi như là dấu mốc quan trọng trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, khi nó đã cứu Cải cách kinh tế Trung Quốc và giữ được sự ổn định xã hội. Tập tin:Deng Xiaoping statue in Đặng Tiểu Bình Thâm Quyến Đặng Tiểu Bình qua đời ngày 19 tháng năm 1997 tuổi 92 vì bệnh Parkinson và bệnh viêm phổi. Nhà nước Trung Quốc khen ngợi ông như là "một người Mác-xít vĩ đại, một nhà cách mạng vô sản, chính khách, nhà chiến lược quân sự và ngoại giao vĩ đại; một trong những lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; kiến trúc sư vĩ đại trong việc mở cửa và hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội Trung Quốc; người sáng lập lý luận Đặng Tiểu Bình". Đúng 10 giờ sáng ngày 24 tháng 2, người dân được yêu cầu dừng lại mọi hoạt động và im lặng trong ba phút, quốc kỳ Trung Quốc treo rủ trong một tuần. Lễ tang được tiến hành đơn giản và tương đối riêng tư với sự tham dự của những nhà lãnh đạo quốc gia và gia đình Đặng, được phát sóng trực tiếp trên tất cả các kênh truyền hình khắp lãnh thổ Trung Quốc. Sau lễ tang, nội tạng của ông được tặng cho trung tâm nghiên cứu khoa, thi hài Đặng Tiểu Bình được hỏa táng và tro sau đó được rải xuống biển theo ước nguyện của ông. Hai tuần sau, truyền thông quốc gia Trung Quốc cho phát sóng những câu chuyện và phim tài liệu liên quan tới cuộc sống của Đặng. Một số nhóm người Trung Quốc, đặc biệt là những người theo chủ nghĩa Mao hiện đại và nhà cải cách cực đoan (cánh tả và cánh hữu) đã có quan điểm tiêu cực với Đặng. Những năm sau này, bài hát "Câu chuyện mùa xuân", được sáng tác trong dịp Đặng đi xuống phía Nam năm 1992, một lần nữa được phát sóng rộng rãi. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đã hồi tưởng: Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã nói: Khi so sánh những đài tưởng niệm của những lãnh đạo CPC khác, những sự tưởng nhớ tới Đặng là kín đáo, phù hợp với tư duy của Đặng về chủ nghĩa thực dụng. Hơn nữa, ông đã được hỏa táng và tro cốt của ông được rải xuống biển, trái với việc ướp xác như Mao. Có một vài hình ảnh công cộng của Đặng trong nước. Một bức tượng đồng của Đặng được dựng vào 15 tháng 11 năm 2000, tại quảng trường tráng lệ của Công viên Lianhua Mountain Thâm Quyến. Bức tượng đó được tưởng nhớ tới vai trò của Đặng như là một nhà hoạch định và đóng góp tới sự phát triển của Khu vực kinh tế đặc biệt Thâm Quyến, bắt đầu từ 1979. Bức tượng cao 6m, với 3.68 bệ đỡ. Bức tượng mô tả Đặng đang tự tin đi những bước dài về phía trước. Nhiều lãnh đạo quốc gia đã thăm bức tượng. Ngoài ra, trong những khu vực bờ biển trên hòn đảo tỉnh Hải Nam, Đặng được thấy trên những biển hiệu bên đường với những lời nói nhận mạnh về cải cách kinh tế hoặc chính sách của ông về một quốc gia, hai chế độ. File:Deng Xiaoping billboard 01.jpg|Đặng Tiểu Bình trên biển hiệu Thâm Quyến File:Deng Xiaoping billboard 06.jpg|Đặng Tiểu Bình trên biển hiệu Thanh Đảo File:Deng Xiaoping billboard 08.JPG|Đặng Tiểu Bình trên biển hiệu Dujiangyan, Tứ Xuyên File:Deng Xiaoping billboard 10.JPG|Đặng Tiểu Bình trên biển hiệu Lệ Giang, Vân Nam Đặng Tiểu Bình được gọi là "kiến trúc sư của Trung Quốc thời hiện đại" và được xem xét rộng rãi như là một trong những nhân vật ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông được chọn là Nhân vật của năm của Tạp chí Time năm 1978 và 1985, lãnh đạo thứ ba của Trung Quốc (sau Tưởng Giới Thạch và vợ ông là Tống Mỹ Linh) và lần thứ tư cho một lãnh đạo cộng sản (sau Joseph Stalin), được chọn hai lần, và Nikita Khrushchev được chọn. Đặng được nhớ chủ yếu cho những cải cách kinh tế ông đã khởi xướng trong khi đang làm nhà lãnh đạo tối cao của Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, những cải cách đã chèo lái Trung Quốc hướng tới một nền kinh tế thị trường, dẫn tới tăng trưởng kinh tế cao, tăng tiêu chuẩn sống của hàng trăm triệu người, mở rộng tự do văn hóa và cá nhân, và kết quả đã hội nhập đất nước vào nền kinh tế thế giới. Nhiều người dân đã được đưa ra khỏi sự đói nghèo trong suốt thời gian lãnh đạo của ông hơn bất kì thời gian nào khác trong lịch sử loài người, được rộng rãi cho là nhờ những cải cách rộng rãi của ông. Một vài người đã đề nghị rằng Đặng nên được trao giải Nobel hòa bình. Đặng cũng được công nhận giảm văn hóa của Mao Trạch Đông với việc mang tới sự kết thúc kỷ nguyên hỗn loạn của Cách mạng văn hóa. Hơn nữa, những chiến thuật mạnh tay đã được tin rằng giữ Cộng hòa nhân dân Trung Quốc được thống nhất, đối nghịch với quốc gia cộng sản quyền lực khác cùng thời điểm, Liên Xô, quốc gia đã sụp đổ năm 1991. Tuy nhiên, Đặng cũng được nhớ cho việc để lại một chính phủ độc đoán và tiếp tục tồn tại, cho những việc lạm dụng quyền con người, và cho nhiều trường hợp bạo lực chính trị. Với tư cách là một lãnh đạo tối cao, ông đã chịu trách nhiệm Sự kiện Thiên An Môn, thứ đã được xem là gây ra cái chết cho hơn 3,000 người biểu tình ủng hộ dân chủ, ông đã tác động tới Đảng cộng sản che đậy cuộc thảm sát. Hơn nữa, ông được cho dính líu tới một vài sự thanh lọc tồi tệ nhất trong suốt thời Mao cai trị; dẫn chứng, ông đã ra lệnh một đội quân đàn áp một ngôi làng Hồi giáo Hồ Nam mà kết quả làm chết 1,600 người, bao gồm 300 trẻ em. Với tư cách là nhà lãnh đạo tối cao, Đặng cũng đàm phán để kết thúc sự cai trị của thực dân Anh Hồng Kông và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Liên Xô. Vào tháng năm 1980, ông đã bắt đầu cải cách nền chính trị Trung Quốc bằng cách thiết lập giới hạn nhiệm kỳ cho quan chức và đề xuất một sự xem xét lại có hệ thống về Hiến pháp lần thứ ba của Trung Quốc, thứ đã được làm trong suốt Cách mạng văn hóa. Hiến pháp mới là hiện thân của Chủ nghĩa lập hiến phong cách Trung Quốc, được thông qua bởi Đại hội nhân dân quốc gia tháng 12 năm 1982 với hầu hết sự đồng ý, vẫn để lại ảnh hưởng cho tới ngày nay. Ông cũng đóng góp cho sự thành lập Luật giáo dục bắt buộc năm (từ lớp tới lớp 9), và phục hồi những cải cách nền chính trị Trung Quốc. Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân Bí thư Tỉnh ủy (Trung Quốc) Spence, Jonathan D.The Search for Modern China. (W. W. Norton Company, 1999). focus on rise to power, with brief coverage of actions in power. "Đặng Tiểu Bình Một trí tuệ siêu việt". Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 2003, tái bản 2015. Dillon, Michael. Deng Xiaoping: The Man Who Made Modern China (Bloomsbury Publishing, 2014). Kau, Michael Y. M. China in the Era of Deng Xiaoping: Decade of Reform (Routledge, 2016). Pantsov, Alexander V., and Steven I. Levine. Deng Xiaoping: Revolutionary Life (Oxford UP, 2015). Zhang, Xiaoming. "Deng Xiaoping and China's Decision to go to War with Vietnam". Journal of Cold War Studies 12.3 (Summer 2010): 3–29. Zhang, Xiaoming. Deng Xiaoping's Long War: The Military Conflict Between China and Vietnam, 1979–1991 (U North Carolina Press, 2015). Selected works of Deng Xiaoping Tiểu sử Mười cảnh báo của Đặng Tiểu Bình về Trung Quốc Đặng Tiểu Bình và Thiên An Môn Tầm Nhìn về "Tương Lai" qua Bộ Phim Đặng Tiểu Bình Trung Quốc Không Kiểm Duyệt | Đặng Tiểu Bình | Lãnh đạo tối cao Trung Quốc, Sinh năm 1904, Mất năm 1997, Người Tứ Xuyên, Người Khách Gia, Chính khách Khách Gia, Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người cải cách Trung Quốc, Nhà cách mạng Trung Quốc, Nhà lý luận Mác-xít, Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Thủ tướng Trung Quốc, Nhà ngoại giao Trung Quốc, Người Trung Quốc trong Thế chiến thứ hai, Lãnh tụ Cộng sản, Nhân vật trong Nội chiến Trung Quốc, Nạn nhân của Cách mạng Văn hóa |
Prunus nipponica, còn được gọi là anh đào núi Nhật Bản hay anh đào Kuril, là một loài anh đào thuộc chi Mận mơ, có nguồn gốc từ các đảo Hokkaido và Honshu (Nhật Bản); quần đảo Kuril và Sakhalin (Nga). Loài này được mô tả lần đầu tiên bởi Jinzō Matsumura vào năm 1901. P. nipponica là một cây bụi rụng lá, sinh trưởng với tốc độ trung bình, mọc trên những vùng đất ẩm và có nắng (hoặc bóng râm), nhưng phải thoát nước tốt. Cây cao tới m, chịu được giá lạnh khá tốt. Vỏ cây và cành có màu nâu xám. Hoa có cánh, mang màu hồng rất nhạt hoặc gần như là trắng muốt, nở vào đầu tháng 5, đường kính khoảng cm; hoa lưỡng tính, nhụy hoa thường dài hơn nhị hoa. Lá có răng cưa, vào mùa thu ngả sang màu vàng hoặc đỏ cam rực rỡ. Quả hạch, có đường kính khoảng mm, ăn được. P. nipponica mọc bằng hạt giống, tuy nhiên phát triển khá chậm, khoảng 18 tháng sau khi ngủ đông. Cây con được trồng trong nhà kính hoặc lồng kính nhỏ vào năm đầu tiên, và sau đó đem chúng ra ngoài trời vào cuối xuân đầu hè của năm sau. P. nipponica thường bị tấn công bởi loài nấm Armillaria, loài gây hại chính của các thành viên trong chi Mận mơ. Prunus nipponica 06.jpg Gỗ của P. nipponica chứa một lượng đáng kể các chất flavonoid như d-catechin, naringenin, sakuranetin, eriodictyol, taxifolin, genistein và prunetin. Là một thành viên của chi Mận mơ, P. nipponica có chứa một chất cực độc là hydro xyanua, với lượng nhỏ của chất này sẽ kích thích hệ hô hấp và cải thiện hệ tiêu hóa. Quả được dùng làm thuốc nhuộm màu xanh lá hoặc màu xám đen, trong khi lá chỉ cho màu xanh. Hoa của P. nipponica | Prunus nipponica | Chi Mận mơ, Anh đào |
Aquilaria beccariana là một loài thực vật thuộc họ Thymelaeaceae. Loài này có Indonesia và Malaysia. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. World Conservation Monitoring Centre 1998. Aquilaria beccariana. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 20 tháng năm 2007. | ''Aquilaria beccariana | Chi Dó trầm |
Necator americanus là một loài giun móc thường được gọi là Giun móc Tân Thế giới. Như giun móc khác, nó là một thành viên của ngành Nematoda. Nó là một giun tròn ký sinh trùng sống trong ruột non của vật chủ như người, chó, mèo. Kể từ khi N. americanus và Ancylostoma duodenale (còn được gọi là giun móc Cựu Thế giới) là hai loài giun móc mà phổ biến nhất sống cơ thể con người, chúng thường được xử lý dưới tiêu đề chung "nhiễm giun móc". Chúng khác nhau rõ ràng nhất là phân bố địa lý, cấu trúc phần miệng, và kích thước tương đối. Necator americanus đã được đề xuất thay thế cho Trichuris suis trong điều trị giun sán. | ''Necator americanus | Ký sinh vật mèo, Ký sinh vật con người |
'Asplenium là một loài dương xỉ trong họ Aspleniaceae. Loài này được Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1891. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Asplenium, Unresolved names |
25178 Shreebose (tên chỉ định: 1998 SA96) là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi dự án Nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất Lincoln Socorro, New Mexico, ngày 16 tháng năm 1998. Nó được đặt theo tên Shree Bose, an American student và finalist in the 2008 Society for Science the Public middle school science competition. *Danh sách các tiểu hành tinh: 25001–26000 | 25178 Shreebose | |
Vũ Ngọc Liễn (1924-2013) là một nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu hát bội nổi tiếng Việt Nam, nhà nghiên cứu hàng đầu về sân khấu truyền thống với nhiều công trình, đặc biệt về soạn giả Đào Tấn. Ngoài nhiệm vụ một nhà nghiên cứu, ông còn là một nhà thơ. Ông sinh ngày 18 tháng 11 năm 1924 tại thôn Xương Lý (còn gọi là Vũng Nồm), tổng Trung An, huyện Phù Cát, nay thuộc xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Trưa ngày 28 tháng 11 năm 2013, ông đột ngột qua đời trước sự bàng hoàng của gia đình và người hâm mộ. Ảnh hưởng bởi văn hóa địa phương, từ nhỏ ông đã bộc lộ sự say mê với nghệ thuật hát bội. Năm 1945, ông tham gia Cách mạng tháng 8, được bầu làm Chủ tịch Việt Minh kiêm Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến xã Hưng Xương. Từ năm 1950 ông nghỉ chủ tịch, chuyển hẳn sang đoàn hát, dần trở thành một nhà nghiên cứu hát bội, đặc biệt là nghiên cứu về Đào Tấn, một người được coi là ông tổ nghề hát bội đất Quy Nhơn. Năm 1954, ông theo Đoàn Văn công Liên khu tập kết ra Bắc. Sau khi tập kết ra Bắc, với trình độ tốt nghiệp tiểu học, ông vừa biểu diễn, vừa học 11 năm đến trình độ sau đại học. Những năm 1959 1966, ông theo học khoa Lý luận hý khúc tại Học viện Hý khúc Trung Quốc. Sau năm đại học, năm nghiên cứu sinh, ông có bằng Thạc sĩ và lại hướng dẫn sinh viên Việt Nam, đến Cách mạng Văn hóa Trung Quốc năm 1966 thì phải về nước. Ông có ước mơ được đến Osaka, Nhật Bản để nghiên cứu về hát bội, vì đó có nhiều tư liệu gốc về hát bội. Tuy nhiên hiện tại ước mơ đó chưa thành hiện thực vì chưa có nhà tài trợ. Là nhà Đào Tấn học uy tín, cạnh đó, ông còn có nhiều khai phá mới lạ, bài về "Điệu múa Chàm …" là một trong những khám phá đó. Bài viết này khẳng định điệu múa Chàm Long Vương hoặc La Lăng vương đã truyền qua Nhật Bản, sau đó vào Trung Quốc và quay trở lại Việt Nam, chính là có nguồn gốc từ người Chăm chứ không phải từ Nhật. Ông giành được Giải thưởng của Hội Nghệ sĩ sân khấu năm 2002. Năm 2006 và 2007 ông có giải thưởng của trung tâm văn hóa tỉnh Bình định trao với bộ sách hoàn chỉnh: Đào Tấn qua thư tịch, gồm tập, hơn ngàn trang giấy với các phần: Đào Tấn thơ và từ Đào Tấn tuồng hát bội Đào Tấn qua thư tịch Ngày 2.9.2012, ông được trao Giải thưởng Nhà nước. Các tác phẩm nghiên cứu về Đào Tấn *Đào Tấn qua thư tịch *Thư mục tư liệu về Đào Tấn *Thơ và từ Đào Tấn *Sưu tầm tuồng Đào Tấn Ngoài ra các tác phẩm khác *Kẻ sĩ đất Thang Mộc *Góp nhặt dọc đường *Hát bội Bình Định và công lao Ưng Bình Thúc Dã Thị *Đông Lộ Địch khúc mở màn *Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu ông đồ nghệ sĩ và một vài tập thơ, dịch thơ chữ Hán của Đào Tấn Vì có nhiều đam mê nghiên cứu nên ông còn có biệt danh là Yamaha (Già mà ham). Ngoài ra, ông còn được bạn bè thân hữu tặng cho các biệt danh như Vũ đại ca, Vũ Tiên Sinh, Lão ngoan đồng, Quái kiệt đất Quy Nhơn... Trong đó, biệt danh Vũ Tiên Sinh đã được ông sử dụng như một bút danh trong một số công trình biên khảo. Lão ngoan đồng mê hát bội Một đời cho hát bội Muốn tồn tại, hát bội Bình Định phải làm gì? 30 năm một chặng đường nghiên cứu Đào Tấn Tác phẩm Vũ Tiên Sinh trên thư viện tỉnh bình Định Ngày xuân kể chuyện văn nghệ sĩ bằng câu đối Nhớ mãi cái buổi chiều tối ấy Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn làm ông đồ | Vũ Ngọc Liễn | Sinh năm 1923, Người Bình Định, Nhân vật còn sống |
iPadOS 13 là bản phát hành chính đầu tiên của hệ điều hành di động iPadOS do Apple Inc. phát triển cho dòng máy tính bảng iPad của họ. Nó là phiên bản kế nhiệm của iOS 12, và đã được công bố tại Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu (WWDC) năm 2019 của công ty, như một sự phát triển từ iOS, với trọng tâm thiên về đa nhiệm. Nó được phát hành vào ngày 24 tháng năm 2019. Nó đã được tiếp nối bởi iPadOS 14, phát hành vào ngày 16 tháng năm 2020. Chiếc iPad đầu tiên được phát hành vào năm 2010 và chạy iPhone OS 3.2, hỗ trợ thêm hệ điều hành cho thiết bị lớn hơn, trước đây chỉ được sử dụng trên iPhone và iPod Touch. Hệ điều hành chia sẻ này đã được đổi tên thành "iOS" với việc phát hành iOS 4. Hệ điều hành ban đầu có tính năng tương đương trên iPhone, iPod Touch và iPad, với các biến thể trong giao diện người dùng tùy thuộc vào kích thước màn hình và sự khác biệt nhỏ trong việc lựa chọn ứng dụng đi kèm. Tuy nhiên, theo thời gian, phiên bản iOS dành cho iPad đã kết hợp một loạt các tính năng khác biệt ngày càng tăng, chẳng hạn như ảnh trong ảnh, khả năng hiển thị nhiều ứng dụng đang chạy đồng thời (cả hai đều được giới thiệu với iOS vào năm 2015), kéo và thả, và một dock gần giống với dock trong macOS hơn là dock trên iPhone (được bổ sung vào năm 2017 với iOS 11). Các ứng dụng iPad tiêu chuẩn ngày càng được thiết kế để hỗ trợ việc sử dụng bàn phím tùy chọn. Để nhấn mạnh bộ tính năng khác nhau có trên iPad và báo hiệu định phát triển các nền tảng này theo các hướng khác nhau, tại WWDC 2019, Apple đã thông báo rằng phiên bản iOS chạy trên iPad sẽ được đổi tên thành "iPadOS". Chiến lược đặt tên mới bắt đầu với iPadOS 13.1, vào năm 2019. Các bản phát hành của iPadOS 13 bắt đầu với 13.1; 13.0 chưa bao giờ được phát hành công khai, mặc dù thử nghiệm beta cho iPadOS 13 bắt đầu với nó. Phiên bản Ngày phát hành Tài liệu tham khảo Ghi chú 13.1 24 tháng 9, 2019 Bản phát hành đầu tiên trên iPad (thế hệ thứ 7) 13.1.1 27 tháng 9, 2019 13.1.2 30 tháng 9, 2019 13.1.3 15 tháng 10, 2019 13,2 28 tháng 10, 2019 13.2.2 Ngày tháng 11 năm 2019 13.2.3 18 tháng 11, 2019 13.3 10 tháng 12, 2019 13.3.1 28 tháng 1, 2020 13.4 Ngày 24 tháng năm 2020 Thêm hỗ trợ hoàn chỉnh cho chuột và bàn di chuột, trước đây chỉ là tính năng hỗ trợ tiếp cận. Bản phát hành đầu tiên trên iPad Pro (thế hệ thứ 4) 13.4.1 Ngày tháng năm 2020 13,5 20 tháng 5, 2020 13.5.1 Ngày tháng năm 2020 13,6 Ngày 15 tháng năm 2020 13.6.1 12 tháng 8, 2020 13.7 Ngày tháng năm 2020 Sửa lỗi Huyền thoại: Không giống như các phiên bản trước của iOS, lưới biểu tượng hiển thị tối đa năm hàng và sáu cột ứng dụng, bất kể thiết bị hướng dọc hay ngang. Trang đầu tiên của màn hình chính có thể được chỉnh sửa để hiển thị một cột tiện ích con từ các ứng dụng để dễ dàng truy cập. Spotlight Search không còn là một phần của tiện ích con nhưng vẫn có thể được truy cập bằng cách vuốt xuống từ giữa màn hình chính hoặc nhấn Command Space trên bàn phím được kết nối. iPadOS có hệ thống đa nhiệm với nhiều khả năng hơn so với iOS, với các tính năng như Slide Over và Split View giúp bạn có thể sử dụng đồng thời nhiều ứng dụng khác nhau. Nhấp đúp vào Nút Trang chủ hoặc vuốt lên từ cuối màn hình sẽ hiển thị tất cả các không gian hiện đang hoạt động. Mỗi không gian có thể có một ứng dụng hoặc Chế độ xem phân tách có hai ứng dụng. Người dùng cũng có thể vuốt sang trái hoặc phải trên Chỉ báo chính để di chuyển giữa các khoảng trắng bất kỳ lúc nào hoặc vuốt sang trái phải bằng bốn ngón tay. Trong khi sử dụng ứng dụng, vuốt nhẹ lên từ cạnh dưới của màn hình sẽ triệu hồi Dock, nơi các ứng dụng được lưu trữ bên trong có thể được kéo đến các khu vực khác nhau của không gian hiện tại để mở trong Chế độ xem tách hoặc Trượt qua. Kéo một ứng dụng sang cạnh trái hoặc phải của màn hình sẽ tạo ra Chế độ xem phân tách, cho phép cả hai ứng dụng được sử dụng song song. Kích thước của hai ứng dụng trong Chế độ xem phân tách có thể được điều chỉnh bằng cách kéo biểu tượng hình viên thuốc trung tâm của dải phân cách dọc và kéo dải phân cách sang một bên của màn hình để đóng ứng dụng tương ứng. Nếu người dùng kéo một ứng dụng từ dock lên trên ứng dụng hiện tại, nó sẽ tạo ra một cửa sổ nổi có tên là Slide Over, cửa sổ này có thể được kéo sang bên trái hoặc bên phải của màn hình. Cửa sổ Slide Over có thể bị ẩn bằng cách vuốt nó ra khỏi cạnh phải của màn hình và vuốt sang trái từ cạnh phải của màn hình sẽ khôi phục nó. Các ứng dụng Trượt qua cũng có thể được xoay vòng giữa các ứng dụng bằng cách vuốt sang trái hoặc phải trên Chỉ báo Trang chủ trong cửa sổ Trượt qua và kéo lên trên đó sẽ mở trình chuyển đổi ứng dụng cho cửa sổ Trượt qua. Biểu tượng hình viên thuốc đầu các ứng dụng trong Chế độ xem tách hoặc Trượt qua cho phép chuyển chúng trong Chế độ xem tách và Trượt qua. Người dùng hiện có thể mở một số phiên bản của một ứng dụng cùng một lúc. Một chế độ mới tương tự như Mission Control của macOS đã được thêm vào, cho phép người dùng xem tất cả các phiên bản của một ứng dụng. Trong nhiều ứng dụng, một ngoại lệ đáng chú là YouTube, video có thể được thu nhỏ thành cửa sổ hình trong ảnh để người dùng có thể tiếp tục xem trong khi sử dụng các ứng dụng khác. Cửa sổ chứa video này có thể được thay đổi kích thước bằng cách chụm và trải rộng và có thể được gắn vào bất kỳ góc nào trong bốn góc của màn hình. Nó cũng có thể được ẩn bằng cách vuốt nó ra khỏi cạnh màn hình và được biểu thị bằng mũi tên cạnh nơi video bị ẩn và vuốt nó sẽ đưa video trở lại màn hình. iPadOS Safari hiện hiển thị các phiên bản trang web trên máy tính để bàn theo mặc định, bao gồm trình quản lý tải xuống và có 30 phím tắt mới nếu bàn phím ngoài được kết nối. Sidecar cho phép iPad hoạt động như một màn hình thứ hai cho macOS, được đặt tên theo liên quan đến xe máy có khớp nối. Khi sử dụng Sidecar, Apple Pencil có thể được sử dụng để mô phỏng máy tính bảng đồ họa cho các ứng dụng như Photoshop. Tính năng này chỉ được hỗ trợ trên iPad tương thích với Apple Pencil. Ngoài việc truy cập bộ nhớ cục bộ để sử dụng chung, iPadOS cho phép bộ nhớ ngoài, chẳng hạn như đĩa flash USB, cứng di động và cứng thể rắn được kết nối với iPad thông qua ứng dụng Tệp. IPad Pro (thế hệ thứ 3) kết nối qua USB-C, trong khi Bộ kết nối máy ảnh Lightning có thể được sử dụng với các iPad trước. Hỗ trợ cho chuột và bàn di chuột đã có sẵn kể từ lần phát hành công khai đầu tiên, mặc dù chỉ là một trợ năng. Hỗ trợ hoàn chỉnh đã được thêm vào trong phiên bản 13.4, bao gồm các cử chỉ cảm ứng đa điểm cho bàn di chuột và cho phép các ứng dụng của bên thứ ba triển khai các tính năng mới hỗ trợ chuột và bàn di chuột. iPadOS 13 hỗ trợ iPad với chip Apple A8 hoặc A8X trở lên, loại bỏ hỗ trợ cho các thiết bị có chip A7 bao gồm iPad Air thế hệ đầu tiên, iPad Mini và iPad Mini 3. Các thiết bị được iPadOS 13 hỗ trợ bao gồm: iPad Air iPad Air (thế hệ thứ 3) iPad (thế hệ thứ 5) iPad (thế hệ thứ 6) iPad (thế hệ thứ 7) iPad Mini iPad Mini (thế hệ thứ 5) Tất cả các kiểu iPad Pro Nâng cấp lên iPadOS tự động được cung cấp cho các thiết bị được hỗ trợ. trang web chính thức trang web chính thức của nhà phát triển Thư viện tham khảo iOS tại trang web Nhà phát triển Apple | iPadOS 13 | Sản phẩm được giới thiệu năm 2019, Hệ điều hành di động, IPad, Pages with unreviewed translations |
(8263) 1986 QT là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Henri Debehogne Đài thiên văn La Silla Chile ngày 26 tháng năm 1986. *Danh sách các tiểu hành tinh: 8001–9000 | (8263) 1986 QT | Được phát hiện bởi Henri Debehogne |
Mae Wong () là một huyện (amphoe) phía tây của tỉnh Nakhon Sawan, phía bắc Thái Lan. Tiểu huyện (King Amphoe) Mae Wong được lập ngày tháng năm 1992, khi sáu tambon Mae Wong, Mae Le, Wang San, Khao Chon Kan, Pang Sawan và Huai Nam Hom đã được tách ra từ huyện Lat Yao. Huai Nam Hom đã được đưa trở lại huyện Lat Yai ngày tháng 12 năm 1994. Ngày 11 tháng 10 năm 1997, tiểu huyện đã được nâng cấp thành huyện. Mae Wong là tên con sông bên trong Vườn quốc gia Mae Wong. Các huyện giáp ranh (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ) là Pang Sila Thong và Khanu Woralaksaburi của tỉnh Kamphaeng Phet, Lat Yao, Chum Ta Bong và Mae Poen của tỉnh Nakhon Sawan, và Umphang của tỉnh Tak. Huyện này được chia thành phó huyện (tambon), các đơn vị này lại được chia ra thành 67 làng (muban). Không có khu vực thành thị (thesaban), có Tổ chức hành chính tambon. STT Tên Tên tiếng Thái Số làng Dân số 1. Mae Wong แม่วงก์ 6.914 3. Mae Le แม่เล่ย์ 26 18.751 4. Wang San วังซ่าน 14 12.569 5. Khao Chon Kan เขาชนกัน 18 14.471 Số là Huai Nam Hom đã được chuyển cho Lat Yao. amphoe.com Mae Wong | Mae Wong | |
'Dryopteris là một loài dương xỉ trong họ Loài này được Rothm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1945. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Dryopteris, Unresolved names |
Tập tin:Southbridge VIA cầu nam VIA 686A, thường sử dụng trên những bo mạch chủ AMD Athlon thế hệ đầu tiên. Chip cầu nam, hay còn gọi là I/O Controller Hub (ICH), là một chip đảm nhiệm những việc có tốc độ chậm của bo mạch chủ trong chipset. Khác với chip cầu bắc, chip cầu nam không được kết nối trực tiếp với CPU. Đúng hơn là chip cầu bắc kết nối chip cầu nam với CPU. Bởi vì chip cầu nam được đặt xa CPU hơn, nó được giao trách nhiệm liên lạc với các thiết bị có tốc độ chậm hơn trên một máy vi tính điển hình. Một chíp cầu nam điển hình thường làm việc với một vài chíp cầu bắc khác, mỗi cặp chíp cầu bắc và nam phải có thiết kế phù hợp thì mới có thể làm việc với nhau; chưa có chuẩn công nghiệp rộng rãi cho các thiết kế thành phần lôgic cơ bản của chipset để chúng có thể hoạt động được với nhau. Theo truyền thống, giao tiếp chung giữa chip cầu bắc và chip cầu nam đơn giản là bus PCI, vì thế mà nó tạo nên một hiệu ứng cổ chai (bottleneck), phần lớn các chipset hiện thời sử dụng các giao tiếp chung (thường là thiết kế độc quyền) có hiệu năng cao hơn. Tên gọi "chip cầu nam" bắt nguồn từ việc vẽ một kiến trúc trên sơ đồ. Trong đó CPU phải trên sơ đồ tại phía bắc. CPU nối với chipset qua một cầu nối có tốc độ cao (cầu bắc) phía bắc của các bus qua một cầu nối có tốc độ nhanh hơn(cầu nam). Chip cầu bắc Chipset | Chip cầu nam | Bo mạch chủ |
Svay Chrum (tiếng Khmer: ស្វាយជ្រំ) là một trong huyện của tỉnh Svay Rieng, cách thị xã Svay Rieng khoảng 10km. Huyện này phía tây giáp với các huyện Kampong Trabaek và Me Sang của tỉnh Prey Veng, phía bắc giáp huyện Romeas Haek, phía đông giáp huyện Romduol và phía nam giáp huyện Svay Rieng. Huyện Svay Chrum có 16 xã (khum). *xã Angk Ta Sou: Chaeng Maeng, Trapeang Chhuk, Boeng, M'am, Trapeang Thma, Svay Ming, Sandaot, Thma Pean, Prey Chheu Teal, Roka, Boeng Kriel, Meun Say *xã Basak: Sala Rien, Svay Ta Phlo, Bayab, Pou Ta Ros, Basak *xã Chambak: Thmei, Ta Nu, Tuol Khpos, Ampov Prey, Prey Ta Pov, Tuol Chres, Angk Sala *xã Chamlang: Chie Ruessei, Traok, Chambak Kuy, Ta Chey, Veal Lngeut, Ruessei Prey, Ta S'ang *xã Ta Suos: Pnov, Angkeas Dei, Svay K'aer, Chambak Kaong, Boeng Andaeng, Traok, Trabaek Prahaong, Ta Pa *xã Chek: Svay, Thmol, Svat, Totea, Chek, Chambak, Kandal, Meloung, Khleang, Kok Pae *xã Chheu Teal: Rumdenh, Traok, Samraong, Poun Kak, Chek, Sangkae, Ta Reak, Prey Roka, Chhuk Sa, Chheu Teal, Prey Chambak, Nearea Ten *xã Doun Sa: Boeng Kaek, Prey Roka, Rumpoat Chruk, Prey Pou, Ou Srangam, Chensa, Doun Sar, Trach, Doung Preah, Sour, Kuoy *xã Kouk Pring: Kdompi, Kantuot Praong, Thna, Kandal, Angk Kabbas, Svat Prahut, Leach Chhuk, Chambak Thloeng, Tbaeng, Doun Leaeb *xã Kraol Kou: Thlok, Prey Nhay, Kraol Kou, Kouk Kandaol, Banla S'et, Khuoch, Boeng Rae Khang Tboung, Boeng Rae Khang Cheung, Ruessei Chuor Cheung, Ruessei Chuor Tboung, Prey Khla, Prey Thnong, Ruessei Totueng *xã Kruos: Chambak, Thna, Kruos, Krau, Rovieng, Samraong, Krasang Chrum, Phluoh, Kandal, Lvea, Traok *xã Pouthi Reach: Chensa, Tbaeng, Anhchanh, Khleang, Ta Mom, Prey Khla, Pouthi Reach, Prey Damloung, Prasat, Ou Samdei, Trapeang Thlok *xã Svay Angk: Andoung, Kandal, Sampoar, Svay Angk, Koul, Thnong, Khnor Khang Cheung, Khnor Khang Tbpoung, Svay Ph'aem *xã Svay Chrum: Thma Sa, Trabaek, Khmot, Svay Chrum, Boeng Veaeng, Svay Kngao, Preaek Tob *xã Svay Thum: Svay Chek, Thnong, Angk Ruessei, Traok Thum, Dak Po, Tuol Trea, Svay Doun Ei, Chamreh, Traok Touch, Svay, Popear, Krang Leav *xã Svay Yea: Moha Suon, Svay Chumrov, Prey Banteay, Robaoh Pring, Damnak Kantuot, Kbal Damrei, Tuol Vihear, Kdei Sla, Prama, Sikar, Kien Ta Siv, Chamkar Chek, Svay Yea, Prey Ph'ong, Ta Kaor *xã Thlok: Doun Tong, Snay Kreang, Ampov Prey, Thlok, Kandal, Thum, Tey Yea, Samdei Dân cư phần lớn sống bằng nghề nông. | Svay Chrum | Huyện của Svay Rieng, Huyện Campuchia |
"Turn to You (Mother's Day Dedication)" là một ca khúc của nam ca sĩ thu âm người Canada Justin Bieber. Ca khúc được phát hành vào 11 tháng năm 2011 để dành riêng cho Ngày của Mẹ vào 13 tháng 5. "Turn to You (Mother's Day Dedication)" được sáng tác và biên soạn bởi Justin Bieber, Nasri, Jacob Pena, Adam Messinger, Tom Strahle và được sản xuất bởi Bieber và Adam Messinger. Bảng xếp hạng (2012) Vị trícao nhất Quốc gia Ngày Định dạng Hãng đĩa Anh 11 tháng năm 2012 Tải kĩ thuật số The Island Def Jam Music Group | Turn to You (Mother's Day Dedication) | Đĩa đơn năm 2012, Bài hát của Justin Bieber, Bài hát năm 2012 |
là một phân họ bọ cánh cứng thuộc họ Bostrichidae. Tông Lyctini *Lyctoxylon *Lyctus *Minthea Tông Trogoxylini *Trogoxylon Lyctinae at Fauna Europaea Powderpost Beetle Fact Sheet from the National Pest Management Association with information on habits, habitat and prevention Museum pests including powderpoke at the National Park Service. Powder post and other wood boring beetles from Michigan State University Extension. Powder Post Beetles the effect of beetles on wooden structures. Thể | null | |
là một chi bọ cánh cứng thuộc họ Carabidae đặc hữu của miền Cổ bắc (bao gồm châu Âu), Cận Đông và Bắc Phi. Panagaeus abei Nakane, 1997 Panagaeus asuai Ogueta, 1966 Panagaeus bipustulatus Fabricius, 1775 Panagaeus coreanus Nakane, 1997 Panagaeus cruciger Say, 1823 Panagaeus cruxmajor Linnaeus, 1758 Panagaeus davidi Fairmaire, 1887 Panagaeus fasciatus Say, 1823 Panagaeus japonicus Chaudoir, 1861 Panagaeus panamensis 1851 Panagaeus piacenzae Dellabeffa, 1983 Panagaeus Chavrolat, 1835 Panagaeus relictus Semenov Bogachev, 1938 Panagaeus robustus A. Morawitz, 1862 Panagaeus sallei Chaudoir, 1861 Tập tin:Panagaeus bipustulatus bl.jpg Tập tin:Panagaeus cruxmajor.JPG Tập Panagaeus'' at Fauna Europaea | null | Panagaeini |
