text
stringlengths
0
308k
title
stringlengths
0
51.1k
categories
stringlengths
0
57.3k
Semyon Fedotov năm 2014 Semyon Aleksandrovich Fedotov (; sinh ngày tháng năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Nga. Anh thi đấu cho F.K. Torpedo Vladimir. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho P.F.K. CSKA Moskva vào ngày 15 tháng 12 năm 2010 trong trận đấu tại UEFA Europa League 2010–11 trước AC Sparta Prague.
Semyon Aleksandrovich Fedotov
Sinh năm 1992, Người Vladimir, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nga, Hậu vệ bóng đá, Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga, Cầu thủ bóng đá FC KAMAZ Naberezhnye Chelny, Cầu thủ bóng đá F.K. Dynamo Sankt Peterburg, Cầu thủ bóng đá JK Sillamäe Kalev, Cầu thủ bóng đá Meistriliiga, Cầu thủ bóng đá FC Dynamo Saint Petersburg, Cầu thủ bóng đá PFC CSKA Moskva, Cầu thủ bóng đá Nga nước ngoài
Oleg Olegovich Yolkin (; sinh ngày 26 tháng năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Nga. Anh thi đấu cho FC Znamya Truda Career summary at championat.ru
Oleg Olegovich Yolkin
Sinh năm 1986, Người Tiraspol, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nga, Cầu thủ bóng đá CS Tiligul-Tiras Tiraspol, Cầu thủ bóng đá FC Oryol, Cầu thủ bóng đá FC Tyumen, Cầu thủ bóng đá FC Znamya Truda Orekhovo-Zuyevo, Cầu thủ bóng đá FC Tighina
Wayne Sobers (sinh ngày 16 tháng năm 1969) là một cầu thủ bóng đá người Barbados thi đấu cho Notre Dame, vị trí hậu vệ. Sobers thi đấu cho đội tuyển quốc gia Barbados từ năm 1992 đến năm 2005, bao gồm trận vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới.
Wayne Sobers
Sinh năm 1969, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Barbados, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Barbados, Cầu thủ bóng đá Notre Dame SC
Parinya Utapao (, sinh ngày 30 tháng năm 1988), còn được biết với tên đơn giản Pin (), là một cầu thủ bóng đá người Thái Lan thi đấu vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ tại Thai League T2 Chainat Hornbill. ;Nakhon Ratchasima Thai Division League ** 16px Vô địch (1): 2014 Profile at Goal
Parinya Utapao
Sinh năm 1988, Nhân vật còn sống, Người Ratchaburi, Cầu thủ bóng đá Thái Lan, Hậu vệ bóng đá, Cầu thủ bóng đá Nakhon Pathom F.C., Cầu thủ bóng đá Chainat Hornbill F.C., Cầu thủ bóng đá Nakhon Ratchasima F.C., Cầu thủ Giải bóng đá Ngoại hạng Thái Lan, Cầu thủ bóng đá Thai League
Roy Houghton (sinh ngày 31 tháng năm 1921) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu vị trí outside-right Football League cho Notts County. Houghton có lần ra sân cho Notts County trong mùa giải 1937–38. Sau những khoảng thời gian tại Grantham và Boston United, ông gia nhập Peterborough United, ghi 14 bàn trong 59 trận Midland League và Cúp FA. Anh trai của ông, Eric Houghton, và anh họ, Reg Goodacre, đều là các cầu thủ bóng đá.
Roy Houghton
Sinh năm 1921, Nhân vật còn sống, Người Billingborough, Vận động viên Lincolnshire, Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá Notts County F.C., Cầu thủ bóng đá Grantham Town F.C., Cầu thủ bóng đá Boston United F.C., Cầu thủ bóng đá Peterborough United F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League
muscinus' là một loài động vật có vú trong họ Dơi nếp mũi, bộ Dơi. Loài này được Thomas Doria mô tả năm 1886.
null
Chi Dơi nếp mũi, Động vật được mô tả năm 1886, Động vật có vú Papua New Guinea
Folland Gnat là một loại máy bay tiêm kích hạng nhẹ và máy bay huấn luyện phản lực cận âm cỡ nhỏ, do hãng Folland Aircraft phát triển cho Không quân Hoàng gia, và nó cũng được trang bị cho Không quân Ấn Độ. Tập tin:Folland Gnat thử thứ ba của Gnat T.1 là XM693 tại triển lãm SBAC năm 1961. ;Fo.140 Gnat ;Fo.141 Gnat ;;Gnat F.1 ;;Gnat FR.1 ;Fo.142 Gnat Gnat F.2 ;Fo.143 Gnat Gnat F.4 ;Fo.144 Gnat Trainer Gnat T.1 ;HAL Ajeet ;HAL Ajeet Trainer Tập tin:Folland Gnat Gnat sơn biểu tượng của không quân Nam Tư tại Bảo tàng Hàng không Belgrade. *Không quân Phần Lan *Không quân Ấn Độ Tập chiếc từng thuộc Red Arrows số hiệu XR537 *Viện nghiên cứu khoa học không quân *Không quân Hoàng gia *Không quân SFR Nam Tư 300px 300px ;Ghi chú ;Chú thích ;Tài liệu Bingham, Victor. Folland Gnat: Red Arrow and Sabre Slayer. Hailsham, East Sussex, UK: J&KH Publishing, 2002. ISBN 1-900511-78-9. Burnet, Charles. "Folland's (G)Natty Fighters." AIR Enthusiast Twenty-four, April–July 1984. Bromley, Kent, UK: Pilot Press Ltd., 1984. Chopra, Pushpindar. "Fly with Sting." Air Volume 7, No. 2, August 1974. Frédriksen, John C. International Warbirds: An Illustrated Guide to World Military Aircraft, 1914-2000. Santa Barbara, California: ABC-CLIO, 2001. ISBN 1-57607-364-5. Ross, Andrew L. The Political Economy of Defense: Issues and Perspectives. Westport, Connecticut: Greenwood Press, 1991. ISBN 0-313-26462-7. Spick, Mike. Illustrated Directory of Fighters. Osceola, Wisconsin: Zenith Press, 2002. ISBN 0-7603-1343-1. Taylor, John W.R. "Folland Gnat." Combat Aircraft of the World from 1909 to the present. New York: G.P. Putnam's Sons, 1969. ISBN 0-425-03633-2. Willis, David. "The Folland Gnat. (Database)." Aeroplane, September 2008. "Aspects of the Gnat" Folland Gnat Trainer description in Flight with cutaway De Havilland Aviation Ltd operates the only airworthy former Red Arrows Gnat in Europe, XR537 (G-NATY) Thunder and Lightnings Cockpit restoration of XM692 The Wolfpack in action "The Answer to Europe's Air Defence Problem" 1954 Flight advertisement for the Folland Gnat "Thoughts on the Gnat" 1953 Flight'' article on the Gnat Light Fighter
Folland Gnat
Máy bay quân sự Anh thập niên 1950, Máy bay huấn luyện quân sự Anh 1950–1959 Gnat, Máy bay chiến đấu, Máy bay quân sự, Máy bay tiêm kích, Máy bay huấn luyện, Máy bay một động cơ, Máy bay phản lực, Máy bay cánh trên, Máy bay một động cơ phản lực
Trong lý thuyết mã hóa, mã BCH là một lớp các mã sửa lỗi vòng xây dựng bằng trường hữu hạn. Mã BCH được phát minh năm 1959 bởi Hocquenghem, và một cách độc lập năm 1960 bởi Bose và Ray-Chaudhuri. Tên viết tắt BCH gồm chữ cái đầu của tên những người phát minh ra loại mã này. Một trong những tính năng chính của mã BCH là khi thiết kế, có thể điều chỉnh chính xác số lỗi mã có thể sửa được. Cụ thể hơn, có thể thiết kế mã BCH nhị phân sửa được nhiều lỗi bit. Một lợi thế khác của mã BCH là có thể giải mã dễ dàng bằng một phương pháp đại số gọi là giải mã hội chứng. Điều này giúp đơn giản hóa việc thiết kế bộ giải mã cho mã này bằng phần cứng điện tử sử dụng ít năng lượng. Mã BCH được dùng trong nhiều ứng dụng như liên lạc vệ tinh, máy nghe CD, DVD, đĩa, SSD và mã vạch hai chiều. Với một số nguyên tố và hai số nguyên dương và thỏa mãn một mã BCH nghĩa hẹp nguyên thủy trên trường hữu hạn với chiều dài mã và khoảng cách nhỏ nhất lớn hơn hoặc bằng được xây dựng như sau. Đặt là một phần tử nguyên thủy của Với mọi số nguyên dương đặt là đa thức nhỏ nhất của Đa thức sinh của mã BCH được định nghĩa là bội chung nhỏ nhất Có thể thấy là một đa thức có hệ số trong và chia hết Do đó mã đa thức định nghĩa bởi là một mã vòng. Đặt và (nên ). Ta sẽ xét các giá trị khác nhau cho Tồn tại nghiệm nguyên thủy thỏa mãn đa thức nhỏ nhất của nó trên là: Ghi chú là trong đẳng thức là đúng, nên Vì vậy là nghiệm của nên :. Để tính có thể thấy, bằng cách áp dụng () nhiều lần, ta thu được hệ các quan hệ tuyến tính sau: Năm vế phải là các tổ hợp tuyến tính của lũy thừa giống nhau nên chúng phụ thuộc tuyến tính. Thật vậy, ta có tổ hợp tuyến tính Vì không tồn tại quan hệ phụ thuộc tuyến tính bậc nhỏ hơn nên đa thức nhỏ nhất của là:. Tiếp tục tương tự như vậy, ta tìm được Mã BCH với có đa thức sinh Nó có khoảng cách Hamming nhỏ nhất lớn hơn hoặc bằng 3, và do đó sửa được lỗi. Vì đa thức sinh có bậc 4, mã này có 11 bit dữ liệu và bit kiểm tra. Mã BCH với có đa thức sinh Nó có khoảng cách Hamming nhỏ nhất lớn hơn hoặc bằng và do đó sửa được lỗi. Vì đa thức có bậc 8, mã này có bit dữ liệu và bit kiểm tra. Mã BCH với có đa thức sinh Nó có khoảng cách Hamming nhỏ nhất lớn hơn hoặc bằng và do đó sửa được lỗi. Mã này có bit dữ liệu và 10 bit kiểm tra. Mã BCH với và lớn hơn có đa thức sinh Mã này có khoảng cách Hamming nhỏ nhất bằng 15 và sửa được lỗi. Nó có bit dữ liệu và 14 bit kiểm tra. Mã này chỉ có đúng hai mã tự: 000000000000000 và
mã BCH
Phát hiện và sửa lỗi, Lý thuyết mã hóa
tháng 1, Cameroon tuyên bố độc lập từ Pháp. 17 tháng 1: Xảy ra phong trào Đồng Khởi tại xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày (Bến Tre) *23 tháng 2: Naruhito, Hoàng thái tử Nhật Bản ra đời. tháng 3: Mỹ tuyên bố phái 3500 quân đến Việt Nam. 27 tháng 4: Togo giành độc lập từ Anh quốc. 22 tháng 5: Động đất Chile là trận động đất mạnh nhất trong lịch sử loài người, mạnh 9,5 độ làm hàng nghìn người thiệt mạng. 20 tháng 6: Mali và Sénégal giành độc lập 26 tháng 6: Madagascar tuyên bố độc lập 30 tháng 6: Congo-Kinshasa tuyên bố độc lập tháng 8: Cộng hòa Dahomey tuyên bố độc lập. tháng 8: Niger tuyên bố độc lập. tháng 8: Thượng Volta tuyên bố độc lập, thành lập nước cộng hòa. tháng 8: Côte d'Ivoire (tức Bờ Biển Ngà) tuyên bố độc lập. 11 tháng 8: Tchad tuyên bố độc lập. 13 tháng 8: Cộng hòa Trung Phi tuyên bố độc lập. 15 tháng 8: tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa Congo. *17 tháng 8: Gabon tuyên bố độc lập. tháng 9: Hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 22 tháng 9: Soudan thuộc Pháp tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa Mali. tháng 10: Nigeria giành độc lập từ Anh, thành lập nước Cộng hòa liên bang Nigeria 28 tháng 11: Mauritanie tuyên bố độc lập. 20 tháng 12: Thành lập mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. tháng Sơn Tuyền, ca sĩ nhạc vàng người Việt Nam hải ngoại 12 tháng Tề Tần, ca sĩ và nhạc sĩ người Đài Loan tháng Huệ Anh Hồng, diễn viên Hồng Kông 16 tháng Chung Sở Hồng, diễn viên Hồng Kông 23 tháng Naruhito, đương kim Thiên hoàng Nhật Bản 26 tháng Jennifer Grey, nữ diễn viên Mỹ 21 tháng Jeffrey Dahmer, kẻ sát nhân hàng loạt Mỹ (m. 1994) 22 tháng Kiều Nga, nữ ca sĩ hải ngoại gốc Việt 24 tháng Kristin Scott Thomas, nữ diễn viên người Anh 11 tháng Tạ Minh Tâm, ca sĩ thể loại opera, nhạc cách mạng người Việt Nam 11 tháng Bích Ngân, nhà văn Việt Nam tháng Huỳnh Tử Hoa, nghệ sĩ và diễn viên Hồng Kông tháng Hugh Grant, diễn viên người Anh 12 tháng Hữu Luân, nghệ sĩ nhân dân, nhà báo, người dẫn chương trình truyền hình, biên tập viên của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và kênh VTV3 30 tháng 10 Diego Maradona, huyền thoại bóng đá nam chuyên nghiệp của Argentina (m. 2020) tháng 11 Mao Thuấn Quân, nữ diễn viên Hồng Kông 10 tháng 11 Trương Đức Lan, nữ ca sĩ Hồng Kông 28 tháng 11 Thái Phong Hoa, nam ca sĩ Hồng Kông 18 tháng 12 Yoon Suk-yeol, tổng thống thứ 13 của Hàn Quốc 22 tháng 12 Châu Hoa Kiện, nam ca sĩ Đài Loan 15 tháng Eduard Čech, nhà toán học Tiệp Khắc (s. 1893) Vật lý Donald Arthur Glaser Hóa học Willard Frank Libby học Sir Frank Macfarlane Burnet, Peter Brian Medawar Văn học Saint-John Perse Hòa bình Albert John Luthuli
null
Suy nghĩ bị chặn (), là một hiện tượng thường gặp những người mắc bệnh tâm thần (thường là tâm thần phân liệt), xảy ra khi lời nói của một người đột ngột bị gián đoạn bởi những khoảng lặng có thể kéo dài vài giây đến một phút hoặc lâu hơn thế. Sau bị khi người đó bắt đầu nói lại, họ sẽ thường nói về một chủ đề không liên quan đến những gì đang được thảo luận. Nó được mô tả như việc đang trải qua một tâm trí trống rỗng, chớp nhoáng và không lường trước được. Những bệnh nhân tâm thần phân liệt thường trải nghiệm việc suy nghĩ bị chặn và có thể thấu hiểu trải nghiệm theo những cách kỳ quặc. Ví dụ, một bệnh nhân tâm thần phân liệt có thể nhận thấy rằng một người khác đã loại bỏ suy nghĩ ra khỏi bộ não của họ. Khi các bác sĩ chẩn đoán hiện tượng suy nghĩ bị chặn, điều quan trọng bác sĩ cần xem xét các nguyên nhân khác của việc tạm ngừng trong lời nói và những bộc lộ, như chứng động kinh nhẹ hoặc động kinh vắng thức, chứng mất ngôn ngữ, lưỡng lự do lo âu hoặc quá trình suy nghĩ chậm. Khi tìm kiếm bệnh nhân tâm thần phân liệt họ có thể tìm thấy qua hiện tượng này. Đây là một vấn đề phổ biến bệnh nhân tâm thần phân liệt.
Suy nghĩ bị chặn
Rối loạn suy nghĩ
"Người đàn bà quỳ" là bút ký của nhà báo Lê Văn Ba trong giai đoạn Đổi Mới tại Việt Nam. Tác phẩm được đăng trên Tuần báo Văn Nghệ vào ngày tháng 12 năm 1987. Lê Văn Ba khởi đầu viết báo khi còn là học sinh Trường Trung học phổ thông Chu Văn An tham gia "Đoàn học sinh kháng chiến Hà Nội Nhựa sống" trong vùng chiếm đóng tại nội thành Hà Nội và sau đó bị giam giữ tại nhà tù Hỏa Lò trong một năm. Sau khi chính thức làm việc tại báo Tiền Phong từ ngày tháng năm 1958, tác giả đảm nhận chức vụ trưởng ban Công nghiệp tại báo này vào năm 1975. Trước Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI chín tháng, Lê Văn Ba tham gia biên tập và vướng mắc xung quanh bài thơ "Mùa xuân nhớ Bác" trên báo Tiền Phong nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ngày 25 tháng năm 1986. Tại Việt Nam từ năm 1986, công chúng được phát biểu chính kiến và xã hội tương đối dân chủ, sáng tác văn học bắt đầu khởi sắc. Thay vì tuyên truyền "gương tốt người tốt", ký giai đoạn này nêu ra những mặt trái trong xã hội Việt Nam. Giai đoạn này, báo Văn Nghệ liên tục đăng các bút ký gây chấn động xã hội Việt Nam như "Lời khai của bị can", "Suy nghĩ trên đường làng". Bút ký được nhà báo Lê Văn Ba viết với bút danh Trần Khắc, đăng trên Tuần báo Văn Nghệ vào ngày tháng 12 năm 1987 trong không khí cởi mở sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI. Bút ký gây chấn động công chúng Việt Nam trong thời kỳ bắt đầu Đổi Mới. Dương Kỳ Anh trên Công an nhân dân khen ngợi bút ký "khắc họa nên hình ảnh không dễ quên của một thời mà văn học cũng như báo chí nước ta đã "nhìn thẳng vào sự thật" như lời cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh". Trần Huy Quang trên báo Người Đô thị điểm tên hai tác phẩm "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" và "Người đàn bà quỳ" để nhấn mạnh "nếu không đổi mới thì nông dân không lâu nữa sẽ trở lại thời chị Dậu của Tắt đèn". Tiến sĩ Nguyễn Thế Kỷ trên Tạp chí Cộng sản nhắc về bút ký của Trần Khắc và "Công lý, đừng quên ai" của Lâm Thị Thanh Hà cùng với "Thủ tục làm người còn sống" của Minh Chuyên, khẳng định đây là "những phản biện sắc sảo về pháp luật, chính sách; những sai trái và bất cập của chính sách, cơ chế tầm vĩ mô". Lã Nguyên trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An cho biết "có rất nhiều bài phê bình xuất hiện trên mặt báo để phát biểu một kiến nào đó về những phóng sự, ví như "Người đàn bà quỳ", "Vua lốp", "Làng giáo có gì vui"". Cũng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An, Tống Văn Công khen ngợi bút ký "vực dậy những hoàn cảnh thấp cổ, bé họng bị áp bức". X.B trên Tiền Phong khen ngợi "Lê Văn Ba nổi trội bất ngờ trong mặt bằng viết lách thời Những việc cần làm ngay với truyện ngắn "Người đàn bà quỳ" trên báo Văn Nghệ với cái tên Trần Khắc". Hữu Trịnh trên Thể thao Văn hóa đánh giá bút ký này góp phần "mang lại một không khí mới cho văn học". Ngọc Ngà trên Đài Tiếng nói Việt Nam ca ngợi bút ký của Trần Khắc và bút ký "Tiếng đất" của Hoàng Hữu Cát là một trong "nhiều bút ký, phóng sự có tiếng vang" thuộc 25 năm đổi mới văn học nghệ thuật. Ngân Hà trên báo Tổ quốc nhìn nhận đây là một trong "loạt phóng sự đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam giai đoạn này". Đỗ Thị Hương Thủy tại Đại học Đà Nẵng khen ngợi đây là một trong những bút ký "gây chấn động dư luận với thức nhìn thẳng vào sự thật". Đỗ Hải Ninh tại Viện Văn học gợi nhắc bút ký, đồng thời đánh giá đây là một trong những "những cơn địa chấn, không chỉ tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ mà còn mang tính xã hội hoá, tác động mạnh đến nhận thức, tình cảm của đông đảo bạn đọc". Nguyễn Thành Thi tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá đây là một trong các bút ký "dưới áp lực của cảm hứng nhận thức lại sự thật, rà soát lại chân lí trên tinh thần dân chủ, nói thẳng, nói thật". Lã Nguyễn tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhận định đây là một trong những bút ký "chắc chắn sẽ sống mãi trong ký ức người đọc và vĩnh viễn đi vào lịch sử văn học dân tộc". Tiến sĩ Đỗ Lai Thúy trên báo Người đô thị cho rằng công luận xã hội Việt Nam "hả hê, khoái trá với những "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?", "Người đàn bà quỳ"" thì có nghĩa họ hứng thú "công năng chính trị– xã hội của văn chương hơn là bản thân văn chương". Trần Ngọc Hiếu tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội gợi nhắc bút ký cùng các vở kịch của Lưu Quang Vũ thập niên 1980, đúc kết rằng "tâm lý của số đông người Việt Nam, đến thời điểm này, vẫn kỳ vọng văn học như một hình thức “nói hộ” bức xúc của mình". Nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định bút ký "nêu bật lòng khát khao dân chủ" tại Việt Nam đầu thời kỳ Đổi Mới. Lý Hoài Thu tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá đây là một trong những bút ký "thức tỉnh nhân tâm, tạo ra những phản ứng tích cực trong dư luận xã hội và đáp ứng một cách kịp thời tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới cách nhìn người, nhìn sự việc của những năm đầu thời kỳ chuyển hướng". Nguyễn Thị Tú Như tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh gợi nhắc các bút ký trên báo Văn Nghệ như "Người đàn bà quỳ" và "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" cùng "Lời khai của bị can", đồng thời nhận xét loạt tác phẩm "nhằm nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa văn học và tác phẩm ký in trên báo trong quá trình phát triển". Chính khách Hữu Thọ gợi nhắc bút ký "Cái đêm hôm ấy...đêm gì?" của Phùng Gia Lộc và "Người đàn bà quỳ" của Lê Văn Ba cùng với "Lời khai của bị can" của Trần Huy Quang; đồng thời nhận xét các bút ký này "đặt ra một vấn đề xã hội, thực sự có tính dự báo rất ghê về vấn đề dân chủ nông thôn, về vấn đề oan ức, về vấn đề kỳ thị người làm giàu trong xã hội". Bùi Tín trong hồi ký Hoa xuyên tuyết miêu tả bút ký của Trần Khắc "kể lại người đàn bà oan khiên đưa đơn hết "cửa quan cách mạng" này đến cửa khác mà không sao được giải quyết". Tắt đèn (1937, Ngô Tất Tố) Chí Phèo (1941, Nam Cao) Lão Hạc (1943, Nam Cao)
Người đàn bà quỳ
Bút ký Việt Nam, Việt Nam thập niên 1980
Freziera biserrata là một loài thực vật thuộc họ Theaceae. Đây là loài đặc hữu của Costa Rica. World Conservation Monitoring Centre 1998. Freziera biserrata. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng năm 2007.
''Freziera biserrata
Freziera
Henry Ronald Kingham (sinh ngày 19 tháng 11 năm 1904) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu cho Luton Town. Sinh ra Harpenden, Kingham gia nhập đội bóng địa phương Luton Town từ St Albans City năm 1926. Sau 275 trận cho Luton, Kingham rời đi năm 1937 để gia nhập Yeovil Petters United. Sau Yeovil, Kingham có thời gian thi đấu Worcester City trước khi kết thúc sự nghiệp.
Henry Ronald Kingham
Sinh năm 1904, Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá English Football League, Cầu thủ bóng đá St Albans City F.C., Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C., Cầu thủ bóng đá Yeovil Town F.C., Người Harpenden, Năm mất thiếu, Cầu thủ bóng đá Worcester City F.C., Hậu vệ bóng đá
Quận Portage là một quận thuộc tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Quận lỵ đóng Ohio. Dân số theo điều tra năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là người. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận này có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước.
Quận Portage
Quận của Ohio
Amazoromus becki là một loài nhện trong họ Gnaphosidae. Loài này săn mồi ban đêm trong khi ban ngày thì ẩn mình dưới các tảng đá và lá cây. Cơ thể chúng có hình oval, hẹp và chĩa về phia sau. Loài này thuộc chi Amazoromus. Amazoromus becki được miêu tả năm 1994 bởi Brescovit Höfer.
''Amazoromus becki
Amazoromus
'Callicebus là một loài động vật có vú trong họ Pitheciidae, bộ Linh trưởng. Loài này được d'Orbigny mô tả năm 1836. Tập tin:Callicebus donacophilus hugging tails.gk.jpg Tập 09.jpg Tập tin:Callicebus donacophilus 1847.jpg Tập tin:White-eared titi (Callicebus donacophilus) duetting.jpg
null
Callicebus, Động vật được mô tả năm 1836, Động vật có vú Bolivia, Động vật có vú Brasil
Tiki là viết tắt của “Tìm kiếm Tiết kiệm”, là tên của website thương mại điện tử Việt Nam. Thành lập từ tháng năm 2010, Tiki hiện đang là trang thương mại điện tử lọt top tại Việt Nam và top tại khu vực Đông Nam Á. Khởi đầu của Tiki chỉ là một website bán sách trực tuyến. Tháng năm 2012, Quỹ đầu tư CyberAgent Ventures Inc đã quyết định đầu tư vào Tiki. Với việc đầu tư này, Tiki dần mở rộng thành một sàn thương mại điện tử. Giai đoạn năm 2011 2012, Tiki trở thành đơn vị kinh doanh sách hàng đầu tại Việt Nam. Giai đoạn năm 2013 2014, Tiki mở rộng lĩnh vực kinh doanh với rất nhiều ngành hàng khác. Lúc này, ngoài hơn 51.000 đầu sách thì người mua hàng có thể tìm thấy các mặt hàng từ văn phòng phẩm, nhu yếu phẩm đến điện tử, điện gia dụng,… Tiki. giai đoạn này, Tiki bắt đầu đưa vào hoạt động hết công sức nhà kho diện tích rộng lên đến 3.000m2, bắt đầu chiếm lĩnh thị trường thương mại điện tử đang phát triển thần tốc Việt Nam. Năm 2015, Tiki lọt top website thương mại điện tử nổi bật nhất tại Việt Nam, đánh dấu tên tuổi và minh chứng cho sức ảnh hưởng của Tiki trên thị trường thương mại điện tử cũng như đối với người tiêu dùng Việt Nam. Năm 2016, Tiki vươn lên trở thành công ty thương mại điện tử lớn thứ Việt Nam, có mặt 63 tỉnh thành trên khắp cả nước. Tháng năm 2017 sau năm thành lập, Tiki đánh dấu bước chuyển mình khi chuyển sang hình thức Marketplace, thu hút thêm nhà bán hàng gia nhập hệ thống website của Tiki.vn, mở rộng lên hàng chục ngành hàng với hơn 300.000 sản phẩm được bày bán. Vào tháng năm 2020, Tiki đã huy động được khoảng 130 triệu USD từ một vòng tài trợ do công ty cổ phần tư nhân Northstar Group có trụ sở tại Singapore dẫn đầu. Ban đầu dự kiến chỉ huy động được 75 triệu USD nhưng sau đó vòng gọi vốn được tăng quy mô nhờ sự hỗ trợ từ các nhà đầu tư Thương mại điện tử khởi nghiệp Hàn Quốc. Với tốc độ tăng trưởng bình quân 30%, thị trường thương mại điện tử Việt Nam dự báo đạt 15 tỷ đô trong năm 2020 và nếu duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay, con số doanh thu sẽ lên tới 33 tỷ USD vào năm 2025, xếp thứ ba trong khu vực ASEAN, sau Indonesia (100 tỷ USD) và Thái Lan (43 tỷ USD). Mô hình ban đầu của Tiki trang web bán sách online. Tháng năm 2017, Tiki đánh dấu bước chuyển mình khi chuyển sang hình thức Marketplace cung cấp hơn 10 triệu sản phẩm từ 16 ngành hàng lớn, phục vụ hàng triệu khách hàng trên toàn quốc, đồng thời ra mắt dịch vụ TikiNow, giao hàng nhanh trong 2h. Đây là cơ hội không thể tốt hơn để các Nhà Bán mở rộng kênh bán hàng và gia tăng thu nhập trên sàn Tiki. Đến nay, Tiki đã có hơn thập kỷ đi cùng khách hàng, và hiện đang là trang thương mại điện tử lọt top đầu về sự hài lòng của khách hàng. Tiki là một hệ sinh thái thương mại tất cả trong một, gồm các công ty thành viên như: Công ty cổ phần Ti Ki ("TiKi") là đơn vị thiết lập, tổ chức sàn thương mại điện tử www.tiki.vn để các Nhà bán hàng thể tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên sàn thương mại điện tử. Công ty TNHH Tikinow Smart Logistics ("TNSL") là đơn vị cung cấp các dịch vụ logistics đầu-cuối, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ bưu chính cho Sàn thương mại điện tử www.tiki.vn Công ty TNHH MTV Thương mại Ti Ki ("Tiki Trading") là đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ trên sàn thương mại điện tử Đơn vị bán lẻ Tiki Trading và Sàn Giao dịch cung cấp 10 triệu sản phẩm từ 26 ngành hàng phục vụ hàng triệu khách hàng trên toàn quốc. Ngày 23 tháng năm 2022 Tiki ra mắt chương trình Heo Vàng Astra (dùng điểm thưởng Astra để bỏ ống heo) để khách hàng có thể tích lũy điểm thưởng Astra. Ngày tháng 10 năm 2022 Tiki ra mắt gói thành viên Astra Rewards dành cho mọi khách hàng Tiki với điểm thưởng Astra (ASA). Thành lập từ tháng năm 2010, Tiki.vn hiện đang là trang thương mại điện tử lọt top tại Việt Nam và top tại khu vực Đông Nam Á. Tiki lọt Top 20 nơi làm việc tốt nhất Việt Nam trong ngành 2018 (Anphabe bình chọn), Top 50 nơi làm việc tốt nhất châu 2019 (HR Asia bình chọn). Top doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam. Cung cấp dịch vụ Tikinow tại tỉnh thành và mô hình xuyên biên giới. Ngày 19 tháng 10 năm 2021 Tiki đã huy động được 258.000.000 USD, series từ AIA Group và nhà đầu tư khác. Ngày tháng năm 2020 Tiki huy động được 130.000.000 USD, vốn cổ phần tư nhân từ Northstar Group. Ngày 13 tháng năm 2019 Tiki đã huy động được số tiền không được tiết lộ, series Không xác định từ InnoVen Capital và nhà đầu tư khác. Ngày 21 tháng năm 2019 Tiki mua lại TicketBox với số tiền không được tiết lộ. Ngày 16 tháng năm 2018 Tiki đã huy động được số tiền không được tiết lộ, series từ JD.com và nhà đầu tư khác. Ngày 21 tháng 11 năm 2017 Tiki đã huy động được 44.000.000 USD, series từ JD.com. Ngày 17 tháng năm 2016 Tiki huy động được 17.000.000 USD, series từ VNG. Ngày 27 tháng năm 2013 Tiki đã huy động được 1.000.000 USD, series từ Sumitomo Corporation. Ngày tháng năm 2012 Tiki đã huy động được 500.000 USD, series từ CyberAgent Capital. Trang web chính thức
Tiki
Website thương mại
Danil Vladislavovich Krugovoy (; sinh ngày 28 tháng năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Nga thi đấu cho F.K. Zenit-2 St. Petersburg. Anh có màn ra mắt tại Giải bóng đá Quốc gia Nga cho F.K. Zenit-2 St. Petersburg vào ngày tháng 11 năm 2016 trong trận đấu với FC Tyumen. Anh vào sân từ ghế dự bị trong trận đấu của Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Nga tại Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2015. Sau đó anh đá chính cả bốn trận tại Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2015. Profile by Giải bóng đá Quốc gia Nga
Danil Vladislavovich Krugovoy
Sinh năm 1998, Nhân vật thể thao từ Sankt Peterburg, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nga, Hậu vệ bóng đá, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Nga, Cầu thủ bóng đá F.K. Zenit-2 Sankt Peterburg, Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Nga
Cậu bé kỳ quặc lớp 6B (tiếng Nga: Чудак из шестого "Б") là một tập truyện hài hước dành cho trẻ em của nhà văn Vladimir Zheleznikov. Truyện kể về những trò đùa quậy phá của cậu học sinh lớp 5B Boris Zbanduto tên thân mặt là Boria. Boris Zbanduto (học sinh lớp Năm) Nina Morozova (học sinh lớp Một) Bà Nina Mẹ Boria Anatoly Sergeyevich Olga Andreyevna (hàng xóm nhà Boria) Natasha (Đoàn viên Thanh niên trường Trung học số 70) Toshka (bạn Boria) Sasha Ryabov Gena Kostikov Maria Nikolayevna (giáo viên Thanh nhạc) Thầy giáo phụ trách môn Toán Cậu bé kỳ quặc lớp 5B (phim, 1972)
Cậu bé kỳ quặc lớp 6B
Vladimir Zheleznikov, Văn học thiếu nhi Liên Xô
Raphidia ariadne là một loài côn trùng trong họ Raphidiidae thuộc bộ Raphidioptera. Loài này được H. Aspöck U. Aspöck miêu tả năm 1964. Bisby |first F.A. |last2 Roskov |first2 Y.R. |last3 Orrell |first3 T.M. |last4 Nicolson |first4 D. |last5 Paglinawan |first5 L.E. |last6 Bailly |first6 N. |last7 Kirk |first7 P.M. |last8 Bourgoin |first8 T. |last9 Baillargeon |first9= G. |last10 Ouvrard |first10 D. (2011). "Species 2000 ITIS Catalogue of Life: 2011 Annual Checklist.". Species 2000: Reading, UK.. Läst ngày 24 tháng năm 2012. LDL Neuropterida Species of the World. Oswald J.D., ngày 25 tháng năm 2007 (2007). Neuropterida Species of the World. Version 2.00.
