text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
Tinh thể thời gian hoặc tinh thể không-thời gian là một hệ thống mở không cân bằng với môi trường của nó thể hiện sự phá vỡ đối xứng thời gian dịch (TTSB). Không thể cho một tinh thể thời gian được trong sự cân bằng với môi trường của nó. tưởng về tinh thể thời gian lần đầu tiên được Nobel đoạt giải và giáo sư Frank Wilczek của MIT vào năm 2012. Một tinh thể không gian thời gian mở rộng sự đối xứng ba chiều thường thấy trong tinh thể để bao gồm chiều thứ tư của thời gian; Một tinh thể thời gian tự nhiên phá vỡ tính đối xứng của bản dịch thời gian. Kiểu của tinh thể không lặp lại trong không gian, nhưng theo thời gian cho phép tinh thể được chuyển động vĩnh viễn 2. Các tinh thể thời gian có liên quan mật thiết đến khái niệm năng lượng không điểm và hiệu ứng Casimir động Vào năm 2016, Norman Yao và các đồng nghiệp của ông từ Đại học California, Berkeley, đưa ra một đề xuất cụ thể cho phép tạo ra các tinh thể thời gian trong môi trường phòng thí nghiệm.} Kế hoạch chi tiết của Yao sau đó được sử dụng bởi hai đội, nhóm do Christopher Monroe thuộc Đại học Maryland và một nhóm do Mikhail Lukin làm việc tại Đại học Harvard, đã thành công trong việc tạo ra một tinh thể thời gian. Cả hai thí nghiệm đã được công bố trên tạp chí Nature tháng năm 2017. Các tinh thể thời gian được cho là có thứ tự topo, hiện tượng nổi lên, trong đó các mối tương quan không liên quan đến mật mã hóa trong toàn bộ chức năng sóng của một hệ thống cho phép dung sai lỗi đối với các nhiễu loạn, do đó cho phép các trạng thái lượng tử ổn định so với các hiệu ứng không liên kết thường giới hạn Tuổi thọ hữu ích. Ngăn chặn sự mất kiên nhẫn có nhiều hàm ý: Hiệu quả của một số lý thuyết thông tin và nhiệm vụ động lực học lượng tử có thể được tăng cường đáng kể khi sử dụng các trạng thái tương quan lượng tử. Người ta cũng cho rằng các tinh thể thời gian cũng có thể hiểu sâu hơn lý thuyết về thời gian. Tập tin:Frank đoạt giải Nobel Frank Wilczek tại Đại học Paris-Saclay tưởng về một tinh thể không gian thời gian đầu tiên được Frank Wilczek, một giáo sư của MIT và người đoạt giải Nobel đưa ra, vào năm 2012 Xiang Zhang, một kỹ sư nano của Đại học California, Berkeley, và nhóm của ông đã đề xuất tạo ra một tinh thể thời gian dưới hình thức vòng tròn liên tục xoay vòng các ion tích điện. Để đáp lại Wilczek và Zhang, Patrick Bruno, một nhà lý thuyết thuộc Cơ quan bức xạ Synchrotron Châu Âu Grenoble, Pháp, đã công bố một số bài báo tuyên bố rằng các tinh thể không gian thời gian là không thể. Các tác phẩm sau đó đã phát triển các định nghĩa chính xác hơn về sự mất cân bằng đối xứng dịch thời gian mà cuối cùng dẫn đến một bằng chứng cho thấy các tinh thể lượng tử trong trạng thái cân bằng là không thể. Tuy nhiên, những bài báo này bắt nguồn từ việc hiểu sai văn bản Wilczek nguyên bản hoặc đòi hỏi sự thật Trạng thái cơ bản tức là tiểu bang trạng thái năng lượng thấp nhất của Hamilton để có chuyển động vĩnh cửu là điều không thể thực hiện được vì chuyển động đó có nghĩa là sự chồng chéo. Trong bản gốc Wilczek đã nói một cách rõ ràng "Tiêu chuẩn vật lý xác định các trạng thái cơ bản hữu ích" không chỉ đơn giản là năng lượng, mà còn là khả năng quan sát mạnh mẽ... "cho thấy rằng các trạng thái đó thật sự thực sự rất yếu khi kích thích trên mặt đất theo nghĩa thông thường Không thể chuẩn bị được trong khi không thể đo được nhiệt độ tuyệt đối bằng không nhưng cũng ổn định trong chuyển động vì không có sự phân rã giống như các dòng liên tục trong chất siêu dẫn mà luôn phản ứng với một số ruột thăm dò hoặc luồng siêu lỏng helium mà trước tiên phải được gây ra bởi cơ học, chúng có thể phân giải như kim cương vs Graphite nhưng pha năng lượng thấp (Graphite) không tồn tại như tinh thể đây (đồng đều trong thời gian khi trạng thái Bloch không di chuyển). Ví dụ "Gausson" ban đầu do Wilczek xây dựng đã có ví dụ như mức tối đa năng lượng gần như năng lượng và mức tối thiểu của dải Bloch theo chức năng của tần số trong khung quay, nơi nó cũng trải qua sự thay đổi tần số của bức xạ Đen mà nó đang làm thay đổi Phát xạ tự phát và các hệ số Einstein cho sự phân rã. Không ai có thể thực sự quan sát các electron một cách chính xác trong một trạng thái Bloch chức năng nhưng luôn luôn trong các chồng gói cũng như trạng thái tuyệt đối BCS 0. Từ trường yếu ví dụ hành động đầu tiên trong toán tử truyền phân chia làm toán tử quay của soliton tích điện tĩnh và không thể dừng chuyển động soliton mà không bị phân rã khi từ trường được bật. Tuy nhiên sự phân rã có thể là không tồn tại BCS tại và sự quay hoàn toàn không có ma sát thậm chí với một động năng hữu hạn vẫn không nhỏ và lượng tử trong thế giới cổ điển. Một số nhận thức về các tinh thể thời gian, tránh các đối số cân bằng không-đi được đề xuất. Định lý không đi (no-go) cho phép mở cửa trong thời gian mở của hệ thống cân bằng không cân bằng, và công trình tiên phong đã chứng minh rằng các hệ lượng tử được điều khiển định kỳ thực sự có thể biểu hiện sự phá vỡ đối xứng theo thời gian rời rạc. Jakub Zakrzewski và nhóm của ông tại Đại học Jagiellonian Krakow, Ba Lan, đã cố gắng để dự đoán hành vi của tinh thể thời gian với mô phỏng số Sử dụng tưởng của Wilczek, Norman Yao và các đồng nghiệp của ông từ Đại học California, Berkeley, nghiên cứu một mô hình khác nhau cho phép tồn tại các tinh thể thời gian} Kế hoạch chi tiết của Yao sau đó được sử dụng bởi hai đội: nhóm do Mikhail Lukin lãnh đạo tại đại học Harvard và một nhóm do Christopher Monroe, Đại học Maryland, lãnh đạo đã tạo ra một tinh thể thời gian một cách thành công. | Tinh thể thời gian | Khái niệm vật lý, Vật lý vật chất ngưng tụ, Nghịch lý vật lý, Vật lý học, Đo đạc lượng tử, Cơ học lượng tử, Cơ học thống kê, Nhiệt động lực học |
là một chi động vật có vú trong họ Muridae, bộ Gặm nhấm. Chi này được Sody miêu tả năm 1941. Loài điển hình của chi này là Mus armandvillei Jentink, 1892. Chi này gồm các loài: | null | Họ Chuột, Chi động vật có vú |
Hòa Xuân là một phường thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Phường có diện tích 9,9 km², dân số năm 2005 là 12.605 người, mật độ dân số đạt 1.273 người/km². Đình Lỗ Giáng Phường được thành lập năm 2005 trên cơ sở xã Hòa Xuân và được chuyển từ huyện Hòa Vang về quận Cẩm Lệ mới thành lập. Đình làng Cổ Mân | Hòa Xuân | |
Tập tin:Cincinnati oh cảnh trung tâm thành phố Cincinnati, đằng sau sông Ohio, nhìn từ Bắc Kentucky Bản đồ Quận Hamilton với thành phố Cincinnati được tô đậm màu đỏ (trái), và bản đồ Ohio với Quận Hamilton được tô đậm màu xanh (phải). Vị trí trên sông Ohio làm Cincinnati là trung tâm quan trọng giữa miền Bắc và miền Nam trong Nội chiến Hoa Kỳ. (được phát âm như là thành phố miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ nằm bên cạnh sông Ohio và vùng Bắc Kentucky. Nó là quận lỵ của Quận Hamilton. Theo Thống kê Dan số năm 2000, Cincinnati có dân số 331.285, có nghĩa Cincinnati là thành phố lớn thứ ba của Ohio. Cincinnati được coi là "boomtown" đầu tiên của Mỹ, từ đầu thế kỷ 19, khi nó mở mang rất nhanh trung tâm quốc gia để cạnh tranh các thành phô lớn vùng biển về dân số và giàu có. Là thành phố nội địa lớn đầu tiên trong nước, đôi khi nó được gọi là thành phố hoàn toàn Mỹ đầu tiên, không có ảnh hưởng châu Âu mạnh như vùng biển đông, nhưng vẫn giữ nhiều đặc tính của những thành phố cũ Âu Châu do các nhập cư, phần lớn là người gốc Đức. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ, Cincinnati đã hết mở mang nhanh chóng, và nó bị nhiều thành phố nội địa khác vượt qua theo dân số, nhất là Chicago. Tập nước Tyler Davidson giữa Quảng trường Vòi nước. Cincinnati có nhiều đặc tính của những thành phố cũ Âu Châu. Thành phố này cũng được gọi tên hiệu "The Queen City" (Thành phố Nữ vương), "The Blue Chip City", "The Big Onion" (Củ hành Lớn), và (chỉ đến gốc Đức của thành phố). Tên nó cũng được gọi tắt là "Cincy", "Cinci", "Cinti", hay "the 'Nati". Cincinnati cũng được gọi City of Seven Hills (Thành phố Bảy Đồi), nhưng tên này không còn miêu tả thành phố. Thật vậy, tại vì có nhiều hơn bảy đồi Cincinnati ngày nay. Ngày xưa, khi thành phố nhỏ hơn, số tháng năm 1853 của West American Review miêu tả và liệt kê bảy đồi rõ ràng trong bài "Article III -- Cincinnati: Its Relations to the West and South". Các đồi này làm thành hình lưỡi liềm chung quanh thành phố: núi Adams, Walnut Hills, núi Auburn, đồi Đường Vine, Fairmont (nay là Fairmount), núi Harrison, và đồi College. Tên hiệu được đặt cho thành phố vào khoảng 1835, khi Cincinnati là vùng nuôi heo lớn của nước Mỹ. Được gọi Queen of the West (Nữ vương miền Tây) bởi Henry Wadsworth Longfellow (tuy tên này được sử dụng lần đầu tiên trong tờ báo địa phương năm 1819), Cincinnati là đoạn quan trọng trên trong hệ thống Đường Sắt Ngầm (Underground Railroad), hệ thống này giúp những người nô lệ trốn khỏi miền Nam vào thời trước Nội chiến Hoa Kỳ. Cincinnati nằm thuộc miền tây nam Ohio, tại tọa độ (39,136160, −84,503088). Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích là 206,1 km² (79,6 dặm vuông). Trong đó, 201,9 km² (78,0 dặm vuông) là đất và 4,1 km² (1,6 dặm vuông hay 2,01%) là nước. Cincinnati toạ lạc tại bờ Bắc của Sông Ohio, gần đoạn sông này hợp lưu với các sông Miami, Miami nhỏ, và Licking. Trung tâm của thành phố được xây trên một lưu vực với các khu dân cư trải lên tận các ngọn đồi phía trên. Độ cao trung bình là 147 (482 foot). Thành phố có khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng bởi các luồn không khí lạnh từ phía Bắc và không khí ấm từ Vịnh Mexico, tạo ra thời tiết hay thay đổi. Nhiệt độ trung bình cao vào tháng Giêng là °C (37 °F) và trung bình thấp là −7 °C (20 °F); trung bình cao vào tháng là 30 °C (86 °F) và trung bình thấp là 18 °C (65 °F). Lượng mưa trung bình mỗi năm là 1.050 mm (41 inch) với lượng mưa từ tháng đến tháng nhiều hơn các tháng khác. Cincinnati được thành lập năm 1788 bởi John Cleves Symmes và Đại tá Robert Patterson. Thanh tra viên John Filson (cũng là tác giả của The Adventures of Colonel Daniel Boone) đặt tên thành phố là bắt nguồn từ bốn từ, mỗi cái trong ngôn ngữ khác, có nghĩa là "Thành phố đối diện với cửa sông Licking". "Ville" là tiếng Pháp của "thành phố", "anti" là tiếng Hy Lạp của "đối diện", "os" là tiếng Latinh của "miệng" (tức là "cửa sông"), và chữ "L" là phần duy nhất của "sông Licking" được bao gồm. Vào năm 1790, Arthur St. Clair, thống đốc của Lãnh thổ Tây Bắc, đổi tên của vùng thành "Cincinnati" để kỷ niệm Hội Cincinnati, tổ chức có ông là tổng thống. Hội đó kỷ niệm Tướng George Washington, được coi như Cincinnatus ngày nay Cincinnatus là tướng La Mã bảo vệ thành phố ông và sau đó bỏ chính trị và trở về nhà trại ông. Ngày nay, Cincinnati nói riêng, và Ohio nói chung, có rất nhiều con cháu của lính Cách mạng được chính phủ cho đất tiểu bang này. Vào năm 1802, Cincinnati được chính quyền tăng cấp thành làng dựa theo hiến chương, và thị trưởng đầu tiên là David Ziegler (1748–1811), một chiến sĩ Nội chiến sinh Heidelberg, Đức. Năm 1819, nó được trở thành thành phố. Do tàu hơi nước bắt đầu qua lại trên sông Ohio năm 1811 và Kênh Miami và Erie được xây xong giúp thành phố mở mang, có 115.000 dân cư vào năm 1850. Kênh Miami và Erie được bắt đầu xây ngày 21 tháng năm 1825, và nước được trệch qua lòng kênh vào năm 1827. Mới đầu nó được gọi là Kênh Miami, chỉ đến nguồn sông Miami nhỏ. Kênh này mới đầu nối Cincinnati với Middleton năm 1827, và vào năm 1840 nó tới Toledo. Đường sắt cũng tới Cincinnati vào thời đó. Năm 1880, Cincinnati trở thành thành phố đầu tiên xây và làm chủ một đường sắt lớn, Đường sắt Cincinnati, New Orleans, và Texas Pacific. Năm 1836, Công ty Đường sắt Miami nhỏ được quyền mở cửa. Họ bắt đầu xây đường sát ngay sau đó, có mục đích nối Cincinnati với Đường sắt Sông Mad và Hồ Erie, để nối thành phố này với cảng vịnh Sandusky. Ngày tháng năm 1853, Sở cứu hỏa Cincinnati trở thành sở cứu hỏa đầu tiên thuê người chữa cháy cả ngày, và sở đầu tiên sử dụng xe hơi chữa cháy. Tập tin:CovingtonKY Roebling kéo dài 322 mét (1.057 foot); cho đến năm 1883, nó là cầu treo dài nhất trên thế giới. Sau năm sau, vào năm 1859, Cincinnati xây sáu đường xe điện để cho dân thành phố có thể chạy đi chạy lại tiện hơn. Năm 1866, Cầu treo John A. Roebling được xây qua sông Ohio. Hồi đó nó là cầu treo dài nhất trên thế giới; John A. Roebling sử dụng thiết kê của nó để xây Cầu Brooklyn 17 năm sau. Vào năm 1872, người Cincinnati có thể chạy bằng xe điện trong thành phố rồi đi xe lửa tới những thị trấn trung quanh trên đồi. Công ty Mặt nghiêng Cincinnati (Cincinnati Inclined Plane Company) bắt đầu chở khách đến trên núi Auburn năm đó. Đội Cincinnati Red Stockings ("Vớ đỏ Cincinnati"), sau đó được gọi Cincinnati Reds, cũng bắt đầu vào thế kỷ 19. Năm 1868, có hội họp phòng luật sư Tilden, Sherman, và Moulton để làm đội bóng chày của Cincinnati trở thành đội chuyên nghiệp; nó trở thành đội chuyên nghiệp đầu tiên trong nước khi được tổ chức chính thức năm sau. Năm 1879, Procter Gamble, một trong những hãng xà bông lớn nhất Cincinnati, bắt đầu bán xà bông Ivory Soap. Nhiều người thích nó vì nó nổi trên nước. Sau khi nhà máy đầu tiên bị cháy, Procter Gamble qua nhà máy mới dọc nhánh sông Mill Creek và bắt đầu sản xuất xà bông lại; từ từ, vùng đó lấy tên Ivorydale. Năm 1902, nhà chọc trời bằng bê tông cốt thép đầu tiên trên thế giới, Tòa nhà Ingalls, được xây dựng Cincinnati. Năm 1905, "Các con trai của Daniel Boone" (The Sons of Daniel Boone) được thành lập Cincinnati; nó sẽ trở thành một phần đầu tiên của tổ chức hướng đạo sinh Boy Scouts of America. Procter Gamble tạo ra loại chương trình "soap opera" (kịch xà bông) khi họ giúp sản xuất chương trình radio Ma Perkins (Bà Perkins) năm 1933. Cho đến 1939, đài radio AM của Cincinnati, WLW, thí nghiệm về phát thanh; trong thời đó, nó trở thành đài đầu tiên phát thanh với điện lực tới 500.000 watt. Năm 1943, hãng thâu King Records và công ty phụ Queen Records được thành lập và thâu những ca sĩ mà tương lai có ảnh hưởng đến nhạc country, R&B, và rock. WCET-TV là đài truyền hình công cộng đầu tiên được quyền truyền hình, sau khi nó được thành lập năm 1954. Vào tháng năm 2001, Cincinnati bị náo loạn chủng tộc vài ngày sau khi cảnh sát người da trắng theo đuổi một người da đen 19 tuổi về những tội nhẹ và bắn anh chết. Thị trưởng Charlie Luken phải ra lệnh giới nghiêm toàn thành phố, lần đầu tiên sau những năm 1960. Tuy cuộc náo loạn chỉ kéo dài vài ngày, sau đó nhiều tổ chức tẩy chay các việc thương mại tại thành phố, làm Cincinnati mất hơn 10 triệu đô la. Theo Thống kê Dan số năm 2000, Cincinnati có dân số 331.285, có nghĩa Cincinnati là thành phố lớn thứ ba của Ohio, đằng sau Columbus và Cleveland. Tuy nhiên, nó có khu vực đô thị lớn hơn nhiều, bao gồm phần của Ohio, Kentucky, và Indiana. Khu vực thống kê tổng hợp có dân số là 2.050.175 người và là khu vực thống kê tổng hợp lớn thứ 18 trong nước. Đại Cincinnati (Greater Cincinnati) là khu vực đô thị lớn thứ hai Ohio, chỉ thua Cleveland. Dân số miền Cincinnati đã lên 4,7% từ năm 2000, và sẽ vượt qua khu vực đô thị Cleveland vào năm 2007, theo Thống kê Dân số. Dân số lịch sử Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.7) id:sfondo id:barra ImageSize width:600 height:400 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:520000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:50000 start:0 ScaleMinor increment:10000 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1810 text:1810 bar:1820 text:1820 bar:1830 text:1830 bar:1840 text:1840 bar:1850 text:1850 bar:1860 text:1860 bar:1870 text:1870 bar:1880 text:1880 bar:1890 text:1890 bar:1900 text:1900 bar:1910 text:1910 bar:1920 text:1920 bar:1930 text:1930 bar:1940 text:1940 bar:1950 text:1950 bar:1960 text:1960 bar:1970 text:1970 bar:1980 text:1980 bar:1990 text:1990 bar:2000 text:2000 bar:2005 text:2005 PlotData= color:barra width:10 align:left bar:1810 from:0 till:2540 bar:1820 from:0 till:9642 bar:1830 from:0 till:24831 bar:1840 from:0 till:46338 bar:1850 from:0 till:115435 bar:1860 from:0 till:161044 bar:1870 from:0 till:216239 bar:1880 from:0 till:255139 bar:1890 from:0 till:296908 bar:1900 from:0 till:325902 bar:1910 from:0 till:363591 bar:1920 from:0 till:401247 bar:1930 from:0 till:451160 bar:1940 from:0 till:455610 bar:1950 from:0 till:503998 bar:1960 from:0 till:502550 bar:1970 from:0 till:452524 bar:1980 from:0 till:385457 bar:1990 from:0 till:364040 bar:2000 from:0 till:331285 bar:2005 from:0 till:331310 PlotData= bar:1810 at:2540 fontsize:S text:2.540 shift:(-5,5) bar:1820 at:9642 fontsize:S text:9.642 shift:(-10,8) bar:1830 at:24831 fontsize:S text:24.831 shift:(-10,5) bar:1840 at:46338 fontsize:S text:46.338 shift:(-15,5) bar:1850 at:115435 fontsize:S text:115.435 shift:(-20,5) bar:1860 at:161044 fontsize:S text:161.044 shift:(-20,5) bar:1870 at:216239 fontsize:S text:216.239 shift:(-20,5) bar:1880 at:255139 fontsize:S text:255.139 shift:(-20,5) bar:1890 at:296908 fontsize:S text:296.908 shift:(-20,5) bar:1900 at:325902 fontsize:S text:325.902 shift:(-20,5) bar:1910 at:363591 fontsize:S text:363.591 shift:(-20,5) bar:1920 at:401247 fontsize:S text:401.247 shift:(-20,5) bar:1930 at:451160 fontsize:S text:451.160 shift:(-20,5) bar:1940 at:455610 fontsize:S text:455.610 shift:(-20,12) bar:1950 at:503998 fontsize:S text:503.998 shift:(-20,15) bar:1960 at:502550 fontsize:S text:502.550 shift:(-20,5) bar:1970 at:452524 fontsize:S text:452.524 shift:(-20,5) bar:1980 at:385457 fontsize:S text:385.457 shift:(-20,5) bar:1990 at:364040 fontsize:S text:364.040 shift:(-20,5) bar:2000 at:331285 fontsize:S text:331.285 shift:(-20,5) bar:2005 at:331310 fontsize:S text:331.310* shift:(-20,15) Dân số ước lượng năm 2005. Nguồn: Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ Cincinnati có nhiều công ty nổi tiếng như là Procter Gamble, Kroger, GE Infrastructure, Federated Department Stores (chủ Macy's, Bloomingdale's, và Lord Taylor), Chiquita Brands International, Công ty Bảo hiểm Great American, Công ty E. W. Scripps, Công ty U.S. Playing Card, và Fifth Third Bank. Hội trường Âm nhạc Cincinnati Chính phủ được quản lý bởi hội đồng thành phố có chín hội viên được bầu toàn thành phố (at-large). Trước năm 1924, hội đồng được bầu theo hệ thống khu vực bầu cử (ward). Hệ thống này hay bị tham nhũng, và Cincinnati bị cai trị bởi bộ máy chính trị Cộng hòa của Ông trùm Cox (Boss Cox) từ thập kỷ 1880 cho đến thập kỷ 1920, chỉ có vài lúc nghỉ. Phong trào cải cách bắt đầu vào năm 1923, được hương dẫn bởi một người Cộng hòa khác, Murray Seasongood. Seasongood cuối cùng thành lập Ủy ban Hiến chương, nay là đảng Hiến chương, nó sử dụng cuộc trưng cầu dân vào năm 1924 để xóa bỏ hệ thống ward và thay nó bằng hệ thống bầu cử toàn thành phố hiện có; nó cũng bắt đầu mô hình chính phủ quản đốc (city manager). Từ 1924 đến 1957, hội đồng được chọn theo mô hình tiêu biểu cân đối. Bắt đầu từ năm 1957, mỗi ứng củ viên vận động cho một bầu cử và chín người được nhiều lá phiếu nhất được bầu ("hệ thống 9-X"). Thị trưởng được chọn bởi hội đồng. Năm 1977, Jerry Springer được làm thị trưởng một năm. (Sau đó, ông nổi tiếng vì dẫn chương trình thảo luận hay gây tranh luận.) Bắt đầu từ năm 1987, người được nhiều lá phiếu nhất tự động được làm thị trưởng. Từ năm 1999, thị trưởng được chọn trong cuộc bầu cử riêng và vai trò của quản đốc thành phố bị giảm; những cải cách này được gọi là hệ thống "thị trưởng mạnh". Chính trị Cincinnati bao gồm đảng Hiến chương, đảng có lịch sử thắng cử địa phương dài thứ ba trong nước. Ngày xưa, Cincinnati nằm trên biên giới giữa các tiêu bang nhận hệ thống nô lệ, như là Kentucky, và các tiểu bang "tự do" trước và trong Nội chiến. Vào những năm trước Nội chiến, Cincinnati và các vùng chung quanh có vai trò lớn trong Phong trào Bãi nô. Vùng này là một phần của Tuyến hỏa xa ngầm (Underground Railroad) và là nơi của nhà văn Harriet Beecher Stowe. Các nhân vật trong cuốn sách Túp lều bác Tôm phỏng theo những nô lệ trốn vùng này. Levi Coffin làm vùng Cincinnati là trung tâm của những vận động bãi nô vào năm 1847. Ngày nay, viện bảo tàng Trung tâm Tự do Tuyến hỏa xa ngầm Quốc gia (National Underground Railroad Freedom Center) kỷ niệm thời này. Cincinnati bị nhiều vụ bạo lực do chủng tộc, cả trước và sau Nội chiến; vụ lớn nhất là cuộc náo loạn năm 2001. Thành phố này có vài đội thể thao thuộc liên đoàn quốc gia, bao gồm đội bóng chày Reds và đội bóng bầu dục Bengals, và cũng đăng cai cuộc đấu quần vợt quốc tế Cincinnati Masters Women's Open. Cincinnati có thành phố thân hữu. Munich, Đức Mysore, Ấn Độ Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc Gifu (thành phố), Nhật Bản Netanya, Israel Nancy, Pháp Tân Bắc, Taiwan Kharkiv, Ukraina Harare, Zimbabwe Cincinnati Masters Dàn nhạc giao hưởng Cincinnati Dàn nhạc Cincinnati Pops Náo loạn chủng tộc Cincinnati, 2001 The Cincinnati Enquirer Sân bay quốc tế Cincinnati/Bắc Kentucky Vườn thú và bách thảo Cincinnati Website chính thủc của chính phủ Cincinnati Cincinnati USA Phòng Thương mại Miền Cincinnati Hình ảnh về Cincinnati Cảnh Thực tế ảo của Cincinnati Hội đòng Phim Cincinnati | The Queen City | Quận lỵ Ohio, Quận Hamilton, Ohio |
Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Quần đảo Cook đại diện Quần đảo Cook các giải thi đấu bóng đá bãi biển quốc tế và được điều hành bởi Hiệp hội bóng đá Quần đảo Cook, cơ quan quản lý bóng đá Quần đảo Cook. Tính đến hiện tại, Quần đảo Cook mới chỉ lần tham dự giải vô địch của bóng đá bãi biển châu Đại Dương, Giải vô địch bóng đá bãi biển châu Đại Dương, năm 2006. *Thành tích tốt nhất tại Giải vô địch bóng đá bãi biển châu Đại Dương: Hạng tư **2006 Chính xác tính đến tháng năm 2006. | Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Quần đảo Cook | Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Bóng đá bãi biển |
Nhóm cây chồi trên (Phanerophytes) bao gồm các cây, thường là những cây gỗ nhiều năm, có chồi búp cao trên 25 cm so với mặt đất, ví dụ: cây gỗ, cây bụi và cũng gồm cả những cây bì sinh, nhóm này được Raunkiær bổ sung sau này. Chi tiết hơn, nhóm này gồm (cây gỗ lớn), (cây gỗ vừa) (cây bụi) và các đặc trưng khác như tình trạng bộ lá trong năm (thường xanh hay rụng lá), có hay không có chồi búp hay chồi bảo vệ, cây mọng nước hoặc cây bì sinh. Tập tin:Jmm-eye level dandelions.jpg Tập tin:Krokusse im Schnee.jpg | Nhóm cây chồi trên | Sinh thái học, Danh pháp thực vật học |
Trương Duy Toản (1885-1957), tự Mạnh Tự, bút hiệu Đổng Hổ, là một nhà văn, nhà báo, nhà soạn tuồng, nhà cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Trương Duy Toản sinh năm Ất Dậu (1885) tại huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thuở nhỏ, ông học chữ Hán, sau chuyển sang học chữ Quốc ngữ và Pháp ngữ Sài Gòn. Năm 1905, ông ra trường làm Kinh lịch tại văn phòng tòa Khâm sứ Nam Vang (Campuchia). Năm 1907, ông đổi về Sài Gòn. Tại đây, ông tham gia Hội Minh Tân do Trần Chánh Chiếu đứng đầu. Để cổ động mọi người hưởng ứng phong trào Minh Tân, đồng thời phản đối việc chính quyền thực dân truất phế vua Thành Thái, ông viết một bài ca theo điệu "tứ đại cảnh" rồi cho đăng trên báo Lục tỉnh tân văn số 24 ra ngày 30 tháng năm 1908. Sau đó, ông sang Nhật Bản hoạt động trong phong trào Đông Du, làm thư ký cho hai nhà cách mạng là Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại hầu Cường Để. Tháng năm 1908, để làm tan rã phong trào này, Pháp ký hiệp ước với Nhật Bản. Theo đó, Nhật Bản sẽ không cho các nhà cách mạng và lưu học sinh Việt Nam đất nước của họ nữa. Do đó, một số phải sang Trung Quốc, một số phải trở về nước, trong đó có Trương Duy Toản. Năm 1910, ông cho xuất bản quyển tiểu thuyết Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân và gây được tiếng vang. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, ông viết truyện này trong khoảng thời gian ông đang là một thành viên nồng cốt của Việt Nam Quang phục hội Nam Kỳ Năm 1913, Trương Duy Toản bí mật đến Thượng Hải tìm gặp Cường Để. Gặp lúc nhà cách mạng này đang gấp rút khởi hành sang Châu Âu để vừa tránh bị cảnh sát Hương Cảng khủng bố, vừa để tìm gặp các nhà yêu nước bên ấy, Trương Duy Toản bèn đi theo để làm thông dịch viên Đến Paris, Trương Duy Toản nhận sứ mệnh gặp Phan Châu Trinh, nhờ đưa thư Cường Để lên chính phủ Pháp phê phán chính sách thuộc địa Đông Dương. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì khi Trương Duy Toản đây, nhờ tiếp xúc với Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut (vừa từ Sài Gòn về Pháp để gặp Cường Để) mà biết được định của Pháp là muốn bắt giữ Cường Để, nên vị hoàng thân này đã kịp trốn về Trung Quốc, chỉ có ông Toản và Đỗ Văn thì bị Pháp bắt được, đưa đi quản thúc tại Pyrénées, rồi giam vào ngục Santé Prison de la Sant. Khoảng năm 1916, Trương Duy Toản bị trục xuất về nước, rồi bị nhà cầm quyền Nam Kỳ đưa xuống an trí làng Nhơn Ái, huyện Phong Điền, tỉnh Cần Thơ Trong những ngày bị quản chế, ông sáng tác các bài ca cho ban nhạc tài tử Ái Nghĩa để ca trong các thôn xóm. Nghe tiếng ông, nhóm Sa Đéc–Amis của ông bầu Trần Văn Thận (André Thận) có nhờ ông soạn các bài liên ca như "Bùi Kiệm thi rớt trở về", "Kim Kiều hạnh ngộ" phổ theo điệu tứ đại oán để trình diễn. Đấy chính là các bài ca ra bộ (tức là lối kể chuyện bằng lời ca có kèm điệu bộ để minh hoạ nội dung) ra đời năm 1917. Được người dân ưa thích, ông tiến thêm một bước nữa là soạn hẳn thành vở cải lương, đó là ba vở: Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều (hồi 1) và Lưu Yến Ngọc cứu cha đại hiếu; trong đó "vở Kim Vân Kiều là vở ăn khách nhất của gánh thầy Năm Tú" (lời của nghệ sĩ Ba Vân). Thấy đối phương đã ít theo dõi mình, lại được sự giúp đỡ của Trần Chánh Chiếu và Nguyễn Văn Của (một ông chủ nhà in được nhà cầm quyền Pháp nể trọng), Trương Duy Toản bèn trở lại nghề báo. Năm 1919, Trương Duy Toản viết cho tờ Thời vụ báo Sài Gòn. Năm 1924, ông làm chủ bút tờ Trung Lập (đồng thời giữ mục "Thiên hạ đồn" được nhiều người đọc) cho đến 1933. Năm 1930, ông viết cho tờ Sài Thành. Sau khi tờ này bị đóng cửa, năm 1936, ông chủ trương tờ Dân quyền (do Cendsieux đứng tên xin thành lập), nhưng rồi bị tịch thu ngay từ số đầu vì có bài vận động cho Đông Dương đạị hội. Những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954), ông sống tại Sài Gòn với nghề làm báo. Năm 1955, ông viết một hồi ký Phong trào cách mạng trong Nam Kỳ (đăng liên tiếp trên tuần báo Tiến thủ của Lê Văn Thử với bút hiệu Đổng Hổ). Đây là tác phẩm cuối cùng của ông. Cuối đời, ông về an dưỡng khu Thanh Đa (Sài Gòn). Năm 1957, Trương Duy Toản mất, thọ 72 tuổi, được đưa về an táng tại quê nhà (Tam Bình, Vĩnh Long). Về văn, các tác phẩm chính của Trương Duy Toản, có: *Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi, F.H.Schneider xuất bản, Sài Gòn, 1910). Theo Nguyễn Huệ Chi thì cốt truyện ly kỳ nhưng cách kể quá vắn tắt, nhiều chỗ còn sáo và biền ngẫu Tuy nhiên, tác giả cũng đã gửi gắm được lòng yêu nước và chí khôi phục lại độc lập cho đất nước của mình (nhận xét của Đoàn Lê Giang). *Truyện Đơn Hùng Tín An Nam tục kêu Ba Tính (truyện. Nhà in Xưa Nay, Sài Gòn, 1925). Theo Bằng Giang thì đây ông đã dựng lại chân dung của một đại ca phản phất hình ảnh của nhóm anh hùng Lương Sơn Bạc trong truyện Thủy Hử. *Phong trào cách mạng trong Nam (hồi ký, 1956). Ca ra bộ; *Bùi Kiệm thi rớt trở về (1917) *Kim Kiều hạnh ngộ (1917) Về tuồng, có: *Kim Vân Kiều. *Lục Vân Tiên (1920). *Trang Châu mộng hồ điệp (1923). *Hạnh Nguyên cống Hồ. *Trang Tử cổ bồn ca (1923). *Lưu Yến Ngọc cứu cha đại hiếu (đã diễn, sau in thành sách năm 1930). *Nguyễn Q. Thắng Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992. Trương Duy Toản trên Từ điển bách khoa Việt Nam Nguyễn Xuân Hoanh, Nhân vật chí Vĩnh Long (bản điện tử) *Đoàn Lê Giang, Các chiến sĩ Đông Du Nam Kỳ hoạt động Nhật Bản, đoạn nói về Trương Duy Toản. Tham luận đọc tại Hội thảo quốc tế "Nhật Bản và tiểu vùng MeKong" do Trường Đại học Khoa học xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 20-30 tháng 10 năm 2010 | Trương Duy Toản | Người Vĩnh Long, Nhà cách mạng Việt Nam, Nhà văn Việt Nam, Nhà báo Việt Nam, Soạn giả cải lương, Phong trào Đông Du, Phong trào Minh Tân, Sinh năm 1885, Mất năm 1957 |
telephium' là một loài thực vật có hoa trong họ Crassulaceae. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. (MHNT) Hylotelephium telephium flower buds.jpg| Nụ hoa (MHNT) Hylotelephium telephium flowers.jpg| Chùm hoa (MHNT) Hylotelephium telephium Infrutescence thơ chưa trưởng thành | null | Sedum |
là một xã thuộc tỉnh Tar trong vùng Occitanie phía nam nước Pháp. Xã này nằm khu vực có độ cao trung bình 305 mét trên mực nước biển. Sông Vère tạo thành một phần ranh giới phía nam thị trấn. INSEE | null | Xã của Tarn |
là một chi nhện trong họ Trachelidae. Metatrachelas amabilis (Simon, 1878) Metatrachelas macrochelis (Wunderlich, 1992) Metatrachelas rayi (Simon, 1878) Bosselaers Bosmans, 2010: ''Studies in Corinnidae (Araneae): new Paratrachelas Kovblyuk Nadolny from Algeria, as well as the description of new genus of Old World Trachelinae. Zootaxa, Thể | null | Danh sách các chi nhện |
Lefamulin (tên thương mại Xenleta) là một loại kháng sinh được sử dụng để điều trị cho người lớn bị viêm phổi do vi khuẩn mắc phải tại cộng đồng. Nó được uống bằng miệng hoặc tiêm vào tĩnh mạch. Các tác dụng phụ tương đối phổ biến bao gồm tiêu chảy, buồn nôn, đau tại chỗ tiêm và viêm gan. Cụ thể đó là một loại kháng sinh pleuromutilin được phát triển bởi Nabriva Therapeutics. Nó đã được FDA Hoa Kỳ phê duyệt vào năm 2019. Nó cũng đã được điều tra để điều trị nhiễm trùng da và cấu trúc da cấp tính (ABSSSI). Nó đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cấp giấy phép theo dõi nhanh trong năm 2014. Mặc dù kháng sinh pleuromutilin được phát triển lần đầu tiên vào những năm 1950, lefamulin là thuốc đầu tiên được sử dụng để điều trị toàn thân các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn người. Lefamulin có hoạt tính in vitro chống lại Streptococcus viridans, Moraxella catarrhalis, Enterococcus faecium, aureus'' (MRSA) kháng methicillin, trong số các vi khuẩn khác. | Lefamulin | |
Hoàng Minh Chính (16 tháng 11 năm 1920 tháng năm 2008) là một nhân vật bất đồng chính kiến người Việt Nam, cựu Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam và nguyên là Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin (Marx-Lenin). Hoàng Minh Chính tên thật là Trần Ngọc Nghiêm, bí danh Lê Hồng, sinh huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, tham gia cách mạng từ năm 1937. Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1939. Tháng 10 năm 1940 ông bị thực dân Pháp bắt, đưa ra toà án binh xét xử 10 năm tù biệt xứ, 10 năm khổ sai. Năm 1943, nhân đế quốc Pháp chuyển tù nhân từ Sơn La về Hoả Lò để đưa đi Côn Đảo, ông đã cùng những người khác tổ chức vượt ngục. Ra ngoài, ông đã bắt được liên lạc với tổ chức để tiếp tục hoạt động và sau đó tham gia Đại hội Quốc dân Tân Trào. Trong kháng chiến chống Pháp, năm 1946 ông chịu trách nhiệm đánh Trường bay Gia Lâm, rồi lên Việt Bắc đảm nhận nhiều công tác đoàn thể, sau hòa bình về Hà Nội tiếp tục làm công tác đoàn thể. Năm 1947, ông làm Bí thư Đảng đoàn Trung ương Đảng kiêm Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam. Năm 1948 ông được cử sang phụ trách Thanh vận Trung ương, làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Đoàn khóa 1, rồi Bí thư Đoàn Thanh niên Cứu quốc khóa 2, rồi làm Tổng Đoàn trưởng Đoàn Thanh niên Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Ông từng dẫn đầu các đoàn đại biểu Thanh niên sinh viên Việt Nam đi dự các đại hội Festival Quốc tế. Ông đã từng giữ những chức vụ cao trong bộ máy nhà nước như: Phó Chủ nhiệm Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin. 1957, ông được cử làm trưởng đoàn Cán bộ cao cấp của Trung ương sang học tại trường Đảng Cao cấp của Liên Xô. 1961, ông về công tác tại Ủy ban Khoa học nhà nước, làm Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội. 1967, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai trừ ông ra khỏi đảng vì ông thuộc số những người theo chủ nghĩa xét lại, không tán thành Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và muốn thay đổi theo đường lối Đệ tứ Cộng sản 1967-1973, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ông đi tập trung cải tạo. Ông là một trong những nhân vật chính trong Vụ án Xét lại Chống Đảng. 1973-1976, ông bị quản chế tại Sơn Tây. Tháng năm 1995-tháng năm 1996, chính quyền bắt giữ và xét xử theo pháp luật Việt Nam, ông bị tù năm với tội trạng "lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân". Tổng cộng ông đã bị lần tù đày, gần 20 năm trời giam giữ và quản chế. Sau khi ra tù, ông vẫn tiếp tục viết đơn thư khiếu nại, vận động, yêu cầu Đảng và chính quyền Việt Nam "giải oan" cho vụ án "nhóm Xét lại chống Đảng"; tuyên truyền phát tán tài liệu, vận động người tham gia góp cho bản dự thảo "Thách thức và triển vọng". Tháng năm 1998, ông cùng với Lê Hồng Hà bàn việc chuyển hướng hoạt động sang đấu tranh với mục đích thành lập "Hội nhân dân chống tham nhũng". Ngày 16 tháng năm 2000, ông gửi thư ngỏ cho Tổng thống Hoa Kỳ, nói rằng Việt Nam chưa có tự do báo chí, tự do ngôn luận..., những vấn đề mà Mỹ có thể can thiệp. Tháng năm 2005, ông sang Mỹ chữa bệnh, diễn thuyết nhiều lần, công khai phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam và chính quyền Việt Nam. Ngày 28 tháng năm 2005, ông đến phát biểu tại Đại học Harvard về đề tài dân chủ cho Việt Nam. Ngày 29 tháng năm 2005, ông ra điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ để, như ông nói, "nêu ra những vụ đàn áp tôn giáo, khủng bố tàn bạo" Việt Nam, ông kiến nghị với Quốc hội Hoa Kỳ làm mạnh tay hơn nữa, không để Việt Nam nói một đằng, làm một nẻo." Sau đó, ông giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động của những người bất đồng chính kiến: vận động lấy chữ ký đòi hủy bỏ điều của Hiến pháp Việt Nam và nghị định số 31/CP, tìm cách phát triển lực lượng, cùng với Phạm Quế Dương, Trần Khuê và những nhân vật bất đồng chính kiến khác, viết đơn và kêu gọi thành lập Hội nhân dân chống tham nhũng. Ông nhiều lần cùng các nhân vật bất đồng chính kiến khác tổ chức gặp mặt nhằm công khai tổ chức, và tái lập Đảng Dân chủ cùng nhiều hoạt động khác. Ông cũng đã soạn một số tài liệu gửi ra nước ngoài cho một số tổ chức nhân quyền, trả lời phỏng vấn về tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo Việt Nam. Ông cho rằng học thuyết của Karl Marx và Friedrich Engels có sai sót cơ bản và trong việc thực hiện các quốc gia cộng sản đã có sai lầm nghiêm trọng chủ nghĩa mà có thời ông, trên cương vị Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, đã tuyên truyền và ca ngợi. Những bài viết về ông đã thu hút sự quan tâm của báo chí trong và ngoài Việt Nam. Ngày tháng năm 2006, ông ra tuyên bố khôi phục hoạt động Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Văn Tiểng, nguyên uỷ viên Thường vụ Đảng Dân chủ Việt Nam từ năm 1944 đến năm 1988, thì: "Bản thân ông Chính đã bị khai trừ khỏi Đảng Dân chủ từ lâu; khi không được sự đồng tình của số đông cựu đảng viên ông không có quyền và không đủ tư cách đứng ra khôi phục Đảng". "Đảng Dân chủ hiện nay mà ông Hoàng Minh Chính lên tiếng 'khôi phục' thì về bản chất đã khác Đảng Dân chủ từng tồn tại từ năm 1944 đến 1988". Ông bị bệnh ung thư. Trước khi mất ông viết một "Tâm thư đầu năm Mậu Tý" (2008) gửi lãnh đạo Nhà nước Việt Nam. Ông qua đời ngày tháng năm 2008 (mồng một Tết Mậu Tý) tại Bệnh viện Hữu nghị, Hà Nội. Tro hài cốt của Ông được an táng tại Khu (Khu Cán bộ), Nghĩa trang Thanh Tước, Hà Nội. Ông là anh em cọc chèo với Vũ Quang nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (nay là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh). "Đất nước ta đứng đáy nhân loại trên mọi bình diện" "Nhân dân Việt Nam hiện nay đang trong cơn quằn quại rũ bỏ ách nô lệ thâm căn cố đế nội xâm, đã tìm thấy trong chính sách hỗ trợ tự do dân chủ của Hoa Kỳ một sức mạnh vô giá cho cuộc đấu tranh sống còn của mình" "Các đầu tư phát triển quốc tế (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) chẳng qua thực chất là làm đầy túi tham của đảng và chính quyền". Năm 2007, ông được Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam, cùng với hai nhân vật bất đồng chính kiến khác là luật sư Lê Thị Công Nhân và luật sư Nguyễn Văn Đài. Bất đồng chính kiến Việt Nam Nguyễn Sĩ Bình Nguyễn Tiến Trung Một chính đảng tuyên bố khôi phục hoạt động Thư tranh luận của Nguyễn Minh Báo Việt Nam đả ông Hoàng Minh Chính Thư của ông Hoàng Minh Chính Phát biểu của Hoàng Minh Chính tại Harvard Hoàng Minh Chính nói gì thế?, báo Tuổi Trẻ, kèm phát biểu của bà Tôn Nữ Thị Ninh, Phó chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Quốc hội Việt Nam Ông Hoàng Minh Chính thiếu trung thực bài viết của Ngô Thanh Nhàn (Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học New York, thành viên Ban Điều hành Brecht Forum) trên tờ báo Tin tức Việt Nam (số 44, trang 13) Những trăn trở, nguyện ước của ông Hoàng Minh Chính trước lúc qua đời Ông Chính qua đời Bài phỏng vấn Hoàng Minh Chính Về phát ngôn của ông Hoàng Minh Chính tại Mỹ: Không chỉ là nỗi buồn Hoàng Minh Chính: Xây dựng hay chia rẽ dân tộc? Không có cái gọi là "các cuộc tấn công" nhằm vào ông Hoàng Minh Chính Hoàng Minh Chính Cái lưỡi không xương… Tang lễ ông Hoàng Minh Chính, BBC, 14 Tháng 2008 | Hoàng Minh Chính | Người Nam Định, Nhân vật bất đồng chính kiến Việt Nam, Nhân vật trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Dân chủ thế kỷ 21, Cựu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Sinh năm 1922, Chết vì ung thư tuyến tụy, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam |
là bộ phim hoạt hình Dragon Ball thứ 11. Được sản xuất tại Nhật Bản vào ngày 28 tháng năm 1994 và tại Hoa Kỳ năm 2005. Nhân vật Lồng tiếng (Tiếng Nhật) Lồng tiếng (Tiếng Anh) Goku Nozawa Masako Sean Schemmel Goten Nozawa Masako Kara Edwards Trunks Kusao Takeshi Laura Bailey Android 18 Iõ Miki Meredith McCoy Krillin Tanaka Mayumi Sonny Strait Hercule Ghori Daisuke Chris Rager Marron Suzuki Tomiko Laura Bailey Jaguar Tatsuta Naoki Bill Townsley Bio Broly Shimada Bin Vic Mignogna Narrator Yanami Joji Kyle Hebert OP *# "WE GOTTA POWER" *#* Lời: Mori Yukinojō, Nhạc: Kiyoka Chiho, Arrangement: Yamamoto Kenji, Thể hiện: Kageyama Hironobu *#** Lời bài hát ED *# *#* Lời: Mori Yukinojō, Thể hiện: Kageyama Hironobu Bộ phim trên bách khoa toàn thư Anime New Network | Kageyama Hironobu | Phim năm 1994, Phim hoạt hình Bảy viên ngọc rồng, Funimation, Phim Nhật Bản, Dòng hóa trong tác phẩm hư cấu |
Microsorum powellii là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1947. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Microsorum powellii | Microsorum, Unresolved names |
12152 Aratus (tên chỉ định: 1287 T-1) là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Cornelis Johannes van Houten, Ingrid van và Tom Gehrels Đài thiên văn Palomar Quận San Diego, California, ngày 25 tháng năm 1971. Nó được đặt theo tên Aratus, Hellenic poet of the 3rd century BC. *Danh sách các tiểu hành tinh: 12001–13000 JPL Small-Body Database Browser | 12152 Aratus | Được phát hiện bởi Cornelis Johannes van Houten, Được phát hiện bởi Ingrid van, Được phát hiện bởi Tom Gehrels |
Crinum americanum là một loài thực vật có hoa trong họ Amaryllidaceae. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Tập tin:2635 Crinum americanum.jpg Tập tin:Crinum Tập tin:San Juan Botanical Garden DSC07002.JPG Tập tin:Swamp Lily | ''Crinum americanum | Chi Náng |
Anna Diop (sinh ngày 6/2/1988) là nữ diễn viên người Mỹ gốc Sénégal. Diop sinh ra tại Sénégal, cô chuyển đến Mỹ định cư năm tuổi. Năm 2006, cô lần đầu tham gia lĩnh vực truyền hình với phim Everybody Hates Chris. Năm 2018, Diop đóng phim điện ảnh Us của đạo diễn Jordan Peele. | Anna Diop | Nữ diễn viên Mỹ gốc Phi, Sinh năm 1988, Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21, Nữ diễn viên truyền hình Mỹ, Nhân vật còn sống |
