messages
listlengths
3
3
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Conasprella bajanensis ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Conasprella bajanensis là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Conidae, họ ốc cối.\nGiống như tất cả các loài thuộc chi \"Conasprella\", chúng là loài săn mồi và có nọc độc. Chúng có khả năng \"đốt\" con người, do vậy khi cầm chúng phải hết sức cẩn thận.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Avaux nha ?", "role": "user" }, { "content": "Avaux là một xã ở tỉnh Ardennes, thuộc vùng Grand Est ở phía bắc nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Văn học hiện thực từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Đây thực chất là một thuật ngữ của chủ nghĩa hiện thực hiểu theo nghĩa phương pháp sáng tác. Nó có nhiều dạng: Chủ nghĩa hiện thực thời Phục Hưng, Chủ nghĩa hiện thực thời Khai sáng, chủ nghĩa hiện thực thời phong kiến mạt kì ở phương Đông. Nhưng chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX ở Châu Âu phát triển đỉnh cao nhất nên người ta gọi là chủ nghĩa hiện thực cổ điển, và vì cảm hứng chủ đạo của nó là cảm hứng phê phán nên theo ý kiến của Maksim Gorky, người ta thường gọi là chủ nghĩa hiện thực phê phán. (Chủ nghĩa hiện thực phê phán còn có nghĩa là một trào lưu văn học, đối tượng của bộ môn lịch sử văn học) Khác với chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa cổ điển thường bị chi phối bởi một vài nguồn ý thức tư tưởng, chủ nghĩa hiện thực có tham vọng phải khơi nguồn ở nhiều phương diện khác nhau và tất cả phải cuối cùng phải được kết tinh lại thành một nguyên tắc nhất quán là phản ánh chân thực cuộc sống ở những phương diện khác nhau của nó.\nNhững hình mẫu trung tâm của chủ nghĩa hiện thực phê phán là những nhân vật phản diện tư sản hóa. Đó là những con người xuất thân từ những giai tầng khác nhau (quý tộc, tiểu tư sản, v.v...) vốn có những thái độ khác nhau về chế độ tư bản, nhưng khi đã lăn vào đó thì đều thấm nhuần đạo đức và triết lý \"con bê vàng\" (Balzac). Tuy vậy không phải là không có nhân vật chính diện. Các nhân vật này được tác giả xây dựng nhằm đối lập lại với xã hôi đang dần mất đi những điều tốt đẹp.\nCảm hứng phê phán, lên án những thói sống xa hoa và sự suy đồi nghiêm trọng của con người về đạo đức.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Lục bảo nha ?", "role": "user" }, { "content": "Màu lục bảo (emerald) là một sắc thái của màu xanh lá cây (màu lục) với đặc thù là nhạt và sáng hơn, và thiên hướng xanh lam rất mờ. Nó có tên gọi như vậy là do rất gần với màu của ngọc lục bảo.\nIreland thường được gọi là \"Hòn đảo Lục bảo\" (\"the Emerald Isle\") vì tại đó mưa quá nhiều nên cây cối luôn xanh.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Field-programmable device á", "role": "user" }, { "content": "Field-programable device (FPD) là thuật ngữ chỉ những vi mạch (chip) bán dẫn có khả năng tái cấu trúc bởi người dùng cuối. Vi mạch thường được lập trình bằng ngôn ngữ mô tả phần cứng HDL. Quá trình tái cấu trúc hay còn gọi là lập trình cho vi mạch thường hỗ trợ bởi một thiết bị cho phép truyền những mã thay đổi vào vi mạch và thực hiện những thay đổi cần thiết về mặt vật lý.\nBên cạnh thuật ngữ \"Field-programable device\" còn có thuật ngữ \"Mask-programmed device\" (MPD) chỉ lớp những vi mạch lập trình được nhưng chỉ một lần trong quá trình sản xuất bán dẫn, ví dụ những PLA, PAL thế hệ đầu khi mà các điểm nối dùng công nghệ hàn cứng (\"fuse\").\nHiện có những FPD sau:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Oudeuil", "role": "user" }, { "content": "Oudeuil là một xã thuộc tỉnh Oise trong vùng Hauts-de-France phía bắc nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 116 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Casal Cermelli nha ?", "role": "user" }, { "content": "Casal Cermelli là một đô thị ở tỉnh Alessandria trong vùng Piedmont của Italia, có vị trí cách khoảng 80 km về phía đông nam của Torino và khoảng 9 km về phía nam của Alessandria. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 1.208 người và diện tích là 11,7 km².\nĐô thị Casal Cermelli có các \"frazione\" (subdivision) Portanova.\nCasal Cermelli giáp các đô thị: Bosco Marengo, Castellazzo Bormida, Frugarolo, và Predosa.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about 18669 Lalitpatel?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "18669 Lalitpatel (1998 FP63) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 20 tháng 3 năm 1998 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về F.K. Spartak Moskva nha ?", "role": "user" }, { "content": "Spartak Moskva là một đội bóng đá của Moskva, Nga. Họ có biệt danh là \"Thịt\" bởi trước đây đội bóng được sở hữu bởi một công ty chuyên thu thập sản phẩm nông nghiệp.\nSpartak đã vô địch 12 chức vô địch Liên Xô (chỉ sau Dynamo Kyiv). Họ cũng vô địch cúp quốc gia Liên Xô 10 lần và cúp quốc gia Nga 3 lần, họ là một trong những CLb thành công nhất nước Nga. Spartak đã vào đến vòng bán kết của ba giải đấu ở châu Âu.\nCâu lạc bộ là thành phần của câu lạc bộ thể thao Spartak Moskva. Các đội khác bao gồm có cả đội hockey trên băng Spartak Moskva.\nĐội hình hiện tại.\n\"Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2015\"\nCác cựu cầu thủ đáng chú ý.\nVIET NAM ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Victodrobia burni ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Victodrobia burni là một loài động vật chân bụng thuộc họ Hydrobiidae. Đây là loài đặc hữu của Úc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cardiotarsus hayeki ?", "role": "user" }, { "content": "Cardiotarsus hayeki là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Leseigneur miêu tả khoa học năm 1958.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Burnupena rotunda nha ?", "role": "user" }, { "content": "Burnupena rotunda là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Buccinidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Zeacolpus capricornius từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Zeacolpus capricornius là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Turritellidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Navajún nha ?", "role": "user" }, { "content": "Navajún tỉnh và cộng đồng tự trị La Rioja, phía bắc Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là 16,38 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là 20 người với mật độ 1,22 người/km². Đô thị này có cự ly 96 km so với Logroño.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Halictus pachyurus from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Halictus pachyurus là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1937.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Inquisitor (chi ốc biển)", "role": "user" }, { "content": "Inquisitor là một ốc biển genus, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Turridae.\nCác loài.\nTheo Cơ sở dữ liệu sinh vật biển (WoRMS), các loài sau với danh pháp hợp lệ được xếp vào chi \"Inquisitor\":", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Epeolus asperatus ?", "role": "user" }, { "content": "Epeolus asperatus là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1909.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Dendropsophus battersbyi không ?", "role": "user" }, { "content": "Dendropsophus battersbyi là một loài ếch thuộc họ Nhái bén.\nĐây là loài đặc hữu của Venezuela.\nMôi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông ngòi.\nChúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Nomada subrutila", "role": "user" }, { "content": "Nomada subrutila là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Lovell & Cockerell mô tả khoa học năm 1905.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Borongan, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": " \nBorongan là một đô thị ở tỉnh Đông Samar, Philippines. Đây là đô thị có diện tích và dân số lớn nhất của tỉnh Đông Samar.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Sanfront", "role": "user" }, { "content": "Sanfront là một đô thị tại tỉnh Cuneo trong vùng Piedmont của Italia, vị trí cách khoảng 60 km về phía tây nam của Torino và khoảng 35 km về phía tây bắc của Cuneo. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 2.642 người và diện tích là 39,7 km².\nSanfront giáp các đô thị: Barge, Brossasco, Envie, Gambasca, Paesana, Rifreddo và Sampeyre.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Dolophilodes auriculata", "role": "user" }, { "content": "Dolophilodes auriculata là một loài Trichoptera trong họ Philopotamidae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Ectoedemia ornatella, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Ectoedemia ornatella là một loài bướm đêm thuộc họ Nepticulidae. Nó được miêu tả bởi Puplesis năm 1984. Nó được tìm thấy ở vùng Viễn Đông Nga.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bonete", "role": "user" }, { "content": "Bonete là một đô thị ở tỉnh Albacete nằm ở cộng đồng tự trị Castile-La Mancha của Tây Ban Nha. Đô thị Bonete có diện tích là ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là người với mật độ người/km². Đô thị Bonete có cự ly km so với tỉnh lỵ Albacete.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Ochosternus punctiger ?", "role": "user" }, { "content": "Ochosternus punctiger là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Fleutiaux miêu tả khoa học năm 1891.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam năm 2005 ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Lịch và kết quả thi đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam các cấp trong năm 2005.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Lục Hợp from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": " \nLục Hợp (tiếng Trung: 六合区, Hán Việt: \"Lục Hợp khu\") là một quận của thành phố Nam Kinh (南京市), tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận Lục Hợp có diện tích 1485,5 km2, dân số năm 2002 là 860.000 người. Quận Lục Hợp có các đơn vị hành chính gồm 5 nhai đạo và 14 trấn. ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Lục Tiểu Phụng from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Lục Tiểu Phụng (陆小凤, \"Lu Xiao Feng\") là một nhân vật nổi tiếng trong những tiểu thuyết kiếm hiệp của Cổ Long với biệt hiệu \"Tứ mi mao\" - người có bốn hàng lông mày, bởi bộ ria mép của anh mảnh như lông mày vậy. Nhân vật này là một người chuyên làm việc nghĩa, tuy có võ công lợi hại là \"Linh tê chỉ\", song Cổ Long không chú trọng lắm về việc miêu tả võ công của anh, mà tập trung khai thác khả năng phá án (\"Lục Tiểu Phụng hệ liệt\" là truyện võ hiệp song mang tính trinh thám nhiều hơn). Tật xấu của nhân vật này là mê rượu và nữ nhân. Lục Tiểu Phụng còn có những \"biệt hiệu\" khác do các \"hảo bằng hữu\" đặt cho: Lục Ba Trứng, Lục Tiểu Kê...\nCác tác phẩm trong hệ liệt.\n7 quyển:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Ceromitia multipunctata nha ?", "role": "user" }, { "content": "Ceromitia multipunctata là một loài bướm đêm thuộc họ Adelidae. Loài này có ở Nam Phi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Scleroderma (chi nấm) ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Scleroderma là một chi nấm, thuộc bộ Boletales, phân bộ Sclerodermatineae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Võ Văn Kiệt ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm 1922 – 11 tháng 6 năm 2008) tên thật Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, Chín Dũng, là nhà chính trị Việt Nam. Ông làm Thủ tướng Chính phủ thứ tư (trước kia là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi Mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm 1986, là \"tổng công trình sư\" nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi Mới.\nTiểu sử và hoạt động.\nVõ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa sinh năm 1922 tại ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam.\nTham gia cách mạng từ năm 16 tuổi trong phong trào Thanh niên phản đế (1938), ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1939. Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông là Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm. Sau Cách mạng Tháng Tám, khi quân đội Pháp tái chiếm Nam Kỳ, Võ Văn Kiệt là Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Từ năm 1946 đến năm 1954, ông là Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, sau đó là Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.\nSự nghiệp chính trị.\nVõ Văn Kiệt là thành viên của phong trào độc lập Việt Minh, ông đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–54) ở miền Nam Việt Nam. Theo Hiệp định Genève, các cán bộ cộng sản buộc phải tập trung tại miền Bắc Việt Nam, nhưng ông nằm trong số những người ở lại miền Nam, di chuyển giữa các căn cứ bí mật ở miền Đông Nam Bộ. Người vợ đầu tiên của ông, Trần Kim Anh, và hai người con của ông đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng tên lửa của lực lượng Hoa Kỳ vào năm 1966.\nSau Hiệp định Genève, năm 1955, Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến cuối năm 1970, ông được giao trọng trách là Bí thư Khu ủy T.4, tức khu Sài Gòn - Gia Định. Ông bắt đầu được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương trong Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam từ Đại hội III (năm 1960) và là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam năm 1961, chỉ huy các lực lượng cộng sản tại Sài Gòn và các vùng lân cận. Từ năm 1973 đến năm 1975 ông được điều về làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Sau khi lực lượng Cách mạng kiểm soát Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã lãnh đạo việc tiếp quản thành phố và năm 1976 được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân (bí danh là Tỉnh trưởng) đồng thời là Phó Bí thư Thành ủy, cơ quan này đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tưởng nhớ vị lãnh tụ đã khuất.\nTrong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt được Trung ương Cục phân công giữ chức Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn. Từ năm 1976 ông làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.\nÔng cũng đắc cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV (năm 1976), ông được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 1982.\nTừ tháng 4 năm 1982 Võ Văn Kiệt được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Phó chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng.\nTừ ngày 10 tháng 3 đến ngày 22 tháng 6 năm 1988, ông được giao nhiệm vụ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời đột ngột.\nNgày 11 tháng 3 năm 1988, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo ký thông báo về giữ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đối với ông Võ Văn Kiệt. Sau đó khi đưa ra Quốc hội bỏ phiếu bầu chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Đỗ Mười trúng cử, do đó ông vẫn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.\nTừ năm 1987 đến năm 1991, ông làm Phó Thủ tướng kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo Hướng dân sinh đẻ có kế hoạch, sau người tiền nhiệm là Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp.\nThủ tướng Chính phủ (1991 - 1997).\nNhiệm kỳ một (1991 - 1992).\nTại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII, ngày 8 tháng 8 năm 1991, Võ Văn Kiệt được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (thay Đỗ Mười). Từ đây, dưới thời ông đã có nhiều quyết sách quan trọng về kinh tế của đất nước trong thời kỳ Đổi Mới.\nỞ vào thời điểm năm 1986, chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thổi những luồng gió mới. Tuy nhiên, khu vực miền Nam và Thành phố Hồ Chí Minh - nơi có sự tiếp cận với công nghiệp sớm vẫn không thể tạo ra đột phá mạnh mẽ do điện thiếu trầm trọng bởi nguồn tại chỗ rất hạn hẹn, cắt điện luân phiên là chuyện thường ngày.\nQuyết định xây dựng đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam nhằm truyền tải điện từ Bắc vào Nam, giúp miền Nam bớt cơn khát điện đã được Võ Văn Kiệt chính thức đặt ra với các lãnh đạo của Bộ Năng lượng trong một bữa cơm Tết năm 1991. Câu trả lời \"Làm được\" của Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải một tuần sau đó cũng là khởi đầu cho hàng núi công việc cần triển khai.\nCông trình được Bộ Chính trị thông qua vào tháng 1 năm 1992. Đến ngày 25 tháng 2 năm 1992, Chính phủ phê duyệt Luận chứng kinh tế - kỹ thuật với quyết định thời gian hoàn thành là 2 năm và do thời gian khẩn cấp nên cho phép thực hiện theo phương thức khảo sát, thiết kế, nhập vật tư - thiết bị và thi công thực hiện song song.\nMục tiêu hoàn thành xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam có chiều dài tới 1.500 km trong 2 năm cũng đã được nhiều người cho là không khả thi và nhất là giải quyết bài toán 1/4 bước sóng (sóng điện từ có hình sin và mỗi bước sóng điện từ tương ứng 6.000 km. Độ dài của đường dây 500kV mạch 1 được tính toán là khoảng 1.500 km, đúng bằng 1/4 bước sóng, tức là đúng ngay đỉnh của hình sin. Nghĩa là nếu điện từ ở Hoà Bình đang ở mức cực tiểu thì khi vào đến TP.HCM sẽ vọt lên cực đại và ngược lại, nếu ở Hoà Bình cực đại thì vào TP.HCM có thể bằng không. Điều này dẫn đến tình trạng điện áp không ổn định, và khi ấy không còn là 500kV mà có thể vọt lên đến 700 hoặc 1.000kV, gây cháy toàn bộ thiết bị.)\nCon người không chịu bó tay trước những thách thức ấy. Cùng với các chuyên gia nước ngoài, các tính toán kỹ thuật như chia đường dây thành 4 đoạn, đặt các tụ bù dọc, kháng bù ngang với chi phí không hề rẻ, để điều chỉnh kịp thời, triệt tiêu tác động của câu chuyện 1/4 bước sóng đã được các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của ngành Điện tính toán và thực hiện.\nVào ngày 5 tháng 4 năm 1992, tại các vị trí móng số 54, 852, 2702, Võ Văn Kiệt đã phát lệnh khởi công xây dựng công trình. Theo sự phân công của Chính phủ, ông Kiệt làm Tổng chỉ huy công trình đường dây 500kV Bắc - Nam.\nNhiệm kỳ hai (1992 - 1997).\nTại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông tái cử Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhiệm kỳ hai.\nSau hơn 2 năm xây dựng Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1, đúng 19 giờ 7 phút 59 giây ngày 27 tháng 5 năm 1994, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình tại Đà Nẵng. Sau sự kiện này, ông được nhiều người gọi là \"Thủ tướng điện\", một tổng tư lệnh ngành, một nhà lãnh đạo đặt nền móng và có những đóng góp to lớn cho một lưới điện thống nhất cả nước, đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế như ngày nay.\nTừ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001, tuy không còn giữ các chức danh trong Chính phủ nhưng ông cũng đã cùng Đỗ Mười và Lê Đức Anh được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào vị trí Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nơi ông ở lại cho đến khi sứ mệnh của vị trí này khép lại vào năm 2001. Một trong những thư ký của ông trong thời gian này là Vũ Đức Đam, sau này là Phó Thủ tướng Chính phủ (từ 2013).\nNghỉ hưu.\nSau khi từ nhiệm và rời khỏi cương vị Thủ tướng Chính phủ, ông quyết định về Thành phố Hồ Chí Minh để sinh sống.\nQuan điểm.\nTừ đây đến sau khi qua đời thì trước mỗi sự kiện nóng bỏng, quan trọng mang tầm quốc gia hoặc ảnh hưởng lớn đến quyền lợi nhân dân, Võ Văn Kiệt lại lên tiếng với tư cách một người công dân. Ông là cựu lãnh đạo Việt Nam đầu tiên công khai đặt vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc. Võ Văn Kiệt cũng đã có ý kiến chính thức với lãnh đạo đất nước là nên đối thoại với những người bất đồng chính kiến, ông nói: \"Chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng\". Và về việc bầu cử đại biểu Quốc hội, ông cũng có nhận định: \"Một Quốc hội có người tự ứng cử và được dân bầu lên một cách tự do sẽ tốt hơn quốc hội bây giờ\".