title
stringlengths
4
119
content
stringlengths
90
172k
metadata
dict
Sự tích chim quốc
Ngày ấy có đôi bạn chí thân là Quắc và Nhân. Họ đều là con nhà học trò nghèo, lại đều mồ côi cha mẹ, Quắc được học nhiều hơn bạn: anh chàng làm thầy đồ dạy trẻ. Tuy bổng lộc chẳng có là bao nhưng Quắc vẫn thường giúp đỡ Nhân. Đối lại, có lần Quắc bị ốm nặng, giá không có bạn thuốc thang ngày đêm thì anh khó lòng sống nổi. Sau đó cũng vì sinh kế, đôi bạn phải chia tay mỗi người mỗi ngả. Trong khi Quắc sống cuộc đời dạy trẻ thì Nhân cũng đi lang thang đến các vùng xa lạ làm thuê làm mướn. Trải qua một thời kỳ lang bạt, cuối cùng anh chàng vào làm công cho một phú thương. Thấy chàng thật thà chăm chỉ, phú thương rất tin cậy. Chẳng bao lâu Nhân được phú thương gả con gái cho. Vợ Nhân có nhiều của riêng. Vì thế Nhân nghiễm nhiên trở nên một phú ông có cơ nghiệp kha khá ở trong vùng. Nhân giàu nhưng không quên tình bầu bạn. Nhân vẫn nhớ tới lời thề "sống chết sướng khổ có nhau" với Quắc. Nhân cất công đi tìm và sung sướng thấy Quắc vẫn còn sống. Tuy Quắc đang dở năm dạy, nhưng Nhân cũng thương lượng được với cha mẹ học trò cho con em chuyển sang một cụ đồ khác rồi đưa Quắc về nhà mình. Nhân dặn người nhà phải coi Quắc không khác gì mình, cơm nước hầu hạ không được bê trễ. Nhưng tính vợ Nhân không được như chồng. Xưa nay đối với những kẻ rách rưới, chị ta thường tỏ vẻ coi thường. Và, chị ta không cùng sống những ngày hàn vi với Nhân nên có thấy đâu tình nghĩa giữa Nhân và Quắc như thế nào. Nhưng thấy chồng trọng đãi khách nên lúc đầu chị không dám nói gì. Nhân luôn luôn bảo vợ: - "Đây là người thân nhất trong đời tôi. Nếu không có bạn thì tôi chưa chắc đã sống để gặp nàng". Vợ Nhân chỉ lẩm bẩm: - "Khéo! Bạn với bè! Chỉ có ngồi ăn hại". Dần dần vợ Nhân bực mình ra mặt. Chị ta khó chịu vì cái ông khách lạ tự dưng ở đâu đến chả giúp ích gì cho nhà mình, chỉ chễm chệ trên giường cao, cơm rượu mỗi ngày hai bữa. Vợ Nhân trước còn nói mát sau thì ngoa ngoắt ra mặt. Có hôm người đàn bà ấy đay nghiến cả chồng lẫn khách: - Chẳng phải bố già, không phải khách nợ, ở đâu lại rước về thờ phụng: ăn no lại nằm. Thôi liệu mà tống quái đi! Thấy thái độ vợ ngày càng quá quắt, chồng chỉ sợ mất lòng bạn. Một mặt Nhân thân hành chăm chút bạn chu đáo hơn cả lúc trước, mặt khác Nhân tỷ tê khuyên dỗ vợ. Nhưng vợ Nhân chứng nào vẫn giữ tật ấy. Về phần Quắc thì chàng hiểu tất cả. Đã hai lần Quắc cáo bạn xin về nhưng Nhân cố giữ lại. Thấy bạn chí tình, Quắc lại nấn ná ít lâu. Nhưng hôm đó Quắc quả quyết ra đi vì chàng vừa nghe được những câu nói xúc phạm nặng nề. Quắc nghĩ, nếu mình không đi sớm thì có ngày bị nhục với người đàn bà này. Mà nếu ra đi như mấy lần trước thì sẽ bị bạn chèo kéo lôi thôi. Một hôm, trời còn mờ sương, Quắc cất lẻn ra khỏi nhà. Để cho bạn khỏi mất công tìm kiếm, khi đi qua một khu rừng, chàng cởi khăn áo treo lên một cành cây bên đường. Đoạn Quắc lần mò đến xứ khác trở lại cuộc đời dạy trẻ. Thấy mất hút bạn, Nhân bổ đi tìm. Khi nghe tin có người bắt được khăn áo ở mé rừng phía Nam, chàng lật đật đến xem. Nhận rõ ấy là khăn áo của bạn, Nhân rất thương cảm: - "Ta nuôi bạn thành ra hại bạn! Chắc bạn ra bị cướp giết chết". Nhưng sau đó Nhân lại nghĩ khác: - "Bạn ta ra đi trong túi không có một đồng một chữ thì dầu có gặp cướp cũng không việc gì. Đây một là hùm beo ăn thịt, hai là bị lạc trong rừng sâu". Nhân bắt đầu vào rừng tìm Quắc. Không thấy có vết máu, chàng lại càng hy vọng. Băng hết chông gai, chui hết bụi rậm, Nhân luôn luôn cất tiếng gọi: "Anh Quắc ơi! Quắc! Quắc!". Nhân đi mãi, gọi mãi, quanh quẩn trong khu rừng mênh mông. Cho đến hơi thở cuối cùng con người chí tình ấy vẫn không quên gọi: - "Quắc!Quắc!". Rồi đó Nhân chết hóa thành chim quốc, cũng gọi là đỗ quên. Vợ Nhân đợi mãi không thấy chồng về, lấy làm hối hận. Một hôm chị ta bỏ nhà bỏ cửa đi tìm chồng. Cuối cùng cũng đến khu rừng phía Nam. Nghe tiếng "Quắc! Quắc!", chị ta mừng quá kêu to: - "Có phải anh đấy không anh Nhân!". Không có tiếng trả lời ngoài những tiếng "Quắc! Quắc!". Vợ Nhân cứ thế theo tiếng gọi tiến dần vào rừng sâu. Sau cùng không tìm được lối ra, chết bên cạnh một gốc cây [1] Chú giải [1]. Theo Trung Bắc chủ nhật (1943).
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-quoc" }
Dì phải thằng chết trôi, còn tôi phải đôi sấu sành
Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi kiết xác, chưa có vợ. Nhà anh ta lại ở bên cạnh nhà một phú ông có cô con gái đến tuổi lấy chồng. Anh ta cũng võ vẽ năm ba chữ, có ý ngấp nghé con gái phú ông, nhưng ngặt vì nhà phú ông với nhà hắn như trời với vực, đời nào phú ông lại chịu gả. - Lấy được cô ả mới gỡ được nạn nghèo, mà muốn lấy cô ả phi dùng mẹo không xong! Nghĩ thế, hắn mới quyết chí tìm cách để lấy cho được. Một hôm anh ta thấy có người bán hai con sấu bằng sành, một thứ đồ cổ không đáng mấy hột tiền. Hắn bỗng nghĩ ra một kế, bèn mua về chôn xuống đất, được ít lâu lại moi lên. Ít bữa sau, hắn sang nhà phú ông mượn cái cân. Phú ông thấy hắn vô cớ mượn cân, hỏi: - Mượn làm gì? Hắn đáp: - Cháu mượn về cân ít đồ vặt. Buổi chiều hắn mang cân sang trả, phú ông thấy cân có dính đất, trong bụng lấy làm ngờ vực. Sự ngờ vực của phú ông tăng lên khi thấy sau đó vài ngày hắn lại lọt tọt chạy sang mượn cân lần nữa. Lần này khi hắn mang trả cân, phú ông thấy cân của mình không những dính đất mà còn dính cả những cái gì như là gỉ đồng. Lần thứ ba cũng lại thế. Phú ông từ đó để ý rình mò anh hàng xóm của mình thì thấy đêm đêm hắn vác cuốc thuổng đi, sáng tinh sương lại mò về: - Chắc là hắn đào được của. Nghĩ thế, một hôm phú ông giả mượn cớ sang nhà dò xem thế nào. Một điều làm phú ông lấy làm lạ là xưa nay chưa từng thấy hắn chơi đồ cổ bao giờ cả, thế mà nay trên bàn thờ nhà hắn có bày hai con sấu sành còn dính đất chưa chùi sạch. Thấy phú ông hỏi, hắn giả bộ ấp úng và sau cho biết là mua ở chợ. Phú ông về bảo vợ: - Thằng này hẳn là đào được kho vàng hũ bạc chi đây. Hắn ranh khôn lắm. Nhưng bộ hắn không thể giấu được mắt ta. Từ đó phú ông có cảm tình với hắn. Từ cảm tình tiến lên thân tình. Thấy hắn cũng có vẻ nho nhã, phú ông có ý muốn gả con gái cho hắn, mới mượn mối đánh tiếng. Anh chàng nhận lời nhưng cho mối biết là mình nghèo quá không biết lấy gì dẫn cưới được. Phú ông cười, cho là hắn giấu của nhưng cũng cam đoan xin chu tất cả phí tổn cưới xin. Thế là anh chàng bỗng chốc ngẫu nhiên là chồng cô gái phú ông. Hôm về nhà chồng cô gái thấy chồng chỉ khư khư giữ độc có một chiếc hòm gỗ rất nặng, trong bụng đoán chắc là của ở đây rồi, nên không nói gì hết. Nhưng ngày một ngày hai, vợ thấy chồng không có vẻ gì là giàu có thì nảy mối ngờ vực. Nhân một hôm chồng đi vắng, nàng trộm chìa khóa mở ra xem thì chỉ thấy một hòm toàn là đá cuội, chẳng có đồng sứt nào hết. Biết là bị lừa, người vợ chỉ còn ngồi nhà mà khóc. Nhưng sau đó nàng bào chồng: - Kể ra anh cũng cao mưu thật. Nhưng bây giờ anh phải làm cách gì lấy được một cô gái nào thật giàu hơn tôi. Được như vậy tôi sẽ ăn ở với anh trọn đời, bằng không tôi nhất định không cho nằm cùng giường đâu. Nghe nói, hắn gật đầu rồi bỏ nhà ra đi. Anh chàng đến một tỉnh khác làm đầy tớ cho một nhà phú thương. Phú thương là một tay giàu có nứt đố đổ vách. Cả một dinh cơ, vườn tược rất đồ sộ ở bên bờ sông. Phú thương lại có ba cô con gái chưa chồng, cô nào cô ấy rất xinh đẹp. Anh chàng mới đến ở làm việc tất lực. Không bao lâu hắn được chủ rất tin cậy. Một hôm vào khoảng chập tối có một cái thây trôi qua bên nhà phú thương. Hắn bỗng nghĩ được một kế, bèn vớt trộm thây lên bờ giấu ở chỗ kín trong vườn. Đoạn hắn đi tìm một người quen bảo y giả xưng làm chú ruột mình đến thăm cháu. Người ấy đến, hắn lên nhà trên xin phép chủ cho chú mình ở chơi ít ngày. Phú thương nể hắn nên tiếp đãi chú hắn tử tế, sai dọn cơm nước ra mời. Đến nửa đêm hắn cho ông chú giả của mình cất lẻn ra về rồi lấy quần áo mặc vào xác chết, vực lên giường. Thế rồi hắn làm bộ tri hô lên. Hắn nói với chủ: - Không biết ông cho chú tôi ăn uống những gì mà bây giờ chú tôi nằm chết cứng không dậy được nữa. Nghe nói, phú thương thất kinh lại thấy hắn định làm to chuyện thì không còn hồn vía nào nữa. - Nếu hắn làm ra chuyện thì chuyến này gia tư điền sản của mình sẽ đội nón ra đi mà thôi. Bọn quan lại chỉ béo bụng nhờ những dịp này. Nghĩ vậy, phú thương đấu dịu, đưa hắn vào buồng thương lượng. Ông bảo hắn muốn gì được nấy miễn là hắn giấu gọn chuyện này cho là được. Bấy giờ anh chàng mới nói toạch nguyện vọng thầm kín của mình là chỉ muốn lấy một trong ba cô con gái làm vợ. Phú thương thấy mặt mũi anh chàng cũng không đến nỗi hèn kém lại thấy hắn làm việc đắc lực nên vui lòng đem cô con gái lớn gả phứt cho hắn. Thế là anh ta lại được vợ mới. Người vợ này của riêng bộn bề, ăn đứt vợ cũ. Lấy nhau được ít lâu, hai vợ chồng đưa nhau về thăm nhà. Khi hai người đàn bà gặp nhau, họ kể chuyện cho nhau biết. Nghe cô con gái phú thương nói hết ngọn nguồn, cô con gái phú ông lắc đầu, bảo nàng rằng: - Vậy là dì phải thằng chết trôi, còn tôi phải đôi sấu sành đó!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/di-phai-thang-chet-troi-con-toi-phai-doi-sau-sanh" }
Cố ghép
Ngày xưa, ở dưới chân núi Hồng-lĩnh về phía Đông nam, có một xóm nhỏ gồm mấy gia đình đánh cá. Họ luôn sống giữa những tiếng gầm thét của sóng biển. Nhưng không may, một ngày kia, một trận bão lớn đã cuốn đi khá nhiều nhân mạng cùng thuyền mảng và lưới chài xuống thuỷ phủ. Những người sống sót hết đường sinh nhai, đành rủ nhau ngày ngày lên núi kiếm củi đem về bán ở chợ. Đó là nghề ít vốn nhất nhưng lại là nghề mệt nhọc nhất đối với họ, vì sườn núi phía họ ở mọc dựng đứng như bức tường, muốn leo núi với gánh củi trên vai không thể không đi đường vòng ngoắt ngoéo qua bao nhiêu thôn xóm khác. Thành ra, rừng thì gần nhưng đường thì lại quá xa. Cho nên mọi người ước làm sao có một con đường từ xóm thẳng lên núi để đi được nhanh chóng. Bấy giờ trong xóm có một ông lão nhà nghèo sống với vợ con trong một túp lều. Người ta gọi ông là cố Đương, là vì hễ gặp việc gì khó khăn, bất kì việc của ai, ông đều ra đương lấy và quyết làm kì được. Thấy việc trèo núi phải đi đường vòng rất xa, cố Đương cho là việc vô lý hết sức. Thường những lúc rảnh rỗi, ông vẫn một mình lần mò bám đá leo cây để tìm con đường đi kiếm củi gần nhất. Nhưng mỗi khi đứng trước sườn núi cheo leo ông vẫn bực mình, nghĩ bụng: -“Nếu không ghép đá thành bậc thang thì đừng có hòng vượt lên khỏi mấy cái dốc này!”. Ông đem ý ấy hỏi vợ. Vợ ông cho là việc rồ dại. Ông hỏi thử một vài người làng, họ đều lắc đầu bảo: – Không được đâu cố Đương ạ! Chúng ta còn phải lo miếng ăn hàng ngày đã chứ! Cố Đương trầm ngâm bảo họ: – Cứ mỗi lần phải đi “năm xóm cây đa, ba xóm cây thị” để vào nơi lấy củi, tôi lại muốn lộn tiết lên được! Năm tuần trăng trôi qua. Nghề kiếm củi đã trở nên nghề chính của mấy gia đình đánh cá thất bại kia. Họ đã yên tâm với nghề nghiệp mới. Chỉ trừ có cố Đương là chưa thật yên tâm. Một hôm cố bảo vợ: – Từ ngày mai trở đi, bà gắng đi kiếm củi một mình. Còn tôi, tôi sẽ tìm cách trổ một con đường mới lên núi. Ngày nào tôi làm xong, hai vợ chồng mình tha hồ đi củi. Người vợ vốn biết tính chồng hễ nói là làm, nhưng lần này thì bà hết sức can ngăn: – Ông đừng có địch với vua, đừng có đua với trời. Già kề miệng lỗ rồi chứ còn trẻ trai gì nữa đâu! Nhưng cố Đương an ủi: – Bà đừng lo! Biển kia rất rộng người ta cũng vượt được. Dãy Giăng-màn rất cao người ta cũng trèo qua. Bạt núi này thành đường thực ra không khó. Một mình tôi cũng làm được. Bà hãy chịu khó ít lâu. Mai kia ta sẽ đi đốn củi gấp đôi gấp ba hôm nay, lúc ấy cả xóm chúng ta sẽ sung sướng. – Ông định ghép bao lâu thì xong? – Không nói trước được. Một năm chưa xong thì hai, hai năm chưa xong thì bốn. Nếu tôi chết đi mà vẫn chưa làm xong thì sẽ có người khác tiếp tục… Thế là từ hôm đó, cố Đương ngày ngày mang một mo cơm lên núi. Ông bạt đất. Ông nhổ cây. Ông khiêng đá. Và ông ghép đá thành con đường tam cấp hướng thẳng lên núi. Công việc biết bao nặng nề! Nhưng quả không có gì cản được cái chí con chim hồng chim hộc. Ông càng làm càng khoẻ, càng nhọc càng hăng. Cứ thế trong năm sáu tuần trăng, ông vẫn sớm đi tối về như không biết mỏi là gì. Người vợ không nhịn được nữa, một hôm kêu lên: – Tội gì để cho mình ông đầu tắt mặt tối, cả nhà ông nheo nhóc rách rưới như thế. Ốc mang mình ốc chưa nổi lại còn mang cả cọc! Đường làm thành thì ai cũng đi, đâu có riêng mình ông. Thôi! Từ nay ông đi đâu thì đi, đừng có về nhà này làm gì nữa. Nghe nói thế, cố Đương lựa lời dỗ dành vợ. Nhưng người đàn bà cố tình làm cho chồng nản chí. Bà ta nhất định không nuôi báo cô ông nữa. Từ đấy ông thôi không về nhà, dựng một túp lều ngay bên chỗ mình làm việc. Hễ ghép được đến đâu ông lại dời lều đến đó. Thấy ông đói, những con vượn mang hoa quả đến cho ông. Thấy ông đuối sức, những con bò rừng, những con nai ghé sừng nạy những tảng đá giúp ông. Rồi những con chim thay nhau ca hát suốt ngày để cho ông quên mệt. Về sau có mấy người trong xóm cũng tình nguyện đến làm với ông. Thấy thế, cố Đương như tăng thêm sức mạnh, càng miệt mài với công việc. Cứ như thế, sau năm lần sim có quả, cố Đương đã mở được một con đường truông ngắn nhất từ xóm mình thông lên những đỉnh cao trên dãy Hồng-lĩnh. Ông đã ghép đá thành tam cấp của ba dốc núi khó đi nhất. Dân xóm lên núi xuống núi rất tiện và từ đó họ có thể trong một ngày kiếm được mấy lần củi. Ngày nay, ở phía Nam Hồng-lĩnh, chỗ giáp giới hai huyện Nghi-xuân và Can-lộc có một cái truông gọi là truông Vắn hoặc gọi là truông Ghép. Cái tên cố Đương người ta quen gọi là cố Ghép...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/co-ghep" }
Vận khứ hoài sơn năng trí tử, thời lai bạch thủy khả thôi sinh
Ngày xưa, có một ông lang xem mạch chữa bệnh rất giỏi. Các môn nội khoa cũng như ngoại khoa ông đều thành thạo. Ông lại là một người chính trực. Mọi nơi tôn ông làm danh sư, vì vậy nổi tiếng một thời. Ở vùng ông hồi đó có một người đàn bà ngoại tình. Thấy chồng bị cảm, mụ ta muốn nhân cơ hội ấy giết luôn đi để có thể tự do lấy người nhân ngãi. Mụ nghĩ ra một mưu kế giết chồng thật êm thấm là đến nhà ông lang xin ông ngầm cắt cho một chén thuốc làm sao cho chồng uống vào không dậy được nữa. Đáp lại, mụ sẽ biếu ông một món tiền lớn. Nghe nói thế, ông lang một mực từ chối, nói mình không bao giờ nhúng tay vào việc thất đức, nhưng người đàn bà nọ rất kiên nhẫn, vật nài mãi cố làm cho ông xiêu lòng. Khi thấy người đàn bà quả quyết quá, ông giả bộ nhận lời, nhưng chỉ cắt cho một chén thuốc bổ trong đó có món hoài sơn là vị thuốc chính. Cắt xong, ông nói dối với người đàn bà rằng chỉ về sắc một chén cho chồng uống là chết ngay. Người vợ trở về làm theo lời dặn, sắc thuốc rót ra chén, gác lên chạn chờ cho thuốc nguội để cho chồng uống. Không ngờ có một con rết bò qua trên xà nhà để rơi nọc độc vào chén thuốc. Vì thế người chồng vừa uống thuốc vào tự nhiên vật vã, chỉ được một lúc là chết. Nghe tin con bệnh - chồng người đàn bà nọ - ngộ nạn sau chén thuốc của mình, ông lang vô cùng ngạc nhiên. Ngồi một mình ông ngẫm lại chén thuốc mình cắt hôm ấy hoàn toàn không có vị gì công phạt, dù có mắc chứng bệnh hiểm nghèo đi nữa cũng không thể chết được. Ấy thế mà lại hóa ra chết thật. Vô tình muốn cứu người thoát chết ông lại trở thành một kẻ giết người. Tuy không xảy ra việc gì lôi thôi đến bản thân, nhưng lương tâm ông lang luôn luôn cắn rứt không nguôi. Tức bực đến phẫn chí, ông bèn khóa tất cả các ô thuốc của mình lại, rồi cầm chùm chìa khóa vứt xuống sông thề rằng: - "Tôi làm thuốc đã bốn mươi năm nay chưa từng làm hại đến mạng người. Nay bỗng dưng con bệnh vì tôi mà chết. Tôi nguyện trên có trời, dưới có Hà bá, nếu chùm chìa khóa này còn trở về tay tôi thì tôi sẽ làm nghề thuốc trở lại, bằng không thì xin bỏ hẳn nghề này". Và từ đó ông cương quyết không đụng đến ô thuốc đao cầu hay kê đơn cho một ai nữa... *** Ít lâu sau có một người làng chài, vợ đến kỳ sinh không may nghịch không sổ được. Người chồng thấy vậy hoảng hốt, không kể đêm khuya chạy đi mời mấy ông lang gần đấy, nhưng không một ông nào dám bốc thuốc cả. Tình thế sản phụ rất nguy ngập. Sau cùng có người bảo người chồng cô tìm đến nhà vị danh sư nọ, hết lời cầu khẩn may chỉ còn có hy vọng. Lúc đó trời đã gần sáng, ông lang đang nằm. Người nhà cho biết ông lang không chữa bệnh nữa. Nhưng người làng chài cố tìm đến trước cửa sổ nói vọi vào phía giường ông, kể lể bệnh hoạn của vợ và xin thầy cứu cho. Hắn ta nói mãi. Song ông lang nào có để ý gì đến. Lúc đó ông đã dậy, bèn gọi người nhà "múc nước để rửa mặt". Hắn ta nghe không rõ, tưởng ông cụ bảo "múc nước đổ vào mặt". Thế là hắn ba chân bốn cẳng chạy về nhà, múc cả gáo nước thình lình hắt vào mặt vợ. Người sản phụ đang nằm đợi chết, bỗng bị nước lạnh dội vào mặt, giật mình chuyển cả thân thể. Tự nhiên cái thai sổ ra một cách dễ dàng. Tất cả mọi người trong nhà đều khoan khoái như trút được gánh nặng. Họ tấm tắc phục tài nhà danh sư. Qua ngày hôm sau sẵn mẻ lưới bắt được con cá chép rất to, chồng người sản phụ vội xâu lại đưa đến biếu thầy thuốc. Khi thấy hắn ta cảm tạ công ơn mình đã giúp cho vợ hắn mẹ tròn con vuông thì ông lang rất lấy làm lạ. Ông bảo: - Hơn một năm nay tôi có làm thuốc cho ai đâu mà lại có sự lạ lùng này. Nghe hắn kể, ông ta vẫn chối, nhưng người làng chài nhất định không chịu mang cá về. Cuối cùng thấy chối mãi không được. Ông lang bèn xin nhận một nửa và nói: - Bây giờ tôi chặt con cá làm đôi: một nửa mừng cho bác gái, một nửa tôi xin lạm nhận. Nói rồi ông lấy dao thớt chia con cá làm hai khúc. Nhưng khi đang chặt, ông bỗng thấy trong ruột cá có cái gì cộm lên, moi ra được một chùm chìa khóa. Ông nhìn lại thì lạ thay! Chính đó là chùm chìa khóa của mình ngày trước. Từ đó ông lang bỏ ý định cũ, lại bốc thuốc chữa bệnh như xưa...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/van-khu-hoai-son-nang-tri-tu-thoi-lai-bach-thuy-kha-thoi-sinh" }
Hà Ô Lôi
Vào thời nhà Trần, ở làng Ma-la gần thành Thăng-long có Đặng Sĩ Dinh tuổi còn trẻ mà đã làm quan to. Ông ta có một người vợ rất đẹp. Hai vợ chồng yêu nhau rất mực. Nhưng một hôm, nhà vua sai ông đi sứ Trung-quốc. Không thể từ chối, ông đành trở về từ biệt vợ lên đường. Bây giờ có thần thành hoàng làng Ma-la, thừa dịp ông đi sứ vắng bèn hóa phép biến thành Đặng Sĩ Dinh. Đêm khuya đến gọi cửa. Vũ thị không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy chồng về, bèn hỏi: - Chàng bảo đi sứ sao lại còn trở về như vậy? Thần ta kiếm cách nói dối rằng: - Vua đã sai người khác đi thay ta rồi. Thế nhưng vua lại bắt ta ở luôn bên cạnh để hầu cờ không cho về. Mà ta thì nhớ nàng quá, cho nên chờ khi vua ngủ say, lẻn về ân ái một lúc rồi phải vội vào ngay không dám để vua biết. Nghe nói, Vũ thị lòng vẫn chưa tin là thực, nhưng hình dạng, cử chỉ và cách ăn nói thì không thể ngờ vào đâu được. Từ hôm ấy, cứ đêm thần Ma-la lại đội lốt Đặng Sĩ Dinh tới. Và nàng vẫn tự nhiên, coi hắn là chồng cùng chung chăn gối. Được hơn một năm, Đặng Sĩ Dinh đi sứ về. Ông rất buồn bực khi thấy người vợ yêu của mình có thai sắp đến ngày đẻ. Nhưng khi tra hỏi, Vũ thị cứ sự thực trả lời. Không biết nên giải quyết thế nào, ông đành làm tờ "trạng" tâu vua. Lập tức, vua sai bắt Vũ thị hạ ngục để tra khảo cho ra thủ phạm. Nhưng đêm ấy, vua nằm chiêm bao thấy một hung thần đến yết kiến mình. Hắn dọa: - "Tôi là thành hoàng làng Ma-la, tôi có đứa con bị Đặng Sĩ Dinh bắt mất. Vậy bệ hạ bảo hắn phải trả con cho tôi. Nếu không, tôi quyết không để cho mọi người yên thân đâu". Tỉnh dậy, vua rất kinh ngạc và lo lắng, cuối cùng vua cho đòi Dinh đến kể cho nghe giấc mộng đêm qua và phán: -  Thôi! Vợ vẫn là vợ ngươi, nhưng con thì của thần Ma-la. * Ba ngày sau đó, Vũ thị sinh ra một cái bọc, trong có một đứa con trai, tay chân mặt mũi như mọi đứa bé thường, chỉ có khác một điều là da đen như mực. Càng lớn lên, da hắn càng đen và nháng như mỡ. Vua bảo đặt tên cho là Ô Lôi. Vì không biết họ của thần là gì nên vua đặt là họ Hà. Năm Hà Ô Lôi mười lăm tuổi vua đưa vào cung để sai bảo, coi như môn khách, đối đãi có phần đặc biệt. Một hôm, Ô Lôi đi chơi về phía cửa Đông gặp một cụ già ngồi ở gốc cây. Hắn đang bước lững thững thì bỗng cụ già gọi giật lại: - Thằng bé kia, con có muốn gì không? Ô Lôi ngạc nhiên: - Cụ là ai? - Ta là Lã Đồng Tân đây - ông cụ đáp - Nếu con muốn gì ta sẽ làm cho con được như ý. Ô Lôi vội sụp lạy: - Con xấu xí quá chả ai thèm chơi với con. Con chỉ muốn làm sao có khuôn mặt xinh đẹp, có giọng hát hay để mọi người yêu mình mà thôi. Ông tiên bảo: - Tưởng gì chứ muốn cái ấy cũng không khó. Nhưng con nên nhớ: ước muốn đó có hay mà cũng có dở; nó sẽ làm hại con. Thấy hắn khăng khăng chỉ ước muốn có mỗi một việc ấy, ông tiên bèn bảo hắn há miệng ra rồi nhổ vào một bãi nước bọt bảo nuốt đi. Đoạn ông biến mất. Từ đó Ô Lôi trở nên xinh trai và thông minh một cách lạ thường. tuy không biết chữ, hắn cũng làm được thơ vè rất hay; nói năng có duyên và bặt thiệp. Đến giọng hát thì thật là tuyệt. Ai cũng thích nghe hắn hát hoặc kể chuyện, hình như bị một sức quyến rũ. Nhất là đám đàn bà con gái thì lại càng mê mẩn. họ cứ ao ước được xem mặt Ô Lôi mới thỏa. Nhân đó, hắn mới giở thói cợt ghẹo, dụ dỗ cho thỏa tình dục. Thấy hắn có tài, vua lại càng yêu chiều. * Bấy giờ trong hàng tôn thất có nàng quận chúa tên là A Kim, có hiệu là Kim Liên. Đúng với tên gọi, nàng mơn mởn như một đóa sen vàng; cái nhan sắc nghiêng thành nghiêng nước ấy tưởng trên trời không ai bì kịp. Chẳng may năm hai mươi ba tuổi chồng chết, nàng theo lễ thủ tiết thề trọn đời không đi bước nữa. Vua từ lâu vốn có bụng muốn chung tình với nàng nhưng tuy oai quyền là thế mà vẫn không thể nào gần gũi được, vì nàng rất đứng đắn. Một hôm vua bảo nhỏ Ô Lôi: - "Mày có cách gì cho ta chung tình với nàng Kim Liên thì ta sẽ trọng thưởng và biết ơn". Ô Lôi nghĩ quận chúa là bậc bề trên, lọt vào phủ của quận chúa không khéo có thể mất mạng, huống gì định thả lời ong bướm. Nhưng muốn đẹp lòng vua, hắn nói: - "Thần xin hẹn trong một năm; nếu bệ hạ không thấy về, ấy là thần đã chết mà mưu không thành vậy!". Tâu xong, hắn lạy tạ ra đi. Rồi đó, Ô Lôi cải trang thành một kẻ chăn ngựa bẩn thỉu, đóng khố, quẩy một đôi sọt tìm về phủ đệ quận chúa A Kim. Hắn biếu người gác cổng một gói trầu để xin vào cắt cỏ. Đám vườn trước nhà quận chúa trồng toàn cây nhài để cho chủ thưởng ngoạn. Buổi ấy vào khoảng tháng Năm, hoa nhài đang hội nở, mùi thơm ngào ngạt. Hắn dùng liềm cắt tất cả hoa bỏ vào sọt. Một người nữ tỳ thấy vậy bèn hô hoán lên cho người nhà ra bắt Ô Lôi. Ô Lôi làm bộ sợ hãi: - Tôi là kẻ không cha không mẹ, không có chủ, thường đi lang thang làm thuê gánh mướn kiếm ăn. Vừa rồi có ông quan buộc ngựa ở cửa Nam cho tôi năm tiền bảo cắt gánh cỏ. Tôi bụng đói được tiền, mừng quá vào đây, không biết loại cây này quý, tưởng cũng là cỏ nên cắt tất cả. Nay không có gì bồi thường tôi xin làm tôi tớ để đền nợ hoa. Nghe nói, bọn chúng cũng thương hại, nhưng đoán hắn có chủ nên bắt giữ lại ở cổng hòng chờ đợi chủ tới kiếm, bắt chuộc. Từ đó Ô Lôi thường hát cho bọn chúng nghe. Thấy hắn hát hay quá, bọn chúng đem cơm cho ăn, có khi mê mẩn quên mất cả công việc của chủ. Một hôm, trời vừa xẩm tối, quận chúa ngồi mò trong nhà. Nàng gọi một thôi một hồi mà không có một thị tỳ nào lên thắp đèn cả. Nàng lấy làm lạ bước xuống giường, vừa đi rảo các buồng vừa gọi. Mãi mới thấy bọn chúng kéo nhau về. Nàng quát mắng toan nọc xuống đánh; chúng sụp lạy kêu rằng: - "Có đứa cắt cỏ hát hay quá, chúng tôi mải nghe, đành cam chịu lỗi". Cuối cùng nàng cũng tha cho bọn chúng mà nói: - Lần sau nếu còn thế nữa thì quyết trị tội không tha. Một đêm nọ trời oi bức, quận chúa cùng các thị tỳ ngồi ngoài sân hóng gió trông trăng. Bỗng từ bên kia bức tường, tiếng hát của Ô Lôi văng vẳng đưa sang. Quả là tiếng hát tuyệt vời làm cho quận chúa phải bồi hồi ngơ ngẩn. Nàng hỏi: - Đứa nào hát thế? Bọn thị tỳ đáp: - Bẩm, đó là đứa cắt cỏ hôm nọ. - Gọi nó vào ta xem. Khi thấy mặt Ô Lôi, quận chúa bỗng có thiện cảm. Thế là từ đó Ô Lôi được làm chân nô bộc, ngày ngày hầu hạ trà nước khi có khách khứa, và hát để mua vui cho cả chủ lẫn khách. Hắn nhanh nhẩu được việc nên càng đẹp lòng chủ. Dần dần ngày một ngày hai, quận chúa đâm ra say mê, rồi cùng hắn dan díu. Nàng toan tậu ruộng làm nhà cho hắn, nhưng hắn không lấy gì cả, chỉ xin cái mũ tiến triều làm kỷ niệm. Cái mũ ấy trên có dát vàng và đính ngọc vốn của Tiên đế ban cho nàng để những ngày triều hạ, ngày Tết thì đội vào chầu Thiên tử. Nhưng trong cơn say đắm, nàng vui lòng tặng hắn không tiếc gì cả. Khi được mũ, Ô Lôi trốn thẳng một mạch về cung. Nghe hắn kể chuyện, vua mừng lắm, bèn hạ lệnh đòi quận chúa vào chầu. Khi Kim Liên đến đã thấy Ô Lôi đội mũ ngọc đứng bên cạnh vua. Vua hỏi nàng: - Nhà ngươi có quen người này chăng? Quận chúa đỏ mặt im lặng. * Từ đó, Ô Lôi được vua nuông chiều một cách lạ lùng, hắn muốn gì được nấy. Vua hạ lệnh cho mọi người biết: Nếu Ô Lôi tư thông với con gái nhà ai mà bắt được giải đến, vua sẽ tạ một nghìn quan tiền. Trái lại, nếu ai tự tiện giết hay làm hắn bị thương thì phải bồi thường một vạn quan. Thiên hạ vì sợ lệnh vua, không ai dám làm gì hắn, Ô Lôi được thể lại càng quá tay, hắn tìm thú vui với con gái các nhà vương hầu. Một hôm, hắn dan díu với cô con gái Minh Uy vương. Hắn thường lẻn vào phủ để gặp nàng. Minh Uy vương là cha hoàng hậu quyền thế nghiêng trời. Một hôm, vào lúc xẩm tối, ông ta đang ngồi trên lầu, nhác thấy bóng một người lạ lọt vào cổng vườn. Sinh nghi, ông gọi bọn gia nô lưu ý rình bắt. Quả nhiên cuối cùng họ tóm được hắn trong buồng cô con gái yêu. Minh Uy vương lòng giận bừng bừng, nhưng nhớ tới lệnh vua ông cũng ngại không dám giết hắn ngay. Sáng hôm sau, ông ta vào chầu vua, tâu rằng: - Đêm qua Ô Lôi vào nhà thần. Vì tối tăm không biết là ai nên người nhà đã lỡ tay trót đánh chết. Vậy số tiền đền bao nhiều, thần xin nộp? Vua ngỡ là hắn đã chết rồi, lại nể mặt Minh Uy vương, bèn đáp: - Thôi, đương đêm không biết là ai, đã trót giết rồi thì không phải đền nữa. Thế là ông ta trở về nhà sai gia nô thân tín dùng gậy đánh Ô Lôi cho kỳ chết. Nhưng không ngờ đánh mấy hắn vẫn trơ trơ, không bị một thương tích nào. Mãi sau, ông sai bỏ vào cối giã mới chết. Cũng do truyện này, đời sau khi cô dâu mới về nhà chồng người ta có tục bắt bước qua cối giã gạo, có mục đích xua đuổi những con quỷ sắc dục như Ô Lôi đi theo quấy nhiễu...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ha-o-loi" }
Sự tích mèo và chuột
Ngày ấy các kho của nhà trời thường hay bị nạn trộm cắp, vì vậy Ngọc Hoàng thượng đế cần tìm một kẻ chuyên trông nom kho tàng. Nhiều người tiến cử Thử thần vì cho rằng ông ta là người tốt, chăm chỉ, lại nhanh nhẹn, được việc. Thấy thế, Ngọc Hoàng bèn trao cho Thử thần chùm chìa khóa, phong cho chức Thiên khố giám và dặn: - Trẫm giao phó cho ngươi trông nom tất cả các kho lẫm của trẫm. Mặc dầu của Trời là vô tận, nhưng cũng không thể bỏ vạ vật khắp nơi mà không coi sóc. Gần đây đã thấy xảy ra những vụ trộm cắp nhỏ to. Vậy người hãy đặt lính túc trực ngày đêm ở các nơi để canh gác. Còn thực phẩm thì ngươi hãy cho sắp xếp vào kho kẻo phí của trời. Cứ mỗi năm hai lần, ngươi tâu báo tình hình cho trẫm biết. - Hạ thân xin tuân lệnh! Thử thần đáp như vậy và vui vẻ nhận chức. Trong những năm đầu, Thử thần làm tròn phận sự. Mọi thứ được sắp đặt đâu ra đấy không hề suy suyển. Ngọc Hoàng thượng đế thấy vậy rất hài lòng. Nhưng ở trên trời cũng như bất cứ ở đâu, "sao dời vật đổi" vẫn là điều thường thấy. Ngày một ngày hai, Thử thần tỏ ra phụ lòng tin cậy của Ngọc Hoàng. Thấy của nhà Trời thật là nhiều không đếm xiết, xuất ra bao nhiêu, chẳng mấy chốc lại đầy ắp bấy nhiêu, ông ta bèn nghĩ đến chuyện bớt xén. Bụng bảo dạ: - "Ta chỉ lấy mỗi kho một nắm thôi, cũng đủ cho vợ con no đủ sung sướng trọn đời mà chẳng ai biết  cả". Bèn nghĩ sao làm vậy. Từ đó trong nhà Thử thần cuộc sống trở nên dư dật, vợ con béo tốt và diêm dúa hơn xưa. Thứ dùng vào ăn tiêu, thứ cho người thân và bạn bè, Thử thần ngày càng xâm phạm của Trời không tiếc tay. Chẳng bao lâu, Ngọc Hoàng thượng đế cũng biết được việc kho lẫm nhà Trời bị thiếu hụt mà thủ phạm chẳng ai khác hơn là Thử thần. Bắt được tang chứng rành rành, Ngọc Hoàng nổi cơn thịnh nộ. Lập tức Thử thần bị đày xuống cõi trần và bị hóa kiếp làm con vật tý hon nhọn mồm, dài đuôi mà người dưới trần vẫn quen gọi là con chuột. * Tuy bị bãi chức và bị đày ải, Thử thần vẫn chứng nào tật ấy. Quen thói vụng trộm, giờ đây lại được cái thân thể bé nhỏ, vào đâu cũng lọt, nên chuột ta mặc sức lục lọi ăn vụng những thức ăn của con người, bất kể ngày đêm. Không những thế, nó còn cắn phá mọi đồ dùng của người bày ra trước mõm, thôi thì áo quần, sách vở, thúng mủng, rương hòm, v.v... không kiêng nể gì cả. Vì thế loài người hết sức căm giận. Họ cũng để tâm bắt giết, nhưng cuối cùng không làm sao trị xuể, vì từ khi giống má nhà chuột xuất hiện ở cõi trần thì chúng sinh đẻ rất nhanh, lan tràn khắp nơi, do đó chúng đã làm cho họ thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Cực chẳng đã, con người phải tha thiết kêu nài với Thổ công, nhờ vị thần này lên Trời tâu bày với Ngọc Hoàng thượng đế về nỗi khổ tâm do sự phá phách quá trớn của loài chuột. Nhận thấy lời kêu nài của con người là đúng: Thổ công vội lên Thiên đình tâu báo số thiệt hại to lớn do Thử thần gây ra mà loài người là kẻ chịu đựng; lại không quên nói đến sự sinh nở quá nhanh chóng của dòng giống Thử thần trên cõi đất. Đoạn nói tiếp: - Tâu bệ hạ, cớ sao bệ hạ lại không hay biết gì cả. Con người được sống ở cõi Trần la nhờ ơn tác thành của bệ hạ. Nhưng kho lẫm của con người chỉ có hạn, không như kho lẫm của nhà Trời, vì con người vốn nghèo đói làm không ra ăn. Nếu bệ hạ để cho Thử thần hoành hành thế ấy, thì tôi e rằng chẳng bao lâu loài người sẽ không còn sống nổi trên mặt đất nữa. Nghe Thổ công tâu bày, Ngọc Hoàng thượng đế rất kinh ngạc, không ngờ cái hại của con vật bé xíu do mình tạo nên lại to lớn đến thế. Suy nghĩ hồi lâu, Ngọc Hoàng ra lệnh đòi Miêu thần đến phán rằng: - Trẫm không ngờ Thử thần là kẻ bị trẫm trừng phạt lại gây hại cho loài người dường ấy. Nhưng bây giờ đòi hắn trở về thì đã quá muộn. Nay trẫm phái ngươi xuống dưới ấy giúp loài người ngăn cản bàn tay phá hoại của Thử thần. Ngươi hãy nói rõ cho Thử thần biết rằng con người vốn nghèo túng, đừng có xâm phạm thực phẩm và đồ dùng do họ làm ra. Nếu hắn không nghe thì bấy giờ hãy thẳng tay trừng trị. Miêu thần tỏ vẻ lo lắng, tâu: - Tâu bệ hạ, cứ như lời Thổ công nói thì họ hàng dòng dõi Thử thần bây giờ đông vô kể, lan tràn khắp nơi, đó lá một điều khó đối với hạ thần. Lại nghe nói vóc người của hắn nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn, leo trèo, chui luồn, lẩn tránh lắm cách tài tình, đó là hai điều khó muốn trừ được cũng không phải dễ. - Được. Trẫm sẽ cho ngươi thu nhỏ vóc lại chỉ bằng hai bằng ba Thử thần mà thôi, nhưng lại mềm mại, có bắp thịt cứng để chạy nhảy mau lẹ, và cho móng nhọn, mắt sáng, để có thể tóm bắt tội nhân ngay cả trong đêm tối. Ngươi đã bằng lòng chưa? Vốn có mối thù với Thử thần trước đây. Miêu thần không ao ước gì hơn thế, vội cúi đầu vâng lệnh đi ngay. Thế là để giải quyết nạn chuột do mình vô ý gây ra, Ngọc Hoàng đã sáng tạo ra một con vật khác được mệnh danh là chú mèo. * Từ khi xuống trần, Miêu thần làm việc rất mẫn cán. Một mặt ông ta luôn luôn cảnh cáo chuột không được gây thiệt hại cho con người vì họ rất nghèo, (vì vậy mà con người quen gọi ông ta là "mèo" nói chệch tiếng "nghèo", "nghèo" mà ông ta thường gào vào tai Thử thần). Mặt khác Miêu thần làm những cuộc săn bắt dữ dội, tiêu diệt dòng giống nhà chuột một cách không thương xót. Từ đó, chuột có phần nào giảm nhẹ việc cắn phá những thức ăn, đồ dùng của con người. Con người cảm ơn Miêu thần vô hạn. Khác hẳn cách đối đãi với những con vật khác, con người thường cho ông ta ăn uống tử tế, lại thường xới vào bát đĩa hẳn hoi cho ông ta ăn. Nhưng cũng từ đó, bực mình vì phải xa cách các bạn tiên ở cõi Trời, Miêu thần đâm ra tức giận Thổ công là kẻ gây cho mình cảnh sống chia ly ấy. Cho nên nhiều lần Miêu thần đã đến phóng uế bừa bãi ở chỗ ở của Thổ công cho bõ ghét. Câu ca dao: Chuột kia xưa ở nơi nao, Bây giờ làm hại chúng (hay nhà) tao thế này.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-meo-va-chuot" }
Bích Câu kỳ ngộ
Vào đời Hồng Đức, có một người học trò nghèo, sớm mồ côi cha mẹ, trọ học ở phường Bích Câu, phía Nam thành Thăng Long. Chàng rất hay chữ, tuy chưa đỗ đạt gì nhưng người ta vẫn gọi là Tú Uyên. Vào một ngày mùa xuân, chùa Ngọc Hồ mở hội Vô Già, thiện nam tín nữ ở kinh đô và bốn phương tụ họp lại rất đông. Tú Uyên cũng không bỏ lỡ cơ hội để tìm người trong mộng. Chàng vui chân đi quanh quẩn đến chiều và ngồi bên gốc đa gần chùa. Bỗng một chiếc lá đa bay đến trước mặt, chàng nhặt lên xem thì thấy mặt sau có đề một bài thơ. Tú Uyên ngạc nhiên tưởng có người nào trên lầu ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, mãi cũng không thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, chàng bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một thiếu nữ xinh như mộng. Thấy nàng liếc mắt đưa tình, chàng tiến lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa vui vẻ truyện trò, lòng Tú Uyên như mở hội hoa đăng. Nhưng khi đến Quảng Văn thì người con gái bỗng biến mất. Tú Uyên ngơ ngẩn mãi một lúc rồi mới trở về nhà. Từ đấy, Tú Uyên ngày đêm mơ tưởng đến bóng dáng người thiếu nữ ấy, không thiết gì đến việc ăn uống, học hành. Nghe người ta bảo là đền Bạch Mã rất thiêng, chàng liền đến xin quẻ thẻ rồi ngủ đêm lại đền để cầu mộng. Đêm hôm ấy, vị thần giữ đền hiện ra trong giấc mơ của chàng nói rằng: - Này anh chàng hào hoa kia, sáng mai hãy đến cầu Đông ta sẽ cho biết một tin rất tốt. Tú Uyên vô cùng mừng rỡ, như vậy là chàng sẽ có cơ may gặp lại người trong mộng... Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông, nhưng đợi mãi không thấy ai cả. Cuối cùng chàng mới gặp một ông già bán tranh, ông đưa tới mời chàng mua một bức tranh tố nữ. Chàng mở ra xem thì không ngờ hình dạng người tố nữ trong tranh trông chẳng khác gì người mà mình đã gặp hôm trước. Quá mừng rỡ nên Tú Uyên mua ngay bức tranh mà không cần hỏi thăm xuất xứ từ đâu nữa. Dù không gặp được người thật, nhưng người trong tranh cũng làm cho chàng hoan hỉ trong lòng. Tú Uyên muốn lúc nào cũng được nhìn ngắm chân dung người đẹp, nên chàng treo bức tranh bên cạnh chỗ ngồi, để khi học, hay khi thưởng thức chén trà ngon, thậm chí khi ăn cơm chàng cũng đem ra hai cái bát, hai đôi đũa rồi mời người thiếu nữ trong tranh như mời thật. Mỗi lần say đắm ngắm nhìn người tố nữ trong tranh như thế, Tú Uyên hơi ngạc nhiên khi thấy tố nữ cũng say đắm nhìn lại, cũng như những lúc chàng nói những lời hoa bướm với người đẹp thì thấy hai má tố nữ trong tranh đỏ bừng như có ý thẹn. Một hôm, khi Tú Uyên đi học về thì thấy giữa bàn đã dọn sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu là của ai cho, nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn một cách ngon lành. Chàng không ngờ thiếu nữ trong tranh cũng nhìn chàng một cách trìu mến và mãn nguyện. Tiếp mấy ngày hôm sau, chàng luôn được chăm sóc bằng cách đó, cơm canh lúc nào cũng được dọn sẵn sàng trên bàn. Tú Uyên vừa mừng lại vừa lo, không hiểu vì đâu mà mình được ưu đãi như thế! Hôm khác chàng giả vờ đi học, được nửa đường rồi quay trở về, nấp ngoài cửa nhìn vào. Chợt thấy tố nữ trong tranh bước ra, dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Thế là chàng đã biết rõ nguyên nhân, liền đột ngột xô cửa bước vào, nắm chặt lấy tay nàng mà rằng: - Sao nàng lại nỡ để tôi trông đợi mỏi mòn đến thế! Bây giờ tôi đã gặp lại nàng, tôi nhất quyết là không cho nàng ra khỏi đây đâu! Thiếu nữ trong tranh e thẹn, má đỏ hồng, không dám nhìn mặt Tú Uyên. Tú Uyên đã biết nàng từ đâu ra nên giật lấy bức tranh trên tường xé nát để nàng không còn nơi trú ẩn. Người con gái se sẽ nói: - Sao chàng ác thế! Thiếp đã lạc vào đây rồi nên đâu dám không vâng lời. Rồi nàng cho biết mình là tiên nữ tên là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không còn có gì vui sướng hơn nữa, chàng đưa tay lên trời thề yêu nàng trọn đời. Thế là hai người được thành thân với nhau, dưới sự chứng kiến của các bạn tiên của nàng. Nhưng từ ngày được vợ đẹp, Tú Uyên buông thả không màng gì đến đèn sách. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt là thích được uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi, nhưng Tú Uyên vẫn chứng nào tật nấy. Ba năm trôi qua, chàng không hề lai vãng đến nhà học. Dần dà chàng trở nên nghiện rượu, đã uống thì uống đến say, không còn biết trời đất là gì nữa, thậm chí nhiều khi còn chửi mắng vợ. Giáng Kiều giận lắm! Song nàng không biết làm sao hơn, kiên nhẫn chờ dịp quay về trời.. Một hôm Tú Uyên từ tửu quán khật khưởng trở về, Giáng Kiều đưa chồng vào giường rồi nhân lúc chàng ngủ thiếp đi, nàng liền bay về trời. Lúc tỉnh rượu, không thấy vợ đâu, Tú Uyên lấy làm hối hận. Suốt một tháng trời, chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè thân thiết hết lời khuyên nhủ nhưng chàng cũng không sao giảm được u sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn từ giã cõi đời mà thôi. Nhưng khi khăn vừa vắt lên xà nhà để thắt cổ tự vẫn thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến... Thì ra đó chính là Giáng Kiều hiện ra cứu chàng. Tú Uyên vừa thẹn vừa mừng, thề xin chừa hẳn rượu và chăm lo học hành. Hai vợ chồng lại sum họp đầm ấm như xưa. Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một trai, đứa bé lớn lên thông minh tuyệt đỉnh, học đâu nhớ đó. Một đêm nọ bỗng có hai con hạc từ trên trời bay xuống, đến đón hai người ở trước sân. Hai vợ chồng dặn dò con ở lại học cho tốt, rồi cưỡi hạc bay về trời. Về sau con của hai người cũng đỗ đạt cao, làm quan vinh hiển.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bich-cau-ky-ngo" }
Người cưới ma