Hôn nhân cùng giới đã được công nhận hợp pháp tại Utah kể từ ngày 20 tháng 12 năm 2013, khi nhà nước bắt đầu cấp giấy phép kết hôn cho các cặp cùng giới do kết quả của Thẩm phán Robert J. Shelby của Tòa án Quận Hoa Kỳ đối với Utah trong vụ kiện Kitchen v. Herbert, trong đó phát hiện ra rằng việc cấm các cặp cùng giới khỏi hôn nhân đã vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ. Việc cấp các giấy phép đó đã bị tạm dừng trong khoảng thời gian từ ngày tháng năm 2014 đến ngày tháng 10 năm 2014, sau khi giải quyết một vụ kiện thách thức lệnh cấm của nhà nước đối với hôn nhân cùng giới. Vào ngày hôm đó, sau khi Tòa án Tối cao Hoa Kỳ từ chối nghe đơn kháng cáo trong một vụ kiện cho thấy lệnh cấm kết hôn cùng giới của Utah là vi hiến, Tòa án phúc thẩm Tenth Circuit đã ra lệnh cho nhà nước công nhận hôn nhân cùng giới. Hôn nhân cùng giới đã trở thành hợp pháp tạm thời tại tiểu bang vào ngày 20 tháng 12 năm 2013, do kết quả của phán quyết của Tòa án Quận Hoa Kỳ cho Quận Utah. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã giữ nguyên phán quyết vào ngày tháng năm 2014, trong khi Tòa phúc thẩm Tenth Circuit Denver xem xét vụ kiện. Vào ngày 25 tháng năm 2014, Tenth Circuit giữ nguyên phán quyết của tòa án cấp dưới, một quyết định đặt tiền lệ pháp cho mọi tiểu bang trong vòng đua. Tuy nhiên, Tenth Circuit vẫn giữ nguyên phán quyết này. Hôn nhân cùng giới được thực hiện vào tháng 12 năm 2013 và tháng năm 2014 tại tiểu bang được Chính phủ Liên bang công nhận, nhưng một phán quyết yêu cầu tiểu bang Utah công nhận những cuộc hôn nhân như vậy đã được Tòa án tối cao Hoa Kỳ lưu lại vào ngày 18 tháng năm 2014. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã từ chối đơn kháng cáo từ tiểu bang Utah vào ngày tháng 10 năm 2014, yêu cầu Utah phải cấp phép và công nhận hôn nhân cùng giới. | null | |
Banthelu là một xã tỉnh Val-d’Oise, thuộc vùng Île-de-France miền bắc nước Pháp. *Xã của tỉnh Val-d’Oise Association of Mayors of the Val d’Oise INSEE IGN Mérimée database Cultural heritage Land use (IAURIF) | Banthelu | Xã của Val-d'Oise |
được bán dưới tên thương hiệu Faslodex trong số những loại khác, là một loại thuốc dùng để điều trị ung thư vú di căn do thụ thể hoóc-môn (HR) phụ nữ sau mãn kinh tiến triển bệnh cũng như ung thư vú tiến triển âm tính HER2 dương tính kết hợp với palbociclib phụ nữ có tiến triển bệnh sau khi điều trị nội tiết. Nó được đưa ra bằng cách tiêm bắp. Fulvestrant là một chất khử thụ thể estrogen chọn lọc (SERD) và là loại đầu tiên được chấp thuận. Nó hoạt động bằng cách liên kết với thụ thể estrogen và làm mất ổn định nó, làm cho quá trình thoái hóa protein bình thường của tế bào phá hủy nó. Fulvestrant đã được phê duyệt cho sử dụng tế tại Hoa Kỳ vào năm 2002. Fulvestrant được sử dụng để điều trị ung thư vú di căn dương tính thụ thể hoóc môn hoặc bệnh không thể phát hiện tại địa phương phụ nữ sau mãn kinh; nó được tiêm bằng cách tiêm Một đánh giá của Cochrane năm 2017 cho thấy nó an toàn và hiệu quả như liệu pháp nội tiết dòng đầu tiên hoặc dòng thứ hai. Nó cũng được sử dụng để điều trị ung thư vú di căn hoặc HER2 âm tính tiến triển kết hợp với palbociclib phụ nữ tiến triển bệnh sau khi điều trị nội tiết tuyến đầu. Do thuốc có cấu trúc hóa học tương tự như estrogen, nó có thể tương tác với các xét nghiệm miễn dịch về nồng độ estradiol trong máu và cho thấy kết quả tăng giả. Điều này có thể không đúng cách dẫn đến ngừng điều trị. Fulvestrant đã được sử dụng trong điều trị dậy thì sớm ngoại vi những bé gái mắc hội chứng Fulvestrant không nên được sử dụng phụ nữ bị suy thận hoặc đang mang thai. Tác dụng phụ rất phổ biến (xảy ra hơn 10% số người) bao gồm buồn nôn, phản ứng tại chỗ tiêm, yếu và transaminase tăng cao. Các tác dụng phụ thường gặp (từ 1% đến 10%) bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu, phản ứng quá mẫn, chán ăn, đau đầu, đông máu trong tĩnh mạch, bốc hỏa, nôn mửa, tiêu chảy, tăng bilirubin, phát ban và đau lưng. Fulvestrant là một chất chống ung thư hoạt động như một chất đối vận của thụ thể estrogen (ER) và cũng là một chất khử thụ thể estrogen chọn lọc (SERD). Nó hoạt động bằng cách liên kết với thụ thể estrogen và làm cho nó kỵ nước hơn, làm cho thụ thể không ổn định và không phù hợp, từ đó dẫn đến các quá trình bình thường bên trong tế bào làm suy giảm nó. Fulvestrant được hấp thu chậm và nồng độ tối đa trong huyết tương (Cmax) đạt được sau khoảng ngày và thời gian bán hủy cuối cùng là khoảng 50 ngày. Fulvestrant liên kết cao (99%) với protein huyết tương bao gồm lipoprotein mật độ rất thấp, lipoprotein mật độ thấp và lipoprotein mật độ cao. Nó dường như được chuyển hóa dọc theo con đường tương tự như steroid nội sinh; CYP3A4 có thể được tham gia, nhưng các tuyến đường không cytochrom dường như quan trọng hơn. Nó không ức chế bất kỳ enzyme CYP450. Loại bỏ gần như tất cả thông qua phân. Fulvestrant là một steroid estrane tổng hợp và là một dẫn xuất của estradiol. Một hợp chất alkyl sulfinyl đã được thêm vào phối tử thụ thể estrogen nội sinh. Nó được phát hiện thông qua thiết kế thuốc hợp lý, nhưng đã được chọn để phát triển thêm thông qua sàng lọc kiểu hình. Fulvestrant là chất khử thụ thể estrogen chọn lọc đầu tiên được chấp thuận. Nó đã được phê duyệt tại Hoa Kỳ vào năm 2002 và Châu Âu vào năm 2004. Viện Sức khỏe và Xuất sắc Lâm sàng Quốc gia Anh (NICE) cho biết vào năm 2011 rằng họ không tìm thấy bằng chứng nào Faslodex tốt hơn đáng kể so với các phương pháp điều trị hiện tại, vì vậy việc sử dụng rộng rãi sẽ không được sử dụng tốt cho Dịch vụ tế Quốc gia của đất nước. Điều trị Faslodex trong tháng đầu tiên, bắt đầu với liều tải, chi phí 1,044,82 ($ 1,666) và các lần điều trị tiếp theo có giá 522,41 mỗi tháng. Trong 12 tháng kết thúc vào tháng năm 2015, giá Vương quốc Anh (không bao gồm VAT) của một tháng cung cấp anastrozole (Arimidex), không có bằng sáng chế, có giá 89 pence ngày và letrozole (Femara) có giá 1,40 bảng ngày. Bằng sáng chế gốc cho Faslodex đã hết hạn vào tháng 10 năm 2004. Các loại thuốc được xem xét theo quy định trước tiếp thị đủ điều kiện gia hạn bằng sáng chế và vì lý do này, AstraZeneca đã gia hạn bằng sáng chế đến tháng 12 năm 2011 AstraZeneca đã nộp bằng sáng chế sau đó. Một phiên bản chung của Faslodex đã được FDA chấp thuận. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sản phẩm sẽ nhất thiết phải có sẵn trên thị trường có thể là do bằng sáng chế thuốc và/hoặc loại trừ thuốc. Một bằng sáng chế sau đó cho Faslodex sẽ hết hạn vào tháng năm 2021. Atossa Genetics có một bằng sáng chế cho chính quyền của người đầu tiên vào vú thông qua một máy vi tính được phát minh bởi Susan Love. Fulvestrant được nghiên cứu về ung thư nội mạc tử cung nhưng kết quả không hứa hẹn và đến năm 2016 sự phát triển cho việc sử dụng này đã bị từ bỏ. Bởi vì chất đầu tư không thể được đưa ra bằng miệng, những nỗ lực đã được thực hiện để phát triển các thuốc SERD có thể uống bằng miệng, bao gồm cả brilanestrant và elacestrant. Thành công lâm sàng của Fulvestrant cũng dẫn đến những nỗ lực khám phá và phát triển một nhóm thuốc song song của các chất thoái hóa thụ thể androgen chọn lọc (SARDs). | Faslodex | |
Dưới đây là danh sách ca sĩ Thụy Điển, tên được sắp xếp theo bảng chữ cái trong tiếng Việt. *Benny Andersson *Anna Bergendahl *Joakim Brodén *Neneh Cherry *Kikki Danielsson *Malena Ernman *Agnetha Fältskog *Anders Fridén *Anders Glenmark *Günther *Johan Hegg *Carola Häggkvist *Peter Holm *Johannes Alfred Hultman *Jan Johansen *Jill Johnson *Åse Kleveland *Elin Lanto *Zara Larsson *Zarah Leander *Lykke Li *Tove Lo *Loreen *Anni-Frid Lyngstad *Jon Nödtveidt *Tone Norum *Pelle Ohlin *Helena Paparizou *Lena Philipsson *Roger Pontare *Caroline Ridderstolpe *Robyn *Eric Saade *Victoria Silvstedt *Martin Stenmarck *Daniel Svensson *Joey Tempest *Björn Ulvaeus *Carl-Johan Vallgren *Måns Zelmerlöw *Ca sĩ Thụy Điển | danh sách ca sĩ Thụy Điển | |
Alcibiades, con trai của Clinias, /ˌælsəˈbaɪədiz/ Hy Lạp cổ đại: Ἀλκιβιάδης, Latinh hóa: Alkibiádēs, Help:IPA/tiếng Hy 450–404 TCN) đến từ vùng Scambonidae, là một chính khách, nhà hùng biện đồng thời là một vị tướng kiệt xuất của Athena cổ đại. Ông là thành viên nổi bật cuối cùng của dòng họ nhà mẹ ông, nhà Alcmaeonidae, vốn bị suy sút sau Chiến tranh Peloponnesus. Ông đã đóng một vai trò quan trọng trong nửa sau của cuộc chiến như là cố vấn chiến lược, chỉ huy quân sự và chính trị gia. Trong cuộc chiến, Alcibiades thay đổi khuynh hướng chính trị của mình vài lần. Athena những năm đầu thập niên 410 tr.CN, ông chủ trương một chính sách ngoại giao hiếu chiến, một người hăng hái đề xướng Viễn chinh Sicilia, nhưng phải bỏ chạy tới Sparta sau khi các kẻ thù chính trị buộc ông tội báng bổ. Sparta, ông phục vụ như một cố vấn chiến lược, dề xuất hoặc giám sát một số chiến dịch quan trọng chống lại Athena. Tuy nhiên cũng Sparta, ông sớm tạo ra nhiều kẻ thù hùng mạnh và bị buộc phải trốn sang Ba Tư. Ông phục vụ cho người Ba Tư cho đến khi người Athena triệu hồi ông. Ông trở lại làm một vị tướng Athena trong vài năm, nhưng cuối cùng bị buộc đày lần nữa. Cuộc viễn chinh Sicilia là tưởng của Alcibiades, và các học giả cho rằng nếu dưới sự chỉ huy của bản thân ông thay vì Nicias', nó hẳn đã không phải kết cục thảm hại như trong thực tế. Trong những năm ông phục vụ Sparta, Alcibiades đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phá hoại Athena; chiếm đóng Decelea và những cuộc nổi dậy của người Athena dưới sự khuyến khích của ông. Khi trở về thành phố quê hương, ông đã đóng một vai trò thiết yếu trong một chuỗi những thắng lợi mà cuối cùng đưa Sparta tới chỗ phải tìm kiếm một hòa ước với Athena. Ông ưa dùng các chiến thuật không chính thống, và thường chiến thắng các thành bang bằng lừa dối và thương lượng hơn là vây hãm. Tài năng quân sử của Alcibiades thường chứng tỏ là có giá trị cho mỗi nhà nước mà ông phục vụ, nhưng thiên hướng của ông tạo nên những kẻ thù mạnh khiến cho ông không duy trì vị trí nơi nào được lâu; và, đến lúc kết thúc cuộc chiến mà ông nhóm lại vào đầu những năm 410 tr.CN, uy thế chính trị của ông cũng biến mất. | Alcibiades, con trai của Clinias | Sinh năm 450 TCN, Mất năm 404 TCN, Năm 404 TCN, Năm 450 TCN, Chính khách Hy Lạp cổ đại |
Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm Córdoba (tỉnh). = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = | null | Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha |
Labinsk () là một thị trấn Krasnodar Krai, Nga, có sông Bolshaya Laba (phụ lưu Kuban) chảy qua. Labinsk nằm cách Krasnodar 145 km về phía đông nam và Armavir 50 km về phía tây nam. Dân số: 53.000 (1972). | Labinsk | |
Cynodon radiatus là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được Albrecht Wilhelm Roth mô tả khoa học đầu tiên năm 1817, được chính ông bổ sung chi tiết hơn vào năm 1821. Loài này là bản địa khu vực Nam Á, Đông Nam đại lục và hải đảo, Trung Quốc, Đài Loan, Madagascar nhưng cũng đã du nhập vào New Guinea và Australia (Lãnh thổ Bắc Úc, Queensland, Tây Úc, quần đảo Cocos (Keeling)) và Ấn Độ hải đảo (quần đảo Andaman và Nicobar). | ''Cynodon radiatus | |
Tập tin:Gorskii máy chiết xuất trà thị trấn Chakva, Gruzia. Ảnh chụp cai thầu người Hoa là Lưu Tuấn Chu (劉峻周), năm 1905. Cai thầu xây dựng, đôi khi còn gọi là cai thợ, kíp trưởng, thợ cả hay tức người đứng đầu chuyên phụ trách cả một nhóm thợ trong lĩnh vực xây dựng. Thông thường cai thầu cũng là một người thợ với nhiều năm kinh nghiệm trong một ngành nghề cụ thể nào đó, phụ trách việc tổ chức toàn bộ quá trình xây dựng của một dự án cho chủ thầu (hay bên thi công). Cai thợ điển hình là người có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực nghề nghiệp, được thăng hạng vị trí và hiện tại tập trung vào toàn bộ quá trình quản lý chuyên môn nơi làm việc. Người này có trách nhiệm cung cấp những ghi chép chính xác cho nhóm thợ của mình để họ có thể bắt tay vào công việc. Cụ thể thì cai thầu có thể đào tạo nhân công dưới sự giám sát của mình, đảm bảo khả năng sử dụng những trang thiết bị tương ứng của từng người thợ, truyền đạt quá trình xúc tiến dự án với Giám sát cũng như duy trì lịch trình làm việc của công nhân. Ngoài ra cai thầu còn thu xếp vật tư đặt tại công trường và đánh giá kế hoạch cho từng công việc xây dựng. Ta không nên nhầm lẫn với các vị trí Quản lý dự án, Giám sát dự án, Quản lý công trình Trưởng công trường, hay "Firstman". Kỹ thuật xây dựng dân dụng Tổng thầu xây dựng Chủ thầu Chủ đầu tư xây dựng Cai thầu | Cai thầu xây dựng | |
Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung (), trước đây gọi là Đại hội Thể thao Đế quốc Anh (British Empire Games, 1930-1950), Đại hội Thể thao Đế quốc Anh và Khối Thịnh vượng chung (British Empire and Commonwealth Games, 1954-1966), và Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung Anh (British Commonwealth Games, 1970-1974) là một sự kiện thể thao tổng hợp quốc tế với sự tham gia của các vận động viên đến từ các quốc gia khối Thịnh vượng chung. Sự kiện được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1930, và từ đó được tổ chức năm một lần (ngoại trừ các năm 1942 và 1946 do chiến tranh). Đây được cho là sự kiện thể thao tổng hợp lớn thứ ba trên thế giới, sau Thế vận hội và vận hội. Liên đoàn Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung (CGF) giám sát các đại hội, thể chế này cũng kiểm soát chương trình thi đấu và lựa chọn thành phố đăng cai. Mỗi kỳ đại hội có một thành phố đăng cai được lựa chọn, và có 18 thành phố tại bảy quốc gia từng tổ chức sự kiện này. Bên cạnh nhiều môn thể thao Thế vận hội, đại hội cũng bao gồm một số môn thể thao được chơi phần lớn tại các quốc gia Thịnh vượng chung, như bóng gỗ trên cỏ và bóng lưới. Có sáu đội tuyển tham dự tất cả các kỳ Đại hội là Anh, Canada, New Zealand, Scotland, Úc và Wales. Mặc dù Khối Thịnh vượng chung có 53 thành viên, song có 70 đội tuyển tham gia Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung do một số lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh, thuộc địa vương thất, và các đảo quốc tham gia dưới quốc kỳ riêng của họ. Bốn quốc gia thuộc Anh Quốc là Anh, Scotland, Wales, và Bắc Ireland cũng cử các đội tuyển riêng tham dự. Năm 1891, Nam tước Astley Cooper là người đầu tiên đề xuất một cuộc tranh tài thể thao giữa các thành viên của Đế quốc Anh, ông viết một bài trên The Times đề nghị một cuộc thi và liên hoan liên Anh Quốc liên Anh giáo tổ chức mỗi bốn năm như một cách để tăng cường thiện chí và thông hiểu tốt đẹp trong Đế quốc Anh. Năm 1911, Lễ hội Đế quốc được tổ chức tại Cung điện Thủy tinh tại Luân Đông nhằm chào mứng lễ đăng quang của Quốc vương George V. Trong thành phần của lễ hội, một giải vộ địch toàn đế quốc được tổ chức với các đội tuyển đến từ Anh Quốc, Canada, Nam Phi, Úc, trong các cuộc thi quyền Anh, đấu vật, bơi và điền kinh. Năm 1928, một người Canada là Melville Marks Robinson thỉnh cầu tổ chức Đại hội Thể thao Đế quốc Anh đầu tiên; và nó đã được tổ chức vào năm 1930 tại Hamilton, Ontario, nữ giới chỉ tham gia trong các cuộc thi bơi. Từ năm 1934, nữ giới cũng được tham gia một số cuộc thi điền kinh. • Các thành phố và năm đăng cai Kỳ Đại hội Thể thao Đế quốc Anh đầu tiên có 11 đội tuyển tham dự. Chu kỳ bốn năm tổ chức một lần của đại hội bị gián đoạn do Chiến tranh thế giới thứ hai khi các kỳ đại hội vào năm 1942 và 1946 bị bãi bỏ. Đại hội phục hồi vào năm 1950 và trong kỳ năm 1954 thì bắt đầu mang tên Đại hội Thể thao Đế quốc Anh và Khối Thịnh vượng chung. Trên 1000 vận động viên tham gia kỳ đại hội năm 1958 với hơn 30 đội tuyển lần đầu tiên tham dự. Nigeria là quốc gia đầu tiên tẩy chay Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung vào năm 1978 để phản đối New Zealand có tiếp xúc thể thao với Nam Phi. Kỳ đại hội năm 1986 bị 32 quốc gia châu Phi và Caribe tẩy chay để phản đối Thủ tướng Anh Quốc Margaret Thatcher từ chối lên án các tiếp xúc thể thao đối với Nam Phi vào năm 1985, sau Đại hội phục hồi và tiếp tục phát triển sau đó. Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung 1998 tại Kuala Lumpur, Malaysia chứng kiến số môn thể thao tăng từ 10 lên 15 khi các môn thể thao đồng đội được cho phép lần đầu tiên. Sự tham gia cũng lập kỷ lục mới với trên 3500 vận động viên đại diện cho 70 đội tuyển. Tại Đại hội tổ chức tại Melbourne vào năm 2006, trên 4000 vận động viên tham gia thi đấu. Kỳ Năm Thành phố đăng cai Quốc gia đăng cai Ngày bắt đầu Ngày kết thúc Môn thể thao Cuộc thi Quốc gia Vận động viên Đội thắng cuộc Đại hội Thể thao Đế quốc Anh Đại hội thể thao Toàn Đế quốc 1911 Luân Đôn Anh 12 tháng tháng 6? Canada 1930 Hamilton Canada 16 tháng 23 tháng 59 11 400 Anh II 1934 Luân Đôn Anh tháng 11 tháng 68 16 500 Anh III 1938 Sydney Úc tháng 12 tháng 71 15 464 Úc IV 1950 Auckland New Zealand tháng 11 tháng 88 12 590 Úc Đại hội Thể thao Đế quốc Anh và Khối Thịnh vượng chung 1954 Vancouver Canada 30 tháng tháng 91 24 662 Anh VI 1958 Cardiff Wales 18 tháng 26 tháng 94 36 1122 Anh VII 1962 Perth Úc 22 tháng 11 tháng 12 104 35 863 Úc VIII 1966 Kingston Jamaica tháng 13 tháng 110 34 1050 Anh Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung Anh IX 1970 Edinburgh Scotland 16 tháng 25 tháng 121 42 1383 Úc 1974 Christchurch New Zealand 24 tháng tháng 121 38 1276 Úc Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung XI 1978 Edmonton Canada tháng 12 tháng 10 128 46 1474 Canada XII 1982 Brisbane Úc 30 tháng tháng 10 10 142 46 1583 Úc XIII 1986 Edinburgh Scotland 24 tháng tháng 10 163 26 1662 Anh XIV 1990 Auckland New Zealand 24 tháng tháng 10 204 55 2073 Úc XV 1994 Victoria Canada 18 tháng 28 tháng 10 217 63 2557 Úc XVI 1998 Kuala Lumpur Malaysia 11 tháng 21 tháng 15 213 70 3633 Úc XVII 2002 Manchester Anh 25 tháng tháng 17 281 72 3679 Úc XVIII 2006 Melbourne Úc 15 tháng 26 tháng 16 245 71 4049 Úc XIX 2010 Delhi India tháng 10 14 tháng 10 17 272 71 6700 Úc XX 2014 Glasgow Scotland 23 tháng tháng 171 261 71 4947 Anh XXI 2018 Gold Coast Úc tháng 15 tháng Hạng Quốc gia Số kỳ tổ chức Năm tổ chức 1938, 1962, 1982, 2006, 2018 1930, 1954, 1978, 1994 1950, 1974, 1990 1970, 1986, 2014 1911, 1934, 2002 2010 1998 1966 1958 Liên đoàn Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung chấp thuận tổng cộng 21 môn thể thao và thêm môn thể thao người khuyết tật. Chúng được phân vào ba thể loại, các môn thể thao cốt yếu phải có mặt mỗi kỳ đại hội. Một số môn thể thao tùy chọn có thể được nước đăng cai lựa chọn. Các môn thể thao được công nhận là những môn được Liên đoàn chấp thuận song được xem là cần mở rộng; các nước đăng cai có thể không lựa chọn các môn này cho cho đến khi các yêu cầu của Liên đoàn được đáp ứng. Môn Thể loại Năm Bắn cung Tùy chọn 1982, 2010 Điền kinh Cốt yếu 1911-nay Cầu lông Cốt yếu 1966-nay Bóng rổ Tùy chọn 2006, 2018 Bi-a Công nhận chưa từng Quyền Anh Cốt yếu 1911-nay Bơi xuồng Công nhận chưa từng Cricket Công nhận 1998 Đua xe đạp Tùy chọn 1934-nay Nhảy cầu Tùy chọn 1930-nay Đấu kiếm Công nhận 1950–1970 Bóng đá Công nhận chưa từng Golf Công nhận chưa từng Thể dục dụng cụ Tùy chọn 1978, 1990-nay Bóng ném Công nhận 1930 Khúc côn cầu Cốt yếu 1998-nay Judo Tùy chọn 1990, 2002, 2014 Bóng gỗ trên cỏ Cốt yếu 1930-nay (trừ 1966) Cứu sinh Công nhận chưa từng Môn Thể loại Năm Bóng lưới Cốt yếu 1998-nay Chèo thuyền Tùy chọn 1930, 1938–1962, 1986 Bóng bầu dục kiểu liên minh Công nhận chưa từng Bóng bầu dục bảy người Cốt yếu 1998-nay Thuyền buồm Công nhận chưa từng Bắn súng Tùy chọn 1966, 1974-nay Bóng mềm Công nhận chưa từng Bóng quần Cốt yếu 1998-nay Bơi Cốt yếu 1911-nay Bơi đồng diễn Tùy chọn 1986, 2006 Bóng bàn Tùy chọn 2002-nay Taekwondo Tùy chọn chưa từng Quần vợt Tùy chọn 2010 Bowling 10 pin Công nhận 1998 Ba môn phối hợp Tùy chọn 2002, 2006, 2014 Bóng chuyền Công nhận chưa từng Bóng nước Công nhận 1950 Cử tạ Cốt yếu 1950-nay Đấu vật Tùy chọn 1911-nay (trừ 1990, 1998 và 2006) Chỉ sáu đội tuyển tham gia mọi kỳ Đại hội: Úc, Canada, Anh, New Zealand, Scotland và Wales. Úc giành vị trí cao nhất trong 11 kỳ đại hội, Anh bảy kỳ và Canada một kỳ. Bảng các đội tham gia theo các kỳ Đại hội Đội tuyển Kỳ Toàn Đế 1911 II III IV VI VII VIII IX XI XII XIII XIV XV XVI XVII XVIII XIX XX XXI Năm 1911 1930 1934 1938 1950 1954 1958 1962 1966 1970 1974 1978 1982 1986 1990 1994 1998 2002 2006 2010 2014 2018 Quốc kỳ Thành phố London Hamilton London Sydney Auckland Vancouver Cardiff Perth Kingston Edinburgh Christchurch Edmonton Brisbane Edinburgh Auckland Victoria Kuala Lumpur Manchester Melbourne Delhi Glasgow Gold Coast Tham gia \\ Quốc gia chủ nhà Anh Canada Anh Úc New Zealand Canada Wales Úc Jamaica Scotland New Zealand Canada Úc Scotland New Zealand Canada Malaysia Anh Úc India Scotland Úc 1962 1982, 1998– 1966–1970, 1978, 1994– 1930– 1954–1970, 1978–1982, 1990– 1978, 1990– 1954–1982, 1990– 1978, 1994– 1930–1938, 1954–1982, 1990– 1974, 1982– 1930–1938, 1954–1962 1962–1966 1990– 1958, 1990– 1998– 1930– 1978– 1938–1950, 1958–1970 1974–1978, 1986– 1978–1982, 1990– 1958–1962, 1970, 1994– 1930– 1982– 1938, 1954–1986, 1998–2006 1970–1982, 1990–2010 1958–1982, 1990– 1958– 1954 1970–1982, 1998– 1970– 1966–1970, 1978–1982, 1990– 1934, 1954–1962, 1970–1994 1934–1938, 1954–1958, 1966–1982, 1990– Ireland 1930 1934 1958– 1934, 1954–1982, 1990– 1958– 1954–1982, 1990– 1998– 1974– 1970– 1950, 1958–1962 1966–1982, 1990– 1986– 1958–1962, 1970, 1982– 1958, 1966–1982, 1990– 1994– 1998– 1994– 1990– 1930–1934 1930– 1950–1958, 1966–1974, 1982, 1990–1994, 2002– 2002– 1986– 1958–1962 1934–1938, 1954– 1954 1954–1970, 1990– 1962–1982, 1990– Rhodesia 1934–1950 1958–1962 2010– 1978 (cùng đảo Ascension và Tristan da Cunha) 1982, 1998– 1990– 1962, 1970, 1978, 1994– 1958, 1966–1978, 1994– 1998– 1958–1962 1930– 1990– 1966–1970, 1978, 1990– 1958– 1982, 1990– 1930–1958, 1994– 1966 1954 2014– 1974–1982, 1990– 1970– 1962 1966–1982, 1990– 1974, 1982, 1990– 1934–1982, 1990– 1978, 1998– 1998– 1954–1982, 1990– 1982– 1930– 1974–1994 1970–1982, 1990– 1982, 1990–2002 1962 1998– 1911 1966–1970, 1978, 1994– 1930– 1954–1970, 1978–1982, 1990– 1978, 1990– 1954–1982, 1990– 1978, 1994– 1930–1938, 1954–1982, 1990– 1974, 1982– 1930–1938, 1954–1962 1962–1966 1990– 1958, 1990– 1998– 1911– 1978– 1938–1950, 1958–1970 1974–1978, 1986– 1978–1982, 1990– 1958–1962, 1970, 1994– 1911– 1982– 1938, 1954–1986, 1998–2006 1970–1982, 1990–2010 1958–1982, 1990– 1958– 1954 1970–1982, 1998– 1970– 1966–1970, 1978–1982, 1990– 1934, 1954–1962, 1970–1994 1934–1938, 1954–1958, 1966–1982, 1990– Ireland 1930 1934 1958– 1934, 1954–1982, 1990– 1958– 1954–1982, 1990– 1998– 1974– 1970– 1950, 1958–1962 1966–1982, 1990– 1986– 1958–1962, 1970, 1982– 1958–1982, 1990– 1994– 1998– 1994– 1990– 1930–1934 1930– 1950–1958, 1966–1974, 1982, 1990–1994, 2002– 2002– 1986– 1958–1962 1934–1938, 1954– 1954 1954–1970, 1990– 1962–1982, 1990– Rhodesia 1934–1950 1958–1962 2010– 1978 (với đảo Ascension và Tristan da Cunha) 1982, 1998– 1990– 1962, 1970, 1978, 1994– 1958, 1966–1978, 1994– 1998– 1958–1962 1930– 1990– 1958, 1966–1970, 1978, 1990– 1958– 1982, 1990– 1911–1958, 1994– 1966 1954 1974–1982, 1990– 1970– 1962 1966–1982, 1990– 1974, 1982, 1990– 1934–1982, 1990– 1978, 1998– 1998– 1954–1982, 1990– 1982– 1930– 1974–1994 1970–1982, 1990– 1982, 1990–2002 Trang thông tin chính thức của Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung Thống kê từ năm 1911 đến năm 2006 | Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung | Sự kiện thể thao đa môn, Đế quốc Anh, Khối Thịnh vượng chung Anh, Giải đấu thể thao quốc tế, Khởi đầu năm 1930, Chính trị và thể thao |
là một chi bướm đêm thuộc họ Notodontidae. *Pheosia gnoma (Fabricius, 1777) *Pheosia tremula (Clerck, 1759) *Pheosia fusiformis (Matsumura) *Pheosia buddhista (Püngeler, 1899) *Pheosia albivertex (Hampson, 1893) *Pheosia rimosa Packard, 1864 (đồng nghĩa: Pheosia portlandia Hy. Edwards, 1886 *?Pheosia dimidiata 1856 Tập tin:Pheosia Tập tin:Pheosia sp. Tập tin:Pheosia sp. Pheosia at funet Thể | null | |
Harry Alcock là một cầu thủ bóng đá từng thi đấu Football League cho Walsall. Ông sinh ra Walsall, Anh. | Harry Alcock | Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá Walsall F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League, Năm sinh thiếu, Năm mất thiếu, Vận động viên Walsall |
Rana garoensis là một loài ếch trong họ Ranidae. Chúng được tìm thấy Ấn Độ và có thể cả Bangladesh. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng đất ẩm có cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. *Dutta, S., Ohler, A., Sengupta, S., Bordoloi, S. Roy, D. 2004. Rana garoensis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng năm 2007. | ''Rana garoensis | Rana, Ếch Ấn Độ, Động vật được mô tả năm 1920, Động vật Ấn Độ |
Cừu Perendale là một giống cừu được phát triển New Zealand bởi Trường Cao đẳng Nông nghiệp Massey (nay là Đại học Massey) để sử dụng chúng chăn thả trong các tình huống đồi dốc. Các giống cừu được đặt tên sau khi Sir Geoffrey Peren sử dụng nó đạt được mục tiêu của mình bằng việc cho ra đời của con đẻ của cừu cái giống cừu Romney và cừu Cheviod. Nó được nuôi chủ yếu để lấy thịt cừu. Kể từ đầu những năm 1980 các con số bầy cừu này đã giảm chủ yếu là do nuôi trên môi trường đồi núi đã giảm đi, đã có một nhu cầu thấp hơn cho len vừa thô, và vì cừu Romney hiện đại ngày càng thích nghi hơn với địa hình này. Đây là một trong những giống cừu quan trọng trong chăn nuôi cừu New Zealand. Phát triển từ cừu Cheviod và cừu Romney, các con cừu Perendale là một con cừu hai mục đích, kiêm dụng sản xuất sợi len từ 28-32 micromet (0,0011-0,0013 in) đường kính với chiều dài chủ yếu từ 125 mm (4,9 in). Cừu Perendale là giống đặc trưng cho một giống sinh sản cao, và có tiềm năng lớn để tạo ra một con chiên giống nền khi lai với cừu Merino. Là một giống thuần chủng, sức chịu đựng của nó làm cho nó lý tưởng phù hợp với khi hậu lạnh, khu vực mưa nhiều. Cừu Perendale dễ chăm sóc; những con cừu cái có chút rắc rối về trừu cái đẻ và là người mẹ tốt. Trọng lượng cơ thể trưởng thành của một con cừu đực là 220-260 pound (100–118 kg) và cừu cái là 120-150 pounds (54–68 kg) cái với đôi chân mạnh mẽ. Đường kính sợi trung bình là 29-35 micron, len lớp là 44 đến 54 s. Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê. Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô. Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô. Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít. Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn…) nên nhốt chuồng riêng có lót rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc. Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%). Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh giai đoạn này. "Perendale". Sheep Breeds O-P. Sheep101.info. Truy cập 2009-04-28. Breed Data Sheet. Domestic Animal Diversity Information System. Truy cập 2009-09-04. "Perendale". Breeds of Livestock. Oklahoma State University, Dept. of Animal Science. Truy cập 2009-04-28. Preparation of Australian Wool Clips, Code of Practice 2010-2012, Australian Wool Exchange (AWEX), 2010 "Perendale". Long Wool Breeds. American Sheep Industry Association. Truy cập 2009-04-28. Perendale Sheep Society of New Zealand | Cừu Perendale | Giống cừu |
Lịch sử tư tưởng kinh tế là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư tưởng kinh tế gồm nhiều trường phái tư tưởng kinh tế khác nhau. Các tác gia Hy Lạp cổ đại như triết gia Aristotle xem xét những tưởng về nghệ thuật đạt được sự giàu có và nêu ra câu hỏi liệu tài sản tốt nhất là nên nằm trong tay cá nhân hay công cộng. Vào thời Trung cổ, các học giả như Thomas Aquinas tranh luận rằng các doanh nghiệp có nghĩa vụ về mặt đạo đức phải bán hàng hóa mức giá công bằng. Triết gia người Scotland Adam Smith thường được trích dẫn là cha đẻ của kinh tế học hiện đại bởi tác phẩm kinh điển của ông Sự giàu có của các quốc gia. Những tưởng của ông được xây dựng dựa trên công trình của những người đi trước trong thế kỷ 18. Cuốn sách của ông xuất hiện vào thời kỳ ngay trước cuộc cách mạng công nghiệp Anh và gắn với nhiều thay đổi lớn trong nền kinh tế. Những người tiếp nối của Smith bao gồm các kinh tế gia kinh điển như linh mục Thomas Malthus, Jean-Baptiste Say, David Ricardo và John Stuart Mill. Họ tìm hiểu cách mà các giai cấp địa chủ, tư bản và người lao động sản xuất và đóng góp vào sản lượng quốc gia và mô hình hóa các ảnh hưởng của dân số và thương mại quốc tế. Tại London, Karl Marx đã nghiên cứu hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông cho rằng có bản chất là sự bóc lột giá trị thặng dư. Từ khoảng năm 1870, các kinh tế gia tân cổ điển tìm cách xây dựng kinh tế học dựa trên toán học và khoa học thống kê tách biệt ra khỏi chính trị. Sau những cuộc chiến vào đầu thế kỷ 20, John Maynard Keynes dẫn đầu một học thuyết cổ súy cho sự can thiệp của chính quyền vào các vấn đề kinh tế bằng chính sách tài khóa để kích thích nhu cầu và tăng trưởng. Khi thế giới chia rẽ giữa những nước tư bản chủ nghĩa (thế giới thứ nhất), cộng sản chủ nghĩa (thế giới thứ hai) và các nước nghèo (thế giới thứ ba), sự thống nhất thời hậu chiến cũng đổ vỡ. Những kinh tế gia như Milton Friedman và Friedrich von Hayek cảnh báo về việc chính phủ can thiệp quá nhiều và tập trung vào những học thuyết về sự thịnh vượng có thể đạt được thông qua chính sách tiền tệ và giảm bớt luật lệ cũng như can thiệp. Những chính sách Keynes bắt đầu thất thế từ những năm 1970 với sự xuất hiện của cái gọi là trường phái tân cổ điển, với những nhà lý luận chủ đạo như Robert Lucas và Edward Prescott. Những nhà kinh tế học Keynes mới phản bác lại và gây ra một cuộc tranh luận kéo dài trong kinh tế học vĩ mô. Những nhà kinh tế học phát triển như Amartya Sen và kinh tế học thông tin như Joseph Stiglitz cũng giới thiệu các tưởng mới đối với tư tưởng kinh tế. Những cuộc trao đổi sớm nhất về kinh tế học có từ thời cổ đại. Khi đó, và cho tới cuộc cách mạng công nghiệp, kinh tế học không phải là một ngành khoa học riêng rẽ mà là một bộ phận của triết học. Athens cổ đại, một xã hội dựa trên chế độ sở hữu nô lệ đồng thời với nền dân chủ thị dân, cuốn sách Nền cộng hòa của Plato đã có đề cập tới lao động và sản xuất. Nhưng học trò của ông Aristotle mới bắt đầu đưa ra những lập luận rõ ràng và quen thuộc, hiện vẫn còn được dẫn lại trong kinh tế học. Tác phẩm Chính trị học (khoảng 350 trước công nguyên) của Aristotle chủ yếu phân tích những hình thức khác nhau của nhà nước (quân chủ, quý tộc, lập hiến, độc tài, tập đoàn trị, dân chủ) như một phê bình với những ủng hộ của Plato dành cho một giai cấp thống trị bao gồm "các vị vua về triết học". Riêng với các kinh tế gia, Plato vẽ ra một xã hội dựa trên cơ sở sở hữu chung về các nguồn lực. Aristotle coi mô hình này thực chất là kiểu chính quyền tập đoàn trị đáng lên án. Trong Chính trị học, quyển hai, phần năm, ông lập luận rằng, Dù Aristotle chắc chắn cũng ủng hộ nhiều thứ phải được sở hữu chung, ông lập luận rằng mọi thứ không thể là sở hữu chung, đơn giản vì "bản chất độc ác của con người". "Rõ ràng tốt hơn là tài sản phải thuộc sở hữu tư nhân", Aristotle viết, "nhưng việc sử dụng cho mục đích chung, và một số ngành nghề đặc biệt cũng cần sự sở hữu tài sản chung mà các nhà lập pháp phải ấn định". Trong Chính trị học, quyển 1, Aristotle thảo luận về bản chất chung của hộ gia đình và trao đổi trên thị trường. Với ông, có những hoạt động nhất định thuộc về một kiểu "nghệ thuật làm giàu". Tiền bạc chỉ có mục đích duy nhất là trung gian cho sự trao đổi, nghĩa là bản chất tiền bạc "vô giá trị... không hữu ích theo nghĩa là một phương tiện cho các nhu cầu cần thiết của đời sống". Tuy nhiên, vì tính phương tiện của tiền, nhiều người bị ám ảnh bởi việc tích tụ tiền bạc. "Làm giàu" cho một hộ gia đình là việc "cần thiết và đáng vinh danh", trong khi chỉ đơn giản tích tụ tiền bạc vì sự ảm ảnh là "thiếu danh dự". Aristotle cũng là một người phản đối việc làm giàu bằng các phương tiện độc quyền. Thomas Aquinas (1225-1274) là một nhà thần học người và là một tác giả về các vấn đề kinh tế. Ông giảng dạy cả đại học Cologne và đại học Paris, và là một thành viên trong nhóm các học giả Công giáo La Mã trường phái Triết học kinh viện, những người không chỉ tranh luận về thần học, mà đưa các vấn đề sang cả địa hạt triết học và khoa học. Trong tác phẩm của ông, Summa Theologica, Aquinas nêu ra tưởng về giá cả công bằng, mà ông cho rằng cần thiết để tạo ra một xã hội trật tự. Có nhiều điểm rất giống với khái niệm hiện đại về sự cân bằng trong dài hạn, giá công bằng được coi là giá vừa đủ để bù đắp cho các chi phí sản xuất, bao gồm việc trả lương cho người lao động đủ nuôi sống bản thân và gia đình. Ông lập luận sẽ là vô đạo đức nếu người bán nâng giá đơn giản vì người mua có nhu cầu bức thiết cho một sản phẩm. Aquinas trao đổi về nhiều đề tài thông qua hình thức hỏi-đáp, trong đó có một phần đáng kể bàn luận về học thuyết của Aristotle. Những câu hỏi 77 và 78 trong Summa Theologica liên quan tới các vấn đề kinh tế, chủ yếu là giá công bằng, và sự trung thực của người bán trong việc phân phát các hàng hóa bị lỗi. Aquinas lập luận chống lại bất cứ hình thức lừa gạt nào về đề xuất phải trả đền bù đi kèm với hàng hóa bị lỗi. Trong khi luật của con người có thể không xử lý được những giao dịch bất công, những kẻ lừa gạt vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm trước Chúa, theo quan điểm của Aquinas. Một trong những nhà phê bình chính của Aquinas là Duns Scotus (1265-1308) với tác phẩm Sententiae (1295). Gốc gác Duns, Scotland, ông dạy các đại học Oxford, Cologne và Paris. Scotus cho rằng có thể tính được giá công bằng chính xác hơn so với đề xuất chỉ về mặt tưởng của Aquinas, dựa trên chi phí lao động và các chi phí khác, dù ông thừa nhận chi phí khác là khó định lượng vì người mua và người bán thường có suy nghĩ khác nhau về việc thế nào là giá công bằng. Nếu các bên tham gia không được hưởng lợi từ giao dịch, theo quan điểm của Scotus, họ sẽ không tiến hành trao đổi. Scotus cũng bênh vực các thương buôn vì họ có vai trò hữu ích và cần thiết cho xã hội, vận chuyển hàng hóa và đưa chúng đến cộng đồng. Bắt đầu từ thời kỳ suy thoái của các lãnh chúa phong kiến thời Trung cổ, những khuôn khổ mới cho kinh tế tầm mức quốc gia bắt đầu được củng cố. Từ năm 1492 với những cuộc thám hiểm như của Christopher Columbus, những cơ hội thương mại mới mở ra với Tân thế giới và châu Á. Những nhà quân chủ hùng mạnh muốn tập trung quyền lực và củng cố sự thống nhất nhà nước để tăng cường quyền lãnh đạo của họ. Chủ nghĩa trọng thương trở thành một phong trào chính trị và một học thuyết kinh tế ủng hộ việc sử dụng sức mạnh quân sự của nhà nước để giành giật các thị trường và bảo vệ những nguồn tài nguyên cướp bóc được. Những người trọng thương tin rằng thương mại quốc tế là những giao dịch có tổng bằng không. Vì tiền bạc và vàng là những nguồn duy nhất cho sự giàu có và số lượng tài nguyên có thể chia sẻ giữa các quốc gia là giới hạn. Cho nên, các loại thuế được sử dụng để khuyến khích xuất khẩu (có nghĩa là mang về nhiều tiền bạc hơn cho đất nước) và hạn chế nhập khẩu (tức là chi tiêu ra nước ngoài). Nói cách khác, phải luôn duy trì thặng dư trong cán cân thương mại. Thực ra, khái niệm chủ nghĩa trọng thương chỉ bắt đầu được sử dụng với các nghĩa đầy đủ nói trên từ cuối năm 1763 bởi Victor de Riqueti, marquis de Mirabeau, và trở nên phổ biến nhờ Adam Smith, người quyết liệt chống lại những tưởng của chủ nghĩa trọng thương. Doanh nhân người Anh Thomas Mun (1571-1641) đại diện cho chính sách trọng thương thời kỳ đầu qua cuốn sách của ông, England's Treasure by Foraign Trade (Ngân khố của nước Anh qua thương mại với nước ngoài). Dù tới năm 1664 nó mới được xuất bản, cuốn sách đã được phổ biến rộng dưới dạng bản thảo trước đó. Mun là một thành viên của Công ty Đông Ấn Anh và đã trình bày về những trải nghiệm của ông trong cuốn A Discourse of Trade from England unto the East Indies (1621, Ghi chép về thương mại từ Anh tới Đông Ấn). Theo Mun, thương mại là cách duy nhất để tăng ngân khố cho nước Anh (tức là sự giàu có của quốc gia) và để theo đuổi điều đó, ông đề xuất một số phương án hành động. Nhập khẩu cần phải tính toán kỹ để tăng lượng hàng hóa có thể xuất khẩu, tăng việc sử dụng đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác để giảm bớt nhu cầu nhập khẩu, giảm thuế xuất khẩu đánh vào các hàng hóa sản xuất nội địa từ nguyên vật liệu nước ngoài, và xuất khẩu những hàng hóa có cầu không co giãn vì có thể thu được nhiều tiền hơn với mức giá cao hơn. Philipp von Hörnigk (1640-1712, đôi khi có họ là Hornick hoặc Horneck) sinh Frankfurt am Main và trở thành nhân viên nhà nước Áo vào giai đoạn đất nước ông bị đe dọa liên tục bởi những cuộc xâm lăng của Đế chế Ottoman. Trong tác phẩm Österreich Über Alles, Wann es Nur Will (1684, Nước Áo trên tất cả, nếu muốn) ông đã nêu ra những tuyên bố rõ ràng về chính sách trọng thương. Ông liệt kê chín nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế quốc gia. Một, xử lý vấn đề đất đai canh tác của quốc gia với sự thận trọng tối đa, không để trống bất cứ khoảnh đất nào có thể canh tác. Hai, tất cả hàng hóa trong một quốc gia không thể sử dụng dạng thô cần phải được sản xuất bên trong quốc gia. Ba, cần chú tới vấn đề dân số, để dân không tăng quá mức mà đất nước có thể đáp ứng. Bốn, vàng và bạc không bao giờ được rời quốc gia trong bất cứ tình huống nào. Năm, người dân bản địa phải luôn sử dụng hàng hóa quốc nội. Sáu, hàng hóa nước ngoài phải được mua không phải bằng vàng hay bạc, mà bằng đổi hàng lấy hàng. Bảy, hàng hóa nhập khẩu phải được nhập dạng nguyên liệu thô, và chế tạo trong nước. Tám, phải ngày đêm tận dụng các cơ hội bán những hàng hóa dư thừa trong nước sản xuất được ra nước ngoài, dưới dạng hàng hóa chế tạo. Và chín, không cho phép nhập khẩu trong bất cứ tình huống nào mà nguồn cung trong nước có thể đáp ứng. Chủ nghĩa dân tộc, tinh thần tự cung tự cấp và quyền lực nhà nước là những nguyên tắc cơ bản được đề xuất từ những người theo chủ nghĩa trọng thương. ColbertJohn LockeDudley NorthDavid HumeBối cảnhBàn tay vô hìnhNhững hạn chếJeremy BenthamTập lý Say, cho rằng cung luôn bằng với cầu, không bị thách thức cho tới thế kỷ 20. Jean-Baptiste Say (1767–1832) là một người Pháp sinh Lyon. Ông đã giúp phổ biến tác phẩm của Adam Smith Pháp. Cuốn sách của ông A Treatise on Political Economy (1803, Một chuyên luận về kinh tế chính trị) bao gồm một đoạn văn ngắn sau này trở thành giáo lý cho kinh tế chính trị học tới tận cuộc Đại khủng hoảng và được biết đến là Nguyên lý Say về các thị trường. Say cho rằng không bao giờ có sự thiếu hụt lượng cầu hay tình trạng dư thừa hàng hóa trong nền kinh tế. Theo Say, mọi người sản xuất ra hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của chính họ, chứ không phải của người khác. Sản xuất vì vậy không phải là vấn đề về phía cung, mà là chỉ dấu của những người sản xuất muốn có hàng hóa. Say đồng rằng một phần thu nhập được các hộ gia đình tiết kiệm, nhưng trong dài hạn, tiết kiệm được đầu tư. Đầu tư và tiêu dùng do đó là hai nhân tố của cầu, nên sản xuất tức là cầu, nên không thể có chuyện sản xuất vượt qua mức cầu, hay nhìn chung là sẽ không có chuyện dư cung. Say lập luận tiền bạc là trung tính, vì vai trò duy nhất của nó là làm công cụ cho trao đổi, vì vậy, mọi người muốn tiền chỉ để mua hàng hóa. Say cho rằng "tiền là một thứ che đậy bên ngoài". Tổng kết hai tưởng đó, Say cho rằng "hàng hóa được dùng để đổi hàng hóa". Cùng lắm thì sẽ có những lĩnh vực kinh tế khác nhau trong đó cầu không được đáp ứng. Nhưng qua thời gian cung sẽ chuyển dịch, các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh sản xuất và thị trường sẽ tự điều chỉnh. Một ví dụ của tình trạng thừa cung là thất nghiệp, nói cách khác, có quá nhiều cung người lao động, và quá ít việc làm. Nguyên lý Say nói điều đó đồng nghĩa với việc có tình trạng mức cầu cho các sản phẩm khác vượt quá mức cân bằng và thị trường sẽ tự điều chỉnh. Như vậy, tiền đề của nguyên lý này là giá cả hàng hóa sẽ được điều chỉnh nếu lượng cung và lượng cầu hàng hóa không cân bằng. Nếu lượng cung vượt quá lượng cầu (dư cung), thì nhất định giá cả hàng hóa sẽ giảm. Lượng cầu hàng hóa nhờ thế sẽ tăng lên, khiến cho lượng cung và lượng cầu trở nên cân bằng. Từ đó suy ra, để nền kinh tế quốc gia có thể trở nên giàu có hơn, thì chỉ cần đẩy mạnh sản xuất (tăng tổng cung). Nguyên lý Say trở thành nền tảng cho lý thuyết kinh tế tới tận những năm 1930 và được dịch sang tiếng Anh lần đầu bởi James Mill. Sau đó nó nhận được sự ủng hộ từ David Ricardo, Henry Thornton và John Stuart Mill. Tuy nhiên, hai nhà kinh tế chính trị khác, Thomas Malthus và Sismondi tỏ ra không thật sự tin nguyên lý này. Tập tin:Thomas Malthus cảnh báo các nhà làm luật về các hệ quả của những chính sách giảm nghèo. Thomas Malthus (1766–1834) là một bộ trưởng của Đảng bảo thủ trong Quốc hội Anh. Trái ngược với Jeremy Bentham, ông tin rằng chính quyền phải tránh xa các vấn đề của xã hội. Malthus dành chương cuối cuốn sách của ông Principles of Political Economy (1820, Các nguyên lý kinh tế chính trị) để phán bác Nguyên lý Say và tranh luận rằng nền kinh tế có thể trì trệ nếu không có được "mức cầu hiệu quả". Nói cách khác, nếu tiền lương thấp hơn tổng chi phí sản xuất, thì tiền lương đó không thể mua hết các sản phẩm đầu ra của các ngành sản xuất, khiến giá cả giảm xuống. Giá giảm làm xói mòn động cơ đầu tư và vòng xoáy đó có thể cứ tiếp diễn không ngừng. Tuy nhiên, Malthus nổi tiếng hơn với tác phẩm trước đó của ông, An Essay on the Principle of Population (Tiểu luận về nguyên tắc của dân số). Tác phẩm này tranh luận sự can thiệp của nhà nước là không thể vì hai nguyên nhân. "Thực phẩm là cần thiết cho sự tồn tại của con người ", Malthus viết. "Cảm xúc và mong muốn truyền lại nòi giống giữa hai giới tính là cần thiết và sẽ được duy trì gần như tình trạng hiện tại", có nghĩa là "sức gia tăng dân số chắc chắn lớn hơn khả năng mà Trái Đất có thể cung cấp cho sự tồn tại của loài người." Tuy nhiên, tình trạng gia tăng dân số được kiểm soát bởi các thiên họa và nhân họa. Tăng lương cho số đông có thể gây ra vấn đề tăng dân số, gây căng thẳng cho nguồn cung của Trái Đất và dẫn tới những thiên tai và nhân họa để điều chỉnh lại dân số như ban đầu. Tập tin:Portrait of David Ricardo by Thomas nổi tiếng với quy luật của lợi thế so sánh. David Ricardo (1772–1823) sinh London. Năm 26 tuổi, ông đã là một nhà buôn chứng khoán giàu có và mua cho mình một ghế nghị sĩ Ireland để làm bước đệm bước vào Hạ viện Anh. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ricardo là Principles of Political Economy and Taxation (Những nguyên lý về kinh tế chính trị và thuế khóa). Tác phẩm bao gồm những chỉ trích của ông với các rào cản thương mại quốc tế và sự mô tả về cách thức phân phối thu nhập trong dân số. Ricardo phân biệt giữa người làm công ăn lương, những người nhận một mức lương cố định mức đủ để họ sống sót; với chủ đất, tức những người thu tô; và những nhà tư bản, những người nắm giữ vốn tư bản và tạo ra lợi nhuận, tức là phần thu nhập dôi dư ra của một xã hội. Nếu dân số tăng, sẽ phải có thêm đất canh tác, những phần đất sẽ có độ màu mỡ kém hơn những vùng đất đã được canh tác rồi, vì quy luật sản lượng giảm dần. Do đó, chí phí sản xuất lúa mì sẽ tăng, và giá lúa mì sẽ tăng: Phần địa tô sẽ tăng, lương cũng sẽ phải điều chỉnh theo các mức tăng giá đó để cho phép người làm công sống sót được. Lợi nhuận vì thế giảm xuống, cho tới khi các nhà tư bản không thể đầu tư nữa. Vì vậy, Ricardo kết luận nền kinh tế sẽ hướng tới một tình trạng trì trệ. Để can thiệp vào tình trạng trì trệ này, Ricardo ủng hộ thúc đẩy thương mại quốc tế để nhập khẩu lúa mì giá thấp để đối phó với các chủ đất muốn tăng địa tô. Các đạo luật về ngũ cốc Anh được thông qua năm 1815 thiết lập nên hệ thống thế khóa hết sức phiền phức nhằm ổn định giá lúa mì thị trường trong nước. Ricardo tranh luận rằng tăng thuế nhập khẩu, dù với mục tiêu tưởng chừng là vì lợi ích của người nông dân trong nước, chỉ khiến giá cả tăng lên, và phần đó sẽ trở thành địa tô rơi vào túi các chủ đất, chứ người nông dân thực chất không được hưởng gì. Hơn nữa, thêm lao động được tuyển dụng trong ngành sản xuất lúa mì đồng nghĩa với việc làm tăng chi phí lương các ngành khác và do đó làm giảm xuất khẩu và lợi nhuận từ các ngành xuất khẩu. Kinh tế học với Ricardo là mối quan hệ giữa "ba nhân tố sản xuất": đất đai, lao động và vốn. Ricardo sử dụng toán học để thuyết minh rằng lợi ích từ thương mại có thể lớn hơn những lợi ích của chính sách bảo hộ. tưởng về lợi thế so sánh cho rằng ngay cả nếu một nước bị bất lợi trong việc sản xuất ra các hàng hóa so với một nước khác, nước đó vẫn có thể hưởng lợi từ việc mở cửa biên giới vì dòng hàng hóa vào được sản xuất rẻ hơn so với sản xuất trong nước, tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng trong nước. Theo Ricardo, khái niệm này sẽ dẫn tới chuyển dịch về giá cả, dần dần cho phép nước Anh sản xuất những hàng hóa mà nước này có lợi thể so sánh cao nhất. Tập Stuart Mill chịu ảnh hưởng từ Jeremy Bentham và là tác giả của sách giáo khoa kinh tế học phổ biến nhất thời của ông. John Stuart Mill (1806–1873) là một nhân vật hàng đầu trong dòng tư duy kinh tế chính trị thời của ông. Ông là nghị sĩ Anh đại diện khu vực Westminster và còn là một triết gia chính trị hàng đầu. Từ nhỏ Mill đã có tố chất thiên tài. Ông đọc triết học Hy Lạp cổ đại lúc ba tuổi và theo đuổi sự nghiệp học hành rất tích cực nhờ người cha James Mill. Jeremy Bentham là thầy dạy của ông và là một người bạn của gia đình. Mill còn chịu ảnh hưởng lớn từ David Ricardo. Cuốn đầu tiên trong bộ sách giáo khoa của Mill, in năm 1848 với tựa đề Principles of Political Economy (Những nguyên lý kinh tế chính trị) là một tác phẩm tổng kết các tri thức về kinh tế của giai đoạn giữa thế kỷ 19. Principles of Political Economy được sử dụng làm sách giáo khoa cơ bản trong hầu hết các trường đại học cho tới đầu thế kỷ 20. Về vấn đề tăng trưởng kinh tế, Mill tìm kiếm một lập trường trung lập giữa quan điểm của Adam Smith về việc mở rộng các cơ hội cho thương mại và sáng tạo công nghệ với quan điểm của Thomas Malthus về những giới hạn của gia tăng dân số. Trong cuốn sách thứ tư, Mill vạch ra một số viễn cảnh tương lai, thay vì dự đoán riêng một kết cục nào đó. Kịch bản thứ nhất theo thuyết Malthus cho rằng dân số tăng nhanh hơn khả năng cung cấp của Trái Đất, dẫn tới lương giảm và lợi nhuận tăng. Kịch bản thứ hai, theo Smith, vốn tư bản được tích tụ nhanh hơn mức tăng danh số nên tiền lương thực tế sẽ tăng. Kịch bản thứ ba phản ánh quan điểm của Ricardo, rằng nếu tích tụ tư bản và dân số tăng cùng mức, công nghệ ổn định, sẽ không có thay đổi nào trong tiền lương thực tế vì cung và cầu cho lao động sẽ vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, dân số gia tăng sẽ cần sử dụng đất nhiều hơn, tăng chi phí sản xuất lương thực và do đó làm giảm lợi nhuận. Kịch bản thứ tư là công nghệ tiến bộ nhanh hơn so với tích tụ tư bản và mức tăng dân số. Kết quả sẽ là một nền kinh tế thịnh vượng. Mill cho rằng kịch bản thứ ba là dễ xảy ra nhất, và ông giả định tiến bộ công nghệ đến mức nào đó sẽ phải kết thúc. Nhưng về triển vọng tăng trưởng kinh tế, Mill ít đề cập rõ ràng hơn. Mill cũng được ghi nhận là người đầu tiên nói về cung và cầu như một mối quan hệ chứ không chỉ là số lượng hàng hóa trên thị trường, khái niệm về chi phí cơ hội và phản bác lại học thuyết về quan hệ giữa tiền lương và tư bản trong tương quan với dân số. Tập tin:Marx Marx đưa ra những phê bình trọng yếu với kinh tế học cổ điển dựa trên học thuyết giá trị lao động. Giống như cụm từ "chủ nghĩa trọng thương" chỉ trở nên nổi tiếng bởi những người chỉ trích nó, như Adam Smith, cụm từ "chủ nghĩa tư bản" được sử dụng bởi những người chỉ trích, đáng kể nhất là Karl Marx. Karl Marx (1818–1883) đã là, và trên nhiều phương diện vẫn đang là nhà kinh tế học trụ cột của kinh tế học xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp học thuyết chính trị của ông, được trình bày trong Tuyên ngôn Cộng sản và chủ nghĩa duy vật biện chứng được tạo cảm hứng từ Friedrich Hegel mang tới những phê bình mang tính cách mạng với chủ nghĩa tư bản theo đánh giá của Marx trong thế kỷ 19. Phong trào xã hội chủ nghĩa mà ông tham gia xuất hiện như lời đáp lại tình trạng cùng khổ của người công nhân trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa và kinh tế học cổ điển đi kèm với cuộc cách mạng công nghiệp đó. Marx viết kiệt tác Tư bản luận tại thư viện của Bảo tàng quốc gia Anh. Tập tin:Engels với Marx, Friedrich Engels là đồng tác giả Tuyên ngôn cộng sản và tập hai của Tư bản luận. Robert Owen (1771–1858) là nhà công nghiệp đầu tiên quyết tâm cải thiện điều kiện sống của người công nhân. Ông mua các nhà máy dệt New Lanark, Scotland, nơi ông cấm trẻ em dưới 10 tuổi làm việc, ấn định thời gian làm việc từ giờ sáng tới giờ tối và cung cấp các lớp học ban đêm cho trẻ em khi các em làm xong việc. Những biện pháp nhỏ giọt đó vẫn giúp cải thiện đáng kể đời sống người lao động và việc kinh doanh của ông phát đạt nhờ năng suất cao hơn, dù tiền lương ông trả thấp hơn mức trung bình trên cả nước lúc đó. Ông trình bày nhãn quan của mình trong tác phẩm The New View of Society (1816, Quan điểm mới về xã hội) trong giai đoạn thông qua đạo luật về nhà máy đảo Anh, nhưng rốt cuộc nỗ lực xây dựng một cộng đồng utopia (xã hội tốt đẹp không tưởng) mới của ông New Harmony, Indiana kết thúc trong thất bại. Một trong những người khác có ảnh hưởng lớn tới Marx là nhà xã hội chủ nghĩa/vô chính phủ người Pháp Pierre-Joseph Proudhon. Phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản và muốn thay thế bằng liên đoàn các công nhân lao động, nhưng Proudhon cũng phản đối những nhà xã hội chủ nghĩa đương thời muốn tập trung hóa các hiệp hội do nhà nước điều hành. Trong tác phẩm Hệ thống của những mâu thuẫn kinh tế (1846), Proudhon chỉ trích nhiều mặt của chủ nghĩa tư bản, phân tích các tác động trái ngược của việc cơ giới hóa, cạnh tranh, quyền tư hữu tài sản, độc quyền và các khía cạnh khác của nền kinh tế. Thay vì chủ nghĩa tư bản, ông muốn một hệ thống cùng có lợi "dựa trên sự bình đẳng, nói cách khác, sự tổ chức của lao động trong đó vô hiệu hóa kinh tế chính trị và chấm dứt quyền tư hữu." Trong cuốn sách Quyền tư hữu là gì? (1840), ông lập luận rằng quyền tư hữu chẳng khác gì hành vi ăn cắp, một quan điểm khác với kinh tế gia cổ điển John Stuart Mill, người cho rằng "đánh thuế mới là ăn cáp ". Tuy nhiên, vào cuối đời, Proudhon thay đổi một số quan điểm trước kia của ông. Trong tác phẩm được xuất bản sau khi đã qua đời Học thuyết về quyền tư hữu, ông lập luận rằng "quyền tư hữu là quyền lực duy nhất có thể trở thành đối trọng với quyền lực nhà nước." Friedrich Engels, một tác giả có tư duy cấp tiến, đã xuất bản cuốn sách với nhan đề Tình cảnh giai cấp công nhân Anh năm 1844 mô tả địa vị của người lao động làm công ăn lương "là số phận bi đát nhất không thể che giấu trong những đau khổ của đời sống xã hội thời đại chúng ta." Sau khi Marx qua đời, Engels là người hoàn tất tập hai cuốn Tư bản luận từ những ghi chú của Marx. Tập Zürich Das Kapital Marx bìa lần in thứ nhất của cuốn Tư bản luận bằng tiếng Đức. Karl Marx bắt đầu cuốn Tư bản luận với khái niệm về hàng hóa.Trước các xã hội tư bản chủ nghĩa, theo Marx, là hình thái sản xuất dựa trên lao động nô lệ (chẳng hạn như xã hội La Mã cổ đại) trước khi chuyển sang chế độ nông nô phong kiến (chẳng hạn như châu Âu Trung cổ). Khi xã hội tiến bộ hơn, các mối quan hệ kinh tế lỏng lẻo hơn, nhưng dòng chảy lao động dễ dàng hơn cũng dẫn tới tình trạng bất ổn và đời sống khó khăn cho người lao động, tạo những điều kiện cho cách mạng. Mọi người mua và bán sức lao động giống như cách họ mua hàng hóa và dịch vụ. Con người do đó cũng là một thứ hàng hóa thông qua sức lao động, như ông viết trong Tuyên ngôn Cộng sản, Cũng từ trang đầu của cuốn Tư bản luận, Cách sử dụng từ "hàng hóa" của Marx gắn với cuộc tranh luận siêu hình học về bản chất của cải vật chất, làm sao để đạt được của cải và nên sử dụng của cải như thế nào. Khái niệm một hàng hóa đối lập với khái niệm về sự vật trong thế giới tự nhiên. Khi một người sử dụng lao động đối với một sự vật, nó trở thành "hàng hóa". Trong thế giới tự nhiên có cây cối, kim cương, quặng sắt và con người. Trong thế giới kinh tế học chúng trở thành bàn ghế, nhẫn, các nhà máy và người lao động. Tuy nhiên, theo Marx, hàng hóa có hai bản chất, hai giá trị. Ông phân biệt giá trị sử dụng với giá trị trao đổi của hàng hóa. Giá trị sử dụng của hàng hóa có nguồn gốc từ hàm lượng lao động sản xuất ra nó, theo Marx, theo như các nhà kinh tế học cổ điển trong học thuyết giá trị lao động. Tuy nhiên, Marx không tin rằng lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng của hàng hóa. Ông tin rằng giá trị có thể xuất phát từ các hàng hóa tự nhiên và định nghĩa lại giá trị sử dụng của hàng hóa là "thời gian lao động xã hội cần thiết" (thời gian mà người lao động cần để sản xuất ra hàng hóa). Hơn nữa, con người thường có khuynh hướng đánh giá cao giá trị của một số thứ, chẳng hạn vì sự sùng bái hàng hóa đối với kim cương, một mối quan hệ có tính áp bức đối với việc sản xuất hàng hóa này xuất hiện. Hai nhân tố này khiến cho giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của hàng hóa là rất khác nhau. Một mối quan hệ áp bức, theo Marx, xuất hiện trong cả việc sử dụng và trao đổi lao động, trong những mặc cả về lượng lao động-tiền lương xuất phát từ thực tế là người chủ lao động trả cho người làm công của họ số tiền tương ứng với "giá trị trao đổi" thấp hơn nhiều so với "giá trị sử dụng" thực sự của sức lao động. Sự khác biệt này tạo ra lợi nhuận cho các nhà tư bản, hay theo thuật ngữ của Marx, giá trị thặng dư. Vì vậy, Marx tuyên bố, chủ nghĩa tư bản là một hệ thống bóc lộc. Marx giải thích cho tình trạng bùng nổ rồi suy thoái của nền kinh tế, như cuộc khủng hoảng 1873, là do tính bất ổn mãn tính trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Công trình của Marx làm thay đổi hoàn toàn học thuyết giá trị lao động mà các kinh tế gia cổ điển từng sử dụng. Sự châm biếm cay đắng của ông đi xa tới mức đặt câu hỏi về thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chính lao động (tức là người lao động). Marx trả lời rằng giá trị này chỉ mức tối thiểu đủ để người lao động sống sót để tái tạo các kỹ năng cần thiết cho nền kinh tế. Người lao động do đó bị tách rời khỏi thành quả của sản xuất và các phương tiện để họ nhận ra tiềm năng thực sự của mình, vì họ vào vị thế bị áp bức trên thị trường lao động. Nhưng cùng lúc với tình trạng bóc lột và tách người lao động khỏi thành quả lao động của họ, mới có thể diễn ra sự tích lũy tư bản và tăng trưởng kinh tế. Người chủ lao động chịu sức ép cạnh tranh liên tục từ thị trường yêu cầu họ phải bóc lột lao động nhiều hơn, và những giới hạn trong việc đầu tư vào các công nghệ thay thế lao động giản đơn (như các dây chuyền robot). Điều này làm tăng lợi nhuận và thúc đẩy tăng trưởng, nhưng lợi nhuận rơi vào những người có quyền tư hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp lao động trong khi đó đối mặt với tình trạng bị bần cùng hóa liên tục vì bị tước đoạt các sản phẩm do lao động của họ làm ra, do bị tách rời với tư liệu sản xuất. Thêm vào đó là việc thất nghiệp vì sự xuất hiện của máy móc, họ trở thành đội quân thất nghiệp dự bị ngày càng tăng lên, gây ra áp lực giảm tiền lương và ngày càng nhiều người lao động tuyệt vọng sẽ nhận việc làm với mức lương thấp hơn. Nhưng điều này cũng làm giảm mức cầu vì sức mua sẽ giảm do tiền lương giảm, gây ra tình trạng khủng hoảng thừa, sản xuất sẽ bị cắt giảm, lợi nhuận giảm xuống cho tới khi tích lũy tư bản dừng lại vì một cuộc suy thoái kinh tế. Khi cuộc khủng hoảng thừa kết thúc, nền kinh tế lại bắt đầu tăng trưởng và bắt đầu chu kỳ bùng nổ tiếp theo. Với mỗi chu kỳ kinh tế như thế, đi kèm các cuộc khủng hoảng của kinh tế tư bản chủ nghĩa, theo Marx, xung đột về mặt giai cấp giữa các tầng lớp tư bản ngày càng giàu và người lao động ngày càng nghèo sẽ tăng lên. Hơn nữa, các công ty nhỏ bị các công ty lớn thôn tín trong các chu kỳ kinh doanh, và quyền lực kinh tế ngày càng tập trung vào một số ít người. Rốt cuộc, điều này sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo để hình thành nên một xã hội không giai cấp. Marx không bao giờ đề cập đến việc quá trình này diễn ra ra sao. Đóng góp chính của ông không phải là việc một xã hội mới sẽ như thế nào, mà là sự phê bình với xã hội đương thời mà ông chứng kiến. Tập một cuốn Tư bản luận là phần duy nhất mà Marx tự ông xuất bản. Tập hai và ba được hoàn thành với sự giúp đỡ của Friedrich Engels và Karl Kautsky, một người bạn của Engels và cũng là người đóng góp chính cho việc xuất bản tập bốn. Marx bắt đầu cho một truyền thống các nhà kinh tế học tập trung một cách tương xứng vào những vấn đề chính trị, ngoài vấn đề kinh tế. Cũng Đức, Rosa Luxemburg là một thành viên của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, sau này trở thành thành viên Đảng Cộng sản Đức vì lập trường của đảng này trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Beatrice Webb Anh cũng là một nhà xã hội chủ nghĩa đã góp phần xây dựng cả Trường Kinh tế London lẫn Hội Fabian. Những năm 1860 xảy ra một cuộc cách mạng với kinh tế học. Các tưởng mới thuộc về trường phái học thuyết về cận biên. Cùng thời và viết độc lập với nhau, một người Pháp (Léon Walras), một người Áo (Carl Menger) và một người Anh (William Stanley Jevons) cùng phát triển học thuyết này, với một số dị bản. Thay vì giá cả hàng hóa và dịch vụ phản ánh lao động làm ra nó, giá cả phản ánh lợi ích cận biên của lần mua cuối cùng. Điều này có nghĩa là trạng thái cân bằng, sự ưa thích của người tiêu dùng với hàng hóa quyết định giá cả của nó, bao gồm một cách gián tiếp, giá của lao động. Dòng tư duy này không thống nhất, và có ba trường phái chính độc lập với nhau. Trường phái Lausanne với hai đại diện chính là Walras và Vilfredo Pareto, phát triển các học thuyết về cân bằng tổng quát và hiệu quả Pareto. Tác phẩm chính của trường phái này là của Walras: Elements of Pure Economics (Những yếu tố của kinh tế học thuần túy). Trường phái Cambridge xuất hiện với tác phẩm cả Jevons: Theory of Political Economy (1871, Học thuyết kinh tế chính trị). Trường phái Anh này phát triển học thuyết về cân bằng từng phần và nhấn mạnh thị trường tự do có thể thất bại. Những đại diện chính là Alfred Marshall, Stanley Jevons và Arthur Cecil Pigou. Trường phái Áo do Menger, kinh tế gia người Áo, Eugen von Böhm-Bawerk và Friedrich von Wieser đại diện. Họ phát triển học thuyết về tư bản và tìm cách giải thích các cuộc khủng hoảng kinh tế. Trường phái này nổi lên với tác phẩm của Menger: Principles of Economics (1871, Những nguyên lý của kinh tế học). Tập tin:PSM V11 D660 William Stanley Stanley Jevons giúp phổ biến học thuyết về độ thỏa dụng biên. Carl Menger (1840–1921), một kinh tế gia trường phái Áo, tuyên bố nguyên tắc cơ bản của thỏa dụng biên trong tác phẩm Grundsätze der (1871, Những nguyên lý của kinh tế học). Người tiêu dùng hành động duy lý bằng cách tối đa hóa độ thỏa mãn tất cả các sở thích của họ. Họ phân phối chi tiêu theo cách đơn vị cuối cùng của một hàng hóa mà họ mua tạo ra sự hài lòng lớn nhất còn có thể. Stanley Jevons (1835–1882) là cộng sự người Anh của Menger, sau này sẽ trở thành trợ giảng rồi giáo sư tại Đại học Owens, Manchester và Đại học Tổng hợp London. Ông nhấn mạnh trong Theory of Political Economy (1871, Học thuyết về kinh tế chính trị) rằng mức biên, sự hài lòng với một hàng hóa và dịch vụ sẽ giảm xuống. Một ví dụ của quy luật độ thỏa dụng giảm dần là với mỗi quả cam mà một người ăn, họ sẽ ít thấy nó mang lại sự hài lòng hơn so với quả cam trước đó (cho tới khi người đó không thể ăn cam nữa). Rồi Léon Walras (1834–1910), một lần nữa cũng làm việc độc lập, tổng quát hóa học thuyết này đối với nền kinh tế trong Elements of Pure Economics (1874, Những nhân tố của kinh tế thuần túy). Những thay đổi nhỏ trong sở thích của mọi người, chẳng hạn việc chuyển từ thịt bò sang nấm, sẽ dẫn tới giá nấm tăng và giá thịt bò giảm. Điều này khiến người sản xuất dịch chuyển sản xuất, tăng đầu tư vào nấm, tăng cung trên thị trường và đạt tới một mức cân bằng mới giữa các sản phẩm, chẳng hạn như giảm giá nấm xuống mức đâu đó giữa hai mức ban đầu. Với nhiều sản phẩm khác trong nền kinh tế, mọi việc cũng sẽ xảy ra như thế, nếu giả định rằng thị trường là cạnh tranh, mọi người lựa chọn duy lý và không có chi phí trong việc chuyển đổi sở thích và sản xuất. Những cố gắng ban đầu để giải thích các cuộc khủng hoảng theo chu kỳ, mà Karl Marx đã nói đến trước đó, không thành công. Sau khi tìm ra một tương quan về mặt thống kê giữa những vết đen Mặt Trời và các chu kỳ kinh doanh vào thời điểm nhiều người tin rằng các vết đen Mặt trời ảnh hưởng tới thời tiết do đó làm ảnh hưởng tới sản lượng nộng nghiệp, Stanley Jevons viết, Tập tin:Alfred Marshall viết sách giáo khoa kinh tế được dùng thay cho sách của John Stuart Mill, Principles of Economics (1882, Những nguyên lý của kinh tế học) Vilfredo Pareto (1848–1923) là một nhà kinh tế người nổi tiếng với việc phát triển khái niệm về nền kinh tế cho phép tối đa hóa độ thỏa dụng của mỗi cá nhân, nhờ vào độ co giãn về độ thỏa dụng của những người khác thông qua sản xuất và trao đổi. Kết quả là hiệu quả Pareto. Pareto phân tích về mặt toán học đối với sự phân bổ nguồn lực như thế, đáng chú là thông qua việc phân bổ thu nhập trong nền kinh tế. Pareto (1897). Cours d'économie politique, v. 2. Pareto (1906 1971). Manual of Political Economy, ch. 6, Mathematical Appendix, sect. 145-52. Translation of French edition from 1927. Alfred Marshall cũng được ghi nhận đặt kinh tế học trên một cơ sở toán học vững chắc hơn. Ông là giáo sư đầu tiên về kinh tế học Đại học Cambridge và tác phẩm của ông, Những nguyên lý kinh tế học trùng hợp với việc chuyển tên gọi của ngành nghiên cứu này từ kinh tế chính trị sang cách gọi được ông ưa thích hơn, kinh tế học. Ông coi toán học là cách đơn giản để giải thích kinh tế học, dù có quan điểm thận trọng, thông qua một lá thư ông gửi cho học trò của mình, Arthur Cecil Pigou. Nổi lên sau cuộc cách mạng về cận biên, Marshall tập trung vào việc phê phán học thuyết giá trị lao động cổ điển, vốn tập trung vào phía cung của thị trường, trong khi các học thuyết về cận biên tập trung vào người tiêu dùng, tức phía cầu. Những trình bày bằng đồ thị của Marshall chính là những đồ thị cung-cầu sau này trở nên hết sức phổ biến trong kinh tế học. Ông nhấn mạnh rằng giao của cả cung và cầu là mức giá cân bằng trong một thị trường cạnh tranh. Về dài hạn, theo Marshall, chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa và dịch vụ có khuynh hướng giảm về điểm thấp nhất nếu như sản xuất cứ được tiếp tục. Arthur Cecil Pigou trong tác phẩm Wealth and Welfare (1920, Sự giàu có và phúc lợi), thì khẳng định có tồn tại thất bại thị trường. Các thị trường không hiệu quả vì các ngoại tác kinh tế và nhà nước phải can thiệp. Tuy nhiên, Pigou vẫn duy trì sự tin tưởng thị trường tự do, và năm 1933, giữa cuộc khủng hoảng kinh tế, ông giải thích trong The Theory of Unemployment (Nguyên lý về thất nghiệp) rằng sự can thiệp thái quá từ nhà nước và thị trường lao động là lý do thực sự dẫn tới tình trạng thất nghiệp hàng loạt, vì chính quyền thiết lập mức lương tối thiểu, khiến cho lương không thể tự điều chỉnh. Đây sẽ là điểm tập trung bị tấn công từ John Maynard Keynes sau này. Carl Menger, người sáng lập trường phái Áo trong kinh tế học. Trong khi giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 là thời kỳ các kinh tế gia sử dụng toán học chiếm ưu thế, những người thừa kế tư tưởng của Carl Menger, với truyền thống từ Eugen von Böhm-Bawerk, đi theo con đường khác, cổ súy việc sử dụng suy diễn logic. Nhóm này chính là trường phái Áo, phản ánh việc nhiều người sáng lập là các nhà kinh tế người Áo. Thorstein Veblen vào năm 1900, trong tác phẩm Những khái niệm cơ bản của khoa học kinh tế, đối lập những người theo chủ nghĩa cận biên tân cổ điển, tức theo bước Alfred Marshall, với những triết thuyết của trường phái Áo. Joseph Alois Schumpeter (1883–1950) là một kinh tế gia và khoa học gia người Áo nổi tiếng bởi các tác phẩm của ông về chu kỳ kinh doanh và sáng tạo công nghệ. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của các doanh nhân trong một nền kinh tế. Trong tác phẩm Các chu kỳ kinh doanh: Một phân tích lý thuyết, lịch sử và thống kê về tiến trình của chủ nghĩa tư bản (1939), Schumpeter đưa ra một tổng hợp các lý thuyết về các chu kỳ kinh doanh. Ông cho rằng những chu kỳ này có thể giải thích tình trạng của nền kinh tế. Theo Schumpeter, chủ nghĩa tư bản nhất thiết trải qua các chu kỳ dài hạn, vì nó phụ thuộc hoàn toàn vào các phát minh và sáng tạo khoa học. Kinh tế có thể tăng trưởng là nhờ vào các phát minh và sáng tạo cộng nghệ, bởi các phát minh làm tăng sản lượng và khuyến khích các doanh nhân đầu tư. Tuy nhiên, khi các nhà đầu tư không còn có hội đầu tư nữa, nền kinh tế lâm vào suy thoái, một số công ty đổ vỡ, đóng cửa và phá sản. Giai đoạn này kéo dài cho tới khi những sáng tạo công nghệ mới tạo ra quá trình phá hủy sáng tạo, phá hủy những sản phẩm cũ, giảm việc làm, nhưng cho phép nền kinh tế bắt đầu một giai đoạn tăng trưởng mới, dựa trên các sản phẩm mới và những yếu tố sản xuất mới. Ludwig von Mises (1881–1973) là nhân vật trung tâm của trường phái Áo. Trong tiểu luận của ông về kinh tế học, Hành vi con người, Mises giới thiệu môn hành vi học, "khoa học về hành vi con người", như một nền tảng mang tính khái niệm chung với các khoa học xã hội. Hành vi học coi kinh tế học là hàng loạt các trao đổi tự nguyện làm tăng sự hài lòng của các bên liên quan. Mises cũng tranh luận rằng chủ nghĩa xã hội gặp phải vấn đề không thể giải quyết được về tính toán kinh tế, mà theo ông, chỉ có thể giải quyết thông qua các cơ chế giá cả của thị trường tự do. Những chỉ trích lớn tiếng của Mises với chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng lớn tới tư duy kinh tế học của Friedrich von Hayek (1899–1992), người ban đầu cũng có cảm tình với chủ nghĩa xã hội, nhưng sau đó trở thành một trong những nhà phê bình gay gắt nhất với chủ nghĩa tập thể trong thế kỷ 20. Phản ánh lại quan điểm của Adam Smith về "hệ thống tự do tự nhiên", Hayek lập luận rằng thị trường là một "trật tự ngẫu nhiên" và tích cực phản đối quan điểm về "công bằng xã hội". Hayek tin rằng mọi hình thức của chủ nghĩa tập thể (thậm chí cả những hình thức trên lý thuyết là dựa vào sự hợp tác tự nguyện) chỉ có thể duy trì bằng tình trạng tập quyền cao độ. Trong cuốn sách của ông, Đường tới nô dịch (1944) và các tác phẩm sau đó, Hayek tuyên bố chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và sự kế hoạch hóa đó có thể trở thành chủ nghĩa toàn trị. Hayek tin rằng nền văn minh ra đời chính là nhờ tư hữu về tài sản. Ông trình bày điều này trong cuốn sách của ông Thói tự phụ chết người (1988). Theo ông, các tín hiệu giá cả là phương tiện duy nhất cho phép mỗi bên ra quyết định trong nền kinh tế trao đổi với nhau các thông tin hiểu ngầm và thông tin phân tán, để giải quyết vấn đề về tính toán kinh tế. Cùng với người đồng thời Gunnar Myrdal, Hayek được trao giải Nobel năm 1974. Xây dựng khái niệm trật tự ngẫu nhiên cho trường phái Áo, ủng hộ thị trường tự do trên cơ sở số nhân tiền tệ và lên án kế hoạch hóa tập trung, Murray Rothbard (1926–1995) thúc đẩy việc hủy bỏ kiểm soát cưỡng ép của chính quyền với xã hội và nền kinh tế. Ông coi quyền lực độc quyền của nhà nước là đe dọa lớn nhất với tự do và sự thịnh vượng trong dài hạn của xã hội loài người, ông gọi nhà nước là "tổ chức của những kẻ ăn cướp trắng trợn có hệ thống" và là nơi hội tụ của những cá nhân vô đạo đức nhất, tham lam nhất và vô liêm sỉ nhất trong bất cứ xã hội nào. Alfred Marshall vẫn đang hoàn tất những xem xét cuối cùng với tác phẩm Những nguyên lý kinh tế học của ông thì Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918) bùng nổ. Bối cảnh đầy tự tin khi bước vào thế kỷ 20 nhanh chóng tan vỡ trên những chiến hào khi thế giới văn minh tự cắn xé nhau. Trong bốn năm, sản xuất Anh, Đức và Pháp được chuyển hướng hoàn toàn sang kiểu kinh tế thời chiến. Năm 1917, nước Nga nổ ra cuộc cách mạng của những người Bolshevik do Vladimir Lenin lãnh đạo. Họ coi học thuyết Marx là cứu tinh và cam kết với một đất nước đang tan vỡ "hòa bình, bánh mì và đất đai" thông qua các phương tiện sản xuất tập thể. Cũng năm 1917, Mỹ tham chiến bên phía Anh và Đức. Tổng thống Woodrow Wilson rao giảng khẩu hiệu "đảm bảo một thế giới an toàn cho chế độ dân chủ". Ông vạch ra một kế hoạch hòa bình mười bốn điểm. Năm 1918, Đức mở cuộc tấn công mùa xuân, nhưng thất bại, các nước đồng minh phản công dẫn tới việc hàng triệu người thiệt mạng vì chiến tranh. Trong nội bộ nước Đức diễn ra cuộc Cách mạng Đức, chính quyền lâm thời theo đuổi hòa bình trên cơ sở mười bốn điểm của Wilson. Châu Âu là một đống điêu tàn, về tài chính, vật chất và tâm lý, với một tương lai được sắp xếp Hội nghị hòa bình Paris, 1919. John Maynard Keynes là đại diện của Bộ Tài chính Anh hội nghị và là người chỉ trích gay gắt nhất những kết quả của hội nghị. Tập Maynard Keynes (phải) cùng đồng sự người Mỹ Harry White tại hội nghị Bretton Woods. John Maynard Keynes (1883–1946) sinh Cambridge, học Đại học Eton và là cấp dưới của cả Arthur Cecil Pigou và Alfred Marshall Đại học Cambridge. Ông khởi nghiệp là giảng viên, trước khi chuyển sang làm việc cho chính phủ Anh, rồi leo lên chức đại diện về tài chính của chính phủ Anh Hội nghị hòa bình Paris, 1919. Những nhận xét của ông được nêu trong cuốn Những hậu quả kinh tế của hòa bình, (1919) nơi ông ghi lại sự giận dữ của mình vì nước Mỹ đã không thể đảm bảo những điều đã nêu ra trong Mười bốn Điểm của Woodrow Wilson và tâm lý buộc tội không khoan dung với những nước thắng trận với Đức. Keynes rời hội nghị và sử dụng những thông tin kinh tế thu thập được từ hồ sơ hội nghị, ông lập luận rằng nếu những nước chiến thắng buộc phe trục phải trả các khoản bồi thường chiến phí thì chắc chắn sẽ xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới, dẫn tới một cuộc thế chiến thứ hai. Keynes hoàn tất tiểu luận của ông bằng cách kêu gọi, trước hết, giảm gánh nặng trả chiến phí cho Đức xuống còn mức có thể thực hiện trong thực tế, tăng quản trị liên chính phủ với sản xuất than và một liên minh tự do thương mại thông qua Hội Quốc Liên; thứ hai, một thỏa thuận bù trừ các khoản nợ giữa các nước đồng minh; thứ ba, cải tổ toàn diện hệ thống hối đoái quốc tế và thành lập một quỹ cho vay quốc tế; và thứ tư, nối lại quan hệ thương mại với Nga và Đông Âu. Cuốn sách là một thành công lớn, và dù nó bị một số người chỉ trích vì những tiên đoán thiếu chính xác, không có những thay đổi mà ông kêu gọi, các dự báo đen tối của Keynes đã đúng với những gì thế giới trải qua trong cuộc Đại khủng hoảng bùng nổ vào năm 1929 và dần kéo theo cuộc chiến tranh thế giới thứ hai năm 1939. Chiến tranh thế giới thứ nhất từng được chờ đợi là "cuộc chiến kết thúc mọi cuộc chiến", nhưng việc các thỏa thuận hòa bình thất bại hoàn toàn trong việc ngăn chặn một cuộc chiến lớn nữa khiến lần này quyết tâm của các cường quốc không để lặp lại sai lầm tương tự càng mạnh mẽ. Sau thất bại của chủ nghĩa phát xít, hội nghị Bretton Woods được tổ chức để thiết lập trật tự kinh tế mới. Keynes một lần nữa lại đóng vai trò trung tâm. Trang bìa cuốn "Lý thuyết tổng quát" của. Trong thời kỳ Đại khủng hoảng, Keynes đã xuất bản tác phẩm quan trọng nhất của ông, Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (1936). Cuộc Đại suy thoái bắt đầu bởi cuộc đổ vỡ thị trường chứng khoán Phố Wall năm 1929, dẫn tới tỉ lệ thất nghiệp tăng cao Mỹ, kéo theo việc nước này phải thu hồi những khoản nợ từ các con nợ châu Âu, và hiệu ứng domino về kinh tế lan nhanh ra toàn cầu. Kinh tế học chính thống thời bấy giờ kêu gọi siết chặt chi tiêu, cho tới khi lòng tin trong kinh doanh và lợi nhuận được phục hồi. Keynes ngược lại, lập luận trong A Tract on Monetary Reform (1923, Một tiểu luận về cải cách tiền tệ) rằng có nhiều yếu tố quyết định các hoạt động kinh tế, và chờ đợi cân bằng thị trường tự tái lập trong dài hạn là không đủ. Như Keynes viết trong nhận xét nổi tiếng của ông, Ngoài vấn đề chủ đạo về cung tiền, Keynes xác định xu hướng cận biên của tiêu dùng, nguồn gốc của đầu tư, hiệu quả biên của vốn, sự ưa thích thanh khoản và hiệu ứng số nhân là các biến quyết định mức độ sản lượng của nền kinh tế, việc làm và giá cả. Hầu hết các thuật ngữ của Keynes là do chính ông sáng tạo ra riêng cho tác phẩm Lý thuyết tổng quát, dù các tưởng cơ bản là khá đơn giản. Keynes lập luận rằng nếu tiết kiệm không chuyển hóa thành đầu tư thông qua các thị trường tài chính, tổng chi tiêu sẽ giảm xuống. Chi tiêu giảm dẫn tới giảm thu nhập và tăng thất nghiệp, điều này lại làm giảm tiết kiệm. Tiết kiệm giảm tiếp tục cản trở mong muốn đầu tư, dẫn tới một mức cân bằng mới sẽ được thiết lập cho tới khi việc giảm chi tiêu dừng lại. Mức cân bằng mới này chính là suy thoái, khi mọi người đầu tư ít hơn, tiết kiệm ít hơn và chi tiêu ít hơn. Kenyes lập luận rằng việc làm phụ thuộc vào tổng chi tiêu, bao gồm chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư kinh doanh lĩnh vực tư nhân. Người tiêu dùng chỉ chi tiêu một cách thụ động, hay dựa trên những tính toán với thu nhập của họ. Mặt khác, việc các doanh nghiệp có muốn bỏ vốn đầu tư hay không phụ thuộc vào kỳ vọng về những đầu tư mới (lợi nhuận) và tỉ lệ lãi suất phải trả (chi phí). Vì thế, theo Keynes, nếu kỳ vọng kinh doanh không đổi, việc chính phủ giảm lãi suất (chi phí vay), đầu tư sẽ tăng và sẽ có ảnh hưởng cấp số nhân với tổng chi tiêu. Đến lượt nó, tỉ lệ lãi suất phụ thuộc vào số lượng tiền và mong muốn giữ tiền trong tài khoản ngân hàng (tức là tiết kiệm, trái ngược với đầu tư). Nếu không có đủ tiền trong nền kinh tế để cung ứng cho số người muốn giữ tiền, lãi suất sẽ tăng cho tới khi có đủ những người muốn giữ tiền bị loại ra vì không đủ cung tiền. Nên nếu lượng tiền tăng, trong khi mong muốn giữ tiền không đổi, tỉ lệ lãi suất sẽ giảm, dẫn tới tăng đầu tư, sản lượng và việc làm. Vì cả hai lý do này, Keynes do đó kêu gọi lãi suất thấp và tín dụng dễ dàng, để đối phó với thất nghiệp. Nhưng Keynes tin rằng trong những năm 1930, các điều kiện đòi hỏi lĩnh vực công phải hành động. Chi tiêu thâm hụt ngân sách, theo Keynes, sẽ giúp kích hoạt các hoạt động kinh tế. Điều này được ông ủng hộ trong lá thư công khai gửi cho Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đăng trên báo The New York Times (1933). Chính sách kinh tế mới Mỹ đang tiến hành nửa chừng thì Lý thuyết tổng quát được xuất bản. Nó cung cấp những nền tảng lý luận cho các chính sách đã được thực thi trên thực tế. Keynes cũng tin tưởng vào việc phân phối thu nhập công bằng hơn, cũng như đánh thuế đối với thu nhập không từ các hoạt động kinh doanh hay lao động nòng cốt với lập luận tỉ lệ tiết kiệm cao (thường là của những người giàu) không tốt cho một nền kinh tế phát triển. Keynes do đó khuyến khích cả quản lý tiền tệ và một chính sách tài khóa tích cực. Tập Sraffa. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Keynes lại làm trợ lý cho Bộ Tài chính Anh, thương lượng các khoản vay lớn từ Mỹ. Ông hỗ trợ lập các kế hoạch hình thành nên Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và Tổ chức thương mại quốc tế tại Hội nghị Bretton Woods, một gói giải pháp được thiết kế để ổn định nền kinh tế thế giới vốn gặp rất nhiều trục trặc trong những năm 1920 và tạo ra một sân chơi thương mại bình đẳng trên toàn cầu. Keynes qua đời hơn một năm sau đó, nhưng những tưởng của ông đã giúp hình thành nên trật tự kinh tế toàn cầu mới, và tất cả các chính phủ phương tây đều áp dụng đơn thuốc về chi tiêu thậm hụt để vượt qua khủng hoảng và duy trì việc làm đầy đủ cho nền kinh tế. Một trong những học trò của Keynes Cambridge là Joan Robinson, người đã đóng góp tưởng rằng cạnh tranh hiếm khi nào hoàn hảo trong thị trường, một sự hoài nghi với lý thuyết cho rằng các thị trường sẽ giúp thiết lập giá cả. Trong tác phẩm The Production Function and the Theory of Capital (1953, Chức năng sản xuất và học thuyết về tư bản), Robinson nêu ra vấn đề mà bà cho là đã bị hiểu sai trong kinh tế học chính thống. Những nhà kinh tế học tân cổ điển cho rằng một thị trường cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải tối thiểu hóa chi phí sản xuất. Robinson thì cho rằng chi phí sản xuất đơn giản là giá của các đầu vào, như vốn tư bản. Và nếu giá của các sản phẩm cuối cùng quyết định giá của vốn, khi đó, theo Robinson, sẽ là nghịc lý nếu cho rằng giá của vốn quyết định giá của sản phẩm cuối cùng. Không thể định giá hàng hóa chừng nào chưa thể định giá các yếu tố đầu vào. Đây không phải là vấn đề trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo khi tất cả có thể diễn ra đồng thời, nhưng trong thế giới thật, quá trình xác định giá mất thời gian, hàng hóa được định giá trước khi được bán. Do giá của vốn không thể được định bằng những đơn vị đo lường độc lập, làm cách nào có thể chứng minh rằng vốn vốn bỏ ra giúp thu về một khoản bằng với giá các đầu vào cho sản xuất? Piero Sraffa trở lại Anh từ nước phát-xít vào những năm 1920 và làm việc với Keynes Cambridge. Năm 1960, ông xuất bản một cuốn sách nhỏ nhan đề Production of Commodities by Means of Commodities (Sản xuất hàng hóa bằng các phương tiện hàng hóa), trong đó giải thích các mối quan hệ về công nghệ là nền tảng cho việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ ra sao. Giá cả có nguồn gốc từ trao đổi lương-lợi nhuận, thương lượng tập thể, xung đột giữa quản trị và lao động và sự can thiệp của kế hoạch của chính phủ. Giống như Robinson, Sraffa trình bày về việc các lực lớn có thể tác động lên quá trình định giá trong nền kinh tế ra sao, và những lực đó không nhất thiết phải là việc điều chỉnh của thị trường. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà kinh tế Mỹ đóng vai trò không đáng kể. Trong thời gian này, các nhà kinh tế học định chế chủ yếu tập trung sự chỉ trích vào "lối sống Mỹ", một thứ chủ nghĩa tiêu dùng phô trương trong những năm hai mươi xa hoa ngay trước vụ đổ vỡ trên thị trường chứng khoán Phố Wall năm 1929. Tuy nhiên sau chiến tranh, Liên Xô và châu Âu là đống điêu tàn, đế quốc Anh sắp đi đến hồi kết và nước Mỹ đang trở thành một siêu cường không thể tranh cãi, nhất là về kinh tế. Một trường phái thiếu chính thống hơn bắt đầu bén rễ, chống lại phong cách tranh luận trong sáng dễ hiểu của Keynes và toán học hóa một cách phức tạp kinh tế học. Quan điểm kinh tế học truyền thống cũng bị thách thức bởi một nhóm các học giả có quan điểm cấp tiến Đại học Chicago. Họ thúc đẩy "giải phóng" và "tự do", muốn làm hồi sinh những chính phủ không can thiệp vào nền kinh tế như hồi thế kỷ 19. Thorstein Veblen xuất thân từ một gia đình nhập cư Na Uy vào miền trung tây nước Mỹ. Thorstein Veblen (1857–1929), xuất thân từ vùng nông thôn miền trung tây nước Mỹ và làm việc Đại học Chicago, là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất sớm chỉ trích "lối sống Mỹ". Trong tác phẩm The Theory of the Leisure Class (1899, Học thuyết về giai cấp hưởng thụ), ông phê phán nền văn hóa chủ nghĩa vật chất và những người giàu có tiêu dùng phô trương sự giàu có của họ để khoe khoang thành công và trong tác phẩm The Theory of Business Enterprise (1904, Học thuyết về đế chế kinh doanh), Veblen phân biệt sản xuất những hàng hóa hữu dụng cho con người và sản xuất thuần túy vì mục tiêu lợi nhuận. Ông tranh luận rằng các doanh nghiệp luôn theo đuổi điều sau khiến điều trước bị cản trở. Sản lượng và tiến bộ công nghệ bị hạn chế bởi các thói quen kinh doanh và việc tạo ra những độc quyền. Các doanh nghiệp bảo vệ đầu tư tư bản hiện hữu của họ và vay mượn quá trớn, dẫn tới suy thoái và gia tăng chi tiêu quân sự và chiến tranh vì các doanh nghiệp kiểm soát quyền lực chính trị. Hai cuốn sách này, tập trung sự chỉ trích trước hết vào chủ nghĩa tiêu dùng và sau đó là vào việc tìm kiếm lợi nhuận, không nói gì về những thay đổi. Tuy nhiên, năm 1911, Veblen gia nhập Đại học Missouri, nơi ông ủng hộ Herbert Davenport, trưởng khoa kinh tế của trường. Veblen lại Columbia, Missouri tới năm 1918. Năm đó, ông chuyển sang New York và bắt đầu làm biên tập viên cho tạp chí The Dial, rồi năm 1919, cùng với Charles A. Beard, James Harvey Robinson và John Dewey, ông chung tay thành lập trường đại học nay là The New School New York. Ông cũng là thành viên Liên minh kỹ thuật, do Howard Scott sáng lập năm 1999. Từ 1919 tới 1926, Veblen tiếp tục viết và tham gia hàng loạt hoạt động The New School. Trong thời kỳ này ông viết tác phẩm The Engineers and the Price System (1921, Các kỹ sư và hệ thống giá cả). John R. Commons (1862–1945) cũng đến từ vùng trung tây nước Mỹ. Nhấn mạnh những tưởng của ông trong tác phẩm Institutional Economics (1934, Kinh tế học định chế), Commons cho rằng nền kinh tế là một mạng lưới các mối quan hệ giữa nhiều người với các quan tâm khác nhau. Có những doanh nghiệp độc quyền, các tập đoàn lớn, tranh chấp lao động và chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, họ có lợi ích trong việc giải quyết những tranh chấp này. Commons cho rằng các chính phủ phải đóng vai trò người trung gian giữa các nhóm xung đột. Bản thân Commons dành nhiều thời gian làm việc trung gian và tư vấn trong các ủy ban công nghiệp của chính phủ. Tập tin:Adolf Augustus Berle Augustus Berle, Jr. cùng Gardiner Means là những thành viên sáng lập của quản trị công ty hiện đại. Cuộc Đại khủng hoảng là thời gian có những thay đổi mang tính đảo lộn Mỹ. Một trong những đóng góp đầu tiên tìm hiểu tại sao mọi việc lại trở nên tồi tệ như vậy xuất phát từ một luật sư Đại học Harvard tên là Adolf Berle (1895–1971), người giống như John Maynard Keynes, đã từ nhiệm cương vị ngoại giao của mình Hội nghị hòa bình Paris năm 1919 và hết sức thất vọng vì Hòa ước Versailles. Trong cuốn sách của ông với Gardiner C. Means, The Modern Corporation and Private Property (1932, Công ty hiện đại và tài sản tư nhân), ông đã vạch ra chi tiết về quá trình tiến hóa của nền kinh tế hiện đại thông qua các doanh nghiệp lớn, và tranh luận rằng những ai quản lý các công ty lớn phải có trách nhiệm lớn hơn với xã hội. Hội đồng quản trị của các công ty này phải chịu trách nhiệm với các cổ đông của công ty theo các quy định trong luật doanh nghiệp. Điều này bao gồm quyền bầu và sa thải các thành viên ban giám đốc, yêu cầu triệu tập những cuộc gặp mặt chung thường kỳ, các tiêu chuẩn kiểm toán... nước Mỹ những năm 1930, luật doanh nghiệp điển hình (chẳng hạn như bang Delaware) không hề đề cập những quyền đó. Berle lập luận rằng những giám đốc các công ty không phải chịu trách nhiệm, do đó họ có thể tuồn thành quả lợi nhuận kinh doanh vào túi riêng, quản trị vì lợi ích cá nhân của họ. Điều này càng dễ thực hiện khi phần lớn các cổ đông những công ty đại chúng chỉ là các cá nhân đơn lẻ, với ít phương tiện liên lạc với nhau, một cách ngắn gọn, bị chia rẽ và dễ bị khuất phục. Berle làm trong chính phủ của Tổng thống Franklin Delano Roosevelt trong suốt cuộc khủng hoảng và là thành viên chủ chốt của nhóm "Brain trust" đã phát triển rất nhiều chính sách cụ thể trong Chính sách kinh tế mới. Năm 1967, Berle và Means ấn hành một phiên bản đã sửa chữa của tác phẩm trước kia, với lời giới thiệu gồm những tưởng mới. Họ muốn không chỉ tách biệt những người điều hành công ty và chủ của công ty. Họ đặt câu hỏi về việc mục đích thực sự của cấu trúc doanh nghiệp là gì. Tập Kenneth Galbraith bắt đầu sự nghiệp với tư cách một nhân vật nòng cốt trong Chính sách kinh tế mới của chính phủ Tổng thống Franklin Delano Roosevelt trong thời kỳ Đại khủng hoảng. Một phỏng vấn với ông vào đầu những năm 1990 có thể xem được đây. Sau chiến tranh, John Kenneth Galbraith (1908–2006) trở thành một kinh tế gia điển hình ủng hộ vai trò can thiệp tích cực của chính phủ và nền chính trị tự do-dân chủ. Trong tác phẩm Affluent Society (1958, Tầng lớp giàu có), Galbraith tranh luận các cử tri đạt tới sự giàu có nhất định về vật chất sẽ bỏ phiếu chống lại hàng hóa công. Ông cho rằng "trí tuệ thông thường" của những người bảo thủ không đủ để giải quyết vấn đề bất công xã hội. Trong thời đại của các doanh nghiệp lớn, ông cho rằng sẽ là không thực tế khi nghĩ về các thị trường theo đẳng cấp. Các doanh nghiệp lớn định giá và sử dụng quảng cáo để tạo ra cầu nhân tạo cho các sản phẩm của họ, bóp méo sự ưa thích thực sự của người tiêu dùng. Sự ưa thích tiêu dùng thực ra là phản ánh mong muốn của các tập đoàn lớn, một "hiệu ứng phụ thuộc", và nền kinh tế như một tổng thể sẽ lao vào những mục tiêu sai lầm. Trong tác phẩm The New Industrial State (Nhà nước công nghiệp mới), Galbraith tranh luận rằng các quyết định kinh tế được lên kế hoạch bởi một cấu trúc tư nhân-quan liêu, một cấu trúc kỹ trị của các chuyên gia lũng đoạn thị trường và các kênh truyền thông. Hệ thống này phục vụ lợi ích bản thân của cấu trúc đó, lợi nhuận đơn lẻ không còn là động cơ chính và ngay cả các giám đốc công ty cũng không còn nắm quyền kiểm soát. Vì họ là những người lên kế hoạch mới, các tập đoàn căm ghét rủi ro và đòi hỏi nền kinh tế cũng như thị trường ổn định. Họ mua đứt các chính phủ để phục vụ mục đích của mình thông qua chính sách tài khóa và tiền tệ, chẳng hạn như dính chặt lấy các chính sách của những người trọng tiền giúp làm giàu cho những người cho vay đô thị thông qua tăng lãi suất. Trong khi các mục tiêu của một tầng lớp giàu có và chính quyền đồng lõa với tầng lớp đó phục vụ cho cấu trúc kỹ trị phi lý, số đông dân chúng sẽ dần trở nên nghèo đi. Galbraith mô tả bức tranh giống như bước từ những căn biệt thự áp mái giàu có xuống các đường phố không được lát vỉa hè, từ những khu vườn cảnh quan lộng lẫy tới những công viên công cộng nhếch nhác. Trong tác phẩm Economics and the Public Purpose (1973, Kinh tế học và mục đích công cộng), Galbraith bảo vệ "chủ nghĩa xã hội mới" như giải pháp cho những bất công đó, quốc hữu hóa sản xuất của quân đội và các dịch vụ công như phúc lợi tế, áp đặt mức lương tối thiểu và kiểm soát giá cả là các biện pháp để giảm bất bình đẳng. Tập tin:Paul Samuelson đã viết những sách giáo khoa kinh tế học bán chạy nhất. Trái với phong cách hùng hồn của Galbraith, kinh tế học sau chiến tranh bắt đầu tổng hợp phần lớn tác phẩm của John Maynard Keynes bằng diễn giải toán học. Các khóa học kinh tế học nhập môn đại học bắt đầu bằng cách giới thiệu kinh tế học như một khoa học thống nhất được diễn giải dưới hình thức tổng quát hóa các quan điểm tân cổ điển. "Kinh tế học thực chứng" là cụm từ được tạo ra để mô tả những khuynh hướng nhất định trong các quy luật kinh tế học có thể được quan sát một cách khách quan và được mô tả thông qua các giá trị thực tế, tách biệt với "kinh tế học chuẩn tắc" thông qua suy luận và đánh giá. Người viết sách giáo khoa bán chạy nhất thế hệ này chính là Paul Samuelson (1915–2009). Luận văn tiến sĩ của ông là một nỗ lực chứng tỏ rằng các phương pháp toán học có thể trở thành cốt lõi cho việc diễn giải các học thuyết kinh tế. Luận văn được xuất bản thành sách, Foundations of Economic Analysis (Những nền tảng của phân tích kinh tế học) vào năm 1947. Samuelson bắt đầu với hai giả định mang tính tiên đề. Thứ nhất, các cá nhân và công ty hành động để tối đa hóa lợi ích của họ. Thứ hai, các thị trường có khuynh hướng hướng tới điểm cân bằng thị trường về giá cả, khi cầu bằng với cung. Ông mở rộng các phương pháp toán học để mô tả hành vi cân bằng của các hệ thống kinh tế, bao gồm cả học thuyết mới về kinh tế vĩ mô của John Maynard Keynes. Trong khi Richard Cantillon áp dụng các nguyên lý về trọng lực và các định luật cơ học của Isaac Newton vào thị trường cạnh tranh, những người trọng nông sao chép hệ tuần hoàn máu để áp dụng vào mô hình thu nhập của họ, William Jevons phát hiện các chu kỳ tăng trưởng trùng với các chu kỳ của các vết đen Mặt Trời, Samuelson áp dụng lý thuyết nhiệt động lực học vào lý thuyết kinh tế. Đánh giá lại kinh tế học như một khoa học cứng cũng được thực hiện Anh và một trong những "phát hiện" được biết đến nhiều nhất là của A. W. Phillips về sự tương quan giữa lạm phát và thất nghiệp. Kết luận chính sách của phát hiện này là để bảo đảm toàn dụng việc làm, thì phải đánh đổi bằng lạm phát cao. Samuelson đã kết hợp tưởng của đường cong Phillips vào tác phẩm của ông. Paul Samuelson được trao giải Nobel kinh tế học vào năm 1970 vì sự kết hợp toán học với kinh tế chính trị học của ông. Tập tin:Kenneth Arrow, Stanford Arrow, trả lời phỏng vấn (1/09) trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007–2010 đây. Kenneth Arrow (s. năm 1921) là em rể của Paul Samuelson. Tác phẩm lớn đầu tiên của ông, luận văn tiến sĩ tại Đại học Columbia là Social Choice and Individual Values (1951, Lựa chọn xã hội và các giá trị cá nhân), đưa kinh tế học tương tác với lý thuyết chính trị. Tác phẩm này mở đường cho học thuyết về lựa chọn xã hội và định lý về sự bất khả của Arrow. Theo lời ông, Lập luận này gây ra tranh luận lớn trong cách diễn giải những điều kiện khác nhau của định lý và nghĩa của nó với nền dân chủ và phổ thông đầu phiếu. Gây tranh cãi nhiều nhất trong bốn (1963) hoặc năm (1950-1951) điều kiện của ông là sự độc lập của các nhân tố thay thế không tương quan. Trong những năm 1950, Arrow và Gérard Debreu phát triển mô hình Arrow–Debreu về cân bằng tổng quát. Năm 1971, Arrow cùng Frank Hahn đồng tác giả cuốn General Competitive Analysis (1971, Phân tích so sánh tổng quát), trong đó đánh giá lại học thuyết về cân bằng tổng quát của giá cả thông qua nền kinh tế. Năm 1969, Ngân hàng Trung ương Thụy Điển bắt đầu trao một giải thưởng cho kinh tế học, tương đương với các giải Nobel trong những lĩnh vực hóa học, học, vật lý, văn học và hòa bình (dù Alfred Nobel không hề đề cập điều đó trong di chúc của ông). Cùng John Hicks, Arrow giành giải thưởng của Ngân hàng Trung ương Thụy Điển năm 1972, người nhận giải trẻ nhất từ trước tới đó. Năm trước đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tuyên bố "Giờ thì tất cả chúng ta đều là những người Keynes". Điều mỉa mai nằm chỗ tuyên bố đó khởi đầu cho một cuộc cách mạng mới trong tư duy kinh tế học. Những chính sách can thiệp tài khóa và tiền tệ mà kinh tế học chính thống hậu chiến khuyến khích bắt đầu bị chỉ trích đặc biệt bởi một nhóm các lý thuyết gia Đại học Chicago, sau này sẽ trở thành trường phái Chicago. Khuynh hướng tư duy bảo thủ hơn này nhắc lại quan điểm tự do trước đó về hoạt động thị trường, rằng tốt nhất là để tất có mọi người tự do hành động trong nền kinh tế. Ronald Coase (s. năm 1910) là nhà phân tích kinh tế luật hàng đầu và là người đoạt giải Nobel Kinh tế học năm 1991. Bài báo lớn đầu tiên của ông, The Nature of the Firm (1937, Bản chất của doanh nghiệp), tranh luận rằng lý do cho sự tồn tại của các doanh nghiệp chính là bởi vẫn còn chi phí giao dịch. Các cá nhân duy lý trao đổi với nhau thông qua các giao dịch hợp đồng song phương trên các thị trường mở cho tới khi chi phí giao dịch khiến sử dụng các công ty để sản xuất ra hàng hóa tiết kiệm chi phí hơn. Bài báo lớn thứ hai của ông, The Problem of Social Cost (1960, Vấn đề chi phí xã hội), lập luận rằng nếu chúng ta sống trong một thế giới không có chi phí giao dịch, mọi người sẽ thương lượng với nhau để tạo ra sự tập hợp nguồn lực giống nhau, dù cho một tòa án có phán quyết thế nào về những tranh cãi tài sản. Coase sử dụng một ví dụ pháp lý cũ về vụ án Sturges kiện Bridgman, khi một người làm bánh ồn ào và một bác sĩ yên tĩnh là hàng xóm lôi nhau ra tòa để xem ai phải chuyển nhà đi. Coase nói dù quan tòa có phán quyết người thợ làm bánh phải ngưng máy móc của ông ta, hay bác sĩ phải chấp nhận, họ có thể cùng nhau có một thỏa thuận cùng có lợi xem ai sẽ chuyển đi với kết quả phân bổ nguồn lực cuối cùng là như nhau. Chỉ vì sự tồn tại của chi phí giao dịch nên điều này không thể diễn ra. Vì vậy luật pháp phải tiên liệu trước điều gì sẽ xảy ra và được hướng dẫn bởi những giải pháp hiệu quả nhất về mặt kinh tế. tưởng là luật pháp và quy định không quan trọng bằng hoặc không hiệu quả trong việc hỗ trợ cho mọi người như các luật sư và những nhà hoạch định kế hoạch của chính quyền vẫn tin tưởng. Coase và những người giống ông muốn một sự thay đổi trong cách tiếp cận, trong đó xem xét việc can thiệp của chính phủ vào thị trường dựa trên phân tích chi phí của hành động can thiệp. Tập tin:Portrait of Milton Friedman. Milton Friedman (1912–2006) là một trong những kinh tế gia có ảnh hưởng lớn nhất vào cuối thế kỷ 20. Ông giành giải Nobel kinh tế học năm 1976 vì nhiều đóng góp, trong đó có tác phẩm A Monetary History of the United States (1963, Một lịch sử tiền tệ của nước Mỹ). Friedman cho rằng cuộc đại khủng hoảng là do những chính sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ vào những năm 1920, và trở nên tồi tệ hơn vào những năm 1930. Friedman tranh luận rằng chính sách tự do của chính phủ là có ích hơn việc can thiệp vào nền kinh tế. Chính phủ nên nhắm tới một chính sách tiền tệ trung lập hướng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, bằng cách mở rộng dần cung tiền. Ông ủng hộ thuyết số lượng tiền tệ, theo đó giá cả chung được quyết định qua lượng cung tiền. Do đó chính sách tiền tệ (chẳng hạn như tín dụng dễ dãi) hay tài khóa (thuế và chi tiêu) tích cực có thể có những hệ quả tiêu cực không mong muốn. Trong tác phẩm Capitalism and Freedom (1967, Chủ nghĩa tự bản và tự do), Friedman viết: Friedman cũng nổi tiếng với tác phẩm của ông về chức năng của tiêu dùng, học thuyết thu nhập ổn định (1957) là điều mà chính Friedman coi là công trình khoa học xuất sắc nhất của ông. Học thuyết này cho rằng những người tiêu dùng duy lý sẽ chi tiêu một phần những gì họ chờ đợi sẽ nhận được trong thu nhập ổn định của họ. Trong khi những khoản thu bất ngờ sẽ được tiết kiệm. Các khoản giảm thuế là như thế, do những người tiêu dùng duy lý sẽ tiên đoán rằng thuế sẽ tăng sau đó để cân bằng chi tiêu công. Những đóng góp quan trọng khác của ông bao gồm việc phê bình đường cong Phillips và khái niệm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (1968). Sự phê bình này gắn tên tuổi ông với quan điểm rằng một chính quyền tạo ra lạm phát cao hơn không chắc đã có thể giảm được thất nghiệp một cách ổn định. Thất nghiệp tạm thời có thể giảm xuống, nếu lạm phát là một bất ngờ, nhưng trong dài hạn, thất nghiệp sẽ được xác định bởi những yếu tố khác trên thị trường lao động. Amartya Sen (s. năm 1933) là một nhà kinh tế học phát triển và phúc lợi hàng đầu, đã bày tỏ sự hoài nghi nghiêm trọng với sự đúng đắn của các giả định tân cổ điển. Ông đặc biệt chỉ trích lý thuyết về kỳ vọng hợp lý và dành các tác phẩm của mình nghiên cứu về phát triển và nhân quyền. Ông giành giải Nobel kinh tế học năm 1998. Joseph Stiglitz vừa là một nhà kinh tế thành công, vừa là một tác giả sách bán rất chạy. Ông nói về tác phẩm của mình Making Globalization Work (Khiến toàn cầu hóa hiệu quả) đây. Joseph Stiglitz (s. năm 1943) được trao giải Nobel năm 2001 vì công trình của ông trong lĩnh vực kinh tế học thông tin. Ông từng làm chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế dưới thời Tổng thống Mỹ Bill Clinton và là kinh tế gia trưởng của Ngân hàng Thế giới. Stiglitz đã dạy rất nhiều trước đại học danh tiếng, bao gồm Columbia, Stanford, Oxford, Manchester, Yale và MIT. Trong những năm gần đây, ông trở thành một người chỉ trích mạnh mẽ các định chế kinh tế toàn cầu. Ông là một học giả nổi tiếng cả trong giới học thuật lẫn phổ thống. Trong tác phẩm Making Globalization Work (2007, Khiến toàn cầu hóa hiệu quả), ông trình bày quan điểm về những vấn đề kinh tế học quốc tế. Tập tin:Paul Krugman at the German National Library in Krugman tại Thư viện quốc gia Đức Frankfurt Paul Krugman (s. năm 1953) là một kinh tế gia đương đại. Cuốn sách giáo khoa do ông viết, International Economics (2007, Kinh tế học quốc tế) nằm trong danh sách cần đọc rất nhiều trường đại học. Nổi tiếng là một đại diện của chủ nghĩa cấp tiến, ông giữ mục xã luận về kinh tế mỗi hai tuần bàn thảo về chính sách kinh tế của Mỹ và chính trị Mỹ trên tờ báo New York Times''. Ông được trao giải Nobel kinh tế năm 2008 cho công trình của ông về lý thuyết thương mại mới và địa lý kinh tế. Từ những năm 1970 trở đi, chỉ trích của những người trọng tiền theo kiểu Friedman với kinh tế vĩ mô Keynes là điểm xuất phát hình thành nên nhiều khuynh hướng trong kinh tế học vĩ mô chống lại tưởng cho rằng sự can thiệp của chính phủ có thể giúp ổn định nền kinh tế. Robert Lucas chỉ trích quan điểm Keynes vì sự thiếu nhất quán với kinh tế học vi mô. Chỉ trích của Lucas đặt nền tảng cho trường phái kinh tế học vĩ mô tân cổ điển, kinh tế học vĩ mô cổ điển mới dựa trên nền tảng là kinh tế học cổ điển. Lucas cũng phổ quát hóa tưởng về kỳ vọng hợp lý, vốn được sử dụng làm nền tảng cho một số học thuyết cổ điển mới như đề xuất chính sách không hiệu quả. Mô hình tiêu chuẩn cho kinh tế học cổ điển là học thuyết chu kỳ kinh doanh thật, vốn tìm cách giải thích những thăng trầm trong sản lượng và việc làm liên hệ với các biến số thực tế như những thay đổi trong công nghệ và sở thích. Giả định các thị trường là cạnh tranh, học thuyết chu kỳ kinh doanh thật ngụ rằng những thăng giáng theo chu kỳ là sự phản ứng tối ưu với sự thay đổi của công nghệ và sở thích, và rằng các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô phải làm giảm phúc lợi. Kinh tế học Keynes có sự trở lại với những nhà kinh tế học chính thống với sự cổ súy cho kinh tế học vĩ mô Keynes mới. tưởng trung tâm của chủ nghĩa Keynes mới dựa trên nền tảng kinh tế học vi mô, xác định sự chênh lệch tối thiểu với các giả định kinh tế học vi mô tiêu chuẩn đã đưa tới các kết luận trong kinh tế học vĩ mô của Kenyes, chẳng hạn như sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ làm lợi đáng kể cho phúc lợi xã hội. Những lập luận về chi phí thực đơn của George Akerlof cho thấy, trong điều kiện cạnh tranh không hoàn hảo, những sai lệch nhỏ trong tính duy lý có thể gây ra sức lớn về giá cả. Các nhà kinh tế học đã kết hợp phương pháp luận của lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế với những nhân tố thuần túy lý thuyết khác, như sức giá cả, với chủ nghĩa Keynes mới và tạo ra học thuyết tân cổ điển mới. Những mô hình cân bằng tổng quát linh động ngẫu nhiên, các hệ thống lớn những phương trình kinh tế vi mô được kết hợp vào những mô hình kinh tế tổng quát, là trung tâm cho hệ thống mới này và hệ thống này chiếm ưu thế trong kinh tế học hiện giờ. | Lịch sử tư tưởng kinh tế | Kinh tế chính trị |
Tập tin:The optical system of the ELT showing the location of the mirrors (no optical system of the ELT showing the location of the mirrors. Kỹ thuật quang học là lĩnh vực nghiên cứu tập trung vào các ứng dụng quang học. Kỹ thuật quang học liên quan đến thiết kế các dụng cụ quang học như thấu kính, kính hiển vi, kính thiên văn và các thiết bị khác sử dụng các tính chất của ánh sáng bằng vật lý và hóa học. Các ứng dụng kỹ thuật quang học nổi bật khác bao gồm cảm biến quang và hệ thống đo lường, laser, hệ thống thông tin sợi quang, hệ thống đĩa quang (ví dụ CD, DVD), v.v. Các kỹ sư quang học thiết kế và chế tạo các thiết bị điều khiển ánh sáng bằng cách áp dụng kiến thức về quang học. Ngoài ra, các kỹ sư trong lĩnh vực nghiên cứu này cũng xem xét tính thực tiễn về công nghệ, vật liệu, chi phí, phương pháp thiết kế,... Các kỹ sư điện thường sử dụng các công cụ máy tính nói chung như bảng tính và ngôn ngữ lập trình, cùng với phần mềm quang học chuyên dụng được thiết kế dành riêng cho lĩnh vực để hỗ trợ tính toán. Đo lường kỹ thuật quang học sử dụng các phương pháp quang học để đo các dao động vi mô bằng các dụng cụ như giao thoa kế tia laze hoặc để đo các tính chất của các khối lượng khác nhau bằng các dụng cụ đo khúc xạ. | Kỹ thuật quang học | Chuyên ngành kỹ thuật, Quang học |
Rumst (các viết cũ: Rumpst) Google Satellite Image) là một đô thị tỉnh Antwerp. Kể từ năm 1976 Đô thị này không những bao gồm Rumst mà còn cả các thị trấn Reet (các viết cũ: Reeth) và Terhagen, trước đây là các đô thị độc lập. Tại thời điểm ngày tháng năm 2006, Rumst có dân số 14.628 người. Tổng diện tích là 19,90 km² với mật độ dân số là 735 người trên mỗi km². Trang mạng chính thức | Rumst | Xã của Antwerpen |
Dawlat Ahmadzai (sinh ngày tháng năm 1984) là right-handed batsman và right arm fast-medium bowler hiện đang thi đấu cho đội tuyển quốc gia Afghanistan. Sau khi Afghanistan có được tư cách One Day International khi nằm trong top giải 2009 ICC World Cup Qualifier tại Nam Phi (tuy nhiên không vượt qua được vòng loại World Cup Cricket 2011), vào ngày 19 tháng năm 2009, anh ghi được wicket đầu tiên cho Afghanistan trong trận ODI khi anh loại Gavin Hamilton của Scotland và giúp đội nhà thắng trận tranh hạng tại Willowmoore Park, Benoni. Cricinfo page on Dawlat Ahmadzai Dawlat Ahmadzai on CricketArchive | Dawlat Ahmadzai | |
The Mouse Comes to Dinner là một cuộn phim hoạt hình Hoa Kỳ xuất bản năm 1945, phim ngắn Tom and Jerry thứ 18 do William Hanna và Joseph Barbera đạo diễn, cuộn phim được sản xuất bởi Fred Quimby. Lillian Randolph vai Mammy Two Shoes (nguyên bản năm 1945) (không được công nhận) Thea Vidale vai Mammy Two shoes (bản lồng tiếng lại năm 1990) (không được công nhận) Sara Berner vai Toots (không được công nhận) William Hanna và Harry E. Lang vai Tom (không được công nhận) *William Hanna vai Jerry (không được công nhận) *Đạo diễn: William Hanna and Joseph Barbera *Cốt truyện: William Hanna, Joseph Barbera *Đạo diễn hình ảnh: Graham Place *Thiết kế đồ hoạ: Ray Patterson, Pete Burness, Kenneth Muse, Irven Spence, George Cannata, Joe Oriolo, Graham Place, Lou Zukor *Hỗ trợ thiết kế: Barney Posner *Bố trí: Harvey Eisenberg *Hình nền: Robert Little *Đạo diễn trình tự: Seymour Kneitel *Âm nhạc: Scott Bradley *Đồng sản xuất: William Hanna *Sản xuất: Fred Quimby *Tom and Jerry's Greatest Chases, Vol. *Tom and Jerry Spotlight Collection Vol. 2, Đĩa *Tom and Jerry Golden Collection Volume One, Đĩa | ''The Mouse Comes to Dinner | Phim hoạt hình năm 1945, Phim ngắn Tom và Jerry, Phim Mỹ, Phim hài lãng mạn Mỹ |
Giờ UTC+13 là một múi giờ dùng tại các nơi sau đây: Enderbury, Kiribati (Giờ Quần đảo Phoenix) Giờ tiết kiệm ánh sáng ngày New Zealand Tonga *Samoa Kiribati đã thay đổi múi giờ cho nửa phía đông của nước này vào ngày 31 tháng 12 năm 1994, từ múi giờ UTC-11:00 và UTC-10:00 thành UTC+13:00 và UTC+14:00, để tránh việc đất nước bị chia cắt bởi Đường đổi ngày quốc tế. Tonga đã sử dụng múi giờ UTC+13:00 trong nhiều năm. Quy ước giờ mùa hè được sử dụng trong các mùa hè miền Nam từ tháng 10 năm 1999 đến tháng năm 2002 và từ tháng 11 năm 2016 đến tháng năm 2017. UTC+13:00 được sử dụng cho đến năm 2009 làm thời gian ban ngày (mùa hè Bắc bán cầu) các vùng phía đông nước Nga (Chukotka và Kamchatka) sử dụng Giờ Kamchatka. Vào ngày 29 tháng 12 năm 2011, Samoa đã điều chỉnh múi giờ từ UTC-11:00 sang UTC+13:00 (và giờ mùa hè từ UTC-10:00 sang UTC+14:00), về cơ bản là di chuyển đường đổi ngày quốc tế sang phía bên kia của đất nước. Sau quyết định của Samoa, Tokelau cũng đồng thời điều chỉnh múi giờ (không sử dụng giờ mùa hè) từ UTC-11:00 sang UTC+13:00. Giờ tiết kiệm ánh sáng ngày | UTC+13 | Múi giờ es:Huso M† |
Santena (pron. sàntena; in Piedmontese Santna) là một đô thị tỉnh Torino trong vùng Piedmont, có vị trí cách khoảng 15 km về phía đông nam của Torino, nước Ý, trên hữu ngạn sông Po. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 10.313 người và diện tích là 16,2 km². Đô thị Santena có các frazioni (các đơn vị trực thuộc, chủ yếu là các làng) Tetti Busso, Tetti Giro, Luserna, và the last of these is known for the Battle of Gamenario, fought on 22 April 1345 between the Guelfs and Ghibellines. Santena giáp các đô thị: Chieri, Cambiano, Trofarello, Poirino, và Villastellone. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:11000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:2000 start:0 ScaleMinor increment:500 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:2965 bar:1871 from: till:3010 bar:1881 from: till:3279 bar:1901 from: till:3652 bar:1911 from: till:3997 bar:1921 from: till:4002 bar:1931 from: till:4012 bar:1936 from: till:3934 bar:1951 from: till:4046 bar:1961 from: till:4473 bar:1971 from: till:7957 bar:1981 from: till:10314 bar:1991 from: till:10369 bar:2001 from: till:10189 PlotData= bar:1861 at:2965 fontsize:XS text: 2965 shift:(-8,5) bar:1871 at:3010 fontsize:XS text: 3010 shift:(-8,5) bar:1881 at:3279 fontsize:XS text: 3279 shift:(-8,5) bar:1901 at:3652 fontsize:XS text: 3652 shift:(-8,5) bar:1911 at:3997 fontsize:XS text: 3997 shift:(-8,5) bar:1921 at:4002 fontsize:XS text: 4002 shift:(-8,5) bar:1931 at:4012 fontsize:XS text: 4012 shift:(-8,5) bar:1936 at:3934 fontsize:XS text: 3934 shift:(-8,5) bar:1951 at:4046 fontsize:XS text: 4046 shift:(-8,5) bar:1961 at:4473 fontsize:XS text: 4473 shift:(-8,5) bar:1971 at:7957 fontsize:XS text: 7957 shift:(-8,5) bar:1981 at:10314 fontsize:XS text: 10314 shift:(-8,5) bar:1991 at:10369 fontsize:XS text: 10369 shift:(-8,5) bar:2001 at:10189 fontsize:XS text: 10189 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Data from ISTAT | Santena | Đô thị tỉnh Torino |
Dạng thuốc là hình thức trình bày đặc biệt của dược chất để đưa dược chất vào cơ thể. Dạng thuốc được bào chế để phát huy tối đa hiệu lực chữa bệnh, tiện lợi trong sử dụng và bảo quản. Theo thể chất: *Các dạng thuốc thể rắn (thuốc bột, thuốc viên) *Các dạng thuốc thể mềm (thuốc cao, thuốc mỡ, gel) *Các dạng thuốc thể lỏng (dung dịch, hỗn dịch, nhũ dịch, xiro) Theo đường dùng: *Các dạng thuốc uống (viên, bột, dung dịch, nhũ dịch, hỗn dịch) *Các dạng thuốc tiêm (dung dịch, hỗn dịch, nhũ dịch, bột pha tiêm, dịch truyền) *Các dạng thuốc dùng ngoài (thuốc bôi trên da, thuốc nhỏ lên niêm mạc, thuốc súc miệng) *Các dạng thuốc đặt vào các hốc tự nhiên trên cơ thể (thuốc đặt hậu môn, thuốc trứng đặt âm đạo...) Dung dịch thuốc là những chế phẩm lỏng, được điều chế bằng cách hoà tan một hay nhiều dược chất, trong một dung môi hoặc một hỗn hợp dung môi. Dung dịch thuốc có thể dùng bằng đường uống hay bằng đường tiêm hay dùng ngoài. Các dung môi hay dùng là: các dạng dung dịch nước, cồn hay dung dịch dầu. Ưu điểm của dạng thuốc này là thuốc ngấm nhanh, tác dụng nhanh hơn các dạng thuốc rắn và không gây kích ứng khi tiếp xúc với niêm mạc. Hơn nữa, dược chất được hoà tan trong dung môi nên có thể bào chế dạng thuốc giọt, rất tiện dùng cho người già và trẻ nhỏ. Nhược điểm của dạng thuốc này là thường kém bền vững, nên không thể bảo quản lâu dài. Việc chia liều kém chính xác hơn dạng thuốc rắn. Vận chuyển gặp nhiều khó khăn do dung dịch thuốc được đóng gói cồng kềnh và dễ vỡ. Liều dùng được chia theo muỗng cà phê (5ml) hay muỗng canh (15ml). Không nên dùng dạng thuốc này để uống các dạng thuốc viên hay hoà tan các dạng thuốc bột để tránh tương kỵ hoá học. Một số dung dịch thuốc uống và dùng ngoài: Dung dịch thuốc nước là dạng thuốc được điều chế bằng cách hòa tan một hay nhiều dược chất trong dúng môi nước. Siro thuốc là dạng thuốc lỏng, sánh và có chứa tỷ lệ đường cao (56 64%), được điều chế bằng cách hòa tan dược chất, dung dịch dược chất trong siro đơn hoặc hòa tan đường trong dung dich dược chất, dùng để uống. Ưu điểm: Dạng thuốc này giúp che giấu được mùi vị khó chịu của thuốc nên tiện dùng cho trẻ em. Tỷ lệ đường cao nên thuốc có thể bảo quản được lâu và cũng có giá trị dinh dưỡng. Nhược điểm: Hấp thu chậm do độ nhớt cao, do đó cần pha loãng hay uống kèm với nước nếu muốn tăng tốc độ hấp thụ. Liều dùng: Dạng thuốc này được phân liều theo muỗng cà phê hay muỗng canh. Elixir là dạng thuốc lỏng, chứa một hay nhiều dược chất, thường chứa một tỉ lệ lớn ethanol và saccharose hoặc polyalcol (như glycerin) cùng một số chất phụ thích hợp (như chất bảo quản chống nấm mốc..). Ví dụ như: elixir paracetamol, elixir Dung dịch cồn thuốc là dạng thuốc dùng trong hoặc dùng ngoài, gồm một hay nhiều dược chất hòa tan hoàn toàn trong ethanol. Dung dịch dầu. Nước thơm. Potio Dung dịch cao phân tử và dung dịch keo. Hỗn dịch là dạng thuốc lỏng để uống, tiêm hay dùng ngoài có chứa dược chất rắn không hòa tan dạng hạt rất nhỏ (đường kinh 0,1μm) được phân tán đồng đều trong chất lỏng là môi trường phân tán (chất dẫn). Các chất dẫn thường gặp: nước, nước thơm, dung dịch dược chất... Ưu điểm: hạn chế được nhược điểm của một số dược chất khi hoà tan kém bền vững hoặc có mùi vị khó uống và gây kích ứng niêm mạc đường tiêu hoá. Cần lắc kỹ trước khi sử dụng. Nhũ tương là dạng thuốc lỏng chứa các tiểu phân lỏng phân tán trong một chất lỏng khác không đồng tan. Có thể dùng để uống, tiêm hay dùng ngoài. Nhũ tương dạng lỏng dùng để uống gọi là nhũ dịch. Ưu điểm: Che giấu mùi vị khó chịu của thuốc, giảm tác dụng gây kích ứng niêm mạc đường tiêu hoá của dược chất. Nhũ tương dùng đường tiêm không gây tắc mạch như các thuốc tiêm dạng dầu. Cần lắc kỹ trước khi sử dụng. Có nhiều dạng thuốc viên: viên nang, viên nén, viên bao, viên ngậm, viên đặt dưới lưỡi, viên sủi, viên nhai, viên tác dụng kéo dài. Viên nang hay viên con nhộng là dạng thuốc rắn hay mềm được phân liều chính xác và được bào chế dưới dạng thích hợp (dung dịch, bột, hạt) đựng trong vỏ nang làm bằng gelatin hay tinh bột. Với dạng bào chế này, thuốc có thể che giấu được mùi vị khó chịu, làm cho thuốc dễ uống, tránh được các tác động bên ngoài, bảo vệ thuốc không bị dịch vị phá huỷ. Vì vậy, không nên nhai để tránh làm hỏng vỏ nang, không tách bỏ vỏ nang để lấy phần dược chất bên trong để uống. Riêng đối với người lớn tuổi, phản xạ nuốt có thể giảm và có hiện tượng giảm tiết nên khi uống, ngậm viên thuốc trong miệng để làm mềm vỏ nang rồi nuốt với nước nhằm tránh hiện tượng thuốc dính thực quản. Viên nén có nhiều hình dạng, kích thước; có thể được điều chế bằng cách nén một hay nhiều dược chất. Mỗi viên nén là một đơn vị liều, do đó rất dễ sử dụng, dễ vận chuyển và dễ bảo quản. Tốt nhất là nên uống vơi nhiều nước (nước đun sôi để nguội, khoảng 150ml). Tuy nhiên, viên nén có tác dụng chậm hơn thuốc tiêm, khó uống đối với trẻ em, người lớn tuổi, người đang bị hôn mê. Viên bao là dạng thuốc dạng viên nén được bao thêm một lớp màng thích hợp nhằm mục đích che giấu mùi vị khó chịu của dược chất, tránh được các tác động bên ngoài, bảo vệ thuốc không bị dịch vị phá huỷ, hay kiểm soát sự giải phóng dược chất (giúp giải phóng thuốc chậm). Viên ngậm thường được dùng để sát khuẩn, chông viêm trong khoang miệng. Dược chất được phóng thích từ từ. Viên ngậm dưới lưỡi thường được dùng khi cần tác dụng nhanh của thuốc hoặc tránh sự phân huỷ dịch vị và gan. Dược chất phải được phóng thích nhanh, và nhanh chóng cho tác dụng toàn thân. Một ly nước sủi Viên sủi bọt là một trong những dạng viên pha dung dịch hay hỗn dịch với sự giải phóng khí (CO2 hoặc O2) dùng để uống hoặc dùng ngoài nhằm tăng sinh khả dụng. một số ưu nhược điểm: Ưu điểm: Dùng thích hợp cho những người khó nuốt viên nén, giảm kích ứng niêm mạc cho một số dược chất, tăng sinh khả dụng cho một số viên nén, che giấu mùi vị, Nhược điểm: Viên phải được điều chế và bảo quản trong điều kiện tránh ẩm do chứa một lượng muối kiềm khá lớn (natri carbonat, natri hydrocarbonat, kali carbonat) nên viên sủi không dùng cho người kiêng muối, một số trường hợp viên sủi gây kiềm hoá máu làm ảnh hưởng đến hấp thu một số chất Thành phần viên sủi gồm dược chất và tá dược: ** Dược chất đóng vai trò quan trọng nhất. ** Các tá dược: *** Tạo phản ứng sủi bọt. *** Tốc độ tan ảnh hưởng tốc độ rã (khác với viên nén quy ước) Tá dược trơn có vai trò lớn trong đảm bảo độ bền cơ học, dược động học của viên Một số lưu ý: Với những người bị cao huyết áp có thể vẫn dùng thuốc viên sủi được dù đã có khuyến cáo nếu sử dụng muối tạo khí là KHCO3, vì kali trong máu có vai trò hạ áp. Mặt khác acid sử dụng là vitamin (ascorbic) để tạo khí có vai trò làm bền vững thành mạch, ổn định huyết áp. Hai loại tá dược: KHCO3 và ascorbic được sử dụng nhiều trong bào chế viên sủi cho người cao huyết áp. Viên tác dụng kéo dài thường chứa lượng dược chất cao hơn bình thường và giải phóng từ từ lượng dược chất này trong đường tiêu hoá để kéo dài tác dụng của thuốc, giảm số lần sử dụng thuốc. Thường sinh khả dụng của dạng thuốc này, phụ thuộc nhiều vào thời gian lưu trú tại dạ dày vì nếu thuốc nằm tại dạ dày lâu qua thì vỏ bao sẽ rã ngay dưới tác dụng của dịch vị và ngược lại. Do đó, để đảm bảo tác dụng của thuốc, nên uống xa bữa ăn trừ những thuốc kích ứng dạ dày. Thuốc tiêm truyền là dung dịch nước,hoặc nhũ tương dầu trong nước vô khẩn, không cóp gây sốt,không có nội độc tố vi khuẩn và thường đẳng trương với máu, không có chứa chất bảo quản diệt vi khuẩn, dùng để tiêm vào tĩnh mạch với liều lượng lớn và tốc độ chậm Loại dung dịch này có tác dụng bù nước, điều hòa các chất điện giái. Có tác dụng nuôi dưỡng, cung cấp năng lượng cho cơ thể như dung dịch glucose, đạm thủy phân(plasmosan) amino acid (mỏriamin, klinitamin). Loại dung dịch này chủ yếu là các dung dịch keo thân nước, chúng có tác dụng là giữ được lâu trong máu hơn là các dung dịch khác. Nhờ đó mà duy trì được huyết áp an toàn và chống được hiện tượng trụy mạch Hiện nay, người ta hay dùng dung dịch Dextran phân tử lượng 70.000 pha với nồng độ 5-6% trong nước. Là loại dung dịch có tác dụng để điều trị bệnh như dung dịch acid glutamic 1% điều trị amoni trong huyết áp cao, rối loạn chức năng gan;manitol, sorbitol 10-20% và ure 20-30% chữa phù não Đây là các loại dịch thủy phân Protein hoặc dung dịch các amino acid nguyên chất. tác dụng của các loại dung dịch này là dùng cho các trường hợp suy dinh dưỡng, đặc biệt hiệu quả là suy dinh dưỡng của trẻ em. Ngoài cách phân loại trên, trong thực tế người ta còn có cách phân loại khác dựa vào áp suất thẩm thấu của các dung dịch và được chia ra hai loại: Dung dịch đẳng trương: Dung dịch dẳng trương là dung dịch có áp suất thẩm thấu của huyết tương (7,4 atm), có độ hạ băng điểm bằng độ hạ băng điểm của huyết tương(D -0,52 °C) và không làm thay đổi thể tích hồng cầu trong nghiệm pháp hemantocrit | Dạng thuốc | Dược khoa |
Hatta, Phó Tổng thống đầu tiên của Indonesia Phó Tổng thống Cộng hòa Indonesia () là chức vụ kế nhiệm đầu tiên của Cộng hòa Indonesia khi Tổng thống Indonesia không thể tiếp tục làm việc. Chức vụ được thành lập trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1945 của Ủy ban chuẩn bị công việc độc lập Indonesia (BPUPKI). Ngày 18/8/1945, chức vụ được Mohammad Hatta đảm nhiệm. Cuộc bầu cử do Ủy ban chuẩn bị độc lập (PPKI) được tiến hành nhưng các cuộc bầu cử Phó Tổng thống, Hội nghị Hiệp thương nhân dân (MPR), vẫn chưa được tổ chức. Trong những ngày đầu của nước Cộng hòa, chức vụ Phó Tổng thống đã thể hiện tầm quan trọng của nó. Vào ngày 16/10/1945, Hatta ban hành nghị định Phó Tổng thống chuyển cho Ủy ban Trung ương Quốc gia Indonexia (KNIP) với tư cách là Tổng thống. Theo quyết định này, KNIP đã có thể tách vai trò của người đứng đầu nhà nước và người đứng đầu chính phủ vào ngày 11/11/1945. Mặc dù một hiến pháp mới chưa được thiết lập, Indonesia vẫn là một Quốc gia Dân chủ Nghị viện trên thực tế. Trong cuộc Cách mạng Quốc gia Indonesia, cả Hatta và Sukarno đều bị người Hà Lan bắt tại Yogyakarta vào ngày 18/12/1948. Cùng với Sukarno, Hatta đã giao nhiệm vụ cho Syafruddin Prawiranegara để thành lập Chính phủ Khẩn cấp. Điều này đã được thực hiện và Chính phủ Khẩn cấp của Cộng hòa Indonesia (PDRI) được thành lập Sumatra với Prawiranegara làm Chủ tịch. Prawiranegara trao lại nhiệm vụ của mình cho Sukarno và Hatta từ ngày 13/7/1949. Khi Indonesia trở thành một quốc gia độc lập, Hiến pháp tạm thời đã được thông qua, một dự thảo xác định vai trò của Tổng thống với vai trò là nguyên thủ quốc gia, có quyền chỉ định một Thủ tướng Chính phủ theo sự tham vấn của các nhà sáng lập. Mặc dù Phó Chủ tịch tiếp tục tồn tại, hình thức của Chính phủ bây giờ đã chính thức là một nền dân chủ nghị viện và chức vụ Phó Tổng thống không còn vai trò quan trọng trong chính thể mới. Ngày 1/12/1956, một phần vì sự khác biệt với Sukarno, Hatta từ chức Phó Tổng thống. Trong 17 năm tiếp theo, chức vụ Phó Tổng thống vẫn bỏ trống. Vào tháng 12/1965, đã có những định cho một Phó Tổng thống được thành lập để giúp Tổng thống Sukarno. tưởng không đạt được và Phó Tổng thống tiếp tục vẫn trống trong giai đoạn chuyển tiếp từ Sukarno sang Suharto Vào tháng 3/1973, vị trí Phó Tổng thống trống đã được Hamengkubuwono IX đảm nhiệm khi ông được MPR bầu. Sau khi Hamengkubuwono IX và trong suốt Trật tự Mới, các chức vụ Phó Tổng thống đã được Adam Malik, Umar Sudharmono, Sutrisno và BJ Habibie đảm nhiệm. Trong thời gian làm Tổng thống, Suharto suy giảm quyền lực chức vụ Phó Tổng thống chỉ còn tích chất nghi lễ. Phó Tổng thống thậm chí không đảm nhận các nhiệm vụ của Tổng thống khi Suharto ra khỏi đất nước hoặc bị bệnh. Mặc dù là một người có vai trò rất quan trọng nhưng Phó Tổng thống hai lần trở thành nguồn gây tranh cãi với Sudharmono phải đối mặt với nhiều trở ngại khác nhau trên đường trở thành Phó Tổng thống năm 1988 và cố gắng được đề cử vào năm 1993. Với sự sụp đổ của Suharto vào tháng năm 1998 và Habibie gia nhập Quốc hội, Phó Tổng thống lại một lần nữa khuyết. Tháng 10/1999, Megawati Sukarnoputri được bầu làm Phó Tổng thống và chức vụ bắt đầu. Megawati được giao nhiều nhiệm vụ thực hiện và vào năm 2000, bà thậm chí còn chịu trách nhiệm cho việc điều hành hàng ngày của Chính phủ. Trong Phiên họp thường niên MPR năm 2001, cuối cùng quyết định từ năm 2004 trở đi, Phó Tổng thống, cùng với Tổng thống, sẽ trực tiếp được bầu bởi người dân. Jusuf Kalla trở thành Phó Tổng thống đầu tiên của Indonesia được bầu trực tiếp. Chân dung Tên Nhiệm kỳ Đảng chính trị Tổng thống 120px Dr. Mohammad Hatta 18/8/1945 1/12/1956 Đảng Dân tộc Indonesia Sukarno Khuyết (1/12/1956 22/3/1973) 120px Sri Sultan Hamengkubuwono IX 22/3/1973 23/3/1978 Không đảng phái Suharto 120px Adam Malik 23/3/1978 12/3/1983 Golkar 120px Umar 12/3/1983 11/3/1988 Golkar 120px 11/3/1988 17/3/1993 Golkar 120px Try Sutrisno 17/3/1993 14/3/1998 Golkar 120px Bacharuddin Jusuf Habibie 14/3/1998 21/5/1998 Golkar Khuyết (19/5/1998 25/10/1999) 120px Megawati Sukarnoputri 26/10/1999 23/7/2001 Đảng Dân chủ Đấu tranh Indonesian Abdurrahman Wahid Khuyết 120px Hamzah Haz 26/7/2001 20/10/2004 Đảng Phát triển Thống nhất Megawati Sukarnoputri 10 120px Jusuf Kalla 20/10/2004 20/10/2009 Golkar Susilo Bambang Yudhoyono 11 120px Boediono 20/10/2009 20/10/2014 Không đảng phái 12 (10) 120px Jusuf Kalla 20/10/2014 20/10/2019 Golkar Joko Widodo 13 120px Ma'ruf Amin' 20/10/2019 Đương nhiệm Không đảng phái | Phó Tổng thống Cộng hòa Indonesia | |
Mùa giải 1992 của 1. deild karla là mùa giải thứ 38 của bóng đá hạng hai Iceland. Vị thứ Đội Số trận Thắng Hòa Thua Bàn thắng Bàn thua Hiệu số Điểm Ghi chú Fylkir 18 14 47 19 +28 43 Thăng hạng Úrvalsdeild 1993 Keflavík 18 12 42 16 +26 40 Grindavík 18 35 31 +4 29 Leiftur 18 38 23 +15 28 Þróttur R. 18 31 36 -5 25 Stjarnan 18 29 26 +3 24 BÍ 18 26 36 -10 21 ÍR 18 23 33 -10 18 Víðir 18 20 30 -10 15 Xuống hạng 2. deild 1993 10 Selfoss 18 13 20 61 -41 Cầu thủ Số bàn thắng Đội bóng Óli Þór Magnússon 18 Keflavík Þorlákur Árnason 17 Leiftur Kjartan Einarsson 15 Keflavík Indriði Einarsson 13 Fylkir Kristinn Tómasson 13 Fylkir Þórður Birgir Bogason 10 Grindavík Hlynur Jóhannsson Víðir | Mùa giải 1992 | Mùa giải 1. deild karla Iceland Iceland |
La Cruz de Río Grande là một khu tự quản thuộc tỉnh Región Autónoma del Atlántico Sur, Nicaragua. Khu tự quản La Cruz de Río Grande có diện tích 3449 ki lô mét vuông. Đến thời điểm năm 2005, huyện La Cruz de Río Grande có dân số 23284 người. | La Cruz de Río Grande | Región Autónoma del Atlántico Sur, Khu tự quản của Nicaragua |
Quan hệ giữa Tòa Thánh và Trung Hoa Dân Quốc (ngày nay còn được gọi là Quan hệ Đài Loan Tòa Thánh) được thành lập cấp độ phi ngoại giao vào năm 1922 và ngoại giao từ năm 1942. Tòa Thánh là một trong số ít các quốc gia còn công nhận chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) là đại diện cho toàn Trung Quốc. Vì thế trong danh mục liệt kê ngoại giao, họ vẫn dùng danh xưng đơn giản là "Trung Quốc", và được xếp theo trật tự bảng chữ cái Latinh Điều này có thể gây nhầm lẫn, vì trên thực tế, họ không có mối liên hệ nào với chính phủ Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) ngày nay. Năm 1922, Tổng giám mục Celso Benigno Luigi Costantini được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Trung Hoa Dân Quốc. Mặc dù Tổng giám mục Costantini không có tư cách ngoại giao, chính phủ Trung Quốc đã trao cho ông những danh hiệu tương tự như những người được cấp cho quân đoàn ngoại giao được công nhận cho Trung Quốc tại tang lễ của Tôn Trung Sơn năm 1925. Tổng giám mục Costantini rời Trung Quốc năm 1933 và được kế nhiệm bởi Tổng giám mục Mario Zanin, người cũng được trao tất cả các danh dự dành cho Toàn quyền Tổng trưởng. Toà Thánh công nhận nước Cộng hòa Trung Hoa là đại diện của Trung Quốc. Vào ngày tháng năm 2005, Tổng thống Trần Thủy Biển đại diện cho "Trung Quốc" và tham dự lễ tang của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Vào tháng năm 2013, Tổng thống Mã Anh Cửu đã viếng thăm Thành quốc Vatican để tham dự lễ nhận chức vụ Giáo hoàng của Giáo hoàng Phanxicô. Tuy nhiên, không có giáo hoàng nào kể cả Gioan Phaolô II, cho đến nay giáo hoàng được du hành nhiều nhất đã từng đến thăm các khu vực được kiểm soát bởi chính phủ Cộng hòa Trung Quốc. Như thường lệ đối với các nước duy trì quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc, Tòa Thánh trong ngoại giao công nhận chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ đại diện của Trung Quốc. Kết quả là, khi sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái với các nguyên thủ quốc gia khác trong các nghi lễ Vatican, các Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc được sắp xếp theo "Chine", tiếng Pháp cho "Trung Quốc" (tiếng Pháp là ngôn ngữ ngoại giao của Tòa Thánh). Mặc dù Tòa Thánh vẫn duy trì một tòa sứ thần (tương đương một tòa đại sứ) tại Đài Bắc nhưng họ đã triệu hồi và không bổ nhiệm thêm bất kỳ chức vụ Sứ thần Tòa Thánh (tương đương đại sứ) nào tại đây kể từ năm 1971 thời điểm chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bị thay thế bởi chính phủ Bắc Kinh tại Liên Hiệp Quốc. Các sự vụ ngoại giao của Tòa Thánh tại Đài Bắc do một đại biện lâm thời phụ trách. Phía Chính phủ Đài Loan vẫn duy trì tòa đại sứ Đài Loan cạnh Tòa Thánh đặt tại Roma, Ý. Các sự vụ ngoại giao do "Văn phòng đại diện Đài Bắc tại Ý" kiêm nhiệm. | Quan hệ giữa Tòa Thánh và Trung Hoa Dân Quốc | Công giáo Rôma tại Đài Loan, Quan hệ song phương của Đài Loan, Quan hệ song phương của Tòa Thánh |