\nTrong những năm cuối đời, ông phát biểu ý kiến, kiến nghị với các cơ quan đảng và nhà nước nhiều hơn. Từ những vấn đề trọng đại như ý kiến đóng góp với Đại hội X, hoà hợp dân tộc, đến những kiến nghị, góp ý, phát biểu về những sự việc cụ thể như: quy hoạch về thành phố dọc sông Hồng, việc xây nhà Quốc hội...\nNăm 2005, Võ Văn Kiệt phát biểu rằng chiến thắng 30/4 là thắng lợi của cả dân tộc, tuy nhiên có những người thuộc chế độ cũ vẫn không nguôi thù hận, ông cho rằng những người này cần gác lại thù hận để cùng chính phủ hiện nay xây dựng đất nước. Ông nói:\"\"Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Sau 30/4, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: \"Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai\". Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó\".\nNgày 30/4/2007, trả lời phỏng vấn BBC, ông phát biểu \"Hơn 30 năm rồi, năm nay nữa là 32 năm, không có lý do gì giữa chúng ta với nhau không hòa giải được... Tôi đã đặt vấn đề này và cũng viết trong một số bài rằng có một cách nhìn méo mó từ phía một số người cộng sản rằng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là đúng, còn những người yêu nước khác mà không yêu chủ nghĩa xã hội thì không yêu nước đủ như mình. Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam không của riêng một đảng, một phe phái, tôn giáo nào... chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng... chính phủ không nên áp dụng biện pháp hành chính đi đầu với họ, trừ phi là con người hoặc sự việc đó có nguy hại đối với đất nước, nhưng không được quy chụp người ta\"\". Võ Văn Kiệt cho rằng đã tới lúc bỏ lại phía sau những chia rẽ mà theo ông phần nhiều do nước ngoài can thiệp gây ra. Mặt khác, Võ Văn Kiệt cũng đề nghị Nhà nước cảnh giác với những mưu đồ lợi dụng dân chủ và nhân quyền để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong thư gửi Bộ Chính trị năm 1995, ông cho rằng: \"Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh giá dưới ánh sáng của cục diện quốc tế mới... Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của Việt Nam ngày càng mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính trị một đảng của Việt Nam cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc này lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta.\"\nVề đường lối xây dựng đất nước và quan hệ ngoại giao, ông cho rằng:\"\"quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội tại để cùng tìm thấy niềm tự hào chung, lợi ích chung thì có thể tạo ra sức mạnh nội lực và do đó càng có uy tín quốc tế. Kể cả những nước nhỏ, nếu có những yếu tố đó thì cũng vẫn tạo ra thế mạnh. Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau, thì dù có tài nguyên quốc gia phong phú, có dân số đông đúc, vẫn không tạo ra sức mạnh, vị thế quốc tế, do đó cũng không thể vững vàng... Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng, nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn. Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế? Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ, thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng... Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp...\" \"\nVõ Văn Kiệt đã lên tiếng trên công luận bày tỏ quan điểm lo ngại về các dự án như: nhà máy lọc dầu Dung Quất, thành phố bên sông Hồng, việc xây dựng tòa nhà quốc hội mới và lần gần nhất là về vấn đề mở rộng địa giới Hà Nội (giữa tháng 5/2008 ông có ra Hà Nội để vận động dừng việc mở rộng thủ đô nhưng ông ốm và mất vài tuần sau đó). Ông viết: \"Thủ đô của cả nước, của cả dân tộc và cả của lịch sử. Không nên và không được phép đưa thủ đô làm nơi thí nghiệm cho bất cứ mục đích gì.\"\nBên cạnh đó, ông còn bày tỏ rõ quan điểm ủng hộ tự do báo chí đối với các tổ chức chính trị và chính quyền, thể hiện rõ ở việc ông can thiệp vào sự kiện Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh thay thế các vị trí quản lý ở báo \"Tuổi Trẻ\" nhằm cài cắm người để quản lý.\nQua đời và lễ tang.\nLúc 8 giờ 40 phút ngày 11 tháng 6 năm 2008 (giờ Singapore, tức 7 giờ 40 phút cùng ngày giờ Hà Nội), Võ Văn Kiệt được xác nhận là đã qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore. Theo hãng tin Reuters thì lý do là tuổi cao và viêm phổi cấp tính, còn theo AP thì nguyên do là tai biến mạch máu não.\nSau khi các hãng tin quốc tế đã đưa tin và nhiều lãnh tụ nước ngoài đã gửi lời chia buồn, báo chí Việt Nam chính thức thông báo Võ Văn Kiệt mất vào tối ngày hôm sau. Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã thông báo 2 ngày quốc tang. Lễ viếng được tổ chức vào ngày 14 tháng 6 tại Hà Nội, Hội trường Thống Nhất (nơi đặt linh cữu của ông) và trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (quê hương ông), có trưởng ban lễ tang nhà nước là Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Lễ truy điệu tổ chức vào ngày 15 tháng 6, sau đó đến trưa cùng ngày, linh cữu của Võ Văn Kiệt được đưa đi an táng tại nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.\nLễ truy điệu và an táng được tường thuật trực tiếp trên VTV1, VTV9 và VOV1. Kênh tiếp sóng lễ truy điệu và an táng là HTV9.\nGia đình.\nVõ Văn Kiệt có hai đời vợ.\nNgười vợ đầu của ông, bà Trần Kim Anh, con thứ sáu của một điền chủ, lấy nhau lúc bà 17, ông Kiệt 27 tuổi. Bà có với ông 4 người con: Phan Chí Dũng (sinh năm 1951), Phan Hiếu Dân (sinh năm 1955), Phan Thị Ánh Hồng (sinh năm 1958) và Phan Chí Tâm (sinh năm 1966). Năm 1966, bà cùng hai con nhỏ, một trai một gái, đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét qua chiến khu Củ Chi. Võ Văn Kiệt đã muốn khi chết, tro của mình được rải xuống khúc sông mà hai người con và người vợ của mình đã mãi nằm lại đó. Sau này, tro cốt tượng trưng của ông được đốt từ di ảnh và những di vật quen thuộc của ông được rải xuống đoạn sông Sài Gòn chảy qua huyện Củ Chi, nơi vợ con ông bị giết hại. Phan Chí Dũng, người con cả của ông, hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1972 tại Sóc Trăng trong một lần đi trinh sát. Ngoài 4 người con với người vợ đầu, ông còn một người con sinh năm 1952 ở miền Bắc tên là Phan Thanh Nam sinh ngày 25 tháng 2 năm 1952, người đã thay mặt gia đình đọc lời cảm tạ trong lễ tang ông. Mẹ của Nam là bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ \"Phụ nữ cứu quốc Nam Bộ\".\nNgười vợ thứ hai của ông (lấy nhau năm 1984) là Giáo sư, Tiến sĩ Hóa học Phan Lương Cầm, giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, từng được trao tặng Giải thưởng Kovalevskaia, giải thưởng cao nhất dành cho các nhà khoa học nữ Việt Nam.\nTặng thưởng.\nTháng 12 năm 1997, Võ Văn Kiệt đã được trao tặng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra ông còn được trao tặng nhiều huân, huy chương khác và huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.\nVinh danh.\nNgày 22/2/2009, tên của ông được đặt cho một con đường dài 23,6 km chạy từ ngã tư Bình Long cắt Quốc lộ 1 trên đường Nguyễn Hoàng qua nhà máy lọc dầu Dung Quất ra cảng Dung Quất, Quảng Ngãi.\nNgày 29 tháng 4 năm 2011, Sở Giao thông Vận tải và Ủy ban nhân dân quận 1, TP Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ đặt tên đường Võ Văn Kiệt cho Đại lộ Đông – Tây, một trong những tuyến đường hiện đại và quan trọng trong hệ thống hạ tầng giao thông của Thành phố Hồ Chí Minh.\nĐại lộ Võ Văn Kiệt có tổng chiều dài hơn 13,42 km, kéo dài từ đoạn giao nhau giữa đường Hàm Nghi và đường Tôn Đức Thắng, thuộc bờ Tây sông Sài Gòn, quận 1 đến cầu vượt quốc lộ 1, huyện Bình Chánh.\nDự án đại lộ Đông – Tây là công trình trọng điểm của hệ thống giao thông TP Hồ Chí Minh có tổng chiều dài 21,89 km đi qua địa bàn 8 quận, huyện trên địa bàn thành phố bắt đầu từ nút giao Tân Kiên, huyện Bình Chánh đến nút giao Cát Lái, thành phố Thủ Đức, trong đó có một hầm vượt sông Sài Gòn dài 1.490 m. Dự án có tổng mức đầu tư 9.863 tỷ đồng.\nTại thành phố Cần Thơ, tuyến đường đẹp nối từ trung tâm (đường Mậu Thân) đến cảng hàng không quốc tế Cần Thơ cũng mang tên Võ Văn Kiệt. Đà Nẵng có đường mang tên ông nối đường Nguyễn Văn Linh với Trường Sa.\nTại Hà Nội, tên của ông được đặt tên cho đoạn đường nối từ cầu Thăng Long đến sân bay quốc tế Nội Bài, chạy trên địa bàn các huyện Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn (trước đây là trục đường Bắc Thăng Long – Nội Bài).\nTên của ông còn được đặt cho ngôi trường lớn ở quê nhà của ông (Vũng Liêm) là trường THPT Võ Văn Kiệt được đặt tại Trung Tín, Vũng Liêm, Vĩnh Long và các trường học ở nhiều nơi khác tại Việt Nam.\nTừ tháng 10/2015, tại Phan Thiết, Bình Thuận có thêm công viên Võ Văn Kiệt với diện tích 4ha để phục vụ người dân đến vui chơi, tập thể dục mỗi ngày. Đặc biệt, vào mỗi dịp tối cuối tuần, lễ tết, công viên tấp nập du khách gần xa vào đây để tham gia các hoạt động ngoài trời.\nNgày 8/11/2015, UBND tỉnh Trà Vinh long trọng tổ chức lễ công bố nghị quyết của HĐND tỉnh Trà Vinh về đặt tên ông cho đoạn đường với điểm đầu từ ngã ba Sóc Ruộng và điểm cuối đến quốc lộ 53.\nTại Đồng Tháp, tên ông được đặt cho đoạn đường từ thị trấn Thanh Bình (huyện Thanh Bình) đến xã Trường Xuân (huyện Tháp Mười). Đây được xem là tuyến đường đi xuyên Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp với chiều dài 40 km.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Lasioglossum bluethgeni từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Lasioglossum bluethgeni là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Ebmer mô tả khoa học năm 1971.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Đồng Tâm, Bình Liêu từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Đồng Tâm là một xã thuộc huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Xã Đồng Tâm có sông Tiên Yên chảy qua.\nĐịa giới hành chính.\nXã Đồng Tâm nằm ở phía bắc của huyện Bình Liêu, phía Đông giáp xã Hoành Mô; phía Nam giáp xã Lục Hồn; phía Tây giáp xã Lục Hồn và biên giới CHND Trung Hoa; phía Bắc giáp xã Hoành Mô và biên giới CHND Trung Hoa.\nXã được chia thành 16 thôn bản: Nà Tào, Nà Mạ, Nà Khau, Nà Áng, Nà Đang, Chè Phạ, Đồng Long, Pắc Pò, Pắc Pền, Phiêng Tắm, Phiêng Chiểng, Phiêng Sáp, Sam Quang, Ngàn Phe, Ngàn Vàng (Gồm: Ngàn Vàng trên, Ngàn Vàng giữa và Ngàn Vàng dưới), Nặm Vàng.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Chimarra luminaris nhé", "role": "user" }, { "content": "Chimarra luminaris là một loài Trichoptera trong họ Philopotamidae. Chúng phân bố ở miền Australasia.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Dalida ?", "role": "user" }, { "content": "Iolanda Cristina Gigliotti, thường được biết tới với nghệ danh Dalida (17 tháng 1 năm 1933 - 3 tháng 5 năm 1987) là một ca sĩ người Pháp và là Hoa hậu Ai Cập 1954. Sinh ra ở Cairo, Ai Cập trong một gia đình gốc Ý, sau đó lại hoạt động nghệ thuật chủ yếu ở Pháp, Dalida có thể hát bằng hơn mười thứ tiếng khác nhau trong đó có rất nhiều bài đã trở thành bất hủ như \"\"Bambino\", \"Besame Mucho\", \"Paroles... Paroles...\", \"Le temps des fleurs\", \"Laissez-moi danser\" hay \"Mourir sur scène\"\". Gặp nhiều khủng hoảng trong đời sống riêng, Dalida đã tự tử tại Paris khi mới 54 tuổi, tuy vậy trong thời gian 31 năm sự nghiệp ca hát bà cũng đã giành được tới 55 đĩa vàng, 1 đĩa kim cương và được coi là một trong những nữ ca sĩ hàng đầu của Pháp.\nTiểu sử.\nIolanda Cristina Gigliotti sinh ngày 17 tháng 1 năm 1933 tại khu Choubrah thuộc Cairo, Ai Cập trong một gia đình trung lưu gốc Ý với cha là Pietro còn mẹ là Filomena. Ông bà của Iolanda là những người Ý gốc Calabria di cư đến Ai Cập vào đầu thế kỷ 20. Iolanda là con thứ hai trong gia đình, bà có một anh trai tên là Orlando và một em trai tên là Bruno. Cha của bà là nghệ sĩ vĩ cầm chính của Nhà hát Opera Cairo, nhờ đó mà địa vị của gia đình được củng cố.\nLúc 10 tháng tuổi, Iolanda bị nhiễm trùng mắt và phải quấn băng suốt 40 ngày. Trong khi đó cha Iolanda thường chơi những bài hát ru bằng vĩ cầm để xoa dịu cơn đau của cô. Suốt từ 3 đến 5 tuổi, cô bé phải trải qua vô số lần phẫu thuật mắt. Sau này khi đã nổi tiếng, Dalida vẫn thường hồi tưởng lại thời thơ bé bị bạn bè bắt nạt chỉ vì cô đeo cặp kính dày cộp.\nNăm 1940, lực lượng Đồng minh áp giải Pietro Gigliotti và những người gốc Ý khác đến trại lao Fayed ở sa mạc gần Cairo. Khi Pietro được trả tự do vào năm 1944, ông đã biến chất thành một con người hoàn toàn khác. Ông thường hành xử bạo lực đến mức Iolanda và những đứa trẻ khác trong khu phố đều khiếp sợ ông. Về sau, Dalida có nói về cha mình: \"Tôi căm ghét cha tôi khi hắn đánh tôi, tôi thù hằn hắn vì đã đánh mẹ và các anh em tôi. Tôi chỉ muốn hắn ta chết quách đi, và cuối cùng hắn cũng chết thật.\" Pietro qua đời vì áp xe não vào năm 1945, khi đó Dalida chỉ mới 12 tuổi. Chấn thương tâm lý đó khiến cô mặc cảm và ảnh hưởng nhiều đến việc tìm kiếm bạn đời về sau.\nNăm 1951, Iolanda tham gia một cuộc thi sắc đẹp và trở thành người mẫu cho một nhà mốt ở Cairo. Năm 1954 bà trở thành Hoa hậu Ai Cập và bắt đầu thu hút được sự chú ý của các ông bầu nghệ thuật, trong đó có đạo diễn người Pháp Marc de Gastyne, người đã thuyết phục bà rời Ai Cập tới Pháp để làm diễn viên. Đây cũng là thời gian bà bắt đầu lấy nghệ danh là Dalida (trước đó Iolanda còn dùng nghệ danh Dalila trong một thời gian ngắn).\nSự nghiệp.\nNgôi sao lớn.\nThời gian đầu ở Paris Dalida tham gia các bộ phim loại B tuy nhiên bà sớm nhận ra rằng mình khó có cơ hội nổi tiếng nếu tiếp tục theo nghiệp diễn viên và bắt đầu hướng sang nghề ca sĩ. Dalida bắt đầu trình diễn tại các phòng trà (cabaret) Villa d'Este và Drap d'Or.\nMay mắn đã đến với Dalida khi giọng hát của bà được ông bầu Bruno Coquatrix, lúc này đang đi tìm giọng ca mới cho nhà hát tạp kỹ (music-hall) Olympia, phát hiện năm 1956. Coquatrix đã gợi ý cho Dalida tham gia cuộc thi ca sĩ mới \"Les numéros 1 de demain\" (Số 1 của tương lai) tổ chức tại Olympia. Cuộc thi này do Coquatrix (ông chủ Olympia), Eddie Barclay (nhà sản xuất băng đĩa) và Lucien Morisse (giám đốc điều hành đài Europe 1) làm giám khảo. Dalida, với số báo danh 421, đã nhanh chóng chinh phục ban giám khảo bằng giọng hát của mình, Morisse lập tức mời Dalida tới Europe 1 thu âm bài hát đầu tiên, \"Madona\", gốc là một bài hát tiếng Bồ Đào Nha của Amália Rodrigues có tên \"Barco Negro\". Bài thứ 2 Dalida thu âm ở Europe 1 là \"Le torrent\", cả hai tác phẩm đều chỉ thành bàng ở mức tương đối và Morisse nghĩ tới việc phải tìm cho bà một bài hát có tính đột phá. Đó là \"Bambino\" (bài hát gốc tiếng Napoli là \"Guaglione\") vốn trước đó định dành cho ngôi sao của dòng nhạc Latinh là Gloria Lasso. Dalida thu \"Bambino\" chỉ trong một đêm và tác phẩm lập tức thành bàng rực rỡ khi đĩa hát của nó bán được tới nửa triệu bản, đứng trong bảng xếp hạng hơn 1 năm (trong đó có 39 tuần đứng thứ nhất) và trở thành đĩa vàng đầu tiên của Dalida. Không chỉ được hỗ trợ trên sóng phát thanh bởi Morisse, Dalida cũng được Coquatrix ưu ái xếp là ca sĩ hàng đầu ở Olympia, bà biểu diễn chung với Charles Aznavour, rồi Gilbert Bécaud, khi đó đều là các ngôi sao của ca nhạc Pháp. Sau này Dalida là một trong những ngôi sao lớn nhất của Olympia, bà là ca sĩ số 1 ở đây vào các năm 1961, 1964, 1967, 1971, 1974, 1977 và 1981.\nSau một cuộc tình ngắn ngủi với Jean Sobieski, năm 1961 Dalida cưới Lucien Morisse, người đã giúp đỡ bà rất nhiều trong giai đoạn đầu sự nghiệp. Không chỉ có \"Bambino\", Morisse còn dành cho bà nhiều bài hát mới khác như \"Come prima\", \"Gondolier\", \"Les Gitans\" hay \"Romantica\".\nĐời tư bất hạnh.\nMặc dù đạt được rất nhiều thành bàng trong sự nghiệp, nhưng đời tư của Dalida lại gặp rất nhiều bất hạnh. Năm 1967, người tình của Dalida là Luigi Tenco đột ngột tự sát trong thời gian tham gia Liên hoan âm nhạc San Remo. Khủng hoảng tinh thần nặng nề sau cái chết này, Dalida lần đầu tiên tự sát nhưng bất thành. Năm 1970 đến lượt Lucien Morisse, người chồng và người quản lý của Dalida cũng tự sát, năm 1983 đến lượt Richard Chanfray, một người bạn thân khác của Dalida, cũng tự vẫn. Sau khi có mang với một sinh viên người Roma, Dalida đã quyết định nạo thai nhưng cuộc phẫu thuật đã gặp trục trặc dẫn đến việc bà mất hoàn toàn khả năng làm mẹ.\nGặp nhiều bất hạnh nhưng Dalida vẫn tiếp tục giữ được vị trí ngôi sao của mình với các bài hát thành bàng như \"Avec le temps\", \"Gigi l’amoroso\", \"Il venait d'avoir 18 ans\" và \"J’attendrai\". Bà cũng chứng tỏ tài năng diễn xuất qua bộ phim \"le Sixième Jour\" (1986) của Youssef Chahine, (1986). Trong thời gian này bà cũng có quan hệ thân thiết với chính trị gia François Mitterrand và đã ủng hộ nhiệt tình Mitterrand trong cuộc bầu cử tổng thống Pháp năm 1981.\nQua đời và di sản.\nĐêm ngày mùng 2, rạng sáng ngày 3 tháng 5 năm 1987, Dalida tự sát bằng thuốc an thần và qua đời tại nhà riêng trên phố Orchampt thuộc khu Montmartre, bà chỉ để lại một dòng trăng trối:\nDalida được an táng tại Nghĩa trang Montmartre, ngôi mộ của bà là một trong những địa điểm được viếng thăm nhiều nhất của nghĩa trang này.\nSau khi qua đời, Dalida tiếp tục là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật, có thể kể tới bài hát \"De la seine à la scène\" của Charles Aznavour, đoạn phóng tác \"Dalida, à quoi bon vivre au mois de mai?\" của Joseph Agostini và Caroline Sourrisseau hay bộ phim truyền hình \"Dalida\" của Joyce Buñuel (Sabrina Ferilli thủ vai Dalida). Một quảng trường của Paris nằm không xa phố Orchampt cũng được đặt theo tên ca sĩ huyền thoại. Nhân dịp kỉ niệm 20 năm ngày mất của Dalida, toà thị chính Paris đã tổ chức chương trình triển lãm hình ảnh và bài hát về Dalida ngay trên các bức tường của thành phố.\nTác phẩm.\nLà một ca sĩ gốc Ý, sinh ra ở Ai Cập và phát triển sự nghiệp ở Pháp, Dalida có thể hát bằng rất nhiều thứ tiếng, không chỉ có tiếng Pháp, tiếng Ý và còn có tiếng Đức, tiếng Ả Rập, thậm chí là tiếng Nhật. Tổng cộng hơn 125 triệu đĩa hát của Dalida đã được bán ra trên toàn thế giới trong đó \"Bambino\" đã trở thành đĩa bạch kim vào năm 1964 và đĩa kim cương năm 1981.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Hermann Balck", "role": "user" }, { "content": "Hermann Balck (7 tháng 12 năm 1893 – 29 tháng 11 năm 1982) một sĩ quan quân đội Đức, đã tham gia cả Chiến tranh thế giới thứ nhất lẫn thứ hai và được thăng đến cấp Thượng tướng Thiết giáp (\"General der Panzertruppe\"). Ông được xem là một trong những chỉ huy thiết giáp tài ba nhất của Đệ tam Đế chế Đức, đã dẫn dắt các lực lượng thiết giáp Đức lập nên nhiều thắng lợi vang dội trên các mặt trận Pháp, Hy Lạp và Đông Âu thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuối năm 1944, ông trở thành một trong 27 quân nhân duy nhất được nhận thưởng Huân chương Chữ Thập Hiệp sĩ đính kèm Lá sồi, Thanh kiếm và Kim cương (\"Ritterkreuz des Eisernen Kreuzes mit Eichenlaub, Schwertern und Brillanten\").\nThân thế.\nBalck chào đời ngày 7 tháng 12 năm 1893 tại Danzig - Langfuhr, Đông Phổ (nay là Wrzeszcz, Ba Lan), là con trai của ông William Balck và bà Mathilde, nhũ danh Jensen. Gia đình ông là một gia đình có truyền thống quân sự lâu đời, cụ cố ông từng phục vụ Binh đoàn Đức của Đức vua – một đơn vị lính Đức chiến đấu cho quân đội Anh dưới quyền Arthur Wellesley, Công tước Wellington – còn cụ nội ông từng là sĩ quan trong Trung đoàn Sơn cước Argyll và Sutherland của Anh. Cha của Hermann, Trung tướng William Back, là một trong những nhà lý luận chiến thuật và chiến lược hàng đầu của quân đội Đế quốc Đức, chỉ huy một sư đoàn trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và được phong tặng Huân chương Thập tự Xanh, phần thưởng quân sự cao quý nhất của Đức thời bấy giờ.