Ngày xưa có một anh đồ họ Lê, nhà nghèo khó, phải bỏ đi các nơi làm nghề gõ đầu trẻ. Về sau anh được một phú ông một làng nọ đón về “ngồi” ở nhà để cho con khỏi đi học xa. Phú ông có một cô con gái chưa chồng. Từ ngày có anh đồ đến nhà mình, cô gái đâm ra phải lòng chàng trẻ tuổi. Thấy cô gái thực bụng yêu mình, anh đồ cũng yêu lại một cách thắm thiết. Hai bên từng thề non hẹn biển quyết sống với nhau đến đầu bạc . Nhưng khi bố mẹ anh đồ mang trầu rượu tới dạm hỏi cô gái cho con, thì phú ông nhất quyết không gả. Không những thế, sợ để thầy đồ “ngồi” tại nhà mình lâu ngày không có lợi, nên hết năm đó, lấy cớ là con lên tỉnh học với cụ cử chỗ bà con, phú ông mời thầy dọn đi chỗ khác. Thấy mối tình bị chia rẽ, cô gái phú ông lòng đau như cắt, nhưng vì e thẹn, cô không dám cho một ai biết, chỉ mình tự khóc với mình mà thôi. Xa người yêu, cô sinh ra tương tư, lâu dần sầu não thành bệnh. Mặc dầu thuốc thang chăm sóc cũng nhiều, bệnh cứ nặng thêm, chẳng bao lâu nụ hoa mơn mởn sớm lìa cành. Thương tiếc con gái, vợ chồng phú ông tỏ ý hối hận. Họ bỏ tiền ra làm ma chay rất hậu. Người ta bỏ vào áo quan tất cả những kỷ vật của nàng. Để tưởng nhớ lâu dài, người ta đập tấm gương soi của cô gái làm hai mảnh: một bỏ áo quan, một bỏ lên bàn thờ. Lại nói chuyện anh đồ họ Lê, từ khi bị phú ông từ chối và cấm cửa, cũng đau xót không kém gì cô gái. Nhưng vì sinh kế, anh phải bỏ đi dạy học ở tỉnh xa. Tuy vậy anh cũng không quên theo dõi tin tức của người yêu. Khi biết nàng đã sầu não mà chết, lòng anh thương tiếc không lúc nào nguôi. Từ đấy anh quyết định ở vậy luôn cho đến già, khước từ tất cả mọi đám do bà con mối manh hoặc tìm giúp. Ba năm trôi qua. Một hôm vào dịp cuối năm, anh đồ khăn gói trở về quê hương. Đường đi phải qua làng người yêu, nhưng vừa bước chân đến đấy thì trời đã tối. Bỗng trời nổi lên một cơn dông, gió bụi mù mịt. Đang đi đường thấy sắp sửa mưa to, anh đồ lật đật chạy tìm một nơi trú ẩn. Chạy quá mấy lùm cây, thì may sao anh nhìn thấy xa xa le lói có ánh đèn. Anh vội băng đồng tìm tới. Khi đứng trước một ngôi nhà nhỏ, anh kêu cửa xin vào trọ. Cửa vừa mở, một cô gái cầm đèn bước ra. Anh hết sức ngạc nhiên vì người ấy chính là người yêu của mình ngày xưa, anh kêu lên: - Ôi! Người hay ma đây? Nghe người ta đồn là nàng đã chết rồi kia mà? Tại sao bây giờ ở đây? Cô gái tươi cười đáp: - Thiếp chưa chết đâu. Thấy anh đồ vẫn chưa tin, cô gái nói tiếp: - Nếu chết rồi thì làm sao còn đứng nói chuyện được với chàng đây. Mấy năm nay thiếp hằng ngày tựa cửa đợi chàng. Hôm nay được gặp lại nhau thiếp vui mừng biết mấy. Mời chàng vào nhà kẻo ướt vì mưa. Vừa bước vào, anh đồ vừa hỏi: - Nhà có ai không? Nàng ở với ai thế? Cô gái cười tươi: - Thiếp ở với người cô. Ở đây đôi ta được tự do, không ai ngăn cấm chúng mình cả. Nghe lời nàng nói, chàng họ Lê có vẻ ngờ vực. Anh rụt rè bước vào. Trong nhà bày biện có vẻ khác với ngôi nhà cũ ngày xưa anh ngồi dạy học, nhưng anh không tiện hỏi. Nhà vắng vẻ, chỉ có bà cô già hom hem lại nặng tai. Nhưng chỉ trong một chốc, cô gái đã gọi tới năm bảy người có cả đàn ông đàn bà. Họ vật lợn, giã giò, đồ xôi, gói bánh, khiêng bàn dọn ghế rất tấp nập. Anh hỏi cô gái khi cô ngồi lại bên cạnh: - Nàng cho giết lợn đồ xôi làm gì vậy? Cô đáp: - Để làm lễ cưới chúng ta đấy! Sao chàng hiểu chậm thế! Anh đồ ngạc nhiên hỏi: - Không có bố mẹ họ hàng hai bên dự sao? Cô gái cười: - Có chứ, có cô ruột, có ông bà nội. Nhưng cũng phải làm giấu giếm một tí. Nếu có bố mẹ thì chàng chẳng lấy được thiếp đâu. Vả lại còn có xóm làng quanh đây đến chứng kiến cho đôi ta. Cô gái thấy anh bỡ ngỡ liền dắt anh vào buồng. Trong buồng bài trí rất đẹp. Cô gái lấy tất cả kỷ vật ngày xưa hồi còn trẻ, trong đó có chiếc lược sừng cũ, anh đồ cảm thấy yên tâm hơn. Anh rụt rè sờ thử vào người cô gái. Thấy nàng vẫn mềm mại như ngày xưa, mọi ngờ vực của anh đồ bỗng tan biến hết. Chỉ trong một chốc, cỗ bàn đã bày xong. Khách đến dự khá đông, có cả ông bà nội cô gái, bà cô lúc nãy và nhiều ông già bà lão, khăn áo đều đẹp đẽ chỉnh tề. Người ta mời hai anh chị vào trước bàn thờ làm lễ. Mùi hương trầm sực nức. Một ông cụ khấn vái hồi lâu rồi cuối cùng quay ra chúc phúc cho hai anh chị “bách niên giai lão”. Chàng họ Lê thấy cô gái đứng trước ánh đèn, gò má đỏ lên có vẻ thẹn thò. Sau đó, họ ngồi vào mâm. Hai vợ chồng được ngồi riêng một mâm trong buồng. Cô gái ăn nhỏ nhẹ, nhưng anh đồ đói bụng nên cảm thấy ngon miệng. Phía ngoài tiếng đũa bát chạm nhau và tiếng chuyện trò râm ran. Cuối cùng cảnh vật lại chìm vào cảnh vắng lặng như lúc mới đến. Hai người nằm lên giường trò chuyện. Anh đồ chưa bao giờ cảm thấy mình sung sướng đến thế. Anh đọc những vần thơ tả nỗi nhớ nhung sầu muộn từ ngày cách biệt cho vợ nghe. Cô gái hỏi anh: - Vậy chúng ta thành vợ chồng, thỏa nguyện ước, chàng có vui không? Anh đồ đáp: - Có, nhưng giá cha mẹ cho phép thì còn vui sướng gấp bội. Cô gái lại hỏi: - Thế ngộ nhỡ có việc gì, liệu chàng còn thương thiếp nữa không? Chàng đáp: - Thương chứ, thương mãi mãi. Cô gái hỏi gặng lại: - Thiếp chết rồi chàng có còn thương thiếp nữa không? Anh đồ đáp: - Dù thế nào cũng thương hết mực. Rồi sau cuộc ái ân, anh đồ lăn ra ngủ say. Đến sáng mai, khi anh bừng tỉnh dậy, thì không thấy nhà cửa ở đâu cả, chỉ thấy mình nằm trên một ngôi mộ xây rất đẹp. Anh mới biết rằng tối hôm qua, mình đã lạc vào làng ma và được gặp người yêu. Anh chỉ thấy làm lạ, rằng bụng mình vẫn no, mũi vẫn còn phảng phất mùi hương trầm. Sau những ngày nghỉ ngơi ở quê nhà, anh đồ họ Lê lại trẩy vào mấy tỉnh đường trong để trở lại với công việc dạy học. Một năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Năm ấy tết đến, vì cơn bệnh giày vò, anh không về được. Khi lành bệnh anh lại tiếp tục dạy học cho đến tháng năm. Một hôm anh cảm thấy lòng xao xuyến, nhớ người yêu khôn tả. Hồi tưởng lại cái đêm năm xưa, anh tha thiết muốn được gặp lại nàng một lần nữa. Dù có thế nào cũng cam lòng. Anh bèn sửa soạn khăn gói từ giã đám học trò để trở về thăm quê. Qua làng người yêu, anh không ngờ chân anh tự nhiên đưa bước theo lối cũ tới đúng cái nơi anh từng dự lễ thành hôn với người mình yêu dấu, và lần này cũng đúng vào lúc đêm hôm khuya khoắt như hôm nào. Gọi cửa anh lại thấy người yêu ra mở cửa. Nhưng trong tay nàng giờ đây còn có một đứa bé chừng bảy tám tháng. Nàng trách chàng: - Sao chàng đến muộn thế, thiếp giận lắm đấy! Anh đồ nhìn thằng bé hỏi: - Con ai thế này? Cô gái nói: - Con chàng chứ con ai. Này thử nhìn xem, nó giống chàng như đúc. Anh đồ vui mừng cùng dắt tay vợ vào nhà, dưới ánh đèn, anh thấy vợ có phần xinh hơn tuy rằng nước da có phần xanh hơn trước. Riêng thằng bé thì bụ bẫm khôi ngô. Nàng nhìn anh cười nói: - Sau này chàng nhớ dạy cho nó học. Nó sẽ làm hơn bố đấy! Sau khi ăn cơm xong, hai người lại lên giường, lần này cô gái nói: - Hai chúng ta đã kết nghĩa vợ chồng, thật thỏa lòng mong ước. Nhưng thiếp thực sự là người cõi âm không thể chung sống với chàng lâu dài được, nay chúng ta có một đứa con, xin giao lại cho chàng nuôi nó. Thấy chồng có vẻ ngần ngại, vợ lấy trong hòm ra một mảnh gương vỡ trao cho mà nói: - Chàng đừng lo phải bận bịu chuyện vất vả nuôi con, từ ngày thiếp mất đi, cha mẹ thiếp rất hối hận. Vậy chàng cứ đến nhà thiếp mà ở, thế nào ông bà cũng không tuyệt tình với cháu ngoại đâu. Chàng đừng lo ngại gì cả. Với lại chàng giữ lấy mảnh gương này, khi con khóc đưa ra cho nó soi, tự khắc nó nín ngay. Tình tự ái ân suốt đêm anh đồ lại ngủ quên, sáng dậy, cũng như lần trước, mọi cảnh vật lẫn người yêu đều biến mất. Nhưng lần này trên ngôi mộ ngoài anh ra còn có một đứa bé và mảnh gương vỡ. Nhớ lời vợ dặn, anh đồ họ Lê ẵm con vào nhà phú ông. Sợ vợ chồng phú ông không nhận, anh chỉ xin cho mình ở nhờ để mở một lớp dạy học. Nhưng anh không ngờ vợ chồng phú ông lần này tiếp đãi mình rất tử tế, và sốt sắng nhận lời. Lại nhờ phú ông giúp đỡ, lớp học của anh đồ càng ngày một thêm đông học trò. Từ đấy anh đồ đỡ vất vả hơn trước. Còn đứa con thì ông bà nhận nuôi nấng chăm sóc mà không tính công. Nhưng mỗi khi thằng bé khóc hờn thì không cách gì làm cho nó nín được, dỗ dành cũng dọa nạt đều chỉ phí công. Chỉ có đưa cho bố nó bế thì bao giờ cũng nín ngay. Một hôm, phú ông để ý rình xem vì sao thầy đồ có cách dỗ con tài tình như thế. Khi trông vào mảnh gương vỡ trong tay thầy đồ, phú ông vội kêu lên, ngỡ là thầy đã tự tiện lấy trộm mảnh gương vỡ bày trên bàn thờ của con gái mình, ông liền hỏi: - Tại sao Thầy lại dám lấy di vật của con gái tôi mà cho thằng bé chơi? Chàng họ Lê vội vàng nói: - Dạ không phải vậy đâu. Con nào dám tự tiện như vậy. Đây là mảnh gương của vợ con đưa để khi vắng nàng, con trẻ khóc thì đưa ra dỗ dành. Phú ông gằn giọng: - Có thật vậy không? Tai sao nó lại giống hệt mảnh gương của con gái ta để lại? Anh đồ cố gắng phân trần: - Dạ thưa đúng như thế. Nếu ông không tin thì tìm lại mảnh gương là biết rõ con nói thật hay nói dối. Phú ông liền cho người vào lục tìm ở bàn thờ thì quả nhiên mảnh gương vỡ vẫn còn. Ông ngạc nhiên nói: - Sao lạ thế nhỉ, Đâu? Thầy đưa mảnh gương kia cho tôi so thử xem thế nào! Anh đồ liền đưa ra ngay. Thật không thể ngờ được, khi đưa hai mảnh gương ráp lại thì vừa khít một tấm gương tròn trịa. Cả nhà đều ngạc nhiên vô cùng. Và sự ngạc nhiên ấy lại càng tăng lên gấp bội khi vết nứt bỗng liền lại trở thành một tấm gương chưa hề bị bể. Anh đồ khi ấy bất đắc dĩ mới đem chuyện mình gặp lại vợ như thế nào cho gia đình phú ông nghe. Từ đấy vợ chồng phú ông nhận thầy đồ làm con rể, và nhận con anh làm cháu ngoại. Anh ở vậy nuôi con không lấy vợ khác nữa. Còn đứa con thì về sau quả là học giỏi, thi đỗ làm quan đúng như lời mẹ nó báo trước...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-cuoi-ma" }
Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày
Xưa, có hai vợ chồng một nhà nọ làm ăn chí thú. Họ sinh được ba người con, đều là con trai. Hai vợ chồng nuôi con rất chăm chút. Từ lâu, tay họ làm ra rất nhiều tiền của, ruộng vườn, nhưng có miếng gì cũng nhịn ăn để dành, những mong gây dựng cho mỗi con một cơ nghiệp riêng. Cho đến ngày cưới vợ cho đứa thứ ba xong, chồng bảo vợ: - Chúng ta nhờ trời "con có của nên". Nay chúng ta đã đến kỳ răng long tóc bạc mà con thì đã khôn lớn cả. Vậy cũng nên chia tài sản cho chúng nó làm ăn, đứa nào lo phận nấy, để khỏi có sự tranh giành sau này. Có vậy mới yên hưởng tuổi già được! Thấy vợ ưng thuận, ông già bèn cho mời họ hàng làng nước lại lập chúc thư. Ông chỉ để lại cho mình và vợ một phần nhỏ tài sản để dưỡng lão, còn bao nhiêu của chìm của nổi đều chia hết cho các con. Tuy đã ngoài 60 tuổi nhưng ông già vẫn còn khỏe mạnh và chưa chịu để tắt chí kinh doanh. Vì thế, sau khi phân chia tài sản cho các con xong, hai vợ chồng lại lao vào công việc làm ăn. Với phần của dưỡng lão, họ lại đưa ra buôn bán. Không ngờ thần tài còn vượng, lãi mẹ đẻ lãi con, tiền bạc lại tuôn về như nước chảy. Không đầy bảy tám năm sau, họ lại trở nên giàu có như trước. Trong khi đó thì ba đứa con của ông, phần thì thiếu kinh nghiệm, phần thì siêng ăn nhác làm, nên cơ nghiệp mới nhen lên chưa được bao lâu đã trở nên sa sút. Một hôm, cả ba đứa con đều tìm đến gặp bố mẹ và nói: - Bây giờ bố mẹ ngày một yếu hèn. Theo ý chúng con, bố mẹ chỉ nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho khỏe, để phần tài sản lại cho chúng con quản lý, chúng con sẽ xin phụng dưỡng bố mẹ đến mãn đời. Ông già trả lời: - Bố mẹ cũng muốn như vậy lắm. Nhưng ngặt vì xưa nay cha mẹ nuôi con thì được, còn con nuôi cha mẹ có phải dễ đâu! - Bố mẹ đừng lo gì cả. Bọn con nói tiếp. Người ta không có của cha mẹ để lại cũng nuôi được cha mẹ thay, huống hồ phần tài sản của bố mẹ như thế thì lo gì mà chẳng nuôi được! Ông già nghĩ ngợi hồi lâu rồi hẹn ba tháng nữa sẽ trả lời. Xung quanh nhà ông già là một vườn cây ăn quả. Ở đấy có rất nhiều tổ chim. Một hôm ông bảo trẻ con lối xóm trèo lên cây muỗm tìm cho mình một tổ chim. Đứa trẻ trèo một chốc bắt xuống cho ông một tổ trong có bốn con: một cặp vợ chồng chào mào và hai con chim con. Ông già thả bố mẹ nó ra rồi làm một cái lồng đẹp, bỏ hai con chim non vào đó. Đoạn cho treo lồng lên cây. Và ông thấy hàng ngày chim cha và chim mẹ ríu rít mang mồi về bám vào lồng, thò cổ vào mà đút cho con. Ông già ngẫm nghĩ: - "Loài chim rất yêu con, dù con có bị bắt cũng không chịu bỏ". Khi hai con chim đã khôn, ông già lại sai bọn trẻ tìm cách bắt cho được hai con chim cha và mẹ lại. Bắt được rồi, ông bỏ chúng vào lồng mà thả hai con chim con kia ra. Nhưng vừa được phóng thích, hai con chim bay một mạch mất hút, không hề trở lại. Việc đó làm cho ông suy nghĩ nhiều. - "Đồ bội bạc! Chẳng có con nào nhớ tới bố mẹ của nó cả, nói gì tới chuyện đút mồi nữa". Và sau đó ông già kết luận: - "Con người ta cũng vậy thôi. Chỉ có trả nợ xuống mà không có trả nợ lên!" Ba tháng trôi qua, ba đứa con của ông già lại đến giục bố mẹ trả lời. Ông già kể cho họ nghe chuyện chim chào mào vừa qua, nói lên những nhận xét của mình rồi đáp: - Bố mẹ chẳng phải muốn giữ của lại làm gì đâu! Khi hai tay buông xuôi rồi, có mang được tý gì xuống âm phủ đâu mà giữ. Nhưng bố mẹ nghĩ rằng những đứa con thường chăm chút cho con mình hơn là cho bố mẹ. Vả chăng, khi đang có ăn thì còn có tình có nghĩa, khi đã túng thiếu rồi thì nào biết bố mẹ là gì nữa. Vì vậy, bố mẹ muốn ở riêng ra như thế này cho đến khi nhắm mắt tắt hơi, làm được gì ăn nấy, không phải làm phiền đến các con! Nghe nói thế ba đứa con hết lời thề thốt. Đứa thứ nhất thề rằng dù các em có bỏ bố mẹ chăng nữa thì nó cũng sẽ chăm lo cho bố mẹ đầy đủ. Đứa thứ hai thề rằng nó sẽ không để cho bố mẹ phiền hà lấy một câu. Đứa thứ ba thề rằng dù nó có nghèo khổ đến đâu, thì cũng đi ăn xin về nuôi bố mẹ. Bà vợ ông cũng bảo: - Con nó đã thề thốt như thế, ông nên nghĩ lại! Chim khác, người khác, ông ạ! Cuối cùng thấy vợ con nói đi nói lại mãi ông già dần dần xuôi lòng, bèn lại mời họ hàng một lần nữa chia phắt tất cả tài sản còn lại cho ba đứa con mà không dành lại cho mình một tý gì. Trong những năm đầu, ba anh em phụng dưỡng bố mẹ rất tử tế. Miếng ngon vật lạ hễ nghe đâu có bán là cố tìm mua cho bố mẹ ăn. Nhưng từ năm thứ ba trở đi việc hầu hạ đã có phần chểnh mảng. Thêm vào đó, công việc làm ăn của họ lại không khấm khá gì. Cả ba đứa con ông cụ đều là những tay "phá gia chi tử" không kém cạnh gì nhau, nên số tài sản của bố mẹ chia cho không mấy chốc lại đội nón ra đi mất cả. Sự khó khăn ngày một in sâu trên nét mặt họ. Và việc chăm sóc bố mẹ lại càng chểnh mảng. Hơn nữa, ba anh em họ, nhất là ba chị em dâu thường ganh tỵ nhau từng đồng tiền bát gạo. Trước kia cả ba hàng năm góp tiền lại cho một người để nuôi bố mẹ. Dần dần sự đóng góp không được đầy đủ như trước. Thấy kẻ này thiếu một vài quan, người nọ cũng nhất định giữ lại chừng ấy không chịu đưa. Về sau, họ bàn nhau mỗi người luân phiên nuôi bố mẹ một năm. Nhưng người anh cả sợ rằng lỡ ra bố mẹ chết sớm thì người chưa nuôi có lợi, mà người đã nuôi sẽ bị thiệt thòi, nên rút xuống nửa năm, rồi lại rút xuống ba tháng. Cuối cùng họ đồng tình mỗi người nuôi một tháng, nhưng không theo thứ tự nào cả mà bằng cách rút thăm. Càng già gân cốt càng suy, đi lại không được, do đó càng đòi hỏi phải chăm chút nhiều hơn. Thế mà trái lại, mỗi ngày sự nuôi nấng cha mẹ mỗi tệ, thậm chí con chỉ mong đến kỳ hạn để tống bố mẹ đi. Cứ như vậy chưa đầy ba năm bố mẹ vì không chịu được đói và rét, lần lượt qua đời. Do truyện này mà có câu: Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày. Hay là: Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cha-me-nuoi-con-be-ho-lai-lang-con-nuoi-cha-me-ke-thang-ke-ngay" }
Sự tích cá he
Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa được thành chính quả. Sư, bụng bảo dạ: - "Phải đến đất phật một phen mới có hy vọng thành Phật". Nghĩ vậy, sư ta quyết chí tìm đường sang Tây-trúc... Đương đi từ nước nhà sang Tây-trúc thuở đó thật muôn phần vất vả. Việc giao thông hầu hết là đường bộ, mà đi bộ trên con đường mịt mùng thăm thẳm thì mỗi bước là một hiểm nguy. Nhưng nhà sư trẻ tuổi vẫn quả quyết nhắm hướng Tây khởi hành. Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần mê man vì sốt, nhưng nhờ được giúp đỡ nên đều qua khỏi. Hễ dứt bệnh là chàng lại tiếp tục cuộc hành trình. Một hôm, đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ vì trong người đã thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn. Sư tỏ ngay ý định của mình là xin ngủ nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít: - Đi mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng đâu. Sư đáp: - Tôi bây giờ thật là kiệt sức, không thể nào bước được nữa. Nếu không cho nghỉ thì cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi. Bà cụ bảo: - Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai hay ăn thịt người. Cố đi nhanh lên, bây giờ nó sắp về rồi đó. Nhưng sư đã vứt tay nải, nằm vật xuống đất. Hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay y lôi đến một cái hầm đá lớn. Sau khi đẩy vào, bà cụ bảo y phải giữ cho thật im lặng để tránh một cái chết thê thảm. Đoạn, bà cụ chất củi phủ lá rất kín đáo. Trời tối hắn thì Ác Lai về đến nhà, tay xách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn nói: - Có mùi thịt mẹ ạ! Mẹ hắn đáp: - Thì chả thịt mày mang về đấy là gì? - Không phải. Thịt người. Con biết lắm. Có thịt người. Bà cụ chưa kịp can thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư bất tỉnh nhân sự từ dưới hầm về phòng mình. Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát: - Mày đi đâu? Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp: - Tôi đi tìm Phật. - Tìm để làm gì? Sư bấy giờ mới nói rõ mục đích của mình. Rồi luôn miệng, sư giảng giải đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian truân dọc đường, và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao được nhìn mặt đức Phật để Phật độ cho thành chính quả. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ác Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên "vô sinh vô diệt", sẽ sống một đời sống bội phần sung sướng trên Nát-bàn, nếu họ nhất quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác mới đó giờ đã dịu lại. Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho chàng. Họ lại tiễn đưa sư sang tận bên kia một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ác Lai hỏi: - Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? Sư đáp: - "Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm". Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ. Sư không ngờ Ác Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ ruột gan đưa cho sư và nói: - Nhờ hòa thượng đưa hộ dâng lên đức Phật. Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào đây. Cuối cùng sư ta đành nhìn vào cặp mắt của Ác Lai, gật đầu nhận lời rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó lại và quảy lên vai, cất bước ra đi. Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, biển lộ ra trước mặt mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư lại chẳng vui một tí nào. Món lễ vật của đức Phật đè nặng trên vai. Nếu chỉ có thế thì không có gì đáng ngại cho lắm. Khổ một nỗi là mùi thối từ bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư lẩm bẩm: - "Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình". Qua ngày hôm sau, không thể chịu nổi nữa, sư bèn vứt bộ lòng Ác Lai xuống biển. Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây-trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo chàng: - "Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả". Sư rất đỗi kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên một tí. Trên cao vời vợi, sư thấy hai người tựa hồ như hai mẹ con Ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Đức Phật đã rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi; còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ trong một lúc, ngộ đạo mau lẹ và chân thành. Sư nằm phục vị hồi lâu, lòng thẹn thò vô kể. Nhà sư ta sau đó lại trở về chốn cũ để tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thắm, nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai gửi cho mình. Sư nghĩ chỉ có làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ác Lai và hy vọng tới gần tòa sen đức Phật. Sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau đó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he, cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho đến ngày nay dòng dõi loài cá đó con nào con ấy có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm cái việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu nghỉ. Những người đánh cá còn nói loài cá he rất ghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện cũ của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm cho đắm thuyền rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi reo hò thì chúng nó sẽ lặn xuống nổi lên nhiều lần cho mà xem...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ca-he" }
Người thợ mộc Nam Hoa
Làng Nam-hoa có một người thợ mộc khéo tay tên là Chuẩn.Thưở trẻ ông lưu lạc khắp nơi vừa làm thuê vừa học nghề. Nghe ở đâu có thợ khéo là ông cố nằn nì xin học cho được, dù có phải phục dịch thế nào cũng rất vui lòng. Tuy nhiên, sau khi đi lang thang mấy chục năm trời, ông vẫn chưa gặp được thầy nào vừa ý. Một hôm, ông được dự vào việc xây dựng một ngôi đình ở làng nọ. Giữa bữa ăn trưa, bỗng có một ông già đến xin ăn. Các thợ khác đều lảng tránh hoặc xua đuổi, chỉ có ông Chuẩn sớt nửa phần cơm của mình cho cụ già. Đến lúc ông tiếp tục công việc thì cụ già mon men đến gần, mượn rìu và đục, thử tạc mấy nét. Ông Chuẩn bỗng hết sức kinh ngạc vì cụ già kia có một tài nghệ phi thường đến nỗi trông những con giống chạm trên gỗ cứ tưởng là con vật sống. Ông bèn sụp lạy, xin cụ già truyền cho mình cái bí quyết của nghề nghiệp. Từ đó ông Chuẩn trở nên khéo tay không ai bì kịp. Không những ông chạm trổ rất tài mà ông còn làm rất nhanh chóng. Bất kỳ công việc xây dựng nào khó khăn, ông đều cáng đáng được tất cả. Sau bao năm cách biệt, ông trở về quê hương. Cũng dịp ấy, làng Hoành Sơn ở gần làng ông có bỏ ra một số tiền lớn thuê thợ mua gỗ dựng một ngôi đình đồ sộ. Một toán thợ chọn trong những người giỏi nhất vùng được mời khởi công. Công việc tấp nập đã kéo dài hơn ba tháng nhưng vẫn chưa xong một góc đình. Ông Chuẩn nghe tin bèn làm ra vẻ đói khổ, tìm đến xin ăn và ngủ đêm tại đó. Sáng hôm sau, toán thợ thấy người ăn mày ấy đốt cháy mất của mình một cái kẻ chạm, liền đưa trình làng để phạt vạ. Trước mặt các chức dịch, ông Chuẩn nói: - Toi làm hỏng thì tôi sẽ đền. Vậy xin làng cho tôi một miếng gỗ để tôi chạm lại cái kẻ đó. Nếu quả là xấu không dùng được thì tôi xin ở đây làm phu để đền nợ. Thế rồi, chỉ một thoáng, ông Chuẩn đã hoàn thành những nét chạm trổ cực kỳ tinh xảo trên cái kẻ mới. Mọi người đều tấm tắc khen ngợi. Làng biết ông là thợ khéo, có ý mời ông trông nom việc xây dựng. Nhưng tốp thợ cũ không bằng lòng, họ chưa bao giờ nghĩ rằng có những cây bé con lại vượt lên trên những cây đại thụ được. Họ nói: - Thà là chúng tôi chỉ làm một nửa đình còn hơn là để cho người khác cầm đầu chúng tôi. Vậy xin chia một nửa số gỗ để làng giao cho người khác.Và chúng tôi mong được đua tài, bên nào xong trước và khéo hơn sẽ có quyền được lĩnh tất cả số tiền công của bên kia. Mặc dầu tốp thợ kia đã khởi hành trước đây ba tháng, ông Chuẩn cũng nhận lời. Ông chỉ một mình mà làm rất nhanh, khiến cho cả tốp thợ bên kia đuổi không kịp. Ông chạm rất khéo, đến nỗi đối phương ban đầu còn giấu tài, nhưng sau phải đến bắt chước kiểu mẫu của ông. Sau cùng, thấy không thể thắng nổi, tốp thợ vừa thẹn vừa tức, bỏ dở ra về. Nhờ có ông Chuẩn nên chẳng bao lâu làng đã dựng xong ngôi đình có quy mô rất hùng vĩ, điều đặc biệt là mỗi nửa đình có một kiểu chạm trổ khác nhau. Từ đấy, tiếng đồn về ông thợ Chuẩn ngày một lan rộng. Người ta đua nhau rước ông về dựng nhà cửa đền đài. Tất cả những nét chạm của ông đều làm đẹp lòng bọn quyền quý. * Một hôm, ông đang dựng một ngôi chùa lớn ở gần cửa biển. Công việc sắp xong. Bỗng đêm nọ ông đang ngủ, có hai người lạ mặt bước vào đánh thức dậy, bảo ông: -  Đức Long vương nghe tin ông tinh thông nghề mộc nên ra lệnh cho chúng tôi lên mời xuống sửa lại hoàng cung. Nghe nói, ông rụng rời cả người, định tìm cách thoái thác, nhưng chúng đã nghiêm nét mặt lại: - Không thể từ chối được lệnh vua đâu. Hãy thu xếp đi ngay, không được chậm trễ! Ông Chuẩn đành mang cưa đục lên vai, đi theo hai người lính của Long vương. Họ bảo ông nhắm mắt lại rồi rẽ nước cho ông đi xuống. Long vương trông thấy ông thì mừng rỡ vô cùng. Vua bảo: - Trẫm nghe tiếng đồn về nhà ngươi đã lâu, nay mới có dịp triệu đến. Từ lâu, trẫm đã không thích quy mô nhỏ hẹo của cái cung điện tiên đế dựng lên ngày trước. Bây giờ trẫm đã chọn được một chỗ đất tốt. Nhà ngươi hãy xây cho trẫm một cái điện thị triều sao cho thật tráng lệ. Còn trên gò Bích Lăng ngươi hãy xây một cái Cửu trùng đài thật nguy nga để bốn biển có thể chiêm ngưỡng. Xung quanh đó thì ngươi dựng lên ba cung sáu viện cho thật huy hoàng rực rỡ. Phải làm thế nào cho mỗi một nét chạm ở bất cứ chỗ nào cũng khiến cho mọi người trầm trồ khen ngợi mới được! Ngươi hãy hết sức vì trẫm, trẫm sẽ hậu tạ. Cần bao nhiêu gỗ, bao nhiêu phu, bao nhiêu vật hạng đều có đầy đủ. Nghe nói, ông thợ Chuẩn vừa mừng vừa sợ. Cho đây là một dịp để trổ tài nghệ của mình nên ông dốc tâm sức ra làm việc. Ông đã xẻ biết bao nhiêu là gỗ "chò" trên dương thế chở xuống. Ông vẽ kiểu, ông đẽo gọt, ông đục chạm liên miên không nghỉ. Cứ như thế sau ba năm hì hục quên ăn, quên ngủ, quên cả vợ con trên trần, ông thợ Chuẩn đã hoàn thành đại công trình cho Long vương. Tự tay ông đã dựng lên không biết bao nhiêu cung điện, lầu gác, hành lang, cầu, cửa, thủy tạ, v.v... làm cho một chốn hoang vu trở thành mái san sát, cột giăng hàng, rực rỡ cả một vùng biển cả. Sau khi đi xem khắp mọi nơi, Long vương và các triều thần vô cùng ưng ý, khen ngợi người thợ mộc hết lời. Ngày lễ lạc thành, vua sai mang ra một cái hòm rồi bảo ông thợ Chuẩn: - Trẫm rất cảm ơn nhà ngươi đã giúp trẫm trong việc xây dựng lớn này. Trẫm cho nhà ngươi hòn ngọc này để thưởng công. Thế nhưng, tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở dưới này, ngươi không được nói cho bất kỳ một ai biết. Ông Chuẩn một hai xin thề, nhưng Long vương nói: - Có thêm cái này thì nhà ngươi mới giữ kín miệng. Đoạn vua bảo ông thợ Chuẩn há miệng ra, bỏ một cái lá rêu vào, bắt nuốt lấy, rồi vua nói tiếp: - Nếu nhà ngươi tiết lộ những chuyện bí mật trong giang sơn của trẫm thì lưỡi dao vừa nuốt đó sẽ không tha thứ cái cổ của ngươi đâu! Ông thợ Chuẩn chỉ còn biết vâng vâng dạ dạ. Hai tên lính ngày nọ lại được Long vương gọi đến, bảo đưa ông lên cõi trần. Nước lại rẽ ra cho người thợ mộc đi thẳng về bến sông Nam Hoa với hòm tặng vật. Khi trông thấy làng mạc quê hương, ông thợ Chuẩn tưởng như mình được sống lại. Thấy vợ con còn chít khăn tang cho mình, ông mừng mừng tủi tủi. Nhớ lại lời dặn của Long vương, ông không dám rỉ răng kể lại sự thật, đành phải bịa chuyện cho mọi người yên tâm. Lúc mở hòm, quả có ba mươi viên ngọc lấp lánh. Hai vợ chồng lần lượt bán ngọc để ăn đói. Người ta trả giá không được bao lăm. Mãi về sau gặp một thuyền buôn nước ngoài; người phú thương chủ thuyền khi cầm lấy viên ngọc thứ hai mươi của ông Chuẩn mang ra bán thì không giấu được vẻ kinh ngạc. Hắn nói: - Đây là ngọc "minh châu" quý giá không thể nói hết! Đoạn hắn vét tất cả tiền của mình còn lại gần một ngàn quan trao cho ông để được làm chủ viên ngọc. Từ đó, ông thợ Chuẩn trở nên giàu có. Ông bán tất cả, chỉ chừa lại hai viên làm kỷ vật. Rồi ông tậu ruộng, làm nhà cửa, cuộc đời trở nên sung túc hơn trước. Khi ông thợ Chuẩn làm lễ mừng thọ tám mươi tuổi, biết mình đã đến ngày gần đất xa trời, mới cho gọi tất cả con cháu họ hàng làng mạc lại. Ông bắt đầu kể cho mọi người nghe cái ngày bị Long vương bắt đi xây cung điện như thế nào. Ông kể rất nhanh và rất tỷ mỷ những điều tai nghe mắt thấy ở dưới đó. Kể xong, bỗng nhiên ông lịm đi trên giường. Người ta thấy có một lưỡi dao nhỏ bằng lá rêu đã xuyên qua cổ ông, lòi ra ngoài. Sau khi làm đám ma ông, hai viên ngọc trong hòm cũng không cánh mà tự biến mất...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-tho-moc-nam-hoa" }
Lưỡi dao thần
Xưa kia, có một em bé ở đợ chăn trâu cho nhà giàu. Đàn trâu nhà này đông lắm, không ai chịu cho em chăn chung. Quanh năm em phải một mình chăn riêng đàn trâu, giữa chốn rừng hoang, đồng vắng. Chẳng có ai trò chuyện. Đến bữa, tuy nắm cơm của mình đã ít ỏi, em cũng bẻ đôi, lấy một nửa vãi ra cho lũ chim ăn cho vui.Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trầu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy. Lo mất trâu, sợ chủ đánh, em liền theo bờ sông ngược lên, đi tìm. Đến chỗ con sông khúc, nước xoáy tròn như chong chóng, hai bên bờ có nhiều cây lạ, hoa thơm, cỏ non tươi tốt, thì gặp đàn trâu. Đúng trưa, mặt trời đỏ rực như một chậu lửa. Nóng quá, em xuống sông tắm. Có một con rùa nước chỉ bằng quả trứng, bị hòn đá to đè lên một chân. Con rùa quẫy mài mà không sao rút chân ra được. Em bé thương con rùa, đến vần hòn đá cứu sống nó. Từ đó trở đi, hôm nào em cũng đuổi trâu đến đấy. Vì cây cỏ chỗ này tươi tốt bốn mùa. Ngày tháng trôi qua, đàn trâu đã trông gấp đôi. Em bé cũng đã trở thành một chàng trai khoẻ mạnh. Một hôm chàng trai đang ngồi dưới bóng cây, vãi cơm cho chim ăn, bỗng nghe gió thổi ào ào, cỏ cây bốn bên ngã rạp. Chàng nhìn lên trời, thấy ba chị em cô tiên vạch mây bay xuống. Ba cô tiên đáp xuống chỗ xoáy nước cởi áo để bên bờ, rồi cùng lội ra tắm. Ba cô đều đẹp, nhưng cô út xinh nhất. Chàng chăn trâu muốn lấy cô này làm vợ, liền lẻn ra lấy bộ xiêm áo của cô rồi vào bụi ngồi. Mặt trời đã đứng bóng. Các cô tiên sắp sửa về cõi tiên, nhưng cô tiên út bị mất xiêm áo, ngồi trong bụi cây, cô tiên cả vỗ tay ba cái. Chiếc áo liền bay vụt ra, còn chàng chăn trâu thì nằm lăn ra chết. Từ hôm ấy trở đi, khi mặt trời tròn bóng, ba cô tiên đều xuống đây tắm. Còn xác chàng chăn trâu thì đã thối rửa, hoá bọ, hoá giòi. Có một con giòi rẽ đám, bỏ ra, rơi xuống sông, gặp con rùa bị đá đè, được chàng chăn trâu cứu dăm năm về trước, cũng đang luẩn quẩn ở đây. Con rùa này là con vị Thủy thần, khi đi chơi, bị mắc cạn, nhờ ơn cứu sống, con rùa chờ dịp đáp đền. Hôm nay, con rùa biết chàng chăn trâu bị chết, nên đến đây cứu. Trông thấy con giòi rơi, rùa đến ngửi hơi, biết là chàng chăn trâu đang chết ở đây. Rùa bò lên bờ, tìm được. Nó nhỏ vào cái thây chết ba giọt nước bọt. Chàng chăn trâu sống lại, ngồi thẳng lên, người khoẻ mạnh gấp mấy lần trước kia. Rùa bảo chàng: – Ơn người, ta đã đền rồi! Nay ta bảo cho thêm một cây thuốc sống. Giữ cây thuốc sống này bên mình, người sẽ sống mãi. Có ai chết, lấy cây thuốc này chỉ vào người chết sẽ sống lại. Nói xong, rùa biến mất. Chàng chăn trâu chưa hết ngơ ngác bàng hoàng, đã thấy cây thuốc trước mắt. Cây thuốc chỉ bằng que tăm, xanh như lá mạ, hai đầu bằng nhau, chẳng biết đâu là gốc đâu là ngọn. Chàng xé vải áo cài cây thuốc vào. Ba cô tiên lại vạch mây bay xuống. Tưởng không còn ai, cả ba cô vứt bừa khăn áo trên bờ, chạy ùa xuống nước. Có cây thuốc sống chàng trai chẳng sợ chết nữa, đi thẳng đến lấy chiếc áo của cô thứ ba cắp vào nách, đứng nhìn. Ba cô tiến trông thấy, chạy ùa lên bờ, vỗ tay, hoá phép. Chàng vẫn đứng trơ trơ. Hai cô chị sợ quá, vội vàng tranh lấy áo mặc, bay về trời. Còn cô thứ ba ở lại, làm vợ chàng chăn trâu. Lấy được người vợ xinh đẹp, nhưng chàng chăn trâu vẫn sống trong cảng nghèo nàn. Tuy vậy, vợ chồng ăn ở hoà thuận. Sau một năm, hai người đã sinh một đứa con trai. Một hôm, vào giữa mùa cây, chàng đuổi trâu đi chăn. Vợ chàng ở nhà, trút bồ thóc ra phơi. Trông thấy chiếc áo tiên chiếc áo tiên chồng giấu dưới đáy bồ, cô vợ đem ra ướm thử. Đi đã lâu, cô tiên nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ chị, nhớ cả làng tiên, nên bay vút lên trời. Khi đuổi trâu về, thấy nhà vắng, con khóc, bếp không có lửa, chàng chạy vào tìm chiếc áo tiên, thì chiếc áo đã mất. Biết vợ đã về trời, chàng đứng ngồi không yên. Thương xót, khóc kể… Chàng bế con đi tìm vợ, không biết bao giờ mới trở lại nhà cũ cảnh xưa. Trước khi đi, chàng bế con đến thăm lại chỗ xoáy nước. Con rùa lại chờ chàng ở đó. Rùa cho chàng thêm hai viên thuốc, một thanh đao, và dặn: – Thuốc phải uống ngay mỗi người một viên. Còn thanh đao thì chớ để mất. Bao giờ gặp tai biến, đao sẽ tự giải nguy. Chàng chăn trâu cho con uống một viên thuốc. Đứa bé mới biết ngồi, bỗng to lớn khoẻ mạnh hơn cha. Chàng uống luôn viên thuốc còn lại. Người chàng cũng cao hơn, khoẻ hơn trước kia năm bảy lần, đủ sức đi cùng trời cuối đất. Chàng liền đeo vào lưng, cầm cây thuốc sống trong tay, đưa con đi thẳng về hướng mặt trời mọc. Đi được ba tháng, cha con chàng gặp một con rác. Con rác cao như bụi tre, chân to bằng chân cột đình. Rác thích ăn lươn sống. bắt hai cha con chàng đi tìm lươn cho nó ăn. Nó bảo: – Nếu cha con mày trốn, tao sẽ cắt đứt đầu. Trong vòm trời này, chỗ nào tao bay cũng đến, trốn đâu tao cũng tìm được. Có cây thuốc sống trong mình, hai cha con chàng không sợ chết, nhưng biết không làm sao trốn khỏi đôi cánh to như mái đình của con rác, nên phải chịu nghe nó để lần hồi tìm kế thoát thân. Ngày ngày, hai cha con chàng chăn trâu phải ra đồng, bắt cho nó mấy giỏ lươn. Đến mùa mưa bão, nước ngập trắng đồng, không còn chỗ bắt lươn. Con rác đói, nuốt người bố vào bụng nó, mà không bị trầy da, rách thịt. Có sẵn cây thuốc sống trong người, chẳng biết ngạt, biết đau, chàng cựa quậy, cào xé trong ruột con rác. Bị đau, nó vùng vẫy, lăn lộn, giẫm quang một vùng cây rậm rạp. Cuối cùng, con rác phải chịu thua. Nó bảo: – Tao không bắt mày đi tìm lươn nữa! Cha con mày muốn đi đâu thì đi… – Mày chẳng làm sao hại được tao. Mày không thả tao cũng chả cần! Chàng chui lên cổ con rác nói vọng ra những lời đó, rồi cào cấu mạnh hơn. Con rác nài nỉ: – Tao cho hai cha con mày hai cái lông của tao, nó rất cần cho những người đi biển. Để con rác sống e cản trở đường đi, chàng rút dao cắt đứt ruột nó, rạch bụng chui ra, nhổ hai cái lông cánh, rồi đưa con đi tiếp về phía chân trời. Cha con chàng đi chẳng bao lâu đã hết đất, đến biển. Biển rộng mênh mông, nước xanh ngắt, sóng đập ào ào. Xung quanh vắng lặng, chẳng có người qua lại cũng chẳng có thuyền bè ngược xuôi. Hai cha con chàng đem thanh dao vào rừng đẵn một cây to, khoét ruột làm một chiếc thuyền. Người con lấy nước trầu của cha đang ăn sơn lên thành chiếc thuyền màu đỏ. Lại lấy hai cái lông của con rác cắm đứng lên, đợi gió. Hai cái lông to xoè rộng như hai cánh buồm. Chờ đến ngày nổi gió, hai cha con chàng đẩy thuyền ra biển. Gió mạnh, thuyền rẻ sóng chạy băng băng, nhanh hơn ngựa hay chạy trên đất liền. Mặc cho gió đổi hướng, con thuyền vẫn chạy theo ý định của hai cha con. Chạy qua bên kia biển, con thuyền gếch mũi lên không. Gió lại thổi mạnh. Chiếc thuyền bay bổng lên trời, bay thẳng đến động tiên. Tiên cha đang ngồi xem sách thấy thuyền lao vút đến, liền hỏi các con: – Đứa nào xuống trần mắc nợ, để người trần lên quấy thiên cung? Cô tiên thứ ba thú tội “Trót để nhớ thương cho một người chăn trâu nghèo khổ”. Tiên cha nổi giận, truyền trói cô tiên ấy lại, rồi giục quân ra chặn đánh, không cho hai cha con chàng chăn trâu vào làng tiên. Quân tiên đổ ra đông như một bầy ong, vây chặt chiếc thuyền. Anh chăn trâu xưa nay chưa hề biết chuyện cung kiếm, cũng như chưa bao giờ thấy quân hùng tướng mạnh, nay gặp quân nhà trời, người anh run cầm cập, một tay cầm dao, một tay ôm chặt “cây sống” vào người. Người con trai cũng chưa biết đánh chác ra sao, nên cứ cầm thanh dao nhìn qua, nhìn lại. Bỗng không biết từ đâu, có tiếng nói vọng đến tai anh: - “Bao giờ quân nó đến gần, lật lưỡi dao lên, chúng nó sẽ đứt cổ, thủng bụng”. Anh vững dạ, cầm chắc thanh đao, mắt lăm lăm nhìn quân tiên tràn tới. Khi quân tiên còn cách mình ba bước, anh lật lưỡi dao lên. Tiên cha lại giục quân ra thêm. Nhưng quân tiên ra thêm bao nhiêu, cũng đều bị lưỡi dao thần giết chết. Hai cha con chàng đi thẳng vào thiên cung. Quân tiên sợ trốn hết, chỉ còn cô tiên bị trói đứng đó. Chàng tiến đến cởi dây. Vợ chồng, mẹ con gặp nhau, vừa mừng vừa tủi. Cô dẫn con và chồng đến xin lỗi cha. Tiên cha hết phép hết quân nên phải bằng lòng để cho cô tiên út trở về trần gian. Chàng chăn trâu đưa vợ con trở lại chỗ chiếc thuyền. Chiếc thuyền bay thẳng một mạch từ thiên cung về biển, rồi từ biển vào đất liền, ngược theo một con sông trở về làng cũ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/luoi-dao-than" }
Bốn người bạn
Xưa có bốn người bạn, mỗi người quê quán một phương. Vì thuở trẻ cùng học với nhau một thầy, nên họ có dịp sống chung với nhau lâu ngày, rồi dần dần trở nên những người bạn nối khố. Về sau lớn lên, họ lại từ giã thầy, mỗi người làm ăn một ngả. Trong số bốn người ấy, chỉ có Giáp là khá nhất, hắn làm chủ một tư cơ đồ sộ, tiền bạc như nước, giàu đến nứt đố đổ vách, còn ba người kia thì nghèo rớt mùng tơi. Giáp là một người thâm hiểm và hiếu sắc. Tuy giàu có sung sướng nhưng trong lòng Giáp vẫn cảm thấy phiền muộn, vì hắn lấy phải một người vợ tuy mang về cho hắn nhiều của nả, nhưng bề nhan sắc lại chẳng ra gì. Bao nhiêu lần hắn muốn kiếm vợ lẽ nhưng chẳng dám, vì vợ hắn nắm hết tiền bạc trong tay. Nhiều lúc máu độc ác nổi lên, muốn cô nàng chết đi cho rảnh để hắn lấy vợ khác nhưng cô nàng vẫn cứ phây phây... Ngày còn đi học, Giáp được trông thấy người vợ của Ất, một trong ba người bạn của hắn, xinh đẹp dễ coi. Giáp đâm ra ganh tị với bạn. Hắn tơ tưởng rất nhiều về người đàn bà này và ao ước có ngày chiếm được người ngọc vào tay mới thỏa dạ. Một hôm, nhân có Ất đến chơi nhà, Giáp đon đả bảo bạn: - Bác bảo bác nghèo túng, sao bác không ném sách đi buôn một phen? Cứ mãi theo nghiệp đèn sách thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nổi? Ất lắc đầu: - Đi buôn thì phải có vốn. Vốn đâu dư dật ở tôi mà buôn với bán? Giáp bèn đặt ra trước mặt Ất một trăm quan tiền mà rằng: - Chỗ bạn bè, tôi vui lòng cho bác vay số tiền này làm vốn mở đầu. Tôi sẽ mách bác một người tôi quen, bác có thể buôn chung với họ một ít lâu cho thạo nghề. Chỉ mong rằng khi tiền trăm bạc ngàn tuôn về nhà bác, thì bác đừng quên tôi và số tiền nhỏ mọn này là đủ. Không ngờ bạn lại quá tốt bụng với mình như thế, Ất bối rối cảm tạ và giơ tay lên trời, một hai thề bồi rằng mình sẽ suốt đời không quên ân nhân. Cuối cùng Ất mang tiền về, rồi dặn vợ trông nom nhà cửa và mẹ già, đoạn theo lời Giáp mách, từ biệt vợ, lên đường tìm đến nhà người lái buôn lo làm ăn một phen xem thử ra sao. Ất đâu biết rằng mình đang sa vào một âm mưu thâm độc của gã bạn bất nghĩa và hiếu sắc. Sau khi theo dõi và biết chắc là Ất đã vắng nhà, Giáp liền bắt đầu thi hành mưu kế cực kỳ nham hiểm và độc ác. Một hôm, nhân lúc vợ mình đang ngủ say, máu tham sắc đã làm hắn mất hết tính người và trở nên ác độc khôn cùng, hắn nhẫn tâm bóp cổ vợ cho đến chết, rồi cắt đứt đầu vợ giấu dưới một cót thóc. Xong xuôi đâu đó, hắn đến nhà Ất dùng lời nói khéo mời vợ Ất qua nhà mình. Hắn liền bịa chuyện bảo: - Anh ấy trước khi đi buôn có gởi tiền cho nhà tôi, bảo chị tới nhận nhưng dặn đừng cho ai biết cả, kẻo bọn chủ nợ hay được thì chúng không để cho chị yên đâu. Người đàn bà nọ vốn được nghe chồng ca ngợi về lòng tốt của Giáp, tin rằng họ là bạn tốt với nhau từ hồi nào đến giờ, vả lại gia đình đang cơn túng thiếu, nên nghe nói thế thì không mảy may nghi ngờ, bèn theo hắn sang nhà. Khi đưa được vợ Ất về nhà, Giáp đem tiền của và lời nói ngon ngọt hết sức dỗ dành để nàng trở thành nhân tình của hắn, nhưng hắn không ngờ rằng người đàn bà ấy một lòng một dạ với chồng, thà chịu chết chứ không chịu nhục. Cuối cùng, vì không thể thuyết phục được người thiếu phụ trung trinh ấy, hắn đành phải dùng biện pháp mạnh, giam nàng vào trong một gian buồng kín, rồi khóa chặt cửa lại. Hắn dặn đứa đầy tớ gái của mình không được hé môi cho ai biết, phải trông chừng và hằng ngày đưa cơm nước cho vợ Ất, hy vọng ngày một ngày hai sẽ ép được nàng ưng thuận ăn ở với mình. Hắn còn lo rằng đứa đầy tớ gái phanh phui chuyện bí mật của mình, nên bắt cô gái uống một liều thuốc mua được của một người khách buôn nước ngoài. Uống xong, cô gái tự nhiên rụt lưỡi lại, miệng ú ớ không nói thành tiếng được. Rồi nhân đêm tối, hắn bí mật đem cái xác không đầu của vợ mình ném sang nhà Ất để tìm cách hại bạn. Lại nói chuyện Ất, Sau chuyến buôn đầu tiên được chia một phần tiền lãi, hí hửng định mang về khoe với vợ, ngờ đâu khi về đến nhà, anh không còn hồn vía nào nữa khi thấy vợ mình chỉ còn là một cái xác lõa lồ không đầu nằm vất vưởng trên nền đất, da thịt đã muốn rữa, trông rất thương tâm và kinh khiếp. Ất chưa kịp than khóc thì tuần tráng đã ập vào nhà, gông cổ lại giải lên quan, cho rằng anh đã giết vợ. Ất một hai kêu oan, nhưng anh không cách gì giải được mối nghi ngờ của đám nha lại. Sau những ngày tra khảo trong ngục, vì không chịu nổi cực hình nên Ất đành phải nhận liều. Bọn quan huyện, tỉnh đều nhất tề khép Ất vào tội giết vợ. Án được bộ hình chuẩn y, Ất bị tống giam, chỉ còn đợi ngày ra pháp trường. Ngày ấy có lệ những tội nhân bị án tử hình nếu nộp vào kho công một nghìn quan và có người bảo lĩnh thì có thể chuộc được tội chết. Vì thế, khi Ất bị giam, bà mẹ Ất chạy vạy khắp nơi để vay mượn và cầu thập phương bố thí. Thân thích xóm làng cũng như khách qua đường khi nghe kể chuyện oan ức của Ất, ai nấy đều động lòng thương, vui lòng giúp đỡ kẻ ít người nhiều. Dù vậy, mẹ Ất cũng không sao có đủ một số. Hai người bạn khác của Ất tên là Bính và Đinh, nghe tin Ất bị nạn liền vội vã tìm đến nhà ngục thăm hỏi. Sau đó họ gặp người mẹ của Ất đang đứng trước ngã tư đường cái, nước mắt giàn giụa cầu khẩn lòng thương của kẻ qua người lại. Nghe mẹ Ất kể chuyện, Bính và Đinh sực nhớ tới Giáp là người giàu có, có thể vì tình bạn bè mà giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn. Nghĩ vậy, họ bèn an ủi bà và hứa sẽ làm hết sức mình để cứu Ất khỏi cái chết. Bính và Đinh tới nhà Giáp kể lể mọi việc xảy ra tại nhà Ất, tai họa từ đâu bay tới quàng vào cổ bạn để nay mẹ già phải dầm mưa dãi nắng bên đường. Cuối cùng, họ ngỏ ý cầu xin: - Hiện nay, nếu gom góp tất cả số tiền quyên được cộng với số tiền bán gia tư điền sản của chúng tôi thì may lắm cũng chỉ được độ năm trăm quan, còn năm trăm quan nữa không biết làm thế nào, chúng tôi đành lại đây kêu gọi tình bạn của anh mong anh giúp cho. Nhưng hai người đâu có ngờ rằng trong thâm tâm Giáp chỉ muốn cho Ất chết, có thế thì mọi việc của hắn mới mong trôi chảy. Hắn nói: - Ai biết anh ấy lại không là thủ phạm?! Xem việc anh ấy quịt tôi một trăm quan tiền thì biết. Anh ấy cầu khẩn vay tiền nói là để đi buôn, tôi sẵn lòng cho anh ấy vay, nhưng mấy lần đi đòi, chẳng thấy trả được một đồng nào. Sát nhân giả tử. Anh ấy giết vợ thì trời sẽ hại, dù chúng ta cố hết sức cứu cũng không thoát. Thấy không thể lay chuyển được lòng dạ của Giáp, Bính và Đinh bèn quyết định hy sinh thân mình để cứu bạn. Họ bèn lên quan nói rằng, vì thấy vợ Ất đẹp quá nên hai người thừa dịp Ất đi vắng đến bắt để hãm hiếp. Xong cuộc, sợ nàng tố cáo nên giết đi, chặt lấy đầu vứt xuống sông cho mất tích. Nay cả hai người hết sức hối hận, biết rằng thế nào cũng có ngày bại lộ nên ra thú trước để may ra nhờ lượng trên khoan giảm. Quan nghe chuyện Bính và Đinh tự thú thì lập tức sai quân binh giam hai người lại, đoạn ký lệnh tha bổng Ất, cho về với mẹ già. Án của Bính và Đinh không mấy chốc mà thành. Với tội ác như đã nêu, họ bị kết án lăng trì tùng xẻo và bêu thây, nhưng vì “tiên năng tự thú” nên chỉ làm án chém. Và ngày giải ra pháp trường đã đến. Bính và Đinh biết án tử đang chờ mình, nhưng vì thấy bạn bị oan nên thà chết để cứu bạn còn hơn. Đến ngày hành quyết, hai người bị giải lên pháp trường, khi lý hình sắp sửa khai đao thì người ta bỗng thấy một cô gái cố len khỏi vòng người chật ních, tất tả chạy đến trước mặt quan. Hai tay cô ta chỉ chỉ trỏ trỏ, miệng nói ú ớ, ra dấu hiệu như muốn ngăn cản vậy. Quan lấy làm lạ, nghĩ rằng cô gái câm này hẳn có biết ít nhiều về án mạng chi đây, nên vội hạ lệnh cho đao phủ ngừng tay, giải tội nhân trở về nhà giam để đợi tra cứu. Về đến công đường, sau khi tra xét và phán đoán, quan cho rằng đúng người này bị câm là do nhầm thuốc, quan bèn sai tìm thầy thuốc cắt cho người con gái nọ một chén thuốc chữa tật câm. Chén thuốc rất hiệu nghiệm, cô gái quả lần lần nói được, đó chính là người đầy tớ gái nhà Giáp. Cô ta liền kể lại rành mạch những hành động gian ác của chủ mình cho mọi người hay để quan khỏi phải án oan cho những người lương thiện kia. Vụ án nhờ thế mà được sáng tỏ. Quân lính được lệnh kéo ngay đến nhà Giáp, mở cửa buồng trả vợ Ất về với chồng. Giáp thấy vậy liền tìm cách thoát thân nhưng không còn kịp nữa, quân binh đã kịp thời bắt được và đóng gông lại, điệu vào nhà lao lãnh án tử hình thay cho Bính và Đinh. Nghĩ tình bạn bè, hai người này cố sức trình bày với quan để Giáp được khỏi chết với số tiền chuộc tội một nghìn quan. Cuối cùng thì quan cũng chấp thuận cho Giáp được tạm miễn tội chết sau khi nộp tiền chuộc theo luật thời ấy. Nhưng khi tội nhân vừa được tháo gông, bước ra khỏi công đường, thì bỗng dưng một tiếng sét nổ vang giữa trời quang mây tạnh. Thần Sét đã ra tay trừng trị kẻ gian ác chết tươi ngay trước mặt mọi người. Không còn cách gì hơn, người ta đành khiêng xác Giáp về nhà hắn để mai táng. Ngờ đâu khi đi dọc đường, bỗng có một con hổ chẳng biết từ đâu tới, nhảy xổ ra vồ lấy xác của Giáp tha đi mất tích. Thật đáng đời một kẻ manh tâm độc ác, không bị người đời trừng trị thì cũng khó thoát khỏi lưới trời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bon-nguoi-ban" }
Chàng ngốc được kiện
