id
stringlengths
1
8
revid
stringlengths
1
8
url
stringlengths
37
44
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
162
259k
n_paragraphs
int64
1
1.15k
n_sents
int64
1
1.93k
n_words
int64
51
56.9k
1321224
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321224
Yatağan, Muğla
Yatağan là một huyện thuộc tỉnh Muğla, Thổ Nhĩ Kỳ. Huyện có diện tích 896 km² và dân số thời điểm năm 2007 là 46275 người, mật độ 52 người/km². Nằm ở trung tâm của Caria cổ đại, và trong thời gian 13 - thế kỷ 14 là lãnh thổ các beylik Anatolian của Menteşe, huyện có một số địa phương quan tâm phong phú trong lịch sử và vẻ đẹp tự nhiên. Khu vực này được bao phủ một phần lớn bởi các khu rừng thông Địa Trung Hải. Ở khoảng cách 10 km (6 dặm) về phía tây của trung tâm huyện, theo hướng Milas, là địa điểm cổ Stratonikeia, trong ngôi làng ngày nay Eskihisar, và gần đó là khu bảo tồn Lagina, gần thị trấn Turgut ngày nay.
3
5
132
1321256
790982
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321256
Phó tế
Phó tế hay thầy sáu trong tiếng Việt cổ, cũng gọi là trợ tế hay chấp sự, là một chức vụ giáo sĩ trong các giáo hội Kitô giáo nhưng có sự khác biệt giữa về thần học và trách nhiệm trong từng giáo hội đó. Trong Giáo hội Công giáo Rôma, phó tế được xem là một chức thánh, được nhận chức trước linh mục và giám mục; các giáo hội Kháng Cách gọi là "chấp sự". Cả hai cách gọi đều có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là "diakonos (διάκονος)" mang nghĩa là "người đang chờ đợi một chức vụ" nhằm ám chỉ họ sẽ được nâng lên chức vụ cao hơn về sau. Truyền thống Kitô giáo tin rằng, chức phó tế bắt nguồn từ việc giáo hội sơ khai tuyển chọn ra bảy người đàn ông, trong đó có phó tế Têphanô, để trợ giúp, quản lý các công việc từ thiện của giáo hội (Sách Công vụ Tông đồ, chương 6).
3
4
167
1321259
679363
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321259
Cừu Bharal
Cừu Bharal (danh pháp hai phần: "Pseudois nayaur") là một loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Loài này được Hodgson mô tả năm 1833. Chúng được tìm thấy ở dãy Himalaya cao của Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, và Bhutan. Tên gốc của nó bao gồm bharal, barhal, bharar và bharut bằng tiếng Hindi, na hoặc sna ở Ladakh, Nabo trong tiếng Spitian, Naur ở Nepal và na hoặc gnao ở Bhutan. Bharal có sừng mọc dương lên, đường cong và sau đó hướng về phía sau, phần nào giống như ria mép ngược. Bharal là trọng tâm của các đoàn thám hiểm George Schaller và đoàn thám hiểm của Peter Matthiessen tại Nepal năm 1973. Kinh nghiệm cá nhân của họ cũng là tài liệu Matthiessen trong cuốn sách của ông, The Snow Leopard. Bharal là một thực phẩm chính của báo tuyết.
3
8
151
1321262
70336050
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321262
Nhạn bụng trắng
Nhạn bụng trắng hay nhạn nhà (danh pháp hai phần: "Hirundo rustica") là một loài chim, là loài chim nhạn phân bố rộng rãi nhất thế giới. Loài này được tìm thấy ở châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Có 6 phân loài nhạn trắng được công nhận, sinh sản trên Bắc bán cầu. Bốn phân loài là những phân loài di cư, và những nơi trú ẩn của chúng trong mùa đông bao phủ của Nam bán cầu phía nam cũng như trung bộ Argentina, tỉnh Cape của Nam Phi, và miền bắc Australia. Phạm vi rộng lớn của nó có nghĩa là loài nhạn bụng trắng không bị đe dọa, mặc dù có thể là số lượng quần thể địa phương giảm sút do các mối đe dọa cụ thể, chẳng hạn như xây dựng một sân bay quốc tế gần Durban. Nhạn bụng trắng là loài chim sống ở xứ mở mở mà thường sử dụng cấu trúc nhân tạo để sinh sản và do đó đã lan truyền với sự mở rộng của con người. Nó xây dựng một tổ hình chiếc tách từ bột viên bùn trong nhà kho hoặc cấu trúc tương tự và ăn côn trùng bị bắt trong khi bay. Loài nhạn này sống gắn liền với con người, và thói quen ăn côn trùng của nó có nghĩa là nó được dung nạp người đàn ông này chấp nhận là tăng cường trong quá khứ bởi mê tín dị đoan về loài chim này và tổ của nó. Có các đề tài thường xuyên về nhạn bụng trắng trong tác phẩm văn học và tôn giáo do nó sinh sống cả ở gần với con người và tính di cư hàng năm của nó. Nhạn bụng trắng là chim biểu tượng quốc gia (Quốc điểu) của Áo và Estonia.
3
10
311
1321283
874327
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321283
Johann Heinrich von Thünen
Johann Heinrich von Thünen (24 tháng 6 năm 1783 – 22 tháng 9 năm 1850) là một địa chủ người Phổ, một nhà kinh tế học lỗi lạc đầu thế kỷ 19. Trước tác nổi bật của ông là "Der isolierte Staat in Beziehung auf Landwirtschaft und Nationalökonomie: Untersuchungen über den Einfluß, den die Getreidepreise der Reichtum, des Bodens und die Abgaben auf den Ackerbau ausüben", thường gọi tắt là "Der isolierte Staat" (Nhà nước đơn độc). Đánh giá về Thünen, Paul A. Samuelson (giải Nobel kinh tế năm 1969) viết rằng mô hình kinh tế của học giả người Phổ đầu thế kỷ 19 này đã có những yếu tố của: Fujita Masahisa, một học giả tiên phong trong lĩnh vực địa lý kinh tế còn thấy trong những lý luận đi trước thời đại của Thünen đã có những yếu tố của:
3
3
144
1321286
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321286
Vệ Lập Hoàng
Vệ Lập Hoàng (giản thể: 卫立煌; phồn thể: 衛立煌; bính âm: Wèi Lìhuáng) (16 tháng 2 năm 1897 - 17 tháng 1 năm 1960) là một vị tướng Trung Hoa Dân Quốc trong Nội chiến Trung Hoa và Chiến tranh Trung-Nhật với tư cách một trong những tư lệnh Trung Hoa tài năng nhất. Gia nhập Quốc dân đảng đầu thập niên 1920, Vệ vươn lên trở thành một vị tướng sau khi Chiến tranh Bắc phạt thống nhất Trung Hoa kết thúc. Những thành công trong các chiến dịch tiễu phỉ (cộng sản) dưới thời Tưởng Giới Thạch từ năm 1930 - 1934 đem lại cho ông biệt danh "Vệ Bách Thắng". Chiến tranh chống Nhật. Đầu Chiến tranh Trung-Nhật, Vệ chỉ huy Quân khu 1. Với sự tham chiến của Đế quốc Anh và sau đó là Hoa Kỳ, ông được chuyển về Hoa Nam giữ chức Tư lệnh Tập đoàn quân 11 Quân đội Cách mạng Quốc dân. Sau đó ông thay Tướng Trần Thành giữ chức Tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Trung Hoa, gọi là Lực lượng Y. Lực lượng Y bao gồm hơn 100,000 quân Quốc dân, tham gia các chiến dịch trên bộ quan trọng để hỗ trợ chiến dịch tại Bắc Miến của tướng Hoa Kỳ Joseph W. Stilwell. Không như các tướng lĩnh đồng cấp khác, Vệ hợp tác rất tốt với người Mỹ. Bắt đầu chiến dịch tại Nam Vân Nam vào ngày 11 tháng 5 năm 1944, quân của Vệ chiếm được Đằng Xung ngày 15 tháng 9 sau 2 tháng ác chiến. Tiếp tục tiến về phía nam bất kể sự kháng cự mãnh liệt của đối phương, quân của ông cuối cùng cũng bắt liên lạc được với các sư đoàn Trung Hoa tại Wanting, Miến Điện ngày 27 tháng 1 năm 1945. Thành công của chiến dịch này cho phép Đồng minh mở lại tuyến đường Miến Điện cung cấp vật tư chiến tranh cho Trung Hoa qua ngả Ledo, Miến Điện, nay mang tên đường Ledo. Kết hợp với các chiến dịch không vận vượt qua the Hump, tuyến Ledo cho phép vận chuyển quân nhu vật tư từ Ấn Độ sang các căn cứ Quốc dân tại Trung Hoa. Hậu chiến. Được gọi về Hoa Bắc để thay thế Trần Thành sau chiến tranh, Vệ được bổ nhiệm chỉ huy các lực lượng Quốc dân đảng tại đây vào tháng 10 năm 1947. Sau khi bị cắt đứt liên lạc đường bộ với Trung ương Quốc dân đảng do quân Cộng sản chiếm được Cẩm Châu (锦州, Liêu Ninh), ông dự định tổ chức phản công tái chiếm thành phố này, nhưng bị Tưởng Giới Thạch ra lệnh rút lui. Không lâu trước khi thất thủ Thẩm Dương, Vệ trở về phương Nam sau khi bị thay thế bởi Đỗ Duật Minh vào tháng 10 năm 1948. Dù rất thành công trước đây, ông đã thất bại tại Đông Bắc. Ông từ chối lệnh rút quân trong hơn 1 năm, mất 300,000 lính. Taylor (2009) viết rằng "Trong số đó, "246,000 bị bắt, và phần lớn nhanh chóng được tái tổ chức vào hàng ngũ Quân giải phóng Nhân dân" (tr. 389). Tưởng ra lệnh giam lỏng Vệ tại nhà. Vệ trốn sang Hồng Kông năm 1949, rồi về Bắc Kinh vào năm 1955, tại đó ông "tham gia vào nhiều tổ chức khác nhau của nước Cộng hòa Nhân dân" (Taylor, 2009, tr. 389). Ông mất năm 1960 tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
10
24
592
1321294
390197
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321294
Điền Tụng Nghiêu
Điền Tụng Nghiêu, 田颂尧 (1888 – 1975) là quân phiệt Tứ Xuyên và sau là tướng lĩnh Quốc dân đảng. Điền Tụng Nghiêu sinh năm 1888 tại Giản Dương, Tứ Xuyên. Điền gia nhập quân đội Tứ Xuyên và vươn lên vị trí chỉ huy trung đoàn kỵ binh của Sư đoàn 2, Quân đoàn 1. Ông cũng là tư lệnh đồn trú Thành Đô từ năm 1916 - 1918. Năm 1918, Điền được thăng chức Tư lệnh Lữ đoàn 41, Sư đoàn 21 của Chính phủ Bắc Dương. Cùng năm Điền lên chức Tư lệnh Sư đoàn 21 và giữ vị trí này đến năm 1925. Năm 1925, Điền giữ chức Phó chủ nhiệm Cục Quân vụ Tứ Xuyên, và đến năm 1926 trở thành Tư lệnh đồn trú Tây Bắc Tứ Xuyên, chỉ huy Quân đoàn 29. Từ năm 1927 – 1928, ông là ủy viên Ủy ban Quân sự Quốc dân. Từ năm 1928 - 1933 ông là Chủ nhiệm Cục Dân vụ và ủy viên Chính phủ tỉnh Tứ Xuyên. Năm 1933, ông quay lại nắm giữ quân vụ, nhậm chức Tư lệnh tiểu phỉ vùng biên giới Tứ Xuyên-Sơn Tây, rồi từ năm 1933 - 1935 là Tư lệnh Biệt đội 2, Tổng hành dinh tiểu phỉ Tứ Xuyên, đóng vai trò không đáng kể trong việc ngăn chặn Hồng quân trên đường Vạn lý Trường chinh qua Tứ Xuyên. Năm 1936 ông là ủy viên Ủy ban Quân sự Quốc dân nhưng không có quyền lực gì. Đây có thể là lý do khiến ông nổi dậy chống lại Chính phủ Quốc dân vào năm 1949. Về sau ông là ủy viên Hội nghị Chính trị Hiệp thương nhân dân Trung Hoa tỉnh Tứ Xuyên. Ông mất tại Thành Đô ngày 25 tháng 10 năm 1975.
4
14
302
1321322
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321322
Nhạn ngực đỏ
Nhạn ngực đỏ (danh pháp hai phần: Hirundo lucida) là một loài chim không di cư thuộc họ Nhạn phân bố rộng rãi nhất thế giới. Nó được tìm thấy trong Châu Phi ở Tây Phi, lưu vực sông Congo và Ethiopia. Mô tả. Loài này có đuôi chẽ và cong, cánh nhọn. Trước đây được coi là một phân loài của nhạn bụng trắng, nó gần giống loài này. Nhạn ngực đỏ khác ở chỗ hơi nhỏ hơn của nó loài nhạn bụng trắng có liên quan nhưng di cư. Nó cũng có một dải ngực màu xanh da trời hẹp hơn, và con trưởng thành có đuôi nheo đuôi ngắn hơn. Trong khi bay, có vẻ nhạt màu bên dưới hơn nhạn bụng trắng. Mặc dù con trưởng thành nhạn ngực đỏ khá khác biệt, con chưa trưởng thành có thể bị nhầm lẫn với nhạn bụng trắng, cũng có đuôi nheo ngắn. Tuy nhiên, nhạn ngực đỏ chưa trưởng thành có một dải ngực hẹp hơn và trắng hơn ở đuôi.
4
10
174
1321328
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321328
Nhạn lam họng trắng
Nhạn lam họng trắng (danh pháp hai phần: Hirundo nigrita) là một loài chim thuộc họ Nhạn phân bố rộng rãi nhất thế giới. Nó được tìm thấy ở Angola, Bénin, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Liberia, Nigeria, Sierra Leone, và Uganda.
1
2
60
1321336
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321336
Nhạn họng trắng
Nhạn họng trắng (danh pháp hai phần: Hirundo albigularis) là một loài chim thuộc họ Nhạn. Loài này sinh sản ở miền nam châu Phi Angola và Zambia phía nam đến mũi Hảo Vọng Nam Phi Nó là chủ yếu là loài di cư, trú đông ở Angola, Zambia và miền nam Zaire. Đây là một loài chim của xứ mở và đồng cỏ, ưa thích vùng cao nguyên và các nước lân cận. Nó thường được tìm thấy xung quanh các công trình cấu trúc nhân tạo.
1
4
88
1321643
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321643
Yến đuôi nhọn tía
Yến đuôi nhọn tía (danh pháp hai phần: Hirundapus celebensis) là một loài chim thuộc họ Yến ("Apodidae").. Loài này phân bố từ vùng đông bắc Sulawesi thông qua quần đảo Philipin Luzon, Mindoro, Marinduque, Catanduanes, Calayan, Panay, Negros, Cebu, Leyte, Biliran, Mindanao và Basilan. Loài chim này sống trong các khu rừng khác nhau và xứ mở. Chúng có thể tìm thấy ở vùng đất thấp hoặc trong những ngọn đồi, độ cao từ 150–2000 m. Yên đuôi nhọn tía cân nặng 184 g (6,5 oz) và dài 25 cm (10 inch).
2
3
93
1321916
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1321916
Yến đuôi nhọn họng trắng
Yến đuôi nhọn họng trắng (danh pháp hai phần: Hirundapus caudacutus) là một loài chim thuộc họ Yến ("Apodidae"). Yến đuôi nhọn họng trắng sinh sản ở ngọn đồi đá ở trung bộ châu Á và miền nam Xibia. Loài này là chim di cư, trú đông ở phía nam tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và Úc. Nó là một loài lang thang hiếm gặp ở Tây Âu, nhưng đã được ghi nhận như xa đến phía tây tận Na Uy, Thụy Điển và Anh. Yến đuôi nhọn họng trắng là loài chim bay nhanh nhất kiểu bay vỗ cánh, có khả năng tốc độ 170 km/h. Loài chim này có đôi chân rất ngắn mà chúng chỉ sử dụng để bám vào bề mặt thẳng đứng. Chúng xây những chiếc tổ của họ ở các khe đá ở các vách đá hoặc cây rỗng. Chúng không bao giờ chủ động đậu trên mặt đất và dành phần lớn cuộc sống của chúng trong không trung, ăn các loài côn trùng mà chúng bắt được.
2
8
178
1322262
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1322262
Château de Maisons-Laffitte
Château de Maisons (nay là Château de Maisons-Laffitte), được thiết kế bởi François Mansart và được thi công từ năm 1630 đến năm 1651, là một lâu đài, đây một ví dụ điển hình của kiến trúc Baroque Pháp và là một điểm tham chiếu trong lịch sử của kiến trúc Pháp. Lâu đài này nằm tọa lạc ở Maisons-Laffitte, một vùng ngoại ô phía Tây Bắc của Paris, trong tỉnh Yvelines, Île-de-France. Lâu đài Maisons-Laffitte tọa lạc cạnh dòng sông Seine và rừng Saint-Germain-en-Laye, gồm khu vườn, một công viên nhỏ 33 hecta và một công viên bên ngoài lớn hơn rộng 300 hecta.
2
3
105
1322264
672165
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1322264
Tấn Mục Đế
Tấn Mục Đế () (343 – 10 tháng 7 năm 361), tên thật là Tư Mã Đam (司馬聃), tên tự Bành Tử (彭子), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 10 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Mặc dù ông trị vì trong 17 năm, song trong hầu hết thời gian này ông còn nhỏ tuổi, quyền lực trên thực tế do vậy nằm trong tay mẹ là Thái hậu Chử Toán Tử, Hà Sung (何充), thúc tổ Hội Kê vương Tư Mã Dục, Ân Hạo, và Hoàn Ôn. Dưới thời ông trị vì, lãnh thổ nhà Tấn được tạm thời mở rộng đến một mức lớn nhất kể từ khi mất miền bắc Trung Quốc về tay Hán Triệu, khi đó, Hoàn Ôn đã diệt Thành Hán và sáp nhập lãnh thổ của nước này vào Đông Tấn, việc Hậu Triệu sụp đổ cũng đã cho phép Đông Tấn lấy lại phần lớn lãnh thổ ở phía nam Hoàng Hà. Trước khi lên ngôi. Tư Mã Đam sinh năm 343, trong thời gian cai trị của cha Tấn Khang Đế, mẹ là Hoàng hậu Chử Toán Tử. Ông là người con trai duy nhất của vua cha. Năm 344, khi ông mới được một tuổi, Khang Đế bị bệnh nặng. Các thúc tổ bên phía bà ngoại của Tư Mã Đam và cũng là các đại thần chủ chốt Dữu Băng (庾冰) và Dữu Dực (庾翼), ủng hộ một người con trai của tằng tổ phụ của ông là Tấn Nguyên Đế, Hội Kê vương Tư Mã Dục lên ngôi song Khang Đế đã nghe theo lời vị đại thần khác là Hà Sung (何充), quyết định truyền ngôi cho Tư Mã Đam bất chấp việc ông còn quá nhỏ. Do vậy ông lập Tư Mã Đàm làm thái tử. Ông qua đời chưa đầy một tháng sau đó, Đam Thái tử kế vị ngai vàng và trở thành Mục Đế. Chử Thái hậu nhiếp chính. Do Mục Đế còn nhỏ tuổi, Chử Thái hậu trở thành người điều hành triều đình và đóng vai trò nhiếp chính, tuy vậy bà phần lớn nghe theo lời khuyên của Hà Sung và Hội Kê vương Tư Mã Dục, hai người đều là thừa tướng. Sau khi Hà Sung mất vào năm 346, vị trí đồng thừa tướng được trao cho Sái Mô (蔡謨). Năm 345, sau khi Dữu Dực, người giữ vai trò chỉ huy quân sự tại các châu phía tây (tương ứng với các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quý Châu, và Vân Nam hiện nay) mất, vị tướng có nhiều tham vọng là Hoàn Ôn (kết hôn với dì của Mục Đế là Tư Mã Hưng Nam (司馬興男)) được giao gánh vác trọng trách ở các châu này. Vào cuối năm 346, Hoàn Ôn mặc dù không có sự chấp thuận của triều đình, đã bắt đầu một chiến dịch nhằm chinh phục Thành Hán, một nước kình địch cai quản vùng đất nay là Tứ Xuyên và Trùng Khánh. Năm 347, Thành Hán rơi vào tay Hoàn Ôn, điều này đã khiến cho Đông Tấn kiểm soát được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Tuy nhiên từ thời điểm này, Hoàn Ôn bắt đầu độc lập thực tế trong việc ra các quyết định ở các châu phía tây. Tư Mã Dục sợ rằng Hoàn Ôn có ý định tiếp quản toàn bộ đế quốc, vì vậy cho mời vị quan nổi tiếng là Ân Hạo (殷浩) đến chỗ mình, có ý định dùng Ân Hạo để đối phó với Hoàn Ôn. Năm 349, khi Hậu Triệu lâm vào tình trạng hỗn loạn sau cái chết của Hoàng đế Thạch Hổ, và tiếp đến sau đó là chiến tranh liên tiếp nhằm triệt hạ nhau giữa các con trai của Thạch Hổ và người cháu nội nuôi Thạch Mẫn, nhiều châu phía nam của Hậu Triệu đã quay sang thần phục Đông Tấn, Hoàn Ôn chuẩn bị một cuộc Bắc chinh. Thay vào đó, triều đình dưới quyền cai quản của Tư Mã Dục và Ân Hạo lại cử ngoại tổ phụ của Mục Đế là Trữ Bầu (褚裒) đi chinh chiến. Tuy nhiên, Trữ Bầu đã rút lui sau một số thất bại ban đầu, và chiến dịch đã khiến cho nhiều dân thường có ý định đào thoát đến đất Tấn mất mạng. Các chiến dịch nhỏ cũng được tiến hành dưới quyền tướng Tư Mã Huân (司馬勳) song phần lớn cũng không thành công. Năm 350, Ân Hạo đích thân chuẩn bị một cuộc Bắc chinh, song đã không thực hiện chiến dịch ngay lập tức; thay vào đó, ông nắm được nhiều quyền lực hơn sau khi buộc tội Sái Mô liên tục từ chối danh vọng ban cho mình, như vậy phạm phải tội bất kính với hoàng đế, Sái Mô bị giáng thành dân thường. Trong khi đó, Hoàn Ôn trở nên thiếu kiên nhẫn sau khi Tư Mã Dục và Ân Hạo từ chối yêu cầu của ông, khoảng năm mới 352, Hoàn Ôn huy động quân của mình và ra hiệu như thể ông sắp tấn công kinh thành. Ân Hạo rất bất ngờ và ban đầu đã xem xét đến việc từ chức hoặc gửi sô ngu phiên (騶虞幡, nghĩa là cờ hòa của triều đình) đến lệnh cho Hoàn Ôn dừng lại. Tuy nhiên, sau khi nghe lời khuyên của Vương Bưu Chi (王彪之), ông đã bảo Tư Mã Dục viết một lá thư cho Hoàn Ôn, thuyết phục Hoàn Ôn dừng lại. Sau đó đến năm 352, Ân Hạo đã phát động chiến dịch riêng của mình, nhưng khi bắt đầu, các tướng của Hậu Triệu trước đây đang kiểm soát Hứa Xương và Lạc Dương đã nổi loạn, kế hoạch của ông phải dừng lại để đối phó với quân nổi loạn. Sau đó, khi các tướng của ông là Tạ Thượng (謝尚) và Diêu Tương (姚襄) có gắng tấn công Trương Ngộ (張遇), là tướng kiểm soát Hứa Xương, quân Tiền Tần đã đến trợ giúp Trương Ngộ và đánh bại quân của Tạ Thượng. Ân Hạo sau đó hoàn toàn từ bỏ chiến dịch. Vào mùa thu năm 352, Ân Hạo chuẩn bị cho một chiến dịch thứ hai. Ban đầu, chiến dịch đã có một số thành công, lấy lại được Hứa Xương từ Tiền Tần. Tuy Nhiên, Ân Hạo trở nên nghi ngờ về khả năng quân sự và tính độc lập của Diêu Tương và do đó đã cố gắng ám sát Diêu Tương. Diêu Tương phát hiện ra điều này, và khi Ân Hạo dẫn quân về phía bắc, Diêu đã phục kích và gây thiệt hại nặng cho Ân. Diêu Tương sau đó chiếm vùng Thọ Xuân. Người ta xem thường Ân Hạo do các thất bại quân sự của ông, Hoàn Ôn đã đệ trình một thỉnh cầu phế bỏ Ân Hạo. Triều đình buộc phải giáng Ân Hạo thành thường dân và đưa đi lưu đày. Từ thời điểm này, triều đình chỉ còn nằm trong tay Tư Mã Dục, mặc dù vậy, Hoàn Ôn cũng có được nhiều quyền lực trong việc ra các quyết định. Năm 354, Hoàn Ôn phát động một chiến dịch lớn chống lại Tiền Tần, song sau khi tiến bằng tất cả các đường đến vùng phụ cận kinh đô Trường An của Tiền Tần, ông đã do dự trong việc tiếp tục tiến quân, và ông cuối cùng đã quyết định rút quân do cạn nguồn lương thảo. Năm 356, Hoàn Ôn đề xuất dời đô đến Lạc Dương, nơi từng là kinh đô cho đến khi rơi vào tay Hán Triệu năm 311, song đề xuất này đã bị từ chối. Ông sau đó thực hiện một chiến dịch chống lại Diêu Tương. Ông gây cho Diêu Tương một số thiệt hại nghiêm trọng, và Diêu Tương cuối cùng đã cố gắng tiến về phía tây để rồi bị quân Tiền Tân đánh bại và giết chết. Một lần nữa lại kiểm soát được Lạc Dương, Hoàn Ôn tái đề xuất ý tướng dời đô về Lạc Dương, song triều đình lạc từ chối một lần nữa. Cuối năm đó, chư hầu của Tần là Đoạn Kham (段龕), người kiểm soát vùng Sơn Đông ngày nay với tước hiệu Tề công, đã bị tướng Tiền Tần là Mộ Dung Khác (慕容恪), lãnh địa của Tề công cũng rơi vào tay Tiền Tần. Vào mùa xuân năm 357, do Mục Đế đã làm nghi lễ thông qua (ở tuổi 13), Chử Thái hậu chấm dứt việc nhiếp chính của mình, và từ thời điểm đó, Mục Đế chính thức trở thành người ra quyết định, mặc dù trên thực tế, Tư Mã Dục và Hoàn Ôn vẫn là những người giữ vai trò này. Hoàng đế trưởng thành. Vào cuối năm 357, Mục Đế kết hôn với Hà Pháp Nghê và phong làm Hoàng hậu. Năm 358, Tư Mã Dục đề nghị được từ bỏ tất cả quyền hạn của mình song Mục Đế đã từ chối. Cuối năm đó, một chiến dịch Bắc chinh của tướng Tuân Tiện (荀羨) nhằm chiếm lại bán đảo Sơn Đông đã thất bại. Năm 359, Tiền Yên gây sức ép lên vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà, các tướng Tạ Vạn (謝萬), Gia Cát Du (諸葛攸), và Si Đàm (郗曇) đã dẫn quân lên phía bắc đánh Tiền Yên, song quân Tấn bị sụp đổ sau khi Tạ Vạn nhận định sai rằng quân Tiền Yên ở gần và ra lệnh rút lui. Không có cứu viện, các vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà bắt đầu rơi vào tay Tiền Yên. Năm 361, Mục Đế qua đời trong khi chưa có con trai. Chử Thái hậu do đó đã ra lệnh người anh họ của hoàng đế, Lang Da vương Tư Mã Phi trở thành hoàng đế. Tư Mã Phi sau khi lên ngôi trở thành Ai Đế.
