title
stringlengths
4
119
content
stringlengths
90
172k
metadata
dict
Sự tích trái sầu riêng
Ngày ấy, vào thời Tây Sơn, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng-nai. Chàng là người tài kiêm văn võ, đã từng vung gươm hưởng ứng cái bất bình của mọi người. Chàng từng cầm quân mấy lần làm cho tớ thầy chúa Nguyễn chạy dài. Nhà Tây Sơn mất, chàng lui về quê nhà mượn nghề dạy trẻ để náu hình ẩn tích. Đột nhiên có tin dữ truyền đến làm cho mọi người xao xuyến. Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người đã từng làm quan cho nhà Tây Sơn. Nhà vua cứ dựa vào chức tước lớn hay nhỏ của họ mà gia hình: tư mã, quận công thì lăng trì, tùng xẻo; vệ úy, phân suất thì đánh gậy, phạt roi, v.v... Dân trong xóm sẵn lòng quý mến, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ mui lồng để tiện đi lại. Vì không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu-long, chàng tiến sâu vào nước Chân-lạp. Một hôm chàng cắm sào lên bộ mua thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi, về đến đây thì con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng hết sức chạy chữa, cuối cùng cũng giúp cô gái lấy lại sức khỏe. Và sẵn có thuyền riêng, chàng chở họ về tận nhà. Nàng là con gái chưa chồng, đã đến tuổi quay xa đạp cửi. Nàng có vẻ đẹp thùy mị. Tự nhiên có anh chàng trai người Việt ở đâu tận xa xôi đến trú ngụ tại nhà làm cho nàng quyến luyến. Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lấy cuộc sống mới cho qua ngày. Từ đây chàng có chỗ ở nhất định. Nhà nàng là nhà làm ruộng nuôi tằm. Những việc đó chàng đều làm được cả. * Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt với nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu rên" mà ở xứ sở chồng không có. Lần ấy gặp kỳ quả chín đầu mùa, vợ trèo lên cây trẩy xuống một quả, xẻ đưa cho chồng ăn. Quả "tu rên" vốn có một mùi hôi đặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt vợ bảo: - Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây. Không ngờ một năm kia, vợ đi dâng hương về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng. Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con chàng ở quê hương nhắn tin lên bảo về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng nên đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết là mình sẽ theo chàng cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy cây "tu rên" tự nhiên chỉ hiện ra có mỗi một quả. Và quả "tu rên" đó tự nhiên rơi vào vạt áo giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về xứ sở. Chàng lại trở về nghề cũ. Nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt "tu rên" thành cây đem trồng trong vườn ngoài ngõ. Từ đây, ngoài công việc dạy học còn có công việc chăm nom cây quý. Những cây "tu rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng ông già ấy lòng bỗng trẻ lại khi thấy những hàng cây mà mình bấy lâu chăm chút nay đã bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng làng xóm tới dự đám giỗ của vợ và nhân thể thưởng thức một thứ quả lạ đầu tiên có ở trong vùng. Khi những quả "tu rên" bưng ra đặt lên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Nhưng chủ nhân biết ý đã nói đón: - " ... Nó xấu xí nó hôi, nhưng múi của nó ở trong lại đẹp đẽ thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ...". Ông vừa nói vừa xẻ những quả "tu rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Múi "tu rên" nuốt vào đến cổ quả có một vị ngon ngọt lạ thường. Đoạn, ông kể hết đoạn tình duyên xưa mà từ lúc về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Và khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy long lanh hai giọt lệ nhỏ đúng vào múi "tu rên" đang cầm ở tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi "tu rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch. Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy dân làng mỗi lần ăn thứ quả đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu rên" bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng dõi loại hạt có hai giọt nước mắt của anh chàng nhỏ vào thì mới là giống sầu riêng ngon...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-trai-sau-rieng" }
Sự tích cây Huyết Dụ
Ngày xưa có một bác đồ tể chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thức chú tiểu dậy gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chuông làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc. Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: - Xin cứu mạng! Xin cứu mạng! Sư hỏi người đàn bà: - A-di-đà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì đây? Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời: - Ngày mai xin hòa thượng hãy đánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng thiếp rất đội ơn. Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông. Lại nói chuyện hôm ấy bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì khi đưa ra đến chợ, chợ đã vãn người rồi. Tức mình vì lỡ mất một buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ bèn đem câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình. Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn cái mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng: - Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bày con của mình khỏi chết. Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ. Không rõ bác đồ tể rồi sau đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-huyet-du" }
Nàng tiên ốc
Chuyện xưa kể lại rằng, ở ngôi làng nọ có bà lão sinh sống, tuổi bà cũng đã cao, lại rất nghèo khó. Bởi vì làm lụng vất vả bao năm nên nhìn hình dáng của bà rất ốm yếu, gầy gò, nét mặt của bà thì luôn nhăn nhúm, lúc nào cũng có vẻ đượm buồn. Bà luôn sống cô đơn trong chiếc lều rách nát, nhỏ hẹp chỉ đủ để che nắng che mưa, nhưng cũng chẳng đủ để ngăn cản những đợt gió rét lạnh khi mùa đông về. Hơn nữa bà cũng chẳng có con hay là cháu để ở bên cạnh chăm nom, đỡ đần mỗi khi trái gió trở trời hay ốm đau, bệnh tật. Hằng ngày thì bà lão đều phải ra đồng để mò cua và bắt ốc, sau đó lại đem chúng đi đổi thành tiền để mua gạo, mua rau sống cho qua ngày. Vào một ngày nọ, trong lúc bà mải mê bắt ốc thì vô tình bắt được con ốc đẹp đẽ vô cùng. Con ốc này có vỏ màu xanh ngọc bích, cũng chỉ to hơn một chút so với ngón cái của bà lão, nhưng lại tỏa ra được những ánh sáng đẹp lấp lánh khi soi dưới ánh sáng mặt trời. Bà lão vô cùng vui mừng, liền nâng niu nó trên đôi tay nhăn nheo, gầy guộc và chất đầy những vết chai sạn của mình. Bởi vì thương cho con ốc đẹp nên bà chẳng đem nó đi bán, bà đem nó về nhà mình và nuôi nó trong chiếc chum nước để ngay sân nhà. Và lại như thường lệ, ngày nào bà cũng chăm chỉ, cặm cụi để làm công việc quen thuộc của mình. Mỗi ngày bà vẫn mang giỏ ra đồng để bắt ốc, mò cua. Tuy nhiên thì mỗi khi về nhà bà lại ngạc nhiên vô cùng. Bởi vì sân nhà đều được quét tước sạch sẽ tươm tất, còn vườn rau ở phía sau thì được nhặt cỏ sạch sẽ, trên bàn có sẵn cơm dẻo canh ngọt tinh tươm hết cả. Dù bà lão có cố sức nghĩ nhưng cũng chẳng thể nào đoán ra được người nào lại tốt bụng mà giúp mình những công việc này. Ngày hôm sau thì bà cũng vẫn rời nhà ra đồng, tuy nhiên thì khi giữa buổi, bà lão quyết định quay về nhà để tìm hiểu thực hư mọi chuyện ra sao. Khi đến cổng nhà thì bà bỗng nhẹ bước chân, rón ra rón rén bước tới và núp ở sau cửa, bà muốn rình xem người nào đã giúp bà dọn nhà, nấu cơm mấy ngày hôm nay. Và bà lão đã trông thấy được từ trong chum nước, có một cô gái rất xinh đẹp bước ra ngoài, cô có làn da trắng hồng, có đôi mắt đen to tròn như là mắt của bồ câu, đôi mắt xinh đẹp ấy ẩn dưới hàng lông mi dài cong vút. Cô có một mái tóc dài đen ánh và óng ả. Trên người cô khoác chiếc áo dài màu xanh ngọc bích, và dáng đi của cô thì rất nhẹ nhàng và uyển chuyển. Cô làm việc nhà rất thành thạo và nhanh thoăn thoắt. Từ việc dọn dẹp cửa nhà, cho tới việc quét sân hay là nhổ cỏ vườn rau, cô làm đều rất nhanh nhẹn và sạch sẽ. Sau khi hoàn thành hết những công việc đó thì cô bắt tay vào đong gạo để nấu cơm. Nhìn lén đến lúc này, bà lão cũng nhận ra được mọi chuyện. Bà liền nhẹ nhàng đi tới chỗ chum nước, nhanh tay lấy cái vỏ ốc để đập vỡ ra. Khi nghe có tiếng động thì cô gái xinh đẹp vội vội vàng vàng chạy về phía chum nước định chui lại vào trong chiếc vỏ ốc của mình, nhưng mà mọi việc đã muộn rồi, chiếc vỏ ốc của cô đã bị bà lão đập bể tan tành. Bà lão bước tới ôm chầm lấy cô gái và bảo: – Con gái à! Con hãy ở lại với mẹ đi! Kể từ đó về sau thì bà lão cùng với cô gái xinh đẹp sống cùng nhau vui vẻ, hạnh phúc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-tien-oc" }
Sơn Tinh - Thủy Tinh
Vào đời Vua Hùng thứ 18, Vua có một người con gái đã đến tuổi cập kê, công chúa có dung nhan xinh đẹp tuyệt trần, lại còn có một làn da trắng trẻo mịn màng, dáng người nàng cũng cao ráo. Tên của nàng công chúa này là Mỵ Nương. Khi thấy con gái của mình đã tới tuổi để gả chồng nên Vua liền cho ban truyền tìm kiếm nhân kiệt ở khắp nhân gian hòng kén được một người phò mã đủ tài đủ đức. Nghe được tin Vua Hùng ban tin kén rể khắp nơi cho con gái, vua nước Tây Âu liền đem tới rất nhiều những vàng bạc cùng châu báu như là cau vàng, trầu bạc để mà dạm hỏi cưới nàng Mỵ Nương. Thấy vậy Vua Hùng lập tức cho triệu tất cả Lạc Hầu của mình vào cung để mà hội ý. Những Lạc Hầu này tâu rằng: – Vua nước Tây Âu ấy là một con người rất cường bạo, tuổi cũng khá cao rồi, mà hình dáng cũng rất kì quái, làm sao mà có thể xứng đôi với công chúa của chúng ta được. Nghe những lời khuyên can của đám Lạc Hầu nên Vua Hùng liền từ chối lời cầu hôn của vua nước Tây Âu kia. Cũng chính từ ngày đó mà mối quan hệ giữa nước Văn Lang cùng Tây Âu xấu đi, nảy sinh hiềm khích khó tháo gỡ. Bẵng đi một thời gian thì lại có hai chàng trai tới để dạm hỏi cưới nàng công chúa Mỵ Nương. Hai chàng trai này đều vô cùng xuất sắc và tuấn tú. Một người là Sơn Tinh (Chính là thần núi Tản Viên, hay còn gọi là Thánh Tản), người còn lại là Thủy Tinh (Chính là Thần Nước, hay Thần Biển Cả). Vua Hùng liền cho truyền cả hai chàng trai này vào triều để trổ tài, nếu như ai có tài hơn thì Vua sẽ chấp nhận gả con gái mình, tức công chúa Mỵ Nương cho người đó. Chàng Sơn Tinh trổ tài trước, chàng có phép chỉ tay tới đâu thì nơi đó lại mọc lên những rừng núi hùng vĩ, chim muông đông đúc từng đàn. Còn chàng Thủy Tinh lại có phép vẫy tay thì nước sẽ ào ào mà dâng lên thật cao, còn có cả thuồng luồng và ba ba hàng đàn kéo nhau nổi lên mặt nước nữa. Cả hai chàng trai đều vô cùng tài giỏi, có thể gọi là ngang tài cân sức nên Vua Hùng không biết phải chọn ai mới được. Vì vậy để quyết định thắng thua mà Vua đã phải ra thêm thử thách khác, người nào chiến thắng thì sẽ trở thành phò mã. Vua nói rằng: – Hai ngươi đều rất tài giỏi, ngang tài cân sức với nhau, vì vậy nên ta không thể chọn một trong hai được. Bây giờ sẽ như thế này, ngày mai nếu như một trong hai ngươi, người nào có thể đem được đồ sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh trưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ phải có một đôi tới đây sớm hơn thì người đó sẽ được cưới con gái của ta. Tuy nói rằng không thể chọn ai nhưng tất cả những đồ lễ mà Vua Hùng yêu cầu hai chàng chuẩn bị thì tất cả đều là những sản vật ở trên đất liền. Điều đó có thể cho thấy được Vua Hùng cũng đã ngầm đồng ý gả nàng Mỵ Nương cho Sơn Tinh rồi. Ngày hôm sau, khi bầu trời bên ngoài chỉ vừa hửng sáng thì Sơn Tinh đã đem được đầy đủ các loại lễ vật theo đúng yêu cầu của Vua Hùng đến cung vua để xin hỏi cưới nàng Mỵ Nương. Bởi vì những đồ lễ vật ấy với một thần núi như chàng thì vô cùng dễ để chuẩn bị.Vua Hùng vô cùng hài lòng với biểu hiện của Sơn Tinh nên đã bằng lòng cho phép Sơn Tinh được cưới con gái Mỵ Nương của mình. Còn Thủy Tinh bởi vì khó tìm kiếm những món lễ vật hỏi cưới đó nên đến trễ hơn một chút, chàng vô cùng hốt hoảng khi được tin nàng Mỵ Nương đã cùng đi với phu quân của mình là Sơn Tinh. Vì thế nên Thủy Tinh lập tức đuổi theo, đem cả đám binh tướng của mình tới đánh Sơn Tinh thề phải cướp lại nàng Mỵ Nương cho bằng được. Thủy Tinh cứ thế hô mưa rồi gọi gió làm rung chuyển trời đất, khiến cho nước biển cuồn cuộn dâng lên để đánh Sơn Tinh. Khi nước dâng cao khiến cho lúa ngập, đồng cũng ngập, sau đó thì nhà cửa cũng ngập nốt. Và giông tố cứ mỗi lúc lại càng dữ dội hơn, nước cũng càng ngày càng dâng cao hơn nữa, đám thủy quái thì cứ đông lên nhiều lần, chúng rầm rầm rộ rộ làm theo tất cả những mệnh lệnh của Thủy Tinh. Tất cả cư dân của nước Văn Lang lúc bấy giờ đều chung sức và chung lòng ra tay để giúp đỡ cho Sơn Tinh. Hơn nữa thần trống đồng thiêng liêng cũng hiện về để giục giã, cổ vũ cho mọi người ra trận mà tiêu diệt đám thủy quái hung bạo kia, đồng thời chống cả lũ lụt dữ dội. Những người nào khỏe mạnh thì đi đào đất để đắp thành đê. Chính vì thế mà ra đời những con đê dùng để chống lụt hiện nay của người Việt ta. Những đoạn đê dựng lên ngày càng cao hơn, chắc hơn, ngăn chia rồi chặn đứng được tất cả sự phá phách khủng khiếp của lũ lụt. Đối mặt với tình cảnh này, Sơn Tinh không hề có chút nao núng nào cả, chàng liền dùng phép của mình để bốc những quả đồi, rồi dời đi những dãy núi để mà tạo thành bức tường vững chắc ngăn chặn dòng nước lũ của đối thủ. Dòng nước lũ của Thủy Tinh dâng cao bao nhiêu thì những dãy núi của Sơn Tinh lại mọc cao lên bằng ấy. Đội quân của Sơn Tinh bê những hòn đá lớn, nhỏ ném tới tấp vào đám quân của Thủy Tinh ở dưới nước khiến chúng chết vô số kể. Xác cá, xác thuồng luồng, xác ba ba cứ nổi đầy kín cả mặt nước. Thủy Tinh cứ dâng nước lên một trào, Sơn Tinh lại nâng núi, nâng đất đá cao lên một vì. Khi Thủy Tinh lại dâng nước lên hai đợt thì Sơn Tinh lại tiếp tục mà dựng núi của mình lên hai vì. Vào đợt thứ ba thì Thủy Tinh liền xô nước tới, Sơn Tinh nhanh chóng nâng núi của mình lên đến ba vì. Cũng chính vì trận chiến này mà núi Tản Viên xưa còn được gọi với cái tên Ba Vì. Cả hai bên đã đánh nhau kéo dài tới mấy tháng ròng. Nhưng sau cùng bởi vì đuối sức nên Thủy Tinh phải cho quân rút trở về. Kể từ ngày đó thì chàng Sơn Tinh và nàng Mỵ Nương cũng được sống bên nhau vui vẻ, hạnh phúc. Tuy nhiên thì ân oán của Sơn Tinh cùng Thủy Tinh lại càng ngày càng nặng, hận thù cũng càng ngày càng sâu hơn. Mỗi năm vào tầm tháng 7 theo Âm lịch thì Thủy Tinh lại nghĩ tới ân oán khi xưa, lập tức đem dâng nước kéo tới đánh nhau cùng Sơn Tinh. Tuy vậy nhưng mỗi lần như vậy thì Thủy Tinh đều nhận lấy thất bại rồi phải kéo quân ra về. Truyền thuyết về Sơn Tinh – Thủy Tinh vô cùng nổi tiếng, và là một trong những cách lý giải của người Việt xưa về hiện tượng lũ lụt cùng những cách để chống lũ lụt của nước mình.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/son-tinh-thuy-tinh" }
Chàng ngốc học khôn
Ngày xưa, có anh chàng tên là Đần lấy chị vợ tên là Khôn. Cả đời một chữ cắn làm đôi không biết, anh ta lại chẳng chịu thò đầu đi đâu, chỉ ru rú ở xó nhà để vợ sai bảo, từ việc nhỏ tới việc lớn, nên đã đần lại càng đần thêm. Cái nghề đời, chồng "đần", vợ "khôn", việc nhà việc cửa đụng đến cái gì cũng dễ sinh đôi co, cãi vã nhau cả ngày. Chị vợ thì luôn mồm chê bai chồng: "Ối, trời ơi! Đần ơi là đần!" hoặc: "Ối trời ơi! Đần đâu mà có thứ đần đến thế!" Thoạt đầu anh chồng biết thân biết phận, cứ thộn mặt ra giả câm giả điếc, đành cho vợ nhiếc. Nhưng về sau, chẳng hiểu có anh hàng xóm láng giềng nào mớm lời cho, thế là đôi lúc tức khí lên, anh ta cũng gân cổ cãi lại vợ: - Này này, bu nó có khôn ngoan cũng chỉ là "cái ngữ đàn bà", còn tôi "dẫu rằng... đần độn cũng là cái thằng đàn ông!" Thấy anh chồng đần đi học mót đâu được một câu cũng ra chữ nghĩa để xoen xoét cãi lí với mình, chị vợ tủm tỉm cười bảo: - Phải rồi, bố nó muốn ra "cái thằng đàn ông" thì cứ đi mà học khôn học ngoan người ta cho bằng "cái ngữ đàn bà" như tôi đây này. Tôi đỡ nặng mình nặng mẩy, kẻo thiên hạ người ta lại nhiếc: - Làm đầy tớ người khôn còn hơn làm thầy thằng dại! Anh chồng liền thộn mặt ra, hỏi vợ: - Thế, học khôn ở đâu hả, bu nó? Chị vợ tặc lưỡi: - Đần ơi là đần! "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn", cổ nhân dạy thế, chứ còn học ở đâu nữa! Anh chồng lại thộn ra: - Thế, làm thế nào để "đi một ngày đàng" mà "học được một sàng khôn", hả bu nó? Chị vợ bật cười: - Trời ơi! Đần đâu mà có cái thứ đần đến thế? Rồi chị ta làm bộ khôn ngoan, giảng giải một thôi một hồi cho anh chồng; - Thế này này! Đi ra đường, muốn học khôn học ngoan người ta thì trông thấy người ta, phải tay bắt mặt mừng, tươi cười hớn hở, chào người này một câu, chào người nọ một câu, chúc người này gặp nhiều may mắn, chúc người kia gặp sự tốt lành để làm quen với người ta. "Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen", có thế mới học khôn học ngoan người ta được chứ!... Cứ như bố nó cả đời chả đi tới đâu, mà có gặp ai cũng cứ lì lì cái mặt ra như pho tượng đất ấy, thì ai người ta thiết săn đón trò chuyện với mình mà học khôn với học ngoan! Nghe vợ giảng giải, anh chồng như sáng mắt ra, bỗng hăng hái bảo vợ: - Vậy thì gà gáy canh ba sáng mai, bu nó dậy đùm cơm nắm, muối rang cho tôi đi học khôn một chuyến xem sao. Sáng tinh mơ hôm sau, anh chồng cơm đùm cơm nắm lên đường. Nhớ lời vợ dặn, gặp ai anh ta cũng sấn lại, nắm tay, bá vai, miệng cười toe toét và luôn mồm chúc hết "điều may mắn" lại đến "sự tốt lành". Mọi người thoạt đầu trố mắt nhìn (vì chưa bao giờ thấy anh chàng nào "kì cục" như vậy), sau cho rằng anh chàng này "dở hơi", nên ai cũng vội vã bỏ đi cho được việc. Thế là suốt dọc đường chẳng có một ai rỗi hơi đứng lại bắt chuyện với cả. Gần trưa, bỗng gặp một đoàn người đông nghìn nghịt đi tới. Lại có cả tiếng kèn tiếng trống om sòm cả một khúc đường. Anh chàng mừng thầm, chắc là có cơ hội để "học khôn" ở cái đám đông này. Nhớ lời vợ dặn, anh ta lại cười toe toét và luôn miệng chúc mừng lia lịa. Mọi người trợn mắt nhìn anh ta, rồi đoàn người cứ lẳng lặng kéo đi. Anh ta chợt thấy đám người đi sau một cái kiệu lớn sáu người khiêng, người nào tay cũng chống gậy, đi hơi khom lưng, mặc đồ xô gai trắng toát, trông rất lạ, một vài người thỉnh thoảng lại sụt sịt như bị sổ mũi. Đoán chừng đây mới là những người người có thể dạy "khôn" được, anh chàng bèn chạy ngay lại túm lấy tay từng người, ra vẻ tay bắt mặt mừng, hớn hở nói: "A ha! Xin chúc mừng các bác gặp điều may mắn! Chúc mừng các bác gặp sự tốt lành! Chúc mừng...". Chưa kịp chúc hết câu thứ ba, liền bị đám người ấy nổi xung lên, tiện tay vung gậy phang cho một chập tối tăm mặt mũi: "Đồ xỏ lá ba que! Đồ xỏ lá ba que!.... Đập chết nó đi!... Đem chôn sống nó đi!...". Tiếng thét rầm rầm, tiếng gậy đập huỳnh huỵch... Anh chàng kinh hoàng vì bất ngờ bị đòn đau quá, phải cố hết sức mới luồn được qua gầm kiệu, sang phía bên kia ù té chạy bán sống bán chết. Về đến nhà, chưa kịp kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, anh chàng bị vợ nhiếc luôn cho một chập: - Ối trời ơi! Đần ơi là đần! Người ta chết cha chết mẹ, đã không chia buồn với người ta được một tiếng thì chớ, lại "xỏ lá ba que" đi chúc mừng nhà người ta gặp "may mắn... tốt lành". Có bằng đào mồ đào mả cả họ người ta lên không? Trời ơi! Đần ơi là đần! Sao người ta không chôn sống luôn bố nó đi cho hết tiệt cái thứ đần ấy! Đần tức quá thộn mặt ra hỏi vợ: - Thế thì bu nó bảo tôi phải chia buồn với người ta ra sao? Sao không dặn trước? Chị vợ nguýt dài rồi lại ngồi giảng giải một thôi một hồi cho anh chồng: - Thế này này, đần ơi là đần! Đi đường gặp nhà người ta đang có đám thì đừng có cười cợt, toe toét cái mồm cái miệng vô duyên ra, mà phải tỏ vẻ rầu rầu rĩ rĩ. Nếu là chỗ cùng làng cùng xóm thì chia buồn, rồi chúc cho người ta được "mồ yên mả đẹp" hưởng hạnh phúc ở dưới "suối vàng", đã nghe ra chưa? Trời ơi, sao mà lại có cái thứ đần đến thế? Đần nghe vợ nói, lại như sáng mắt ra, hẹn hôm sau quyết đi "học khôn" phen nữa. Tinh mơ hôm sau, anh ta lại cơm đùm cơm nắm lên đường. Dọc đường, để khỏi quên lời vợ dặn, anh ta cứ lẩm bẩm luôn mồm chúc hết người này "mồ yên mả đẹp", lại chúc người kia hưởng hạnh phúc dưới "suối vàng"... Thấy thế, ai cũng lảng xa ra sợ "xúi quẩy", cho rằng anh ta đã "hóa dại", chẳng ai thèm chấp. Nhưng anh ta chỉ rắp tâm gặp cho được một cái "đám" nào giống cái cái "đám" hôm trước để có dịp tỏ rõ sự "khôn ngoan" của mình. Xế trưa, trời cũng chiều lòng, quả nhiên anh ta lại thấy một đoàn người đang nhộn nhịp đi tới. Dẫn đầu là một đám ông già bà cả, khăn là áo lượt chỉnh tề, có một ông cụ râu dài, áo thụng xanh, bê chiếc bình hương khói bay nghi ngút, trông rất đạo mạo. Theo sau là đám thanh niên, trai có gái có, ăn mặc chải chuốt, vừa đi vừa cười nói hớn hở cùng đôi nam nữ cặp kè bên nhau có vẻ bẽn lẽn, ngượng nghịu. Không bỏ lỡ cơ hội, anh chàng sấn lại, nắm lấy tay đôi trai gái. Nhớ lời vợ dặn, anh ta làm bộ rầu rầu rĩ rĩ, chúc cho "hai anh chị" được "mồ yên mả đẹp" để hưởng hạnh phúc dưới "suối vàng"! Cô gái nghe thế, khiếp đảm, lăn đùng ra, ngất lịm. Còn anh con trai mặt đang đỏ bừng bừng bỗng xám ngoét lại, không còn giọt máu, rồi nổi điên túm lấy cổ anh chàng mà hét: - Đồ quỷ sứ! Đồ quỷ sứ! Ông bóp chết mày! Thế là cả đám thanh niên xông vào, người đấm, kẻ bóp cổ khiến cho anh chàng gần như tắc thở. May có người hàng xóm tốt bụng đi qua, vào can, xin mãi cho anh chàng "dở rồ dở dại" này, mới thoát chết mà chạy được về tới nhà. Qua trận đòn nhừ tử ấy, lại đến trận mắng té tát của chị vợ: - Trời ơi! Đần ơi là đần!... Đần đâu mà có cái thứ đần đến thế!... Đám rước dâu của nhà người ta, chứ đâu phải là đám ma mà đi chúc "mồ yên mả đẹp" để xuống "suối vàng" hưởng hạnh phúc! Sao người ta không cho bố nó xuống luôn "suối vàng" đi cho hết tiệt cái thứ đần ấy! Đần tức quá lại thộn mặt ra hỏi: - Thế thì bu nó bảo tôi phải chúc người ta như thế nào? Sao không dặn trước? Chị vợ lại nguýt dài, rồi lại giảng giải: - Thế này này, đần ơi là đần! Đi đường mà gặp đám "cô dâu chú rể" vui vẻ như thế thì chỉ cần mau mồm mau miệng chúc vợ chồng người ta "tốt đôi", "tốt đôi". Thế là người ta khoái chí nhất đời... Mà kể cả những đôi vợ chồng cặp kè bên nhau được khen một câu như thế cũng thích chí..., cứ gì "cô dâu chú rể"!... Người ta thì thích mà mình lại được dịp làm quen với người ta mới khôn ngoan được chứ! Anh chồng, lại như sáng mắt ra, bèn quyết đi "học khôn" một phen nữa. Sáng sớm hôm sau, anh chàng lại lên đường. Để cho dễ nhớ lời vợ dặn, trên đường đi, gặp bất cứ ai, ông già, bà cả, hoặc trai, gái, lớn, bé, anh ta cũng cứ luôn mồm lặp đi lặp lại độc có hai tiếng "tốt đôi" ... "tốt đôi"..., mặc dầu từ sáng đến trưa vẫn chẳng gặp "đôi" nào cả! Và cũng như hôm trước, chẳng ai buồn bắt chuyện với anh ta cho mất công mất việc! Đi mỏi chân, mặt trời đã xế bóng mà vẫn chưa "tóm" được "đôi" nào cho ra "đôi" cả, anh ta đang định quay trở về. Bỗng nghe tiếng ồn ào ở phía xa xa trước mặt. Rảo bước tới nơi, anh ta thấy lửa bốc cháy ngùn ngụt ở một ngôi nhà cuối làng. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và, tiếng người la hét náo động cả một vùng. Người xách nước, kẻ vác câu liêm, người bê chiếu ướt... ùn ùn kéo tới, leo lên mái nhà cố dập tắt ngọn lửa. Phía ngoài đường, hai vợ chồng chủ nhà đã có tuổi đang đứng trông đồ đạc được mọi người khuân ra giúp. Nhác thấy họ đang lúi húi cặp kề bên nhau, nhớ lời vợ dặn, như gặp được cơ hội hiếm có, anh chàng vội chạy lại, tay bắt mặt mừng, nói rối rít: - A ha! Chúc mừng hai bác thật là "tốt đôi", "tốt đôi"! Xin chúc mừng!... Cháy nhà mất của, lòng dạ rối như mớ boòng boong, lại có cái anh chàng nào tự dưng chớt chớt nhả nhả đến lắp ba lắp bắp những gì nghe chẳng rõ giữa tiếng ồn ào huyên náo, người chủ nhà bèn quát: - Cái gì? Cái gì? Nói cái gì thế? Đần liền ghé vào tai bác ta hét tướng: - Tôi bảo "tốt đôi", "tốt đôi"... Hai bác sướng chưa nào?... "Tốt đôi", "tốt đôi"... đã nghe rõ chưa? Như hiểu ra điều gì, mắt bác chủ nhà bỗng long sòng sọc. Bác ta túm ngay lấy cổ anh chàng, hô hoán: - Thằng này đốt nhà! Thằng này đốt nhà! Ối làng nước ơi! Tóm cổ được thằng đốt nhà đây rồi! Làng nước ơi! Mọi người đang mải chữa cháy, vội quay lại, cùng thét: - Đâu, đâu?... Đứa nào đốt nhà? Đứa nào là thủ phạm? Đâu? Đâu?... Bắt lấy nó! Trói nó lại!... Gô cổ nó lại!... Chữa cháy xong, sẽ hỏi tội!... Thế là cả hai vợ chồng bác chủ nhà và lũ trẻ con quanh đấy xúm lại túm chặt lấy anh chàng. Hoảng quá, anh ta vừa giãy giụa, vừa kêu lên: - Ô hay! Cái nhà bác này! Tôi bảo "tốt đôi", "tốt đôi" cơ mà! Bác chủ nhà càng quát, dữ tợn hơn: - A! Mày bảo mày đốt! Chính mày đốt à? Ông sẽ thiêu sống mày ngay trong đống lửa kia kìa!... Hai bên giằng co, xô đẩy nhau, chợt va phải cái chĩnh tương đổ kềnh ra sắp lăn xuống rãnh. Tiếc của, bác chủ nhà nới tay một chút để lấy chân chặn cái chĩnh lại. Đang lúng túng thì anh chàng vung mạnh ra khỏi tay cả hai vợ chồng, xô lũ trẻ ngã nháo nhào rồi chạy thục mạng. Sẩm tối mới bò về tới nhà, vừa đói, vừa mệt, bị một phen hú vía, lại bị chị vợ té tát luôn cho một chập: - Trời ơi là trời! Đần ơi là đần! Đần đâu mà có cái thứ đần đến thế? Người ta đang tìm đứa đốt nhà thì như "lạy ông tôi ở bụi này", hét vào giữa mặt người ta "tốt đôi", "tốt đôi". Thế thì có khác gì bảo người ta rằng "tôi đốt", "tôi đốt", chứ còn "ai đốt" vào đấy nữa! Trời đất, sao họ không thiêu sống luôn bố nó đi cho hết tiệt cái thứ đần ấy. Nghe vợ mắng, anh chàng Đần như sực tỉnh cơn mê, nhưng vẫn thộn mặt ra hỏi vợ: - Thế bu nó bảo tôi phải làm như thế nào mới được? Sao không dặn trước? "Tốt đôi", "tốt đôi" mà lại bảo là "tôi đốt", "tôi đốt" là thế nào? Chị vợ lại nguýt dài, giảng giải: - Thế này này, đần ơi là đần! Đi đường mà gặp những chuyện rối ren "hữu sự" như vậy, thấy người ta làm thế nào thì mình cũng bắt chước người ta giúp vào một tay một chân chứ đừng có đứng ngoài mà "lí sự... lí siếc" để chuốc vạ vào thân như hôm nay! Đã nghe ra chưa? Ôi, đần đâu lại có thứ đần đến thế! Đần nghe vợ nói lần này lại như sáng hẳn mắt ra, hơn cả những lần trước. Anh ta nghĩ bụng: thế thì "bắt chước" thiên hạ cũng chẳng khó gì, bèn hăm hở quyết đi "học khôn" một chuyến nữa. Thế là mới gà gáy canh ba hôm sau, trời còn nhá nhem tối, anh ta đã hăng hái lên đường. Nhưng chuyến này chẳng phải chờ đợi lâu la gì, mới đi tới nẻo đường vắng sau ngôi miếu hoang ở cuối làng trên, đã gặp hai gã đàn ông to béo, không nhìn rõ mặt, đang ẩu đả nhau loạn xạ, kẻ thượng cẳng chân, người hạ cẳng tay, chẳng gã nào chịu thua kém gã nào một miếng. Anh ta không biết đó là hai tay mới đi "ăn sương" về, rủ nhau ra đây chia nhau bọc tiền mới trộm được, nhưng tay nào cũng đòi phần hơn nên mới sinh ra ẩu đả. Thấy có chuyện rối ren đúng là "hữu sự" thật, chẳng hiểu "đầu cua tai nheo" ra sao, nhớ tới lời vợ dặn hôm trước, anh chàng Đần liền xắn tay áo xông vào kêu lên: "Để tớ giúp cho một tay!... Để tớ giúp cho một tay!...". Hai gã ăn trộm, gã này tưởng anh ta là người cùng cánh gã kia đến giúp sức để choảng mình, bèn cùng xông vào nện cho anh chàng hung hăng mới đến này những quả đấm như trời giáng, làm anh ta đổ kềnh ra mặt đất. Bị đòn phủ đầu đau quá, chợt nhớ tới lời vợ dặn, anh ta liền ú ớ kêu tướng lên: "Ô kìa, ô kìa! Tớ có "lí sự... lí siếc" gì đâu? Tớ... tớ chỉ giúp đằng ấy... một tay thôi mà!". Hai gã ăn trộm "đấu võ" với nhau đã đến lúc thở cả ra đằng tai, thoáng nghe anh ta ú ớ "lí... lí..., tay... tay" gì đó thì ngỡ anh chàng này đe rằng anh ta là người nhà ông "lí"... sẽ cho chúng "biết tay"! Thế là hai gã chột dạ, sợ tù mọt gông với cụ "lí", hốt hoảng kéo nhau bỏ chạy, để trơ lại một mình anh chàng nằm chỏng quèo dưới đất, mặt mũi sưng vêu! Lần này, tuy trời còn sớm, mới trông rõ mặt người, nhưng anh chàng Đần cũng lủi thủi quay về nhà để trách vợ chẳng dạy "khôn" lại xui dại mình đến nỗi bị ăn đòn nhừ xương. Bất đồ, anh ta lại bị vợ nhiếc: - Ôi, đần ôi là đần! Thấy người ta đánh nhau thì mình phải vào can, rồi khuyên giải người ta một câu "một điều nhịn là chín điều lành" chứ! Mình là "người giữa" phải "chữa đôi bên". Đã không hòa giải họ thì chớ, lại lăn vào "đánh hôi" với người ta, có khác gì "đổ thêm dầu vào lửa" cho nó cháy luôn cả chân cả tay mình? Ôi, đần đâu mà có cái thứ đần đến thế! Cứ mỗi lần nghe vợ biện bạch cho một hồi đâu ra đấy, anh chàng Đần lại như sáng mắt ra. Nhưng lần này thì quả thật anh ta đã thấy thấm thía. Cứ học khôn học ngoan được như cái "lí sự" của vợ cũng đủ "vỡ mày vỡ mặt" ra rồi! Anh ta chép miệng than thở: - Bu nó bảo "đi một ngày đàng học một sàng khôn" mà tôi đi đến mấy ngày đàng rồi, chỉ rặt gặp những thụi với đấm với đá, gậy gộc, bóp cổ, chôn sống, thiêu sống... chẳng thấy thằng cha nào dạy khôn dạy ngoan cho mình cả! Chị vợ bật cười: - Ôi, đần ơi là đần! Cái khôn cái ngoan nó ngấm vào da vào thịt, nó thấm vào xương vào cốt ấy chứ. "Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời", đâu có phải như cái bánh cái trái, người ta trao vào tay hay đút vào túi cho mình được!... Thiên hạ chán vạn người còn phải lên rừng xuống biển, đi khắp gầm trời mà cũng chưa dễ gì học được hết mọi cái khôn ngoan ở đời ấy chứ! Bố nó mới đi có vài ngày đàng, bất quá cũng chỉ ở mấy làng trên, xã dưới, quẩn quanh cái xó huyện này thôi, chứ đã ăn thua gì! Nghe nói đến chuyện thiên hạ lên rừng xuống biển để "học khôn", từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa được đi tới đâu, ngoài cái lối xóm nhà mình, anh chàng Đần lấy làm thích chí bảo vợ: - Ừ, hay bu nó cứ để tôi lên rừng xuống biển, "học khôn" một chuyến, xem nó thế nào? Thế là hôm sau, từ gà gáy canh một, anh chàng Đần lại cơm đùm cơm nắm, xin thêm vợ quan tiền giắt ở thắt lưng, quyết chí lên tận rừng xanh để học khôn. Nghe vợ dặn, anh ta cứ nhằm hướng mặt trời lặn mà cắm đầu đi cho mãi đến tối thì tới rừng thật. Tiếng chim kêu vượn hót, cảnh rừng núi vắng vẻ, âm u... mọi thứ đều làm anh chàng lạ mắt lạ tai, cứ thế dấn bước vào sâu trong rừng lúc nào không biết. Bỗng một cảnh kì lạ làm anh ta dừng chân lại: hai con vật gì to lớn như đôi bò mộng, lông lá xồm xoàm đầy những vết văn đen như vết cháy sém, đang vờn nhau. Cả hai cùng đứng trên hai chân sau đu đẩy nhau, rồi lại vuốt vào mặt nhau bằng hai chân trước to bằng cột nhà, và có những móng sắc nhọn. Á à! Đám này đang gây sự với nhau, lại sắp loạn đả rồi đây, giống như cái đám hôm qua ấy mà! Nhớ lời vợ dặn, anh chàng Đần xông ngay lại, kêu to lên: - Thôi thôi, "một điều nhịn là chín điều lành". Tớ là "người giữa", tớ "chữa đôi bên", chớ có ẩu đả, chẳng có lợi lộc gì cho bên nào đâu!... Hai con vật to lớn bỗng giật mình cùng ngoái đầu lại. Một tiếng gầm dữ dội chợt vang lên làm cho anh chàng Đần cũng giật bắn cả người. Thì ra đó là một cặp vợ chồng cọp đang đùa giỡn với nhau, sau khi đã no mồi. Thấy bóng người xuất hiện bất ngờ, cọp cái thảng thốt gầm lên một tiếng rồi quay đầu bỏ đi. Cọp đực cũng gầm lên một tiếng dữ dội hơn, làm lá cây rụng xuống rào rào, rồi quay hẳn đầu lại, trườn mình về phía kẻ "địch" mới đến. Anh chàng Đần run lẩy bẩy, hồn vía lên mây, vội bỏ chạy. Cọp đực quật mạnh đuôi một cái, lại gầm lên một tiếng rung cả vách núi. Chàng Đần kinh hoảng quá, vội leo tót ngay lên một cây to gần đấy. Cọp đực quật mạnh đuôi một cái nữa rồi chồm ngay lại, trợn trừng ngó thẳng lên mặt anh chàng bằng đôi mắt đỏ như hai cục máu, miệng gầm gầm gừ gừ một thôi một hồi, làm cho anh chàng càng run lên như cầy sấy. Chán chê, cọp đực mới nằm phục xuống rồi chỉ một lát đã ngáy ầm ầm. Cho tới gần nửa đêm, cọp cái bỗng lững thững tới đánh thức cọp đực dậy. Vợ chồng cọp lại vờn nhau giây lát rồi theo nhau đi tít vào rừng sâu để săn mồi, quên khuấy con mồi đang ngồi run cầm cập trên một cành cây to ngay phía trên chỗ cọp đực nằm ngủ. Phải đợi tới gần sáng, nghe tiếng gà rừng gáy, xem chừng yên ắng, chàng Đần mới dám từ từ tụt từ trên cây xuống, cắm đầu cắm cổ chạy một mạch ra khỏi khu rừng. Suốt ngày hôm đó, anh chàng cứ lập cà lập cập vừa đi vừa chạy để mau chóng về tới nhà, trông thấy vợ, mới yên trí là mình còn sống. Nghe kể hết đầu đuôi, chị vợ thoạt đầu cũng rùng mình sởn gáy, nghĩ mà hú vía cho cái đần độn đến thảm hại của anh chồng. Nhưng sau nghĩ thế nào, chị lại bật cười bảo: - Ôi thế là lần này bố nó "khôn" lắm rồi! "Khôn" nhất trần đời đấy! Anh chồng thộn mặt ra trách vợ: - Ô hay! Bu nó còn giễu tôi à? Chỉ thiếu chút nữa là tôi chui vào bụng cọp để "học khôn" đấy! Chị vợ phì cười: - Thế mà bố nó không chui vào bụng cọp mới là "khôn" chứ! Ví thử cứ chúi đầu chúi cổ chạy thêm vài bước nữa xem liệu bố nó có nằm trong bụng cọp rồi không? Thế chả phải là "khôn" nhất trần đời rồi còn gì nữa!... Ôi, đần ơi là đần! "Khôn" đến như thế mà cũng không biết là "khôn" nữa! Anh chồng ngẩn mặt ra. Lần đầu tiên trong đời, suýt nữa chui vào bụng cọp, anh ta mới được chị vợ khen là "khôn"! Chẳng hiểu nghĩ thế nào, anh bỗng ngớ ngẩn nói với vợ: - Thì ra... cái giống "cọp" nó dạy "khôn" nhanh thật đấy, bu nó nhỉ!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-ngoc-hoc-khon" }
Truyện cổ tích Cây Khế
Xưa có một gia đình nọ, người cha và người mẹ mất sớm để lại hai anh em sống với nhau. Người anh thì bản tính tham lam ích kỉ, người em thì ngược lại hiền lành chất phác và luôn biết nhường nhịn. Khi hai anh em lập gia đình, người anh muốn ra ở riêng. Hắn ta nhận hết tất cả nhà cửa ruộng vườn, chỉ để lại cho người em một mảnh đất nhỏ với một cây khế. Người em không một lời ca thán, hai vợ chồng dựng lều trên mảnh đất ấy và hết lòng chăm sóc cho cây khế. Trời không phụ lòng người, năm đó cây khế trong vườn rất sai trái, quả nào quả nấy cũng mọng nước và vàng ruộm. Người em phấn khởi chờ đến ngày đem khế đi bán để lấy tiền đong gạo. Nhưng một hôm, có một con chim lạ rất to từ đâu bay tới ăn khế. Thấy chim ăn trái, người em liền cầm lấy một cây gậy để đuổi chim bay đi. Người em nói: - Chim ơi, vợ chồng ta chỉ có mỗi cây khế này là tài sản đáng giá. Nay chim đến ăn hết khế của ta rồi, chúng ta lấy gì mà sống. Bỗng nhiên, con chim cất tiếng nói: - Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng. Hai vợ chồng người em nghe chim nói tiếng người, cảm thấy vô cùng kỳ lạ, nhưng anh cũng bảo vợ lấy một chiếc áo cũ may chiếc túi ba gang như chim nói. Hôm sau chim lại tới ăn khế, ăn xong chim bảo người em cưỡi lên lưng. Chim bay đi rất xa, bay qua một ngọn núi cao, qua một vùng biển rộng. Cuối cùng chim đáp lại một hòn đảo hoang chứa đầy vàng bạc và châu báu. Người em lấy đủ số vàng bạc vào chiếc túi ba gang rồi lại cưỡi trên lưng chim trở về nhà. Từ ngày đó, người em trở nên giàu có, vì tiền bạc nhiều mà ăn cũng chẳng hết, người em lấy một số ra để giúp đỡ những người nghèo trong vùng. Ai ai cũng yêu quý người em vì tính tình tốt bụng lại biết giúp đỡ người. Người anh thấy người em giàu có bất thường nên mon men sang hỏi chuyện. Người em thực thà kể lại cho anh nghe câu chuyện mình được chim thần chở đi lấy vàng ở hòn đảo nọ. Nghe xong, lòng tham nổi lên, anh ta đòi đổi toàn bộ gia tài lấy mảnh vườn và cây khế của người em. Chiều lòng anh, người em cũng bằng lòng. Vào mùa năm sau, cây khế vẫn tiếp tục sai trái. Một hôm, chim lại bay tới để ăn khế, vợ chồng người anh giả nghèo giả khổ khóc lóc kêu than, chim bèn nói: - Ăn một qủa, trả cục vàng, may túi ba gang, mang theo mà đựng. Người anh mừng quá, giục vợ may túi không phải 3 gang mà là 12 gang để đựng được nhiều vàng. Hôm sau chim thần tới đưa người anh đi lấy vàng. Anh ta bị lóa mắt bởi vàng bạc châu báu trên hòn đảo, nhồi đầy túi rồi, người anh còn cố nhét vàng quanh người. Chim giục mãi anh ta mới chịu leo lên lưng chim để trở về. Đường thì xa, vàng thì nặng, chẳng mấy chốc chim thần đã thấm mệt. Mấy lần chim bảo người anh vứt bớt vàng đi cho nhẹ nhưng anh ta vẫn khăng khăng ôm lấy túi vàng không chịu buông. Khi bay qua biển, bất ngờ có một cơn gió lớn thổi lên, chim không chịu nổi nữa liền nghiêng cánh. Thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi tòm xuống biển...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-co-tich-cay-khe" }
Nợ như chúa chổm
Vào thời nhà Lê, có một ông quan lớn trong triều tên là Mạc Đăng Dung có chí muốn cướp ngôi vua. Nhà vua biết được tin đó nhưng thế lực của Mạc rất lớn, ông ta cầm binh quyền, bè đảng lại đông nên không thể làm gì được. Cuối cùng nhà vua cất lẻn trốn đi nhưng chẳng được bao lâu đã bị Mạc Đăng Dung bắt đem về giam lại. Hồi ấy ở trại giam có một cô hàng rượu vẫn thường gánh rượu đến bán cho lính canh ngục. Một hôm, cô hàng đưa rượu vào bán, thấy có một phạm nhân mới mặt mũi khôi ngô bị giam riêng ra một nơi. Khi biết người đó làm vua, cô hàng có ý muốn làm quen. Mỗi lần bán rượu cho ngục tốt nàng đều rót rượu cho vua uống. Dần dà giữa hai người một mối tình nhóm lên. Một hôm cô hàng cất một mẻ rượu rất ngon lại có pha thuốc mê đem đến chuốc cho quân canh. Chờ cho họ nằm gục xuống, nàng bèn vào tình tự với vua. Từ đó cô hàng rượu có thai. Nhà vua biết mình không thoát khỏi bàn tay tàn bạo của Mạc, bèn giao ấn ngọc lại cho nàng và nói: - Nàng hãy giữ vật này làm tin, nếu sau này đẻ con trai, sẽ có ngày nó phục thù cho cha. Không bao lâu, nhà vua quả bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết. Tất cả hoàng hậu, thái tử, công chúa, phi tần của vua đều chịu chung số phận. Xong việc đó, Mạc chiếm lấy ngôi Lê làm vua nước Đại Việt. Cô hàng rượu được tin không còn hồn vía nào nữa. Nàng trốn đi nơi khác làm thuê làm mướn, sống một cuộc đời lẩn lút. Đủ ngày đủ tháng, nàng sinh được một người con trai đặt tên là Chổm. Lớn lên, Chổm được vào chùa ở với sư cụ Thạch Toàn học kinh kệ. Hắn rất sáng dạ nhưng phải cái nghịch ngợm thì không ai bằng. Một hôm đi chơi về đói, Chổm thấy trước tượng Mụ Thiện có bày một mâm bồng đầy chuối và quýt. Anh chàng rón rén đến bệ, bịt mắt Mụ Thiện lại và bẻ chuối ăn. Bất đồ sư cụ ở đâu đi vào trông thấy liền nọc cổ Chổm ra đánh. Chổm tức lắm, chờ lúc sư đi vắng lấy giấy viết mấy chữ "Mười tay mười mắt không giúp được gì cho ta. Thật là vô ích. Phải đày đi phương xa". Viết xong dán vào ngực Mụ Thiện. Đêm hôm ấy sư cụ tự nhiên mộng thấy Mụ Thiện bảo mình rằng: - Nhà vua đói nên mới ăn, sao lại đánh ngài để ngài đuổi ta đi? Phải mau mau tìm cách xin lỗi ngài, để ngài tha cho ta. Tỉnh dậy, sư cụ rất phân vân, mới gọi chú tiểu Chổm vào kể chuyện cho biết và bảo bóc giấy đi. Sư cụ hỏi anh chàng: - Cha mày đâu? Chổm đáp: - Tôi lớn lên chưa từng nghe nói có cha. Sau đó Chổm trở về hỏi mẹ: - Cha con đâu? Mẹ sợ không dám nói sự thật cho con biết, đáp: - Cha con là họ Lê, bị hổ ăn thịt chết rồi. Nghe nói Chổm rất buồn. Từ hôm đó anh chàng lập tâm giết hổ để báo thù cho cha. Một hôm, Chổm vào rừng chơi, thấy một con hổ đang ngủ dưới gốc cây, liền rón rén cầm một hòn đá lớn ném mạnh vào đầu hổ, hổ vỡ óc chết tươi. Đang nắm đuôi hổ lôi về thì Chổm bỗng gặp một con hổ khác xông ra. Chổm sợ quá, quẳng xác hổ cắm đầu chạy. Nào ngờ khi hổ sắp đuổi kịp thì tự nhiên có một ông già tay cầm côn sắt ở trong rừng hiện ra đánh chết con hổ dữ. Chổm thoát chết, sụp lạy ông già. Ông già trao cho chàng cái côn, bảo: - Con hãy học một ít miếng võ để mà hộ thân. Chổm sung sướng vâng lời. Dạy xong, ông già cho Chổm cái côn rồi đi mất. Từ đó, Chổm dùng côn làm vũ khí tùy thân. Một hôm đi qua một cái miếu, nghe đồn có nhiều yêu quái hại người, Chổm bèn cầm côn trèo tường nhảy vào tìm yêu quái. Một lát, ở trong hang sâu bò ra một con rắn lớn mắt sáng như sao, miệng phun khí độc toan vồ lấy Chổm. Chổm giơ thần côn vụt lấy vụt để vào đầu rắn. Rắn chết, từ đó trong xóm được yên ổn. Hai mẹ con Chổm về sau thấy yên lại trở về chốn cũ. Hàng ngày anh chàng đi kiếm củi hoặc làm thuê làm mướn nuôi mẹ. Những lúc bụng đói, Chổm thường vào ăn cơm hay mua thức ăn ở các quán cơm tại cửa ô. Hàng nào được Chổm vào ăn cơm là hôm đó bán đắt như tôm tươi, còn các hàng khác chỉ ngồi xua ruồi. Người ta cho là Chổm nhẹ vía nên hàng nào cũng muốn mời anh ta vào ăn, dù bán chịu cũng được. Chổm được thể ngày nào cũng đánh chén loang toàng và tiêu pha bạt mạng. Toàn là ăn chịu, mua chịu. Ai hỏi nợ, hắn đều bảo: - Đến ngày tôi làm nên, sẽ xin trả chu tất. Hồi bấy giờ có một vị quan tên là Nguyễn Kim trốn sang Lào mưu đồ việc diệt Mạc. Vua nước Lào nhường cho ông miếng đất Sầm-châu làm căn cứ để lo việc khởi nghĩa. Qua mấy năm chiêu binh mãi mã, Nguyễn Kim đã gây dựng được lực lượng. Nhưng ông ta còn muốn tìm một người thuộc dòng chính thống để bá cáo với thiên hạ. Khốn nỗi, con cháu vua Lê đã bị Mạc giết hại hầu hết. Một đêm nọ Nguyễn Kim thấy một vị thần nhân hiện ra trong giấc mộng bảo ông: - Thiên tử ra đời đã lâu, sao không đón về, còn chờ gì nữa? Ông hỏi: - Ở đâu? - Cứ đi về phía Tây kinh thành, ở dãy hàng cơm đúng ngày thìn giờ ngọ, hễ thấy rồng đen quấn cột là chính thị thiên tử. Sau khi tỉnh dậy, Nguyễn Kim rất mừng, bèn mang theo một ít bộ hạ cải trang đi tìm con cháu nhà Lê theo như lời thần nhân đã mách. Hôm đó, Chổm đang ngồi ở hàng cơm, thấy có người khách lạ đi qua bèn đứng ôm lấy cột nhìn ra. Nguyễn Kim rảo qua một lượt chỉ thấy quấn cột là một chàng trai trẻ tuổi, da đen sì, nhưng thấy dáng điệu hèn hạ nên cũng không để ý. Đêm hôm đó Nguyễn Kim lại mộng thấy thần trách: - Ta đã mách cho biết thiên tử mà không nghe. Ngày mai ra bờ sông, hễ thấy ai đội mũ sắt, cưỡi thuyền rồng là đúng. Ngày mai Nguyễn Kim chực ở bờ sông nhìn những thuyền bè qua lại, nhưng chờ mãi chẳng thấy ai đội mũ sắt cả. Mãi đến gần tối có một chuyến đò ngang, trong đó có Chổm và một người bán chảo gang. Gặp khi trời đổ cơn mưa, Chổm không có nón, phải mượn chiếc chảo úp lên đầu cho đỡ ướt. Nhưng Nguyễn Kim không chú ý vì thấy y không có vẻ gì là người quyền quý. Thần lại xuất hiện trong giấc mộng của Nguyễn Kim trách ông ta không nghe lời mình rồi bảo: -Ngày mai cứ đến chỗ quán cơm cũ tìm người nào "đi chữ đại, trở lại chữ vương" thì đón về. Qua ngày sau, Nguyễn Kim và bộ hạ lại kéo nhau đi tìm. Họ quả thấy anh con trai hôm nọ bây giờ đang rượu say nằm trong quán cơm, đầu gối lên ngọn côn, hai tay bỏ xuôi xuống, hai chân dạng ra hai bên như chữ "đại" 大. Bỏ đi một lúc, đến lúc trở lại họ thấy Chổm cựa mình, lúc này ngọn côn trật lên khỏi đầu, hai tay bỏ ra trước ngực còn hai chân thì xếp bằng tròn như chữ "vương" 王. Bấy giờ Nguyễn Kim mới tin chắc anh chàng này là người thần có ý mách cho mình, bèn giả cách vào quán ăn uống, chờ Chổm dậy sẽ đến làm quen. Chổm chợt tỉnh, thấy một người khăn áo có vẻ quyền quý đến sát giường mình, thì cầm côn chực bỏ chạy. Nhưng Nguyễn Kim đã giữ Chổm lại thưa rằng: - Xin điện hạ đừng sợ. Chổm ngạc nhiên đáp: - Ô hay! Điện hạ nào. Tôi là thằng Chổm đây! Nhưng thấy người quyền quý ấy có vẻ ân cần khi hỏi thăm cha mẹ và chỗ ở, Chổm an tâm hơn trả lời: - Tôi họ Lê, cha bị hổ ăn thịt, còn mẹ ở nhà. Nghe nói là họ Lê, bọn Nguyễn Kim mười phần đã chắc đến bảy tám liền theo Chổm về đến tận nơi. Trước những người khách lạ, mẹ Chổm nửa mừng nửa sợ. Mãi đến khi biết được thiện ý của bọn họ, bà mới đưa ấn ngọc ra và kể rõ tình đầu. Thế là từ đó Chổm cùng mẹ từ giã ngôi nhà nát ở ngoại thành lên đường đến Sầm-châu lo việc phục thù cho cha. Thanh thế quân Lê mỗi ngày một to. Vua Mạc nghe tin sai tướng đem sáu mươi vạn quân vào đánh. Qua bao nhiêu trận kịch chiến, quân Lê đại thắng. Rồi không bao lâu, quân của Chổm tiến đánh ra Bắc. Quân Mạc hễ thấy quân Lê đến đâu là chạy trốn như vịt. Bấy giờ Chổm đường đường là một vị chúa uy thế lẫy lừng. Đến ngày khải hoàn, trở về kinh thành, khi quân gia đang trên đường tiến vào cửa ô thì bỗng có một số người chủ hàng cơm ngày xưa bán chịu cho Chổm, từ đâu kéo ra để chào người quen và để đòi nợ cũ. Thấy thế, bọn lính tiền đạo toan bắt tội vô lễ. Nhưng chúa Chổm ngăn lại rồi kể chuyện ăn chịu ngày còn hàn vi cho các tướng tá nghe. Đoạn bảo quan hầu lấy tiền ra trả cho họ. Lúc đó có nhiều người thấy kẻ kia đòi được nợ cũng xúm lại kể ơn nghĩa cũ: kẻ tính thành năm quan, người kể thành mười,... biến thành một cuộc truy nợ đông như đám hội. Bọn quan hầu đếm tiền mãi không xiết vì con số chủ nợ ngày một tăng. Bọn họ bèn nghĩ ra được một kế là đứng trên kiệu vung tiền xuống cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Mọi người thấy thế đổ xô ra cướp. Dần dần quan quân tiến đến phố cứ như bây giờ là vườn hoa cửa Nam. Một viên đại tướng nghĩ chúa mình sắp lên ngôi tôn mà khách nợ cứ chạy theo réo mãi như thế này thì còn thể thống gì nữa, mới viết vào một tờ giấy hai chữ "cấm chỉ"  dán ở giữa phố và sai một toán quân đóng lại đó, ra lệnh hễ thấy ai còn đòi nợ chúa nữa thì chém ngay. Nhờ thế, người ta mới thôi réo và thôi đuổi theo xe Chổm. Chúa Chổm vào đến hoàng cung thì trời sắp tối. Thấy văn võ bá quan ai cũng mong muốn mình lên ngôi ngay để yên lòng thiên hạ, Chổm bèn ngửa mặt khấn trời rằng: - Hỡi thượng đế, nếu tôi xứng đáng nối nghiệp nhà Lê thì xin quay mặt trời trở lại chính ngọ, bằng không thì tôi sẽ trở về chốn cũ làm ăn, giao quyền vị lại cho người khác. Khấn được một lúc, quả nhiên trời sắp tối bỗng sáng hẳn, mặt trời lại treo giữa đỉnh đầu. Chổm đường hoàng bước lên làm lễ đăng quang tự xưng hoàng đế. Lễ tất, mặt trời tự nhiên kéo một mạch về phương Tây lặn mất. Trời bỗng lại tối sầm như mực; lúc mọi nhà vừa thắp đèn lên thì gà vừa gáy canh. Ngày nay còn có câu tục ngữ Nợ như chúa Chổm và có câu phong dao: Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa Chổm mắc nợ tỳ tỳ, Thác xuống âm phủ khác gì vua Ngô. Ở chỗ vườn hoa cửa Nam bây giờ, cũng do sự tích trên mà người ta còn gọi là "Ngã tư Cấm chỉ"...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/no-nhu-chua-chom" }
Của thiên trả địa
Ngày xưa, có Thiên và Địa là hai anh chàng cày thuê cuộc mướn cùng ở một làng. Họ giống nhau ở chỗ anh nào anh ấy đều nghèo rớt mùng tơi và đều mồ côi cha mẹ. Nhưng Thiên rất sáng dạ, bảo gì hiểu nấy. Một hôm Địa bảo hắn: - Nếu hai ta cùng như thế này cả thì không biết bao giờ mới cất đầu lên được. Sẵn anh là người có khiếu thông minh, nếu được học hành chắc ngày sau sẽ thi đậu làm quan to. Vậy từ nay anh đừng đi làm nữa, tôi sẽ cố sức làm thêm để lấy tiền nuôi anh ăn học. Lúc nào anh làm nên, đôi ta sẽ chung hưởng phú quý. Thiên nhận lời nhưng Địa còn dặn: Lúc nào hiển đạt anh đừng có quên tôi nhé ! Rồi đó Địa trần lực đêm ngày làm thuê để nuôi bạn. Thấy Thiên học mỗi ngày một tiến, anh chàng lại càng hăng hái làm việc, không quản gì cả. Cứ như thế sau mười năm đèn sách, Thiên đậu khoa thi hương rồi vào thi đình đậu luôn Trạng nguyên. Hắn được nhà vua bổ làm quan to, có kẻ hầu người hạ đông đúc, có dinh thự nguy nga, được mọi người trọng vọng. Được tin, Địa rất sung sướng. Lập tức, anh chàng đem trâu cày về trả chủ. Rồi anh bán phăng cái nhà ở lấy một số tiền mua đồ lễ tìm vào dinh bạn. Địa có ngờ đâu khi đến nơi thì Thiên đã thay lòng đổi dạ không muốn nhận lại bạn cũ nữa. Hắn dặn quân canh cấm cửa không cho Địa vào. Địa bị đuổi tủi thân, lủi thủi ra về. Vừa đến bờ sông, anh chàng ngồi lại, nước mắt rơi lã chã nghĩ đến lòng người đen bạc, số phận hẩm hiu, vả bấy giờ về làng cũng không biết ở vào đâu nữa vì nhà đã bán mất rồi. Tự dưng Bụt hiện lên làm một người khách qua đường dừng lại hỏi anh: - Con làm sao mà khóc? Địa kể lể đầu đuôi cho Bụt nghe. Bụt bèn hóa phép cho anh một chiếc đò và dặn rằng: - Con cứ ở đây chở khách qua lại trên sông này cũng đủ ăn, không phải đi làm thuê nữa Địa nghe lời, ở lại đó làm nghề chống đò ngang. Nhưng anh chàng chỉ kiếm vừa đủ nuôi miệng, không để dành được một đồng tiền nào. Cho nên đến ngày giỗ cha chẳng biết lấy gì mà cúng. Chiều hôm ấy, sau khi chở cho mấy người khách sang bờ bên kia, Địa vừa chèo về đến nửa sông đã lại nghe có tiếng gọi đò. Anh lại cho đò trở lại. Khách là một người đàn bà còn trẻ tuổi và rất xinh đẹp. Trời lúc ấy đã nhá nhem, người đàn bà nói với Địa: - Trời đã tối mà đường còn xa, anh làm ơn cho tôi nghỉ nhờ một đêm. Nhà Địa chỉ là một túp lều nhỏ bên sông, trong nhà chỉ có một cái chõng, nhưng anh cũng nhường cho người đàn bà ấy nằm. Thấy Địa toan đi kiếm một nơi khác ngủ, người đàn bà bỗng hỏi anh: - Anh đã có vợ chưa? Địa trả lời: - Chưa - Tôi xin làm vợ anh! Địa rất ngạc nhiên và bỡ ngỡ, không biết trả lời ra thế nào cả. Nàng lại nói: - Tôi là người trên cung tiên. Trời thấy anh là người tử tế mà chịu khổ chịu sở đã nhiều rồi nên cho tôi xuống giúp anh sung sướng. Nói rồi nàng hoá phép biến túp lều bên bờ sông thành một dinh cơ rất đẹp: nhà ngói, tường dắc, hành lang, sân gạch, trong nhà đồ dùng thức đựng đầy đủ, kẻ hầu người hạ từng đoàn. Địa vừa kinh lạ vừa vui sướng. Nàng tiên lại hoá phép làm ra cỗ bàn linh đình để cho anh chàng làm giỗ cúng cha. Sáng hôm sau, nàng tiên bảo Địa hãy mặc đồ gấm vóc, ngồi kiệu đến mời Thiên sang nhà mình ăn giỗ. Lần này Địa được Thiên tiếp đãi có phần tử tế. Nhưng khi nghe nói mời đến nhà ăn giỗ, hắn bĩu môi bảo Địa: - Chú muốn ta đến chơi thì hãy trải chiếu hoa từ đây đến nhà, ta sẽ đến. Địa về kể lại chuyện cho vợ nghe. Nàng tiên lại hoá phép thành chiếu hoa trải một đoạn đường dài từ nhà mình đến dinh Thiên ở. Thiên không ngờ trong thời gian vừa qua Địa cũng trở nên giàu có lớn, mới đến xem cho biết sự tình. Đến nơi, hắn rất lấy làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc của Địa ít có nhà nào bì kịp. Khi ăn giỗ, vợ Địa thân hành ra mời rượu. Thấy nàng đẹp quá, Thiên đâm ra ganh tỵ với hạnh phúc của Địa. Rượu say, hắn nói: - Chú đổi vợ chú cùng cơ nghiệp này cho tôi thì tôi nhường chức quan cùng dinh cơ của tôi cho chú. Không bao giờ Địa lại muốn như thế, nhưng nàng tiên bảo nhỏ xui Địa bằng lòng. Hai bên cùng làm tờ giao ước. Thế rồi sau đó Địa lên võng về dinh, còn Thiên say rượu nằm ngủ một giấc ly bì. Nhưng đến sáng hôm sau, khi bừng mắt tỉnh dậy, hắn ngơ ngác thấy mình nằm ở một túp lều bên sông. Người vợ đẹp cùng cả dinh cơ của hắn ngày hôm qua đã biến đâu mất cả. Từ đó hắn làm nghề chống đò thay cho Địa. Còn Địa hoá ra thông minh khôn ngoan, làm quan sung sướng mãi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cua-thien-tra-dia" }
Cái cân thuỷ ngân
Ngày xưa , có một nhà làm nghề buôn bán, gian tham chế ra một cái cân cán rỗng, trong đổ thủy ngân, hai đầu bịt đồng, không ai biết. Khi cân hàng bán cho người ta thì dốc cán về đằng móc, còn khi cân hàng mua của ai thì dốc cán cân về đằng quả. Như vậy một cái cân vừa nặng vừa nhẹ được, và bao giờ phần lợi cũng về mình. Không bao lâu nhà ấy trở nên giàu có, vì buôn bán lọc lừa. Nhà này sinh ra được hai đứa con mặt mũi khôi ngô, học hành thông thạo. Thiên hạ ai nấy đều khen là nhà có đại hồng phúc. Một hôm hai vợ chồng ngồi bàn với nhau: “Nhà ta bây giờ đã giàu có nhiều, lại được hai đứa con khôn ngoan học giỏi. Bây giờ ta đem phá bỏ cái cân điên đảo kia đi, để dành đức lại cho con về sau”. Bàn xong hai vợ chồng thuận tình làm lễ sám hối, trên thì cúng Phật, dưới cáo cùng tổ tiên, rồi đem cái cân ra chẻ. Khi chẻ ra, thì thấy trong cái cân có đọng một cục máu đỏ. Từ đó hai vợ chồng bảo nhau ăn ở tu nhân tích đức, tránh điều dữ, làm điều lành. Nhưng cách đó hai tháng, bỗng một hôm một đứa con lăn ra chết, rồi không bao lâu, đứa con còn lại cũng lăn ra chết nốt. Hai vợ chồng kêu gào khóc lóc thảm thiết, nghĩ rằng mình đã có bụng cải ác vi thiện mà Trời Phật không chứng quả. Rồi hai vợ chồng rầu rĩ khổ sở, cứ ngồi than dài thở vắn, không buồn động đến việc gì nữa. Một đêm, hai vợ chồng cùng nằm mơ có ông Bụt đến bảo rằng: “Vợ chồng hãy nên lo toan làm ăn tu tỉnh lại, chớ vội ngồi vậy mà trách Trời không có mắt. Trước Trời thấy chúng mày buôn bán lọc lừa, Trời đã sai hai con quỷ xuống đầu thai phá tan cho hết những của phi nghĩa chúng mày chắt bóp nhặt nhạnh bao nhiêu năm nay. May mà chúng mày sớm biết hối hận, cải tà quy chánh, tránh dữ làm lành, Trời mới sai bắt hai con quỷ ấy về. Đừng thương tiếc chúng nó làm chi nữa. Chúng mày cứ ăn ở ngay lành rồi Trời lại đền cho hai đứa con khác để ngày sau mà nhờ”. Hai vợ chồng biết thế, không thương khóc con nữa, lại làm ăn như cũ, và lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm, cố gắng làm bao nhiêu điều từ thiện, phúc đức. Quả nhiên sau lại sinh được hai đứa con trai khác. Hai đứa con hiền lành tử tế, văn hay chữ tốt, rồi sau lớn lên, làm cho cha mẹ được vẻ vang sung sướng trong cảnh già.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cai-can-thuy-ngan" }
Lọ nước thần - Ai mua hành tôi
Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình đang làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: - Đồ chim dữ! Hãy cút ngay! Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật. Một lát sau, con chim đã bay trở lại miệng ngậm một cái lọ bé đặt xuống bên cạnh và nói: - Đây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn thêm, trần gian không ai có. Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng: - Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta dùng. Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ trên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa. Ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai vợ chồng thì rất thương yêu nhau. Một hôm chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm gội rồi tiện tay đổ lọ nước ra bôi khắp tóc tai mình mẩy. Không ngờ sau khi bôi xong chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh. Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe. Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa. Một hôm anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy, bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa, chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!”. Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận. Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận. Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo ngay anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá chúng vội đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than khóc. Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua bèn hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thủy v.v... đua nhau trẩy kinh hy vọng dùng tài phép làm cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu. Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước cửa hoàng cung rao to lên những câu: Dọc bằng đòn gánh Củ bằng bình vôi Ai mua hành tôi Thì thương tôi với! Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn. Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ: - Hãy gọi người hàng hành vào cho ta! Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng; lại thấy những cây hành to lớn lạ thường thì lấylàm kinh ngạc. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười. Vua liền nẩy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng: - Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau! Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rổi quảy gánh qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười nghặt nghẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng: - Mình hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi! Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lo-nuoc-than-ai-mua-hanh-toi" }
Sọ Dừa
Ngày xửa ngày xư­a có 2 vợ chồng đi làm người ở cho 1 gia đình phú ông giàu có từ khi còn nhỏ. 2 vợ chồng sống rất hiền từ như­ng đã ngoài 50 tuổi rồi mà vẫn chưa có một mụn con. Một hôm bầu trời nắng rất gay gắt, ngư­ời vợ phải đi vào trong rừng kiếm củi cho gia đình phú ông, lúc quá khát nước mà người vợ ko tìm đâu ra một chút nư­ớc, sau cùng không còn cách nào khác bà đành phải liều mình uống chút nư­ớc ở trong cái sọ ngư­ời tại dưới 1 gốc cây to. Một điều rất lạ kì, khi uống nước trong sọ vào, bà cảm thấy rất khoan khoái hết sức, mát tới tận ruột gan. Và từ đó bà đã có thai, nhưng một thời gian sau thì người chông mất. Trải qua 9 tháng 10 ngày mang thai bà đã sinh ra 1 cục thịt tròn long lóc có hình dạng như­ cái sọ, có đầy đủ mặt mũi, miệng, tai, như­ng ko hề có chân tay. Người chồng bà thì đã qua đời, lại sinh ra 1 quái thai, bà rất phiền lòng, định mang chôn sống nó đi. Như­ng bỗng cục thịt cất tiếng gọi bà: – Mẹ ơi! Con vẫn là con ng­ười đấy mẹ ạ. Mẹ đừng có vứt bỏ con đi mà khổ thân con ! Bà rất xúc động, ôm cục thịt vào trong lòng và nâng niu cho bú. Bà đặt tên cho đứa con mình là Sọ Dừa. Phú ông nghe tin bà sinh ra một quái thai liền bắt bà mang đi chôn sống, như­ng bà ko chịu. Phú ông bèn đuổi bà ra ở chiếc lều tranh tại góc vư­ờn. Như­ng hằng ngày Phú ông vẫn bắt bà phải đi làm cho nhà ông. Mỗi ngày đi làm về bà mang phần cho Sọ Dừa 1 nắm cơm. Sọ Dừa lớn nhanh như thổi và càng ngày càng hiểu biết, khôn ngoan. Hàng xóm và những ng­ười xung quanh lâu ngày cũng quen dần và ngày một yêu quý Sọ Dừa hơn. Hàng ngày, khi người mẹ đi làm cho nhà phú ông thì Sọ Dừa biến thành 1 cậu bé rất xinh xắn, quét dọn nhà cửa ngăn nắp đâu vào đấy, sau đó lại chui vào cái sọ như­ cũ. Lúc đầu bà mẹ thấy rất lạ kì, như­ng theo dõi mãi ko thấy chuyện gì cho nên cũng đành thôi. Một hôm bà mẹ buồn rầu nói với Sọ Dừa rằng: – Nhà người ta, khi con lên 7 lên 8 đã biết cách dắt bò dắt trâu đi chăn, con thì mẹ không trông đợi đư­ợc gì! Phú ông có 1 đàn dê, cần tìm ngư­ời nào đó mang đi chăn mà mẹ vẫn chư­a tìm đ­ược ai. Sọ Dừa nói với mẹ: – Mẹ ơi, con có thể chăn được, mẹ nói với Phú ông cho con đi chăn đi ! Thấy Sọ Dừa quả quyết là mình sẽ làm tốt công việc, bà mẹ mạnh dạn đi sang nhà phú ông để thưa chuyện. Ban đầu phú ông còn có chút hơi e ngại nhưng về sau ông ta cũng đồng ý cho Sọ Dừa được chăn thử một vài hôm, nếu làm tốt ông ta mới mướn. Người mẹ thấy phú ông chập nhận cho Sọ Dừa chăn thử nên rất vui mừng. Quả nhiên Sọ Dừa chăn rất giỏi, con nào con nấy cũng no căng bụng béo tốt. Phú ông rất ưng vì đàn dê của ông ta ngày càng béo, Sọ Dừa thì lại ăn rất ít, ngày chỉ hai nắm cơm nhỏ. Sọ dừa đem đàn dê đi chăn ở dãy núi khá xa làng, hàng ngày phú ông giao cho ba người con gái của ông ta thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai người chị thì lúc nào cũng xa lánh Sọ Dừa, mang cơm đến họ chỉ để dưới gốc cây gần đó rồi gọi, mặc cho Sọ Dừa tự lăn tới ăn. Còn cô con gái út, lần nào cô cũng mang cơm tới tận nơi cho Sọ Dừa. Một hôm, cô út mang cơm cho Sọ Dừa, khi cô lại gần chỗ Sọ Dừa và bầy dê thì cô nghe văng vẳng tiếng sáo véo von, khi trầm khi nhặt làm cho cô cảm thấy xao xuyến. Không thấy Sọ Dừa đầu, cô chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú tuổi trạc mười bảy đang nằm trên chiếc võng đào miệng thổi sáo. Thấy có người đến chàng trai lại trở lại hình dáng Sọ Dừa lăn lông lốc. Kể từ khi đó, cô út biết rằng Sọ Dừa không phải người trần, cô đem lòng thầm yêu trộm nhớ Sợ Dừa, có thức ăn ngon, cô lại mang thật nhiều tới cho Sọ Dừa. Thế rồi, bỗng một hôm, Sọ Dừa đòi mẹ đi tới nhà phú ông xin hỏi một trong ba người con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ đang uống giở hụm nước cũng phải phì cười nói: – Con ơi, con gái phú ông cả ba đều xinh đẹp, ai lại chấp nhận lấy mày, nhiều trai làng hỏi mà ông ấy còn không ưng. Sọ Dừa vẫn tha thiết năn nỉ mẹ mình. Để chiều lòng đứa con, bà cũng đành phải kiếm một buồng cau rồi liều mình sang hỏi nhà phú ông. Vừa nghe xong bà trình bày, phú ông cười mỉa một cái rồi nói: – Nếu như nhà mụ đủ khả năng sắm đủ những lễ vật mà ta yêu cầu thì ta sẽ gả một trong ba đứa cho con trai mụ. Lễ vật gồm có một chĩnh vàng cốm, 10 tấm lụa đào, 10 con heo thật béo, 10 thùng rượu tăm. Và phải có một căn nhà ngói năm gian để cho con gái ta về ở, chứ ta không thể để nó sống trong ngôi nhà rách nát của mụ được. Phú ông nghĩ trong bụng rằng thách thế thì nó có làm cả đời cũng chả đủ tiền sắm lễ. Bà mẹ trở về nhà, bảo với con trai: – Con à, phú ông thách cưới cao lắm, nhà mình không sắm nổi đâu con. Thôi con từ bỏ ý định cưới con gái phú ông đi. Nghe xong người mẹ kể về những lễ vật phú ông thách. Sọ Dừa nói: – Mẹ cứ yên tâm, con sẽ có cách lo đầy đủ lễ vật. Quả nhiên ngày hôm sau, Sọ Dừa đã sắm đầy đủ tất cả những lễ vật mà phú ông yêu cầu, bà mẹ tỉnh dậy mà cứ tưởng mình nằm mơ vì căn nhà lá đã biến mất được thay thế bằng ngôi nhà ngói 5 gian đẹp đẽ, bà thì đang nằm trên một chiếc giường có đủ chăn hoa nệm gấm. Ngoài sân, mấy chục người hầu hạ quần áo đầy đủ màu sắc đã sẵn sàng cùng hai mẹ con sang nhà phú ông hỏi vợ. Đến lúc này phú ông không còn cách để từ chối, nhưng ông ta nghĩ có đủ lễ vật thì ba đứa con gái ông ta chắc chẳng có đứa nào đồng ý lấy thằng người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm đấy cả. Phú ông cho gọi ba cô con gái ra hỏi lần lượt: – Nào con gái lớn của ta, con có đồng ý lấy Sọ Dừa con trai mụ ta làm chồng không Cô ta bĩu môi một cái rồi quay ngoắt đi vào trong phòng Phú ông hỏi tiếp cô con gái thứ hai: – Giờ đến con đấy con gái, con có đồng ý lấy thằng Sọ Dừa làm chồng không? Cô ta cũng như người chị mình, cười một cái khinh bỉ rồi buông câu: – Con có điên đâu cha mà đi lấy thằng đó làm chồng Đến cô con gái thứ ba, phú ông hỏi: – Giờ chỉ còn con thôi con gái, con có đồng ý không? Cô út nhỏ nhẹ đáp: – Dạ thưa cha, con đồng ý! Phú ông rất ngạc nhiên miệng há hốc, nhưng ông ta giờ đây phải đồng ý vì lễ vật đã đủ, người cũng đã thuận. Chiều hôm ấy, Sọ Dừa đón dâu về nhà. Lễ cưới được tổ chức linh đình, Sọ Dừa cho mời tất cả lối trên xóm dưới tới dự, tiếng cười nói rôm rả. Đến tối, khi các cây nến đã thắp sáng trưng nhà trên nhà dưới thì không ai thấy Sọ Dừa đâu cả, từ phòng bên bước ra là một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú với nét mặt sáng ngời, chàng trai nắm tay cô dâu và nói: – Thưa các cụ, thưa các bác các anh chị cùng bà con hai họ, tôi là Sọ Dừa. Vợ chồng tôi xin được cảm tạ tấm lòng của mọi người đã đến chung vui cùng chúng tôi trong ngày trọng đại này. Bà mẹ ôm trầm lấy cô con dâu, mừng rỡ không nói lên lời. Tất cả mọi người ai nấy cũng rất vui mừng, mừng vì Sọ Dừa được làm người, mừng vì cô con gái út phú ông lấy được người chồng tốt. Riêng chỉ có hai cô chị là tức tối đố kị với cô em gái mình. Sau khi cưới vợ, Sọ Dừa rất chăm chỉ dùi mài kinh sử, đến kì thi bảng, Sọ Dừa đã đỗ trạng nguyên và được nhà vua rất trọng dụng vì chàng tài trí hơn người. Một thời gian sau thì người mẹ già yếu qua đời, quan trạng Sọ Dừa từ kinh đô trở về chịu tang mẹ được ít hôm sau thì nhận được chiếu chỉ của nhà vua phải đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho người vợ một con dao, một hòn đá lửa, 2 quả trứng gà và dặn dò kĩ phải luôn mang 2 thứ đó bên mình để phòng thân, sẽ có lúc dùng tới. Hai người chị gái đem lòng ghen ghét đố kị đã lâu vì thấy em gái lấy được người chồng vừa tuấn tú, lại giỏi giang quyền cao chức trọng. Giờ chúng lập mưu hãi hại em chiếm chồng. Một hôm, hai người chị rủ em gái mình đi chơi thuyền trên biển, khi thuyền đã ra xa, hai người chị đẩy thuyền em ra xa, giấu hết tay chèo làm cho thuyền cô em út chìm nghỉm.Một con cá kình đã nuốt chửng cà thuyền và người vào trong bụng nó. Nhớ tới 3 vật người chòng đã dặn kĩ mang theo bên mình, cô lấy con dao đâm vào bụng cá, con cá vùng vẫy một lúc rồi nổi lềnh phềnh trên mặt nước. Xác cá trôi vào bờ một hòn đảo hoang, cô khoét bụng cá rồi chui ra. Sẵn sao, cô xẻ thịt cá ra làm nhiều miếng, phần thì phơi khô, phần cô muối để ăn dần. Cô dùng hòn đá lửa đánh để lấy lửa sưởi ấm và nấu chín thức ăn. Hai quả trứng gà trong bọc đủ ngày đủ tháng đã nở thành hai con gà một trống một mái. Ngày tháng dần trôi, cô một mình sống trên hoang đảo, con gà mái đẻ rất nhiều trứng, đàn gà cứ thế mà đông dần. Bỗng một buổi chiều, cô nghe thấy con gà trống gáy: – ó ò o!… phải thuyền quan Trạng rước cô tôi về! Cô chạy ra thì thấy có một chiếc thuyền lớn đang tiến tới đảo. Cô mừng lắm vì thấy mình cũng sắp được cứu trở đất liền. Con thuyền mỗi lúc một gần, nhìn lên mui thuyền cô nhận ra ngay đấy chính là chồng mình Sọ Dừa . Gặp nhau hai vợ chồng ôm trầm lấy mừng rỡ không nói lên lời. Hai vợ chồng lên thuyền trở về nhà, được nghe vợ kể lại chuyện, Sọ Dừa căm phẫn lắm. Vừa về tới nơi, Sọ Dừa giấu vợ vào phòng không cho ai biết, bên ngoài chàng cho mở tiệc linh đình, mời cả hai họ lẫn bà con lối xóm tới dự mừng ngày trở về. Hai người chị gái thấy chồng em trở về nên ăn mặc rất lộng lẫy, trang điểm kĩ càng sang dự tiệc nhằm lôi cuốn sự chú ý của Sọ Dừa. Vừa ngồi vào mâm, cả hai đã thi nhau kể việc em mình bị chết đuối ra sao, hai chị cố gắng cứu em thế nào nhưng vẫn không được. Sọ Dừa vẫn chỉ cười không nói gì, đang lúc tiệc rất vui, Sọ Dừa đứng lên xin phép mọi người được vào trong buồng dẫn ra một người bạn để chào hai họ và dân làng. Trong buồng, cô út bước ra trước sự ngỡ ngàng. Hai người chị thấy em gái bủn rủn chân tay, nhân lúc mọi người đang mừng rỡ cô út vẫn còn sống trở về thì cả hai lẻn ra ngoài trốn đi biệt tích.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/so-dua" }
Bụng làm dạ chịu
Ngày xưa, có một anh chàng vô công rồi nghề, ngày ngày chỉ biết ăn bám vợ và khoác lác. Người vợ rất lấy làm bực mình vì phải nai lưng ra làm nuôi chồng và ba đứa con. Một hôm, chị vợ bắt anh ta phải đi học một nghề gì để nuôi thân vì mình không cáng đáng nổi nữa. Anh chàng đi lang thang suốt buổi, hết đứng bụi này lại ngồi bụi kia chả học nghề ngỗng gì cả, cho đến xế trưa lại về. Trước khi vào nhà, hắn đứng nấp sau vách có ý nghe ngóng xem vợ có nói xấu gì mình chăng. Vừa khi người vợ đi chợ về mua được năm tấm bánh gói, chia cho ba đứa con mỗi đứa một cái. Còn lại hai cái, mẹ bảo con đưa vào buồng cất vào trong vại gạo cho cha. Nghe thấy thế, anh ta rất thích, chờ một lúc lâu mới giả bộ đi từ phía cổng bước vào nhà. Vợ hỏi: - Đã tìm được nghề gì chưa? - Đã, hắn đáp. - Nghề gì mà học nhanh thế? - Tao đi dọc đường gặp một ông thầy hít, ông ấy dạy cho tao bói bằng cách hít. Bây giờ có cái gì cất giấu ở đâu, tao chỉ dùng lỗ mũi hít hít mấy cái là tìm ra ngay. Nào, có cái gì cần tìm để tao làm thử cho mà xem? Vợ tiếp lời ngay: - Vậy thì tôi có mua cho hai cái bánh còn cất đi một nơi, cứ hít cho ra mà ăn, như không tìm được thì nhịn vậy! Thế là anh chàng ngước mũi lên giả bộ hít mấy cái, rồi nói: - Đúng rồi, nó ở trong vại gạo. Rồi hắn chạy vào lấy bánh ra ăn trước con mắt kính phục của vợ con. Người vợ tưởng thật, mừng quá, vội chạy đi loan báo với xóm giềng rằng chồng mình học được nghề thầy hít, thử đoán một việc thấy hay như thần. Từ nay ai có một cái gì cứ đến nhờ anh ấy tìm hộ. Hôm ấy, trong xóm có một bà mất một ổ lợn con, kiếm khắp mọi nơi không thấy. Nghe nói thế, bà ta vội chạy đến khẩn khoản nhờ tìm. Thật là may cho anh chàng, vì lúc đứng nghỉ ở một bụi tre dọc đường, hắn đã trông thấy bầy lợn con chạy lạc vào đó. Hắn ta mừng quá, bảo bà già: - Nếu kiếm được thì bà sẽ cho tôi những gì! Bà ta hứa cho hai con lợn con. Anh ta cũng giả vờ hít mấy cái rồi dắt bà đến ngay chỗ có lợn. Bầy lợn được tìm ra ngay và sau đó anh được chia hai con như lời chủ nhân đã hứa. Vợ thấy chồng chỉ học một nghề giản dị mà làm ra của dễ dàng thì sung sướng quá, vội chạy về khoe với cha mẹ đẻ. Người cha nghe nói con rể học được phép lạ cũng có ý hâm mộ. Ông ta nói riêng với vợ: - Bà cứ bảo gọi rể sang đây. Nếu nó chỉ đúng món tiền chôn ở gốc táo sau vườn thì cho nó một nửa. Ông ta không ngờ chàng rề của ông đã lén theo vợ sang từ lúc nãy và đứng nấp ở một góc nhà. Nghe cha vợ bảo thế, anh ta lén chạy một mạch về nhà rồi giả cách nằm ngủ. Khi vợ và mẹ vợ về, phải thức mãi hắn mới chịu dậy. Thế là anh chàng theo sang nhà ông nhạc, chỉ đúng chỗ chôn của, và được thưởng một nửa số tiền chôn. Từ đó tiếng đồn về thầy hít lan đi rất nhanh. Cũng vào thời gian ấy trong hoàng cung bỗng xảy ra một vụ trộm lớn. Nhà vua mất trộm một con rùa vàng và một con rùa bạc là hai món bảo vật của vua Trung-quốc tặng. Trong cung rối rít cả lên, chả có cách gì tìm ra thủ phạm cả. Vừa nghe tiếng đồn có thầy hít đại tài, vua vội sai quân lính đi mời về cho bằng được. Khi thấy sứ giả đến nhà triệu mình, anh chàng vô cùng hoảng hốt. Chót đánh lừa mọi người, anh ta không còn biết than thở với ai cả. Nằm trong cáng dọc đường về kinh đô, anh ta nghĩ bụng: - Thôi phen này thì bay đầu đến nơi rồi! Anh chàng buồn quá, tưởng tượng những nhục hình đang chờ mình ở cung vua mà rụng rời chân tay. Vì thế khi qua sông, anh ta nhảy đại xuống nước, nghĩ rằng thà chết ở đây còn hơn bị kìm kẹp khổ thân. Hai người lính khiêng cáng sợ rằng hắn chết thì tai vạ sẽ đổ lên đầu mình, bèn chia nhau lặn xuống nước tìm và cuối cùng cũng lôi được anh chàng lên bờ. Khi tỉnh lại, hắn ta rất thất vọng, nhưng cũng làm bộ giận, mắng hai người đó: - Tao xuống để hỏi vua Thuỷ tề xem ai là thủ phạm chứ có can gì mà chúng mày hốt hoảng lên như thế. Nhưng trong bụng anh ta nghĩ: - Thế là muốn thoát cũng không thoát nổi. Biết tính làm sao bây giờ? Anh chàng lại nằm lên cáng cho hai người kia khiêng đi, miệng lẩm bẩm mấy tiếng: - Bụng làm dạ chịu, chớ khá than van! Không ngờ hai người khiêng cáng mà vua sai đi: một người tên là Bụng và một tên là Dạ. Hai đứa đã đồng mưu ăn trộm hai con rùa của vua. Tang vật hiện còn giấu trên máng nhà, chưa đưa đi thoát được. Nay nghe thầy hít lẩm bẩm như thế, tưởng là thầy đã hỏi vua Thủy tề biết rõ cơ sự rồi, bọn họ bèn hạ cáng xuống và lạy thầy như tế sao. Cả hai thú tội cho thầy nghe rồi cuối cùng xin thầy làm ơn giấu giùm, nếu không sẽ khó mà thoát án tử hình. Nghe đoạn, thầy như mở cờ trong bụng, vội hứa để bọn họ an tâm. Khi gặp vua, anh chàng lại giở giói phép hít của mình và quả nhiên tìm được hai bảo vật còn giấu ở trên ống máng. Nhà vua thán phục tài năng của anh, tặng thưởng rất hậu, lại ban cho tước lớn. Anh ta về nhà chưa được bao lâu thì bỗng một hôm được sứ Trung quốc tìm đến tận nhà ngỏ lời mời mọc khẩn khoản. Số là trong cung cấm của hoàng đế Trung-quốc vừa xảy ra một mẻ trộm rất lớn. Nhiều món bảo vật quý giá nhất trần đời đều bị bọn người táo gan lấy mất. Nhiều thầy bói được vời đến cung nhưng chả nên tích sự gì cả. Nay nghe tiếng có thầy hít Việt-nam đại tài nên phái sứ giả sang mời tìm hộ. Nếu tìm được bảo vật, hoàng đế sẽ ban tứ rất hậu. Anh chàng lần này lại lo sốt vó, có thể nói hơn cả mấy lần trước. Vừa qua một khúc sông, anh ta đã nhảy ngay xuống nước định tự vẫn như lần trước. Không ngờ người ta lại cứu được lên. Nhưng lần này không hiểu anh ta nhảy thế nào mà khi lên bị sứt một một bên mũi. Hồi tỉnh lại, anh chàng chỉ cái mũi sứt nói với sứ giả Trung-quồc rằng: - Tôi nhờ có cái mũi này mới làm ăn được. Nay con cá nóc đã cướp mất sự mầu nhiệm của tôi rồi, còn gì mà sang nữa. Sứ giả không biết nói thế nào, đành phải để cho anh ta trở lại nhà.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bung-lam-da-chiu" }
Truyện cổ tích Tấm Cám
Ngày xửa ngày xưa , có hai chị em cùng cha khác mẹ, chị tên là Tấm, em tên là Cám. Mẹ Tấm mất sớm, sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua đời, Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám. Bà mẹ kế này rất cay nghiệt, bắt Tấm phải làm hết mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc chăn trâu cắt cỏ. Trong khi đó Cám được nuông chiều không phải làm gì cả. Một hôm bà ta cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng xúc tép, còn hứa: - Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ. Ra đồng, Tấm chăm chỉ bắt được đầy giỏ, còn Cám thì mải chơi nên chẳng bắt được gì. Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị : - Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng. Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu. Nghe tiếng khóc của Tấm, Bụt liền hiện lên hỏi : - Làm sao con khóc ? Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: - Thôi con hãy nín đi ! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không? Tấm nhìn vào giỏ rồi nói : - Chỉ còn một con cá bống. - Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này: Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người. Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy ! Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày càng lớn lên trông thấy. Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe. Tối hôm ấy mụ dì ghẻ lấy giọng ngọt ngào bảo với Tấm: - Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu. Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt. Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng, Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: - Con làm sao lại khóc ? Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: - Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi ! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm. Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm : - Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bưới xương cho ! Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời bụt dặn. Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem, trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bẩy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài, sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm: - Khi nào nhặt riêng gạo và thóc ra hai đấu thì mới được đi xem hội. Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm tủi thân òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: - Làm sao con khóc? Tấm chỉ vào cái thúng, thưa: - Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội, lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem. Bụt bảo: - Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp. - Nhưng ngộ nhỡ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn. - Con cứ bảo chúng nó thế này: Rặt rặt (con chim sẻ) xuống nhặt cho tao Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu. Bụt vừa dứt lời, ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo: - Con làm sao lại khóc? - Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội. - Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội. Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một cái áo mớ ba, một cái áo xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi hài thêu. Đào lọ thứ ba thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuông đất bỗng chốc nó đã hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn. Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một cây cầu đá, Tấm đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không cách nào mò lên được. Khi đoàn xa giá chở vua đi qua cầu, con voi ngự bỗng nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem, họ mò được một chiếc hài thêu rất tinh xảo và xinh đẹp. Vua ngắm nghía chiếc hài hồi lâu rồi hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giầy. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chẳng có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ: - Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử hài đấy! Mụ dì ghẻ bĩu môi: - Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre! Nhưng khi Tấm đặt chân vào hài thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc hài giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám. Tuy sống sung sướng trong hoàng cung. Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bùng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm: - Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố. Tấm vâng lời trèo lên cây cau, lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi : - Dì làm gì dưới gốc thế ? - Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con. Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây cau đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng không biết phải làm thế nào cả. Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim Vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, Vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó: - Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao. Rồi chim Vàng anh bay thẳng vào cung rồi đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo: - Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo. Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mải mê với chim, không tưởng đến Cám. Cám vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt chim làm thịt nấu ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc vọng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào Vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào. Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp: - Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ. Nhưng khi khung cửi đóng xong. Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình : Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị. Chị khoét mắt ra Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó đem tro đã đốt đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước gần đó có một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm: - Thị ơi thị à, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn. Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉng thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm. Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ. Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà bán hàng. Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung, Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền hỏi : - Trầu này ai têm? - Trầu này con gái lão têm - bà lão đáp. - Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt. Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung. Cám Thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa, thì không khỏi ghen tỵ. Một hôm, Cám hỏi chị : - Chị Tấm ơi, chị Tấm! Chị làm thế nào mà đẹp thế ? Tấm không đáp, chỉ hỏi lại: - Có muốn đẹp không để chị giúp ! Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng: - Ngon ngỏn ngòn ngon ! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng. Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì kinh hoàng lăn đùng ra chết....