Kevon André Samuels (sinh ngày 13 tháng năm 1992), được biết đến với nghệ danh The 6th Letter, là một nghệ sĩ thu âm hip hop người Canada đến từ Toronto. Anh là thành viên của Bakers Club. Kevon sinh ngày 13 tháng năm 1992 tại Toronto, Ontario. Anh đã dành một phần đầu của cuộc đời mình để đi du lịch qua lại giữa khu Flatbush của Brooklyn, Thành phố New York, nơi anh với cha mình (Paul McLawrence) và Trung tâm thành phố Toronto, nơi anh với mẹ (Claudette Samuels). Anh theo học Trường Trung học Công giáo St. Mary Toronto trước khi bỏ học vào năm 2010 để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc. Kevon sử dụng biệt danh The 6th Letter từ biệt danh Freshie được đặt cho anh trường trung học. Năm 2010, The 6th Letter phát hành mixtape đầu tay của mình với tựa đề What The F. Mixtape đã thành công và cuối cùng thu hút được sự chú của người sáng lập Giám đốc điều hành Cinematic Music Group Smokers Club, Jonny Shipes, người đã cấp cho The 6th Letter một suất mở màn trong chương trình đầu tiên của Smokers Club Tour tại Toronto, Ontario vào ngày tháng 10 năm 2010. Shipes và The Smokers Club sau đó đã tổ chức phát hành Go Green vào tháng năm 2011. Kể từ khi phát hành Go Green, 6th đã biểu diễn với các nghệ sĩ nổi tiếng như Method Man, Big K.R.I.T., Curren$y, Mac Miller, Smoke DZA, ASAP Rocky, Raekwon, Juicy J, Machine Gun Kelly, Theophilus London, Styles P, Ghostface Killah, Casey Veggies, Action Bronson, Chance The Rapper, Redman, Royce Da 5'9. Vào ngày 27 tháng 11 năm 2013, một ca khúc trong mixtape thứ ba sắp tới của Kevon có tựa đề Chain Smokin khởi chiếu trên NOISEY. Mixtape thứ ba của 6th, đã được lên kế hoạch phát hành vào đầu năm 2014. Mixtape sẽ được sản xuất hoàn toàn bởi Raz Fresco. What The F (2010) Go Green (2011) (2014) Trang web chính thức | Kevon André Samuels | Nhân vật còn sống, Sinh năm 1992, Ca sĩ Canada thế kỷ 21, Ca sĩ hip hop |
Mouazé (, Gallo: Móazae) là một xã của tỉnh thuộc vùng Bretagne, miền tây bắc nước Pháp. Người dân Mouazé được gọi là Mouazéens. *Xã của tỉnh Ille-et-Vilaine Mayors of Ille-et-Vilaine Association INSEE IGN French Ministry of Culture list for Mouazé | Mouazé | Xã của Ille-et-Vilaine |
Cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức tại Malawi vào ngày 23 tháng năm 2020, ban đầu được lên kế hoạch vào ngày 19 tháng và sau đó là ngày tháng 7. Họ theo dõi việc hủy bỏ kết quả của cuộc bầu cử tổng thống năm 2019, trong đó Peter Mutharika của Đảng Tiến bộ Dân chủ đã nhận được nhiều phiếu bầu nhất. Kết quả của cuộc bầu cử tái tranh cử là một chiến thắng cho Lazarus Chakwera của Đảng Quốc hội Malawi, người đã đánh bại Mutharika với tỷ lệ chênh lệch 59% và 40%. Trong cuộc tổng tuyển cử tháng năm 2019, Tổng thống đương nhiệm Peter Mutharika của Đảng Tiến bộ Dân chủ (DPP) đã được bầu lại với 39% phiếu bầu, đánh bại Lazarus Chakwera của Đảng Quốc hội Malawi (35%) và Saul Chilima của Phong trào Chuyển đổi Liên minh (20%). DPP cũng vẫn là đảng lớn nhất trong Quốc hội, giành được 62 trong số 193 ghế. Tuy nhiên, cuộc bầu cử tổng thống đã bị thách thức tại tòa bởi Chakwera và Chilima, và vào tháng năm 2020, Tòa án Hiến pháp Malawi đã bãi bỏ kết quả bầu cử tổng thống, trích dẫn bằng chứng về sự bất thường và ra lệnh bầu cử mới trong vòng 150 ngày. Nghị viện đã thông qua Dự luật sửa đổi Nghị viện và Tổng thống (PPEA) vào ngày 24 tháng 2, lấy ngày 19 tháng là ngày bầu cử tổng thống mới và kéo dài một nhiệm kỳ của các nghị sĩ và ủy viên hội đồng địa phương trong một năm để cho phép bầu cử tổng thống, quốc hội và địa phương vào năm 2025. Vào tháng 3, Ủy ban bầu cử Malawi đã công bố ngày bầu cử mới, ngày tháng 7, một ngày trước giới hạn 150 ngày để tổ chức các cuộc bầu cử do Tòa án Hiến pháp quy định. Vào ngày 21 tháng 5, ủy ban các vấn đề pháp lý của quốc hội tán thành cho cuộc bầu cử tổng thống mới sẽ được tổ chức vào ngày 23 tháng thay vì ngày tháng 7. Lazarus Chakwera và Peter Kuwani đã nộp đơn đề cử tương ứng vào ngày tháng năm 2020. Peter Mutharika đã nộp đơn đề cử vào ngày hôm sau, với Atupele Muluzi điều hành cuộc chạy đua của ông. Theo kết quả phán quyết của Tòa án Hiến pháp, Tổng thống Malawi sẽ được bầu bằng cách thức hệ thống hai vòng, thay thế cho hệ thống voting (ứng viên giành được nhiều phiếu nhất so với các đối thủ khác sẽ là người thắng cuộc) được sử dụng vào năm 2019. Một cuộc thăm dò được thực hiện bởi IPOR Malawi cho thấy 53% số người được hỏi mong muốn Lazarus Chakwera giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, trong khi 31% dự đoán Mutharika sẽ giành chiến thắng. cấp quốc gia, theo các cuộc thăm dò, 51% sẽ bỏ phiếu cho Chakwera, trong khi 33% cho Mutharika và 0,2% cho Peter Kuwani. Một cuộc thăm dò khác của Afrobarometer cho thấy Chakwera có nhiều khả năng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử. Ứng viên Đảng Phiếu Lazarus Chakwera Đảng quốc hội Malawi 2,604,043 59.34 Peter Mutharika Đảng tiến bộ dân chủ 1,751,877 39.92 Peter Kuwani Phong trào phát triển Mbakuwaku 32,456 0.74 Toàn bộ 57.323 Toàn bộ 4.445.699 100 Cử tri đã đăng ký cử tri 6.859.570 64,81 Nguồn: MEC Các nhân vật chính trị đối lập các nước châu Phi khác đã chúc mừng chiến thắng của Chakwera, trong đó có lãnh đạo của Phong trào Thay đổi Dân chủ Zimbabwe; Douglas Mwonzira, lãnh đạo của Liên minh vì sự thay đổi và minh bạch Tanzania; lãnh đạo Zitto Kabwe, cựu lãnh đạo của Liên minh Dân chủ Nam Phi; Mmusi Maimane, và ứng cử viên tổng thống đầy tham vọng cho cuộc tổng tuyển cử năm 2021 Ucraina Henry Tumukunde. | Cuộc bầu cử tổng thống | Cuộc bầu cử năm 2020 Châu Phi, Sự kiện tháng năm 2020 tại Châu Phi, Bầu cử tổng thống Malawi |
'Melolobium là một loài rau đậu thuộc họ Fabaceae. Loài này chỉ có Nam Phi. Môi trường sống tự nhiên của chúng là đồng cỏ khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất thấp, và Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Pfab, M.F. Victor, J. 2003. Melolobium subspicatum. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 19 tháng năm 2007. | null | Melolobium |
Richmond là một thành phố quận lỵ quận Madison bang Kentucky, Hoa Kỳ. Thành phố được đặt tên theo Richmond, Virginia. Thành phố có Đại học Đông Kentucky. Thành phố có diện tích km2, dân số theo năm 2010 là 31.364 người. Đây là thành phố lớn thứ trong bang Kentucky (sau Louisville, Lexington, Bowling Green, Owensboro, Covington, và Hopkinsville) và là thành phố lớn thứ nhì trong vùng Bluegrass (sau Lexington). | Richmond | |
Uganda, tên gọi chính thức là Cộng hòa Uganda (, ), là một quốc gia không giáp biển, nằm hoàn toàn trong lục địa châu Phi. Giáp Kenya về phía Đông, phía Tây giáp với Cộng hòa Dân chủ Congo, Tây Nam giáp Rwanda, phía Bắc giáp Nam Sudan và phía Nam giáp Tanzania. Phía Nam Uganda là vùng hồ Victoria, có chủ quyền gần 1/2 diện tích mặt hồ, chia sẻ quyền khai thác cùng Kenya và Tanzania. Uganda cũng nằm trong lưu vực sông Nin, có khí hậu đa dạng, nhưng nhìn chung chủ yếu là khí hậu xích đạo. Uganda lấy tên từ vương quốc Buganda, một vương quốc với lãnh thổ ngày nay phần lớn miền Nam của đất nước bao gồm cả thủ đô Kampala. Bắt đầu từ cuối những năm 1800, khu vực này đã được cai trị như một thuộc địa của người Anh, họ đã thành lập các khu hành chính trên toàn lãnh thổ. Uganda giành được độc lập từ Anh vào ngày tháng 10 năm 1962. Sau khi giành độc lập, Uganda rơi vào nhưng cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn, gần đây nhất là một cuộc nội chiến kéo dài giữa chính phủ và Quân kháng chiến của Chúa, đã gây ra hàng chục ngàn thương vong và di dời hơn một triệu người. Tổng thống hiện tại của Uganda là Yoweri Kaguta Museveni, người lên nắm quyền sau cuộc đảo chính vào năm 1986. Vào khoảng thế kỷ XII, vương quốc Bunyoro được thành lập và trở nên hùng mạnh, gồm phần lớn lãnh thổ Uganda hiện nay. Từ thế kỷ XVIII, vương quốc Buganda thoát khỏi quyền giám hộ của vương quốc Bunyoro và thống trị cả các nước láng giềng. Vào giữa thế kỷ XIX, người châu Âu bắt đầu thám hiểm vùng lãnh thổ này, Uganda trở thành xứ bảo hộ của Anh từ năm 1894. Thực dân Anh phát triển các đồn điền cà phê và bông vải. Từ năm 1920, việc độc canh cây bông vải làm rối loạn cơ cấu kinh tế. Từ năm 1952, Quốc vương Mutesa II chống lại sự cai trị của thực dân. Các đảng phái dần dần hình thành. Năm 1961, ba đảng chính tham gia một cuộc hội nghị nhằm soạn thảo hiến pháp. Uganda giành độc lập năm 1962. Quốc vương Edward Mutesa của Buganda được bầu làm Tổng thống, và Milton Obote làm Thủ tướng. Với sự giúp đỡ của một sĩ quan quân đội trẻ, Đại tá Idi Amin, Thủ tướng Obote giành quyền kiểm soát Chính phủ từ năm 1966. Obote bị lật đổ sau cuộc đảo chính quân sự, đất nước rơi vào chế độ cai trị độc tài và khát máu của Idi Amin, rồi chính Amin cũng bị lật dổ do sự can thiệp của quân đội Tanzania năm 1979. Đất nước rơi vào tình trạng vô tổ chức về mặt chính trị, kinh tế bị tàn phá, nạn cướp bóc gia tăng do không ai kiểm soát các phần tử quân sự. Năm 1980, Obote trở lại cầm quyền nhưng chế độ này cũng trở nên độc tài không kém gì chế độ trước, kinh tế đất nước hầu như bị tê liệt. Obote bị Tướng Basilio Ikello lật đổ năm 1985: Năm 1986, Yoweri Museveni, nhà lãnh đạo tổ chức Quân đội kháng chiến Quốc gia, lên cầm quyền sau cuộc đảo chính. Cuộc nội chiến đã làm cho khoảng 800.000 người chết. Hiến pháp mới được thông qua năm 1995 và Musseveni đắc cử Tổng thống năm 1996. Uganda tiến hành một chiến dịch quy mô chống lại bệnh AIDS, giảm thiểu được tỉ lệ nhiễm HIV thông qua chương trình tế công cộng, giáo dục và truyền bá thông tin. Tháng năm 2002, Uganda ký hiệp ước hòa bình với Cộng hòa Dân chủ Congo. Suốt năm 2002, Uganda vẫn tiếp tục cuộc chiến kéo dài 15 năm nhằm chống lại phiến quân cực đoan đặt cơ sở tại Sudan. Ngày 29 tháng năm 2005, một cuộc trưng cầu dân với 47% dân số tham gia và 92% số phiếu ủng hộ đã cho phép thay đổi Hiến pháp, theo đó nước này sẽ chấp nhận chế độ đa đảng. Vào cuối tháng năm 2006, những cuộc bầu cử lập pháp và Tổng thống đã diễn ra. Ông Yoweri Kaguta Museveni đã tái đắc cử với số phiếu ủng hộ là 59% so với 37% của đối thủ chính, ông Kizza Besigye. Tập tin:Yoweri Museveni, Tổng thống Uganda. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước cũng như chính phủ. Thủ tướng sẽ do Tổng thống chỉ định. Nghị viện bao gồm Quốc hội với 332 thành viên. Trong số đó 104 người được đề cử bởi các nhóm lợi ích khác nhau như phụ nữ hay quân đội. Các thành viên còn lại được bầu theo nhiệm kì năm. Tình hình Uganda nhìn chung tương đối ổn định. Những thay đổi đáng lưu trong những năm gần đây có việc Nghị viện Uganda thông qua việc bổ sung Hiến pháp vào năm 2005 theo đó từ bỏ những giới hạn nhiệm kỳ của Tổng thống và tiến hành bầu cử đa đảng. Năm 2006, Uganda bầu cử Tổng thống, đương kim Tổng thống Museveni tái đắc cử lần với 59,28% số phiếu bầu. Uganda tuyên bố đi theo đường lối trung lập, không liên kết, ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc. Trước đây, Uganda thân phương Tây; về sau chính phủ Uganda điều chỉnh quan hệ theo hướng ôn hoà với tất cả các nước. Những năm gần đây, Uganda kiên quyết chống lại việc các nước phương Tây và Mỹ muốn áp dụng chế độ đa đảng nước này. Tổng thống Museveni lên án Mỹ, Anh và các nước công nghiệp phát triển bóc lột sức lực và tài nguyên của các nước nghèo, nhất là các nước châu Phi, kêu gọi AU đoàn kết lại, đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới mới. Uganda tham gia tích cực vào việc giải quyết các cuộc xung đột khu vực, nhất là các cuộc xung đột sắc tộc Đông Phi (Rwanda, Burundi...) Uganda nằm Trung Phi, Bắc giáp Sudan, Nam giáp Rwanda và Tanzania, Đông giáp Kenya, Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Congo. Lãnh thổ phần lớn là cao nguyên được bao phủ bởi các thảo nguyên. Vùng lũng hẹp dài Rift Valley kéo dài rìa phía Tây gồm các hồ xen kẽ với dãy núi Ruwenzori. Hồ Victoria chiếm một phần lãnh thổ phía Nam. Uganda bao gồm 39 quận là Apac, Arua, Bundibugyo, Bushenyi, Gulu, Hoima, Iganga, Jinja, Kabale, Kabarole, Kalangala, Kampala, Kamuli, Kapchorwa, Kasese, Kibale, Kiboga, Kisoro, Kitgum, Kotido, Kumi, Lira, Luwero, Masaka, Masindi, Mbale, Mbarara, Moroto, Moyo, Mpigi, Mubende, Mukono, Nebbi, Ntungamo, Pallisa, Rakai, Rukungiri, Soroti, Tororo. Là một nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú: đất đai màu mỡ, lượng mưa tương đối đều, có nhiều mỏ đồng, coban lớn, nhưng Uganda vẫn thuộc nhóm các nước kém phát triển do chiến tranh du kích kéo dài 20 năm (1965-1985) và do cơ chế quản lý yếu kém. Nông nghiệp là khu vực quan trọng nhất của kinh tế quốc gia, thu hút trên 80% lực lượng lao động. Bên cạnh các mặt hàng bông vải, chè thì cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chính mang lạị nguồn ngoại tệ đáng kể. Tiêm năng thủy điện và nguồn khoáng sản dồi dào (đồng, coban, tungsten, phosphat) thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Tuy vậy, nền công nghiệp vẫn còn khiêm tốn. Từ năm 1986, với sự giúp đỡ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế Uganda đã dần dần khôi phục và ổn định kinh tế thông qua cải cách tiền tệ, nâng giá các mặt hàng xuất khẩu, cải thiện tiền lương công chức nhà nước. Trong những năm 1990-1999, kinh tế Uganda có những chuyển biến tích cực nhờ đầu tư liên tục vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung cải thiện sản xuất và xuất khẩu, giảm mức lạm phát, an ninh trong nước dần ổn định, các doanh nghiệp Ấn Độ Uganđa trở về nước. Tuy nhiên, việc duy trì mức tăng trưởng khả quan đang gặp những thách đố lớn do Uganda tham gia vào cuộc chiến Cộng hòa Dân chủ Congo, tình trạng tham nhũng gia tăng và chậm trễ trong quyết định cải cách kinh tế của Chính phủ. Gần đây Uganda đã bắt đầu phát hiện ra dầu mỏ. Tuy nhiên Uganda vẫn chưa tiến hành một cuộc khảo sát khoáng sản có quy mô nào. Nông nghiệp là ngành quan trọng nhất trong nền kinh tế thu hút 80% lao động. Cà phê là nguồn thu xuất khẩu chính. Với sự trợ giúp của các nước và tổ chức nước ngoài, chính phủ Uganda đã nỗ lực phục hồi và ổn định nền kinh tế thông qua các biện pháp như cải cách chính sách tiền tệ, tăng giá các sản phẩm xăng dầu và cải thiện lương công chức nhà nước. Các thay đổi về chính sách này nhằm mục đích kiểm soát lạm phát, thúc đẩy xuất khẩu và tăng nguồn thu từ xuất khẩu. Trong giai đoạn 1900 2001, nền kinh tế Uganda tăng trưởng khá ổn định, tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sản xuất phục vụ xuất khẩu, ổn định an ninh trong nước…Khoản tiền Uganda đã được các nước cam kết xóa nợ là khoảng tỷ USD. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của Uganda nhưng tăng trưởng GDP của quốc gia này vẫn tương đối cao nhờ một loạt cải cách và khả năng kiểm soát khủng hoảng. Doanh thu từ dầu và thuế sẽ là các nguồn thu quan trọng của Uganda khi mà dầu sẽ được đi vào khai thác trong một vài năm tới. Tuy nhiên sự bất ổn định Nam Sudan sẽ là một trở ngại đối với nền kinh tế Uganda trong năm 2011 do đối tác xuất khẩu chính của Uganda là Sudan và đây còn là một địa điểm quan trọng của các trại tị nạn cho người dân Sudan. Năm 2010, tổng sản phẩm quốc nội của Uganda đạt 17,12 tỷ USD, trong đó mức tăng trưởng GDP đạt 5,8%. Thu nhập bình quân đầu người của nước này là khoảng 500 USD/người năm 2010. Nông nghiệp chiếm 23,6% tổng sản phẩm quốc dân Uganda và thu hút 80% lực lượng lao động nước này (2010). Sản phẩm chính trong nông nghiệp là cà phê, chè, ngô, chuối, đường, bông, thuốc lá, khoai tây, hoa, các sản phẩm từ hoa, thịt dê, bò, đậu…. Ngoài ra, Uganda còn có thế mạnh về chăn nuôi gia súc, và đánh bắt cá. Ngoài ra, Uganda còn có thế mạnh về chăn nuôi gia súc, và đánh bắt cá. Về công nghiệp thì công nghiệp chế biến là chính, tiếp đó là dệt, sản xuất xi măng, sắt, thép, phụ tùng vận tải, phân bón, sản xuất hàng mỹ nghệ... Về ngoại thương, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Uganda đạt 2,941 tỷ USD với các sản phẩm xuất khẩu chính là cà phê, cá và các sản phẩm từ cá, trà, bông, hoa, vàng… Các bạn hàng xuất khẩu chủ yếu của Uganda là Sudan, Kenya, Các tiểu vương quốc Rập thống nhất (UAE), Rwanda, Thụy Sĩ, Cộng hòa Dân chủ Congo, Hà Lan, Đức, Ý. Năm 2010, Uganda nhập khẩu 4,474 tỷ USD hàng hoá các loại. Các sản phẩm mà Uganda thường nhập khẩu là: trang thiết bị cơ bản, phương tiện, dầu, thuốc men và ngũ cốc. Các đối tác nhập khẩu chính gồm Kenya, Ấn Độ, Các tiểu vương quốc Rập thống nhất (UAE), Trung Quốc, Nam Phi, Pháp, Nhật và Mỹ. Uganda có dân số hiện vào khoảng 34,6 triệu người (2010) (91% là người bản địa, 1% là người châu Âu, châu và người Rập, 8% còn lại là nhóm người). Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, tiếng Luganda và tiếng Swahili là các thổ ngữ được công nhận. Một nhà thờ Công giáo Entebbe Theo điều tra dân số năm 2002, Kitô giáo chiếm khoảng 84% dân số của Uganda. Giáo hội Công giáo La Mã có số lượng tín đồ đông nhất (41,9%), tiếp theo là Anh giáo (35,9%). Phong trào Ngũ Tuần chiếm phần còn lại của dân số Kitô giáo. Các tôn giáo tiếp theo của Uganda là Hồi giáo chiếm 12% dân số, chủ yếu là người Sunni. Còn lại theo các tôn giáo truyền thống (1%), Bahá'í (0,1%), các tôn giáo khác (0,7%), hoặc không theo tôn giáo (0,9%). Dân số phía Bắc và khu vực Tây sông Nile chủ yếu là Công giáo, trong khi các huyện Iganga phía đông Uganda có tỷ lệ cao nhất của người Hồi giáo. Phần còn lại của đất nước là một sự kết hợp của các cộng đồng tôn giáo. Trước khi xuất hiện các tôn giáo như Kitô giáo và Hồi giáo, tín ngưỡng bản địa truyền thống đã được thực hành như là một tín ngưỡng duy nhất. Thậm chí ngày nay trong thời gian đương đại, việc thực hành tín ngưỡng bản địa là rất phổ biến một số vùng nông thôn và đôi khi được pha trộn với các nghi lễ của Kitô giáo và Hồi giáo. | Uganda | Cộng hòa Thịnh vượng chung, Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh, Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh, Quốc gia châu Phi, Quốc gia nội lục, Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, Quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, Quốc gia Đông Nam Phi, Quốc gia thành viên Liên minh châu Phi, Nước kém phát triển, Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Swahili |
Hebron là một thị trấn thuộc quận Denton, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thị trấn này là 415 người. *Dân số năm 2000: 874 người. *Dân số năm 2010: 415 người. American Finder | Hebron | Vùng đô thị phức hợp Dallas–Fort Worth |
là một chi bướm đêm thuộc phân họ Tortricinae của họ Tortricidae. *Cochylidia altivaga Diakonoff, 1976 *Cochylidia contumescens (Meyrick, 1931) *Cochylidia heydeniana 1851) *Cochylidia implicitana (Wocke, in 1856) *Cochylidia moguntiana (Rssler, 1864) *Cochylidia richteriana (Fischer von Rslerstamm, 1837) *Cochylidia rupicola (Curtis, 1834) *Cochylidia subroseana (Haworth, 1811) *Danh sách các chi của Tortricidae Tập tin:Cochylidia heydeniana.jpg Tập tin:Cochylidia Tập tin:Cochylidia moguntiana.jpg Tập tin:Cochylidia richteriana.jpg tortricidae.com | null | Cochylini |
Vần luật trong kiến trúc, còn gọi là nhịp điệu kiến trúc, là một trong những quy luật bố cục không gian kiến trúc cơ bản. Vần luật trong kiến trúc là sự lặp đi lặp lại có quy luật, sự biến hóa có tổ chức các yếu tố bố cục tạo hình kiến trúc cơ bản (như điểm kiến trúc, tuyến (hay đường nét), diện (bề mặt), màu sắc, chất cảm (cảm quan của chất liệu), hình khối, không gian, đơn thể và quần thể kiến trúc), đem lại cho con người một ấn tượng mỹ cảm nhất định. Như vậy, vần luật kiến trúc vừa tạo ra sự thống nhất nhờ việc lặp lại một cách có quy luật các yếu tố tạo hình kiến trúc, nhưng cũng vừa tạo ra sự đa dạng nhờ tính biến hóa có tổ chức trong sắp xếp bố cục kiến trúc. Vần luật là phương tiện quan trọng trong nghệ thuật tổ hợp kiến trúc, thiếu nó tác phẩm kiến trúc trở nên vô hồn và câm lặng, đồng thời lại hỗn độn vô tổ chức. Số lượng các chu kỳ của sự nhắc lại (lặp lại) trong vần luật thường phải lớn hơn ba thì mới tạo được hiệu quả thẩm mỹ. Với những số chu kỳ lẻ như 3, 5, 7, tạo thành những đơn vị vần luật kiến trúc không thể chia cắt được. Quy luật này thường được áp dụng trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, với các nhà truyền thống của người Việt thường là nhà gian, gian, gian... có nhịp điệu lặp lại theo từng gian với những chi tiết thống nhất như cửa bức bàn, lan can con tiện. Theo Le Corbusier: "Sự thống nhất các thành phần xây dựng là một sự bảo đảm cho thẩm mỹ, tính đa dạng do các đơn vị đưa vào kiến trúc sẽ dẫn đến những bố cục lớn, những nhịp điệu kiến trúc chân chính" (đơn vị lớn Marseille). Vần luật liên tục, còn gọi là nhịp điệu đều hay tiết điệu, là vần luật sinh ra do sự sắp xếp lặp lại một cách liên tục một hay một số loại thành phần cơ bản (đường nét, bề mặt, hình khối, không gian) trong bố cục tạo hình kiến trúc. Khi sự lặp lại chỉ với một loại thành phần cơ bản đặt cạnh nhau thì tạo thành vần luật liên tục đơn giản. Nếu sử dụng, trong mỗi lần lặp đi lặp lại một cách liên tục, nhiều (tức là hai hay một số) loại thành phần cơ bản thì sẽ được vần luật liên tục phức tạp. Vần luật tiệm biến, còn gọi là nhịp điệu tăng giảm đều, là vần luật thay đổi dần dần một cách có quy luật, có sự biến thái trong thành phần của nhịp điệu (tức là các yếu tố kích thước, màu sắc, chất liệu,...). Nếu vần luật tiệm biến chỉ phát triển đơn hướng hoặc tăng đều hoặc giảm đều, thì vần luật lồi lõm vừa là vần luật tiệm biến (tăng, giảm có quy luật), vừa là vần luật dạng dao động hình sóng, lúc lên lúc xuống, lúc âm lúc dương, lúc hạ thấp lúc đột khởi theo quy luật nhất định. Vần luật giao thoa hình thành do các thành phần kiến trúc đan chéo nhau, chồng lấn giao thoa với nhau. *Cuốn sách Sáng tác kiến trúc, của Đặng Thái Hoàng, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, trang 90-93. *Cuốn sách Cơ sở tạo hình kiến trúc, của Đặng Đức Quang, Nhà xuất bản Xây dựng, trang 137-146. *Cuốn sách Nguyên lý thiết kế kiến trúc, của Tạ Trường Xuân, Nhà xuất bản Xây dựng, trang 106-113. *Kiến trúc cổ Việt Nam của Vũ Tam Lang | Vần luật trong kiến trúc | Lý thuyết kiến trúc |
Hoàng Văn Thụ là một xã thuộc huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Xã Hoàng Văn Thụ nằm phía đông nam huyện Bình Gia, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Minh Khai *Phía tây giáp xã Mông Ân và xã Thiện Thuật *Phía nam giáp thị trấn Bình Gia *Phía bắc giáp xã Quang Trung. Xã Hoàng Văn Thụ có diện tích 33,10 km², dân số năm 2018 là 2.516 người, mật độ dân số đạt 76 người/km². Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 818/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Lạng Sơn (nghị quyết có hiệu lực từ ngày tháng năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ 7,77 km² diện tích tự nhiên và 733 người thuộc thôn: Tòng Chu 1, Tòng Chu của xã Hoàng Văn Thụ vào thị trấn Bình Gia. Sau khi điều chỉnh, xã Hoàng Văn Thụ còn lại 33,10 km² diện tích tự nhiên và 2.516 người. | Hoàng Văn Thụ | Đơn vị hành chính Việt Nam đặt tên theo tên người |
Achelia gracilis là một loài nhện biển trong họ Ammotheidae. Loài này thuộc chi Achelia. Achelia gracilis được miêu tả khoa học năm 1900 bởi Verrill. *Bamber, R. (2010). Achelia gracilis Verrill, 1900. In: Bamber, R.N., El Nagar, A. (Eds) (2010). Pycnobase: World Pycnogonida Database. Gebaseerd op informatie uit het Cơ sở dữ liệu sinh vật biển, te vinden op | ''Achelia gracilis | Achelia |
Tikare là một tổng của tỉnh Bam tây bắc Burkina Faso. Thủ phủ của tổng này là thị xã Tikare. Theo điều tra dân số năm 1996, tổng này có dân số 33.396 người. Tikaré Ansouri Baribsi Boubou Dafire Dargouma Gasongo Gonga Hamdallaye Horé Ipala Kamtenga Kilou Koulniéré Manégtaba-Mossi Napalgué Ouampèga Oui Ritimyinga Sancé Sarkounga Songodin Soukoundougou Tamiga Tampèlga Tanhoka Téonsgo Tirbou Touga Vato-Foulbé Vato-Mossi Yelkoto Yoba Zamsé Zano | Tikare | |
Con cừu, vật cưỡi thánh thiêng của thần lửa Agni trong thần thoại Ấn Độ Vahana (tiếng Phạn: वाहन, Vāhana, có nghĩa là vật cưỡi hay thú cưỡi hay kỵ thú, từ Vah trong tiếng Phạn có nghĩa là mang hoặc chở) là một động vật hoặc thực thể thần thoại được một vị thần Hindu sử dụng như một phương tiện chuyên chở trong thần thoại Ấn Độ. Vahana thường được gọi là "thú cưỡi" linh thiêng và gắn kết của một vị thần. Các vị thần thường được mô tả cưỡi hay kỵ toạ (hoặc đơn giản là gắn kết). Những lần khác, Vahana được miêu tả bên cạnh vị thần hoặc được biểu thị một cách tượng trưng như một thuộc tính thiêng liêng. Vahana có thể được coi là một vật sở hữu của vị thần. Các vị thần có thể được nhìn thấy ngồi hoặc đứng trên Vahana, họ có thể đang ngồi trên một cái bục nhỏ gọi là bành (howdah), hoặc cưỡi trên yên hoặc lưng ngựa. Nhìn chung, Vahana là một loài thần thú chuyên dùng để cưỡi của các nam thần và nữ thần trong thần thoại Ấn Độ giáo. Ki tô giáo cũng có những huyền thoại mô tả tương tự về thú cưỡi linh thiêng. Theo thần thoại Ấn Độ, mỗi vị thần đều có một con thú chuyên dùng để di chuyển gọi là Vahana ví dụ như Brahma, thần sáng tạo du hành ra ngoài không gian trên một con thiên nga (chim Hamsa), còn Agni vị thần lửa cưỡi trên một con cừu đực. Các vị thần cưỡi Vahana đi lại từ thế giới này qua thế giới khác. Vahana cũng giống như phương tiện giao thông hiện đại ngày nay, có thể dùng di chuyển trên mọi địa hình, trên không, dưới nước, trên cạn, hay thậm chí còn du hành lên các vì sao. Vahana là các thần thú cưỡi linh thiêng có nghĩa tinh thần sâu sắc, theo thần thoại Ấn Độ, các vị thần có khả năng hiện thân bất kỳ lúc nào và bất kỳ nơi đâu trong vũ trụ. Các thần thú chuyên chở này có tính biểu tượng, và thể hiện vị trí cũng như sức mạnh của các vị thần. Vahana của thần Indra là một con voi trắng, người ta thường gọi là Airavata, được mô tả có bốn ngà. Airavata của thần Indra biểu tượng cho một chiến binh đầy sức mạnh và đầy tính đe dọa. Thần Indra còn được mô tả là thường xuyên cưỡi ngựa một con bạch mã bảy đầu biết bay, giống như Sleipnir, một con ngựa của Thần Odin. Các Vahana có một vai trò và mục đích trong quá trình sáng thế, giúp các vị thần truyền bá Pháp. Vahana Vị thần kỵ toạ Hình Chuột (Mooshakraja) Ganesha Ngựa Kalki, Shukra, Swaminarayan (ngựa nái thì gọi là "Manki"), Ayyappan, Revanta, Chandra (cưỡi trên chiến xa gồm 10 con bạch mã), Indra (cuoi con ngựa có tên là ngựa Surya (cưỡi chiến xa gồm bảy con ngựa hoặc con ngựa đầu), Vali, Khandoba, Ramdev Pir. 100px Garuda Vishnu, Krishna, Vaishnavi 100px Cừu Agni, Mangala 100px Bò (Bò Nandi) Shiva, Maheshvari 100px Công Kartikeya (con công mang tên Parvani), Saraswati, Kaumari con công Mayura vật cưỡi của Đức Chuẩn đề và Khổng tước Minh vương (Mahamayuri) 100px Chó Bhairava, Hadkai Maa, Svapathi (Shiva) 100px Chim Hamsa (thiên nga) Brahma tên gọi Hanskumara, Brahmani, Saraswati (Savitri), Gayatri, Vishvakarman 100px Makara Ganga (nữ thần sông Hằng, Varuna, Kama, Khodiyar, Narmada 100px Hổ (hình mẫu của thú cưỡi, Manasthala) Durga, 100px Sư tử (hình mẫu của thú cưỡi) Parvati (con sư tư tên là Dawon), Budh, Rahu, Mariamman, Jagaddhatri. 100px Voi Indra (con voi tên là Airavata), Lakshmi, Bhumi, Prithvi, Indrani, Brihaspati. 100px Vẹt Kama (tên là Sukha) 100px Linh dương Chandra, Vayu 100px Trâu nước Yama (con trâu tên là Paundraka), Vihot Mata 100px Mèo Shashthi 100px Lừa Kaalratri, Shitala), Quỷ Kali 100px Cú Lakshmi (con cú tên là Alooka), Chamunda 100px Kền kền Ketu 100px Quạ Shani, Alakshmi, Dhumavati 100px Rùa Yamuna, Varuna 100px Gà trống Bahuchara Mata 100px Quạ Ushas (cỗ xe bảy con quạ) Rắn Kamakhya, Manasa Bồ câu Rati Tê giác Dhavdi Dê Pushan (dương xa), Meladi Maa Cá sấu Khodiyar, Ganga Lạc đà Momai Maa (còn gọi là Dashaa Maa), Quỷ Ushtravahini Devi Cá Jhulelal Con người Nirriti Glossary: Vahana. Undated. Accessed August 10, 2007. The Collection: St. Jerome Archived 2012-10-22 at the Wayback Machine, gallery of the religious art collection of New Mexico State University, with explanations. Accessed August 10, 2007. Owl and Mythology, p. 3. Accessed August 10, 2007. Margaret Stutley's The Illustrated Dictionary of Hindu Iconography, p. 127 Hindu Devotion: Lakshmi. Accessed August 10, 2007. Forms of Ganesh: The Mouse Mount and Other Ganesh Mounts Archived 2007-03-02 at the Wayback Machine. Accessed August 10, 2007. Holy Vehicles, an illustrated list. Accessed August 10, 2007. Karthikeyan Subramanian Riding His Peacock Accessed August 10, 2007. Hindu Deities and Their Vehicles, partial list at About.Com. Accessed August 10, 2007. Symbolism of the Vehicles of Gods and Goddesses. Accessed August 10, 2007. | Vahana | |
