messages
listlengths
3
3
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Hylaeus quadratifer nha ?", "role": "user" }, { "content": "Hylaeus quadratifer là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1912.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Arrancourt không ?", "role": "user" }, { "content": " \nArrancourt là một xã ở tỉnh Essonne thuộc vùng Île-de-France miền bắc nước Pháp.\nTheo điều tra dân số năm 1999, dân số xã này là 133 người. Ước tính dân số năm 2005 là 138.\nDanh xưng cư dân địa phương Arrancourt trong tiếng Pháp là \"Arrancourtois\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Tom Henning Øvrebø nha ?", "role": "user" }, { "content": "Tom Henning Øvrebø (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1966) là một cựu trọng tài bóng đá người Na Uy người đã điều hành các trận đấu ở UEFA Cup và UEFA Champions League. Ông được bầu vào hạng mục trọng tài ưu tú hàng đầu của UEFA. Øvrebø đã làm việc bên ngoài bóng đá với tư cách là một nhà tâm lý học đủ tiêu chuẩn.\nSự nghiệp trọng tài.\nGiải vô địch Na Uy.\nØvrebø bắt đầu sự nghiệp cầm còi của mình tại giải Norwegian Premier League từ ngày 20 tháng 12 năm 1992. Ông được thăng cấp trọng tài FIFA vào năm 1994. Ông từng giành giải thưởng Kniksen, giải thưởng dành cho trọng tài xuất sắc nhất năm tại Norwegian Premier League vào các năm 2001, 2002, 2003, 2005 và 2006. Ông cũng là trọng tài bắt chính trong hai trận chung kết Norwegian cup vào năm 1999 (Rosenborg–Brann) và 2006 (Fredrikstad–Sandefjord).\nEuro 2008.\nØvrebø được UEFA chọn làm trọng tài tại Euro 2008. Trước đó, ông từng từng cầm còi trong trận chung kết Giải vô địch U-21 châu Âu năm 2002 giữa Pháp và Cộng hòa Séc nhưng đây là giải đấu quốc tế lớn đầu tiên trong sự nghiệp cầm còi của ông. Để có được vinh dự này, ông đã phải vượt qua trọng tài đồng hương Terje Hauge. Trận đấu đầu tiên mà ông bắt chính là trận đấu vòng loại bảng B giữa Đức và Ba Lan. Trận đấu tiếp theo là trận hòa 1-1 giữa Ý và Romania. Trận đấu này kết thúc với tỉ số 1-1 trong đó có một bàn thắng không được công nhận của Luca Toni. Vì tình huống gây tranh cãi đó mà Liên đoàn bóng đá Ý đòi UEFA phải xin lỗi. Ngoài ra, còn tình huống Christian Panucci phạm lỗi với Nicolae Ceauşescu dẫn đến quả phạt đền của Romania và chiếc thẻ vàng cuối trận của Daniele De Rossi.\nSau trận đấu, chính Øvrebø đã phải thừa nhận sai lầm. Ông phát biểu: \"Không còn gì để tranh cãi. Tôi đã phạm sai lầm về bàn thắng của Toni và tôi đã trình bày như thế với hội đồng UEFA\". Tuy nhiên UEFA lại khẳng định rằng ông Ovrebo đã đưa ra quyết định đúng và nó phù hợp với luật việt vị của bóng đá. Mặc dù vậy, sau đó Øvrebø đã không còn được giao bắt chính một trận nào nữa tại Euro 2008.\nViệc thừa nhận sai lầm của Øvrebø đã khiến cho không chỉ các cầu thủ Ý mà cả báo giới và cả các quan chức cao cấp trong liên đoàn bóng đá hay chính phủ nước này cũng bất mãn với cách thức làm việc của các trọng tài tại Euro 2008. Giancarlo Abete, chủ tịch liên đoàn bóng đá Ý phát biểu: \"Trọng tài có thể có lỗi lầm và họ luôn mắc phải sai lầm. Nhưng chúng ta phải xem xét kỹ những tình huống gây tranh cãi. Khi UEFA đã nhảy vào cuộc và công nhận bàn thắng của van Nistelrooy là hợp lệ, tôi mong rằng họ cũng sẽ xem xét lại bàn thắng của Toni, bàn thắng đó có thể làm thay đổi cục diện trận đấu\".\nNhững phản ứng lan nhanh từ phía các cầu thủ đã được miêu tả trên các tờ báo của Ý. Trang bìa tờ báo Corriere dello Sport của Ý đã đăng \"Italia đang bấn loạn, bây giờ điều họ mơ phép màu\". Còn trên trang đầu của tờ La Repubblica đăng \" Các trọng tài chống lại Ý, UEFA phải giải thích\". Thủ tướng chính phủ Franco Frattini cũng tin rằng giải đấu năm nay đã đi chống lại đội bóng nước ông. Ông lên tiếng: \"Dường như họ (các vị trọng tài) chỉ ngồi xung quanh lại và đẩy chúng tôi ra ngoài\".\nUEFA Champions League.\nLần đầu tiên bắt chính.\nLần đầu tiên Øvrebø bắt chính trong một trận đấu tại UEFA Champions League là trận đấu vào tháng 9/2001 giữa Galatasaray và FC Nantes.\nSai lầm lớn đảo lộn cả cuộc sống.\nTuy nhiên, trận đấu đã khiến ông trở thành tâm điểm của mọi lời chỉ trích vì những sai lầm có vấn đề về tư tưởng của mình, được nghi ngờ là có sự chỉ đạo từ các quan chức UEFA. Đó là trận bán kết UEFA Champions League 2008-09 giữa Chelsea và Barcelona ngày 6 tháng 5 năm 2009. Trước trận bán kết này, Øvrebø đã cầm còi 21 trận tại Champions League trong số 48 trận trong các giải đấu của UEFA. Các tình huống gây tranh cãi trong trận đấu này bao gồm 5 tình huống Chelsea có thể được hưởng phạt đền. và chiếc thẻ đỏ phút 65 của hậu vệ Barca Éric Abidal Kết quả trận đấu này là 1-1 và Chelsea bị loại vì luật bàn thắng trên sân đối phương. Nếu trọng tài bắt đúng thì Abidal đã bị đuổi từ phút 24 do phạm lỗi với Drogba trong một tình huống đối mặt thủ môn. Sau tiếng còi mãn cuộc, các cầu thủ Chelsea đã có những phản ứng với trọng tài Øvrebø ngay trên sân, như tiền đạo Didier Drogba đã hùng hổ lao vào ông sau khi ông đang tìm cách rời khỏi sân Stamford Bridge. Drogba còn buông lời văng tục đối với Øvrebø và sau một lúc im lặng, ông liền rút thẻ vàng phạt tiền đạo người Bờ Biển Ngà. Thậm chí sau khi đi vào đường hầm của sân Stamford Bridge, Drogba vẫn tiếp tục đuổi theo trọng tài Øvrebø tìm cách gây sự.\nHuấn luyện viên của Chelsea, ông Guus Hiddink phát biểu sau trận đấu: \"\"Trong sự nghiệp của mình, tôi chưa bao giờ thấy một trọng tài bắt kém như vậy. Nhưng bóng đá là như vậy. Tất cả mọi người đều có thể mắc sai lầm, từ huấn luyện viên đến cầu thủ, và phải biết tôn trọng sự thực đó. Nhưng từ chối đến ba bốn quả phạt đền thì quả là quá đáng\". Chưa hết, hậu vệ người Bồ Đào Nha Jose Bosingwa khi phát biểu trên Đài Phát thanh - Truyền hình Bồ Đào Nha (RTP) đã nói: \"Chắc hẳn ai đó đã mua chuộc ông ta. Tôi không biết nên gọi Øvrebø là một trọng tài, hay một tên kẻ cắp. Chẳng từ ngữ nào có thể mô tả đúng bản chất và những việc mà ông ta đã làm tại Stamford Bridge hôm qua. Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết, Øvrebø nên tìm công việc khác và đừng bao giờ cầm còi nữa\".\" Còn trung vệ đội trưởng John Terry thì lên án UEFA vì quyết định cử trọng tài chính cho trận này khi cử một trọng tài mới chỉ có 10 trận đấu chính thức ở Champions League, chưa đủ kinh nghiệm để bắt trận bán kết.\nTrong khi đó, UEFA đã yêu cầu trọng tài Øvrebø im lặng trước mọi câu hỏi của báo giới. Khi được phóng viên của tờ Aftenposten phỏng vấn, vị trọng tài này trả lời rằng: \"\"Vì những gì đã xảy ra sau trận đấu UEFA yêu cầu tôi không đưa ra bất kỳ bình luận nào trước báo giới\". Sau đó, trên tờ Guardian, ông phát biểu \"Tôi sẽ không bình luận về những gì diễn ra tại Stamford Bridge ngày hôm đó\"\". Ông cũng từ chối nói về sự ủng hộ tuyệt đối mà UEFA dành cho ông sau những tranh cãi liên quan đến trận đấu giữa Chelsea và Barca và cũng tuyên bố mình sẽ không treo còi sau scandal này vì tình yêu của bản thân dành cho bóng đá. Øvrebø đã chọn cách hành xử khác với người đồng nghiệp Anders Frisk, vị trọng tài cách đây 3 năm do bị khủng bố, de doạ qua điện thoại, thư tín và e-mail sau trận đấu giữa Chelsea và Barca tại lượt đi vòng 1/16 UEFA Champions League 2004-05 nên đã quyết định giải nghệ để bảo vệ gia đình.\nSau đó, lần lượt Drogba và Bosingwa đã có những lời xin lỗi chính thức đến trọng tài Øvrebø.\nMột năm sau, khi các cầu thủ Barcelona không hài lòng với các quyết định của trọng tài người Bồ Đào Nha Olegário Benquerença trong trận bán kết Champions League với Inter Milan đã có phản ứng gay gắt sau trận đấu. Jose Mourinho, huấn luyện viên trưởng Inter và là cựu huấn luyện viên trưởng Chelsea đã phát biểu:\"Inter là đội chơi hay hơn trong trận đấu này. Các cầu thủ Barcelona nên thừa nhận điều đó thay vì chỉ trích trọng tài trong đường hầm. Phải chăng các cầu thủ Barca đã quên những gì mà trọng tài Tom Henning Ovrebo đã mang đến cho họ trong trận bán kết lượt về năm ngoái gặp Chelsea\" và trả đũa tiền vệ Xavi khi anh này khiêu khích ông trước \"hình như trận nào của Barca anh ta cũng muốn ông Øvrebø bắt thì phải\".\nTiếp tục mắc sai lầm.\nMột lần nữa cái tên Øvrebø lại bị dư luận mang ra chỉ trích . Ngày 17 tháng 2 năm 2010, Ông điều khiển trận đấu giữa Bayern Munich gặp ACF Fiorentina tại sân Allianz Arena trong khuôn khổ vòng loại 1/8 UEFA Champions League 2009-10. Phút thứ 89, tỉ số trận đấu đang là 1-1, trong một pha tấn công của đội chủ nhà, Ivica Olić bay người đánh đầu chuyền bóng cho Miroslav Klose, và Klose đã nhận bóng rồi nhẹ nhàng dứt điểm ghi bàn khi đang ở trong tư thế việt vị. Tuy nhiên trọng tài Øvrebø vẫn công nhận bàn thắng đó và trận đấu kết thúc với chiến thắng dành cho Bayern Munich.\nSau trận đấu, Huấn luyện viên Prandelli của Fiorentina cho rằng ngoài sai lầm trên, Øvrebø còn mắc thêm hai lỗi nữa, đó là đã xử quá nặng tay khi đuổi Gobbi của Fiorentina và chỉ phạt thẻ vàng cho lỗi xứng đáng nhận thẻ đỏ của Klose bên phía Bayern.\nKhông lâu sau đó, trên kênh truyền hình TV2 của Na Uy, Øvrebø đã thừa nhận sai lầm của mình: \"Dựa trên những hình ảnh sau trận đấu và những phản hồi mà chúng tôi nhận được, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng Klose đã việt vị. Nhưng thật không may mắn là chúng tôi đã không nhận ra điều đó. Dựa vào gợi ý từ trợ lý trọng tài, tôi đã công nhận bàn thắng và đây là trách nhiệm của tôi. Tôi luôn tham khảo ý kiến của các trợ lý trọng tài, nhưng tôi mới là người đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng hình ảnh sau trận đấu đã chỉ ra rằng đó không phải là một quyết định khôn ngoan.\" \nWorld Cup 2010.\nØvrebø đã được chọn cầm còi một số trận đấu tại vòng loại FIFA World Cup 2010 khu vực châu Âu như Armenia-Thổ Nhĩ Kỳ, Bỉ-Tây Ban Nha và Slovakia-Cộng hòa Séc.\nNgày 10 tháng 10 năm 2009, Øvrebø là trọng tài chính trận đấu giữa Hy Lạp-Latvia, đã cho Hy Lạp được hưởng một quả phạt đền gây tranh cãi. Huấn luyện viên đội tuyển Latvia Aleksandrs Starkovs đã tỏ thái độ không hài lòng với quyết định trên và phát biểu \"rõ ràng đó không hề là một pha phạm lỗi\".\nÔng là một trong 14 trọng tài của UEFA được FIFA chọn lúc đầu để cầm còi tại World Cup 2010, nhưng đã không lọt vào danh sách 10 trọng tài cuối cùng đại diện châu Âu. Vì điều này, Øvrebø đã quyết định nói lời chia tay với sự nghiệp trọng tài quốc tế của mình nhưng sẽ vẫn tiếp tục cầm còi tại Giải ngoại hạng Na Uy.\nCuộc sống cá nhân.\nKhi không làm nhiệm vụ trọng tài, Øvrebø là một nhà tâm lý học. Ông cho rằng nghề này cũng giúp ích ông rất nhiều khi làm trọng tài vì công việc cầm cân nảy mực trong các trận đấu cũng đòi hỏi yếu tố tâm lý và khả năng kiềm chế cảm xúc. Sở thích của ông là trượt tuyết, bóng đá, bóng nước, xem phim và đọc sách.\nVụ scandal trong trận Chelsea-Barca đã có những ảnh hưởng đến cuộc sống của ông. Ông đã phải trở về Oslo, Na Uy dưới sự hộ tống của các nhân viên an ninh UEFA. Bởi gần như lập tức ông nhận được hàng đống những lời đe doạ giết ông thông qua mạng internet. Cảnh sát Oslo đã kiểm tra tình hình và cho biết những lời đe doạ này là vô cùng nghiêm trọng. Một đội tuần tra được cắt cử để gác quanh căn hộ của Ovrebo. Rune Pedersen, chủ tịch hội đồng trọng tài Na Uy đã thừa nhận Ovrebo đang bị đặt trong tình trạng nguy hiểm sau khi địa chỉ nhà riêng của ông ở ngoại ô Oslo bị tung lên mạng internet.\nCuộc sống của Ovrebo và người vợ 38 tuổi Bente cùng hai đứa con của họ đã bị đảo lộn hoàn toàn. Chính ông cũng phải thừa nhận: \"Mọi thứ đã quá giới hạn khi người ta liên tục đe doạ và nói rằng họ sẽ giết chết. Những lời đe doạ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của gia đình tôi. Các con tôi gặp rắc rối ở trường vì bố chúng là trọng tài\". \nTin đồn giải nghệ.\nCuối năm 2009, có thông tin cho rằng trọng tài Øvrebø sẽ chính thức treo còi để đi tu. Ông đã phát biểu trên kênh truyền hình NRK của Na Uy: \"\"Tôi quyết định tìm đến Chúa để lấy lại sự yên ổn trong tâm hồn. Tâm trí tôi đã bị ám ảnh quá nhiều bởi buổi tối dữ dội ở London. Hy vọng mọi người sẽ tha thứ cho những sai lầm, dù là nhỏ nhất của tôi. Từ nay, tôi sẽ là Cha Knut, không phải Henning Ovrebo\"!\" Ông còn thừa nhận:\"\"Tôi không thể sống với những hình ảnh ở Stamford Bridge. Tôi như sống dưới địa ngục, vì không thể quên những hành động đe dọa của Drogba, Ballack và Essien. Có lẽ sai lầm của tôi đã gây ra một chuỗi những sự kiện đáng chú ý sau này. Barca không thể vô địch Champions League, siêu cúp châu Âu và cả cúp vô địch thế giới các câu lạc bộ nếu Chelsea giành chiến thắng\".\"\nNhưng thực tế, Øvrebø không hề giải nghệ, ngày 17 tháng 2 năm 2010, ông tiếp tục cầm còi điều khiển chính trong trận đấu giữa Bayern Munich và ACF Fiorentina trong khuôn khổ vòng 1/16 UEFA Champions League 2009-10. Và những tin đồn về việc Øvrebø giải nghệ chỉ là những lời nói đùa được bắt nguồn từ tờ AS của Tây Ban Nha trong ngày 26 tháng 12 (ngày nói dối của người Tây Ban Nha).\nLiên kết ngoài.\n[[Thể loại:Sinh năm 1966]]\n[[Thể loại:Trọng tài bóng đá Na Uy]]\n[[Thể loại:Người Oslo]]\n[[Thể loại:Nhân vật còn sống]]\n[[Thể loại:Trọng tài UEFA Champions League]]\n[[Thể loại:Trọng tài UEFA Europa League]]", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Cá mập sọc trắng nha ?", "role": "user" }, { "content": "Cá mập sọc trắng (danh pháp hai phần: Carcharhinus amblyrhynchos) là một loài cá mập phân bố ở các vùng biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương và vùng biển phía Đông châu Phi, ở Việt Nam, cá mập sọc trắng xuất hiện ở các vùng biển như Quy Nhơn, Khánh Hòa. Loài cá này có kích cỡ tương đối lớn, chỉ tính riêng con cá mập trắng đã bị ngư dân Việt Nam câu được ở vùng biển Quy Nhơn trong tháng 7/2011 thì đã có cân nặng nặng 37,5 kg và chiều dài 178 cm, vòm miệng rộng 16,5 cm, toàn thân sọc trắng. Cá thường tập trung đến để tìm kiếm thức ăn ở các bãi đá ngầm, bãi rạn vốn vì có nhiều loại cá nhỏ sinh sống. Vào khoảng hai mùa xuân - hè, có thể loài cá này vào gần bờ để sinh sản, tìm kiếm mồi, rồi sau đó trở lại khơi. Trong các loài cá mập thì đây là loài rất dữ và dễ tấn công người. Tại Việt Nam, cá mập sọc trắng thường xuyên tấn công người tại bãi tắm Quy Nhơn.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Pontevès từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Pontevès là một xã, thuộc tỉnh Var trong vùng Provence-Alpes-Côte d’Azur, Pháp. Xã này có diện tích 41,07 kilômét vuông, dân số 669 người. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 400 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Schwanheim, Südwestpfalz từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Schwanheim là một đô thị thuộc huyện Südwestpfalz, trong bang Rheinland-Pfalz, phía tây nước Đức. Đô thị này có diện tích 6,96 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 611 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Båtsfjord?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Båtsfjord là một đô thị hạt Finnmark, Na Uy. Trung tâm hành chính của đô thị này là làng Båtsfjord.\nBåtsfjordVardø herred (\"huyện nông thôn Vardø\") đã được tách từ thị trấn Vardø năm 1868 là một đô thị của riêng nó. Năm 1957, đô thị được đổi tên thành Båtsfjord. Phần phía đông của đô thị này đã được sáp nhập trở lại vào Vardø ngày 1 tháng 1 năm 1964.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Microdesmes collaris nha ?", "role": "user" }, { "content": "Microdesmes collaris là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Candèze miêu tả khoa học năm 1900.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Polycentropus azulus nha ?", "role": "user" }, { "content": "Polycentropus azulus là một loài Trichoptera trong họ Polycentropodidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Prunières, Hautes-Alpes ?", "role": "user" }, { "content": "Prunières là một xã của tỉnh Hautes-Alpes, thuộc vùng Provence-Alpes-Côte d’Azur, đông nam nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Kasur", "role": "user" }, { "content": "Kasur là một thành phố thuộc Punjab, Pakistan. Thành phố có dân số ước tính năm 2010 là 321.954 người. Đây là thành phố lớn thứ 21 quốc gia này.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Songeson from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Songeson là một xã trong vùng hành chính Franche-Comté, thuộc tỉnh Jura, quận Lons-le-Saunier, tổng Clairvaux-les-Lacs. Tọa độ địa lý của xã là 46° 39' vĩ độ bắc, 05° 49' kinh độ đông. Songeson nằm trên độ cao trung bình là 610 mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 530 mét và điểm cao nhất là 832 mét. Xã có diện tích 8.42 km², dân số vào thời điểm 2006 là 70 người; mật độ dân số là 8 người/km².\nĐịa điểm tham quan.\nNhà thờ được xây trong thế kỉ thứ 16 và cải tạo trong thế kỉ thứ 17.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Olivella miliola", "role": "user" }, { "content": "Olivella miliola là một loài ốc biển cỡ nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Olivellidae, họ ốc ôliu nhỏ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Polyplectropus mathisi", "role": "user" }, { "content": "Polyplectropus mathisi là một loài Trichoptera trong họ Polycentropodidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Chung kết Cúp C1 châu Âu 1982 nha ?", "role": "user" }, { "content": " \nTrận chung kết Cúp C1 châu Âu năm 1982 là trận chung kết thứ hai mươi bảy của Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu, ngày nay là UEFA Champions League. Đây là trận đấu giữa Aston Villa F.C. của Anh và FC Bayern München của Đức trên sân vận động De Kuip ở Rotterdam, Hà Lan vào ngày 26 tháng 5 năm 1982. Với bàn thắng duy nhất của Peter Withe ở phút thứ 67, Aston Villa lần đầu tiên giành Cúp C1 châu Âu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Mitra chalybeia nha ?", "role": "user" }, { "content": "Mitra chalybeia là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Mitridae, họ ốc méo miệng.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Megapenthes carinifrons từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Megapenthes carinifrons là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Van Zwaluwenburg miêu tả khoa học năm 1957.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về H'Mông từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Người H'Mông (RPA: \"Hmoob/Moob,\" Chữ Hmông Việt: \"Hmôngz/Môngz)\"; ), là một nhóm dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu vùng Đông Nam Á, gồm Lào, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar.\nNgười H'Mông nói tiếng H'Mông, một ngôn ngữ chính trong ngữ hệ H'Mông-Miền. Tiếng H'Mông vốn chưa có chữ viết, hiện dùng phổ biến là chữ Hmông Latin hóa (RPA) và một phần là chữ Pahawh Hmông, được lập từ năm 1953 .\nTại Việt Nam người H'Mông là một trong các dân tộc thiểu số có dân số đáng kể trong số 54 dân tộc tại Việt Nam . Tên gọi dân tộc được ông Cư Hòa Vần nêu ra là \"Mông\" hoặc \"HMôngz\".\nTại Thái Lan và Lào họ được gọi là \"người Mèo\" (trong nhóm Lào Sủng). Theo tiếng Thái là แม้ว \"Maew\" hay ม้ง \"H'Mông\".\nTại Trung Quốc, họ được gọi là Miêu (), và tên gọi này được dùng trong văn liệu quốc tế là Miao, như trong tiếng Anh \"Miao people\". Người Miêu được chính phủ Trung Quốc công nhận là một trong 55 dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Người Miêu tạo thành nhóm dân tộc lớn thứ 5 tại Trung Quốc.\nNgười Miêu Trung Quốc bao gồm các phân nhóm: H'Mông, H'mu, H'mao và Ghao Xong. Bên ngoài Trung Quốc thì chủ yếu thuộc phân nhóm H'Mông.\nTên gọi.\nThuật ngữ \"Miêu\" và \"H'Mông\" hiện thời đều được sử dụng để chỉ nhóm dân tộc thiểu số ở Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung Quốc, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người Miêu ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu.\nNgoài phạm vi Trung Quốc họ còn sống ở Thái Lan, Lào (được xếp chung vào nhóm Lào Sủng), Việt Nam và Myanmar do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ XVIII, cũng như tới Hoa Kỳ, Guyana thuộc Pháp, Pháp và Úc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng H'Mông. Tại Việt Nam, có khoảng trên 1 triệu người H'Mông.\nTiếng H'Mông bao gồm 3 phương ngữ, với 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được, cùng với tiếng Bunu, thuộc về nhóm H'Mông trong ngữ hệ H'Mông-Miền (hay hệ Miêu-Dao theo văn liệu Trung Quốc).\nCác nhà nghiên cứu phương Tây xử lý vấn đề thuật ngữ này không thống nhất. Những người đầu tiên sử dụng tên gọi theo kiểu Trung Hoa trong một loạt các phiên âm: Miao, Meau, Meo, Mo, Miao-tse, Miao-tsze, Miao-tseu (Miêu tộc). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của người H'Mông ở Lào, các nhà nghiên cứu đương đại chấp nhận thuật ngữ khác là \"H'Mông\".\nBản thân người H'Mông thì sử dụng hàng loạt các tên tự gọi khác nhau. Tại Trung Quốc thông thường phân loại họ theo màu sắc chủ yếu đặc trưng nhất của phụ nữ Miêu. Danh sách dưới đây liệt kê các tên tự gọi, tên gọi màu sắc và khu vực chính mà 4 nhóm chính của người Miêu sinh sống tại Trung Quốc:\nChỉ có nhóm thứ tư sử dụng thuật ngữ \"H'Mông\" (hay \"Hmông\"). Ngoài ra, chỉ có người Hmông (và một số Hmu) có người sinh sống ngoài phạm vi Trung Quốc. Những người Hmông phi Trung Quốc này cho rằng thuật ngữ \"Hmông\" không chỉ để nói tới nhóm thổ ngữ của họ, mà còn là để chỉ các nhóm khác sống tại Trung Quốc. Nói chung, họ cho rằng thuật ngữ \"Miao\" (hay \"Miêu\") là một thuật ngữ xúc phạm và không nên sử dụng nó. Thay vì điều này thuật ngữ \"Hmông\" được sử dụng để chỉ mọi nhóm người thuộc dân tộc này. Tuy nhiên, điều này có thể là kết quả của sự nhầm lẫn biểu hiện và ý nghĩa của từ. Các nhà thám hiểm và xâm lược Trung Hoa đặt cho người Hmông tên gọi \"Miao\" (hay \"Miêu\"), sau đó trở thành \"Meo\" (Mèo) và \"Man\" (Mán). Thuật ngữ sau để chỉ những kẻ \"man di, mọi rợ ở miền nam\". Từ \"Miêu\" cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác của khu vực Đông Nam Á như tiếng Việt, Lào, Thái trong dạng \"Meo\" (tức là \"Mèo\"). Có thể những người nói tiếng Việt, Lào, Thái đã lấy từ \"miao\" (miêu) từ tiếng Trung Hoa. Nó được phát âm với giọng sai trong tiếng Thái hay với giọng cao trong tiếng Hán Quảng Đông thì có ý nghĩa là \"Mèo\" (đây là khả năng của nguồn gốc tượng thanh). Trong cách dịch của người Việt các từ Hán-Việt thì \"miêu\" cũng là \"mèo\". Điều này giải thích tại sao lại có sự phản đối quyết liệt như vậy chống lại thuật ngữ \"miêu\" trong các nhóm người H'Mông tại khu vực Đông Nam Á.\nTại Trung Quốc, tình hình lại khác hẳn vì hai nguyên nhân chính. Các nhóm người Miêu có các tên tự gọi khác hẳn và chỉ một số rất ít sử dụng từ \"Hmông\". Những người còn lại thì không có ý kiến gì khi cho rằng \"Hmông\" là thích hợp hơn so với \"Miêu\" trong vai trò của tên gọi chung. Kể từ khi có phân loại chính thức các dân tộc thiểu số trong thập niên 1950 một số dân tộc thiểu số đã khiếu nại về từ ngữ được sử dụng ở Trung Quốc để gọi tên dân tộc họ và đã đề nghị chính quyền thay đổi cách sử dụng chính thức. Nhóm người Miêu ở Trung Quốc, theo bài báo năm 1992 trong \"Dự án bản tin Thái-Vân Nam\" [TYPN 1992], đã không có khiếu nại gì. Lý do thứ hai thuần túy là thực dụng: không có khả năng đưa từ \"hmong\" vào trong tiếng Trung do âm tiết của nó không tồn tại trong tiếng Trung. (Cũng giống như trong tiếng Anh là có rất ít người có khả năng phát âm các âm điếc giọng mũi). Tuy nhiên, trong tiếng Anh, không giống như tiếng Trung, người ta có khả năng viết được từ \"Hmong\".\nNgười Hmông viết tên gọi của dân tộc mình theo chữ Hmông Latin hóa (RPA) là \"Hmoob\". Cách viết hai nguyên âm chỉ ra rằng nó được phát âm giống như âm mũi, và một số phụ âm được sử dụng ở cuối của âm tiết để biểu thị giọng đọc. Vì thế từ \"America\" được viết giống như là \"Asmeslivkas\" trong RPA (Chữ Hmông Việt: \"Asmêslircas\").\nThuật ngữ \"Hmông\" được đề nghị như là tên gọi của các nhóm người Miêu nói thổ ngữ Hmông ở Trung Quốc và người H'Mông ngoài Trung Quốc. Việc sử dụng từ này ngày nay đã được thiết lập vững chắc trong sách vở phương Tây. Nó dẫn đến nhiều người đã nhầm lẫn với tình trạng của các thuật ngữ hiện tại và không nhìn thấy mối liên quan giữa người Miêu và H'Mông.\nNgôn ngữ.\nTiếng H'Mông là một ngôn ngữ nằm trong ngữ hệ H'Mông-Miền (hay Miêu-Dao). Trên thực tế vấn đề phân loại theo quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến khá khác nhau. Một số nhà ngôn ngữ học từng xếp tiếng H'Mông thuộc nhánh Miêu-Dao trong ngữ hệ Hán-Tạng, trong đó phải kể đến các nhà khoa học Trung Quốc. Trong những ý kiến đáng chú ý ta còn phải kể đến Paul K. Benedict với quan điểm quy các ngôn ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ bản: Hán-Tạng và Nam Thái (\"Austro-Thai\"). Trong đó vị trí các ngôn ngữ H'Mông-Miền được định vị trong hệ Nam Thái.\nCòn André G. Haudricourt từng bước đem so sánh cả hệ thống thanh điệu và cả lớp từ vựng cơ bản giữa các ngôn ngữ H'Mông-Miền với các ngôn ngữ của ngữ hệ Hán-Tạng và hệ Nam Á. Ông đã cho rằng \"các ngôn ngữ Miao-Yao hình như tạo nên mối liên hệ giữa các ngôn ngữ Nam Á và các ngôn ngữ Tạng-Miến\". Đây cũng chính là cơ sở để một hướng các nhà ngôn ngữ sau này không xếp các ngôn ngữ H'Mông-Miền vào Nam Á hay Hán-Tạng mà là một họ ngôn ngữ độc lập vì những kiến giải của Haudricourt \"không thuần tuý là sự so sánh từ vựng mà là sự phục nguyên, một thao tác thể hiện tính quy luật của những chuyển đổi âm thanh\". Kế thừa những nghiên cứu đi trước, Martha Ratliff đã đưa ra một bảng phân loại các ngôn ngữ H'Mông-Miền khá chi tiết trong đó tác giả đã định vị ngành H'Mông trắng (Mông Đơư) như sau:\nTrong cuốn từ điển \"Bách khoa thư ngôn ngữ\" đã phân các ngôn ngữ H'Mông-Miền thành hai nhánh chính:\nTại đây H'Mông Leng (H'Mông Lềnh) được xác định như một tên gọi khác của ngành H'Mông Njua (H'Mông Xanh) nằm trong nhánh H'Mông.\nChữ viết.\nHiện chưa xác định rõ liệu một hệ thống chữ viết H'Mông trong lịch sử hay không. Theo truyền thuyết thì người H'Mông từng có chữ gọi là \"chữ Nam Man\", do người Hán gọi người H'Mông là người Nam Man. Trong cuộc chiến với người Hán, người H'Mông thua trận phải chạy về phía nam, dẫn đến sách và chữ đã bị thất lạc.\nVì thế đến thế kỷ 20 tiếng H'Mông được coi là chưa có chữ viết. Những nỗ lực lập ra bộ chữ để ghi tiếng H'Mông xuất hiện vào giữa thế kỷ XX.\nChữ Hmông Latinh hóa.\nTại Lào, nỗ lực lập ra bộ chữ Hmông Latin hóa RPA (viết tắt theo tiếng Anh: \"Romanized Popular Alphabet\") được nhà truyền giáo Tin Lành G. Linwood Barney ở tỉnh Xiengkhuang bắt đầu vào năm 1951 . Ông lập dựa trên thổ ngữ Hmông Lềnh (Mong Leng), với các cố vấn người H'Mông là Geu Yang và Tua Xiong. Ông tham khảo ý kiến với William A. Smalley , một nhà truyền giáo đã học tiếng Khmu tại tỉnh Luang Prabang vào thời điểm đó. Cùng lúc đó Yves Bertrais, một nhà truyền giáo Công giáo La Mã ở Kiu Katiam, Luang Prabang, đã tiến hành một dự án tương tự với Chong Yeng Yang và Chue Her Thao. Hai nhóm làm việc đã gặp nhau trong năm 1952 và hóa giải mọi sự khác biệt. Năm 1953 cho ra phiên bản RPA thống nhất.\nHiện nay chữ Hmông Latin hóa đã trở thành hệ thống phổ biến nhất để viết tiếng Hmông ở phương Tây, cũng như được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc, cùng với các hệ thống văn bản khác .\nChữ Pahawh H'Mông.\nNăm 1959 thủ lĩnh tinh thần người H'Mông tại Lào là Yang Shong Lue (RPA: Yaj Soob Lwj; 1929 – 1971) lập ra bộ chữ Pahawh Hmông với hệ ký tự riêng (không phải Latin). Bộ chữ dựa nhiều vào thổ ngữ ngành H'Mông Đơư (Hmông trắng; Hmong Daw; RPA: Hmoob Dawb) và H'Mông Lềnh (Hmông Xanh; Hmong Leng; RPA: Hmoob Leeg). Bộ chữ Pahawh hiện có mã unicode là U+16B00–U+16B8F .\nChữ H'Mông tại Việt Nam.\nTại Việt Nam năm 1961 phương án chữ H'Mông theo ký tự Latin đã được chính phủ Việt Nam phê chuẩn. Bộ chữ được xây dựng theo ngữ âm ngành H'Mông Lềnh Sa Pa - Lào Cai, có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành H'Mông khác, gồm 59 phụ âm, trong đó có 3 âm vị phụ âm của ngành H'Mông Đơ (Mông Trắng, Hmong Daw) và H'Mông Sua, 28 vần và 8 thanh.\nTừ thập niên 2010 nhu cầu học \"chữ H'Mông\" tại Việt Nam phát triển, gồm có cả yêu cầu của người dân về bảo tồn văn hóa H'Mông phát biểu ra khi tiếp xúc cử tri, các hoạt động giảng dạy chữ H'Mông ở Đại học Thái Nguyên , hay dạy chữ H'Mông ở giáo phận Hưng Hóa .\nLịch sử.\nTrong truyện truyền khẩu, truyền thuyết của người H'Mông nói rằng họ đã đến từ những vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, họ đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi săn. Một người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi con mồi suốt nhiều ngày trong tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn nhưng đã lạc mất con chó của mình. Khi người thợ săn muốn từ bỏ thì con chó lại quay về. Người thợ săn hôn hít con chó của mình và phát hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của nó. Lúc đó, tuy người H'Mông cho rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết, nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt họ tới Trung Hoa.\nNơi thứ hai trong đó miêu tả người H'Mông từ nơi nào đến diễn ra trong nghi thức an táng \"chỉ đường\" của họ. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bỏ thế giới này để trở về với cội nguồn của họ, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm và nó xảy ra cùng thời điểm với sự ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được miêu tả trong truyện truyền khẩu và nghi thức an táng của người H'Mông chắc chắn nói đến một thế giới chỉ có toàn tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi kết thúc thời kỳ băng hà gần đây nhất.\nTiếp xúc với người Hán.\nTại Trung Quốc, vương quốc Miêu đầu tiên được ghi chép có tên gọi là Cửu Lê (ở trung lưu sông Hoàng Hà, đâu đó ở một trong các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Hồ Nam và Giang Tô) và những người cai trị nó có tước hiệu là \"Chiyou\" (Xi Vưu trong tiếng Hoa) hay \"Txiv Yawg\" (trong tiếng H'Mông). \"Trí Zờ\" có nghĩa là \"ông-cha\", và là tước hiệu tương đương nhưng không ít quyền lực hơn hoàng đế. Các tổ tiên \"Xi Vưu\" được coi là nhóm dân tộc Lương Chử. Cửu Lê được cho là có quyền lực đối với 9 bộ tộc và 81 thị tộc.\nLịch sử theo truyền thuyết Trung Quốc.\nTheo truyền thuyết Trung Hoa, bộ tộc của Xi Vưu (Tiếng Hmông là Chí Dợ) đã bị đánh bại ở Trác Lộc (涿鹿, một địa danh cổ trên ranh giới tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh ngày nay) bởi liên minh quân sự của Hoàng Đế và Viêm Đế, các thủ lĩnh của bộ tộc Hoa Hạ (華夏) khi họ tranh giành quyền làm chủ lưu vực sông Hoàng Hà. La bàn được cho là lý do quyết định trong chiến thắng của người Hoa Hạ. Trận đánh này, được cho là diễn ra vào thế kỷ XXVI TCN, đã diễn ra dưới điều kiện thời tiết mù sương và người Hoa Hạ đã có thể chiến thắng tổ tiên của người H'Mông là nhờ có la bàn.\nSau thất bại, bộ tộc ban đầu của người H'Mông được chia ra thành hai nhóm bộ tộc nhỏ, là Miêu và Lê (黎). Người Miêu tiếp tục di chuyển về phía tây nam còn người Lê về phía đông nam giống như bộ tộc Hoa Hạ (ngày nay là người Hán) mở rộng xuống phía nam. Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ được nói đến như những kẻ \"man di\" do sự chênh lệch ngày càng tăng trong văn hóa và kỹ thuật so với người Hán. Một bộ phận các bộ tộc này đã bị đồng hóa thành người Hán trong thời kỳ nhà Chu (1122 TCN-256 TCN). Số còn lại di cư dần từ Hoàng Hà xuống phía Nam do sự bành trướng của người Hán.\nCó một phiên bản khác của thời kỳ hậu-Cửu Lê, người dân của Cửu Lê chia thành 3 nhóm đi theo 3 hướng khác nhau. Người ta nói rằng Xi Vưu có ba con trai, và sau khi Cửu Lê thất thủ thì con trai cả của ông dẫn một số người về phía nam, con trai thứ dẫn một số người về phía bắc còn người con trai út ở lại Trác Lộc và đã bị đồng hóa theo văn hóa Hoa Hạ. Những người đi về phía nam thành lập ra nhà nước San-Miêu. Có lẽ vì sự phân chia thành nhiều nhóm nhỏ nên rất nhiều dân tộc ở Viễn Đông coi Xi Vưu là tổ tiên của mình, và vì thế nhiều câu hỏi được đặt ra về bộ tộc thực sự của Xi Vưu cũng giống như của người Miêu hay các dân tộc khác.\nCác thời kỳ nhà Tần/Hán.\nThuật ngữ \"Miêu\" lần đầu tiên được sử dụng bởi người Hoa vào thời kỳ tiền Tần, tức là trước năm 221 TCN, dùng để chỉ vùng đất \"Tam Miêu\" (三苗 \"Sānmiáo\") tại Hồ Nam hiện nay. Vào thời kỳ đó, những bộ tộc này sống ở phía nam sông Trường Giang, nhưng sau đó đã bị người Hoa đẩy lui xa hơn nữa về phía nam. Do phần lớn lãnh thổ của sáu triều vua (Đông Ngô, Đông Tấn, tiền Tống, Tề, Lương, Trần) nằm ở phía nam sông này, việc khuất phục người Miêu đã là mối quan tâm chính để đảm bảo sự ổn định của các triều đại này. Với sự cướp bóc của Ngũ Hồ ở các khu vực phía bắc con sông này, nhiều người Hán đã di cư xuống phía nam càng tăng cường thêm việc đồng hóa người Miêu thành người Hán.\nThời nhà Đường.\nVào thời kỳ nhà Đường, người Miêu đã không còn là bộ tộc người chính không phải gốc Hán, ngoại trừ tại khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay, ở đó 6 \"chiếu\" (詔 có nghĩa là \"vương quốc\") của người Miêu. Vương quốc nằm phía nam nhất là Mông Xá Chiếu (蒙舍詔) hay Nam Chiếu thống nhất cả sáu chiếu để thành lập quốc gia độc lập vào đầu thế kỷ VIII với sự hỗ trợ từ phía nhà Đường. Tước hiệu của người đứng đầu nhà nước này là Nam Chiếu Vương (南詔王), có nghĩa là Vua của Nam Chiếu. Lo ngại về sự đe dọa ngày càng tăng từ phía Thổ Phồn (ngày nay là Tây Tạng) đã thúc đẩy triều đình Trung Quốc thiết lập một quan hệ hữu nghị với cả hai nước này. Nhà Đường cũng triển khai một khu vực quân sự, là Kiến Nam tiết sứ (劍南節度 \"Jiànnán Jiédǔ\") nằm ở khu vực ngày nay là phía nam tỉnh Tứ Xuyên và giáp biên giới với Nam Chiếu.\nNam Chiếu.\nTrong khoảng vài chục năm hòa bình đầu tiên ở thế kỷ VIII, Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua người đứng đầu quân sự trong khu vực quân sự này, Kiến Nam tiết độ sứ (劍南節度使 \"Jiànnán Jiédǔshǐ\"), tới triều đình của người Hán. Khi nhà Đường suy yếu trong thời gian giữa thế kỷ VIII, khu này đã có nhiều quyền tự do hơn. Họ đã yêu cầu các bộ tộc sống ở Nam Chiếu phát triển lực lượng quân sự để chống lại nhà Đường. Những người cai trị Nam Chiếu là những người nói tiếng trong nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Các thủ lĩnh quân sự Trung Hoa có những sự hăm dọa và yêu sách quá đáng. Tất cả những yêu sách quá đáng đó cũng như đồ cống nộp nặng nề đã làm nổ ra cuộc nổi loạn của người Nam Chiếu trong niên biểu Thiên Bảo (742-756) của Đường Huyền Tông (hay Đường Minh Hoàng). Trước khi hành quân chống lại thủ lĩnh khu quân sự, vua Nam Chiếu đã cho khắc lý do của việc nổi dậy vào đá. Nhà Đường lẽ ra có thể dễ dàng đánh bại quân Nam Chiếu nhưng sự tranh giành quyền lực trong các chỉ huy quân sự của khu này đã giúp cho quân Nam Chiếu tiến sâu vào lãnh thổ nhà Đường, gần như đã tới Thành Đô, thủ phủ của khu Kiến Nam. Việc bổ nhiệm các chức vụ cầm quyền bất tài cũng là một yếu tố. Nổi tiếng nhất là trường hợp của Dương Quốc Trung, anh trai của Dương Quý Phi (thiếp yêu của vua Đường). Mặc dù cuối cùng thì cuộc nổi loạn đã bị dẹp tan, nhưng nhà Đường cũng đã hoang phí những nguồn lực quý báu lẽ ra có thể sử dụng để bảo vệ biên giới phía bắc, điều đã dẫn tới cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn gây ra nhiều thảm họa hơn.\nTrong những năm sau đó, Nam Chiếu luôn có ưu thế trong quan hệ với nhà Đường và Thổ Phồn do cả hai nước này đều muốn liên minh với họ để cô lập kẻ thù của mình. Nam Chiếu đã tận dụng được cơ hội này và nhanh chóng phát triển thành một thế lực ở khu vực đông nam châu Á. Trong thời kỳ đỉnh cao của nó, các phần phía bắc của Việt Nam, Lào, Thái Lan và Miến Điện, Quảng Tây và phần phía đông của Quảng Đông, tây nam của Tứ Xuyên, Quý Châu và toàn bộ tỉnh Vân Nam ngày nay đều nằm dưới sự kiểm soát của họ. Thành Đô và Đại La (Hà Nội ngày nay) đều bị cướp phá hai lần.\nNam Chiếu dưới ảnh hưởng của nhà Đường trong các thế kỷ VIII-IX đã dần dần chấp nhận văn hóa Trung Hoa cũng như trong thời gian đó đã xuất hiện mâu thuẫn nội bộ giữa các thị tộc đối địch. Cuối cùng họ Đoàn (段 \"duan\") đã thắng và thành lập Vương quốc Đại Lý. Trong thời nhà Đường và nhà Tống (960-1279) thuật ngữ \"nam man\" (南蠻 \"Nánmán\", có nghĩa là \"những kẻ man di phương nam không phải người Hán\") đã được sử dụng. Tuy nhiên, tên gọi \"miêu\" vẫn được dùng để miêu tả một số dân tộc ở phương nam trong các sách của Phàn Xước (\"Fan Chuo\") về các bộ tộc miền nam là Manshu (tức Man thư - viết năm 862).\nThời nhà Minh và nhà Thanh.\nTrong thời nhà Minh và nhà Thanh (1368-1911) \"miao\" và \"man\" (mán) đã được sử dụng đồng thời, từ thứ hai có lẽ là để gọi dân tộc Dao (傜 \"Yáo\"). Chính sách \"dùng người man quản lý người man\" (\"yiyi zhiyi\") đã được thực thi. Về mặt chính trị và quân sự thì người Miêu vẫn tiếp tục là viên sỏi trong chiếc giày của đế chế Trung Hoa. Người Miêu đã có nhiều trận chiến chống lại người Hán. Người Hán đã sử dụng các biện pháp chính trị để lừa gạt người Miêu, họ tạo ra nhiều chức vụ với quyền lực thực sự cho người Miêu để lôi cuốn và đồng hóa người Miêu vào hệ thống chính quyền Trung Hoa. Trong thời nhà Minh và Thanh, các chức vụ chính thức như \"Kaitong\" (cai tổng) đã được tạo ra tại khu vực Đông Dương. Người Hmông có thể tham gia vào các chức vụ này cho đến những năm thập niên 1900, khi họ phải tham dự vào hệ thống chính trị thuộc địa của Pháp tại Đông Dương.\nDân số và địa bàn cư trú.\nNgười H'Mông sống chủ yếu ở Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Myanma cũng như các quốc gia khác. Có khoảng 124.000 người sống ở Thái Lan, ở đây họ là một trong số 6 dân tộc chính sinh sống trên núi.\nSau năm 1975 cộng đồng người H'Mông di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc con số lên tới hàng 100.000 người (chủ yếu di cư từ Lào).\nNgười Miêu ở Trung Quốc.\nTrung Quốc có số lượng người Miêu đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu thống kê 1990) phân bố ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Hải Nam và Hồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân tộc H'Mông (Miêu) chỉ đứng sau các dân tộc Hán, Choang, Mãn, Hồi. Vào năm 1990, có 3.600.000 người Miêu, khoảng một nửa số người Miêu Trung Quốc sống tại Quý Châu. Người Miêu Quý Châu và những người sống ở sáu tỉnh sau chiếm trên 98% người Miêu Trung Quốc:\nTrong các tỉnh trên, có 6 khu tự trị của người Miêu (chia sẻ một cách chính thức cùng với các dân tộc thiểu số khác):\nNgoài ra còn có thêm 23 huyện tự trị của người Miêu:\nPhần lớn người Miêu sinh sống trên các dãy núi hay ngọn đồi, chẳng hạn\nVài nghìn người Miêu đã rời bỏ quê hương để chuyển sang sinh sống ở các thành phố lớn như Quảng Châu hay Bắc Kinh.\nNgười H'Mông ở Lào.\nNgười H'Mông di cư đến Lào là một phần của cuộc di cư đến bắc phần bán đảo Đông Dương, diễn ra cỡ 300 năm trước \nTrong năm 1960, nhiều người Hmông tại Lào được Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) tuyển dụng như là một phần của kế hoạch để chiến đấu và bảo vệ Lào chống lại quân đội Nhân dân Việt Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có số lượng đông và kỷ luật chặt chẽ hơn so với những người cộng sản của phong trào Pathet Lào tại nước này. Trên thực tế, quân đội Hoàng gia Lào và quân của Pathet Lào chỉ tham gia có giới hạn trong các cuộc giao tranh. Phần lớn các cuộc chiến diễn ra giữa người Hmông có sự hậu thuẫn của CIA với quân đội Nhân dân Việt Nam. Một đội quân tương đương về số lượng người Hmông cũng đã được Pathet Lào tuyển dụng để chống lại chính quyền hoàng gia Lào và CIA.\nTướng Vàng Pao là một thủ lĩnh người Hmông được CIA nâng đỡ để chỉ huy Quân khu II ở miền bắc (MR2) chống lại sự xâm nhập của quân đội Nhân dân Việt Nam. Chỉ huy sở của Vàng Pao nằm ở Long Chẹng, còn được biết trong tiếng Anh như là \"Lima Site 20 Alternate\" (LS 20A). Do các hoạt động quân sự tích cực ở đây, Long Chẹng đã trở thành thành phố lớn thứ hai tại Lào, với dân số lên tới 40.000 người. Long Chẹng khi đó có thể coi như là một tiểu quốc gia do nó có hệ thống ngân hàng, sân bay, trường học, quân đội, viên chức riêng cũng như nhiều cơ sở hạ tầng và dịch vụ khác nữa. Trước khi kết thúc cuộc chiến bí mật, Long Chẹng nằm trong tầm kiểm soát của Vàng Pao.\n\"Cuộc chiến bí mật\" đã diễn ra trùng với thời gian mà Mỹ chính thức tham gia vào chiến tranh Việt Nam. Cuối cùng khi Mỹ rút khỏi Việt Nam thì tướng Vàng Pao cũng di tản sang Thái Lan. Nhiều người đã hỗ trợ Mỹ trong cuộc chiến bí mật đã cảm thấy không an toàn trong môi trường mới. Khoảng 300.000 người Hmông đã chạy sang Thái Lan, tạo ra các trại tị nạn. Đối với những người Hmông còn ở lại thì các cuộc chiến dữ dội vẫn còn tiếp diễn dưới sự chỉ huy của nhóm ChaoFa . Nhóm này có tham vọng lớn, bao gồm cả việc thiết lập một quốc gia có chủ quyền cho người Hmông. Họ đăng ký là thành viên của \"Tổ chức Nhân dân và Quốc gia chưa được đại diện\" UNPO. Tuy nhiên, do không có sự hỗ trợ về tài chính và quân đội, ChaoFa đã phải từ bỏ tham vọng của mình.