\nMùa xuân năm 1913, Balck nhập ngũ và trở thành thiếu sinh quân của Tiểu đoàn Biệt kích 10 Hannover – một đơn vị bộ binh sơn chiến đóng tại Goslar. Sau đó, ông học tập tại trường Cao đẳng Quân sự Hannover từ tháng 2 cho đến tháng 8 năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ và ông cùng tiểu đoàn mình được điều động tác chiến.\nChiến tranh thế giới thứ nhất.\nTháng 8 năm 1914, Balck được giao trách nhiệm làm trung đội trưởng trong tiểu đoàn ông vào ngày 1 và được cấp bằng Thiếu úy vào ngày 10. Hai năm sau (1916), ông được bổ nhiệm làm đại đội trưởng một đại đội súng máy và chính thức đeo lon Thiếu úy vào tháng 9. Ông tham gia chiến đấu trên các chiến trường Tây Âu, Đông Âu, Ý và Balkan. Có lúc ông từng chỉ huy một toán trinh sát chiến đấu hoạt động sau lưng phòng tuyến quân Nga trong vòng vài tuần lễ. Trong suốt chiều dài cuộc chiến, ông đã bị thương 7 lần và được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng I. Vào tháng 10 năm 1918, Balck được đề cử trao tặng Huân chương Thập tự Xanh, nhưng trước khi ông có thể nhận thưởng thì Đế quốc Đức đã sụp đổ vào đầu tháng 11.\nThời kỳ giữa hai cuộc thế chiến.\nSau khi chiến tranh kết thúc, Balck gia nhập một tiểu đoàn biệt kích tình nguyện. Được giữ lại phục vụ trong Lực lượng Phòng vệ Quốc gia của Cộng hòa Weimar, ông ở lại binh chủng bộ binh và lãnh chức sĩ quan phụ tá một tiểu đoàn trong Trung đoàn Bộ binh 20. Sau đó, ông đổi sang làm sĩ quan phụ tá Tiểu đoàn Biệt kích III Brunswick-Tây Phổ thuộc Trung đoàn Bộ binh 17 đóng tại Celle từ năm 1920 đến năm 1921. Kế đến, ông làm sĩ quan tham mưu và huấn luyện trong trung đoàn từ năm 1921 cho tới năm 1924. Sau khi lên quân hàm Trung úy, ông chuyển sang Trung đoàn Kỵ binh 18 đóng tại Cannstatt (gần Stuttgart) vào cuối năm 1924. Tại đây, ông dẫn đầu một trung đội súng máy từ năm 1925 đến năm 1928, sau đó chỉ huy một khối kỵ binh trong giai đoạn 1928 – 1933 và được gắn lon Đại úy kỵ binh (\"Rittmeister\") vào năm 1929. Ngay từ thời gian này, ông đã nhận thức rõ sự ưu việt của chiến tranh cơ giới và trở thành một trong những người đầu tiên chủ trương cơ giới hóa quân đội Đức.\nVào thập niên 1930, Balck từng hai lần công tác tại Bộ Tổng tham mưu và hai lần được đề bạt làm sĩ quan bộ này nhưng ông đều khước từ vì ưu tiên làm sĩ quan tác chiến. Cũng như hai tên tuổi lớn khác trong ngành thiết giáp Đức sau này là Erwin Rommel và Heinz Guderian, Balck áp dụng trường phái \"chỉ huy từ tuyến đầu\" trong chiến đấu (\"Führen von vorn\"). Không chỉ giúp người chỉ huy dễ nắm bắt, khai thác tình hình chiến thuật và thu được hiệu quả tác chiến cao nhất, phương pháp này còn đem lại lợi thế to lớn trên khía cạnh tâm lý. Cụ thể, trong tình huống nguy khốn, sự hiện diện của một tư lệnh cấp cao ngoài tiền tuyến luôn là nguồn động lực ngăn chặn sự rối loạn hàng ngũ và thôi thúc quân sĩ tiếp tục chiến đấu.\nTrong 6 năm đầu cầm quyền của chế độ Hitler, Balck được thăng cấp thiếu tá năm 1935 rồi lên lon thượng tá năm 1938. Cũng vào giai đoạn này, ông làm sĩ quan tham mưu cho Sư đoàn Bộ binh số 3 tại Frankfurt an der Oder trong một thời gian ngắn và chỉ huy Tiểu đoàn Xe đạp số 1 tại Tilsit, Đông Phổ (nay là Sovetsk, Liên bang Nga) từ năm 1935 cho đến năm 1938.\n Tiếp theo đó, ông được chuyển sang Ban Thanh tra Quân Cơ động (thiết giáp, bộ binh cơ giới và kỵ binh) thuộc Bộ Tư lệnh Tối cao ở Berlin do Thiếu tướng Heinz Guderian cầm đầu vào ngày 24 tháng 11 năm 1938. Balck đã hình thành một mối quan hệ lâu dài và hữu hảo với thủ trưởng của mình.\nChiến tranh thế giới thứ hai.\nGiai đoạn 1939-1942.\nCuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 khi Balck đang hoạt động tại Ban Thanh tra Quân Cơ động - Bộ Tư lệnh Tối cao. Trong Chiến dịch tấn công Ba Lan (1939), Balck nhận lãnh nhiệm vụ tái tổ chức và trang bị cho các sư đoàn thiết giáp của quân đội Đức. Sau khi Warszawa thất thủ, ông được lãnh chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Súng trường 1 (Sư đoàn Thiết giáp 1), một trung đoàn tinh nhuệ trong Quân đoàn Thiết giáp XIX do Thượng tướng Thiết giáp Guderian thống lĩnh và tham gia Chiến dịch nước Pháp năm 1940. Được sự yểm hộ đắc lực của các phi cơ bổ nhào Stuka, ông dẫn dắt trung đoàn mình đánh chiếm và củng cố một đầu cầu trên sông Meuse vào buổi chiều ngày 13 tháng 5. Dù chưa được chi viện xe tăng và pháo phòng không, Balck quyết định mở rộng đầu cầu của mình và quét sạch quân Pháp khỏi thị trấn Chémery, cách sông Meuse gần 10 km về hướng nam, trong một cuộc hành quân ban đêm. Hôm sau, một lữ đoàn thiết giáp Pháp gồm 40 xe tăng - có sự yểm hộ của không quân Anh-Pháp - tiến hành phản công vào đầu cầu của trung đoàn Balck, gây cho quân Đức nhiều khó khăn. Nhưng quân Pháp chưa kịp triển khai đủ lực lượng thì công binh Đức đã bắc xong cầu phao qua sông Meuse, mở lối cho xe tăng và pháo chống tăng Đức tham gia chặn đánh mũi phản công của quân Pháp. Trong một trận đánh ngắn và dữ dội, quân Đức đã bắn cháy được 30 xe tăng Pháp và cuộc phản kích đầu tiên của quân Pháp vào đầu cầu sông Meuse hoàn toàn thất bại.\nSau thắng lợi bước đầu nói trên, Guderian điều các Sư đoàn Thiết giáp số 1 và 2 tiến ra eo biển Măngsơ để hợp vây quân chủ lực Pháp-Anh trên mạn tây bắc. Tại thị trấn La Horgne vào ngày 15 tháng 5, trung đoàn Balck vấp phải sự kháng cự quyết liệt của một lữ đoàn lính thuộc địa Maroc-Algérie và bị kìm chân trong vòng nhiều tiếng đồng hồ. Quân Pháp bị đánh thiệt hại nặng nề, nhưng phải đến cuối chiều ngày hôm ấy thì La Horgne mới thất thủ về tay quân Đức. Tiếp theo sau chiến thắng La Horgne, Balck thúc quân tiến đánh Bouvellemont - một ngôi làng nằm ở phía tây Sedan - nhưng cán bộ, binh sĩ dưới quyền ông đã kiệt sức sau nhiều ngày mất ăn mất ngủ và từ chối tiếp tục tác chiến. Ông bèn chạy lên phía trước đoàn quân, lấy một khẩu súng trường chĩa về phía ngôi làng và tuyên bố hoặc là một mình ông sẽ tấn công đồi, hoặc là quân binh sẽ cùng ông chiến đấu. Thế là Trung đoàn Súng trường số 1 ồ ạt xung phong và theo chân thủ trưởng quét sạch quân Pháp ra khỏi làng Bouvellemont. Kế đến, Balck và Sư đoàn Thiết giáp số 1 tiếp tục tiến như vũ bão về hướng tây cho đến ngày 24 tháng 5, khi họ tiếp cận được eo biển và áp sát thành phố cảng Dunkerque, đẩy Lực lượng Viễn chinh Anh vào nguy cơ bị tiêu diệt. Nhưng vì một lý do không rõ ràng, Hitler phát lệnh cho Guderian tạm dừng hành quân trong vòng 48 giờ đồng hồ, tạo điều kiện cho phía Anh tổ chức di tản quân chủ lực của họ về chính quốc. Bốn ngày sau đó, Hitler chuyển giao nhiệm vụ đánh chiếm hải cảng Dunkerque cho một quân đoàn bộ binh và hạ lệnh cho Guderian đem quân thiết giáp đánh xuống biên giới Thụy Sĩ. Một lần nữa, tướng Guderian lấy trung đoàn Balck làm quân tiên phong cho quân đoàn của ông.\nSau trận đột phá phòng tuyến Meuse, Balck đề xuất sáng kiến thành lập một kiểu đơn vị đặc biệt gọi là Chiến đoàn (\"Kampfgruppe\") – trong đó bộ binh và thiết giáp phối hợp chặt chẽ với nhau khi hành quân tác chiến – và nhận được sự tán đồng của thượng cấp. Sự ra đời của các chiến đoàn đã góp phần hoàn chỉnh chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội Đức và đem lại cho họ lợi thế đáng kể so với các đội quân được tổ chức và huấn luyện cứng nhắc của Pháp và Anh. Ngày 3 tháng 6 năm 1940, viên trung tá 47 tuổi được tặng thưởng Huân chương Thập tự Hiệp sĩ (\"Ritterkreuz\") vì khả năng chỉ huy tác chiến của mình. Tiếp theo đó, ông chiến đấu dũng cảm trong các trận đánh gần Rethel và trực tiếp giật lấy hàng loạt cờ hiệu của một trung đoàn quân Pháp. Trong hồi ký \"Erinnerungen eines Soldaten\" (tạm dịch: \"Hồi ức của một người lính) của mình, Guderian ca ngợi Balck là một cán bộ \"tài năng và dũng mãnh\" và đánh giá rất cao những công trạng của ông trong chiến dịch Pháp. Sau khi được thăng quân hàm đại tá vào tháng 8 năm 1940, Balck nhậm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiết giáp 3 Sư đoàn Thiết giáp 1 và tham gia Chiến dịch Hy Lạp vào tháng 4 năm 1941. Sau khi đánh thủng phòng tuyến Metaxas và tiến chiếm Salonika, Balck cầm đầu một cụm thiết giáp đánh bọc hông quân New Zealand thuộc lực lượng viễn chinh Anh gần núi Ólympos. Thắng lợi này đã phản ánh năng lực điều khiển thiết giáp của ông ngay cả trong môi trường đồi núi hiểm trở của Hy Lạp. Sau khi quốc gia Nam Âu này thất thủ, Balck giữ chức thủ trưởng Lữ đoàn Thiết giáp 2 trong một thời gian ngắn. Kế đến, ông trở thành Ủy viên Kinh tế trong Ban Chỉ đạo Trang thiết bị Quân đội - Bộ Chiến tranh vào tháng 7 năm 1941 và được giao nhiệm vụ bù đắp các thiệt hại về phương tiện chiến tranh của quân đội Đức trong Chiến dịch Barbarossa trên chiến trường Liên Xô. 4 tháng sau, ông được phân công làm Thanh tra Quân cơ động và tại nhiệm cho đến ngày 16 tháng 5 năm 1942. Đây chính là chức vụ mà Guderian từng nắm giữ hồi năm 1938.\nGiai đoạn 1942-1944.\nKhi quân Đức bị chặn đứng ngay trước cửa ngỡ Moskva, Balck được cử đi thị sát và báo cáo tình hình mặt trận này cho chính quyền Hitler. Mặc dù đã trở nên nổi tiếng về tài dụng binh táo bạo và chiến thuật sáng tạo, Thanh tra Balck vẫn ao ước có thêm dịp mở mang kinh nghiệm tác chiến của mình. Và mong muốn ấy trở thành hiện thực vào tháng 5 năm 1942, khi Balck được phân công làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn Thiết giáp 11, một trong những sư đoàn được trang bị mạnh nhất của quân đội Đức, ở Nga. Chừng 3 tháng sau đó, ông được lên cấp hàm thiếu tướng vào ngày 1 tháng 8 năm 1942. Dưới sự chỉ huy mạnh bạo của Balck, Sư đoàn Thiết giáp 11 đã lập được nhiều thành tích trong chiến đấu. Thực hiện phương châm \"Hành quân đêm cứu mạng người\" do chính ông đề ra, Balck thường hay di chuyển sư đoàn mình trong các cuộc hành quân đêm và tấn kích các điểm yếu nhất nơi phòng tuyến Hồng quân Liên Xô vào lúc rạng đông. Ông cũng bỏ ra nhiều thời gian xuống thăm các trung đoàn của mình để đảo bảm mọi sĩ quan thuộc cấp đều tuân thủ kế hoạch của ông. Đồng thời, Balck thường xuyên duy trì liên lạc chặt chẽ với các đơn vị trong sư đoàn ông thông qua radio kể cả khi trong máu lửa của chiến trận. Ông đòi hỏi rất cao ở các cấp chỉ huy dưới quyền và không hề khoan thứ cho bất kỳ ai không đáp ứng được tiêu chuẩn của ông. Đã có hơn một sĩ quan bị huyền chức trong sự nghiệp của Balck.\nVào tháng 12 năm 1942, quân đội Liên Xô vây khốn Tập đoàn quân số 6 của tướng Friedrich Paulus trong thành phố Stalingrad. Trước tình hình đó, Thống chế Tư lệnh Cụm tập đoàn quân sông Đông Erich von Manstein lên kế hoạch huy động Tập đoàn Thiết giáp số 4 dưới quyền tướng Hermann Hoth và Quân đoàn Thiết giáp XLVIII dưới quyền tướng Otto von Knobelsdorff tấn công giải vây cho Tập đoàn quân số 6. Manstein lấy Sư Thiết giáp 11 của Balck làm đơn vị cơ động tác chiến dự bị sau lưng Quân đoàn Thiết giáp XLVIII. Ngày 7 tháng 12 năm 1942, khi quân Đức chưa kịp hội đủ lực lượng tấn công, nguyên soái Liên Xô Georgi K. Zhukov điều Tập đoàn xe tăng 5 đánh thọc sâu vào sườn Sư đoàn Bộ binh 336 Quân đoàn Thiết giáp XLVIII trên bờ tây sông Chir (một nhánh phụ lưu sông Đông) cách Stalingrad không xa. Trong khi 2 lữ đoàn thiết giáp Liên Xô đánh bật Sư Bộ binh 336 xuống phía nam, Balck cấp tốc hành quân từ Rostov về chống giữ chiến tuyến sông Chir. Hai đoàn quân thiết giáp chạm trán nhau tại Nông trường Quốc doanh số 79 trên phía bắc Verkhne Solonovski vào buổi chiều hôm ấy và giao chiến cho tới khi màn đêm buông xuống. Sau đó, bộ đội xe tăng Liên Xô trú lại trong nông trang để chờ bộ binh đến yểm trợ.\nNhắm thấy thời cơ tới, Balck bài trí một tiểu đoàn công binh cùng vài khẩu pháo phòng không 88 ly ở cửa trước nông trường quốc doanh và hạ lệnh cho các trung đoàn của mình tiến vòng qua nông trường rồi chốt giữ một ngọn đồi chế ngự cổng sau. Khi một đội hình bộ binh mô tô của Liên Xô tiến đánh nông trang trong rạng sáng ngày 8 tháng 12, xe tăng quân Đức tràn xuống đồi, tiến song song với đoàn bộ binh Xô Viết và thanh toán họ bằng hỏa lực súng máy ở cự ly 18,3 m để tiết kiệm đạn xuyên giáp. Tiêu diệt xong bộ binh mô tô Liên Xô, các chiến xa của Balck tiếp tục hành tiến về hướng nam theo con đường mà bộ binh Liên Xô đã đi trước đó và tiếp cận nông trường đúng lúc đoàn xe tăng Xô Viết đang tiến khỏi đây để thủ tiêu cái mà họ tưởng là sườn trái mỏng manh của Sư đoàn Bộ binh 336. Sau khi những quả pháo đầu tiên của bộ đội phòng không Đức gây rối loạn cho đội hình xe tăng Liên Xô, Balck liền tung quân thiết giáp đánh thốc vào lưng đối phương. Hai lữ đoàn thiết giáp Liên Xô đánh trả quyết liệt cho đến khi bị đè bẹp hoàn toàn vào cuối ngày hôm ấy. Trong cuốn sách \"Những trận tăng chiến\" (1956), cựu thiếu tướng Đức Friedrich von Mellenthin cho biết 53 xe tăng Liên Xô đã bị loại khỏi vòng chiến vào ngày 8 tháng 12, nhưng không có số liệu về thiệt hại của phía Đức. Tiếp theo sau chiến thắng ngày 8 tháng 12, Balck dẫn dắt sư đoàn mình đánh thêm nhiều trận nữa và hủy diệt Tập đoàn quân xung kích số 5 Liên Xô vào cuối năm 1942, qua đó ngăn chặn đối phương lập đầu cầu trên sông Chir. Tuy nhiên, những cuộc chiến đấu dai dẳng đã đem lại thiệt hại nặng nề về nhân lực và vật lực cho Sư Thiết giáp 11 trong khi sức mạnh hỏa lực của quân đội Liên Xô càng lúc càng được tăng cường. Kết thúc chung cuộc, Stalingrad thất thủ ngày 2 tháng 2 năm 1943 và Tập đoàn quân số 6 lọt vào danh sách tù binh của Liên Xô.\nSau khi thụ phong quân hàm trung tướng vào ngày 21 tháng 1 năm 1943, Balck được phân công làm Tư lệnh Quân đoàn Thiết giáp XIV đánh nhau với liên quân Anh-Mỹ tại Salerno trên chiến trường Ý. Tại đây, ông bị chấn thương nặng trong một vụ tai nạn máy bay và phải chuyển sang ngạch dự bị trong vòng vài tháng. Trong thời gian này, ông thụ phong cấp bậc Thượng tướng Thiết giáp (\"General der Panzertruppen\") vào ngày 2 tháng 11 năm 1943. Balck cuối cùng đã trở lại ngạch thường trực vào ngày 13 tháng 11 năm 1943, khi ông được bổ nhiệm chức Tư lệnh Quân đoàn Thiết giáp XXXXVIII (Tập đoàn Thiết giáp số 4) trên chiến trường Xô-Đức. Giữa ông với Đại tá Friedrich von Mellenthin – Tham mưu trưởng Quân đoàn Thiết giáp XXXXVIII – đã hình thành một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và tốt đẹp. Dù từng phục vụ dưới trướng các danh tướng Guderian và Rommel, Mellenthin trong tác phẩm \"Những trận tăng chiến\" (1956) đã không tiếc lời ca ngợi Balck là \"một trong những chỉ huy thiết giáp kiệt hiệt hất; kỳ thực, nếu Manstein là chiến lược gia vĩ đại nhất của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thì tôi nghĩ Balck đáng được xem là vị tướng đánh trận giỏi nhất của chúng ta\". Phát huy tối đa hiệu quả của chiến thuật hành quân đêm và tập trung sức mạnh hỏa lực tại các điểm xung yếu, Balck chỉ huy quân đoàn mình đánh nhiều trận lớn gần Tarnopol, Radomyshl và Kiev, giành thêm nhiều chiến thắng khó nhọc trước các thành phần thuộc Tập đoàn quân số 60 cùng 2 tập đoàn quân Liên Xô khác trong giai đoạn cuối năm 1943 – đầu năm 1944. Do luôn giữ liên lạc chặt chẽ với các sĩ quan cấp dưới (ngay cả khi trong nước sôi lửa bỏng của chiến trận), Balck không gặp khó khăn gì đáng kể trong việc vận động xe tăng đánh thọc vào sườn đối phương. \nNửa đầu năm 1944, quân đoàn Balck được chuyển sang biên chế của Tập đoàn Thiết giáp số 1 thuộc Cụm Tập đoàn quân Bắc Ukraina do Thống chế Walter Model chỉ huy. Trong một lần Model xuống thăm Bộ Tư lệnh Quân đoàn Thiết giáp XLVIII, sự bất đồng của Balck với phong cách cầm quân có phần lập dị của vị thủ trưởng đã dẫn đến một \"trận cãi vã kinh thiên động địa\" giữa hai ông. Kể từ đó, Model không bao giờ đi thăm Quân đoàn Thiết giáp XLVIII nữa, nhưng vị thống chế vẫn luôn là người đầu tiên gửi điện mừng mỗi khi Balck được bổ nhiệm chức vụ mới. Khi quân đội Liên Xô phát động một chiến dịch tấn công quy mô lớn nhằm vào Cụm Tập đoàn quân Bắc Ukraina vào tháng 7, Black huy động các Sư đoàn Thiết giáp số 1 và 8 tiến hành phản công nhưng bị đẩy lui với thiệt hại lớn. Thừa thắng, quân đội Liên Xô đánh chiếm Lublin vào ngày 1 tháng 8 năm 1944. Tập đoàn Thiết giáp số 4 bị đánh bật qua sông Wisla trong khi Quân đoàn Thiết giáp XLVIII và Tập đoàn quân số 1 phải rút chạy vào miền núi Karpat. Để hạn chế hậu quả của thảm họa này, Bộ Tư lệnh Tối cao Đức thăng chức Balck lên Tư lệnh và Mellenthin lên Tham mưu trưởng Tập đoàn Thiết giáp số 4 vào cuối tháng 8 – đầu tháng 9 năm 1944. Hai ông tổ chức phản kích gần Baranov và chặn đứng một mũi tấn công lớn của quân Liên Xô trên sông Wisla, làm chiến tuyến tại đây được tạm thời ổn định trong 4 tháng tới. Vì những chiến công như vậy, Balck trở thành một trong 27 quân nhân duy nhất được tưởng thưởng Huân chương Thập tự Hiệp sĩ đính kèm Lá sồi, Thanh kiếm và Kim cương.\nGiai đoạn 1944-1945.\nThừa nhận năng lực dụng binh của Balck, Bộ Tư lệnh Tối cao Đức quyết định chuyển Balck sang Mặt trận Tây Âu vào cuối tháng 9 năm 1944 để vãn hồi tình hình quân đội Đức trong khu vực đó. Sau khi viên đại tướng thất sủng Johannes Blaskowitz bị thôi chức Tư lệnh Cụm tập đoàn G (ban đầu bao gồm các Tập đoàn quân số 1, 19 và Tập đoàn Thiết giáp số 5 do tướng Hasso von Manteuffel chỉ huy), Balck và Mellenthin lần lượt được cử làm tư lệnh và tham mưu trưởng cụm tập đoàn quân này vào ngày 21 tháng 9. Hai ông nhận lệnh cản phá các mũi tấn công của Tập đoàn quân số 3 Hoa Kỳ tại Lorraine và Cụm Tập đoàn quân số 6 Hoa Kỳ (gồm Tập đoàn quân số 7 Mỹ và Tập đoàn quân số 1 Pháp) tại Alsace trên mạn bắc Pháp. Mặc dù Cụm Tập đoàn quân G đã bị hao tổn nặng nề trong các trận chiến trước đó ở Nam Pháp và Alsace-Lorraine, Balck và Mellenthin nhanh chóng xây dựng và chính đốn lại một phần lực lượng của mình với sự hỗ trợ đắc lực từ Bộ Tổng tư lệnh Chiến trường phía Tây do Thống chế Gerd von Rundstedt đứng đầu. Tuy vậy, vào tháng 10 năm 1944, Hitler phát lệnh cho Balck thuyên chuyển Tập đoàn Thiết giáp số 5 và nhiều đơn vị khác khỏi Cụm tập đoàn quân G để thực hiện Chiến dịch tấn công Ardennes mà Hitler đang ráo riết chuẩn bị. Sự kiện này đã để lại cho Balck một cụm tập đoàn quân ốm yếu với mọi đơn vị đều không có trình độ và kinh nghiệm thực chiến, ngoại trừ 7.000 quân của Sư đoàn Xung kích số 361 dày dạn.\nĐối mặt với ưu thế vượt trội về quân số và hỏa lực của phe Đồng Minh, bộ đôi Balck-Mellenthin áp dụng chiến thuật phòng ngự mềm dẻo và thành lập các tổ xe tăng tác chiến cơ động gọi là \"Panzerkampftruppen\" - với mỗi tổ gồm 2 trung đội tăng và 2 trung đội bộ binh cơ giới. Quân hai ông đã cản được các đợt công kích của quân Mỹ vào Metz, kìm hãm cuộc tiến công biên giới Pháp-Đức của quân Đồng Minh trong vòng hàng tháng trời đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ Tư lệnh Chiến trường phía Tây chuẩn bị và phát động Chiến dịch Ardennes ngày 16 tháng 12. Mặc dù Cụm Tập đoàn quân G vẫn không thể ngăn ngừa Tập đoàn quân số 3 Mỹ chiếm Metz ngày 21 tháng 11 và Tập đoàn quân số 1 Pháp chiếm Strasbourg ngày 24 tháng 11, hầu hết các sư đoàn Đồng Minh vẫn còn cách phòng tuyến \"Bức tường phía Tây\" (\"Westwall\") trên biên giới Pháp-Đức đến 10 km trong thời điểm ngày 15 tháng 12 năm 1944. Balck sau này ghi nhận: \"Khi chiến dịch Ardennes bùng nổ, quân Mỹ chấm dứt các đợt tấn công của họ và lui về phòng tuyến Maginot, và chúng tôi đã thở được ra hơi. Chúng tôi đã cầm cự lâu hơn dự kiến đến 4 tuần, và chúng tôi cảm thấy mình đã làm được điều khó tin.