''Raphidia ariadne
Raphidia
(91848) 1999 UG6 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện qua chương trình tiểu hành tinh Beijing Schmidt CCD trạm Xinglong tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày 28 tháng 10 năm 1999. *Danh sách các tiểu hành tinh: 91001–92000
(91848) 1999 UG6
God's Own Country là một bộ phim của Anh năm 2017 được viết và đạo diễn bởi Francis Lee trong tác phẩm đầu tay của đạo diễn. Phim có sự tham gia của Josh O'Connor và Alec Secăreanu. Cốt truyện kể về một người chăn cừu trẻ Yorkshire có cuộc sống được biến đổi bởi một công nhân nhập cư Rumani. Bộ phim là sản phẩm duy nhất có trụ sở tại Vương quốc Anh có mặt trong hạng mục phim truyền hình thế giới tại Liên hoan phim Sundance 2017, nơi nó đã giành giải thưởng đạo diễn điện ảnh thế giới. Yorkshire, Johnny sống nông trại của gia đình với cha mình, Martin và bà ngoại, Deirdre. Do cha anh bị đột quỵ và tuổi của bà ngoại, phần lớn hoạt động hàng ngày của trang trại rơi vào tay Johnny. Trong thời gian xã hội của mình, Johnny tham gia vào các cuộc nhậu nhẹt và những cuộc gặp gỡ tình dục điên cuồng với những người đàn ông khác. Trở về trang trại muộn sau cuộc gặp gỡ với một người bán đấu giá trẻ tuổi, anh ta bị cha mình mắng mỏ vì một con bê đã chết vì sinh con khi vắng mặt. Gheorghe, một công nhân nhập cư Rumani, được thuê làm trợ giúp thêm cho mùa cừu. Anh đến và trải qua đêm đầu tiên trong một đoàn lữ hành mà gia đình đã tổ chức làm nơi của anh. Vì các ewes đã rời khỏi khu vực chính của trang trại và vì một phần của bức tường ranh giới của trang trại vẫn chưa được Johnny sửa chữa, nên Johnny và Gheorghe đã quyết định dành vài ngày cắm trại gần các con vật. Khi một trong những ewes sinh ra một người vô thức, Johnny bị thu hút khi Gheorghe có thể hồi sức và chăm sóc nó. Một buổi sáng, sau khi Johnny nhắc đến Gheorghe một lần nữa với tư cách là "gypsy", Gheorghe đã trói anh ta xuống đất và cảnh báo Johnny đừng nói điều đó với anh ta nữa. Ngày hôm sau, hai người đàn ông lại tham gia vào một cuộc chiến mà kết quả là Johnny thực hiện hành vi ngụy biện trên Gheorghe và hai người đàn ông có quan hệ tình dục thô bạo và say đắm trong bụi bẩn. Trong khi Johnny ban đầu không thừa nhận cuộc gặp gỡ, hai người chia sẻ thuốc lá và một gói đường cho mì cốc của họ trong suốt cả ngày. Đêm đó, Gheorghe chống lại hành động hung hăng của Johnny để quan hệ tình dục, thay vào đó kiên nhẫn cho anh ta thấy tình dục cũng có thể dịu dàng, và hai người đàn ông hôn nhau lần đầu tiên. Trở về trang trại, Johnny mời Gheorghe lại với anh ta trong nhà, nhưng Gheorghe vẫn lại trong đoàn lữ hành. Khi Martin bị đột quỵ lần thứ hai, Johnny nhận ra rằng việc điều hành trang trại bây giờ hoàn toàn là trách nhiệm của anh và hỏi Gheorghe rằng anh sẽ lại với anh. Khi Gheorghe bày tỏ sự không chắc chắn về việc liệu họ có thể cùng nhau và duy trì trang trại cùng một lúc hay không, Johnny phản ứng kém, uống quá mức và tham gia vào một cuộc gặp gỡ tình dục ngẫu nhiên khác. Khi Gheorghe nhận ra những gì Johnny đã làm, anh đột ngột rời khỏi trang trại. Martin được xuất viện, nhưng hiện đã suy nhược hoàn toàn. Johnny, tuyệt vọng để bù đắp với Gheorghe, nói với cha mình rằng anh sẽ lại để điều hành trang trại, nhưng mọi thứ phải được thực hiện theo các điều khoản của anh. Martin đưa ra sự chấp thuận ngầm của mình cho Johnny, người lên đường để đưa Gheorghe trở lại nông trại. Sau khi anh ta tìm thấy Gheorghe làm việc tại Scotland, hai người đã hòa giải. Gheorghe trở lại với Johnny; đoàn lữ hành được đưa đi và Gheorghe di chuyển vào nhà. Josh O'Connor vai Johnny Saxby Alec Secăreanu vai Gheorghe Ionescu Ian Hart vai Martin Saxby Gemma Jones vai Deidre Saxby Bộ phim một phần dựa trên cuộc đời của chính nhà văn và đạo diễn Francis Lee, nơi anh cũng phải đưa ra quyết định lại và làm việc tại trang trại của gia đình hoặc đi học trường kịch. Bộ phim được quay tại Yorkshire, đặc biệt quanh khu vực Silsden của Keighley West Yorkshire, với một số cảnh khác được quay Keighley Bus Station và Bệnh viện đa khoa Airedale với Haworth và Otley cũng có tính năng làm phông nền cho bộ phim. Việc sản xuất được tài trợ một phần thông qua chương trình iFeature của Hội đồng phim Anh với kinh phí bổ sung được bảo đảm từ Creative England. Bộ phim đã được công chiếu trên toàn thế giới tại Liên hoan phim Sundance vào ngày 23 tháng năm 2017. Đây là sản phẩm duy nhất từ ​​Vương quốc Anh góp mặt trong thể loại phim truyền hình thế giới trong năm 2017 Liên hoan phim Sundance. Phim được chiếu lên màn hình tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào ngày 11 tháng năm 2017. Ngay sau đó, Picturehouse Entertainment, Orion Pictures và Samuel Goldwyn Films đã có được quyền phân phối tương ứng của Anh Quốc và Hoa Kỳ. Nó được phát hành tại Vương quốc Anh vào ngày tháng năm 2017. Bộ phim đã bị cấm một số nước Rập do cảnh sex rõ ràng giữa hai nhân vật chính. Tương tự như vậy, Romania là quốc gia duy nhất Đông Âu nơi bộ phim được chiếu. upright God's Own Country nhận được sự hoan nghênh từ các nhà phê bình. Bộ phim giữ tỷ lệ phê duyệt 97% dựa trên 107 đánh giá, với trung bình có trọng số là 8/10, trên trang web tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes. Sự đồng thuận quan trọng của trang này có nội dung: "Một tin đồn lặng lẽ, cảm động về sự cô đơn và sự thân mật mới được tìm thấy, God's Own Country đánh dấu sự ra mắt đạo diễn xuất sắc cho Francis Lee." Trên Metacritic, bộ phim giữ mức 85 trên 100, dựa trên 22 nhà phê bình, cho thấy "sự hoan nghênh phổ quát". Danh sách của Liên hoan phim Sundance cho God's Own Country nói rằng "bạn có thể ngửi thấy mùi bùn trong bộ phim này" đồng thời mô tả Francis Lee là một tài năng mới lớn và bộ phim là "không thể bỏ qua". Peter Bradshaw, viết trong The Guardian, đã cho bộ phim bốn ngôi sao trong số năm. Bradshaw mô tả bộ phim là "gần như, nhưng không hoàn toàn là một Dales Brokeback Mountain," và cũng như một "câu chuyện tình yêu rất Anh, bùng nổ trong những đường nối với những cảm xúc không được nói ra, nỗi sợ hãi không được nói ra về tương lai và sẵn sàng thay thế mọi cảm xúc vào công việc nặng nhọc". Tại Liên hoan phim quốc tế Berlin 2017 bộ phim đã nhận được giải thưởng Harvey, được trình bày bởi chương trình Giải thưởng Teddy dành cho các bộ phim liên quan đến LGBT kết hợp với ban giám khảo độc giả từ tạp chí Männer LGBT của Đức. Ed Bông, viết trong The Times, đã cho bộ phim bốn ngôi sao trong số năm và mô tả bộ phim là "lộng lẫy" và "một bộ phim mạnh mẽ, Brokeback Mountain của Yorkshire". Giải thưởng Ngày lễ Thể loại Người nhận và người được đề cử Kết quả Australian Film Critics Association 13 tháng năm 2018 Best International Film (English Language) God's Own Country Berlin International Film Festival 18 tháng năm 2017 Jury Award God's Own Country Teddy Award God's Own Country British Academy Film Awards 18 tháng năm 2018 Outstanding British Film God's Own Country Rising Star Award British Independent Film Awards 10 tháng 12 năm 2017 Douglas Hickox Award Best British Independent Film God's Own Country Best Director Best Screenplay Best Actor Best Supporting Actor Best Debut Screenwriter Breakthrough Producer Best Casting Best Sound Chicago International Film Festival 26 tháng 10 năm 2017 Silver Q-Hugo God's Own Country Chéries-Chéris 21 tháng 11 năm 2017 Grand Prize God's Own Country Dinard British Film Festival tháng 10 năm 2017 Golden Hitchcock God's Own Country Heartbeat Hitchcock God's Own Country Dorian Awards 31 tháng năm 2018 LGBTQ Film of the Year ' Unsung Film of the Year ' Edinburgh International Film Festival 20 tháng năm 2017 The Michael Powell Award for Best British Feature Film Francis Lee Empire Awards 18 tháng năm 2018 Best British Film ' Best Male Newcomer Josh O'Connor Best Screenplay Francis Lee Evening Standard British Film Awards tháng năm 2018 Best Film ' Best Supporting Actor Best Supporting Actress Breakthrough of the Year Frameline San Francisco International LGBTQ Film Festival 27 tháng năm 2017 AT&T Audience Award God's Own Country Fünf Seen Film Festival tháng năm 2017 Audience Award God's Own Country Galway Film Fleadh tháng 11 năm 2017 Best International First Feature God's Own Country Golden Tomato Awards tháng năm 2018 Best Romance Movie 2017 God's Own Country Honolulu Rainbow Film Festival ngày 19 tháng năm 2017 Best Feature God's Own Country Jameson International Film Festival ngày 17 tháng năm 2017 Emeric Pressburger Prize God's Own Country London Film Critics' Circle ngày 28 tháng năm 2018 Film of the Year ' British/Irish Film of the Year ' British/Irish Actor of the Year Breakthrough British/Irish Filmmaker Technical Achievement Award San Francisco International Film Festival ngày 19 tháng năm 2017 Golden Gate Award God's Own Country Satellite Awards ngày 10 tháng năm 2018 Best Film God's Own Country Stockholm International Film Festival ngày 20 tháng 11 năm 2017 Best Direction Best Male Actor Bronze Horse God's Own Country Sundance Film Festival ngày 28 tháng năm 2017 World Cinema Directing Award Grand Jury Prize Sydney Film Festival ngày 18 tháng năm 2017 Foxtel Movies Audience Award God's Own Country Toronto Inside Out Lesbian and Gay Film and Video Festival ngày tháng năm 2017 Bill Sherwood Award God's Own Country Transilvania International Film Festival ngày 11 tháng năm 2017 Special Jury Award God's Own Country Transilvania Trophy God's Own Country Writers' Guild of Great Britain Awards ngày 15 tháng năm 2018 Best First Screenplay Francis Lee Zagreb Film Festival ngày 18 tháng 11 năm 2017 The Golden Pram God's Own Country Guardian article from April 2017 about the film and fellow "countryside movie" The Levelling
''God's Own Country
Phim năm 2017, Phim tiếng Anh, Phim chính kịch liên quan đến LGBT, Phim độc lập thập niên 2010, Phim liên quan đến LGBT thập niên 2010, Phim chính kịch lãng mạn thập niên 2010, Phim Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim độc lập của Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim liên quan đến LGBT của Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim chính kịch lãng mạn Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim về nhập cư, Phim tuổi mới lớn liên quan đến LGBT, Phim liên quan đến đồng tính nam
bracteatus' là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được (A.DC.) Woodson mô tả khoa học đầu tiên năm 1938. Thể
null
Chrysolina graminis là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Linnaeus miêu tả khoa học năm 1758. Loài này có chiều dài 7,7 đến 10,5 mm và có màu xanh kim loại sáng đặc trưng. Tên phổ biến trong tiếng Anh tansy beetle bắt nguồn từ cây tansy (họ Cúc) mà chúng thường ăn cả ấu trùng và trưởng thành. Ngoài các phân loài theo kiểu mẫu, lặp lại tên cụ thể, C. graminis graminis, còn có năm phân loài khác nhau của bọ cánh cứng, trong đó, gọi chung là có phân bố Cổ Bắc giới, mặc dù phần lớn các quốc gia nơi nó được tìm thấy suy giảm. Tại Vương quốc Anh, nó được chỉ định là 'Hiếm toàn quốc' và dân số địa phương này, tập trung York, North Yorkshire, đã là chủ đề của nhiều nghiên cứu gần đây.Ở một số vùng châu người ta cho rằng khi có bọ cánh cứng xanh bay lạc vào nhà là điềm lành thể hiện sự may mắn và tài lộc sắp đến. Tập tin:Chrysolina herbacea01.jpg Tập tin:Tansy beetle.png Tập tin:Chrysolina graminis (Tansy beetle), Arnhem, the Netherlands.jpg Tập tin:Chrysolina graminis 41.jpg
''Chrysolina graminis
Chrysolina, Bọ cánh cứng châu Âu
Sho Miyasaka (sinh ngày tháng năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Sho Miyasaka đã từng chơi cho Tokyo Verdy.
Sho Miyasaka
Sinh năm 1988, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Cầu thủ bóng đá Tokyo Verdy
El Catllar là một đô thị thuộc tỉnh Tarragona trong cộng đồng tự trị Catalonia, phía bắc Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là 26,43 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là 4079 người với mật độ 154,33 người/km². Đô thị này có cự ly km so với Tarragona.
El Catllar
Đô thị Tarragona
(192450) 1997 WY21 là một tiểu hành tinh nằm rìa ngoài của vành đai chính. Nó được phát hiện qua chương trình tiểu hành tinh Beijing Schmidt CCD trạm Xinglong tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày 23 tháng 11 năm 1997. *Danh sách các tiểu hành tinh: 192001–193000
(192450) 1997 WY21
Soko J-22 Orao (Đại bàng) là một loại máy bay trinh sát chiến thuật, cường kích, trợ chiến trực tiếp cận âm, nó còn có khả năng làm tiêm kích đánh chặn. ;IJ-22 Orao ;J-22A Orao ;J-22B Orao ;NJ-22 Orao Không quân Serbia 33 J-22 *Không quân Republika Srpska J-22. Không quân Nam Tư phải ;Ghi chú ;Tài liệu Gunston, Bill. The Encyclopedia of Modern Warplanes: The Development and Specifications of All Active Military Aircraft. New York: MetroBooks, 1995. ISBN 1-58663-207-8. Gunston, Bill. Encyclopedia Of World Air Power. London: Crescent, 1987. ISBN 0-517-49969-X. Lambert, Mark (ed.). Jane's All The World's Aircraft 1993-94. Coulsdon, UK: Jane's Data Division, 1993. ISBN 0-7106-1066-1. Không quân Serbia entry at World Air Forces website AIRSERBIA Serbian Aeronautical Information Network Soko J-22 Orao at Airliners.net *Photos at Avioni.net: Orao in low level flight at Kecskemet airshow in 2005, also here: at Batajnica airport, and here: at Batajnica. *Photo at ABG (Avijacija Bez Granica): Orao NJ-22 in flight 1980s J-022 Orao
Soko J-22 Orao
Máy bay cường kích Quốc tế 1970–1979, Máy bay cường kích Nam Tư 1970–1979, Máy bay tiêm kích Nam Tư 1970–1979, Máy bay trinh sát quân sự Nam Tư 1970–1979, Máy bay chiến đấu, Máy bay quân sự, Máy bay cường kích, Máy bay trinh sát, Máy bay tiêm kích, Máy bay hai động cơ phản lực, Máy bay cánh trên
Câu chuyện cảnh sát 2013 là bộ phim hành động của Trung Quốc-Hồng Kông năm 2013 được đạo diễn và viết kịch bản bởi Đinh Thịnh, và diễn viên chính là Thành Long trong một cuộc khởi động lại của loạt phim Câu chuyện cảnh sát Police Story. Bộ phim do Đinh Thịnh làm đạo diễn, trước đây từng thực hiện phim Đại binh tiểu tướng cũng có Thành Long tham gia. Không giống như các phim Câu chuyện cảnh sát trước đây, nơi ông đóng vai cảnh sát Hồng Kông, Thành Long đã đóng vai một cảnh sát Trung Quốc đại lục. Như Tân câu chuyện cảnh sát, Câu chuyện cảnh sát 2013 là một phần độc lập với một giai điệu sẫm màu hơn so với các phần trước, những bộ phim hài hước hơn. Đây là bộ phim thứ sáu trong loạt phim. Thám tử Zhong Wen đến Wu Bar để tìm kiếm con gái của mình, Miao Miao, người bây giờ là bạn gái của ông chủ hộp đêm Wu Jiang. Tuy nhiên, Zhong không đồng với mối quan hệ của Miao, dẫn đến một cuộc tranh cãi giữa cha và con gái. Trước khi Zhong có thể làm lành với Miao, anh ta bị một kẻ tấn công vô danh đánh vào đầu, trong một âm mưu do Wu sắp đặt. Tỉnh lại, Zhong thấy mình bị mắc kẹt trên ghế, và hai bàn tay bị trói bằng dây kim loại. Anh ta suy luận rằng Wu đã theo dõi anh ta, nhưng không thể kết luận tại sao. Zhong cũng biết rằng những người khách khác, kể cả con gái mình, đang bị giam giữ. Wu điện thoại cho cảnh sát địa phương và yêu cầu một khoản tiền chuộc lớn cũng như người tù nhân Wei Xiaofu, trước khi rời khỏi căn phòng Zhong đang bị trói. Zhong thoát khỏi dây trói và thoát khỏi căn phòng. Anh ta tìm thấy phòng bí mật của Wu, phần lớn chứa đầy áp phích của một cô gái tuổi teen và hình Wu hồi trẻ, người được đặt biệt danh "Spider" khi anh ta tham gia Kickboxing. Anh cũng nhìn thấy các bản thiết kế của quán bar và biết rằng Wu dự định sẽ đánh bom toàn bộ quán bar nếu vụ bắt cóc của anh ta thất bại. Thông qua Miao, Zhong lấy được một chiếc điện thoại di động, anh ta dùng để liên lạc với cảnh sát. Thật không may, Wu nhanh chóng phát hiện ra rằng Zhong đã trốn khỏi phòng giam giữ. Wu bắt Miao và đe dọa nhúng tay cô vào bể cá piranha, buộc Zhong phải ra mặt. Bị bắt lại, Zhong đề nghị với Wu cho anh giúp đỡ trong việc tìm kiếm Wei, người vẫn chưa đến. Wu đồng và cho Zhong hai lựa chọn đánh bại một trong những tay sai của mình trong một trận chiến và được phép giải thoát ba con tin, hoặc thừa nhận thất bại và tìm Wei một mình. Zhong nhượng bộ, đồng chiến đấu. Với sự kiên trì, Zhong đã đánh thắng tên tay sai của Wu. Zhong sau đó thuyết phục Wei Xiaofu đi vào quán bar với anh ta. Trở lại Wu Bar, Wu Jiang tiết lộ lý do đằng sau vụ bắt cóc: anh ta dự định trả thù Zhong, Wei, và ba con tin khác, tất cả đều là nhân chứng trùng hợp ngẫu nhiên với cái chết của em gái của Wu. Vào ngày định mệnh ấy, Wei muốn ăn cắp thuốc cho mẹ mình tại một hiệu thuốc. Em gái của Wu cũng hiệu thuốc đó. Khi hành động trộm cắp của Wei bị phát hiện, anh ta hoảng loạn và giữ em gái của Wu dưới mũi dao. Phim tiết lộ rằng cô đã có thai và do căng thẳng, đã tự sát bằng cách cắt cổ cô bằng con dao của Wei. Zhong, người đang lái xe về nhà, đã chứng kiến tình huống nguy hiểm đó, nhưng không thể cứu cô. Khi Wu đón nhận sự thật, lực lượng cảnh sát tấn công vào. Những quả bom do Wu đặt phát nổ và bọn tội phạm chạy trốn qua một con đường thoát hiểm. Trong sự bối rối sau đó, Wu bắt Miao đi cùng. Zhong đuổi theo và cả ba người dừng lại một đường ray dưới lòng đất. Wu cho Zhong hai lựa chọn: tự bắn hoặc nhìn con gái mình chết. Zhong chọn cái đầu tiên nhưng lại nhận ra khẩu súng không có đạn. Wu thông báo cho Zhong rằng anh đã vượt qua bài kiểm tra và đã giành được sự tôn trọng của anh. Wu trả lại Miao cho Zhong và chuẩn bị để cho một chiếc xe lửa đụng mình. Zhong không thể ngăn cản hành động tự tử của Wu nhưng may mắn thay, chiếc xe lửa chuyển hướng trước khi nó đụng Wu. Wu bị cảnh sát bắt giữ, trong khi Zhong được đưa đến bệnh viện. *Thành Long vai Thám tử Zhong Wen *Lưu Diệp vai Wu Jiang *Cảnh Điềm vai Miao Miao *Ân Đào vai Lan Lan *Lưu Nghi Vĩ vai Niu *Châu Hiểu Âu vai Wei Xiaofu *Vu Vinh Quang vai Đội trưởng Wu *Trương Lỗi vai Quanzi *Lưu Bội Kỳ vai Zhang *Cổ Lực Na Trát vai Xiao Wei *Trát Tạp vai Bin Ge *Ngô Việt vai Yue *Liễu Hải Long vai Pizhong *Na Uy vai Na Na *Thái Lộ vai Kun *Đinh Thịnh vai tài xế xe tải Việc quay phim Câu chuyện cảnh sát 6 bắt đầu vào tháng 11 năm 2012 tại Bắc Kinh. Để chuẩn bị cho vai diễn của mình, Thành Long cắt tóc ngắn để phù hợp với vẻ bề ngoài của một cảnh sát đại lục. Về vai diễn mới của mình, Thành Long đã đăng tải trên tài khoản Sina Weibo của mình: Quay phim kết thúc vào tháng năm 2013 và bắt đầu sản xuất, với các diễn viên lồng tiếng lại cuộc đối thoại của họ. Một buổi chiếu phim công cộng Câu chuyện cảnh sát 6 đã được tổ chức tại Liên hoan phim Quốc tế Bắc Kinh 2013 vào tháng năm 2013. Thành Long cũng quảng bá bộ phim tại Liên hoan phim Cannes 2013 vào tháng năm 2013. Bộ phim được phát hành tại Trung Quốc vào ngày 24 tháng 12 năm 2013. Bộ phim đã được phát hành vào tháng năm 2015 tại Hoa Kỳ bởi Well Go USA Entertainment. Phim có rating 44% trên Metacritic.
''Câu chuyện cảnh sát 2013
Phim năm 2013, Phim Trung Quốc, Phim Hồng Kông, Phim tiếng Trung Quốc, Phim hành động Trung Quốc, Phim hình sự Trung Quốc, Phim tâm lý Trung Quốc, Phim hành động Hồng Kông, Phim hình sự Hồng Kông, Phim tâm lý Hồng Kông, Phim trinh thám cảnh sát, Phim lấy bối cảnh Trung Quốc, Phim quay tại Trung Quốc, Phim hành động thập niên 2010, Phim lấy bối cảnh thập niên 2010
Nhà hát opera Tập tin:Hanoi Opera House hát lớn Hà Nội Nhà hát opera hay nhà hát là một loại công trình kiến trúc được xây dựng nhằm phục vụ cho các buổi biểu diễn opera. Nhà hát thường bao gồm những bộ phận cấu thành như: sân khấu biểu diễn, vị trí dành cho một dàn nhạc (hay còn gọi là hốc dàn nhạc), chỗ ngồi dành cho khán giả và khu vực hậu đài để thay phục trang cũng như chuẩn bị sân khấu. Một số nhà hát chỉ chuyên phục vụ biểu diễn opera như đúng tên gọi, một số nhà hát khác lại là bộ phận của trung tâm biểu diễn nghệ thuật lớn hơn. Ngày nay, từ "nhà hát" có thể được sử dụng để chỉ các trung tâm biểu diễn quy mô lớn chứ không giới hạn opera. Nhà hát opera công cộng đầu tiên là Teatro San Cassiano tại Venice, được khai trương vào năm 1637. Dòng nhạc opera vốn đã phổ biến qua nhiều thế kỷ, cả trong giới thường dân và giới thượng lưu, vì vậy mà không khó để giải thích cho số lượng lớn các nhà hát opera hoạt động tại đất nước này. Một vài các nhà hát nổi tiếng khác như Teatro Massimo Palermo (lớn nhất Ý), Teatro di San Carlo Naples (nhà hát opera lâu đời nhất thế giới) và Teatro La Scala Milan. Tương phản với Ý, Luân Đôn không có nhà hát nào vào lúc đương thời của Henry Purcell. Nhà hát opera đầu tiên Đức được xây dựng Hamburg vào năm 1678. Vào thế kỷ 17 và 18, nhà hát thường được tài trợ bởi những giới cầm quyền, tầng lớp quý tộc và những người giàu có. Họ sử dụng quyền bảo trợ của nghệ thuật để khẳng định tham vọng chính trị và vị thế xã hội của mình. Với sự phát triển của các hình thái xã hội tư sản và tư bản trong thế kỷ 19, văn hóa châu Âu đã chuyển từ hệ thống bảo trợ sang hệ thống hỗ trợ từ cộng đồng. Những khán phòng thời kỳ đầu của Hoa Kỳ đã phục vụ nhiều chức năng khác nhau tại các thị trấn và thành phố, chẳng hạn như tổ chức các buổi khiêu vũ cộng đồng, hội chợ, diễn kịch và vaudeville cũng như biểu diễn opera và các sự kiện âm nhạc khác. Đến thế kỷ 21, hầu hết các tập đoàn opera và nhà hát được hỗ trợ bởi các quỹ từ chính phủ và tổ chức, tiền bán vé và quyên góp tư nhân. Nhà hát Teatro San Carlo Naples, khai trương năm 1737, là nhà hát cổ nhất với khán phòng hình móng ngựa. Mô hình khán phòng này dần được sử dụng phổ biến cho các nhà hát Ý. Các nhà hát tiếp theo trên khắp châu Âu cũng được xây dựng với khán phòng hình móng ngựa. Opera rất thịnh hành châu Âu vào thế kỷ 18 và 19, vì vậy, các nhà hát opera thời kì này thường rất lớn, thường với hơn 1.000 chỗ ngồi. Theo truyền thống, các nhà hát opera lớn của châu Âu được xây dựng vào thế kỷ 19 có từ 1.500 đến 3.000 chỗ ngồi, chẳng hạn như La Monnaie Brussel (sau khi trùng tu, 1.700 chỗ), Nhà hát Opera và Ballet Odessa (1.636 chỗ), Nhà hát lớn Warsaw (khán phòng chính với 1.841 chỗ), Palais Garnier Paris (2.200 chỗ), Nhà hát Opera Hoàng gia Luân Đôn (2.268 chỗ) và Nhà hát Opera Quốc gia Vienna (khán phòng mới với 2.280 chỗ). Đến thế kỷ 20 cũng có rất nhiều nhà hát lớn như Nhà hát lớn Trung tâm của New York (3.800 chỗ) và Nhà hát Opera Tưởng niệm Chiến tranh San Francisco (3.146 chỗ) và còn nhiều nữa. Một số vở opera lại phù hợp hơn nếu được trình diễn tại các nhà hát nhỏ, chẳng hạn như La Fenice của Venice chỉ với khoảng 1.000 chỗ ngồi. Theo truyền thống, khán phòng sẽ có hình chữ U, chiều dài của các cạnh sẽ quyết định số ghế ngồi cho khán giả. Quanh khán phòng sẽ là các tầng với ban công, và thường, gần phía sân khấu hơn, sẽ có các hộp (các ngăn chia nhỏ của ban công). Tập tin:Театр оперы балета. Зал.jpg|Khán phòng của Nhà hát Odessa, có thể để ban công cũng như các hộp các tầng cả nhà hát. Tập tin:LUNE Hanoi Opera House 03.jpg|Khán phòng của Nhà hát lớn Hà Nội, nhìn về phía sân khấu. Từ cuối thế kỷ 19, nhà hát opera thường có vị trí riêng cho dàn nhạc giao hưởng. Khu vực này thường đặt thấp hơn vị trí ngồi của khán giả, điều này giúp dàn nhạc có thể chơi mà không át đi giọng của ca sĩ. Đặc biệt, tại nhà hát Bayreuth Festspielhaus của Wagner, khu vực của dàn nhạc được đặt gần như dưới sân khấu và khán giả không thể nhìn thấy. Kích thước dàn nhạc phục vụ cho các vở opera là khác nhau. Một số vở opera, hay oratorio hoặc các tác phẩm khác, có thể cần huy động tới một dàn nhạc khổng lồ. Chẳng hạn, một số tác phẩm thời kỳ Lãng mạn (hoặc cho nhiều vở opera của Richard Strauss), có thể cần hơn 100 nhạc công cho phần đệm này. Tập tin:Reapertura del Teatro Colón Orquesta antes de La Boheme.jpg|Khán phòng của nhà hát Teatro Colón, có thể nhận thấy khu vực dành cho dàn nhạc ngay phía trước sân khấu. Tập tin:Theatro Municipal de São Paulo phòng nhà hát thành phố São Paulo, ngay trước sân khấu là khu vực cho dàn nhạc. Giống như số lượng nhạc công, dàn nhân vật, hợp xướng, vũ công và các vai diễn "quần chúng" có thể rất đông. Do đó, nhà hát thường phải có khu vực hóa trang rất lớn. Các nhà hát quy mô cũng thường có cả các cửa hàng và cơ sở may trang phục tại chỗ. Bên cạnh đó, nhà hát còn có thể có các cơ sở để lưu trữ trang phục, đồ trang sức và các đạo cụ. Không gian diễn tập đôi khi cũng đặt đặt ngay trong nhà hát. Nhiều nhà hát lớn trên toàn thế giới sở hữu các sân khấu với kỹ thuật cao; điển hình là có hệ thống cần trục lớn giúp có thể chuyển cảnh nhanh chóng. Ví du, tại nhà hát Trung tâm New York, bối cảnh trên sân khấu thường được thay đổi trong suốt chương của vở nhạc kịch. Một số vở opera biểu diễn tại đây như Aida và Chuyện của Hoffman có sử dụng kỹ thuật này. Khi tu sửa nhà hát Opera Hoàng gia Luân Đôn vào cuối những năm 1990, dù khán phòng vẫn được giữ giống như nguyên gốc năm 1858, hậu trường, sân khấu và cánh gà đã được thay mới rõ rệt. Khu vực công cộng cũng được bổ sung cho nhà hát này. Nhà hát opera La Scala tại Milan cũng được trùng tu tương tự như vậy từ năm 2002 đến 2004. Mặc dù hệ thống biểu diễn (như sân khấu, ánh sáng...) được áp dụng những công nghệ mới nhất, âm thanh trong nhà hát thường không cần phải áp dụng kỹ thuật hiện đại (như micro và loa) do các ca sĩ opera đã được đào tạo để có thể đưa giọng hoàn chỉnh đến toàn bộ khán phòng. Tuy nhiên, từ những năm 1990, một số nhà hát opera đã bắt đầu sử dụng hình thức tăng âm tinh vi gọi là khuếch đại acoustic (xem bên dưới). Thông thường, vở opera sẽ được biểu diễn bằng ngôn ngữ gốc của tác phẩm; thứ tiếng này có thể khác với tiếng mẹ đẻ của khán giả. Chẳng hạn, những vở opera của Wagner được viết bằng tiếng Đức, nên nếu biểu diễn Luân Đôn thì chưa chắc tất cả khán giả có thể hiểu được tác phẩm. Vì vậy, từ những năm 1980, một số nhà hát opera hiện đại đã hỗ trợ khán giả bằng cách chiếu phần lời dịch lên trên hoặc gần sân khấu. Mới đây hơn, hệ thống libretto điện tử đã bắt đầu được sử dụng trong một số nhà hát opera, thí dụ như nhà hát Trung tâm tại New York, La Scala tại Milan và rạp Crosby thuộc nhà hát Santa Fe. Hệ thống này sẽ hiển thị phần lời dịch trên các màn hình được gắn mặt sau của ghế ngồi, nhờ vậy mà hiệu ứng trên sân khấu sẽ không bị ảnh hưởng. Bên trong một nhà hát Opera Allison, John (ed.), Great Opera Houses of the World, supplement to Opera Magazine, London 2003 Beauvert, Thierry, Opera Houses of the World, The Vendome Press, New York, 1995. ISBN 0-86565-978-8 Beranek, Leo. Concert Halls and Opera Houses: Music, Acoustics, and Architecture, New York: Springer, 2004. ISBN 0-387-95524-0 Hughes, Spike. Great Opera Houses; Traveller's Guide to Their History and Traditions, London: Weidenfeld Nicholson, 1956. Kaldor, Andras. Great Opera Houses (Masterpieces of Architecture) Antique Collectors Club, 2002. ISBN 1-85149-363-8 Lynn, Karyl Charna, Opera: the Guide to Western Europe's Great Houses, Santa Fe, New Mexico: John Muir Publications, 1991. ISBN 0-945465-81-5 Lynn, Karyl Charna, Italian Opera Houses and Festivals, Lanham, Maryland: The Scarecrow Press, Inc., 2005. ISBN 0-8108-5359-0 Plantamura, Carol, The Opera Lover's Guide to Europe, Citadel Press, 1996, ISBN 0-8065-1842-1
Nhà hát opera
Nhà hát, Lịch sử opera
HMS Hoste (K566) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-521, một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Anh được đặt tên theo Đại tá Hải quân Sir William Hoste (1780-1828), người từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon. Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945 nhưng rút biên chế và xóa đăng bạ ngay sau đó, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946. Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung mạn tàu rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải là Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất cho phép đạt được tốc độ tối đa và có dự trữ hành trình khi di chuyển vận tốc đường trường Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo /50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. và tám máy phóng K3 Mk. để thả mìn sâu. DE-521 được đặt lườn tại Xưởng hải quân Boston Boston, Massachusetts vào ngày 14 tháng 8, 1943; nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 9, 1943. Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 19 tháng 10, 1943 và được đặt tên HMS Mitchell, nhưng Hải quân Hoàng gia Anh đổi tên nó thành HMS Hoste vào ngày tháng 11, 1943; và sau khi hoàn tất vào ngày tháng 12, 1943 nó được đỡ đầu bởi bà D. W. Mitchell đồng thời nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS Hoste (K566) dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Keith Burns Hopkins. Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Hoste hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương và tại vùng eo biển Manche từ năm 1943 đến năm 1945. Sau khi chiến tranh chấm dứt tại Châu Âu, Hoste được hoàn trả cho Hoa Kỳ tại Harwich, Anh vào ngày 22 tháng 8, 1945, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Con tàu nhập biên chế trở lại cùng Hải quân Hoa Kỳ cùng ngày hôm đó như là chiếc USS Hoste (DE-521) dưới quyền chỉ huy của Đại úy Hải quân Hoa Kỳ C. G. Helm, Jr., rời Harwich vào ngày 29 tháng và về đến Xưởng hải quân Philadelphia tại Philadelphia, Pennsylvania vào ngày tháng 9. USS Hoste lại Philadelphia cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 23 tháng 10, 1945. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào tháng 6, 1946. Painting of HMS Hoste (K566) Drury at Uboat.net Hoste at Captain class frigate association
HMS ''Hoste'' (K566)
Lớp tàu frigate Captain, Lớp tàu hộ tống khu trục Evarts, Khinh hạm của Hải quân Hoàng gia Anh
Bob Kane (24/11/1915 3/11/1998) tên khai sinh là Robert Kahn, là một họa sĩ truyện tranh người Mỹ. Ông là người đã cùng với Bill Finger tạo nên nhân vật truyện tranh nổi tiếng của DC Comics là Người Dơi. Ông được ghi nhận những đóng góp của mình trong ngành công nghiệp truyện tranh bằng giải thưởng Jack Kirby Award năm 1994 và Eisner Award năm 1996. *Goulart, Ron, Over 50 Years of American Comic Books (BDD Promotional Books Company, 1991) ISBN 0-7924-5450-2; ISBN Comic Book Artist #3 (Winter 1999): "The Bob Kane Letter" (ngày 14 tháng năm 1965 open letter by Bob Kane)
Bob Kane
Sinh năm 1915, Mất năm 1998, Batman, DC Comics, Nhà văn Mỹ thế kỷ 20
() là một khu tự quản vùng Tây Hy Lạp, Hy Lạp. Khu tự quản Erymanthos có diện tích 582 km², dân số theo điều tra ngày 18 tháng năm 2001 là 11329 người.
null
Khu tự quản của Tây Hy Lạp, Khu tự quản Hy Lạp
+周口市Chu Khẩu thị Chu Khẩu trên bản đồ Kiểu hành chính Địa cấp thị Diện tích 11.959 km² Dân số 1.060.000 GDP không rõ Các dân tộc Hán Đơn vị cấp huyện 10 Đơn vị cấp hương chưa rõ Mã vùng điện thoại 394 Chu Khẩu quản lí trực tiếp quận, huyện và quản lí đại thể thành phố cấp huyện. *Quận: Xuyên Vị (川汇区), Hoài Dương (淮阳区) *Huyện: Phù Câu (扶沟县), Tây Hoa (西华县), Thương Thủy (商水县), Trầm Khâu (沈丘县), Đan Thành (郸城县), Thái Khang (太康县), Lộc Ấp (鹿邑县) *Thành phố cấp huyện: Hạng Thành (项城市)
周口市Chu Khẩu thị
Đơn vị hành chính cấp địa khu Hà Nam
Ichneutica lignana là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Nó là loài đặc hữu của New Zealand. Năm 2019, Robert J. B. Hoare đã công bố những nghiên cứu của mình về những loài bướm đêm New Zealand. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, Hoare đã đặt loài này vào chi Ichneutica. Ấu trùng ăn nhiều loại thực vật khác nhau. Tập tin:Graphania lignana Tập tin:Graphania lignana Citizen science observations
''Ichneutica lignana
Ichneutica, Động vật được mô tả năm 1857
Tomb Raider, hoặc được biết với cái tên Lara Croft: Tomb Raider vào giữa năm 2001 và 2008 là một thương hiệu truyền thông có nguồn gốc từ một loạt trò chơi điện tử phiêu lưu hành động được tạo ra bởi công ty trò chơi điện tử của Anh Core Design. Trước đây thuộc sở hữu của Eidos Interactive, sau đó là Square Enix Châu Âu sau khi Square Enix mua lại Eidos vào năm 2009. Trò chơi xoay quanh nhà khảo cổ học hư cấu người Anh Lara Croft, người đi khắp thế giới để tìm kiếm những món đồ tạo tác bị thất lạc và xâm nhập vào những ngôi mộ và tàn tích nguy hiểm. Lối chơi thường tập trung vào việc khám phá môi trường, giải câu đố, điều hướng môi trường thù địch đầy cạm bẫy và chiến đấu với kẻ thù. Các phương tiện truyền thông khác đã được phát triển cho thương hiệu truyền thông dưới dạng phim chuyển thể, truyện tranh và tiểu thuyết. Sự phát triển của Tomb Raider, trò chơi điện tử đầu tiên, bắt đầu vào năm 1994; nó được phát hành vào tháng 10 năm 1996. Thành công quan trọng về mặt thương mại của trò chơi đã thúc đẩy Core Design phát triển các phiên bản mới hàng năm trong bốn năm tiếp theo, điều này gây căng thẳng cho đội ngũ nhân viên. Trò chơi thứ sáu, Tomb Raiderː The Angel of Darkness, gặp khó khăn trong quá trình phát triển và được coi là một thất bại khi phát hành. Điều này đã thúc đẩy Eidos chuyển giao nhiệm vụ phát triển sang Crystal Dynamics, nhà phát triển chính của series đến tận bay giờ. Các nhà phát triển khác đã đóng góp vào các spin-off và đưa lên các nền tảng khác. Trò chơi Tomb Raider đã bán được hơn 81 triệu bản trên toàn thế giới. Sê-ri nói chung đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình và được đánh giá là một trong những tác phẩm tiên phong của thể loại phiêu lưu hành động. Lara Croft đã trở thành một trong những nhân vật chính trong trò chơi điện tử nổi tiếng nhất, giành được nhiều giải thưởng và giành được vị trí trên Walk of Game và Kỷ lục Guinness Thế giới. Cùng với việc được ca ngợi vì là tiên phong trong việc có nhân vật nữ chính trong trò chơi điện tử, cô ấy còn là chủ đề tranh cãi do sức hấp dẫn nữ giới của cô ấy được dùng để tiếp thị. Sáu trò chơi đầu tiên trong sê-ri được phát triển bởi Core Design, một công ty trò chơi điện tử của Anh thuộc sở hữu của Eidos Interactive. Sau khi trò chơi thứ sáu trong loạt game được phát hành với sự đón nhận nồng nhiệt vào năm 2003, việc phát triển đã được chuyển giao cho công ty Crystal Dynamics của Mỹ và đã tiếp tục phát triển sê-ri đến tận bây giờ. Kể từ năm 2001, các nhà phát triển khác đã đóng góp vào việc đưa trò chơi chính lên nền tảng khác hoặc với sự phát triển của các tựa game spin-off. Phiên bản đầu tiên trong series, Tomb Raider được phát hành vào năm 1996 cho PC, PlayStation và máy chơi game Sega Saturn. Phiên bản Saturn và PlayStation được phát hành tại Nhật Bản vào năm 1997. Phần tiếp theo của series, Tomb Raider II, ra mắt vào năm 1997, một lần nữa cho Microsoft Windows và PlayStation. Một tháng trước khi phát hành, Eidos đã hoàn tất thỏa thuận với Sony Computer Entertainment phát triển các phiên bản console của Tomb Raider II và các phiên bản khác trong tương lai độc quyền cho PlayStation cho đến năm 2000. Phiên bản PlayStation được phát hành tại Nhật Bản vào năm 1998. Tomb Raider III ra mắt vào năm 1998. Giống với Tomb Raider II, phiên bản PlayStation được phát hành tại Nhật Bản vào năm sau. Tựa game thứ tư trong series, Tomb Raider: The Last Revelation, phát hành vào năm 1999. Năm 2000, với việc kết thúc thỏa thuận độc quyền với PlayStation, trò chơi cũng được phát hành trên Dreamcast. Tại Nhật Bản, cả hai phiên bản console đều được phát hành vào năm sau. Tomb Raider Chronicles được phát hành vào năm 2000 trên cùng nền tảng với Tomb Raiderː The Last Revelation, với phiên bản PlayStation tại Nhật được ra mắt vào năm sau. Sau ba năm, Tomb Raider: The Angel of Darkness được phát hành trên Microsoft Windows và PlayStation vào năm 2003. Phiên bản PlayStation được phát hành tại Nhật Bản cùng năm đó. Phiên bản kế nhiệm, Tomb Raider Legend, được phát hành trên toàn thế giới vào năm 2006 cho Microsoft Windows, PlayStation 2, PlayStation 3, Xbox, Xbox 360, PlayStation Portable, GameCube, Game Boy Advance và Nintendo DS. Các phiên bản Xbox 360, PlayStation và PlayStation Portable được phát hành tại Nhật Bản cùng năm. Một năm sau, trò chơi làm lại của phiên bản đầu tiên có tên Tomb Raider: Anniversary được phát hành trên toàn thế giới vào năm 2007 cho Microsoft Windows, PlayStation 2, PlayStation 3, PlayStation Portable, Xbox 360 và Wii. Trò tiếp theo, Tomb Raider: Underworld, được phát hành vào năm 2008 trên Microsoft Windows, PlayStation 3, PlayStation 2, Xbox 360, Wii và DS. Các phiên bản PlayStation 3, PlayStation 2, Xbox 360 và Wii được phát hành tại Nhật Bản vào năm 2009. Năm 2011, The Tomb Raider Trilogy được phát hành cho PlayStation dưới dạng bản phát hành tổng hợp bao gồm Anniversary và Legend được làm lại độ phân giải HD, cùng với phiên bản PlayStation của Underworld. Đĩa bao gồm hình đại diện cho PlayStation Home, Gói chủ đề, Danh hiệu mới, video Nhật ký của nhà phát triển cho ba trò chơi và đoạn giới thiệu của Lara Croft và Guardian of Light dưới dạng nội dung thưởng. Bản khởi động lại toàn bộ series, có tên Tomb Raider, đã được phát hành trên toàn thế giới vào năm 2013 cho Microsoft Windows, PlayStation và Xbox 360. Phần tiếp theo của series, Rise of the Tomb Raider, được phát hành vào năm 2015 trên Xbox 360 và Xbox One. Trò chơi là một phần của thỏa thuận độc quyền trong một khoảng thời gian với Microsoft. Các phiên bản cho PlayStation và Microsoft Windows được phát hành vào năm 2016. Vào tháng 11 năm 2017, Square Enix thông báo rằng Shadow of the Tomb Raider sẽ được tiết lộ vào năm 2018. Vào tháng năm 2018, Shadow of the Tomb Raider đã được Square Enix xác nhận. Nó được phát hành trên toàn thế giới trên PlayStation 4, Xbox One và Microsoft Windows vào ngày 14 tháng năm 2018. Một trò chơi arcade hiện thân của series đã được công bố vào năm 2018, sẽ được phát hành bởi Bandai Namco Amusements.