18
53
1,683
1322269
69413473
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1322269
Tấn Khang Đế
Tấn Khang Đế () (322 – 17 tháng 11 năm 344), tên thật là Tư Mã Nhạc (司馬岳), tên tự Thế Đồng (世同), là vị Hoàng đế thứ 4 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 9 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một người con trai của Tấn Minh Đế và là em trai cùng mẹ của Tấn Thành Đế. Thời gian ông trị vì chỉ kéo dài hai năm. Trước khi lên ngôi. Tư Mã Nhạc sinh vào năm 322 và là con trai thứ hai của Tấn Minh Đế và Hoàng hậu Dữu Văn Quân. Sau khi phụ thân qua đời năm 325 và anh trai Tư Mã Diễn lên kế vị, ông được phong làm Ngô vương vào năm 326. Năm 327, do thúc phục là Lang Tà vương Tư Mã Dục muốn nhường cho tước hiệu được cho là vinh dự hơn, Tư Mã Dục trở thành Hội Kê vương và Tư Mã Nhạc được lập làm Lang Tà vương. Người ta không rõ Tư Mã Nhạc đã ở đâu khi diễn ra Loạn Tô Tuấn vào năm 326–328, ông có bị bắt giữ và trở thành con tim giống hoàng huynh hay không, ở đất Ngô hay nơi nào khác. Dưới thời hoàng huynh trị vì, ông không xuất hiện để thực sự tham gia vào quá trình ra các quyết định trọng yếu. Vào mùa hè năm 342, Thành Đế lâm bệnh nặng. Ông có hai người con trai là Tư Mã Phi và Tư Mã Dịch, khi ấy vẫn còn nằm trong nôi, với người thiếp Chu quý nhân. (quan nhiếp chính và cậu ruột) sợ rằng nhà họ Dữu sẽ mất đi quyền lực nếu một vị hoàng đế trẻ được định nên đã thuyết phục Thành Đế rằng trong lúc Đông Tấn đang phải đối mặt với một Hậu Triệu có thế lực mạnh mẽ thì nền chỉ định một vị hoàng đế lớn tuổi hơn. Thành Đế đồng ý và chỉ định em trai mình, Tư Mã Nhạc làm người kế vị, bất chấp phản đối từ Hà Sung (蔡謨), một quan nhiếp chính khác. Thành Đế đã qua đời ngay sau đó và Tư Mã Nhạc lên kế vị. Trị vì. Đầu năm 343, Khang Đế lập vợ mình, Chử Toán Tử, làm hoàng hậu. Sau đó vào năm 343, một người cậu khác là , đều xuất một chiến dịch quân sự lớn chống lại Hậu Triệu, phối hợp với người cai trị Tiền Yên là Mộ Dung Hoảng và người cai trị Hậu Lương là Trương Tuấn, cả hai nước trên danh nghĩa là chư hầu của Tấn. Hầu hết các đại thần lo ngại điều này, nhưng với sự hỗ trợ của Dữu Băng, Hoàn Ôn (em rể của Khang Đế, kết hôn với công chúa ), và , Khang Đế đã ân chuẩn kế hoạch và huy động quân lính. Dữu Băng trở thành thống lĩnh phối hợp cùng với Dữu Dực, và Hà Sung được triệu hồi để thay thế ông, phụng sự cùng với nhạc phụ của Khang Đế là . Tuy nhiên, Dữu Dực, không biết vì lý do gì, đã không thực hiện chiến dịch mặc dù đã tiến hành một số cuộc tấn công ở biên giới. Vào mùa thu năm 344, Khang Đế lâm bệnh. Dữu Băng và Dữu Duệ muốn ủng hộ Hội Kê vương Tư Mã Dục kế vị, song Hà Sung cho rằng Khang Đế nên truyền ngôi cho con trai của ông là Tư Mã Đam. Khang Đế đồng ý là lập Tư Mã Đam làm thái tử. Ông mất hai ngày sau đó, Đam Thái tử, khi ấy mới một tuổi, lên kế vị.
8
24
627
1322434
808347
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1322434
Tấn Thành Đế
Tấn Thành Đế () (321 – 26 tháng 7 năm 342), tên thật là Tư Mã Diễn (司馬衍), tên tự Thế Căn (世根), là vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 8 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai cả của Tấn Minh Đế và trở thành thái tử vào ngày 1 tháng 4 năm 325. Dưới thời ông cai trị, quyền hành phần lớn bị những người nhiếp chính chi phối, ban đầu là người bác bên họ mẹ, Dữu Lượng (庾亮), về sau là Vương Đạo (王導), tiếp theo là tình trạng đồng nhiếp chính của Hà Sung (何充) và một người bác bên họ mẹ khác là Dữu Băng (庾冰). Ông lên ngôi hoàng đế khi mới bốn tuổi, và ngay sau đó cuộc nổi loạn của Tô Tuấn (蘇峻) đã làm suy yếu Đông Tấn trong nhiều thập niên sau đó. Lên ngôi. Tư Mã Diễn sinh năm 321, là người con trai cả của Tấn Minh Đế Tư Mã Thiệu, khi đó Tư Mã Thiệu đang là thái tử, mẹ đẻ của Tư Mã Diễn là Dữu Văn Quân. Minh Đế lên ngôi vào năm 323 sau khi Nguyên Đế băng hà, sau đó ông lập Dữu Thái tử phi làm Dữu Hoàng hậu, song lại không lập ngay Thái tử, Tư Mã Diễn chỉ trở thành thái tử vào năm 325. Vào mùa thu năm 325, Minh Đế lâm bệnh. Ông giao người con trai mới bốn tuổi cho một nhóm đại thần, bao gồm Tư Mã Dạng (司馬羕), Vương Đạo, Biện Khổn (卞壼), Si Giám (郗鑒), Lục Diệp (陸曄), Ôn Kiệu (溫嶠), cùng người anh trai của Hoàng hậu là Dữu Lượng, có lẽ ông tính toán rằng điều này sẽ giúp cân bằng được quyền lực. Minh Đế qua đời ngay sau đó. Diễn Thái tử lên ngôi và trở thành Thành Đế. Dữu Lượng nhiếp chính. Ban đầu, các đại thần cùng có trách nhiệm cai quản, tuy nhiên Dữu Thái hậu đã trở thành người nhiếp chính, do vậy Dữu Lượng đã trở thành vị đại thần quyền lực nhất trong triều. Ông đã thay đổi các chính sách khoan dung của Vương Đạo (người từng làm thừa tướng dưới thời Minh Đế) và áp dụng một cách khắt khe các điều luật và quy định. Hơn nữa, ông còn trở nên lo sợ trước các tướng Đào Khản và Tổ Ước (祖約), không ai trong hai người được nhắc đến trong danh sách ưu đãi và thăng chức trong chúc thư của Minh Đế và người ta tin rằng Dữu Lượng đã xóa tên của họ khỏi chúc thư. Năm 326, ông đánh lừa dư luận bằng cách cáo buộc sai huynh đệ của Tư Mã Dạng là Tư Mã Tông (司馬宗), mang tước Nam Đốn vương tội phản nghịch rồi giết chết ông và sau đó hạ bệ Tư Mã Dạng. Loạn Tô Tuấn. Năm 327, lo sợ Tô Tuấn, Dữu Lượng quyết định tước quyền chỉ huy quân đội của họ Tô bằng cách thăng làm quan phụ trách việc nông, một vị trí không liên quan đến chức chỉ huy quân sự. Sau do dự ban đầu, Tô Tuấn cuối cùng đã từ chối và lập một liên minh với Tổ Ước để chống Dữu Lượng. Khi nghe được điều này, Ôn Kiệu, người được Dữu Lượng phong làm thứ sử Giang Châu (江州, nay là Giang Tây) để chống Đào Khản, thứ sử của Kinh Châu (荊州, nay là Hồ Bắc), muốn nhanh chóng lên đường để bảo vệ kinh thành Kiến Khang, cũng như quân địa phương ở phía đông của kinh thành, song Dữu Lượng đã từ chối mọi sự giúp đỡ, ông ta muốn Ôn Kiệu vẫn ở vị trí để chống lại Đào Khản và tin tưởng rằng mình có thể dễ dàng đả bại Tô Tuấn. Lo rằng Dữu Lượng sẽ thất bại trước Tô Tuấn, Ôn Kiệu đã tiến về kinh, song trước đó Tô Tuấn đã bai vây kinh thành vào đầu năm 328 và bắt Thành Đế cùng Dữu Thái hậu làm con tim. Biện Khổn chết trong trận chiến, và Dữu Lượng bắt buộc phải chạy đến chỗ Ôn Kiệu. Tô Tuấn cho binh lính của mình cướp phá kinh thành, tài sản và y phục của các quan cũng như dân thường đều bị quân của Tô Tuấn lột sạch, chúng thậm chí còn bắt các hầu gái của Dữu Thái hậu. Dữu Thái hậu do bị Tô Tuấn làm cho nhục nhã và vì lo sợ những gì sẽ diễn ra nên đã chết trong lo âu. Tô Tuấn đã lập ra một chính quyền mới, trong đó người được Tô Tuấn tôn trọng là Vương Đạo được phong làm nhiếp chính vương trên danh nghĩa, song bản thân Tô Tuấn mới thực sự là người nhiếp chính. Trong khi đó, Dữu Lượng và Ôn Kiệu đã cố lấy lại kinh thành. Người anh em họ của Ôn Kiệu là Ôn Sung (溫充) đề xuất mời Đào Khản, một tướng giỏi và có lượng binh lính khá lớn làm người chỉ huy tối cao của đội quân. Tuy nhiên, Đào Khản vẫn còn bực bội trước Dữu Lượng nên ban đầu đã từ chối. Tuy nhiên, họ Đào cuối cùng đã nhượng bộ và tham gia cùng Ôn Kiệu và Dữu Lượng. Họ tiến về phía đông đến Kiến Khang. Phản ứng lại, Tô Tuấn đưa Thành Đế đến thành Thạch Đầu trên thực tế là đặt vị hoàng đế cùng tùy tùng dưới quyền quản thúc. Trong khi đó, Vương Đạo đã bí mật lệnh cho các chỉ huy tiến về phía đông đẻ nổi dậy chống lại Tô Tuấn, ông cuối cùng đã thuyết phục được tước của Tô Tuấn là Lộ Vĩnh (路永) rời bỏ quân Tô để về phe quân Ôn và Đào. Si Giám cùng quân của mình cũng đến hội quân từ Quảng Lăng (廣陵, nay là Hoài An, Giang Tô). Hai phe giao chiến trong nhiều tháng, mặc dù quân chống Tô Tuấn có lợi thế về quân số song họ đã không thể chiếm ưu thế, khiến Đào Khản từng xem xét việc rút lui. Tuy nhiên, Ôn Khiệu đã thuyết phục được Đào ở lại và tiếp tục chống Tô. Đến mùa thu, trong một cuộc tấn công ở Thạch Đầu, quân chống Tô ban đầu hứng chịu thất bại, nhưng khi Tô Tuấn tiến hành phản công, ông ta đã bị ngã ngựa và bị thương đâm trúng. Quân chống Tô xông lên và chặt đầu thi thể Tô Tuấn. Quân của Tô Tuấn ban đầu ủng hộ anh trai Tô Tuấn là Tô Dật (蘇逸) làm lãnh đạo và tiếp tục phòng thủ Thạch Đầu, song đã bị đánh bại vào đầu năm 329. Với các hậu quả để lại sau khi quân của Tô Tuấn thất bại, như kinh thành Kiến Khang bị thiệt hại nặng nề, các quan đại thần đã xem xét việc dời đô đến Dự Chương (豫章, nay thuộc Nam Xương, Giang Tây) hoặc Hội Kê (會稽, nay thuộc Thiệu Hưng, Chiết Giang), nhưng Vương Đạo phản đối, lưu ý rằng Kiến Khang ở nằm ở một vị trí tốt hơn để quan sát phòng thủ từ hướng bắc chống lại Hậu Triệu, kinh thành cuối cùng vẫn đặt tại Kiến Khang. Ôn Kiệu được yêu cầu ở lại Kiến Khang làm nhiếp chính vương, song ông tin rằng Minh Đế mong đợi Vương sẽ giữa vai trò này nên cuối cùng Vương Đạo trở thành nhiếp chính vương. Trong khi đó, Dữu Lượng, ban đầu đề nghị từ bỏ mọi vị trí của mình và đi sống lưu vong, song cuối cùng đã chấp nhận làm một tổng đốc. Do mẫu thân đã chết, Thành Đế lúc đó đang tám tuổi bắt đầu được bà nội, tức Tuân phu nhân nuôi dưỡng. Vương Đạo nhiếp chính. Cuối năm 329, Ôn Kiệu chết, tướng Quách Mặc (郭默) sớm sau đó đã ám sát người kế nhiệm là Lưu Dận (劉胤) và giành lấy Kinh Châu. Vương Đạo ban đầu muốn tránh một cuộc chiến khác và xoa dịu Quách, song Đào Khản và Dữu Lượng phản đối, quân của họ nhanh chóng hội về đô phủ của Giang Châu là Tầm Dương (尋陽, nay là Cửu Giang, Giang Tây) vào năm 330 và giết chết họ Quách. Trong khi đó, trong và sau loạn Tô Tuấn, quân Tấn ở Hoa Trung không có viện trợ từ triều đình trung ương nên đã không thể giữ được các vị trí của mình và cuối cùng Đông Tấn mất hầu hết Hoa Trung vào tay Hậu Triệu. Các thành quan trọng bị mất trong thời kỳ này gồm cựu đô Lạc Dương, Thọ Xuân (壽春, nay thuộc Lục An, An Huy), và Tương Dương (襄陽, nay thuộc Tương Phàn, Hồ Bắc), song Đông Tấn đã tái chiếm được Tương Dương vào năm 332. Năm 333, Đông Tấn mất Ninh Châu (寧州, nay là Vân Nam và Quý Châu) vào tay Thành Hán song đã lấy lại được vào năm 339. Với vai trò nhiếp chính vương, Vương Đạo khôi phục phần lớn các chính sách trước đó của mình là khoan dung và thi hành pháp luật không nghiêm, đièu này đã giúp ổn định tình hình chính trị song cũng dẫn đến tham nhũng lan tràn và quyền lực yếu kém. Cuối cùng vào năm 338, Dữu Lương đã cố gắng thuyết phục Si Giám hội quân với ông để phế truất Vương Đạo song sau đó Si Giám đã từ chối, Dữu Lượng đã không thực hiện kế hoạch của mình. Năm 336, Thành Đế kết hôn với Hoàng hậu Đỗ Lăng Dương. Khi ấy, cả hai đều 15 tuổi. Năm 337, Mộ Dung Hoảng (慕容皝), tộc trưởng Tiên Ti và là chư hầu của Tấn và được ban cho tước Công tại Liêu Đông, đã xưng làm Yên vương dù Tấn không ban cho ông tước hiệu này, thực tế đây là tuyên bố độc lập và nước Tiền Yên hình thành, mặc dù trên danh nghĩa Mộ Dung Hoảng vẫn coi mình là chư hầu của Tấn. Năm 339, Dữu Lượng muốn thực hiện một cuộc tấn công lớn chống lại Hậu Triệu, hy vọng có thể lấy lại Hoa Trung, Vương Đạo ban đầu đồng ý với ông ta, song sau đó kế hoạch này bị Si Giám và Sái Mô (蔡謨) phản đối, Thành Đế đã lệnh cho Dữu Lượng không thực hiện kế hoạch chiến tranh. Vương Đạo chết vào mùa thu cùng năm, kế vị là người phụ tá Hà Sung (何充) và em trai của Dữu Lương là Dữu Băng (庾冰). Thành Đế cho Hà Sung và Dữu Băng quyết định các vấn đề quan trọng nhất, song cũng bắt đầu có một số quyết sách riêng của mình. Dữu Băng và Hà Sung cố gắng cải cách các vấn đề dưới sự nhiếp chính của Vương Đạo, song không quá hiệu quả. Thời kỳ cuối. Sau cái chết của Vương Đạo, Dữu Lượng tiếp tục kế hoạch của mình nhắm tới một chiến dịch chống lại Hậu Triệu, và điều này đã dẫn tới việc Hoàng đế Hậu Triệu là Thạch Hổ (石虎) phản ứng lại vào cuối năm 339. Quân Hậu Triệu gây nên thiệt hại rất lớn cho nhiều thành trì và căn cứ của Tấn ở phía bắc Trường Giang và chiếm được Chu Thành (邾城, nay thuộc Hoàng Cương, Hồ Bắc). Bị làm nhục, Dữu Lượng đã hủy bỏ kế hoạch về một chiến dịch Bắc tiến, ông chết vào đầu năm 340. Cũng trong năm 340, Mộ Dung Hoảng chính thức yêu cầu được ban cho tước hiệu Yên vương. Sau các tranh cãi kéo dài giữa các đại thần chủ chốt về việc liệu Mộ Dung Hoảng có còn là một chư hầu trung thành hay không, Thành Đế đã quyết định rằng yêu cầu này sẽ được thực hiện. Vào mùa xuân năm 341, Đỗ Hoàng hậu mất. Thành Đế đã lập một hoàng hậu khác. Cuối năm đó, Thành Đế lệnh rằng dân lánh nạn từ Hoa Bắc và Hoa Trung đã chạy về phía nam vào thời Hoài Đế và Mẫn Đế, phải đăng ký hộ tịch theo quận đang sống sống chứ không còn được giữ lại hộ tịch tại quận bản quán. Động thái này cho phép các quận địa phương có được nguồn nhân lực lớn hơn và giảm bớt sự dư thừa của các chính quyền địa phương.. Vào mùa hè năm 342, Thành Đế bị bệnh nặng. Ông có hai người con trai là Tư Mã Phi và Tư Mã Dịch, khi ấy vẫn còn trong nôi, với người thiếp Chu quý nhân. Dữu Băng sợ rằng nhà họ Dữu sẽ mất đi quyền lực nếu một vị hoàng đế trẻ được định nên đã thuyết phục Thành Đế rằng trong lúc Đông Tấn đang phải đối mặt với một Hậu Triệu có thế lực mạnh mẽ thì nên chỉ định một vị hoàng đế lớn tuổi hơn. Thành Đế đồng ý và chỉ định em trai mình, Tư Mã Nhạc làm người kế vị bất chấp phản đối từ Hà Sung. Thành Đế đã ban một chiếu thư ủy thác các con trai mình cho Dữu Băng, Hà Sung, Tư Mã Hi (司馬晞), Tư Mã Dục (cả hai đều là thúc phụ), và Gia Cát Khôi (諸葛恢). Sau đó ông qua đời và được truy thụy hiệu là Thành hoàng đế (成皇帝), miếu hiệu là Hiển Tổ (显祖. Người kế vị ông đúng như chỉ định là Nhạc vương.