\"\nCả giận trước việc Balck để mất các thành phố lớn của Alsace-Lorraine và nghe theo sự xúi giục của Chỉ huy trưởng lực lượng SS Heinrich Himmler, Hitler tước quyền chỉ huy Cụm tập đoàn G của ông vào ngày 24 tháng 12 năm 1944. Vài tuần trước đó, mâu thuẫn giữa Mellenthin với Đại tướng Heinz Guderian (giờ đây là Tham mưu trưởng Lục quân kiêm Tổng thanh tra Tăng-Thiết giáp) đã dẫn đến việc Mellenthin bị ông này huyền chức và quản thúc tại gia. Tuy nhiên, do Balck là bạn thân cũ của Guderian nên vị Tham mưu trưởng Lục quân đã thuyết phục Hitler giao cho Balck một chức chỉ huy mới thay vì tước quân tịch ông. Một lần nữa, ông được điều sang chiến trường Đông Âu và lãnh nhiệm chức Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Balck ở Hungary. Với biên chế bao gồm Tập đoàn quân số 6 được tái lập của Đức và hai tập đoàn quân Hungary, cụm tập đoàn quân của Balck đã căng sức chống đỡ các đợt tấn công của hồng quân Liên Xô trong giai đoạn cuối năm 1944 - đầu năm 1945. Giữa tháng 1 và tháng 2 năm 1945, Balck cố giải vây cho quân đồn trú Đức tại Budapest nhưng bị thất bại. Không thể cự nổi các binh đoàn hùng hậu của Liên Xô, Balck rút đội quân tàn tạ của mình sang hướng tây và đầu hàng Quân đoàn XX Hoa Kỳ tại Áo vào ngày 8 tháng 5 năm 1945.\nSau thế chiến.\nSau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Balck tiếp tục bị giam cầm trong trại tù binh của Đồng Minh cho đến năm 1947. Sang năm 1948, ông bị bắt giữ và buộc tội giết người vì đã tự ý hành quyết Trung tá Johann Schottke – một chỉ huy pháo binh bị ông phát hiện say rượu khi đang làm nhiệm vụ gần Saarbrücken vào cuối tháng 11 năm 1944. Tòa án phát hiện rằng Balck đã ra lệnh xử bắn Schottke mà không qua xét xử đúng luật. Ông bị kết án 3 năm tù giam, nhưng được phóng thích sau 1 năm rưỡi ngồi tù. Sau khi ra tù, ông làm nhân viên nhà ga và sống đời bình lặng ở thành phố Stuttgart. Mặc dù Balck từ chối sự phỏng vấn của Bộ phận Lịch sử - Quân đội Hoa Kỳ, ông cùng cựu thiếu tướng Mellenthin đã tham dự nhiều buổi tranh luận và hội thảo với các chỉ huy cấp cao của NATO tại trường Cao đẳng Chiến tranh Lục quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1970. Trong những cuộc họp này, cả hai ông đều có rất nhiều đóng góp đến sự phát triển của học thuyết \"Tác chiến Không Lục\" (\"AirLand Battle\") của quân đội Mỹ. Tự truyện của Balck là \"Ordnung im Chaos\" (tạm dịch: \"Trật tự trong Hỗn mang\") đã được xuất bản tại Đức năm 1981 và được thiếu tướng Hoa Kỳ David T. Zabecki cùng thượng tá Hoa Kỳ Dieter J. Biedekarken dịch sang tiếng Anh với nhan đề \"Order in Chaos: The Memoirs of General of Panzer Troops Hermann Balck\" năm 2015. Cựu thượng tướng thiết giáp Hermann Balck từ trần ở Erbenbach—Rockenan, Württemberg, Cộng hòa Liên bang Đức vào ngày 29 tháng 11 năm 1982 và được mai táng ở Asperg, gần Ludwigsburg. Ngày nay, những thắng lợi lớn của ông trong Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn được nghiên cứu tỉ mỉ trong Cao đẳng Tổng tham mưu và Chỉ huy Quân đội Hoa Kỳ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Australaria australasia from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Australaria australasia là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Fasciolariidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Huai Mek (huyện) nhé", "role": "user" }, { "content": "Huai Mek () là một huyện (‘‘amphoe’’) ở phía tây của tỉnh Kalasin, đông bắc Thái Lan.\nĐịa lý.\nCác huyện giáp ranh (từ đông bắc theo chiều kim đồng hồ) là Nong Kung Si, Yang Talat của tỉnh Kalasin, Chuen Chom của tỉnh Maha Sarakham và Kranuan của tỉnh Khon Kaen.\nLịch sử.\nTiểu huyện (\"King Amphoe\") đã được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1970, khi ba \"tambon\" Huai Mek, Kut Don và Bueng Na Riang được tách khỏi Yang Talat. Đơn vị này đã được nâng thành huyện ngày 12 tháng 4 năm 1977.\nHành chính.\nHuyện này được chia thành 9 phó huyện (\"tambon\"), các đơn vị này lại được chia thành 81 làng (\"muban\"). Có hai thị trấn (\"thesaban tambon\") - Huai Mek and Kham Yai mỗi đơn vị nằm trên một số vùng đất của tambon cùng tên. Ngoài ra có 9 tổ chức hành chính tambon (TAO).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Động đất và sóng thần Sanriku 869", "role": "user" }, { "content": " tấn công vào khu vực xung Sendai ở phần phía bắc của Honshu vào ngày 9 tháng 7, 869 (26 tháng 5 năm Jōgan 11). Trận động đất được ước tính có độ lớn 8,6 theo thang độ lớn sóng mặt. Đợt sóng thần gây ngập lụt trên diện rộng ở đồng bằng Sendai, với lớp trầm tích cát kép dài từ bờ biển.\nTên gọi.\nSanriku là một tên gọi trước đây của khu vực mà ngày nay là địa phận của tỉnh Aomori, Iwate và một vài phần của Miyagi. Trận động đất này còn có tên gọi khác là ở Nhật Bản, với Jōgan là niên hiệu trong giai đoạn từ 859 đến 877.\n\"Nihon Sandai Jitsuroku\" đã ghi nhận trận động đất và sóng thần năm 869 ở tỉnh Mutsu.\nMôi trường kiến tạo.\nPhần phía bắc của đảo chính Honshu nằm trên ranh giới hội tụ, trong đó mảng Thái Bình Dương bị hút chìm bên dưới mảng Okhotsk (được xem làm một mảng nhỏ của mảng Bắc Mỹ). Ranh giới này liên quan đến một loạt các trận động đất lớn lịch sử, bắt nguồn hoặc từ đứt gãy dọc theo bề mặt mảng hoặc do các mảng trượt lên nhau, nhiều trận động đất gây sóng thần tàn phá nặng nề như trận động đất Sanriku-Meiji 1896.\nPhá hủy.\nTrong khu vực xảy ra động đất, triều đình Nhật chiến đấu với người địa phương ở vùng Tōhoku, Emishi, vào thời điểm đó. Theo \"Nihon Sandai Jitsuroku\", khoảng 1000 người dân thiệt mạng do sóng thần.\nDo không có các nguồn có thể tin cậy, nên có những giai thoại về trận động đất ở vùng Tōhoku đến bán đảo Bōsō.\nSóng thần gây ngập lụt trên diện rộng ở đồng bằng Sendai, phá hủy thị trấn Tagajō. Các nghiên cứu khảo cổ xác định những vết tích về các ngôi nhà thế kỷ 8 và 9 bên dưới thị trấn, chúng bị phủ bởi lớp trầm tích có tuổi từ giữa thế kỷ 10.\nĐộng đất và sóng thần.\nĐộ lớn ước tính của trận động đất là 8,6 theo thang độ lớn sóng mặt, giá trị này được tính dựa trên mô hình về sóng thần. Khu vực nghiên cứu khoảng dài và rộng với biên độ dịch chuyển phù hợp với sự phân bố và cấp độ ngập lụt quan sát được.\nCác khu vực ngập lụt do sóng thần ở đồng bằng Sendai được vẽ lại từ các dữ liệu cát trầm tích đã được định tuổi. Sóng thần gây ngập ít nhất là sâu vào đất liền.\nTai biến động đất trong tương lai.\nCó 3 lớn trầm tích do sóng thần được xác định trong Holocene ở đồng bằng Sendai, tất cả các lớp này có tuổi trong vòng 3.000 năm trở lại, người ta đề xuất rằng tuần suất xuất hiện lại các trận động đất có sóng thần lớn là từ 800 đến 1.100 năm. Năm 2001, người ta tính rằng có vẻ như đợt sóng thần lớn tấn công đồng bằng Sendai lớn hơn 1.100 đã trôi qua. Đối với 2 đợt sóng thần lớn được ghi nhận trước đợt sóng thần 869, một vào thời điểm giữa 1000 TCn và 500 TCN và một đợt khác vào khoảng 500 TCN và 1. Năm 2007, có thể có một trận động đất với độ lớn Mw8,1–8,3 được ước tính xảy ra với xác suất 99% trong vòng 30 năm sau. Động đất và sóng thần Sendai 2011 lớn hơn sự kiện dự đoán, nhưng xảy ra vào cùng địa điểm và đã gây ngập lụt ở khu vực Sendai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Vera, Tây Ban Nha không ?", "role": "user" }, { "content": " \nVera là một đô thị thuộc tỉnh Almería, ở cộng đồng tự trị Andalusia, Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích 58 km², dân số năm 2005 là 10.439 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Monteplain from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Monteplain là một xã của tỉnh Jura, thuộc vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền đông nước Pháp.\nXem thêm.\nTheo điều tra dân số 1999, xã có dân số là 154.<br>Dân số ước tính vào năm 2006 là 164 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cảnh sát, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Cảnh sát hay công an là một trong những lực lượng vũ trang của một nhà nước và là công cụ chuyên chế của chính quyền đang điều hành nhà nước đó.\nHoạt động trong khuôn khổ pháp luật với những quyền hạn thông thường rất lớn, cảnh sát có nhiệm vụ đảm bảo ổn định cho xã hội, trật tự kỉ cương, bảo vệ lợi ích của nhà nước trong xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cảnh sát được sử dụng các biện pháp theo luật định và những biện pháp riêng có để thực thi công vụ đó.\nTrên thế giới thì nhiệm vụ cụ thể phổ biến của cảnh sát thường là phòng chống tội phạm trong phạm vi toàn Quốc và xử lý các vi phạm pháp luật khác như: vi phạm luật giao thông, luật kinh doanh, luật hình sự...\nLịch sử ra đời.\nLịch sử ra đời của cảnh sát từ rất xa xưa, ngay từ những ngày đầu khi các nhà nước cổ đại đầu tiên như Ai Cập cổ đại, Lưỡng Hà, Ấn Độ Trung Hoa, Hy Lạp cổ đại, La Mã ra đời thì cùng với đó là sự ra đời của những lực cảnh sát sơ khai đầu tiên.\nAi Cập.\nCác chiến binh bảo vệ ngôi đền Hathheppsut ở Ai Cập cổ đại có thể coi là một trong những lực lượng cảnh sát đầu tiên trên thế giới thời kỳ cổ đại. \nLa Mã.\nTrong Đế chế La Mã, một bộ phận quân đội cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh. Sẽ có một bộ phận lính La Mã tách khỏi quân đoàn của họ và được bố trí hoạt động với dân thường để thực hiện các nhiệm vụ thực thi pháp luật. Các thành phố La Mã cũng thường thuê những người canh gác địa phương để cung cấp thêm một số dịch vụ an ninh.\nTrung đại.\nTrong thời kỳ Trung Đại thì có những lực lượng chuyên bảo vệ trật tự trị an là các chiến binh, hiệp sĩ, nông dân và thương nhân có vũ trang hoặc các đơn vị quân đội cũng có vai trò như một lực lượng cảnh sát.\nTrung Quốc.\nThời nhà Minh của Trung Quốc có lực lượng cảnh sát mật hoàng gia khét tiếng tên là Cẩm Y Vệ. Khởi nguồn của lực lượng Cẩm Y Vệ là vào đầu những năm 1360, khi đó thành viên Cẩm Y Vệ là những vệ sĩ riêng của Minh Thái Tổ để bảo vệ ông trong trận chiến với thủ lĩnh phiến quân Trần Hữu Lượng.\nTây Ban Nha.\nỞ Tây Ban Nha thời trung đại, lực lượng Santas Hermandades hay 'tình anh em thánh thiện' là một hiệp hội gìn giữ hòa bình của các cá nhân có vũ trang hoạt động chủ yếu ở các thành phố. Vì các vị vua Tây Ban Nha thời trung đại thường không thể có được sự bảo vệ đầy đủ nên các liên đoàn bảo vệ bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XII để giúp đỡ hoàng đế chống lại các băng cướp và chống lại những người thuộc giới quý tộc làm loạn. Tổ chức \"Santas Hermandades\" chỉ tồn tại tạm thời nhưng đã trở tiền đề cho việc phát triển các lực lượng giữ gìn an ninh chuyên nghiệp hơn sau này ở Tây Ban Nha và ở nơi khác.\nCác nền văn minh Tây Bán Cầu.\nCác nền văn minh ở phía Tây Bán Cầu thời kỳ Thời kỳ tiền Colombo như Aztec, Maya, Inca cũng có những lực lượng bảo vệ an ninh bên trong lãnh thổ giống như cảnh sát.\nHiện đại.\nLực lượng cảnh sát thống nhất và hoạt động có tổ chức đầu tiên trên thế giới đã ra đời vào năm 1667 tại thành phố Paris, Pháp dưới sự cai quản của nhà vua Louis XIV. Ngày 12 tháng 3 năm 1829, một lực lượng cảnh sát mặc đồng phục đầu tiên trên thế giới đã được thành lập ở Pháp theo sắc lệnh của quốc gia này, lực lượng này được gọi là \"sergents de ville\" có nghĩa là \"trung sĩ thành phố\" do Gabriel-Nicolas de la Reynie thành lập. Cũng vào năm 1829 ở Vương quốc Anh, đạo luật cảnh sát đô thị đã chính thức được thông qua ở Luân Đôn, đánh dấu sự ra đời của một lực lượng cảnh sát kết hợp với tòa án đầu tiên trên thế giới khi đạo luật này nghiêm cấm các cảnh sát không được tùy tiện trừng trị, tra tấn tội phạm trực tiếp mà phải đưa tội phạm về nơi giam giữ và thông qua xét xử ở tòa án để luận tội (trừ trường hợp tội phạm chống trả quyết liệt khi bị bắt).\nCảnh sát mang đậm bản chất của nhà nước và giai cấp thống trị, là công cụ bạo lực giúp giai cấp thống trị bảo vệ quyền lợi của mình từ bên trong, khác với quân đội là bảo vệ từ bên ngoài.\nNgoài ra xuất phát từ bản chất của nhà nước không chỉ có tính giai cấp mà còn có tính xã hội, nên các lực lượng cảnh sát ngoài chủ yếu bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị và nhà nước cầm quyền còn có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho các giai cấp xã hội khác.\nCảnh sát của các nước trên Thế giới.\nÚc.\nTại Úc có hai cấp cảnh sát khác nhau là cảnh sát bang và cảnh sát liên bang.\nViệt Nam.\nTại Việt Nam lực lượng này có tên là Cảnh sát Nhân dân Việt Nam, là một bộ phận của Công an Nhân dân Việt Nam, đặt dưới sự quản lý của Bộ Công an.\nNhiệm vụ.\nNgày truyền thống là ngày 20 tháng 7 năm 1962, lấy theo ngày công bố Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.\nNgành an ninh ở Việt Nam.\nTại Việt Nam, ngành công an là ngôi nhà chung của rất nhiều ngành nghề lĩnh vực trong xã hội. Do đặc thù, hàng năm ngành công an cũng thi tuyển thêm các chuyên gia khác mà trong hệ thống đào tạo của ngành chưa có như: kế toán, kỹ thuật viên, công nghệ thông tin, bác sĩ, nhà báo v.v... cho các cơ quan trực thuộc ngành.\n Để đảm bảo an ninh và sự bình yên về mọi mặt cho Tổ quốc, ngành công an được chia thành hai lực lượng chính:\nMột số nghề nghiệp trong lực lượng an ninh:\nNhiệm vụ: phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động xâm hại an ninh, trật tự trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng do các thế lực thù địch và tội phạm tiến hành, bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc.\nNhiệm vụ: phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu và hoạt động thâm nhập, phá hoại của các thế lực bên ngoài. Họ thường xuyên phải hoạt động trong điều kiện nguy hiểm và căng thẳng. Giữ bí mật tuyệt đối là một yêu cầu bắt buộc của hoạt động tình báo. Để được chọn vào đội ngũ này phải vượt qua những điều kiện hết sức khắt khe, phải là những người có trình độ rất giỏi, đặc biệt mưu trí, dũng cảm với thần kinh thép và bản lĩnh tuyệt vời.\nNhiệm vụ: đấu tranh chống lại các âm mưu hoạt động phá hoại về kinh tế do các thế lực thù địch và các loại tội phạm kinh tế gây ra, bảo vệ bí mật nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm sự an toàn của các cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài sản quốc gia, các mục tiêu kinh tế trọng điểm, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, các cán bộ quản lý kinh tế v.v...\nNhiệm vụ: đấu tranh với các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, bảo mật an toàn dữ liệu mạng của bộ Công an.\nMột số nghề nghiệp trong lực lượng cảnh sát\nNhiệm vụ: Quản lý trật tự nơi công cộng, đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý chứng minh nhân dân, quản lý kho vũ khí, vật liệu nổ, quản lý con dấu, quản lý những người trực thuộc diện quản chế, cải tạo tại chỗ, cải tạo không giam giữ, án treo, hướng dẫn nghiệp vụ cho lực lượng cảnh sát khu vực, công an xã, bảo vệ dân phố, dân phòng v.v...\nNhiệm vụ: Tiến hành triển khai các biện pháp trinh sát và hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật để điều tra, khám phá tội phạm về trật tự xã hội (trừ tội phạm về ma túy, tội phạm trật tự quản lý kinh tế và chức vụ), góp phần bảo vệ tài sản cũng như tính mạng, quyền lợi hợp pháp của công dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.\nNhiệm vụ: Nghiên cứu, nắm bắt tình hình hoạt động của các loại tội phạm ma tuý, từ đó phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh của tội phạm về ma tuý để đề xuất, hướng dẫn các biện pháp đấu tranh phòng ngừa. Bên cạnh đó, nghiên cứu phương thức, thủ đoạn và quy trình hoạt động của tội phạm ma tuý, tiến hành điều tra tội phạm về ma tuý theo quy định của Bộ luật Hình sự. Một nhiệm vụ khác không kém phần quan trọng là phối hợp với các đơn vị trong và ngoài ngành để tổ chức công tác tuyên truyền, phòng chống tội phạm ma tuý.\nNhiệm vụ: Tiến hành các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa và ngăn chặn các đối tượng có hành vi xâm phạm trái phép đối với tài sản của Nhà nước, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội có hành vi trục lợi bất chính dưới các hình thức như: tham nhũng, hối lộ, biển thủ công quỹ Nhà nước, lừa đảo, các tội phạm về chức vụ và tội phạm kinh tế khác được quy định trong Bộ luật Hình sự.\nNhiệm vụ: Bảo vệ người dân khỏi hỏa hoạn, quản lý, tổ chức, chỉ đạo và thực hiện nghiêm nhiệm vụ phòng cháy và chữa cháy trên toàn quốc, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội.\nNhiệm vụ: Canh gác, bảo vệ những mục tiêu quan trọng như: Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phủ Chủ tịch, các Đại sứ quán, tổ chức tuần tra, cơ động chiến đấu kịp thời, trấn áp mọi hoạt động phá rối an ninh trật tự; bảo vệ các phiên toà, bắt giữ, áp tải bị can, dẫn giải người làm chứng, quản lý kho vật tư và hỗ trợ công tác thi hành án v.v...\nNhiệm vụ: Tổ chức, chỉ đạo và tiến hành công tác đảm bảo an toàn trật tự giao thông, giáo dục và tuyên truyền cho người dân về Luật giao thông.\nNhiệm vụ: Trấn áp tội phạm, hỗ trợ công tác giải cứu con tin, chống khủng bố góp phần bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự công cộng.\nTrang bị.\nDo luôn phải thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm và có thể bỏ mạng bất cứ lúc nào như truy bắt tội phạm, chống khủng bố nên các lực lượng cảnh sát luôn được trang bị nhiều công cụ đặc biệt. Phổ biến là các vũ khí như súng, dùi cui, áo chống đạn, mũ sắt, lá chắn... Thậm chí trong một số trường hợp đặc biệt như khi chống bạo loạn cảnh sát được sử dụng vòi rồng, lựu đạn hơi cay...", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Rhyacophila perplana á", "role": "user" }, { "content": "Rhyacophila perplana là một loài Trichoptera trong họ Rhyacophilidae. Chúng phân bố ở miền Tân bắc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Saint-Didier-sur-Chalaronne không ?", "role": "user" }, { "content": " \nSaint-Didier-sur-Chalaronne là một xã ở tỉnh Ain, vùng Auvergne-Rhône-Alpes thuộc miền đông nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Hylaeus mediovirens, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Hylaeus mediovirens là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1913.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Aciagrion balachowskyi không ?", "role": "user" }, { "content": "Aciagrion balachowskyi là một loài chuồn chuồn kim trong họ Coenagrionidae.\nLoài này được xếp vào nhóm loài thiếu dữ liệu trong sách Đỏ của IUCN năm 2008.\n\"Aciagrion balachowskyi\" được miêu tả khoa học năm 1982 bởi Legrand.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Perdita aculeata không ?", "role": "user" }, { "content": "Perdita aculeata là một loài Hymenoptera trong họ Andrenidae. Loài này được Timberlake mô tả khoa học năm 1968.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Diadasia afflicta nha ?", "role": "user" }, { "content": "Diadasia afflicta là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Cresson mô tả khoa học năm 1878.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Sân bay Ulan-Ude from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Sân bay Ulan-Ude (Baikal) (tiếng Nga:\"Аэропорт Улан-Удэ (Байкал)\") là một sân bay nằm cách 12 km về phía tây của Ulan-Ude, Nga. Sân bay này có một nhà ga xây đầu thập niên 1980 với công suất 400 lượt khách mỗi giờ. Năm 2005, sân bay này đã phục vụ 150.000 lượt khách.\nNăm 2006, đường băng được xây lại với kinh phí 10 triệu USD (330 triệu rúp) và thêm 230 triệu rúp nữa trong năm 2007 để nâng cấp và hoàn thiện các hạng mục khác. Năm 2006, chính phủ Nga thông báo quyết định lập một đặc khu kinh tế cách Ulan-Ude 170 km, bên hồ Baikal, cùng với kế hoạch nâng cấp sân bay (kéo dài đường băng số 1, mở đường băng thứ 2 và các hạng mục liên quan). Sân bay này có thể đón 1 triệu lượt khách vào năm 2010.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Mitrella inesitae á", "role": "user" }, { "content": "Mitrella inesitae là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Columbellidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về 435 Ella từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "435 Ella là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Max Wolf và A. Schwassmann phát hiện ngày 11.9.1898 ở Heidelberg. Không biết rõ nguồn gốc tên của nó.