Tổng là một tổng của Pháp tọa lạc tại tỉnh Corrèze trong vùng Tổng này được tổ chức xung quanh Tulle trong quận Tulle. Độ cao khu vực này là 185 (Tulle) đến 460 (Tulle) độ cao trung bình trên mực nước biển là 212 m. Tulle''' 15 553 (1) 19000 19272 (1) một phần của xã. Corrèze Quận của Corrèze Tổng của Corrèze Xã của Corrèze Danh sách các tổng ủy viên của Corrèze Tổng sur le site de l'Insee plan du Tổng sur Mapquest Localisation du Tổng sur une carte de France | Tổng là một tổng của Pháp tọa lạc tại tỉnh Corrèze trong vùng ==Địa lý== Tổng này được tổ chức xung quanh Tulle trong quận Tulle. Độ cao khu vực này là 185 (Tulle) đến 460 (Tulle) độ cao trung bình trên mực nước biển là 212 m. ==Hành chính== ==Phân chia đơn vị hành chính== | |
'Isoetes là một loài dương xỉ trong họ Isoetaceae. Loài này được Durieu mô tả khoa học đầu tiên năm 1861. Tập tin:Isoetes setaceum Habitus 2011-2-06 Tập tin:Neuchâtel Herbarium Isoetes echinospora NEU000020012 (cropped).png Tập tin:Neuchâtel Herbarium Isoetes echinospora NEU000020012 (cropped, Tập tin:Neuchâtel Herbarium Isoetes echinospora | null | Isoetes |
Monte-Carlo Masters (hiện đang được tài trợ bởi Rolex) là một giải đấu quần vợt nam hàng năm cho các cầu thủ chuyên nghiệp được tổ chức tại Monaco. Giải đấu thuộc hệ thống giải nằm trong hệ thống ATP World Tour Masters 1000. Giải đấu diễn ra trên mặt sân đất nện vào cuối tháng đầu tháng hàng năm và chỉ dành cho các tay vợt nam. Giải quần vợt Monte Carlo lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1897. Bắt đầu từ năm 2009 giải chính thức trở thành hệ thống thi đấu của ATP World Tour Masters 1000. Rafael Nadal đã giành được danh hiệu lần liên tiếp từ năm 2005 đến năm 2012 trước khi bị Novak Djokovic đánh bại vào năm 2013. Năm Vô địch quân Tỷ số 1897 Reggie Doherty Conway W. Blackwood Price 6–2, 6–1, 6–2 1898 Reggie Doherty Graf Victor Voß 4–6, 6–3, 6–3, 4–0 1899 Reggie Doherty Graf Victor Voß 6–2 1900 Lawrence Doherty 1901 Lawrence Doherty Wilberforce Eaves 6–2, 5–7, 6–1 1902 Reggie Doherty George Hillyard 6–1, 6–4, 6–3 1903 Reggie Doherty Frank Riseley 6–1, 14–16 1904 Reggie Doherty Josiah Ritchie 6–1, 7–5, 3–6, 7–5 1905 Lawrence Doherty Josiah Ritchie 6–4, 8–6, 6–4 1906 Lawrence Doherty Wilberforce Eaves 6–3, 11–9 1907 Josiah Ritchie Lawrence Doherty 8–6, 7–5, 8–6 1908 Anthony Wilding Wilberforce Eaves 6–3, 2–6, 6–3, 4–6, 6–0 1909 Fred Alexander Lawrence Doherty 7–5, 6–4, 6–1 1910 Max Decugis Josiah Ritchie 6–3, 6–0, 6–0 1911 Anthony Wilding Max Decugis 5–7, 1–6, 6–3, 6–0, 6–1 1912 Anthony Wilding C. Moore 6–3, 6–0, 6–0 1913 Anthony Wilding Felix Poulin 6–0, 6–2, 6–1 1914 Anthony Wilding Gordon Lowe 6–2, 6–3, 6–2 1919 Nicholas Mishu Max Decugis 6–2, 6–0 1920 Gordon Lowe Josiah Ritchie 7–5, 6–2 1921 Gordon Lowe Algernon Kingscote 6–1, 0–6, 6–4, 6–2 1922 Giovanni Balbi di Robecco Alain Gerbault 6–1, 6–4, 6–3 1923 Gordon Lowe Leighton Crawford 6–2, 6–4, 6–4 1924 Leighton Crawford Leonce Aslangul 6–4, 3–6, 6–2 1926 Béla von Kehrling Charles Kingsley 6–4, 6–1, 6–3 1927 Béla von Kehrling Erik Worm W/O 1928 Henri Cochet Béla von Kehrling 3–6, 2–6, 6–3, 6–3, 6–2 1929 Henri Cochet Umberto De Morpurgo 8–6, 6–4, 6–4 1930 William Tilden Henry Austin 6–4, 6–4, 6–1 1931 Henri Cochet George 7–5, 6–2, 6–4 1932 Roderich Menzel George 6–4, 7–5, 6–2 1933 Henry Austin George 11–9, 6–3, 7–5 1934 Henry Austin Giorgio de Stefani 6–1, 8–6, 6–4 1935 Giovanni Palmieri Henry Austin 6–1, 6–1, 7–5 1936 Gottfried von Cramm Henner Henkel 4–6, 4–6, 7–5, 6–4, 7–5 1937 Gottfried von Cramm Christian Boussus 6–2, 3–6, 6–2, 2–6, 6–2 1938 Franjo Punčec Christian Boussus 6–0, 6–1, 6–1 1939 Pierre Pelizza Yvon Petra 6–8, 6–3, 6–4, 6–2 1946 Pierre Pelizza Yvon Petra 6–3, 6–2, 4–6, 6–3 1947 Lennart Bergelin Budge Patty 6–3, 6–8, 1–6, 6–2, 8–6 1948 József Asbóth Gianni Cucelli 6–3, 6–2, 5–7, 6–2 1949 Frank Parker Gianni Cucelli 2–6, 6–3, 6–0, 6–4 1950 Jaroslav Drobný William Talbert 6–4, 6–4, 6–1 1951 Straight Clark Fred Kovaleski 1–6, 6–4, 6–4, 1–6, 10–8 1952 Frank Sedgman Jaroslav Drobný 7–5, 6–2, 5–7, 6–1 1953 Władysław Skonecki Jaroslav Drobný 6–3, 6–4, 11–9 1954 Lorne Main Tony Vincent 9–7, 3–6, 7–5, 6–4 1955 Władysław Skonecki Budge Patty 6–4, 6–2, 8–6 1956 Hugh Stewart Tony Vincent 1–6, 8–6, 6–0, 6–2 1957 Jacques Brichant Paul Remy 3–6, 5–5, ab. 1958 Robert Haillet Jaroslav Drobný 6–4, 6–4, 6–3 1959 Robert Haillet Budge Patty 9–7, 6–3, 4–6, 6–3 1960 Andrés Gimeno Mike Davies 8–6, 6–3, 6–4 1961 Nicola Pietrangeli Pierre Darmon 6–4, 1–6, 6–3, 6–3 1962 Pierre Darmon Boro Jovanović 6–2, 6–1, 6–3 1963 Pierre Darmon Jan-Erik Lundqvist 6–2, 2–6, 6–1, 5–7, 6–4 1964 Martin Mulligan Jan-Erik Lundqvist 6–4, 6–4 1965 István Gulyás Jiri Javorský 6–3, 7–9, 8–6, 6–4 1966 Manuel Santana Nicola Pietrangeli 8–6, 4–6, 6–4, 6–1 1967 Nicola Pietrangeli Martin Mulligan 6–3, 3–6, 6–3, 6–1 1968 Nicola Pietrangeli Alexander Metreveli 6–2, 6–2 1969 Tom Okker John Newcombe 8–10, 6–1, 7–5, 6–3 1970 Željko Franulović Manuel Orantes 6–4, 6–3, 6–3 1971 Ilie Năstase Tom Okker 3–6, 8–6, 6–1, 6–1 1972 Ilie Năstase František Pála 6–1, 6–0, 6–3 1973 Ilie Năstase Björn Borg 6–4, 6–1, 6–2 1974 Andrew Pattison Ilie Năstase 5–7, 6–3, 6–4 1975 Manuel Orantes Bob Hewitt 6–2, 6–4 1976 Guillermo Vilas Wojciech Fibak 6–1, 6–1, 6–4 1977 Björn Borg Corrado Barazzutti 6–3, 7–5, 6–0 1978 Raúl Ramírez Tomáš Šmíd 6–3, 6–3, 6–4 1979 Björn Borg Vitas Gerulaitis 6–2, 6–1, 6–3 1980 Björn Borg Guillermo Vilas 6–1, 6–0, 6–2 1981 Jimmy Connors Guillermo Vilas 5–5 (Hoãn) 1982 Guillermo Vilas Ivan Lendl 6–1, 7–6, 6–3 1983 Mats Wilander Mel Purcell 6–1, 6–2, 6–3 1984 Henrik Sundström Mats Wilander 6–3, 7–5, 6–2 1985 Ivan Lendl Mats Wilander 6–1, 6–3, 4–6, 6–4 1986 Joakim Nyström Yannick Noah 6–3, 6–2 1987 Mats Wilander Jimmy Arias 4–6, 7–5, 6–1, 6–3 1988 Ivan Lendl Martín Jaite 5–7, 6–4, 7–5, 6–3 1989 Alberto Mancini Boris Becker 7–5, 2–6, 7–6, 7–5 1990 Andrei Chesnokov Thomas Muster 7–5, 6–3, 6–3 1991 Sergi Bruguera Boris Becker 5–7, 6–4, 7–6(8–6), 7–6(7–4) 1992 Thomas Muster Aaron Krickstein 6–3, 6–1, 6–3 1993 Sergi Bruguera Cédric Pioline 7–6(7–2), 6–0 1994 Andriy Medvedev Sergi Bruguera 7–5, 6–1, 6–3 1995 Thomas Muster Boris Becker 4–6, 5–7, 6–1, 7–6(8–6), 6–0 1996 Thomas Muster Albert Costa 6–3, 5–7, 4–6, 6–3, 6–2 1997 Marcelo Ríos Àlex Corretja 6–4, 6–3, 6-3 1998 Carlos Moyá Cédric Pioline 6–3, 6–0, 7–5 1999 Gustavo Kuerten Marcelo Ríos 6–4, 2–1 2000 Cédric Pioline Dominik Hrbatý 6–4, 7–6(7–3), 7–6(8–6) 2001 Gustavo Kuerten Hicham Arazi 6–3, 6–2, 6–4 2002 Juan Carlos Ferrero Carlos Moyá 7–5, 6–3, 6–4 2003 Juan Carlos Ferrero Guillermo Coria 6–2, 6–2 2004 Guillermo Coria Rainer Schüttler 6–2, 6–1, 6–3 2005 Rafael Nadal Guillermo Coria 6–3, 6–1, 0–6, 7–5 2006 Rafael Nadal Roger Federer 6–2, 6–7(2–7), 6–3, 7–6(7–5) 2007 Rafael Nadal Roger Federer 6–4, 6–4 2008 Rafael Nadal Roger Federer 7–5, 7–5 2009 Rafael Nadal Novak Djokovic 6–3, 2–6, 6–1 2010 Rafael Nadal Fernando Verdasco 6–0, 6–1 2011 Rafael Nadal David Ferrer 6–4, 7–5 2012 Rafael Nadal Novak Djokovic 6–3, 6–1 2013 Novak Djokovic Rafael Nadal 6–2, 7–6(7–1) 2014 Stan Wawrinka Roger Federer 4–6, 7–6, 6–2 2015 2015 Monte-Carlo Rolex Masters SinglesNovak Djokovic Tomas Berdych 7–5, 4–6, 6–3 Từ năm 1968: Năm Vô địch quân Tỷ số 1968 Sergei Likhachev Alex Metreveli Patrice Beust Daniel Contet 5–7, 9–7, 6–4, 5–7, 7–5 1969 Owen Davidson John Newcombe Richard Pancho Gonzales Dennis Ralston 7–5, 11–13, 6–2, 6–1 1970 Marty Riessen Roger Taylor Pierre Barthès Nikola Pilić 6–3, 6–4, 6–2 1971 Ilie Năstase Ion Ţiriac Tom Okker Roger Taylor 1–6, 6–3, 6–3, 8–6 1972 Patrice Beust Daniel Contet Jiří Hřebec František Pala 3–6, 6–1, 12–10, 6–2 1973 Juan Gisbert, Sr. Ilie Năstase Georges Goven Patrick Proisy 6–2, 6–2, 6–2 1974 John Alexander Phil Dent Manuel Orantes Tony Roche 7–6, 4–6, 7–6, 6–3 1975 Bob Hewitt Frew McMillan Arthur Ashe Tom Okker 6–3, 6–2 1976 Wojciech Fibak Karl Meiler Björn Borg Guillermo Vilas 7–6, 6–1 1977 François Jauffret Jan Kodeš Wojciech Fibak Tom Okker 2–6, 6–3, 6–2 1978 Peter Fleming Tomáš Šmíd Jaime Fillol Ilie Năstase 6–4, 7–5 1979 Ilie Năstase Raúl Ramírez Víctor Pecci Balázs Taróczy 6–3, 6–4 1980 Paolo Bertolucci Adriano Panatta Vitas Gerulaitis John McEnroe 6–2, 5–7, 6–4 1981 Heinz Günthardt Markus Günthardt Pavel Složil Tomáš Šmíd 6–3, 6–3 1982 Peter McNamara Paul McNamee Mark Edmondson Sherwood Stewart 6–7, 7–6, 6–3 1983 Heinz Günthardt Balázs Taróczy Henri Leconte Yannick Noah 6–2, 6–4 1984 Mark Edmondson Sherwood Stewart Jan Gunnarsson Mats Wilander 6–2, 6–1 1985 Pavel Složil Tomáš Šmíd Shlomo Glickstein Shahar Perkiss 6–2, 6–3 1986 Guy Forget Yannick Noah Joakim Nyström Mats Wilander 6–4, 3–6, 6–4 1987 Hans Gildemeister Andrés Gómez Mansour Bahrami Michael Mortensen 6–2, 6–4 1988 Sergio Casal Emilio Sánchez Henri Leconte Ivan Lendl 6–1, 6–3 1989 Tomáš Šmíd Mark Woodforde Paolo Canè Diego Nargiso 1–6, 6–4, 6–2 1990 Petr Korda Tomáš Šmíd Andrés Gómez Javier Sánchez 6–4, 7–6 1991 Luke Jensen Laurie Warder Paul Haarhuis Mark Koevermans 5–7, 7–6, 6–4 1992 Boris Becker Michael Stich Petr Korda Karel Nováček 6–4, 6–4 1993 Stefan Edberg Petr Korda Paul Haarhuis Mark Koevermans 3–6, 6–2, 7–6 1994 Nicklas Kulti Magnus Larsson Yevgeny Kafelnikov Daniel Vacek 3–6, 7–6, 6–4 1995 Jacco Eltingh Paul Haarhuis Luis Lobo Javier Sánchez 6–3, 6–4 1996 Ellis Ferreira Jan Siemerink Jonas Björkman Nicklas Kulti 2–6, 6–3, 6–2 1997 Donald Johnson Francisco Montana Jacco Eltingh Paul Haarhuis 7–6, 2–6, 7–6 1998 Jacco Eltingh Paul Haarhuis Todd Woodbridge Mark Woodforde 6–4, 6–2 1999 Olivier Delaître Tim Henman Jiří Novák David Rikl 6–2, 6–3 2000 Wayne Ferreira Yevgeny Kafelnikov Paul Haarhuis Sandon Stolle 6–3, 2–6, 6–1 2001 Jonas Björkman Todd Woodbridge Joshua Eagle Andrew Florent 3–6, 6–4, 6–2 2002 Jonas Björkman Todd Woodbridge Paul Haarhuis Yevgeny Kafelnikov 6–3, 3–6, 10–7 2003 Mahesh Bhupathi Max Mirnyi Michaël Llodra Fabrice Santoro 6–4, 3–6, 7–6 2004 Tim Henman Nenad Zimonjić Gastón Etlis Martín Rodríguez 7–5, 6–2 2005 Leander Paes Nenad Zimonjić Bob Bryan Mike Bryan W/O 2006 Jonas Björkman Max Mirnyi Fabrice Santoro Nenad Zimonjić 6–2, 7–6 2007 Bob Bryan Mike Bryan Julien Benneteau Richard Gasquet 6–2, 6–1 2008 Rafael Nadal Tommy Robredo Mahesh Bhupathi Mark Knowles 6–3, 6–3 2009 Daniel Nestor Nenad Zimonjić Bob Bryan Mike Bryan 6–1, 6–4 2010 Daniel Nestor Nenad Zimonjić Mahesh Bhupathi Max Mirnyi 6–3, 2–0 retired 2011 Bob Bryan Mike Bryan Juan Ignacio Chela Bruno Soares 6–3, 6–2 2012 Bob Bryan Mike Bryan Max Mirnyi Daniel Nestor 6–2, 6–3 2013 Julien Benneteau Nenad Zimonjić Bob Bryan Mike Bryan 4–6, 7–6(7–4), 14–12 *Vô địch nhiều nhất: Rafael Nadal (10 lần) *Vô địch liên tiếp nhiều nhất: Rafa(el Nadal (8 lần, từ 2005–2012) *Số trận thắng liên tiếp nhiều nhất''': Rafael Nadal (46 trận) Official tournament website ATP tournament profile Official live streaming of all matches List of past singles champions back to 1947 | Monte-Carlo Masters | Giải quần vợt, Monte Carlo Masters |
Seohara là một thành phố và là nơi đặt ban đô thị (municipal board) của quận Bijnor thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Seohara có vị trí Nó có độ cao trung bình là 211 mét (692 feet). Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Seohara có dân số 43.985 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Seohara có tỷ lệ 48% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 54%, và tỷ lệ cho phái nữ là 42%. Tại Seohara, 17% dân số nhỏ hơn tuổi. | Seohara | |
Michael Arthur Josef Jakob Hainisch (; 15 tháng năm 1858 26 tháng năm 1940) và chính trị gia người Áo giữ chức Tổng thống thứ của Áo từ năm 1920 đến năm 1928, sau khi chế độ quân chủ sụp đổ khi Thế Chiến thứ Nhất kết thúc. | Michael Arthur Josef Jakob Hainisch | Sinh năm 1858, Mất năm 1940, Cựu sinh viên Đại học Viên |
Cilunculus compactus là một loài nhện biển trong họ Ammotheidae. Loài này thuộc chi Cilunculus. Cilunculus compactus được miêu tả khoa học năm 1991 bởi Stock. *Bamber, R. (2010). Cilunculus compactus Stock, 1991. In: Bamber, R.N., El Nagar, A. (Eds) (2010). Pycnobase: World Pycnogonida Database. Gebaseerd op informatie uit het Cơ sở dữ liệu sinh vật biển, te vinden op | ''Cilunculus compactus | Cilunculus |
là ga đường sắt nằm Matsudo, Chiba, Nhật Bản, được quản lý bởi (Keisei) và Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East). Hokuso ** HS keisei (Keisei) ** KS link=Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East) ** 15x15px Ga xe lửa Hokuso mở cửa vào ngày 31 tháng năm 1991. Sau đó, ga JR East mở cửa vào ngày 14 tháng năm 1998. Vào ngày 17 tháng năm 2010, Tuyến Keisei Narita Sky Access được khai trương và nhà ga trên Tuyến Hokuso sẽ được sử dụng chung với Keisei. Các cơ sở của nhà ga được chia sẻ bởi Hokuso và Keisei. Nó là một nhà ga trên cao với hai sân ga đảo và bốn tuyến. Sân ga cách mặt đất 17m, tầng là sảnh soát vé, tầng là sân ga, mỗi tầng được kết nối với thang cuốn bằng thang máy. đường sắt Tuyến Phương hướng Đích đến HS Tuyến HokusōKS Tuyến Narita Sky Access Đi lên đi Keisei-Ueno, Oshiage, Nihombashi, Nishi-Magome, 16px Số của sân bay Haneda và Yokohama Đi xuống đi Shin-Kamagaya, Chiba New Town Chūō, Inba-Nihon-Idai và 16px Sân bay Narita Ga trên tuyến Musashino là ga trên cao với hai sân ga và hai tuyến tương đối. Ke ga Tuyến phương hướng Điểm đến Giai điệu khởi hành 15px Tuyến Musashino Đi lên đi Shin-Matsudo, Minami-Urawa và Fuchūhommachi sunny islands Đi xuống đi và Tokyo Haru Ichiban(春一番) (Trụ sở chính văn phòng kinh doanh) Ảnh liên quan tới Ga JR Shin-Matsudo Ảnh liên quan tới Ga Hokuso Shin-Matsudo Matsudo Shinkeisei Bus Ga Hokuso Shin-Matsudo | null | Nhà ga mở cửa vào 1991, Nhà ga của Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản |
Cophixalus ateles là một loài ếch trong họ Nhái bầu. Chúng là loài đặc hữu của Papua New Guinea. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Richards, S. Zweifel, R. 2004. Cophixalus ateles. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng năm 2007. | ''Cophixalus ateles | Cophixalus, Động vật lưỡng cư Papua New Guinea, Động vật đặc hữu Papua New Guinea |
Wang Thonglang (tiếng Thái: phiên âm: Vang Thong-lang) là một trong 50 quận (khet) của thành phố Băng Cốc, Thái Lan. Quận này giáp ranh các quận khác của Bangkok (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ): Lat Phrao, Bang Kapi, Huai Khwang, và Chatuchak. Quận này được thành lập ngày 21 tháng 11 năm 1997 (thông báo vào ngày 14 tháng 10 năm 1997) bao gồm Wang Thonglang và một phần của phó quận Khlong Chan của Bang Kapi và một phần của phó quận Lat Phrao của quận Lat Phrao. Diện tích quận này lúc đó là 19,205 km². Năm 2002, quận này được điều chỉnh ranh giới và hiện có diện tích 18,905 km². Bảo tàng Chao Phraya Bodindecha Cung Vàng Quận này chỉ có phó quận (kwaeng). 1. Wang Thonglang วังทองหลาง Hội đồng quận Wang Thonglang có đại biểu với nhiệm kỳ năm, toàn bộ là đảng viên Đảng Dân chủ. BMA website with the touristical landmarks of Wang Thonglang Wang Thonglang district office (tiếng Thái) | Wang Thonglang | Quận Bangkok |
Sông Belaya (tiếng Nga: Белая река), nghĩa là sông trắng, có thể để chỉ tới một trong các con sông sau tại Nga: *Sông Belaya (Kama), sông nhánh của sông Kama tại Cộng hòa Bashkortostan. *Sông Belaya (Kuban), sông nhánh của sông Kuban tại Cộng hòa Adygea và Krasnodar krai. *Sông Belaya (Penzhina), sông nhánh của sông Penzhina tại Kamchatka krai. *Sông Bolshaya Belaya, sông nhánh của sông Angara tại tỉnh Irkutsk. | Sông Belaya | |
Gaillonia tinctoria là một loài thực vật thuộc họ Rubiaceae. Đây là loài đặc hữu của Yemen. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Miller, A. 2004. Gaillonia tinctoria. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng năm 2007. | ''Gaillonia tinctoria | Gaillonia |
Tarraco là tên cổ xưa của thành phố Tarragona (Catalunya, Tây Ban Nha). Trong suốt thời kì đế quốc La Mã, Tarraco là một trong các thành phố lớn bán đảo Iberia và là thủ phủ Roma của Hispania Citerior hay Hispania Tarraconensis. Tên đầy đủ của thành phố trong thời kỳ cộng hòa La Mã là Colonia Iulia Urbs Triumphalis Tarraco. Năm 2000, quần thể khảo cổ học Tarraco được công nhận là di sản thế giới bởi UNESCO. Code Name Place Coordenates 875-001 Walls of Tarragona Tarragona 875-002 Imperial cult enclosure Tarragona 875-003 Roman Forum (Tarragona) Tarragona 875-004 Roman circus of Tarraco Tarragona 875-005 Colonial forum of Tarraco Tarragona 875-006 Roman theatre of Tarraco Tarragona 875-007 Tarraco Amphitheatre, the basilica and romanesque church Tarragona 875-008 Early Christian Cemetery of Tarragona Tarragona 875-009 Pont de les Ferreres km north of Tarragona 875-010 Torre dels Escipions km east of Tarragona 875-011 Roman quarry of El Mèdol km north of Tarragona 875-012 Roman villa of Centcelles 4,6 km north-northwest of Tarragona 875-013 Roman villa dels Munts 10 km east of Tarragona 875-014 Arc de Berà 20 km east of Tarragona UNESCO website Tarraco, World heritage site | Tarraco | Di sản thế giới tại Tây Ban Nha, Địa điểm khảo cổ Tây Ban Nha |
Thượng Trạch là một xã thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Xã Thượng Trạch có vị trí địa lý: *Phía đông giáp các xã Phúc Trạch, Tân Trạch và thị trấn Phong Nha *Phía tây giáp Lào *Phía nam giáp huyện Quảng Ninh *Phía bắc giáp xã Xuân Trạch *Phía tây bắc giáp huyện Minh Hóa. Xã Thượng Trạch có diện tích 725,72 km², dân số năm 2019 là 2.911 người, mật độ dân số đạt người/km². Xã có trên 90% là cộng đồng người Ma Coong sinh sống. Xã Thượng Trạch được chia thành 18 thôn: 51, 61, Ki, Ban, Bụt, Chăm Pu, Cờ Đỏ, Côn Roàng, Coóc, Cu Tồn, Kà Roòng 1, Kà Roòng 2, Khe Rung, Nông Cũ, Nông Mới, Nựu, Tuộc, Tvoi. | Thượng Trạch | Xã, phường, thị trấn biên giới Việt Nam Lào |
Quận Lake là một quận thuộc tiểu bang Indiana, Hoa Kỳ. Quận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010, quận có dân số 496.314 người, là quận đông dân thứ nhì trong tiểu bang. Quận này là nơi có một phần Indiana Dunes.. Quận cũng có các cộng đồng công nhân của Marktown, Clayton Markở Đông Chicago. Quận là một phần Tây Bắc Indiana và vùng đô thị Chicago. Quận gồm có các khu vực hỗn hợp đô thị, ngoại và nông thôn. Quận lỵ đóng Crown Point.. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích 1623 km2, trong đó có 330 km2 là diện tích mặt nước. | Quận Lake | Quận của Indiana, Vùng đô thị Chicago, Khởi đầu năm 1837 Hoa Kỳ, Indiana 1837 |
Puerto Gaitán là một khu tự quản thuộc tỉnh Meta, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Puerto Gaitán đóng tại Puerto Gaitán Khu tự quản Puerto Gaitán có diện tích 17536 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng năm 2005, khu tự quản Puerto Gaitán có dân số 15016 người. | Puerto Gaitán | Khu tự quản của Colombia |
Josip Kuže (13 tháng 11 năm 1952 16 tháng năm 2013) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Croatia. Ông từng dẫn dắt Đội tuyển bóng đá quốc gia Rwanda từ 2007 2008, Đội tuyển bóng đá quốc gia Albania từ 2009 2011. | Josip Kuže | Sinh năm 1952, Cầu thủ bóng đá Croatia, Mất năm 2013, Hậu vệ bóng đá, Chết vì bệnh bạch cầu, Cầu thủ bóng đá Dinamo Zagreb |
Bryne () là tên một thị trấn nằm tại đô thị Time, thuộc hạt Rogaland, Na Uy. Nó là trung tâm hành chính của đô thị Time và là một trong 50 thành phố/thị trấn lớn nhất Na Uy. Vị trí của Bryne trong khu vực thịnh vượng của với các tuyến đường bộ và đường sắt tuyệt vời khiến Bryne trở thành một điểm hấp dẫn cho các hành khách. Thị trấn mở rộng và phát triển nhanh chóng. Trung tâm thị trấn là Nhà thờ Bryne và Nhà thờ Time nằm cách thị trấn về phía đông. Thị trấn nằm bờ nam của hồ nằm về phía nam của thành phố Stavanger khoảng 25 phút di chuyển bằng tàu hỏa. Bryne có diện tích và dân số năm 2018 là 12.084 người, trong đó có 10.390 người sống tại đô thị Time và 1.694 người sống tại thành phố ranh giới đô thị Klepp. Mật độ dân số tại đây là Time municipality Jærbladet Bryne Fotballklubb The Fritz Røed Park The Ranglerock Festival | Bryne | |
là một loài bọ cánh cứng trong họ Scarabaeidae, phân họ Cetoniinae, phân bố thành dải Madagascar. Tập tin:Pygora pulchripes Waterhouse, 1878 God of Insects Museum: Scarabaeidae God of Insects Museum: Pygora lenocima God of Insects Museum: Pygora God of Insects Museum: Pygora spp.'' Thể | null | Động vật đặc hữu Madagascar |
Rage Comic là truyện tranh với những nhân vật có khuôn mặt rage (tạm dịch: căng thẳng, nghiêm trọng), thường được vẽ bằng Microsoft Paint hoặc Photoshop. Truyện tranh này lan truyền rộng rãi theo cùng một cách với internet meme, và một số meme cũ có nguồn gốc từ comic dạng này. Ars Technica phân tích chúng là một "hình thức chấp nhận và tiêu chuẩn của truyền thông trực tuyến." Sự phổ biến của truyện tranh rage được giải thích vì việc sử dụng chúng với mục đích hài hước hóa các kinh nghiệm được chia sẻ. | Rage Comic | Hiện tượng Internet |
M75 hay M-75 có thể là: *Messier 75 một cụm sao cầu trong chòm sao Nhân Mã. *Xe bọc thép chở quân M75 của Hoa Kỳ. *Súng phóng lựu M75 của Hoa Kỳ. *Lựu đạn M75 của Nam Tư. *Súng cối M75 120mm của Nam Tư. *Súng ngắn SIG Sauer P220 cũng được gọi là M75. *Máy bay Miles M.75 Aries một trong các phiên bản của Miles Gemini. | M75 | |
Escualosa elongata là một loài cá mòi (họ Clupeidae) trong chi Escualosa được mô tả bởi Thosaporn Wongratana vào năm 1983. Đó là một loài cá nhiệt đới được phát hiện tại Bangkok, Thái Lan, mặc dù hai mẫu vật đã được đánh bắt ngoài khơi bờ biển phía đông của Vịnh Thái Lan. Cá mòi được biết là bơi độ sâu tối đa 50 mét. Chiều dài tiêu chuẩn lớn nhất được biết đến của loài là 6,7 cm (2,64 inch). Nó được phân biệt với các loài chị em của nó, Escualosa thoracata (cá mai) với sự khac biệt bởi một cơ thể mảnh mai hơn, có được tên chung và cũng là một dải bạc trên sườn của nó. Wongratana, T., 1983 (10 Mar.) ref. 8265 Diagnoses of 24 new species and proposal of new name for species of Indo-Pacific clupeoid fishes. Japanese Journal of Ichthyology v. 29 (no. 4): 385-407. Escualosa elongata at ITIS Escualosa elongata at WoRMS | ''Escualosa elongata | Escualosa, Động vật được mô tả năm 1983, Cá Thái Lan |
Lincoln LaPaz (12 tháng năm 1897 19 tháng 10 năm 1985) là nhà thiên văn học người Mỹ đến từ Đại học New Mexico và là người tiên phong trong nghiên cứu về thiên thạch. Ông chào đời tại Wichita, Kansas vào ngày 12 tháng năm 1897, cha là Charles Melchior LaPaz và mẹ là Emma Josephine (Strode). Ông lấy bằng Cử nhân Khoa học Xã hội năm 1920 về toán học tại trường Đại học Fairmont (hiện tại là Đại học Tiểu bang Wichita) và cũng giảng dạy đó từ năm 1917 đến 1920. Ông lấy bằng thạc sĩ thông qua học bổng tại Đại học Harvard, hoàn thành vào năm 1922. Vào ngày 18 tháng năm 1922, ông kết hôn với Leota Ray Butler và sau đó có hai con, Leota Jean và Mary Strode. Từ năm 1922 đến 1925, ông giảng dạy tại Đại học Dartmouth. Ông nhận bằng tiến sĩ vào năm 1928 tại Đại học Chicago, nơi ông được hướng dẫn trong một thời gian ngắn và đóng vai trò là Nghiên cứu sinh Quốc gia. Năm 1930, ông là trợ lý giáo sư tại Đại học Tiểu bang Ohio và trở thành phó giáo sư vào năm 1936 và cuối cùng là giáo sư năm 1942, trong thời gian giảng dạy, ông còn giúp phát triển chương trình toán học sau đại học. LaPaz đã rời khỏi bang Ohio đến Bãi Thí nghiệm New Mexico trong Thế chiến II, tại đây ông là Nhà toán học nghiên cứu, và sau đó là Giám đốc kỹ thuật, Bộ phận Phân tích Chiến dịch, đội Không quân thứ hai. Đây là nơi ông trở nên quan tâm đến đạn đạo cũng như thiên thạch. Công việc của ông với Không quân thứ hai bao gồm điều tra về bom khinh khí cầu Fu-Go của Nhật Bản đã đến nước Mỹ. Năm 1945, ông làm việc tại Đại học New Mexico đồng thời thành lập Viện Khí tượng học và giữ luôn chức Giám đốc cho đến năm 1966. Từ năm 1945 đến 1953 LaPaz là Trưởng khoa Toán học và Thiên văn học. Từ năm 1953 đến 1962, ông là Giám đốc Bộ môn Thiên văn học tại trường đại học. Năm 1952, khi đang là Giám đốc của Viện Khí tượng học tại trường đại học, ông đã nghiên cứu về Thiên thạch Hồ Murray. Trong UFO học, tên tuổi của LaPaz thường gắn liền với các cuộc điều tra UFO thay mặt cho quân đội vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950. Các cuộc điều tra này bao gồm Sự cố UFO tại Roswell năm 1947, quả cầu lửa xanh lá cây N.M., bắt đầu vào cuối năm 1948 và tiếp tục trong những năm 1950, và tìm kiếm các vệ tinh quay quanh Trái đất vào năm 1954 cùng với đồng nghiệp N.M. là nhà thiên văn học Clyde Tombaugh. Tuy nhiên, chỉ có sự liên kết của LaPaz với các cuộc điều tra về quả cầu lửa xanh lá cây cho Không quân được ghi lại kỹ lưỡng và là một sự thật lịch sử. LaPaz đã có hai lần nhìn thấy UFO của riêng mình. Lần đầu tiên xảy ra với gia đình của ông vào ngày 10 tháng năm 1947, chỉ hai ngày sau sự cố Roswell UFO lẫy lừng và chỉ cách 70 dặm về phía bắc Roswell nằm gần Fort Sumner, N.M. Theo báo cáo trong một bài báo trên tạp chí LIFE về UFO vào năm 1952, mặc dù LaPaz đã không xác định vào thời điểm đó, "cả bốn chúng tôi gần như đồng thời nhận ra một vật thể sáng tò mò gần như bất động" giữa những đám mây. "Như đã thấy được chiếu lên những đám mây đen này, vật thể mang lại ấn tượng mạnh nhất về độ tự sáng." Nó "cho thấy một đường viền đều đặn và chắc chắn, cụ thể là một trong những đặc tính hình elip mịn và cứng hơn nhiều so với các cạnh của đám mây... Màu sắc của vật thể phát sáng có phần trắng hơn ánh sáng của Sao Mộc trên bầu trời tối, không phải nhôm hay màu bạc.... Vật thể này thể hiện rõ ràng một loại chuyển động lắc lư... Chuyển động lắc lư này đóng vai trò làm nổi bật vật thể như một vật cứng, nếu không phải là vật rắn." Sau khi đứng yên khoảng 30 giây, nó đột nhiên tăng tốc. "Sự phóng lên đột ngột đáng kinh ngạc này hoàn toàn thuyết phục tôi rằng chúng ta đang đối phó với một thiết bị trên không hoàn toàn mới lạ." Lần chứng kiến thứ hai là một quả cầu lửa xanh lá cây, ngay sau khi ông bắt đầu điều tra hiện tượng cho Không quân vào tháng 12 năm 1948. Vụ việc xảy ra vào ngày 12 tháng 12 và hiện tượng này cũng được nhìn thấy Los Alamos, cho phép LaPaz tiến hành phép đạc tam giác. Điều này cho thấy đường đi của vật thể trực tiếp bay qua Los Alamos rất nhạy cảm. Trong một bức thư được phân loại cho Không quân vào ngày 20 tháng 12, LaPaz đã viết rằng vật thể di chuyển quá chậm để trở thành một thiên thạch và không để lại "vệt tia lửa hay đám mây bụi" như điển hình của các thiên thạch bay độ cao thấp. Đặc điểm bất thường khác là màu xanh lá cây đậm mức cao, độ cao thấp chỉ khoảng 8–10 dặm còn lộ ra không có âm thanh, bằng phẳng chứ không phải quỹ đạo hình cung, và bật và tắt giống như một công tắc đèn. Điều tra nhiều vụ nhìn thấy quả cầu lửa xanh lá cây khác, LaPaz đã đưa ra kết luận tương tự và quyết định chúng có thể là vật thể có nguồn gốc nhân tạo, có lẽ là thiết bị gián điệp của Nga. Các cuộc điều tra về quả cầu lửa màu xanh lá cây của LaPaz cũng được đề cập trong bài báo của tạp chí LIFE năm 1952, và vợ ông cũng đã thực hiện một bức tranh về một quả cầu lửa màu xanh lá cây. Liên quan đến sự cố Roswell năm 1947, ít nhất ba nhân chứng, trong đó có hai nhân chứng liên quan đến phản gián của Quân đội và Không quân, cho rằng LaPaz đã được đưa vào sau sự kiện UFO Roswell để phỏng vấn các nhân chứng và tái tạo quỹ đạo của vật thể gặp nạn. Vào tháng năm 1954, một câu chuyện đã phá vỡ trên báo chí rằng Tombaugh và LaPaz, làm việc thay mặt quân đội, đã tìm thấy hai vệ tinh "tự nhiên" chỉ 400 và 600 dặm ra rằng thời gian gần đây đã đi vào quỹ đạo. LaPaz lúc đầu kịch liệt phủ nhận rằng ông có liên quan đến bất kỳ cách nào, và sau đó phủ nhận rằng mọi thứ đã được tìm thấy, cũng như Tombaugh. Tuy nhiên, việc Tombaugh thực sự tham gia vào một cuộc tìm kiếm như vậy đã là kiến thức công khai từ các thông cáo báo chí trước đó, cũng như kiến thức của LaPaz về tìm kiếm từ các cuộc thảo luận với Tombaugh, ngay cả khi ông không trực tiếp tham gia. Năm 1964, LaPaz cũng tham gia vào cuộc điều tra về sự cố UFO Socorro nổi tiếng, trong đó một cảnh sát viên Socorro tên Lonnie Zamora nhìn thấy một vật thể hình quả trứng nhỏ, nhìn thấy hai sinh vật dạng người gần đó, và sau đó khi anh ta tiếp cận trong vòng 50 feet, vật thể phóng lên không trung và nhanh chóng biến mất. LaPaz đã phỏng vấn Zamora và chứng nhận anh ta là nhân chứng. Niềm tin thực sự của LaPaz về nguồn gốc của UFO có một chút sai lầm. Hai nhân chứng đã nói rằng LaPaz nói với họ rằng anh ta cho rằng vật thể trong vụ tai nạn Roswell là một tàu thăm dò ngoài hành tinh không người lái. Những quả cầu lửa màu xanh lá cây mà ông cũng cảm thấy có nguồn gốc nhân tạo vì đặc điểm dị thường của chúng. Nhưng các tài liệu của chính phủ và các tuyên bố công khai cho thấy rõ rằng ông nghĩ chúng có lẽ là thiết bị gián điệp của Nga. Những bình luận cuối cùng được biết đến của LaPaz về UFO và những quả cầu lửa màu xanh lá cây xảy ra vào năm 1965 trong chuyến viếng thăm của nhà thiên văn học J. Allen Hynek, một nhà tư vấn cho cuộc điều tra UFO Dự án Blue Book của Không quân Mỹ. Hynek cũng đang điều tra vụ việc Socorro. Theo Hynek, LaPaz cảm thấy những quả cầu lửa là phần quan trọng nhất của hiện tượng UFO. Ông vẫn tin rằng các đặc điểm dị thường của quả cầu lửa chưa bao giờ được giải thích thỏa đáng bởi cuộc điều tra chính thức. LaPaz tiếp tục nghĩ rằng những quả cầu lửa màu xanh lá cây là nhân tạo, nhưng bây giờ tin rằng những quả cầu lửa, và cũng là con tàu vũ trụ Socorro, là những dự án bí mật cấp cao của chính phủ Mỹ. Ông cũng cáo buộc Hynek, Dự án Blue Book, và những người khác là một phần của "sự che đậy lớn cho một điều gì đó mà chính phủ không muốn thảo luận". | Lincoln LaPaz | Sinh năm 1897, Mất năm 1985, Nhà UFO học, Người Wichita, Kansas, Giảng viên Đại học Dartmouth, Cựu sinh viên Đại học Harvard, Giảng viên Đại học Tiểu bang Ohio, Cựu sinh viên Đại học Chicago, Giảng viên Đại học New Mexico, Cựu sinh viên Đại học Tiểu bang Wichita, Nhà thiên văn học Hoa Kỳ |