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-co-tich-tam-cam" }
Em bé thông minh
Ngày xửa ngày xưa, thưở ấy ở nước ta đang cần người hiền tài giúp nước, các quan trong triều cũng đã già cả rồi, sức không còn nhiều, nhà Vua bèn sai một viên quan đi dò la khắp nước để tìm ra người tài giỏi cùng vua lo toan việc nước. Viên quan đã đi khắp nơi, ngựa cũng đi nhiều cũng đã gầy róc đi, nhưng vẫn chưa tìm được người ưng ý. Đi đến đâu ông cũng ra những câu đố hóc búa để tìm người tài nhưng chưa ai giải được câu đố của ông. Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, ngựa đi lâu cũng đã mệt, ông ngồi nghỉ ngơi bên vệ đường, tiện cho ngựa ăn ít cỏ. Thấy hai cha con đang làm ruộng, người cha gầy gò đang đánh trâu cày, đứa con chừng 7 - 8 tuổi đang đập đất. Ông bèn hỏi: - Này ông kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? Người cha ngơ ngác suy nghĩ không biết trả lời quan sao cho phải, thì đứa con đã nhanh nhảu: - Quan cho con hỏi quan trước đã: Nếu quan trả lời được ngựa của quan đi một ngày được mấy bước thì con sẽ cho quan biết trâu nhà con một ngày cày được mấy đường. Viên quan nghe thấy cậu bé đáp thế thì ngạc nhiên lắm, lúng túng không biết phải làm sao, trong bụng quan thì mừng thầm “Chắc chắn cậu bé này lớn lên sẽ là người tài rồi, ta việc chi phải tìm kiếm gì cho mệt nữa”. Thế rồi quan hỏi tên họ quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua. Thấy viên quan hào hứng trở về, lại tâu đã tìm được người tài thì mua mừng lắm, nhưng để biết cậu có thật thông minh, vưa bèn sai người mang cho làng đó ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh năm sau làng phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con. Nếu không nộp đủ thì làng phải chịu tội. Dân làng nghe chiếu vua ban thì mừng ít mà lo thì nhiều, mừng vì làng cũng được vua để tâm tới, ắt sau này sẽ được hỗ trợ, nhưng ba trâu đực kia đẻ sao được chín trâu cái đây? Bao nhiêu cuộc họp làng mở ra, bao nhiêu ý kiến vẫn không giải quyết được vấn đề nhà vua ban, chưa bao giờ làng lại hối hả và sục sạo như thế, tất cả cho đó như là một tai vạ sắp xảy ra. Việc đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha: - Cha ơi, chẳng mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng bán đi làm lệ phí cho hai cha con ta lên đường trẩy kinh. - Trâu vua ban mà dám ăn thịt thì chẳng phải một năm nữa mà mai cả làng sẽ phải chịu tội luôn đấy con ạ. Con đừng có dại. Cậu bé cười và quả quyết: - Cha cứ tin ở con, con biết tự lo liệu mà, thế nào cũng xong xuôi. Người cha nghe lời con mình ra đình gặp các bô lão trong làng để trình bày câu chuyện. Khi nghe người cha nói thế, cả làng vẫn còn rất ngờ vực nên bắt hai cha con phải làm một tờ giấy cam đoan. Nếu hai cha con làm thì mới ngả trâu để đánh chén. Mấy hôm sau, hai cha con thu xếp đồ đạc rồi tìm đường lên kinh. Đến hoàng cung, đứa con bảo người cha cứ ở ngoài đợi tin chiến thắng, còn mình thì nhanh trong lúc mấy tên lính canh bất cẩn sơ hở đã lẻn vào bên trong sân rồi la khóc um tùm. Nghe thấy tiếng trẻ con la khóc, nhà vua sai quân lính ra điệu thằng bé vào để hỏi chuyện. Nhà vua hỏi: - Thằng bé kia, nhà ngươi gặp chuyện gì mà lại đến sân của ta la khóc om sòm như thế? Chú bé đáp: - Tâu đức vua, mẹ con thì mất sớm, cả nhà chỉ có mỗi con và cha con. Vậy mà cha con không chịu đẻ em bé để con có người chơi cùng, chính vì vậy mà con khóc ạ. Mong đức vua ban lệnh bắt cha con đẻ em bé cho con được nhờ ạ. Nghe thấy cậu bé nói vậy cả nhà vua và các vị quần thuần ai nấy cũng đều cười lắc cười lẻ. Vua phán tiếp: - Nếu ngươi muốn có em bé để chơi cùng thì phải bảo cha của ngươi cưới vợ khác. Chứ cha ngươi là giống đực sao đẻ con được! Cậu bé bỗng tươi tỉnh nói: - Thế vậy sao vua lại lệnh cho làng con nuôi ba con trâu đực bắt chúng đẻ ra chín con trâu con để nộp cho ngài. Trâu đực là giống đực thì làm sao mà đẻ được. Nhà vua cười bảo: - Đấy là ta thử tài trí nhà ngươi thôi. Thế mà cả làng không biết đem 3 con trâu đó mà ngả thịt ăn mừng với nhau à? Cậu bé nói: Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết đây là lộc vua ban nên cả làng đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi ạ. Nhà vua đã phải công nhận rằng, tên quan được cử đi tìm kiếm người tài đã nói đúng, cậu bé này rất thông minh lỗi lạc. Nhưng nhà vua vẫn muốn thử thách cậu bé thêm một lần nữa. Sang đến ngày hôm sau, khi hai cha con cậu bé đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ nhà vua đem đến một con chim sẻ và nói: Nhà vua lệnh cho hai cha con ngươi phải thịt con chim sẻ này để dọn thành 3 cỗ thức ăn. Cậu bé nhanh trí bảo cha mình lấy ra một chiếc kim khâu và nói với sứ giả: - Ông cầm lấy chiếc kim này về và tâu với đức vua rằng, hai cha con ta muốn xin đức vua hãy cho người rèn chiếc kim này thành một con dao để hai cha con ta có thể xẻ thịt chim. Sau khi sứ về tâu lại với đức vua, nhà vua phục hẳn tài trí của cậu bé. Lập tức nhà vua cho gọi hai cha con vào cung và ban thưởng rất hậu hĩnh. Hồi đó, nước láng giềng luôn âm mưu xâm chiếm nước ta. Để dò la xem bên này có nhân tài hay không, họ đã sai sứ giả sang và mang theo một câu đố rất oái oăm: “Làm cách nào để xuyên một sợi chỉ mảnh qua một con ốc xoắn rỗng hai đầu?” Sau khi nghe sứ thần nói về mục đích ghé thăm lần này, tất cả vua quan đều đưa mắt nhìn nhau. Nếu như không trả lời được câu đố đó, thì sẽ tỏ ra thua kém và lép vế trước nước láng giềng, càng chứng tỏ đất nước không có người tài. Các đại thần vò đầu bứt tai suy nghĩ, người thì thử dùng miệng để hút cho sợi chỉ lọt qua, có người thì bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu hơn vv… Nhưng tất các các cách trên đều vô dụng. Bao nhiêu quan trạng đều bó tay, cuối cùng để có thêm thời gian cử người đi hỏi cậu bé thông minh, nhà vua nghĩ ra cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán một ngày cho đỡ mệt đường xa. Một viên quan phi ngựa cầm theo dụ chỉ của nhà vua đến nhà cậu bé thông minh. Đúng lúc đó thì cậu và các bạn đang đùa nghịch ở sau nhà. Sau khi nghe viên quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả nước láng giềng, cậu bé không đưa ra câu trả lời mà chỉ hát lên một câu hát: Tang tính tang! Tính tình tang! Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng, Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang… Rồi cậu bé bảo: - Tôi không nhất thiết phải cùng ông trở về triều làm gì. Cứ theo câu hát của tôi tức khắc sợi chỉ sẽ lọt qua con ốc! Viên quan sung sướng phi ngựa trở về triều tâu lại với đức vua. Nhà vua và các quần thần như được cứu một nước cờ thua trông thấy. Quả nhiên con kiến đã xâu được sợi chỉ xuyên qua ruột ốc trước con mắt kinh ngạc của sứ giả nước láng giềng. Kể từ lần đó, nhà vua đã phong cho cậu bé làm trạng nguyên, sai người xây riêng một dinh thự cho cậu bé gần bên cạnh hoàng cung để tiện hỏi han khi cần.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/em-be-thong-minh" }
Sự tích hồ Ba Bể
Vào hồi đó ở xã Nam-mẫu có mở một hội "vô già" cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem. Ai nấy đều lo ăn chay niệm Phật và làm những việc từ thiện như buông cá, thả chim.v.v... để cầu phúc trong mấy ngày hội. Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày. Người ta không biết mụ ta từ đâu đi lại. Bộ dạng thật là gớm ghiếc: những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều thào mấy câu: - Đói lắm các ông các bà ơi! Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy vẻ cầu khẩn Nhưng mãi đến chiều, người đàn bà đó vẫn chả được tý gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi. Đám trẻ tuổi nhất là các cô gái cho mụ là hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là họ xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng "Nam mô Phật" lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội. Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy thất thểu bước vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà nào mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi. Mấy nhà giàu có đóng chặt cửa lại và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp hai mẹ con bà góa vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn mày tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà lấy cơm nguội cho ăn. Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin ngủ ngờ một đêm vì mọi chỗ, người ra đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở một cái chõng cho mụ ngả lưng. Còn mẹ con thì nằm tạm ở một chỗ khác. Người đàn bà vừa nằm ngủ liền, tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở của mình cách biệt với làng xóm, không biết kêu cứu ai, đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi. Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra chả thấy giao long đâu cả. Trên chõng, mụ ăn mày đã dậy và sắp sửa ra đi. Trước khi từ biệt, mụ bỗng lên tiếng: - Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật. Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc xung quanh chỗ ở và nội trong đêm hôm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh. Người mẹ băn khoăn hỏi thêm: - Nhưng làm thế nào để cứu mọi người được? Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo một hạt thóc ra cắn tách đôi vỏ trấu đưa cho hai mẹ con và nói: - Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con ngươi làm việc thiện. Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe nói chỉ mỉm cười cho là một chuyện bâng quơ. Quả nhiên tối hôm đó giữa đám hội náo nhiệt, lúc thiện nam tín nữ đang tấp nập lễ bái thì bất ngờ có một dòng nước từ dưới đất phun lên chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng mạnh làm lở dần đất xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện nên càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng một cái ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa. Ở dưới chân họ đất nứt nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc một tiếng ầm dữ dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều chỉm nghỉm, nước tung tóe mù trời. Một con giao long to lớn từ mặt nước nhô lên bay vòng quanh xã Nam-mẫu. Trong khi đó thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc một nâng cao hơn mực nước. Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc thuyền. Thế rồi, mặc gió mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những người bị nạn. Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba-bể ở Bắc cạn, còn cái nền nhà ấy tức là một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ mà người địa phương gọi là Pò-già-mải.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ho-ba-be" }
Rạch đùi giấu ngọc
Ngày xưa, một ông vua nước ngoài có một viên ngọc vô cùng quý giá. Viên ngọc có hai điều lạ: một là cầm trên tay tưởng chừng rất nhẹ, thế nhưng đặt vào đâu thì ở đấy nặng trĩu; hai là đêm đến ngọc tỏa ánh sáng rực, dẫu cất chỗ kín thế nào đi nữa, ánh sáng vẫn cứ lọt ra ngoài. Từ lúc được làm chủ viên ngọc, nhà vua mừng lắm, đêm ngày ôm ấp không rời. Nhưng một hôm ngọc quý bỗng không cánh mà bay. Nhà vua tiếc ngơ tiếc ngẩn, hạ lệnh cho thần dân khắp hang cùng ngõ hẻm phải hết sức dò tìm, tuy vậy vẫn vô hiệu. Mãi về sau, vua sai người đem kính thiên lý ra nhìn, thì mới biết ngọc đã bay về phương Nam. Lập tức vua sai một viên đại thần đem năm trăm quân sĩ ngồi lên mấy chiếc thuyền lớn, theo hướng Nam mà đi. Lệnh vua truyền thế nào cũng phải dò tìm bằng được. Sau bao ngày vượt biển tìm tòi, viên đại thần theo dõi kính thiên lý bỗng nhìn thấy viên ngọc bay vụt vào nước Nam, bèn ra lệnh cho quân sĩ cứ hướng ấy đuổi theo. Bấy giờ ở làng Đại-lại, huyện Gia-bình có một người tên là Điển Chi. Một đêm nọ, ông đang ngồi chơi ở sân, chợt thấy có ánh sáng lạ bay xuống chiếu sáng cả một khu vườn. Ông lấy làm kinh ngạc, nhưng cũng đánh bạo chạy tới chỗ ấy tìm xem, không ngờ bắt được một viên ngọc. Biết đó là của hiếm trên thế gian, ông mừng quá, vội đưa về nhà cất trong hộp gỗ. Nhưng ông lấy làm lạ khi thấy đêm đến, ánh sáng của viên ngọc vẫn tỏa sáng khắp nhà. Ông lại cho vào một cái thùng sắt đậy kín, nhưng thùng sắt cũng không đủ sức che kín ánh sáng chói chang. Sợ ngọc có thể bị lộ và về tay người khác mất, ông bèn đào hố chôn đi. Nhưng dầu đào sâu chôn chặt bao nhiêu cũng hoài công vô ích. Đêm đêm, ngọc vẫn phát ra ánh sáng. Sau nhiều ngày mò mẫm đủ cách, ông mới biết chỉ có bỏ ngọc vào giữa thịt sống thì ánh sáng của ngọc mới được che kín trọn vẹn. Cuối cùng, ông đánh liều cầm dao rạch đùi mình nhét ngọc vào rồi khâu lại. Từ đó chân ông đau tê buốt không đi lại được, nhưng của báu thì hoàn toàn giấu kín không ai biết cả. Lại nói chuyện quan quân nước ngoài theo dõi dấu ngọc tới vùng Gia-bình thì bỗng mất hút. Kính thiên lý cũng không còn tìm ra. Quan đại thần bèn cho quân sĩ vào dò la khắp miền, nhưng thảy đều vô ích. - "Hẳn có người nào ở vùng này bắt được ngọc biết cách dấu vào da thịt nên ngọc không phát sáng nữa". Viên đại thần nghĩ vậy. Và ông cố moi óc tìm ra một kế để đưa ngọc về. Ông mới sai quân sĩ dựng rạp trên một hòn đảo giữa sông, rồi giết bò mổ lợn làm tiệc linh đình. Đoạn nhờ quan huyện ở đây mời tất cả nam phụ lão ấu các làng tới dự. Mỗi người đến dự tiệc đều phải đi qua một chiếc bè nứa thả nổi trên sông, nối liền với đảo. Ông còn cắt mấy người đứng đón ở bè nứa, dặn hễ thấy lúc nào có người đi qua, bè chìm thì báo ngay cho ông. Suốt mấy ngày liền, dân làng các vùng Gia-bình, kể cả dân làng Đại-lại lũ lượt đến ăn tiệc hết lớp này đến lớp khác, nhưng chẳng một ai có sức nặng làm cho bè chìm. Viên đại thần vẫn không nản lòng. Ông cố cho hỏi trong trong đám khách dự tiệc các làng xem may còn sót ai chưa đi chăng. Một người ở làng Đại-lại mách: - Người làng tôi thiếu mặt họa chỉ có ông Điển Chi vì ông ta gần đây bị đau chân không đi đâu được. Nghe nói thế, viên đại thần vội sai mấy người lính sắm sửa cáng xá, đến tận nhà ông Điển Chi dặn họ cố dùng lời nói khéo mời ông đi. Về phần ông Điển Chi, không biết được mưu sâu nên nghe lời mời, liền vui vẻ lên cáng. Quả nhiên, vì có viên ngọc nhét trong đùi cáng ông vừa bước lên bè nứa, thì bè tròng trành dữ dội rồi chìm ngập xuống nước. Thấy vậy, viên đại thần reo lên: - Ngọc đây rồi! Ta tìm được ngọc đây rồi! Không thể giấu được nữa, ông Điển Chi đành phải thú thực mọi việc. Viên đại thần nói: - Hoàng đế nước chúng tôi mất một viên ngọc, hòn ngọc bay sang quý quốc, ông bắt được ngọc đó là một điều may mắn. Chúng tôi không có ý lấy không của ông. Nhưng để có ngọc về nộp hoàng đế, mong ông vui lòng đánh đổi hoặc quan tước, hoặc bạc vàng cho chúng tôi. Ông muốn gì, cũng xin làm cho ông vui lòng. Thấy bọn quan quân không có gì ác ý, ông Điển Chi bảo họ: - Hãy chồng tiền vác cao bằng đầu người từ chỗ tôi đứng cho tới nơi nào hòn chì của tôi ném ra dừng lại! Viên đại thần nước ngoài gật đầu. Cuộc trao đổi giải quyết chóng vánh. Từ đấy, ông Điển Chi trở nên giàu có, trong nước ít người sánh kịp. Tin ông Điển Chi bỗng nhiên giàu bốc lên bay đến kinh đô. Nhà vua bèn cho đòi ông về kinh hỏi chuyện. Thấy ông tốt số kỳ lạ, vua chọn một công chúa gả cho ông, phong ông làm phò mã. Hai vợ chồng ông Điển Chi sống với nhau rất tương đắc. Công chúa chiều chuộng ông rất mực. Ông Điển Chi những tưởng đời mình không còn gì sung sướng hơn thế nữa. Nhưng một hôm, một người bạn nối khố của ông từ phương xa tới thăm. Ông vui vẻ dắt bạn đi khắp nơi xem tư cơ đồ sộ của mình. Thấy bạn luôn miệng tấm tắc khen ngợi, ông có vẻ đắc chí: - Giàu như tôi mới thật là nhất nước ! Không ngờ câu nói ấy lọt vào tai công chúa. Không chịu được sự ngạo mạn của chồng, trong một lúc giận dữ, công chúa vội vàng về mách cha. Nhà vua không ngăn được cơn thịnh nộ, lập tức cho triệu phò mã về triều và ra lệnh: - Nhà ngươi tự khoe mình giàu có nhất nước. Được lắm! Bây giờ ngươi hãy thi với ta đem tiền ra phát chẩn cho dân. Ta phát ba ngày đầu, ngươi phát ba ngày cuối. Nếu ta không đủ tiền để phát thì coi như lời ngươi nói đúng, ngươi sẽ không có tội gì cả. Nhưng nếu ngươi không đủ tiền để phát, thì tức là ngươi đã nói láo, đã khinh mạn "quan gia", phải phạt tội lột da nhồi trấu để làm gương cho thiên hạ! Nghe lời truyền dõng dạc, ông Điển Chi khôn xiết kinh hoàng. Ông sụp xuống dưới chân vua kêu xin tha tội. Nhưng nét mặt vua thản nhiên như không nghe thấy. Chẳng biết tính sao nữa, ông đành tuân lời. Sau những ngày bận rộn chuyển vận tất cả của cải về kinh đô, ông Điển Chi lại ra mắt vua. Cuộc thi bắt đầu. Mấy ngày đầu vua phát chẩn, dân chúng chưa mấy ai biết tin nên đến lĩnh chẩn còn thưa thớt. Cho nên số tiền vua ứng ra vẫn không phát hết. Nhưng đến lượt ông Điển Chi phát thì khắp nơi dân chúng đã hay tin, nên nô nức tuôn về lĩnh chẩn ùn ùn. Ông Điển Chi phát mãi, phát mãi, vợi hết cả kho tiền mà vẫn không đủ. Hết tiền ông lại đem gạo trong kho ra phát, mong có thể cứu được tính mạng. Nhưng không may cho ông, các kho gạo bắt đầu vơi mà dòng người vẫn tuôn về như nước chảy. Vì thế ông đành chịu thua cuộc. Nhà vua vẫn không chút thương hại chàng rể ngạo mạn. Ông Điển Chi bị quân lính bắt ra lột da nhồi trấu, đem bêu trước cửa thành. Tất cả tài sản còn lại của ông đều bị sung công. Thấy chồng bị vua cha làm tội, công chúa đâm ra hối hận. "Thì ra ta là gái giết chồng" Câu nói ấy luôn luôn ám ảnh lòng nàng. Rồi một hôm, công chúa giao tất cả ruộng đất của mình cho dân làng, bỏ đi tu. Ngày nay ở làng Đại-lại vẫn còn cánh đồng mà công chúa cúng cho dân, người ta gọi đó là cánh đồng Mả, cũng có người gọi là cánh đồng Ngọc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/rach-dui-giau-ngoc" }
Con mụ Lường
Ngày xưa, có hai vợ chồng một người phú thương trẻ tuổi. Chồng thường rong buồm chạy khắp trong Nam ngoài Bắc và các nước xa xôi, chuyên bán hàng đi và cất hàng về. Một ngày kia, thuyền đã chứa đầy hàng, chồng từ giã vợ ra đi. Chàng chưa từng đến Hạ-châu bao giờ nhưng vốn nghe xứ này buôn bán dễ dàng, có thể phất to, nên quyết định đi thử một chuyến. Thuyền đi ra biển suốt năm ngày đêm mới tới thị trấn này. Chàng bảo thủy thủ bỏ neo ở một bến tấp nập nhất, rồi lên bộ tìm nơi nghỉ trọ và tìm mối bán hàng. Nhưng vừa lên bờ, đã thấy một ngôi lầu đồ sộ trên bến. Đang đứng ngẩn ra nhìn thì bỗng cửa lầu mở toang. Chủ nhân là một người đàn bà sang trọng bước ra vái chào rất cung kính và cất tiếng nói dịu ngọt mời mọc: - Chúng tôi nghe nói ngài có một thuyền hàng mới cập bến. Chúng tôi mong muốn làm quen và được giao thiệp lâu dài. Nếu không chê tệ xá nhỏ hẹp, xin mời lên nghỉ ngơi trong những ngày thuyền đỗ tại đây. Đang khi chưa biết nên trả lời thế nào thì đã thấy kẻ hầu hạ của chủ nhân, nam có nữ có, người nào cũng ăn mặc lịch sự ra đón. Phú thương bụng bảo dạ: - Ta mới đến chân ướt chân ráo chưa hiểu thế nào cả, nhưng trông cung cách người này có vẻ tốt bụng. Biết đâu chả là sự may mắn cho ta trong chuyến đi này. Nghĩ vậy, chàng vui vẻ nhận lời và cố sức làm cho chủ nhân biết mình không phải là kẻ ngờ nghệch. Lập tức, bọn người hầu không cần chờ lệnh chủ, tỏa ra dọn dẹp lăng xăng khắp nơi. Họ làm cho phú thương và một số gia nhân của mình rất đẹp lòng,vì chưa bao giờ được tiếp đãi nồng hậu đến thế. Chủ dẫn khách đi thăm nhà. Các phòng bày biện nói lên sự giàu có quá sức: những cây đèn bằng vàng, những độc bình cổ, những đồ dùng quý giá. Phú thương sờ tay vào một con rùa vàng bày trên một chiếc bàn. Nhân thể, chủ nhân liền giới thiệu kỹ món gia bảo đặc sắc đó của tiền nhân mình. Đêm hôm ấy, một tiệc lớn bày ra, chủ nhân ăn mặc rất mỹ lệ, chuốc chén mời mọi người. Xong tiệc, họ được mời đi nghỉ ở một buồng có những chiếc giường rất xinh xắn. Không thấy có điều gì đáng ngờ, phú thương và kẻ tùy tùng nằm xuống đánh một giấc ngủ rất ngon lành. Sáng hôm sau, khi mọi người trở dậy, sự mời mọc lại càng niềm nở. Lại những mâm thức ăn ngon lành bưng ra với những câu mời quyến rũ làm cho phú thương không thể từ chối được. Thế nhưng, khi phú thương cáo từ trở ra, vừa bước về thuyền thì bỗng thấy cả nhà chủ nhân đổ xô tới: - Thưa các ngài, nhà chúng tôi vừa mất con rùa vàng mà các ngài đã biết. Vậy có vị nào cầm nhầm hãy cho xin lại. Mọi người tưởng như nghe tiếng sét. Song phú thương biết tính nết mấy người tùy tùng của mình vốn chả bao giờ ăn cắp trộm gì của ai, nên rất vững tâm. Chàng có ngờ đâu người đàn bà kia chính là con mụ lường gạt nổi tiếng. Hắn có một đám thủ hạ rất đông, chuyên cướp của bằng cách bẫy người vào tròng một cách bất ngờ và êm thấm. Mỗi lần làm, hắn làm những món rất to, và thường nhằm vào những khách giàu sang, nhất là những khách nước ngoài mới tới. Ngón độc của hắn đã từng khiến nhiều kẻ mất đứt cả của lẫn người vào tay hắn, nên của cải của hắn chứa chất không biết bao nhiêu mà kể. Hôm đó mụ Lường - tên người ta thường gán cho mụ - thấy có một thuyền buôn mới tới với đầy ắp những hàng, mà trông chủ nhân lại chẳng ra vẻ là tay thạo đời. Cho nên mụ quyết cho anh chàng vào tròng. Trong khi phú thương và tùy tùng ăn nghỉ ở nhà mụ, mụ đã sai một số thủ hạ xuống thuyền giả cách xin xem hàng. Chúng mang con rùa vàng theo và lén bỏ vào trong một tấm đoạn. Thấy mọi người trở mặt vu cho mình ăn cắp và đòi khám thuyền, phú thương nóng mặt, nhất định không cho. Khám thuyền thì phải dỡ hàng mà dỡ hàng là một điều rất phiền và tối kỵ khi chưa bán được một tý gì. Cho nên chàng cũng lý sự: - Thưa bà, trừ phi có quan chức đến đây, chúng tôi không thể để cho một ai xuống thuyền được. Mụ Lường vội cho người đi trình quan. Khi bọn quan và lính ở thị trấn đến, mụ trình bày việc mất trộm, đổ riệt cho người nhà phú thương lấy mang đi, và nhất định xin khám thuyền. Phú thương bày tỏ sự thẳng thắn của mình và gia nhân mình, rồi nói: - Nếu khám không có thì bà tính sao đây? - Tôi xin "cược" cái nhà lầu và mọi vật ở trong đó. Còn quả có rùa ở trong thuyền ngài thì làm sao? Phú thương nóng nảy tiếp theo lời mụ: - Nếu có, tôi cũng xin mất cả thuyền hàng lẫn người ở đây cho bà. Hai bên lập tức làm giấy ký kết trước mặt quan. Cuộc khám xét bắt đâu. Chỉ một chốc sau, bọn lính đã lôi được con rùa vàng từ trong tấm đoạn ra. Phú thương và gia nhân đờ đẫn cả người. Không còn đường chối cãi, họ đành phải làm theo lời đã ký kết. Thế là cả một thuyền hàng trị giá đến cả vài trăm vạn quan đều về tay mụ Lường. Phú thương, bọn tùy tùng và thủy thủ đều bị sung làm nô. Theo như luật pháp Hạ-châu quy định, họ phải làm khổ dịch cho chủ nếu không bị bán và nhất thiết không được rời khỏi nơi làm việc. Từ hôm đó, phú thương phải làm việc quần quật suốt ngày. Chàng bị cắt giữ việc chăn ngựa. Công việc mệt nhọc đó làm cho chàng rã rời tơi tả. Chàng chỉ buồn một nỗi là mụ Lường bắt mỗi người ở một phương không bao giờ được gặp nhau. Cứ như thế sau ba năm trời, chàng bặt tin của quê hương xứ sở. Nhưng chàng cũng dần hiểu rõ mưu mô gian xảo và tình hình trong nhà mụ Lường. Một hôm đang cho ngựa ăn cỏ ở bến sông, chàng bỗng gặp một đạo sĩ ngồi bên vệ đường. Thấy trước mặt đạo sĩ có bày một quả bưởi, chàng lấy làm lạ, lại hỏi mua ăn. Đạo sĩ lắc đầu: - Bưởi này không phải bán để ăn đâu. - Thế thì dùng làm gì? - Nó dùng để nhắn tin tức với bất cứ người nào trong thế gian. Nghe nói thế, chàng nhớ đến người vợ yêu của mình sau ba năm đằng đẵng không một tin tức và chắc đã khóc kiệt nước mắt. Cho nên chàng xoắn xuýt: - Ngăn sông cách núi, chẳng biết có dễ đưa đến nơi chăng? Đạo sĩ đáp: - Hãy viết một bức thư, dùng dao rạch một chỗ ở đằng cuống rồi nhét thư vào. Đưa ra trước bến này, khấn to tên và chỗ ở của người mà mình muốn nhắn, rồi vứt xuống nước và nói: "Bớ bưởi, hãy đi cho được việc!" tự khắc nó sẽ vượt sông vượt biển đến tận tay người đó, dù xa bao nhiêu cũng không thất lạc được. Tuy không tin gì lắm nhưng chàng cũng mua lấy quả bưởi để cầu sự may rủi. Chàng viết một bức thư rất dài kể tất cả mọi việc xảy ra. Và khi nhìn thấy quả bưởi vượt sóng trôi về phương Bắc, lòng chàng mới thực tràn trề hy vọng. * Từ ngày người chồng thân yêu vượt vời thấm thoắt đã ba cái Tết mà không thấy trở về, vợ phú thương hết sức lo buồn. Cả đoàn người trên thuyền không hiểu sao cũng bặt không một tin tức. Có lẽ thuyền đã gặp bão, hoặc đã gặp bọn cướp biển và không một mạng nào sống sót. Nghĩ thế nên mọi nhà đã thiết bài vị và để tang. Và nàng đã rơi không biết bao nhiêu là giọt lệ. Dầu vậy, nàng vẫn không chịu tuyệt vọng, hàng ngày vẫn kiên nhẫn ra ngóng những cánh buồm ngoài xa tít. Một hôm như lệ thường, nàng đang đứng trên bến, chợt trông thấy một quả bưởi trôi ngược dòng. Lấy làm lạ, nàng vội chạy xuống bến đứng xem. Thì lạ sao, quả bưởi lại trôi ngay vào bến và lọt vào tay nàng. Khi đọc những dòng chữ của chồng, nàng mừng rỡ xiết bao. Nàng rất đỗi căm giận trước mưu mô điên đảo của con mụ Lường, quyết chí sẽ đến tận nơi cứu chồng và trị cho con mụ một mẻ. Sáng hôm sau, nàng giao nhà cửa con cái cho cha mẹ và xin phép đi tìm chồng. Nàng mang theo một con thuyền đầy tơ lụa gấm vóc. Lần này, ngoài số gia nhân và thủy thủ nàng con mang theo một người thợ kim hoàn. Lại có hai con chuột nhắt nuôi trong một cái lồng nhỏ. Thuyền lại rẽ sóng và tìm đến Hạ-châu, thả neo đúng vào nơi ba năm trước đây thuyền chồng nàng đã đỗ. Mụ Lường thấy có thuyền hàng nước ngoài cập bến mà chủ nhân lại là đàn bà thì mừng quá, quyết làm một mẻ không ngần ngại gì nữa. Tấn tuồng cũ lập tức lại được diễn. Cũng chào mời đon đả, tiệc tùng chơi nhời, chị chị em em rất thân mật. Cũng có những người lén đưa rùa vàng xuống thuyền định thực hành kể vu vạ. Nhưng lần này, người thợ kim hoàn đã có lệnh sẵn của chủ, nấp kín một nơi rình từng cử chỉ của chúng. Chờ cho chúng ra về, anh bèn trổ hết tài nghệ, thụt bễ một chốc, rùa vàng chảy ra nước và sau đó hóa thành những thoi vàng nén nằm gọn dưới đáy hòm. Cho nên, khi mụ Lường mời quan đến khám thì hắn rất kinh ngạc vì lục soát hết từ mũi chí lái đến mấy lần, vẫn không thấy tăm dạng "con rùa" đâu cả. Biết là gặp phải tay kình địch "tương kế tựu kế", mụ Lường đành nhận thua cuộc, nhưng liền đó lại nảy ra một mẹo khác. Mụ bảo vợ người phú thương: - Chúng ta nhận rằng đã mất ngôi lầu này. Nhưng các ngươi phải đánh cuộc với ta một lần thứ hai. Các người có tin rằng ta có cách bắt hai con mèo đội đèn suốt đêm cho một canh bạc không? Người vợ phú thương, qua thư chồng, đã biết chuyện hai con mèo đội đèn này rồi, song cũng làm bộ ngạc nhiên: - Làm gì lại có mèo đội đèn được suốt đêm? - Vậy thì - mụ Lường tiếp - các người có dám cược với ta: nếu ta sai khiến được hai con mèo đội đèn suốt một đêm thì ngôi lầu kia lại thuộc về chúng ta, nhược bằng không có con mèo đội được đèn, hoặc đang đội nửa chừng bỏ dở thì ta lại mất thêm một dinh cơ thứ hai cũng ở trong thị trấn này. Có dám không? Vợ phú thương vui lòng nhận cuộc. Hai bên ký vào giấy và trình quan. Mọi người lại kéo nhau lên lầu nhà mụ Lường vừa đánh bài vừa luôn thể chứng kiến sự việc. Quả nhà mụ có hai con mèo rất khôn được luyện tập từ lâu, mỗi con có thể ngồi ưỡn người suốt đêm không cụ cựa, trên đầu đội một chiếc đèn thắp ba ngọn nến. Cuộc sát phạt bắt đầu và kéo dài tới canh một, canh hai. Hai con mèo vẫn đội đèn chưa tỏ dấu hiệu gì là mỏi mệt. Nhưng người vợ phú thương vẫn tỉnh táo. Trước lúc vào cuộc, nàng đã bỏ hai con chuột nhắt vào một cái túi vải. Thế rồi, đến bây giờ nàng mới kín đáo thả chuột ra. Hai con mèo thoáng thấy chuột thì nhảy tới vồ. Hai cây đèn đổ tung tóe giữa chiếu bạc. Thế là một lần nữa con mụ Lường lại cay đắng thua cuộc. Nhưng mụ còn cố gỡ. Mụ lại đứng lên, nói: - Chúng ta đang còn rất nhiều ruộng đất, trâu bò, voi ngựa. Chúng ta còn có rất nhiều thuyền buôn đang tung ra khắp mọi bến. Vậy nếu các người dám đánh cuộc với ta, ta sẽ trồng một cây đã chết khô, chỉ trong một đêm lại xanh trở lại. Nếu làm được như thế, các người phải trả lại tất cả lầu và dinh cơ của ta cho ta. Nếu không, ta sẽ mất với các người tất cả người cũng như mọi của cải. Có dám không? Người vợ phú thương, cũng qua thư chồng, đã biết đấy là miếng đất màu nhiệm ở bên tả cây táo sau nhà. Và cũng ngay trong đêm đánh bài, nàng đã sai gia nhân bí mật lẻn tới đào đất ấy đổ đi một nơi rồi thay vào đó một lớp đất khác. Cho nên nàng nhận cược ngay. Phép lạ của mụ Lường vì thế lại mất linh nghiệm. Mụ tái mặt khi thấy qua một đêm, cây khô chẳng xanh lên một tí nào. Thế là quan chứng nhận ba lần thất bại đều về phần mụ và mụ phải mất cả của lẫn người cho vợ phú thương. Nhờ thế phú thương và những người tùy tùng được trả tự do. Chồng có ngờ đâu có ngày được gặp lại vợ và có ngờ đâu lại giàu gấp mấy trước. Trong một chuyến trở mụ Lường và gia nhân của mụ về nước làm nô lệ, mụ nhảy xuống biển tự tử, vì nghĩ rằng mình không kham được công việc nặng nhọc. Đức Phật cho mụ hóa thành cá he. Người ta nói vì mụ xót của nên lúc nào cũng cứ ngoi lên lặn xuống mãi. Nòi giống cá he sau này vẫn mang thói quen đó...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-mu-luong" }
Sự tích ông công ông táo
Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên. Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền. Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu. Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình thế vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ: - Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được. Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người chồng bảo: - Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác. Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi. Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ lanh lẹn và xinh xắn nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng. Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Nhưng cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng. Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói, vừa chết vợ. Sẵn có cảm tình với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là: - Chồng tôi hẹn tôi trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo. Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về người xấu số. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng quyết định: - Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập một gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia đình mới. Sức của tôi và của của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời. Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ cho một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới. Đột nhiên sau đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: "Thế là hết. Bởi số cả!". Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới không biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ. - Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi. Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mặc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng. Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không rán chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng. Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà. Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to: "Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác". Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử. Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật ôm ấp trong lòng. Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm vương hỏi tình của chàng đối với người vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ rộng rãi trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng. Diêm vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời vua còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ong-cong-ong-tao" }
Thạch Sanh - Lý Thông
Ngày xưa, có hai vợ chồng ông lão nhà nghèo kiếm ăn bằng nghề đốn củi. Tuy tuổi đã 60 mà ông lão vẫn chưa có con nối dõi. Mặc dù đã nghèo khổ, hai vợ chồng ông lão ngày ngày vẫn hay giúp đỡ mọi người chẳng hề quản ngại vất vả nên được nhân dân xa gần đều ngợi khen. Cảm thấu tấm lòng nhân đức của hai vợ chồng ông lão, Ngọc Hoàng bèn sai thái tử xuống đầu thai làm con. Sau ba năm chín tháng, khi bà vợ sinh được một đứa con trai thì ông chồng đã qua đời. Đứa bé sinh ra trông khôi ngô tuấn tú, vừa lọt lòng mẹ đã biết đứng biết ngồi, bà liền đặt tên cho con là Thạch Sanh và tháng ngày gắng gượng rau cháo nuôi con. Năm Thạch Sanh lên bảy thì bà cũng qua đời. Thạch Sanh sống lủi thủi một mình bên một gốc cây đa, với cả gia tài chỉ có một chiếc rìu và lại tiếp tục nghề của cha mẹ hàng ngày vào rừng đốn củi để nuôi thân. Năm mười ba tuổi, Sanh được Ngọc Hoàng phải một ông tiên vào loại giỏi nhất trên thiên đình xuống dạy cho các môn võ nghệ và đủ mọi phép thần thông. Một hôm, có gã hàng rượu tên là Lý Thông đi qua ngồi nghỉ mát ở gốc đa. Thấy Sanh là người có sức vóc khác thường, đoán là người được việc, Thông bèn lân la gạ chuyện rồi ngỏ ý muốn kết nghĩa anh em. Vốn lòng ngay dạ thẳng, Sanh vui vẻ nhận lời và về ở với Lý Thông. Từ đó, được Thạch Sanh ra sức đỡ đần, mẹ con Lý Thông làm ăn buôn bán ngày càng giàu có. Thấm thoắt đã bảy năm qua. Hồi ấy, ở trong vùng có một con Xà tinh, vốn là loài rắn đã thành tinh, chuyên phá phách, nhũng nhiễu nhân dân và bắt người ăn thịt. Quan quân triều đình nhiều lần kéo đến vây bắt nhưng không trừ nổi. Nhà vua dành bắt dân chúng lập miếu thờ và mỗi năm đem cúng cho nó một mạng người. Năm ấy không may đến lượt Lý Thông phải nộp mạng. Nghe tin dữ, mẹ con hắn vô cùng hoảng hốt lo sợ, nhưng sau bàn mưu tính kế nghĩ ra một kế hiểm độc. Hôm đó, chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, hắn giả mượn cớ giỗ cha, bày ra một mâm rượu thịt e hề, rồi cả hai mẹ con mời mọc chàng ân cần. Sau đó, hắn nói với Thạch Sanh: “Đêm nay đến phiên anh phải đi canh miếu thờ để kiểm tra lại đĩa vàng chén ngọc theo lệnh nhà vua, ngặt vì dở cất mẻ rượu, vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về”. Thạch Sanh không nghi ngờ gì cả, thuận đi ngay. Sẩm tối hôm ấy, sau khi vượt qua mấy dặm rừng hoang tới miếu thờ, Thạch Sanh giở cơm nắm ra toan ăn thì Xà tinh hiện ra hình thù kì dị, nhe nanh giơ vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh liền vung rìu đánh nhau với yêu quái. Xà tinh giở ra nhiều phép biến hóa yêu ma, nhưng đều bị Thạch Sanh phá hết. Sau chàng dùng phép thần, tung lưới sắt bủa vây, lập tức con yêu quái phải hiện nguyên hình là một con trăn cực lớn, Thạch Sanh vung thần đao, chém chết, rồi cắt lấy đầu và đốt xác yêu quái. Xác Xà tinh vừa cháy xong bỗng biến ra một bộ cung tên bằng vàng. Sanh mừng rỡ nhặt lấy cung tên và xách đầu yêu quái chạy thẳng một hơi về nhà. Lý Thông vốn là đứa hiểm sâu thấy vậy dọa Thạch Sanh rằng Xà tinh là của vua nuôi để làm của báu nước nhà, giết nó đi thì bị tội chém đầu chẳng chơi, và khuyên Sanh nên trốn ngay đi kẻo vạ lây cả nhà, còn có chuyện gì thì mặc hắn lo liệu. Tưởng thật, Sanh vội vã đi ngay và trở về sống ở gốc đa, mặc cho năm tháng trôi qua, nghĩ mình phận hẩm mong gì gặp may. Còn Lý Thông thì vội vào kinh tâu vua là hắn đã chém được đầu yêu quái. Vua kinh ngạc, sai quân đi khiêng đầu yêu quái về, bấy giờ mới tin là thực và hết lời ngợi khen, phong cho Lý Thông làm quan đô đốc trong triều và cho hưởng lộc nước rất hậu. Cũng trong thời gian này, nhà vua làm lễ kén chồng rất long trọng cho công chúa Quỳnh Nga, con gái độc nhất của vua. Lễ kén chồng kéo dài nhiều đợt, nhưng nàng vẫn không ưng ý một người nào. Kể cả thế tử các nước chư hầu cũng không ai làm đẹp lòng nàng cả. Một hôm, công chúa dạo chơi trong vườn hoa, chẳng may bị một con Đại bàng bay ở trên cao xuống quắp bay đi. Lúc ấy, Thạch Sanh đang thẩn thơ bên gốc cây đa, thấy Đại bàng quắp một người bay qua, bèn giương cung bắn một phát trúng ngay vào cánh. Chim rơi xuống, nhưng nó vội rút ngay tên ra và lại quắp lấy người, tiếp tục bay đi. Thạch Sanh lần theo dấu máu tìm đến một hang núi thì không thấy tăm hơi Đại bàng đâu nữa. Mất con gái quý, nhà vua xiết bao đau đớn, các quan cử ba đội quân ra sức tìm kiếm cũng không có kết quả. Nghe lời tâu của quần thần, vua bèn sai đô đốc Lý Thông trước kia có tài chém yêu tinh, đi tìm công chúa, hứa sẽ gả nàng và nhường ngôi báu cho. Thông lo lắng mãi mới tìm ra được một kế là mở hội hát ở kinh đô trong mười ngày cho người dân các nơi về xem để do la tin tức Thạch Sanh. Mãi đến ngày thứ mười hắn mới gặp được Thạch Sanh bước vào rạp xem hát. Thông lại giả nhân giả nghĩa tay bắt mặt mừng đón tiếp người em “kết nghĩa” cũ rất trịnh trọng. Nhân đó, hắn cho Sanh biết việc vua sai hắn đi tìm công chúa bị loài yêu quái bắt. Sanh thật thà cho Lý Thông biết ngay tung tích của yêu quái chính là Mãnh xà vương ở hang núi, cũng chính là loài rắn đã thành tinh chuyên hóa làm chim đại bàng đi bắt người. Thế là Thông lại dùng lời đường mật, nhờ Sanh dẫn đi tìm công chúa. Thạch Sanh nhận lời. Đến chỗ của Đại bàng, Sanh dùng dây làm thang xuống hang sâu và dặn Thông hễ thấy đầu dây động đậy thì kéo lên. Vừa xuống tới hang, đang lúng túng chưa biết cần đi về hướng nào, Sanh bỗng gặp ngay công chúa Quỳnh Nga cũng vừa đi ra. Cảm kích ơn nghĩa Thạch Sanh không quản hiểm nguy đã đến cứu mình, công chúa liền ngỏ ý xin kết nghĩa trăm năm. Sanh từ chối, cho nàng biết đây là việc của triều đình mà chàng lại muốn giữ trọn tình nghĩa anh em với Lý Thông. Nhưng công chúa vẫn quyết một lòng và nàng coi như đã “kết duyên” lành với chàng từ đấy. Từ hôm bị trúng tên, Đại bàng bị thương nằm li bì một chỗ. Sanh đưa thuốc mê bảo công chúa dỗ Đại bàng uống, xong đem nàng buộc vào dây cho quân kéo lên. Lập tức Lý Thông sai quan quân đưa ngay công chúa về triều để hắn ở lại đánh yêu quái. Kì thực quân vừa đi khỏi, hắn vội vã ra sức lăn đá lấp kín cửa hang để hại Thạch Sanh. Còn Quỳnh Nga công chúa lúc ấy mỏi mắt trông vời về phía sau không thấy chàng đâu cả, nàng bỗng bàng hoàng uất ức, mắc bệnh câm ngay từ bữa đó. *** Lại nói về phần Thạch Sanh, sau khi cứu công chúa ra khỏi hang thì bị Lý Thông khuân đá lấp kín cửa hang không cho chàng ra nữa. Chàng tức giận giương cung bắn phá lâu đài của Xà vương. Giữa lúc đó, con yêu quái chợt tỉnh cơn mê. Thấy có người lạ đột nhập đang phá phách nhà cửa và cướp mất vợ hắn, hắn bừng bừng nổi giận xông vào đánh nhau kịch liệt với Thạch Sanh. Hai bên giao chiến với nhau đến vài trăm hiệp mà vẫn không phân thắng bại. Xà vương trổ hết mọi phép yêu ma ghê gớm ra nhưng đều bị Thạch Sanh dùng phép thần thông phá hết. Cuối cùng hết phép, Đại bàng biến thành con chim nhỏ như con chim khách, toan trốn đi, nhưng Thạch Sanh đã kịp thời hóa phép phủ vây lưới sắt và giương cung bắn chết. Sau đó, Sanh vung thần đao phá tan cung điện đồ sộ nguy nga của Mãnh xà vương, nhân đó cứu được cả con vua Thủy tề bị Đại bàng bắt nhốt trong cũi sắt đã một năm ròng. Thái tử cảm tạ ơn sâu của Thạch Sanh và mời chàng xuống thủy cung chơi. Thạch Sanh được vua Thủy tề tiếp đãi rất trọng thể, ban cho trăm lạng vàng bạc để cảm ơn, nhưng Thạch Sanh từ tạ không nhận. Thủy vương lại khẩn khoản mời chàng ở lại hẳn dưới thủy cung nhưng chàng cũng nhất định từ chối. Thủy vương đành giữ chàng ở lại chơi vài ngày. Thái tử dẫn chàng đi xem khắp năm cung trong ngoài. Hai người mải mê dạo chơi, bất ngờ lạc bước dưới thành trì của một loài yêu quái. Nó vốn là con Hồ tinh chín mắt rất lợi hại và ngạo ngược chưa ai trị nổi. Nó hóa thành một cô gái xinh đẹp đứng đón đường ngỏ lời trêu ghẹo hai chàng. Thạch Sanh liền vạch chân tướng nó là loài yêu quái, nó bèn hiện hình thành Hồ tinh chín mắt, xông vào toan vồ bắt cả hai chàng. Thạch Sanh vung đao thần, rồi giương cung, bổ búa, đấu quyền với nó suốt một ngày ròng nó vẫn không nao núng. Sau chàng dùng phép thần giao tranh với nó, nó mới chịu thua và phải hiện nguyên hình là con hồ li (tức con cáo). Thạch Sanh rộng lượng tha cho nó được sống để tu tỉnh. Ban thưởng công lao, vua Thủy tề liền phong cho chàng làm quốc trạng. Chàng xin trở về dương thế. Để đền ơn Thạch Sanh, Thủy vương nghe lời thái tử biếu chàng chiếc đàn thần của Ngọc Hoàng thượng đế đã ban cho vua hồi trước. Sau đó, thái tử đưa tiễn chàng về. Thạch Sanh lại trở về sống bên gốc đa như cũ. Công chúa Quỳnh Nga từ lúc thoát nạn yêu quái lại bị bệnh câm. Vua cha vô cùng thương xót, buồn bã, đành ra lệnh hoãn việc hôn nhân của nàng với Lý Thông để chữa cho nàng khỏi bệnh đã. Vua thì lo lắng thuốc thang và khấn vái Trời Phật; Lý Thông thì lập đàn mời pháp sư, phù thủy cúng lễ linh đình, hàng tháng ròng mà Quỳnh Nga vẫn “chẳng nói chẳng rằng, miệng hoa âm ỉ chẳng hằng nói chi”. Còn nói về Trăn tinh và Mãnh xà vương sau khi chết, hồn chúng không ai cúng lễ, đành sống bơ vơ, chui rúc bụi hồ, rồi chuyên đi ăn trộm, bắt gà, bắt chó quấy nhiễu, tàn hại người dân để kiếm ăn. Một đêm, chúng tình cờ gặp nhau và kể lể cho nhau nghe về số phận của mình, rồi bàn kế báo thù Thạch Sanh. Chúng lẻn vào kho nhà vua ăn trộm vàng bạc rồi giả tảng trỏe đi trở lại để bọn lính canh dõi theo chân chúng tới gốc đa. Chúng quẳng đồ ăn trộm vào chỗ Thạch Sanh đang nằm ngủ để đổ vạ cho chàng. Quả nhiên, Thạch Sanh bị bắt, giải về trình Lý Thông. Thông rất kinh ngạc, sai quân đem tống giam Thạch Sanh. Hắn ra lệnh phải căn phòng nghiêm mật và rắp tâm đợi ba ngày sau sẽ tự ý thừa mệnh lệnh triều đình, đem xử tử luôn chàng đi cho kín chuyện cũ. Ngồi trong ngục, Thạch Sanh buồn tình đem đàn ra gảy… Không ngờ tiếng đàn thần bỗng nỉ non, thánh thót như oán, như than, vạch tội Lý Thông ăn ở bất nhân phụ nghĩa và trách nàng công chúa không giữ lời ước hẹn. “Đàn kêu tích tịch tình tang Ai mang công chúa dưới hang trở về…” Tiếng đàn văng vằng bay thấu vào tới cung vua, Quỳnh Nga đang ngồi ủ rũ mày hoa, thoắt nghe thấy tiếng đàn ai oán như khóc, như than bỗng khỏi câm liền. Nàng thốt lên nụ cười nói tâu với vua cha xin cho đòi người gảy đàn vào cung để nàng gặp mặt. Nàng tỏ bày luôn sự tình được kể lể trong tiếng đàn ai oán cho nhà vua biết. Nhờ đó Thạch Sanh được giải oan. Nhà vua bèn mở yến tiệc đãi chàng, phong cho chàng hai chức quận công do hai lần có công trạng lớn và cho kết duyên với công chúa Quỳnh Nga. Còn về phần Lý Thông, vua giao cho Thạch Sanh tùy ý xử tội. Sanh xin vua tha tội chết cho hắn và cho hắn trở về quê quán làm ăn. Nhưng hai mẹ con hắn về đến giữa đường thì bị Ngọc Hoàng sai Thần Sét đánh chết đúng như lời hắn đã thề nguyền khi kết nghĩa anh em với Thạch Sanh xưa kia. Do tội bạo ngược, ăn ở hai lòng của hắn, Ngọc Hoàng lại bắt Lý Thông hóa làm kiếp bọ hung, đời đời sống trong nhơ bẩn. Được tin công chúa Quỳnh Nga kết duyên với Thạch Sanh là một anh chàng khố rách nghèo hèn, thế tử các nước chư hầu trước kia từng bị công chúa cự tuyệt bèn nổi giận, rủ nhau hợp binh kéo đến báo thù. Khí thế quân mười tám nước chư hầu vô cùng mạnh mẽ, đi tới đâu làm cho núi lở, sông cạn tới đó, phá tan hoang luôn năm cửa ải. Quân triều đình đi tiếp ứng tới đâu bị đánh tan tác tới đấy. Nhà vua vô cùng hoảng sợ bèn vời Thạch Sanh vào và nhờ chàng đem binh đi đánh giặc. Thạch Sanh tâu với nhà vua cứ để cho quân địch kéo đến bao vây kinh thành, chàng sẽ ra tay. Chờ cho giặc bổ vây bốn mặt thành trùng trùng điệp điệp và không ngớt lời reo hò khiêu khích, Thạch Sanh mới đem đàn thần ra gảy. Đàn bỗng kêu lên “tích tịch tình tang”, vạch ra điều hơn lẽ thiệt, phải trái phân minh cho hàng vạn quân địch nghe. “Đàn kêu nhân nghĩa thủy chung Thánh tha thánh thót muôn lòng xôn xao…” Tiếng đàn khi cứng rắn đanh thép, lúc lại mềm rẻo khuyên lơn khiến cho quân tướng mưới tám nước dần dần phải thoái chí, quy hàng một loạt. Chúng xin cấp lương ăn để về nước. Thạch Sanh ra lệnh cấp cho chúng mười tám hộc lương. Chúng chê ít, Thạch Sanh sai đem chiếc niêu của chàng ra thổi cơm cho chúng ăn. Quân mười tám nước trông thấy niêu cơm đều hết thảy ngao ngán. Thạch Sanh đố chúng ăn hết sẽ trọng thưởng. Hàng vạn quân lính ào ào ăn mãi mà niêu cơm cứ vơi rồi lại đầy, ăn không sao hết được. Thế là một lần nữa chúng lại nhất loạt phải quy phục chàng. Sau khi chiến thắng quân mười tám nước chư hầu, Thạch Sanh được nhà vua làm lễ nhường ngôi cho chàng, để chàng đem tài ra trị vì đất nước. Quỳnh Nga công chúa cũng được nhà vua ban chiếu phong cho làm hoàng hậu. Hai năm sau, hoàng hậu Quỳnh Nga sinh được một trai, một gái, thế là đất nước thịnh trị, gia đình hòa vui…
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/thach-sanh-ly-thong" }
Viên ngọc ước của quạ
Ngày xưa, có một anh chàng trẻ tuổi tên là Đê. Nhà anh nghèo khó, cha mẹ phải cho đi ở tại một nhà lão trọc phú. Trọc phú bắt anh chăn trâu. Nhưng anh có thói ham chơi bời, khi đã lao vào cuộc đánh khăng, đánh đáo hay bày trận, thả diều thì chẳng còn biết gì trời đất. Vì thế đã nhiều phen anh để cho trâu ăn lúa, ăn khoai và cũng nhiều phen, anh bị chủ nọc đánh dữ dội. Một hôm, Đê cùng các chúng bạn bày cuộc thi bơi lội. Đàn trâu thả trên đồi vắng. Cuộc tranh lèo giật giải đã đến độ làm cho Đê không dứt ra được. Hết lặn đến hụp, bơi sấp đến bơi ngửa, cuộc vui kéo dài mãi đến gần trưa. Bỗng nhiên khi nhìn lên đàn trâu thì thấy mất hút một con. Con trâu ấy lại là con của Đê chăn. Bọn trẻ hoảng hốt chia nhau đi tìm hết bụi bờ này đến lùm đồi kia, chẳng thấy tăm hơi đâu cả. - Thôi rồi, trâu thằng Đê bị kẻ trộm dắt đi rồi ! Bọn trẻ la lên như vậy rồi đứa nào đứa nấy dong trâu của mình về nhà. Chỉ một mình Đê ở lại vật vã kêu trời khóc đất. Khóc một hồi lâu rồi ngủ quên. Đang ngủ, thốt nhiên anh tỉnh dậy vì có cái gì chạm vào mặt. Anh hé mắt nhìn thấy một đàn quạ đang xúm quanh. Thì ra chúng tưởng có xác chết nên kéo đến định làm bữa chén. Một con sà vào toan mổ mắt. Thấy thế, Đê lập kế thình lình vùng dậy chụp được chân một con quạ, còn những con khác thì bay tán loạn. - Hừ, ta sẽ cho mày hay. Dám đến mổ vào mắt ta ư! Nghe nói thế, quạ hết lời van vỉ: - Xin ngài tha cho tôi, tôi sẽ biếu ngài một vật quý. - Vật gì, đưa đây xem! Quạ vội nhả từ trong miệng ra một viên ngọc nhỏ nhưng sáng lấp lánh, đưa cho anh và nói: - Đây là viên ngọc nhỏ nhưng quý nhất thế gian. Ngài muốn cầu xin việc gì sẽ có ngay vật đó! Đê nghĩ: - Vậy sẵn ta đang mất con trâu, thử cầu xem có hiệu nghiệm chăng. Bèn nói to: - Ngọc! Ngọc! Ta muốn được một con trâu thay cho con vừa mới mất! Bỗng chốc từ dưới chân đồi lững thững đi lên một con trâu. Vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, anh vội trả tự do cho quạ rồi cưỡi trâu về. Từ đó Đê trở lên sung sướng, giàu có. Anh trả trâu cho trọc phú rồi trở về nhà ở với cha mẹ. Nhưng anh chỉ mới dám cầu những cái lặt vặt. Một hôm anh lấy ngọc đặt trong lòng bàn tay mình rồi nói: - Ngọc! Ngọc! Ta muốn có một tòa lâu đài lộng lẫy và giàu có. Tự nhiên sáng hôm sau ngủ dậy, anh không thấy mái nhà tranh lụp xụp của bố mẹ nữa, thay vào đó là một ngôi lầu cao ngất, mái ngói tường hoa, cột kèo trạm trổ tinh vi. Đặc biệt là trong nhà mọi thứ bày biện rất sang, kẻ hầu người hạ nhộn nhịp, ngoài vườn cây cối um tùm, trước sân hoa thơm cỏ lạ không thiếu thứ gì. Đê chưa bao giờ thỏa thích đến thế. Chẳng bao lâu Đê lại lấy ngọc ra cầu: - Ngọc! Ngọc! Ta muốn có một người vợ đẹp. Lời ước vừa dứt thì anh đã thấy có một người từ ngoài cửa bước vào. Đó là một mụ mối tìm đến đánh tiếng cô con gái một vị trưởng giả trong vùng. Sau khi cùng mụ đi coi mắt, anh thấy cô gái đúng là một giai nhân mày ngài mắt phượng, xem chừng thiên hạ khó có ai hơn. Mụ mối còn nói: - Trưởng giả đang lác mắt về sự giàu có của anh. Nếu anh muốn, tôi sẽ lo liệu chu toàn và nhanh chóng. Đê hết sức mừng rỡ, bèn giao cho mụ mối và người hầu thay mình định liệu mọi việc. Quả như lời mụ nói, không đầy một tuần, cô gái tuyệt sắc nọ đã trở thành vợ anh. Nhưng anh đâu có ngờ vợ mình lại là một người xấu bụng. Lấy chồng, nàng chỉ muốn giúp bố nàng khám phá cho ra cái bí quyết làm giàu nhanh chóng của chồng. Vì vậy, sau khi về làm vợ Đê, nàng thường tỷ tê dò hỏi mọi việc. Nhưng Đê không muốn để ai biết được điều bí mật của mình. Anh chỉ đáp giả lả cho qua trước những câu hỏi tò mò của vợ. Viên ngọc quý anh luôn luôn cất vào một nơi kín đáo. Tuy vậy vợ anh vẫn cố công dò la tìm hiểu không nản. Một hôm vợ mua rượu phục cho chồng uống bí tỉ. Trong cơn say, anh quên hết mọi việc, có gì bí mật đều phun cho vợ biết cả. Nhè lúc Đê nằm mê man, người vợ bèn lấy trộm viên ngọc, rồi lẻn về nhà trưởng giả. Khi Đê tỉnh dậy, chàng thấy vắng bóng vợ. Đi tìm ngọc cũng không thấy đâu. Biết vợ mình đã lấy trộm mất viên ngọc quý, chàng đành sang nhà trưởng giả mong lấy nghĩa lý làm cho vợ hồi tâm. Nhưng không những vợ anh không chịu nhận việc lấy viên ngọc, mà anh còn bị ông bà trưởng giả xua đuổi thậm tệ. Vừa mất ngọc vừa mất vợ. Đê buồn quá đỗi, thất thểu ra về. Qua một ngôi đền, anh ghé vào nghỉ chân, rồi khi nghĩ đến ngọc, anh khóc tức tưởi. Bỗng có một vị thần râu dài tóc bạc hiện ra trước mặt hỏi: - Làm sao con lại khóc? Đê kể lại tình đầu, không giấu giếm một tý gì. Vị thần bảo: - Con đừng buồn! Ta sẽ bày cho con một cách lấy lại vật quý. Nói rồi vị thần bước tới chỗ bình hoa trên hương án, bẻ một bông hoa trắng và một bông hoa đỏ, và nói: - Con hãy mang bông hoa trắng này gài vào cửa nhà nó. Nhất định nó sẽ gặp chuyện không hay. Lúc đó con sẽ dùng bông hoa đỏ để lấy lại viên ngọc. Nói xong vị thần biến mất. Theo đúng lời thần dặn, Đê bèn đem bông hoa trắng lén đến gài ở cửa sổ nhà trưởng giả, chỗ buồng của vợ rồi ra về. Lại nói chuyện vợ Đê bấy giờ đang ngồi mân mê viên ngọc quý, chợt ngửi thấy mùi thơm ngạt ngào tỏa khắp gian phòng. Theo mùi tìm kiếm, chẳng mấy chốc nàng đã thấy bông hoa gài ở cửa. - Quái, làm sao lại có thứ hoa thơm kỳ lạ thế này. Vừa nói nàng vừa cầm hoa lạ đặt vào mũi hít lấy hít để. Vợ chồng trưởng giả thấy mùi thơm cũng chạy vào cầm lấy bông hoa xem và cũng đưa lên mũi thưởng thức mùi thơm. Nhưng chẳng mấy chốc, họ cảm thấy đầu mũi ngứa ngáy, họ bèn ra sức gãi, nhưng càng gãi mũi càng sưng, và dần dần mọc dài ra. Họ cùng la lên: - Ôi! Cái hoa này có ma. Mũi tôi làm sao lại thế này. Ba người nhìn nhau vô cùng hoảng sợ, vì thấy mũi của người nào người ấy không ngừng nhô thêm mãi. Trước chúng còn dòm mồm, sau đã dài quá cằm. Nhưng chúng vẫn chưa chịu dừng. Mũi vẫn thòng xuống quá ngực rồi quá bụng, và còn dài xuống nữa, xuống nữa, gần chấm đất mới chịu thôi. - Ôi! Xấu hổ quá, trông như cái vòi voi! Vợ Đê nước mắt đầm đìa nghĩ đến nhan sắc có một không hai của mình trước đây. Cả mẹ lẫn con vội trốn vào buồng tránh mặt kẻ hầu người hạ. Chỉ có trưởng giả lấy khăn che mặt, hối hả bảo người nhà đi mời thầy thuốc. Nhưng khi nhìn thấy bệnh lạ, thầy thuốc nào cũng lắc đầu: - Cái mũi này của cụ chỉ còn có nước cắt, nhưng cắt chưa chắc đã lành, nó chỉ làm xấu thêm và nguy hiểm nữa là khác. Hai ngày sau, Đê mới chạy sang nhà bố mẹ vợ, trong bọc có thủ sẵn bông hoa đỏ. Khi thấy cái mũi dài của trưởng giả, Đê không nhịn được cười, hiểu rằng đó là do sự mầu nhiệm của bông hoa thần. Trước câu hỏi của Đê, trưởng giả kể lại đầu đuôi. Đê đáp lời: - Cái đó không có gì lạ. Nó do việc lấy trộm ngọc của vợ tôi mà ra. Nếu trả lại viên ngọc ấy cho tôi, tôi sẽ có phép làm cho mũi ngắn lại và lành lặn như cũ. Hai ông bà vừa khóc, vừa bảo Đê rằng: Của là gạch, nghĩa là vàng, Của chàng, lại trả cho chàng lo chi. Chàng mà chữa được khỏi đi Vợ thì chàng lấy, ngọc thì chàng mang. Rồi gọi con đem ngọc ra trả. Sau khi đã nhận đúng viện ngọc của mình, Đê bèn đưa bông hoa đỏ ra cho họ ngửi, chỉ trong chốc lát, cái vòi dần dần co lại, co lại cho đến khi mũi trở lại nguyên hình như xưa. Đê đưa vợ về, hai vợ chồng từ đó sống với nhau hòa thuận, vui vẻ. Mỗi lần làng xóm có việc gì khó khăn, họ lại cầu xin với Đê để nhờ viên ngọc giúp đỡ. Về sau, lúc Đê đã già yếu, một hôm đang nằm trên giường bệnh, bỗng thấy con quạ năm xưa đến đậu ở cửa sổ nói với vào: - Trả ta viên ngọc! Trả ta viên ngọc! Nghe nói, Đê liền thò tay xuống dưới gối lấy viên ngọc giơ ra cho quạ, nhưng chưa kịp trao thì quạ đã nhảy vào chộp lấy ngọc trên tay rồi bay đi mất.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vien-ngoc-uoc-cua-qua" }
Cây táo thần
Ngày xửa, ngày xưa đã lâu lắm rồi, có một cây táo thần mọc ở ngoại ô thành phố. Hàng ngày bọn trẻ thường đến chơi ở đó, nô đùa xung quanh cây táo và bứt những quả táo ngon trên cành để chia nhau ăn. Một hôm có một cậu bé không biết từ đâu đến, cậu bé cau mày nói với bọn trẻ: - Này chúng mày, vườn này là của tao, tao đã mua từ trước. Cây táo này là của tao, chúng mày đi chỗ khác chơi, cấm không được đến đây nữa. Nghe vậy, bọn trẻ rất buồn, tất cả cúi đầu lặng lẽ ra về, chỉ còn cậu bé hống hách ở lại. Cây táo biết tất cả mọi chuyện, bằng phép lạ nó làm cho cậu bé ngủ thiếp đi dưới gốc cây và cũng bằng phép lạ nó làm cho cậu bé nằm mơ. Cậu bé mơ thấy trên thân cây táo có một cái hốc rất lớn. Cậu cảm thấy bụng đói cồn cào. Cậu bé trèo lên cây và định bứt táo để ăn. Nhưng mỗi khi tay cậu bé chạm vào một quả táo thì cành táo laị quay đi chỗ khác và quả táo lại rơi vào cái hốc to tướng ở thân cây. Cứ như vậy cho đến khi tất cả trên cành rơi vào hết cái hốc, chỉ còn trơ lại một quả trên cành. Cậu bé ngồi dưới gốc cây và khóc. Đến lúc đó cây táo mới cất tiếng hỏi: - Tại sao cháu khóc? Cậu bé mếu máo trả lời: - Ông ích kỉ quá. Ông ăn hết cả táo, ông không cho cháu một quả nào. Cháu đói lắm rồi ông ạ. Cây táo cười và nói: - Cháu có nhớ là cháu đã đuổi hết tất cả các bạn không? Các bạn cũng muốn ăn táo của ông nhưng cháu không cho các bạn một quả nào, như vậy cháu có ích kỉ không? Cậu bé nhớ lại lúc các bạn buồn rầu ra về, cậu bé thấy ân hận vô cùng, cậu bé ngước nhìn cây táo và nói: - Vâng cháu biết lỗi rồi! Cây táo cất tiếng cười vang, rung cả cây, làm cho quả táo còn lại cũng rơi trúng đầu cậu bé, cậu bé giật mình tỉnh giấc. Cậu bé ngơ ngác nhìn xung quanh, cậu bé thấy mình đang nằm dưới gốc cây. Cái hố to tướng trên cây táo biến mất. Cây táo vẫn đứng yên lặng và trên cây vẫn sai trĩu quả. Cậu bé chồm dậy, nhớ đến giấc mơ, cậu vội chạy đi gọi các bạn: - Này các bạn ơi! Quay lại đây chơi đi. Mình xin lỗi các bạn vì đã đuổi các bạn đi. Thế là tất cả cùng nhau chạy ra vườn. Cậu tự mình trèo lên bứt những quả chín ném xuống cho các bạn. Các bạn lại cười đùa vui vẻ. Cậu bé chợt hiểu rằng điều hạnh phúc nhất trên trái đất này là cùng chia sẻ niềm vui với mọi người...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cay-tao-than" }
Truyện cổ tích quả bầu tiên
Ngày xửa, ngày xưa có một chú bé con nhà nghèo, nhưng vô cùng tốt bụng. Chú luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ, chăm sóc mọi người, mọi vật xung quanh mình. Vì thế cứ mỗi độ xuân về, chim chóc lại ríu rít kéo nhau tới làm tổ, hót vang quanh nhà chú bé. Một hôm có một con Cáo ở đâu mà tới bắt chim Én ở đầu nhà chú bé. Con Én non nớt bị rơi xuống đất gãy cánh. Chú bé vội lao ra cứu con chim. Chú ôm ấp vỗ về con Én nhỏ, làm cho nó một cái tổ khác và chăm cho con Én ăn. Nhờ sự chăm sóc tận tình của chú bé, con Én đã khỏi đâu. Mùa thu đến khi nhìn lên trời thấy từng đàn Én hối hả bay đi trành rét ở phương Nam, con Én nhỏ phân vân nửa muốn bay theo đàn, nửa lại lưu luyến không nỡ rời chú bé. Hiểu được lòng Én, chú bé âu yếm bảo: – Én cứ bay theo đàn đi kẻo mùa đông lạnh lắm. Đến mùa xuân ấm áp thì Én lại trở về với anh. Nói xong chú bé tung con Én nhỏ lên trời. Con Én đang chấp chới bay lên nền trời xanh biếc của mùa thu. Nó nhập vào một đàn Én lớn đang trên đường di cư về những xứ sở ấm áp ở phương Nam. Con Én nhỏ mau chóng tìm được niềm vui giữa bạn bè, nhưng nó không thể nào quên chú bé. Mùa xuân tươi đẹp đã tới. Con Én nhỏ tìm về ngôi nhà đơn sơ nhưng đầm ấm tình thương của chú bé. Nó kêu lên thành tiếng mừng vui khi thấy chú bé đang ngồi đan sọt giữa sân. Đôi cánh Én chao liệng sà xuống và Én thả trước mặt chú bé một hạt bầu. Chú bé vùi hạt bầu xuống đất. Chẳng bao lâu hạt bầu đã nảy mầm thành cây. Cây bầu lớn nhanh như thổi, ra hoa, kết quả. Nhưng lạ chưa, quả bầu to khổng lồ, cả nhà chú bé mới khiêng về được một quả, khi bổ ra… Ôi! Thật kì diệu! Trong quả bầu đầy vàng bạc, châu báu và thức ăn ngon! Tên địa chủ trong vùng nghe được chuyện ấy. Hắn cũng muốn được chim Én cho nhiều quả bầu tiên. Hắn bèn tìm cách bắt một con chim Én con rồi bẻ gãy cánh. Sau đó hắn giả vờ thương xót con Én rồi đem về nuôi. Đến mùa thu, khi nhìn lên trời thấy đàn Én đầu tiên xuất hiện, hắn vội vàng ném con Én lên trời và bảo: – Bay đi Én con! Mau đi kiếm hạt bầu tiên về đây cho ta! Con Én khốn khổ bay đi. Mùa xuân năm sau nó cũng trở về và đem theo một hạt bầu. Tên địa chủ hí hửng đem gieo và ngày đêm canh giữ. Khi quả bầu đã già, hắn bảo mọi người khiêng về rồi đuổi tất cả ra. Hắn đóng cửa lại rồi một mình hắn bổ quả bầu tiên. Quả bầu vừa được bổ ra, vàng bạc chẳng có, chỉ có rắn rết. Rắn rết từ trong quả bầu xông ra cắn chết tên địa chủ tham lam độc ác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-co-tich-qua-bau-tien" }
Cậu bé Tích Chu
Ngày xưa , có một bạn tên là Tích Chu. Bố mẹ Tích Chu mất sớm, Tích Chu ở với bà. Hàng ngày bà phải làm việc quần quật kiếm tiền nuôi Tích Chu , có thức gì ngon bà cũng dành cho Tích Chu. Ban đêm, khi Tích Chu ngủ thì bà thức quạt. Thấy bà thương Tích Chu, có người bảo: – Bà ơi! Lòng bà thương Tích Chu cao hơn trời, rộng hơn biển. Lớn lên, Tích Chu sẽ không khi nào quên ơn bà. Thế nhưng lớn lên, Tích Chu lại chẳng thương bà. Bà thì suốt ngày làm việc vất vả, còn Tích Chu suốt ngày rong chơi. Vì làm việc vất vả, ăn uống lại kham khổ nên bà bị ốm. Bà lên cơn sốt nhưng chẳng ai trông nom. Tích Chu mãi rong chơi với bạn bè, chẳng nghĩ gì đến bà đang ốm. Một buổi trưa, trời nóng nực, cơn sốt lên cao, bà khát nước quá liền gọi: – Tích Chu ơi, cho bà ngụm nước. Bà khát khô cổ rồi! Bà gọi một lần, hai lần…rồi ba lần nhưng vẫn không thấy Tích Chu đáp lại. Mãi sau Tích Chu thấy đói mới chạy về nhà kiếm cái ăn. Tích Chu ngạc nhiên hết sức thấy bà biến thành chim và vỗ cánh bay lên trời. Tích Chu hoảng quá kêu lên: – Bà ơi! Bà đi đâu? Bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi! – Cúc cu … cu! Cúc … cu cu! Chậm mất rồi cháu ạ, bà khát quá không thể chịu nổi phải hóa thành chim để bay đi kiếm nước. Bà đi đây, bà không về nữa đâu! Nói rồi chim vỗ cánh bay đi. Tích Chu hoảng quá chạy theo bà, cứ nhằm theo hướng chim bay mà chạy. Cuối cùng Tích Chu gặp chim đang uống nước ở một dòng suối mát. Tích Chu gọi: – Bà ơi! Bà trở về với cháu đi. Cháu sẽ đi lấy nước cho bà, cháu sẽ giúp đỡ bà, cháu sẽ không làm bà buồn nữa! – Cúc …cu…cu, muộn quá rồi cháu ơi! Bà không trở lại được nữa đâu! Nghe chim nói, Tích Chu òa khóc, Tích Chu thương bà và hối hận. Giữa lúc đó, có một bà tiên hiện ra, bà bảo Tích Chu: – Nếu cháu muốn bà trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối Tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối Tiên xa lắm, cháu có đi được không? Nghe bà Tiên nói, Tích Chu mừng rỡ vô cùng, vội vàng hỏi đường đến suối Tiên, rồi chẳng một phút chần chừ, Tích Chu hăng hái đi ngay. Trải qua nhiều ngày đêm lặn lội trên đường, vượt qua rất nhiều nguy hiểm, cuối cùng Tích Chu đã lấy được nước suối mang về cho bà uống. Được uống nước suối Tiên, bà Tích Chu trở lại thành người và về ở với Tích Chu. Từ đấy, Tích Chu hết lòng yêu thương chăm sóc bà.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cau-be-tich-chu" }
Sự tích tháp báo ân
Ngày xưa ở xã Bình-Quân, huyện Cẩm- giàng, có vợ chồng một phú ông nọ sinh được mỗi một cô con gái. Cô xinh đẹp nhất làng, tính nết lại dịu dàng, hiền hậu. nhân nhà cô có nuôi thầy cho con trai học, phú ông cũng cho con gái theo đòi nghiên bút. Cô rất thông minh học chóng tiến tới, chẳng bao lâu đã thông kinh sách. Nghe tin cô đẹp người, tốt nết lại hay chữ, bọn con trai quanh vùng cũng đã nhiều kẻ rắp ranh. Nhưng phú ông tự nhủ: -"Con gái ta phải sánh duyên với người nào văn chướng lỗi lạc, chứ về với bọn phàm phu tục tử thì thật uổng phí xuân xanh một đời." Nghĩ vậy có mấy đám con nhà giàu và quyền quý cho người tới dạm, ông đều lắc đầu từ chối. Cô gái càng lớn càng xinh, càng chăm học, thơ phú làm ra khó có ai theo kịp. Nhưng không ngờ thật là trớ trêu. Trong người cô mang một chứng bệnh mà thầy thuốc đành bó tay: đó là bệnh hủi. Trước cô còn e lệ giấu kín không cho ai biết. Nhưng ngày một ngày hai, những chỗ sưng thối lở loét bắt đầu hành hạ, cô không thể che mắt thiên hạ được nữa. Thấy bà con làng xóm xì xào về bệnh của con gái, và cũng e ngại chứng bệnh dễ lây, phú ông đành phải làm một ngôi nhà bên cạnh đường nhưng xa làng để cho cô ở riêng biệt, chỉ thỉnh thoảng cho con hầu mang tới gạo muối tiền nong cho cô chi dùng hàng ngày, không để thiếu thốn. Cứ như thế, cô gái xấu số nọ chịu nhận cuộc sống cô đơn buồn rầu đã hơn một năm. Một hôm có một thầy cử trẻ tuổi trên đường đi thi hội. Vừa đi lọt vào lùm cây thì trời bỗng đổ cơn mưa, anh nhanh chân tìm một hốc cây để ẩn nấp. Nhưng trận mưa kéo dài mãi đến tối. Cho nên vừa ngớt hột mưa, anh phải vội vã đi tìm chỗ nghỉ trọ. Vừa hay bên cạnh đường, anh thấy le lói có ánh đèn, bèn chạy tới gọi cổng, không biết đấy là nhà cô gái hủi. Tiếng cô gái nói vọng ra: - Ai đấy, hãy đi kiếm chỗ khác mà trọ, ở đáy nhà cửa chật chội không ở được đâu! Đứng ở ngoài cửa thầy cử ta kèo nài: - Tôi đây. Xin làm ơn cho vào hơ nóng một tý, kẻo vừa rồi mưa ướt hết cả. - Xin mời khách đi nữa sẽ có chỗ trọ, nhà tôi vắng vẻ không tiện mời vào. - Tôi là cử nhân họ Trần đi thi hội, vì làng xóm còn quá xa xin cho nghỉ lại một tý, nếu không tiện thì tôi sẽ đi. Thấy giọng có vẻ cầu khẩn, lại nghe khách tự xưng là con nhà lễ giáo, cô gái bỗng động lòng thương, bèn ra mở cổng mời vào. Dưới bóng đèn, cô thấy khách là một chàng trai ngoài hai mươi tuổi, dáng người nho nhã, ăn nói lễ phép, thì không nỡ từ chối, nên tươi cười: - Bố mẹ đi vắng cả, chỉ có thiếp ở nhà. Người xưa có nói "nam nữ thận trọng từ cái trao tay", mời chàng trọ lại đây thật là bất tiện. Nhưng nay thấy chàng đi đường mệt nhọc và ướt át, chẳng dám khăng khăng giữ lễ, vậy mời chàng cứ nghỉ lại đây, có cần gì thiếp xin giúp đỡ. Nói rồi đốt lửa cho khách sưởi, lại thổi cơm mời ăn. Thầy cử thấy cô gái mặt mũi xinh đẹp, ăn nói khôn ngoan, tốt bụng, lại có vẻ con nhà có học thì trong bụng lấy làm mến, bèn hỏi: - Đa tạ cô chẳng nệ phiền hà, hết lòng giúp đỡ, việc đó tôi không dám quên ơn. Tôi cũng không ngờ cô lại là kẻ theo nghiệp sách đèn. Chẳng hay cô là con cái nhà ai, bố mẹ làm gì? Cô gái nói thật tất cả, trừ cái bệnh của mình. Thấy cô học giỏi, thầy cử bèn cùng cô xướng họa. Hai bên đối đáp với nhau đến khuya. Dần dần, từ chỗ yêu mến, thầy cử đâm ra bạo dạn, lại thấy chủ nhân một thân một mình, thầy bèn ngỏ lời đính ước kết hôn. Thương thân tủi phận, cô gái rơi nước mắt, nói: - Phận thiếp xấu số không đáng là kẻ nâng khăn sửa túi cho chàng. Xin chàng hãy để tâm vào việc thi cử trước mắt, sau này có gì cũng chưa muộn. Thấy nàng sụt sùi, thầy cử không biết ẩn tình, bèn bước lại khuyên dỗ. Cuối cùng không ngăn được lửa tình anh nắm lấy tay nàng đòi cầu thân. Cô gái tuy e lệ cũng không từ chối. Hai bên coi nhau như vợ chồng. Sáng dậy thầy cử vội ra đi cho kịp ngày thi. Khi hai bên từ giã, anh hẹn: - Một lời vàng đá thề quyết trăm năm. Xin nàng hãy chịu khó chờ. Chuyến này dù đỗ hay hỏng, tôi cũng sẽ cậy người đưa "lục lễ" đến rước nàng làm vợ. Sau khi thầy cử ra đi, cô gái nghĩ đến số phận hẩm hiu thì vô cùng đau khổ. Cô tự nghĩ: -"Ta may mắn được chàng thương tới, nhưng chàng đâu có biết ta bệnh hoạn khốn khổ thế này. Nếu chàng mà biết thì ta còn mặt mũi nào nữa, chẳng thà chết quách còn hơn". Suốt ngày hôm ấy, nàng vừa tưởng nhớ vừa tuyệt vọng. Trong một cơn phẫn chí đến cực độ, cô gái bỗng dưng ngất đi, hồn lìa khỏi xác lúc nào không biết. Sau đó mấy ngày, vợ chồng phú ông mới hay tin; cả nhà đổ tới chỉ còn biết than khóc và an táng người bạc mệnh ở ngay trong ngôi nhà của nàng. Lại nói chuyện thầy cử sau khi giã từ, đi luôn mấy ngày mới đến kinh kỳ. Hình ảnh cô gái tài hoa gặp nhau trong một đêm đầy tình nghĩa ái ân choán hết tâm trí chàng trẻ tuổi. Vào trường thi, bài của anh làm rất trôi chảy. Nhưng khi vào kỳ cuối, bài "văn sách" đầu đề ra có phần hiểm hóc làm anh ngậm bút mãi. Cuối cùng cũng viết thành bài, nhưng sau khi ra trường bước về quán trọ, anh mới nhớ là mình đã viết nhầm mấy chỗ. Anh lắc đầu tặc lưỡi: -"Chết thật! Thế này thì còn đỗ với đạt thế nào được nữa". Lúc ông chủ khảo chấm đến bài của anh thì thấy không thể đỗ được. Sắp hạ bút xuống phê chữ "liệt" (kém), chủ khảo bỗng thấy tay mình như bị ai giữ cứng. Ông đành phải bỏ bút xuống bàn. Bỗng ông cảm thấy buồn ngủ ríu mắt. Chợp đi một lúc, ông mơ màng thấy có một cô gái rất xinh tiến đến trước mặt chắp tay vái lia lịa, và nói: -"Đây là quyển thi của chồng tôi, xin ngài làm ơn rộng bút cho". Tỉnh dậy, chủ khảo lấy làm lạ, bèn đọc lại bài văn một lần nữa thì cũng lại thấy không thể lấy đỗ được. Toan cầm bút phê thì quản bút tự nhiên rơi xuống đất, ông chưa kịp nhặt lên bỗng lại chợp đi, bóng cô gái lúc nãy lại hiện ra trước mặt, một hai xin hãy vớt cho quyển văn ấy. Ông bèn hỏi: -"Nàng ở đâu ta?" Đáp: -"Tôi là con gái học Nguyễn, quán xã Bình-quận, huyện Cẩm-Giàng...". Thế rồi bóng cô gái lại biến đi. Chủ khảo giật mình tỉnh dậy. Ông hết sức ngạc nhiên, miệng lẩm bẩm: - "Quái lạ, nhà thí sinh này hẳn có âm công gì đây, nên âm hồn theo từ xa đến để báo, ta cũng không nỡ thẳng tay". Nghĩ vậy, cuối cùng cũng lấy vớt cho đỗ. Hôm thầy cử - bây giờ đã là quan tân khoa - cùng các bạn đến chào chủ khảo, thì ông này lưu một mình tân khoa họ Trần lại, đoạn hỏi anh: -"Anh đã có vợ chưa?". Anh đáp: -"Thưa chưa". - "Thế nhà anh có làm "âm công" gì không?". Anh lắc đầu: -"Tôi không nghe ai nói gì, chắc là chẳng có". Chủ khảo bèn kể cho nghe về một cô gái hai lần báo mộng trong khi chấm bài, sau này ráp "phách" mới biết đó là bài của anh, rồi nói: -"Anh đáng lý không được đỗ vì bài "văn sách" làm kém, được đỗ cũng nhờ cô gái ấy". Nghe đoạn, anh ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu, nhưng cũng không hiểu ra thế nào cả, đành nói ít câu cảm ơn rồi cáo từ ra về. Lần vinh quy ấy, quan tân khoa họ Trần nhắm người nhà phải sắm thêm cái võng thứ hai. Anh dự định khi đoàn về ngang ngôi nhà của người yêu thì đón nàng về, luôn thể "vinh quy cùng với vu quy một ngày". Không ngờ khi xô cổng bước vào, đã thấy một ngôi mả mới nằm lù lù ở giữa nhà. Anh giật mình tưởng như có gáo nước lã giội vào lưng, nghĩ rằng lần trước mình gặp phải ma. Lập tức anh cho người nhà đi dò hỏi. Người nhà trở về báo cho anh biết đó là mả một cô gái con nhà phú ông nọ chưa chồng, nhưng bị hủi phải ở riêng tại đây, chỉ mới mất trong vòng nửa tháng nay. Bấm đốt ngón tay anh mới biết người yêu mất sau khi mình đi một ngày. Sực nhớ tới câu chuyện kể của chủ khảo, anh hết sức thương cảm, miệng lẩm bẩm: -"Như thế là hồn nàng đã theo ta đễn kinh kỳ để giúp ta khỏi bị đánh hỏng". Sau khi công việc vinh quy đã xong, anh tìm đến nhà phú ông kể hết mọi việc cho nghe, rồi nói: - Mặc dù nàng đã chết, cũng xin ông cho tôi được làm rể. Vì một ngày cũng là nghĩa. Phú ông không ngờ lại có chuyện lạ lùng như thế, chối từ không dám nhận. Nhưng vì quan nghè mới nói mãi, nói mãi, cuối cùng ông đành vâng lời. Bấy giờ anh mới sắm sửa một lễ tễ trọng thể, đưa đến nhà nàng lấy danh nghĩa là chồng tế vợ. Lại thuê thợ xây bên cạnh mả một cái thá, trong lòng có mấy chữ: "Cô Nguyễn Thị...là vợ của tiến sỹ họ Trần". Dân quanh vùng gọi tháp ấy là tháp Báo-ân.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-thap-bao-an" }
Từ Thức gặp tiên
Vào đời nhà Trần ở châu Ái có một chàng trẻ tuổi tên là Từ Thức. Chàng vốn con nhà quan. Năm 20 tuổi nhờ học giỏi thi đỗ cao, chàng được bổ một chân tri huyện ở một huyện vùng Bắc. Khác với bọn quan lại khác, Từ Thức vốn là người phóng khoáng, không chịu ràng buộc vào khuôn phép. Chàng lại không thích những chuyện nịnh trên, nạt dưới, mà chỉ thích uống rượu ngâm thơ, và đi chơi ngắm cảnh. Ở gần vùng Từ Thức trị nhậm có một ngôi chùa lớn. Trước sân và xung quanh vườn trồng toàn một loại cây mẫu đơn. Mỗi năm vào khoảng tháng giêng là mùa hoa nở rộ, cũng là kỳ cúng Phật. Nhân dịp đó, các thiện nam tín nữ các nơi đua nhau về chùa lễ Phật và ngắm hoa. Vì thế người ta cũng gọi là hội xem hoa hay là hội mẫu đơn. Một năm vào kỳ hội xem hoa, Từ Thức cũng có cái hứng đi hành hương ngắm cảnh. Để khỏi làm kinh động dân chúng, Từ Thức cải trang thành một người học trò. Chàng cũng không cho mang lính hầu và cáng xá đi theo. Hồi này các chùa chiền được triều đình vì nể, nên có những bọn sư sãi ỷ thế hoành hành. Để bảo vệ hoa, chùa này đặt ra một cái lệ ai bẻ hoa hoặc là gãy cây sẽ bị phạt vạ một số tiền. Nếu không có tiền thì nhà chùa sẽ bắt làm nô để đền nợ. Ngày hôm ấy có một cô gái đi xem hội vô tình không biết lệ nhà chùa, thấy có hoa đẹp ở cạnh lối đi bèn rón tay ngắt một bông. Thấy vậy, bọn thủ hộ trong chùa xông ra bắt giữ lại đòi tiền vạ. Cô gái thú thực là mình đi xem hội không mang tiền theo nên không biết lấy gì đền. Nghe nói thế, bọn thủ hội liền sai trói cô gái vào cột chùa cốt để làm nhục, vặn cho ra tiền chuộc. Vừa lúc ấy Từ Thức tiến vào cổng chùa. Thấy một người con gái yếu ớt bị bọn vũ phu lăng nhục, Từ Thức không ngăn được cơn giận dữ. Chàng sán đến đòi cởi trói cho cô gái. Bọn thủ hộ nhất định không cho và chỉ vào mặt chàng: - Này, nếu không có đủ một quan tiền chuộc thì anh chớ có động đến dây trói mà sinh chuyện rầy rà đấy. Nghe chúng thách thức, cơn giận của Từ Thức bừng bừng bốc lên. Đã toan dùng đến chức vị của mình để trị bọn bất lương, nhưng rồi chàng lại kịp gạt đi vì chẳng muốn làm to chuyện. Không nghĩ ngợi, chàng cởi phăng chiếc áo ngoài vứt cho bọn thủ hộ để chúng trả tự do cho cô gái. Dây trói vừa cởi, cô gái ngỏ lời cảm tạ Từ Thức. Thấy nàng xinh đẹp lại bạo dạn, Từ Thức cũng muốn làm quen. Chàng hỏi: - Nhà nàng ở đâu? Tôi nghe giọng nói hình như không phải là người vùng này. Cô gái đáp: - Quê thiếp ở tận trong châu Ái huyện Tống sơn... Không ngờ người đẹp lại là người cùng quê, Từ Thức càng thêm niềm nở. Hai người men theo lối cổng chùa, vừa đi vừa ngỏ ít lời lâm sự. Trước khi từ giã, nàng còn không quên mời chàng đến chơi nhà nếu có dịp về thăm quê. Vẫn không ưa cái nghề roi vọt trị dân, Từ Thức thường bị bọn quan trên hạch tội. Một lần vì để vụ thuế chậm trễ, chàng bị viên an phủ gọi đến quở mắng nặng lời. Chàng than: - Ta há vì mấy bó thóc mà chịu nhục như thế này ư! Lúc trở về huyện lỵ, lập tức chàng cởi bỏ ấn tín treo ở trước mái công đường, rồi bỏ đi biệt. Chàng đi thẳng về quê nhà thăm bố mẹ và bà con làng nước. Ở nhà được ít lâu, nhớ đến lời mời của cô gái trong hội xem hoa, Từ Thức liền cất công ra đi. Theo lời chỉ dẫn, chàng lặn lội tìm kiếm, nhưng bóng chim tăm cá mịt mù. Vùng Tống sơn có bao nhiêu cảnh đẹp, chàng đều có để lại dấu chân và những bài ca vịnh, vậy mà chàng vẫn ân hận không gặp lại người đẹp năm xưa. Mặc dầu vậy, Từ Thức vẫn không nản lòng. Một hôm trên đường đi tìm, từ sáng sớm, Từ Thức đã trèo lên núi cao nhất ra giữa cửa Thần phù. Tự nhiên trước mắt chàng hiện lên một hòn đảo trông y như một đóa hoa sen giữa vùng biển cả. Say sưa nhìn ngắm, chàng bèn dong buồm ra khơi. Chẳng bao lâu thuyền đã ghé đảo. Đang mê mải nhìn, chàng bỗng thấy ở sườn núi đá gần đó có một cửa hang khá rộng. Bèn vin cây rẽ cỏ tìm đến tận nơi. Vừa bước vào hang được một quãng, thì bỗng dưng cửa hang tối sầm lại. Từ Thức vẫn cứ sờ soạng bước liều. Đi một đoạn nữa thình lình lại thấy có ánh sáng. Trông ngược lên thấy núi cao chót vót, đá mọc lởm chởm. Khi leo lên đến đỉnh thì Từ Thức bỗng thấy cả một tòa nhà lộng lẫy hiện ra trước mặt. Chưa hết ngạc nhiên trước cảnh lạ, chàng bỗng thấy bóng hai người con gái nhỏ mặc áo xanh. Một người nói: - Chú rể mới nhà ta đã đến kia kìa! Chàng hết sức bỡ ngỡ nhưng vẫn bạo dạn đi theo hai cô gái. Trên đường đầy hoa thơm cỏ lạ. Đi một chốc thì đến lâu đài. Vừa bước lên thềm Từ Thức đã thấy một người đàn bà dáng quý phái ra đón. Bà tươi cười bảo chàng: - Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu hang động ở cõi tiên. Từ lâu ta cai quản thế giới này. May mắn hôm nay lại được đón người trẻ tuổi phong nhã và chí tình. Thế nào, cảnh trí ở đây có làm cho du khách ưa thích không? Thấy Từ Thức gật đầu, người đàn bà lại nói: - Khoan đã. Để còn cho gặp một người quen cũ. Đoạn, ra hiệu cho người hầu gái đi gọi. Chốc sau, một cô tiên từ trong hành lang bước ra, dáng thướt tha kiều diễm, mỉm cười chào chàng. Từ Thức nhìn kỹ thì ra đấy là cô gái bẻ hoa mẫu đơn năm nào. Chàng mừng rỡ nói to: - Ô hay tôi đi tìm nàng khắp nơi mà không thấy, không ngờ lại gặp ở đây! Câu chuyện từ đấy trở nên thân mật đậm đà hơn. Bà chúa động nói: - Em nó tên là Giáng Hương. Ngày trước đi xem hội mẫu đơn không may gặp rủi ro, nhờ có chàng tận tình cứu giúp. Âu đó cũng là duyên trời. Chàng đã có lòng cất công đi tìm, nay đến gặp nhau, hãy mở tiệc hoa để phỉ lòng khao khát. Từ Thức thấy không gì đẹp lòng hơn thế nữa. Lập tức đêm hôm ấy trong bữa tiệc tưng bừng có quần tiên tụ hội, hai người chính thức làm lễ giao bôi. Khách tiên từ các động vui vẻ cạn chén chào mừng chàng rể mới đến nhập tịch làng tiên, và chúc tụng cuộc tình duyên tốt đẹp của hai người. Ngày lại ngày nối nhau trôi qua, Từ Thức làm rể cõi tiên bấm đốt ngón tay đã được ba năm. Cuộc đời mới hoàn toàn khác với cảnh sống trần gian ngày trước. Cơm ăn áo mặc và mọi vật dụng cần thiết, chàng đều có sẵn, không thiếu một thứ gì. Sắc đẹp tuyệt vời, tính nết hiền dịu của Giáng Hương luôn luôn làm cho chàng thỏa dạ. Chàng lại được đi ngao du các động tiên, thơ ngâm vịnh làm ra thao thao bất tuyệt. Tuy nhiên, lâu dần, Từ Thức lại thấy như thiếu một cái gì, một hôm chàng tâm sự với Giáng Hương: - Xa cha ngái mẹ đã lâu, muốn về thăm một chuyến có được chăng? Thấy vợ ngần ngừ chàng nói thêm: - Chỉ cho về gặp bà con xóm làng một lần chót, rồi tôi sẽ đến đây ở với mình mãi mãi. Giáng Hương thủ thỉ khuyên dỗ chồng hãy bỏ cái ý nghĩ trở về vì cõi tục và cõi tiên là hai con đường cách biệt. Nhưng Giáng Hương càng khuyên bao nhiêu thì nỗi nhớ nhà của Từ Thức càng nặng bấy nhiêu. Thấy chồng tuy không đòi về nữa nhưng nét mặt ngày một héo hon. Giáng Hương đành phải thưa với mẹ. Mẹ nàng thương hại: - Không ngờ gã ấy còn lưu luyến bụi hồng đến thế! Nói rồi cho người đẩy xe mây đến cho Từ Thức trở về. Chàng vội vã từ giã vợ và mẹ vợ, từ giã các bạn tiên, rồi bước lên xe. Chỉ trong chớp mắt, chàng đã thấy lại quê hương cũ. Các rặng núi, con sông, những lũy tre dưới mắt chàng vẫn không có gì khác xưa. Xe đặt chàng xuống giữa một bến sông, nơi mà ngày còn nhỏ chàng vẫn ra đấy tắm mát và bơi lội. Nhưng khi nhìn kỹ cảnh vật thì Từ Thức lấy làm ngờ ngợ. Mới ba năm mà nhà cửa vườn tược làm sao đã khác. Dân làng cũng chẳng có một người nào quen mặt. Hỏi một người đi đường, người ấy cho biết đúng là tên của làng chôn rau cắt rốn của mình. Nhưng khi hỏi đến bố mẹ và em gái thì ai cũng lắc đầu trả lời không biết. Sau cùng, Từ Thức đem họ tên của mình hỏi thăm các cụ già trong làng, thì một người ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp: - Từ lúc còn nhỏ, tôi có nghe truyền lại rằng các cụ tổ năm đời nhà tôi có một cụ cũng tên họ như thế, trước làm quan huyện rồi treo ấn từ về, một hôm đi chơi sa vào hang núi mặt tích. Từ bấy đến nay dễ đã gần ba trăm năm. Nghe kể chuyện, Từ Thức mới thấm thía lời nói của vợ. Chàng bùi ngùi đứng nhìn cây đa mình trồng đầu ngõ bây giờ đã thành cổ thụ, cây to hàng vầng, cành lá rườm rà, rễ buông từng chùm chi chít. Chàng thẫn thờ trước đám đông đang vây quanh mình. Sau cùng Từ Thức trở lại chỗ xe mây, thì không ngờ xe đã biến mất từ lúc nào. Buồn rầu vô hạn, chàng lại khăn gói lần mò đến cửa Thần-phù, định bụng tìm lại hang cũ dẫn đến động tiên nhưng mịt mù cây đá kín lối không thể tìm ra được nữa. Chàng đi, đi mãi, về sau không biết là đi dâu. Từ đấy người ta gọi hang núi ở chỗ này là động Từ Thức...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tu-thuc-gap-tien" }
Sự tích con rồng cháu tiên
Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng Lâm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi. Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng. Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ. Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn. Lạc Long Quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ. Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn. Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng. Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: – Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay. Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: – Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con! Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về. Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc. Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời. Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thủy phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về, nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: – Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này. Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng: – Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não. Lạc Long Quân nói: – Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên. Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương. Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-rong-chau-tien" }
Sự tích chú cuội cây đa
Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về. Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên: – Trời ơi! Cây này chính là cây có phép “cải tử hoàn sinh” đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó! Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong. Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi. Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn. Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội. Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được. Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa. Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!”. Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay. Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời. Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng. Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa….