25
73
2,306
1322617
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1322617
Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng
Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam thời Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam. Chính quyền trung ương. Thời kỳ Hồng Bàng là thời kỳ đấu tranh hình thành bộ tộc và hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam. Hùng Vương (雄王) là tù trưởng bộ lạc Văn Lang, bộ lạc mạnh nhất trong cộng đồng người Lạc Việt. Hùng Vương lấy quốc hiệu là Văn Lang (文郎). "Lĩnh Nam chích quái" (嶺南摭怪), quyển 1, "Hồng Bàng thị truyện" (鴻龐氏傳) ghi giới hạn lãnh thổ của nước Văn Lang như sau: "Đại Việt sử ký toàn thư" (大越史記外紀全書) và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" (欽定越史通鑑綱目) chép tương tự, chỉ khác là gọi nước Hồ Tôn Tinh là nước Hồ Tôn (胡孫). "Đại Việt sử ký toàn thư" cho rằng Văn Lang thuộc địa phận Dương châu (楊州), một trong số chín châu của Trung Quốc thời Hạ, Chu, Thương. Kinh đô của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" là Phong châu (峰州) thuộc bộ Văn Lang . "Việt sử lược" chỉ nói kinh đô nằm ở đất bộ lạc Văn Lang. Sử sách ghi chép rất vắn tắt và không hệ thống về bộ máy chính quyền thời Hùng Vương. Các sử gia cùng chung nhận định là nhà nước Hùng Vương rất đơn sơ mang đậm dấu ấn bộ lạc-công xã. Theo “Lĩnh Nam chích quái” thì Hùng vương “sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng; con trai vua gọi là Quan lang, con gái gọi là Mị nương, quan Hữu ty gọi là Bố chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tì, xưng thần là khôi, đời đời cha truyề­n con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyề­n cho nhau đề­u hiệu là Hùng Vương không đổi”. "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" chép tương tự, chỉ thay hai chữ "phụ đạo" 輔導 bằng 父道. Các sử gia hiện đại cho rằng các sử gia thời Hậu Lê mô phỏng triều đình phong kiến Trung Quốc để mô tả nhà nước thời Hùng Vương, theo đó người đứng đầu phải là vương hoặc đế, danh hiệu Hùng Vương xuất phát từ "Khun" hay "Cun" trong tiếng Môn-Khmer để chỉ người thủ lĩnh bộ tộc. Lúc đó thực chất thời kỳ này chưa có chữ viết và chưa phân biệt văn võ, chưa định ra vương hầu. Chữ "Mỵ Nương" là phiên âm Hán Việt của chữ "mế, nàng" trong tiếng Mường (ngày nay vẫn dùng) để chỉ con gái nhà quyền quý. Quan lang là chữ "lang đạo" trong tiếng Mường; "phụ đạo" là chế độ "phìa" cha truyền con nối của người Mường. Do chưa có chữ viết, công việc thực hiện và sự kiện chỉ có thể truyền miệng, nhưng vẫn có luật lệ quy định chung mà sau này Mã Viện (馬援) thời Đông Hán mô tả là "Luật Việt khác luật Hán hơn 10 việc" (越律與漢律駁者十餘事 "Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự") . Việt sử lược mô tả "chính sự dùng lối kết nút" (nguyên văn: 結繩為政 "kết thằng vi chính"), được các nhà nghiên cứu hiện nay xác nhận là việc dùng dây thắt nút để ghi nhớ sự việc, tương tự như những chuỗi dây ghi nhớ sự việc của đồng bào thiểu số Việt Nam hiện nay làm chứng thực cho ghi chép trên. Cư dân trong phạm vi nước Văn Lang gồm có người Việt, người Mường, người Tày-Thái. Sự nảy sinh hình thái nhà nước dù sơ khai, đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của lịch sử, xác nhận quá trình dựng nước thời Hùng Vương và đặt cơ sở cho sự ra đời của một loại hình cộng đồng tộc người mới: cộng đồng quốc gia, cộng đồng bộ tộc có ít nhiều tính dân tộc. Các sử gia tổng kết sơ đồ chuyển hóa từ xã hội nguyên thủy tan rã sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ như sau: ! Hình thái ! Danh hiệu Theo các sử gia, mối quan hệ chung trong cả nước vẫn mang nặng tính liên minh bộ lạc. Hùng Vương tương đương với ngôi vị "cun" (tộc trưởng) của bộ tộc mạnh nhất, các bộ tộc khác vẫn có "cun" riêng và phục tùng Hùng Vương bằng chế độ tiến cống và chỉ chịu sự chỉ huy khi có việc lớn. Lạc tướng và Lạc hầu là tộc trưởng của bộ lạc mình, giúp việc cho Hùng Vương khi có việc chứ không phải là quan chức theo biên chế thường trực ở bên cạnh vua. Chính quyền địa phương. Theo "Lĩnh Nam chích quái", quyển 1, "Hồng Bàng thị truyện" nước Văn Lang được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡) là: Theo "Việt sử lược", quyển thượng, "Quốc sơ duyên cách" (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落): Theo "Dư địa chí" (輿地誌) của Nguyễn Trãi, "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" thì nước Văn Lang được phân thành 15 bộ là: Các nhà nghiên cứu, từ Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII tới thời hiện đại đều xác định rằng hầu hết tên các bộ của nước Văn Lang là "vay mượn các tên đời sau chép vào". Đại đa số các tên bộ lạc đều được sử sách lấy theo địa danh quận hoặc huyện từ thời Bắc thuộc lần 1 đến thời Bắc thuộc lần 3, như Đào Duy Anh chỉ ra từng tên khi liệt kê các bộ mà cổ sử đã ghi này: Giao Chỉ là tên quận Nhà Hán đặt, Việt Thường Thị là tên huyện thuộc quận Cửu Đức thời thuộc Ngô và huyện thuộc quận Nhật Nam thời thuộc Tùy, Vũ Ninh là huyện thuộc quận Giao Chỉ thời thuộc Đông Ngô, Quân Ninh là tên huyện thuộc Ái châu do Nhà Đường đặt, Gia Ninh là tên huyện thuộc Phong châu thời thuộc Đường, Ninh Hải là tên quận đặt thời thuộc Lương, Tân Xương là quận thời thuộc Tấn, Thang Tuyền là tên quận và huyện thời Đường thuộc Thang châu, Lục Hải tức Lục châu thời thuộc Đường, Cửu Chân là tên quận thời thuộc Hán, Nhật Nam cũng là tên quận thời thuộc Hán, Hoài Hoan là tên huyện thời Đường thuộc Hoan châu, Cửu Đức là tên quận thời thuộc Ngô vân vân. Các nhà nghiên cứu cho rằng sở dĩ như vậy vì các sử gia thời cổ đại muốn cho nước Văn Lang trong truyền thuyết có nội dung cụ thể, chọn lấy một số tên với 2 mục đích vừa đủ số 15 bộ trong truyền thuyết và vừa trùm đủ địa bàn sinh sống của người Lạc Việt thời Hùng Vương. Dân cư đương thời còn thưa thớt. Tổ chức chính quyền có 2 cấp: bộ lạc (mà đến thời thuộc Hán sau này trở thành huyện) và dưới bộ lạc là cộng đồng công xã nông thôn (kẻ, chạ, chiềng, mường), kết hợp quan hệ hàng xóm với quan hệ họ hàng. Một chiềng có thể cai quản nhiều bản. Đứng đầu công xã là Bồ Chính (được xác định là phiên âm Hán của từ Việt cổ, giống âm "Pó Chiêng" tiếng Tày-Thái, chiềng là bản lớn có thế lực cai quản những bản nhỏ, có nghĩa là "già làng"). Bên cạnh đó còn có Hội đồng công xã do các thành viên cử ra để giải quyết mọi việc ở địa phương. Các sử gia hiện đại dẫn chứng một số địa danh còn thành tố "chiềng" phân bố trong không gian rộng lớn từ Bắc Việt Nam qua Bắc Lào tới Bắc Thái Lan. Những nơi có địa danh "Chiềng" mật độ lớn nhất là vùng Sơn La, ngay cả khu vực Hà Nội cũng có (Chiềng Lôi, Chiềng Tăng, Chiềng Vậy). Đỗ Văn Ninh đã thống kê được 80 địa danh ở Việt Nam, 35 địa danh Lào và 23 địa danh Thái Lan có thành tố "Chiềng".
25
38
1,408
1322907
679363
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1322907
Enzyme phiên mã ngược
Cơ chế hoạt động. Ở virut. Nói chung, RT (enzyme phiên mã ngược) trước hết phải có một khuôn mẫu là RNA tương thích với nó. Sơ đồ mô tả chi tiết hơn ở hình 4. Ở nhân thực. Sau khám phá vạch thời đại của bà Barbara McClintock, người ta đã phát hiện ra rằng phiên mã ngược không chỉ có ở virut và do virut gây ra, mà còn tồn tại một cách tự nhiên ở trong bộ gen của sinh vật nhân thực, trong đó có người. Hệ RT này góp phần quan trọng để tạo ra quá trình chuyển vị ngược gây tái tổ hợp không tương đồng, giúp sinh vật phong phú và đa dạng hơn. Xem chi tiết chuyên đề này ở trang Nhân tố chuyển vị ngược (retrotransposons). Ngay cả quá trình hình thành cấu trúc cực kỳ quan trọng ở người cũng như rất nhiều loài sinh vật khác, gọi là cấu trúc đầu mút NST hay telomere, cũng cần có RT riêng gọi là telomerase. Cơ chế hoạt động của các RT trong những trường hợp trên là rất phức tạp, không trình bày ở chuyên khảo này. Có thể tham khảo ở các trang Nhân tố chuyển vị ngược LTR, Gen nhảy v.v.
8
11
213
1322958
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1322958
Retrovirus
Retrovirus là một loại virus RNA chèn một bản sao bộ gen của nó vào DNA của tế bào vật chủ mà nó xâm nhập, do đó thay đổi bộ gen của tế bào đó. Khi chúng xâm nhập vào cơ thể thì có khả năng thực hiện quá trình phiên mã ngược nhờ enzim đặc biệt là enzyme phiên mã ngược - Reverse Transciptase. DNA sau đó là kết hợp vào gen của vật chủ bởi một enzyme tích hợp. Vi rút này sau đó sao chép như là một phần của DNA của tế bào chủ. Retrovirus là vi rút bao bọc es thuộc về gia họ virus "Retroviridae". Một biến thể đặc biệt của retrovirus retrovirus nội sinh được tích hợp vào bộ gen của vật chủ và di truyền qua nhiều thế hệ. Cách thức phát triển. Màng của retrovirus có glycoprotein, protein dùng để liên kết với thụ quan protein trên tế bào vật chủ. Có hai sợi của RNA bên trong tế bào, chứa 3 enzyme: protease, reverse transcriptase và integrase. Bước đầu của quá trình sao chép là sự liên kết của glycoprotein với thụ quan protein. Khi đã có liên kết với nhau, màng của retrovirus sẽ phân giải thành một bộ phận của tế bào chủ để sợi RNA và enzyme có thể xâm nhập tế bào. Trong tế bào, enzyme reverse transcriptase tạo một dây DNA phụ từ sợi RNA đã bị phân giải của retrovirus. Sợi DNA này được gọi là cDNA. Sau đó, cDNA làm khuôn để tổng hợp ra sợi DNA thứ hai bổ sung với nó (cDNA→DNA) để xâm nhập vào nhân tế bào chủ bằng enzyme integrase. Sợi cDNA này cũng có thể làm khuôn để tổng hợp trở lại bộ gene của virus (cDNA→RNA). Ribosome được dùng để sao chép mRNA của virus thành chuỗi amino acid để tạo protein trong màng lưới nội bào. Bước này cũng sẽ tạo enzyme và vỏ protein của virus. RNA của virus sẽ được hình thành trong nhân. Những mảnh này sau đó sẽ tập hợp lại và ra khỏi màng tế bào, trở thành một retrovirus mới. Cứ thế, retrovirus này lại tấn công vào các tế bào chủ khác. Truyền nhiễm. Retrovirus có thể lây truyền từ: Tế bào sang tế bào Dịch cơ thể Không khí trong trường hợp của retrovirus Jaagsiekte gây bệnh ở cừu Provirus. Provirus được định nghĩa là đoạn DNA được hình thành sau phiên mã ngược. Đoạn mã DNA này dài hơn bộ gen RNA ban đầu bởi vì mỗi đoạn đầu và cuối của DNA có thêm trình tự U3 - R - U5 gọi tắt là chuỗi lặp đoạn cuối dài (LTR). Do đó, đầu 5' có thêm chuỗi lặp bắt đầu bằng đoạn U3, trong khi đầu 3' sẽ bắt đầu bằng đoạn U5. Các chuỗi lặp đoạn cuối dài này có thể gửi tín hiệu để giúp thực hiện các công việc quan trọng trong chu kỳ của virus như bắt đầu sản xuất RNA hoặc quản lý tốc độ phiên mã. Bằng cách này, chuỗi lặp đoạn cuối dài có thể kiểm soát sự sao chép và rộng hơn là toàn bộ tiến trình của chu kỳ virus. Mặc dù nằm trong nhân, DNA bổ sung (cDNA) của retrovirus khi chưa chèn vào DNA của vật chủ là một chất nền rất yếu nên các protein sẽ không tương tác được để bắt đầu quá trình phiên mã. Vì lý do này, một provirus tích hợp là cần thiết cho sự biểu hiện vĩnh viễn và hiệu quả của các gen retrovirus. DNA trong dạng provirus có thể được tích hợp vào bộ gen vật chủ và được truyền cho các tế bào con. DNA của retrovirus được chèn một cách ngẫu nhiên vào bộ gen của vật chủ. Bởi vì điều này, nó có thể được chèn vào các gen sinh ung thư. Bằng cách này, một số retrovirus có thể chuyển đổi tế bào bình thường thành tế bào ung thư. Ngoài ra, một số provirus có khả năng ẩn trong tế bào vật chủ một thời gian dài trước khi được kích hoạt bởi sự thay đổi của môi trường tế bào. Tầm quan trọng. Việc phát hiện ra retrovirus có mang nhiều ý nghĩa vì tính chất lịch sử, kỹ thuật, và quan trọng nhất, cách sử dụng retrovirus để xử lý những vấn đề sức khỏe cộng đồng do chính nó gây ra. Về tính chất lịch sử, qua nhiều nghiên cứu ban đầu về sinh học tế bào và phân tử, con người đã tìm ra DNA, RNA và protein. Sau đó, họ nhận thấy một khuynh hướng chung: DNA và RNA và protein. Lúc đó, người ta đã tin đây là quy luật, không thể đảo ngược. Sau đó, retrovirus được phát hiện. Retrovirus đặc biệt ở chỗ nó có thể tạo DNA từ RNA, ngược lại so với những gì người thời ấy luôn tin tưởng. Họ đã nghi ngờ, nhưng những nghiên cứu sau đó đã chứng minh đây là thật. Con người biết quá ít về retrovirus. Retrovirus càng trở nên nguy hiểm khi họ nhận ra rằng: nếu một cơ thể bị nhiễm virus này, retrovirus sẽ dùng bộ máy tế bào của vật chủ, khiến tế bào phân ra và tạo nên vô số bản sao virus. Virus này lại tiếp tục tấn công vào các tế bào khác của vật chủ, có thể dẫn đến tình trạng ung thư. Để chống lại HIV, chúng ta thường dùng các phương pháp nhằm chống lại sự tạo thành DNA của retrovirus. Retrovirus được nhắc đến nhiều trong công nghệ sinh học vì chúng ta muốn khai thác khả năng của nó. Những bệnh về gene ngày một nhiều, và nguyên nhân chính của chúng thường là một lỗi rất nhỏ trong DNA. Lỗi này có thể ngăn lại quá trình tổng hợp của một protein quan trọng, hoặc khiến protein hoạt động sai cách. Nếu chúng ta có thể thêm lại DNA đúng, khiến protein hoạt động bình thường, bệnh có thể được chữa khỏi. Điều này đòi hỏi sự khéo léo vì virus có thể dễ dàng vượt qua các sự bảo hộ mà ta đã dựng lên. Nhưng phương pháp này cũng có nhiều khả năng thành công, và rất nhiều người đang coi retrovirus như một phép chữa bệnh. Chúng ta biết được về retrovirus càng nhiều thì lại càng có thể chữa trị cho những người bị nhiễm chúng tốt hơn. Tham khảo. http://www.madsci.org/posts/archives/2001-12/1008703762.Vi.r.html https://ghr.nlm.nih.gov/glossary=retrovirus http://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK19382/
25
55
1,107
1323130
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323130
Yến đuôi nhọn Philippine
Yến đuôi nhọn Philippine (danh pháp hai phần: Mearnsia picina) là một loài chim thuộc họ Yến ("Apodidae").. Chúng là loài đặc hữu của Philippines. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới. Loài này đang trở nên hiếm do mất nơi sống.
1
3
53
1323194
142827
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323194
Đường chim bay
Đường chim bay là từ ngữ để chỉ khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm trên Trái Đất theo trắc địa trên mặt một hình cầu. Nói cách khác, đường chim bay là cách di chuyển theo hình một đường thẳng, tránh những đoạn gấp khúc mà làm cho đoạn đường đi dài hơn do vị trị trí địa lý. Khoảng cách đường chim bay hiểu một cách đơn giản là khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm A và B giả sử giữa A và B không có vật cản. Tên gọi khoảng cách đường chim bay xuất phát từ ý tưởng "con chim bay một mạch từ A đến B mà không phải rẽ vòng vào bất kì chỗ nào". Lấy đường sắt Bắc Nam làm thí dụ thì từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội là 1726 km nhưng tính đường chim bay chỉ có 1140 km.
2
5
152
1323203
887787
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323203
Berat
Berat (, ) là một đô thị nằm tại hạt Berat, Albania. Đây là thành phố lớn thứ 9 của Albania xét theo dân số. Nó là thủ phủ của hạt Berat, một trong 12 đơn vị hành chính cấu thành lên đất nước. Bằng đường hàng không, nó cách về phía bắc Gjirokastra, về phía tây Korçë, về phía nam của Tirana và về phía đông của Fier. Berat nằm ở phía nam của đất nước. Nó được bao quanh bởi núi và đồi, bao gồm cả dãy núi Tomorr ở phía đông đã được công nhận là một vườn quốc gia. Sông Osum chảy qua thành phố trước khi đổ vào sông Seman trong vùng đồng bằng Myzeqe. Đô thị Berat được hình thành vào cuộc cải cách chính quyền địa phương năm 2015 bằng cách sáp nhập các đô thị cũ Berat là Otllak, Roshnik, Sinjë, và Velabisht trở thành một thành phố. Tổng dân số là 60.031 người theo điều tra dân số năm 2011. trên tổng diện tích . Berat được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 2008 cùng với trung tâm lịch sử của Gjirokastër được công nhận trước đó vào năm 2005. Berat mang phong cách kiến trúc độc đáo với những ảnh hưởng từ một số nền văn minh đã cùng tồn tại trong nhiều thế kỷ trong suốt lịch sử. Giống như nhiều thành phố ở Albania, Berat bao gồm một thành phố thành lũy lâu đời với những nhà thờ, thánh đường Hồi giáo có rất nhiều các bức tranh tường và bích họa có thể nhìn thấy được. Berat là một trong những trung tâm văn hóa chính của đất nước. Tên nguyên. Cái tên "Berát" có nguồn gốc từ thay đổi âm thanh trong tiếng Albania từ "Bělgrad" trong tiếng Slav Giáo hội cổ hoặc "Belgrád" / "Beligrad" (Белград / Белиград), có nghĩa là "Thành phố Trắng". Nó được cho là địa điểm của thành phố cổ "Antipatreia" (, "Thành phố của Antipater") hoặc "Antipatrea" trong tiếng Latinh. Dưới thời kỳ đầu đế quốc Đông La Mã tên của thị trấn là "Pulcheriopolis" (Hy Lạp Trung Cổ: Πουλχεριόπολις, "Thành phố của Pulcheria"). Nó được ghi chép dưới cái tên "Belogradum", "Bellegradum" trong tiếng Latinh Trung Cổ, "Belgrad" trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, "Belgrado" trong tiếng Ý và "Βελλέγραδα, Bellegrada" trong tiếng Hy Lạp. Tại cộng hòa Venezia, nó được gọi là "Belgrado di Romania" (Rumelia Belgrade), trong khi đế quốc Ottoman gọi nó là "Belgrad-i Arnavud" ("Albania Belgrade") để phân biệt nó với Belgrad.
6
19
430
1323273
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323273
Gjirokastër
Gjirokastër () (còn được gọi bằng nhiều tên khác như Gjirokastra) là một thành phố và đô thị ở miền nam Albania, trong một thung lũng giữa dãy núi Mali i Gjerë và sông Drino ở độ cao 300 mét so với mực nước biển. Phố cổ của nó được ghi vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO như là "một ví dụ hiếm có về một thị trấn được bảo quản tốt dưới thời Ottoman, được xây dựng bởi những người nông dân của vùng". Nhìn ra thành phố là pháo đài Gjirokastër, nơi tổ chức Lễ hội Văn hóa dân gian Quốc gia mỗi 5 năm một lần. Gjirokastër là nơi sinh của cựu lãnh đạo cộng sản Albania Enver Hoxha và nhà văn công chúng Ismail Kadare. Thành phố xuất hiện trong các ghi chép lịch sử vào năm 1336 theo tên Hy Lạp của nó, Argyrokastro, là một phần của Đế quốc Đông La Mã. Nó trở thành một phần của giáo phận Cơ đốc giáo Chính thống Dryinoupolis và Argyrokastro sau khi Adrianoupolis gần đó bị phá hủy. Gjirokastër sau đó đã bị tranh giành giữa Chuyên chế quốc Ipeiros và gia tộc người Albania của Gjin Zenebishi trước khi chịu sự cai trị của Ottoman trong 5 thế kỷ tiếp theo (1417–1913). Trong suốt thời kỳ Ottoman, Gjirokastër chính thức được biết đến với tên trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman là "Ergiri" và "Ergiri Kasrı". Trong thời kỳ Ottoman, việc chuyển đổi sang Hồi giáo và một lượng lớn người Hồi giáo cải đạo từ các vùng nông thôn xung quanh đến đây đã khiến Gjirokastër từ một thành phố có lượng tín đồ Cơ đốc giáo áp đảo vào thế kỷ 16 trở thành một thành phố có đông người Hồi giáo vào đầu thế kỷ 19. Gjirokastër cũng trở thành một trung tâm tôn giáo chính của Hồi giáo Bektashi. Thành phố bị quân đội Hy Lạp đánh chiếm trong Các cuộc chiến tranh Balkan năm 1912–3 do lượng người Hy Lạp đông đảo ở đây. Cuối cùng nó đã được hợp nhất vào quốc gia mới độc lập của Albania vào năm 1913. Tuy vậy, điều này tỏ ra không được lòng người dân địa phương Hy Lạp, những người đã nổi dậy. Sau nhiều tháng chiến tranh du kích, Cộng hòa Tự trị Bắc Epirus tồn tại ngắn ngủi được thành lập vào năm 1914 với thủ đô là chính tại Gjirokastër. Nó hoàn toàn trở thành một phần của Albania vào năm 1921. Trong những năm gần đây, thành phố đã chứng kiến ​​các cuộc biểu tình chống đối chính phủ dẫn đến cuộc Nội chiến Albania năm 1997. Cùng với người Albania theo đạo Hồi và Chính thống giáo, thành phố cũng là nơi sinh sống của một số lượng đáng kể người Hy Lạp. Gjirokastër cùng với Saranda, được xem là một trong những trung tâm của cộng đồng Hy Lạp tại Albania và có một lãnh sự quán của Hy Lạp tại đây. Tên nguyên. Thành phố xuất hiện lần đầu tiên trong các ghi chép lịch sử dưới tên tiếng Hy Lạp Trung Cổ là "Argyrocastron" () bởi Ioannes VI Kantakouzenos vào năm 1336. Tên này xuất phát từ "ἀργυρόν" ("argyron") trong tiếng Hy Lạp Trung Cổ có nghĩa là "bạc", và "κάστρον" ("kastron") bắt nguồn từ "castrum" trong tiếng Latinh có nghĩa là "lâu đài" hoặc "pháo đài". Vậy "Argyrocastron" có nghĩa là "lâu đài bạc". Biên niên sử Đông La Mã cũng sử dụng tên tương tự "Argyropolyhni" có nghĩa là "khu phố bạc" (). Giả thuyết cho rằng, thành phố lấy theo tên của công chúa Argjiro, một nhân vật huyền thoại mà tác giả thế kỷ 19 Kostas Krystallis đã viết trong một cuốn tiểu thuyết ngắn, và Ismail Kadare đã viết trong một bài thơ vào những năm 1960, được coi là từ nguyên dân gian, bởi vì công chúa được biết đến là sống trong thế kỷ 15. Tên tiếng Albania của thành phố là "Gjirokastra", trong khi trong tiếng Albania Gheg nó được gọi là "Gjinokastër", cả hai đều bắt nguồn từ tên Hy Lạp. Các cách viết khác được tìm thấy trong các nguồn tài liệu phương Tây bao gồm "Girokaster" và "Girokastra". Trong tiếng Aromania thành phố được gọi là "Ljurocastru; Iurucasta/Iurucast", trong tiếng Hy Lạp hiện đại nó được gọi là "Αργυρόκαστρο" ("Argyrokastro"). Trong thời kỳ Ottoman, nó được biết đến trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với cái tên "Ergiri". Địa lý. Đô thị hiện tại được hình thành vào cuộc cải cách chính quyền địa phương năm 2015 bằng cách sáp nhập các thành phố tự trị cũ là Antigonë, Cepo, Gjirokastër, Lazarat, Lunxhëri, Odrie và Picar để trở thành một thành phố. Trụ sở thành phố được đặt tại quận Gjirokastër. Tổng dân số năm 2011 là 28.673 người, trên tổng diện tích . Dân số của đô thị cũ năm 2011 là 19.836 người. Gjirokastër nằm giữa vùng đất thấp phía tây Albania và vùng cao nguyên nằm bên sâu bên trong đất liền. Do đó, nó có khí hậu Địa Trung Hải với mùa hè nóng bức (là bình thường đối với Albania), lượng mưa lớn hơn nhiều so với mức bình thường của kiểu khí hậu này.
9
35
890
1323295
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323295
Himarë
Himara hay Himarë (từ , "Himarra") là một vùng và "bashki" song ngữ ở miền nam Albania, thuộc hạt Vlorë. Nơi đây nằm giữa dãy núi Ceraunia và biển Ionia và là một phần của Riviera Albania. Vùng này bao gồm thị trấn Himarë và các làng Dhërmi, Pilur, Kudhës, Qeparo, Vuno, Ilias, và Palasë. Vùng Himara là nơi cư ngụ của cộng đồng người Hy Lạp.