Ngày xưa có anh chàng nghèo khổ không nhà không cửa, không cha không mẹ, tính ngốc nghếch, nên người ta gọi là chàng Ngốc. Anh đi ở với một nhà trọc phú, làm quần quật suốt ngày này sang ngày khác không biết mệt. Trọc phú thấy anh khỏe mạnh dễ sai, nên sau năm năm, lúc anh ngửa tay đòi tiền công, hắn bèn dỗ dành anh làm thêm năm năm nữa. Nghe những lời ngon ngọt của hắn, anh lại vui lòng ở thêm một thời hạn mới. Lại năm năm nữa trôi qua. Thấy anh đòi tiền ông để về, trọc phú lại dỗ: - Thầy trò mình biết nhau đã lâu, chia tay không nỡ. Thôi! Mày cứ ở với tao năm năm nữa đi! Sau năm năm tao sẽ trả cho mày luôn cả mười lăm năm là ba nén vàng. Lúc đó thì mày sẽ trở nên giàu có. Nghe bùi tai, anh lại đổ sức đổ lực ra làm việc cho hắn thêm năm năm. Lần này hết hạn, anh nhất định đòi chủ trả công để về. Trọc phú dỗ mấy cũng không nghe, bèn mang ba nén vàng ra trả, chàng Ngốc được vàng hý hửng cầm đi, không biết rằng đó là ba nén vàng giả mà trọc phú cố ý thửa, để lật lừa tiền công. Còn anh khi có tiền trong tay liền định bụng trẩy kinh, ngao du một phen cho thỏa lòng ao ước. Đi được mấy trạm, anh gặp một người thợ bạc, hai người làm quen trên một đoạn đường. Người thợ bạc hỏi anh làm gì và đi đâu, anh không giấu giếm một tý nào cả, nhân đưa ba nén vàng ra khoe. Người thợ bạc cầm lấy vàng biết ngay là vàng giả, nhưng thấy anh ngu ngốc, hắn ta mới nghĩ đến việc lợi dụng. Hắn bảo anh: - Ở chốn kinh thành, trừ các nhà quyền quý không kể, còn những bọn như chúng ta cầm vàng rất khó mua bán. Sao anh không đổi ra bạc, đi đến đâu cũng tiêu được. Sẵn tôi có bạc đây, anh có muốn tôi đổi hộ cho, cứ một nén vàng ăn hai nén bạc. Muốn không? Chàng Ngốc thấy hắn bàn có lý, liền khẩn khoản nhờ đổi hộ. Không ngờ, đây chỉ là sáu miếng chì được đúc thành sáu thỏi rất khéo, nhưng cả đời anh nào biết mặt mũi vàng bạc là cái gì đâu, nên vui vẻ cầm lấy mà tiếp tục lên đường. Đi đến một nơi khác, anh gặp một người hàng giấy bèn cũng lân la làm quen, và nhân vui miệng anh kể rõ lai lịch số bạc cùng ý định trẩy kinh của mình cho người bạn đường biết. Người hàng giấy nhìn thấy mấy nén bạc biết là của giả, nhưng đang lúc cần chì, hắn bèn gạ đổi một nghìn tờ giấy lấy sáu nén "bạc" của anh. Hắn chỉ vào thứ giấy lụa gió nói: - Đây là thứ lụa đẹp nhất gọi là "lụa đinh kiến", quý lắm, tôi mang đến đâu người ta cũng tranh nhau mà mua. Anh cứ mang đến kinh mà bán, mỗi một vuông lấy một quan thì tha hồi là tiền. Nghe bùi tai, chàng Ngốc lấy sáu nén bạc ra đổi và mang nghìn tờ giấy đi. Đến một trường học, anh thấy có mấy người học trò đang chơi một cái chong chóng làm bằng những mẩu giấy xanh đỏ rất đẹp mà anh chưa trông thấy bao giờ. Anh chen vào đám đông để xem và hỏi: - Cái gì thế này? Một người học trò nói đùa: - Đây là cái "thiên địa vận", dùng nó có thể thông thiên đạt địa, mọi việc trên thế gian việc gì cũng hay biết trước, quý không nói hết. Thấy anh có vẻ thèm thuồng món đồ chơi đặc biệt, bọn chúng lại tán: - Anh có thích cái "thiên địa vận" này không? Nếu anh muốn mua chúng tôi cũng bán, nhưng phải nhiều tiền mới được! Chàng Ngốc rất say mê về sự mầu nhiệm của cái "thiên địa vận" nên cố vật nài: - Tôi không có tiền, chỉ có một ngàn "lụa đinh kiến" đây, mong các anh đổi cho tôi. Bọn học trò nhìn thấy đệp giấy thì không còn gì mừng hơn, nên cuộc trao đổi giải quyết rất chóng vánh. Chàng Ngốc cầm cái "thiên địa vận" ra đi, trong lòng khấp khởi mừng thầm, vì nghĩ rằng mình sẽ có lúc thông thiên đạt địa và được mọi người kính phục. Anh lại tiếp tục cuộc hành trình. Qua một cánh đồng rộng, thấy một đám trẻ chăn trâu đang ngồi chơi ở vệ đường, chúng nó bắt được một con niềng niễng lớn, có đôi cánh xanh đỏ trong rất đẹp và kỳ lạ. Tò mò, anh dừng lại rồi sán vào xem. Bọn chăn trâu không cho xem, chúng bịa ra cho anh hốt: - Đây là "ngọc lưu ly", đeo nó vào người về mùa hè thì mát, về mùa đông thì ấm, vô cùng quý giá, chưa chắc đức hoàng đế đã có được. Chàng Ngốc không ngờ lại có thứ của quý đến nỗi vua cũng không làm gì có, mới đưa cái "thiên địa vận" của mình ra xin đổi. Bọn trẻ thấy có món đồ chơi đẹp liền bằng lòng ngay. Chúng nó bỏ con niềng niễng vào trong một cái túi vải con, thắt miệng túi lại và dặn anh: - Lúc nào về đến nhà hãy mở ra xem, nếu không, ngọc nó bay lên trời là mất toi đó. Được ngọc lưu ly, chàng Ngốc bụng bảo dạ: - "Ta may mắn được hòn ngọc quý mà vua cũng chẳng có. Âu là khi đến kinh, ta đem dâng lên vua, chắc là vua phải thích". Anh nghĩ sao làm vậy, cho nên qua ngày hôm sau, đến kinh đô, anh lập tức tìm vào hoàng cung quyết gặp mặt vua để dâng ngọc. Bọn lính gác cửa Ngọ môn thấy có một người ăn mặc rách rưới đòi yết kiến thiên tử thì nhất định không cho vào. Chàng Ngốc kể lể: - Tôi đi ở mười lăm năm được ba nén vàng, rồi sáu nén bạc, rồi một ngàn lụa đinh kiến, rồi cái thiên địa vận, mới đổi được hòn ngọc lưu ly này đem dâng hoàng đế. Vừa khi có một ông quan đại thần sắp sửa vào chầu vua, nghe anh nói thế thì vội chạy lại bảo anh đưa ngọc cho mình xem trước rồi sẽ đưa vào gặp vua. Anh lấy túi vải đưa ra. Không ngờ, khi ông quan vừa mở cái túi thì con niềng niễng đã bay vụt lên trời, không làm sao bắt được. Thấy thế, chàng Ngốc vội nắm lấy áo ông quan kêu khóc ầm ĩ, nhất định bắt đền cho được. Bọn lính xúm lại lôi anh ra, anh kêu to lên và quyết nằm vạ. Việc đến tai vua, vua cho dẫn chàng Ngốc vào hỏi đầu đuôi câu chuyện, Ngốc tâu: - Tôi đi ở mười lăm năm được ba nén vàng, rồi sáu nén bạc, rồi một ngàn lụa đinh kiến, rồi cái thiên địa vận, mới đổi được hòn ngọc lưu ly này định đem dâng, thì vì ông này nên nó đã đi mất rồi. Hỏi mấy lần, anh cũng chỉ đáp có mỗi câu như thế và chỉ vào viên đại thần mà khóc. Cuối cùng vua phán: - Tên dân này đưa hòn ngọc lạ với ý định tốt dâng ta. Để mua được viên ngọc, hắn đã tốn bao nhiêu công sức và tiền tài. Vậy kẻ làm mất ngọc không những có tội với ta mà còn phải bồi thường cho hắn đủ số vàng bạc, v.v... Về phần ta, ta sẽ ban cho hắn một chức quan nhỏ để nêu lòng trung. Thế là viên đại thần phải bồi thường tất cả cho chàng Ngốc. Từ đây anh sung sướng, giàu có và khôn ngoan lên...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-ngoc-duoc-kien" }
Vàng lấy con vua
Ngày xửa ngày xưa, có một em bé tên là Vàng, Vàng mới lên tám tuổi thì bố chết. Nhà nghèo, em phải theo mẹ đi làm thuê khắp đó đây. Quần quật suốt ngày mà mẹ con vẫn không đủ ăn. Những hôm mưa rét thấu xương cũng không được nghỉ. Nhiều bữa Vàng chỉ uống nước đi ngủ, còn dành một ít cơm nguội cho bà mẹ. Bà mẹ càng thương xót cho đứa con tội nghiệp của mình. Ngày tháng qua đi, năm ấy Vàng đã lớn và mẹ Vàng cũng đã già yếu. Vàng một thân đi làm nuôi mẹ và nuôi mình. Thỉnh thoảng Vàng còn làm giúp hàng xóm. Tuy công việc nặng nhọc, bụng đói, nhưng ai nhờ việc gì Vàng đều cố sức làm đâu ra đấy. nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Vì vậy láng giềng ai cũng quý mến Vàng. Tiếng lành đồn xa. Nhà vua biết tin Vàng làm ăn khéo, lại giỏi. Một hôm bèn cho lính đi gọi Vàng về lợp nhà cho mình. Vàng đến và trèo lên nhà ngay. Trong khi dỡ mái xuống, chàng trông thấy phía dưới sân nhà một cô gái đang ngồi dệt vải. Vàng muốn biết mặt cô gái liền ngửa cổ nhìn lên, nhưng cô gái vẫn cúi mặt xuống tấm vải, tay đưa thoi. Vàng nghĩ ra một kế khác: lấy sợi lạt cứa vào tay mình cho chảy máu xuống tấm vải. Nhưng uổng công, cô gái vẫn thản nhiên đưa thoi. Vàng thấy không xong, càng nóng lòng bèn đánh bạo gọi: – Cô ơi! Cho tôi xin miếng giẻ buộc chỗ đứt tay cho khỏi chảy máu. Lần này cô gái đứng dậy đi tìm cái gậy và buộc miếng vải vào đầu gậy rồi từ từ giơ lên nóc nhà nhưng vẫn không hề nhìn Vàng. Thấy đầu gậy đã sát tay mình mà cô nàng không ngẩng mặt lên, Vàng lại giả vờ gọi: – Cô ơi! Chua tới… chỗ này cơ mà! Cô gái tưởng mình giơ lệch chỗ, mới ngửa mặt nhìn lên. Vàng thấy khuôn mặt xinh đẹp của cô gái hiện ra. Tối hôm ấy, Vàng về nhà nói với mẹ: – Mẹ ơi! Hôm nay con đi lợp nhà cho vua thấy con gái của vua xinh đẹp lắm. Mẹ đi hỏi cho con lấy cô ta làm vợ. Bà mẹ nghe nói không khỏi ngạc nhiên. Một lát, bà thở dài: – Mẹ con ta nghèo. Vua nào lại gả con gái cho con. Nhưng Vàng cứ một mực van nài mẹ. Cuối cùng để chiều con trai, bà đi hỏi vua. Mẹ Vàng chưa nói hết lời, nhà vua đã nổi cơn lôi đình mắng vào mặt: – Nhà ngươi láo thật. Dám đi hỏi con gái ta cho thằng khố rách áo ôm nhà mày ư? Lính đâu, đem mụ già vào cối giã. Bọn lính răm rắp tuân theo. Mẹ Vàng bị một trận nhừ tử. Bà van lạy mãi nhà vua mới bằng lòng thả cho về. Khi mẹ đi, Vàng ở nhà đứng ngồi không yên, bụng như có lửa đốt. Vàng hết ra trông lại vào ngóng. Thoáng thấy mẹ về, Vàng đã hỏi ngay: – Mẹ ơi! Được chứ! Nhà vua đồng ý chưa? Mẹ Vàng thở không ra hơi: – Vợ con gì. Chưa nói hết lời, mẹ đã bị vua sai lính bỏ vào cối giã, lại còn chửi mắng. Con muốn lấy thì đi mà hỏi. Ít lâu sau, Vàng lại đòi mẹ đi hỏi con gái vua cho mình. Thương con, mẹ Vàng lại đánh liều đi hỏi một lần nữa. Khi bà già đến, nhà vua lần này không chửi mắng và sai lính bỏ vào cối giã như lần trước nữa, mà nói với mẹ Vàng: – Nhà ngươi muốn công chúa ta làm con dâu thì về bảo con trai tìm cho ta một chum bọ chó và một cái chĩnh dái gà đem đến đây nộp thì ta mới gả công chúa cho. Mẹ Vàng về nhà thuật lại cho con nghe. Vàng lập tức đi tìm khắp chốn, khắp nơi, nhưng không sao kiếm được một chum bọ chó và một chĩnh dái gà. Chàng buồn rầu khóc bên bờ suối. Bỗng một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên, hỏi: – Làm sao cháu khóc? Vàng thưa: – Mẹ cháu đi hỏi con gái vua cho cháu, vua bảo phải tìm bằng đủ một chum bọ chó, một chĩnh dái gà thì vua mới gả. Cháu đi tìm khắp chốn nơi không được cháu buồn cháu khóc. Cụ già nói: – Không lo, cháu về trồng thật nhiều vừng đen và khoai sọ, đợi khi vừng chín, khoai sọ mập cũ, cháu gặt vừng đập lấy hột cho vào chum, rồi bắt mấy con bọ chó rắc lên trên, bịt kín miệng chum lại. Sau đó, cháu đào khoai sọ đem cạo vỏ luộc chín đổ vào chĩnh rồi bắt mấy con gà sống mổ thịt lấy dái nó để trên chĩnh khoai và bịt kín lại đem đi nộp vua. Y lời, Vàng về nhà làm theo lời cụ dặn. Mấy tháng sau, vừng đã chín, khoai sọ cũng đầy đủ. Vàng làm đúng như lời cụ già và mang đến cho nhà vua. Vua nhận được đồ lễ bèn mở ngay chum bọ chó nếm thử. Vua khen: – Úi chao! Ngon quá! Thơm như vừng. Rồi vua lại mở chĩnh dái gà ăn mấy miếng tấm tắc: – Tuyệt! Tuyệt! Bùi như khoai sọ. Ăn hết chum bọ chó và chĩnh dái gà, nhà vua trở mặt: – Ngươi muốn làm rể ta à? Chưa đủ đâu! Ngươi phải đi kiếm một đôi gà tiên, một trống một mái đem về nộp cho ta thì lúc đó mới nói đến chuyện vợ con. Vàng tức lắm. Nhưng đành phải đi tìm gà tiên. Được ba ngày, đi mỏi rời chân mà không thấy gà tiên đâu cả. Vàng ôm mặt khóc. Cụ già khi trước lại hiện lên hỏi: – Làm sao cháu khóc? Vàng đáp: – Thưa cụ, vua bảo cháu phải đi tìm một đôi gà tiên, một trống, một mái tới nộp thì vua mới gả con gái cho. Cháu đi tìm ba ngày mà chẳng được. Nói xong, Vàng lại ôm mặt khóc. Cụ già bảo: – Thôi, không khóc nữa. Gần nhà cháu có cái hang đá, bên trong có vợ chồng gà tiên. Hàng ngày cứ đến giờ ngọ, vợ chồng mới ra cửa hang. Gà chồng đứng một bên gáy, gà vợ đứng một bên nghe, cháu đến rình mà bắt. Gà gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau, cháu đừng bắt, gáy tiếng thứ hai, chúng xích lại gần nhau hơn, cháu đừng bắt. Đến tiếng thứ ba, chúng sát lại bên nhau, cháu lại bắt cả đôi sẽ có gà tiên nộp vua. Hôm sau, Vàng tìm đến hang đá ngồi rình. Đúng giờ ngọ bỗng cửa hang từ từ mở ra. Ga trống tiên, gà mái tiên đi ra, mỗi con đứng một bên cửa hang. Gà trống bệ vệ vươn cổ gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau. Vàng vẫn ngồi yên. Gáy tiếng thứ hai, đôi gà xích vào nhau tí nữa. Vàng vẫn không nhúc nhích. Gáy tiếng thứ ba, gà trống, gà mái sát lại liền nhau. Lúc đó Vàng mới xông đến chộp lấy chân gà. Nhưng lạ thay, gà khoẻ vô cùng, chúng kéo tay Vàng vào hang, tức thì cửa đóng sập lại. Tay Vàng bị kẹp, đau quá cố rút ra, nhưng càng rút càng đau. Qua một đêm, bà mẹ ở nhà không thấy con về sốt ruột quá bèn đi tìm. Đi mãi, đi mãi đến hang đá, bà thấy con nằm lăn ở cửa hang, bèn hỏi: – Sao thế! Sao lại bị kẹp cả tay hả Vàng? Vàng mếu máo đáp: – Con tìm được gà tiên rồi. Nó lôi con vào, con vẫn túm chặt chân nó, bị kẹp… mẹ cứu con với! Mẹ Vàng vừa thương vừa bực, trách con: – Đấy mẹ đã bảo! Mình là con nhà nghèo ,à đòi lấy con vua. Lần trước vua bắt con nộp bọ, dái gà, lần này lại bắt nộp gà tiên đến nỗi mắc cạn khổ thế này. Nói xong, bà túm lấy con kéo ra ngoài. Nhưng kéo thế nào cũng không ra. Bà tức quá nói tục một câu. Hang thần nghe không nhịn được, phì cười, cửa hang mở toang chốc lát, Vàng rút được tay, kéo cả đôi gà ra ngoài và trở về nộp vua. Đến nhà vua, Vàng quỳ xuống mà rằng: – Muôn tâu Hoàng thượng, thần đi tìm bọ chó, dái gà, gà tiên, con đã tìm đủ rồi, bây giờ vua cho thần được đón công chúa vua về ở với mẹ con thần. Vua lại bảo: – Đồ lễ cưới ngươi nộp đủ rồi. Bây giờ ngươi muốn đón vợ thì phải có nhà ở. Trong vùng này, có ông Thạch Long nhà to nhất, đẹp nhất, ngươi về làm được như thế thì hãy đến đây ta mới cho rước dâu. Vàng lại quay về. Đến nhà Thạch Long, chàng lấy gậy đạp xung quanh nhà để đánh tiếng, Thạch Long nghe có người đạp vào nhà mình, chạy ra hỏi: – Ai đập gì nhà tôi đấy? Vàng đáp: – Vua bảo tôi làm nhà to đẹp như nhà ông thì mới gả công chúa cho. Tôi đến thử đây. Thạch Long nói: – Cái hạng mày mà lấy được con vua thì tao nhường lại cái nhà này cho mày ở. – Ông nói thật hay nói dối? – Tao nói dối với cái thứ mày làm gì? Vàng lấy cái đinh đóng vào cột rồi bảo Thạch Long: “Tu mi nam tử, nói thì phải như đnh đóng cột. Tôi đóng cái đinh này để làm chứng”. Vàng đi đến nhà vua xin đón vợ về nhà mới. Hàng xóm láng giềng rậm rịch theo sau, thổi kèn, đánh trống, chuyện trò vui vẻ. Đến nhà Thạch Long, Vàng gọi Thạch Long và bảo: – Tôi đón dâu về rồi, ông dọn nhà đi nơi khác cho vợ chồng tôi ở. Thạch Long mắng: – Nhà của tao sao mày lại đuổi tao đi? Vàng vặn lại: – Hôm nọ ông nói gì với tôi. Đinh đóng cột còn kia. Ông ở được thì ông ở cái nhà này. Không nhổ được thì ông đi nơi khác. Thạch Long cố hết sức nhổ nhưng không được, phải đi nơi khác. Vàng đưa vợ về nhà Thạch Long, rồi cả hai vợ chồng cùng đi đón mẹ. Khi vợ Vàng đến, mẹ Vàng không tin, hỏi: – Cô là ai mà đến đây đón tôi? Vợ Vàng thưa: – Con là con dâu của mẹ. Vợ chồng con về đón mẹ đến ở với chúng con. Mẹ Vàng trông thấy Vàng mới tin, bèn theo hai con đi ở nhà mới. Từ đấy gia đình mẹ Vàng thêm một người con dâu biết dệt vải giỏi. Nàng cũng rất mực thương quý mẹ chồng. Năm sua, có giặc vua nước bên sang cướp. Vàng được vua cha sai đi đánh. Chàng bàn cùng với quân lính lấy rơm bện hàng nghìn hàng vạn người giả đem cắm khắp ngả đường, chờ giặc. Giặc đến, thấy bên Vàng quân sĩ hăng hái, lại đông hàng nghìn, hàng vạn, bèn rút lui. Nhà vua thấy con rể tài giỏi, làm giặc lui không phải đánh, liền nhường ngôi cho. Từ đó dân bản yên ổn làm ăn. Vợ chồng Vàng sống hạnh phúc bên nhau.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vang-lay-con-vua" }
Sự tích hoa phượng
Ngày xưa, xưa lắm, ở một vùng đất đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết sớm, ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con. Ông đi xin năm người con trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn. Tuổi năm người con xấp xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn… Người nào học cũng khá và tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho năm người năm bộ quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người con rất biết nhường nhịn nhau và yêu quý mọi người trong làng… Năm ấy trong nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một cây thương dài và nặng, đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt hơn nữa là chỉ thích ăn toàn xôi gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay chân ông bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân tay của hắn đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức tập luyện để tay chân mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình phóng ngựa, dẫn quân lính của hắn kéo ập vào làng. Hắn thấy ông thầy dạy võ đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ, rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống, vẻ còn mệt nhọc. Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch con và cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt ông thầy dạy võ lại rồi bảo: - Tao nghe mày muốn đi đánh tao phải không? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì hãy giết một con bò tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xôi gấc rồi mang đến chỗ ta đóng quân ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn một mạch, không được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xôi đến sau! Nói xong hắn ra lệnh cởi trói cho ông. Người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi. Không ai dám rời cái bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện lại, năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết ngay. Người bố liền khuyên: - Không được! Lúc nào quân lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có thể đâm chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó! Người cha đi vay tiền mua một con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu một chục nồi xôi thật dẻo. Ông đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi vã ra đầy trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực. Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm ruột chịu đựng và nghĩ thầm: “Cho mày cứ cười rồi mày sẽ biết…” Tên tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên và giục: - Còn nong xôi nữa, mày về đội đến đây ngay! Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to và nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp quá. Ông đội nong xôi đi đến đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lòng ông rất vui. Ông tự nhủ: “Gắng lên! Chỉ cần một lúc nữa, một lúc nữa…” Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ, vừa lo lắng. Hắn nghĩ: “Thằng này không bị thuốc độc của ta thì khó mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ”. Cái nong xôi gấc to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đôi mắt. Đôi mắt vẫn sáng quắc. Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên như một tia chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng đứng thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc tránh được. Bỗng từ trong nong xôi, năm người con nằm quây tròn được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm làn chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú lên một tiếng rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con trai trở về ôm lấy xác người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng cùng năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu mộ năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Họ nhớ tiếc người thầy dạy võ đã có công giết giặc cứu dân. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì năm cái cây họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: tuy chết đi, nhưng năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất… Hoa có năm cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa nở rộ, người ta thấy giống như một mâm xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào người bố đã giấu năm người con trong đó và đội đi giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày nay. Mỗi năm, khi mùa Hè đến, mùa thi đến, hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời. Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành cây, người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng dài như những thanh gươm của năm người con trai ngày trước.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-phuong" }
Bùi Cầm Hổ
Vào thời nhà Lê có một anh chàng nghèo khổ quê ở Kẻ-treo sát chân núi Hồng-lĩnh tên là Hổ. Lúc còn nhỏ Hổ có đi học dăm ba chữ với một cụ đồ già. Lớn lên Hổ sống một thân một mình không cha mẹ anh em gì cả. Cuối cùng chàng phải sinh nhai bằng nghề giữ trâu bò cho xóm, gia sản chỉ có một cái tù và, một con dao và một cái giỏ. Chàng được xóm làng dựng cho một túp lều ngã ba địa đầu sát chân núi. Trước lều có treo một cái mõ lớn. Hàng ngày sáng dậy cơm nước xong. Hổ đánh một hồi mõ ra hiệu cho tất cả các nhà đem trâu bò ra ngã ba để chàng đưa lên núi cho ăn cỏ. Chiều lại khi mặt trời vừa gác núi. Hổ lùa đàn súc vật về làng. Đến ngã ba là chàng hết phận sự vì con nào tự động về nhà con nấy không lạc nữa. Tuy có khó nhọc, nhưng Hổ cảm thấy vui thích. Ngoài tiền gạo chàng còn có lộc. Tháng Giêng, ngày Tết hay mỗi khi nhà nào có giỗ, họ thường đem thức ăn đến biếu chàng. Vì thế, Hổ vẫn được chè mật cơm nếp ăn luôn. Một hôm trời tối, có ông thầy địa lý đi tìm huyệt đất lỡ độ đường, ghé vào túp lều của Hổ xin nghỉ chân. Hổ vui vẻ nhường chiếu nhường giường cho ông nằm, lại nhân sẵn có chè xôi dọn ra mời ông ăn. Luôn mấy ngày, ông thầy sáng đi tìm đất, tối về ăn ở trong lều của Hổ. Thấy anh chàng tốt bụng, ông thầy mới tính chuyện tạ ơn. Ông hỏi Hổ: - "Anh có muốn làm quan không? - "Tôi thế này - Hổ đáp - cũng đủ chán, còn làm quan làm gì nữa". - "Ồ làm quan sướng nhiều chứ! Còn võng lọng ngựa xe. Kẻ hầu người hạ, còn vợ con ruộng vườn, chứ có phải như thế này đâu. Nghe thầy địa lý nói bùi tai. Hổ tiếp: - "Người như tôi thì làm quan thế nào được" Ông thầy đáp: - "Ta làm nghề địa lý, ta có tìm được một kiểu đất chân trắng làm ngự sử, chỉ vài mươi ngày là phát. Ta thấy anh tốt lại có phúc tướng, ta muốn cho anh kiểu đất đó". Thấy Hổ không nói gì, thầy lại hỏi: - "Anh có biết mả cha mẹ ở đâu không?" - "Có biết mả mẹ" - Hổ đáp Qua ngày sau, thầy địa giao cho chàng một quan hai tiền bảo đi sắm ngay đồ cải táng. Chàng nghe lời, lập tức trả bò cho xóm không chăn nữa để cùng thầy địa cất mả mẹ. Luôn mấy ngày cả xóm rất phiền vì thiếu người chăn trâu bò cho. Cuối cùng họ cũng kiếm được người thay. Và họ đuổi Hổ ra khỏi lều để cho người kia ở. Hổ cũng quyết định không ở làng nữa. Có bao nhiêu tiền, chàng giắt lưng khố làm lộ phí đi ra Bắc. Sáng đi tối nghỉ luôn mấy ngày ròng. Hổ đã đến kinh đô. Sờ vào lưng thấy chỉ còn có sáu tiền. Hổ cũng bước vào hàng cơm. Hôm ấy khách ăn đang bàn tán xôn xao về một vụ án giết chồng. Hổ nghe rõ đầu đuôi. Một người lái buôn đi xa về, người vợ mua lươn nấu canh cho ăn. Chồng ăn xong thì chết. Người ta giải mụ lên quan, cho là mụ ngoại tình lập mưu giết chồng. Sau bao nhiêu ngày tra tấn, mụ vẫn kêu oan. Mãi đến gần đây mụ đã thú nhận và người ta sắp đem cho voi giày. Nghe thủng câu chuyện. Hổ tìm đến bộ Hình xin vào gặp mặt quan thượng thư. Thấy chàng ăn mặc lôi thôi, bọn lính đuổi ra khỏi cửa. Hổ kêu to lên và cuối cùng chàng được vào. Gặp quan Thượng, chàng hết sức kêu oan cho người đàn bà vô tội. Quan Thượng bảo Hổ: -"Nhà ngươi có cách gì tỏ rõ trắng đen không?" - Hổ quả quyết: - Có, tôi sẽ làm cho mà xem. Nhưng trước hết hãy hoãn thi hành cái án tử hình kia đã. Hai ngày sau, Hổ mang cho quan Thượng một con rắn trông không khác gì những con lươn thường; chỉ có khác là nó hay cất đầu lên cao. Hổ nói: - "Tôi từng biết loại rắn này, nó thường ở chân núi, trông giống lươn nhưng có nọc độc, ăn vào là chết!" Đoạn ông làm thịt và nấu canh y như người đàn bà kia đã làm. Canh chín đem cho chó ăn, chó lăn ra chết quay lơ; cho một tử tù khác ăn, người tử tù ấy cũng chết nốt. Vụ án tự nhiên được tỏ rõ. Người đàn bà mắc oan được tha bổng. Tin ấy truyền đến tai vua. Lập tức vua sai triệu Hổ tới, khen ngợi chàng hết lời. Và cho chàng làm quan ngự sử. Từ đó chàng lấy tên Bùi Cầm Hổ... * Thấy Hổ còn ít tuổi lại không do thi cử mà được làm quan to, bọn triều thần nhiều người không phục. Chúng thường chơi khăm, cố ý làm cho chàng phạm lỗi để làm nhục. Một hôm có kỵ ở nhà Thái miếu, một mình Hổ đến phiên túc trực kiêm làm mọi việc trong khi vua lễ. Chúng đốt trầm trong lư hương không lót tro để khi Hổ bưng lên cho vua cầm, phải bỏng tay. Như thế một là Hổ phải vứt lă xuống đất, hai là đứng im không dám động đến lư, ba là trao lư nóng lại cho vua bị bỏng, đằng nào cũng mắc tội "khi quân". Khi nghe tiếng "dâng hương". Hổ vừa mó đến lư thì đã rụt tay lại vì nóng quá. Đang lúng túng không biết làm lúc nào để bưng cái lư đến trao cho vua làm lễ, chàng chợt sáng ý xé ngay thân năm của chiếc áo tế dùng làm một thứ giẻ lót rất tốt và sau đó cả Hổ và vua đều cầm lư không mà không việc gì. Đến khi Hổ vào quỳ đọc "chúc văn" được nửa chừng thì cây nến đang đỏ bị chúng thổi tắt, Hổ rất bối rối vì ngừng lại là vô lễ. Nhưng nhờ có trí nhớ tuyệt vời, chàng cứ đọc thẳng một mạch cho đến lúc nến được thắp lại. Nhờ thế, vua lại càng khen ngợi Hổ. Ở quê hương chàng thường bị nạn hạn hán, ruộng đất có cây nhưng ít khi được ăn. Một lần về thăm quê, Hổ trèo lên núi Hồng-Lĩnh ngắm lại cảnh xưa. Chàng biết có một khe nước trên núi Đụn chảy ra phía Đông bắc. Để bắt khe nước đó chảy về phía Tây bắc tưới vào đồng điền. Hổ cho gọi tất cả các viên quan sở tại đến hội họp trên hòn Đụn. Hôm ấy cờ quạt võng lọng rực rỡ cả núi rừng. Chàng cho chọn những con trâu mộng cùng với cày bừa tốt, rồi bắt những viên quan ấy cày cho mấy đường từ khe sâu trên núi Đụn, men theo sườn dốc xuống thẳng phía Kẻ-treo. Lại bừa cho mấy đường từ phía núi Đồng-trùy ở phía Đông bắc, dồn đất lấp tịt ngọn khe cũ không cho nước chảy lan xuống đó. Tự nhiên một ngọn khe mới lập thành, dòng nước cuồn cuộn tưới cho hàng vạn mẫu đất. Từ đó một vùng Kẻ-treo năm nào cũng được mùa, bao nhiêu đất hoang đều biến thành ruộng tốt. Nhân dân vùng đó rất cảm ơn Hổ. Họ dựng đền thờ Hổ ở ngay chân núi bên cạnh khe...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bui-cam-ho" }
Cái Chén Gáo Dừa
Ngày xưa, ở một vùng nọ, có vợ chồng kia hiền lành và chăm chỉ, hai người lấy nhau đã lâu mà vẫn chưa có con, họ cầu Trời khấn Phật mãi nhưng vẫn chưa có kết quả.Hôm ấy, sau khi hai vợ chồng đi lễ chùa về, trời đang nắng bỗng nổi cơn mưa lớn, sấm chớp nổ đùng đùng làm cả hai xanh mặt, vội vã chạy đến một cái miếu nhỏ ở bên đường để núp tạm tránh sét, khi chạy gần đến bậc thềm thì người vợ trợt té, úp bụng xuống đất. Chồng thấy vậy thì hoảng quá, bồng vợ mang vào bên trong miếu, tưởng rằng vợ bị sây sát gì, nhưng người vợ bảo là chẳng bị trầy trật ở đâu cả, chỉ thấy hơi đau nhói một chút ở bụng mà thôi. Mưa tạnh trời quang, vợ chồng đưa nhau về nhà và một tháng sau thì người vợ mang thai. Biết rằng Trời Phật đã nhận lời, hai người mừng vô hạn, bèn lấy một phần ba của cải đem đi bố thí cho người nghèo để đền ơn. Đến ngày khai hoa nở nhụy, người vợ sinh ra được một thằng bé kháu khỉnh trong niềm sung sướng tột cùng. Người chồng bảo: - Trời Phật đã thương mà nhận lời chúng ta, thì chúng ta phải cố sống làm sao cho xứng với tình thương ấy. Tôi dự tính trích thêm một số bạc nhà mình để sửa lại chùa, mình thấy thế nào? - Thì mình tính sao em nghe vậy, ân đức này cao bằng trời biển, biết bao nhiêu mà sánh bằng được? Và thế là ngôi chùa đã được người chồng bỏ tiền ra sửa sang lại khang trang hơn trước. Đứa bé đầy tháng thì ông mang đến lễ chùa tạ ơn và được đặt tên là Phúc để nhớ đến ân phúc Trời Phật đã ban cho vợ chồng họ. Thằng Phúc chóng lớn và khôn ngoan thấy rõ, mới lên ba mà đã ăn nói như người lớn vậy, hai vợ chồng cảm thấy vô cùng sung sướng và hạnh phúc khi có một người con như thế. Những tưởng cảnh đầm ấm này sẽ được dài lâu, ngờ đâu sự việc đến không như họ nghĩ, vì cũng năm đó, người vợ lâm bạo bệnh rồi đột ngột qua đời, dù người chồng đã tìm đủ thầy, chạy đủ thuốc. Người chồng chỉ biết ôm con mà khóc, không ngờ tình cảnh lại thay đổi một cách éo le và nhanh chóng như vậy, mới hôm nào gia đình còn hạnh phúc tràn trề mà nay đã gãy gánh giữa đường, phải chịu cảnh gà trống nuôi con. Sự đời như thế vẫn chưa yên vì cái rủi vẫn đeo bám ông, quá nhớ thương vợ và khóc lóc nhiều nên mắt ông sưng lên, vài tháng sau thì mờ dần, không nhìn rõ được. Năm đó lại xảy ra hạn hán, mất mùa, người ăn xin đông như kiến, ông lại có tính hay giúp người nên cơ ngơi của ông cứ thế mà vơi dần. Nạn đói đã bắt đầu xảy ra, người ta giành giật nhau từng củ khoai, bụi sắn mà không còn nghĩ gì đến tình làng nghĩa xóm. Thấy ông bị mờ mắt, con trai thì còn nhỏ dại, bọn gia nhân của ông ngày trước đói quá hóa liều, đêm hôm ấy chúng đột nhập vào nhà bắt trói cha con ông lại rồi tha hồ vơ vét thóc lúa bạc tiền. Không nhìn thấy gì nên ông chỉ biết tri hô lên cầu cứu, bọn ác nhân liền phang ông một gậy để ông im miệng vì sợ lộ tung tích, thằng bé Phúc còn nhỏ quá nên chỉ biết sợ hãi nhắm tịt mắt lại rúc vào người cha để tránh nạn. Bọn cướp vét hết tài sản của ông rồi bỏ đi, để lại thằng bé khóc lóc ngơ ngác bên xác cha mình. May mà ông chỉ bị ngất đi chứ không chết. Khi người làng hay tin đến cứu thì bọn cướp đã cao chạy xa bay, giờ đây cha con ông chỉ còn cái xác nhà không và mảnh vườn trơ trụi. Ông ôm lấy con mà an ủi: - Cu Phúc đừng khóc nữa. Bố còn sống đây là được rồi. Thế nào bố cũng có cách gầy dựng lại, cho con ăn học thành người… Tuy mắt bị mờ, không còn nhìn thấy rõ, nhưng ông vẫn không chịu thua số phận, cố gắng hy sinh tất cả vì con. Thấy con đói, ông lùng sục khắp nơi để lặt từng mớ rau, dò dẫm đào từng củ khoai, củ chuối, lặn lội mò cua bắt ốc để nuôi con qua ngày đoạn tháng. Trời cũng không phụ lòng nên cha con ông vẫn sống sót được, thoát qua khỏi mùa đói khắc nghiệt năm ấy. Ông làm lại từ đầu để gầy dựng cơ nghiệp và lo cho con ăn học, dù có phải làm thuê làm mướn, cực khổ trăm bề, ông cũng không từ nan bất cứ việc gì, miễn sao có cái ăn cho thằng Phúc và gởi nó theo học với thầy đồ trong làng, vui cùng chúng bạn cùng tuổi. Năm tháng qua đi, Phúc mỗi ngày một khôn lớn và người cha mỗi ngày một già đi, ông vẫn âm thầm lo cho con ăn học mà không quản khó nhọc và sức lực hao mòn. Ngày con trai lên kinh ứng thí là ngày người cha mừng đến rơi nước mắt, vì ước vọng của ông bao lâu nay đã thành hiện thực. Con đi rồi, ông lần ra thắp hương nơi mộ vợ mà rằng: - Xin mình chứng giám cho lòng thành của tôi, có thương con thì cầu xin cho nó được đỗ đạt, làm quan vinh hiển để đổi đời cho nó, còn tôi thì phận già ra sao cũng được. Trước sau sống đời chung thủy với mình, vui vầy sớm hôm với con với cháu. Quả nhiên, người con trai đỗ á khoa kỳ thi năm ấy và được cử làm quan tri huyện trong vùng. Người cha nghe tin mừng không kể xiết, thế là tâm nguyện đã thành, ông nghĩ vợ mình chắc cũng đang mỉm cười nơi suối vàng khi biết con trai đã công thành danh toại. Quan tri huyện Phúc nhậm chức được hai năm thì lấy vợ, nàng là con gái của một phú ông trong vùng, do đó mà cuộc sống cũng khá giả và hạnh phúc. Khi con đã thành đạt thì người cha bây giờ mắt đã lòa đi nhiều, bao nhiêu sức lực đã hao phí khi còn trẻ để làm lụng lo lắng cho con, bây giờ tuổi già, sức yếu, chẳng làm gì được, chỉ biết sống bám vào con trai cho trọn vẹn tuổi già. Quan tri huyện thấy cha đã già yếu, nên lo lắng chăm sóc cho cha rất chu toàn, khiến người cha lấy làm mãn nguyện và sung sướng trong lòng vì mình đã có một người con hiếu thảo. Ngày tháng trôi đi nhanh như vó câu băng qua cửa sổ, vợ chồng quan tri huyện cũng có một người con trai xinh xắn và dễ thương như vợ chồng ông ngày trước. Mặc dù mắt ông đã mờ nên ông không nhìn thấy rõ gương mặt cháu nội, nhưng ông cũng mường tượng ra được ít nhiều qua tiếng nói, cử chỉ, ông thấy thằng bé cũng thông minh và sáng dạ như thằng Phúc khi xưa, gia đình ông lại đầm ấm và tràn ngập tiếng cười. Ngày đứa cháu nội lên bốn thì sức ông đã yếu lắm, tay chân run lẩy bẩy, mỗi lần ăn uống thật là khó khăn, mắt mờ nên ông không nhìn thấy, làm thức ăn đổ trong đổ ngoài, người con dâu phải dọn dẹp mãi nên lâu ngày thành ra khó chịu. Đã vậy cứ đôi ba hôm ông lại làm rơi vỡ một cái chén, vì tay ông cứ run cầm cập nên không giữ chặt được, ông cũng lấy làm ngại lắm nhưng không biết làm thế nào vì sức mình đã yếu lắm rồi. Người con dâu thấy vậy tiếc của nên không dám dọn chén kiểu cho ông nữa vì ông cứ làm rơi hoài, cô nàng thay bằng chén sành để lỡ có đánh rơi thì cũng ít hao hơn. Quan huyện lúc đầu không đồng ý, nhưng sau cũng nghe theo lời vợ vì nghĩ rằng mắt cha đã mờ, đâu có phân biệt được chén kiểu hay chén sành. Nhưng rồi chồng chén sành cũng ngày một vơi đi vì ông cứ đánh rơi mãi khiến vợ chồng quan huyện không biết xử trí thế nào nữa. Người vợ bèn nghĩ ra một cách, liền bảo chồng: - Hay là ta kiếm cái gáo dừa làm chén để dọn cho cha ăn, nếu lỡ rơi xuống đất thì cũng đâu có bể, khỏi phải mất công thay chén khác. - Không được, ai lại làm thế với cha bao giờ! Thiên hạ biết được thì còn coi mình ra gì. - Nhưng cứ mỗi ngày đánh rơi một cái thì làm sao mình kham nổi, vả lại mắt cha mờ nên có thấy gì đâu, chén gì thì cũng vậy thôi. Người chồng cứ phân vân mãi, nhưng rồi thấy vợ nói cũng phải, nghĩ rằng chắc cha cũng chẳng nhìn thấy gì nên giấu mọi người trong nhà, lấy cái gáo dừa đẽo gọt miệng cho phẳng để làm chiếc chén theo như lời vợ. Đứa cháu nội ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc chén cơm của ông làm bằng gáo dừa, có rơi xuống đất cũng không bị bể, nó cảm thấy lạ lắm, nhưng không lộ ra nét mặt nên bố mẹ nó đâu có biết. Mỗi lần ăn cơm, cầm chiếc chén trên tay, ông nhận ra ngay đó là chiếc gáo dừa, nhưng ông không nói ra vì sợ mất mặt con mình, dù sao con trai mình cũng là tri huyện trong vùng. Tuy vậy, trong lòng ông đau như bị muối xát, chỉ biết âm thầm nén lại mà thôi. Hôm nọ, quan tri huyện đi công cán ở xa về, nghe lục đục bên hông nhà liền cùng vợ bước đến xem, họ thấy con trai mình đang cầm dao đẽo gọt hai cái gáo dừa khô… Họ lấy làm lạ hỏi: - Này, con đang cầm dao nghịch gì thế? Không khéo đứt tay bây giờ! Đứa bé hồn nhiên bảo: - Dạ con đang bắt chước cha đẽo gọt hai cái gáo dừa này thành hai cái chén, phòng khi sau này cha mẹ già yếu dọn cơm cho cha mẹ ăn, lỡ có đánh rơi cũng không bị bể cha ạ. Hai vợ chồng nghe vậy thì điếng cả người, không ngờ con trai mình lại nói thế, nhưng không trách nó được, vì nó nói đúng quá. Lòng hiếu thảo và tình thân chợt dâng đầy, vợ nhìn chồng, rồi chồng nhìn vợ, cả hai bật khóc, họ hối hận vì những sai lầm của mình đối với người cha già đáng kính, đã hy sinh trót một đời vì mình. Thế rồi hai vợ chồng chạy vào trong phòng, quỳ sụp dưới chân người cha mù lòa, vừa khóc vừa nói: - Cha ơi, xin cha hãy tha lỗi cho chúng con, cha đã hy sinh một đời vì con, thế mà chúng con đã ngu ngốc khi đối xử với cha như vậy… - Dù muôn nghìn chén vàng chén bạc cũng không sánh nổi lòng cha đối với chúng con. Vợ chồng con nguyện khắc dạ ghi tâm và xin cha tha cho tội bất kính này. Từ đó vợ chồng người con đối xử với cha rất là hiếu thảo cho tới ngày ông qua đời. Chuyện đứa bé gọt cái chén gáo dừa kia đã thức tỉnh lòng ta đối với đấng sinh thành, vì công ơn ấy cao tựa Thái Sơn, biết lấy gì bù lại cho xứng được?!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cai-chen-gao-dua" }
Sự tích nước biển mặn
Ngày xưa,từ rất lâu rồi,có một chàng trai nghèo sống bên bờ biển. Ngày đó biển êm đềm, trong xanh và phẳng lặng, nước biển dịu ngọt không có những con sóng xô bờ. Chàng trai sống bằng nghề đánh cá , chàng làm việc rất chăm chỉ từ sáng sớm tới đêm khuya, những giọt mồ hôi của chàng tuôn rơi xuống biển khơi hòa cùng nhịp kéo lưới. Biển xanh thương tình nên đã rộng lòng cho lưới của chàng đầy ắp cá, thế nhưng nghèo đói vẫn theo chàng quanh năm dù chàng có đánh bắt được bao nhiều cá đi chăng nữa, bởi mọi của cải mà chàng làm ra đều bị tên Chúa đất tham lam vơ vét hết, cả một vùng đất rộng lớn nằm dưới quyền cai trị hết sức tàn bạo và độc ác của hắn, không những chàng trai mà mọi người dân đều chịu khổ cực lầm than. Theo lệnh của hắn, đám tay chân và quân lính đã gây ra biết bao cảnh máu chảy đầu rơi cho những người dân nghèo vô tội. Lòng căm hận chất chồng, nhưng mọi người chỉ biết kêu trời mà chẳng biết kêu ai, những tiếng kêu ai oán vang tới tận trời xanh. Rồi chàng trai đến tuổi trưởng thành,chàng xin cưới một cô gái cùng cảnh ngộ với mình. Hai vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc. Chàng trai ngày ngày vác lưới ra biển còn người vợ hiền lại cặm cụi bên khung cửi không phút ngơi tay. Cuộc sống vất vả, cực nhọc nhưng rất hạnh phúc đang trôi đi thì một ngày tai họa giáng xuống đầu hai người. Đó là một ngày khi vợ chàng đang phơi tơ dưới nắng thì Chúa đất đi qua, lập tức vợ chàng lọt vào mắt hắn. Hắn tức tốc trở về dinh và ra lệnh cho tất cả quân lính đi bắt vợ chàng về làm thiếp dù trong tay hắn đã có rất nhiều đàn bà con gái của những gia đình nghèo khó bị bắt về vì không trả được nợ. Đám quân lính ầm ầm kéo đi, thấy bọn chúng kéo về phía ngôi nhà chàng trai, mọi người biết có chuyện chẳng lành sắp xảy ra. Thấy đám quân lính kéo tới nhà mình chàng trai vội hỏi . – Dạ bẩm,chẳng hay các ngài tới nhà tôi có chuyện gì vậy ạ ? Đám quân lính nói: – Chúa đất có lệnh cho bọn ta đến để đưa vợ ngươi về làm vợ lẽ, ngươi mau bảo vợ ngươi thu xếp để bọn ta rước về, kẻ nào chống lại sẽ phải chết . Nghe những lời nói vô lý đó như sét đánh ngang tai. Chân chàng không đứng vững được nữa, trời đất như quay cuồng trước mặt. Chàng không ngờ tai họa kia lại ập xuống gia đình mình nhanh đến vậy. Nhưng quyền lực ở trong tay của kẻ bạo tàn thì những chuyện như thế này có lạ đâu. Vợ chàng nghe những lời nói đó nàng hoảng sợ gục vào vai chàng khóc nức nở, chàng trai đứng lặng câm, lòng chàng tê tái. Chàng biết rằng lời của Chúa đất ban ra có uy lực ghê gớm nhường nào, chỉ có hai con đường hoặc nghe theo hoặc phải chết. Nếu nghe theo thì sẽ phải chấp nhận tủi nhục, đắng cay nhưng còn có cơ hội gặp nhau, còn chống lại thì chắc chắn sẽ phải xa nhau vĩnh viễn. Suy nghĩ hồi lâu chàng mới đứng lên được để bảo đám quân lính. – Thôi thì một ngày nên nghĩa trăm năm, vợ chồng tôi đã sống với nhau qua bao ngày, nay trời không cho vẹn được câu thề, phận thân sâu cái kiến còn biết làm gì hơn. Chỉ xin các ngài cho được đoàn tụ nốt đêm nay rồi sớm mai chia tay cũng chưa muộn. Nghe những lời nói đó của chàng, vợ chàng hoảng hốt nói: – Chàng ơi, vợ chồng ta có câu thề mãi mãi không xa cách nhau, sao chàng lại nói vậy làm đau lòng thiếp. Cả cuộc đời này thiếp chỉ có mình chàng thôi, nếu có kẻ nào ngăn cách đôi ta, thiếp thà chết chứ không khi nào để cho thân này chịu nhục. Chàng trai nói: – Đừng nói thế nàng ơi, đây là số phận thử thách đôi ta, nếu chết đi chẳng nhẽ chúng ta đầu hàng số phận ư. Trên đời này có sức mạnh bạo tàn nào mà tồn tại dài lâu được đâu. Nàng hãy tin rằng ngày đoàn tụ của chúng ta sẽ chẳng cách xa đâu, khi đó chúng ta làm lại cũng chưa muộn . Nghe chồng nói thế nàng chỉ còn biết khóc không nói được lời nào. Đợi cho vợ nguôi ngoai thổn thức, chàng bảo đám quân lính. Phiền các ngài về bẩm với Chúa đất cho, đằng nào hôm nay trời cũng tối rồi. Bọn lính nói: – Thôi được, nể tình vợ chồng ngươi bọn ta cho hẹn tới sớm mai. Ngày mai đích thân Chúa đất sẽ tới đây, liệu mà bảo vợ ngươi ăn mặc cho gọn gàng vào đấy. Đừng nghĩ tới việc chạy trốn, ngưới của ta ở quanh đây, còn chuyện gì tối nay nói nốt đi. Bọn chúng bỏ đi, hai vợ chồng đứng nhìn nhau chết lặng. Chàng trai đau khổ khi nghĩ rằng chỉ còn đêm nay thôi là phải xa người vợ thân yêu, có ai hiểu được tâm trạng của chàng lúc này đây. Ngoài kia biển vẫn êm đềm yên ả mà sao bão tố lại nổi trong lòng chàng, và rồi chàng cứ thế bước đi trong tiếng gió ù ù bên tai. Chàng trai đi ra biển, biển vẫn phẳng lặng như tờ. Chàng ngồi xuống mép nước , hai chân thả xuống làn nước đã chuyển sang đen thẫm của màn đêm.Những giọt nước mắt chảy dài mặn môi hòa vào biển khơi. Cứ thế chàng ngồi rất lâu, màn đêm vây quanh, từng cơn gió ngoài khơi xa thổi vào, cái lạnh bất giác làm chàng rùng mình. Bỗng từ phía ngoài khơi xa, hay đúng hơn là từ trong lòng đại dương, một giọng nói trầm ấm cất lên hòa trong tiếng gió. – Con thân yêu, đừng sợ, ta là Thần biển đây, ta cảm nhận được vị mặn mòi từ dòng nước mắt của con, có điều chi ưu phiền mà con khóc vậy? Chàng trai giật mình hoảng sợ, nhưng cố trấn tĩnh lại được chàng thưa: – Dạ, thưa Thần biển, có người muốn mang đi người mà con thương yêu nhất, đó là vợ của con, còn kẻ muốn đem vợ của con đi là Chúa đất, một kẻ rất lắm uy quyền. Nếu ai chống lại người đó sẽ phải chết, nhưng con nghĩ chúng con không thể chết được, chúng con phải sống thì mới còn có thể gặp lại nhau. Sáng mai đây là chúng sẽ mang vợ của con đi, con không biết phải làm thế nào nên ra đây ngồi khóc. Thần biển nói: – Ta biết con là người thật thà chăm chỉ, những giọt mồ hôi mặn chát của con có ngày nào không hòa vào trong ta đâu, ta đã cho con rất nhiều cá, nhưng con mãi nghèo khổ bởi những kẻ muốn đem vợ của con đi kia đã cướp hết công sức của con rồi còn đâu nữa. Chúng đâu có biết đến vị mặn của những giọt mồ hôi mà con đã đổ vào trong ta, chúng quen sống trên những giọt mồ hôi, máu và nước mắt của những người dân hiền lành chất phác . Ngày mai, trước khi chúng đem vợ của con đi, con hãy nói với chúng cho vợ chồng con được uống ngụm nước mặn mòi của biển khơi trước khi chia tay, lúc đó ta sẽ giúp con. Nghe những lời Thần biển nói, chàng trai ghi nhớ trong lòng, chàng quay về khi sương khuya ướt đầm vai áo. Đêm đó vợ chồng chàng không ai bảo ai, họ ngồi im lặng bên ánh đèn leo lét, bao điều muốn nói nhưng cứ tắc nghẹn trong cổ không nói thành lời, chốc chốc mới nhìn nhau, ánh nhìn ngấn lệ. Chàng trai nhớ lời Thần biển dặn dò nhưng trong lòng hồi hộp lo âu nên chẳng an ủi vợ được điều gì, thấm thoắt đã tới canh tư, trời bắt đầu tảng sáng. Mỏi mệt họ ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Bình minh đã bắt đầu ló rạng phía đằng đông, mặt trời nhô dần từ trong lòng đại dương, tia nắng xóa tan đi u ám của màn đêm đen tối kéo dài, báo hiệu một ngày mới rực rỡ nắng vàng. Biển vẫn trong xanh một màu xanh yên ả. Chợt tiếng trống, tiếng chiêng vang lên ầm ĩ trên con đường dẫn về phía nhà chàng trai. Hai vợ chồng cùng bừng tỉnh bởi những âm thanh chát chúa trước nhà. Chúa đất từ trên kiệu đôi bước xuống nhìn quanh một lượt rồi quát lớn. – Chúng mày đâu, vào nhà lôi cổ vợ chồng nó ra đây cho ta. Đám quân lính chưa kịp ập vào thì hai người đã từ trong nhà bước ra, vừa trông thấy vợ chàng Chúa đất quát bọn lính . – Chúng mày chết hết cả rồi hay sao mà còn đứng im ra đấy, đưa con này lên kiệu mau lên. Bọn chúng xô tới định đem vợ chàng đi, chàng trai vội nói: – Dạ bẩm Chúa đất, con biết rằng dù thế nào thì Chúa đất cũng mang vợ của con đi, rồi đây không biết sống chết ra sao. Vậy trước khi từ biệt xin cho vợ chồng con cùng ra biển uống ngụm nước mặn mòi của biển khơi để nhớ về những ngày tháng gian nan nhưng cũng rất yên vui của chúng con, lúc đó chia tay cũng chưa muộn. Nghe đến đây Chúa đất và đám quân lính cười ầm cả lên cho rằng chàng quẫn chí mới có ý nghĩ điên rồ là nước biển mặn. Chúa đất nói: – Được, ta sẽ cho bọn ngươi cùng uống với nhau ngụm nước biển cuối cùng để mà thưởng thức nước biển mặn. Nói xong hắn phá lên cười man rợ. Hai vợ chồng chàng đi ra biển, Chúa đất và đám quân lính đi theo sau. Ra tới biển khơi chàng trai nắm tay vợ bước xuống làn nước trong xanh, bọn Chúa đất đứng trên bờ cười đắc ý. Biển xanh vẫn phẳng lặng như tờ. Chàng trai cúi xuống vục tay vào làn nước trong xanh, vợ chàng cũng làm theo. Những giọt nước đầu tiên chạm vào môi, vị mặn nồng của nước biển thấm qua môi và ngấm vào lưỡi.Một cảm giác thân quen ùa về, vị mặn thân quen từ những ngày còn bé thơ, đó là vị mặn của giọt mồ hôi lao động, của những dòng nước mắt khổ đau đã gắn bó với họ từ lâu. Đứng trên bờ Chúa đất hỏi to: – Thế nào, nước biển mặn chứ ? Chàng trai đáp: – Dạ bẩm, nước biển mặn lắm ạ, không tin các ngài xuống uống thử mà xem . Chúa đất cười to bảo đám quân lính: – Thế nào, chúng mày xuống uống nước biển mặn với nó chứ . Đám quân lính cùng cười to rồi chạy xuống sát mép nước,chúng cho tay vục nước biển cho vào miệng, nhưng bỗng chúng phun phì phì ra khỏi miệng, mặt nhăn nhó kêu: – Mặn quá , mặn quá, sao kỳ lạ vậy, nước biển lại có vị mặn. Trên bờ thấy đám quân lính của mình cũng kêu nước biển mặn, Chúa đất gầm lên quát . – Im ngay, cả đến chúng mày cũng dám đánh lừa tao sao . Bọn quân lính vội nói: – Dạ bẩm, chúng con đâu dám đánh lừa ngài, dạ bẩm quả đúng là nước biển rất mặn ạ. Chúa đất mặt đỏ phừng phừng xăm xăm bước xuống, hắn vục luôn vốc nước cho vào miệng nhưng rồi hắn cũng phải phun phì phì ra vì nước biển rất mặn. Mặt hắn đang đỏ gay bỗng trở lên tái mét , và rồi lại đỏ gay lên lập tức. Hắn gầm lên. – Không, không thể có chuyện lạ như thế này được, trời đất, biển khơi này là của ta, không bao giờ có chuyện đó xảy ra trên đất của ta được. Hãy bắt ngay hai vợ chồng thằng đánh cá kia về để cho ta hỏi tội. Đột nhiên có tiếng ầm ầm từ nơi nào đó vọng lại, âm thanh đó mỗi lúc một to hơn và từ trong lòng đại dương một cột nước khổng lồ trào lên phá tan sự tĩnh lặng của biển cả. Tiếp theo đó là những cột nước nối tiếp nhau như những bức tường xô vào bờ. Chúa đất và đám quân lính cuống quýt chạy lên bờ, nhưng những con sóng đã nhanh hơn đổ trùm xuống đầu bọn chúng và cuốn chúng ra khơi xa. Chỉ có hai vợ chồng chàng trai không chạy, họ đứng ôm chặt lấy nhau, mắt nhắm lại mặc cho bão tố bên tai. Họ cứ đứng như thế rất lâu, khi không còn nghe thấy tiếng ầm ầm nữa mới từ từ mở mắt ra,hai vợ chồng chàng trai vô cùng sửng sốt thấy mình vẫn đứng trên bãi biển mà không bị ngọn sóng cuốn đi, nhìn khắp nơi không thấy bóng dáng của Chúa đất và đám quân lính đâu. Hai vợ chồng chàng trai hiểu rằng biển xanh đã trừng phạt kẻ tham tàn độc ác . Từ đó vợ chồng chàng trai và mọi người dân đều được sống cuộc sống thanh bình, hạnh phúc, ước mơ bao đời nay mới trở thành sự thực. Nhưng cũng từ đó Biển xanh không còn phẳng lặng như xưa được nữa mà luôn có những con sóng xô bờ ngày đêm không dứt, và nước biển cũng không còn dịu ngọt như trước nữa. Thời gian trôi đi, chàng trai ngày nào nay đã trở thành ông già, sống sum vầy trong gia đình đầy ắp tiếng cười trẻ thơ. Một ngày đẹp trời đứa cháu nắm tay ông dạo chơi trên bãi biển, xa xa ngoài khơi những con sóng trào lên xô vào bờ rồi lại cuốn ra khơi xa. Bất chợt đứa cháu hỏi ông: – Ông ơi, những con sóng kia có từ khi nào hả ông? Trầm ngâm một lát ông đáp: – À, nó có từ khi nước biển bắt đầu mặn cháu ạ . – Thế tại sao nước biển không mang vị ngọt mà lại mang vị mặn hả ông ? Xoa nhẹ mái đầu cháu, ông trả lời . – Bởi vì có biết bao nhiêu giọt mồ hôi , nước mắt của những người lao động cần cù, chăm chỉ đã hòa vào biển khơi nên nước biển mang vị mặn cháu ạ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-nuoc-bien-man" }