(mã IATA FI, mã ICAO ICE) là hãng hàng không quốc gia của Iceland, trụ sở đặt tại Reykjavík. Hãng là thành phần của Icelandair Group và có các tuyến bay tới 22 thành phố của 12 nước cả hai bên bờ Đại Tây Dương. Hãng có căn cứ Sân bay quốc tế Keflavík. Icelandair có nguồn gốc từ hãng Flugfélag Akureyrar, được thành lập Akureyri trên bờ phía bắc Iceland, từ năm 1937. Hoạt động bắt đầu từ năm 1938 bằng thủy phi cơ Waco YKS-7. Năm 1940 hãng dời trụ sở về Reykjavík và đổi tên thành Flugfélag Íslands. Vào năm 1944, một hãng hàng không khác tên là Loftleiðir được viên phi công thành lập. Ban đầu hãng Loftleiðir và Flugfélag Íslands tập trung vào các tuyến đường quốc nội. Năm 1945 Flugfélag Íslands (Iceland Airways Ltd.) mở tuyến bay quốc tế đầu tiên tới Scotland và Đan Mạch. Các tuyến đường quốc tế thường xuyên bắt đầu từ năm 1946 bằng máy bay B-24 Liberator thuê của Scottish Airways. Trong khi đó Loftleiðir bắt đầu mở các tuyến quốc tế từ năm 1947, và dịch vụ giá rẻ xuyên qua Bắc Đại Tây Dương bắt đầu từ năm 1953. Trong thời gian này IATA định giá cho các hãng hàng không bay giữa châu Âu và Bắc Mỹ và mọi hãng hàng không đều phải áp dụng một giá. Loftleiðir lúc đó không là thành viên của IATA và phải tự định giá của mình sao cho có thể cạnh tranh được với các hãng khác, do đó biến hãng thành hãng được ưa chuộng cho các du khách qua lại giữa châu Âu và Bắc Mỹ. Năm 1973 Flugfélag Íslands và Loftleiðir hợp nhất dưới tên và tên tiếng Anh là Icelandair. Phần lớn các chuyến bay từ Hoa Kỳ tới châu Âu đều bay qua Iceland khiến cho đảo này trở thành điểm trung chuyển cho các khách du hành từ Hoa Kỳ sang châu Âu và ngược lại. Tập tin:Icelandair Douglas DC-8 Luxembourg August máy bayDouglas DC-8 của Icelandair Sân bay quốc tế năm 1983 Sau khi hợp nhất, Icelandair là công ty chủ cho cả hai hãng. Năm 1997, hãng lập thêm hãng phụ Air Iceland, để đảm nhận các tuyến đường quốc nội và các tuyến đường ngắn. Tháng 1/2002, Group là công ty có 11 công ty con, trong đó Icelandair là lớn nhất. Tháng 3/2005 tập đoàn đổi tên thành "FL Group". Tháng 10/2005, FL Group bán các hãng hàng không cùng các dịch vụ du lịch và tập đoàn mới Icelandair Group được thành lập. Icelandair có 2.565 nhân viên (tháng 3/2007). Năm 2005 Icelandair chở 1.526.241 lượt khách, số lượng cao nhất của hãng trong năm. Số hành khách tăng 14,5% so với năm trước. Trung bình Icelandair có 28 chuyến bay mỗi ngày trong năm 2005.. Tập bay Boeing 757-200 của Icelandair Tập tin:Icelandair B757-200 (TF-FIO) LHR, Aug bay Boeing 757-200 của Icelandair cất cánh. Các nơi đến của Iceland *Bỉ **Liège (Sân bay Liège) (hàng hóa) *Đan Mạch ** Billund (Sân bay Billund) ** Copenhagen (Sân bay Copenhagen) *Phần Lan ** Helsinki (Sân bay *Pháp ** Paris (Sân bay quốc tế Charles De Gaulle) *Đức ** Berlin (Sân bay quốc tế (theo mùa) ** Frankfurt (Sân bay quốc tế Frankfurt) ** München (Sân bay quốc tế München) *Ý ** Milano (Sân bay quốc tế Malpensa) *Hà Lan ** Amsterdam (Sân bay Amsterdam Schiphol) *Na Uy ** Bergen (Sân bay Bergen, Flesland) ** Oslo (Sân bay Oslo, Gardermoen) *Tây Ban Nha ** Barcelona (Sân bay quốc tế Barcelona) (theo mùa) ** Madrid (Sân bay quốc tế Madrid Barajas) *Thụy Điển ** Göteborg (Sân bay ** Stockholm (Sân bay *Vương quốc Anh ** Glasgow (Sân bay Glasgow) ** London (Sân bay London Heathrow) ** Manchester (Sân bay Manchester) *Canada **Nova Scotia ***Halifax (Sân bay quốc tế Halifax Stanfield) **Ontario ***Toronto (Sân bay quốc tế Toronto Pearson) *Hoa Kỳ ** Florida *** Orlando (Sân bay quốc tế Orlando Sanford) ** Massachusetts *** Boston (Sân bay quốc tế Logan) ** Minnesota *** Minneapolis/St. Paul (Sân bay quốc tế Minneapolis-St. Paul) ** New York *** New York City (Sân bay quốc tế John F. Kennedy) (Ngày 8.6.2008): *18 Boeing 757-200 *1 Boeing 757-300 *3 Boeing 767-300ER Đang đặt mua: *5 Boeing 737-800 *6 Boeing 787-8 Icelandair official website | FI | Hãng hàng không Iceland |
Viên Vịnh Nghi có tên tiếng Anh là Anita Yuen (sinh ngày 04 tháng năm 1971 tại Hồng Kông thuộc Anh) là một nữ diễn viên truyền hình-diễn viên điện ảnh nổi tiếng người Hồng Kông gốc Trung Quốc. Cô từng là diễn viên độc quyền của hãng TVB. Sau khi giành vương miện hoa hậu tại cuộc thi Hoa hậu Hồng Kông năm 1990, Viên Vịnh Nghi bắt đầu nổi tiếng với vai diễn trong các bộ phim truyền hình của hãng TVB. Từ đầu thập niên 1990 Viên Vịnh Nghi cũng bắt đầu nổi danh trong làng điện ảnh Hồng Kông nhờ vẻ đẹp và khả năng diễn xuất, sau khi giành Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho diễn viên mới xuất sắc nhất, cô đã liên tiếp chiến thắng tại hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông các năm 1994 và 1995. Viên Vịnh Nghi sinh năm 1971 tại Hồng Kông trong một gia đình gốc Đông Hoàn, Quảng Đông. Năm 18 tuổi cô ghi danh tham gia cuộc thi Hoa hậu Hồng Kông và trở thành người được trao vương miện của cuộc thi đồng thời giành luôn giải Hoa hậu ảnh. Tại cuộc thi Hoa hậu Người Hoa Quốc tế tổ chức cùng năm, Viên Vịnh Nghi giành vị trí hậu 1. Sau khi giành vương miện hoa hậu, Viên Vịnh Nghi lập tức được hãng TVB mời làm diễn viên cho bộ phim truyền hình Ngã ái mai côi viên (我愛玫瑰園, 1991), tiếp đó là Ngã vi tiền cuồng và Tha lai tự thiên đường (cùng 1992). Sau khi đã tạo dựng được danh tiếng trong làng điện ảnh, Viên Vịnh Nghi vẫn tiếp tục tham gia nhiều bộ phim truyền hình như Tiếu ngạo giang hồ (vai Nhậm Doanh Doanh) hay Hoa Mộc Lan (vai Hoa Mộc Lan). Trong năm 1992 Viên Vịnh Nghi bước chân vào điện ảnh với một vai diễn trong chuyển thể điện ảnh của tiểu thuyết Tuyệt đại song kiêu của Cổ Long. Vai diễn trong bộ phim điện ảnh thứ hai của cô, Á phi dữ ái cơ (亞飛與亞基, 1993) đã đem về cho Viên Vịnh Nghi giải Diễn viên mới xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông. Liên tiếp trong hai năm sau đó là 1994 và 1995, Viên Vịnh Nghi đã được trao Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Vai nữ chính xuất sắc nhất cho vai diễn của cô trong Tân bất liễu tình (新不了情, 1994) và Kim chi ngọc diệp (金枝玉葉, 1995). Năm 1994 Viên Vịnh Nghi còn đóng chung với Châu Tinh Trì trong bộ phim hài được đánh giá cao Quốc sản 007 (國產凌凌漆). Viên Vịnh Nghi còn được đề cử Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông với vai diễn trong một số phim khác như Hổ độ môn (虎度門, 1996) hay Ngã ái nhĩ (《我愛你, 1998). Kể từ đầu thập niên 2000 Viên Vịnh Nghi bắt đầu giảm số phim điện ảnh tham gia mỗi năm, tuy vậy cô vẫn tiếp tục đề cử Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông với vai diễn trong Môn đồ (門徒, 2007), bộ phim đầu tiên cô tham gia sau khi sinh con trai. Chồng của Viên Vịnh Nghi là nam diễn viên, ca sĩ Hồng Kông Trương Trí Lâm, hai người kết hôn bí mật tại Hoa Kỳ năm 2001 và có đứa con đầu lòng vào năm 2006. Năm Tên Vai diễn Hãng Giải thưởng TVB Ghi chú 1991 Tôi yêu vườn hoa hồng 《我愛玫瑰園》 Phương An Nhi 方安兒 TVB 1992 Tha lai tự thiên đường 《他來自天堂》 Lăng San San 凌珊珊 TVB 1999 Hoa Mộc Lan 《花木蘭》 Hoa Mộc Lan CTV (Đài Loan) 2000 Tiếu ngạo giang hồ 《笑傲江湖》 Nhậm Doanh Doanh 任盈盈 CTV (Đài Loan) 2001 Tân Sở Lưu Hương 《新楚留香》 Tống Tây Hồ 宋西湖 CTS TVB 2002 Tề Thiên Đại Thánh Tôn Ngộ Không 《齊天大聖孫悟空》 Cửu Thiên huyền nữ 九天玄女 TVB ' 《方謬神探》 Du Tiểu Tình 游小情 TVB, CTV (Đài Loan) 2004 The River Flows Eastwards Sufen 2004 Nam thiếu lâm tam thập lục phòng 《南少林 三十六房》 Lã Tứ Nương 吕四娘 Hồ Nam TV 2005 Cô luyến hoa 《孤戀花》 Vân Phương 雲芳 CTS 2006 Cô dâu triệu phú 《真爱之百万新娘》 Lâm Mẫn Quân 林敏君 Shenzhen TV 2008 Nghi tình biệt luyến 《疑情別戀》 Tiết Tử Dao 薛子瑤 (Zita) TVB 2009 Phú quý môn 《富貴門》 Trác Nhất Tâm 卓一心 TVB Đề cử Nữ diễn viên xuất sắc nhất (Top 15) Đề cử Nư diễn viên được yêu thích nhất (Top 15) (Currently airing) 2015 Đa tình giang sơn 《多情江山》 Hiếu Trang Hoàng thái hậu 孝莊皇太后 Hà Nam Ảnh thị Năm Tên phim Vai diễn Ghi chú Giải thưởng 2013 Ip man: trận chiến cuối cùng 2007 Protégé vợ của Côn Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông Đề cử:Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất (2008) 2005 Love's Lone Flower Yuanfeng 2004 Love Trilogy Chui 2003 Kung Fu Girls 2000 Don't Look Back... Or You'll Be Sorry Lisa Lensman: Power of the Lens (lồng tiếng) Dragon Heat 1998 Enter the Eagles Lucy Anna Magdalena Assistant Editor Till Death Do Us Part BoBo Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông Để cử:Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (1999) 1997 A Chinese Ghost Story: The Tsui Hark Animation Xiaoqian (lồng tiếng) Hong Kong Night Club Cora God of Gamblers 3: The Early Stage Seven He Comes from Planet K Moon Up for the Rising Sun The Wedding Days Rachel Lam 1996 Entrance of the P-Side Yip Yuk-Sum Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông Đề cử:Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất (1997) Tristar Bai Xuehua Till Death Do Us Laugh Yuen Siu-Wen Who's the Woman, Who's the Man Lam Chi Wing Twinkle Twinkle Lucky Star Beautiful 1995 Heaven Can't Wait Moon Lady Just Married The Chinese Feast Au Ka-Wai The Age of Miracles Mrs. Sheung Tragic Commitment Lam Hiu-Tung Thunderbolt Amy Yip The Golden Girls Mei-Ball I Want to Go on Living Yip Fan 01:00 A.M. Fong Siu-Yin Tricky Business Moon 1994 From Beijing with Love Siu Kam He's Woman, She's Man Lam Chi Wing Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông:Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (1995) C'est la vie, mon chéri Min Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông:Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (1994) Crystal Fortune Run Ko Kit The True Hero Hung I've Got You, Babe Ron The Worth of Silence Kwong Mei-Chi Crossings Mo-yung It's Wonderful Life Shou-Kit Ho He She Tai Lok-Yee I Will Wait for You Cheung Wai-Sum Taste of Killing and Romance Yu-Feng Whatever You Want Ko Sau-Ping Tears and Triumph Sai Ming-Jun 1993 A Warrior's Tragedy Ting Ling-Lam Prince of Portland Street Yao-Yao Tom, Dick, and Hairy Fong The Incorruptible Joss Lee Deadly China Hero Miss Nine Legend of the Liquid Sword Red Sword Stained with Royal Blood Jade Ho He Ain't Heavy, He's My Brother Yee/Lynn 1992 The Days of Being Dumb Jane Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông:Diễn viên mới xuất sắc nhất (1993)' Handsome Siblings'' Madam Ti | Viên Vịnh Nghi | Nhân vật còn sống, Diễn viên Hồng Kông, Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông Vai nữ chính, Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông Diễn viên mới, Hoa hậu Hồng Kông, Sinh năm 1971, Họ Viên, Diễn viên điện ảnh Hồng Kông, Diễn viên truyền hình Hồng Kông, Nữ diễn viên Hồng Kông, Diễn viên của TVB |
PUBG: (trước đây là hay viết tắt là PUBG') là một trò chơi điện tử hành động, sinh tồn, nhiều người chơi trực tuyến do Krafton Inc. (được thành lập dựa trên sự hợp nhất của công ty mẹ Bluehole Studio và công ty con PUBG Corporation) tập đoàn phát triển game có trụ sở chính được đặt tại thành phố Seongnam, Hàn Quốc thiết kế, phát triển và phát hành. Trò chơi này ban đầu dựa trên các bản Mod; trước đó đã được Brendan "PlayerUnknown" Greene nhà thiết kế trò chơi điện tử người Ireland sáng tạo, áp dụng cho nhiều trò chơi nhỏ khác nhau với cảm hứng bắt nguồn từ một bộ phim của Nhật Bản; ra mắt vào năm 2000 mang tên Battle Royale. Sau khi Greene gặp gỡ và quyết định hợp tác cùng với Bluehole, dự án PUBG tiếp tục được mở rộng thành một trò chơi độc lập hoàn chỉnh dưới sự chỉ đạo nghệ thuật của chính anh cùng với nhà sản xuất, phát triển trò chơi người Hàn Quốc Kim Chang-han CEO đương nhiệm của Krafton. Trong trò chơi, sẽ có tối đa 100 người chơi (bao gồm cả Bot Players những người chơi ảo được điều khiển tự động bởi trí tuệ nhân tạo) sẽ nhảy dù xuống một hòn đảo lớn. Người chơi sau đó phải nhanh chóng nhặt đồ dùng, vũ khí, phương tiện di chuyển và các trang thiết bị cần thiết để có thể sinh tồn, kết hợp với việc tiêu diệt những người chơi khác đồng thời tránh bị họ giết. Khu vực an toàn sẵn có của bản đồ sẽ thu nhỏ dần theo thời gian, đẩy những người chơi còn lại vào những khu vực hẹp hơn để ép buộc họ phải đụng độ với nhau. Người chơi cuối cùng hoặc đội thành viên sống sót cuối cùng sẽ giành được chiến thắng chung cuộc. Phiên bản truy cập sớm cho hệ điều hành Microsoft Windows trên Steam được phát hành vào tháng năm 2017 và bản đầy đủ được phát hành vào 20 tháng 12 năm 2017. Cũng trong tháng 12, trò chơi đã được Microsoft Studios phát hành cho Xbox One qua chương trình Xbox Game Preview. Đến đầu năm 2018, phiên bản Steam đã bán được hơn ba mươi triệu bản và có số người chơi đồng thời cao nhất trên ba triệu, khiến cho PUBG trở thành trò chơi được chơi nhiều nhất trên Steam, trong khi phiên bản Xbox One đã bán được hơn bốn triệu bản. Trò chơi cũng được bản địa hóa và được Tencent Games phát hành Trung Quốc, bao gồm hai phiên bản cho thiết bị di động khác nhau dành riêng cho quốc gia này là PUBG Mobile Timi và PUBG Mobile Lightspeed and Quantum. Sau đó, vào tháng năm 2018, Tencent Games và PUBG Corp đã kết hợp để cho ra mắt chính thức PUBG Mobile Lightspeed and Quantum phiên bản quốc tế (gọi tắt là PUBG Mobile) với năm loại máy chủ là Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Âu, Châu và KR/JP (Hàn Quốc và Nhật Bản). Tiếp đó, ngày 26 tháng 11 năm 2018, PUBG Mobile phiên bản Việt Nam chính thức phát hành trên các dòng máy thuộc hệ điều hành iOS bởi VNG dưới sự hợp tác của VNG, Tencent Games và PUBG Corporation (Bluehole), và đến ngày 27 thì ra bản cho Android. Tuy dành riêng cho thị trường Việt Nam nhưng bản này vẫn kết nối với máy chủ quốc tế. PUBG nhận được nhiều nhận xét tích cực từ các nhà phê bình trong cả giai đoạn Early Access và cả phiên bản phát hành cuối cùng; những người đánh giá thấy rằng mặc dù trò chơi vẫn chưa hoàn thành và có một số sai sót về mặt kỹ thuật, nhưng PUBG đã đưa ra những kiểu chơi trò chơi mới mà người chơi mọi trình độ có thể dễ dàng tiếp cận và có thể muốn chơi lại. Trò chơi nhận được một số đề cử cho hạng mục "Game của năm" và các giải thưởng lớn nhỏ khác trong năm 2017, và được xem là trò chơi định hình của thể loại chiến đấu sinh tồn. Một số trò chơi video khác, sau thành công của PUBG, đã thêm vào các chế độ Battle Royale, trong khi một số bản sao, chủ yếu Trung Quốc, cũng xuất hiện. Tổng công ty PUBG đã tổ chức một số giải đấu nhỏ và giới thiệu các công cụ trong trò chơi để giúp phát sóng trực tiếp trò chơi cho khán giả xem, vì họ muốn trò chơi này trở thành một môn thể thao điện tử phổ biến, tuy nhiên, trò chơi cũng đã bị cấm một số quốc gia vì bị cho là có hại, bạo lực và gây nghiện cho người chơi trẻ tuổi. Nhóm phát triển chọn ba nền tảng quan trọng cho PUBG: Unreal 4, Amazon Web Services và Steam. Họ sẽ phát triển game trên Unreal 4, các server sử dụng công nghệ của Amazon Web Services, và cuối cùng trò chơi được phân phối trên Steam. Việc chọn Unreal giúp nhóm phát triển tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức bởi họ không cần phải tạo ra một engine riêng, trong khi thời gian của họ lại có hạn. Vào ngày 13 tháng năm 2019, Brendan Greene đã rời chức vụ giám đốc điều hành phát triển của PUBG Corporation, nhưng vẫn là giám đốc sáng tạo, vì bản thân anh luôn mong muốn phát triển một cái gì đó mới lạ hơn, sau đó, Greene đã từ Hàn Quốc sang Hà Lan, thành lập một studio hoàn toàn mới mang tên PlayerUnknown Productions nhằm tiếp tục phục vụ mục đích phát triển cho các dự án game mới của riêng mình. Chức vụ giám đốc điều hành phát triển bây giờ được nhường lại cho Tae-seok Jang, người trước đó từng đảm nhận chỉ đạo mảng đồ họa. PUBG: Battlegrounds là một trò chơi hành động trong đó tối đa 100 người chơi chiến đấu trong một trận chiến sinh tồn, một loại trò chơi sinh tồn có quy mô lớn, nơi mà người chơi phải sinh tồn trước 99 người còn lại để trở thành người sống sót cuối cùng. Người chơi có thể chọn để chơi solo, hoặc tham gia một nhóm nhỏ tối đa bốn người. Trong cả hai trường hợp, người cuối cùng hoặc đội cuối cùng còn lại sẽ thắng trận đấu. Mỗi trận đấu bắt đầu với hàng loạt người chơi nhảy dù từ máy bay xuống khu vực bản đồ có diện tích khoảng 8x8 km. Đường bay của máy bay trên bản đồ thay đổi theo từng vòng đấu, yêu cầu người chơi nhanh chóng xác định thời điểm tốt nhất để nhảy dù xuống mặt đất. Người chơi bắt đầu trò chơi mà không có thiết bị nào ngoại trừ việc lựa chọn quần áo, vốn không ảnh hưởng đến lối chơi. Một khi tiếp đất, người chơi có thể tìm kiếm các tòa nhà và các địa điểm khác để tìm kiếm vũ khí, xe cộ, áo giáp, quần áo và các thiết bị khác. Các vật phẩm này được phân bố theo chương trình trên bản đồ đầu trận đấu, với các khu vực có nguy cơ cao nhất thường có thiết bị tốt hơn. Giết một người chơi cho phép người bắn lấy toàn bộ vật phẩm trên người chơi bị giết. Người chơi có thể lựa chọn chơi theo góc nhìn thứ nhất hoặc thứ ba, mỗi góc nhìn đều có lợi thế và bất lợi riêng trong chiến đấu và nhận thức tình huống; mặc dù các cài đặt máy chủ cụ thể có thể được áp dụng để buộc tất cả người chơi sử dụng chung một góc nhìn để loại bỏ một số lợi thế. Cứ vài phút một lần, khu vực có thể chơi được của bản đồ bắt đầu bị thu hẹp về một vị trí ngẫu nhiên, với bất kỳ người chơi nào đang ngoài khu vực an toàn sẽ bị mất máu tăng dần và cuối cùng sẽ bị loại khỏi trò chơi nếu người chơi không kịp chạy tới khu vực an toàn kịp thời gian quy định; trong trò chơi, người chơi nhìn thấy ranh giới như một bức tường màu xanh lấp lánh nhỏ dần theo thời gian. Điều này khiến khu vực chơi nhỏ dần và ép buộc người chơi phải đụng độ với nhau. Trong quá trình của trận đấu, các vùng ngẫu nhiên của bản đồ được đánh dấu màu đỏ (gọi là "red zone") và bị đánh bom, gây ra mối đe dọa cho người chơi trong khu vực đó. Trong cả hai trường hợp, người chơi được cảnh báo vài phút trước khi những sự kiện này xảy ra, cho họ có thời gian di chuyển đến nơi an toàn. Một cách ngẫu nhiên, một chiếc máy bay sẽ bay qua nhiều phần khác nhau của bản đồ còn có thể chơi được và thả một gói đồ phần thưởng (gọi là "hòm thính"),chứa đựng những đồ vật thông thường không thể có được trong quá trình chơi game bình thường. Những gói đồ này phát ra khói đỏ rất rõ ràng, thu hút người chơi quan tâm gần nó và tạo ra thêm nhiều cuộc đụng độ. Trung bình, một lượt chơi chỉ kéo dài không quá 30 phút. Khi hoàn thành mỗi vòng đấu, người chơi sẽ kiếm được tiền trong trò chơi dựa trên thời gian họ sống sót bao lâu, có bao nhiêu người chơi khác đã bị họ giết, và họ đã tạo ra bao nhiêu sát thương cho những người chơi khác. Tiền tệ được sử dụng để mua các thùng chứa bao gồm các đồ để tuỳ biến nhân vật. Bluehole sử dụng khoảng thời gian alpha và beta khép kín với khoảng 80.000 người chơi, bao gồm cả các streamer phổ biến, để đánh giá phản ứng ban đầu cho gameplay và điều chỉnh cân bằng trước khi phát hành rộng rãi hơn. Giai đoạn Early Access truy cập sớm trên Steam bắt đầu vào tháng năm 2017 cho phiên bản Windows. Thời kỳ truy cập sớm này dự kiến sẽ kéo dài khoảng sáu tháng, ban đầu nhằm vào một thời điểm phát hành tháng năm 2017. Vào tháng năm 2017, Greene thông báo rằng họ sẽ cần phải kéo dài thời gian truy cập sớm hơn vài tháng, tiếp tục phát hành bản cập nhật thường xuyên, với kế hoạch sẽ vẫn được phát hành vào cuối năm 2017, vì cam kết với thời kỳ ban đầu này "có thể cản trở chúng tôi khó cung cấp một trò chơi đầy đủ tính năng hoặc dẫn đến thất vọng trong cộng đồng nếu thời hạn khởi động không được đáp ứng". Ban đầu, Bluehole đã mong đợi rằng họ sẽ có được đủ số người chơi thông qua việc truy cập sớm để làm mượt lối chơi, và chỉ khi trò chơi hoàn thiện thực sự, thì họ sẽ bắt đầu tiếp thị cho nó. Sự quan tâm bất ngờ đối với trò chơi trong thời gian truy cập sớm đã vượt quá mong đợi của công ty, và công ty đã tập trung vào sự ổn định của trò chơi, kết nối mạng của nó cùng với việc cải tiến lối chơi. Trong suốt tháng năm 2017, những cập nhật này thường bao gồm một bản vá lỗi hàng tuần cùng với các bản cập nhật hàng tháng cung cấp các cải tiến hiệu suất chính. Tuy nhiên, kể từ tháng trở đi, Bluehole đã giảm tỷ lệ các bản vá như vậy, vì tần suất vá lỗi cao đã dẫn đến một số vấn đề kiểm soát chất lượng và các nhà phát triển lựa chọn đảm bảo mỗi nội dung vá đưa ra được cộng đồng kiểm duyệt tốt trước khi cung cấp các bản cập nhật mới; điều này đã không thay đổi kế hoạch cho một bản chính thức phát hành năm 2017. Bluehole dự kiến sẽ kết thúc thời kỳ truy cập sớm vào cuối tháng 12 năm 2017. Bluehole đã lên kế hoạch chuyển trò chơi qua console, với phiên bản sẽ được phát hành vào khoảng thời gian sau khi hoàn thành phiên bản Windows, và công ty đã có một đội bắt đầu chuyển game qua Xbox One. Greene đã tham gia cuộc họp báo của Microsoft trong Triển lãm Giải trí Điện tử năm 2017 để thông báo rằng Battlegrounds sẽ đến với Xbox One như một game độc quyền cho console này vào cuối năm 2017. Kim nói họ dự đoán sử dụng cách tiếp cận truy cập sớm Xbox Game Preview để triển khai và thử nghiệm trò chơi trên Xbox One. Ban đầu, Greene nói rằng Microsoft không trực tiếp tham gia vào việc chuyển đổi nhưng chỉ hỗ trợ để đảm bảo rằng việc chuyển đổi là tốt, và hầu hết công việc chuyển đổi đang được thực hiện bởi Anticto, một nhà phát triển trò chơi đến từ Tây Ban Nha. Tuy nhiên, tại Gamescom năm đó, Bluehole khẳng định rằng Microsoft Studios sẽ xuất bản phiên bản Xbox One, giúp tạo ra kế hoạch phát hành năm 2017 cho phiên bản này. Greene nói rằng sự hỗ trợ của Microsoft đã giúp đỡ công ty theo nhiều cách, không chỉ cho phiên bản Xbox One mà còn cải thiện hiệu năng và tính bảo mật của phiên bản Windows. Hơn nữa, bằng cách trở thành một phần của nhóm các studio dưới cờ của Microsoft, họ đã có thể nói chuyện và kết hợp công nghệ từ các nhà phát triển khác, chẳng hạn như kỹ thuật rendering mà họ thu được từ Rare và game Sea of Thieves. Bản phát hành trên Xbox One sẽ bắt đầu như là một trò chơi truy cập sớm (Early Access) trong chương trình Xbox Game Preview vào ngày 12 tháng 12 năm 2017 và khi kết thúc, bao gồm bản phát hành vật lý cùng với bản kỹ thuật số và được phát hành vào ngày 12 tháng 12 năm 2017. Khi trò chơi thành công trong giai đoạn truy cập sớm, Tencent Games, nhà xuất bản trò chơi điện tử lớn nhất Trung Quốc, đã tiếp cận Bluehole trong cùng tháng với một đề xuất phát hành Trung Quốc và mua cổ phần của công ty. Tuy nhiên, Hiệp hội Phát hành Kỹ thuật số Trung Quốc đã đưa ra một tuyên bố vào tháng 10 năm 2017 với hạn chế dành cho những trò chơi theo phong cách chiến đấu hoàng gia, nói rằng chúng quá bạo lực và đi chệch khỏi các giá trị của chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc, coi những trò chơi này là nguy hại cho người dùng trẻ tuổi. Tuy nhiên, trong tháng sau đó, PUBG đã đạt được một thỏa thuận chính thức với chính phủ Trung Quốc để được phép phát hành trò chơi tại nước này, với Tencent là đối tác phát hành. Tuy nhiên, một số thay đổi trong trò chơi đã được thực hiện để đảm bảo PUBG phù hợp với các giá trị xã hội chủ nghĩa và đạo đức Trung Quốc truyền thống. Và sau ngày 12/1/2022, PUBG PC sẽ chuyển sang game FREE TO PLAY, theo cuộc họp PUBG Partner toàn cầu diễn ra vào ngày 9/12/2021. Bluehole đã lên kế hoạch chuyển trò chơi sang nền tảng console, mà sẽ được phát hành sau khi hoàn thành bản trên Windows, và công ty đã có một đội làm việc chuyển Battlegrounds sang Xbox One. Greene trong cuộc họp báo của Microsoft trong Triển lãm Giải trí Điện tử 2017 đã thông báo rằng Battlegrounds sẽ xuất hiện trên Xbox One như là một trò chơi giới hạn thời gian độc quyền vào khoảng cuối năm 2017, bằng cách sử dụng cách tiếp cận truy cập sớm trên Xbox Game Preview để thử nghiệm nó. Sau thỏa thuận phát hành tại Trung Quốc cho phiên bản Windows, Tencent Games và PUBG Corporation đã thông báo rằng họ đang có kế hoạch phát hành hai phiên bản di động dựa trên trò chơi này tại Trung Quốc. Phiên bản đầu tiên, PUBG: Exhilarating Battlefield, là một phiên bản được thu nhỏ của trò chơi gốc, và được Lightspeed Quantum Studio của Tencent phát triển. Phiên bản thứ hai, PUBG: Army Attack, bao gồm nhiều yếu tố kiểu arcade, bao gồm hành động diễn ra trên tàu chiến, và được Timi Studio của Tencent phát triển. Cả hai phiên bản đều chơi miễn phí, và được phát hành truy cập sớm cho các thiết bị Android và IOS vào ngày tháng năm 2018. Các trò chơi này có tổng cộng 75 triệu tài khoản đăng ký sớm và xếp hạng thứ nhất và thứ hai trên bảng xếp hạng download của Trung Quốc khi ra mắt. Trong tháng năm 2017, Bluehole đã liên kết với đối tác mạng truyền thông xã hội Facebook để cung cấp nội dung truyền video streaming độc quyền cho các kênh chơi game của Facebook, như là một phần trong nỗ lực cung cấp nội dung cho người chơi. Là một trò chơi truy cập sớm, hầu hết các trang web trò chơi video không đưa ra đánh giá chi tiết cho Battlegrounds, mặc dù đánh giá cao trò chơi này. Chloi Rad của IGN cho Battlegrounds điểm đánh giá sơ bộ 9.0/10, gọi nó là "một kinh nghiệm chặt chẽ, tập trung và không khoan nhượng, đứng hàng đầu vượt trên các trò chơi khác". thu về 11 triệu đô la Mỹ trong ba ngày đầu tiên kể từ khi phát hành truy cập sớm. Vào tuần lễ thứ hai của tháng năm 2017, công ty đã bán được hơn một triệu bản, với số người chơi đỉnh cao là 89.000. SuperData Research ước tính doanh thu tháng của trò chơi đã vượt quá 34 triệu đô la Mỹ, đưa nó thành một trong 10 game thu nhập cao nhất trong tháng và vượt qua doanh thu từ Overwatch và Global Offensive. Đến tháng năm 2017, trò chơi đã bán được hơn hai triệu bản, với tổng doanh thu ước tính đạt 60 triệu đô la Mỹ. Trong vòng ba tháng kể từ khi phát hành phiên bản phát hành sớm, Battlegrounds đã có hơn bốn triệu bản bán ra, và Bluehole thông báo đã có doanh thu bán hàng trên 100 triệu USD. Battlegrounds đạt tốc độ nhanh hơn so với Minecraft khi đạt mốc triệu bản bán ra, với Minecraft mất hơn một năm để đạt được những con số doanh thu tương tự trong giai đoạn phát triển beta. Tám tháng sau khi ra bản phát hành Early Access, Bluehole tuyên bố trò chơi đã bán được hơn 18 triệu bản. Vào tháng năm 2017, giá trị của Bluehole, theo báo cáo của 38 Communications, một công ty theo dõi các tập đoàn tư nhân của Hàn Quốc, tăng gấp lần so với tháng năm đó lên 4,6 tỷ USD, chủ yếu là do Battlegrounds. Trong một phần của thành công của trò chơi, Tencent, nhà phát hành trò chơi điện tử lớn nhất Trung Quốc, đã tiếp cận Bluehole trong cùng tháng với một đề xuất phát hành Battlegrounds Trung Quốc và mua cổ phần của công ty. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2017, Hiệp hội xuất bản kỹ thuật số và Truyền hình Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố rằng họ hạn chế các trò chơi phong cách chiến đấu kiểu Hoàng gia, bao gồm nói rằng chúng quá bạo lực, "xa rời khỏi những giá trị của chủ nghĩa xã hội và được xem là có hại cho thanh thiếu niên". Battlegrounds cũng đã vượt qua rất nhiều kỷ lục số lượng người chơi trong giai đoạn truy cập sớm. Bluehole phát hành số liệu thống kê cho bốn tháng đầu tiên phát hành cho thấy rằng hơn mười triệu lượt chơi Battlegrounds đã được thực hiện, có hiệu quả tương đương với hơn 25.000 người/năm của thời gian. Dữ liệu của Steam Spy cho thấy Battlegrounds đã vượt qua các danh hiệu phổ biến lâu đời trong số lượng người chơi đồng thời trên Steam, như Fallout 4 và Grand Theft Auto V, thậm chí vượt qua Dota 2, trò chơi được chơi nhiều nhất trên nền tảng này, vào tháng năm 2017. Tháng sau đó, trò chơi có số lượng người chơi đồng thời cao nhất đạt tới hơn 1,3 triệu người, vượt qua kỷ lục trước đó là 1,29 triệu người của Dota 2 vào tháng năm 2016. Đến tháng 10 năm 2017, số người chơi Battlegrounds đồng thời đã vượt mức triệu. Trò chơi cũng rất phổ biến các quán net tại Hàn Quốc; công ty phân tích Gametrics đã thông báo rằng Battleground đã vượt qua Overwatch và trở thành trò chơi được chơi nhiều thứ hai tại quốc gia này vào tháng năm 2017, chỉ sau Liên Minh Huyền Thoại, sau đó thì vượt qua chính Liên Minh Huyền Thoại'' để thành trò chơi được chơi nhiều nhất tại quê nhà Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2017. Năm Giải Hạng mục Kết quả Ref 2017 35th Golden Joystick Awards Best Multiplayer Game PC Game of the Year Studio of the Year (PUBG Corporation) Ultimate Game of the Year The Game Awards 2017 Best Multiplayer Game Best Ongoing Game Game of the Year 2018 New York Game Awards 2018 Big Apple Award for Best Game of the Year D.I.C.E. Awards 2017 Action Game of the Year Outstanding Achievement in Game Design Outstanding Achievement in Online Gameplay Game of the Year National Academy of Video Game Trade Reviewers Awards 2017 Game, eSports 2018 SXSW Gaming Awards eSports Game of the Year Excellence in Design Excellence in Multiplayer Most Promising New Intellectual Property Trending Game of the Year Video Game of the Year 18th Game Developers Choice Awards Best Design Innovation Award Game of the Year 14th British Academy Games Awards Evolving Game Multiplayer Original Property Trong bối cảnh Giao tranh Trung Quốc–Ấn Độ 2020, chính phủ Ấn Độ đã ban hành lệnh cấm vĩnh viễn PUBG Mobile cùng với hơn 100 ứng dụng khác của Trung Quốc (hầu hết do Tencent và NetEase sản xuất) với lý do các ứng dụng này ăn cắp và lén lút truyền dữ liệu người dùng trong một cách trái phép tới các máy chủ có địa điểm bên ngoài Ấn Độ. Ấn Độ là thị trường lớn nhất của PUBG Mobile với quốc gia chiếm 175 triệu lượt tải xuống và 24% người dùng toàn cầu. | ''PUBG: (trước đây là hay viết tắt là | |