2
4
67
1323416
539651
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323416
Àstrid Bergès-Frisbey
Àstrid Bergès-Frisbey (sinh ngày 26 tháng 5 năm 1986) là một diễn viên người Pháp gốc Tây Ban Nha. Cô được biết đến trong vai diễn Suzanne của bộ phim The Sea Wall và nàng người cá Syrena trong phim . Cuộc đời và sự nghiệp. Àstrid Bergès-Frisbey có bố là người Tây Ban Nha, còn mẹ cô là người Pháp gốc Mỹ. Gia đình cô chuyển đến Paris khi cô năm tuổi. Cô có thể nói tiếng Pháp, Catalan, Tây Ban Nha. Cô lần đầu diễn xuất vào năm 2007 trên kênh truyền hình Pháp và từ đó đã xuất hiện nhiều ở các bộ phim cùng với Isabelle Huppert, Vincent Perez, và Daniel Auteuil. Năm 2008, Àstrid Bergès-Frisbey ra mắt khán giả với bộ phim The Sea Wall. Cô bắt đầu làm người mẫu vào năm 2010 trong chiến dịch "Chanel Spring" của Pháp. Àstrid Bergès-Frisbey xuất hiện lần đầu ở bộ phim tiếng Anh được mong chờ nhất năm 2011, Pirates of the Caribbean 4 trong vai Nàng tiên cá Syrena. Sau cuộc thử giọng ở Pháp, Hollywood và Anh, cô đã phải học tiếng Anh trong vai diễn này. Lúc quay phim này ở Hawaii, cô hạn chế đi ra ngoài vào ban ngày để da nhạt.
4
12
211
1323545
238464
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323545
Zagori
Zagori (; ) là vùng, một đô thị và một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại vùng núi Pindus, vùng Ípeiros, tây bắc Hy Lạp. Trung tâm hành chính của đô thị nằm tại làng Asprangeloi. Với diện tích khoảng 989,796 km2 và dân số khoảng 3.700 người, đô thị này bao gồm 46 ngôi làng được biết đến là các làng Zagori (Zagorochoria hoặc Zagorohoria), ranh giới của nó có dạng tam giác đều lộn ngược. Thủ phủ của vùng là thành phố Ioannina năm ở điểm phía nam của tam giác đó, trong khi phía tây nam là dãy núi Mitsikeli. Sông Aoös chảy về phía bắc của dãy núi Tymphe tạo thành ranh giới phía bắc, trong khi phía đông nam chạy dọc theo sông Varda đến núi Mavrovouni gần thị trấn Metsovo. Địa lý. Zagori là khu vực có vẻ đẹp tự nhiên tuyệt vời, với địa chất nổi bật được bảo vệ trong hai vườn quốc gia. Vườn quốc gia Vikos–Aoös bao gồm sông Aoös và hẻm núi Vikos dài 32 km. Trong khi vườn quốc gia Pindus bao phủ phần lớn của thung lũng Valia Calda nằm ở phía đông của núi Tymphe phủ đầy tuyết. Các ngôi làng ở Zagori được kết nối với nhau bằng những con đường núi và những cây cầu đá hình vòm truyền thống cho đến khi những con đường hiện đại được mở vào những năm 1950. Những cây cầu vòm bằng đá được xây dựng nhờ sự giúp đỡ của các thương gia nước ngoài vào thế kỷ 18 và thay thế những cây cầu gỗ cũ kỹ. Lịch sử. Khu vực này về mặt lịch sử rất khó tiếp cận do địa hình đồi núi, điều này có thể đã góp phần tạo nên nét độc đáo của nó. Người Sarakatsani sống ở khu vực này sử dụng một số từ ngữ Hy Lạp thuộc phương ngữ Bắc Hy Lạp không thường thấy trong tiếng Hy Lạp ở những nơi khác. Do đó, một số người coi họ là người bản địa của vùng. Kiến trúc. Về mặt lịch sử, tất cả các ngôi làng ở vùng Zagori đều được kết nối bằng hệ thống đường hoặc đường mòn nhỏ và chúng giống như một thực thể duy nhất hơn là giữa các cộng đồng riêng biệt. Các ngôi làng được xây dựng xung quanh một quảng trường trung tâm, còn được gọi là "mesochori" (trung tâm làng) với một nhà thờ lớn, một cây huyền linh và một đài phun nước công cộng. Những con đường rải sỏi và lối đi bộ nối liền các phần còn lại của ngôi làng với trung tâm. Mỗi khu phố riêng lẻ lại có một nhà thờ nhỏ hơn. Nhà thờ. Hầu hết các nhà thờ ở Zagori đều có niên đại từ thế kỷ 17–18 trở đi, mặc dù một số nhà thờ cũ hơn vẫn tồn tại. Ở hầu hết các làng, nhà thờ chính bao gồm một vương cung thánh đường lớn được xây bằng đá với mái gỗ lợp đá phiến. Chúng được trang trí chủ yếu bởi các họa sĩ biểu tượng của vùng theo truyền thống nghệ thuật Byzantine. Lối vào nhà thờ có thể được bảo vệ bởi một hàng hiên mái vòm. Tháp chuông nhà thờ thường được tách rời khỏi nhà thờ. Những ngôi nhà. Những ngôi nhà cho đến thế kỷ 18 có hình chữ nhật đơn giản, thường chỉ có tầng trệt và các khu phụ ở tầng hầm được sử dụng làm chuồng ngựa. Quả thực, đây dường như là phong cách xây dựng các ngôi nhà ở khu vực của người Molossia được tìm thấy ở Vitsa. Những ngôi nhà được xây bằng đá địa phương và có mái làm bằng đá vôi hoặc sa thạch. Chúng được liên kết với nhau mà không cần xi măng, chỉ nhờ vào trọng lượng của những viên gạch phía trên. Do đó, mái nhà bằng đá cần được bảo trì liên tục để có thể chịu được tuyết rơi dày đặc trong những tháng mùa đông. Những cây cầu. Hơn 160 cây cầu hình vòm đã được xây dựng ở khu vực, nhiều cây cầu trong số đó vẫn đứng vững giúp người dân và du khách băng qua nhiều con sông và suối trong khu vực. Chúng hầu hết được xây dựng vào thế kỷ 18 và 19 bởi các thợ thủ công địa phương bằng cách sử dụng đá tại địa phương. Những cây cầu này thường có từ một đến ba vòm gọi là "kamares" trong tiếng Hy Lạp. Một trong những công trình mang tính biểu tượng nhất là cây cầu ba vòm Plakidas, còn được gọi là cầu Kalogeriko, gần làng Kipoi (Κἠποι) trong Vườn quốc gia Vikos–Aoös.
15
37
811
1323559
501647
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323559
Khay cáp
Khay cáp tên tiếng Anh là "cable tray" hoặc "perforated cable tray", là hệ thống đỡ, lắp đặt các loại dây, cáp điện (có bọc cách điện). Hệ thống khay cáp được dùng trong hệ thống dây, cáp điện trong các tòa nhà, xưởng sản xuất, chung cư... Hệ thống khay cáp dùng để lắp đặt và bảo vệ các loại dây cáp phân phối điện hoặc dây cáp tín hiệu truyền thông. Hệ thống khay cáp áp dụng cho việc quản lý cáp trong xây dựng thương mại và công nghiệp. Chúng đặc biệt hữu ích trong trường hợp thay đổi một hệ thống dây điện, vì dây cáp mới có thể được cài đặt bằng cách đặt chúng trong khay cáp thay vì lắp đặt thông qua một đường ống. Vật liệu thường dùng làm khay cáp bao gồm: Thép sơn tĩnh điện, thép tấm mạ kẽm, thép mạ kẽm nhúng nóng, thép không rỉ (Inox), hợp kim nhôm hoặc composite. Kích thước khay cáp: Một số thuật ngữ khác. Máng cáp. Máng cáp tên tiếng Anh là "trunking" hoặc "solid bottom cable tray", là hệ thống đỡ, lắp đặt các loại dây, cáp điện (có bọc cách điện). Đôi khi máng cáp còn dùng để đỡ các đường ống nhằm tăng tính thẩm mỹ. Hệ thống máng cáp được dùng trong hệ thống dây, cáp điện trong các tòa nhà, xưởng sản xuất, chung cư... Hệ thống máng cáp dùng để lắp đặt và bảo vệ các loại dây cáp phân phối điện hoặc dây cáp tín hiệu truyền thông. Hệ thống máng cáp áp dụng cho việc quản lý cáp trong xây dựng thương mại và công nghiệp. Chúng đặc biệt hữu ích trong trường hợp thay đổi một hệ thống dây điện, vì dây cáp mới có thể được cài đặt bằng cách đặt chúng trong máng cáp thay vì lắp đặt thông qua một đường ống. Vật liệu thường dùng làm máng cáp bao gồm: Thép sơn tĩnh điện, thép tấm mạ kẽm, thép mạ kẽm nhúng nóng, thép không rỉ (Inox), hợp kim nhôm hoặc composite. Kích thước máng cáp: Thang cáp. Thang cáp tên tiếng Anh là "cable ladder" hoặc "ladder type cable tray", là hệ thống đỡ, lắp đặt các loại dây, cáp điện (có bọc cách điện). Hệ thống thang cáp được dùng trong hệ thống dây, cáp điện trong các tòa nhà, xưởng sản xuất, chung cư... Hệ thống thang cáp dùng để lắp đặt và bảo vệ các loại dây cáp phân phối điện hoặc dây cáp tín hiệu truyền thông. Hệ thống thang cáp áp dụng cho việc quản lý cáp trong xây dựng thương mại và công nghiệp. Chúng đặc biệt hữu ích trong trường hợp thay đổi một hệ thống dây điện, vì dây cáp mới có thể được cài đặt bằng cách đặt chúng trong thang cáp thay vì lắp đặt thông qua một đường ống. Vật liệu thường dùng làm thang cáp bao gồm: Thép sơn tĩnh điện, thép tấm mạ kẽm, thép mạ kẽm nhúng nóng, thép không rỉ (Inox) hoặc hợp kim nhôm Kích thước thang cáp:
21
19
526
1323751
558710
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1323751
Đảo Đá
Đảo Đá là một đảo đá nhỏ thuộc nhóm đảo An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa. Đảo nằm trên cùng một bãi đá san hô với đảo Phú Lâm, cách Phú Lâm khoảng hơn 700 m về phía đông bắc. Nơi cao nhất của đảo Đá là 15,2 m (50 ft), cũng là nơi cao nhất Quần đảo Hoàng Sa. Đảo Đá là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đảo này. Trung Quốc đã xây dựng một trạm tình báo chuyên thu thập tín hiệu trên đảo Đá, đồng thời xây đường nối nơi này với đảo Phú Lâm. Phía bắc của đảo có một bến tàu được xây bằng bê tông; phía nam có một số ngôi nhà. Hiện nay Trung Quốc đã bồi đắp, xây dựng và Đảo Đá cùng với đảo Phú Lâm đã trở thành một đảo. Đảo Đá và Bàn Than thạch. Khi viết về việc xây Hoàng Sa Tự trên một đảo Hoàng Sa năm 1835 (một hành động thực thi chủ quyền của Nhà Nguyễn Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa), Đại Nam thực lục chép: Chu vi đảo xây miếu thời Minh Mạng dài 1070 trượng là khoảng 5030 mét (một trượng khoảng 4,7 m), gần tương đương với quy mô của đảo Phú Lâm quần đảo Hoàng Sa nơi từng có Hoàng Sa Tự. Chu vi cồn đá san hô được gọi là "Bàn Than thạch" thời Minh Mạng khoảng 1600 mét (340 trượng), tương đương quy mô đảo Đá của quần đảo Hoàng Sa. Độ cao của Bàn Than thạch kề phía bắc cồn Bạch Sa theo Đại Nam thực lục 1 trượng 3 thước (13 thước) tức là khoảng 6,1 m. Độ cao của đảo Đá, nằm sát gần đảo Phú Lâm cách 700m về phía bắc đông bắc, là 15,2 m (tức 50 ft). Bàn Than thạch ngày nay được Việt Nam lấy tên gọi Bàn Than để đặt cho một cồn cát thuộc thuộc cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa, gọi là "bãi Bàn Than", nằm gần đảo Ba Bình (khoảng giữa đảo này với đảo Sơn Ca), nằm về phía đông đảo Ba Bình và với khoảng cách xa hơn nhiều khoảng cách đảo Đá với đảo Phú Lâm.
6
13
389
1324185
802888
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1324185
Chào mào khoang cổ
Chào mào khoang cổ (danh pháp hai phần: Spizixos semitorques) là một loài chim thuộc họ Chào mào. Nó được tìm thấy ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam. Loài chim này ưa thích rừng đồi ở độ cao vừa phải. Chủ yếu là ăn trái cây, chào mào khoang cổ cũng ăn hạt và côn trùng. Chúng thường chỉ sống theo chế độ một vợ một chồng, con cái xây dựng tổ trên cây và đẻ trứng.
1
5
78
1324655
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1324655
Tuyến hỏa xa ngầm
Tuyến hỏa xa ngầm hay Đường sắt ngầm (tiếng Anh: "Underground Railroad") là một mạng lưới đường trốn và ngôi nhà an toàn bí mật được sử dụng bởi các nô lệ gốc Phi tại Hoa Kỳ để chạy trốn tới các tiểu bang tự do và Canada nhờ sự giúp đỡ của những người theo chủ nghĩa bãi nô và những người thông cảm. Thuật ngữ này cũng chỉ đến những người theo chủ nghĩa bãi nô, cả Mỹ da trắng và da đen, cả người tự do và nô lệ, mà đều giúp đỡ những người lánh nạn. Các tuyến khác dẫn đến México hoặc hải ngoại. Tuy một "tuyến hỏa xa ngầm" chạy về phía nam đến Florida, hồi đó là một lãnh thổ Tây Ban Nha, từ cuối thế kỷ 17 cho đến ngay sau Cách mạng Mỹ, nhưng mạng lưới hiện nay thường được gọi là Tuyến hỏa xa ngầm được sáng lập vào đầu thế kỷ 19 và đạt tới đỉnh cao nhất từ 1850 đến 1860. Có ước lượng rằng, vào năm 1850, 100.000 nô lệ đã chạy trốn trên "đường sắt" này. Bắc Mỹ thuộc Anh, một khu vực cấm chế độ nô lệ, là một nơi chốn cuối cùng của nhiều người, tại vì có nhiều nơi băng qua biên giới dài. Theo chuyện kể, hơn 30.000 người chạy tới đấy trên mạng lưới trong thời kỳ 20 năm thông dụng nhất, nhưng thống kê từ Điều tra dân số Hoa Kỳ chỉ đếm 6.000 người.
1
7
255
1325033
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325033
Núi Sinai
Núi Sinai ( "Har Sīnay"; Aramaic: ܛܘܪܐ ܕܣܝܢܝ "Ṭūrāʾ dəSīnăy") còn được biết đến là Jabal Musa ( nghĩa là "Núi của Moses" là một ngọn núi nằm tại Bán đảo Sinai của Ai Cập. Đây là một trong một số địa điểm được cho là Núi Sinai trong Kinh Thánh, nơi mà theo theo Cựu Ước, Kinh Thánh và Kinh Qur'an, Moses tiếp nhận Mười Điều Răn. Núi Sinai cao nằm gần thành phố Saint Catherine, trong khu vực ngày nay được gọi là Bán đảo Sinai. Nó được bao quanh tứ phía bởi các đỉnh núi cao hơn trong dãy núi mà nó là một phần. Cạnh đó là Núi Catherine, ở độ cao , là đỉnh cao nhất ở Ai Cập. Địa chất. Địa chất của nó hình thành trong giai đoạn cuối của quá trình kiến tạo Vách chắn Ả Rập-Nubia. Ngọn núi là một tổ hợp đài vòng gồm đá granit kiềm xâm lấn vào nhiều loại đá khác, trong đó có cả đá núi lửa. Đá granit có thành phần là Syenogranit cho đến Felspat kiềm. Ý nghĩa trong tôn giáo. Do Thái giáo và Kitô giáo. Ngay phía bắc ngọn núi là Tu viện Thánh Catarina có từ thế kỷ thứ 6. Đỉnh núi có một Nhà thờ Hồi giáo vẫn còn được sử dụng và một Nhà thờ Chính thống giáo Hy Lạp được xây dựng vào năm 1934 trên tàn tích của một nhà thờ thế kỷ 16, hiện không mở cửa cho công chúng. Nhà nguyện bao quanh tảng đá được coi là nguồn gốc của Các tấm bia Lề luật trong Kinh Thánh. Trên đỉnh còn có "hang động của Moses", được cho là nơi mà Moses đã nhận Mười Điều Răn. Hồi giáo. Ngọn núi gắn liền với nhà tiên tri Musa. Đặc biệt, có nhiều tài liệu tham khảo về Jabal Musa trong Kinh Qur'an, trong đó nó được gọi là "Ṭūr Saināʾ", "Ṭūr Sīnīn", "aṭ-Ṭūr" và "al-Jabal" (cả hai đều có nghĩa là "núi"). Còn đối với "Wād Ṭuwā" (Thung lũng của Tuwa) liền kề, nó được coi là "muqaddas" (linh thiêng), và một phần của nó được gọi là "Al-Buqʿah Al-Mubārakah" ("Nơi may mắn"). Đó là nơi Musa nói chuyện với Thượng Đế.
9
20
378
1325229
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325229
When the Sun Goes Down (album của Selena Gomez & the Scene)
When the Sun Goes Down là album phòng thu thứ ba của ban nhạc Mỹ Selena Gomez & the Scene, phát hành vào 28 tháng 6 năm 2011 bởi hãng đĩa Hollywood. Đĩa đơn. Đĩa đơn chính thức. Đĩa đơn mở đường cho album là, "Who Says" được đồng sáng tác và sản xuất bởi Emanuel Kiriakou, Priscilla Hamilton và được phát hành vào ngày 14 tháng 3 năm 2011. Ca khúc đã được ủng hộ và đánh giá tích cực từ hầu hết các nhà phê bình âm nhạc khi ca ngợi về bản lĩnh của con người trong cuộc sống. Bill Lamb của trang About.com đã đánh giá bài hát là "Bản hit lớn nhất của một trong những ca sĩ Disney trong những năm gần đây." Bài hát đã đạt được nhiều thành công khi ra mắt tại vị trí thứ 24 và đạt đỉnh ở vị trí thứ 21 tại bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, bán được hơn 1 triệu bản tại Hoa Kỳ và đã được chứng nhận đĩa bạch kim bởi RIAA.. "Who Says" cũng đạt được vị trí 17 ở Canada và 15 tại New Zealand. Đây cũng là đĩa đơn thành công nhất của nhóm tại hai quốc gia này. Ca khúc cũng đã lọt vào top 50 bài hát hay nhất ở Đức và ở Ireland và xuất hiện trong các bản xếp hạnh danh giá ở Anh, Bỉ, Úc, Áo, Thái Lan và cả Việt Nam. Ngày 17 tháng 6, "Love You Like a Love Song", đĩa đơn thứ hai nằm trong album được phát hành.. Gomez cũng đã bắt đầu quay video âm nhạc cho đĩa đơn tiếp theo là "Hit the Lights" trong tháng 9 năm 2011. Video được công chiếu vào tháng 11 năm 2011. Ca khúc đã đạt vị trí 30 bảng xếp hạng hàng đầu tại Bỉ và ra mắt ở vị trí thứ 93 tại Canadian Hot 100. Ngày 29 tháng 5 năm 2012, nhiều tin đồn cho rằng, "My Dilemma" sẽ được Selena Gomez chọn làm đĩa đơn thứ 4, bài hát hiện tại vẫn chưa được chính thức công bố ngày phát hành. Đĩa đơn quảng bá. Để chuẩn bị việc phát hành album, hãng thu âm của ban nhạc đã quyết định phát hành hai đĩa đơn quảng bá. Ngày 07 tháng 6 năm 2011, iTunes đã phát hành một vài ca khúc để quảng cáo cho album. Bắt đầu với "Bang Bang Bang" đạt vị trí 94 trong bảng xếp hạng"Billboard" Hot 100, tiếp theo là "Dices", phiên bản tiếng Tây Ban Nha của "Who Says". "Whiplash" cũng đã được chọn là đĩa đơn tiếp theo. Tiếp nhận. Các ý kiến. Metacritic cho album một điểm số 64/100 dựa trên 6 ý kiến. Cho đến nay, album đã nhận được nhiều đánh giá khác nhau. Mikael Wood từ "Entertainment Weekly" viết: "Giọng hát của Selena Gomez có nhiều tiến bộ hơn trong các ca khúc disco điện tử như "Bang Bang Bang" hay "Whiplash", đồng sáng tác bởi Britney Spears. Bill Lamb từ trang About.com đã bình luận rằng: " Đây là một trong những giai điệu pop thông minh, một electropop có khởi sắc, và tràn đầy cảm xúc. Đây là album có giọng hát tốt nhất của Selena Gomez.". Jody Rosen từ "Rolling Stone" đã viết, "Gomez có thể là một ca sĩ chán nhất trong thế hệ của mình. Cô ấy làm cho Ashley Tisdale dường như giống Lady Gaga." Thương mại. "When the Sun Goes Down" đã được phát hành vào ngày 28 Tháng Sáu năm 2011. Trong tuần 4 tháng 7 năm 2011, album đã ra ​​mắt ở vị trí #4 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 với doanh số bán ra cao nhất của ban nhạc từ trước đến nay, với 78.000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên. Tuần tiếp theo, album tăng số lên vị trí thứ 3, làm cho nó trở thành album biểu đồ cao nhất của ban nhạc. Tại Canada, album ra mắt ở vị trí #2 trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart, bán được 9.000 bản trong tuần đầu tiên của nó. Album đã ra mắt tại Tây Ban Nha ở vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Spanish Albums Chart.. Album đạt vị trí đó trong ba tuần, trong tuần đầu tiên, tuần thứ năm và thứ sáu trên bảng xếp hạng. Tại Bỉ, album ra mắt ở vị trí số 21 trên bảng xếp hạng Belgian Albums Chart và nhảy vọt lên vị trí cao nhất là thứ 6. Album ra mắt và đạt vị trí thứ 6 ở Mexico. Album ra mắt ở vị trí trong số 16 Na Uy và đã tăng lên vị trí cao nhất là thứ 6 trong tuần lễ thứ tám. Trong tháng 11 năm 2011., album tăng doanh số bán hàng đến 248% doanh số bán hàng thường xuyên của nó và đã bán được 500.000 bản tại Mỹ và đã được chính thức xác nhận vàng bởi RIAA vào 17 tháng 11 năm 2011.