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chu-cuoi-cay-da" }
Sự tích dưa hấu
Ngày xửa ngày xưa, có chàng trai trẻ tuổi tên gọi Mai An Tiêm. Vốn chàng ở một nước rất xa tận ngoài vùng biển phía Nam, sau này lại bị bán trở thành nô. Vào một ngày nọ, bọn lái buôn đem chàng tới bán lại cho Hùng Vương làm nô lệ. Mai An Tiêm sáng dạ nên rất nhanh học được cách nói tiếng Việt. Hơn nữa chàng nhớ được rất nhiều chuyện, biết về nhiều thứ thường thức, có rất nhiều tài nghệ khác nhau. Bởi chàng đa tài lại chăm chỉ, nhà vua càng ngày càng yêu thích, luôn cho chàng theo hầu bên cạnh mình. Vào năm Mai An Tiêm được ba mươi lăm tuổi thì chàng được thăng lên làm quan hầu cận của nhà vua, còn có được một căn nhà riêng ngay cạnh cung của vua. Còn vợ của Mai chính là con gái nuôi của nhà vua, cả hai đã có được một đứa con trai năm tuổi. Trong nhà của Mai cũng có đủ người hầu kẻ hạ, cũng chẳng thiếu thốn vật ngon hay của lạ gì cả. Tuy rằng oai quyền của chàng cũng chẳng lớn lắm, nhưng lại rất được mọi người xung quanh nể phục. Bởi vậy có không ít người thường xuyên lui tới chỗ chàng để mà cầu cạnh công kia việc nọ. Nhưng bởi vì thấy Mai có được địa vị cao nên cũng chẳng thiếu những kẻ ganh ghét, đố kị. Vào một ngày nọ có bữa tiệc chiêu đãi các quan khách, đang lúc mọi người đua nhau nói lời xu nịnh, tâng bốc thì Mai An Tiêm khiêm nhường mà bảo với họ rằng: – Cũng có gì đâu! Mọi thứ ở trong nhà này vốn là vật tiền thân bên người tôi thôi! Mai nói vô cùng tự nhiên. Nhưng đó là vì tôn giáo ở nơi xứ sở chàng sống trước đây có cho rằng việc hiện tại sướng hay khổ chính là kết quả từ sự ăn ở xấu hay là tốt ở tiền kiếp. Tuy nhiên trong số những quan khách dự tiệc ngày đó cũng có mấy viên quan hầu thân cận của nhà vua, chúng vốn trong lòng nuôi mối ghen ghét với Mai từ đã lâu. Chính vì thế khi nghe Mai nói vậy liền chụp lấy những lời nói của Mai mà cho rằng đó là những lời ngạo mạn, sau chúng vội vàng vào cung diện kiến tâu lại toàn bộ cho nhà vua được biết. Khi vua Hùng nghe được câu chuyện thì giận dữ vô cùng. Vua gầm lớn: – Chà! Thằng này láo! Hôm nay nó đã nói được như thế, thì không biết ngày mai nó còn nói ra được những lời bất kính cỡ nào. Đúng là quân nô phản trắc mà! Mau gô cổ nó lại! Ngay buổi chiều ngày hôm ấy thì Mai bị quân lính tới nhà riêng bắt đem bỏ ngục. Lúc bấy giờ thì chàng mới chợt hiểu ra rằng mình lỡ lời nên chọc giận nhà vua. Chàng tự nhủ với mình: – Nếu ta lại bị đày đọa kể từ nay thì chắc hẳn do kiếp trước của ta đã có hành động cư xử không đúng. Cùng lúc đó ở trong triều, tất cả các quan đều được triệu gọi để họp bàn phương thức xử lí chàng Mai An Tiêm. Có không ít người đưa ra phương án xử tử chàng. Cũng có người đề nghị thi hành phương thức cắt gót chân. Tuy nhiên thì lại có một lão quan đưa ra ý kiến khiến cho Hùng Vương phải chú ý, đó là: – Hắn chịu tội chết cũng xứng đáng thôi. Tuy nhiên thì trước khi hắn chết thì chúng ta vẫn nên cho hắn nhận thức rõ ràng và thấm thía một chuyện, đó là tất cả những thứ của cải mà trước đây hắn hưởng thụ đều là do ơn trời ơn bể mà bệ hạ ban cho, chứ chẳng phải là thứ tiền thân của hắn. Thần có nghe được ở ngoài cửa Nga Sơn ấy có một hòn đảo hoang. Chúng ta cứ cho hắn ra ngoài đấy cùng một đến hai tháng lương, cho hắn ngồi suy ngẫm thật kĩ về thứ “vật tiền thân” mà hắn nói trước khi chịu chết. Lời nói của lão quan được tất cả mọi người ủng hộ, vua Hùng cũng hết sức tán thành ý kiến này. Tuy nhiên sau khi hạ lệnh xuống thì vua có dặn dò thêm là: – Hãy chuẩn bị cho hắn số lương đủ dùng trong một mùa, nhớ không”. Ngày Mai An Tiêm bị đưa đi đày ngoài đảo hoang, dù tất cả mọi người hết lời can ngăn thì vợ của chàng vẫn quyết định khăn gói theo chồng tới đảo vắng. Nàng cũng không quên bế theo đứa con trai năm tuổi của mình cùng đi. Thấy việc làm của nàng, chẳng một ai tán thành, họ đều cương quyết coi đó là một việc làm hết sức rồ dại và ngu ngốc. Nhưng nàng vẫn một mực tin vào lời nói của chồng mình: – Trời sinh voi rồi lại sinh cỏ. Có gì phải lo! Tuy nhiên khi chính thức đặt chân lên bãi cát dài mịt mù và hoang vu ấy, người thiếu phụ lúc này cũng không cách nào để mà ngăn được cảm xúc tủi thân đang trào dâng trong lòng, nàng chỉ biết gục vào vai chồng mà nức nở: – Khéo chúng ta chết ở đây mất thôi! Mai vẫn bình tĩnh ôm con mà bảo vợ rằng: – Trời lúc nào cũng có mắt cả. Chúng ta phải phấn chấn lên chứ. Không cần lo lắng! Hơn một tháng sau ngày lên đảo hoang, cuộc sống ở đảo của gia đình nhà Mai An Tiêm cũng đã dần ổn định. Cả nhà cùng sống chui ở trong những hốc đá, cửa hang thì đan phên chắn lên, cũng coi như là che được sương gió bên ngoài. Còn vấn đề nước uống cũng không cần phải lo lắng gì nhiều, bởi vì gần đấy cũng có suối nước chảy qua. Tuy không có muối, nhưng lại có ngay nước biển thay thế. Tuy nhiên thì vấn đề quan trọng nhất hiện nay của họ chính là làm sao để mà kéo dài được sự sống cho cả nhà? Cả hai vợ chồng đều cùng nhìn vào trong bồ đựng gạo đã vơi nhiều mà rầu rĩ nói: – Nếu như mà chúng ta có được một nắm hạt giống thôi thì cũng chẳng lo ngại chuyện gì nữa. Đột nhiên ngày nọ có đàn chim lớn từ phương Tây bay đến, chúng đậu xuống đen kịt cả bãi cát dài. Sau đó chúng lại cùng nhau bay tới chỗ ở của hai vợ chồng Mai An Tiêm, rồi chúng cứ kêu váng lên, chúng đem thả xuống bãi khoảng năm, sáu hạt gì đó đen đen. Không lâu sau thì những hạt giống ấy nảy mầm, mọc ra thành những cây dây rồi mọc lan hết cả bãi, từ một bãi cát trắng bây giờ đã được bao phủ một màu xanh um tươi tốt. Dây xanh lan tới đâu thì lại mọc ra những quả xanh mơn mởn. Một thời gian sau, khi hai vợ chồng Mai An Tiêm đưa nhau tới xem thì thấy những quả xanh con ngày nào giờ đã lớn nhanh như thổi, vỏ xanh mượt, mà quả nào quả nấy đều to cỡ đầu người. Thấy quả lạ, Mai liền đem trẩy lấy một quả, sau khi bổ ra thì ruột bên trong là một màu đỏ hồng đẹp mắt, còn có lốm đốm những hạt màu đen nhánh. Cả nhà cùng nhau nếm thử thì thấy trái này có vị ngọt ngọt thanh thanh rất dễ chịu. Càng ăn lại càng cảm thấy ruột gan cũng mát hết cả. Mai lập tức reo lên đầy vui mừng: – Chao ôi! Đây chính là một loại dưa lạ mà chúng ta chưa từng thấy bao giờ. Vậy hãy gọi nó là dưa Tây đi, bởi vì những hạt giống của loại dưa này được đàn chim đem từ phương Tây tới đây, mang từ đất liền ra tới tận đảo nhỏ này cho chúng ta. Vậy là trời có mắt, trời đã cho chúng ta con đường sống rồi đấy! Kể từ ngày đó thì cả hai vợ chồng Mai An Tiêm đều cố gắng hết sức đem hạt giống của dưa trồng thêm thật nhiều ở trên bãi. Họ đã trù tính sẽ ăn dưa này thay cơm, tiết kiệm số gạo ít ỏi còn sót lại trong bồ kia. Vào một ngày nọ, vô tình có một chiếc thuyền đi đánh cá bị lạc ra ngoài đảo và bắt gặp vợ chồng nhà Mai. Mai còn giúp họ sửa chữa chiếc thuyền bị hỏng, đem dưa bổ ra cho mọi người cùng thưởng thức. Khi họ căng buồm lái trở về nơi đất liền, chàng không quên trẩy ít dưa biết họ đem về cho những người sống trong đất liền ăn thử. Mai còn bảo họ nếu muốn có thêm dưa thì hãy đem chở cho họ ít gạo ra ngoài đảo để đổi lấy dưa mang về. Vài ngày sau thì có con thuyền đầu tiên đến và cắm neo ngay cạnh bến đảo, họ chở ra cho vợ chồng Mai khá là nhiều gạo trắng. Theo như ước hẹn của đôi bên, một bên thì nhận gạo, còn bên kia thì cắt dưa đem xuống thuyền. Và cũng kể từ ngày đó trở đi thì những bữa ăn hàng ngày của nhà Mai cũng đã hoàn toàn khác trước. Ngồi cạnh bên nồi cơm trắng ngần bốc lên từng làn khói thơm lừng, vợ Mai bế con trong lòng lẩm bẩm: – Quả nhiên trời đã nuôi sống được nhà chúng ta rồi! Cũng kể từ ngày đó trở đi, hai vợ chồng lại tiếp tục gắng sức mà trồng thêm thật nhiều dưa nữa. Kết quả chính là, không chỉ có đám thuyền buôn, mà cả đám thuyền chài cũng đều lũ lượt mà kéo nhau ra ngoài hải đảo, chở theo nào gạo, nào quần áo, nào lợn gà, nào dao búa, hơn nữa còn có thêm các loại hạt giống khác nhau, chỉ để đổi được ít dưa đem về. Tất cả những người đem thuyền tới đảo đều bảo với Mai rằng: – Quả thật là từ xưa tới nay cũng chưa có được loại dưa nào mà lại quý đến thế đâu. Ở vùng chúng tôi sống ấy, ai ai cũng ao ước một lần được nếm thử món “dưa hấu” này cả, dù phải đem bao nhiêu gạo ra đổi cũng chẳng thấy tiếc gì. Lúc bấy giờ đâu đâu cũng tranh nhau tới đảo để mua dưa hòng lấy hạt giống đem về trồng. Vì thế mà chỉ trong khoảng vài ba năm thì giống dưa này đã được mọi người lan tràn ra khắp mọi nơi. Cũng nhờ đó mà tên tuổi của vợ chồng Mai An Tiêm cũng được truyền đi rất xa rất rộng. Tất cả mọi người dân đều tôn gọi họ là “Bố cái dưa Tây”. Nói về vua Hùng, vào một ngày kia khi đang rầy la viên quan hầu của mình vì ngu dốt mà để cho bọn thợ dựng làm hỏng một cái nhà. Vô tình vua than thở là: – Phải chi bây giờ có Mai An Tiêm ở đây thì nào đến nỗi này. Ngày hôm đấy nhà vua cũng cứ nhắc đến chàng mãi. Nhà vua cũng hỏi Lạc hầu hai lần về chuyện của Mai, xem hiện giờ chàng đang ở đâu, đang làm gì. Vì không biết rõ tình hình nên quan Lạc hầu cứ nhắm mắt mà nói bừa là: – Chắc giờ hắn cũng chẳng còn nữa đâu! Nghe lời đấy của Lạc hầu nhưng nhà vua lại chẳng tin tưởng chút nào. Lập tức cấp lương ăn cùng thuyền cho một tên nô của mình, lệnh cho hắn phải tới Châu Ái để tìm bằng được Mai An Tiêm. Sau một tháng hành trình, tên nô ấy trở về và đem cho nhà vua một thuyền chất đầy những quả dưa Tây to và tâu rằng: – Tất cả đây là lễ vật mà ông bà Mai kính dâng cho bệ hạ. Sau đó thì hắn đem toàn bộ những chuyện tân khổ khi gia đình Mai mới bị đầy ra đảo hoang kể lại cho nhà vua, còn cả tình hình hiện tại của gia đình họ nữa. Xong hắn lại tâu: – Giờ đây ông bà Mai có nhà cửa rất đẹp, lại rộng rãi ở ngay ngoài đảo ấy, còn có hơn mười kẻ hầu người hạ, còn có một bãi dưa rất rộng, cũng có ruộng lúa cùng nhiều gà lợn… Hắn càng nói lại càng khiến cho vua Hùng cảm thấy sửng sốt ngạc nhiên. Nhà vua liền chậc lưỡi mà bảo mấy tên quan hầu cận của mình ngày trước dùng lời tố cáo Mai rằng: – Hắn nói tất cả đều là vật tiền thân trước kia của hắn, nói cũng chẳng sai đâu! Nhà vua lập tức phái một đoàn lính hầu tới đảo để đón vợ chồng Mai An Tiêm trở về, lại cho Mai nhận lại chức cũ. Sau đó còn ban cho chàng hai người con gái nữa để hầu hạ coi như an ủi chàng vì những chuyện trước kia. Còn nơi hải đảo mà cả nhà Mai An Tiêm từng sinh sống, bây giờ người ta gọi nó là bãi An Tiêm. Và những người kế nghiệp hai vợ chồng chàng Mai ở trên đảo đấy thì vẫn còn những dòng dõi rất đông đúc. Tất cả cùng chung tay mà lập nên làng Mai An. Nơi xây dựng ngôi nhà cũ của gia đình Mai trước kia thì nay họ đem xây đền để thờ hai vợ chồng Mai An Tiêm. Tất cả đều tôn xưng gọi họ là “Ông bà tổ dưa Tây (còn gọi là dưa hấu)”.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-dua-hau" }
Lê Như Hổ
Ở làng Tiên-châu bây giờ thuộc về tỉnh Hưng-yên, ngày trước có một anh học trò họ Lê. Người anh to cao, ăn khỏe như hổ, bởi thế người ta gọi là Như Hổ. Cha mẹ anh nhà nghèo nhưng cũng cố gắng nuôi con ăn học. Từ lúc Hổ biết làm văn bài, mỗi bữa cha mẹ cho ăn một nổi bảy cơm. Nhưng chỉ được nửa năm trong nhà hết veo cả gạo, phải cho anh chàng đi gửi rể. Nhà ông nhạc Hổ là một ông nhà giàu ở làng Thiện-phiến. Khi rể mới đến cho ăn mỗi bữa một nồi năm, nhưng vẫn thấy Hổ ăn rồi lại nằm khểnh không chịu học hành gì cả. Một hôm ông nhạc đến tìm ông thân sinh ra Hổ hỏi: - Ông bảo con ông là người chăm học làm sao từ khi nó đến nhà tôi, chẳng thấy nó học một tiếng nào? Cha Hổ hỏi lại: - Mỗi bữa ông cho cháu ăn bao nhiêu? - Một nồi năm. - Thế thì cháu không học là phải. Nhà tôi dẫu túng kiết cũng phải cho cháu ăn một nồi bảy. Từ đó cha vợ bảo thổi cho anh chàng một bữa một nồi bảy, mới thấy Hổ cầm sách học được một hai tiếng. Người mẹ vợ thấy vậy tỏ ý không bằng lòng. Một hôm bà phàn nàn với chồng: - Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống, ông chọn phải đồ ăn hại, chả làm nên được tích sự gì cả. Chồng đáp: - Nó có sức ăn hơn người chắc có tài hơn người. Đừng lo! - Nếu thế thì chúng ta có mấy mẫu ruộng hoang, thử bảo nó ra đấy vỡ xem có làm nổi hay không thì biết. Người cha vợ liền bảo Hổ vỡ ruộng giúp. Hổ nhận ngay, nói rằng: - Được, ngày mai cứ nấu cơm cho ăn, con sẽ xin làm chu tất. Qua ngày mai, ăn xong, Hổ cầm con dao lớn ra đầu làng ngồi dưới gốc đa. Nhân có gió mát chàng thiu thiu ngủ và làm luôn một giấc ngon lành. Đến khi mẹ vợ đi chợ về qua thấy Hổ vẫn còn ngáy rống dưới bóng cây, tất tả chạy về bảo chồng: - Ông còn thổi nhiều cơm cho nó ăn nữa thôi!... Ông ra mà xem nó vỡ ruộng dưới gốc đa kia kìa. Thật là đồ ăn hại đái nát! Không ngờ khi bà mẹ vợ gặp Hổ, chính là lúc Hổ sắp tỉnh giấc. Anh chàng vươn vai rồi cầm dao xuống ruộng, chỉ một buổi phát luôn ba mẫu cỏ. Hổ phát nhanh đến nỗi cá chạy không kịp, chết trôi nổi đầy đồng, bắt không biết bao nhiêu mà kể. Đến khi cha mẹ vợ ra ruộng thăm, thì ruộng cỏ đã phát xong lại được thêm mấy thùng cá. Họ mới biết chàng rể nhà mình là người có tài, tấm tắc khen ngợi. Khi lúa chiêm đã chín vàng, người mẹ vợ bảo Hổ đi mượn lấy hai mươi công gặt. Anh chàng bỏ đi chơi đâu một lúc lâu rồi về cho biết là không mượn được một người nào cả. Nhưng lúc bấy giờ đã thổi xong một nồi ba mươi cơm, chỉ còn đợi thợ gặt đến ăn. Hổ bảo: - Họ không chịu đến gặt, âu là con xin cố sức giúp thầy mẹ. Thế là Hổ ngồi một mình tỳ tỳ chén hết cả một bung lớn tướng cơm. Thấy mẹ vợ có ý không bằng lòng, anh chàng thưa: - Mấy mẫu lúa ấy cứ để mặc con gặt và gánh chỉ trong một ngày là xong hết. Nói đoạn Hổ cầm dao chặt tre chẻ lạt mang đi. Hổ gặt độ nửa ngày là xong hai mẫu lúa, thế rồi bó tất cả lại thành bốn năm gánh lớn tướng lần lượt quẩy về. Và chỉ đến chập tối là xong tất. Từ đó người mẹ vợ mến phục con rể, cho Hổ ăn đầy đủ để chàng an tâm học tập. Hổ học đến đâu nhớ đến đấy, không bao lâu thi đậu ông nghè. Trong thời gian đi thi Hổ đánh bạn với một anh chàng cũng nổi tiếng ăn khỏe tên là Nguyễn Thanh, người trong xứ Thanh. Khi chia tay, mời bạn đến nhà, Hổ hỏi bỡn: - Nhà bác có đủ cho tôi ăn một tháng không? Nguyễn Thanh trả lời: - Bác đừng lo. Cứ đến chơi, thế nào cũng đủ. Sau đó ít lâu, Hổ cùng một người đầy tớ hẹn đến chơi nhà Nguyễn Thanh. Bấy giờ ông Thanh đi vắng, Hổ bảo vợ bạn: - Ông nhà ta có hẹn tôi đến chơi. Nay tôi có việc qua đây, thầy tớ độ ba mươi người, nhờ bác biện cho một bữa. Vợ ông Thanh lập tức bảo người nhà thổi một nồi 50 cơm và mổ một con lợn to làm thành sáu mâm cỗ bưng lên. Trước mặt người đàn bà, Hổ sai người hầu làm bộ lăng xăng vờ ra gọi tất cả đầy tớ vào ăn. Nhưng cuối cùng chỉ một thầy một tớ ngồi chén tỳ tỳ hết mâm này đến mâm kia. Xong đâu đó, Hổ cáo từ ra về. Hôm sau, ông Thanh trở về nhà, người vợ kể lại chuyện cho biết, ông Thanh nói: - Thôi đích là Lê Như Hồ rồi! Năm sau, một mình ông Thanh tìm đến chơi nhà Hổ, Hổ sai mổ hai con lợn và bốn mâm xôi làm cỗ đãi khách. Người nhà bưng cho chủ và khách mỗi người một con lợn và một mâm xôi. Còn Hổ ngốn hết phần ăn của mình rồi lại ăn trèo sang mâm của bạn. Nguyễn Thanh cả sợ nói: - Sức ăn của bác thật là như hổ. Cơ nghiệp nhà tôi giàu lắm cũng chỉ thết quan bác được mươi bữa mà thôi! Về sau, Lê Như Hổ làm quan to trong triều. Một lần vâng lệnh vua đi sứ Trung-quốc, Hổ đưa theo một người hàng thịt có tài biện bác để theo hầu. Khi sứ bộ đến kinh đô, vua Trung-quốc nghe tiếng sứ giả nước Nam là người ăn khỏe khác thường, mới sai dọn yến để xem thử thế nào. Vua bảo đặc biệt sai dọn 18 mâm cỗ đặt lên 18 tầng cao. Cỗ ở tầng thứ 18, vua sai đầu bếp giỏi lấy đầu cá làm thành một cái đầu trông như thật để dọa sứ giả. Đoạn sai mời riêng Hổ vào ăn, Hổ đập bụng ăn hết cỗ tầng dưới rồi trèo lên ăn cỗ tầng trên, liên tiếp một mạch không nghỉ. Ăn đến cỗ ở tầng thứ 18, Hổ thấy cái đầu người, nhìn qua biết là cái đầu cá, liền cầm đầu đũa móc con mắt giơ lên cho mọi người xem rồi bảo người hầu: - Ta xưa nay chưa biết mùi thịt người là thế nào, nay được hoàng đế cho ăn đầu người phương Bắc thật là quý. Vậy hãy đem dao lại đây cho ta. Mọi người đứng dưới đều bịt mắt không dám trông lên. Việc đến tai vua, vua rất kính phục, nhưng cho câu nói của Hổ xúc phạm đến quốc thể, mới sai người hầu bưng đầu đi. Rồi vua sai lấy sơn gắn mắt Hổ lại, giữ riêng ở một nơi. Ba hôm sau, vua sai dắt Hổ đi khắp mọi nẻo trong hoàng thành rồi lại dắt trở về chỗ ăn yến cũ, hỏi: - Chỗ này là chỗ nào? Hổ đáp: - Đây là chỗ tôi ngồi ăn yến hôm nọ. Vua khen là người là có tài, bèn tha cho Hổ không phải gắn mắt nữa. Bấy giờ Trung-quốc trời làm hạn hán suốt ba tháng không có lấy một giọt mưa. Nhân có sứ giả các nước bốn phương đến chầu, vua mới hạ chiếu cho các sứ thần làm lễ cầu đảo. Ai cầu được ứng nghiệm sẽ được phong tước và trọng thưởng. Hổ nhờ người hàng thịt xem tượng trời biết là còn lâu mới mưa, nên tâu rằng: - Nước chúng tôi là nước bé, xin để sứ giả các nước lớn cầu đảo trước đi đã. Vua y theo. Sứ giả các nước lần lượt vào làm lễ đều chả ăn thua gì. Đến lượt sứ giả Việt-nam, Hổ tâu vua rằng: - Trong sứ bộ chúng tôi có một người có phép hô phong hoán vũ. Nếu bệ hạ muốn dùng xin để gọi vào. Vua lập tức cho đi gọi. Hổ đưa người hàng thịt đến cho vua. Người hàng thịt thấy trời chưa có dấu hiệu gì tỏ ra sắp có mưa nên lúc đến nơi, tâu vua: - Xin bệ hạ cho xây một cái đài cao 10 trượng: trên đó phải sắm đủ lễ vật cần thiết. Thần sẽ chọn ngày tốt để trai giới lên đàn rồi gọi mưa đến. Công việc cứ dềnh dàng mãi cho đến lúc rễ si và cỏ gà đều đâm nõn trắng, họ mới tâu vua xin bắt đầu làm lễ. Cúng ngày hôm trước thì hôm sau trời liền đổ mưa suốt hai ngày đêm. Người Trung-quốc từ vua chí dân đều mừng rỡ, khen sứ giả Việt-nam có bụng chân thành làm cảm động đươc trời đất. Vua Trung-quốc bèn phong cho người hàng thịt làm "Lưỡng quốc quốc sư" còn Hổ thì phong làm "Lưỡng quốc thượng thư". Thấy Hổ có tài, vua Trung-quốc lưu lại bắt dạy hoàng tử. Hổ tuy muốn về lắm nhưng không thể chối được, bất đắc dĩ phải ở lại dạy học. Theo phép dạy của Hổ thì "trước học lễ, sau mới học văn". Hễ hoàng tử hơi có tí lỗi là Hổ cầm roi vụt ngay vào đít. Hoàng hậu thương con hay phải đòn, mới xin vua chọn một ông thầy khác. Vì thế Hổ ta được trở về nước. Lúc hai thầy trò Hổ về, vua Việt-nam cho là họ có công lao, phong thưởng rất hậu. Khi Hổ chết, vua Trung-quốc sai sứ sang điếu và ban cho một cái áo quan bằng đồng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/le-nhu-ho" }
Trí khôn của ta đây
Một ngày nọ, có con cọp rất lớn từ trong rừng sâu đi ra ngoài, nó trông thấy ở ngay thửa ruộng cạnh rừng có bác nông dân cùng con trâu mộng chăm chỉ cày cuốc. Tuy rằng con trâu kia rất chăm chỉ kéo cày nhưng mà lâu lâu thì bác nông dân kia lại quất cho nó mấy roi tạo thành tiếng “đét… đét…” vào mông. Thấy cảnh này thì cọp cảm thấy ngạc nhiên lắm. Nó đợi cho đến khi buổi trưa tới, đợi cho bác nông dân tháo hết cày ra cho trâu, rồi nó mới lân la tiến tới để hỏi chuyện nó vẫn tò mò: – Này anh kia. Tôi trông anh to khỏe thế sao lại để cho bọn con người đánh đập, hành hạ đến khổ sở như thế chứ ? Trâu thấy cọp tới thì cũng tỏ vẻ bình tĩnh, nghe cọp hỏi xong thì nó mới thì thầm: – Anh không biết đấy thôi! Nhìn con người nhỏ bé vậy nhưng họ có trí khôn, đáng sợ lắm! Nghe trâu nói như vậy thì cọp ta lại càng cảm thấy kì lạ và khó hiểu hơn. Cọp lại hỏi: – Trí khôn ư? Nó là gì thế? Trông nó như nào vậy anh? Nhưng mà trâu cũng chẳng biết cách để giải thích cho cọp hiểu chuyện này, vì vậy nó liền kiếm cớ trả lời qua loa cho qua chuyện: – Trí khôn thì là trí khôn chứ gì nữa hả? Nếu như mà anh muốn được biết rõ hơn nữa thì hãy tìm con người mà hỏi! Cọp ta bước đi rất thong thả mà tiến gần lại chỗ mà bác nông dân đang nghỉ ngơi, nó liền hỏi: – Này anh, trí khôn của anh đâu rồi, đem cho tôi xem môt chút đi nào? Bác nông dân nhìn cọp rồi nghĩ ngợi hồi lâu, sau đó mới đáp lời: – Tiếc là tôi để trí khôn ở nhà rồi. Hay là tôi chạy về đem nó ra đây cho anh nhìn nhé! Nếu như anh thích thì tôi có thể cho anh một chút đấy! Nghe bác nông dân bảo vậy thì cọp ta hết sức mừng rỡ, vội vàng giục bác về nhà lấy. Nhưng bác nông dân vừa định đi thì lại chợt nhớ ra chuyện gì đó nên lại quay lại bảo với cọp rằng: – Nhưng mà nhỡ đâu lúc tôi về nhà thì anh ở đây lại ăn mất toi con trâu kia của tôi thì tôi biết phải làm sao? Bị hỏi vậy thì cọp ta cũng bất ngờ lắm, trong lúc nó còn đương băn khoăn chẳng biết mình phải trả lời làm sao cho hợp tình hợp lí, thì bác nông dân lại tiếp lời: – Như vậy nhé, để tôi yên tâm trở về, anh chịu khó một chút cho tôi buộc tạm anh vào cái gốc cây kia được không? Tất nhiên là cọp ta chẳng có chút nghi ngờ nào về chuyện này nên chấp thuận ngay được. Bác nông dân đợi cọp đồng ý thì đem tới dây thừng và trói cọp thật chặt vào dưới gốc cây cạnh đó. Xong rồi bác lại đem tới rất nhiều rơm khô để chất xung quanh chỗ cọp. Sau cùng thì bác châm lửa để đốt rơm, rơm cháy và bác liền quát: – Trí khôn của ta đây !  Trí khôn của ta đây! ! Nhìn thấy cảnh này thì con trâu ở gần đấy cũng thích thú lắm, nó bò lăn ra đất mà cười, không may là hàm trên của nó đập phải đá làm cho toàn bộ răng ở trên bị rụng sạch sẽ, không còn sót lại một cái nào cả. Còn cọp ta thì hết sức vùng vẫy ở bên trong đám cháy. Phải một hồi lâu sau đó, lửa cháy lớn làm đám dây thừng bị đứt, đến lúc ấy thì cọp mới thoát được. Nó co chân co cẳng vùng dậy và chạy thẳng vào trong rừng sâu, cũng chẳng dám ngoảnh đầu nhìn lại nữa. Cũng kể từ ngày đó trở đi thì đám cọp con được sinh ra thì con nào cũng đều có thêm những vằn màu đen và kéo dài ở trên người. Những vết vằn ấy chính là dấu vết còn sót lại của những vệt cháy ngày xưa. Còn đám trâu cũng kể từ khi ấy mà con nào con ấy đều không có răng ở hàm trên, trơ trọi chỉ có mỗi lợi mà thôi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tri-khon-cua-ta-day" }
Sự tích sông Tô Lịch
Ngày xưa về đời nhà Lý có một ông vua bị bệnh đau mắt. Mấy ông thầy thuốc chuyên môn chữa mắt ở trong kinh thành cũng như ngoài nội thành đều được vời vào cung chạy chữa, trong số đó cũng có những lương y nổi tiếng, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô hiệu. Cặp mắt của vua cứ sưng húp lên, đêm ngày nhức nhối rất khó chịu. Ðã gần tròn hai tháng vua không thể ra điện Kinh Thiện coi chầu được. Triều đình vì việc vua đau mắt mà rối rít cả lên. Những cung giám chạy khắp nơi tìm thầy thuốc, và lễ bái các chùa đền, nhưng mắt của thiên tử vẫn không thấy bớt.Một hôm có hai tên lính hầu đưa vào cung một thầy bói từ núi Vân Mộng về. Ông thầy chuyên bói dịch nổi tiếng trong một vùng. Sau khi gieo đốt mấy cỏ thi, ông thầy đoán: – Tâu bệ hạ, quẻ này có tượng vua rất linh nghiệm. Quả là bệ hạ bị “thuỷ phương càn tuất” xuyên vào mắt cho nên bệ hạ không thể bớt được, trừ phi trấn áp nó đi thì không việc gì. Vùa bèn sai hai viên quan trong thành. Thuở ấy ở phía Tây bắc thành Thăng Long có hai con sông nhỏ: Tô Lịch và Thiên Phù đều hợp với nhau để thông ra sông Cái ở chỗ cứ như bây giờ là bến Giang Tân. Họ tới ngã ba sông dựng đàn cúng Hà Bá để cầu thần về bệnh của vua. Ðêm hôm đó, một viên quan ăn chay sẵn nằm trước đàn cầu mộng. Thần cho biết: “đến sáng tinh sương ngày ba mươi cho người đến đứng ở bên kia bến đò, ai đến đó trước tiên lập tức bắt quẳng xuống sông phong cho làm thần thì trấn áp được” Nghe hai viên quan tâu, vua lập tức sai mấy tên nội giám chuẩn bị làm công việc đó. Một viên đại thần nghe tin ấy, khuyên vua không làm việc thất đức, nhưng vua nhất định không nghe. Con mắt của vua là rất trọng mà mạng của một vài tên dân thì có đáng kể gì. Hơn nữa sắp sửa năm hết tết đến, việc đau mắt của vua sẽ ảnh hưởng nhiều đến nghi lễ long trọng và quan hệ của triều đình. Ở làng Cảo thuộc về tả ngạn sông Tô hồi ấy có hai vợ chồng làm nghề bán dầu rong, người ta vẫn quen gọi là ông Dầu bà Dầu. Hàng ngày hai vợ chồng buổi sáng đưa dầu vào thành bán, buổi chiều trở ra, vợ nấu ăn chồng đi cất hàng. Hôm đó là ngày ba mươi tháng một, hai vợ chồng định bụng bán mẻ dầu cho một số chùa chiền. Vào khoảng cuối năm, người ta cần dùng nhiều dầu để thắp Tết. Họ dậy thật sớm, chồng gánh chảo, vợ vác gáo cùng tiến bước đến ngã ba Tô Lịch – Thiên Phù. Ðến đây họ vào nghỉ chân trong lò canh đợi đò. Ðường vắng tanh chưa có ai qua lại. Nhưng ở trong chòi thì vẫn có hai tên lính đứng gác. Vừa thấy có người, chúng xông ra làm cho hai vợ chồng giật mình. Họ không ngờ hôm ấy lại có quân cấm vệ đứng ở đây. Tuy thấy mặt mũi chúng hung ác, nhưng họ yên tâm khi nghe câu hỏi của chúng: – Hai người đi đâu sớm thế này? Họ cứ sự thật trả lời. Họ có ý phân bua việc bán dầu hàng ngày của mình chỉ vừa đủ nuôi miệng. Chúng cứ lân la hỏi chuyện mãi. Chúng nói: – à ra hai người khổ cực như thế đó. Vậy nếu có tiền thừa thãi thì hai người sẽ thích món gì nào. Nói đi! Nói đi, rồi chúng tôi sẽ kiếm cách giúp cho. Thấy câu chuyện lại xoay ra như thế, ông Dầu bà Dầu có vẻ ngạc nhiên. Nhưng trước những lời hỏi dồn của chúng, họ cũng phải làm bộ tươi cười trả lời cho qua chuyện: – Tôi ấy à? Người chồng đáp. Tôi thì thấy một đĩa cơm nếp và một con mái ghẹ là đã tuyệt phẩm. Người vợ cũng cùng ý như chồng nhưng có thêm vào một đĩa bánh rán là món bà thèm nhất. Thấy chưa có đò, hai vợ chồng lấy làm sốt ruột. Nói chuyện bài bây mãi biết bao giờ mới vào thành bán mẻ dầu đầu tiên cho chùa Vạn Thọ. Hai người bước ra nhìn xuống sông. Hai tên lính từ nãy đã rình họ, bấy giờ mới bịt mắt họ và lôi đi sềnh sệch. Họ cùng van lên: – Lạy ông, ông tha cho chúng cháu, chúng cháu chẳng có gì. Nhưng hai tên lính chẳng nói chẳng rằng, cứ cột tay họ lại và dẫn đến bờ sông. Chúng nhấc bổng họ lên và cùng một lúc ném mạnh xuống nước. Bọt tung sóng vỗ. Và hai cái xác chìm nghỉm. Rồi đó, chúng cắm cổ chạy. Lại nói chuyện mắt vua sáng mồng một tháng chạp tự nhiên khỏi hẳn như chưa từng có việc gì. Nhưng ông Dầu bà Dầu thì căm thù vô hạn. Qua hôm sau hai tên cấm vệ giết người không biết vì sao tự treo cổ gốc đa trong hoàng thành. Rồi giữa hôm mồng một Tết, lão chủ quán ở bên kia Giang Tân phụ đồng lên giữa chùa Vạn Thọ nói toàn những câu phạm thượng. Hắn nói những câu đứt khúc, nhưng người ta đều hiểu cả, đại lược là: – Chúng ta là ông Dầu bà Dầu đây… Chúng mày là quân tàn ác dã man, chúng mày là quân giết người lương thiện… Chúng mày sẽ chết tuyệt diệt… Họ Lý chúng mày sẽ không còn một mống nào để mà nối dõi… Chúng tao sẽ thu hẹp hai con sông Tô Lịch và Thiên Phù lại… Chừng nào bắt đầu thì chúng mày đừng hòng trốn thoát… Những tin ấy bay về đến tai vua làm cho nhà vua vô cùng lo sợ. Vua sai lập một đền thờ ở trên ngã ba Giang Tân và phong cho hai người là phúc thần. Mỗi năm cứ đến ba mươi tháng một là có những viên quan bộ Lễ được phái đến đây cúng ông Dầu bà Dầu với những món ăn mà họ ưa thích. Nhưng ngôi báu nhà Lý quả nhiên chẳng bao lâu lọt về tay nhà Trần. Dòng họ Lý quả nhiên chết tuyệt diệt, đến nỗi chỉ người nào đổi qua họ Nguyễn mới hòng trốn thoát. Sông Thiên Phù quả nhiên cứ bị lấp dần, lấp dần cho mãi đến ngày nay chỉ còn một lạch nước nhỏ ở phía Nhật Tân. Sông Tô Lịch cũng thế, ngày nay chỉ là rãnh nước bẩn đen ngòm. Duy có miếu thờ ông Dầu bà Dầu thì hàng năm dân vùng Bưởi vẫn mang lễ vật theo sở thích của hai vợ chồng đến cúng lễ vào ngày ba mươi tháng mười một.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-song-to-lich" }
Sự tích hồ Gươm
Vào thời ấy, giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam. Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi hành nhiều điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ, ở vùng Lam-sơn nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác, Thấy vậy, đức Long quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết giặc. Hồi ấy ở Thanh-hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ. Thận thả lưới ở một bến vắng như thường. Tự nhiên trong một lần kéo lưới, chàng thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm chắc là có cá to. Nhưng khi thò tay bắt cá. Thận mới biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước rồi lại thả câu ở một chỗ khác. Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông. Lần thứ ba vẫn là thanh sắt ấy mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận ghé mồi lửa lại nhìn xem. Bỗng chàng reo lên một mình: - Ha ha! Một lưỡi gươm! Thận về sau gia nhập quân đoàn khởi nghĩa Lam-sơn. Chàng đã mấy lần vào sinh ra tử ở nơi trận mạc để diệt lũ cướp nước. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở một xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và nhận ra chữ "Thuận Thiên" khắc sâu vào lưỡi. Song tất cả mọi người đều không biết đó là báu vật. Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lơi rút lấy chuôi gươm giắt vào lưng. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại tất cả các bạn, trong đó có Lê Thận. Khi lắp lưỡi vào với chuôi thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau. Lê Lợi bèn kể lại câu chuyện. Mọi người nghe xong đều hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với chủ tướng: - Đây là thần có ý phó thác cho "minh công" làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương da của mình theo "minh công" và thanh gươm thần này để báo đền xã tắc! Từ đó khí thế của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoàng trên mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía. Chẳng mấy chốc tiếng tăm của quân Lam-sơn lan khắp nơi. Họ không phải trốn tránh trong rừng nữa mà xông xáo đi tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã có những kho lương thực của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường cho họ đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước. Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi - bấy giờ đã là một vị thiên tử - cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả-vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng trên và nhận thấy lưỡi gươm đeo bên mình cũng đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía thuyền vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói: - Bệ hạ hoàn gươm cho Long quân! Nghe nói thế nhà vua bỗng hiểu ra bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát thanh gươm thần rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy ngang lưỡi. Cho đến khi gươm và rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dười mặt nước hồ xanh. Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì vua liền báo ngay cho họ biết: - Đức Long quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại. Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn-kiếm...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ho-guom" }
Sự tích con thạch sùng
Ngày trước, ở vùng nọ có đôi vợ chồng Thạch Sùng, gia đình vốn nghèo khó. Họ cùng nhau sống chui sống lủi ở túp lều ngay gần chợ để xin ăn cho qua ngày. Vì vậy cuộc sống cũng rất vất vả. Tuy nhiên thì Thạch Sùng vốn là người với chí làm ăn kinh doanh, hơn nữa cũng có rất nhiều những thủ đoạn. Cũng từ lâu, cả hai vợ chồng đã nhịn ăn nhịn mặc để dành tiền, lâu dần gom góp cũng được một số vốn liền đem chôn vào góc nhà. Và ngày qua ngày, số tiền ấy cứ càng ngày càng lớn hơn nữa. Nhưng mà họ vẫn cứ giả bộ là mình nghèo khó, vẫn tiếp tục hành khất để kiếm ăn. Vào một ngày, Thạch Sùng hôm ấy đi xin ăn về rất khuya. Lúc đi dọc theo bờ sông thì vô tình trông thấy có hai con trâu lội từ dưới nước lên rồi húc nhau đến chí tử. Thấy vậy thì ông đoán ngay đó là điềm báo trời sẽ có mưa lụt to, vì thế ông vội về nhà, đem hết số tiền chôn giấu bấy lâu đi mua gạo. Quả nhiên là vào tháng Tám thì trời làm cho một trận lụt vô cùng kinh khủng, khắp các miền đâu đâu cũng nhìn thấy cảnh nước nôi lênh láng, tất cả mùa màng, rồi nhà cửa, cũng như súc vật… tất cả đều nổi trôi cả. Vì trận lụt ấy mà khắp nơi đứng trước nạn đói kinh hoàng. Giá gạo cũng vì thế mà một tăng mười, rồi lại tăng gấp trăm lần. Dù vậy nhưng vẫn chẳng người nào có gạo để mà bán ra. Thạch Sùng cứ như vậy chờ cho đến khi dân tình cũng cùng kiệt cả rồi thì mới tung ra số gạo mà mình tích trữ bấy lâu ra ngoài. Nhiều nhà giàu còn phải mang một thỏi vàng tới để đổi lấy một đấu gạo của ông ta. Kể từ khi đã có vốn trong tay rồi thì vợ chồng nhà Thạch Sùng mới thôi nghề hành khất. Họ liền đem số tiền mình có đi cho người khác vay, rồi một vốn lại đẻ ra tới năm bảy lớp lãi khác. Vậy là chẳng lâu sau thì Thạch Sùng liền trở mình, biến thành phú ông giàu có. Rồi ông ta lại tậu trâu bò, tậu thêm ruộng vườn, chẳng biết bao nhiêu mà đếm, mà những thứ ấy mỗi năm lại càng tăng lên mãi. Tuy vậy nhưng Thạch Sùng ta vẫn còn rất nhiều mánh khóe để mà làm tiền. Ngoài chuyện thu lúa rẻ và cho vay lãi thì ông ta còn làm ăn buôn bán lớn nữa. Những chiếc thuyền buôn lớn của Thạch Sùng cứ dong buồm mà đi khắp nơi trong cả nước, đến mọi cửa biển. Sau đó hắn còn thông lưng cùng bọn cướp ở trong vùng. Trong mỗi chuyến làm ăn thì ông ta cũng được chia phần, không chỉ vậy, hắn còn giúp bọn cướp tàng trữ và tiêu thụ những của cải phi pháp, bất nghĩa mà bọn chúng cướp được. Sau mười năm thì Thạch Sùng từ một tên hành khất, nghiễm nhiên trở thành một cự phú, của cải châu báu nhiều như non như nước, chẳng người nào có thể địch nổi. Với những tên thiên hộ hay bá hộ, đem ra so sánh với hắn thì đúng là chẳng bằng móng tay. Khi đã có tiền ở trong tay thì Thạch Sùng cũng rất dễ dàng kiếm cho mình địa vị. Vì hắn đã hào phóng dâng lên cho nhà vua không biết bao nhiêu châu báu cùng vàng bạc, vì thế nên nhà vua liền phong cho hắn cái tước là quận công. Rồi hắn lại đến kinh thành, bỏ tiền ra xây phủ đệ, chẳng khác nào phủ đệ của những ông hoàng hay bà chúa. Ở trong phủ đệ, hắn có những một trăm nàng hầu cùng vợ lẽ, tất cả đều ăn mặc quần áo làm từ gấm vóc, lụa là. Còn về phần hắn cũng như vợ con của hắn thì sống vô cùng xa hoa, đến mức mà tính ở trong nước, ngoại trừ nhà vua ra thì rất khó có thể kiếm ra người nào có thể so sánh cùng. Ngày đó ở kinh thành có người họ Vương là em của hoàng hậu. Y cũng được coi là tay cự phú bậc nhất về việc có biển bạc tiền rừng, tiêu xài vô cùng hoang phí. Ngày ấy y và Thạch Sùng gặp mặt trong bữa tiệc, còn có rất nhiều đại thần, vương công cũng tới dự. Câu chuyện sau lại dần biến thành cuộc khoe khoang của hai người. Họ Vương thì nói: – Đám nô tỳ trong nhà tôi mặc đồ đều là tơ lụa cả. Chúng đông đến mức mà mỗi năm khi tết đến là phải có hàng kho tơ lụa thì mới tạm đủ mà may mặc cho bọn chúng được. Thạch cũng đáp ngay: – Còn đám nô tỳ trong nhà tôi, cần lúa gạo của cả huyện thì mới đủ để chúng ăn. Và họ Vương lại tiếp tục khoe: – Bếp của nhà tôi thì phải dùng đường để thay cho củi. Thạch lập tức cướp lời: – Để mà sưởi ấm cho tất cả các phòng khi đông đến thì chúng tôi mỗi ngày phải đốt hàng hòm nến mới đủ. Nghe hai người họ chẳng người nào chịu người nào, một vị quan đành phải ra mặt dàn xếp mọi chuyện: – Hai ngài cứ cãi nhau như vậy cũng chẳng ích gì. Cần có chứng cớ thực thì chúng tôi mới có thể tin được. Tôi tính như vậy, để một ngày khác, hai ngài đem hết những của cải mà mình có ra trưng bày cho chúng tôi cùng xem xét. Người nào thua thì sẽ phải nộp lại cho người kia đủ mười thúng vàng. Còn chúng tôi thì sẽ đứng ra làm chứng cho công bằng. Hai ngài thấy như vậy có được không? Nghe vị quan kia nói cũng xuôi tai nên hai người rất khảng khái mà nhận lời. Ngày thi đấu đã đến, cả đám đại thần đều đứng ra để làm chứng cho việc đấu của của hai người. Trước khi chính thức thi đấu, cả hai đều phải ký tên điểm chỉ vào tờ giao ước để cho công bằng. Hoàng hậu biết tin thì rất lo em mình bị thua, vì vậy truyền lời tìm mấy tên hoạn quan đa mưu túc trí tới để giúp một tay. Đầu tiên thì Vương sai người đem lụa ra căng thành màn trần cho mọi dinh thự mình có. Khi đến lượt của Thạch Sùng thì hắn liền sai người đem gấm trần trướng và căng che cho tất cả nhà cửa hắn có. Vương lại sai người đổi ngói lợp thành thủy tinh, khiến cho tất cả phủ đệ và nhà cửa của hắn biến thành những tòa lầu lung linh, sáng loáng như ngọc. Đổi lại thì Thạch Sùng lại cho người gọi thợ tới cắt từng phiến ngọc thạch ra để lát sân trước nhà. Những người có mặt ở đấy đều khen Thạch Sùng không dứt lời. Và cuộc đấu của vẫn còn tiếp tục vô cùng căng thẳng. Thạch liền hỏi Vương rằng: – Nhà ngươi liệu có san hô không? Vương liền cho người bê ra một cây san hô cao đến mấy thước, rồi lại hỏi lại Thạch: – Nhà ngươi liệu có tê giác chăng? Nghe vậy Thạch liền bĩu môi mà ra hiệu đám người hầu đem ra bộ đồ trà làm từ sừng tê giác nạm ngọc quý giá. Cả hai không ai chịu nhường ai, còn khoe khoang không biết bao nhiêu là của cải khác. Sau khi đã đem hết đồ quý giá ra khoe, họ lại lôi đến những thứ kỳ lạ mình có. Thạch Sùng mở màn: – Ta có được một con thiên lý mã được mua từ tận Thiên Trúc, mỗi ngày nó có thể chạy ngàn dặm không mệt. Hắn vừa dứt lời thì mọi người đã xúm cả lại để xem xét cũng như ca tụng con ngựa quý giá kia. Nhưng Vương ngay lập tức mời mọi người đến vườn nhà mình để cùng thưởng thức con hươu hai đầu của y. Đến lượt của mình nhưng Thạch Sùng vẫn cứ yên lặng rất lâu. Khắp nơi nổi lên tiếng xôn xao, mọi người đều nghĩ là Thạch Sùng không còn vật gì quý để khoe nữa. Đột nhiên hắn lại lôi từ trong người ra một viên ngọc: – Ta có viên ngọc này, nếu đeo vào người, mùa nóng thì cảm thấy mát, mà mùa rét thì lại cảm thấy ấm. Chắc hẳn đi khắp thiên hạ này cũng là có một không hai. Họ Vương thấy thế thì cũng bối rối lắm. Y toan phái người chạy vào trong cung để mượn chị Hoàng hậu của mình viên ngọc như ý, nhưng đúng lúc ấy thì viên hoạn quan vẫn ngồi bên cạnh liền thì thầm to nhỏ vào tai của hắn vài lời. Và người ta nhìn thấy Vương lập tức quay về phía Thạch Sùng mà hỏi rằng: – Nhà của ngươi tuy rằng rất giàu, nhưng đầy mà lại chẳng đủ. Ta chắc hẳn ở trong nhà của ngươi vẫn thiếu rất nhiều đồ vật này nọ. Lúc đó Thạch Sùng đương trong cơn đắc ý, liền nói: – Trong nhà ta chẳng thiếu thứ đồ vật nào. Nếu mà ngươi có thể chỉ ra bất kể một vật gì mà ta còn thiếu thì ta không chỉ mất cho ngươi mười thúng vàng như giao ước, mà còn mất cho ngươi toàn bộ gia sản nhà ta nữa. Nhưng trái lại, nếu như mà ta có đủ được mọi thứ, nhà ngươi sẽ phải cho ta như vậy! Vì tính kiêu căng lên đến cực điểm, Thạch Sùng liền bắt họ Vương kia cùng mình làm một bản giao ước hoàn toàn mới. Khi kí tên xong rồi thì Vương mới bảo hắn là: – Vậy giờ ngươi hãy mau đem mẻ kho của ngươi cho các vị ở đây cùng xem đi. Nghe vậy thì Thạch Sùng mới giật mình hoảng hốt. Hắn cũng chẳng lạ gì cái mẻ kho ấy cả. Đó chính là nồi đất bị mẻ, chỉ có những nhà nào mà khổ cực lắm thì mới lấy nó để nấu nướng thôi. Ngày xưa lúc còn hàn vi ấy, hắn cũng đã từng phải lần tìm trong đống rác vật ấy, sau đó đem về đánh chùi sạch sẽ để kho cá. Tuy nhiên, chuyện đó đã từ rất lâu rồi, thực quá lâu rồi, giờ hắn cũng chẳng còn nhớ nổi thứ đồ hèn hạ đấy nữa. Bởi vì đồ dùng trong nhà hắn hiện giờ toàn bằng vàng bằng bạc, mà tệ nhất thì cũng là đồng thau, nào ai bận tâm mà chứa chấp mấy thứ đồ bỏ đi ấy làm gì nữa chứ. Tuy nhiên hắn vẫn cố thúc giục đám đầy tớ nhà mình lục tìm xem trong góc bếp xó vườn xem thế nào. Nhưng tìm đi tìm lại khắp nơi mà cũng chẳng tìm được gì dù chỉ là một mảnh nồi niêu vỡ. Quả nhiên là trong nhà của Thạch Sùng không thể nào mà tìm ra được món đồ ấy. Đợi một lúc lâu sau đó thì tất cả những người có mặt làm chứng cuộc đấu hôm nay phải công nhận phần thắng thuộc về người họ Vương em của Hoàng hậu. Mà Thạch Sùng đến tận bây giờ vẫn chẳng thể nào tin nổi mình lại bị thua đau đớn như vậy. Nhưng giao ước đã kí, lại có nhiều người làm chứng như vậy, hắn cũng đành cay đắng mà nhìn toàn bộ gia sản, vợ con cùng đám nô tỳ và nàng hầu… của mình chạy thẳng sang tay tên họ Vương kia. Khi chỉ còn một mình cô đơn trong túp lều rách, hắn đành tặc lưỡi mà tiếc nuối số cơ nghiệp mà mình đã tự tay gây dựng suốt chục năm qua, cuối cùng thì tay trắng lại hoàn trắng tay. Sau đó hắn chết, rồi hóa thành một con mối, cũng chính là con thằn lằn, hoặc gọi con thạch sùng cũng được. Loài mối thì thỉnh thoảng cứ chắt lưỡi mà kêu mấy tiếng “Thạch thạch” chính là vì như thế. Cho đến tận ngày nay thì trong dân gian vẫn truyền nhau câu tục ngữ là: “Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho” chính là muốn nói trên đời không thể nào tìm ra được người có đầy đủ hoàn toàn.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-thach-sung" }
Ông tướng gầy
Thuở xưa có một người thợ rừng lực lưỡng khoẻ mạnh. Cái rìu cái búa thông thường anh cầm lỏng tay, phải thuê thợ rèn đánh to bằng hai bàn tay xoè, dùng mới vừa sức. Cây gỗ to bằng thân người, anh chỉ đẵn bốn nhát là xong; còn những cây cổ thụ to bằng bánh xe trâu, bằng cái nong, cái nia, anh chặt một ngày cũng được vài mươi khúc. Tính ra số gỗ anh đẵn được, từ ngày mới biết vác rìu vào rừng đến giờ, cũng đủ dựng nhà cho ba làng, bảy xóm, chín mười ngôi đền, ngôi miếu. Nhưng ngôi nhà vợ chồng anh thì chỉ vừa lọt cái giường, chiếc chiếu. Ngôi nhà thấp đến nỗi anh ra vào thì đầu đụng nóc, vai chạm kèo. Vì nhà anh quá nghèo, vợ lại hay ốm đau, nên đẵn được bao nhiêu gỗ anh đều phải bán rẻ mới kịp mua thuốc cho vợ, mua gạo cho mình. Vì vậy người vợ thường phàn nàn: - Mình có đốn hết gỗ trong rừng cũng chẳng “đủ” làm một cái nhà ba gian. Người thợ rừng cũng biết đời mình không sao tránh khỏi điều vợ lo. Nhưng không có cách nào thoát được cảnh bữa sáng lo bữa chiều. Lúc vợ có chửa được bảy tháng, anh thợ rừng đi đốn gỗ về đóng cho vợ một cái giường. Cây gỗ không to, anh mới chặt ba nhát búa mà nó đã chuyển mình sắp ngã. Không may, một luồng gió thổi đến rất mạnh, cây gỗ ngã trái chiều. Anh thợ rừng tránh không kịp, bị gỗ đè gẫy cả hai tay. Thế là mọi việc đều đổ lên đầu người vợ ốm, đang có mang. Chị chạy khắp đầu làng cuối xóm vay mượn về nuôi chồng. Nhưng bạn nghèo thì không có, còn người có của thì chẳng thương người nghèo. Vợ người thờ rừng phải ra sông bắt hến nuôi chồng bữa cháo bữa rau. Nước sông khá sâu, chị phải ngâm mình dướin nước cả ngày mới bắt được một bữa hến. Một hôm, trời mưa trên nguồn rất lớn, chị đang lăn ngụp giữa sông thị nước nguồn về cuốn chị đi. May sao, chị vớ được một cây chuối lở gốc trôi giữa dòng mới thoát chết, nhưng về đến nhà thì chị đẻ. Nhà anh thợ rừng càng khổ cực hơn, chồng không làm gì được, vợ ốm nặng, đức con trai đẻ thiếu tháng không lúc nào được bú no sữa mẹ. Thằng bé không chết nhưng càng lớn càng gầy còm; mãi đến năm mười bảy tuổi mà người khẳng khiu như cái gậy, xương bọc da, đầu gối to hơn bắp đùi. Khi ngồi đầu gối cao quá vai, tóc trên đầu thưa như lông chân, người lùng nhùng, khi đã ngồi xuống rồi thì không muốn đứng lên. Vợ chồng anh thợ rừng thương con, nên dù nhà nghèo nhưng không bắt con làm gì. Họ đặt tên cho con là Gầy. Một hôm, Gầy cầm cần câu ra sân ngồi dưới một gốc cây sung câu cá. Gặp hôm cá cắn, mới ngồi chưa nóng chỗ mà em đã câu được mấy con cá to. Đói ăn đã lâu, thấy mấy con cá tươi ngon, em liền lấy củi nhóm lửa tại gốc sung nướng cá ăn. Lúc ấy mặt trời lên được nửa buổi, gió thổi mạnh hắt bóng ngọn lửa xuống dòng sông, một con cá con ở dưới nước vọt lên nhìn, bị con chim bói cá rình trên cây đớp được. Sẵn củi để bên, Gầy ném con chim; con chim bay vù đi thả con cá rơi lại xuống sông. Sáng hôm sau, em lại cầm cần ra chỗ cũ ngồi câu cá, nhưng vừa đến đã thấy ai bày sẵn dưới gốc cây một con cá nướng to bằng bắp chân và một rá cơm trắng. Mùi cá tươi, cơm nóng thơm nức mũi, tuy chẳng biết là của ai, nhưng từ bé đến giờ chưa bữa nào được ăn ngon như thế, nên Gầy quên câu, ngồi sà xuống ăn một mạch hết con cá nướng và rá cơm. Ăn xong, em vốc nước lên uống thì nghe tiếng người giữa sông nói lên: - Người đã ăn hết cơm hết cá, vậy là ta đã trả được ơn... Gầy ngơ ngác nhìn ra thì thấy một việc kì lạ - một vật nửa trên là người, nửa dưới là cá nhô lên khỏi mặt nước giữa sông và nói: - Ta là Thuỷ thần. Hôm qua con ta đi chơi trông thấy ngọn lửa chiếu xuống, nó nhảy lên xem thì bị loài chim dữ bắt được. Nhờ có ngươi đánh con chim dữ ấy, con ta mới thoát chết. Nay ta đền ơn... người cứ lên khỏi đây sẽ biết. Em Gầy lóp ngóp chạy lên bờ, đầu chạm phải gốc sung, gốc sung vẹo sang một bên. Một sức mạnh kì lạ đã làm cho em Gầy khoẻ lên vạn lần. Em béo lên, thịt căng ra, mắt sáng, tay chân cứng bóp không lún, tóc dày và cứng như rễ tre. Em gầy chạy một mạch về nhà. Vui mừng qua, em nhảy múa reo hò, rồi vớ lấy cái rìu của cha chém đông, chém tây, chém tả, chém hữu. Chiếc rìu nặng thế mà em cầm nhẹ như chiếc đũa bếp. Cái rìu của cha đối với em bây giờ bé nhỏ quá rồi. Nên em phải rèn một cái lưỡi rìu to bằng bốn bàn tay xoè thì mới vừa tay. Thế rồi, hàng ngày Gầy vác rìu vào rừng đẵn gỗ để nuôi cha mẹ. Năm ấy nhà vua xây dựng nhiều cung điện. Vua thuê rất nhiều thợ rừng đi đốn gỗ. Gầy xin nhập bọn thợ. Với sức khoẻ và lưỡi rìu to ấy, mỗi ngày em đẵn không biết là bao nhiêu gỗ lim, gỗ trác, gỗ mun, cây nào cũng to như cái nong, cái nia. Nhưng thấy Gầy ít tuổi, bọn thợ rừng bắt nạt, chúng ngồi chơi, hoặc chui vào bóng râm ngủ một ngày, rồi lấy gỗ của Gầy bán được đem chia nhau, chỉ cho Gầy một phần ít. Nên Gầy đẵn gỗ giỏi hơn cha gấp mười lần mà vẫn không đủ nuôi cha mẹ. Thuê đẵn gỗ xong, vua dựng đền. Ngôi đền toàn gỗ quý, cột cái to bằng cái nong, cột con bằng cái nia, xà ngang xà dọc dài hàng chục sải tay, to đến vài người ôm không xuể. Dựng cột dựng kèo xong, còn cây đòn dông to hơn cái bánh xe trâu, được ghép lại bằng năm cây gỗ lim, dài đến hơn hai mươi sải tay, nên tất cả phường thợ, cả quân lính trong triều ra giúp sức vẫn không sao đặt nổi lên ngàm cái vì kèo. Phường thợ lại cho người đến cầu khẩn Gầy. Gầy đến xin vua cho ăn một bữa cơm. Vua ra lệnh nấu một thùng gạo tẻ, một vạc canh và một con dê luộc. Ăn xong, Gầy vác hẳn một đầu cây đòn dông đặt lên vì kéo. Đặt xong một bên, Gầy đến xốc bên kia lên vai, bước theo các bậc đá đặt nốt lên. Cây đòn dông to, dài hai mươi sải, cả phường lính hì hục cả tháng không đặt lên được, còn Gầy chỉ làm chưa nhai dập miếng trầu đã xong. Vua thưởng cho Gầy ba xe lúa, bảy vò mắm và chín con dê. Gầy đem tất cả những thứ ấy về nuôi cha mẹ. Vua có một cô công chúa mặt đẹp như tranh, da trắng như ngà. Nhiều hoàng tử, vua chúa các nước đều đến hỏi làm vợ. Trước bao nhiêu người quyền cao chức trọng, giàu có như nhau, vua chưa biết nên gả cho ai, cô công chúa cũng chưa biết chọn ai. Nhưng các vua, các hoàng tử kia thì sợ mất phần, nên cũng đem quân đến đánh, cướp cô công chúa. Đất nước ngập khói ngập lửa, đâu đâu cũng có giặc. Giặc Đông, giặc Tây, giặc hô hét ở phía Nam, giặc tung hoành ở phía Bắc. Nhà vua cuống cuồng, quan văn quan võ đều run sợ, ai cũng mang vợ con đi trốn chứ chẳng ai dám ra chống giặc. Gầy liền vác rìu lên rừng đẵn một cây gỗ lim to bằng cái nia, dài chín sải, vác đi đánh giặc. Chân của Gầy bây giờ khoẻ mạnh như chân voi, đi đến đâu giặc chạy tan tác đến đó. Gầy đi từ Nam ra Bắc, vác gậy lao thẳng vào giữa quân giặc mà quật. Cây gỗ của Gầy quật xuống một nhát, quân giặc chết có đến nghìn người. Xác giặc chết như trâu, đứa chưa chết thì lạy lục xin tha, đứa ở xa thì đều cắm đầu cắm cổ chạy. Gầy đánh tan được giặc ở phía Nam, phía Bắc, thì lũ giặc phía Đông phía Tây đã rùng mình. Sợ sức khỏe kì lạ của Gầy, chúng dẫn nhau chạy hết về nước. Gầy có công lớn, được vua rước về gả công chúa, phong cho làm tướng. Bọn vua và bọn công tử các nước nghe con anh thợ rừng cưới được công chúa thì tức đến vỡ mặt, nhưng sợ oai ông tướng Gầy, chẳng ai dám bén mảng đến nửa. Từ đó, nhà người thợ rừng mới hết khổ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ong-tuong-gay" }
Giận mày tao ở với ai
Ngày xưa, có một phú ông tự cho mình có tính nhẫn nại ít ai bì kịp. Phú ông có một cô con gái nhan sắc rất là xinh đẹp. Ngày con gái đến tuổi lấy chồng, phú ông liền nghĩ ra một cách, ông niêm yết bảng ở cổng nhà mình nói rằng: - Hễ anh chàng nào làm cho lão nổi nóng hoặc giận dữ thì lão sẽ gả ngay con gái cho người đó, nhưng trong vòng một tháng mà không làm được điều ấy thì sẽ bị đánh một trăm hèo rồi đuổi về. Thấy bảng niêm yết như thế, có nhiều chàng trai tìm đến thử sức để mong lấy được cô gái xinh đẹp kia về làm vợ. Rất nhiều chàng trai lần lượt nộp đơn xin làm rể với nhiều mưu mẹo khác nhau mà vẫn không làm được lão nổi giận, đành chịu nhận lấy trận đòn đau mà tay không trở ra, mọi công sức làm rể để kiếm vợ coi như xôi hỏng bỏng không. Vì thế đã bao năm tháng, cô gái vẫn phòng không chiếc bóng. Hôm nọ, có một chàng trai gầy gò đến xin ra mắt. Phú ông hỏi: - Anh muốn gì? Chàng trai đáp: - Tôi muốn được làm rể ông. Phú ông nghe vậy liền căn vặn: - Thế anh đã đọc kỹ những lời ta giao hẹn yết ở bảng chưa? - Thưa đã. Nhìn anh chàng từ đầu đến chân, phú ông nói: - Ta sợ rằng anh không chịu nổi một trăm hèo của ta đâu. Anh chàng cứ cho là được và đến làm rể như lời y ước. Ở được mấy ngày, anh chàng đã rủ phú ông: - Sáng mai thầy với con đi săn một chuyến kiếm vài con cầy, con chồn về ăn. Nghe nói đi săn, phú ông tỏ ý ham thích, nhưng lại bảo: - Đi săn nhưng nhà ta không có chó săn thì làm thế nào? Anh chàng đáp ngay: - Thưa thầy, Nếu vậy thì con sẽ làm chó cho. Được ngay mà! Phú ông lấy dây cột “chó” lại rồi dẫn vào trong rừng. Chàng trai cứ hít hít ngửi ngửi hết bụi này tới lùm kia như giả vờ tìm mồi vậy. Được một lúc thì thoáng thấy dấu vết con cầy gần đó nên phú ông thúc chàng trai chạy theo săn đuổi cho bằng được. Chỉ sau một thoáng thì hai người vây chặt lấy lùm cây và săn được một con cầy. Phú ông và anh chàng rể vui lắm, hối hả mang mồi về nhà cho kịp bữa nhậu. Sau khi đưa con mồi về nhà, phú ông liền bảo anh: - Nào, đi làm thịt con cầy đi mày. Anh chàng lắc đầu: - Con là chó thì làm sao cầm dao làm thịt cầy được? Phú ông lại bảo: - Hừm, cũng biết đối đáp ghê nhỉ? Thế thì để đó tao làm mồi cho, còn mày đi mua rượu vậy! Anh chàng vẫn lắc đầu: - Con đã nói với thầy rồi, là chó thì đi mua rượu sao được! Phú ông tức lắm, nhưng vẻ mặt vẫn tỉnh như sáo, một mình hì hục làm thịt con cầy, nấu nướng mọi thứ, trong khi đó anh chàng rể nhà ta cứ việc nằm khểnh ra đánh một giấc ngon lành. Nấu nướng mọi thứ xong xuôi đâu đó, phú ông lại tất tả cầm bầu đi ra hàng quán mua rượu. Anh chàng rể thấy phú ông đi khuất liền mang thịt cầy ra chén sạch, no đến tận cổ, chẳng chừa cho ông một miếng nào để chọc tức. Phú ông mang được rượu về, thấy nồi thịt cầy đã hết nhẵn, trong bụng tức muốn sôi lên nhưng ngoài mặt lão vẫn không tỏ thái độ gì, chỉ hỏi anh chàng: - Mày ăn cũng được, nhưng có để phần tao miếng nào không? Anh thản nhiên đáp: - Chó treo mèo đậy. Thầy vô ý để cho chó ăn mất, thì làm sao còn mà mong để phần?! Phú ông đành trả lời: - Thôi được! Anh chàng biết phú ông tức mình lắm nên chờ một chốc sau liền tiến lại gần hỏi: - Thầy có giận con không thầy? Nhưng lão vẫn cười đáp: - Hừm, giận mày tao ở với ai? Anh chàng rể biết rằng thế là mình vẫn chưa thắng được lão, bèn cố nghĩ ra cách khác để đưa lão vào tròng, song cũng không phải giản đơn gì, vì đã có bao kẻ đến đây chịu đòn ra về rồi. - Được, để rồi xem... Một hôm khác, hai người lại rủ nhau đi săn. Lần này phú ông định tìm cách trả đũa chàng rể láu lỉnh, nên nhận làm chó. Anh chàng rể cũng đã đoán ra thế, nên lần này anh lại nhắm vào những nơi đầy gai góc mà cắm lưới. Cứ mỗi lần thấy phú ông không dám xông vào, anh cầm roi quất vào đít ông và giục: - Mau lên! Vào đi! Làm chó thì phải cố chui rúc, mới hòng bắt được mồi chứ! Phú ông mấy lần bị đòn, đành phải xông vào, gai cào toạc cả mặt mũi trông rất xót, anh chàng ta lại lôi hết sang đông rồi sang tây để chận bắt con cầy hương, nhưng cứ vuột con mồi mãi. Bấy giờ lão thấy làm chó không ổn rồi, nhưng chẳng lẽ chịu thua thằng rể láu lỉnh này nên lão đành nén giận. Anh chàng ta lại hỏi: - Thầy có giận con không, thầy? Lão vẫn tươi cười: - Giận mày tao ở với ai? Ngày hôm ấy, hai người cũng săn được một con cầy. Về nhà, anh làm thịt và nấu nướng xong liền quay sang bảo phú ông: - Giờ thầy đi mua rượu đi! Phú ông bắt chước anh đáp: - Chó thì làm sao mà biết đi mua rượu hở mày! Ngờ đâu anh chàng ta chỉ đợi lão trả lời thế, liền đi lấy sợi dây thừng trói phú ông lại bên cột nhà, nói: - Giống chó là chúa ăn vụng, phải trói lại mới chắc ăn. Nói xong rồi bỏ đi mua rượu. Phú ông ở nhà tức lắm, nhưng bị trói chặt quá, không nhúc nhích đi đâu được nửa bước. Mua được rượu về, anh chàng rể một mình ngồi chén tì tì, bao nhiêu xương xẩu vứt lại chỗ phú ông để chọc tức. Chén xong anh mới mở dây thừng cho lão và hỏi: - Thầy có giận con không, thầy? Anh chàng vẫn nghe câu trả lời quen thuộc: - Giận mày tao ở với ai? Thấy chưa thắng được phú ông mà thời hạn đã gần kề, anh chàng hơi lo. Một hôm anh bàn: - Nay công việc đồng áng hơi rỗi, con xin thầy đi buôn một chuyến kiếm ít lãi về, thầy con chia nhau. - Ừ, được đấy! Lúc ra đi, anh dặn phú ông: - Chiều mai thầy ra chỗ ngã ba đầu làng, con đặt gánh hàng ở đó rồi phải đi ngay làm chuyến khác. Vì vậy nếu thấy gánh hàng, thầy cứ việc gánh về hộ con. Chiều hôm sau, phú ông nghe lời anh chàng ra chỗ hẹn, đã thấy một đôi bồ đậy nắp chằng dây cẩn thận để sẵn ở đó. Lão không biết hàng gì, nhưng cứ làm theo lời con rể, cất lên vai gánh về, đường thì xa mà gánh hàng thì thật là nặng. - Cái thằng ranh này buôn bán hàng gì mà nặng như quỷ sứ... Miệng thì trách nhưng lão vẫn phải gánh về, mặt mày phờ phạc, mồ hôi mồ kê tuôn như suối. Gánh tới nơi thì lão mệt muốn xỉu, nhưng cố nén tức giận, cương quyết không chịu thua thằng rể láu cá này. Sau khi ngồi nghỉ mệt một lúc, lão đứng dậy mở nắp ra, thấy một bồ đựng toàn là đá, còn bồ kia thì thấy thằng rể trời đánh ngồi thu lu ở trong. Anh chàng đứng dậy vừa cười vừa hỏi: - Thầy có giận con không, thầy? Phú ông vẫn cười đáp: - Giận mày tao ở với ai? Lần sau, phú ông cũng bắt chước quảy bồ đi buôn và dặn anh ra bờ sông gánh hộ hàng về. Đoán được âm mưu của lão nên chiều hôm sau, anh đến bên đôi bồ gõ lóc cóc giả làm tiếng ngựa phi, miệng thì hô to: - Gánh gồng của ai để giữa đường chắn lối không cho ngựa quan đi à? Ngồi thu mình trong bồ, phú ông nghe tiếng la, tưởng là ngựa quan sắp tới thật nên đâm hoảng, lúng túng thế nào để bồ lăn mấy vòng rồi rơi tõm xuống sông. Anh chàng rể để cho lão làm một bụng nước rồi mới vớt lên hỏi: - Thầy có giận con không, thầy? Lão cố cười gượng: - Giận mày tao ở với ai? Hôm sau, người ta thấy anh quảy đôi sọt ra đi. Được một lúc, anh hốt hoảng chạy về nhà gọi rối rít: - Thầy ơi, con úp được một con phượng hoàng đất rất đẹp. Thầy ra giữ hộ con để con tìm lưới bủa xung quanh mà bắt cho chắc. Con chặn mấy hòn đá lại rồi, thầy ra ngay đi! Phú ông vốn rất thích nuôi chim, nghe nói thế mừng quá, liền chạy ra chỗ dặn thì thấy có một chiếc nón úp giữa đường, phía trên dằn mấy hòn đá, lão bèn sụp xuống ôm chặt lấy nón. Không may cho lão là vừa lúc ấy, có vua và đoàn tùy tùng trẩy qua nơi đó, nhìn thấy một người nằm phủ phục giữa đường khư khư ôm lấy chiếc nón, vua bèn cho dừng kiệu lại rồi bước ra hỏi: - Nhà ngươi làm gì thế này? Phú ông liền thưa: - Tâu bệ hạ, kẻ tiện dân này có úp được một con phượng hoàng đất rất đẹp. Nó ở trong nón này, hiện đang chờ người về lấy lưới ra bắt kẻo sợ nó sổng mất thì rất uổng. Nghe nói phượng hoàng đất, vua không ngăn được tò mò, vội truyền cho quân tìm cách bắt cho vua xem, không đợi lưới. Nhưng khi giở chiếc nón lên thì chỉ thấy lù lù một đống phân trâu, chẳng có phượng hoàng đất nào cả. Giận vì có kẻ dám trắng trợn lừa mình, vua thét quân binh nọc phú ông ra đánh một trận nhừ tử. Đợi vua quan và lính tráng đi rồi. Anh chàng mới từ trong bụi chạy ra đỡ phú ông dậy, xoa bóp rồi hỏi: - Thầy có giận con không, thầy? Phú ông tức quá chồm dậy: - Đồ khốn! Mày làm ông suýt mất đầu, không giận mày sao được! Mày chết với ông nghe chưa? Anh chàng vừa bỏ chạy vừa nói: - Thế thì thầy thua rồi đấy nhé! Mấy ngày sau, người ta thấy nhà phú ông có đám cưới. Ấy là đám cưới của chàng trai láu lỉnh lấy con gái chủ nhà mà anh đã thắng trong cuộc thi lạ lùng này.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/gian-may-tao-o-voi-ai" }
Người con gái Nam Xương
Ngày xưa, ở làng Nam-xương có cô gái tên là Vũ Thị Thiết, người đã xinh đẹp lại thùy mị nết na. Nàng lấy chồng là Trương sinh vốn là người cùng làng. Trương sinh có tính cả ghen, hay để tâm xét nét vợ, nhưng vợ chàng thường giữ gìn khuôn phép nên không có chuyện gì xảy ra. Vợ chồng hương đượm lửa nồng chưa dược bao lâu thì bỗng nghe tin chốn biên thùy có giặc, chồng vâng lệnh quan phải từ giã mẹ và vợ đi lính thú. Bấy giờ vợ đang có thai. Buổi chia tay thật là bịn rịn, mẹ chúc cho con chân cứng đá mềm, chồng khuyên vợ gắng phụng dưỡng mẹ già và nuôi con khôn lớn. Sau khi chồng trẩy được mươi ngày thì Vũ Thị Thiết sinh được một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản. Thằng bé sởn sơ mạnh khỏe, còn bà nội của nó vì nhớ con sinh ra đau ốm. Vợ chàng Trương hết lòng mời thầy chạy thuốc, nhưng bệnh của mẹ chồng mỗi ngày một nặng, chẳng bao lâu thì mất. Nhờ có bà con xóm giềng, mọi việc tống táng đều lo liệu chu toàn. Đã mấy thu qua không thấy chồng về, một mẹ một con mỏi mòn trông đợi. Hàng ngày chăm lo đồng áng, tối lại nàng mới có thì giờ chăm sóc cho con. Có những hôm phải chong đèn khâu vá dọn dẹp và nô đùa với con. Những lúc con khóc, nàng thường chỉ vào bóng của mình trên vách mà bảo: - Nín đi con! Kìa, kìa bố đã về. Đấy! Đấy! Đứa bé nhìn vào bóng, nín bặt. Cứ như thế lâu dần thành thói quen. Thằng Đản thường đòi gặp bố trước khi đi ngủ. Cái bóng đen đen trên tường từ đấy đối với cả mẹ lẫn con như một người thân thích. * * * Rồi chiến tranh kết thúc, cõi biên thùy lại yên lặng, những người đi lính thú lại được trả về quê quán. Trương sinh cũng ở trong số đó. Sau bao năm tháng ly biệt, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chàng đau lòng vì mất người mẹ thân yêu nhưng lại vui sướng vì có đứa con. Thằng bé Đản bây giờ lên ba tuổi, đã biết nói bập bẹ. Tuy nó để cho bố nó bế nhưng vẫn tỏ ra xa lạ. Qua mấy ngày sau, Trương sinh hỏi mộ mẹ rồi bế con đi thăm. Ra đến đồng, thằng bé Đản quấy khóc nhè. Trương sinh dỗ dành: - Con nín đi đừng khóc, bố yêu. Rồi bố mua quà cho mà ăn. Thằng bé đáp ngay: - Không. Ông không phải là bố của Đản... Bố Đản khác kia... Chỉ đến tối bố Đản mới đến nhà thôi. Nghe nói, Trương sinh thấy nhói ở tim. Chàng nhìn vào con hỏi dồn: - Thế thì bố của Đản như thế nào? Con nói đi! - Tối nào bố Đản cũng đến... Mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi... Chẳng bao giờ bố bế Đản cả... Mấy lời nói vô tình của đứa bé làm cho Trương sinh tin là vợ mình ngoại tình, không còn ngờ gì nữa. Nghĩ đến người vợ xinh đẹp trong tay kẻ khác, cơn ghen tự nhiên bừng bừng bốc lên. Chàng lẩm bẩm: "Thật là quá rõ. Không ngờ trong khi mình gian lao thế ấy, thì nó ở nhà lại như thế kia". Về đến nhà Trương sinh mắng nhiếc vợ tàn tệ: - Tao không ngờ mày là đồ thất tiết. Mẹ chết, chồng đi vắng, tối tối rước trai về nhà. Chàng mắng dữ dội nhưng không bảo là tự miệng con nói ra. Vợ chàng một mực chối cãi: - Cách biệt ba năm, thiếp vẫn một lòng một dạ, đâu có hư thân mất nết như lời chàng nói. Xin chàng đừng ngờ oan cho thiếp. Vợ càng phân trần thì cơn giận của chồng càng không thể dằn xuống được nữa. Chồng bắt đầu dùng lối vũ phu để tra khảo vợ. Hàng xóm láng giềng nghe tin vợ chồng lục đục đổ tới can ngăn nhưng chẳng ăn thua gì. Chồng cho là vợ khéo mồm khéo mép nên được mọi người che lấp tội lỗi. Trong cơn phẫn uất, người thiếu phụ ôm lấy con khóc nức nở, rồi nhân lúc chồng sang hàng xóm, chạy một mạch ra bến Hoàng-giang đâm đầu xuống nước. Khi Trương sinh về thấy mất hút vợ, biết có sự chẳng lành. Nghe nói vợ đã tự trầm thì rất hối hận, vội chạy ra sông. Nhưng dòng nước chảy xiết mò đến tối ngày cũng không tìm thấy xác. Tối lại, thằng bé khóc. Trương sinh thắp đèn dỗ cho nó nín. Chợt thằng bé kêu lên: - Ồ, bố Đản đã đến kia kìa! - Đâu con? Nó trỏ vào bóng chàng trên vách mà nói: - Đấy! Đấy! Nhớ lại lời con nói khi đi thăm mộ, Trương sinh mới hiểu ra nông nỗi. Chàng nhận ra nỗi oan tày trời của vợ chỉ vì lòng ghen tuông nóng nảy của mình. Nhưng đã muộn mất rồi, còn làm gì được nữa. Chàng chỉ còn biết ngày ngày ẵm con nhìn xuống dòng sông mà khóc. Từ đó chàng ở vậy nuôi con không lấy vợ khác. Về sau người ta dựng ở bến Hoàng-giang một cái miếu thờ nàng Vũ Thị Thiết , quen gọi là miếu Vợ chồng Trương.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-con-gai-nam-xuong" }
Cây tre trăm đốt
Ngày xửa ngày xưa , ở vùng nọ có một người nông phu rất nghèo khó, vì vậy nên anh ta không còn cách nào khác là phải đến ở cho nhà một phú ông vô cùng giàu có. Nhưng tính tình của phú ông này lại rất keo kiệt. Lão có rất nhiều mánh khóe để đối phó với những kẻ ở người ăn của nhà mình, hòng bòn công của họ mà bản thân lại không cần phải trả thêm bất cứ khoản tiền nào nữa. Lão có cô con gái cũng chưa gả chồng. Khi thấy anh đầy tớ nhà mình tuổi cũng đã khá lớn, lại cũng chưa cưới vợ thì lão ta lập tức nghĩ ra được một chiêu rất hay. Lão liền giả vờ giả vịt nói với anh đầy tới là: – Cứ cố gắng mà làm việc con ạ! Sau này lão sẽ đem con gái lão gả cho mày. Bởi bản tính quá thật thà, khi anh chàng nghe được những lời đường mật, dụ dỗ của phú ông thì tưởng thật, cũng dần nuôi hy vọng được làm rể của phú ông. Kể từ ngày đó trở đi thì anh chàng đổ sức để làm việc mà không quản mệt nhọc, vất cả. Khi trời con chưa sáng thì anh đã đang bì bõm lội ở ngoài đồng xa, đến khi trời đã khuya mù mịt mà anh vẫn còn trần lực ra xay lúa rồi giã gạo, lại còn kéo trục và bện thừng nữa… làm việc luôn chân luôn tay. Tất cả những công to việc lớn mà phú ông giao cho, dù có phải chịu mệt nhọc hay khó khăn thì anh chàng cũng chẳng bao giờ từ chối cả. Khi phú ông trông thấy mưu kế của mình hiệu quả thì vô cùng mừng rỡ. Còn đứa con gái bảo bối của lão á? Đời nào mà lão lại chịu gả nó cho hạng người nghèo khố rách áo ôm, đi làm thuê làm mướn cho người như anh chứ. Một người giàu có nổi tiếng ở làng bên mới đem trầu cau và sính lễ tới dạm ngõ hỏi cưới con gái của lão cho con của hắn. Và lão cùng đã đồng ý gả rồi. Nhưng vì để giấu anh chàng đầy tớ nhà mình nên lão yêu cầu tất cả mọi người ở trong nhà đều phải giữ im lặng về chuyện này. Còn anh chàng đầy tớ, tất nhiên là anh chẳng hề biết gì, cũng chẳng nghi ngờ lời hứa ngon ngọt của chủ nhà, vẫn cứ đinh ninh rằng phú ông nói thật, vì thế vẫn cứ quần quần mà bán mạng làm việc cho lão ta, ký thác hy vọng của mình vào lão chủ xấu xa. Thời gian cũng vẫn cứ thế mà trôi qua, rồi thì ngày định cưới của cô con gái phú ông cuối cùng cũng đã tới. Ngày ấy ở trong nhà của phú ông , mọi người tất bật chạy qua chạy lại bày biện bàn ghế, rồi lại đi giết gà mổ lợn. Vì để tránh anh đầy tới nhà mình nảy sinh nghi ngờ lại kéo ra lắm chuyện lôi thôi ảnh hưởng đến lễ cưới của con gái mình, lão phú ông liền cho gọi anh chàng tới và nói rằng: – Thời gian ở nhà ta con đã làm việc tốt lắm, khiến lão vô cùng ưng ý đấy. Ngày hôm nay thì lão cũng đã cho người sửa soạn đầy đủ hết cỗ bàn rồi. Nhưng mà nếu con muốn cưới con gái lão thì cũng phải có gì đấy làm sính lễ thì mới coi được chứ. Ta cũng chẳng đòi con phải có tiền bạc hay ruộng vườn. Bây giờ con cứ đi lên trên rừng kia, kiếm lấy cây tre nào có đủ trăm đốt thì đem chặt rồi mang về đây, thì lão sẽ coi đó là sính lễ rồi cho các con làm lễ thành hôn với nhau luôn. Nếu mà con không kiếm được thì lão đem con gái gả cho người ta đấy! Anh chàng đầy tớ nghe phú ông nói một thôi một hồi thì cũng ngẩn người ra, phải một lúc sau thì anh mới hoàn hồn, vội vàng đem theo rựa mà cắm cúi lên rừng. Khi lên đến rừng, anh chàng cố tình tìm tới những bụi tre nào cao nhất, sau đó lách vào bằng được để chặt. Tuy nhiên thì cứ mỗi khi một cây tre bị đốn ngã là nỗi thất vọng của anh lại càng nhân lên. Những cây tre nhìn như cao ngất ngưởng là vậy đấy nhưng mà chẳng có cây nào đủ một trăm đốt cả, nhiều lắm thì cũng chỉ khoảng bốn mươi đốt mà thôi. Mặc dù vậy nhưng anh vẫn chẳng nản lòng. Cây này không được anh lại đi tìm cây khác, anh còn tìm đến những nơi vô cùng hiểm hóc, ở đó có những bụi tre già, dù cho có bị những gai tre cào rách áo, cào toạc da thì anh vẫn chẳng chút bận tâm đến. Anh cứ thế tìm kiếm với hy vọng tìm được một cây tre có đủ một trăm đốt tre mang về để làm sính lễ dâng cho bố vợ tương lai của mình. Với niềm hy vọng lớn lao trong lòng, anh cứ giơ cao rựa của mình mà chặt. Tuy nhiên dù anh có chặt bao nhiêu, dù có bao nhiêu cây tre đổ xuống thì đếm đi đếm lại cũng chẳng có cây nào đủ được một trăm đốt cả. Sức cũng đã kiệt, anh mệt mỏi và buồn rầu, quá chán nản nên anh đem con rựa trên tay quẳng luôn xuống dưới đất rồi tức tưởi ngồi khóc một mình. Tiếng khóc nức nở của anh làm vang động núi rừng. Khi tiếng khóc của anh đến tai của Bụt thì Bụt lập tức xuất hiện trước mặt anh mà hỏi rằng: – Con là ai? Tại sao con lại ngồi khóc ở nơi này? Anh chàng cố gạt hết nước mắt trên mặt mà thành thật kể lại cho Bụt nghe đầu đuôi câu chuyện. Khi nghe xong, Bụt liền bảo anh: – Con hãy nín khóc đi. Bây giờ con hãy đi chặt đủ một trăm dốt tre rồi mang lại đây. Nghe lời Bụt nói, anh chàng lập tức đi chặt đủ một trăm dốt tre rồi mang về chỗ Bụt đang đứng. Nhưng mà mang về rồi thì anh lại tiếp tục khóc than. Bụt hỏi: – Tại sao con lại khóc? Anh chàng buồn bã đáp: – Phú ông yêu cầu con phải chặt cho được một cây tre có đủ một trăm đốt tre, chứ không phải là chặt được một trăm đốt tre đâu! Bụt cười hiền lành, nhẹ giọng an ủi, sau đó thì bảo anh chàng để một trăm đốt tre rời thành một hàng ngay ngắ n rồi bảo hô: – Khắc nhập! Khắc nhập! Vâng lời Bụt, anh chàng cũng hô lớn thì lập tức có phép màu xuất hiện, khi anh vừa dứt lời thì một trăm đốt tre rời đột nhiên chắp lại với nhau hệt như là chúng vốn là một cây vậy. Khi đã có được cây tre trăm đốt như đúng yêu cầu của phú ông thì anh chàng vô cùng mừng rỡ, vội vàng vác cây tre mang về. Tuy nhiên thì dù anh có dùng sức bao nhiêu thì cũng không cách nào vác cây tre lên mà mang về nhà được. Anh cứ loay hoay mất một lúc lâu, sau cùng thì bất lực, anh lại để tre xuống mà khóc than. Nghe tiếng khóc của anh, Bụt lại hiện lên và hỏi: – Con làm sao lại khóc rồi? Anh chán nản thưa: – Vì cây tre này dài quá, con không thể đưa nó về được. Bụt cười lại dạy anh câu thần chú khác: – Khắc xuất! Khắc xuất! Khi anh chàng vừa hô xong thì phép màu cũng lại xuất hiện, cây tre ấy lại lập tức rời nhau ra thành một trăm đốt tre như ban đầu. Anh chàng mừng quá, cảm ơn Bụt rối rít, sau đó thì anh cột tre thành hai bó to rồi quảy lên vai đem ra khỏi khu rừng. Lúc anh chàng nông phu vừa về tới cửa nhà phú ông thì cũng là lúc mà hai họ đương cỗ bàn vô cùng linh đình, cũng là lúc mà cô dâu và chú rể chuẩn bị bước ra ngoài để làm lễ cưới. Anh chàng cũng chẳng thể hiện cảm xúc gì, chỉ lẳng lặng gọi phú ông tới để nhận sính lễ. Khi nhìn thấy những đốt tre rời rạc thì phú ông lập tức quát lớn: – Tao đã bảo mày đi chặt lấy một cây tre có trăm đốt, chứ ai bảo mày đi chặt một trăm đốt tre về làm gì! Đúng là đồ ngớ ngẩn! Dù lão phú ông quát vậy nhưng anh cũng chẳng nói chẳng rằng gì, chỉ hô lên liên tục: – Khắc nhập! Khắc nhập! Những đốt tre cứ lần lượt rời khỏi bó rồi chắp lại với nhau trở thành một cây tre cao ngất. Phú ông trông thấy, vừa ngạc nhiên, vừa bực mình, lão liền chạy ngay tới định phá cho những đốt tre phải rời nhau ra. Tuy nhiên thì tiếng hô “khắc nhập” của anh nông phu có phép màu không dừng lại, khiến cho cả thân người của lão phú ông cũng bị dính liền luôn vào thân cây tre, nhìn như là một đốt nối thêm vào cây vậy. Thấy mình bị dính vào với cây, phú ông lập tức kêu la ầm ỹ. Tiếng kêu la oai oái của lão khiến cho cả hai họ đều vô cùng hốt hoảng mà chạy hết ra ngoài. Chàng rể chính là người đầu tiên tiến tới định bụng sẽ gỡ hộ bố vợ mình, nhưng là anh nông phu lại hô “khắc nhập” khiến cho hắn cũng dính luôn vào cây tre, đội cả phú ông lên trên đầu. Tiếp theo là ông thông gia, vốn định chạy lại gỡ con trai của mình ra nhưng cũng lại bị dính luôn vào đấy. Sau đó thì hai bên họ nhà trai và họ nhà gái cứ nối tiếp nhau xông vào, định là gỡ nhưng lại thành ra bị dính chặt vào cây tre. Mọi người đều đã sợ đến mức mặt cũng xanh mét lại rồi, nhưng mà anh nông phu kia thì vẫn rất thản nhiên đứng ở một góc sân chờ câu trả lời của phú ông. Sau cùng thì phú ông cũng phải mở miệng van lạy anh hết lời, xin anh thả mọi người ra và cũng hứa sẽ gả con gái mình cho anh đúng như những gì lão đã hứa trước đây. Đến lúc bấy giờ thì anh nông phu mới hô: – Khắc xuất! Khắc xuất! Ngay lập tức, cả phú ông cùng với mọi người đều được thoát khỏi cây tre kia. Sau đó thì họ nhà trai cùng với chàng rể của nhà mình phải ra về tay không. Còn anh chàng nông phu thì lại đúng như ước nguyện được cưới con gái phú ông làm vợ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cay-tre-tram-dot" }
Anh chàng họ Đào
Ngày xưa ở huyện Đông-sơn có một anh học trò họ Đào. Anh đẹp trai, học giỏi, chỉ phải một tội là nhà rất nghèo. Thường ngày anh cắp sách sang làng bên cạnh học với một ông đồ. Nhưng cũng có những lúc anh phải đi làm thuê, làm mướn để kiếm tiền gạo nuôi thân. Cuộc sống bữa no bữa đói khá là vất vả. Trong năm năm, mặc cho kẻ cười người chê, anh vẫn vừa làm vừa học không chịu bỏ dở. Ở chỗ làng anh đến học, có một cô gái con nhà khá giả yêu anh và cũng được anh yêu lại. Hai bên có tình ý với nhau như vậy đã được vài năm. Ít lâu sau, anh chàng họ Đào mượn mối đến dạm cô gái. Nhưng cha mẹ cô gái chê nhà anh nghèo, không gả. Họ bảo thẳng người mối: -"Nhà anh ấy một thân một mình kiếm ăn còn chật vật thay. Con gái tôi về đấy càng làm cho anh thêm bấn". Khi người mối cho biết tài học của anh chàng có thể mai sau thay đổi được số phận, thì họ trả lời: -"Nếu thế thì đợi lúc ngựa xe võng lọng trở về hãy hay". Thấy vậy, anh chàng họ Đào vừa giận vừa thẹn. Anh nghĩ bụng phải bỏ nhà ra đi, quyết chí lập được công danh mới trở về để cho cha mẹ nàng không dám giở giọng khinh bạc với mình nữa. Nghĩ vậy anh bỏ nhà đến kinh đô. Ở đây anh vẫn vừa làm thuê, vừa học. Nhờ sáng dạ, anh học rất tấn tới. Sau năm năm, anh đi thi đỗ luôn cử nhân. Hôm vinh quy trở về nhà, lòng anh mừng khấp khởi. Bụng bảo dạ: -"Nhất định bố mẹ cô ta sẽ vui lòng gả con cho mình và hối hận về những câu nói khinh người trước đây". Nhưng không ngờ, khi nah đến chào thầy học cũ, người ta cho biết là cô gái, sau khi anh bỏ làng ra đi, đã bị cha mẹ ép gả cho một người làng, mặc dầu cô không ưng thuận và có bụng chờ anh. Nghe nói, chàng họ Đào hết sức buồn. Anh bỏ dự định đến nhà cha mẹ người yêu và cũng chẳng bụng dạ nào đến nhà vợ chồng người yêu, vì sự gặp mặt lúc này chỉ làm anh thêm đau khổ, cũng có thể khiến chồng nàng ngờ vực. Nhưng lúc trở về, trên con đường cắt ngang qua cánh đồng, anh bỗng gặp nàng đang mang cơm ra đồng cho chồng. Hai người e lệ nhưng cũng dừng lại hàn huyên: họ bày tỏ nỗi đau khổ vì sự éo le củ duyên phận. Khi chàng họ Đào từ giã, cô gái gạt nước mắt nhìn theo. Nàng đâu có ngờ rằng, từ đằng xa, người chồng của mình đã nhìn thấy được cảnh chuyện trò vừa rồi, và cơn ghen của hắn bốc lên bừng bừng. Nàng vừa đến nơi, hắn lấy cớ cơm canh chậm chạp, liền xông lại gây sự. Vợ nói lại mấy câu thì con người vũ phu đó nổi xung lên không đợi tìm hiểu phải trái, trong tay đang cầm cái cuốc để cuốc khoai, thuận đà hắn ném vào người vợ. Không ngờ phạm nhằm chỗ hiểm, nguời vợ gục xuống bất tỉnh nhân sự. Hắn lo sợ, lén lút vực vợ về nhà nói dối là ngộ cảm, rồi sau đó tiến hành chôn cất không để cho một ai sinh mối nghi ngờ. Vừa về đến làng mình, chợt nghe tin người yêu chết một cách đột ngột, anh chàng họ Đào không ngăn được kinh ngạc và thương cảm. Anh bèn làm một cỗ cúng, rồi vì không tiện đến nhà, chờ lúc đêm khuya, đem sang cúng ở mộ người yêu. Nhưng điều không ngờ là trong lúc sụt sùi khấn khửa thì bỗng nghe trong mộ có tiếng động phát ra. Thấy sự lạ, anh vội trở về gọi người nhà đem quốc thuổng đến đào lên. Khi nạy nắp áo quan mới biết là người chết sống lại. Số là cô nàng bị chồng ném cuốc ngất lịm đi, nhưng chưa chết thật, con người chồng thì sợ mang tội giết người nên vội khâm liệm rồi đem chôn cất sơ sài, cho chóng xong. Sau khi bị chôn, người chết mới dần dần hồi tỉnh và co cẳng đập vào cầu cứu, đúng lúc người yêu đang đứng ở mộ. Anh chàng họ Đào trong lòng mừng rỡ, bèn cùng người nhà đắp mộ lại như cũ, rồi vực nàng về nhà hết sức chữa chạy. Khi đã bình phục trở lại, cô gái kể tất cả mọi chuyện cho anh nghe. Anh dặn người nhà giữ rất kín chuyện này và sau đó kín đáo đưa người yêu đến chỗ làm quan. Hai người trở thành vợ chồng không cheo cưới. Lại nói chuyện anh chồng cũ cũng như mọi người trong làng vẫn không ngờ rằng người chết đã được cứu chữa sống lại. Cho nên, hàng năm hắn vẫn cúng đơm theo đúng tục lệ. Ba năm sau, một hôm nhân có dịp trẩy hội chùa ở một trấn đàng ngoài. Trên đường đi tới chùa hắn bỗng thoáng gặp một bà quan đi cáng trông nét mặt hao hao giống vợ mình. Hắn lấy làm lạ, vội đuổi theo để mong được nhìn kỹ càng tận mắt. Đứng đón nấp đằng sau cổng chùa, hắn thấy bà quan ấy từ mặt mũi dáng đi đến giọng nói quả đúng là vợ mình, không nghi ngờ gì nữa. Rồi hỏi thăm mấy người lính hầu, hắn lại biết thêm rằng chồng nàng không ai xa lạ mà chính là người học trò thi đậu cử nhân ở làng bên cạnh đã đứng nói chuyện với vợ mình trước khi hắn ném cuốc vào người nàng. Nhưng tại sao hắn đã chôn nàng hai năm rõ mười mà bây giờ nàng lại sống đường hoàng như thế kia? Trong bụng hắn nghi nghi hoặc hoặc, đoán chắc có sự lừa gạt chi đây. Cho nên vừa trở về tới làng, hắn đã bày ra chuyện bói toán cải táng để đào mộ vợ lên xem cho rõ sự thật. Và khi thấy áo quan rỗng, hắn vội phát đơn kiện anh chàng họ Đào tội đã quyến rũ vợ mình. Nhưng sau khi nắm được mọi uẩn khúc, quan xử cho hắn không những mất vợ mà còn bị án khổ sai chung thân về tội đã phũ phàng đánh chết vợ và lén lút đem chôn, có đầy đủ tang chứng do tội nhân tự khai ra. Còn vợ hắn thì được phép lấy anh chàng họ Đào, người đã có công giành lại nàng khỏi tay tử thần
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/anh-chang-ho-dao" }
Nợ duyên trong mộng
Ngày xưa ở động Sơn-la thuộc Hưng-hóa có một chàng trẻ tuổi tên là Chu sinh. Bố mẹ mất sớm, chàng được chú đưa về nuôi cho ăn học. Nhưng người chú yêu dấu cháu bao nhiêu thì người thím lại ghét bỏ bấy nhiêu. Thấy phải nuôi báo cô một đứa cháu dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, người đàn bà ấy rất bực mình. Lâu dần, người thím không kiêng nể nữa, mỗi khi có chuyện không vừa ý, chửi mắng chàng hết lời. Một hôm, chú đi vắng, ở nhà thím la rầy, Chu sinh cãi lại mấy câu. Thấy thế, người thím không ngăn được cơn thịnh nộ: - Đã thế mày đi đâu thì cút ngay đi, đừng có vác mặt về đây mà ăn nữa! Nghe mấy câu xúc phạm, Chu sinh bỗng tức giận đầy người. Chàng vào thu dọn áo quần sách vở rồi tức tốc ra đi, thề quyết sẽ không trở lại gặp thím nữa. Chàng tìm về mấy gian nhà nát của bố mẹ bấy lâu vẫn bỏ hoang, trải manh chiếu rách lên giường rồi làm một giấc. Người chú về biết rõ cơ sự, bèn tìm đến nhà, rủ cháu về. Chu sinh đã nhịn đói hai hôm nhưng nhất quyết không chịu. Người chú đành mang tiền gạo đến cho chàng và cố tình khuyên dỗ. Cháu hẹn chú ba ngày. Nhưng ba ngày trôi qua vẫn không thấy cháu về, chú lại mang tiền gạo sang chu cấp. Cháu lại khất ba ngày khác, nhưng rồi vẫn không về. Người chú cuối cùng cũng bực mình, đến nhà bảo: - Tao bảo mày không nghe thì kệ xác mày, không hơi đâu mà khuyên dỗ mãi! Nói rồi từ đó mặc kệ Chu sinh, nhất định không đoái hoài nữa. Sau khi gạo tiền đã hết, Chu sinh nằm nhịn luôn trong hai ngày. Tuy bụng đói, chàng vẫn không chịu chạm trán với người thím ác nghiệt. Hôm ấy, sau khi ngâm mấy bài thơ, chàng tự nhiên ngủ thiếp đi. Đang lúc mơ mơ màng màng, bỗng thấy có một viên quan phẩm phục rực rỡ, theo sau có mấy tên thị vệ đến nhà mình. Bấy giờ chàng đang ngồi đọc sách. Chàng tưởng họ vào nhầm nhà, nhưng khi xưng tên tuổi thì thấy quả họ đang tìm mình. Viên quan mở hộp vàng lấy ra một đạo dụ đọc cho chàng nghe. Lúc đầu chàng cứ tưởng hoàng đế đang trị vì triệu mình, nhưng khi nghe xong thì chàng lấy làm ngạc nhiên. Những tiếng "quốc mẫu nước Hoa-thành" thật là mới lạ, chưa nghe nói bao giờ; cả đến giọng đọc của viên quan cũng nghe lơ lớ, không phải người ở vùng kinh kỳ tới. Khi biết những người khách lạ đến với thiện ý đưa mình tiến kinh làm phò mã thì Chu sinh thấy yên tâm. Chàng nghĩ bụng: "Hẵng cứ phó mặc cho may rủi một phen thử xem". Chàng bèn bước theo chân họ. Đường rất mờ mịt. Chỉ một thôi, họ đã tiến vào một nơi có nhà cửa đẹp đẽ, người đi lại đông đúc như một thị trấn. Vượt qua mấy lần cổng thành lớn. Có lính canh gác nghiêm ngặt, đã thấy trước mặt một tòa lâu đài nguy nga, trên đề chữ "điện Hoàng-kim". Viên quan bảo chờ trước sân rồng rồi tiến vào một nơi có mành ngọc che. Một chốc hắn rón rén bước ra giục chàng vào làm lễ. Chu sinh chỉ mới kịp cúi đầu lạy hai lạy thì ở trong có tiếng truyền ra cho chước miễn, và bảo dắt lên thềm. Chàng thấy đó là một bà cụ già chừng 60 tuổi, mặt mũi phúc hậu, nhìn mình với cặp mắt có cảm tình. Tuy đói bụng nhưng chàng cố hết sức giữ lễ. Người ta mời chàng ngồi lên sập vàng bên tả chỗ ngồi của quốc mẫu. Sau buổi trà nước, tiệc yến dọn lên, sơn hào hải vị bày đầy cả chiếu. Một chốc, từ trong cung tiến ra một cái kiệu nhỏ, trên có một thiếu niên bước xuống vái chào Chu sinh. Quốc mẫu nói bằng một giọng thân mật: - Con ra tiếp đi. Chú rể mới bao giờ mà chả thẹn. Thế rồi hai người chén thù chán tạc. Chu sinh chưa bao giờ cảm thấy sung sướng và ngon miệng hơn thế. Giữa bữa ăn, quốc mẫu cho chàng biết tiên đế là chồng bà với cha chàng đã từng đính ước gả con cho mau. Bây giờ cốt mời chàng đến đây để thực hiện lời hứa đó. Tuy chưa hiểu hai bên quen biết từ bao giờ, lại cũng chưa rõ mặt mũi công chúa Mộng Trang ra sao, nhưng chàng cũng cung kính gật đầu. Ăn xong, quốc mẫu ngoảnh lại bảo chàng: - Phò mã hãy trở về đợi ba ngày nữa sẽ lại cho người đến rước. Liền đó, chàng từ tạ ra về, có cờ trống đàn sáo tiễn ra đến ngoài hoàng cung. Thoáng có cơn gió lạnh phả vào mặt, Chu sinh giật mình tỉnh dậy thì thấy mình vẫn nằm trên manh chiếu rách cũ, nhưng miệng còn hơi rượu và bụng hãy còn no. Suy đi nghĩ lại, chàng không hiểu ra thế nào cả. Ba ngày sau, chàng lại nằm mê như trước, lần này, đến điện Hoàng-kim thì đã thấy đèn treo, hoa kết, rực rỡ vô cùng. Chu sinh được dắt vào một gian buồng, thay bỏ đồ cũ để mặc quần áo mới may. Được một chốc, có một bọn người cung nữ đưa công chúa ra gặp tân lang. Chàng chỉ hồi hộp chờ có mỗi phút đó. Và chàng sung sướng vô cùng khi nhìn trộm thấy diện mạo của vợ khó có ai sánh kịp. Hai bên cùng vào làm lễ và cùng rót rượu cho nhau uống giữa nhữn tiếng đàn sáo nhã nhạc và lời chúc tụng hoan hỷ của mọi người. Sau đó, vâng lện quốc mẫu, hai người đưa nhau vào Tây phòng. Đêm ấy, Chu sinh sung sướng vô hạn và mặc dầu thoáng thấy có những vằn lạ ở bụng và lưng vợ nhưng chàng vẫn không quan tâm. Sáng hôm sau, ăn xong hai người lại ra hầu quốc mẫu. Bà bảo chàng: - Nước đây là nước Hoa-thành. Năm xưa tiên đế mất đi để lại cho ta dân đông, công việc nhiều. Thái tử còn nhỏ tuổi mà ta thì đã già rồi, trông nom không xiết. May có công chúa giúp đỡ từ bấy đến nay. Lấy chồng thì phải theo chồng nhưng công chúa mà đi thì không ai giúp cho ta cả. Vậy phò mã nên thể tình ta, để vợ ở đây, cứ ba ngày một sẽ cho Xuyên Hoa sứ về đón. Chu sinh chỉ còn biết vâng dạ. Trò chuyện một lúc, Chu sinh ra về. Công chúa tiễn chồng ra hoàng cung vẻ lưu luyến buồn rầu lộ ra nét mặt. Thái tử nói bỡn: - Vợ chồng mới cưới hôm qua, hôm nay đã thương nhớ nhau đến thế ư? Mọi người đều cười rộ làm cho chàng đỏ cả tai. Thế rồi Chu sinh lại tỉnh dậy sau một giấc ngủ một ngày một đêm. Mùi rượu và mùi hương của công chúa vẫn còn thấy phảng phất. Lần này, chàng không còn coi là một sự lạ nữa. Chàng lại giở sách ôn luyện. Bụng vẫn không thấy đói. Từ đó cứ ba ngày một lần, Chu sinh lại chiêm bao đến nước Hoa-thành để được gặp gỡ công chúa và để được ăn những bữa tiệc no say. Hết chiêm bao, chàng lại sống cô độc và thiếu thốn trong gian nhà nát. Tuy ngoài giấc mộng chàng không hề ăn uống gì mà mặt mũi vẫn hồng hào tươi tốt. Cuộc đời cứ đều đặn như thế kéo dài đến hơn một năm trời. Xóm làng cho là chàng có phép tịch cốc, hỏi thì chàng chỉ cười mà không trả lời. Lúc này công chúa vợ Chu sinh đã sinh được một con trai. Quốc mẫu hạ lệnh cho vợ các quan phải đến cho đứa bé bú. Thằng bé chóng lớn. Ngày đầy tuổi tới, chàng đến sớm hơn mọi lần. Lúc đến nơi đã thấy cung đình xúm xít những triều thần, các quan lớn bé cùng các bô lão ăn mặc rực rỡ, chào hỏi lăng xăng. Họ mang tiền nong, lễ vật đến mừng con chàng nhiều lắm, chất đầy cả sập. Đổi lại, quốc mẫu sai dọn tiệc đãi họ. Chu sinh phải thân đi rót rượu mời mọc khá vất vả. Một hôm, chàng theo lệ thường đến yết kiến mẹ vợ. Chàng ngạc nhiên khi thấy mặt bà có vẻ buồn rầu hốt hoảng khác thường. Hỏi thì quốc mẫu gạt nước mắt trả lời: - Từ lâu ta vẫn có ý giấu phò mã. Nhưng nay đã đến lúc không thể giấu được nữa. Đã hai tháng nay, ngày nào cũng có tin cáo cấp ở biên thùy. Bọn giặc dữ đã tràn vào cõi, cướp bóc và tàn hại dân ta không biết bao nhiêu mà kể. Quân ta nghênh chiến bị tử thương vô số. Hôm nay, coi chừng giặc đã phạm đến gần kinh đô. Cho nên ta định ngày mai sẽ thiên đô đi nơi khác. Chu sinh toan hỏi thêm về tình hình chiến sự thì đã thấy quan thượng thư Bộ binh xin vào yết kiến: - Tân bệ hạ, quân giặc mỗi ngày một thêm mạnh và đông. Cứ như con số hạ thần nắm được thì quân và dân ta đã hy sinh mất một phần ba. Nếu bệ hạ cố ở lại thì còn dân đâu mà lập nước nữa. Vậy xin kíp thiên đô nội trong đêm nay! Nghe nói, quốc mẫu sợ hãi, lập tức sai thảo chiếu hỏa tốc đi mọi phương ra lệnh đúng giờ hợi khởi hành. Rồi bà day lại bảo Chu sinh: - Quốc gia đại sự, không thể để phò mã đi theo, cũng không dặn dò được nhiều. Chỉ nhắc phò mã biết rằng ta đã sai Xuyên hoa sứ mang tiền của công chúa gửi cho phò mã dùng, phò mã cố gắng học thành tài, sẽ có ngày tái ngộ. Chẳng những công chúa mà còn cháu nhỏ cũng không tiện đi theo phò mã. Hãy tạm chia tay một thời gian, chừng hai mươi sáu tháng nữa, cha con sẽ lại hú hý với nhau. Thôi vào gặp vợ một tý để còn xuất hành! Chu sinh bước vào buồng nước mắt ứa ra. Công chúa lúc ấy đang sửa soạn hành trang, nàng bảo chồng: - Ở đời ly hợp là thường, miễn chàng cố gắng là sẽ gặp nhau không mấy chốc. Thiếp sợ chàng buồn nên đã cho thị nữ là Đồng Nhân làm bạn cho đến ngày tái ngộ. Thiếp lại tặng chàng một hòn ngọc bích làm bằng chất ngọt của các thứ hoa quý, mùa nực đeo vào thì mát, mùa rét thì ấm, chàng luôn luôn đeo bên mình xem như là có thiếp! Chu sinh vội bảo vợ: - Nàng có thể theo ta được không ? Hay nếu không thì nàng cho ta theo với. Công chúa đáp: - Không được. Hiện nay chàng đang còn sự nghiệp của chàng. Còn thiếp phải giúp mẹ bảo toàn cơ đồ và tính mạng muôn dân. Hai bề chưa vẹn, chưa theo nhau được. Thôi đừng buồn nữa, ngày sau hạnh phúc còn dài. Nói rồi dứt áo bước ra. Chu sinh lại níu lại hỏi: - Ngày sao sẽ gặp nhau ở đâu và vào lúc nào, nàng có thể cho ta biết trước được chăng? Công chúa cầm lấy hòn ngọc, bỏ vào túi áo chàng và nói: - Trong đó có nói rõ cả. Khi chợt tỉnh dậy thì Chu sinh thấy cảnh tượng lo lắng ly biệt vừa rồi đã biến đâu mất. Chàng vừa thắp đèn soi thì thấy giữa đường có một gói mười lạng vàng. Chàng móc túi, quả có một viên ngọc màu trắng như ngà, có vân xanh, dài như quản bút, trên có khắc mất câu thơ: Bao giờ mười vạn tinh binh, Nhạc quân trống trận rập rình ngoài biên. Phía Tây Hồ-thủy tiến thuyền, Hoa-cương nẻo nọ thẳng liền sang Đông. Chờ khi báo tiệp dâng công, Non song đề chữ tương phùng về sau. Xin đừng đắp nhớ đổi sầu, Mười lăm năm lại gặp nhau đó mà. Chàng đọc đi đọc lại hai ba lần vẫn không hiểu nghĩa thế nào. Rồi chàng cố suy nghĩ để tìm hiểu sự gặp gỡ bấy lâu nhưng cũng không thể ra manh mối. Óc rối như tơ vò, chàng bụng bảo dạ: - "Rồi thời gian khắc sẽ sáng tỏ. Chả hơi đâu mà nghĩ cho mệt". Hôm ấy, trời chưa sáng đã nghe có tiếng khóc. Chàng vội chạy sang nhà láng giềng hỏi tin. Họ cho biết là người thím của chàng bị cảm chết sắp sửa đem đi chôn. Nghe thấy thế, Chu sinh quyết định trở lại nhà chú. Người chú thấy cháu ôm sách vở trở về thì không nén được tức giận, bảo: - Đã hai năm nay mày không đoái hoài gì đến tao, sao không đi luôn một thể, còn về mà làm gì? Chàng nhanh trí tìm được cách nói dối: - Hôm qua cháu chiêm bao thấy cha cháu về bảo rằng chú nghèo lắm, lại sắp có gia biến. Vậy có số vàng chôn ở nền nhà đào lên đưa về giúp chú. Vì thế bây giờ nghe tin có tang, cháu mới về. Nói rồi bày cả mười lạng vàng lên bàn. Thấy vậy, chú đổi giận ra mừng. Từ đấy, chu sinh yên tâm ở lại nhà chú học tập. Chàng không mộng mị như trước và cũng không hề rỉ răng với ai về việc lạ xảy ra. Khoa ấy, Chu sinh đậu hương cống. Chú dạm vợ cho mấy nơi nhưng chàng nhất thiết từ chối. Một hôm người chú đi buôn có đưa về một cô gái mười tám tuổi bị lạc đường. Nghe cô gái xưng tên là Đồng Nhân, Chu sinh sực nhớ đến lời vợ dặn trước khi chia tay, bèn bằng lòng theo lời bàn của chú, lấy nàng làm thiếp. Hơn một năm, Đồng Nhân sinh cho chàng một đứa con trai. Đứa bé càng lớn, Chu sinh càng thấy nó giống với đứa con của chàng ở nước Hoa-thành do công chúa đẻ với chàng. Chàng tính đốt ngón tay thì vừa hai mươi sáu tháng, đúng như lời quốc mẫu. Lúc này cuộc đời thật của Chu sinh ngày một vinh hiển và giàu thịnh hơn trước. Chàng làm quan to trong triều, được mọi người nể phục. Một năm, ở Tuyên-quang có giặc, vua phong cho chàng làm đại tướng mang hai vạn quân đi dẹp giặc. Quan quân sắp tới trại thì gặp một con khe ngăn đường. Hỏi dân gần đấy thì họ cho biết đó là khe Hồ-thủy, trước mặt là Hoa-điệp-cương, đi vòng sang phía Tây hoặc phía Đông một ngày là đến trại giặc. Nghe nhắc đến những tên ấy, chàng bỗng nhớ tới những câu khắc trên hòn ngọc. Chàng mới giở ngọc ra đọc lại bài thơ thì rõ ràng đó là những lời kín đáo bày ra cho chàng mẹo phá giặc. Chàng cứ theo kế đó hai mặt tiến công, quả nhiên giặc thua to, bị giết và bị bắt gần hết. Sau khi thắng trận, chàng đi thuyền quanh Hoa-cương. Người lái đò cho chàng biết cách đây 15 năm có một đàn bướm độ vài vạn con nửa đêm ở đâu bay tới rợp trời cho nên gọi là Hoa-điệp[1]. Chu sinh hiểu ra, vừa lạ vừa mừng, vội sai dừng thuyền lại nghỉ ngơi. Đêm hôm ấy chàng lại chiêm bao thấy Xuyên Hoa sứ đến đón. Chàng đi ngay. Lúc đến nơi, chàng nhận thấy cảnh vật lúc này đẹp hơn xưa nhiều: lâu đài quy mô, dân cư đông đúc. Vừa tới cửa hoàng cung đã có quốc mẫu ra đón niềm nở: - Phò mã đi dẹp giặc hẳn là khó nhọc. Chao ôi, bây giờ râu ria mọc đã dài không được trẻ như trước. Ngày tháng chóng thật! Rồi đó chàng lại gặp công chúa ở Tây phòng, hai bên chuyện trò ái ân vô cùng nồng đượm. Qua ngày sau, mãi đến chiều, Chu sinh vẫn chưa muốn về. Quốc mẫu vào buồng giục chàng cố làm cho xong việc nước, và bảo: - Ta nay đã già lắm rồi. Ta quyết định mười hôm nữa sẽ chia đôi nước, một nửa cho thái tử, một nửa cho công chúa. Vậy phò mã nhớ trở lại đây mà coi lấy nước mới. Ngày nay dân sự yên ổn nhưng phò mã cũng nên chú ý phòng ngừa quân địch vẫn thường đột nhập vào quấy rối trong nước Hoa-thành này. Chu sinh chỉ kịp dạ mấy tiếng trong mơ thì đã có người đánh thức dậy. Bọn tỳ nữ vây xung quanh cho biết là chàng đã ngủ một đêm một ngày. Chàng vội nói tránh cho họ yên tâm: - Lâu nay việc quân mệt nhọc nên ngủ bù, không ngờ làm phiền chư tướng. Đoạn, chàng trù tính việc đề phòng cho nước Hoa-thành. Chàng nghĩ, chỉ có loài chim là kẻ thù của bướm nên ngay sau đó chàng tậu luôn ba mươi khu ruộng xung quanh Hoa-cương, cho người cày cấy ăn không với mỗi nhiệm vụ là đuổi bắt chim chóc cho mình. Thế rồi chàng mang quân về. Nhà vua khen ngợi công lao chàng và ban thưởng rất hậu. Nhưng vua thấy ngạc nhiên khi thấy liền đó, chàng dâng biểu xin từ chức. Vua không ép được đành phải để chàng thỏa chí. Được thôi quan, một hôm chàng từ giã chú, đưa vợ con lên thăm vùng Hoa-điệp-cương. Sắp tới nơi, tự nhiên cả ba người hóa làm ba con bướm trắng bay lên trời. Vượt qua Hồ-thủy, Xuyên Hoa sứ và cả một đại đội quân nhà bướm tiến ra đón bọn họ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/no-duyen-trong-mong" }
Sự tích Trầu Cau
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Năm hai anh em mười bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai anh em vốn đã thương yêu ngau, nay gặp cảnh hiu quạnh, lại càng yêu thương nhau hơn trước. Không còn được cha dạy dỗ cho nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Thầy Lưu có một cô con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn, con gái trong vùng không người nào sánh kịp. Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái đem lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là em. Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người em nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng. Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến. Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với em hơn trước. Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi. Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá. Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá. Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá. Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay. Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ. Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mối lương duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục cố hữu của dân tộc Việt Nam.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-trau-cau" }
Rét nàng Bân
Chắc hẳn ai cũng đã từng nghe qua câu tục ngữ: “Tháng Giêng rét dài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân” rồi nhỉ. Cái rét của tháng Giêng và tháng hai chắc mọi người đều đã biết, đó chính là những đợt rét của năm cũ, của mùa đông còn sót lại… Khi ấy thì cây cối khắp nơi sẽ cùng nhau đâm chồi rồi nảy lộc, những đóa hoa thì chớm nụ, và khi nắng hẳn lên tất cả sẽ lại héo tàn hết. Vậy nhưng khi trời đến tháng ba, tại sao lại vẫn còn rét nữa? Câu chuyện cổ tích về rét nàng Bân sau đây sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn. Nàng Bân được biết đến là cô gái rất hiền lành, lại đức độ, nàng là một người con gái chịu khó chịu thương, cũng hay làm. Hơn nữa cách nàng ứng xử với mọi người rất tận tụy và chu đáo. Cũng bởi vì tính tình đó của mình nên nàng không bao giờ cho phép bản thân qua loa đại khái trong bất cứ công chuyện gì. Từ việc nhỏ nhặt như rửa bát rửa đũa, cho đến chuyện quét nhà quét sân thì nàng cũng đều phải làm cho sạch sẽ như ly như lau thì mới dừng lại. Tất cả đồ đạc trong nhà cũng phải được sắp xếp thật ngăn nắp, gọn gàng. Khi nấu ăn, cơm canh cũng phải thật dẻo, thật ngon. Còn đối với việc ngoài đồng áng, dù là cày cuốc, tát nước, nhặt cỏ hay là rải phân… thì nàng cũng phải làm sao cho cẩn thận, tỉ mỉ từng chút một. Cho đến khi cắm những cây mạ kia xuống thì nàng làm còn tỉ mỉ, cẩn thận hơn nữa, nhìn vào phải thốt lên rằng trăm ngàn khóm đều thẳng tăm tắp, giống như một vậy. Còn đối với những việc như quay tơ dệt sợi, hay may vá thêu thùa thì nàng làm lại còn khéo léo, công phu hơn. Nàng kỹ lưỡng trau chuốt từng sợi một, nàng cũng không bao giờ bỏ sót bất kì đường kim hay để lỗi mũi chỉ nào. Những hoa văn, họa tiết trang trí qua bàn tay của nàng thì giống như là tạo hóa tạo thành, không chỉ uyển chuyển, mềm mại mà còn vô cùng tinh tế, bóng bẩy… Có lẽ đi khắp nơi trên trần gian này thì cũng chẳng tìm được người nào có thể làm được những việc như nàng. Bởi vì mọi người, dù ít dù nhiều thì cũng sẽ có khi phải nôn nóng, vội vàng. Đặc biệt là những khi có công việc kéo dài trong thời gian lâu, hoặc là những công việc quá sức đơn điệu, những lúc ấy thì con người lại càng dễ nảy sinh cảm giác nôn nóng, vội vã. Tuy nhiên, với nàng mà nói thì sự nhẫn nại cùng kiên trì chính là bản tính trời sinh đã có, cộng thêm niềm mê say, tất cả đã tạo thành đam mê, và nó sẽ kéo dài kể từ khi nàng chính thức bắt đầu cho đến tận khi kết thúc… Đến khi nàng đã vào tuổi cập kê, nàng cũng như tất cả mọi người, cũng về làm dâu, tuy nhiên thì bản tính nàng vẫn không hề thay đổi, vẫn giống hệt như ngày nào. Cũng chẳng có bất kì ai có ý chê trách dù chỉ là nửa lời với nàng. Còn đối với việc vì nàng quá tỉ mỉ, cẩn thận khiến cho hiệu quả công việc chậm hơn người khác, đó cũng chỉ là một số nhận xét xung quanh mà thôi, những người này không hiểu nàng thực sự mới như vậy. Lúc nàng nghe được những lời nhận xét ấy thì cũng chẳng vì mình mà thanh minh lấy một lời, nhưng lại cũng không bao giờ có ý định thay đổi tác phong làm việc của bản thân. Nàng được gả cho người ta vào đúng đầu mùa đông, chính vào lúc mà chuyện gặt hái vừa kết thúc. Vì thấy chồng của mình thiếu áo ấm, vì thế nên nàng liền bắt tay vào quay tơ và kéo sợi, nàng muốn đan cho chồng một chiếc áo ấm vừa đẹp đẽ, vừa ấm áp. Tất cả những sợi len, sợi tơ nàng chuẩn bị không những đều đặn mà còn óng ả nuột nà vô cùng. Sau đó nàng lại đi kiếm rất nhiều vỏ cây để pha chế rồi nhuộm ra được rất nhiều màu sắc xinh đẹp. Sau đó nàng mới bắt tay vào vẽ ra kiểu áo cũng như những họa tiết để trang trí. Nàng cặm cụi vẽ, rồi xem đi xem lại, cho đến tận khi cảm thấy ưng ý rồi thì nàng mới bắt đầu đan. Ôi chao! Hãy nhìn xem, những mũi đan từ bàn tay nàng mới duyên dáng sao, mịn màng sao! Chúng giống hệt như là những phép màu thật huyền diệu, chẳng giống như là do bàn tay của con người tạo ra nữa. Nàng đặt hết tâm trí của mình vào trong công việc, vì thế nên từng mũi đan lại tựa như một lời ca ngọt ngào xuất phát từ tâm hồn. Và rồi thời gian cứ thế thấm thoắt trôi qua, mọi chuyện đều rất êm ả và hiền lành. Tuy nhiên thì với nàng, thời gian là thứ chẳng tồn tại, đêm hay ngày cũng chỉ là thoáng qua mà thôi, chỉ như là bóng câu… Rồi tháng giêng tháng chạp đến rồi lại đi từ khi nào nàng cũng chẳng để ý nữa. Với nàng, tất cả mọi công việc dù là gì thì cũng là mới bắt đầu, cảm giác mới mẻ, đầy hăm hở ấy vẫn luôn tồn tại. Thoáng cái đã ba tháng trời đi qua… “Nàng Bân đan áo cho chồng, Đan ba tháng ròng mới được cổ tay.” Sự thật chính là như vậy. Nhưng mà với nàng mà nói, điều ấy chẳng có gì là quan trọng cả? Với nàng thì công việc cũng như có thể hoàn thành hoàn mỹ công việc mới chính là điều quan trọng thực sự. Bởi vậy nên ngay khi nàng đan xong được tay áo rồi, nàng lại bình tĩnh bắt đầu đan phần thân áo. Ngày lại qua ngày, người ta lại thấy nàng vẫn ngồi đó mà mải mê đan. Nàng cứ đan như mình chưa từng được thực hiện bất cứ công việc nào có vẻ hệ trọng như vậy. Nàng cứ đan như để chứng minh rằng trời đất tạo ra nàng chính là để cho nàng ngồi đan như vậy thôi. Vì thế nên khi tháng Giêng tháng hai tới rồi lại đi, kệ cho ngoài kia mưa dầm và gió bấc rét buốt, thì nàng vẫn luôn chăm chỉ, vẫn muốn một lòng một dạ mà hoàn thành công việc của mình. Sau cùng thì điều gì đến rồi cũng sẽ đến, khi đầu tháng ba tới, chiếc áo ấm mà nàng đan cho chồng cũng đã hoàn chỉnh, xong xuôi! Ôi chao! Hãy nhìn mà xem, chiếc áo này chính là một sản phẩm bậc nhất, là một tác phẩm mẫu mực nhất trên thế gian này. Dù đi bất kể nơi nào thì cũng không cách nào tìm ra được người thứ hai làm được một chiếc áo hoàn mỹ đến mức này. Sự vui mừng lúc này của nàng đúng là không thể dùng từ nào có thể mô tả hết được. Tâm hồn nàng lúc này tựa như đang chu du ở trên chín tầng mây cao, đem hết niềm vui sướng của nàng tới chia đều cùng mọi người. Tuy nhiên, hỡi ôi! Đúng vào lúc này đây thì trời lại hửng nắng, trời đã hết rét mất rồi! Nàng Bân thấy trời nắng thì buồn lắm! Cảm giác lúc ấy chẳng khác gì trời cao đột nhiên đổ rầm xuống đầu! Bởi vì nàng đã phải bỏ ra không biết bao nhiêu là tâm trí cùng sức lực! Còn biết bao nhiêu là mỗi niềm mơ ước mà nàng đã dồn vào trong từng đường kim mũi chỉ nữa chứ! Nàng vô cùng yêu thương và quý trọng người chồng của mình. Mấy tháng liền ròng rã chàng đã âm thầm mà chờ đợi. Ấy vậy mà nàng lại chẳng thể đáp lại cho chàng dù chỉ là chút ít hạnh phúc, niềm vui nhỏ nhoi. Ôi chao! Hỡi ơi trời cao, hỡi ơi đất dày, hỡi ơi nhân gian này, có ai có thể thấu hiểu được nỗi lòng nàng Bân lúc này! Vì thế, thay vì vui mừng khi đan xong áo, nàng lại phải ngồi ôm mặt mà khóc nức nở. Tiếng khóc của nàng não nề, ai oán, khiến cho người ta cảm thấy tận cùng của đớn đau và tuyệt vọng… Bao đời nay Ngọc Hoàng Thượng Đế đã trị vì ở thượng giới, một bậc thánh quân vĩ đại, chính là nỗi khao khát công lý của muôn loài. Người vẫn thường phải xử lí không biết bao nhiêu công to việc lớn, tuy nhiên thì người cũng chưa từng chểnh mảng với những lời cầu xin của những sinh linh nhỏ nhoi, tội nghiệp. Khi Ngọc Hoàng đang bộn bề công việc, vô tình tiếng khóc não nề của nàng Bân từ đâu vọng tới. Người nghe được những tiếng khóc tức tưởi và thổn thức, cảm giác như là có oan khuất khôn cùng, đả động đến lòng thương của Người. Ngọc Hoàng lập tức gọi Nam Tào và Bắc Đẩu tới, sau đó lệnh cho họ phải đi điều tra ngọn ngành mọi chuyện. Sau khi nghe kể và thấu hiểu được toàn bộ hoàn cảnh của nàng Bân, Người trầm ngâm hồi lâu rồi mới nói: – Ở cõi trần kia, ta biết có rất nhiều người phải sống vô cùng cực khổ, họ còn phải chịu đựng không biết bao nhiêu oan khiên, đặc biệt là những người phụ nữ. Ngày nào họ cũng phải đầu tắt mặt tối để lo cái ăn lo cái mặc, còn không biết bao nhiêu là nghĩa vụ đối với chồng con, và nghĩa vụ đối với xã hội nữa. Nàng Bân quả thực là một người phụ nữ có lòng thương yêu, độ lượng, nhẫn nhục, chăm chỉ mẫu mực nhất, hoàn toàn xứng đáng nhận được sự khen thưởng của mọi người. Nay ta ban lệnh cho cõi trần, vào đầu tháng Ba hằng năm thì sẽ rét lạnh vài ngày. Như vậy thì những người phụ nữ đầy lòng vị tha giống như nàng Bân, dù có đan áo ấm cho chồng muộn một chút cũng sẽ được ấm lòng. Vì khi áo đã đan xong nhất định sẽ cần phải mặc thử. Tuy nhiên thì hai khanh cũng cần phải nhớ, dù có rét thì cũng ngắn ngắn và vừa vừa thôi. Khi nghe thấy Ngọc Hoàng ban lệnh thì Nam Tào cùng Bắc Đẩu đều phải đứng lặng một lúc lâu, họ cứ tần ngần mãi, sau cùng mới có dũng khí để bẩm tấu: – Muôn tâu Ngọc Hoàng Thượng Đế. Người nếu ban lệnh này thì e rằng sẽ không được công bằng cho lắm. Chẳng lẽ lại vì một vài người nào đó mà khiến cho tất cả đều phải chịu thêm thời tiết rét lạnh sao? Nếu như vậy thì chúng thần cũng sẽ khó bề mà cai quản được. Ngọc Hoàng liền vẫy tay để hai vị đó ngồi xuống, sau mới ôn tồn mà giảng giải: – Ta biết. Chuyện này ta biết chứ… Nhưng mà ta cũng đã cân nhắc hết sức kĩ càng rồi. Tính kiên trì và lòng tốt như vậy thì đáng được khuyến khích, khen thưởng. Nếu như có một người mẫu mực thì có thể làm gương cho nhiều người khác. Hẳn các khanh vẫn chưa quên đã từng lên bẩm tấu với ta không dưới một lần rằng dưới trần gian kia có biết bao nhiêu là việc dối trá, cẩu thả, có khi là xấu xa, độc ác mà con người vẫn thường làm sao? Quyết định của ta ngày hôm nay cũng chỉ là muốn nhắc nhở cho họ biết rằng, dù làm gì thì cũng phải thật kiên trì, đã làm thì phải làm sao cho đến nơi đến chốn hẳn noi, dù là chuyện nhỏ thì cũng không được đại khái, qua loa. Khi đại khái, qua loa trong các công việc thì lâu dần có thể biến thành đại khái, qua loa ở trong cách ứng xử, sau đó thì sẽ tàn nhẫn, thẳng tay ứng phó với nhau, sẽ chẳng biết nghĩ trước hay nghĩ sau nữa… Ta muốn ban lệnh này để mà nhắc nhở thường xuyên cho họ biết. Đến lúc này thì cả Nam Tào và Bắc Đẩu đều đồng tình và cho rằng quyết định của Ngọc Hoàng là hoàn toàn chí lí, sáng suốt. Vì vậy họ vội vàng lạy tạ Ngọc Hoàng, sau đó thì đi thực hiện ngay. Kể từ đó trở đi thì cả hai vị đều thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc thần giá rét và mưa gió không được quên nhiệm vụ hằng năm này của mình. Tuy nhiên thì cũng không ít năm mà rét hơi quá đà. Điều ấy là do các thần đôi khi cũng hơi chểnh mảng trong công việc của mình… Từ đó cũng thành lệ, khoảng tháng Ba hằng năm, dù là mùa rét đã hết, mùa nóng đương tới nhưng sẽ có lúc trời đột nhiên trở rét mấy ngày. Và mọi người cũng quen gọi đợt rét ấy là rét nàng Bân. Và tục ngữ cũng có câu rằng: “Tháng Giêng rét dài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân” chính là vì lí do trên.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ret-nang-ban" }
Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng
Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng học giỏi, được Thiên đình rất chú ý. Trong sổ thiên tào hồi đó đã ghi cho anh chàng đậu tiến sĩ, làm quan đến thượng thư. Mỗi lần anh đi học thường qua một ngôi đền thờ thần ở làng bên cạnh. Vị thần làng đó vốn đã có đọc ở sổ thiên tào nên tỏ vẻ cung kính người học trò ấy. Những khi anh ta đi qua đền thì tượng thần đang ngồi trên bệ lật đật đứng dậy rất lễ phép. Một hôm người từ giữ đền nằm mơ thấy thần bảo: - Ngày mai ngươi phải quét dọn đền cho sạch sẽ tử tế vì có quan lớn đến chơi nhà ta. Người từ làm y như lời và suốt ngày hôm ấy hắn đứng trực ở cổng đền chờ đón vị khách quý của ông thần. Nhưng đợi mãi, hắn ta chả thấy một ai cả, trừ ra anh học trò xơ xác nói trên  hôm đó vô tình có ghé vào đền nghỉ chân một lúc. Người từ cho là dân thường không để ý gì đến. Ít lâu sau, người từ cũng lại chiêm bao thấy ông thần dặn dò như trước. Lần này, hắn cũng chả thấy ai lạ hơn là anh học trò hôm nọ đến đây ngâm một bài phú rồi lại đi. Nhưng hắn vẫn không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bây giờ người từ mới cho là quả phù hợp với lời thần dặn, bèn kể chuyện cho người học trò nọ nghe và bảo: - Đã ba lần như thế, nên tôi chắc rằng nhà thầy sau này sẽ đỗ đạt làm quan to chứ chẳng chơi. Nghe nói, người học trò như mở cờ trong bụng. Anh ta quyết chắc cầm sự vinh hoa phú quý trong tay. Hắn nghĩ ngợi rất nhiều về tương lai của mình. Một hôm khi ngắm lại nhan sắc vợ mình, hắn thấy không được đẹp tý nào cả. Thế rồi đêm hôm ấy nằm dưới bóng trăng, hắn mơ tưởng một người đẹp như chị Hằng. Hắn bụng bảo dạ: "Rồi ta sẽ cho vợ ta về đi thôi! Một khi đỗ đạt thì thiếu gì nơi ngấp nghé muốn làm bà. Lúc đó ta sẽ tìm những đám con vua cháu chúa; đã da trắng môi son lại vừa lắm của". Nghĩ thế, qua ngày hôm sau hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đòi bỏ cho kỳ được. Mọi người đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ một người có học như hắn lại có thể nhẫn tâm đến thế được. Nhưng hắn chỉ cười khẩy mà không kể gì dư luận. Một hôm khác có một người đến đòi nợ hắn. Vừa mới bước chân vào sân, người ấy đã bị hắn chỉ tay vào mặt mắng cho một trận: - Ta chưa có trả. Không khéo nay mai ta sẽ cắm đất vào vườn ở của mày cho mày biết mặt !. Hắn còn đe dọa nhiều người nữa. Gặp ai không vừa ý, hắn nói: - Rồi chúng mày sẽ biết tay ông! Tất cả những hành động của người học trò đều được tâu báo về Thiên đình. Ngọc hoàng nghe nói rất phật ý. Cho nên ít lâu sau đó, người từ giữ đền lại nằm mơ thấy ông thần tin cho biết là không phải kinh sợ đối với người học trò nữa vì trên Thiên đình đã tước sổ mất rồi, không cho đỗ đạt nữa. Ông từ hỏi: - Tội của nó như thế nào? - Nó bị kết án là "dưới trăng bỏ vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức". Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa. Quả nhiên người học trò đó thi mãi không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu tục ngữ: "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng".