''Tomb Raider
Người Canada gốc Hy Lạp () là công dân Canada có toàn bộ hoặc một phần hậu duệ từ người Hy Lạp hoặc những người di cư từ Hy Lạp và cư trú tại Canada. Theo Điều tra dân số năm 2016, có 271.405 người Canada khai nhận tổ tiên là người Hy Lạp.\ Quan hệ Canada–Hy Lạp Toronto bạo loạn chống Hy Lạp 1918
Người Canada gốc Hy Lạp
Người Canada gốc Hy Lạp, Người Hy Lạp hải ngoại theo quốc gia, Canada gốc Âu, Canada gốc Hy Lạp, Nhóm sắc tộc Canada
Nice là tỉnh lỵ của tỉnh thuộc vùng hành chính d'Azur của nước Pháp, có dân số là 347.100 người (năm 1999), xếp thứ trong các thành phố Pháp sau các thành phố Paris, Marseille, Lyon và Toulouse. Vùng đô thị của Nice trải dài vượt quá giới hạn thành phố hành chính, với dân số khoảng triệu người trên diện tích 721 km2. Nằm vùng duyên hải Pháp, trên bờ biển phía đông nam nước Pháp trên biển Địa Trung Hải, dưới chân dãy núi Alps, Nice là thành phố lớn thứ hai của Pháp trên bờ biển Địa Trung Hải và là thành phố lớn thứ hai Vùng d'zur sau Marseille. Nice có cự ly khoảng 13 km từ Công quốc Monaco và 30 km từ biên giới Pháp-Ý. Sân bay Nice phục vụ như một cửa ngõ vào khu vực. Thành phố có biệt danh Nice la Belle (Nissa La Bella Niçard), có nghĩa là Nice Xinh đẹp, cũng là tựa đề của bài ca không chính thức của Nice, được viết bởi Menica Rondelly vào năm 1912. Khu vực của Nice ngày nay có chứa Terra Amata, một khu khảo cổ phô diễn bằng chứng về việc sử dụng lửa rất sớm cách đây 380.000 năm. Khoảng năm 350 trước Công nguyên, người Hy Lạp Marseille đã thành lập một khu định cư lâu dài và gọi đó là Nikaia, dựa trên tên của nữ thần chiến thắng Nike. Qua nhiều thời đại, thành phố đã đổi chủ nhiều lần. Vị trí chiến lược và cảng của nó đóng góp đáng kể vào sức mạnh hàng hải của nó. Trong nhiều thế kỷ, thành phố được cai quản bởi triều đại Savoy, và sau đó là một phần của Pháp trong khoảng thời gian từ 1792 đến 1815, khi nó được trả lại cho Vương quốc cho đến khi sáp nhập lại vào Pháp năm 1860. Môi trường tự nhiên của khu vực Nice và khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa đã thu hút sự chú của giới thượng lưu Anh trong nửa sau của thế kỷ 18, khi ngày càng nhiều gia đình quý tộc dành thời gian vào mùa đông đó. Lối đi dạo bên bờ biển chính của thành phố, Promenade des Anglais ("Phố đi bộ người Anh") đặt tên theo những du khách đến đây để nghỉ mát. Không khí trong lành và ánh sáng dịu nhẹ đặc biệt thu hút các họa sĩ đáng chú ý, như Marc Chagall, Henri Matisse, Niki de Saint Phalle và Arman. Công trình của họ được kỷ niệm tại nhiều bảo tàng của thành phố, bao gồm Musée Marc Chagall, Musée Matisse và Musée des Beaux-Arts. Nice có công suất khách sạn lớn thứ hai trong cả nước Pháp và đây là một trong những thành phố được ghé thăm nhiều nhất, đón triệu khách du lịch mỗi năm. Nó cũng có sân bay bận rộn thứ ba Pháp, sau hai sân bay chính của Paris. Đây là thành phố thủ đô lịch sử của Quận Nice (Comté de Nice) Cuneo, Edinburgh, Scotland, Vương quốc Anh Gdańsk, Ba Lan Hàng Châu, Trung Quốc Laval, Canada Louisiana (State), Mỹ Miami, Mỹ Netanya, Israel Nuremberg, Đức Saint Petersburg, Nga Szeged, Hungary Thessaloniki, Hy Lạp Yalta, Ukraina Alicante, Tây Ban Nha Cartagena, Colombia Antananarivo, Madagascar Cape Town, Nam Phi Houston, Mỹ Kamakura, Nhật Bản Libreville, Gabon Manila, Philippines Nouméa, Pháp Phuket, Thái Lan Rio de Janeiro, Brasil Saint-Denis, Pháp Santa Cruz de Tenerife, Tây Ban Nha Sorrento, Yerevan, Armenia Cần Thơ, Việt Nam Những người nổi tiếng của Pháp xuất thân từ Nice là: Arman, nghệ nhân người đồng thành lập Nouveau Réalisme Philippe Auguin, nhạc trưởng dàn nhạc Jean Behra, vận động viên đua xe Alfred Binet, nhà sư phạm và tâm lý học Maurice Boitel, họa sĩ Surya Bonaly, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật Felice Borel, vận động viên bóng đá Eugène Bozza, nhà soạn nhạc Henry Cavendish, nhà khoa học tự nhiên Lise Darly, nữ ca sĩ Michel Delgiudice, nhà soạn nhạc và nhạc trưởng dàn nhạc René Dreyfus, vận động viên đua xe Henri-Claude Fantapié, nhạc trưởng dàn nhạc Giuseppe Garibaldi, thành viên kháng chiến, nhà cách mạng của nước Yves Klein, họa sĩ, nhà điêu khắc Francis Lai, nhà soạn nhạc, nhận Giải thưởng Oscar cho nhạc trong phim Friedrich Wilhelm Mader, nhà văn André Masséna, thống chế của Pháp, công tước của Rivoli và là hoàng tử của Essling Jacques Miller, nhà khoa học Jean-Pierre Mocky, đạo diễn Michel Navratil, người sống sót trong chuyến tàu Titanic José Reyes, ca sĩ Joann Sfar, họa sĩ truyện tranh comic Alfred A. Tomatis, bác sĩ Jacques Toubon, chính trị gia Han van Meegeren, họa sĩ Simone Veil, nữ chính trị gia một trong những chủ tịch của Quốc hội châu Âu Barney Wilen, nhạc sĩ Jazz Hugo Lloris, vận động viên bóng đá chơi cho câu lạc bộ Tottenham hotspur và đội tuyển quốc gia Pháp Team Côte d'Azur The Economic development agency NiceRendezVous official site Nice Carnaval Dances and traditional musics from Nice Nice official site Pictures from Nice Traveling to Nice with Children Nice beach webcam Current Weather Forecast for Nice Nice
Nice
Di sản thế giới tại Pháp
Mikoyan, trước kia (tiếng Nga: Микоян Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia nó là một phòng thiết kế của Liên bang Xô viết, và được thành lập bởi Artem Mikoyan và Mikhail Gurevich với tên là Từ khi ông Mikoyan mất năm 1970, tên “Gurevich” đã bị bỏ đi. Tiền tố của Mikoyan là "MiG." Chính phủ Nga đang có kế hoạch hợp nhất Mikoyan với Ilyushin, Irkut, Sukhoi, Tupolev, và Yakovlev thành một công ty mới tên là Liên đoàn máy bay hợp nhất. Công ty này điều hành nhiều văn phòng thiết kế và các cơ sở chế tạo máy gồm cả nhà máy chế tạo máy bay trực thăng Kamov. MiG-15 MiG-21 MiG-23 MiG-25 MiG-29 MiG-29OVT Tập tin:MiG-35 airliners Tập tại Peenemünde MiG-1, 1940 MiG-3, 1941 MiG-9/I-300 "Fargo", 1946 MiG-15 "Fagot" và "Midget", 1948 MiG-17 "Fresco", 1953 MiG-17MiG-19 "Farmer", 1954, máy bay tiêm kích siêu âm đầu tiên của MiG MiG-21 "Fishbed" và "Mongol", 1956, máy bay tiêm kích ** Biến thể của MiG-21 MiG-23 "Flogger", 1967 (định danh dùng lần thứ ba của tên MiG-23) MiG-25 "Foxbat", 1965, máy bay tiêm kích đánh chặn/trinh sát MiG-27 "Flogger J", 1970, máy bay cường kích phát triển từ MiG-23 MiG-29 "Fulcrum", 1977 ** MiG-29K "Fulcrum-D" ** MiG-29M "Fulcrum-E" MiG-31 "Foxhound", 1975, máy bay tiêm kích đánh chặn MiG-35 "Fulcrum-F", 2007, máy bay tiêm kích đa năng thế hệ 4+ MiG-19 DIS/MiG-5, 1941 (tiêm kích hộ tống) MiG-6, 1940 (cường kích/trinh sát) MiG-7, 1944 MiG-8 Utka, 1945 MiG I-210, 1941 MiG I-211, 1942 MiG I-220, 1943 MiG I-222, 1944 MiG I-224, 1944 MiG I-225, 1944 MiG I-230/MiG-3U, 1942 MiG I-231, 1943 MiG I-250 (N), 1945 (còn gọi là "MiG-13") MiG I-270, 1947 MiG I-320, 1949 MiG I-350, 1951 MiG I-360, 1952 MiG I-370, 1955 MiG I-380, 1953 MiG I-3, 1953 MiG I-7U, 1957 MiG I-75, 1958 MiG SM-12, 1957 MiG SN, 1953 Ye-2, 1955 Ye-4/Ye-5, 1955 Ye-8, 1962, tiêm kích thử nghiệm Ye-50, 1956 Ye-150, 1958 Ye-151 Ye-152 "Flipper", 1959, tiêm kích, mã NATO "Flipper" Ye-166 MiG-23 (định danh dùng lần 1) định danh sản xuất của Ye-2A, 1956 MiG-23 (định danh dùng lần 2) tên ban đầu của Ye-8 (E-8/1 và E-8/2), 1960 MiG-AT, 1996 MiG-110, 1995 Mikoyan MiG-39, 1986–2000 Đề án MiG LFI MiG-105 Spiral, 1965 MiG-33 "Fulcrum-E" Mikoyan LMFS *MiG-31MiG Skat Hợp đồng giữa Algérie và Rosoboronexport của Nga cung cấp 34 chiếc MiG-29SMT đã được ký kết năm 2006. Giá trị hợp đồng, theo nguồn tin không chính thức, đạt 1,28 tỷ USD. Năm 2006-2007, Algérie đã nhận 15 chiếc MiG-29 nhưng sau đó nước này ngừng tiếp nhận sau khi tuyên bố hàng loạt lỗi kỹ thuật trên máy bay. Cuối cùng, Algérie đã trả lại máy bay cho Nga. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga phụ trách về vấn đề vũ khí Vladimir Popovkin cho rằng hợp đồng cung cấp máy bay tiêm kích MiG-29 ký kết giữa Nga và Algérie bị đổ vỡ là vì những nguyên nhân chính trị. Phía Algérie khi đó đã khẳng định có những vấn đề về chất lượng và một số chiếc được lắp ráp từ đồ cũ. MiG-29 bắt đầu được đưa vào trang bị từ những năm 1980 và kho dự trữ các chi tiết và bộ phận của loại máy bay này vẫn còn nhiều nên tập đoàn MiG đã sử dụng các bộ phận này để lắp cho những chiếc MiG-29 bán cho Algérie. Vụ việc sau đó đã được điều tra và phanh phui. Vì vậy năm 2008 Nga phải chấp nhận mua 28 chiếc MiG-29 để giúp tập đoàn MiG không bị phá sản. Các máy bay MiG là các máy bay nổi tiếng nhất của Liên bang Xô viết trong Chiến tranh lạnh, và vì thế đã có một số máy bay MiG hư cấu trong văn hóa phương Tây. MiG-28 là một máy bay hư cấu được sử dụng trong bộ phim Top Gun năm 1986. Chúng được đóng thế bởi các máy bay T-38 Talon aircraft. MiG-31 "Firefox" là chủ đề của hai tiểu tuyết (Firefox và Firefox Down) và một bộ phim năm 1982 movie. Để tăng thêm tính mơ hồ, máy bay MiG-31 "Foxhound" thực tế có một radar tìm kiếm tên là "Foxfire." MiG-37 "Ferret-E" là một model bằng nhựa do Italeri tạo ra (cũng được bán bởi Testors). Xem thêm: Danh sách các máy bay của Liên bang xô viết và CIS Các máy bay MiG tuân thủ quy ước dùng các số lẻ để chỉ các máy bay chiến đấu. Vì thế dù MiG-8 và MiG-110 có tồn tại, chúng không phải là máy bay chiến đấu. MiG-105 "Spiral" được thiết kế để làm máy bay đánh chặn quỹ đạo, chiếc cùng kiểu với nó là dự án X-20 Dyna-Soar của Hoa Kỳ và đã bị hủy bỏ. Cách người Do Thái khắc chế MiG Liên Xô Trang chủ của MiG "OKB" MiG Viện bảo tàng Hàng không Nga MiG
Mikoyan
United Aircraft Corporation, Hãng chế tạo máy bay Nga, Hãng chế tạo máy bay Liên Xô, Công ty tại Moscow, Công ty quốc phòng Nga, Công ty sản xuất máy bay Liên Xô, Công ty sản xuất máy bay Nga
là một chi ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Volutidae. Các loài thuộc chi Fulgoraria bao gồm: Subgenus Fulgoraria Schumacher, 1817 Fulgoraria ericarum Douté, 1997 Fulgoraria hamillei (Crosse, 1869) Fulgoraria humerosa Rehder, 1969 Fulgoraria kaoae Bail, 2008 Fulgoraria leviuscula Rehder, 1969 Fulgoraria rupestris (Gmelin, 1791) Subgenus Fulgoraria (Kurodina) Rehder, 1969 Fulgoraria smithi (Sowerby III, 1901) Subgenus Fulgoraria (Musashia) Hayashi, 1966 Fulgoraria allaryi Bail, 2005 Fulgoraria cancellata Kuroda Habe, 1950 Fulgoraria carnicolor Bail Chino, 2010 Fulgoraria chinoi Bail, 2000 Fulgoraria clara (Sowerby III, 1914) Fulgoraria formosana Azuma, 1967 Fulgoraria hirasei (Sowerby III, 1912) Fulgoraria noguchii Hayashi, 1960 Subgenus Fulgoraria Shikama, 1967 Fulgoraria elongata Shikama, 1962 Fulgoraria megaspira (Sowerby I, 1844) Subgenus Fulgoraria (Psephaea) Crosse, 1871 Fulgoraria concinna (Broderip, 1836) Fulgoraria daviesi (Fulton, 1938) Fulgoraria kamakurensis Okuta, 1949 Fulgoraria kaneko Hirase, 1922 Fulgoraria kaoae Bail, 2008 Fulgoraria mentiens (Fulton, 1940) Các loài được đưa vào đồng nghĩa: Fulgoraria delicata (Fulton, 1940): đồng nghĩa của Saotomea (Saotomea) delicata (Fulton, 1940) Fulgoraria minima Bondarev, 1994: đồng nghĩa của Saotomea (Bondarevia) minima (Bondarev, 1994) Fulgoraria pratasensis Lan, 1997: đồng nghĩa của Saotomea (Saotomea) pratasensis Lan, 1997 Fulgoraria solida Bail Chino, 2000: đồng nghĩa của Saotomea (Saotomea) solida (Bail Chino, 2000) Fulgoraria allaryi Bail, 2005: đồng nghĩa của Fulgoraria (Musashia) allaryi Bail, 2005
null
Volutidae
Trong lý thuyết số, '''giả thuyết là giả thuyết về sự phân phối của các số nguyên tố trong cấp số cộng. Nó có nhiều ứng dụng trong lý thuyết sàng. Nó được đặt tên theo nhà toán học Peter D. T. A. Elliott và Heini Halberstam, và được phát biểu bởi họ vào năm 1968. Để phát biểu giả thuyết cần một số ký hiệu sau: Gọi là hàm đếm số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng Nếu là số nguyên dương và nguyên tố cùng nhau với thì ta gọi là số các số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng và bằng với khi modulo Định lý Dirichlet trên các số nguyên tố trong cấp số cộng nói với chúng ta rằng trong đó là hàm phi Euler. Nếu ta định nghĩa hàm sai số trong đó giá trị max được lấy trên tất cả giá trị nguyên tố cùng nhau với thì giả thuyết khẳng định rằng với mọi và tồn tại hằng số sao cho với mọi Giả thuyết mới chỉ chứng minh đúng cho mọi và được chứng minh bởi Enrico Bombieri và A. I. Vinogradov (xem định lý đôi khi được gọi ngắn đi là "định lý Bombieri"); kết quả này khá hữu dụng bởi nó là dạng trung bình của phỏng đoán Riemann tổng quát. Hiện người ta cũng biết giả thuyết sai tại điểm Giả thuyết có một số hệ quả sau: Một trong những hệ quả lớn nhất là kết quả của Dan Goldston, János Pintz, và Cem Yıldırım, chứng minh rằng (nếu giả sử giả thuyết này đúng) sẽ có vô số cặp số nguyên tố sai khác nhau tối đa 16. Trong tháng 11 năm 2013, James Maynard đã chứng minh rằng khi giả định giả thuyết ta có thể chứng minh sự tồn tại của vô số cặp số nguyên tố sai khác nhau tối đa 12. Trong tháng năm 2014, nhóm dự án Polymath chứng minh dưới giả thuyết tổng quát, ta có thể chứng minh có vô số cặp số nguyên tố sai khác nhau tối đa 6. Nếu không giả định bất cứ dạng nào của giả thuyết, cận nhỏ nhất thu được là 246. *Định lý *Số nguyên tố sexy *Định lý Siegel–Walfisz
null
24372 Timobauman (tên chỉ định: 2000 AG140) là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi dự án Nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất Lincoln Socorro, New Mexico, ngày tháng năm 2000. Nó được đặt theo tên Timothy Bauman, an American high school student whose computer science project won second place the 2008 Giải thưởng Khoa học và Kỹ thuật Intel. *Danh sách các tiểu hành tinh: 24001–25000
24372 Timobauman
là một chi ốc biển nhỏ, là động vật chân bụng thân mềm sống biển trong họ Littorinidae. Các loài thuộc chi bao gồm: Laevilitorina alta (Powell, 1940) Laevilitorina antarctica (Martens, 1885) Laevilitorina antipodum (Filhol, 1880) Laevilitorina aucklandica (Powell, 1933) Laevilitorina bennetti (Preston, 1916) Laevilitorina bifasciata (Suter, 1913 Laevilitorina bruniensis (Beddome, 1883) Laevilitorina caliginosa (Gould, 1849) Laevilitorina claviformis Preston, 1916 Laevilitorina coriacea (Melvill Standen, 1907) Laevilitorina delli (Powell, 1955) Laevilitorina elongata Pelseneer, 1903 Laevilitorina granum Pfeffer in Martens Pfeffer, 1886 Laevilitorina hamiltoni (E.A. Smith, 1898) Laevilitorina heardensis Dell, 1964 Laevilitorina johnstoni Laevilitorina kingensis (May, 1924) Laevilitorina labioflecta Dell, 1990 Laevilitorina latior Preston, 1912 Laevilitorina macphersonae (Dell, 1964) Laevilitorina mariae Laevilitorina pumilia (E.A. Smith, 1875) Laevilitorina pygmaea Pfeffer in Martens Pfeffer, 1886 Laevilitorina umbilicata Pfeffer in Martens Pfeffer, 1886 Laevilitorina venusta Pfeffer in Martens Pfeffer, 1886 Laevilitorina wandelensis (Lamy, 1905) Reid, D.G. (1989a) The comparative morphology, phylogeny and evolution of the gastropod family Littorinidae. Philosophical Transactions of the Royal Society of London, Series 324: 1-110 GBIF Powell A. W. B., New Zealand Mollusca, William Collins Publishers Ltd, Auckland, New Zealand 1979 ISBN 0-00-216906-1 Thể
null
là một chi động vật có vú trong họ Chó, bộ Ăn thịt. Chi này được C. E. H. Smith miêu tả năm 1839. Có cả thảy loài thuộc chi này và tất cả đã bị tuyệt chủng. Chi này gồm các loài: *†Dusicyon australis *†Dusicyon avus *†Dusicyon cultridens mentioned as Dusicyon) THE DANGEROUS WILD ANIMALS ACT 1976 (MODIFICATION) (NO.2) ORDER 2007.
Dusicyon
Chi động vật có vú, Chi Cáo, Động vật có vú Nam Mỹ
Tổng là một tổng của Pháp tọa lạc tại tỉnh Corrèze trong vùng Lumousin. Tổng này được tổ chức xung quanh trong quận Độ cao khu vực này là 102 381 (Cosnac) độ cao trung bình trên mực nước biển là 162 m. 49 141 (1) 19100 19031 Cosnac 340 19360 19063 (1) một phần của xã. Corrèze Quận của Corrèze Tổng của Corrèze Xã của Corrèze Danh sách các tổng ủy viên của Corrèze Tổng sur le site de l'Insee plan du Tổng sur Mapquest Localisation du Tổng sur une carte de France
null
insularis' là một loài bướm đêm thuộc họ Geometridae. Nó là loài đặc hữu của Maui. Nó đã được phát hiện vành đai rừng trên Haleakala. Nó có kích thước, màu sắc và kiểu màu phong phú. Nó hay bị nhầm lẫn với Eupithecia monticolans. Insects of Hawaii. Volume 7, Thể
null
Loài đặc hữu của Hawaii, Động vật được mô tả năm 1879
Panthenol (còn được gọi là là chất tương tự rượu của axit pantothenic (vitamin B5), và do đó là một loại tiền vitamin B5. Trong các sinh vật, nó nhanh chóng bị oxy hóa thành axit pantothenic. Nó là một chất lỏng trong suốt nhớt nhiệt độ phòng. Panthenol được sử dụng như một loại kem dưỡng ẩm và để cải thiện khả năng chữa lành vết thương trong dược phẩm và mỹ phẩm. Thuốc mỡ mắt và mũi (Đức) Trong dược phẩm, mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân, panthenol là một loại kem dưỡng ẩm và giữ ẩm, được sử dụng trong thuốc mỡ, nước thơm, dầu gội, thuốc xịt mũi, thuốc nhỏ mắt, viên ngậm và dung dịch làm sạch cho kính áp tròng. Trong thuốc mỡ, nó được sử dụng để điều trị bỏng nắng, bỏng nhẹ, tổn thương và rối loạn da nhẹ (ở nồng độ lên tới đến 5%). Nó cải thiện hydrat hóa, giảm ngứa và viêm da, cải thiện độ đàn hồi của da và tăng tốc độ chữa lành vết thương biểu bì. Đối với mục đích này, đôi khi nó được kết hợp với allantoin. Nó liên kết với trục của tóc dễ dàng; vì vậy, nó là thành phần phổ biến của dầu gội thương mại và dầu xả tóc (ở nồng độ 0,1 đến 1%). Nó phủ lên tóc và làm kín bề mặt của nó, bôi trơn thân tóc và mang lại vẻ bóng mượt. Nó cũng được các nghệ sĩ xăm hình khuyên dùng như một loại kem dưỡng ẩm sau khi xăm.
Panthenol
Alcohol, Vitamin, Hóa chất mỹ phẩm, Làm tóc
Nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria Rožňava (tiếng Slovakia: Katedrála Nanebovzatia Panny Márie Rožňava) là nhà thờ Công giáo La Mã thị trấn Rožňava, vùng Košice, Slovakia. Đây là nơi đặt trụ sở của giáo phận Rožňava. Nhà thờ được ghi danh vào Danh sách Di tích Trung ương theo quyết định của Bộ Văn hóa Cộng hòa Slovakia vào ngày tháng năm 1963. Nhà thờ kiểu Gothic Rožňava dành riêng cho Đức Mẹ Đồng Trinh Maria được hoàn thành vào năm 1304. Lúc bấy giờ, đây đã là một nhà thờ giáo xứ. Đến năm 1776, nhà thờ trở thành nhà thờ chính tòa. Nhà thờ lúc mới xây không có tháp chuông. Tòa tháp chuông kiểu cổ điển đã được xây thêm vào nhà thờ từ năm 1776 đến năm 1779. Năm 1836, khu vực phía nam nhà thờ trở thành nơi đặt nhà nguyện Thánh Neitus. Nhà nguyện này cũng là nơi đặt các thánh tích đến từ Rôma, được Giáo hoàng Gregory XVI tặng cho nhà thờ vào năm 1835. Bên trong nhà thờ có một bức tranh miêu tả Thánh Anna cùng với Đức Mẹ Đồng trinh và Chúa Giêsu. Bức tranh này có niên đại vào năm 1513, nên rất có giá trị về mặt lịch sử. Bức tranh còn đặc biệt thể hiện cảnh khai thác và chế biến quặng địa phương thời đại bấy giờ.
Nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria Rožňava
Công trình xây dựng Slovakia, Nhà thờ tại Slovakia, Di ​​tích và đài tưởng niệm Slovakia
Bùi Quang Bền (sinh ngày 15 tháng năm 1955), quê quán xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang) là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông nguyên là Thứ trưởng Bộ Công an, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (khóa XII); nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Bùi Quang Bền là một trong hai người con của ông Bùi Quang Trọng và bà Nguyễn Thị Quyên (bí danh Tư Tâm). Ông Trọng và bà Quyên đều tham gia hoạt động cách mạng. Ông Trọng tập kết ra bắc năm 1954, bà Quyên lại chiến đấu và hi sinh lúc hai con mới hơn 10 tuổi. Tháng 4-1971 đến 2-1972: Bùi Quang Trọng là Chiến sĩ C112, C51 Ban An ninh Trung ương Cục Miền Nam. Tháng 3-1972 đến 5-1975: Học viên Trường E1171 (Trường Đào tạo cán bộ an ninh miền Nam). Tháng 5-1975 đến 10-1978: Nhân viên Văn phòng Ban An ninh nội chính Miền Nam, sau đó về làm cán bộ Vụ Tổ chức cán bộ (bộ phận phía Nam) Bộ Công an và được đưa đi học văn hóa, tốt nghiệp lớp 12/12. Tháng 10-1978 đến 11-1981: Học viên khóa chuyên tu Trường Đại học An ninh (nay là Học viện An ninh) Bộ Công an. *Từ tháng 11-1981 đến 9-2005: Công tác tại Công an tỉnh Kiên Giang, kinh qua các chức vụ: Đội trưởng, Phó Văn phòng, Chánh Văn phòng, Bí thư Chi bộ Văn phòng; Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy phản gián Công an tỉnh Kiên Giang. Bí thư Đảng ủy Khối phản gián; Phó Giám đốc Công an tỉnh phụ trách an ninh, tình báo. Thượng tá rồi Đại tá, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh. Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa VII, nhiệm kỳ 2000-2005. *Tháng 10-2005 đến 12-2005: Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang. *Từ tháng 12-2005 đến tháng 9-2010: Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy *Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang *Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Kiên Giang khóa XII (2007-2011); *Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2011-2016); *Trung tướng Công an nhân dân, Thứ trưởng Bộ Công an (từ 11/7/2011). *Thượng tướng Công an nhân dân (từ 23/7/2015). *Cuối năm 2016, ông nghỉ hưu.
Bùi Quang Bền
Người Kiên Giang, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Người họ Bùi tại Việt Nam, Cựu học sinh Trường Học sinh miền Nam
là một xã nằm tỉnh Vosges trong vùng Grand Est của Pháp. Xã này có diện tích 23,71 kilômét vuông, dân số năm 2005 là 6708 người. Xã này nằm khu vực có độ cao trung bình 291 trên mực nước biển. Dân địa phương tiếng Pháp gọi là Raonnais. Biến động dân số (Nguồn: INSEE) 1947 1962 1968 1975 1982 1990 1999 2005 6331 7606 7696 7741 7039 6780 6749 6708 Số liệu từ năm 1962: Dân số không tính trùng Fontaine La Chèvre Le site municipal officiel Le site non-officiel de Raon-l'Étape Le site du collège Louis Pasteur de Raon-l'Étape Le site du Club Vosgien de Raon-l'Étape et de la Porte des Vosges Raon-l'Étape trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Raon-l'Etape
null
FFOS (遠隔操縦観測システム, Enkaku Soujuu Kansokushi System, Flying Forward System) là loại máy bay trực thăng không người lái được phát triển cho lực lượng phòng vệ mặt đất Nhật Bản. Nó được dùng để do thám và thu thập tin tức trong một vùng khoảng 100 km từ trên không xung quanh nơi điều khiển. Máy bay hiện được trang bị hầu hết cho các lực lượng mặt đất chủ yếu phía Tây Nhật Bản, ngoài ra Cơ quan khí tượng Nhật Bản còn dùng để theo dõi các hoạt động núi lửa cũng như dùng để thu thập tin tức từ các khu vực đang có thảm họa và đang xem xét dùng cho lực lượng cảnh sát biển trong việc đi tuần chống xâm nhập. Trực thăng có trọng lượng tổng thể là 275 kg, được lắp một động cơ tua bin với các trang bị dùng để đi tuần như máy quay hồng ngoại. Máy bay có thể bay với chế độ tự động để người lái tập trung vào việc quan sát với chương trình lái tự động riêng. FFOS có hệ thống tự hủy để đảm bảo bí mật khi có trục trặc xảy ra với máy bay. Viện nghiên cứu kỹ thuật và Phát triển Nhật Bản đã nghiên cứu loại máy bay này từ năm 1988 nhưng do một vụ tai nạn nên chương trình bị gác qua một bên trong một thời gian. Sau đó tập đoàn nhà máy công nghiệp nặng Fuji đã tiếp tục tiến hành phát triển loại máy bay này và hoàn tất việc thiết kế vào năm 1996 sau các cuộc thử nghiệm với lực lượng phòng vệ mặt đất. Sau khi kết quả nghiên cứu được báo cáo lên Cục Phòng vệ Nhật Bản (nay là Bộ quốc phòng Nhật Bản) và tập đoàn đã nhận được triệu Yên như một phần thưởng cho việc ra mắt mẫu thử nghiệm này cùng mẫu mới của máy bay Shin Meiwa US-1A và bắt đầu cấp kinh phí để tiếp tục phát triển dự án vào năm 1996. Tuy nhiên giám đốc Cục Phòng vệ Nhật Bản lại bị bắt năm 1998 do nghi ngờ nhận hối lộ và Cục Phòng vệ đã đình chỉ tất cả các giao dịch cũng như kinh phí với tập đoàn Fuji trong vòng một năm nên chương trình phát triển bị tạm hoãn. Việc sản xuất thử nghiệm loại máy bay này bắt đầu được thực hiện năm 2001. Và đến năm 2004 thì việc chế tạo hàng loạt bắt đầu được tiến hành để trang bị. Đến năm 2007 thì việc nâng cấp hàng loạt cũng được tiến hành và trở thành một phần của hệ thống trinh sát FFRS (新無人偵察機システム, Flying Forward System) 防衛省 平成18年度政策評価 事後の評価 新無人偵察機システム
FFOS
Máy bay không người lái Nhật Bản
Avia B.158 là một mẫu thử máy bay ném bom hạng nhẹ của Tiệp Khắc trong thập niên 1930. Chỉ có duy nhất một mẫu được chế tạo và đã bị bỏ rơi sau khi Đức quốc xã xâm lược Tiệp Khắc vào tháng năm 1939. "Plane Facts: One-off Czech". ''Air January 1981, Vol 20 No. 1. p. 48. AVIA B-158 (In Czech)
Avia B.158
Máy bay ném bom Tiệp Khắc 1930–1939 B-158, Máy bay chiến đấu, Máy bay quân sự, Máy bay ném bom, Máy bay hai động cơ cánh quạt, Máy bay cánh dưới, Dự án máy bay hủy bỏ, Dự án máy bay hủy bỏ của Tiệp Khắc
USS Reno (CL-96) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc phân lớp Oakland của lớp Atlanta từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, nhưng là chiếc đầu tiên được đặt theo tên thành phố Reno thuộc tiểu bang Nevada. Được cho xuất biên chế vào năm 1946, con tàu bị bán để tháo dỡ vào tháng năm 1962. Reno được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Phân lớp Oakland là một lớp phụ thuộc lớp tàu tuần dương hạng nhẹ Atlanta được cải tiến. Giống như Atlanta, chúng được thiết kế như những tàu tuần dương phòng không, với dàn pháo chính gồm những khẩu /38 cal phòng không đa dụng (DP: dual-purpose). Khác biệt chính giữa Oakland với Atlanta là chúng loại bỏ các khẩu đội pháo inch bên mạn để tăng cường súng phòng không hạng trung Bofors 40 mm và hạng nhẹ Oerlikon 20 mm. Reno được đặt lườn vào ngày tháng năm 1941 bởi hãng Bethlehem Steel San Francisco, California. Con tàu được hạ thủy vào ngày 23 tháng 12 năm 1942, được đỡ đầu bởi bà August C. Frohlich, và được cho nhập biên chế cùng hải quân vào ngày 28 tháng 12 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân Ralph C. Alexander. Sau một chuyến đi thử máy ngoài khơi bờ biển San Diego, Reno khởi hành từ San Francisco vào ngày 14 tháng năm 1944, đi về phía Tây để gia nhập Đệ Ngũ hạm đội thuộc quyền chỉ huy của Đô đốc Raymond A. Spruance. Trong thảnh phần Lực lượng Đặc nhiệm 58, một lực lượng tàu sân bay nhanh của Phó Đô đốc Marc Mitscher, một mũi nhọn tấn công của Hạm đội 5, Reno lần đầu tiên tiếp xúc với đối phương khi nó hỗ trợ cho các cuộc không kích thứ yếu xuống đảo Marcus vào ngày 19–20 tháng 5. Ba ngày sau, nó hỗ trợ cho các cuộc không kích lên đảo Wake do Nhật Bản chiếm đóng. Trong các tháng tháng và năm 1944, Reno tham gia cùng các tàu sân bay nhanh trong cuộc không kích bất ngờ xuống Saipan vào ngày 11 tháng 6, xuống đảo Pagan vào ngày 12–13 tháng cùng các quần đảo Volcano và Bonin, đặc biệt là Iwo Jima, Haha Jima và Chichi Jima, trong các ngày 15–16 tháng 6. Ba ngày sau, Reno trợ giúp vào việc đẩy lùi một cuộc tấn công quy mô lớn của lực lượng tàu sân bay Hải quân Nhật Bản, tìm cách đánh bại chiến dịch xâm chiếm quần đảo Mariana (bao gồm Guam, Saipan và Tinian), trong Trận chiến biển Philippine lớn lao, cuộc đối đầu giữa các tàu sân bay lớn nhất trong mọi thời đại, và là một chiến thắng áp đảo của Hải quân Hoa Kỳ. Từ ngày 20 tháng đến ngày tháng 7, Reno tham gia các hoạt động hỗ trợ cho việc chinh phục Saipan. Sau đó, nó hỗ trợ cho việc đổ bộ lên Guam từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 7, và hai ngày sau đó tham gia các cuộc không kích xuống quần đảo Palau từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 7. Đệ Ngũ hạm đội được chuyển thành Đệ Tam hạm đội khi Đô đốc William F. Halsey, Jr. luân phiên tiếp nhận quyền chỉ huy, và nó thực hiện một loạt các cuộc không kích xuống quần đảo Bonin trong các ngày 4–5 tháng 8, rồi đến ngày tháng 9, Lực lượng Đặc nhiệm 38 (trước đây là Lực lượng Đặc nhiệm 58), quay trở về phía Nam để tấn công Palau một lần nữa. Sau khi di chuyển về phía Tây vượt qua biển Philippine, Reno cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 38 thực hiện một trong những cuộc không kích đầu tiên xuống Philippines, nhắm vào đảo Mindanao phía Nam và những đảo lân cận, từ ngày đến ngày 13 tháng 9. Đơn vị này cũng hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên hai đảo thuộc quần đảo Palau trong các ngày 15-20 tháng 9; rồi từ ngày 21 đến ngày 22 tháng tiến hành không kích xuống khu vực Manila trên đảo Luzon thuộc phía Bắc Philippines. Khi tấn công đảo Nansei Shoto vào ngày tháng 10, Reno cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 38 đã tiến đến sát các đảo chính quốc Nhật Bản hơn bất kỳ đơn vị Hải quân Hoa Kỳ nào khác kể từ đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong một loạt các cuộc không kích quy mô lớn của Lực lượng Đặc nhiệm 38 xuống các sân bay Nhật Bản tại Đài Loan từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 10, vốn đã đưa đến những cuộc phản công quy mô lớn bởi các máy bay Nhật, Reno đã bắn rơi ít nhất sáu máy bay đối phương. Vào lúc cao điểm của trận không chiến, một máy bay ném ngư lôi Lục quân Nhật Bản đã đâm vào đuôi của Reno và nổ tung, Tháp pháo số tạm thời không hoạt động do vụ nổ, nhưng sĩ quan chỉ huy của nó đã thành công trong việc phục hồi lại hỏa lực phòng không chống lại máy bay Nhật tấn công. Ngày 24 tháng 10, bốn ngày sau cuộc đổ bộ lên đảo Leyte, trong khi hỗ trớ bằng cách tấn công sân bay tại Luzon, Lực lượng Đặc nhiệm 38 chịu đựng các cuộc không kích quy mô lớn từ số máy bay xuất phát từ sân bay Clark, Luzon. Tàu sân bay hạng nhẹ Princeton chịu đựng gánh nặng của đòn phản công này, bị đánh trúng bom và bị buộc phải rút lui khỏi lực lượng đặc nhiệm. Reno được phân công giúp đỡ dập tắt các đám cháy trên Princeton, đưa hết các vòi cứu hỏa vào hoạt động đồng thời cứu vớt thủy thủ đoàn của nó. Reno đã năm lần tìm cách cặp song song với Princeton, nhưng không thể lại lâu do sức nóng dữ dội và khói bốc ra từ chiếc tàu sân bay đang cháy. Trong khi Reno trợ giúp Princeton, chiếc tàu sân bay bắt đầu nghiêng mạnh, sàn đáp của nó va trúng một trong các khẩu đội 40 mm của Reno. Các nỗ lực nhằm cứu chiếc tàu sân bay được tiếp tục, nhưng khi hầm chứa đầu đạn ngư lôi của bị kích nổ, mọi nỗ lực trở nên vô vọng. Mệnh lệnh được đưa ra đánh chìm Princeton bằng ngư lôi của chính nó, và Princeton trở thành chiếc tàu sân bay Mỹ cuối cùng bị đối phương đánh chìm. Ngày 25 tháng 10, sau khi gia nhập trở lại Lực lượng Đặc nhiệm 38, Reno cùng các tàu chiến khác đi lên phía Bắc để đối đầu với Lực lượng phía Bắc Nhật Bản, bao gồm các tàu sân bay trống không vốn chỉ là một mồi nhữ, và đã tham gia Trận chiến mũi Engaño, cuộc đối đầu sau cùng trong khuôn khổ Trận chiến vịnh Leyte. Trong đêm tháng 11, đang khi về phía Đông eo biển San Bernardino, trúng phải ngư lôi bên mạn trái từ tàu ngầm Nhật I-41. Nó phải được kéo đi qua chặng đường quay về căn cứ hải quân chính của Mỹ tại đảo san hô Ulithi để được sửa chữa tạm thời, rồi Reno di chuyển bằng chính động lực của nó vượt qua Thái Bình Dương, băng qua kênh đào Panama để đi đến Charleston, South Carolina, nơi nó vào Xưởng Hải quân Charleston vào ngày 22 tháng năm 1945 để sửa chữa lớn. Nó chỉ ra khỏi tàu bảy tháng sau đó, khi cuộc xung đột đã kết thúc, và được lệnh đi đến bờ biển Texas, rồi quay trở lại Charleston để bổ sung thêm hàng trăm giường ngủ. Nó tham gia Chiến dịch Magic Carpet, thực hiện hai chuyến đi đến Le Havre, Pháp để hồi hương cựu chiến binh Mỹ từng phục vụ nước ngoài. Đầu năm 1946, Reno đi đến Port Angeles, Washington, nơi nó được cho ngừng hoạt động vào ngày tháng 11 năm 1946, và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương neo đậu tại Bremerton, Washington. Được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới CLAA-96 vào ngày 18 tháng năm 1949, nó vẫn tiếp tục bị bỏ không tại Bremerton cho đến khi bị rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày tháng năm 1959, và bị bán vào ngày 22 tháng năm 1962 cho hãng Coal Export Co. tại thành phố New York để tháo dỡ. Một trong những tháp pháo inch của Reno hiện đang được lưu giữ để trưng bày tại Bảo tàng Hải quân Hoa Kỳ, Washington, D.C.. Reno được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế chiến II. Dãi băng Hoạt động Tác chiến Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dươngvới Ngôi sao Chiến trận Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippine Huân chương Giải phóng Philippine với Ngôi sao Chiến trận
USS ''Reno'' (CL-96)
Lớp tàu tuần dương Atlanta
Davallia hollandii là một loài dương xỉ trong họ Davalliaceae. Loài này được Sim mô tả khoa học đầu tiên năm 1906. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
''Davallia hollandii
Davallia, Unresolved names
Thành viên Đoàn Thiếu niên Triều Tiên tại Cung Thiếu nhi Mangyongdae Đoàn Thiếu niên Triều Tiên (KCU) là tiền thân của Đoàn Thanh niên Yêu nước Xã hội chủ nghĩa Bắc Triều Tiên đóng góp cho phong trào thanh niên và tiền phong của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Nó dành cho trẻ em từ sáu đến mười lăm tuổi và là một tổ chức chính trị có liên kết với Đảng Lao động Triều Tiên. Phân nhánh mặc đồng phục của tổ chức này gọi là Đội Thiếu niên Tiền phong (bao gồm cả các học viên của Trường Cách mạng Cờ Đỏ Mangyongdae), nơi tiếp nhận trẻ em và thanh thiếu niên từ đến 15 tuổi. Tổ chức này điều hành các chi hội các trường tiểu học và trung học trên toàn quốc. Nó dạy trẻ em về Juche và các hệ tư tưởng khác đằng sau hệ thống của Bắc Triều Tiên. Thanh niên trên 15 tuổi có thể tham gia Đoàn Thanh niên Yêu nước Xã hội chủ nghĩa. Các thành viên tiềm năng thường được chào đón chính thức vào một ngày lễ quan trọng như Ngày Mặt Trời, Ngày Thành lập Quân đội hoặc Ngày Thành lập Chính quyền Nhân dân. Nó được coi là một dịp quan trọng trong cuộc đời của một đứa trẻ. Vào những ngày như vậy, trẻ em mẫu giáo chính thức được kết nạp và tiếp nhận khăn quàng cổ màu đỏ và ghim cài áo. Học sinh lớp ba từ các trường tiểu học thường được chào đón vào Đoàn Thiếu niên Triều Tiên trong các buổi lễ đầu tư vào những ngày này.