Nguyễn Chí Diểu (1908-15 tháng năm 1939), nhà hoạt động chính trị, quê xã Phú Mậu, huyện Phú Vang (nay thuộc thành phố Huế), Thừa Thiên Huế. Thuở nhỏ theo học chữ Hán, đến năm 10 tuổi mới học chữ quốc ngữ. Năm 1925, ông vào học trường Quốc học Huế, là bạn học của đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong thời gian này ông liên hệ mật thiết với các nhà hoạt động cách mạng và kết thân với các đảng viên cộng sản trẻ tuổi. Tại đây ông tham gia đảng Tân Việt, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Năm 1927, ông bị đuổi học vì dám bộc lộ quan điểm chống chính quyền đô hộ Pháp. Từ đây, ông bắt đầu những ngày tháng hoạt động cách mạng sôi nổi và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Năm 1928, ông đắc cử xứ uỷ viên Trung Kỳ của đảng Tân Việt. Năm 1929, một bộ phận đảng Tân Việt trở thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn, ông trở thành đảng viên đảng cộng sản. Năm 1930, sau khi ba nhóm cộng sản ba kỳ thống nhất thành đảng Cộng sản Đông Dương, ông được điều vào hoạt động Nam Kỳ, được cử là bí thư tỉnh Gia Định. đây, ông bị người Pháp bắt vào tháng 10 năm 1930 và bị giam đến ngày tháng năm 1933 mới đưa ra toà. Tòa kết án ông khổ sai chung thân rồi lưu đày Côn Đảo. Tháng năm 1936 ông được trả tự do, nhưng bị quản thúc Huế. Tại quê nhà, tuy bị theo dõi, bao vây nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động bí mật lãnh đạo các cuộc đấu tranh trực tiếp Huế và các tỉnh Trung Kỳ. Ông mất ngày 15 tháng năm 1939 vì bệnh lao trầm trọng, hưởng dương 31 tuổi. Thi hài ông được Phan Bội Châu đồng an táng trong vườn mộ Sào Nam dốc Nam Giao Bến Ngự (Huế) dù bị thực dân Pháp phản đối. Ông là Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I. | Nguyễn Chí Diểu | Đảng Tân Việt, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa, Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, Người Thừa Thiên Huế, Học sinh Quốc học Huế, Sinh năm 1908, Mất năm 1939 |
9885 Linux là một tiểu hành tinh được phát hiện ngày 12 tháng 10 năm 1994 bởi Spacewatch. The asteroid is đặt tên theo Linux operating system kernel. 9793 Torvalds, an asteroid đặt tên theo Linus Torvalds 9882 Stallman, an asteroid đặt tên theo Richard Matthew Stallman, American hacker, founder thuộc free software movement và GNU project 9965 GNU, an asteroid đặt tên theo GNU project | 9885 Linux | |
Condeúba là một đô thị thuộc bang Bahia, Brasil. Đô thị này có diện tích 1236,889 km², dân số năm 2007 là 16940 người, mật độ 13,7 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | Condeúba | Đô thị bang Bahia |
Nephrodium irriguum là một loài dương xỉ trong họ Loài này được Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1867. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Nephrodium irriguum | Nephrodium, Unresolved names |
Dragon Quest XI: Echoes of an Elusive Age là một trò chơi điện tử nhập vai, do Square Enix phát triển và phát hành. Trò chơi này là một phần của loạt Dragon Quest dài kỳ, phát hành tháng năm 2017 tại Nhật Bản cho Nintendo 3DS và PlayStation 4, phát hành ra toàn thế giới cho PlayStation và Microsoft Windows tháng năm 2018. Một phiên bản nâng cấp, Dragon Quest XI S: Echoes of an Elusive Age Definitive Edition, phát hành tháng năm 2019 cho Nintendo Switch và tháng 12 năm 2020 cho PlayStation 4, Microsoft Windows và Xbox One, và cho Stadia vào tháng năm 2021. Là một trong những trò chơi đầu tiên công bố cho Nintendo Switch, game ban đầu lấy tưởng thế giới mở, nhưng đã bị loại bỏ khi mâu thuẫn với cốt truyện. Để nâng cao nhận thức về nhượng quyền thương mại của Dragon Quest phương Tây, trò chơi đã bao gồm trọn gói các hỗ trợ cho Microsoft Windows, các tính năng khác như hội thoại lồng tiếng Anh và độ phân giải 4K. Các yếu tố khác được thêm vào sau đó là một cốt truyện mở và tùy chọn để nghe phiên bản dàn nhạc hòa tấu. Trong khi nhiều nhà phê bình coi đây trò chơi là hay nhất trong loạt, cũng như là một trong những JRPG đương đại hay nhất, những người khác lại chỉ trích phong cách thiết kế quá truyền thống và không sáng tạo. Game bán ra hơn sáu triệu bản vào tháng năm 2020. Nhân vật chính của trò chơi, Luminary, cũng xuất hiện đan xen trong loạt Super Smash Bros. Dragon Quest XI tiếp nối lối chơi của các phần trước trong loạt, người chơi sẽ khám phá thế giới và chiến đấu chống lại nhiều quái vật khác nhau, bao gồm cả khả năng khám phá các khu vực trên cao. Phiên bản Nintendo 3DS có phong cách hình ảnh không giống với các phiên bản khác, với đồ họa 3D màn hình trên và họa tiết kiểu 16 bit màn hình dưới. Trước khi bước vào trận chiến, người chơi có thể chuyển đổi giữa các kiểu đồ họa 3D và 2D bất cứ lúc nào. Giống như Dragon Quest IX, hệ thống chiến đấu của trò chơi không có các cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên và tất cả kẻ địch đều hiện trên toàn bản đồ. Hệ thống chiến đấu cũng bổ sung một tùy chọn máy ảnh dạng tự do, lấy cảm hứng từ MMORPG của Dragon Quest X, cho phép người chơi di chuyển xung quanh chiến trường, mặc dù nó hoàn toàn trực quan và không mang lại lợi ích gì khác cho lối chơi. Trò chơi lấy bối cảnh thế giới Erdrea, và bắt đầu khi vương quốc Dundrasil bị xâm lược và phá hủy bởi một đội quân quái vật. Nhân vật chính, một đứa trẻ sơ sinh, sống sót và được một ông già tên Chalky làng Cobblestone tìm thấy khi đang thả trôi trên sông. Con gái của Chalky là Amber nhận nuôi và đứa bé lớn lên trong ngôi làng yên bình. Sau buổi lễ thành niên, Amber tiết lộ sự thật, và gửi anh đến gặp Vua Carnelian xứ Heliodor Tuy nhiên, vừa gặp nhau, các Hiệp sĩ Hoàng gia, Sir Hendrik và Sir Jasper đã ném nhân vật chính vào ngục tối và buộc tội rằng anh ta là Darkspawn, một kẻ hiểm ác được tiên tri sẽ phá hủy cả thế giới. Trong ngục tối, anh gặp một tên trộm tên là Erik. Erik nhận ra dấu ấn trên tay anh và gọi anh là Luminary, một anh hùng huyền thoại do cây thế giới Yggdrasil chọn ra, người sẽ cứu Erdrea khỏi quỹ dữ, và nói rằng đó là định mệnh khiến cho anh ta được gặp nhân vật chính. Cả hai sau đó trốn thoát bằng cách sử dụng một đường hầm do Erik đào sẵn, rồi trốn đến một vương quốc khác. Trong thị trấn Hotto, cả hai gặp hai pháp sư khác đến từ thành phố Arboria: Veronica, bị lời nguyền biến đổi cơ thể thành một đứa trẻ, và người em sinh đôi Serena. Hai người ngay lập tức nhận ra nhân vật chính là Luminary và thề trung thành với anh. Bốn người sau đó đặt ra nhiệm vụ tiếp cận Yggdrasil để Luminary có thể hiểu thêm về vận mệnh của mình. Trên đường đi, họ có ba người bạn khác: Sylvando, một nghệ sĩ đường phố, Rab, cựu hoàng xứ Dundrasil và cũng là ông của nhân vật chính, cuối cùng là Jade, công chúa lưu vong xứ Heliodor, người đã giúp nhân vật chính trốn thoát trong cuộc tấn công của Dundrasil. Cả nhóm cuối cùng cũng đến trung tâm của Yggdrasil, nơi chứa Sword of Light, vũ khí định mệnh của Luminary. Tuy nhiên, vừa khi Luminary sắp sửa lấy nó, anh và cả nhóm bị Carnelian và các thuộc hạ là Jasper và Hendrik chặn lại, hóa ra hắn đã theo dõi cả bọn từ đầu. Sau đó tiết lộ rằng Carnelian đã bị một ác nhân tên là Mordegon điều khiển, hay còn gọi là Lord of Shadows, còn Jasper chính là tay sai của hắn. Cả hai sau đó đánh bại Hendrik và nhóm của Luminary, Mordegon lấy và làm hỏng Thanh gươm Ánh sáng, hấp thụ trái tim của Yggdrasil vào cơ thể hắn, phá hủy cái cây và khiển thế giới chìm trong bóng tối. Bị tách khỏi những người bạn của mình, Luminary quay trở lại Cobblestone, giờ đã trở thành nơi trú ẩn kiên cố cho các công dân Heliodor do Carnelian và Hendrik dẫn đầu, những người xin lỗi Luminary vì tất cả những rắc rối mà họ đã gây ra cho anh ta. Hendrik sau đó gia nhập lực lượng với Luminary, và cùng nhau, họ giành lại Heliodor từ lực lượng của Mordegon. Trên hành trình đi cứu phần còn lại của thế giới, họ đoàn tụ với nhóm, ngoại trừ Veronica, cô đã chết vì đã cứu những người khác khi Yggdrasil sụp đổ. Tại Arboria, có một con cá voi bay khổng lồ, được gọi là Cetacea. Sử dụng nó, họ đi đến một hòn đảo nổi cổ xưa được gọi là Havens Above, cũng là nơi có thể rèn Thanh gươm Ánh sáng mới. Sau khi rèn xong, cả nhóm cuối cùng tới Fortress of Fear, pháo đài bay của Mordegon. đó, cả nhóm đánh bại Jasper, đã biến thành một con quỷ, và Mordegon, phục hồi Yggdrasil và thế giới. Sau đó, cả nhóm phát hiện ra cách để đưa Veronica trở lại trong Tower of Lost Time. đó họ gặp Timekeeper, người đã cho Luminary sức mạnh để quay ngược thời gian và đánh bại Mordegon trước khi anh ta có thể đánh cắp Thanh gươm Ánh sáng và trái tim của Yggdrasil, từ đó Veronica sẽ không phải hy sinh. Tuy nhiên, do sự vắng mặt của Mordegon, một linh hồn bóng tối triệu hồi một quả cầu bí ẩn được gọi là Erdwin's Lantern và hợp nhất với nó, do đó đánh thức nhân vật phản diện thực sự của trò chơi, The Dark One, Calasmos, người trước đây đã bị tiêu diệt trong dòng thời gian cai trị của Mordegon. Bằng cách đó, họ phát hiện ra một Luminary từ nhiều năm trước, gọi là Erdwin, đã bị phản bội và bị giết bởi người bạn là pháp sư Morcant, hắn đã hấp thụ sức mạnh của Calasmos và biến thành Mordegon. Serenica, người bạn đồng môn pháp sư và cũng là tri kỷ của Erdwin, niêm phong Calasmos yếu đuối và cố gắng quay trở lại quá khứ tại Tower of Lost Lime, nhưng lại biến thành Timekeeper, người duy nhất có dấu chỉ của Luminary, có thể sử dụng sức mạnh của tòa tháp. Sau khi chuẩn bị xong, cả nhóm đối đầu với Calasmos và đánh bại hắn ta một lần và mãi mãi. Làm như vậy, Luminary giao dấu chỉ của mình cho Timekeeper, trở về hình dạng ban đầu là Serenica, và sử dụng nó để trở về quá khứ đoàn tụ với Erdwin. Cùng với Veronica và Serena, anh cũng trả lại Thanh gươm Ánh sáng cho Yggdrasil, tiết lộ nó chính là Yggdragon, một con rồng cổ đã bị Calasmos đánh bại từ lâu, với cơ thể biến thành cây Yggdrasil và mang lại sự sống cho Erdrea. Người Yggdragon tôn vinh Luminary danh hiệu "Erdrick", người hùng mạnh nhất trong tất cả các người hùng, và giữ Thanh gươm chờ ngày một anh hùng mới sẽ cần nó để bảo vệ Erdrea khỏi quỷ dữ. Trong đoạn cắt cảnh, Serenica đoàn tụ với Erdwin trong quá khứ, sau cắt cảnh, một người mẹ trẻ, sau khi đọc một cuốn sách về câu chuyện của Luminary, đánh thức con trai mình khỏi giường, thiết lập nên câu chuyện Dragon Quest III. Dragon Quest XI bắt đầu quá trình phát triển vào năm 2013, và công bố vào năm 2015 khi bắt đầu có tưởng phát hành trên PlayStation 4, Nintendo 3DS, và Nintendo Switch. Đây là một trong những trò chơi đầu tiên công bố cho Switch, vốn biết đến với tên mã Nintendo NX vì máy chưa được tiết lộ đầy đủ vào thời điểm đó. Ban đầu, nhóm nghiên cứu xem xét việc làm cho trò chơi thành thế giới mở, nhưng đã hủy bỏ vì nó sẽ dẫn đến các vấn đề về cốt truyện. Các phiên bản PlayStation 4, Microsoft Windows và Nintendo Switch sử dụng Unreal Engine và sự hỗ trợ phát triển từ ORCA Inc, trong khi phiên bản 3DS có sự hỗ trợ từ Toylogic Inc. Vào tháng năm 2017, Square Enix đã tổ chức một buồi trình chiếu đặc biệt cho trò chơi, trong đó ngày phát hành cho phiên bản PlayStation và 3DS của trò chơi được tiết lộ là 29 tháng năm 2017. Cùng tháng đó, Sony Interactive Entertainment và Nintendo đã giới thiệu các phiên bản máy PlayStation Slim và New Nintendo 2DS XL đặc biệt cho Nhật Bản. Cùng với việc phát hành phiên bản tiếng Nhật, nhà thiết kế chính và biên kịch Horii Yuji đã thông báo một phiên bản quốc tế, bản địa hóa thành ngôn ngữ riêng biệt, sẽ phát hành vào năm 2018. Ngày chính xác sau đó tiết lộ là tháng năm 2018, cùng với phiên bản dành cho Microsoft Windows thông qua Steam, phiên bản đầu tiên cho chuỗi chính. Bao gồm đối thoại lồng tiếng Anh, tùy chọn góc nhìn thứ nhất, hỗ trợ độ phân giải 4K và tính năng "Draconian Quest", tăng độ khó của game trong số các thay đổi nhỏ khác. Square Enix nói họ muốn mở rộng thương hiệu Dragon Quest ra bên ngoài Nhật Bản, và tin những tính năng này, ngoài việc có một phiên bản trên Windows, sẽ hỗ trợ điều đó. Bản phát hành quốc tế trên PlayStation cũng có phiên bản sưu tập đặc biệt mang tên Edition of Lost Time, bao gồm trò chơi, một bộ các món đồ trong trò chơi, một cuốn sách bìa cứng 128 trang gồm các khái niệm thiết kế nhân vật gốc từ Toriyama Akira, hai đĩa nhạc có các phiên bản dựng âm của Sugiyama Koichi, một bản đồ thế giới, và đựng trong một hộp thiếc. Phiên bản 3DS không được chuyển ngữ để phát hành ra bên ngoài Nhật Bản, phiên bản Switch bị trì hoãn trong khi nhóm cập nhật phiên bản mới hơn của công cụ Unreal mà hệ thống hỗ trợ. Phiên bản Switch công bố tại Tokyo Game Show 2018. Lấy tên là Dragon Quest XI S: Echoes of an Elusive Age Definitive Edition, trò chơi đã phát hành trên toàn thế giới vào ngày 27 tháng năm 2019 và có lồng tiếng Nhật Bản, chế độ đồ họa 16 bit được chuyển thể từ phiên bản 3DS, một tùy chọn cho nhạc hòa tấu và các yếu tố cốt truyện mở rộng. Bản chơi thử phát hành vào tháng 8, cho phép các bản lưu trò chơi có thể chuyển sang phiên bản đầy đủ. Dragon Quest XI nhận được "đánh giá yêu thích chung" theo Metacritic, ca ngợi phần hình ảnh, lối chơi đánh theo lượt truyền thống, cốt truyện, và các nhân vật. Nhiều bài báo gọi đây là trò chơi hay nhất trong loạt Dragon Quest, cũng như một trong những JRPGs đương đại hay nhất. Tim Roger của Kotaku, vốn hâm mộ loạt đã nhiều năm, gọi đây là một trong những trò chơi hay nhất mọi thời đại. GamingBolt đã ca ngợi tuyệt vời "từ trong ra ngoài so với cùng thể loại" so với cách làm còn kém của các game khác. USgamer cảm thấy phần tiếp theo này hoàn toàn gắn kết một cách tự nhiên với Dragon Quest VIII, xứng đáng là tựa trò chơi thuộc dòng chính được phát hành ra ngoài Nhật Bản, và hoàn toàn lý tưởng cho những người mới bắt đầu. PC Gamer ca ngợi bản tiếng Anh, gọi đây là "tác phẩm xuất sắc nhất, tới mức không ngờ nhất năm". Bất chấp những lời khen ngợi, một số nhà phê bình coi tính chất bảo thủ quá mức của trò chơi là một điều bất lợi. Polygon nói rằng hình ảnh và cách trình bày được nâng cấp đã "ghép vào một bộ khung đã lão hóa" và không có khả năng mang lại tính đột phá mới nào do tính chất dặm chân tại chỗ. PC Gamer cũng đồng ý, lưu rằng mặc dù phiên bản Windows chạy mượt mà không gặp sự cố và "trông tuyệt vời", họ tin rằng bản thân trò chơi "an toàn một cách đáng thất vọng". IGN đã chỉ trích một số yếu tố bị coi là khêu gợi trong trò chơi, bao gồm nhiệm vụ hóa trang cho một nhân vật nữ với trang phục thỏ, cũng như nội dung "puff puff" thường xuyên xuất hiện trong loạt. Một số nhà phê bình cũng viết rằng nhạc nền tổng hợp MIDI, vốn không được dàn dựng sẵn của trò chơi, thường mâu thuẫn với hình ảnh. Đối với phiên bản Windows, người hâm mộ đã tự làm một bản mod thay thế bằng các bản hòa tấu sẵn có. Một bản nhạc nền của dàn nhạc sau đó đã được đưa vào bản Definitive Edition, mặc dù bản gốc cũng có sẵn. Trò chơi đã bán ra hơn hai triệu bản vật lý trong hai ngày bán đầu tiên tại Nhật Bản; phiên bản Nintendo 3DS bán 1,13 triệu, trong khi phiên bản PlayStation bán 0,95 triệu. Bắc Mỹ, trò chơi có tháng ra mắt tốt nhất trong lịch sử loạt, tăng gấp đôi doanh thu của phần hay nhất trước đó là Dragon Quest IX. Đến tháng 11 năm 2018, trò chơi đã xuất xưởng hơn bốn triệu bản trên toàn thế giới. Dragon Quest XI đã bán 303.204 bản trong tuần đầu tiên tại Nhật Bản với phiên bản Switch. Đến tháng năm 2020, game đã xuất xưởng hơn sáu triệu bản trên toàn thế giới. Năm Giải thưởng Hạng mục Kết quả Tham khảo 2018 Game Critics Awards Best RPG Golden Joystick Awards PlayStation Game of the Year Ultimate Game of the Year The Game Awards 2018 Best Role-Playing Game Gamers' Choice Awards Fan Favorite Role Playing Game Titanium Awards Game of the Year Best Artistic Design Best Role-Playing Game 2019 D.I.C.E. Awards Role-Playing Game of the Year Luminary xuất hiện như một nhân vật có thể chơi được, thông qua nội dung có thể tải xuống, trong Super Smash Bros. Ultimate. năm 2018. Altar của Yggdrasil cũng là màn chơi liên quan, cùng với một số bản nhạc trong bộ truyện. Ngoài ra, The Luminary cũng có một amiibo phát hành vào ngày tháng 10 năm 2020. | ''Dragon Quest XI: Echoes of an Elusive Age | Dragon Quest |
Quận Harper là một quận thuộc tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Quận này được đặt tên theo Marion Harper. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2006, quận có dân số 5952 người. Quận lỵ đóng Anthony. | Quận Harper | Quận của Kansas |
Các từ New Guinea (tiếng Anh), (tiếng Pháp) hay Tân Guinea thường được dùng để chỉ đảo New Guinea nằm tại Nam Thái Bình Dương. Ngoài ra các quốc gia hay cựu thuộc địa sau đây cũng dùng tên này: *New Guinea thuộc Đức (tiếng Đức: Một thuộc địa của Đức trước Thế chiến thứ nhất *Lãnh thổ New Guinea (tiếng Anh: Territory of New Guinea) Một thuộc địa của Anh thành lập từ thuộc địa của Đức bên trên *Lãnh thổ Papua và New Guinea (tiếng Anh: Territory of Papua and New Guinea) Năm 1949, Lãnh thổ New Guinea bên trên và Lãnh thổ Papua được sáp nhập thành Lãnh thổ Papua và New Guinea dưới sự quản trị của Úc *Papua New Guinea Năm 1975 Lãnh thổ Papua và New Guinea tuyên bố độc lập và trở thành quốc gia Papua New Guinea | New Guinea | |
Jamestown là một làng thuộc quận Greene, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của làng này là 1993 người. *Dân số năm 2000: 1917 người. *Dân số năm 2010: 1993 người. American Finder | Jamestown | Làng thuộc tiểu bang Ohio, Quận Greene, Ohio |
Đại hội Thể thao Bãi biển châu Á (, viết tắt là ABG) là một sự kiện thể thao đa môn được tổ chức mỗi hai năm một lần, quy tụ tất cả các vận động viên đại diện cho các quốc gia châu Á. Sự kiện này được bảo trợ và đưa vào lịch hoạt động của Hội đồng Olympic châu Á. Đại hội lần đầu tiên tổ chức tại Bali, Indonesia năm 2008. Tất cả 45 quốc gia có Ủy ban Olympic quốc gia được Hội đồng Olympic châu công nhận. Lần thứ Năm Thành phố chủ nhà Quốc gia chủ nhà Lễ khai mạc bởi Quốc gia Đối thủ Môn thể thao Nội dung Đội tuyển hàng đầu 2008 Bali 18 tháng 10 26 tháng 10 41 1.665 17 59 II 2010 Muscat Quốc vương Qaboos bin Said al Said 43 1.131 14 52 III 2012 Hải Dương Ủy viên hội đồng nhà nước Mã Khải 16 tháng 22 tháng 43 1.336 13 49 IV 2014 Phuket 42 2.335 26 168 2016 Đà Nẵng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc 41 2.197 14 172 VI 2020 Tam Đại hội bao gồm các bộ môn thể thao biển sau đây: ba môn phối hợp, bơi đường dài, bóng chuyền bãi biển, bóng đá bãi biển, bóng ném bãi biển, bóng gỗ, bóng nước, bóng rổ bãi biển, cầu mây bãi biển, du thuyền, lướt ván buồm, jet ski, thể dục thể hình và đua thuyền rồng. Đại hội Thể thao châu Đại hội Thể thao Mùa đông châu Đại hội Thể thao châu Trong nhà | Đại hội Thể thao Bãi biển châu Á | Đại hội Thể thao châu, Giải thi đấu thể thao quốc tế châu, Sự kiện thể thao đa môn, Hội đồng Olympic châu |
(, Gallo: Saent-Jill) là một xã của tỉnh thuộc vùng Bretagne, miền tây bắc nước Pháp. Người dân Saint-Gilles được gọi là *Xã của tỉnh Ille-et-Vilaine Mayors of Ille-et-Vilaine Association INSEE IGN Official website French Ministry of Culture list for Saint-Gilles | null | Xã của Ille-et-Vilaine |
Bệnh mạn tính là bệnh tiến triển dần dần và kéo dài, thời gian bệnh từ tháng trở lên. Bệnh mạn tính thường gặp bao gồm những bệnh không truyền nhiễm như viêm khớp, bệnh hen suyễn, ung thư, bệnh tiểu đường và các bệnh do virus gây ra như viêm gan siêu vi và HIV/AIDS. Trong đó, bệnh kinh niên là bệnh kéo dài qua nhiều năm. Trong học, trái ngược với mạn tính (kinh niên) là cấp tính, khi bệnh khởi phát nhanh với cường độ cao. Hoa Kỳ 25% người trưởng thành có ít nhất hai bệnh mạn tính. Những bệnh mạn tính tạo thành nguyên nhân chính gây tử vong. Theo Tổ chức tế Thế giới (WHO) gần 38 triệu người chết mỗi năm vì các bệnh không truyền nhiễm. Việt Nam phổ biển cách dùng từ mãn tính thay cho mạn tính, đây là cách gọi sai về từ nguyên. Theo thông tin trên trang web của Trung cấp Hà Nội, một số bệnh mạn tính thường gặp: Bệnh viêm đường hô hấp mạn tính: viêm phế quản mạn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen và khí phế thũng… Bệnh xương khớp mạn tính: viêm xương khớp, viêm khớp dạng thấp, loãng xương, thoái hóa khớp, Bệnh lý tâm thần kinh: trầm cảm, sa sút trí tuệ, Bệnh tự miễn: xơ cứng bì, lupus ban đỏ, vẩy nến… Bệnh tim mạch: suy tim, tăng huyết áp, bệnh mạch máu não, bệnh tim thiếu máu cục bộ,… Viêm gan mạn tính Bệnh nội tiết: béo phì, đái tháo đường… Hội chứng mệt mỏi mạn tính. Suy thận mạn tính. Ung thư. Tiểu đường. Bone Marrow journal Center for Managing Chronic Disease, University of Michigan CHRODIS: EU Joint Action on Chronic Diseases and Promoting Healthy Ageing Across the Life-Cycle MEDICC Review theme issue on Confronting Chronic Diseases With longer life expectancies in most countries and the globalization of "Western" diets and sedentarism, the main burden of disease and death from these conditions is falling on developing countries and poor communities everywhere. Public Health Agency of Canada: Chronic Disease World Health Organization: Chronic Disease and Health Promotion'' Mạn tính | Bệnh mạn tính | |
Takamasa Sakai (sinh ngày 18 tháng năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Takamasa Sakai đã từng chơi cho Kataller Toyama. | Takamasa Sakai | Sinh năm 1988, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Cầu thủ bóng đá J2 League, Cầu thủ bóng đá Japan Football League, Cầu thủ bóng đá Kamatamare Sanuki, Cầu thủ bóng đá Kataller Toyama |
là một game roguelike do chính Michael Brough (còn gọi là Smestorp) đồng phát triển và phát hành. Game được phát hành vào ngày 30 tháng năm 2013 cho iOS và ngày 27 tháng năm 2015 cho Microsoft Windows và Mac OS thông qua nền tảng phân phối Steam. Bản mở rộng "PLAN.B" được phát hành vào ngày 11 tháng năm 2017. Người chơi điều khiển chương trình hack trong hệ thống máy tính và phải đoạt lấy càng nhiều dữ liệu máy tính càng tốt trước khi chương trình bảo vệ phá hủy nó. Lối chơi đi theo kiểu của thể loại thám hiểm hang động, với các phòng được tạo ngẫu nhiên. Người chơi phải thu thập các chìa khóa để mở khóa các nút hack. Đồ họa của trò chơi giống với đồ họa của ZX Spectrum. Trò chơi diễn ra trong một bối cảnh cyberpunk, nơi được nhắc đến trong tiêu đề của game, việc hack được thực hiện bằng phương thức quay số. 868-HACK được các nhà phê bình tích cực đón nhận, với tổng điểm 84 trên Metacritic. Harry Slater của Pocket Gamer đã gọi game này "hấp dẫn" nhưng "trải nghiệm khó khăn một cách khó tin", mang đến "sự độc đáo và hấp dẫn đối với một số xu hướng hiện tại của trò chơi hiện đại". Trò chơi đã nhận được giải bạc của Pocket Gamer. Edge Online đã gọi trò chơi này là "khó khăn ghê gớm" và "suy nghĩ tỉ mỉ", và "một trong những trò chơi iOS thông minh nhất trong một thời gian". Game nhận được đánh giá tích cực từ giới phê bình, những người đã biểu dương về mặt thiết kế trò chơi và mức độ gây nghiện cao. | null | |
Danh sách đĩa nhạc của nữ ca sĩ kiêm sáng tác theo dòng nhạc soul, jazz và R&B người Anh Amy Winehouse có bao gồm album phòng thu, album trực tiếp, đĩa mở rộng, 14 đĩa đơn (với đĩa đơn dưới dạng nghệ sĩ khách mời), album video và 15 video âm nhạc. Theo ước tính, đến khi mất vào ngày 23 tháng năm 2011, Winehouse đã bán ra hơn 1.7 triệu đĩa đơn và hơn 3.9 triệu album tại Anh Quốc. Album đầu tay của Winehouse, Frank được phát hành bởi hãng Island Records tại Anh Quốc vào tháng 10 năm 2003 và đạt đến vị trí thứ 15 trên UK Albums Chart. Dù vậy, cả bốn đĩa đơn trích từ album này đều không thể đạt được đến top 40 tại UK Singles Chart. Album phòng thu thứ hai và cũng là album cuối cùng của cô, Back to Black, được phát hành vào tháng 10 năm 2006, đạt đến ngôi đầu bảng UK Albums Chart và vị trí thứ trên Billboard 200 tại Hoa Kỳ. Album đã lần được chứng nhận Bạch kim bởi BPI và là album bán chạy nhất năm 2007 tại Anh Quốc. Đĩa đơn đầu tiên trích từ album, "Rehab" đạt đến vị trí thứ và lần lượt tại Anh Quốc và Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ. Các đĩa đơn còn lại từ album, "Back to Black", "Tears Dry on Their Own" và "Love Is Losing Game" đều được phát hành trong năm 2007. Một phiên bản đặc biệt của album được phát hành tại Anh Quốc vào tháng 11 năm 2007 và đạt đến ngôi dẫn đầu tại Anh Quốc. Tính đến giữa năm 2009, Back to Black đạt 2.985.303 bản và là album có lượng doanh số lớn thứ 18 trong lịch sử âm nhạc tại Anh Quốc. Cô còn hợp tác cùng những nghệ sĩ khác trong nhiều đĩa đơn, có thể kể đến như phần góp giọng của cô trong bài hát "Valerie" trong album đơn ca Version của Mark Ronson. Bài hát đạt đến ngôi quân tại Anh Quốc và được đề cử cho hạng mục "Đĩa đơn Anh Quốc xuất sắc nhất" tại mùa giải Brit Award năm 2008; hay bài hát "B Boy Baby" mà cô hợp tác cùng thành viên cũ của ban nhạc nữ Sugababe, Mutya Buena được phát hành vào ngày 17 tháng 12 năm 2007, dưới dạng đĩa đơn thứ tư trích từ album phòng thu đầu tay của Buena, Real Girl. Bản thu âm cuối cùng của Winehouse là bản song ca "Body and Soul" cùng nam ca sĩ Tony Bennett, nằm trong album Duets II được phát hành vào ngày 20 tháng năm 2011. Bài hát còn được tái xuất hiện trong album biên tập sau khi mất của cô, Lioness: Hidden Treasures. Tựa đề Chi tiết Thứ hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận Anh Quốc Úc Áo Pháp Đức Ireland Hà Lan New Zealand SWI Mỹ Frank Phát hành: 20 tháng 10 năm 2003 Nhãn thu âm: Island Định dạng: CD, LP, tải nhạc số 23 22 16 33 Anh Quốc: 981.147 Mỹ: 315.000 Anh Quốc: ARIA: Đức: Áo: Thụy Sĩ: Back to Black Phát hành: 27 tháng 10 năm 2006 Nhãn thu âm: Island Định dạng: CD, LP, tải nhạc số Anh Quốc: 3.513.084 Mỹ: 2.300.000 Toàn thế giới: 20.000.000 Anh Quốc: 11× Úc: Đức:6× Áo:7× Thụy Sĩ:7× Hà Lan: Pháp: Mỹ: New Zealand: Tựa đề Chi tiết Thứ hạng cao nhất Anh Quốc Áo Pháp Đức Hà Lan Amy Winehouse at the BBC Phát hành: 12 tháng 11 năm 2012 Nhãn thu âm: Island, Lioness Định dạng: CD/DVD/LP 83 68 54 54 41 Tựa đề Chi tiết Thứ hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận Anh Quốc Úc Áo Pháp Đức Ireland Hà Lan New Zealand Thụy Sĩ Mỹ Lioness: Phát hành: tháng 12 năm 2011 Nhãn thu âm: Island, Lioness Định dạng: CD, LP, tải nhạc số Anh Quốc: 750.000 Mỹ: 423.000 Toàn thế giới: 2.400.000 Anh Quốc: Úc: Đức: Áo: Thụy Sĩ: Ireland: New Zealand: Tựa đề Chi tiết EP Thứ hạngcao nhất Mỹ *Phát hành: tháng năm 2004 *Nhãn thu âm: Island *Định dạng: Tải nhạc số iTunes Festival:London 2007 *Phát hành: 13 tháng năm 2007 *Nhãn thu âm: Island *Định dạng: Tải nhạc số Back to Black: B-Sides *Phát hành: 15 tháng năm 2008 *Nhãn thu âm: Universal *Định dạng: Tải nhạc số 101 "—" Album không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành quốc gia đó. Tựa đề Chi tiết Thứ hạng cao nhất Anh Áo Pháp Ireland New Zealand Thụy Sĩ Frank Back to Black Phát hành: 24 tháng 11 năm 2008 Nhãn thu âm: Island Định dạng: Bộ đĩa gồm CD 10 18 38 48 16 20 At the BBC: DeluxeBox Set *Released: 12 tháng 11 năm 2012 *Nhãn thu âm: Island, Lioness *Định dạng: Bộ đĩa gồm DVD/1 CD "—" Album không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành quốc gia đó. Đĩa đơn Năm Thứ hạng cao nhất Chứng nhận Album Anh Quốc Úc Áo Pháp Đức Ireland Hà Lan New Zealand Thụy Sĩ Mỹ "Stronger Than Me" 2003 71 Frank "Take the Box" 2004 57 "In My Bed" "You Sent Me Flying" 60 "Fuck Me Pumps" "Help Yourself" 65 "Rehab" 2006 27 19 11 23 21 17 12 11 Anh Quốc: Thụy Sĩ: Mỹ: New Zealand: Back to Black "You Know I'm No Good" 2007 18 89 50 17 71 39 77 Thụy Sĩ: "Back to Black" 56 15 11 18 Anh Quốc: Thụy Sĩ: "Tears Dry on Their Own" 16 87 56 26 Anh Quốc: "Love Is Losing Game" 33 33 "Body and Soul"(cùng Tony Bennett) 2011 40 97 36 27 31 31 35 87 Treasures "Our Day Will Come" 29 54 69 "—" Đĩa đơn không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành quốc gia đó. Đĩa đơn Năm Thứ hạng cao nhất Chứng nhận Album Anh Quốc Úc Áo Pháp Đức Ireland Hà Lan New Zealand Thụy Sĩ "Valerie"(Mark Ronson hợp tác cùng Amy Winehouse) 2007 34 29 Đức: Version "B Boy Baby"(Mutya Buena hợp tác cùng Amy Winehouse) 73 Real Girl "Cherry Wine"(Nas hợp tác cùng Amy Winehouse) 2012 144 Life Is Good "—" Đĩa đơn không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành quốc gia đó. Tựa đề Năm Thứ hạng cao nhất Album Anh Quốc Áo Đức Ireland Thụy Sĩ "Valerie" (phiên bản đơn ca Live Lounge) 2007 37 35 48 33 Back to Black(Phiên bản đặc biệt) "Cupid" 2008 49 "Will You Still Love Me Tomorrow?" 2011 62 Bridget Jones: The Edge of Reason "—" Đĩa đơn không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành quốc gia đó. Danh sách bài hát không được phát hành trong bất kì album phòng thu hay đĩa đơn nào của Winehouse Tựa đề Năm Album "Get Over It" (bản chỉnh sửa) (JTWR hợp tác cùng Amy Winehouse) 2004 BBC 1xtra DJ Excalibah Present: We Got Next "Will You Still Love Me Tomorrow?" Bridget Jones: The Edge of Reason "Best for Me" (Tyler James hợp tác cùng Amy Winehouse) 2005 The Unlikely Lad "To Know Him Is to Love Him" 2007 The Saturday Sessions: The Dermot O'Leary Show "It's My Party" (Quincy Jones hợp tác cùng Amy Winehouse) 2010 Q: Soul Bossa Nostra Danh sách các phần trình diễn trực tiếp, bản thu thử và bản phối lại được xuất hiện trong các album tổng hợp của nhiều nghệ sĩ hoặc trong các đĩa đơn kĩ thuật số riêng lẻ Tựa đề Năm(phát hành) Album "You Know I'm No Good" (trực tiếp) 2007 AOL Winter Warmer 2006 (Live) "Back to Black" (trực tiếp) "Back to Black" (bản thu gốc) Đĩa đơn kĩ thuật số "Back to Black" (Vodafone) Trực tiếp tại TBA "Rehab" (bản thu gốc) "Rehab" (bản phối lại hợp tác cùng Jay-Z) "Rehab" (Vodafone) Trực tiếp tại TBA "Tears Dry on Their Own" (Vodafone) Trực tiếp tại TBA "You Know I'm No Good" (bản thu gốc) "You Know I'm No Good" (Vodafone) Trực tiếp tại TBA "Long Day" Đĩa đơn kĩ thuật số "Best Friend" (phiên bản mộc) 2008 Đĩa đơn kĩ thuật số "Tears Dry on Their Own" (trực tiếp) Later... Live with Jools Holland "Rehab" (trực tiếp) 2010 Dermot O'Leary Presents the Saturday Sessions "'Round Midnight (Amy's Lyrical Twist)" 2011 Đĩa đơn kĩ thuật số Danh sách các phần trình diễn trực tiếp được phát hành trong các bộ phim trình diễn mà cô góp mặt hoặc cùng nhiều nghệ sĩ khác Tựa đề Năm Album "Take the Box" 2005 The Strat Pack: Live in Concert "In My Bed" "Stronger than Me" "Don't Go to Strangers" (cùng Paul Weller) 2008 Weller at the BBC Tựa đề Chi tiết Sympatico MSN PresentsAmy Winehouse Live The Orange Lounge Thu âm: 11 tháng năm 2007 Phát hành: 23 tháng 10 năm 2007 Nhãn thu âm: Universal Republic Định dạng: DVD I Told You Was Trouble: Live in London Thu âm: tháng năm 2007 Phát hành: tháng 11 năm 2007 Nhãn thu âm: Island Định dạng: DVD, Blu-ray In Concert 2007 Thu âm: 29 tháng năm 2007 Phát hành: 30 tháng năm 2011 Nhãn thu âm: Immortal Định dnạg: DVD Tựa đề Năm Đạo diễn "Stronger Than Me" 2003 "Take the Box" "In My Bed" 2004 Paul Gore "Fuck Me Pumps" Marlene Rhein "Rehab" 2006 Phil Griffin "You Know I'm No Good" 2007 "Back to Black" "Tears Dry on Their Own" David LaChapelle "Love Is Losing Game" "Love Is Losing Game" "Valerie" "Just Friends" 2008 "Body and Soul" 2011 "Our Day Will Come" "Cherry Wine" 2012 Jay Martin | null | Amy Winehouse, Danh sách đĩa nhạc của nghệ sĩ Vương quốc Liên hiệp Anh |
Hiệp hội bóng đá Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: ''Svenska là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá Thụy Điển. Hiệp hội quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như vô địch quốc gia và cúp quốc gia. Hiệp hội bóng đá Thụy Điển là thành viên sáng lập cả FIFA và UEFA. Trang chủ Thụy Điển | Hiệp hội bóng đá Thụy Điển | Bóng đá Thụy Điển |
Vieux là một xã thuộc tỉnh Tar trong vùng Occitanie phía nam nước Pháp. Xã này nằm khu vực có độ cao trung bình 190 mét trên mực nước biển. Thị trấn nằm hữu ngạn sông Vère, chảy theo hướng tây qua thị trấn. INSEE | Vieux | Xã của Tarn |
Trifolium rubens là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên. Tập tin:Trifolium rubens 3.jpg Tập tin:Trifolium rubens5.jpg Tập tin:Fleur VTdJ.JPG Tập tin:Trifolium rubens File:Trifolium rubens prg 1.jpg | ''Trifolium rubens | |
Sông Ślęza (tiếng Ba Lan; tiếng Đức là Lohe) là 78 một con sông dài 78,6 km Hạ Silesia, thuộc miền nam Ba Lan, một nhánh trái của sông Oder. Nó bắt đầu đồi Niemcza (Wzgórza một phần của mũi đất Sudeten (Przedgórze Sudeckie), và chảy gần Núi Ślęża qua vùng trũng Silesian (Nizina Slaska)'' và đi vào Oder Wrocław. Chi lưu quan trọng nhất là Mała lęza ("Ślęza nhỏ"). Các thị trấn quan trọng nhất trên sông là: Niemcza, Tyniec nad lęzą, Jordanów ląski và Wrocław. Cái tên này có lẽ bắt nguồn từ một từ Silesian có nghĩa là "nơi đầm lầy ẩm ướt". Trong một tông sắc từ Hadrian IV năm 1155, dòng sông được gọi là Selenza. Tên của sông Ślęza và núi Ślęza đều có nguồn gốc từ tiếng Silesia, mặc dù Ślęza được đánh vần có một chữ tiêu chuẩn và núi Ślęza được đánh vần là dấu phụ tiếng Anh phát âm là zh. | Sông Ślęza | Sông của Ba Lan |
Tinh thể rắn là dạng tinh thể kết tinh của chất rắn. Đa số những khoáng vật trạng thái rắn là những chất kết tinh, nghĩa là những chất có cấu trúc tinh thể. Mỗi khoáng vật có cấu trúc tinh thể khác nhau. Các hình dạng tinh thể cũng rất đa dạng. Hầu như mỗi khoáng vật trong những điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất định lại tạo ra một dạng tinh thể. Xuất phát từ một điểm nào trong không gian của bất cứ một chất nào đều có thể xác định vị trí của điểm đó qua phương đo đạc. Do vậy, tất cả các hạt tinh thể đều có thể chia làm dạng sau: Dạng đẳng thước là dạng tinh thể trong đó hạt tinh thể phát triển đều theo cả ba phương của không gian. Thí dụ những hạt granat 12 mặt thoi, khối bát diện magnetit, hay khối lập phương pyrit. Dạng đơn nghiêng là dạng tinh thể trong đó các hạt tinh thể phát triển kéo dài về một phương. Như trong các tinh thể có cấu trúc tinh thể hình lăng trụ, hình cột, hình que, hay tinh thể hình tóc, hoặc tập hợp tinh thể thành hình sợi. Thí dụ tinh thể Aquamarine, Tuamalin... Dạng tấm là dạng trong đó các hạt tinh thể phát triển kéo dài theo hai phương còn phương thứ ba còn lại ngắn. Đây là những tinh thể hình tấm hình, hình miếng hay hình lá hoặc hình vẩy. Thí dụ Hematit, Mica...N Ngoài ra, còn có những dạng tinh thể phức tạp khác. Thí dụ các tinh thể hình cây, hình rêu, hay nói chung còn có nhiều dạng không đều khác nữa. Ngoài những tinh thể đơn còn có đám tinh thể hoặc tinh thể mọc ghép. Tùy thuộc theo cấu trúc kết tinh đồng thời giữa các tinh thể này mà người ta gọi chúng là tinh thể đám, tinh hốc, hoặc song tinh, tam tinh... Bề mặt các tinh thể không phải là những bề mặt lý tưởng. Nếu ta nhìn các mặt đó bằng ánh sáng phản chiếu, nhất là lại phóng đại lên thì hầu như bao giờ cũng có thể thấy những vết méo lệch trên đó gọi là chạm trổ, hoa văn trên bề mặt các tinh thể. *Tinh thể | Tinh thể rắn | Khoáng vật học |
là một chi kỷ Devon sống Nga trong một vùng tên Andreyevka. Chi này có họ hàng với và Tulerpeton sống khỏng 365 triệu năm trước, khi thời tiết khá ấm và không có sông băng. Mặt đất được phủ kín bởi thực vật. Trong kỷ Devon này, loài động vật bốn chân sống trên cạn đầu tiên tổ tiên của tất cả động vật bò sát, chim, động vật có vú ngày nay đã xuất hiện. Mặc dù có thể thở không khí, Tulerpeton chủ yếu vẫn sống trong vùng biển nông. The Devonian Times reports on Tulerpeton Gordon, M.S. and Long, J.A. (2004) The Greatest Step In Vertebrate History: Paleobiological Review of the Fish-Tetrapod Transition. Physiological and Biochemical Zoology. 77(5):700-719. Recent Transitionals Sarcopterygii: Elpistostegalia The postcranial skeleton of the Devonian tetrapod Tulerpeton curtum Lebedev Tetrapods and other digit-bearing vertebrates Famennian Tetrapods Worldwide Tulerpeton | null | Động vật lưỡng cư kỷ Devon Thể |
là một chi nhện trong họ Agelenidae. Chúng ban đầu được Tamerlan Thorell mô tả như một phân chi của Hadites vào năm 1869, sau đó được tách thành chi riêng bởi Brignoli vào năm 1972. *Histopona bidens (Absolon Kratochvíl, 1933) Croatia, Macedonia *Histopona breviemboli Dimitrov, Deltshev Lazarov, 2017 Bulgaria, Turkey (Europe) *Histopona conveniens (Kulczyński, 1914) Bosnia and Herzegovina *Histopona dubia (Absolon Kratochvíl, 1933) Croatia, Bosnia and Herzegovina *Histopona egonpretneri 1983 Croatia *Histopona fioni Bolzern, Pantini Isaia, 2013 Switzerland, Italy *Histopona hauseri (Brignoli, 1972) Greece, Macedonia *Histopona isolata 1983 Greece (Crete) *Histopona italica Brignoli, 1977 Italy *Histopona krivosijana (Kratochvíl, 1935) Montenegro *Histopona kurkai Deltshev Indzhov, 2018 Albania, Macedonia *Histopona laeta (Kulczyński, 1897) Balkans *Histopona leonardoi Bolzern, Pantini Isaia, 2013 Switzerland, Italy *Histopona luxurians (Kulczyński, 1897) Austria to Ukraine and south-eastern Europe *Histopona myops (Simon, 1885) South-eastern Europe *Histopona palaeolithica (Brignoli, 1971) Italy, Montenegro *Histopona sinuata (Kulczyński, 1897) Romania *Histopona strinatii (Brignoli, 1976) Greece *Histopona thaleri Gasparo, 2005 Greece *Histopona torpida (C. L. Koch, 1837) Europe, Caucasus *Histopona tranteevi Deltshev, 1978 Bulgaria *Histopona vignai Brignoli, 1980 Albania, Macedonia, Greece | null | Danh sách các chi nhện |
/ˌɛ oʊ ɔːr /, có nghĩa là "thằn lằn vỉa hè") là một chi của edaphosaurid synapsids sống những khu vực nay là Bắc Mỹ và châu Âu xung quanh vào khoảng từ 272,5 đến 303,4 triệu năm trước, trong thời gian cuối kỷ Than Đá đến đầu kỷ Permi. Nhà cổ sinh vật học người Mỹ Edward Drinker Cope lần đầu tiên mô tả vào năm 1882, đặt tên nó là "vỉa hè nha khoa" cả hàm trên và hàm dưới, từ tiếng Hy Lạp edaphos έδαφος ("mặt đất"; cũng là "vỉa hè") và σαῦρος (sauros ("thằn lằn"). là một trong những động vật đầu tiên, lớn, ăn thực vật (ăn cỏ), động vật bốn chât có màng ối (động vật bốn chân có xương sống). Ngoài các mảng răng lớn hàm, đặc điểm đặc trưng nhất của là một cánh buồm trên lưng. Một số khớp thần kinh khác cùng thời cũng có buồm lưng cao, nổi tiếng nhất là loài săn mồi lớn Dimetrodon. Tuy nhiên, cánh buồm của có hình dạng và hình thái khác nhau. Hóa thạch đầu tiên của được phát hiện Texas Red Beds Bắc Mỹ, sau đó được tìm thấy New Mexico, Oklahoma, Tây Virginia và Ohio. Hóa thạch rời rạc của cũng đã được tìm thấy miền đông nước Đức Trung Âu. Carroll, R. L. (1988), Vertebrate Paleontology and Evolution, WH Freeman Co. Colbert, E. H., (1969), Evolution of the Vertebrates, John Wiley Sons Inc (2nd ed.) Romer, A. S., (1947, revised ed. 1966) Vertebrate Paleontology, University of Chicago Press, Chicago Romer, A. S. and Price, L. I., (1940), Review of the Pelycosauria, Geological Society of America Special Papers, No 28 Edaphosauridae edaphosaurs (list of species) Thể | null | Lớp Một cung bên kỷ Permi, lớp Một cung bên kỷ Than đá |
'Scinax là một loài ếch trong họ Nhái bén. Chúng là loài đặc hữu của Brasil. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là xavan khô và đầm nước ngọt. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Stuart, S.N. 2006. Scinax constrictus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng năm 2007. | null | Scinax, Động vật đặc hữu Brasil |