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chua-do-ong-nghe-da-de-hang-tong" }
Cóc kiện trời
Ngày xửa ngày xưa , vào một năm không nhớ rõ năm nào, trời làm hạn hán khủng khiếp, nắng lửa hết tháng này đến tháng khác thiêu cháy cây cối, hút cạn nước sông ngòi, đầm hồ. Muôn loài không còn một giọt nước để uống. Các con vật to lớn hùng mạnh xưa nay tác oai tác quái trong rừng đều nằm lè lưỡi mà thở để đợi chết, không ai nghĩ được kế gì để cứu mình, cứu muôn loài. Sức mạnh của chúng chỉ để bắt nạt nhau thôi chứ đâu có thể làm gì nổi ông trời. Duy có anh chàng Cóc tía bé nhỏ, xấu xí kia là có gan to. Anh tính chuyện lên thiên đình kiện Trời làm mưa cứu muôn loài. Khởi đầu chỉ có một mình nhưng anh không nản. Ði qua một vũng đầm khô, Cóc tía gặp Cua càng. Cua hỏi Cóc đi đâu, Cóc bèn kể rõ sự tình và rủ Cua cùng đi kiện Trời. Ban đầu Cua định bàn ngang, thà chết ở đây còn hơn chứ Trời xa thế đi sao tới mà kiện với tụng, nhưng những con vật ở quanh Cua nghe Cóc nói lại tranh nhau mà bàn ngang bàn lùi, làm cho Cua nổi giận. Nói ngang bàn ngang là chuyện của Cua thế mà họ lại dám tranh mất cái quyền ấy, cái quyền được phép ngang như cua cơ mà. Thế là Cua làm ngược lại, Cua tình nguyện cùng đi với Cóc. Ði được một đoạn nữa, Cóc lại gặp Cọp đang nằm phơi bụng thở thoi thóp, Gấu đang chảy mỡ ròng ròng và khát cháy họng. Cóc rủ Gấu và Cọp đi kiện trời, Cọp còn lưỡng lự thì Gấu đã gạt đi mà nói rằng: - Anh Cóc nói có lý, chẳng có lẽ chúng mình cứ nằm ở đây đợi chết khát cả ư? Ta theo anh Cóc thôi! Ðến ngang như anh Cua còn theo anh Cóc được thì tại sao chúng mình không theo. Cả bọn nhập lại thành đoàn. Ði thêm một chặng nữa thì gặp đàn Ong đang khô mật và con Cáo bị lửa nướng cháy xém lông. Cả hai con vật này cũng hăng hái nhập vào đoàn loài vật đi kiện Trời do Cóc dẫn đầu. Cóc dẫn các bạn đi mãi, đi mãi đến tận cửa thiên đình. Khi đi trên đường cả bọn đều hăng hái nhưng đến trước cửa Trời oai nghiêm, bọn Cọp, Gấu, Cáo, Ong, Cua đều sợ, duy chỉ có Cóc là gan liền dõng dạc ra lệnh: - Bây giờ các anh phải nghe lời tôi. Kia là chum nước của Trời, anh Cua vào nấp trong ấy. Anh Cáo nấp ở phía bên trái tôi, anh Gấu nằm ở phía bên phải tôi, còn anh Cọp chịu khó nằm đằng sau tôi. Các anh có nghe lệnh của tôi thì mới thắng được Trời. Tất cả đều nghe lệnh của Cóc. Sắp đặt xong đâu đấy Cóc mới nhảy lên mặt trống trờ đánh ba hồi trống ầm vang như sấm động. Ngọc Hoàng liền sai Thiên lôi ra xem có chuyện gì. Thiên lôi ngạc nhiên vì ở ngoài cửa thiên đình chẳng thấy có một người nào cả chỉ thấy mỗi một con Cóc xù xì xấu xí đang ngồi chễm trệ trên mặt trống của nhà Trời. Thiên lôi bèn vào tâu Ngọc hoàng, Ngọc hoàng nghe xong bực lắm bèn sai con gà trời bay ra mổ chết chú Cóc hỗn xược kia. Gà trời vừa hung hăng bay ra thì Cóc đã nghiến răng ra hiệu, lập tức chàng Cáo nhảy ra cắn cổ gà tha đi mất. Cóc lại đánh trống lôi đình. Ngọc hoàng càng giận giữ sai Chó nhà trời xổ ra cắn Cáo. Chó vừa xồng xộc chạy ra thì Cóc lại nghiến răng ra hiệu. Lập tức anh Gấu lừng lững xổ ra đón đường tát cho chó một đòn trời giáng. Chó chết tươi. Cóc lại thúc trống lôi đình đánh thức Ngọc hoàng. Ngọc hoàng bèn sai Thiên lôi ra trị tội gấu. Thiên lôi là vị thần trời có lưỡi tầm sét mỗi lần vung lên thì thành sét đánh ngang trời, thành sấm động bốn cõi. Sức mạnh của Thiên lôi không có ai bì được. Ngọc hoàng yên trí lần này cử đến ông Thiên lôi ra quân thì cái đám Cóc, Cáo ắt hẳn là tan xác. Thiên lôi vừa hùng hổ vác búa tầm sét ra đến cửa thiên đình thì Cóc đã nghiến răng ra lệnh, lập tức đàn Ong nấp trên cánh cửa bay vù ra và cứ nhè vào mũi Thiên lôi mà đốt. Nọc ong đốt đau lắm, mũi Thiên lôi rát như phải bỏng. Nhớ là ở cửa trời có một chum nước. Thiên lôi vội vàng vứt cả búa tầm sét nhảy ùm vào chum nước chạy trốn. Nào ngờ vừa nhảy ùm vào trong chum nước thì anh Cua càng nấp trong đó từ bao giờ đã chờ sẵn để giương đôi càng như đôi gọng kìm cắp chặt lấy cổ. Thiên lôi đau quá gào thét vùng vẫy vỡ cả chum nước nhà Trời. Thiên lôi tìm đường chạy trốn thì Cóc tía lại nghiến răng ra lệnh. Lập tức Cọp nấp sau Cóc tía nhảy bổ ra gầm lên một tiếng vang động xé tan xác Thiên lôi thành hai mảnh. Ngọc hoàng thấy thế bèn xin giảng hoà với Cóc, và hỏi Cóc lên tận thiên đình có việc gì. Cóc dõng dạc thưa: - Ðã bốn năm nay ở dưới trần gian hạn hán kéo dài, không một giọt mưa. Muôn cây khô héo, vạn vật chết khát. Xin Ngọc hoàng làm mưa ngay để cứu muôn loài. Ngọc Hoàng sợ trần gian nổi loạn, dịu giọng nói: - Thôi, cậu hãy về đi. Ta sẽ cho mưa xuống! Lại còn dặn thêm: - Lần sau, hễ muốn mưa, cậu chỉ cần nghiến răng báo hiệu cho ta, không cần phải lên đây! Khi cóc về đến trần gian thì nước đã ngập cả ruộng đồng. Từ đó, hễ cóc nghiến răng là trời lại đổ mưa. Trong dân gian còn lưu truyền một câu đồng dao rằng: Con cóc là cậu ông trời Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/coc-kien-troi" }
Sự Tích bánh chưng bánh dày
Bấy giờ là thời kì trị vì của vua Hùng. Nhưng vì tuổi vua càng ngày càng già hơn, thời gian ngồi ngai vàng cũng đã đằng đẵng biết bao năm trời. Có thể thấy được sức khỏe của bản thân ngày càng suy yếu hơn trước, nhà vua muốn chọn lấy một người để nối ngôi của mình. Nhà vua có tất cả là hai mươi người con trai. Và họ đều đã khôn lớn cả rồi. Vua nghĩ bụng: – Nói về tài năng thì cũng nhiều đứa trội. Chính vì vậy nên ta phải lựa chọn thật cẩn thận mới được. Đặc biệt là phải làm sao cho bọn chúng không tranh giành với nhau. Đó chính là điều mà nhà vua quan tâm, lo lắng nhất. Sau cùng, may là nhờ viên quân hầu hiến kế, nhà vua liền ra quyết định sẽ mở cuộc thi, căn cứ vào kết quả để mà lựa chọn người thừa kế ngai vàng. Vua Hùng cho gọi tất cả hoàng tử đến. Khi mà mọi người đã tề tựu đông đủ thì nhà vua mới phán rằng: – Cha cũng biết mình sắp gần đất xa trời rồi. Nay cha muốn chọn một người trong số các con để truyền ngôi lại. Bây giờ các con, mỗi người hãy kiếm hoặc là tự làm lấy một món ăn để dâng lên cúng tổ tiên. Người nào có được món ăn ngon và vừa với ý ta nhất thì ta sẽ chọn người đó. Sau khi nghe xong lời vua cha nói thì đám hoàng tử lập tức đua nhau sai người đi đến khắp mọi nơi để mà tìm lấy thức ăn quý. Bọn họ hết lên ngàn rồi lại xuống biển, lần mò chẳng sót một nơi. Bất kể là nghe nói có thứ gì ngon, lạ thì họ sẽ cố gắng tìm cho ra. Trong số các hoàng tử thì có chàng hoàng tử thứ mười tám tên là Liêu. Từ khi còn nhỏ đã mồ côi mẹ, vì thế Liêu phải sống những ngày rất cô đơn cho đến tận khi trưởng thành. Trong khi anh em của chàng vội vã chạy đôn chạy đáo khắp nơi để tìm lấy những thứ của ngon vật lạ khắp nhân gian, thì chàng Liêu lại vẫn ung dung nằm khểnh tại nhà. Không phải là chàng không muốn đi tìm, mà là chẳng có người nào giúp đỡ. Từ nay đến ngày thi chỉ còn lại đúng ba ngày, nhưng chàng Liêu vẫn chưa chuẩn bị được thứ gì cả. Đêm hôm ấy, chàng Liêu vắt tay ngang trán rồi cố nhớ lại mấy bữa ăn ngon mà chàng từng được đến tham dự. Chàng cứ mải mê suy nghĩ mà ngủ quên từ lúc nào chẳng hay. Chàng mơ màng trông thấy mình và hai mươi mốt người anh em đang thi làm bánh cùng với nhau. Mỗi người đều có được một gian bếp nhỏ do nhà vua chuẩn bị sẵn. Liêu cũng chưa biết là nên làm việc gì đầu tiên, đột nhiên từ trên trời có một vị nữ thần bay xuống và giúp chàng. Nữ thần nói với chàng: – To lớn nhất thiên hạ chẳng gì sánh được với trời đất, mà quý báu nhất trên trần gian này chẳng gì bằng được gạo cả. Ta cũng đừng làm quá nhiều, chỉ cần làm đủ hai thứ bánh mang ý nghĩa nhất là được rồi. Hãy nhặt cho tôi chỗ nếp ấy, sau đó tìm cho tôi thêm ít đậu nữa. Và rồi Liêu trông thấy nữ thần cứ lần lượt lấy ra từng tàu lá xanh và rộng. Sau đó nữ thần vừa gói bánh lại vừa giảng giải cho chàng: – Bánh này là tượng trưng cho đất. Mà đất thì có cây, có núi rừng, có đồng ruộng nên màu phải xanh và hình dáng thì phải vuông vắn mới được. Trong bánh thì phải cho thịt, cho đỗ, ý nghĩa chính là đất có cỏ cây, có muông thú… Sau đó thì lấy nếp thơm kia đồ cho thật dẻo và giã ra để làm thứ bánh tượng trưng cho trời, có màu trắng, và hình dáng phải tròn mà khum khum như là vòm trời vậy… Đến khi tỉnh giấc, Liêu bắt tay vào làm hai món bánh mà nữ thần đã dạy chàng ở trong mộng. Cái ngày mà các hoàng tử đua nhau đem các món ăn về Phong Châu dự thi là ngày vô cùng náo nhiệt và đông vui ở đây. Người đến xem đông ngùn ngụt. Dân chúng ở khắp mọi miền đất nước đều đổ xô về để được tham dự cái Tết hiếm có này: mở đầu là cuộc thi về các món ăn giữa hai mươi hai vị hoàng tử, và kết thúc chính là lễ đăng quang ngai vàng của vị vua mới. Khi mặt trời vừa mọc, vua Hùng ngồi trên kiệu đi tới để làm lễ tế gia tiên. Nơi này cờ quạt, chiêng trống tưng bừng đến mức khiến mọi người đều cảm thấy nhức mắt rộn tai. Tất cả mọi người đều rất trông chờ, mong ngóng cho đến khi các giám khảo kia bình giá món ăn mà các hoàng tử dâng lên. Giờ phút mà mọi người mong đợi cuối cùng cũng đến. Nhưng tất cả chả phượng, nem công, gan tê, tay gấu… mà các vị hoàng tử khác dâng lên đều chẳng thể sánh với hai món bánh có vẻ quê mùa của chàng hoàng tử Liêu. Ban đầu lúc chàng dâng cỗ lên thì tất cả mọi người đều bĩu môi, lắc đầu, khuôn mặt ai cũng bày ra vẻ chê bai rõ rệt. Tuy nhiên, khi mà nếm xong thì thái độ của họ hoàn toàn thay đổi, không có bất cứ người nào lại không gật đầu mà tán thưởng cả. Ông Lạc tướng cũng phải xoa tay mà khen ngợi rằng: – Đây chính là hương vị khác thường mà lại được làm từ chính những thứ tầm thường nhất. Còn vua Hùng lại vô cùng ngạc nhiên khi nếm được miếng bánh lạ này. Nhà vua cũng ngắm nghía kĩ lưỡng tất cả những tấm bánh chưa được bóc khác. Sau đó thì vua cho gọi Liêu lên điện, rồi hỏi chàng về cách thức để làm ra những chiếc bánh này. Chàng thành thật tâu lên toàn bộ, kể cả giấc mộng hôm ấy nữa. Đến quá trưa ngày hôm ấy thì vua Hùng công bố kết quả cuộc thi với tất cả con trai của mình: hoàng tử thứ mười tám đã giành được giải nhất và cũng sẽ là người nối ngôi vua. Vua Hùng đem hai món bánh kia giơ lên cao cho tất cả mọi người cùng nhìn xem, vua cũng nói rõ hết căn cớ, lí do mà mình lựa chọn món ấy là món đứng đầu trong tất cả các mâm cỗ ngày hôm nay. Nhà vua phán: – Thứ bánh này chẳng những quý và ngon, nó còn mang rất nhiều ý nghĩa vô cùng đặc biệt nữa. Nó không chỉ bày tỏ được lòng hiếu thảo của con cái, tôn trọng kính yêu cha mẹ như là trời đất, mà nó còn chứa đựng tình thương yêu đối với ruộng đồng quê hương. Hơn nữa loại bánh này lại rất dễ làm, nó được làm từ những hạt ngọc quý giá nhất trong số những hạt ngọc trong trời đất này, mà tất cả những hạt ngọc này mọi người lại đều có thể tự làm ra được. Người có thể nghĩ ra được loại bánh này thì hẳn phải là người rất có tài… Kể từ đó trở về sau thì hằng năm mỗi khi Tết đến là mọi người lại theo tục lệ mà làm hai thứ bánh ấy, họ gọi đó là bánh chưng và bánh giầy để dâng lên thờ cúng cho gia tiên. Còn hoàng tử Liêu khi lên ngôi vua, lấy hiệu là Tiết Liêu Vương, là Hùng Vương đời thứ mười bảy. Nhưng vì cuộc thi ấy mà có không ít hoàng tử sinh ra lòng ghen ghét, ác cảm và đố kị với chàng Lang Liêu. Bởi vậy nên khi vua cha qua đời, người nào cũng giữ khư khư phần đất của mình. Sau đó họ còn làm hàng rào gỗ để rào xung quanh phần đất của mình làm kế cố thủ, cũng có ý muốn tranh giành cùng Tiết Liêu Vương.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-banh-chung-banh-day" }
Sự tích cây vú sữa
Ngày xưa, có một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, mẹ cậu ở nhà không biết cậu ở đâu nên buồn lắm. Ngày ngày mẹ ngồi trên bậc cửa ngóng cậu về. Một thời gian trôi qua mà cậu vẫn không về. Ví quá đau buồn và kiệt sức, mẹ cậu gục xuống. Không biết cậu đã đi bao lâu. Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ. - Phải rồi, khi mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, khi mình bị đứa khác bắt nạt, mẹ vẫn bênh mình, về với mẹ thôi. Cậu liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ: – Mẹ ơi, mẹ đi đâu rồi, con đói quá ! – Cậu bé gục xuống, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc. Kỳ lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh. Cây nghiêng cành, một quả to rơi vào tay cậu bé. Cậu bé cắn một miếng thật to. Chát quá Quả thứ hai rơi xuống. Cậu lột vỏ, cắn vào hạt quả. Cứng quá. Quả thứ ba rơi xuống. Cậu khẽ bóp quanh quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi khẽ nứt ra một kẽ nhỏ. Một dòng sữa trắng sóng sánh trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ. Cậu bé ghé môi hứng lấy dòng sữa ngọt ngào, thơm ngon như sữa mẹ. Cây rung rinh cành lá, thì thào : - Ăn trái ba lần mới biết trái ngon. Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ Cậu oà lên khóc. Mẹ đã không còn nữa. Cậu nhìn lên tán lá, lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu ôm lấy thân cây mà khóc, thân cây xù xì, thô ráp như đôi bàn tay làm lụng của mẹ. Nước mắt cậu rơi xuống gốc cây, Cây xòa cành ôm cậu, rung rinh cành lá như tay mẹ âu yếm vỗ về. Cậu kể cho mọi người nghe chuyện về người mẹ và nỗi ân hận của mình. Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-vu-sua" }
Thánh Gióng
Vào thời của vua Hùng Vương trước đây, ở một vùng nọ có người đàn bà tuổi cũng đã cao, nhưng vẫn phải sống lủi thủi một mình mãi. Một ngày nọ, khi trời mới tảng sáng, theo thường lệ bà lại đi lên thăm nương, vô tình bà nhìn thấy có một dấu chân to dẫm nát hết mấy luống cà của mình. Nhìn dấu chân này bà ngạc nhiên kêu lớn: – Chao ôi! Bàn chân của ai mà lại to thế nhỉ ? Tò mò nên bà đưa chân vào ướm thử dấu chân lạ kia, đột nhiên bà lại rùng mình một cái. Và kể từ ngày đó thì bà mang thai. Khi cái thai trong bụng đã đủ ngày đủ tháng thì bà sinh ra được một đứa bé trai kháu khỉnh, bụ bẫm, bà liền đặt tên cho nó là Gióng. Tuy nhiên, dù Gióng đã lên ba tuổi nhưng chẳng giống như những đứa trẻ khác, nó vẫn cứ nằm ngửa mà đòi ăn, chẳng biết ngồi mà cũng chẳng biết lẫy, hơn nữa nó cũng chẳng nói chẳng cười tiếng nào. Khi ấy là thời điểm bọn giặc Ân lũ lượt kéo vào để cướp nước của ta. Đám giặc Ân này vô cùng hung hãn và tàn ác, tên tướng cầm đầu tên là Ân vương, hắn có hình dung vô cùng cổ quái và dữ tợn. Chúng đi đến đâu thì lại đốt phá cửa nhà, còn giết người để cướp của khắp mọi nơi. Quân đội của Hùng Vương cũng không ít lần dẫn quân xuất trận, tuy nhiên sức yếu nên không thể nào đánh lại bọn giặc Ân hùng mạnh kia. Vua Hùng thấy tình hình không ổn thì vô cùng lo lắng, vì vậy vội vàng hạ lệnh cho sứ giả của mình đi khắp nơi trong nước mong có thể tìm được những bậc tướng tài ba để giúp nhà vua cứu lấy đất nước đang trên bờ lâm nguy. Vào một ngày kia, sứ giả tới làng của chú bé tên Gióng. Khi nghe thấy tiếng loa rao rằng nhà vua đang đi cầu người tài khắp nơi, mẹ của Gióng đang ru con liền đùa vui với con mình là: – Con ơi! Con trai ngoan của mẹ cứ mãi không đi không nói như vậy, biết đến bao giờ thì con mới có thể đi đuổi giặc giúp nhà vua đây! Không ngờ khi người mẹ vừa dứt lời thì Gióng lại đột nhiên mở miệng mà nói thành tiếng rằng: – Mẹ hãy đi gọi sứ giả vào nhà mình cho con! Nhưng khi nói xong thì Gióng lại im lặng. Người mẹ thấy vậy thì nửa mừng nửa sợ, vội vội vàng vàng đem chuyện lạ này kể lại cho xóm giềng xung quanh được biết. Thấy chuyện lạ xảy ra, tất cả mọi người đều đổ xô tới nhà của Gióng, ai cũng cho đây là một chuyện thần kì. Một người trong đám đông liền nói: – Ta cứ thử ra mời sứ giả tới để xem nó muốn làm cái gì nào. Vậy là mọi người lại chạy ra mời sứ giả tới, khi viên sứ giả ấy vào trong nhà và trông thấy Gióng thì lập tức hỏi: – Có phải mày chính là đứa bé tận ba tuổi mới học nói không? Mày mời ta đến đây có việc gì? Gióng chững chạc trả lời lại câu hỏi của viên sứ giả kia: – Hãy về báo lại với nhà vua cho người rèn một con ngựa sắt, làm một thanh gươm sắt, thêm một bộ áo giáp sắt, cùng với một chiếc nón sắt nữa, sau đó ta sẽ giúp đuổi đám giặc kia cho! Tất cả mọi người chứng kiến ở đó đều cảm thấy sự việc này hết sức lạ lùng và có phần thần kỳ nữa. Cho rằng đây là thần nhân hiện thân, viên sứ giả vội vã phi ngựa nước đại trở lại cung để bẩm báo lại toàn bộ sự việc cho nhà vua cùng quần thần được biết. Hùng Vương nghe sứ giả tâu rõ thì vô cùng vui mừng, lập tức hạ lệnh cho đám thợ rèn phải đem gom góp tất cả sắt lại để rèn ngựa sắt, gươm sắt, áo giáp sắt cùng với nón sắt đúng như lời dặn của chú bé kia. Những thứ đồ ấy khi rèn xong thì nặng không sao tả nổi. Hàng chục người cùng nhau bê thanh gươm sắt mà nó cũng chẳng chịu nhúc nhích một chút nào. Bởi vậy nên vua Hùng đành phải phái hàng ngàn quân lính của mình tìm đủ mọi cách để có thể chở đồ tới giao lại cho chú bé tên Gióng kia. Khi nghe tin có hàng toán quân lính cùng nhau khiêng những thứ đồ bằng sắt ấy tới làng, mẹ của Gióng vô cùng sợ hãi mà chạy thẳng về nhà nói với con trai: – Con ơi! Chuyện của nhà vua không phải là chuyện vui đùa đâu. Hiện nay quân lính người ta đang ầm ầm kéo nhau tới ngoài bãi rồi, chúng ta biết phải làm gì bây giờ? Nghe mẹ nói vậy, Gióng đột nhiên ngồi vụt dậy mà bảo: – Chuyện đánh giặc mẹ không cần lo lắng làm gì. Nhưng mà mẹ phải cho con ăn nhiều thì mới được! Người mẹ vội vã chạy đi thổi cơm để cho con trai ăn, nhưng bà nấu được nồi nào thì Gióng lại ăn hết ngay nồi ấy. Và mỗi lần ăn hết một nồi cơm mẹ nấu thì Gióng lớn được thêm một chút, cậu lại đòi ăn nữa. Người mẹ càng cho con ăn bao nhiêu thì Gióng lại càng lớn hơn được bấy nhiêu, cậu bé lớn nhanh như thổi, không bao lâu thì đã trở thành chàng trai trẻ tuổi khỏe mạnh. Khi trong nhà đã hết sạch gạo, người mẹ lại phải chạy đi khắp làng xóm để kêu gọi. Mọi người trong làng đều nô nức sắp gạo, đem khoai tới, còn có cả trâu, có cả rượu, cùng rất nhiều bánh trái, hoa quả,… chất đầy cả một sân rộng. Tuy nhiên, dù người dân trong làng có đưa đến bao nhiêu thì chàng Gióng lại ăn vơi đi bấy nhiêu, nhưng mà chàng vẫn tiếp tục đòi ăn thêm không ngừng nghỉ. Sau đó thì Gióng lại nói với mẹ mình là: – Mẹ hãy kiếm vải để may quần áo cho con mặc. Nghe chàng Gióng nói vậy thì tất cả mọi người lại cùng nhau đem tới không biết bao nhiêu là vải lụa để mà may quần áo mới cho chàng. Tuy nhiên thì thân thể của chàng lại lớn vụt một cách rất kỳ lạ, quần áo mới vừa may thì đã chật và ngắn ngay được, khiến mọi người cứ phải đem vải tới chắp vá thêm không ngừng. Chẳng mấy chốc mà đầu của chàng đã chạm tới được nóc nhà. Khi mọi người ở làng còn chưa hết ngạc nhiên thì đám quân lính cũng vừa lúc khiêng được đống ngựa sắt, gươm sắt, áo giáp sắt cùng nón sắt tới nơi. Gióng thấy thế liền bước ra ngoài, chàng vươn vai và người đột nhiên cao lớn sừng sững như một ngọn núi, chân chàng dài hơn trượng, chàng hét một tiếng nghe như tiếng sấm rền: – Ta chính là tướng của nhà Trời! Sau đó Gióng nhanh nhẹn đem áo giáp sắt mặc lên người, lấy nón sắt đội lên đầu, một tay cầm lấy gươm sắt mà múa vài vòng. Rồi chàng nói lời từ biệt với mẹ của mình cùng tất cả dân làng, sau cùng thì nhảy phắt lên con ngựa sắt. Con ngựa sắt đột nhiên chồm lên rồi phun thẳng về phía trước luồng lửa nóng đỏ rực. Chàng Gióng lấy chân thúc một cái, con ngựa lập tức phi như bay, nó sải những bước nhảy dài phải hàng chục con sào ghép lại, làm rung chuyển đất trời. Trong nháy mắt thì nó đã xông thẳng đến nơi giặc hạ trại, hàng loạt những khu trại rộng trải dài khắp mấy khu rừng. Chàng Gióng lập tức vung gươm trên tay như chớp giật. Đám giặc Ân xông vào bao nhiêu thì lại chết hết từng ấy. Rồi con ngựa sắt lại thét ra lửa làm cháy hết những đồn trại, rồi thiêu cháy luôn cả mấy cánh rừng kia nữa. Khói bụi bay mù mịt khắp trời, tiếng la hét khóc than vang trời. Tuy là bị thương vong rất nhiều nhưng tướng giặc Ân vương vẫn không ngừng gào thét ra lệnh cho quân đội tiến đến, Gióng càng đánh lại càng khỏe hơn, thây đám giặc Ân chất ngổn ngang khắp nơi trong rừng. Đột nhiên gươm sắt của chàng bị gãy. Nhưng chàng chẳng có chút bối rối, lập tức với tay nhổ lấy những bụi tre lớn ở hai bên đường mà quật túi bụi vào đám giặc đang bám trụ theo mệnh lệnh của chủ tướng. Nhưng bọn giặc Ân cũng chẳng cầm cự được bao lâu, sau đó bắt đầu tan rã, chạy tán loạn ở khắp nơi, còn tên tướng giặc Ân vương thì đã bị Gióng quật cho tan xác tự bao giờ. Đám tàn binh thấy tướng lĩnh đã chết thì vội vàng lạy lục để xin hàng. Đến lúc này thì quân đội Hùng Vương cùng tất cả dân làng nơi đây chỉ còn việc duy nhất là xông tới mà trói hết chúng lại mà thôi. Chưa đầy buổi mà Gióng đã có thể trừ được nạn nước. Khi ấy ngựa sắt của Gióng cũng đã tới chân ngọn núi Sóc Sơn. Khi đến nơi này, Gióng đem áo giáp sắt cùng nón sắt để lại, sau đó cưỡi theo ngựa sắt mà bay thẳng về trời. Sau khi nạn giặc ngoại xâm đã trừ, để tưởng nhớ công ơn của người anh hùng thì vua Hùng đã cho người xây dựng đền thờ chàng Gióng ngay tại quê hương của chàng, phong chàng thành Phù Đổng thiên vương. Cho đến tận ngày nay thì chúng ta vẫn còn có thể nhìn thấy được những vết tích sót lại là những dãy ao hình tròn cứ nối tiếp nhau từ Kim Anh, qua Đa Phúc rồi đến tận Sóc Sơn, cha ông ta nói rằng đó chính là dấu chân mà ngựa sắt của Thánh Gióng để lại. Còn khu rừng bị thiêu rụi bởi ngọn lửa của ngựa sắt thì ngày nay có tên gọi là làng Cháy. Và những đám tre mà Thánh Gióng đem nhổ nên để đánh giặc dính lửa nên từ màu xanh ngả hết thành màu vàng, hơn nữa còn có thêm lốm đốm những vết cháy, hiện nay vẫn còn giống ấy, người ta vẫn gọi nó là tre ngà (hoặc là tre đằng ngà).
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/thanh-giong" }
Sự tích con Dã Tràng
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn. Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột nằm im thim thíp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau có một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bò con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn mới, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng trong thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó, ông không thèm để ý đến hang rắn nữa. Chừng dăm ngày sau, một hôm, Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vườn tới gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói: - Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng vừa rồi nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe hiểu được mọi tiếng muông chim ở thế gian. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời. * Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, bỗng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này: - Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng chừa một tý gì. Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo lên om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã làm hại mình không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân liền cắp lấy mũi tên có đề tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục. Dã Tràng bị bắt bất ngờ hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cứ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng. Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh để vua phân xử. Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điệu đi. Dọc đường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện về nhau: - Nhanh lên! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả. Một con khác hỏi: - Của ai mang đến bỏ vương vãi thế nhỉ? Con nọ trả lời: - Của vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp nước bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên cương thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác, cho nên chúng mình tha hồ chén. Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính đến dẫn ông lên đường, Dã Tràng bảo họ: - Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn không nên bận tâm, mà giờ đây có một việc quốc gia trọng đại và cấp bách nữa, cần tính liệu gấp. Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan mình mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng vua Hiền Đế ở phương Bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng gạn hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình đoan rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên phóng thích cho ông. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngả để lấy tin. Chỉ nội ngày hôm sau, Dã Tràng đã được thả vì lời mách của ông quả đúng và vừa vặn để chuẩn bị đối phó với địch. Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng-hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân. Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất thương cảm. Thấy bữa ăn tối thiết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ: - Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường. Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay. Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái: - Mình ôi! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con: - Con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa. Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được. Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại. Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói: - Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này. Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn. Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tráng một viên ngọc và nói: Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển. Ngỗng lại nói tiếp: - Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn! Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về. Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần xuống nước. Thì lạ thay nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần thử xem thế nào. Hôm đó, Long vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình. Bộ hạ Long vương đi theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi một lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ. Gặp Long vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mắt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa! Vì thế, Long vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy. Cho đến lúc ông ra về, Long vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong ông nể mặt. Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ. Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi, Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội quá nên ông đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông không thể nào còn an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ viết để lại gài ở chỗ treo án. Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long vương thì sẽ được phong làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính cho cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ rõ đường lối đến cung điện của Long vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển để làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con dã tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển. Tục ngữ có câu: Dã tràng xe cát biển Đông, Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. Hay là: Công dã tràng hàng ngày xe cát, Sóng biểu dồn tan tác còn chi. Hay là: Con còng còng dại lắm không khôn, Luống công xe cát sóng dồn lại tan. Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó như ăn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-da-trang" }
Sự tích cái nốt dưới cổ con trâu
Ngày đó trâu cùng nói một thứ tiếng với người. Nhờ thế người dùng lời nói để sai khiến con vật theo ý muốn của mình rất tiện. Cũng như thế, những gã mục đồng đối với trâu không dám đánh đập tàn tệ hoặc cho ăn thiếu thốn vì sợ trâu mách chủ. Vào hồi đó có một người làm ruộng nuôi một con trâu cày, đồng thời cũng thuê một cậu bé để chăn con trâu ấy. Người và vật lúc đầu rất tương đắc. Nhưng sau rồi hai bên bất bình với nhau. Cậu bé này tính ham chơi, nhiều khi quên mất phận sự của mình làm cho trâu nhiều lúc chả được miếng gì vào bụng. Có bữa vì say mê một cuộc đánh khăng hay đánh đáo, nhưng lại sợ trâu ăn lúa, cậu ta đã cột trâu lại một nơi không cho ăn. Những lúc đó, để che mắt chủ, hắn dã dùng một mẹo là lấy mo cau áp một lớp vào bụng con vật, rồi trát đất bùn ra ngoài. Cứ như thế, hắn dắt trâu về chuồng. Chủ nhà nhìn thấy bụng trâu căng lớn tướng thì tỏ ý hài lòng mà không căn vặn gì nữa. Nhờ mẹo ấy, cậu ta đã lừa được chủ nhiều lần nhưng cũng nhiều lần làm cho trâu rất tức tối. Một hôm, cậu bé mải chơi quá. Hội khăng vui đáo để làm cho hắn quên mất cả. Nhưng trâu thì nhịn từ trưa cho đến chiều. Trâu gọi mãi, nhưng hắn ta nào có để ý đến. Buổi chiều hôm ấy trâu định mách chủ nhưng hắn khôn ngoan dùng lời lấp liếm không cho trâu có dịp mở miệng. Buổi sáng hôm sau, người chủ dắt trâu ta cày ruộng. Trâu cố làm ra bộ bước không muốn nổi. Chủ gắt: - Nào có đi mau lên không. Đồ lười? Trâu trả lời: - Không phải lười mà tại đói. Chủ hỏi tiếp: - Thế nào? Ngày nào mà thằng bé chả cho mày ăn một bụng no căng. Bấy giờ trâu mới vạch mặt: - Cưỡi trâu ra đánh khăng đánh đáo, cưỡi trâu về nói láo trâu no. No gì mà no: trong mo ngoài đất sét. Ỉa cái phẹt, hết no. Sự giả dối của cậu bé chăn trâu vì thế bại lộ. Ngay buổi trưa hôm đó người chủ vừa lột những cái mo đầy bùn dưới bụng trâu vừa đánh cho hắn một trận mê tơi. Hắn đau ê cả người. Nhưng trâu thì rất hả hê và từ hôm đó ngày nào cũng được ăn no lại được tắm rửa sạch sẽ. Qua mấy ngày sau, những chỗ bị đánh hãy còn sưng húp, cậu bé ngồi trên bờ ruộng giọt ngắn giọt dài. Trong khi đó trâu ung dung ăn cỏ. Bỗng dưng có một ông lão hiện ra sau lưng, hỏi cậu bé vì cớ gì mà khóc. Hắn chỉ vào trâu mà nói: - "Tại nó cả. Vì nó mách chủ...". Đoạn hắn kể cho ông nghe hết đầu đuôi. Ông lão nghe xong dỗ dành cậu bé và nói: - "Ta rất thương con gặp phải chuyện không may. Bây giờ con muốn gì ta sẽ làm cho con vui lòng". Hắn đáp: - "Vì nó biết nói làm cho con phải đòn. Bây giờ chỉ muốn làm thế nào cho nó không thể nói được nữa". Ông lão bảo: - Khó gì việc đó. Ta sẽ có phép làm cho con vừa ý". Ông lão bèn rút trong người ra một cây hương đốt lên thư phù vào trâu, rồi bất thình lình ông lấy cây hương đó dí vào dưới cổ con vật. Trâu cố giãy giụa nhưng không kịp. Trâu kêu lên oai oái khản cả cổ. Tiếng nói của trâu dần dần mất hẳn. Cuối cùng,lúc nào muốn nói, trâu chỉ còn phát ra có mỗi một riêng "nghé ọ... " mà thôi. Chỗ bị thương sau thành một cái sẹo như cái nốt ruồi, từ đó trâu không nói được nữa. Cả dòng dõi nhà trâu sinh ra cũng đều không biết nói và cũng đều mang cái nốt ở dưới cổ cho mãi đến ngày nay...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cai-not-duoi-co-con-trau" }
Sự tích cái chân sau con chó
Ngày xưa có một người đàn bà tên là Thanh Đề rất sùng đạo Phật. Bà ta sùng Phật đến nỗi cho rằng những cơm bánh do lúa gạo người ta trồng ra ở đồng ruộng thì không thể nào tinh khiết được, nên không một thứ nào đáng đem lễ Phật. Vì thế, hằng năm bà ta trồng lúa nếp trong những cái gáo dừa đựng đất sạch. Luôn luôn bà treo cái gáo đó lên một chỗ cao vì sợ có người bước qua. Khi lúa chín, bà thận trọng rứt từng hạt một, giã nó bằng một cán dao mới tinh, rồi mới đưa nắm gạo đó đựng vào bát thờ mà dâng lên chùa. Một hôm, ở một ngôi chùa lớn trong vùng có mở hội đón tiếp khách thập phương. Vị hòa thượng chùa ấy cắt đặt một số sư tiếp nhận những lễ vật của thiện nam tín nữ đem đến cúng Phật. Bà nghe tin không quản đường xa, vội đưa nắm gạo nếp tinh khiết của mình tìm đến cúng ở chùa đó. Không ngờ mấy vị sư kia chỉ chú ý đến lễ vật hậu hỹ của những người khác, mà chả ai tưởng đến bà và nắm gạo của bà. Chờ suốt một ngày không thấy ai nhận, người đàn bà nọ tức mình, ném nắm gạo xuống đất rồi bỏ ra về. Ít lâu sau, bà ta sửa một lễ cúng Phật tại nhà mình rồi mời hòa thượng và các sư chùa đó đến tụng kinh. Theo lệ thường, trước khi ra về chủ nhân phải làm bánh tặng họ ăn đường. Để làm nhục bọn sư bất lương, bà ta giết một con chó lấy thịt băm nhỏ với các thứ rau thơm làm nhân bánh. Sau bữa cơm chay, bà ta đem bánh do tặng mỗi người một chiếc. Đoán được mưu mẹo của người đàn bà, vị hòa thượng dặn các nhà sư cầm bánh về chứ đừng ăn. Họ đều vâng lời, duy chỉ có một nhà sư là quên mất. Dọc đường thấy bánh thom ngon, sư ta bèn bóc ăn kỳ hết. Những người khác khi đưa bánh về biết là nhân thịt chó đều quẳng cả vào gốc cây bồ đề ở trước chùa. Tất cả những việc đó đều thấu tai đức Phật. Trước hết, đức Phật trị tội bọn sư bất lương và tham lam. Bọn họ bị bắt xuống địa ngục. Con chó chết oan được sống lại. Nhưng vì nó đã bị nhà sư kia ăn mất một chân nên lúc trở về cõi thế chỉ còn có ba chân. Đức Phật thấy thế chắp cho nó một chân giả khác để nó tiện đi lại. Những thứ rau thơm làm nhân bánh bị vứt dưới gốc bồ đề cũng như phép Phật mọc lại xanh tốt. Đó là ba cây rau om, hành và sả. Vì những loại cây ấy bị nhà chùa coi là đã uế tạp cho nên sau này những người xuất gia đều kiêng không dùng. Vê phần người đàn bà cũng bị tội nặng: Phật bắt bà ta bỏ vào tầng ngục thứ mười. Có người bảo đó là bà mẹ ông Mục Liên, sau này ông ta từng xuống dưới đó thăm mẹ
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cai-chan-sau-con-cho" }
Sự tích con Chuồn Chuồn
Ngày ấy trong một khu rừng có cái đầm nước thật to, mỗi con vật được  phân công một việc. Riêng Chuồn Chuồn được mọi vật giao nhiệm vụ trông  coi thời tiết. Khốn nỗi, Chuồn Chuồn làm được chăng hay chớ, chẳng chăm  chỉ, đã vậy lại còn lười. Mọi vật lo nhất là chỗ trú thân. Hàng ngày Tò Vò cố kiếm đất để xây những tổ đất thật to. Ve Sầu thì đi tìm những hốc cây chắc chắn. Còn Kén Tằm thì cố sức nhả tơ làm những tổ kén dầy không  sợ gió bão…Trong khi ấy, Chuồn Chuồn vẫn mải rong chơi, không để ý làm  tổ. TòVò thấy vậy,. cũng đôi lần nhắc nhở Chuồn Chuồn: – Chuồn Chuồn ơi! Phải chú ý làm tổ thôi, chứ đến lúc có gió bão làm sao mà tránh. Chuồn Chuồn trả lời rất chủ quan: – Tò Vò có đôi cánh nhỏ, bay kém sợ gió bão  mới phải làm tổ. Chứ như tôi đây, cánh nhiều này, mắt nhìn rộng này, bay  khắp nơi được này…chẳng có gì phải sợ cả. Bão đến là tôi biết liền,  bay tránh chỗ khác vẫn còn kịp. Nói rồi, Chuồn Chuồn lại bay nhởn nhơ coi như không nghe thấy những lời khuyên của bạn bè. Khuyên mãi mà Chuồn Chuồn không nghe, các con vật xung  quanh đầm nước ấy không để ý đến Chuồn Chuồn nữa. Chúng đi tìm nhưng chỗ  trú ẩn tốt nhất phòng khi có bão đến. Vài hôm sau,  đúng vào cái buổi Chuồn Chuồn được phân công bay lên cao theo dõi gió,  mây có gì lạ để báo cho mọi vật biết thì Chuồn Chuồn lại cụp cánh ngủ mê  mệt dưới cánh hoa sen, sau một ngày rong chơi mê mải. Đúng thời khắc ấy, gió bão nổi lên. Bão lớn kéo đến thật bất ngờ, mây đen trên bầu trời cuồn  cuộn k1éo đến, chẳng mấy chốc cả bầu trời đen kịt. Gió thổi từng cơn,  từng cơn rồi ào ào như muốn quét tất cả mọi vật trên mặt đất. Mưa mỗi  lúc một nặng hạt, rồi sầm sập, sầm sập như thác đổ. May cho Tò Vò đã có  một cái tổ chắc chắn nên nó trú trong đó không hề hấn gì. Kén Tằm cũng  có một cái tổ to bám chắc vào một cành cây, nên mưa gió có lớn cũng  không làm cho cái tổ đó rơi xuống đất. Còn  Ve Sầu nằm rất yên ổn trong  một hốc cây lớn. Trong khi đó… Khổ thân cho  Chuồn Chuồn, khi gió bão đến,  nó vẫn còn ngủ không biết trời đất. Phải  mãi một lúc sau gió, mưa to quá, Chuồn Chuồn mới tỉnh ngủ. Quá hoảng sợ,  Chuồn Chuồn vội cất cánh bay lên tìm chỗ trú. Nhưng tìm ở đâu bây giờ ?  Khi những chỗ trú tốt nhất mọi con vật đã làm tổ, hơn nữa gió bão mịt  mù không tìm ra phương hướng, Chuồn Chuồn cứ bay loạng quạng, đôi cánh  của Chuồn Chuồn bị nước mưa đánh cho tơi tả. Cứ bay nữa thì chết, Chuồn  Chuồn ghé vội đậu lên một cành cây, cất tiếng cầu cứu: – Các bạn ơi!  Cứu tôi với…cứu tôi với… Đang nằm trong tổ tránh mưa, nghe thấy tiếng kêu cứu  của Chuồn Chuồn, Tò Vò bật dậy, nghĩ :“ Phải cứu bạn Chuồn Chuồn thôi!”.  Rồi Tò Vò vội bay ra khỏi tổ bất chấp lúc ấy trời đang mưa to, gió đang  thổi mạnh. Ve Sầu cũng nghe thấy tiếng kêu cứu của Chuồn Chuồn, nó thò  đầu ra khỏi hốc cây quan sát, thấy hành động dũng cảm của Tò Vò, Ve Sầu  cũng bay theo. Tò Vò và Ve Sầu dìu được Chuồn Chuồn  vào chỗ trú, làm những động tác hồi sức làm cho Chuồn Chuồn tỉnh lại.  Nhớ sự cứu giúp kịp thời của Ve Sầu và Tò Vò, Chuồn Chuồn đã qua được  tai nạn nguy khốn. Chuồn Chuồn nhìn hai bạn với sự hàm ơn, nói thật  lòng: – Các bạn đã vì mình mà không sợ nguy đến tính mạng. Mình biết ơn các bạn lắm. Ve Sầu nói : – Giá như mà bạn nghe lời chúng tôi, chịu khó  một tý, làm một cái tổ thật tốt thì đâu gặp phải chuyện như thế này. Chuồn Chuồn chớp chớp mắt có vẻ ân hận. Tò Vò nói giọng buồn buồn: – Cũng giá như …Chuồn Chuồn chịu khó quan sát thời tiết, dự báo trước được gió bão thì đâu đến nỗi… Đến lúc này Chuồn Chuồn mới thấm thía những sai lầm của  mình và hứa với tất cả sẽ không bao giờ mắc lại những sai lầm ấy nữa. Vì thế bây giờ chúng ta thấy Chuồn Chuồn rất chăm chỉ  việc dự báo thời tiết hết ngày này qua ngày khác, đến độ người ta phải  đặt thành câu ca dao: Chuồn Chuồn bay thấp thì mưa Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm Còn riêng việc tìm chỗ để làm tổ, Chuồn Chuồn không  làm được. Mọi chỗ tốt làm tổ không còn. Vì thế Chuồn Chuồn vẫn cứ đi  tìm. Cũng chính vì thế mà bây giờ các em thấy  Chuồn Chuồn không bao giờ đậu lâu được một chỗ, cứ đi tìm kiếm cả ngày,  lúc thì ở đầm sen, lúc lại ở bờ ao… Chuồn Chuồn còn đi tìm chỗ làm tổ cho mình vất vả lắm. Chẳng biết bao giờ mới có!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-chuon-chuon" }
Yết Kiêu
Ngày xưa có một người tên là Yết Kiêu ở làng Hạ-bì làm nghề đánh cá. Một hôm, ông ta đi dọc theo bờ biển về làng bỗng thấy trên bãi có hai con trâu đang ghì sừng húc nhau dưới bóng trăng khuya. Sẵn đòn ống, ông cầm xông lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng nó. Tự dưng hai con trâu chạy xuống biển rồi biến mất. Ông rất kinh ngạc đoán biết là trâu thần. Khi nhìn lại đòn ống thì thấy có mấy cái lông trâu dính vào đấy. Ông mừng quá bỏ vào miệng nuốt đi. Từ đó sức khỏe của Yết Kiêu vượt hẳn mọi người, không một ai dám đương địch. Đặc biệt là có tài lội nước. Mỗi lần ông lặn xuống biển bắt cá, người ta cứ tưởng như ông đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên. Hồi ấy có quân giặc ở nước ngoài sang cướp nước ta. Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn-ninh vây bọc, bắt tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới. Đi đến đâu, chúng cướp của giết người gây tang tóc khắp mọi vùng duyên hải. Chiến thuyền nhà vua ra đối địch bị giặc đánh đắm mất cả. Nhà vua rất lo sợ, sai rao trong thiên hạ ai có cách gì lui được giặc dữ sẽ phong cho quyền cao chức trọng. Yết Kiêu bèn tìm đến tâu vua rằng: - Tôi tuy tài hèn sức yếu nhưng cũng quyết cho lũ chúng nó vào bụng cá. Vua hỏi: - Nhà ngươi cần bao nhiêu người ? bao nhiêu thuyền bè? - Tâu bệ hạ - ông đáp - Chỉ một mình tôi cũng có thể đương được với chúng nó. Nhà vua mừng lắm, liền phong cho ông làm Đô thống cầm thủy quân đánh giặc. Ông đến Vạn-ninh cho quân sĩ nghỉ ngơi, chỉ bảo họ sắm cho mình một cái khoan, một cái búa. Đoạn, một mình ông lặn xuống đáy biển đi ra chỗ tàu giặc. Ông tìm đến đáy tàu vừa khoan, vừa đục. Ông làm rất lẹ và im lặng, tàu giặc cứ đắm hết chiếc này đến chiếc khác. Trong một hôm, chúng bị đắm luôn một lúc hơn hai mươi chiếc. Thấy thế, quân giặc hoảng loạn cả lên. Chúng sai những tên quân có tài bơi lặn lặn xuống nước do thám. Mấy tên quân đó tìm mãi mới thấy Yết Kiêu đang khoan một chiếc tàu. Bọn chúng xông lại nhưng chúng đâu có phải là địch thủ của ông, cho nên cuối cùng ông không để cho một đứa nào trở về. Quân giặc vô cùng sợ hãi. Mãi về sau tên tướng giặc đem một cái ống dòm thủy tinh có phép nhìn được thấu qua nước đến đáy biển. Chúng thấy ông đi lại thoăn thoắt như đi trên bộ. Chúng bèn đem cái vó bằng sắt nhân lúc ông đang mải đục một chiếc tàu, buông xuống chụp lấy ông. Nhờ thế chúng bắt sống được Yết Kiêu. Lập tức chúng tra khảo ông: - Trong nước mày những người lặn như mày có bao nhiêu người?. Ông bảo chúng: - Không kể những người đi lại dưới nước suốt 10 ngày không lên, còn như hạng ta thì một trăm chiếc tàu của chúng bay cũng không thể chở hết. Hiện giờ ở dưới đó hết lớp này xuống lại lớp kia lên không mấy khi vắng người. Nghe nói thế, bọn giặc kinh sợ cuối cùng chúng dỗ dành: - Mày muốn tốt phải đưa chúng tao đi bắt sẽ có hậu thưởng, bằng không thì sẽ giết chết. - Được, theo ta, ta chỉ cho! Quân giặc tưởng thật, bắt ông cùng với mười tên quân đem vó sắt ngồi trên thuyền nhỏ ra biển dò tìm. Thừa lúc chúng vô ý, ông nhảy tòm xuống nước trốn đi. Chúng nó trông nhau ngơ ngác. Bấy giờ quân giặc đã bị thiệt hại khá nặng, lại nghe Yết Kiêu nói nước Nam có nhiều người tài lặn nên cuối cùng chúng đành phải quay tàu trở về không dám quấy nhiễu nữa. Nhà vua mừng quá, khen ngợi Yết Kiêu vô cùng, phong ông làm đại vương. Sau khi ông mất, mọi người nhớ ơn lập đền thờ ở cửa Vạn-ninh và ở nhiều cửa biển khác..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/yet-kieu" }
Hồn trương ba da hàng thịt
Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cao. Nước cờ của anh chàng không mấy ai trong thiên hạ địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Trung-quốc. Buổi ấy ở Trung-quốc có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền xách khăn gói sang Nam tìm đến tận nhà tỉ thí. Hai người đọ tài nhau mấy ván liền không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo: - Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng đừng có hòng gỡ nổi. Bấy giờ Đế Thích là thần cờ đang ngồi trên thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Phút chốc bên Kỵ Như chuyển bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần, chàng chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: - "Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi". Đế Thích cười bảo: - "Ta nghe nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết". Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo: - "Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành. Vậy ta cho một nén hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống". Nói đoạn, cưỡi mây bay về trời. Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cỗ mời thần Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa. Thấy có nén nhang dắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương bèn xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: - Trương Ba đâu? Vợ Trương Ba sụt sùi: - Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi! - Chết nỗi, sao lúc mới tắt nghỉ không gọi ta xuống liền, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa. Suy nghĩ một chốc, Đế Thích lại hỏi thêm: - Trong xóm hiện nay có ai mới chết không? Vợ Trương Ba đáp: - Có một người hàng thịt mới chết tối hôm qua. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người hàng thịt rồi bảo nhỏ với chị: - "Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống lại". Nói xong thần hóa phép rồi trở về trời. Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vất tất cả mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó thì vợ con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng. Nhưng không những họ bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng họ cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau cuối cùng biến thành một cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan. Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận là chồng mình. Quan hỏi: - "Chồng chị ngày thường làm nghề gì?". Đáp: - "Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi". Quan lại hỏi vợ người hàng thịt: - "Chồng chị ngày thường làm nghề gì?". Đáp: - "Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn". Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỷ thí với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba. Vì thế mới có câu Hồn Trương Ba, da hàng thịt...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hon-truong-ba-da-hang-thit" }
Kẻ trộm dạy học trò
Ngày xưa có một tay ăn trộm lành nghề. Lão ta thấy mình tuổi già sức yếu nên muốn truyền cái bí kíp của lối sinh nhai "trèo tường khoét vách" cho một vài đồ đệ. Có nhiều người tới xin nhập môn, nhưng đối với ai lão cũng buộc một điều kiện là phải chịu một cuộc thử thách bằng cách đi "ăn sương" với lão một đêm để cho lão xem bản lĩnh sao rồi mới chịu dạy. Cách xã có một anh chàng tên là Được mang một mâm xôi gà tới xin theo học. Thấy hắn có vẻ khờ khạo, chậm chạp, lão ăn trộm không muốn nhận. Nhưng vì hắn cứ nài nỉ dữ quá nên lão bảo: - Thôi được! Tối nay con đến đây, chúng ta cùng đi một chuyến. Có thế nào sẽ hay. Tối hôm ấy thầy bảo trò nai nịt chỉnh tề rồi dẫn nhau sang thôn bên cạnh. Sau khi cắt giậu, hai bên lẻn vào một nhà nọ. Thầy ghé vào tai trò: - Đây là nhà một người đàn bà góa. Nhà nó buôn vải. Hôm nay chúng nó đi vắng cả, chỉ có một người con gái giữ nhà. Cái bọc vải để ở đầu giường, con tha hồ mà chọn. Thế rồi thầy khoét vách cho trò chui vào. Được quả tìm thấy chỗ cất vải. Nhưng giữa khi hắn đang sờ soạng để phân biệt giá trị từng tấm thì bỗng nghe thấy ở ngoài cổng kêu toáng lên: - Có trộm! Có trộm!. Hắn hết hồn, toan tìm đường tháo thân thì cô gái đã tỉnh dậy ôm chầm lấy hắn. Hắn chống cự lại nhưng cô gái đã kịp thời nắm lấy búi tóc của hắn vừa sổ ra, đồng thời kêu cứu rất dữ dội. Được bối rối không biết làm thế nào cả, đành mếu máo gọi thầy: - Thầy ơi! Nó nắm lấy tóc con rồi! - Con đừng sợ - tiếng lão ăn trộm trả lời - chỉ sợ nó nắm lấy mũi không cắt được, còn như nắm tóc, con cứ cắt phăng đi là thoát. Nghe nói thế cô gái vội buông tóc mà nắm lấy mũi. Nhưng cũng chính nhờ thế, Được đã giật ra được ngay, và hắn vùng thoát một cách dễ dàng. Bấy giờ, nghe tiếng kêu cứu, bốn phía đổ ra rất đông đuổi theo tên trộm. Trong lúc nguy cấp, Được không quản ngại gan góc chạy tuông vào một bụi tre bên vệ đường. Tuy bị gái tre cào rách cả da thịt nhưng Được yên tâm vì chẳng một ai tìm thấy mình cả. Khi yên lặng đã trở lại với hắn, hắn tìm lối ra nhưng bụi tre kín quá không tài nào lách mình được. Mấy lần hắn toan liều chui ra, nhưng thấy gai tre tua tủa đâm rất đau lại thụt trở vào. Cuối cùng hắn đành nằm chết dí trong đó suốt đêm. Tờ mờ sáng hôm sau hắn vẫn không dám chui ra. May làm sao bỗng thấy vợ thầy học đi chợ qua đó, hắn bèn ra hiệu cho vợ thấy lại gần rồi nói nhỏ nhờ về báo tin cho thầy biết để tím cách cứu mình một tý. Chẳng ngờ lão ăn trộm tới, đã chẳng giúp được hắn chút gì, lại còn đột ngột la làng mấy tiếng: - Ối làng nước! Có tên trộm trốn ở đây!. Thấy thế, Được không còn hồn vía nào nữa, chui nhào chui nháo ra khỏi bụi tre và lủi về nhà một mạch. * Người thứ hai thụ giáo với lão ăn trộm là một chàng thông minh lanh lợi tên là Lâu. Tuân theo đúng thể lệ của thầy, hắn vui lòng chịu trải qua một thử thách như những kẻ khác. Đêm ấy, hai thầy trò dắt nhau đến rình ở nhà một phú ông gần miền. Nhờ có tài nghệ của thầy nên mặc dầu nhà phú ông tường cao cửa kín, Lâu cũng lọt vào buồng một cách dễ dàng. Khi đã vào đến nới, Lâu thấy thầy cầm chiếc chìa khóa mở một cái rương sập rồi bảo mình chui vào: - Đấy! Đồ quý vật lạ của nhà nó đều để ở trong đó cả, con muốn chọn thứ gì thì chọn! Lâu nghe lời chui vào. Nhưng khi Lâu còn đang sờ soạng thì bỗng nhiên thầy đã đậy sập nắp rương lại. Hắn chưa hiểu thế nào thì đã nghe tiếng chìa khóa rút khỏi ổ và tiếng chân thầy lui gót. Không ngờ thầy lại thử mình một cách ngược đời như thế, Lâu điếng người, thầm nghĩ đến những hình phạt sẽ đón chờ mình chỉ vì ông thầy lập tâm chơi ác. Nhưng sau một lúc ngồi thừ trong rương, hắn bỗng nghĩ ra được một kế để thoát khỏi chốn nguy hiểm. Hắn bèn lấy một cái áo thụng mặc vào, trên đầu trùm một cái mũ quan viên che lấp cả mắt. thế rồi Lâu co chân đạp đùng đùng vào thành rương, vừa đạp vừa thét theo bộ điệu của con đồng bị thánh ốp: - Hỡi hỡi gia chủ! Mau mau dậy cho ta truyền bảo! Nghe tiếng động, cả nhà phúc ông hoảng hốt tỉnh dậy và chạy đến bên rương. Họ lấy làm kinh ngạc khi nghe trong đó có tiếng nói huyền bí thoát ra: - Ta là tài thần từ lâu nay đã làm cho chúng mày giàu có... Nay ta hiện về đây ban lộc cho chúng mày... Chúng mày hãy mở khóa rương đón ta ra... Phú ông chưa bao giờ lại thấy có sự lạ lùng như thế, vừa sợ vừa mừng, vội vái lấy vái để, khấn xin tài thần hãy lưu lại một chốc để mình bày cỗ bàn rước đi. Nói xong, một mặt hắn hối hả giục người giết lợn đồ xôi, một mặt cho con đi mời làng tới dự. Người ta đổ xô đến đông nghịt. Ai nấy đều hồi hộp chờ đợi, trong lúc cả nhà phú ông mỗi người một nén hương cầm tay hướng về phía rương mà vái lạy xì xụp. Và khi nắp rương vừa mở, thì anh chàng Lâu, khăn đỏ chùm kín mặt, nhảy phóc ra, thét với mọi người: - Hãy theo ta ra đình!. Đoạn hắn khoa chân múa tay rồi chạy một mạch ra khỏi cổng, có cả đoàn người theo sau với dáng điệu vô cùng kính cẩn. Đến đình làng, Lâu ung dung bước vào thượng điện rồi nhảy lên ngồi trên ngai thờ, mặt vẫn trùm khăn kín mít. Hắn phán: - Đặt cỗ xuống rồi lui ra ngoài sân. Đứa nào vào trong điện sẽ bị phạt hộc máu tức khắc! Nghe nói thế, mọi người chen nhau ra ngoài. Bấy giờ, trong đám đông có anh chàng Được lấy làm lạ cũng tìm đến xem. Nhưng khi nghe giọng nói tài thần thì hắn lấy làm ngờ, đoán chắc là bạn học của mình ở đây rồi, mới chạy vào để xem cho biết. Tuy mọi người can gián, nhưng Được không nghe, quyết vào cho được. Khi thấy rõ tài thần chẳng phải ai khác mà là Lâu, hắn cười hì hì, đòi chia phần. Lâu ra hiệu bảo im và nói: - Được rồi! Anh đừng làm ầm ỹ lên. Tôi thề rằng thế nào cũng chia cho anh một phần - Thề thế nào? - Anh thè lưỡi tôi liếm rồi tôi thè lưỡi anh liếm. Nếu kẻ nào làm sai thì trời chu đất diệt. Nhưng Được vừa kịp trèo lên bệ và thè lưỡi ra thì đã bị Lâu dùng răng cắn cho hắn một cái thật mạnh. Mọi người thấy hắn hốt hoảng từ trong điện chạy ra mồm nói ú ớ, máu trào đỏ ngầu thì lại càng bội phần sợ hãi, cho là thần rất thiêng, vội chạy tan tác mỗi người một nơi. Nhờ thế Lâu thừa cơ trốn về nhà vô sự...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ke-trom-day-hoc-tro" }
Sự tích cây cà phê
Ngày xưa, ở một vùng đất nọ nơi của những con sông và dòng thác gặp nhau có một buôn làng nhỏ sinh sống. Họ sống yên bình bên những nương ngô nương sắn xanh mướt núi rừng. Miền đất của những chàng trai thạo nghề săn bắn, những cô gái khéo tay dệt vải, mọi người sống gắn bó với nhau. Những đứa trẻ của buôn làng đêm đêm trong ngôi nhà Rông vẫn được người già kể cho nghe chuyện về những người con dũng cảm của buôn làng đã diệt trừ thú dữ đem lại cuộc sống ấm no cho mọi người. Mùa xuân khi những cánh hoa rừng bùng nở khắp nơi nơi, trong làn mưa xuân nhè nhẹ, tiếng chiêng, tiếng cồng nổi lên rộn rã báo hiệu mùa gieo hạt, mùa lễ hội bắt đầu. Ánh lửa trong ngôi nhà Rông không bao giờ tắt, ché rượu cần uống mãi không bao giờ cạn, mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa, ca hát cầu cho một vụ mùa tốt tươi, cái mưa cái nắng cứ đi nhưng đừng quên đường về để cho cái bắp thêm đầy hạt, cây lúa thêm nặng bông, thần sông thần suối hiền hòa, những loài thú dữ tránh xa buôn làng. Một ngày mới, khi những tia nắng ban mai rực rỡ chiếu xuống khu rừng còn đang chìm trong màn sương dày đặc, từ phía nhà Rông già làng đánh cồng gọi mọi người tới. Khi mọi người đã tập trung đông đủ trước nhà Rông, già làng cất tiếng. Ngày hôm nay buôn làng ta đón một tin vui, một đứa trẻ vừa mới được sinh ra, một thằng con trai. Đã là con trai của buôn làng này phải có thừa sự khôn ngoan và lòng dũng cảm. Có cái sức mạnh của con hùm, con gấu, cái dẻo dai của con rắn con trăn, đôi chân chạy xa như con hươu con nai, như thế mới xứng đáng là đứa con của buôn làng. Rồi mọi người cùng đi về phía đầu buôn, lễ tắm cho cậu bé được diễn ra bên cạnh ngọn thác đang ầm ầm chảy. Sau khi già làng cất tiếng mời thần sông thần núi về nhận mặt và che trở cho cậu bé, mọi người lần lượt tới xoa đầu và chúc cậu bé những lời chúc tốt lành. Trong vòng tay của người mẹ, cậu bé quẫy đạp rất hăng, nhìn cậu bé cứng cáp khỏe mạnh làn da nâu bóng, miệng rộng, đôi mắt sáng mọi người cùng nói. Đúng nó là đứa con của buôn làng này rồi, chẳng mấy chốc nó sẽ như cái lời già làng đã nói thôi. Cậu bé lớn lên khỏe mạnh như mọi đứa trẻ của buôn làng, lên ba tuổi cậu phải mồ côi cha. Được mọi người trong buôn làng giúp đỡ nên cuộc sống hai mẹ con cậu bớt khó khăn hơn. Lớn lên trong tình thương của mọi người cậu rất yêu quý buôn làng của mình. Thời gian thấm thoát trôi đi, chẳng bao lâu cậu đã trở thành một chàng trai khỏe mạnh, con chim sơn ca của núi rừng. Được già làng truyền cho rất nhiều kinh nghiệm đi săn. Tuy săn giỏi nhưng cậu không bao giờ làm hại những con vật hiền lành. Hươu nai trong rừng coi cậu như người bạn thân, chúng quẩn quanh chơi cùng cậu mỗi khi cậu vào rừng. Khi cậu cất lên tiếng hát thì con chim thôi không hót nữa, đán cá dưới khe cũng ngừng bơi, đàn Hoẵng phải dừng bước sợ sa xuống vực. Tiếng hát bay về làm mọi người trong buôn quên hết mệt mỏi sau một ngày lên nương vất vả. Một ngày kia khi cuộc sống yên bình đang diễn ra thì tai họa bất ngờ ập tới. Một buổi sớm khi những chàng trai còn đang gỡ bẫy trên rừng, những cô gái đang giặt vải bên suối, đám trẻ nô đùa trước nhà Rông thì bỗng một con chim lạ không biết từ đâu bay tới, đôi cánh của nó dang rộng che khuất cả bầu trời, nó bay tới đâu gió từ đôi cánh phát ra làm cây rừng nghiêng ngả tới đó, hai chân với những chiếc móng to và sắc như những lưỡi lao, từ trên cao nó ầm ầm lao xuống giữa buôn làng, trong phút chốc tiếng kêu thét vang dậy khắp nơi, nhiều ngôi nhà bị sập, biết bao người bị chim dữ bắt đi, vẻ hoảng loạn hiện trên khuân mặt mọi người. Gìa làng lệnh cho mọi người lánh vào rừng tránh chim dữ quay lại nhưng những chàng trai dũng cảm quyết ở lại, họ thề sẽ tiêu diệt chim dữ để bảo vệ buôn làng, vũ khí của họ là giáo mác cung tên được chuẩn bị sẵn, những chiếc bẫy lớn được giăng ra, những thân cây to được dựng lên khắp nơi. Sáng hôm sau chim dữ lại theo đường cũ mò đến, khi nó sà xuống giữa buôn làng bàn chân nó lập tức mắc vào chiếc bẫy lớn đã giăng sẵn, những mũi tên, ngọn lao từ mọi hướng vun vút lao tới, những thân cây to ầm ầm quật xuống người nó, bị thương chim dữ lồng lộn tức giận phá nát các ngôi nhà. Trước kẻ thù to lớn và hung dữ những chàng trai vẫn chiến đấu ngoan cường nhưng vũ khí của họ không hạ được chim dữ, rất nhiều người bị chim dữ giết và tha đi. Thấy chim dữ giết hại nhiều người, cuộc sống yên vui không còn nữa già làng phải dẫn mọi người đi tìm miền đất mới. Bỏ lại sau lưng mảnh đất đã gắn bó với họ bao đời buôn làng bước bào hành trình hiểm nguy đầy gian khổ, bao hiểm nguy chờ đợi họ phía trước. Đói khát, bệnh tật làm kiệt sức và quật ngã rất nhiều người trên đường đi. Họ đi mãi, đi mãi nhưng miền đất mới vẫn chưa hiện ra chỉ thấy rừng già âm u ngày càng dày đặc. Đêm xuống bên đống lửa xua đi cái lạnh tê người, mọi người dựa vào nhau trong giấc ngủ chập chờn bởi những loài thú dữ đang bủa vây xung quanh họ. Mái tóc của già làng đã bạc trắng, hai con mắt trũng sâu, hàng đêm già vẫn ngồi lặng im bên đống lửa canh cho mọi người và khi trời sáng lại dẫn đầu đoàn người lên đường. Nhưng rồi lương thực mang theo đã cạn dần, nỗi sợ hãi và tuyệt vọng bao trùm lên đoàn người. Thấy buôn làng thân yêu chịu bao khổ đau do chim dữ gây ra chàng trai quyết ra đi diệt trừ chim dữ để cứu buôn làng. Trước ý chí của chàng người mẹ chỉ biết gạt nước mắt, già làng ngồi trầm ngâm một lúc rồi nói: – Ta biết ý chí của con nhưng kẻ thù của con to lớn hơn con gấp ngàn lần, nó rất hung dữ, bao nhiêu người đã phải bỏ mình vì không có thứ gì để chống lại nó. Ta nghe người xưa truyền lại rằng trên đỉnh núi cao nhất và xa nhất kia, nơi đó quanh năm mây trắng bao phủ có một thứ sắt rất thiêng, những hôm nào trời sáng trời mới thấy ánh của nó lấp lánh, chỉ thứ sắt đó làm gươm thì mới chống lại được kẻ thù nhưng đường đi tới đó có rất nhiều nguy hiểm không phải ai cúng đến được, ý con thế nào? Chàng trai đáp. – Thưa già, ý con đã quyết dù có khó khăn đến mấy con cũng không ngại. Thế rồi từ biệt mẹ già và mọi người chàng trai ra đi theo hướng tay già chỉ, vượt qua những con sông cuồn cuộn , những dòng thác hung dữ, bàn chân chàng đi miết về phía mặt trời lặn. Rừng già dày đặc, gai nhọn xuyên qua da thịt, dây rừng níu bước chân chàng, những loài thú dữ theo dấu hơi tìm tới nhưng nhờ sự mưu trí tất cả không ngăn được bước chân chàng. Rồi một ngày bước chân chàng cũng bước lên đỉnh ngọn núi cao nhất. Trước mắt chàng sắt thiêng hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời, mọi đau đớn về thể xác dường như tan biến. Cầm sắt thiêng trên tay trong người chàng như có một luồng sức mạnh chảy qua, quãng đường về như ngắn lại. Cả buôn làng mừng vui đón chàng trai trở về, già làng nói trước mọi người. Buôn làng hãy xem đứa con thân yêu của chúng ta đã mang được sắt thiêng trở về, không loài thú nào có thể hại được nó, đó là nhờ thần sông, thần núi thương tình che trở cho nó mang được sắt thiêng này về, tất cả hãy đốt đống lửa kia to nữa lên để rèn gươm. Thế rồi mọi người cùng dồn sức vào để rèn gươm, họ làm việc ngày đêm không nghỉ, trong lòng mỗi người phấn khởi như đã diệt trừ được chim dữ. Ngày gươm thần làm xong, sau khi cầu thần sông, thần núi che trở cho chàng trai, già làng thay mặt buôn làng trao thanh gươm cho chàng trai. Trong tay chàng thanh gươm bỗng tỏa ánh sáng rực rỡ, cầm thanh gươm vung lên trong người chàng sục sôi ý chí tiêu diệt kẻ thù. Buôn làng góp những hạt gạo cuối cùng làm một nắm cơm thật to cho chàng trai mang theo. Qua bao ngày lặn lội theo hướng những cây rừng ngã đổ cuối cũng chàng trai cũng tới được nơi chim dữ ẩn náu. Đó là một vùng núi non vô cùng hiểm trở, chim dữ đang ngủ trong một hang sâu, tiếng thở ầm ầm của nó làm đất đá trước cửa hang cũng phải rung chuyển. Lòng căm giận trào dâng chàng trai xông đến trước cửa hang thét lớn. Tiếng thét làm chim dữ tỉnh giấc, ngửi thấy mùi thịt người nó ầm ầm từ trong hang lao ra. Trông thấy chỉ là một con người nhỏ bé đứng trước hang chim dữ xông tới, nó bổ chiếc mỏ khổng lồ của mình bổ xuống đầu chàng, như một con sóc chàng nhanh nhẹn tránh được đoạn lưỡi gươm trong tay chàng vung ra, một bên mỏ của chim dữ bị lưỡi gươm chém đứt. Chim dữ lồng lên tức giận, nó lao lên trên không dang hai cánh đập mạnh, luồng gió từ đôi cánh phát ra làm những tảng đá to ầm ầm lao vào người chàng trai. Không hề nao núng chàng trai vung thanh gươm lên, dưới đường gươm loang loáng những tảng đã vỡ vụn dưới chân chàng. Núng thế chim dữ lao vào tấn công bằng những chiếc móng sắc nhọn như những mũi lao. Cuộc chiến diễn ra hết sức quyết liệt, bầu trời tối sầm lại cả một vùng đất rộng lớn tan hoang, những con sông dòng thác sục sôi reo hò tiếp thêm sức mạnh cho chàng trai. Đã bảy ngày bảy đêm cuộc chiến giữa người và chim dữ chưa phân thắng bại, hai bên dần kiệt sức. Trên người chim dữ lúc này chỉ còn lại duy nhất một chiếc móng làm vũ khí, khắp thân thể chàng trai cũng đầy những vết thương, sang đến ngày thứ tám một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu chàng. Trong một lần chim dữ lao vào chàng trai đã dùng hết sức mình phóng lưỡi gươm về phía chim dữ, lưỡi gươm xé gió lao trúng ngực chim dữ, đó cũng là lúc chiếc móng sắc nhọn của chim dữ cùng thân nó đổ ập vào người chàng trai. Máu của chàng trai hòa lẫn máu của chim dữ chảy xuống đỏ cả dòng sông. Dòng sông sục sôi trào nước lên đỏ khắp cả một vùng rộng lớn. Khi buôn làng tới nơi không thấy chàng trai và thanh gươm đâu chỉ thấy xác chim dữ gục chết bên dòng sông đỏ ngầu cuồn cuộn. Đứng trước xác chim dữ già làng nói với mọi người. Hỡi buôn làng, đứa con thân yêu của buôn làng ta đã không còn nữa, nó đã hóa thân vào cỏ cây sông suối núi rừng này để đem đến cuộc sống bình yên cho chúng ta, buôn làng ta tự hào vì có người con dũng cảm, nó sẽ sống mãi trong lòng chúng ta, luôn bên cạnh chúng ta. Mỗi khi buôn làng gặp hiểm nguy nó sẽ luôn che trở cho chúng ta. Người mẹ của chàng trai rất đau buồn nhưng bà rất tự hào vì có người con dũng cảm đã tiếp nối truyền thống về những người con anh dũng của buôn làng, nó sẽ sống mãi trong lòng bà và mọi người. Từ đó buôn làng được sống một cuộc sống yên bình, một cuộc sống trên miền đất mới nơi chim dữ bị tiêu diệt. Nơi chàng trai và chim dữ ngã xuống mọc lên một cây lạ, cây đó lớn nhanh như thổi chẳng mấy chốc đã tỏa bóng xum xuê, hoa của nó nở trắng muốt cùng những chùm quả trĩu cành, khi ăn vào mọi người thấy như có một sức mạnh chảy qua. Miền đất đó chính là miền đất Tây Nguyên ngày nay còn cây lạ đó chính là cây cà phê, loài cây có sức sống mãnh liệt trên vùng đất đỏ này. Chính tại miền đất này đêm đêm trong ngôi nhà Rông những đứa trẻ của buôn làng vẫn được người già kể cho nghe về tấm gương của chàng trai và những người con anh dũng của buôn làng bên dãy Trường Sơn hùng vĩ...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-ca-phe" }
Sự tích công chúa Liễu Hạnh
Ngày xưa, ở trên thiên đình có cô con gái Ngọc Hoàng tên là Liễu Hạnh. Tính tình cô phóng túng ngang bướng, không chịu theo khuôn phép nhà trời. Ngọc Hoàng hết lòng dạy dỗ nhưng vô ích, cô chứng nào vẫn giữ tật ấy. Giận vì trong nhà có con gái hư không thể làm vì cho thiên hạ, Ngọc Hoàng quyết trị tội để cho con tu tỉnh. Nhân một lần Liễu Hạnh phạm lỗi, Ngọc Hoàng bèn đày nàng xuống trần trong ba năm. Sau khi xuống trần, Liễu Hạnh hóa thân thành một cô gái đẹp, dựng một cái quán ở chân núi đèo Ngang. Đây là nơi rừng núi vắng vẻ nhưng cũng là nơi con đường thiên lý từ Bắc vào Nam vắt qua, nên hàng ngày không bao giờ ngớt bộ hành đi lại. Từ xưa đến nay, vì sợ giặc cướp và thú dữ, không ai dám đến đó mở quán bán hàng. Vì vậy ngôi hàng độc nhất của Liễu Hạnh ngày nào cũng đông khách. Bất kỳ ai lên đèo xuống đèo, đã đi qua quán không thể không ghé lại nghỉ chân, huống gì trong quán lại có cô gái tuyệt sắc. Từ khi bị đày, Liễu Hạnh vẫn chưa bỏ được nết cũ, khinh mạn và trêu chọc mọi người. Cho nên, hễ ai vào quán ăn bánh uống nước rồi tiếp tục ra đi thì không sao. Nhưng hễ thấy chủ quán xinh đẹp mà giở thói cợt nhả, hoặc có ý cậy sức, cậy thế, cậy thần làm điều bất chính thì nàng quyết trị tội không tha: lúc trở về nếu không lăn ra chết cũng trở thành điên rồ ngây dại. Hồi ấy là thời vua Lê Thái Tổ trị vì thiên hạ. Tiếng đồn về một cô gái đẹp một mình mở quán ở đèo Ngang không mấy chốc lan truyền rất rộng. Khắp nơi bàn tán xôn xao. Người thì nói chủ quán là một cô gái võ nghệ hơn đời, mình nàng địch nổi trăm người một lúc. Kẻ thì cho cô là một ả giang hồ thành thạo, không những giỏi quyến rũ trai tơ mà còn làm nhiều nghề không lương thiện khác. Cũng có người cho cô là một nàng tiên xuống thử người phàm trần. Mỗi người nói một phách không biết thế nào mà tin. Nhưng tiếng đồn xa gần về cô chủ quán đèo Ngang cũng thu hút vô số chàng trai vô công rồi nghề từ làng quê đến kẻ chợ. Hoàng tử con vua Lê bấy giờ đang trẻ người non dạ, nghe tin ấy bụng cũng say mê. Hoàng tử muốn sai ngay quân lính đi bắt người con gái kia về, nhưng vốn biết tính vua cha rất nghiêm khắc, làm náo động cả một phương là chuyện không bao giờ nhà vua cho phép. Vả lại nghe nói người con gái ấy đã giỏi võ nghệ lại có nhiều phép thuật nên cũng ngần ngại. Sau cùng không ngăn nổi lòng ao ước và trí tò mò, một hôm, hoàng tử giấu vua cha và hoàng hậu, sắm sửa cáng xá hành lý, đóng vai một nhà quý tộc trẻ tuổi dẫn đoàn thị vệ cải trang ra đi. Sau hơn mười ngày đường, hoàng tử vượt qua sông Lam, rồi núi Nam-giới, và sắp bước chân lên đèo cao nhất. Từ trên đèo Ngang, Liễu Hạnh đã biết có hoàng tử đến tìm mình, lại cũng biết đó là một chàng trai tầm thường, không có bản lĩnh gì, nhưng lại kiêu căng, dật lạc. Để ngăn cản, nàng hóa phép thành một cây đào tiên mọc ở vệ đường, chỗ hoàng tử đang nghỉ chân; trên cây có một quả chín mọng rất đẹp mắt. Hoàng tử vừa chợt thấy quả đào đã thèm rỏ giãi, bèn không đợi sai lính hầu, vội trèo lên ngắt xuống toan ăn. Quả đào đang thơm ngát và ngon lành, bỗng đâu khi sắp bỏ vào miệng thì trở nên mềm nhũn trên tay hoàng tử, rồi thu nhỏ, cuối cùng mất biến không còn tý gì nữa. "Quả đào này có ma?". Bọn thị vệ kinh hãi la lên và khuyên hoàng tử hãy nên cẩn thận. Hoàng tử cũng cảm thấy rờn rợn. Nhưng vì vẫn không thể hiểu được ý nghĩa răn đe kín đáo của Liễu Hạnh, nên một chốc sau chàng lại giục phu cáng tiếp tục đi nhanh đến chân đèo. Khi giáp mặt Liễu Hạnh quả nhiên cả thầy lẫn tớ ai nấy đều thảng thốt sững sờ. Chưa bao giờ hoàng tử lại mê mẩn đến như thế. Người con gái này có nhan sắc kiều diễm đúng như lời đồn, trong cung đình vua cha dễ không có người nào sánh kịp. Hoàng tử bèn kín đáo hạ lệnh cho cả đoàn dừng chân ở quán, lân la hết ăn đến uống kéo dài đến tận chiều, rồi khi mặt trời gần lặn, bảo với chủ nhân: - Đường xa trời tối. Chúng ta muốn nghỉ lại ở đây một đêm. Chẳng hay nữ chủ nhân có bằng lòng không? Liễu Hạnh đã thừa rõ tâm tư của hoàng tử, bèn khước từ: - Thưa công tử, ở đây hàng quán chật chội, vả lại chỉ có mấy chị em là đàn bà con gái, công tử và các vị ở lại sợ không tiện. Cách đây nửa dặm về phía Đông có làng xóm. Các vị đến đó trú sẽ có sẵn nhà cửa và dân phu phục dịch. - Chúng ta chỉ cần nghỉ ở đây thôi! Nữ chủ nhân đừng lo. Chỉ cần một chỗ trong quán để căng màn là đủ. Ngoài ra xin hứa là không làm gì phiền đến nữ chủ nhân cả. - Nếu thế thì công tử cứ tùy tiện. Tối lại, mọi người ăn cơm xong sửa soạn đi ngủ. Những phu cáng và lính hầu trải chiếu nằm la liệt giữa sân. Riêng hoàng tử đã có hai thị vệ căng màn trướng ở trong quán. Trời mùa hè mát mẻ, trăng gió hữu tình. Dưới ánh đèn dầu, hoàng tử dựa cột trò chuyện với nữ chủ quán không rời. Liễu Hạnh vẫn chịu khó ngồi nán lại tiếp. Mỗi lời nói của nàng đều đẹp lòng khách làm cho hoàng tử càng thêm mê hồn. Chàng quên mất lời hứa, đánh rơi cả vẻ đạo mạo lúc mới tới và bắt đầu tả lơi. Liễu Hạnh cự tuyệt và chạy vào buồng. Trong cơn si mê, hoàng tử không cần gì thể diện nữa, bèn chạy theo vào. Có ngờ đâu chỉ trong nháy mắt, Liễu Hạnh đã biến hình, phi thân lên núi bắt một con khỉ cái về cho hóa thành một cô gái đẹp để đánh lừa hoàng tử. Không thấy chủ quán đâu nhưng thấy một cô gái khác trong buồng, hoàng tử liền cầm lấy tay dắt tới trước đèn. Nhìn thấy cô gái này cũng đẹp không kém gì cô chủ, hoàng tử liền giở trò suồng sã. Nhưng bỗng chốc hắn rú lên một cách dễ sợ làm cho bọn lính hầu đều tỉnh dậy. Trong tay hoàng tử không phải là một cô gái nõn nà nữa mà là một con khỉ cái lông lá đầy người. Bọn lính hầu xông lại. Vụt một cái, con khỉ lại biến thành một con rắn hổ mang hoa từ trên người hoàng tử vươn lên kèo nhà, há miệng phun lửa phì phì, rồi biến mất. Khi bọn lính hầu thắp được đèn lên thì hoàng tử đã ngã vật ra quán mê man, mặt cắt không còn giọt máu. Nửa đêm hôm đó người ta cắt ngựa trạm đưa hoàng tử về kinh. Về đến cung, hoàng tử trở nên mất trí, ai hỏi cũng không trả lời, chỉ cười nói một mình. Hoàng hậu và phi tần hết sức lo sợ. Một mặt, Hoàng hậu cho giấu kín chuyện "vi hành" khinh suất đó, mặt khác cho mời các bậc ngự y và thầy thuốc giỏi khắp kinh thành. Tuy nhiên, các danh sư được đón vào chữa chạy cho hoàng tử đều lắc đầu bó tay. Trong cung càng thêm bối rối hoảng hốt. Sau cùng, có người mách nên vào xứ Thanh xin bùa phép ở tám vị Kim Cang họa may mới khỏi. Lại kể chuyện một ngàn năm về trước, Phật bà Quan âm một hôm hiện ra ở biển Đông hóa phép thành hai cái túi: một nổi lên ở giữa biển, còn một, ở trên núi Ói làng An-đông xứ Thanh. Sau một thời kỳ lâu dài, hai cái túi nở ra hai đóa hoa, và từ trong mỗi đóa hoa hiện ra bốn vị tướng có phép biến hóa cực kỳ huyền diệu. Theo lệnh của Phật bà, tám vị tướng thân chinh đi tám phương đánh dẹp tà ma quỷ quái đang hoành hành quấy nhiễu. Dẹp xong, Phật bà gọi họ về ở lại chỗ cũ. Người ta quen gọi là Bát bộ Kim Cang. Lập tức bọn thị vệ được lệnh vua vào Thanh-hóa để xin bùa phép của tám vị Kim Cang. Nhờ có bùa phép, hoàng tử dần dần khỏi bệnh. Sau khi bình phục, hoàng tử cúi đầu nhận tội với vua cha, kể lại cho vua nghe tất cả câu chuyện gặp gỡ giữa mình với nữ chủ quán ở đèo Ngang. Vua Thái Tổ hết sức giận dữ, vì hoàng tử đã dám khinh thường lệnh vua, bỏ phủ đi chơi, hãm mình vào cảnh thân tàn ma dại, nên xuống chiếu cất ngôi hoàng tử mà lập con thứ lên thay. Nhưng vua còn hết sức giận dữ vì ở trên bờ cõi mình trị vì lại có một người con gái dám khinh nhờn phép nước. Vua bèn ban lệnh hỏi quan trấn thủ xứ Nghệ về lai lịch nữ chủ quán đèo Ngang. Sau một thời gian cho người cất công dò la, quan trấn thủ mới gửi sớ về tâu bày, trong sớ nói đó là một nữ yêu không biết từ đâu đến, hay bắt hồn đàn ông con trai, nếu không có phép cả tài cao thì khó lòng khuất phục. Vua lại lệnh cho với các pháp sư phù thủy cao tay đi trừ yêu. Nhưng chẳng bao lâu họ đã trở về triều xin chịu tội vì chẳng những không trị nổi yêu mà mọi phép giở ra đều bị Liễu Hạnh thu mất cả. Vua lại đành phải cầu cứu tám vị Kim Cang. Nhận lời vua, tám vị phi thân vào đèo Ngang. Được tin chẳng lành, Liễu Hạnh ra ứng chiến. Cuộc chiến đấu dần dần trở lên dữ dội. Mới đầu Tám vị Kim Cang làm một trận bão lớn, mưa dồn gió giật khủng khiếp, cây đổ khắp lượt, nước tràn vào vây lấy đèo Ngang. Liễu Hạnh cũng hóa phép chống lại. Nàng làm cho cây rừng đã đổ lại đứng dậy cùng với đất đá bay rào rào vào kẻ thù. Thấy Liễu Hạnh pháp thuật cao cường, tám vị Kim Cang lại hóa phép thành thú dữ tập hợp nhe nanh múa vuốt xông vào hàng đàn toan xé cắn, nhưng Liễu Hạnh đã kịp thời bay lên không trung, rồi dùng phép tiêu diệt hết bầy mãnh thú. Trận đánh diễn ra ba ngày ba đêm. Đèo Ngang trở thành một bãi chiến trường rùng rợn. Mọi phép thuật của hai bên lần lượt giở ra mà chưa phân thắng phụ. Về sau tám vị Kim Cang biết mình bất lực, bèn bay lên trời cầu khẩn Phật bà. Phật bà ném cho họ một cái túi. Nhờ đó nên cuối cùng Liễu Hạnh sa vào túi của Phật bà. Tám vị Kim Cang mang túi về kinh báo tiệp. Vua lập tức ra sân điện tra hỏi. - Ngươi là ai? - Tâu bệ hạ, là con gái Ngọc Hoàng bị đày xuống cõi trần, lấy vùng đèo Ngang làm nơi trú ngụ. - Là con Ngọc Hoàng sao lại phá phách dân sự và làm hại hoàng tử con ta? - Việc trừng trị bọn con trai chòng ghẹo nhi nữ, ăn hiếp người cô đơn là tuân theo phép nước, không phải phạm phép nước. Thấy Liễu Hạnh nói là con Ngọc Hoàng, lại thấy nàng đối đáp khôn ngoan, vua đổi giận làm vui. Cho nên sau cuộc thẩm vấn, vua hạ lệnh tha bổng, chỉ khuyên nàng đừng gây náo động và tàn hại dân lành. Ít lâu sau Liễu Hạnh sinh một đứa con trai, mỗi bàn tay có sáu ngón, nàng mang con đến ngôi chùa trên núi Hồng-lĩnh gửi cho một nhà sư nuôi dạy, dặn nhà sư hãy giúp cho con mình được lừng danh trong nước. Rồi đó, đủ ba năm. Liễu Hạnh trở về trời. Nhưng không bao lâu Liễu Hạnh lại bị Ngọc Hoàng đày xuống trần một lần nữa. Lần này Liễu Hạnh đến đèo Ba-dội cũng là nơi vắng vẻ, rồi dựng lên ở đây một cái lầu ba tầng, bốn bên có thành bao bọc. Trong thành có vườn, đủ các thứ hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn tập hợp đủ các giống chim. Cạnh vườn có ao, thả đủ các giống cá. Hàng ngày nàng sai mở cửa cho khách bộ hành đi qua về lại được tự do vào nghỉ chân và nhìn ngắm. Ở đây có quán xá, và cũng như lần trước, Liễu Hạnh thường hóa mình cô gái bán hoa quả, quà bánh, trầu nước và đồ chơi. Ai ăn uống mua bán rồi đi thì không sao, nếu giở chuyện trộm cướp trăng hoa, lập tức bị nàng trừng trị. Ở được mấy năm, Liễu Hạnh lại sinh một con trai thứ hai. Đứa bé thiếu mất ở mỗi bàn tay một ngón. Nàng đem con gửi cho một sư nữ ở chùa Bà-đỏ, bảo sư rằng: - Ta hai lần xuống trần đẻ được hai đứa con, cũng định cho chúng trở thành vương giả nhưng không đạt, vì một đứa quá thừa, một đứa lại quá thiếu. Hãy làm cho nó được nổi tiếng, ít nhất cũng trở thành Trạng. Rồi đó, hết hạn ở trần. Liễu Hạnh đốt tất cả lâu đài mà trở về trời. Những đứa con của Liễu Hạnh về sau quả nhiên nổi tiếng, trong đó có một đứa tên là Trạng Quỳnh. Chỗ di tích ngôi đền của Liễu Hạnh xây lên ở xứ Thanh và ở xứ Nghệ, người ta dựng thành đền thờ trên núi. Không một ai dám động đến một vật gì ở các ngôi đền này cả, vì sợ Liễu Hạnh báo thù.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cong-chua-lieu-hanh" }
Chàng Lía