Đoàn Thiếu niên Triều Tiên
Đảng Lao động Triều Tiên, Phong trào tiền phong
'Diplazium là một loài dương xỉ trong họ Athyriaceae. Loài này được Holttum mô tả khoa học đầu tiên năm 1968. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
null
Diplazium, Unresolved names
Tập tin:Belte eo biển của Đan Mạch và phía tây nam biển Baltic. Eo biển Storebælt (Eo biển lớn, tiếng Đan Mạch: Storebælt) là eo biển giữa đảo Fyn và đảo Zealand của Đan Mạch và là eo biển lớn nhất trong eo biển của Đan Mạch. Hai eo biển kia là Eo biển Oresund và Eo biển Lillebælt. Khoảng 50% nước luân chuyển giữa biển Baltic với Bắc Hải chảy qua Eo biển Storebælt. Eo biển Storebælt dài 60 km và rộng từ 16 tới 32 km, chỗ sâu nhất là 60 m, nối liền Biển Baltic với Bắc Hải thông qua vùng biển Kattegat và Skagerak. Eo biển Storebælt có dòng chảy quanh đảo nhỏ Sprogø phía bắc và đảo Langeland phía nam. Tại đảo Sprogø, eo biển Storebælt chia ra hai eo: eo phía đông và eo phía tây. Từ ngày 14.6.1998, cả hai eo đều có cầu giao thông bắc qua, làm thành khâu nối giao thông cố định (fixed link) giữa đảo Zealand và đảo Fyn. Riêng eo phía đông có thêm mộtđường hầm kép dành cho xe lửa. Chỗ hẹp nhất là eo Langeland (giữa đảo Langeland và đảo Lolland), chỉ rộng khoảng 12 km. Tại chỗ này, vào ngày tháng năm 1658, vua Karl Gustav của Thụy Điển cùng với 9.000 kỵ binh và 3.000 bộ binh đã đi bộ từ đảo Fyn qua eo biển bị đóng băng, để tiến vào đảo Zealand, bất thình lình uy hiếp Copenhagen, khiến vua Frederik III của Đan Mạch phải ký Hòa ước Roskilde, nhượng toàn bộ vùng Scania, Halland và Bleking (nam Thụy Điển) cùng với vùng Bohuslän (của Na Uy) cho Thụy Điển. Eo biển Oresund Eo biển Lillebælt Cầu Storebælt Cầu Oresund Cầu Lillebælt
Eo biển Storebælt
Eo biển, Đan Mạch
'Mauria là một loài thực vật thuộc họ Anacardiaceae. Đây là loài đặc hữu của Peru. World Conservation Monitoring Centre 1998. Mauria trichothyrsa. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng năm 2007.
null
Mauria
8268 Goerdeler (1987 SQ10) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 29 tháng năm 1987 bởi F. Borngen Tautenburg. Xem thêm Carl Friedrich Goerdeler. JPL Small-Body Database Browser ngày 8268 Goerdeler
8268 Goerdeler
Boeing X-32 là một loại máy bay tiêm kích phản lực đa năng thử nghiệm thuộc chương trình Joint Strike Fighter. X-32 đã thua mẫu thử nghiệm Lockheed Martin X-35, tiền thân của Lockheed Martin F-35 Lightning II. ;Ghi chú ;Tài liệu Jenkins, Dennis R. et al. "SP-2003-4531: American X-Vehicles, An Inventory—X-1 to X-50." NASA, June 2003. Jenkins, Dennis R. and Tony R. Landis. Experimental Prototype U.S. Air Force Jet Fighters. North Branch, Minnesota, USA: Specialty Press, 2008. ISBN Keijsper, Gerald. Lockheed F-35 Joint Strike Fighter. London: Pen Sword Aviation, 2007. ISBN Boeing X-32 history page X-32 page on PBS Documentary. NOVA: JSF Selection Joint Strike Fighter on Federation of American Scientists site X-32 X-32, Boeing X-32, Boeing
Boeing X-32
Máy bay chiến đấu, Máy bay quân sự, Máy bay tiêm kích, Máy bay thử nghiệm, Máy bay một động cơ, Máy bay phản lực, Máy bay cánh trên, Dự án máy bay hủy bỏ của Hoa Kỳ, Máy bay một động cơ phản lực
Raymond Eveleth Fowler (sinh ngày 11 tháng 11 năm 1933, tại Salem, Massachusetts) là một tác giả và nhà nghiên cứu UFO người Mỹ. Ông nhận bằng Cử nhân về nghệ thuật tự do từ trường Gordon College Ông tốt nghiệp loại giỏi khi nhận bằng hạng tối ưu. Fowler gia nhập Không quân Mỹ vào năm 1952, theo học một trường đặc biệt về gián điệp điện tử, sau đó ông được bổ nhiệm vào Cục An ninh Không quân Hoa Kỳ dưới sự bảo trợ của NSA. Sự nghiệp dân sự của ông bao gồm công việc trong các dự án của chính phủ Mỹ bao gồm hệ thống vũ khí Dự án Minuteman. Fowler nổi tiếng với các cuộc điều tra và sách về UFO (Vật thể bay không xác định) tập trung chủ yếu vào việc nhìn thấy UFO và các cuộc tiếp xúc cự ly gần khu vực New England nước Mỹ, bao gồm cả vụ người ngoài hành tinh bắt cóc Betty Andreasson Luca do Fowler chấp bút. Ông cũng đã điều tra và viết về vụ bắt cóc Allagash, một vụ bắt cóc nhiều người mà sau này mới được tiết lộ là một trò lừa bịp vào năm 2016. Fowler từng là Giám đốc Điều tra Khoa học cho MUFON và là tác giả của phiên bản cũ hơn của sách Hướng dẫn Điều tra Hiện trường MUFON. Ông từng là Phụ tá Khoa học cho Trung tâm Nghiên cứu UFO. Fowler cũng từng là thành viên dự khuyết và cuối cùng là chủ tịch NICAP (Ủy ban Điều tra Quốc gia về Hiện tượng Không trung). J. Allen Hynek, từng phát triển hệ thống phân loại UFO Hynek (xem tiếp xúc cự ly gần), đã công nhận Fowler là một trong những nhà điều tra xuất sắc trong lĩnh vực UFO. "Một nhà điều tra UFO xuất sắc... Tôi biết không có ai tận tâm, đáng tin cậy hay kiên trì hơn," Hynek nói về công việc điều tra của Fowler. Bên cạnh hoạt động nghiên cứu UFO, Fowler còn được công nhận vì nhiều nỗ lực khoa học, và công trình của ông trong ngành Thiên văn học, và đài thiên văn riêng của ông đã được đăng trên tạp chí Sky Telescope. Fowler cũng dạy các khóa học ngoại khóa về Thiên văn học và UFO tại quê nhà Massachusetts của mình. Ông tiếp tục giảng dạy thiên văn nghiệp dư tại đài thiên văn tư nhân của mình đặt tại nhà của ông Kennebunk, Maine. Ngoài ra, vào lúc cuối đời, Fowler chuyển hướng sang viết về hiện tượng người ngoài hành tinh bắt cóc, xuất phát từ việc một nạn nhân của vụ bắt cóc tự mình chia sẻ thông tin này, một cách sâu sắc nhất, trong cuốn tự truyện UFO Testament: Anatomy of an Abductee (Di chúc UFO: Mổ xẻ một kẻ bị bắt cóc). Trong một cuộc phỏng vấn với Rosemary Ellen Guiley Fowler đã liệt kê một số trải nghiệm bắt cóc của anh ta có vẻ tương quan với các lời khai bắt cóc khác như vụ bắt cóc Betty và Barney Hill và Betty Andreasson Luca. Lời tuyên bố của Fowler về việc mình bị người ngoài hành tinh bắt cóc và toàn bộ nghiên cứu về UFO của ông không phải lúc nào cũng được các thành viên trong gia đình hoan nghênh, vì niềm tin tôn giáo của họ về chủ đề UFO. Các cuộc điều tra sâu rộng của Fowler trong lĩnh vực UFO đã giảm bớt sau khi xuất bản The Watchers I và The Watchers II, mà Fowler ban đầu thừa nhận những trải nghiệm bắt cóc UFO của mình. Tuy nhiên, ông tiếp tục viết sách về chủ đề này, bao gồm cả trải nghiệm của bản thân cũng như các cuộc điều tra tại địa phương mà trước đây ông chưa có dịp xuất bản. SynchroFile. Lincoln, 2004 UFO Testament: Anatomy of an Abductee, 2002 The Melchizedek Connection, 2001 The Andreasson Legacy, 1997 The Watchers II, 1995 The Allagash Abductions, 1993 The Watchers, 1991 The Andreasson Affair Phase Two, 1983 Casebook of UFO Investigator, 1981 The Andreasson Affair, 1979 UFOs: Interplanetary Visitors, 1974 Paul Rutgers.edu Crowded Skies.com Visionary Living.com Raymond Fowler.org Maine Mutual UFO Network web site National Investigations Committee on Ariel Phenomena (NICAP)
Raymond Eveleth Fowler
Sinh năm 1933, Nhà UFO học, Nhà điều tra siêu linh, Người Kennebunk, Maine, Nhà văn Mỹ về chủ đề siêu linh, Nhà văn phi hư cấu Mỹ thế kỷ 20, Nhà văn phi hư cấu Mỹ thế kỷ 21, Nhà văn Mỹ viết về chủ đề siêu nhiên, Nhân vật còn sống
Ngày 21 tháng 5 là ngày thứ 141 (142 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 224 ngày trong năm. 934 Sau khi tiến vào kinh thành Lạc Dương, Lý Tòng Kha trở thành hoàng đế của triều Hậu Đường, tức ngày Ất Hợi (6) tháng năm Giáp Ngọ. *1804 Nghĩa trang Père-Lachaise tại Paris, Pháp bắt đầu mở cửa. *1904 Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) được thành lập tại Paris, Pháp. 1972 Liên quân Lào-Việt Nam mở chiến dịch phòng ngự cánh đồng Chum Xiêng Khoảng, nhằm đánh bại cuộc tấn công lấn chiếm của gần 80 tiểu đoàn phái hữu Lào và quân Thái Lan được Mỹ chi viện. 1991 Cố Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi bị chết trong vụ đánh bom tự sát làng Sriperumbudur, cách thành phố Chennai, Ấn Độ hơn 48 km (30 dặm Anh). *1998 Tổng thống Suharto của Indonesia từ nhiệm sau các náo động trong nước chống lại sự cai trị kéo dài 31 năm của ông. *2000 Khánh thành cầu Mỹ Thuận, cầu dây văng lớn nhất Việt Nam thời điểm đó. *2012 Hơn một trăm người thiệt mạng trong một vụ đánh bom tự sát nhằm vào các binh sĩ tại thủ đô Sana'a của Yemen. 1792 Gaspard-Gustave de Coriolis, nhà toán học và nhà vật lý người Pháp (m. 1843). 1827 Nguyễn Phúc Miên Quan, tước phong Kiến Tường công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1847). *1860 Barton Appler Bean, nhà ngư học người Mỹ (m. 1947). 1993 Aron (NU'EST), ca sĩ Hàn Quốc. 252 Tôn Quyền, hoàng đế Đông Ngô, tức ngày Ất Mùi tháng năm Nhâm Thân (s. 182) 987 Vua Louis của Pháp. 1254 Conrad IV của Đức (s. 1228). 1481 Christian Đan Mạch, vua của Na Uy và Thụy Điển (s. 1426). 1801 Nguyễn Phúc Hy, tước phong Thuận An công, hoàng tử con vua Gia Long (s. 1782). 1947 Huỳnh Thúc Kháng, chí sĩ người Việt Nam (s. 1876). 1968 Lê Anh Xuân, nhà thơ, liệt sĩ Việt Nam (s. 1940). *1973 Ivan Stepanovich Koniev, Nguyên soái Liên bang Xô Viết. Ngày Chè Quốc tế
21 tháng 5
Ngày trong năm
Vickers Type 253 là một loại máy bay quân sự đa dụng hai tầng cánh của Anh, được chế tạo trong thập niên 1930. Chỉ có chiếc được chế tạo. Type 253
Vickers Type 253
Máy bay quân sự Anh thập niên 1930, Máy bay quân sự Anh 1930–1939, Máy bay chiến đấu, Máy bay ném bom, Máy bay hai tầng cánh, Dự án máy bay hủy bỏ của Anh, Máy bay một động cơ cánh quạt
Dryopteris galeottii là một loài dương xỉ trong họ Loài này được C.Chr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1905. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
''Dryopteris galeottii
Dryopteris, Unresolved names
Nữ ca sĩ người Mỹ Beyoncé đã cho ra mắt album phòng thu (studio albums), album trực tiếp (live albums), album tổng hợp, đĩa mở rộng (EPs), album nhạc phim, album nhạc karaoke, và 83 đĩa đơn (singles) (trong đó có 15 đĩa đơn dưới vai trò nghệ sĩ hợp tác, 11 đĩa đơn quảng bá và đĩa đơn từ thiện). Cho đến nay, Beyoncé đã bán được hơn 200 triệu đĩa trên toàn thế giới với tư cách là nghệ sĩ solo, và hơn 60 triệu bản dưới danh nghĩa thành viên của nhóm nhạc nữ Destiny's Child, khiến cô trở thành một trong những nghệ sĩ bán chạy nhất mọi thời đại. Billboard xếp cô thứ 37 trong danh sách những nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) công nhận cô là Nghệ sĩ được chứng nhận hàng đầu của thập kỷ 2000. Theo RIAA, Beyoncé đã bán được 29,5 triệu album và 114 triệu đĩa đơn (với tư cách là nghệ sĩ chính) tại Hoa Kỳ. Tính đến tháng năm 2022, RIAA liệt kê tổng doanh số được chứng nhận của cô với tư cách là một nghệ sĩ solo (bao gồm dưới vai trò nghệ sĩ hợp tác) là hơn 171 triệu bản Hoa Kỳ. Ngoài ra, Beyoncé đã bán được 17 triệu album tại Hoa Kỳ với tư cách là một thành viên của nhóm nhạc nữ Destiny's Child. = Danh sách album phòng thu, với vị trí trên bảng xếp hạng được chọn, doanh số và chứng nhận Tiêu đề Chi tiết album Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Chứng nhận Doanh số Mỹ Anh Đức Pháp Úc Dangerously in Love Phát hành: 23 tháng 6, 2003 Hãng: Columbia Định dạng: CD, LP, tải nhạc 14 RIAA: 4× Bạch kim ARIA: 3× Bạch kim BPI: 4× Bạch kim BVMI: Bạch kim IFPI SWI: Bạch kim MC: Bạch kim NVPI: Vàng RMNZ: Bạch kim SNEP: 2× Vàng *Toàn cầu: 11,000,000 *Mỹ: 5,100,000 (tính đến 2015) *Anh: 1,260,000 (tính đến 2020) B'Day Phát hành: tháng 9, 2006 Hãng: Sony Urban Music, Columbia Định dạng: CD, CD/DVD, LP, tải nhạc 12 RIAA: 3× Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: Bạch kim+Vàng BVMI: Vàng IFPI SWI: Vàng IRMA: 3× Bạch kim MC: Bạch kim NVPI: Vàng RMNZ: Bạch kim SNEP: Vàng *Toàn cầu: 8,000,000 *Mỹ: 3,610,000 (tính đến 2015) *Anh: 700,000 (bản tiêu chuẩn; tính đến 2011) I Am... Sasha Fierce *Phát hành: 14 tháng 11, 2008 *Hãng: Music World, Columbia *Định dạng: CD, CD/DVD, tải nhạc 17 20 RIAA: 2× Bạch kim ARIA: 3× Bạch kim BPI: 6× Bạch kim BVMI: Bạch kim IFPI SWI: Vàng IRMA: 2× Bạch kim MC: 3× Bạch kim NVPI: Bạch kim RMNZ: 2× Bạch kim *Toàn cầu: 8,000,000 *Mỹ: 3,380,000 (tính đến 2015) *Anh: 1,740,000 (tính đến 2020) 4 *Phát hành: 24 tháng 6, 2011 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: CD, tải nhạc RIAA: Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: 2× Bạch kim IRMA: Bạch kim MC: Vàng RMNZ: Vàng SNEP: Vàng *Mỹ: 1,500,000 *Anh: 791,000 (tính đến 2020) Beyoncé *Phát hành: 13 tháng 12, 2013 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: CD, CD/DVD, CD/Blu-ray, LP, tải nhạc 11 10 RIAA: 2× Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: 2× Bạch kim IFPI SWI: Vàng IRMA: Vàng MC: Bạch kim RMNZ: Bạch kim SNEP: Vàng Toàn cầu: 5,000,000 Mỹ: 2,512,000 (tính đến 2015) Anh: 418,000 (tính đến 2014) Lemonade *Phát hành: 23 tháng 4, 2016 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: CD/DVD, LP, tải nhạc, phát trực tuyến RIAA: 3× Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: Bạch kim IFPI SWI: Vàng MC: 2× Bạch kim RMNZ: Vàng Toàn cầu: 2,500,000 Mỹ: 1,554,000 (tính đến 2016) Pháp: 30,000 (tính đến 2016) Anh: 484,000 (tính đến 2021) Renaissance Phát hành: 29 tháng 7, 2022 Hãng: Parkwood, Columbia Định dạng: Box set, CD, digital download, streaming, LP US: 190,000 BPI: Bạc RMNZ: Vàng = Tiêu đề Chi tiết album Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Doanh số Chứng nhận Mỹ Anh CAN Đức HL IRE NZ Pháp TS Úc Everything Is Love Với Jay-Z; dưới nghệ danh the Carters Phát hành: 16 tháng 6, 2018 Hãng: Parkwood, Columbia, UMG, Roc Nation Định dạng: CD, phát trực tuyến, tải nhạc 23 10 12 44 Mỹ: 70,000 RIAA: Vàng Danh sách album nhạc phim với vị trí trên bảng xếp hạng được chọn và doanh số Tiêu đề Chi tiết album Vị trí cao nhất bảng xếp hạng Doanh số Mỹ MỹR&B/HH MỹOST CAN Đức HL NZ Pháp TS Úc The Lion King: The Gift *Phát hành: 19 tháng 7, 2019 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: Tải nhạc 48 16 28 20 12 US: 11,000 Danh sách album trực tiếp, với vị trí trên bảng xếp hạng được chọn, doanh số và chứng nhận Tiêu đề Chi tiết album Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Chứng nhận Doanh số Mỹ MỹR&B/HH Anh CAN Đức HL Nhật TS Úc Live at Wembley *Phát hành: 26 tháng 4, 2004 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD/DVD 17 59 73 *RIAJ: Vàng Mỹ: 197,000 (tính đến 2010) *Nhật: 100,000 The Beyoncé Experience Live *Phát hành: 16 tháng 11, 2007 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD/DVD, tải nhạc 22 I Am... Yours: An at Wynn Las Vegas *Phát hành: 20 tháng 11, 2009 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD/DVD, tải nhạc 150 85 66 43 I Am... World Tour *Phát hành: 26 tháng 11, 2010 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD/DVD, tải nhạc 40 76 Homecoming: The Live Album *Phát hành: 17 tháng 4, 2019 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: Tải nhạc, phát trực tuyến, LP 25 41 15 18 Mỹ: 14,000 (chỉ có doanh số tuần đầu) "—" biểu thị album không được phát hành hoặc xếp hạng tại đây. Danh sách album tổng hợp với vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng và doanh số Tiêu đề Chi tiết album Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Doanh số Mỹ MỹR&B/HH MỹDance CRO Dangerously in Love Live at Wembley *Phát hành: tháng 12, 2008 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD/DVD 37 Above and Beyoncé: Video Collection Dance Mixes *Phát hành: 16 tháng 6, 2009 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD/DVD, tải nhạc 35 23 *Mỹ: 14,000 (tính đến 2009) Beyoncé: Platinum Edition *Phát hành: 24 tháng 11, 2014 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: CD/DVD, tải nhạc "—" biểu thị album không được phát hành hoặc xếp hạng tại đây. +Danh sách album nhạc hòa tấu Tiêu đề Chi tiết album Beyoncé Karaoke Hits, Vol. I *Phát hành: March 11, 2008 *Hãng: Columbia *Định dạng: Tải nhạc Live in Vegas Instrumentals *Phát hành: 28 tháng 9, 2010 *Hãng: Columbia *Định dạng: Tải nhạc Danh sách đĩa mở rộng với vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng và doanh số Tiêu đề Chi tiết đĩa mở rộng Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Chứng nhận Doanh số Mỹ MỹR&B/HH MỹDance MỹLatin Anh True Star: Private Performance *Phát hành: 2004 *Hãng: SME *Định dạng: CD *Phát hành: 28 tháng 8, 2007 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD/DVD, CD, tải nhạc 105 41 *Mỹ: 57,000 (tính đến 2010) Heat *Phát hành: February 2011 *Hãng: Columbia *Định dạng: CD 4: The Remix *Phát hành: 23 tháng 4, 2012 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: Tải nhạc 30 11 BPI: Bạc More Only *Phát hành 24 tháng 11, 2014 *Hãng: Parkwood, Columbia *Định dạng: Tải nhạc 41 24 BPI: Bạc *Mỹ: 43,000 *Anh: 60,000 "—" biểu thị đĩa mở rộng không được phát hành hay xếp hạng tại đây. Danh sách đĩa đơn tư cách là nghệ sĩ chính, với vị trí trên các bảng xếp hạng được chọn và chứng nhận, cho thấy năm phát hành và tên album Tiêu đề Năm Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Chứng nhận Album Mỹ Anh CAN Đức HL Pháp IRE NZ TS Úc "Work It Out" 2002 75 30 87 12 36 48 21 ARIA: Vàng Austin Powers in Goldmember "Crazy in Love" 2003 21 RIAA: Vàng ARIA: Bạch kim BPI: 2× Bạch kim RMNZ: Vàng Dangerously in Love "Fighting Temptation" 34 54 13 The Fighting Temptations "Baby Boy" RIAA: Vàng ARIA: Bạch kim BPI: Vàng Dangerously in Love "Me, Myself and I" 11 35 14 21 18 41 11 BPI: Bạc "Summertime" The Fighting Temptations "Naughty Girl" 2004 10 16 10 18 14 18 RIAA: Vàng ARIA: Vàng BPI: Bạc RMNZ: Bạch kim Dangerously in Love "The Closer Get to You" Dangerously in Lovevà Dance with My Father "Wishing on Star" 2005 Roll Bounce "Check on It" 11 32 RIAA: Vàng BPI: Bạc *MC: Vàng #1's "Déjà Vu" 2006 14 17 23 15 12 RIAA: Vàng BPI: Bạc B'Day "Ring the Alarm" 11 RIAA: Vàng "Irreplaceable" 11 10 RIAA: 2× Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: 2× Bạch kim RMNZ: Bạch kim "Listen" 2007 61 18 BPI: Bạch kim Dreamgirls "Beautiful Liar" RIAA: Bạch kim ARIA: 2× Bạch kim BPI: Bạch kim BVMI: Vàng RMNZ: Vàng B'Day "Get Me Bodied" 46 "Green Light" 12 18 46 "Until the End of Time" 17 31 "If Were Boy" 2008 RIAA: 2× Bạch kim ARIA: 3× Bạch kim BPI: 2× Bạch kim BVMI: Vàng IFPI SWI: Bạch kim MC: 2× Bạch kim RMNZ: Bạch kim I Am... Sasha Fierce "Single Ladies (Put Ring on It)" 68 40 RIAA: 4× Bạch kim ARIA: 5× Bạch kim BPI: 2× Bạch kim BVMI: Vàng MC: 2× Bạch kim RMNZ: Bạch kim "At Last" 67 79 Cadillac Records "Diva" 2009 19 72 50 26 40 RIAA: Vàng BPI: Bạc I Am... Sasha Fierce "Halo" RIAA: 2× Bạch kim ARIA: 7× Bạch kim BPI: 3× Bạch kim BVMI: Bạch kim IFPI SWI: Bạch kim MC: Bạch kim RMNZ: Bạch kim "Ego" 39 60 42 11 RMNZ: Vành "Sweet Dreams" 10 17 26 16 RIAA: Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: Bạch kim RMNZ: Bạch kim "Broken-Hearted Girl" 27 14 20 62 14 BPI: Vàng "Video Phone" 65 58 49 32 31 "Why Don't You Love Me" 2010 51 73 "Run the World (Girls)" 2011 29 11 16 12 11 22 10 RIAA: Vàng ARIA: 2× Bạch kim BPI: Bạch kim MC: Bạch kim RMNZ: Vàng 4 "Best Thing Never Had" 16 27 29 23 61 35 17 RIAA: Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: Bạch kim MC: Vàng RMNZ: Vàng "Party" 50 "Love on Top" 20 13 65 23 83 21 14 20 RIAA: Vàng ARIA: 2× Bạch kim BPI: Bạch kim "Countdown" 71 35 62 52 45 RIAA: Vàng BPI: Vàng "I Care" 2012 "End of Time" 39 27 BPI: Bạc "XO" 2013 45 22 36 68 24 99 15 10 16 RIAA: Bạch kim ARIA: Bạch kim BPI: Vàng MC: Vàng Beyoncé "Drunk in Love" 23 70 36 10 40 22 RIAA: 3× Platinum ARIA: Platinum BPI: Bạch kim BVMI: Vàng MC: Bạch kim RMNZ: Vàng "Partition" 2014 23 74 100 120 57 RIAA: Bạch kim BPI: Bạc "Pretty Hurts" 63 78 83 87 133 56 67 47 BPI: Bạc "Flawless" 41 65 88 83 77 BPI: Bạc "7/11" 13 33 43 78 48 11 54 24 74 41 RIAA: Bạch kim BPI: Bạch kim RMNZ: Vàng "Ring Off" 81 84 110 "Formation" 2016 10 31 32 74 24 59 17 RIAA: Bạch kim ARIA: Vàng MC: Bạch kim BPI: Bạc Lemonade "Sorry" 11 33 40 62 82 74 RIAA: Bạch kim ARIA: Vàng BPI: Bạc "Hold Up" 13 11 37 14 52 25 RIAA: Bạch kim ARIA: Vàng BPI: Vàng "Freedom" 35 40 60 53 95 62 "All Night" 38 60 73 71 "Perfect Duet" 2017 RMNZ: 2× Bạch kim "Spirit" 2019 99 65 92 98 59 The Lion King: Original Motion Picture Soundtrackvà The Lion King: The Gift "Brown Skin Girl" 76 42 60 50 MC: Vàng The Lion King: The Gift "Black Parade" 2020 37 76 70 45 49 RIAA: Vàng "Be Alive" 2021 "Break My Soul" 2022 18 42 14 16 15 RIAA: Vàng ARIA: Bạch kim BPI: Vàng MC: Vàng SNEP: Vàng IFPI SWI: Vàng Renaissance "Cuff It" 13 22 14 29 22 18 ARIA: Vàng BPI: Bạch kim RMNZ: Vàng "—" biểu thị cho đĩa đơn không được phát hành hoặc xếp hạng tại đây.. Danh sách đĩa đơn tư cách là nghệ sĩ nổi bật, với vị trí trên các bảng xếp hạng được chọn và chứng nhận, cho thấy năm phát hành và tên album Tiêu đề Năm Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Chứng nhận Album Mỹ Anh CAN Đức HL IRE NZ Pháp TS Úc "I Got That" 2000 All Money Is Legal "'03 Bonnie Clyde" 2002 25 RIAA: Vàng ARIA: Bạch kim BPI: Bạc The Blueprint 2: The Gift The Curse "Hollywood" 2007 98 Kingdom Come "Love in This Club Part II" 2008 18 69 96 Here Stand "Put It in Love Song" 2010 71 26 24 18 ARIA: Vàng The Element of Freedom "Telephone" RIAA: 5× Bạch kim ARIA: 3× Bạch kim BPI: Bạch kim BVMI: Vàng IFPI SWI: Vàng MC: 3× Bạch kim RMNZ: Bạch kim SNEP: Vàng The Fame Monster "Lift Off" 2011 48 81 Watch the Throne "Part II (On the Run)" 2014 77 93 187 RIAA: Vàng Magna Carta Holy Grail "Say Yes" 106 90 Journey to Freedom "Runnin' (Lose It All)" 2015 90 61 85 14 12 10 24 22 ARIA: Vàng BPI: Bạch kim RMNZ: Bạch kim "Shining" 2017 57 71 72 75 93 RIAA: Bạch kim MC: Vàng Grateful "Mi Gente" (Remix) 39 16 11 RIAA: 68× Bạch kim (Latin) ARIA: Bạch kim "Walk on Water" 14 22 16 14 18 13 10 BPI: Bạc MC: Bạch kim Revival "Top Off" 2018 22 41 48 98 67 55 66 RIAA: Vàng Father of Asahd "Savage Remix" 2020 28 RMNZ: Bạch kim Good News "—" biểu thị đĩa đơn không được phát hành hoặc xếp hạng tại đây. Danh sách đĩa đơn quảng bá, với vị trí trên các bảng xếp hạng được chọn và chứng nhận, cho thấy năm phát hành và tên album Tiêu đề Năm Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Chứng nhận Album Mỹ MỹR&B/HH Anh CAN Pháp IRE Úc "Daddy" 2003 Dangerously in Love "What's It Gonna Be" "One Night Only" 2006 67 Dreamgirls "Upgrade U" 59 11 BPI: Bạc B'Day "Si Yo Fuera un Chico" 2009 I Am... Sasha Fierce "Sing Song" Wow! Wow! Wubbzy!: Sing-a-Song "Fever" 2010 Heat "1+1" 2011 57 71 82 4 "Daddy Lessons" 2016 41 26 40 62 90 BPI: Bạc Lemonade "Die with You" 2017 62 51 "Mood Eva" 2019 90 56 48 64 54 33 The Lion King: The Gift "—" biểu thị cho đĩa đơn không được phát hành hay xếp hạng tại đây. Danh sách đĩa đơn từ thiện, với vị trí trên các bảng xếp hạng được chọn và chứng nhận, cho thấy năm phát hành Tiêu đề Year Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Ghi chú Mỹ MỹR&B/HH Anh CAN IRE NZ Úc "What More Can Give" 2003 Nhằm tưởng niệm các nạn nhân trong Sự kiện 11 tháng 9. "The Star Spangled Banner (Super Bowl XXXVIII Performance)" 2004 Thu âm trực tiếp tại Super Bowl XXXVIII vào năm 2004. "Just Stand Up!" 2008 11 57 26 10 11 19 39 Một phần trong chiến dịch Stand Up to Cancer. "God Bless the USA" 2011 Nhằm gây quỹ cho Quỹ lợi ích vì trẻ em và những người góa có bạn đời là công an hoặc cảnh sát New York. "Irreplaceable" (Live at Glastonbury) 33 Nhằm gây quỹ cho Oxfam, WaterAid và Greenpeace. "Black Parade" 2020 37 49 45 76 Nhằm gây quỹ cho Quỹ đầu tư tác động doanh nghiệp của người da đen BeyGOOD, quản lý bởi Liên đoàn Đô thị Quốc gia "—" biểu thị đĩa đơn không được phát hành hay xếp hạng tại đây. Danh sách bài hát khác được xếp hạng với năm, vị trí trên các bảng xếp hạng được chọn, chứng nhận và tên album có bài hát Tiêu đề Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Chứng nhận Album Mỹ MỹR&B/HH Anh CAN Đức HL IRE Pháp TS Úc "Sexy Lil' Thug" 2003 67 Speak My Mind "Dangerously in Love 2" 2004 57 17 Dangerously in Love "A Woman Like Me" 2006 "Kitty Kat" 66 B'Day "Lost Your Mind" "Freakum Dress" "Resentment" 2007 78 "Ave Maria" 2008 150 90 I Am... Sasha Fierce "Radio" 2009 14 "Halo" (live) 2010 58 Hope for Haiti Now "See Me Now" My Beautiful Dark Twisted Fantasy "Love Woman" 2011 89 My Life II... The Journey Continues (Act 1) "I Miss You" 184 4 "I Was Here" 131 88 74 85 "Dance for You" 78 147 "Haunted" 2013 158 99 Beyoncé "Mine" 82 25 65 82 159 "Blow" 48 63 "Standing on the Sun" (Remix) 2014 45 170 More Only "Feeling Myself" 39 12 64 67 53 52 RIAA: 2× Bạch kim BPI: Bạc The Pinkprint "Pray You Catch Me" 2016 37 22 52 71 96 97 Lemonade "Don't Hurt Yourself" 28 16 36 53 106 47 93 "6 Inch" 18 10 35 31 71 47 61 "Love Drought" 47 28 69 84 152 "Sandcastles" 43 27 57 79 109 "Forward" 63 30 85 151 "Before Let Go" 2019 65 24 77 71 Homecoming: The Live Album "Can You Feel the Love Tonight" 87 75 93 The Lion King "Bigger" The Lion King: The Gift "Find Your Way Back" "Already" 95 "I'm That Girl" 2022 26 11 38 45 90 55 20 Renaissance "Cozy" 30 13 46 52 110 27 "Alien Superstar" 19 31 33 73 17 46 16 15 "Energy" 27 12 42 46 97 23 "Church Girl" 22 10 50 51 125 19 "Plastic Off the Sofa" 41 16 89 70 198 47 "Virgo's Groove" 43 17 78 65 176 46 "Move" 55 22 72 53 "Heated" 51 20 69 52 "Thique" 53 21 75 55 "All Up in Your Mind" 70 28 94 82 "America Has Problem" 69 27 100 81 "Pure/Honey" 64 26 96 77 62 "Summer Renaissance" 47 18 33 40 180 38 "—" biểu thị cho bài hát không được xếp hạng hay phát hành tại đây. Danh sách đĩa nhạc của Beyoncé Danh sách đĩa nhạc của Destiny's Child Beyoncé Destiny's Child
null
Beyoncé Beyoncé
Trong sách ghi chép về các vị tử đạo Kitô giáo vào cuối thế kỷ đến đầu thế kỷ 4, các trinh nữ tử đạo là các trinh nữ của Kitô giáo, thường bị ngược đãi vì từ chối các cuộc hôn nhân của họ sau khi đã thề sẽ giữ trinh tiết của mình cho Chúa, và không chỉ vì lí do này, họ còn bị ngược đãi bởi những lí do, nguyên nhân khác nhau. Các trinh nữ mang cành cọ và vòng hoa như là vương miện của các trinh nữ (Vương cung thánh đường Sant'Apollinare Nuovo, thế kỷ 6) Thánh Euphemia với vương miện của một trinh nữ, cùng với một bông hoa huệ trắng và cành cọ (Andrea Mantegna, 1454)
trinh nữ tử đạo
Chi Phượng vĩ (danh pháp khoa học: tạo thành một phần của phân họ trong họ Fabaceae. Các thành viên của chi này là các loài thực vật có hoa, với nguồn gốc từ Madagascar và miền đông châu Phi. Loài được nhiều người biết đến nhất là phượng vĩ (Delonix regia). Một trong số các tên gọi trong tiếng Anh của nó là "Poinciana", có nguồn gốc từ tên gọi của chi Poinciana đã lỗi thời, mà trước đây trong đó các thành viên của chi Delonix đã được xếp cùng với các loài thuộc chi Delonix baccal (Chiov.) Baker f., 1930: Ethiopia, Kenya, Somalia. Delonix boiviniana (Baill.) Capuron, 1968: Madagascar. Delonix brachycarpa (R.Vig.) Capuron, 1968: Madagascar. Delonix decaryi (R.Vig.) Capuron, 1968: Madagascar. Delonix edule (H.Perrier) Babineau Bruneau, 2017: Madagascar. Chuyển từ chi đơn loài Delonix elata (L.) Gamble, 1919: Bản địa Djibouti, Ai Cập, Cộng hòa Dân chủ Congo, Eritrea, Ethiopia, Kenya, Oman, Saudi Arabia, Somalia, Sudan, Tanzania, Uganda, Yemen, Zambia. Du nhập vào Ấn Độ (quần đảo Andaman, Assam), quần đảo Leeward, Maldives, Myanmar, Namibia, Pakistan, Sri Lanka, Tây Himalaya. Delonix floribunda (Baill.) Capuron, 1968: Tây và tây nam Madagascar. Delonix leucantha (R.Vig.) Du Puy, Phillipson R.Rabev., 1995: Namoroka (tây Madagascar). Delonix pumila Du Puy, Phillipson R.Rabev., 1995: Đông bắc Toliara tây nam Madagascar. Delonix regia (Bojer ex Hook.) Raf., 1837 Phượng vĩ. Loài bản địa Madagascar, nhưng đã du nhập vào nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới toàn thế giới. Delonix tomentosa (R.Vig.) Capuron, 1968: Cao nguyên Ankara miền tây Madagascar. Delonix velutina (R.Vig.) Capuron, 1968: Miền bắc Madagascar. Tập tin:Delonex regia.jpg Tập tin:Delonix regia 01.jpg Tập tin:Delonix decaryi 01 ies.jpg Tập tin:Delonix.JPG Cơ sở dữ liệu của ILDIS về các loài họ Đậu
Chi Phượng vĩ
Fali Candé (sinh ngày 24 tháng năm 1998) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Guinea-Bissau. Anh ta thi đấu tại vị trí hậu vệ cánh trái cho câu lạc bộ Metz và Đội tuyển Guinea-Bissau. Candé ra mắt Portimonense trong trận hoà 2-2 tại Primeira Liga với Benfica vào ngày 10 tháng năm 2020. Vào ngày 26 tháng năm 2022, Candé ký hợp đồng có thời hạn đến tháng năm 2026 với Metz. Anh ta ra mắt Đội tuyển bóng đá quốc gia Guiné-Bissau vào ngày 26 tháng năm 2021 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2021 trước Eswatini. BDFutbol Profile ZeroZero Profile
Fali Candé
Sinh năm 1998, Cầu thủ bóng đá Guiné-Bissau, Cầu thủ bóng đá Casa Pia A.C., Cầu thủ bóng đá nước ngoài Pháp, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Bồ Đào Nha, Cầu thủ bóng đá FC Metz, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Guiné-Bissau, Cầu thủ bóng đá Ligue, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Portimonense S.C., Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha, Vận động viên Bissau