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về 4416 Ramses ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "4416 Ramses (4530 P-L) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 24 tháng 9 năm 1960 bởi Cornelis Johannes van Houten, Ingrid van Houten-Groeneveld và Tom Gehrels ở Đài thiên văn Palomar.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Hypectopa ornithograpta?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Hypectopa ornithograpta là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Nó được tìm thấy ở Papua New Guinea.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Estavayer-le-Lac không ?", "role": "user" }, { "content": "Estavayer-le-Lac là một đô thị thuộc bang Fribourg, nằm bên bờ nam của hồ Neuchâtel. Estavayer-le-Lac nằm giữa Yverdon và Berne. Đây là huyện lỵ huyện Broye.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Tinodes austrotagalica ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Tinodes austrotagalica là một loài Trichoptera trong họ Psychomyiidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Grand Theft Auto?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Grand Theft Auto (viết tắt là GTA) là một dòng trò chơi điện tử phiêu lưu hành động do David Jones và Mike Dailly sáng tạo nên. Các tựa game sau đó được phát triển dưới sự giám sát của các anh em Dan và Sam Houser, Leslie Benzies và Aaron Garbut. Game chủ yếu do công ty của Anh là Rockstar North (trước đây là DMA Design) phát triển, và được phát hành bởi công ty mẹ của nó, Rockstar Games. Tên của loạt đề cập đến thuật ngữ \"ăn cướp xe\", được sử dụng ở Mỹ để chỉ những tay trộm xe cơ giới.\nLối chơi của game tập trung vào thế giới mở, ở đó người chơi có thể hoàn thành các nhiệm vụ để phát triển một câu chuyện tổng thể, cũng như tham gia vào các hoạt động phụ khác nhau. Hầu hết lối chơi xoay quanh việc lái xe và bắn súng, thỉnh thoảng có các yếu tốnhập vai và lét lút. Loạt cũng có các yếu tố của các trò chơi beat 'em up trước đó từ kỷ nguyên 16-bit. Các trò chơi trong loạt \"Grand Theft Auto\" lấy bối cảnh ở các địa phương hư cấu được mô phỏng theo các thành phố ngoài đời thực, tại nhiều thời điểm khác nhau trải dài từ đầu thập niên 1960 cho đến những năm 2010. Bản đồ của trò chơi gốc bao gồm ba thành phố—Liberty City (dựa trên Thành phố New York), San Andreas (dựa trên San Francisco), và Vice City ( dựa trên Miami)—nhưng các tựa game sau này có xu hướng tập trung vào một bối cảnh duy nhất; thường là một trong ba ngôn ngữ gốc, mặc dù đã được sửa lại và mở rộng đáng kể. Loạt xoay quanh những nhân vật chính khác nhau, họ cố gắng vượt qua các cấp bậc của thế giới tội phạm ngầm, mặc dù tùy theo mỗi tựa game thì động cơ của họ đều khác nhau. Nhân vật phản diện thường là những nhân vật đã phản bội nhân vật chính hoặc tổ chức của họ, hoặc những nhân vật có tác động mạnh, cản trở sự tiến bộ của nhân vật chính. Một số cựu chiến binh trong lĩnh vực điện ảnh và âm nhạc đã lồng tiếng cho các nhân vật trong trò chơi, bao gồm Ray Liotta, Dennis Hopper, Samuel L. Jackson, William Fichtner, James Woods, Debbie Harry, Axl Rose và Peter Fonda.\nDMA Design bắt đầu loạt vào năm 1997 bằng việc phát hành \"Grand Theft Auto\". , loạt gồm bảy tựa độc lập và bốn gói mở rộng. Tựa game chính thứ ba, \"Grand Theft Auto III\", phát hành năm 2001, được coi là một trò chơi mang tính bước ngoặt, vì nó đã đưa loạt đến bối cảnh ba chiều (3D) và trải nghiệm phong phú hơn. Các tựa game tiếp theo đã tiếp nối và xây dựng dựa trên khái niệm được thiết lập trong \"Grand Theft Auto III\", và nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt. Chúng đã ảnh hưởng đến các trò chơi hành động thế giới mở khác và dẫn đến nhãn \"Grand Theft Auto nhái\" trên các tựa game tương tự.\nLoạt game đã được giới phê bình đánh giá cao, với tất cả các mục 3D chính trong loạt thường xuyên được xếp hạng trong dánh sách những gamehay nhất vàtrò chơi điện tử bán chạy nhất; bán ra hơn 370 triệu bản, trở thành loạt trò chơi điện tử bán chạy thứ năm mọi thời đại. Năm 2006, \"Grand Theft Auto\" được giới thiệu trong danh sách các biểu tượng thiết kế của Anh trong Cuộc thi tìm kiếm thiết kế vĩ đại nướcAnh do BBC và Design Museum tổ chức. Năm 2013, \"The Telegraph\" đã xếp hạng \"Grand Theft Auto\" nằm trong số những mặt hàng xuất khẩu thành công nhất của Anh. Loạt cũng dính nhiềutranh cãi vì tính chấtngười lớn và chủ đề bạo lực.\nCác yếu tố chung.\nLối chơi.\nTrong trò chơi, người chơi sẽ vào vai một kẻ tội phạm trong một thành phố rộng lớn. Trò chơi sẽ dẫn dắt nhân vật từ một kẻ vô danh trở thành một tay giang hồ lừng lẫy trong các băng nhóm tội phạm có tổ chức. Người chơi sẽ được các nhân vật có thế lực trong thế giới ngầm giao nhiều nhiệm vụ, đòi hỏi phải được hoàn thành theo cốt truyện có sẵn. Các nhiệm vụ trong trò chơi thường là ám sát và các loại tội ác khác, tuy nhiên cũng có khi nhiệm vụ đặt ra cho người chơi là lái xe taxi, chữa cháy, đua xe đường phố, lái xe buýt hoặc học cách điều khiển phi cơ hay trực thăng.\nTrong những tựa trò chơi sau, nhất là những phiên bản ra đời sau \"Grand Theft Auto 2\", cốt truyện của trò chơi được chăm chút hơn, trong đó người chơi phải trải qua một vài sự việc bất ngờ không may mắn (ví dụ: bị phản bội và bỏ mặc đến chết), và sự việc này như một động lực để nhân vật chính có thể tiến lên một địa vị cao hơn trong thế giới ngầm, và có thể dẫn đến chiến thắng cuối cùng của nhân vật vào cuối câu chuyện. loạt \"Grand Theft Auto\" là một trong các trò chơi thuộc thể loại hành động tự do, cho phép người chơi được tự do quyết định họ muốn làm gì và làm bằng cách nào, bằng rất nhiều phương tiện vận chuyển cũng như vũ khí. Không giống nhiều trò chơi hành động truyền thống khác có cấu trúc kiểu một loạt các việc phải làm nối tiếp nhau có nội dung tuyến tính, trong \"GTA\" người chơi có thể chọn nhiệm vụ nào họ muốn làm, và mối quan hệ của nhân vật chính với các nhân vật khác sẽ dựa trên những sự lựa chọn đó. Người chơi có thể tự do khám phá các khu vực trong trò chơi mọi lúc họ muốn, và là một ví dụ cho các trò chơi sử dụng môi trường thế giới mở. Các ngoại lệ trong trò chơi là: các nhiệm vụ xuất hiện theo thứ tự, cốt truyện trò chơi tuyến tính, và một số khu vực/thành phố trong trò chơi phải được mở cửa để trò chơi có thể được hoàn thành.\nBối cảnh.\nloạt Grand Theft Auto lấy khung cảnh là một đất nước Mỹ không có thật, vào các thời điểm khác nhau. Ba địa điểm chính trong các phần là: thành phố Liberty mô phỏng thành phố New York, thành phố Vice mô phỏng Miami, cuối cùng là San Andreas mô phỏng ba thành phố Los Angeles, Las Vegas, và San Francisco.\nCác phiên bản sau của trò chơi, đặc biệt là bước chuyển từ nền tảng 2D sang 3D có sự tái xuất hiện của các thành phố trong các phần trước, nhưng được mở rộng hơn, đầu tiên là trong \"Grand Theft Auto III\", một lần nữa lấy khung cảnh thành phố Liberty, sau đó là thành phố Vice trong .\nKhi \"\" phát hành, không gian của trò chơi lại được mở rộng hơn nữa. Bang San Andreas rộng lớn là một phiên bản mô phỏng của tiểu bang California và Nevada, Hoa Kỳ. San Andreas có ba thành phố nhỏ: Las Venturas (Las Vegas), San Fierro (San Francisco) và Los Santos (Los Angeles). Bao quanh ba thành phố lớn là những thị trấn nhỏ, sa mạc, sông nước, rừng hay những miền nông thôn.\n' và ', được phát hành cho nền tảng máy chơi cầm tay PlayStation Portable, một lần nữa đưa người chơi trở về thành phố Liberty và thành phố Vice, theo tên gọi của từng phần.\nCâu chuyện của \"Grand Theft Auto IV\" cùng với các phần mở rộng ' và ' diễn ra ở thành phố Liberty. New Jersey và thành phố Alderney cũng xuất hiện trong trò chơi.\nTrò chơi cho hệ máy cầm tay, \"\" cũng lấy khung cảnh là thành phố Liberty.\nCho đến hiện tại, chỉ có hai phiên bản trò chơi không mô phỏng một thành phố của Mỹ, đó là ' và ' mô phỏng thành phố Luân Đôn.\nGrand Theft Auto.\n\"Grand Theft Auto\" là phiên bản đầu tiên của loạt trò chơi này, được sáng lập bởi nhà phát triển trò chơi DMA Design, phát hành cho Microsoft DOS/Windows vào năm 1997/1998 và PlayStation. Trò chơi lấy khung cảnh ba thành phố không có thật là thành phố Liberty, San Andreas và thành phố Vice. Một phiên bản rút gọn dành cho Game Boy Color cũng được phát hành sau đó.\nSau đó Rockstar đưa ra thêm hai phần mở rộng cho trò chơi, đều có tên là \"\".\nGrand Theft Auto 2.\nPhiên bản thứ hai của loạt, có tên \"Grand Theft Auto 2\", được phát triển cho Microsoft Windows, PlayStation và Dreamcast, và đã được phát hành vào năm 1999. Lấy bối cảnh một ngày chưa xác định trong tương lai, trò chơi đưa ra các hiệu ứng đồ họa cao cấp hơn, và nội dung trò chơi sẽ thay đổi tùy theo mối quan hệ giữa nhân vật với các tổ chức tội ác khác nhau.\nMột phiên bản rút gọn dành cho Game Boy Color cũng được sản xuất. \"Grand Theft Auto 2\" là trò chơi duy nhất được phân loại \"T\" cho hệ máy cầm tay PlayStation, và cũng là phần tiếp theo duy nhất trong loạt có chữ số trong tựa đề, thay vì một số la mã.\nGrand Theft Auto III.\n\"Grand Theft Auto III\" là phiên bản kế tiếp của \"Grand Theft Auto\", được phát hành vào tháng 10 năm 2001. Trò chơi lấy bối cảnh những năm đầu thế kỷ XXI ở thành phố Liberty - là một phiên bản mô phỏng của New York nhưng cũng được thêm vào một số khu vực của các thành phố khác. \"Grand Theft Auto III\" mang đến góc nhìn người thứ ba, thay vì là góc nhìn từ trên xuống như ở các phiên bản trước (có thể tạo ra góc nhìn từ trên xuống trong trò chơi). Lần đầu tiên, vấn đề định hướng trong trò chơi đã được giải quyết bằng cách tích hợp một hệ thống định vị toàn cầu cùng với một bản đồ nhỏ (\"mini-map\"), hiển thị vị trí của người chơi và các điểm đến hoặc các nhân vật. Hệ thống đồ họa của trò chơi được cải tiến bằng nền tảng ba chiều. Chế độ nhiều người chơi bị loại bỏ, nhưng \"GTA III\" được cải tiến hơn ở các điểm như có nhân vật lồng tiếng và cốt truyện (trong các phiên bản trước chỉ có cắt cảnh là các đoạn đối thoại ngắn giữa các màn chơi, ngoài ra việc giao tiếp chỉ được biểu hiện qua phụ đề chạy dưới màn hình).\nSau thành công \"Grand Theft Auto III\", \"\" được phát hành vào năm 2002. Phiên bản này của trò chơi lấy bối cảnh năm 1986 ở thành phố Vice, mô phỏng thành phố Miami, Florida. Cốt truyện trò chơi chủ yếu liên quan đến buôn bán thuốc phiện và những năm 80. \"Vice City\" là phiên bản đầu tiên giới thiệu cho người chơi đầu đủ khả năng bay trên các loại máy bay, ví dụ như thủy phi cơ hoặc trực thăng. Trò chơi cũng đưa ra nhiều loại vũ khí và phương tiện di chuyển mới.\n\"\", phát hành vào tháng 10 năm 2004, lấy bối cảnh năm 1992, tập trung vào cuộc sống giang hồ ở California và sự trở lại của tệ nạn ma túy. Địa danh trong trò chơi là bang San Andreas, gồm ba thành phố là Los Santos, San Fierro, and Las Venturas, dựa trên các thành phố Los Angeles, San Francisco, và Las Vegas, theo thứ tự. Ngoài ra, giữa Los Santos và San Fierro, giữa Los Santos và Las Venturas là vùng ngoại ô, còn giữa Las Venturas và San Fierro là sa mạc.\n\"Grand Theft Auto\" (liên quan không chính thức đến \"Grand Theft Auto Advance\"), dành cho Game Boy Advance, cũng được phát hành năm 2004. Trò chơi này là một phiên bản chuyển đổi sang góc nhìn từ trên xuống của \"GTA III\". Trò chơi, phát triển bởi một nhà phát triển khác là Digital Eclipse, được xếp loại \"M\" theo ESRB.\nVào năm 2005 và 2006, Rockstar phát hành hai trò chơi cho hệ máy PlayStation Portable, cả hai đều được phát triển bởi Rockstar Leeds. \"\" là phần trước của \"Grand Theft Auto III\", lấy bối cảnh thành phố Liberty năm 1998. Rockstar phát hành phiên bản cho PlayStation 2 vào ngày 6 tháng 6 năm 2006.\n\"\" được phát hành cho PlayStation Portable vào ngày 31 tháng 10 năm 2006, lấy bối cảnh thành phố Vice năm 1984, hai năm trước khi diễn ra câu chuyện \"Grand Theft Auto: Vice City\". Phiên bản cho PlayStation 2 của trò chơi được phát hành ngày 6 tháng 3 năm 2007. Đây là phiên bản cuối cùng của thế hệ trò chơi thứ ba, cũng là trò chơi cuối cùng trong luân khúc \"Grand Theft Auto III\".\nThứ tự trò chơi theo bối cảnh trò chơi (không phải thứ tự phát hành) của các phiên bản thuộc thế hệ thứ ba như sau:\nGrand Theft Auto IV.\n\"Grand Theft Auto IV\" được phát hành ngày 29 tháng 4 năm 2008, sau sáu tháng trì hoãn. Đây là trò chơi đầu tiên của \"Grand Theft Auto\" được phát hành cùng một lúc hai bản: một cho Sony và một cho các hệ máy của Microsoft. Tháng 8 năm 2008, Rockstar thông báo rằng họ sẽ phát hành một phiên bản \"GTA IV\" dành cho máy tính cá nhân. \"GTA IV\" sử dụng engine Rockstar Advanced Game Engine (còn gọi là RAGE) được dùng trong \"Rockstar Games Presents Table Tennis\" và hệ thống tương tác vật lý Euphoria. Một lần nữa trò chơi lấy khung cảnh thành phố Liberty, lần này được thiết kế lại và rất giống với thành phố New York, so với trong các phiên bản trước đó.\nMicrosoft chính thức tuyên bố rằng họ và Rockstar Games sẽ có một sự \"hợp tác chiến lược\". \"\" phát hành ngày 17 tháng 2 năm 2009, và có thể được tải xuống, đặc biệt là cho Xbox 360, bởi vì Microsoft đã trả cho Rockstar 50 triệu đô-la để làm nó độc quyền. Khi sự hợp tác chiến lược kết thúc, hai phiên bản DLC và những phần cộng thêm đã được phát hành vào ngày 13 tháng 4 năm 2010 cho PS3 và PC. Phần mở rộng thêm vào vài yếu tố mới cho trò chơi và tập trung vào Johnny Klebitz, phó chủ tịch băng cướp mô-tô \"The Lost\".\nPhiên bản thứ hai mà người chơi có thể tải về có tên là \"\" và đã được phát hành ngày 29 tháng 10 năm 2009. \"Grand Theft Auto: Episodes from Liberty City\" là một bản đóng gói, phát hành cho Xbox 360 cùng lúc với \"The Ballad of Gay Tony\". Nó gồm \"The Lost and Damned\" và \"The Ballad of Gay Tony\" trong cùng một đĩa và không đòi hỏi phải có \"GTA IV\".\n\"Grand Theft Auto IV\" tái ra mắt hệ thống chơi mạng nhiều người chơi. Người chơi điều khiển một nhân vật (có thể tùy biến), và số tiền kiếm được sẽ chuyển thành cấp độ, cấp độ càng cao thì các tùy chọn tùy biến nhân vật càng nhiều. Trò chơi không hỗ trợ hai màn hình hoặc chế độ nhiều người chơi LAN trên PlayStation 3 hay Xbox 360, mà là mạng LAN trên máy tính. Tối đa 16 người (32 trên PC) có thể chơi cùng nhau, tham gia các sự kiện như Death Match, Cops 'n' Crooks, đua xe, Deal Breaker, và \"Mafiya\".\n\"Grand Theft Auto: Chinatown Wars\" là phiên bản đầu tiên của dòng \"Grand Theft Auto\" được phát hành cho Nintendo DS, đã được giới thiệu tại E3 Nintendo Press Conference vào tháng 7 năm 2008. Trò chơi được phát hành ngày 17 tháng 3 năm 2009 ở Bắc Mỹ và 20 tháng 3 năm 2009 ở Úc và châu Âu. \"GTA: CW\" được xếp loại 18+ bởi PEGI và BBFC (Châu Âu, Anh) và M bởi ESRB (Bắc Mỹ). Một phiên bản cho PSP cũng được giới thiệu sau đó vào 22 tháng 6 năm 2009 và được phát hành tại Bắc Mỹ ngày 20 tháng 10 năm 2009. Phiên bản dành cho iPhone OS được phát hành ngày 18 tháng 1 năm 2010.\nThứ tự trò chơi theo bối cảnh trò chơi của các phiên bản thuộc thế hệ thứ tư như sau:\nGrand Theft Auto V.\nGrand Theft Auto V phát hành vào ngày 17/9/2013 cho hệ máy Playstation 3 và Xbox 360 và cho máy tính cá nhân (PC) vào ngày 14/4/2015, lấy bối cảnh năm 2013 khu vực giả tưởng \"Los Santos, San Andreas\". Trò chơi cũng thêm vào những phương tiện mới, đồ hoạ sắc nét, chân thật hơn trước, lần đầu tiên xuất hiện các động vật hoang dã, góc nhìn thứ nhất và chức năng điều khiển ba nhân vật thay vì chỉ một như trước, các băng đảng xuất hiện trong game đều là băng đảng của GTA San Andreas như Grove Street Families, Ballas và Los Vagos.Trò chơi cũng có những minigame như săn thú rừng, đua xe... Một phiên bản Multi-player (nhiều người chơi) của GTA V được Rockstar Games sản xuất có tên là GTA Online.\nTranh cãi.\nTheo \"Kỷ lục Guinness Thế giới\" Phiên bản dành cho người chơi game năm 2008 và 2009 thì đây là loạt trò chơi điện tử gây tranh cãi nhất trong lịch sử, với hơn 4.000 bài báo đã xuất bản về nó, bao gồm các cáo buộc khuyến khích bạo lực, làm hư hỏng game thủ, và liên quan đến tội ác ngoài đời thực.\nGrand Theft Auto III.\nNhững cuộc tranh cãi và những lời than phiền bắt đầu với \"Grand Theft Auto III\". Một số được cho là bởi nhà hoạt động Max Clifford.\nCó khá nhiều sự chỉ trích đối với những hành động bất hợp pháp trong trò chơi, khi so sánh với kiểu nhân vật \"anh hùng\" mà các trò chơi khác đưa ra. Nhân vật chính có thể thực hiện rất nhiều tội ác như giết cảnh sát và các nhân vật thuộc quân đội. Những người chống lại trò chơi bạo lực, như Hillary Clinton và Julia Boseman, cho rằng người chơi sẽ cố thực hiện những hành động này ngoài đời thực.\nCác nhà phê bình cũng nhắc đến những hành động và thái độ quá khích đối với phụ nữ. Mặc dù không bắt buộc, nhân vật chính Claude có thể lợi dụng những cô gái, sau đó giết họ và có thể là lấy cắp, nếu người chơi muốn.\nVice City.\nTrò chơi thứ sáu trong loạt, \"\", cũng bị chỉ trích. Trong một nhiệm vụ, người chơi phải châm ngòi cho cuộc chiến giữa nhóm Haitian và Cuban, đã gây ra tranh cãi.\nJean-Robert Lafortune của Liên hiệp thường dân Haiti Mỹ (Haitian American Grassroots Coalition) đã nói \"Trò chơi không nên được thiết kế để tiêu diệt con người, nó không nên được thiết kế để tiêu diệt một nhóm người dân tộc\", để nhắc về những cảnh này, bao gồm cả những câu trong trò chơi như \"giết bọn khốn Haitian\" trong một cuộc cãi nhau giữa người chơi và nhóm Haitian. Sau khi bị dọa kiện bởi Haitian-American Grassroots Coalition, Rockstar đã xóa bỏ từ \"Haitians\" trong những đoạn phụ đề trong trò chơi.\nSan Andreas.\n\"San Andreas\" có chứa một minigame có nội dung đồi trụy, đã bị cắt khỏi trò chơi nhưng phần mã vần còn tồn tại, được phát hiện cả trên hệ Windows lẫn các hệ máy cầm tay. Được đặt tên là \"Hot Coffee mod\", minigame này cho phép người chơi có thể quan hệ tình dục với các bạn gái trong trò chơi của họ và tất nhiên là có quay phim.\nSau khi phát hành \"\", những người làm công việc thay đổi mã nguồn của trò chơi để thay đổi nội dung của nó (modder) đã tìm ra được đoạn mã không sử dụng trong trò chơi và phát hành bản vá không chính thức cho Windows và Xbox (đã được bẻ khóa) và PlayStation 2, gói phần mềm này thêm vào trò chơi một đoạn mã Action Replay có thể cho phép người chơi tham gia vào phần nội dung đồi trụy (được gọi tên là \"Hot Coffee\"). Những mini-game này hầu như không tác động đến bộ mã của toàn trò chơi. Gói phần mềm này gây ESRB đánh giá trò chơi là \"AO\". Take-Two Interactive bắt buộc phải tái phát hành trò chơi để có thể giữ lại xếp loại \"M\". Một vụ kiện chống lại Take-Two cũng được tiến hành vì hậu quả của \"Hot Coffee\".\nGrand Theft Auto IV.\nMột trong những cuộc tranh luận về trò chơi là sự chỉ trích của các bà mẹ về việc lái xe trong tình trạng say xỉn (MADD) trong trò chơi, khi chức năng \"vừa uống vừa chạy\" được thêm vào. MADD đã yêu cầu ESRB thay đổi xếp loại trò chơi từ \"M\" cho tuổi từ 17 trở lên thành \"AO,\" chỉ dành cho người lớn, vì họ thấy rằng những cảnh này không thích hợp cho trẻ em, ngay cả với thanh niên 17 tuổi. Nếu Rockstar thuận theo, thì \"Grand Theft Auto IV\" sẽ là trò chơi thứ hai trong loạt có sự chuyển đổi xếp loại từ \"M\" thành \"AO\". Trong GTA IV, lái xe say xỉn là một phần chơi mà người chơi có thể chủ động tham gia vào, nhưng nhân vật chính Niko Bellic tuyên bố lớn tiếng (và trong tình trạng say xỉn) rằng đây là một \"ý tưởng tồi\" và rằng anh ta \"nên hiểu biết hơn\".\nThe Lost and Damned.\nPhần mở rộng \"\" đã bị chỉ trích bởi hiệp hội phụ huynh Mỹ Common Sense Media. Họ đã đưa ra một lời cảnh báo công cộng, với mục đích đối phó với nội dung của phiên bản này, do có sự xuất hiện của các cảnh khỏa thân toàn thân trong trò chơi. Họ khẳng định rằng phiên bản này \"đáng đưa ra tranh luận hơn những phiên bản trước của nó\".\nGrand Theft Auto V.