Trần Kim Tuyến (1925-1995) nguyên là Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị và xã hội Phủ tổng thống, thực chất là người chỉ huy hệ thống an ninh mật vụ của nền Đệ Nhất cộng hòa Việt Nam trong suốt giai đoạn 1956–1963. Ông sinh năm 1925, xóm 4, Nga Điền, Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam, xuất thân từ một gia đình Công giáo. Thời trẻ, ông học Tiểu Chủng viện Thanh Hóa. Năm 1943, ông ra Hà Nội thi Tú tài và theo học một khóa triết học ngắn hạn một đại chủng viện. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông về Thanh Hóa dạy học trong một trường dòng. Năm 1946, khi còn là học sinh, Tuyến biết đến gia đình họ Ngô một cách tình cờ. Người cố vấn tương lai của ông, Ngô Đình Nhu muốn đi từ Hà Nội đến một khu vực Công giáo gần biên giới với Lào và cần một người hướng dẫn. Một linh mục Công giáo đã yêu cầu Tuyến dẫn đường trên một chiếc xe đạp trong khi Nhu đi theo trong một chiếc xích lô có mái che để trốn tránh sự chú của thực dân Pháp và Việt Minh. Năm 1949, ông lên Hà Nội ghi danh vào học cả hai trường Luật và Khoa của Viện Đại học Đông Dương. Ông tốt nghiệp ngành Luật năm 1952. Về trường thì chưa học xong thì có lệnh động viên ông cùng với sinh viên khác được chuyển sang trường Quân và ông cũng tốt nghiệp khóa đầu tiên vào năm 1954 với cấp bậc trung úy (tương đương sĩ). Một số người cho rằng vì việc này đã gây ra sự ngộ nhận về chức danh "bác sĩ" của ông, vì thực sự ông chưa tốt nghiệp Đại học khoa chính thức và cũng chưa hành nghề bao giờ. Năm 1954, khi Ngô Đình Diệm về nước, nắm quyền Thủ tướng Quốc gia Việt Nam, Ngô Đình Nhu đã lập ra đảng Cần lao Nhân vị để làm lực lượng chính trị hậu thuẫn. Trần Kim Tuyến đã gia nhập đảng Cần lao và trở thành người thân tín của Ngô Đình Nhu. Sau khi nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam được thành lập năm 1955, ông được giao chức vụ Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội trực thuộc Phủ Tổng thống, thường được gọi ngắn là Sở Nghiên cứu Chính trị và có tên gọi tắt là Phòng 4. Thực chất, đây là một trung tâm tình báo chiến lược, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, với nhiệm vụ trấn áp các phe phái đối lập để bảo vệ chế độ, chỉ huy toàn bộ các nhóm tình báo, mật vụ, cảnh sát đặc biệt và phần nào kiểm soát các đơn vị đặc nhiệm chống đảo chính. Trần Kim Tuyến trở thành một trong những nhân vật có quyền lực cao nhất của nền Đệ Nhất Cộng hòa. Sau cuộc đảo chính 11 tháng 11 năm 1960, tuy âm mưu thất bại, nhưng Trần Kim Tuyến cũng bị thất sủng do bị quy trách nhiệm không dự báo trước được cuộc đảo chính. Do đó ông tỏ ra bất mãn và thiên về hướng đối lập. Theo thông tin khác, trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh với ông Huỳnh văn Lang thì một số người làm việc cho Tuyến lạm dụng quyền hành trong việc thầu sổ số mà có liên hệ đến mẹ vợ của ông Huỳnh văn Lang, ông Lang vào gặp ông Diệm để trình bày ngọn nguồn, sau đó ông Huỳnh Văn Lang mất chức. Năm 1961, Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung và lực lượng cảnh sát đặc biệt được sáp nhập vào Tổng nha cảnh sát. Các đơn vị đặc nhiệm chống đảo chính được tổ chức thành Lữ đoàn liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống và chịu sự điều động của Bộ Quốc phòng. Sở Nghiên cứu chính trị bị thu hẹp quyền lực. Trong thời gian này, Trần Kim Tuyến đã có những liên hệ với các nhóm đối lập và các nhóm tình báo nước ngoài, đặc biệt là cơ quan tình báo Anh. Ngày 27 tháng năm 1962, hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom Dinh Độc Lập. Sở Nghiên cứu chính trị một lần nữa bị quy trách nhiệm về việc không dự báo được cuộc ném bom này và người chịu trách nhiệm chính là Giám đốc Trần Kim Tuyến. Sở Nghiên cứu chính trị bị Tổng thống Diệm âm thầm ra quyết định giải thể. Trần Kim Tuyến bị ngưng chức Giám đốc. Trung tá Đường, chánh văn phòng Cố vấn Ngô Đình Nhu, được giao tạm quyền. Đầu tháng năm 1963, ông nhận được quyết định của Tổng thống Ngô Đình Diệm cử ông làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Ai Cập. Tuy nhiên, khi đến Cairo thì nhận được tin chính phủ Ai Cập đã công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì vậy phía Việt Nam Cộng hòa tuyên bố không thừa nhận bang giao trên cấp Tổng lãnh sự. Trên đường trở về nước, khi quá cảnh tại Hồng Kông, Trần Kim Tuyến đã xin tị nạn chính trị và từ chức Tổng lãnh sự. Từ đó ông bắt đầu sống cuộc sống lưu vong lần thứ nhất. Sau đảo chính tháng 11 năm 1963, Trần Kim Tuyến trở về Sài Gòn. Tuy nhiên, chính quyền mới không trọng dụng ông vì quá khứ liên hệ quá chặt chẽ với chế độ Ngô Đình Diệm. Trần Kim Tuyến chuyển sang viết báo cho nhật báo Xây dựng, và là cây bút bình luận của nhật báo Chính Luận dưới các bút danh Thảo Lư và Lương Khải Minh trong suốt gian đoạn 1964–1975. Năm 1971, ông cùng với giáo sư Cao Thế Dung xuất bản bút ký "Làm thế nào để giết một tổng thống" dưới bút danh Lương Khải Minh. Ngày 30 tháng năm 1975, trên đường chạy đến Tòa Đại sứ Pháp xin tỵ nạn, Trần Kim Tuyến được một phóng viên báo ngoại quốc giúp đỡ. Trớ trêu thay, người đó chính là tình báo viên chiến lược của đối phương: Phạm Xuân Ẩn. Trước đó, đầu năm 1963, Trần Kim Tuyến cũng đã có liên hệ với một sĩ quan quân đội để làm đảo chính. Người đó cũng lại là một tình báo viên chiến lược của đối phương: Trung tá Phạm Ngọc Thảo. Hai lần biến cố của Trần Kim Tuyến đều có liên quan đến người của "phía bên kia". Sau khi đào thoát khỏi Việt Nam, Trần Kim Tuyến và gia đình sang tỵ nạn tại Anh Quốc và sống thầm lặng tại đó. Ông mất ngày 23 tháng năm 1995 tại Cambridge, Anh. Theo lời kể của Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Đức, năm 1956, Mỹ cấp cho Sở Nghiên cứu chính trị xã hội (Phòng 4) 50 triệu đồng (tiền Sài Gòn lúc đó) để tổ chức biệt kích đánh phá miền Bắc. Biệt kích thì chọn những người công giáo di cư, hầu hết là người Bùi Chu Phát Diệm để người Mỹ huấn luyện. Còn số tiền đó thì dùng để mua một chiếc tàu viễn dương loại tốt. Nhưng, bác sĩ Tuyến lại quan tâm đến việc khác nhiều hơn, nên ông đã dùng 30 triệu để chi cho công việc của Đảng Cần lao và củng cố Tổng liên đoàn lao động của Bùi Lượng để chống lại Tổng liên đoàn lao công của Trần Quốc Bửu do Mỹ khống chế. Số tiền còn lại đi mua tàu, bị Phòng ăn bớt một ít, người đi mua ăn bớt một ít nữa, nên chỉ mua được một chiếc tàu cũ nát không ra gì. Sau chương trình đó, Mỹ vẫn nhận được tin tức về miền Bắc, nhưng đùng một cái người Mỹ sinh nghi. Bởi họ kiểm tra những tin tức đó, thấy không phải gửi trực tiếp từ Hà Nội mà lấy từ người của Trần Kim Tuyến Lào và Campuchia. Được một thời gian, người Mỹ yêu cầu kiểm soát chương trình này. Để đối phó, Trần Kim Tuyến tạo sự cố cho tàu nổ luôn ngoài khơi, cho phép thuyền trưởng và thuyền phó nhảy trước khỏi tàu để thoát nạn. | Trần Kim Tuyến | Người Thanh Hóa, Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội, Nhà ngoại giao Việt Nam |
Sự kiện UFO Antananarivo (tiếng Pháp: Observation là vụ chứng kiến UFO ngay trên bầu trời thủ đô Antananarivo Madagascar vào năm 1954. Vụ này được giới nghiên cứu UFO coi là quan trọng vì nó xảy ra bên ngoài châu Mỹ và châu Âu, chứng tỏ rằng hiện tượng quan sát thấy UFO khá phổ biến trên toàn thế giới. Ngày 16 tháng năm 1954, khoảng giờ chiều, nhiều người dân đang mua sắm tại khu chợ ngoài trời lúc nhá nhem tối, chết sững tại chỗ và kinh ngạc trước những gì nhìn thấy. Họ mô tả một vật giống như quả bóng màu xanh lá cây có kích thước bằng chiếc máy bay, theo sau là một vật thể bằng kim loại trông giống như quả bóng bầu dục. Chó chạy tán loạn và hú lên khắp thành phố, cừu hốt hoảng phá đổ hàng rào vây quanh. Điều lạ thường nhất là trong suốt thời gian vật thể lạ này bay trên bầu trời thủ đô, hệ thống chiếu sáng công cộng tắt phụt và sáng trở lại sau đó chỉ vài phút, khi "trái bóng lớn màu xanh lá cây" và bạn đồng hành của nó đã rời đi. Như dự tính, công chúng kêu gào và tin bài xuất hiện rất nhiều trên báo chí, tất cả khiến những người có thẩm quyền của chính phủ Pháp phải cho tiến hành điều tra ngay lập tức. Vài ngày sau, phía Pháp điện khẩn đến Bộ Tư lệnh Không quân Madagascar đề nghị Giám đốc Đài quan sát thiên văn Antananarivo là Đức Cha Coze thuộc Dòng Tên tới thu thập lời khai. Hầu hết các nhân chứng đều đồng rằng vật thể lạ này bay lơ lửng trên không trung và nhiều lần đi qua thành phố. Trong số các nhân chứng còn có Edmond Campagnac, phi công và giám đốc kỹ thuật của hãng Air France Antananarivo. Theo ước tính của ông, quả bóng có đường kính khoảng 40 mét và tốc độ khoảng 400 km/h. Một số nhân chứng cho biết họ nhìn thấy một vật thể kim loại nằm trên đỉnh vật thể này. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra lời giải thích hợp lý như giả thuyết về chiếc máy bay bí mật của Liên Xô hay liên quan đến các hiện tượng tự nhiên nhưng đều bị bác bỏ vì thiếu tính thuyết phục. Trường hợp này thường xuyên được những người ủng hộ giả thuyết ngoài Trái Đất coi là một trong những điều bí ẩn nhất. Giả thuyết về nguyên mẫu thiết bị bay quân sự mật không được coi là đáng tin cậy do niên đại của sự kiện và sự phát triển của lịch sử ngành hàng không, trong khi những lời giải thích dựa trên giả thuyết tâm lý xã hội đang gây tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học do số lượng lớn nhân chứng thuộc các tầng lớp xã hội và trình độ văn hóa khác nhau. Sự kiện này đã thúc đẩy Charles de Gaulle xem xét để rồi một vài năm sau đó dẫn đến việc thành lập tổ chức chính thức chuyên nghiên cứu về UFO của Pháp là GEPAN vào năm 1977. Ngoài ra, báo cáo COMETA còn đề cập đến trường hợp này vào năm 1999. Bulletin du GEPA (Group d'Etude des Phénomènes n.6, 2nd semester 1964 Observation du 16 août 1954, Tananarive (Madagascar), trong Lumières dans la Nuit, July-August 1994 Sự kiện UFO Antananarivo tại Ufologie. Madagascar năm 1954: Vụ Antananarivo tại Ufocasebook. | Sự kiện UFO Antananarivo | UFO, Sự kiện UFO, Madagascar, Hiện tượng quan sát thấy UFO |
Kim Boo-kyum (Hangul: 김부겸; Hanja: 金富謙; Hán-Việt: Kim Phú Khiêm, sinh ngày tháng năm 1958) là một chính trị gia Hàn Quốc hiện đang là thành viên Đảng Minjoo của Quốc hội quận Suseong, Daegu và là cựu Bộ trưởng Nội vụ và An toàn. Ông trước đây là thành viên của Gunpo từ năm 2000 đến 2012 cho Đảng Quốc Đại và sau đó, từ năm 2003,cho Đảng Uri, theo khuynh hướng tự do và những đảng phái kế nhiệm. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2016 tại Daegu, Kim đã đánh bại đối thủ Saenuri là Kim Moon-soo trong đợt thắng phiếu lớn lên đến 62,5%, đánh dấu lần đầu tiên một thành viên của một đảng tự do được bầu tại thành phố đó kể từ năm 1985. Kim trước đó đã từng ứng cử chức thị trưởng thành phố Daegu trong cuộc bầu cử địa phương năm 2014, và nhận được 40% phiếu bầu, một con số được coi là lớn bất thường trong thành trì bảo thủ. Ông tuyên bố vào năm 2014 rằng ông hy vọng sẽ "vượt qua rào cản của chủ nghĩa khu vực". Kim được coi là người trung dung. Là một thành viên của Đảng Quốc Đại, ông đã thúc đẩy cải cách trong đảng. Khi ông rời khỏi đảng năm 2003, ông đã viện dẫn nhu cầu "thống nhất quốc gia... và thoát khỏi chủ nghĩa khu vực". Một bức điện tín ngoại giao Mỹ do WikiLeaks phát hành đã mô tả Kim là một "nhà lập pháp tiến bộ hợp lý" đại diện cho một "nền tảng trung dung". Với tư cách là thành viên của Hội đồng Tối cao của Đảng Tân Dân chủ Thống nhất năm 2012, ông đã bảo vệ các thành viên phái trung dung của đảng khỏi sự bác bỏ ứng cử viên. Các nhà bình luận đã gọi Kim là ứng cử viên tiềm năng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2017. Kim được nhận vào học ngành khoa học chính trị tại Đại học Quốc gia Seoul năm 1976, nhưng bị trục xuất vì tham gia các cuộc biểu tình phản đối Hiến pháp Yushin năm 1977 trước khi bị bắt lại và bị trục xuất một lần nữa vì vi phạm luật quân sự năm 1980. Sau đó, ông được phục chức lần thứ hai, và nhận được bằng của mình vào năm 1987. Con gái của Kim, Yoon Se-in (tên khai sinh Kim Ji-su), là một nữ diễn viên phim truyền hình. Yoon đã vận động cho Kim trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2012 và cuộc đua tranh chức thị trưởng năm 2014, nhưng không thành công vào năm 2016. | Kim Boo-kyum | Sinh năm 1958, Người Sangju, Gia tộc Gim vùng Gimhae, Cựu sinh viên Đại học Quốc gia Seoul, Chính trị gia Đảng Uri, Chính trị gia Đảng Hàn Quốc Tự do, Chính trị gia Đảng Minjoo Hàn Quốc, Chính trị gia Đảng Tân Dân chủ Thống nhất, Nhân vật còn sống |
Một slide Webdriver Torso. Việc mất chất lượng có thể thấy trong chử và các hình chữ nhật. Webdriver Torso là một tài khoản YouTube thử nghiệm hiệu suất tự động mà trở nên phổ biến vào năm 2014 vì các suy đoán về tự nhiên (không giải thích) và các câu đùa trong một số video của nó. Được tạo bởi Google vào ngày tháng năm 2013, kênh bắt đầu đăng video vào ngày 23 tháng cùng năm, với các slide đơn giản và tiếng bíp. Nó được làm phổ biến vào năm 2014 khi nó làm một suy đoán của những người xem đã xem video đó và ghi chú lại ba video có chứa câu đùa. Nó được xem là một bí ẩn phổ biến cho đến khi YouTube thừa nhận rằng kênh này cho mục đích thử nghiệm nội bộ. Kênh đã dừng đăng video trong tần suất đăng của nó sau 624,774 video tính đến ngày tháng năm 2017. Kênh đăng một vài video nữa vào từ tháng đến tháng 10 năm 2018, tháng và 10 năm 2019, 22 tháng 11 năm 2021 và tháng năm 2022. "aqua", một video Webdriver Torso tầm thường, và là video đầu tiên. Từ ngày 30 tháng năm 2016 đến ngày 31 tháng 10 năm 2019, kênh đã đăng lên tổng cộng 624,774 video. Tần suất đăng video là từ đến 15 phút, nhưng đôi khi lên đến tiếng. Với ngoại lệ của video, tất cả video theo tiêu chuẩn được miêu tả sau: Đa số các video dài 11 giây, nhưng một số video dài phút, phút hoặc 25 phút. Nó là các trình chiếu dài tầm giây. Mỗi slide có một hình nền trắng, với hai hình chữ nhật xanh dương và đỏ. Cả hai có vị trí, kích thước và hình thái ngẫu nghiên trên slide. Khi hai hình chồng lên nhau, hình đỏ luôn trên hình xanh dương. Mỗi slide có một tông ngẫu nghiên tạo bởi máy tính. Trong góc của mỗi video, nó ghi "aqua.flv slide (số slide với bốn đơn vị)". Các video sớm được gọi là "aqua", sau đó chuyển sang "tmp", một từ viết tắt cho "bản mẫu" (template) hoặc "tạm thời" theo với một dãy kí tự ngẫu nghiên. Hiện tại, video mới nhất của Webdriver Torso được đăng vào tháng năm 2022. Logo Webdriver Torso của Google. Khi "Webdriver Torso" được tìm lên Google, logo của Google sẽ nhìn giống một video Webdriver Torso. Test card | Webdriver Torso | Google, Meme, Kênh YouTube ra mắt năm 2013, Bí ẩn Internet, Kênh YouTube, Đối tượng kiểm tra |
Michał Koterski, còn được gọi là Misiek Koterski (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1979 tại Kraków) là một diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình và diễn viên hài độc thoại người Ba Lan. Anh là con trai của đạo diễn Marek Koterski và Iwona Ciesielska. Michał Koterski nổi tiếng nhờ vào vai diễn trong phim Dzień świra (Day of the Wacko) của cha mình. Trong đó, anh đóng vai Sylwuś, con trai của Adam Miauczyński. Nam diễn viên tạo dấu ấn bằng phong cách diễn xuất riêng của mình. Michał Koterski cũng tham gia sản xuất chương trình radio buổi sáng Antyradio. Vai trò của anh trong chương trình là đọc các bài viết trên blog của các chính trị gia nổi tiếng, chẳng hạn như Renata Beger và Wojciech Wierzejski. Michał Koterski là anh em họ với Maciej Koterski, diễn viên đóng vai Piotruś Wolański trong các phim Kogel-mogel và Galimatias, czyli kogel-mogel II. Michał Koterski từng tham gia chương trình Jak oni śpiewają (How They Sing) mùa thứ 3. Ngày 12 tháng năm 2008, anh bị loại khỏi chương trình, nhường cho Aneta Zając và Grażyna Szapołowska đi tiếp. Anh kết thúc cuộc thi vị trí thứ 9. 1999: Ajlawju trong vai Sylwuś Miauczyński 2002: trong vai Nhân viên trạm xăng 2002: Dzień świra (Day of the Wacko) trong vai Sylwuś Miauczyński 2006: Królowie śródmieścia trong vai Słoniu 2006: Wszyscy jesteśmy Chrystusami (We're All Christs) trong vai Sylwuś Miauczyński 2007: 7 Dwarves: The Forest Is Not Enough 2009–nay: Pierwsza miłość (First Love) trong vai Henryk "Kaśka" Saniewski 2010: Jeż Jerzy (George the Hedgehog) 2011: Kac Wawa Michał Koterski at IMDb | Michał Koterski | Sinh năm 1979, Nhân vật còn sống, Nam diễn viên điện ảnh Ba Lan |
Georg Friedrich von Kleist (25 tháng năm 1852 tại điền trang Rheinfeld Karthaus 29 tháng năm 1923 tại điền trang Wusseken Hammermühle) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng cấp Thượng tướng kỵ binh, đồng thời là một chính trị gia. Ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức và cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Georg sinh ngày 25 tháng năm 1852, trong gia đình quý tộc cổ vùng Pommern von Kleist. Ông là con trai duy nhất của Thiếu tướng Fedor Benno von Kleist. Ông đã khởi đầu sự nghiệp quân sự của mình khi gia nhập Trung đoàn Bộ binh "von Alvensleben" (số Brandenburg) số 52, trung đoàn cũ của thân phụ ông, đóng quân tại Cottbus. Vào ngày 25 tháng năm 1869, ông được phong quân hàm thiếu úy. Năm 18, ông đã tham gia cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 1871). Sau khi chiến đấu trong trận Mars-la-Tour vào ngày 16 tháng năm 1870, ông bị thương nặng chân trong trận Gravelotte vào ngày 18 tháng 8, và điều này buộc ông phải chuyển sang lực lượng kỵ binh. Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông tham dự Học viện Quân sự Phổ vào năm 1873, và vào năm 1877 ông được thăng cấp trung úy. Tiếp theo đó, ông được lệnh gia nhập Bộ Tổng tham mưu vào năm 1878. Năm 1883, ông được lên quân hàm Trưởng quan kỵ binh, năm 1887 ông là Thiếu tá trong Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 3, và là Tư lệnh của Trung đoàn Thương kỵ binh "Hoàng đế Alexander II của Nga" (số Brandenburg) số tại Fürstenwalde từ năm 1892 cho đến năm 1893. Vào ngày 25 tháng năm 1894, ông được phong quân hàm Thượng tá, rồi vào năm 1895 ông được nhậm chức Trưởng khoa trong Bộ Tổng tham mưu, từ năm 1896 cho đến năm 1898 ông là Đại tá và Trưởng khoa Lịch sử Quân sự. Ngày 22 tháng năm 1899, Kleist được thăng quân hàm Thiếu tướng và được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục thanh tra kỵ binh tại Königsberg vào ngày 14 tháng năm 1901. Ngày 22 tháng năm 1902, ông được thăng cấp Trung tướng và một năm sau ông được lãnh chức Tư lệnh của Sư đoàn số 38 tại Erfurt vào ngày 18 thámg năm 1903. Vào năm 1907, Kleist được bộ nhiệm làm Tướng thanh tra Kỵ binh, sau đó ông giải ngũ vào năm 1909. Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, ông được triệu hồi làm Tướng tư lệnh của Quân đoàn Trừ bị XXIII vào ngày 25 tháng năm 1914. Với quân đoàn này, Kleist đã tham chiến tại khu vực phía bắc của Tập đoàn quân số dưới sự chỉ huy của Quận công Albrecht của Württemberg trong trận Ypres lần thứ nhất tại Flanders. Vào ngày 19 tháng 12 năm 1914, ông phải từ bỏ chức vụ chỉ huy của mình do một cơn đau tim. Ông rời bệnh viện quân Ghent vào tháng năm 1915, từ đó ông chú tâm vào các vấn đề chính trị và viết các công trình nghiên cứu quân sự. Từ năm 1910 cho đến năm 1918, ông là Chủ tịch Hiệp hội Gia tộc von Kleist. Ông cũng là một thành viên Viện Quý tộc Phổ, và, trên cương vị là một trong những người sáng lập "Liên minh Phổ" vào năm 1913, ông là Chủ tịch hiệp hội này từ mùa thu năm 1918 cho đến năm 1919. Hiệp hội này kêu gọi khôi phục chế độ quân chủ Đức. Ông là người hưởng quyền thừa tự của điền trang Wusseken và là điền chủ của Löschinghof. Vào ngày 15 tháng năm 1909, ông được phong chức la suite của Trung đoàn Thương kỵ binh "Hoàng đế Alexander II của Nga" (số Brandenburg) số 3. Ông từ trần vào ngày 29 tháng năm 1923. Von Kleist đã thành hôn với bà Barbara von Nathusius; hai người có với nhau sáu con trai và một con gái. Trong các con trai của ông có Heinrich và Fedor đều là sĩ quan trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và tử trận lần lượt Litva và Ba Lan. Ngoài ra, ba người con trai khác, Robert, Ewald, và Barnim cũng là đều sĩ quan quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là tác giả của một số cuốn sách: Das Leben des Grafen Kleist von Nollendorf Berlin, Schindler, 1887. (PDF-Datei; 1,52 MB) (Thống chế Friedrich Graf Kleist von Nollendorf là một trong những tiên tổ của ông) Die im Rahmen der strategischen Aufgabe der Kavallerie. 2. Auflage, 1891. für den Berlin, 1895 Übersicht über die Teilnahme der Familie von Kleist am (1.) Weltkriege, Wusseken, 1920 (PDF-Datei; 956 kB) Ngoài ra, ông còn là đồng tác giả của Handbuchs für Heer und Flotte (Sổ tay Hải Lục quân), Enzyklopädie der und verwandter Gebiete (Từ điển Khoa học Chiến tranh và các đề tài liên quan), Berlin, Leipzig, Viên, Stuttgart 1913. *Genealogisches Handbuch des Adels, Adelige Häuser Band XIII, Seite 330, Band 80 der Gesamtreihe, C. A. Starke Verlag, Limburg (Lahn) 1975, Acta Borussica Band 10 (1909–1918) (PDF-Datei; 2,74 MB) Artikel in der der von Kleist Georg Friedrich von Kleist Georg Friedrich | Georg Friedrich von Kleist | Quân nhân Đức trong Chiến tranh Pháp–Phổ, Quân nhân Đức trong Thế chiến thứ nhất, Chính khách Đức, Người nhận Đại Thập tự của Huân chương Đại bàng Đỏ, Sinh năm 1852, Mất năm 1923 |
Mangan(II) Oxide là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học MnO. Nó tồn tại dưới dạng tinh thể xám xanh lục. Hợp chất này được sản xuất trên quy mô lớn, với công dụng chính là là thành phần của phân bón và phụ gia thực phẩm. MnO tồn tại trong môi trường tự nhiên, là một hợp chất hiếm của mangan. Để sản xuất phục vụ cho thương mại, nó được điều chế bằng cho MnO2 tác dụng mới một trong các chất: hydro (H2), cacbon monOxide (CO) hoặc metan (CH4), ví dụ như: :MnO2 H2 MnO H2O :MnO2 CO MnO CO2↑ MnO cũng có thể được điều chế bằng cách khử cacbonat: :MnCO3 MnO CO2 Quá trình nung này được tiến hành kín khí, vì Mn2O3 có thể xuất hiện. Mangan(II) Oxide trải qua phản ứng hóa học điển hình của một ion Oxide. Khi tác dụng với axit, nó chuyển hóa thành muối mangan(II) tương ứng và nước. oxy hóa mangan(II) Oxide cung cấp mangan(III) Oxide. Cùng với mangan(II) sunfat, MnO là một thành phần của phân bón và phụ gia thực phẩm. Hàng ngàn tấn được tiêu thụ hàng năm cho mục đích này. Các ứng dụng khác bao gồm: chất xúc tác trong sản xuất rượu alkyl, gốm sứ, sơn, thủy tinh màu, tẩy trắng và in dệt… | Mangan(II) Oxide | Hợp chất mangan, Oxide, Oxide base |
Hội ca Hướng đạo Việt Nam là bài hát chính thức của phong trào Hướng đạo Việt Nam được Lưu Hữu Phước sáng tác khi ông là thành viên Hướng đạo Việt Nam trong đoàn Lam Sơn. Bài hát này khi mới sáng tác có tên là "Hướng đạo Hành khúc." Từ khi được sáng tác đến nay, bài hát đã và đang được sử dụng như hội ca chính thức của tất cả các đơn vị Hướng đạo Việt Nam trong và ngoài nước. Bài hát này được hát ngay sau bài quốc ca Việt Nam cộng hòa trong các buổi lễ chào cờ trước 30 tháng năm 1975. Hướng đạo Hành khúc: Là la lá la lá la là, là là la... Nâng cao lá cờ Hướng đạo nhuộm oai hùng sáng ngời, ta cùng đi cùng xây đời mới. Vui tươi hát ca, đi trên con đường lạ, chúng ta nguyện thẳng tiến xông pha. Anh em ơi! rèn cánh tay sẵn sàng, anh em ơi! rèn trái tim vững vàng, tiếng kêu gọi xin ai chớ quên Anh em ơi! kìa nước non đang chờ, anh em ơi! đại nghĩa luôn tôn thờ, chúng ta nguyện kiên tâm tiến lên. Hướng Đạo Việt Nam đuốc thiêng soi đường! Hướng Đạo Việt Nam khó khăn coi thường Luôn luôn ta bền gan, rèn tâm hồn trong sáng, dâng cho nước non nhà, muôn đời điểm tô Cho xã hội rạng ngời, chúng ta một lời. Hội ca Hướng đạo Việt Nam: *Hướng đạo Việt Nam *Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới *Các bài hát sinh hoạt Hướng đạo | Hội ca Hướng đạo Việt Nam | Hướng đạo Việt Nam, Nhạc Lưu Hữu Phước |
Charles Eugène de Foucauld de Pontbriand, tử tước nhà Foucauld, (15 tháng năm 1858 tháng 12 năm 1916), là một sĩ quan kỵ binh của quân đội Pháp, nhà thám hiểm và nhà địa lý học. Cuối cùng trở thành một linh mục Công giáo, ẩn sĩ và nhà ngôn ngữ học. Ông được phong chân phước vào ngày 13 tháng 11 năm 2005 bởi Giáo hoàng Benedict XVI và được phong hiển thánh vào ngày 15 tháng năm 2022 bởi Giáo hoàng Phanxicô. Lễ kính vào ngày tháng 12. Mất cha mẹ lúc sáu tuổi, Charles de Foucauld được ông ngoại là Đại tá Beaudet de Morlet nuôi nấng. Ông theo học trường quân sự đặc biệt Saint-Cyr, sau khi tốt nghiệp, ông gia nhập Trường Kỵ binh Saumur, đó ông nổi bật bởi sự hài hước và có một đời sống ăn chơi trác táng nhờ vào tài sản được thừa kế từ ông nội. Ra trường ông được bổ nhiệm vào một trung đoàn, đến năm hai mươi ba tuổi, ông quyết định từ chức để khám phá Ma-rốc. Công việc đã mang lại cho ông huy chương vàng của Hiệp hội Địa lý sau khi xuất bản cuốn sách Reconnaissance au Maroc (1888). Quay trở lại Pháp và sau nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau, ông khơi dậy lại đức tin Kitô giáo và gia nhập dòng La Trappe vào ngày 16 tháng năm 1890. Hành trình tìm kiếm một lý tưởng nghèo đói, tự chối bỏ và đền tội thậm chí còn triệt để hơn đã khiến ông rời La Trappe để trở thành ẩn sĩ vào năm 1897. Sau đó, ông sống Palestine, viết những bài suy niệm (bao gồm cả Lời cầu nguyện từ bỏ) là nền tảng trong đời sống tâm linh của ông. Được phong chức linh mục Viviers năm 1901 1, ông quyết định sống tại Sahara Algeria Béni-Abbès. Ông có khao khát thành lập một hội thánh mới, nhưng không ai tham gia. Ông sống với người Berber, áp dụng cách tiếp cận tông đồ mới đó là rao giảng không phải bằng bài giảng, mà bằng gương của ông. Để hiểu rõ hơn về Touareg, ông đã nghiên cứu văn hóa của họ trong hơn 12 năm, xuất bản cuốn từ điển Tuareg Pháp đầu tiên dưới bút danh. Các tác phẩm của Charles de Foucauld là tài liệu tham khảo về văn hóa Tuareg. Vào ngày tháng 12 năm 1916, Charles de Foucauld bị ám sát tại nơi ông ẩn. Không lâu sau ông được coi là một vị tử đạo và là chủ đề của sự tôn kính sau sự thành công của cuốn tiểu sử được viết bởi René Bazin (1921). Các hội dòng tôn giáo mới và sự hồi sinh của phong trào ẩn được lấy cảm hứng từ các tác phẩm và cuộc đời của Charles de Foucauld. Năm 1927, quá trình phong chân phước của ông được bắt đầu. Ngày 24 tháng năm 2001, ông được tuyên bố là Đấng đáng kính bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ngày 13 tháng 11 năm 2005, Charles de Foucauld được phong Chân phước bởi Giáo hoàng Biển Đức XVI. Gia đình Charles de Foucauld đến từ Périgord thuộc tầng lớp quý tộc lâu đời Pháp, tổ tiên của ông đã từng tham gia vào Thập tự chinh, tạo nên uy tín lớn trong giới quý tộc Pháp. Mẹ của ông là Élisabeth de Morlet, xuất thân từ tầng lớp quý tộc Lorraine. Năm 1885, Élisabeth de Morlet kết hôn với tử tước Édouard de Foucauld de Pontbriand,. 5. Ngày 17 tháng năm 1857, đứa con đầu lòng của họ tên Charles được sinh ra và chết một tháng sau đó. Charles Eugène là con trai thứ hai của họ, sinh ra tại Strasbourg vào ngày 15 tháng năm 1858 tại nhà riêng, đây cũng là nơi vào năm 1792 La Marseillaise (quốc ca Pháp) được sáng tác. Đứa trẻ được rửa tội trong nhà thờ vào ngày tháng 11 cùng năm (hiện là nhà thờ Tin lành). Vài tháng sau khi sinh, cha ông chuyển đến Wissem. Năm 1861, em gái chào đời, khi đó Charles lên ba tuổi. Mẹ ông, Elisabeth giáo dục ông theo đức tin Kitô giáo, ủng hộ nhiều hành động sùng đạo và đạo đức. Cô qua đời do sẩy thai vào ngày 13 tháng năm 1864, sau đó ngày tháng 8, chồng cô chết do suy nhược thần kinh. Charles (6 tuổi) và em gái Marie (3 tuổi) được giao cho bà nội, Nữ tử tước Clothilde de Foucauld, nhưng sau đó bà chết do đau tim. Những đứa trẻ được ông bà ngoại là Đại tá Beaudet de Morlet và vợ sống Strasbourg nhận nuôi. Đại tá Beaudet de Morlet, cựu kỹ sư bách khoa, sĩ quan kỹ sư, giáo dục cháu trai với tình cảm lớn. Charles sẽ viết về ông ngoại: "Ông tôi có trí thông minh đẹp đẽ mà tôi ngưỡng mộ, có sự dịu dàng vô hạn, những điều đó tạo nên một bầu không khí của tình yêu bao quanh tuổi thơ và tuổi trẻ của tôi, đó là sự ấm áp mà tôi luôn cảm thấy xúc động". Charles theo học tại trường Tân giáo Saint-Arbogast, nơi ông có được kết quả học tập tốt. Ông vào lớp sáu tại trường Lycée de Strasbourg năm năm 1868. Thời điểm này ông có tính khí hướng nội, nóng tính, hay bị ốm và thường xuyên phải học gia sư. Vào mùa hè năm 1868, ông với người dì, Inès Moitessier tại Château de Louÿe, Eure. Bà cảm thấy có trách nhiệm với người cháu trai. Con gái của bà, Marie Moitessier (sau này là Marie de Bondy) lớn hơn Charles tám tuổi trở thành bạn của ông. Cô là một tín đồ sùng đạo, có mối quan hệ rất thân thiết với Charles, đôi khi có vai trò như mẹ của ông. Năm 1870, gia đình de Morlet chạy trốn Chiến tranh Pháp Phổ đến ẩn náu Bern. Sau thất bại của Pháp, gia đình chuyển đến Nancy vào tháng 10 năm 1871. Charles đến thời điểm này đã có bốn năm học trường trung học thế tục. Jules Duvaux là một giáo viên của ông, và ông thân với bạn học Gabriel Tourdes. Cả hai sinh viên đều có niềm đam mê với văn học cổ điển, theo Charles, Gabriel là một trong hai "người bạn không gì sánh được" trong cuộc đời ông. Giáo dục trường trung học thế tục phát triển trong ông một tinh thần yêu nước, kèm theo một sự không tin tưởng vào nước Đức. Ông được rước lễ lần đầu vào ngày 28 tháng năm 1872 và được nhận phép thêm sức bởi Mgr Joseph-Alfred Foulon Nancy. Vào tháng 10 năm 1873, khi đang trong lớp hùng biện, ông bắt đầu rời xa đức tin, trước khi trở thành người vô thần. Ông nói: "Các nhà triết học đều bất đồng. Tôi đã dành 12 năm không phủ nhận nhưng cũng không tin bất cứ điều gì, tuyệt vọng với sự thật, thậm chí không tin vào Chúa. Không có bằng chứng rõ ràng đối với tôi về sự tồn tại của Chúa”. Sự mất niềm tin này đi đôi với sự khó chịu: Charles thấy bản thân là "tất cả sự ích kỷ, tất cả sự bất kính, tất cả sự khao khát điều ác, tôi đã quẫn trí". Vào ngày 11 tháng năm 1874, chị họ Marie kết hôn với Olivier de BondyA 10. Vài tháng sau, vào ngày 12 tháng năm 1874, Charles có bằng tú tài danh dự. Charles được gửi đến trường Ste-Geneviève (hiện tọa lạc tại Versailles), do Dòng Tên điều hành, vào thời điểm đó Khu phố Latinh, Paris, để chuẩn bị bài kiểm tra nhập học cho Học viện quân sự Saint-Cyr. Charles đã phản đối sự nghiêm ngặt của trường nội trú và quyết định từ bỏ tất cả các hoạt động tôn giáo. Ông đã có bằng tú tài thứ hai vào tháng năm 1875. Ông có một lối sống ăn chơi phóng đãng vào thời điểm đó và bị đuổi khỏi trường vì "lười biếng và vô kỷ luật" vào tháng năm 1876. Sau đó, ông ta trở về Nancy, nơi ông học gia sư và đọc sách với Gabriel Tourdes. Sự say mê này dẫn hai người bạn đi sâu vào các tác phẩm của Ariosto, Voltaire, Erasmus, Rabelais và Laurence Sterne. Vào tháng năm 1876, ông tham gia một kỳ thi viết để vào Saint-Cyr và giành được vị trí thứ 82 trong số 412 học sinh, ông là một trong những người trẻ nhất của lớp. Ông nội của Charles quyết định khi mười tám tuổi, Charles đủ điều kiện để thừa kế một gia tài lớn. Ông có bất hòa với một nhóm các người bạn cùng lớp, nhóm này là “Plewna” bao gồm Philippe Pétain và Antoine de Vallombrosa, Hầu tước Morès. Kiểm tra tế cho thấy bệnh thừa cân sớm Charles. Ông tiếp tục đi học mặc dù ít cống hiến cho việc học, Charles thường xuyên tâm sự với người bạn Gabriel Tourdes, trong đó ông mô tả về sự buồn chán sâu sắc của mình tại Saint-Cyr, và hoài niệm cuộc sống với ông ngoại. Đại tá Morlet chết vào ngày tháng năm 1878. Charles, khi đó 19 tuổi buồn bã tâm sự với Gabriel Tourdes nỗi đau của mình: “Đột nhiên họ lấy đi gia đình tôi, ngôi nhà của tôi, sự yên tĩnh của tôi, sự yên bình đó thật ngọt ngào. Tôi sẽ không bao giờ tìm thấy tất cả những điều đó một lần nữa”. Ông thường bị trừng phạt vì những hành vi vô kỷ luật nhỏ nhưng sau hai năm dự bị Charles de Foucauld vẫn được nhận vào trường kỵ binh Saumur. Tại Saumur tuổi 19, ông sống một cuộc đời bốc đồng, vô trật tự nhờ vào tài sản lớn ông được thừa hưởng từ ông nội, số tiền này lên tới hơn 353.500 franc. Ông phung phí chúng trong các buổi tối với bạn cùng phòng, Antoine de Vallombrosa, Hầu tước Morès, người có biệt danh là “người hay chữ thích tiệc tùng”, đã dùng tiền để đưa gái mại dâm từ Paris về phòng. Điều này được kết hợp với một sự vô kỷ luật lặp đi lặp lại. Ông bị trừng phạt nhiều lần vì bất tuân, rời trường mà không được phép, đến muộn, không thức dậy vào buổi sáng... Ông đã có hơn 19 ngày bị phạt nhẹ và 40 ngày bị phạt nặng. Trong các kỳ thi tốt nghiệp, Charles xếp hạng 87 trong 87 người. Được bổ nhiệm vào tháng 10 năm 1879 tại Sézanne Marne, ông không thích đó và yêu cầu được chuyển đi. Năm 1880, ông được bổ nhiệm vào Trung đoàn thứ Hussars, sau này trở thành Trung đoàn Thợ săn Châu Phi thứ tại Pont-à-Mousson. Đó là khoảng thời gian hoang tàn nhất trong cuộc đời ông. Ông tiêu tiền của mình vào sách, xì gà và các buổi tối. Sống như vợ chồng với Marie Cardinal, một nữ diễn viên làm việc Paris. Sự xuất hiện công khai với cô ta mang đến cho ông những lời khiển trách từ cấp trên và những biện pháp trừng phạt không ngớt, vì họ coi cô ta là một người phụ nữ xấu. Người dì lo lắng về Charles, đã viết thư cho ông và đặt vấn đề trước Hội đồng Tư pháp để ngăn ông phung phí tài sản. Ông viết về thời kỳ này: "Tôi không bằng một con lợn". Trung đoàn của ông được gửi đến Sétif, Algeria thuộc Pháp, Charles đưa người tình đi theo trong khi đại tá của ông cấm điều đó. Cuối cùng Charles bị kết án ba mươi ngày tù vì vụ bê bối, sau đó ông tạm thời bị đưa ra khỏi quân đội vì "vô kỷ luật" vào tháng năm 1881, khi đó ông 23 tuổi. Ông đến Évian nghỉ hưu và sống đó với Marie Cardinal. Nhưng khi biết rằng các đồng đội đang chiến đấu Tunisia chống lại bộ tộc Kroumir, Charles yêu cầu được phục hồi để tái hợp với Trung đoàn Thợ săn Châu Phi thứ yêu cầu được chấp nhận vài tháng sau khi ông chấp nhận chia tay với người yêu. Sự thay đổi khiến ông cảm thấy "nỗi lo lắng mơ hồ của một lương tâm tồi tệ, kể cả khi ngủ, nó cũng không hoàn toàn biến mất". Charles de Foucauld gia nhập cùng những đồng đội đang chiến đấu miền Nam Oran chống lại cuộc nổi dậy do Sheikh Bouamama lãnh đạo. Trong chiến dịch này, ông gặp François-Henry Laperrine, người trở thành bạn và có ảnh hưởng về mặt đạo đức đối với ông. Trận chiến gần kết thúc vào cuối năm 1881 sau tháng chiến đấu, ông rời khỏi khu vực đồn trú Mascara, Algeria. Chiến dịch này đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của Charles de Foucauld: ông không chỉ thể hiện hành vi quân sự tốt mà còn tỏ ra là một nhà lãnh đạo giỏi, quan tâm đến người khác. Khoảng thời gian này là lúc đánh dấu sự kết thúc của cuộc đời hoang tàn của Charles. Ông lên kế hoạch cho chuyến đi đến Phương Đông: “Tôi thích tận dụng tuổi trẻ của mình bằng cách đi du lịch; Bằng cách đó, ít nhất, tôi sẽ tự học và không lãng phí thời gian của mình”. Ông yêu cầu nghỉ phép nhưng bị từ chối, sau đó ông đã từ chức khỏi quân đội. Gia đình ông đã tăng cường kiểm soát, bởi vì ông đã lãng phí hơn một phần tư tài sản của bản thân. Charles de Foucauld chuyển đến Algiers vào tháng năm 1882 và chuẩn bị chuyến đi tới Morocco, một đất nước lúc đó vẫn còn rất ít được biết đến. Charles học một năm tiếng Rập và Hồi giáo, cũng như tiếng Do Thái. Theo lời khuyên của Mac Carthy (giám đốc viện bảo tàng Angiers), Charles gặp Rabbi Mordecai Aby Serour, người đề nghị được trở thành người hướng dẫn của Charles và khuyên ông đóng vai làm Người Do Thái để không bị chú đất nước này, do vùng này cấm các Kitô hữu và phần lớn các bộ lạc cư trú đây nằm ngoài sự kiểm soát trực tiếp của vị vua Hồi giáo. Cuộc hành trình bắt đầu vào ngày 10 tháng năm 1883, Charles de Foucauld tự gọi mình là Rabbi Joseph Aleman, sinh ra Moldova, đã bị người Nga đuổi khỏi đất nước đang tìm cách đến thăm cộng đồng Do Thái Ma-rốc. Ông ta mang theo tất cả các công cụ cần thiết cho chuyến thám hiểm: sextant, la bàn, phong vũ biểu, nhiệt kế, bản đồ và giấy tờ tất cả được giấu trên con la. Theo lời khuyên của người hướng dẫn, ông phải sống như một người nghèo và tôn trọng ngày Shabbat. Vào ngày 13 tháng 6, ông gặp những sĩ quan Pháp Tlemcen, Algeria những người này không nhận ra ông là người Pháp, một trong số họ cười khúc khích khi nhìn thấy Charles "Hãy nhìn người Do Thái nhỏ ngồi xổm ăn liu. Trông giống như một con khỉ”. Charles và Aby Serour đến Morocco tận hưởng lòng hiếu khách của các gia đình Do Thái, Charles đi lên sân thượng để thực hiện các phép đo trong khi Aby Serour chuyển hướng sự chú của bất kỳ người nào tò mò. Đối mặt với việc không thể vượt qua Rif, họ lên đường đến Fez. Charles quyết định khám phá Phía đông trước khi đi xa hơn về phía nam. Để đảm bảo an toàn, Charles thuê một số người lái xe làm vệ sĩ. Họ đến Meknes vào ngày 23 tháng 8, sau đó khởi hành về phía nam bất chấp sự miễn cưỡng mạnh mẽ của Aby Serour. Trong các cuộc hành trình, Charles ghi các nhận xét và phác thảo của ông vào một cuốn sổ nhỏ giấu trong tay áo. Vào buổi tối, các phác thảo đã thực hiện trong ngày sẽ được ghi vào một cuốn sổ lớn hơn. Đoàn thám hiểm tới High Atlas, đèo Tizi n'Telouet; Charles là người châu Âu đầu tiên khám phá phần này của MoroccoA 29, 17. Charles xao xuyến trước vẻ đẹp của phong cảnh và sự sùng kính tôn giáo của người đạo Hồi. Ông viết: "Sau ngày thứ 27 của tháng Ramadan, những con quỷ ra khỏi trái đất. Sự cầu nguyện trong những đêm trước đó là để thoát khỏi những cám dỗ của chúng. Niềm tin của người Rập trong đêm bí ẩn này, leïla el Kedr, trong đó bầu trời mở ra, các thiên thần giáng xuống trái đất, nước biển trở nên mềm mại và tất cả là để tôn thờ Đấng Tạo Hóa. Ông khám phá Tissint, Ma-rốc (nằm giữa Tata và Foum Zguid), sau đó ông chia tay những đồng hành do thường xuyên có những bất đồng gay gắt, Charles chuyển đến Mogador để xin tiền gia đình. Ông đó vài tuần, viết nhật ký du lịch. Sau khi nhận được tiền, Charles và Aby Serour đi lên High Atlas cùng với người Rập có nhiệm vụ bảo vệ họ, nhưng người Rập này đã lột sạch của cải của Charles chỉ để lại các dụng cụ và sổ ghi chép cho ông. Charles và Aby Serour đến lánh nạn tại cộng đồng Do Thái và trở về Algeria sau gần 11 tháng thám hiểm thay vì năm theo kế hoạch ban đầu. Trong các thư từ riêng tư, Foucauld nói về Aby Serour bằng những từ ngữ xúc phạm; không tỏ lòng kính trọng cho đến mãi sau này. Ông cũng làm tương tự đối với người Do Thái khi tiến hành công việc tại Ma-rốc. Đối với Mardochée Aby Serour, do bị hao mòn trong chuyến đi này ông ta đã chết chưa đầy hai năm sau khi họ trở về, vào năm 1886. Chuyến đi đến trung tâm Ma-rốc này từ tháng năm 1883 đến tháng năm 1884 cùng với lượng thông tin được đáng kể, đáng chú nhất là địa lý và dân tộc học, đã mang về cho Charles de Foucauld huy chương vàng của Hiệp hội Địa lý Paris vào ngày tháng năm 1885. Tại Sorbonne, ông cũng nhận được giải thưởng cho công việc. Quay trở lại Pháp, ông được chúc mừng bởi gia đình, và đặc biệt là người dì, Inès Moitessier, nhưng cuộc sống Paris khiến ông cảm thấy chán ngán. Charles trở lại Algiers, Mac Carthy giới thiệu ông với chỉ huy Titre, một chuyên gia địa lý. Nhờ đó Charles gặp con gái của vị chỉ huy, người mà ông dự định kết hôn. Gia đình ông phản đối cuộc hôn nhân này và sau vài tháng suy ngẫm, cuối cùng Charles chọn cuộc sống độc thân. Sau đó, ông quyết định quay trở lại Sahara, nơi ông bắt đầu vào cuộc thám hiểm thứ hai vào ngày 14 tháng năm 1885. Ông khám phá một phần của Sahara và vẽ nhiều bản phác thảo trong cuộc thám hiểm này. Ông trở về Pháp Tháng năm 1886. Từ tháng đến tháng 10 năm 1886, Charles thuê một căn phòng Paris gần nhà chị họ Marie de Bondy. Thái độ của ông thay đổi và ông bắt đầu đọc cả kinh Koran và "Élévation sur les mystères" của Bossuet, một cuốn sách được tặng bởi Marie de Bondy. Ông không còn tìm thấy niềm vui trong các tác phẩm khiêu dâm cũng như các tác phẩm giải trí khác, những thứ bây giờ khiến ông cảm thấy ghê tởm. Charles có một cuộc sống ngày càng tỉnh táo, khác xa với những bê bối đã gây sốc cho gia đình ông rất nhiều lần. Ông làm việc trong suốt năm 1887 để điều chỉnh cuốn sách Reconnaissance au Maroc, xuất bản vào năm 1888. Kinh nghiệm Morocco là mặc khải thứ nhất của Foucauld. Ông nói vào năm 1901: "Hồi giáo đã tạo ra một biến động sâu sắc trong tôi. Việc nhìn thấy đức tin này, và những linh hồn sống trong sự hiện diện liên tục của Thiên Chúa, khiến tôi thoáng thấy một điều gì đó vĩ đại và chân thực hơn so với những nghề nghiệp trần gian”. Sự mất lòng tin vào Kitô giáo dần dần phai nhạt qua các cuộc thảo luận về tôn giáo với người chị họ Marie de Bondy. Marie de Bondy đóng một vai trò rất quan trọng trong việc chuyển đổi của Charles. Sau này anh mô tả cô là "thiên thần trần gian" mà anh có thể tâm sự. Nhưng trên hết, các bữa tối xã hội đã làm ông thay đổi nhận thức về đức tin: “Ở Paris, tôi gặp được nhiều người rất thông minh, rất đạo đức và rất Cơ đốc giáo. Tôi tự nghĩ rằng có lẽ tôn giáo này không phải là vô lý”. Ông bắt đầu thường xuyên đến giáo xứ Saint-Augustin, nơi Cha Huvelin hành lễ. Sau đó, Charles de Foucauld quyết định gặp Cha Huvelin trong tòa giải tội của nhà thờ Saint-Augustin