Logic bậc nhất còn được gọi là logic vị từ (predicate logic), logic, và phép tính vị từ bậc nhất (first-order predicate calculus) là một tập hợp các hệ thống hình thức được sử dụng trong toán học, triết học, ngôn ngữ học và khoa học máy tính. Logic bậc nhất sử dụng các biến lượng từ hóa trên các đối tượng phi logic và cho phép sử dụng các câu có chứa các biến, do đó, thay vì các mệnh đề như Socrates là một người đàn ông, có thể có các biểu thức dạng "tồn tại sao cho là Socrates và là một người đàn ông", và "tồn tại" là một lượng từ trong khi x là một biến. Điều này phân biệt nó với logic mệnh đề, không sử dụng các lượng từ hay các quan hệ; theo nghĩa này, logic mệnh đề là nền tảng của logic bậc nhất. Một lý thuyết về một chủ đề thường là một logic bậc nhất cùng với một miền diễn ngôn được chỉ định trong đó các biến lượng hóa được khởi tạo, các hàm từ miền vào chính nó, một số hữu hạn các vị từ xác định trên miền đó và một tập hợp các tiên đề được tin là đúng cho những đối tượng trong miền diễn ngôn. (Đôi khi "lý thuyết" cũng được hiểu theo nghĩa hình thức hơn, là một tập hợp các câu trong logic bậc nhất.) Cụm từ "bậc nhất" phân biệt logic bậc nhất với logic bậc cao hơn trong đó có các vị từ có các đối số là các vị từ khác hoặc các hàm. Trong các lý thuyết bậc nhất, các vị từ thường được liên kết với các tập hợp. Trong các lý thuyết bậc cao được diễn giải, các vị từ có thể được hiểu là tập hợp của các tập hợp. Trong khi logic mệnh đề quan tâm đến các mệnh đề dưới dạng phát biểu đơn giản, logic bậc nhất bao hàm cả các vị từ (các phát biểu.chứa biến, predicate) và các phép lượng hóa. Một vị từ lấy một thực thể hoặc các thực thể trong miền diễn ngôn làm đầu vào trong khi đầu ra là Đúng hoặc Sai. Hãy xem xét hai câu "Socrates là một triết gia" và "Plato là một triết gia". Trong logic mệnh đề, các câu này được xem là không liên quan và có thể được biểu thị, ví dụ, bởi các biến như p và q. Vị ngữ "là một triết gia" xuất hiện trong cả hai câu, có cấu trúc chung là a là một triết gia". Biến a được khởi tạo là "Socrates" trong câu đầu tiên và được khởi tạo là "Plato" trong câu thứ hai. Trong khi logic bậc nhất cho phép sử dụng các vị từ, chẳng hạn như "(a) là một triết gia" trong ví dụ này, logic mệnh đề không cho phép điều đó. Mối quan hệ giữa các vị từ có thể được phát biểu bằng cách sử dụng các phép nối logic. Ví dụ, xem xét công thức bậc nhất "nếu a là một triết gia, thì a là một học giả". Công thức này là một tuyên bố có điều kiện với "a là một triết gia" như giả thuyết của nó và a là một học giả" như kết luận của nó. Sự thật của công thức này phụ thuộc vào đối tượng nào được biểu thị bởi a, và dựa trên các diễn giải của các vị ngữ "là một triết gia" và "là một học giả". Trong công thức này, "nếu... thì..." là một phép nối logic giữa hai vị từ "là một triết gia" và "là một học giả". Các lượng từ có thể được áp dụng lên các biến trong một công thức. Ví dụ, biến a trong công thức trước có thể được áp dụng một lượng từ phổ dụng để tạo thành câu bậc nhất "Với mọi a, nếu a là nhà triết học, thì a là học giả". Lượng từ phổ biến "với mọi" trong câu này thể hiện tưởng rằng tuyên bố "nếu a là một triết gia, thì a là một học giả" đúng cho tất cả các lựa chọn của a. Phủ định của câu "Với mọi a, nếu a là một nhà triết học, thì a là một học giả" tương đương logic với câu "Tồn tại a, a là một nhà triết học và không phải là một học giả". Lượng từ hiện sinh "tồn tại" thể hiện tưởng rằng tuyên bố "a là một nhà triết học và không phải là một học giả" nghiệm đúng với một số (ít nhất một) lựa chọn của a. Các vị từ "là một triết gia" và "là một học giả" đều có một biến duy nhất. Nói chung, các vị từ có thể có nhiều biến. Trong câu bậc nhất "Socrates là thầy của Plato", vị từ "là thầy của" có hai biến (và giá trị của hai biến đó trong câu bậc nhất trên lần lượt là "Socrates" và "Plato". (Lưu rằng về mặt ngữ pháp ngôn ngữ tiếng Việt, Socrates là chủ ngữ và Plato là bổ ngữ). Một diễn giải (hoặc một mô hình) của một công thức bậc nhất xác định nghĩa của từng vị từ và các thực thể có thể khởi tạo các vị từ (tức là các thực thể mà các biến có thể biểu thị). Các thực thể này tạo thành miền diễn ngôn hoặc vũ trụ, thường được yêu cầu là một tập hợp khác rỗng. Ví dụ, trong một diễn giải với miền diễn ngôn bao gồm tất cả mọi người (trên thế giới, còn sống hay đã chết hay chưa sinh ra) và vị từ "là một nhà triết học" được hiểu là "là tác giả của cuốn Cộng hòa ", câu "Tồn tại a sao cho a là một nhà triết học" có giá trị sự thật ĐÚNG, bởi Plato là tác giả của cuốn Cộng hòa. Có hai phần chính của logic bậc nhất. Cú pháp xác định chuỗi ký tự hữu hạn nào là biểu thức hợp pháp trong logic bậc nhất, trong khi ngữ nghĩa xác định nghĩa đằng sau các biểu thức này. = Các lượng từ và Các phép nối logic Dấu ngoặc đơn, ngoặc nhọn và các ký hiệu chấm câu khác. Một tập hợp vô hạn các biến, thường được biểu thị bằng các chữ cái viết thường cuối bảng chữ cái x, y, z,.... Các chỉ số thường được sử dụng để phân biệt các biến: Một ký hiệu đẳng thức' = Một diễn giải của một ngôn ngữ bậc nhất gán một giải nghĩa cho mỗi ký hiệu khác ký hiệu logic trong ngôn ngữ đó. Nó cũng xác định một miền diễn ngôn chỉ định phạm vi của các lượng từ. Kết quả là mỗi từ (term) được gán một đối tượng mà nó đại diện, mỗi vị từ được gán một thuộc tính của các đối tượng và mỗi câu được gán một giá trị sự thật. Theo cách này, một diễn giải cung cấp nghĩa ngữ nghĩa cho các từ, vị từ và câu của logic bậc nhất. Nghiên cứu về các diễn giải của ngôn ngữ hình thức được gọi là ngữ nghĩa hình thức. Logic toán Logic bậc hai Andrews, Peter B. (2002); An Introduction to Mathematical Logic and Type Theory: To Truth Through Proof, 2nd ed., Berlin: Kluwer Academic Publishers. Available from Springer. Avigad, Jeremy; Donnelly, Kevin; Gray, David; and Raff, Paul (2007); "A formally verified proof of the prime number theorem", ACM Transactions on Computational Logic, vol. no. Barwise, Jon; and Etchemendy, John (2000); Language Proof and Logic, Stanford, CA: CSLI Publications (Distributed by the University of Chicago Press) Bocheński, Józef Maria (2007); A Précis of Mathematical Logic, Dordrecht, NL: D. Reidel, translated from the French and German editions by Otto Bird Ferreirós, José (2001); The Road to Modern Logic An Bulletin of Symbolic Logic, Volume 7, Issue 4, 2001, pp. 441–484, Hilbert, David; and Ackermann, Wilhelm (1950); Principles of Mathematical Logic, Chelsea (English translation of Grundzüge der theoretischen Logik, 1928 German first edition) Hodges, Wilfrid (2001); "Classical Logic I: First Order Logic", in Goble, Lou (ed.); The Blackwell Guide to Philosophical Logic, Blackwell Ebbinghaus, Heinz-Dieter; Flum, Jörg; and Thomas, Wolfgang (1994); Mathematical Logic, Undergraduate Texts in Mathematics, Berlin, DE/New York, NY: Second Edition, Tarski, Alfred and Givant, Steven (1987); A Formalization of Set Theory without Variables. Vol.41 of American Mathematical Society colloquium publications, Providence RI: American Mathematical Society, Stanford Encyclopedia of Philosophy: Shapiro, Stewart; Classical Logic". Covers syntax, model theory, and metatheory for first-order logic in the natural deduction style. Magnus, P. D.; forall x: an introduction to formal logic. Covers formal semantics and proof theory for first-order logic. Metamath: an ongoing online project to reconstruct mathematics as huge first-order theory, using first-order logic and the axiomatic set theory ZFC. Principia Mathematica modernized. Podnieks, Karl; Introduction to mathematical logic'' Cambridge Mathematical Tripos notes (typeset by John Fremlin). These notes cover part of past Cambridge Mathematical Tripos course taught to undergraduate students (usually) within their third year. The course is entitled "Logic, Computation and Set Theory" and covers Ordinals and cardinals, Posets and Zorn's Lemma, Propositional logic, Predicate logic, Set theory and Consistency issues related to ZFC and other set theories. Tree Proof Generator can validate or invalidate formulas of first-order logic through the semantic tableaux method. Tài liệu trực tuyến tại zun.vn
Logic bậc nhất
Logic toán
Mom Keo hay Mom Kaeo (? 1633), danh xưng hoàng gia là Samdach Brhat-Anya Chao Manikya Kaeva Raja Sri Sadhana Kanayudha, là vua thứ 25 của Vương quốc Lan Xang, trị vì từ năm 1627 đến khi mất năm 1633 Mom Keo là con trai thứ hai của Vua Voravongsa II, kế vị anh trai là vua Photisarath II chết năm 1627. Triều đại Mom Keo có nhiều cuộc tranh chấp và quý tộc nổi loạn trong cuộc chiến giành ngai vàng. Vua Mom Keo mất năm 1633. Ông có hai con trai. *Chao Fa Dharma, kế vị cha, là vua Tone Kham (Upanyuvarath II) trị vì năm 1633 1637. *Chao Fa Vijaya, kế vị anh, là vua Visai trị vì năm 1637 1638. Grant Evans (2002) A Short History of Laos: The Land in Between, Allen Unwin, ISBN 86448 997 9.
Mom Keo
Sinh thế kỷ 16, Mất năm 1633, Vua Lan Xang, Hoàng gia Lào, Lịch sử Lào
Nhà thờ Thánh Michael Tổng lãnh thiên thần Príkra (tiếng Slovakia: Chrám svätého Michala archanjela Príkra), còn được gọi là Nhà thờ gỗ, là một nhà thờ Công giáo Hy Lạp được xây dựng bằng gỗ, tọa lạc làng Príkra, vùng Prešov, Slovakia. Vào ngày tháng năm 1963, nhà thờ này được ghi danh vào Danh sách Di tích Trung ương theo quyết định của Bộ Văn hóa Cộng hòa Slovakia. Nhà thờ Thánh Michael Tổng lãnh thiên thần Príkra được xây dựng vào năm 1777. Nhà thờ được tái thiết lần đầu vào năm 1902 và lần tiếp theo trong giai đoạn 1946 1947. Nhà thờ có diện mạo hiện tại kể từ sau lần tái thiết diễn ra trong hai năm 2001 và 2002. Ban đầu, nhà thờ là một tòa nhà bằng gỗ có ba gian, bao xung quanh nhà thờ có các phiến đá thẳng đứng để bảo vệ tòa nhà. Lúc mới xây dựng, nhà thờ có ba quả chuông, trong số đó có một quả nặng 200 kg. Vào năm 1915, hai quả chuông nhỏ nhất và lớn nhất bị dỡ bỏ và sử dụng cho mục đích quân sự. Hiện tại, trong tòa tháp chuông cũng chứa ba quả chuông, một trong số đó có niên đại vào năm 1759, hai quả chuông còn lại được bổ sung vào những năm 1920. Drevené gréckokatolícke chrámy na východnom Slovensku. Svidník okolie. Prešov: PETRA n.o., 2007, s. 126-135: "PRÍKRA, Gréckokatolícky chrám sv. archanjela Michala roku 1777, NKP". Syrový, B.: Architektura, Oborové endyklopedie SNTL., SNTL, Praha 1973. Herout, Jaroslav: Slabikář návštěvníků památek, Naše vojsko, 1980. Baleka, Jan: Výtvarné umění Výkladový slovník academia. Praha 1997. Dudáš M. kol.: Drevené kostoly. Edícia Kultúrne Krásy Slovenska. Vyd. Dajama, Bratislava, 2007 (). Dejiny ruského umenia, Bratislava, Pallas 1977, str. 83. Koch Wilfried: Malý lexikon architektúry, Tatran Bratislava 1975, str. 209
Nhà thờ Thánh Michael Tổng lãnh thiên thần Príkra
Công trình xây dựng Slovakia
Army Men: World War Team Assault là phiên bản cuối cùng trong dòng Army Men: World War do hãng 3DO phát triển và phát hành cho hệ máy PlayStation vào năm 2001. Phiên bản phát hành châu Âu còn có tên gọi khác là Army Men: Team Assault. Nối tiếp sau bản Final Front. Cuộc chiến tranh nhựa hiện giờ đang rơi vào thế bí. Quân đội cả hai phe Green và Tan thì đang trong tình trạng bế tắc. Để giành được lợi thế trong cuộc xung đột này, phe Tan đã thành công trong việc phát triển vũ khí tầm xa có khả năng hủy diệt toàn bộ quân Green. Các nhân viên tình báo đã khẳng định rằng có sự tồn tại của những tên lửa tầm xa này, nhưng họ lại không phát hiện ra vị trí của chúng. Cho đến giờ có một nhân viên tình báo của phe Green đã có sự chỉ dẫn về nơi có thể xảy ra các báo hiệu của sự diệt vong. Thật không may, tay đặc vụ đã bị địch phát hiện trước khi anh kịp tiết lộ vị trí của căn cứ tên lửa. Trong một nỗ lực giải cứu tay đặc vụ này và sẵ tiện tiêu diệt luôn căn cứ ẩn để trừ hậu họa, một nhóm biệt kích xuất sắc đã được cấp trên tập hợp. Mỗi thành viên trong đội đều là một chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ vũ khí hạng nặng để ngôn ngữ học. Số phận của thế giới tự do phụ thuộc vào sự thành công của sứ mệnh này. Phiên bản này có cách tiếp cận chiến thuật hơn tương tự như dòng game Tom Clancy, chẳng hạn như nhân vật người chơi điều khiển có thể chết vì một vài phát bắn và lối chơi kiểu đồng đội. *Xhado Có rất ít thông tin về nhân vật này. Luôn mang mặc nạ trùm đầu khi xuất hiện và thường hành động thầm lặng và chính xác từng li từng tí một, trong vai trò là thợ săn của nhóm, bất cứ con mồi nào rơi vào tầm ngắm của anh đều khó thoát khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Xhado được xem là người lính biệt kích xuất sắc nhất vì kỹ năng lén lút cao và tốc độ di chuyển mau lẹ. *Tốc độ: *Lén lút: *Sinh lực: *Kỹ năng đặc biệt: Bắn tỉa, Thợ máy *Dante Hernandez Là người am hiểu sâu sắc về cách vận hành của bất kỳ động cơ nào trên thế giới, có nghĩa là không có một động cơ nào trên thế giới mà anh không thể sửa chữa được với những công cụ thích hợp. Trải qua một thời gian dài kiểm tra và sửa chữa những động cơ bên trong chiếc xe tăng to lớn đã giúp cho Dante có vóc dáng cơ thể đầy ấn tượng với sức mạnh và sự chịu đựng đáng chú ý. *Tốc độ: *Lén lút: *Sinh lực: *Kỹ năng đặc biệt: Thợ máy, Vũ khí Hạng nặng *Armand "Flambé" Nestor Học nghề buôn bán từ gia đình tuổi lên bảy. Công ty Thuốc nổ Nestor nổi tiếng thế giới vì tiếng nổ vang dội gây ấn tượng mạnh với bụi và mảnh vụn còn lại sau dư chấn của loại thuốc nổ này. Armand thừa biết hình thái nghệ thuật của mình (khi anh mô tả về nó) cùng sự tự tin trong những khả năng riêng của anh dễ gây nhầm lẫn với người khác là Armand đang xem nhẹ mạng sống của chính mình. Theo như trong game thì Armand là một trong hai (có khả năng người thứ ba là Xhado)binh sĩ da đen được cung cấp một sự pha trộn chủng tộc mạnh khoẻ. Ngoài ra anh còn là nhân vật có sinh lực cao nhất cả nhóm. *Tốc độ: *Lén lút: *Sinh lực: 10 *Kỹ năng đặc biệt: Chất nổ, Liên lạc *Bjorn "Boomer" Thorson Sinh ra để làm đại sứ và lớn lên trong một gia đình mà mọi ngôn ngữ khác nhau đều được nói hàng ngày. Trong trường hợp này, Bjorn đã có năng khiếu về ngôn ngữ. Anh học về thuốc nổ khi gia nhập quân chủng và thường cảm thấy tự bản thân đang dần lạc lõng với đồng đội của mình là Armand, kẻ hay thích nói về bản năng của hắn hơn hẳn Bjorns bởi cách tiếp cận sách vở. Thái độ này cũng thấm nhuần quan điểm của Thorson về sự xuất hiện cá nhân và hành vi xã hội. Boomer, giống Armand điểm có sinh lực cao nhất trong nhóm biệt kích. *Tốc độ: *Lén lút: *Sinh lực: 10 *Kỹ năng đặc biệt: Nhà ngôn ngữ học, Chất nổ *Gib "Squirrel" Farrell Tự nhận mình là một tên đần và vụng về, trừ những lúc có liên quan đến công việc. Thường hay gọi mình là "Sóc", tuy nhiên Gib lại là một tay súng giỏi trong nhóm. Tuy nhiên, hắn thường lần mò xuyên qua mọi thứ khác khi hắn tới sự tiếp xúc với một ai đó và gây khá nhiều tiếng ồn dọc đường. Gid là một sĩ quan liên lạc khá giỏi, nhưng đừng yêu cầu hắn giở trò lừa bịp. Các chỉ số trạng thái của Squirrel không thực sự khá khoản lén lút nhưng lại là tay lính biệt kích nhanh nhất trong nhóm. *Tốc độ: *Lén lút: *Sinh lực: *Kỹ năng đặc biệt: Bắn tỉa, Liên lạc *Tyke "The Tank" Morgan Có sở thích là đam mê thơ ca và đi bộ dọc bãi biển mà bạn khó lòng mà đùa cợt trước thực tế đó. Sự thành thạo trong việc sử dụng bạo lực của Tyke khiến hắn ta dễ trở thành ứng cử viên sáng giá cho việc giải quyết "những vấn đề khó xử". Tuy nhiên, trái với hành động bạo lực là hắn rất thích đọc một quyển sách hay đủ để đốt cháy thời gian trong nhiều ngày. Ngoài ra hắn ta còn rất mực tôn sùng từ "Xe Tăng" nên đã dành cho nhiều thời gian vào việc học nhiều ngoại ngữ khác nhau để có thể đọc được những tác phẩm theo tiếng bản ngữ của họ. Khi lâm trận, Tyke thường tiêu tốn chút ít thời gian vào việc kết liễu đối phương để hắn có thể tập trung vào "Những điều tốt hơn". Mặc dù chậm chạp và lề mề, Tyke vẫn được coi là một người lính xuất sắc vì lượng điểm sinh lực to lớn của hắn. Ngoài ra Tyke còn là người lính da màu đen giống như Armand. *Tốc độ: *Lén lút: *Sinh lực: 12 *Kỹ năng đặc biệt: Vũ khí Hạng nặng, Nhà ngôn ngữ học
''Army Men: World War Team Assault
Army Men
là một loài cá thuộc họ Mochokidae. Nó được tìm thấy Burundi và Tanzania. Môi trường sống tự nhiên của nó là các con sông. Hanssens, M. Ntakimazi, G. 2006. Chiloglanis 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày tháng năm 2007. Thể
null
Động vật Burundi, Động vật Cộng hòa Dân chủ Congo, Động vật Rwanda, Cá châu Phi, Cá nước ngọt châu Phi
cũng gọi là Ếch giun đảo Basilan là một loài ếch giun thuộc chi Ichthyophis, Họ Ếch giun. Đây là một loài động vật được tìm thấy Philipin. Môi trường sinh sống của chúng các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong các ao hồ nước ngọt, sông, vùng đất nông nghiệp ngập nước theo mùa. Diesmos, A., Alcala, A., Brown, R., Afuang, L., Gee, G., Hampson, K., Diesmos, M.L., Mallari, A., Ong, P., Ubaldo, D., Gutierrez, B., Wilkinson, M., Gower, D. Kupfer, A. 2004. Ichthyophis glandulosus 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng năm 2007.
Ếch giun đảo Basilan
Động vật lưỡng cư Philippines, Động vật được mô tả năm 1923, Động vật đặc hữu Philippines
kandai' là một loài giun ruy băng biển, được tìm thấy vịnh Aomori độ sâu 35-40 mét, cuộn mình trên những con con mực biển Chelyosoma. Chúng có màu đỏ cam, nhiều mắt, có chiều dài khác nhau từ 53 đến 115 cm và có đường kính dao động từ khoảng 0,5-0,7mm, khi kéo giãn. Đây là loài phát quang sinh học duy nhất được biết đến hiện nay của chi và là loài giun ruy băng phát quang sinh học duy nhất từng được biết đến. E. kandai lóe sáng rực rỡ trong một chất phát quang bên trong (không tiết), nhưng chỉ khi bị kích thích. Các kích thích có thể là cơ học, hóa học, nhiệt hoặc điện. Màu sắc phát quang của chúng là màu trắng xanh. Thể
null
Oden là một thị trấn thuộc quận Montgomery, tiểu bang Arkansas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thị trấn này là 232 người. *Dân số năm 2000: 220 người. *Dân số năm 2010: 232 người. American Finder
Oden
Quận Montgomery, Arkansas
Cuộc Bầu cử nhánh Lập pháp dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 11 và 18 Tháng 07 (với ngày bỏ phiếu khác biệt cho những cử tri nước ngoài) để bầu cử 577 thành viên cho Hạ viện Pháp lần thứ 15 của Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp. Các cuộc bầu cử lập pháp theo sau cuộc bầu cử Tổng thống, trong đó Emmanuel Macron của En Marche! giành chiến thắng trước Marine Le Pen của Mặt trận Quốc gia (FN) ngày 07 tháng 05, sau khi François Fillon của Cộng hòa (LR), Jean-Luc Mélenchon của la France Insoumise (FI), và Benoît Hamon của Đảng Xã hội (PS) bị loại trong vòng đầu vào ngày 23 tháng 04. Tập tin:EN Élection presidentielle de 2017 par circonscription législative cử viên vị trí đầu tiên trong vòng đầu của cuộc bầu cử tổng thống của cử tri Emmanuel Macron Marine Le Pen François Fillon Jean-Luc Mélenchon Cuộc bầu cử lập pháp sẽ diễn ra một tháng sau vòng hai của cuộc bầu cử Tổng thống vào ngày 07 tháng 05. Trong vòng đầu tiên vào ngày 23 tháng 04, Emmanuel Macron của En Marche! và Marine Le Pen của National Front (FN) tiến đến vòng cuối cùng sau khi chiếm vị trí thứ nhất và thứ hai, theo thứ tự đó, và theo sát là François Fillon của the Republicans (LR) và Jean-Luc Mélenchon của la France insoumise (FI), với Benoît Hamon của Socialist Party (PS) bị bỏ xa phía sau. Macron sau đó giành chiến thắng vòng thứ hai. Từ năm 2002, cuộc bầu cử Tổng thống và lập pháp đã diễn ra trong cùng một năm để tránh sự phân chia chính quyền. Trong vòng đầu tiên của cuộc bầu cử Tổng thống, Macron giành vị trí dẫn đầu với 240 khu vực, giành trước số 216 của Le Pen, 67 cho Mélenchon, 54 cho Fillon, và cho Hamon. 577 thành viên của Hạ viện Pháp được bầu bằng phương pháp tính đầu người trong hai vòng trong đầu phiếu đa số tương đối. Các ứng cử viên trong cuộc bầu cử lập pháp sẽ có hai ngày, từ Thứ hai ngày 15 tháng 05 đến 18:00 Thứ sáu ngày 19 tháng 05, để tuyên bố và đăng ký quyền ứng cử.Tham khảo "Élections législatives de 2017: Mémento l'usage des candidats de métropole et d'outre-mer". Để qua được vòng đầu tiên, một ứng cử viên bắt buộc phải có một số phiếu áp đảo đã được bỏ (không tính phiếu trắng và phiếu trống) với số lượng phiếu ít nhất là một phần tư số lượng phiếu được đăng ký. Nếu không ứng cử viên nào thoả mãn được điều kiện này, vòng hai sẽ được tổ chức với chỉ những ứng cử viên có ít nhất 12.5% phiếu vòng một được phép tham gia. Nếu điều kiện này không thể được đáp ứng bởi không hoặc duy nhất một ứng viên, hai ứng viên với số phiếu cao nhất từ vòng một có thể đi tiếp tới vòng thứ hai. Trong vòng thứ hai, một ứng cử viên với đa số phiếu sẽ được bầu. Trong 577 khu vực bầu cử, 539 trong Pháp, 27 các tỉnh hải ngoại và lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp và 11 dành cho công dân Pháp sinh sống nước ngoài. Bầu cử vòng đầu tiên diễn ra từ 08:00 đến 18:00 (giờ địa phương)Thứ bảy ngày 03 tháng 06 tại Polynesia và các địa phận của Pháp Mỹ, và vào Chủ nhật ngày 04 tháng 06 tại các địa phận của Pháp ngoài Mỹ. Bỏ phiếu các tỉnh hải ngoại và lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp Mỹ (French Guiana, Guadeloupe, Martinique, Saint Barthélemy, Saint Martin, và Saint Pierre and Miquelon) diễn ra từ 08:00 đến 18:00 (giờ địa phương) Thứ bảy ngày 10 tháng 06. Bỏ phiếu Pháp (cũng như Mayotte, New Caledonia, Réunion và Wallis and Futuna) diễn ra từ 08:00 đến 18:00 hoặc 20:00 (giờ địa phương) vào Chủ nhật ngày 11 tháng 06. Bầu cử vòng thứ hai diễn ra vào Thứ bảy ngày 17 tháng 06 từ 08:00 đến 18:00 (giờ địa phương) các tỉnh hải ngoại và lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp phía Đông của Đường đổi ngày Quốc tế và phía Tây của Pháp (French Guiana, French Polynesia, Guadeloupe, Martinique, Saint Barthélemy, Saint Martin và Saint Pierre and Miquelon), cũng như các địa phận thuộc Pháp Mỹ. Bỏ phiếu tại Pháp (cũng như Mayotte, New Caledonia, Réunion và Wallis and Futuna, và các địa phận thuôọ Pháp ngoài Mỹ) diễn ra từ 08:00 đến 18:00 hoặc 20:00 (giờ địa phương) vào Chủ nhật ngày 18 tháng 06. Người Pháp không nhượng bộ, một chiến dịch chính trị phát động bởi Jean-Luc Mélenchon, nguyên đồng chủ tịch của Đảng Left Party (PG) người đã từng tranh cương vị Tổng thống năm 2012 và 2017, dự định thực hiện tuyên truyền cả 577 khu vực bỏ phiếu, kể cả những khu vực được nắm giữ hoặc đang bị tranh giành từ các thành viên của French Communist Party (PCF). Tuy nhiên, mối quan hệ dần xấu đi giữa hai bên,và trong đầu tháng 05 FI đề nghị các nhóm thu hồi ứng cử viên cạnh tranh trong 26 khu vực bầu cử. Tuy nhiên, vào ngày 09 tháng 05, phát ngôn viên của FI Manuel Bompard nói rằng sẽ không có sự nhất trí nào giữa hai bên trong cuộc bầu cử lập pháp và đổ lỗi cho PCF cho sự thất bại trong việc đi đến một nhận định chung. Vào ngày 11 tháng 05, Mélenchon tham gia với tư cách là một ứng cử viên trong 4th constituency trong một bức thư gửi đến những người ủng hộ phong trào của ông Marseille, nơi phong trào đang đến đỉnh điểm; ông ấy giành vị trí dẫn đầu trong thành phố trong vòng bầu cử đầu tiên, với gần 25% tổng số phiếu, và trong khu vực ông giành được 39.09%, vượt xa Macron và Le Pen và là một trong những kết quả cao nhất của ông trong cả nước. Khu vực bầu cử hiện đang được nắm giữ bởi Patrick Mennucci, được coi như là một người "bạn" bởi chính Mélenchon. Mặc dù French Communist Party (PCF) chính thức ủng hộ việc ứng cử của Jean-Luc Mélenchon trong cuộc bầu cử Tổng thống, Đảng này vẫn dự định giới thiệu ứng cử viên của chính mình trong cuộc bầu cử lập pháp. Sau thất bại của Mélenchon trong vòng đầu tiên của cuộc bầu cử Tổng thống, Pierre Laurent một lần nữa đề nghị một liên minh với la France insoumise. Những cuộc đàm phán giữa hai bên không đi đến một nhận định chung, và vào ngày 09 tháng 05 la France insoumise tuyên bố họ sẽ tiếp tục trong cuộc bầu cử lập pháp mà không liên minh với PCF. Để trao đổi cho sự rút lui của một ứng cư viên Đảng sinh thái Yannick Jadot trong cuộc bầu cử Tổng thống cho Đảng viên Đảng Xã hội Benoît Hamon trong tháng 02, PS đồng giữ 42 khu vực bỏ phiếu cho EELV (gồm cả những ghế của các đại biểu bên ngoài), và hiệp ước đã được sự đồng của EELV ngày 19 tháng 04. Hiệp ước cũng quy định rằng EELV sẽ không giới thiệu ứng cử viên trong 53 khu vực bỏ phiếu. Việc nhậm chức của cựu bộ trưởng Cécile Duflot được duy trì bất chấp sự chống đối của thị trưởng Paris Anne Hidalgo, cũng như của Sergio Coronado, người ủng hộ ông Jean-Luc Mélenchon trong cuộc bầu cử Tổng thống; tuy nhiên, ông vẫn sẽ phải đối mặt với một ứng cử viên Đảng Xã hội trong các cuộc bầu cử lập pháp. Nhiều người trong số các cử tri còn lại là những người thuộc Đảng Xã hội ủng hộ Emmanuel Macron trong cuộc bầu cử Tổng thống. Làn sóng đầu tiên của 395 ứng cử viên Đảng Xã hội trong cuộc bầu cử lập pháp đã được bắt đầu vào ngày 17 tháng 12 năm 2016, bao gồm một số người ủng hộ ứng cử viên Emmanuel Macron trong cuộc bầu cử Tổng thống, như Alain Calmette trong Cantal's 1st, Olivier Véran trong Isère's 1st, Jean- Louis Touraine trong Rhône's 3rd, Corinne Erhel trong Côtes-d'Armor's 5th, Richard Ferrand trong Finistère's 6th, Jean-Jacques Bridey trong Val-de-Marne's 7th, Stéphane Travert của Manche's 3rd và Christophe Castaner khu vực 2nd. Đảng này sẽ giới thiệu ứng cử viên riêng của họ trong hơn 400 khu vực bỏ phiếu, với những khu vực còn lại của EELV, PRG, và những đồng minh khác. Vào ngày 09 tháng 05, đơn vị quốc gia của Đảng Xã hội thông qua chiến dịch tranh cử dài ba trang cho cuộc bầu cử lập pháp có tên "một hợp đồng minh bạch cho Pháp, một cánh trái có tính kiến tạo và độc lập". Chiến dịch bỏ qua rất nhiều đề nghị của Benoît Hamon trong cuộc bầu cử Tổng thống và vạch ra một số ranh giới cho chiến dịch của Emmanuel Macron, từ chối thiết lập lại Pháp lệnh của Luật Lao động Pháp và sự xoá bỏ thuế riêng dành cho những người có thu thập cao (ISF) đối với các tài sản không thuộc quyền sở hữu. En Marche!, Đảng chính trị thành lập bởi Tổng thống Emmanuel Macron, dự định giới thiệu ứng cử viên trong cả 577 khu vực bầu cử, trong đó ít nhất một nửa được dự kiến từ các xã hội dân sự nửa còn lại đã từng giữ chức vụ chính trị và một nửa phụ nữ. Không vụ "đầu tư kép" nào được phép, mặc dù điều kiện ban đầu yêu cầu các ứng viên tương lai phải từ bỏ chức vị họ đang giữ đã được bãi bỏ bởi Macron vào ngày 05 tháng 05. Thêm vào những điều kiện đó, ông nhấn mạnh tại cuộc họp báo đầu tiên vào ngày 19 tháng 01 rằng ông yêu cầu các ứng viên phải thể hiện tính "thành thật" (loại bất kỳ ứng viên tiềm năng nào có lịch sử phạm tội), "đa nguyên chính trị" (đại diện cho các chủ trương của Đảng), và tính "hiệu quả". Những người tìm kiếm sự đầu tư của En Marche! được yêu cầu phải đăng ký trên mạng, và đến cuối tháng 04 Đảng đã nhận được gần 15,000 đơn đăng ký. Đối với những ứng viên được đề cử bởi những người trong giới chính trị, những người nổi tiếng, các cơ sở, và khả năng trước ống kính cũng sẽ được xem xét, với những trường hợp khó nhất sẽ được quyết định bởi chính Macron. Để đại diện cho họ dưới lá cờ của En Marche!, những đại biểu bên ngoài phải quyết định rời bỏ Socialist Party (PS) hoặc the Republicans (LR). Sau khi François Bayrou thừa nhận Macron vào tháng 02, Đảng Democratic Movement (MoDem), mà ông lãnh đạo, giữ 90 khu vực bầu cử cho các ứng cử viên Đảng MoDem (hoạt động dưới cái tên En Marche!), trong đó có 50 khu vực được cho là sẽ giành chiến thắng. Sau chiến thắng cuộc bầu cử Tổng thống, Macron từ chức chủ tịch của En Marche!, với Catherine Barbaroux được chỉ định là chủ tịch tạm thời. Đảng, đã được đổi tên, sẽ giới thiệu ứng cử viên dưới danh nghĩa "La République En Marche!"; mặc dù danh sách đầu tư đầy đủ vào 577 khu vực sẽ được công bố vào ngày 11 tháng 05, Jean-Paul Delevoye, chủ tịch Ủy ban đầu tư, sau đó ám chỉ rằng tổng số được công bố ngày hôm đó sẽ vào "khoảng 450". Sự chậm trễ gây ra vì có một sự gia tăng trong số đơn ứng cử sau chiến thắng của Macron trong cuộc bầu cử Tổng thống hơn một nghìn, đưa con số tổng thể đến hơn 16,000 với sự phức tạp thêm nảy sinh từ định của Thủ tướng Manuel Valls tham gia với tư cách một ứng viên của En Marche! mà không nộp đơn ứng cử lẫn rời khỏi Đảng Xã hội. Từ khi tuyên ngôn "La République En Marche!" được chuyển thể thành một đảng chính trị chính thức, dù đó, điều kiện để giành được sự đầu tư đã siết chặt đáng kể, với các ứng viên phải về mặt "tài chính" gắn bó với Đảng để tránh khỏi các khoản tài trợ công (phân phối trên cơ sở kết quả bầu cử) của PS hoặc Đảng Cộng hoà. Vào ngày 02 tháng 05, François Baroin được chỉ định bởi đơn vị chính trị của the Republicans (LR) để dẫn đầu chiến dịch cho cuộc bầu cử lập pháp. Một tuần trước đó, ông ấy nói là ông có thể sẽ phục vụ dưới chức danh Thủ tướng trong một Chính phủ bị chia rẽ dưới quyền Emmanuel Macron và cho rằng gần như ông ấy không thể không tham gia vào cùng một chương trình với François Fillon, người đã bị loại bỏ ngay trong vòng đầu tiên trong cuộc bầu cử Tổng thống, trong cuộc bầu cử lập pháp. Vào ngày 07 tháng 03, đơn vị hành pháp của Đảng Union of Democrats and Independents (UDI) đồng một hiệp ước với Đảng Cộng hoà, giữ cho họ 96 khu vực bỏ phiếu, bao gồm 28 ghế đang được giữ bởi các đại biểu bên ngoài, và chuẩn bị các cuộc bầu cử sơ bộ trong 42 khu vực bầu cử thuộc các ứng cử viên của UDI và LR. Debout la France (Vùng lên Nước Pháp; viết tắt DLF), lãnh đạo bởi nguyên ứng cử viên Tổng thống Nicolas Dupont-Aignan, dự định giới thiệu ứng cử viên trong cả 577 khu vực bầu cử. Đảng National Front đã kết thúc các cuộc đầu tư trước đó cho cuộc bầu cử lập pháp vào tháng 12 ngày 2016. Độ tuổi trung bình của các ứng cử viên là 47 tuổi,với sự chênh lệch bình đẳng giới và gần 80% ứng viên đã giữ một nhiệm vụ nào đó địa phương (trong một Hội đồng thành phố, Quận hoặc Khu vực), so sánh với tỷ lệ chưa đến 10% năm 2012. = Lutte Ouvrière (Cuộc Đấu tranh của Người lao động; viết tắt là LO) sẽ giới thiệu ứng cử viên trong 553 khu vực bỏ phiếu, với 539 trong Pháp, sáu Réunion, bốn Martinique, và bốn Guadeloupe. Đảng New Anticapitalist Party (NPA) có khả năng sẽ không giới thiệu ứng cử viên trong cuộc bầu cử lập pháp vì chi phí có thể có quá cao, vì chi phí bầu cử chỉ có thể được hoàn trả khi các ứng cử viên của một Đảng chiếm được 1% trong ít nhất 50 khu vực bầu cử. = Nguồn thông tin Ngày nghiên cứu Kích cỡ mẫu LO NPA FI PG PCF PS PRG EELV EM MoDem UDI LR DLF FN Others Harris ngày tháng năm 2017 2,376 1% 13% 2% 8% 3% 26% 22% 3% 22% Kantar Sofres 4–ngày tháng năm 2017 1,507 2% 15% 1% 9% 3.5% 24% 22% 2.5% 21% Ifop-Fiducial 4–ngày tháng năm 2017 1,405 1% 16% 2% 9% 3% 22% 2.5% 20% 20% 3% Cuộc bầu cử lập pháp 10 Jun 2012 0.5% 0.3% 6.9% (FG) 29.4% 1.7% 5.5% 1.8% 4.0% 27.1% 0.6% 13.6% 8.6% = Nguồn thông tin Ngày nghiên cứu Kích cỡ mẫu FG PS EELV EM UDI LR DLF FN OpinionWay* 23 tháng 04 tháng 05, 2017 6–8 28–43 200–210 15–25 Cuộc bầu cử lập pháp 10 Jun 2012 10 280 17 20 194 cho 535 trong 577 khu vực (chỉ trong nước Pháp; Loại trừ Corsica và lãnh thổ nước ngoài và người cư trú) Nguồn thông tin Ngày nghiên cứu Kích cỡ mẫu Khu vực bỏ phiếu Các ứng cử viên chính và hướng bầu cử OpinionWay 11–15 Tháng 04, 2017 602 Haute-Loire's 1st Laurent Wauquiez (LR) 52% Cécile Gallien (EM) 13% Fabien Albertini (FN) 12% Laurent Johanny (DVG) 7% Martine Dejean (FG) 6% Fabrice Farison (PS) 5% Jean-Jacques Orfeuvre (EELV) 5% Chia rẽ Chính phủ tại Pháp
Cuộc Bầu cử nhánh Lập pháp
Bầu cử, Pháp năm 2017, Chính trị Pháp
Dơi mũi nhỏ (danh pháp khoa học: turpis') là một loài dơi trong họ Dơi nếp mũi. Nó được tìm thấy Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là các khu rừng ôn đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sống. Chiroptera Specialist Group 1996. Hipposideros turpis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Downloaded on ngày 30 tháng năm 2007.