Sự tích con Ve Sầu
Hàng ngày, người anh phải đi làm thuê làm mướn, làm quần quật từ sáng sớm đến trời tối. Nhưng hai anh em vẫn không đủ cái ăn, cái mặc. Do vậy, tranh thủ lúc nào không có việc, hai anh em cùng nhau lên rừng, xuống suối hái thêm rau, củ, bắt thêm cá về ăn. Nhà thiếu trước hụt sau, cơm canh đạm bạc bữa rau, bữa cá. Nhưng có gì ngon, người anh luôn nhường cho em phần hơn. Mỗi khi bắt được cá, người anh luôn nhường em ăn phần mình cá, còn mình chỉ ăn mỗi đầu và đuôi cá. Và còn ăn với vẻ rất ngon lành. Thấy lúc nào anh cũng chỉ cho mình ăn phần mình cá. Anh lại ăn đầu và đuôi cá ngon lành như thế. Hôm nọ, người em bèn bảo với anh rằng: - Anh ơi! Hôm nay, em muốn ăn thử đầu cá và đuôi cá, có được không anh? Người anh nghe vậy lập tức bảo với em rằng: - Không được! Em không thể ăn được! Người em thắc mắc vặn hỏi lý do: - Tại sao vậy anh? Tại sao anh ăn được, còn em thì không? Lúc này người anh đáp: - Không tại sao cả. Vì anh chỉ thích ăn đầu cá và đuôi cá! Nghe anh nói thế. Người em bèn sinh bụng nghi ngờ. Cho rằng anh mình đối xử tệ với mình, nên lúc nào cũng chỉ cho mình ăn phần mình cá. Như thường lệ, hôm đó hai anh em lại lên rừng đào củ mài. Người anh cặm cụi lo đào bới, còn em chỉ việc nhặt lấy củ. Hố đào càng sâu, sẽ được củ càng to. Đào được một lúc người anh mệt lã người, bất cẩn bị chúi nhũi ngã nhào cắm đầu xuống hố, hai chân chổng ngược lên trời. Do cái hố vừa hẹp, vừa sâu cho nên người anh không tài nào nhúc nhích được, người anh nói vọng lên: - Em ơi! Cứu anh với, mau kéo anh lên, anh ngạt thở chết mất. Thấy vậy, lúc này người em mới đem những điều nghi ngờ chất chứa trong bụng bấy lâu nay nói ra hết: - Từ nhỏ đến lớn, mỗi khi ăn cá anh đều giành ăn phần đầu cá, đuôi cá, là những phần ngon nhất của con cá. Anh chỉ chừa lại cho tôi ăn mình cá, là phần bỏ đi, phần anh không thèm ăn. Anh bị cắm đầu xuống hố như thế này là đáng đời lắm. Anh đi mà kêu mấy cái đầu cá đó lại mà giúp anh đi. Nghe em mình nói vậy, người anh đau lòng lắm. Mặc dù vậy, nhưng vẫn cố gắng nói với em rằng: - Ở nhà, trên gác bếp vẫn còn một cái đầu cá và đuôi cá. Lúc trưa anh chưa kịp ăn để dành phần buổi chiều. Em về ăn đi. Nghe anh mình nói vậy, người em liền cắm đầu chạy một mạch về nhà kiếm đầu cá, đuôi cá để ăn. Bỏ mặc anh mình lại dưới hố sâu. Về đến nhà, người em lập tức lao vào gác bếp lấy đầu cá ra ăn. Trong đầu nó lâu nay vẫn hình dung rằng hai món này là phần ngon nhất của con cá. Chỉ có như vậy nên lâu nay anh nó mới đều giành ăn một mình, không để cho nó nếm thử, dù chỉ một lần. Ngày hôm nay, cuối cùng thì nó đã được nếm thử. Nó hý hửng cầm cái đầu cá lên, há to miệng, bắt đầu cắn miếng đầu tiên. Nhưng lạ thay, đầu cá cắn tới đâu, chỉ toàn xương tới đó, lại khô cứng như que củi, chẳng ngon lành gì như nó đã nghĩ. Nó bèn nhả hết đầu cá ra trên sàn vì chẳng thể nào nhai tiếp nổi. Sau đó, người em ăn tiếp đến đuôi cá. Đuôi cá lại nhạt nhếch, chẳng có mùi vị gì cả. Chẳng khác nào như đang nhai một cái lá khô vậy. Lúc này, người em mới hiểu được tình thương lớn lao của anh trai dành cho mình: "thì ra bấy lâu nay, những gì tốt nhất, ngon nhất anh mình đều đã dành cho mình hết". Hai hàng nước mắt của người em bắt đầu rơi xuống. Như sực nhớ ra điều gì đó rất quan trọng. Nó vội vàng lao ra khỏi nhà. Nó tìm đường tắt, chạy vội lên rừng. Bất chấp lá rừng cào rách da, rách thịt người em vẫn gạt nước mắt, băng rừng chạy đi tìm anh. Khi tìm tới nơi, thì đã quá muộn. Anh nó đã bị ngạt thở, chết cứng từ lâu. Người em đau đớn tột cùng ôm xác anh trai gào thét, khóc lóc thảm thiết. Nó không ăn, không uống, khóc ròng rã gần một tháng trời. Người gầy khô trơ xương, mắt lồi ra mà chết. Người anh sau khi chết đã biến thành một cây cổ thụ to. Còn người em biến thành con ve sầu, suốt ngày bám vào thân cây. Cứ đến ngày giáp hạt, mùa đào củ mài, ve sầu lại nhớ đến anh mình, nó kêu râm ran suốt ngày như tiếng gọi: "Anh... anh... anh... " Do vậy người ta thường hay bảo: Mắt lồi, mình gầy như xác ve là muốn nhắc đến sự tích cảm động này...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-ve-sau" }
Kiện ngành đa
Ngày xưa có hai vợ chồng một người lái buôn hương. Họ chưa có con cái gì cả. Chồng vắng nhà liên miên, chỉ thỉnh thoảng mới về một lần. Có lần chồng đi khá lâu. Vợ ở nhà lọt vào mắt một tên xã trưởng. Dựa vào quyền thế, xã trưởng tìm cách quyến rũ người đàn bà đó và cuối cùng hai người tằng tịu với nhau. Nhưng hắn rất khôn ngoan, thỉnh thoảng mượn cớ đi tuần đến với người đàn bà một lần. Vì thế trong xóm ngoài làng chả một ai ngờ cả. Lần ấy ông lái hương mải mê buôn bán nên không tiện về nhà. Ông cất hàng đi rất xa và làm ra rất nhiều tiền. Sau ba năm, một hôm gần giỗ cha, ông mới sực nhớ đến vợ bèn thu xếp tiền nong tìm về quê cũ. Sắp về tới làng thì trời đã tối, ông sực nghĩ tới số tiền công lao mồ hôi nước mắt trong mấy năm trời: - "Ta đi vắng lâu quá! Không biết chừng ở nhà có sự thay đổi". Nghĩ thế, ông đem 120 lạng bạc trong bồ ra buộc làm một gói. Khi đến cây đa đầu làng, ông ta trèo lên và đem số bạc ấy giấu vào hốc cây. Ông khấn: - Tôi là dân làng này, tôi làm ăn dành dụm được có chừng ấy, tôi gửi cho ngài, trăm sự nhờ ngài giữ hộ. Vợ thấy chồng về lăng xăng cơm nước tiếp đón hết sức thân mật. Nhưng khi nhìn thấy chiếc bồ không, liền hết lời trách móc: - Anh buôn thua bán lỗ làm sao mà bỏ vợ dại ở nhà ba năm đằng đẵng không đoái không hoài gì cả. Tiền nong anh vứt đi đâu? Trời ơi sao mà tệ thế! Thấy tình hình không có gì đáng ngại mà vợ vẫn có vẻ một lòng một dạ với mình, người lái hương yên tâm, nên đêm ấy khi nằm lên giường, ông tỷ tê kể hết việc làm ăn khấm khá của mình cùng việc gửi bạc ở hốc cây đa đầu làng cho vợ nghe. Không ngờ đêm ấy, xã trưởng theo thói quen tìm đến nhà nhân ngãi. Hắn quen chó, lại thuộc cách mở cổng nên chả mấy chốc đã lọt vào thềm nhà. Sắp bước vào buồng, hắn bỗng nghe tiếng trò chuyện nhỏ to. Biết là chồng cô ả đã về, hắn đứng lại nghe ngóng. Và khi biết rõ người lái hương giấu bạc ở cây đa, hắn mừng quá, vội lùi một mạch ra đầu làng, cuỗm ngay gói bạc. Hắn lấy một cách ngon lành, chả một ai biết cả. Rạng ngày hôm sau, khi người lái hương ra lấy bạc thì ôi thôi, bạc đã không cánh mà bay mất tự bao giờ. Xót lòng vì mất của mà không biết kêu van với ai, ông ta đấm ngực kêu trời rất thảm thiết. Mãi về sau nghe tin gần miền có một ông Trạng xử kiện nổi tiếng, ông bèn chặt lấy một cành đa mang đến kiện với Trạng. Tuy thấy sự tình éo le, Trạng cũng nhận lấy cành đa rồi báo người lái hương về, sáng mai lại đến. Lập tức, Trạng sai quân hầu rào bốn bên cây đa lại, không cho một ai đến gần, rồi ngầm sai đào hố ở gốc, cho người xuống nấp dưới đó. Sáng hôm sau, Trạng đến đóng dinh ở gần cây đa rồi trước mặt bàn dân đông đủ, Trạng bắt nguyên cáo và bị cáo ra đối chất. Cây nhận có giữ gói bạc nhưng không biết người nào lấy đi. Hỏi mãi cây vẫn không khai được một điều gì. Quân hầu của Trạng được lệnh khảo đả cây túi bụi. Mọi người đứng trước dinh Trạng đều nghe bị cáo van khóc rối rít. Mãi đến ngày thứ ba, bị cáo mới tả cho biết mặt mũi người ăn trộm, nhưng chỉ nói riêng cho Trạng nghe mà thôi. Liền đó, Trạng cho người lái hương về, ba ngày sau sẽ bắt tên trộm hoàn lại số tiền, nhưng trước đó phải dọn cỗ bàn tạ thần mình và mời làng nước đến ăn mừng về việc tìm lại được của. Trạng còn ghé tai dặn dò ông ta: - "Trong nhà có bao nhiêu chó dữ phải thả ra trong khi khách đến". Người lái hương tin lời Trạng, về nhà mổ trâu khoản đãi bà con làng nước. Mỗi một người đến ăn cỗ lại làm cho mấy con chó cũi một phen sủa hết hơi. Duy chỉ có xã trưởng vì ba năm lui tới nên chó không còn lạ hơi nữa. Khi thấy mấy con chó vẫy đuôi mừng xã trưởng, lập tức những người của Trạng, trực sẵn ở sau nhà, bắt lấy giải đi. Trước mặt Trạng, ban đầu xã trưởng chối lấy chối để. Nhưng sau thấy Trạng vạch tội hắn có ngành có ngọn và cho biết thêm là cây đã thú thật mặt mũi người lấy trộm như thế nên hắn đành cúi đầu nhận tội. Ngày nay, người Nghệ-tĩnh có câu: "Kiện ngành đa" ý nói kiện một cách gián tiếp, nghĩa là kiện một sự việc này nhưng chính nhờ đó làm nảy ra ánh sáng một sự việc khác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/kien-nganh-da" }
To đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn
Một hôm voi đang đủng đỉnh đi chơi bỗng gặp hổ. Hai bên chào hỏi chuyện trò chán chê, đoạn hổ bảo với voi: - Bác với tôi đều là bậc anh hùng ở chốn sơn lâm, mỗi lần đi đến đâu, mọi thú vật đêu khiếp sợ. Nay tôi muốn thi tài với bác một chuyến chơi, nếu bác vui lòng thì hai chúng ta cùng nhảy qua một cái ngòi trước mặt đây, hễ bên nào không nhảy được thì sáng mai đến đây đưa thân cho kẻ được cuộc tha hồ mà chén thịt hay chà đạp thế nào tùy ý. Nào bác xem chừng có đủ sức đọ tài với tôi chăng? Nghe hổ nói khích, voi khẳng khái đáp ngay: "Được, tôi sợ gì mà không thi". Nói rồi cả hai cùng nhảy qua ngòi. Hổ làm một vọt sang bờ bên kia như bỡn. Nhưng voi vốn nặng nề cất mình không nổi, bị sa xuống dòng nước. Chân voi tụt xuống bùn lầy làm cho hổ phải xuống kéo mãi đến tối ngày mới đưa lên được. Rồi đó cả hai ai về nhà nấy. * Giữ đúng lời hẹn, sáng hôm sau voi phải đi nộp xác cho hổ ăn thịt. Biết hổ chẳng tha cho nào, voi thấy chân rã rời, bước không nổi. Bỗng thỏ từ sau một gốc cây lớn tiến đến trước mặt voi. Thỏ chào hỏi, voi không buồn đáp lại. Thấy voi buồn thỉu buồn thiu, thỏ hỏi: - Bác voi! Sao bác buồn thế? Có việc gì đáng lo xảy ra hay sao? Bác cứ kể cho tôi biết đi. Chưa biết chừng tôi sẽ giúp ích cho bác nhiều... Voi dừng lại, kể cho người bạn nhỏ nghe câu chuyện nhảy thi với hổ ngày hôm qua và nói: - Đêm về tôi nghĩ lại biết mình thi nhảy với hắn là khờ. Nhưng bây giờ đã lỡ thì biết làm thế nào? Thỏ bảo: - Thế sao bác không trốn đi, đừng ra đấy có hơn không? - Không được - voi trả lời - Tôi thà chết chứ không muốn sai lời đã hẹn. Thỏ nghĩ một lát, nói: "Tôi có một kế cứu bác nếu bác bằng lòng làm theo đúng lời tôi dặn" - "Kế ấy thế nào?" - "Kế này cốt yếu nhất là tôi bảo sao bác phải làm đúng như thế mới được". Nói rồi, thỏ đi kiếm lá cây trùm lên đầu mình, cải trang thành một con vật khác hẳn. Đoạn cả hai con cùng đến chỗ hẹn với hổ. Thỏ bắt voi nằm ngửa giơ bốn chân lên trời không cụ cựa. * Lại nói chuyện hổ từ hôm qua được cuộc, trong bụng vô cùng mừng rỡ. Sáng mai ngủ dậy, hổ hí hửng chờ đến lúc được chén thịt voi. Nhưng khi sắp sửa đến chỗ hẹn, hổ nhìn thấy một cảnh lạ mắt mà hắn không bao giờ ngờ tới. Trước mặt hổ, voi đã nằm chết chỏng cẳng và trên mình voi có một con vật nào là lạ đang hùng hục chén thịt. Mà con vật ấy chỉ bé bằng đầu vòi voi mà thôi. - Lạ thật! Không biết con vật nào kia chỉ có một tý tẹo thế mà dám cả gan vật voi ăn thịt. Voi còn thế, huống chi là mình, không khéo nó nhìn thấy thì bỏ xác. Nghĩ vậy hổ rụt rè không dám tiến nữa, rồi rón rén quay trở lại, lùi một mạch về nhà. Dọc đường bỗng có khỉ ở trên cây hỏi vọng xuống: - Bác hổ, sao bác vội thế? Có việc gì đấy? Nghe khỉ hỏi, hổ hoàn hồn dừng lại, kể chuyện vừa rồi cho nghe. Kể xong, hổ chưa hết sợ hãi toan bỏ đi. Nhưng khỉ vội giữ hổ lại mà nói: - Bác đừng sợ! Đây chắc là có mưu mẹo gì đấy thôi! Bác cứ trở lại chỉ cho tôi thấy đi. Thấy hổ còn ngần ngại, khỉ lại nói: - Nếu bác sợ tôi đánh lừa thì bác cứ buộc người tôi vào chân của bác, hễ bác ở đâu có tôi đó, bác đừng ngại! Nói xong, khỉ đi lấy dây nâu buộc thân mình nối liền với chân sau hổ rồi cả hai cùng trở lại. Khi thỏ thấy hổ và khỉ dẫn nhau tới, biết ngay có khỉ làm quân sư liền không để cho chúng kịp giở mưu mô, vội cất tiếng the thé mắng phủ đầu rằng: - Này khỉ kia, sao mày chậm thế? Cha mày xưa nợ của tao tính ra đến mười con hổ, vậy mà mãi đến bây giờ mày mới đưa đến được một con. Tại sao mày chây lười đến thế. Muốn tốt phải trả cho đủ số, nếu không tao sẽ xé nhỏ xác mày ra. Nghe nói, hổ tưởng khỉ đánh lừa đem mình đi gán nợ cho con vật dữ tợn kia, bèn hốt hoảng cong đuôi chạy một mạch không dám ngoảnh cổ lại. Hổ chạy mãi, chạy mãi, cho đến lúc thấy mồ hôi toát ra đầy người, mệt hết sức, mới dừng lại, nhìn lại khỉ thì khỉ đã chết nhăn răng từ bao giờ rồi. Thế mà hổ tưởng là khỉ còn sống liền mắng cho một trận, và nói: - Đã thế mà mày còn nhăn răng ra mà cười à? Có câu tục ngữ "To đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn". Lại có câu "Nợ mười hùm chưa đủ, mưu một khỉ thấm chi" đều do truyện trên này mà ra.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/to-dau-ma-dai-nho-dai-ma-khon" }
Bảy điều ước
Ngày xưa có hai vợ chồng bác nông sinh được hai người con trai. Người anh thì tham lam, lười biếng còn người em thì thật thà, tốt bụng, chăm chỉ chịu thương chịu khó. Khi cha mẹ còn sống người anh chỉ biết sống dựa dẫm vào cha mẹ, khi cha mẹ qua đời anh ta lại sống dựa dẫm vào người em. Suốt ngày người anh chỉ biết rong chơi, rượu chè cờ bạc, còn nếp nhà tranh cha mẹ để lại anh ta cũng bán nốt đi để lấy tiền tiêu xài. Cuối cùng không có nơi nào để ở hai anh em phải chia tay nhau mỗi người một ngả. Người anh chẳng biết làm lụng gì nên phải đi ăn xin khắp nơi xin mọi người bố thí để sống qua ngày. Còn về phần người em, anh có chiếc cần câu cha để lại nên ngày nào anh cũng ra sông để câu cá. Chẳng quản ngại nắng mưa người em rất chăm chỉ cần mẫn làm việc, và không bao lâu sau anh dành dụm tiền mua được một chiếc vó từ đó công việc của anh đỡ vất vả hơn rất nhiều. Nhờ hay lam hay làm lại biết tiết kiệm, chắt bóp chẳng bao lâu sau anh đã chuộc lại được căn nhà tranh của cha mẹ. Vì thương anh nên người em lại tìm người anh về sống chung, nhưng người anh vẫn chứng nào tật ấy, không chịu làm ăn. Một hôm, người em đi từ sáng đến chiều mà không câu được con cá nào. Anh đành phải vạch lau, lách theo bờ để tìm đến một đoạn sông vắng, rồi kiên trì thả vó nhưng lần nào kéo vó lên cũng không có một con cá nào. Người em buồn quá định cất vó đi về thì lần cuối cùng anh cất vó thì thấy võ nặng trĩu, anh phải gắng hết sức thì mới nhấc được vó lên được. Người em vô cùng kinh ngạc khi thấy trong vó không phải là cá mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp. Sau khi được người em vớt lên, cô gái kể lại sự việc cho người em nghe. Cô gái vốn là tiên nữ trên trời, một hôm cô xuống sông tắm chẳng may đã bị con trai vua thủy tề bắt làm vợ, nay nhờ người em kéo vó mà nàng mới thoát được lên bờ. Và để đền ơn chàng, nàng tiên đã ban tặng cho người em bảy điều ước và dặn: – Nếu chàng muốn cho ai điều ước, thì chàng chỉ cần đặt tay lên đầu người đó, mỗi lần đặt tay lên đầu là một điều ước. Nói xong nàng tiên đặt tay lên đầu người em bảy lần rồi biến mất. Khi về đến nhà, người em đem hết sự tình kể cho người anh. Người anh tham lam bảo người em hãy cho mình bốn điều ước, người em bằng lòng ngay và đặt tay lên đầu người anh bốn lần. Người anh ước ngay điều ước thứ nhất: – Ta ước có một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy chứa đầy vàng bạc châu báu. Người anh vừa dứt lời thì lập tức tòa lâu đài nguy nga tráng lệ hiện ra trước mắt. Anh ta vô cùng vui sướng và đi khắp ngôi nhà để khám phá. Còn người em, anh chỉ ước có một ngôi nhà vững chãi để thay cho ngôi nhà đã rột nát. Ước mong thứ hai là có một mảnh ruộng tốt để cày cấy. Còn điều ước cuối cùng anh vẫn để giành. Ngày ngày, ngoài việc đồng áng, anh lại mang vó ra sông để kiếm cá. Từ ngày giàu có người anh trở nên hợm hĩnh, không coi ai ra gì. Những người nghèo khó đến xin giúp đỡ anh ta đều từ chối và đuổi đi. Anh ta còn dùng điều ước thứ hai để ước hàng xóm láng giếng biến mất hết để không ai có thể làm phiền anh ta. Dần dần anh ta càng bị mọi người ghét bỏ và xa lánh, vì thế nên quanh năm anh ta không thể nói chuyện được với ai. Sống một mình mãi anh ta sinh buồn chán. Một hôm anh ta ước đến điều ước thứ ba: “Ta cảm thấy sống mãi ở trần gian này thật chán quá, ta ước được lên cung trăng để được chơi với chị Hằng, chú Cuội”. Lập tức một trận cuồng phong kéo tới đưa anh ta lên tít trời cao. Anh ta sợ hãi ngắm nghiền hai mắt lại đến khi không nghe thấy tiếng gió rít nữa mới dám mở mắt ra nhìn. Thì ra anh ta đã lên đến cung trăng, anh ta sửng sốt khi nhận ra chú Cuội bằng xương bằng thịt đang đứng ngay trước mặt. Chú Cuội đưa cho anh ta một cái rìu và bảo: – Ở nơi này mọi thứ đều khó kiếm, anh muốn no bụng thì phải bổ củi mới có cơm để ăn. Người anh bắt đầu bổ củi, anh ta bổ đến khi chân tay mỏi rã rời không thể nhấc được cái rìu nữa nhưng vẫn chẳng thấy cơm cháo đâu cả. Lúc ấy Cuội mới cười bảo anh ta: – Ha! Ha! Tôi bảo anh bổ cây lấy củi chứ có bảo anh bổ củi lấy cơm đâu. Rồi Cuội lại bảo người anh mài đá lấy bột ăn cho đỡ đói. Người anh tưởng thật lại cố sức mài đá cho thành bột, nhưng bột đá chát quá anh ta không tài nào nuốt nổi. Thấy vậy Cuội lại cười và bảo: – Ha! Ha! Tôi nhờ anh mài hộ tảng đá để làm bàn cờ, chứ bột đá thì sao có thể ăn được. Người anh vừa đói vừa khát lại bị Cuội lừa nên anh ta lại thấy chán cung Trăng. Anh ta lại ước tiếp điều ước thứ tư: “Hãy đưa ta đến xứ sở Mặt trời.” Điều ước thành sự thật, nhưng chưa đến được Mặt trời anh ta thấy nóng quá anh ta vội liều nhảy xuống mặt đất . Người anh rơi xuống ngay con sông nơi người em thường hay câu cá. Anh ta được những người thuyền chài vớt lên nhưng anh ta đã bị tắt thở rồi. Nhận được tin báo người em vội vã ra nhận xác người anh. Còn một điều ước cuối cùng anh ước cho anh trai mình được sống lại. Người anh vô cùng hối hận vì những việc mình đã làm, thay tâm đổi tính ngày ngày chịu khó làm việc. Nhờ biết bảo ban nhau làm ăn cuộc sống của hai an hem ngày càng khấm khá hơn.Người em còn chịu khó khăn gói quả mướp đi học hỏi, anh còn tìm được bao nhiêu giống cây tốt mang về. Chẳng bao lâu sau ruộng của hai anh em được cấy giống lúa tốt cho gạo thơm ngon, còn vườn cây thì xanh tốt toàn hoa thơm quả ngọt. Rồi hai anh em đều cưới được hai cô vợ xinh đẹp nết na. Và họ sống bên nhau thật vui vẻ hạnh phúc...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bay-dieu-uoc" }
Trinh phụ hai chồng
Ngày xưa có một gia đình nọ có một người con gái xinh xắn nết na. Lúc nàng lớn lên có một người học trò nghèo họ Đỗ đưa trầu cau đến hỏi làm vợ. Chàng là tay văn hay chữ tốt, tính nết rất hiền lành. Thấy thế, người cha cô gái vui lòng hứa hôn. Cô gái sung sướng được người chồng xứng đôi vừa lứa. Lễ cưới vừa xong thì cha nàng nhuốm bệnh qua đời. Cô gái về nhà chồng một niềm trinh thuận. Chồng là người mồ côi cha mẹ. Gia tài chỉ có một đám vườn nhỏ với mấy quyển sách, nhưng hai vợ chồng son sống trong một bầu không khí hòa nhã yêu thương. Chồng đọc sách, vợ quay tơ, thú gia đình tưởng không ai hơn được. Đột nhiên ít lâu sau đó người chồng mắc bệnh hủi. Người vợ lo lắng tìm thầy chạy thuốc. Nàng bán luôn nữ trang của mình, bán cả đám vườn đang ở để dùng vào việc chữa chạy cho chồng. Nhưng bệnh mỗi ngày một nặng, cho đến lúc hết phương điều trị. Chân tay người chồng cứ sưng lên và bắt đầu lở loét. Không một ai dám đến gần. Duy chỉ có người vợ ngày ngày hầu hạ chu tất không chút quản ngại. Thấy thế, anh chàng thương vợ quá. Chàng cho phép vợ ly dị để mặc mình với số mệnh. Nhưng người vợ nhất định không nghe. Nàng nói: - Vợ chồng là nghĩa lâu dài, còn bệnh tật của chàng chẳng qua là sự không may. Thiếp xin cùng chung số phận với chàng, không đi đâu cả. Nhưng bệnh của người chồng ngày một đáng sợ hơn. Luôn luôn chồng cố khuyên vợ trở về với mẹ đẻ để khỏi vì mình mà khổ thân, tuy vậy vợ vẫn kiên quyết ở lại. Một hôm, để cho vợ khỏi chịu thiệt thòi, chồng cất lẻn ra đi. Chồng để lại cho vợ một phong bì thư, nói mình sẽ không bao giờ trở về nhà nữa và cho phép vợ tự do đi lấy chồng khác. Sau khi chồng đi biệt, người vợ chảy không biết bao nhiêu là nước mắt. Mẹ đẻ của nàng khuyên con đi lấy chồng khác nhưng nàng quyết ở vậy đến già. Ba năm trôi qua, tin tức của chồng vắng bặt. Nhiều người đoán rằng chàng đã quyên sinh cho khỏi đau khổ. Rồi đó, người vợ trả nhà cửa lại cho họ hàng nhà chồng, trở về với mẹ đẻ, lập bàn thờ coi như chồng đã chết. Nhưng mẹ nàng luôn luôn bảo nàng: - Con thủ tiết với chồng như thế là trọn đạo. Con không nên bỏ phí xuân xanh một đời. Thấy nàng xinh đẹp lại có đức hạnh, nhiều người muốn hỏi làm vợ, trong đó có một người học trò họ Nguyễn. Tin qua mối lại xôn xao làm cho nàng không tự chủ được. Hơn nữa mẹ nàng có ý ép con, bà con thân thích cũng hết lời khuyên dỗ. Cuối cùng, nàng đành nhận lời đi bước nữa cùng với anh chàng họ Nguyễn. Về ở với chồng mới được ba năm, nàng sinh được hai người con trai. Hai vợ chồng rất tương đắc. Người học trò họ Nguyễn sau đó thi đậu tiến sĩ và được bổ làm án sát Sơn-tây. * Năm ấy, Sơn-tây và các trấn lân cận mất mùa to, giá thóc gạo lên cao vùn vụt. Khắp nơi đều có người chết. Đường sá, chợ búa đầy những đoàn người đói khổ đi kiếm miếng ăn. Quan án được lệnh đi phát chẩn cho dân đói. Lại nói chuyện anh chàng họ Đỗ từ khi trốn vợ ra đi, nhất quyết không trở về quê hương nữa. Chàng không muốn vì mình làm khổ đời một người đàn bà. Chàng cứ đi lang thang nay đây mai đó, sống bằng nghề bị gậy. Cứ thế sau năm năm, bệnh của chàng vẫn như cũ và chàng vẫn sống một cuộc đời đơn độc và đau khổ. Hôm ấy nghe tin có cuộc phát chẩn, chàng lần mò tìm tới, nhập vào đội quân lĩnh chẩn. Bọn lính lần lượt phát gạo hết hàng này sang hàng khác. Khi sắp sửa được lĩnh, chàng kêu lên: - "Tôi là học trò yếu đuổi tàn tật, không rá không mùng, không nồi không niêu nên không muốn xin gạo, chỉ muốn xin một ít tiền cho tiện...". Nghe hắn nói thế, quan án cho gọi tới hỏi mấy câu về văn chương, quả nhiên anh chàng bề ngoài rách rưới tiều tụy nhưng đối đáp rất trôi chảy, thơ làm ra thao thao bất tuyệt. Sẵn có tình yêu người tài, ông bèn đặc biệt lấy tiền ra cho, có phần hậu hơn những kẻ khác. Khi về dinh, ông ta thuật chuyện vừa rồi cho vợ hay. Nghe tả hình dạng, người đàn bà ngờ rằng đó là người chồng cũ. Nàng ra chợ tìm cách đứng nấp để xem mặt, thì đúng là người chồng ngày xưa. Tự nhiên lòng thương chồng cũ nay lại bừng bừng bốc lên. Nàng phải nuốt thầm những giọt nước mắt vì mình đang ở vào một tình thế khó xử. Suy đi nghĩ lại mãi, cuối cùng nàng dùng lời nói khéo cố khuyên chồng mới đưa "người học trò khó mà có tài" đó về dinh, cho ở một gian lều sau trại. Như thế vừa làm được một việc nghĩa vừa có người làm bạn văn chương. Được chồng mới ưng thuận, nàng sung sướng vô hạn. Từ đó ngầm sai người hầu chu cấp chăm nom rất tử tế. Nhưng nàng không bao giờ để lộ một hành động gì cho chồng biết và cũng không bao giờ cho người chồng cũ thấy mặt. Một hôm vào khoảng đêm khuya, người chồng cũ một mình đau bụng đi tả. Nhân khát quá, chàng bèn lần ra một cái chum ở gần trại múc nước uống. Hôm sau, chàng mới biết là mình uống lầm phải một thứ nước trong đó có một con rắn trắng chết. Nhưng thật không ngờ, một thời gian sau những mụn hủi lở tróc bay hết và dần dàn bệnh tự nhiên lành hẳn, da thịt của chàng trở lại trắng trẻo như xưa. Rồi đó, chàng lại ôn luyện kinh sử và nhờ có sự giúp đỡ hậu tình của quan tán, chàng lại quẩy lều chiếu đi thi. Tất cả những việc đó xảy ra làm cho người đàn bà vừa mừng vừa đau khổ. Nàng thấy mình không thể chịu đựng âm thầm mãi như vậy được. Khi nghe tin chồng cũ thi đậu tiến sỹ sắp sửa vinh quy, nàng viết một bức thư rất dài kể hết nông nỗi của mình cho người chồng mới biết. Nàng xin chồng tha lỗi về sự giấu giếm của mình bấy lâu nay. Có hai đứa con trai, nàng xin một đứa cho làm con nuôi ông nghè mới. Đoạn nàng trốn chồng con, bỏ đi biệt...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/trinh-phu-hai-chong" }
Con cóc liếm nước mưa
Có hai người bạn Ân và Nghĩa cùng làm nghề sơn tràng. Thường ngày họ vào trong rừng sâu tìm cây đốn ngã xuống, phạt cành lá, rồi cho trâu kéo ra bán cho bọn lái gỗ. Những ngày lên rừng họ thường làm chung với nhau, và cùng sống cạnh nhau vui vẻ hòa thuận. Sau đó ít lâu Ân lấy vợ. Vợ Ân rất đẹp. Hai vợ chồng sống rất tương đắc. Nhưng mặt hồ đang phẳng lặng bỗng tự nhiên nổi cơn sóng gió. Trước hạnh phúc của bạn, tâm hồn Nghĩa dần dần trở nên khác trước. Hắn đâm ghen với bạn, oán số kiếp mình. Hắn thường nghĩ bụng: - "Tài trai như mình hơn hẳn nó mọi thứ, thế mà cuộc đời của nó mười, mình không được một". Trong lòng người đàn ông ấy ngày một chứa đầy ghen ghét và ấm ức. Rồi một ngày nọ đến kỳ làm việc ở rừng, hai người lại cùng nhau vác búa đi tìm gỗ. Nghĩa lừa Ân đi qua ba ngọn núi cao, sáu thác nước xiết, bảo rằng có người mách cho biết có một cây vàng tâm chừng ba người ôm. Nếu được một cây như thế thì tha hồ mà bắt chẹt bọn lái. Ân tin bạn thực bụng, dấn sâu vào rừng thẳm. Trong khi Ân đang ngửa mặt tìm gỗ quý thì bất thình lình Nghĩa ném ra một sợi dây xiết chặt hai tay Ân lại. Ân giãy giụa cố gắng thoát thân, nhưng sức Nghĩa vốn khỏe như vâm, lại thêm có chủ ý từ trước, nên chỉ trong một lát, Ân đã bị trói gô lại. Ân cầu khẩn: - Xin anh tha cho tôi! Nếu anh cần dùng tiền nong thế nào, tôi xin chạy đủ số. Nghĩa nói: - Tao nói thật cho mày biết, tao muốn lấy vợ mày nhưng nếu để mày sống thì tao làm sao mà lấy được. Vậy tao phải giết mày. Mày có còn điều gì trối lại thì cho cứ nói đi! Ân trước còn van lạy mong bạn hồi tâm nghĩ lại, nhưng sau thấy kẻ thù của mình đã nhất quyết quá, dù có nói hết hơi cũng không thể lay chuyển lòng lang dạ sói của hắn, nên anh nghiến răng chửi rủa hắn thậm tệ. Giơ cây búa lên, Nghĩa nói: - Mày cứ yên lòng mà chết đi! Mỗi năm tới ngày này tao sẽ làm lễ cúng cho mày! Nghĩa định giáng lưỡi búa vào giữa đầu Ân, nhưng cặp mắt đau thương nguyền rủa của Ân giương to lên gặp đôi mắt của hắn làm hắn rợn cả người. Hắn nghĩ: - "Không cần giết, nó cũng phải chết. Không lọt vào hàm cọp thì cũng hết thở vì đói khát mà thôi. Chả có ma nào dám bén mảng tới chốn rừng sâu núi thẳm này làm gì". Nghĩ thế, hắn ném búa, đem Ân trói giật cánh khỉ vào một thân cây cho loài cọp beo thường đi qua đây kết liễu hộ mình. Xong, Nghĩa trở về nói dối với vợ Ân là chồng chị còn vào rừng sâu kiếm gỗ mấy hôm nữa sẽ về. Hai hôm sau, Nghĩa lại lên chỗ Ân bị trói xem thử đã chết chưa. Từ đàng xa nhìn tới, Nghĩa thấy Ân vẫn còn cựa, mà đầu thì hơi ngẩng lên cao. Hắn ngạc nhiên tự hỏi thầm: - "Nó đang làm cái gì mà lại ngẩng đâu lên như thế kia nhỉ?". Vừa lúc hắn nhận ra cái lưỡi của Ân cứ từng lúc lại thè ra ngoài. Thì ra vì khát quá nên Ân đã làm như vậy mong hứng lấy những giọt sương mai rơi từ lá cây xuống, hy vọng duy trì sự sống. Nghĩa trở về. Hai hôm sau hắn lại lên nữa. Hắn trông thấy rõ ràng Ân đã chết, đầu gục xuống ngực. Lần này Nghĩa về rất yên tâm. Nghĩa phao lên cái tin rằng Ân tự dưng bỏ mình, bỏ quê hương đi làm ăn ở phương xa không tưởng gì đến vợ con làng nước nữa. Thế rồi Nghĩa thỉnh thoảng lai vãng đến nhà vợ Ân làm bộ hỏi thăm tin tức chồng nàng. Thấy nàng túng thiếu, hắn làm bộ hào hiệp giúp đỡ khi năm quan, khi ba quan không tiếc. Trong lúc chồng đi xa, lại được bạn chồng tận tâm săn sóc, vợ Ân rất cảm động. Nàng chưa từng thấy có một người nào lại tốt bụng đến thế. Cho đến ngày cái tin Ân bị lũ cướp ở biên giới giết chết trong xó rừng đến tai nàng, thì nàng thấy không thể nào lìa Nghĩa được nữa. Rồi sau đó khi đoạn tang, hai người lấy nhau, và đưa nhau về quê hương của Nghĩa ở một tỉnh xa ngoài Bắc. * Hai người ăn ở với nhau thấm thoắt đã được chín mười năm trời. Chồng vẫn không thổ lộ gì với vợ, mà vợ cũng không ngờ vực gì người chồng mới. Nghĩa bây giờ không phải vào rừng đốn gỗ nữa mà là một ông lái buôn bè giàu có: nhà lim sân gạch, kẻ hầu người hạ, cuộc sống rất dễ chịu. Một buổi chiều hè trời mưa phùn, hai vợ chồng cùng ngồi ăn cơm dưới mái hiên. Bỗng nhiên Nghĩa trông thấy một con cóc đang chống chân bò lại gốc cây cau, dựng đứng người lên, thè lưỡi để hứng lấy những giọt nước mưa bay qua đầu. Hắn sực nhớ tới cái lưỡi của Ân một ngày xa xôi nào cũng thè ra hứng lấy những giọt sương như con cóc bây giờ. Tự nhiên Nghĩa bật ra một tiếng cười ghê rợn. Người vợ buông đũa sửng sốt nhìn chồng và tò mò hỏi chồng. - Anh nghĩ gì mà cười thế? Hắn trả lời ngập ngừng: - Nhìn thấy con cóc liếm nước mưa tôi sực nhớ tới ngày xưa... Biết mình lỡ lời, Nghĩa dừng câu chuyện. Thấy vậy, vợ tò mò hỏi gặng. Hắn giấu quanh nhưng giấu một cách vụng về. Vợ ngờ chồng có tình duyên vụng trộm gì đó nên lại càng hỏi dồn. Câu chuyện cuối cùng biến thành một cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng. Nghĩa bụng bảo dạ: - "Vợ mình ăn ở với mình đã ngần ấy năm trời, từ nghèo khổ đến giàu có, vậy thì dù có biết rõ câu chuyện kia, hẳn cũng chả phàn nàn gì mình, mà biết đâu lại chẳng thương mình hơn vì thấy mình phải vượt qua lắm nỗi khó khăn mới đến được hạnh phúc ngày nay". Nghĩ thế, hắn liền dặn vợ giữ kín câu chuyện sắp nói, rồi thuận miệng kể toạc ra tất cả mọi điều bí ẩn ngày xưa. Người vợ ngồi nghe trở nên trầm ngâm yên lặng. Nàng thấy kẻ ngồi trước mặt mình không còn là loài người. Tất cả lòng tử tế, sự âu yếm của giống sài lang ấy từ trước tới nay toàn là giả dối. Nàng thương xót người chồng yêu quý chỉ vì đứa bất lương phản bạn mà chết một cách oan khốc. Tuy không tỏ thái độ gì ngay nhưng trong lòng nàng có cả một đống lửa đang ngày một bốc lên ngùn ngụt. Một hôm nhằm ngày giỗ Ân - ngày giỗ mà Nghĩa vẫn không quên bày lễ cúng hàng năm như lời hứa - người đàn bà đi chợ mua rượu thịt về cúng vong hồn người bạc mệnh. Sau khi lễ tất, hai vợ chồng cùng ngồi vào ăn. Nàng cố chuốc cho Nghĩa uống thật nhiều. Khi đứa gian ác đã thật sự say gục xuống chiếu, nàng trói chặt hắn vào giường. Rồi cầm một con dao bầu đã mài sẵn, nàng rạch bụng hắn lấy quả tim bỏ vào đĩa, đặt lên bàn thờ cúng chồng một lần nữa. Đoạn nàng đến công đường tự thú..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-coc-liem-nuoc-mua" }
Sự tích con muỗi
Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ đã từng ăn thề hẹn không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết đi thì người kia sẽ chết theo để xuống âm ty cho có bạn. Sau đó không bao lâu, người vợ trẻ tự nhiên bị chết mang đi một cách đột ngột. Không ai có thẻ tả được hết tình cảnh đau thương của người chồng. Anh chàng đã mấy lần toan tự tử, nhưng bị người nhà ngăn trở và canh phòng ráo riết. Hôm sắp sửa cất đám bỗng có một đạo sĩ đến bày cho chàng phép cải tử hoàn sinh mà theo lời ông ta, đã từng có nhiều người dùng rất ứng nghiệm. Phép của ông ta chẳng có gì khó, chỉ cần người sống gan dạ và kiên trì một chút là được. Nghĩa là người sống mỗi ngày ba lần ôm ấp và truyền hơi ấm của mình vào cho tử thi. Làm luôn như thế không nghỉ ngày nào thì chỉ trong khoảng ba tháng mười ngày là người chết sẽ sống lại. Người chồng cảm ơn đạo sĩ và làm đúng như lời dặn, hi vọng đưa người yêu trở lại cõi thế. Ngày ngày chàng ôm ấp vợ, truyền sức nóng, hơi thở của mình vào cái xác đã lạnh toát. Nhưng sau đó ba ngày, mùi thối của tử thi bay ra khắp xóm làm cho mọi người không chịu được. Họ kéo nhau đến nhà bắt chàng phải chôn lập tức. Bất đắc dĩ, người chông nhờ xóm giềng chặt nứa làm giúp một cái bè để mình đưa xác vợ đi một nơi khác. Nhiều người vui lòng giúp anh chàng trong việc này. Chỉ trong nửa ngày, hắn đã chở xác người yêu đi biệt. Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi. Người chồng vẫn ngày ngày ấp ủ vợ không thôi. Cái tử thi đó trông vẫn như người nằm ngủ. Lòng anh chàng tràn trề hy vọng. Đến một nơi kia, hắn cắm bè lại kề một bãi cỏ rộng, lên bộ nấu ăn. Tình cờ trong khi đi nhặt củi chàng ta gặp một cụ già. Nhìn thấy ông cụ chống gậy đi một mình giữa cảnh trời nước hoang vu, lại râu tóc trắng xóa, hình dung không có gì là lam lũ, chàng trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên. Hắn đang suy nghĩ thì thoáng cái ông cụ đã đứng trước mặt. Hiểu ngay đó là bậc Tiên Phật, hắn vội phục xuống chân cụ già rồi kể lể sự tình, cuối cùng không quên cầu khẩn ông cụ sinh phúc giúp cho vợ mình sống lại. Cụ già đó chính là đức Phật, thấy anh chàng nài nỉ hết sức, bèn thương tình, đi theo xuống bè, bảo hắn chích máu ngón tay nhỏ ba giọt vào miệng vợ. Tự nhiên người đàn bà mấp máy môi rồi từ từ ngồi dậy như vừa tỉnh một giấc mơ. Trước khi ra về đức Phật có hỏi người vợ: - Anh chàng này cho vay ba giọt máu để ngươi được hồi sinh. Vậy nhà người có yêu anh ta chăng? Trước câu thề thốt chắc nịch của người đàn bà, đức Phật bảo: - Không can gì. Nếu không yêu nữa thì chỉ việc trả lại ba giọt máu cho anh ta là đủ! * Thấy bọn họ nóng lòng muốn trở về quê hương, đức Phật gọi một con cá sấu khổng lồ từ vực sâu lên bảo chở họ đi. Cá sấu vượt sông được nửa ngày đường thì bụng đã đói. Nó bảo hai vợ chồng lên bộ nghỉ ngơi để cho nó đi tìm cái ăn. Hai vợ chồng dắt nhau vào quán cơm. Trong quán hôm đó có một người khách thương sang trọng. Hắn ta thấy nhan sắc người vợ diễm lệ ít ai sánh kịp thì bỗng nảy tà dâm, mưu toan chiếm đoạt. Hắn lân la lại gần, đưa các mẫu hàng tơ lụa và đồ trang sức ra vờ chào khách, kỳ thực là để tán tỉnh người đàn bà đẹp. Hắn nói trong thuyền hắn đậu ở gần đấy còn có nhiều món hàng nữa rất quý và rẻ, muốn mời họ xuống xem. Nhưng người chồng thì chẳng thiết một tý nào. Cơm nước xong, bỏ mặc người khách thương, dắt vợ ra bến vắng, ở chỗ hẹn với cá sấu, ngồi đợi. Họ ngồi dưới bóng cây trò chuyện một chốc rồi vì mệt quá, ngủ quên lúc nào không biết. Họ cũng chẳng ngờ sau lưng họ, người khách thương kia vẫn theo hút không rời. Khi thấy hai người nằm ngủ, hắn đi nhẹ đến thức riêng người vợ dậy, mời nàng xuống thuyền đậu kề đó để hắn biếu một món trang sức. - Thuyền của tôi chỉ cách đây mươi bước. Bà không phải đợi lâu đâu! Nghe nói thế, lòng người đàn bà bỗng thấy lay chuyển. Nàng đứng lên, đi theo người khách thương xuống thuyền. Chỉ trong nháy mắt, theo ám hiệu của chủ, bọn thủy thủ chiếc thuyền buôn nhổ neo và giong buồm cho thuyền chạy mất. Lại nói chuyện cá sấu lúc ngoi lên chỗ hẹn thì thấy chỉ có một mình người chồng, bấy giờ vẫn đang ngủ say. Cá sấu thức chàng dậy hỏi chuyện. Anh ta ngơ ngác không hiểu thế nào. Một mất mười ngờ, hắn đổ tội cho cá sấu đã ăn thịt mất vợ. Để giải mối ngờ, cá sấu mới bảo hắn kiếm cây luồn qua miệng mình, khua trong dạ dày xem thử cho biết. Anh chàng làm theo, chỉ thấy trong bụng cá sấu toàn là xương cá và đá cuội, mới biết mình ngờ sai. Tìm khắp mọi nơi chẳng thấy vợ, hắn trở về bến, ôm đầu kêu khóc rất thảm thiết. Cá sấu thương tình bèn bảo hắn cưỡi lên lưng rồi phóng đi, đuổi theo những chiếc thuyền vừa qua lại để dò tìm tung tích. Sau mấy lần dò hỏi, người ta cho biết một chiếc thuyền buôn vừa đi qua, trong đó có một người đàn bà trẻ và đẹp. Họ tả nét mặt và hình dạng thì đúng là vợ chàng. Cá sấu bèn cố công đuổi riết. Khi nhìn thấy vợ ngồi trong thuyền khách thương, người chồng nói với vào: - Nàng cứ nhảy ra đây... Tôi không thể sống xa nàng được... Tôi sẽ làm cho nàng sung sướng... Nhưng người vợ trả lời chồng: - Chàng về đi! Em đành phụ chàng. Chàng tha thứ cho em vậy. Rồi đưa cho chồng một gói vàng: - Chàng hãy nhận lấy vật này và coi như em đã chết từ hôm nào rồi. Vừa bực tức vừa thất vọng, chồng ném gói vàng xuống nước rồi nhờ cá sấu đưa mình trở lại tìm đức Phật. Khi đức Phật gặp bọn họ, liền giục cá sấu hối hả rượt theo chiếc thuyền khách thương để cho anh chàng thất tình đòi lại ba giọt máu của mình. Lại nói chuyện người đàn bà sau khi chích máu ở tay để lấy ra ba giọt trả nợ cho chồng thì ngã vật xuống chết ngay. Người khách thương hết sức chữa chạy nhưng vô hiệu. Rồi sau đó hắn ném xác nàng xuống biển. Nhưng do phép màu của đức Phật, người đàn bà ấy hóa thành con muỗi. Vì thiếu máu, nên lúc nào muỗi cũng lén lút đi chích trộm của mỗi người một tý để sống...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-muoi" }
Sự tích thành Lồi