Ngày xưa có một nhà nông phu nghèo ở Gò Sặt, tỉnh Bình-định có một đứa con trai tên là Lía. Từ thuở lọt lòng, Lía đã mồ côi cha nhưng chóng lớn và khỏe mạnh. Năm lên bảy, một mình Lía có thể hạ bọn trẻ cùng lứa tuổi trong những keo vật. Một vài năm sau tất cả những đứa trẻ trong vùng đó đều sợ Lía. Một hôm, Lía đấu võ với một đứa lớn tuổi. Lía dồn địch thủ vào một thế rất nguy hiểm làm cho nó hốt quá phải van lên: - Tôi lạy anh, anh tha cho, tôi xin gọi anh là vua! Từ đó cái tên "Vua Lía" được bọn trẻ hay dùng. Chúng nó ngày ngày làm kiệu khênh Lía đi khắp nơi. Một người hàng xóm mách tin đó cho mẹ Lía biết và nói: - Chao ôi! Bà liệu chừng cái đầu của mẹ con bà đó! Mẹ Lía đâm hoảng: - Chết tôi! Lạy Trời cho nó đừng sinh nguy. - Bà cho nó đi học đi. Đem gửi nó cho ông đồ, ông ấy kèm cho! Từ đó, Lía phải đi học. Ông đồ tuy dữ đòn nhưng Lía không sợ. Chàng thích học võ hơn là học chữ. Chàng thường lén thầy ra vườn, đi những bài quyền học lỏm được của người khác. Mấy luống rau của ông đồ chả còn có cây nào mọc được. Một hôm, giữa lúc bị thầy nọc cổ xuống đánh, Lía lấy roi bẻ vụn từng khúc. Ông đồ nhìn Lía tặc lưỡi. Ngày hôm đó ông dắt đứa học trò cứng đầu ấy đến trả cho mẹ nó. Lía khoái chí vì ngày ngày khỏi phải ê a chán ngắt. Chàng lại cầm đầu bọn trẻ đùa nghịch như xưa. Một hôm, Lía chọn mấy đứa lớn khỏe, cùng mình lên núi vắng đón những người lạ mặt đi chợ về cướp lấy gánh gồng tay nải. Được thứ gì, Lía thường chia cho anh em cùng hưởng. Người ta lại mách cho mẹ Lía biết. Lần này mẹ Lía hết đánh con đến van vái con. Lía thề xin chừa. Chàng rất thương mẹ, không muốn để mẹ cực khổ về mình. Nhưng rồi chứng nào vẫn giữ tật ấy. Cuối cùng thì mẹ Lía bắt Lía đi ở chăn trâu cho một nhà giàu ở một làng khác thật xa. Ở đây Lía lại có bạn mới. Mỗi ngày chàng và bạn phải lùa đàn trâu lên núi cao cho ăn. Sau những cuộc đua chọi bằng đánh cù đánh vật, bọn trẻ ở đây tôn Lía làm đàn anh. Dần dần chàng cùng bọn chúng đón đường cướp giật tay nải của những người bộ hành đi lẻ tẻ trên những con đường vắng vẻ. Một hôm, Lía hứa với bạn ngày mai sẽ đãi tiệc. Chúng chỉ phải chuẩn bị dao nồi và mắm muối. Hôm sau, khi chúng tập hợp đầy đủ, Lía bảo: - "Chúng mình làm thịt nghé ăn chơi!". Chúng nói - "Không sợ chủ nó bắt đền à?" - "Cứ ăn ngay con nghé của chủ tao, tội vạ tao chịu". Nói rồi giết ngay con nghé tơ xẻ thịt nấu ăn. Chàng bảo chúng: - Về nhà cứ nói hộ tao rằng cọp tha mất nghé là đủ. Lần ấy qủa có "động rừng" cho nên mưu của Lía đắt. Người nhà giàu tìm nghé mãi không được, tin là bị hổ vồ nên không căn vặn gì lắm. Được ăn quen mùi, chúng giở mưu đó làm đi làm lại hết nghé chủ này đến bò nhà khác. Cuối cùng bọn chủ biết được. Chúng bắt đền cha mẹ bọn trẻ. Người ta hay chuyện, ai cũng giận Lía, toan bắt giải quan. Nghe tin không hay, Lía bỏ trốn biệt. Khi bước về nhà, Lía thấy mẹ đang nằm trên giường bệnh rên khừ khừ. Chàng lại dùng lối cướp giật kiếm tiền mua thuốc. Được của ngon vật lạ, Lía đều đưa cho mẹ ăn. Mẹ hỏi: - "Mày lấy ở đâu ra thế?". Lía nhất định không nói, chỉ năn nỉ mẹ ăn cho là đủ. Sau khi mẹ chết, Lía không có kiêng nể một ai nữa. Đói thì đi cướp giật để ăn, siêng thì ra đồng luyện võ nghệ. Một hôm, Lía giật cái thúng trong đó có mấy quan tiền của người qua đường. Thấy người ấy òa khóc, chàng gạn hỏi mới biết là anh ta vừa bị một tên chánh tổng cướp đoạt gia sản nay bị đuổi ra khỏi nhà, lưng vốn chỉ còn có bấy nhiêu. Nghe kể chuyện, Lía bừng bừng nổi giận. Mặc dầu bụng đói, chàng trả tiền cho người lạ rồi dò hỏi tìm đến đánh vỡ đầu tên chánh tổng. Quan trên vì việc ấy sai một toán lính về bắt Lía. Nhưng khi về đến làng, bạn của chàng đã tin trước cho chàng đi trốn. Lía không có họ hàng thân thích nên khi bỏ nhà ra đi, chàng không có chỗ ở nhất định. Tối lại ngủ chùa ngủ đình, đói ở đâu thì cướp ở đó. Một hôm đi qua truông Mây, Lía thấy một bọn cướp chặn đường đòi tiền mãi lộ. Chàng vờ sợ hãi đưa tay nải ra. Nhưng bọn cướp vừa xông lại liền bị chàng cho mỗi đứa một đá văng ra bốn phía. Cả bọn cướp ở trên núi kéo xuống bổ vây nhưng bị Lía nhổ cây làm gậy đánh cho thất điên bát đảo. Chủ trại thấy võ nghệ chàng tuyệt trần bèn mời chàng nhập bọn. Lía vui lòng dừng chân lại đây để chấm dứt cuộc đời lang thang. Ba người chủ trại tên là Hổ, Nhẫn và Chân có tiếng võ nghệ cao cường không ai địch nổi. Trong mấy năm họ đóng ở truông Mây mọi người đều sợ. Cả đến quan tỉnh quan huyện cũng đều kiềng mặt. Người ta gọi tôn là "cha Hổ, chú Nhẫn, mẹ Chân". Từ lúc Lía nhập bọn, bọn cướp truông Mây càng thêm vây cánh và càng lộng hơn trước. Một hôm, bọn họ kéo nhau ra Bồng-sơn cướp một tiệm buôn lấy được của cải và hàng hóa bộn bề. Trở về trại, họ mở tiệc ăn mừng. Khi chia những của cướp được, bọn cha Hổ toan chiếm lấy phần nhất. Nhưng Lía nhất định không chịu: - "Nếu không có tôi - chàng nói - thì các chú đã dám vào nhà chưa?". Rồi Lía đòi ba chủ trại hãy ra sân cùng mình tỉ thí. Quả nhiên, trong cuộc đọ sức, sức khỏe và võ nghệ của Lía mười phần, bọn cha Hổ không được một. Thấy Lía toàn tài, cả trại đồng thanh tôn chàng làm chủ. Từ ngày Lía làm tướng, hành động của bọn cướp truông Mây có phần thay đổi. Lía cấm lâu la không được cướp giật của những người qua lại, không được cướp của cải của người nghèo: - "Đã cướp -  chàng nói - chúng ta làm những mẻ cho to, gõ vào đầu bọn trọc phú, cần gì đi vét hầu bao của những kẻ khố rách?". Thường khi cướp được nhiều của, Lía bắt trích một nửa phân phát cho những người nghèo trong vùng. Chẳng những thế, mỗi lần trong tỉnh xảy ra chuyện gì mà Lía cho là trái lệ, chàng liền kéo bọn truông Mây đến can thiệp. Từ đó cái tên truông Mây, cái tên Lía được dân nghèo ca tụng. Trái lại, bọn quan lại, bọn nhà giàu trong tỉnh thì sợ mất mặt. Quan tỉnh nhiều phen phái quân đến tiễu trừ nhưng mỗi lần xuất quân đều bị họ biết trước và bị đánh cho tan tác. Bọn quan tỉnh không làm thế nào được, muốn báo về triều đình, nhưng lại sợ tội trút lên đầu nên đành để mặc Lía và thủ hạ tung hoành. * Ít lâu sau, nghe vua mở khoa thi võ, Lía có ý muốn người trổ tài với thiên hạ, lập chút công danh. Bọn cha Hổ không cản được, đành ở lại giữ trại cho Lía cải trang ra đi. Khoa ấy ở trường Bình-định có một viên chánh chủ khảo ăn tiền như rác. Thí sinh ai có lo lót ít nhiều, hắn mới chịu nhận đơn. Thấy Lía nạp đơn không có "vi thiềng", chánh chủ khảo đập bàn quát: - "Mày là thằng nào mà không biết lệ trường thi. Đơn từ làm dốt nát thế này. Lính đâu, đuổi cổ thằng này không cho thi nữa". Nghe mấy lời đó. Lía căm tức vô hạn, nhưng giữa nơi quân lính đông đảo, gươm giáo sáng lóe, chàng đành nuốt giận không dám ra tay. Chàng đi gấp về sơn trại kể việc đó cho bọn cha Hổ nghe và nhất định đem lâu la xuống núi rửa hờn. Cả bọn cải trang rất khéo và hoạt động rất kín đáo. Chỉ vào khoảng nửa đêm, quân của Lía đã lọt vào thành và phục sẵn, chờ lệnh Lía là hành sự. Chánh chủ khảo đang ngon giấc với nàng hầu thì bị một nhát dao vào cổ. Vợ hắn chỉ còn biết dập đầu van lạy. Thấy nàng đẹp, Lía bắt luôn đưa về sơn trại làm vợ. Mọi việc quá êm lẹ nên mãi đến gần sáng quan quân mới biết. Suốt tỉnh náo động. Sau cùng dò la mãi người ta mới biết rằng bọn cướp truông Mây gây ra việc đó. Lần này không thể giấu được triều đình, bọn quan lính phải làm sớ tâu vua và xin thêm quân để tảo trừ. Bên phía quân truông Mây cũng lo đắp đồn luyện quân để phòng thủ sơn trại. Vì thế quân đội triều đình mấy lần xông xáo đều bị thất bại. Các quan ai cũng lấy làm lo. Nếu không lập mưu diệt Lía thì bọn họ không thể nào còn ngồi ấm chỗ. Nghĩ rằng nếu dỗ được vợ Lía làm nội ứng hắn rất có lợi, các quan đầu tỉnh bàn nhau sai ba tên lính giả làm lái buôn lụa để dò bụng nàng. Ba tên này nhờ lo lót với bọn canh cửa nên lọt qua truông Mây vào bán hàng cho vợ Lía để dò ý. Giữa khi giở các súc gấm vóc cho vợ Lía xem, bọn chúng cố ý để lộ cho nàng thấy một chiếc nhẫn của chánh chủ khảo để lại. Người đàn bà hiểu ý, sai đuổi kẻ hầu ra ngoài. Bọn chúng đưa mắt cho nàng và nói nhỏ: -"Chúng tôi lặn lội lên đây là vì mối thù của bà lớn". Đoạn chúng móc trong tầng áo lót, đưa ra một phong thư của quan tỉnh hứa với nàng nếu làm nội ứng trừ được giặc, sẽ có trọng thưởng. Vợ Lía nhận lời và hẹn ngày thi hành kế độc. Đến ngày ấy, vợ Lía sắm sửa một tiệc rượu rất linh đình mời bọn cha Hổ, chú Nhẫn, mẹ Chân đến dự, nói là ăn giỗ mẹ. Nàng ăn mặc rất đẹp, liếc mắt đưa tình và chuốc chén mời mọi người. Bọn Lía không ngờ là độc kế, cứ uống tràn. Rượu đã có tẩm thuốc mê nên chưa tan tiệc mà bốn chủ trại đã say khướt, không còn biết gì trời đất. Vợ Lía cho bọn lâu la hạ tiệc xuống, ra sau trại ăn uống cùng nhau. Còn lại một mình, nàng lấy thừng lớn trói bọn cha Hổ với nhau làm một đống. Về phần Lía, biết chàng có sức khỏe phi thường nên nàng dùng mười lớp dây thừng buộc chặt vào tấm phản. Xong đâu đó, nàng cho người tâm phúc ra khỏi sơn trại báo tin. Nghe báo, quân triều đình lập tức tiến công. Quân truông Mây không có tướng nên tan vỡ rất chóng. Quân triều đình kéo ùa vào trại như vào chỗ không người. Bấy giờ Lía đã hơi tỉnh. Thấy nguy biến, chàng định vùng dậy chạy, nhưng toàn thân mắc cứng vào tấm phản. Biết là đã rơi vào bẫy, Lía bèn dùng hết sức bình sinh giãy đứt dây buộc chân rồi đứng dậy mang cả tấm phản lớn sau lưng. Chàng húc mấy cái vào cột nhưng dây buộc chặt quá không thể làm gì được. Thấy đã quá gấp, Lía cứ để vậy chạy ra phía cửa trại phá vòng vây xông ra. Tấm phản là một chướng ngại lớn cho chàng, nhưng cũng là tấm mộc rất tốt. Mấy tên lính thứ thì bị cái đá của Lía, thứ thì bị tấm phản húc vào đầu nên toáng đảm không dám đuổi, đành trở vào bắt bọn cha Hổ, chú Nhẫn, mẹ Chân giải nạp. Thoát vây, Lía cứ rừng già chạy một mạch. Mãi đến xế chiều bụng quá đói, sức quá mệt, chàng mới dừng lại nghỉ bên bụi cây. Gặp một ông già gánh củi từ rừng sâu xăm xăm bước ra, Lía nhờ ông cởi trói giúp. Khi tấm phản rơi xuống, ông già rút mo cơm ra cho chàng ăn. Lía không từ chối đón lấy ăn ngay. Ăn xong chàng vái ông già và nói: - Tôi là thằng Lía, lâu nay vẫy vùng một cõi không ai làm chi nổi, nay mắc mưu một đứa nhi nữ, thân thế phải đến nỗi này sống làm chi nữa cho thêm nhơ nhuốc,. Lía này nhờ được ông cởi trói lại nhịn bữa cho ăn, ơn ấy không biết lấy gì mà trả. Vậy Lía xin dâng vật này, ông hãy mang xuống nạp quan mà lĩnh thưởng. Cụ già vừa nghe dứt lời thì đã thấy thủ cấp của Lía nằm ngay trước mặt. Ông cụ vốn hâm mộ Lía. Ông toan giúp Lía đi trốn để khôi phục cơ đồ nhưng không ngờ Lía quá nóng nảy tự hủy tấm thân. Than khóc hồi lâu, ông chỉ còn biết đem thi thể của chàng chôn cất một nơi kín đáo không ai biết. Ngày nay vẫn có ca dao: Chiều chiều én liệng truông Mây Cảm thương chú Lía bị vây trong thành...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-lia" }
Nói dối như cuội
Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi tên là Cuội. Từ thuở nhỏ, Cuội mồ côi cả cha lẫn mẹ phải đi ở với chú thím. Hắn ta là tay láu lỉnh, đặc biệt về môn lừa người thì rất thành thạo. Một lão trọc phú ở trong miền nghe tiếng đồn về Cuội tỏ vẻ không tin. Một hôm, hắn cho người gọi Cuội đến và bảo: - Nghe nói mày lừa người giỏi lắm. Bây giờ tao ngồi ở đây, đố mày lừa tao cho tao ra ngoài cổng thì tao lập tức thưởng cho mày năm quan. Đấy có mọi người làm chứng đấy! Cuội ta gãi đầu gãi tai đáp: - Ông ngồi ở đây, lại có đề phòng sẵn thì làm sao mà lừa ông ra ngoài kia được. Nếu ông ra đứng ngoài cổng tôi mới có cách lừa được ông vào nhà. Nghe nói thế, lão trọc phú chạy ra cổng. Nhưng khi đến nơi, Cuội đã vỗ tay reo: - Đấy tôi đã lừa được ông ra cổng rồi! Trọc phú bị tẽn vì thua cuộc đành phải y ước đem tiền cho Cuội. Nhà chú thím Cuội có nuôi một con lợn béo. Một hôm nhân lúc mọi người đi vắng cả, Cuội gọi người hàng thịt đến nhà bán rẻ con lợn đó lấy tiền tiêu. Cuội chỉ dặn người ấy giấu kín cho mình và xin lại cái đuôi lợn sống. Hắn đã tìm ra được một mưu để nuốt trôi con lợn. Hắn đào một cái lỗ nhỏ ở đám đất gần chuồng lợn, cắm cái đuôi vào đó rồi nện đất rất chặt. Chờ lúc người thím đi làm về, hắn làm vẻ mặt hốt hoảng, nói: - Thím ơi! Thật là số không may. Ông gì ấy ông bắt mất lợn nhà ta. Nó xuống âm phủ mất rồi. Rồi Cuội dắt thím ra chuồng lợn, nói tiếp: - Nó đã xuống cả hai chân sau rồi, chỉ còn cái đuôi, bây giờ thím hãy giữ lấy cái đuôi đừng cho nó xuống mà cũng đừng giật mạnh kẻo đứt mất là hỏng việc. Cháu sẽ lấy thuổng đào đất xung quanh, may chi bắt nó trở về. Người thím nghe nói tưởng ông gì bắt lợn thật, vừa lo sợ vừa tiếc của, giục Cuội làm nhanh. Cuội lẳng lặng lấy thuổng đào đất. Đất bở ra cái đuôi không kéo tự nhiên rời khỏi mặt đất. Thấy thế hắn la to lên: - Thôi! Thế là lợn xuống âm phủ mất rồi. Còn làm ăn gì được nữa. Một hôm, Cuội cùng chú đi chợ. Cuội xách một cái thúng không. Đột nhiên. Cuội chạy lên trước bỏ quá chú một quãng rồi lấy thúng úp một bãi cứt trâu ở dọc đường. Khi người chú vừa đến nơi, Cuội khư khư giữ chịt lấy thúng, bảo: - May quá! Cháu vừa úp được một con chim ngói to lắm! Nhưng nếu bây giờ thò tay vào bắt thì nó trượt mắt. Vậy chú mau mau về lấy tay lưới giăng chung quanh để bắt cho chắc. Con này mà đánh chén thì tuyệt! Người chú vốn có máu tham, nghe hắn nói thế tưởng thật, vội vã trở về nhà lấy lưới đến giăng bốn bên thúng rất cẩn thận. Mọi người xúm lại xem rất đông. Nhưng khi Cuội giở thúng ra, ai nấy đều phì cười vì chỉ thấy một bãi cứt trâu, chả có chim đâu cả. Riêng người chú bị Cuội đánh lừa, giận thâm gan tím ruột, bèn không đi chợ nữa, dắt Cuội về đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Một hôm khác, Cuội cùng chú đang cuốc cỏ ngoài đồng. Trời nắng như thiêu như đốt. Khát quá, người chú bảo hắn về nhà lấy nước mang ra. Vừa đến nhà, Cuội đã làm vẻ hốt hoảng, nước mắt giàn giụa, miệng mếu nói không ra tiếng: - Khốn khổ lắm thím ơi! Chú bị trâu húc lòi ruột gan ra một đống. Hiện đã tắt thở, còn nằm trên cồn... Người thím nghe nói chỉ còn biết kêu trời khóc đất rồi bươn bả ra đồng, vừa đi vừa ôm mặt than khóc rất thảm thiết. Cuội ta lại lẻn theo đường tắt, ba chân bốn cẳng chạy ra đồng. Sắp đến nơi, hắn cũng làm bộ đau đớn, bảo chú: - Chú ơi! Trời hại ta. Thím ở nhà không biết leo trèo thế nào bị ngã từ trên gác xuống, chết tím cả mặt, không một ai biết cả. Người chú nghe nói, tưởng thật, đấm ngực kêu trời rồi chạy về kêu khóc suốt cả dọc đường. Đến khi hai vợ chồng đâm sầm vào nhau mới biết là thằng cháu ác nghiệt đánh lừa. Hai vợ chồng tức giận điên cuồng bèn đan một cái rọ bỏ Cuội vào rồi một mình chồng vác ra sông định vứt xuống nước. Đến bờ sông, cuội ta cầu khẩn: - "Cháu có tội với chú thím, chú thím bắt chết cũng đáng. Có điều ở dương gian cháu nói láo kiếm ăn được là nhờ có một quyển sách nói láo bấy lâu nay vẫn gác trên sàn bếp. Nay chú làm ơn nghĩ đến chút tình máu mủ về lấy giùm quyển sách đó đặng cháu mang theo xuống âm phủ kiếm ăn". Nghe hắn nói có vẻ thảm thiết, người chú tưởng thật, nghĩ bụng, tay hắn mình đã trói, rọ lại buộc chặt không thể trốn đi đằng nào được, bèn tất tả chạy về lấy sách. Đang ngồi co ro trong rọ bỗng trông thấy một thằng hủi đi qua, Cuội gọi giật lại: - Này hủi ơi! Tao trước cũng sưng da thối thịt như mày, nhưng trời run rủi cho tao ngồi vào đây, thế rồi tao được người ta đưa xuống nước chạy chữa, rồi lại khiêng lên, bây giờ lành hẳn cả rồi. Mày cứ mở cho tao ra mà xem. Hủi tưởng thật, mở rọ cho Cuội ra, tấm tắc khen phép chữa mầu nhiệm rồi mừng rỡ nói: - May cho tôi quá! Thế anh cho tôi ngồi vào đây rồi anh buộc hộ cho tôi với. Có mấy quan tiền xin được nhân thể tôi biếu anh. Được tự do, Cuội chờ cho hủi vào, buộc rọ lại cẩn thận rồi cầm tiền đi thẳng. Lại nói chuyện người chú về nhà tìm mãi trên sàn bếp chẳng thấy gì cả, mớt biết là mình lại bị lừa lần nữa, giận quá, hầm hầm trở ra, chẳng nói chẳng rằng đạp rọ lăn xuống sông. Thế là hủi ta mất tích. Cuội theo dọc sông đến một cái cầu, nhân trời nóng nực mới cởi áo xuống tắm. Mấy quan tiền của hủi cho, hắn sợ để trên bờ có người lấy mất nên mang cả xuống sông. Một ông quan cưỡi ngựa đi qua trên cầu, thoáng thấy có thằng bé lặn ngụp dưới nước, một tay giơ lên cao có cầm cái gì giống như là quan tiền. Quan động lòng tham, dừng ngựa lại hỏi. - Bé kia, mày làm gì ở dưới đó? Cuội làm bộ tìm tòi, nói với quan: - Tôi mang đi cho cha tôi một thỏi vàng, một thỏi bạc và mấy quan tiền, lúc đứng chơi ở cầu không may lỡ lay đánh rơi xuống mất cả. Nay tôi lặn lội tìm chỉ được có mấy quan tiền mà thôi. Giờ tôi mà về, cha tôi thì đánh chết. Nói đoạn. Cuội hu hu khóc. Ông quan bèn xuống ngựa, cởi quần áo bảo Cuội: - Mày bước lên mau đi, để tao còn xuống tắm. Cút mau! Ý của hắn là muốn một mình mò tìm, tìm được thì giấu đi một chỗ để số vàng bạc ấy về tay hắn hưởng. Vừa nói hắn vừa lội xuống nước. Cuội bước lên bờ vội lấy ngay quần áo của viên quan ra mặc. Quan hỏi: - Mày làm gì thế. Cuội đáp: - Tôi rét quá, nhờ áo ông mặc đỡ một tý cho ấm. - Thế tên mày là gì? Quê quán Ở đâu? - Tôi họ Bái, tên Dưng, ở Bông lông xã, Ba la huyện. Mặc xong, Cuội chờ lúc quan lặn xuống nước, lên ngựa phi nước đại. Viên quan lặn tìm mấy lần không thấy gì cả, nhìn lên bờ thì đã mất cả ngựa lẫn áo quần. Biết là bị thằng bé đánh lừa, hắn vừa tức giận vừa hoảng hốt. Cuối cùng hắn dùng mấy cái đồ rách của Cuội bỏ lại, che tạm hạ bộ để chạy đi tìm Cuội. Gặp ai hắn cũng hỏi: - "Có thấy tên Bái Dưng vừa chạy qua đây không?" Nghe hỏi thế mọi người chỉ tủm tỉm cười. Mãi đến khi gặp một người đàn bà, người này đồ hắn là một tên vô lại chọc ghẹo mình, mới quay lại mắng cho một trận. Hắn biết là dại, đành phải im mồm, rồi sau đó nuốt giận lần về nhà. Lại nói chuyện Cuội phi ngựa về nhà chú thím. Cả hai vợ chồng, nhất là người chồng rất lày làm ngạc nhiên không hiểu tại sao mình đã xô nó xuống sông hai năm rõ mười, thế mà bây giờ nó lại trở về được mà lại ăn mặc đàng hoàng như kia. Hỏi thì Cuội tươi cười đáp: - Cháu xuống dưới ấy gặp được tất cả mọi người: ông, bà, cha, mẹ, nội ngoại đầy đủ. Cha mẹ cháu giàu có lớn lắm. Nhưng cháu nhớ chú thím quá nên chọn lấy một bộ quần áo, một con ngựa và ít quan tiền trở lên trên này. Rồi Cuội lại nói thêm: - Ông bà vẫn nhớ chú thím lắm đấy và có dặn cháu mời chú thím xuống chơi! Hai vợ chồng người chú nghe nói mừng quá, hỏi Cuội: - Chúng tao xuống có được không? Cuội trả lời: - Có khó gì đâu, chú thím cứ làm rọ y như lúc cháu xuống. Nhưng cháu thì không vác nổi đâu, phải mang ra bờ sông, chui vào rọ rồi cháu sẽ lăn xuống thôi! Người chú vội vàng đan hai chiếc rọ đem ra bờ sông. Đoạn người chú chui vào một chiếc bảo nó buộc chặt lại, vứt xuống. Thấy tăm nước sủi lên sùng sục, Cuội vỗ tay reo: - A ha! Chú đang lấy đấy! Nghe nói thế người thím giục Cuội rối rít: - Cháu cho thím xuống ngay đi! Người thím lại chui vào rọ để cho Cuội vứt luôn xuống sông. Thế là từ đó Cuội thừa hưởng cơ nghiệp của chú thím để lại. Nhưng Cuội ăn chơi loang toàng chả mấy chốc đã bán hết gia tư điền sản. Hắn muốn đi chơi một phen cho thật xa, bèn sắm sửa lương thực rồi một hôm bỏ nhà ra đi. Cuội đến một vùng rừng núi trùng điệp. Ở đây có rất nhiều voi, Cuội bèn nghĩ kế bắt cho được một con. Hắn ta đào một cái hố rất rộng và rất sâu ở chỗ voi hay qua lại. Trên miệng hố có bắc tre nứa lát phên và ghép cỏ rất khéo. Quả nhiên sau đó ba hôm có một con voi bị sa hố đầu chúc xuống dưới, đít chổng lên trời, không cựa quậy được. Cuội dùng đất lấp voi lại chỉ chừa có cái lỗ đít. Và khoét đít voi thành một cái lỗ lớn hơn, rồi cứ để yên tại đó, chỉ thỉnh thoảng đến trông chừng. Hắn bụng bảo dạ: - "Rồi ta sẽ có một con voi biết bay, đi chu du thiên hạ!". Sau khi voi chết, quạ và diều ngửi thấy mùi thịt liền rủ nhau tới ăn. Chúng nó chui qua lỗ đít tiến sâu vào thân con voi để rỉa lân thịt ở trong đó. Trước còn năm con mười con, sau dần dần có hàng trăm con ngày ngày chui vào chén thịt và lòng rất thỏa thích. Cuội ta chờ đến lúc thịt voi đã gần kiệt, rình khi chim chóc chui vào khá nhiều: mới thình lình đút nút đít voi lại. Thế rồi Cuội đào đất lên cho cái xác da voi nằm ngay ngắn. Hắn cưỡi lên lưng, dùng gậy đánh nhẹ ở dưới bụng voi. Tự nhiên bầy chim ở trong cái xác da voi bay vụt cả lên, mang cái xác da voi và Cuội lên trời. Cái xác da voi hay giữa không trung qua những núi dài sông rộng làm cho Cuội nhìn không chán mắt. Cuội cứ để cho bay mãi suốt ngày. Cuối cùng nhìn thấy một kinh thành rộng lớn, trong đó nhà ngói san sát, người qua lại đông không biết bao nhiêu mà kể. Cuội muốn xuống xem thử cho biết. Hắn vỗ mấy cái trên lưng voi, chim chóc thấy động phía trên thì sợ hãi xếp cánh không bay nữa. Cái xác da voi từ từ hạ xuống. Nó rơi xuống trúng giữa sân rồng có các quan đang làm lễ bái mạng. Nhà vua và tất cả triều thần thấy có một người cưỡi voi từ trên trời xuống thì kinh hãi bội phần, vội vàng sụp xuống lạy Cuội như tế sao. Họ đón Cuội như đón một vị thần vừa giáng hạ. Nhà vua thân đưa Cuội vào nội điện và không dám ngồi ngang hàng. Cuội sung sướng hưởng những cỗ bàn lễ vật của mọi người đem dâng. Khi nghe Cuội nói đến sự màu nhiệm của con vật, nhà vua cất tiếng run run hỏi: - "Ngài có thể cho quả nhân cưỡi lên voi đi ngắm cảnh gấm vóc trong thiên hạ được chăng?" Cuội đáp: - "Được lắm, nhưng cần phải làm hai việc: một là nhà vua phải thay đổi áo quần cho tôi, vì con vật nó hay lạ hơi người, hai là khi ra giữa biển phải nhớ mở cái nút đằng sau cho nó uống nước". Không một ai ngăn cản được lòng ham muốn của nhà vua. Cuối cùng cái xác da voi đưa vua lên không trung. Ra giữa biển, vua nhớ tới lời Cuội dặn, mở nút đằng đít để cho voi giải khát. Lũ quạ và diều mấy lâu bị giam cầm, nay thấy có chỗ hở lục tục bay ra tất cả. Cái xác da voi rơi xuống biển và chả mấy chốc nhà vua đã lọt vào bụng cá. Còn Cuội mặc áo hoàng bào lên làm vua nước ấy...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/noi-doi-nhu-cuoi" }
Người học trò và ba con quỷ
Ngày xưa, ở một vùng nọ có hai vợ chồng một nhà phú hộ tuổi đã già mới sinh được mụn con gái, nên hết sức chiều chuộng. Cô gái lớn lên hình dung đẹp đẽ ít ai bì kịp, bố mẹ lại càng nâng niu như vàng như ngọc. Họ bỏ tiền ra xây một ngôi lầu cho con ở. Lầu dựng xong, phú hộ lại cho người đi tìm hoa thơm cỏ lạ trồng xung quanh vườn để con thưởng ngoạn. Bấy giờ trong đám rừng sâu gần đấy có ba con cáo sống lâu năm thành quỷ, có phép biến hóa, thường quen thói hại người. Nghe tin có cô gái đẹp cấm cung mà bố mẹ thì đang bỏ tiền ra mua các cây hoa trồng ở vườn, chúng rắp tâm phá phách, bèn hóa thành một thứ cây có hoa rất lạ. Hoa có ba cánh: một cánh mầu xanh, một cánh mầu trắng, một cánh mầu đỏ. Một người tiều phu lên rừng hái củi thấy hoa đẹp chưa từng có, liền bứng lấy đưa về bán cho phú hộ. Thấy cây hoa đặc biệt, phú hộ vội mua ngay rồi đem trồng ở vườn. Tuy hoa rất lạ và trông thật đẹp mắt nhưng cô gái lại tỏ vẻ không thích, vì thế mưu kế của lũ quỷ không thành. Lâu ngày hoa tàn cây héo, lũ quỷ sắp sửa bỏ đi nơi khác. Giữa lúc ấy, người phú hộ chặt cây thấy thớ gỗ đẹp, bèn chọn lấy một khúc, đẽo thành then cửa đem về chốt ở cửa buồng của con gái. Thế rồi sau đó mấy hôm, một đêm kia trong khi cô gái đang ngủ, thì một con quỷ từ chiếc then cửa bỗng hiện ra, lên giường, toan sinh sự với cô. Nhưng cô đã vùng dậy, hết sức chống cự và kêu la inh ỏi. Biết không xong, con quỷ liền hớp lấy hồn nàng rồi lại biến vào then cửa. Khi vợ chồng phú hộ và người nhà chạy vào buồng thì thấy cô gái năm thiêm thiếp trên giường như người đã chết, ngực thoi thóp đập nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh. Chưa kịp tìm thầy cứu chữa, thì tối hôm sau, trong khi người cha một mình chăm sóc cho con, con quỷ thứ hai lại hiện ra hớp lấy hồn ông. Tối hôm sau nữa lại đến lượt một người nhà bị con quỷ thứ ba hớp hồn. Vợ phú ông sợ quá vội cho người mời một thầy phù thủy đến bắt quyết trừ tà. Thầy làm phép trong ba ngày ba đêm thì phú ông và người hầu tỉnh lại. Duy chỉ có cô con gái là quỷ đầu đàn vẫn không chịu buông tha. Thầy tuy đã cao tay nhưng quỷ vẫn chẳng coi ra mùi gì. Cuối cùng thầy đành xách gói cáo từ vì phép thuật đã giở ra hết mà cô gái vẫn nằm lịm trên giường, nửa mê nửa tỉnh. Từ đấy người ta tin rằng ngôi lầu có quỷ nên không ai dám lui tới. Một buổi chiều nọ, có một thầy cử tên là Long đi thi hội, đến đây thì lỡ độ đường. Thấy có ngôi nhà tốt, anh bèn ghé vào xin nghỉ trọ. Người nhà kể lại câu chuyện đã qua và nói: - Chẳng giấu gì ông, nhà chúng tôi đang bị lũ quỷ quấy nhiễu. Ông nên tìm chỗ khác mà trọ, kẻo mang vạ vào thân. Nghe đoạn, Long vội nói với vợ chồng phú ông: - Đã là học trò đọc sách thánh hiền thì yêu tinh ma quỷ dám đâu trêu ghẹo. Ông bà cứ cho tôi nghỉ lại một đêm. Biết đâu tôi lại không trừ được nạn cho ông bà. Vợ chồng phú hộ nghe nói bèn mở cửa đón khách vào. Ăn xong bữa chiều, Long khoan thai bước lên lầu. Anh chỉ xin nhà chủ cho mình một ngọn đèn và một con dao sắc. Đêm lại, anh thắp đèn ngồi trước án thư đọc sách, con dao để sẵn bên người. Đến khuya, một con quỷ từ then cửa buồng cô gái hiện ra với trạng mạo một cô gái xinh đẹp. Long vẫn điềm nhiên đọc sách không nói gì cả cho đến lúc nó biến đi. Lần thứ hai, một con khác tiến vào dưới dạng một người mặt mày hung ác, tóc xõa, lưỡi thè chừng một gang. Nó chạm vào người Long, nhưng anh vẫn thi gan mặc kệ. Đến lượt con thứ ba tức là con quỷ đầu đàn đang hớp hồn cô gái, bước vào. Thấy bóng anh học trò, nó vội quay trở ra, chỉ kịp rú lên mấy tiếng: - "Có bậc quý nhân... Trốn cả mau!". Long lần này đã cầm sẵn dao ngồi rình, nhanh như cắt, nhảy đến chém một nhát, con quỷ đứt mất một chân. Long chạy theo đến cửa buồng cô gái thì thoáng thấy cả ba con quỷ chui biến vào then cửa. Anh cầm lấy chân quỷ soi vào đèn xem, thì thấy đấy là một cái chân con cáo. Vì quỷ đau quá phải buông thả hồn ra nên ngay lúc đó cô gái cũng tỉnh dậy. Long liền đến gần hỏi chuyện. Biết đó là người cứu mình, nàng cúi đầu chào và ngỏ lời cảm ơn. Long dẫn nàng ra cho vợ chồng phú hộ. Lại đem chân con quỷ cho mọi người xem. Ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi phục tài anh học trò. Sáng hôm sau lúc lên đường. Long từ chối vàng bạc của hai vợ chồng phú hộ đưa tặng, chỉ xin họ cái then cửa buồng giắt vào thắt lưng. Đi được nửa ngày, anh đã thấy ba con quỷ hiện ra, phủ phục trước mặt, khẩn khoản xin anh làm phúc bỏ lại cái then cửa. Long cười: - Không được! Chúng mày có tài phép gì thì cứ giở ra cho hết để tao xem, rồi tao sẽ cho chúng mày vào lửa. - Xin ngài tha cho chúng tôi - ba con quỷ đáp - chúng tôi xin tặng ngài những vật quý. - Vậy thì đưa ra đây ngay, nếu không thì đừng có trách! Con quỷ thứ nhất đưa tặng Long một cái mặt trời đựng trong túi, dặn rằng ban đêm hễ rút ra khỏi túi thì trời sẽ sáng như ban ngày, cất vào túi thì trời lại tối sẫm như cũ. Con thứ hai tặng một mặt trăng cũng vậy, hễ ban đêm tối tăm rút ra khỏi túi thì không cần đến đèn đuốc. Còn con thứ ba tặng một con ngựa mỗi ngày có thể đi ngàn dặm đường. Long vui lòng nhận lấy những món quà tặng rồi ném cái then cửa vào một bụi rậm bên đường. Sau đó, Long nhảy lên lưng ngựa, bảo đưa mình tới kinh đô. Lập tức ngựa hý lên một tiếng rồi lao rất nhanh, bàn chân không chạm đất. Chỉ một lát sau, ngựa đã đặt anh xuống ở phía ngoài hoàng thành. Long ở lại đây sắm sửa mọi thứ để dự kỳ thi hội. Hôm bắt đầu thi, bài của Long làm rất đắc ý. Cho nên thi vừa xong buổi sáng, anh bỗng nhớ đến vợ. Sẵn có con ngựa quý, anh nhảy lên lưng, bảo nó đưa mình về quê nhà. Ngựa phóng tít mù, chỉ vừa chập tối là đã đến nơi. Anh khe khẽ gọi cửa. Vợ Long đang ngủ, rất kinh ngạc vì thấy chồng mình đi thi chưa được mấy ngày đã vội trở về. Long không muốn thức cha mẹ dậy, nên dặn vợ giấu kín chuyện mình về. Rồi hai vợ chồng nhỏ to trò chuyện cho đến tờ mờ sáng anh mới lại lên đường. Mặc dầu vậy đêm ấy tiếng chuyện trò rì rầm của đôi vợ chồng đã thức tỉnh cha mẹ Long nằm ở buồng bên. Hai ông bà không tin là con trai mình về, chỉ ngờ rằng nàng dâu có nhân tình nhân ngãi chi đây. Cho nên sáng hôm sau ngủ dậy - lúc ấy Long đã cưỡi ngựa trở lại kinh đô để kịp nghe loa báo tin - hai ông bà vội vào buồng nàng dâu gạn hỏi. Vợ Long trước còn giấu quanh, nhưng sau thấy không giấu được nữa, đành phải kể lại câu chuyên chồng về tối hôm qua, cùng những việc chồng mình trị quỷ và được chúng tặng ngựa quý ra sao, v.v... Nhưng bố mẹ chồng làm sao mà tin được một việc khó nghe đến thế, nên trách mắng con dâu thậm tệ. Vợ Long không biết lấy gì làm chứng, đành chỉ ôm mặt ngồi khóc. May sao chiều ấy Long lại về. Được tận mắt thấy con trai và con ngựa thần, hai ông bà mới tin là thực. Long kể chuyện cho bố mẹ và mọi người cùng nghe: - Sáng hôm nay ngựa đưa con vào đến kinh đô thì cũng vừa lúc tiếng loa trường thi bắt đầu gọi tên những ai thi đỗ. Nghe loa gọi đến tên con, con mừng rỡ vội ra nhà trọ thu xếp hành lý, phóng ngựa về đây. Ba ngày nữa con lại trẩy kinh để còn dự yến đêm do đức hoàng đế đãi các ông nghè ở điện Thiên quang. Nghe nói có con ngựa thần một ngày ngàn dặm, người cha ngỏ ý muốn cưỡi thử. Long hỏi: - Bố muốn đi chơi đâu bây giờ? - Bố thường ao ước được vào tận trong Đồng-nai Gia-định để du ngoạn một phen. - Được. Sáng hôm sau, ông già cơm nước xong, nai nịt chỉnh tề bước ra sân. Long nắm dây cương trao cho cha. Ông già vừa nhảy lên yên thốt ra hai tiếng "Gia-định!", ngựa đã phóng đi vùn vụt, loáng một cái không thấy đâu nữa. Cho đến tận chiều, vào lúc mặt trời gác núi, con ngựa quý lại phóng như bay trở về, đặt ông già xuống giữa sân. Ông vui vẻ mở tay nải lấy quà mời mọi người nếm thử, rồi kể chuyện tai nghe mắt thấy ở Gia-định. Mẹ Long nghe chồng hết lời ca ngợi con ngựa thần, cũng có ý định muốn đi chơi Đồng-nai Gia-định một chuyến dối già. Qua hôm sau, Long lại dắt ngựa ra sân rồi đỡ mẹ lên yên. Nhưng ngựa chưa kịp bước ra khỏi cổng, tự nhiên ngã khuỵu, hất bà già ngã lăn xuống đất. Một luồng khói trắng từ trong mình ngựa phóng ra và bay cuộn lên trời. Mọi người xúm lại xem thì con ngựa đã tắt thở từ lúc nào. Thì ra bà mẹ Long đã cưỡi ngựa thần không đúng lúc vì bà đang thấy kinh nên thần ngựa hoảng sợ, bỏ lốt ngựa mà đi. Không những mất một tặng vật vô giá, ông tiến sĩ tân khoa còn đứng trước mối hiểm nguy khó thoát được tội "khi quân", vì trước mắt không có cách gì để tiến kinh cho kịp chiều mai dự yến. Đường từ quê Long đến kinh thành đi bộ mất bốn năm ngày đường, đi ngựa cũng phải hơn hai ngày. Không còn kế gì hơn, Long đành bắt một con ngựa thường, chẳng kịp từ biệt cha mẹ vợ con, vội ra roi cho con vật phi nước đại. Con ngựa đi đến tối mịt mà vẫn chưa được một nửa đường. Nằm nghỉ ở quán trọ, Long lo lắng hết sức. Anh sực nhớ tới một tặng vật "mặt trời" do con quỷ thứ nhất biếu vẫn còn cất trong túi vải. Thế là Long tìm ra một diệu kế. Ngay hôm sau, Long lại lên ngựa phóng đi Cho đến khi mặt trời sắp gác núi, anh liền lôi "mặt trời" của mình ra treo trước đầu ngựa Thốt nhiên, một chuyện lạ chưa từng có xảy ra: đâu đâu cũng không thấy tắt ánh mặt trời. Cho đến khi con ngựa đưa Long đến trước điện Thiên-quang, anh mới cất "mặt trời" vào túi, bấy giờ bầu trời đang từ ban ngày mới chuyển sang đêm một cách đột ngột. Long buộc ngựa xong, bước vào điện. Nhưng cũng đã muộn mất rồi. Mọi người chờ mãi không thấy đêm xuống, song thức ăn thì đã nguội cả, nên sau cùng Hoàng đế đành ra lệnh cha các ông tiến sĩ cứ bốn người một, ngồi vào mâm. Khi Long bước vào. thì tiệc rượu đã hầu tàn. Biết việc chậm trễ có thể khiến mình mất đầu như chơi, nên anh cởi mũ "phủ phục" trước sân điện, một hai viện lý do "không thấy trời tối" để mong được nhẹ tội. Vua tha cho anh, nhưng để anh nhớ lỗi, bắt bổ anh về làm tri huyện một huyện từng nổi tiếng có nhiều vụ án ma. Mặc dầu vẫn nghe nhiều tin đồng rùng rợn rằng từ trước đến nay, hễ quan nào được bổ về huyện ấy đều bị ma quỷ vật chết, Long vẫn ung dung về trị nhậm. Theo tục lệ ở vùng này, mỗi khi quan mới bổ đến, dân các làng xã đều phải mang lễ vật đến chào quan. Cho nên những ngày Long mới chân ướt chân ráo đến nơi, dân các làng kéo nhau đội lễ vật đến đầy cả công đường. Long tiếp chuyện mọi người rất ân cần, nhưng nhất thiết từ chối mọi lễ vật. Chàng kín đáo dặn lính hầu mỗi khi có toán dân nào ra về thì lén đi theo để biết rõ tung tích. Vào ngày thứ ba, một trong những người lính hầu mà Long phái đi theo bén gót hai người dân đội một mâm lễ vật trở về. Người lính thấy hai người này đi mãi, đi mãi, bóng chiều đã ngả mà vẫn chưa đến nơi. Cho đến khi tắt ánh mặt trời mới thấy họ đến sát một cái giếng hoang bên cạnh đường. Thốt nhiên họ đội cả mâm, lội vùng xuống giếng, rồi thoáng một cái đã biến mất. Vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, người lính vội đi suốt đêm trở về báo lại tình hình cho quan biết. Sáng hôm sau, Long hạ lệnh cho một toán lính huyện tới tát cạn cái giếng ấy. Họ ra sức tát suốt cả một ngày. Nhưng thật là lạ lùng! Tát được bao nhiêu nước lại đầy ắp bấy nhiêu. Mấy ngày sau nữa công việc cũng không nhích lên được tý nào. Bọn lính huyện cảm thấy rất chán nản. Một đêm nọ, vào giữa canh khuya, một người lính nằm ngủ bỗng thức giấc thấy có hai con quỷ đang ngồi vắt vẻo trên cành cây nói chuyện với nhau. Một con hỏi: -"Nếu chúng nó kéo tới đông thì có tát cạn chăng?". Con kia đáp: - "Nhiều người cũng vô ích thôi. Chỉ có rồng mới có thể tát cạn, ngoài ra không có cách nào khác". Người lính bèn đem câu chuyện ấy trình lên quan. Long nói ngay: - Chính ta là rồng đây! Ta sẽ thân hành tát cạn giếng. Nói xong Long cưỡi ngựa về tận nơi. Sau khi xem xét tình hình, quan xắn áo quần cầm lấy gầu tát lấy tát để. Quả nhiên chỉ một mình Long đã làm cho nước giếng dần dần cạn thấu đáy. Nhưng khi giếng cạn hết, cả quan và lính đều không tìm thấy quỷ. Giữa ban ngày, quỷ có phép tàng hình, mắt người không thể nhìn thấy được. Nhưng đêm đến, quỷ lại dựa vào tối trời, lẩn lút trốn nấp trong các hang hốc làm cho Long và lính hầu tìm hết hơi mà không ra. Họ thắp đuốc lên nhưng bó đuốc nào hễ đưa vào cửa hang cũng đều tắt ngấm, không thể chụm lên được. Long sực nhớ tới món tặng vật bèn mở túi lấy "mặt trời" ra treo lên đầu ngọn tre. Lập tức cả một vùng sáng rực như ban ngày. Nhưng vì là ban ngày nên quỷ lại tàng hình lọt khỏi con mắt của mọi người. Sau cùng Long nhớ đến món tặng vật thứ hai. Vừa đưa ra khỏi túi, "mặt trăng" tỏa một thứ ánh sáng dịu mát vào khắp mọi nơi. Long liền mang "mặt trăng" đi lần xuống giếng, tiến vào các hang các hốc. Dưới ánh sáng trăng, quỷ đành lộ mặt, không thể tàng hình nổi. Cho nên chỉ một chốc, chưa giập miếng bã trầu, quan và lính đã tóm được hai con quỷ. Chính đó là hai con xà tinh quen thói hại người, thường dùng một cái hang ở đáy giếng làm sào huyệt. Trước mặt Long, hai con quỷ cúi đầu van lạy xin quan sinh phúc tha cho tính mạng, từ rày không dám làm hại ai nữa. Long sai lính giải chúng đi đày thật xa. Từ đây dân huyện ấy sống yên ổn...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-hoc-tro-va-ba-con-quy" }
Sự tích cây nhân sâm
Ngày xưa, có hai vợ chồng người tiều phu nghèo khổ, làm lụng vất vả quanh năm. Tờ mờ sáng đã ra đi làm, đến tối mịt mới về nhà mà cũng không kiếm đủ gạo ăn. Hai vợ chồng có một đứa con trai còn nhỏ, mỗi ngày để ở nhà cho một phần cơm chỉ ăn vừa lưng dạ. Trong cảnh thiếu ăn đó, hai vợ chồng lấy làm ngạc nhiên nhận thấy con mình ngày một béo tốt, hồng hào khỏe mạnh như đã được chăm nuôi tẩm bổ khác thường. Đứa con còn bé chưa nói năng gì được nên cha mẹ nó muốn hỏi han về sức khỏe lạ lùng của con cũng đành chịu. Được vài năm đứa bé lớn lên như thổi, bắt đầu biết trò chuyện, cha mẹ nó mới hỏi xem phần cơm mỗi ngày để dành cho con ăn có đủ không. Thằng bé trả lời chẳng biết mùi cơm ra sao vì cứ mỗi khi cha mẹ nó vừa đi khỏi nhà là bầy khỉ ở rừng kéo đến ăn sạch cơm. Hai vợ chồng người tiều phu quá nỗi kinh ngạc, hỏi con trong mấy năm trời không cơm ăn mà sao lại được khỏe mạnh như vậy. Đứa con ngây thơ mới kể cho hay rằng trong lúc cha mẹ nó vắng nhà, có một thằng bé láng giềng cũng trần truồng như nó, vẫn đến chơi đùa, và chính đứa bé đáng yêu kia đã truyền sức khỏe sang cho nó. Nghe con nói như thế, cha mẹ nó lại càng lấy làm lạ, nghi hoặc thêm, vì chung quanh ấy lối mươi dặm chẳng có nhà cửa của ai cả. Người tiều phu nghĩ ngợi, đoán chừng đứa bé đến chơi với con mình là Người Sâm (nhân sâm), hồn của cây sâm mọc quanh quẩn gần đâu đây. Đến sáng hôm sau, người tiều phu đi ra chợ mua một cuộn chỉ tơ mang về dặn dò con là hễ thằng bé kia đến chơi thì lấy chỉ buộc vào chân hoặc tay nó. Đứa con hứa sẽ làm theo lời cha bảo. Qua ngày hôm sau, vợ chồng người tiều phu đi khỏi nhà như lệ thường, song không vào rừng lấy củi mà rình nấp gần đấy. Nhân sâm lại đến túp lều chơi với thằng bé con người tiều phu, cũng như mọi ngày, và đứa bé theo lời cha dặn, lấy chỉ buộc vào cổ tay bạn. Vào lúc giữa trưa, hai vợ chồng người tiều phu ra khỏi chỗ nấp, đột ngột trở về nhà, bắt gặp cả hai đứa bé đang nô đùa. Thằng bé sâm vội vàng bỏ chạy rồi biến mất vào cây. Người tiều phu lần theo dấu chỉ đã buộc vào cổ tay Nhân Sâm mà tìm ra được cây sâm. Tham và ngốc, gã hấp tấp đào xới quá mạnh tay làm chết mất thằng bé Sâm và chỉ lấy được từng miếng rễ cây sâm. Cũng vì thế mà ngày nay người ta chỉ có được các nhánh rễ sâm mường tượng hình dáng người. Người Sâm chết vì sự vụng về của gã tiều phu, từ đó Sâm không còn công hiệu giúp cho người ta được trường sinh bất tử nữa, mà uống sâm chỉ được bồi dưỡng sức khỏe thôi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-nhan-sam" }
Trạng nguyên Giáp Hải
Ở đoạn đê chạy qua làng Công Luận thuộc trấn Kinh bắc (Bắc Ninh) thuở ấy, có một người đàn bà goá đứng tuổi, sống bằng nghề mở quán bán hàng nước, quà bánh. Bà là người hiền lành, chất  phác và thân thích ruột rà cũng chẳng còn ai. Quán xá ở nơi hẻo lánh, xung quanh chỉ có mấy đầm nước, nên cũng ít người qua lại. Một hôm, có ông khách lạ đi qua, ghé vào quán ăn quà, uống nước. Lúc ra đi, do đãng trí, ông ta bỏ quên lại cả một túi lớn đựng đầy tiền. Khi dọn hàng, thấy túi tiền, bà hàng lẳng lặng cất đi, cũng chẳng giở ra xem. Mấy ngày sau, ông khách quay lại, nét mặt bần thần ngơ ngác, nhưng chưa dám hỏi. Biết ý, bà hàng vào buồng lấy túi tiền đem ra trả lại, nét mặt cũng chẳng biểu lộ thái độ gì. Ông khách nhận túi tiền, mừng rỡ, nhưng trong bụng lại sinh nghi, bèn mở ra đếm lại. Khi thấy không thiếu một đồng nào, thì ông ta tự cảm thấy xấu hổ, bèn nói lời cảm tạ và gạt một nửa số tiền ra biếu bà hàng. Thế nhưng, ông ta vừa dứt lời đã thấy bà lắc đầu quầy  quậy, bảo cất tiền đi. Thấy ông khách nài ép mãi, bà nói: - Cảm ơn ông. Tôi tuy nghèo nhưng không phải không biết phân biệt điều nghĩa lý, trái phải. Đây là tiền của ông chứ có phải tiền do công sức khó nhọc của tôi đâu? Ông vui lòng giữ lấy vậy. Ông khách ngồi lặng đi hồi lâu, có vẻ như đang suy nghĩ điều gì... Quả vậy, ông đã đứng tuổi, đi lại nhiều nơi, lại tiếp xúc với đủ các hạng người mà chưa một lần thấy ai có tấm lòng trọng nghĩa khinh tài như vậy. Ông tự nhủ thầm: "Đây là số tiền bà ấy có ăn cả đời cũng không hết... Đã vậy, ta phải đem tấm lòng thực của mình ra để đối lại với tấm lòng thực của người ta thôi". Ông nói: - Chẳng dấu gì bà, tôi là thầy địa lý, đi lại ở vùng này đã nhiều, nên biết được mấy ngôi đất quí. Có một ngôi sau này con cháu sẽ phát đến Tể tướng, Trạng nguyên. Vừa nãy, bà không nhận tiền làm cho tôi áy náy quá. Vậy tôi muốn giúp bà cải táng lại phần mộ của cụ thân sinh... Bà chú ý nghe ông khách nói xong, nhưng lại mỉm cười buồn bã: - Cảm ơn thầy. Chắc thầy chưa rõ đấy thôi. Ông nhà tôi đã mất rồi, lại con cái không có. Anh em thân thích nội ngoại cũng không còn ai. Nếu được ngôi đất quí thì cũng chẳng biết mà để làm gì. Xin thầy bỏ quá đi cho vậy. Ông thầy địa lý nghe thấy thế  nhưng cũng vẫn một mực thuyết phục: - Bà chẳng nên ngại. Cơ trời biến hoá nhiều lúc thực khôn lường, người thường không thể biết trước được. Ngôi đất Trạng nguyên nếu ông cụ thân sinh của bà được táng vào đấy thì ít nhất sau này bà cũng được mát mặt thảnh thơi... Ông khách đã nói đúng điều ước muốn của bà hàng: Trạng nguyên, Tể tướng chẳng bao giờ bà dám màng tới, nhưng nỗi lo tuổi già một thân một mình thì thường khi bà vẫn thấy canh cánh bên lòng. Bà nhận lời, rồi đưa ông thầy ra đồng, chỉ cho ông ngôi mộ của cụ thân sinh để ông lo việc cải táng. Khi công việc xong xuôi, trước lúc từ giã, ông thầy còn dặn bà hãy chăm làm việc thiện nhiều hơn nữa thì phúc lộc, công quả mới chóng được ứng nghiệm... Thế rồi việc ấy cũng qua đi. Thời gian đầu bà hàng còn hay nghĩ tới và ao ước, nhưng sau, do bận làm ăn buôn bán, nên cũng đã quên dần. Tuy vậy, là người bản chất tử tế, nên chả cần ông thầy phải dặn, bà vẫn thường xuyên giúp đỡ những người cơ nhỡ đi qua, mặc dù đời sống của bà cũng rất chật vật, chứ chẳng giàu có dư dật gì. Khoảng một năm sau, một hôm vào buổi chiều, trời đang nắng gắt bỗng đâu mây đen kéo đến. Rồi sấm chớp đùng đùng và mưa đổ nước xuống như trút. Bà hàng bèn dọn dẹp rồi đóng quán lại vì nghĩ mưa thế này thì mở quán cũng chẳng ai vào. Một hồi lâu sau, đang ngồi trong quán, bà bỗng nghe thấy có tiếng người gọi lẫn trong tiếng mưa rơi, rất gấp. Bà vội mở cửa thì trước mặt là một người đàn ông đứng tuổi, đầu tóc quần áo ướt sũng, mặt mày nhợt nhạt, đang run lên cầm cập. Đó chính là một người đánh dậm với đầy đủ đồ nghề trên tay. Người ấy dựng vội cái dậm, cái bập và chiếc giỏ vào vách rồi lách cửa bước vào, miệng nói xin trú mưa tạm. Nhưng vừa vuốt tóc, vuốt quần áo cho nước chảy mau xuống, thì cũng là lúc toàn thân người ấy run lên bần bật, rồi bất thình lình ngã đổ vật ngay xuống. Bà hàng thấy vậy, vội vã quơ một nắm nòm rồi nhóm lửa cho người ấy sưởi. Bà lại đi tìm hộp dầu - mặc dù thường rất dè xẻn, chỉ khẽ xoa một chút khi bị nhức đầu sổ mũi - xoa rất đậm lên trán, lên thái dương, lên ức, lên gáy, lên sống lưng, lên bụng và hai lòng bàn chân bàn tay của người ấy. Một lúc lâu sau thì người đánh dậm tỉnh lại, do được cứu chữa kịp thời. Bà hàng vội đi bắc niêu cháo hành cho người ấy ăn lại sức. Sau khi đã bình phục, người đánh dậm tỏ lòng biết ơn. Cử chỉ lời nói rất thành thực, khiến bà hàng cũng có cảm tình. Người đánh dậm, nhân câu chuyện, bèn kể lại gia cảnh của mình. Đó là một người rất nghèo, nhà ở Bát Tràng cách đó đến mấy làng, đã ba đời làm nghề này, đến nay tuy luống tuổi nhưng vẫn chưa có tiền cưới vợ.  Bà hàng vừa nghe vừa cảm thương trong lòng... Lúc ấy, nhìn ra bên ngoài, trời đã bắt đầu tối. Cơn mưa tuy ngớt nhưng gió vẫn còn mạnh và mây đen đang ùn ùn kéo đến. Người đánh dậm xin về, nhưng bà hàng bảo trời sắp mưa đợt nữa, nếu giữa đường bị cảm lại, chắc sẽ nguy to. Người đánh dậm lưỡng lự, nét mặt bần thần, rồi cuối cùng cũng đành ở lại. Họ đi thổi cơm, làm thịt cá và cùng ngồi ăn uống với nhau, trong câu chuyện đã có phần thân mật. Đến khi đi ngủ, vì nhà chật chỉ có một chiếc chõng với một chiếc chiếu, nên dù muốn dù không, họ đành phải ngủ chung. Lúc đầu còn ngượng ngịu nhưng về sau, do hơi ấm và sự đụng chạm, đã làm cho họ không tự cưỡng lại được... Nhưng thật không may cho người đánh dậm, thời gian bị cảm mạo chưa lâu mà đã ân ái ngay, nên bị phạm phòng, rồi lăn ra chết đột ngột. Bà hàng hết sức bối rối, tìm mọi cách cứu chữa, nhưng cuối cùng cũng đành phải bó tay. Đến lúc này, khi đã định thần lại được, bà mới cảm thấy sợ hãi vô cùng: ngày mai mọi người biết chuyện thì vừa xấu hổ vừa bị liên lụy, quan trên ắt sẽ lục vấn, khảo tra rồi tù tội cũng nên. Nghĩ đoạn, bà vội khâm liệm cho người quá cố, rồi một thân một mình, vác cuốc, vác tử thi đi chôn ngay. Khi chôn xong, bà còn xoa đất ngụy trang, để không còn dấu vết. "Thôi thì ông hãy mồ yên mả đẹp chứ chẳng nên oán trách tôi làm gì" - bà lẩm bẩm khấn khứa thành lời trước lúc ra về. Từ đấy, bà hàng nước bắt đầu có mang, rồi chín tháng mười ngày sau, sinh hạ được một mụn con trai. Mặc cho thiên hạ lời ra tiếng vào, thậm chí cả chê cười khinh bỉ, nhưng bà vẫn để ngoài tai, vừa bán hàng vừa chắt chiu nuôi nấng đứa con. Ngày tháng qua đi, đứa trẻ lớn dần rồi cũng đến tuổi biết chơi, biết nghịch. Và thực rõ cơ trời, tuy cha mẹ chỉ là những người nghèo khó, vậy mà đứa trẻ lại khôi ngô tuấn tú và linh lợi hoạt bát hơn người. Thế rồi đến một hôm, khi trong quán đang có vài người khách, bà hàng còn đang mải rót nước, đưa bánh... thì đứa trẻ đã leo lên mặt đê rồi đi quá sang mé bên kia. Đê cách sông một đoạn, lại bằng phẳng quang đãng, nên nhìn thấy cả dòng chảy rất gần. Lúc ấy, ở bên mép nước đang có một chiếc thuyền buôn neo đậu. Người chủ thuyền đang ngồi nghỉ trong khoang, chợt thấy đứa trẻ liền vẫy tay cho nó đến gần. Lúc đầu, chỉ là một cách giải khuây, nhưng sau đó, càng nhìn đứa trẻ càng thấy ưng ý, nên ông ta đã nảy ra ý định bắt cóc. Thế là ông ta nhảy lên bờ, lân la đến bên đứa trẻ, chuyện trò và đưa kẹo, rồi dụ nó xuống thuyền chơi. Đứa trẻ thích trí theo ông ta liền, bởi vì đối với nó, việc quen ngay với người lạ, đây đâu phải mới xảy ra lần đầu. Khi đứa bé xuống thuyền xong thì người chủ thuyền nháy mắt cho người bẻ lái động chèo, thế là chiếc thuyền dời xa bờ, rồi sau đó, dương buồm lên chạy thẳng... Đến lúc ấy, ở bên này, khi khách đã vãn, bà hàng mới hốt hoảng đi tìm con, nhưng hỡi ôi, đứa trẻ đã "biến mất". Hút chân đê, hút mặt đê, tầm mắt của bà đều chẳng nhìn thấy gì. Chạy về phía dòng sông, nhìn dòng nước cuộn chảy, xung quanh lại vắng vẻ, bà nghĩ nếu con bà có ngã xuống đấy thì nước đã cuốn đi tận đẩu tận đâu mất rồi, còn nếu nó bị mẹ mìn bắt mang đi, thì một thân một mình bà cũng chẳng thể tìm ra manh mối được. Suy đi tính lại, càng lúc bà càng cảm thấy bối rối, tuyệt vọng. Bà kêu rú lên từng hồi, hết gọi con rồi lại khóc con. Nhưng nỗi đau đớn và vật vã ấy của bà, rốt cuộc vẫn chỉ có một mình bà hay biết. Thế rồi, khi sức đã kiệt, bà đành lủi thủi quay trở về quán, đêm ngày âm thầm gạt dòng nước mắt, và sống cho qua ngày. Tuy nhiên, do công việc, nên dần dần nỗi nhớ con của bà cũng nguôi ngoai đi được chút ít... Người lái buôn bắt cóc đứa trẻ đưa đi vốn là người họ Giáp, ở làng Dĩnh Kế, cùng trong một tổng với làng Công Luận, và hai làng cách nhau cũng chẳng bao xa. Đó là một người rất giàu có, của kho thóc đụn rất nhiều, lại đi đó đi đây buôn bán, nên sự lanh lợi và đầu óc hiểu biết cũng rộng. Thời trẻ ông ta là tay chơi bời nên mắc phải bệnh giang mai, về sau chữa khỏi nhưng lại tuyệt đường con cái. Nghĩ mình toà ngang dãy dọc, của nả dư thừa mà không có con nối dõi thì thật uổng phí, nên từ lâu ông ta nảy ra ý định đi bắt một đứa trẻ ở đâu đó về nuôi. Ông ta đã mấy lần thực hiện ý định này nhưng đều chưa thành, bởi vì khi dịp "thuận lợi" đến thì "đứa trẻ ấy" có gương mặt xấu xí, chẳng hứa hẹn về sau điều gì, nên lại thôi. Khi qua khúc đê ở làng Công Luận, sau khi nhìn kỹ thấy đứa trẻ kháu khỉnh ông ta đã thực hiện được ý đồ của mình. Đem đứa trẻ về nhà, ông ta mừng lắm, nói với người nhà là xin của một người bạn hàng đông con quê ở rất xa, lại dặn mọi người từ nay trở đi không ai được hé răng để lộ tung tích cho đứa trẻ biết. Bản thân ông ta từ đó cũng đối xử với đứa trẻ rất mực chu đáo, tử tế. Ông gọi nó là "con" và xưng là "bố", rồi đi chạy giấy khai sinh, đặt tên họ cho nó là Giáp Hải. Năm Giáp Hải lên sáu tuổi, ông cho nó đi học. Là đứa trẻ thông minh, có trí nhớ đặc biệt nên Hải học hành rất tấn tới. Ông thầy đồ và mọi người đều cho nó là "thần đồng" - học mười biết mười, chứ không phải học mười quên chín như nhiều đứa trẻ khác. Càng lớn lên, Giáp Hải lại càng thông tuệ, và đến năm 19 tuổi đi thi Hương thì đã đỗ ngay á nguyên (thứ nhì). Năm sau, đến kỳ thi Hội, Giáp Hải lên đường, nhưng không đỗ. Lại về đèn sách với ông thầy cũ. Rồi ba năm sau, đi thi Hội lần thứ hai, cũng vẫn bị trượt. Ông bố nuôi, vốn là người cơ trí, đã hiểu ra rằng lỗi này tại con thì ít mà tại thầy thì nhiều: Thầy ở nơi thôn dã lại chưa đỗ đại khoa thì trò làm sao có thể đọ sức được với các anh tài trong thiên hạ? Ông bèn biện một lễ rất hậu đến nhà thầy nói lời cảm tạ, rồi sau đó, sắm sửa cho con lên kinh theo học một cụ Nghè danh tiếng. Ông bán thóc lúa, quyết chí dốc vốn cho con ăn học đến nơi đến chốn, lại thân hành dẫn con đi, đến nhà thầy, đến nhà trọ, dặn dò đâu đấy rồi mới ra về. Giáp Hải khi ấy 23 tuổi, đã là một chàng trai trưởng thành. Dù cha không dặn dò đi nữa thì chàng cũng tự thấy phải chăm chỉ học hành hơn, để khỏi phụ lòng ông. Ở Kinh đô, từ nhà trọ đến nhà thầy, hàng ngày Giáp Hải phải đi qua bến Bồ Đề. Bến này, ngư dân đánh bắt cá dưới sông thường đem về đây bán. Một hôm, đi học về ngang qua dừng lại mua thức ăn, Hải thấy một người đánh cá đang đứng bán một con ba ba có nổi hoa ở trên lưng trông rất đẹp. Là dân miền sông nước, Giáp Hải chẳng lạ gì ba ba, nhưng càng ngắm càng thấy ở con này có cái gì đó thật khác thường. Hải lên tiếng hỏi mua - người đánh cá, vốn là tay láu lỉnh hay bắt chẹt khách, đã phát giá đúng bốn quan tiền - số tiền nhiều gấp bốn lần một con ba ba tương tự. Hải thản nhiên móc túi lấy tiền, không một lời kỳ kèo, rồi mang ba ba về nhà, trong lòng xiết bao vui sướng. Về nhà sau khi ăn cơm, Hải đi mua gỗ rồi mượn cưa đục, đóng cho ba ba một cái "nhà" để ở. "Nhà" có chỗ uống nước, có chỗ cho ăn, lại có chỗ đựng cát để ba ba ẩn nấp. Do con nhà giàu nên Giáp Hải ở trọ hẳn trong một nhà riêng, có chỗ ngủ, chỗ học, chỗ ăn và bếp nấu nướng, tuy nhiên cũng chỉ ở một mình mà không có người theo hầu. Ở một mình, học hành chí thú nghiêm túc hơn, nhưng lại buồn vì không có người bạn bầu trò chuyện. Có ba ba, hàng ngày cho ăn lại ngắm nhìn nó, cũng là một cách để Giáp Hải giải khuây, vơi nhẹ nỗi buồn. Nào ngờ, chỉ một ngày sau, khi Hải đi học về, mở khoá đẩy cửa bước vào thì thấy ở bàn ăn một mâm cơm tươm tất. Lạ lùng, Hải nhìn quanh, thấy đồ đạc vẫn còn nguyên dấu cũ lại chẳng thiếu thứ gì. Nhìn vào ổ khoá cũng không có dấu vết lạ. "Vậy thì cơm canh thịt cá kia ở đâu ra?" Hải tự hỏi và sục tìm một hồi nữa nhưng chẳng thấy sáng tỏ điều gì, sau chán nhẽ, đành ngồi vào ăn vì lúc này cũng đã đói. Cơm vừa chín tới được ủ nóng, còn thức ăn thì vừa miệng lại thực ngon - Hải nếm mỗi thứ một tý, rồi sau đó yêm tâm, ăn đến hết bữa, không quên dành lại một phần cho ba ba. Hôm sau, rồi hôm sau nữa, khi đi học về Hải cũng đều thấy như vậy cả. Tuy được ăn uống ngon lành nhưng Hải vẫn nghĩ phải tìm cho ra manh mối này. Đến hôm thứ tư, kể từ hôm đầu, Hải đến lớp được một lúc thì cáo ốm, xin phép thày cho về nhà sớm. Gần đến cửa Hải đi rón rén rồi nấp vào một chỗ, nhìn vào trong nhà, qua một khe hở nhỏ. Một lát sau, từ chỗ thùng đựng ba ba bỗng thấy hiện ra một người con gái tuyệt đẹp. Người con gái ấy vấn lại tóc rồi bước về phía bếp chuẩn bị cơm nước ... Không để lỡ thời cơ, Hải lén mở khoá rồi đẩy nhanh cánh cửa bước vào, đến chỗ có thùng đựng ba ba, cầm lấy xác đem cất đi, đoạn bước xuống bếp gặp cô gái. Hải lên tiếng trước: - Xin chào qúi cô nương. Thật vô cùng cảm kích về cuộc hạnh ngộ này. Cô gái, thoạt tiên đỏ bừng mặt có vẻ lúng túng - chắc do Hải đã đứng ở ngay sau cửa nên cô không thể trở về thùng ba ba được - sau đó đành trấn tĩnh lại, rồi nói: - Chào công tử. Thiếp là con gái vua Thuỷ Tề, thường hay đội lốt ba ba đi chơi, nên chẳng may bị sa lưới. Hôm ấy may có công tử cứu thoát nên thiếp đội ơn vô cùng, bây giờ ở lại lo liệu cơm nước là để đền ơn công tử đấy. Hải vội chắp tay vái cô gái hai vái mà rằng: - Xin đa tạ. Xin đa tạ. Tôi là Giáp Hải, người trần mắt tục, được hưởng lộc mà bây giờ mới biết tới quí nương. Xin quí nương thứ lỗi cho. Cô gái cũng vái lại Giáp Hải, còn miệng thì nói: - Không dám. Không dám. Tôi phải tạ ơn công tử trước mới phải chứ. Giáp Hải nói luôn: - Chả dấu gì cô nương, từ dạo ở Kinh Bắc về đây tôi vẫn phải tự lo liệu cơm nước lấy. Từ nay, nếu cô nương không chê, xin được vui lòng ở lại lâu dài, đỡ đần rau cháo có nhau. Cô gái trả lời: - Xin công tử an tâm. Được cứu sống là nghĩa trọng, không thể bỏ đi một sớm một chiều. Công tử hãy gắng mà lo đến việc đèn sách. Giáp Hải mừng rỡ vô cùng, vội chắp tay vái thêm cô gái. Cô gái cũng chắp tay vái lại Giáp Hải. Sau đó họ cùng nhau sửa soạn cơm nước. Từ đó trở đi cuộc sống trôi đi như trong mộng ảo, ở lớp học xong, Giáp Hải đi thẳng về nhà, tiện chợ mua sắm thêm mấy thứ, chứ không còn dềnh dàng như hồi trước. Thế rồi, theo lẽ tự nhiên, trai tài gái sắc bên nhau, thì chả cần ai mai mối, họ cũng nhanh chóng nên duyên vợ chồng. Nhưng là những con người hiểu phép tắc, nên trước khi thành thân, họ sắm sửa lễ vật, thắp hương, khấn cầu trời đất chứng giám, phù hộ độ trì cho sự tác thành và cho tình nghĩa lâu dài của họ. Giáp Hải cũng như cô gái, bản thân mỗi người đều hiểu cuộc nhân duyên của họ thật là hy hữu - có một không hai trên đời, bởi vậy không thể ai hé răng ra nói với người thứ ba. Họ yêu nhau, sống với nhau hạnh phúc, nhưng cũng chỉ gói gọn trong ngôi nhà trọ bé nhỏ mà thôi - không một ai hay biết. Dần dà rồi một hôm, cô gái nói với chồng: - Thiếp vắng nhà đã lâu, chắc bây giờ phụ vương mẫu hậu nóng lòng mong đợi thiếp lắm. Xin chàng cho thiếp về thăm nhà, nhân thể cũng mời chàng xuống thuỷ cung dạo chơi cho biết. Giáp Hải đáp lại: - Từ lâu ta cũng muốn được đến ra mắt cha mẹ nàng, như vậy mới là phải đạo. Nhưng ngặt vì nỗi người trần nên chưa nghĩ được cách gì để có thể xuống thuỷ cung được. Vợ chàng nói: - Không hề gì. Chàng cứ đưa lốt ba ba cho thiếp rồi thiếp sẽ dẫn chàng đi. Giáp Hải lại băn khoăn: - Nàng tính. Ta đang phải luyện văn bài để đợi khoa thi. Đi như thế chắc phải lâu dài, liệu có tiện không? Vợ chàng lại đáp: - Trong triều của cha thiếp cũng có nhiều người đỗ đại khoa. Có Trạng nguyên họ Lương là người kiến thức uyên bác, đang dạy học cho các hoàng tử. Chàng xuống đó mà theo học thì lại càng rất tiện. Không còn ước muốn gì hơn, Giáp Hải vui mừng khôn xiết, hôm sau đi từ biệt thày và bạn bè, rồi hôm sau nữa, cùng vợ ra mé bờ sông. Cô gái khoác lốt ba ba vào người rồi thoăn thoắt rẽ nước cho Giáp Hải theo xuống. Chẳng mấy chốc, kinh thành của vua Thuỷ tề đã hiện ra ngay trước mắt họ. Lúc ấy, vua Thuỷ tề đang buổi thiết triều, thấy con gái trở về Ngài vô cùng mừng rỡ. Khi được biết Giáp Hải là ân nhân của nàng, nhà vua đã cảm ơn và tiếp đãi chàng thật là trọng thị. Họ không dám nhận nhau là vợ chồng ở trước mặt vua cha, bởi vì họ biết việc tự ý lấy vợ lấy chồng như thế là không phải phép. Giáp Hải, vốn nhanh trí, đã nhận ngay ra tình thế của mình, và chàng ứng đối cũng rất tự nhiên, mực thước. Khi gặp Trạng nguyên họ Lương, Giáp Hải xưng danh rồi ngỏ ý muốn được theo học. Ông quan Trạng niềm nở gật đầu. Vua Thuỷ tề sau đó biết chuyện, cũng rất hài lòng. Ngài lập tức sai dọn một căn phòng thật tĩnh mịch để cho chàng yên tâm học tập. Cơm nước hàng ngày có các thị nữ bưng đến, còn các vật dụng thì cần thứ gì cũng đều có sẵn cả. Từ đấy, dòng dã suốt mấy năm trời, Giáp Hải miệt mài với việc học tập. Sách vở tra cứu đầy ắp trong thư viện. Ông thày kiến thức quảng bác, lại giảng giải cho thật tận tình, nên càng về sau, kiến thức của chàng càng được mở mang, trí óc của chàng càng thêm sáng suốt và văn tài thì thật uyển súc... Và do ở chốn cung đình, nên mọi đường ăn chơi của chàng cũng thực là sành điệu. Một hôm, đang ngồi trong cung, vua Thuỷ tề bấm độn, biết ở kinh đô nước Nam sắp có kỳ thi Hội. Sáng hôm sau, nhà vua cho gọi Giáp Hải đến, nói chàng có muốn thi thì hãy mau mau chuẩn bị cho kịp. Giáp Hải, dẫu đinh ninh trong bụng có lúc sẽ xảy ra sự trạng này, nhưng nghe thấy thế, cũng cảm thấy bàng hoàng. Chàng trấn tĩnh một hồi, rồi đứng dậy cảm tạ nhà vua, miệng bèn nói lời xin cáo biệt... Ngày hôm sau, vua Thuỷ tề đặt đại tiệc để tiễn đưa chàng. Phút chia tay diễn ra thật vô cùng cảm động. Chàng và nàng nhìn nhau nước mắt lưng tròng mà chẳng tiện nói ra... Nhà vua cấp cho chàng tư trang và rất nhiều vàng bạc, châu báu, lại cùng hoàng tộc và các đại thần đi tiễn chàng rời khỏi Hoàng cung. Khi ra khỏi cổng thành một vị trong đoàn tuỳ tùng hoá phép rẽ nước để chàng có lối đi rộng rãi trở về... Vừa về đến nhà trọ cũ, Giáp Hải đã hay tin nhà vua vừa ra chiếu chỉ cho mở khoa thi Hội mới. Không kịp trở lại quê nhà báo tin, chàng vội chuẩn bị ngay lều chõng để vào trường ứng thí. Trải đủ cả bốn lần khảo hạch của kỳ thi, các bài vở của chàng làm đều trúng cách, lời văn đã trau chuốt, ý tứ lại càng sâu xa. Thơ phú của chàng thì như thần tiên giáng bút. Vì vậy các quan chánh, phó chủ khảo đều rất hài lòng, lấy chàng đỗ ngay Hội nguyên - đầu bảng. Trong năm người được chọn thi Đình thì chàng cũng lại chiếm luôn ngôi cao nhất - Trạng nguyên. Mấy ngày sau, quan tân khoa Trạng nguyên ngồi trên võng điều có tàn lọng che để trở về quê vinh qui bái tổ. Từ ngày chàng rời nhà ra đi đến nay vừa đúng mười năm, lúc này, Giáp Hải đang ba mươi ba tuổi. Ông bố họ Giáp, lúc này cũng đã ngoại bảy mươi. Từ khi nghe tin con rời nhà trọ ở Kinh đô ra đi mà không biết đi đâu, ông đã cho người tìm tòi khắp nơi, nhưng đều chẳng thấy. Trong thâm tâm, ông đinh ninh chẳng may con ông gặp nạn ở đâu đó, hoặc giả, có ai đã nói về nguồn gốc, nên nó mới phẫn chí mà vĩnh viễn từ bỏ ông, không một lời cáo biệt. Càng nghĩ ông càng rầu rĩ trong lòng, và đêm ngày lại tự than khóc cho số phận hẩm hiu của mình. Tưởng đã tuyệt đường hy vọng thì nay bỗng nhiên thấy sai nha về nhà ông báo trước, đúng họ, đúng tên, đúng tuổi, đúng quê hương bản quán của con trai. Ông mừng mừng rỡ rỡ, tựa như người chết mà sống lại vậy, vội vàng sai người nhà quét tước, sửa sang nhà cửa, mổ lợn mổ bò, mua sắm của ngon vật lạ... để chuẩn bị đón quan Trạng nguyên tân khoa, khao vọng các hàng chức sắc trong phủ trong huyện trong xã, và dân làng. Những ngày này, rủi thay, dân chúng trong huyện lại đang vào kỳ bận rộn, phải kịp cày đất vỡ đất để trồng khoai. Lệnh từ phủ từ huyện đưa xuống là phải cử đinh tráng khoẻ mạnh đi võng giá, còn mọi người phải tập trung ở các trạm nghỉ để đón rước. Trời khi ấy đang nóng bức, nên trên mặt ai nấy cũng đều nhễ nhại mồ hôi mồ kê. Thật rõ là sự vẻ vang hay vênh vang của một người nào đó bao giờ cũng có nỗi khổ nỗi nhục của bao nhiêu người khác đi kèm! Bởi vậy, dân chúng đi đón rước, chẳng mấy ai lại không bực tức thầm trong bụng. Và nỗi bực tức cộng thêm nỗi hồ nghi, rồi tiếp đó, là sự sói móc vào nguồn gốc quan Trạng. Bọn lính tráng đi theo, dần dần cũng nghe lọt được những lời sói móc này, và có người đã bẩm báo tới tai Giáp Hải. Đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nên Giáp Hải, ngoài mặt thì tươi cười nhưng trong bụng lại đinh ninh, nhất định sau này sẽ phải điều tra cho ra nhẽ. Sau lễ vinh qui, Giáp Hải trở lại kinh đô để được nhận quan chức. Bước khởi đầu là chức về ngạch thanh tra - thay mặt triều đình đi đến các nơi để tìm hiểu, tra cứu các việc... Thật là cầu được ước thấy - Giáp Hải chẳng có mong ước nào hơn, và thế là, sau một tuần nghỉ ngơi, chàng đã lên đường làm nhiệm vụ. Sau mấy tháng đi các nơi, Giáp Hải xin nhà vua trở về Kinh Bắc, và định bụng lần này sẽ điều tra nội vụ của bản thân mình. Chàng cất mũ áo ở công quán, rồi cùng một người lính thân tín, đều ăn mặc giả làm dân thường, như hai người bạn đang đi làm ăn xa. Hai người đến thẳng khúc đê có quán nước ở làng Công Luận, bởi vì trong óc, Giáp Hải vẫn còn lờ mờ nhớ hồi bé mình đã từng có mẹ và có quán nước ở đây. Những lời nói móc khi trên đường vinh qui lại càng làm cho chàng củng cố thêm điều con lờ mờ nhớ ấy. Thực may, quán nước vẫn còn nguyên ở chỗ cũ. Bà hàng bây giờ đã là một bà lão ngót nghét tuổi tám mươi, lưng còng, tay chân khẳng khiu như que củi, đi lại vất vả, lại côi cút một thân một mình. Giáp Hải cảm thấy chạnh lòng... Khi hỏi han, bà lão cho biết trước kia có sinh được một mủn con trai, nếu bây giờ còn đã ngoài ba mươi tuổi. "Năm ấy - bà lão nói - thằng bé mới ba, bốn tuổi, thì không rõ bị rơi xuống sông nước cuốn đi, hay là bị mẹ mìn bắt cóc". Vừa nói, bà lão vừa sụt sịt, còn khi nói xong thì bỗng oà lên khóc nức nở... Giáp Hải nhìn và nghe, thấy có cái gì đó như cứa vào tim mình. Tuy vậy, không để lộ tình cảm ra bên ngoài, chàng nói với bà lão: - Nay nhân qua đây, thấy cụ già cả lại lam lũ vất vả, đêm ngày chẳng có con cháu trông cậy đỡ đần... nên chúng tôi cũng động lòng thương. Chẳng dám dấu gì cụ, nhà chúng tôi cũng có bát ăn bát để, nên muốn mời cụ về ở để cho đỡ hiu quạnh tuổi già. Nhưng chẳng biết như thế cụ có vui lòng hay không?... Ý của Giáp Hải là dẫu còn bán tín bán nghi thì hãy cứ đưa bà cụ về nhà cái đã rồi sau này sẽ tìm hiểu thêm. Nếu đúng thì mẹ con sẽ gặp nhau, còn nếu không thì cũng coi như là một việc làm phúc. Còn về phần bà lão, bây giờ đã tuổi cao sức yếu mà không biết nương tựa vào đâu, nên nghe thấy thế thì vô cùng mừng rỡ, chẳng có ước muốn nào hơn. Bà lão nhận lời ngay rồi đi thu dọn quần áo, đồ đạc để theo Giáp Hải về nhà. Từ công sở ở Kinh bắc, Giáp Hải đưa thẳng bà lão về Kinh đô, ở trong tư dinh của mình. Tại đây, bà lão được chăm sóc chu đáo và có một người hầu gái luôn luôn ở bên cạnh. Ý của Giáp Hải là dần dần người hầu gái này sẽ nắm được những điều bí mật, rồi bẩm báo lên cho biết. Quả nhiên về sau, chứng tỏ Giáp Hải đã tính toán không lầm. Số là một hôm Giáp Hải được bẩm báo: Không hiểu sao bà lão lại khóc tức tưởi, an ủi dỗ dành mãi cũng không được. Thấy sự việc có vẻ khác thường, Giáp Hải theo người hầu vào phòng bà lão thì thấy bà vẫn đang khóc thật. Hơn nữa, khi Giáp Hải đến thì bà lại còn khóc to và thống thiết hơn. Chờ khi cơn khóc đã nguôi ngoai, Giáp Hải mới lên tiếng hỏi: - Chẳng hay từ bấy đến nay có điều gì người nhà làm cụ phật ý, xin cụ cứ nói để tôi còn bảo họ. Nghe thấy thế, bà lão vội vã lắc đầu: - Bẩm quan lớn (sau khi về nhà Giáp Hải bà lão đã biết đây là nhà quan). Không phải như vậy. Tôi khóc chỉ vì tôi tủi thân, cầm lòng chẳng được. Nếu đứa con tôi mà còn thì bây giờ cũng ba mươi ba bằng tuổi như quan lớn, lại có nốt ruồi đỏ ở chân trái cũng như quan lớn. Giáp Hải chột dạ: chàng ba mươi ba tuổi, có một nốt ruồi đỏ to ở chân trái thật, và "đặc điểm" này thì từ người trong nhà đến các bạn bè thân hữu, ai ai cũng đều biết cả. Có người còn bảo đấy là cái "ấn" Trạng nguyên mà Ngọc Hoàng Thượng đế đã ban cho chàng - nhưng chàng chẳng tin. Tuy vậy, giả vờ như không nghe rõ lời bà lão nói, Giáp Hải chỉ an ủi một câu: "Thôi cụ ạ. Có gì mà cụ phải tủi thân đâu" - rồi chàng lập tức rời khỏi phòng, nhưng lại ra hiệu cho người hầu gái đi theo mình. Khi Giáp Hải và người hầu gái đã ở trong phòng của chàng, thì chàng nói ngay: - Tại sao bà cụ biết ta ba mươi ba tuổi và có nốt ruồi đỏ ở chân trái? Người hầu gái thưa thực: - Dạ, bẩm quan Trạng. Mấy hôm nay tôi thấy bà cụ thường hay lẩm nhẩm tính toán điều gì, rồi hỏi tôi tuổi quan Trạng bao nhiêu và ở chân trái có nốt ruồi đỏ không? Tôi đã trả lời bà cụ rồi, nhưng tại sao hôm nay bà cụ mới khóc thì tôi không hiểu? Giáp Hải bảo: "Được!", rồi cho người hầu phòng lui ra. Ở lại một mình, chàng nghĩ: "Chính cụ đã nhận ra ta là con của cụ rồi". Hôm sau, Giáp Hải cho người về quê mời ông bố lên kinh - bước cuối cùng trong kế hoạch mấy tháng nay của chàng. Sau mấy ngày để ông bố nghỉ ngơi lại sức sau quãng đường xa, chàng cho mời "bà lão" và "ông lão" đến phòng mình. Chàng nói: - Chẳng dấu gì hai cụ. Bấy lâu nay con vẫn thường băn khoăn về nguồn gốc xuất thân của mình, bởi vì người ta danh phận là danh phận với làng với nước chứ có ai danh phận với cả bố mẹ đã sinh ra và nuôi nấng mình? Hôm nay có điều gì uẩn khúc xin các cụ cứ nói thật với con đi... Giáp Hải vừa dứt lời đã thấy "bà lão" oà lên khóc, còn "ông lão" thì bần thần - hiện ngay ra nét mặt... Thực tình mà nói, ông bố họ Giáp cũng đã định bụng nói nguồn gốc cho Giáp Hải biết từ lâu, nhưng ngặt vì ông chưa biết phải nói như thế nào và nói vào dịp nào. Bởi vậy, sau khi nghe Giáp Hải nói, lại nhìn thấy "bà mẹ đẻ" - ông đoán như vậy - nên đã ôn tồn thuật lại các việc từ đầu, không bỏ sót hoặc dấu diếm một điều gì cả. Trong khi ông bố nuôi kể (Bây giờ đã rõ là bố nuôi!) thì bà mẹ đẻ cũng thôi không khóc để lắng tai nghe. Bằng linh cảm, bà đã nhận ra Giáp Hải là con, kể từ khi bà về dinh quan Trạng. Còn bây giờ, sau khi đã biết tuổi tác, nốt ruồi của con, lại nghe những lời từ chính miệng "ông bố bắt cóc con" nói ra thì bà hiểu niềm tin của bà đã thành sự thật. Bà kể tiếp những đoạn mà từ trước đến nay chỉ có một mình bà biết, cho Giáp Hải và ông bố nuôi cùng nghe. Giáp Hải vừa nghe vừa bàng hoàng, khi bà cụ dứt lời thì chàng oà lên khóc nức nở... Chàng nói với bố, mẹ - giọng lẫn vào trong nước mắt: - Người ta ở đời, mỗi người mỗi hoàn cảnh. Con là con đẻ của mẹ, là con nuôi của bố. Dù công sinh thành hay công dưỡng dục, thì cả hai cũng đều sâu nặng. Xin có trời đất chứng giám: từ nay con sẽ được toại nguyện để lo làm tròn bổn phận của mình... Cuộc đời làm quan của Giáp Hải từ đấy thăng tiến dần dần. Mẹ đẻ và bố nuôi già yếu rồi cũng nối nhau, lần lượt qua đời. Chàng lo chăm sóc khi sống và ma chay khi chết - đều thật chu đáo... Trải qua nhiều năm, đến năm nhà nước mở khoá thi Hương, Giáp Hải được bổ làm chánh chủ khảo của trường thi Sơn Nam. Chánh chủ khảo là người trực tiếp ra đề thi của cả bốn kỳ, lại cũng là người chấm phúc khảo, lấy đỗ. Trách nhiệm ấy thật nặng nề, nếu làm đúng - nghĩa là chọn cho được những người có thực tài, chứ không phải gian lận hay may rủi. Nghĩ mình từ lúc đi học đến lúc đỗ Trạng nguyên phải mất 28 năm miệt mài đèn sách, cho nên Giáp Hải đã ra những đầu bài thi thật khó và có ý định chỉ lấy đỗ những người có thực học. Quan niệm và việc làm ấy của Giáp Hải đương nhiên là đúng, nhưng lại không đúng với thực trạng học hành của đại đa số các sĩ tử thời bấy giờ. Đại đa số các sĩ tử lúc ấy đều học rất chiếu lệ, khuôn sáo, chứ không chịu nghiền ngẫm nghĩa lý sâu xa. Bởi vậy, chỉ mới đọc xong đầu bài của kỳ thứ nhất, họ đã nhao nhao lên phản đối: Nếu quan chánh chủ khảo không ra đề thi lại thì họ sẽ phá trường thi. Không thể đem binh lính đi bắt hết các sĩ tử nổi loạn được, nhưng cũng không thể tự ý bãi miễn cuộc thi, bởi vậy, Giáp Hải đành phải nhượng bộ. Nhưng trong khi các sĩ tử làm bài thì Giáp Hải cho người đi dò xét, rồi cuối cùng cũng bắt được kẻ chủ mưu. Quan chánh chủ khảo lập án, khép người này vào trọng tội, phải lĩnh hình phạt tử hình. Rủi thay, phạm nhân lại là con một - cha mẹ vào gặp Giáp Hải, khóc lóc van xin thế nào cũng không được giảm án... Giáp Hải cũng có một con trai, năm ấy 18 tuổi, tên gọi Giáp Phong. Khi người sĩ tử kia thụ án được mấy ngày thì Giáp Phong cũng bị cảm mạo bất ngờ, rồi chết đột ngột. Đối với Giáp Hải, việc mất con như thế cũng là mất cả niềm hy vọng, nên ông ta thương xót vô cùng, biếng ăn mất ngủ, vật vã có đến cả tháng trời. Tuy là người học hành nhiều, lại đỗ cao, chẳng tin gì vào chuyện đồng cốt, nhưng vì nỗi đau quá lớn, nên Giáp Hải cũng cho mời thầy phù thuỷ về nhà cúng bái rồi làm phép đánh đồng thiếp, để linh hồn mình được xuống âm phủ gặp con. Ông thầy đặt lễ, cầu khấn, làm phép, đọc thần chú, bắt quyết... còn Giáp Hải thì ngồi đồng. Một lúc lâu sau, thấy Giáp Hải "đảo", hai mắt lờ đờ, trợn ngược, rồi nằm vật xuống - ấy là lúc ông ta thấy người mụ mị và trời đất tối sầm, còn toàn thân nhẹ bẫng, như đang bay đi đến tận đâu đó... Linh hồn Giáp Hải bay mãi, bay mãi..., cuối cùng "đỗ" xuống, và trước mặt là một ngôi lầu ngũ giác, sơn son thiếp vàng. Linh hồn Giáp Hải nhìn vào phía trong, vì ngôi lầu cửa mở toang, thấy kẻ hầu người hạ đi lại tấp nập, còn ở trên chiếc sập kê chính giữa, lại có hai người trai trẻ đang ngồi đánh cờ. Linh hồn Giáp Hải mừng quýnh, vì nhận ra một trong hai người đích thị là Giáp Phong. Linh hồn Giáp Hải định bước vào, nhưng vừa bước đến cửa đã bị hai lính hầu cản lại. May mà hai người lính chỉ cản chứ không đuổi, nên linh hồn Giáp Hải rón rén đứng nép vào một bên. Một lát sau, đánh bạo, linh hồn Giáp Hải đến nhờ một người lính vào bẩm báo với Giáp Phong. Lạ thay - linh hồn Giáp Hải vẫn nhìn thấy - khi người lính ghé sát nói vào tai, thì Giáp Phong vẫn thản nhiên đánh cờ, không thèm để ý gì đến lời nói của người lính. Đến khi hết ván cờ, Giáp Phong và người kia đứng lên, cùng bước ra ngoài phòng. Khi ngang qua chỗ linh hồn Giáp Hải đứng, Giáp Phong cũng không dừng lại, mặc dù mắt đã nhìn thấy. Linh hồn Giáp Hải lại còn nghe rõ cả tiếng của người kia hỏi Giáp Phong: - Thế tiên huynh không quen biết cả người này à? - Có -Tiếng Giáp Phong trả lời - Tôi quen ông ta từ mười tám năm nay, nhưng rốt cục, vẫn chỉ như người xa lạ... - Vì sao như thế? - tiếng người kia lại hỏi. - Có gì đâu - Tiếng Giáp Phong trả lời. Chả là vì ông ta đã lạm sát mất một mạng người.... Nghe thấy thế, linh hồn Giáp Hải bỗng thấy choáng váng, rồi loạng choạng, ngã vật xuống - và chính lúc ấy, Giáp Hải thật đã tỉnh lại, dứt hẳn cơn nhập đồng. Từ đấy trở đi Giáp Hải ăn năn hối lỗi. Dù ở công đường hay trong đời thường, bao giờ ông cũng tỏ ra bao dung, độ lượng hơn người. Sau lần nhập đồng, việc đầu tiên của ông là mời cha mẹ của người tử tù ngày trước lại, an ủi và chu cấp tiền bạc để về sửa lễ, cầu cúng cho linh hồn anh ta được siêu sinh tịnh độ... Khi mãn cuộc đời làm quan, Giáp Hải về quê điền viên vui hưởng tuổi già. Ông được người đời truyền tụng là một vị quan thanh liêm, chính trực.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/trang-nguyen-giap-hai" }
Quan Âm Thị Kính