Dơi mũi nhỏ
Động vật được mô tả năm 1901
'Polypodium là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Willem. mô tả khoa học đầu tiên năm 1796. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
null
Polypodium, Unresolved names
Kitty Hawk là thị trấn Quận Dare, Bắc Carolina, và là một phần của cái gì đó được biết đến nằm Outer Banks của Bắc Carolina. Điều tra dân số Hoa Kỳ vào năm 2010 thì nơi đây có số dân đạt 3.272 người.Đây cũng là nơi mà Anh em nhà Wright bay thử nghiệm
Kitty Hawk
Bãi biển Quận Dare, Bắc Carolina, Bãi biển Bắc Carolina
Annavasal là một thị xã panchayat của quận Pudukkottai thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Annavasal có vị trí Nó có độ cao trung bình là 128 mét (419 feet). Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Annavasal có dân số 7630 người. Phái nam chiếm 49% tổng số dân và phái nữ chiếm 51%. Annavasal có tỷ lệ 67% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 75%, và tỷ lệ cho phái nữ là 59%. Tại Annavasal, 12% dân số nhỏ hơn tuổi.
Annavasal
Hà Tông Huân (何宗勳, 1697-1766) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Hà Tông Huân người làng Kim Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1724 đời Lê Dụ Tông, ông đỗ bảng nhãn khoa thi đình. Vì khoa thi này không có trạng nguyên và thám hoa, nên ông đỗ thủ khoa (Đình nguyên Bảng nhãn). Người đương thời vẫn quen gọi ông là ông Bảng Vàng, tức là bảng nhãn làng Vàng. Hà Tông Huân được làm Thị thư viện Hàn lâm, sau đó ra Đốc đồng Sơn Nam, kế đó ra trấn thủ An Quảng. Hà Tông Huân giỏi giải quyết việc biên cương khiến người Trung Quốc phải khuất phục. Đầu thời Lê Hiển Tông (1740-1786), Hà Tông Huân được phong làm Tả thị lang bộ Hộ, ít lâu sau làm Phỏng sát sứ Tây đạo và Nam đạo. Năm 1745, chúa Trịnh Doanh cho Hà Tông Huân vào nội các, hỏi việc cơ yếu. Trịnh Doanh nghe kiến của ông xong rất vừa ý, bèn cho làm Tham tụng trong phủ chúa, tước Kim Khê bá. Ít lâu sau đó, Hà Tông Huân lại đổi sang ban võ quan, lĩnh chức Tham đốc nhưng vẫn đồng thời làm Tham tụng. Khi ông trấn thủ Thanh Hóa, có quân nổi dậy chống triều đình. Hà Tông Huân mang quân đi dẹp, nhờ quân đội nghiêm chỉnh nên nhanh chóng dẹp yên quân nổi dậy. Nhờ công lao này, ông được phong làm Thượng thư bộ Binh, vào triều làm Tham tụng, kiêm việc Quốc Tử Giám, tước Huy Xuyên hầu. Năm 1760, tình hình Đàng Ngoài tương đối yên ổn. Ông đã 64 tuổi, xin về hưu, được gia thăng hàm Thiếu bảo, tước Huy quận công. Khi đã nghỉ hưu, ông làm nhà bên sông và chiều chiều ra uống rượu, sống hòa mình với nhân dân trong vùng. Ít lâu sau Trịnh Doanh lại mời ông ra làm Ngũ lão cố vấn. Ông mất tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), thọ 70 tuổi. Sau khi ông mất nhân dân lập đền thờ ông. Có đôi câu đối của người xưa ca tụng tài đức của ông: :"Sự nghiệp tam khôi thần báo trước" :"Văn chương bậc nhất được vua khen". Học trò của ông đỗ đạt rất nhiều, khi ông nghỉ hưu đã có nhiều người thăng lên tướng phủ. Sử gia Phan Huy Chú nhận định về ông như sau: :Ông bụng dạ thản nhiên, rộng rãi, không câu nệ nhỏ nhặt. Khi thi thố những việc to tát, việc gì cũng xong. triều hơn 30 năm, trải làm tướng văn, tướng võ, công danh hiển hách. Lại thích tác thành người hậu tiến, học trò của ông đỗ đạt rất nhiều. Trịnh Doanh Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục
Hà Tông Huân
Quan lại nhà Lê trung hưng, Người Thanh Hóa, Sinh năm 1697, Mất năm 1766, Bảng nhãn Việt Nam
Welcome Air tên đầy đủ là Welcome Air Luftfahrt (mã IATA 2W, mã ICAO WLC) là hãng hàng không của Áo, trụ sở Innsbruck. Hãng có căn cứ Sân bay Innsbruck. Welcome Air được thành lập vào tháng năm 2000. Hãng có các tuyến bay thường xuyên từ Áo tới Đức, Na Uy và Thụy Điển. Về mùa hè hãng có các chuyến bay thuê bao tới Pháp, và về mùa đông tới Hà Lan, Bỉ. Áo :* Graz :* Innsbruck Đức :* Hanover Na Uy :* Kristiansand :* Stavanger Thụy Điển :* Göteborg Tuyến bay thuê bao mùa hè: Pháp :* Nice :* Alghero :* Olbia Tuyến bay thuê bao mùa đông: Bỉ :* Antwerp Hà Lan :* Rotterdam (Tháng 2/2008): Dornier 328-110 Dornier 328Jet Welcome Air Đội máy bay của Welcome Air
Welcome Air
Hãng hàng không Áo
Dã tràng hay còng trong tiếng Việt là tên gọi chung để chỉ một vài nhóm cua biển nhỏ trong bộ Giáp xác mười chân (Decapoda) với tập tính vê cát thành từng viên nhỏ để tìm kiếm thức ăn khi thủy triều xuống. Chúng thuộc về các chi Mictyris (họ Mictyridae), Dotilla và Scopimera (họ Dotillidae) đều thuộc liên họ Cáy còng (Ocypodoidea). phải Các loài trong chi Mictyris thường tụ tập thành bầy hàng ngàn con trên các bãi biển lầy lội để kiếm ăn khi thủy triều xuống. Khi bị đe dọa hay thủy triều lên thì chúng ẩn nấp trong các hang hình xoắn ốc dưới lớp cát. Các loài trong chi Scopimera sau khi tìm kiếm thức ăn từ các hạt cát thì sẽ hất các viên cát này về phía sau các chân của chúng. Chúng không có hành vi lẩn trốn khi bị đe dọa. Chi Dotilla được tách ra từ chi Scopimera. Các loài của các chi này sinh sống trong khu vực ven bờ biển thuộc Ấn Độ Dương và miền tây Thái Bình Dương. Trong văn học dân gian Việt Nam có một truyện cổ tích kể về sự tích con dã tràng. Có một vài phiên bản khác nhau, tuy nhiên nội dung của chúng đều để giải thích cho hiện tượng dã tràng vê các viên cát nhỏ. Trong một phiên bản người ta kể rằng một người đàn ông có tên là Dã Tràng "xe cát" để lấp biển nhằm đòi lại viên ngọc quý có thể nghe hiểu tiếng nói của các loài động vật, do một con rắn hổ mang cho để trả ơn cứu mạng, mà Đông Hải Long Vương đã lập mưu để lấy trộm. Công việc không thể hoàn thành, Dã Tràng sau khi chết đã hóa thành con dã tràng (hay con còng còng) và vẫn tiếp tục xe cát để lấp biển. Vì vậy dân gian Việt Nam có câu: :: Dã tràng xe cát Biển Đông :: Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì
Dã tràng
Văn học dân gian Việt Nam Thể
Sân bay Bagram, cũng được gọi là Căn cứ không quân Bagram, là một sân bay quân sự và phức hợp nhà nằm bên cạnh thành phố cổ Bagram, 11 km (6,8 dặm) về phía đông nam Charikar trong tỉnh Parwan của Afghanistan. Căn cứ được điều hành bởi một sư đoàn Quân đội Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy của một thiếu tướng. Một phần lớn của căn cứ, tuy nhiên, là "sở hữu" của Không quân Hoa Kỳ (Phi đội viễn chinh 455). Khu vực thuộc kiểm soát không quân (khoảng một nửa toàn bộ căn cứ) bao gồm các tuyến bay, thang lên máy bay, và hầu hết các khu vực liên quan đến tài nguyên các phi vụ. Căn cứ không quân này hiện đang thuộc chiếm đóng và duy trì bởi Sư đoàn Kỵ Binh thứ nhất (CJTF-1) Lực lượng Tác chiến chung Kết hợp, đã từ Sư đoàn Không vận 101 trong nửa đầu năm 2011. Căn cứ không quân này hiện đang thuộc chiếm đóng và duy trì bởi Lữ đoàn Hàng không Tác chiến 10 (Task Force Falcon) và 3-10 GSAB (Task Force Phoenix) của quân đội Hoa Kỳ, với Phi đội Viễn chinh 455 của Không lực Hoa Kỳ và các lực lượng khác của Lục quân Hoa Kỳ, Hải quân Hoa Kỳ, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, Tuần duyên Hoa Kỳ, và các đơn vị đối tác liên hiệp NATO ISAF (Lực lượng hỗ trợ an ninh quốc tế) có dân số người thuê nhà khá lớn. Sân bay Bagram ba nhà hangar lớn, một tháp điều khiển, một số tòa nhà hỗ trợ. Sân bay nằm khu vực có độ cao 1492 mét trên mực nước biển, có một đường băng dài 3.003 mét được xây dựng vào năm 1976. Một đường băng thứ hai dài được xây dựng và hoàn thành bởi Quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 2006, với chi phí 68 triệu USD. Đường băng mới này cho phé các máy bay như C-5 Galaxy, C-17 Globemaster III hay Boeing 747 (được sử dụng bởi Southern Air và Kalitta Air cho các chuyến bay vận chuyển hàng hóa thường xuyên).
Sân bay Bagram
Sân bay Afghanistan, Danh sách sân bay, Chiến tranh Afghanistan (2001–2021)
Macael là một đô thị thuộc tỉnh Almería, cộng đồng tự trị Andalusia, Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích 44 km², dân số năm 2005 là 6091 người. Nguồn: INE (Tây Ban Nha) Esplugues de Llobregat, Tây Ban Nha Jarrie, Pháp Macael Sistema de Información de Andalucía Macael Diputación Provincial de Almería
Macael
Đô thị Almería
Quận Pembina là một quận thuộc tiểu bang Bắc Dakota, Hoa Kỳ. Quận lỵ đóng Cavalier.. Quận được đặt tên theo. Dân số theo điều tra năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là 8585 người, dân số năm 2009 ước khoảng 7392 người. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận này có diện tích 2906 km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước.
Quận Pembina
Quận của North Dakota, Khu dân cư thành lập năm 1867, Lãnh thổ Dakota 1867, Văn hóa người Mỹ gốc Iceland North Dakota
là một chi thực vật có hoa trong họ, Orchidaceae. *Danh sách các chi Phong lan Tập tin:Neotinea maculata.jpg Tập tin:Orchis lactea Rhodos 02.jpg *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (1999). Genera Orchidacearum 1. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2001). Genera Orchidacearum 2. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2003). Genera Orchidacearum 3. Oxford Univ. Press *Berg Pana, H. 2005. Handbuch der Dictionary of Orchid Names. Dizionario dei nomi delle orchidee. Ulmer, Stuttgart
null
Danh sách các chi phong lan
là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1600 (ngày 15 tháng thứ niên hiệu Khánh Trường thứ 5) tại Sekigahara, thuộc tỉnh Gifu ngày nay. Trận đánh diễn ra giữa hai phe, một phe ủng hộ con trai của Toyotomi Hideyoshi là Toyotomi Hideyori lên nắm quyền. Phe kia ủng hộ Tokugawa Ieyasu, daimyō hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Chiến thắng của "Đông quân" dưới sự chỉ huy của Ieyasu khiến ông trở thành người cuối cùng trong số người thống nhất Nhật Bản cùng với Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi. Sau trận đại chiến này, ông chính thức giành được tước hiệu Chinh di Đại tướng quân (征夷大将軍, Sei-i Daishōgun), người có quyền lực chính trị và quân sự nhất thời phong kiến Nhật Bản. Trận chiến mở đầu thời đại của Mạc phủ Tokugawa, mạc phủ cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản kéo dài hơn 250 năm. Tầm quan trọng trận chiến này, toàn bộ kết quả của một chiến dịch quân sự, là nó đã gần như kết thúc một thời kỳ nội chiến khốc liệt. Nó đã thiết lập nền hòa bình gần như tuyệt đối trên suốt quần đảo Nhật Bản, và chỉ bị gián đoạn bởi các cuộc khởi nghĩa nhỏ cho đến khi Thiên hoàng giành lại quyền lực tối cao sau cuộc chiến tranh Mậu Thìn (1868-1869). Mặc dù không ai biết chính xác số lượng binh lính tham chiến của hai bên, nhưng phần lớn học giả cho rằng đã có hơn 17 đến 20 vạn binh lính tập trung ngày hôm đó, và một số người nói rằng, đây là trận đánh lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản. Trận đánh lịch sử này còn được gọi là Tenka Wakeme no Tatakai (天下分け目の戦い, trận chiến phân thiên hạ) trong tiếng Nhật. Tên gọi bắt nguồn từ tên vùng đất mà nó đã diễn ra: Sekigahara, nằm trong khu vực quận Fuwa, tỉnh Gifu ngày nay. Bao gồm hai khía cạnh khác nhau: Mặc dù thường được xem như là một trận đánh, một phần của một chiến dịch quân sự quy mô lớn. Về điều này, cả hai bên đều đã chuẩn bị trước, như việc bao vây lâu đài đối phương hay chặn đánh các tuyến đường giao thông chính để cố gắng chiếm được lợi thế hơn đối thủ. Điều đáng chú là khi hai bên đã chuẩn bị cho trận đánh hàng tháng trời, việc quyết định nơi giao tranh được thực hiện cách nhanh chóng bởi một trong hai bên tham chiến. Ishida Mitsunari đã lựa chọn được chỗ rất có lợi cho quân của mình. Nhưng trớ trêu thay, chính một trong những đồng minh đáng tin nhất của ông đã phản bội khiến ông không kịp trở tay. Toyotomi Hideyoshi vốn là một vị tướng phục vụ cho Oda Nobunaga. Sau khi Nobunaga qua đời, trong hội nghị quyết định người kế thừa Nobunaga, Hideyoshi gạt qua ứng cử viên hiển nhiên là Oda Nobutaka và cùng với đại tướng của gia tộc Oda, Shibata Katsuie, ủng hộ người con còn trẻ của Nobutada, Oda Hidenobu. Có được sự ủng hộ của hai trưởng lão nhà Oda, Niwa Nagahide và Ikeda Tsuneoki, Hideyoshi đặt Hidenobu lên ngôi, cùng với ảnh hưởng của chính ông ta lên toàn gia tộc Oda. Căng thẳng nhanh chóng leo thang giữa Hideyoshi và Katsuie, và trong trận Shizugatake năm sau đó, Hideyoshi tiêu diệt quân đội của Katsuie và từ đó tập trung quyền lực trong tay mình, kiểm soát gần như mọi hoạt động của nhà Oda. Hideyoshi tìm kiếm danh hiệu shogun để thực sự được coi là người nắm quyền thống trị Nhật Bản. Tuy nhiên Hoàng đế không ban cho ông tước hiệu đó. Ông yêu cầu shogun cuối cùng của Muromachi, Ashikaga Yoshiaki, nhận ông làm con nuôi, nhưng bị từ chối. Không thể trở thành shogun, năm 1585 ông nhận lấy vị trí còn đầy thanh thế hơn là Nhiếp chính quan (kampaku). Năm 1586, Hideyoshi chính thức được triều đình ban tên Toyotomi. Ông xây dựng một lâu đài to lớn, Jurakudai, năm 1587 và điều khiển Hoàng đế Go-Yozei năm sau đó. Sau đó, Hideyoshi khuất phục tỉnh Kii và chinh phục Shikoku của gia tộc Chōsokabe. Ông cũng giành quyền kiểm soát tỉnh Etchū và xâm lăng Kyūshū. Năm 1587, Hideyoshi trục xuất người truyền đạo Thiên chúa khỏi Kyūshū để áp đặt sự thống trị lớn hơn đối với các daimyo Kirishitan (người Nhật theo Thiên chúa giáo). Tuy nhiên, vì ông vẫn giao thương với châu Âu, những người theo Thiên chúa giáo riêng lẻ được lờ đi. Năm 1588, Hideyoshi cấm nông dân bình thường sở hữu vũ khí và bắt đầu cuộc săn lùng kiếm để sung công vũ khí. Kiếm được nấu chảy để đúc tượng Phật. Biện pháp này ngăn ngừa rất hiệu quả sự phản ứng của nông dân và đảm bảo sự ổn định lớn hơn đặc biệt là từ các daimyo tự do. Cuộc vây hãm Odawara chống lại gia tộc Hậu Hōjō đồng bằng Kantō tiêu diệt những kẻ chống đối cuối cùng của Hideyoshi. Chiến thắng của ông đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Sengoku. Tháng năm 1591, Hideyoshi ra lệnh cho Sen no Rikyū phải tự sát. Rikyū đã từng là một thuộc hạ tin cẩn và là bậc thầy trà đạo dưới thời cả Hideyoshi lẫn Nobunaga. Dưới sự bảo trợ của Hideyoshi, Rikyū tạo ra những thay đổi quan trọng trong mỹ học của trà đạo, ảnh hưởng đến rất nhiều khía cạnh của văn hóa Nhật Bản. Kể cả sau khi ra lệnh buộc Rikyū phải tự sát, Hideyoshi vẫn tiến hành nhiều công trình xây dựng dựa trên những tiêu chuẩn về cái đẹp do Rikyū đề xướng. Sự ổn định của triều đại Toyotomi sau cái chết của Hideyoshi bị đặt một dấu hỏi lớn sau cái chết của người con trai độc nhất mới tuổi của ông, Tsurumatsu, tháng năm 1591. Khi người anh cùng cha khác mẹ Hidenaga qua đời ít lâu sau người con trai, Hideyoshi chọn cháu trai Hidetsugu làm người kế vị, nhận Hidetsugu làm con nuôi vào tháng năm 1592. Hideyoshi rời bỏ chức vụ kampaku rồi nhận tước hiệu taikō (Nhiếp chính về hưu). Hidetsugu được ban tước hiệu kampaku. Hai lần xâm lược Triều Tiên thất bại của ông đã làm quyền lực của gia tộc Toyotomi cũng như những người trung thành và những quan viên vẫn còn phục vụ và ủng hộ gia tộc này sau khi Toyotomi chết suy yếu một cách khủng khiếp. Sự hiện diện của Hideyoshi và em trai ông ta Hidenaga làm hai phe không bùng nổ xung đột, nhưng khi cả hai người đều qua đời, sự xích mích ngày càng trầm trọng và biết thành thù địch. Đáng chú nhất là, Kato Kiyomasa và Fukushima Masanori đã công phái các quan chức cũ, đặc biệt là Ishida Mitsunari và Konishi Yukinaga. Tokugawa Ieyasu chớp lấy thời cơ, lấy lòng họ, và hướng sự thù địch làm yếu đi gia tộc Toyotomi. Tokugawa Ieyasu không còn đối thủ về thâm niên, thứ bậc, danh tiếng và ảnh hưởng nói chung trong gia tộc Toyotomi sau cái chết của Nhiếp chính Maeda Toshiie. Tin đồn lan tràn về việc Ieyasu, lúc này là đồng minh duy nhất còn sống của Oda Nobunaga, sẽ chiếm lấy cơ nghiệp của Hideyoshi, như cách mà Hideyoshi đã đoạt lấy của Nobunaga. Điều này được những quan viên trung thành với Hideyoshi đặc biệt tin tưởng, vì họ đã nghi ngờ Ieyasu đã kích động mối bất hòa giữa các chư hầu của Toyotomi. Sau đó, âm mưu ám sát Ieyasu bị lộ, và rất nhiều những người trung thành với Toyotomi đã bị buộc tội và bị ép phải phục tùng quyền lực của Ieyasu. Tuy vậy, Uesugi Kagekatsu, một trong các Nhiếp chính được Hideyoshi tiến cử, không tuân lệnh của Ieyasu và xây dựng đội quân của riêng mình. Khi Ieyasu công khai kết tội ông và đòi ông phải đến Kyoto để đối chất trước mặt Thiên Hoàng. Quân sư của Kagekatsu, Naoe Kanetsugu đáp lời bằng việc kết tội Ieyasu lăng mạ vi phạm di huấn của Hideyoshi, làm Ieyasu tức điên lên. Sau đó, Ieyasu tập hợp những người ủng hộ mình, tiến quân lên phía Bắc tấn công gia tộc Uesugi, sử gọi là Cuộc vây hãm Hasedō, nhưng Ishida Mitsunari, chớp lấy thời cơ này, nổi dậy và tạo lập một liên minh làm đối trọng với những người theo Ieyasu, đánh trúng tâm lý của rất nhiều daimyo thù địch lâu đài Osaka. Ieyasu để lại một ít quân dưới quyền của Date Masamune để canh chừng nhà Uesugi và tiến về phía Tây để giao chiến với Tây quân. Một vài daimyo, đáng chú nhất là Sanada Masayuki, từ bỏ liên minh của Ieyasu, mặc dù, đa số đều căm thù Mitsunari hay trung thành với Ieyasu đều lại với quân Tokugawa. Mitsunari, lâu đài Sawayama, gặp gỡ Otani Yoshitsugu, Mashita Nagamori, và Ankokuji Ekei. đây, họ thành lập liên minh, gửi lời mời đến Mori Terumoto, người thực ra không tham gia vào trận chiến, làm thủ lĩnh. Mitsunari sau đó chính thức tuyên chiến với Ieyasu và bao vây lâu đài Fushimi, do thuộc hạ của Ieyasu là Torii Mototada trấn giữ vào ngày 19 tháng 7. Sau đó, Tây quân hạ được vài tiền đồn của quân Tokugawa vùng Kansai và trong không đầy một tháng, Tây quân đã tiến đến tỉnh Mino, nơi có ngôi làng Sekigahara. Súng hỏa mai Nhật Bản thời kỳ Edo. Trở lại Edo, Ieyasu nhận được tin tức về tình hình Kansai và quyết định triển khai quân đội của mình. Ông ra lệnh cho vài daimyo cũ của Toyotomi giao chiến với Tây quân khi ông chia quân thành các đường và tiến về phía Tây trên con đường Tōkaidō đến lâu đài Osaka. Con trai của Ieyasu là Hidetada dẫn một đạo quân khác qua ngả Nakasendō. Tuy vậy, quân đội của Hidetada sa lầy khi cố công phá lâu đài Ueda của Sanada Masayuki. Mặc dù quân đội Tokugawa đông gấp bội với 38.000 lính so với chỉ vẻn vẹn 2.000 lính của nhà Sanada, họ vẫn không thể chiếm được vị trí chiến lược được phòng thủ cẩn mật này. Cùng lúc đó, 15.000 quân nhà Toyotomi bị giam chân chỉ bằng 5.000 quân của Hosokawa Fujitaka tại lâu đài Tanabe quận Wakayama. Một vài trong số 15.000 người đó kính trọng Hosokawa đến độ mà họ trù tính sẽ làm chậm nhịp độ tấn công lại. Những sự kiện này khiến cho một số lượng lớn quân của Tokugawa và Toyotomi không thể tham chiến tại Sekigahara. Biết rằng Ieyasu đang tiến tới Osaka, Mitsunari quyết định rời bỏ vị trí của mình và tiến đến Sekigahara. Ngày 15 tháng 9, hai bên bắt đầu sắp xếp đội ngũ. Đông quân của Ieyasu có 88.888 lính, trong khi quân số của Mitsunari là 81.890 người. Mặc dù Tây quân có được lợi thế chiến thuật rất lớn, Ieyasu đã liên hệ với nhiều daimyo phía Tây, đảm bảo cho họ về đất đai và tính mạng sau trận chiến nếu họ chuyển phe. Điều này làm vài tướng lĩnh phía Tây giữ các vị trí quan trọng dao động và phải đưa quân tiếp viện hay tham chiến, việc này đã phát huy tác dụng. Mori Hidemoto và Kobayakawa Hideaki là hai daimyo như thế. Họ những vị trí mà nếu đánh thúc vào Đông quân, họ sẽ làm cho Ieyasu bị vây cả ba mặt. Hidemoto, bị lời hứa của Ieyasu lung lạc, cũng thuyết phục Kikkawa Hiroie không tham chiến. Mặc dù Kobayakawa đã nghe theo lời Ieyasu, ông vẫn do dự và giữ thái độ trung lập. Khi trận đánh vào hồi căng thẳng, Ieyasu cuối cùng ra lệnh cho súng hỏa mai bắn vào vị trí của Kobayakawa trên núi Matsuo. Đến lức này, Kobayakawa mới tham chiến theo phe phía Đông. Quân đội của ông đánh vào vị trí của Yoshitsugu. Mắt thấy hành động phản bội này, hàng loạt các tướng quân phía Tây như Wakisaka Yasuharu, Ogawa Suketada, Akaza Naoyasu, và Kutsuki Mototsuna ngay lập tức chuyển phe, khiến chiều hướng của trận đánh thay đổi hẳn. Tây quân tan rã, các chỉ huy bỏ chạy. Một vài người như Ukita Hideie chạy thoát, trong khi những người khác như Otani Yoshitsugu tự sát. Mitsunari, Yukinaga và Ekei bị bắt và một số ít như Mori Terumoto và Shimazu Yoshihiro trở về được lãnh địa của mình. Đông quân Tây quân Daimyō Binh lính Daimyō Binh lính Tokugawa Ieyasu 30.000 Mōri Terumoto* --- Honda Tadakatsu 500 Ishida Mitsunari 4.000 Hosokawa Tadaoki 5.000 Shima Sakon (1.000) Ii Naomasa 3.600 Gamo Bitchū (1.000) Matsudaira Tadayoshi 3.000 Akaza Naoyasu 600 Tsutsui Sadatsugu 2.850 Chōsokabe Morichika 6.600 Arima Toyōji 900 Kikkawa Hiroie 3.000 Asano Yukinaga 6.510 Mōri Hidemoto 15.000 Fukushima Masanori 6.000 Ankokuji Ekei 1.800 Ikeda Terumasa 4.560 Kobayakawa Hideaki 15.600 Ikoma Kazumasa 1.830 Konishi Yukinaga 4.000 Katō Yoshiaki 3.000 Kuchiki Mototsuna 600 Kuroda Nagamasa 5.400 Natsuka Masaie 1.500 Kyōgoku Takamoto 3.000 Ogawa Suketada 2.100 Oda Yūraku 450 Ōtani Yoshitsugu 600 Tanaka Yoshimasa 3.000 Ōtani Yoshikatsu 3.500 Terazawa Hirotaka 2.400 Shimazu Yoshihiro 1.500 Tōdō Takatora 2.490 Shimazu Toyohisa (750) Yamanouichi Kazutoyo 2.058 Toda Shigemasa 1.500 Yoshida Shigekatsu 1.200 Ukita Hideie 17.000 Wakizaka Yasuharu 990 Chư hầu gia tộc Toyotomi 2.000 Tổng cộng 88.888 81.890 Chú thích: Quân của Mōri Terumoto không được tính vì họ đang đóng thành Osaka trong thời gian diễn ra trận đánh. màu cam là những đội quân đã 'đổi phe' sang Đông quân. Vũ khí chính được dùng trong trận chiến là Yari, một loại giáo Nhật truyền thống được sử dụng chủ yếu bởi các đội quân Ashigaru (足軽) và thậm chí là cả các samurai trên lưng ngựa. Một kiểu ngắn hơn được gọi là mori yari. Vũ khí phụ là nihonto, thường được biết đến phương Tây là kiếm katana. Kiếm Katana có chuôi dài đủ để người sử dụng dùng hai bàn tay nắm chặt. Theo truyền thống, kiếm được đeo với lưỡi quay lên phía trên. Mặc dù là một kiểu vũ khí có liên kết chặt chẽ nhất với các samurai thời kỳ Edo, một thời gian hòa bình trong lịch sử Nhật Bản, và người ta đã gọi nó là "linh hồn của những samurai". Katana được sử dụng song song với một thanh kiếm ngắn là Wakizashi và được gọi chung với nhau là daishō (大小, đại tiểu), biểu tượng cho tác phong và danh dự của người võ sĩ. Thanh kiếm dài Katana dùng để chém trong tác chiến. Kiếm ngắn để đâm khi đến gần đối phương hoặc để thực hiện một nghi thức mang tên seppuku. Khi một samurai mặc giáp trụ đầy đủ và giao tranh trên chiến trường, thanh katana vẫn được sử dụng trong khi thanh wakizashi được thay thế bằng tanto. Trên chiến trường, katana được xem là vũ khí quan trọng nhất, vì nó thường được định nghĩa với cận chiến. Đài tưởng niệm trận Sekigahara ngày nay Tokugawa Ieyasu phân bổ lại đất đai và thái ấp cho những người tham chiến, nói chung là ban thưởng cho những người trợ giúp ông và thay đổi chỗ, trừng phạt hay lưu đày những người chống lại mình. Thực hiện việc này, ông giành được quyền kiểm soát rất nhiều đất đai trước kia của nhà Toyotomi. Sau khi xử tử công khai Ishida Mitsunari, Konishi Yukinaga và Ankokuji Ekei, ảnh hưởng và uy tín của gia tộc Toyotomi cùng những người trung thành với họ suy giảm nghiêm trọng. Từ góc nhìn của gia tộc Toyotomi, trận đánh này theo một nghĩa nào đỏ chỉ là cuộc giao tranh giữa các chư hầu nhà Toyotomi. Tuy vậy, quan điểm này không chính xác lắm vì Ieyasu sau này đã trở thành Shogun, vị trí vẫn còn bỏ trống sau khi Mạc phủ Ashikaga sụp đổ 27 năm trước. Sự thay đổi này cũng đảo ngược địa vị thuộc hạ của gia tộc Tokugawa, sau đó biến gia tộc Toyotomi thành chư hầu của nhà Tokugawa. Dù thế nào đi chăng nữa, Ieyasu cũng không kiếm được cớ gì để hành động chống lại nhà Toyotomi bạc nhược; thay vào đó, Ieyasu phải tốn công dàn xếp nhiều kế hoạch chính trị để tiêu diệt Hideyori một lần và mãi mãi. Trong khi phần lớn các gia tộc đều bằng lòng với vị trí mới của mình, có những gia tộc, đặc biệt là những người phía Tây, cay đắng vì việc bị thuyên chuyển lãnh địa hay cảm thấy việc bại trận hay bị trừng phạt là một sự sỉ nhục. Ba gia tộc sau trận Sekigahara bị thiệt hại nặng nề: Gia tộc Mori, đứng đầu là Mori Terumoto, vẫn giận dữ với Mạc phủ Tokugawa vì phải chuyển khỏi thái ấp của mình, Aki, và được phân cho lãnh địa Chōshū, mặc dù gia tộc này không hề tham gia vào trận đánh này. Gia tộc Shimazu, đứng đầu là Shimazu Yoshihiro, việc thu thập thông tin tình báo yếu kém, và họ vẫn không bị thuyên chuyển khỏi tỉnh nhà Satsuma, họ vẫn không hoàn toàn trung thành với Mạc phủ Tokugawa. Tận dụng lợi thế là xa Edo và trên đảo Kyushu cũng như tăng cường công tác thám báo, gia tộc Shimazu công khai tuyên bố rằng đây gần như là một vương quốc tự trị độc lập khỏi Mạc phủ Tokugawa. Gia tộc Chosokabe, đứng đầu là Chosokabe Morichika, bị lột bỏ tước hiệu và lãnh địa Tosa và bị lưu đày. Các thuộc hạ cũ của Chosokabe không bao giờ phục vụ cho những người mới đến, gia tộc Yamauchi, tạo ra sự khác biệt giữa các thuộc hạ của họ với các thuộc hạ cũ của Chosokabe, khiến họ phải chịu địa vị thấp hơn cũng như sự phân biệt đối xử. Việc phân biệt đẳng cấp này tiếp diễn hàng thế hệ cho đến khi gia tộc Chosokabe sụp đổ. Hậu duệ của ba gia tộc này hai thế kỷ sau đã cộng tác để lật đổ Mạc phủ Tokugawa, dẫn đến cuộc Minh Trị Duy Tân. *Theo lưu truyền lại, kensei (kiếm thánh) huyền thoại Miyamoto Musashi cũng tham chiến trong hàng ngũ quân đội của Ukita Hideie. Người ta cho là ông đã chiến đấu anh dũng và thoát khỏi quân đội thất trận của Ukita mà không bị một vết thương nào. Đây là thực tế hay huyền thoại vẫn còn chưa rõ ràng; nhưng Musashi mới chỉ khoảng 16 tuổi vào thời điểm đó. Trận đánh này là cảnh chiến đấu chính trong phim Sengoku jieitai 1549 (2005). Trong phim cũng xuất hiện một số nhân vật chính và tình huống chính trị, khá trụy lạc do kịch bản phim. Trận đánh này được miêu tả nổi bật trong seri manga và anime Samurai Deeper Kyo. Trận đánh xuất hiện trong video game Kessen và Samurai Warriors cho dòng máy Playstation 2. Cả hai game có những kịch bản viễn tưởng, một vài chuyển thắng lợi về cho phe Tây Quân. Trận chiến cũng xuất hiện trong Age of Empires III: The Asian Dynasties trong phần các chiến dịch Nhật Bản. Trận chiến xuất hiện trong Shogun: Total War, là một trong những trận chiến lịch sử PC. Trong Azumi, Trận Sekigahara là một trong những yếu tố quan trọng của kịch bản. Tiểu thuyết best-seller của James Clavell, "Shogun" miêu tả các sự kiện dẫn đến trận chiến đỉnh điểm này, mặc dù chính bản thân trận chiến lại chỉ được kể trong hai khổ ngắn ngủi. Seri nhỏ năm 2003, Musashi bắt đầu với việc Miyamoto Musashi trẻ tuổi trở dậy từ hàng đống tử thi sau trận chiến Sekigahara. Manga Nhật Bản Vagabond cũng bắt đầu với cảnh tương tự. Anthony J. Bryant, Sekigahara 1600: The Final Struggle For Power. Osprey Campaign Series #40. Oxford: Osprey Publishing. ISBN 1-85532-395-8; ISBN năm 2005)
Tổng cộng
Xung đột năm 1600
'Oropallene là một loài nhện biển trong họ Loài này thuộc chi Oropallene. Oropallene dolichodera được miêu tả khoa học năm 1995 bởi Child. *Bamber, R. (2010). Oropallene dolichodera Child, 1995. In: Bamber, R.N., El Nagar, A. (Eds) (2010). Pycnobase: World Pycnogonida Database. Gebaseerd op informatie uit het Cơ sở dữ liệu sinh vật biển, te vinden op
null
Oropallene
là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Oxycnemis acuna Barnes, 1907 Oxycnemis advena Grote, 1882 Oxycnemis erratica Barnes McDunnough, 1913 Oxycnemis franclemonti Blanchard, 1968 Oxycnemis fusimacula J.B. Smith, 1902 Oxycnemis gracillima (Grote, 1881) Oxycnemis grandimacula Barnes McDunnough, 1910 Oxycnemis gustis Smith, 1907 Oxycnemis orbicularis Barnes McDunnough, 1912 Oxycnemis subsimplex Dyar, 1904 is now Sympistis subsimplex (Dyar, 1904) *Troubridge, J.T. 2008. generic realignment of the Oncocnemidini sensu Hodges (1983) (Lepidoptera: Noctuidae: with description of new genus và 50 new species. Zootaxa 1903. 95pp. PDF. Natural History Museum Lepidoptera genus database Oxycnemis at funet Thể
null
hoặc ), hay Jupiter LVIII và tạm thời được gọi là , là một vệ tinh tự nhiên của Sao Mộc. Nó được phát hiện bởi một nhóm các nhà thiên văn học từ Đại học Hawaii dẫn đầu bởi Scott S. Sheppard vào năm 2003, nhưng sau đó bị mất tích. Nó đã được phục hồi vào năm 2017 và được định danh vĩnh viễn vào năm đó. Philophrosyne có đường kính khoảng km và quay quanh Sao Mộc với khoảng cách trung bình là 22.721.000 km trong 699,676 ngày, độ nghiêng 142° so với mặt phẳng hoàng đạo (142° so với đường xích đạo của Sao Mộc), chuyển động theo hướng nghịch với vật thể trung tâm của nó và có độ lệch tâm là 0,0932. Nó thuộc về nhóm Pasiphae, các vệ tinh dị hình chuyển động nghịch hành quanh Sao Mộc khoảng cách từ 22,8 và 24,1 Gm, và độ nghiêng khoảng 150-155°. Vệ tinh này được đặt tên vào năm 2019 theo tên của Philophrosyne (Φιλοφροσύνη), vị thần của sự chào đón, thân thiện và tử tế của người Hy Lạp cổ đại, Con gái của Hephaestus và Aglaea và cháu gái của Zeus. Tên gọi này bắt nguồn từ một cuộc thi đặt tên được tổ chức trên Twitter, nơi nó được đề xuất bởi những người dùng bao gồm cả Chuyên gia thần thoại CHW3M (@Chw3mmyths) là một lớp lịch sử lớp 11 nghiên cứu triết học Hy Lạp và La Mã tính đến năm 2019, Victoria và Lunartic người đã đồng thời giúp đặt tên cho một vệ tinh Jovian khác Eupheme.