11
38
850
1325295
272
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325295
Mắm ba khía
Mắm ba khía, là loại mắm được làm chủ yếu từ con ba khía (một loài họ cua có càng to, đặc trưng ở vùng Nam bộ, sống tập trung ở vùng nước lợ, mặn, trải từ Cần Thơ đến Sóc Trăng, Cà Mau, nhiều nhất ở U Minh. Do có ba gạch ở trên lưng nên được đặt tên ba khía). Chuẩn bị. Mỗi năm ba khía chỉ "hội" (tập trung) một lần vào 3-4 đêm của tháng 10,vào mùa nước lên, khi những hang dày đặc của chúng dưới gốc đước, gốc mắm bị chìm trong nước, ba khía phải leo lên những rễ cây để trú ẩn và giao phối. Để bắt ba khía người dân Nam bộ phải ngủ rừng, ăn cơm bờ bụi, chịu đựng môi trường khắc nghiệt nhiều đỉa, vắt, muỗi... Đi “làm ba khía” được xem là "nghề hạ bạc của con nhà nghèo". Phương pháp chung bảo quản. Ba khía bắt về rửa sạch bùn đất, thả từng “trự” vào nồi hoặc lu có chứa sẵn nước muối.Chất lượng của ba khía sau này phụ thuộc độ mặn của nước muối(lạt quá ba khía hư, mặn quá ba khía sẽ rụng càng, đen da, chát thịt, nếu lẫn nước mưa thì sẽ trở mùi). Công đoạn này đòi hỏi nhiều kỹ thuật và kinh nghiệm. Sau đó lấy lá dừa nước phủ lên. Ba khía làm “tới” có thể để cả năm không hư hỏng..Phần nước muối còn lại trong khạp sau khi bảo quản ba khía có thể dùng nấu nước mắm rất ngon. Thực hiện. Ba khía rửa sạch bằng nước sôi, tách mai, đập dập sơ hai càng. Thêm tỏi, ớt, chanh, đường cát trắng vào rồi cho khóm bằm nhỏ, xoài xắt sợi, khế vừa chín tới xắt nhỏ, trái cóc đập dập. Trộn đều tất cả với ba khía, để đó cho thấm qua ngày thì ăn được. Thưởng thức. Ba khía thường ăn với cơm như các món mắm Việt Nam khác, phần nước trộn giàu đạm có thể dùng làm nước chấm. Hương vị của mắm ba khía: "thơm mùi đặc trưng khác với những loại mắm tôi từng ăn, càng ba khía mập mạp đỏ au, cắn vỡ ra để lộ những miếng thịt mằn mặn hơi giống thịt cua muối, ăn kèm khế chua chua, gừng cay nồng và những gia vị, rau thơm khác làm vị giác kích thích dễ sợ." Văn học. Tháng bảy nước chảy Cà Mau Tháng mười ba khía, hội kéo nhau đi làm U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi Xem thêm. http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/314522/Chuyen-mam-ba-khia-o-London.html
19
20
445
1325371
658556
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325371
Cảnh Đan
Cảnh Đan (chữ Hán: 景丹, ? - 26), tên tự là Tôn Khanh, người Lịch Dương, Phùng Dực, là tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. Sự nghiệp. Nhà Tân dựa vào "Tứ khoa" (tức là Đức hạnh, Ngôn ngữ, Chánh sự và Văn học) để tuyển chọn nhân tài, Đan nhờ "Ngôn ngữ" mà được làm Cố Đức hầu (quốc) tướng, có tiếng là tài năng. Sau đó được thăng làm Sóc Điều liên soái phó nhị . Canh Thủy đế lên ngôi (23), sai sứ đến Thượng Cốc, liên soái Cảnh Huống hàng, Đan được làm Thượng Cốc trưởng sử. Sau đó, Huống cùng bọn Đan lại quy thuận Lưu Tú. Ông được làm Thiên tướng quân, phong Phụng Nghĩa hầu. Đan lĩnh kỵ binh Ô Hoàn tinh nhuệ, trong thời gian đánh dẹp Vương Lang, bình định Hà Bắc lập được rất nhiều chiến công. Hán Quang Vũ Đế lên ngôi (25), mượn lời sấm lấy Tôn Hàm làm Đại tư mã, các tướng đều không phục. Đế cho phép họ đề cử, Cảnh Đan và Ngô Hán được nêu tên. Đế cho rằng công lao của 2 người ngang nhau, nên lấy Hán làm Đại tư mã, Đan làm Phiêu kỵ đại tướng quân. Năm sau (26), được phong Lịch Dương hầu. Mùa thu, cùng bọn Ngô Hán, Kiến uy đại tướng quân Cảnh Yểm, Kiến nghĩa đại tướng quân Chu Hỗ, Chấp kim ngô Giả Phục, Thiên tướng quân Phùng Dị, Cường nỗ tướng quân Trần Tuấn, Tả tào Vương Thường, Kị đô úy Tang Cung đánh dẹp quân nông dân Ngũ Hiệu ở Hà Nam, thu hàng 5 vạn người. Bấy giờ, Tô Huống công phá Hoằng Nông, bắt sống Quận thú, áp sát Lạc Dương. Đan đang bệnh, nhưng Đế cho rằng ông là tướng cũ, ngay trong đêm gọi vào, sai đi gấp. Đan không dám từ chối, ôm bệnh đến quận, được mười mấy ngày thì mất. Con là Thượng kế tự.
7
18
341
1325454
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325454
Họ Bọ chân chạy
Bọ chân chạy là một họ bọ cánh cứng phân bố trên toàn cầu, có hơn 40.000 loài trên khắp thế giới với khoảng 2000 loài được tìm thấy ở Bắc Mỹ và 2700 loài ở châu Âu. Phân họ và các chi chọn lọc. Họ chân chạy cơ bản. Carabinae – gồm cả Agoninae và Callistinae Cicindelinae – bọ hổ (khoảng 2100 loài; đôi khi bao gồm trong Carabidae) Cicindinae Elaphrinae Hiletinae Loricerinae Migadopinae Nebriinae (gồm có Notiophilinae, thường bao gồm trong Carabinae) Nototylinae Omophroninae – bọ cát tròn Paussinae – bọ tổ kiến, bọ phá thủ pích Promecognathinae Scaritinae – bọ cánh cứng mặt đất cuống Siagoninae Carabidae Conjunctae. Amblytelinae </ref> Apotominae Brachininae Broscinae Harpalinae – gồm có Chlaeniinae, Cyclosominae, Dryptinae, Lebiinae, Licininae, Mormolycinae, Odacanthinae, Oodinae, Panagaeinae, Perigoninae, Platyninae, Pseudomorphinae, Pterostichinae, Zabrinae (hơn 20.000 loài) Melaeninae Psydrinae Trechinae – gồm cả Bembidiinae, Patrobinae Tribes "incertae sedis"
27
5
148
1325667
558710
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325667
Đá Chim Én
Đá Chim Én là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa. Đá này cách đá Lồi 9,7 hải lý (18 km) về phía đông bắc và cách đảo Quang Hòa 16,2 hải lý (30 km) về phía đông nam. Đá Chim Én là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đá này. Ngày 24 tháng 6 năm 2012, tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) quyết định thành lập bốn khu bảo tồn "di sản văn vật dưới nước" tại quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đá Chim Én.
3
5
108
1325670
558710
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325670
Đá Bắc (Hoàng Sa)
Đá Bắc hoặc bãi đá Bắc là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa. Đá Bắc nằm cách đảo Hoàng Sa thuộc khu trung tâm nhóm Lưỡi Liềm khoảng 32,6 hải lý (60,4 km), cách đảo Phú Lâm thuộc khu trung tâm nhóm An Vĩnh khoảng 47 hải lý (87 km), cách bãi Ốc Tai Voi ở cực nam 91,8 hải lý (170 km) và là điểm cực bắc của cả quần đảo. Đá Bắc là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện Trung Quốc đang kiểm soát đá này. Ngày 24 tháng 6 năm 2012, tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) quyết định thành lập bốn khu bảo tồn "di sản văn vật dưới nước" tại quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đá Bắc. Tháng 11 năm 2014, thành phố Đà Nẵng lấy tên đá Bắc của quần đảo Hoàng Sa để đặt tên cho một con đường dài 640 m, rộng 10,5 m nối từ đường Lê Văn Hiến với đường Chương Dương, gọi là đường Đảo Đá Bắc thuộc phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng.
4
6
197
1325674
558710
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325674
Đá Lồi
Đá Lồi (tiếng Anh: "Discovery Reef"; , Hán-Việt: "Hoa Quang tiêu") là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm, quần đảo Hoàng Sa. Đá này nằm cách đảo Quang Hoà thuộc khu trung tâm nhóm Lưỡi Liềm khoảng 14 hải lý (26 km) về phía nam. Đây được xem là rạn san hô lớn nhất quần đảo Hoàng Sa. Đá Lồi là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đá này. Đặc điểm. Rạn san hô đá Lồi thon dài, khá dốc và có nhiều vùng nước xoáy xung quanh. Chiều dài tính từ đông sang tây khoảng 15,5 hải lý (28,7 km), tính từ bắc xuống nam khoảng 3,8 hải lý (7 km). Hầu hết đá Lồi chìm dưới 3,7 m nước biển và chỉ có vài hòn đá nổi lên. Tàu thuyền có thể theo các lạch nước ở mặt bắc và nam để vào vụng biển ở giữa. Giáo sư Sơn Hồng Đức miêu tả "đầm nước lặng" (vụng biển) của đá Lồi như sau: Ở phía nam của đá Lồi, người ta đã tìm thấy một xác tàu đổ bộ tầm trung bị đắm của Pháp. Ngày 24 tháng 6 năm 2012, tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) quyết định thành lập bốn khu bảo tồn "di sản văn vật dưới nước" tại quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đá Lồi.
6
12
240
1325676
558710
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325676
Đá Bông Bay
Đá Bông Bay (tiếng Anh: "Bombay Reef"; , Hán-Việt: "Lãng Hoa tiêu") là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo An Vĩnh của quần đảo Hoàng Sa. Đá này nằm ở góc đông nam của quần đảo, cách đảo Phú Lâm thuộc khu trung tâm nhóm An Vĩnh gần 46,7 hải lý (86,5 km) về phía nam đông nam và cách đảo Quang Hòa thuộc khu trung tâm nhóm Lưỡi Liềm khoảng 48,6 hải lý (90 km) về phía đông nam. Đá Bông Bay là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đá này. Đặc điểm. Rạn san hô đá Bông Bay có dáng thon dài, đa phần chìm dưới nước. Chiều dài tính từ đông sang tây khoảng 10 hải lý (18,5 km).. Lịch sử. Năm 1929, phái đoàn Perrier-Rouville của Pháp từng đề xuất kế hoạch xây dựng một ngọn đèn biển tại đá Bông Bay. Sau Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, Trung Quốc giành quyền kiểm soát đá Bông Bay. Năm 1980, Trung Quốc xây dựng một hải đăng cao 22,5 m trên đá Bông Bay. Khoảng giữa năm 2018, Trung Quốc xây dựng thêm một cấu trúc dài 27 m và rộng 12 m có gắn các tấm pin năng lượng mặt trời.
7
11
221
1325684
320708
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325684
Núi Bát Phúc
Núi Bát Phúc là ngọn đồi ở phía bắc Israel, nơi Chúa Giêsu có loạt Bài giảng trên núi mà trọng tâm là bài Tám mối phúc thật (bát phúc). Dựa vào các nguồn tư liệu Tân Ước, vị trí núi Bát Phúc được cho là trên bờ tây bắc của biển hồ Galilee, giữa Capernaum và Gennesaret. Tuy vậy, không thể xác định chính xác vị trí thực sự mà Giêsu đã giảng về tám mối phúc, nhưng khu vực hiện tại (còn được gọi là núi Eremos) đã có niên đại xác định hơn 1600 năm. Gần đây có một nhà thờ Byzantine được xây dựng vào thế kỷ thứ 4, và đã được sử dụng cho đến thế kỷ thứ 7 mà phế tích còn lại chỉ là một bể nước và một tu viện, Giáo hội Công giáo Rôma thì còn một nhà nguyện Dòng Phanxicô được xây dựng vào năm 1938.
2
4
156
1325688
822668
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325688
Xa lộ Liên tiểu bang 76 (đông)
Xa lộ Liên tiểu bang 76 (tiếng Anh: "Interstate 76" hay viết tắt là I-76) là một xa lộ liên tiểu bang tại Hoa Kỳ với tổng chiều dài là 435 dặm (700 km) từ nút giao thông khác mức với Xa lộ Liên tiểu bang 71 ở phía tây thành phố Akron, Ohio, đi về phía đông đến Xa lộ Liên tiểu bang 295 gần thành phố Camden, New Jersey. Ngay phí tây Youngstown, I-76 nhập vào Xa lộ thu phí Ohio và đi quanh rìa phía nam của Youngstown. Tại Pennsylvania, I-76 gần như chạy băng qua phần lớn tiểu bang trên Xa lộ thu phí Pennsylvania, đi qua gần thành phố Pittsburgh và thành phố Harrisburg trước khi rời xa lộ thu phí đi vào thành phố Philadelphia trên Xa lộ cao tốc Schuylkill, vượt qua Cầu Walt Whitman đi vào tiểu bang New Jersey. Sau khi Xa lộ Liên tiểu bang 76 đến điểm đầu phía đông, xa lộ được tiếp nối bởi Xa lộ 42 và Xa lộ cao tốc Atlantic City đến Atlantic City. Mô tả xa lộ. Ohio. I-76 bắt đầu tại đường dẫn từ I-71 đi hướng bắc; nó nhập với Quốc lộ Hoa Kỳ 224 tại dặm 0,61. Sau khi đi qua Quận Medina nông thôn, I-76 vào Quận Summit và chẳng bao lâu sau đó băng ngang Xa lộ Tiểu bang 21 (cựu Quốc lộ Hoa Kỳ 21), trước đây là xa lộ bắc-nam chính đi qua khu vực này cho đến bị thay thế bởi Xa lộ Liên tiểu bang 77. Sau đó, I-76 đi qua Barberton và vào Akron; đoạn đường này từng được xây như là Quốc lộ Hoa Kỳ 224. Ngay sau khi vào Akron, I-76 ra khỏi xa lộ cao tốc chính lúc đó vẫn tiếp tục như Xa lộ Liên tiểu bang 277. I-76 đi vào Xa lộ cao tốc Kenmore ngắn. Quốc lộ Hoa Kỳ 224 cũng rời I-76 tại đó và tiếp tục đi về hướng đông như con lộ bình thường sau khi I-277 kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 77. Chẳng bao lâu sau khi hướng lên phía bắc từ nút giao thông lập thể của I-277, I-76 gặp lại I-77 và lại quay về hướng đông, nhập vào I-77 chiều đi hướng nam qua phố chính thành phố Akron trên Xa lộ cao tốc West. Một nút giao thông bán lập thể tạo lối đi đến Xa lộ Tiểu bang 59 và rồi sau đó I-76 băng qua Nút giao thông lập thể Trung tâm là nơi I-77 đi về phía nam và Xa lộ Tiểu bang 8 bắt đầu đi lên hướng bắc; I-76 đổi đường từ Xa lộ cao tốc West đến Xa lộ cao tốc East. Rời khu vực Akron, I-76 lần nữa đi qua các vùng nông thôn, băng qua Quận Portage và vào Quận Mahoning. Ở phía tây Youngstown, xa lộ cao tốc băng Xa lộ thu phí Ohio. I-76 chính thức chuyển đường vào xa lộ thu phí này sau khi đi qua một cầu vượt bên trên. Điều này tương tự xảy ra đối với Xa lộ Liên tiểu bang 80 (chiều hướng đông đi đến Youngstown và chiều đi hướng tây nằm trên Xa lộ thu phí). Xa lộ thu phí Ohio mang xa lộ I-76 bắt đầu từ quanh Youngstown, Ohio cho đến ranh giới tiểu bang Pennsylvania. Pennsylvania. Từ ranh giới tiểu bang Ohio, Xa lộ thu phí Pennsylvania mang I-76 vào và qua phần lớn tiểu bang Pennsylvania, đi tránh khỏi các thành phố lớn - Youngstown ở phía nam, Pittsburgh ở phía bắc và Harrisburg ở phía nam. Có thời gian trong thập niên 1970, I-76 được đặt chạy qua thành phố Pittsburgh trên tuyến đường mà bây giờ cắm biển là Xa lộ Liên tiểu bang 376. Tại Thung lũng Forge ở phía tây bắc Philadelphia, I-76 rời Xa lộ thu phí để chạy vào Philadelphia trên Xa lộ cao tốc Schuylkill. Ngay khi rời xa lộ thu phí, I-76 đổi đường với Quốc lộ Hoa Kỳ 202 và Quốc lộ Hoa Kỳ 422, và sau đó băng ngang Xa lộ Liên tiểu bang 476 và bắt đầu chạy dọc bờ tây nam của Sông Schuylkill. Các nút giao thông lập thể cung cấp lối đến Xa lộ cao tốc Roosevelt (Quốc lộ Hoa Kỳ 1) và Xa lộ cao tốc Phố Vine (Xa lộ Liên tiểu bang 676); xa lộ cuối chạy qua phố chính thành phố Philadelphia trong khi đó I-76 đi tránh đến phía nam. Nút giao thông lập thể cuối cùng, trước Cầu Walt Whitman bắt qua Sông Delaware vào trong tiểu bang New Jersey, là với Xa lộ Liên tiểu bang 95. Một số đường dẫn có đèn giao thông vì các đường dẫn đến I-95 được tái chỉnh sửa thành nút giao thông hiện tại khi I-95 được xây dựng. Trạm thu phí cầu nằm ở phía tây chỗ hai xa lộ giao cắt nhau. New Jersey. Ngay sau khi qua Sông Delaware bằng Cầu Walt Whitman, I-76 quay về hướng nam và trở thành Xa lộ cao tốc North-South mang theo Xa lộ Liên tiểu bang 676 về hướng bắc đến phố chính thành phố Camden; xa lộ nối không biển dấu 76C chạy về hướng đông đến Quốc lộ Hoa Kỳ 130 và Xa lộ 168. Số lối ra tại New Jersey là theo chiều ngược lại từ đông sang tây. Từ nút giao thông lập thể với I-676 đến điểm cuối phía đông, ban đầu I-76 có các làn xe cao tốc và địa phương (có phân cách giữa cao tốc và địa phương) trong cả hai chiều nhưng dải phân cách chiều đi hướng đông kể từ đó bị dẹp bỏ, và hiện nay chỉ có dải phân cách cho chiều đi hướng tây mà thôi. Tuy nhiên, dải phân cách các làn xe đi chiều hướng tây cũng có thể bị dẹp bỏ trong tương lại vì có các kế hoạch tái xây dựng Nút giao thông I-295, I-76, và xa lộ 42. I-76 kết thúc tại nút giao thông lập thể với Xa lộ Liên tiểu bang 295 trên ranh giới thị trấn Mount Ephraim/Bellmawr là nơi các làn xe địa phương và cao tốc tách biệt bắt đầu theo chiều đi hướng tây. Xa lộ 42 tiếp tục hướng nam trên Xa lộ cao tốc North-South, đi vào trong Xa lộ cao tốc Atlantic City đến Atlantic City.
15
35
1,087
1325689
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325689
Josephine Baker
Josephine Baker (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1906 - mất ngày 12 tháng 4 năm 1975 tại St Louis, Missouri, Hoa Kỳ) là một vũ công, ca sĩ, và nữ diễn viên người Pháp gốc Mỹ. Cô trở thành một công dân của nước Pháp vào năm 1937. Thông thạo cả tiếng Anh và tiếng Pháp, Baker là một biểu tượng âm nhạc quốc tế.
1
3
66
1325692
916584
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325692
Lăng Chấn
Lăng Chấn, tên hiệu Oanh Thiên Lôi (tiếng Trung: 轟天雷), là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc Thủy hử. Ông là một trong 72 Địa Sát Tinh của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Xuất thân. Lăng Chấn quê ở Yên Lăng. Ông là một chuyên gia trong việc chế tạo hoả pháo và thuốc súng nên có tên hiệu nghĩa là "Tiếng sét vang trời". Lăng Chấn cũng giỏi võ nghệ và cung nỏ. Ông giữ chức phó sứ kho giáp trượng cho triều đình. Gia nhập Lương Sơn Bạc. Tống Huy Tông cử Hô Diên Chước lãnh đạo quân triều đình, với Hàn Thao và Bành Dĩ làm phó tướng đến đánh dẹp thảo khấu ở Lương Sơn Bạc. Ban đầu, Hô Diên Chước giành thắng lợi khi sử dụng ngựa liên hoàn. Tuy nhiên, Bành Dĩ bị bắt và đầu hàng quân Lương Sơn. Hô Diên Chước biết tài của Lăng Chấn, lại thấy Lương Sơn Bạc bốn mặt toàn nước, khó đánh theo đường bộ nên xin triều đình cử Lăng Chấn ra trận, dùng hoả pháo để tấn công. Lăng Chấn mang theo pháo, thuốc súng đến và dựng các giá súng ở bờ nước để bắn vào Lương Sơn Bạc. Ngô Dụng đưa ra kế hoạch đối phó Lăng Chấn. Ông lệnh cho thủy quân Lương Sơn lên bờ, phá hoại các giá pháo, dụ Lăng Chấn xuống sông cướp thuyền. Lăng Chấn mắc mưu, khi cướp thuyền thì thuyền bị đục thủng, lật úp và cuối cùng ông bị bắt. Tống Giang đối xử với Lăng Chấn một cách tôn trọng và thuyết phục ông thành công gia nhập Lương Sơn Bạc với tôn chỉ "thế thiên hành đạo". Sau khi chiêu an. Khi phân định ngôi thứ ở Lương Sơn Bạc, Lăng Chấn trở thành đầu lĩnh chuyên chế tạo hoả pháo. Sau khi nhận chiêu an, ông cùng các đầu lĩnh tham gia các chiến dịch đánh dẹp quân Liêu và các lực lượng khác chống đối triều đình nhà Tống. Trong chiến dịch đánh Phương Lạp, hoả pháo của Lăng Chấn bắn vào thành trì đối phương và gây ra sự hỗn loạn. Các anh hùng Lương Sơn tận dụng ưu thế đó để tấn công và chiếm thành trì. Lăng Chấn là một trong những đầu lĩnh sống sót trở về. Ông được triều đình phong cho chức quan ở Hoả dược cục, chuyên chế tạo hoả pháo, vũ khí nổ. Trong Đãng Khấu chí. Tại hồi 56, Lương Sơn bị quân của Từ Hổ Lâm bao vây hơn 1 năm trời, Ngô Dụng muốn giải vây nên lệnh Lăng Chấn, Thạch Dũng và Trương Khôi trà trộn vào Vận Thành chôn địa lôi và phối hợp với quân Gia Tường đánh phá Vận Thành. Địa lôi đã chôn xong, chỉ chờ quân Gia Tường đến. Nào ngờ đâu kế hoạch bị lộ, Thạch Dũng bị bắt, Lăng Chấn trốn xuống địa đạo, rồi châm lửa. Địa lôi phát nổ, tường thành đổ mấy trượng, gạch đá tung tận trời xanh, trong thành hoảng loạn, chỉ tiếc là quân Gia Tường chưa đến. Lăng Chấn đã quên mình trong địa đạo.
11
30
538
1325694
715442
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325694
We Own the Night Tour
We Own the Night Tour là tour diễn thứ ba của ban nhạc Mỹ Selena Gomez & the Scene nhằm quảng bá cho album thứ 3 "When the Sun Goes Down".. Background. Ngày 23 tháng ba 2011, Hollywood Records ã thông báo thông qua báo chí rằng Selena Gomez & The Scene sẽ được lưu diễn tại Mỹ trong mùa hè năm 2011.. Show diễn đầu tiên được diễn ra tại Orange County Fair ở Costa Mesa, Calif, và vé sẽ được bán vào ngày 2 tháng 5 năm 2011.. "Tôi rất hào hứng để gặp những người hâm mộ tuyệt vời trong tour diễn lần này," Selena Gomez nói.. We Own the Night Tour là tên của tour diễn do chính Selena xác nhận.. "Chúng tôi đang làm việc với một số nhà sản xuất lớn và đang thiết lập cả một danh sách đầy sự bất ngờ, tôi muốn chắc chắn rằng tất cả mọi người sẽ có một thời gian vui vẻ." Một sự bất ngờ trong tour diễn là Selena sẽ hát lại những ca khúc từng là Hit của Britney Spears. Selena tiếp tục tiết lộ rằng Dream Within a Dream Tour là show diễn đầu tiên mà cô tham dự.. Gần 30 tour diễn đã được lên kế hoạch ngay sau đó. When asked about the tour, Gomez stated "Tôi rất hào hứng vì đây là tour diễn lớn nhất của ban nhạc từ trước tới giờ, tôi lo lắng nhiều hơn bất cứ điều gì bởi vì tôi cảm thấy như đó là một chút kỳ vọng của người hâm mộ[...].Chúng tôi đang làm việc với một số nhà sản xuất lớn và đang thiết lập cả một danh sách đầy sự bất ngờ, tôi muốn chắc chắn rằng tất cả mọi người sẽ có một thời gian vui vẻ[...].Tôi nghĩ rằng trong cả tour diễn lần này, Tôi sẽ cố gắng thực hiện tốt những gì tuyệt vời nhất có thể," Selena giải thích. "Vì vậy, chúng tôi đã có nhà sản xuất, thực hiện một vài video,hiệu ứng, các nhóm nhảy, và rất nhiều ánh sáng lung linh... Tôi cố gắng làm nó để xứng đáng với lời khen ngợi" Danh sách các ca khúc trình diễn. Source:
6
7
377
1325698
739642
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325698
Lilia Gildeeva
Lilia Faridovna Gildeeva (, sinh ngày 14 tháng 6 năm 1976) là phóng viên truyền hình người Nga làm việc cho kênh NTV với chương trình tin tức Segodnya từ năm 2006. Cô nổi tiếng với nhiều câu chuyện đùa với đối tác và đồng nghiệp Alexey Pivovarov. Cô sinh ra ở Zainsk, Cộng hòa Tatarstan, theo học tại trường Đại học Bang Kazan và bắt đầu sự nghiệp phóng viên truyền hình ở Naberezhnye Chelny. Lilia có hai con (1 trai, 1 gái) cùng chồng.