Ngày xửa ngày xưa, tại một vùng nọ có một phú ông giàu có họ Mãng, gia đình họ có một cô con gái rất bụ bẫm và đáng yêu. Người mẹ hay khen: – Ôi, con gái bố mẹ thật đáng yêu, con thật xinh đẹp biết bao… Người cha đã nói rằng: – Chúng ta thật có phúc. Chúng ta đặt tên con là Thị Kính được không bà? – Cái tên thật đẹp. Tôi hy vọng con gái chúng ta sẽ trở thành một thiếu nữ vừa xinh đẹp, vừa ngoan hiền, biết hiếu thuận với cha mẹ, biết kính trên nhường dưới. Con gái mẹ nha? Dưới bàn tay nâng niu và tình thương của cha mẹ, Thị Kính khi lớn lên vô cùng xinh đẹp và nết na. Khi nàng đến tuổi cập kê, cha mẹ liền gả nàng cho một anh học trò tên gọi Sùng Thiện Sĩ. Về làm vợ Thiện Sĩ, làm dâu họ Sùng, Thị Kính luôn chăm chỉ chăm nom canh cửi, cơm nước, bếp núc nuôi chồng học hành. Thi thoảng nàng lại nói chuyện để khích lệ chồng mình: – Chàng học hành siêng năng như vậy, công danh phía trước đang chờ. Thiếp rất tin tưởng vào chàng. Nghe vợ nói vậy, Thiện Sĩ lại càng gắng sức học tập mong đạt công danh phú quý để vui lòng vợ cũng như làm gia đình rạng danh. Một ngày nọ, Thiện Sĩ ngồi đọc sách bên cạnh nơi Thị Kính hay may quần áo. Sau đó do mệt mỏi quá nên chàng gục xuống bàn ngủ thiếp đi. Nàng ngồi bên cạnh thấy vậy thì cố gắng giữ yên tĩnh để chồng được ngủ giấc. Khi may quần áo xong, nàng ngồi cạnh ngắm kỹ khuôn mặt anh tuấn của chồng mình. Rồi nàng bỗng thấy trên má chàng có một sợi râu lại mọc ngược. Thấy vậy nàng mới nghĩ: – Má chàng có một sợ râu thật kỳ lạ. Nghe người ta nói râu mọc ngược là người có tướng bạc ác, có lẽ ta nên cắt bỏ giúp chàng mới được! Nghĩ là làm, Thị Kính cầm lấy chiếc kéo nằm trong rổ may vá của mình, rồi nàng cúi xuống chuẩn bị cắt sợi râu kia đi. Nhưng đúng vào lúc ấy, Thiện Sĩ không biết sao choàng tỉnh dậy, chàng thấy tay vợ mình cầm kéo đang kề sát bên mặt mình thì hoảng sợ la lên: – Ơ… ơ… nàng đang làm gì thế? Chẳng lẽ nàng định nhân lúc ta ngủ mà giết ta sao? Thấy chồng hoảng sợ như vậy, Thị Kính bật cười nhìn chồng, nhẹ nhàng trả lời: – Sao lại có chuyện đó được chàng ơi! Vì thấy trên má chàng có một sợ râu mọc ngược, thiếp chỉ định cắt nó đi mà thôi! Nhưng vì chưa tỉnh ngủ hẳn, Thiện Sĩ nghi ngờ nhìn vợ, dù nàng có nói thế nào vẫn nhất định không chịu tin, vì vậy cứ hô hoán ầm ĩ hết: – Đừng có lấp liếm! Ngươi là ác phụ toan giết chồng! Làng nước ơi!… Mẹ Thiện Sĩ nghe thấy tiếng con trai la lớn thì mặt thất sắc chạy vào hét lớn: – Có việc gì? Chuyện gì thế? Bà nghe con trai kể thoáng qua mọi chuyện, tức mình bà trỏ thẳng mặt con dâu mà tru tréo: – Giời ơi là giời! Kia con ác phụ! Mày toan giết chồng mày để đi lấy chồng khác có của có cải hơn sao? Đúng mà! Là mày thấy gia đình tao nghèo nên mày khinh. Vì thế mày mới âm mưu độc ác này đúng không hả? Thị Kính thấy vậy thì hết nước phân trần nhưng cả nhà không ai chịu nghe nàng nói. Mọi người đều xúm lại đổ mọi tội lỗi cho nàng. Sau đó mẹ chồng nàng mới nói với cả nhà: – Hãy báo quan gô cổ nó lại cho xong! Người cha chồng lại nói: – Nên đuổi nó về lại cho cha mẹ nó thì hơn! Đến nước này thì Thị Kính đã rõ ràng là mình không thể minh oan được nữa, nàng lệ đầy mặt mà nói: – Dù cho con có trình bày rõ ràng như vậy nhưng cha mẹ vẫn một mực không nghe, thôi con phải chịu vậy… Cha mẹ đã có ý đuổi thì con đành ra đi vậy! Sau đó Thị Kính đành khăn gói rời khỏi nhà trong đau đớn. Nước mắt nàng tuôn rơi, đau lòng mà nghĩ: – Mọi sự ra nông nỗi này, mình còn mặt mũi nào mà về với cha mẹ nữa chứ… hu… hu… hu… Quá buồn chán vì số phận của mình, đồng thời để tiện trong việc đi lại, Thị Kính bèn đóng giả thành đàn ông, nàng tìm ra khỏi tỉnh, lòng tự nhủ: – Ta phải đi thật xa, sau đó xuất gia cầu Phật cho đến hết kiếp này thôi! Cuộc đời, quả là mãi trầm luân trong bể khổ. Nàng cứ đi mãi, đi mãi để tìm kiếm một nơi dừng chân mới thật xa quê hương, nàng muốn xóa bỏ mọi kí ức đau buồn trước đây. Ngày nọ, nàng vô tình ngang qua ngôi chùa Vân ngụ trên một khu đồi vắng vẻ, nơi này vô cùng yên tĩnh và thanh bình, nàng lấy làm ưng: – Kiếp người này, mình nên ở lại nơi này tu thân vậy… Nói xong nàng liền vào chùa xin bái sư để mình được xuất gia cầu Phật. – Sư phụ, xin người hãy nhận con làm đệ tử! Vì nhìn vào không biết nàng là gái giả trai, lại thấy nàng có vẻ hiền lành và lòng mộ đạo, sư cụ cũng bằng lòng nhận nàng vào làm tiểu, rồi đặt hiệu cho nàng là Kính Tâm. Về cái tên này, sư cụ cũng có giải thích với nàng: – Kính Tâm, cái tên này có nghĩa là một lòng thành kính giữ gìn tâm đạo. Ta mong con luôn nhớ điều này! Nguyện vọng cuối cùng đã đạt được, vì thế Kính Tâm luôn dốc hết lòng tu hành tại chùa. Nàng nghĩ rằng mọi sự đời trong mình đã tắt lửa, vì vậy sáng tối yên tâm ở nơi này làm bạn với kinh Phật, một lòng muốn hướng Phật để quên hết đi bụi trần. Mọi yên bình chưa được bao lâu thì sóng gió lại nổi lên. Trong thời gian nàng tu hành tại chùa Vân, một hôm có mở hội chay, mọi người trong vùng đều nô nức chen nhau đến chùa xem khai đàn. Hôm ấy phật tử khắp nơi trong vùng kéo đến dự hội chùa rất đông. Ngày hội hôm ấy, cô con gái của một gã phú ông giàu có trong vùng cũng tới, cô ta tên là Thị Màu, tính tình vốn rất lẳng lơ, trăng hoa. Đến hội, trong lòng cô ta chỉ thầm nghĩ: – Mình đi hội thế này, có chăng vớ được tình nhân, vậy thì tốt biết bao! Trong khi mọi người tập trung xem khai trai đàn thì Thị Mầu lại một mình loanh quanh khắp chùa. Trong khi quanh quẩn, cô ta vô tình trông thấy vị sư Kính Tâm, lòng cô ta reo lên đầy vui mừng: – Ông thầy kia sao mà đẹp trai quá đi mất! Thấy Kính Tâm, cô ả sinh ra lòng gian tà: – Trên đời sao có kẻ ngu quá trời! Mặt mũi đẹp như vậy lại đi tu thật quá uổng rồi! Kệ đi! Chùa thì sao? Sư thì thế nào? Bà đã thích thì phải ghẹo bằng được mới thôi! Nghĩ vậy, ả ta bèn lả lướt theo sau, rồi buông lời trêu ghẹo: – Nè thầy! Xin thầy hãy đoái nhìn đệ tử một cái! Đệ tử là thành tâm, thực lòng với thầy… Thấy cô ta cứ õng ẹo phía sau buông lời ve vãn, Kinh Tâm liền nghiêm mặt mà đáp lại rằng: – A di đà phật! Tôi đã xuất gia để giữ giới thanh tịnh, mong nữ thí chủ đây đừng đùa bỡn nữa! Tuy Kính Tâm nói vậy nhưng là Thị Màu lại không chịu buông tha, ả càng lúc càng say mê, tay níu chân kéo: – Hỡi chàng! Xin chàng đừng bỏ thiếp mà đi… Thiếp thực lòng thương yêu chàng mà! Đến mức này thì Kính Tâm cũng không biết nói sao, bèn bỏ vào trong chùa, miệng luôn lẩm bẩm khấn: – Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật! Kính Tâm bỏ đi mất, Thị Màu sinh hổ thẹn, trong lòng chất giận bèn rủa: – Ngươi được lắm! Được ta thương còn dám làm cao, để xem, mai kia ngươi hối không kịp. Lửa giận không nguôi, Thị Màu tức giận bỏ về, sau đó tư thông với một người đầy tớ trai nhà mình. Sau vài tháng thì Thị Màu bị cha mẹ phát hiện đã mang bầu. Mẹ cô ả mới khóc than: – Giời ơi! Con với cái lại chửa hoang! Nhục, nhục quá, giời ơi là giời! – Mày trót dại với thằng nào, nói ngay? Nhận tội đi, tao còn ra xin làng chạy tội cho mày. Vốn chủ ý trả thù từ trước, Thị Màu cố tình bịa chuyện vu khống: – Thưa cha thưa mẹ, là con trót lỡ cùng sư Kính Tâm tại chùa Vân. Nghe con gái nói ra một chuyện động trời, người cha vô cùng hốt hoảng mà la lớn: – Cái gì? Sư Kính Tâm sao? Giời ơi là giời! Thôi, đã vậy rồi… Vợ chồng phú ông lo sợ con gái mình chửa hoang bị làng bắt vạ, vì thế lập tức đi tới nhà lý trưởng để trình báo ngọn ngành, họ quyết đổ tất cho Kính Tâm: – Thưa ngài, tên khốn nhà sư ấy, tên hư đốn ấy dụ dỗ đứa con gái ngoan của tôi. Giờ đây nó đã mang thai rồi, xin làng lấy lại cho con tôi cái công đạo… Nghe được mọi sự từ miệng phú ông, Lý trưởng lập tức sai quân đinh đến bắt Kính Tâm để tra khảo. Nhưng dù có bị đòn roi tơi tả, Kính Tâm vẫn một lòng nhẫn nhịn không để lộ phận gái của mình. Miệng vẫn luôn niệm: – Nam Mô Nhẫn nhục Vương Bồ Tát! Nam Mô Nhẫn nhục Vương Bồ Tát! Đám quân đinh trong làng vẫn không chút nao núng, chúng vẫn tiếp tục đánh đập tàn nhẫn. Trông thấy sự nhẫn nhục không chịu khuất của Kính Tâm, sư cụ động lòng bèn đứng ra mà xin với làng: – Xin để tôi đóng tiền phạt vạ, làng hãy tha cho sư Kính Tâm lần này để làm phước. Xin làng tha cho làm phước. Vì sư cụ đã đứng ra đóng tiền phạt và xin làng nên Kính Tâm được làng tha, không bị đánh đòn nữa. Nhưng từ đó, lo sợ trước miệng lưỡi thế gian dè bỉu, sợ ô danh cửa chùa, sư cụ không còn cách khác đành bảo: – Con đã phạm vào giới cấm, chùa không thể giữ con lại tu hành nữa, con phải rời khỏi đây thôi! Biết không thể cứu vãn sự tình, Kính Tâm đành đau lòng rời chùa Vân. Nàng lại trở lại là Thị Kính, không biết đi đâu, nàng đành dựng một túp lều nhỏ ngay dưới chân núi, chấp nhận mọi sự hành hạ mà không mở miệng van xin than thở với ai. Nàng vẫn luôn tự nhủ với lòng mình rằng: – Dù nay đã xa chùa, nhưng ta vẫn phải tu cho trọn chữ đạo! Vì vậy dù đã rời chùa, ở một nơi xa xôi nhưng lòng nàng luôn hướng về đức Phật, ngày ngày tụng kinh niệm phật, tu tâm dưỡng tánh hệt như lúc làm sư: – Ta xin thề, kiếp này dù sống được bao lâu ta cũng sẽ theo dấu Phật Như Lai cho đến khi lìa đời! Xin người Đức Phật từ bi hãy phù hộ con. Dù sự đời đã đến thế nhưng vẫn còn chưa yên. Thị Màu sau đó có sinh được một đứa bé trai. Vì đã trót lòng đổ tội cho Kính Tâm, không chút hổ thẹn hay thương yêu gì đứa bé, cô ta nhanh chóng đưa con đến chỗ túp lều của Thị Kính mà rằng: – Đứa trẻ này là con người, tôi đem nó trả cho người đấy! Vừa sợ lộ thân phận cũng như tung tích của bản thân. Lại càng sợ Thị Màu vô tình vô nghĩa đem bỏ đứa bé kia ngoài đường làm nó chết thì hối cũng không kịp. Chẳng biết làm sao, Thị Kính đành phải nhận nuôi đứa bé, nàng cũng không quên khuyên nhủ Thị Màu: – A di đà Phật! Nữ thí chủ xin đừng mang thù hận trong lòng chi nữa! Nên về tu tâm lại thì hơn. Từ hôm đó, Thị Kính cùng đứa bé chung sống với nhau trong túp lều nhỏ, hàng ngày nàng lại bế nó đi khắp đầu xóm cuối ngõ xin sữa. Mọi người đi qua đều chế nhạo nàng: – Kẻ tu hành mà không giữ nết! Hư hỏng thế là cùng! Mặc cho dân làng cười nhạo phỉ báng mình ra sao, nàng vẫn cắn răng nhẫn nhịn, im lặng mà tâm niệm trong lòng: – Phật dạy, muốn tu hành là phải nhẫn nhục! Thời gian lại trôi, ngày lại ngày qua, Thị Kinh không một lời than oán. Sáu năm qua đi, nàng vẫn một lòng chăm nom con của người hệt như con mình, đứa bé lớn lên khỏe mạnh và sống hạnh phúc bên cạnh nàng. Đứa bé thì ngày càng lớn khôn, nhưng sức khỏe của nàng lại ngày một suy cạn mệt mỏi. Đến một ngày, nàng lâm bệnh nặng. Thị Kính biết bản thân không thể nào sống lâu hơn, vì vậy nàng liền gọi con lại, gắng sức viết lại một bức thư để kể rõ mọi sự đã xảy ra bấy lâu cho cha mẹ của mình. Trong lòng nàng lúc này chỉ còn nghĩ được: – Mình nói rõ với cha mẹ, chắc hẳn cha mẹ sẽ không còn buồn lòng mình nữa. Về phần đứa bé này, mình sẽ giao lại cho sư cụ, chắc hẳn sư cụ không đành lòng mà từ chối đâu! Thư viết xong nàng bèn dặn dò cẩn thận cho đứa bé, bảo nó sau khi nàng chết thì đem thư trao cho sư cụ ở chùa Vân, nhờ người đem trao cho cha mẹ mình. Dặn dò xong xuôi mọi chuyện, nàng trút hơi thở cuối cùng trong thanh thản. Đứa bé ở bên cạnh nàng nước mắt rơi lã chã, gào khóc thảm thiết, rồi chỉ có một mình lại túp lều cô quạnh, nhớ lời nàng dặn, nó vội chạy đi báo tin cho dân trong làng. Biết nàng đã mất, mọi người xúm lại tổ chức khâm niệm cho nàng, cũng nhờ đó mà họ mới biết một sự thật kinh khủng: – Trời đất ơi! Sư Kính Tâm lại là đàn bà! Lạy thần lạy Phật! Sư đã bị oan bao nhiêu năm mà chúng ta nào đâu biết! Tất cả đều cảm nhận được sự nhẫn nhục của nàng bấy lâu nay, quả thật là cùng cực đau khổ không sao tả được. Sư cụ khi hay tin thì lệ nóng cũng tuôn trào, miệng không ngớt than khóc: – Đệ tử của ta! Là thầy đuổi lầm con đi! Sự nhẫn nhục chịu đựng của con không hề thua các vị Bồ Tát! Lòng từ bi nơi con cũng lớn như ngọn núi Tu Di vậy. Thầy xin con hãy tha thứ cho lỗi lầm của thầy… Sau đó sư cụ mới lập trai đàn, tổ chức lễ cầu siêu cho Thị Kính. Còn về phía Thị Màu, cô ta bị làng bắt phải chịu trách nhiệm hết trong chuyện này, và phải lo lễ ma chay đoàng hoàng cho Thị Kính. Trong khi sư cụ khai đàn niệm hương thì trên trời, Đức Phật Thiên Tôn xuất hiện mà phán rằng: – Thị Kính đã tu thành chính quả, được phong Phật Bà Quan Âm. Sau này, khi nói tới nỗi oan lớn thì người ta hay nói “Oan Thị Kính”, tưởng nhớ về câu chuyện trên...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/quan-am-thi-kinh" }
Sự tích con nhái
Ngày xưa có một vị hòa thượng trẻ tuổi nổi tiếng chân tu. Mọi “thị dục” của bản thân, hòa thượng đều kiên quyết cắt đứt, chỉ một lòng chuyên chú vào lẽ hư vô của đạo Thiền. Nhà vua nghe tiếng, vô cùng kính trọng, vời về cung, ban tước quốc sư và sai tu bổ một ngôi chùa ở phía Nam kinh thành để cho sư trụ trì. Nhưng hòa thượng từ tạ vua, chỉ xin phép đi xem chùa chiền, cảnh đẹp trong thiên hạ. Một hôm, hòa thượng một mình tìm đến một ngôi chùa xa ở vùng Bắc. Ở đó có một vị sư bạn trụ trì mà hòa thượng lâu ngày chưa gặp. Từ lâu Phật bà Quan âm đã nghe tiếng đồn về hòa thượng. Lần này nhân cuộc đi chơi của hòa thượng, Phật bà định bụng thử xem con người đó như thế nào. Nếu quả đúng là chân tu thì Phật bà sẽ đưa về Tây-trúc, độ cho thành Phật. Lúc hòa thượng sắp qua một con sông rộng, Phật bà hóa thành một cô gái rất trẻ đẹp chống đò cập bến chở khách quá giang. Hôm ấy cũng theo phép màu nhiệm của Phật bà, khúc sông đó trở nên vắng vẻ, người và thuyền bè qua lại rất ít. Khi hòa thượng chui vào trong khoang đò thì cô gái nhổ sào chèo ra giữa sông. Đoạn nàng bẻ lái cho thuyền tiến đến một bãi cát vắng đậu lại. Hòa thượng lấy làm lạ, hỏi cô lái vì sao không đi thẳng qua bờ bên kia. Cô lái chỉ đợi có câu hỏi ấy là buông chèo, cười một nụ cười rất tình tứ rồi cũng chui vào khoang trả lời một cách cợt nhả là thấy sư đẹp trai quá nên cắm sào lại đây cầu xin được ân ái. Hòa thượng vốn nghe con gái ở vùng này có nhiều người đáo để nên nghiêm nét mặt lại: – A-di-đà Phật! Mong người trần giới buôn tha cho kẻ tu hành này. Nhưng cô lái đò đâu có buông tha, cô cố sán lại gần gợi tình. Hòa thượng không nói gì, lẳng lặng mở gói lấy cuốn kinh Kim cương tam muội ra tụng. Tiếng đọc của sư mỗi lúc một lớn, át cả tiếng của cô lái đò. Nhưng cô lái đò vẫn cười nói không thôi. Rồi chô che tay lên quyển kinh. Hòa thượng ngoái cổ nhìn ra ngoài đò rồi nghiêm khắc cảnh cáo: – A-di-đà Phật! Trong người bần tăng có một tờ lệnh chỉ của hoàng đế. Trong đó hoàng đế đã ra lệnh hễ người nào phạm vào người bần tăng sẽ bị án trảm quyết. Vậy bần tăng mong người đừng phạm vào phép của thiên tử. Lời dọa của nhà sư không làm cho cô gái nhụt một tý nào. Cô nói: – Em đang muốn chết đây! Em chỉ mong chàng đoái thương một tý rồi chết cũng thỏa. Nhưng hồi lâu, thấy lòng nhà sư không chuyển, cô lái đò lại thi hành một mưu khác, cố quyến rũ cho bằng được. Cô bắt đầu cởi áo ra. Khi chiếc yếm cổ đuôi nhạn bỏ xuống thì hòa thượng nhắm mắt lại, Hòa thượng quay về phía cái gói lấy chiếc áo của mình khoác vào người nàng. Trong khoang đò chật chội, tay hòa  thượng vẫn lần tràng hạt, miệng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh, Trong khi đó những tiếng của cô gái như mật rót vào tai: – Chàng thương em một tý… Chàng nhìn ra ngoài mà xem, nào có một ai đâu… Nhưng vô hiệu. Phật bà Quan âm rất cảm động. Nhưng người con Phật như thế này rất xứng đáng chiếm một chỗ ngồi trên Nát-bàn. Nhưng đã thử thì phải thử cho trót. Lần tấn công thứ chín, cô lái đò vẫn bị cự tuyệt. Hơi thở của cô con gái trẻ và đẹp phảng phất ở trên má, nhưng nét mặt của hòa thượng vẫn không đổi. Nhưng đến lần thứ mười, cô gái không ngờ thành lũy tưởng là kiên cố lại bị hạ một cách quá bất ngờ. Bàn tay hòa thượng tự nhiên run rẩy bỏ lên mình nàng. Thôi thế là chỉ trong một phút, vứt hết hơn hai mươi năm tu luyện. Thế là chuyến đó Phật bà Quan âm không được hài lòng. Giận vì hòa thượng đã thiếu kiên trì trước sức cám dỗ của “thị dục”, mà đã thế thì thanh danh cũ đâu còn đáng đếm xỉa nữa, nên Phật bà đã nắm lấy cổ hòa thượng vứt ngay xuống sông như người ta vứt một cái rác. Thế mà Phật bà vẫn chưa cho là đáng tội, nên còn bắt hóa làm loài nhái là một loài động vật hạ đẳng. Cũng vì thế mà người ta nói rằng ngày nay dòng dõi của loài nhái vẫn còn giữ cái thói quen của tổ tiên, ví dụ khi chúng bị chặt đầu, chúng vẫn chắp hai chân trước lại với nhau như người đang vái.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-nhai" }
Bà chúa bèo
Ngày xửa ngày xưa ở một làng nọ có một cô bé hiền lành, chịu thương chịu khó. Một ngày cô ngồi ở bờ ruộng lặng nhìn những cây lúa nghẹn đòng ở ruộng nhà. Cô thương cho lúa và lo cho gia đình mình. Năm nay mất mùa thì lại bữa cơm bữa cháo! Cô nhìn cánh đồng làng rộng thẳng cánh cò bay. Ðất bạc màu, lúa ốm yếu, xanh một màu vàng vọt. Cô thương cho lúa và lo cho làng xóm. Năm nay mất mùa thì lại có người chết đói! Cô ôm mặt khóc. Bỗng Bụt hiện ra sáng lòa, hỏi: – Tại sao con khóc? Cô bé vừa mếu máo vừa thưa: – Con khóc vì con thương cây lúa nghẹn đòng. – Nhưng nước mắt của con có làm cho cây lúa trổ bông, sây hạt được đâu? Nghe Bụt nói thế, cô bé càng khóc to hơn. Bụt lại hỏi: – Con có muốn cứu lúa không? – Dạ, có. – Muốn cứu lúa, thì con phải đưa cho ta một vật gì con quý nhất. Cô bé nhìn áo mình thì áo nâu vá, sờ vào túi thì túi nhẵn không, nhòm vào giỏ thì giỏ chỉ có mấy con cua vừa mới bắt được. Sực nhớ đến đôi hoa tai bằng ngọc quý, cô vội gỡ ra, rồi hai tay dâng lên Bụt: – Thưa Bụt, con chỉ có đôi bông tai hoa dâu, mẹ con trước khi chết đã trao lại. Mẹ con dặn rằng: “Bông hoa tai ngọc này là của quý của dòng họ ta đấy”. Nói đến đây, cô bé ngừng lại. Bụt giục nói tiếp. Cô bé nhìn đôi hoa tai lóng lánh: – Mẹ con còn bảo: “Dòng họ có lời nguyền hễ ai được đeo hoa tai mà làm mất hoặc đem bán đi, thì người đó suốt đời sẽ bị dòng họ xa lánh, hắt hủi, suốt đời sẽ sống một cuộc sống lẻ loi, buồn tủi”. – Con đưa cho ta vật quý, con không sợ bị trừng phạt sao? Nhìn ruộng lúa nhà mình, nhìn cánh đồng làng, cô bé mạnh dạn thưa: – Ðể cứu lúa, con xin chịu trừng phạt. Cô bé quỳ xuống, hai tay dâng đôi hoa tai lên cho Bụt. Bụt nâng cô bé dậy, chỉ vào một đám ruộng nước, bảo: – Con hãy ném đôi hoa tai bằng ngọc quý này xuống ruộng kia! Cô bé làm ngay theo lời Bụt. Lạ chưa! Bông hoa tai sáng rực lên một mầu xanh rồi chìm xuống nước. Sau đó nổi lên một cây bèo hình hoa dâu, giống hệt hoa tai của cô bé. Bụt bảo: – Con hãy nhân cây bèo lên hàng triệu triệu cây mà bón cho lúa. Lúa sẽ xanh, hết nghẹn đòng, sây hạt, nặng bông. Con xuống ruộng, đụng vào cây bèo đi! Khi nào con làm cho cánh đồng làng này xanh tốt, dòng họ sẽ rút lời nguyền cho con. Dứt lời, Bụt biến mất. Cô bé xuống ruộng, đụng vào cây bèo xanh mượt. Hễ đụng vào một cây hóa thành hai, đụng vào hai cây, hóa thành bốn, đụng vào bốn cây, hóa thành tám. Thoạt đầu, cô lấy một ngón tay đụng vào bèo, dần dần lấy cả năm ngón tay rồi cả bàn tay mà nhân bèo. Cô mải mê làm đến chiều tối, bèo đã xanh kín cả ruộng. Hôm sau, cô lại đem một ít bèo sang ruộng bên cạnh, và cứ thế nhân lên. Ruộng nào có bèo hoa dâu, thì lúa xanh tốt, mập khỏe hẳn lên. Dân làng thấy thế, ai cũng mừng rỡ và cùng cô bé ra sức nhân bèo. Chẳng bao lâu, cả cánh đồng mênh mông được phủ một lớp bèo hoa dâu xanh mượt. Mùa năm ấy, lúa chín vàng trĩu hạt. Dân làng chung quanh thấy bón bèo hoa dâu lúa tốt, đến mua giống. Bèo hoa dâu dần dần lan rộng ra nhiều làng, nhiều huyện. Một hôm, bố nhìn hai tai cô bé, hỏi: – Ðôi hoa tai ngọc của con đâu rồi? Cô bé cúi đầu, ngập ngừng, rồi kể hết cho bố nghe câu chuyện cô ngồi Khóc thương lúa và gặp Bụt. Bố cảm động, ôm con vào lòng, nói: – Bụt nói đúng. Dòng họ, dân làng nhờ con mà được ấm no, dòng họ sẽ bỏ lời nguyền, và thương con, yêu con mãi mãi. Ngày nay, không phải chỉ có một đôi hoa tai làm đẹp cho một người mà có hàng triệu triệu hoa tai làm cho mọi người ấm no. Người ta kể lại rằng: sau khi cô chết, để tỏ lòng nhớ ơn cô, dân làng La Vân, tỉnh Thái Bình lập đền thờ và gọi cô là: “Bà Chúa Bèo“.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-chua-beo" }
Sự tích hoa thủy tinh
Ngày xửa ngày xưa , trong một ngôi làng nọ, có hai vợ chồng nghèo, rất nghèo, họ nghèo đến nỗi không có nổi một căn nhà để ở, không có 1 mảnh ruộng để nuôi thân. Hai vợ chồng phải đi làm mướn cho những gia đình giàu có trong làng, và dựng 1 túp lều sát bìa rừng để ở. Hàng ngày, họ phải thức dậy từ rất sớm, còng lưng ra làm thuê cuốc mướn cho đến tận khuya. Cả ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, may mắn lắm cũng chỉ kiếm đủ thức ăn cho họ trong ngày. Nhưng bù lại, họ sinh được 1 cô con gái, cô bé là nguồn động lực giúp họ vượt qua tất cả những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Họ đặt tên con là Hoa. Hoa càng lớn càng siêng năng, ngoan ngoãn, thông minh và xinh xắn. Nàng giúp cha mẹ mình tất cả những công việc nhà và đôi khi giúp cha mẹ trồng và gặt lúa. Tuy nhà nghèo nhưng nàng có 1 tấm lòng rất nhân hậu. Nàng được cha mẹ và mọi người trong làng hết lòng yêu mến. Nàng là niềm tự hào của cha mẹ mình, nàng là người con rất có hiếu với cha mẹ của mình. Cuộc sống tuy nghèo nhưng yên bình và hạnh phúc của họ sẽ cứ thế trôi qua, và sẽ vẫn như thế nếu không có một thảm họa xảy ra trong ngôi làng của họ. Trong làng đột nhiên xuất hiện một con quái vật độc ác. Không ai có thể bắt và giết được con quái vật đó…Nhà vua ra lệnh cho tất cả đàn ông con trai trong làng thay phiên nhau đi tìm và mang đầu con quái vật đó về cho ngài. Rất nhiều, rất nhiều thanh niên trai tráng trong làng ra đi….Nhưng không một ai quay về…Cho đến một ngày, theo lệnh của nhà vua, cha của nàng cũng phải lên đường đi tìm giết con quái vật đó. Thấy cha buồn bã, nàng xin được đi thay. Nhưng cha nàng không đồng ý, vì nàng còn quá nhỏ, lúc đó nàng mới 12 tuổi. Rồi sau đêm hôm đó, cha của nàng cũng không quay trở về…Nàng khóc vì thương cha, khóc suốt ba ngày ba đêm thì nàng mệt quá, ngủ thiếp đi. Trong mơ, nàng gặp một bà tiên, bà nói cha của nàng chưa chết, ông và tất cả những thanh niên trai tráng trong làng chỉ bị phù phép bởi con quái vật độc ác, họ bị biến thành những pho tượng bằng đá. Và hiện đang bị giam giữ trong hang động nơi con quái vật trú ngụ. Bà chỉ cho nàng cách cứu thoát mọi người “Con quái vật đó sợ ánh ánh mặt trời, con hãy dùng những bông hoa được tạo ra từ nước mắt của con, cắm ngay trước hang động của nó khi mặt trời trên đỉnh ngọn tre, ánh sáng mặt trời từ những bông hoa ấy sẽ giết chết nó”. Khi tỉnh dậy, nàng nhìn quanh thì thấy từ chỗ những giọt nước mắt của nàng rơi xuống mọc lên những bông hoa kỳ lạ, trong suốt như những giọt nước mắt của nàng, những bông hoa thanh mảnh, xinh xắn, mỏng manh và dễ vỡ… Nàng thích thú ngắm nhìn và lấy tất cả những bông hoa đó đem theo bên mình, rồi từ biệt mẹ lên đường đi tìm giết con quái vật để cứu cha. Ròng rã một thời gian dài, ngày đi, đêm leo lên cây ngủ để tránh thú dữ. Cuối cùng nàng cũng đến được hang động của con quái vật. May mắn thay, lúc này là ban ngày nên con quái vật đang trốn trong hang. Nàng làm theo lời bà tiên, cắm tất cả những bông hoa trước cửa hang và chui vào một bụi cây để trốn. Ánh sáng mặt trời hấp thụ qua những bông hoa rọi thẳng vào trong hang, con quái vật gầm lên, gào thét rên la một cách đau đớn. Một lát sau thì tiếng la im bặt…Nàng chui vào trong hang, đi sâu vào bên trong thì thấy con quái vật đã chết. Đi sâu hơn nữa, nàng nghe tiếng cha gọi. Ánh sáng từ những bông hoa thủy tinh chiếu vào cũng hóa giải mọi phù phép của con quái vật, giúp cho cha nàng và tất cả mọi người trở lại bình thường. Nàng tìm chìa khóa mở cửa cho cha và mọi người. Hai cha con mừng rỡ ôm nhau khóc. Họ cùng mọi người quay trở về ngôi làng, nàng dùng những bông hoa còn lại đem trồng xung quanh ngôi làng, ánh sáng kỳ diệu phát ra từ những bông hoa đó như những ngôi sao may mắn đem lại bình yên và may mắn cho ngôi làng của họ cho đến tận sau này. Từ đó người đời gọi những bông hoa đó với một cái tên mộc mạc, đơn sơ đó là: Hoa Thủy Tinh và cả làng sống một cuộc sống thật thanh bình và hạnh phúc bên những bông hoa may mắn đó!”
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-thuy-tinh" }
Sự tích con thiêu thân
Ngày xưa, ở một làng gần phá Tam Giang (Thừa Thiên- Huế ngày nay), có một chàng trai khoẻ mạnh, thông minh nhưng phải cái tính hơi gàn dở, làm gì cũng khác người, lại chẳng ham thích cái gì được lâu. Năm hai mươi tuổi, chàng theo học một đạo sĩ. Nhưng được vài năm lại chán, bỏ về. Ai hỏi thì nói rằng: Học phép thuật cốt được trường sinh bất tử. Nhưng thử hỏi để làm gì? Ðừng bận tâm vì sống chết tức là không chết, không bận trí về phải trái, thế là mình trong sạch. Rồi chàng cũng cày cấy, làm lụng như mọi người. Năm hai mốt tuổi chàng lấy vợ. Người vợ là một cô gái con nhà gia giáo và xinh đẹp. Hai vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Một hôm, người chồng đi làm về, vừa rửa chân tay vừa cười một mình. Anh nói: – Mình ạ! hôm nay tôi thấy một chị tuổi gần ba mươi, cứ cuốc cuốc bới bới ngoài mương… Chị ta bảo: “Chồng tôi qua đời đã hai năm nay. Trước khi mất, anh dặn tôi đừng lấy ai. Tôi thề rằng: Bao giờ nước mương chảy ngược về phía tây thì hoạ chăng mới có chuyện em đi lấy chồng. Nay tang chồng đã mãn, cha mẹ tôi muốn gả tôi cho người khác, nên tôi phải ra đây cố cuốc để cho nước chảy về phía tây”. Tôi nghe vậy liền cuốc giúp mấy nhát, ai ngờ nước lập tức trở dòng chảy về tây. Chị đàn bà mừng quá, cứ lạy cảm ơn tôi mãi. Vì thế tôi buồn cười từ chiều đến giờ. Người vợ nghe chồng kể chuyện càng nghe càng sa sầm nét mặt: Trời ơi! hèn chi tối sập mặt trời mới thấy mặt. Cái đồ đàn bà hư thân mất nết, thề thốt rồi lại nuốt lời. Anh chồng cứ cười ha hả. Chị vợ mắng nhiếc anh chồng thậm tệ. Thấy vợ thực sự nổi giận, anh mới hỏi: – Ngộ lỡ anh chết thì em tính thế nào? Chị vợ không kìm nổi nước mắt: “Thề có trời đất đất, nếu chẳng may anh chết đi, em sẽ làm nhà bên mộ, ở vậy hết đời cho trọn nghĩa vợ chồng.” Chẳng ngờ nửa tháng sau, anh chồng đi cày về mắc trận mưa giông, nửa đêm thì tay chân chết cứng như đá. Chị vợ hết đánh gió lại xoa dầu nhưng vẫn không cứu được. Ðến sáng, anh chồng chết. Chị vợ khóc lóc thảm thiết, mấy lần đòi chết theo chồng, may có làng xóm khuyên can mới cứu được. Ðêm hôm trước ngày đưa tang chồng, chị vợ đang ngồi cạnh quan tài thì chợt nghe có tiếng gõ cửa. Nàng ra tiếp thì thấy một chàng thanh niên tuấn tú tự xưng là bạn cũ của chồng chị, nay nghe bạn mất, vội tìm đến viếng. Ðêm khuya, trong không khí tĩnh lặng của khói hương. Gái đẹp, trai xinh, chẳng hẹn mà nên, dần dần xích lại gần nhau, cùng liếc mắt đưa tình. Bỗng người con trai ôm bụng, đau đớn ngã vật xuống đất. Người đàn bà hốt hoảng chạy lại đỡ dậy, hỏi sự tình. Chàng trai vừa rên lên vừa đáp: – Nàng ơi, ta vốn có bệnh đau bụng kinh niên. Khi ở nhà, mỗi lần lên cơn đau thế này, mẹ ta phải mua óc người nấu cháo cho ta ăn mới khỏi… Nghe bạn chồng nói những lời thảm thiết, chị ta liền chạy xuống bếp nhóm lửa nấu nước, xong vác dao xăm xăm bước lên nhà trên định cạy nắp quan tài bổ đầu chồng lấy óc nấu cháo cho tình nhân ăn. Nào ngờ, nắp quan tài được dỡ ra thì người chồng bỗng thản nhiên dụi mắt ngồi dậy. Chị vợ kêu rú lên khủng khiếp, vội chạy về phía người tình. Nhưng trong nhà đã trống không, chẳng có một ai. Thì ra chỉ là ảo ảnh do người chồng dùng phép thuật mà anh đã học được ở đạo sĩ thuở nào tạo ra để thử lòng vợ. Người đàn bà hoảng sợ vùng bỏ chạy. Chẳng may, trong lúc vội vàng chị ta ngã vào bếp lửa và bị cháy thành tro. Từ đó, đêm đến, hễ cứ thắp đèn hoặc nhóm bếp lên, người ta lại thấy một loại côn trùng bé nhỏ bu quanh ngọn lửa rồi lao vào mà chịu chết cháy. Mọi người tin rằng đó là hậu thân của người đàn bà lẳng lơ, tệ bạc đã chết vì ngọn lửa đam mê đầy tội lội của chính mình….
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-thieu-than" }
Sự tích cây nêu ngày tết
Ngày trước, cũng chẳng ai biết rõ là bắt đầu từ khi nào và bằng cách nào đó, Quỷ đã chiếm đoạt hết từng tấc đất ở nước ta. Con người chỉ là ăn nhờ ở đậu, cũng như làm rẽ ruộng đất thuộc sở hữu của Quỷ mà thôi. Ấy vậy mà Quỷ càng ngày càng đối xử với Người quá tay, quá đáng hơn. Chúng cứ tăng dần gấp đôi số thứ phải nộp qua từng năm, vì vậy mà mỗi năm lại nhích lên một chút. Sau cùng thì chúng nó ép Người nộp theo thể lệ mới đặc biệt mà chúng mới nghĩ ra, chính là “Ăn ngọn cho gốc”. Khi Người không chấp nhận thì chúng nó lại lấy sức mạnh ra áp bức và buộc Người phải tuân theo. Vì vậy mà sau vụ gặt năm ấy thì những thứ mà Người thu lại được chỉ trơ toàn những rạ với rạ mà thôi. Chính vì thế mà khắp nơi đều diễn ra cảnh tượng người nào người nấy toàn là da bọc xương, vô cùng thê thảm. Còn đám Quỷ ở bên cạnh thì đắc ý vô cùng, chúng cười ngất khi nhìn thấy cảnh xung quanh mọi người đều muốn chết rũ hết cả. Phật ở phương Tây sang thấy vậy mới có ý muốn giúp đỡ cho Người có thể chống lại được sự bóc lột vô cùng tàn nhẫn của đám Quỷ. Khi mùa mới vừa đến, Phật bảo với Người không nên trồng lúa nữa, Phật dạy Người cào đất thành từng luống để mà trồng khoai lang. Và Người cũng nghe lời làm y những gì mà Phật bảo. Quỷ nào đâu có ngờ rằng Người cũng có ngày có được mưu kế tốt để có thể chống lại sự áp bức của mình, vì vậy vẫn cứ sử dụng thể lệ của mùa trước đó là “Ăn ngọn cho gốc”. Đến mùa thu hoạch, Quỷ vô cùng hậm hực khi trông thấy Người cứ gánh từng gánh khoai lang lúc lỉu về thẳng nhà mình và chất thành những đống to lù lù ở sân. Nhìn lại nhà mình thì Quỷ lại thấy chỉ toàn là dây khoai cùng lá khoai, toàn là những thứ chẳng thể nào mà nhá nổi. Ác một nỗi là thể lệ cũng đã định ra như thế, đám Quỷ không có cách nào chối cãi được cả. Đến mùa khác thì Quỷ lại tiếp tục thay đổi thể lệ mới chính là “Ăn gốc cho ngọn”. Giờ thì Phật lại mách Người hãy trồng lúa. Khi thu hoạch, Quỷ lại tiếp tục hỏng ăn lần nữa. Người lại gánh từng gánh lúa vàng óng trở về nhà, còn đống rạ thì cứ để mặc cho đám Quỷ muốn làm gì thì làm. Lần này thì Quỷ tức đến lộn hết cả ruột lên rồi. Mùa tiếp theo ấy thì chúng ra tuyên bố rằng sẽ “Ăn cả ngọn lẫn gốc”. Đến nước này thì Quỷ cũng phải nhủ thầm: – Lần này mặc cho chúng mày trồng gì thì cuối cùng cũng chẳng thể nào mà lọt khỏi tay của chúng tao được. Tuy nhiên thì Phật lại mách cho Người đổi giống cây trồng khác. Phật đem giao cho Người rất nhiều hạt giống của cây ngô để lấp đầy những thửa ruộng rộng lớn. Năm ấy thì Người lại được thêm một lần sung sướng khi có thể nhìn thấy tất cả những công sức của mình bỏ ra không uổng phí. Trong từng căn nhà của Người thì thóc từ vụ trước còn chưa có ăn hết mà vụ này, từng gánh ngô lớn đã lại được chuyển về, đầy ắp những cót lớn. Còn về phần của đám Quỷ thì ăn thêm một vố rất đau, chúng tức uất đến mấy ngày liền. Sau cùng thì Quỷ quyết định ép Người trả lại cho chúng tất cả những ruộng đất mà chúng cho làm rẽ. Trong bụng thì chúng thầm tính: – Thà chúng ta chẳng được gì còn hơn là để chúng nó được ăn một mình thế kia. Thấy vậy Phật liền bảo với Người tới để điều đình với đám Quỷ để cho mình được tậu lấy một miếng đất chỉ bằng bóng của một chiếc áo cà sa mà thôi. Nghĩa là, bây giờ Người sẽ đem trồng lấy một cây tre mà bên trên ấy có treo một chiếc áo cà sa, và chiếc bóng ấy che được bao nhiêu đất thì phần đất ấy sẽ thuộc quyền sở hữu của Người. Lúc đầu thì đám Quỷ cũng chẳng ưng thuận đâu. Nhưng mà sau tính đi tính lại thì chúng thấy rằng đất tậu khá ít, nhưng mà giá lại rất hời. Nghĩ vậy nên chúng mới chịu đồng ý đề nghị của Người. Đám Quỷ chắc mẩm: – Ồ! Nếu như là chỉ cần bằng một chiếc áo cà sa thôi thì có bao nhiêu đâu! Hai bên đã thỏa thuận và đi đến giao ước rằng: phần đất ở ngoài bóng che thuộc sở hữu của Quỷ, còn phần đất ở trong bóng che ấy thì sẽ thuộc sở hữu của Người. Đợi Người đã trồng xong tre thì Phật mới đứng hẳn lên trên ngọn cây rồi tung chiếc áo cà sa của mình ra. Áo cà sa của Phật bay ra và tỏa thành một miếng vải hình tròn. Sau đó Phật liền hóa phép khiến cho cây tre cứ thế cao mãi lên trên, cao đến tận trời. Trời đất đột nhiên biến thành âm u, và bóng của chiếc áo cà sa cứ dần dần bao phủ và che kín hết mặt đất. Đám Quỷ tất nhiên không hề biết rằng lại có một điều phi thường xảy ra ngay lúc này. Mỗi khi bóng của áo cà sa lấn thêm vào phần đất của chúng thì chúng lại phải kéo nhau mà lùi dần, lùi mãi. Sau cùng thì đám Quỷ ấy cũng chẳng còn chút đất nào nữa, vì vậy nên phải kéo nhau chạy ra tít ngoài biển Đông. Bởi vậy nên người ta thường gọi chúng là Quỷ Đông. Đám Quỷ tiếc rẻ vì tất cả những phần đất đai cùng hoa màu của mình giờ đây lại thuộc về Người, vì thế trong lòng cứ hậm hực mãi không thôi, chúng liền chiêu binh mãi mã kéo nhau vào hòng cướp lại đất. Lần này thì Người và Quỷ chiến đấu với nhau vô cùng gay go, con người phải chịu áp lực rất lớn bởi vì đội quân Quỷ là cả bầy ác thú nào voi, chó ngao, ngựa, hắc hổ, bạch xà, v.v… con nào con nấy đều vô cùng hung tợn. Thấy Người có vẻ bị yếu thế hơn, Phật liền cầm ngay cây gậy tầm xích để mà giúp Người đánh Quỷ. Nhờ có Phật ra tay trợ giúp mà đám quân theo Quỷ đến đều không cách nào tiến thêm được nữa. Mấy trận đánh đều bất lợi nên Quỷ mới sai quân đến dò hỏi xem là Phật có sợ gì không. Phật liền hào phóng mà cho biết là mình sợ nào là hoa quả, nào là oản chuối, còn có cả cơm nắm và trứng luộc nữa. Nhưng đổi lại thì Phật cũng biết được là đám quân kia của Quỷ cũng biết sợ, chính là máu chó, còn có lá dứa cùng với tỏi và cả vôi bột nữa. Đến lần giáp chiến tiếp theo, đám quân Quỷ liền chuẩn bị không biết bao nhiêu là hoa quả tới để mà ném vào Phật. Phật lại bảo Người tới nhặt để làm lương ăn, sau đó lại lấy máu chó đem vẩy ở khắp mọi nơi. Đám quân theo Quỷ ấy nhìn thấy máu chó là sợ đến hoảng hồn liền bỏ chạy một nước. Lần giáp chiến thứ hai, lần này Quỷ sai quân của mình đem đến rất nhiều oản chuối để ném vào Người và Phật. Nhưng Phật lại tiếp tục bảo Người đi nhặt hết để làm lương ăn. Sau đó còn đem tỏi giã nát và phun hết lên đám quân của Quỷ. Bọn chúng ngửi được mùi tỏi thì sợ hãi mà co giò bỏ chạy hết cả. Lần ba giáp chiến, lần này thì Quỷ sai quân đem theo cơm nắm cùng với trứng luộc để ném vào Phật và Người. Và cũng như hai lần trước, Người lại có được thức ăn, và cũng nghe lời của Phật, đem vôi bột ném vào đám quân của Quỷ. Có người lại đem lá dứa ra và quất túi bụi vào đám Quỷ, khiến cho chúng chẳng chạy kịp. Và đám Quỷ ấy lại tiếp tục bị Phật đem đày ở tít ngoài biển Đông xa xôi. Cái ngày mà cả đám Quỷ gồm Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ cái, Quỷ đực cùng nhau cuốn gói để ra đi, nhìn bộ dáng của chúng thiểu não vô cùng. Tất cả bọn chúng đều đồng loạt rập đầu xuống đất để xin Phật thương tình có thể cho phép chúng một năm có được vài ba ngày vào trong đất liền để thăm nom phần mộ tổ tiên và cha ông của chúng. Vì thấy chúng cứ khóc váng hết cả lên, Phật cũng thương hại mà hứa cho. Bởi thế nên hằng năm, mỗi khi dịp Tết nguyên đán tới cũng chính là ngày đám Quỷ được phép trở lại đất liền. Còn con người thì cũng theo lệ mà trồng thật nhiều cây nêu để cho đám Quỷ ấy không dám tới nơi con người đang sinh sống. Và ở trên cây nêu cũng có khánh đất, khi gió tới sẽ phát ra tiếng động để nhắc nhở đám Quỷ nghe được mà tránh đi. Nhiều khi thì ở trên đó cũng sẽ được buộc thêm nắm lá dứa hay cành đa mỏ hái, Quỷ trông thấy sẽ rất sợ hãi. Ngoài ra thì con người cũng vẽ thêm những hình cung tên có hướng mũi nhọn phía Đông, còn rắc thêm vôi bột dưới đất vào những ngày lễ Tết, chính là để cấm cửa không cho Quỷ vào. Trong dân gian có lưu truyền câu tục ngữ như sau: “Cành đa lá dứa treo kiêu (cao), Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà. Quỷ vào thì quỷ lại ra, Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm.” Hơn nữa, trước đây con người cũng tin rằng mỗi khi muốn đuổi Quỷ, ví dụ như là khi xuất hiện dịch tễ, thì mọi người sẽ cùng treo những bó lá dứa lên trước ngõ, hoặc là dùng máu chó vẩy ở khắp nơi để cho đám Quỷ khỏi quấy rỡ. Đàn bà con gái cũng thường đem tỏi buộc vào những giải yếm, mục đích cũng gần giống như vậy.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-neu-ngay-tet" }
Truyền thuyết thành Cổ Loa
Khi đã chiếm được đất Văn Lang, An Dương Vương đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê. Khu đất chọn để đắp thành là một quả đồi đất rắn như đá. Ðám đông người hì hục đào đất, khuân đất hết ngày nọ sang ngày kia, tòa thành cao dần. An Dương Vương cùng đoàn tùy tùng đến xem rất lấy làm hài lòng, cho là một tòa thành có thể đứng vững muôn đời, sấm sét không lay chuyển, mưa bão không làm sạt được, và quân giặc cũng không thể phá nổi. Nhưng một đêm cả bức tường thành quanh co đều đổ sập xuống như đất bằng. Vua An Dương Vương đến xem rất lấy làm tức giận. Ngài hỏi dò dân chúng gần đó, họ kể lại: Ban đêm họ nghe thấy những bước chân rầm rập ở các khắp ngã kéo đến với những tiếng xì xào có thể là ma quỉ. Người đâu mà lại đông đến thế ! Họ sợ quá nên không dám nhìn ra. Rồi họ lại nghe những tiếng đổ ầm ầm như sấm dậy. An Dương Vương sai các tướng lãnh đốc thúc đắp lại thành cho kỳ được. Ðám người hăng hái đắp lại không ngừng. Tường thành mỗi ngày một cao dần và lại cao như tường thành cũ. Nhưng rồi một đêm cả dãy tường thành lại sập xuống như đất bằng. An Dương Vương sai người đi hỏi dân chúng ở gần đó thì họ lại nói như trước. Ban đêm họ cũng nghe thấy những bước chân rầm rập như thiên binh vạn mã trẩy qua rồi lại những tiềng huỳnh huỵch tiếp đến những tiếng ầm ầm như sấm động. An Dương Vương lại xem chỗ địa thành để cầu trời phù hộ mình đắp cho xong tòa thành. Vua đi vòng quanh chân tường vừa đi vừa suy nghĩ. Ðột nhiên vua thấy một ông già râu tóc bạc từ phía xa đi lại. Ðến gần An Dương Vương ông tự xưng mình là thổ thần của vùng đất này, nói với vua rằng: - Nhà vua đừng lo, sáng mai nhà vua ra đợi ở bờ sông sẽ có sứ giả Thanh Giang đến giúp nhà vua đắp thành. Nói xong ông già biến mất. Hôm sau mới tờ mờ sáng, An Dương Vương đã ra tận bờ sông để đợi Giang sứ. Vừa bắt đầu tan sương thì có một con rùa vàng rất lớn nổi lên mặt sông từ phía Ðông bơi vào bờ đến gần nhà vua, rùa tự xưng mình là thần Kim Quy sứ giả của vua Thủy Tề. An Dương Vương sai đặt Giang sứ lên một chiếc mâm vàng và khiêng vào cung. Vua hỏi kế đắp thành, thần Kim Quy bảo rằng: - Ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống lâu năm thành tinh có phép biến hoá khôn lường. Nó thường hãm hại khách qua đường và khách ngủ ở quán trọ trong vùng này. Các vua thời trước cùng bọn nhạc công chết đi đều chôn ở núi Thất Diệu, những u hồn ấy từ lâu không tan lẩn khuất trong khe đá ở hang sâu. Những u hồn ấy có thù với nhà vua nên đêm thanh vắng họp thành từng đàn từng lũ đến xúi dục con tinh gà trắng phá thành đang xây của nhà vua. Con tinh gà trắng đã dẫn những u hồn ấy đến chân thành dùng phép ma phá đổ tường thành rồi gần sáng lại bay về núi. Con tinh gà trắng có tiền duyên với con gái lão chủ quán gần chân núi nên hay hiện hình làm khách bộ hành ghé vào nhà lão khi thì nhập vào con gái lão khi thì nhập vào con gà trắng của lão. Muốn đắp cho được thành, trước hết phải trừ cho tiệt giống yêu ma và giết đứa con gái cùng con gà trắng của lão chủ quán kia đi. Nghe lời thần mách bảo, Vua sai mấy viên tướng đem quân vào rừng mai phục rồi vua cải trang cùng thần Kim Quy giả làm khách bộ hành đến quán xin ngủ trọ. Chủ quán từ chối lấy cớ là trong núi có nhiều yêu quái hay làm hại khách đi đường. Nhưng An Dương Vương và thần Kim Quy nhất định xin ở. Chủ quán phải chiều theo ý hai người. Ðêm đêm An Dương Vương nghe thấy những bước chân rầm rập ở ngoài. Những bước chân từ khắp các ngả đi lại rộn ràng rồi thốt nhiên có bàn tay rất mạnh đập vào cái phên nhà lão chủ quán tiếp đến tiếng gọi người con gái lão. Thần Kim Quy lên tiếng nạt nộ, tiếng ngoài im ngay. Những tiếng chân bước cũng xa dần. Gần sáng lại có những tiếng chân rầm rập ở ngoài, thần Kim Quy bảo An Dương Vương mở cửa phên ra gọi quân mai phuc đuổi theo đám yêu tinh đang rút lui về Thất Diệu, quân lính vừa đuổi vừa giương nỏ bắn theo. Cứ một loạt tên bay đi là lại nổi lên những tiếng ma kêu quỷ khóc rùng rợn. Tiếng rên rỉ khóc than mỗi lúc một thưa dần. Ðến khi mặt trời mọc thì yêu khí tan. Quân lính của An Dương Vương đào được rất nhiều hài cốt và nhạc khí cổ trong các hang núi, họ chất thành từng đống cao đốt đi rồi tro than đổ xuống suối cho tan hẳn oan hồn. An Dương Vương và thần Kim Quy trở về quán trọ bảo chủ quán hiến cho mình con gà trắng để tạ trời đất. Gà vừa bị cắt tiết thì con gái chủ quán cũng lăn ra chết. Giữa lúc ấy có một con chim tứ trong nhà bay vụt ra, thần Kim Quy biết đó là con yêu tinh đã tìm đường chạy trốn, liền tung phép giết chết. Yêu ma đã trừ xong, thần Kim Quy lại hiện nguyên hình là con rùa vàng rất lớn. Thần rút một cái móng của mình trao cho An Dương Vương, dặn rằng: - Nhà vua giữ lấy móng chân này để làm lẫy nỏ. Khi có giặc thì đem ra bắn, một phát có thể giết được hàng ngìn quân giặc. Nói xong, thần biến mất, nhờ có thần Kim Quy trừ hết yêu ma. An Dương Vương ra lệnh cho quân lính và nhân dân xây lại thành. Chẳng bao lâu tòa thành đắp xong, rộng tới ngàn trượng, vừa dầy vừa cao xoáy vòng như hình con ốc, nên gọi là Loa thành.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-thuyet-thanh-co-loa" }
Người họ Liêu và Diêm Vương
Ngày ấy có dòng họ Liêu, không hiểu do nguyên cớ nào mà người trong họ thường bị nạn chết non. Bọn lính tráng của Diêm vương luôn luôn để ý rình mò dòng họ này, hễ thấy người nào chừng quá ba mươi tuổi là bắt đi ngay. Người nào may mắn có sót lại thì cũng chỉ đến bốn mươi là hết hạn. Bởi vậy, những ai trót sinh vào nhà họ Liêu thường bảo nhau cứ đến ba mươi tuổi là trối trăng và sắm hòm ván sớm đi, nếu không là y như vất vả. Ngày ấy, cũng lại có một ông lão họ Lã sống được hơn ba trăm tuổi. Tuy tuổi nhiều mà sức ông vẫn khoẻ, hàng ngày ông vẫn ra ngồi ở bờ biển câu cá. Nhưng ông lão ít nói, không thích giao thiệp với ai. Bấy giờ trong họ Liêu có một người, thấy cả họ mình chịu số phận như vậy thì tức lắm. Cho nên ông ta quyết kiện Diêm vương bằng được. Ít lâu sau, năm ông ba mươi mốt tuổi quả đến lượt bị lính Diêm vương đến gõ cửa. Ông xin họ cho mình thong thả một tí, nhưng bọn lính xông bừa vào lôi ông đi. Ông chỉ còn biết trối lại với con một câu là bỏ vào áo quan cho mình ít tờ giấy, một cái bút và đốt cho mình một ít tiền. Rồi đấy ông tắt thở. Khi xuống đến âm phủ, ông xin vào yết kiến Diêm vương nhưng bọn quỷ không cho. Sẵn có giấy bút, ông viết một lá đơn kiện rồi sẵn có tiền, ông đút lót cho bọn quỷ nhờ chuyển lá đơn ấy đến tận Diêm vương. Quả nhiên chỉ ít lâu sau, Diêm vương cho quỷ sứ triệu ông vào cung. Gặp Diêm vương, ông tâu bày rõ ràng nỗi khổ tâm của dòng họ mình, rồi ông nói: - Tâu bệ hạ, cớ sao bệ hạ bất công đến thế! Có người chỉ được sống có ba mươi năm như chúng tôi. Trái lại, lại có người như ông già họ Lã ba trăm tuổi rồi mà vẫn sống trơ trơ thế mãi. Diêm Vương nghe nói thì ngẩn người ra, không ngờ lũ quan dưới quyền mình lại làm việc cẩu thả như thế. Nhưng Diêm Vương cũng không vui lòng vì có người đến bới xấu ngay trước mặt mình. Diêm Vương làm mặt giận nói: - Làm gì có người sót sổ như vậy. Mày chỉ nói càn. Nếu mày tìm đủ bằng chứng, tao sẽ xá tội cho cả họ nhà mày. Bằng không thì chớ trách ta phũ tay! Nghe nói, họ Liêu rất mừng nhưng cũng rất lo, vì ông chưa biết làm cách nào cạy miệng ông lão họ Lã bản tính kín đáo ấy để ông ta tự khai ra. Khi đưa tên quỷ sứ đến chỗ ông lão ngồi câu, ông bỗng nghĩ ra được một cách, bèn bảo quỷ sứ nấp ở sau hòn đá, rồi một mình tiến đến trước ông lão, chắp tay chào và hỏi: - Thưa cụ, cháu nghe nói đời ông nội cháu có tìm được ở bờ biển này một hòn đá nổi lên mặt nước, hòn đá ấy đặc biệt có nhiều hốc, nhiều rêu, nhiều màu sắc, lúc nào cá cũng xúm quanh, câu được nhiều lắm. Nhờ thế mà từ đời ông nội cháu rồi đến đời cha cháu có của ăn của để. Bây giờ đến đời cháu không hiểu tại sao không thấy hòn đá ấy nữa; tìm xuôi tìm ngược mãi vẫn không ra. Vậy cụ thường ngồi câu ở đây có thấy hòn đá ấy trôi đi đâu, bảo giúp cho cháu biết để cháu kiếm ăn. Ông cụ Lã thấy có người nói chuyện kì khôi mới quay lại mắng: - Cái anh này chỉ nói điêu. Đã ba trăm năm nay lão ngồi câu ở đây chưa hề thấy có một hòn đá nào biết trôi cả. Thôi anh đi đi, cho lão làm việc! Người họ Liêu chỉ cần có chừng ấy, vội cáo từ lui ra rồi cùng quỷ sứ trở về. Diêm Vương cứng lưỡi, vì bằng chứng đã rõ ràng. Từ đó dòng họ Liêu không bị quỷ sứ ám ảnh nữa nên đỡ bị nạn chết non hơn trước...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-ho-lieu-va-diem-vuong" }
Đồng tiền Vạn Lịch
Ngày xưa có người lái buôn tên là Vạn Lịch. Hắn ta buôn to, giàu có vào hạng nhất nhì trong nước. Hắn có ngót một trăm chiếc thuyền dùng vào việc chở hàng. Chiếc thuyền riêng của Lịch có buồng ăn, buồng nằm.... không khác gì nhà ở trên đất. Xung quanh chỗ ngồi trang sức bằng gấm vóc. Đồ dùng toàn bằng vàng bạc. Lịch có một người vợ trẻ và đẹp là Mai thị. Trong những lúc đi buôn bán xa, hắn thường ngờ vợ không thực lòng với mình. Hắn hay xét nét từng ly từng tý làm cho nàng tuy sung sướng nhưng cũng rất khổ tâm. Một hôm thuyền của Lịch đậu ở một bãi vắng. Mai thị ngồi trước mũi nhìn ra ngoài. Bỗng có một người đánh giậm ở đâu đến cạnh thuyền xin một miếng trầu. Mai thị thấy người đó đóng khố, mình mẩy lấm láp thì thương hại, hỏi thăm mấy câu rồi lấy mấy miếng trầu trong cơi vàng đem cho. Lịch đang ngủ chợt thức giấc thấy thế, cơn ghen nổi lên đùng đùng. Chờ cho anh đánh giậm đi khỏi, hắn gây chuyện với vợ rồi xỉ vả nàng thậm tệ. Mặc dầu Mai thị thề thốt hết lời nhưng hắn không nghe. Hắn trả xống áo cho nàng, vứt cho một thoi vàng, một thoi bạc và đuổi đi ngay. Mai thị bơ vơ một mình trên bãi biển. Nàng gặp lại người đánh giậm bèn gạt nước mắt kể lể sự tình. Anh chàng đánh giậm ngẩn ngơ cả người, không hiểu ra làm sao cả. Khi biết anh ta chưa có vợ lại sống một thân một mình, nàng bảo: - Hắn bảo tôi dan díu với anh. Âu là số tôi không lấy được kẻ giàu sang, tôi xin lấy anh làm chồng, dù có khổ sở thế nào đi nữa tôi cũng chịu được. Chúng ta sẽ làm ăn nuôi nhau. Anh chàng đánh giậm không biết từ chối thế nào cuối cùng dẫn người đàn bà kia về túp lều của mình dựng bên bờ sông. Và họ trở nên vợ chồng. Hàng ngày chồng vẫn làm nghề cũ, còn vợ thì ở nhà chăn nuôi gà vịt. Tuy nghèo nhưng họ sống êm ấm, không xô xát với nhau bao giờ. * Ba năm trôi qua. Một hôm trời mưa, chồng rỗi việc ở nhà, vợ ngồi vá áo. Chồng thấy đàn gà thi nhau mổ thóc ở thúng, sẵn có thỏi vàng của vợ trong thúng khâu, hắn không biết là vật gì liền cầm lấy ném đàn gà. Chằng may ném mạnh quá thỏi vàng văng luôn xuống sông. Thấy vậy, vợ trách chồng: - Kìa, người sao mà ngu đần thế! Anh có biết anh vừa ném cái gì không? Chồng đáp gọn lỏn: - Chả biết. - Đấy là vàng quý nhất ở trên thế gian đấy. - Thứ ấy thì thiếu gì. Những lúc bắt cá ở một vũng kia tôi vẫn nhặt được luôn nhưng không biết dùng làm gì nên lại vứt bỏ. Đến lượt vợ lại ngẩn cả người, liền hối hả giục chồng đi lấy về. Quả nhiên đó là vàng thực và lạ thay mỗi thỏi đều có dấu hiệu riêng của Vạn Lịch. Nguyên do Vạn Lịch từ ngày đuổi vợ, buôn bán có phần thua lỗ. Một chuyến bị bão, thuyền đắm, Lịch chỉ thoát được thân còn bao nhiêu vàng bạc của cải đều chìm xuống nước và trôi dạt vào đây. Thế là kho vàng của Lịch lại thuộc về tay vợ chồng Mai thị. Từ khi có của, Mai thị bèn xây dựng nhà cửa và sắm ăn sắm mặc cho chồng. Thấy chồng quá ngờ nghệch, vợ bảo phải năng chơi bời với người ta để học khôn học khéo hòng mở mặt với đời. Chồng nghe lời, vào xóm gạ chuyện với mọi người để làm quen nhưng chả có ai thèm chơi với thằng nghèo lại nổi tiếng đần độn. Luôn mấy hôm liền, hắn đi không về rồi. Vợ hỏi: -  Đã chơi được với ai chưa? -  Chưa. Mai thị lắc đầu nói một mình rằng: -  Người đâu u mê đến thế. Suốt mấy hôm trời mà không làm quen được một ai. Họa có chơi với phỗng thì được! Nghe nói thế, chồng tưởng vợ bảo mình không chơi với người thì chơi với phỗng, bèn tìm đến một ngôi đền vắng ở xa xóm. Hắn lân la toan làm quen với mấy bức tượng phỗng đặt ở hai bên sân đền. Thấy tượng phỗng nhe răng cười, hắn cũng cười theo, rồi lại quàng vai bá cổ làm như chơi đùa với người thật. Sau đó hắn đi mua bún lòng về mời ăn, nhét cho mỗi tượng một miếng vào miệng. Cuối cùng chẳng thấy phỗng nói gì, hắn tức mình xô phỗng từ trên bệ lăn kềnh xuống đất rồi bỏ ra về. Khi vợ hỏi, hắn kể lại tình thực. Mai thị giẫm chân kêu trời, đành giữ chồng lại nhà để dạy khôn cho hắn. Không ngờ ngôi đền mà anh chàng đánh giậm đến chơi lại là nơi phát tích của nhà vua. Tự nhiên, sau khi anh đánh giậm xô đổ tượng phỗng: nhà vua bị đau bại một nửa người. Bao nhiêu danh y được triệu vào cung chữa bệnh cho thiên tử đều lắc đầu bó tay. Một ông quan thái bốc gieo quẻ báo tin rằng ngôi đền này động. Lập tức triều đình phái quan tình về làm lễ tạ. Pho tượng phỗng đổ xuống đất làm cho họ chú ý. Nhưng khi định dựng tượng dậy thì lạ thay, hàng chục người mó vào đều nâng không nổi. Quan truyền cho mấy cơ lính dùng đòn dây xúm vào cùng khiêng nhưng rốt cuộc tượng vẫn không hề nhúc nhích. Tin ấy bắn về kinh đô, nhà vua rất lo, liền sai yết bảng cho tất cả thần dân ai có phép gì dựng được phỗng lên bệ thì sẽ hậu thưởng. Hôm ấy Mai thị đi chợ qua đó thấy bảng yết thế, bèn về hỏi chồng: - Hôm ấy anh làm thế nào đẩy ngã pho tượng xuống được? Hắn đáp: - Tôi chỉ khẽ ẩy một cái là đổ ngay. - Thế bây giờ có dựng lên được không? - Làm gì mà chả được. Vợ bèn cùng chồng ra giật bảng xin quan cho vào nâng thử. Quả nhiên khi người đánh giậm mó tay vào tượng liền đứng lên được. Từ hôm đó nhà vua khỏi bệnh. Vua sai lấy vàng bạc thưởng cho vợ chồng Mai thị nhưng họ không nhận, chỉ xin làm một chân tuần ty ở sông Cả. Chức vụ tuần ty chỉ ngồi thu thuế không cần biết chữ. Vua ưng cho ngay. Hai vợ chồng liền đi nhậm chức. Sẵn vàng bạc, họ đưa ra xây dựng nhà cửa rất nguy nga ở bên cửa sông. Từ đó họ nổi tiếng giàu có trong vùng. Một hôm, thuyền của Vạn Lịch đi qua đây, đỗ lại ở cửa tuần cho người lên nộp thuế. Mai thị biết vậy liền ra lệnh bắt chủ phải thân đến nộp. Tiến vào công đường, Lịch xiết bao kinh ngạc khi thấy ngồi trước án là người vợ cũ của mình cùng anh chàng đánh giậm ngày xưa. Mai thị mỉa mai bảo hắn: Biết rằng anh vẫn đi buôn, Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần. Dù anh buôn bán xa gần, Làm sao tránh khỏi cửa tuần em đây. Nghe câu ấy, Vạn Lịch vô cùng xấu hổ. Hắn từ tạ trở về thuyền. Vừa thẹn vừa uất, hắn nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn lại vợ lần nữa. Đoạn hắn làm giấy kê khai tất cả của cải đem biếu Mai thị nói là để chuộc lỗi xưa, rồi đâm cổ tự tử. Mai thị thấy vậy lấy làm hối hận. Sau đó nàng đem bao nhiêu tài sản của Vạn Lịch, tâu vua xin đúc một thứ tiền gọi là "tiền Vạn Lịch" rồi đem phân phát cho những người nghèo khổ. Ngày nay thỉnh thoảng người ta vẫn còn nhặt được một vài đồng tiền đó. Người ta còn có câu hát: Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng, Anh tiếc công anh dan díu với nàng bấy lâu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/dong-tien-van-lich" }
Bốn câu nói bí hiểm
Có một vị vua trẻ đẹp, nhưng phải tội say mê phụ nữ quá độ, đã tiêu phí hầu hết cả thời gian để đi lại với phụ nữ trong cung đình. Một hôm, nhà vua cưỡi ngựa dạo chơi trong một cánh rừng cách kinh thành không xa lắm, có cả một đoàn phụ nữ đẹp đi theo. Trên đường đi, ông tình cờ trông thấy một người đàn ông đang đốn củi với người vợ xinh xắn của anh ta. Nhà vua tự nhiên nảy ra ý nghĩ muốn hỏi về những điều vui buồn trong cuộc sống của họ. Ông dừng lại dưới một cây có bóng mát, ra lệnh cho cặp vợ chồng nọ đến gặp. Hai vợ chồng người đốn củi đến, nhà vua hỏi họ sinh sống bằng cách gì. Người chồng đáp là nhà vua vừa trông thấy, hai vợ chồng sống bằng nghề đốn củi. Nhà vua hỏi như thế có đủ sống không. Người đốn củi thưa là tạm đủ. Nhà vua hỏi thêm có dành dụm được chút ít tiền nong gì không, người đốn củi thưa có. Nhà vua lại hỏi anh ta dùng tiền để dành vào những việc gì. Lúc này người đàn ông suy nghĩ một lát, rồi trả lời như sau: - Tâu bệ hạ, sau khi chi dùng một cách dè sẻn mọi việc ăn tiêu trong nhà, số tiền còn dành dụm được, thần chia làm bốn phần: Phần thứ nhất tôi chôn dưới đất, Phần thứ hai tôi trả cho các chủ nợ, Phần thứ ba tôi ném xuống sông, Phần thứ tư tôi đưa cho kẻ thù. Nghe những lời đáp bất ngờ như vậy, nhà vua kinh ngạc nhìn anh ta. Đoán biết đây là những câu nói bí ẩn , vua cảm thấy lí thú. Vua ra lệnh anh ta phải nói rõ lời giải của các câu trên đúng như anh ta nghĩ. Người đốn củi chịu làm theo lệnh vua, chỉ yêu cầu một điều là tất cả những người đi theo vua phải lánh đi nơi khác. Khi chỉ còn lại một mình nhà vua, anh ta giải thích: - Tiền tôi chôn dưới đất là tiền dùng để bố thí và làm những điều phúc đức. Tiền tôi trả cho chủ nợ là tiền tôi chi dùng để nuôi bố mẹ, người tôi đã chịu ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Tiền tôi ném xuống sông là tiền tôi dùng để uống rượu, hút thuốc và đánh bạc. Còn tiền tôi đưa cho kẻ thù là tiền tôi đưa cho vợ tôi. Nhà vua ghi các lời giải xong, đọc lại cẩn thận một lần, rồi nói: - Ba câu giải đầu ta thích đấy và ta cũng đồng ý như vậy, nhưng câu thứ tư thì ta phản đối, vì ta không muốn nghe một lời nói xấu phụ nữ. Anh đã nghĩ sai và nói sai. Rồi ông cho gọi người vợ đến. Trước mặt hai vợ chồng, ông bảo: - Phải giữ gìn bốn câu nói bí ẩn đó, không được nói cho ai biết lời giải của anh. Neu anh để lộ cho một người nào khác biết, ta sẽ bắt anh cho ngồi tù suốt đời. Dặn xong, nhà vua lên ngựa ra về, cùng với đoàn tùy tùng trở lại kinh thành, đầu óc cứ nghĩ ngợi vẩn vơ về những câu nói bí ẩn kì lạ của anh chàng đốn củi. Ông ra lệnh chép bốn câu nói đó lại, truyền cho mọi người biết và tuyên bố nếu ai giải được cả bốn câu nói bí ẩn đó sẽ được thưởng một nén vàng. Tháng này sang tháng khác, vẫn chẳng có ai đoán ra được lời giải đáp của bốn câu nói bí ẩn đó. Cho đến một hôm, sứ giả nhà vua tình cờ đi qua trước nhà vợ chồng người đốn củi, và loan báo lời tuyên bố của nhà vua. Vừa nghe lời truyền, người vợ liền nhận ra ngay những câu nói bí ẩn là của chồng mình. Cô ta cũng biết chồng mình đã nói các lời giải cho nhà vua nghe, nên nghĩ bụng: “Tối nay ta sẽ hỏi chồng những lời giải này, và ngày mai sẽ lên gặp nhà vua để nói, thì nén vàng thưởng cầm chắc trong tay rồi. Nếu có được một nén vàng thì ta không còn phải sống trong cảnh nghèo khổ với ông chồng đốn củi này nữa. Ừ, ta sẽ giấu vàng dưới đất và không nói cho anh ta biết gì cả. Và nếu nhà vua hỏi vì sao ta biết được các lời giải đó thì ta sẽ khai thật là do chồng bảo. Thế là anh ta sẽ bị bắt vào ngồi tù đến hết đời. Còn ta sẽ trở lên giàu có, rồi ta lại kiếm lấy một người chồng khá hơn cái anh chàng khốn khổ này”. Chờ chồng đi làm về, người vợ năn nỉ chồng cho biết lời giải những câu nói bí ẩn để đi nhận vàng thưởng. Nhưng người chồng từ chối vì sợ lời đe dọa của nhà vua. Người vợ đành im lặng, nhưng tối đến lại làm mình làm mẩy với chồng, trách móc anh ta không hiểu lòng mình, không tin mình. Thấy vợ giận dỗi, người chồng mềm lòng, cuối cùng đã nói ra các lời giải. Sáng hôm sau, khi người chồng đã đi làm, người vợ ba chân bốn cẳng đi ngay lên kinh thành đến cung vua, xin gặp để nói những lời giải của bốn câu nói bí ẩn. Vua cho gọi vào, và mỗi câu nói bí hiểm đưa ra cô ta đều giải đúng như lời chồng đã nói. Vua tuyên bố cô là người đã giải được các câu nói bí hiểm và trao phần thưởng đã hứa cho cô. Nhưng khi cô ta vừa ra khỏi cung điện, nhà vua bỗng cảm thấy nghi ngại, liền ra lệnh gọi cô ta trở lại. Nhà vua hỏi. - Nhà ngươi là ai? Hình như ta đã trông thấy ở đâu rồi thì phải. Người đàn bà đáp: - Vâng, kính tâu bệ hạ, tôi là vợ người đốn củi, bệ hạ đã gặp trong rừng. - Vậy nhà ngươi đã tìm ra những lời giải đó như thế nào? - Chồng tôi nói cho tôi biết. Nghe thấy thế, nhà vua cau mày nổi giận, nhưng đã lỡ tuyên bố rồi, ông đành cho người đàn bà ra về với phần thưởng đã nhận và ra lệnh cho bắt giải người chồng đến. Anh chàng đốn củi bị bắt dẫn đến quỳ trước mặt vua. Nhà vua hỏi: - Ta đã bảo trước cho biết hình phạt nặng nề nếu nhà ngươi bảo cho ai biết lời giải của câu nói bí hiểm, vậy vì sao nhà ngươi dám bảo cho vợ mình biết, dám trái lệnh của ta? - Anh đốn củi kể lại đầu đuôi sự việc, cố thanh minh, nhưng nhà vua vẫn giận dữ, không chịu nghe, liền ra lệnh tống giam. Trong khi đợi quân lính đến để đưa anh ta đi, anh nói lại với vua. - Tâu bệ hạ, sở dĩ tôi nói lời giải với vợ là vì tôi yêu và tin cô ta. Tôi tin cô ta sẽ giữ bí mật, nhưng rồi cô ta không làm đúng như vậy. Cô ta đã phản bội tôi, mang các lời giải đến để nhận giải thưởng mặc dầu biết làm như vậy tôi sẽ bị bắt giam suốt đời. Chắc bệ hạ còn nhớ, câu thứ tư tôi nói tiền đưa cho kẻ thù chính là tiền tôi đưa cho vợ. Trước kia bệ hạ không đồng ý, vậy bây giờ bệ hạ nghĩ thế nào về điều đó. Nhà vua nghe, nhớ lại ý kiến của mình trước đây, nay thấy những lời giải của anh chàng đốn củi hóa ra đều đúng cả. Nhà vua bèn tha cho anh, thưởng anh nhiều tiền của.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bon-cau-noi-bi-hiem" }
Chàng cóc
Ngày xưa, trong một bản vắng, có hai vợ chồng nọ đã sống qua nhiều mùa nương mà chưa có con nối dòng. Họ buồn rầu như cỏ tranh già ngày nắng. Ngày ngày, người vợ thắp hương cầu khấn mong trời thương cảnh nghèo đơn chiếc ban cho một đứa con. Quả nhiên, ít lâu sau, người vợ có thai. Hai vợ chồng mừng lắm. Họ mong ngày mong đêm đứa con sớm ra đời. Nhưng chẳng may người chồng lại bị ốm rồi chết, mắt chưa được nhìn con. Người vợ rất buồn nhưng cứ nghĩ đến đứa con sắp ra đời, lòng lại nguôi nguôi. Mười ba lần trăng lặn rồi mười ba lần trăng mọc, đứa bé trong bụng mới tròn tháng. Không ngờ, sau một cơn đau bụng dữ dội người vợ hóa lại đẻ ra một con Cóc xấu xí. Người vợ sợ lắm nhưng không nỡ bỏ đứa con của mình. Ngày ngày bà lên rừng đào củ mài để nuôi Cóc, mong cho Cóc chóng lớn. Ngày qua tháng lại, cóc lớn dần và trở thành một chàng Cóc cường tráng. Rồi mẹ Cóc cũng lại qua đời. Từ đó Cóc phải tự mình làm lụng nuôi thân. Hồi ấy ở gần nhà Cóc có tên Khoàng Tý. Nhà Khoàng Tý có ba cô con gái đã đến tuổi lấy chồng. Đã bao nhiêu lần, Khoàng Tý mở hội để kén chọn con rể. Nhiều chàng trai đẹp đến để thi tài. Nhiều con nhà giàu mang trâu, ngựa đến để hỏi nhưng chưa ai làm Khoàng Tý ưng bụng. Lần ấy chàng Cóc tìm đến xin để làm con rể Khoàng Tý. Vừa thấy Cóc, Khoàng Tý đã giận dữ hét lên: – Con Cóc xấu xí kia, ai cho mày đến hỏi con gái ta! Có cút ngay đi không? Cóc vẫn bình tĩnh nói rõ ý định của mình. Khoàng Tý giận lắm, nhưng vẫn ra điều kiện: – Nếu mày bắn một mũi tên xuyên chín con chim mang về đây thì tao sẽ gả con gái cho. Chàng Cóc nhận lời, rồi mang cung tên đi, vào rừng săn chim. Hôm ấy trời nổi gió dữ dội. Lá to lá nhỏ rơi ào ào, cây đổ ngổn ngang, nhiều thú vật bị chết. Đến một gốc cây to cạnh con suối lớn, chàng Cóc thấy chín con chim bị gió bão quật chết từ lúc nào. Chàng liền nhặt lấy xâu vào một mũi tên rồi đem về dâng lên Khoàng Tý. Khoàng Tý phục chàng Cóc lắm. Nó lại ra thêm một điều kiện: – Lần này mày phải kiếm liền một lúc chín gánh củi về đây. Được vậy ta sẽ gả con gái cho. Nếu không tao sẽ đánh cho mày một trận. Khoàng Tý yên trí rằng Cóc nhỏ bé, yếu ớt thế chắc chẳng mang được chín gánh củi về cùng một lúc. Lúc ấy nó sẽ đánh cho Cóc đến chết. Hiểu được lòng dạ Khoàng Tý, nhưng chàng Cóc chẳng chút ngần ngại. Sáng sớm hôm sau, khi ông mặt trời chưa ngủ dậy, chàng đã sắp sẵn quang gánh, giả vờ đi vào rừng lượm củi. Một láy sau, chàng Cóc trở về nói với ba cô gái: – Tôi vào rừng kiếm củi chẳng may đâm phải cái gai ở đầu ngón chân cái. Đau quá tôi phải về đây nhờ ba cô nhổ giúp. Tôi nhớ ơn nhiều lắm. Nghe vậy, hai cô chị bĩu môi, nhổ nước bọt vào lưng Cóc rồi bỏ đi. Chỉ có cô em út là chẳng nói chẳng rằng, lặng lẽ đến khêu gai cho chàng Cóc. Cô đã khêu lâu lắm mà gai chẳng ra. Lúc bấy giờ Cóc mới bảo rằng: – Cô tốt bụng lắm nhưng khêu thế không được đâu! Phải cầm búa bửa mạnh thì gái mới chịu ra. Cô út nghe nói vậy lấy làm ngạc nhiên lắm. Nàng sợ Cóc đau nên không giám. Nàng đành phải nói cho cha biết. Mới nghe nói Khoàng Tý cũng ngạc nhiên chẳng kém gì cô con gái út. Nhưng chỉ một lúc sau Khoàng Tý lại thấy vui trong bụng. Hắn nghĩ rằng: thế thì Cóc sẽ phải chết. Hắn liền gọi người làm mang cho hắn một cái búa thật to, to nhất trong nhà. Nhìn thấy vua mang búa hằm hằm đi đến, Cóc đã biết ý ác của nhà vu. Khoàng Tý đến nơi, chẳng nói chẳng rằng cứ thế giơ búa nhằm vào đầu Cóc mà bổ thật mạnh. Chàng Cóc nhanh nhẹn lánh sang một bên và thưa: – Không! Tôi nhờ Khoàng Tý bổ vào ngón chân cái chứ có phải bổ bào đầu tôi đâu? Lần thứ hai rồi lần thứ ba, Khoàng Tý đều nhằm vào đầu Cóc mà bổ. Nhưng cả ba lần Cóc đều tránh được. Thất lạ, Khoàng Tý thầm nghĩ: “Hay ta bổ vào ngón chân cái của nó xem sao”. Khoàng Tý lền bổ mạnh vào ngón chân cái của chàng Cóc. Bổ xong, mệt quá, mồ hôi Khoàng Tý đầm đìa, mắt hoa lên. Hắn phải ngồi phịch xuống đất, nhắm mắt lại để thở. Khi mở được mắt ra thì Khoàng Tý thấy trước mặt mình chín gánh củi to và khô. Chàng Cóc bảo Khoàng Tý: – Đấy tôi đã mang về chín gánh củi rồi, Khoàng Tý gả con gái cho tôi đi. Lần này thì Khoàng Tý không thề chối cãi được nữa. Hắn đành phải gọi ba đứa con gái của mình đến và hỏi: – Đứa nào muốn làm vợ Cóc? Hai cô chị thi nhau cười giễu Cóc. Hết chê chàng da xù xì, lung gù lại chê là mùi hôi thối. Chúng không thèm trả lời, nhổ nước bọt vào lưng cóc rồi bỏ đi. Cô em út thì chẳng nói chẳng rằng cứ ngồi im lặng. Thấy vậy, Khoàng Tý bực lắm, hỏi: – Thế nào? Mày muốn lấy Cóc à? Cô gái lặng lẽ gật đầu. Cuối cùng Khoàng Tý đành phải ưng thuận cho con gái út lấy chàng Cóc xấu xí. Lúc tiễn hai vợ chồng Cóc, Khoàng Tý gọi con gái lại gần và bảo: – Ta sẽ đưa cho con một cái chày đá và một con ngựa, đến giữa đường, con phải ném chết cóc rồi đánh ngựa quay trờ về. Phải nhớ lời ta dặn đấy. Trên đường về nhà, Cóc dắt ngựa nhảy đi trước còn vợ Cóc cưỡi ngựa theo sau. Đi được một quãng xa, vợ Cóc xuống ngựa và nói với chồng: – Cha em không ưng bụng cho em sống cùng chàng đâu. Bụng cha em ác lắm, khác với bụng em nhiều, nhưng chàng đừng buồn, em không làm khác ý muốn của mình đâu. Nói hết câu, cô gái ném cái chày đá xuống vực rồi xuống ngựa cùng đi bộ với Cóc về nhà. Hai vợ chồng sống trong một túp lều tranh lụp xụp, rách nát. Hàng ngày, Cóc vẫn một mình phát nương làm rẫy. Vợ Cóc thương chồng lắm. Một lần nàng theo chồng đi ra nương. Đến nơi, nàng nhìn mãi mà không thấy chồng đâu, chỉ thấy một chàng trai khỏe, đẹp đang mải mê làm nương. Người vợ mải nhìn chàng trai, bàn chân vô tình đâm phải cành lá khô dưới đất. Thấy động, chàng trai lập tức chạy trốn vào một bụi cây gần đấy. Vợ Cóc lạ quá liền rượt theo, thì chẳng thấy chàng trai đâu mà chỉ thấy một con Cóc ngồi chồm chỗm dưới gốc cây mục. Vợ ra làm nương tiếp. Vừa làm, nàng vừa nghĩ; không biết chàng trai kia là ai mà lại đến nương làm hộ nhà mình. Ngày qua tháng lại đã đến ngày hội lớn ở trong vùng. Trai gái trong bẳn mặc những bộ váy áo thật đẹp, thật sặc sỡ để đi dự hội. Thấy mình xấu xí, Cóc không muốn đi chơi với vợ. Chàng dục vợ đi trước còn mình đi sau. Vợ Cóc đi rồi, ở nhà , Cóc liền lột vỏ biến thành một chàng trai trẻ đẹp, rồi theo đường tắt đi đến hội. Lũ làng ai cũng trầm trồ, đổ mắt nhìn về phía chàng. Khi thấy chàng đánh quay tài giỏi quá mọi người dồn đến xem chật vòng trong vòng ngoài. Con gái thì muốn được tung còn với chàng, con trai thì muốn được đọ quay với chàng. Ở trong cuộc vui mà vợ Cóc buồn lắm. Nàng chờ mãi chẳng thấy chồng đến. Nàng định bỏ về nhà, nhưng lúc đi qua đám đông nàng ghé nhìn vào chỗ người đang chơi quay thì bỗng nhận ra chàng trai phát nương ngày nào. Nàng đến gần chàng trai định hỏi chuyện thì chàng bỏ chạy về hướng nhà Cóc. Lũ làng đổ xô chạy theo sau. Mọi người vào nhà chẳng thấy chàng trai nữa, chỉ thấy một con Cóc nằm thở phì dưới gầm giường. Một lần khác trong vùng lại có hội. Cóc lại giục vợ đi trước. Còn mình đi sau. Lần này vợ Cóc đi đến nửa đường thì quay về nhà. Quả nhiên nàng nhìn thấy một tấm da Cóc ở dưới gầm giường. Chẳng chút chần chừ, nàng liền chạy lại cầm lấy tấm da ném vào lửa. Lúc ấy ở đám hội đang vui, tự nhiên chàng Cóc thấy người bỗng nóng rực lên, biết có chuyện xảy ra chàng bèn chạy ngay về nhà. Vừa vào đến cửa chàng đã ngửi thấy mùi khét, bèn lấy que khều đống lửa thì thây tấm da đã cháy hết. Từ đó Cóc mãi mãi hóa thành người và vợ chồng Cóc sống bên nhau đầm ấm. Từ ngày mất vỏ, chàng Cóc làm lụng thật vất vả. Mọi việc chàng đều phải nhờ vào hai bàn tay. Lúa trên nương của hai vợ chồng Cóc không tốt như trước nữa. Gạo trong nhà của hai vợ chồng Cóc mau hết hơn. Họ phải đi đào củ mài ở trên rừng để ăn. Một hôm chàng Cóc nói với vợ: – Vợ chồng mình khổ nhiều quá rồi. Bây giờ tôi không muốn nàng phải ăn củ mài ở trên rừng mãi, phải mặc áo rách mãi. Nàng ở nhà, tôi sẽ đi buôn một chuyến xa. Chỉ một lần trăng lên tôi sẽ trở về thôi! Thế rồi sáng hôm sau chàng Cóc từ biệt người vợ xinh đẹp ra đi, trong tay chỉ có vài đồng bạc nén. Chàng phải đi xa, xa lắm. Trên đường chàng gặp một Xê sư. Xê sư biết Cóc là người tài giỏi tốt bụng nên muốn giúp chàng đạt được ý muốn. Xê sư hỏi: – Chàng trai đi đây vậy? Chàng Cóc lễ phép cúi đầu chào rồi đáp: – Nhà con nghèo, con phải đi buôn một chuyến xa! Xê sư lại nói: – Thế thì con hãy đi theo ta! Trên đường đi, hai người gặp một dòng sông đoạn giữa trong còn ở đầu dòng và cuối dòng lại đục ngầu. Chàng Cóc lạ lắm, bèn hỏi Xê sư: – Tại sao lại có con sông lạ như vậy? Xê sư chậm rãi trả lời: – À phải! Làm gì có con sông lạ ấy được. Nước phải trong từ trên nguồn xuống chứ có bao giờ chỉ trong ở giữa quãng đâu. Hai người lại tiếp tục đi. Một lúc sau họ gặp một con chim chỉ có một chân. Thấy lạ chàng Cóc hỏi, thì Xê sư trả lời: – Con chim có một chân thì không thể đi được. Cũng như người ta không thể một chân mà đi lại dễ dàng. Chàng Cóc thấy Xê sư nói có lý thì phục lắm. Từ đó hễ trên đường gặp cái gì lạn chàng đều nhờ Xê sư bảo cho. Hai người đã qua bao nhiêu con sông, bao nhiêu ngọn núi. Một hôm nọ đến một bản nọ. Ở đầu bản họ thấy một cây gạo ra hoa đỏ chói trông rất đẹp mắt. Nhưng chẳng hiểu sao thân nó lại xù xì những gai. Chẳng kìm được tính tò mò, chăng Cóc lại nhờ Xê sư giải đáp giúp. Xê sư nói: – À có gì đâu! Cái cây đó giống như một con người tốt bụng. Bề ngoài trông xấu xí nhưng trong bụng lại không giấu con dao độc. Đi với chàng Cóc thêm nhiều con sông, thêm nhiều con suối nữa thì Xê sư nói với chàng: – Hỡi chàng trai tốt bụng! Bây giờ ta không thể cùng đi với con được nữa. Con hãy ghi vào trong đầu những điều ta đã nói với con ở dọc đường. Nó sẽ giúp con nhiều đấy. Nói xong Xê sư đi về một ngả, còn chàng Cóc cứ theo ngọn núi trước mắt mà đi. Chàng đi qua bản đầu tiên thì thấy một đám người đang định làm thịt con chó. Mắt nó ươn ướt như muốn nói với chàng một điều gì. Chàng Cóc thương hại con chó sắp bị làm thịt bèn bỏ một đồng bạc nén ra để mua. Con chó thoát chết mừng lắm. Nó ngoe ngẩy cái đuôi tỏ ý cám ơn chàng. Người và chó cùng đi. Đến một bản khác chàng Cóc lại thấy một con mèo xám bị nhốt vào giỏ sắp đêm thả xuống sông. Nghe tiếng kêu thảm thiết của con vật, chàng Cóc không nỡ để người ta giết nó. Chàng lại bỏ một đồng bạc nén để mua con mèo. Chó, mèo cùng chàng Cóc đi đến một cánh rừng nọ thì thấy rất nhiều người xúm quanh một con trăn lớn. Họ sắp giết chăn. Con trăn sợ lắm. Nó đang ra sức giãy giụa để mong thoát chết. Không ngần ngại chàng Cóc lại dốc cả số tiền còn lại ở trong túi để mua con trăn. Thế là số tiền mang theo không còn một xu. Chàng Cóc vui vẻ cung những con vật vừa mua được quay về nhà. Lại nói đến Khoàng Tý. Từ khi chia tay với con gái út, hắn tưởng con nghe theo mình giết Cóc rồi quay về. Hắn chờ đến năm lần chăng chết, rồi năm lần trăng sống vẫn chưa thấy con về. Khoàng Tý buồn rầu bèn sang nhà Cóc xưm sao. Đến nơi hắn chỉ thấy vợ Cóc ở nhà một mình, liền bắt con gái về để để gả cho con trai xú cà. Vợ Cóc khẩn khoản van nài nhưng nhà vua vẫn trợn mắt quả: – Bụng tao không ưng cho mày lấy thằng Cóc xấu xí ấy đâu. Mày phải lấy con xú cà thôi. Con xú cà nó có nhiều trâu, nhiều ngựa, nhiều bạc nén. Sao mày không thích giàu mà lại thích nghèo. Cô gái lại phân trần với vua cha: – Cha ơi! Cha nhầm rồi! Chồng con không phải là Cóc đâu. Chồng con là người mà. Nghe vậy nhà vua lại nổi cơn thịnh nộ: – Mày không nói lọt tai tao đâu! Bụng tao đã ưng cho mày lấy con xú cà thì mày phải nghe! Đừng nói trái lòng tao! Vợ Cóc khóc nhiều lắm. Nước mắt nàng chảy đã ướt hết một cái áo rồi hai cái áo, mà Khoàng Tý vẫn không chịu nghe. Tên xú cà bụng rất muốn có con gái làm vợ cho con nên nó cho mổ nhiều lợn, nhiều gà, lấy nhiều rượu, nhiều thuốc mời những kẻ giàu ở quanh vùng về ăn lễ. Nó muốn lễ cưới con nó với cô gái xinh đẹp con Khoàng Tý phải to nhất trong vùng. Chúng đang ăn uống linh đình thì đột nhiên có tiếng đập cửa thình thình. Cửa bật mở, chàng Cóc lừng lững bước vào trong nhà. Chúng vừa ngạc nhiên vừa tức nhưng vẫn phải mời chàng Cóc ăn cơm. Khi mời rượu khách, chủ nhà rót quanh một lượt riêng chàng Cóc thì nó bỏ qua. Chàng Cóc giận lắm, nhớ đến lời Xê sư dặn trên đường, chàng nói: – Nước đục phải đục từ trên nguồn xuống, có bao giờ chỉ đục quãng giữa đâu? Chẳng biết nói thế nào, bọn chúng phải rót rượu mời chàng. Lúc cầm đũa để gắp thức ăn, chàng Cóc chỉ thấy một chiếc. Chàng cố ghìm lòng nói to: – Chim chỉ có một chân thì làm sao đi được, người cũng thế? Sao chỉ cho ta một chiếc đũa để ăn. Lại một lần nữa chúng chịu thua chàng. Vừa lúc ấy vợ chàng Cóc từ trong nhà bước ra. Đầu nàng đội chiếc khăn thêu nhiều màu sặc sỡ, người nàng mặc bộ quần áo mới rất đẹp. Trông nàng như một bông hoa mới nở. Thấy vậy chàng Cóc cất tiếng hỏi: – Nàng ở nhà có chuyện gì không hay vậy? Vợ Cóc vừa khóc vừa kể hết đầu đuôi sự việc cho chồng mình nghe. Bấy giờ chàng Cóc mới hiểu tất cả bụng dạ cú cáo của Khoàng Tý. Chàng tìm lời an ủi vợ: – Thôi! Nàng đừng khóc nữa. Tôi đã mua chó và mèo về rồi. Nàng mang chúng vào nhà đi. Tôi phải ra đầu làng dắt con trăn về đã. Khi chàng Cóc đi tới nơi buộc trăn lúc sáng thì lạ quá, nhìn quanh chẳng thấy trăn đâu cả, chỉ có một cô gái đẹp đang nở miệng cười. Chàng Cóc hỏi: – Hỡi cô gái đẹp ơi! Cô có thấy con trăn của tôi buộc ở đây không? Cô gái mỉn cười đáp: – Con trăn của chàng chính là em đây! Chàng Cóc rất ngạc nhiên. Chàng mở mắt to nhìn cô gái đẹp. Thấy vậy, cô gái nói thêm: – Em là con gái thứ sáu, con gái út của Be dòng đấy. Hôm nọ trời đẹp em lên trần chơi chẳng may gặp đoàn đi săn, họ bắt em định thịt. Hôm ấy nếu không được chàng cứu thì em không nói được nữa rồi! Em biết ơn chàng lắm. Bây giờ chàng xuống chơi nhà em đi, đường dễ đi thôi! Chàng Cóc rất thương vợ. Chàng muốn ở nhà với vợ nhưng lại muốn biết nhà của Be dòng đẹp như thế nào nên chàng ưng thuận đi theo. Đến một hồ nước rộng, trong xanh, cô gái xinh đẹp chỉ tay xuống mặt nước và bảo: – Nhà cha em ở dưới này! Giờ chàng nhắm mắt lại và cầm chặt lấy thắt lưng em. Khi nào em bảo mở mắt thì chàng mới được mở. Cô gái còn dặn thêm: – Xuống đó, khi về thế nào cha mẹ em cụng tạ ơn chàng đã cứu sống em. Chàng chớ có lấy vàng bạc mà hãy xin chiếc đuôi cá bằng vàng treo ở giữa nhà ấy. Nó sẽ giúp chàng ước gì được nấy. Chàng Cóc làm theo lời dặn của cô gái. Chàng nhắm mắt lại và nắm chặt lấy thắt lưng cô gái. Khi mở mắt ra chàng thấy mình đang ở trong một ngôi nhà lớn có nhiều lợn gà, vàng bạc. Cô gái kể đầu đuôi câu chuyện cho cha mình nghe. Be dòng niềm nở đón tiếp chàng. Be dòng dọn cho chàng ăn những thức ăn ngon nhất nơi thủy cung. Rồi cô gái lại dẫn chàng đi xem những cảnh đẹp. Sống được ít ngày, chang Cóc thấy nhớ vợ và xin Be dòng trở lại cõi trần. Be dòng biết không thể giữa chàng ở lại thủy cung, liền bảo chàng: – Hỡi chàng trai tốt bụng, chúng tôi không biết lấy gì đền ơn lòng tốt đã cứu con ta, chàng muốn gì ta sẽ tạ ơn! Chàng Cóc nhìn quanh nhà Be dòng, rồi thưa: – Tôi chỉ muốn xin chiếc đuôi cá vàng kia. Be dòng bằng lòng, lấy đuôi cá vàng trao cho chàng Cóc, rồi cả nhà cùng ra tiễn chàng lên bờ, chúc chàng hạnh phúc, muốn gì được nấy. Chàng Cóc nhắm mắt lại và nhờ cô gái xinh đẹp đưa lên bờ. Về đến nhà, theo lời dặn của cô gái, chàng Cóc tự tay đóng một cái bàn xinh xắn. Đóng xong, chàng gọi vợ đến và quét xuôi đuôi cá ba lần lên mặt bàn. Một mâm cơm ngon, đầy rượu thịt hiện ra. Hai vợ chồng cùng ăn uống vui vẻ. Sau đó chàng lại qué ba lần lên mặt bàn. Lập tức một tòa nhà bằng vàng óng ánh, cùng không biết bao nhiêu trâu, bò, lơn, gà hiện ra. Từ đấy cuộc sống của hai vợ chồng Cóc trở nên sung sướng, hạnh phúc. Còn Khoàng Tý, khi tan bữa tiệc cưới ít hôm, có người vào báo có chuyện lạ là vợ chàng Cóc vẫn không chịu về làm vợ con nhà xú cà. Không những thế chàng Cóc lại vừa mới xây xong một tòa nhà bằng vàng rất đẹp. Khoàng Tý lúc đầy không tin, đến tận nơi xem thì quả đúng như vậy. Hắn trở về và đem những điều mắt thấy tai nghe thuật lại cho vợ và hai cô con gái cả. Chúng không tin. Vợ Khoàng Tý bèn tới nơi để xem thử. Đến nhà con gái, mụ thấy hai vợ chồng chàng Cóc béo khỏe, xinh đẹp, sống rất sung sướng trong một tòa nhà lộng lẫy bằng vàng. Vợ chồng Cóc ra tận cổng đón mụ. Ở nhà vợ chồng Cóc, mụ vợ Khoàng Tý được ăn những thúc ngon lạ bấy nay chưa hề thấy. Rồi mụ lại còn được thấy những của cải quí của con gái. Máu tham nổi lên che hết đầu hết mặt. Mụ gạn hỏi vợ chồng Cóc. – Sao các con lại kiếm được những của hiếm này? Chàng Cóc thật bụng kể lại mọi chuyện chuyện cho mụ nghe. Khi đã biết được nhiều bí ẩn, vợ Khoàng Tý vội vã ra về. Mụ đi nhanh như gió thổi, như có con ma đuổi sau lưng. Vừa về đến nhà, mụ liền gọi chồng đến nhỏ to thuật lại mọi chuyện. Khoàng Tý nghĩ vợ mình nói dối nên lại sai hai con gái đến nhà vợ chồng Cóc. Hai cô chị trở về đều nói đúng như lời mụ. Khoàng Tý vẫn chưa tin. Hắn muốn tự mình đến nơi xem hư thực lần nữa. Ngay sáng hôm sau, hắn vội vã đến nhà vợ chồng con gái út. Hắn trở về nhà vừa lúc hai cô con gái cả của hắn vừa chết. Chẳng là, hai cô chị thấy chồng em mình giàu quá, đẹp quá liền tìm cách giết em gái để cướp chồng. Nhưng cô cả lại sợ cô thứ hai tranh mất nên tìm cách hại em. Hôm đó chúng dủ nhau đi tắm, thấy em sơ ý, cô cả liền đẩy em xuống sông, rồi chạy vào rừng định tìm hái lá ngón về giết em út. Nhưng vừa vào đến rừng chưa kịp hái thì đã bị một con rắn độc bò đến cắn chết tươi. Lòng vợ chồng Khoàng Tý rất buồn vì một lúc mất hai đứa con. Nhưng bụng nó vẫn không muốn bỏ chiếc đuôi cá bằng vàng của vợ chồng Cóc. Khoàng Tý mở kho lấy vàng rồi truyền lệnh cho thợ đánh ngày đêm bằng một chiếc đuôi cá y như chiếc đuôi cá thần của chàng Cóc. Đuôi cá được làm xong, Khoàng Tý hí hửng mang sang nhà chàng Cóc. Cũng như lần trước hai vợ chồng Cóc đón tiếp cha thật chu tất. Họ không thể ngờ được mưu gian của Khoàng Tý. Lừa lúc vợ chồng Cóc đi ngủ Khoàng Tý bèn đánh tráo đuôi cá thần. Sáng hôm sau hắn giả vờ buồn bã chào vợ chồng Cóc rồi ra về. Từ ngày cướp được đuôi cá vàng, Khoàng Tý đã giàu càng giàu thêm. Suốt ngày Khoàng Tý ăn uống no say, hết ở nhà vàng này lại sang ở nhà vàng khác. Hắn bắt đuôi cá làm việc liên tục, làm ra bao nhiêu của cải cho hắn. Còn vợ chồng chàng Cóc từ khi mất đuôi cá thần thì trở lại nghèo đói như xưa. Họ làm việc suốt ngày mà bụng vẫn không đủ no, áo mặc vẫn bị rách. Một hom chàng Cóc bàn với vợ: – Mình nhịn đói lâu rồi, trong nhà lại chẳng còn cái gì bán được. Hay ta mang chó, mèo đi đổi lấy gạo ăn vậy. Nghe thấy chủ bàn thế, chó và mèo buồn lắm. Chúng không muốn xa hai vợ chồng người chủ tốt bụng nên năn nỉ xin chàng Cóc cho được sống và hứa đi lấy đuôi cá vàng thần về cho chàng. Hai con rủ nhau đi. Chúng chạy suốt ngày suốt đêm không nghỉ. Tới nhà Khoàng Tý, mèo bảo chó: – Anh chó ơi! Anh ở đây rình bắt lấy con chuột chúa nhé! Tôi sẽ vào xua nó ra. Khoảng Tý để đuôi cá thần trong hòm, ta phải bắt chuột cắn thủng hòm mới lấy được. Chó gật đầu đồng ý. Nó nấp một chỗ kín để rình. Chỉ sau một lần nguẩy đuôi, chó đã thấy đàn chuột nhốn nháo chạy quàng chạy xiên ra ngoài. Chó nhảy xổ tới ngoạm lấy con chuột chúa. Mèo nhanh chân lẹ làng nhảy đến túm lấy chú chuột đang run lẩy bẩy mà bảo: – Mày muốn sống thì hãy đi gọi cả họ nhà mày đến đây để vào khoét bằng được cái hòm quí trong buồng Khoàng Tý. Chuột run sợ nhận lời. Chỉ một lát sau bao nhiêu chuột to, chuột nhỏ, chuột đực, chuột cái kéo về lúc nhúc trước mặt chó và mèo. Mèo bảo con chuột chúa: – Chúng mày hãy vào cắn thủng hòm của Khoàng Tý rồi lấy chiếc đuôi cá bằng vàng ra đây cho tao thì sẽ được tha chết! Chuột chúa vội vã vâng lời và nhảy đi trước. Theo sau nó là những chú chuột cường cháng nhanh chân nhất. Lúc ấy, Khoàng Tý đang cùng vợ ăn cơm trong nhà nghe thấy tiếng chuột cắn liền bảo vợ: – Bà vào đuổi chuột đi kẻo nó cắn thủng chiếc hòm đựng đuôi cá vàng mất. Ngay lúc đó mèo đứng ở góc nhà kêu lớn “meo meo!” làm cho vợ Khoàng Tý yên lòng bảo chồng: – Sợ gì, đã có mèo rồi! Chuột thay nhau hì hục khoét hòm. Chẳng mấy chốc hòm thủng, họ hàng nhà chuột khéo léo lôi đuôi cá vàng ra ngoài. Mèo ngoạm ngay lấy đuôi cá thần, tha chết cho họ hàng nhà chuột rồi nhẹ nhàng chạy ra cửa sau ra đường. Giữa lúc hai vợ chồng chàng Cóc đang than thở về người cha độc ác và thân phận nghèo đói của mình thì nghe thấy tiếng chó sủa ngoài bìa rừng. Biết là mèo và chó đã trở về, chàng Cóc vội ra đón. Mèo mừng rỡ trao đuôi cá thần cho chủ. Chàng Cóc cám ơn hai con vật tốt bụng rồi lấy đuôi cá vàng ra quét đi quét lại vài lần trên mặt bàn. Lập tức bao nhiêu thức ăn ngon hiện ra, rồi cả nhà cao cửa rộng, trâu ngựa béo khỏe cũng hiện ra. Từ đó hai vợ chồng chàng Cóc lại sống một cuộc sống no đủ sung sướng bên cạnh chó và mèo. Còn vợ chồng Khoàng Tý sáng ra thấy đói định mở hòm lấy đuôi cá vàng thì chẳng thấy đâu. Chúng tiếc ngẩn tiếc ngơ đến đứt ruột mà chết...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-coc" }