\nTrong những năm 1990, Liên Hợp Quốc, với sự hỗ trợ từ phía chính quyền Clinton, bắt đầu công việc đưa người Hmông tị nạn trở lại Lào một cách bắt buộc. Việc đưa người Hmông tị nạn trở lại Lào đã bị chống đối ác liệt từ phía những người Mỹ bảo thủ và những người hoạt động nhân quyền. Năm 1995, tạp chí \"National Review\" có bài báo, ví dụ của Michael Johns cho rằng quyết định này là một sự \"phản bội\".\nÁp lực lên chính quyền Clinton đã làm thay đổi chính sách hồi hương của họ, là một thắng lợi chính trị đáng kể của người Hmông, phần lớn người Hmông tị nạn cuối cùng đã được định cư ở các nước khác, nhiều người trong số họ đã đến Mỹ. Cuộc định cư lớn cuối cùng khoảng 15.000 người Hmông từ trại Wat Tham Krabok diễn ra năm 2004.\nDẫu vậy một số nhóm vẫn tiếp tục hoạt động chống đối, trong đó có nhóm Thào A Sỉ dẫn đầu lập ra “Nhà nước H'Mông” ở Muang Vangvieng tỉnh Viêng Chăn, Lào, trong đó chiêu mộ cả một số người H'mông Việt Nam. Năm 2015 có đến gần hai chục người H'mông Việt bị bắt giữ, bị chết trong tập luyện hoặc bị quân đội Lào tiêu diệt.\nNgười H'Mông ở Việt Nam.\nNằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H'Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam . Dân tộc H'Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... Do tập quán du cư nên một số người H'Mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.\nTheo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người H’Mông ở Việt Nam có dân số 1.393.547 người, đứng hàng thứ 6 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố,tập trung tại:\nTrên thực tế cho thấy các cư dân H'Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với các cư dân đồng tộc ở các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào. Một bộ phận đáng kể người H'mông vẫn còn theo các lối sống truyền thống ở miền tây bắc Việt Nam. Với sự gia tăng của du lịch vào các khu vực này trong những năm 1990 đã giới thiệu cho nhiều người H'Mông lối sống phương Tây, và trang phục truyền thống của người H'Mông đang dần dần biến mất.\nĐợt di cư đầu tiên của người Hmong đến Đông Dương có thể trong thế kỷ XVI, đặc biệt tại Bắc Kỳ. Nhưng không có các nhân chứng hay tài liệu viết nào từ miền bắc Đông Dương xác nhận sự hiện diện của họ trước cuối thế kỷ thứ 18. Trong nửa sau thế kỷ 19, đông đảo người Hmong di cư từ Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam vào Đông Dương và tiến xa xuống phía nam đến tận vĩ tuyến thứ 17 gần vùng Tak tại Thái Lan. H'Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (H'mông). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc H'Mông ra làm các ngành: H'mông Trắng (Hmoob Dawb / Hmôngz Đơưz), H'Mông Hoa (Hmoob Sib / Hmôngz Siz), H'Mông Đỏ (Hmoob Lees / Hmông Lênhs), H'Mông Đen (Hmoob Dub / Hmôngz Đuz), H'Mông Xanh (Hmoob Ntsuab / Hmôngz Ntsuôz), Na Miểu (Mèo nước). Người Pà Thẻn ở phía Nam tỉnh Hà Giang nói tiếng Pà Thẻn (là một ngôn ngữ riêng biệt thuộc ngữ tộc H'Mông) và được Chính phủ Việt Nam xếp là dân tộc riêng. \nNgười H'Mông ở Mỹ.\nTại Hoa Kỳ, nhiều người H'Mông là những người tị nạn từ Việt Nam và Lào cũng như ra đi sau chiến tranh Việt Nam tới Mỹ. Bắt đầu vào năm 1976, những người H'Mông tị nạn đầu tiên đã tới Mỹ, chủ yếu từ các trại tị nạn nằm trên đất Thái Lan.\nNgày nay, phần chủ yếu của người H'Mông ở Mỹ (khoảng 270.000) sống ở California, Minnesota và Wisconsin. Fresno, Minneapolis-St. Paul, Madison và Milwaukee có mật độ tập trung cao của người H'mông.\nĐiều tra dân số Mỹ năm 2000 cho thấy chỉ có 40% người H'Mông trên 24 tuổi đã từng học trung học. Khoảng 7% người H'mông có bằng cử nhân hoặc cao hơn. Tỷ lệ cao của thất học là do nhiều người H'mông chủ yếu có nguồn gốc là nông dân, họ ít có cơ hội tiếp thụ nền giáo dục tại Lào khi sinh sống trên núi đồi. Ngoài ra, khoảng 40% các gia đình H'mông nằm dưới mức nghèo khổ. Mặc dù họ vẫn là một trong số những dân tộc châu Á nghèo khổ nhất tại Mỹ, rất nhiều trẻ em thế hệ hai đã chiếm các vị trí cao trong nhiều trường học khi so sánh với các nhóm thiểu số thu nhập thấp khác. Trẻ em Mỹ gốc Hmông sinh ra tại Mỹ thông thường có nhiều cơ hội tiếp thu giáo dục hơn so với cha mẹ của chúng và vì thế có nhiều cơ hội kinh tế hơn so với cha mẹ chúng có thể có được ở Lào. Mặc dù người H'mông thông thường có xu hướng làm những công việc có thu nhập thấp, nhiều người trong số họ là rất chuyên nghiệp.\nTại nhiều thành phố lớn ở đó người Mỹ gốc H'mông sống và làm việc thì các bất hòa đã diễn ra giữa người H'mông và các nhóm thiểu số khác. Người H'mông thông thường là mục tiêu của sự phân biệt chủng tộc. Nhiều kẻ ngược đãi họ bào chữa cho hành động của mình là do người H'mông đã lấy mất công việc, trợ cấp và các dịch vụ khác của những người định cư lâu đời ở đó.\nMặc dù nhiều gia đình H'mông nói bằng ngôn ngữ không phải là tiếng Anh tại nhà họ, nhưng nhiều người Mỹ gốc H'mông đã nhanh chóng thích nghi với xã hội Mỹ và rất nhiều người trẻ tuổi đã đánh mất các bản sắc văn hóa truyền thống của mình rất nhanh. Vì điều này, cộng đồng H'mông đã thành lập hiệp hội và phương tiện thông tin riêng để cổ vũ người H'mông giữ gìn văn hóa và ngôn ngữ của họ.\nVăn hóa.\nTại Trung Quốc.\nThờ phụng tổ tiên.\nDân tộc Miêu sừng dài (Long-horn Miao) sinh sống tại làng Suojia, thành phố Lục Bàn Thủy, tỉnh Quý Châu hiện đang còn lưu giữ tập tục kỳ lạ này. Phụ nữ Miêu sừng dài có tục lệ mỗi khi chải đầu sẽ giữ lại các sợi tóc rụng, làm một chiếc mũ từ tóc của mẹ, bà ngoại, cụ, thậm chí tổ tiên của họ. Đó là cách để họ tưởng nhớ, thể hiện lòng tôn kính tổ tiên.\nPhong tục này bắt nguồn từ việc đội sừng bò, vì ngày xưa bò là con vật linh thiêng đối với người Miêu. Sau đó, để trang trí và thể hiện lòng tôn kính với tổ tiên, người Miêu đã tạo ra chiếc mũ đặc biệt này.\nNhững sợi tóc được nhuộm và giữ gìn để luôn sáng bóng. Người mẹ sẽ trao cho con gái chiếc mũ khi cô con gái lấy chồng.\nTrang phục.\nPhụ nữ Miêu thường dùng trang sức bạc. Kim loại này chiếm vị trí rất quan trọng trong đời sống, tinh thần của người Miêu. Từ thời xưa, người Miêu đã biết dùng bạc để thử độc trong đồ ăn, thức uống hoặc dùng chúng để cạo gió, làm lễ vật trong các sự kiện lớn. Thông thường, trang phục của người Miêu được làm từ vải dệt thô và sau đó được nhuộm hoặc thêu các hoa văn truyền thống. Tuy nhiên người Miêu ở Phượng Hoàng Cổ Trấn có phong cách ăn mặc theo kiểu vùng Tương Tây nên có những đặc điểm khác hẳn so với người Miêu ở các vùng khác như vùng Đông Nam hay Vân Quý tại Trung Quốc.\nTập tục búi tóc thành những búi khổng lồ không còn được duy trì ở đây nữa. Ngày nay, các cô gái người Miêu ở Phượng hoàng thường mặc áo ngắn cổ tròn rộng với vai áo được thêu đơn giản, quần ống loe với viền thêu, đeo băng đô ngang trán thêu hoa và viền bằng bạc. Đàn ông người Miêu ở đây lại mặc áo có vạt giống với người Mãn Chu và có hình thêu.\nTạp dề là một phần rất quan trọng trong trang phục của các cô gái người Miêu tại Phượng Hoàng Cổ Trấn. Nữ giới ở đây chuộng tạp dề eo cao để có thể giúp họ tránh làm bẩn quần áo khi lao động. Các loại tạp dề tinh xảo hơn được mặc trong các dịp lễ quan trọng, khi đón tiếp khách hoặc khi tới thăm nhà người khác, chủ yếu để khoe được tài nữ công trong việc thêu thùa của người mặc.\nVải vóc may quần áo thường có màu xanh lá đậm hoặc màu xanh lam và được thêu lên bằng chỉ nhiều màu như đỏ, cam, vàng, trắng và tím. Có tới hơn 40 loại hình mẫu thêu cơ bản trên trang phục của người Miêu, một sống hình nổi bật nhất trong đó bao gồm: hoa Xà Bì hồng, hoa mào gà, hoa đào, hoa tre, bốn đóa hoa đỏ nhỏ...\nẨm thực.\nMón ăn truyền thống không thể thiếu đối với người dân tộc Miêu ở Phượng Hoàng đó là dưa muối, các loại rau củ như củ cải, bắp cải sẽ được rửa sạch và phơi khô dưới ánh nắng, khi rau củ đã khô sẽ được đem đi muối với nước cơm và ủ men chua, sau một ngày có thể dùng được. Các loại dưa muối thường được nấu thành súp, người ta thường nấu súp với dưa muối và đậu phụ, cho thêm ớt đỏ để tăng độ hấp dẫn về thị giác cho thực khách. Thưởng thức một bát súp dưa muối đậu phụ vào ngày đông lạnh giá bạn sẽ cảm thấy rất tuyệt đấy, vị mặn của dưa muối hòa quyện với vị cay của ớt và sự thanh mát của đậu phụ đem đến cho thực khách một hương vị khó quên.\nVới vị trí địa lí ở khu vực vùng cao, điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã hình thành cho người dân thói quen tích trữ lương thực, không chỉ tích trữ gạo, rau củ mà họ còn tích trữ cả thịt, cá. Và trong đó món cá trích là một món ăn vô cùng đặc sắc của người Miêu ở trấn Phượng Hoàng, những con cá trích tươi ngon được nuôi trong các ruộng lúa nước sau khi thu hoạch lúa, người Miêu sẽ bắt những chú cá trích về làm thành cá muối, đây là cách để người Miêu tích trữ đồ ăn được lâu mà không sợ bị hỏng.\nNgười Miêu có cách mời khách uống rượu rất đặc trưng. Du khách chỉ cần ngồi tại bàn, các cô gái Miêu sẽ tới hát và mời uống. Rượu được rót dần từ trên xuống đến khi nào khách không uống được nữa mới thôi. Đây là nét văn hoá lâu đời của người Miêu tại đây. Khách du lịch có thể trải nghiệm nếu đặt sớm với các chủ nhà hàng để họ chuẩn bị\nÂm nhạc.\nBên cạnh các nhạc cụ truyền thống, người Miêu Trung Quốc còn có Miêu kịch () - thể loại kịch dân gian song song với kinh kịch của người Hán. Đây là thể loại kịch phong phú nhất trong số 19 thể loại kịch nói địa phương ở tỉnh Hồ Nam; là một loại hình nghệ thuật dân tộc thiểu số mới sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Nó được sinh ra tại thị trấn Ma Lật Trường (麻栗场), huyện Hoa Viên thuộc Châu tự trị dân tộc Thổ Gia, dân tộc Miêu Tương Tây phát triển từ năm 1954.\nTại Việt Nam.\nẨm thực.\nMèn mén, chế biến từ ngô hạt đem xay nhỏ, phải xay bằng cối đá và xay hai lần mới nhỏ mịn và khi đồ mới ngon. Đem bột ngô vẩy nước vào đảo đều với độ ẩm vừa phải, khi cầm nắm ngô bột không bị dính, cũng không bị bở ra là được. Tiếp đó cho vào chõ đồ lần 1, đến khi hơi bốc lên thơm thì đổ ra mẹt vẩy thêm một ít nước rồi đảo đều cho tơi ra, sau đó lại cho vào chõ đồ lần 2; khi có mùi thơm lừng bốc lên, khi đó mèn mén đã chín, bưng ra chỗ cao ráo để ăn trong cả ngày.\nTục cưới hỏi.\nTrong hôn lễ của người H'Mông, sau ba ngày đưa cô gái về nhà, người con trai phải cùng bố mẹ đẻ đem lễ vật gồm thịt lợn, thịt gà, rượu sang nhà gái để tạ ơn và làm vía thành hôn đồng ý cho hai người lấy nhau. Sau khi làm vía, người con trai phải cùng vợ ngủ lại nhà gái một đêm rồi sáng mai mới được về sớm. Hôn sự sau khi được gia đình hai bên chấp nhận rồi, xem như cưới được vợ và hai người có thể về chung sống với nhau đến lúc nào có điều kiện kinh tế khá giả thì mới tổ chức đám cưới, thậm chí có những đôi ở với nhau có con rồi cưới cũng chẳng sao.\nNgày nay thủ tục này có phần thay đổi theo hướng hiện đại, pha trộn giữa nghi thức \"rót rượu\" Phương Tây và nghi lễ truyền thống, tuy nhiên là một phần ít những hôn sự có cha mẹ hoặc cô dâu-chú rể làm việc tại các cơ quan công...gia đình có điều kiện kinh tế. Tương tự như người Kinh gồm phần lễ tại gia và đãi tiệc nhà hàng.\nĐặc biệt trong hôn lễ của người Hmong họ không cho phép cưới người cùng một họ, vì quan niệm cùng họ là cùng gia tiên máu mủ.\nĐón Tết.\nĂn tết, cúng tết, cúng tất niên của họ không cầu kỳ. Ngoài tết riêng thì người H'Mông còn chuẩn bị nhiều đồ ăn, thức uống đón Tết cùng người Kinh. Trong đó không thể thiếu món truyền thống là thịt gác bếp, mèn mén, cải xanh, ớt nướng làm muối chấm trong bữa ăn.\nNgười H'Mông ăn tết từ tháng chạp (theo lịch của người H'Mông). Theo tục lệ thì:\nLễ hội đầu năm của người H'Mông ngoài phần nghi lễ là các trò chơi dân gian như đua ngựa, thi dệt lanh dệt vải, thổi múa khèn... thì còn thi nấu miến, thi hát hò những bài truyền thống bằng tiếng H'Mông. Mỗi năm, một gia đình trong bản sẽ được giao làm chủ lễ để tổ chức lễ hội vui chơi tết cho cả bản. Ngày 26 tháng chạp, chủ lễ sẽ đốn một cây mai to (một loại tre), chặt nhánh, chỉ chừa nhánh ở chín đốt trên ngọn rồi đem ra bãi đất chọn sẵn cắm xuống làm cây nêu báo hiệu cho mọi người biết nơi này sẽ diễn ra lễ hội đầu năm mới.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Acanthathous pachyderoides is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Acanthathous pachyderoides là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Champion mô tả khoa học năm 1896.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Hippopotamyrus grahami nha ?", "role": "user" }, { "content": "Hippopotamyrus grahami là một loài cá thuộc họ Mormyridae. Nó được tìm thấy ở Kenya, Rwanda, Tanzania, and Uganda. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là sông, swamps, hồ nước ngọt, đầm lầy nước ngọt, and inland deltas. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về On the Internet, nobody knows you're a dog ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "\"On the Internet, nobody knows you're a dog\" (tạm dịch: \"Trên Internet, không ai biết bạn là một con chó\") là một câu cách ngôn xuất phát từ lời đề tựa một bức tranh biếm họa của họa sĩ Peter Steiner đăng trên tờ \"The New Yorker\" ngày 5 tháng 7 năm 1993. Bức tranh vẽ hai con chó: một con ngồi trước máy tính và nói lời đề tựa cho con chó thứ hai ngồi dưới sàn. Tính đến năm 2013, đây là bức tranh biếm họa được tái bản nhiều nhất của \"The New Yorker\" và tác giả Steiner thu được khoảng từ 200.000 đến 250.000 đô la Mỹ từ việc tái bản bức tranh này.\nLịch sử.\nPeter Steiner là một họa sĩ vẽ truyện tranh và người đóng góp cho \"The New Yorker\" từ năm 1979. Ông nói rằng bức tranh biếm họa này ban đầu không được chú ý lắm, nhưng về sau nó trở nên nổi tiếng, và ông có cảm giác giống như người đã tạo nên các biểu tượng mặt cười (smiley face). Thực ra, Steiner không có hứng thú với Internet khi ông vẽ bức tranh và mặc dù ông có một tài khoản trực tuyến, ông nhớ lại rằng mình không có ý gì \"uyên thâm\" trong bức tranh, ông chỉ vẽ nó trong một kiểu \"tạo một lời đề tựa\" cho tranh vẽ.\nĐáp lại sự nổi tiếng của bức ảnh, ông cho rằng \nBối cảnh.\nBức tranh biến họa này đánh dấu một thời kỳ quan trọng trong lịch sử của Internet. Đã có một thời, chỉ có những người làm trong chính phủ mới được sử dụng Internet nhưng giờ đây Internet đã trở thành chủ đề để thảo luận hàng ngày tương đương như các tạp chí \"The New Yorker\". Nhà chế tạo ra chương trình máy tính phần mềm Lotus và nhà hoạt động Internet thời đầu Mitch Kapor đã từng nói trong một bài báo của tạp chí \"Time\" vào năm 1993, \"dấu hiệu thật sự nói lên sự phổ biến rộng rãi của Internet đã đạt tới đỉnh cao nhất vào mùa hè này khi một người New York in một bức tranh biếm họa miêu tả hai chú chó ranh mãnh\".\nBức tranh biểu tượng hóa cho một sự hiểu biết về sự riêng tư trên Internet. Điều đó nhấn mạnh quyền của người dùng Internet để gửi và nhận tin nhắn trong một tình trạng hầu như là ẩn danh. Lawrence Lessig đề ra giả thuyết là sẽ \"không ai biết\" (\"no one knows\") bởi vì bộ giao thức TCP/IP không đòi hỏi người dùng nó phải nêu ra danh tính của họ. Tuy nhiên một số địa điểm kết nối Internet như ở trong trường đại học thì có yêu cầu danh tính; nhưng mà những thông tin này được bộ phận quản lý các điểm kết nối lưu trữ, do đó không là một phần của sự giao tiếp trên Internet.\nBức biếm họa cũng cho thấy cách thức giao tiếp Internet được giải phóng khỏi các ràng buộc quen thuộc. Nhà xã hội học Sherry Turkle nghiên cứu: \"Bạn có thể là bất cứ ai mà bạn muốn. Bạn hoàn toàn có thể thay đổi danh tính của chính mình nếu bạn muốn. Bạn không phải lo lắng nhiều về các vị trí mà người khác đưa bạn vào. Họ không nhìn vào cơ thể bạn và đánh giá. Họ không nghe thấy giọng của bạn và đánh giá. Tất cả những gì họ thấy là những từ ngữ của bạn.\"\nMột nghiên cứu bởi Morahan-Martin và Schumacher (2000) về sự nghiện sử dụng Internet có tính nguy hại đề cập hiện tượng này, đưa ra giả thuyết rằng khả năng biểu lộ chính mình đằng sau màn hình máy tính có thể là một phần của sự thôi thúc phải kết nối với Internet. Câu cách ngôn trên (On the Internet, nobody knows you're a dog) được ông John Gilmore, một nhân vật chủ chốt trong lịch sử Usenet, phân tích nghĩa như sau \"không gian ảo sẽ trở nên tự do bởi vì giới tính, chủng tộc, ngoại hình, và ngay cả 'tính chó' đều có khả năng không hề tồn tại, hay giả vờ đủ kiểu, hay phóng đại với những đảm bảo không được kiểm chứng vì nhiều mục đích khác nhau cả hợp pháp và không hợp pháp\". Câu thành ngữ còn nêu ra một khả năng mọi thứ trên mạng đều có thể đảo trang và đóng vai của một cá nhân ảo để trở thành một giới tính, tuổi, chủng tộc khác... Ở một góc nhìn khác, \"đó là sự tự do mà con chó có thể lựa chọn để làm lợi cho nó qua sự trở thành một phần của một nhóm có nhiều đặc quyền; có nghĩa là con chó có được những đặc quyền như những con người sử dụng máy tính có kết nối Internet.\nTheo Bob Mankoff, sau này là nhà biên tập tranh biếm họa cho tờ \"The New Yorker\", \"Bức tranh biếm họa phản ánh sâu sắc sự cảnh giác của chúng tôi về những bộ mặt trưng ra đều có thể được làm giả bởi bất cứ ai chỉ có kiến thức thô sơ về html.\"", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Diplotaxis (Scarabaeidae) từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Diplotaxis là một chi lớn bao gồm các loài bọ cánh cứng trong họ Scarabaeidae, phân họ Melolonthinae. Đây là một nhóm rất đa dạng với khoảng 200 loài phân bố khắp Bắc và Trung Mỹ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Bischwihr nha ?", "role": "user" }, { "content": " Bischwihr là một xã thuộc tỉnh Haut-Rhin trong vùng Grand Est, đồng bắc Pháp. Xã này có diện tích 3,23 km², dân số năm 1999 là 935 người. Khu vực này có độ cao trung bình 134 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Mediana de Voltoya ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Mediana de Voltoya là một đô thị trong tỉnh Ávila, Castile và León, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số 2006 (INE), đô thị này có dân số là 107.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Euglossa hemichlora không ?", "role": "user" }, { "content": "Euglossa hemichlora là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1917.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Hoplitis remotula ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Hoplitis remotula là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1910.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Crécy-sur-Serre (tổng) from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Tổng Crécy-sur-Serre là một tổng ở tỉnh Aisne trong vùng Hauts-de-France.\nĐịa lý.\nTổng này được tổ chức xung quanh Crécy-sur-Serre thuộc quận Laon. Độ cao thay đổi từ 52 m (Nouvion-et-Catillon) đến 142 m (Bois-lès-Pargny) với độ cao trung bình 74 m.\nCác đơn vị cấp dưới.\nTổng Crécy-sur-Serre gồm 19 xã với dân số là 7 757 habitants (recensement de 1999 sans doubles comptes).\nLiên kết ngoài.\nCrécy-sur-Serre]]", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Ozon, Ardèche from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": " \nOzon là một xã ở tỉnh Ardèche, vùng Auvergne-Rhône-Alpes ở đông nam nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Layla", "role": "user" }, { "content": "\"Layla\" là ca khúc sáng tác bởi Eric Clapton và Jim Gordon, được phát hành bởi nhóm nhạc blues rock Derek and the Dominos, trong album \"Layla and Other Assorted Love Songs\" (1970). Ca khúc bao gồm 2 phần giai điệu hoàn toàn tương phản được viết bởi cá nhân Clapton và Gordon.\nNhan đề ca khúc được lấy từ câu chuyện cổ của văn học Ba Tư \"Layla và chàng điên\" của Nizami Ganjavi mà Ian Dallas tặng cho Clapton. Cuốn sách ảnh hưởng lớn tới Clapton khi nó kể về chàng trai trẻ có một tình yêu vô vọng với một người phụ nữ đẹp nhưng không tương xứng với mình, cuối cùng phát điên vì không thể cưới được cô. Trong cuốn tự truyện của mình, Clapton nói: \"Ian Dallas nói với tôi về \"Layla và Manjun [sic]\" – câu chuyện tình cổ Ba Tư về một chàng trai trẻ, Manjun [sic], dành tình yêu cho cô gái có tên Layla, song bị cha cô ngăn cấm và vì thế mà phát điên.\" Ca khúc được lấy cảm hứng từ chính bản thân Clapton khi anh yêu Pattie Boyd – vợ của người bạn thân, nhạc sĩ George Harrison của ban nhạc The Beatles.\n\"Layla\" hoàn toàn thất bại khi mới ra mắt. Tuy nhiên, sau đó nó có được thành công lớn về chuyên môn, rồi trở thành một trong những ca khúc vĩ đại nhất lịch sử nhạc rock. Ấn bản năm 1972 và ấn bản acoustic của ca khúc mà Clapton trình diễn 20 năm sau tại chương trình \"MTV Unplugged\" đều đạt thành công rực rỡ tại các bảng xếp hạng. Năm 2004, tạp chí \"Rolling Stone\" xếp \"Layla\" ở vị trí số 27 trong danh sách \"500 bài hát vĩ đại nhất\", còn ấn bản acoustic cũng giành được Giải Grammy cho Bài hát Rock hay nhất vào năm 1993.