Đời con bọ (tựa gốc tiếng Anh: A Bug's Life) là một bộ phim phiêu lưu hài hước sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính năm 1998 của Mỹ do Pixar Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành. Đạo diễn bởi John Lasseter và đồng đạo diễn bởi Andrew Stanton, bộ phim là câu chuyện về chú kiến hay có những hành động kỳ quặc, Flik, trên đường tìm kiếm những "chiến binh dũng mãnh" để giải cứu bầy đàn của mình khỏi đàn châu chấu tham lam, nhưng rốt cuộc lại chỉ đưa về một nhóm những con bọ làm việc trong gánh xiếc. Phim có sự tham gia lồng tiếng của các diễn viên Dave Foley, Kevin Spacey, Julia Louis-Dreyfus, Hayden Panettiere, Phyllis Diller, Richard Kind, David Hyde Pierce, Joe Ranft, Denis Leary, John Ratzenberger, Jonathan Harris, Madeline Kahn, Bonnie Hunt, Mike McShane và Brad Garrett. Phần nhạc nền được sáng tác bởi Randy Newman. Bộ phim được lấy cảm hứng từ câu chuyện The Ant and the Grasshopper của Aesop. Quá trình sản xuất được bắt đầu một thời gian ngắn sau khi phát hành Toy Story năm 1995. Kịch bản được viết bởi Stanton, Donald McEnery và Bob Shaw. Những con kiến trong phim được thiết kế lại để trông hấp dẫn hơn, và bộ phận hoạt hình của Pixar đã sử dụng những kỹ thuật tiên tiến nhất trong công nghệ hoạt hình máy tính. Trong quá trình sản xuất, các nhà làm phim bị vướng vào một xung đột với DreamWorks Animation do một bộ phim tương tự của hãng này, Antz. Bộ phim được phát hành vào ngày 25 tháng 11 năm 1998, và giành được thành công về thương mại, vượt qua đối thủ và thu về 363 triệu đô doanh thu phòng vé. Phim nhận được phản hồi tích cực về cốt truyện và hoạt hình từ giới phê binh, tuy nhiên vẫn có một số kiến chỉ trích do sự tương đồng với Antz. Bộ phim được phát hành nhiều lần dưới dạng băng đĩa. Flik, một con kiến có khả năng sáng chế, sống trong một đàn kiến một vùng khô cằn. Đàn kiến được lãnh đạo bởi công chúa Atta và nữ hoàng, mẹ của cô. Bầy kiến bị áp bức bởi một băng đảng châu chấu, đứng đầu bởi Hopper, những kẻ thường ép buộc đàn kiến phải cung cấp thức ăn cho chúng. Một ngày, khi mà toàn bộ thực phẩm dùng để cung cấp cho bầy châu chấu bị rơi xuống dòng nước do phát minh mới của Flik, một chiếc máy gặt tự động, gây ra, bầy châu chấu yêu cầu đàn kiến phải cống nạp gấp đôi như một cách đền bù. Do cảm thấy tức giận và phiền phức với Flik, đàn kiến đã lừa Flik rời tổ bằng cách chấp nhận kế hoạch thuê những "chiến binh bọ" để đánh lại bầy châu chấu của anh. Trong khi Flik thực sự tin tưởng kế hoạch này, những con kiến khác chỉ quan tâm đến việc họ sẽ được giải thoát khỏi Flik và rắc rối. Khi đến được "thành phố", Flik lầm tưởng một gánh xiếc côn trùng vừa bị ông chủ P.T. Flea xa thải là những chiến binh mà anh đang tìm kiếm. Đồng thời, những con bọ này cũng lầm tưởng Flik là một chuyên gia tìm kiếm tài năng và chấp nhận đề nghị đi tới tổ kiến của anh. Khi đến nơi, đàn kiến và Flik nhận ra sự nhầm lẫn của họ khi xem màn biểu diễn chào mừng của bầy kiến. Dưới sự cầu xin của Flik, họ chấp nhận đóng giả những chiến binh để có thể tiếp tục nhận được sự chú và hiếu khách từ đàn kiến. Việc đụng độ với một con chim trước đó đã gợi cho Flik tạo ra một con chim giả để dọa bầy châu chấu. Trong khi con chim đang được chế tạo, Hopper dạy những con châu chấu khác về việc số lượng kiến áp đảo chúng như thế nào và lo lắng rằng đến một lúc nào đó bầy kiến sẽ chống lại chúng. Khi con chim giả được hoàn thành, đàn kiến tổ chức tiệc ăn mừng. Khi bữa tiệc đang diễn ra, danh tính thật của đàn bọ bị bại lộ khi P.T. Flea đến để tìm chúng. Bị xúc phạm bởi sự dối trá của Flik, đàn kiến trục xuất anh và quay lại thu thập thức ăn cho bầy châu chấu một cách tuyệt vọng. Khi bầy châu chấu nhìn thấy những vật phẩm tầm thường mà đàn kiến giao nộp, chúng chiếm quyền kiểm soát cả đàn kiến, đòi lấy đi thực phẩm dự trữ cho mùa đông của đàn. Sau khi nghe lén được kế hoạch giết nữ hoàng của Hopper, Dot, em gái của Atta, đã đi tìm Flik và nhóm bọ, thuyết phục họ trở lại dùng con chim giả để cứu đàn kiến. Kế hoạch dùng con chim giả gần thành công thì P.T. Flea, lầm tưởng đó là một con chim thật, đã đốt cháy và phá hủy nó. Hopper đánh Flik để trả thù và tuyên bố rằng kiến là loài hạ đẳng và tồn tại là để phục vụ loài châu chấu. Mặc dù vậy, Flik đã đáp trả là loài kiến thực ra là một loài độc lập mà không cần sự giúp đỡ từ châu chấu. Điều này đã cổ vũ toàn bộ đàn kiến và nhóm xiếc bọ đứng lên đánh đuổi bầy châu chấu khỏi tổ kiến. Hopper bị bắt bởi đàn kiến và khi sắp bị cho nổ thì trời bất ngờ đổ mưa. Trong khi đám kiến đang hỗn loạn, Hopper bắt cóc Flik và bay đi. Atta đuổi theo và giải cứu Flik sau khi những nỗ lực của đàn bọ gánh xiếc bị thất bại. Hopper tức giận săn đuổi họ và bị Flik lừa đến tổ của con chim mà anh đã đụng độ trước đó. Nhận nhầm con chim thật là giả, Hopper chế nhạo con chim trước khi hắn bị con chim bắt lấy và trở thành mồi cho chim con. Một thời gian sau, những sáng chế của Flik cuối cùng cũng hoàn thiện và được đàn kiến đánh giá cao. Atta thú nhận tình cảm của mình với Flik. Đàn kiến công nhận Flik như một anh hùng, tổ chức tiệc chia tay với nhóm bọ gánh xiếc và mong rằng họ sẽ tiếp tục đến thăm trong những năm tới. Atta trở thành nữ hoàng và Dot trở thành người thừa kế cho ngôi vị. Dave Foley vai Flik, một con kiến và là nhà sáng chế Kevin Spacey vai Hopper, thủ lĩnh của băng đảng châu chấu Julia Louis-Dreyfus vai công chúa Atta, nữ hoàng tương lai của tổ kiến Hayden Panettiere vai Dot, em gái của công chúa Atta Phyllis Diller vai nữ hoàng, thủ lĩnh của tổ kiến Richard Kind vai Molt, em trai của Hopper David Hyde Pierce vai Slim, một con bọ que và là bạn của Francis và Heimlich Joe Ranft vai Heimlich, một con sâu bướm béo tròn gốc Đức luôn mong muốn trở thành bươm bướm Denis Leary vai Francis, một con bọ rùa nóng tính luôn bị nhầm là nữ Jonathan Harris vai Manny, một con bọ ngựa cầu nguyện, ảo thuật gia trong gánh xiếc của P.T. Flea Madeline Kahn vai Gypsy, một con bướm đêm Gypsy, vợ và trợ lý của Manny Bonnie Hunt vai Rosie, một con nhện góa phụ đen, là người chỉ đạo Dim Mike McShane vai Tuck và Roll, cặp bọ Armadillidiidae sinh đôi đến từ Hungary John Ratzenberger vai P.T. Flea, một con bọ chét và là chủ của gánh xiếc Brad Garrett vai Dim, một con kiến vương chuyên chơi bản nhạc Ferocious Beast trong các màn biểu diễn của gánh xiếc Roddy McDowall vai Mr. Soil, một diễn viên kịch trong tổ kiến Đây là bộ phim cuối cùng của McDowall trước khi ông qua đời vào tháng 10 năm 1998 Edie McClurg vai Dr. Flora, bác sĩ của tổ kiến Alex Rocco vai Thorny, trợ lý của công chúa Atta David Ossman vai Cornelius, một con kiến già David Lander vai Thumper, một con châu chấu hoang, là vật nuôi của Hopper Rodger Bumpass vai Muỗi Harry Ashley Tisdale vai Daisy, con kiến đầu đàn của xứ Blueberry Scouts, một đàn kiến con mà Dot thuộc về Jan Rabson và Carlos Alazraqui vai Axle và Loco, bộ đôi châu chấu đến từ đoàn của Hopper Bob Bergen vai Aphie, rệp vừng cưng của nữ hoàng Jack Angel vai **Anh em ruồi, bộ ba ruồi có mối hận thù sâu sắc với một số con bọ trong rạp xiếc (đặc biệt là một con bọ rùa đực tên là Francis, người mà chúng gọi nó là con gái) **Thud, ruồi trâu vệ sĩ của anh em ruồi Album nhạc phim được sản xuất và phát hành và ngày 27 tháng 10 năm 1998 bởi Walt Disney Records. Bản nhạc đầu tiên trong album là một ca khúc có tên "The Time of Your Life" được sáng tác và trình bày bởi Newman, trong khi 19 bản nhạc còn lại là nhạc không lời được chơi bởi dàn nhạc giao hưởng. Album này không còn được sản xuất dưới dạng đĩa CD nữa nhưng vẫn được phát hành dưới dạng kỹ thuật số trên iTunes. Tổng thời gian của album là 47 phút 32 giây. Trên thang điểm sao, Allmusic, Empire Online, và Film Tracks đánh giá album sao. Movie Wave đánh giá sao rưỡi. Phần nhạc nền chiến thắng một giải Grammy Award cho nhạc nền sử dụng trong sản phẩm truyền thông thị giác xuất sắc nhất. Bug's Life được phát hành tại Bắc Mỹ vào ngày 25 tháng 11 năm 1998, đi kèm với Geri's Game, một phim hoạt hình ngắn được Pixar sản xuất vào năm 1997, năm trước khi bộ phim được ra mắt. A Bug's Life được phát hành dưới định dạng VHS và DVD vào 20 tháng năm 1999. Vào ngày 27 tháng năm 2003, một phiên bản DVD mới gồm đĩa được ra mắt. Phiên bản DVD này được chỉnh sửa lại toàn bộ phần âm thanh và có thêm nhiều nội dung mới. Ngày 19 tháng năm 2009, bộ phim được phát hành dưới định dạng Blu-ray. Một trò chơi dựa trên bộ phim, được phát triển bởi Traveller's Tales và Tiertex Design Studios, phát hành bởi Sony Computer Entertainment, Disney Interactive, THQ và Activision cho nhiều nền tảng khác nhau. Cốt truyện của game tương đồng với bộ phim, với một số ít thay đổi. Mặc dù vậy, không giống như bộ phim, trò chơi nhận được những phản hồi trung bình và tiêu cực. Trang web tổng hợp đánh giá GameRankings cho điểm phiên bản Nintendo 64 54.40%, phiên bản PlayStation 51.90% và phiên bản Game Boy Color 36.63%. GameSpot cho điểm phiên bản PlayStation 2.7/10, bình luận rằng "rõ ràng là Disney cảm thấy hứng thú với việc sản xuất một quảng cáo trị giá 40 triệu đô cho bộ phim của họ hơn là phát triển một trò chơi điện tử có thể chơi được". IGN đánh giá phiên bản Nintendo 64 với điểm số 6.8/10, khen ngợi phần hình ảnh và âm thanh với nhận xét "Trò chơi có sự lạc quan, vui vẻ rất giống với bộ phim cùng tên với những giai điệu vui vẻ, hạnh phúc và hiệu ứng âm thanh mạnh mẽ", nhưng đồng thời chỉ trích chế độ chơi và phần điều khiển trong game là chậm chạp với tỷ lệ khung hình thấp và cơ chế chơi đầy mệt mỏi. Họ cho điểm phiên bản PlayStation 4/10, chỉ trích chế độ chơi game chậm chạp và kỳ quặc nhưng đánh giá cao phần hình ảnh có tính điện ảnh. A Bug's Land là một khu vực nằm trong Disney California Adventure được lấy cảm hứng từ A Bug's Life. Một trong những điểm tham quan chính là tiết mục trình diễn 3D It's Tough to Be Bug! Disney's Animal Kingdom. Chương trình buổi tối World of Color tại Disney California Adventure có sự tham gia của Heimlich, chú sâu bướm trong phim. | ''Đời con bọ | Phim hoạt hình máy tính, Phim với các sự vật được nhân hoá, Phim của Pixar, Phim của Walt Disney Pictures, Phim hoạt hình máy tính năm 2012, Phim hài-chính kịch Mỹ, Phim hoạt hình tưởng tượng, Phim phiêu lưu tưởng tượng của Mỹ, Phim Mỹ, Phim hoạt hình phiêu lưu, Phim về động vật, Phim hoạt hình Mỹ thập niên 1990, Phim kỳ ảo thập niên 1990, Phim hoạt hình năm 1998, Phim tưởng tượng dành cho trẻ em của Mỹ, Phim hài Mỹ, Phim do John Lasseter đạo diễn, Kịch bản phim của John Lasseter, Phim về hoàng tộc |
là một chi thực vật có hoa trong họ, Orchidaceae. *Danh sách các chi Phong lan *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (1999). Genera Orchidacearum 1. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2001). Genera Orchidacearum 2. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2003). Genera Orchidacearum 3. Oxford Univ. Press *Berg Pana, H. 2005. Handbuch der Dictionary of Orchid Names. Dizionario dei nomi delle orchidee. Ulmer, Stuttgart | null | Danh sách các chi phong lan, Huttonaea, Diseae |
Christiana 'Chris' Anyanwu (sinh ngày 28 tháng 10 năm 1951) là nhà báo, nhà văn, nhà xuất bản và chính trị gia người Nigeria. Bà được hoan nghênh như một trong các phụ nữ tiên phong trong nghề báo và phát thanh truyền hình Nigeria. Bà được bầu làm thượng nghị sĩ khu vực bầu cử "Đông Imo" (Oweri) năm 2007. Anyanwu có tên khai sinh là Christiana Ngozi Ukah, sinh tại Ahiara ngày 28.10.1951. Bà theo học trường nữ trung học Owerri, rồi sang học Hoa Kỳ, đậu bằng cử nhân khoa báo chí tại Đại học Missouri và bằng thạc sĩ khoa truyền thông đại chúng tại Đại học tiểu bang Florida. Sau đó bà trở về Nigeria, và làm người viết phóng sự và người đọc tin cho Cơ quan truyền hình Nigeria và Hãng Phát thanh Truyền hình Imo. Năm 1987, bà làm ủy viên ủy ban Thông tin, Thanh niên, Thể thao, Văn hóa và Phúc lợi xã hội của tiểu bang Imo dưới quyền thống đốc Amadi Ikwechegh. Sau nhiệm kỳ ủy viên nói trên, Anyanwu làm chủ bút tờ "Tạp chí chủ nhật" (The Sunday Magazine), một tuần báo tập chú vào các vấn đề chính trị trong nước. Tháng năm 1995, Anyanwu bị bắt sau khi đăng một bài về cuộc đảo chính (bị thất bại) ngày tháng 3, chống chính phủ Nigeria của tổng thống Sani Abacha người mà bà đã từ chối ủng hộ làm tổng thống. Bà và nhiều nhà báo Nigeria bị buộc tội là "những tòng phạm trong các vụ mưu phản". Anyanwu bị truy tố ra tòa án quân sự, bị xử kín và bị xử phạt tù chung thân ngày 4.7.1995. Tới tháng 10 năm 1995, do áp lực của các tổ chức nhân quyền quốc gia và quốc tế, bà được giảm xuống 15 năm tù. Khi bị giam trong những điều kiện tồi tệ nhà tù Gombe, bà đã bị mù từng phần. Các bác sĩ cảnh báo là bà có nguy cơ bị mù hoàn toàn nếu không được chữa trị đúng mức. Ít lâu sau khi bị tù, bà được Quỹ Truyền thông của Phụ nữ Quốc tế Women's Media Foundation) trao "Giải dũng cảm trong nghề báo". Anyanwu, lúc đó đang bị biệt giam, đã được trao một thư ngắn: "Một số phụ nữ Hoa Kỳ đã tặng bà một giải thưởng. Thế giới đang theo dõi". Anyanwu sau này nói là giải thưởng của Quỹ Truyền thông của Phụ nữ Quốc tế đã nâng đỡ tinh thần của bà khi bị tù. ("Vâng! Ai đó phải hiểu, nếu không họ sẽ chẳng chỉ đưa ra một giải thưởng như thế này... Tôi đã được khuyến khích rất nhiều và được vững mạnh hơn bởi giải thưởng đó. Và nó làm cho tôi tự tin và quyết không để mình rơi vào áp lực.") *Hai năm sau, Ủy ban bảo vệ các nhà báo đã trao cho Anyanwu Giải Tự do Báo chí Quốc tế. *Tháng năm 1998 bà được UNESCO trao Giải Guillermo Cano cho Tự do Báo chí trên thế giới Tháng năm 1998, sau cái chết của tổng thống Abacha cùng nhiều phản đối từ các tổ chức bảo vệ nhân quyền khắp thế giới, Anyanwu đã được tướng Abdulsalami Abubakar người kế nhiệm Abacha phóng thích vì lý do sức khỏe. Bà bắt đầu tạm nghỉ việc năm Virginia nơi bà viết quyển Days of Terror (Những ngày khiếp sợ), dựa trên cuộc đấu tranh của Nigeria trong thời chế độ độc tài cai trị. Một phiên bản truyền hình của TSM Show của bà, đã được phát sóng lại năm 2001. Năm 2005, Anyanwu mở đài phát thanh Hot 98.3 FM của riêng mình tại Abuja. Anyanwu đã xuất hiện trong loạt phim truyền hình Frontline của PBS dưới tên NIGERIA The Road North năm 2003. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2007 Nigeria, Anyanwu đã được bầu vào Thương viện đại diện Đảng Dân chủ Nhân dân khu vực Owerri, bang Imo, Nigeria. Sau khi nhận chức Thượng nghị sĩ, bà được bổ nhiệm vào các Ủy ban Phụ nữ và Thanh niên, Chính quyền tiều bang và địa phương, Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, tế, Môi trường, Quốc phòng Quân đội. Trong cuộc đánh giá các thượng nghị sĩ giữa nhiệm kỳ vào tháng năm 2009, ThisDay ghi nhận là bà đã bảo trợ các dự luật: tế và An toàn nghề nghiệp *Tội phạm hóa cùng Hình phạt việc Kỳ thị Phân biệt đối xử chống lại người Nigeria, và đã bảo trợ đề nghị đưa ra thảo luận. Bản báo cáo mô tả bà như người đóng góp tích cực vào các cuộc thảo luận trong các phiên họp toàn thể trong các ủy ban. Là một Kitô hữu sùng đạo, Anyanwu kết hôn với Casmir Anyanwu. Họ có hai người con. *2002: Days of Terror'', ISBN 978-9780293277 Chronicles of Courage by Global Journalist Magazine UNESCO Citation | Christiana 'Chris' Anyanwu | Nhà báo Nigeria, Chính trị gia Nigeria, Giải thưởng tự do báo chí |
Marley Sianto Sikawa (sinh năm 1990), còn được gọi là Sianto Sitawa, là một chuyên gia tiếp thị và truyền thông Kenya, làm điều phối viên tiếp thị du lịch cho Hạt Narok, một trong 47 quận của Kenya. Sianto Sikawa được sinh ra Narok, thuộc quận Narok, cách khoảng theo đường bộ so với phía tây Nairobi, thủ đô của Kenya. Gia đình cô thường xuyên di chuyển và cô lớn lên Narok, Maasai Mara, Sekenani và Loita. Sau khi theo học tại các trường tiểu học và trung học địa phương, cô được nhận vào Đại học Daystar, Nairobi, nơi cô tốt nghiệp với bằng Cử nhân Nghệ thuật Truyền thông, Truyền thông Điện tử Quan hệ Công chúng. Sau đó, cô đăng ký vào Đại học Quốc tế Hoa Kỳ Châu Phi, cũng tại Nairobi, nơi cô theo đuổi bằng thạc sĩ nghệ thuật về quan hệ quốc tế. Kể từ tháng năm 2018, Sianto Sitawa được chính phủ của quận Narok thuê, làm điều phối viên tiếp thị du lịch. Cô cũng hoạt động trong cộng đồng của mình, nơi cô đã giúp phụ nữ địa phương truy cập điện mặt trời thông qua Naretoi Ang ', một tổ chức phi lợi nhuận vận hành các dự án' Solar for Manyatta 'trong cộng đồng. Sikawa là mẹ của một cô con gái. Vào tháng năm 2018, Business Daily Africa, một người Kenya, tiếng Anh, báo hàng ngày, có tên Sianto Sikawa, trong số "Top 40 phụ nữ dưới 40 tuổi Kenya năm 2018". Trong quá khứ, Sianto đã giành chiến thắng trong Cuộc thi sắc đẹp Miss Narok. Năm 2015, tuổi 24, cô Sikawa đã đăng quang Hoa hậu Du lịch Hạt Narok và Hoa hậu Du lịch Kenya. Cô cũng đã trình diễn trên sàn catwalk tại Tuần lễ thời trang New York 2015, làm người mẫu cho các bộ sưu tập Xuân Hè 2015 của nhà mốt quốc tế Tamil. | Marley Sianto Sikawa | Người mẫu Kenya, Nữ giới Kenya, Sinh năm 1990, Nhân vật còn sống |
Điện ảnh Israel (tiếng Do Thái: קולנוע ישראלי) là tên gọi ngành công nghiệp Điện ảnh của Israel từ 1948 đến nay. phải Geva Films Boaz Davidson Eytan Fox Amos Gitai Ephraim Kishon Avi Mograbi David Perlov Uri Zohar Assi Dayan Raphael Nadjari Uri Barabash Michal Bat-Adam Moshe Mizrahi Dover Koshashvili Ronit Elkabetz Shlomi Elkabetz Menachem Golan Danny Wachsman Avi Nesher Ram Loevy Ze'ev Revach Joseph Cedar Ari Folman Eran Kolirin Amos Kollek Renen Schorr Eran Riklis Isaac Florentine Alon Bar Ayelet Menahemi Gila Almagor Lior Ashkenazi Mili Avital Aki Avni Yehuda Barkan Moshe Ivgi Shaike Ofir Natalie Portman Ze'ev Revach Chaim Topol Tuvia Tzafir Uri Zohar Ayelet Zorer Alon Abutbul Assi Dayan Moran Atias Liên hoan phim Quốc tế Israel Israeli win prestigious awards at the 60th Cannes Film Festival. ngày 28 tháng năm 2007 Israeli Film, Home of the Early Israeli Hebrew Film Israeli Film Fund Cinephil Distribution Co Productions Israeli Documentary Feature Films Dragoman Films Award-winning Israeli films in North America | Điện ảnh Israel | |
foliolosi' là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Nó được tìm thấy quần đảo Canaria. Ấu trùng ăn Adenocarpus complicatus aureus, Adenocarpus foliolosus và Teline canariensis. Chúng ăn lá nơi chúng làm tổ. They create strongly contracted, lower-surface tentiform mine. The leaflet is folded lengthwise và completely eaten out. The leaf turns Pupation takes place withtrong mine. Thể | null | |
Đây là danh sách trò chơi do nhà phát triển trò chơi điện tử và hãng phát hành trò chơi điện tử Taito phát triển. Các tựa trò chơi sau là trò chơi cơ điện tử (trò chơi EM) do Taito sản xuất. Năm Tựa 1967 Basketball Periscope Crown Soccer Special 1968 Crown Basketball Royal Crown 1970 Super Road 7 1971 Sky Fighter Sky Fighter II 1972 Space Monster 1976 400 Miles 1984 Entertainer Robot Tựa Ngày Trò chơi arcade Hệ máy khác Tựa khác 1973 1973 1973 1973 1973 1974 1974 Basketball (EU) TV Basketball (USA) 1974 Racer (USA) Wheels (USA) 1975 1975 Wheels DX (USA) 1975 1975 Atari 8-bit, Bally Astrocade, Commodore 64, Commodore 128 Gun Fight (USA) 1976 1976 1976 Tornado Baseball (USA) 1976 1976 1976 1976 1976 Wheels Twin (USA) 1977 a.k.a. Bonn Ugly Away 1977 1977 1977 1977 1977 1977 1977 1977 1977 1977 1977 1977 Safari (サファリ) 1977 1977 1977 1977 1977 1977 a.k.a. Barrier 1977 1977 1977 1977 1978 1978 1978 1978 1978 1978 1978 Apple II, Atari 2600, Atari 5200, Atari 8-bit, Color FX, Commodore 64, Game Boy, Game Boy Color, Game Boy Advance, iOS, Java ME, Mobile Phone, MSX, NES, Nintendo 64, PC, PlayStation, PlayStation 2, PSP (Taito Legends Power-Up), Sega SG-1000, Sinclair ZX Spectrum, Sky Active, SNES, VG Pocket Caplet, Virtual Console, WonderSwan, Xbox 1978 PlayStation (Taito Memories Volume 1) 1978 1978 1978 1978 1978 1978 1979 1979 1979 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1979 1979 1979 1979 1979 Acorn Electron, BBC Micro, Commodore 64, PC, PlayStation 2, PSP (Taito Legends Power-Up), Sinclair ZX Spectrum, Xbox 1979 PlayStation (Taito Memories II Volume 1), PSP (Taito Legends Power-Up) a.k.a. Deluxe Space Invaders in US 1979 Game Boy, PC, PlayStation 2, PSP (Taito Legends Power-Up), Xbox 1979 1979 1980 1980 1980 PlayStation 2, PSP 1980 1980 Atari 2600, PlayStation 2, PSP, Xbox Doriburingu (ドリブリング) 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1980 Atari 2600, PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1980 Atari 2600, PC, PlayStation 2, PSP (Taito Legends Power-Up), Xbox 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1980 a.k.a. Speak Rescue 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1980 1981 1981 Atari 2600. PC, PlayStation and Xbox (Taito Legends) 1981 1981 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) 1981 1981 Apple II, Atari 2600, Game Boy, Intellivision, PlayStation Network, Virtual Console 1981 1981 1981 Amiga, Apple II, Atari 8-bit, Commodore 64, MS-DOS, Java ME, NES, PC, PlayStation 2, PSP, Xbox 1981 a.k.a. Fitter 1981 1981 1981 PSP (Taito Legends Power-Up) 1981 1981 1981 1981 a.k.a. Satan of Saturn 1981 1982 PC, PlayStation 2, PSP, Xbox 1982 1982 1982 1982 PC, PlayStation and Xbox (Taito Legends) 1982 1982 Atari 2600, ColecoVision, MSX, NES, PC, PlayStation 2, Virtual Console, Xbox 1982 1982 Apple II, Atari 2600, Atari 5200, Atari 8-bit, ColecoVision, Commodore 64, Commodore VIC-20, IBM PC, MSX, PC Booter, Texas Instruments TI-99/4A. PC, PlayStation 2, and Xbox (Taito Legends) 1982 1982 1982 ColecoVision 1982 1982 a.k.a. Dock Man 1982 1982 1982 1982 1982 1982 1982 1982 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) 1982 PC, PlayStation 2, Xbox 1982 PC, PlayStation 2, Xbox (Taito Legends) 1983 MSX, NES 1983 1983 1983 1983 1983 1983 FM-7, MSX, NES, Sega SG-1000, PC, PC-6001, PC-8801, PlayStation 2, PSP, Sharp X1, Virtual Console, Xbox 1983 1983 Amstrad CPC, Atari 2600, Commodore 64, Game Boy, MSX, NES, PC, PlayStation 2, PSP, Sinclair ZX Spectrum, Virtual Console, Xbox 1983 Sega SG-1000, MSX, NES, Virtual Console 1983 1983 1983 a.k.a. Women's Volleyball 1983 Big Spikers (USA) 1983 1983 1983 1983 1983 1983 1983 a.k.a. I Study Kabei Belo 1984 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) 1984 1984 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1984 Choro-Q 1984 MSX 1984 1984 1984 1984 a.k.a. The Athletic 1984 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) 1984 a.k.a. 40-0 1984 1984 1984 PC, PlayStation 2, Xbox 1984 MSX, NES, PlayStation (Taito Memories II Volume 2) Jan Friend 1984 MSX 1984 1984 Amstrad CPC, Commodore 64, MSX, NES, PC, PlayStation 2, PSP, Sharp X1, Sinclair ZX Spectrum, Xbox M.A.C.H. 3 1984 Ninja Hayate (忍者ハヤテ) a.k.a. Revenge of the Ninja in US and EU 1984 PlayStation, Sega Mega-CD, Sega Saturn 1984 MSX, NES 1984 1984 1984 1984 1984 1984 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) Sweet Acorn 1984 MSX 1984 Xyzolog 1984 MSX, Master System 1985 1985 MSX, PC, PlayStation 2, Xbox 1985 1985 1985 a.k.a. Exciting Hour 1985 1985 1985 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1985 Onna Sanshirō (女三四郎) a.k.a. Typhoon Gal 1985 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1985 1985 1985 1985 PC, PlayStation 2, PSP (Taito Legends Power-Up), Xbox 1985 1985 1985 NES 1985 1985 1985 1985 NES, PlayStation 1985 LaserActive, MSX, PlayStation, Sega Mega-CD, Sega Saturn 1985 1985 1986 Amiga, Amstrad CPC, Apple II, Apple IIGS, Atari 8-bit, Atari ST, BBC Micro, Commodore 64, iOS, MS-DOS, MSX, Apple Macintosh, NES, SNES, TRS-80 CoCo, Sinclair ZX Spectrum 1986 1986 1986 Amiga, Amstrad CPC, Apple II, Atari ST, Commodore 64, FM Towns Marty, MS-DOS, Game Boy, MSX, NES, PC, PlayStation, PlayStation 2, Sega Game Gear, Sega Master System, Sharp X68000, Sinclair ZX Spectrum, UltraCade, TI-83, Virtual Console, Xbox a.k.a. Violent Shooting 1986 Daikaijū no Gyakushū (大怪獣の逆襲) a.k.a. Great Monster Counterattack 1986 a.k.a. Darius+ 1986 Amiga, Atari ST, Game Boy Advance, PC Engine, PC Engine CD-ROM, Sinclair ZX Spectrum, Virtual Console 1986 a.k.a. Guardian 1986 a.k.a. The Golden Castle 1986 Amstrad CPC, Commodore 64, PC, PlayStation 2, Sinclair ZX Spectrum, Xbox 1986 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1986 1986 PlayStation (Taito Memories II Volume 1), Famicom Disk System KiKi KaiKai (奇々怪界) a.k.a. Knight Boy in US and EU 1986 Mobile Phone, MSX, NES, PC, PC Engine, PlayStation 2, PSP, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox a.k.a. Storming Party 1986 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1986 Mission 660 (ミッション660) a.k.a. The Alphax Z 1986 Musashi no Ken Tadaima Shugyō Chu 1986 NES 1986 1986 1986 Amiga, Amstrad CPC, Apple II, Atari ST, Commodore 64, NES, Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, Virtual Console S.R.D. Mission (S.R.D.