vào ngày 30 tháng 10 năm 1886. Ông bày tỏ mong muốn tái khám phá đức tin, Cha Huvelin sau đó yêu cầu Charles xưng tội, và anh ta đã làm theo. Sau đó, Cha Huvelin cho Charles rước lễ. Theo ông, đó là điều mặc khải thứ hai: "Ngay khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống cho Ngài: ơn gọi của tôi có từ cùng giờ với niềm tin của tôi: Thiên Chúa rất tuyệt vời. Có một sự khác biệt như vậy giữa Thiên Chúa với mọi thứ không phải là Ngài". Sự chuyển đổi này thúc đẩy Charles thay đổi hoàn toàn cuộc sống của mình, anh trở thành một tín đồ và bắt đầu cầu nguyện; Ông đọc Breviary và Desert Fathers. Cha Henri Huvelin trở thành cha linh hướng của Charles và cố gắng tiết chế sự sốt sắng anh ta. Cha Huvelin cảnh báo Charles rằng còn quá sớm để nhận ra một ơn gọi tôn giáo, điều này cần thời gian. Ngay sau đó, khó khăn nảy sinh đối với đức tin của Charles: “Ban đầu, đức tin có nhiều trở ngại phải vượt qua. Tôi đã nghi ngờ tất cả mọi thứ, tôi đã không tin tất cả mọi thứ trong một ngày. Những phép lạ của Tin Mừng dường như không thể tin được đối với tôi”. Sau đó, Cha Huvelin thay đổi cách tiếp cận bằng cách mời Charles tập trung vào việc bắt chước Chúa Kitô và suy gẫm về Tin Mừng. Cha Henri Huvelin khẳng định rằng "Chúa Giêsu đã chiếm vị trí cuối cùng đến mức không ai có thể lấy nó từ Người", dụ ngôn “Hãy ngồi chỗ cuối” (Lc 14,7-11). Đây là mặc khải thứ hai cho Charles de Foucauld, người sau đó muốn bắt chước Chúa Kitô. Sau hơn 18 tháng chờ đợi và vâng lời Cha Henry Huvelin, Charles đã đào sâu hơn vào ơn gọi của mình: ông muốn bước vào một trật tự "bắt chước cuộc sống ẩn giấu của người công nhân khiêm tốn và nghèo khổ của Nazareth", vì cảm thấy không xứng đáng làm linh mục và rao giảng. Vào ngày 19 tháng năm 1888, Charles đã đến thăm la trappe cistercienne de Fontgombault và bị thu hút rất nhiều bởi sự nghèo nàn triệt để của dòng tu nơi đây. Tháng năm 1888, ông từ bỏ quân đội sau thời gian dự bị cuối cùng cùng với đó là sự thờ với thành công của Reconnaissance au Maroc, một công trình được cộng đồng khoa học nhất trí ca ngợi. Vào cuối năm 1888, theo lời khuyên của Cha Huvelin, ông đi hành hương tháng đến Thánh địa. Ông đến Jerusalem vào ngày 15 tháng 12 năm 1888, viếng thăm Nazareth vào ngày 10 tháng năm 1889, nơi ông khắc sâu mong muốn chiếm lấy vị trí cuối cùng. Ông trở về Pháp vào ngày 14 tháng năm 1889 và tuyên bố rằng ông muốn trở lại La Trappe. Theo lời khuyên của Cha Huvelin, vào tháng Năm, Charles viếng thăm Tu viện Solesmes, sau đó là grande Trappe de Soligny. Vào ngày 20 tháng năm 1889, ông đọc cuốn Le Livre des fondations của Thérèse d'Ávila. Các tác phẩm của Têrêxa Ávila cùng với các sách Tin mừng đã tạo thành nền tảng trong các bài đọc tâm linh của Charles. Ông quyết định vào dòng la Trappe de Notre-Dame des Neiges. Sau hơn ba năm nhận thức, cùng với sự chấp thuận của cha linh hướng, Charles quyết định gia nhập Tu viện Đức Bà-des-Neiges, Ardèche sau một thời gian học tập năm 1889 tại trung tâm tâm linh Dòng Tên Manrèse Clamart: "Tôi trở về từ Clamart ngày hôm qua, và cuối cùng tôi đã quyết định vào La Trappe". Từ ngày 18 tháng 12 năm 1889, ông để lại tất cả tài sản cho em gái. Ông nói lời tạm biệt với Marie de Bondy vào ngày 15 tháng năm 1890 cùng với rất nhiều nước mắt cho thấy tầm quan trọng của việc tận hiến cho Thiên Chúa của Charles. Ông chọn ngày này để tuyên lại việc dâng hiến cho Chúa. Charles vào ngày 16 tháng năm 1890 được nhận tên Frère Marie-Albéric. Ngay lập tức yêu cuộc sống nghèo khổ, im lặng, làm việc và cầu nguyện này. Ông rất tách biệt và nhanh chóng trở thành một tấm gương trong cộng đồng bởi sự vâng lời và khiêm tốn. Ông giải thích với Marie de Bondy những gì ông đang trải qua: “Trong thế giới buồn khổ này, chúng ta có niềm hạnh phúc sâu thẳm mà các thánh và thiên thần đều không có, đó là đau khổ với Người yêu dấu, vì Người yêu dấu của chúng ta. Dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, dù những ngày buồn bã này kéo dài bao lâu, dù có an ủi đến đâu khi nghĩ về thung lũng Josaphat đẹp đẽ, chúng ta đừng vội vàng hơn Chúa muốn rời chân khỏi Thập giá”. Công cuộc tìm kiếm sự nghèo khổ tiếp tục đưa Charles đến với la Trappe cistercienne Akbès, một tu viện mới được xây dựng (1886) bởi gần Alexandrette Ottoman Syria, giữa lãnh thổ Hồi giáo. Ông đã từ bỏ các chức vụ trong quân đội vào ngày 16 tháng năm 1891, và từ bỏ tư cách thành viên trong Hiệp hội Địa lý. Anh giải thích với chị họ Marie de Bondy trong một lá thư: “Bước đi này làm tôi hạnh phúc; vào ngày 15 tháng 1, tôi đã vứt bỏ mọi thứ tốt cho tôi nhưng chúng cũng là những nỗi xấu hổ khốn khổ, cấp bậc, tài sản nhỏ và tôi có được niềm vui khi ném chúng ra khỏi cửa sổ”. Akbès, việc tìm kiếm sự hoàn hảo của Charles nhanh chóng mang lại cho anh uy tín như một vị thánh, mặc dù những hành vi khổ chế của anh khiến cả bề trên và cha linh hướng của anh là Henry Huvelin lo lắng. Anh bộc lộ mong muốn tìm kiếm sự nghèo khổ và khiêm nhường: "Nếu mọi người nói chuyện với tôi về việc học, tôi sẽ phải thừa nhận rằng tôi vẫn còn cảm thấy ngấy đến tận cổ và sự ghê tởm cực độ cho tất cả những thứ có xu hướng đưa tôi ra khỏi nơi cuối cùng mà tôi đang tìm kiếm bằng sự tự chối bỏ này, bằng cách đó tôi muốn đắm mình nhiều hơn theo Chúa chúng ta... và sau cùng, tôi sẽ 'vâng lời'. Bề trên coi Charles là người kế nhiệm của La Trappe và yêu cầu ông tiếp tục học tập để trở thành linh mục. Charles được Cha Huvelin khuyến khích, đã vâng lời và bắt đầu nghiên cứu thần học dù vẫn hối hận về sự lựa chọn này, trong mắt ông, điều đó làm ông xa cách với nơi cuối cùng và sự khiêm nhường mà ông đang tìm kiếm. Charles nghi ngờ ơn gọi Trappist của mình. Ông viết cho cha Huvelin: "Cha hy vọng tôi có đủ nghèo. Không. Chúng tôi nghèo so với người giàu, nhưng không nghèo như khi tôi Morocco, không nghèo như Thánh François. Tôi chán ghét nó nhưng không để nó làm ảnh hưởng đến tôi. Tôi sẽ giữ im lặng và vâng lời, dần dần khi không còn bị chú ý, tôi có thể sẽ có được các quyền giúp tôi thực hành nghèo tốt hơn”. Charles cũng bày tỏ với giáo viên của các tập sinh là Dom Louis de Gonzague về sự thoải mái tương đối của tu viện, nhưng bất chấp sự dè về các điều kiện sống của tu viện, ông vẫn tuyên khấn vào ngày tháng năm 1892 và được nhận tonsure. Các câu hỏi của Charles gia tăng và tập trung vào khả năng sống sâu hơn trong nghèo đói và quên đi bản thân. Những lá thư của Charles gửi cho cha Huvelin cho thấy những câu hỏi của ông ngày càng liên tục và mạnh mẽ. Một lần nữa, vị linh mục cố gắng làm dịu sự sốt sắng của Charles. Vào ngày 26 tháng năm 1893, ông viết cho cha Huvelin định lập ra một hội dòng mới. Trong đó, ông chủ trương nghèo đói tuyệt đối và đơn giản, cầu nguyện bằng ngôn ngữ địa phương chứ không phải bằng tiếng Latinh, đây được xem là một sự báo trước các cải cách phụng vụ diễn ra sau Công đồng Vatican II. Cha Huvelin trả lời muộn, yêu cầu Charles chờ đợi và tiếp tục việc học cho chức linh mục, bất chấp sự miễn cưỡng của ông. Vào năm 1895, Charles bắt đầu viết quy tắc cho hội dòng mới. Đối mặt với sự từ chối của bề trên trong việc thiết lập hội dòng mới, Charles đề nghị được bắt chước sự nghèo khó của Chúa Giêsu Nazareth bằng cách trở thành một ẩn sĩ dưới chân la Trappe, nhưng sau đó Charles từ bỏ định đó do những khó khăn mà cách làm của ông đặt ra cho hội dòng ông đang thuộc về. Trong một trong những buổi hòa giải năm 1896, Charles đã viết đoạn văn bản nổi tiếng nhất của ông, Lời cầu nguyện từ bỏ: “Cha ơi, con đặt bản thân con vào tay Cha; Cha ơi, con giao phó bản thân con cho Cha, Cha ơi, con dâng bản thân con cho Cha; Cha ơi, hãy làm cho con những gì Cha vui lòng; bất cứ điều gì Cha làm cho con, con cảm ơn Cha; cảm ơn Cha vì tất cả mọi thứ, con sẵn sàng cho mọi thứ: con chấp nhận mọi thứ: con cảm ơn Cha vì tất cả; miễn là chí của Cha được thực hiện trong con, Thiên Chúa của con, miễn là chí của Cha được thực hiện trong tất cả các thụ tạo của Cha, trong tất cả con cái của Cha, trong tất cả những người mà Trái tim Cha yêu quý, con không mong muốn gì khác, Thiên Chúa của con; con đặt linh hồn con vào tay Cha; con trao nó cho Cha, Thiên Chúa của con, với tất cả tình yêu của trái tim con, bởi vì con yêu Cha, và đó là điều bắt buộc mà tình yêu đòi hỏi con, đặt mình trở lại vào tay của Cha mà không cần suy tính: Con phục hồi trong tay Cha, với sự tự tin vô hạn, bởi vì Cha là Cha của con.” Vào ngày 20 tháng 11 năm 1895, cuộc diệt chủng người Armenia Kitô giáo bắt đầu, tu viện Akbès được bảo vệ bởi những người lính. Charles, người muốn đạt tới sự cùng khổ, khi đối mặt với các vụ thảm sát vào tháng năm 1896, đã tìm thấy ra lợi ích của chức linh mục, đó là được gần gũi với những người đau khổ và nghèo nhất: "không có chỗ trú ẩn, không nơi tị nạn, trong cái lạnh khủng khiếp này, không có bánh mì, không có tài sản, kẻ thù từ mọi phía, không ai giúp đỡ họ”. Charles từ chối thực hiện lời khấn trọng, đồng thời là lời khấn cuối cùng. Với sự đồng của Cha Huvelin, người không còn nghi ngờ về ơn gọi đặc biệt của Charles, Charles yêu cầu được giải tỏa các lời khấn tạm. Cha Huvelin khuyên Charles phải mạnh mẽ chống lại xu hướng nghiện sự khổ chế: "Đối với việc khổ chế, anh sẽ không bao giờ thấy đủ. Trong tâm hồn anh, anh phải luôn tự nhủ: Bây giờ là gì?... và sau đó là gì?... Anh cần được bảo vệ trước hành vi mang lại sự nguy hiểm vô hạn này và anh không bao giờ được cố định nó hành vi này chỉ có thể được thực hiện những trái tim không bao giờ có sự thái quá”. Bề trên của ông đã từ chối ông và ra lệnh cho ông đến Tu viện Staouëli Algeria. Vào ngày 10 tháng năm 1896, ông rời Algeria. Đối mặt với quyết tâm của Charles, họ quyết định gửi ông đến Rome, để ông có thể học tập cho chức linh mục. Charles vâng lời và đến Rome vào ngày 27 tháng 10 năm 1896. Vị Tổng Giám mục dòng la Trappe bị thuyết phục về ơn gọi cá nhân của Charles de Foucauld và quyết định giải tỏa ông khỏi các lời khấn vào ngày 23 tháng năm 1897. Charles de Foucauld rời Rome vào ngày 26 tháng 2, sau khi nhận được sự chấp thuận của Cha Huvelin, người mà ông vâng lời như bề trên của ông. Sau đó Charles đi đến Thánh địa vào ngày 24 tháng năm 1897. Hành hương trong bộ dạng như một nông dân Palestine, ông đến Nazareth vào ngày 10 tháng năm 1897 và trình diện tại Tu viện Thánh Clare Nazareth, nơi ông xin được làm vườn, với mức lương duy nhất là một miếng bánh mì và chỗ trong một túp lều. Ông sửa chữa các bức tường của hàng rào, làm hoa hồng cho các nữ tu, vẽ những hình ảnh ngoan đạo, trong khi cho phép mình cầu nguyện nhiều lần. Những người chị em nghèo khổ lo lắng về chế độ ăn uống của anh ta và cho anh ta quả sung và hạnh nhân nhưng anh ta bí mật phân phát lại cho trẻ em. Charles thú nhận với cha linh hướng của mình về lỗi lầm của mình "Những lời cầu nguyện được thực hiện một cách tồi tệ... Lười thức dậy... Tham ăn. Mong muốn được nâng cao, chẳng hạn như lớn hơn khi la Trappe”, nhưng vị linh hướng tìm cách làm dịu đi sự hãm mình và khổ chế thái quá của Charles. Anh ta bắt đầu viết những bài suy niệm, để "sửa chữa suy nghĩ", viết hơn 3.000 trang trong ba năm. Đó sẽ là thời kỳ huyền bí lớn nhất của anh ấy và là nền tảng của tâm linh của anh ấy, được tạo thành từ những khoảnh khắc tuyệt vời của niềm vui nội tâm. Anh ta thấy ơn gọi của mình là "hãy hét lên Tin Mừng từ trên mái nhà, không phải bằng lời nói của ngươi, mà bằng cuộc sống của ngươi". Những suy ngẫm của anh ta dần dần đưa anh ta đến không chỉ sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa và "tận hưởng một mình" Chúa Kitô, mà là bắt chước Chúa Giêsu để tiếp cận với những người khác. “Linh hồn thấy rằng nó thích, rằng nó vui mừng, rằng nó nhận được rất nhiều. Nhưng nó không làm gì cả, nó vẫn vô dụng. Và tôi càng thích, tôi càng muốn làm việc". Thực hiện cuộc sống khổ hạnh này, Charles đã có được danh tiếng về sự thánh thiện giữa những người Claire de Nazareth, và bề trên của Claire de Jerusalem muốn gặp Charles. Cô khuyến khích ông đến với chức linh mục và thành lập một hội dòng mới. Ông đã trải qua một tuần tĩnh tâm tại Aphram-Taybeh vào tháng năm 1898. Vào tháng năm 1900, ông chọn tên Charles de Jésus, và thực hiện phương châm: "Jesus Caritas". Mặc dù có một số nghi ngờ, thử thách về ơn gọi trong tư cách là người sáng lập, Charles tin rằng ông đã tìm ra giải pháp bằng cách mua Mont des Béatitudes để định cư đó với tư cách là một linh mục ẩn sĩ. Sau khi xin tiền em gái, ông trả tiền đất, nhưng lại bị lừa đảo. Được khích lệ bởi cha linh hướng và vị bề trên của Claire de Jerusalem, Charles yêu cầu được phong chức linh mục từ Tổ phụ Jerusalem. Vị bề trên bảo ông đợi. Dự định không thành công, ông quyết định chuẩn bị cho chức linh mục Pháp. Vào cuối tháng năm 1900, Charles bắt đầu đến Marseille. Ông gặp lại cha Huvelin sau mười năm. Ngày hôm sau, ông đã thuyết phục được và rời đến Rome để lấy giấy phép trở thành linh mục. Sau khi nhận được các bí tích nhỏ vào ngày tháng 10 năm 1900, cuối cùng, Charles de Foucauld được phong chức linh mục tại Grand Séminaire de Viviers vào ngày tháng năm sau. Sau đó, ông quyết định đến sa mạc Sahara. = Charles rời đến Béni-Abbès, sa mạc Algeria. Ông đặt chân đến Algiers vào tháng năm 1901, tại đây ông sống cùng những người Cha da trắng; gặp Mgr Guérin, giám mục giáo phận Béni-Abbès, tại Ghardaïa. Sau đó, Charles đến Béni-Abbès, đi cùng với những người lính chào đón ông trong niềm vui vì ông là một người đồng đội của họ trong quá khứ. Vào tháng 10 năm 1901, "Cha Foucauld" định cư Béni-Abbés, một ốc đảo nằm bờ trái của Saoura, phía nam của Oranie, Tây Sahara. Với sự giúp đỡ của những người lính, anh ta đã xây dựng một "Khaoua" (tình huynh đệ), bao gồm một phòng khách, một nhà nguyện và ha vườn rau, được mua nhờ sự giúp đỡ của Marie de Bondy. Nhà nguyện được hoàn thành vào ngày tháng 12 năm 1901. Cuộc sống của ông được tổ chức theo một quy tắc nghiêm ngặt: năm giờ ngủ, sáu giờ lao động thủ công xen kẽ với thời gian cầu nguyện dài. Tuy nhiên, anh nhanh chóng bị tràn ngập bởi những khoảng thời gian dài anh dành để lắng nghe những người nghèo và những người lính đến gặp anh. Ông mô tả với Gabriel Tourdes trạng thái tâm trí của mình: "sống bằng công việc của bàn tay tôi, không biết đến tất cả và nghèo và tận hưởng sâu sắc bóng tối, sự im lặng, nghèo đói, bắt chước Chúa Giêsu. Bắt chước là điều không thể tách rời của tình yêu. Bất cứ ai thích bắt chước là bí mật của cuộc đời tôi. Là một linh mục kể từ tháng năm ngoái, tôi ngay lập tức cảm thấy được mời đến với những con chiên lạc, đến những linh hồn bị bỏ rơi nhất, để hoàn thành nghĩa vụ yêu thương đối với họ. Tôi hạnh phúc, rất hạnh phúc, mặc dù tôi không tìm kiếm hạnh phúc theo bất kỳ cách nào. Vào ngày tháng năm 1902, Charles đã mua sự tự do cho một người nô lệ, và gọi anh ta là Joseph du Sacré-Coeur. Một phần của năm 1902 được dành cho một cuộc trao đổi thư từ với Đức Tổng Giám mục Guérin, Tỉnh trưởng Sahara, trong đó ông mong muốn xóa bỏ chế độ nô lệ Hoggar. Năm tiếp theo, anh lên kế hoạch đi Ma-rốc và thiết lập tình huynh đệ đó. Anh ấy muốn được tham gia cùng với những người bạn đồng hành mà anh ấy sẽ yêu cầu ba điều: "sẵn sàng để bị chặt đầu sẵn sàng để bị chết đói vâng lời ông ấy bất chấp sự không xứng đáng của ông ấy". Ngày 27 tháng năm 1903 Charles de Foucauld nhận được chuyến viếng thăm của Mgr Guérin. Charles muốn tìm kiếm một người bạn đồng hành để đi truyền giáo và xin phép đi về phía nam để chuẩn bị. Chỉ huy François-Henry Laperrine quan tâm đến sự hiện diện của Charles de Foucauld và tìm cách đưa anh ta vào tour tiếp tế của mình phía nam. Charles tỏ ra tán thành khi mà François-Henry Laperrine dường như muốn sử dụng các phương pháp ít bạo lực hơn nhiều so với những người tiền nhiệm. Vào ngày 18 tháng năm 1903, Charles đã xin Đức cha Guérin cho phép đi cùng Laperrine, nhưng cuộc nổi loạn của các bộ lạc chống lại sự hiện diện của thực dân khiến quá trình này không thể thực hiện được. Biết được sự bùng nổ của cuộc xung đột, ngày tháng năm 1903 Charles đi đến miền nam để giải cứu những người bị thương khỏi cuộc chiến giữa Taghit và El-Moungar. Ông trở lại và viết một bài giới thiệu nhỏ về Giáo lý mà ông gọi là Tin mừng được trình bày cho những người da đen nghèo Sahara. Một thời gian sau, François-Henry Laperrine đề nghị Charles đi cùng trong chuyến đi tiếp theo về phía Nam. Cha Henri Huvelin viết thư cho anh ta: "Đi đến nơi mà Thánh Thần thúc giục anh". = Ngày 13 tháng năm 1904, Charles bắt đầu chuyến đi "thuần hóa" hướng về phía nam đến Hoggar. Vào ngày tháng năm 1904, anh và những người bạn đồng hành đến ốc đảo Adrar và gia nhập với Chỉ huy Laperrine. Cuộc hành trình tiếp tục hướng tới Akabli. Charles sau đó ghi chú tất cả những nơi có thể sinh sống. Anh ta thu thập thông tin về ngôn ngữ Tuareg của các dân cư phía nam trung tâm Sahara và bắt đầu dịch các sách Tin Mừng để có thể truyền nó đến Touaregs. Charles đã thất vọng với thái độ của một số người lính thực dân. Khi còn cách biên giới Algeria không xa, nơi đang trong thời gian ổn định, đoàn người phải quay lại và đến Tit. Charles muốn sống đó nhưng Chỉ huy Laperrine từ chối. Chuyến đi kết thúc tại Ain Salah vào tháng 9. Charles gặp Mgr Guérin vào ngày 22 tháng năm 1904 và ông trở lại Béni-Abbès vào ngày 24 tháng năm 1905. Tướng Hubert Lyautey, người được bổ nhiệm đến Algeria, bị hấp dẫn bởi Charles de Foucauld, đã quyết định đến thăm ông tại Béni-Abbès vào ngày 28 tháng năm 1905. Từ cuộc gặp gỡ này đã nảy sinh tình bạn và sự ngưỡng mộ nhất định của Lyautey dành cho Charles. Trong thời gian này Charles đã viết các Méditations sur les Saints Évangiles. Vào tháng năm 1905, Thiếu tá Laperrine đã cầu xin Charles de Foucauld đi cùng trong chuyến đi đến Hoggar. Sau khi xin lời khuyên của Mgr Guérin và Cha Huvelin, anh lại tham gia vào các chuyến đi tiếp tế. Ông rời đi vào ngày tháng năm 1905, tiếp tục cuộc sống cầu nguyện trong khi học tiếng tamahaq. Vào ngày 25 tháng năm 1905, họ gặp Amenokal (người đứng đầu bộ lạc) Moussa Ag Amastan, người quyết định liên minh với chính quyền Pháp. Charles de Foucauld và Moussa Ag Amastan tìm hiểu nhau và dường như đánh giá cao nhau. Từ cuộc gặp gỡ của họ đã sinh ra một tình bạn sâu sắc. La Touareg cho phép Charles de Foucauld định cư Hoggar, từ đó khiến ông đến Tamanrasset. = Charles đến Tamanrasset vào ngày 13 tháng năm 1905, cùng với Paul, người từng là một nô lệ. Ông đã xây một ngôi nhà bằng đá và đất khô. Charles bây giờ muốn tìm hiểu về văn hóa Tuareg nhiều hơn, và việc viết một cuốn từ điển Tuareg Pháp trở thành ưu tiên trong hoạt động tông đồ của ông. Ông giúp đỡ những người mà ông ấy gặp, phân phối thuốc và thực phẩm nhằm duy trì sự tin tưởng lẫn nhau và "chứng minh cho họ thấy rằng các Kitô hữu yêu họ". Vào ngày 25 tháng năm 1905, Moussa Ag Amastan nhận được khoản đầu tư cho Amenokal tại Hoggar từ chính quyền Pháp. Ông đã đến thăm Charles de Foucauld nhiều lần và nhờ ông cho lời khuyên về những quan điểm được chính quyền Pháp chấp nhận. Charles khuyên anh ta nên tìm kiếm những điều tốt đẹp cho người dân của mình, cũng như phát triển giáo dục và quyền của phụ nữ. Paul, người đi cùng anh ta, đã quyết định rời Tamanrasset vào tháng năm 1906. Còn lại một mình, Charles không còn có thể cử hành thánh lễ, vì cần ít nhất một người giúp lễ. Các nghiên cứu của Charles cho phép ông khám phá sự phức tạp bất ngờ của ngôn ngữ và văn hóa Tuareg. Ông viết cho Marie de Bondy: "Ở đây, cuộc sống của tôi chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu ngôn ngữ Tuareg. Tốn thời gian hơn tôi nghĩ, vì ngôn ngữ rất khác so với những gì chúng ta nghĩ; nó được cho là rất nghèo nàn và rất đơn giản; ngược lại, nó phong phú và ít đơn giản hơn chúng ta nghĩ". Vào mùa hè năm 1906, anh mời người bạn là Motylinski đến để giúp hoàn thành cuốn từ điển Tuareg French. Sau khi Motylinski rời đi, vào tháng năm 1906 Charles đã quyết định đến Béni-Abbès. Anh dự định phân chia thời gian của mình giữa hai miền: ba tháng Béni-Abbès, sáu tháng Tamanrasset, ba tháng đi từ địa điểm này sang địa điểm khác; nhưng cuối cùng anh từ bỏ Béni-Abbès Việc ông trở lại Tamanrasset cho thấy sự gắn bó mạnh mẽ của "Frère Charles de Jésus" với Touaregs, nơi ông được chào đón. Anh ta thường tiếp đón các sĩ quan Pháp, bao gồm Đại úy Edouard Charlet, người mà anh ta có những trao đổi rất hiệu quả. Tuy nhiên Charles nhận thấy, sự quan tâm chăm sóc ông nhận được từ họ là một trở ngại cho việc tìm kiếm nơi cuối cùng. Vào ngày 29 tháng 11 năm 1905, Charles gặp Tổng giám mục tại Maison Carrée des Pères blancs và yêu cầu gửi các tu sĩ. Guérin từ chối do tình hình khó khăn Pháp liên quan đến Luật tách biệt giữa Nhà thờ và Nhà nước, sự chia rẽ của người Pháp đối với vụ Dreyfus và căng thẳng giữa Đức và Pháp về Ma-rốc. Tuy nhiên, Đức Tổng Giám mục Guérin chấp nhận một phần các yêu cầu của Charles de Foucauld, trong đó cho phép ông sống theo nội quy do ông đặt ra cùng với frère Michel. Và có quyền đặc biệt để có thể trưng bày Bí tích Thánh Thể để chầu Thánh Thể khi có hai người tôn sùng trong ít nhất ba giờ. Ngày 10 tháng 12, họ đi Béni-Abbès và gặp Tướng Lyautey. Frère Michel và Charles de Foucauld sau đó rời đến In Salah, nhưng chẳng bao lâu sức khỏe của Frère Michel xấu đi do không chịu được sự khắc khổ và đền tội. Sau đó, chuyến đi bị gián đoạn trong một tháng do Charles học tiếng Tuareg với Ben-Messis, một học giả Rập. Họ làm việc không mệt mỏi. Vào ngày 14 tháng năm 1907, Charles biết về cái chết của người bạn Motylinski. Không thể thích nghi với các quy tắc sống khắc nghiệt của Charles, frère Michel trở về Algiers với một đại đội quân sự. Charles hoàn thành cuốn từ điển Tuareg Pháp và ông đưa cho Laperrine để xuất bản. Vì khiêm tốn, Charles yêu cầu rằng bản quyền không được đăng kí dưới tên của ông, mà là dưới tên của Motylinski quá cố. Từ tháng năm 1907 đến Giáng sinh 1908, Charles đã nối lại cuộc đời ẩn tu của mình Tamanrasset, thu thập những bài thơ tiếng Tuareg với giá vài xu và làm việc vài giờ mỗi ngày. Tuy nhiên, Charles vẫn một mình. Ông không nhận được thư trong hơn sáu tháng. Ông cũng không có khả năng cử hành Thánh lễ, hiến tế bí tích Thánh Thể, và chầu Thánh Thể. Ông vẫn chưa cải đạo được cho ai. Những khó khăn này càng lớn khi nạn đói ảnh hưởng đến Hoggar. Charles sau đó nghi ngờ về hiệu quả của sứ mệnh của ông, nhưng muốn lại với người nghèo nhất. Anh ta đưa thức ăn của mình cho các nạn nhân của nạn đói và Giáng sinh trôi qua mà không tổ chức thánh lễ. Vào ngày tháng năm 1908, kiệt sức và hốc hác, Charles không thể di chuyển và nghĩ rằng mình sắp chết. Sau đó giữa nạn đói ông được cứu bởi những người Touaregs, người ta cho ông sữa cừu. Giai đoạn này đánh dấu một sự chuyển đổi thứ hai Charles de Foucauld, ông sau đó đã thấy một lời kêu gọi từ bỏ tinh thần lớn hơn. Biết rằng Charles bị bệnh, Laperrine gửi cho ông thức ăn. Vào ngày 31 tháng năm 1908, Đức cha Guérin đã gửi cho ông một lá thư từ Rome từ Giáo hoàng Pius X, người đã ủy quyền cho ông đặc biệt để cử hành thánh lễ mà không cần người giúp lễ. Sự ủy quyền này khiến ông rất hạnh phúc. Những sự kiện gần đây, bao gồm việc được những người Touaregs cứu sống đã làm thay đổi sâu sắc cách nghĩ của Charles de Foucauld. Anh không còn tìm cách hoán cải, mà là yêu thương; ông viết cho Tổng giám mục Guérin: "Tôi đây không phải để cải đạo người Touaregs ngay lập tức, mà là để cố gắng hiểu và cải thiện họ. Tôi chắc chắn rằng Chúa tốt lành sẽ chào đón thiên đàng những người tốt và trung thực mà không cần họ phải là người Công giáo La Mã”. Ông tiếp tục công việc về văn hóa và ngôn ngữ Tuareg. Ông dành tới 11 giờ mỗi ngày để làm việc với ngôn ngữ, thứ thu hút ông cho đến khi chết: viết một bản chú giải, phiên âm, dịch thuật và bình luận những bài thơ tiếng Tuareg. Quân đội đã xây dựng một pháo đài mới cách Tamanrasset, Fort-Motylinski vài kilomét. Charles muốn thành lập một hiệp hội giáo dân, và xin Cha Huvelin và Tổng giám mục Guérin cho phép ông đến Pháp để phát triển hiệp hội. Vào ngày 28 tháng 10 năm 1908, Charles nhận được sự khích lệ từ Cha Huvelin và do đó quyết định rời đi. Vào ngày 16 tháng năm 1909, ông lên tàu Algiers để tới Pháp. = Charles đến Paris vào ngày 18 tháng năm 1909. Ông gặp Cha Huvelin đó và trình bày cho ông các điều luật của Hiệp hội giáo dân. Anh ta cũng gặp Louis Massignon, gần đây đã được cải đạo từ Hồi giáo sang Công giáo, hai người cùng cầu nguyện tại Vương cung thánh đường Sacré-Cœur vào ngày 21 tháng năm 1909. Charles tin rằng Massignon là người thừa kế tiềm năng của ông và đề nghị anh ta tham gia cùng ông trên sa mạc, nhưng anh ta đã từ chối. Ngày 25 tháng năm 1909, Charles gặp và làm quen với con rể của Marie de Bondy, Hầu tước de FORBIN des ISSARTS, khi ông đến la Trappe để quảng bá cho hiệp hội giáo dân của mình, sau đó ông gặp Tổng giám mục Bonnet. Ông dành vài ngày với người chị họ Marie rồi rời Algeria vào ngày tháng 3. Ông đến In Salah và sáng tác ra một chuỗi Mân côi là chuỗi Mân côi tình yêu cho các tín hữu Kitô giáo và Hồi giáo. Mgr Bonnet và Mgr Livinhac, Tổng quyền của Pères blancs, phê chuẩn các điều luật của "Union des Frères et Sœurs du Sacré-Cœur" (Hiệp hội anh chị em Thánh Tâm), "một hiệp hội ngoan đạo", trong khi chờ đợi sự cho phép từ Rome. Vào ngày 11 tháng 6, Charles trở lại Tamanrasset. Anh ấy tiếp tục công việc với Touaregs và ngôn ngữ của họ. Ông đảm nhận việc tổ chức Hiệp hội giáo dân tông đồ của "Anh chị em của Thánh Tâm Chúa Giêsu". Ông đã thực hiện một chuyến đi tiếp tế với Chỉ huy Laperrine vào tháng và khám phá ra Assekrem. Sau đó, anh trở lại Tamanrasset và tiếp tục cuộc sống bình thường đó. Vào tháng năm 1910, ông lại có một chuyến đi với Laperrine. Với sự giúp đỡ của những người lính, ông quyết định xây dựng một ẩn thất trên đỉnh Assekrem, nơi sẽ cho phép ông sống xa các chuyến viếng thăm và che chở khỏi cái nóng của mùa hè Sahara. Vào ngày 31 tháng 10 năm 1910, Charles trở lại Tamanrasset, nơi anh thấy mình bị quá tải: mưa đã quay trở lại, nhiều người du mục trở lại gần Tamanrasset và nhờ ông giúp đỡ. Trong khi đó, vào mùa hè năm 1910, Moussa ag Amastan đã có chuyến thăm chính thức tới Pháp: đó là "Sứ mệnh Touareg". Charles giới thiệu Moussa đến thăm gia đình ông. Nhìn thấy sự giàu có của gia đình Foucauld, Moussa viết thư cho Charles để bày tỏ sự khó hiểu: "Bạn sống như một người nghèo". Những tháng tiếp theo được đánh dấu bằng nhiều sự chia ly. Charles biết về cái chết của Đức Tổng Giám mục Guérin tuổi ba mươi bảy vào ngày 19 tháng năm 1910. Vài ngày sau, bạn cùng lớp của ông, Chỉ huy La Croix, qua đời tại Algiers. Ngày 15 tháng ông nhận được tin về cái chết của cha linh hướng của ông, Cha Henri Huvelin, người qua đời vào ngày 10 tháng 7. Ngoài ra, Chỉ huy Laperrine bị thuyên chuyển và phải rời Sahara vào cuối năm. Charles tuy nhiên muốn phát triển Hiệp hội giáo dân. Ông trở về Pháp vào ngày tháng năm 1911 và trở lại vào ngày tháng 5. Ông dành hai tháng tiếp theo cho công việc về từ vựng, cùng với đó là xây dựng những ngôi nhà kiên cố cho ngôi làng, những thứ khác cho Moussa Ag Amastan. Giúp phát triển vệ sinh, trong đó ông dạy những điều cơ bản cho người dân Touaregs. Vào tháng năm 1911, Charles đi ẩn tu Assekrem. Đối diện với việc sức khỏe ngày càng xấu đi, ông viết di chúc: Tôi muốn được chôn cất tại chính nơi tôi chết và yên nghỉ đó cho đến khi hồi sinh. Tôi cấm cơ thể của tôi được vận chuyển, rằng nó sẽ bị đưa ra khỏi nơi mà Chúa tốt lành đã khiến tôi hoàn thành cuộc hành hương của mình." Trở lại Tamanrasset vào Giáng sinh năm 1911, ông trở nên say mê với các nhiệm vụ nghiên cứu tuyến đường xuyên Sahara, giúp nhận ra các lối đi có thể của tàu. Ông tham gia vào nhiệm vụ nghiên cứu, liên hệ với các hướng dẫn viên Tuareg để tìm ra các con đường hợp lý, sử dụng áp kế cho các hồ sơ đo độ cao theo yêu cầu của các nhà khoa học. Cuối năm 1912 và đầu năm 1913 được đánh dấu bằng sự phát triển của sự bất ổn chính trị Sahara với các mối đe dọa đến từ Morocco. Charles hoàn thành việc viết từ vựng Tuareg và bắt đầu đọc lại. Ông đang nghĩ về việc quay trở lại Pháp để phát triển Hiệp hội giáo dân. Từ ngày 22 tháng đến tháng năm 1913, ông đã thực hiện hành trình này. Anh đến thăm gia đình và bạn bè, bao gồm cả François-Henry Laperrine. Khi biết rằng Tướng Hubert Lyautey bị chỉ trích vì sự quản lý quá "hòa bình" của Ma-rốc: Charles de Foucauld sau đó khuyến khích anh ta không từ chức và bảo vệ anh ta. Charles chấp nhận tham dự những bữa tối xã hội để thực hiện nhiệm vụ này. Ông đã tham gia một hội nghị tại Sorbonne về dự án Xuyên Sahara. Ông đã gặp Cha Antoine Crozier, người đã tập hợp 26 thành viên đầu tiên của Hiệp hội Anh chị em của Thánh Tâm Chúa Giêsu và hỗ trợ ông trong dự án này. Cuộc gặp gỡ của ông với Đức Hồng Léon Adolphe Amette có được ít kết quả hơn: người này lạnh lùng tiễn ông về sau khi tiếp đón ông. Charles trở lại Algeria vào ngày 28 tháng và đến Tamanrasset vào ngày 22 tháng 11 và tiếp tục công việc thường ngày. = Vào ngày tháng năm 1914, Charles được tin Chiến tranh thế giới thứ nhất đang xảy ra châu Âu. Sức khỏe ngày càng đi xuống, ông ngần ngại ra mặt trận làm một giáo sĩ quân đội. Cuối cùng ông viết thư cho người chị họ Marie, sau nhiều đấu tranh với lương tâm: "Chị có thể thấy rằng thật khó để tôi cách xa những người lính và biên giới của chúng ta: nhưng rõ ràng nhiệm vụ của tôi là lại đây để giúp giữ cho dân chúng bình tĩnh." Sau đó, ông cố gắng giảm thiểu những tác động của cuộc chiến đang diễn ra Pháp lên người dân Touaregs. Cuối năm 1914, ông ngã bệnh. Sự phát triển của Liên minh Anh em và Chị em Thánh Tâm của Chúa Giêsu đã bị dừng lại bởi chiến tranh, nhưng Charles vẫn tiếp tục làm sâu sắc các điều luật, phát triển trái tim thần học. Ông quan tâm đến các hoạt động xây dựng hệ thống truyền dẫn không dây, các tuyến đường dành cho tô. Ông giúp quân đội vạch ra các con đường Hoggar, hy vọng sẽ sớm thấy những chiếc xe đầu tiên. Từ mùa hè năm 1915 đến mùa hè năm 1916, ông xây dựng một pháo đài bằng gạch để dân chúng ẩn náu trong trường hợp Tamanrasset bị tấn công. Có thức ăn, giếng và vũ khí. Vào ngày 24 tháng năm 1916, Djanet đã thất thủ do các chiến dịch đột kích từ Ma-rốc thuộc Tây Ban Nha. Charles de Foucauld từ chối đến với quân đội tại Fort Motylinski, ông muốn lại với người Touaregs. Vào tháng năm 1916, người dân địa phương khuyên ông nên trú ẩn trong pháo đài. Tuy nhiên, mối nguy hiểm cuối cùng không đến từ Morocco. Một phần lớn người dân Sahara và Sahel nổi dậy chống lại người Pháp chiếm đóng, do sự xúi giục của gia tộc Sanusiyya (confrérie senousiste) từ Tripoli. Vào ngày 28 tháng 11, Charles đã hoàn thành việc đọc lại cuốn từ điển Tuareg-French. Charles viết cho chị họ Marie de Bondy, trong lá thư cuối cùng: "Chúng ta thấy rằng chúng ta không bao giờ yêu đủ, nhưng Chúa tốt lành, người biết loại bùn đất ông ấy nhào nặn nên chúng ta và là người yêu chúng ta hơn một người mẹ có thể yêu con mình, đã nói với chúng ta. Ông ấy không nói dối, rằng ông ấy sẽ không từ chối những người đến với Ông ấy". Những kẻ cướp từ Tripoli nghe danh và nảy sinh định bắt cóc Charles de Foucauld để lấy tiền chuộc. Vào ngày tháng 12, một người Touareg quen biết với Charles đã phản bội và cho phép những người Senoussistes bao vây pháo đài. Sự xuất hiện của hai người lính đánh thuê người Algeria làm họ bất ngờ và trong cơn hoảng loạn, thiếu niên được được giao nhiệm vụ trông coi Charles de Foucauld đã bắn vào mặt ông khiến ông thiệt mạng Tối cùng ngày, người dân Touareg chôn cất Charles cùng với những nạn nhân Hồi giáo khác tại Tamanrasset, cách cánh cửa ông chết vài mét. Tướng Laperrine đến hiện trường vào ngày 15 tháng 12 và di chuyển thi thể ra cách đó vài mét. Ngày 26 tháng năm 1929, hài cốt Charles de Foucauld đưa vào một ngôi mộ tại El Goléa, ngày nay là El Méniaa. | Charles Eugène de Foucauld de Pontbriand | Sinh năm 1858, Mất năm 1916, Người thám hiểm châu Phi, Linh mục Pháp, Nhà thám hiểm Pháp, Cựu sinh viên trường École Spéciale Militaire de Saint-Cyr |
Nguyễn Thị Thành (sinh ngày tháng năm 1996 tại Bắc Ninh) là một hậu và người mẫu tại Việt Nam. Cô đã tham gia và giành ngôi vị khôi Hoa khôi Du lịch Việt Nam 2017. Đồng thời, trở thành đại diện của Việt Nam chinh chiến tại đấu trường nhan sắc thế giới Hoa hậu Sinh thái Quốc tế 2017 và dành ngôi vị hậu 3. Hiện tại cô là đại diện cho Tập đoàn ERM toàn cầu tại Việt Nam. Nguyễn Thị Thành sinh ra và lớn lên tại Bắc Ninh, Nguyễn Thị Thành xuất thân trong một gia đình nghèo khó tại Bắc Ninh nên cô sớm tự lập từ bé. Năm 2015, Thành tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015 và lọt vào Top 45 thí sinh tham gia vòng chung kết. Năm 2016, Thành tham gia cuộc thi tìm kiếm Gương mặt thương hiệu THE FACE VIỆT NAM mùa đầu tiên, là thí sinh của team Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015 Phạm Thị Hương nhưng phải sớm dừng chân tại Top 15 vì lý do gia đình. Cuối năm 2016, cô tham gia cuộc thi Hoa hậu Việt Nam và có mặt trong Top 36 thí sinh lọt vào vòng chung kết. Nhưng sau đó, cô làm đơn xin rút khỏi cuộc thi. = Trong cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015, Thành đã để lại ấn tượng sâu sắc với các nhà báo và ban giám khảo. Cô từng được nhận xét bởi những lời có cánh của nhà báo Ngô Bá Lục: "Lần đầu đi làm Hoa hậu, gặp được một em đồng hương Yên Phong (phố Chờ), Bắc Ninh, đó là Nguyễn Thị Thành 1996 sinh viên, từng năm học bóng chuyền Vũng Tàu. Nhà Thành nghèo, bố mẹ làm ruộng, bố bị ngọng, em trai bị câm. Em đi thi chỉ có ba cái váy, không người thân theo hỗ trợ. Giá biết trước thì mình sẽ kêu gọi tài trợ giúp em, thương quá. Trong khi các em khác thì ekip hùng hậu váy nọ váy kia.. Bên cạnh những bình luận về câu chuyện trên, Hoa hậu Việt Nam 2012 Đặng Thu Thảo cũng dành lời khen cho thí sinh đến từ Bắc Ninh là có nụ cười đáng mến. = Thành lọt Top 36 nhưng rút lui vì dính nghi án phẫu thuật thẩm mỹ. Cô cùng thí sinh khác của đội HLV Phạm Hương là Đỗ Trần Khánh Ngân tham dự cuộc thi Hoa khôi Du lịch Việt Nam và xuất sắc đạt ngôi vị khôi đồng thời giành tấm vé tham dự Miss Eco International Hoa hậu Sinh thái Quốc tế diễn ra tại Ai Cập. Thí sinh khác của đội Phạm Hương là người đẹp Đỗ Trần Khánh Ngân từng đạt quân cuộc thi Gương mặt thương hiệu năm 2016, tại cuộc thi này đã đăng quang ngôi vị cao nhất của cuộc thi Hoa khôi Du lịch Việt Nam đồng thời là đại diện của Việt Nam tại đấu trường Miss Tourism International Hoa hậu Du lịch Quốc tế. Rạng sáng 15/4 (giờ Việt Nam), đêm Chung kết Hoa hậu Sinh thái Quốc tế 2017 chính thức diễn ra tại Ai Cập với sự tham gia của hơn 60 người đẹp đến từ các quốc gia trên thế giới. Tuy không đại diện cho dải đất hình chữ nhưng việc Nguyễn Thị Thành góp mặt đấu trường nhan sắc này vẫn nhận được đông đảo sự quan tâm từ công chúng, truyền thông. Bởi lẽ, bên cạnh những lùm xùm, cô cũng để lại không ít dấu ấn khi liên tiếp lọt top trong loạt phần thi phụ như Top Miss Sport, Top 10 Miss Talent, Top 15 Best Resort Wear hay Top Eco Costume. Học trò cũ của Phạm Hương chương trình The Face phiên bản Việt mùa lần lượt được xướng tên Top 21, Top 10 rồi giành giải hậu chung cuộc. Trước đó trong phần thi ứng xử, Nguyễn Thị Thành ghi điểm nhờ thần thái tự tin và đưa ra câu trả lời có nội dung hoàn chỉnh. Cô tiếp tục trở lại cuộc đua Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019 nhưng lần này cô đã phải dừng chân sau vòng sơ khảo và không có mặt trong Top 60. Ngày 19-5, tại Bangkok (Thái Lan), Nguyễn Thị Thành đã được bổ nhiệm trở thành đại diện cho Tập đoàn ERM toàn cầu tại Việt Nam. Với chức danh này, Nguyễn Thị Thành sẽ đảm nhiệm việc lựa chọn, đào tạo và huấn luyện các đại diện Việt Nam tham dự các cuộc thi sắc đẹp trực thuộc ERM. Được biết ERM được thành lập năm 1986, là đơn vị tổ chức và đại diện hơn 40 cuộc thi nhan sắc và tổ chức sắc đẹp toàn cầu như Nữ hoàng Du lịch quốc tế Miss Tourism Queen International, Nữ hoàng Sắc đẹp toàn cầu Miss Global Beauty Queen,… Top 45 thí sinh tham gia vòng chung kết Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015 Top 36 thí sinh tham gia vòng chung kết Hoa hậu Việt Nam 2016 (Bị loại) khôi Hoa khôi Du lịch Việt Nam 2017 (Bị thu hồi danh hiệu) hậu Hoa hậu Sinh thái Quốc tế 2017 | Nguyễn Thị Thành | Hoa khôi du lịch Việt Nam, Nhân vật còn sống, Người Bắc Ninh, Giải thưởng năm 2015 |
Vanadyl triiodide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học VOI3. Hợp chất này thường chỉ được biết đến dưới thể khí, có màu hồng. VOI3 có thể được điều chế bằng cách cho VOCl3 tác dụng với KI :VOCl3 3KI 3KCl VOI3↑ Việc tạo ra VOI3 tinh khiết gặp rất nhiều khó khăn do iod dễ thăng hoa nhiệt độ khi KI được nung nóng. VOI3 là một chất khí, có màu hồng. VOI3 có tâm của phổ hồng ngoại là 1025 cm−1, khi đó liên kết O=V kéo dài ra. Dựa vào cấu hình PR của hợp chất, có thể dự đoán rằng trong quá trình phản ứng, VOCl2I và VOClI2 được hình thành trước khi VOI3 được tạo ra. Theo đó, có khả năng VOI3 còn lẫn tạp chất là VOCl3. VOI3 chắc chắn là vanadyl trihalogenide kém ổn định nhất. Dù đã có thí nghiệm liên quan đến hợp chất này; tuy nhiên, với các tài liệu hiện nay, VOI3 vẫn chưa có một sự chắc chắn về khả năng tồn tại của nó. Bằng phương pháp Hartree–Fock và lý thuyết phiếm hàm mật độ, cấu trúc của VOI3 đã được xác định, và cấu trúc này giống với VOF3, VOCl3 và VOBr3. Độ dài liên kết V=O là 1,574–1,59 Å, của V–I là 2,332–2,47 Å. Góc liên kết O=V–I là 108,3°, của I–V–I là 110,6–111°. VOI3 được sử dụng trong: *Polymer hóa olefin và ethylen; *Làm chất xúc tác trong quá trình sản xuất carbamat thơm và copolymer xen kẽ của đien liên hợp và monomer vinyl phân cực liên hợp; *Sản xuất phân tử vanadosilicat; *Sản xuất polymer hydride mở vòng. Dưới đây là nguyên văn gốc cho các nguồn tham khảo tương ứng và một số thông tin bổ sung, trong đó là phần nội dung không cần thiết. Nếu cách ký hiệu này đứng vị trí đầu tiên hoặc cuối cùng, tức là trước (hoặc sau) đó vẫn còn nội dung. Thể | Vanadyl triiodide | Hóa chất, Muối iodide |
Kaliningrad K-5 (tên ký hiệu của NATO AA-1 Alkali), được biết đến với tên khác là RS-1U hoặc sản phẩm ShM (ШM), là một loại tên lửa không đối không sớm nhất của Liên Xô. Việc phát triển của K-5 bắt đầu vào năm 1951. Những thử nghiệm đầu tiên là vào năm 1955. Nó được kiểm tra trên Yakovlev Yak-25. Loại vũ khí này bắt đầu phục vụ dưới tên gọi (tiếng Nga: RS-2U (cũng như R-5MS hay K-5MS) vào năm 1957. Phiên bản RP-2U lúc đầu được thiết kế để tương thích với ra-đa (Izumrud-2) được sử dụng trên MiG-17PFU, MiG-19PM. Một phương án cải tiến, K-5M hay RS-2US được trang bị trong quân chủng phòng không Xô Viết, bắt đầu sản xuất năm 1959, tương thích với ra-đa RP-9/RP-9U (Sapfir) của Sukhoi Su-9. Trung Quốc cũng phát triển một loại tên lửa sao chép dưới tên gọi là PL-1, được sử dụng trên máy bay chiến đấu J-6B. Những khó khăn liên quan đến tín hiệu dẫn đường cho tên lửa, đặc biệt trong một máy bay chiến đấu một chỗ, thực chất, làm cho K-5 chủ yếu là một tên lửa chống máy bay ném bom tầm ngắn. Khoảng năm 1967, K-5 được thay thế bởi K-55 (R-55 trong trang bị), K-55 với hệ thống dẫn đường ra-đa bán chủ động hoặc bằng hệ thống tia hồng ngoại của K-13 (AA-2 'Atoll'). Loại tên lửa mới này có trọng lượng 7.8 kg (17.2 lb) nặng hơn K-5, nhưng trọng lượng đầu nổ nhỏ 9.1 kg (20.1 lb). K-55 phục vụ cho đến năm 1977, có lẽ sau khi máy bay đánh chặn Sukhoi Su-9 về hưu. K-5 *Chiều dài: 2500 mm (8 ft in) *Sải cánh: 654 mm (2 ft in) *Đường kính: 200 mm (7⅞ in) *Trọng lượng: 82.7 kg (183.3 lb) *Vận tốc: 800 m/s (2.880 km/h, 1.790 mph) *Phạm vi: 2–6 km (1¼-3¾ mi) *Dẫn đường: tia laser hoặc radar *Trọng lượng đầu nổ: 13.0 kg (28.7 lb) Liên Xô: Không quân Xô Viết sử dụng với tên gọi K-5 Trung Quốc: Không quân quân giải phóng sử dụng với tên gọi PL-1. Tiệp Khắc: K-5 được mang tên RS-2U và RS-2US. Việt Nam: Sử dụng hạn chế trong kháng chiến chống Mỹ *Danh sách các tên lửa RS-2U Air-to-Air missile K-5 airwar.ru | Kaliningrad K-5 | |
Cận duyên hải là vùng thủy phận sát bờ biển. Vùng biển cận duyên Trong hải dương học (tiếng Anh: oceanography) và sinh vật học hải dương (marine biology) thì khu vực cận duyên là vùng nước từ bờ biển trở ra khơi cho tới thềm lục địa. Vùng cận duyên còn được chia thành ba phần: cận duyên cạn, cận duyên giữa và cận duyên sâu (Tiếng Anh: supralittoral, eulittoral và sublittoral). Cận duyên cạn là vùng có thể bị ngập mỗi khi có bão lớn làm nước dâng cao, nhưng thường là khô ráo. Địa hình cận duyên cạn có thể bao gồm mũi đất và cồn cát ven biển. Cận duyên giữa vùng nước dao động do thủy triều lên xuống giữa mức nước lớn và nước ròng. Những bãi biển xoải cát, cửa sông hoặc những mỏm đá thấp thường được gom vào khu vực này. Cận duyên sâu là vùng nước luôn bị ngập. Về mặt pháp lý, định nghĩa cận duyên thay đổi tùy quốc gia hoặc cơ quan. Đối với Hải quân Hoa Kỳ thì mực nước sâu 60 mét (200 feet) được dùng làm giới hạn của vùng cận duyên. | Cận duyên hải | Hải dương học, Địa lý học, Khoa học thủy sản, Môi trường sống, Sinh học biển, Địa lý ven biển, Bờ biển |