\nMột đoạn trong phần trò chơi đã cho thấy những cảnh quay có hình ảnh tra tấn. Nhiệm vụ \"By the Book\" yêu cầu người chơi thực hiện những hành vi tra tấn để lấy thông tin, trong đó có nhổ răng bằng kiềm, giật điện giật, trấn nước, thực hiện các hành vi động chạm đến bộ phận sinh dục.\nTổ chức từ thiện của Anh công khai lên án việc sử dụng hình thức tra tấn ấy trong \"Grand Theft Auto V\".\nTrò chơi cũng bị cáo buộc là phân biệt giới tính. \"Los Angeles Times\" nói hình ảnh người phụ nữ thường không có vai trò gì, chỉ là bị chế nhạo, khinh miệt giá trị.\nNhững trò chơi tương tự.\nCác phê bình gia thường xem \"Grand Theft Auto III\" như là một cuộc cách mạng trong lịch sử trò chơi điện tử, cũng như \"Doom\" khoảng mười năm trước đó. Những trò chơi sau này ra đời có cấu trúc lái xe và bắn giết được gọi là một \"trò chơi bắt chước Grand Theft Auto\" (\"Grand Theft Auto clones\"). Một số người còn xếp trò chơi vào loạt \"Driver\", mặc dù loạt này đã bắt đầu vài năm trước khi \"Grand Theft Auto III\" ra đời.\nNhững trò chơi tương tự \"Grand Theft Auto\" thường có đồ họa ba chiều, thể loại trò chơi phiêu lưu hành động, trong đó người chơi có thể lái bất cứ phương tiện nào và bắn bất cứ thứ gì trong thế giới mở. Những trò chơi này cũng thường có yếu tố bạo lực. Những trò chơi đáng chú ý là \"loạt Saints Row\", \"loạt The Getaway\", \"loạt The True Crime\", ', \"Crackdown\", ', \"Wheelman\", \"\" và \"Just Cause, Sleeping Dogs, Watch Dogs...\" là những trò chơi có kiểu chơi giống với \"GTA\".\nĐón nhận.\nNgay từ thuở ban đầu, loạt \"Grand Theft Auto\" đã là một thành công lớn. Nó luôn được đánh giá cao và ghi được điểm cao nhất so với hầu hết các trò chơi cùng thời đại. \"Tạp chí Thời Đại\" cho biết rằng \"Grand Theft Auto IV\", phiên bản của loạt, đã bán được 609 nghìn bản ngay trong ngày đầu ra mắt tại Anh. Và trong tuần đầu, 6 triệu bản \"Grand Theft Auto IV\" được bán ra trên toàn thế giới, thu về hơn 500 triệu đô-la Mỹ.\n\"Grand Theft Auto III\" , \"San Andreas\" và \"Vice City\" hiện đang nằm ở hạng thứ 2, thứ 5 và thứ 6 trong các đánh giá xếp hạng về trò chơi cho PlayStation 2 trên Metacritic.\n\"Grand Theft Auto: San Andreas\" được xem là trò chơi thành công nhất trên hệ máy PlayStation 2 theo \"The Guinness World Records 2009 Edition Gamer's\".\nNgoài ra, \"Vice City\" , \"Grand Theft Auto III\" , \"San Andreas\" , \"Grand Theft Auto IV\" và \"Grand Theft Auto V\" lần lượt nằm ở hạng 11, 24, 27, 93 và 2 trong bảng xếp hạng những trò chơi chơi dành cho máy tính cá nhân (PC - Personal Computer) hay nhất mọi thời đại theo Metacritic.\nPhiên bản mới nhất là GTA V thậm chí đã thu được 1 tỷ USD chỉ sau 3 ngày, giúp dòng trò chơi vượt qua hàng loạt các dòng trò chơi máu mặt trên thế giới, thiết lập nhiều kỷ lục mới trong ngành công nghiệp game.\nloạt trò chơi đã phá vỡ một số kỷ lục thế giới, gồm có \"loạt trò chơi có nhiều diễn viên khách mời nhất\", \"Trò chơi có nhiều nhân vật lồng tiếng nhất\" (\"GTA: San Andreas\"), \"Âm nhạc phong phú nhất\" (\"GTA: San Andreas\"), và \"Sản phẩm thành công nhất mọi thời đại\" (\"GTA IV\").\nSách kỷ lục thế giới còn ghi nhận \"Grand Theft Auto\" nằm ở vị trí thứ ba trong danh sách 50 trò chơi hay nhất mọi thời đại dựa trên tác động tạm thời và tác động lâu dài.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Araitz ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Araitz là một đô thị trong tỉnh và cộng đồng tự trị Navarre, Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là 39,35 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2007 là 586 người.\nĐô thị nằm ở độ cao m trên 228 mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Blaringhem", "role": "user" }, { "content": "Blaringhem là một xã ở tỉnh Nord trong vùng Hauts-de-France, Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Knefastia tuberculifera á", "role": "user" }, { "content": "Knefastia tuberculifera là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Turridae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Tháng tám ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Tháng tám là tháng thứ tám theo lịch Gregorius, có 31 ngày.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Cryptolectica ensiformis không ?", "role": "user" }, { "content": "Cryptolectica ensiformis là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Loài này có ở Trung Quốc (Hải Nam), Ấn Độ, Indonesia (Sulawesi), Nhật Bản (Tusima, quần đảo Ryukyu, Honshū, Kyūshū, Shikoku) và Thái Lan.\nSải cánh dài 9.2–11 mm.\nẤu trùng ăn \"Quercus acuta\" và \"Quercus sessilifolia\". Chúng có thể ăn lá nơi chúng làm tổ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Latiaxis lischkeanus ?", "role": "user" }, { "content": "Latiaxis lischkeanus là một loài ốc biển cỡ trung bình, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc phân họ Coralliophilinae họ Muricidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Chi Sài long?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Apodytes là một chi chứa khoảng 8 loài cây gỗ thường xanh, sinh sống trong khu vực từ vùng nhiệt đới châu Phi (chủ yếu là đông và nam châu Phi), Madagascar và các đảo trong Ấn Độ Dương, Ấn Độ, Đông Nam Á cho tới New Caledonia và đông bắc Australia.\nMiêu tả.\nTất cả các loài đều có lá đơn, mép nguyên, dai bóng như da và các chùy hoa phân nhiều nhánh, chứa các hoa nhỏ màu trắng với các cánh hoa cong ngược lại và các nhị hoa dễ thấy. Quả là quả hạch nhỏ với phần phụ dày cùi thịt ở một bên gắn với quả, gọi là giả áo hạt.\nPhân loại.\nChi này trước đây được đặt trong họ Icacinaceae nghĩa rộng và đa ngành, nhưng kể từ khi họ này bị chia nhỏ thì nó đã không được đặt vào bộ hay họ nào. Nghiên cứu gần đây gợi ý rằng nó gắn với bộ Garryales, nhưng có lẽ không đủ gần để cho phép mở rộng bộ này ra để gộp cả nhóm có chứa chi này.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Rhophitulus aeneiventris nha ?", "role": "user" }, { "content": "Rhophitulus aeneiventris là một loài Hymenoptera trong họ Andrenidae. Loài này được Friese mô tả khoa học năm 1908.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Ampedus besucheti", "role": "user" }, { "content": "Ampedus besucheti là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Schimmel miêu tả khoa học năm 1993.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Ponitz nha ?", "role": "user" }, { "content": "Ponitz là một đô thị thuộc huyện Altenburger Land, trong bang Thüringen, Đức. Đô thị Ponitz có diện tích 17,04 km².", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Ngai vàng", "role": "user" }, { "content": "Ngai vàng (hay còn gọi là ngai rồng, ngôi báu, cửu đỉnh) là một loại ghế được chạm trổ tinh xảo, được nạm các loại ngọc quý, dát vàng và trang trí điêu khắc tinh vi được đặt nơi trang trọng nhất trong chính điện hoặc sảnh lớn để dành cho vị Hoàng đế, vị vua hoặc nguyên thủ quốc gia ngồi mỗi khi thiết triều hoặc tiếp kiến trong những dịp quan trọng. Ngai vàng tượng trưng cho quyền lực của người đứng đầu nhà nước hoặc người đứng đầu một cộng đồng, tổ chức tôn giáo nhất định, biểu tượng của sự trị vì của vị quân chủ quốc gia. Trong lịch sử nhiều cuộc chiến tranh, binh biến, ám sát lẫn nhau đã diễn ra chỉ vì muốn tranh giành ngai vàng.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Paraeccopsis from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Paraeccopsis là một chi bướm đêm thuộc phân họ Tortricinae của họ Tortricidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Bufo dhufarensis không ?", "role": "user" }, { "content": "Cóc Dhofar (Bufo dhufarensis) là một loài cóc thuộc họ Bufonidae.\nLoài này có ở Oman, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Yemen.\nMôi trường sống tự nhiên của chúng là vùng cây bụi khô khu vực nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông ngòi, sông có nước theo mùa, suối nước ngọt, vườn nông thôn, các vùng đô thị, ao, và đất có tưới tiêu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Bến Lức ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Bến Lức là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.\nĐịa lý.\nHuyện Bến Lức nằm ở phía đông bắc của tỉnh Long An, là cửa ngõ phía bắc của miền Tây Nam Bộ, nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km về hướng tây nam, cách thành phố Tân An khoảng 15 km về hướng đông bắc, có vị trí địa lý:\nTheo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 287,86 km², dân số là 181.660 người, mật độ dân số đạt 631 người/km².\nHuyện Bến Lức là một địa bàn chiến lược về kinh tế và quân sự của thành phố Hồ Chí Minh. Quốc lộ 1 là trục giao thông chính của Quốc gia nối liền địa bàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với đồng bằng sông Cửu Long đi qua huyện Bến Lức, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá, tiếp cận nhanh chóng những thông tin mới nhất trong nước, hoà nhập với kinh tế thị trường, phát triển nhiều loại hình dịch vụ, hình thành các điểm trung chuyển hàng hoá giữa miền Tây lên Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại.\nDân số.\nDân số tính đến tháng 5 năm 2015 huyện Bến Lức có 163.100 người. Mật độ dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu dân cư tập trung vào các xã vùng phía Nam (khu vực giáp đường quốc lộ 1 A) với mật độ 880 người/km². Các vùng phía Bắc với diện tích 67,4% nhưng dân số chỉ chiếm có 33,7% và mật độ chỉ có 217 người/km². Mật độ dân cư đông nhất tại thị trấn Bến Lức với mật độ 1.971 người/km² và xã Phước Lợi với mật độ 1.300 người/km².\nLao động.\nĐến năm 1997, dân số trong độ tuổi lao động có việc làm 61.303 người, chiếm khoảng 49,5% dân số toàn huyện, trong đó lao động nữ là 31.780 lao động chiếm 51,8%, nguồn lao động chủ yếu là trẻ và khoẻ. Số lao động có trình độ chuyên môn cao rất ít, trên đại học chỉ có 32 người, đại học và cao đẳng có 666 người.\nHuyện Bến Lức có rất nhiều tiềm năng cần được phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn kế tiếp với những bước đi thích hợp. Trong giai đoạn này lực lượng lao động cần được đào tạo và đào tạo lại tay nghề để nắm vững những thành tựu khoa học kỹ thuật, áp dụng vào trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.\nKhí hậu.\nHuyện Bến Lức có khí hậu nhiệt đời gió mùa với nền nhiệt độ cao đều quanh năm. Lượng mưa khá lớn và phân bổ theo mùa. Lượng mưa trung bình hàng năm của huyện là 1.625 mm nhưng phân bổ không đều theo năm. Mưa tập trung từ tháng 5 tới tháng 10 chiếm 85% tổng lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa khô, mưa ít, lượng mưa chiến 15% tổng lượng mưa cả năm. Chế độ mưa tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp của huyện. Phần lớn huyện Bến Lức sản xuất hai vụ lúa/năm; vụ hè thu sử dụng giống ngắn ngày năng suất cao, vụ đông xuân sản xuất lúa đặc sản.\nTổng số giờ nắng trung bình năm khoảng 2.630 giờ, trung bình ngày 7,2 giờ nắng. Tháng có số giờ nắng cao nhất là tháng 2, tháng 3, khoảng 267 giờ, tháng 8 có số giờ nắng ít nhất khoảng 189 giờ. Nhiệt độ trung bình hàng năm 270C. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm 82,79%.\nSông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ Campuchia chảy ra Biển Đông qua địa phận Bến Lức với chiều dài 21 km, với chiều rộng trung bình 200– 235 m, sâu 11– 12 m. Vào mùa cạn lượng nước trên sông không đáng kể, lưu lượng trung bình chỉ có 11 m3/s, hạ lưu chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều.\nSông Bến Lức nối sông Vàm Cỏ Đông với sông Sài Gòn qua kinh Đôi, rộng 20 – 25 m, sâu 2– 5 m, chịu ảnh hưởng chế độ thủy văn sông Vàm Cỏ Đông. hai con sông trên có giá trị rất lớn về giao thông đối với huyện Bến Lức. Từ Vàm Cỏ Đông tàu thuyền có thể đi ra Biển Đông một cách thuận tiện.\nKênh Thủ Đoàn nối liền sông Vàm Cỏ Đông với sông Vàm Cỏ Tây cùng với mạnh lưới kênh rạch khá dày đặc tạo thành hệ thống thủy lợi và giao thông quan trọng trong sản xuất và lưu thông hàng hoá.\nTài nguyên đất.\nTổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 28.579 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 76,8%, đất ở (bao gồm đất đô thị và dân cư nông thôn) chiếm 2,4%, đất chuyên dùng 5,56%, đất chưa sử dụng là 14,9%. Trên địa bàn huyện Bến Lức có 14 loại đất, chủ yếu là các loại đất phèn, đất phù sa...\nNhìn chung, tài nguyên đất của huyện Bến Lức có nhiều điều kiện cho phát triển công nghiệp, nguồn đất chưa sử dụng còn nhiều, địa hình tương đối bằng phẳng, thuận tiện cho san lấp mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng.\nTài nguyên nước.\nBến Lức có 2 nguồn nước chính. Nước mặt có được nhờ vào các sông rạch và nước mưa. Lượng mưa hàng năm lớn nhưng lại trùng vào mùa lũ của sông MeKông nên thường xảy ra tình trạng ngập úng. Ngược lại vào mùa khô lượng mưa thấp và nhiễm mặn nên canh tác nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Nguồn nước ngầm được phân bổ ở độ sâu 230– 270 m với hàm lượng sắt cao 4 – 15 mg/lít.\nTài nguyên rừng.\nDiện tích rừng hiện nay của huyện Bến Lức khoảng 12 ha, phân bố tại các xã Thạnh Hoà, Lương Bình, Lương Hoà, chủ yếu là tràm và bạch đàn để lấy gỗ.\nHành chính.\nHuyện Bến Lức có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Bến Lức (huyện lỵ) và 14 xã: An Thạnh, Bình Đức, Long Hiệp, Lương Bình, Lương Hòa, Mỹ Yên, Nhựt Chánh, Phước Lợi, Tân Bửu, Tân Hòa, Thạnh Đức, Thạnh Hoà, Thạnh Lợi, Thanh Phú.\nLịch sử.\nNăm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược miền Nam, đặt phủ Gia Định, địa bàn Bến Lức nằm trong huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn của phủ này. Thời Minh Mạng, phần lớn diện tích của huyện Bến Lức ngày nay thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, một phần còn lại thuộc huyện Cửu An, phủ Tân An cùng tỉnh.\nNăm 1918, thực dân Pháp lập thành lập tỉnh Chợ Lớn, đất Bến Lức thuộc quận Gò Đen của tỉnh này. Quận Gò Đen còn có tên gọi khác là Trung Quận, phía cách mạng gọi là Trung Huyện.\nNgày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh Long An trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An. Lúc này, quận Gò Đen bị giải thể, ba tổng: Tân Phong Hạ, Long Hưng Thượng và Long Hưng Trung được sáp nhập vào tỉnh Gia Định, lập thành quận Bình Chánh; riêng tổng Long Hưng Hạ thuộc địa giới tỉnh Long An.\nNgày 24 tháng 4 năm 1957, thành lập quận Bến Lức thuộc tỉnh Long An từ tổng Long Hưng Hạ của quận Gò Đen vừa giải thể và một phần đất quận Thủ Thừa cắt sang. Quận Bến Lức gồm 2 tổng:\nSau năm 1975, Bến Lức là huyện thuộc tỉnh Long An, địa giới hành chính các xã cũng được điều chỉnh lại như sau:\nHuyện Bến Lức có 10 xã trực thuộc, bao gồm các xã: An Thạnh, Bình Đức, Long Hiệp, Long Phú, Lương Hòa, Mỹ Yên, Nhựt Chánh, Phước Lợi, Tân Thanh và Thành Lợi.\nNgày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 54-CP. Theo đó, sáp nhập huyện Thủ Thừa với huyện Bến Lức thành huyện Bến Thủ và đến ngày 14 tháng 1 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 05-HĐBT. Theo đó, chia lại huyện Bến Thủ thành 2 huyện: Bến Lức và Thủ Thừa.\nHuyện Bến Lức bao gồm thị trấn Bến Lức và 13 xã: An Thạnh, Bình Đức, Long Hiệp, Lương Bình, Lương Hòa, Mỹ Yên, Nhựt Chánh, Phước Lợi, Tân Bửu, Thạnh Đức, Thạnh Hoà, Thạnh Lợi, Thanh Phú.\nNgày 31 tháng 8 năm 1992, thành lập xã Tân Hòa trên cơ sở một phần diện tích, dân số của 2 xã: Tân Bửu và Lương Hòa.\nHuyện Bến Lức có 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay.\nNgày 29 tháng 3 năm 2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 376/QĐ-BXD công nhận thị trấn Bến Lức là đô thị loại IV.\nDự kiến năm 2025, Bến Lức sẽ lên thành phố Bến Lức và là đô thị loại II của tỉnh Long An\nKinh tế - xã hội.\nGDP năm 2009 của huyện là 3.300 tỷ VNĐ (tính theo giá cố định năm 1994), đạt tốc độ tăng trưởng là 14% (kế hoạch là 24%) so với cùng kỳ giảm 9,9%; trong đó: khu vực Nông - Lâm nghiệp (khu vực I) tăng trưởng 2%, khu vực Công nghiệp - Xây dựng (khu vực II) tăng trưởng 14%, khu vực Thương mại - Dịch vụ (khu vực III) tăng trưởng 20,8%. Về cơ cấu kinh tế, huyện tiếp tục duy trì tốc độ phát triển và cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ở khu vực II và III và giảm dần tỷ trọng ở khu vực I (khu vực I: 6%, khu vực II: 76,9%, khu vực III: 17,1%).\nVề cơ bản, kinh tế huyện được chia thành 2 vùng:\nTheo công văn số 4397/CV-UB ngày 25 tháng 11 năm 2002 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Long An, huyện Bến Lức được quy hoạch 12 khu công nghiệp, nhiều nhất tỉnh, tổng diện tích khoảng 1.540 ha. Ngày 29 tháng 4 năm 2010, huyện đã tiếp nhận được hơn 16 dự án khu, cụm công nghiệp, đã tiến hành bồi thường và san lấp mặt bằng 1.022 ha, trong đó có 6/9 khu công nghiệp đã triển khai và đi vào động với hơn 833 ha.\nHiện nay trên địa bàn huyện Bến Lức đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị The Pearl Riverside, khu đô thị Lago Centro, khu đô thị Bến Lức Dragon Town, khu đô thị Hưng Giang Garden City, khu đô thị Long Hội City, Phúc Long Garden, khu đô thị Long Kim II, khu đô thị Moonlight Villas, khu đô thị Newlife Long Kim, khu đô thị Phúc Giang, khu đô thị Sun City Long An, khu đô thị Thanh Yến Residence, khu đô thị Trần Anh Riverside, khu đô thị Waterpoint...\nY tế.\nHuyện Bến Lức có bệnh viện huyện Bến Lức, bệnh viện bao gồm các khoa: Hồi sức Cấp cứu, Ngoại, Sản, Nội - Nhi, Nhiễm, Y học cổ truyền, Dược, Xét nghiệm, Chẩn đoán hình ảnh, Vệ sinh an toàn thực phẩm, Y tế công cộng, Phòng chống dịch bệnh. Bệnh viện cũng quản lý 15 trạm y tế của các xã, thị trấn trực thuộc.\nNăm 2008, tỉnh Long An triển khai Dự án phát triển y tế cơ sở. Theo đó, tỉnh sẽ xây 13 bệnh viện (BV) ở tuyến huyện (có 2 BV khu vực) với gần 1.800 giường bệnh. Bệnh viện Đa khoa Bến Lức là một trong số đó.\nGiao thông.\nNgoài các tuyến đường hiện hữu, theo quy hoạch đã được duyệt, huyện Bến Lức sẽ đầu tư nâng cấp và xây dựng mới nhiều tuyến đường, trong đó tập trung chủ yếu là khu vực Bắc. Đặc biệt là tuyến quốc lộ 14 nối dài (đường Hồ Chí Minh) sẽ đi qua khu vực này. Bên cạnh đó, từ thị trấn Bến Lức qua các xã hữu ngạn sông Vàm Cỏ sẽ xây dựng mới đường hương lộ 1 ở tả ngạn sẽ xây dựng mới đường Rạch Tre - Tân Nhựt, An Thạnh - Tân Hoà và Tân Bửu - Tân Hoà. Từ các tuyến đường này sẽ xây dựng mới một số đường liên xã kết nối trong khu vực. Khu vực phía Nam nâng cấp các đường huyện hiện hữu nối từ quốc lộ 1 vào các khu công nghiệp. Đặc biệt là hương lộ 8 đi từ Chợ Đệm (huyện Bình Chánh) qua Tân Bửu về Bến Lức sẽ được nâng cấp mở rộng lên 4 làn xe. Đây là đường song hành với quốc lộ 1 đi qua cụm công nghiệp khu vực phía Bắc quốc lộ của huyện.\nChú thích.\nĐÔ THỊ GÒ ĐEN\nhttps://benluc.longan.gov.vn/PublishingImages/Lists/DuAnHangMucDauTu/tatca/5054_Q%C4%90-UBND_31-12-2020_Q%C4%90_QHPK%20K%C4%90T%20GO%20DEN-2020-hoan%20chinh.signed.pdf", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Chiến dịch Hạ Lào nha ?", "role": "user" }, { "content": "Chiến dịch Hạ Lào có thể chỉ:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Austropaxillus, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Austropaxillus là một chi nấm trong họ Serpulaceae. Theo \"Từ điển các loài nấm\" (xuất bản lần thứ 10, 2008), chi này có các loài phân bố rộng rãi ở các vùng ôn hòa phía nam.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Dominic Matteo á", "role": "user" }, { "content": "Tham khảo.\nDominic Matteo (sinh ngày 28 tháng 4 năm 1974) là cựu cầu thủ bóng đá người Scotland và là cựu tuyển thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Scotland. Câu lạc bộ gần nhất mà anh khoác áo là Stoke City nhưng phần lớn sự nghiệp của anh gắn bó với câu lạc bộ Liverpool và Leeds United.