Ngày xưa , có một ông vua nước Chăm muốn lấy một nàng công chúa nước Đại Việt làm vợ. Nhà vua nghe nói công chúa Huyền Trân nhan sắc tuyệt trần, những phi tần trong cung vua khó bề sánh kịp. Ao ước người đẹp, nhà vua đêm mơ ngày tưởng. Vua nghĩ đến việc dâng vàng bạc, châu báu, kỳ nam và voi ngựa để làm sính lễ, nhưng những món ấy chưa hẳn đã đưa lại kết quả như ý muốn. Một viên nội thị rỉ vào tai vua: - Muốn chiếm được người đẹp, trừ phi hiến đất không có kế nào khác. Trước vua còn ngần ngại, nhưng sau đó quả quyết sai một sứ bộ ra cầu hôn với sính lễ hai châu Ô, Rí ở biên giới. Thấy triều thần có người can ngăn, nhà vua ung dung đáp: - Tất cả đất đai này đều là của trẫm. Mà trẫm thì chả vui gì nếu không lấy được công chúa Đại Việt. Hơn nữa, giữa hai nước máu chảy đã nhiều rồi. Ngày nay trẫm muốn mượn mối nhân duyên để dẹp yên can qua khốc hại. Trước món sính lễ đặc biệt, triều đình Đại Việt ai nấy đều tỏ vẻ hài lòng. Vua Trần và công chúa Huyền Trân gật đầu ưng thuận. Được lời như cởi tấm lòng, vua Chăm sai quan thái bộc chọn ngày lành tháng tốt, rồi phái một sứ bộ mang năm trăm quân sĩ đi thuyền ra đón vợ về. Đám rước dâu từ kinh thành ra đi, vượt qua muôn trùng sông nước mới tới kinh đô. Vua Chăm mừng rõ. Công chúa muốn gì đựơc nấy. Bọn nội thị từ đây mới thấy hoàng cung rộn rịp tươi vui hơn trước. Trong khi đó sư bộ Đại Việt bắt đầu vào nhận đất mới. Nhưng việc đời còn éo le nhiều nỗi. Công chúa cùng vua Chăm hương đượm lửa nồng chưa được một năm thi nhà vua bỗng nhiên mắc bệnh rồi mất. Tin dữ truyền đi khắp hai nước, riêng đối với công chúa thì không khác gì tiếng sét ngang tai. Đầu xanh đã phải chịu cảnh góa bụa. Không những thế, công chúa sẽ chịu tang trong một thời kỳ ngắn để rồi lên hỏa đàn về với vua Chăm bên kia thế giới. Nhập gia tuỳ tục, tuy công chúa là người Việt nhưng nay đã là hoàng hậu Chăm, không thể không theo đúng tục lệ có tự nghìn xưa. Vua Trần nghe tin lo sợ, vội sai sứ bộ vào điều tang và tìm cách cứu công chúa. Nhân lúc mọi người bối rối, sứ bộ Việt giả cách xin phép đưa công chúa ra bờ biển làm lễ cầu hồn rồi lén đưa xuống thuyền nhỏ, một mạch dong buồm ra Bắc. Việc hoàng hậu bỏ trốn làm cho triều đình nước Chăm nổi giận. Đã thế thì lời hứa cũ không còn có giá trị nữa. Món đồ sính lễ là hai châu Ô, Rí phải được trả lại. Nghĩ thế, ông vua mới nước Chăm bèn sai năm vạn quân mã ra giữ chắc lấy hai châu đó, mặc dầu việc bàn giao đã sắp xong, bên Đại-việt không ngờ có chuyện xảy ra như thế chỉ phái tướng quân Đoàn Nhữ Hài mang mấy ngàn quân vào dò động tĩnh. Một buổi chiều hè, quân Đại Việt mang theo cát bụi từ Đàng ngoài đã tiến vào tới sát bờ sông Trong[1]. Quân do thám về báo quân Chăm đã kéo ra đông vô kể, do một viên tướng mặt đen râu xồm tên là Lồi hiện đang đóng trên mấy ngọn đồi ở bên kia sông. Thấy tình thế đã trở nên nghiêm trọng, tướng Việt lo lắng vì sức người sức mình cách nhau một trời một vực. Đoàn tướng quân vò đầu suy nghĩ. Rồi đó người ta thấy quân lính Việt được lệnh cắm trại rải rác suốt mấy dặm dài dọc theo bờ sông. Mỗi trại chia ra từng nhóm quân, nhóm nào nhóm ấy cắm cờ la liệt. Để khoa trương thanh thế, ban đêm mọi nơi thắp đèn đuốc sáng choang, lại đánh trống chiêng và hò reo rầm trời. Ban ngày có một toán quân đã cắt đặt sẵn, vác gươm giáo sáng quắc, nai nịt chỉnh tề đi quanh hòn núi nổi lên trên bờ sông[2]. * Bên Chăm thấy bên Việt án binh bất động lại thấy quân địch kéo qua núi liên miên không ngớt, nghĩ tới oai hùng của những người đã chiến thắng trăm vạn quân hùm beo Mông-cổ nên sinh khiếp sợ. Song vâng mệnh vua đem đại quân ra giữ biên thùy, không lẽ chưa giao chiến đã vội rút lui. Sau mấy ngày làm kế nghi binh, đoàn tướng quân cho quân mang thư mời tướng Chăm ra trước trận để cùng thương lượng. Kết quả, các tướng lĩnh hai bên đi đến mốt đính ước: "Trong một đêm hai bên đều khởi công, mỗi bên đắp một bức thành cho suốt tới sáng, bên nào hơn thi thắng. Bên thua lập tức lui binh nhượng đất, để khỏi giết hại sinh linh". Trong khi quân Đại-việt còn đủng đỉnh nấu ăn coi bộ chưa nghĩ tới cuộc đấu sức đã bắt đâu, thì quân Chăm đã vội vã kẻ đào người chuyển đất, đắp một bức thành suốt dọc bờ sông vắt qua mấy ngọn đồi. Tướng Lồi đốc thúc ráo riết. Trời vừa tối hẳn thì quân Chăm đã đắp nổi một quãng khá cao. Cho đến mờ sáng, cả tướng lẫn quân lấy làm mừng rỡ vì mặt thành đã cao hơn trượng. Chợt nghe một hồi trống đồng từ bên kia vọng đến, quân Chăm bên này trông sang, thì kia, thăm thẳm mây dặm dài, thành của bên quân Đại-Việt đã xây xong từ bao giờ: Tường cao dễ đến mấy trượng, công thành với cái vọng lâu của nó trông thật là đồ sộ. Chẳng những thế, trong thành lại còn nhà cửa mới xây rất nguy nga: mái lợp ngói đỏ tường quét vôi trắng, trên mặt thành voi ngựa, quân lính dàn ra không biết bao nhiêu mà kể. Thật là bạt ngàn san dã... Hàng ngũ của họ rất tề chỉnh, đứng im phăng phắc dưới bóng cờ như chỉ chờ lệnh là xông ra. Tướng Lồi ở trên chòi cao đưa mắt nhìn với một vẻ ngơ ngẩn hãi hùng. Quân Việt quả là dồn tất cả lực lượng vào đây. Trêu vào họ chỉ là chuốc lây một thất bại thảm hại. Khi nghe tiếng loa bên địch thét lên, tướng Lồi nổi hiệu cho toàn quân rút lui khỏi vùng Ô, Rí. * Tuy không phải đánh chác gì, nhưng Đoàn tướng quân cũng báo tin đại thắng về cho vua Trần, không quên nói hết mưu kỳ của mình trong cuộc đọ trí nguy hiểm này. Bởi vì quân Chăm có biết đâu thành của quân địch toàn bằng phên tre dựng lên, nhà cửa đều bằng nan ghép lại, quân sĩ voi ngựa đều bằng cỏ bện hoặc bằng đất, những mái đỏ tường trắng, cỏ xanh đều là màu thuốc tô điểm. Ngày nay vẫn còn dấu vết bức thành do quân Chăm đắp dở, thuộc địa phận mấy xã Dương xuân, Nguyệt-biểu (Thừa-thiên). Người ta gọi là thành Lồi để phân biệt nó với thành Phật-thệ ở gần đó và cũng để nhắc nhở cái tên viên tướng thua cay trong cuộc đấu trí vừa hiếm có vừa ly kỳ ấy. Chú giải [1] Tức sông Hương. [2] Tức núi có chùa Thiên-mụ bây giờ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-thanh-loi" }
Võ Tòng đánh hổ trên đồi Cảnh Dương
... Võ Tòng ở nhà Sài Tiến được một thời gian thì có ý muốn trở về làng để thăm anh cả, song Sài Tiến cùng Tống Giang cố giữ lại mà không cho đi. Võ Tòng nói với hai người rằng: - Tôi còn có anh cả ở nhà, mà lâu nay không thấy có tin tức gì đến đây, vậy thế nào cũng xin về qua mới được. Tống Giang nói: - Nếu quả là Nhị Lang, có lòng muốn về, thì cũng không nên cưỡng là lưu lại, xong có lúc nào rảnh rỗi thì lại xin mời đến đây để xem cơ hội ra sao? ... Võ Tòng vâng lời mà cảm tạ Tống Giang, Sài Tiến lại lấy một ít tiền bạc đưa tiễn Võ Tòng. Võ Tòng tạ ơn mà rằng: - Chúng tôi ở đây đã lâu thực là phiền nhiễu Đại quan nhân lắm lắm. Nói đoạn thu xếp khăn gói hành lý để sắp sửa ra đi. Sài Tiến lại đặt tiệc tiễn hành, mấy người chè chén trò chuyện với nhau đến khi quá vui rồi Võ Tòng mới xin bái biệt để đi. Bấy giờ Võ Tòng mình mặc áo trừu đỏ mới, đầu đội nón chiên trắng, lưng đeo khăn gói; tay xách gậy mà từ biệt mọi người để lên đường. Trong khi sắp sửa ra đi, Tống Giang còn cầm lại rồi chạy về phòng lấy mấy lạng bạc giắt vào lưng mà bảo với Võ Tòng rằng: - Tôi xin đưa chân hiền đệ đi một quãng cho vui. Nói đoạn Võ Tòng từ biệt Sài Tiến, ra đi, hai anh em Tống Giang cũng xin phép để đi tiễn chân một thể. Ba người ra khỏi Đông Trang được độ dăm bảy dặm đường, Võ Tòng liền quay lại vái Tống Giang mà rằng: - Tới đây đã xa rồi xin huynh trưởng trở về kẻo Sài Đại quan nhân mong đợi. Tống Giang đáp rằng: - Để tôi đưa chân hiền đệ một quãng nữa có hại gì. Nói đoạn ba người lại cùng đi cùng nói chuyện với nhau. Vào khoảng hai ba dặm đường nữa, Võ Tòng lại cầm tay Tống Giang mà rằng: - Tôi xin đưa chân đến chỗ tửu điếm ở bên đường cái kia, để ta cùng uống với nhau mấy chén rượu nữa rồi ta sẽ trở về. Đoạn rồi ba người, cùng dấn bước đến chỗ tửu điếm bên đường... Khi tới nơi, Tống Giang ngồi đầu bàn dưới, còn Tống Thanh thì ngồi một bên, rồi tửu bảo dọn rượu lên ba người cùng uống. Bấy giờ mặt trời đã xế non Tây, Võ Tòng liền nói với Tống Giang rằng: - Ca ca đã có lòng hạ cố mà không bỏ Nhị Lang này thì xin ca ca nhận cho bốn lạy để bái nghĩa làm huynh. Tống Giang rất lấy làm vui mừng liền nhận bốn lạy của Võ Tòng rồi lấy ra một đĩnh mười lạng bạc đưa tiễn Võ Tòng. Võ Tòng từ chối không lấy mà rằng: - Cái đó xin để ca ca chi dụng. Tống Giang nói: - Hiền đệ bất tất phải từ chối, nếu hiền đệ không lấy thì ta không dám nhận làm anh em... Võ Tòng bất đắc dĩ phải nhận lấy mà bọc vào khăn gói tử tế, Tống Giang lại lấy ít tiền lẻ ra để tính trả tiền rượu, đoạn rồi Võ Tòng cầm lấy gậy mà cùng nhau đứng dậy đi ra ngoài tửu điếm... Khi ra tới cửa Võ Tòng lại gạt lệ bái biệt mà đi. Còn hai người anh em Tống Giang thì đứng trước cửa hàng trông theo mãi đến khi người xa xa khuất mới cùng nhau lui gót trở về. Trông chừng trời đổ non tây Anh hùng này lúc chia tay cũng sầu! Rồi đây một bước xa nhau Kinh trời động đất biết đâu có người Bây giờ Tống Giang cùng Tống Thanh trở về đến nửa đường thì gặp Sài Tiến cưỡi ngựa và sau lưng dắt hai con ngựa đi không để ra đón, Tống Giang trông thấy cả mừng liền cùng nhau lên ngựa dóng cương cùng về trang viện. Đoạn rồi Sài Tiến lưu hai anh em Tống Giang cùng ở đó mà cung phụng rất là tử tế... Võ Tòng từ khi bái biệt Tống Giang đi được mấy thôi đường thì trời đã tối, liền tìm vào một tửu điếm để nghỉ. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi lại một mình ra đi thực sớm. Chàng vừa đi vừa nghĩ thầm trong bụng rằng:"Xưa nay chỉ nghe tiếng bọn giang hồ nói là Cập Thời Vũ Tống Công Minh mà không được gặp. Ngày nay mới biết là quả nhiên danh bất hư truyền, kết giao được một người như thế, để làm anh em, thực cũng khỏi phí một đời hảo hán". Võ Tòng nghĩ như vậy, thì trong lòng cũng lấy làm vui vẻ, và hâm mộ vô cùng. Cách vài hôm sau, một hôm vào khoảng quá trưa, chàng đi tới gần địa hạt huyện Dương Cốc, nghe trong bụng cũng có đôi phần đói khát, muốn tìm vào tửu điếm để ăn. Chợt trông thấy trước mặt có một ngôi hàng rượu, trước cửa cắm lá cờ chiêu bài, viết mấy chữ rằng: "Ba chén không qua được núi". Chàng ta thấy vậy liền xăm xăm đi vào hàng, kiếm ghế ngồi và dựa gậy vào một chỗ, rồi gọi nhà hàng lấy rượu. Bấy giờ thấy chủ hàng mang ra ba cái chén, một đôi đũa và một đĩa rau chín, đặt lên trên bàn, rồi bảo với chủ hàng rằng: - Cái rượu này tốt, uống vào dễ chịu lắm, chủ nhân có thức gì nhắm đem lại đây. Chủ hàng đáp: - Hàng tôi chỉ có thịt bò chín thôi. - Được, thái vài ba cân thịt, đem đây nhắm rượu. Chủ hàng vâng lời ra thái hai cân thịt, để vào một cái đĩa lớn đem lên rồi lại rót ra thêm một chén rượu nữa là ba. Khi uống xong chủ hàng cất rượu đi mà không rót nữa. Võ Tòng liền vỗ bàn mà kêu lên rằng: - Nhà hàng sao không rót rượu nữa ra đây? Nhà hàng đáp: - Ngài xơi thịt nữa thì tôi đem lên thôi. - Ta uống rượu nữa và thái thịt lên đây một thể. - Ngài cần thịt thì tôi xin thái thêm, chứ rượu thì tôi không bán nữa. - Quái lạ? Sao không bán rượu cho ta nữa? - Ngài có trông thấy trên cửa tôi yết rằng:"Ba chén không qua được núi" chăng? - Rượu của tôi đây đâu phải là rượu của quê nhà, nhưng cũng không kém gì các thứ rượu tăm, phàm ai đến hàng này uống vào ba chén, là say ngay không thể nào qua được núi. Bởi vậy nên bao nhiêu người tới đây cũng chỉ uống ba chén, mà không ai gọi lấy thêm bao giờ. Võ Tòng cười mà rằng: - Thế sao ta uống hết ba chén cũng không thấy say? - Thứ rượu của tôi đó, gọi là rượu Thấu bình hương là thơm thấu ra ngoài bình, lại gọi là rượu Xuất môn tảo, nghĩa là mới uống vào thì ngọt như rượu nếp, rồi một lúc ngã say người ra. - Thôi đừng nói khoác, không rót ba chén nữa đây, thì không trả tiền nữa. Chủ hàng thấy Võ Tòng quả nhiên chưa có gì là say, liền lấy rượu rót thêm ba chén cho Võ Tòng nuống. Võ Tòng uống lại khen rằng: - Rượu tốt thực! Chủ hàng ôi! Ta uống chén nào trả tiền chén ấy, cứ rót đây cho ta. - Chết rồi, ngài chớ uống liều thế, rượu nầy say chết người, không ai mà chữa được đâu? - Thôi anh đừng nói láo, sanh có bỏ thuốc mê vào đó, thì ta đây cũng có mũi chứ... Chủ hàng không biết làm thế nào được, lại phải rót ra ba chén nữa, Võ Tòng lại gọi lấy thêm hai cân thịt nữa lên, rồi uống luôn mấy chén rượu, ra dáng khoái hoạt vô cùng. Khi uống hết mấy chén rồi, Võ Tòng bỏ ra ít tiền lẻ để bàn, rồi gọi chủ hàng đến mà bảo rằng: - Anh thử xem tiền tôi có đủ trả tiền rượu không. Chú hàng đếm thấy nhiều tiền liền đáp rằng: - Đây còn thừa của ngài, để trả lại ngài. - Không cần trả lại, cứ rót rượu ra đây là được rồi. - Ngài muốn uống nữa, đây cũng còn đến dăm sáu chén, nhưng chỉ sợ ngài không uống được thôi. - Có dăm sáu chén, thì cứ mang tất cả ra đây. Chủ hàng nghe nói liền đáp rằng: - Ông to lớn thế này, mà ngã lăn ra thì ai nâng dậy được? Võ Tòng cười mà rằng: - Ta lại cần đến anh nâng đỡ dậy, thì đã không phải là tay hảo hán. Chủ hàng nghe nói mặc lòng, nhất định không đem rượu ra bán nữa. Võ Tòng nổi giận lên mắng rằng: - Ta không thèm uống quịt của các ngươi, các ngươi đừng trêu tức lão gia, mà lại tan cả nhà bây giờ! Chủ hàng nghĩ thầm trong bụng:"Anh này đã chếng choáng rồi, mặc thây hắn ta, chẳng dây vào làm gì nữa!". Nghĩ đoạn liền đem rượu ra rót luôn năm sáu chén cho Võ Tòng uống. Võ Tòng uống xong, tính tất cả trước sau có tới mười tám chén rượu liền vớ lấy gậy đứng phắt dậy mà nói rằng: - Nào ta có say gì đâu? Nói đoạn đi ra đến cửa lại cười ha hả lên rằng: - Nào ta có say gì đâu? Thế mà chả nói rằng ba chén không qua được núi! Đoạn rồi vác gậy chạy xông đi. Bấy giờ chủ hàng chạy ra gọi lên mà bảo rằng: - Này ông khách đi đâu đấy? Võ Tòng nghe nói đứng dừng lại mà rằng: - Gọi ta làm cái gì? Ta có thiếu tiền của anh đâu mà gọi? - Tôi gọi vì có lòng tử tế đó thôi, ông hãy vào nhà tôi mà xem giấy của quan yết thị đã. - Yết thị gì? - Hiện nay ở trên núi Cảnh Dương có một con cọp rất lớn, cứ đến chiều là ra đón ở đường, để hại người qua lại, xưa nay giết hại đã có tới hai ba mươi tên hảo hán, mà chưa ai làm sao trị nổi. Bởi vậy quan trên đã nghiêm sức cho bọn săn bắn đi lùng bắt, và yết giấy cho các hành khách, tất phải đợi nhau kết thành một tụi trong khoảng giờ tị, giờ ngọ, giờ mùi (tức khoảng trưa) thì mới được đi qua núi, còn buổi sớm chiều hôm và khách đi một mình, thì cấm không cho đi qua đấy. Nhân thế rồi sợ ông đi có một mình, mà lại gần tối rồi, lỡ ra thiệt đến tính mạng thì nguy, vậy bất nhược, ông hãy tạm nghỉ ở nhà hàng tôi, để đợi sáng mai có đông người rồi sẽ đi mới được. Võ Tòng nghe nói cười mà đáp rằng: - Ta đây người ở huyện Thanh Hà, xưa nay đi qua núi Cảnh Dương này, ít ra cũng có vài mươi lần, nào có thấy ai nói đến chuyện beo cọp gì đâu? Anh đừng giở đến chuyện ấy mà lòe ta mới được. Mà cho hẳn có cọp nữa, thì ta đây nào có sợ gì! Nhà hàng nói: - Đấy là lòng tốt của tôi, tôi muốn cứu ông, nếu không tin, thì lại xem bảng yết ở đây thì biết. Võ Tòng gạt phắt đi mà rằng: - Thôi đừng nói nữa... Dù có có cọp thực nữa, lão gia đây cũng không sợ.. Anh định giữ ta ở lại đêm nay cướp tiền hại ta, rồi lại đem cọp ra lòe ta hay sao? Chủ hàng lấy làm bực mình liền đáp lại rằng: - Ông không biết lòng cho tôi, được, thôi tùy ý, không tin thì cứ đi đi. Nói xong lắc đầu, ra vẻ tức mình mà mà trở vào nhà. Võ Tòng lại điềm nhiên vác gậy lên vai, bước khoát đạt lên núi Cảnh Dương. Đi được bốn năm dặm đường, đến chỗ chân núi, thấy bên đường có một cây lớn gọt trắng một quãng vỏ, có viết mấy hàng chữ lên trên. Võ Tòng đứng dừng lại ngửa mặt lên xem, thì thấy chữ yết rằng: "Trên núi Cảnh Dương có con cọp lớn hại người, vậy phàm có khách thương qua lại, tất phải đợi đến giờ Tị, giờ Ngọ, Giờ Mùi, mà tụ họp đông người, sẽ đi qua núi. Xin chớ có liều mà chết". Võ Tòng xem xong cười mà nói rằng: - Cái này là mưu mẹo của thằng hàng cơm, nhưng ta đây có sợ gì, định lừa người ta phải trọ lại ở hàng nó đây... nhưng ta đây có sợ gì? ... Nói đoạn lại vung ngang cây gậy mà đi lên núi. Bấy giờ vào khoảng giờ Thân, mặt trời đã sắp tà tà lặn, Võ Tòng thừa lúc hơi men cao hứng, cứ vùn vụt bước tràn lên núi. Đi độ nửa dặm đường, đến một tòa miếu cổ, chợt trông thấy trước cửa miếu dán một tờ bảng yết, chàng liền đứng dừng lại ngẩng lên để xem. Trong bảng yết rằng: "Huyện Dương Cốc yết thị cho các hành khách bộ hành cùng biết. Hiện nay trên núi Cảnh Dương có con cọp lớn giết hại nhiều người. Bản huyện đã sắc cho các nhà đi săn lùng bắt chưa được. Vậy phàm khách thương đi đến đây, tất phải đợi có đông người, mà chờ đúng giờ Thìn, giờ Tỵ, giờ Ngọ, giờ Mùi thì mới qua núi được. Còn các giờ khác và khách đi một mình, đều cấm không cho đi qua núi, e khi thiệt hại tính mạng không chơi". Nay yết thị. Ngày... tháng... năm niên hiệu Chính Hòa. Võ Tòng nom đến đấy, đã có ấn tín quan tư cẩn thận, bấy giờ mới tin trên núi có hổ, liền toan quay lại xuống núi để nghỉ. Đoạn rồi lại nghĩ thầm trong bụng rằng: "Nếu bây giờ ta về đấy, tất nhiên bị chủ điếm chê cười, như thế là không phải tay hảo hớn... làm thế nào cho tiện? ". Chàng nghĩ vơ vẩn một lát, rồi lại nói một mình rằng: Sợ cái gì? Ta thử đi xem đã làm sao? ... Nói xong lại vác gậy mà sồng sộc đi lên. Rượu này sức ấy tài kia, Trời còn coi bé huống chi vật thường? Ví không thiết thạch can trường Gánh sao cho nổi tang thương với đời? Khi Võ Tòng đi được mấy bước, nghe chừng hơi rượu đã bốc lên hừng hực, liền lật cái nón khoác về sau lưng, rồi cắp gậy vào một bên sườn, mà hăm hở bước đi. Hồi đó đương dạo tháng 10, đêm dài ngày ngắn, nên đi chữa được mấy chút đường thì thấy mặt trời đã lặn, chàng liền nói lẩm bẩm một mình rằng: - Ở đây làm gì có hổ, chẳng qua họ chỉ sợ không dám đi lên đó thôi. Nói đoạn lại dấn bước đi lên, bấy giờ hơi rượu càng ngày càng ngấm, lại càng nóng bức khó chịu, chàng liền một tay cầm gậy, một tay cởi phanh áo ngực mà đi thốc vào lối rừng cây. Chợt trông thấy viên đá xanh lớn để ở một bên đường, Võ Tòng liền dừng lại, dựng thanh gậy vào mạn rồi nằm lăn lên viên đá toan ngủ. Đương khi nghiêng ngả thích tình, thì bỗng có một trận cuồng phong đưa đến, rồi nghe thấy ở đằng sau bụi cây có tiếng gầm lên dậy đất, đoạn rồi một con cọp rất lớn ở đâu xuất hiện ra. Võ Tòng trông thấy, kêu lên một tiếng"Ái chà", rồi nhẩy bổ dậy vớ thanh gậy nấp vào bên cạnh viên đá. Con cọp kia đương khi đói, miệng khát, trông thấy có mồi ăn, liền gầm lên một tiếng, cong vót đuôi lên, giơ hai vuốt chân trước cào xuống đất mấy cái, rồi nhún mình nhằm nơi Võ Tòng nấp mà nhẩy vọt xuống đánh sầm một cái, khác nào như đất lở trời long vậy. Võ Tòng thấy vậy giật mình đổ toát mồ hôi, thành ra hơi rượu đương nồng, mà bỗng dưng mát lạnh, rồi vất mình đến vút một cái, mà tránh hẳn về sau lưng cọp. Hổ ta trông về phía sau không được, liền đập hai hàng vuốt trước xuống đất, rồi ném mình mà quay ngoắt để vồ. Võ Tòng lại lùi sang một bước mà tránh hẳn về một bên. Hổ ta thấy vồ không trúng, thì gầm thét lên một tiếng như sấm đánh lưng trời, cơ hồ đất núi Cảnh Dương cũng phải ầm ầm chuyển động, rồi dựng thẳng đuôi lên cứng như gậy sắt và vật sang để đánh. Võ Tòng lại lánh về một bên, thành ra anh hổ lại đánh cái trẫng. Nguyên giống hổ bắt người, thường dùng ba cách: Một là tát, hai là vồ, ba là đánh; Nay thấy dùng hết ba cách ấy, mà không ăn thua gì, trong lòng dạ đã chột đi một nửa phần, liền gầm lên một tiếng nữa, mà quay chồm trở lại. Võ Tòng thấy hổ ta quay chồm lại, liền hai tay múa cây gậy, ráng hết sức bình sinh, giơ thực thẳng cánh, vụt một cái nghe rắc một tiếng, rồi có một cây to đổ ngay trước mặt. Chàng định tình lại để nom thì té ra ngọn gậy đánh gấp quá, không trúng vào con cọp, mà lại trúng ngay vào cây khô ở bên, làm cho cây cũng gãy xuống mà gậy thì mất phăng đi một nửa, chỉ còn một nửa ở tay. Bấy giờ con cọp nóng tiết, lại gầm thét ầm ĩ mà quay lại vồ luôn cái nữa. Võ Tòng vội giật lùi lại vào khoảng hai mươi thước, vừa hay khi ấy hai chân trước của cọp ta vồ soài xuống chỗ đất ở trước mặt Võ Tòng, chàng liền vứt văng gậy ra một bên, rồi vung hai tay ra nắm lấy bờm con hổ mà ấn xuống đất. Hổ ta hết sức cựa dậy, song bị Võ Tòng cũng hết đè xuống, mà giơ gót cẳng nhè giữa mặt con hổ mà rọi lấy rọi để một hồi. Hổ tức mình kêu gầm rít lên, rồi hai chân sau cào đập cào xuống mặt đất, làm cho đống đất đằng sau lõm xuống hẳn như vũng sâu vậy. Mãi sau hổ ta mệt nhoài mệt lử không còn hơi sức nào cự lại được, Võ Tòng liền tay trái giữ chặt lấy bờm ấn xuống đất, rồi rút tay phải ra mà giơ những nắm đấm tay như sắt, hết sức bình sinh, đánh luôn cho năm bảy mươi quả đấm nữa. Hổ ta bị đấm một lúc, vọt máu tươi ra khắp cả mồm mũi và hai mắt, rồi chỉ thở lên hồng hộc, mà lử đi không cựa được. Bấy giờ Võ Tòng buông tay ra, rồi chạy đến bên gốc cây tìm lấy đoạn cây gãy, mà đem đến đánh luôn mấy chục cái nữa, cho hổ chết hẳn mới thôi. Đoạn rồi chàng sấn vào vũng máu, định xách con hổ đem xuống dưới núi, song vì lúc trước dùng sức quá mạnh, thành thử bấy giờ chân tay đều rời rả cả ra, mà không sao nhắc nổi lên được. Võ Tòng thấy vậy, liền bỏ con hổ ở đấy, rồi lại lên trên viên đá ngồi nghỉ. Một lúc chàng nghĩ thầm rằng:"Bây giờ trời đương tối tăm thế này, nếu ta ngồi đây mà lỡ có con hổ nào nữa bò ra, thì cự địch làm sao được? Bất nhược ta hãy xuống núi tìm chỗ ngủ, rồi sáng mai sẽ liệu". Nghĩ đoạn liền lấy nón, lại khoác lên vai rồi quanh quất theo lối rừng cây mà đi lần xuống núi... Vừa đi được nửa dặm đường thì quả nhiên lại thấy hai con cọp nữa đương ở trong đám bụi cỏ hiện ra, chàng bèn kêu một tiếng"Trời ơi" mà rằng: - Phen này thì ta nguy mất!. Nói đoạn thì thấy hai con cọp ấy bỗng dưng đứng dựng ngay lên mà đi. Võ Tòng địng tình lại để xem thì té ra là hai người đầu đội lốt hổ, mà mỗi người tay cầm một cái đinh năm đi đến. Hai người ấy trông thấy Võ Tòng thì lấy làm kinh ngạc mà hỏi rằng: - Anh... anh nầy có dễ... ruột beo, gan sư tử, mật lớn bọc cả lấy thân hay sao mà đêm hôm không có khí giới gì ở trong tay lại dám đi qua đây như vậy? Anh... anh là người hay ma? Võ Tòng lại hỏi rằng: - Hai các anh là người thế nào? Hai người kia đáp rằng: - Chúng tôi là đám đi săn ở bản xứ đây. - Các anh định lên núi làm gì? Hai anh kia lại chếnh choáng người lên mà rằng: - Chết nỗi anh không biết à? Ở đây có một con cọp rất to, đêm đến vẫn ra ăn thịt người, đám đi săn chúng tôi hiện đã thiệt mất bảy tám mạng, còn đám thương khách qua lại cũng chết hại không biết đến đâu mà kể. Bây giờ quan huyện sức giấy cho lý trưởng làng tôi phải loan cho bọn đi săn để lùng bắt, nhưng giống gớm ghê ấy nào đã ai dám đến gần được nó ở đâu? Bởi thế mà chúng tôi bị đòn vọt mấy lần cũng chưa sao bắt được. Hôm nay anh em kéo đến mười mấy tên dân phu trong làng, anh nào anh nấy đều phải mang gậy cung tên thuốc mà nấp ở các nơi để rình. Vừa rồi trông thấy anh ở trên núi đi xuống chúng tôi lấy làm kinh sợ tưởng hắn đã ra, ai ngờ lại là người, mà sao dám đi bây giờ? Thế anh có trông thấy con cọp ấy không? Võ Tòng cười mà đáp rằng: - Ta đây là Võ Nhị Lang người ở huyện Thanh Hà, vừa rồi đi qua đám rừng cây ở trên, bỗng có con cọp ra đó bị ta đánh cho mấy cẳng tay chết rồi. Hai anh đi săn nghe nói ngây hẳn người ra một lúc rồi mới nói rằng: - Không có lẽ thế? - Các anh không tin, thử nom xem trên mình ta có máu me be bét ra đây không? - Làm thế nào mà đánh được nó? Võ Tòng liền đem chuyện lúc đánh nhau với hổ thuật cho hai người nghe. Hai người nghe xong thì hoảng hốt mơ hồ vừa mừng vừa sợ, rồi gọi đám phu cùng đến đó mà nói chuyện cho chúng nghe. Võ Tòng bảo với tụi đi săn rằng: - Các anh thử theo ta lên núi nầy mà xem. Chúng nghe nói vẫn còn nửa tin nửa ngờ chưa dám quả quyết đi lên. Sau các người đều có dao gang đá lửa liền bàn nhau thắp đèn đến dăm bảy bó đuốc mà liều theo Võ Tòng đi lên núi. Khi tới giữa núi, quả nhiên có con hổ nằm chết lăn queo ở đó chúng thấy mừng rũ người ra, rồi bảo nhau về báo cho Lý Trưởng biết. Còn mấy tên dân phu thì lấy thừng chão ra trói chặt con hổ lại mà khiêng xuống núi. Vừa đến chân núi thì đã thấy một tụi bảy tám người ầm ầm kéo đến, rồi khiêng một cỗ kiệu để đón Võ Tòng về nhà huynh dịch ở làng để ngủ. Khi tới nơi, Lý Trưởng trong làng đã đến đấy đón tiếp Võ Tòng vào, rồi chúng khiêng con hổ về ở thảo sảnh. Bấy giờ các đàn anh trong làng, cùng hai ba mươi tên tay săn đều kéo đến chào Võ Tòng mà hỏi thăm tên họ và việc say rượu đánh hổ, kể suốt đầu đuôi cho chùng nghe một lượt. Chúng liền cả mừng mà rằng: - Ngài thực là anh hùng hảo hán, hiếm có xưa nay. - Nói đoạn các tay săn liền đem mấy món dã vị, để tạm mời Võ Tòng uống rượu. Nhân khi đánh hổ xong, nghe trong mình mệt nhọc liền nói với mọi người để tìm nơi yên nghỉ. Các đàn anh thấy vậy, sai trang khách dọn một phòng, để mời Võ Tòng vào nghỉ. Đến sáng hôm sau cho mấy người lên huyện báo trước, rồi nhất diện xếp đặt chõng thừng dự bị để đem hổ lên trình huyện. Khi Võ Tòng trở dậy rửa mặt mũi xong, thì đám huynh dịch trong làng đã giết xong một con dê và đem một gánh rượu đến để tiếp đãi. Võ Tòng mặc khăn áo chỉnh tề, rồi ra tiếp kiến mọi người. Bấy giờ các đàn anh đều cất chén mời Võ Tòng mà nói rằng: - Dân chúng tôi đây bị con cọp già ấy quấy nhiễu làm hại bao nhiêu người mà các tay săn cũng bị mấy phen đánh phạt. Nay nhờ có ngài ra tay trừ được nó đi, một là hạnh phúc cho nhân dân chúng tôi, mà hai là bọn hành khách được bình an vô sự, thật là ơn nặng nghĩa dầy, không biết đâu mà kể, vậy chúng tôi xin nâng chén rượu này để mừng ngài vạn phúc! Võ Tòng từ tạ mà nói lại rằng: - Đó là nhờ phúc ấm của các ngài đây, chứ như tôi có gì mà tài giỏi? Nói xong mọi người đều đến chào mừng và mời Võ Tòng uống bữa rượu hôm ấy rất là vui vẻ. Khi uống rượu xong, chúng liền khênh hổ ra đặt vào chõng và đem tấm đoạn hoa hồng ra khoác lên cho Võ Tòng, còn hành lý của Võ Tòng thì gửi ở đó, mà nhất diện cùng nhau lên huyện. Ra tới cổng trang đã thấy quan Huyện Dương Cốc sai người đến đón Võ Tòng cùng lên kiệu cùng chúng cùng đi. Chúng khênh chõng hổ đi trước mà cũng phủ tấm đoạn hoa hồng lên trên. Bấy giờ nhân dân huyện Dương Cốc nghe đồn đánh chết hổ trên núi Cảnh Dương, thì đâu đấy đi đón xem chật ních cả đường, Võ Tòng ngồi trong kiệu nom ra đã thấy chen vài thích cánh hết vòng trong đến lớp ngoài rộn rịp, ầm ầm, những người túm vào xem hổ, không biết cơ man nào mà kể! Khi tới huyện đường, quan Huyện Dương Cốc trông thấy Võ Tòng, quả nhiên là một tay anh hùng dũng, lại trông thấy con cọp lông gấm to lớn như thế, thì trong bụng nghĩ thầm:"Nếu không phải một tay đại hán như thế kia, thì làm sao đánh được con hổ ấy!". Nói đoạn liền cho mời Võ Tòng lên công đường, rồi hỏi thăm đầu đuôi chuyện đánh hổ ra sao? Võ Tòng lại đem chuyện thuật lại một lượt cho mọi người nghe, các người đứng quanh đấy, nghe rõ đầu đuôi, thì ai nấy cũng đều choáng người kinh lạ, mà nhìn chòng chọc vào cả Võ Tòng. Quan Huyện lại sai rót rượu mừng Võ Tòng trước nơi công chúng, đoạn rồi sai lấy món tiền một nghìn quan của các huynh dịch gom lại để đem thưởng cho Võ Tòng. Võ Tòng không nhận tiền thưởng từ tạ với mọi người rằng: - Đó chả qua là phúc ấm của dân dự miền nầy nên trong khi bất ý ngẫu nhiên mà trừ ngay đi được, chứ chúng tôi đây công lao gì mấy, mà dám nhận tiền thưởng của các ngài. Tôi nghe nói những tay săn ở đây chỉ vì con cọp già ấy, mà phải bị trách phạt bao nhiêu phen, vậy thiết thưởng nên đem một nghìn quan tiền đó, mà chia cho các người ấy thì phải hơn. Quan Huyện cùng mọi người ấy đều đáp rằng: - Cái đó xin tùy ý tráng sĩ. Võ Tòng cả mừng, liền đứng trước mặt công chúng mà lấy món tiền một nghìn quan ấy ra, chia thưởng cho các tay đi săn hết cả. Mới hay: Giữa đường gai góc ra tay, Anh hùng phận sự xưa nay thường tình. Vì đâu dẹp nỗi bất bình, Há rằng trục lợi tham danh như người. Quan Huyện Dương Cốc thấy Võ Tòng vừa phần lực lưỡng khác người, mà lại có lòng trung hậu hào hiệp như thế, thì lấy làm hâm mộ, mà có ý muốn đài cử lên, liền hỏi rằng: - Hảo Hán vốn là người huyện Thanh Hà, cùng với huyện Dương Cốc không xa mấy, vậy bản chức muốn lưu hảo hán ở lại đây, làm một chức Đô Đầu trong bản huyện, hảo hán nghĩ sao? Võ Tòng có ý ngần ngừ một lát, rồi đáp rằng: - Tướng công đã có lòng hạ cố chúng tôi cũng xin vâng. Quan Huyện nghe nói cả mừng, bèn sai gọi Áp Ty đến lập tức thảo giấy cấp cho Võ Tòng làm chức Đô Đầu ở đó. Đám huynh dịch thấy vậy, đều đến cất chén mừng Võ Tòng, có tới ba bốn ngày mới dứt...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vo-tong-danh-ho-tren-doi-canh-duong" }
Của trời trời lại lấy đi, giương đôi mắt ếch làm chi được trời
Ngày xưa có một người nghèo khổ quá. Ngày ngày ông ra bãi biển cố sức mò cua bắt ốc để lấy miếng ăn, nhưng không bao giờ đủ. Thấy người ta sung sướng giàu có, ông ao ước được như họ. Luôn luôn ông cầu Trời khấn Phật xin cho đỡ khổ một tí, dù có bị giảm tuổi thọ đi bao nhiêu cũng được. Ông cầu khấn như thế trong ba năm liền. Tuy không thấy thân phận khá hơn chút nào nhưng ông vẫn kêu xin không mỏi. Một hôm, trong khi đào cua ở một cái hang, ông bỗng bắt được một thỏi gì vuông vuông nằng nặng và sáng chói. Vừa lạ vừa mừng, ông mang về hỏi hàng xóm. Người hàng xóm cho biết đó là vàng. Mừng quá ông lại cố công đào tìm thêm nữa. Kết quả được cả thảy mười thỏi vàng. Ông hết lời cảm tạ Trời Phật. Ông định giấu kĩ rồi đưa về quê tậu ruộng làm nhà và lấy một người vợ. Không ngờ người hàng xóm không giữ kín miệng, nên tin đồn được vàng lan đi rất nhanh. Một tên trọc phú ở gần đó vừa nghe thế, vội tìm đến làm quen. Hắn dùng những lời đường mật gạ đổi ruộng đất của hắn để lấy vàng. Thấy ông chưa có vợ, hắn gả em gái cho. Nghe bùi tai ông vui lòng kết thân với hắn. Từ đó, ông làm ăn ngày một khấm khá: có vợ đẹp, có ruộng cày, có nhà cửa, cuộc sống rất dễ chịu. Nhưng do mưu mô xảo quyệt của tên trọc phú, cuối cùng mười thỏi vàng về tay hắn cả. Tuy vậy, tên trọc phú nuốt số vàng không trôi. Tin đồn "một người bắt cua được vàng" bay nhanh đến tai mọi người, và đến tai một viên quan huyện. Nghe nói vàng về tay một tên trọc phú, viên quan huyện không kìm được lòng ham muốn. Hắn gọi lão trọc phú đến tư thất và gạ chia cho mình một nửa. Nhưng gã trọc phú đời nào lại chịu mất không như thế. Viên quan đành giận để bụng. Nhân bắt được một đám cướp lộn, hắn bèn bảo chúng khai vu cho tên trọc phú và do đó hắn ép y vào tội "thông phỉ". Trọc phú bị kìm kẹp đánh đập rất khổ cực, đành phải nhả của ra để mua lấy sự yên thân. Cuối cùng không những 10 thỏi vàng nọ lọt vào tay viên quan huyện mà nhiều tiền gạo khác của hắn cũng đội nón ra đi để đấm mõm bọn hương lý, bọn sai nha, v.v... Lại nói chuyện viên quan huyện chỉ dùng một mẹo nhỏ mà chiếm được số vàng lớn thì mừng quá. Hắn sai con cùng với một người lão bộc bí mật đem số vàng đó về quê để tậu thêm ruộng đất. Nhưng đứa con của hắn là một tay có máu me cờ bạc. Trong khi đi thuyền, thấy có canh bạc to, hắn định đem một số ít vàng của bố để mong "dậy hóa". Mặc dầu người lão bộc can gián hết lời, hắn vẫn không nghe. Quả nhiên chỉ trong một đêm hắn thua hết cả chẳng còn một đồng dính túi. Thế là bao nhiêu vàng của viên quan huyện tự nhiên lọt vào tay một lão lái buôn. Nhờ ngón cờ gian bạc lận, lão lái buôn và một tên đồng đảng đã vét sạch bàn, và qua ngày hôm sau hai người hí hửng mang số tiền chiếm được một cách khỏe khoắn, trong đó có 10 thỏi vàng của con quan huyện về nhà, mặc kệ kẻ mất của kêu trời khóc đất. Không ngờ hôm đấy có bốn tên ăn cướp đang lảng vảng ở khu rừng gần đấy. Thấy có hai người bộ hành mang tay nải nặng đi qua, chúng bèn đuổi theo không rời một bước. Khi hai con mồi đến chỗ vắng, chúng nhảy xổ ra giết chết và cướp lấy tay nải. Nhìn thấy những thỏi vàng sáng chóe, chúng mừng rú lên, vội chia nhau, cứ hai đứa năm thỏi, còn số tiền lẻ bạc vụn thì giao cho hai đứa trong số bốn đứa, đi mua rượu thịt về chén một bữa. Lại nói chuyện hai tên cướp được cử đi chợ tự nhiên sinh lòng tham, muốn chiếm lấy tất cả số vàng để chia nhau mỗi đứa năm thỏi, chả cần phải cắt phải chặt, cân đi lường lại mất công. Chúng bỗng nảy ra một kế là mua thuốc độc bỏ vào rượu cho hai tên kia uống. Thế là hai đứa vào chợ ăn uống no say, đoạn mua bún lòng và rượu có pha thuốc độc mang về. Trong khi đó thì hai đứa ở nhà cũng bàn mưu tính kế để độc chiếm số vàng. Cuối cùng chúng quyết định chờ cho hai tên kia về đến nơi, bất thình lình mỗi đứa cầm dao hạ thủ một tên. Và rồi chúng làm y như lời chúng đã bàn. Vừa đi chợ về đến nơi, hai đứa kia đã bị mỗi đứa một nhát dao vào lưng ngã vật ra. Xong việc, hai tên còn lại mới giở rượu thịt ra đánh chén. Nhưng chỉ một lát, sau khi rượu ngấm, chúng cũng vật vã và nằm chết luôn bên cạnh. Mười thỏi vàng bỗng trở nên vô chủ. Nhưng chỉ nội ngày hôm đó, một người khách thương tình cờ đi qua chỗ nọ đã nhanh tay chiếm lấy làm của mình. Được món của lớn bên cạnh những xác chết, hắn vội vã tìm về thuyền, và mặc dầu chưa cất được hết hàng, hắn đã sai nhổ neo vượt vội để tránh mọi lôi thôi xảy đến. Thuyền đi ra biển đến ngày thứ hai thì tự nhiên có một cơn bão nổi lên rất dữ dội. Cột buồm bị gãy và thân thuyền bị sóng đánh vỡ làm nhiều mảnh. Tất cả mọi thứ đều chìm xuống đáy biển hoặc lọt vào bụng cá. Duy chỉ có một số người ôm được ván và nhờ sóng đánh dạt vào đất liền. Trong số đó có cả người khách thương. Khi được người dân địa phương cứu cho hồi tỉnh, hắn chép miệng than thở: Của trời, trời lại lấy đi, Giương đôi mắt ếch làm chi được trời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cua-troi-troi-lai-lay-di-giuong-doi-mat-ech-lam-chi-duoc-troi" }
Nữ hành giành bạc
Ngày xưa có nhà phú hộ có một người con trai mười lăm tuổi cho đi học tại nhà một cụ đồ trong làng. Anh chàng bẩm tính ngu độn lại thích chơi bời lêu lổng, nhét cho mấy, chữ cũng không vào. Rồi qua năm sau cha mẹ kiếm cho một người vợ. Vợ hắn là con gái một nhà nho, nhan sắc xinh đẹp, đã hay chữ lại tính nết rất đoan chính. Khi sắp bước chân về nhà chồng, cô gái được một người chị em thân mách nhỏ cho biết rằng người sắp làm chồng mình là một anh chàng dốt nát ngu độn. Nàng rất buồn. Lễ cưới đã xong, họ nhà trai đã đến xin rước dâu, mọi việc đã đâu vào đó, không thể trì hoãn hay giờ giáo được. Cuối cùng cô gái quyết định cứ chịu lấy anh chồng dốt, nhưng sẽ cố tìm cách làm cho hắn chăm học nên người. Cho nên, vừa làm lễ gia tiên, nàng xin với cha mẹ chồng cho hai vợ chồng mình ở riêng một gian nhà nhỏ. Khi đã được ở riêng, nàng vào buồng đóng chặt cửa lại, bảo chồng hãy cố học hành cho kịp chúng bạn thì mới cho chung chăn gối. Hắn ta tức mình bào vợ: - Tôi học đã kém ai đâu mà nàng lại bảo phải cho kịp chúng bạn, và kịp như thế nào mới đuợc chứ? Vợ nói: - Để thiếp ra một câu này, lúc nào chàng đối được sẽ xin mở cửa mời vào: Chồng phương Đông, vợ phương Tây, nín lặng cho hay, chớ lòng Nam Bắc. Sức học của hắn làm gì có thể đối nổi loại câu đối như thế. Nhưng hắn làm bộ nghĩ ngợi, hẹn đến sáng trả lời. Rồi hắn đành chịu lên ngủ nhà trên, định mai đến trường nhờ thầy gà hộ. Khi cụ đồ nghe người học trò cho biết chuyện đêm tân hôn của hắn, cũng có phần thương hại, bèn dặn hắn đến lúc tan học chờ cho học trò về hết cả, sẽ mách cho. Chiều hôm đó sau khi bọc trò giải tán, ông cụ bảo hắn. - Con cứ đối lại thế này: "Trai phận cấn, gái phận tốn, không nên cãi lộn, trái đạo càn khôn". Bất đồ hôm ấy còn sót một người học trò vì bận chép bài nên ở lại ngồi đằng sau vách chưa về. Hắn ta nghe lỏm được câu chuyện oái oăm của bạn và có câu đối thầy gà cho bạn, liền nhẩm lấy thuộc ngay. Thế rồi hắn ta không kém khôn ngoan, đoán biết rằng bạn hắn còn phải mất nhiều thì giờ mới thuộc nổi câu đó. Vậy thì nhân khi nhá nhem, hắn sẽ cất lẻn vào trước buồng vợ bạn bắt chước giọng bạn nói lên câu đối ấy, rất có hy vọng bẻ hoa trước tiên. Quả nhiên khi cô gái nghe xong câu đối, tấm tắc khen hay và giữ đúng lời hứa mở cửa cho người mà nàng tưởng là chồng mình vào buồng. Nàng để cho hắn chung chăn gối. Mãi đến nửa đêm hắn mới thác chuyện lên nhà trên rồi đi một mạch về nhà. Lại nói chuyện về anh chồng thật thì suốt một đêm học mãi mới thuộc câu đối nói trên. Vào khoảng canh ba hắn mới tìm đến buồng vợ. Vợ lại mở cửa đón chồng. Nàng ngạc nhiên khi thấy chồng đọc lại câu đối hồi hôm. Rồi nàng giật mình hỏi dồn chồng: - Sao chỉ có một câu tối hôm qua đã đối, bây giờ lại còn đối nữa? Nghe chồng nói tối hôm qua không hề đến, lại nghe giọng nói hai lần có khác nhau, nàng mới biết là mắc mưu một tên vô lại nào đó làm ô nhục, bèn vào buồng kêu trời khóc đất một mình rất thảm thiết. Rồi trong một cơn đau dẫn đến mất trí, nàng cắn lưỡi tự tử. Chồng thấy vợ chết không hiểu thế nào cả. Hắn lẳng lặng tìm đến nhá cụ đồ báo cho thầy biết tin đó. Nghe nói cụ đồ rất đổi kinh ngạc, nghĩ mãi không biết vì cớ gì. nhưng cũng dặn học trò cứ giữ thật kín câu chuyện để ông cụ tìm cách truy cho ra thủ phạm. Ngày hôm sau giữa khi các môn sinh tề tựu đông đủ, cụ đồ tươi cười bảo mọi người: - Thầy có nghĩ được một câu đối cũng vừa sức học của các con. Nếu ai ứng khẩu đối được hay thì thầy sẽ thưởng thoi mực và một quản bút. Rồi ông cụ đọc luôn vế câu đối của cô con gái nọ đã ra cho chồng. Trong khi những người học trò khác đang nghĩ ngợi thì đứa bất lương phản bạn kia đã hý hửng đọc lại nguyên văn vế câu đối mà hắn nghe lỏm được chiều hôm qua: - Thưa thầy con xin đối lại là: "Trai phận cấn, gái phận tốn... " Lập tức cụ đồ thét học trò bắt hắn trói lại. Ông cụ vạch tội hắn trước mặt mọi người, vì chỉ có người đàn ông thứ hai nghe lỏm đựơc vế câu đối của mình và nghe lỏm được câu chuyện của bạn mới có thế làm nổi được việc đánh lộn sòng kia. Cuối cùng hắn đành cúi đầu nhận tội. Trong khi ở nhà người phú hộ đám tang người con dâu bạc mệnh cử hành thì ở bên này người ta cũng giải đứa gian ác lên quan. Nhờ có cụ đồ xin khoan giảm nên hắn khỏi bị trảm quyết, chỉ phải bị án chung thân và phải đền cho khổ chủ một giành bạc. Từ đó người ta thường truyền cái câu nữ hành giành bạc mà cho đến ngày nay nhiều người không rõ nghĩa tiếng "hành" là gì..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nu-hanh-gianh-bac" }
Bát canh hẹ
Xưa có một người rất có hiếu, không may mắc tội vu oan, phải giam tù đã lâu, không ai được thăm hỏi. Một hôm, bà mẹ làm cơm canh, nhờ người chủ ngục đưa vào. Người tù trông thấy cơm canh nhưng không ăn, anh ta ngồi nức nở khóc. Chủ ngục hỏi sao không ăn lại khóc. Anh ta trả lời: – Tôi ở nhà còn mẹ già, thường khi nấu canh hẹ, thường lấy thước đo từng tấc. Nay tôi thấy canh hẹ này, tôi chắc mẹ tôi đã lặn lội từ nhà đến đây, thăm tôi mà tôi không được ra thăm mẹ, trong lòng tôi xót xa ăn sao được. Chủ ngục nghe rõ truyện lấy làm thương tình, liền trình với quan. Quan nghĩ rằng một người có hiếu như thế không lẽ làm điều phạm pháp, ông cho xét án lại, thì đúng là người kia mắc tội oan, nên được tha ngay. Hai mẹ con lại được sum họp hạnh phúc...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bat-canh-he" }
Chử Đồng Tử và Tiên Dung
Thời Hùng Vương thứ ba có một người con gái nhan sắc như tiên, đặt tên là Tiên Dung. Tiên Dung rất đẹp, song tự nguyện không lấy chồng, chỉ ham thích phong cảnh, thường đi du lịch khắp nơi trong nước. Được vua cha nuông chiều, mỗi năm vào độ mùa xuân Tiên Dung ngồi thuyền du ngoạn, có khi ra tận ngoài biển, lắm lúc mê cảnh đẹp quên về. Thuở ấy, ở làng Chử Xá (thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay) có người tên là Chử Cù Vân và con trai tên là Chử Đồng Tử. Hai cha con thương mến nhau rất thắm thiết. Nhà họ Chử vốn nghèo lại càng thêm sa sút sau một trận cháy, trong nhà chỉ còn mỗi một chiếc khố. Hai cha con phải thay phiên nhau mà mặc mỗi khi ra ngoài. Khi người cha bị bệnh nặng sắp mất, dặn con giữ khố lại, còn cứ chôn mình xác trần. Chử Đồng Tử không nỡ để cha chết trần truồng, dùng chiếc khố độc nhất liệm cha mà đem chôn. Từ đó Chử Đồng Tử không có gì che thân, đợi đến đêm mới đi ra câu cá, ban ngày thì dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn. Một hôm, thuyền rồng chở công chúa Tiên Dung đến vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy cờ quạt, người hầu rầm rộ, Chử Đồng Tử hoảng sợ, chui vào bụi lau ở bãi cát bờ sông, nấp mình xuống đó rồi phủ cát lên che người. Thuyền rồng ghé vào bờ, Tiên Dung lên chơi trên bãi, thấy cảnh thanh tú, sai người hầu quây màn ở bụi lau để làm nơi cho mình tắm, đúng ngay vào chỗ Chử Đồng Tử nấp. Đến khi Tiên Dung xối nước, cát trôi để lộ thân hình trần truồng của người trai lạ. Nàng ngạc nhiên hỏi chuyện mới rõ tình cảnh của Chử Đồng Tử, nghĩ ngợi bảo chàng: – Tôi đã định không lấy chồng, nay tình cờ gặp anh thế này, chắc do là trời xui khiến. Anh dậy mà tắm rửa đi! Rồi Tiên Dung lấy quần áo trao cho Chử Đồng Tử mặc để cùng xuống thuyền ăn uống. Người ở trên thuyền hiểu chuyện, cho là một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Tiên Dung nghĩ là duyên tiền định, đòi kết làm vợ chồng. Chử Đồng Tử cho là phận mình thấp hèn, không dám nhận lời, Tiên Dung nói: – Đây là do trời tác hợp, sao anh lại từ chối? Rồi hôn lễ giữa nàng công chúa với anh chàng Chử Đồng tử cử hành ngay trên sông.Tin đưa về kinh đô, Hùng Vương giận dữ nói với triều thần: – Con gái ta không kể danh tiết, hạ giá lấy kẻ nghèo hèn, còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữa. Từ nay mặc cho nó muốn đi đâu thì đi, không được về cung. Tiên Dung biết vua cha tức giận, sợ không dám về, bèn cùng chồng mở chợ ở Hà Thám, đổi chác với dân gian. Lâu dần mở mang thành chợ lớn, gọi là chợ Hà Thám, có phố xá khách buôn nước ngoài lui tới giao thương ngày càng phồn thịnh. Một hôm có khách buôn bán đến rủ Tiên Dung đem vàng cùng ra nước ngoài mua hàng về bán sẽ có lãi to. Tiên Dung mới bảo chồng rằng: – Chúng ta lấy nhau là do trời định, cơm áo cũng do trời cho. Vậy việc này âu cũng là trời xui khiến, chúng ta nên làm. Chử Đồng Tử bèn cùng khách buôn nọ ra đi. Đến một hòn núi giữa biển gọi là núi Quỳnh Tiên, thuyền ghé lấy nước ngọt, Chử Đồng Tử vui chân trèo lên cái am nhỏ trên núi gặp một đạo sĩ trẻ tên là Phật Quang. Chuyện trò ý hợp tâm đầu, Chử Đồng Tử theo lời Phật Quang giao vàng nhờ khách buôn đi mua hàng còn mình thì ở lại đây học đạo. Đến khi thuyền trở lại, Chử Đồng Tử theo về đất liền. Khi từ giã, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cái gậy, một cái nón và bảo: – Đây là vật thần thông. Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán để cùng chồng đi tìm thày học đạo. Một hôm trời tối, hai vợ chồng đi đã mệt mà chưa thấy nhà cửa đâu, mới dừng bước lại, cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ. Vào khoảng nửa đêm, tự nhiên chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc và kho tàng đầy đủ của cải, màn gấm chiếu hoa, không thiếu một thứ gì. Lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xum xít quanh hai vợ chồng. Sáng hôm sau, dân ở quanh vùng đều lấy làm kinh dị, mang hương hoa thực phẩm đến xin làm tôi. Họ vào thành thấy các quan văn võ, lính tráng tấp nập đông đảo như một nước riêng. Hùng Vương được tin báo cho là con gái làm loạn, vội phái quân đi đánh. Đoàn quân sĩ nhà vua gần tới nơi, bộ hạ Tiên Dung xin ra chống cự, nàng cười mà bảo rằng: – Tất cả mọi việc đều do ở trời chứ không phải tự ta. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống hay chết đều nhờ ở trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận. Trời đã tối, quân của Hùng Vương không kịp tấn công, dừng lại đóng ở bãi Tự Nhiên, cách đối phương một con sông lớn. Đến nửa đêm trời bỗng nổi bão, sóng gió cuồn cuộn, nhổ cây ở bãi, đại quân của Hùng Vương rối loạn. Trong chốc lát thành quách cung điện và bộ hạ của hai vợ chồng Tiên Dung đều bay cả lên trời. Sáng hôm sau, người ta kinh hãi thấy chỗ đó đã hóa thành một cái đầm lớn. Dân chúng bèn lập đền thờ để cúng tế hàng năm, gọi đầm ấy là đầm Nhất Dạ (Một đêm), thuộc phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chu-dong-tu-va-tien-dung" }
Sự tích bông hoa cúc
Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, không ai còn nhớ rõ là tự bao giờ. Ở một vùng nọ có hai mẹ con rất nghèo sống với nhau. Người mẹ đau yếu luôn. Mắt bà mờ dần đi, còn tai thì ù không nghe rõ. Con gái bà còn rất nhỏ. Bệnh tình của người mẹ ngày một nặng thêm. Bà không ăn, không ngủ được. Em bé thương mẹ lắm. Em luôn luôn ở bên mẹ, nhưng cũng không thể làm cho mẹ khỏi bệnh được. Người ta bảo em rằng: ở một nơi kia, có ông thầy lang giỏi, nên em quyết tâm đi tìm thầy chữa bệnh cho mẹ. Em đi suốt cả ngày đêm. Rồi một hôm em đến một ngôi chùa. Em vừa đói vừa mệt, nằm vật ra trước cổng chùa. Tấm lòng hiếu thảo của em động đến Trời Phật, nên một ông thầy chùa đi ra ngoài về, gặp thấy em, ông đưa vào chùa, và cho em ăn uống, nghe đầu đuôi câu chuyện. Thấy em hiếu thảo, ông đưa cho em một bông hoa Cúc, và dặn cách làm thuốc cho mẹ uống. Ông Sư còn cho em biết là bông Cúc có bao nhiêu cánh thì mẹ em sẽ sống thêm được bấy nhiêu năm. Em bé cám ơn rối rít, rồi mừng rỡ, em chào từ giã nhà sư ra về. Vì mong cho mẹ sống thật lâu, em ngồi xuống bên đường, lấy tay xé các cánh hoa cúc ra thành nhiều cánh nhỏ. Từ đó hoa Cúc có vô số cánh nhỏ li ti. Bà mẹ đã được chữa lành bệnh và sống rất lâu với người con gái hiếu thảo của mình. Ngày nay hoa Cúc là một trong những vị thuốc nam được dùng nhiều trong các đơn thuốc, có tên là Liêu Chi.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-bong-hoa-cuc" }
Con gà và con hổ
Thỏ, hổ và gà có lần ở chung với nhau để hợp sức phát nương rẫy. Ngày đầu tiên, thỏ và hổ đi cắt tranh, giao cho gà nhiệm vụ trông nhà và nấu ăn. Sau khi quét dọn trong nhà ngoài ngõ, gà nấu cơm. Cơm chín, gà bắc một nồi nước lên bếp. Nước sôi gà nhảy lên miệng nồi, đẻ vào nồi một quả trứng, rồi cất lên mấy tiếng "cục ta cục tác". Trứng vừa chín thì thỏ và hổ cũng vừa về. Gà bắc trứng ra. Thỏ, hổ vừa mệt vừa đói nên ăn rất ngon miệng. Thỏ hỏi: - Chị gà ơi! Chị làm thế nào mà có món ăn thích khẩu thế? Gà nói thực cho biết cung cách mình đã chế ra món ăn đó. Sáng hôm sau, họ lại dậy sớm tiếp tục đi cắt tranh. Lần này hổ đi cùng gà, còn thỏ đến lượt ở nhà nấu ăn. Hổ còn dặn thỏ cố lo làm sao có bữa ăn ngon như gà đã làm hôm qua. Thỏ đáp: - Việc đó không khó, bác cứ tin ở tôi! Sau khi nấu cơm, thỏ cũng bắc một nồi nước sôi rồi cũng đứng lên thành bếp chìa đít vào nồi và rặn như kiểu gà đã dạy. Xong việc, thỏ hý hửng ra cửa đón hổ và gà về. Bữa ăn hôm ấy, hổ đói bụng háu ăn, gắp ngay trước mấy miếng bỏ vào miệng. Nhưng chưa kịp nuốt thì hổ đã vội khạc nhổ rối rít và gầm lên đuổi đánh thỏ. Thỏ vùng chạy nhưng không kịp nữa, bị hổ tóm được đánh cho một trận mê tơi. Hổ dằn đầu thỏ xuống đất mấy lần làm thỏ toạc cả da miệng. Sau lần bị đòn ấy thỏ giận hổ vô cùng, quyết nghĩ cách báo được thù mới hả. Mấy ngày sau, thỏ và hổ lại tiếp tục công việc Lúc này tranh cắt đem phơi đã khô, phải đánh đống lại đưa về lợp nhà. Trong khi chưa biết làm thế nào để chuyển tranh về thì thỏ đã hiến kế bảo hổ: - Trong ba ta, tôi thấy bác có sức khỏe hơn cả. Vậy bác hãy nằm xuống để tôi chất tranh lên lưng, dùng dây buộc chặt vào lưng rồi cứ thế bác chở về nhà, chừng một chuyến là xong tất cả. Hổ nghe có lý, nằm ngay xuống cho thỏ chất cỏ tranh lên. Khi đã đầy lưng, thỏ lấy dây cột quàng mấy chục vòng xuống bụng, xuống cổ, quàng cả vào các chân của hổ, v.v... Thế rồi thỏ nhảy lên, lấy đá đánh lửa đốt cho bén vào tranh rồi nhảy xuống chạy mất. Tranh khô được lửa, cháy rất thỏa thích. Hổ vẫn vô tình lo làm xong công việc, đến khi lửa liếm xuống gần lưng, nóng quá, mới hoảng hồn, gầm lên, lăn lộn. Nhưng đống lửa vẫn dính chắc lấy lưng hổ vì dây cột nhiều và chặt quá. Hổ càng chạy, lửa càng như được quạt mạnh, bùng to lên. Khi hổ giãy được khối lửa khỏi lưng thì da đã bị bỏng, lông đã bị cháy sém loang lổ. Hổ giận tràn hông bỏ đi tìm thò thì thỏ đã biến đi đâu mất. Cũng vì thế mà ngày nay người ta nói nòi giống của thỏ và hổ còn mang những vết tích của cha ông chúng để lại: một loài bị xẻ môi trên; một loài lông vẫn còn những vết cháy sém.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-ga-va-con-ho" }
Con mối làm chứng
Ngày xưa có hai vợ chồng một nhà nghèo đói nọ, có một đứa con, chừng mười một, mười hai tuổi nhưng thông minh lanh lợi hơn người. Thiếu ăn, nhà ấy thường phải đâm đầu đi vay nợ. Một năm nọ, trời làm đói kém, hai vợ chồng phải vay nhà Bá cả vốn lẫn lãi là ba mươi quan. Tuy hạn vay đã hết, họ vẫn không thể góp đủ số tiền để trả. Chủ nợ mấy lần cho người đến đòi, hai vợ chồng nhà ấy một van nài xin khất. Một hôm, đích thân cụ Bá tới nhà thúc nợ. Lúc tới nhà thấy đứa bé đang ngồi chơi một mình ở sân, hắn hỏi ngay: - Bố mẹ mày đâu. Thấy em bé làm thinh, hắn lại hỏi dồn: - Có phải bố mẹ mày trốn nợ hay đi đâu thì phải nói cho thật? Bấy giờ em bé mới lên tiếng: - Bố tôi đi chém cây sống trồng cây chết. Mẹ tôi đi bán gió mua que. Nghe nói, cụ Bá đứng ngẩn người, chẳng hiểu ra làm sao cả, lại hỏi dồn một thôi. Em bé tủm tỉm cười: - Ông cứ đoán đi, dễ lắm mà! Thấy cụ bá lại hỏi nữa, em bé nói: - Nếu ông không đoán ra thì phải cho tôi gì, tôi giảng cho. - Mày cứ giảng đi, nếu đúng, có bao nhiêu tiền nợ nhà mày tao tha cho tất. - Có thật không? Ông không nói chuyện đưa trâu qua đò đấy chứ. Cụ Bá dõng dạc: - Lời tao là lời vàng ngọc, mày lại khinh tao à? - Nếu thế thì tôi phải đi mời một người làm chứng mới được! Lão chủ nợ nghĩ bụng: - "Thằng này cũng đáo để lắm, nhưng ta cũng phải kiếm cách gì giã lã với nó cho qua, chả lẽ nói rồi lại thôi". Vừa thấy có một con mối đang bò ra đớp mồi, lão bèn nói: - Con mối kia cũng làm chứng được đấy, mày cứ giảng đi, nếu đúng, tao hứa sẽ xóa nợ cho nhà mày. Bây giờ em bé mới thong thả nói: - Bô tôi đi cấy, đi cấy chả phải chém cây sống, trồng cây chết là gì. Còn mẹ tôi thì bán quạt mua tre, bán quạt mua tre chả phải "bán gió mua que" là gì. Thấy em bé giải đáp đúng, cụ Bá khen nó một câu rồi ra về. * Mấy hôm sau nữa, cụ Bá lại cho người đến đòi nợ. Lúc này bố em bé ở nhà. Thấy bố nó phải năn nỉ xin khất, em bé nói riêng với bố: - Bố không cần phải khất khứa gì nữa. Hôm nọ cụ Bá đã hứa cho con tất cả nợ rồi đấy. Người nhà của cụ Bá mắng: - Trẻ con nói nhảm nhí, ai lại cho không mày, chứng cớ đâu? - Có chứng cớ hẳn hoi tôi mới nói. - Thế thì chứng cớ đâu? - Trước mặt cụ Bá tôi sẽ đưa. Cãi nhau một hồi, người đòi nợ tức mình, nói: - Thôi, tao không thèm nói chuyện với trẻ con. Còn ông, ông hãy liệu trả đi, nếu không thì mời ông lại quan. Nói đoạn, hắn vùng vằng ra về. Khi người đòi nợ ra khỏi nhà, người bố mới quay trở lại hỏi con: - Chứng cớ là thế nào con hãy nói bố nghe. Đừng có dại mà chơi với lửa đấy con ạ! Em bé bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện hôm nọ rồi nói: - Bố đừng lo trả nợ nữa, cứ để mặc con! Cuối cùng rồi chủ nợ cũng buộc con nợ đi hầu kiện. Lên đến công đường, đã nghe quan đập bàn mắng bị cáo: - Tên kia, mày quỵt nợ của cụ Bá đây phải không? Nghe theo lời dặn của con, bị cáo đáp: - Bẩm quan, cụ Bá đã hứa cho con tôi số nợ ấy, chứ tôi không dám quỵt. Cụ Bá nói: - Anh đừng nói láo. Tôi hứa cho con anh bao giờ? Chứng cớ như thế nào? Xin quan cho đòi thằng bé lên hỏi thử. Quan lập tức cho lính đòi em bé đến. Trước mặt mọi người em bé kể lại đầu đuôi câu chuyện hôm nọ mình nói chuyện với cụ Bá như thế nào, cụ Bá hứa cho những gì, v.v... Nghe xong, quan hỏi: - Vậy lúc ấy có ai làm chứng cho câu nói của cụ Bá hứa cho mày hay không? - Bẩm quan, có kẻ làm chứng phân minh. Chính lúc ấy cụ Bá trỏ vào con mối đang leo cột nhà bảo nó làm chứng. Có vậy tôi mới giải đố cho cụ ấy Nghe nói vậy, cụ Bá vội cướp lời: - Mối đậu đũa cả chứ làm gì có mối leo cột nhà. Quan liền phán: - Như vậy lúc ông hứa với nó quả thị có con mối làm chứng, thế là đủ. Vậy ông phải làm theo lời đã hứa. Cụ Bá cứng họng tiu nghỉu đi ra. Còn cha con nhà nọ ra về sung sướng vì thắng lợi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-moi-lam-chung" }
Bà lớn đười ươi
Trong vùng rừng núi miền Tuyên Hưng có giống khỉ gọi là dã nữ. Thỉnh thoảng người ta bắt được vài con đem về tập cho nói một vài tiếng người. Họ nuôi chơi làm cảnh, và quen gọi là đười ươi. Ngày ấy ở kinh thành Thăng Long phố xá buôn bán đã mọc lên san sát. Nhiều cửa hiệu to lớn cất đủ mọi thứ hàng như gấm vóc, tơ lụa, pha lê, đồ sứ, v.v... Bọn chủ hiệu chỉ trông nhờ vào sự mua sắm của đám quan lại. Hồi bấy giờ hàng quan võ được coi trọng, mà quan võ thì phần nhiều là người đàng trong, quê hương nhà Chúa. Vợ con họ cũng theo đòi kiểu cách nhà quan: cũng hoa tai vành cánh, cũng cáng xá, cũng con hầu, đầy tớ xúm xít từng đoàn, v.v... Bọn chủ hiệu chỉ thích họ có mỗi một điều là khi mua hàng khai bao nhiêu họ giả bấy nhiêu, ít có sự cò kè bớt một thêm hai như bọn nhà quan xứ Bắc. Cho nên bọn chúng coi họ là khách bở, chào mời rất mực đon đả, nhiều khi cứ đưa hàng đến nhà rồi mới lấy tiền sau. Chợt một hôm kia, trên đường phố có một cái cáng mui luyện, lá sắn buông kín mít, khiêng qua. Vẻ lộng lẫy của những người hầu: áo nỉ đỏ, cổ viền kim tuyến, làm cho người ta choáng mắt. Cáng dừng lại trước một dãy phố. Một người hầu tiến lại khúm núm bên cáng. Một lát sau, hắn tìm vào một hiệu buôn mà chủ nhân đã đón sẵn, chào mời những tiếng ngọt như mật. Hắn nói nhỏ với bà hàng: - Bà lớn tôi khó ở, không tiện xuống cáng xem hàng được. Bà lớn tôi muốn mua rất nhiều các thứ gấm, vóc, the, đoạn cùng một số đồ sứ, pha lê như kê trong giấy này. Vậy hiệu đây có những thứ hàng gì tốt hãy đưa để bà lớn tôi mua. Đánh hơi thấy món hời, chủ hiệu mừng quá, vội dốc tủ đưa ra những thứ đắt tiền nhất. Hàng nào không đủ thì hắn lại sai người đến các cửa hiệu quen lấy về. Người đầy tớ hầu lần lượt mang hàng đến bên cáng để bà lớn xem và nói giá cả để bà lớn biết. Thứ hàng gì đưa vào cũng được bà lớn khen "được, được", "tốt, tốt". Chủ hiệu chưa bao giờ thấy một người khách sang dễ tính đến thế, trong lòng mừng khấp khởi, nhẩm tính tổng cộng số hàng có đến mấy trăm lạng bạc. Xong đâu đấy người hầu bảo: - Bà lớn đây là vợ một quan lãnh mới ra kinh lĩnh chức. Dinh quan lớn tôi cách dinh quan tổng đốc mười ba ngô về phía Nam. Nhà hàng muốn lấy tiền hoặc bạc nên hãy chịu khó đến đó mà nhận. Chủ hiệu vâng vâng dạ dạ rối rít. Thế rồi chỉ một lát sau, bọn quân hầu kẻ ôm vóc nhiễu, người cắp gấm đoạn, kẻ mang đồ lặt vặt chạy rầm rập theo sau cáng bà quan. Đến nơi, bọn phu cáng dừng lại toan vén màn mời bà lớn xuống. Tên hầu gắt: - Bà lớn đang ngủ! Chúng mày hãy lấy "ngạc" mà đặt cáng lên rồi đứng trông đây chờ bà lớn dậy. Chủ hiệu thì hãy vào ngồi trong hàng nước kia, đợi chúng tôi mang hàng vào để quan lớn xem đã, rồi sẽ gọi vào nhận tiền. Sau đó, một toán mang hàng vào dinh. Chờ một hồi lâu, bọn phu cáng cũng lần lượt đi mỗi người một ngả. Cuối cùng chỉ còn trơ lại chiếc cáng với chủ hiệu. Sinh nghi, chủ hiệu bèn tiến lại gần xem sao thì vẫn nghe thấy tiếng ngáy đều đặn của bà lớn. Tuy vậy, hắn bạo dạn khẽ vén lá sắn lên xem thì thấy trong cáng chỉ có một con đười ươi mặc quần áo đàn bà bị buộc chặt với võng, chả có bà lớn nào cả. Đười ươi thoáng thấy người thì nói lên mấy tiếng "được, được", "tốt, tốt". Biết là bị mắc lừa, hắn hốt hoảng, chạy vội vào dinh thì mới hay đấy là mấy ngôi nhà, trước kia cũng là nơi đóng quân của đội túc vệ, nay bỏ hoang, phía sau có cổng bỏ ngỏ thông với các lối khác. Sau một thời gian thuê người tìm kiếm mà không thấy tăm hơi lũ bợm đâu cả, hắn đành ôm hận trở về với chiếc cáng cũ và con đười ươi
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-lon-duoi-uoi" }
Sự tích con sam
Ngày xưa có hai vợ chồng một người đánh cá nghèo. Một hôm người chồng ra khơi với bạn nghề. Không may có một trận bão rất lớn nổi lên giữa lúc họ đang thả lưới. Không một người nào thoát khỏi tai nạn. Tin dữ về đến làng, tất cả mọi gia đình đánh cá đều đau khổ. Tiếng khóc lan đi các nhà. Riêng người đàn bà lòng đau như cắt. Như điên như cuồng, bà bỏ nhà ra đi, hy vọng tìm thấy chồng. Bà cứ theo bờ biển đi, đi mãi. Trải qua hai ngày đến một hòn núi lớn. Bà trèo lên rồi vì mệt quá ngủ thiếp dưới một gốc cây. Đang ngủ bỗng có một tiếng nổ dữ dội. Bà choàng dậy thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ đứng trước mặt mình, hỏi: - Người là ai mà dám đến nằm trước nhà ta? Người dàn bà mếu máo đáp: - Tôi đi tìm chồng. Cụ làm ơn chỉ giúp kẻo tôi nóng lòng nóng ruột quá! Cụ già nói: - Ta là thần Cây. Thấy nhà người chung tình ta rất thương. Vậy ta báo cho biết là chồng người còn sống, hiện ở ngoài hải đảo. Nói rồi, ông cụ trao cho người dàn bà một viên ngọc và bảo: - Ngươi hãy ngậm viên ngọc này vào miệng thì sẽ bay qua được biển đế gặp chồng. Nhưng phải nhớ là nhắm mắt ngậm miệng kẻo rơi ngọc mà nguy đó. Ông cụ nói xong biến mất. Bà ta lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại. Thốt nhiên trời bỗng nổi gió ù ù. Bà thấy người như nhẹ bỗng, hai bên tai nghe tiếng vo ve. Được một lúc sau thấy chân chấm đất, bà mở mắt ra thì thấy mình đang đứng trên một bãi cát lạ mà gió bấy giờ đã lặng. Trông thấy chồng ngồi co ro trên bãi, bà mừng quá. Hai vợ chồng hàn huyên một hồi lâu rồi mới tính chuyện trở về làng cũ. Người chồng ôm ngang lưng vợ để vợ đưa qua biển cả. Lòng người vợ sung sướng không thể nói hết. Vì thế, bà ta đã quên mất lời của thần Cây dặn. Miệng mắc ngậm ngọc nhưng bà vẫn cố hỏi chuyện chồng. Đột nhiên viên ngọc văng ra giữa không trung. Bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng đều sa xuống biển. Rồi đó họ hóa thành những con sam. Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ để bay qua biển...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-sam" }
Sự tích củ mài
Xưa có một gia đình rất đông con, đông đến nỗi bố mẹ không nhớ hết được tên từng đứa. Người chồng tên Đang, người vợ tên Phang. Tuy đông con như thế, nhưng hai vợ chồng nhờ phát được nhiều nương và vỡ được nhiều ruộng, nên đời sống không đến nỗi túng thiếu. Gặp năm trời hạn mất mùa, bao nhiêu lúa giống của hai vợ chồng để dành cho mùa sau đều bị bọn lang đạo cướp hết. Hai vợ chồng phải vào rừng tìm rêu đá, lá cây về cho các con ăn, nhưng kiếm bao nhiêu cũng không đủ; suốt ngày lũ con cứ gọi bố mẹ. Và kêu: - Đói lắm, bố mẹ ơi ! Hai vợ chồng thưong con, biết rằng rêu đá, lá cây không phải là món ăn có thể thay cơm gạo lâu dài được, hai người cố đi xin người làng, kẻ cho một nắm, người vài bông lúa giống, và giấu các con, lên rừng phát rẫy tỉa lúa trái mùa. Ở nhà, đàn con đói quá, kéo nhau ra rừng tự kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, nhưng đến đêm chúng lại về kêu đói suốt đêm: - Đói lắm, bố mẹ ơi ! Trong rừng khuya, nghe tiếng đàn con vọng tới, hai vợ chồng lòng đau như cắt. Hai vợ chồng thay nhau nói vọng về cho các con yên lòng: - Các con ơi! Lúa đang nảy mầm. Khi lúa đã ken xanh, họ lại gọi vọng về: - Các con ơi! Lúa đã lên xanh. Đến ngày lúa chín, thì hai vợ chồng kiệt sức nhưng khi nghe tiếng đàn con kêu đói thì hai người lại cố gắng nói to lên cho các con nghe: - Các con ơi! Lúa đang chín... Và khi mẻ gạo đầu tiên vừa giã xong thì hai vợ chồng liền đổi ngay một chõ xôi lớn, chia ra từng nắm một, rồi đem ngay xôi về nhà cho các con. Nhưng khi đến nhà thì họ không thấy bóng một đứa nào. Trong khi ấy, thì từ rừng sâu lại vọng ra những tiếng la: - Đói lắm, bố mẹ ơi! Tủi cực quá, hai vợ chồng gượng khiêng rá xôi vào rừng, nhưng không gặp đứa con nào cả. Trong khi ấy thì rừng cây trước mặt, sau lưng, bên trái, bên phải vẫn vọng ra tiếng kêu xé ruột: - Đói lắm, bố mẹ ơi! Lúc này thì sức hai người đã kiệt. Họ không thể theo tiếng vọng của rừng núi mà đi tìm con được nữa. Hai người đặt rá xôi xuống và cố sức gọi: - Các con ơi! Ra đây với bố mẹ mà ăn xôi. Tiếng gọi vừa dứt, thì một đàn chim từ các ngả bay đến đậu đầy cả khu rừng. Chim hót: - Bang! Bang! Bang! Bang! Chúng con ăn quả đã quen; còn xôi xin nhường bố mẹ! Bấy giờ hai vợ chồng mới biết đàn con của mình vì đói quá nên hóa chim mất rồi. Già yếu, đói khổ, lại thương xót đàn con đã hoá chim, hai vợ chồng gục đầu vào rá xôi mà chết. Thấy bố mẹ chết thảm quá, đàn chim kêu vang cả khu rừng, rồi chúng lấy những nắm xôi đắp mộ cho bố mẹ. Về sau, chỗ mộ hai vợ chồng Đang, Phang mọc lên một cây rất lạ: Trên là cây, dưới là củ. Củ có màu trắng và khi luộc chín thì thơm dẻo như xôi. Đó là củ mài. Người ta nói rằng vợ chồng nghèo khổ ấy đã hoá ra củ mài đề cứu những con người cùng cảnh ngộ như mình. Còn lũ con của họ thì hoá thành chim "đang bang" thường kêu vang cả núi rừng vào mùa lúa chín, để nhắc lại cảnh khổ cực của bố mẹ ngày xưa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cu-mai" }
Người đàn bà mất tích
Vào đời nhà Lê, có một người đàn bà trẻ tuổi lấy chồng họ Mai. Một hôm nghe tin người chị ruột của mình đau nặng, nàng bèn nói với chồng để mình đi lại chăm sóc thuốc men vì nhà chị rất neo người. Nhà người chị ở một làng cách đấy chừng ba dặm đường. Người đàn bà đi về không chừng, có hôm sáng đi tối về, có hôm ngủ lại đó sáng mới về. Như thế đã được ba lần. Lúc này, mùa màng rỗi rãi nên người chồng để cho vợ đi lại thăm nom chị tùy ý. Bệnh tình người chị ngày một nguy kịch. Người đàn bà lại đi thăm, nhưng lần này người chồng thấy nàng có đi mà không có về. Cho rằng vợ mình phải ở lại trông nom chị, nên không ngờ vực gì cả. Nhưng suốt ngày thứ hai cho đến ngày thứ ba vẫn không thấy vợ trở về. Chồng lúc này mới sốt ruột, vội nhờ người sang nhắn vợ bảo cố về sớm để thu xếp một món nợ. Nhưng người ấy về cho biết rằng bên nhà người chị không thấy em sang và họ đang có ý trông đợi. Nghe nói thế, cả nhà họ Mai hoảng hốt, vội chia nhau đi tìm khắp mọi nơi. Nhưng suốt một tháng tìm tòi khắp cả từ chợ búa, bến đò, đến rừng rú mà chả thấy tăm hơi đâu cả. Người chồng đau xót đến cùng cực, cuối cùng đổ vạ cho nhà chị, một hôm đến gây sự, chửi nhau một trận, rồi phát đơn kiện lên quan. Quan nhận đơn, đòi bị cáo đến hỏi cung. Người anh rể cứ sự thực khai rằng mình hoàn toàn không biết gì về việc mất tích của người em vợ. Tra hỏi cả đến thân thích xóm làng hai bên cũng không thấy hé ra một tia sáng nào. Hơn một năm, phủ đường một mặt cho thám tử đi dò la, mặt khác sắc về các xã thôn truy tìm, vẫn không thấy một dấu vết gì có thể theo dõi được. Thế rồi sáu bảy lần khai ấn trôi qua, hồ sơ vụ án đành bỏ xó trong phủ đường. Hai viên quan mới thay nhau đến tiếp chân quan cũ cũng không sao tìm ra manh mối. * Về sau, một hôm có một ông quan họ Nhữ mới đổi đến. Quan tuy đã đỗ tiến sĩ nhưng trông mặt còn non trẻ, đến nỗi lúc đứng giữa đám nha lại tổng lý, chả một ai biết đó là người có chức vị cao. Khi xem lại những tập hồ sơ còn đọng, ông tỏ vẻ chú ý đến vụ án người đàn bà mất tích này. Nha lại bảo ông: - Các quan trước cũng đã dùng đến bao nhiêu người để điều tra không phải chỉ trong một phủ, một tỉnh mà rộng sang các tỉnh lân cận, nhưng cuối cùng cũng đành bó tay. Họa có Bao Công tái sinh, án này mới sáng tỏ được. Ông nói với họ: - Không hiểu hồi ấy người ta có tra xét từ gần đến xa không, hay là chỉ nhằm vào xa mà nhãng bỏ gần? Tôi, tôi quyết định xét lại vụ này một chút! Từ đó, viên quan trẻ tuổi suy nghĩ rất nhiều về cái án đó. Lần lượt ông cho đòi người anh rể, nhà chồng và một vài người làm chứng đến hỏi từ nét mặt, cách sống, lối ăn mặc của người mất tích. Người ta cho biết nàng đẹp và đoan chính. Ông lại bảo họ vẽ phác cho mình một bản đồ về con đường đi từ nhà em sang nhà chị; lối đi chính, lối tắt như thế nào, qua những nhà ai, v.v... Khi thấy con đường tắt phải đi qua một cánh đồng vắng, ở đây có một ngôi chùa; muốn đi từ chùa đến xóm phải giập bã trầu mới tới, ông lẩm bẩm một mình: - Có thể đầu mối nằm ở đây chăng? Ông liền bí mật cải trang thành một người lái buôn dạo qua đoạn đường đó một chuyến. Nhìn thấy ngôi chùa lớn, xung quanh chùa lại có cây cối rậm rạp, ông không ngăn được mối ngờ vực. Ông sai một ả kỹ nữ giả cách mang vàng hương đến chùa ấy lễ Phật. Bọn sư trẻ thấy có bóng dáng phụ nữ vào chùa, xông đến như mèo thấy mỡ. Ả ca kỹ liếc mắt đưa tình làm cho bọn chúng không thể giữ được bộ mặt từ bi đạo mạo. Khi nắm đã khá đầy đủ tình tiết, quan bèn sắp quân trẩy đến chùa. Sư cụ ra đón tiếp rất lễ phép. Quan nói: - Tôi nhân tiện đi hành hạt, nghe nói đây là một nơi linh ứng nên vội đến đây lễ Phật và xin cầu mộng, phiền nhà chùa cho nghỉ tạm một đêm. Sáng sớm hôm sau quan dậy rất sớm. Các quan sĩ đã được lệnh sẵn, gươm giáo sáng lòa đứng vây bọc quanh chùa. Quan cho đòi tất cả sư ni và tất cả mọi kẻ ăn người ở trong chùa ra hỏi: - Chùa chiền là một nơi tu hành nhân đức, thế mà tại sao đêm qua ta nằm mộng thấy một người đàn bà trẻ tuổi đến kêu van thảm thiết rồi kể hết sự tình với ta. Vậy nếu có kẻ nào phạm tội hãy mau mau tự thú sẽ có khoan hồng. Bằng không ta sẽ tra khảo, những đứa liên can nhất định sẽ làm án chém hết. Nghe lời truyền phán dõng dạc, cả chùa đều xanh mắt. Cuối cùng bọn gian ác tin rằng "oan hồn hồn hiện"; không thể cưỡng lại được nữa, cả bọn liền quỳ xuống thú tội. Số là hôm ấy trời mới tờ mờ sáng, nhân thấy có người đàn bà đi qua trước cổng chùa, ba tên ác tăng xổ ra bịt miệng đưa vào lùm cây thay nhau hãm hiếp. Rồi sợ lộ chuyện, chúng bóp chết người đàn bà và chôn ở gần chùa, dần dần xây đá đè lên cho mất tích. Quân lính được lệnh đào lên, quả tìm được hài cốt người bạc mệnh. Quan cho gọi thân nhân đến nhận về chôn cất. Bọn ác tăng bị điệu về phủ đường xét xử. Bọn sư trẻ "trốn việc quan đi ở chùa" đều bắt hoàn tục. Khi tin ấy truyền ra, mọi người đều vui mừng hể hả. Nhà vua cho gọi họ Nhữ về triều phong làm thượng thư bộ Hình
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-dan-ba-mat-tich" }
Thần sắt
Xưa có anh nông dân một mình sống ở cái lều ven rừng. Anh không có một tấc sắt nên làm ăn rất vất vả. Anh chặt củi bằng đá, đẽo cây bằng gỗ, đào hố tra bắp bằng đầu que. Khổ sở hết chỗ nói, thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo. Anh khổ quá nên người xấu xí đến nỗi con gái thấy anh không thèm nhìn mặt, trẻ con thấy anh vội chạy đi xa, người già thấy anh chỉ biết ôm mặt khóc. Còn anh, chỉ biết than thở một mình. Chim muông, thú vật thấy cảnh khổ của anh sợ lây sang mình rồi cũng bỏ đi chỗ khác. Khu rừng đã hoang vắng lại càng hoang vắng thêm. Đến con suối róc rách bên lưng đèo cũng không nói với anh những tiếng an ủi mà cứ lặng lẽ trôi xuôi. Một hôm anh nằm mơ thấy Bụt hiện lên bảo: - Ngày mai con ra cửa thấy có ba người cưỡi ba con ngựa vào xin ngủ trọ thì con cứ cho, đừng ngại gì nhà chật. Quả nhiên, chiều hôm sau, anh thấy một người ruổi ngựa đi qua. Người đó mặc áo trắng tinh, cưỡi con ngựa cũng trắng. ánh bạc tỏa ra lạnh toát. Người đó dừng ngựa trước lều hoạnh họe: - "Nhà ngươi có chỗ cho tao trọ, mau thu xếp cho tao!". Anh ngước nhìn nói: - "Lều rách của tôi không có chỗ xứng đáng nên xin ngài đi nơi khác". Lúc sau, anh lại thấy một người toàn thân giát vàng chói lọi, cưỡi một con ngựa vàng ì ạch ra dáng bệ vệ đi tới. Hơi nắng làm mây đen kéo đến đằng trước, khí núi lạnh tỏa ra sau nhà, anh sợ quá cũng từ chối không cho vào. Chiều tối đến lúc trăng gần lên, anh thấy một người toàn thân đen, xấu xí nhưng khỏe mạnh, cưỡi con ngựa cũng đen và to lớn lại đến xin trọ. Vừng trời bỗng đỏ ửng, gió mát thổi lùa hương thơm của núi rừng tới, chim đậu nóc nhà ríu rít. Suối chảy mạnh chồm lên tảng đá như nói: "Mách anh, mách anh cho người nghỉ trọ". Anh nông dân tự lòng mình thấy vui bèn ưng ý... Nhưng lạ quá, sớm hôm sau dậy, anh không thấy người đó và con ngựa đâu cả, mà chỉ thấy ở chỗ ngủ có một cục sắt đen sì. Anh mới ngẫm nghĩ đoán rằng hai người đến trước có lẽ là thần bạc, thần vàng. Anh nghĩ tiêng tiếc, nhưng con chim sau nhà hót: "Chả tiếc, chả tiếc" và con thú đầu ngõ kêu: "Cục sắt quý, cục sắt quý quý". Anh liền lấy cục sắt mang ra làm cày, làm cuốc, khai phá ruộng nương. Mùa đến, những thảm lúa vàng óng ánh hiện ra. Trên mâm cơm anh ăn là những hạt gạo ngọc. Từ đó, nhờ có sắt và làm ăn chăm chỉ, đời sống của anh khá dần lên. Con gái đi qua nhìn anh vui vẻ, trẻ con thấy anh tíu tít bám xung quanh, người già thấy anh đều mững rỡ. Chim chóc thấy anh ca hót, líu lo, muông thú thấy anh nô đùa trong nắng, và con suối trong rừng kia cũng ngày đêm reo mừng như cuộn thác...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/than-sat" }
Hai ông tướng Đá Rãi
Dưới thời nhà Lý, có một ông vua, nhân một hôm đi du ngoạn về miền núi xứ Đoài, tự nhiên thấy ở sườn núi nứt ra một khe rộng, rồi từ trong đi ra hai người to lớn lạ thường, mỗi người vác trên vai một phiến đá tảng như cái bồ, coi bộ không có tý gì là mệt nhọc. Lấy làm lạ quá, ông vua cho gọi hai người đến hỏi: -"Các ngươi quê ở đâu ta?". Họ đáp: - "Chúng tôi là hai anh em sinh đôi ở trên núi này". - "Các ngươi có tài nghề gì chăng?" - "Chúng tôi chỉ giỏi môn vật!". Nhà vua bèn đưa họ về kinh thành cho tỷ thí với các đô vật khỏe nhất của mình. Nhưng không có một tay nào trụ nổi họ. Hễ ai sơ hở để cho họ mó phải một chỗ nào ở trên người là y như chỗ ấy không gãy xương cũng nát thịt. Nhiều người thấy run sợ lảng tránh, không dám đọ sức. Nhà vua rất kính phục và mừng rỡ, cho họ làm thị vệ, lúc nào cũng bắt hầu bên mình. Người ta gọi là Đô Nghê và Đô Voi. Họ không quen mặc phẩm phục của triều đình; dù trời nóng hay lạnh, lúc nào cũng trần mình đóng khố như lúc họ mới về triều. Nhà vua cũng không thể bắt buộc họ được. Nhiều lúc vua đi về các hành cung ở địa phương sai họ canh cửa. Hai ông đứng canh luôn mười mấy ngày giữa mưa nắng gió sương mà không mệt mỏi, không đau ốm. Bởi thế người ta cũng gọi là hai ông tướng Đá Rãi. Thường thường vào những ngày hội ở triều đình, họ vật nhau và múa nhảy cho người bốn phương thưởng ngoạn. Trong những năm chinh chiến, hai ông lập được nhiều công trạng. Giữa chiến trận, hai ông đóng khố bao, đầu đội mũ lưỡi búa, mỗi tay cầm một cây roi xông vào giữa đám thiên binh vạn mã như vào chỗ không người. Bởi vì gươm giáo chém vào mình họ chỉ quằn lại chứ thịt da không hề xây xát. Nhà vua phong cho họ làm tướng và yêu mến vô cùng. Thấy điều trái tai gai mắt, hai ông tướng Đá Rãi thường nói thẳng không kiêng nể ai cả. Bởi vậy trong triều có nhiều người kính phục nhưng cũng có nhiều kẻ ghen ghét. Buổi ấy nhà vua rất sùng đạo Thích Ca. Những công trình đúc chuông tô tượng làm chùa mỗi ngày một nhiều. Theo lệnh vua, giữa kinh đô bắt đầu dựng lên một cái tháp đồ sộ có thể đứng trên tháp nhìn thấy khắp bốn phía ngoài thành. Có hàng ngàn người phải bỏ nhà đến đấy phục dịch. Hai ông tướng Đá Rãi một hôm đi qua đó thấy mọi người xúm nhau lại khiêng một cây cột lớn lên tường cao. Không may nửa chừng dây đứt, cây cột rơi xuống nghiến nát mấy người. Hai ông bước tới, cùng một lúc nhấc bổng cây cột lên, vứt đi chỗ khác và than thở: - Phật chỉ làm chết dân! Không ngờ câu nói đó vô tình lọt vào tai một tên nịnh thần. Hắn vốn căm ghét hai ông từ lâu. Hắn về kể chuyện cho vua biết và nói thêm: - Thần thấy hai tên đô vật ấy ngày càng lộng quyền. Sự lộng quyền sẽ dẫn tới sự thoán nghịch. Nếu không sớm trừ đi ắt về sau sẽ có họa lớn. Thế là qua hôm sau, hai ông bị đưa ra pháp trường. Nhưng đao phủ chém chặt băm vằm thế nào cũng không thể nào làm họ chết được. Người ta lại cho bốn ngựa phanh thây, nhưng ngựa không chạy nổi. Cho là thần linh, ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi, sợ xanh cả mắt. Mãi về sau có một tên hung đồ, tay chân của viên nịnh thần, hiến một kế là vót một thanh nứa lấy đằng cứa thật sắc, rồi tống ngược từ hậu môn đến mồm. Viên nịnh thần nghe theo, quả nhiên hai ông chết thật, nhưng hai ông còn lớn tiếng chửi rủa bọn tham quan ô lại trong chiều cho đến lúc tắt thở..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-ong-tuong-da-rai" }
Anh em sinh năm
Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nọ chỉ sinh được có mỗi một người con gái. Vì thế họ nuôi nấng dạy dỗ rất chăm chút. Khi cô gái lớn lên, cha mẹ dạy cho đạo thánh hiền. Năm nàng mười lăm tuổi vẫn bị cấm cung không được tiếp xúc với người ngoài. Một hôm người mẹ lên chùa lễ Phật. Lần đầu tiên bà đưa con gái ra khỏi nhà. Bấy giờ có một vị thiên thần muốn mượn cô gái đồng trinh làm chỗ đầu thai, mới nhân lúc cô gái ra vườn vãng cảnh, hiện làm một bông hoa có năm cánh rất đẹp. Cô gái thích quá ngắt lấy ngắm nghía hồi lâu, rồi bỗng dưng bỏ vào miệng nuốt đi. Từ đó cô gái tự nhiên không chồng mà chửa. Cha mẹ nàng ngạc nhiên và xấu hổ vô cùng. Hết tra hỏi đến dụ dỗ nhưng cô gái ngây thơ ấy cũng chả làm sao mà hiểu được. Tất cả mối ngờ của cha mẹ đều đổ dồn vào nhà chùa. Đoán là có một sư ông đã quyến rũ con gái mình trong ngày lễ Phật dạo nọ, họ bèn đuổi con lên chùa và nói: -"Mày lên đó mà ở với sư, đừng vác trở về bội nhọ nhà tao nữa". Hòa thượng trụ trì chùa đó không biết làm thế nào, đuổi đi cũng không nỡ, đành phải nhận nuôi nàng và dựng một túp lều sau chùa cho nàng ra đó ở. Khi gần đến ngày sinh, cô gái bỗng nằm chiêm bao thấy có một thiên thần đến trước mặt dặn rằng: - "Đừng đặt tên con vội, cứ để đến lúc chúng nó biết nói, tự chúng sẽ cho biết tên". Thế rồi, cô gái sinh một lúc năm người con trai, đặc biệt khuôn mặt giống nhau như tạc. Cả năm anh em đều lớn nhanh như thổi, đứa nào đứa ấy sởn sơ mạnh khỏe. Khi chúng biết nói, người mẹ hỏi đến tên, thì đứa thứ nhất trả lời: - "Sức con có thể vác một quả núi, con là Mạnh mẽ". Đứa thứ hai nói: - "Người con dù có dao băm búa bổ cũng không chết, con là Mình đồng da sắt". Đứa thứ ba tiếp: -"Con có thể ngồi một nơi biết được mọi việc trong thiên hạ, tên con là Vén mây xem trần". Đứa thứ tư: - "Con có thể sống dưới nước cũng như trên cạn, tên con là Khô". Đứa cuối cùng nói: - "Con thì dù ngủ trong lửa cũng cứ dễ chịu như thường, tên con là Ướt". Năm anh em lớn lên lo làm việc nuôi mẹ. Hàng ngày Mạnh mẽ lên rừng kiếm củi về đổi lấy gạo. Mỗi một gánh củi của chàng chứa đầy một sân. Tiếng tăm của anh chàng truyền khắp mọi nơi trong nước. Hồi ấy nhà vua cần nhiều củi để dùng vào một lễ rất long trọng của triều đình. Vua cho triệu Mạnh mẽ đến, bảo kiếm củi cho mình và hứa cứ mỗi gánh củi đưa đến sẽ đổi một gánh gạo. Mạnh mẽ kiếm củi mau như chớp. Rừng tuy xa nhưng mỗi một ngày chàng đi đi về về không biết bao nhiêu lần, mỗi lần đưa củi đến lại gánh gạo đi. Đến nỗi lúc viên quan trông nom kho gạo cho nhà vua thấy gạo kho đã vơi quá nửa, hắn lật đật đến báo cho vua biết. Vua nói: - "Thế thì phải bắt nó chết mới được!". Bèn cho đòi Mạnh mẽ đến và bảo: - Nhà ngươi làm việc như thế chắc là mệt. Thôi cho về nghỉ sức, mười ngày nữa sẽ đến đây phục mệnh. Mạnh mẽ về kể chuyện cho anh em nghe. Vén mây xem trần vốn đã đọc được những ý nghĩ không tốt trong đầu nhà vua bèn bảo Khô đi thay cho Mạnh Mẽ. Mười ngày sau, Khô đến gặp vua. Vua cứ tưởng hắn là anh chàng gánh vơi kho gạo của mình hôm nọ, bèn thét ngay lính bắt dìm xuống bể cho chết. Khô cứ để mặc cho bọn lính vây bắt trói lại và dìm xuống nước, nhưng dìm lần đầu lôi lên, Khô vẫn sống trơ trơ. Dìm lần thứ hai, thứ ba, Khô vẫn vui vẻ ca hát. Họ lại dìm nữa, nhưng dù dìm thế nào cũng không làm cho chàng chết được. Tức mình, lại sợ mệnh vua, bọn chúng mới làm một cái cũi bỏ Khô vào cùng với rất nhiều đá tảng dòng dây đem thả xuống đáy biển, nhưng mấy tuần sau vớt lên vẫn thấy hắn sống như thường. Cuối cùng chúng phải đưa anh chàng về kể chuyện cho vua hay. Vua chưa tìm ra cách gì giết được, bèn bảo anh về, hẹn mười ngày sau nữa lại đến. Vén mây biết lần này vua dùng mưu độc đốt chết nên bảo Ướt đi thay. Ướt đến nơi thì vua đã sai dọn sẵn một căn lầu bằng gỗ dựng riêng biệt sau vườn, xung quanh chất đầy củi. Vua cũng tưởng Ướt là anh chàng hôm nọ, bèn mời gã lên lầu sai dọn mâm cỗ đầy rượu và thức ăn ngon cho ăn. Đoạn bảo quân lính đóng chịt mọi của lại rồi phóng hỏa. Lửa liếm rần rật cháy khắp mọi nơi. Nhưng Ướt ta vẫn ngồi một nơi chén tỳ tỳ. Và khi cánh cửa đổ xuống, chàng nói vọng ra cho chúng nghe: - "Ồ! Ở đây mát quá!". Vua lắc đầu, chưa biết làm thế nào để giết cho được, đành bảo anh về nhà, mười ngày sau nữa lại đến. Lần này Vén mây bảo Mình đồng da sắt đi. Khi anh chàng này đến nơi, vua thét đao phủ mang ra xử trảm. Nhưng bao nhiêu gươm đao đụng vào người đều quằn cả lại mà không làm cho anh chàng chết được. Đao phủ tức giận đâm mũi mác vào nách gã, gã chỉ cười rú lên như bị ai cù. Thấy vậy, vua rất bực mình, nhảy xuống rút bao kiếm, cầm bằng cả hai tay chém xuống rất mạnh, nhưng bảo kiếm chỉ gãy đôi mà tội nhân thì không việc gì. Cuối cùng vua bảo anh về nhà mười ngày nữa lại đến. Thấy chàng kiếm củi có phép lạ nên lần này vua không có ý định làm hại nữa. Vén mây biết được ý đồ nên mười ngày sau cùng với bốn người kia dắt nhau đến kinh đô. Vua thấy cả năm anh em giống nhau như tạc, hỏi chuyện mới biết họ đều là con thiên thần. Vua dắt Vén mây lên ngai vàng, nhường chỗ và gả con cho, rồi bỏ đi tu...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/anh-em-sinh-nam" }
Ba lưỡi rìu
Xưa có một anh chàng tiều phu nghèo, cha mẹ anh bệnh nặng nên qua đời sớm, anh phải sống mồ côi cha mẹ từ nhỏ và tài sản của anh chỉ có một chiếc rìu. Hàng ngày anh phải xách rìu vào rừng để đốn củi bán để lấy tiền kiếm sống qua ngày. Cạnh bìa rừng có một con sông nước chảy rất xiết, ai đó lỡ trượt chân rơi xuống sông thì rất khó bơi vào bờ. Một hôm, như thường ngày chàng tiều phu vác rìu vào rừng để đốn củi, trong lúc đang chặt củi cạnh bờ sông thì chẳng may chiếc rìu của chàng bị gãy cán và lưỡi rìu văng xuống sông. Vì dòng sông nước chảy quá xiết nên mặc dù biết bơi nhưng anh chàng vẫn không thể xuống sông để tìm lưỡi rìu. Thất vọng anh chàng tiều phu ngồi khóc than thở. Bỗng từ đâu đó có một ông cụ tóc trắng bạc phơ, râu dài, đôi mắt rất hiền từ xuất hiện trước mặt chàng, ông cụ nhìn chàng tiêu phu và hỏi: -Này con, con đang có chuyện gì mà ta thấy con khóc và buồn bã như vậy? Anh chàng tiều phu trả lời ông cụ: -Thưa cụ, bố mẹ cháu mất sớm, cháu phải sống mồ côi từ nhỏ, gia cảnh nhà cháu rất nghèo, tài sản duy nhất của cháu là chiếc rìu sắt mà bố mẹ cháu trước lúc qua đời để lại. Có chiếc rìu đó cháu còn vào rừng đốn củi kiếm sống qua ngày, giờ đây nó đã bị rơi xuống sông, cháu không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Vì vậy cháu buồn lắm cụ ạ! Ông cụ đáp lời chàng tiều phu: -Ta tưởng chuyện gì lớn, cháu đừng khóc nữa, để ta lặn xuống sông lấy hộ cháu chiếc rìu lên. Dứt lời, ông cụ lao mình xuống dòng sông đang chảy rất xiết. Một lúc sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm một chiếc rìu bằng bạc sáng loáng và hỏi anh chàng tiều phu nghèo: – Đây có phải lưỡi rìu mà con đã làm rơi xuống không ? Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng bạc thấy không phải của mình nên anh lắc đầu và bảo ông cụ: – Không phải lưỡi rìu của cháu cụ ạ, lưỡi rìu của cháu bằng sắt cơ. Lần thứ hai, ông cụ lại lao mình xuống dòng sông chảy xiết để tìm chiếc rìu cho chàng tiều phu. Một lúc sau, ông cụ ngoi lên khỏi mặt nước tay cầm chiếc rìu bằng vàng và hỏi chàng tiều phu: -Đây có phải là lưỡi rìu mà con đã sơ ý làm rơi xuống sông không? Anh chàng tiều phu nhìn lưỡi rìu bằng vàng sáng chói, anh lại lắc đầu và bảo: -Không phải là lưỡi rìu của con cụ ạ Lần thứ ba, ông cụ lại lao mình xuống sông và lần này khi lên ông cụ cầm trên tay là chiếc rìu bằng sắt của anh chàng tiều phu đánh rơi. Ông cụ lại hỏi: -Vậy đây có phải là lưỡi rìu của con không! Thấy đúng là lưỡi rìu của mình rồi, anh chàng tiều phu reo lên sung sướng: -Vâng cụ, đây đúng là lưỡi rìu của con, con cảm ơn cụ đã tìm hộ con lưỡi rìu để con có cái đốn củi kiếm sống qua ngày. Ông cụ đưa cho anh chàng tiều phu lưỡi rìu bằng sắt của anh và khen: -Con quả là người thật thà và trung thực, không hề ham tiền bạc và lợi lộc. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này. Đây là quà ta tặng con, con cứ vui vẻ nhận. Anh chàng tiều phu vui vẻ đỡ lấy hai lưỡi rìu mà ông cụ tặng và cảm tạ. Ông cụ hóa phép và biến mất. Lúc đó anh chàng tiều phu mới biết rằng mình vừa được bụt giúp đỡ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-luoi-riu" }
Con chó, con mèo và anh chàng nghèo khổ
Ngày xưa có hai mẹ con một anh chàng nhà nghèo rớt mùng tơi. Anh chàng lang thang đi kiếm việc làm nhưng chả có ai thuê cả. Mãi sau có một chủ thuyền buôn thấy anh khỏe mạnh lại biết bơi lội mới thuê làm thủy thủ. Hắn hứa cho anh cơm một ngày ba bữa và bốn mươi quan tiền trả trước. Anh chàng mừng rỡ tưởng không có hạnh phúc nào hơn thế nữa, vội cầm ba mươi quan đem về cho mẹ tiêu, còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc. Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn lớn. Trên bến người mua kẻ bán chen chúc như hội. Bọn thủy thủ bảo chàng: - Ở đây thứ gì cũng buôn được. Cứ mua một ít đưa về quê nhà bán là tự khắc có lãi. Anh chàng xưa nay không quen buôn bán nên cầm mười quan tiền trong tay chưa biết nên mua thứ hàng gì. Bỗng chốc anh thấy có một người mang ra bến một con chó bị trói toan vứt xuống sông. Lấy làm thương, anh vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Người ấy cho biết chó này là của chủ mình. Hôm nay chủ đi chợ mua thịt về dọn tiệc, không rõ cắt đặt thế nào để chó ăn vụng mất cả. Chủ tức giận trói chó đánh một trận thừa sống thiếu chết rồi sai đi buông sông. Nghe kể thế, anh chàng xin mua lại con chó. Người kia cười mà rằng: - Nó chỉ chuyên môn ăn vụng, anh mua về làm gì? Chàng đáp: - Thây kệ, cứ bán cho tôi đi! Cuối cùng anh chàng xỉa ra ba quan mua lấy con chó, cởi trói cho nó, đoạn xích lại bên chỗ mình làm việc. Sau đó một chốc, anh lại trông thấy có một người đàn bà mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Khi biết tội trạng của mèo cũng chỉ là ăn vụng, anh nài nỉ để con vật lại cho mình. Thấy người đàn bà khuyên can không nên mua thứ mèo xấu nết, anh không nghe và nói: - Thây kệ! Chị cứ bán cho tôi đi! Thế là cuối cùng mèo cũng thoát chết. Và người chủ mới của nó sau khi xỉa ra ba quan để mua, đem buộc lại gần bên con chó. Ngồi một mình trên thuyền, thấy buồn, anh chàng bèn bỏ thuyền lên bộ đi dạo bờ sông. Bỗng chốc anh thấy có ba đứa trẻ chăn trâu bắt được một con rắn nước, toan dùng roi xử tội. Anh chàng vội chạy lại ngăn cản: - Các em đừng đánh nó, nó là rắn nước, có làm hại ai đâu? - Mặc kệ chúng tôi - bọn trẻ đáp - Chúng tôi bắt được nó, chúng tôi đánh, ông cản làm gì? Thấy bọn chúng khăng khăng cố tình giết rắn, anh chàng lại dùng tiền để cứu con vật vô tội. Chúng đòi năm quan. Mãi sau anh mới bớt được một. Thế là tất cả số tiền mang theo đều lần lượt vợi đến hết. Mua được con rắn, anh vội thả xuống sông cho nó trở về xứ sở. Bọn thủy thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán của mình thì đều cười ngất, cho là một người khờ dại ít có. Anh chỉ ngồi lặng yên không nói gì cả. Khi thuyền bắt đầu trở về, vào khoảng nửa đêm, anh đang chèo bỗng thấy con rắn nước bơi từ dưới sông bơi lên trao cho mình một viên ngọc và nói: - Cha tôi là Long Vương, cảm ơn anh đã cứu mạng tôi, cho tôi đem biếu anh một viên ngọc "băng xuyên" để mời anh xuống chơi. Mang ngọc vào mình, anh có thể đi được dưới nước cũng dễ dàng như đi trên bộ. Anh chàng nghe nói vội buông chèo đi theo rắn nước xống Thủy phủ. Quả nhiên, anh được vua Long Vương tiếp đãi rất hậu, tống tiễn ngọc vàng châu báu rất nhiều. Sau đó anh được người của Long Vương đưa về tận nhà. Chủ thuyền thấy mất hút anh, tưởng anh đã rơi xuống nước, bèn đỗ thuyền lại, lên bộ trình với xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương thì họ rất lấy làm ngạc nhiên, vì anh thủy thủ trẻ tuổi đã về đến nhà ba ngày trước rồi. Từ đó anh trở nên giàu có. Nhưng anh vẫn sống một cuộc đời bình thường với người mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu vẫn theo anh không rời. Về sau, anh lấy vợ. Vợ anh là một cô gái đẹp. Nàng rất thích đeo nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" chiếu sáng một góc tủ, nàng thích lắm nên một hôm lấy trộmg mang đến cho một người thợ kim hoàn bảo đánh cho mình một chiếc ngẫn. Không ngờ, người thợ kim hoàn biết là ngọc quý ít có trong thế gian, bèn đi kiếm một viên khác tương tự như thế đánh tráo vào mà cướp lấy bảo vật. Khi biết rõ chuyện mất cắp, anh chàng thủy thủ trở nên buồn bã. Hàng ngày anh ra bờ sông mong tìm lại con rắn nước nhưng chả làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ không vui, một hôm nói với chủ xin đi tìm viên ngọc. Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng. Không có cách gì vượt qua cả, hai con vật cứ loanh quanh ở trên bờ. Về sau chúng nó tìm được vào nhà một con rái cá. Chúng kể sự tình cho rái cá nghe và nhờ nó đưa giúp qua sông. Rái cá vui lòng gọi các bạn bè của nó đứng sát vào nhau, kết thành một cái bè cho chó và mèo ngồi lên lưng, chở qua sông yên lành. Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó: - Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong nhà xúm lại sủa. Thế là mày cứ đường hoàng theo cổng mà vào không ai biết. Quả nhiên, bầy chó nhà của người thợ kim hoàn nghe mấy tiếng mèo kêu vội xông ra đuổi. Mèo dẫn chúng đi thật xa nên chó ta lẻn vào nấp dưới một cái hầm, vô sự. Khi hai con vật gặp lại nhau, chúng tìm tòi khắp trong nhà. Tất cả của cải của lão thợ kim hoàn đều bỏ trong một cái rương xe, luôn luôn khóa kín, không dễ gì lọt vào được. Mèo bèn cố sức tìm tòi, chụp bắt được một con chuột. Chuột van lạy xin tha mạng. Mèo bảo nó dẫn mình đến gặp chuột chúa đàn. Mèo nói rõ cho chuột chúa biết việc mình đến đây, và nhờ hắn giúp mình lấy cho được viên ngọc, đổi lại, mèo hứa sẽ luôn luôn để ý không phạm đến tôn tộc nhà chuột ở đấy. Chuột chúa đàn vâng lời ngay: - Để tôi bảo lũ con cháu, tôi tớ trong nhà khoét chiếc rương của nó ra, tìm cho các ông. Nhưng đến khi lọt được vào trong rương, lũ chuột tìm mãi vẫn không thấy ngọc. Chuột chúa đàn ra báo lại cho mèo biết, và nói: - Trong rương này có một cái hộp bằng bạc. Có lẽ nó giấu ngọc trong đó; cái hộp đó thì khó lòng mà gặm được. - Vậy làm thế nào bây giờ? - Mèo hỏi. - Chỉ có cách là chúng tôi sẽ nhờ xóm giềng hợp sức cùng chúng tôi khoét rộng lỗ thủng làm sao đưa lọt cái hộp ấy ra đây cho các ông tìm. - Thế thì làm gấp lên đi! Chỉ trong một đêm, cả xóm nhà chuột đã gặm nát rương, lấy được cái hộp đưa ra cho mèo. Hai con vật tìm cách phá hộp ra, quả thấy viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ. Sau khi ra khỏi nhà người thợ kim hoàn, chó tranh mèo mang ngọc. Nhưng đến lúc sắp sửa sang sông, vì mắng nhau với một con chó khác, nên chó đã để ngọc văng xuống nước. Một con cá trông thấy ngọc sáng vội bơi tới đớp và nuốt ngay. Thấy chó để mất ngọc, mèo giận quá mắng chó một trận thậm tệ. Chó biết lỗi, lặng thinh, cuối cùng mếu máo: - Biết làm sao bây giờ? Suy nghĩ một lát, mèo tìm được một kế bảo chó: - Chúng ta sẽ tìm đến một nhà thuyền chài ở vùng này xin ở với họ. Thế rồi chờ khi họ câu được con cá đã nuốt viên ngọc thì sẽ kiếm cách cướp lấy đem về. Chó khen mưu kế hay, bèn cùng mèo tìm đến một gia đình ông chài đang đỗ thuyền lại ở bờ sông phơi lưới. Hai con vật cỏ ra rất khôn ngoan, hiền lành nên được cả nhà đối đãi tử tế. Mấy hôm sau, ông chài đánh mẻ lưới được một con cá chày rất lớn, mổ ruột ra, thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm. Trong khi cả nhà đang trao ngọc cho nhau để xem của lạ, thì mèo lẹ làng tiến lại cọ người vào chân chủ. Nhân khi chủ sơ ý, nó nhảy lên ngoạm lấy viên ngọc và lập tức cong đuôi nhảy lên bờ chạy mất. Thấy thế, chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo làm mấy bố con ông chài ngơ ngác chẳng hiểu vì sao. Lần này mèo tranh chó mang ngọc. Mèo lên mặt khôn, bảo chó: - Lần trước ngậm bị rơi mất, lần này có cách rất hay là đội lên đầu. Sắp đến nhà rồi, chả sợ gì nữa. Nó nói thế nào thì làm như thế. Nào ngờ mới đi được một quãng đường, bấy giờ có một con quạ đang bay trên không trung, nhác thấy có cái gì lấp lánh trên đầu mèo, thình lình sà xuống đớp lấy rồi bay lên đậu trên cành cây cao. Thấy ngọc lại mất, chó đến lượt mắng chửi mèo rất dữ, rồi nói: - Ngọc rơi xuống nước còn có thể lấy được, chứ bay lên trời thì đừng có hòng. Mèo buồn rầu, nhưng ngẫm nghĩ một lát, nó lại bảo chó: - Đúng rồi. Tao đã nghĩ ra được một kế. Chó hỏi: - Kế gì? Đáp: - Giả chết bắt quạ. Nói xong mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước đầy căng. Đoạn trở về xua chó trốn đi một chỗ, còn mình thì tới nằm dưới gốc cây phơi bụng trắng hếu giả vờ chết. Quạ đang ngậm ngọc đậu trên ngọn cây nhìn xuống thoáng thấy có bóng con vật chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa đáp tới thì mèo đã nhảy xổ lên vồ lấy quạ. Quạ van lạy xin trả lại viên ngọc cho mèo để được tha mạng. Mèo chỉ đợi có thế, ngoạm lấy viên ngọc, ra đi. Lần này, cả hai con đưa ngọc về đến nhà vẹn toàn. Anh chàng thủy thủ lấy lại được món tặng vật của Long vương hết sức vui mừng. Hắn càng thêm quý mến hai con vật có tình có nghĩa