\nHoàn cảnh ra đời.\nNăm 1966, George Harrison kết hôn với Pattie Boyd – người mẫu mà anh gặp khi tham gia diễn xuất bộ phim \"A Hard Day's Night\" (1964). Cùng lúc đó, Clapton và Harrison trở thành những người bạn thân. Clapton thay Harrison chơi phần lead guitar trong ca khúc \"While My Guitar Gently Weeps\" của The Beatles, còn Harrison đồng sáng tác và chơi guitar (dưới nghệ danh L'Angelo Misterioso) cho ca khúc \"Badge\" của Cream. Tuy nhiên trong quãng thời gian sau khi chia tay Cream và trước khi lập nên Blind Faith, Clapton bắt đầu yêu Boyd.\nNhan đề \"Layla\" được trực tiếp lấy từ câu chuyện \"Layla và chàng điên\" của nhà thơ Ba Tư thế kỷ 12 Nizami Ganjavi. Khi viết ca khúc này, Clapton được Ian Dallas – một người đang trong quá trình cải đạo sang Hồi giáo – kể lại câu chuyện. Câu chuyện của Ganjavi nói về việc nàng công chúa vì ý của cha mà cưới một người, khiến cho người tình Majnun phát điên, có nhiều nét tương đồng với chính Clapton.\nBoyd ly hôn với Harrison vào năm 1977 và tái hôn với Clapton vào năm 1979 tại Tucson, Arizona, Mỹ. Harrison không hề phiền muộn về việc ly hôn, thậm chí anh còn có mặt trong bữa tiệc cưới của Clapton cùng Ringo Starr và Paul McCartney. Trong thời gian này, Clapton còn sáng tác một ca khúc khác tặng Boyd có tên \"Wonderful Tonight\" (1977). Họ ly hôn vào năm 1988 sau một thời gian dài ly thân.\nThu âm và sản xuất.\nSau khi Cream tan rã, Clapton liền thử sức ở vài ban nhạc mới, trong đó có siêu ban nhạc Blind Faith và cặp song ca vợ chồng Delaney & Bonnie. Xuân 1970, một số thành viên của Delaney & Bonnie, bao gồm cây bass Carl Radle, tay trống Jim Gordon và keyboard Bobby Whitlock chia tay nhóm. Nắm bắt lấy cơ hội, Clapton tuyển mộ họ và lập nên Derek and the Dominos.\nTrong quá trình thu âm album, Duane Allman tham gia cùng Clapton trong vai trò khách mời. Allman và Clapton – những người vốn thần tượng nhau từ lâu – được giới thiệu bởi Tom Dowd qua một buổi diễn của nhóm The Allman Brothers. Cả hai thấy tâm đầu ý hợp và nhanh chóng trở thành bạn tốt. Dowd nói về cách họ cùng nhau chơi guitar: \"\"Giữa họ có lẽ tồn tại thần giao cách cảm vì tôi chưa từng thấy những cảm hứng đồng thời diễn ra ở độ chính xác và trình độ cao tới vậy. Một người chơi một giai điệu, và người kia có thể đối ứng ngay lập tức. Chưa bao giờ lại phải có ai trong số họ hỏi \"Liệu cậu có thể chơi lại được không?\" Họ như kiểu 2 chiếc găng trong cùng một đôi vậy. Họ hợp ý nhau vô cùng và luôn chơi nhạc cùng nhau.\"\" Dowd vốn có tiếng tăm từ nhiều sản phẩm trước đó và làm việc với Clapton từ thời Cream (Clapton từng gọi ông là \"nhà sản xuất thu âm lý tưởng\"), song album này lại là một thành tựu vô cùng khác biệt. Trong bộ phim tài liệu \"Tom Dowd and the Language of Music\", ông có chỉnh sửa lại bản gốc của \"Layla\" và nói: \"Đây là những nguyên tắc của tôi, chỉ một hoặc phải nhiều dị bản.\"\nClapton vốn sáng tác \"Layla\" với giai điệu ballad, ca từ nói về việc thất tình của mình với Boyd, song nó liền chuyển sang hướng rock hơn khi Allman viết nên đoạn riff thương hiệu của ca khúc. Khi ban nhạc tập hợp đầy đủ với Dowd, \"Layla\" được thu âm hoàn chỉnh. Bản thu lần đầu tiên bao gồm 16 đoạn thu nhỏ với 6 phần thu guitar: 1 phần guitar nền bởi Clapton, 3 phần hòa âm bởi Clapton (đoạn riff chính chơi trên 2 kênh với 2 phần hòa âm cho đoạn riff chính), phần solo bởi Allman (solo gắt với nhiều nốt luyến ở đoạn vào đầu và chơi slide ở đoạn kết) và phần chơi của Allman và Clapton cùng song tấu guitar solo (đoạn 7 nốt nhạc chính của đoạn riff được song tấu ở 2 quãng tám và 12 riff nốt được chơi đồng âm). Khi thu âm đoạn song tấu này, cả hai chiếc guitar cùng được cắm vào cùng chiếc ampli Fender Champ.\nKhông lâu sau, Clapton quay lại phòng thu, và nghe thấy Gordon chơi một đoạn piano hoàn toàn riêng biệt. Quá ấn tượng về giai điệu, Clapton liền thuyết phục Gordon đưa nó vào làm một phần của ca khúc. Cho dù chỉ có Gordon được ghi là tác giả cho đoạn piano này, Whitlock sau này nói: \"\"Jim đã lấy đoạn nhạc đó từ người bạn gái cũ Rita Coolidge. Tôi biết điều đó vì từ những ngày ở nhóm Delaney & Bonnie, tôi ở nhà của John Garfield ở đồi Hollywood vốn có một căn nhà cho khách tới nghỉ với một chiếc piano. Rita và Jim ở lại căn nhà đó và rủ tôi tới giúp đoạn nhạc mà họ viết có tên \"Time\"... Chị gái của cô ấy, Priscilla, muốn nó được thu âm bởi Booker T. Jones... Jim lấy giai điệu ca khúc của Rita song không hề nhắc tới cô là tác giả. Người bạn trai đã lợi dụng cô ấy.\"\" \"Time\" chính là ca khúc cuối cùng trong album \"Chronicles\" của Booker T. và Priscilla Jones, được phát hành vào năm 1973.\nĐợt thu thứ hai của \"Layla\" diễn ra chỉ 1 tuần sau đợt thu đầu tiên, với Gordon chơi piano, Clapton chơi guitar acoustic cũng như slide guitar còn Allman chơi cả guitar điện lẫn slide guitar dùng bottleneck. Sau khi Dowd hợp nhất 2 buổi thu lại với nhau, \"Layla\" chính thức hoàn tất.\nTheo cấu trúc ca khúc, \"Layla\" được xây dựng bởi 2 đoản khúc, theo kèm là riff. Đoản khúc thứ nhất theo khóa Rê thứ ở điệp khúc và Đô thăng thứ ở đoạn vào, trở thành \"đoạn riff thương hiệu\" với các kỹ thuật hammer-on, pull-off và power chord. Phần thứ hai của đoản khúc được cho là của Allman, phỏng theo ca khúc \"As the Years Go Passing By\" trích từ album \"Born Under a Bad Sign\" (1967) của Albert King. Phần đầu tiên của đoạn này được đánh dấu bằng kỹ thuật slide guitar solo ghi đè mạnh mẽ chơi bởi Allman. Bằng việc di chuyển slide tới những phím cuối cùng, Allman đã tạo ra những âm thanh cao hơn nhiều so với cách chơi thông thường. Dowd từng gọi chúng là \"những nốt không thể được tạo nên bởi nhạc cụ!\".\nĐoản khúc thứ 2 với đóng góp Gordon là đoạn chơi piano kết thúc. Ban đầu được chơi ở giọng Đô trưởng, tốc độ của đoạn kết này ngày một được đẩy lên trong quá trình thu âm. Kết quả là giọng chuẩn của giai điệu hơi bị lạc sang giữa Đô và Đô thăng. Đoạn nghỉ của piano khi kết thúc ca khúc được khép lại bởi tiếng guitar acoustic vốn cũng là một phần trong đoạn outro-solo. Giai điệu tương tự được Allman chơi song song bằng guitar, song với một quãng tám cao hơn. Gordon không hề hình dung hay có yêu cầu về phần chơi guitar này. Clapton và Allman cùng nhau phát triển thêm phần giai điệu, và ca khúc kết thúc với những âm thanh \"chim hót\" thương hiệu của Allman trên chiếc slide guitar.\nClapton nói về ca khúc để đời của mình:\nPattie Boyd từng nói: \"Tôi nghĩ khi đó anh ấy còn thực sự hoang dại... Anh ấy là một nhạc sĩ tài năng tới mức có thể dễ dàng đưa cảm xúc của mình vào âm nhạc theo cách mà người nghe có thể cảm nhận một cách bản năng. Nó đi thẳng vào tâm trí của bạn.\"\nẤn bản khác.\nAlbum \"Layla and Other Assorted Love Songs\" chỉ bán được số lượng hạn chế (và thực tế chưa từng được xếp hạng ở Anh), có lẽ một phần do tên của Clapton chỉ được đăng ở phần bìa sau. Hơn nữa, độ dài quá lớn của \"Layla\" làm hạn chế việc phát sóng trên đài phát thanh, dẫn tới việc bản rút gọn 2:43 đã được hãng Atco Records (Mỹ) phát hành vào tháng 3 năm 1971. Ca khúc có được vị trí 51 tại \"Billboard\" Hot 100.\nKhi \"Layla\" được tái bản trong album \"The History of Eric Clapton\" rồi phát hành dưới dạng đĩa đơn vào năm 1972, nó có được vị trí số 7 tại Anh và số 10 tại Mỹ rồi được tạp chí \"Billboard\" là ca khúc xuất sắc thứ 62 của năm 1972. Năm 1982, \"Layla\" được tái bản lần nữa dưới dạng đĩa đơn, và lần này là vị trí số 4 tại Anh. Lần này ấn bản dài 7 phút đã được xếp hạng bao gồm 2/3 độ dài hoàn toàn là các đoạn chơi của nhạc cụ.\nCác đánh giá ngày một tích cực hơn theo thời gian. Dave Marsh trong ấn bản tạp chí \"The Rolling Stone Illustrated History of Rock and Roll\" viết \"có một vài khoảnh khắc của việc trình diễn thu âm nhạc rock mà ca sĩ hay nhạc sĩ đã thả mình quá sâu khiến cho việc nghe chúng như là sản phẩm của một vụ giết người hay tự sát... với tôi \"Layla\" có lẽ là hay nhất trong số đó.\" Ông xếp ca khúc này ở vị trí 136 trong danh sách \"The Heart of Rock & Soul: The 1001 Greatest Singles Ever Made\".\nTháng 5 năm 1980, dàn nhạc giao hưởng London đã trình diễn lại ca khúc này hoàn toàn không lời, thu âm tại phòng thu số 1 của hãng EMI, Abbey Road, London. Một ấn bản tương tự sau đó được dàn nhạc giao hưởng Hoàng gia trình diễn.\nNgày 20 tháng 9 năm 1983 trong buổi diễn từ thiện của ARMS tại Royal Albert Hall, Eric Clapton, Jeff Beck và Jimmy Page cùng nhau ngẫu hứng chơi \"Layla\". 3 nghệ sĩ trên đều từng là thành viên của nhóm The Yardbirds giai đoạn 1963 to 1968, song chưa từng chính thức cùng trình diễn với nhau.\nNăm 1992, Clapton nhận lời mời trình diễn mộc cho chương trình MTV Unplugged. Album theo kèm, \"Unplugged\", bao gồm nhiều ca khúc blues nổi tiếng cùng với sáng tác mới \"Tears in Heaven\". Chương trình biểu diễn cũng xuất hiện ấn bản mộc của \"Layla\". Ấn bản này giảm nhịp ca khúc, trình bày lại đoạn riff cũng như cắt bỏ hoàn toàn đoạn piano kết bài. Clapton giới thiệu ca khúc bằng cách đặt câu hỏi cho thính giả \"Để xem liệu các bạn có nhận ra\" Ca khúc đạt vị trí 12 tại Mỹ, nhưng thất bại tại Anh. Tuy nhiên, nó lại giành được Giải Grammy cho Bài hát Rock hay nhất vào năm 1993, đánh bại \"Smells Like Teen Spirit\" đình đám của ban nhạc Nirvana, và được tạp chí \"Entertainment Weekly\" gọi là một trong những cú sốc lớn nhất lịch sử giải Grammy.\nNăm 2003, The Allman Brothers Band cũng chơi ca khúc này trong một buổi trình diễn của họ. Warren Haynes hát chính, Gregg Allman chơi piano, còn Derek Trucks phụ trách phần guitar của Duane Allman trong đoạn kết. Việc trình bày ca khúc này không phải để tưởng nhớ Duane mà dành cho nhà sản xuất Tom Dowd mới qua đời vào năm trước đó.\nBản thân Clapton còn cho thu âm một ấn bản thứ 3 nữa. \"Layla\" là ca khúc số 7 trong album \"Wynton Marsalis & Eric Clapton play the blues\" (2011). Thành phần tham gia thể hiện ca khúc bao gồm Wynton Marsalis (hát bè, trumpet), Eric Clapton (hát chính, guitar), Victor Goines (clarinet), Marcus Printup (trumpet), Chris Crenshaw (trombone, hát bè), Don Vappie (banjo), Chris Stainton (keyboard), Dan Nimmer (piano), Carlos Henriquez (bass) và Ali Jackson (drums).\nTôn vinh.\nTrong khoảng cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, \"Layla\" đã trở thành một biểu tượng và có tên trong rất nhiều danh sách \"ca khúc vĩ đại nhất\". Ca khúc sau này được lựa chọn vào danh sách \"50 bài hát thay đổi Rock and Roll\" của Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll, rồi được tạp chí \"Rolling Stone\" xếp hạng 27 trong danh sách \"500 bài hát vĩ đại nhất\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Thais callifera từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Thais callifera là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Muricidae, họ ốc gai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Lasioglossum circe", "role": "user" }, { "content": "Lasioglossum circe là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Ebmer mô tả khoa học năm 1982.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Đường sắt Hợp Vũ is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Đường sắt Hợp Vũ (Trung văn giản thể: 合 武 铁路; Trung văn phồn thể: 合 武 铁路; bính âm: Hé-Wǔ tiělù) là một tuyến đường sắt cao tốc dài 350 km (220 mi) ở hai tỉnh Trung Quốc An Huy và Hồ Bắc, với đoàn tàu chạy tuyến Hợp Phì tỉnh lỵ An Huy và Vũ Hán thủ phủ tỉnh Hồ Bắc với tốc độ 250 km một giờ. Tuyến đường sắt khai trương vào ngày 01 tháng 4 năm 2009 và đã được sử dụng bởi xe lửa tuyến Thượng Hải-Nam Kinh-Hợp Phì-Vũ Hán kể từ sau đó.\nTính đến thời điểm tháng 7 năm 2010, hệ thống có 9 lượt tàu mỗi ngày chạy từ mỗi phía giữa Hợp Phì và ba nhà ga của Vũ Hán, với thời gian chạy tàu là 2 tiếng 40 phút cho chiều dài 350 km. Thêm 6 lượt tàu sê ri D hai chiều Thượng Hải-Vũ Hán chạy trên tuyến này không dừng lại ở Hợp Phì.\nĐường sắt này là một trong các phần của tuyến đường đông-tây quan trọng đang được xây dựng, hành khách Huhanrong chuyên dụng Line (Thượng Hải-Hán Khẩu, Thành Đô).\nĐường sắt sử dụng đường hầm khi đi qua Đại Biệt Sơn trên biên giới An Huy, Hồ Bắc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Physodactylus brasiliensis, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Physodactylus brasiliensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Fleutiaux miêu tả khoa học năm 1892.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Santa Maria da Serra ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Santa Maria da Serra là một đô thị ở bang São Paulo của Brasil. Đô thị này nằm ở vĩ độ 22º34'02\" độ vĩ nam và kinh độ 48º09'38\" độ vĩ tây, trên khu vực có độ cao 495 m. Dân số năm 2004 ước tính là 4.863 người.\nĐô thị này có diện tích 257,11 km².\nThông tin nhân khẩu.\nDữ liệu dân số theo điều tra dân số năm 2000\nTổng dân số: 4.673\nMật độ dân số (người/km²): 18,22\nTỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi (trên một triệu người): 11,52\nTuổi thọ bình quân (tuổi): 73,73\nTỷ lệ sinh (số trẻ trên mỗi bà mẹ): 2,46\nTỷ lệ biết đọc biết viết: 88,42%\nChỉ số phát triển con người (HDI-M): 0,780", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Luteohadena không ?", "role": "user" }, { "content": "Luteohadena là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Arctopsyche amurensis nha ?", "role": "user" }, { "content": "Arctopsyche amurensis là một loài Trichoptera trong họ Hydropsychidae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Eupithecia fennoscandica từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Eupithecia fennoscandica là một loài bướm đêm thuộc họ Geometridae. Loài này có ở miền bắc Fennoscandia và adjecent Nga, Xibia và miền bắc Mông Cổ.\nSải cánh dài 17–21 mm. Có một lứa một năm con trưởng thành bay vào tháng 7.\nẤu trùng ăn \"Viscaria alpina\". Ấu trùng có thể tìm thấy from giữa tháng 7 to giữa tháng 8. Loài này qua đông dưới dạng nhộng.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Tundla Kham ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Tundla Kham là một thị trấn thống kê (\"census town\") của quận Firozabad thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Tundla Kham có dân số 5156 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Tundla Kham có tỷ lệ 74% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 82%, và tỷ lệ cho phái nữ là 65%. Tại Tundla Kham, 15% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Trượt tuyết (hoạt hình) không ?", "role": "user" }, { "content": "Trượt tuyết (tiếng Nga: \"Снежные дорожки\") là một bộ phim hoạt hình khai thác đề tài thể thao của đạo diễn Boris Dyozhkin, ra mắt lần đầu năm 1963.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Contrazy từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": " Contrazy là một xã ở tỉnh Ariège, thuộc vùng Occitanie ở phía tây nam nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Protyparcha is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Protyparcha là một chi bướm đêm thuộc họ Crambidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Jingle Bells ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Jingle Bells (Tiếng chuông ngân), là một bài hát rất nổi tiếng trong chủ đề nhạc Giáng Sinh. Bài hát có sức ảnh hưởng rộng và được đa số những người quan tâm đến lễ Giáng Sinh thuộc mọi lứa tuổi thuộc lòng và hát trong dịp này cũng như được dịch ra nhiều ngôn ngữ trong đó có Tiếng Việt.\nĐộ ảnh hưởng và phổ biến của bài hát khiến nó nhiều lần bị nhầm tưởng là một bài hát dân ca. Bài hát được sáng tác lần đầu vào năm 1840 với tên gọi \"One Horse Open Sleigh\". Tác giả của bài hát là James S. Pierpont, một người sinh trưởng tại Medford tiểu bang Massachusetts, rất có năng khiếu về âm nhạc. Ban đầu, bài hát được sáng tác cho ngày lễ Tạ Ơn, nhưng đã bị nhầm thành nhạc Gíang Sinh do được trình diễn lại thành công đêm Gíang Sinh vào lúc mới sáng tác.\nBiên soạn.\n\"Jingle Bells\" đã được giữ bản quyền với tên ban đầu là \"One Horse Open Sleigh\" vào ngày 16 tháng 9 năm 1857. Nó được in lại năm 1859 với tiêu đề sửa đổi \"Jingle Bells\", hoặc \" One Horse Open Sleigh\". Tình trạng bản quyền của bài hát này có kể từ khi được đưa vào phạm vi công cộng.\nNhà lịch sử âm nhạc James Fuld ghi chú rằng \"jingle\" trong tiêu đề và mở đầu là một động từ bắt buộc.\" Tuy nhiên, nó thường được dùng để chỉ một loại chuông.\nHoàn cảnh sáng tác.\nNăm 1840, Pierpont được giao sáng tác một nhạc phẩm đặc biệt để hát trong dịp Lễ Tạ Ơn. Khi đang ở nhà anh bắt gặp một nhóm người đang đua xe trượt tuyết giữa trời đông lạnh. Anh đã tham gia với họ và chiến thắng, cũng vào lúc đó, anh bị ấn tượng bởi những chiếc chuông kêu lanh canh gắn trên xe ngựa kéo. Bài hát được sáng tác trong đêm đó và được đánh thử nghiệm bằng cây đàn piano của bà hàng xóm Otis Waterman\nJames tập bài hát đó cho ca đoàn nhà thờ Medford và hoà âm cho bài nhạc để trình diễn vào lễ Tạ ơn, ngày lễ quan trọng và có rất nhiều người tham dự tại New England lúc ấy. Bài hát được hoan nghênh và yêu cầu hát lại vào dịp Gíang Sinh tại nhà thờ dù phần lời bài hát có nội dung không phù hợp lắm với nhà thờ (đề cập đến cảnh ngựa đua xe trượt băng, lối hẹn hò trai gái và cá cược). Lần trình diễn này là một thành công lớn đến nỗi một số khách tới thánh đường dự lễ đã xin bản nhạc đem về địa phương của mình. Vì trình diễn vào lễ Gíang Sinh nên bài hát đã được xem như một bài hát Gíang Sinh thực thụ.\nPierpont tìm được người chịu xuất bản bài hát đó năm 1857,và đến năm 1864 khi tờ báo Salem Evening News đăng bài tường thuật câu chuyện về bản nhạc này khiến bài ca đã mau chóng phổ biến thành bản nhạc phổ thông nhất vùng New England rồi tràn xuống phía nam. 20 năm sau đó, \"Jingle Bells\" có lẽ là bản nhạc hát dạo mùa giáng sinh được phổ biến nhất và làmột trong những bản nhạc cổ nhất nước Mỹ, Bài hát ghi đậm ảnh hưởng vào những hình ảnh mùa Giáng Sinh trên các thiệp chúc mừng, sách báo, phim ảnh và cả những nhạc bản giáng sinh khác cho đến tận ngày nay.\nLời bài hát.\nTiếng Anh.\nNgày nay, lời bài hát có sự thay đổi nhỏ so với lời gốc ban đầu\nLời gốc.\nDashing through the snow, In a one-horse open sleigh, O'er the hills we go, Laughing all the way. Bells on bobtail ring, Making spirits bright, Oh what sport to ride and sing A sleighing song tonight.\nA day or two ago I thought I'd take a ride And soon Miss Fannie Bright Was seated by my side The horse was lean and lank Misfortune seemed his lot He got into a drifted bank And we got upset\nA day or two ago The story I must tell I went out on the snow And on my back I fell A gent was riding by In a one-horse open sleigh He laughed as there I sprawling lie But quickly drove away\nNow the ground is white Go it while you're young Take the girls tonight and sing this sleighing song Just get a bobtailed bay Two forty is his speed Hitch him to an open sleigh and crack! You'll take the lead.\nLời hiện hành.\nDashing through the snow\nIn a one horse open sleigh\nO'er the fields we go\nLaughing all the way\nBells on bob tails ring\nMaking spirits bright\nWhat fun it is to laugh and sing\nA sleighing song tonight\nOh, jingle bells, jingle bells\nJingle all the way\nOh, what fun it is to ride\nIn a one horse open sleigh\nJingle bells, jingle bells\nJingle all the way\nOh, what fun it is to ride\nIn a one horse open sleigh\nA day or two ago\nI thought I'd take a ride\nAnd soon Miss Fanny Bright\nWas seated by my side\nThe horse was lean and lank\nMisfortune seemed his lot\nWe got into a drifted bank\nAnd then we got upsot\nOh, jingle bells, jingle bells\nJingle all the way\nOh, what fun it is to ride\nIn a one horse open sleigh\nJingle bells, jingle bells\nJingle all the way\nOh, what fun it is to ride\nIn a one horse open sleigh yeah\nJingle bells, jingle bells\nJingle all the way\nOh, what fun it is to ride\nIn a one horse open sleigh\nJingle bells, jingle bells\nJingle all the way\nOh, what fun it is to ride\nIn a one horse open sleigh \nThu âm và thể hiện.\n\"Jingle Bells\" thu lần đầu bởi Edison Male Quartette năm 1898. Năm 1902, the Hayden Quartet thu âm \"Jingle Bells\".\nWally Schirra and Tom Stafford of Gemini VI (1965).