2
4
86
1325700
937372
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325700
Hoàng Khương
Hoàng Khương tên thật là Nguyễn Văn Khương (sinh 1975-) tại Khánh Hòa là một nhà báo Việt Nam. Ông được biết đến vì có những bài phóng sự chuyên đề trên báo Tuổi Trẻ. Ông hiện nay bị tuyên án 4 năm tù giam về tội đưa hối lộ, nhưng ông cho rằng mình mắc "sai sót trong tác nghiệp" và sẽ kháng cáo. Tiểu sử. Hoàng Khương sinh năm 1975 tại Khánh Hòa. Ông tốt nghiệp Đại học Đà Lạt. Hoàng Khương từng là phóng viên các báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ. Bị bắt giam vì tội danh đưa hối lộ. Trong thời gian công tác tại báo Tuổi Trẻ, Hoàng Khương là tác giả của bài điều tra về hành vi nhận hối lộ để giải cứu đua xe trái phép của cảnh sát giao thông. Bị cho là có hành vi đưa hối lộ nên ông bị đề nghị tước thẻ nhà báo và điều tra về tội danh này. Ngày 02 tháng 1 năm 2012, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt các quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với Hoàng Khương. Đến ngày 23 tháng 5 đã đề nghị truy tố ông về hành vi đưa hối lộ. Trong 2 ngày 6 và 7 tháng 9 năm 2012 Hoàng Khương bị đưa ra xét xử tại tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tại phiên tòa sơ thẩm ông bị tuyên án 4 năm về tội đưa hối hộ, nhưng ông cho rằng mình chỉ mắc sai sót trong nghề nghiệp. Không đồng ý với bản án này, Hoàng Khương sẽ kháng cáo. Phản ứng. Báo Tuổi Trẻ, cơ quan Hoàng Khương công tác khi viết bài điều tra đã lên tiếng xác nhận rằng "loạt bài viết về mãi lộ và giải cứu xe đua là theo chủ trương của ban biên tập báo Tuổi Trẻ", trong khi đó báo Công An Nhân dân viết "Hoàng Khương, cùng các đối tượng liên quan đã bàn tính kỹ càng từ trước những nội dung nhằm mục đích có lợi cho bản thân và em vợ mình".Tổ chức Phóng viên Không biên giới trong thông cáo của mình nói "Ông Khương không nên bị khởi tố tội đưa hối lộ vì những gì ông làm trong khi đang điều tra bí mật.. Ngay sau phiên tòa đầu tiên, báo Tuổi Trẻ một lần nữa khẳng định tất cả hành động của Hoàng Khương là hoạt động tác nghiệp báo chí và sẽ thay mặt anh chăm sóc gia đình. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (Reporters Without Borders - RSF) đòi trả tự do cho Hoàng Khương, gọi bản án tù bốn năm cho phóng viên Hoàng Khương là "bất công và đáng hổ thẹn".
8
17
483
1325701
3200
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325701
Idemitsu Kosan
là công ty xăng dầu Nhật Bản. Công ty chuyên tinh chế xăng dầu và kinh doanh các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ. Người sáng lập ra công ty là ông Sazō Idemitsu (1885-1981). Idemitsu là công ty lớn thứ hai trong ngành lọc dầu tại Nhật Bản (chỉ sau Nippon Oil) . Năm 2011, công ty đứng thứ 233 thế giới về doanh thu, theo danh sách Fortune Global 500 và thứ 29 trong ngành lọc dầu (số liệu 2009) . Có thể nhận biết sản phẩm của Idemitsu qua 2 logo: logo "thần Apolo" trên các sản phẩm xăng dầu dùng cho ô tô, chất đốt hoặc logo "thần Daphne" trên các sản phẩm xăng dầu dùng trong công nghiệp, tàu thuyền. Kể từ ngày thành lập, khẩu ngữ "tôn trọng con người" được sử dụng làm phương châm cho mọi hoạt động của công ty. Idemitsu hướng tới trở thành một công ty được cả cộng đồng xã hội rộng lớn kỳ vọng và tin tưởng . Lịch sử. Sazō Idemitsu sáng lập ra vào năm 1911, bán dầu nhờn cho Nippon Oil ở Moji, phía bắc Kyushu. Sau đó, công ty mở rộng bán dầu nhiên liệu cho thuyền cá ở Shimonoseki. Sau thành công ở Nhật Bản, Idemitsu đã mở rộng kinh doanh sang Mãn Châu (Trung Quốc) năm 1914. Tại đây, công ty vận tải đường sắt Nam Mãn Châu là một khách hàng quan trọng trong kinh doanh dầu nhờn của Idemitsu. Idemitsu đã mở chi nhánh tại Đại Liên, Đông Bắc Trung Quốc để thâm nhập vào thị trường Trung Quốc mà vốn dĩ đã bị chiếm hữu bởi các công ty dầu khí phương Tây như Standard Oil, Asiatic Petroleum Company (Công ty con của Shell). Idemitsu đã mở rộng kinh doanh tới cả Bắc Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Sau khi Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu vào năm 1932, chính phủ đã kiểm soát việc kinh doanh xăng dầu và buộc Idemitsu phải thu nhỏ quy mô lại. Lúc này, Idemitsu đã chuyển sang vận chuyển dầu mỏ. Năm 1940, trụ sở chính của công ty được rời tới Tokyo và tên công ty được đổi thành Idemitsu Kosan K.K. (Kabushiki Kaisha, stock company) như hiện nay. Sau chiến tranh, Idemitsu Kosan bị mất các mối quan hệ kinh doanh quốc tế bởi các thế lực chiếm đóng Nhật Bản. Idemitsu là một trong 10 công ty cung cấp xăng dầu được bộ công nghiệp và thương mại quốc tế (MITI) bầu chọn. Idemitsu đã cắt ràng buộc với Nippon Oil và bắt đầu nhập khẩu Naphtha (một sản phẩm trung gian của xăng dầu), lúc đầu là từ Mỹ, sau đó nhập từ Venezuela và Iran. Bộ luật bảo hộ công nghiệp xăng dầu đã giúp cho Idemitsu cạnh tranh lại với các công ty nước ngoài và đồng thời đã nâng cao tầm quan trọng trong sự cần thiết phải sở hữu nhà máy lọc dầu riêng của công ty. Tokuyama là nhà máy lọc dầu đầu tiên của Idemitsu được khởi động vào năm 1957. Tiếp theo đó là nhà máy lọc dầu Chiba vào năm 1963, nhà máy lọc dầu Hyogo năm 1970, nhà máy lọc dầu Hokkaido năm 1973 và nhà máy lọc dầu Aichi năm 1975 đã được xây dựng. Năm 1953, Idemitsu sử dụng tàu cỡ lớn Nisshomaru của công ty để nhập dầu từ Iran. Idemitsu đã nỗ lực mua dầu với giá thấp hơn 30% so với giá thị trường. Điều này đã khiến Idemitsu gặp xung đột với chính phủ Nhật Bản và MITI. Sau sự kiện đảo chính tại Iran năm 1953, Idemitsu chuyển sang nhập dầu thô từ Liên Xô vào những năm 1960. Idemitsu đã nhập được dầu với giá thấp hơn 40% so với thị trường. Tuy nhiên, Mỹ đã quyết định tẩy chay Idemitsu khi công ty này cung cấp nhiên liệu máy bay phản lực cho quân đội Nhật Bản. Idemitsu gọi sự tẩy chay này là "món quà Giáng Sinh kỳ quặc" nhưng "hoàn toàn vô nghĩa". Năm 1978, Idemitsu hủy hợp đồng với Liên Xô. Idemitsu cũng đã có xung đột với hiệp hội dầu mỏ Nhật Bản và thậm chí đã rời khỏi hiệp hội này.(Hiệp hội dầu mỏ Nhật Bản được thiết lập bởi MITI nhằm quản lý, kiểm soát sản xuất). Cuộc đình công của nghiệp đoàn thủy thủ năm 1965 đã dẫn tới tình trạng thiếu dầu mỏ. Idemitsu đã lờ đi các định mức và sản xuất với công suất tối đa. Năm 1966, khi những giới hạn về giá cả và định mức sản xuất được gỡ bỏ, Idemitsu đã tham gia trở lại vào PAJ. Người em trai – ông Keisuke Idemitsu lên nắm quyền chủ tịch công ty còn ông Sazō trở thành chủ tịch hội đồng quản trị và tiếp tục nắm thực quyền. Idemitsu tiếp tục chiến lược liên kết dọc để điều hành cả hệ thống đại lý cung cấp. Năm 1976, Idemitsu bắt đầu khoan dầu và khí đốt ở ngoài khơi Aga Field, Niigata (biển Nhật Bản). Sản xuất thương mại được bắt đầu vào năm 1984. Idemitsu đã có được cổ phần trong những mỏ dầu nước ngoài và vào năm 1987, công ty đã bắt đầu khai thác mỏ dầu thuộc Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ cùng với công ty Neste Oy, Phần Lan. Idemitsu tham gia vào các dự án khoan dầu trên khắp thế giới và đã có cổ phần ở mỏ dầu Snorre, Nauy và ở Australia. Idemitsu còn đầu tư vào ngành than đá. Công ty nhập khẩu than từ Australia và có sở hữu các mỏ ở Muswellbrook, New South Wales và Ebenezer, Queensland. Idemitsu trở thành công ty khai mỏ than lớn nhất Nhật Bản và đã phát triển hệ thống ca-tri-đơ than (CCS) phục vụ cho các khách hàng nhỏ lẻ. Bên cạnh đó, Idemitsu còn tiến hành nghiên cứu phát điện từ địa nhiệt và khai thác mỏ Uran ở Canada cùng với Cameco và Cogema. Sự kiện giá dầu giảm mạnh năm 1985 đã làm cho lợi nhuận của Idemitsu trong các dự án sử dụng năng lượng phi dầu mỏ giảm. Những tranh luận về giới hạn trong nhập khẩu dầu mỏ một lần nữa lại nổi lên. Năm 1962, Idemitsu tán thành việc mở cửa, đối mặt với sự cạnh tranh của các công ty nước ngoài tuy nhiên hầu hết các công ty khác trong công nghiệp dầu khí Nhật Bản đều phản đối. Chính phủ Nhật Bản đã tiến tới thỏa hiệp sẽ từ từ mở cửa cho nhập khẩu tự do và gỡ bỏ các hạn ngạch sản xuất trong ngành lọc dầu. Trong những năm 1990, Idemitsu bắt đầu mở các trạm dịch vụ bên ngoài Nhật Bản, tại Bồ Đào Nha và Puerto Rico, sau đó là nhà máy dầu nhờn ở Mỹ. Sự bãi bỏ của luật xăng dầu đặc biệt cùng với sự hợp pháp hóa dịch vụ tự bơm phục vụ ở các trạm xăng đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong công nghiệp xăng dầu. Cho tới những năm 1990, nhu cầu về xăng dầu ở Nhật giảm do cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài. Công nghiệp xăng dầu quá lớn nên nhiều công ty đã tiến hành hợp nhất với nhau. Tại thời điểm chuyển giao thế kỷ này, Idemitsu Kosan là công ty lọc dầu lớn duy nhất không hợp thể với công ty nào cả. Công ty vẫn hoàn toàn được nắm giữ bởi gia đình Idemitsu và các thành viên của công ty. Năm 2006, Idemitsu Kosan trở thành công ty đại chúng tại sở giao dịch chứng khoán Tokyo sau khi phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO) lên tới 109.4 tỷ yên. Các công ty dầu khí hóa lỏng (LPG) thuộc Idemitsu Kosan và Mitsubishi đã hợp nhất với nhau vào 1/4/2006 và trở thành công ty cổ phần Astomos Energy. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Idemitsu trở thành công ty nhập khẩu, tinh chế dầu nội địa lớn của Nhật Bản. Cho tới đầu năm 2000, Idemitsu cùng với Suntory, Lotte, Yanma... đều được biết đến là những công ty lớn chưa lên sàn. Nhưng vào 14/10/2006, với mục tiêu trở thành công ty mở cửa thời đại, Idemitsu đã chính thức lên sàn tại sở giao dịch chứng khoán Tokyo. Từ thời điểm thành lập cho tới khi lên sàn, Idemitsu đi theo nguyên tắc kinh doanh truyền thống Nhật Bản - Chủ nghĩa đại gia đình. Hoàn toàn không có bảng theo dõi thời gian làm việc và chế độ nghỉ hưu (vài năm gần đây đã sửa đổi). Thêm vào đó, cho tới lúc lên sàn, công ty đã trải qua một thời gian dài với số vốn tư bản vô cùng khiêm tốn - 100 triệu yên. Các công ty chính có liên hệ trực tiếp với Idemitsu bao gồm công ty cổ phần Astomos Energy, công ty cổ phần Idemitsu Tanker, công ty cổ phần khai thác xăng dầu và khí đốt Idemitsu, công ty cổ phần Idemitsu Engineering, Apolo Service, Idemitsu Credit Card.. Năm 2023, Idemitsu Kosan hợp tác với Toyota trong việc sản xuất Pin thể rắn. Hoạt động và sản phẩm. Vận chuyển và lọc dầu. Công ty con xăng dầu và khí đốt Idemitsu sản xuất khoảng 30.000 thùng (4,800 m3)dầu thô 1 ngày. Hầu hết nguồn dầu này được lấy từ mỏ dầu Nauy ở biển Bắc. Tại biển Nhật Bản, Idemitsu sở hữu trạm khoan ở Niigata, gần Aga và Iwafune, tuy nhiên sản lượng thấp.. Ngoài ra Idemitsu còn tham gia các dự án khảo sát tại Việt Nam, Thái Lan, Campuchia. Riêng tại Việt Nam, Idemitsu hợp tác cùng khai thác với Zarubezhneft của Nga và Công ty dầu khí Việt Nam. Idemitsu sở hữu 12 tàu chở dầu phục vụ cho vận chuyển quốc tế. Xăng dầu. Idemitsu sở hữu 4,100 trạm dịch vụ. Sản phẩm hóa dầu. Idemitsu Kosan có 2 cơ sở sản xuất các sản phẩm hóa dầu ở Chiba và Tokuyama. 2 cơ sở này cung cấp rất đa dạng các sản phẩm hóa cơ bản cho ngành công nghiệp hóa chất trong nước cũng như nước ngoài. Tại châu Âu, hoạt động kinh doanh của Idemitsu được thông qua Idemitsu Chemicals Europe PLC. Những sản phẩm hóa cơ bản bao gồm các olefin như ethylene, propylene, các hợp chất vòng thơm như benzene, para-xylene và styrene. Idemitsu còn là nhà cũng cấp các sản phẩm chất dẻo như đĩa CD nén, bảng mạch điện. Ngoài ra, Idemitsu còn sản xuất dầu nhờn (một trong những lĩnh vực chính của công ty)., vật liệu huỳnh quang cho màn hình OLED và tại nhà máy Chiba, Idemitsu còn liên kết với BASF của Đức để sản xuất 1,4-Butanediol cho thị trường Nhật Bản. Idemitsu cũng sản xuất một số được liệu. Các cơ sở chính. Các đại lý, chi nhánh. Trụ sở chính: Tòa nhà kịch trường đế quốc, 3-1-1 Marunouchi, Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản. Chi nhánh: Hokkaido, Tohoku, Đại lý số 1 Kanto, Đại lý số 2 Kanto, Tokai Hokuriku, Kansai, Chukoku Shikoku, Kyushu, Okinawa. Các khu tinh chế dầu. Khu tinh chế dầu Hyogo và Okinawa đã ngừng hoạt động kể từ năm 2003 sau khi Nippon Oil thỏa thuận sẽ cung cấp cho Idemitsu Kosan 40.000 thùng/ ngày (6,400m3/ngày) Ước tính tới năm 2020, nhu cầu về xăng dầu trong nội địa nước Nhật sẽ giảm khoảng 30% so với hiện nay (2012), Idemitsu đã quyết định sẽ ngừng hoạt động khu tinh chế dầu Tokuyama vào 3/2014. Idemitsu Kosan đóng góp 13% sản lượng trong tổng sản lượng của tổng cộng 30 khu tinh chế dầu đang hoạt động ở Nhật Bản (tổng công suất là 4.83 triệu thùng/ ngày = 768.000 m3/ngày). Bên cạnh đó công ty còn chiếm từ 14% tới 34% thị phần của các sản phẩm khác. Các nhà máy sản xuất. Nhà máy Chiba - Bờ biển Anesagi, Ichihara, Chiba. Nhà máy Tokuyama - Shingu, Shunan, Yamaguchi. Khu nghiên cứu. Khu nghiên cứu kỹ thuật tiên tiến - Kamiizumi, Sodegaurashi, Chiba. Khu nghiên cứu kinh doanh - Bờ biển Anesagi, Ichihara, Chiba. Các công ty liên kết. Tính tới thời điểm 1/7/2009 tập đoàn Idemitsu bao gồm 78 công ty con và 33 công ty liên kết. Nước ngoài. Tại Việt Nam. Vào năm 2008, Idemitsu Kosan đã hợp tác cùng với tập đoàn Dầu khí quốc tế Cô-oét, tập đoàn Dầu khí Việt Nam và công ty Hóa chất Mitsui lên kế hoạch xây dựng khu lọc dầu Nghi Sơn. Dự án đã được dự tính khởi công vào năm 2010 và sẽ hoàn thành vào năm 2014 với công suất dự kiến là 200.000 thùng/ ngày (32.000 m3/ngày). Bên cạnh đó, Idemitsu đã mở cơ quan hành chính tại Hà Nội và đang mang tham vọng mở rộng kinh doanh tới Việt Nam và các nước xung quanh trong khu vực. Hiện nay, Idemitsu Kosan đang thực hiện dự án lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) lớn nhất Việt Nam. Liên doanh thực hiện dự án này gồm: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietNam) 25,1%; Tập đoàn Dầu khí quốc tế Cô-oét (KPI) thông qua công ty đầu tư của mình là KPE góp 35,1%; Công ty Idemitsu Kosan (IKC) 35,1% và Công ty Hóa chất Mitsui (MCI) 4,7%. Với tổng mức đầu tư khoảng 6 tỉ USD, tỉ lệ vốn vay, vốn góp dự kiến là 70% - 30% (vốn góp ban đầu là 200 triệu USD để triển khai ngay dự án). Theo tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, dự án này nhằm thực hiện chiến lược phát triển lĩnh vực khâu sau dầu khí (cả lọc dầu và hóa dầu) của Tập đoàn cũng như quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia (nhất là sản phẩm xăng dầu).