Casas Bajas, Rincón de Ademuz (Valencia, España) Casas Bajas là một đô thị comarca Rincón de Ademuz cộng đồng Valencia, Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích 22,65 km², dân số thời điểm năm 2006 là 227 người. | Casas Bajas | Đô thị Valencia, Rincón de Ademuz |
Bản đồ của Albay với vị trí của Jovellar Jovellar là một đô thị hạng tỉnh Albay, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân số 17.308 người trong. Kinh tế chính của địa phương là nông nghiệp với các sản phẩm như lúa, ngô. Sông Quipia chảy qua đô thị này và chảy đến Donsol, Sorsogon. Jovellar được chia thành 23 khu phố (barangay). Bagacay Rizal Pob. (Bgy. 1) Mabini Pob. (Bgy. 2) Plaza Pob. (Bgy. 3) Magsaysay Pob (Bgy. 4) Calzada Pob. (Bgy. 7) Quitinday Pob. (Bgy. 8) White Deer Pob. (Bgy. 9) Bautista Cabraran Del Rosario Estrella Florista Mamlad Maogog Mercado Pob. (Bgy. 5) Salvacion San Isidro San Roque San Vicente Sinagaran Villa Paz Aurora Pob. (Bgy. 6) Mã địa lý chuẩn Philipin Thông tin điều tra dân số Philipin năm 2000 | Jovellar | Đô thị của Albay |
Camifier (INN; mã phát triển FOY-305) là một chất ức chế protease huyết thanh. Enzyme protease huyết thanh có nhiều chức năng trong cơ thể, và do đó, camostat cũng có một loạt các ứng dụng. Nó được sử dụng trong điều trị một số dạng ung thư và cũng có hiệu quả chống lại một số bệnh nhiễm trùng do virus, cũng như ức chế xơ hóa trong bệnh gan hoặc thận hoặc viêm tụy. Thuốc được chấp thuận sử dụng tại Nhật Bản. | Camifier | |
Rạch Trà Ngoa (tên khác: Kênh Long Hội) là một con sông đổ ra Sông Tam Bình. Sông có chiều dài 28 km và diện tích lưu vực là km². Rạch Trà Ngoa chảy qua các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh. | Rạch Trà Ngoa | Hệ thống sông Cửu Long |
Sukur hay cảnh quan văn hóa Sukur nằm trên một ngọn đồi phía trên làng Sukur nằm bang Adamawa, Nigeria. Khu vực này nằm trong Dãy núi Mandara, gần biên giới với Cameroon. Nó đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới nhờ vào di sản văn hóa, văn hóa hữu hình cùng những thửa ruộng bậc thang tự nhiên. Sukur cũng chính là cảnh quan văn hóa đầu tiên của châu Phi có được danh hiệu Di sản thế giới. Sukur trong các ngôn ngữ Margi và Libi có nghĩa là "sự trả thù". Nó cũng có nghĩa là "mối thù truyền kiếp" của người Sukur trong tiếng Bura. Các di tích thời đại đồ sắt được tìm thấy gồm những lò nung, quặng và đá mài tại địa điểm này thời tiền Sukur. Một số phát hiện khác có từ thời đại đồ đá mới. Lịch sử gần đây được truy nguyên là có từ triều đại Dur thế kỷ 17. Dur thành lập khu vực này như một nhà cung cấp nguyên liệu thô chính cho sản xuất sắt cho vùng đông bắc Nigeria. | Sukur | Di sản thế giới tại Nigeria |
Tần Mẫn Vương (chữ Hán:秦愍王) có thể là: *Bắc Ngụy Tần Mẫn Vương Thác Bạt Cô (truy tặng) *Minh triều Tần Mẫn Vương Chu Sảng *Mẫn Vương *Vũ Mẫn Vương *Trung Mẫn vương *Cung Mẫn vương *Hiếu Mẫn vương *Điệu Mẫn Vương *Hiến Mẫn thái tử *Trần Mẫn Vương *Tần Điệu Vương Tần Chiêu vương Tần Hiếu Vương Tần Huệ Vương Tần Trang Vương Tần Vũ Liệt Vương Tần Hiến công Tần Huệ công | Tần Mẫn Vương | |
Fairview là một thành phố thuộc quận Brown, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 260 người. Dân số các năm: *Năm 2000: 271 người *Năm 2010: 260 người American Finder | Fairview | Quận Brown, Kansas |
Guzmania kentii là một loài thực vật thuộc họ Bromeliaceae. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Manzanares, J.M. Pitman, N. 2003. Guzmania kentii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng năm 2007. kentii | ''Guzmania kentii | |
Quán Thánh là tên gọi của đền Quán Thánh, một ngôi đền được lập từ thời Lý để thờ Huyền Thiên Trấn Vũ vị thần trấn giữ phương Bắc. Tên gọi này còn được đặt cho: *Phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội *Phố Quán Thánh: tuyến phố chạy từ nơi giao cắt với các phố Hàng Than, Hàng Lược, Hàng Giấy, Hàng Đậu và đường Phan Đình Phùng đến đầu đường Thanh Niên | Quán Thánh | |
Liêu Trai () là một bộ phim Trung Quốc được hãng phim truyền hình Thượng Hải Đường nhân sản xuất năm 2005. Bộ phim được trình chiếu lần đầu tiên vào đầu năm 2005. Bộ phim được chuyển thể từ câu chuyện là: Tiểu Thiện, Tiểu Thúy, Bảo, Họa Bì, Lục Phán, Tiểu Tạ và Thu Dung trong tác phẩm Liêu trai chí dị của nhà văn Bồ Tùng Linh Phần tiếp theo của phim, Liêu Trai kỳ nữ, đã được phát sóng vào năm 2007. Ninh Thái Thần là chàng thư sinh hiền lành đi đưa thư đến Lan Nhược Tự, gặp yêu quái nhưng nhờ Yến Xích Hà cứu thoát nạn, gặp Tiểu Thiên xinh đẹp. Tiểu tình là hồ li có trái tim lương thiện và bị sự khống chế của Ma mẫu nên định giết Thái Thần. Sau đó nàng có cảm tình với chàng thư sinh. Nhưng mối tình gặp nhiều trắc trở bởi thân phận nàng và bởi lời nguyền: nếu yêu bất kì ai sẽ hồn bay phách tán... *Hồ Ca vai Ninh Thái Thần *Dương Mịch vai Nhiếp Tiểu Thiện *Các Dân Huy vai Yên Xích Hà *Dương Mẫn Na vai Quy Lão *Lý Lập Quần vai Lục Phán *Huỳnh Hiểu Minh vai Bạch Dương *Hồ Khả vai Vương Tiểu Mạn *Vương Lộc Giang vai Chu Nhĩ Đán *Mai Tiểu Huệ vai Kha Thiếu Dung *Giang Hoa vai Vương An Húc *Phan Nghi Quân vai Trần Sở Tuệ *Tăng Lê vai Mai Tam Nương *La Lan vai Vương Đại Nương *Lý Băng Băng vai Tiểu Thúy *Lâm Chí Dĩnh vai Vương Nguyên Phong *Tưởng Hân vai Xà Tinh *Dương Thừa Lâm vai Bảo *Viên Hoằng vai Tôn Tử Sở *Trương Đạt Minh vai Sài Thiếu An *Trịnh Phối Phối vai Miêu bà bà *TAE vai Đào Vọng Tam *Đường Ninh vai Tiểu Tạ *Hoắc Tư Yến vai Thu Dung | ''Liêu Trai | Phim truyền hình Trung Quốc ra mắt năm 2005, Phim kinh dị truyền hình nhiều tập, Ma trong phim truyền hình, Phim của Thượng Hải Đường Nhân |
Mora là một thành phố thuộc quận Kanabec, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 3571 người. *Dân số năm 2000: 3193 người. *Dân số năm 2010: 3571 người. American Finder | Mora | Quận Kanabec, Minnesota |
Louis VI (1 tháng 12 năm 1081 tháng năm 1137), còn gọi là Louis Mập () hay Louis Chiến sĩ (), là Vua người Frank từ năm 1108 đến khi qua đời. Các sử quan thường gọi ông là "vua của Saint-Denis" (roi de Saint-Denis). Louis VI Louis là vua nhà Capet đầu tiên có những nước đi lớn xúc tiến việc thay đổi từ chế độ quân chủ phân quyền sang quân chủ trung ương tập quyền tại Pháp. Trong suốt 29 năm trị vì, ông liên tục đem quân đánh các "nam tước ăn trộm" từng cướp phá cả Paris và các vua Anh gốc Normandie hòng đoạt quyền thống trị xứ Normandie trên lục địa châu Âu. Sau các cuộc chiến này, Louis XI đã tăng cường đáng kể quyền lực của mình và là một trong những vị vua lớn đầu tiên của Pháp kể từ sau khi đế quốc Caroling phân rã năm 843. Louis la một vị vua giỏi cầm quân, nhưng đến khi ngoài 40 tuổi, ông bị béo phì nên khó ra trận. Ngày nay người ta biết được khá đầy đủ về cuộc đời ông nhờ vào bộ sử Những chiến công của Louis Mập, do giáo sĩ Suger vùng Saint Denis biên soạn, trong khi thông tin về các vua trước triều ông còn khá ít. Louis sinh khoảng năm 1081 tại Paris, con trai của Philip và Bertha của Hà Lan. Trụ trì Suger của Saint Denis, người đã viết tiểu sử của Louis VI, cho chúng ta biết: "Khi còn trẻ, lòng dũng cảm ngày càng tăng đã làm cho tinh thần của ông trưởng thành cùng với sức sống của tuổi trẻ, khiến ông cảm thấy nhàm chán với việc săn bắn và những trò chơi trẻ con mà những người cùng tuổi với ông thường thích thú. và quên đi việc theo đuổi vũ trang." Và "Khi còn trẻ, ông dũng cảm biết bao, và với nghị lực như thế nào, ông đã đẩy lùi được vua của người Anh, William Rufus, khi ông ta tấn công vương quốc thừa kế của Louis." Louis kết hôn với Lucienne de Rochefort, con gái của trưởng lão của cha mình, vào năm 1104, nhưng đã từ chối cô ấy ba năm sau đó. Họ không có con. Vào ngày tháng năm 1115, Louis kết hôn với Adelaide xứ Maurienne, con gái của Humbert II xứ Savoy và Gisela xứ Burgundy, đồng thời là cháu gái của Giáo hoàng Callixtus II. Họ có tám người con. Adelaide là một trong những nữ hoàng thời trung cổ của Pháp hoạt động chính trị tích cực nhất. Tên của bà xuất hiện trên 45 điều lệ hoàng gia từ triều đại của Louis VI. Trong thời gian bà làm hoàng hậu (1115–1137), các điều lệ hoàng gia được ghi ngày tháng trị vì của bà và năm trị vì của nhà vua. Suger trở thành cố vấn của Louis ngay cả trước khi ông kế vị vua cha tuổi 26 vào ngày 29 tháng năm 1108. Người anh cùng cha khác mẹ của Louis đã ngăn cản ông đến Rheims, và vì vậy Daimbert, Tổng giám mục Sens, đã trao vương miện cho ông tại nhà thờ Orléans vào ngày tháng 8. Ralph the Green, Tổng giám mục của Reims, đã cử phái viên đến thách thức tính hợp lệ của lễ đăng quang và xức dầu, nhưng vô ích. Khi Louis lên ngôi, Vương quốc Pháp là một tập hợp các công quốc phong kiến. Ngoài Île-de-France, các vị vua Pháp có rất ít quyền đối với đại công tước và các bá tước của vương quốc nhưng dần dần Louis bắt đầu thay đổi điều này và khẳng định quyền lực của người Capetian. Quá trình này sẽ mất hai thế kỷ để hoàn thành nhưng bắt đầu từ triều đại của Louis VI. Thách thức lớn thứ hai mà Louis phải đối mặt là chống lại sức mạnh đang lên của người Anh-Norman dưới quyền của vị vua mới đầy tài năng của họ, Henry của Anh. Tập tin:Lễ đăng quang của Louis VI tại đăng quang của Louis VI tại Orléans. Ngay từ đầu thời kỳ trị vì của ông (và dưới thời trị vì của cha ông), Louis đã phải đối mặt với vấn đề các nam tước cướp chống lại chính quyền của Nhà vua và tham gia vào các vụ cướp bóc, khiến khu vực xung quanh Paris trở nên mất an toàn. Từ các lâu đài của họ, chẳng hạn như Le Puiset, Châteaufort và Montlhéry, những nam tước này sẽ thu phí cầu đường, cản trở các thương nhân và khách hành hương, khủng bố nông dân và cướp phá các nhà thờ và tu viện, những hành động sau này đã khiến các nhà văn thời đó tức giận, những người chủ yếu là giáo sĩ. Năm 1108, ngay sau khi lên ngôi, Louis đã giao chiến với Hugh xứ Crécy, người đang gây tai họa cho vùng nông thôn và đã bắt được Eudes, Bá tước xứ Corbeil, và giam cầm ông ta tại La Ferté-Alais. Louis bao vây pháo đài đó để giải phóng Eudes. Cũng trong năm 1108, một lãnh chúa tên là Aymon Vaire-Vache đã chiếm lấy quyền lãnh chúa của Bourbon từ cháu trai của mình, Archambaud, một trẻ vị thành niên. Louis yêu cầu cậu bé được phục hồi các quyền của mình nhưng Aymon từ chối lệnh triệu tập. Louis huy động quân đội của mình và bao vây Aymon tại lâu đài của ông ta buộc nó phải đầu hàng. Đầu năm 1109, Louis bao vây người anh cùng cha khác mẹ của ông, Philip, con trai của Bertrade de Montfort, người đã tham gia vào các vụ cướp và âm mưu chống lại Nhà vua, tại Âm mưu của Philip bao gồm các lãnh chúa của Amaury III de Montfort nắm giữ nhiều lâu đài, khi liên kết với nhau sẽ tạo thành một rào cản liên tục giữa Louis và các lãnh địa rộng lớn của ông, đe dọa mọi liên lạc phía nam Paris. Năm 1121, Louis thành lập các tuần quốc de l'eau, để điều tiết thương mại dọc theo sông Seine. Năm 1122, Aimeri, Giám mục của Clermont, thỉnh cầu Louis sau khi William VI, Bá tước Auvergne, đuổi ông khỏi thị trấn giám mục của mình. Khi William từ chối lời triệu tập của Louis, Louis đã huy động một đội quân tại Bourges, và hành quân đến Auvergne, được hỗ trợ bởi một số chư hầu hàng đầu của ông, chẳng hạn như Bá tước Anjou, Brittany và Nevers. Louis chiếm pháo đài Pont-du-Chateau trên Allier, sau đó tấn công Clermont, nơi mà William buộc phải từ bỏ. Aimeri đã được phục hồi. Bốn năm sau, William lại nổi dậy và Louis, mặc dù trọng lượng ngày càng tăng khiến việc vận động trở nên khó khăn, lại hành quân. Anh ta đốt cháy Montferrand và chiếm giữ Clermont lần thứ hai, bắt William và đưa anh ta ra trước tòa án Orléans để trả lời về tội ác của mình. Một số kẻ ngoài vòng pháp luật trở nên khét tiếng vì sự tàn ác của chúng, trong đó đáng chú nhất là Thomas, Lãnh chúa xứ Coucy, người được cho là thích tra tấn nạn nhân của mình, bao gồm treo cổ những người đàn ông bằng tinh hoàn của họ, móc mắt và chặt chân. Guibert xứ Nogent lưu về anh ta, "Không ai có thể tưởng tượng được số người đã chết trong ngục tối của anh ta, vì đói, vì tra tấn, vì bẩn thỉu." Một tên cướp đáng chú khác là Hugh, Lãnh chúa của Le Puiset, người đang tàn phá các vùng đất xung quanh Chartres. Vào tháng năm 1111, Louis nghe các cáo buộc chống lại Hugh tại tòa án của ông Melun từ Theobald II, Bá tước Champagne, Tổng giám mục Sens, cũng như từ các giám mục và tu viện trưởng. Louis ra lệnh cho Hugh xuất hiện trước mặt anh ta để trả lời những cáo buộc này, nhưng Hugh đã trốn tránh lệnh triệu tập. Louis tước bỏ đất đai và danh hiệu của anh ta và bao vây Le Puiset. Sau một cuộc đấu tranh khốc liệt, Louis đã chiếm được lâu đài và đốt cháy nó thành tro, bắt Hugh làm tù nhân. Một cách hấp tấp, Louis đã thả Hugh, và trong khi Louis tham chiến với Henry của Anh và Theobald, Hugh đã thành lập một băng cướp khác và bắt đầu tàn phá đất nước một lần nữa. Khi Louis chuyển sự chú của mình sang Hugh, ông thấy Le Puiset đã được xây dựng lại và Hugh nhận được sự trợ giúp từ Theobald. Hugh chống lại Nhà vua cho đến khi Theobald bỏ rơi ông ta. Một lần nữa Louis san bằng Le Puiset và Hugh, người đã thề sẽ không bao giờ trở lại quân đội của ông, đã xây dựng lại lâu đài và tiếp tục khủng bố những người hàng xóm của mình. lần thử thứ ba, Louis cuối cùng đã đánh bại Hugh và tước đoạt tài sản của anh ta lần cuối. Hugh sau đó đã chết trong một chuyến hành hương đến Thánh địa. Đây chỉ là một số quý tộc ngoan cố mà Louis tranh đấu. Còn nhiều người nữa, và Louis liên tục hành động chống lại họ, lãnh đạo quân đội của mình từ lâu đài này sang lâu đài khác, mang lại luật pháp và trật tự cho các lãnh địa của mình. Kết quả là sự công nhận ngày càng tăng đối với quyền lực của Nhà vua và khả năng áp đặt chí của Vương miện, do đó tất cả các thành phần trong xã hội Pháp bắt đầu coi Nhà vua là người bảo vệ họ. Motte và lâu đài Gisors. Sau khi chiếm được Vương miện Anh, Henry của Anh đã tước bỏ Công quốc Normandy của anh trai mình, Robert Curthose và nhanh chóng chiếm hữu lâu đài tại Gisors, một pháo đài có tầm quan trọng chiến lược hữu ngạn sông Epte, nối con đường giữa Rouen và Paris. Điều này đã vi phạm một thỏa thuận trước đó giữa Henry và Vua Pháp rằng Gisors nên nằm trong tay của một người cai quản lâu đài trung lập, nếu không sẽ bị phá hủy. Động thái này đe dọa lãnh thổ Capetian và Louis đã rất tức giận, yêu cầu Henry, với tư cách là thuộc hạ của mình, xuất hiện trước mặt ông ta để giải thích cho hành động của mình. Hai vị vua gặp nhau bằng vũ lực vào tháng năm 1109 tại biên giới lãnh thổ của họ tại cây cầu Neauphle trên sông Epte. Henry từ chối từ bỏ Gisors. Louis đã giao đấu Vua Anh đánh đơn để giải quyết vấn đề. Khi Henry từ chối, chiến tranh là không thể tránh khỏi, một cuộc chiến sẽ kéo dài liên tục trong hai mươi năm. Những năm đầu tiên của cuộc chiến diễn ra tốt đẹp đối với Louis cho đến khi Theobald II, Bá tước xứ Champagne có ảnh hưởng lớn, chuyển sang phe của Henry. Đến đầu năm 1112 Theobald đã thành công trong việc tập hợp một liên minh gồm các nam tước có mối bất bình với Louis: Lancelin xứ Bulles, Ralph xứ Beaugency, Milo xứ Bray-sur-Seine, Hugh xứ Crecy, Guy xứ Rochfort, Hugh xứ Le Puiset và Hugh, Bá tước Troyes. Louis đã đánh bại liên minh của Theobald nhưng nỗ lực bổ sung có nghĩa là ông không thể đánh bại quốc vương Anh cũng như buộc ông phải từ bỏ Gisors, và vào tháng năm 1113 Louis buộc phải ký một hiệp ước công nhận Henry là bá chủ của Brittany và Maine. Các loại hòa bình kéo dài ba năm cho đến tháng năm 1116 khi sự thù địch gia tăng người Pháp và Norman Vexins, với mỗi vị vua đều kiếm được lợi nhuận từ đối thủ của mình. Đến năm 1119, phấn khích trước một số thành công và việc bắt giữ (do phản bội) Les Andelys, Louis cảm thấy đã sẵn sàng cho cuộc chạm trán cuối cùng để kết thúc chiến tranh. Trong Trận Bremule khốc liệt, vào tháng năm 1119, quân của Louis tan vỡ và bị đánh tan tác, từ bỏ lá cờ hoàng gia và quét sạch Nhà vua cùng với họ để rút lui về Les Andelys. Một cuộc phản công thông qua Évreux để chiếm Breteuil đã thất bại, và Louis, sức khỏe suy yếu, đã tìm kiếm hòa bình. Ông kêu gọi Giáo hoàng Calixtus II, người đã đồng giúp đỡ và gặp Henry tại Gisors vào tháng 11 năm 1120. Các điều khoản của hòa bình bao gồm người thừa kế của Henry, William Adelin, bày tỏ lòng kính trọng với Louis đối với Normandy, trả lại tất cả các lãnh thổ bị cả hai vị vua chiếm giữ ngoại trừ chính Gisors, mà Louis buộc phải nhượng bộ cho Henry. Vào ngày tháng năm 1127, bá tước xứ Flanders, Charles the Good, bị ám sát tại Nhà thờ St. Donatian Bruges. Bản thân nó đã là một vụ bê bối nhưng còn trở nên tồi tệ hơn vì nó gây ra một cuộc khủng hoảng kế vị. Ngay sau đó, một số người thân đã đưa ra yêu sách, bao gồm cả William của Ypres, thường được cho là đồng lõa trong vụ giết người; Thierry xứ Alsace; và Arnold của Đan Mạch, cháu trai của Charles, người đã chiếm giữ Saint-Omer; Baldwin, Bá tước Hainault, người đã chiếm giữ Oudenarde, và Godfrey I, Bá tước Louvain và Công tước xứ Brabant. Louis đã nghĩ đến ứng cử viên của riêng mình và hành quân đến Flanders cùng với một đội quân và thúc giục các nam tước bầu chọn William Clito, con trai của Robert Curthose, người đã bị chú của mình là Henry của Anh tước quyền thừa kế Normandy, làm Bá tước mới của họ. Đối với Flanders, ông không có yêu sách nào tốt hơn việc trở thành ứng cử viên của Nhà vua nhưng vào ngày 23 tháng năm 1127, ông được người Fleming bầu làm Bá tước. Louis sau đó quyết định di chuyển để bảo vệ Flanders, bắt giữ những kẻ giết Charles the Good và lật đổ những kẻ tranh chấp đối thủ. Vào ngày tháng 4, ông chiếm Ghent, vào ngày tháng Bruges, vào ngày 26 tháng 4, anh ta chiếm Ypres, bắt được William của Ypres và giam cầm anh ta tại Lille. Sau đó, ông nhanh chóng chiếm Aire, Cassel và tất cả các thị trấn vẫn còn trung thành với William xứ Ypres. Hành động cuối cùng của Louis trước khi lên đường sang Pháp là chứng kiến vụ hành quyết những kẻ giết người của Charles the Good. Họ bị ném xuống mái nhà của nhà thờ Saint Donatian, nơi họ đã phạm tội. Đó là một chiến thắng đối với Louis và chứng tỏ Vương miện đã tiến xa như thế nào dưới sự lãnh đạo của ông, nhưng đó chỉ là một chiến thắng ngắn ngủi. Bá tước William Clito trẻ tuổi mới có kết quả tồi tệ, dựa vào những cách thức phong kiến nặng nề không phù hợp với xã hội tiên tiến hơn cần làm rõ và Flemings trọng thương. Các hiệp sĩ của William nổi loạn và người Fleming nổi dậy chống lại ứng cử viên của Louis. Ghent và Bruge thỉnh cầu Thierry của Alsace và Saint-Omer thỉnh cầu Arnold của Đan Mạch. Louis cố gắng can thiệp một lần nữa nhưng khoảnh khắc đó đã biến mất. Người dân Bruge từ chối anh ta và công nhận Thierry of Alsace là Bá tước của họ, và anh ta nhanh chóng hành động để thực thi yêu sách của mình. Louis đã triệu tập một cuộc họp lớn tại Arras và rút phép thông công Thierry nhưng đó chỉ là một cử chỉ. Louis đã bỏ rơi William xứ Clito, người đã chết trong cuộc bao vây tại Alost vào ngày 27 tháng năm 1128, và sau khi cả đất nước cuối cùng quy phục Thierry, Louis buộc phải xác nhận yêu sách của mình. Tập tin:Henry V, Hoàng đế La Mã Thần thánh, với Ruthard, Tổng Giám mục Mainz. Sơn trên giấy da. Thư viện Parker, Đại học Corpus Christi, V, Hoàng đế La Mã Thần thánh, với Ruthard, Tổng Giám mục Mainz. Sơn trên giấy da. Thư viện Parker, Đại học Corpus Christi, Cambridge. Vào ngày 25 tháng 11 năm 1120, vận may của Louis chống lại Henry của Anh đã tăng lên khi người thừa kế của Henry, William Ætheling, trong cơn say đã chết trên Con tàu Trắng trên đường từ Normandy đến Anh, khiến tương lai của triều đại Henry và vị trí của ông bị nghi ngờ. Đến năm 1123, Louis tham gia vào một liên minh gồm Norman và các lãnh chúa người Pháp chống lại Henry. Kế hoạch là đánh đuổi Vua Anh khỏi Normandy và thay thế ông ta bằng William Clito. Tuy nhiên, Henry đã dễ dàng đánh bại liên minh này sau đó xúi giục con rể của mình, Henry V, Hoàng đế La Mã Thần thánh, xâm lược Pháp. Henry đã kết hôn với Hoàng hậu Matilda, con gái của Vua Anh và là mẹ tương lai của Henry II của Anh, năm trước, với hy vọng tạo ra một đế chế Anh-Đức, mặc dù cặp đôi vẫn không có con. Giống như Louis, Henry có kế hoạch về Vùng đất thấp và một cuộc xâm lược miền Bắc nước Pháp sẽ giúp ông củng cố tham vọng của mình Flanders, cũng như ủng hộ bố vợ của mình. Vì vậy, vào năm 1124, Henry đã tập hợp một đội quân để hành quân đến Reims. Nó không bao giờ đến. Để minh chứng cho việc Louis đã nổi lên như thế nào với tư cách là người bảo vệ quốc gia, toàn bộ nước Pháp đã ủng hộ lời kêu gọi của ông chống lại mối đe dọa. Henry không muốn nhìn thấy các nam tước Pháp thống nhất sau lưng Nhà vua của họ, người hiện tự nhận mình là chư hầu của St. Denis, vị thánh bảo trợ của Paris, người hiện đang mang theo lá cờ của ông, và kế hoạch xâm lược đã bị bỏ rơi. Henry qua đời một năm sau khi chiến dịch bị hủy bỏ. Năm 1128, Henry kết hôn với người con hợp pháp duy nhất còn sống sót của mình, thái hậu Matilda, với Geoffrey Plantagenet, Bá tước Anjou. Đây sẽ là một liên minh nguy hiểm đối với Louis dưới thời trị vì của người kế vị ông, Louis VII của Pháp. Khi Louis VI sắp qua đời, dường như có những lý do để lạc quan. Henry của Anh qua đời vào ngày tháng 12 năm 1135 và Stephen xứ Blois đã chiếm lấy vương miện của Anh, từ bỏ lời thề mà ông đã thề với Henry là ủng hộ Matilda. Do đó, Stephen không có tư cách để mang sức mạnh tổng hợp của Anh-Norman chống lại vương miện của Pháp. Louis cũng đã có những bước tiến lớn trong việc thực thi quyền lực hoàng gia đối với các nam tước của mình, và thậm chí Theobald II cuối cùng cũng đã tập hợp lại chính nghĩa của Capetian. Cuối cùng, vào ngày tháng năm 1137, William X, Công tước xứ Aquitaine đang hấp hối đã bổ nhiệm Louis VI làm người giám hộ cho cô con gái mười lăm tuổi và là nữ thừa kế của ông, Eleanor xứ Aquitaine. Eleanor đột nhiên trở thành người thừa kế xứng đáng nhất châu Âu, và Louis đã không lãng phí thời gian để gả cô cho người thừa kế của mình, Louis VII tương lai, tại Nhà thờ Saint-André Bordeaux vào ngày 25 tháng năm 1137. Ngay lập tức, Louis đã thêm một trong những công quốc hùng mạnh nhất Pháp vào lãnh thổ Capetian. Louis chết vì bệnh kiết lị ngày sau, ngày tháng năm 1137. Bất chấp những thành tựu của ông, sức mạnh ngày càng tăng của Đế chế Angevin sắp trở thành sẽ làm lu mờ người kế vị ông, hạt giống của nó được gieo trong cuộc hôn nhân giữa Hoàng hậu Matilda và Geoffrey Plantagenet và được hiện thực hóa thông qua con trai của họ, Henry II của Anh. Louis VI được an táng tại Vương cung thánh đường St Denis Paris. Ông kết hôn năm 1104: 1) Lucienne de Rochefort cuộc hôn nhân bị hủy bỏ vào ngày 23 tháng năm 1107 tại Hội đồng Troyes bởi Giáo hoàng Paschal II. Ông kết hôn năm 1115: 2) Adélaide de Maurienne (1092–1154) Con cái của họ: Philip (29 tháng năm 1116 13 tháng 10 năm 1131), Vua của người Frank (1129–31); chết do ngã ngựa; đừng nhầm lẫn với em trai cùng tên của mình. Louis VII (1120 18 tháng năm 1180), Vua của người Frank Henry (1121 13 tháng 11 năm 1175), Tổng giám mục Reims Hugh (khoảng 1122 chết trẻ). Robert (khoảng 1123 11 tháng 10 năm 1188), bá tước Dreux Peter (tháng năm 1126 10 tháng năm 1183), kết hôn với Elizabeth, Phu nhân xứ Courtenay Constance (khoảng 1128 16 tháng năm 1176), kết hôn với Eustace IV, bá tước Boulogne, con trai cả của Vua Stephan của Anh, và sau đó là Raymond của Toulouse Philip (c.1132 -1160), Phó tế của Paris Với Marie de Breuillet, con gái của Renaud de Breuillet de Dourdan, Louis VI là cha của một cô con gái: Isabelle (khoảng 1105 trước 1175), kết hôn (khoảng 1119) Guillaume của Chaumont năm 1117 | Louis VI | Vua Pháp, Vương triều Capet, Người Paris, Chôn cất tại Vương cung thánh đường Thánh Denis |
'''La là một xã, nằm tỉnh Vosges trong vùng Grand Est của Pháp. Xã này có diện tích 10,21 kilômét vuông, dân số năm 1999 là 127 người. Xã này nằm khu vực có độ cao từ 324–467 trên mực nước biển. Biến động dân số (Nguồn: INSEE) 1962 1968 1975 1982 1990 1999 119 149 156 156 151 127 Số liệu từ năm 1962: Dân số không tính trùng La trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia | null | |
Thống chế (tiếng Đức: là cấp bậc quân sự cao nhất trong Đế quốc Đức và được bảo tồn Đức sau năm 1918, tồn tại trong 75 năm. Mặc dù cấp bậc này đã từng tồn tại các bang miền bắc nước Đức từ năm 1631 dưới các danh xưng khác nhau, nó được tái lập vào năm 1870 để phong cho Hoàng tử Friedrich Karl của Phổ và Hoàng đế Frederick III với mục đích tạo ra cho họ cấp bậc cao cấp hơn các tướng lĩnh khác. Nó trở thành cấp bậc uy tín và quyền lực nhất mà một sĩ quan có thể đạt được cho đến khi bị bãi bỏ vào năm 1945. Có hơn 100 tướng lĩnh thụ phong cấp bậc Thống chế tại các bang miền bắc nước Đức hoặc nước Đức thống nhất sau đó trong khoảng từ năm 1806 đến năm 1945. Đại đa số thống chế đều giành được chiến thắng trong các trận chiến lớn thời đại của họ. Các thống chế đóng một vai trò quan trọng và có ảnh hưởng trong các vấn đề quân sự, được miễn thuế, là thành viên của giới quý tộc, ngang với các quan chức chính phủ, đặt dưới sự bảo vệ hoặc hộ tống liên tục, và có quyền báo cáo trực tiếp với hoàng gia. Tên Thụ phong Thời gian sống Ảnh Tham khảo Hans Georg von 1583-1641 98x98px Franz Albrecht von 1598-1642 105x105px Rudolph von Marzin 1585-1645 107x107px Ernst Albrecht von Eberstein 1605-1676 83x83px Joachim Rüdiger von der Goltz 1620-1688 89x89px Heino Heinrich von Flemming 1632-1706 65x65px Hans Adam von Schöning 1641-1696 83x83px Jeremias von Chauvet 1619-1699 Heinrich VI, Bá tước xứ Reuß zu Obergreiz 1649-1697 86x86px Adam Heinrich von Steinau ?-1712 Georg Benedikt von Ogilvy 1651-1710 91x91px Jacob Heinrich von Flemming 1667-1728 82x82px August Christoph von Wackerbarth 1662-1734 83x83px Johann Adolf II, Công tước xứ 1685-1746 95x95px Frederick Augustus Rutowsky 1702-1764 77x77px Johann Georg, Chevalier de Saxe 1704-1774 87x87px Friedrich Heinrich Eugen von Anhalt-Dessau 1705-1781 80x80px Albert của Sachsen 1828-1902 86x86px Georg của Sachsen 1832-1904 97x97px Tên Thụ phong Birth and Death Image Reference Otto Christoph von Sparr 1599–1668 98x98px Johann Georg II, Vương công xứ Anhalt-Dessau 1627–1693 86x86px Georg von Derfflinger 1606–1695 88x88px Alexander Hermann von Wartensleben 1650–1734 78x78px Leopold I, Vương công xứ Anhalt-Dessau 1676–1747 80x80px Philipp Karl von Wylich und Lottum 1650–1719 86x86px Alexander, Bá tước xứ 1661–1728 82x82px Dubislav Gneomar von Natzmer 1654–1739 81x81px Albrecht Konrad Finck von Finckenstein 1660–1735 91x91px Friedrich Wilhelm von Grumbkow 1678–1739 82x82px Kurt Christoph von Schwerin 1684–1757 83x83px Caspar Otto von Glasenapp 1664–1747 84x84px Samuel von Schmettau 1684–1751 90x90px Christian August, Vương công xứ Anhalt-Zerbst 1690–1747 81x81px Leopold II Maximilian, Vương công xứ Anhalt-Dessau 1700-1751 79x79px Friedrich Wilhelm von Dossow 1669–1758 92x92px Henning Alexander von Kleist 1677–1747 97x97px Christoph Wilhelm von Kalckstein 1677-1747 81x81px Dietrich von Anhalt-Dessau 1702–1769 77x77px James Francis Edward Keith 1696–1758 83x83px Hans von Lehwaldt 1696–1758 76x76px Moritz von Anhalt-Dessau 1712–1760 85x85px Ferdinand von 1721–1792 78x78px Karl Wilhelm Ferdinand von 1735–1806 83x83px Wichard Joachim Heinrich von Möllendorf 1724–1816 82x82px Alexander von Knobelsdorff 1723–1799 96x96px Friedrich Adolf von Kalckreuth 1737–1818 82x82px Gebhard Leberecht von Blücher 1742–1819 80x80px Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington 1769–1852 70x70px Friedrich Emil Ferdinand Heinrich von Kleist 1762–1823 87x87px Ludwig Yorck von Wartenburg 1759–1830 86x86px August Neidhardt von Gneisenau 1760–1831 82x82px Hans Ernst Karl von Zieten 1770–1848 88x88px Karl von Müffling genannt Weiß 1775–1851 84x84px Hermann von Boyen 1771–1848 81x81px Karl Friedrich von dem Knesebeck 1768–1848 88x88px Friedrich zu 1784–1859 77x77px Friedrich von Wrangel 1784–1877 78x78px Friedrich Karl Nikolaus von Preußen 1828–1885 80x80px Friedrich Wilhelm Nikolaus Karl von Preußen 1831–1888 102x102px Tên Thụ phong Thời gian sống Ảnh Tham khảo 1796–1884 102x102px 1796–1877 83x83px 1800–1891 90x90px Albert của Sachsen 1828–1902 98x98px 1803–1879 99x99px 1809–1885 88x88px 1810–1900 84x84px Georg của Sachsen 1832–1904 87x87px Friedrich Wilhelm Nikolaus Albrecht von Preußen 1837–1906 92x92px Albrecht von 1817–1895 99x99px Franz Joseph của Áo 1830–1916 94x94px 1832–1904 81x81px 1836–1919 101x101px 1833–1912 92x92px 1828–1908 Vương tử Arthur, Công tước xứ Connaught 1850–1942 87x87px Carol của Romania 1839–1914 89x89px 1833–1913 91x91px Konstantinos của Hy Lạp 1868–1923 91x91px 1847–1934 85x85px 1846–1921 85x85px Friedrich von 1856–1936 86x86px 1849–1945 97x97px Ludwig III của Bayern 1845–1921 85x85px 1852–1925 83x83px Ferdinand của Bulgaria 1861–1948 96x96px Mehmed của Ottoman 1844–1918 96x96px Wilhelm II của Württemberg 1848–1921 88x88px Rupprecht von Bayern 1869–1955 102x102px Leopold của Bayern 1846–1930 80x80px Albrecht von Württemberg 1865–1939 97x97px Karl của Áo 1887–1922 90x90px 1848–1918 87x87px 1847–1920 89x89px Sau khi thua trận trong Thế chiến thứ nhất, Đế quốc Đức đã chuyển thành Cộng hòa Weimar, được thành lập theo các quy tắc được quy định trong Hòa ước Versailles. Các điều khoản ràng buộc về quân sự đòi hỏi phải giảm quy mô Quân đội Đức xuống còn 100.000 người, giảm Hải quân Đức, và xóa bỏ Không quân Đức. Kết quả của việc cắt giảm quy mô này là không có thống chế Đức nào được phong trong thời kỳ Cộng hòa Weimar. Thống chế Đế chế La Mã thần thánh Thống chế Áo Thống chế Anh Thống chế Nga | Thống chế | |
còn gọi là Tướng Quân, là cuốn tiểu thuyết được viết bởi nhà văn James Clavell vào năm 1975. Đây là cuốn tiểu thuyết niên đại lịch sử đầu tiên trong tập Asian Saga của tác giả. Năm 1990 đã bán được 15 triệu bản toàn cầu. Nội dung viết về thời đại phong kiến Nhật Bản trước khi xảy ra Trận Sekigahara vào năm 1600, Shōgun đã chứng kiến sự thống trị của vị daimyō Toranaga (dựa trên Tokugawa Ieyasu). Sự thống trị của Toranaga dưới chế độ Mạc phủ được kể dưới con mắt của thủy thủ người Anh John Blackthorne, còn được người Nhật gọi là Anjin (Hoa tiêu), dựa trên nhân vật lịch sử thực tế William Adams. Nền hòa bình của Nhật Bản thời phong kiến (1600) dần sụp đổ. Người thừa kế Taiko (Nhiếp Chính) còn quá nhỏ để trị vì đất nước. vị daimyo quyền lực nhất quản lý lãnh địa dưới tên Hội Đồng Nhiếp Chính. Bồ Đào Nha, với sức mạnh thống trị biển cả cùng Giáo hội Công giáo Dòng Tên, đã chiếm được vị trí quan trọng với Nhật Bản và mong muốn được thống trị. Nhưng Nhật Bản lại theo chủ trương hẹp hòi và bài ngoại. Súng và vũ khí quân sự tối tân của Châu Âu quá mới lạ với người Nhật và được coi là mối đe dọa với truyền thống Võ sĩ đạo Samurai lâu năm của Nhật Bản. John Blackthorne, hoa tiêu tàu chiến Erasmus của Hà Lan, là hoa tiêu đầu tiên của nước Anh đặt chân lên Nhật Bản đầy huyền bí. Người Anh (và người Hà Lan) muốn đập tan mối quan hệ giữa Bồ Đào Nha (cùng với những tín đồ Công giáo) với Nhật Bản để thiết lập mối quan hệ thương mại và quân đội đồng minh của riêng họ. Sau khi tàu chiến Erasmus bị cuốn vào bờ biển Nhật Bản, Blackthorne và 10 thủy thủ còn sống sót đã bị giam lỏng bởi một samurai địa phương, Kasigi Omi, cho đến khi Kasigi Yabu, lãnh chúa và chú của anh, đến tìm hiểu. Yabu đưa Blackthorne và thủy thủ đoàn của anh ta ra xét xử như những tên cướp biển, sử dụng một linh mục Dòng Tên để thông dịch cho Blackthorne. Sau khi thua vụ xét xử, Blackthorne đã tấn công vị linh mục, bẻ gãy cây thánh giá, ám chỉ rằng tên linh mục Dòng Tên là kẻ thù của ông. Nhưng những người Nhật Bản chỉ biết đến đạo Công giáo đã rất sốc vói hành động hỗn xược này. Yabu tuyên án tử hình tất cả. | ''Tướng Quân | |
'Najas là một loài thực vật có hoa trong họ Loài này được Rendle mô tả khoa học đầu tiên năm 1899. | null | Najas |
Britto PM, (sinh ngày 15 tháng năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Ấn Độ từ Pozhiyoor, Kerala, Ấn Độ thi đấu vị trí tiền vệ/tiền đạo cho Churchill Brothers SC. Năm 2010, đại diện duy nhất của Kerala I-League Viva Kerala FC, ký hợp đồng với Britto cho đội trẻ từ U-19 Kerala. Sau đó Viva Kerala giải thể, Quartz SC ký hợp đồng với Britto cùng các cầu thủ khác Năm 2014, Britto gia nhập Indian Navy, đại diện của Services mùa giải 2014–15, 2015–16, 2016–17 của Santosh Trophy và Đại hội Thể thao Quốc gia Ấn Độ 2015. Câu lạc bộ Mùa giải Giải vô địch Cúp Liên đoàn Cúp Quốc gia Châu lục Tổng Hạng đấu Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Churchill Brothers SC 2017–18 I-League 12 12 Tổng 12 12 Tổng cộng sự nghiệp 12 12 | Britto PM | Sinh năm 1993, Nhân vật còn sống, Người, Cầu thủ bóng đá Ấn Độ, Cầu thủ bóng đá từ Kerala, Cầu thủ bóng đá I-League |
Con ma nhà họ Hứa là một bộ phim kinh dị của đạo diễn Lê Hoàng Hoa, trình chiếu năm 1973. Cớ sự từ khi đứa con gái của chú Hỏa mắc bệnh phong cùi, lở loét khắp người, móng tay, móng chân tróc ra, máu mủ chảy tùm lum. Vì con gái bị bệnh như vậy, nên chú cho con gái sống cách ly trong một căn phòng kín, hằng ngày cho quản gia đem đồ ăn, áo quần đến chăm sóc. Lúc đầu, người quản gia không thắc mắc gì cho lắm (vì đối với người Hoa, quản gia là người rất trung thành, chủ bảo gì làm nấy). Nhưng sau đó một thời gian, ông ta mới thắc mắc không hiểu vì sao cô con gái bị bệnh đến bây giờ vẫn còn sống (theo như học thì những bệnh như vậy không sống được lâu) và mỗi ngày ông vẫn phải đem cơm, quần áo đến phòng rồi lấy đi những bộ quần áo dính đầy máu. Người quản gia quyết định thực hiện cuộc điều tra thực hư... Truyện phim phỏng theo giai thoại Oan hồn Hứa thị đã tồn tại lâu đời Chợ Lớn và kịch phẩm Con tinh xuất hiện giữa thủ đô năm 1963 của soạn giả Năm Châu. Hòa âm: Trung tâm Quốc gia Điện ảnh Bạch Tuyết... Thúy Hồng Thanh Tú Dũng Thanh Lâm Tư Rọm Năm Sa Đéc Ba Vân Năm Châu Tâm Phan Khả Năng Thanh Việt Minh Ngọc Tùng Lâm Bé Thy Mai Bộ phim ra đời trùng hợp với dịp kỷ niệm 100 năm phát hiện nấm khuẩn Mycobacterium leprea và Mycobacterium lepromatosis, tác nhân bệnh phong cùi, một trong bốn ác tật xưa, "tứ đại nan y" phong, lao, cổ, lại bởi bác sĩ Gerhard Armauer Hansen (1841-1912). Con ma nhà họ Hứa đã thành một khẩu ngữ trong tiếng Việt để chỉ những người hứa mà không giữ lời Tuy khá đơn giản về kỹ xảo nhưng bộ phim đã hoàn thành tốt mục tiêu của mình khi làm khán giả phát run lên vì sợ. Trong bối cảnh điện ảnh Việt Nam Cộng hòa đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng vì chiến tranh, bộ phim ra đời đã gây nên cơn sốt vé khủng khiếp tại Sài Gòn. Kết thúc thời gian công chiếu, bộ phim đạt doanh thu cao ngất và đạo diễn Lê Hoàng Hoa trở thành triệu phú, sau này được cải lương chuyển soạn rồi ghi hình. Sau Ngày Thống Nhất, băng gốc phim tưởng chừng mất tích trong cuộc Bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy năm 1977-1978. Mãi đến năm 2016, nhà báo Lê Quang Thanh Tâm mới công bố trên Facebook và YouTube đoạn video mở đầu Con ma nhà họ Hứa, trích từ bản sao băng gốc hiện bảo quản tại Viện phim Quốc gia. Ông hóm hỉnh tuyên bố trên Facebook cá nhân rằng sẵn sàng công khai hóa toàn phim nếu status của mình được 1000 lượt thích trong vòng tháng, tuy nhiên, do yêu cầu này không được đáp ứng đủ nên tưởng không thành hiện thực. Năm 2007, đạo diễn Lê Hoàng Hoa nảy định làm lại bộ phim này nhưng chưa thực hiện được vì thiếu tài trợ. Oan hồn Hứa thị Điểm mặt phim kinh dị Việt Nam dọa được khán giả | Con ma nhà họ Hứa | Phim do Lê Hoàng Hoa đạo diễn, Phim Việt Nam, Phim tâm lý Việt Nam, Phim kinh dị Việt Nam, Phim năm 1973, Người họ Hứa tại Việt Nam |
Thần kinh chày là một nhánh của thần kinh ngồi. Thần kinh chày đi qua hố khoeo để đi qua bên dưới cung cơ dép. Thần kinh chày là nhánh tận cùng lớn của thần kinh ngồi, có nguyên ủy từ L4, L5, S1, S2 và S3 của đám rối thần kinh cùng. Thần kinh nông hơn (hoặc chạy phía sau) của mạch khoeo, chạy từ góc trên đến góc dưới của hố khoeo, bắt chéo các mạch máu khoeo từ ngoài vào trong. Thần kinh cho các nhánh: Các nhánh cơ có nguyên ủy từ phần xa của hố cơ, chi phối đầu ngoài và đầu trong của cơ bụng chân, cơ dép, cơ gan chân và cơ khoeo. Nhánh thần kinh chi phối cơ khoeo đi qua cơ khoeo, chạy xuống dưới và ra ngoài, di quanh bờ dưới cơ khoeo để chi phối phần sâu (hoặc phần trước) của cơ khoeo. Thần kinh này cũng cung cấp cho cơ chày sau, khớp chày trên, xương chày, dây chằng gian cốt cẳng chân và khớp chày dưới. Các nhánh bì Thần kinh chày cho nhánh thần kinh bì mang tên thần kinh dép trong từ phần giữa của xương chày và chạy ra góc dưới. Dây thần kinh chi phối da của nửa dưới mặt sau chân và bờ ngoài của bàn chân cho đến đầu ngón chân út. Các nhánh khớp 03 nhánh khớp phát sinh từ phần trên của hố khoeo: thần kinh gối trên trong (nằm trên mỏm trên lồi cầu trong xương đùi, thần kinh gối giữa (xuyên qua bao sau của khớp gối để chi phối cho các cấu trúc nằm trong khuyết gian lồi cầu xương đùi, và thần kinh gối dưới (chạy dọc theo bờ trên của khoeo đến lồi củ trong xương chày). góc dưới của hố khoeo, thần kinh chày đi sâu đến cung gân của cơ dép để tiến vào mặt sau của cẳng chân. Trong cẳng chân, thần chạy xuống và vào trong để đến bờ sau trong của mắt cá chân, đường giữa mắt cá chân trong và lồi củ trong xương gót. Thần kinh tận cùng tại mạc giữ cơ gấp bàn chân, nguyên ủy của cơ giạng ngón chân cái bằng cách phân chia thành các thần kinh gan chân ngoài và trong, chi phối bàn chân. Thần kinh chày tách ra một số nhánh để chi phối cho mặt sau của chân: Các nhánh cơ Chi phối cơ chày sau, cơ gấp dài các ngón chân, cơ gấp dài ngón chân cái, và phần sâu của cơ dép. Các nhánh bì xuyên qua mạc cơ gấp để chi phối da mặt sau và mặt dưới của gót chân. Các nhánh khớp Cung cấp cho khớp mắt cá chân bàn chân, thần kinh tận cùng bằng cách chia thành các nhánh thần kinh gan chân. Thần kinh gan chân trong Thần kinh gan chân ngoài Tổn thương thần kinh chày là rất hiếm và thường là kết quả của chấn thương trực tiếp hoặc chèn ép trong thời gian dài. Tổn thương dẫn đến mất khả năng gấp bàn chân, gấp ngón chân và suy yếu động tác xoay trong bàn chân. Tập tin:Tibial nerve.jpg|Thần kinh chày Tập cắt ngang qua giữa bắp chân trái Tập kinh bì của chi dưới bên phải. Phía trước và phía sau Tập đồ phân bố cảm giác của các dây thần kinh bì lòng bàn chân Tập tin:Sacral plexus đồ đám rối cùng Tập tin:Tibial and fibular nerve.jpg|Thần kinh chày Tập kinh chày Tập kinh chày | Thần kinh chày | |
Town hall Sankt Veit an der Glan là một đô thị trong bang Carinthia của Áo. Đây là thủ phủ của huyện cùng tên. This town là một major point on the Glan River in the north of the Zollfeld Valley. Sankt Veit có Galling, Hörzendorf, Niederdorf, Projern, Sankt Donat và Tanzenberg. Tại thời điểm điều tra dân số năm 2001, đô thị này có dân số 12.045 người, trong đó có 92,5% người Áo, 2,3% người Nam Tư, và 2,2% là người Bosnia. 74,0% dân số theo Công giáo Rôma, 4,3% theo Hồi giáo. Encyclopedia Britannica | Sankt Veit an der Glan | Đô thị của Kärnten |
Diode laser Diode laser một loại laser có cấu tạo tương tự như một diode. Nó có môi trường kích thích là chất bán dẫn dạng p-n nối tiếp của diode. Diode laser hoạt động gần giống với diode phát quang. Nó cũng được gọi là đèn diode nội xạ và được viết tắt là LD hay ILD. Khi ống diode được kích ứng, ví dụ như được đặt dưới hiệu điện thế, các lỗ trống trong phần bán dẫn loại chuyển qua phần bán dẫn loại và các electron trong phần bán dẫn loại sang phần bán dẫn loại p. Khi các electron gặp các lỗ trống, chúng rơi xuống mức năng lượng thấp hơn và bền hơn, giải phóng năng lượng dư thừa qua photon với năng lượng bằng với chênh lệch năng lượng trong và ngoài lỗ trống. Trong điều kiện thích hợp, các electron và các lỗ trống có thể cùng tồn tại trong cùng một diện tích trong một khoảng thời gian (tính trên phần triệu giây) trước khi chúng sáp nhập. Nếu photon có cùng tần số được phát ra trong khoảng thời gian trên, nó sẽ kích thích sự phát xạ của photon khác, cùng một hướng, cùng độ phân cực và đồng pha với photon đầu tiên. LED Diode Linh kiện bán dẫn | Diode laser | Laser, Diode, Linh kiện bán dẫn, Linh kiện điện tử, Phát minh của Hoa Kỳ |