ミッション) 1986 a.k.a. Alcon 1986 Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64. Sega Mega Drive, Sinclair ZX Spectrum 1986 Takeshi no Chosenjo 1986 NES, Virtual Console a.k.a. Scramble Formation 1986 MSX, PC, PlayStation 2, Xbox a.k.a. Soldier of Light; Sola-R Warrior 1986 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, MSX, Sinclair ZX Spectrum a.k.a. Arkanoid 2 1987 Amiga, Amstrad CPC, Apple II, Apple IIGS, Atari ST, Commodore 64, MS-DOS, MSX, NES, Sharp X68000, Sinclair ZX Spectrum 1987 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, MSX, PC, PlayStation 2, Sinclair ZX Spectrum, Xbox a.k.a. Air Raid 1987 1987 1987 Amiga, Amstrad CPC, Apple OS, Atari 2600, Atari 7800, Atari Lynx, Atari ST, Commodore 64, Game Boy, Game Boy Advance, IBM PC, iOS, Mobile Phone, NES, Sega Master System, Sega Mega Drive, Sinclair ZX Spectrum, Zeebo 1987 1987 1987 PC, PlayStation 2, Xbox a.k.a. Top Speed 1987 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1987 1987 1987 NES 1987 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, MS-DOS, MSX, NES, PC, PlayStation 2, Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox 1987 PC, PlayStation 2, Xbox 1987 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, FM Towns, Game Boy Color, NES, PC, PC Engine, PlayStation, PlayStation 2, Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, TurboGrafx CD, Wonderswan, Xbox, Xbox Live Arcade a.k.a. Rastan Saga 1987 Amstrad CPC, Apple IIGS, Commodore 64, MS-DOS, Sega Game Gear, MSX, PC, PlayStation 2, PSP, Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, Xbox a.k.a. Flying Shark in EU 1987 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, FM Towns, MS-DOS, NES, Sharp X68000, Sinclair ZX Spectrum 1987 PC, PlayStation 2, Xbox a.k.a. U.A.G. Special Fortress; U.A.G. Un-attached Grenadier; Twin Formation 1987 1987 a.k.a. Ultimate Tiger 1987 Mobile Phone, NES, PC Engine, Sega Mega Drive, Sharp X68000, TurboGrafx-16 Victorious Nine II 1987 MSX 1987 a.k.a. Pyros in US 1987 NES, Sega Mega Drive Akira 1988 NES a.k.a. Hell Round 1988 PC, PC Engine, PlayStation 2, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox a.k.a. Chase Headquarters 1988 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, Game Boy, Game Gear, MSX, NES, PlayStation (Taito Memories II Volume 2), Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, SNES, TurboGrafx-16, Virtual Console 1988 1988 MSX, NES, PlayStation (Taito Memories II Volume 1), Sega Master System 1988 1988 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) 1988 Amiga, Atari ST, Commodore 64, Mega Drive 1988 a.k.a. Record Breaker 1988 1988 Sega Mega Drive, TurboGrafx-16 Kabuki-Z (歌舞伎-Z) 1988 Kageki (火激) 1988 Sega Mega Drive Kuri Kinton (功里金団) 1988 PC, PlayStation 2, PSP, Xbox a.k.a. Rastan Saga II; Nastar in EU 1989 PC, PlayStation 2, Sega Mega Drive, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox a.k.a. Kiwi Kraze in US 1988 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, FM Towns, PC, PlayStation 2, PSP, Sega Mega Drive, Sharp X68000, Sinclair ZX Spectrum, NES, Sega Master System, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox 1988 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, Sega CD, Sinclair ZX Spectrum, TurboGrafx-16, Virtual Console 1988 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, PC, PlayStation 2, Sinclair ZX Spectrum, SNES, Xbox 1988 PC, PlayStation 2, PSP, Xbox 1988 PlayStation (Taito Memories II Volume 2), PSP (Taito Memories Pocket), Sega Mega Drive a.k.a. Dash Rascal 1988 NES 1988 1988 PlayStation 2, SNES Target: Renegade 1988 NES 1988 a.k.a. Expert 1988 Sega Mega Drive TurboGrafx-16 Asuka Asuka (飛鳥&飛鳥) 1989 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) Bakushō Jinsei Gekijō 1989 NES 1989 PC, PlayStation 2, Xbox Bari Bari Densetsu 1989 PC Engine, TurboGrafx-16 1989 PC, PlayStation (Taito Memories Volume 2), Sega Mega Drive, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox a.k.a. On The Ball; Labyrinth 1989 FM Towns, PC, PlayStation 2, SNES, Sharp X68000, Xbox 1989 PlayStation (Taito Memories II Volume 1), TurboGrafx-16, Virtual Console 1989 a.k.a. Sagaia 1989 PlayStation (Taito Memories II Volume 1), Sega Master System, Sega Mega Drive, Sega Saturn, PC Engine CD-ROM, Virtual Console (a.k.a. Horror Story) 1989 PC Engine Don Doko Don (ドンドコドン) 1989 Famicom, PC, PlayStation 2, PC Engine, Xbox 1989 PC, PlayStation 2, Sega Mega Drive, NES, Xbox 1989 Mega Drive, PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1989 1989 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) 1989 PlayStation, PlayStation (Taito Memories II Volume 2), Sega CD, Sega Saturn 1989 a.k.a. Flipull 1989 Amiga, Amstrad CPC, Amstrad GX4000, Atari ST, Commodore 64, Game Boy, NES, PC, PlayStation 2, Sinclair ZX Spectrum, Xbox 1989 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Apple IIGS, Commodore 64, Mobile Phone, MS-DOS, FM Towns, Game Boy, MSX, NEC PC-9801, NES, Sharp X68000, Sinclair ZX Spectrum, TurboGrafx-16 1989 Amiga, Atari ST, Commodore 64, MS-DOS, MSX, Sega Master System, Sega Mega Drive, Sinclair ZX Spectrum, TurboGrafx-16 S.C.I. a.k.a. Special Criminal Investigation 1989 Amiga, Atari ST, Commodore 64, PlayStation (Taito Memories II Volume 1), Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, TurboGrafx-16, Virtual Console Taito Grand Prix: Eikō Heno Licence 1989 Famicom 1989 Amiga, Armstrad CPC, Atari Lynx, Atari ST, Commodore 64, Microsoft Windows, NES, PlayStation Network, Sega Mega Drive, Sinclair ZX Spectrum, WiiWare, Xbox Live Arcade 1989 PC Engine, Sega Mega Drive, TurboGrafx-16, TurboGrafx-CD 1989 PC, PlayStation 2, Xbox a.k.a. Ultimate Qix 1989 Amiga, Atari ST, Commodore 64, MS-DOS, Java ME, PC, PlayStation 2, Sega Mega Drive, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox WGP Real Race Feeling (WGP) 1989 Yukiwo (ユキヲ) 1989 1989 PC Engine CD-ROM, Sega Mega Drive Aa Eikō no Kōshien (嗚呼栄光の甲子園) a.k.a. Oh Glory Koshien 1990 PlayStation (Taito Memories Volume 1) 1990 1990 1990 1990 Darius Alpha 1990 PC Engine, TurboGrafx-16 Demon Sword 1990 NES 1990 1990 a.k.a. Hat Trick Hero 1990 Amiga, Atari ST, Commodore 64, PC, PlayStation 2, SNES, Xbox 1990 a.k.a. Runark 1990 PC, PlayStation 2, Sega Mega Drive, Xbox 1990 PC, PlayStation 2, Sega Saturn, Xbox 1990 a.k.a. Mizubaku Adventure 1990 Amiga, PC, PC Engine, PlayStation 2, Sega Saturn, TurboGrafx-16, Virtual Console, Xbox 1990 1990 PC, PlayStation 2, Xbox 1990 FM Towns, Game Boy, MSX, NES Parasol Stars: The Story of Rainbow Islands II 1990 Amiga, Atari ST, Game Boy, NES, TurboGrafx-16, Virtual Console 1990 1990 Shadow of the Ninja 1990 NES, Virtual Console 1990 1990 Amiga, Atari ST, Commodore 64, PC, PlayStation 2, Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, Xbox Space Invaders 90 1990 Sega Mega Drive a.k.a. Space Invaders Day of Resurrection 1990 PC Engine, TurboGrafx-16, Virtual Console 1990 a.k.a. Majestic Twelve: The Space Invaders Part IV 1990 Amiga, Amstrad CPC, Atari ST, Commodore 64, MS-DOS, PC, PlayStation 2, Sega Master System, Sinclair ZX Spectrum, Xbox 1990 PC, PlayStation 2, Sega Mega Drive, Xbox WGP Real Race Feeling 2 (WGP 2) 1990 Wrath of the Black Manta 1990 NES Yes/No Shinri Tokimeki Chāto 1990 Yuuyu no Quiz de GO! GO! 1990 SNES a.k.a. Rolling Buggy 1991 1991 NES Bakushō Jinsei Gekijō 2 1991 NES Bakushō Jinsei Gekijō 3 1991 NES Darius Twin 1991 SNES a.k.a. Power Wheels 1991 The Flintstones: The Rescue of Dino Hoppy 1991 NES 1991 Halley Wars 1991 NES, Sega Game Gear 1991 Game Boy, NES, Sega Mega Drive, SNES, TurboGrafx-16 Indiana Jones and the Last Crusade 1991 Game Boy, NES Knight Quest 1991 Game Boy 1991 a.k.a. Project Gun Fronier 2 in US 1991 PC, PlayStation 2, Sega Saturn, Xbox Mystical Fighter 1991 Sega Mega Drive Power Blade 1991 NES 1991 1991 FM Towns Marty, PlayStation, PlayStation (Taito Memories Volume 1), Sega Saturn Quiz Quest Hime to Yūsha no Monogatari 1991 1991 Saint Sword 1991 Sega Mega Drive 1991 a.k.a. Fire Mustang 1991 Sega Mega Drive 1991 PlayStation (Taito Memories II Volume 2) The Adventures of Star Saver 1992 Game Boy 1992 PC, PlayStation 2, Xbox Chase H.Q. II a.k.a. Super H.Q. in Japan 1992 Sega Mega Drive 1992 Daibakushō Jinsei Gekijō 1992 SNES 1992 1992 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) Dogyūn (ドギューン 1992 Don Doko Don 2 1992 NES 1992 1992 Gambler Jiko Chūsinha: Mahjong Puzzle Collection 1992 TurboGrafx-16 1992 SNES 1992 a.k.a. Taito Cup Finals 1992 The Jetsons: Cogswell's Caper! 1992 NES The Jetsons: Robot Panic 1992 Game Boy Kick Master 1992 NES Kuizu Chikyū Bōeigun (クイズ地球防衛軍) a.k.a. Earth Defense Force Quiz 1992 Kuizu Jinsei Gekijō (クイズ人生劇場) a.k.a. Theater Life Quiz 1992 Little Samson 1992 NES 1992 Panic Restaurant 1992 NES Pocky Rocky a.k.a. KiKi KaiKai: Nazo no Kuro Manto 1992 SNES Power Blade II a.k.a. Captain Saver 1992 NES 1992 1992 Game Boy 1992 Sonic Blast Man SNES version 1992 SNES 1992 1992 1993 a.k.a. Animalandia Jr. 1993 Bubble Bobble Part 2 1993 Game Boy, NES Bubble Bobble Junior (Game Boy) 1993 Daibakushō Jinsei Gekijō: Dokidoki Seishun 1993 SNES Darius Force a.k.a. Super Nova 1993 SNES a.k.a. Light Bringer 1993 PC, PlayStation 2, Xbox 1993 1993 The Flintstones 1993 Sega Mega Drive The Flintstones: King Rock Treasure Island 1993 Game Boy Gensō Tairiku Aurelia 1993 TurboGrafx CD 1993 PC, PlayStation 2, Xbox International Tennis Tour 1993 SNES Lufia The Fortress of Doom 1993 SNES a.k.a. Top Ranking Stars 1993 1993 1993 1993 a.k.a. Gunlock in Europe 1993 iOS, Sega Saturn, PC, PlayStation (Taito Memories II Volume 1), Xbox Layer Section (Japan, homeport), Galactic Attack (USA/Europe, homeport) 1993 Ryū Jin (龍神) a.k.a. Dragon God 1993 a.k.a. Super Rolling Buggy 1993 1993 a.k.a. Cachat 1993 PC, PlayStation and Xbox (Taito Legends) 1993 1993 1994 PC, PlayStation (Taito Memories II Volume 2), Sega Saturn, Xbox 1994 Daibakushō Jinsei Gekijō: Ooedo Nikki 1994 SNES 1994 PC, PlayStation, PlayStation 2, Sega Saturn, Xbox a.k.a. Elevator Action II 1994 PC, PlayStation 2, Sega Saturn, Xbox The Flintstones: Surprise at Dinosaur Peak 1994 NES The Flintstones: The Treasure of Sierra Madrock 1994 SNES a.k.a. Global Champion 1994 Hat Trick Hero 2 1994 SNES a.k.a. International Cup '94 1994 The Jetsons: Invasion of the Planet Pirates 1994 SNES The Ninja Warriors Again a.k.a. Ninja Warriors and The Ninja Warriors: New Generation in EU 1994 SNES 1994 1994 Neo Geo CD, Neo Geo MVS a.k.a. Bust-a-Move in US 1994 3DO Interactive Multiplayer, IBM PC, iOS, Java ME, Microsoft Windows, Mobile Phone, MS-DOS, N-Gage, Neo Geo AES, Neo Geo CD, Neo Geo MVS, Neo Geo Pocket Color, PSP, Sega Game Gear, SNES, VG Pocket Caplet, Virtual Console, Xbox Live Arcade Quiz 364: Hong Kong Taiwan (クイズ364:香港&台湾) 1994 1994 1994 1994 Sonic Blast Man 2 SNES version 1994 SNES 1994 Nuon, PC, PlayStation 2, Sega Saturn, SNES, Turbografx-CD, Xbox a.k.a. Hat Trick Hero '95 1994 1995 PlayStation (Taito Memories II Volume 1) Daibakushō Jinsei Gekijō: Zukkoke Salary Man Hen 1995 SNES 1995 Gekirindan (逆鱗弾) 1995 PC, PlayStation 2, Sega Saturn, Xbox Hat Trick Hero S 1995 Sega Saturn Jupiter Strike a.k.a. Zeitgeist 1995 PC, PlayStation Lady Stalker: Challenge from the Past 1995 SNES 1995 Moriguchi Hiroko no Kuizu de Hyū Hyū 1995 PD Ultraman Invaders 1995 PlayStation 1995 PlayStation, Sega Dreamcast a.k.a. Bust-a-Move 2 and Bust-a-Move Again in US 1995 Apple Macintosh, Game Boy, Microsoft Windows, MS-DOS, Neo Geo AES, Neo Geo CD, Neo Geo MVS, Nintendo 64, PC, PlayStation, PlayStation 2, Sega Saturn, Xbox 1995 Neo Geo MVS Pyramid Intruder 1995 3DO Interactive Multiplayer a.k.a. 1995 PC, PlayStation 2, Xbox Space Invaders Virtual Collection 1995 Virtual Boy a.k.a. Advanced Tiger 1995 1995 Bubble Memories 1996 Chaos Seed: Fūsui Kairoki 1996 SNES 1996 Mobile Phone, PC, PlayStation, PlayStation 2, Sega Dreamcast, Sega Saturn, Xbox Energy Breaker 1996 SNES 1996 Lufia II: Rise of the Sinistrals 1996 SNES 1996 PlayStation 1996 1996 a.k.a. Bust-a-Move '99 in US 1996 Game Boy, Microsoft Windows, Nintendo 64, PlayStation 1996 iOS, Microsoft Windows, PlayStation, PlayStation 2, PlayStation Network, Sega Saturn, Xbox Live Arcade 1996 PlayStation 1996 1996 a.k.a. Arkanoid 4 1997 PlayStation, PlayStation Network Densha de Go! (電車でGO!) a.k.a. Go by Train 1997 Game Boy Color, PC, PlayStation, WonderSwan Densha de Go! EX (電車でGO!EX) a.k.a. Go by Train EX 1997 Sega Saturn 1997 1997 PC, PlayStation, PlayStation 2, PlayStation Network 1997 1997 1997 Game Boy Color, PlayStation. PC and Xbox (Taito Legends 2) 1997 Game Boy Color, PC, PlayStation, PlayStation 2, Xbox 1997 Neo Geo MVS Ray Tracers 1997 PlayStation 1997 Side by Side Special 1997 PlayStation 1998 Densha de Go! Kōsoku-hen (電車でGO!2高速編) 1998 PC, PlayStation Densha de Go! Kōsoku-hen 3000-bandai 1998 PC, Sega Dreamcast a.k.a. Builder's Block 1998 PlayStation, PlayStation Network 1998 1998 PlayStation, PlayStation 2, PlayStation Network, Sega Dreamcast a.k.a. Bust-a-Move 4 1998 Game Boy Color, Microsoft Windows, PlayStation, Sega Dreamcast a.k.a. RayCrisis: Series Termination in US 1998 Microsoft Windows, PlayStation, PlayStation Network 1999 Classic Bubble Bobble 1999 Game Boy Color Densha de Go! 64 a.k.a. Go by Train 64 1999 Nintendo 64 Densha de Go! Professional a.k.a. Go by Train Professional 1999 PC, PlayStation 1999 1999 Mahjong OH (麻雀OH) 1999 1999 PlayStation Side by Side Special 2000 1999 PlayStation a.k.a. Super Bust-a-Move 1999 Game Boy Advance, Nintendo GameCube, PC, PlayStation 2000 PlayStation Chaos Break 2000 PlayStation Chase H.Q. Secret Police 2000 Game Boy Color Cosmo Warrior Zero 2000 PlayStation Densha de Go! Tsūkin-hen (電車でGO!3通勤編) 2000 PlayStation Densha de Go! Tsūkin-hen Daiya Kaisei 2000 PC Densha de Go! Nagoya Railroad a.k.a. Go by Train Nagoya Railroad 2000 PC, PlayStation Densha de Go! Ryojōhen (電車でGO!旅情編) 2000 PC, PlayStation Ganbare Untenshi (がんばれ運転士 2000 Armorines: Project S.W.A.R.M. 2000 PlayStation (Chỉ xuất bản tiếng Nhật) Re-Volt: It's RC Revolution 2000 Dreamcast (Chỉ xuất bản tiếng Nhật) Jet de Go! a.k.a. Go by Jet 2000 PC, PlayStation Kisha de Go! 2000 PC, PlayStation Monkey Puncher (さるパンチャー Saru Panchā) 2000 Game Boy Color 2000 PlayStation 2000 PlayStation Qix Adventure 2000 Game Boy Color Rainbow Islands: Putty's Party 2000 WonderSwan RC de Go! (RCでGO!) a.k.a. Go by RC 2000 PlayStation Shanghai: Shōryū Sairin (上海:昇龍再臨) 2000 Sōtenryū (蒼天リュウ) 2000 2000 2001 Densha de Go! Shinkansen Sanyō 2001 Nintendo Wii, PC, PlayStation 2001 2001 Game Boy Advance, Nintendo DS, PlayStation 2001 Dreamcast (Chỉ xuất bản tiếng Nhật) 2001 PlayStation International League Soccer 2001 PlayStation 2001 PC, PlayStation 2, Xbox 2001 PlayStation Qix Neo 2001 PlayStation 2001 Usagi (兎) 2001 2001 a.k.a. Twelve Stag 2002 PlayStation 2002 2002 PlayStation 2002 Darius R 2002 Game Boy Advance 2002 Elevator Action Old New 2002 Game Boy Advance Jet de GO! 2 a.k.a. Go by Jet 2 2002 PlayStation 2, PC Magic Pengel: The Quest for Color 2002 PlayStation 2002 2002 Shangai: Sangokuhai Tōgi (上海:三國牌闘戯) 2002 Space Raiders 2002 Nintendo GameCube, PlayStation Super Puzzle Bobble 2 a.k.a. Super Bust-a-Move 2 2002 PlayStation Tokyo Road Race 2002 PlayStation 2003 Battle Gear Limited Edition 2002 PlayStation Bubble Bobble: Old New 2003 Game Boy Advance Bujingai 2003 PlayStation 2003 Nintendo GameCube, PC, PlayStation 2, Sega Dreamcast, Xbox Densha de Go! Professional 2 a.k.a. Go by Train Professional 2 2003 PC, PlayStation 2003 2003 Neo Geo MVS, PlayStation 2003 PC, PlayStation Train Simulator Densha de Go! Tōkyō Kyūkō-hen 2003 PlayStation 2, PSP a.k.a. Kollon 2003 PSP 2003 2004 Densha de Go! Final a.k.a. Go by Train Final 2004 PC, PlayStation Giga Wing Generations (翼神GIGAWING GENERATIONS) 2004 PlayStation (虫姫さま) a.k.a. Insect Princess 2004 iOS, PlayStation 2, Xbox 360 Psikyo Shooting Collection Vol. 1: Strikers 1945 II 2004 PlayStation Psikyo Shooting Collection Vol. 2: Samurai Aces Sengoku Blade 2004 PlayStation Psikyo Shooting Collection Vol. 3: Sol Divide Dragon Blaze 2004 PlayStation Puzzle Bobble Deluxe a.k.a. Bust-a-Move Deluxe 2004 PSP, Xbox a.k.a. Target: Force in Japan 2004 2004 iOS, Mobile Phone, PlayStation 2, Sega Dreamcast 2004 Mobile Phone 2005 Densha de Go! Pocket Yamanote sen-sen 2005 PSP Exit 2005 Nintendo DS, PSP, Xbox Live Arcade 2005 Graffiti Kingdom 2005 PlayStation 2005 2005 Homura (ほむら) a.k.a. Flame 2005 PlayStation Jet de Go! Pocket a.k.a. Go by Jet Pocket 2005 PSP 2005 Psychic Force Complete 2005 PlayStation Puzzle Bobble DS a.k.a. Bust-a-Move DS 2005 Nintendo DS Raiden III (雷電III) 2005 EZweb, iOS, Mobile Phone, PC, PlayStation 2, PlayStation Network Space Invaders Pocket 2005 PSP Space Invaders Revolution 2005 Nintendo DS 2005 2006 Mobile Phone Taito Legends 2005 PC, PlayStation 2, Xbox Taito Memories Volume 1 2005 PlayStation Taito Memories Volume 2 2005 PlayStation TRANCE PINBALL 2005 Mobile Phone 2005 2005 2005 2005 2006 2006 Nintendo Wii, PC, Xbox 360 a.k.a. Chase Headquarters 2 2006 Cooking Mama 2006 iOS, Nintendo DS Densha de Go! Pocket Chūō-sen-hen 2006 PSP Densha de Go! Pocket 2006 PSP Densha de Go! Pocket 2006 PSP 2006 2006 Exit 2 2006 PSP, Xbox Live Arcade 2006 Ibara (鋳薔薇) a.k.a. Rose Casting 2006 PlayStation 2006 LostMagic 2006 Nintendo DS Minna no Oshigoto (みんなのおしごと) 2006 Monster Bomber 2006 Nintendo DS Over Fighters 2006 Xbox 360 Rainbow Islands Revolution 2006 Nintendo DS, PSP Sekai Bikkuri Tankentai (世界ビックリ探検隊) 2006 Taito Legends 2 2006 PC, PlayStation 2, Xbox Taito Legends Power-Up 2006 PSP Taito Memories Pocket 2006 PSP Yawaraka Sensha VS Space Invaders 2006 Mobile Phone 2006 2007 2007 PlayStation 3, PlayStation Network, Xbox 360 Cooking Mama: Cook Off 2007 Nintendo Wii Cooking Mama 2: Dinner with Friends 2007 Nintendo DS Densha de Go! Shinkansen EX Sanyō 2007 Nintendo Wii 2007 2007 Furu Furu Park 2007 Nintendo Wii The New Zealand Story Revolution 2007 Nintendo DS Puzzle Bobble Bash! a.k.a. Bust-a-Move Bash! 2007 Nintendo Wii Raiden IV (雷電IV) 2007 Xbox 360 Rainbow Islands Evolution 2007 PSP Space Invaders Pinball 2007 Mobile Phone Space Invaders Trilogy 2007 Mobile Phone Taito Memories II Volume 1 2007 PlayStation Taito Memories II Volume 2 2007 PlayStation Turn It Around! 2007 Nintendo DS Arkanoid DS 2008 Nintendo DS 2008 PC, PlayStation 3, PSP, Xbox 360 Cooking Mama: World Kitchen 2008 Nintendo Wii D1GP Arcade 2008 2008 2008 2008 Space Invaders Extreme 2008 Nintendo DS, PSP, Xbox Live Arcade 2008 Arkanoid Plus! 2009 WiiWare Bubble Bobble Plus! 2009 WiiWare Chō Chabudai Gaeshi! (超ちゃぶ台返し!) 2009 Cooking Mama 3: Shop Chop 2009 Nintendo DS 2009 Dariusburst 2009 PSP 2009 Gardening Mama 2009 iOS, Nintendo DS 2009 2009 2009 2009 a.k.a. Haunted Museum 2009 Puzzle Bobble Plus! a.k.a. Bust-a-Move Plus 2009 WiiWare Rainbow Islands: Towering Adventure! 2009 WiiWare 2009 Space Invaders Extreme 2 2009 Nintendo DS, PSP Space Invaders Get Even 2009 WiiWare Space Puzzle Bobble a.k.a. Space Bust-a-Move; Puzzle Bobble Galaxy in EU 2009 Nintendo DS Takt of Magic 2009 Nintendo Wii 2009 2009 2009 Babysitting Mama 2010 WiiWare 2010 PlayStation 3, Xbox 360 2010 Chō Chabudai Gaeshi! 2 (超ちゃぶ台返し!その2) 2010 2010 Densha de Go! Special Showa Yamanote Line 2010 Nintendo DS 2010 2010 2010 2010 Qix++ 2010 PSP, Xbox Live Arcade RayStorm HD 2010 PlayStation Network, Xbox Live Arcade 2010 Space Invaders Infinity Gene 2010 Android, iOS, PlayStation Network, Xbox Live Arcade 2010 2010 2011 a.k.a. Legendary Cannon 2011 Chō Chabudai Gaeshi! Kyojin no Hoshi do Konjō-hen 2011 2011 DenGO! Yamanote Line 2011 iOS Drawin' Growin' 2011 iOS Elevator Action Deluxe 2011 PlayStation Network Groove Coaster 2011 iOS 2011 2011 New Puzzle Bobble a.k.a. New Bust-a-Move 2011 iOS Puzzle Bobble Online 2011 Microsoft Windows Puzzle Bobble Universe a.k.a. Bust-a-Move Universe 2011 Nintendo 3DS 2011 a.k.a. Haunted Museum II 2011 Dariusburst Second Prologue 2012 iOS Kādo de Renketsu! Densha de GO! (カードで連結!電車でGO!) 2012 2012 Cooking Mama Seasons 2012 iOS Groove Coaster Zero 2012 iOS Crime Connection 2013 iOS, Android 2014 Left Dead: Arcade (L4Dac) Bubblen March 2014 iOS, Android Arkanoid vs. Space Invaders (アルカノイド vs. スペースインベーダー Arukanoido vs. Supēsu Inbēdā) 2017 iOS, Android Dariusburst Chronicle Saviours 2017 PlayStation 4, PlayStation Vita, Steam Densha de Go (電車でGO 2017 Darius Cozmic Collection 2019 Nintendo Switch Bubble Bobble Friends 2019 Nintendo Switch Groove Coaster Wai Wai Party 2019 Nintendo Switch Touhou Spell Bubble 2020 Nintendo Switch Tetote Connect (テトテ×コネクト Tetote konekuto) 2020 Arcade Taito Square Enix Danh sách trò chơi điện tử Square Enix Danh sách trò chơi di động Square Enix =Liên kết ngoài Danh sách trò chơi của Taito at MobyGames Taito Arcade Hardware at System 16 The Killer List of Videogames Taito | danh sách trò chơi | |
Bột cực liệt (chữ Hán phồn thể: 勃極烈, giản thể: 勃极烈; văn tự Nữ Chân: 50px ), hay Bojilie, là chế độ thống trị quốc gia của nhà Kim, cải biến từ chế độ liên minh các bộ lạc của người Nữ Chân, dựa trên hình thức tập trung quyền lực vào tay một nhóm nhỏ các thủ lĩnh cao cấp nhất của liên minh các bộ lạc những người mang tước hiệu Bojilie từ đó trở thành tên chung của chế độ cai trị này. Sau khi thống nhất các bộ lạc Nữ Chân, đầu năm 1115, Hoàn Nhan Cốt Đả kiến quốc xưng đế, đặt niên hiệu Thu Quốc. Tháng 7, Aguda tổ chức hội nghị với các thủ lĩnh (beile) của các bộ lạc Nữ Chân, tiến hành cải tổ chế độ cai trị quốc gia non trẻ. Cơ bản, chế độ cai trị quốc gia Nữ Chân vẫn dựa trên truyền thống liên minh bộ lạc theo chế độ chiếm hữu nô lệ, tuy nhiên cải tiến theo hướng tập quyền dần vào một số ít thủ lĩnh cao cấp làm trung tâm của chính quyền, gọi chung là các Bojilie. Ban đầu, chế độ Bojilie có thành viên: Hoàn Nhan Cốt Đả làm Du Bojilie (都勃極烈, Đô Bột cực liệt), tức Thủ lĩnh tối cao, hay Hoàng đế. Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi làm Anban Bojilie (諳版勃極烈, Am ban Bột cực liệt), tức Thủ lĩnh kế vị, hay Hoàng trữ (người kế vị Hoàng đế, trong trường hợp này là Hoàng thái đệ) Hoàn Nhan Tát Cải làm Gorun Bojilie (國論勃極烈, Quốc luận Bột cực liệt), tức Thủ lĩnh tham mưu, hay Quốc tướng. Hoàn Nhan Từ Bất Thất làm Emai Bojilie (阿買勃極烈, mãi Bột cực liệt), còn gọi là Eshi Bojilie (阿舍勃極烈, xá Bột cực liệt) hay Zaska Bojilie (札失哈勃極烈, Trát thất cáp Bột cực liệt), tức trợ thủ thứ nhất của Quốc tướng Hoàn Nhan Tà Dã làm Hao Bojilie (昊勃極烈, Hạo Bột cực liệt), tức trợ thủ thứ hai của Quốc tướng Tháng 9, Kim Thái Tổ đổi danh xưng của Tát Cải làm Hulu Bojilie (忽魯勃極烈, Hốt lỗ Bột cực liệt, hay 胡魯勃極烈, Hồ lỗ Bột cực liệt), thêm Hoàn Nhan Ly Hợp Muộn làm Yishi Bojilie (乙室勃極烈, Ất thất Bột cực liệt), hay Yilai Bojilie (移賚勃極烈, Di lãi Bột cực liệt), tức trợ thủ thứ ba của Quốc tướng Năm Thiên Phụ thứ (1119),A Ly Hợp Muộn chết. Năm Thiên Phụ thứ (1121), Tát Cải cũng qua đời. Tà Dã được thăng làm Hulu Bojilie. Một người anh em họ của Cốt Đả là Bojienu (蒲家奴, Bồ Gia Nô) đảm nhiệm Hao Bojilie. Con trưởng của Tát Cải là Niêm Một Hát được bổ vào chức vị Yilai Bojilie. Tháng năm Thiên Phụ thứ (1123), Kim Thái Tổ băng hà. Ngô Khất Mãi lên kế vị, về sau được tôn xưng là Kim Thái Tông. Tà Dã được thăng làm Anban Bojilie để chuẩn bị kế vị anh sau này. Oát Bản làm Hulu Bojilie. Một tháng sau, Từ Bất Thất chết. Năm Thiên Hội thứ (1124), Manduhe (謾都訶, Mạn Đô Ha) làm Eshi Bojilie. Năm Thiên Hội thứ (1130), Tà Dã chết, vị trí Anban Bojilie để trống năm. Năm Thiên Hội thứ 10 (1132), Kim Thái Tông mới lập đích tôn của Cốt Đả là Hoàn Nhan Hợp Lạt làm Anban Bojilie. Đồng thời, Kim Thái Tông vì lợi ích bàn thân đưa ra những điều chỉnh: con trưởng của mình là Hoàn Nhan Tông Bàn làm Hulu Bojilie, đổi Hoàn Nhan Tông Cán từ Hulu Bojilie làm Tả Bột Cực Liệt, Hoàn Nhan Tông Hàn từ Di lãi Bột cực liệt lên làm Hữu Bột Cực Liệt. Sau khi Man Đô Ha mất cũng không bổ nhiệm người thay thế, phế bỏ chức vị Eshi Bojilie. Năm Thiên Hội thứ 12 (1134), Kim Thái Tông băng. Hợp Lạt kế vị, sau được tôn là Kim Hy Tông, đã tổ chức quan chế theo kiểu Hán. Hoàn Nhan Tông Bàn dời sang làm Thượng thư lệnh, Thái sư; Hoàn Nhan Tông Cán dời sang làm Thái phó; Hoàn Nhan Tông Hàn dời sang làm Thái bảo; cùng nhau tổng quản cơ cấu chính phủ, lĩnh Tam tỉnh sự. Đến năm Thiên Hội thứ 14 (1136), chế độ Bột Cực Liệt hoàn toàn bị phế trừ, quan chế nhà Kim đã được Hán hóa, kiến lập Thượng thư tỉnh làm trung tâm của Tam tỉnh chế, lấy Tam sư (Thái sư/ Thái phó/ Thái bảo) cùng Tam công (Thái úy/ Tư đồ/ Tư không) lĩnh Tam tỉnh sự. Sau khi Hán hóa thành công, Kim Hy Tông lập con trai của mình làm Hoàng trữ (tức Thái tử), khiến cho Tông Bàn bất mãn, dẫn đến nội loạn, nhưng rất nhanh bị dẹp trừ. Kim Sử Thái Tổ bản kỷ Kim Sử Thái Tông bản kỷ Kim Sử Bách Quan chí Kim Sử Kim Quốc ngữ giải | Bột cực liệt | Nhà Kim, Quan chế Trung Quốc |
Igor Aleksandrovich Netto () (9 tháng năm 1930 30 tháng năm 1999) là một cựu cầu thủ bóng đá Liên Xô, được xem là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá Xô viết. Ban đầu ông chơi vị trí hậu vệ trái, nhưng với khả năng tấn công, rê dắt bóng và kĩ thuật tốt, sau đó ông chuyển sang vị trí tiền vệ. Netto là đội trưởng đội tuyển Liên Xô từ 1954 đến 1963. Ông dẫn dắt đội tuyển quốc gia giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1956 và chức vô địch châu Âu đầu tiên năm 1960. Ông chỉ tham dự một trận đấu tại vòng chung kết World Cup 1958 do chấn thương, nhưng tham dự đủ cả bốn trận tại World Cup 1962 khi Liên Xô vào tới tứ kết. Tổng cộng Netto khoác áo đội tuyển quốc gia 54 trận và ghi bàn thắng. Toàn bộ sự nghiệp ông chỉ thi đấu cho một câu lạc bộ là Spartak Moskva từ 1949 đến 1966, ghi 37 bàn thắng trong 367 trận đấu giải vô dịch, có được danh hiệu vô địch quốc gia và Cúp quốc gia. Netto giải nghệ năm 1966 và trở thành một huấn luyện viên khúc côn cầu trên băng. Ông được trao tặng Huân chương Lenin năm 1957. Vào giai đoạn cuối của sự nghiệp, Netto làm huấn luyện viên bóng đá, từng huấn luyện các câu lạc bộ và đội tuyển AC Omonia (Kypros), Shinnik Yaroslavl, Torpedo Moskva, Iran, Panionios (Hy Lạp) và Neftchi Baku (Azerbaijan). Sân vận động của Spartak Moskva mang tên ông. *Vô địch châu Âu (1): 1960 *Vô địch Olympic: 1956 *Vô địch Liên Xô: 1952, 1953, 1956, 1958, 1962 *Cúp bóng đá Liên Xô: 1958, 1958, 1963 *Vô địch Liên Xô: 1976 (với Torpedo Moskva) *Cúp bóng đá Liên Xô: 1968, 1986 (với Torpedo Moskva) Tiểu sử ngắn gọn của Igor Netto | Igor Aleksandrovich Netto | Sinh năm 1930, Mất năm 1999, Cầu thủ bóng đá Liên Xô, Cầu thủ bóng đá Nga, Cầu thủ bóng đá Spartak Moskva, Huy chương bóng đá Thế vận hội, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1962, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1958 |
Antonijo Ježina (sinh tháng năm 1989) là một thủ môn bóng đá Croatia thi đấu cho GNK Dinamo Zagreb. Anh ra mắt cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia ngày 10 tháng năm 2013, trong trận giao hữu trước Hàn Quốc. Vào trận với tư cách cầu thủ vào sân phút bù giờ, anh để thủng lưới một bàn sau chỉ chưa đầy một phút trên sân. | Antonijo Ježina | Sinh năm 1989, Nhân vật còn sống, Vận động viên Šibenik, Cầu thủ bóng đá Croatia, Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Croatia, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Croatia, Cầu thủ bóng đá NK Zadar, Cầu thủ bóng đá NK Istra 1961, Cầu thủ bóng đá Dinamo Zagreb, Cầu thủ bóng đá Royal Antwerp F.C., Cầu thủ bóng đá nước ngoài Bỉ, Cầu thủ bóng đá Croatia nước ngoài, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia |
Evolvulus arizonicus là một loài thực vật có hoa trong họ Bìm bìm. Loài này được A. Gray mô tả khoa học đầu tiên năm 1878. Tập tin:Diversas Jura 219.jpg Tập tin:Evolvulus blue.jpg Tập tin:Evolvulus glomeratus "Blue Daze" 2.jpg Tập tin:Evolvulus glomeratus "Blue Daze".jpg | ''Evolvulus arizonicus | Evolvulus |
Grammitis turquina là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1947. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Grammitis turquina | Grammitis, Unresolved names |