Vua heo
Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé mồ côi, quần áo rách rưới lang thang đi ăn xin khắp nơi, có lần đến ngôi làng nọ, có một người thấy cậu cũng nhanh nhẹn bèn mang cậu về nhà nuôi để sai vặt. Cậu ngoài làm người ở ra còn hay nghịch ngợm lấm lem nên mọi người chế giễu gọi cậu là thằng Heo. Mặc cho mọi người chê, Heo vẫn không mảy may quan tâm. Bao nhiêu năm trôi qua, năm nào cũng hạn hán lũ lụt, mấy đứa trẻ nhà nghèo bằng tuổi cậu không ốm yếu thì cũng gầy tong teo, ấy thế mà Heo vẫn sống khỏe mạnh và ngày càng lớn. Năm lên mười lăm tuổi, Heo lui đến ở với một vị quan lớn. Heo khỏe mạnh lại nhanh nhẹn nên quan ưng lắm, sai tất thảy mọi việc. Một hôm, vị quan lớn bắt Heo múc một chậu nước để kì chân cho quan. Lúc Heo sờ vào chân của quan, quan chỉ tay vào mấy cái nốt ruồi của mình và nói: – Mày có nhìn thấy không? Đây là ba nốt ruồi son quý của ông đấy, mày rửa chân ông cẩn thận, làm xước ba nốt ruồi của ông thì cả họ nhà mày cũng không đền được cái tướng quý báu đấy đâu. Heo ta nghe quan lớn nói vậy thì mới vạch áo cho quan lớn nhìn những nốt ruồi son của mình và nói: – Quan lớn mới có mỗi ba cái nốt ruồi son thôi mà đã cẩn trọng giữ gìn như báu vật đến vậy. Quan nhìn xem, con có tận chín cái nốt ruồi son đây này. Quan lớn ngạc nhiên nhìn thấy tận chín cái nốt ruồi son ở đằng sau lưng Heo thì chột dạ: “Ôi trời đất! Mình có ba cái nốt ruồi son thôi mà gia thế đã được thế này, cái thằng người ở bẩn thỉu kia lại có đến tận chín cái. Sau này nó không làm Vua thì ắt cũng quan to chức lớn, ta lại dưới chướng nó thì còn mặt mũi nào nữa. Ta phải giết nó đỡ gây hậu họa về sau”. Thế rồi vài ngày sau, quan lớn giao cho đứa hầu gái một gói thuốc độc và dặn rằng: – Hôm nay xới cơm cho thằng Heo ăn thì phải rắc ngay gói thuốc độc này vào bát, để ai biết được chuyện ta cho Heo trúng độc ra ngoài thì ngươi sẽ chết ngay tức khắc. Cô hầu gái cầm lấy gói thuốc độc từ tay tên quan mà lòng đau như cắt, cô và Heo làm người hầu trong nhà đã bao năm nay, có gì cũng giúp đỡ nhau, lần này quan ép cô giết Heo, cô không biết phải làm như thế nào. Buổi hôm ấy, Heo sách giỏ ra chợ mua một ít giấy bút cho chủ. Về đến nhà thì cô hầu gái đang cho đàn Heo ăn. Đang đói bụng, Heo vơ vội bát cơm định cho vào miệng thì nghe tiếng cô vừa gõ vào chiếc máng lợn vừa mắng: – Heo ôn! Heo ôn! Heo ăn Heo sẽ chết, mà Heo không ăn thì Heo cũng sẽ chết! Cô vừa gõ mạnh vừa nói đi nói lại tới ba lần liền. Anh chàng Heo nghe thấy cô hầu gái quát đàn Heo thì cảm giác có điều không lành bèn lân la đến chỗ cô hầu gái dò hỏi: – Tôi sắp gặp chuyện gì đáng lo sao? Cô nói cho tôi biết đi. Cô hầu gái đáp: – Sau này Heo đừng quên tôi thì tôi sẽ nói cho Heo biết. Heo gật đầu đồng ý. Cô hầu cầm tay Heo kéo ra một góc khuất rồi kể hết đầu đuôi câu chuyện cho Heo nghe và bảo: – Heo mau chạy trốn đi, đừng để quan lớn biết được, nếu không không những Heo chết mà tôi cũng chết. Cảm tạ ơn cứu mạng của cô hầu gái vô cùng, Heo ôm lấy cô hầu gái và nói: – Sau này nếu như tôi làm nên thì cô hãy tìm tới ta, nhưng nhớ khi đến thì để mái tóc lù xù như này tôi mới nhận ra được. Heo bỏ chạy thật xa, đến làm thuê cho một lão trọc phú. Trọc phú thấy Heo đến xin việc, nhìn cũng nhanh nhẹn tháo vát nhưng chưa biết phân công cho Heo làm việc gì nên hắn bắt trông nom mấy đứa con chơi bời lêu lổng của hắn. Heo vui vẻ chấp nhận, trông mấy đứa nhỏ không quá vất vả nhưng mấy đứa này lại nghịch ngợm vô cùng, Heo lúc nào cũng phải kè kè bên chúng để chăm sóc. Có lần không may để một đứa nghịch bẩn, Heo bị trọc phú mắng nhiếc thậm tệ. Tuy nhiên Heo vẫn kiên nhẫn chịu đựng không cãi lại lời nào. Một hôm, lão trọc phú thấy mấy đứa con hắn không có gì chơi nên hắn bảo Heo: – Mày hãy bò ra sân làm ngựa để cho các con tao cưỡi. Có thế mới đáng đồng tiền bát gạo tao thuê mày. Cực chẳng đã Heo phải bò ra để làm ngựa, hết đứa lớn rồi đến đứa nhỏ leo lên lưng Heo để cưỡi, chúng nó tỏ ra rất thích thú. Đến hôm sau chúng lại đòi cưỡi, đứa con lớn của lão trọc phú nhảy phốc một cái lên lưng Heo, nó kéo tai, Heo vẫn cố chịu đựng. Một lúc sau, nó lấy một cái roi quật mạnh vào đít Heo, vừa quật nó vừa kêu “nhoong nhoong” như kiểu cưỡi ngựa thì Heo tức giận đùng đùng, Heo quay tay ra sau gạt nó một cái, thằng bé đang ngồi bị gạt mạnh văng xuống đất vỡ đầu chảy máu rồi chết. Heo hốt hoảng: “Mình đánh chết con trọc phú rồi, tí nữa là đến lượt mình cũng phải chết theo”, nghĩ thế Heo vội vàng bỏ trốn luôn. Heo bỏ đi rất xa, tới tận một ngôi chùa ở trên núi. Heo xin sư trụ trì được cắt tóc quy y đi theo cửa phật. Vị sư đang cần người khéo léo, giỏi leo trèo để lau chùi các pho tượng phật nên đã nhận Heo ở lại chùa. Một hôm, vị hòa thượng thấy những phần kẽ chân kẽ tay của những pho tượng bám đầy bụi bặm, nghĩ là Heo mải chơi không chịu lau chùi nên đã mắng Heo một trận, hao thấy thế thì ức lắm. Hôm sau Heo tỉ mỉ lau kĩ nhưng các pho tượng vẫn không sạch được vì những kẽ đó rất khó chùi. Bực mình Heo trợn mắt nhìn pho tượng và quát: – Mau nhấc tay lên cho ta lau. Pho tượng gỗ bỗng giơ tay lên trời, lau xong Heo lại quát: – Duỗi chân ra mau, không ta cho ăn một gậy bây giờ. Pho tượng phật đang ngồi tự dưng nhổm dậy duỗi chân ra để cho Heo lau. Chỉ một loáng là các pho tượng đều sạch bóng. Lau xong tất cả, Heo lại hô các pho tượng trở về như vị trí ban đầu. Ngày nào lau chùi Heo cũng làm như vậy, cho đến một hôm, mệt quá nên lau chùi xong Heo bỏ vào giường ngủ mà quên mất không hô cho các pho tượng trở lại vị trí ban đầu. Buổi tối khi các hòa thượng lên chùa để tụng kinh thì ai nấy giật mình nhìn tướng tá các pho tượng, cái thì giơ tay, cái thì nghiêng mình, thật là một cảnh tượng chưa bao giờ có, sư trụ trì cho gọi Heo lên và hỏi: – Tại sao các pho tượng lại trở nên kì quái thế này? Heo lễ phép đáp: – Là con không lau được các kẽ tượng nên mới bảo chúng làm như thế đó ạ. Lần này vị sư lại càng bất ngờ hơn. Ông thầm nghĩ bụng: “Chỉ có thiên tử mới có thể ra lệnh được. Chắc chắn sau này Heo sẽ lên làm Vua, ta mà giấu nó trong đây, sau này quan quân truy nã thì ta sao tránh khỏi tội lớn”. Nghĩ thế ông cho người bí mật lên báo quan. Nhưng lúc quan quân đến Heo đã chạy thật xa, một chú tiểu đồng tốt bụng đã nhanh nhẹn báo cho Heo biết sự tình nhắc Heo bỏ trốn thật mau. Heo cứ chạy mãi chạy mãi, đến một huyện kia, Heo lại xin làm hầu cho một phú thương. Trước nhà phú thương có trồng một hàng cau, cây nào cây nấy xếp hàng nhau thẳng tăm tắp. Hàng cau này chính là hàng cao phát lộc cho ông ta nên ông ta chăm sóc rất chu đáo, thuê Heo về ông giao nhiệm vụ cho Heo hàng ngày phải xách nước tưới cau. Một hôm, Heo mệt quá ngồi nghỉ dưới gốc cau, Heo buột miệng chỉ vào ba cây cau và nói: – Cây này là cây cha, cây này là cây mẹ, còn cây này là cây con! Bỗng nhiên, ba cây cau đang thẳng tắp ngang nhau thì trở nên lớn bé cao thấp khác nhau. Cây cha thì cao và lớn hơn tất cả, còn cây con lùn tè, buồng có nó còn gần chạm tới mặt đất. Sang ngày hôm sau, phú thương thấy hàng cau mình sảy ra sự lạ bèn gọi Heo đến hỏi cho ra nhẽ. Heo đáp: – Là tôi ngỗi chỉ tay vào chúng nói thế nên chúng thay đổi như vậy đó. Phú thương cười ngặt nghẽo, nào có ai ra lệnh được cho cây bao giờ, nhưng cũng bảo Heo: – Nếu đúng là mày ra lệnh cho chúng thì mày hãy biến chúng về vị trí như cũ xem. Heo trợn mắt bảo hắn: – Lời tôi nói ra rồi sẽ không rút lại đâu. Quân tử nói một là một, một lời nói ra nặng tựa ngàn cân. Phú thương nghe vậy thì tức lắm, điên tiết cầm gậy đuổi đánh Heo. Heo bỏ chạy thục mạng, dù có mệt mỏi, đói đến lả đi Heo vẫn không dám dừng lại vì sợ bị bắt lại đánh đạp. Mãi đến nửa đêm, vừa mệt vừa buồn ngủ, Heo chui đại vào một nhà nọ để kiếm chỗ ngả lưng. Trong nhà la liệt là người, không còn chỗ cho Heo ngủ, nhìn bên cạnh có bàn thờ Long Thần vừa vặn nằm, lại có cả chiếu manh nên Heo vứt tượng Long thần xuống đất trèo lên bàn ngủ ngon lành. Sáng hôm sau Heo dậy sớm, ra khỏi nhà tiếp tục đi. Khi chủ nhà thức dậy, đã thấy tượng Long thần nằm ở dưới đất, trên bàn thờ thì có dấu vết người nằm mà chưa dọn dẹp nên ai nấy cũng đều thấy làm lạ, hỏi ai dám vứt tượng Long Thần xuống đất thế này thì không ai nhận. Mọi người lau chùi lại bàn thờ rồi đưa tượng Long thần lên chỗ cũ. Nhưng khi họ nhấc tượng lên thì không tài nào nhấc nổi. Họ ngơ ngác nhìn nhau không biết nói gì, chủ nhà vội cho mời một thượng đồng đến xem bà ta thì thay lời Long thần nói rằng: – Ta ở đất của nhà Vua, Vua đặt ta ở đâu thì ta ở yên chỗ đó. Nghe thấy thế, ai nấy đều tin rằng thiên tử đã đến ngủ tại nhà mình tối qua. Tin này truyền đi một cách nhanh chóng trong dân chúng. Mọi người đều phấn khởi vì sắp có một minh chúa xuất hiện cứu giúp sinh linh đang đau khổ trong cảnh lầm than cơ cực của nước nhà lúc bấy giờ. Heo bỏ chạy lên núi thì gặp một toán giặc, Heo liền xin họ cho gia nhập đi đánh, càng ngày càng lập nhiều chiến tích. Nhờ có trí thông minh và khả năng trời phú sai khiến được cả Thần Phật thì Heo được cả sơn trại tôn làm trại chủ. Càng ngày càng có nhiều anh em xin đi theo. Heo chỉ đạo quân mình chống đối với quân của triều đình, nhiều trận đánh Heo chiến thắng làm cho quân triều đình thất bại thảm hại. Đất đai của Heo ngày càng được mở rộng mãi. Chàng tự xưng Vua, thiết lập hệ thống quan và binh lính triều đình. Từ đó mọi người hay gọi chàng là Vua Heo. Một ngày nọ khi đi qua tỉnh năm xưa, bỗng có một cô gái ra chặn đường xin bái kiến, quân lính mang cô đến gặp Vua Heo, Vua Heo nhận ra cô gái có mái tóc lù xù năm xưa đã cứu mạng mình thì lập tức mang nàng về kinh và phong làm hoàng hậu. Vua Heo sống hạnh phúc bên hoàng hậu, nhân dân dưới triều Vua Heo thì an nhàn, ấm no hạnh phúc, mọi người ca tụng Vua không ngớt...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vua-heo" }
Bò béo bò gầy
Ngày ấy vào thời vua Lê chúa Trịnh có hai vợ chồng một người nho sinh họ Lê. Nhân ngày cuối năm dắt nhau về thăm quê quán trong thành. Sau mấy năm đi làm ăn xa, họ có để dành được một số bạc nhỏ đưa về định làm vốn sống ở quê nhà. Qua bến đò Khuốt, họ đi vào giữa làng Đa-giá thượng. Đến đây trời đã xế chiều lại lấm tấm mưa. Thấy thế, người chồng quyết định nghỉ lại trong một cái quán bên đường. Làng Đa-giá thượng bấy giờ vẫn có một ổ gian phi lớn, chuyên cướp của giết người. Khách bộ hành đi qua đây thường thường nghỉ lại vì chỉ ở đây mới có dân cư quán xá, lại có chỗ ăn chỗ trọ tươm tất. Mà khi khách đã nghỉ lại thì kẻ nào coi chừng tay nải nằng nặng, lại cô đơn, là đêm đến sẽ có người kéo lên núi xô xuống một cái hang sâu và kín gần Kẽm-trống. Thế rồi những món đồ cướp sẽ tùy công lao mà chia nhau giữa mọi huynh thứ trong làng. Chúng giữ việc đó rất kín. Có những tiếng lóng thay cho tiếng nói thường. Từ bao lâu, hang núi thiên tạo đó như một cái giếng sâu, là mồ chung của bao nhiêu mạng người vô tội. Thế nhưng, bề ngoài đối với vua quan, đối với người các làng khác, chúng vẫn là những kẻ làm ăn lương thiện. Khi hai vợ chồng bước vào quán, bà hàng chạy ra đỡ chiếc thúng khảo trên tay người đàn bà. - Ông bà đến vừa đúng dịp! Hôm nay lại đang sẵn rượu ngon và nhắm tốt. Trời mùa đông, ăn xong thì đã không trông rõ mặt người. Nhà hàng dọn sẵn giường chiếu để cho họ nghỉ. Nhưng khi những cánh liếp vừa hạ xuống đựơc một chốc thì ở ngoài đường có tiếng hỏi vọng vào. - Nhà hàng mai cho chúng tôi mượn bò với nhé? - Có! - Bò béo bò gầy? - Bò béo. Bà chú quán thản nhiên trả lời rồi dọn dẹp đi ngù. Hai vợ chồng yên tâm trèo lên giường, bỏ cái tay nải ra gối đầu. Và rồi họ ngủ thiếp đi. Đêm ấy vào khoảng canh hai, trong quán đã có mấy tên lực lưỡng lẻn vào từ lúc nào. Người nho sinh họ Lê vẫn còn mê man trong giấc mộng. Mấy chén rượu có pha thuốc mê làm anh chàng chẳng còn biết gì trời đất. Nhưng người vợ thì vẫn tỉnh táo. Bọn cướp xông lại ấn giẻ vào miệng người chồng và lôi đi xềnh xệch. Người vợ toan la lên thì tên cướp thứ hai đã giơ lưỡi dao sáng loáng. Thấy hắn sắp động vào người, nàng quỳ xuống lầm bẩm: - "Thiếp cắn rơm cắn cỏ lạy ông. Ông tha cho, thiếp xin nhớ ơn trọn đời". Ngọn đuốc khoa vào mặt nàng. Nàng còn trẻ và rất xinh đẹp. Tên cướp bỗng thấy động lòng. Hắn giục: - "Thế thì đi. Nhưng khôn hồn hãy ngậm mồm lại. Hễ kêu lên thì cho chết!". Thế rồi, trong khi đi đường, tên cướp nghĩ ra được một kế để được chung chăn gối với người đàn bà có cặp mắt rất xinh kia. Hắn sẽ gửi nàng ở nhà một người thủ hạ tin cẩn, nhờ giấu kín cho, rồi khi về chỉ đưa đôi hoa tai ra trình mọi người là ổn. Từ đó tên cướp thường lui tới chỗ ở của người vợ mới không cheo cưới của hắn. Thình thoảng hắn biếu nàng một bộ xà tích hay mấy vuông lụa. Nàng không phải lo gì đến cái ăn cái mặc, đã có người hầu hạ chu tất. Nhưng nhất thiết nàng không được bước ra khỏi buồng, luôn luôn cửa đóng kín mít. Người đàn bà ấy đành nhắm mắt tuân theo như một kẻ không hồn. Dần dần nàng hiểu rõ cách sinh nhai của lũ cường bạo. Nhưng nàng vẫn cố nuốt những giọt nước mắt, vui vẻ đón tiếp kẻ thù của mình để hắn thí cho chút sống thừa. Tuy nhiên, chỉ được năm tháng là việc tên cướp giấu nàng ở đây bị bại lộ. Ba ngày trước, xã trưởng rỉ tai bảo hắn: - "Nếu anh không hạ thủ ngay thì đã có những người khác cho anh xuống hang cùng với con mụ ấy". Lệ làng đặt ra ai nấy đều phải tuân theo răm rắp. Tất nhiên hắn không thể phá lệ làng. Đêm ấy cơm xong, hắn đưa nàng lên núi. Hơn cả lần trước, lần này nàng van lạy hắn rất thảm thiết. Nhưng bây giờ trái tim hắn không còn lay chuyền. Hắn bảo: - Ta làm phúc cho nàng xuống suối vàng với chồng cho có bạn! Khi sắp đến miệng hang: người bàn bà bỗng nhiên bỏ chạy. Nhưng hắn đã đuổi theo và bắt được ngay. Đúng vào lúc hắn đẩy nàng xuống hang thì không ngờ nàng cũng níu chặt lấy áo hắn. Cà hai người cùng lăn tòm vào vực sâu. May mắn làm sao nàng lại nhanh tay thả hắn ra và bám được vào một nhánh cây mọc chìa ra ở lưng chừng. Thế rồi người đàn bà ấy lần mò rất khó nhọc, cuối cùng lên được khỏi miệng hang. Và nàng cứ nhằm hướng Bắc đi luôn một mạch. * Nói chuyện ngày hôm ấy xa giá Chúa đi qua cửa Đại-hưng. Khi đội tiền vệ vừa qua cầu thì vợ của chàng nho sinh họ Lê xấu số từ dưới gầm cầu chạy vụt lên quỳ ngay giữa đường cái. Đầu nàng đội một lá đơn trắng. Bị quân lính xua đuổi, nàng không chịu lùi, chỉ sửa lại vành khăn trắng, bảo họ: - "Lạy các bác, tiện thiếp oan ức tày trời xin cho gặp chúa thượng". Thấy có tiếng ồn ào đằng trước, chúa sai dừng kiệu, cho đòi khổ chủ đến hỏi chuyện. Nghe người đàn bà kể xong, chúa lập tức rút bảo kiếm, sai viên thám tướng mang ngay 2000 quân mã đi gấp ngày đêm vào Đa-giá thượng với lệnh "tiền trảm hậu tấu". Thê rồi sau đó hai ngày, có một thầy lang bán thuốc, vai đeo cái tay nải đỏ nặng trĩu đi qua đò Khuốt rồi tiến vào làng. Chưa vào quán, khách đã trao tay nải cho bà hàng và giục rượu inh ỏi. Chỉ một chốc khách đã say mềm, không còn nghe gì những tiếng trao đổi "bò béo bò gầy" giữa chủ quán với người ngoài cổng. Chưa đến lúc đi ngủ, khách đã bị trói giật cánh khỉ và điệu lên hang. Nhưng lần này vừa sắp đến hang thì một tiếng hô vang làm cho bọn cướp giật nảy mình. Từ bụi rậm xông ra một toán lính với mã tấu sáng lòe cởi trói cho khách và trói lũ sát nhân lại. Rồi từ bốn phía chân núi, bốn phía làng: tiếng reo hò, tiếng trống, tiếng mõ vang trời động đất của hai ngàn quân sĩ. Ngay hôm sau, làng Đa-giá thượng bị triệt hạ. Nhà cửa, tre phe, cây cối đều bị san phẳng. Đất đai và ruộng phân phát cho cả tỉnh: mỗi làng được một mảnh ruộng con, ngày nay vẫn còn gọi là ruộng kỳ tại. Bọn cướp hết thảy bị tử hình: đàn ông đều chém ngang lưng, đàn bà một hạng bỏ rọ trôi sông, một hạng sung làm thị tỳ ở các nhà quan. Người ta có bắt được một quyển sổ ghi từng năm một bao nhiêu bò béo, bao nhiêu bò gầy, bao nhiêu vàng bạc, bao nhiêu tiền và vật hạng. Một số quân sĩ được lệnh đẵn tre làm thang xuống hang rồi thòng dây xúc hài cốt của những người vô tội lên thiêu hóa[1]. KHẢO DỊ Theo Sơn cư tạp thuật thì truyện kể có hơi khác về chi tiết: Một hôm một người con hát, có người vợ rất đẹp qua làng Đa-giá vào trọ ở quán lý trưởng. Lý trưởng là một tên dâm ác, đêm đến hắn nhận mệnh lệnh của đồng lõa bắt người chồng đẩy xuống hang rồi giấu người vợ lại một nơi cho mình thỏa dục. Sau đó việc tiết lộ, bị đồng lõa bắt phải giết người đàn bà kia. Khi hắn đẩy người đàn bà thì hắn bị người ấy kéo luôn xuống hang và chết cả hai. Người vợ lý trưởng thấy chồng không về, hối hận, bèn đi cáo quan. Việc bại lộ có phần giống như truyện trên vừa kể. [1] Theo lời kể của người Ninh- bình và báo Tiểu thuyết chủ nhật.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bo-beo-bo-gay" }
Người ả đào với giặc Minh
Làng Đào-Đặng thuộc tỉnh Hưng-yên khi xưa có một thôn, trong thôn có nhiều con gái người đẹp hát hay, hầu hết đều làm nghề ả đào. Vào hồi ấy, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta. Sau mấy năm hành binh, chúng đặt đồn đóng quân khắp nước. Riêng thôn ấy cũng có một đồn lớn. Đồn rất kiên cố, xây bên một cái ngòi. Đây là một vùng đầm lầy lắm muỗi mà quân Minh thì rất sợ muỗi. Theo thói quen chúng bắt dân nộp vải rồi mỗi người may một cái túi kín, miệng túi có dây rút. Tối lại, toán quân ở trong đồn mỗi người chui vào túi của mình, chỉ để một kẻ thức ở ngoài thắt dây túi khi chúng đi ngủ và cởi dây khi chúng trở dậy. Quân Minh đi đến đâu chó gà vắng đến đấy. Chúng tha hồ cướp bóc và chém giết. Chúng bắt đàn bà con gái vào đồn hầu hạ và làm đồ chơi cho chúng. Trong thôn bấy giờ có một người ả đào nhan sắc rất đẹp. Nàng hát hay múa khéo nổi tiếng một vùng. Quân Minh vừa đến đã bắt được nàng. Chúng rất thích: thường bắt hát để mua vui. Nàng khéo chiều chuộng, dần dần chiếm được lòng tin cậy của giặc. Mãi về sau. chúng giao cho nàng công việc thắt miệng túi hộ, lúc nào dậy lại nhờ cởi ra. Bấy giờ vì nạn giặc Minh nên những trai tráng trong thôn đều bỏ trốn hết, chỉ còn lại có bảy người. Một hôm nàng bàn với họ mưu kế giết giặc. Nàng sẽ tìm cách làm cho họ lọt vào đồn rồi nhân lúc chúng ngủ say trong túi, khiêng ra ném xuống ngòi chết trôi ra sông Cái là mất tích. Và từ hôm ấy nàng cùng mấy người làng cứ theo cách đó đêm nào cũng giết được một số giặc. Họ làm cho quân giặc đến đóng ở đồn chết dần chết mòn mà chúng vẫn không biết gì cả. Lâu ngày mấy tên tướng chỉ huy thấy số quân có phần hao hụt nên chúng phải đắp bên cạnh đồn một cái đấu để đong quân. Từ khi có đấu, chúng mới biết quân mình ngày một vợi dần. Chúng ngờ có quỷ thần ám hại nên dời đồn đi một nơi khác. Người dân vùng ấy nhờ vậy mà được thoát nạn..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-a-dao-voi-giac-minh" }
Ông Ồ
Ngày xưa ở cửa Sót thuộc Hà-tĩnh có một người làng chài có sức khỏe hơn đời. Ông ta làm việc gấp đôi gấp ba người thường, sức ăn mỗi bữa có thể hết một nồi mười cơm. Nghề vật thì rất giỏi, những tay đô vật trong vùng đều hàng phục. Ông ta vẫn lấy thế làm kiêu hãnh. Nghe tiếng đồn về một người kẻ Ngật tên là ông Ồ có sức khỏe đặc biệt, nên ông có ý muốn tìm đến đọ tài một phen. Nghĩ vậy, một hôm ông quảy hai chum kiệu nước mắm tìm đường đến kẻ Ngật để nhân bán nước mắm dò hỏi cho ra ông Ồ, xem thử mặt mũi thế nào. Ông đến kẻ Ngật thì trời vừa trưa. Thấy có một ông già đang cày ruộng bên đường, ông bèn dừng lại hỏi thăm: - Cụ làm ơn chỉ giúp đường vào nhà ông Ồ. Ông già đáp: - Chính tôi là ông Ồ đây, ông muốn hỏi việc gì? Khách chưa biết ông Ồ là người thế nào nên không muốn nói vội mục đích của mình là thi tài, chỉ đáp: - Tôi nghe tiếng nên muốn đến làm quen. - Ông chịu khó chờ một tý, ông già đáp, chỉ còn vài dường cày nữa là xong, tôi sẽ đưa ông về nhà chơi! Nói rồi ông già giục trâu cày nhanh. Người làng chài đặt gánh bên vệ đường chờ. Bỗng nghe "rắc" một tiếng, nhìn lại thì ra cái náp[5] cày bị gãy, người làng chài nghĩ bụng: - "Thôi gãy náp rồi, thế nào ông này cũng phải về thôi!". Nhưng ông ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông Ô thò ngón tay trỏ của mình vào chỗ vẫn xỏ cái náp để thế cho cái náp, rồi giục trâu đi như không có việc gì xảy ra. Người làng chài chột dạ, nghĩ bụng: - "Trời ôi! Ông này phải là xương đồng da sắt thì mới dám dùng ngón tay thay cho cái náp". Sau khi cày xong, người làng chài thấy ông Ồ thôi cày, tháo ách cho trâu nghỉ, rồi rửa cày đưa lên bờ ruộng. Bỗng lại thấy ông Ồ xuống ruộng dùng hai cánh tay nhấc bổng trâu lên khỏa chân trâu mấy cái ở vũng nước cho sạch bùn rồi bỏ lên bờ. Ông kia thấy vậy từ chột dạ đến kinh ngạc, nhưng vẫn nghĩ bụng: - "Nhấc bổng trâu như vậy chưa chắc đã là khỏe". Nghĩ vậy, không hỏi gì thêm, ông ta chỉ lẳng lặng quảy hai chum kiệu theo ông già về xóm. Ông Ồ đưa khách về đến nhà rồi nói: - "Chẳng mấy khi ông quá bộ tới chơi, mời ông ở lại ăn cơm với chúng tôi". Đoạn, ông lấy chiếc bung ra bắc lên bếp, đổ gạo vào rồi đi nhóm lửa. Một đứa cháu của ông đang ngủ bỗng thức dậy khóc ré lên, ông phải chạy lại ẵm cháu rồi bảo khách: - Trong nhà hết mất củi, ngoài góc vườn đàng Đông có một gốc tre khô, nay tôi bận thằng cháu, phiền ông ra lôi nó vào đây ta đun. Khách đi ra được một lát lại trở vào mượn cái thuổng để xắn gốc tre. Ông Ồ nói: - Thằng con tôi nó mang đi làm chưa về. Cái gốc tre khô ấy cũng dễ nhổ thôi? Nói đoạn ông chạy ra vườn, một tay vẫn bế cháu, một tay lay gốc tre khô chỉ vài lần là đã bật gốc. Đến đây khách từ kinh ngạc đến thán phục, nhưng vẫn không nói gì. Cơm vừa chín, ông Ồ đặt mâm, dọn cà mắm và mời khách ăn thực tình cho. Người làng chài cố nuốt lắm mới hết một phần ba bung cơm. Nhưng ông ta lấy làm kinh ngạc khi thấy chủ nhân cứ ngồi tỳ tỳ chén hết số cơm còn lại trong bung mà coi bộ vẫn còn thòm thèm. Ăn xong, chủ khách ngồi uống nước. Ông Ồ lúc này mới hỏi khách: - Chẳng hay ông đến gặp tôi có việc gì? Người làng chài không còn dám nói ý định của mình trước đây nữa, chỉ múc ra một vò nước mắm và nói: - Tôi nghe tiếng ông khỏe nên mang đến tặng ông một vò nước mắm làm quen. Rồi đó người làng chài quảy hai chum kiệu đi thẳng[6]. Chú thích [1] Mét: một loại tre lớn. [2] Theo lời kể của người Hà-tĩnh. [3] Theo lời kể của người Phú-thọ. Hiện nay ở gần vực (xã Thượng nông, Vĩnh-phú) có miếu ông Hộ. [4] Của Nguyễn Khắc Xương. [5] Náp: miếng gỗ hay tre như cái chốt dùng để điều chỉnh cày sâu hay cạn. Ở Bắc-bộ gọi là "cá cày". [6] Theo lời kể của người Hà- tĩnh.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ong-o" }
Sự tích chim hít cô
Ngày xưa, có hai cô cháu ở chung với nhau một nhà. Người cô già, chồng chết từ lâu. Đứa cháu còn bé chừng mười hai tuổi mồ côi cha mẹ. Nhà họ nghèo, chỉ có vài sào ruộng, không đủ sống. Cho nên cô cháu ngày ngày phải đi mò cua bắt ốc hoặc mót hái kiếm ăn. Mấy năm trời được mùa, hai cô cháu tuy không lấy gì làm đầy đủ nhưng cũng sống vui. Ngày ngày cháu theo cô xách giỏ ra đồng, miệng hát có vẻ thích chí. Nhưng không may vụ hạ năm ấy mất mùa. Rồi tiếp đến vụ mùa nắng hạn nên cũng chẳng ăn thua gì. Trời không nắng lắm nhưng nhất định không mưa làm cho các ao hồ đều khô rông rốc. Ruộng nứt nẻ hết. Hai cô cháu cũng như những người nghèo khác đi mò cua bắt ốc ở các vùng cạn nước. Nhưng cua ốc bắt mãi cũng phải hết. Mà trong nhà thì gạo đã kiệt từ lâu. Biết tìm cái gì mà nuôi nhau đây. Người ta có sức khỏe lên rừng chặt củi về đổi lấy những cái ăn được mà sống qua ngày. Riêng hai cô cháu sức yếu đành chịu nằm nhà nhịn đói. Cái chết đang dọa nạt họ. May sao, buổi sáng hôm ấy có người hàng xóm sang báo tin cho cô cháu biết là có mấy đám lúa ở làng bên cạnh đã bắt đầu gặt. Bà cô thấy mình yếu lắm rồi, đứng lên không vững nữa. Chỉ có cháu là hơi tỉnh. Anh chàng gắng ngồi lên. Một người láng giềng đem cho một bát canh rau. Cháu húp vào thấy khỏe cả người, vội đứng lên đi theo họ. Họ đến vừa kịp buổi gặt. Nhưng người gặt thì ít mà người mót thì đông vô kể. Tất cả đều đói nhưng mót rất khỏe. Họ đánh liều sấn vào bứt lúa mặc kệ chủ ruộng cầm roi đánh không tiếc tay. Mãi đến chiều, người cháu mới đem lúa về. Lèo tèo chỉ có một nắm bằng cái chổi xể. Nhưng anh chàng không ngại. Hắn đập, sảy, rang rồi bỏ vào cối giã. Chỉ một lúc sau hắn đã đổ vào nồi bắc lên bếp. Khi nồi cháo bắt đầu sôi thì người cô bỗng trở mình và rên khừ khừ. Cháu lật đật vào lật chiếu thăm cô. Cô rên rỉ kêu đau bụng, bảo cháu đi xin cho mình một tí gừng. Cháu ngần ngại không muốn đi nhưng  thấy cô có vẻ nguy kịch, vội đánh đường vào xóm. Sau khi cháu đi, người cô gắng dậy ngồi vào bếp đun lửa cho nồi cháo. Lúc cháo chín, cô bỏ muối vào nếm thử một hớp. Chất ngũ cốc vào bụng trôi đến đâu, thịt da như sống lại đến đấy. Thấy cháu vẫn chưa về, cô múc ra một bát để dành phần cho cháu rồi lại ngồi ăn. Loáng một cái, cô đã ăn hết phần của mình. Cô lại chõng nằm nhưng trong bụng vẫn thấy thèm. Thấy cháu vẫn chưa về, cô nghĩ: - "Thằng bé có lẽ được người ta cho ăn rồi nên mới lâu thế. Nếu hắn đói thì dù gừng được hay không cũng phải về sớm". Nghĩ vậy, người cô lại lồm cồm dậy ăn xén vào cháo của cháu một tý. Cô đi ra ngoài cửa nhìn. Vẫn không thấy tăm dạng của cháu. -"Chắc nó được ăn rồi còn ngồi lại sưởi. Ta có thể ăn nốt đi cho nó". Nghĩ thế, cô yên tâm lại húp thêm một hớp nữa vào phần của cháu. Cho đến khi người cháu mang gừng về thì bát cháo chỉ còn một tý nước ở dưới đáy. Cháu hỏi cô. Cô không trả lời. Nhưng cháu cũng đoán được hết. Cháu ôm mặt khóc nức nở. Cháu giận cô, oán cô rồi rủa cô. Được một chốc, cháu bưng bát cháo lại chõng cô nằm, dí sát vào miệng và nói bằng một giọng cay chua: - Đó còn ít nữa, hít nốt đi! Hít đi cô, hít cô... Sáng hôm sau, mãi đến trưa vẫn chưa thấy cháu dậy, cô lại gần đưa tay sờ vào người cháu, thì ôi thôi người cháu đã lạnh toát từ bao giờ. Từ đó trở đi vào khoảng trời khuya, người ta nghe có tiếng chim kêu não nùng trong không gian: "Hít cô! Hít cô!". Tiếng chim kêu một điệu đều đều như nhắc nhở những ngày sống gian khổ của hai cô cháu...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-hit-co" }
Sự tích con khỉ
Chuyện rất lâu trước đây kể lại rằng, ở làng nọ có người con gái phải đi ở cho nhà trưởng giả. Ở nơi này nàng suốt ngày phải làm việc quần quật, còn bị chủ nhà đối xử vô cùng tệ bạc. Cái ăn lẫn cái mặc cũng chả có mấy, thi thoảng nàng còn bị bọn họ lôi ra đánh đập, hành hạ và chửi mắng rất tàn nhẫn. Bởi vậy nên tuy cô gái này tuổi chỉ đôi mươi nhưng cơ thể thì cứ teo quắt lại, nhìn vào đúng là vừa xấu xí lại bệ rạc không còn điểm nào để nói cả. Vào một hôm, trong nhà trưởng giả ấy có giỗ, vì thế nên là cỗ bàn linh đình, tất cả họ hàng đều tới ăn uống vô cùng náo nhiệt. Cùng lúc đó, cô gái kia còn phải chạy đi chạy lại gánh nước không được nghỉ ngơi dù chỉ một phút. Đến lần gánh thứ mười thì cô gái quả thật quá mệt mỏi, cả cơ thể như muốn rời hết ra. Không còn sức để đứng, cô gái đành phải ngồi tạm bên cạnh bờ giếng để nghỉ ngơi lấy sức một chút. Đột nhiên cô cảm thấy mình tủi thân vô cùng, nghĩ lại cuộc đời đầy đau khổ mà mình đã trải qua, quá thương tâm mà cô bưng mặt khóc nức nở không thôi. Đúng lúc ấy thì Đức Phật đột nhiên xuất hiện trong diện mạo là một cụ già. Cụ già giả vờ như từ xa đi đến, dáng vẻ vô cùng mệt mỏi, cố kéo bước chân tới chỗ cô gái để xin miếng nước uống cho đỡ khát. Cô gái vội vàng vục ít nước giếng lên để cho cụ già kia uống giải khát. Nhưng khi ông cụ ấy uống nước xong lại nói mình đói, muốn ăn. Và cô gái nghĩ tới mình có phần cơm còn chưa ăn liền dặn ông cụ cứ ngồi đấy chờ mình, còn cô thì lại quảy gánh lên đem nước trở về nhà. Một lúc sau cô gái lại quay trở lại bên giếng, còn mang cả cơm theo, lấy cơm từ trong thùng ra, cô gái đưa cho ông cụ và bảo: – Họ phần cơm con toàn là cơm cháy thôi, cụ cứ ăn tạm bát này chống đói tạm vậy ạ. Cụ già nhận cơm ăn ngấu nghiến, khi ăn xong thì cụ già mới bảo cô gái: – Khi nãy vì sao con lại khóc vậy? Nghe cụ già hỏi, cô gái cũng ngập ngừng đôi chút, sau thì cúi gằm mặt xuống, cũng không dám trả lời. Cụ già thấy vậy lại nói tiếp: – Ta chính là Đức Phật, ta thấy được con là một người có lòng rất tốt. Nếu như con có muốn điều gì thì ta sẽ giúp con được vui lòng. Lúc này thì cô gái lại ngạc nhiên vô cùng, trong lòng cũng vô cùng mừng rỡ, sau đó thì kể lại toàn bộ mọi chuyện mà bấy lâu luôn giấu trong lòng cho Đức Phật nghe. Khi biết điều mong ước của cô gái này chỉ làm cho mình bớt xấu xí hơn thì cụ già liền bảo cô lội xuống dưới giếng, tìm xem có bông hoa nào thấy đẹp thì mút lấy, như vậy thì ước nguyện sẽ thành sự thực. Cô gái vâng lời lội xuống dưới giếng, khi xuống dưới nước thì cô mút lấy vài bông hoa màu trắng. Khi lên bờ, đột nhiên trông nàng lại xinh xắn, trắng trẻo, vốn là bộ quần áo rách rưới bây giờ cũng đã trở thành bộ quần áo đẹp đẽ. Đến lúc cô gái ấy quảy gánh nước và trở về thì tất cả họ hàng nhà trưởng giả đều kinh ngạc vô cùng. Bây giờ cô gái xinh đẹp đến mức họ chẳng thể nào nhận ra nổi nữa. Và khi nghe được câu chuyện mà cô kể lại, mọi người đều muốn được cầu xin tý may mắn. Tất cả mọi người đều hừng hực khí thế mà đỏ xô đến chỗ bờ giếng, trong lòng thầm cầu nguyện được gặp Đức Phật, ai cũng muốn mình được trẻ và đẹp hơn. Khi trông thấy cụ già còn ngồi lại ở bờ giếng thì tất cả mọi người đều vô cùng sung sướng như là vớ được của rơi vậy. Thành ra ngay bên cạnh bờ giếng ấy lạ diễn ra cảnh mọi người chen lấn nhau cùng đưa xôi thịt mời cụ già tới tấp: – Cụ ơi, cụ mau xơi đi ạ! Cụ hãy xơi đi ạ! Sau đó thì mong cụ hãy giúp cho chúng tôi nữa! Đương nhiên là Đức Phật nhận lời giúp, người cũng bảo bọn họ lội xuống dưới giếng, cũng dặn dò hệt như những gì mà người đã nói với cô gái kia. Bên dưới giếng mọc đầy những bông hoa màu đỏ và những bông hoa màu trắng. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng màu đỏ mới là màu đẹp hơn, vì vậy lúc lội xuống giếng đều tranh nhau tìm đến những bông hoa màu đỏ mà mút. Tuy nhiên, đến khi tất cả lên bờ thì không ngờ, chẳng có một người nào trẻ lại cả, tất cả đều là già thêm: da mặt bây giờ nhăn nheo hết, người thì cứ quắt queo lại, trên người con mọc ra lông lá dày đặc, phía sau lưng còn mọc ra một cái đuôi dài nữa. Mọi người đến giếng ấy gánh nước, nhìn thấy vậy thì đều hoảng hồn hết cả: – Kìa, mau nhìn có con quỷ kìa, bà con cẩn thận kẻo nó cắn đấy! Nhưng lại có những tiếng khác chen vào: – Sợ gì chứ! Mau đánh chết cái đám ấy đi! Vậy là tất cả dân làng đều cầm theo đòn gánh mà đỏ xô tới định đánh. Người nhà trưởng giả vô cùng kinh hoàng, chẳng biết làm gì khác ngoài bỏ chạy, bọn họ cắm đầu cắm cổ chạy thẳng vào rừng sâu. Cũng kể từ ngày đó thì cô gái cùng với đám người làm thuê nghèo ở nhà trưởng giả lại được hưởng hết những thứ của cải mà đám nhà trưởng giả để lại. Còn về chuyện của trưởng giả cùng với đám họ hàng của mình, không dám trở lại làng nên đành phải vào trong rừng sâu ấn nấp, ngày ngày đành phải đi kiếm những quả dại trong rừng nuôi thân. Dáng đi của bọn chúng cứ lom khom, trên người mặc bộ quần áo rách rưới te tua, nhìn thiểu não vô cùng. Dù vậy nhưng mà chúng vẫn còn rất tiếc số của cải của mình. Vì vậy nên ban đêm thi thoảng chúng lại rủ nhau mò về nhà, hoặc là gõ cửa, cũng có thể là ngồi ngay trước cửa nhà mà lải nhải, léo nhéo kêu cả đêm, tới khi gần sáng thì mới lại về rừng. Cô gái cùng với mọi người thấy vậy thì cũng sợ hãi lắm, ban đêm thì đóng cửa chặt kín. Họ cũng họp nhau tìm cách để mà đuổi chúng đi xa. Vì vậy họ mới dùng mắm tôm để mà bôi vào tất cả những cánh cửa, hơn nữa còn đem rất nhiều những lưỡi cày đi nung nóng và trải đầy ở trước cổng nhà. Vào một đêm, chúng lại kéo nhau mò về. Cũng theo như lệ thường thì chúng vươn tay đánh đu lên các song cửa để mà kêu gào. Tuy nhiên, lần này thì khi chúng vừa kịp mó vào thì lại bị mắm tôm dây đầy tay, sau đó thì vương lên khắp đám lông lá trên cơ thể, cả người đều hôi hám đến mức không chịu được. Chúng vô cùng kinh sợ, vì vậy đành kéo nhau tới trước cổng ngồi như thói quen cũ. Tuy nhiên, khi vừa chạm mông xuống thì đã chạm ngay phải mấy cái lưỡi cày nung nóng khiến chúng phải la oai oái không thôi. Vừa đau vừa sợ, chúng ba chân bốn cẳng gào nhau chạy về rừng. Kể từ đó thì chẳng con nào còn dám trở về làng nữa. Khi lên rừng kiếm củi thì thi thoảng người ta lại vẫn gặp chúng. Chỉ cần thấy thấp thoáng bóng người phía xa thì chúng lập tức chuyền qua các nhánh cây là lủi nhanh. Lâu dần người ta gọi chúng là khỉ. Ngày nay thì vẫn còn không ít người nghĩ rằng loài khỉ chính là nòi của nhà trưởng giả khi xưa. Lí do mà đít những con khỉ ấy đều đỏ chính là do di truyền từ dấu vết bị bỏng khi xưa của tổ tiên chúng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-khi" }
Sự tích hòn Vọng Phu
Ngày xưa, có đôi vợ chồng nghèo sinh được hai mụn con: đứa lớn là trai mười một tuổi, đứa bé là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần hai vợ chồng đi làm đồng hay đi đâu vắng, thường để hai con ở lại nhà, dặn anh trông nom em gái. Một hôm trước khi đi làm, người mẹ trao cho hai con một cây mía, bảo con lớn ở nhà chặt cho em ăn và đưa em đi chơi. Thường ngày mẹ vẫn nhắc: - Con đừng làm em khóc, kẻo cha về đánh chết nghe không! Thằng anh đưa em ra sân cùng em trồng đá bẻ cây làm nhà làm cửa chơi với bạn bè quanh xóm. Chơi chán, anh đưa em vào nhà rồi tìm dao chặt mía. Không ngờ khi nó vừa giơ dao lên chặt, thì lưỡi dao sút cán văng vào đầu em. Cô bé ngã quay ra bất tỉnh nhân sự, máu đỏ lênh láng cả một vạt đất. Thấy thế thằng anh rất sợ, nghĩ bụng: - "Tội ta to lắm. Cha về đánh chết mất!". Thế rồi, anh bỏ em nằm sóng sượt ở giữa nhà mà trốn đi. Cậu bé đi, đi mãi. Trên bước đường lưu lạc, hắn ở nhà này ít lâu rồi bỏ đi đánh bạn với nhà khác. Trong hơn mười lăm năm, hắn không biết mình đã đi những xứ nào, ăn cơm của bao nhiêu nhà. Cho đến lần cuối cùng, làm con nuôi một người đánh cá ở miền biển vùng Bình định. Nghề chài lưới giữ chân hắn lại ở đây. Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Rồi hắn kết duyên cùng một người đàn bà. Vợ hắn cũng thạo nghề đan lưới. Mỗi lúc thuyền của chồng về bãi, vợ nhận lấy phần cá của chồng, quảy ra chợ bán. Sau hai năm có được mụn con, hai vợ chồng cảm thấy sung sướng vô hạn. Hôm ấy biển động, chồng nghỉ ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, vợ xõa tóc nhờ chồng bắt chấy. Đứa con đi chập chững trước sân nhà, bốc cát chơi một mình. Thấy vợ có một cái sẹo bằng đồng tiền ở trên tai bên phải, chồng lấy làm ngạc nhiên vì mấy lâu mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo không cho một người nào biết, trong số đó có cả chồng. Anh liền hỏi về lai lịch chiếc sẹo. Vợ vui miệng kể: - Ngày đó cách đây hơn hai mươi năm, tôi mới bằng một tý đã biết gì đâu. Anh ruột của tôi chặt mía. Chao ôi! Cái mũi mác tai hại. Tôi ngất đi. Sau này, tôi mới biết, lúc đó hàng xóm đã đổ tới cứu chữa rất lâu cho đến khi cha mẹ tôi về thì mới chạy tìm thầy tìm thuốc. May làm sao tôi vẫn sống để nhìn lại cha mẹ tôi. Nhưng tôi lại mất người anh ruột vì anh tôi sợ quá bỏ trốn. Cha mẹ tôi cố ý tìm tòi nhưng tuyệt không có tin gì. Rồi đó, cha mẹ tôi thương con buồn rầu quá: thành ra mang bệnh, kế tiếp nhau qua đời. Về phần tôi không có người nương tựa lại bị người ta lập mưu cướp hết của cải và đem tôi đi bán cho thuyền buôn. Tôi không ở yên một nơi nào; nay đây mai đó, cuối cùng đến đây gặp anh... Sau lưng người vợ, nét mặt của chồng từng lúc mỗi biến sắc khi biết là lấy nhầm phải em ruột. Lòng người chồng càng bị vò xé vì tin cha mẹ, tin quê quán do vợ nói ra. Nhưng chồng vẫn cố ngăn cảm xúc của mình, gói kín sự bí mật đau lòng đó lại, không cho vợ biết. Qua mấy ngày sau, sóng gió yên lặng. Nhưng lòng người đàn ông thì không thể nào yên lặng được nữa. Như thường lệ, hắn lại chở lưới ra biển để đánh cá. Nhưng lần này một đi không bao giờ trở lại. Người vợ ở nhà trông đợi chồng ngày một mỏi mòn. Tại sao sau khi đánh cá xong, giữa lúc đêm tối, mọi người đều cho thuyền trở về đất liền, thì chồng mình lại dong buồm đi biệt. Mà chồng mình là người chí thú làm ăn và rất thương con mến vợ. Thật là khó hiểu. Mỗi chiều, nàng lại bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển, con mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời mù mịt. Ba tuần trăng qua. Rồi sáu... rồi chín tuần trăng. Tuy nước mắt bây giờ đã khô kiệt, nhưng người đàn bà vẫn không quên trèo núi trông chồng. Cái hình bóng ấy đối với dân làng thành ra quen thuộc. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá, trở thành hình bóng quen thuộc vĩnh viễn. Hòn đá ấy ngày nay vẫn còn trên đỉnh núi ở bên cửa biển Đề-di, thuộc huyện Phù-cát, tỉnh Bình-định. Người ta vẫn gọi là đá Trông-chồng hay là đá Vọng Phu .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hon-vong-phu" }
Âm dương giao chiến
Ngày ấy, có một trận mưa lụt rất dữ dội; khúc đê ở xã Thọ-triền bị vỡ, mùa màng hư hại, nhà cửa, súc vật trôi nổi theo dòng nước bạc. Một ông quận công họ Điền được lệnh vua đi đốc suất dân phu hàn lại đoạn đê đó. Thuyền của ông sắp đến khúc sông làng Kim-lũ, bọn thủy thủ bảo ông rằng: - Ở đây có miếu Thủy thần rất thiêng, ai có thuyền qua đây phải ghé vào làm lễ mới có thể đi được. Vậy xin ngài hẵng cúng Thủy thần để đi cho được yên ổn. Quận công vốn là một nhà bác học uyên thâm lại thông thạo phép phù thủy nên vừa nghe nói thì trừng mắt bảo họ: - Ta đây phụng mệnh vua đi làm việc nước. Dù hắn là thần đi chăng nữa, dám cản ta ư. Nói xong cứ thúc thủy thủ chèo đi mà không ghé vào đền. Lúc đó Thủy thần đang ở bờ sông nghe nói thế, tức mình bèn hóa phép bắt thuyền đứng lại. Bọn thủy thủ cố chèo mãi nhưng mấy chiếc quan thuyền không tiến lên được bước nào. Biết là Thủy thần bắt đầu ngăn trở công việc của mình, quận công sai ghé thuyền lại gần đền, rồi đứng trước mũi thuyền lớn tiếng gọi Thủy thần mà mắng rằng: - Nhà ngươi ngự trị ở một phương này, bàn dân hương khói luôn năm không khi nào tắt. Vậy mà đã không biết giúp dân để cho đê vỡ làm sinh linh trôi nổi khốn khổ, lại còn ngăn cản công việc hàn đê của ta là nghĩa thế nào? Nhà người biết điều thì hãy giúp ta làm cho xong việc, nếu không ta sẽ cho người phá đền đi đó. Nghe nói thế Thủy thần nổi giận bèn sai xuất hiện trên sông năm chiếc thuyền đầy những quân hình người mặt cá cầm giáo mác vây xung quanh mấy chiếc quan thuyền. Quận công họ Điền không lấy thế làm lo sợ liền giở phép phù thủy: ngồi trong thuyền chỉ gươm, đánh quyết, niệm chú, vẽ bùa rồi ra lệnh cho lính tráng của mình bắn tên, lao thương vào địch. Hai bên giao chiến kịch liệt. Thủy thần thấy khó lòng thắng nổi, bèn làm trời đất mịt mù khắp cả một vùng ước đến một trống canh. Khi trời sáng ra, mọi người thấy năm chiếc thuyền kia đã biến mất. Rồi sau đó đoàn quan thuyền cũng tiến được đến chỗ đê vỡ. Nhưng Thủy thần vẫn tức mình, cố sức theo đuổi để phá cho được. Quận công đốc suất dân phu thuyền bè quyết đắp nổi đê. Khi đê vừa hàn xong, mọi người sắp sửa ra về thì Thủy thần sai các giống cá lớn húc vào chỗ đê mới đắp làm cho đất long lở trôi đi. Riêng Thủy thần hóa làm một con cá chép rất lớn, nổi lên trên mặt nước giương vây như cánh buồm. Cá vùng vẫy mấy cái, sóng nổi ầm ầm, nước đánh váo chỗ hàn đê rất dữ. Thế là công phu khó nhọc của bao nhiêu người lại trôi theo dòng nước. Quận công vẫn không nản chí, lại bắt dân mấy phủ huyện khác đổ tới đắp. Cũng như lần trước, lần này sắp thành công lại bị Thủy thần ngấm ngầm phá hoại. Mọi người nản lòng, khuyên quận công hãy đấu dịu để khỏi khổ dân. Quận công đành phải đến miếu Thủy thần khấn rằng: - Hôm trước tôi qua miếu trót nói mấy câu xúc phạm. Vậy mong ngài nguôi giận phù hộ cho muôn dân đỡ khổ. Đắp xong tôi sẽ lễ tạ ngài. Lần này đê hàn rất nhanh và rất chắc, to gấp hai đê cũ. Công việc chả mấy chốc hoàn thành. Khi tất công, quận công cho thuyền đến trước đền, nói to lên: - Bớ Thủy thần! Lần trước ta lừa ngươi đó thôi. Ta đâu có sợ ngươi. Bây giờ đê ta hàn xong rồi và rất vững, dù có trăm Thủy thần cũng không làm gì nổi. Nghe nói thế, Thủy thần giận tràn hông, đêm ấy làm nổi sóng lên rất dữ, vì thế đê lại sạt một đoạn lớn. Quận công tức mình nói rằng: - À đã thế, tao quyết trị đến nơi cho mày biết tay! Nói rồi ông sai mấy thủy thủ giỏi lặn lặn xuống điều tra kỹ địa thế khúc sông đó. Họ về cho ông biết ở gần đoạn đê vỡ có một cái vực sâu là sào huyệt của thủ hạ Thủy thần. Quận công lập tức sức cho các làng nạp tre, gỗ để đóng cừ xung quanh vực. Đoạn dựng mấy lò vôi, sai quân và dân đi lấy đá trắng về nung, mẻ này tiếp mẻ khác. Quận công còn trưng dụng tất cả các thuyền bè đi chở đá tảng, gạch ngói cùng cối đá thủng, v.v... đưa về chất bên này vực cao như một hòn đồi. Bên kia vực đá vôi nung cũng đổ cao như một hòn đồi. Rồi đó quận công sai một bên ném đá vôi, một bên ném gạch đá vụn. Nước sôi lên sùng sục. Bọn thủ hạ của Thủy thần đội lốt thủy tộc không kịp chạy trốn, chết nổi lềnh bềnh trên mặt nước vô số. Đoạn ông mới quay sang hàn đê. Quả nhiên nhờ có việc lấp vực nên đê gắn xong ngay. Thủy thần thù Điền quận công vô hạn. Hắn quyết chí ám hại ông ta. Hơn một tháng sau hắn làm cho quận công ốm nặng. Trên giường bệnh người quận công cứ nóng như lửa. Nhà vua phái các danh sư tới nhà thuốc men điều trị, nhưng bệnh ngày càng trầm trọng. Sau đó thì chết. Quận công có một người chị là Ngô Thuận Phi lấy vua. Một hôm quận công ứng đồng ở làng mình nói: - Ta mắc kế độc của Thủy thần mà chết. Ta quyết báo thù chứ không chịu thua. Hãy báo giúp với chị ta sắm sửa voi ngựa khí giới để ta trả thù. Nghe tin báo, Ngô Thuận Phi làm theo lời em và khấn: - Dầu được hay thua, em cũng tin cho chị biết với! Từ khi được voi ngựa, thuyền bè, khí giới, quận công giao chiến với Thủy thần nhiều trận kịch liệt. Người ta thấy trước đền Thủy thần sóng gió ầm ầm, nước bắn tứ tung, bọt nổi trắng xóa cả một vùng mặt sông. Các loài tôm cá tập hợp rất đông, thỉnh thoảng chạy rạt từ nhánh sông này sang nhánh sông kia. Sau cùng lại thấy sóng im gió lặng, các loài thủy tộc chết nổi lên nhiều lắm, những con còn lại cũng bỏ trốn khắp nơi. Khúc đê sạt ở làng Thọ-triền sau đó không thấy vỡ thêm nữa. Ít lâu sau đó, quận công báo mộng cho chị biết mình mấy lần đánh với Thủy thần thắng thì có thắng, nhưng thế lực của hắn vẫn còn mạnh. Vậy nhờ chị hãy lập cho một ngôi đền để ở, hẵng tạm đình chiến một thời gian. Từ đó ngôi đền của Thủy thần cũng không thiêng như trước...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/am-duong-giao-chien" }
Cứu vật, vật trả ơn - Cứu nhân, nhân báo oán
Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghề gì cả, chỉ được cái hiền lành hay thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn tợn. Có dạo phải ngửa tay ăn xin. Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân, anh chàng mới xoay sang đi làm thuê. Nhưng chỉ làm được một ngày anh đã thấy nhọc mệt và bị chủ la mắng nhục nhã, nên lại dự định làm nghề đi câu là nghề anh cho là thong thả tự do hơn. Chiều hôm đó, người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm. Anh chàng bèn lấy số tiền đó làm vốn, mua lưỡi mua dây quyết chí làm ăn bằng nghề nghiệp mới. Sáng hôm sau, anh ra ngồi ở bờ sông câu cá. Nhưng mãi đến trưa chả kiếm được một tý gì. Mồi cứ mất toi. Mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống, anh giật lên thì được một con rắn nước. Lấy làm bực mình, anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông. Lần thứ hai giật lên thì lại chính con rắn nước hồi nãy mắc vào lưỡi. Anh than thở với rắn: - Rắn ôi! Tao nghèo lắm, chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi. Mày đừng hại tao hết cả mồi, rồi đây biết lấy gì kiếm ăn. Anh chàng lại quẳng rắn xuống nước. Lần thứ ba cũng lại con rắn đó mắc lưỡi câu. Lần này hắn giận lắm không thả rắn xuống nước nữa mà nắm lấy cổ rắn định mang đi giết. Qua cửa đền bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước kêu lên: - Đừng giết tôi. Tôi là con vua Thủy Tề, vì muốn đánh bạn với anh nên mới tự cắn câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi đi theo, tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo. Anh nghe lời, cho rắn theo mình. Từ đó hắn câu được nhiều cá: thứ ăn, thứ bán, cuộc sống rất dễ chịu. Anh chàng với rắn ngày một tương đắc. Một hôm rắn cho anh biết chỉ ba ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn xưa nay chưa từng có. Anh nghe lời rắn đóng một chiếc bè nứa để phòng tai nạn. Anh lại còn loan báo cho mọi người xung quanh biết. Nhưng chả một ai thèm nghe. Ba ngày sau, quả nhiên gió bão nổi lên đùng đùng, mưa to như trút, nước dâng lên như biển cả. Người, vật, đồ đạc và mùa màng, v.v… đều trôi băng băng mất tích. Mãi đến ngày cơn bão tạnh, anh mới dám chống bè tìm về chốn cũ. Thấy một cái tổ kiến đang lênh đênh trên dòng nước, con rắn bảo anh chàng: - Anh hãy cứu chúng nó một chút. Anh trả lời: - Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để nó bò khắp bè. Nhưng rắn khẩn khoản: - Không, anh hãy nghe lời tôi đi. Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh chàng vớt cái tổ kiến lên bè của mình. Đi được một đoạn, lại gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối. Rắn lại giục anh vớt lên. - Ồ - hắn đáp - Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó mà làm gì ? - Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh chàng vớt con chuột lên bè của mình. Đến một chỗ khác họ lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp trăn thoát nạn: - Ồ - hắn lại đáp. - Con trăn kinh lắm, cứu nó mà làm gì ? - Không. Anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”. Nghe lời rắn, anh chàng lại giúp cho con trăn lên bè. Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi bập bềnh giữa dòng nước. Anh không đợi rắn bảo, định vớt lên bè, nhưng con rắn cản lại: - Anh đừng vớt nó lên làm gì. Nó sẽ làm hại anh đấy. Anh đáp: - Người ta thường nói cứu một người dương gian bằng một ngàn âm ti. Sao lại chỉ cứu vật mà không cứu người kia chứ. Nói đoạn, mặc kệ lời rắn can ngăn, anh nhất định thực hiện ý nghĩ của mình, vớt người sắp chết đuối đó lên bè, cho sưởi lửa ấm và cho ăn uống tử tế. Sau mấy ngày nước rút đi hết, anh thả tất cả những con vật lên bờ. Còn người nọ vì gia đình phiêu bạt, nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau và coi như em ruột. Đến lúc con rắn nước trở về thủy phủ thì nó mời anh cùng đi theo xuống giang sơn của cha mình. Dọc đường, rắn bảo bạn: - Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ đừng nhận, mà chỉ xin lấy cây đàn thất huyền. Đàn ấy nếu có giặc, gảy một bài là có thể làm cho giặc phải tan. Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi lấy làm mừng rỡ, đãi anh chàng rất hậu. Khi vua Thủy sai quân hầu mang vàng bạc châu báu đến biếu, anh nhớ lời rắn cố khước từ, chỉ xin có mỗi một chiếc đàn thất huyền. Vua Thủy nể chàng, thuận cho ngay. Anh trở về cõi đất, quý chiếc đàn vô hạn. Một hôm anh có việc phải đi xa. Trước khi đi, anh giấu chiếc đàn thần dưới cót thóc, dặn người bạn chớ có bén mảng đến chỗ cót thóc đó. Nhưng người kia nghe dặn, đồ rằng dưới ấy tất có vật quý bèn cố tâm kiếm tìm, quả bắt được cây đàn. Hắn đã biết sự mầu nhiệm của chiếc đàn ấy bèn lấy trộm rồi trốn đến kinh đô để lập công danh. Hồi ấy quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân sang quấy nhiễu bờ cõi. Hắn vào xin vua đi tiễu trừ giặc dữ. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng. Lúc thắng trận trở về, hắn được nhà vua hết lời khen ngợi, phong làm đại tướng, ban lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không còn nghĩ gì đến ân nhân của mình nữa. Nhà vua toan gả công chúa cho đại tướng nhưng vừa hứa hôn thì bỗng dưng công chúa bị câm. Vì thế hôn lễ đành phải hoãn lại chờ lúc công chúa lành bệnh mới cử hành. Lại nói chuyện anh chàng câu cá khi trở về thấy mất bạn lại mất cả cây đàn thất huyền thì vội bỏ nhà đi tìm. Vào đến kinh đô, một hôm anh gặp người kia bây giờ đang ngồi trên kiệu sơn son thiếp vàng, có quân gia theo hầu đông nghịt. Anh đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội thét lính bắt trói lại. Thế rồi, để khỏi lộ chuyện, hắn vu cho anh làm giặc, sai nhốt một chỗ kín đáo, không cho ăn, để chờ ngày đưa ra pháp trường. Trong ngục tối, giữa khi anh chàng đang than thân trách phận thì bầy kiến ngày xưa đã tìm được cách lọt vào hỏi thăm: - Tại sao ông bị giam ở đây ? Anh chàng ngơ ngác không hiểu tiếng ai hỏi mình, bèn hỏi lại: - Ai đó? Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà không thấy người ? - Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu khỏi nạn lụt ngày xưa, hiện đang ở dưới chân ông đây!”. Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiến nghe nông nỗi của mình. Kiến nói: - Chúng tôi không thể làm được gì nhưng để chúng tôi đi kiếm con chuột ngày ấy, may chuột có kế gì chăng Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của ân nhân cho chuột biết. Chuột bảo: - Bây giờ chắc ông ấy đói lắm, để tôi mang vào ngục một ít thức ăn đã. Rồi tôi sẽ đi kiếm con trăn xem thử nó có mưu mẹo gì chăng. Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh chàng ăn. Anh tỏ lời cám ơn. Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi tìm trăn. Lúc sắp đến nhà trăn, cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt bèn trèo lên cây cao gọi xuống: - Bác trăn ơi! Bác trăn ơi!. Khi trăn ra, một con chuột già đánh bạo xuống kể chuyện cho trăn biết. Trăn nhả ra một viên ngọc bảo chuột đưa về cho ân nhân mà rằng: - Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa lành bệnh, ân nhân của chúng ta có thể đem chữa bệnh cho công chúa rồi nhờ đó mà thoát nạn Khi được ngọc, anh chàng gọi người cai ngục đến nói mình có phép cứu công chúa khỏi câm. Người ta dẫn anh đến trước vua. Quả nhiên sau khi công chúa uống nước ngọc mài bỗng nói được, và câu đầu tiên của nàng là đòi lấy người cứu mình làm chồng. Vua rất 85 86 khen ngợi, hỏi anh ta vì sao có thứ thuốc thần diệu đến thế. Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện, từ lúc câu được rắn, cứu được các con vật và người, cho đến lúc bị người phản bội, còn các con vật lại tìm cách trả ơn, trong đó có con trăn cho mình viên ngọc quý. Vua nghe xong tắc lưỡi: - Thật là bụng dạ con người sâu hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm!. Lập tức vua sai lính bắt giam tên đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày phán xử. Còn anh chàng đi câu được vua cho làm quan và gả công chúa. Anh ta sống một cuộc đời sung sướng hơn trước...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cuu-vat-vat-tra-on-cuu-nhan-nhan-bao-oan" }
Sự tích ông ba mươi
Đã từ lâu lắm, trên cõi trời có một người có sức khỏe lạ lùng, những việc dời núi, lấp biển, đội đá, bẻ cây,… không một ai bì kịp. Nói về tài phép, ông cũng thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị trên Thiên Đình. Đặc biệt ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ. Vốn tinh nghịch và hung hăng quen thói từ hồi trẻ, Phạm Nhĩ không mấy khi ngồi yên. Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông thù ghét. Nhưng người ta đều tránh né ông, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng hảo hán không chịu nổi chỉ một cú đấm, cái gạt của ông. Thấy mọi người đều thua tài, Phạm Nhĩ ngày một tỏ ra kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần xung quanh Ngọc Hoàng chẳng qua chỉ là đồ bị thịt, tài nghệ và sức khỏe không có tý gì. Và ông lấy làm bực mình vì sao bấy lâu danh tiếng mình nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng vời vào để trao cho một chức vị xứng đáng. Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phụ của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ đâm khinh nhờn cả Ngọc Hoàng, tự nghĩ rằng có sức mạnh và tài phép như mình thì nên làm vua nhà Trời mới phải. Thế rồi chẳng bao lâu ông đã tụ tập xung quanh mình một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân bất trị. Đội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên Đình mà vì sợ oai Phạm Nhĩ nên không một ai dám bắt. Cuối cùng, Phạm Nhĩ cầm đầu đội quân tiến đến Thiên Cung đòi hạ bệ Ngọc Hoàng để cho mình trị vì thiên hạ. Nghe tin chẳng lành, Ngọc Hoàng thượng đế vội vàng sai các bậc tướng lĩnh đem quân nhà Trời ra ngăn chặn. Có đến mười tám vị tướng, vị nào cũng lục trí thần thông, miệng thét ra lửa, tay bẻ gãy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu. Không đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về. Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ hầu cận, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Nhưng cũng chẳng mấy chốc ông đã làm cho bọn này nếm mùi thất bại chua cay. Quân đội nhà Trời vốn đông như kiến cỏ, không ngờ kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Thừa thắng, Phạm Nhĩ thúc quân tiến lên vây chặt Thiên cung. Thấy thế, Ngọc Hoàng thượng đế hết sức lo lắng. Theo lời bàn của các triều thần, Ngọc Hoàng vội sai Bắc đẩu cầu cứu đức Phật. Nghe tin cấp báo, đức Phật liền sai Chuẩn Đề đi bắt Phạm Nhĩ. Nhưng đức Phật không ngờ Chuẩn Đề tài phép cao cường là thế, lại bị ăn đòn nặng nề của Phạm Nhĩ đến nỗi lê lết chạy về, xiêm giáp tả tơi. Sau rốt, đức Phật đành phải tự thân ra đi. Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may chửi bới Ngọc Hoàng và bọn triều thần bất tài bất lực, thì đức Phật đã xuất hiện giữa không trung. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của đức Phật, toàn thân co rúm, không cất chân động tay được nữa. Thế là ông bị bắt. Bọn bộ hạ mất tướng như rắn mất đầu, không ai bảo ai tẩu tán khắp nơi. Trước khi ra về, đức Phật giao lại tên tù cho Ngọc Hoàng xử trí, nhưng cũng dặn làm sao cho y hối lỗi chứ đừng giết hại. Ngọc Hoàng bèn quyết định đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp vật. Nhưng trước hết Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông để tước bớt sức mạnh, e rằng bất thần ông lại bay trở về Trời thì rất nguy hiểm. Hơn nữa, Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại. Tuy nhiên, thể theo lời dặn của đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm chúa tể sơn lâm để an ủi đôi phần. Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn có cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông vẫn còn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu chúa tể mà Ngọc Hoàng phong cho. Cho đến sau này, dòng dõi nhà ông vẫn nối nhau làm chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiềng ông, không dám gọi cái tên “Hổ”, mà chỉ gọi tránh là ông “Ba Mươi”. Tại sao lại gọi là ông Ba Mươi? Đó là vì khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu ba mươi hèo để cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa. Ngày nay còn có câu: Trời sinh ra hùm có vây Hùm mà có cánh, hùm bay lên trời để nhớ cuộc náo động Thiên cung của Phạm Nhĩ xưa kia...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ong-ba-muoi" }
Con voi với người quản tượng già
Ngày xưa, vào đời nhà Lê, nhà vua có nuôi một con voi rất khôn, dùng để cỡi. Voi có 3 cái đai bằng vàng đeo chặt ở cổ. Đến thời Lê mạt vận, con voi không chịu ở với ai nữa. Voi bỏ vào núi ở Truông Đay Thùng. Người quản tượng (giữ voi) có tên là đội Mậu cũng về hưu. Năm 70 tuổi, ông đau yếu nghèo không tiền mua thuốc, phải lên núi kiếm rễ cây làm thuốc. Đang lúc ông lom khom đào rễ cây, thì con voi chạy đến, nhận diện ra người giữ mình khi xưa. Voi lấy vòi quấn ngang bụng đội Mậu, cắm ngà xuống đất, chảy nước mắt, tỏ tình thương nhớ. Lúc đầu, đội Mậu hoảng hồn, không nhận ra voi, sợ voi vật mình chết. Đến khi thấy voi kéo tay mình để vào chỗ đai vàng đã phủ rêu mốc, tỏ ý bảo hãy lấy đi, thì ông mới nhớ ra con vật mình đã chăn giữ thương yêu ngày xưa. Ông nghĩ bụng: Nếu như cạy đai vàng ra, thì cổ voi sẽ đau đớn, sẽ chảy máu, tội nghiệp nó, nên ông xua tay, lắc đầu, tỏ ý từ chối không chịu làm vậy. Nhưng voi không chịu, cứ lấy tay đội Mậu đặt vào chỗ 3 đai vàng ở cổ. Ông đành cố cạy, nhưng đến tối trời mà vẫn chưa cạy đai ra được. Ông cúi đầu lạy voi xin về, nhưng voi nhất định giữ ông lại. Đến gần canh hai, người quản tượng già vẫn không gỡ được đai vàng ở cổ voi. Ông khóc bảo voi: – Ông quận ơi, chân tay tôi già yếu. Mà ở đây núi rừng tối tăm, nguy hiểm cho tôi lắm. Ông thương tôi với. Con voi chừng như thông cảm, quỳ xuống cho đội Mậu leo lên lưng voi ngồi, rồi đưa ông về. Khoảng chừng canh tư, thì về tới nhà. Vợ con đội Mậu thấy voi đi vào sân, sợ hãi toan bỏ chạy. Ông lên tiếng trấn an: – Đừng sợ, Ông quận này thuở trước theo hầu Vua, tôi theo giữ ông. Hôm nay ông gặp tôi trên núi, ông thương, đưa về đó mà. Trong vườn sẵn có mấy sào mía, đội Mậu bảo vợ con chặt hết, đem đãi cho voi ăn. Ông còn mua cả 3 quan tiền rượu mời voi uống nữa. Trời gần sáng, voi tỏ ý muốn đi, lấy vòi đưa hai cha con ông đội đặt lên lưng mình, rồi lại chở họ trở về núi. Đến nơi, thì trời sáng bạch. Voi lại bắt tay đội Mậu đặt vào chỗ có đai vàng, ý bảo phải lấy đai đi. Ông Mậu bảo con: – Ông quận đã cho, cha con mình phải nhận lấy. Người quản tượng già bèn cùng con trai lấy dao cạy ra được 2 đai vàng. Máu chảy ướt đẫm cổ voi. Xót thương cho con vật có tình nghĩa, đội Mậu lạy voi xin thôi. Ông kiếm lá thuốc rịt vết thương cho cầm máu, rồi ông ôm chân voi, khóc từ giã. Đội Mậu đem số vàng voi cho về nhà. Từ đó, gia đình ông sống dư giã cho đến chết. Khi quân Tây Sơn ra Bắc Hà, vua Quang Trung nghe dân chúng kể về con voi đời vua Lê đang ngự ở trên núi Đầu Tượng. Vua bèn sai quan quân vào núi tìm. Nhưng không ai thấy dấu vết của voi đâu nữa...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-voi-voi-nguoi-quan-tuong-gia" }
Giết chó khuyên chồng
Ngày xưa có hai anh em nhà kia, anh có lắm tiền nhiều bạc, còn em thì cam phận túng bấn. Nhưng người anh vẫn không mấy khi đoái hoài tới em mình, trái lại chỉ thân thiết với bọn vô lại, nay rượu chè, mai cờ bạc làm vui. Hắn riết róng với em bao nhiêu thì lại hào phóng với bọn chúng bấy nhiêu. Mặc dầu thế, người em vẫn không oán anh nửa lời. Chỉ có vợ người anh vẫn thường khuyên chồng nên tránh bạn xấu, vì họ chẳng qua "Khi vui thì vỗ tay vào; Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai". Chồng ra sức cãi: - Các bạn tôi đều là những người tốt bụng tử tế cả. Đừng nhầm! Vợ thấy can không được, bèn tìm dịp cho chồng một bài học. Một hôm chồng đi vắng, vợ ở nhà đánh chết một con chó to đem chiếu cuốn lại, cột dây thật chặt rồi để ở xó vườn. Tối đến, khi chồng về, vợ giả làm bộ sợ hãi, nói: - Ban trưa, lúc mình đi vắng, có một thằng bé đến xin ăn. Tôi chưa kịp cho nó đã chửi rủa ầm ĩ. Tức mình, tôi phang cho một đòn gánh, không ngờ nhằm chỗ phạm, nó lăn ra chết. Tôi đành lấy chiếu bó xác để ở góc vườn. Bây giờ phải nhờ một người nào thân tín đến chôn giúp cho và giữ kín miệng, đừng để cho đầy tớ và xóm làng biết. Chồng nghe nói đến xác chết, sợ hết hồn. Song hắn cũng yên tâm vì nghĩ đến mấy ông bạn thiết. Hắn vội chạy đi tìm họ và kể hết tình thực và nhờ họ chôn cất. Nhưng khi nghe thủng câu chuyện của hắn, ông bạn nào cũng tái mặt đi. Sợ liên lụy tới mình nên ông nào cũng tìm cớ thoái thác. Cuối cùng năn nỉ khắp lượt mà không được gì cả, hắn tiu nghỉu trở về nói cho vợ biết. Vợ bảo: - Thế thì sang nhờ chú nó xem sao. Hắn chạy đi gọi em, em đến ngay. Khi biết rõ chuyện, người em giục làm gấp. Đoạn em xắn áo giúp anh một tay, không nề hà gì cả. Xong việc, chị vợ bảo chồng: - Đó, đã thấy chưa! Nào mình còn mong chờ bạn hữu nữa thôi. Nếu không có chú nó thì làm sao lo liệu được cho ổn thỏa. Chồng nghe vợ nói có ý hối hận. Từ đó đối với bạn hữu có vẻ lạnh nhạt. Không ngờ mấy người bạn thấy thế đến nhà giở mặt dọa nạt, đòi phải cho chúng tiền chúng mới chịu ỉm việc này đi cho. Nghe thế, chồng hoảng sợ, toan đưa tiền bạc ra khấn khứa chúng, nhưng người vợ nhất định không chịu, bảo họ muốn làm gì thì làm. Quả nhiên bọ vô lại thấy không xơ múi gì cả, liền đem việc tố cáo với quan trên. Quan tin là một vụ án mạng thực, bèn xuống trát bắt hai vợ chồng. Trước công đường, người vợ khai rõ đầu đuôi câu chuyện giết chó để thử bạn chồng và em chồng, cuối cùng là kết quả như đã thấy. Quan sai người đến chỗ bãi hoang quật xác lên thì quả nhiên chỉ là một cái xác chó. Quan bèn tha cho hai vợ chồng về và sai lính đánh đòn mấy tên nguyên đơn xấu bụng. Từ đó người chồng mới cạch mấy người bạn xấu và giúp đỡ em ân cần tử tế...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/giet-cho-khuyen-chong" }
Sự tích con dế
Ngày xưa, có một người đàn ông hai vợ, người vợ cả chết sớm để lại một đứa con trai còn bé tên là Văn Linh. Người vợ lẽ cũng sinh được một đứa con trai khác tên là Văn Lang. Văn Lang hơn Văn Linh những năm tuổi, nhưng hai anh em chơi với nhau thân thiết hơn cả anh em cùng một mẹ. Những khi Văn Linh bị trẻ con lối xóm ăn hiếp, Văn Lang lập tức bênh vực. Nhưng Văn Lang không biết rằng mẹ chàng trai lại coi Văn Linh như kẻ thù. Văn Linh ngày một lớn khôn, người bố cho chàng theo nghiệp sách đèn. Còn Văn Lang thì từ lâu đã theo bố tập quen nghề trông coi cày cấy. Nhà họ vốn có của ăn của để. Cả một tư cơ đồ sộ chắt chiu đã vài ba đời được gần vài chục mẫu ruộng và một mẫu vườn, có nhà ngói cây mít, thuộc vào loại khá nhất trong vùng. Đột nhiên người bố ốm nặng rồi qua đời. Người dì ghẻ ngoài mặt thì đối đãi với Văn Linh ngọt ngào tử tế nhưng trong bụng muốn nhổ cái gai trước mắt. Là con đích, Văn Linh sẽ được gần như toàn bộ tài sản. Còn mẹ con Văn Lang thì nhiều lắm cũng được vài ba mẫu ruộng xấu với một cái trại ở bên kia đồi. Tục lệ đã đặt số phận của hai anh em là như vậy. Người dì ghẻ bỗng nảy tà tâm, muốn giết chết con chồng để chiếm lấy tất cả gia tài. Ý nghĩ ấy ngày một nung nấu trong lòng mụ, càng nung nấu nhiều hơn từ hôm người chồng, kẻ bênh vực cho Văn Linh không còn nữa. Một hôm, người mẹ ghẻ sai hai anh em mang tiền đi mua gỗ. Trước khi đi, mẹ gọi con đẻ vào buồng riêng dặn dò: - Con ơi! Con hãy tìm cách "khử" nó đi. Rừng nhiều thú dữ, sức con thì khỏe gấp đôi nó, nếu khôn khéo và kín đáo thì con chẳng sợ tội vạ gì hết! Người mẹ còn rỉ tai: - Nếu nó mà sống được thì mẹ con ta không đất cắm dùi... Có trừ đi được, chúng ta mới mong sung sướng... Văn Lang không muốn nghe lời mẹ, nhưng cũng không muốn làm phật ý mẹ, bèn cứ giả tảng vâng lời khăn gói ra đi. Đến cửa rừng. Văn Lang nói thật cho Văn Linh biết mọi việc, rồi bảo: - Mẹ tôi trước sau cũng tìm cách hại anh. Vậy anh hãy tìm cách trốn đi. Số tiền mua gỗ anh hãy cầm lấy tất cả mà tiêu. Đến một lúc nào đó anh hãy trở về, chúng ta sẽ sống bên nhau. Khi Văn Linh đi rồi, Văn Lang giết một con chó lấy máu bôi khắp nơi, rồi trở về nói cho mẹ biết là mình đã hạ thủ Văn Linh xong, mặt khác nói với mọi người rằng anh mình đã bị hổ vồ mất tích. Xóm làng không một ai nghi ngờ. Người dì ghẻ cho là mưu của mình đã đạt, từ đấy không còn lo lắng gì nữa. *** Lại nói chuyện Văn Linh đau khổ từ giã Văn Lang ra đi. Một thân một mình chưa từng rời khỏi nhà bao giờ nay bơ vơ giữa một nơi xa lạ, chàng ngập ngừng không biết đi đâu. Loanh quanh mãi, cuối cùng một đêm nọ chàng lại lần về mồ mẹ, nằm úp lên mộ than khóc rồi ngủ quên. Ở dưới mồ, mẹ chàng thương con quá, bèn hiện lên thành con chim phượng hoàng lớn ấp con vào đôi cánh. Thấy trời sắp sáng, phượng hoàng dùng chân quắp lấy Văn Linh rồi bay đi rất xa. Từ một hòn núi cao, phượng hoàng hạ cánh. Tỉnh dậy, Văn Linh sửng sốt, nhưng phượng hoàng đã nói: - Ta là mẹ con. Con hãy ở đây chớ về mà nguy hiểm. Rồi hàng ngày mẹ sẽ đến với con. Nói rồi phượng hoàng hóa thành nhà cửa và mọi đồ ăn thức dùng để Văn Linh ăn ở tại đấy. Sợ con xao nhãng học tập, phượng hoàng lại mang sách vở tới cho con ôn luyện. Ban ngày phượng hoàng biến đi, nhưng đêm lại, nó bay đến chỗ Văn Linh ở để bảo vệ chàng. Tờ mờ sáng nó còn gáy lên để đánh thức con dậy học, rồi mới chịu cất cánh bay về. Bấy giờ ở phía dưới núi có một xóm dân cư rải rác, trong xóm có nhà một cô con gái tên là Ngọc Châu. Ngọc Châu đẹp như hoa mà chưa có chồng. Nàng có một người đầy tớ gái tên là Hồng. Hai người sống nương tựa vào nhau, lấy nghề dệt vải nuôi thân. Từ dạo Văn Linh đến ở trên núi, hai thầy trò Ngọc Châu lấy làm lạ không hiểu vì sao trên núi từ xưa vắng bóng người, thế mà lúc này cứ mờ sáng khi họ ngồi vào khung cửi đã nghe tiếng chim phượng gáy, rồi nghe tiếng học trò học sang sảng cho đến sáng. Một hôm gà gáy canh năm, Ngọc Châu giả cách làm tắt đống nhấm để bắt nàng Hồng lên núi xin lửa của người học trò bấy giờ đã cất tiếng đọc sách. Hôm ấy Văn Linh dậy sớm thắp đèn ngồi học, bỗng nghe có tiếng gọi cửa. Chàng mở cửa ra thì là một cô gái. Sau khi cho lửa, anh hỏi vay cô gái một hũ dầu vì dầu nhà mình đã cạn. Nàng Hồng chỉ nhà để anh xuống lấy. Nhờ đó Văn Linh làm quen với Ngọc Châu. Thế là chàng đã có bạn xóm giềng, tối lửa tắt đèn có nhau. Từ chỗ quen nhau họ muốn được nên vợ nên chồng. Ngọc Châu mời chàng về ở cùng mình một nhà để tiện bề đèn sách. Được con báo tin, chim phượng hoàng mang tới cho chàng áo quần và tiền bạc. Rồi từ đó nó không trở lại nữa. Đám cưới cử hành đơn giản nhưng cũng rất vui. Từ nay bên anh đọc sách bên nàng quay xa, cảnh đầm ấm ấy không ai hơn được. Sau năm năm học thành tài, Văn Linh quảy lều chiếu đi thi. Đậu trường hương, chàng vào kinh quyết tranh đua ở trường hội và đậu tiến sĩ. Hôm vinh quy, cờ quạt chiêng trống và quân gia rầm rộ kéo về quê. Thấy anh vinh hiển trở về, Văn Lang hết sức mừng rỡ. Trong khi ấy người dì ghẻ nghe tin đột ngột không kịp trốn, bèn chui xuống nấp dưới gậm giường. Nhưng vì quá sợ hãi mụ đã vỡ mật mà chết, hóa thành con dế.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-de" }
Con vợ khôn lấy thằng chồng dại như bông hoa lài cấm bãi cứt trâu
Xưa, có một người đàn bà làm nghề dệt vải. Nàng bản tính thông minh tháo vát, nhưng lấy phải người chồng đần độn không làm được nghề gì nên thân. Một hôm, vợ đưa cho chồng mấy tấm vải bảo mang ra chợ bán. Vợ dặn: - Nếu không được bốn quan mỗi tấm thì đừng có bán, nghe! Chồng mang vải ra chợ đi khắp nơi, rao khản cả cổ mà chả có ai mua cả. Mãi về sau có một ông cụ già mua cho hai tấm. Nhưng ông ta lại không mang tiền theo. Ông cụ bảo hắn: - Chốc nữa anh đến nhà tôi lấy tiền nhé! Nhà tôi cũng ở trong xã này thôi. Hắn hỏi: - Nhà ông ở đâu? - Tôi ở chỗ: "chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt". Đến đó tôi sẽ trả tiền ngay. Đến chiều hắn đi tìm người mua hang chịu của hắn. Gặp ai hắn cũng hỏi thăm "chỗ chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt" là ở đâu, nhưng chẳng một ai biết thế nào mà trả lời. Người ta chỉ nói với hắn: - Thôi rồi, anh mắc phải tay bịp bợm nào đấy thôi! Hắn đi loanh quanh mãi đến tối mịt không tìm được nhà, đành phải trở về ôm mặt hu hu khóc. Vợ hắn hỏi tại sao thì hắn kể cho vợ nghe tất cả câu chuyện. Người vợ bảo: - Cũng dễ tìm thôi ! "Chỗ chợ đông không ai bán" là cái nhà trường, "chỗ kèn thổi tò le" là bụi lau vì khi gió thổi nghe như tiếng kèn sáo, "chỗ cây tre một mắt" là bụi hành hay tỏi gì đó. Vậy anh phải kiếm người đó ở một cái trường học, gần đó có bụi lau, trước cửa có vườn trồng hành tỏi. Qua ngày sau, anh chồng lại cất bước đi tìm. Quả đúng như lời người vợ nói, hắn gặp ông lão hôm qua. Đó là một thầy đồ dạy học trò. Thấy hắn đến, ông đồ liền hỏi xem nhờ ai mách cho mà biết được chỗ ở của mình. Hắn đáp: - "Tôi tìm ông suốt cả một buổi chiều hôm qua. May nhờ có vợ tôi mách cho đấy". Ông thầy nghĩ: -"Người đàn bà này hẳn là một cô gái thông minh tài trí, ít người sánh kịp". Hôm đó nhân nhà có giỗ, ông đồ mời hắn ngồi lại ăn cỗ. Hắn ta cắm đầu chén một bữa no nê lại được ông đồ gửi phần về biếu vợ. Nhưng khi trả tiền, ông đồ còn gửi hắn một gói khác bảo đưa cho vợ. Trong đó chỉ có một cục phân trâu ở giữa có cắm một cánh hoa nhài. Hắn ta chẳng hiểu gì cả cứ việc cầm lấy về nhà. Người vợ trông thấy, hiểu ý ông thầy muốn mỉa mai mình: Con vợ khôn lấy thằng chồng dại Như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu Càng ngẫm nghĩ về "gói quà", nàng càng buồn bực, trách chồng dốt nát để mang về cho mình một lời trêu chọc chua cay, rồi nghĩ tới duyên phận hẩm hiu, nước mắt nàng lã chã. Nàng vứt cái thoi, bụng bảo dạ: - Thân thế ta thật chả ra gì. Trên đời có bao nhiêu người khôn ngoan tài giỏi, còn ta thì lấy nhầm phải một thằng chồng u mê đần độn! Trong một cơn phiền muộn, nàng chạy ra bờ sông, toan nhảy xuống dòng nước trẫm mình cho rồi một đời. Lại nói chuyện ông thầy dạy học, sau khi tiễn chân anh chàng bán vải ra khỏi cửa, nghĩ đi nghĩ lại thấy sự trêu chọc ác nghiệt của mình thật là không phải. Ông đâm ra lo câu chuyện đưa tới một kết quả không hay: - Không biết chừng người đàn bà ấy phẫn chí liều thân hoại thể thì ta sẽ có tội rất lớn với danh giáo. Nghĩ thế, ông đồ bèn đi mượn một cái giỏ đựng cá thủng trôn, rồi mang ra bờ sông cùng với chiếc cần câu làm bộ câu cá. Ông cứ men theo dọc bờ sông gần làng, đi lại trông chừng. Khi thấy một người đàn bà ngồi trên bờ vắng đang ôm mặt khóc thút thít, ông biết ý vội tiến đến gần, có ý chìa giỏ cho nàng thấy và nói: - Chị này ngồi tránh đi chỗ khác cho tôi câu cá nào. Người đàn bà đó đúng là vợ anh chàng bán vải. Nàng ngước mắt trông lên thấy có một người đàn ông đầu đã hai thứ tóc mà lại mang chiếc giỏ rách đi câu. Nàng tự nghĩ: - Người nào đây ngu quá là ngu. Chồng mình tuy khờ dại nhưng cũng chưa đến nỗi này. Rồi nàng kết luận: - Vậy ra chồng mình vẫn còn có những chỗ hơn người". Nghĩ vậy, nàng bỏ ý định tự tử mà trở về nhà...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-vo-khon-lay-thang-chong-dai-nhu-bong-hoa-lai-cam-bai-cut-trau" }
Nàng ong chúa