\nAnh chào đời tại Dumfries và bắt đầu sự nghiệp với tại câu lạc bộ Liverpool FC (chơi từ năm 1992 và 2000). Tháng 8 năm 2000 anh gia nhập Leeds United, cuối cùng anh chơi cho Stoke City. Là một mẫu cầu thủ có thể hình, thể lực, Matteo có thể đảm nhiệm tốt vị trí được phân công đặc biệt là vai trò đánh chặn của một tiền vệ phòng ngự vì vậy anh cũng đã góp công vào nhũng thành tích của đội bóng anh phục vụ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Macronema lineatum, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Macronema lineatum là một loài Trichoptera trong họ Hydropsychidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Phrantela?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Phrantela là một chi ốc nước ngọt nhỏ, động vật thân mềm chân bụng có mài sống trong môi trường nước ngọt trong họ Hydrobiidae.\nCác loài.\nCác loài thuộc chi \"Phrantela\" bao gồm:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Học nửa giám sát không ?", "role": "user" }, { "content": "Trong khoa học máy tính, học nửa giám sát là một lớp của kỹ thuật học máy, sử dụng cả dữ liệu đã gán nhãn và chưa gán nhãn để huấn luyện - điển hình là một lượng nhỏ dữ liệu có gán nhãn cùng với lượng lớn dữ liệu chưa gán nhãn. Học nửa giám sát đứng giữa học không giám sát (không có bất kì dữ liệu có nhãn nào) và có giám sát (toàn bộ dữ liệu đều được gán nhãn). Nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy dữ liệu không gán nhãn, khi được sử dụng kết hợp với một chút dữ liệu có gán nhãn, có thể cải thiện đáng kể độ chính xác. Để gán nhãn dữ liệu cho một bài toán học máy thường đòi hỏi một chuyên viên có kĩ năng để phân loại bằng tay các ví dụ huấn luyện. Chi phí cho quy trình này khiến tập dữ liệu được gán nhãn hoàn toàn trở nên không khả thi, trong khi dữ liệu không gán nhãn thường tương đối rẻ tiền. Trong tình huống đó, học nửa giám sát có giá trị thực tiễn lớn lao.\nMột ví dụ cho kỹ thuật học máy nửa giám sát là đồng huấn luyện (co-training), trong đó một hay nhiều bộ học được huấn luyện cùng một tập ví dụ nhưng mỗi bộ sử dụng một tập đặc trưng khác nhau, lý tưởng nhất là độc lập với nhau.\nMột cách tiếp cận khác là mô hình hoá phân phối xác suất đồng thời của các đặc trưng và nhãn. Với dữ liệu chưa gán nhãn, có thể coi nhãn là \"dữ liệu còn thiếu\". Các kỹ thuật xử lý dữ liệu còn thiếu như là lấy mẫu Gibbs và tối ưu kỳ vọng có thể được sử dụng để ước lượng tham số.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Gymnopilus micromegas nha ?", "role": "user" }, { "content": "Gymnopilus micromegas là một loài nấm thuộc họ Cortinariaceae.\nXem thêm.\nDanh sách các loài \"Gymnopilus\"", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Nam Hải, Phật Sơn?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Nam Hải (tiếng Trung: 南海区, Hán Việt: \"Nam Hải khu\") là một quận của địa cấp thị Phật Sơn (佛山市), tỉnh Quảng Đông, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nam Hải có diện tích 1074 km2, dân số 1,1 triệu người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về 5609 Stroncone từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "5609 Stroncone (1993 FU) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 22 tháng 3 năm 1993 bởi A. Vagnozzi ở Stroncone.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Tiên Hải, Hà Tiên from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Tiên Hải là một xã đảo thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.\nĐịa lý.\nXã Tiên Hải là có địa giới hành chính bao gồm toàn bộ quần đảo Hà Tiên, cách thành phố Hà Tiên khoảng 8 hải lý.\nXã Tiên Hải có diện tích 2,52 km², dân số năm 2020 là 1.704 người, mật độ dân số đạt 676 người/km².\nHành chính.\nXã Tiên Hải được chia thành 2 ấp: Hòn Giang, Hòn Tre.\nLịch sử.\nTrước đây, xã có tên là Hòa Đốc, ban đầu thuộc huyện Kiên Hải.\nNgày 27 tháng 9 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 107-HĐBT<ref name=107/1983/QĐ-HĐBT></ref>. Theo đó, đổi tên xã Hòa Đốc thành xã Tiên Hải.\nNgày 24 tháng 5 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 92-HĐBT. Theo đó, chuyển xã Tiên Hải về huyện Hà Tiên quản lý.\nNgày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 47/1998/NĐ-CP<ref name=47/1998/NĐ-CP></ref> về việc:\nSau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Tiên Hải (xã đảo) có 1.100 ha diện tích tự nhiên và 1.055 nhân khẩu.\nNgày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 573/NQ-UBTVQH14<ref name=573/NQ-UBTVQH14></ref> về việc thành lập thành phố Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang và xã Tiên Hải trực thuộc thành phố Hà Tiên.\nKinh tế.\nNăm 2018, các chỉ tiêu kinh tế tại xã tiếp tục có bước phát triển ổn định, các chỉ tiêu đạt khá so với kế hoạch đề ra, cụ thể:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Chrysoritis oreas, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Chrysoritis oreas (tên tiếng Anh: \"Drakensburg Copper\" hoặc \"Drakensburg Daisy Copper\") là một loài bướm thuộc họ Lycaenidae. Đây là loài đặc hữu của Nam Phi, nơi nó có ở vùng đồng cỏ miền đồi núi ở miền đông chân đồi KwaZulu-Natal Drakensberg.\nSải cánh khoảng 21–23 mm đối với con đực và 22–24 mm đối với con cái. Cá thể trưởng thành mọc cánh từ cuối tháng 9 tới giữa tháng 11. Mỗi năm loài này có một thế hệ.\nẤu trùng ăn các loài \"Thesium\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về La Chapelle-Bertin nha ?", "role": "user" }, { "content": "La Chapelle-Bertin là một xã thuộc tỉnh Haute-Loire nam trung bộ nước Pháp. Xã nằm ở khu vực có độ cao trung bình 1100 mét trên mực nước biển.\nSông Senouire tạo phần lớn ranh giới tây bắc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Bisuschio is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Bisuschio là một đô thị và thị xã của Ý. Đô thị này thuộc tỉnh Varese trong vùng Lombardia. Bisuschio có diện tích km2, dân số theo ước tính năm 2010 của Viện thống kê quốc gia Ý là người. \nCác đơn vị dân cư:\nĐô thị Bisuschio giáp với các đô thị:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Lonchopria similis ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Lonchopria similis là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Friese mô tả khoa học năm 1906.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about 213?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Năm 213 là một năm trong lịch Julius.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Tiếng Tây Ban Nha không ?", "role": "user" }, { "content": "Tiếng Tây Ban Nha ('), cũng được gọi là tiếng Castilla () hay tiếng Y Pha Nho\"' theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là tiếng phổ biến thứ 4 trên thế giới theo một số nguồn, trong khi có nguồn khác liệt kê nó là ngôn ngữ phổ biến thứ 2 hay thứ 3. Nó là tiếng mẹ đẻ của khoảng 352 triệu người, và được dùng bởi 417 triệu người khi tính thêm các người dùng nó như tiếng phụ (theo ước lượng năm 1999). Có người khẳng định rằng có thể nghĩ đến tiếng Tây Ban Nha là tiếng quan trọng thứ 2 trên thế giới, sau tiếng Anh, có thể quan trọng hơn cả tiếng Pháp, do càng ngày nó càng được sử dụng nhiều hơn ở Hoa Kỳ, do tỷ suất sinh cao ở những nước dùng tiếng Tây Ban Nha như ngôn ngữ chính thức, do sự mở mang của các kinh tế trong giới nói tiếng Tây Ban Nha, do sự ảnh hưởng của tiếng Tây Ban Nha trong thị trường âm nhạc toàn cầu, do tầm quan trọng của văn học Tây Ban Nha và do nó được sử dụng ở rất nhiều nơi trên thế giới. Tiếng Tây Ban Nha được sử dụng phần lớn ở Tây Ban Nha, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Guinea Xích Đạo.\nNhóm ngôn ngữ và các ngôn ngữ liên hệ.\nTiếng Tây Ban Nha có quan hệ rất gần gũi với các ngôn ngữ ở Đông Iberia như: tiếng Asturias \"(asturianu)\", tiếng Ladino \"(Djudeo-espanyol, sefardí)\", tiếng Catalunya \"(català)\" và tiếng Bồ Đào Nha \"(português)\". Tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có ngữ pháp và từ vựng rất giống nhau; số lượng từ vựng tương tự nhau của hai ngôn ngữ này lên đến 89%.\nHệ chữ viết.\nTiếng Tây Ban Nha được viết sử dụng ký tự Latin, với một chữ cái được thêm vào là \"ñ\" (eñe), được đọc là /ɲ/ (\"nh\" trong tiếng Việt) và được xem là xuất phát từ chữ \"n\", cho dù là được viết là một chữ \"n\" với một dấu ngã (~) bên trên. Những chữ ghép \"ch\" (che) và \"ll\" (elle) được xem như là những chữ cái đơn, có tên riêng và là một chữ cái trên bảng chữ cái, vì mỗi chữ đại diện cho một âm tiết khác nhau (/tʃ/ and /ʎ/) tương ứng. Tuy nhiên, chữ ghép \"rr\" (erre doble, chữ \"r\" đúp, hoặc chỉ là \"erre\" thay vì \"ere\"), cũng đại diện cho một âm đơn /r/, không được xem là một chữ đơn. Vì thế bảng chữ cái tiếng Tây Ban Nha có 28 chữ (sẽ là 29 nếu tính chữ \"w\", nhưng nó chỉ được sử dụng trong tên tiếng nước ngoài và từ mượn): a, b, c, ch, d, e, f, g, h, i, j, k, l, ll, m, n, ñ, o, p, q, r, s, t, u, v, (w), x, y, z. ó\nTừ năm 1994, hai chữ ghép trên bị tách ra thành hai chữ cái riêng biệt để sắp xếp. Những từ có chữ \"ch\" bây giờ được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái giữa \"ce\" và \"ci\", thay vì ở giữa \"cz\" như trước đây, và chữ \"ll\" cũng thế. Tuy nhiên, những chữ \"che\" (ch), và \"elle\" (ll) vẫn còn được sử dụng như thông tục.\nTrừ những từ địa phương như ở México, việc phát âm có thể được định rõ khi đánh vần. Một từ tiếng Tây Ban Nha tiêu biểu được nhấn giọng ở âm áp chót nếu như nó tận cùng bằng một nguyên âm (không phải \"y\") hoặc nếu như tận cùng bằng phụ âm \"n\" và \"s\"; trong các trường hợp khác thì nhấn giọng ở âm cuối cùng. Những trường hợp ngoại lệ được biểu thị bằng một dấu sắc trên nguyên âm. Khi đó thì nguyên âm có dấu sắc sẽ được nhấn giọng.\nDấu sắc còn được sử dụng để phân biệt những từ đồng âm, nhất là khi một trong số chúng là những từ có nhấn giọng và cái còn lại thì không. So sánh \"el\" (mạo từ xác định giống đực số ít) với \"él\" (đại từ \"anh ấy\" hoặc \"nó\"); hoặc \"te\" (\"bạn\", bổ ngữ đại từ), de (giới từ \"của\" hoặc \"từ\") và \"se\" (đại từ phản thân) với \"té\" (\"trà\"), dé (\"cho\") và sé (\"Tôi biết\", hoặc mệnh lệnh cách của động từ \"ser\"), ta thấy được sự khác nhau.\nNhững đại từ nghi vấn (qué, cuál, dónde, quién, v.v.) cũng có dấu sắc ở những câu hỏi gián tiếp hay trực tiếp, và một số đại từ chỉ định (ése, éste, aquél, v.v.) có thể có dấu khi được sử dụng như những đại từ. Liên từ \"o\" (\"hoặc\") được thêm vào một dấu huyền khi được viết ở giữa các số với nhau để không bị lẫn với số 0 (zero): Ví dụ, \"10 ò 20\" phải được đọc là diez o veinte (\"mười hay hai mươi\") thay vì diez mil veinte (\"10 020 - mười ngàn không trăm hai mươi\"). Những dấu này thường được bỏ đi khi viết hoa (thói quen trước đây khi khi sử dụng máy tính vì chỉ có những chữ viết thường mới có dấu được), cho dù Học viện Hoàng gia Tây Ban Nha phản đối.\nTrong trường hợp hiếm, \"u\" được viết với một dấu tách âm (\"ü\") khi nó được viết giữa chữ \"g\" và một nguyên âm lưỡi trước (\"e\" hoặc \"i\"), để báo hiệu là nó phải được đọc thay vì câm như thường lệ. Ví dụ, cigüeña (con cò), được đọc là /θ̟iˈɰweɲa/; nếu như nó được viết là cigueña, nó sẽ được đọc là /θ̟iˈɰeɲa/.\nNhững mệnh đề nghi vấn và cảm thán được bắt đầu bằng dấu chấm hỏi ngược (¿) và dấu chấm than ngược (¡).\nPhân phối địa lý của tiếng Tây Ban Nha.\nTiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ cơ bản của 20 quốc gia trên thế giới. Người ta ước tính tổng số người nói tiếng Tây Ban Nha là khoảng 470 đến 500 triệu, làm nó trở thành ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi thứ hai trên thế giới theo số lượng người bản ngữ.\nTiếng Tây ban Nha là tiếng được sử dụng nhiều thứ ba trên thế giới (sau tiếng Trung Quốc và tiếng Anh). Thống kê ngôn ngữ sử dụng trên Internet năm 2007 tiếng Tây Ban Nha cũng là ngôn ngữ được sử dụng nhiều thứ ba trên Internet, sau tiếng Anh và tiếng Trung Quốc.\nSố người nói tiếng Tây Ban Nha theo quốc gia.\nBảng sau thể hiện số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha ở 79 quốc gia. \nNgữ pháp.\nTiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ có nhiều biến tố, có hai giống cho danh từ (giống đực và giống cái) và khoảng 50 hình thái chia động từ cho một động từ, nhưng ít biến tố hơn cho danh từ, tính từ và từ hạn định.\nTiếng Tây Ban Nha có sử dụng giới từ, và thông thường (nhưng không phải luôn luôn) thì tính từ đứng sau danh từ. Cấu trúc câu là SVO (\"Subject Verb Object\"), tức là Chủ ngữ - Động từ - Bổ ngữ, cho dù những sự biến đổi thì cũng khá phổ biến. Có thể lược bỏ chủ ngữ đi khi ngữ cảnh trong câu đã rõ ràng. Động từ diễn tả hướng đi mà không cần phải có giới từ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Berg, Starnberg?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Berg là một đô thị trong huyện Starnberg bang Bayern, Đức.\nCác làng thuộc xã.\nCó 15 làng được ghi chú theo loại.):\nLịch sử.\nCho tới thế kỷ 19.\nNơi này được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 822 với tên gọi \"perge cum basilica\" (Berg với nhà thờ).\nVương tộc Wittelsbach bắt đầu ảnh hưởng đến làng đánh cá và nông nghiệp vào thế kỷ 17. Tuyển hầu tước Ferdinand Maria đã mua lại một mảnh đất bên hồ nơi lâu đài Berg được xây dựng, nơi vẫn thuộc sở hữu của gia đình Wittelsbach cho đến ngày nay. Ludwig II đã sử dụng lâu đài như một nơi cư trú vào mùa hè. Các Hoàng hậu của Nga và Áo đã đến đây thăm ông.\nNăm 1818, đơn vị hành chính xã được thành lập. Aufkirchen và Leoni từ 1818 thuộc về xã Berg.\nThế kỷ 20.\nVào ngày 1 tháng 10 1937 Kempfenhausen được cho nhập vào xã. Từ 1 tháng 1 1975 Bachhausen và Höhenrain cũng thuộc xã Berg.\nPhát triển dân cư.\nTừ 1988 cho tới 2018 xã tăng dân từ 6709 lên 8296, tăng 23,7 %.\nDanh lam thắng cảnh.\nVotivkapelle.\nDie zu Ehren von Ludwig II. errichtete Gedächtniskirche St. Ludwig liegt im Wald oberhalb der Stelle, wo die Leiche des Königs am Pfingstsonntag, 13. Juni 1886, im See gefunden worden ist. 1887 stiftete seine Mutter Königin Marie eine Totenleuchte, die später in die Treppenanlage integriert wurde. Den Grundstein zum Bau der sogenannten Votivkapelle legte der Prinzregent Luitpold am 10. Todestag des Königs im Juni 1896. Vier Jahre später konnte die im neuromanischen Stil gebaute Kirche eingeweiht werden. Entworfen hatte sie der ehemalige Architekt des Königs Hofoberbaurat Julius Hofmann.\nNhà thờ tưởng niệm thánh Ludwig, được xây dựng để tôn vinh Ludwig II, nằm trong khu rừng phía trên nơi tìm thấy thi thể của nhà vua trong hồ, ngày 13 tháng 6 năm 1886. Năm 1887, mẹ của ông, Hoàng hậu Marie, đã tặng một chiếc đèn cho người chết, sau này được tích hợp vào cầu thang. Hoàng tử nhiếp chính Luitpold đã đặt viên đá nền cho việc xây dựng Votivkapelle vào ngày kỷ niệm 10 năm ngày mất của nhà vua vào tháng 6 năm 1896. Bốn năm sau, nhà thờ, xây dựng theo phong cách tân Romanesque, được khánh thành. Nó được thiết kế bởi Julius Hofmann, cựu kiến ​​trúc sư của nhà vua.\nNgay cả ngày nay, \"Những người trung thành với nhà vua\" họp hàng năm vào ngày Chủ nhật gần nhất với cái chết của nhà vua để làm lễ tưởng niệm tại Votivkapelle.\nBismarckturm.\nỞ làng \"Assenhausen\" có Bismarckturm được xây 1896 tới 1899.\nDu lịch.\nCả làng Berg và Leoni đều có bến tàu cho các tàu chở khách của Bayerische Seenschiffart trên Hồ Starnberg. Có những con đường mòn dành cho xe đạp và đi bộ đường dài dẫn qua cả hai làng của xã.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Megachile petulans từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Megachile petulans là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Cresson mô tả khoa học năm 1878.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "José Echegaray", "role": "user" }, { "content": "José Echegaray y Eizaguirre (19 tháng 4 năm 1832 – 4 tháng 9 năm 1916) là nhà viết kịch Tây Ban Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1904.\nTiểu sử.\nJose Maria Valdo Echegaray y Eizaguire sinh tại thủ đô Madrid. Năm lên 3 tuổi gia đình chuyển về Murcia ven biển Địa Trung Hải. Bố là giáo sư tiếng Hy Lạp ở trường Đại học Murcia. Echegaray đi học sớm, say mê tiếng Hy Lạp, tiếng Latin, lịch sử, triết học và toán. Nhận chứng chỉ tú tài triết học năm 14 tuổi, ông trở về Madrid và học tại trường Trung học Kỹ nghệ. Làm kỹ sư một vài năm, rồi trở thành giáo sư toán lý thuyết và ứng dụng tại trường Trung học Kỹ nghệ. Echegaray là một trong những nhà toán học xuất sắc nhất Tây Ban Nha thời đó, nghiên cứu triết học, địa lý và kinh tế - chính trị học, yêu thích nghệ thuật sân khấu. Sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản năm 1868, ông lần lượt giữ các chức Bộ trưởng Xã hội, Bộ trưởng Thương mại, Bộ trưởng Tài chính.\nNăm 1874, sau khi vương triều Bourbon được khôi phục, Jóse Echegaray buộc phải lưu vong sang Paris. Cuối năm ông về nước, viết vở kịch đầu tiên \"El ibro tahonano\" (Cuốn ngân phiếu), rồi từ bỏ việc nghiên cứu toán học và những khoa học khác, cũng như các hoạt động chính trị. Ba mươi năm tiếp theo Echegaray chỉ chuyên tâm vào văn học nghệ thuật, mỗi năm viết vài ba vở kịch cho đến cuối đời. Trong số 60 vở kịch của ông có đến hơn nửa là kịch thơ. Vở kịch nổi tiếng đầu tiên của ông là \"La esposa del vengador\" (Vợ kẻ báo thù, 1874); năm 1895 vở \"O locura ó santidad\" (Điên khùng hay thần thánh, viết năm 1877) được dịch sang tiếng Anh và mang lại tiếng tăm thế giới cho ông. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Echegaray là \"El gran Galeoto\" (Galeoto vĩ đại1881), viết về sức tàn phá của những tin đồn thổi khiến những người vô tội trở thành nạn nhân.\nNăm 1894 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Hoàng gia Tây Ban Nha. Năm 1904 ông nhận giải Nobel cùng Fredéric Mistral vì những đóng góp cho sự nghiệp phục hồi các truyền thống của kịch Tây Ban Nha. Năm 1912 ông được trao Huân chương Lông Cừu Vàng. Các nhà phê bình đánh giá khác nhau về José Echegaray. Một số cho rằng ông là mắt xích kết nối của kịch cổ điển và hiện đại Tây Ban Nha; số khác coi nghệ thuật của ông là bằng chứng suy thoái của nền nghệ thuật kịch Tây Ban Nha cuối thế kỉ 19. Ông mất ở Madrid năm 1916.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Reichertshausen từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Reichertshausen là một đô thị ở huyện Pfaffenhofen bang Bayern thuộc nước Đức.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Hörselberg-Hainich?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Hörselberg-Hainich là một đô thị trong huyện Wartburg ở bang Thüringen, Đức. Đô thị này có diện tích 142 km². Hörselberg-Hainich được lập ngày 1 tháng 12 năm 2007 thông qua việc sáp nhập các đô thị Behringen và Hörselberg.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Hajan is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Hajan là một thị xã và là nơi đặt ủy ban khu vực quy hoạch (\"notified area committee\") của quận Baramula thuộc bang Jammu và Kashmir, Ấn Độ.\nĐịa lý.\nHajan có vị trí Nó có độ cao trung bình là 1556 mét (5104 feet).\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Hajan có dân số 9916 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Hajan có tỷ lệ 32% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 42%, và tỷ lệ cho phái nữ là 21%. Tại Hajan, 14% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Atoposmia segregata từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Atoposmia segregata là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Michener mô tả khoa học năm 1954.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Centris flavothoracica không ?", "role": "user" }, { "content": "Centris flavothoracica là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Friese mô tả khoa học năm 1899.