\nNăm 1943, Bing Crosby và Andrews Sisters thu âm \"Jingle Bells\" đạt hạng 19 trên các bảng xếp hạng và bán được hơn một triệu bản. Năm 1941, Glenn Miller và dàn nhạc của ông với Tex Beneke, Marion Hutton, Ernie Caceres và Modernaires về giọng hát đã được công nhận là bản hit hạng 5 trên RCA Victor, Bluebird 11353.\nNăm 1935, Benny Goodman và dàn nhạc của ông đạt hạng 18 trên bảng xếp hạng với ghi âm của họ về \"Jingle Bells\". Năm 1951, Les Paul đã có bản hit hạng 10với một nhiều phiên bản guitar. Năm 1955, Don Charles,từ Copenhagen, Đan Mạch, thu âm một phiên bản mới lạ với tiếng chó sủa cho các giai điệu của \"Jingle Bells\", bán được một triệu bản. Năm 1966, Dean Martin thu âm bài hát này cho album\"The Dean Martin Christmas Album\".\nCác ca sĩ khác cũng thể hiện và thu âm bài hát này là Perry Como, Frank Sinatra, Louis Armstrong, Duke Ellington, Dave Brubeck, Count Basie, Drake Bell, Ray Brown, Oscar Peterson, Ella Fitzgerald, Nat King Cole,The Hoppers, En Vogue, Boney M, Longines Symphonette và Ann Hampton, Callaway, Basshunter, Diana Krall, S.K.Y., Hydrogen Oxide.\nTrong năm 2006, Kimberley Locke đã đạt hạng 1 trên bảng xếp hạng Billboard dành cho các tác phẩm người lớn đương đại bằng bản thu âm \"Jingle Bells\". Một bản thu khác ghi bởi Tony Bennett xuất hiện trên một ấn bản đặc biệt A Swingin' Christmas (2008), dành riêng cho các nhà bán lẻ Bloomingdales.\nNgày 16/12/1965,trong không gian, các phi hành gia tàu Gemini 6, đã đùa với đài kiểm soát dưới mặt đất rằng họ thấy Ông già Noel lái...phi tuyền và đã chơi bản Jingle Bells bằng kèn Harmonica và truyền nó từ ngoài không gian về Trái đất.\n\"Jingle bells còn xuất hiện trong nhiều cuốn phim, trong các chương trình truyền hình, và một phần của bản nhạc có khi lại được đưa vào trong một bài ca giáng sinh khác như bản nhạc rất thành công của Bobby Helm:\"Jingle Bells Rock\" phần lớn là cảm hứng từ Jingle Bells.\nNgày nay, hình như chỗ nào cũng thấy hát Jingle Bells, biến bài hát này thành một trong các bài hát Gíang Sinh phổ biến rộng trên thế giới. Một số bài hát nổi tiếng khác là bản dân ca \"We Wish You a Merry Christmas\", Feliz Navidaz, Silent Night Holly Night, Santa Claus is coming to town...\nTại Việt Nam, Đội ca Nhà Thiếu nhi Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện lời Việt được biên soạn bởi nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện trong chương trình ca nhạc thiếu nhi \"Thiên thần nhỏ\" do hãng phim Phương Nam thực hiện năm 1995.\nThương mại.\nJingle Bells được sử dụng trong mục đích thương mại với các công ty GameStop, Hyundai, và Denny's.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Rougnat", "role": "user" }, { "content": "Rougnat là một xã thuộc tỉnh Creuse trong vùng Nouvelle-Aquitaine miền trung nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 550 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Megapenthes inflatus từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Megapenthes inflatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Candèze miêu tả khoa học năm 1875.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Curchy từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Curchy là một xã ở tỉnh Somme, vùng Hauts-de-France, Pháp.\nĐịa lý.\nThị trấn này tọa lạc trên đường D337, khoảng 20 dặm Anh về phía tây nam của Saint-Quentin.\nXem thêm.\nXã của tỉnh Somme", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Trung tử nhé", "role": "user" }, { "content": "Trung tử trong sinh học có cấu trúc dạng ống vi thể hình trụ, được tìm thấy ở hầu hết các tế bào động vật và tảo và thường hiếm gặp ở thực vật. Vỏ của mỗi trung tử thường gồm 9 mặt, mỗi mặt có 3 ống vi thể (tuy nhiên ở phôi Drosophila chỉ có 2 ống và ở tinh trùng Caenorhabditis elegans chỉ có 1 ống). Một bộ hai trung tử nằm vuông góc với nhau trong không gian, tạo thành một phức hợp mà các nhà sinh học tế bào gọi là trung thể.\nTrong quá trình nhân đôi, mỗi cặp trung tử mới sẽ được tạo ra từ một chiếc của cặp ban đầu cộng thêm một chiếc mới. Nếu các trung tử được dùng để tạo các bào quan di động, như roi và lông, chiếc trung tử già hơn, chiếc mẹ, sẽ trở thành chủ thể thiết lập cấu trúc của bào quan đó.\nCác trung tử tạo nên sợi tơ vô sắc để phân chia các chromosome trong quá trình phân bào. Tuy nhiên, trung tử lại không cần thiết cho tế bào phân chia bởi vì các tế bào có các trung tử bị phá hủy bởi tia Laser vẫn có thể phân chia bình thường.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Thiếu Hạo (định hướng)?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Thiếu Hạo bạn tìm có thể là:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Vauclaix từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Vauclaix là một xã của tỉnh Nièvre, thuộc vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền trung nước Pháp.\nDân số.\nTheo điều tra dân số 1999 có dân số là 112. On ngày 1 tháng 1 năm 2007, the estimate was 117.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Natri teluride, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Natri teluride là hợp chất hoá học với công thức Na2Te. Muối này là axit liên hợp của axit teluhiđric không bền nhiệt, nhưng nó thường được điều chế bằng phản ứng khử giữa teluride và natri. Na2Te là một chất khó để cầm trên tay vì nó rất nhạy với không khí. Không khí oxi hoá nó ban đầu tạo ra các politeluride, có công thức Na2Tex (x > 1), và cuối cùng là Te kim loại. Mẫu vật Na2Te, không màu khi hoàn toàn tinh khiết, dần dần chuyển màu sang tím hay xám do ảnh hưởng của sự oxi hoá bởi không khí.\nTổng hợp, cấu trúc và đặc tính trong dung dịch.\nQuá trình tổng hợp được tiến hành đặc trưng bằng phương pháp dùng amonia làm dung môi.\nNa2Te, giống như nhiều hợp chất liên quan khác có công thức M2X, có cấu trúc antiflorit. Vì thế, trong Na2Te rắn, mỗi ion Te2− được bao quanh bởi 8 ion Na+ ions và mỗi ion Na+ lại được bao bởi 4 ion Te2−.\nCác muối đơn giản loại M2X, trong đó X là một anion đơn phân tử, không hoà tan đặc trưng trong bất kì dung môi nào vì chúng có năng lượng mạng lưới cao. Dưới tác dụng của nước - thậm chí là hơi ẩm không khí - hoặc xử lý với cồn, Te2− nhận thêm 1 proton:\nVì phản ứng này, nhiều quá trình xảy ra với Na2Te có thể bao gồm NaHTe (CAS # 65312-92-7), một chất tan tốt hơn và điều chế dễ hơn.\nỨng dụng trong hoá hữu cơ.\nNa2Te có ứng dụng trong tổng hợp hữu cơ, vừa làm chất khử trong các phản ứng khử vừa là nguồn Te trong tổng hợp các hợp chất cơ teluride. Các aryl halide được thay thế tạo thành các điaryl teluride, minh hoạ là phản ứng tổng hợp đinaphtylteluride: \nNa2Te phản ứng với các hợp chất 1,3-điin tạo ra telurophen tương ứng, có cấu trúc tương tự thiophen:\nVới tác dụng của một chất khử, Na2Te chuyển các nhóm nitro thành amin và chia cắt liên kết C-X.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Bulbophyllum pleurothallopsis is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Bulbophyllum pleurothallopsis là một loài phong lan thuộc chi \"Bulbophyllum\".\nTham khảo.\npleurothallopsis]]", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Bionic (album) nha ?", "role": "user" }, { "content": "Bionic là album phòng thu tiếng Anh thứ tư của nữ ca sĩ Christina Aguilera phát hành vào ngày 8 tháng 6 năm 2010, gần 4 năm sau khi album \"Back to Basics\" được phát hành. Album có sự góp công của các nhà sản xuất thu âm và sáng tác ca khúc mà trước đây Aguilera chưa từng cộng tác như Tricky Stewart, Polow da Don và Samuel Dixon. Như các album trước của cô là \"Stripped\" và \"Back to Basics\", album này cũng bao gồm nhiều thể loại nhạc khác nhau như R&B, pop, electropop, và synthpop.\nKhi phát hành, album đã nhận nhiều lời phê bình khác nhau. Nhiều nhà phê bình khen ngợi rằng Christina đã rất táo bạo khi chuyển sang thể loại mới, trong khi những ý kiến khác chê là Christina bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các nhạc sĩ cô cộng tác khi thực hiện album. Ở Mỹ, trong tuần đầu tiên sau khi phát hành, album đứng vị trí thứ 3 trên Billboard 200 với 110.000 bản được tiêu thụ. Trong khi đó, tại Vương quốc Liên hiệp Anh, \"Bionic\" đứng vị trí đầu bảng dù lượng đĩa bán ra rất thấp, và liên tục rớt hạng các tuần sau đó. Đây cũng là album phòng thu đầu tiên của Aguilera không nhận được đề cử Grammy nào.\nBối cảnh ra đời.\nTrong chuyến lưu diễn Back to Basics Tour ở châu Á mùa hè năm 2007, Aguilera nói album kế tiếp của cô sẽ \"ngắn gọn, ngọt ngào và hoàn toàn khác\" với album có thời lượng dài \"Back to Basics\" (2006). Sau khi sinh con, trong một buổi phỏng vấn với Ryan Seacrest, Aguilera cho biết album mới sẽ thể hiện một khía cạnh nghệ sĩ mới của cô, nhờ vào trải nghiệm khi mang thai đứa con đầu lòng.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Ecnomus viganus", "role": "user" }, { "content": "Ecnomus viganus là một loài Trichoptera trong họ Ecnomidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Trương Cáp ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Trương Cáp (chữ Hán: 张郃; 166-231),tự là Tuấn Nghệ (儁乂), là tướng lĩnh nhà Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.\nThời trẻ.\nTrương Hợp bắt đầu tham gia chiến trận năm mới 16 tuổi khi có khởi nghĩa Hoàng Cân. Thời Hán mạt ra ứng mộ đánh dẹp Khăn Vàng. Sau khi khởi nghĩa Khăn Vàng tan rã Cáp là thuộc hạ của Hàn Phức.\nTheo Viên Thiệu.\nPhức giao chiến với Viên Thiệu bại trận,Hợp dẫn binh quy hàng Viên Thiệu. Thiệu lấy Hợp làm Hiệu uý, sai chống cự Công Tôn Toản. Toản bị phá, phần nhiều là công lao của Hợp, Hợp được thăng làm Ninh quốc Trung lang tướng.\nTrận Quan Độ.\nKhi Tào Tháo đánh nhau với Viên Thiệu ở trận Quan Độ:\n\"Hán Tấn xuân thu\" chép: Hợp thuyết Thiệu rằng: \"Chúa công tuy liên tục thắng, nhưng chớ cùng với Tào công chiến đấu, nên mật sai quân khinh kỵ đánh úp tuyệt đường ở phía nam, tất quân kia tự bại vậy.\" Thiệu không theo kế ấy.\nThiệu sai tướng là bọn Thuần Vu Quỳnh đôn đốc việc vận lương ở Ô Sào, Tào Tháo tự mình tới đánh gấp. Hợp khuyên Thiệu rằng: \"Binh của Tào công tinh nhuệ, hẳn sẽ đánh tan bọn Quỳnh bọn Quỳnh bị phá, tất việc của tướng quân phải bỏ đi vậy, nên cấp tốc dẫn binh đến cứu ngay.\" Quách Đồ nói: \"Kế của Hợp không hay. Chẳng bằng đánh vào bản doanh của họ, thế tất họ phải quay về, thế là chẳng cần cứu mà tự giải vây được vậy.\" \nHợp nói: \"Tào công doanh trại kiên cố, có đánh hẳn cũng chẳng lấy được, nếu như bọn Quỳnh bị bắt, lũ thuộc hạ chúng ta cũng bị bắt hết cả.\" Thiệu chỉ phái quân khinh kỵ đi cứu Quỳnh, mà để trọng binh đánh doanh trại Thái Tổ, không hạ được. Tào Tháo quả nhiên phá được bọn Quỳnh, quân của Thiệu tan vỡ. Đồ hổ thẹn, lại dèm pha Hợp rằng: \"Cáp mừng vì quân ta bại, lời nói không khiêm tốn.\"\nTheo Tào Tháo.\nTrương Hợp nhiều lần bày mưu và khuyên Viên Thiệu nhưng ông ta không nghe lời. Trận Ô Sào đại bại Hợp bị Quách Đồ gièm pha. Viên Thiệu vốn thiếu quyểt đoán tin lời Đồ có ý hại Hợp. Kết quả Trương Hợp và Cao Lãm chạy sang phe Tào Tháo.\nThái Tổ được Hợp rất mừng, bảo rằng: \"Xưa Tử Tư chẳng sớm tỉnh ngộ, bởi thế khiến thân bị nguy, há được như Vi Tử bỏ nhà Ân, Hàn Tín quy nhà Hán đó sao?\" Rồi bái Hợp làm Thiên tướng quân, phong tước Đô Đình hầu.\nBùi Tùng Chi xét \"Vũ đế kỷ\" cùng \"Viên Thiệu truyện\" đều nói rằng Viên Thiệu sai Trương Hợp - Cao Lãm đánh doanh trại Thái Tổ, bọn Hợp nghe tin Thuần Vu Quỳnh bị phá, bèn đến hàng, sĩ chúng của Thiệu đại hội sau đó. Thế tất là bọn Hợp ra hàng sau đó quân Thiệu tan vỡ. Đến như truyện này, nói là quân Thiệu hội họp trước, sợ lời dèm của Quách Đồ, rồi sau mới quy hàng Thái Tổ, ấy là ba truyện có lầm lẫn bất đồng vậy.\nChiến công.\nHợp được trao nắm binh sĩ, theo đánh huyện Nghiệp, lấy được. Lại theo đánh Viên Đàm ở Bột Hải, riêng cầm quân vây Hung Nô, đại phá được. Rồi theo đánh Liễu Thành, cùng với Trương Liêu đều được làm tiên phong, bởi có công được thăng làm Bình định tướng quân. Lại biệt phái đi đánh Đông Lai, dẹp Quản Thừa, lại cùng Trương Liêu đánh dẹp bọn Trần Lan - Mai Thành, phá được. Rồi theo phá Mã Siêu - Hàn Toại ở Vị Nam. Vây huyện An Định, thu hàng Dương Thu. Cùng với Hạ Hầu Uyên đánh dẹp phu tặc Lương Hưng cùng rợ Đê ở Vũ Đô. Lại phá được Mã Siêu, bình Tống Kiến.\nTrận Hán Trung.\nSau này ông đã trở thành danh tướng nước Ngụy, được xếp vào hàng năm danh tướng của Ngụy. Trong những chiến tích của ông thì trận giao tranh với Trương Phi ở Ba Tây được xem là nổi bật nhất, dù thất bại nhưng cuối cùng Trương Hợp cũng bày kế và giết được Lôi Đồng của Trương Phi.\nLưu Bị đóng quân ở Dương Bình, Hợp đóng quân ở Quảng Thạch. Bị có hơn vạn quân tinh nhuệ, chia làm mười lộ, nhân đêm tối gấp rút tấn công Hợp. Cáp đốc suất binh tinh nhuệ đánh lại, Bị không thể thắng nổi. Sau đấy Bị tới lũng Tẩu Mã đốt đô ấp ở vùng ngoại vi, Hạ Hầu Uyên tới cứu hoả, đi được nửa đường gặp quân của Bị, giao chiến, binh khí ngắn phải đánh gần. Uyên bị Hoàng Trung giết, Hợp quay về Dương Bình.\n\"Nguỵ lược\" chép: Uyên tuy làm Đô đốc, Lưu Bị sợ Hợp mà coi thường Uyên. Lúc giết Uyên, Bị nói: \"Kẻ ấy đáng được làm đầu sỏ, dùng người như thế sao làm gì được ta!\"\nĐang lúc bấy giờ, nguyên soái mới mất, sợ Bị thừa cơ đánh, ba quân đều thất sắc. Tư mã của Uyên là Quách Hoài bèn lệnh cho chúng rằng: \"Trương tướng quân, là danh tướng quốc gia, Lưu Bị phải kiêng sợ; hôm nay việc nguy cấp, phi Trương tướng quân chẳng ai có thể vỗ yên được.\" Bèn suy tôn Cáp lên làm chủ trong quân. Hợp nhận trách nhiệm, ém binh giữ yên trận địa, chư tướng đều vâng theo sự dụng binh của Hợp, bụng dân chúng mới yên. Tào Tháo đến Trường An, phái sứ giả đến ban cho Hợp phù tiết. Tào Tháo thân đến Hán Trung, Lưu Bị giữ trên núi cao không dám đánh. Tào Tháo rút lui toàn quân khỏi Hán Trung, Hợp quay về đóng binh ở Trần Thương.\nThời Tào Phi.\nVăn Đế tức Tào Phi lên ngôi lấy Hợp làm Tả tướng quân, tiến tước Đô Hương hầu. Khi lên ngôi Đế, tiến phong Hợp là Mạo Hầu. Rồi hạ chiếu cho Hợp và Tào Chân đánh rợ Hồ ở Lô Thủy thuộc An Định cùng rợ Khương ở phía Đông, cho triệu Hợp và Tào Chân cùng vào chầu ở cung điện Hứa Xương, phái Hợp về nam cùng Hạ Hầu Thượng đánh Giang Lăng. Hợp đốc xuất chư quân vượt sông, chiếm cồn cát ở trên sông lập doanh luỹ.\nKhi Tào Phi mất, Tào Duệ lên ngôi, Trương Hợp được phong làm Hữu tướng quân, người giữ quyền lực quan trọng nhất trong triều đình chỉ sau Tư Mã Ý và tham mưu Hạ Hầu Mậu. Ông được giao trọng trách cùng với Tư Mã Ý tiến đánh vùng Ba Thục\nMất.\nMinh Đế tức Tào Duệ lên ngôi phái Hợp về nam đóng ở Kinh Châu, cùng Tư mã Tuyên Vương đánh biệt tướng của Tôn Quyền là bọn Lưu A, truy đuổi đến Kỳ Khẩu, giao chiến, phá được. Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn. Triều đình đặc tiến tước vị cho Hợp, phái tới đốc xuất chư quân, chống cự tướng của Lượng là Mã Tắc ở Nhai Đình. Tắc cậy hiểm ở phía nam núi, không xuống đóng thành lũy. Cáp cắt đứt đường cấp nước, công kích, đại phá được quân Tắc. Các quận Nam An,Thiên Thủy, An Định làm phản hưởng ứng Lượng, Hợp đều đánh phá bình được cả. Chiếu viết rằng: \"Tên giặc là Lượng dụng quân sĩ Ba Thục, quân binh như cọp gầm hổ rống. Tướng quân đến chỗ binh giặc cứng mạnh vào chốn đao gươm, thắng được kẻ địch ở nơi ấy, trẫm rất ngợi khen. Nay ban thêm cho thực ấp một nghìn hộ, cộng cả trước đây là bốn nghìn ba trăm hộ.\"\nTư Mã Ý nắm giữ thủy quân ở Kinh Châu, muốn theo sông Miện tới Trường Giang đánh Ngô, triều đình hạ chiếu cho Hợp đốc chư quân ở Quan Trung tới nhận mệnh điều dụng. Tới Kinh Châu, lúc ấy là mùa đông nước cạn, thuyền lớn không đi được, bèn quay về đóng quân ở Phương Thành.\nGia Cát Lượng lại ra quân, tấn công Trần Thương rất gấp, Tào Duệ sai ngựa trạm tới triệu Hợp về kinh đô. Tào Duê thân giá lâm thành Hà Nam, bày tiệc rượu tiễn đưa Hợp, phái ba vạn quân sĩ ở các miền nam bắc giao cho Hợp, lại chia quân Hổ bôn đi theo bảo vệ Hợp, nhân đó hỏi Hợp rằng: \"Khi tướng quân đến nơi, Lượng đã lấy được Trần Thương hay chưa?\" Hợp biết Lượng ít quân không có lương thực, chẳng thể đánh lâu, thưa rằng: \"Bỉ thần chưa tới nơi, Lượng đã chạy rồi vậy; Tính ra thì lương thảo của Lượng chẳng còn đủ đến mười ngày.\" Hợp tiến quân đêm ngày đến Nam Trịnh, Lượng đã lui binh. Triều đình lại hạ chiếu lệnh cho Hợp về kinh đô, bái làm Chinh tây Xa kỵ tướng quân. Hợp là người hiểu biết quyền biến, khéo việc bày binh bố trận, liệu địa hình chiến cuộc, không kế gì không tỏ, từ Gia Cát Lượng trở đi đều phải kiêng sợ. Hợp tuy là võ tướng mà yêu thích những bậc nho sĩ, từng tiến cử người đồng hương là Ti Trạm làm Kinh Minh Hành Tu, chiếu viết rằng: \"Xưa Tuân Tế làm tướng, tấu xin lập ra Ngũ kinh đại phu, ở trong quân doanh, cho các nho sinh tấu nhạc ném thẻ vào hồ. Nay tướng quân bên ngoài thống quản quân lữ, bên trong an định quốc triều. Trẫm khen ngợi ý chí của tướng quân, nay cất nhắc Trạm lên làm Bác Sĩ.\"\nGia Cát Lượng lại ra Kỳ Sơn, triều đình chiếu mệnh cho Hợp đốc xuất chư tướng ở phía Tây đến Lược Dương, Lượng quay về giữ Kỳ Sơn, Hợp đuổi theo đến Mộc Môn, cùng với quân của Lượng giao chiến, bị loạn tên bắn trúng đầu gối, chết, được ban thuỵ hiệu là Tráng hầu.\n\"Nguỵ lược\" viết: Quân Lượng lui về, Tư Mã Ý sai Hợp đuổi theo, Hợl nói: \"Quân pháp dạy, vây thành tất phải mở lối thoát cho giặc, quân địch chạy chớ nên đuổi theo”. Ý không nghe. Hợp bất đắc dĩ, phải tiến binh. Vì quân Thục bố trí mai phục trên núi cao, cung nỏ bắn loạn xạ, Hợp bị trúng tên vào bắp đùi.\"\nCuối cùng Hợp bị trúng kế của Gia Cát Lượng ở Kiếm Các và bỏ mạng. Trong \"Tam Quốc Chí\" ghi rằng Tư Mã Ý khuyên Trương Hợp không nên đuổi theo quân Thục Hán nhưng ông không nghe nên bị phục kích, nhưng trong các ghi chép khác thì Trương Hợp lúc đó là lão tướng nhiều kinh nghiệm nên không đuổi theo Gia Cát Lượng, nhưng Tư Mã Ý hoặc đã chủ quan hoặc là hoặc đã cố ý mượn tay quân Thục hại đại tướng cuối cùng lập nên nhà Ngụy. Trương Hợp được phong tước Hầu sau khi chết.\nHậu duệ.\nCon Hợp là Hùng nối tự. Hợp trước sau chinh phạt có công, Minh Đế chia ấp cho Hợp, phong cho bốn con của Hợp làm Liệt hầu. Bốn người con nhỏ khác được ban tước Quan nội hầu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Oecetis leukone?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Oecetis leukone là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Bouhy không ?", "role": "user" }, { "content": "Bouhy là một xã của tỉnh Nièvre, thuộc vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền trung nước Pháp.\nDân số.\nTheo điều tra dân số 1999 có dân số là 469. On 1 tháng 1 năm 2007, the ước tính was 463.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Serie A, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Serie A (), còn gọi là Serie A TIM do được tài trợ bởi TIM, là giải đấu chuyên nghiệp dành cho các câu lạc bộ bóng đá đứng đầu hệ thống giải bóng đá Ý và người chiến thắng được trao Scudetto và Coppa Campioni d'Italia. Giải đã hoạt động như một giải đấu vòng tròn tính điểm trong hơn chín mươi năm kể từ mùa giải 1929–30. Giải đã được tổ chức bởi Direttorio Divisioni Superiori cho đến năm 1943 và Lega Calcio cho đến năm 2010, khi Lega Serie A được thành lập cho mùa giải 2010–11. Serie A được coi là một trong những giải bóng đá hay nhất thế giới và nó thường được mô tả là giải đấu quốc gia có chiến thuật và phòng ngự chắc chắn nhất. Serie A là giải đấu quốc gia mạnh nhất thế giới vào năm 2020 theo IFFHS, và được xếp hạng thứ tư trong số các giải đấu châu Âu theo hệ số giải đấu của UEFA – sau Bundesliga, La Liga và Premier League, và trên Ligue 1 – dựa trên hiệu suất của các câu lạc bộ Ý tại Champions League và Europa League trong 5 năm trước đó. Serie A dẫn đầu bảng xếp hạng của UEFA từ 1986 đến 1988 và từ 1990 đến 1999.\nỞ thể thức hiện tại, Giải vô địch bóng đá Ý đã được sửa đổi từ các vòng khu vực và liên khu vực thành giải đấu một hạng từ mùa giải 1929–30 trở đi. Các danh hiệu vô địch giành được trước năm 1929 được FIGC chính thức công nhận với cùng trọng số với các danh hiệu được trao sau đó. Tương tự, mùa giải 1945–46, khi thể thức thi đấu vòng tròn một lượt bị đình chỉ và giải đấu được diễn ra ở hai nhóm địa lý do sự tàn phá của Thế chiến thứ hai, không được xem xét về mặt thống kê, ngay cả khi danh hiệu của nó hoàn toàn chính thức.