Jupiter LVIII
Nhóm Pasiphae, Vệ tinh của Sao Mộc, Vệ tinh dị hình, Được phát hiện bởi Scott S. Sheppard
Argentina (phiên âm tiếng Việt: ), tên gọi chính thức là Cộng hòa Argentina (tiếng Tây Ban Nha: República de Argentina) là quốc gia lớn thứ hai lục địa Nam Mỹ theo diện tích, chỉ sau Brasil. Quốc gia này theo thể chế liên bang, hình thành với 23 tỉnh và một thành phố tự trị là thủ đô Buenos Aires. Argentina có diện tích lớn thứ trên thế giới và lớn nhất trong số các nước nói tiếng Tây Ban Nha, tuy nhiên, nếu xét về quy mô dân số thì México, Colombia và Tây Ban Nha đông dân hơn. Lãnh thổ Argentina trải dài từ dãy núi Andes phía tây cho đến biển Đại Tây Dương phía đông. Quốc gia này giáp với Paraguay và Bolivia về phía bắc, với Brasil, Uruguay về phía đông bắc và Chile về phía tây và nam. Argentina tuyên bố chủ quyền Châu Nam Cực nhưng lãnh phận này hiện nay đang là khu vực gây ra sự tranh chấp với Chile và Vương quốc Liên hiệp Anh. Về mặt pháp lý quốc tế, Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực ký kết năm 1961 đã vô hiệu hóa tuyên bố chủ quyền của mọi quốc gia. Argentina cũng tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Falkland (), Nam Georgia và quần đảo Nam Sandwich. Những nhóm đảo này hiện do Anh quản lý theo kiểu lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Là một cường quốc khu vực và cường quốc bậc trung được công nhận, Argentina là nền kinh tế lớn thứ tại khu vực Mỹ Latinh, với một xếp hạng cao về chỉ số phát triển con người (HDI). Trong phạm vi Mỹ Latinh, Argentina có GDP danh nghĩa lớn thứ và đứng số về sức mua tương đương. Các nhà phân tích cho rằng nước này "có nền tảng vững chắc cho sự phát triển trong tương lai với quy mô thị trường, mức độ đầu tư trực tiếp nước ngoài và tỷ trọng khối lượng hàng hóa xuất khẩu công nghệ cao là những đóng góp quan trọng vào cán cân thương mại", Argentina được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) phân loại là một nền kinh tế công nghiệp mới nổi. Argentina là quốc gia tham gia sáng lập của các tổ chức quốc tế toàn cầu như: Liên Hợp Quốc, Mercosur, Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ, OEI, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Tổ chức thương mại thế giới, một thành viên của Nhóm các nền kinh tế lớn G-20 và Khối Đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ. Tên gọi Argentina được bắt nguồn từ tiếng Latinh argentum (có nghĩa là "Bạc"). Việc sử dụng lần đầu tiên từ nguyên "Argentina" có thể được tìm thấy vào năm 1602 trong bài thơ La Argentina conquista del Río de la Plata () của Martín del Barco Centenera. Mặc dù tên này đã được dùng phổ biến để gọi Lưu vực sông La Plata vào thế kỷ thứ XVIII, nhưng tên chính thức của vùng đất này vốn được gọi là Phó vương quốc Río de la Plata từ năm 1776. Những chính phủ tự trị nổi lên từ cuộc cách mạng tháng năm 1810 đã thay thế từ "Phó vương" bằng "Các tỉnh thống nhất". Một trong số những lần đầu tiên sử dụng cái tên "Argentina" một cách nổi bật là trong quốc ca đầu tiên của Argentina vào năm 1812, bản quốc ca nói đến Cuộc chiến giành độc lập của Argentina đang diễn ra khi đó. Việc sử dụng một cách chính thức tên gọi này lần đầu tiên là trong hiến pháp năm 1826, nó đã sử dụng cả hai thuật ngữ "cộng hòa Argentina" và "quốc gia Argentina". Nhưng sau đó hiến pháp bị bãi bỏ, và các lãnh thổ được gọi thay thế là "Liên minh Argentina". Tên này được sử dụng trong hiến pháp năm 1853, rồi đổi thành "Quốc gia Argentina" năm 1859, rồi thành "Cộng hòa Argentina" theo một nghị quyết năm 1860, khi nước này được tổ chức như ngày nay. Tuy vậy, những cái tên gồm "Các tỉnh thống nhất Río de la Plata", "cộng hòa Argentina" và "liên minh Argentina vẫn được công nhận là những tên hợp pháp của đất nước. Bản đồ địa hình Argentina (bao gồm những vùng đất đang tranh chấp). Argentina có tổng diện tích 2.766.891 km² (bao gồm cả các vùng đất tranh chấp), với 2.736.691 km² đất và 30.200 km² (1,1%) mặt nước. Argentina trải dài 3.900 km từ Bắc xuống Nam, và 1.400 km từ Đông sang Tây (chỗ rộng nhất). Bề mặt địa hình có thể được chia thành phần: đồng bằng màu mỡ Pampa trung tâm đất nước, là vùng nông nghiệp chính yếu của Argentina; vùng cao nguyên từ bằng phẳng tới đồi bát úp giàu tài nguyên Patagonia trải dài từ nửa phía nam của đất nước tới Tierra del Fuego; các đồng bằng cận nhiệt Grand Chaco phía bắc và vùng núi cao Andes chạy dọc theo biên giới phía tây với Chile. Điểm cao nhất nằm Mendoza. Cerro Aconcagua, với độ cao 6.962 là đỉnh núi cao nhất châu Mỹ đồng thời là đỉnh cao nhất Nam Bán Cầu. Điểm có độ cao thấp nhất cả nước là Laguna del Carbón tại tỉnh Santa Cruz, với độ cao −105 (−344 ft) dưới mực nước biển. Đây cũng là điểm thấp nhất lục địa Nam Mỹ. Tâm điểm địa lý của đất nước nằm vùng trung nam đất nước, tỉnh La Pampa. Điểm cực đông nằm tại thành phố Bernardo de Irigoyen, Misiones (), điểm cực Tây nằm trên rặng Mariano Moreno của tỉnh Santa Cruz (). Điểm cực Bắc là nơi giao thủy của sông Grande de San Juan và sông Mojinete, Jujuy (), và điểm cực Nam nằm tại mũi San Pío tại tỉnh Tierra del Fuego (). Argentina còn tranh cãi về chủ quyền trên Châu Nam Cực mặc dù không được các quốc gia khác công nhận. Tập WFB CIA Bản đồ chính trị Argentina. Quần đảo Falkland (Islas Malvinas) nằm dưới sự kiểm soát của Vương quốc Anh nhưng Argentina tranh chấp chủ quyền Lãnh thổ Argentina được chia thành nhiều vùng địa lý với các đặc trưng riêng biệt của từng vùng: Pampas: Vùng đồng bằng phía tây và phía nam Buenos Aires được chia thành Humid Pampa với nền nhiệt cao và Dry Pampa có khí hậu khô hạn hơn. Humid Pampa chiếm phần lớn diện tích của Buenos Aires, tỉnh Córdoba, phần lớn tỉnh Santa Fe và tỉnh La Pampa. Phần phía tây của tỉnh La Pampa và tỉnh San Luis nằm trong vùng Dry Pampa. Đất đai đây thiếu nước cho trồng trọt, chủ yếu được sử dụng để chăn thả gia súc. Sierra de Córdoba nằm trong tỉnh cùng tên là kiểu địa hình quan trọng nhất của đồng bằng Pampa. Gran Chaco: Nằm phía bắc của đất nước có kiểu khí hậu khô ẩm theo mùa, đất đai chủ yếu được dùng để trồng bông và chăn thả đại gia súc. Kiểu địa hình này hiện diện tỉnh Chaco và Formosa. Thỉnh thoảng thấy có sự xuất hiện của các cánh rừng cận nhiệt, cây bụi và đất ngập nước, là quê hương của nhiều loài động thực vật. Tỉnh Santiago del Estero nằm trong đới khô hạn nhất của vùng Gran Chaco. Mesopotamia: là vùng đất nằm giữa sông Paraná và sông Uruguay. Đây là vùng đất của tỉnh Corrientes và tỉnh Entre Ríos. Vùng này có đất đai bằng phẳng thích hợp cho chăn nuôi đại gia súc và trột trọt. Tỉnh Misiones có kiểu khí hậu nhiệt đới nhiều hơn cả và là phần tiếp nối của cao nguyên Brazil. Tỉnh này có khí hậu cận nhiệt và thác Iguazú nổi tiếng. Patagonia: Nằm trong các tỉnh Neuquén, Río Negro, Chubut và Santa Cruz. Phần lớn vùng này có khí hậu bán hoang mạc phía bắc tới lạnh và hoang mạc phía nam nhưng thực vật phát triển vùng rìa phía tây và được tô điểm bởi rất nhiều hồ. Tierra del Fuego có khí hậu mát mẻ và ẩm ướt, được điều hòa bởi sự tác động của biển. Cuyo: Trung Tây Argentina bởi dãy Andes. Về phía đông của vùng này là hoang mạc Cuyo. Băng tuyết từ các đỉnh núi cao là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho các ốc đảo vùng thấp hơn. Đây là vùng trồng cây ăn trái nổi tiếng của Argentina. Xa hơn về phía bắc khí hậu trở nên khô và nóng hơn. Ranh giới phía bắc của vùng điểm xuyến bởi kiểu địa hình Sierras Pampeanas, là một dãy các núi thấp trải rộng từ Bắc xuống Nam trong phần phía Bác của tỉnh San Luis. NOA hay Northwest: là vùng có độ cao lớn nhất của cả nước. Các dãy núi song song với rất nhiều đỉnh cao hơn 6.000m thống lĩnh địa hình vùng này. Những dãy núi này phát triển rộng ra về phía bắc. Chúng chia cắt các thung lũng sông màu mỡ. Xa hơn về phía bắc gần biên giới Bolivia là cao nguyên Altiplano. Chí Tuyến Nam đi qua phần cực bắc của vùng này. Argentina được chia thành 23 tỉnh và một thành phố tự trị Buenos Aires: Tỉnh bang Thủ phủ Dân số(Điều tra dân số 2010) Diện tích(tính bằng km²) GSP bình quân đầu người(USD$, 2008, ước tính.) Bản Đồ border Thành phố Buenos Aires 2.891.082 203 23.309 border tỉnh Buenos Aires La Plata 15.594.428 307.571 7.310 30px Catamarca San Fdo. del Vallede Catamarca 367.820 102.602 6.009 border Chaco Resistencia 1.053.466 99.633 2.015 border Chubut Rawson 506.668 224.686 15.422 border Córdoba Córdoba 3.304.825 165.321 6.477 border Corrientes 993.338 88.199 4.001 border Entre Ríos Paraná 1.236.300 78.781 5.682 border Formosa Formosa 527.895 72.066 2.879 border Jujuy San Salvadorde Jujuy 672.260 53.219 3.755 border La Pampa Santa Rosa 316.940 143.440 5.987 border La Rioja La Rioja 331.847 89.680 4.162 border Mendoza Mendoza 1.741.610 148.827 9.079 border Misiones Posadas 1.097.829 29.801 3.751 border Neuquén Neuquén 550.344 94.078 26.273 border Río Negro Viedma 633.374 203.013 8.247 border Salta Salta 1.215.207 155.488 4.220 border San Juan San Juan 680.427 89.651 5.642 border San Luis San Luis 431.588 76.748 5.580 border Santa Cruz Río Gallegos 272.524 243.943 30.496 border Santa Fe Santa Fe 3.200.736 133.007 8.423 border Santiago del Estero Santiago del Estero 896.461 136.351 3.003 border Tierra del Fuego Ushuaia 126.190 21.478 20.682 border Tucumán San Miguelde Tucumán 1.448.200 22.524 3.937 border ARGENTINA 2.780.400 8.269 Tỉnh Tierra del Fuego gồm cả các lãnh thổ Argentina tuyên bố chủ quyền trên Châu Nam Cực, Quần đảo Falkland, Nam Georgia và Quần đảo Nam Sandwich. Mặc dù được chọn làm thủ đô vào năm 1853 nhưng chỉ đến năm 1880, Buenos Aires mới thực sự trở thành thủ đô của Argentina. Chính phủ Argentina cũng đã dự định chuyển thủ đô hành chính tới một vị trí khác. Dưới thời tổng thống Raúl Alfonsín, một Luật về chuyển thủ đô từ Buenos Aires đến Viedma, một thành phố của tỉnh Patagonia được thông qua nhưng do những khó khăn về kinh tế, dự án này đã không được thực hiện. Tỉnh được chia thành các đơn vị hành chính nhỏ hơn gọi là Cả nước có 376 departmento. Cấp dưới nữa là quận và huyện. Phân cấp theo dân số, các thành phố lớn của Argentina gồm Buenos Aires, Córdoba, Rosario, Mendoza, Tucumán, La Plata, Mar del Plata, Salta, Santa Fe, San Juan, Resistencia và Neuquén. Tập tin:Colón (Entre Ríos, Argentina) Botes sobre el río buồm trên Uruguay River Các sông lớn Argentina bao gồm Pilcomayo, Paraguay, Bermejo, Colorado, Río Negro, Salado, Uruguay và sông lớn nhất Paraná. Sông Paraná và sông Uruguay hợp nhau lại trước khi đổ ra Đại Tây Dương cửa Río de la Plata. Các sông quan trọng khác gồm Atuel và Mendoza nằm trong tỉnh cùng tên, sông Chubut Patagonia, sông Río Grande Jujuy và sông San Francisco River Salta. Argetina có rất nhiều hồ lớn, tập trung chủ yếu vùng Pantagonia. Đáng kể nhất gồm có Argentino và Viedma Santa Cruz, Nahuel Huapi Río Negro và Fagnano Tierra del Fuego và Colhué Huapi và Musters Chubut. Hồ Buenos Aires và O'Higgins/San Martín Lake nằm giữa Argentina và Chile. Mar Chiquita, Córdoba là hồ mặn lớn nhất nước. Có rất nhiều hồ nhân tạo được tạo thành từ các đập ngăn nước. Argentina còn có rất nhiều điểm phun nước nóng như Termas de Río Hondo có nhiệt độ nước khi phu lên đạt 65 °C và 89 °C. Argentina có 4.465 km đường bờ biển. Thềm lục địa nhìn chung rộng; vùng nước nông Đại Tây Dương được gọi là Mar Argentino. Bờ Đại Tây Dương là điểm dừng chân ưa thích hàng trăm năm nay của du khách. Vùng biển của Argentina giàu tài nguyên thủy sản và dầu khí. Địa hình đới bờ chủ yếu là các đụn cát và khe đá. Hải lưu chính tác động đến khí hậu Argentina là dòng Hải lưu nóng Brazil và dòng Hải lưu lạnh Falkland. Tập Kiểu khí hậu ôn hòa đặc trưng của vùng Pampas Dãy Andes phần phía nam tỉnh Santa Cruz. Vì trải dài trên nhiều vĩ độ và chênh lệch độ cao lớn, Argentina có nhiều kiểu khí hậu khác nhau. Ôn đới là kiểu khí hậu chi phối, kiểu khí hậu cận nhiệt hiện diện miền Bắc và kiểu khí hậu cận cực hiện diện miền Nam đất nước. Khí hậu miền Bắc có đặc điểm mùa hè nóng, ẩm ướt và mùa đông khô vừa, thỉnh thoảng gây hạn hán trong một thời gian. Miền Trung có mùa hè nóng với sấm chớp (miền Tây Argentina là nơi có mưa đá nhiều nhất thế giới) và mùa đông lạnh. Các vùng phía nam có mùa hè ấm áp, mùa đông lạnh với những trận mưa tuyết lớn, đặc biệt trong vùng núi. Càng lên cao, khí hậu càng lạnh giá. Nhiệt độ tối cao và tối thấp được ghi nhật Mỹ Latin xảy ra tại Argentina. Nhiệt độ tối cao được ghi nhận là 49.1oC tại Villa de María, Córdoba, ngày tháng năm 1920. Nhiệt độ tối thấp là -39.0oC tại Valle de los Patos Superior, San Juan, ngày 17 tháng năm 1972. Các khối không khí chủ yếu hoạt động Argentina gồm khối không khí lạnh Pampero Winds hoạt động trên vùng Patagonia và Pampas. Khối không khí nóng thổi từ phía bắc lên mang lại kiểu thời tiết ấm áp hơn cho mùa đông. Hiệu ứng Foeln và Zonda tác động lên khí hậu vùng Trung Tây đất nước. Zonda là kiểu gió thổi từ vùng núi cao Andes xuống, do mất ẩm trong quá trình di chuyển cộng với tốc độ rất lớn (có khi lên đến 120 km/h) trong nhiều giờ liền, gió có thể gây cháy trên diện rộng. Do nằm trong đới cận cực, vùng phía nam đất nước trải qua ngày rất dài vào mùa hè(19h từ tháng 11 đến tháng năm sau) và ngày rất ngắn vào mùa đông (từ tháng đến tháng 8). Tập de las Manos, hơn 10.000 năm tuổi, là một trong những vết tích cổ xưa nhất của nền văn hóa bản địa châu Mỹ. Vết tích cổ xưa nhất của con người tại Argentina có niên đại từ 11.000 TCN và được tìm thấy tại Patagonia (Piedra Museo, Santa Cruz). Những phát hiện này là của người Diaguita, Huarpe, và Sanavirone bản địa. Đế chế Inca, dưới thời "người Inca vĩ đại" Pachacutec, đã xâm chiếm và chinh phục vùng ngày nay là tây-bắc Argentina năm 1480, một chiến công thường được gán cho Túpac Inca Yupanqui. Các bộ lạc Omaguaca, Atacama, Huarpe và Diaguita bị đánh bại và hợp nhất vào trong vùng gọi là Collasuyu. Những bộ lạc khác, như Sanavirone, Lule-Tonocoté, và Comechingone, kháng cự lại người Inca và vẫn độc lập khỏi họ. Những người Guaraní phát triển văn hóa dựa trên việc trồng trọt Sắn, khoai lang, và chè yerba Paragoay. Những khu vực miền trung và nam (Pampas và Patagonia) bị thống trị bởi các bộ lạc trồng trọt du mục, đông dân nhất trong số đó là người Mapuche. Tại phía bắc Argentina, những cư dân bản địa Atacama cư trú Tastil có dân cư ước tính gồm 2.000 người, là khu vực có cư dân đông nhất trong thời kỳ tiền Colombo tại Argentina. Những bộ lạc bản xứ tiến bộ nhất là người Charrúa và Guaraní- những người đã phát triển một số nghề canh tác nông nghiệp cơ bản và sử dụng đồ gốm. Tuy vậy, đa số sắc dân này được tìm thấy những vùng khác tại Nam Mỹ, và sự hiện diện của họ lãnh thổ Argentina ngày nay là rất ít khi so sánh với các nước khác. Tập tin:Mapa Virreinato Rio de la thổ Phó vương quốc Río de la Plata. Vùng màu đỏ nhạt trên và dưới lần lượt là Gran Chaco và Patagonia vẫn nằm dưới sự kiểm soát của thổ dân. Những nhà thám hiểm châu Âu đến năm 1516. Tây Ban Nha thành lập Phó vương Peru năm 1542, bao gồm toàn bộ thuộc địa đang nắm giữ của Tây Ban Nha Nam Mỹ. Nơi thực dân đầu tiên của họ tại Argentina hiện đại là Pháo đài Sancti Spiritu xây dựng năm 1527 gần Sông Paraná. Buenos Aires, một thuộc địa lâu dài, được xây dựng năm 1536 nhưng bị thổ dân phá hủy. Thành phố được xây dưng lại năm 1580 là một phần của Tỉnh thuộc Địa Río de la Plata. Vùng đất bao trùm hầu hết lãnh thổ Argentina ngày nay phần lớn là lãnh thổ gồm di dân Tây Ban Nha và con cháu (được gọi là criollo), người lai, thổ dân, và con cháu của các nô lệ châu Phi. Trong một phần ba thời kỳ thực dân, dân di cư tập trung tại Buenos Aires và những thành phố khác, những nhóm di dân khác sống trên các thảo nguyên, ví dụ như gaucho. Người bản địa sống phần lớn vùng còn lại, hầu hết Patagonia và Gran Chaco vẫn nằm dưới sự kiểm soát của họ. Buenos Aires trở thành thủ đô của Phó vương quốc Río de la Plata năm 1776, vùng được thành lập trên một số lãnh thổ cũ của Phó vương Peru. Vùng đất Phó vương quốc Río de la Plata buộc phải nhập khẩu hàng hóa bằng đường bộ qua Lima kể từ năm 1595, và sự phụ thuộc vào buôn lậu nổi lên. Tuy nhiên từ năm 1776, Buenos Aires khởi sắc như là một trung tâm thương mại. Năm 1806 và 1807 thành phố trở thành mục tiêu trong hai cuộc xâm lược thất bại của Anh. Cuộc kháng cự được chỉ huy cả hai lần bởi Sĩ quan người Pháp Santiago de Liniers, người trở thành Phó vương qua sự ủng hộ của người dân. Tin tức về việc lật đổ vua Tây Ban Nha Ferdinand VII trong Chiến tranh bán đảo với Napoleon đã tạo ra mối lo lắng lớn Phó vương quốc. Cách mạng tháng năm 1810 bùng nổ Buenos Aires, loại bỏ Phó vương Cisneros khỏi chính quyền và thay thế bằng Primera Junta (hội đồng đệ nhất). Tập tin:José de San Martín (retrato, de San Martín, người giải phóng Argentina, Chile và Peru khỏi Đế quốc Tây Ban Nha. Trong một thập kỷ sau đó một cuộc chiến tranh độc lập đã diễn ra tại các Phó vương cũ, các lãnh thổ trong Phó vương bị chia rẽ giữa những người yêu nước và những người theo chủ nghĩa bảo hoàng (tức những người ủng hộ hoàng gia Tây Ban Nha). Trong khi những thành phố Argentina ngày nay lần lượt độc lập sau 1811, thì vào lúc đó những khu vực khác lại đi theo các con đường khác nhau: Paraguay ly khai, tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha năm 1811 và khỏi Argentina năm 1842. Còn Thượng Peru đã chiến tranh với phe bảo hoàng từ Phó vương Peru cho đến khi nó tuyên bố độc lập là Bolivia năm 1824. Vùng bờ phía đông sông Uruguay bị Đế chế Brazil-Bồ Đào Nha xâm lược năm 1817 và tuyên bố độc lập là Uruguay năm 1828 sau chiến tranh Mâu thuẫn nội bộ đã dẫn đến bất ổn chính trị giữa những người theo chủ nghĩa yêu nước. Chỉ trong bốn năm Primera Junta bị thay thế bằng Junta Grande (Đại hội đồng), Chính phủ tam đầu chế thứ nhất và thứ hai, và Đốc chính tối cao thứ nhất. Năm 1813 một cuộc họp được triệu tập để tuyên bố độc lập nhưng điều đó không thể thực hiện được do các mâu thuẫn chính trị. Một cuộc nội chiến bùng nổ sau đó giữa những tỉnh gia nhập vào liên minh liên bang và Đốc chính tối cao. Năm 1816, các tỉnh thống nhất Río de la Plata bị đặt dưới các mối đe dọa bên ngoài lẫn bên trong nghiêm trọng. Tháng một quốc hội mới tuyên bố độc lập và bổ nhiệm Juan Martín de Pueyrredón làm đốc chính tối cao. Các chiến dịch quân sự được giao trách nhiệm cho José de San Martín, ông đã chỉ huy một đội quân vượt dãy Andes năm 1817 rồi đánh bại Phe bảo hoàng Chile. Với hải quân Chile dưới quyền mình, sau đó ông đã tiến hành cuộc chiến với thành trì của phe bảo hoàng Lima. Những chiến dịch quân sự của San Martín đã hỗ trợ các chiến dịch của Simón Bolívar chống lại phe bảo hoàng Đại Colombia và đem đến thắng lợi của những người ủng hộ độc lập trong Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Tây Ban Nha châu Mỹ. Trận Cepeda năm 1820, đánh nhau giữa những người ủng hộ chủ nghĩa tập quyền trung ương và chủ nghĩa liên bang, đưa đến sự chấm dứt kiểm soát của quyền lực trung ương tập quyền và hình thành một khoảng trống quyền lực. Trong chiến tranh với Brazil, một hiến pháp mới được ban hành năm 1826, khi Bernardino Rivadavia được bầu làm tổng thống Argentina đầu tiên. Nhưng hiến pháp này nhanh chóng bị các tỉnh loại bỏ, do xu hướng tập quyền trung ương của nó, và Rivadavia từ chức thời gian ngắn sau đó. Các tỉnh sau đó tổ chức lại thể chế thành Liên minh Argentina, một liên minh giữa các tỉnh lỏng lẻo mà không có người đứng đầu nhà nước chung. Họ muốn ủy nhiệm một số quyền hạn quan trọng cho thống đốc tỉnh Buenos Aires, như việc trả nợ hay việc quản lý các quan hệ quốc tế. Tập tin:Flag of the Argentine kỳ Argentina được sử dụng cho các tỉnh thuộc Hiệp ước liên bang () năm 1840. Thống đốc Juan Manuel de Rosas điều hành từ năm 1829 đến năm 1832, rồi từ năm 1835 đến năm 1852. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình ông đã triệu tập Hiệp ước liên bang (tiếng Tây Ban Nha: Pacto Federal) và đánh bại liên minh ủng hộ chủ nghĩa trung ương tập quyền. Sau 1835 ông được trao danh hiệu "Sum of public power". Ông đối mặt với tình trạng chiến tranh liên tục và sự kháng cự của những người ủng hộ chủ nghĩa trung ương, bao gồm cuộc vây hãm của Pháp từ năm 1838 đến năm 1840, chiến tranh liên minh phía bắc (cuộc chiến giữa Liên minh Peru-Bolivia với Argentina và Chile), cuộc vây hãm của Anh-Pháp từ 1845 đến 1850, và cuộc nổi dậy của tỉnh Corrientes. Rosas vẫn không bị đánh bại sau hàng loạt xung đột này và ngăn ngừa mất mát thêm lãnh thổ đất nước. Việc từ chối ban hành hiến pháp quốc gia của ông, chiếu theo hiệp ước liên bang mà ông đã nhóm họp, dẫn đến việc đòi lại các quyền hạn quan trọng đã ủy nhiệm cho thống đốc tỉnh Buenos Aires của thống đốc Justo José de Urquiza tỉnh Entre Ríos. Justo José de Urquiza đánh bại Rosas trong trận Caseros, buộc ông phải sống lưu vong. Hiệp định San Nicolás theo sau và năm 1853 hiến pháp Argentina được ban hành. Sau sự ly khai của tỉnh-bang Buenos Aires khỏi liên minh, và sự trở lại sau đó của nó, Bartolomé Mitre đã được bầu làm tổng thống của đất đước hợp nhất đầu tiên năm 1862. Sự thống nhất quốc gia được thúc đẩy thêm bởi cuộc Chiến tranh Tam Đồng minh, Cuộc chiến để lại hơn 300.000 người chết và tàn phá Paraguay. Sau năm 1875 một làn sóng đầu tư nước ngoài và di dân từ Châu Âu đưa đến việc củng cố một quốc gia gắn kết, phát triển nông nghiệp hiện đại và gần như tái tạo kinh tế, xã hội Argentina. Luật pháp được củng cố, trong phạm vi rộng hơn, bộ luật thương mại 1860 và bộ luật dân sự 1869 của Dalmacio Vélez Sársfield đã đặt nền móng cho luật của Argentina. Chiến dịch quân sự của tướng Julio Argentino Roca (tổng thống Argentina từ 1898–1904) trong những năm 1870 đã xác lập sự thống trị của Argentina toàn bộ phía nam Pampas và Patagonia, chinh phục những người bản địa còn lại, và khiến 1.300 người bản địa chết. Trong hậu quả đàn áp những cuộc đột kích kiểu Malón của người Mapuche, một số nguồn hiện nay cho rằng "chinh phục hoang mạc" là một chiến dịch diệt chủng của chính phủ Argentina. Tập tin:Evita Perón và người vợ có ảnh hưởng của ông, Eva. Argentina gia tăng sự thịnh vượng và nổi bật giữa những năm 1880 và 1929, nổi lên như một trong mười nước giàu nhất trên thế giới, được lợi từ một nền kinh tế dẫn đầu về xuất khẩu nông sản cũng như sự đầu tư của Anh và Pháp. Được thúc đẩy bởi nhập cư và giảm tỷ lệ tử vong, dân số Argentina đã tăng gấp lần và nền kinh tế tăng gấp 15 lần. Các tầng lớp tinh hoa chính trị bảo thủ chi phối chính trị Argentine qua những biện pháp dân chủ trên danh nghĩa cho đến năm 1912, khi tổng thống Roque Sáenz Peña ban hành đạo luật quyền bầu cử cho toàn bộ nam giới và bỏ phiếu kín. Điều này cho phép những đối thủ truyền thống của họ là đảng trung dung Liên minh công dân cấp tiến, giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tự do lần đầu tiên của đất nước năm 1916. Tổng thống Hipólito Yrigoyen ban hành các đạo luật cải cách kinh tế và xã hội và mở rộng trợ giúp cho các gia đình nông dân và công ty nhỏ. Tuy nhiên, Yrigoyen bị lật đổ bởi cuộc đảo chính năm 1930, dẫn đến thêm một thập niên cầm quyền của đảng bảo thủ. Chế độ Concordance tăng cường quan hệ với Đế quốc Anh và chính sách bầu cử của họ là một trong những "sự lừa gạt lòng yêu nước". Argentina trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ và hầu hết Chiến tranh thế giới thứ II, trở thành một nơi cung cấp thực phẩm quan trọng cho các nước đồng minh. Năm 1946 tướng Juan Perón được bầu làm tổng thống, tạo ra một phong trào dân túy được gọi là "Chủ nghĩa Peron". Eva vợ của ông trở nên nổi tiếng và đóng vai trò chính trị chính yếu cho đến cái chết của bà năm 1952, Chủ yếu nhờ Quỹ Eva Perón và Đảng phụ nữ Peron mà quyền bầu cử cho phụ nữ được chấp nhận năm 1947. Trong nhiệm kỳ của Perón tiền lương và điều kiện làm việc cải thiện đáng kể, tổ chức công đoàn được khuyến khích, các ngành công nghiệp chiến lược và dịch vụ được quốc hữu hóa, cũng như sự công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và mở rộng đô thị dành ưu tiên cho lĩnh vực ruộng đất. Tuy nhiên, giá cả ổn định và sự trao đổi tỷ giá cũ bị phá vỡ: đồng peso mất gần 70% giá trị của nó từ năm 1948 đến 1950, và lạm phát với đến con số 50% vào năm 1951. Chính sách đối ngoại trở nên biệt lập hơn, căng thẳng trong quan hệ Mỹ- Argentina. Perón đã tăng cường kiểm duyệt cũng như đàn áp: 110 tờ báo bị đóng cửa, cùng nhiều nhân vật đối lập bị cầm tù và tra tấn. Thúc đẩy sự sùng bái cá nhân. Perón giải thoát bản thân khỏi nhiều vấn đề quan trọng và các cố vấn giỏi trong khi lạm dụng quyền bổ nhiệm của mình. Vụ ném bom Plaza de Mayo xảy ra và được kế tiếp vài tháng sau đó bằng một cuộc đảo chính bạo lực đã lật đổ ông năm 1955. Juan Perón sau đó bỏ trốn đi lưu vong, cuối cùng định cư Tây Ban Nha. Tập tin:Frigerio discrepa con Frondizi (phải) và cố vấn kinh tế trưởng của ông, Rogelio Frigerio, các chính sách của ông đã đẩy mạnh sự tự túc năng lượng và công nghiệp cho Argentina. Sau một nỗ lực loại trừ ảnh hưởng của Chủ nghĩa Peron và lệnh cấm những người theo chủ nghĩa Peron ra khỏi đời sống chính trị, thì cuộc bầu cử năm 1958 đưa Arturo Frondizi lên chức tổng thống. Frondizi có được một số sự ủng hộ từ những người theo Perón, và các chính sách khuyến khích đầu tư của ông giúp đất nước tự túc về năng lượng và công nghiệp, giúp đảo ngược mức thâm hụt thương mại tồi tệ cho Argentina. Tuy nhiên, quân đội thường xuyên can thiệp vì lợi ích của phe bảo thủ, các nhóm tư bản đất đai. Frondizi bị buộc phải từ chức năm 1962. Arturo Illia được bầu năm 1963 và ban hành những chính sách mở rộng kinh tế nhưng, dù thành công, những cố gắng của ông nhằm cho phép những người theo chủ nghĩa Peron tham gia vào quá trình chính trị dẫn đến phe quân đội giành lại quyền lực trong một cuộc đảo chính êm thấm năm 1966. Dù hà khắc, chế độ mới này tiếp tục khuyến khích sự phát triển trong nước và lượng đầu tư kỷ lục vào các công trình công cộng. Kinh tế phát triển mạnh và thu nhập thấp giảm xuống còn 7% năm 1975. Tuy nhiên, một phần vì sự hà khắc của họ, bạo lực chính trị bắt đầu leo thang và Perón, vẫn còn lưu vong, khéo léo dựa vào những sự phản kháng của sinh viên và tầng lớp lao động, cuối cùng dẫn đến kêu gọi bầu cử tự do của chế độ quân sự năm 1973, và sự trở về của Perón từ Tây Ban Nha. Đang nhậm chức năm đó thì Perón chết tháng năm 1974 để lại người vợ thứ ba của ông Isabel, đang giữ chức phó tổng thống lúc đó, đã kế vị ông trở thành tổng thống. Bà Perón đã chọn một sự thỏa hiệp với các phe phái đang căm hận chủ nghĩa Peron, những người có thể đồng với không một ứng cử viên phó tổng thống nào khác; dù không tuyên bố, bà chịu ơn hầu hết các cố vấn phát xít của Perón. Do sự xung đột giữa những kẻ cực đoan cánh hữu và cánh tả, dẫn đến tình trạng hỗn loạn, chao đảo tài chính rồi một cuộc đảo chính tháng năm 1976 đã loại bỏ bà khỏi chức tổng thống. Chính phủ tự xưng là Tiến trình cải tổ quốc gia tăng cường mức độ chống lại các nhóm vũ trang cực tả (ủng hộ chủ nghĩa cộng sản), như quân đội cách mạng nhân dân và Montoneros những nhóm vũ trang này từ năm 1970 đã bắt cóc và giết người gần như hàng tuần. Cuộc trấn áp nhanh chóng mở rộng đến toàn bộ các đảng phái đối lập, trong "chiến tranh bẩn thỉu", hàng ngàn người chống đối đã "mất tích". Những hành động này được hỗ trợ và tiếp tay bởi CIA trong Chiến dịch kền kền với nhiều lãnh đạo quân sự đã tham gia vào các khóa đào tạo Viện Hợp tác An ninh Tây bán cầu tại Hoa Kỳ. Chế độ độc tài mới này đem lại sự ổn định lúc đầu, cho xây dựng nhiều công trình công cộng quan trọng, nhưng sự hạn định giá cả và bãi bỏ quy định tài chính thường xuyên xảy ra dẫn đến nợ nước ngoài kỷ lục và sự giảm mạnh về mức sống.xu hướng giảm công nghiệp hóa, sự sụt giá của đồng Peso, và lãi suất thật hạ thấp, cũng như tham nhũng chưa từng thấy, sự khiếp sợ lan rộng đối với chiến tranh bẩn thỉu, và cuối cùng là sự bại trận năm 1982 trước Anh Quốc trong Chiến tranh Falkland, làm mất uy tín chế độ quân sự và dẫn đến bầu cử tự do năm 1983. Chính phủ của Raúl Alfonsín đã áp dụng các biện pháp điều tra cho những sự mất tích, thiết lập sự hạn chế dân sự đối với các lực lượng vũ trang, và củng cố thể chế dân chủ. Các thành viên của ba hội đồng quân sự bị truy tố và kết án. Tuy nhiên, nợ nước ngoài của chế độ trước đã để lại cho nền kinh tế Argentina gánh nặng bởi những điều kiện áp đặt lên nó do cả hai chủ nợ tư nhân và IMF, và ưu tiên trả lãi nợ nước ngoài trong chi tiêu các công trình công cộng và tín dụng trong nước. Sự thất bại của Alfonsín nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế đang tồi tệ đi làm ông mất lòng tin của công chúng. sau một cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1989 dẫn đến một sự tăng giá đột ngột 15 lần và tai hại, ông rời bỏ chức tổng thống sớm năm tháng. Tổng thống mới đắc cử Carlos Menem bắt đầu theo đuổi sự tư nhân hóa và, sau một đợt siêu lạm phát thứ hai năm 1990, đã tìm đến nhà kinh tế học Domingo Cavallo, người đã áp đặt một tỷ giá hối đoái cố định giữa đồng peso và đô la Mỹ năm 1991 và thông qua những chính sách kinh tế thị trường sâu rộng, tháo gỡ hàng rào bảo hộ và các quy định thương mại, trong khi thúc đẩy sự tư nhân hóa. Những cải cách này góp phần làm tăng đáng kể về đầu tư và tăng trưởng với sự ổn định giá cả hầu hết suốt thập niên 90; nhưng giá trị cố định của đồng peso chỉ có thể được duy trì bằng sự tràn ngập thị trường với đồng đô la, dẫn đến gia tăng nợ nước ngoài. Hơn nữa, vào khoảng năm 1998, một loạt các cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế và sự đánh giá quá cao vào sự ổn định của đồng peso dẫn đến sự trượt dần vào khủng hoảng kinh tế. Chiều hướng ổn định và thịnh vượng đã thống trị trong thập niên 90 bị xói mòn nhánh chóng, vào cuối nhiệm kỳ của ông năm 1999, các vấn đề đang chồng chất và