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Bộ Lưỡi rắn á", "role": "user" }, { "content": "Bộ Lưỡi rắn (danh pháp khoa học: Ophioglossales) là một bộ chứa các loài dương xỉ có thể bào tử có dạng giống như lưỡi con rắn. Theo truyền thống chúng được đưa vào trong ngành Dương xỉ (\"Pteridophyta\"), nguyên thủy như một họ và sau đó là như một bộ. Trong một số phân loại, nhóm này được đặt trong ngành riêng tách biệt, gọi là Ophioglossophyta, nhưng các nghiên cứu hệ thống hóa phân tử gần đây đã chỉ ra rằng bộ Ophioglossales có quan hệ gần với bộ Quyết lá thông (Psilotales). Phân loại gần đây nhất của Smith và ctv. (2006) đặt hai bộ này cạnh nhau trong lớp Quyết lá thông (Psilotopsida)\nOphioglossales chỉ chứa một họ, Ophioglossaceae, mà trong một số phân loại đôi khi được tách ra thành 2 hay 3 họ, lần lượt là lưỡi rắn, Ophioglossaceae, và âm địa quyết Botrychiaceae. Loài khác biệt \"Helminthostachys zeylanica\" (sâm chân rết, sâm bòng bong, nhập địa ngô công, thất chỉ quyết hay quản trọng) đôi khi được đặt trong họ riêng của chính nó là Helminthostachyaceae. Loài mới phát hiện gần đây và chi mới, \"Mankyua chejuense\", làm cho bức tranh càng thêm phức tạp. Các xử lý gần đây nhất về các dạng lưỡi rắn đều coi tất cả chúng chỉ nằm trong một họ Ophioglossaceae.\nCác loài thực vật này có các bào tử sống ngắn ngày được hình thành trong các túi bào tử thiếu hàng các tế bào hình khuyên bao quanh ổ túi bào tử và sinh ra trên cuống tách ra từ phiến lá; và các rễ to dày. Nhiều loài chỉ ra một lá lược hay phiến lá mỗi năm. Một số loài chỉ sinh ra các bông sinh sản mà không có phiến lá thông thường. Các thể giao tử là dạng sống ngầm dưới đất. Các bào tử sẽ không nảy nở nếu bị đưa ra ngoài ánh sáng, và các thể giao tử có thể sống khoảng 20 năm mà không hình thành nên thể bào tử.\nChi \"Ophioglossum\" có số nhiễm sắc thể cao nhất trong số các loài thực vật đã biết. Loài giữ kỷ lục hiện nay là \"Ophioglossum reticulatum\", với số nhiễm sắc thể đạt tới 1.260.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Lũ lụt Queensland 2010–2011 nha ?", "role": "user" }, { "content": "Lũ lụt tại Queensland là một loạt các trận lũ ở Úc, bắt đầu từ tháng 12 năm 2010, chủ yếu ở bang Queensland và thành phố thủ phủ bang Brisbane. Đợt lũ lụt đã buộc di tản hàng ngàn người từ các thị trấn và thành phố Có ít nhất 31 thị xã và hơn 200.000 người đã bị ảnh hưởng Thiệt hại ước tính ban đầu khoảng 1 tỷ đô la Úc. Ước tính thiệt hại và thu nhập bị mất là khoảng 13 tỷ đô la Úc.\nBa phần tư bang Queensland được tuyên bố là một khu vực chịu thiên tai.\nBối cảnh.\nĐợt lũ lụt này là một kết quả của lượng mưa cao do cơn bão nhiệt đới Tasha kết hợp với một vùng áp suất thấp trong đợt cao điểm của hiện tượng La Niña. Đợt La Niña 2010 gây ra điều kiện ẩm ướt hơn vào phía đông Australia, là đợt mạnh nhất kể từ năm 1973. Tình trạng ngập lụt cô lập bắt đầu trên khắp các khu vực bang trong những ngày đầu tháng 12. Ngày 24 tháng 12 một đợt áp thấp gió mùa đi qua bờ biển từ Biển Coral, gây ra mưa rơi trong một dải rộng từ vịnh Carpentaria đến Gold Coast. Các điều kiện cũng đã dẫn đến một làn sóng lớn các loài rắn, cũng như một số cá sấu.\nĐến ngày 30 tháng mười hai, khu vực rộng lớn của miền Nam và miền Trung Queensland, một khu vực có diện tích bằng Đức và Pháp cộng lại, đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Khoảng 300 con đường bị phong tỏa, trong đó có chín đường cao tốc chính. Tuyến đường sắt vận chuyển than đá đã bị đóng và nhiều khu mỏ bị ngập lụt. Lũ lụt đã làm tăng giá trái cây và rau quả.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của G-Man (Half-Life) ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "G-Man, được lồng tiếng bởi Michael Shapiro, là một nhân vật trong loạt game \"Half-Life\" (Thể loại: FPS, PC Game). Thường được thấy trong một bộ đồ vest màu xanh với một chiếc cà vạt và thường xách một va-li. G-man được nhìn thấy lần đầu trong \"Half-Life\" (còn gọi là \"HL1\"). Ông ta là nhân vật bí ẩn nhất trong chuỗi game với sắc thái kì lạ và có những quyền năng vượt xa khả năng con người. Ngoài ra, mọi danh tính và hành động của ông ta đều không thể giải thích nổi. Trong game G-man đóng vai trò một \"thế ngoại thần tiên\", theo dõi và điều chỉnh mọi diễn biến xảy ra, đặc biệt là quan sát hành động của người chơi.\nTổng quan.\nVề mặt hình thức bề ngoài, G-Man mang hình dạng một người trung niên châu Âu cao gầy, da nhợt nhạt, tóc đen cắt gọn, mắt xanh. Trong suốt loạt game, G-man mặc một bộ đồ vest màu xám xanh và thường được thấy (trừ lúc trong \"\") xách một va-li mà, trong \"HL1\", có logo của Trung tâm nghiên cứu Black Mesa. Giọng nói của G-man trầm, chậm và có sức sai khiến, đặc biệt G-man lên xuống giọng theo nhiều quy luật khó hiểu và luôn kéo dài phụ âm \"s\", nhấn âm sai, dừng tùy ý và đổi giọng giữa câu. Cách nói kì lạ này cùng với những câu nói khó hiểu đầy ẩn ý đem lại một phương diện kì bí cho nhân vật này.\nG-man luôn giữ một vẻ điềm tĩnh khác người. Trong hoàn cảnh Black Mesa bị xâm nhập bởi các quái vật đến từ hành tinh Xen, khi tất cả mọi người hoảng sợ trốn tránh và bỏ chạy, G-man được nhìn thấy đang thắt lại nút cà-vạt và... phủi bụi trên bộ complet của ông ta với một gương mặt dường như không để ý đến quái vật xung quanh. Trong chuỗi \"Half-Life\", người chơi rất khó bắt gặp G-man, và ông ta thường được thấy ở những vị trí không thể đến được và sẽ biến mất ngay sau đó. G-man có khả năng vận hành nhiều loại máy móc và công nghệ, từ điện thoại di động và cửa khóa mã cho đến vũ khí hạt nhân và máy dịch chuyển tức thời.\n\"G-Man\" không phải là tên thật. Ông ta không bao giờ được đề cập tới bởi những nhân vật khác trong game. \"G-man\" chỉ là tên của kiểu mẫu trong \"Half-Life\", và \"Half-Life 2\" (có thể là ám chỉ cụm từ G-Man, nói về một cán bộ của Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ. Nhân vật cũng được gọi là \"Gman\" trong danh sách lồng tiếng của \"Half-Life 2\". Hơn nữa, trong \"Opposing Force\", Shephard gọi nhân vật này là \"G-man.\" Phần đông game thủ dùng nickname \"G-Man\" hay \"Government man\" vì không ai biết tên thật. Trước khi phát hành \"Half-Life 2\", nhiều người cho rằng G-man là giám đốc của Trung tâm nghiên cứu Black Mesa, nhưng mà Half-Life 2 chỉ rõ giám đốc là một người khác: Tiến sĩ Wallace Breen.\nG-man được nhìn thấy nói chuyện với một số người. Trong Half-Life 2, Doctor Breen nói với Gordon Freeman rằng Gordon đã \"tự chứng tỏ mình là một con chốt tốt trong tay kẻ điều khiển anh ta\" và cảnh báo Freeman rằng \"cái hợp đồng của mày đã mở cho người đấu giá cao nhất\". Mấy dòng này chứng tỏ Breen đang lo sợ sự can thiệp của một thế lực lớn hơn lên hành động của Freeman. Ngoài ra, người Vortigaunt có vài câu bí ẩn có thể là nói về G-Man, và trong đoạn giới thiệu của \"\" người Vortigaunt đã đụng độ G-man, giải thoát Freeman khỏi sự khống chế. Có thể thấy Vortigaunt rất dè chừng G-man, có thể là vì bản chất và mục đích bí ẩn của ông ta, cũng có thể là hai lực lượng đối lập với nhau.\nTrong loạt game, đặc biệt là Opposing Force, có vẻ như G-man đang theo đuổi một kế hoạch, giải thích vì sao ông ta ngăn Shephard thoát khỏi Black Mesa và khởi động lại quả bom nguyên tử mà Shephard đã vô hiệu hóa, cũng như thuê Gordon Freeman. Có vẻ như G-man muốn mọi thứ xảy ra theo một chuỗi sự kiện đã hoạch định trước.\nCái gì ở trong va-li và những đồ sở hữu khác.\nTừ trong \"Half-Life 2: Episode One\", G-man luôn cầm theo một chiếc va-li. Trong \"Half-Life 1\", dùng mã \"no-clipping\" (noclip), hoặc là dùng \"Model Viewer\", có thể thấy được bên trong cái va-li này . Tuy vậy, do bên trong của va-li chỉ được nhìn thấy bởi chỉnh mã hay là dùng công cụ cải tiến, người chơi không thể nhìn thấy được bên trong nên đó chỉ được xem như một Easter egg. Điều này chỉ đúng trong \"HL1\", vì trong \"HL2\", cái va-li trống không. Sau đây là danh sách vật dụng trong va-li:\nNgoài ra, trong \"Opposing Force\", ông ta được nhìn thấy đang nói chuyện qua điện thoại di động.\nXuất hiện trong games.\n\"Half-Life\".\nNhìn thấy lần đầu trong chiếc xe điện ngược chiều với Gordon, nhưng không biết làm sao ông ta lại tới Khu vực C trước Freeman. Trước khi cuộc thí nghiệm diễn ra, G-man được thấy tranh luận rất dữ dội với 1 nhà khoa học trong 1 phòng kín ở khu vực C. Theo sau cái \"catastrophic resonance cascade\", G-Man được nhìn thấy lặng lẽ theo dõi người chơi từ những vị trí không thể tới được. Trong vài trường hợp, dường như những nhân vật khác không thấy được sự xuất hiện của G-man.\nSau khi Gordon tiêu diệt Nihilanth, chúa tể của hành tinh Xen và cũng là trùm cuối boss của \"Half-Life\", G-Man đem Gordon ra khỏi vòng nguy hiểm một cách khó tin, đột ngột xuất hiện kế bên người chơi, lấy hết vũ khí của Gordon (ông ta nói đó là \"tài sản chính phủ\") và dẫn Gordon tham quan vài nơi trên hành tinh Xen. Rồi màn hình trở thành cảnh vật trông 1 chiếc xe điện (giống như cái xe điện chở Gordon vào Black Mesa ở đầu game) đang di chuyển xuyên không gian với tốc độ kinh hồn. G-man nói với người chơi rằng ông ta đã theo dõi người chơi và thích thú hành động của Freeman. Ông ta sau đó đề nghị thuê Gordon làm việc cho \"sếp\" của ông ta. Nếu người chơi từ chối thì đồng nghĩa với việc 1 Freeman không có vũ khí bị đặt vào thế đối diện 1 quân đoàn quái vật và màn hình dần đen thui với những lời cuối cùng của G-man: \"No regrets, Mr. Freeman.\" (Tạm dịch: Không có gì hối tiếc, ông Freeman).\nTrang web chính thức của \"Half-Life 2: Episode One\" ghi rõ \"In \"Half-Life\", the G-Man made you.\" (Tạm dịch: Trong \"Half-life\", G-man đã tạo ra bạn.)\n\"Opposing Force\".\nTrong expansion pack \"\", G-man đóng vai trò trực tiếp trong câu chuyện nhiều hơn, có lúc hướng dẫn và giúp đỡ người chơi, hạ sĩ Adrian Shephard, cũng có lúc chỉ quan sát.\nTrong cuộc diễn tập quân đội trước Half-life, G-Man có được thoáng thấy nói chuyện với 1 sĩ quan. Và sau đó sự luyện tập của Shephard bị tăng lên, cho thấy G-man đã để ý Shephard từ trước khi có sự kiện Black Mesa.\nỞ chỗ Shephard bị kẹt trong 1 lối đi nhỏ, với nước phóng xạ ào tới một cách nhanh chóng. G-Man đã mở 1 cánh cửa cứu mạng anh ta. Ở vòng sau, lúc Shephard sắp thoát được Black Mesa với những người lính còn lại, G-Man lại đóng cửa, không cho anh ta chạy thoát.\nSau nữa, G-Man được thấy tái điều chỉnh trái bom nguyên tử mà sau đó phá hủy \"Black Mesa\", chính là trái bom mà Shephard đã vô hiệu hoá ngay trước đó.\nSau khi Shephard tiêu diệt Gene Worm tại khúc cuối của \"Opposing Force\", G-Man lại xuất hiện. Lần này Shephard nhận ra mình được đưa lên khoang của 1 chiếc Osprey của đơn vị HECU, đối mặt với G-Man. G-Man báo cho Shephard rằng, ngược với ý đồ ban đầu, Shephard sẽ bị gạt ra, nhưng được bảo lưu. G-Man nói rằng ông ta ngạc nhiên với khả năng sống còn của Shephard tại Black Mesa, và nói rằng điều đó làm G-man nhớ lại quá khứ của mình. Trong lúc đó, chiếc máy bay đã đem họ xa khỏi Black Mesa, và lập tức Black Mesa bị hủy diệt hoàn toàn bởi bom nguyên tử. Ko hiểu sao chiếc máy bay bay được đến Xen, và cuối cùng là đến khoảng bóng đêm vô tận giống như khúc cuối của \"Half-life\". G-man để Shephard ở đó và dùng 1 máy dịch chuyển tức thời để biến mất.\nTrong cả hai \"Half-Life: Blue Shift\" và \"Half-Life: Decay\", nhân vật chính, Barney Calhoun và các tiến sĩ Gina Cross và Colette Green, nhìn thấy G-man ở khúc đầu game, nhưng mà G-man chẳng để ý họ.\n\"Half-Life 2\".\n\"Half-Life 2\" bắt đầu bằng việc Gordon thức dậy khoảng hai thập niên trong tương lai, khi nhìn thấy những cảnh trong mơ như phòng thí nghiệm \"Black Mesa\", và phần trong của pháo đài Citadel. Trong đoạn hội thoại, G-Man nói ông ta đặt Gordon vào giấc ngủ để bảo vệ anh ta, và bây giờ 1 cơ hội mới đã nổi lên cho phép Freeman 1 lần nữa chống lại lực lượng Combine trên Trái Đất.\nG-Man luôn gọi Gordon Freeman là \"Ông Freeman\", mặc dù Gordon có bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, ở khúc cuối, ông ta lại gọi Freeman là \"Tiến sĩ Freeman\".\nG-Man có thể được thấy thoáng qua tại vài nơi trong chuỗi sự kiện của game, nhưng chỉ là từ rất xa hoặc là trên màn hình cho đến khúc cuối. Sau 1 trân quyết tử trên đỉnh tháp toà Citadel, Gordon làm hư hỏng nặng hệ thống năng lượng tối của tòa nhà, dẫn tới 1 vụ nổ mà không ai có thể sống sót; nhưng điều đó đã không xảy ra vì G-Man đột ngột xuất hiện và \"dừng thời gian\" để đưa Gordon ra chỗ an toàn để đợi \"công việc mới\" (trong khi đó lại để lại Alyx Vance chờ chết trong vụ nổ). Trò chơi lại kết thúc trong bóng đêm vô tận như là \"HL1\", với việc G-Man mở 1 cánh cửa không gian và bước qua, không quên thắt lại nút cà-vạt của mình.\nG-Man, tới lúc này, có vẻ chắc chắn sẽ một lần nữa đặt Freeman vào giấc ngủ cho đến khi có vài \"công việc thú vị\" cho Gordon, lần này không nhắc gì tới \"xếp\" của ông ta như là \"HL1\". Nhưng mà, sau đó trong \"Episode One\", sự quản lý của G-Man đối với Gordon bị lấy đi bởi người Vortigaunts (xem phía dưới), chấm dứt (hoàn toàn hay tạm thời) kế hoạch của ông ta.\nTrong khúc cuối, Tiến sĩ Breen hỏi Gordon, \"Did you realize your contract was open to the highest bidder?\" (Tạm dịch: Cậu có biết là hợp đồng của cậu đã được mở cho người đấu giá cao nhất không?). Có thể có liên hệ với \"hợp đồng\" mà Gordon có với G-Man, và nhiều người cho rằng G-man là 1 nhân vật trung lập.\n\"Half-Life 2: Episode One\".\nG-Man chỉ được thấy 1 lần trong \"Half-Life 2: Episode One\". Ở đoạn đầu game, tiếp ngay sau khi \"Half-Life 2\" kết thúc, G-Man trở về bóng đêm vô tận và định nói điều gì đó với Gordon, nhưng ngay lập tức nhận ra 1 người Vortigaunt màu tím phía bên trái. Ông ta nở 1 nụ cười nửa miệng, nhưng liền sau đó nhận ra 1 Vortigaunt nữa bên phải, và nụ cười biến mất trên khuôn mặt G-man. Tổng cộng 8 Vortigaunt lần lượt xuất hiện và tạo 1 \"khiên năng lượng\" bao vây G-man, ông ta lộ vẻ tức giận, và khi ông ta thấy 2 Vortigaunt khác cắp tay Gordon đưa đi, ông ta nhận ra điều gì đó đang xảy ra. Với vẻ điềm nhiên đến kinh ngạc, G-Man thắt chặt lại cà-vạt một cách thô bạo và trả lời lại giai điệu của những người Vortigaunt với 1 giọng lạnh lùng trầm tĩnh và bí ẩn: \"We'll see... about \"that\"!\" (Tạm dịch: Chúng ta sẽ xem xét về... chuyện đó). Gordon ngay lập tức được dịch chuyển tức thời đi xa và được tìm thấy bởi Dog sau đó trong 1 đống đá ngoài toà tháp Citadel.\nSự kiện này cho thấy người Vortigaunts có khả năng xâm nhập bóng đêm vô tận của G-Man. Và nó cũng cho thấy người Vortigaunts không yếu như họ từng thể hiện, bằng chứng là họ có thể ngăn cản G-man, cho đến lúc này vẫn là nhân vật có quyền năng lớn nhất trong game.\n\"Half-Life: Episode Two\".\nTrong \"\", G-Man dừng thời gian và xuất hiện ngay khi nhóm những người Vortigaunts đang bận cứu chữa cho Alyx Vance vừa mới bị chấn thương. Ông ta nói rằng ông ta không thể liên lạc với Gordon trừ khi những người Vortigaunts bị làm cho lơ đãng. Sau đó, G-man dẫn Gordon qua 1 chuỗi những nơi nửa thật, nửa ảo, trong lúc cho Gordon biết rằng chính G-Man là người đã \"rút\" (pluck) Alyx Vance ra khỏi Black Mesa, dù có sự phản đối từ vài \"kẻ khó ưa\" với lý luận rằng Alyx chỉ là \"1 đứa trẻ vô dụng đối với bất kì ai \" (A mere child of no practical use to anyone). (G-man không đề cập ai là \"kẻ khó ưa\" nhưng trên màn hình phía sau ông ta xuất hiện hình ảnh Tiến sĩ Breen trong chớp mắt). G-man sau đó ra lệnh cho Gordon hộ tống Alyx đến White Forest một cách an toàn, như là 1 sự đền đáp cho việc ông ta đã cứu mạng Gordon trước đó, ông ta còn cho biết thêm là ông ta rất muốn làm điều gì đó nhiều hơn là điều khiển Gordon, nhưng tiếc là ông ta đã đồng ý \"không vượt quá vài giới hạn định sẵn\" (abide by certain restrictions). Sau đó, trong khi Alyx vẫn còn đang hôn mê, G-man khẽ truyền vào tai cô ta 1 mệnh lệnh: khi Alyx gặp Tiến sĩ Vance, cô ta phải nói với cha của cô ta rằng ông ấy phải: \"Prepare for unforeseen consequences\" (chuẩn bị cho những hậu quả không thể lường trước). Trong chuỗi sự kiện này, G-man có vẻ linh động hơn và giống một con người nhiều hơn.\nKể từ sau sự kiện này, G-Man lại được nhìn thấy ở vài nơi trên đường đến White Forest, điều này đã không diễn ra trước đó kể từ đoạn kết của Half-Life 2.\nKhi Alyx và Gordon đến được White Forest, hình ảnh của G-man xuất hiện trong chớp mắt trên màn hình phòng điều khiển, kích hoạt Alyx truyền thông điệp của ông ta đến cha là Eli, với một giọng nói vô hồn. Eli có vẻ như bị sốc khá nặng khi nghe những lời này, đến nỗi hầu như sắp ngã gục. Sau khi tìm cách làm cho Alyx rời khỏi phòng, Eli cho Gordon biết rằng ông ta cũng lo sợ về G-man (Eli gọi G-man là \"mutual friend\" (bạn chung)). Eli cho biết thêm chính G-Man là người đem mẫu vật liệu từ Xen gây nên Sự kiện Black Mesa, và thì thầm vào tai Eli \"prepare for unforeseen consequences\" (chuẩn bị cho những hậu quả không thể lường trước) ngay trước khi thảm họa resonance cascade xảy ra. (\"Unforeseen Consequences\" là tên của một phần trong game \"Half-life\" ngay sau khi thảm hoạ xảy ra). Ngay khi Eli bắt đầu tiết lộ hy vọng về 1 hoạt động bí mật nào đó thì Alyx bước vào. Vài phút sau, Eli nói với Gordon rằng thông điệp của G-man là nói về chiếc \"Borealis\", và khẳng định lại rằng chiếc thuyền này phải bị phá hủy, nếu không sẽ có 1 thảm họa Black Mesa thứ 2 xảy ra. Eli gợi ý rằng ông ấy biết vài điểm về G-Man (vd: tính cách, động cơ, danh tính thật...) khi ông ta nói \"Gordon, there's so much I need to tell you\" (Gordon, còn rất nhiều thứ mà tôi cần nói với anh), trước khi bị Alyx chen vào. Tuy nhiên, ngay sau đó Eli bị giết bởi Combine Advisor trước khi ông ta có cơ hội làm sáng tỏ vấn đề.\nDanh sách xuất hiện trong game.\nG-man xuất hiện vài lần trong mỗi game, ở những vị trí không đến được. Nếu bắn ông ta, ông ta không bị mất máu, chứng tỏ ông ta bất tử. Danh sách này không tính đoạn mở đầu và kết thúc mỗi game.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about 783 Nora from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "783 Nora\n783 Nora là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Johann Palisa phát hiện ngày 18.3.1914 ở Viên, và được đặt theo tên Nora, nhân vật nữ anh hùng trong vở kịch \"A Doll's House\" của Henrik Ibsen.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Horistonotus electus không ?", "role": "user" }, { "content": "Horistonotus electus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Candèze miêu tả khoa học năm 1860.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Khura Buri (huyện) ?", "role": "user" }, { "content": "Khura Buri () là một huyện (\"amphoe\") ở tỉnh Phang Nga miền nam Thái Lan.\nĐịa lý.\nHuyện này nằm ở bờ biển Andaman, là huyện cực bắc tỉnh Phang Nga. Các huyện giáp ranh (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ) là Suk Samran (tỉnh Ranong), Ban Ta Khun và Phanom của tỉnh Surat Thani, và Takua Pa về phía nam.\nVề phía nam của Huyện là Vườn quốc gia Si Phang-nga. Các đảo Simila, các đảo Surin, và các đảo Ra và Phra Thong.\nLịch sử.\nBan đầu, đây là huyện thủ phủ của tỉnh Takua Pa, tên là \"Amphoe\" Mueang Takua Pa. Năm 1913, tỉnh lỵ đã được dời đến nơi ngày nay là thị xã Takua Pa, huyện đã được đổi tên thành Ko Kho Khao theo \"tambon\" trung tâm. Năm sau đó, huyện đã được đổi tên thành Pak Nam, which was undone Năm 1917. Huyện này đã được hạ xuống thành tiểu huyện (\"King Amphoe\") ngày 1 tháng 9 năm 1938. Khi trụ sở huyện được dời đến \"tambon\" Khura ngày 22 tháng 10 năm 1968, huyện đã được đổi tên thành Khura Buri. Ngày 8 tháng 8 năm 1975, đơn vị này đã được nâng lên thành huyện (\"amphoe\").\n\"Tambon\" Ko Kho Khao, ban đầu là trung tâm của huyện, đã được chuyển sang huyện Takua Pa ngày 28 tháng 12 năm 1988.\nHành chính.\nHuyện Khura Buri được chia ra thành 4 phó huyện (tambon), các đơn vị này lại được chia ra thành 33 làng (\"muban\"). Khuraburi là thị trấn (\"thesaban tambon\") và nằm trên một số khu vực của \"tambon\" Khura và Mae Nang Khao. Mỗi tambon don một Tổ chức hành chính tambon quản lý. ", "role": "assistant" } ]