Ngày xưa có một người học trò nhà nghèo rớt mùng tơi tên là Sĩ. Anh ở với bà mẹ già lụ khụ. Anh muốn lấy vợ để vợ đỡ đần công việc nhà và phụng dưỡng mẹ già, nhưng hỏi mấy đám, người ta thấy nhà anh luôn năm thiếu ăn nên đều lắc đầu từ chối. Vì thế, anh vẫn phải sống một thân một mình với nghề đi củi. Hàng ngày, buổi sáng tinh sương, anh lên rừng chặt củi đem ra chợ bán. Chiều lại, ăn xong, anh mới cầm lấy quyển sách. Cứ như vậy cho đến ngày anh học thành tài. Kỳ ấy nhà vua mở khoa thi ở kinh đô để kén nhân tài. Các sĩ tử đua nhau chuẩn bị tiền gạo, lều chiếu để vào dự thi. Trong lòng Sĩ cũng hăm hở muốn đua chen chốn trường văn trận bút, nhưng tài lực nhà anh quá kém cỏi, chẳng biết lấy gì dùng để nuôi mẹ già những ngày vắng mặt, cũng chẳng có gì để ăn tiêu dọc đường. Sắp đến kỳ thi, mấy người bạn anh lần lượt trẩy kinh mà không rủ anh. Sĩ cố chạy vạy mấy nơi, nhưng không kết quả. Mãi về sau mới có mấy nhà láng giềng tốt bụng nhận nuôi nấng mẹ già cho anh để anh yên tâm ra đi. Và rồi cuối cùng anh cũng đánh liều cất bước lên đường, tuy rằng trong lưng không có một đồng một chữ. Thoạt đầu anh gánh hàng thuê cho bọn lái buôn. Làm hết hơi hết sức trong hai ngày, anh nhận được ở họ cơm ăn và một quan tiền công. Có vố, anh lại tiếp tục đi nữa. Sau hai ngày tiêu rất dè sẻn, số tiền mới kiếm được cũng lại hết nhẵn. Mặc dầu vậy, anh vẫn không dừng lại, hy vọng dọc đường sẽ tìm được việc làm. Nhưng rủi thay, ngày hôm ấy trời mưa, không một ai thuê mướn cả. Vì chỉ còn ba ngày nữa đã bắt đầu nhập trường, anh không thể nấn ná được. Đành phải cắm cúi bước liều trong lúc không có một hột gì vào bụng. Trời xế chiều, anh đi tới một khu rừng rậm. Trong khi đang bước thấp bước cao mong tìm ra một ngôi nhà nghỉ trọ, thì anh bị lạc đường. Anh quanh quẩn mãi giữa đêm tối trong lùm cây mà không nghe qua một tiếng gà gáy chó sủa. Cuối cùng bụng đói, cật rét, sức mệt, anh trèo lên một cây cổ thụ, định tìm một chỗ tạm nghỉ chân. May làm sao, lúc trèo lên đến nhánh chẽ ba, bỗng thấy thấp thoáng bên phía tay trái có anh đèn. Lòng mừng khấp khởi, anh vội tụt xuống lần về hướng ấy. Chỉ một lát, anh đã đứng trước một ngôi nhà lá nhỏ. Anh hồi hộp gọi cửa, và rất ngạc nhiên thấy cánh cửa mở ngay như có người chờ sẵn. Một cô gái tay cầm một cây đèn sáp bước ra. Dưới ánh đèn Sĩ trông rõ cô gái mặt mũi xinh xắn, nhưng hai mắt lại mù. Cô đon đả: - Chào thầy khóa. Thiếp chờ thầy đã lâu. Mời thầy vào trong này. Nghe lời chủ nhân, Sĩ không còn hồn vía nào nữa. Làm sao cô gái mù này biết mình là học trò và đang chờ mình. Chỉ có yêu tinh ma quỷ đang giương bẫy đón mồi thì mới có thể như vậy. Sĩ rất ngần ngại, nhưng cái bụng và sức khỏe không cho phép anh bước đi đâu được nữa. Anh đánh liều bước vào nhà, không quên đề phòng mọi sự bất ngờ có thể xảy đến. Trong nhà, ngoài cô gái còn có một người bô già. Sau khi mời Sĩ ngồi, cô gái bảo bô già mang hỏa lò lại cho khách hơ áo quần. Sĩ vừa cảm thấy khô ráo ấm cúng thì bô già đã bưng lên một mâm cơm, có cô gái mù đi theo mời mọc: - Nhà thiếp thanh đạm chẳng có gì. Xin mời thầy khóa cứ thực tình cho. Sĩ lúc đầu ngờ vực không dám đụng đũa. Nhưng sau, cơn đói đã át tất cả. Anh cầm lấy bát nếm thử một miếng, thấy không có vẻ gì khác, nên cắm đầu ăn. Bữa cơm quả là thanh đạm, nhưng cơm nóng canh sốt làm anh cảm thấy chưa bao giờ ngon miệng đến thế. Ăn xong bô già đã dọn ổ rơm, trải chiếu cho khách nằm. Sĩ mệt quá, nằm xuống nhưng không dám ngủ, cố ý rình xem ma quỷ còn giở những trò gì. Nhưng chỉ một lúc anh đã chợp mắt và ngủ thiếp đi. Đến nửa đêm, sĩ bỗng giật mình tỉnh dậy. Gió bão thổi tới mỗi lúc một nặng nề. Thỉnh thoảng trời lại gầm lên dữ dội. Anh nghe tiếng cô gái nói: - Bô già ơi, gió đổi sang phía bắc rồi. Nó rít mạnh quá bô nhỉ? Đấy cái tổ nhỏ ở cành thứ ba bị đổ mất rồi. Bô thử ra xem nào. Sĩ rất lấy làm lạ sao cô gái mù lại ăn nói như người hoàn toàn sáng mắt. Anh đang suy nghĩ vẩn vơ thì lại bỗng ngủ thiếp đi. Không bao lâu, gió thổi càng mạnh như muốn bốc cả nóc nhà. Sĩ lại tỉnh dậy lần nữa. Lần này anh nghe tiếng cô gái nói ở ngoài nhà: - Bô già ơi! Gió mạnh thế này thì chắc chúng nó sẽ lạc nhiều đấy. Nhưng chẳng sao, mai kia chúng nó lại về đủ. Ở cái tủ thứ bảy có nhiều con đang chờ mà chưa vào được! Liền đó, Sĩ nghe tiếng tơi nón của bô già lạch xạch lần ra vườn. Bão vẫn dữ dội. Anh ngồi dậy và tiện chân bước ra cửa. Qua những làn chớp, Sĩ thấy cô gái mù đang đứng dưới một cây có cành lá xòe ra như một cái tán. Ở những cành thấp ở dưới gốc, ong vàng đậu chi chít, đậu cả lên nón, lên áo cô gái. Ong vàng con đạu con bay nhiều vô kể; tiếng vù vù của ong cơ hồ át cả tiếng bão. Trong khi cô gái và bô già đang làm việc ở phía ngoài, Sĩ lại trở vào trong nhà, trong lòng vẫn chưa hết nghi hoặc. Trên án thư ở đầu ổ rơm, ngọn nến vẫn đang cháy dở. Thấy có một quyển sách. Sĩ vội giở ra xem. Hóa ra quyển sách nói về đạo phật. Anh cầm lấy đọc rất mê mải. Cho đến gần sáng, bão đã bắt đầu tạnh, cô gái và bô già bước vào nhà. Sĩ gập sách lại, lên tiếng hỏi: - Tôi bị lạc đường, rất cảm tạ cô và bô già cho ăn cho nghỉ. Nhưng có một điều tôi lấy làm khó hiểu là tại sao hai người lại sống trơ trọi trong khu rừng này? Sống như vậy lấy gì nuôi thân? Tại sao cô lại biết tôi sắp đến đây và còn biết tôi đi thi? v.v... Tôi rất mong được giải tỏ những điều đó trước khi từ giã nơi này. Cô gái đáp: - Nhà này vốn là nhà của thầy mẹ thiếp. Thầy thiếp trước có làm quan, vì ghét bọn quan trên nên từ về, tìm đến khu rừng này sống bằng nghề nuôi ong. Cách đây ba năm, thầy mẹ thiếp lần lượt qua đời còn mình thiếp cùng với bô già và đàn ong. Đàn ong cho mật và sáp, bô già mang ra chợ đổi lấy gạo. Mắt thiếp tự dưng bị đau rồi hỏng. Tuy mù, linh tính của thiếp lại biết hết mọi chuyện. Tự nhiên thiếp cảm thấy đàn ong bị nạn thì nó bị nạn thật. Như hôm qua, thiếp cảm thấy có một chàng thư sinh đi thi bị lỡ độ đường và đang cần được giúp đỡ. Thiếp vừa thắp đèn lên thì nghe thấy tiếng gõ cửa của thầy khóa. Quyển sách trên bàn đó là của thầy thiếp để lại, thầy khóa cứ đọc đi. Nhưng thầy khóa đi làm gì vội còn bảy ngày nữa mời bắt đầu thi kia. Nghe nói, Sĩ lấy làm thương cô gái mù mà cảnh ngộ còn gian nan hơn cảnh ngộ của mình. Anh cầm sách đọc cho đến sáng. Nhớ tới ngày thi, anh từ giã cô gái và bô già ra đi. Thấy mời mọc không được, cô gái đưa cho anh một nắm cơm và một quan tiền. Sĩ vội trả lại tiền chỉ nhận nắm cơm và nói: - Đa tạ cô và bô già. Sau này nếu được vinh hiển, tôi sẽ không bao giờ quên tấm lòng vàng của cô và bô. Chiều hôm sau vào đến kinh đô, Sĩ giật mình khi được tin vì hoàng đế se mình, nên kỳ thi kỳ thi hoãn lại năm ngày nữa đúng như lời cô gái. Kỳ thi năm ấy vua ra đầu đề bài văn có nhiều điển tich về đạo phật. Các bạn của anh ở quê nhà cũng như sĩ tử bốn phương vì không đọc qua sách phật nên bị loại quá nhiều. Có kẻ đã lọt vào trường ba rồi cũng hỏng. Chỉ có Sĩ nhờ vô tình đọc quyển sách giữa cái đêm gió bão ở nhà cô gái mù nên trả lời trôi chảy. Anh đỗ tiến sĩ được vua ban cho tiền bạc, áo mão, cờ quạt và lính hầu về vinh quy. Trên đường về quê anh dự định rẽ vào khu rừng có nhà cô gái mù nuôi ong để tạ ơn. Nhưng khi đoàn vinh quy vừa bước lên đèo, Sĩ đã thoáng thấy một cô gái có cặp mắt đen láy đang đứng đợi ở đỉnh đèo. Hai tay cô mang một rổ hoa; trên áo cô, ong vàng bám lấy chi chít như thêu kim tuyến. Sĩ nhớ lại cái đêm gió bão đứng ở trong nhà nhìn ra, thấy cô gái mù cũng được ong bám vào như thế. Đúng là cô gái nuôi ong đây rồi. nhưng tại sao hai mắt cô lại không mù. Sĩ vội bước xuống cáng chạy lại đón cô gái. Anh nói ngay: - Đây là cô gái nuôi ong phải không? Nhưng ai đã hóa phép làm cho mắt nàng sáng lại như cũ? Ôi! Nếu không có quyển sách của thầy nàng để lại thì tôi cũng hỏng như hầu hết các bạn của tôi. Không biết nói làm sao để cảm ơn nàng cho xiết được! Cô gái đáp: - Thiếp nhờ có ong chúa hút được nhị hoa thần và nhả nhị vào mắt làm cho mắt mở lại tỏ. Sáng hôm nay thiếp cảm thấy tân khoa sắp về nên vội vàng đi đón ở đây. Cô gái nhìn Sĩ má đỏ hồng hồng. Sau đó, Sĩ và đoàn tùy tùng kéo nhau đến ngôi nhà nhỏ của cô gái. Ở đây được mấy ngày, Sĩ đưa cô gái và bô già về quê nhà. Chàng xin phép mẹ được kết duyên với cô gái nuôi ong. Đám rước dâu linh đình từ rừng xuất phát, có cờ quạt, chiêng trống quân gia rầm rộ. Đặc biệt là những con ong vàng ngậm mỗi con một bông hoa bay trên đấu bà chúa của chúng, đẹp như một đám mây ngũ sắc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-ong-chua" }
Miếng trầu kỳ diệu
Ngày xưa, có một anh học trò tầm thường tên là Hồ Sinh. Gia tư của hắn cũng không lấy gì làm thiếu thốn, nhưng ngày đêm, hắn chỉ những mong muốn một chút danh phận. Vì thế, khi nghe nói ở huyện có khuyết chân thơ lại là hắn vội bán ruộng cố đi lo lót cho được. Sau mấy phen chạy vạy không xong, hắn sực nhớ đến một người bạn học cũ có người thân quen biết với cụ Thượng, bèn tìm đến nhờ vả. Người bạn của Hồ Sinh khi nghe hắn bày tỏ ý mình vội bảo: - Người ra có câu "Con trong lừ rưng rưng nước mắt, con ngoài lừ ngút ngoắt muốn vô". Sao bác không giữ ruộng lại để cày cấy làm ăn, có hơn là phải quỵ lụy để mua mấy cái lo vào người cho khổ? Nhưng sau mấy lần khuyên dỗ, vẫn thấy nét mặt bạn quả quyết quá, mới giới thiệu hắn với một người bạn khác của mình, và nói: - Người quen của tôi chả có thế lực gì đâu. Sẵn có quen một nhà đạo sĩ trên núi Ba Vì, ông ấy quen biết rất nhiều vị quyền cao chức trọng có thể hơn cả cụ Thượng nữa. Ông ấy có cách làm cho bác nên công danh. Để tôi viết mấy chữ, ông ấy sẽ vì tôi mà giúp bác hết sức. Hồ Sinh cầm thư của bạn tìm đường lên núi Ba Vì. Hắn hỏi thăm mãi, quả đến một cái hang có một phiến đá lớn lấp kín. Theo lời dặn, hắn kêu to: - Có phải đây là hang đạo sĩ không? Nếu phải xin mở cửa cho vào. Tự nhiên hòn đã xoay ra mở một lối cho hắn vào. Phía trong rất im lặng nhưng sáng sủa. Hắn bước quá chừng chục bước đã thấy vị đạo sĩ đang nằm trên một cái chõng, miệng nhai rầu, mắt lim dim nghỉ ngơi. Bên cạnh đó có một cái chõng khác, trên có một cơi trầu chỉ còn hai miếng Tuy có khách mà đạo sĩ cũng không ngồi dậy, chỉ với tay cầm lấy thư đọc, miệng vẫn nhai trầu bỏm bẻm. Một lát, nhìn trừng trừng vào mặt khách, nói: - Ta sẽ cho anh được làm quan. Nào anh muốn làm quan to hay nhỏ, như thế nào? Đáp: - Tôi học hành cũng ít ỏi, chỉ muốn làm một chân thơ lại cũng đã mãn nguyện. - Được! Anh hãy ngồi nghỉ, ăn một miếng trầu, ta sẽ liệu. Hồ Sinh rón rén lại ngồi ở giường lấy một miếng trầu trong cơi ra ăn. Miếng trầu rất ngon. Nhưng vừa nhai giập thì hắn đã thiu thiu ngủ. Sau khi trở về nhà mấy ngày, bỗng một hôm có một người lính lệ mang trát đến đòi. Hắn sợ quá tưởng có việc gì xảy ra. Nhưng khi vào dinh cụ Thượng, hắn được đón tiếp rất niềm nở. Người ta để dành cho hắn không phải là chân thơ lại ở huyện mà là một chân thông biện ở dinh quan Bố tại tỉnh nhà. Công việc chẳng có gì là khó khăn và tốn kém vì có "tay trong" của nhà đạo sĩ, làm cho hắn hết sức sung sướng. Thế là từ đó, Hồ Sinh hàng ngày ra vào công đường, dạ dạ, bẩm bẩm khúm núm trước mặt các quan. Ban đầu hắn thấy nhục, nhưng mỗi lần đứng trước mặt bọn tổng lý và những người dân có việc đến cửa quan thì hắn lại cho là một sự vinh hiển. Ban đầu hắn ngần ngại chối từ cả lễ bạt của những người có việc đưa lên lo lót, nhưng dần dần hắn bạo dạn và khôn ngoan hơn. Chẳng những hắn thành thạo trong nghề bóp nặn mà còn học được nhiều mánh khóe làm tiền kỳ lạ là tạo ra những vụ án bất ngờ mà kết quả cả nguyên cáo lẫn bị cáo tiền bạc xủng xoẻng dắt nhau đến công đường đút cho hắn và quan trên của hắn. Vì thế, trong vài ba năm, tiền của của hắn bộn bề, hắn làm nhà tậu ruộng và sống cuộc đời xa xỉ hơn trước. Hắn lại được một phú trưởng giả trong hạt gả con gái cho. Mười năm sau, vợ hắn đã sinh được hai trai hai gái và được cất nhắc làm một chức quan nhỏ. Một nhà phấn vua trang điểm, cuộc đời cứ thế lên như diều, không có ai theo kịp. Nhưng một ngày kia, giữa lúc Hồ Sinh đang ngồi cho vợ chải đầu thì bỗng có lính lệ cầm trát đến đòi. Hắn không nghi ngờ gì cả. Nhưng khi đến dinh cụ Thượng hắn liền bị bỏ ngục. Một viên khâm sai đặc phái cải trang đi thanh tra đã tìm ra được rất nhiều chứng cớ về những vụ tham tang hối lộ của bọn quan tỉnh, mà tất cả đều có liên quan đến hắn. Thế rồi, trong khi chờ đợi xử án thì những người dân bị vu oan giá họa ngày trước đều đổ xô tới quan khâm sai kiện hắn. Đơn kiện cao kể hàng chồng. Ngày xử án hắn là một ngày đông hơn hội. Hắn bị tử hình không đợi tâu về triều vì quan khâm sai có quyền "tiền trảm hậu tấu". Trước khi ra pháp trường chịu tôi, hắn hồi tưởng lại chuyện cũ và ăn năn rằng phải chi mình đừng có lên hang đạo sĩ để nhờ lão ấy chạy chọt cho thì đâu đến nỗi này. Hồ Sinh bỗng choàng dậy vì có một tiếng động rất dữ dội. Hắn mở mắt thì té ra mình vẫn còn nằm trên chiếc giường thứ hai của nhà đạo sĩ, chân đạp phải cơi trầu lăn xuống đá đánh choảng một tiếng, miếng trầu còn lại lăn lóc giữa đường. Còn đạo sĩ miệng vẫn còn nhai trầu, mắt lim dim, chợt ngồi dậy hỏi hắn: - Bây giờ chúng ta sẽ bàn một chút. Anh sẽ cầm thư của tôi đến cụ Thượng..." Nhưng lúc này Hồ Sinh không còn đủ can đảm để tính chuyện danh phận nữa. Hắn vội nhả miếng trầu đang ngậm ở miệng và cáo từ ra về. Từ đó, hắn trở nên một tay làm ăn chí thú trên ruộng đất của mình...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/mieng-trau-ky-dieu" }
Tra tấn hòn đá
Ngày xưa có hai vợ chồng một người nghèo, suốt năm đầu tắt mặt tối, ăn bữa sớm không biết có bữa chiều. Kỳ ấy năm hết Tết đến mà trong nhà không có lấy một bát gạo. Mãi về sau người chồng chạy hết các cửa nhà giàu, nói sùi bọt mép mới vay được ba công non. Mừng quá, chồng vội vã mang về để đến sáng mai là ngày ba mươi cho vợ kịp đi sắm Tết. Sau khi mua hết số tiền, người vợ đội mủng lên đầu trở vào cổng chợ. Trên đường về phải lội qua một cái mương nước. Chẳng may cho bà ta, khi bước chân lên một hòn đá thì bị trượt chân ngã vật xuống nước. Bao nhiêu gạo, thịt, vàng, hương, v.v... trong mủng đều ngập vào bùn. Thấy số phận đen đủi, người đàn bà nọ không buồn nhặt nữa, ngồi xoài xuống bên vệ đường, khóc lóc rất thảm thiết. Đang khóc, bỗng có một ông quan huyện đi hành hạt ngang qua đó. Thấy chuyện lạ, quan sai lính dừng võng, đòi người đàn bà tới hỏi vì sao mà khóc? Người đàn bà mếu máo kể lại tình cảnh của mình cùng việc xảy ra vừa rồi cho quan nghe và nói thêm: - Thiếp không sợ chồng đánh mà chỉ thương thân thôi! Chẳng biết đến bao giờ thì vận đen mới thôi không ám ảnh nữa. Quan huyện vốn có lòng thương người. Khi nghe những lời than thở, ông rất động lòng, bèn nghĩ ra một kế để giúp đỡ người đàn bà nọ ăn một cái Tết ngon lành. Ngồi trên võng, ông truyền lệnh: - Cứ như lời mụ khai thì hòn đá kia là kẻ phạm tội. Dù nó là đá cũng không thể vượt được phép nước. Ta sẽ vì nhà mụ mà bắt nó bồi thường. Lính đâu! Đưa bị cáo về công đường đối chất. Thấy bọn lính hầu ngơ ngác, ông thét làm ngay. Khi thấy đá ỳ không dậy, ông bảo trói lại và khiêng về huyện tra tấn cho được mới nghe. Lại nói về chuyện hôm ấy có nhiều người nghe tin quan huyện tra tấn hòn đã để đòi bồi thường gạo thịt, vàng, hương cho người đàn bà thì ai nấy không ngăn được tò mò, vội đổ xô tới huyện đường để xem một tý. Họ xúm đen đặc ở cổng huyện. Quan truyền cho lính đặt hai cái thúng ở cổng, dặn rằng ai bỏ vào đấy ba mươi đồng kẽm sẽ cho vào xem. Trong khi đó, ở phía công đường có mấy người đã được cắt sẵn việc tra tấn. Tiếng hỏi cung, tiếng quát nạt, tiếng roi vụt văng vẳng phát ra. Mọi người tranh nhau ném tiền để được vào cửa. Khi hai cái thúng đã đầy ắp tiền, quan bèn bảo bọn lính lệ nghỉ roi vọt, rồi ông đứng trước mọi người trỏ nguyên cáo bị cáo phân xử: - Bản chức đứng trước một vụ án khá rắc rối. Theo như lời nguyên cáo cùng tất cả chứng tá khai thì tội trạng bị cáo đã rành rành, không thể chối cãi vào đâu được, mặc dầu đến giờ nó vẫn chưa chịu cung xưng. Bản chức quyết bắt bị cáo bồi thường đầy đủ số thiệt hại. Thế nhưng, xét nó không có gì để thi hành bản án này. Tất cả mọi người đến đây vì thương hại bị cáo giúp mỗi người một ít. Vậy bản chức quyết định: số tiền trong thúng bất kể bao nhiều đều giao cho nguyên cáo có quyền sử dụng. Còn bị cáo được phóng thích trở về chỗ cũ hay đi đâu mặc ý. Tất cả mọi người biết là mắc mưu quan nhưng không một người nào tỏ vẻ tiếc của cả. Còn người đàn bà nọ sung sướng đưa tiền về nhà...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tra-tan-hon-da" }
Tiêu diệt mãng xà
Ngày xưa, trong một hang núi nọ có một con mãng xà. Đầu nó to bằng cái chum, trên đầu có mào đỏ, hai mắt như hai quả quýt, thân dài hơn trượng. Nó đi đến đâu là cuốn thành bão đến đấy, cây cối đổ rào rào, bụi bốc mù mịt. Nó đã ăn thịt không biết bao nhiêu là súc vật và người. Người ta dùng nhiều cách để diệt trừ, nhưng mãng xà đã không chết mà còn phá hoại dữ dội hơn. Cuối cùng nhà vua phải sai dựng cho nó một cái đền và hứa mỗi năm khấn một mạng người để nó đỡ phá phách. Nhà vua ra lệnh bắt các làng mỗi năm phải nộp một người con gái để dâng cúng mãng xà, nhưng cũng cho rao trong nước, ai tiêu diệt được con quái vật ấy thì sẽ phong quận công và cho lấy công chúa làm vợ. Bấy giờ có một chàng trẻ tuổi từ lâu được một nhà sư đưa lên nuôi trên một ngôi chùa ở núi cao. Hàng ngày nhà sư truyền cho anh nghề múa gươm và các môn võ nghệ. Thành tài, anh được thầy tặng một thanh gươm quý và cho phép “hạ sơn”. Hôm ấy anh trở về làng. Sau khi kéo bộ suốt cả một ngày mệt nhọc, anh thấy một tòa đền có ánh sáng le lói, không biết là đền mãng xà, bèn ghé vào nghỉ chân. Vừa bước vào cổng đền bỗng nghe có tiếng khóc thút thít ở phía trong, anh lấy làm ngạc nhiên vội lần vào thượng điện. Dưới ánh đèn dầu, anh thấy một cô gái trạc mười tám, hai mươi tuổi, bị trói vào cột ở một góc điện. Anh lập tức bước đến cởi trói cho nàng và nói: – Làm sao cô lại bị trói ngồi ở đây? Cô gái gạt nước mắt nói: – Chàng là ai, ở xứ nào mà không biết đây là đền thờ mãng xà ư? Đoạn cô kể lại những hành động của mãng xà, mỗi năm phải nộp một mạng người ra sao, cuối cùng cô nức nở: – Nhà thiếp có một mẹ một con, nghĩ mình chết đi cũng không tiếc, chỉ thương mẹ già không có ai nuôi. Nhưng thôi chàng hãy đi mau khỏi chốn này, nếu không mãng xà nó đền thì chẳng còn tính mạng. – Thế bao giờ thì nó đến đây? – Chỉ nội trong đêm nay! Chàng trẻ tuổi ân cần: – Tôi muốn thay nàng nộp mạng cho mãng xà để nàng được về với mẹ. Cô gái đáp: – Thiếp không muốn vì mình mà người khác phải chết. Cứ để mặc thiếp chịu số kiếp thê thảm, tiền oan nghiệp chướng này. Chỉ mong chàng nếu có đi qua làng, hãy làm ơn ghé vào an ủi mẹ già giúp thiếp. – Không. Nàng hãy kịp tránh khỏi nơi đây để mặc tôi với con quái vật. Rồi rút gươm ra khỏi bao, chàng nói tiếp: – Nó không thể làm hại được tôi đâu. Tôi sẽ bắt cái này ra đối mặt một phen với nó. Nàng hãy chạy về làng mau đi! Nói đoạn, anh dẫn cô gái ra khỏi cánh rừng, rồi trở lại đền nai nịt gọn ghẽ, quyết thức đợi mãng xà. Vào khoảng nửa đêm, bỗng phía ngoài có tiếng rào rào, cành cây gẫy răng rắc. Một mùi tanh tưởi xông vào mũi đến lộn mửa. Chàng trẻ tuổi đứng dậy rút gươm nấp vào bên thượng điện. Mãng xà quen như mọi khi, từ từ vắt mình qua tường tiến vào. Nhưng nó vừa thò cái đầu vào đền thì chàng trẻ tuổi đã khởi thế công ngay. Lưỡi gươm của anh lóe lên trong đêm tối như chớp giật. Con quái vật bị thương, lao tới toan nuốt sống kẻ thù. Nhưng đường gươm lợi hại của anh đã lại bồi cho nó một nhát thứ hai. Mãng xà đau quá, rống lên, hà hơi phun gió rồi quật đuôi tới tấp làm anh lăn đi mấy vòng. Sắp bị lọt vào miệng quái vật thì may sao, anh đã kịp đứng bật dậy, thủ thế đâm cho nó một mũi thứ ba, nhưng vì đâm mạnh quá nên mũi gươm bị gãy. Anh bèn bồi tiếp mấy nhát, mãng xà bị thương nặng. Cả khúc thân của nó quằn quại mạnh đến nỗi tường và mái đền đổ sụp, gạch ngói lăn xuống rào rào. Anh giơ lưỡi gươm chặt lấy cái đầu con ác thú. Giết được mãng xà, chàng trẻ tuổi khát nước quá chạy khắp rừng đi tìm suối giải khát, rồi vì mệt quá, anh lần ra bên bờ suối ngủ thiếp một ngày một đêm. Trưa hôm sau, một viên quản có phận sự gác ở khu vực này tiến vào đền để dò động tĩnh. Hắn vô cùng kinh ngạc khi thấy mãng xà nằm trên vũng máu, mà cô gái thì không biết đã biến đi đường nào. Nhưng nghĩ đến lời hứa của vua, hắn lập tức xách lấy đầu mãng xà phóng ngựa về kinh lĩnh thưởng. Trông thấy đầu con quái vật, nhà vua rất vui mừng. Vua hỏi: – “Ai đã giết được mãng xà?” Viên quan đáp: – “Tâu bệ hạ chính là kẻ hạ thần này”. Vua khen ngợi hồi lâu, rồi ban sắc chỉ phong cho làm quận công, lại truyền gả công chúa như lời đã hứa. Đám cưới tổ chức rất linh đình. Nhưng giữa hôm cưới, trong khi vua quan tề tựu đông đủ, thì bỗng có một người khách lạ xin vào yết kiến. Vua truyền cho vào. Người khách lạ chính là chàng trẻ tuổi đã giết mãng xà. Vua hỏi: – Nhà ngươi đến đây có việc gì? Chàng trẻ tuổi đáp: – Tâu bệ hạ, chỉ xin phép bệ hạ cho tôi được lấy lại một mảnh gươm gãy còn giắt trong đầu mãng xà mà thôi! Vua hết sức ngạc nhiên: – A, vậy ra không phải là phò mã của ta đã hạ thủ mãng xà ư? Vua nhìn sang phò mã. Phò mã mặt đã tái đi, nhưng vẫn cố cãi: – Nó là thằng bá vơ nào dám vào đây nhận xằng! Vua liền sai hoãn ngay lễ cưới lại rồi bảo vệ sĩ bổ đầu mãng xà để tìm mảnh gươm. Một lát sau vệ sĩ đã đưa mảnh thép về dâng nộp, khi ráp vào với gươm của chàng trẻ tuổi thì vừa như in. Vua thét: – Thì ra phò mã đã lừa dối trẫm và mọi người. Lập tức vua sai lột thẻ vàng quận công của hắn rồi đeo vào cho chàng trẻ tuổi. Sau đó vua dắt anh ngồi vào chỗ ngồi của phò mã, và ra lệnh cho lễ cưới lại tiếp tục như cũ.Trong khi đó thì viên quản bị giải ra pháp trường.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tieu-diet-mang-xa" }
Sự tích khăn tang
Nhà giàu nhưng lại không con trai, nên bao nhiêu tình thương họ đều dồn vào những cô con gái. Lần lượt năm cô lớn lên, ai nấy đều lập gia đình và đi ở riêng. Vì các cô lấy chồng xa, nên hai ông bà phú hộ cảm thấy nhớ con quá. Một hôm bà bảo chồng: - Sắp tới, ông chịu khó trông nhà cửa cho tôi đi thăm chúng một lượt, sau đó tôi lại về trông để ông đi… - Phải đó – ông đáp – nhưng bà phải đi nhanh nhanh lên mới được, đừng bắt tôi đợi lâu! - Không được đâu, tôi tính ở lại với các con đứa nào ít nhất cũng một tháng, năm đứa vị chi là năm tháng, còn đi đường tổng cộng độ vài ba chục ngày, như vậy cũng mất ngót nửa năm rồi ông ạ! - Thôi được, thế thì bà nó đi đi, bà nhớ đừng để cho đứa nào quấn quýt quá rồi ăn dầm nằm dề ở đó làm cho tôi mỏi mòn trông đợi. Rồi người vợ cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được vài tháng đã thấy bà trở về, vẻ mặt buồn xo. Thấy thế, ông liền hỏi dồn: - Cơn cớ làm sao mà bà về nhanh như vậy? Có gặp điều gì khó khăn dọc đường hay không mà vẻ mặt bà không được vui? Bà phú hộ đáp: - Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều mạnh khỏe cả. Tôi về sớm là vì tôi muốn ông khỏi trông. Ông cứ đi một lần cho biết. Thấy vợ nói úp úp mở mở, ông phú hộ chẳng hiểu gì nên cuối cùng cũng sắm sửa hành lý ra đi. Ông ghé nhà người con gái thứ nhất. Chàng rể tiếp đón niềm nở làm ông hài lòng, nhưng con gái ông lại không được như thế, nó chỉ chuyện trò giả lả được đôi câu rồi quay vào công việc của nó. Đến khi chồng nó ra đồng trông coi thợ cày cấy, thì con gái ông lúi húi lo việc bếp núc, cha con chẳng có dịp chuyện trò. Mãi đến gần trưa, ông cảm thấy bụng đói cồn cào, định bảo nó dọn cho mình ăn trước như khi còn ở nhà, nhưng rồi lại nghĩ thầm: “Để xem nó đối đãi với cha nó ra sao cho biết?!”. Ông thấy con gái chờ chồng về mới dọn cơm ra. Chàng rể của ông lúc ấy tuy đã về rồi mà vẫn còn bận một số công việc nên ông phải đợi tiếp. Đến khi thấy quá trưa, con gái ông mới gọi chồng: - Mình ơi, hãy để đó vào ăn cơm đi, cho ông già ăn với! Nghe con gái nói thế, ông cảm thấy không được vui. Chiều hôm ấy và liên tiếp những ngày sau cũng vậy. Ông nghiệm ra rằng con gái ông chăm sóc cho chồng nó chứ không phải cho ông: “Thì ra bây giờ nó coi cha nó chẳng ra cái quái gì. Nếu chồng nó không ăn thì có lẽ mình cũng phải ngồi nhịn đói”Ở chơi được ít ngày, thấy con gái không được vồn vã đằm thắm như xưa, ông liền từ giã vợ chồng nó mà đi đến nhà đứa khác xem sao. Lần này vừa đi ông vừa lẩm bẩm: “Chắc thế nào những đứa sau cũng phải khác chứ, chẳng lẽ đứa nào cũng như vậy cả sao? Vợ chồng ta trông cậy chúng nó rồi đây sẽ chia nhau về phụng dưỡng một khi bố mẹ tuổi già kia mà!” Nhưng khi đến nơi, ông thấy đứa thứ hai cũng chẳng khác gì đứa đầu. Nghe bố đến thăm cũng tiếp đãi gọi là cho tròn bổn phận rồi lại loay hoay vào công việc nhà chồng, bỏ mặc ông chẳng chút quan tâm. Lần lượt ông đi thăm đủ cả năm cô con gái yêu quý nhưng chẳng đứa nào là không say mê với công việc của nó, chẳng đứa nào quan tâm chăm sóc đến ông như lúc còn ở nhà. Sau cùng, ông chép miệng: - Vậy là con gái một khi bước về nhà chồng thì chẳng còn là con mình nữa. Nó xem chồng trọng hơn bố mẹ nó nhiều. Nghĩ vậy nên ông quày quả trở về. Ông tính lại thời gian thăm con cả đi lẫn về còn ngắn hơn cả bà. Khi về, ông gọi vợ lại bàn rằng: - Thế là mấy đứa con gái có cũng như không, chẳng hy vọng gì vào chúng nó đỡ đần mình tuổi già nữa rồi. Bây giờ bà để tôi đi kiếm một đứa con nuôi đặng mai sau nó săn sóc chúng mình lúc mắt lòa chân chậm. Bà nó nghĩ sao? Vợ phú hộ trả lời: - Thôi ông ạ! Đừng có đi mà mất công lại nhọc xác. Con đẻ rứt ruột ra mà chúng không đoái không hoài thì con nuôi có làm được gì. Phú ông liền bảo: - Trên đời này có kẻ tốt người xấu, đâu phải ai cũng như ai, bà đừng ngại. - Được rồi, ông cứ đi đi, cố tìm một đứa con ngoan phụng dưỡng, mọi việc ở nhà mặc tôi lo liệu. Phú hộ bèn đóng vai một ông già nghèo khó rồi ra đi từ làng này đến làng khác, đến đâu ông cũng rao: - Ai mua cha không ? Có ai mua cha thì ra mà mua! Mua ta về làm cha chỉ mất năm quan tiền thôi… Mọi người nghe ông già rao như vậy thì tưởng ông điên. Có người còn vui miệng nói : - Mua lão ấy để về nhà mà hầu ư ? và để rồi đây lão ta trăm tuổi qua đời có được đồng nào còn phải lo tống táng nữa sao ? Thà là nuôi một người đầy tớ còn hơn. Tuy có nghe nhiều lời mỉa mai cười cợt, phú ông vẫn không nản chí, vẫn đi hết xóm này đến ấp kia, miệng rao không ngót: - Có ai mua cha không này? Bấy giờ ở làng nọ có hai vợ chồng một nông phu nghèo, nghe có người đi bán mình làm cha, chồng bảo vợ : - Hai vợ chồng mình mồ côi từ thuở bé, chưa bao giờ được hưởng tình cha con, lại chưa có mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua ông già này về thủ thỉ với nhau khuya sớm cho vui cửa vui nhà. Thấy vợ bằng lòng, anh chàng chạy ra đón ông già vào và nói : - Ông định bán bao nhiêu tiền? - Năm quan không bớt. Anh chồng liền thưa: - Thú thật với ông, nhà tôi nghèo quá, muốn mua ông nhưng không sẵn tiền. Vậy ông ngồi chơi để tôi bảo nhà tôi đi vay xem. Phú hộ ngồi chờ hồi lâu, thấy chị vợ chạy đi một lát rồi lại quay về, nhưng số tiền vay được cùng với tiền nhà gom lại cũng chỉ có hai quan. Anh chồng liền nói: - Thôi thì ông thông cảm cho, hai ngày nữa mời ông trở lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền. Hai ngày sau, vợ chồng anh nông phu trao tiền cho ông, mời ông vào nhà “cha cha, con con” rất thân tình. Phú hộ thấy đầu tóc người vợ bây giờ biến đi đâu mất liền hỏi: - Này con ơi, tại sao đầu tóc của vợ con lại cắt cụt đi như vậy ? Anh chồng tần ngần đáp: - Chẳng giấu gì cha, nhà con quá nghèo không đủ tiền mua, mà nếu không mua thì ít có dịp nào tốt hơn. Vì vậy, vợ con phải cắt tóc đi bán mới có đủ số tiền năm quan đó. Từ ngày có người cha nuôi, hai vợ chồng nông phu tỏ ra rất niềm nở và chịu khó chăm sóc hầu hạ ông không biết mệt. Phú ông vẫn không cho biết gốc tích quê quán thật của mình, hằng ngày vẫn cứ ăn no ngủ kỹ, đôi lúc lại kêu váng đầu mỏi lưng, bắt họ phải xoa bóp hoặc tìm thầy chạy thuốc. Mặc dầu vậy, hai vợ chồng vẫn cơm nước săn sóc không bê trễ. Cứ như vậy được vài tháng sau, nhà họ đã nghèo lại càng mạt thêm. Hai vợ chồng phai cố gắng làm thêm để nuôi cha, có bữa phải nhịn đói để nhường cơm cho ông già. Tình hình như vậy kéo dài nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà gạo tiền đã kiệt. Tuy vậy, họ vẫn không hề lộ vẻ mỏi mệt, cố làm vui lòng cha già. Một hôm, hai vợ chồng ngủ dậy đã thấy người cha nuôi khăn gói chỉnh tề, ông bảo họ: - Các con hãy đốt cái nhà này rồi đi theo ta! Vợ chồng anh nông phu trố mắt nhìn nhau, tưởng ông phát điên, nhưng sau đó lại thấy ông phú hộ giục bảo: - Làm con thì phải vâng theo cha mẹ, chớ có sai lời. Cha đã bảo các con đi theo cha kiếm ăn thì cứ việc đi, còn cái nhà này ọp ẹp chẳng đáng bao nhiêu đừng tiếc nữa. Vợ chồng nghe thế thì biết ông nói thật, không dám cãi, đành nhặt nhạnh một vài món đồ buộc thành một gói, rồi châm lửa đốt nhà. Đi theo ông già, họ thấy ông ban ngày lần hồi xin ăn, tối tối lại vào nhà người xin ngủ nhờ, họ vẫn vâng lời, không chút phân vân. Ba người đi xin ăn như thế được năm ngày, cuối cùng đến trước một ngôi nhà ngói tường vôi, ông mới vui vẻ bảo họ: - Các con ơi, đã đến nhà ta rồi! Bà phú hộ bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo vợ: - Bà nó này, đây mới thật là con của chúng ta đấy! Bấy giờ vợ chồng anh nông phu mới ngớ người ra, biết được cha mẹ nuôi mình là một nhà giàu có. Phú hộ bảo anh nông phu lấy theo họ mình, và từ đó hai vợ chồng bước vào một cuộc đời sung sướng. Ít lâu sau, phú hộ lâm bệnh nặng. Biết mình sắp gần đất xa trời, ông bèn làm tờ di chúc để phần lớn gia tài cho đứa con nuôi, đoạn ông gọi vợ đến trối rằng: - Sau khi tôi chết, bà nhớ đừng cho năm đứa con gái biết tin đấy! Ông nói tiếp:- Nếu chúng nó có nghe ai mách mà về đây, chưa biết chừng tôi sẽ “bứt néo” trổi dậy cho mà coi. Việc để tang thì đứa con trai cứ theo cổ tục, cắt tóc, đội mũ, quấn rơm trên đầu để chứng tỏ mình chịu cực chịu khổ với cha mẹ thì thôi cũng được, nhưng đứa con dâu thì bà bảo nó khỏi cắt tóc, vì tôi chưa bao giờ quên được cái việc nó đã hy sinh mái tóc dài của nó để mua cha, vậy nó chỉ cần đội khăn tang là đủ. Nhưng khi khâm liệm cho chồng xong, bà phú hộ vì nặng lòng nên cũng cho người lén báo tin cho năm đứa con gái biết. Khi chúng về, bà đón ở cổng, thuật lại lời trối của cha chúng cho nghe và bảo chúng đừng có vào nhà, kẻo có sự chẳng lành. Năm đứa con gái hối hận lắm, nhưng việc đã rồi biết làm sao? Khi đưa linh cữu cha, chúng đòi đi đưa cho bằng được. Khuyên can con mãi không xong, cuối cùng bà buộc lòng phải xé cho chúng ngoài khăn tang ra còn thêm mỗi đứa một vuông vải cho chúng che mặt lại để mong linh hồn bố chúng khỏi biết. Từ đó, người ta bắt chước để tang theo cách gia đình này đã làm: “Con trai cắt tóc vành rơm, mũ mấn, dây lưng chuối như cổ tục, con dâu được miễn cắt tóc, chỉ đội khăn tang, lại miễn cả che mặt. Còn con gái ngoài khăn tang còn có một mảnh vải che mặt.”
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-khan-tang" }
Ba chàng thiện nghệ
Ngày xưa, có nhà họ Lê có một cô gái nhan sắc xinh đẹp. Không những thế, nàng còn văn hay chữ tốt, lại thạo đủ các nghề. Những cô gái đẹp trong vùng khó có cô nào ăn đứt. Khi nàng đã đến tuổi lấy chồng, có nhiều chàng trai hoặc con quan, hoặc con nhà giàu, hoặc tú cử đến cầu hôn, nhưng ông già họ Lê đều từ chối. Ông nói với mọi người: - "Con gái tôi không muốn làm bà quan, cũng không thích làm bà phú hộ. Nó chỉ muốn lấy một người chồng có nghề cầm tay mà nghề đó phải tinh thuần không ai hơn mới được. Nếu không thế thì chả nên đến làm gì cho mất công!". Tin kén rể bay ra, những tài năng bốn phương tấp nập đến xin ra mắt, nhưng chả một ai làm cho ông già họ Lê vừa ý. Người ta chỉ thấy ông than vãn sau mỗi lần thử sức: - "Tài năng trong thiên hạ thực hiếm lắm thay!". Một hôm, trong buổi sáng ông tiếp luôn một lúc ba chàng trẻ tuổi, khỏe mạnh, đẹp trai. Sau khi nghe họ trình bày tên tuổi, nghề nghiệp, ông già mới biết đó là ba nhân tài quê ở ba nơi, tình cờ gặp nhau tại đây. Một người tự xưng bắn giỏi có thể bắn bất cứ một vật gì dù khó đến đâu, và dù xa bao nhiêu. Một người tự xưng lặn giỏi có thể sống dưới nước hàng tuần mà không sợ nguy hiểm, có thể tìm thấy những vật nhỏ bé ở dưới đại dương. Còn người thứ ba thì tự xưng là một thầy thuốc lành nghề, có thể cải tử hoàn sinh bất kỳ một con bệnh nào,kể cả những con bệnh vừa tắt thở. Ông già Lê rất vui mừng, vội dắt người thứ nhất ra sân, trỏ một cây thông cao chót vót ở bờ giậu mà bảo: - Tôi sẽ cho người nhà trèo lên ngọn cây đánh dấu vôi vào một cái lá, ngài cố gắng bắn thế nào cho lá đó rụng xuống trước mặt chúng ta, lúc đó tôi mới tin là thực tài. Nghe nói thế, anh chàng không hề từ chối, vội chuẩn bị cung nỏ. Quả nhiên, chỉ một mũi tên văng ra, ngọn lá thông có dấu vôi rơi xuống trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Khi thử tài người thứ hai, ông già họ Lê dẫn chàng ra bờ biển trước nhà. Đoạn, ông đưa cho xem một chiếc nhẫn và nói: - Bây giờ tôi cho một người chèo thuyền ra khơi, thả chiếc nhẫn này xuống nước, ngài cứ theo hướng đó tìm hộ đưa về đây cho mọi người trông thấy. Anh chàng chẳng nói chẳng rằng cởi áo nhảy ngay xuống biển và chỉ giập bã trầu là chàng đã nổi lên khỏi mặt nước với một vẻ đắc thắng, giơ chiếc nhẫn cho mọi người xem. Để thử người thứ ba, họ lại đem nhau ra chợ. Chỉ vào một người ăn mày đang sắp sửa nhắm mắt tắt hơi, ông già bảo chàng hãy cố chữa cho người đó sống lại. Người ta thấy anh chàng cúi xuống bắt mạch rồi bỏ đi. Đến một bụi cây, anh rẽ vào kiếm các thứ lá đem về sắc lên, đổ vào miệng người ăn mày. Không mấy chốc, người ăn mày đã ngồi dậy đòi ăn, y như sau một giấc ngủ dài mê mệt vừa tỉnh. Thấy cả ba người đều thiện nghệ, ông già họ Lê bối rối không biết nên gả con gái cho ai. Ông mới bảo họ: - Cả ba vị quả có chân tài, con gái tôi mà được sánh duyên thật là một điều may mắn. Nhưng ngặt vì "thuyền quyên có một mà anh hùng lại ba", biết làm thế nào bây giờ? Thôi thì chúng ta ra miếu thành hoàng làm lễ, gieo quẻ để hỏi ý. Nếu quẻ chỉ nhằm người nào thì xin để cho "tiện nữ" về với người đó. Ba người bằng lòng, cùng ra miếu thành hoàng. Nhưng trong lúc làm lễ, bỗng có người nhà hốt hoảng chạy tới báo tin cô gái đang cuốc cỏ ở ruộng bỗng bị chim đại bàng cắp tha đi mất. Nghe nói thế, tất cả mọi người đều bỏ cuộc lễ chạy ù ra đồng thì đã thấy đại bàng đang bay thẳng ra biển. Anh chàng bắn giỏi vội lắp tên vào cung, bắn luôn một phát. Không đợi đến phát thứ hai, đại bàng đã bị trúng tên gãy cánh lặn xuống nước, mang theo cả cô gái xuống luôn. Thấy thế, chàng giỏi lặn lập tức nhảy ngay xuống cứu. Chàng lặn một mạch đến chỗ chim rơi và cuối cùng đưa được cô gái lên bờ. Nhưng bây giờ cô gái chỉ là một cái xác không hồn, bụng trương phềnh những nước. Đến lượt nhà danh y giở tài của mình, tìm thuốc chữa cho cô gái. Chỉ một chốc, nàng đã nôn ra bao nhiêu là nước và hồi tỉnh lại. Bấy giờ ba chàng cầu hôn tranh nhau kể công lao của họ vơi cha con ông già họ Lê. Người thứ nhất nói: - Nếu không có tôi bắn con quái vật thì chưa chắc đã tìm thấy dấu vết của nàng. Vậy nên gả nàng cho tôi. Người thứ hai cãi lại: - Hãy khoan đã, nếu không có tôi vớt nàng lên thì dù có bắn giỏi thế nào đi nữa cũng thật là vô ích. Người thứ ba cũng tiếp luôn: - Nhưng nếu không có công tôi cải tử hoàn sinh thì dù các anh có cứu được cũng chỉ cứu một cái xác thôi. Vậy tôi xứng đáng được kết duyên với nàng mới phải. Cả ba người không ai chịu ai. Ông già họ Lê và những người được chứng kiến đều lấy làm bối rối, không biết nên trả lời thế nào. Cuối cùng họ dắt nhau lên quan để nhờ phân xử. Sau bao nhiêu ngày suy nghĩ, quan cho đòi ba chàng cùng với hai cha con ông già tới công đường. Trước mặt họ, quan phán bảo: - Trong việc cứu cô gái này, cả ba người đều có công lao ngang nhau, nếu thiếu một người cũng khó mà thành. Nhưng anh thầy thuốc, anh không thể kể công như thế được. Không phải cứ cứu chữa lành cho người ra là đòi lấy người ta làm vợ. Đối với anh, người được cứu sống phải coi như ân nhân chứ không bắt buộc phải coi như chồng. Còn anh thợ  bắn, nếu anh biết rằng không có một người nào sẽ lặn ra cứu cô gái thì việc làm của anh chỉ có tính chất báo thù chứ không thể gọi là cứu vớt. Tất nhiên, anh bắn trúng chim chứ không bắn trúng người là có dụng ý tốt. Nhưng giết chết chim mà không nghĩ rằng người cũng rơi xuống nước thì dụng ý đó của anh hãy còn thiếu sót. Vậy đối với anh, cô gái này cũng chỉ coi như một vị ân nhân. Còn anh giỏi lặn, anh là một trong những người cứu cô gái, mà công việc cứu vớt lại bắt buộc anh phải ôm cô gái trong tay suốt buổi. Sách xưa có nói rằng trừ vợ chồng ra, thì "nam nữ thụ thụ bất thân". Bây giờ anh đã lỡ gần gũi cô gái đó thì hai người phải được kết duyên với nhau mới là hợp lẽ. Tuy nhiên, đối với các ân nhân, hai vợ chồng phải nhận họ làm anh em kết nghĩa. Nghe quan phân xử có tình có lý, mọi người đều vui vẻ tuân lời. Ba chàng trai kết nghĩa trở thành anh em thân mật hơn ruột thịt. Còn chàng lặn giỏi kết duyên cùng cô gái nọ. Lễ cưới cử hành rất linh đình, có cả hai chàng kia cùng dự.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-chang-thien-nghe" }
Đứa con trời đánh hay là truyện Tiếc gà chôn mẹ
Xưa có một người đàn ông tính rất vũ phu. Đối với vợ con, hơi động một tý là hắn đánh đập không tiếc tay. Hắn ham chơi gà chọi, ham đến nỗi trên đời ngoài gà ra, hắn cho không còn thú gì tiêu khiển hơn thế được. Lần đó hắn mua được một con gà thật tốt. Con gà ấy có nước đá rất hay, đã từng đoạt được nhiều giải. Hắn quý gà vô cùng, chăm sóc từng ly từng tý một. Một hôm hắn đi chơi xa, dặn vợ ở nhà trông nom con gà cho mình. Hắn dọa: - Mạng của nó tức là của mày đó! Ngày hôm đó gà mấy lần chạy ra ăn đỗ phơi ở sân. Người vợ ngồi chặt củi gần đấy đuổi mãi không được. Một lần, sẵn con dao chặt củi, chị cầm ném đuổi gà. Không ngờ dao trúng vào cổ, con gà giãy lên đành đạch, một lát thì chết. Thấy con gà cưng của chồng chẳng may vì mình mà chết, người vợ xanh cả mặt. Nghĩ đến những trận đòn của chồng, nàng gạt nước mắt khóc. Nàng bảo mẹ chồng: - Con không may đánh chết gà. Chồng con về chắc sẽ không để yên cho nào. Nhưng con đã có mang được bốn tháng nay, biết làm sao bây giờ? Bà cụ đáp: - Con đừng lo, để mẹ nhận là mẹ ném cho. Chả nhẽ nó lại ăn thịt mẹ nó hay sao? Người chồng trở về, vừa bước chân vào nhà đã hỏi vợ: - Con gà đâu? Người vợ run rẩy chưa kịp đáp thì người mẹ đã bảo: - Tao nhỡ tay trót ném chết nó. Rồi ta sẽ đền tiền cho mày mua con khác. Hắn ta nổi giận đùng đùng, hất hàm hỏi vợ: - Mày thổi cơm mau mau cho bà ấy ăn no đi! Cả nhà tưởng hắn dọa dẫm bà cụ. Nhưng cơm nước xong hắn cầm thuổng đi trước, bảo vợ lấy dây trói tay mẹ lại, dắt đi sau. Ra đến cánh đồng, hắn hì hục đào một cái huyệt, quyết định chôn người đã làm chết con gà quý của mình. Nhưng ở trên thiên đình, Ngọc Hoàng đã thấy hết được tội ác của thằng con bất hiếu, liền sai Thần Sét xuống trị tội ngay. Vì thế, huyệt vừa đào xong bỗng đâu trời nổi một cơn gió lớn, giữa đồng có một tiếng nổ rất to. Thần Sét đã nhảy xuống từ khi nào, đánh hắn ngã xuống một bên huyệt và thích mấy chữ vào mặt. Thiên hạ nghe tin đồn đổ xô đến xem rất đông. Khi quan về khám, sai lấy dấm bôi vào mặt, thấy nổi lên tám chữ "Quý gà chôn mẹ, tội ác không tha". Ngày nay ở vùng Bắc-ninh có còn cái bia ghi câu chuyện trên. Câu rủa Con trời đánh cũng là do truyện ấy mà có.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/dua-con-troi-danh-hay-la-truyen-tiec-ga-chon-me" }
Sự tích Thánh làng Chèm
Ngày xưa, ở làng Chèm có một người họ Lý khỏe mạnh lạ thường. Đặc biệt thân thể của anh ta quá khổ, đo được hai trượng sáu thước bề cao. Vì thế đi đâu ai cũng kinh sợ người ta gọi là Ông Trọng. Bấy giờ khúc sông Cái ở gần làng Chèm có một con giải rất lớn không biết đến đấy tự bao giờ. Con vật thỉnh thoảng bắt một người và súc vật tắm ở bến. Một hôm người mẹ Ông Trọng đi múc nước bị giải tha đi mất. Chàng vô cùng đau đớn, quyết tâm diệt trừ cơn ác vật. Chàng đắp đê chắn ngang khúc sông đó lại rồi cày cục tát cạn hết cả nước. Khi đáy sông và vực đã khô kiệt chàng xuống nắm cổ con giải lôi lên. Tự tay Ông Trọng phanh thây con giải làm lễ tế mẹ. Chàng khóc một bữa rất thảm thiết, rồi sau đó cũng một mình chàng ăn hết cả thịt con giải. Hồi đó nhà vua cần dùng nhiều phu phen để xây dựng các công trình và cung điện. Lý Ông Trọng ở trong số những người bị bắt đi phu. Số phận những người bị bắt đi phu thật là trăm tình khổ sở. Chàng cùng những dân phu khác bị bọn lính tráng quất roi, đập như trâu ngựa. Một ngày nọ, không thể ngăn nổi nhưng uất ức trong lòng, chàng bật lên thành tiếng: – Tài trai như ta phải chịu nhục như thế này ư! Rồi chàng bỏ trốn đi rất xa, vừa học chữ vừa làm việc nuôi thân. Nhưng cũng chẳng được bao lâu. Trong một cuộc ẩu đả, chàng đã phạm tội giết người. Người ta giải chàng về kinh cho nhà vua phán tội. Vua thấy thân thể chàng như hộ pháp, thì không nỡ xử tử, bèn ra lệnh tha chết cho chàng và cho làm thị vệ. Dần dần yêu quí sức khỏe cũng như tính cách cương trực của chàng, Vua cho hầu bên mình làm ngự lâm thị vệ, nhiều khi để chàng thân chinh dẹp loạn gần xa. Bên cạnh nhà vua, chàng lập nhiều chiến công và giai thoại về chàng dần vang khắp xa gần trong nước... Hồi đó nhà vua phải thần phục hoàng đế nước Tần. Tiếng tăm về sức vóc của Lý Ông Trọng không ngờ lan truyền sang đến phương Bắc, cho nên ít lâu sau đó hoàng đế nước Tần cho sứ sang đòi nộp Lý Ông Trọng làm cống vật. Nhà vua không có cách gì từ chối, bất đắc dĩ phải để cho chàng về tay kẻ khác. Được Lý Ông Trọng, vua Tần mừng lắm: phong làm Tư lệ hiệu úy sai đi dẹp giặc. Cuối cùng vua cho chàng làm trấn thủ xứ Lâm-Thao. Từ lâu người Hung-nô vẫn xâm phạm vào bờ cõi nước Tần. Quan quân tiến đánh thì họ rút lui, quan quân rút lui thì họ tiến đánh, luôn năm canh không bao giờ lắng. Họ làm cho quân lính nước Tần rất cực khổ, nhưng không tài nào dẹp được Nhưng khi người Hung-nô vừa thấy mặt Lý Ông Trọng thì cho là một vị thần linh giáng hạ - bởi vóc dáng hộ pháp và sự dùng mãnh kinh khiếp của chàng. Họ khiếp sợ đến nỗi hễ thấy bóng dáng của chàng ở đâu là ở đấy không đánh tự nhiên vỡ. Vì thế, sau mấy năm liền. Ở một dải biên thùy, người Hung-nô không dám quấy nhiễu. Vua Tần lại càng kính trọng chàng, phong tước và gả con gái cho. Rồi đó, Lý Ông Trọng xin phép hoàng đế nước Tần cho trở về quê hương. Chàng rất sung sướng khi gặp lại bà con làng nước. Nhưng ít lâu sau, người Hung-nô thấy vắng mặt Ông Trọng lại rủ nhau vào cướp bóc vùng biên giới. Hoàng đế nước Tần lấy làm lo lắng, lập tức sai sứ sang đòi chàng trở lại trấn thủ Lâm-thao. Nhưng lần này chàng không muốn đi nữa. Chàng thà sống khổ cực nhưng được ở quê nhà còn hơn là làm quan cho nước Tần. Bà con làng nước có người khuyến khích chàng hãy ra đi cho trọn công danh, nhưng Lý Ông Trọng cương quyết không đi. Vua Tần tuyên triệu không được toan cất quân sang hỏi tội. Thấy thế, nhà vua hoảng sợ đành phải cho sứ sang nói dối là chàng không may đã bị bệnh tả mà chết. Vua Tần nghe nói không tin, phái một viên cận thần sang khám. Người ta dùng nhiều cách để đánh lừa sứ giả phương Bắc. Lúc đào mộ và nạy ván thiên lên, sứ giả cũng không ngờ rằng trong những tầng vải liệm chỉ là một cái xác bằng gỗ. Nhưng nghe sứ giả về tâu trình, vua Tần vẫn không tin, lại sai sứ sang đòi phải đưa hài cốt của ông Trọng sang làm chứng. Thực là khó xử. Không đi cũng dở mà đi cũng dở, đằng nào cũng khó thoát tội “khi quân”. Túng thế chàng phải tự đâm cổ hy sinh để yên việc nước. Hoàng đế nước Tần thấy hài cốt Lý ông Trọng mới tin là thực. Nhưng còn việc đánh dẹp Hung nô nếu không có Ông Trọng thì thật là rầy rà. Cuối cùng vua Tần cho gọi tất cả thợ đúc lại rồi mở kho đồng ra, sai đúc một cái tượng của Ông Trọng. Tượng tượng rỗng, có máy móc điều khiển bàn tay chân. Tượng đúc xong, vua sai đặt ở trước cửa Tư mã tại Hàm-dương. Rồi vua sai người chui vào bụng tượng vặn máy cho tay chân cử động y như người thật. Người Hung nô nghe sứ giả đi về kể chuyện, tưởng đó là ông Trọng đang sống, từ đó lại thần phục như trước. Người ta còn nói từ lúc Ông Trọng bắt giải tế mẹ, một khúc sông từ làng Chèm về Đại-la, nòi giống giải không bao giờ dám đến đấy trú ngụ nữa...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-thanh-lang-chem" }
Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non
Ngày xưa ở Trung-quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung-quốc nghe tiếng liền triệu Biền vào cung ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo ông có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch. Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói: - Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần tự tay rút trong chùm chìa khóa kho tàng mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy. Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên những vốn trọng tài Biền, tại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút, Biền mang đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lân thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho sắp vợi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông vân còn nguyên vẹn. Biền mừng quá reo lên: - Ta tìm được ngòi bút thần rồi! Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con ấy đều hoạt động không khác gì những con vật có thực. Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều đập cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa vút lên trên không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu ông tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà-khúc tỉnh Quảng-ngãi, một huyệt đất phát đế vương. Huyệt đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại đã già mất rồi; nếu được làm vua cũng không còn hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội phần trọng đãi, mà dòng dõi con gái mình cũng hưởng phúc lâu dài. Những muốn thực hiện công việc "đại sự" này cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, Biền trở về Trung-quốc bảo người con rể đào lấy hài cốt cha y đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người học trò mà thôi. Nhưng người học trò mà Biền tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam. * Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ ở một bên mép. Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống lúa, mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt Biền sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quan gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung-quốc. Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên con gái hắn ở nước đẻ luôn một lúc ba né trai, mặt mũi dị kỳ. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng quắc. Cà ba nhảy tót lên giường thờ ngồi. đòi đem quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bào vợ: - "Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế". Thế rồi y chém tất cả. Trong lúc bối rối, người nhà của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những nén hương còn lại. Bỗng dưng mặt đât chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc một lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia tề dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên sức còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch. Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Sau khi căn vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể. Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn thì đạp đổ", nghĩ thế, hắn bèn cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả những long mạch của nước này. Ngày chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà-khúc đỏ như máu là bởi máu tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt. Đến Nghệ-an, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu-rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Từ đó trở đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối gì còn mọc được. Ở Thanh-hóa, Cao Biền cũng thấy có huyệt đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Nam đều phát tích ở Thanh-hóa. Khi diều bay qua làng Thiên-mỗ (bây giờ là làng Đại-mỗ, tỉnh Hà-đông) Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ-giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đoạn thuận tay ném luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không một ai dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn; một đầu buộc vào khúc gỗ còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên ở những xóm làng bên cạnh, đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giãy dụa làm hại đến dân sự. Điều đặc biệt là từ bấy đến nay nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới đáy. Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú rất tinh tường đem dâng lên vua Đường. Đại ý nói tất cả những mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều đã trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà-nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại-la để chặn long mạch. Lễ trấn áp này Biền làm rất công phu và linh đình. Trên hòn núi ở xa xa về phía Bắc thành Đại-la, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại-la, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám ván quân, mỗi tên quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cây tháp, đi từ Đại-la tiến dần lên núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng "Thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại rùng rùng kéo về Đại-la. Cũng vì có những việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát-vạn. Hoàng đế Trung quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị dân chúng nước Nam oán ghét. Họ lập tâm chờ dịp giết hắn cho bõ hờn. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh-bình. Ở đây người ta đã chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người cùng nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Biền bị trọng thương, sau đó phải đưa về Trung-quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh-diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh-bình. Ngày nay chúng ta có câu " Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" là ý nói nóng nẩy vội vàng sẽ thiếu chu đáo, và thế nào cũng thất bại...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lay-bay-nhu-cao-bien-day-non" }
Sự tích cây chổi
Ngày trước ở trên cung đình của nhà trời có người đàn bà rất khéo tay, bà nấu ăn rất ngon. Những thứ bánh trái mà bà chế ra đều là tuyệt phẩm cả, chỉ cần nếm qua những món ăn ấy là lại không cách nào quên được hương vị của nó. Vì thế bà được Ngọc Hoàng thượng đế giao cho trách nhiệm trông nom toàn bộ chuyện nấu nướng ở thiên trù. Tuy nhiên thì bà lại có tật ăn vụng, cũng rất tham lam nữa. Lệ của nhà trời đã quy định rất rõ ràng, người hầu kẻ hạ có thức ăn riêng, không bao giờ được phép đụng chạm tí gì tới ngự thiện, kể cả đó là đồ mà Ngọc Hoàng bỏ thừa. Nhưng mà những luật lệ ấy cũng không thể nào mà ngăn cản được những người thèm khát và đã nổi lòng tham. Vì thế người đàn bà kia vẫn luôn tìm mọi cách làm kho thức ăn nhà trời dần hao hụt. Bà ta tuy tuổi cũng đã quá xuân rồi nhưng lại rất yêu lão chăn ngựa của thiên đình. Mà đời sống thường ngày của đám người chăn ngựa ở cõi trời chẳng khác chi dưới cõi đất cả, đều rất cực khổ và khó khăn. Mà người đàn ông ấy lại rất thích rượu, kể từ khi ông ta gặp được người đàn bà kia thì lại thêm thói thèm đồ ăn ngon. Người đàn bà say mê lão chăn ngựa tưởng chừng như chẳng còn gì hơn cả. Mỗi khi mà thấy ông ta thèm đồ ăn hay đồ uống nhà trời thì bà ta chẳng ngần ngại điều gì. Đã không biết bao nhiêu lần bà đánh cắp thịt rượu ở thiên trù để giấu mang cho ông ta ăn. Cũng có không ít lần bà đem ông ta tới kho rượu nhà trời để mặc cho ông uống say bí tỉ. Vào một ngày kia, hôm ấy Ngọc Hoàng mở tiệc lớn để chiêu đãi quần thần trên thiên đình. Bà cùng với các bạn cùng nấu bếp với mình phải làm việc tất bật. Bởi vì chỉ chập tối là tất cả món ăn đều phải được chuẩn bị đầy đủ rồi. Để cho khi ánh nguyệt đêm rằm chiếu sáng thì mọi người có thể bắt đầu nhập tiệc. Tuy nhiên, vào giữa lúc mà cỗ đang được dọn lên mâm, ở đằng xa kia bà lại nghe được tiếng của lão chăn ngựa đang hát. Biết là ông đến tìm mình nên bà lại lật đật chạy ra đón, sau đó bà đưa ông giấu vào trong một góc chạn. Bà ta đem đến mấy chén rượu cho ông ta, đó là thứ rượu ngon nhất thiên tào, sau đó lại phải đi ra để làm cho xong mẻ bánh hạnh nhân đang làm dở. Bởi vì lão chăn ngựa vừa cho đàn ngựa đến bến sông tắm về. Khi bưng bát cơm hẩm của mình thì ông ta lại sực nhớ tới những thứ rượu thịt giờ đang ê chề trong thiên trù, vì thế nên mới vội vã lần mò đến. Ở trong góc chạn tối tăm, ông uống ừng ực liền mấy chén rượu và lấy làm khoan khoái lắm. Những chén rượu này quả là tuyệt hảo, hơi men thấm vào khiến ông ta choáng váng. Đột nhiên ông ta lại thèm thứ gì để mà đưa cay. Mà trên giá mâm để ngay gần đó, những thứ mỹ vị cứ đưa hương thơm phức tới chỗ ông. Đang cơn đói, lại trong bóng tối, ông ta liền lật lồng bàn lên rồi bốc lấy bốc để, chẳng kiêng dè gì nữa. Đến khi lính hầu đem những mâm ngự thiện ấy trình lên bàn tiệc thì món nào đều như có người đã nếm qua từ trước vậy. Ngọc Hoàng trông thấy thì nổi cơn thịnh nộ, và tiếng quát mắng của Người khiến cho tất cả đều hết sức sợ hãi. Sự giận dữ của Ngọc Hoàng đã khiến cho bữa tiệc đang vui vẻ cũng phải ảm đạm. Không còn cách nào khác, người đàn bà nấu bếp đành phải cúi đầu mà nhận tội. Vì đây là tội nặng nhất trên thiên đình nên cả hai người bị Ngọc Hoàng thượng đế đày xuống nơi trần gian làm những chiếc chổi quét nhà, cả năm phải làm việc không nghỉ tay, còn phải tìm thức ăn ở trong đống rác rưởi vô cùng dơ bẩn ở nơi trần gian kia. Một thời gian rất lâu sau đó, vì thấy phạm nhân kêu than rằng suốt năm suốt tháng đều phải làm khổ sai không ngơi không nghỉ. Ngọc Hoàng thượng đế vì thương tình nên cho phép bọn họ được nghỉ ngơi ba ngày trong một năm. Mà ba ngày ấy chính là ba ngày diễn ra Tết Nguyên đán, bởi vậy nên con người mới có tục lệ là kiêng quét nhà quét cửa trong ngày Tết. Hơn nữa trong dân gian còn có câu đố như sau: “Trong nhà có bà hay la liếm”, chính là mô tả về thần tình và động tác khi dùng chổi quét nhà, tuy nhiên thì trong đó cũng có ngụ ý nhắc lại sự tích về cái chổi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-choi" }
Cái kiến mày kiện củ khoai
Ngày xưa, có một anh chàng sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Nhà hắn có ao thả cá, có trâu bò, ruộng vườn khá nhiều. Ngày ấy ở gần làng hắn có một cô gái nết na, nhan sắc xinh đẹp, chỉ phải cái tội nghèo. Hàng ngày cô gái phải làm thuê làm mướn kiếm ăn. Anh chàng nhà giàu kia từng ngây ngất vì nhan sắc của cô. Mặc dầu không môn đăng hộ đối, nhưng hắn ao ước được cùng nàng kết làm bạn trăm năm. Sau đó nhờ có một người đàn bà làm mối, hắn được gặp nàng nhiều lần và chỉ non thề bể quyết lấy nàng làm vợ. Nghe hắn nói thế, cô gái vô cùng sung sướng và hiến thân cho hắn không tiếc thương gì nữa. Nhưng người đàn bà mối lái vốn là người chỉ biết có đồng tiền. Được tiền của anh nhà giàu cho, mụ vẫn chưa thỏa mãn. Đối với cô gái nhà nghèo, mụ không "xơ múi" gì. Bấy giờ ở gần vùng đó có một cô gái nhà giàu ế chồng. Mụ bèn tìm tới tỷ tê với cô nọ bảo nếu cho mình nhiều tiền, mình sẽ đánh tiếng cho anh chàng nhà giàu kia. Cô gái nọ nghe nói mừng lắm, đút tiền cho mối đề mụ ta liệu bề tác thành cho mình. Từ đó mụ mối luôn luôn buông lời gièm pha cô gái nhà nghèo: - Con này - mụ nói - thế mà không được đoan chính. Đã nhiều lần tôi bắt gặp nó tằng tịu với Đồ Vân. Đồ Vân học giỏi nay mai sẽ đỗ đạt... Thế rồi mụ ta nhen nhóm thêm lòng ghen tuông và tức giận của anh chàng, đồng thời nói tốt cho cô con gái mà mụ bòn lần hồi khi năm quan, khi ba quan không biết mỏi. Và mưu kế của mụ có hiệu quả; anh chàng kia từ ghen tức đến chán ghét người tình cũ. Cuối cùng anh chàng cho người đưa trầu cau dạm hỏi cô gái nhà giàu kia làm vợ. Ngày cưới hai bên, cô gái nhà nghèo nọ bị tình phụ, lòng đau như cắt. Trong một phút tủi phận hờn duyên, nàng nhảy xuống sông tự tử. Cái chết của nàng đã làm cho cặp vợ chồng mới trở nên hối hận và lo sợ. Nhất là mụ mối thì như sét đánh ngang tai. * Khi tất cả mấy người đó lần lượt chết xuống âm phủ, Diêm vương đã đọc hồ sơ, hiểu rõ nỗi oan uổng cũng như tội trạng của từng người và bắt họ phải trở lại dương thế để đền "nợ" hay báo "oán" của chính mình một cách xứng đáng. Mụ mối được thác sinh vào một nhà phú ông, anh chàng phụ tình lại thác sinh làm một người học trò nhưng không đất cắm dùi. Còn người bạc mệnh thì được ở lại cõi âm để theo dõi chúng mà báo thù. Cái Kiến, cô con gái phú ông rất đẹp và thông minh. Nhưng cha của nàng thì tính khí biển lận. Ông ta chỉ biết có tiền tài và danh vọng, còn ngoài ra ông chả coi ai ra gì. Chàng thư sinh rất khôi ngô, học giỏi, văn hay, nhưng nghèo rớt mồng tơi. Chàng đã từng vác lều chiếu đi thi. Văn tài của chàng nổi tiếng khắp kinh kỳ, thế mà cứ hễ vào trường nhất hay giỏi lắm vào đến trường nhì là bị loại ra ngay. Không làm cho đau bụng thì cũng bắt phạm "trường quy", oan hồn của người bạc mệnh quyết không có hắn đỗ. Mỗi lần không đỗ là một lần sự buồn bực kèm thêm với sự khốn khó dằn vặt anh chàng. Thế nhưng chàng vẫn lọt vào mắt xanh của cô Kiến. Cô gái phú ông vẫn tin tưởng rằng người học trò đó sẽ làm nên. Nàng ao ước sẽ được sánh duyên với chàng mới phỉ dạ. Hai người đã gặp nhau và thề bồi với nhau quyết giữ một lòng son sắt. Khi nghĩ đến cha mình, cô gái phú ông rất buồn vì biết ông khó tính: - Không đời nào ông ấy lại gả con gái cho một người nghèo xơ nghèo xác. Nghĩ thế, nàng lập mưu ăn trộm tiền bạc của cha, mua vàng đúc thành một hình củ khoai. Không gặp nhau được, nàng nhắn người yêu giả làm người ăn xin đến nhà mình xin khoai, nàng sẽ tận tay trao cho món ấy để dùng làm sính lễ. Anh chàng y hẹn đã cải trang, mang bị gậy đến nhà phú ông xin ăn. Cô con gái mang khoai ra cho, trong đó có giấu củ khoai bằng vàng. Rồi đó, người mối của anh chàng xin chạm ngõ cái Kiến. Phú ông nghe nói sính lễ là một củ khoai bằng vàng mười thì ngạc nhiên. Nhưng rồi ông cũng nhận lời. Đến ngày cưới, khi họ nhà trai bưng sính lễ đến, họ nhà gái đổ xô ra xem để biết chàng rể của phú ông giàu có ngầm như thế nào. Củ khoai vàng được gói ba bốn tầng vải hồng điều. Không ngờ khi mở ra xem thì chả thấy vàng đâu cả mà chỉ là một củ khoai lang luộc thực sự. Oan hồn cô gái cố ý làm ra như vậy cho bõ ghét. Cả hai họ bật cười. Phú ông tức giận chửi mắng om sòm. Rồi để chế nhạo, ông cắt khoai biếu mỗi người một miếng. Chàng học trò không ngờ có sự lạ lùng ấy, vừa buồn rầu vừa xấu hổ đi luôn một mạch không trở về nhà nữa. Còn cái Kiến tưởng người yêu là một tay đại bợm: đã lấy mất vàng lại bày ra trò diễu cợt đó nên tức tối thành bệnh mà chết. Lúc xuống âm phủ lần này, nàng kiện với Diêm vương về việc củ khoai vàng, nhưng Diêm vương đã giở sổ vạch cho hắn biết những tội kiếp trước. Vì thế mới có câu: Cái Kiến mày kiện củ khoai Và sau này những anh con trai nhà nghèo thường thêm vào: Mày chê tao đói lấy ai cho giàu. Nhà tao chín đụn mười trâu, Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân. Để mỉa mai những cô gái bắc bậc kiêu kỳ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cai-kien-may-kien-cu-khoai" }
Con hổ có nghĩa
Ngày xửa ngày xư, ở huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh vùng Đông Bắc nước ta có một người đàn bà họ Trần, làm nghề đỡ đẻ và nổi tiếng mát tay. Bà sống trong ngôi nhà nhỏ ven đường, cách rừng vài dặm. Một đêm trăng sáng, bà đã đi nghỉ từ lâu, chợt có tiếng gõ cửa dồn dập thôi thúc. Bà vội ra mở và nhìn quanh nhưng chẳng thấy ai. Vừa định quay vào thì bất thần có một con hổ lao tới cõng bà đi. Bà sợ quá ngất đi... Lúc tỉnh dậy, bà thấy mình đã ở trong rừng sâu, xung quanh cây cối um tùm, rậm rạp. Trước mặt bà, một con hổ cái đang lăn lộn. Móng vuốt của nó cào tung đất. Bà nghĩ bụng chắc là hổ muốn ăn thịt mình nên sợ hãi đứng im không dám nhúc nhích. Lúc sau, hổ đực cạm tay bà rồi đưa mắt nhìn hổ cái, tỏ ý xót thương và cần giúp đỡ. Bà Trần nhìn kĩ bụng hổ cái thì nhận ra rằng nó đang chuyển dạ. Sẵn có thuốc mang theo bên mình, bà hòa với nước suối cho hổ cái uống rồi xoa bóp bụng cho nó. Lát sau, hổ cái sinh được một chủ hổ con thật xinh xắn. Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con. Còn hổ cái mệt mỏi nằm phủ phục bên cạnh. Hổ đực đến bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc lớn rồi đưa cho bà đỡ. Biết hổ tạ ơn, bà Trần vui lòng nhận. Hổ đực lưu luyến tiễn bà ra tới bìa rừng. Bà đi đã khá xa, hổ đực còn gầm lên một tiếng lớn rồi mới trở về với vợ con. Năm ấy, trời làm mất mùa, nhiều người chết đói. Nhờ cục bạc của hổ tặng, bà Trần sống qua được kì đói kém... *** Cũng vào dạo ấy, ở bên huyện Lạng Giang tỉnh Bắc Giang có bác tiều phu ngày ngày vào rừng kiếm củi đổi gạo nuôi thân. Một hôm, đang chặt củi trên sườn núi cao, bác chợt nhìn xuống thung lũng; thấy cỏ cây lay động không ngừng. Lấy làm lạ, bác vác búa xuống xem có chuyện gì đang xảy ra ở đấy. Từ chỗ nấp, bác tiều phu kinh hoàng khi chứng kiến cảnh một con hổ trán trắng đang vật vã nhảy lên, nhảy xuống, cúi đầu cào bới đất và thỉnh thoảng lại thò tay móc họng. Từ miệng nó, máu me, dãi nhớt trào ra trông phát sợ. Bác tiều nhìn kĩ thì thấy trong họng nó mắc một khúc xương khá lớn. Hổ càng móc, khúc xương càng vào sâu. Mở bình rượu đeo bên thắt lưng, bác tiều uống mấy hớp để lấy can đảm rồi trèo lên cây, kêu to: cổ họng ngươi đau phải không? Đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương ra cho! Hổ liền nằm phục xuống, há miệng nhìn bác cầu cứu. Bác tiều thò tay vào họng nó, lấy ra một khúc xương bò to như cánh tay. Hổ thoát nạn. Nó liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác nói với theo: Hổ ơi! Nhà ta ở thôn mỗ… Hổ kiếm được miếng gì ngon thì nhớ ta nhé! Mấy hôm sau, đang đêm, bác tiều nghe ngoài cửa có tiếng gầm dài và sắc. Sáng ra, bác thấy có một con nai chết nằm ở đó. Hổ trán trắng đã đem nai đến để tạ ơn cứu mạng. Ngày tháng qua đi; mười năm sau, bác tiều phu già rồi chết. Hàng xóm làm đám tang cho bác khá chu đáo. Lúc sắp hạ huyệt, bỗng nhiên có một con hổ trán trắng đến trước mộ nhảy nhót, dụi đầu vào quan tài, gầm lên mấy tiếng rồi bỏ đi. Mọi người sợ hãi chạy tán loạn. Từ đó về sau, năm nào cũng vậy, cứ đến ngày giỗ bác tiều phu là dân làng lại thấy trước cửa nhà bác có một con dê hay một con lợn do hổ tha đến. Ai cũng tấm tắc khen hổ tuy là loài vật mà biết trọng tình trọng nghĩa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-ho-co-nghia" }
Sự tích con mối
Một chàng trẻ tuổi nhà giàu, ao ước một người vợ đẹp như tiên. Cha mẹ hỏi cho đám nào hắn cũng không vừa ý. Hắn đáp: – “Con chỉ muốn lấy một người đẹp như tiên mà thôi “. Cho đến mấy năm sau cha mẹ lần lượt qua đời, hắn ta vẫn chưa có vợ. Cái khó tính của anh chàng truyền đến tai Ngọc hoàng. Thương hại hắn, Ngọc hoàng sai một nàng tiên xuống, bảo. – “Con hãy xuống với nó thử xem anh ta có biết người biết của không. Nếu anh ta không thấy được cái đẹp chính đáng thì hãy cho anh ta một bài học”. Thế là ngày ấy nhà hắn tự nhiên có một người con gái đến xin làm công việc của một người thị tỳ. Cô gái này mặt mũi tầm thường nhưng mọi việc đều thông thạo tính nết rất tốt. Nàng khéo tay đến nỗi mỗi bữa cơm không có tay nàng nấu nướng là hắn ta ăn không ngon. Gặp ngày giỗ, hắn than thở với nàng rằng không biết nhờ ai làm cỗ bàn bánh trái cho thật ngon để trước cúng cha mẹ , sau đãi các quan khách. Nàng hứa sẽ xin cố gắng làm công việc đó. Quả nhiên cả khách lẫn chủ đều ngạc nhiên vì họ được dự một bữa cỗ ngon và lạ chưa từng có. Họ xúm lại khen ngợi nàng. Người chủ trẻ tuổi bắt đầu để ý tới nàng nhưng khi nhìn thấy nhan sắc, hắn lại lảng ngay. Ít lâu sau đó, anh chàng sắm sửa thuyền bè để di tìm một người vợ đẹp theo ý muốn. Cô gái ở nhà hóa thành một người xinh đẹp tuyệt trần. Khi thuyền của chủ trở về, những người đầy tớ vội báo việc ấy cho chủ biết. Người chủ vào nhà rất vừa ý vì diện mạo có một không hai của người thị tỳ. Hắn sán lại ngồi gần nhưng nàng bước lùi ra xa. Hắn rối rít xin lỗi, nói là mình đui mù không biết có một vị “tuyệt thế giai nhân” bấy lâu ở trong nhà, và xin lấy nàng làm vợ. Nàng vẫn không đáp. Sau cùng hắn đánh bạo chạy lại ôm nàng. Hắn ôm hụt vì nàng đã bay lên trời và nói cho hắn biết mình là tiên, nay đã hết hạn ở trần gian phải về thượng giới. Hắn chỉ còn giật được có một chéo áo của nàng. Từ đó, hắn tiếc mãi và sau hóa thành con mối luôn luôn chắt lưỡi tiếc vì bao nhiêu ngày ở với tiên mà không biết hưởng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-moi" }
Chiếc áo tàng hình
Ngày xưa ở vùng Cao Bằng có một chàng trẻ tuổi, nay đây mai đó làm nghề chài lưới, tên là Triều. Gia sản của anh không có gì ngoài bộ đồ nghề. Nhưng tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều cá, anh thường đổi lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp. Vì vậy người nghèo khổ trong vùng, ai cũng mến anh. Ở Cao Bằng một thời gian, Triều lại dời sang đánh cá ở vùng Thái Nguyên. Ở đây, anh lại cứu giúp mọi người không tiếc sức. Một hôm, anh không được mẻ cá nào. Nhưng lúc về dọc đường, anh bỗng thấy một ông cụ đang nằm run rẩy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay chiếc áo đang mặc đắp vào người ông cụ. Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa sông, bỗng nghe trên núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách say sưa. Qua ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua. Hôm sau nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai anh. Lấy làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi, quyết tìm cho ra người gảy đàn. Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến bước. Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá. Ông cụ mải mê gảy đàn không biết có người tới gần. Triều nhận ra khuôn mặt cụ già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản đàn dứt hẳn, anh đến trước mặt hỏi: – Thưa cụ, cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây? Ông cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá trước mặt, bảo: – Ta ngồi đợi con đây! Con trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống đây nghỉ một tí. Triều đỡ chén nước ở tay ông cụ, đã nghe ông cụ hỏi: – Con có nhớ ta không? – Có – Triều đáp ngay – Cụ có phải là người nằm ở gốc cây đa đầu làng hôm nọ không? – Đúng – Ông cụ trả lời – Hôm nọ, con đành chịu mình trần để nhường áo cho ta. Tấm lòng này thật là ít có. Nay ta muốn đền cho con một chiếc áo khác. Nói xong, cụ cởi chiếc áo đang mặc quàng vào mình Triều rồi biến mất. Từ ngày được áo của Tiên cho, Triều mới biết đấy không phải là chiếc áo thường mà là một bảo vật, có phép làm cho người ta tàng hình. Mỗi lần mặc áo, không một ai nhận ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh đi chu du khắp nơi. Anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà bọn giàu có, đường hoàng đi vào tận buồng chúng, lấy gạo tiền cho những người nghèo. Anh kín đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những người vì quá cơ cực đang nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những quan tiền trước mặt. Có những tên quan đang nọc người ra đánh giữa công đường thì chính hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng ngoảnh lại thì vẫn không hề tìm thấy ai. Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn đại lan khắp cả một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng ai cũng tin rằng Trời Phật đã có con mắt. Cứ như thế Triều đi khắp nơi và giúp đỡ người cùng khổ. Một hôm, anh tìm đến đất kinh kỳ. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây cho thoả mắt. Hết vào nhà bọn quyền quý, anh lại vào cung cấm là nơi từ xưa không một người nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó nhan nhản khắp phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà Vua lấy của ra phân phát cho họ. Vì thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả. Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị Tiên thường cứu giúp những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu Tiên cũng có mặt, nhưng lại không “xuất đầu lộ diện” bao giờ. Về phía Triều, anh vẫn ngày ngày làm công việc cứu giúp dân nghèo, coi đây là phận sự của mình, mà không hề băn khoăn đến chuyện báo đáp. Anh đã làm cho bọn giàu sang xiết bao sợ hãi, lo lắng khi thấy tiền của chúng tự nhiên không cánh mà bay, mặc dầu trong nhà ngoài ngõ đều có người canh gác cẩn mật. Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý ỷ thế đánh người, anh vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ của hắn nghe tiếng động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào một chiếc gai tre ở bờ giậu làm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy có thể bị lộ nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó, hàng ngày anh lại vào kho nhà Vua tiếp tục phận sự của mình. Từ ngày thấy kho luôn bị hao hụt, nhà Vua hết sức lo lắng. Vua hạ lệnh cho bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí mật, nếu không sẽ trị tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng chỉ hoài công vô ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra dấu vết gì đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới rất nhạy để chụp vào những nơi mà chúng nghi ngờ. Hôm ấy, bọn quan coi kho bỗng thấy có một con bươm bướm trắng ngoài cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại những đĩnh bạc trắng xoá, rồi bướm lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống chỗ có bướm. Và thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình khiến anh bị lộ. Bắt được Triều, bọn quan coi kho mừng lắm, liền giải anh lên Vua. Vua sai bỏ ngục để chờ xét xử. Hồi ấy, có ông Vua một nước láng giềng từ lâu vẫn nuôi ngầm mưu mô đánh chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn binh mã của nước láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà Vua đã cho quân đội ra chống giữ, nhưng đánh trận nào thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch tiến như vũ bão. Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới một ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô nháo nhác. Nghe được tin này, Triều liền bảo quan coi ngục tâu Vua cho mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà Vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho anh, và gọi anh đến hỏi: – Nhà ngươi cần bao nhiêu binh mã? – Tâu bệ hạ – anh đáp, chỉ cần một mình tôi cũng có thể đuổi được giặc dữ. Chỉ xin bệ hạ cho tôi một thanh gươm. Vua liền cởi gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ quốc tướng quân, Vua còn ra lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh. Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ nghe tin anh được tha và phong tướng đi đánh giặc, đều tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng kéo nhau lên đường. Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng. Triều mặc ngay chiếc áo tàng hình vào người đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một lát sau, anh chém chết tên chỉ huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như rắn không đầu, bỏ chạy tán loạn. Những người đi theo Triều chỉ việc chia nhau đón khắp các nẻo tóm cổ đưa về. Đến những trại khác của giặc, Triều cũng làm như vậy. Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và bị bắt sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, cho là bên phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình đều bị chém đầu. Thấy quân sĩ ngã lòng, tên Vua láng giềng đành hạ lệnh rút lui. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy ca ngợi công lao của Triều. Lúc Triều kéo quân khải hoàn, Vua khen ngợi anh hết lời. Vua phong cho anh làm quan đại thần, cắt đất đai huyện cho anh ăn lộc, lại gả con gái cho anh làm vợ. Từ đấy người ta quen gọi anh là Quan Triều. Ngày nay ở Cao Bằng có đền thờ Quan Triều.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chiec-ao-tang-hinh" }
Hai anh em - Truyện cổ tích Việt Nam
Ngày xưa có hai anh em nhà kia, cha mẹ chết sớm hai anh em ở với nhau. Người anh thì chăm chỉ làm lụng còn người em thì chỉ chơi bời lêu lổng, suốt ngày chẳng mó tay vào việc gì. Một hôm người anh bảo em: - Em à cha mẹ chết đi cũng để cho mình một ít của cải nhưng chúng mình không chịu làm thì chẳng bao lâu nữa chúng mình cũng sẽ đói khổ thôi. Vì vậy ngày mai chúng mình phải đi mỗi người một nơi để kiếm việc làm ăn. Lúc nào đời sống khá giả chúng mình lại quay về gặp nhau e nhé! Người em vâng lời. Sáng hôm sau hai anh em chia tay nhau, mỗi người đi một ngả. Người anh vừa ra khỏi làng thì gặp một cánh đồng lúa đang chín rộ. Từng tốp thợ đang hối hả gặt, người anh bèn xuống đồng gặp giúp. Anh gặt rất nhanh, gặt đến đâu sạch đến đó, những người thợ gặt hài lòng. Gặt xong họ biếu anh mấy gồi lúa. Anh cảm ơn những người thợ gặt rồi đem lúa đi đổi lấy gạo làm lương ăn đường. Anh lại tiếp tục đi, đi một quãng anh gặp một ruộng bông. Những quả bông chín trắng xóa khắp cả cánh đồng. Nhiều người đang mải miết hái bông. Trời nắng gắt người nào người nấy mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, thấy thế anh bèn xuống hái giúp. Anh hái cũng rất nhanh không sót quả nào. Những người hái bông nhìn anh cười vui vẻ. Hái xong họ tặng anh một ít bông. Anh cảm ơn rồi đem bông đổi lấy vải may quần áo mặc rồi lại lên đường. Đi một quãng nữa, anh gặp một cụ già tóc trắng như cước, da đỏ như quả bồ quân. Thấy anh cụ già nói: - Ta có một cây bí ngô rất quý sắp bị chết khát. Ta muốn nhờ con cho nó uống nước để cứu sống nó. Người anh nhận lời rồi tìm đến ruộng bí ngô. Quả nhiên anh thấy một cây bí ngô héo rũ trên mặt ruộng. Cách đấy có một đôi thùng của ai để sẵn. Anh vội vàng cầm đôi thùng để đi gánh nước. Đường ra suối rất xa, lại gồ ghề khúc khủy. Nhưng anh vẫn chịu khó xách hết thùng này đến thùng khác để lấy nước tưới cho cây bí ngô. Ròng rã 3 tháng trời, cây bí ngô dần dần tươi trở lại, rồi ra hoa kết quả. Những quả bí ngô lớn rất nhanh, chỉ có mấy ngày mà quả đã to bằng chiếc thúng cái. Một hôm, anh đang xách nước tưới thì cụ già đến. Cụ nói với anh: - Con đã khó nhọc để tưới cho cây bí ngô của lão khỏi chết khát. Để trả ơn con lão tặng cho con quả bí ngô to nhất đấy! Người anh tạ ơn cụ già rồi cúi xuống hái bí. Lúc nhìn lên thì cụ già đã biến mất. Ngạc nhiên quá, anh lấy dao ra bổ quả bí ngô ra xem thử, thì thấy trong ruột bí ngô toàn vàng là vàng, những thỏi vàng lấp lánh rất đẹp. Biết là tiên đã thưởng công cho mình, người anh bèn thu nhặt số vàng rồi quay về. Còn người em, từ lúc ra đi cũng gặp một đồng lúa chín rộ. Những người thợ cũng nhờ người em gặt giúp. Nhưng người em đáp: - Gặt lúa phải cúi đau lưng lắm. Anh ta nói thế rồi bỏ đi. Những người thợ gặt nhìn theo anh ta mắng: - Rõ là đồ lười biếng. Đi qua một quãng, người em cũng gặp một cánh đồng bông. Những quả bông chín quá nổ tung rơi cả xuống mặt đất. Những người hái bông cũng nhờ người em hái giúp. Nhưng người em đáp: - Hái bông cũng đau tay chết. Tôi chịu thôi. Rồi anh ta bỏ đi. Đi được một quãng nữa gặp cụ già, cụ già cũng nhờ người em tưới cho cây bí ngô. Người em từ chối. Cụ già mắng: - Rõ đồ lười biếng. Anh ta chẳng chịu làm gì nên không ai cho lúa, không ai cho bông. Vì thế không có gạo ăn, không có vải mặc. Đói khát, rách rưới phải đến gặp cụ già xin một quả bí ngô cho ăn tạm. Cụ già cho người em một quả bí ngô xấu xí. Bổ ra trong ruột chỉ toàn đất là đất. Xấu hổ người em không dám quay về gặp anh nữa. Chờ mãi không thấy em về, người anh bèn đi tìm thì thấy người em nằm lả ra cạnh một ruộng bí ngô vì đói quá. Người anh đưa em về lấy cơm cho em ăn, lấy nước cho em uống, lấy áo cho em mặc. Được ăn uống người em dần dần tỉnh táo trở lại. Rồi kể cho anh nghe chuyện mình không chịu gặp lúa, không chịu hái bông, và không cho bí ngô uống nước. Nghe xong người anh bảo: - Tại e lười biếng không chịu làm việc nên suýt bị chết đói đấy! Nếu em chịu khó làm lụng thì em cũng sẽ sung sướng như mọi người thôi. Nghe anh nói người em thật sự hối hận. Từ đấy người em rất chăm chỉ lao động. Hai anh em sống rất sung sướng...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-anh-em-truyen-co-tich-viet-nam" }