\nGiải đấu có ba câu lạc bộ nổi tiếng nhất thế giới là Juventus, AC Milan và Inter Milan, tất cả đều là thành viên sáng lập của G-14, một nhóm đại diện cho các câu lạc bộ bóng đá lớn nhất và uy tín nhất châu Âu từ năm 2000 đến 2008, với hai người đầu tiên cũng là thành viên sáng lập của tổ chức kế tiếp, Hiệp hội Câu lạc bộ Châu Âu (ECA). Nhiều cầu thủ đã giành được giải thưởng Ballon d'Or khi chơi ở một câu lạc bộ Serie A hơn bất kỳ giải đấu nào trên thế giới ngoài La Liga của Tây Ban Nha, mặc dù La Liga có tổng số người chiến thắng Ballon d'Or cao nhất. Juventus, câu lạc bộ thành công nhất của Ý trong thế kỷ 20 và đội Ý giành nhiều chiến thắng nhất, đứng thứ sáu ở châu Âu và thứ mười hai trên thế giới với nhiều danh hiệu quốc tế chính thức nhất với mười một. Trước trận chung kết Europa Conference League đầu tiên vào năm 2022, đây cũng là đội duy nhất trên thế giới vô địch tất cả năm giải đấu liên đoàn chính thức trong lịch sử, thành tích đạt được sau chiến thắng tại Cúp Liên lục địa năm 1985 và được xác nhận lại sau khi giành chức vô địch lần thứ sáu giải đấu, UEFA Intertoto Cup, mười bốn năm sau. Milan là câu lạc bộ đứng thứ ba chung cuộc về số danh hiệu quốc tế chính thức giành được với mười tám danh hiệu. Inter, sau thành tích của họ trong mùa giải 2009–10, đã trở thành đội bóng Ý đầu tiên đạt được cú ăn ba trong một mùa giải. Đây cũng là đội đã thi đấu liên tục trong thời gian dài nhất ở giải đấu hàng đầu của bóng đá Ý, ra mắt vào năm 1909. Tất cả các câu lạc bộ này, cùng với Lazio, Fiorentina, Roma và Napoli, đều được biết đến được ví như \"bảy chị em\" () của bóng đá Ý.\nSerie A là một trong những giải đấu bóng đá lâu đời nhất trên thế giới. Trong số 100 cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử do tạp chí \"FourFourTwo\" bình chọn năm 2017, có 42 cầu thủ từng chơi ở Serie A, nhiều hơn bất kỳ giải đấu nào khác trên thế giới. Juventus là đội sản sinh ra nhiều nhà vô địch FIFA World Cup nhất (27), cùng với Inter (20), Roma (16) và Milan (10), lần lượt đứng thứ ba, thứ tư và thứ chín trong bảng xếp hạng đó.\nLịch sử.\nSerie A, như được tổ chức ngày nay, bắt đầu trong mùa giải 1929–30. Từ năm 1898 đến năm 1922, cuộc thi được tổ chức thành các nhóm khu vực. Vì ngày càng có nhiều đội tham dự các giải vô địch khu vực, Liên đoàn bóng đá Ý (FIGC) đã tách CCI (Italian Football Confederation) vào năm 1921, thành lập Lega Nord (Liên đoàn bóng đá miền Bắc) tại Milano, tiền thân của Lega Serie A ngày nay. Khi các đội CCI gia nhập lại, FIGC đã tạo ra hai bộ phận liên khu vực đổi tên Hạng mục thành Bộ phận và chia các bộ phận FIGC thành hai giải đấu bắc-nam. Năm 1926, do khủng hoảng nội bộ và áp lực phát xít, FIGC đã thay đổi cài đặt nội bộ, bổ sung các đội miền Nam vào giải đấu quốc gia, cuối cùng dẫn đến dàn xếp cuối cùng 1929–30. Torino đã được tuyên bố là nhà vô địch trong mùa giải 1948–49 sau một vụ tai nạn máy bay gần cuối mùa mà cả đội thiệt mạng.\nDanh hiệu vô địch Serie A thường được gọi là \"scudetto\" (\"chiếc khiên nhỏ\") bởi vì kể từ mùa giải 1923–24, đội chiến thắng sẽ mang một huy hiệu nhỏ với ba màu quốc kỳ Ý trên dải của họ trong mùa giải tiếp theo. Câu lạc bộ thành công nhất là Juventus với 36 chức vô địch, tiếp theo là Inter Milan và AC Milan với 19 chức vô địch. Từ mùa giải 2004–05 trở đi, một chiếc cúp thực sự đã được trao cho câu lạc bộ trên sân sau lượt cuối cùng của chức vô địch. Chiếc cúp, được gọi là Coppa Campioni d'Italia, đã chính thức được sử dụng kể từ mùa giải 1960–61, nhưng từ năm 1961 đến 2004 đã được giao cho các câu lạc bộ chiến thắng đứng đầu văn phòng của Lega Nazionale Professionisti.\nVào tháng 4 năm 2009, Serie A tuyên bố tách khỏi Serie B. Mười chín trong số hai mươi câu lạc bộ đã bỏ phiếu ủng hộ động thái này trong một cuộc tranh cãi về bản quyền truyền hình; đội bị đe dọa xuống hạng Lecce đã bỏ phiếu chống lại quyết định này. Maurizio Beretta, cựu chủ tịch hiệp hội sử dụng lao động của Ý, trở thành chủ tịch của liên đoàn mới.\nVào tháng 4 năm 2016, có thông báo rằng Serie A đã được lựa chọn bởi Ủy ban Bóng đá Quốc tế để kiểm tra các lần phát lại video, ban đầu là bí mật cho mùa giải 2016–17, cho phép chúng trở thành giai đoạn thử nghiệm trực tiếp, với hỗ trợ phát lại được triển khai trong mùa giải 2017–18. Về quyết định này, Chủ tịch FIGC Carlo Tavecchio cho biết, \"Chúng tôi là một trong những người đầu tiên ủng hộ việc sử dụng công nghệ trên sân cỏ và chúng tôi tin rằng chúng tôi có mọi thứ cần thiết để đóng góp cho thử nghiệm quan trọng này.\"\nThể thức.\nTrong phần lớn lịch sử của Serie A, có 16 hoặc 18 câu lạc bộ thi đấu ở cấp độ cao nhất. Tuy nhiên, kể từ 2004–05, đã có tổng cộng 20 câu lạc bộ. Một mùa giải (1947–48) diễn ra với 21 đội vì lý do chính trị, sau những căng thẳng sau chiến tranh với Nam Tư. Dưới đây là bản ghi đầy đủ về số đội đã chơi trong mỗi mùa giải trong suốt lịch sử của giải đấu;\nTrong mùa giải kéo dài từ tháng 8 đến tháng 5, mỗi câu lạc bộ đấu với các đội khác hai lần; một lần trên sân nhà và một lần trên sân khách, tổng cộng 38 trận cho mỗi đội vào cuối mùa giải. Do đó, trong bóng đá Ý, thể thức vòng tròn tính điểm thực sự được sử dụng. Trong nửa đầu của mùa giải, được gọi là \"andata\", mỗi đội đấu một lần với mỗi đối thủ trong giải đấu, tổng cộng 19 trận. Trong nửa sau của mùa giải, được gọi là \"ritorno\", các đội chơi 19 trận khác, một lần nữa với mỗi đối thủ, trong đó các trận sân nhà và sân khách được đảo ngược. Hai nửa của mùa giải có thứ tự lịch thi đấu hoàn toàn giống nhau cho đến mùa giải 2021–22, khi lịch bất đối xứng được giới thiệu, theo thể thức giải đấu của Anh, Tây Ban Nha, và Pháp. Kể từ mùa giải 1994–95, các đội được thưởng ba điểm cho một trận thắng, một điểm cho một trận hòa và không có điểm nào cho một trận thua. Trước đó, các đội được thưởng hai điểm nếu thắng, một điểm nếu hòa và không có điểm nào nếu thua. Ba đội có vị trí thấp nhất vào cuối mùa giải sẽ xuống hạng Serie B, và ba đội Serie B được thăng hạng để thay thế họ cho mùa giải tiếp theo.\nVòng loại cúp châu Âu.\nTính đến năm 2022, Serie A được xếp hạng là giải đấu tốt thứ tư theo hệ số UEFA, do đó, bốn đội đứng đầu tại Serie A sẽ giành quyền vào thẳng vòng bảng UEFA Champions League. Đội xếp thứ năm, cùng với đội vô địch Coppa Italia (nếu đội vô địch Coppa Italia đứng ngoài top năm) hoặc đội xếp thứ sáu (nếu đội vô địch Coppa Italia nằm trong top năm), đủ điều kiện tham gia vòng bảng UEFA Europa League. Câu lạc bộ xếp thứ sáu hoặc thứ bảy, tùy thuộc vào thành tích giải đấu của đội vô địch Coppa Italia, tham gia vòng loại cuối cùng của UEFA Europa Conference League.\nTiebreaking.\nNếu sau tất cả 38 trận có hai đội bằng điểm nhau cho vị trí đầu tiên hoặc vị trí thứ 17, vị trí an toàn cuối cùng, thì đội giành scudetto hoặc đứng ở vị trí thứ 17 sẽ được phân định bằng trận play-off một lượt kéo dài 90 phút và phạt đền (không có hiệp phụ), được tổ chức tại một địa điểm trung lập. Nếu ít nhất ba đội bằng điểm nhau cho một trong những vị trí đó, thì hai đội chơi trong trận đấu sẽ được quyết định bằng một bảng nhỏ giữa các đội tham gia bằng cách sử dụng các điểm hòa bên dưới. Đối với một trận hòa ở bất kỳ vị trí nào khác, những người hòa giải quyết định như sau:\nTrong khoảng thời gian từ 2006–07 đến 2021–22, tiebreak hiện được sử dụng cho tất cả các vị trí để quyết định người chiến thắng scudetto nếu cần, mặc dù điều này không bao giờ cần thiết. Trước 2005–06, một trận play-off sẽ ngay lập tức được sử dụng nếu các đội hòa nhau ở vị trí đầu tiên, một suất tham dự vòng loại châu Âu hoặc một suất xuống hạng. Trong một số năm trước, trận loại trực tiếp là một trận đấu đơn tại một địa điểm trung lập trong khi ở những năm khác, đó là một trận đấu hai lượt được quyết định bởi tỷ số chung cuộc. Một trận đấu loại trực tiếp chưa bao giờ cần thiết kể từ khi thể thức tiebreak thay đổi.\nLần duy nhất một trận đấu loại trực tiếp được sử dụng để quyết định nhà vô địch diễn ra ở mùa giải 1963–64 khi Bologna và Inter đều kết thúc với 54 điểm. Bologna đã giành chiến thắng trong trận play-off 2–0 tại Stadio Olimpico ở Rome để giành scudetto. Các trận đấu playoff được sử dụng nhiều lần để quyết định suất tham dự giải đấu châu Âu (gần đây nhất là ở mùa giải 1999–2000) và xuống hạng (gần đây nhất là ở 2004–05).\nCác câu lạc bộ.\nTrước năm 1929, nhiều câu lạc bộ đã thi đấu ở cấp độ cao nhất của bóng đá Ý vì các vòng đấu trước đó được thi đấu cho đến năm 1922 trên cơ sở khu vực và sau đó là liên khu vực cho đến năm 1929. Dưới đây là danh sách các câu lạc bộ Serie A đã tham gia giải đấu kể từ khi nó được tổ chức. một thể thức giải đấu (tổng cộng 68).\nMùa giải 2022–23.\nCâu lạc bộ.\n20 câu lạc bộ sau đây đang thi đấu tại Serie A trong mùa giải 2022–23.\nCác mùa giải ở Serie A.\nCó 68 đội đã tham dự 91 chức vô địch Serie A trong một vòng đấu diễn ra từ mùa giải 1929–30 cho đến mùa giải 2022–23. Các đội in đậm đang thi đấu tại Serie A. Năm trong ngoặc đơn là năm tham gia gần đây nhất ở cấp độ này. Inter Milan là đội duy nhất đã chơi bóng đá Serie A trong mọi mùa giải.\nLogo.\nSerie A có logo có nhà tài trợ Telecom Italia (TIM). Logo được giới thiệu vào năm 2010 đã có một thay đổi nhỏ vào năm 2016 do sự thay đổi logo của chính Telecom Italia. Vào tháng 8 năm 2018, một logo mới đã được công bố và một logo khác vào tháng 8 năm 2019.\nBản quyền truyền hình.\nTrước đây, các câu lạc bộ riêng lẻ thi đấu trong giải đấu có quyền bán quyền phát sóng của họ cho các kênh cụ thể trên khắp nước Ý, không giống như ở hầu hết các quốc gia châu Âu khác. Hiện tại, hai đài truyền hình ở Ý là đài truyền hình vệ tinh Sky Italia và nền tảng phát trực tuyến DAZN cho các mạng truyền hình trả tiền của riêng mình; RAI chỉ được phép phát các tin nổi bật (độc quyền từ 13:30 đến 22:30 CET).\nĐây là danh sách bản quyền truyền hình ở Ý (kể từ mùa giải 2021–22):\nKể từ mùa giải 2010–11, các câu lạc bộ Serie A đã thương lượng bản quyền truyền hình tập thể thay vì trên cơ sở cá nhân câu lạc bộ, trước đó đã từ bỏ thương lượng tập thể vào cuối mùa giải 1998–99.\nVào những năm 1990, Serie A nổi tiếng nhất ở Vương quốc Anh khi nó được chiếu trên \"Football Italia\" trên Channel 4, mặc dù nó đã thực sự xuất hiện trên nhiều kênh của Vương quốc Anh hơn bất kỳ giải đấu nào khác, hiếm khi ở một vị trí lâu kể từ năm 2002. Serie A đã xuất hiện ở Vương quốc Anh trên The Sports Channel của BSB (1990–91), Sky Sports (1991–1992), Channel 4 (1992–2002), Eurosport (2002–2004), Setanta Sports and Bravo (2004–2007), Channel 5 (2007–2008), ESPN (2009–2013), Eleven Sports Network (2018), Premier, FreeSports (2019–2021) và hiện tại là BT Sport (2013–2018; 2021–nay).\nTại Hoa Kỳ, Serie A hiện được chiếu trên CBS Sports và mạng phát trực tuyến Paramount+. Trước năm 2021–22, nó được hiển thị trên nhóm mạng ESPN.\nDanh sách các đội vô địch.\nMặc dù Serie A mãi đến năm 1929–30 mới được thành lập , giải đấu công nhận các câu lạc bộ đã được vinh danh là nhà vô địch Ý trước khi giải đấu được thành lập.\nIn đậm chỉ các câu lạc bộ thi đấu tại Serie A 2022–23.\nKỷ lục.\nIn đậm chỉ cầu thủ vẫn đang thi đấu tại Serie A. \"In nghiêng\" chỉ cầu thủ đang thi đấu bên ngoài Serie A.\nCầu thủ.\nCầu thủ ngoài EU.\nKhông giống như La Liga áp đặt hạn ngạch về số lượng cầu thủ ngoài EU đối với mỗi câu lạc bộ, các câu lạc bộ Serie A có thể ký hợp đồng với số lượng cầu thủ ngoài EU nhiều nhất có thể khi chuyển nhượng trong nước.\nTrong những năm 1980 và 1990, hầu hết các câu lạc bộ Serie A đã ký hợp đồng với một số lượng lớn cầu thủ từ các quốc gia nước ngoài (cả thành viên EU và ngoài EU). Những cầu thủ nước ngoài đáng chú ý chơi ở Serie A trong thời kỳ này bao gồm tuyển thủ Ireland Liam Brady, tuyển thủ Anh Paul Gascoigne và David Platt, Michel Platini và Laurent Blanc của Pháp, Lothar Matthäus và Jürgen Klinsmann từ Đức, những người Hà Lan Ruud Gullit và Dennis Bergkamp, và Diego Maradona của Argentina.\nNhưng kể từ mùa giải 2003–04, một hạn ngạch đã được áp dụng cho mỗi câu lạc bộ giới hạn số lượng cầu thủ không thuộc EU, không thuộc EFTA và không phải người Thụy Sĩ có thể ký hợp đồng từ nước ngoài mỗi mùa giải, sau các biện pháp tạm thời được giới thiệu vào mùa giải 2002–03, cho phép các câu lạc bộ Serie A và B chỉ ký hợp đồng với một cầu thủ không thuộc EU trong kỳ chuyển nhượng mùa hè 2002.\nVào giữa mùa giải 2000–01, hệ thống hạn ngạch cũ đã bị bãi bỏ, không còn giới hạn mỗi đội có nhiều hơn năm cầu thủ không thuộc EU và sử dụng không quá ba người trong mỗi trận đấu. Đồng thời với việc bãi bỏ hạn ngạch, FIGC đã điều tra những cầu thủ bóng đá sử dụng hộ chiếu giả. Alberto và Warley, Alejandro Da Silva và Jorginho Paulista của Udinese; Fábio Júnior và Gustavo Bartelt của Roma; Dida của Milan; Álvaro Recoba của Inter; Thomas Job, Francis Zé, Jean Ondoa của Sampdoria; và Jeda và Dede của Vicenza đều bị cấm vào tháng 7 năm 2001 trong khoảng thời gian từ sáu tháng đến một năm. Tuy nhiên, hầu hết các lệnh cấm sau đó đã được giảm bớt.\nSố lượng cầu thủ không thuộc EU đã giảm từ 265 trong mùa giải 2002–03 xuống còn 166 trong mùa giải 2006–07. Nó cũng bao gồm những người chơi đã nhận được tư cách EU sau khi các quốc gia tương ứng của họ gia nhập EU (xem mở rộng năm 2004 và 2007), khiến những người chơi như Adrian Mutu, Valeri Bojinov, Marek Jankulovski và Marius Stankevičius là các cầu thủ EU.\nQuy tắc đã trải qua những thay đổi nhỏ vào tháng 8 năm 2004, tháng 6 năm 2005, tháng 6 năm 2006, và tháng 6 năm 2007.\nKể từ mùa giải 2008–09, ba suất đã được trao cho các câu lạc bộ không có cầu thủ ngoài EU trong đội của họ (trước đây chỉ những câu lạc bộ mới thăng hạng mới có ba suất); các câu lạc bộ có một cầu thủ không thuộc EU có hai hạn ngạch. Những câu lạc bộ có hai cầu thủ không thuộc EU, được trao một hạn ngạch và một hạn ngạch có điều kiện, được trao sau khi: 1) Chuyển nhượng 1 cầu thủ không thuộc EU ra nước ngoài, hoặc 2) Thả 1 cầu thủ không thuộc EU dưới dạng cầu thủ tự do, hoặc 3) Một người chơi không thuộc EU đã nhận được quốc tịch EU. Các câu lạc bộ có ba cầu thủ không thuộc EU trở lên, có hai hạn ngạch có điều kiện, nhưng loại bỏ hai cầu thủ không thuộc EU dưới dạng đại lý tự do, sẽ chỉ có một hạn ngạch thay vì hai. Các câu lạc bộ Serie B và Lega Pro không thể ký hợp đồng với cầu thủ không thuộc EU từ nước ngoài, ngoại trừ những người theo dõi câu lạc bộ thăng hạng từ Serie D.\nCác câu lạc bộ lớn có nhiều người nước ngoài thường mượn hạn ngạch từ các câu lạc bộ khác có ít người nước ngoài hoặc không có người nước ngoài để ký hợp đồng với nhiều cầu thủ ngoài EU hơn. Ví dụ: Adrian Mutu đã gia nhập Juventus từ Livorno vào năm 2005, vào thời điểm đó Romania chưa phải là thành viên của EU. Các ví dụ khác bao gồm Júlio César, Victor Obinna và Maxwell, những người đã lần lượt gia nhập Inter từ Chievo (hai trận đầu tiên) và Empoli.\nVào ngày 2 tháng 7 năm 2010, hạn ngạch có điều kiện ở trên đã giảm xuống còn một, mặc dù nếu một đội không có bất kỳ cầu thủ nào ngoài EU, đội đó vẫn có thể đăng ký tối đa ba cầu thủ ngoài EU. Năm 2011, hạn ngạch đăng ký trở lại thành hai.\nCầu thủ cây nhà lá vườn.\nSerie A cũng áp đặt quy tắc cầu thủ Cây nhà lá vườn, một sửa đổi của Luật Cầu thủ cây nhà lá vườn của UEFA. Không giống UEFA, Ban đầu, Serie A không giới hạn số lượng cầu thủ trong đội hình chính là 25, nghĩa là câu lạc bộ có thể tuyển dụng nhiều người nước ngoài hơn bằng cách tăng quy mô đội hình. Tuy nhiên, giới hạn 25 (các cầu thủ dưới 21 tuổi bị loại trừ) đã được giới thiệu cho mùa giải 2015–16 (trong mùa giải 2015–16, đội chỉ cần 8 cầu thủ cây nhà lá vườn nhưng không yêu cầu 4 người trong số họ từ đội trẻ của chính họ). Trong mùa giải 2016–17, FIGC đã xử phạt Sassuolo vì xử phạt cầu thủ không đủ điều kiện, Antonino Ragusa. Mặc dù câu lạc bộ không vượt quá khả năng của 21 cầu thủ không thuộc đội trẻ của họ (chỉ Domenico Berardi đủ điều kiện là sản phẩm của đội trẻ) cũng như dưới 21 tuổi (sinh năm 1995 trở đi, của mà bốn người chơi đủ điều kiện) trong cuộc gọi 24 người đàn ông của họ. Có thông báo rằng bên Lega Serie A danh sách đội không được cập nhật.\nTrong mùa giải 2015–16, hạn ngạch sau đã được công bố.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Swartzia rediviva ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Swartzia rediviva là một loài rau đậu thuộc họ Fabaceae.\nLoài này chỉ có ở Suriname.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Paracardiophorus octavus?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Paracardiophorus octavus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Candèze miêu tả khoa học năm 1878.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về 11336 Piranesi nha ?", "role": "user" }, { "content": "11336 Piranesi (tên chỉ định: 1996 NS3) là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Eric Walter Elst ở Đài thiên văn La Silla ở Chile ngày 14 tháng 7 năm 1996. Nó được đặt theo tên Giovanni Battista Piranesi, an Italian artist of the 18th century.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Moroges, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Moroges là một xã ở tỉnh Saône-et-Loire trong vùng Bourgogne-Franche-Comté nước Pháp.\nThông tin nhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số 541 người.<br>Con số ước tính năm 2005 là 575 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về 12008 Kandrup từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "12008 Kandrup (1996 TY9) là một tiểu hành tinh bay qua Sao Hỏa được phát hiện ngày 11 tháng 10 năm 1996 bởi T. B. Spahr ở .", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Bulbophyllum alticola nha ?", "role": "user" }, { "content": "Bulbophyllum alticola là một loài phong lan thuộc chi \"Bulbophyllum\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Robin Söderling không ?", "role": "user" }, { "content": "Robin Bo Carl Söderling (sinh ngày 14 tháng 8 năm 1984 tại Tibro, Thuỵ Điển) là cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Thụy Điển. Söderling và Djokovic là hai tay vợt duy nhất đánh bại Rafael Nadal tại Roland Garros. Mặc dù vậy, anh vẫn phải nhận thất bại tại trận chung kết trước tay vợt người Thuỵ Sĩ Roger Federer. Đây chính là giải Grand Slam tốt nhất trong sự nghiệp của anh. Một năm sau giải đó, anh đã kết thúc kỷ lục 23 trận bán kết Grand Slam liên tiếp của Roger Federer ở trận tứ kết. Anh là vận động viên quần vợt người Thụy Điển duy nhất nằm trong top 200 của bảng xếp hạng ATP. Anh cũng đã giành được 1 danh hiệu Master. Vào ngày 23 tháng 12 năm 2015, Soderling chính thức nói lời giã từ sự nghiệp quần vợt chuyên nghiệp.\nĐời sống riêng.\nSöderling nói được tiếng Anh, tiếng Thụy Điển và tiếng Đức. Cha của anh là một luật sư và mẹ của anh Britt-Inger là một người nội trợ. Chị của Söderling, Sandra, là một giáo viên. Những lúc không chơi quần vợt, Söderling thích chơi đánh bóng bàn, xem phim, đi câu cá, xem thể thao và lái xe đi dạo trên chiếc xe ô tô của mình. Anh đã đính hôn với Jenni Moström.\nThời niên thiếu.\nSöderling bắt đầu chơi quần vợt khi lên 5 tuổi. Robin Söderling đã có những bước đi đầu tiên trong sự nghiệp quần vợt quốc tế vào tháng 11 năm 1998 ở Luxembourg. Khi 14 tuổi anh đã chơi trận thi đấu chính thức đầu tiên của mình trong giải đấu thuộc lứa thiếu niên, thất bại trong trận mở màn gặp Fred Hemmes, Jr. Lần đầu tiên tham gia đầy đủ các giải đấu thuộc lứa thiếu niên (2000), anh đã giành chiến thắng trong bốn giải đấu và 2001 anh giành hơn ba danh hiệu bao gồm cả Orange Bowl.\nSự nghiệp chuyên nghiệp.\nNhững năm đầu.\nSöderling gia nhập làng quần vợt nam thế giới vào năm 2002, anh chơi 5 giải đấu ATP và vào vòng thứ hai ở giả trẻ Mỹ mở rộng. Trong những Challenger anh đạt được thành tích là 16 trận thắng và 8 trận thua, và anh chơi ở giải trẻ Mỹ mở rộng nơi anh đến trận chung kết. \nNăm 2003, anh chuyển lên thi đấu chuyên nghiệp của ATP, anh lọt đến vòng 3 Wimbledon (từ vòng loại) và đã kết thúc năm với xếp hạng thứ 86. \nRobin lần đầu tiên trong năm 2004 tại giải Grand Prix de Tennis de Lyon, nơi anh đã đánh bại tay vợt người Bỉ Xavier Malisse trong trận chung kết. Robin cũng lọt vào trận đấu cuối cùng tại Marseille Open. Đến cuối năm, Söderling đã leo lên top 50 thế giới trong bảng xếp hạng. \nRobin đã có chấn thương nghiêm trọng đầu tiên trong sự nghiệp của anh vào năm 2005, cuối cùng dẫn đến một hậu quả là anh bị chấn thương đầu gối vào thang 3. Nhưng mặc dù không chơi nhiều giải đấu, anh tham dự giải đấu ở Milan (thua Radek Stepanek trong trận chung kết). Sau một mùa giải khó khăn và chấn thương liên miên, Robin đạt được kết quả tốt nhất là vào vòng 3 Mỹ mở rộng.