55
109
2,356
1325725
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325725
Trận Soor (1745)
Trận Soor diễn ra vào ngày 30 tháng 9 năm 1745 gần làng Soor (Böhmen) trên biên giới Áo-Phổ trong chiến tranh Schlesien lần thứ hai và chiến tranh Kế vị Áo. Tại đây thống chế Áo Karl Alexander lập kế hoạch đem 4 vạn quân Áo-Sachsen đột kích vào hơn 2 vạn quân Phổ do vua Friedrich II chỉ huy, trong lúc người Phổ đang triệt thoái về Schlesien sau một cuộc tấn công bất thành vào lãnh thổ Áo. Tuy nhiên, liên quân Áo-Sachsen triển khai tấn công khá chậm, tạo điều kiện cho quân Phổ chủ động phản kích và đánh bật hoàn toàn liên quân khỏi trận địa. Đây là thất bại lớn thứ hai của quân đội Áo trong chiến tranh Schlesien lần hai. Bối cảnh. Năm 1740, vua Phổ Friedrich II khởi 2,7 vạn binh đánh Schlesien, một vùng đất giàu có của Đại Công quốc Áo. Năm 1741, đại quân Áo từ Mähren đến đánh, bị Friedrich phá tan trong trận Mollwitz. Năm 1742, Friedrich lại thắng trận Chotusitz, Áo đành ký hòa ước Breslau trao Schlesien cho Phổ. Đến nam 1744, đại công nương Áo Maria Theresia liên minh với Sachsen hòng chiếm lại Schlesien, mở ra chiến tranh Schlesien lần thứ hai. Tháng 6 năm 1745, liên quân Áo-Sachsen do thống chế Karl Alexander chỉ huy đánh Schlesien nhưng bị Friedrich II giáng cho thảm bại trong trận Hohenfriedberg. Tuy nhiên, sau chiến thắng Hohenfriedberg, Friedrich không truy kích và nhờ vậy liên quân đã rút lui an toàn về vùng Böhmen (Áo). Tại đây lực lượng liên minh đã dần dần chấn chỉnh đội ngũ và xây dựng phòng tuyến từ sau lưng sông Adler tới thị trấn Königgrätz. Giữa tháng 7 năm 1745, sau vài tuần án binh bất động, Friedrich kéo quân đánh vùng đông bắc Böhmen nhằm phá hủy các căn cứ tiếp vận và đạn dược của liên quân, khiến Karl không thể tấn công Schlesien một lần nữa. Quân Phổ ban đầu tiến sâu tới thượng lưu sông Elbe mà không gặp sự chống cự nào. Ngày 20 tháng 7, quân đội Phổ vượt sang bờ tây sông Elbe và từ đây, họ có thể nhìn thấy trận địa phòng thủ của Áo. Tuy nhiên, quân hai bên đều chủ trương tránh giao chiến lớn. Mặt khác, Karl cho các đơn vị khinh kỵ tích cực đánh phá các tuyến liên lạc của địch và ngăn chặn quân khinh kỵ Phổ cướp lương thảo của Áo. Thấy cục diện không ổn, quân Phổ lùi về bờ đông sông Elbe và bắt đầu rút lui tới Schlesien vào ngày 18 tháng 9. Khi đến gần biên giới Schlesien, Friedrich cho quân nghỉ chân vài ngày gần thị trấn Burkersdorf ven bìa rừng Königreich; ông ta phòng bị doanh trại một cách lỏng lẻo vì nghĩ rằng địch chỉ cho khinh kỵ binh quấy nhiễu. Trên thực tế, người Áo vừa cử quân khinh kỵ đánh tiêu hao kỵ binh Phổ, vừa tiến hành thăm dò khả năng tấn công đánh bại quân chủ lực địch. Ngày 24 tháng 9, Karl quan sát thấy Friedrich quên chiếm lĩnh Graner-Koppe – một ngọn đồi lớn nằm trên hướng tây bắc doanh trại Phổ và khống chế vùng đồng trống phía bắc và phía nam. Tuyến đường mà Friedrich đã chọn làm đường rút quân về Schlesien cũng không nằm ngoài phạm vi khống chế của đồi này. Do vậy, Karl quyết định tiến quân vòng qua sườn địch dưới sự che chở của rừng Königreich, sau đó chiếm cứ đồi Graner-Koppe rồi đột kích vào sườn phải và tiêu diệt quân Phổ. Ngày 29 tháng 9, Karl dẫn 4 vạn quân Áo-Sachsen di chuyển qua vùng rừng Königreich. Cuộc hành quân diễn ra thuận lợi và đến đêm hôm đấy, liên quân Áo-Sachsen đã tiếp cận đồi Graner-Koppe. Karl dàn trải quân trung tâm và cánh phải liên minh trên hướng nam Graner-Koppe, đồng thời tập trung một lực lượng tinh nhuệ của cánh trái gồm 10 tiểu đoàn hỏa mai, 15 tiểu đoàn xung kích, 30 khối thiết kỵ và long kỵ binh, 15 đại đội cacbin và bộ binh cưỡi ngựa, cùng 16 đại pháo trên đỉnh đồi. Karl cũng bố trí 45 khối kỵ binh cánh trái chốt giữ canh giữ hướng bắc đồi Graner-Koppe. Trong khi đó, do tự tin rằng liên quân sẽ không tấn công, Friedrich đã cho một số đơn vị rút trước vào Trautenau vào sáng ngày 30 tháng 9; quyết định này cùng với tổn thất do thương vong, bệnh tật và đào ngũ trong tháng 7 – 9 đã làm quân chủ lực Phổ chỉ còn 22 nghìn người. Quân Phổ cũng gặp khó khăn do không quen thuộc với địa hình nơi đóng quân. Tuy nhiên, sương mù dày đặc cùng với các sai sót trong việc triển khai lực lượng đã ngăn cản quân liên minh tấn công vào rạng đông ngày 30 tháng 9. Trận đánh. 5h sáng ngày 30 tháng 9, khi Friedrich II đang bàn bạc với các tướng về việc rút quân, ông ta được cấp báo rằng kỵ binh Áo đã xuất hiện trên cánh phải quân Phổ. Trong lúc Friedrich chạy đi kiểm chứng, toàn bộ lực lượng Phổ đã tự giác triển khai đội hình hành quân. Sau khi nhanh chóng nắm bắt thế trận, Friedrich truyền lệnh cho quân đội tiến sang phải theo hướng đông nam làng Burkersdorf, sau đó lần về phía bắc cho đến khi áp sát chân đồi Graner-Koppe, rồi lập đội hình chiến đấu đối diện với liên quân. Friedrich dự định tập trung xung lực vào cánh phải và tung cánh này công kích đồi Graner-Koppe, trong khi quân trung tâm và cánh trái được dự trữ ở hậu tuyến. Lúc 8h sáng, khi cuộc điều quân của người Phổ đã gần hoàn tất, sương mù tan và pháo binh Áo tổ chức bắn phá đội hình kỵ binh cánh phải của địch. Quân kỵ binh Phổ chịu thiệt hại khá nặng, nhưng vẫn duy trì hàng ngũ. Ngay lập tức, Friedrich phát lệnh cho 26 khối kỵ binh đi vòng sang sườn bắc đồi Graner-Koppe để "dọn dẹp" kỵ binh Áo-Sachsen và khai lối cho bộ binh Phổ xung phong chiếm Graner-Koppe. Kỵ binh Phổ lập đội hình tấn công gồm trung đoàn Quân cảnh, trung đoàn thiết kỵ Buddenbrock ở tuyến đầu cùng 3 trung đoàn khác và 1 đại đội Cận vệ ở tuyến sau. Cuộc hành quân sang sườn đồi Graner-Koppe đã đưa kỵ binh Phổ thoát khỏi tầm bắn của đại bác Áo, nhưng có một rủi ro mà Friedrich không tiên liệu trước, đó là việc tiếp cận Graner-Koppe từ hướng bắc đòi hỏi kỵ binh Phổ phải đi qua một thung lũng vừa chật hẹp, vừa lởm chởm gần chân đồi. May mắn cho Friedrich, tinh thần kỷ luật mạnh mẽ của quân thiết kỵ Phổ đã giúp họ giữ được hàng ngũ và từng bước leo lên dốc. Giao chiến đã bùng phát khi kỵ binh Phổ bắt gặp 45 khối kỵ binh cánh trái liên minh. Hai bên lúc đầu đánh nhau không phân thắng bại, nhưng kỵ binh Phổ đã dần dần chiếm ưu thế và đánh bật lực lượng kỵ binh có quân số đông hơn của liên quân vào rừng Königreich. Để ngăn cản đà tháo chạy của kỵ binh, tướng Áo Lobkowitz rút súng ngắn bắn chết 3 binh sĩ, nhưng không lâu sau đó Lobkowitz bị một nhóm lính đẩy xuống một cái mương. Chiến thắng của kỵ binh Phổ đã dọn đường cho bộ binh đánh thốc vào Graner-Koppe. Friedrich huy động tuyến thứ nhất của lực lượng bộ binh cánh phải Phổ – gồm 3 tiểu đoàn xung kích và 3 tiểu đoàn của trung đoàn Anhalt – xung kích lên đỉnh đồi. Thực hiện học thuyết chiến thuật của mình, bộ binh Phổ không khai hỏa, vác thạch cơ điểu thương trong khi di chuyển qua vùng hỏa lực của pháo binh và bộ binh liên quân Quân Phổ chịu thương vong rất lớn: vương công Albrecht – anh vợ Friedrich II – đã gục chết trước mặt đơn vị của mình, và tiểu đoàn Wedel hao tổn đến 3/4 biên chế. Khi người Phổ đến cách đỉnh đồi 150 bước, 5 đại đội xung kích Áo do đại tá Anton Beneda chỉ huy đã hô to "Maria Theresia muôn năm!" và ào lên phản kích, hất địch xuống chân đồi. Tuy nhiên, quân Phổ không hề tan rã: tàn quân từ tuyến thứ nhất được trộn vào 5 tiểu đoàn của tuyến thứ hai và chấn chỉnh đội ngũ, sau đó mở một đợt xung phong mới lên đồi Graner-Koppe. Lần này người Phổ thành công hơn, do cuộc phản kích của Beneda đã vô tình đẩy bộ binh Áo vào tầm hỏa lực của pháo binh Áo-Sachsen, khiến pháo binh liên quân không dám khai hỏa vì sợ làm chết quân bạn. Quân Phổ đã tràn lên đỉnh đồi, tịch thu các đại bác của Áo-Sachsen và đánh bại bộ binh địch sau nhiều trận giáp lá cà dữ dội. Trong khi hai bên còn đang giằng co trên đồi Graner-Koppe, quân dự bị Phổ (gồm lực lượng trung tâm và cánh trái) đứng chân trên các vị trí đối diện với quân cánh phải và trung tâm Áo-Sachsen. Không cần chờ lệnh nhà vua, các chỉ huy trung tâm và cánh trái đã chủ động xua quân đánh trực diện vào trận địa đối phương phía nam Graner-Koppe. Cuộc tấn công của quân Phổ gặp nhiều khó khăn do hỏa lực mạnh của một khẩu đội Áo trên hướng tây-tây-nam làng Burkersdorf. Trước nguy cơ bị chặn đứng, đại tá Phổ Ferdinand von Braunschweig-Wolfenbüttel đã tự mình dẫn tiểu đoàn 2 Cận vệ ôm lê xông lên đánh thủng trung tâm liên quân. Các trung đoàn thiết kỵ Bornstedt và Rochow trên cánh trái Phổ cũng triển khai tấn công và bắt sống 850 lính bộ binh liên quân. Trong khi đó, lực lượng kỵ binh cánh phải liên minh hoàn toàn làm ngơ trước những áp lực mà bộ binh gánh chịu. Đến đầu chiều, thống chế Karl cho rút toàn bộ lực lượng liên quân vào rừng Königreich. Friedrich sai kỵ binh tiến hành truy kích, nhưng do kỵ binh Phổ đã mệt lã nên không đơn vị nào chịu chấp hành mệnh lệnh. Kết cuộc. Trận Soor kết thúc với thất bại nặng nề cho liên minh Áo-Sachsen. Thiệt hại về nhân lực của liên quân lên đến 7444 người trong khi phía Phổ chỉ tốn thất 3911 quân – bao gồm 856 người thiệt mạng và 3055 bị thương. Cùng với trận Hohenfriedberg trước đó, kết quả của trận Soor cho thấy ưu thế vượt trội về kỷ luật và chất lượng chiến đấu của quân đội Phổ so với quân đội Áo-Sachsen. Trong cả hai trận đánh, kỵ binh liên minh luôn bị kỵ binh Phổ đánh bại, còn bộ binh liên minh tuy chiến đấu dũng cảm nhưng vẫn kém xa bộ binh Phổ. Trận Soor cũng là lần đầu tiên quân Phổ đánh thắng một lực lượng Áo-Sachsen có quân số đông hơn mình. Sau trận đánh, quân Phổ trụ lại thêm 5 ngày nữa trong một doanh trại phía tây bắc trận địa, để tỏ rõ vinh dự của bên chiến thắng. Ngày 6 tháng 10, họ mới thong thả lui về nước. Đến ngày 19 tháng 10 Friedrich về tới thủ đô Berlin. Sau thảm bại ở Soor, phe Áo-Sachsen vẫn quyết không nhượng bộ Phổ. Tháng 11 năm 1745, vương công Karl họp 2 vạn quân Áo-Sachsen ở Oberlausitz (Sachsen), định đánh thọc vào vùng trung tâm Brandenburg của Phổ. Friedrich quyết định đánh phủ đầu, chia quân làm 2 cánh, cánh phía đông do Friedrich trực tiếp chỉ huy từ Schlesien cuốn sang Oberlausitz, cánh phía tây do thống chế Leopold I von Anhalt-Dessau chỉ huy từ Halle đánh bắc và trung bộ Sachsen. Friedrich vào Oberlausitz, đánh với quân của Karl trong các trận Katholisch-Hennersdorf và Görlitz (23-25 tháng 11 năm 1745). Karl tổn hao 5 vạn quân, lại phải chạy về Böhmen, nhưng vẫn đủ sức chi viện 6 nghìn quân Áo cho quân chủ lực của Sachsen vốn đang bị Leopold uy hiếp. Leopold vào Sachsen, phá 2,5 vạn quân Sachsen và 6 nghìn quân Áo trong trận Kesselsdorf đẫm máu. Đến đây Maria Theresia mới chấp nhận thất bại. Giáng sinh năm 1745, phe Áo-Sachsen ký hòa ước Dresden nhường Schlesien cho Phổ; đáp lại Friedrich chịu tôn phò chồng Theresia là Franz Stefan làm hoàng đế La-Đức.
15
77
2,141
1325726
820843
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325726
Nguyễn Hữu Thiết
Nguyễn Hữu Thiết (1927-2002) là một nhạc sĩ kiêm ca sĩ của nền tân nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông cùng với vợ là ca sĩ Ngọc Cẩm tạo thành một cặp song ca một thời tỏa sáng bằng tài năng nghệ thuật và được ngưỡng mộ bởi lòng chung thủy trong tình yêu.
1
2
56
1325742
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325742
Chrysopa
Chrysopa (trong tiếng Anh gọi là "green lacewings", "cánh ren xanh lá cây") là một chi trong họ Chrysopidae thuộc Bộ Neuroptera. Trong họ Chrysopidae, chi này và chi Chrysoperla là phổ biến nhất tại của Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á. Chúng chia sẻ các đặc tính tương tự và một số loài đã được di chuyển từ chi này sang chi kia và ngược lại rất nhiều lần . Ấu trùng của chúng là động vật ăn thịt và ăn rệp và các thành viên của chi này đã được sử dụng làm tác nhân sinh học phòng trừ dịch bệnh gây hại. William Elford Leach lần đầu tiên mô tả chi này vào năm 1815 ở Edinburgh Encyclopaedia của Brewster.
3
4
124
1325749
940199
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325749
Kathryn Bernardo
Kathryn Chandria Manuel Bernardo (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1994) là một nữ diễn viên người Philippines. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình khi còn là một diễn viên nhí, đóng vai nhí của nhân vật chính trong các bộ phim như "It Might Be You" (2003), "Tình yêu bất tận" (2010) và "Magkaribal" (2010). Cô nổi tiếng sau khi đảm nhận vai chính trong phiên bản làm lại của bộ phim kinh điển "Mara Clara" (2010) cùng với Julia Montes và từ đó đã khẳng định mình là một trong những diễn viên nổi tiếng và thành công nhất của Philippines trong thế kỷ 21. Kathryn đứng đầu danh sách những nữ diễn viên có doanh thu cao nhất của ngành điện ảnh Philippines trong thập kỷ 2010, với tổng thu nhập từ phòng vé lên đến hơn 3.8 tỷ Peso. People Asia đã tôn vinh cô là "Nữ hoàng phòng vé" vì Kathryn là người duy nhất có hai bộ phim đạt doanh thu hơn 800 triệu Peso mỗi bộ. Forbes Asia đã xác nhận tầm ảnh hưởng của cô trên truyền thông xã hội tại khu vực châu Á-Thái Bình Dươngtrong khi "Metro Society" đưa tên "Kathryn" vào danh sách những người nổi tiếng nhất trên truyền thông xã hội tại Philippines. "EdukCircle" cũng đã liệt kê Kathryn vào danh sách những "Người nổi tiếng có ảnh hưởng nhất trong thập kỷ". Điều đặc biệt đáng chú ý, cô xếp thứ hai trong danh sách Top 10 người nổi tiếng kiếm nhiều tiền nhất trên Instagram của NetCredit tại Philippines, với thu nhập lên đến 208 triệu Peso mỗi năm. Đời tư. Tên đầy đủ của cô là Kathryn Chandria Manuel Bernardo, sinh ra tại thành phố Cabanatuan, Nueva Ecija nhưng hiện giờ đang sống ở khu biệt thự độc lập tại thành phố Quezon. Gia đình gồm ba, mẹ, hai chị gái và một anh trai. Ba cô hiện đang kinh doanh tại quê nhà nơi cô được sinh ra. Mẹ luôn đi cùng Kathryn như một người quản lý và hiện giờ là COO giúp cô quản lý các cửa tiệm làm móng. Chị cả là tiếp viên hàng không. Chị hai từng du học Châu Âu, là y tá và hiện giờ đang cùng mẹ giúp cô quản lý 6 tiệm làm móng của gia đình - Kathnails. Anh trai tốt nghiệp ngành nha sĩ. Riêng cô, mặc dù lịch làm việc bận rộn,cô vẫn đang theo học ngành kế toán và là CEO cho việc kinh doanh của gia đình mình. Con đường nghệ thuật. Kathryn Bernardo bắt đầu sự nghiệp diễn xuất khi chỉ mới 7 tuổi (năm 2003) với bộ phim đầu tay của cô là It Might Be You với vai "Cielo (lúc trẻ)". Sau đó cô cũng tham gia nhiều bộ phim như Vietnam rose, Growing Up, Endless love... Nhưng chỉ sau thành công vang dội của bộ phim Mara Clara (2010) - tên Việt Nam: Trò đùa của số phận (đóng cùng Julia Montes), tên tuổi của cô mới thực sự được biết tới và bắt đầu tạo vị trí trong làng giải trí Philippines. Bộ phim gây được ấn tượng với khán giả trong và ngoài nước, cô cũng nhận được sự tán dương từ giới chuyên môn trong khu vực về khả năng diễn xuất. Một năm sau, cô tiếp tục gây ấn tượng khi tham gia một series phim truyền hình lãng mạn Princess And I, cùng với sự góp mặt của "Daniel Padilla". Năm 2013, sự nghiệp diễn xuất của cô tiếp tục thăng hoa với bộ phim truyền hình Got to believe ("Hãy tin em thêm lần nữa"). Trong phim cô vào vai cô bé Chichay (Cristina Carlotta Tampipi) hồn nhiên, vui tươi, làm bảo mẫu cho Wacky (Joanquin) - một cậu chủ kì quặc... Năm 2015, bộ phim được chiếu tại Việt Nam trên kênh truyền hình TodayTV và được khán giả Việt Nam đón nhận tích cực. Đến đầu tháng 1 năm 2016, cô và bạn đồng hành Daniel Padilla đã tới Việt Nam và vinh dự nhận giải thưởng Ngôi sao Xanh cho hạng mục Nam/ Nữ diễn viên nước ngoài được yêu thích nhất. Vào khoảng cuối năm 2015 - đầu 2016, cô và bạn diễn lại tiếp tục mang đến cho khán giả quê nhà bộ phim đầy bi kịch Pangako Sa'yo ("Hẹn ước tình yêu") - là phiên bản làm lại của bộ phim cùng tên năm 2000. Bộ phim một lần nữa khẳng định tài năng của cô trong lĩnh vực diễn xuất. Cô nhận được nhiều lời khen,nhận xét tích cực từ khán giả và giới chuyên môn... Bộ phim cũng đạt rating cao trên toàn quốc đặc biệt tập cuối đạt 44,5%. Nhờ Pangako Sa'yo, cô cũng đã nhận nhiều giải thưởng uy tín cho hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc nhất, Bộ phim truyền hình được yêu thích nhất. Sau đó, cô, Daniel Padilla và bộ phim cũng đã được đề cử hạng mục Nam/Nữ diễn viên nước ngoài được yêu thích nhất và Bộ phim nước ngoài được yêu thích nhất tại giải thưởng Ngôi Sao Xanh 2017. Cô và Daniel đã vinh dự một lần nữa nhận được giải thưởng này và đã gửi video cám ơn đến với người hâm mộ Việt Nam ngay trong lễ trao giải. Không chỉ thành công trong mảng truyền hình, Kathryn Bernardo cũng khẳng định tầm ảnh hưởng của mình trong mảng điện ảnh với nhiều bộ phim đạt doanh thu cao. Tất cả phim điện ảnh của cô đều có sự tham gia ăn ý với bạn diễn Daniel Padilla. Cô tham gia trong phim điện ảnh Pagpag,24/7 In Love...Đến năm 2013,cô thủ vai chính (Pachot) trong phim Must be...Love (Hẳn là...Yêu) cùng với bạn diễn lâu năm Daniel Padilla. Bộ phim đầu tay này của cô đạt doanh thu 113 triệu Pê-sô sau 3 tuần công chiếu (gần 60 tỷ VN đồng). Đến năm 2015,cô tiếp tục mang đến cho khán giả một bộ phim hài hước, nhưng đầy ý nghĩa sâu sắc Crazy Beautiful You .Bộ phim đạt 38 triệu Pê-sô trong ngày đầu tiên công chiếu (30 tỷ VND) và tổng doanh thu đạt 322 triệu Pê-so (170 tỷ VNĐ). Ngoài ra còn có phim "She's dating the gangster, Barcelona: A love Untold, Can't help falling in love" tất cả đều đạt doanh thu trên 300 triệu Pê-so. Đặc biệt,Barcelona: A Love Untold cũng đã được công chiếu trên màn ảnh lớn Việt Nam vào tháng 12, 2016. Sau thành công của 5 bộ phim, Kathryn Bernardo và Daniel Padilla (gọi tắt là KathNiel) trở thành cặp đôi đầu tiên của Philippines kiếm được 1 tỷ Pê-sô (hơn 500 tỷ đồng) chỉ sau 5 bộ phim,và được khán giả gọi là " One Billion Loveteam". Hơn nữa, cả hai cũng trở thành cặp đôi trẻ nhất giành được danh hiệu Box Office King and Queen (Nữ hoàng và Ông hoàng phòng vé) ở giải thưởng " Box Office Entertainment Awards" lần thứ 48. KathNiel đã cho ra mắt bộ phim mới The How's Of Us nửa cuối năm 2018 và là bộ phim bom tấn của mùa thu với doanh thu hơn 800 tỷ Pê-sô. Với thành công này, cặp đôi đã lần nữa khẳng định tài năng của mình và được vinh danh The Phenomenal Box Office King and Queen. Sách. Nhân dịp sinh nhật lần thứ 20, Kathryn cho ra mắt cuốn sách đầu tay mang tên " Everyday Kath: 365 ways to be A Teen Queen ".Với cuốn sách của mình, nữ diễn viên Kathryn Bernardo không chỉ chia sẻ những mẹo thời trang, làm đẹp và làm tóc mà còn cả những bài học cuộc sống mà cô tích lũy được khi cô đã bước sang tuổi 20. Đồng thời cũng có những lời khuyên cho giới trẻ về cái cách cô thành công và trở thành Nữ hoàng của giới trẻ. Cuốn sách đã được bán ra với số lượng lớn,và là cuốn sách bán chạy nhất Philippines trong nhiều tháng liên tiếp. Ước tính thu nhập. Theo ước tính của Philnews .Kathryn nhiều năm liền thuộc top những ngôi sao trẻ có thu nhập cao nhất Philippines với ước tính thu nhập hằng năm là 500 triệu Pê-sô (hơn 250 tỷ đồng). Số tiền này từ việc cô tham gia diễn xuất, tham gia show, sự kiện, đại diện thương hiệu, người mẫu ảnh, báo... Hiện tại, cô cũng là một trong những diễn viên sở hữu nhiều hợp đồng quảng cáo nhất quê nhà, với rất nhiều nhãn hàng nổi tiếng như: Pond's,Sunsilk,Rejoice, Nescafe,KFC,Vivo,Avon,BENCH,Ajinomoto, Oishi,Vivo,Canon,Olay,Lactacyd,Smart C,Whisper,Sterling Notebooks, Unisilver,Primadone Shoes, Toppo,Pentel,Rice In A box,Ruffles Bags,Ora Care,Huawei,Juicy Cologne,San Marino,Air Optix,Buscupan Venus,YOT,PIMP Kicks,Pepsi, Ion Gatorade,Happy Skin,Fresh Gần đây cô cùng Daniel Padilla trở thành đại sứ của Tổ chức chống dọa nạt trên mạng trên toàn thế giới (cyberbullying). Kathryn cũng là đại sứ cho nhiều tổ chức từ thiện để giúp đỡ trẻ em bị tật hở hàm ếch. Liên kết xã hội Twitter,Instagram,Facebook. Kathryn thuộc top 5 người nổi tiếng có lượng người theo dõi nhiều nhất trên Twitter và Instagram với hơn 10,3 triệu trên twitter; gần 13 triệu trên Instagram và hơn 2,5 triệu lượt thích trên Facebook. Twitter:https://twitter.com/bernardokath?lang=vi Instagram:https://www.instagram.com/bernardokath/. Facebook:https://www.facebook.com/search/top?q=kathryn%20bernardo%20official Kathryn cũng là diễn viên Philippines đầu tiên sở hữu một bức ảnh đạt 500 nghìn like chỉ trong chưa đầy một tháng.
27
54
1,587
1325758
791160
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325758
Tấn Ai Đế
Tấn Ai Đế () (341 – 30 tháng 3 năm 365), tên thật là Tư Mã Phi (司馬丕), tên tự Thiên Linh (千齡), là vị Hoàng đế thứ 6 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 11 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian trị vì ngắn ngủi của ông, quyền hành phần lớn nằm trong tay Hội Kê vương Tư Mã Dục và tướng Hoàn Ôn. Theo các tài liệu lịch sử, ông việc trường sinh bất lão ám ảnh, song ông cuối cùng đã chết do bị đầu độc. Đầu đời. Tư Mã Phi sinh năm 341 dưới thời trị vì của cha là Tấn Thành Đế, và là đại hoàng tử. Mẹ là Chu quý nhân, đến năm 342, bà tiếp tục hạ sinh hoàng tử Tư Mã Dịch. Vào mùa hè năm 342, Thành Đế lâm bệnh. Hà Sung (何充) chỉ ra rằng đại hoàng tử nên là người kế vị, song thúc phụ đằng ngoại của Thành Đế là Dữu Băng (庾冰), muốn vị hoàng đế mới vẫn sẽ có mối liên hệ thân thuộc với gia tộc của mình nên đã thuyết phục Thành Đế truyền ngôi cho hoàng đệ là Lang Da vương Tư Mã Nhạc, cũng là một người con trai của Thái hậu Dữu Văn Quân, ông luận rằng do kình địch Hậu Triệu ở phương bắc đang mạnh, đế quốc cần một vị hoàng đế trưởng thành. Thành Đế chấp thuận và chỉ định Tư Mã Nhạc làm người kế vị, Thành Đế mất không lâu sau đó và Tư Mã Nhạc lên ngôi. Tư Mã Phi khi ấy mới một tuổi được lập làm Lang Da vương. Ông tiếp tục giữ chức vụ này sau khi Khang Đế mất vào năm 344 do Khang Đế truyền ngôi cho con ruột của ông là Tư Mã Đam. Không rõ ông đã kết hôn với Vương Mục Chi vào khoảng thời gian nào. Trị vì. Năm 361, Tấn Mục Đế băng hà trong khi không có con trai. Mẹ của Mục Đế là Chử Thái hậu do đó là chọn Tư Mã Phi kế vị ngôi vị hoàng đế, ông lên ngôi và trở thành Ai Đế, khi ấy ông 20 tuổi. Ông phong vợ mình làm hoàng hậu, và hoàng đệ Tư Mã Dịch, trước đó mang tước vị Đông Hải vương, nay trở thành Lang Da vương. Do ông đã trưởng thành, Chử Thái hậu không còn giữ vai trò nhiếp chính, và mẹ ruột của ông, Chu quý nhân trở thành thành Chu Thái phi (皇太妃) vào năm 362, song được hưởng vật chất và nghi lễ tương đương với thái hậu. Tuy nhiên, quá trình ra các quyết định phần lớn nằm trong tay tướng Hoàn Ôn và Hội Kê vương Tư Mã Dục. Năm 362, Hoàn Ôn sau khi chiếm được vùng Lạc Dương, đã yêu cầu dời đô đến Lạc Dương, Lạc Dương từng là kinh đô của nhà Tấn cho đến khi mất vào tay Hán Triệu vào năm 311. Tuy nhiên, triều đình theo một chiếu chỉ của Ai Đế, đã từ chối việc này. Năm 363, Chu Thái phi qua đời. Để phù hợp với nghi lễ chính thức rằng ông không còn có thể tôn vinh bà là mẹ do vẫn còn Chử Thái hậu, Ai Đế đã không tuân thủ thời gian tang lễ thông thường đối với một người mẹ. Ai Đế bị việc trường sinh bất lão ám ảnh tinh thần mặc dù ông vẫn còn trẻ. Năm 364, ông bị các pháp sư dùng thuốc đầu độc, ông đã ngã bệnh và không thể giải quyết các vẫn đề quan trọng. Chử Thái hậu một lần nữa trở thành người nhiếp chính. Sai đó vào năm 364, Tiền Yên đã mở một cuộc tấn công lớn nhắm vào Lạc Dương, Hoàn Ôn và Tư Mã Dục đã xem xét đến một cuộc phản công để giải vây cho Lạc Dương. Tuy nhiên, Ai Đế đã qua đời vào đầu năm 365 nên kế hoạch bị hủy bỏ và Lạc Dương nhanh chóng thất thủ. Do Ai Đế không có con trai, hoàng đệ là Tư Mã Dịch lên ngôi, trở thành Tấn Phế Đế. Vương Hoàng hậu mất trước Ai Đế khoảng một tháng, họ được táng chung ở lăng An Bình.