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-cho-con-meo-va-anh-chang-ngheo-kho" }
Sự tích hoa Mào Gà
Ngày xưa, chú gà nào cũng có một cái mào đỏ rất đẹp như mào các chú gà trống bây giờ. Một buổi sớm, gà Mơ soi mình trong vũng nước và sung sướng thấy cái mào rực rỡ nằm trên đỉnh đầu của mình như một chùm hoa đỏ rực. Gà Mơ khoan khoái đập cánh và hát bài hát quen thuộc của họ nhà gà: - “Cục ta cục tác, mào ta đã mọc, cục ta cục tác, mào ta đã mọc”. Mọi vật quay qua nhìn gà Mơ và cùng xuýt xoa: “Chiếc mào mới xinh xắn làm sao, trông Gà Mơ thật đáng yêu”. Gà Mơ đi tung tăng khắp nơi kiếm mồi. Nó đến bên bể nước và nghe có tiếng khóc ti tỉ. Nó dừng lại nghiêng đầu, chớp chớp đôi mắt và lắng tai nghe. Thì ra, đó là một cây màu đỏ tía đang tấm tức khóc một mình. Gà Mơ đang vui sướng, thấy bạn buồn, Mơ bỗng bối rối. Nó vội vàng chạy đến khẽ hỏi: – Bạn sao thế? Cây rơi hạt nước mắt trong suốt như hạt sương xuống gốc và sụt sịt bảo: – Các cây quanh đây, cây nào cũng có hoa mà chỉ mỗi mình tôi là không có hoa. Chưa nói dứt câu, cây lại bật khóc, nước mắt cứ rơi xuống thánh thót. Gà Mơ an ủi bao nhiêu cũng không làm cây nín. Gà Mơ nghĩ một lúc rồi quyết định: – Tôi cho bạn bông hoa đỏ trên đầu tôi nhé. Cây sung sướng vẫy là rối rít: – Thế bạn cho tôi thật nhé! Cám ơn bạn! Sáng hôm sau, mọi người ngạc nhiên khi thấy chiếc mào đẹp đẽ của gà Mơ biến đâu mất. Còn cái cây bên bể nước thì lại nở một chùm hoa rực rỡ y hệt chiếc mào của Gà Mơ. Cây hoa sung sướng vươn mình đón ánh mặt trời nhuộm cho bông hoa thêm đỏ thắm. Cây khe khẽ kể cho mọi người nghe câu chuyện về lòng tốt của Gà Mơ. Thế là mọi người gọi cây đó là cây hoa mào gà. Trên đầu Gà Mơ bây giờ cũng nhú lên một chiếc mào mới nho nhỏ, xinh xinh rồi đấy...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-mao-ga" }
Bốn anh tài
Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nghèo mà không có con. Hai người khấn vái hết đền này đến chùa khác, mãi sau mới sinh được một mụn con trai. Thằng bé lớn lên như thổi. Nhưng càng lớn hắn càng ăn rất tợn: bung kia, chảo nọ nấu lên bao nhiêu cũng vơi. Hai vợ chồng cố sức làm lụng để nuôi con nhưng không nuôi nổi. Trong nhà có vật gì đáng tiền, họ đều bán sạch để cho con chèn dạ dày. Sau rồi họ nghĩ chỉ có cách cho con đi tha phương cầu thực thì mới đỡ khốn vì nó. Một hôm người cha gọi con lại bảo rằng: - Nay con đã khôn lớn mà cha mẹ thì gần đất xa trời, yếu đuối không làm gì sinh lợi được nữa. Ngày xưa lúc nhà ta còn khá giả, có cho hoàng đế Trung-quốc vay vàng và bạc đến hơn 70 vạn lạng. Bây giờ con tìm cách sang bên đó đòi lấy mà ăn. Nghe nói, người con vâng lời đi ngay. Chàng cứ dọc bờ biển đi lần về phương Bắc. Một hôm đến một xứ kia, bỗng gặp một người khổng lồ đang tát biển, anh chàng tiến lại, hỏi: - Anh làm gì đấy? Khổng lồ đáp: - Tôi tát cho cạn biển, để tìm vàng ngọc ở dưới đó. - Sức lực một mình làm sao mà tát cạn được. - Ta có sức khỏe không ai bì kịp. Không tin anh cứ thử lại xách cái gầu của ta xem. Nhưng khổng lồ lấy làm lạ vì thấy hắn cũng nhấc nổi cái gầu của mình, bèn mời về nhà kết nghĩa anh em. Anh chàng bèn rủ: - "Anh hãy đi theo tôi đòi nợ vua Trung-quốc lấy tiền ăn tiêu ngay, còn như tát biển thì chờ lúc nào về sẽ tiếp tục". Khổng lồ nghe bùi tai liền cùng nhau ra đi. Một hôm, họ đi đến một hòn núi. Thấy một anh chàng trẻ tuổi đang ngồi trên một tảng đá lớn có vẻ nhàn hạ, hai người tiến đến hỏi hắn làm gì mà ngồi đây. Hắn đáp: - Tôi ngồi đây thỉnh thoảng lại thổi một hơi làm cho gãy cây ngã cối đưa về làm củi! Nghe nói lạ, hai người bảo anh làm thử cho xem. Quả nhiên hắn vừa phùng má thổi một hơi thì cây cối ở trước mặt tự nhiên ngã rạp xuống như bị một trận bão nặng nề. Hai người bảo anh rằng: - Bác có tài như thế nào không đi khắp thiên hạ làm cho nổi tiếng một phen, chứ lại sống chui rúc ở xó rừng này làm gì? Thôi! Bác hãy cùng với chúng tôi đi đòi nợ vua Trung-quốc ngó chừng còn thú vị hơn ở đây! Anh chàng nghe nói bằng lòng ngay. Rồi đó cả bọn cùng lên đường. Mười ngày sau, bọn họ lại đến một khu rừng khác. Thấy từ trong rừng sâu bước ra một người cao lớn vai gánh một đôi voi đi như bay, cả bọn kính phục vội gọi giật lại, hỏi: - Bác gánh voi đi đâu thế? - Tôi hằng ngày vào rừng tìm voi mà bắt. Bắt được con nào thì trói giò lại gánh về để cho rữa thịt lấy một hai cây ngà bán kiếm tiền ăn tiêu. Cả bọn bảo: - Thôi! Sức khỏe như thế thì tội gì cặm cụi trong rừng như thế cho khổ. Hãy đi với chúng tôi đòi nợ vua Trung-quốc về chia nhau đi? Nghe nói anh chàng vừa ý vội bỏ voi lại nói: - Ừ, thì đi. Đến kinh đô Trung-quốc, bốn chàng tìm vào hoàng cung. Một toán lính gác cổng cản lại không cho vào. Cả bọn nổi xung lên, nói: - Chúng ta sang đây đòi nợ chứ có phải đi chơi đâu mà không cho vào. Và họ toan giã cho chúng một trận, nhưng anh chàng ăn khỏe càn lại rồi biên một bức thư đòi nợ, bảo tên lính đem vào cho vua. Hoàng đế Trung-quốc đọc xong lấy làm lạ, liền sai một viên cận thần ra xem thử người nào mà to gan đến thế. Viên cận thần ra một lát trở vào tâu rằng: - Có bốn tên dị hình dị dạng ở nước An-nam sang, đưa nào cũng quyết đòi được nợ mới về. Chúng nó toan đánh cả lính. Hoàng đế nghe nói không vui, nhưng cũng truyền dọn yến đãi đằng tử tế trước khi gặp họ. Bốn chàng được mời vào phòng riêng ăn uống nghỉ ngơi trong vài ba ngày. Nhưng họ ăn uống hung quá đến nỗi qua ngày thứ ba, mấy viên quan trông nom về ngự thiện phải vào báo cáo với vua rằng kho thức ăn của hoàng đế vì tiếp đãi bốn người khách lạ đã vơi hết già nửa. Hoàng đế nghe nói giật mình, vội bảo mấy viên đại thần tìm cách ám hại họ đi cho khỏi phiền. Người ta được lệnh mời bốn anh chàng đi thuyền chơi hồ, rồi nhè lúc thuyền ra giữa hồ thì đánh đắm cho chết đuối tất cả. Quả nhiên bốn anh em không ngờ sa vào mưu trí bị chìm xuống nước. Nhưng giữa lúc nguy cấp thì anh chàng khổng lồ đã nắm lấy chiếc thuyền như một chiếc gầu rồi tát lấy tát để. Chỉ trong một chốc đáy hồ khô cạn, cứu được ba bạn khỏi chết đuối. Thấy họ sống yên lành, hoàng đế tức giận, vội sai dọn yến khoản đãi, rồi chờ lúc họ no say mới sai mấy đội quân xông vào vây chém. Hôm ấy bốn chàng vô tình cùng nhau chén tạc chén thù không nghi ngờ gì cả. Bỗng nhiên một tiếng hô vang, phục binh xông ra như kiến. Cả bọn toan chạy, nhưng anh chàng thổi khỏe đã ngăn lại mà rằng: - Các anh cứ ngồi yên, để tôi cho bọn chúng xiêu giạt một phen! Nói rồi phùng má thổi mấy hơi. Bọn lính chịu không nổi với sức gió, bay văng đi như những cái lá khô. Thế là ở trong này, bốn chàng vẫn cứ ung dung ngồi chén tỳ tỳ cho đến mãn tiệc. Lần này hoàng đế Trung-quốc lo lắng hết sức. Vua sai triệu các vị Cơ mật đến tính cách đối phó. Nhưng mọi người khuyên vua nên trả quách đi, cho êm chuyện. Vua nói: - Bảy mươi vạn lạng thì nhiều quá. Các khanh có cách gì bắt chúng giảm bớt được không? Một viên tâu lên: - Bệ hạ cứ giả cách bằng lòng trả, nhưng bắt các thần dần, các thuyền bè xe cộ, khắp trong nước không ai được đánh thuê, chở thuê cho chúng nó và bắt chúng nó không được chuyên chở làm nhiều lần. Như thế dù có sức như Hạng Vũ cũng chỉ mang ra được chừng dăm bảy trăm cân là hết nước. Vua bằng lòng theo cách đó. Đến ngày nhận vàng bạc, người ta thấy một mình anh chàng gánh voi quảy hai sọt lớn vào kho. Chúng không ngờ chỉ một người đó mà thôi, đã thừa sức gánh 70 vạn lạng. Bọn quan coi kho không biết làm thế nào, đành cắm đầu cân lấy cân để, vơi hẳn cả kho vàng bạc. Được của, bốn anh chàng cúi chào hoàng đế rồi ung dung đi ra khỏi cung. Về nước, họ chia nhau tiêu xài sung sướng trọn đời...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bon-anh-tai" }
Bợm lại gặp bợm hay bợm già mắc bẫy cò ke
Ngày ấy, chợ Xuân là một nơi đô hội lớn của trấn Hải-dương. Vào khoảng ngày phiên, khách buôn bán, người qua lại đông nghìn nghịt. Ở gần chợ có một tay đại bợm sống về nghề ăn sương đã hơn mười năm. Hắn rất tài, mưu mẹo trăm khoanh; khi đã có ý định lấy của ai thì dầu giữ gìn thế nào hắn cũng cuỗm được. Một hôm, có một ông khách đến trọ ở một quán nhỏ trong chợ. Thấy tay nải nặng, hắn theo dõi khách từ lâu. Chủ quán bảo khách: - Ở đây kẻ trộm như rươi. Tôi đã có sẵn một cái hòm lớn để khách trọ ai có đồ đạc gì thì gửi vào đây khóa chặt lại rồi nằm lên trên. Vậy ông cứ đưa tay nải để chúng tôi cất vào hòm cho. Người khách cười, trả lời: - Tôi có của mà lại không giữ được của hay sao? Không phải phiền ông làm gì. Nói xong ông ta giở tay nải ra kiểm lại tiền nong rồi để ở đầu giường, gối đầu lên mà ngủ. Lúc ấy bợm ta lảng vảng ở ngoài, dòm vào thấy khách lạ lắm của, quyết định thế nào cũng làm một mẻ. Nửa đêm hôm ấy, đợi cho mọi người ngủ say, hắn khoét ngạch vào, chui xuống gậm giường. Ban đầu hắn làm y như tiếng mèo bắt chuột. Dần dần hắn làm những tiếng sột soạt ở bên cạnh chỗ khách nằm như kiểu mèo vồ chuột. Thỉnh thoảng hắn lại cào mấy cái vào chân khách. Khách bỗng tỉnh dậy co chân đạp và lớn tiếng mắng mèo. Đến đây hắn làm y như tiếng mèo bỏ chạy đi mất. Chờ cho khách chợt ngủ đi, hắn lại giả làm mèo đến cào vào chân như trước. Lần này ông khách tỉnh dậy tức quá ngồi lên rình bắt mèo. Nhưng lúc đó hắn đã lẻn lại đầu giường vớ lấy tay nải ra đi êm như ru. Người kia đợi mèo một lúc không thấy lại nằm xuống toan nối lại giấc ngủ, nhưng khi ngả đầu xuống gối mới biết là đã mất tay nải, bèn đánh thức chủ quán hô hoán mất trộm. Chủ quán thắp đèn lên và trách: - Đấy, ông không nghe lời tôi nữa thôi. Khách đáp: - Khá khen hắn có tài nghệ. Nhưng ông cứ để mặc tôi tự tìm của đã mất, đừng trình báo lôi thôi. Đoạn ngước mắt lên xà nhà thấy có một cái lờ bắt cá gác trên đó, ông ta bảo chủ quán: - Phiền ông cho mượn cái này một lát, tôi sẽ kiếm cách đi lấy tay nải của tôi về. Nói đoạn, ông ta cầm lờ ra cửa thấy một cây cao bèn trèo lên ngọn trông ngóng. Nghe tiếng chó cắn râm ran ở xóm phía Bắc, khách tụt xuống hướng theo tiếng chó đi tìm. Đi mãi ra tận chợ quanh co hồi lâu thấy một ngôi nhà đang còn thắp đèn, ông đoán là tên trộm, bèn chui qua giậu mà vào rồi mở cổng ra. Dòm qua khe cửa, quả thấy bợm ta đang giở tay nải của mình ra khoe với vợ. Giữa lúc hai vợ chồng đang thích thú mân mê những thỏi bạc trắng tinh thì ông đứng ngoài sẽ cười lên một tiếng. Bợm ta ngạc nhiên, ngước mắt hỏi: - Đứa nào ngoài ấy. Đáp: - Đàn em tin anh đêm nay được cái bổng to nên đến xin chia một tý. - À! Thằng nào đấy, mày định đến trêu ông phải không? Nói xong bảo vợ cất bạc đi, rồi vác gậy ra toan đánh, ông khách giả cách bỏ chạy nhưng sau đó lại núp vào bụi. Bợm ta chạy ra đến cổng thấy cửa mở rộng, bèn cứ thẳng đường đuổi mãi. Người khách từ bụi lẻn vào nhà lấy cái lờ úp vào đầu người đàn bà rồi phá hòm của nó lấy lại tay nải. Đoạn, ông cứ theo đường bờ ruộng lần về đến quán. Sáng hôm sau, ông khách đang ngồi chải đầu bỗng thấy bợm ta đội đến một mâm xôi và một con gà luộc. Gặp ông ta, hắn sụp lạy và nói: - Tôi theo nghề này đã hơn mười năm nay, thường tự nghĩ tài nghệ của mình thế này đã là rất mực, không ngờ ngoài ngọn núi này còn có ngọn khác cao hơn. Vậy tôi có chút lễ mọn đến xin làm học trò ngài. Ông khách vui vẻ trả lời: - Tôi cũng chơi cái nghề này từ hồi còn nhỏ, nhưng vì thấy nó không có hậu, nên giải nghệ đã lâu. Vì hôm qua anh đến lấy của tôi nên bất đắc dĩ tôi phải đem nghề mọn ra đối phó. Học làm gì nghề ấy. Hiện nay ngoài biên có giặc, anh nên cùng tôi ra đầu quân giúp nước thì hơn. Nghe nói bợm ta tỉnh ngộ, vui vẻ theo ông khách ra đi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bom-lai-gap-bom-hay-bom-gia-mac-bay-co-ke" }
Sự tích hoa Mai vàng
Ngày xửa… Ngày xưa… Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba ông Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nướng thịt cho mọi người ăn. Một lần, thương ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nước to dội luôn lên đầu ba ông. Tro khói bốc lên mù mịt. ông Táo già nhất vụt hiện ra nói: – Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta. Lửa càng nóng, ta càng vui. Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất. Từ đấy, cô bé không dội nước lên đầu ba ông Táo nữa. Nhưng ông Táo già thì thỉnh thoảng lại hiện lên trò chuyện với hai chị em cô bé trong chốc lát. Một hôm thương ông, cô em hỏi: – Ông thích lửa thôi à? Ông còn thích gì nữa không? -Có chứ! Năm sắp hết. ông phải về trời! Cháu bắt cho ông con cá chép ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất. Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng được một con cá chép về. Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói: – Ông Táo ơi! Chúng cháu biếu ông con chép này đây! Con cá chép vụt biến mất. Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay cao mãi lên trời… Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi. Ông thường chỉ thích đi săn thú dữ. Ông bảo: – Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết! Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái. Nhưng cô em lại rất thích nghề của cha. Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả côn, quyền và đao kiếm. Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc. Lên chín, cô đã hăm hở xin theo cha đi săn thú. Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô bé đã thưa ngay: – Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm. Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con lợn lòi rất hung dữ… Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người mình báo. Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ. Vì con quái vật chỉ thích ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con. Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi tìm quái vật để giết. Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được. Người cha bảo: – Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo. Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết chết thật. Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt đến làm cỗ ăn mừng. Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá chép và khấn với ông Táo già: – Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi. Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi: – Cháu thấy con quái có sợ không? – Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu. Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng. Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm sóc. Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước nữa. Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu người nhưng mình trăn. Con quái này có sức khỏe ghê gớm. Nó có thể quấn chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt. Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa. Bà con vùng đó liền cử người ra mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp bà con. Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi: – Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không? Cô gái nhỏ liền đáp: – Con xin cha mẹ và chị để cho con đi! Người cha nói: – Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi. Lần này chính con phải lo diệt quái đấy. Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội. – Ông ơi! Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở. Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm. – Cha ơi! Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi. Cô gái nhỏ liền thưa: – Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái. Bà con đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối. Mẹ và chị cứ yên lòng. Cha và con diệt xong quái sẽ trở về ngay. Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho hai cha con lên đường. Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ: – Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì? Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp: – Con rất thích màu vàng! Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi. Ngày lên đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp. Cô nói với mẹ và chị: – Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa… Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa: – Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe. Ông Táo liền hiện ra nói: – Chúc hai cha con mau trừ được quái. ông sẽ chờ ngày trở về… Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái đầu người mình rắn. Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm quái để diệt. Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt nổi. Sức của người cha thì cứ yếu dần. Cô bé liền thưa với cha: – Cha ơi! Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó. Con sẽ đâm một con dao găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào thân cây khác. Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu nó đi. Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm. Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu: – Được! Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra. – Cha cứ yên tâm. Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái. Nhưng trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi dao. Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé. Cô bé vừa chặt được cái đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người. Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy đến đỡ lấy xác con. Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến. Họ đem xác cô gái về chôn cất rồi lập đền thờ. Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy. Vì cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ. Cô xin thần Đất giúp cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi: – Ông ơi! Cháu bị con quái quấn chết. Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu, chị cháu làm sao sống nổi. Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông hãy tâu với trời cho cháu sống lại… Ông Táo đá núi liền hứa: – Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu… Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu lên mấy tiếng rồi bay đi. Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô gái nhỏ đã không còn nữa. Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa. ông Táo đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói ngay: – Bà cứ yên tâm. Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại. Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn. Ông Táo đi tối hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới. ông nói với hai mẹ con: – Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá chậm. Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín ngày. Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng. Thôi cứ được trông thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi. Huống gì lại được thấy đến chín ngày. Bà mẹ liền hỏi: – Ông ơi! Bao giờ thì cháu sống lại được? – Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy. – Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay! – Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai! – Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy! Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi. Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều chẳng muốn làm gì. Chỉ mong cho trời chóng tối. Chờ mãi rồi trời cũng tối thật. Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống lại trở về như thế nào. Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng có tiếng gọi: – Mẹ ơi! Chị ơi! Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về. Trong chiếc áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ. Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa. Ngày hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về. Dọc đường thương con, thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ. Không ngờ khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị. Ông dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi. Khi biết cô gái nhỏ đã được sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài trên má. Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày. Trong chín ngày đó, cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị. Nhưng cả nhà lại không muốn cô gái làm việc gì. Trong chín ngày, họ sống bù cho cả một năm sắp phải xa nhau. Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như sương khói rồi biến mất. Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng. Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau, lại kiên nhẫn chờ đợi… Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra đi… Năm nào cũng thế. Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn. Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời. Từ đấy hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong. Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô gái không về nữa. Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã dựng lên để thờ cô. Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng gần Tết, hoa lại nở đầy. Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ ngày trước. Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến mất để năm sau lại trở về. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng. Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng về cắm trên bàn thờ ông bà. Họ tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt cả năm.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-mai-vang" }
Sự tích cây Xương rồng
Cách đây lâu lắm rồi, khi ấy còn chưa có loài người, trái đất còn hoang vu lắm, thấy vậy Ngọc Hoàng bèn lấy một nắm đât và nhỏ vào đó một giọt nước thần để tạo ra một chàng trai. Rồi Ngọc Hoàng dạy cho chàng trai biết săn bắn, biết làm nhà, sau đó đưa chàng xuống trần gian. Thế nhưng chàng trai chỉ biết có săn bắn mà không hề biết gì về trồng trọt, nên không thể phủ màu xanh lên trái đất. Thấy vậy Ngọc Hoàng bèn sai một Tiên nữ chuyên trông coi việc đồng áng - vốn là con gái của thần Mưa và thần Gió - xuống trần để giúp đỡ chàng trai. Nhưng không ngờ khi xuồng trần, họ lại mải mê yêu nhau nên làm Ngọc Hoàng vô cùng tức giận. Người bắt cô gái - Tiên nữ kia về trời, nhưng nàng nhất quyết không rời chàng trai. Quá tức giận, Ngọc Hoàng liền vung tay, biến chàng trai thành trăm nghìn hạt nhỏ, mà ngày nay nguời ta gọi là Cát. Còn cô gái cứ ôm lấy chàng trai chỉ còn là những hạt cát nhỏ mà khóc lóc, dù cho Mẹ nàng là thần Mưa hết lòng khuyên giải, mặc cho Cha nàng là thần Gió hết sức tức giận. Nàng cứ ở đó khóc mãi, khóc mãi… cho đến một ngày thể xác nàng biến thành một thứ cây toàn thân đầy gai nhọn, như để chống cự vì không muốn bị bắt về trời, còn rễ cây thì ăn sâu vào trong lòng cát nóng bỏng như cánh tay cô gái ôm chặt lấy chàng trai không muốn rời. Và nếu như vô tình bạn chạm vào thân cây thì sẽ thấy một dòng nhựa trắng chảy ra, như dòng nước mắt chất chứa cả ngàn năm của cô gái. Loài cây đó được gọi là Xương Rồng. Thần Mưa do quá buồn bã mà từ cô con gái, thế nên ở sa mạc nóng bỏng, nơi chỉ có Cát và Xương Rồng mà cả năm chẳng hề có một giọt mưa. Còn thần Gió dù đã ngàn năm trôi qua nhưng vẫn còn tức giận, vẫn còn muốn cướp lại con gái của mình nên thỉnh thoảng lại tạo nên những cơn bão khổng lồ cuốn tung những hạt cát nhỏ bé, thế nhưng vẫn chẳng thể nào chia rẽ được tình yêu của họ. Bởi vì… tình yêu thực sự sẽ chiến thắng tất cả!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-xuong-rong" }
Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
Ngày xưa ở huyện Thanh-trì có một anh chàng học trò nghèo họ Nguyễn. Anh ta mồ côi cha, nhà cửa sa sút. Người mẹ làm nghề chống đò ngang cố nuôi cho con ăn học. Nhưng nghề đó không đủ nuôi cả mẹ liền con. Nhiều lúc anh ta phải nghỉ học trở về chống đò thay mẹ tuổi già sức yếu. Nhà anh ta là một túp lều dựng bên sông. Anh có giọng hát rất hay lại rất đẹp trai làm cho những cô gái vùng đó phải say mê ngây ngất. Ở bên kia sông có nhà phú ông họ Trần. Phú ông có một cô gái chưa chồng. Thỉnh thoảng cô gái vẫn gặp anh chàng học trò chống đò qua lại cho khách bộ hành. Thấy người hàn sĩ trẻ tuổi, nàng đâm ra quyến luyến. Nhất là những buổi chiều hè, nghe tiếng hát của anh văng vẳng bên sông, nàng không thể cầm lòng được. Một hôm nàng đánh bạo nhờ một con nhài thân tín mang một cái trâm và một chiếc quạt đến tặng người mà mình thầm mơ trộm tưởng. Nàng còn dặn chàng cứ nhờ người đến dạm hỏi, đã có mình tay trong, việc hôn nhân chắc thế nào rồi cũng sẽ thành. Anh chàng nhận được tặng vật vừa mừng vừa lo. Anh ta thưa lại với mẹ để nhờ mẹ tìm cách lo liệu. Bà mẹ bảo con: - Con đừng có chơi trèo, mang lấy một tiếng cười vô ích. Nhưng anh ta thì rất tin tưởng: - Mẹ cứ cố liệu cho con đi. Cô ấy đã thương con thì dù có một trăm chỗ lệch cũng kê được bằng mẹ ạ. Bà mẹ chiều con, nhờ một người khéo ăn khéo nói mang trầu cau sang thưa chuyện. Khi phú ông vừa nghe người mối ngỏ lời cầu thân, vẻ khinh thị đã hiện ra trên nét mặt. Hắn không đợi hỏi ý con gái, trả ngay lễ vật lại. Người mối nói: - "Thưa cụ, anh chàng họ Nguyễn bẩm tính thông minh và khôi ngô". Hắn đáp một cách mỉa mai: - "Con gái tôi ngu đần, xấu xí, đâu dám sánh duyên với người tài mạo tót vời". Người mối vẫn bền chí ngồi lại, nhắc đến tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng một khi chàng trai hiển đạt. Nhưng phú ông vẫn gạt đi: - Con gái của tôi không có số làm bà đâu, đừng nhiều lời vô ích. Rồi hắn đuổi khéo người mối về với câu thách: - Muốn lấy con gái ta hãy mang ba trăm lạng vàng đến làm sính lễ. Nghe người mối kể lại anh chàng vừa buồn vừa thẹn. Qua ngày hôm sau, anh ta thưa với mẹ: - Mẹ cứ tin ở con, con sẽ đi lập nghiệp để kiếm tiền về cưới vợ cho mẹ xem. Nói rồi bỏ nhà đi biệt. Lại nói chuyện cô gái phú ông thấy cha không thuận lấy làm buồn rầu, chưa biết tính thế nào. Đang cơn phiền muộn lại nghe tin người yêu đi mất, nàng vô cùng chua xót. Nàng đâm ra tưởng nhớ anh chàng chống đò không có cách gì nguôi được. Dần dần vì thế sinh bệnh. Phú ông cố tìm thầy chạy thuốc nhưng người nàng ngày một gầy mòn. Nụ hoa mới nẩy cành không ngờ đã sớm héo tàn và rơi rụng. Phú ông thương tiếc sai người hỏa táng theo như lời trối của con. Khi gạt đống tro của người bạc mệnh, người ta tìm được một khối bằng cái đấu, đỏ như son và trong suốt như thủy tinh. Phú ông đưa về rồi sau đó thuê thợ tiện tiện thành chén trà dùng làm đồ thờ con gái. Mỗi lần pha nước vào chén trà, người ta thấy có bóng anh con trai chống đò ngang ở trong đó. Biết là con gái chết vì tương tư anh học trò khó đến hỏi ngày nọ, phú ông rất lấy làm hối hận. * Anh chàng họ Nguyễn cất chân ra đi với hai bàn tay trắng. Trải qua khá nhiều ngày gian truân, cuối cùng anh làm môn khách cho một ông quan trấn tướng của triều đình đóng ở Cao-bằng. Anh là người có nhiều tài nên dần dần lấy được lòng tin cậy của chủ. Anh đã giúp chủ nhiều việc quan trọng ở biên thuỳ rất đắc lực, và cũng do đó kiếm được rất nhiều tiền. Sau ba năm anh đã để dành được 300 lạng vàng. Thấy trong tay đã có đủ tiền để cưới người yêu, một hôm anh xin phép trấn tướng trở về quê hương. Trên đường về, anh chàng họ Nguyễn lòng mừng khấp khởi. Không ngờ khi về đến nhà thì nghe tin người yêu đã không còn nữa. Anh sang nhà phú ông, nước mắt đầm đìa cả tay áo gấm. Phú ông hết lời từ tạ rồi đưa chén trà cho anh xem. Nghe kể chuyện, anh chàng lại càng thổn thức. Nhưng khi những giọt nước mắt rơi vào chén, chén tự nhiên tan ra huyết ướt đẫm cả tay. Từ đó xuất hiện câu ca dao: Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/no-tinh-chua-tra-cho-ai-khoi-tinh-mang-xuong-tuyen-dai-chua-tan" }
Bảy Giao, Chín Quyển ỳ
Ngày xưa ở làng chợ Cả-sê bây giờ thuộc tỉnh Mỹ-tho có hai anh em ruột: một người tên là Bảy Giao, một người tên là Chín Quỳ. Cha mẹ họ mất sớm chỉ để lại cho vài mẫu ruộng xấu. Vốn người lực lưỡng, hai anh em có chí muốn đưa sức ra thi thố với đời. Nghe nói ở Bình định có nhiều tay giỏi võ, họ mới bán hết số ruộng của mình rồi đeo khăn gói ra ngoài đó học. Họ đã học với rất nhiều thầy, chẳng bao lâu thông thuộc đủ mười tám ban võ nghệ. Hai chàng nức chí muốn lập công danh. Nhưng gặp lúc triều đình mở rộng cửa văn khép chặt cửa võ, nên cuối cùng họ không biết làm gì kiếm ăn, đành phải trở về quê cũ. Về đến làng, hai chàng dạy võ cho người ta để kiếm ăn nhưng tiếc thay tài nghệ không đủ nuôi miệng. Túng thế, họ rủ nhau đi làm cái nghề khoét vách trèo tường. Dần dần bạo dạn, họ trở thành nhũng tay đón đường cướp của rất thạo. Nhưng họ chỉ lấy tiền bạc của bọn nhà giàu rồi đem của đã chia cho những người nghèo khó mà họ gặp. Sau mười năm làm nghề lục lâm, áo rách vẫn hoàn áo rách. Bảy Giao bảo Chín Quỳ rằng: - Chúng mình toàn đem tài sức giúp thiên hạ nhưng không gặp thời. Sống trốn tránh lẩn lút thế này không thích. Thôi chúng mình hãy bỏ cái nghề này, đi chỗ khác làm ăn! Hồi ấy ở Cồn-tàu chưa được khai phá, nửa cồn trên toàn là cây "gừa", nửa cồn dưới thì là dừa nước, cây mọc chi chít rậm như rừng. Ở đó có một vị thần rất thiêng, có hai bộ hạ là hổ và lợn rất dữ tợn, hoành hành trong một vùng. Từ lâu, thần ta đã báo cho biết: hễ ai đến chặt phá khoảng rừng đó thì phải nộp một mạng người. Có nhiều người vô ý chỉ đến chặt mặt gánh củi nhưng chưa ra khỏi cồn đã bị thần sai bộ hạ quật chết. Vì thế đã lâu rồi không ai dám lai vãng. Một nhánh củi khô của thần cũng còn nguyên vẹn. Hai anh em nghe được tin ấy liền đến Cồn-tàu khấn với thần rằng: - "Chúng tôi nghe tin ngài linh thiêng, hễ ai phá rừng phải dâng một mạng. Nay chúng tôi cũng xin cúng một mạng, nhưng chỉ xin ngài rộng cho trong ba năm đừng phá quấy gì hết. Đủ ba năm rồi, ngài muốn lựa bắt đứa nào cũng được, hãy bắt cả hai chúng tôi cũng xin vui lòng". Thấy họ cam đoan như thế, thần ta bằng lòng cho họ đến. Rồi đó, họ sắm một chiếc ghe chèo đến đây chặt cây, chặt lá chở ra chợ bán. Hết chuyến này họ làm chuyến khác. Chẳng bao lâu chặt trọc một khu rừng hoang. Thần lỡ lời hứa: phải để cho họ làm nhưng trong lòng rất căm tức. Sắp sửa đúng ba năm, hai anh em nhớ tới lời hẹn, bèn nhờ thợ rèn, rèn cho hai cái côn sắt nặng hàng trăm cân. Đoạn, họ đến Cồn-tàu khấn với thần rằng: - "Chúng tôi y ước tới nộp mạng. Mời thần cho người đến lấy!". Nói rồi cởi áo, mỗi người một côn sắt đứng đấu lưng lại với nhau thủ thế. Thần sai bộ hạ thứ nhất là hổ đen ra lấy mạng, hổ đen từ trong hang tiến đến nhảy ngay vào mình Chín Quỳ. Chín Quỳ nhanh tay choảng cho một côn, hổ đen ngã lăn ra chết giấc. Thấy thế, thần nổi giận xung thiên, sai ngay bộ hạ thứ hai là lợn lòi ra hạ thủ. Lợn to bằng con nghé, răng nanh dài hơn gang tay, miệng đầy bọt, chạy xộc xộc xông vào người Bảy Giao. Chàng vụt luôn một côn trúng vào đùi. Lợn tuy què một cẳng nhưng được thần tiếp sức cho nên vẫn rất dũng mãnh, nhảy xô vào Bảy Gian toan cắn. Chín Quỳ quay người lại cứu anh, và cả hai người chật vật lắm mới hạ được con lợn dữ. Thần ta thấy một lúc mất luôn hai bộ bạ đắc lực của mình thì sợ quá không dám làm gì nữa. Hai anh em đợi mãi đến chiều mới trói lợn và hổ lại đưa xuống ghe và khấn rằng: -"Nay ngài thương chúng tôi, đã không giết lại thưởng cho thịt, chúng tôi rất cám ơn. Vậy từ nay hủy bỏ hết những lời hứa trước". Khấn đoạn, đem về nhà xẻ thịt cho làng xóm ăn. Người ta nói từ đó thần hết thiêng. Mọi người đổ xô đến Cồn-tàu khai phá, cấy lúa làm ăn và bây giờ trở nên một vùng ruộng đất phì nhiêu
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bay-giao-chin-quyen-y" }
Chàng mồ côi
Ngày xưa có một chàng thanh niên mồ côi cha mẹ từ tấm bé, được người làng nuôi cho lớn khôn. Người ta quen gọi chàng là Mồ Côi. Mồ Côi càng lớn càng làm khoẻ. Không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai bữa ăn. Thấy chàng cần cù, và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và các em bé đều quý mến. Những ngày mưa to gió lớn, chàng không đi làm được thì các cô gái rủ nhau đem gạo sang nhà giúp. Thấy vậy một vài chàng trai trẻ trong làng đem lòng ghen ghét. Họ tìm cách hãm hại Mồ Côi. Một hôm, Mồ Côi bị ốm. Trai làng xúm lại đánh đến sứt mặt, mẻ trán giữa lúc chàng đang cùng một cô gái làng đi làm đồng về. Chàng bị đau nhừ cả người, nằm mấy ngày chưa lại sức. Thấy bọn con trai ghét mình, chàng bèn chạy sang làng bên cạnh làm thuê, gánh mướn nuôi thân. Nhưng đến ở làng này chưa lâu, chàng lại bị bọn trai làng rủ nhau sang gây chuyện và đánh đập. Mồ Côi lại phải bỏ làng này ra đi một lần nữa. Lần này chàng định đi kiếm ăn ở một nơi thật xa. Chàng đi ba ngày liền, đến một làng nhỏ ven rừng hẻo lánh. Chàng vào một nhà phú ông xin ở thuê. Phú ông thấy Mồ Côi khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, liền nhận lời giao cho chàng công việc hái trám. Nhưng khi nhìn rừng trám rộng mênh mông, cây nào cũng to bằng hai ba người ôm và cao thẳng vút lên trời, Mồ Côi lắc đầu, lè lưỡi. Phú ông ngon ngọt dỗ dành và hứa trả công cao. Trèo xong rừng trám, lão sẽ trả cho 500 lạng bạc. Lão còn bày cách bắc thang tre để trèo. Công việc leo trèo thật vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng vì thấy phú ông đối đãi có vẻ tốt, nên Mồ Côi không tiếc sức. Từ đó ngày nào chàng cũng trèo thang lên ngọn cây trám, cầm sào vụt rụng từng chùm trám chín xuống đất. Phú ông cùng vợ và con gái thả sức thu lượm đưa ra chợ bán. Một tháng rưỡi trôi qua, với cây sào và cái thang, Mồ Côi leo hết cây trám này đến cây trám khác. Phú ông cũng thu về hết món bạc này đến món bạc kia. Hôm ấy, Mồ Côi trèo đến cây trám thứ hai trăm cũng là cây trám cuối cùng. Thấy sắp phải tính công trả cho Mố Côi số bạc hơn năm trăm lạng, phú ông gọi vợ đến bàn mưu tính kế. Sáng hôm ấy, vợ chồng phú ông dậy từ lúc gà gáy, sai con nấu cơm làm bữa mời Mồ Côi. Cơm nước xong, Mồ Côi lại theo gia đình phú ông vác sào ra rừng trám. Sau khi Mồ Côi đã trèo đến ngọn cây, thì ở dưới gốc, phú ông sai con rút lấy thang tre về nhà, mặc cho Mồ Côi ở trên cao kêu la ầm ĩ. Chàng cố tìm cách tụt xuống, nhưng loay hoay nửa buổi cũng không tìm ra cách gì cả. Thân trám thẳng tắp, to bằng hai người ôm, không thể bấu víu vào đâu để tụt xuống được. Thế là từ đấy, chàng phải sống trên ngọn cây trám như loài khỉ vượn. Ðói bụng, chàng phải hái quả trám ăn sống. Khát nước, chàng liếm từng giọt sương đêm đọng trên từng chiếc lá. Ðêm cũng như ngày chàng không dám ngủ say, ăn hết trám, chàng phải ăn đến lá. Ăn hết lá, chàng phải ăn đến vỏ. Một buổi sáng, trời hửng nắng, Mồ Côi cởi chiếc áo cánh phơi lên một cành trước mặt. Giữa lúc ấy có một con gấu ngựa đi qua dưới gốc cây. Trông thấy cái áo của Mồ Côi, nó tưởng là một tổ ong, liền trèo lên định ăn mật. Gấu đến bên cái áo, mắt lim dim để tránh ong đốt vào mắt như thói quen của nó, rồi nhoài người ra ngoạm lấy cái áo cánh nhai ngấu nhai nghiến. Thấy thế, một ý nghĩ táo bạo mới nẩy ra trong óc Mồ Côi. Nhằm lúc con gấu nhắm tịt cả hai mắt và mải nhai cái áo, Mồ Côi liền nhè nhẹ tụt xuống, cưỡi ngay lên lưng con gấu, hai tay ghì chặt lấy cổ. Gấu bị ôm bất thình lình, hốt hoảng nhưng không dám buông tay, đành phải cõng cả Mồ Côi tụt xuống gốc. Khi gấu còn cách mặt đất hai ba sải, Mồ Côi vội nhảy xuống đất bỏ chạy. Gấu cũng chạy đuổi theo Mồ Côi. Mồ Côi cố sức chạy mãi vào rừng. Bỗng có một cái hang sâu chắn ngang trước mặt, chàng đành phải nhảy liều xuống hang; gấu không dám nhảy theo. Mồ Côi nhờ vậy được thoát. Nhưng từ đây, chàng lại lâm vào một cảnh khổ cực nguy hiểm mới. Hang tối om. Chàng phải lần mò từng bước chân để một lối đi ra ngoài. Chàng đi mãi trong hang nhưng đi tới đâu cũng thấy tối như bưng. Xung quanh chàng chỉ có những con dơi bay đi bay lại. Chúng bay qua đầu chàng rứt từng sợi tóc, từng mảnh da. Bao nhiêu ngày ở trong hang phải chịu cực hình như thế. Mặc dầu vậy chàng cố len lỏi đi hết gốc hang này, lại dò đi sang gốc hang kia mong tìm một lối thoát. Chợt một hôm chàng lần tới một chỗ nọ có một tia ánh sáng lọt vào. Chàng vui mừng khấp khởi. Nhưng về sau mới biết đó chỉ là một lỗ thông thiên chứ không phải là cửa hang. Tuy vậy chàng cũng cố vịn vào vách đá trèo lên để vượt ra ngoài. Nhưng sức chàng đã yếu lắm, đã năm bẩy lần leo lên được vài ba sải tay, rồi lại ngã xuống chỗ cũ. Một hôm, trong khi nằm ngất trong hang, chàng thấy một ông cụ đầu tóc bạc phơ, tay cầm một cái rìu và một hòn đá thần đến gần. Ông cụ bảo: - Ta là thần núi, thấy con khổ cực quá nên đến cứu con đây! Ta cho con một cái rìu. Nó sẽ cho con cơm ăn, áo mặc. Ta cho con hòn đá thần này. Con mang rìu mài vào hòn đá này thì lưỡi rìu sẽ sắc. Con kỳ hòn đá này vào da, da sẽ trở nên trắng trẻo và đẹp đẽ. Cuối cùng ta cho con viên thuốc nó sẽ cho con sức khoẻ vượt hang. Nói xong, thần núi chống gậy đi mất. Mồ Côi tỉnh dậy, nhặt viên thuốc bỏ vào mồm. Tự nhiên thấy người nhẹ nhõm lạ thường. Chàng giắt cái rìu và hòn đá vào thắt lưng, rồi leo theo vách thẳng lên lỗ thông khác. Khác với những lần trước, lần này chàng trèo nhanh thoăn thoắt, chỉ một lát đã tới lỗ thông hơi và nhìn thấy ánh sáng ở bên ngoài. Chàng nhắm mắt lại một lúc rồi đu người ra khỏi hang. Chàng lần xuyên qua rừng. Ðến quá trưa, tới bờ một con sông cái. Chàng men bờ, xuôi theo dòng. Ði được một quãng, chàng gặp một ông cụ tiều phu. Nhìn thấy Mồ Côi mặt mũi gớm ghiếc, đầu không còn sợi tóc, da dẻ sần sùi, hai vành tai sứt lở, áo quần rách nát, ông cụ bỏ chạy. Mồ Côi đuổi theo kể mọi lỗi gian lao của mình cho ông nghe. Ông cụ bảo giúp mình đốn củi và phát nương rồi sẽ đưa về nhà. Mồ Côi liền lấy cái rìu ra mài vào hòn đá thần. Cái rìu trở nên rất sắc, chàng chỉ chặt một lúc đã được một đống củi chất đầy cả một gian nhà. Tối hôm ấy, chàng được ăn nghỉ ở nhà ông cụ. Ông cụ có sáu cô con gái. Cả sáu cô gái đều đã đến tuổi lấy chồng. Thấy bố dắt về một chàng trai gớm ghiếc, các cô con gái, trừ cô út, đều tránh xa. Họ nói với bố đuổi ngay ra khỏi nhà. Ông cụ phải mắng mãi các cô mới chịu im. Cuối cùng các cô bảo bố cho Mồ Côi ra ở lều ngoài nương để chàng vừa phát thêm rẫy vừa coi lúa. Hàng ngày các cô sẽ luân phiên nhau đưa cơm, bắt đầu từ cô cả. Ðể khỏi giáp mặt với Mồ Côi, cô cả đem một cái mõ treo lên một gốc cây ở đầu mương cách lều khoảng một trăm bước. Cô gõ mõ một hồi ba tiếng rồi đặt cơm ở gốc cây, gọi Mồ Côi đến lấy cơm ăn. Ðoạn ba chân bốn cẳng quay trở về nhà, không cần biết rằng Mồ Côi có nghe hay không. Lần lượt bốn cô em tiếp sau cũng bắt chước làm như cô chị. Duy chỉ có cô út đến lượt mình đưa cơm, cô không bỏ nắm cơm ở dưới gốc cây, cũng không gõ mõ như các chị, mà đi vào đến tận lều, trao tận tay Mồ Côi. Trong khi Mồ Côi ăn cơm, cô ngồi lại hỏi thăm sức khoẻ, quê quán, gia đình của chàng. Cô cố ý ngồi chờ cho Mồ Côi ăn xong rồi mới về nhà. Từ ngày ra ở lều, Mồ Côi vẫn làm việc như ông cụ dặn. Sáng nào chàng cũng mài rìu thêm sắc để chặt được nhiều cây. Chiều nào chàng cũng ra suối tắm, lấy hòn đá thần kỳ vào người, quả nhiên da dẻ chàng dần dần trở lại hồng hào, xinh đẹp hơn trước. Bẵng đi một thời gian, chàng không thấy cô út đến đưa cơm. Tự nhiên thấy buồn buồn nhơ nhớ, chàng cho là cô út cũng bắt chước các chị đặt cơm nắm ở gốc cây, rồi vội vã trở về nhà ngay, không biết cô út bận sang nhà bà cô ở làng bên. Sau đó ba tháng cô út lại về nhà bố. Cô lại đem cơm vào lều cho Mồ Côi nhưng cô không thấy chàng Mồ Côi xấu xí mọi ngày mà chỉ một chàng trai mặt mày sáng sủa, da dẻ hồng hào, đầu tóc gọn gẽ thì thấy ngạc nhiên, vội hỏi: - Chàng là ai ? Chàng ở đâu đến ? Chàng có biết cái anh Mồ Côi bị ăn mất hai bàn tay, rứt hết mái tóc trước đây coi nương ở lều này không ? Biết là cô út không nhận ra mình nữa vì là mình đã nhờ đá thần thay đổi nhiều lắm. Nhưng Mồ Côi chỉ gật đầu chào cô út, không thưa, không rằng. Cô út hỏi tới hai ba lần mà chàng chỉ cười chứ không nói một lời. Thấy vậy cô út đặt nắm cơm xuống sàn, quay ra cửa nhìn về phía rừng gọi Mồ Côi. Cô gọi tới hai ba tiếng, vẫn không có tiếng trả lời. Gọi xong cô út xuống thang đi vào rừng. Cô tìm khắp bốn góc nương lại hú gọi luôn mồm nhưng vẫn không thấy. Cô đành chạy một mạch về nhà. Ngày hôm sau, đến lượt cô cả đi đưa cơm. Cô út xin đi thay. Cô định hôm nay phải tìm cho bằng được Mồ Côi mới thôi. Nhưng cô lại chỉ thấy anh chàng trắng trẻo hôm qua. Cô hỏi nhưng chàng trai chỉ cười đáp lại chứ không nói. Cô đặt nắm cơm xuống sàn rồi quay ra cửa định vào rừng tìm. Lần này Mồ Côi không thể làm thinh được nữa, chàng nói: - Cô út ơi! Cô không phải đi tìm nữa. Xin cô thứ lỗi vì tôi đã làm cô mất công tìm kiếm. Bây giờ tôi đã biết hết lòng dạ của cô đối với tôi rồi. Tôi chính là cái anh Mồ Côi mất tai mất tóc ngày nọ đây. Cô út quay lại, hết sức ngạc nhiên, cô nói: - Chàng đấy à ? Sao chàng thay đổi thế này ? Mồ Côi sung sướng trả lời: - Cô út ạ ! Nhờ có hòn đá thần này mà tôi đã dần dần trở lại lành lặn như thế này đây. Rồi chàng kể lại cho cô út nghe những việc làm trong thời gian qua. Từ hôm ấy, ngày nào cô út cũng thay các chị vào nương đưa cơm, các cô chị rất thích không cần hỏi duyên cớ vì sao. Duy chỉ có ông cụ thì hơi lấy làm lạ. Một hôm ông lẻn thi theo rình xem cho rõ sự tình. Nấp ở trong bụi, ông cụ không thấy anh chàng Mồ Côi xấu xí hồi nọ, mà chỉ thấy một chàng trai trẻ đẹp, nói nói cười cười với con gái út của mình. Chờ cho con về, ông cụ vào lều hỏi xem chàng trai nọ là ai. Sau khi nghe kể, ông cụ mới rõ chàng trai chính là anh chàng Mồ Côi mất tai, mất tóc. Tối hôm ấy, ông cụ gọi cả sáu cô con gái lại hỏi: - Anh chàng Mồ Côi ở với ta đã lâu ngày. Chàng rất chăm làm và làm rất khoẻ. Bố vừa lên nương xem thì thấy một mình chàng không những đã trông nom rất chu đáo nương lúa, nương ngô, mà còn phát gốc, chặt cây, được rất nhiều nương rẫy. Vì vậy, bố rất mến, bố muốn kén chàng vào làm rể nhà ta. Có đứa nào bằng lòng lấy chàng không ? Nghe bố nói, năm cô chị nhìn nhau nhổ nước bọt phì phì và đều trả lời: - Bố mẹ đừng nghĩ quàng xiên như vậy. Chúng con không bao giờ bỏ phí cái tuổi thanh xuân, dấn thân làm vợ một chàng "người không ra người, quỷ không ra quỷ !" Ông cụ hỏi cô út, cô đỏ mặt đáp: - Cha mẹ muốn gả cho chàng, thì con cũng xin vâng. Ông cụ nhìn vợ, rồi nhìn cô út ân cần nói: - Vậy ngày mai, chúng ta sẽ sửa soạn làm lễ cưới đón rể cho con gái út của chúng ta. Sáng hôm sau, cả nhà ông cụ sửa soạn lễ cưới cho con út, tất cả họ hàng và xóm làng đều rất ngạc nhiên. Họ xì xào bảo nhau: "Ông cụ khéo lẩn thẩn, sao lại gả cô út trẻ đẹp, hiền lành, cho cái anh chàng xấu xí ấy". Nhưng buổi đón rể đã làm cho tất cả người họ, người làng, cũng như năm cô chị đều hết sức ngạc nhiên và ghen tị. Ði bên cạnh cô út không phải là chàng Mồ Côi xấu xí, mà là một chàng trai trẻ đẹp, vóc người vạm vỡ, da dẻ hồng hào, mặt mày sáng sủa, đầu tóc gọn gàng và nổi tiếng đốn cây, làm rẫy rất khoẻ...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-mo-coi" }