\nQuay trở lại năm 2006, anh bị trả lại ngoài top 100 vào top 50 trong vòng ba tháng, mặc dù chấn thương đầu gối và vai vẫn còn ngăn cản anh chơi tốt nhất. Anh phải giúp đội tuyển Thụy Điển thắng 2 trận để giữ cúp Davis nếu không nó sẽ ở lại Brazil. \nTrong mùa giải này phần lớn thời gian anh không dính chấn thương, mặc dù anh đã thất bại nhưng gây ấn tượng tại Grand Slams. Nhưng cuối năm, anh kiếm được nhiều điểm và kết thúc mùa giải tại vị trí 25.\nNăm 2007 là một năm không tệ của Soderling. Anh lọt vào vòng 32 tay vợt tại Wimbledon, nơi anh bị thua trước Rafael Nadal trong một trận 5 set đấu.\nSöderling đã lọt vào một trận chung kết ATP lần đầu tiên trong 5 năm trong năm 2007, nhưng anh bị loại. Tuy nhiên, anh mất 3 tháng cuối do chấn thương cổ tay trái.\nTrở lại từ chấn thương.\nSöderling không thi đấu Úc mở rộng do chấn thương. Giải đấu đầu tiên của anh vào năm 2008 là Open 13 Marseille, nơi anh đến tứ kết. Sau đó anh đến chung kết của ABN AMRO World Tennis Tournament (Rotterdam), thắng Michaël Llodra trong trận chung kết, 6-7,6-3,7-6. Tuần tiếp theo, anh thi đấu tại giải Morgan Keegan Championships ở Memphis, Hoa Kỳ. Anh đánh bại hạt giống hàng đầu Andy Roddick. Nhưng anh bị thua Steve Darcis, 6-3,7-6.\nTại World Cup Team 2008 ở Düsseldorf sân đất nện, anh bất khả chiến bại trong 4 trận đơn và 4 trận đôi. Anh đã trở thành tay vợt thứ ba chỉ trong lịch sử khi thắng tất cả các trận với John McEnroe năm 1984 và Fernando González vào năm 2003. Vì vậy, chiến thắng tất cả các trận đấu của mình ở đó, anh đã chỉ đạo đội Thụy Điển chiến thắng.\nVào cuối tháng, anh đến vòng 3 ở giải Pháp mở rộng, nơi anh bị thua Julien Bennetau. Tại Wimbledon, anh thua Roger Federer trong vòng 64 tay vợt. Sau khi có kết quả đáng thất vọng ở cả hai giải ở Thế vận hội Bắc Kinh và Mỹ mở rộng, Söderling đã quyết định chia tay với huấn luyện viên Peter Carlsson của mình. Anh được huấn luyện bởi cựu số 2 thế giới người Thụy Điển Magnus Norman. Với sự giúp đỡ của Norman, Robin là tay vợt thứ ba cuối cúng của Thụy Điển tại Stockholm Open, nhưng bị thua David Nalbandian trong một trận đấu khó khăn (2-6,7-5, 3-6). Ba tuần sau đó Söderling cuối cùng cũng giành danh hiệu đầu tiên của mình sau 3 năm tại Grand Prix de Tennis de Lyon, đánh bại Julien Benneteau trong ba set (6-3,6-7,6-1). Trên đường đến trận chung kết anh thắng hạt giống hàng đầu Andy Roddick ở tứ kết, và gặp tay vợt người Pháp Gilles Simon trong bán kết, cả hai đều được xếp hạng trong top 10 thế giới. Vị trí 18 trong bảng xếp hạng, một sự nghiệp tốt đẹp của Soderling. Anh kết thúc năm với thứ hạng 17. Ngày 04 tháng mười một, anh công bố rằng Magnus Norman sẽ là huấn luyện viên của anh bắt đầu ngay sau khi kỳ nghỉ của mình.\nTiếp cận top 10.\nVới huấn luyện viên mới của anh ở bên cạnh, Söderling bắt đầu năm 2009 ở giải Brisbane International. Anh thua ở tứ kết trước Radek Stepanek. Söderling sau đó tham gia vào giải Heineken Open, nơi anh bị thua trong trận bán kết trước Juan Martín del Potro. Anh là hạt giống số 16 tại Úc Mở rộng và thua trước Marcos Baghdatis ở vòng thứ hai.\nAnh sau đó tham gia giải Indian Wells Masters 1000, nhưng anh thua Nicolas Lapentti 4-6, 6-7 (7) ở vòng thứ hai. Mặc dù đang chơi tốt và nhưng thách thức của anh tại giải BMW Tennis Championship, Söderling bị chấn thương và nghỉ thi đấu trong hai tháng. Cuối cùng anh đã giành liên tiếp các trận thắng đầu tiên kể từ khi Úc Mở rộng tại Rome Masters, trước khi thua tay vợt số 1 thế giới Rafael Nadal trong một trận đấu với các tỉ số 1-6, 0-6 ở vòng thứ ba. Sau vòng thứ ba bị loại ở Madrid Masters trước Roger Federer, Söderling tới thi đấu tại ARAG World Team Cup ở Düsseldorf, anh là một phần của đội tuyển Thụy Điển. Mặc dù Thụy Điển đã không thắng, đánh bại Söderling bởi Gilles Simon và Rainer Schüttler 6-0, 6-0.\nTại Pháp mở rộng, Söderling là hạt giống số 23, đến vòng thứ tư của một giải Grand Slam lần đầu tiên sau khi đánh bại Kevin Kim, Denis Istomin, và David Ferrer. Điều này cho thấy anh sẽ gặp đương kim vô địch Rafael Nadalở vòng 4. Anh là sự khó chịu lớn nhất Nadal khi đánh bại kỷ lục 31 trận thắng của \"Vua đất nện\" tại Roland Garros. Martina Navratilova nhận xét trận đấu là một cơn địa chấn lớn nhất trong lịch sử quần vợt 6-2, 6-7 (2), 6-4, 7-6 (2) chiến thắng tay vợt số 1 thế giới lần đầu tiên của Robin Soderling và là trận đấu của năm, chưa có người nào đánh bại Nadal trên đất nện. Hai ngày sau, anh đối mặt với hạt giống số 10 Nicolay Davydenko và nếu thăng anh sẽ vào chung bán kết, Söderling thắng 6-1, 6-3, 6-1 để vào bán kết lần đầu tiên. Söderling lần đầu tiên vào bán kết Grand Slam, đánh bại Fernando González 6-3, 7-5, 5-7, 4-6, 6-4. Söderling cuối cùng để thua Federer 1-6, 6-7 (1), 4-6, tuy nhiên, thứ hạng của anh được nâng lên thứ 12 trên thế giới.\nSöderling là hạt giông số 13 tại Giải quần vợt Wimbledon 2009, giải đấu tiếp theo của anh. Anh đến vòng thứ tư lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình, đánh bại Gilles Müller, Marcel Granollers, và Nicolas Almagro trên con đường vào vòng 4. Söderling đối mặt với Federer, một người vô địch năm lần tại Wimbledon, Federer đánh bại anh một lần nữa, 6-4, 7-6 (5), 7-6 (5).\nSau Wimbledon, Söderling trở về quê hương của mình để chơi tại Thụy Điển mở rộng Collector. Anh là hạt giống số hai, anh đã dược miễn vòng đầu. Anh đánh bại Kristof Vliegen 6-2, 6-3 ở vòng thứ hai, và chiến thắng trận tứ kết trước Nicolas Almagro 7-5, 6-3. Söderling đến trận cuối cùng bằng cách đánh bại đồng hương, Andreas Vinciguerra, 6-1, 7-6 (6). Ở đó, anh đánh bại Juan Monaco 6-3, 7-6 (4) đẻ chiến thắng, trở thành tay vợt người Thụy Điển đầu tiên kể từ Magnus Norman (năm 2000) để giành danh hiệu đĩa đơn ở Thụy Điển Mở rộng. Đây lá lần đầu tiên Soderling có một chức vô địch ngoài sân đất nện ngoài trời. Sau khi giành chức vô địch anh được lên thứ hạng thứ 11.\nSöderling sau đó tham gia giaỉ Germany International Open nhưng thua ở vòng thứ ba trước Nicolas Almagro. Sau trận đấu, Söderling đã đẽ mất chuỗi thành tích bất bại kể từ Rome Masters vào cuối tháng tư, nơi anh thua Nadal\nĐến sang mùa sân cứng tại Mỹ, Söderling tham dự giải Legg Mason Tennis Classic nhưng đã phải rút khỏi ở tứ kết do một chấn thương khuỷu tay buộc Söderling rút lui khỏi Rogers Cup. Quay trở lại Cincinnati Masters, anh thua ở vòng đầu tiên trước Lleyton Hewitt.\nSöderling là hạt giống số 12 tại Mỹ mở rộng và tiến vào tứ kết lần đầu tiên tại sau khi đánh bại đối thủ đáng chú ý như Albert Montañés, Marcel Granollers, hạt giống số 22 người Mỹ Sam Querrey và hạt giống 8 Nikolay Davydenko. Trên đường đến tứ kết, Söderling đã có một chút may mắn trên thực tế là hai trong số những đối thủ của anh đã bị chấn thương, trong đó có tay vợt người Nga, tay vợt Nikolay Davydenko chấn thương khi Söderling dẫn 7-5, 3-6, 6-2. Söderling đối đầu với đương kim vô địch và hạt giống số 1 Roger Federer lần thứ tư trong năm nay (ba trong số họ trong một giải Grand Slam). Federer đã đánh bại Soderling trong 2 set đầu tiên đầu tiên, nhưng Soderling cho thấy sau khi mất hai set đầu tiên (Federer thắng) và thắng trong set 3. Anh sau đó đã ghi những điểm những điểm trong tiebreak mặc dù cuối cùng thua set thứ tư 0-6, 3-6, 7-6 (6), 6-7 (6). Tại vòng Playoffs Davis Cup, anh đã giúp Thụy Điển chiến thắng 3-2 trước Romania và một cơ hội cho Thụy Điển để cạnh tranh trong năm Davis Cup 2010.\nSau Mỹ mở rộng, anh đến bán kết ở cả hai giải Malaysia Open và China Open trước Shanghai Masters, nơi anh chính thức lọt vào top 10 lần đầu tiên, đặc biệt là đánh bại hạt giống số năm Jo-Wilfried Tsonga 6-3, 6-3. Tuy nhiên, anh thua ở tứ kết trước Feliciano López 6-7 (4), 3-6. Söderling là hạt giống số 1 ở Stockholm Open nhưng do một chấn thương khuỷu tay anh đã phải bỏ cuộc ở trận bán kết. Mặc dù không phải một chấn thương nghiêm trọng, Söderling đã bỏ cuộc từ Valencia Open 500. Lúc đó vị trí số 9 thế giới, Söderling cần một số điểm lớn tại 2.009 BNP Paribas Masters để được tham gia ATP World Tour Finals. Anh đối mặt với Ivo Karlović, chiến thắng trong 2 set, 6-4, 7-6 (6), và Davydenko đánh bại hạt giống thứ sáu ở vòng thứ ba, 6-3, 3-6, 6-4. Söderling mất cơ hội đến vòng loại ATP World Tour Finals khi hạt giống số 3 Novak Djokovic quá mạnh ở tứ kết và giành chiến thắng trong ba set, 6-4, 1-6, 6-3.\nTuy nhiên, Söderling đủ điều kiện dự ATP World Tour Finals khi tay vợt người Mỹ Andy Roddick rút lui vì một chấn thương ở Thượng Hải. Söderling được bốc thăm vào bảng có gồm Rafael Nadal, Novak Djokovic và Nikolay Davydenko. Anh có một khởi đầu ấn tượng, khi đánh bại Rafael Nadal trong trận đấu đầu tiên của anh 6-4 6-4. Anh tiếp tục dễ dàng Dè bẹp Novak Djokovic 7-6 (5) 6-1. Sau đó anh được vào vòng bán kết của giải vô địch này cuối năm. Tuy nhiên, anh thua trước Nikolay Davydenko 6-7 (4) 6-4 3-6 ở set thứ ba và cuối cùng trận đấu kết thúc. Mặc dù vậy, anh trở thành người chiến thắng của bảng mình (bảng B), và đụng độ ở bán kết với Juan Martín del Potro, anh gác vợt sau 3 set với các tỉ số, 6-7 (1), 6-3, 7-6 (3). Söderling hoàn thành năm với xếp hạng # 8, một năm thi đấu tốt.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Stenostephanus asplundii from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Stenostephanus asplundii là một loài thực vật thuộc họ Acanthaceae. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Melilla ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": " \nMelilla ( ; , ; ; , \"Maliliyyah\") là một thành phố tự trị của Tây Ban Nha nằm bên bờ biển Bắc Phi với diện tích , tiếp giáp với Maroc. Melilla và Ceuta là hai thành phố thuộc chủ quyền Tây Ban Nha trên lãnh thổ châu Phi. Nó từng là một phần của tỉnh Málaga cho tới ngày 14 tháng 3 năm 1995 khi đạo luật tự trị thành phố được thông qua.\nTính đến năm 2011, thành phố có dân số 78.476, gồm người dân từ Iberia (chủ yếu từ Andalucia và Catalunya), người Berber Rif và một số nhỏ người Do Thái Sephardi và người Hindu Sindh. Tiếng Tây Ban Nha và tiếng Rif là hai ngôn ngữ phổ biến; tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Nancy (quận) nha ?", "role": "user" }, { "content": "Quận Nancy là một quận của Pháp, nằm ở tỉnh Meurthe-et-Moselle, ở vùng Lorraine. Quận này có 20 tổng và 188 xã.\nCác đơn vị hành chính.\nCác tổng.\nCác tổng của quận Nancy là: \nCác xã.\nCác xã của quận Nancy, và mã INSEE là: ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Conus sulcocastaneus từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Conus sulcocastaneus là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Conidae, họ ốc cối.\nGiống như tất cả các loài thuộc chi \"Conus\", chúng là loài săn mồi và có nọc độc. Chúng có khả năng \"đốt\" con người, do vậy khi cầm chúng phải hết sức cẩn thận.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về An Lập (định hướng) nha ?", "role": "user" }, { "content": "An Lập có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Sacy, Marne ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": " \nSacy là một xã thuộc tỉnh Marne trong vùng Grand Est đông nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 125 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Helotropha leucostigma ?", "role": "user" }, { "content": "Helotropha leucostigma, formerly \"Celaena leucostigma\" là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Nó được tìm thấy ở miền Cổ bắc.\nSải cánh dài 37–44 mm. Con trưởng thành bay từ tháng 6 đến tháng 10 tùy theo địa điểm.\nẤu trùng ăn \"Iris pseudacorus\" và \"Cladium mariscus\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Jodie Foster", "role": "user" }, { "content": "Alicia Christian \"Jodie\" Foster (sinh ngày 19 tháng 11 năm 1962) là một nữ diễn viên điện ảnh Mỹ từng hai lần giành Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Jodie Foster là một trong số ít diễn viên từng giành cả bốn giải thưởng diễn xuất có uy tín lớn, ngoài hai giải Oscar là hai giải Quả cầu vàng, ba giải BAFTA và một giải của Hiệp hội Diễn viên điện ảnh Hoa Kỳ. Foster cũng là một đạo diễn và nhà sản xuất phim.\nNổi tiếng từ tuổi thiếu niên với vai cô gái điếm nhỏ tuổi trong \"Taxi Driver\" (1976), Jodie Foster liên tục có những vai diễn lớn ở Hollywood mà tiêu biểu là hai vai diễn trong \"The Accused\" (1988) và \"Sự im lặng của bầy cừu\" (1991), hai vai diễn giúp cô giành tượng vàng Oscar. Từ đầu thập niên 2000, cô tham gia vào nhiều bộ phim ăn khách như \"Panic Room\" (2002), \"Flightplan\" (2005), \"Inside Man\" (2006) và \"The Brave One\" (2007).\nTiểu sử.\nAlicia Christian \"Jodie\" Foster sinh ngày 19 tháng 11 năm 1962 tại thành phố Los Angeles, California, trung tâm của công nghiệp điện ảnh Hoa Kỳ. Mẹ cô là bà Evelyn 'Brandy' Ella, người đã một mình nuôi dạy Jodie sau khi bố cô, ông Lucius Fisher Foster III, bỏ hai mẹ con ngay sau khi Jodie ra đời. Foster có hai chị gái Lucinda \"Cindy\" Foster (sinh năm 1954), Constance \"Connie\" Foster (sinh năm 1955) và một anh trai Lucius \"Buddy\" Foster (sinh năm 1957). Trong quá trình làm phim \"Taxi Driver\" và \"The Little Girl Who Lives Down the Lane\", Connie là người đóng thế cho em gái trong những cảnh bạo lực mà Jodie (khi đó mới 14 tuổi) không được phép tham gia.\nFoster là thủ khoa tốt nghiệp (valedictorian) tại Lycée Français de Los Angeles, một trường dự bị đại học nói tiếng Pháp, cô có thể trả lời trôi chảy phỏng vấn bằng tiếng Pháp và tự lồng tiếng cho vai diễn của mình trong một số bộ phim Pháp mà Foster tham gia như \"Un long dimanche de fiançailles\". Sau phổ thông, Foster học bằng cử nhân văn chương tại Đại học Yale danh tiếng, cô tốt nghiệp loại giỏi (\"magna cum laude\") năm 1985. Foster hiện đang là thành viên của Mensa, tổ chức của những người có IQ cao.\nJodie Foster là một trong số những ngôi sao kín tiếng nhất Hollywood, báo chí và giới hâm mộ biết rất ít về đời tư của cô. Jodie phải bỏ vai diễn trong \"Double Jeopardy\" khi mang thai đứa con đầu tiên và cô quay \"Panic Room\" khi đang có mang được một tháng đứa con thứ hai. Cả hai lần Foster đều sinh hạ con trai, Charles Bernard Foster (sinh năm 1998) và Kit Bernard Foster (sinh năm 2001), cả hai đều mang họ của Jodie và cô chưa bao giờ tiết lộ hoặc đề cập đến cha của hai đứa trẻ trên báo chí. Trong cuộc diễn văn khi được trao giải Cecil B. DeMille trong Giải Quả cầu vàng thứ 70, Jodie Foster công khai là người đồng tính và cảm ơn người tình cũ hơn 20 năm của mình.\nSự nghiệp.\nNgôi sao nhỏ tuổi.\nJodie Foster làm quen với điện ảnh từ rất sớm, sau khi tham gia vai trẻ em trong một số quảng cáo và phim truyền hình, Jodie xuất hiện trong bộ phim đầu tiên, \"Menace on the Mountain\" (1970), khi mới 8 tuổi. Sau bộ phim đầu tay, cô tiếp tục tham gia một số bộ phim khác của hãng Disney như \"Napoleon and Samantha\" (1972), \"One Little Indian\" (1973), \"Freaky Friday\" (1976) và \"Candleshoe\" (1977). Jodie Foster cũng tham gia một số bộ phim truyền hình như \"Paper Moon\". Ở tuổi 14 Foster trở thành người dẫn chương trình nhỏ tuổi nhất của \"Saturday Night Live\". Sau này cô trả lời phỏng vấn: \"Ngay từ khi còn rất trẻ tôi đã xác định rằng mình phải cố gắng hết mình và nếu như không chiến đầu, cuộc sống sẽ trôi tuột khỏi tay tôi\" và: \"Tôi đã rất may mắn khi là một cô bé ở thập niên 1970 - giai đoạn theo tôi là sôi động nhất của điện ảnh Mỹ, được tham gia một cách thực sự vào các bộ phim với các nhà làm phim lớn. Và tôi đã học được rất nhiều từ các nghệ sĩ và ngành công nghiệp điện ảnh ngay từ khi còn nhỏ. Dù gì đi nữa tôi cũng luôn luôn chú tâm vào công việc, đó là điều vô giá trong sự nghiệp của tôi.\".\nFoster là diễn viên trẻ đầu tiên được chọn vào vai Công chúa Leia cho loạt phim \"Chiến tranh giữa các vì sao\" (\"Star Wars\") nhưng do còn hợp đồng với Disney nên cô bị loại khỏi vai diễn lớn này. Nhưng Jodie cũng không phải đợi lâu, vai diễn đột phá đến với cô năm 1976, đó là vai cô bé gái điếm trong \"Taxi Driver\" của đạo diễn Martin Scorsese. Nhập vai một cách xuất thần bên cạnh ngôi sao lớn Robert De Niro, cô bé 14 tuổi Foster đã được đề cử Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất đồng thời giành hai giải BAFTA cho nữ diễn viên phụ và diễn viên mới xuất sắc. Vai diễn của Foster ấn tượng đến mức John Hinckley Jr., người đã ám sát không thành tổng thống Ronald Reagan, sau khi bị bắt đã khai mục đích ám sát là để gây ấn tượng với Foster, ngôi sao của \"Taxi Driver\" mà John đã xem đi xem lại nhiều lần. \nDiễn viên lớn của Hollywood.\nKhác với một số ngôi sao sớm nở nhưng chóng tàn như Shirley Temple hay Tatum O'Neal, Foster tiếp tục thành công ở Hollywood sau khi đã trưởng thành. Sau một số bộ phim thất bại về thương mại như \"Foxes\", \"The Hotel New Hampshire\", \"Five Corners\", \"Stealing Home\", cô được gọi thử vai cho vai nữ chính trong \"The Accused\" (1988). Vai diễn đã mang lại cho Jodie Foster tượng vàng Oscar đầu tiên cho hạng mục Vai nữ chính. Chỉ 3 năm sau Jodie Foster giành giải Oscar thứ hai cho vai nữ nhân viên FBI Clarice Starling trong \"Sự im lặng của bầy cừu\" (\"The Silence of the Lambs\", 1991).\nNăm 1991 Jodie Foster cũng tham gia đạo diễn bộ phim đầu tay \"Little Man Tate\", tác phẩm này đã được giới phê bình đánh giá cao. Bộ phim thứ hai cô đạo diễn là \"Home for the Holidays\" (1995). Foster còn thử sức với vai trò nhà sản xuất cho bộ phim \"Nell\" (1994), câu chuyện về quá trình hòa nhập với xã hội của một phụ nữ sống cách biệt với con người trong nhiều năm. Vai chính trong phim cũng do Jodie đảm nhiệm và cô nhận được một đề cử giải Oscar cho vai diễn này.\nTừ cuối thập niên 1990, Jodie Foster bắt đầu tham gia các bộ phim hình sự, khoa học giả tưởng hay kinh dị có tính giải trí cao hơn như \"Contact\" (1997), \"Panic Room\" (2002), \"Flightplan\" (2005), \"Inside Man\" (2006) và \"The Brave One\" (2007). Tất cả các bộ phim này đều giành vị trí số 1 về doanh thu ở Hoa Kỳ trong tuần chiếu ra mắt và đều là những thành công về mặt thương mại.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Sonamura from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Sonamura là một thị xã và là một nagar panchayat của quận West Tripura thuộc bang Tripura, Ấn Độ.\nĐịa lý.\nSonamura có vị trí Nó có độ cao trung bình là 15 mét (49 feet).\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Sonamura có dân số 9997 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Sonamura có tỷ lệ 73% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 77%, và tỷ lệ cho phái nữ là 68%. Tại Sonamura, 11% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Quthbullapur from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Quthbullapur là một thành phố và khu đô thị của quận Rangareddi thuộc bang Andhra Pradesh, Ấn Độ.\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Quthbullapur có dân số 225.816 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Quthbullapur có tỷ lệ 67% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 73%, và tỷ lệ cho phái nữ là 60%. Tại Quthbullapur, 14% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Kỳ Ảo Đao (truyện)", "role": "user" }, { "content": "Kỳ Ảo Đao (tiếng Anh: \"The Subtle Knife\") là tập truyện thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết giả tưởng \"His Dark Materials\" (Những Vật chất Tối của Ngài) của tác giả người Anh Philip Pullman. Tập đầu mang tên Bắc Cực Quang (\"Northern Lights\") hay Kim La Bàn (\"The Golden Compass\") ở Bắc Mỹ, và tập cuối là Hổ Phách Kính (\"The Amber Spyglass\"). Phát hành năm 1997, nó tiếp nối câu chuyện của cô bé Lyra cùng nhân vật mới Will Parry, khám phá một vũ trụ song song và chống lại các thế lực đen tối. Ở tập này, các chủ đề kháng tôn giáo và thiên văn học ngày càng rõ rệt.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Chailly-en-Bière từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Chailly-en-Bière là một xã ở tỉnh Seine-et-Marne, thuộc vùng Île-de-France ở miền bắc nước Pháp.\nDân số.\nNgười dân ở đây được gọi là \"Chaillotins\".\nĐiều tra dân số năm 1999, xã này có dân số là 2,129 people residing in the town.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Aistersheim không ?", "role": "user" }, { "content": "Aistersheim là một đô thị ở huyện Grieskirchen bang Oberösterreich, nước Áo. Đô thị này có diện tích 11,12 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2005 là 798 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Danh sách vũ khí và trang thiết bị quân sự trong chiến tranh Vùng Vịnh?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Danh sách trang thiết bị quân sự sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh là bảng tổng hợp các loại vũ khí và các trang bị quân sự được sử dụng bởi các quốc gia trong Chiến tranh Vùng Vịnh từ năm 1990 đến năm 1991.