9
29
731
1325768
838792
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325768
Tấn Phế Đế
Tấn Phế Đế (, (342 – 23 tháng 11 năm 386), tên thật là Tư Mã Dịch (司馬奕), tên tự Diên Linh (延齡), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 12 của Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em trai cùng bố mẹ của Tấn Ai Đế và sau đó bị tướng Hoàn Ôn phế truất. Tước hiệu ông thường được gọi, "Phế Đế", không phải là thụy hiệu mà dùng để biểu thị rằng ông là vị hoàng đế bị phế bỏ. Ông cũng thường được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế là Hải Tây công (海西公). Đầu đời. Tư Mã Dịch sinh năm 342, là con trai của Tấn Thành Đế và tì thiếp Chu Quý nhân, bà cũng là mẹ ruột của Tư Mã Phi, người anh lớn hơn ông một tuổi. Sau đó vào năm 342, Thành Đế lâm bệnh nặng. Thông thường thì ngai vàng sẽ được truyền cho một người con trai của hoàng đế, song thúc phụ đằng ngoại của Thành Đế là Dữu Băng (庾冰) muốn kiểm soát triều đình lâu dài hơn nên đã nói với Thành Đế rằng Đông Tấn đang phải đối mặt với mối đe dọa từ Hậu Triệu nên người kế vị cần thiết phải là đã trưởng thành, và thuyết phục Thành Đế truyền ngôi lại cho em trai ruột Lang Da vương Tư Mã Nhạc. Thành Đế chấp thuận và sau khi ông chết, Tư Mã Nhạc lên ngôi và trở thành Khang Đế. Khang Đế lập Tư Mã Dịch làm Đông Hải vương. Trong thời niên thiếu, Tư Mã Dịch đã trải qua các chức quan. Trong khi vẫn là Đông Hải vương, ông là kết hôn với con gái của Dữu Băng là Dữu Đạo Liên. Năm 361, sau cái chết của người em họ Mục Đế, anh trai của ông là Tư Mã Phi lên kế vị và trở thành Ai Đế, còn bản thân ông trở thành Lang Da vương, tước hiệu mà Ai Đế đã giữ trước đó. Năm 365, sau khi Ai Đế chết trong khi không có con trai, Tư Mã Dịch đã lên kế vị theo chiếu chỉ của Chử Thái hậu (vợ của Khang Đế). Ông lập vợ mình làm hoàng hậu. Trị vì. Mặc dù Tư Mã Dịch đã trưởng thành song ông không có quyền lực thực sự, phần lớn các quyết định nằm trong tay Hội Kê vương Tư Mã Dục, song bản thân Tư Mã Dục không phải là có thể hoàn toàn tự ý đưa ra các quyết định do vị tướng Hoàn Ôn nhiều khi cũng áp đặt quyết định của mình cho triều đình. Ngay lập tức sau khi Tư Mã Dịch lên ngôi, thành Lạc Dương trọng yếu đã rơi vào tay Tiền Yên, do cái chết của Ai Đế nên quân cứu viện đã không thể được gửi đi. Cuối năm 365, tướng Tư Mã Huân (司馬勳), thứ sử Lương Châu (梁州, nay là phía nam Thiểm Tây) đã nổi loạn, nhưng đã bị đánh bại, bị bắt giữ rồi xử tử vào năm 366. Vào mùa hè năm 366, Dữu Hoàng hậu qua đời. Tư Mã Dịch sau đó không lập một hoàng hậu nào khác trong suốt thời gian ông trị vì. Năm 369, Hoàn Ôn đã phát động một cuộc tấn công lớn chống lại Tiền Yên, tiến mọi đường đến vùng lân cận kinh đô của Tiền Yên là Nghiệp thành, song ông đã do dự trong việc tiến hành một trận quyết định vào Nghiệp thành, và rồi sau đó bị đánh bại trước Mộ Dung Thùy và quân Tiền Tần cứu viện. Hoàn Ôn có tham vọng tiếm quyền và có ý định biểu dương sức mạnh của mình thông qua việc thảo phạt Tiền Yên song đến khi chiến dịch thất bại, sau đó ông ta đã quyết định thể hiện quyền lực theo một cách khác. Ông âm mưu cùng thân tín Si Siêu (郗超) hăm dọa mọi người bằng cách phế truất Tư Mã Dịch. Tuy nhiên, vị hoàng đế này luôn thận trọng khi trị vì và không có bất kỳ lỗi lầm lớn nào, do vậy Hoàn Ôn đã cố tạo ra một thứ. Ông ta đã lan truyền tin đồng rằng Hoàng đế bị liệt dương và không thể có con, các con trai mà Hoàng đế có với Điền mỹ nhân và Mạnh mỹ nhân trên thực tế là con trai ruột của những người mà ông ban đặc ân là Tương Long (相龍), Kế Hảo (計好), và Chu Linh Bảo (朱靈寶), các tin đồn thậm chí còn ám chỉ về việc có quan hệ nam sắc giữa Hoàng đế và ba người này. Sau đó Hoàn Ôn đến kinh thành và đe dọa Chử Thái hậu để buộc bà phải ban hành một chiếu chỉ mà ông ta đã soạn sẵn để truất phế Tư Mã Dịch. Ông đưa Tư Mã Dục lên ngôi, trở thành Giản Văn Đế. Phế Đế bị giáng xuống làm Đông Hải vương, tước hiệu mà ông đã giữ trong hầu hết cuộc đời. Hoàn Ôn cho xử tử Điền mỹ nhân và Mạnh mỹ nhân cùng ba con trai của họ. Ông cũng tàn sát các gia tộc có nhiều quyền lực là Ân và Dữu. Sau khi bị phế. Hoàn Ôn tuy vậy vẫn muốn tiếp tục giáng tước hiệu của vị cựu hoàng đế, ông ta đề xuất giáng Tư Mã Dịch thành dân thường. Chử Thái hậu chống lại điều này và chỉ giáng Tư Mã Dịch thành Hải Tây công. Hoàn Ôn lo sợ rằng vị cựu hoàng đế có thể sẽ cố trở lại ngai vàng nên đã lưu đày Tư Mã Dịch đến Ngô huyện (吳縣, nay thuộc Tô Châu, Giang Tô) và đặt vị cựu hoàng đế dưới sự canh giữ nghiêm ngặt. Vào mùa đông năm 372, quân nổi loạn nông dân Lô Tùng (盧悚) tuyên bố rằng có một chiếu chỉ của Chử Thái hậu để phục vị cho Phế Đế, và ông ta đã cử sứ giả đến chỗ Hải Tây công để thuyết phục ông tham gia nổi loạn. Ban đầu, Hải Tây công tin Lô Tùng, nhưng sau đó ông nhận ra rằng nếu Chử Thái hậu thật sự muốn phục vị cho mình thì bà sẽ cử cận binh triều đình đến hộ tống, và do đó nhận ra rằng không hề có sắc lệnh nào. Không có sự ủng hộ của vị cựu hoàng đế, cuộc nổi loạn của Lô Tùng đã thất bại. Trong khi lưu đày, cựu hoàng đế luôn lo sợ trước cái chết, vì vậy ông đã dành thời gian của mình để thỏa mãn tửu sắc và âm nhạc, nhằm thể hiện cho Hoàn Ôn rằng ông không còn mong muốn hoạt động chính trị. Khi các thê thiếp của mình sinh con, ông đều không dám nuôi dưỡng chúng, và phải chọn giải pháp siết cổ vì nếu không sẽ chứng minh cho thiên hạ rằng Hoàn Ôn đã cáo buộc sai trái. Sau đó, Hoàn Ôn bắt đầu nới lỏng các hạn chế với ông. Ông mất năm 386 (sau Hoàn Ôn 13 năm) và được táng tại Ngô huyện. Vợ ông, Dữu Hoàng hậu, được cải táng để chôn cùng ông. Gia quyến. Con cái. Ba người con trai do Điền Mỹ nhân và Mạnh Mỹ nhân sinh ra , bị Hoàn Ôn xử tử.
18
46
1,264
1325784
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325784
Xa lộ Liên tiểu bang 78
Xa lộ Liên tiểu bang 78 (tiếng Anh: "Interstate 78" hay viết tắt là I-78) là một xa lộ liên tiểu bang tại Đông Bắc Hoa Kỳ, có tổng chiều dài là 144 dặm (231 km), bắt đầu từ Xa lộ Liên tiểu bang 81 nằm ở phía đông bắc thành phố Harrisburg, Pennsylvania đi qua Allentown, Pennsylvania, tây và bắc tiểu bang New Jersey đến Đường hầm Holland và Hạ Manhattan trong Thành phố New York. I-78 là một con lộ chính nối các cảng trong Thành phố New York và khu vực New Jersey với các điểm phía tây với trên 4 triệu xe tải hàng năm, tiêu biểu khoảng 24% tất cả xe cộ. Giao thông bằng xe tải trên xa lộ này được tiên đoán gia tăng một khi Kênh đào Panama được hoàn thành việc mở rộng vào năm 2015. Khi đó có nhiều tàu thuyền của châu Á được tiêu đoán là sẽ cập các cảng Đông Duyên hải Hoa Kỳ. Mô tả xa lộ. Pennsylvania. I-78 bắt đầu tại nút giao thông với Xa lộ Liên tiểu bang 81 nằm trong Xã Union, Quận Lebanon, Pennsylvania, khoảng 25 dặm (40 km) về hướng đông bắc Harrisburg. Gần điểm cuối phía đông của quận, tại lối ra 8, Quốc lộ Hoa Kỳ 22 nhập vào I-78, chạy trừng nhau khoảng tiếp theo. Ở lối ra 51 trong Xã Upper Macungie, Quốc lộ Hoa Kỳ 22 rời khỏi xa lộ cao tốc. Người lái xe trên chiều hướng đông của I-78 phải dùng lối ra này để đến I-476 (đoạn nối dài đông bắc của Xa lộ thu phí Pennsylvania), và người lái xe chiều hướng tây phải dùng lối ra 53 và sau đó dùng Quốc lộ Hoa Kỳ 22 chiều hướng tây. Từ lối ra 53 đến 60, I-78 chạy trùng với Xa lộ Pennsylvania 309. Xa lộ sáu làn xe trùng này đi tránh khỏi thành phố Allentown về phía nam và đi qua Núi South. Tại lối ra 60, PA 309 chiều hướng nam rời xa lộ I-76 để đi đến Quakertown. Sáu dặm sau đó, có một nút giao thông giữa Xa lộ Pennsylvania 412 và I-78 tại Hellertown. Xa lộ 412 cũng đi đến Bethlehem và Đại học Lehigh. Tại mốc dặm 71, Xa lộ Pennsylvania 33 giao cắt nó tại lối ra 71. Xa lộ 33 đi qua Dãy núi Pocono và đi đến Bangor và Xa lộ Liên tiểu bang 80. Lối ra cuối cùng trên I-78 trong tiểu bang Pennsylvania là để đến Lộ Morgan Hill là lộ đi đến Xa lộ Pennsylvania 611 và Easton. Xa lộ Liên tiểu bang 78 sau đó vượt Cầu thu phí Xa lộ Liên tiểu 78 và vào tiểu bang New Jersey. New Jersey. Sau khi qua Cầu thu phí Xa lộ Liên tiểu bang 78, I-78 vào tiểu bang New Jersey với tên gọi là "Xa lộ cao tốc Phillipsburg-Newark". Xa lộ bắt đầu chạy song song với Xa lộ Quận 642 trong thị trấn Alpha. Tại lối ra 3, một nút giao thông lập thể gom Quốc lộ Hoa Kỳ 22, Xa lộ New Jersey 122 và Xa lộ New Jersey 173 lại với Xa lộ Liên tiểu bang 78 tại thị trấn Phillipsburg. Quốc lộ Hoa Kỳ 22 bây giờ chạy trùng với I-78 cho đoạn đường dài kế tiếp. Đi về hướng tây, lối ra 4 rời bên tay phải để vào Lộ quận 637 và Warren Glen. Lối ra kế là lối ra số 6 đến Lộ quận 632 tại Bloomsbury. Tuy nhiên số xa lộ không được cắm biển trên Xa lộ Liên tiểu bang 78. Lối ra 7 là lối đầu tiên trong số một vài lối ra chiều hướng đông của Xa lộ New Jersey 173. Lối ra này nằm trong Bloomsbury khi Xa lộ 173 bắt đầu chạy song song với xa lộ liên tiểu bang. Bốn dặm sau đó, Lối ra 11 rời phía bên phải như một lối ra khác cho Xa lộ New Jersey 173. Lộ quận Warren 614 cũng nằm ngoài lối ra. Lối ra 12, chiều hướng tây lần nữa dành cho NJ 173. Tuy nhiên, Lối ra 12 chiều hướng đông dành cho con lộ chạy cặp song song với Xa lộ Liên tiểu bang 78. Lối ra 13 chỉ dành cho chiều hướng tây và là lối ra khác của NJ 173. Gần lối ra này, đi chiều hướng đông, lộ chạy cặp song song nhập vào xa lộ liên tiểu bang. Lối ra 15 dành cho NJ 173 và Lộ quận 513 tại Xã Franklin. Lối ra 17 dành cho NJ 31 tại Xã Clinton. Trong thị trấn Annandale, Quốc lộ Hoa Kỳ 22 rời Xa lộ Liên tiểu bang 78 tại lối ra 18. Quốc lộ 22 tiếp tục đi về hướng Bound Brook và Quận Union. Tại lối ra 20, Lộ quận Hunterdon 639 giao cắt I-78. Hunterdon 639 đi về phía Hồ Thung lũng Round Valley. Lối ra 24 dành cho Lộ quận 523 đi Oldwick. Tại lối ra 29, Xa lộ Liên tiểu bang 287, Quốc lộ Hoa Kỳ 202 và Quốc lộ Hoa Kỳ 206 chuyển đổi đường với I-78 tại Bedminster. Tại điểm này, trong Quận Somerset, Lối ra 33, 36 và 40 là dành cho các lộ quận trong Xã Warren. Tại lối ra 41, I-78 đi vào Quận Union. Tại lối ra 45, Lộ quận 527 giao cắt sau khi chạy song song một đoạn. Phía tây lối ra 48, I-78 tách thành xa lộ cao tốc và xa lộ địa phương. Lối ra 48 dành cho Xa lộ New Jersey 24 tại Springfield. Lồi ra 49A dành cho các xa lộ nhánh ngắn của NJ 24, Xa lộ New Jersey 124. Lối ra 52 dành cho Xa lộ Công viên Tiểu bang Garden trong Union. Tại Lối ra 57 và 58, Xa lộ New Jersey 21, Quốc lộ Hoa Kỳ 1, Quốc lộ Hoa Kỳ 9 và Quốc lộ Hoa Kỳ 22 giao cắt Xa lộ Liên tiểu bang 78. Lối ra tạo đường đi đến Sân bay quốc tế Newark Liberty. Phía đông lối ra 58 tại mũi phía đông Newark, I-78 trở thành Xa lộ nối dài Vịnh Newark của Xa lộ thu phí New Jersey. Qua trạm thu phí đầu tiên, I-78 có một nút giao thông với Xa lộ Liên tiểu bang 95 (Xa lộ thu phí New Jersey) và băng qua Vịnh Newark qua ngã Cầu Vịnh Newark. Lối ra đầu tiên, 14A, dành cho Xa lộ New Jersey 440 tại Bayonne. Có thể đến Công viên Tiểu bang Liberty và Trung tâm Khoa học Liberty bằng Lối ra 14B. Lối ra 14C là lối ra mang số cuối cùng, tạo lối đến Xa lộ thu phí New Jersey. Xa lộ New Jersey 139 chạy trùng với I-78 khi nó gần đến Đường hầm Holland và đi vào tiểu bang New York. Thành phố New York. Chiều dài của I-78 trong tiểu bang New York chỉ khoảng 1/2 dặm (1 km) - nửa đường hầm Holland và vòng xoay chỉ dành làm lối ra nằm ngay bên ngoài điểm cuối đường hầm. Con đường này được hoạch định chạy về phía đông và bắc qua Thành phố New York để kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 95 tại the Bronx, nhưng các đoạn của con đường được dự định xây dựng trong đó có Xa lộ cao tốc Hạ Manhattan bị hủy bỏ. Trong Thành phố New York, I-78 tiếp tục chạy qua vòng xoay chỉ dành làm lối ra được biết với tên gọi là "Saint John's Rotary". Năm lối ra riêng biệt từ vòng xoay được đặt số từ 1 đến 5 - theo chiều ngược kim đồng hồ. Lối ra cuối cùng — và là lối đi tiếp tục về hướng đông — là Lối ra 5 và cũng là Phố Canal. Theo các kế hoạch gốc, I-78 đáng ra sẽ tiếp tục đi qua Manhattan với tên gọi là Xa lộ cao tốc Hạ Manhattan rồi lên Cầu Williamsburg, và sau đó ra khỏi I-278 trên xa lộ cao tốc chưa từng được xây tên Bushwick qua Brooklyn vào trong Queens gần Sân bay quốc tế John F. Kennedy. Một đoạn của I-78 tại sân bay được xây dựng với tên gọi là Xa lộ cao tốc Nassau, sau đó có tên là Xa lộ Liên tiểu bang 878 và hiện nay là Xa lộ New York 878 mặc dù phần lớn chiều đi hướng tây chưa bao giờ được xây dựng. Ở phía đông sân bay, I-78 đáng lẽ quay hướng bắc trên Xa lộ cao tốc Clearview (được xây ở phía bắc Phố Hillside trong khu Queens và hiện nay là I-295), chạy qua Cầu Throgs Neck, và chia thành hai nhánh ngắn, kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 95 qua ngã Xa lộ cao tốc Throgs Neck (bây giờ là I-695) và Nút giao thông lập thể Bruckner qua ngã Xa lộ cao tốc Cross Bronx (hiện nay là một phần của I-295). Các xa lộ phụ. Tất cả các xa lộ phụ của I-78 đều phục vụ Thành phố New York; tuy nhiên, không có xa lộ nào thật sự giao cắt với I-78 vì xa lộ I-78 bị thu ngắn lại ở điểm cuối phía đông của đường hầm Holland. Tại đông Pennsylvania, Xa lộ 378 vào phố chính Bethlehem từng là Xa lộ Liên tiểu bang 378, nhưng được thiết kế lại thành một xa lộ tiểu bang sau khi I-78 bị đổi đường sang một con đường mới ở phía nam. Một Xa lộ Liên tiểu bang 178 ban đầu được dự kiến như một đoạn kéo dài vào phố chính Allentown nhưng bị hủy bỏ vì sự phản đối của địa phương.
17
71
1,650
1325796
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325796
Huấn luyện viên
Trong thể thao, huấn luyện viên là người trực tiếp huấn luyện, đào tạo và hướng dẫn các hoạt động của một đội thể thao hoặc của một cá nhân vận động viên. Một huấn luyện viên, đặc biệt trong một trận đấu lớn, thường được hỗ trợ bởi một hoặc nhiều trợ lý huấn luyện viên. Họ có thể là điều phối viên hoặc chuyên gia thể lực.
2
3
69
1325815
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325815
Trần Sỹ Thanh
Trần Sỹ Thanh (sinh năm 1971) là chính khách Việt Nam. Ông hiện là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Bí thư Ban Cán sự đảng UBND Thành phố Hà Nội. Ông từng giữ các chức vụ như: Phó Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Tổng Kiểm toán Nhà nước. Thân thế. Trần Sỹ Thanh sinh ngày 16 tháng 3 năm 1971, nguyên quán tại xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.. Sinh ra và lớn lên tại Nam Định. Giáo dục. Ông có trình độ học vấn trên đại học, có trình độ chính trị Cao cấp lí luận chính trị. Ông có trình độ chuyên môn là Đại học Tài chính Kế toán (nay là Học viện Tài chính). Sự nghiệp. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/06/1995, lúc 24 tuổi. Ngày 5 tháng 2 năm 2004, lúc 33 tuổi, ông được bổ nhiệm giữ chức Chánh Văn phòng Kho bạc Nhà nước Việt Nam. Ba năm sau, lúc 36 tuổi, trước khi được điều chuyển tham gia Tỉnh ủy Đắk Lắk, ông giữ chức Phó Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước Việt Nam. Ngày 12 tháng 11 năm 2008, lúc 37 tuổi, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê chuẩn bổ nhiệm vào chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Ngày 3 tháng 10 năm 2010, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV, ông được bầu giữ chức Phó bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và làm đại biểu tham dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI. Tại Đại hội Đảng toàn quốc, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương, tham gia Ủy ban Kiểm tra Trung ương Ngày 4 tháng 6 năm 2012, lúc 41 tuổi, ông thôi tham gia Ủy ban Kiểm tra Trung ương để tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang nhiệm kỳ 2010 - 2015 thay người tiền nhiệm là ông Nông Quốc Tuấn về giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc. Ngày 11 tháng 1 năm 2015, tại Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) đã bầu bổ sung ông vào Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng (Khóa XI). Đến ngày 13 tháng 2 năm 2015, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương. Tuy nhiên chỉ 8 tháng sau, ông lại được Bộ Chính trị điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn và chính thức nhận chức vụ này từ ngày 28 tháng 10 năm 2015. Sáng 24/12/2017 tại TP Lạng Sơn diễn ra Hội nghị triển khai các Quyết định của Bộ chính trị về công tác cán bộ. Ông được điều động về Ban kinh tế TƯ; giữ chức vụ Phó Trưởng Ban kinh tế Trung ương, kiêm Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam. Tại Quyết định số 2314-QĐNS/TW ngày 23-8, Bộ Chính trị quyết định: Ông Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) thôi giữ chức Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương nhiệm kỳ 2015 – 2020. Ông Thanh được điều động, phân công đến công tác tại Văn phòng Quốc hội và chỉ định giữ chức Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội khóa XIV. Ngày 26 tháng 8 năm 2020, đại hội đại biểu Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội lần thứ XIV đã bầu Ban chấp hành nhiệm kỳ 2020 - 2025, Ông Trần Sỹ Thanh được Ban chấp hành Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội bầu làm Bí thư Đảng ủy, nhiệm kỳ 2020-2025. Ngày 30 tháng 1 năm 2021, Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đồng chí được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, nhiệm kỳ 2021-2026. Tổng Kiểm toán Nhà nước. Ngày 7 tháng 4 năm 2021, Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội thông qua nghị quyết bầu ông Trần Sỹ Thanh - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội giữ chức vụ Tổng Kiểm toán Nhà nước với 462/462 đại biểu có mặt tán thành (chiếm 96,25% tổng số đại biểu Quốc hội). Ngày 21 tháng 7 năm 2021, Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thông qua nghị quyết bầu ông Trần Sỹ Thanh - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Kiểm toán Nhà nước khóa XIV tiếp tục được Quốc hội bầu giữ vị trí Tổng Kiểm toán Nhà nước khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026. Thành phố Hà Nội. Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Thành uỷ Hà Nội đã diễn ra hội nghị công bố quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ. Theo đó, ông Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Tổng Kiểm toán Nhà nước thôi giữ chức Bí thư Ban cán sự Đảng Kiểm toán Nhà nước để điều động, phân công, chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội nhiệm kỳ 2020-2025. Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại kỳ họp thứ 8 Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026, các đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố đã biểu quyết bầu ông Trần Sỹ Thanh, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021-2026.
26
32
1,117
1325893
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1325893
Judy Ann Santos-Agoncillo
Judy Anne Lumagui Santos hay nghệ danh là Judy Ann Santos (sinh ngày 11 tháng 5 năm 1978) là một diễn viên, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Philippines. Sau khi lấy chồng là Ryan Agoncillo, tên của bà đã được chuyển sang họ chòng là Judy Anne Lumagui Santos-Agoncillo và nghệ danh cũng là Judy Ann Santos-Agoncillo Tiểu sử. Nguyên tên cô là Judy Anne Lumagui Santos, sinh ngày 11 tháng 5 năm 1978 tại Manila, Philippines. Cha mẹ cô là Manuel Santos và Carolina Santos.. Mẹ cô chuyển sang Toronto, Canada khi cô mới 5 tuổi để học vào ngành y. Khi bước vào sự nghiệp điện ảnh, cô lấy nghệ danh là Judy Ann Santos. Sau khi lấy chồng là Ryan Agoncillo, cô ghép họ chồng với họ mình để thành Judy Anne Lumagui Santos-Agoncillo. Nghệ danh của cô theo đó cũng đổi thành Judy Ann Santos-Agoncillo. Con cái. Cô và Ryan Agoncillo chính thức trở thành vợ chồng từ năm 2009.Sau đó,cô có một con trai: Juan Luis Santos-Agoncillo (Lucho) và một con gái: Johanna Louis Santos-Agoncillo (Yohan)
6
8
183

No dataset card yet

New: Create and edit this dataset card directly on the website!

Contribute a Dataset Card
Downloads last month
2
Add dataset card