Chu Hữu Văn (, 912), nguyên tên là Khang Cần (康勤), tên tự Đức Minh (德明), là một thân vương của triều Hậu Lương thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nghĩa tử của hoàng đế khai quốc Hậu Lương Thái Tổ, được xem là người kế vị tiềm năng. Tuy nhiên, vào năm 912, Dĩnh vương Chu Hữu Khuê hành thích Thái Tổ và đưa Chu Hữu Văn vào chỗ chết. Khi còn trẻ, Chu Hữu Văn có dung mạo tuấn tú, hiếu học, thiện đàm luận, rất có tài làm thơ. Ông trở thành con nuôi của Chu Toàn Trung và đổi tên thành Chu Hữu Văn, trước khi Chu Toàn Trung trở thành tiết độ sứ của bốn trấn vào năm 901 sau đó Chu Toàn Trung cho Chu Hữu Văn giữ chức độ chi, diêm-thiết chế trí sứ. Chu Hữu Văn là con thứ hai của Chu Toàn Trung, anh cả là Chu Hữu Dụ (朱友裕) qua đời trước khi Hậu Lương được thành lập. Trong các chiến dịch chinh phục các quân xung quanh của Chu Toàn Trung, Chu Hữu Văn chịu trách nhiệm thu thuế và quản lý tài chính để tiếp tế cho binh sĩ. Theo ghi chép thì Chu Toàn Trung quý mến ông hơn hai người con đẻ là Chu Hữu Khuê và Chu Hữu Trinh. Năm 907, Chu Toàn Trung buộc Đường Ai Đế phải thiện nhượng cho mình, kết thúc triều Đường và mở đầu triều Hậu Lương, Chu Toàn Trung trở thành Hậu Lương Thái Tổ. Hậu Lương Thái Tổ phong vương cho các hoàng tử, Tuyên Vũ tiết độ phó sứ Chu Hữu Văn được phong là Bác vương, được bổ nhiệm giữ chức Khai Phong doãn, phán viện sự, cai quản Kiếm Xương viện (chịu trách nhiệm về tài chính). Sau khi Hậu Lương Thái Tổ chính thức chọn Lạc Dương làm kinh đô, Khai Phong trở thành Đông đô, Chu Hữu Văn trở thành Đông đô lưu thủ. Theo ghi chép, từ sau thời điểm đó, Chu Hữu Văn thường dành thời gian vào việc uống rượu và không còn lưu tâm đến nhiệm vụ như trước kia. Năm 911, sau khi Hậu Lương Thái Tổ triệu Thái châu thứ sử Trương Thận Tư (張慎思) đến Lạc Dương, Lưu Hành Tông (劉行琮) tiến hành binh biến và chuẩn bị dẫn loạn binh chạy sang Hoài Nam, Vương Tồn Nghiễm (王存儼) giết Hành Tông và tự quản lý châu sự. Chu Hữu Văn không hài lòng trước việc này và phát binh tiến công, song Hậu Lương Thái Tổ khi hay tin thì chỉ ra rằng nếu làm vậy thì Vương Tồn Nghiễm sẽ chạy sang Hoài Nam, vì thế phái người đến ngăn Chu Hữu Văn. Sau khi chiến bại trong một chiến dịch chống Tấn vào mùa xuân năm 912, Hậu Lương Thái Tổ lâm bệnh và giành mùa hè năm 912 để dưỡng bệnh tại Ngụy châu. Trong lúc Hậu Lương Thái Tổ dưỡng bệnh, Chu Hữu Văn tới Ngụy châu để thăm vua cha và mời vua cha đến thăm Đại Lương (tức Khai Phong). Hậu Lương Thái Tổ chấp thuận, và sau đó qua Đại Lương trước khi trở về Lạc Dương. Trong khi đó, theo ghi chép thì từ sau khi Trương thị qua đời, Hậu Lương Thái Tổ ngày càng trở nên dâm loạn, đếm nỗi khi các hoàng tử đi xa làm nhiệm vụ, ông liền triệu các con dâu vào cung để thị tẩm (hầu ngủ). Vợ của Chu Hữu Văn là Vương thị được mô tả là đặc biệt xinh đẹp, được Hậu Lương Thái Tổ sủng ái, điều này góp phần khiến cho Hậu Lương Thái Tổ ngày càng tin tưởng Chu Hữu Văn, dự định cho Chu Hữu Văn kế vị. Chu Hữu Khuê đang giữ chức Tả hữu Khống Hạc đô chỉ huy sứ đặc biệt ghen tị với sự yêu mến mà vua cha thể hiện với Chu Hữu Văn. Vào mùa hè năm 912, sau khi trở về Lạc Dương, Hậu Lương Thái Tổ lâm bệnh nặng, Hoàng đế khiển Vương đến Đại Lương để triệu Chu Hữu Văn hồi kinh, có giao lại hoàng vị cho ông. Vợ của Chu Hữu Khuê là Trương thị cũng có mặt trong cung và biết được chuyện này, bà mật báo cho Chu Hữu Khuê. Đêm 18 tháng 7, Chu Hữu Khuê đem quân tiến vào hoàng cung và hành thích Hậu Lương Thái Tổ. Chu Hữu Khuê không công bố về việc phụ hoàng qua đời, sai Cung phụng quan Đinh Chiêu Phổ (丁昭溥) đem chiếu chỉ giả đến Đông đô, lệnh cho Chu Hữu Trinh giết Chu Hữu Văn, Chu Hữu Trinh làm theo thánh chỉ. Sau đó, Chu Hữu Khuê đổ tội hành thích cho Chu Hữu Văn, rồi lên ngôi. Sau khi Chu Hữu Trinh lật đổ Chu Hữu Khuê vào năm 913 và tức vị, ông ta phục hồi thanh danh và quan tước cho Chu Hữu Văn. | Chu Hữu Văn | Mất năm 912, Nhân vật chính trị Ngũ đại Thập quốc, Năm sinh không rõ, Hậu Lương (Ngũ đại), Sinh thế kỷ |
Secretly, Greatly (tên gốc tiếng Hàn: 은밀하게 위대하게) là một phim điện ảnh Hàn Quốc dựa trên bộ truyện tranh mạng nổi tiếng cùng tên của tác giả Hun (tên thật: Choi Jong-hun), công chiếu lần đầu vào ngày tháng năm 2013 tại Hàn Quốc. Bộ phim có sự tham gia diễn xuất của ba gương mặt diễn viên triển vọng của Hàn Quốc là Kim Soo-hyun, Park Ki-woong và Lee Hyun-woo. Thiếu tá quân đội nhân dân Triều Tiên Won Ryu-hwan, 24 tuổi, tài năng, mạnh mẽ, nhận được nhiệm vụ ẩn thân thành một tên ngốc mang tên Bang Dong-gu nằm vùng tại một khu dân cư nghèo tại Seoul, Hàn Quốc. Tại đây, anh sống cuộc sống phức tạp: một mặt tiếp tục cải trang thành tên ngốc, một mặt tiếp tục quan sát và chờ lệnh từ cấp trên. Trong thời gian hoạt động, anh luôn âm thầm bảo vệ, giúp đỡ những người dân vô tội nơi đây. Tình cờ, một đồng đội cũ của Ryu-hwan tên Lee Hae-rang cũng nhận được nhiệm vụ nằm vùng tương tự với anh nhưng dưới thân phận ca sĩ nhạc rock tên Kim Min-su đang cố gắng thi vào một công ty giải trí. Một đồng chí cùng khu vực với Ryu-hwan ẩn thân là một nhân viên giao hàng cho cửa tiệm anh làm việc do uẩn khúc đã bị thay thế bởi một bộ đội viên Triều Tiên khác từng có quan hệ sâu sắc với Ryu-hwan có ẩn thân là học sinh trung học 17 tuổi tên Lee Hae-jin. Khi cả ba người mới hội họp được ít lâu, cấp trên đột nhiên hạ lệnh tự sát khó hiểu gửi tới tất cả điệp viên tại Hàn Quốc. Đại tá Kim Tae-won dẫn theo nhiều đặc vụ đến Hàn Quốc để truy sát những điệp viên từ chối tự sát. Ryu-hwan nói lời tạm biệt với mọi người trong khu dân cư rồi rời đi cùng với Hae-rang. Cả hai đến một tòa nhà bỏ hoang, tại đây Seo Sang-gu tiết lộ ông ta chính là giáo sư khoa chính trị Triều Tiên, và cho một nhóm côn đồ tấn công cả hai. Sang-gu còn nói rằng người thân của các điệp viên đều đã bị chính phủ Triều Tiên xử tử, điều này có nghĩa là mẹ của Ryu-hwan đã chết. Một lát sau, Tae-won đến nơi, lực lượng cảnh sát Hàn Quốc cũng đến. Cuộc giao chiến tiếp tục diễn ra trên sân thượng. Hae-jin cải trang thành cảnh sát để đến giúp đỡ Ryu-hwan và Hae-rang. Cuối cùng Ryu-hwan, Hae-rang và Hae-jin đều bỏ mạng. khu dân cư, bà chủ tiệm tạp hóa hàng ngày vẫn chờ đợi chàng ngốc Dong-gu trở về, nhưng bà không biết rằng anh không còn trở về được nữa. Kim Soo-hyun vai Won Ryu-hwan (Nguyễn Lưu Hoán) Bang Dong-gu (Phương Đông Cửu) Park Ki-woong vai Lee Hae-rang (Lý Hải Lãng) Kim Min-su (Kim Mẫn Tú) Lee Hyun-woo vai Lee Hae-jin (Lý Hải Chân) Son Hyeon-ju vai Đại tá Kim Tae-won (Kim Thái Nguyên) Park Hye-suk vai Jeon Su-im (Kim Thuận Lâm) Kim Seong-gyun vai Seo Su-hyeok (Từ Tú Hách) Go Chang-seok vai Seo Sang-gu (Từ Thượng Cửu) Jang Gwang vai Go Yeong-gam (Cao Anh Cam) Park Eun-bin vai Yun Yu-ran (Duẫn Liễu Loan) Choi Woo-sik vai Yun Yu-jun (Duẫn Liễu Tuấn) Lee Chae-yeong vai Ran Heo Cheom-na (Hứa Thiêm Na) Hong Gyeong-in vai Jo Du-seok (Tào Đẩu Tích) Với số vé trong ngày đạt mức 498.282 vé trong thời gian trình chiếu, bộ phim ghi kỷ lục phim có lượng vé bán chạy nhất trong ngày mọi thời đại tại Hàn Quốc, vượt qua bộ phim "The Host" đạt được năm 2006. Chỉ trong 36 giờ đồng hồ, lượng xem đã đạt mức 1.011.025, trở thành bộ phim có tốc độ tăng trưởng lượng xem nhanh nhất trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc. Trong ngày thứ trình chiếu (trùng với ngày lễ tại Hàn Quốc), lượng xem đạt 919.035 lượt và nhanh chóng đạt triệu lượt xem chỉ trong 72 giờ. Vào ngày thứ 5, triệu lượt xem được xác nhận và thiết lập một kỷ lục mới. Bộ phim đạt 3.491.294 lượt xem trong tuần đầu, chiến thắng kỷ lục của Dark of the Moon" trong năm 2011. Vào ngày thứ 8, triệu lượt xem được xác nhận. Và tới ngày thứ 12, bộ phim chạm mốc triệu lượt xem. Vào ngày 19, bộ phim chính thức cùng với "Miracle in Cell No. 7", "Iron Man 3" và "The Berlin File''" trở thành bộ phim có lượng xem lớn nhất năm 2013 tại Hàn Quốc. Trang chủ Trang thông tin trên Daum | ''Secretly, Greatly | Phim năm 2013, Phim Hàn Quốc, Phim tiếng Triều Tiên, Phim hành động Hàn Quốc, Phim chính kịch Hàn Quốc, Phim hài Hàn Quốc, Phim dựa theo truyện tranh, Phim lấy bối cảnh Seoul, Phim quay tại Hàn Quốc, Phim hành động thập niên 2010, Phim chính kịch thập niên 2010, Phim lấy bối cảnh thập niên 2010 |
Hiệu suất chi tiết đơn hàng được xác nhận (CLIP) là một trong những số liệu chẩn đoán để thực hiện đơn hàng hoàn hảo, xác định phép đo độ tin cậy phân phối chuỗi cung ứng giữa các cơ sở trong chuỗi cung ứng. Những cơ sở đó có thể thuộc về một công ty hoặc trải rộng trên một số công ty. CLIP là một phép đo tương tự lấy phần hoàn thành vào tài khoản bằng cách sử dụng ngày cam kết của khách hàng làm ngày tham chiếu. Điều này dự định sử dụng trong một phần của chuỗi cung ứng với mô hình nhu cầu trong thời gian cố định (ví dụ hàng ngày hoặc hàng tuần) và luồng nguyên liệu cố định (ví dụ giữa trung tâm sản xuất và phân phối), sau đó được phân chia lại để gửi cho các khách hàng và địa điểm khác nhau. CLIP cho thấy mối quan hệ giữa tổng số giao hàng và giao hàng vượt quá so với tổng số đơn đặt hàng và tồn đọng thực tế theo số phần trong khoảng thời gian được xem xét. Tổng hợp tất cả các số bộ phận (định danh để kiểm soát sản xuất, tính toán, giao hàng và các sản phẩm cho mục đích khác), nó cho thấy trạng thái thực hiện đơn hàng. Phân phối vượt mức (cộng với giao hàng quá mức) cho một sản phẩm (được chỉ định bởi số phần của nó) không bù cho tồn đọng của sản phẩm khác. Các định nghĩa cho tồn đọng, giao hàng trước, giao hàng quá mức và giao hàng vượt mức cho một sản phẩm như sau: :* Có tồn đọng nếu tổng số tiền giao hàng nhỏ hơn tổng số cam kết. :* Có một giao hàng trước nếu tổng số tiền giao hàng lớn hơn tổng số cam kết và có đơn đặt hàng cho tương lai. :* Có một giao hàng quá mức nếu tổng số tiền giao hàng lớn hơn tổng số cam kết nhưng không có nhiều đơn đặt hàng trong tương lai. :* Giao hàng vượt quá là tổng của giao hàng trước và giao hàng quá mức. Để xác định hiệu suất của chi tiết đơn hàng được xác nhận, hai số lượng "ảo" được giới thiệu: đơn hàng gần như đã cam kết và phân phối ảo. Đơn hàng gần như đã cam kết cho một sản phẩm bao gồm đơn đặt hàng thực tế cho tuần giao hàng được xem xét (DW) cộng với bất kỳ tồn đọng nào của sản phẩm này được tích lũy cho đến tuần đó. :* đơn hàng hầu như đã cam kết p, DW đơn hàng thực tế p, DW tồn đọng p, DW Việc phân phối ảo cho một sản phẩm bao gồm các chip thực sự được giao trong tuần giao hàng được xem xét cộng với bất kỳ việc giao hàng vượt quá nào của sản phẩm này được tích lũy cho đến tuần đó. :* phân phối ảo p, DW phân phối thực tế p, DW phân phối vượt quá p, DW Hiệu suất chi tiết đơn hàng được xác nhận của một sản phẩm trong một tuần giao hàng được tính bằng tỷ lệ phân phối ảo với đơn hàng gần như đã cam kết. Nếu có nhiều chip được giao hơn đơn đặt hàng, CLIP hàng tuần của sản phẩm tương ứng là 100%. :* ×100% CLIP hàng tuần của toàn bộ trang web được tính là CLIP trung bình hàng tuần của tất cả các sản phẩm với đơn hàng gần như đã cam kết. Mỗi sản phẩm được tính riêng (theo số phần). Không có trọng số theo khối lượng áp dụng. :* ×100% CLIP đang được đo cho mỗi số phần. Giá trị CLIP của một “bó” nhất định (vị trí, PL, Segment, vv) số phần được tính bằng trung bình các giá trị CLIP của số phận cá nhân trong đó “bó”. Mỗi số phận trong một tập hợp (“bó”) được tính là 1, không phân biệt lớn như thế nào khối lượng sản xuất cho rằng số phần là. Độ trễ so với ngày xác nhận được tính đến. Trong mọi khoảng thời gian, việc tồn đọng của các giai đoạn trước không được thực hiện, hiệu suất CLIP sẽ xấu đi báo hiệu cho người nhận một nhu cầu mở. | Hiệu suất chi tiết đơn hàng được xác nhận | Quản lý chuỗi cung ứng |
Davallia elmeri là một loài dương xỉ trong họ Davalliaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1920. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Davallia elmeri | Davallia, Unresolved names |
Cuộc hành quân xâm lược Vigan của Nhật Bản (Tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Vigan, tiếng Ilocano: Dimmarup dagiti Hapones iti Vigan) vào ngày 10 tháng 12 năm 1941 là một trong các cuộc đổ bộ trước của quân đội Nhật Bản như là bước đầu tiên trong Chiến dịch xâm lược Philippines. Mục đích là để giành quyền kiểm soát các đường băng địa phương, có thể được sử dụng làm căn cứ tiền phương bằng máy bay chiến đấu cho các hoạt động xa hơn về phía nam. Cuộc đổ bộ đầu tiên diễn ra tại đảo Batan vào ngày tháng 12 năm 1941. Tiếp theo là Vigan, Aparri, Legaspi, Davao, và đảo Jolo trong vài ngày tới. Vigan là thủ phủ của tỉnh Ilocos Sur, phía Tây Bắc Luzon, khoảng 220 dặm về phía bắc Manila trên tuyến đường ven biển 3. Phía đông giáp dãy núi Cordillera tách nó ra khỏi Thung lũng Cagayan. Thành phố cách bờ biển khoảng dặm, và được phục vụ bởi cảng Pandan trên cửa sông Abra. Khu vực Vigan trên lý thuyết được bảo vệ bởi Lực lượng Bắc Luzon của Tướng Wainwright. Tuy nhiên, chỉ với một vài người và một lãnh thổ rộng lớn để bảo vệ, Wainwright chỉ có thể dành dành một sư đoàn Philippines được huấn luyện và trang bị một phần, Sư đoàn 11, do Đại tá William E. Brougher chỉ huy, cho toàn bộ miền bắc Luzon. Là một sư đoàn dự bị, Sư đoàn 11 chỉ bắt đầu huy động vào tháng và chỉ bằng 2/3 sức mạnh được uỷ quyền là 1,500 người mỗi trung đoàn. Nó cũng bị thiếu trang thiết bị nghiêm trọng, bao gồm gần như tất cả pháo binh và phương tiện vận tải. Về phía Nhật Bản, Tướng Homma đã tổ chức một phân đội từ Trung đoàn Bộ binh thuộc Sư đoàn 48 dưới quyền Đại tá Kanno. Con số này có khoảng 2,000 người thuộc Tiểu đoàn và một nửa Tiểu đoàn 1. Lực lượng đổ bộ được hỗ trợ bởi một đội tàu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản do Phó Đô đốc Shoji Nishimura chỉ huy, bao gồm tuần dương hạm hạng nhẹ Naka, các khu trục hạm Murasame, Yūdachi, Harusame, Samidare, Asagumo, Minegumo, Natsugumo, tàu quét mìn, tàu săn ngầm và tàu vận tải. Hạm đội được bố trí từ Mako thuộc quần đảo Pescadores và đi đến Vigan trước bình minh ngày 10 tháng 12. Chiến dịch đổ bộ được bảo vệ bởi máy bay của Trung đoàn Tiêm kích 24 và 50 Nhật Bản được phóng từ sân bay trên đảo Batan chiếm được một ngày sau đó. Cùng lúc với chiến dịch đổ bộ lên Aparri, Phân đội Kanno lên bờ tại Vigan mà không gặp phải sự kháng cự nào từ quân Mỹ; tuy nhiên, các báo cáo về cuộc đổ bộ đã được chuyển đến Sở chỉ huy của Tướng MacArthur tại Manila bởi một máy bay trinh sát Curtiss P-40 Warhawk, và Không lực Viễn Đông đã tung ra lực lượng tấn công bao gồm chiếc Boeing B-17 Flying Fortresses và được hộ tống bởi các máy bay tiêm kích P-40 và Seversky P-35 thuộc Phi đội Tiêm kích 34. Biệt đội ban đầu từ Biệt đội Kanno nhanh chóng bảo vệ thành phố Vigan vào lúc 10:30 sáng; tuy nhiên, cũng như tại Aparri, hoạt động đổ bộ của Nhật Bản bị cản trở bởi biển động và gió mạnh. Máy bay Mỹ đã tấn công hạm đội Nhật Bản bằng bom và các cuộc tấn công bắn phá, và một trong những tàu vận tải Nhật Bản, Oigawa Maru buộc phải lên bờ để tránh bị chìm. Một tàu vận tải thứ hai, Takao Maru cũng bị mắc cạn trong một cuộc tấn công sau đó, và một tàu quét mìn W-10 bị đánh chìm. Người Nhật cũng có thương vong trên khu trục hạm Murasame và tuần dương hạm hạng nhẹ Naka (3 thành viên thuỷ thủ đoàn thiệt mạng) và 30 người trên tàu vận tải Hawaii Maru bị thương, bất chấp sự yểm trợ trên không của 18 máy bay tiêm kích thuộc Trung đoàn Tiêm kích 24 Nhật Bản. Do thời tiết xấu vẫn tiếp tục, Lực lượng Đổ bộ Vigan được chuyển dặm về phía nam, nơi cuối cùng nó đã có thể đổ bộ phần còn lại của Biệt đội Kanno vào ngày 11 tháng 12. Một đơn vị nhanh chóng được gửi về phía bắc để chiếm Laoag, thủ phủ của tỉnh Ilocos Norte, cách đó 50 dặm, cùng với sân bay của nó. Với việc quân Mỹ đang rút lui, Homma quyết định chỉ để lại một đơn vị đồn trú nhỏ tại Vigan, và di chuyển phần lớn lực lượng chiến đấu của mình về phía nam để hỗ trợ lực lượng đổ bộ Nhật Bản tại vịnh Lingayen. Đến 13:00 ngày 20 tháng 12, Biệt đội Tanaka từ các phân đội Aparri và Kanno đã hợp nhất với nhau thành một trung đoàn duy nhất, và hành quân ra khỏi Vigan về phía nam dọc theo tuyến đường ven biển 3. Việc sửa chữa những cây cầu bị phá huỷ trên đường đi, quân Nhật tiến đến thị trấn Bacnotan vào tối ngày 21 tháng 12. Bacnotan được bảo vệ bởi các đơn vị của Sư đoàn 11 Philippines, nhưng người Nhật đã thực hiện một cuộc di chuyển bên sườn về phía đông và buộc một phần của quân phòng thủ phải lùi lại, trong khi cắt đứt quân tiếp viện từ vùng núi về phía đông. Quân Nhật đến San Fernando, La Union, vào sáng ngày 22 tháng 12, chỉ vài giờ sau khi các đơn vị chính của Tập đoàn quân 14 Nhật Bản bắt đầu cuộc xâm lược vùng vịnh Lingayen, ngay phía nam. Nhìn lại, các cuộc đổ bộ tiến công của Nhật Bản phía Bắc Luzon, bao gồm cả tại Vigan, đạt được rất ít giá trị chiến thuật hoặc chiến lược. Các sân bay chiếm được rất nhỏ, và với sự tiến quân nhanh chóng của quân Nhật vào trung tâm Luzon, chẳng bao lâu nữa không cần thiết cho các hoạt động tiếp theo. | Cuộc hành quân xâm lược Vigan của Nhật Bản | Xâm lược của Nhật Bản, Xâm lược Thế chiến thứ hai Philippines |
(; là một thành phố miền bắc Tây Ban Nha, là xứ lỵ Xứ Basque, tỉnh lỵ tỉnh Araba/Álava. Đây là nơi đặt nghị viện của cộng đồng tự trị, trụ sở chính quyền, cũng như nơi cư trú cho Lehendakari. Vitoria-Gasteiz là municipio rộng nhất Xứ Basque, bao gồm không chỉ địa phận thành phố, mà còn cả vùng thôn quê xung quanh (với 63 ngôi làng), đạt diện tích 276,81 km² (106,88 sq mi), dân số 252.571 người (tháng 5, 2019). Cư dân Vitoria-Gasteiz được gọi là vitorianos (tiếng Tây Ban Nha) hay (tiếng Basque), còn tục danh thường gọi là babazorros ('túi đậu' trong tiếng Basque). | null | Đô thị Álava Thể, Khởi đầu năm 1181 |
'Lastrea là một loài dương xỉ trong họ Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1947. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Lastrea, Unresolved names |
Chứng rậm lông (tiếng Anh: là hiện tượng lông mọc quá nhiều so với bình thường và có mật độ dày trên cơ thể người. Rậm lông xảy ra cả nam và nữ. Hội chứng này dễ gây khó khăn trong việc sinh hoạt cũng như gây mặc cảm cho bệnh nhân. Nhiều trường hợp dẫn đến chứng sợ giao tiếp xã hội hoặc trầm cảm. Chứng rậm lông thường là hậu quả của sự mất cân bằng nội tiết cơ bản, có thể là thượng thận, buồng trứng hoặc vùng dưới đồi. Nó có thể được gây ra bởi sự gia tăng mức độ hormone androgen. Số lượng và vị trí của tóc được đo bằng điểm Nó khác với hypertrichosis, đó là sự tăng trưởng tóc quá mức bất cứ nơi nào trên cơ thể. Điều trị có thể bao gồm thuốc ngừa thai có chứa estrogen và progestin, thuốc chống nôn hoặc chất kích thích insulin. Chứng rậm lông ảnh hưởng đến 5–15% của tất cả phụ nữ trên tất cả các nền dân tộc. Tùy thuộc vào định nghĩa và dữ liệu cơ bản, ước tính chỉ ra rằng khoảng 40% phụ nữ có một số mức độ lông trên khuôn mặt không mong muốn. Why the Bearded Lady Was Never Laughing Matter: Hirsutism The Bearded Lady | Chứng rậm lông | Khoa da liễu, Khoa nội tiết |
là một loài ếch thuộc họ Nhái bén. Loài này có Bolivia, Brasil, Guyane thuộc Pháp, Paraguay, và Suriname. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và đầm nước ngọt có nước theo mùa. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Silvano, D., Azevedo-Ramos, C., Reynolds, R. Hoogmoed, M. 2004. Dendropsophus melanargyreus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng năm 2007. Thể | null | |
Eymet (tiếng Occitan là là một xã của Pháp, nằm tỉnh Dordogne trong vùng Aquitaine của Pháp. Trang mạng chính thức của la ville d'Eymet Eymet trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Eymet | Eymet | |
Nguyễn Trọng Nghĩa (sinh ngày tháng năm 1962) là một chính trị gia và cựu sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông hiện là Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm kì 2021-2026 tỉnh Tây Ninh, Ủy viên Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống đại dịch Covid-19 Nguyễn Trọng Nghĩa có tên gọi khác là Sáu Nghĩa quê tại huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Nghĩa sinh ra trong một gia đình có bảy người con và là con thứ năm nên có tên là Sáu Nghĩa (vì miền nam con đầu được gọi là Hai, do vậy con thứ năm được gọi là Sáu). Gia đình Sáu Nghĩa tham gia kháng chiến cả trong chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, là cơ sở cách mạng nuôi giấu cán bộ, tổ chức mạng lưới giao liên hoạt động ngầm trong vùng do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát. Khi Nghĩa được tuổi thì cơ sở cách mạng nuôi giấu cán bộ của gia đình trong rừng bị lộ vì bị chỉ điểm, cha Nghĩa hy sinh trong vòng vây của địch quân. Do đó gia đình Nghĩa bị chính quyền VNCH tình nghi, mẹ Nghĩa lúc đó đang mang thai con út. năm sau, cơ sở cách mạng lại bị lộ, mẹ Nghĩa bị giết hại để lại người con đều đang tuổi vị thành niên. Nghĩa và các anh em được họ hàng nhận nuôi, Nghĩa được người cô nuôi dưỡng. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông và người cô vừa bí mật tham gia giao liên, vừa làm đủ mọi nghề để nuôi nấng, dạy dỗ các cháu. năm sau ngày mẹ mất, ông 17 tuổi và nhập ngũ chiến đấu biên giới phía Bắc. Nhập ngũ năm 1979. Năm 1982, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. 4/1979 6/1979: Chiến sĩ Đại đội 2, Tiểu đoàn Ấp Bắc, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh tiền Giang, Quân khu *7/1979 10/1979: Chiến sĩ Tiểu đoàn 4, Sư đoàn 441, Quân khu *11/1979 3/1980: Chiến sĩ Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 5, Sư đoàn 320, Quân đoàn *4/1980 7/1982: Học viên Trường Văn hóa Quân đoàn *8/1982 6/1985: Học viên Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật Thông tin *7/1985 2/1986: Trợ lý Chính trị Tiểu đoàn Huấn luyện, Lữ đoàn 596, Binh chủng Thông tin *3/1986 11/1986: Học viên Trường Đảng Binh chủng Thông tin *12/1986 9/1987: Giáo viên Trường Sĩ quan Chỉ huy-Kỹ thuật Thông tin *10/1987 9/1988: Trợ lý Huấn luyện; Phó Tiểu đoàn trưởng về Chính trị, Tiểu đoàn 40, Trung đoàn Thông tin 23, Quân khu *10/1988 8/1995: Chủ nhiệm Chính trị, Trung đoàn Thông tin 23, Quân khu 7; học tại chức chuyên ngành Triết học tại Đại học Tuyên giáo Trung ương (3/1989 1/1993) *9/1995 8/2000: Phó Trung đoàn trưởng về Chính trị, Trung đoàn Thông tin 23, Quân khu 7; Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 23; học tại chức chuyên ngành Quốc tế học tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (7/1996 1/1999); học viên Học viện Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước (11/1999 10/2000) *9/2000 10/2007: Phó Phòng, Trưởng Phòng Tuyên huấn Cục Chính trị, Quân khu 7; Học viên Học viện Chính trị (10/2003 10/2004) *11/2007 4/2008: Phó Chính ủy Sư đoàn 5, Quân khu 7; Đảng ủy viên Sư đoàn *5/2008 9/2009:Chính ủy Sư đoàn 5, Quân khu 7; Bí thư Đảng ủy Sư đoàn *10/2009 7/2010: Phó Chủ nhiệm Chính trị, Quân khu 7; Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Cục Chính trị *8/2010 8/2012: Chính ủy Quân đoàn 4; Bí thư Đảng ủy Quân đoàn *9/2012 8/2017: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Trung ương Đảng (1/2016); Đại biểu Quốc hội khóa XIV; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ủy viên Quân ủy Trung ương; Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Cơ quan Tổng cục Chính trị; Học viên bồi dưỡng nguồn cán bộ cao cấp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (8 12/2013) *9/2017 1/2021: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Trung ương Đảng; Đại biểu Quốc hội khóa XIV; Ủy viên Quân ủy Trung ương; Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương; Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Cơ quan Tổng cục Chính trị Sáng ngày 19 tháng năm 2021, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội nghị triển khai quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ. Tham dự hội nghị có các đồng chí: Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cùng nhiều đồng chí lãnh đạo các cơ quan, bộ, ban, ngành Trung ương. Tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Phó trưởng Ban thường trực Ban Tổ chức Trung ương, đã công bố Quyết định số 06-QĐNS/TW của Bộ Chính trị về việc phân công Ủy viên Ban Bí thư. Theo Quyết định số 06- QĐNS/TW ngày 18/2/2021, Bộ Chính trị phân công Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam giữ chức Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. 6/2021: Hội đồng bầu cử Quốc gia công bố trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV. Năm thụ phong 1985 1987 1990 1993 1997 2001 2005 2010 2013 9-2017 Quân hàm 20px 20px 20px 20px 20px 20px 20px 20px 20px 20px Cấp bậc Trung úy Thượng úy Đại úy Thiếu tá Trung tá Thượng tá Đại tá Thiếu tướng Trung tướng Thượng tướng Tháng năm 2016, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông trúng cử vào BCH Trung ương Đảng. Tháng năm 2016, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV. Ngày 19/02/2021, Bộ Chính trị phân công Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam giữ chức Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. Vợ ông hiện đang công tác tại Ban Tài chính Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Con gái Nguyễn Lê Huỳnh Trúc là thạc sĩ du học tại Mỹ hiện đang là giảng viên khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. | Nguyễn Trọng Nghĩa | Người Gò Công, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV Tiền Giang, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ứng cử viên Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV do Trung ương giới thiệu, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV trúng cử lần đầu |
aridum' là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được M.E.Jones miêu tả khoa học đầu tiên năm 1895. Tập tin:Achnatherum aridum (as Stipa arida) HC-1900.png Tập tin:Achnatherum aridum (as Stipa arida) HC-1950.png | null | Stipa |
Ngô Đức Thịnh (1944-2020) là một nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, ông nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam Ông sinh năm 1944 tại Hải Phúc, Hải Hậu, Nam Định Năm 1980, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ và sau đó năm 2002 được phong hàm giáo sư Từ năm 1994-2004, ông là Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam nay là Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam Từ năm 2000-2005, ông là Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian Ông từng là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hoá tín ngưỡng Việt Nam ), Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia và Phó Chủ tịch Hội đồng Folklore châu Ông mất ngày tháng năm 2020. Các công trình chính đã xuất bản *Văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2006 *Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1993 *Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1994 *Tìm hiểu nông cụ cổ truyền Việt Nam: Lịch sử và loại hình, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; *Hát văn 1992 *Đạo Mẫu (2 tập, 1994 tái bản bốn lần) *Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận 2008 Về Tín ngưỡng Lễ hội cổ truyền, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Chủ biên: Tín ngưỡng và Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2001 Chủ biên: Đạo Mẫu và các hình thức shaman trong các tộc người Việt Nam và châu Á, Nhà xuất bản Khoa học xã hội "Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng Sử thi Tây Nguyên Khám pháp ẩm thực truyền thống Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ 2010 Bản sắc Văn hóa vùng Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục 2009 Những giá trị Văn hóa truyền thống Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2010 Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị Văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 2010 Những mảng màu Văn hóa Tây Nguyên, Nhà xuất bản Trẻ 2007 Luật tục M'nong (Ngô Đức Thịnh Điểu Câu Trần Tấn Vịnh), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1998 Luật tục Êđê (Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu), Nbx Văn hóa Dân tộc Văn hóa dân gian và Văn hóa dân tộc Lý thuyết "trung tâm và ngoại vi" trong nghiên cứu không gian văn hóa Lên đồng và các khuynh hướng biến đổi Đạo Mẫu và Lên đồng Lên Đồng cuộc hành trình của các thần linh Thánh Mẫu Liễu Hạnh, từ vị Tiên Chúa đến Thần chủ Đạo Mẫu Việt Nam Báo cáo khoa học tại Hội thảo khoa học: Di tích lịch sử văn hóa phủ Quảng Cung Quốc Tổ Hùng Vương biểu tượng cuội nguồn của quốc gia dân tộc Việt Nam Tếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội cho phát triển Chúng ta đang làm gì với Hà Nội? Bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể Tọa đàm về Lên Đồng tại Trung tâm Văn hóa Pháp Tọa đàm về Nghị định 75/2010/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa Đừng độ tội cho hầu đồng Hội Đền Trần việc hành chính thành chỗ cầu quan Càng kín thì càng gây tò mò Phát hiện nơi giáng trần đầu tiên của Thánh Mẫu Liễu Hạnh Thờ Quốc tổ Tín ngưỡng độc đáo trên thế giới Văn hóa chính trị độc đáo tín ngưỡng thờ Hùng Vương Lo nhất: Nhà nước hóa Lễ hội! | Ngô Đức Thịnh | Người Nam Định, Nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam |
Antillo là một đô thị tỉnh Messina trong vùng Sicilia của Italia, có vị trí cách khoảng 170 km về phía đông của Palermo và vào khoảng 35 km về phía tây nam của Messina. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 1.055 người và diện tích là 43,4 km². Antillo giáp các đô thị: Casalvecchio Siculo, Castroreale, Francavilla di Sicilia, Graniti, Limina, Mongiuffi Melia, Motta Camastra, Roccafiorita, Rodì Milici. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:3000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:1020 bar:1871 from: till:1129 bar:1881 from: till:1182 bar:1901 from: till:1654 bar:1911 from: till:1928 bar:1921 from: till:1714 bar:1931 from: till:1779 bar:1936 from: till:1904 bar:1951 from: till:2045 bar:1961 from: till:1825 bar:1971 from: till:1633 bar:1981 from: till:1346 bar:1991 from: till:1279 bar:2001 from: till:1128 PlotData= bar:1861 at:1020 fontsize:XS text: 1020 shift:(-8,5) bar:1871 at:1129 fontsize:XS text: 1129 shift:(-8,5) bar:1881 at:1182 fontsize:XS text: 1182 shift:(-8,5) bar:1901 at:1654 fontsize:XS text: 1654 shift:(-8,5) bar:1911 at:1928 fontsize:XS text: 1928 shift:(-8,5) bar:1921 at:1714 fontsize:XS text: 1714 shift:(-8,5) bar:1931 at:1779 fontsize:XS text: 1779 shift:(-8,5) bar:1936 at:1904 fontsize:XS text: 1904 shift:(-8,5) bar:1951 at:2045 fontsize:XS text: 2045 shift:(-8,5) bar:1961 at:1825 fontsize:XS text: 1825 shift:(-8,5) bar:1971 at:1633 fontsize:XS text: 1633 shift:(-8,5) bar:1981 at:1346 fontsize:XS text: 1346 shift:(-8,5) bar:1991 at:1279 fontsize:XS text: 1279 shift:(-8,5) bar:2001 at:1128 fontsize:XS text: 1128 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Data from ISTAT | Antillo | Đô thị tỉnh Messina, Đô thị Thành phố trung tâm Messina |
Ichise Nana (市瀬 菜々, sinh ngày tháng năm 1997) là một cầu thủ bóng đá nữ người Nhật Bản. Ichise Nana thi đấu cho đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nhật Bản. Nhật Bản Năm Trận Bàn 2017 2018 2019 Tổng cộng 19 | Ichise Nana | Sinh năm 1997, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá nữ Nhật Bản |
John Davies là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu cho Portsmouth, Scunthorpe United và Walsall. ;Walsall *Vô địch Football League Fourth Division: 1959–60 | John Davies | Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C., Cầu thủ bóng đá Scunthorpe United F.C., Cầu thủ bóng đá Walsall F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League, Nhân vật còn sống, Ngày sinh thiếu |
Puyehue (, Puyehue (/ pu jeɪweɪ /, poo-yay chiều; Tây Ban Nha phát âm: puʝewe) và Cordon Caulle (/ kaʊjeɪ kɔrdoʊn /, KOR-dohn Kow-yay) là hai miệng phun núi lửa kết tụ tạo thành một khối núi lớn vườn quốc gia Puyehue phần Andes của tỉnh Ranco, Chile. Trong lĩnh vực núi lửa học, nhóm này có tên là Phức hợp núi lửa Puyehue-Cordon Caulle. Bốn ngọn núi lửa khác nhau tạo thành nhóm phức hợp núi lửa này gồm miệng núi lửa Cordillera Nevada, núi lửa Pliocen Mencheca, khe nứt Caulle và núi lửa tầng Puyehue. Cũng giống với hầu hết các núi lửa tầng vùng núi lửa phía nam của dãy Andes, Puyehue và Cordon Caulle nằm dọc theo giao cắt của một phay với phay Liquiñe-Ofqui lớn hơn chạy theo hướng Bắc-Nam. Phức hợp núi lửa này hình thành nên cảnh quan địa phương và tạo ra nhiều loại địa hình núi lửa lớn trong 300.000 năm qua. Nón vật liệu núi lửa, mái vòm dung nham, họng núi lửa và các miệng núi lửa có thể được tìm thấy khu vực, cũng như nhiều loại đá núi lửa khắp vùng núi lửa phía Nam, Ví dụ như cả hai bazan và rhyolit nguyên sinh. Cordon Caulle là đáng chú vì đã phun trào sau trận động đất Valdivia năm 1960, trận động đất lớn nhất ghi nhận trong lịch sử. Ngoài ra, khu vực Puyehue-Cordon Caulle là một trong những địa điểm chính thăm dò năng lượng địa nhiệt Chile. Hoạt động gần đây tại núi lửa này đã dẫn đến mức báo động cấp (trong cấp) được ban hành ngày tháng năm 2011. Một đợt phun trào bắt đầu vào lúc 16h30 EDT ngày tháng 6. Do kết quả đợt phun trào ngày tháng 6, tro núi lửa đạt đến độ cao 10.000 mét. | Puyehue | Núi lửa Chile, Núi lửa còn hoạt động |
Gia sư nữ quái là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại hài nhạc kịchtình cảmchính kịch công chiếu năm 2012 do Lê Bảo Trung làm đạo diễn, đồng sản xuất và viết kịch bản, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên gồm Isaac, Trấn Thành, Bảo Thy, Dương Cẩm Lynh, Chí Tài, Hoài Linh và Hoàng Sơn. Đây là bộ phim thứ hai mà Bảo Thy tham gia, sau phim Công chúa teen và ngũ hổ tướng công chiếu Tết 2010. Bộ phim chính thức khởi thiếu tại các cụm rạp từ ngày tháng năm 2012. Hai anh chàng sinh viên nghèo tên Lưu Hùng Minh và Lê Thắng Trí đều từ quê lên thành phố đi học, họ thuê một căn nhà chung và quyết định tham gia cuộc thi mang tên "Sinh viên sáng tạo" do nhà trường tổ chức. Minh và Trí thiết kế một mô hình nhà cao tầng rồi đem nó nộp cho ban tổ chức với hi vọng sẽ trúng giải và được trao tặng 100 triệu đồng. Trong thời gian chờ kết quả, Minh và Trí liền nghĩ cách đi làm việc gì đó kiếm tiền đóng tiền nhà, Trí thì chỉ biết tán tỉnh cô con gái Thanh Thủy của bà chủ nhà vì anh tin rằng cô nàng này sẽ đưa cho mình tiền, còn Minh thì không thích lừa đảo như Trí nên anh quyết định làm gia sư dạy kèm với hi vọng nghề này sẽ giúp anh kiếm nhiều tiền. Một ngày kia, Minh được mời đến làm gia sư cho một cô nàng tiểu thư xinh đẹp tên Huỳnh Mai con gái của ông trùm giang hồ Huỳnh Tài khét tiếng. Cô nàng này là con người hung dữ, du côn và ương bướng, điều ghê gớm là trước đây cô đã từng hành hạ rất nhiều gia sư đến dạy học mình khiến họ phải ra đi chỉ chưa đầy hai ngày. Ông Tài bảo Minh rằng nếu dạy kèm được cho con gái ông thì ông sẽ trả lương cho Minh rất cao. Ngoài ra, ông Tài thường cho hai vệ sĩ của mình là Tàu Hũ và Bánh Lọt đến nhà đón Minh mỗi khi đến giờ dạy. Vì đang rất cần tiền nên Minh đành nhịn nhục những lời mắng nhiếc cũng như những chiêu trò tinh quái của Mai. Bỗng một hôm, do bị Mai sỉ nhục quá nặng nên Minh tức giận từ bỏ dạy học, sau vụ đó ông Tài bắt Mai phải đấu kiếm với mình, nếu như Mai thắng thì cô được ra giang hồ, còn nếu thua thì phải học. Chỉ trong phút chốc, ông Tài đã thắng Mai, ông cho Tàu Hũ và Bánh Lọt đi đón Minh về tiếp tục dạy cho Mai. Trong khi Minh đang dạy cho Mai trong phòng học thì có một bọn giang hồ đến nhà và đòi thanh toán ông Tài. Ông Tài, Tàu Hũ và Bánh Lọt lao vào đâm chém quyết liệt với chúng, nhưng ba người không thể đánh lại bọn giang hồ càng lúc càng đông, ông Tài bị chúng chém nhiều nhát vào người. Trí xuất hiện kịp thời, trên tay anh cầm nhiều thuốc nổ TNT khiến bọn giang hồ hoảng sợ bỏ chạy. Mai vô cùng đau khổ khi chứng kiến cha mình bị thương nặng như vậy, từ đó cô đã bắt đầu chịu học hành đàng hoàng, dần dần cô và Minh nảy sinh tình cảm với nhau rồi họ trở thành một cặp đẹp đôi. Trí và Thủy cũng yêu nhau sau thời gian dài tìm hiểu. Do bị đuổi học, Minh và Trí buộc phải lên xe trở về quê trong sự thất vọng cùng cực. Khi Minh và Trí đang chuẩn bị lên xe, thì Thủy và Mai đến tiễn, nhưng thực chất là họ muốn thuyết phục Minh và Trí lại. Minh và Trí nhận được thông báo rằng mô hình nhà cao tầng của hai người thiết kế đã đoạt giải nhất, cả hai mừng rỡ khi nhận được 100 triệu đồng. Cả bốn nhân vật Minh, Trí, Mai và Thủy đều lấy xe hơi mui trần vui vẻ chạy khắp trường trong sự reo hò của các sinh viên trong trường, có cả sự chung vui của Huỳnh Tài, bà chủ nhà và hai vệ sĩ. *Isaac vai Lưu Hùng Minh *Bảo Thy vai Huỳnh Mai *Trấn Thành vai Lê Thắng Trí *Chí Tài vai Huỳnh Tài (†) *Hoài Linh vai Tàu Hũ *Dương Cẩm Lynh vai Thanh Thủy *Thanh Ngọc vai Má Mập *Lê Hoàng D1 vai Hoàng Hotboy *Tuấn Voi vai Tâm Heo *Maika vai bạn Mai *Jennie vai bạn Mai *Nho vai bạn Mai *Thu Thảo vai bạn Mai *Ngọc Anh vai bạn Mai *Nguyên Lộc vai Tám Say *Minh Hà vai bé Mồi *Anh Đức vai Tư Bạo *Kim Dung vai chị Hành *Bảo My vai vợ Huỳnh Tài *Hoàng Chiến vai Huỳnh Tài trẻ *Đình Hiếu vai Huỳnh Tài 12 tuổi *Minh Hy vai Huỳnh Mai nhỏ *D1 Team vai drifting *Tony Vinh Hiển vai trẻ bụi đời *Trung Hiệp vai trẻ bụi đời *Hữu Nghiệp vai trẻ bụi đời *Minh Cường vai trẻ bụi đời *Lê Minh Thắng vai học sinh tiểu học *Lê Minh Trí vai học sinh tiểu học *Lý Duy Phong vai giang hồ *Phùng Nhựt Tân vai giang hồ *Hồ Cát Trắng vai giang hồ *Sơn Master vai giang hồ *Châu Xuân Dưỡng vai giang hồ *Diệp Quốc Tuấn vai giang hồ *Hồ Hiếu vai giang hồ *Lê Bảo Long vai giang hồ *Phù Lợi vai giang hồ *Hoàng Dung vai mẹ Lưu Hùng Minh *Chí Thành vai ba Lưu Hùng Minh *Phi Hùng vai bé trai đá banh *Anh Tuấn vai bé trai đá banh *Duy Lực vai bé trai đá banh *Thành Long vai bé trai đá banh *Nguyễn Minh Giang vai nam sinh *Trúc Như vai nữ sinh *Thanh Bình vai chủ quán cà phê *Minh Đài vai tiếp tân *Hoàng Phong Vỹ vai lơ xe đò *Thế Minh vai lái xe trâu *Minh Huy vai trẻ làng *Chiến Công vai trẻ làng *Thành Công vai trẻ làng *Tôt Ty vai trẻ làng *Thanh Phương vai trẻ làng *Quang Trường vai trẻ làng *Thùy Trang vai thôn nữ *Kim Ngân vai thôn nữ *Thiên Ngân vai thôn nữ *Ngọc Loan vai thôn nữ *Tuyết Loan vai thôn nữ *Đinh Thủy vai thôn nữ *Ngọc Hương vai cung nữ *Mỹ Vân vai cung nữ *Thu Hiền vai cung nữ *Nguyễn Thị Phương *Mỹ Huyền vai cung nữ *Nguyễn Thị Tuyết vai cung nữ *Thùy Trang vai cung nữ *Thùy An vai cung nữ *Như vai cung nữ *Nhóm Number One vai sinh viên nhảy múa Cascadeur: Huỳnh Thiên Thọ, Đỗ Hoàng Chiến, Trúc Như, Huyền Trang, Viết Thắng, Võ Hoàng Quân, Trung Kiên, Nguyễn Nhật Trường, Lê Đình Tiến Tất cả đều là những sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Hồng Thuận: *Khát vọng tân sinh viên (Khát vọng sinh viên) Isaac Trấn Thành *Ta là nghĩa đời nhau Isaac Bảo Thy *Vua mì gói Trấn Thành *Đừng như cha Chí Tài *Ký túc xá 10 sao Isaac Trấn Thành *Rap tiền nhà Isaac Trấn Thành *Ý nghĩa của hoa hồng Trấn Thành *Con nhớ mẹ Bảo Thy *Bay trên niềm mơ ước Isaac, Trấn Thành VnExpress: Nội dung của bộ phim vẫn chạy theo những mô-típ quen thuộc, nhưng gây cười bởi các tình tiết nhỏ được lồng ghép trong phim. Phong cách hài hước ảnh hưởng nhiều từ những phim hài hành động của diễn viên nổi tiếng Hồng Kông Châu Tinh Trì. Đặc biệt, hình tượng bà chủ nhà với tuyệt chiêu "sư tử hống" trong phim Tuyệt đỉnh công phu có lẽ rất được Lê Bảo Trung ưa chuộng và sử dụng trong cả hai phim Nhật ký Bạch Tuyết và Gia sư nữ quái. Trong Nhật ký Bạch Tuyết, khi nàng Bạch Tuyết cất tiếng ca thì mấy chú lùn bị thổi tung lên bầu trời. Còn Gia sư nữ quái, bà chủ nhà trọ Má Mập mỗi lần đòi nợ là la hét như bão tố trên sân thượng cùng với sự hỗ trợ của chiếc quạt máy công suất cao. Tuy chỉ là một nhân vật phụ trong phim, nhưng sự xuất hiện của nhân vật Má Mập đã để lại nhiều tràng cười. Gia sư nữ quái tại Internet Movie Database Gia sư nữ quái tại Facebook Trailer phim. | ''Gia sư nữ quái | Phim năm 2012, Phim Việt Nam, Phim hài Việt Nam, Phim tâm lý Việt Nam, Phim võ thuật Việt Nam, Phim ca nhạc Việt Nam, Phim của Lê Bảo Trung, Phim của Galaxy Studio, Phim lấy bối cảnh Việt Nam, Phim quay tại Việt Nam, Phim hài thập niên 2010, Phim lấy bối cảnh thập niên 2010, Phim lấy bối cảnh năm 2012 |
Miss International Japan Hoa hậu Quốc tế Nhật Bản được thành lập vào năm 1960 để tìm kiếm các đại diện cho Nhật Bản tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế. Đương kim Hoa hậu Quốc tế Nhật Bản là Chiho Terauchi đã đăng quang vào ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại Tokyo, Nhật Bản. ;Chú thích Năm Hoa hậu Tên tiếng Nhật Quê quán Hạng Giải thưởng phụ 2022 Chiho Terauchi 寺内 千穂 Tochigi TBA TBA 2021 2020 2019 Tomomi Okada 岡田 朋峰 Tokyo 2018 Hinano Sugimoto 杉本 雛乃 Tokyo Top 2017 Natsuki Tsutsui 筒井 菜月 Saitama hậu Best National Costume 2016 Junna Yamagata 山形 純菜 Iwate Top 15 2015 Arisa Nakagawa 中川 愛理沙 Chiba Best National Costume 2014 Rira Hongo 本郷 李來 Tokyo 2013 Yukiko Takahashi 高橋 由紀子 Tokyo 2012 Ikumi Yoshimatsu 吉松 育美 Saga Đăng quang Hoa hậu Quốc tế 2012 Miss Photogenic 2011 Nagomi Murayama 村山 和実 Kanagawa 2010 Etsuko Kanagae 金ヶ江 悦子 Osaka Top 15 Miss Elegance 2009 Yuka Nakayama 中山 由香 Fukuoka Top 15 Miss Congeniality 2008 Kyoko Sugiyama 杉山 恭子 Kanagawa Top 12 2007 Hisako Shirata 白田 久子 Osaka Top 15 Miss Photogenic 2006 Mami Sakurai 櫻井 麻美 Tokyo Top 12 2005 Naomi Ishizaka 石坂 直美 Tokyo Top 12 2004 Tamiko Kawahara 川原 多美子 Ibaraki Top 15 2003 Saeko Matsumi 松見 早枝子 Tokyo Top 12 Miss Congeniality 2002 Hana Urushima 漆島 Kyoto 2nd runner-up 2001 Hanako Suzuki 鈴木 華子 Saitama Top 15 2000 Kanako Shibata 柴田 加奈子 Hokkaido Top 15 1999 Kana Onoda 小野田 加奈 Fukushima Top 15 1998 Megumi Taira Tokyo Top 15 1997 Sayuri Seki さゆり Saitama Top 15 1996 Akiko Sugano 菅野 安希子 Tokyo Top 15 1995 Yuka Kondo 近藤 由夏 Osaka Top 15 1994 Tomomi Hanamura 花村 ともみ Aichi Top 15 1993 Masayo Shibasaki 柴崎 雅代 Kanagawa Top 15 1992 Tomoko Nishiki 知子 Osaka 1991 Miho Takata 高田 美穂 Ehime Top 15 1990 Hiroko Ohnishi 大西 啓子 Hyōgo Top 15 1989 Tamae Ogura 小倉 玉江 Osaka 1988 Yuki Egami 江上 有希 Fukui Top 15 1987 Yayoi Morita 盛田 弥生 Yamanashi Top 15 1986 Rika Kobayashi 小林 利花 Shizuoka Top 15 1985 Makiko Matsumoto 松本 万貴子 Osaka Top 15 1984 Junko Ueno 上野 順子 Osaka Top 15 1983 Akemi Fujita 藤田 明美 Yamaguchi Top 15 1982 Yukiko Tsutsumi 由記子 Hokkaido 1981 Mika Moriwaki 森脇 美香 Okayama Top 15 1980 Mayumi Kanbara 蒲原 まゆみ Osaka Top 10 Miss Congeniality 1979 Hideko Haba 羽場 秀子 Tokyo hậu 1978 Atsuko Taguchi 田口 淳子 Akita Top 13 1977 Mieko Kojima 小島 三恵子 Saitama Top 12 1976 Kumie Nakamura 中村 久美江 Osaka hậu 1975 Sumiko Kumagai 熊谷 澄子 Tokyo Top 15 1974 Hideko Shigekawa 茂川 秀子 Osaka Top 15 1973 Miki Yaita 矢板 美季 Hokkaido Top 15 1972 Yuko Tamehisa 為久 優子 Yamaguchi Top 15 1971 Reiko Yoneyama 米山 礼子 Yamanashi Top 15 1970 Toshie Suda 須田 敏恵 Yamanashi hậu 1969 Akemi Okemoto 桶本 明美 Hiroshima Top 15 1968 Yoko Sunami 砂見 葉子 Fukuoka Top 15 1967 Hiroko Sasaki 佐々木 裕子 Tokyo Top 15 1965 Hiroko Fukushima 福島 宏子 Tokyo 1964 Naoko Matsui 松井 尚子 Fukuoka Top 15 1963 Shizuko Shimizu 清水 静子 Tokyo 1962 Kaoru Maki かほる Tokyo Top 15 1961 Atsuko Kyoto 京藤 敦子 Fukui 1960 Michiko Takagi 高木 美智子 Osaka Top 15 | Miss International Japan Hoa hậu Quốc tế Nhật Bản | Cuộc thi sắc đẹp |
Phép thuật vui vẻ (tiếng Nga: Весёлое волшебство) là một bộ phim giả tưởng của đạo diễn Boris Rytsarev, ra mắt lần đầu năm 1979. Truyện phim dựa theo vở hài kịch Katya và những điều kỳ diệu của Nina Gernet và Grigory Yagdfeld. Marina Kozodayeva... Katya Andrey Voynovsky... Lisichkin Thông tin trên Website KinoExpert Thông tin trên Website KinoPoisk Thông tin trên Website Kino-Teatr | Phép thuật vui vẻ | Phim của Gorkyfilm, Phim truyền hình Liên Xô, Phim thiếu nhi Liên Xô, Phim hài Liên Xô, Phim viễn tưởng Liên Xô, Phim dựa theo truyện cổ tích, Phim dựa theo tác phẩm, Phim được phục chế màu, Phim năm 1979 |
Triunfo là một đô thị thuộc bang Paraíba, Brasil. Đô thị này có diện tích 222,947 km², dân số năm 2007 là 9537 người, mật độ 42,8 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | Triunfo | Đô thị bang Paraíba |
Otani Ichiji (31 tháng năm 1912 23 tháng 11 năm 2007) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Otani Ichiji thi đấu cho ĐTQG Nhật từ năm 1934. 1934 Tổng cộng Japan National Football Team Database | Otani Ichiji | Sinh năm 1912, Mất năm 2007, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Người Hyōgo |
August Wilhelm von Hofmann (8 tháng năm 1818 Giessen ngày tháng năm 1892 Berlin) là nhà hóa học người Đức và là nhà tiên phong quan trọng trong việc nghiên cứu thuốc nhuộm anilin Anh và Đức. Ông đã phát triển một loạt các phương pháp chuyển đổi quan trọng trong hóa học hữu cơ và thành lập Hội Hóa học Đức. Tập tin:August Wilhelm von Hofmann, tranh của Heinrich von Angeli Phần mộ của ông trong nghĩa trang Dorotheenstadt Cha của Hofmann là một kiến trúc sư và đã xây dựng phòng thí nghiệm cho Justus von Liebig. August Wilhelm Hofmann đầu tiên học luật tại Giessen, nhưng đã thay đổi hướng nghiên cứu của mình khi ông tham dự các bài giảng hóa học của Justus von Liebig năm 1836. Hofmann trở thành trợ lý của Liebig và nhận bằng tiến sĩ năm 1841 với một luận án về phân tích hóa học các base hữu cơ trong than đá (Chemische Untersuchung der organischen Basen im nghiên cứu đầu tiên của Hofmann đã giải quyết vấn đề thanh lọc và phân tích than anilin (kyanol) và quinolin (leuco). Sau khi làm trợ giảng vào năm 1845 tại Giessen, ông đã làm giảng viên về hóa học tại Đại học Bonn. Tuy nhiên, theo đề nghị của Liebig và theo yêu cầu của hoàng tử Anh -hoàng tử Albert, ông đã đảm nhiệm chức vụ giáo sư tại Viện Hoá học của trường Hoàng gia Luân Đôn trong cùng năm đó. Ông làm giáo sư tại Luân Đôn kéo dài 20 năm, nhiều người trong số những sinh viên của ông sau này trở thành nhân vật rất quan trọng trong lĩnh vực thuốc nhuộm (William Henry Perkin, William Crookes, Carl Alexander von Martius, Peter Griess, Charles Blachford Mansfield (1819-1855), Sir Frederick Abel, Edward Chambers Nicholson (1827-1890)). Ông và các sinh viên của ông là những người tiên phong trong việc phát triển và thương mại hoá hóa học thuốc nhuộm cho nhuộm tơ. Dầu hắc trước đây chỉ là một phụ phẩm vô giá trị của khai thác than cốc, nhưng sau đó trở thành nguyên liệu chính cho hóa học hữu cơ công nghiệp. Ông được ủy nhiệm thành lập trường Cao đẳng Hóa học Luân Đôn và ông đã đào tạo rất nhiều nhà hóa học Anh và Đức. Victoria của Anh (Vương quốc Anh) cũng đã đến nghe các bài giảng của Hofmann. Bà vẫn khâm phục Hofmann và chắc chắn rằng ông sau đó được tôn sùng và một bức tượng bán thân của ông (bên cạnh bức tượng Victoria) được đặt tại cổng Brandenburg. Hofmann liên quan đến việc chuẩn bị cho Triển lãm Thế giới năm 1851 và Triển lãm Thế giới năm 1862 Luân Đôn. Từ năm 1845 Hofmann là thành viên của Hiệp hội Hóa học, Hiệp hội Hoá học được thành lập Luân Đôn vào năm 1841, từ năm 1847 đến năm 1861, ông là thư ký ngoại quốc, từ năm 1861 đến năm 1863 ông là chủ tịch (điều hành) và cuối cùng là phó chủ tịch năm 1863. Ông thông thạo bốn thứ tiếng và từ năm 1851 đến năm 1864, ông biên tập tạp chí tiếng Anh của Hiệp hội Hoá học. Ông cũng đã công bố một số kết quả nghiên cứu của mình trong cuốn Liebig của Đức Biên niên sử Hóa học và Dược phẩm. Sau cái chết của Hoàng tử Anh, ông đã nhận được một lời mời đến Đại học Bonn năm 1863 và họ đã xây lại lâu đài Poppelsdorf. Nhưng cuối cùng, Hofmann từ chối lời mời đến Đại học Bonn và thay vào đó chấp nhận lời mời đến Đại học Humboldt Berlin được xây dựng lại năm 1864. Từ tháng năm 1865 ông đã tổ chức 34-36 bài giảng về hóa học vô cơ và hữu cơ. Ông lại Berlin cho đến khi qua đời vào năm 1892. Ông minh hoạ hóa học thông qua các thí nghiệm đương đại, phát triển bộ máy phân hủy Hofmann và viết một cuốn sách giáo khoa về hóa học. Hofmann đã thành lập Hội Hóa học Đức Berlin năm 1867 cùng với Adolf Baeyer, C.A Martius, C. Scheibler và E. Schering, H. Wichelhaus, tương tự Hiệp hội Hóa học Anh. Các báo cáo của Hiệp hội Hoá học đã được gửi đến các thành viên và có thu phí cho các trường đại học; Hofmann đã viết hầu hết các bài viết của mình. Năm 1873 Hofmann được bầu làm thành viên của Leopoldina. Từ năm 1853, ông là thành viên của Học viện Khoa học Hoàng gia Phổ, từ năm 1855 ông Viện Khoa học Bavarian và từ năm 1860 ông nghiên cứu Học viện Khoa học Göttingen. Giữa những năm 1870 và 1900 đã có nhiều tranh cãi về việc giáo dục các nhà hóa học Reich Đức. Số sinh viên tăng lên. Nhiều trường kỹ thuật theo định hướng thực hành đã được tạo ra. Quyền được dạy cho các trường đại học về khoa học ứng dụng phải được quyết định. Yêu cầu đầu vào cho nghiên cứu là khác nhau. Các đại diện của ngành muốn một cuộc kiểm tra của nhà nước, nghiên cứu thực tế hơn, giáo viên đại học muốn nhận được nghiên cứu miễn phí và kiểm tra nội bộ của trường đại học. Hofmann đã có một bài giảng vào ngày tháng năm 1892, đã dẫn dắt một cuộc họp khoa và đã tiến hành hai kỳ thi tốt nghiệp của sinh viên. Lúc giờ tối, ông rời khỏi trường đại học trong tâm trạng hân hoan. Sau bữa tối, ông cảm thấy không thoải mái, các bác sĩ đã đến nhưng không thể cứu ông, Hofmann đã qua đời. Mộ phần của ông nằm trong nghĩa trang Dorotheenstadt. Các nhà hóa học trước đó chỉ có phân tích nguyên tố, điểm nóng chảy, điểm sôi, chỉ số khúc xạ có sẵn để phân tích và tinh chế chất. Vào thời điểm đó, không có kiến thức về các công thức cấu trúc, luật hóa trị, kiến thức về các nhóm chức năng, các hoạt tính, hoặc khả năng liên kết. Những thứ này phải được nghĩ đến đầu tiên. Von Hofmann đã có nhiều nghiên cứu sinh người Anh và Đức đã hỗ trợ ông trong nghiên cứu. Hofmann được coi là một nhà tiên phong xuất sắc trong hóa học hữu cơ. Trong nghiên cứu đầu tiên của ông vào năm 1843, Hofmann giải quyết các nhựa than đá. Ông xác định danh tính của anilin được tìm thấy từ axit anthranilic với chất kyanol của than đá. Bằng cách thêm thuốc thử hóa học (muối hypoclorơ) vào anilin, Hofmann tìm thấy các dung dịch có màu và tinh thể màu. Với axit clohidric, axit bromhydric, ông đã thay thế các nguyên tử hydro và do đó có thể khẳng định lý thuyết cơ bản của Jean Baptiste Dumas và Auguste Laurent. Hofmann đã phát triển tổng hợp anilin dựa trên benzen, vốn dồi dào trong nhựa than đá. Hofmann mô tả lần đầu tiên chính xác quá trình việc chiết xuất benzen từ nhựa than đá và chuyển giao sản xuất Benzen Mansfield. Cùng với James Sheridan Muspratt, ông đã phát hiện ra toluidin, cùng với J. Blyth ông nghiên cứu styren và quá trình nitrat hóa của chúng được cải thiện (một hỗn hợp axit sulfuric đậm đặc và axit nitric, phương pháp nitrat phổ biến nhất hiện nay) có thể tạo ra Đài tưởng niệm trong nhà Hofmann Bức hoạ kỷ niệm vào tháng của Wilhelm von Hofmann, do Quỹ Nhẫn Kim nhẫn Siemens (* 1916) tài trợ và được công bố vào ngày tháng năm 1918 tại nơi sinh của ông, được tái tạo bởi Quỹ Hofmann nghiên cứu phản ứng của cyanogen chloride với anilin và khi phản ứng với các base hữu cơ, thu được các dẫn xuất urê của anilin hoặc Để có một sự hiểu biết sâu sắc hơn Hofmann khảo sát nhóm amino của anilin. Sau những nỗ lực không thành công để phản ứng phenol với anilin, Hofmann đã nghiên cứu phản ứng của anilin với etyl iodide. Ông đã tìm ra etylanilua và dietylanilua và sớm nghiên cứu phản ứng của etyl iodide với amonia. Trong trường hợp này, có thể thu được ba sản phẩm: monoetylamin, dietylamin và trietylamin. Hofmann đã có thể chỉ ra rằng ngoài cacbon và oxy, nguyên tử nitơ cũng có thể được thay thế bằng các gốc tự do hoặc các halogen. Ông ủng hộ lý thuyết thay thế của Jean-Baptiste Dumas. Ông đã được trao Huân chương Hoàng gia năm 1854 bởi Royal Society và Huân chương Copley'' năm 1875. Năm 1877 ông được bầu vào Học viện Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ. Từ năm 1883, Hofmann đã là thành viên của Viện Pour le Mérite về Khoa học và Nghệ thuật. Năm 1900, nhà Hofmann (số Berlin) được dựng lên để tôn vinh ông theo kế hoạch của Otto March và là trụ sở của Hiệp hội Hóa học Đức cho đến năm 1945. Để tài hỗ trợ cho mbH" được thành lập vào năm 1898 với vốn cổ phần 600,000 Mk (từ các khoản đóng góp ngành công nghiệp). | August Wilhelm von Hofmann | Sinh năm 1818, Mất năm 1892, Cựu sinh viên Đại học Göttingen, Nhà hóa học Đức, Hội viên Hội Hoàng gia |
Quéven () là một xã tỉnh Morbihan trong vùng Bretagne tây bắc Pháp. Xã này có diện tích 23,93 km², dân số năm 1999 là 8314 người. Khu vực này có độ cao từ 2-66 mét trên mực nước biển. Quéven kết nghĩa với: *Dunmanway (Ireland) *Koro (Mali) *Altenkunstadt *Weismain bang Bavaria (Đức) Cư dân của Quéven danh xưng trong tiếng Pháp là Quévenois. Xã này đã phát động một kế hoạch song ngữ thông qua Ya d’ar brezhoneg ngày 26 tháng năm 2008. Năm 2007, có 1,4% trẻ em học trường song ngữ cấp tiểu học. Các thị trưởng của Hiệp hội Morbihan Hồ sơ của thị trấn trên trang mạng INSEE Trang mạng chính thức French Ministry of Culture list for Quéven Bản đồ của Quéven trên Michelin | Quéven | Xã của Morbihan |
là một xã tỉnh Somme, vùng Pháp. Thị trấn này tọa lạc trên đường D97, just off the N25, dặm Anh về phía bắc của Amiens. Đây là khu vực nông trang, có rừng, có một toà lâu đài lớn. Biến động dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 284 287 387 646 700 654 Số liệu điều tra dân số từ năm 1962, dân số không tính hai lần Xã của tỉnh Somme (Tất cả đều bằng tiếng Pháp) Bertangles trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Bertangles sur le site de l'Insee Bertangles sur le site du Quid Localisation de Bertangles sur une carte de France et communes limitrophes Plan de Bertangles sur Mapquest | null | Xã của Somme |
1755 Lorbach (1936 VD) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng 11 năm 1936 bởi Marguerite Laugier Nice. Nó được đặt theo tên Anne Lorbach Herget, vợ của nhà thiên văn học Hoa Kỳ Paul Herget. JPL Small-Body Database Browser ngày 1755 Lorbach | 1755 Lorbach | |
Hy Mẫn Bá trong Tiếng Việt là thụy hiệu của một số vị Bá tước trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. *Minh triều Tu Vũ Hy Mẫn Bá Thẩm Vinh (sau được truy tặng làm Tu Vũ Hy Mẫn hầu) *Minh triều Tuân Hóa Hy Mẫn Bá Ngô Khắc Cần (吴克勤) *Hy bá *Mẫn bá *Trang bá *Trung Mẫn bá *Trang Mẫn bá *Trung Tráng bá *Trung Dũng bá *Tráng Dũng bá *Cương Dũng bá *Dũng bá *Tráng bá *Trung bá | Hy Mẫn Bá | |
Tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-68 Titan (các phiên bản sau có tên HGM-25 Titan I và LGM-25 Titan II) là tên lửa liên lục địa được phát triển bởi Không quân Mỹ. Titan và Titan II được đưa vào trang bị trong giai đoạn từ năm 1962 đến năm 1987 khi đang diễn ra chiến tranh Lạnh. Những tên lửa này đặc biệt là Titan II về sau là cơ sở để chế tạo dòng tên lửa đẩy vũ trụ Titan. Titan ban đầu được phát triển để làm một loại tên lửa dự bị cho ICBM SM-65 Atlas. Tên lửa Titan sử dụng nhiên liệu tên lửa RP-1 và Oxy lỏng và cần 15 phút để nạp đầy nhiên liệu cho tên lửa và đưa tên lửa đến bệ phóng. Titan II mạnh hơn, sử dụng nitrogen tetroxide và hydrazine, cho phép tên lửa có thể trạng thái chờ phóng lâu hơn sau khi nạp nhiên liệu, khiến tên lửa có khả năng sẵn sàng chiến đấu tốt hơn. Tên lửa Titan Titan là phiên bản đầu tiên của dòng tên lửa Titan. Nó được phát triển như là một ICBM dự bị trong trường hợp dự án tên lửa Atlas bị hoãn. Đây là tên lửa hai tầng đẩy sử dụng nhiên liệu RP-1 và Oxy lỏng. Việc sử dụng RP-1 và Oxy lỏng đồng nghĩa với việc chu trình phóng của Titan chậm. Tên lửa cần tới 15 phút kể từ lúc nạp Oxy lỏng cho tên lửa đầu tiên cho đến khi tên lửa có thể được phóng, và cần thêm khoảng tám phút để nạp nhiên liệu-phóng đối với hai tên lửa còn lại trên bệ phóng. Titan được triển khai trong quân đội Mỹ từ đầu năm 1962 đến giữa năm 1965. Các đơn vị Không quân Mỹ được trang bị Titan bao gồm: 568th Strategic Missile Squadron, Larson AFB, Moses Lake, Washington 569th Strategic Missile Squadron, Mountain Home AFB, Mt Home, Idaho 851st Strategic Missile Squadron, Beale AFB, Marysville, California 850th Strategic Missile Squadron, Ellsworth AFB, Rapid City, South Dakota 451st Strategic Missile Wing (đổi tên từ đơn vị 703rd) Lowry AFB, Denver, Colorado Tên lửa Titan II đang được phóng từ giếng phóng. Phần lớn tên lửa Titan là thuộc phiên bản Titan II, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân W-53 có đương lượng nổ megaton, khiến cho nó là tên lửa đạn đạo uy lực nhất trong kho dự trữ hạt nhân của Mỹ. Những tên lửa này được triển khai tại sư đoàn tên lửa tại các bang Arizona, Kansas, và Arkansas, mỗi sư đoàn trang bị 18 tên lửa. Tất cả các tên lửa đạn đạo Titan II được rút ra khỏi trang bị kể từ năm 1987, nhưng tại Bảo tàng tên lửa Titan, xa lộ 19, phía nam Tucson, Arizona, vẫn còn trưng bày một giếng phóng tên lửa đã ngừng hoạt động. Titan II sử dụng nhiên liệu là sự kết hợp hypergolic giữa nitrogen tetroxide và hydrazine. Mười hai tên lửa Titan II đã được sửa đổi để phóng tàu vũ trụ Gemini của NASA. Mười trong số đó là có người lái. Sau khi được loại biên, tên lửa Titan thứ 13 đã được chuyển đổi thành cấu hình Titan 23G, và sử dụng để phóng vệ tinh, và tàu thăm dò Mặt trăng Clementine. Lần phóng cuối cùng của tên lửa Titan II diễn ra vào năm 2003. Titan III Titan IIIB Titan 34D Titan IV | SM-68 Titan | |
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được mang cái tên 'USS cùng hai chiếc khác được dự định đặt cái tên này, theo tên Thiếu tướng Richard Montgomery (1738-1775), người tử trận trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ: là một tàu frigate trong giai đoạn Chiến tranh Cách mạng nhưng không được hoàn tất là một tàu xà lúp phục vụ từ năm 1813 đến năm 1815 là một tàu hơi nước gỗ chạy chân vịt phục vụ từ năm 1861 đến năm 1865 là một tàu tuần dương bảo vệ phục vụ từ năm 1891 đến năm 1918 USS Montgomery (DD-121/DM-17) là một tàu khu trục lớp Wickes, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ, hạ thủy năm 1918 và bị tháo dỡ năm 1946 là một tàu chiến đấu duyên hải lớp trong tương lai được công bố vào năm 2011 và đang được chế tạo ;Xem thêm là một tàu khu trục hộ tống, sau được xếp lại lớp như một tàu frigate, thuộc lớp Knox'' hạ thủy năm 1970 và xuất biên chế năm 1993 để chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ là một tàu đổ bộ tăng (Landing Ship, Tank) hoạt động trong Thế Chiến II | null |