những báo cáo tham nhũng đã khiến Menem mất lòng dân chúng. Tập tin:Cristina con baston de Kirchner với vợ và là người kế nhiệm, Cristina Fernández de Kirchner, trong lễ nhận chức của bà năm 2007. Tổng thống Fernando de la Rúa thừa kế khả năng cạnh tranh giảm sút trong xuất khẩu, cũng như mức thâm hụt ngân sách tồi tệ. Liên minh cầm quyền ngày càng rạn nứt, và việc bổ nhiệm trở lại nhà kinh tế học Cavallo vào bộ kinh tế được các nhà đầu cơ hiểu như là một động thái khủng hoảng. Quyết định backfired và Cavallo cuối cùng buộc phải thực hiện biện pháp ngăn chặn một làn sóng rút vốn đầu tư và ngăn cuộc khủng hoảng nợ sắp xảy ra (đỉnh điểm là việc đóng băng các tài khoản ngân hàng). Một bầu không khí bất mãn trong dân chúng xảy ra sau đó, vào 20-12-2001, Argentina lao vào cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị tồi tệ nhất kể từ sự sụp đổ tài chính Barings năm 1890. Diễn ra những cuộc biểu tình đường phố bạo lực, đụng độ với cảnh sát và dẫn đến một số trường hợp tử vong. Không khí hỗn loạn tăng lên, giữa các cuộc bạo loạn kèm theo những lời kêu gọi "tất cả họ nên ra đi", cuối cùng dẫn đến sự từ chức của tổng thống de la Rúa. Tổng thống tiếp theo Adolfo Rodríguez Saá được bầu ra bởi Hội đồng lập pháp đã tại chức trong nhiệm kỳ chóng vánh ngày trước khi từ chức. hai ngày sau, 2-1-2002 Hội đồng lập pháp bổ nhiệm tổng thống tạm thời Eduardo Duhalde kế nhiệm. Argentina vỡ nợ với khoản nợ quốc tế của mình, và sự cố định giá đồng peso với đô la mỹ trong 11 năm bị bãi bỏ, gây ra sự sụt giá nghiêm trọng của đồng peso và mức lạm phát tăng đột biến. Duhalde, một Peronist với quan điểm kinh tế khuynh tả, phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội và tài chính với tình trạng thất nghiệp cao tới 25% giữa năm 2002, và mức lương thực tế thấp nhất trong 60 năm. Cuộc khủng hoảng làm lộ ra sự ngờ vực của người dân với giới chính trị gia và thể chế. Sau một năm rung chuyển bởi biểu tình, kinh tế bắt đầu ổn định cuối năm 2002, và lệnh hạn chế rút tiền khỏi ngân hàng được dỡ bỏ tháng mười hai. Được lợi từ một tỷ giá hối đoái giảm giá trị chính phủ Argentina đã thực thi những chính sách mới dựa trên tái công nghiệp hóa, thay thế nhập khẩu và tăng khối lượng hàng xuất khẩu, bắt đầu có dấu hiệu thặng dư thương mại và tài chính vẵng chắc. Thống đốc Néstor Kirchner, một Peronist cánh tả, được bầu làm tổng thống tháng 5-2003. Trong nhiệm kỳ của ông, Argentina cơ cấu lại nợ chưa trả với chiết khấu giảm (khoảng 66%) trên hầu hết các trái phiếu, trả hết nợ cho Quỹ tiền tệ quốc tế, thương lượng lại các hợp đồng Công trình hạ tầng kỹ thuật và quốc hữu hóa một số công ty tư nhân trước đây. Kirchner và các nhà kinh tế học của mình, đặc biệt là Roberto Lavagna, cũng theo đuổi một chính sách thu nhập và đầu tư các dự án công cộng mạnh mẽ. Argentina từ lúc đó có được sự tăng trưởng kinh tế, dù với lạm phát cao. Néstor Kirchner hủy bỏ chiến dịch tranh cử năm 2007, để giúp vợ ông thượng nghị sĩ Cristina Fernández de Kirchner, người trở thành phụ nữ đầu tiên được bầu làm Tổng thống Argentina. Bà đã chứng kiến kế hoạch gây tranh cãi về việc tăng thuế xuất khẩu nông sản bị thất bại do lá phiếu tie-breaking bất ngờ của phó tổng thống Julio Cobos tháng 7-2008, sau các đợt biểu tình ruộng đất và đóng cửa nhà máy của giới chủ quy mô lớn từ tháng đến tháng 7. Các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã nhắc nhở bà Kirchner đẩy mạnh chính sách can thiệp của nhà nước vào những khu vực gặp khó khăn trong nền kinh tế của chồng bà. Vào ngày 15-7-2010, Argentina trở thành quốc gia đầu tiên Mỹ Latin và quốc gia thứ hai tại nam bán cầu hợp pháp hóa Hôn nhân đồng giới. Ngày 22 tháng 11 năm 2015, sau vòng đầu tiên không giành đủ số phiếu của cuộc bầu cử Tổng thống ngày 25 tháng 10, Mauricio Macri trở thành Tổng thống Argentina, đánh bại ứng cử viên Mặt trận vì thắng lợi Daniel Scioli của chính phủ cầm quyền trong vòng nhì. Ông nhậm chức vào ngày 10 tháng 12 năm 2015. Argentina theo chế độ Cộng hoà Liên bang, chế độ lưỡng viện. Tổng thống được bầu qua tuyển cử, là Nguyên thủ quốc gia và đứng đầu Chính phủ, nhiệm kỳ năm và có thể tái cử một nhiệm kỳ tiếp theo. Tổng thống bổ nhiệm một Chánh văn phòng nội các có chức năng tương đương chức vụ Thủ tướng. Quốc hội bao gồm Thượng nghị viện có 72 Thượng nghị sĩ, do bầu cử trực tiếp, nhiệm kỳ năm, mỗi tỉnh và thành phố Buenos Aires được bầu 3, cứ năm bầu lại 1/3 và Hạ nghị viện có 257 Hạ nghị sĩ, do bầu cử trực tiếp, nhiệm kỳ năm, cứ năm bầu lại 1/2. Hiện nay có 25 đảng chính trị hợp pháp, trong đó các đảng lớn là: Đảng Công lý (PJ cầm quyền), Liên minh Nhân dân Cấp tiến (UCR), Mặt trận Đất nước Đoàn kết (FREPASO). Toà án Tối cao là cơ quan cao nhất ngành Tư pháp. Tổng thống bổ nhiệm các thẩm phán, Thượng viện phê chuẩn. Chính phủ Argentina dưới thời của Tổng thống Cristina Fernández de Kirchner tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại cân bằng tại khu vực, đề cao liên kết và hợp tác khu vực, trong đó coi trọng và thúc đẩy quan hệ với Venezuela, củng cố quan hệ với Chile, Brasil và khối Mercosur. Với Mỹ, tuy có va chạm vào đầu nhiệm kỳ nhưng Chính phủ tiếp tục coi trọng phát triển quan hệ đồng minh với Mỹ trong khi vẫn duy trì quan hệ tốt với Cuba. Với Tây Âu, tiếp tục nỗ lực khôi phục niềm tin để tranh thủ vốn, mở rộng thị trường và giải quyết khoản nợ 6,3 tỉ USD với Câu lạc bộ Paris. Argentina có vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Malvinas với Anh và vùng đất đóng băng với Chile, tuy nhiên, Chính phủ của Tổng thống Cristina Fernandez de Kirchner chủ trương giải quyết các vấn đề này bằng giải pháp hóa bình. Là nước lớn trong khu vực Mỹ Latinh, Argentina có vai trò quan trọng khu vực và quốc tế, có quan hệ ngoại giao với hơn 142 nước, là thành viên của Liên Hợp Quốc, WTO, Hiệp hội Liên kết Mỹ Latinh (ALADI), Tổ chức các nước châu Mỹ (OEA), Hệ thống Kinh tế Mỹ Latinh (SELA), Nghị viện Mỹ Latinh (PARLATINO), Nhóm 77, Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC), Hội đồng Kinh tế Lòng chảo Thái Bình Dương (PBEC), Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ (UNASUR, gia nhập tháng năm 2008) và Cộng đồng các Nhà nước Mỹ Latinh và Caribe (tháng năm 2010). Argentina hiện tại là nền kinh tế lớn thứ Mỹ Latinh (sau Brasil và México), có truyền thống sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi đại gia súc; công nghiệp tương đối phát triển, với các ngành mũi nhọn như chế biến thực phẩm, dầu khí, luyện kim, chế tạo tô, năng lượng nguyên tử, sinh học... Tính đến năm 2016, GDP của Argentina đạt 541.748 tỷ USD, đứng thứ 21 thế giới. GDP theo sức mua tương đương là 20,972 tỷ USD, đứng thứ 66 thế giới và đứng thứ khu vực Mỹ Latin. Được hưởng lợi từ nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, dân số đông, nền công nghiệp đa dạng và một nền nông nghiệp định hướng xuất khẩu, nền kinh tế của Argentina đang là nền kinh tế lớn thứ hai Nam Mỹ sau Brazil. Quốc gia này xếp thứ hạng rất cao trên thế giới về chỉ số phát triển con người, cũng như là nước có thu nhập bình quân đầu người mức khá cao so với các nước khác trong khu vực. Argentina có một quy mô thị trường trong nước khá lớn và các ngành công nghệ cao ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế Là một nền kinh tế mới nổi và là một trong những quốc gia đang phát triển hàng đầu thế giới, Argentina nằm trong số các thành viên của G-20. Tuy nhiên, về mặt lịch sử, sự phát triển kinh tế của nước này rất không đồng đều, với sự tăng trưởng kinh tế cao xen kẽ với những cuộc suy thoái nghiêm trọng. Trong thập niên 1980, kinh tế Argentina bị khủng hoảng như nhiều nước Mỹ Latinh khác, từ đầu thập niên 1990 dần được phục hồi, từ 1996 2001 quay lại chu kỳ suy thoái và 2002 rơi vào khủng hoảng trầm trọng (tăng trưởng GDP -10,9%, lạm phát 41%), đồng nội tệ bị phá giá, nợ nước ngoài lên đến mức kỷ lục (134 tỷ USD). Đến năm 2003 bắt đầu quá trình hồi phục mới, giai đoạn 2003-2008 kinh tế phát triển mạnh đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 8,2%/năm. Năm 2009, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu, kinh tế suy giảm mạnh, tăng trưởng GDP chỉ đạt 0,9% (tương đương 301 tỷ USD). Từ năm 2010, kinh tế được phục hồi và tăng trưởng trở lại tuy còn chưa ổn định, GDP tháng đầu năm đạt 9,4%, dự kiến cả năm đạt trên 7%, trao đổi thương mại tháng đầu đầu năm đạt gần 80 tỷ USD (so với gần 100 tỷ) của năm 2009), dự trữ ngoại tệ đạt mức kỷ lục 51 tỷ USD (năm 2009 là 45 tỷ), tỷ lệ thất nghiệp giảm từ mức 8,4% (2009) xuống còn 7,9%, lạm phát mức 11,2%. Hàng xuất khẩu chủ yếu là ngũ cốc, thịt bò, da bò, dầu thực vật, hàng công nghiệp. Hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, phương tiện vận tải, hoá chất. Các thị trường xuất nhập khẩu chính: NAFTA (Mỹ, Canada, México), Trung Quốc, EU, Mercosur. Argentina có hệ thống đường sắt lớn nhất châu Mỹ Latinh, với 36.966 km (22.970 dặm) đường ray đi vào hoạt động trong năm 2008 Hệ thống này liên kết tất cả 23 tỉnh với thành phố thủ đô Buenos Aires cũng như kết nối với tất cả các nước láng giềng.. Hệ thống này đã bị xuống cấp đáng kể kể từ những năm 1940: đến năm 1991 lượng vận chuyển hàng hóa của nó ít hơn 1.400 lần so với năm 1973. Tuy nhiên, trong những năm gần đây hệ thống đường sắt đã nhận được sự đầu tư lớn hơn từ nhà nước Vào tháng năm 2015, đa số Thượng viện Argentina đã thông qua luật tái quốc hữu hóa đường sắt của đất nước, một động thái đã nhận được sự ủng hộ từ tất cả các đảng chính trị lớn Đến năm 2004 Buenos Aires, tất cả các thủ phủ của tỉnh trừ Ushuaia, và tất cả các thị trấn cỡ trung bình đều được nối với nhau bằng 69.412 km (43.131 dặm) đường trải nhựa, trong tổng số chiều dài mạng lưới đường bộ là 231.374 km (143.769 dặm) Hầu hết các thành phố quan trọng đều được liên kết với một số tuyến đường cao tốc mà ngày càng tăng về số lượng, bao gồm Buenos Aires La Plata, Rosario Córdoba, Córdoba-Villa Carlos Paz, Villa Quốc lộ 14 General José Gervasio Artigas và Tỉnh lộ Juan Manuel Fangio 2. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng đường bộ vẫn còn nhiều bất cập, chưa thể đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển ngày càng tăng mạnh do sự suy giảm của hệ thống vận tải đường sắt Trong năm 2013 Argentina sở hữu 161 sân bay có đường băng trải nhựa trong tổng số hơn một nghìn sân bay trên toàn quốc Sân bay quốc tế Ezeiza, cách trung tâm thành phố Buenos Aires khoảng 35 km (22 dặm), là sân bay lớn nhất trong cả nước, tiếp theo là Sân bay Cataratas del Iguazú Misiones, và Sân bay El Plumerillo Mendoza. Sân bay Aeroparque, tại thành phố Buenos Aires, là sân bay nội địa quan trọng nhất. Argentina đón nhận 5,57 triệu du khách trong năm 2013, là điểm đến hàng đầu Nam Mỹ, và thứ hai châu Mỹ Latinh sau Mexico Doanh thu từ khách du lịch quốc tế đạt 4,41 tỷ USD trong năm 2013, giảm từ 4,89 tỷ USD năm 2012. Thủ đô của nước này, Buenos Aires, là thành phố được thăm nhiều nhất Nam Mỹ Có 30 công viên quốc gia Argentina, bao gồm nhiều di sản thế giới. Tập tin:2014 FOZ Iguazu, thuộc tỉnh Misiones, là một trong Bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của Thế giới Người Argentina có ba giải Nobel về Khoa học. Bernardo Houssay, người Mỹ Latinh đầu tiên nhận giải Nobel Khoa học, đã khám phá ra vai trò của các hormon tuyến yên trong việc điều hòa glucose động vật. César Milstein nhận được giải Nobel do những nghiên cứu sâu rộng về kháng thể. Luis Leloir đã khám phá ra cách các sinh vật tích trữ năng lượng chuyển hóa glucose thành glycogen và các hợp chất cơ bản trong quá trình chuyển hóa carbohydrate. Nghiên cứu của các nhà khoa học Argentina đã mở ra những bước tiến lớn trong việc điều trị bệnh tim và một số dạng ung thư. Domingo Liotta đã thiết kế và phát triển trái tim nhân tạo đầu tiên được cấy ghép thành công vào một người vào năm 1969. René Favaloro đã phát triển các kỹ thuật và thực hiện ca phẫu thuật bắc cầu mạch vành đầu tiên trên thế giới. Chương trình hạt nhân của Argentina đã rất thành công. Năm 1957 Argentina là quốc gia đầu tiên châu Mỹ Latinh thiết kế và xây dựng được một lò phản ứng nghiên cứu với công nghệ cây nhà lá vườn, RA-1 Enrico Fermi. Thành tựu này đạt được là nhờ vào sự phát triển tự lực của công nghệ hạt nhân trong nước, thay vì chỉ đơn giản là mua chúng nước ngoài, được thực hiện bởi Ủy ban Năng lượng nguyên tử Quốc gia (CNEA). Các cơ sở hạt nhân với công nghệ của Argentina đã được xây dựng Peru, Algérie, Úc và Ai Cập. Năm 1983, Argentina đã tuyên bố họ có khả năng sản xuất uranium cấp vũ khí, một bước tiến quan trọng cần thiết để chế tạo vũ khí hạt nhân; tuy nhiên, kể từ đó, Argentina đã cam kết chỉ sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình. Nghiên cứu về vũ trụ cũng ngày càng phát triển Argentina. Argentina đã tự mình lắp đặt được các vệ tinh bao gồm LUSAT-1 (1990), Víctor-1 (1996), PEHUENSAT-1 (2007). Viện Thống kê dân số quốc gia () cho thấy dân số Argentina đạt 39.538.000 người vào năm 2005, đứng thứ Mỹ Latin, thứ 30 trên thế giới. Năm 2010, dân số đạt 40.091.359 người. Mật độ dân số là 14.49 người/km²,so với thế giới là 51 người/km² năm 2010. Dân số phân bố rất không đồng đều, thủ đô Buenos Aires có mật độ 14.000 người/km² trong khi tỉnh Santa Cruz thì thấp hơn người/km². Argentina là nước duy nhất Mỹ Latin có tỷ lệ nhập cư cao hơn tỷ lệ xuất cư Từ năm 1857 đên năm 1950 Argentina là quốc gia có làn sóng nhập cư lớn thứ hai trên thế giới, với 6,6 triệu người, đứng thứ hai chỉ sau Hoa Kỳ về số lượng người nhập cư (27 triệu) và xếp trên cả Canada, Brazil và Úc Phần lớn những người nhập cư châu Âu đến từ và Tây Ban Nha Từ những năm 1970, nhập cư chủ yếu đến từ Bolivia, Paraguay và Peru, với số lượng nhỏ hơn từ Cộng hòa Dominica, Ecuador và Romania. Chính phủ Argentina ước tính có 750.000 người thiếu tài liệu chính thức và đã đưa ra một chương trình nhằm khuyến khích người nhập cư bất hợp pháp tuyên bố tình trạng của họ để đổi lấy visa cư trú hai năm cho đến nay hơn 670.000 đơn đã được xử lý theo chương trình. Tòa nhà Metropolitan Buenos Aires. Hiến pháp đảm bảo quyền tự do tôn giáo nhưng cũng yêu cầu chính phủ để hỗ trợ Giáo hội Công giáo Rôma về mặt tài chính. Chính sách ưu đãi Công giáo vẫn có ảnh hưởng trong chính phủ mặc dù đang hình thành một loạt các luật mới để tách Công giáo ra khỏi chính trị quốc gia. Theo cơ sở dữ liệu của chính phủ Argentina: 92,1% dân số theo Kitô giáo (phần lớn là Công giáo), 3,1% bất khả tri, 1,9% Hồi giáo, 1,3% người Do Thái giáo, 0,9% người vô thần, và 0,9% Phật giáo và những người tôn giáo khác. Kitô hữu Argentina chủ yếu là Công giáo Rôma chiếm từ 70% đến 90% dân số (mặc dù có lẽ chỉ có 20% tham gia các nghi lễ thường xuyên). Argentina cũng là quốc gia có số dân theo đạo Công giáo lớn thứ khu vực Mỹ Latin (sau Brasil, México và Colombia). Vào ngày 13 tháng năm 2013, Hồng Jorge Mario Bergoglio của Argentina được bầu làm Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma, trở thành Giáo hoàng người Mỹ La tinh đầu tiên trong lịch sử. Ông lấy tên hiệu là Giáo hoàng Phanxicô. Argentina có cộng đồng dân tộc thiểu số Hồi giáo lớn nhất châu Mỹ Latinh. Mặc dù thống kê chính xác về các tôn giáo là không có sẵn (vì điều tra dân số quốc gia không yêu cầu dữ liệu tôn giáo) cho nên số lượng thực tế của cộng đồng Hồi giáo Argentina được ước tính khoảng 1% tổng dân số (400.000 đến 500.000 tín đồ) theo Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2010. Tiếng Tây Ban Nha được nói bởi hầu hết người dân Argentina. Ngoài ra, còn một số ngôn ngữ thứ hai được sử dụng rộng rãi Argentina. Tiếng Anh được dạy từ bậc tiểu học, 42,3% người dân Argentina tuyên bố họ nói được Tiếng Anh, 15,4% tuyên bố họ thông hiểu mức độ cao. Tiếng được nói bởi khoảng 1,5 triệu người. Tiếng Rập xếp thứ ba, với khoảng triệu người. Tiếng Đức được nói bởi 400.000 người. Tiếng Do Thái có khoảng 200.000 người sử dụng. Argentina là nước có dân số Do Thái lớn nhất châu Mỹ Latin và thứ trên thế giới Argentina được xếp hạng cao trong bảng xếp hạng toàn cầu về tỉ lệ người dân biết đọc và viết, với tỷ lệ ngang bằng với các nước phát triển. Hệ thống giáo dục Argentina bao gồm bốn cấp bậc: *Cấp bậc đầu tiên dành cho trẻ em từ 45 ngày đến tuổi, trong đó đối với trẻ em từ 4-5 tuổi là mang tính bắt buộc. *Cấp bậc tiểu học, mang tính bắt buộc, thường kéo dài hoặc năm. Năm 2010 tỷ lệ biết chữ là 98,07%. *Cấp độ trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông, mang tính bắt buộc, kéo dài hoặc năm. *Cấp độ cao nhất là giáo dục bậc cao, gồm cao đẳng, đại học và sau đại học. Trong năm 2013 có 47 trường đại học công lập quốc gia trên toàn quốc, cũng như 46 trường đại học tư nhân Trong năm 2010, 7,1% người trên 20 tuổi đã tốt nghiệp đại học Các trường đại học công lập của Buenos Aires, Córdoba, La Plata, Rosario và Đại học Công nghệ Quốc gia là những trường quan trọng nhất. Chính phủ Argentina đảm bảo giáo dục mang tính phổ cập, thế tục và miễn phí cho tất cả các cấp học Một cặp đôi Argentina đang nhảy Tango. Argentina là một quốc gia đa văn hóa chịu ảnh hưởng đáng kể của văn hóa châu Âu. Văn hóa Argentina hiện đại đã bị ảnh hưởng phần lớn bởi người Ý, Tây Ban Nha và những người nhập cư châu Âu khác tới từ Pháp, Anh, và Đức cùng với một số quốc gia khác. Các thành phố của Argentina chủ yếu được đặc trưng bởi sự phổ biến của những người gốc châu Âu, và sự bắt chước có thức phong cách của Mỹ và châu Âu trong thời trang, kiến trúc và thiết kế Một ảnh hưởng lớn khác là văn hóa gauchos và lối sống truyền thống tự cung tự cấp vùng nông thôn Cuối cùng, truyền thống bản địa của người Mỹ đã được hấp thu vào trong môi trường văn hóa nói chung. Tango, một thể loại âm nhạc sông Plata có ảnh hưởng từ âm nhạc châu Âu và châu Phi là một trong những biểu tượng văn hóa quốc tế của Argentina Thời kỳ hoàng kim của Tango là vào khoảng những năm 1930 đến giữa những năm 1950. Sau năm 1955, bậc thầy Astor Piazzolla đã phổ biến Nuevo tango, một phong cách tinh vi hơn và trí tuệ hơn cho thể loại này Tango được yêu thích và phổ biến trên toàn thế giới hiện nay với các nhóm như Gotan Project, Bajofondo và Tanghetto. Tập 86 con la Maradona, một trong những cầu thủ bóng đá người Argentina vĩ đại nhất, đang cầm trên tay chiếc cúp vô địch World Cup 1986. Tập tin:Lionel Messi Messi, đội trưởng hiện tại của Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina, được nhiều người đánh giá là cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất mọi thời đại. Pato là môn thể thao quốc gia, đây là một trò chơi trên lưng ngựa cổ đại tại địa phương có nguồn gốc từ những năm 1600 và tiền thân của môn cưỡi ngựa chơi bóng. Môn thể thao phổ biến nhất tại Argentina là bóng đá. Cùng với Brazil, Pháp và Đức, đội tuyển bóng đá nam của Argentina cũng là đội tuyển quốc gia đã giành chức vô địch cả ba giải đấu quốc tế quan trọng nhất: World Cup (3 lần vào năm 1978, 1986 và 2022), Confederations Cup (1992), và huy chương vàng Olympic (2004, 2008). Họ cũng đã 15 lần giành được chức vô địch Copa América, huy chương vàng Pan American và nhiều danh hiệu khác. Alfredo Di Stéfano, Diego Maradona và Lionel Messi là những cầu thủ người Argentina nổi tiếng nhất, nằm trong số những cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất mọi thời đại. câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng nhất tại Argentina là Boca Junior và River Plate. Argentina đã sản sinh một số nhà vô địch đáng gờm nhất trong môn quyền anh, bao gồm Carlos Monzón, tay đấm hạng trung xuất sắc nhất trong lịch sử; Pascual Pérez, một trong những võ sĩ hạng ruồi nhiều huy chương nhất của mọi thời đại; Víctor Galíndez, Nicolino Locche. Tennis là khá phổ biến Argentina mọi lứa tuổi. Guillermo Vilas là tay vợt Mỹ Latinh vĩ đại nhất trong kỷ nguyên mở. Ngoài ra, Juan Martín del Potro cũng là một tay vợt nổi tiếng, đã từng đánh bại Roger Federer để giành chức vô địch US Open 2009. Lịch sử Argentina Văn hóa Argentina Xã hội Argentina Gobierno Electrónico cổng chính phủ chính thức Presidencia Tổng thống Argentina (tiếng Tây Ban Nha) Honorable Senado de la Nación Thượng viện Argentina (Tây Ban Nha) Honorable Cámara de Diputados de la Nación Hạ viện Argentina (Tây Ban Nha) Thông tấn xã chính thức
Argentina
Các nước khối G15, Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Tây Ban Nha, Quốc gia Nam Mỹ, Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, Quốc gia Kitô giáo, Quốc gia thành viên Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ, Quốc gia thành viên Mercosur, Cộng hòa lập hiến liên bang, Cựu thuộc địa Tây Ban Nha
bán dưới tên thương hiệu Bricanyl số những người khác, là một chất chủ vận thụ thể adrenergic, được sử dụng như là một "thuốc giảm" hít trong việc quản lý hen suyễn triệu chứng và làm giảm co (thuốc chống co) để trì hoãn chuyển dạ sinh non cho đến 48 giờ. Thời gian này sau đó có thể được sử dụng để tiêm steroid cho người mẹ giúp trưởng thành phổi của thai nhi và giảm các biến chứng của sinh non. Không nên sử dụng nó để ngăn ngừa chuyển dạ sinh non hoặc trì hoãn chuyển dạ quá 48 giờ72 giờ. Vào tháng năm 2011, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm đã yêu cầu đưa ra một cảnh báo đóng hộp trên nhãn của thuốc. Phụ nữ có thai không nên tiêm terbutaline để phòng ngừa sinh non hoặc quản lý sinh non lâu dài (ngoài 48 giờ72) và không nên dùng terbutaline đường uống trong mọi trường hợp phòng ngừa hoặc điều trị sinh non chuyển dạ "do tiềm năng cho các vấn đề nghiêm trọng về nội tâm và tử vong." Nó được cấp bằng sáng chế vào năm 1966 và được đưa vào sử dụng tế vào năm 1970. Terbutaline được sử dụng như một thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh (thường được sử dụng như một phương pháp điều trị hen suyễn ngắn hạn) và như một thuốc giảm co để trì hoãn chuyển dạ sớm. Dạng terbutaline dạng hít bắt đầu hoạt động trong vòng 15 phút và có thể kéo dài đến giờ. Terbutaline trong điều trị chuyển dạ sớm là sử dụng ngoài nhãn hiệu không được FDA chấp thuận. Đây là một thuốc loại mang thai và được kê toa thường xuyên để ngăn chặn các cơn co thắt. Sau khi tiêm tĩnh mạch thành công, ít bằng chứng cho thấy terbutaline đường uống có hiệu quả. Tuy nhiên, sau khi đảo ngược tử cung trong giai đoạn ba chuyển dạ, terbutaline (hoặc Halothane hoặc magiê sulfat) có thể được sử dụng để thư giãn tử cung nếu cần thiết trước khi thay thế tử cung. Người lớn nhịp tim nhanh, lo lắng, hồi hộp, run rẩy, nhức đầu, tăng đường huyết, hạ kali máu, hạ huyết áp và, hiếm khi, phù phổi. Thai nhi nhịp tim nhanh và hạ đường huyết. Nhóm butyl bậc ba trong terbutaline làm cho nó được lựa chọn nhiều hơn cho thụ thể β2. Vì không có nhóm hydroxy vị trí của vòng benzen, nên phân tử này ít bị ảnh hưởng bởi quá trình chuyển hóa nhờ enzyme catechol- O -methyl transferase. Như với tất cả các chất chủ vận thụ thể β2-adrenergic, terbutaline nằm trong danh sách các loại thuốc bị cấm của Cơ quan Chống Doping Thế giới, ngoại trừ khi được sử dụng qua đường hô hấp và Miễn trừ Sử dụng Điều trị (TUE) đã được lấy trước. Terbutaline được tổng hợp bằng cách brom hóa 3,5-dibenzyloxy acetophenone thành được phản ứng với N benzyl N tert -butylamine, tạo ra chất trung gian ketone. Giảm sản phẩm này với H₂ trên Pd dẫn đến terbutaline. 800x800px Terbutaline chứa một stereocenter và bao gồm hai chất đối kháng. Đây là một racemate, tức là hỗn hợp 1: của (R) và (S) Hình thức: Các chất đồng hóa của terbutaline liên_kết= (R) -Terbutaline liên_kết= (S) -Terbutaline Tên thương hiệu bao gồm Bronclyn, Brethine, Bricanyl, Brethaire hoặc Terbulin.
Bricanyl
Bài viết chứa mã định danh InChI đã thay đổi
là một khu định cư khu hành chính của Gmina Chojna, thuộc hạt Gryfino, West Pomeranian Voivodeship, phía tây bắc Ba Lan, gần biên giới Đức. Trước năm 1945, khu vực này là một phần của Đức. Đối với lịch sử của khu vực, xem Lịch sử của Pomerania. Khu định cư có dân số người.
null
Pixel 4a là điện thoại thông minh chạy hệ điều hành Android thuộc dòng sản phẩm Google Pixel. Là một biến thể tầm trung của Pixel và Pixel XL, điện thoại được chính thức công bố vào ngày tháng năm 2020, mười tháng sau khi công bố dòng Pixel ban đầu. Không giống như phiên bản tiền nhiệm của nó, Pixel 3a, sẽ không có phiên bản XL, mặc dù một phiên bản 5G sẽ được phát hành vào mùa thu. Mặt sau của Pixel 4a, hiển thị mô-đun camera và cảm biến vân tay lần lượt phía trên bên trái và phía trên chính giữa. Màu duy nhất của Pixel 4a là 'Just Black' (màu đen với nút nguồn màu xanh lá cây nhạt), một sự khác biệt so với các điện thoại Pixel trước đây vốn có một số tùy chọn màu sắc. Bề ngoài, nó giống với Pixel 4, nhưng có cấu trúc unibody bằng polycacbonat. Màn hình có các viền mỏng đồng nhất và một đường cắt tròn góc trên bên trái cho camera mặt trước. Mặt sau có cảm biến vân tay điện dung, bỏ qua cảm biến quang học (dưới màn hình). Màn hình sử dụng kính cường lực Corning Gorilla Glass 3, trái ngược với Asahi Dragontrail của Pixel 3a. Điện thoại có loa âm thanh nổi, một loa nằm cạnh dưới và loa còn lại làm tai nghe gấp đôi và một giắc cắm tai nghe 3,5 mm. Cổng USB-C được sử dụng để sạc và kết nối các phụ kiện khác. Pixel 4a được trang bị hệ thống Qualcomm Snapdragon 730G trên chip Adreno 618 GPU và GB RAM, với 128 GB bộ nhớ trong không thể mở rộng. Nó thiếu sạc không dây, khả năng chống nước, Active Edge và Pixel Neural Core (PNC), tất cả đều là tiêu chuẩn trên Pixel 4. Thời lượng pin là 3140 mAh; sạc nhanh được hỗ trợ mức tối đa 18 (Phân phối nguồn qua USB, sử dụng bộ chuyển đổi trong hộp). Pixel 4a có màn hình OLED 1080p với hỗ trợ HDR. Màn hình có tỷ lệ khung hình 19,5: 9, so với tỷ lệ 19: của Pixel 4. Pixel 4a có mô-đun hình vuông nhô cao tương tự như Pixel với một camera phía sau duy nhất. Cảm biến là đơn vị 12,2 megapixel giống như trên Pixel 4; mặt trước có camera megapixel. Giống như Pixel 4, Pixel 4a có thể quay video độ phân giải 4K nhưng bị giới hạn 30 fps. Nó có Google Camera 7.4 với các cải tiến về phần mềm, bao gồm Live HDR+ với điều khiển phơi sáng kép, Chế độ chụp ban đêm được cải thiện với chế độ Chụp ảnh thiên văn và Chế độ chân dung được cải thiện với hiệu ứng bokeh chân thực thực hơn. Google cũng cung cấp Bộ nhớ ảnh không giới hạn "chất lượng cao"; giải pháp ban đầu yêu cầu người dùng trả tiền cho Google One. Pixel 4a sử dụng hệ điều hành Android 10 và phiên bản 7.4 của ứng dụng Google Camera khi ra mắt, với các tính năng như Màn hình cuộc gọi và ứng dụng An toàn cá nhân. Dự kiến chúng sẽ nhận được các bản cập nhật lớn trong vòng năm kể từ ngày ra mắt, đến năm 2023. Sau khi được phát hành, Pixel 4a đã nhận được những đánh giá tích cực với nhiều người đánh giá khen ngợi chất lượng camera và giá trị tổng thể đồng tiền. Lynn La của CNET cho Pixel 4a điểm 8,4/10, coi đây là sản phẩm có chất lượng ảnh chụp tốt nhất trong số các điện thoại trong cùng tầm giá. Dieter Bohn của The Verge ca ngợi chiếc điện thoại này có camera xuất sắc và thời lượng pin mức tạm ổn, nhưng chỉ trích hiệu suất quay video tầm thường và thiếu sạc không dây và khả năng chống nước. Brian Chen của The New York Times đã so sánh Pixel 4a với iPhone SE thế hệ thứ hai, nhận xét rằng Pixel có ảnh chụp thiếu sáng vượt trội, màn hình hiển thị và thời lượng pin tốt hơn, trong khi đó iPhone có hiệu suất tốt hơn. Samuel Gibbs của The Guardian nói rằng điện thoại hoạt động trơn tru và có thời lượng pin tốt hơn Pixel 3a XL và iPhone SE.
Pixel 4a
Điện thoại di động, Điện thoại di động cảm ứng, Điện thoại di động được giới thiệu năm 2020
Boschbrücke trước Deutschen Museum Boschbrücke với cơ quan cấp bằng sáng chế Âu châu nằm München. Cầu được xây vào năm 1925 để khai mạc Viện bảo tàng Đức và được đặt theo tên ông Johann Baptist Bosch (1873-1932), giám đốc cơ quan Xây cầu cống (Tiefbauamt). Nó dẫn từ bờ Tây của nhánh Isar chính tới Museumsinsel với Viện bảo tàng Đức. Từ đó dẫn cầu Zenneck bắc ngang Kleine Isar tiếp tục tới phía Đông. Phía Tây của cây cầu là tòa nhà của cơ quan cấp bằng sáng chế Âu châu.
null
Cầu tại München
(1477- 1/1/1549) là tên được đặt cho họa sĩ thời Phục hưng người Ý, ông Jac Antonio Bazzi. Il Sodoma đã vẽ theo cách áp đặt phong cách Phục hưng cao của Rome đầu thế kỷ 16 lên truyền thống của trường phái Sienese; ông dành phần lớn làm việc Siena, với hai thời kỳ Rome. Họa sĩ Siena của thời Phục hưng Ý, tên thật là Giovanni Antonio Bazzi. Tại Milan, vào những năm 1500, Phong cách ông ảnh hưởng bởi Leonardo da Vinci. Năm 1513 1515, ông lại Rome, chịu ảnh hưởng của Raffaello và đã thiết lập một trường phái thanh lịch trong miêu tả cơ thể người. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm: "tử đạo của Thánh Sebastian" (1525, Florenta, Bảo tàng nghệ thuật Pitti), bức tranh tường của Farnesina của Rome "Hôn nhân của Alexander và Roxanne" (1516 1517).
null
Họa sĩ thế kỷ 15, Họa sĩ thế kỷ 16
Shorea cordata là một loài thực vật thuộc họ Tên gọi của loài cordata xuất phát từ Latin (cordatus hình tim) để chỉ hình dạng lá cây. S. cordata là một cây lớn, cao tới 50 m, có các khu rừng dầu trên các khu vực giàu đất sét bao phủ bên trên lớp đá hoả sinh. Đây là loài đặc hữu của Borneo, có Sarawak và NW Kalimantan. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.
''Shorea cordata
Gotha G.VI là một loại máy bay ném bom thử nghiệm của Đế quốc Đức trong Chiến tranh thế giới I. Gray, Peter Thetford, Owen. German Aircraft of the First World War. London, Putnam. ISBN 0-370-00103-6 Taylor, Michael J.H. Jane's Encyclopedia of Aviation. Studio Editions. London. 1989. ISBN 0-517-69186-8
Gotha G.VI
Máy bay Gotha, Máy bay quân sự Đức thập niên 1910, Máy bay quân sự trong Thế chiến thứ nhất, Máy bay chiến đấu, Máy bay ném bom, Máy bay hai tầng cánh, Dự án máy bay hủy bỏ của Đức, Máy bay hai động cơ cánh quạt