\nHoa Kỳ.\nBố trí trên đất liền.\nXe tăng\nXe thiết giáp\nRốc két, Cối, pháo\nChống máy bay\nPháo và pháo cối\nPhương tiện\nMáy bay.\nTrực thăng\nMáy bay\nTàu.\nTàu sân bay\nTàu chiến\nTàu ngầm\nTàu tác chiến thủy bộ\nTàu tuần dương trang bị tên lửa\nLoại khác\nTàu khu trục\nTàu chở đạn dược, vũ khí, quân trang\nTàu cảng\nTàu chở xe tăng\nTàu nâng\nTàu chở dầu\nTàu dự trữ chiến đấu\nTàu hỗ trợ chiến đấu\nTàu quét thủy lôi\nTàu sửa chữa\nTàu cứu hộ, cứu nạn\nTàu bệnh viện\nTàu chở thủy quân lục chiến\nTàu phá mìn\nTàu khảo sát\nMáy bay mặt nước loại nhẹ\nAnh.\nBố trí trên đất liền.\nXe tăng\nXe bọc thép\nTên lửa, rốc két, pháo phản lực\nChống máy bay\nPháo và pháo cối\nEngineering & Recovery Vehicles\nXe chỉ huy\nCác loại xe khác\nMáy bay.\nTrực thăng\nMáy bay\nTàu.\nTàu khu trục\nTàu ngầm\nFleet Support Tanker\nFast Fleet Tankers\nTàu dự trữ\nTàu phá mìn\nTàu sửa chữa\nTàu cứu thương\nẢ Rập Xê Út.\nBố trí trên đất liền.\nXe tăng\nXe bọc thép\nRốc két, cối, pháo (loại tự đẩy)\nPháo và pháo cối\nChống máy bay\nLoại khác\nMáy bay.\nTrực thăng\nMáy bay\nCô oét.\nBố trí trên cạn.\nXe tăng\nXe bọc thép\nMáy bay.\nTrực thăng\nMáy bay\nPháp.\nBố trí trên đất liền.\nXe tăng\nXe bọc thép\nPháo và pháo cối\nChống máy bay\nLoại khác\nMáy bay.\nTrực thăng\nMáy bay\nTàu.\nTàu sân bay\nQatar.\nBố trí trên đất liền.\nXe tăng\nIrắc.\nList of substantial numbers of various military equipment in Iraq’s possession from around 1970 onwards. \"(Not a guarantee that all were used in combat or in theatre during the war.)\"\nBố trí trên đất liền.\nXe tăng\nXe bọc thép\nTên lửa, rốc két, pháo (tự đẩy)\nChống máy bay\nRốc két, pháo, pháo cối\nEngineering & Recovery Vehicles\nXe chỉ huy\nLoại khác\nMáy bay.\nTrực thăng\nMáy bay\nTàu.\nTàu đổ bộ\nTàu tấn công nhanh\nTàu thả mìn, thủy lôi\nTàu tuần tiễu", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Ampedus oiwakensis ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Ampedus oiwakensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Ôhira miêu tả khoa học năm 1974.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Nomada bisignata không ?", "role": "user" }, { "content": "Nomada bisignata là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Say mô tả khoa học năm 1824.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Jaén ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Jaén là thành phố ở phía nam Tây Ban Nha, thủ phủ của tỉnh Jaén. Jaén là trung tâm nông nghiệp và thương mại của tỉnh này. Thành phố này có các ngành công nghiệp: hóa chất, dệt, thuộc da. Sau khi người Moors chiếm Tây Ban Nha trong thế kỷ 8, thành phố (lúc đó có tên là Jayyan) đã được phát triển thành một trung tâm thương mại. Tường thành của người Moors hiện vẫn còn. Jaén là nơi đóng trụ sở của tổng giám mục Công giáo Rôma. Thành phố có nhà thờ theo phong cách kiến trúc Phục Hưng bắt đầu xây năm 1532 và hoàn thành vào thế kỷ 18.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Émeringes?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Émeringes là một xã thuộc tỉnh Rhône trong vùng Auvergne-Rhône-Alpes phía đông nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 353 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Saint-Cyr, Haute-Vienne không ?", "role": "user" }, { "content": "Saint-Cyr () là một xã của tỉnh Haute-Vienne, thuộc vùng Nouvelle-Aquitaine, miền trung nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Cấu trúc ma trận", "role": "user" }, { "content": "Cấu trúc ma trận được sử dụng song song với các phương pháp tổ chức khác như Cấu trúc theo khu vực, Cấu trúc theo chức năng... Đây cũng là một cách cấu trúc tổ chức phổ biến trong công tác tổ chức tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, các cấu trúc kiểu này được các dự án đặc biệt ưa thích vì sự phù hợp. Cấu trúc này cũng được sử dụng phổ biến cả trong khu vực kinh doanh và phi kinh doanh.\nĐiểm yếu của mô hình.\nMất ổn định tổ chức doanh nghiệp\nMa trận SWOT.\nMô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc nắm bắt và ra quyết định trong mọi tình huống đối với bất cứ tổ chức kinh doanh nào. Viết tắt của 4 chữ Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats (nguy cơ), SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định hướng của một công ty hay của một đề án kinh doanh. SWOT phù hợp với làm việc và phân tích theo nhóm, được sử dụng trong việc lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, tiếp thị, phát triển sản phẩm và dịch vụ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Megachile cordata nha ?", "role": "user" }, { "content": "Megachile cordata là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Smith mô tả khoa học năm 1879.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Podeonius hergovitsi nhé", "role": "user" }, { "content": "Podeonius hergovitsi là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Schimmel miêu tả khoa học năm 2006.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Pseudopanurgus ximenesiae, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Pseudopanurgus ximenesiae là một loài Hymenoptera trong họ Andrenidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1913.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Quảng trường Thánh Phêrô", "role": "user" }, { "content": "Quảng trường Thánh Phêrô (tiếng Ý: \"Piazza San Pietro\") là quảng trường lớn nằm trước Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ở thành quốc Vatican. Tổ hợp công trình này là hình ảnh biểu tượng cho quốc gia Vatican, Tòa Thánh, và Giáo triều Rôma.\nQuảng trường và như kiến trúc hành lang Colonnade được thiết kế bởi Lorenzo Bermini và được xây dựng từ năm 1655 đến năm 1667 dưới triều của Giáo hoàng Alexanđê VII. Trên nóc của hành lang là tượng của 140 vị thánh được điêu khắc từ năm 1662 đến năm 1703.\nTâm của quảng trường là cây cột đá Obelisk Ai Cập cổ đại như một tấm bia cổ xưa nhất nơi đây. Trước đó, cột này được dựng ở vận động trường của vua Nero, cách nơi đây 100 mét (là địa điểm nhà thờ Thánh Phêrô hiện nay).\nCột được dời ra đây từ năm 1586 với công dụng như chiếc đồng hồ mặt trời, vào lúc 12 giờ trưa bóng cây cột sẽ chiếu xuống ngay chiếc dĩa bằng đá cẩm thạch trắng. Đối xứng hai bên cây cột là hai bồn phun nước bằng đá. Bồn ở hướng Nam là công trình của Carlo Maderno được tạc vào năm 1613 và bốn hướng Bắc của Carlo Fontana tạo dựng vào năm 1677.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Bignicourt không ?", "role": "user" }, { "content": " Bignicourt là một xã ở tỉnh Ardennes, thuộc vùng Grand Est ở phía bắc nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Niquero ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": " \nNiquero là một đô thị ở tỉnh Granma của Cuba. Đô thị này nằm ở duyên hải của tỉnh này, giáp với vịnh Guacanayabo. Mũi Cruz (\"Cabo Cruz\"), mũi cực tây của tỉnh Granma nằm ở đô thị này. Đô thị Niquero được chia thành các barrio Belic, Gorito, Jagua, Norte, Platanito, Sevilla, Sur và Vicana.\nDân số.\nNăm 2004, đô thị Niquero có dân số 41.252 người. Tổng diện tích là , mật độ dân số là .", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Asahara Shōkō from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": " tên khai sinh , sinh ngày 3 tháng 2 năm 1955 - ngày 6 tháng 7 năm 2018, là thành viên sáng lập của tổ chức tôn giáo mới ở Nhật Bản, Aum Shinrikyo (tên hiện nay là Aleph). Asahara đã bị kết tội chủ mưu vụ tấn công bằng khí Sarin vào hệ thống tàu điện ngầm Tokyo, và một vài tội ác khác, hiện đã bị kết án tử hình. Nhóm luật sư của Shoko Asahara kháng cáo, tuy nhiên tòa án giữ nguyên phán quyết. Shoko Asahara bị xử tử bằng cách treo cổ vào ngày 6 tháng 7 năm 2018.\nTuổi trẻ.\nAsahara Shōkō sinh ra trong một gia đình nghèo, đông đúc, làm chiếu cói ở tỉnh Kumamoto, Nhật Bản. Ảnh hưởng bởi căn bệnh Glôcôm bẩm sinh, Asahara Shōkō bị mù mắt trái và mắt phải cũng chỉ nhìn được một phần. Asahara được đưa vào trường dành cho người khiếm thị nhưng thường xuyên bắt nạt các bạn khác và nhiều lần tranh cử chủ tịch hội học sinh nhưng đều thất bại.\nAsahara khao khát trở thành chính trị gia nhưng vài lần thi trượt đại học nên theo học châm cứu và y học truyền thống Trung Quốc, những nghề thường dành cho những người mù ở Nhật Bản. Asahara kết hôn năm 1978.\nNăm 1981, Asahara bị kết tội hành nghề y trái phép và phải nộp một khoản tiền phạt 200.000 yên. Asahara bắt đầu tìm hiểu về tôn giáo vào thời điểm đó, trong khi đang tập trung lao động giúp đỡ gia đình. Ông dành thời gian rảnh rỗi vào việc nghiên cứu những tôn giáo khác nhau, đầu tiên là thuật chiêm tinh học Trung Quốc và Đạo giáo. Sau đó Asahara học Yoga Ấn Độ và Đạo Phật.\nCó rất ít thông tin về quãng thời gian này của Asahara.\nAum Shinrikyo.\nNăm 1987, Asahara sau khi trở về từ Ấn Độ, nói với các môn đệ rằng ông ta đã đạt được mục đích cuối cùng: sự khai sáng. Những môn đệ gần gũi nhất cung cấp tiền cho ông ta, và Asahara sử dụng chúng để mở một khóa học Yoga nâng cao kéo dài vài ngày và thu hút rất nhiều những người quan tâm đến việc cải thiện đời sống tinh thần. Asahara đứng ra giảng dạy, và tổ chức bắt đầu lớn mạnh.\n1987 cũng là năm Shoko Asahara đổi tên mình, và xin phép chính quyền thành lập giáo phái Aum Shinrikyo. Nhà chức trách ban đầu còn lưỡng lự khi công nhận đó là một tổ chức tôn giáo, nhưng cuối cùng cũng cấp giấy phép sau lần thỉnh cầu năm 1989.\nAum Shinrikyo: giáo lý.\nGiáo lý của Aum Shinrikyo được hình thành dựa trên cơ sở Kinh phật Paly Canon. Ngoài Kinh Pali Canon, Aum Shinrikyo còn dựa trên Kinh Tibetan, kinh Yoga của Patanjali và Đạo giáo. Các cuốn kinh được nghiên cứu cùng lúc và được chú thích bởi Shoko Asahara. Hệ thống đào tạo gồm nhiều cấp: những người hoàn thành khóa mở đầu chỉ có thể tham gia các khóa cao hơn sau khi hoàn thành một bài kiểm tra.\nShoko Asahara viết rất nhiều sách về tôn giáo. Cuốn nổi tiếng nhất là \"Vượt qua sự sống và cái chết\", \"Kinh Mahayana và Sự khởi đầu\".\nVụ khủng bố tàu điện ngầm Tokyo, cáo buộc và xét xử.\nNgày 20-3-1995, các thành viên của Aum tấn công hệ thống tàu điện ngầm Tokyo bằng khí thần kinh Sarin. 12 người chết, hàng ngàn người bị ảnh hưởng. Sau khi thu thập đủ các bằng chứng, nhà chức trách cáo buộc Aum Shinrikyo có liên quan đến vụ tấn công này và hàng loạt các vụ tấn công khác ở quy mô nhỏ hơn. 10 tín đồ đã bị bắt giữ, Các cơ sở của Aum bị bao vây, tòa án ra lệnh bắt giữ Shoko Asahara. Asahara được phát hiện đang lẩn trốn ở một căn phòng nhỏ, biệt lập trong một cơ sở của Aum.\nAsahara Shōkō phải đối mặt với 27 tội danh giết người trong 13 bản cáo trạng khác nhau. Bên công tố lập luận rằng Asahara \"ra lệnh tấn công hệ thống tàu điện ngầm Tokyo\" nhằm mục đích \"lật đổ chính quyền và đưa bản thân lên vị trí Hoàng đế Nhật Bản\". Vài năm sau đó, bên công tố lại đi theo một hướng khác cho rằng vụ tấn công là nhằm mục đich \"đánh lạc hướng sự chú ý của cảnh sát\". Bên nguyên cũng buộc tội Asahara là chủ mưu đứng sau vụ Matsumoto và vụ thảm sát gia đình Sakamoto. Theo nhóm luật sư bào chữa của Asahara, một nhóm những thành viên cao cấp của Aum đã lên kế hoạch vụ tấn công mà không cho Asahara biết. Không có thêm đầu mối nào ngoài những thông tin từ những tín đồ phản bội và các bài giảng. Sau sự kiện đó các môn đồ bắt đầu trực tiếp giảng dạy, điều họ chưa bao giờ làm khi Asahara vẫn còn khả năng giao thiệp.\nTrong thời gian diễn ra xét xử, một số môn đồ đã đứng ra làm chứng chống lại Asahara, ông ta bị kết tội 13 trong số 17 cáo buộc, bao gồm cả vụ giết hại gia đình Sakamoto, 4 cáo buộc đã thất bại. Asahara bị tuyên án treo cổ vào ngày 27-2-2004.\nPhiên tòa đã được giới truyền thông Nhật Bản ca ngợi \"phiên tòa của thế kỷ\". Yoshihiro Yasuda, luật sư bào chữa nhiều kinh nghiệm nhất trong đội luật sư bào chữa của Asahara, đã bị bắt giữ và không thể tham gia bào chữa, mặc dù ông ta đã được tha bổng trước khi phiên tòa xét xử Asahara kết thúc. Tổ chức theo dõi nhân quyền đã chỉ trích hành động cô lập Yasuda. Asahara do vậy được bào chữa hoàn toàn bởi các luật sự chỉ định.\nTrong thời gian diễn ra vụ xét xử, Asahara đã từ bỏ vị trí đại diện cho Aum Shinrikyo để ngăn chặn sự phân rã diễn ra rất mạnh trong tổ chức.\nNhóm luật sư bào chữa đưa ra yêu cầu kháng cáo dựa trên cơ sở Asahara có vấn đề về thần kinh, và một cuộc kiểm tra tâm thần đã được tiến hành. Trong suốt quá trình kiểm tra, tiến hành bởi các chuyên gia tâm thần học, Asahara đã không nói một lời nào. Mặc dù vậy Asahara lại giao tiếp với các nhân viên tại nơi giam giữ, nên người ta cho rằng Asahara đã giữ im lặng một cách miễn cưỡng. Bởi vì các luật sư bào chữa không thể đưa ra được lý do kháng cáo, tòa án Tokyo quyết định hủy bỏ yêu cầu kháng cáo ngày 27-3-2006. Quyết định này được tòa án tối cao Nhật Bản phê chuẩn ngày 15-9-2006. 2 yêu cầu xét xử lại cũng bị tòa án phúc thẩm bác bỏ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Nice (quận) nha ?", "role": "user" }, { "content": "Quận Nice là một quận của Pháp, nằm ở tỉnh Alpes-Maritimes, trong Provence-Alpes-Côte d'Azur. Quận này có 33 tổng và 101 xã.\nCác đơn vị hành chính.\nCác tổng.\nCác tổng của quận Nice là: \nCác xã.\nCác xã của quận Nice, và mã INSEE là: ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Astrid Cleve ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Astrid M. Cleve von Euler (22.1.1875 - 8.4.1968) là một nhà thực vật học, địa chất học, hóa học, người Thụy Điển đồng thời là nhà nghiên cứu ở Đại học Uppsala. Bà là phụ nữ Thụy Điển đầu tiên đậu bằng tiến sĩ khoa học.\nCuộc đời & Sự nghiệp.\nAstrid Cleve là con gái của giáo sư kiêm hóa học gia Per Teodor Cleve và bà Alma Öhbom. Bà học ở nhà, rồi vào Đại học Uppsala năm 1891 học khoa lịch sử tự nhiên. Bà đậu bằng tiến sĩ ngày 27.5.1898 với luận án mang tên \"Studies on the time of germination and the juvenile stage of some Swedish plants\" (Nghiên cứu về thời kỳ mọc mầm và giai đoạn non trẻ của một số cây của Thụy Điển). Bà là phụ nữ thứ ba của Thụy Điển làm việc này, và là người phụ nữ đầu tiên trong một ngành khoa học. Từ năm 1898 tới năm 1904, bà làm việc trong Viện Hóa học ở \"Stockholms högskola\" (trường cao đẳng Stockholm, sau trở thành Đại học Stockholm), nơi mà thời đó là một viện tư nhân nên có thể thuê phụ nữ làm việc, trái với các trường đại học quốc gia như Đại học Uppsala và Đại học Lund (không tuyển dụng phụ nữ).\nTại đây, bà gặp nhà hóa sinh học người Thụy Điển gốc Đức sau này là người đoạt giải Nobel Hans von Euler-Chelpin. Họ kết hôn năm 1902 và bà mang tên Astrid Cleve von Euler.\nBà làm phụ tá cho chồng (họ đã xuất bản chung quyển hóa học hữu cơ) và nuôi dạy 5 người con, một trong số đó sau này trở thành nhà sinh lý học đoạt giải Nobel là Ulf von Euler. Cuộc hôn nhân này tan vỡ năm 1912.\nTừ năm 1911 tới năm 1917, Astrid Cleve làm giáo viên ở Stockholm và từ 1917-1923 bà làm trưởng một phòng thí nghiệm khai thác mỏ. Sau đó bà chuyển về sinh sống ở làng quê, điều hành một nông trại và dạy tư các sinh viên. Trong thập niên 1930, bà trở lại Đại học Uppsala và Viện Địa chất học kỷ thứ tư (\"Institution of Quaternary Geology\"). Năm 1955 bà được chính phủ Thụy Điển bổ nhiệm chức giáo sư trên danh nghĩa (\"titular professor\").\nLà một nhà khoa học, bà đã nghiên cứu nhiều đề tài sinh học, địa chất học kỷ thứ tư và hóa học. Bà trở thành chuyên gia hàng đầu thế giới về các tảo cát (diatoms) và đã xuất bản \"tác phẩm lớn\" (magnum opus) 5 tập về chúng mang tên: \"Die Diatomeen von Schweden und Finnland\" (Về tảo cát ở Thụy Điển và Phần Lan). Công trình đồ sộ này có các thông tin về phương pháp phân loại và sinh thái học của tảo cát ở vùng nước ngọt và nước lợ, cả tảo cát hiện thời lẫn tảo cát hóa thạch.\nMột đề tài nghiên cứu quan trọng khác là về sự thay đổi mực nước biển sau thời kỳ băng hà và sự dâng đất lên. Lý thuyết của bà – nay bị bác bỏ – đã bị các nhà địa chất học đương thời cực lực phê phán, như Lennart von Post chẳng hạn. Các tác phẩm nghiên cứu theo lối kinh nghiệm của bà dần dần gặp trở ngại trong việc phổ biến, nên một số quyển bà phải tự bỏ tiền ra in và chấp nhận mọi rủi ro (trong việc tiêu thụ).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Hyalophora columbia", "role": "user" }, { "content": "Hyalophora columbia là một loài bướm đêm thuộc họ Saturniidae. Ở phía đông nó được tìm thấy từ Quebec và Ontario đến Michigan, miền bắc Wisconsin, và tây nam Manitoba. Ở phía tây nó được tìm thấy từ Alberta và Montana phía nam qua Dãy núi Rocky đến tây nam Texas và vào trung bộ México. Glover's Silkmoth, \"Hyalophora columbia gloveri\", đôi khi nó được xem là một loài riêng biệt.\nSải cánh dài 80–100 mm. Con trưởng thành bay từ tháng 5 đến tháng 7. Mỗi năm chỉ có một thế hệ.\nẤu trùng ăn \"Larix laricina\" ở miền nam phạm vi của nó. Ngoài ra, chúng được ghi nhận trên \"Prunus pensylvanica\", \"Alnus rugosa\" và \"Betula papyrifera\" ở miền tây Ontario. Ở phía tây chúng ăn \"Prunus demissa\", \"Prunus emarginata\", \"Purshia tridentata\", \"Rosa\", \"Salix\", \"Shepherdia argentea\", \"Eleagnus angustifolius\" và \"Ceanothus\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Ptychadena mapacha ?", "role": "user" }, { "content": "Ptychadena mapacha là một loài ếch trong họ Ptychadenidae.\nNó được tìm thấy ở Namibia, có thể cả Angola, có thể cả Botswana, và có thể cả Zambia.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là xavan khô và đầm nước ngọt có nước theo mùa.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Calicotome spinosa á", "role": "user" }, { "content": "Calicotome spinosa là loài thực vật thuộc họ Fabaceae, với chiều cao lên đến 3 mét. Nó được tìm thấy ở Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Croatia và Algérie, nó cũng được di thực đến New Zealand.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Roissy-en-France", "role": "user" }, { "content": "Roissy-en-France là một xã ở tỉnh Val-d'Oise, thuộc vùng Île-de-France ở miền bắc nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Alamo, Nevada from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Alamo là một cộng đồng dân cư không hợp nhất thuộc tiểu bang Nevada, Hoa Kỳ.\nTheo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, cộng đồng này có dân số người.\nCộng đồng có cự ly khoảng 90 dặm (140 km) về phía bắc Las Vegas. độ cao của nó là 3.449 feet (1.051 mét). Nó được đặt tên theo từ tiếng Tây Ban Nha do sự hiện diện của loại cây. Được thành lập vào năm 1901, Alamo nằm ở thung lũng Pahranagat. Nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào chăn nuôi. Sự hấp dẫn gần nhất là Khu Bảo vệ Hoang dã Quốc Pahranagat.\nTừ Alamo và thị trấn của Rachel là nơi có Khu dăm kết tác động kỷ Devon Alamo.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Bắc Lương (xã) nha ?", "role": "user" }, { "content": "Bắc Lương là một xã thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.\nXã Bắc Lương giáp ranh với xã Nam Giang, xã Tây Hồ, xã Thọ Nguyên, xã Hạnh Phúc và xã Xuân Thành. Trong xã có 13 thôn (gọi từ thôn 1 đến thôn 13) và chia ra làm 4 làng (làng Mỹ Thượng, làng Mỹ Hạ, làng Trung Thôn và làng Nhuế Thôn). Xã là một vùng đồng bằng, yên bình. Có đất canh tác nông nghiệp (làm 1 năm 2 vụ lúa và một vụ đông có thế là trồng ngô, khoai, đậu hay các loại rau màu mùa đông). Trên đầu xã tại làng Mỹ Thượng có một cái chợ gọi là chợ Neo, họp quanh năm buôn bán tấp tập, chợ chỉ nghỉ 2 ngày trong năm là vào ngày mùng 1 và mùng 2 tết Nguyên đán. Chợ chỉ họp vào buổi sáng, là nơi buôn bán cho cả những xã lân cận nơi đây. Trước năm 1975 trong xã còn có một ngôi chùa lớn (chùa Cổ Nhuế) được xây dựng tại làng Nhuế Thôn, nhưng sau chiến tranh đã bị phá chùa để lấy gạch xây trạm xá và trường học cho xã. Năm 2011, xã cùng những người con xa quê đang tổ chức quyên góp và sưu tầm những hiện vật còn sót lại của chùa ngày xưa để xây lại chùa.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Tinodes triomdys không ?", "role": "user" }, { "content": "Tinodes triomdys là một loài Trichoptera trong họ Psychomyiidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về 1967 Menzel nha ?", "role": "user" }, { "content": "1967 Menzel là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Max Wolf ngày 1 tháng 11 năm 1905. Tên ban đầu của nó là A905 VC. Nó được đặt theo tên Donald Howard Menzel, một nhà thiên văn học Hoa Kỳ.", "role": "assistant" } ]