Con chó biết nói
Ngày xưa , có một ông già giàu nhất làng. Tiền bạc của ông kiếm được phần nhiều là do những món nợ ăn lời quá vốn, hoặc những âm mưu cướp giật ruộng đất, nhà cửa của dân lành. Càng có nhiều tiền lão càng cay nghiệt. Không bao giờ lão chịu bố thí, cứu giúp cho chòm xóm. Lúc nào lão cũng lăm lăm kiếm nhiều tiền hơn nữa để trở thành phú hộ ăn trên ngồi trước thiên hạ. Lão có nuôi một con chó mực, lão thương con chó còn hơn con ruột. Lão cho con chó ăn ngon như lão, cho ngủ trên giường và chăm sóc kỹ lưỡng. Lão thường ao ước: - Giá như con mực này biết nói tiếng người thì ta sẽ trở thành một người nổi tiếng nhất làng. Ta sẽ làm tiền thiên hạ mỗi khi ai muốn nghe nó nóị Và nhờ vậy mà ta sẽ có nhiều tiền, ta sẽ ăn trên ngồi trước ngườị Một anh đầy tới biết ý muốn của lão chủ, nghĩ kế làm tiền chủ cho bỏ ghét. Anh lựa lúc chủ vui mà nói rằng: - Thưa ông chủ, tôi biết một vị tu sĩ trong núi có phép dạy chó nói tiếng người. Nếu ông cho tôi dắt chú mực đi học, chắc chắn trong ba tháng sẽ nói được như tôi. Lão già khoái quá hỏi giá bao nhiêu. Anh đầy tới tính phỏng lối năm nén bạc. Lão liền đưa cho anh năm nén bạc và một nén làm lộ phí. Anh đầy tới dắt chó ra đi. Anh không đi vào núi mà lại đưa chó về nhà cha mẹ mình ở cách đó khá xạ Anh giao chó cho cha mẹ nuôi và trăm năm nén bạc, nhờ cha mẹ mua ruộng cho anh. Ở chơi vài ngày rồi anh trở lại nhà chủ, thưa rằng: - Ông tu sĩ nhận tiền và hứa sẽ dạy chú mực biết nói trong hai tháng. Ông ta đòi thêm ba nén bạc nữa về lớp dạy gấp rút nàỵ Lão già bằng lòng lắm, hy vọng sẽ có con vật đặc biệt nhất làng. Lão đi khoe khắp nơi và hăm rằng kẻ nào khinh khi lão sẽ bị chó chửi thay lão. Thời gian trôi qua, đến ngày hẹn, lão trao ba nén bạc nữa cho anh đầy tới và cho thêm hai nén đi đường. Anh chàng khôn ranh ôm bạc về nhà nhờ cha mẹ cất, chờ anh về cưới vợ. Anh gọi con chó lại vuốt đầu tỉ vẻ cám ơn nó. Vài hôm sau anh trở lại nhà chủ một mình. Lão già ngạc nhiên thấy không có con chó, lật đật hỏi: - Chó mực đâu? Chó mực đâu? Sao mày lại về một mình? Anh làm bộ âu sầu kể lại rằng: - Thưa ông chủ, tôi không ngờ chú mực lại vô ơn bội nghĩa đến thế. Ông tu sĩ đã dạy nó nói được tiếng người đàng hoàng như tôi, vừa thấy tôi là chú kêu tên tôi ngaỵ Tôi hỏi thăm sức khỏe của chú để thử tài ông thầy, thì chú trả lời ron rót y như tôi nói chuyện với ông chủ vậỵ Chú nói rằng: "Tôi về nhà rồi chủ tôi sẽ biết. Tôi sẽ kể hết tội ông chủ làm lâu nay, như cho vay lấy lời cắt cổ, gạt người ta lấy của, kiện cáo đoạt nhà, cướp ruộng thiên hạ, lo lót quan trên, hãm hại dân lành. Tôi sẽ tố cáo ông chủ trước mặt quan phủ để ngài bắt lão chủ bỏ tù, tịch thu tài sản mới được...". Thưa ông chủ chú còn nói nữa, nhưng tôi không dám thuật hết cho ông chủ nghe, tóm lại chú biết hết các chuyện ám muội của ông chủ và nhất định cho ông chủ vào tù. Tức quá tôi lấy búa chém đứt đầu nó rồi. Lão già toát mồ hôi hột. Lão đâm lo vì tội ác rành rành như thế, nếu con chó nói hết thì lão không tránh khỏi tai họạ Lãm cảm ơn anh đầy tớ đã giúp lão giết con vật "chó chết" và cứu lão thoát nạn. Lão cho anh ba nén bạc gọi là thưởng công anh. Từ đó lão bớt dần tính ác độc và bủn xỉn, lão sợ những con vật rồi đây sẽ biết nói và sẽ không bỏ qua những việc làm có tội của lão. Còn anh đầy tới, anh xin nghỉ làm ở nhà chủ, anh về nhà với cha mẹ lo làm ruộng, rồi anh cưới vợ, cất nhà riêng. Anh nuôi con chó mực như các con chó khác, và nó cũng chỉ "biết nói" gâu gâu mà thôi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-cho-biet-noi" }
Sự tích sông Nhà Bè hay là truyện Thủ Huồn
Ngày xưa ở Gia-định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại. Trong hơn hai mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, hắn đem tiền tậu ruộng làm nhà. Ruộng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn "giạ" lúa. Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng giả. Một hôm, có người mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh-ma ở Quảng-yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến mồng một tháng Sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu. Khi gặp vợ, Thủ Huồn không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kể cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ: - Mình lâu nay làm gì? - Tôi làm vú nuôi trong cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ. Hắn nói: - Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có được không? - Đi được. Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm. Thủ Huồn và vợ cùng đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng: - Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên buồng tôi trên kia được. Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay. Chiều hôm đó người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói: - Chỉ có cung vua và cung hoàng hậu thì đừng có vào còn mọi nơi khác chàng cứ đi xem cho thỏa thích. Hắn lượn mấy vòng xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay, v.v... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế. Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục: - Thứ gông này để làm gì? - Để chờ một thằng ác nghiệt ở trần xuống đây. Bao nhiêu những cái gông trong này đều đã có chủ cả. Cứ xem gông to hay nhỏ thì biết tội ác của nó. Thủ Huồn lại hỏi: - Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai? Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ, đọc: - "Hắn là Võ Thủ Hoằng tức là Thủ Huồn" Rồi nói tiếp: - Thằng cha đó ở Đại-nam quốc, Gia-định tỉnh, Phúc-chính huyện... Nghe nói thế, Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt. Nhưng hắn vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Hắn hỏi thêm: - Thế nào? Hắn có tội gì? Lão cai ngục mắt vẫn không rời quyển sách. - Khi làm thơ lại hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: năm Ất sửu hắn sửa hai chữ "ngộ sát" thành "cố sát" làm cho hai mẹ con thị Nhân bị chết để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc, một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình-ca bị hai mươi năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm... Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới này đều rõ mồn một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng. - Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hở ông? - Ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi. Thủ Huồn lại hỏi gặng: - Ví thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào? Lão cai ngục hạ sách xuống bàn, đáp: - Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được đó bố thí và cúng lễ cho hết đi. Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về, lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay hắn bảo vợ: - Tôi về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên chợ đón nghe! Về tới Gia-định. Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết sư, sãi các chùa gần vùng tới nhà mình cúng đơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường. Ai xin gì được nấy. Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Nhiều người bảo nhau: - "Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thể nào cũng đội nón ra đi mà thôi!" hay là: - "Có lẽ hắn không con, biết để của cũng chả làm gì nên tự làm cho vợi bớt". Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì sất, cứ việc quẳng của không tiếc tay. Cứ như thế sau ba năm, Thủ Huồn tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh-ma. Ở đây, hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm một lần nữa. Khi trở lại nhà ngục. Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục ba năm về trước. Cách bố trí y hệt như xưa: cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, cắt tay: v.v... Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn, nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ý nhất thì bây giờ đã rút ngắn lại tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tý. Hắn lân la hỏi lão cai ngục: - Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải. - Đúng đấy! Lão đáp. Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn. Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia-định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng dàng. Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại, kể cả nhà của của mình. Hắn đến Biên-hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng-nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng-nai và sông Gia-định việc đi lại rất bất tiện. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng-nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang để sinh cơ lập nghiệp. Thủ Huồn liền quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền. Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự. * Sau đó khá lâu, có lần một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung-quốc lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt-nam hỏi lai lịch một người ở Gia-định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: "Đại-nam, Gia-định, Thủ Hoằng", nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sau khi sứ giả cho biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung-quốc có cúng vào ngôi chùa Biên-hòa ba pho tượng vàng. Do việc đó người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở coi âm, mà còn được Diêm vương cho đi đầu thai làm vua Trung-quốc. Ngày nay, một ngôi chùa ở Biên-hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba sông Đồng-nai và Gia-định còn gọi là sông Nhà-bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn đối với khách hộ hành Nam Bắc qua con sông đó. Có câu tục ngữ: Nhà bè nước chảy phân hai, Ai về Gia-định Đồng-nai thì về.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-song-nha-be-hay-la-truyen-thu-huon" }
Thần giữ của
Ngày xưa ở vạn Lai-triều thuộc trấn Sơn-nam có một người lái buôn nước ngoài sang ta sinh cơ lập nghiệp. Sau mấy chục năm nhờ có mánh khóe tích trữ: buôn lúc đầu mùa, bán khi giáp hạt, lãi mẹ đẻ lãi con, hắn trở nên giàu có lớn. Trong nhà hắn vàng bạc châu báu kể có ức vạn, những tay vương hầu cơ hồ không ai ăn đứt. Khi trong tay đã có tiền ròng bạc chảy, hắn nghĩ đến chuyện chuyền của về nước để cho con cháu bên đó hưởng. Nhưng ngặt một nỗi hồi ấy triều đình ta có lệnh cấm rất nghiêm, không cho khách nước ngoài đưa vàng bạc ra khỏi bờ cõi. Đã có nhiều người lén lút đưa ra nhưng không che được mắt nhà chức trách nên của cải bị tịch thu, còn người thì bị đuổi ra khỏi nước. Vì thế, hắn mới nghĩ ra cách giấu một số vàng bạc ở bên này để rồi ngày sau, chờ khi có cơ hội tốt, con cháu hắn sẽ sang lấy về. Hắn chuẩn bị việc đó rất kỹ lưỡng. Lấy cớ thờ Phật, hắn sẽ xin phép làng sở tại dựng một ngôi chùa trên một cái đồi hoang gần nhà. Và trong khi đào móng làm chùa, hắn sẽ bí mật xây một cái hầm chôn của ăn sâu xuống dưới đất. Còn việc bảo đảm cho của khỏi mất, hắn sẽ tìm một người con gái còn đồng trinh chôn luôn bên cạnh vàng bạc để làm thần giữ của. Nếu không phải là người hô đúng tín hiệu mà hắn ước hẹn với thần thì đừng hòng đưa một ly của cải lên khỏi mặt đất. Thần sẽ vật chết bất cứ một người lạ nào đến cửa hầm. Khi mưu tính đã kỹ lưỡng, hắn bèn để ý đi tìm một người con gái còn đồng trinh. Hồi ấy ở trong vùng có một ông giám sinh, nhà không một mảnh đất cắm dùi. Ông có một cô con gái tuổi mới mười tám, chưa có chồng. Nghe tin, người khách buôn vội mang cau rượu đến hỏi cô gái về làm vợ lẽ. Tuy biết hắn giàu có, con mình có thể được nơi nương tựa, nhưng ông giám sinh không chút bằng lòng vì không những ông không muốn gả con cho người nước ngoài mà ông còn ghét cái thói con buôn, cho vay nặng lãi của những bọn như hắn. Hắn cũng biết thế, bèn đặt lên mâm một trăm lạng vàng, nói là xin đưa làm sính lễ. Trông thấy những nén vàng sáng chói, ông giám sinh nghĩ đến mấy món nợ chưa cách gì trả được. Cuối cùng ông đành nhận lời gả con cho hắn. Từ khi lấy vợ về, người khách buôn cho nàng ở một buồng riêng. Hắn rất chăm chút, rất ghen tuông, nhưng có một điều là chẳng bao giờ ăn nằm với nàng. Cả đến cá thịt hành tỏi hắn cũng không cho ăn lấy cớ là phải ăn chay niệm Phật. Ba tháng một lần, hắn lại cho nàng một bộ xống áo mới. Cứ như thế sau hai năm, cô gái vẫn phòng không bóng chiếc. Một hôm, nàng cố xin phép chồng về nhà thăm cha. Từ chối mãi không được, bất đắc dĩ hắn phải để cho đi nhưng căn dặn phải kiêng khem và phải trở về ngay. Cha con lâu ngày không gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Ống giám sinh tỉ tê hỏi: - Từ khi con ra đi, cha rất hối hận. Nếu nhà ta không túng đói thì con đâu chịu cảnh lẽ mọn này. Vậy thường ngày nó đối đãi với con ra làm sao? Vì sao đã hai năm chưa sinh nở gì cả? Nghe cha hỏi thế, cô gái khóc lóc kể hết sự tình. Ông giám sinh ngạc nhiên: - Thôi rồi! Chắc là nó chọn con làm thần giữ của, không nghi ngờ gì nữa. Vậy con có thấy trong nhà nó có chuyện gì lạ không? - Trước kia, ăn cơm tối xong là nó khóa cửa ngủ ngay. Chỉ có độ vài tháng nay tối nào cũng thấy bố con nhà nó vác cuốc thuổng đi, gần sáng mới lại về. Nghe nói, ông giám sinh kêu lên: - "Thế là việc sắp đến nơi rồi đó!". Suy nghĩ một chốc, ông đi lấy hạt vừng và hạt cải gói lại một gói đưa cho con và dặn rằng: - Con hãy về sớm cho nó khỏi ngờ. Hễ lúc nào nó đem con đi đâu thì nhớ rắc những hạt này xuống bên lối đi, để cho cha biết mà tìm. Từ đó, ông giám sinh đến thăm con luôn: có khi ba ngày một lần, có khi năm ngày một lần. Ông không vào nhà rể, chỉ đứng ngoài cổng nhìn vào. Hễ thấy mặt con gái, ông mới yên tâm lui gót. Một lần ông giở bận chút việc chưa đến được. Mãi mười ngày sau mới tới thì đã không thấy bóng con đâu nữa. Chờ lâu sốt ruột, ông vội bước vào nhà rể, làm bộ tới hỏi thăm. Người lái buôn thấy ông, lăng xăng tiếp đón ra chừng thân mật. Hắn cho ông biết là vợ mình còn bận lên kinh đô cất hàng chưa về. Ông giám sinh vẫn giữ vẻ mặt tự nhiên, nhân lời mời của rể rồi ngồi lại ăn cơm trưa. Thừa dịp đi tiểu, ông ra sau vườn nhìn quanh nhìn quất, quả thấy hai bên lối đi dẫn ra đồng, vừng và cải đã mọc xanh lăn tăn như đánh dấu. Lập tức, ông đi một mạch tới dinh trấn Sơn-nam. Trước mặt quan trấn thủ, ông trình bày mọi việc xảy ra. Quan trấn thủ liền điểm lấy năm trăm quân sĩ đi suốt đêm về vạn Lai-triều. Người ta theo chân ông giám sinh lần theo con đường mà vừng và cải đã kín đáo mách hộ, đi cách nhà người khách chừng nửa dặm, thì đã thấy một cái am con vừa mới xây xong trên một cái đồi hoang. Ông giám sinh thưa: - "Hẳn chỗ này chứ không sai. Xin cho đào lên để khám!". Nhưng người rể của ông nhất định không chịu. Hắn lấy cớ động mạch đất có quan hệ với vận mệnh nhà hắn nên cố tình không cho lính đào. Liền đó, quan trấn thủ bắt hai bên làm tờ cam kết. Nếu đào không thấy gì thì ông giám sinh phải bỏ tiền ra xây lại am và phải bồi thường thiệt hại cho chàng rể. Trái lại, nếu phát hiện được tiền nong của cải gì thì người chủ am đó không được nhận. Giấy làm xong, người khách buôn không chịu ký, nhưng cũng nhất định không chịu thú nhận. Thấy thế, quan lại càng ngờ vực, liền hạ lệnh cho lính cứ đào ngay, sự chủ muốn hay không cũng mặc. Mới đào được khoảng một khoảng rộng bằng cái nong thì đã thấy hiện ra một bờ gạch xây chìm. Bờ gạch chạy dài chừng một gian nhà, sâu xuống ngập đầu người, trên xây theo lối cuốn bằng gạch Bát-tràng rất kiên cố. Trong khi người khách buôn lăn ra khóc nức nở thì một toán lính đã tìm được cửa hầm. Lớp gạch vừa đổ xuống đã hiện ra ánh sáng le lói của hai ngọn đèn. Họ đi lần vào thì thấy cô gái ngồi bên cạnh đèn, trên một cái ghế dựa bằng đá, đầu gục xuống, hai chân dạng ra hai bên, mỗi chân đạp lên một cái cong lớn. Ông giám sinh mếu máo ôm chầm lấy con. Nhưng ông không sao nhấc con lên được vì hai tay cô gái đã bị trói vào bành ghế mà miệng thì bị gắn kín bằng nhựa. Nậy nhựa ra thấy có một củ sâm chưa tan hết. Ngực nàng vẫn còn đập thoi thóp. Người ta vội vực lên để cứu chữa, đồng thời đóng gông tên lái buôn gian ác giải đi. Khi toán lính soát mọi vật thì thấy hai cái cong mà cô gái đạp chân lên, mỗi cong có đề mấy chữ: "Một nghìn cân hoàng kim". Bên tả bên hữu có hai dãy cong nhỏ mỗi dãy mười cái, ngoài đều có chữ đề: "Năm trăm cân bạch kim". Mở ra điểm lại đúng như số đã đề. Hai cây đèn cũng một bằng vàng, một bằng bạc. Nhờ được sự chăm sóc chu đáo nên cô gái dần dần tỉnh lại. Nghe kể chuyện, người ta mới biết là cô gái bị chôn sống đã được mười ngày. Quan trấn chia số của cải ra làm ba: cha con ông giám sinh được hưởng một phần, còn bao nhiêu tịch thu làm của công. Còn người lại buôn bị đem ra pháp trường xử trảm.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/than-giu-cua" }
Đại vương Hai hay là truyện giết thuồng luồng
Ngày xưa, ở làng Hoa-viên, bây giờ thuộc tỉnh Hà-tĩnh, có một anh chàng tên là Hai. Lúc còn trẻ, cha mất sớm, anh chàng mặc sức chơi bời, mẹ không thể ngăn cản nổi. Hàng ngày ra đồng, anh lên một mô đất cao cùng với chúng bạn tập nhảy, tập vật. Trong nhà có nuôi một con trâu đực dữ, hay chọi, hay lồng. Vì thế đứa ở đi cày thường bị gãy cày. Một hôm Hai đi đâu về. Người mẹ trách con: - Mày hay nghịch hay ngợm, suốt ngày đi mất biệt không làm được việc gì. Hắn trả lời: - Được mai con sẽ đi cày cho. Qua ngày mai, Hai vác cày đánh trâu ra đồng. Vừa cày được một vạt đất trâu quen mui tha cày chạy. Anh chàng giận quá vứt cày, chạy vượt lên trước trâu, nắm lấy sừng. Trâu nổi xung húc luôn vào người. Anh chàng thuận tay thoi cho mấy cái, trâu ngã lăn quay xuống đất. Thấy trâu chết, hắn không hoảng hốt; sẵn dao bên lưng bèn xả trâu làm bốn quày. Đoạn, hắn gọi người làng nhờ khiêng hai quày về cho mẹ mình, còn hai quày nữa buộc vào đòn quảy đi. Khi người mẹ thấy kết quả việc đi cày của con như thế thì giận lắm, vội thuê một người đuổi theo để đánh cho con một trận. Hai đang đi, bỗng thấy một người đuổi phía sau, vẻ hung hăng muốn gây sự, liền đặt gánh xuống vào bụi bẻ một cây lớn, xắn ống tay áo và nói: - "Muốn nếm thử một cây này thì cứ việc lại đây!". Thấy thế, người kia sợ quá, lủi một mạch. Hai cứ hướng về phương Bắc đi miết. Lúc nào đói bụng thì xẻo thịt nướng ăn. Miếng thịt cuối cùng vừa hết thì chàng đã ngao du ở tỉnh thành Nghệ-an. Chàng đi lang thang khắp nơi; cuối cùng vào dinh quan bố đánh bạo xin làm thuê. Thấy chàng khỏe mạnh, vợ quan bố nhận cho vào làm. Chàng vỗ bụng xin ăn. Vợ quan bố đưa cho một rá cơm nguội. Chàng ngồi một chốc ngốn hết rá cơm. Thấy hắn ăn quá tợn, vợ quan bố phàn nàn: - Ăn dữ như thế, chả biết làm việc có ra gì không? Hai không nói gì cả chỉ hỏi: - Bây giờ bà bảo làm việc gì? - Đi gánh cho tôi ít gánh nước! - Trong nhà có cái gì để gánh nước không? Vợ quan bố chỉ một dãy vò và bảo: - Đó, chọn lấy một đôi mà đi! Hai bĩu môi: - Nhỏ quá! Gánh mất công. - Thế thì có đôi cong, chỉ sợ anh gánh không nổi. - Cũng còn nhỏ - hắn đáp. Vợ quan bố hơi ngạc nhiên, chỉ vào một đôi chum: - Anh có gánh được cái này không? - Cũng còn bé. Thấy vợ quan bố ngơ ngác, anh chàng bảo: - Bà ra bến mua cho một đôi song lớn, một cây mét[1] già và chọn trong nhà cho tôi một đôi chum kiệu. Có như thế gánh mới phỉ sức. Hôm đó ở tỉnh có mở hội lớn. Anh chàng gánh hai chum kiệu nước về, thấy có đám vật bèn đặt gánh, đứng lại xem. Giữa khi ấy có một đô vật vô địch, từ sáng đến chiều đã hạ luôn một lúc mười mấy người. Hắn đang múa tay thách thức tất cả mọi đô vật khác với một vẻ kiêu ngạo. Thấy anh chàng gánh được đôi chum kiệu đầy nước, lại có dáng mạnh khỏe, mọi người giục vào đấu. Ban đầu Hai chối từ, sau vì nhiều người nói vào mãi, đành nhận lời, nhưng chàng bắt đối phương phải làm giấy cam đoan: sống hay, chết bỏ. Mới lượn được vài vòng, Hai đã nhảy vào quật ngã đối phương xuống đất rồi nắm hai chân hắn quẳng ra ngoài vòng. Đoạn anh chàng vỗ đùi nhảy lên nóc nhà. Khi người ta nhìn lại người kia thì hắn đã sặc máu mà chết. * Ở Sông Lam gần bến đò Lách hồi đó có một con thuồng luồng rất lớn. Mỗi lần có thuyền bè đi qua, nó thường cuộn mình gây thành sóng gió dữ dội làm cho thuyền đắm; bao nhiêu mạng người chìm xuống nước đều không thoát được miệng nó. Bởi thế khúc sông ấy vắng bóng thuyền bè qua lại. Triều đình cũng bó tay. Cuối cùng nhà vua sai yết thị cho mọi miền, hễ ai có cách gì giết được con thủy quái thì sẽ phong cho quan tước. Hai nghe tin liền ra mắt quan trên, xin tự mình đi diệt trừ con vật. Chàng chỉ xin quan rèn cho mình ba cái khuy sắt và chín chiếc dao găm. Khi đã có những vật cần thiết, chàng sai nối ba dây song tốt, mỗi dây song buộc vào một khuy. Khuy ấy buộc vào người, hai cái ở hai nách: một cái đằng sau lưng. Đoạn chàng buộc thắt lưng vào người, giắt chín lưỡi dao quanh bụng. Trước khi xuống nước, chàng trao đầu dây song cho những người trên thuyền, dặn họ hễ thấy đầu dây giật giật thì kéo lên ngay. Chàng lại dặn họ nấu cho một nồi nước sẵn sàng để tắm. Hai xuống nước đi mãi đến tận đáy sông mà không thấy thuồng luồng. Chàng len lỏi tìm khắp các vực. Cuối cùng bắt gặp con thủy quái đang nằm lù lù một đống trong một cái hang. Thấy động, thuồng luồng xông ra há miệng rất to toan vồ chàng. Chàng tránh rất lẹ lại nhảy lên lưng, giơ dao đâm vào cạnh sườn. Con vật đau quá tức tối cuộn đi cuộn lại nhưng chàng vẫn bám sát không rời. Những người trên bờ chỉ trông thấy nước ùn ùn sủi lên, sóng từ bên này cuộn sang bên kia, đập dồn dập như ngày có bão táp. Mãi đến trưa, Hai đã đâm được 6, 7 con dao vào thân thuồng luồng. Chàng giật dây cho họ kéo lên. Người chàng và khố của chàng đầy nhớt con quái vật. Phảng phất một mùi tanh lợm mửa. Chàng bảo họ: - Tôi còn phải lấy thêm dao xuống đâm cho kỳ chết hẳn mới thôi! Lần này, thuồng luồng đã bị thương nên sức lực yếu ớt. Hai đâm bồi cho mấy nhát vào bụng nó, con quái vật giãy giụa chết, máu lênh láng đỏ cả mặt sông. Hai sung sướng chặt thủ cấp quái vật đưa lên khỏi mặt nước. Chàng nhớ mấy người bạn kỳ cọ rất kỹ cho hết máu và nhớt của thuồng luồng dính vào người. Không ngờ nhớt độc của thuồng luồng đã lọt vào hai lỗ mũi chàng, không có cách gì làm cho sạch được. Nhớt độc lại từ chỗ đó thẫm dần lên óc. Cuối cùng, Hai bị thối óc mà chết. Mọi người rất thương chàng. Người ta lập đền thờ gọi là đền Đại vương Hai. Miếng đất chàng luyện tập hồi nhỏ nay vẫn còn: người ta gọi là hòn mô Đại vương, hoặc cũng gọi là hòn mô Cầu Hàn...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/dai-vuong-hai-hay-la-truyen-giet-thuong-luong" }
Bán tóc đãi bạn
Ngày xưa , có ba người học trò là Tùng, Trúc, Mai, quê ở ba miền khác nhau, tình cờ cùng học với nhau một thầy. Cha mẹ họ đều nghèo túng nhưng vẫn cố gắng cho con đi học. Trong những ngày xa nhà vùi đầu vào sách vở, bộ ba ấy kết bạn và nhau rất thân thiết. Họ ước với nhau rằng nếu sau này người nào làm ăn khấm khá thì sẽ không quên những người cùng sống trong buổi hàn vi, và sẽ cố tìm cách giúp đỡ bạn qua cơn nghèo ngặt. Sau một thời gian học hành, cả ba người đều vì hoàn cảnh nên từ giã nhau mỗi người đi một ngả. Tùng là người thứ nhất có số phận trở nên may mắn. Sẵn có óc thông minh, anh cố công theo đuổi nghiệp sách đèn. Vì nghèo rớt mùng tơi, anh cầy cục theo hầu một cụ Nghè để vừa được ăn vừa được học. Thấy anh học giỏi, cụ Nghè hết lòng dạy dỗ, coi anh như con. Trải mấy năm trường sôi kinh nấu sử, cuối cùng anh thi đỗ tiến sĩ và được bổ làm quan ở kinh đô. Từ đấy cuộc sống của Tùng lên như điều gặp gió, khó có ai theo kịp. Tuy sống trong cảnh giàu sang, Tùng vẫn không quên những người bạn đèn sách xưa kia. Cho nên, một hôm, Tùng xin phép nghỉ việc công để đi tìm bạn. Sợ đi có cáng xá lính hầu sẽ làm phiền đến mọi người, nên anh cải trang làm một người dân thường. Không bao lâu anh đã tìm tới nhà Trúc, một trong hai người bạn thân ngày trước. Lại nói chuyện Trúc từ ngày thôi học, được thừa hưởng một phần ruộng đất của ông bà bên ngoại để lại. Hắn ta biết cách xoay sở và chịu khó. Vì thế chỉ trong mươi năm, hắn đã trở nên khá giả: ruộng sâu trâu nái, vườn cau ao cá đủ cung cấp cho hắn và gia đình sống một cuộc đời sung túc. Nhưng Trúc tính khí biển lận. Tuy giàu có, hắn vẫn không muốn mất cho ai một đồng một chữ nào. Cũng vì thế, hắn quên mất cả những lời hứa hẹn với mấy người bạn nối khố ngày xưa: - “Ôi dào! Tìm làm gì cho mất công. Các ông ấy cũng chả nhớ gì đến bạn nữa là ta”. Nghĩ vậy, Trúc rất yên tâm về hành động của mình. Khi gặp Trúc, thấy Trúc giàu có, để thử lòng bạn cũ. Tùng không nói vội đến hoàn cảnh đỗ đạt của bản thân: chỉ cho biết rằng vì nhớ bạn nên anh tìm đến nhà chơi. Thấy bộ dạng bề ngoài của Tùng. Trúc đoán già đoán non rằng Tùng may lắm mới đủ ăn, nay tìm đến nhà mình không khéo lại dụng tình vay mượn chi đây. Nghĩ vậy, sau khi chào hỏi Tùng, Trúc cũng làm ra vẻ khó khăn: – “Thú thực với anh nếu không mắc mấy chuyện làm ăn thất bát thì tôi đâu có thua em kém chị thế này. Hồi ấy tôi đã định ra ngoài Huế tìm anh, nhưng vì mấy trận mất mùa liên tiếp, kế đó là một trận đói khủng khiếp, trong nhà có mấy thửa ruộng tổ nghiệp phải cầm đi, gần đây mới chuộc về được.” Trúc còn nói nhiều nữa, chủ tâm là để khóa mồm Tùng nếu hắn có ý định vay tiền. Và để tỏ ra là mình thực sự nghèo khó, Trúc đãi bạn theo mức bình thường. Buổi sáng hôm sau, khi người đầy tớ nhà Trúc đến thưa với chủ xin làm một mẻ lưới ở ao kiếm vài con mè béo đãi khách để y còn ra đồng cày ruộng, thì Trúc đã ngăn lại: – Úy! “Dần bất khả hạ trì” (giờ dần không nên xuống ao) mày lại không nhớ câu ngạn ngữ ấy ư? Mày muốn làm cho tao sạt nghiệp hay sao mà đòi bắt cá vào giờ này? Biết ý chủ, người đày tớ lẳng lặng lui ra. Đến chiều hôm ấy, khi gà vào chuồng, vợ Trúc bảo người nhà nhốt riêng một con để giết thịt. Nhưng khi đưa gà ra cắt tiết, Trúc đã vội chạy xuống bếp: – Ồ! “Dậu bất khả sát kê” (giờ dậu không nên giết gà), bản cũ tâm giao ăn gì mà chẳng được, còn giết gà vào giờ này thì kiêng lắm đấy! Khi tới nhà Mai – người bạn nối khố thứ hai, Tùng vẫn khoác bộ cánh một người nghèo như lúc tới nhà Trúc. Và Tùng vẫn giấu kín không lộ cho Mai biết hoàn cảnh thực của mình. Mai từ lúc thôi học, trở về gặp cảnh nhà bấn bách, anh cố sức chèo chống nhưng không gặp thời. Anh đi buôn mấy chuyến bị lỗ vốn, quay sang dạy học thì bị ốm, có mấy sào ruộng tổ nghiệp phải bán đi để chạy thuốc. Cuối cùng hai vợ chồng phải làm nghề cày ruộng rẽ, có khi phải ngày ngày đi làm thuê mới đủ nuôi miệng. Tuy sống trong lều tranh vách đất, kiếm miếng ăn rất chật vật, nhưng hai vợ chồng không chút phàn nàn. Thấy Tùng đến chơi nhà, Mai đón tiếp rất niềm nở. Mai giới thiệu bạn với vợ: – Đây là người bạn thân thiết nhất ngày còn đi học với cụ đồ trên tỉnh. Từ dạo ấy đến giờ, dễ đến mười lăm năm. Mình nhớ chạy kiếm thứ gì về đãi anh ấy, nghe! Tùng thấy vợ bạn vâng lời chồng cắp rổ đi chợ. Trưa lại, anh thấy người đàn bà ấy đội một rổ thức ăn về, nhưng trên đầu lại trùm một chiếc khăn đen mặc dầu không phải vào mùa gió rét. Lúc đầu Tùng không để ý. Sau đó, trong khi anh đi thơ thẩn ở hồi nhà thì thấy Mai và vợ kéo nhau vào buồng rì rầm trò chuyện. Ghé trông vào, một điều kinh ngạc đập vào mắt anh: lúc này vợ Mai đã lột bỏ chiếc khăn, nhưng mái tóc xanh trên đầu thì không còn nữa. Vì vậy, khi vợ chồng Mai bước ra khỏi buồng, Tùng vội hỏi lý do vì sao nàng lại cắt tóc. Biết không giấu được nữa, vợ Mai đành cắt nghĩa: – Lúc sáng ra đi không có tiền, định hỏi mượn mấy người quen, họ cũng không sẵn. Nhân có nhà hàng tóc giả cần mua mấy lọn, sẵn có mớ tóc dài, tôi liền bán đi. Một đời một kiếp bạn mới đến chơi nhà, không lẽ ngồi nhìn nhau suông tình ư? Anh đừng ngại, tóc cắt đi rồi nó lại mọc, lo gì. Tùng hết sức xúc động về hành động của vợ Mai. Anh bèn nói thật với bạn biết, nào chuyện mình thi đỗ làm quan, cất công tìm bạn, rồi đến nhà Trúc được y đối đãi tệ bạc thế nào,… Nói xong, Tùng lục tay nải đưa ra cho vợ Mai một hộp trầu bằng vàng, và nói: – “Hàm răng cái tóc là góc con người”, tôi rất ân hận không được biết trước để ngăn chị đừng bán mất mái tóc quý giá. Nhưng cũng nhờ đấy mà tôi mới biết được tấm lòng vàng của chị. Bây giờ xin tặng chị vật này, chị cứ bán đi mà tiêu, sau này tóc dài, sẽ lại kiếm cách đi làm ăn . Sau khi trở về được ít lâu, Tùng lại cho người đưa tiền đến cho Mai và cho Mai đi Nam Định học nghề thuộc da. Khi học đã thành nghề, Tùng còn giúp Mai mở một xưởng thuộc da ở ngay tại làng. Công việc kinh doanh của họ ngày một phát đạt. Mai – còn đem nghề của mình truyền bá cho dân làng. Nghề thuộc da trở thành một nghề làm ăn thịnh vượng chưa từng có trong một vùng. Còn Trúc mãi về sau mới nghe tin Tùng đã làm quan to ở kinh thì lấy làm ân hận. Kế đó lại nghe tin Mai nhờ Tùng mà làm ăn khấm khá. “Phải chi hồi đó ta tiếp bạn ta cho hậu, thì lo gì bạn ta lại không chạy cho được một chút phẩm hàm”, hắn bụng bảo dạ thế. Một hôm, hắn bèn khăn gói lần lượt tìm đến nhà hai người thăm hỏi. Song đến nhà ai, hắn cũng được tiếp đãi một cách nhạt nhẽo. Hắn đành tiu nghỉu trở về.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ban-toc-dai-ban" }
Hai cô gái và cục bướu
Xưa có một cô gái con nhà nghèo khó. Không may cho cô là khi sinh ra đã mang một cục bướu ở mặt. Người càng lớn cục bướu càng to, vì vậy nhan sắc của cô thua em kém chị. Tuy nhiên cô vẫn không lấy thế làm buồn, suốt ngày thường vui đùa ca hát. Một buổi trưa hè cô theo bạn lên rừng kiếm củi. Vì mê mải tìm nấm, cô vui chân quá bước vào rừng sâu, quên bẵng trời đã ngả về chiều, và mây thì đang kéo tới mỗi lúc một đen sầm, báo hiệu một con dông sắp tới. Quả nhiên khi cô định trở ra để gặp chúng bạn thì không kịp nữa. Gió thổi mạnh làm cho cây rừng xào xạc, cành khô gẫy răng rắc và những giọt mưa hắt vào mặt. Bất đắc dĩ cô phải chạy đi tìm chỗ ẩn. May làm sao cô chạy kịp đến một hốc cây cổ thụ, thu mình chui vào ngồi để dùng làm chỗ tránh mưa. Nhưng đến lúc mưa tạnh, bước ra khỏi hốc thì trời cũng đã tối mịt. - Các bạn ta bây giờ chắc đã rủ nhau về cả. Đường rừng trời tối lại đi một mình thật là đáng sợ. Thôi đành ở lại đây đợi sáng, không còn cách nào khác. Nghĩ vậy, cô dọn lại chỗ hốc sạch sẽ rồi lách mình vào đó nằm nghỉ, không quên đặt bó củi chắn ở cửa đề phòng thú dữ. Khuya lại có những tiếng hát tiếng cười và tiếng dàn sáo làm cho cô gái tỉnh giấc. Cô nhìn ra thấy trăng sáng như ban ngày. Ở một bãi đất bằng phía bên kia gốc cổ thụ có một dám người đang múa hát vui vẻ. Cô bước ra khỏi hốc. Thoạt đầu cô cứ ngỡ là có một nhóm người đi rừng nào đó lên đây sớm ngồi đợi trời sáng nên bày ra múa hát mua vui. Nhưng khi nhìn kỹ thì hóa ra không phải. Đó là những người hình dung dị thường, ăn mặc khác lạ, có những bộ mặt đen đủi đầy những lông lá gớm ghiếc. Cô gái bụng bảo dạ: - Đúng là một bọn quỷ! Và cô bỗng rùng mình. Nhưng rồi cô lại đánh bạo bước lại nấp sau cây cổ thụ rình xem. Bọn quỷ vẫn múa hát không biết có người đang nhìn mình. Giọng hát của chúng không hay nhưng thực là vui làm cho cô vui lây. Cho nên, cô cũng lẩm bẩm hát theo bằng một giọng nho nhỏ trong cổ họng. Dần dần hứng lên, tự nhiên cô cất cao giọng, quên bẵng mình đang nấp. Nghe tiếng hát, bọn quỷ bỗng im bặt. Rồi cả bọn ùa nhau chạy đến gốc cây. Một đứa nói: - Hà hà, khá quá! Ra đây, ra đây, ta cùng hát cho vui. Rồi chúng dắt cô ra bãi bảo cô hát tiếp. Cô lấy can đảm hát lại bài hát vừa rồi. Giọng cô rất trong làm cho bọn quỷ phải lắng nghe. Xong một bài, chúng tấm tắc khen ngợi rồi nhảy múa thích thú. Chúng lại đưa những quả sim quả ổi mời cô ăn, ăn xong, lại bảo cô hát tiếp. Rồi chúng còn lần lượt đàn hát và nhảy nhót suốt đêm. Tiếng gà rừng gáy buộc bọn quỷ phải ngưng cuộc vui đùa. Một đứa bảo cô: - Cô hát hay quá? Tối mai đến đây hát nữa nhá!. Cô gái đáp: - Cái đó thì cũng còn tùy. Nó kêu lên: - Ấy, còn tùy là thế nào, Chúng mày ơi! ngộ tối mai cô ấy không đến thì sao?. Một tiếng ứng theo: - Phải bắt cô ấy để lại cái gì làm tin mới được! - Phải đấy, phải đấy!. Một đứa chỉ vào cái bướu: - Ta hãy giữ lấy cái này, chắc là của quý. Mai cô đến mà lấy nhé!. Nói xong phẩy tay một cái, rồi cả lũ biến đi lúc nào không hay. * Sáng hôm sau, cô gái ra về, lòng mừng khấp khởi. Cục bướu đã được bọn quỷ lấy đi một cách thần diệu làm cho mặt cô trở nên nhẹ nhõm. Gặp ai, cô cũng kể lại câu chuyện tối hôm trước cho họ nghe. Chẳng mấy chốc tiếng đồn đã lan khắp đầu đường cuối chợ. Một nhà phú hộ ở làng bên cạnh có một cô gái cũng không may mang một cục bướu trên mặt. Khi nghe câu chuyện, cô này vội vàng đến gặp cô kia xin chỉ chỗ cho mình đi thay, hy vọng nhờ lũ quỷ nhổ cho cái bướu xấu xí trên người. Cuối cùng cô gái nhà phú hộ cũng tìm được đến gốc cổ thụ nọ và nấp sẵn trong hốc cây. Nửa đêm bọn quỷ hiện ra dưới ánh trăng. Chúng vội vã tìm đến chỗ cô gái nấp: - Nào, cô hãy xuống hát với chúng tôi đi!. Vốn quen thói gắt gỏng, lại thấy những cánh tay lông lá giơ ra kéo lấy áo, cô vội gạt đi: - Buông ra đã nào, tránh để tôi xuống. Ôi kinh tởm!. Rồi cô cũng nhảy xuống khỏi hốc nhưng vẫn tỏ vẻ sợ hãi gớm ghiếc, không dám lại gần lũ quỷ. Cô để cho chúng giục hai ba lần mới cất giọng hát, song nét mặt thì không được vui, giọng của cô cũng vì thế mà mất tự nhiên. Mỗi lần cô cố gắng cất cao, thì giọng lại the thé, nghe chẳng hay ho gì. Cô mới hát được một bài, bọn quỷ đã tỏ ý không hài lòng! Một đứa nói: - Hôm qua sao hát hay thế còn bây giờ thì chán ngắt? Thôi cô về đi cho rảnh. - Phải đấy về đi. Tiếng đuổi của lũ quỷ nhao nhao làm cho cô gái phật ý, quay lưng trở lui. Nhưng mới đi được mấy bước, cô đã nghe có tiếng chạy theo: - Này cô kia, trả lại cô cái làm tin hôm qua. Cô vừa ngoảnh lại thì đã thấy có vật gì mềm nhũn văng vào má. Sờ tay vào một biết bây giờ không phải một mà hai cục bướu...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-co-gai-va-cuc-buou" }
Gốc tích ruộng thác đao hay là truyện Lệ Phụng Hiểu
Đời Lý, ở vùng Thanh-hóa có Lê Phụng Hiểu. Nhà Hiểu ở gần một hòn núi nhỏ nhô lên ở giữa cánh đồng gọi là núi Bơng (Băng-sơn) nên người ta cũng gọi Hiểu là ông Bơng. Hiểu là người to lớn khỏe mạnh. Mẹ chàng lúc trước khi lên núi trông thấy dấu chân to lạ thường. Bà ướm chân mình vào thử, không ngờ tự nhiên cảm động mà có thai, về sau sinh ra Hiểu. Thuở nhỏ, Hiểu không học chữ, chỉ thích tập ném đao, đánh gậy, cử tạ, múa quyền. Chàng thường dùng một hòn đá tròn ở trên núi làm quả tạ để luyện tập. Hòn đá đó nặng tám người khiêng mới nổi. Năm Hiểu hai mươi tuổi, những tay đô vật trong vùng hết dám tỷ thí với chàng. Hiểu có thể chỉ một nắm đấm vật ngã một con bò mộng. Thuở ấy, ở vùng Đông-sơn có ông Tuấn tục gọi là ông Vồm, sức khỏe vô địch lại rất giỏi vật. Nghe tiếng Hiểu là tay đô vật mới nổi lên, Vồm tìm đến Băng-sơn đòi thử sức. Vồm đến gặp lúc Hiểu đang đi kiểm củi vắng. Mẹ Hiểu bảo: - Ông cần hỏi gì cháu thì rán chờ một lát. Nó sắp gánh củi về rồi đấy! Mới nhìn thấy Hiểu từ đằng xa do mẹ chàng chỉ cho thì Vồm đã giật mình kinh sợ. Bởi vì bóng Hiểu hiện ra giữa con đường núi là một gã to lớn quảy hai bó củi to như đụn rạ một, chạy vùn vụt như bay. Thấy thế Vồm không đợi nữa, thác kế cáo từ đi thẳng. Hiểu vừa bước vào trong ngõ nghe mẹ nói có khách chờ mình lúc nãy, rồi vội quẳng ngay gánh củi bắn tung ra đầy sân rồi đuổi theo Vồm. Chả mấy chốc chàng đã theo kịp. Hai bên bắt đầu làm quen với nhau bằng một cuộc tỷ thí dữ dội trên hòn Băng-sơn. Đất bay rào rào, cây cối xiêu vẹo vì những cái quật kinh người. Trong keo vật lần thứ mười tám, không chịu được cái móc của Hiểu, Vồm bị chẹt giữa hai tảng đá lớn. Gần miền lúc đó có hai thôn Đàm-xá và Cổ-bi tranh nhau một bãi đất. Dân Đàm-xá đông gấp hai Cổ-bi lại thêm lúc này có Tá Lực vốn là hào hùng mới ở kẻ Chợ về tự khoe là giỏi võ, nên họ quyết lấy thịt đè người để chiếm lâu dài bãi đất kia. Không nói thì ai cũng biết bên Cổ-bi nắm chắc thất bại. Thất bại nhưng họ vẫn không chịu để mất đất. Hai bên đánh nhau tròn tháng. Bọn trai tráng Đàm-xá dưới sự điều khiển của Tá Lực ngày ngày cầm gậy tày tay thước tiến sang đất Cổ-bi che chở cho một bọn khác trồng tre đắp bờ ngăn hẳn bài bồi làm đất của mình, Hễ bên Cổ-bi thò ra người nào thì người đấy chúng xúm lại đuổi đánh. Không kể số sứt đầu mẻ tai, những người bị thương nặng nằm la liệt cả một đình làng. Tá Lực vẫn thỉnh thoảng đứng trên gò cao nói vọng vào những câu khiêu khích. Bấy giờ Lê Phụng Hiểu có việc đi ngang qua đó. Nghe rõ câu chuyện, chàng bừng bừng nổi giận. Hiểu vung tay áo nói với mấy vị phu lão Cổ-bi: - Nó cong, ta thẳng, không thể ỷ chúng hiếp cô như vậy được. Rồi chỉ vào ngực mình: - Chỉ một mình tôi có thể đánh tan được bọn nhãi. Các cụ mừng lắm sau dọn mâm cỗ mời ăn. Một mình Hiểu tỳ tỳ chén hết một dãy hai mươi cỗ cơm. Ăn xong Hiểu vỗ bụng đứng dậy, tay không xông thẳng vào trận trên mình chỉ còn mỗi chiếc khố. Trước hết, Hiểu rẽ vào lùm tây nhổ những cây gỗ vừa tầm để thành từng đống. Rồi cầm lấy cả những cành cả rễ, Hiểu vụt túi bụi vào đám đông địch thủ đang sấn tới trước mặt mình. Cây này gãy chàng thay cây khác. Cứ thế Hiểu đã quật ngã không biết bao nhiêu người. Nghề võ của Tá Lực và ngọn côn của y không trụ nổi những đòn bằng trời giáng của Hiểu. Chưa xong một hiệp. Tá Lực đã ngã quay lơ xuống đất, các tay võ khác và dân đình Đàm-xá còn sót đều chạy thục mạng Hiểu quay lại giẫm chân lên ngực Tá Lực, bắt hắn phải nhận điều kiện trả lại ruộng đát cho dân Cổ-bi rồi mới chịu cho khiêng về. Từ đấy tiếng tăm của Hiểu được truyền đi khắp nơi. Ngày đó, vua Lý kén người khỏe mạnh sung vào quân túc vệ. Chỉ một cuộc tỷ thí đầu tiên, Hiểu đã được vua triệu vào bệ kiến và cho chỉ huy một đội quân toàn những tay lực sĩ. Chẳng bao lâu Hiểu được vua cất lên làm tướng người ta gọi là Võ vệ tướng quân. Chưa được mấy năm thì vua thăng hà. Triều thần theo di chiếu định tôn hoàng thái tử lên ngôi báu trước khi làm lễ phát tang. Nhưng lễ đăng quang của ông vua mới chưa được cử hành thì ngoài thành cấm đã thấy ồn ào tiếng người ngựa. Quân canh cho biết ba hoàng tử: Võ Đức Vương, Đông Chính Vương và Dực Thánh vương đem quân ba phủ vây thành đòi chia sẻ ngôi báu với hoàng thái tử. Bấy giờ trong thành kinh động. Vệ binh được phái đi các nơi phòng thủ. Hoàng thái tử vướng tình máu mủ chưa giải quyết. Lê Phụng Hiểu nghe chuyện, không nhịn được nữa, bèn đi tìm hoàng thái tử đòi một hai sống mái với quân phản nghịch. Chàng vỗ gươm tâu: - Trước tình thế này xin cho cây gươm này của hạ thần ra nói chuyện với chúng. Rồi đó, Hiểu phi ngựa tiến đến cửa Quảng phúc, tuốt gươmg xông vào chỉ mặt Võ Đức Vương quát: - Chúng bay cả gan muốn cướp ngôi ư? Đồ bất hiếu bất mục. Tao cho chúng bay nếm lưỡi gươm này. Võ Đức Vương kinh sợ không dám giao phong, quay ngựa toan chạy, nhưng nhát gươm thứ nhất của Hiểu đã làm cho ngựa ngã khuỵu xuống và nhát thứ hai xả đôi người Võ Đức Vương. Thế rồi lưỡi gươm của Hiểu múa tít giữa đám quân ba phủ bấy giờ đã chạy toán loạn. Vệ quân của Hiểu được thể mặc sức chém giết. Hai hoàng tử kia chạy trốn biệt tích. Trận đó, ông vua mới cảm ơn Hiểu vô hạn. Hiểu được vua ban tước hầu với chức Đô thống đại tướng quân, coi như quản hết quân sĩ trong nước. Lần đánh giặc thắng trận trở về triều, nhà vua định phong thưởng thêm nữa, nhưng Hiểu tâu vua: - Hạ thần không muốn lĩnh tước. Nhà hạ thần ở dưới chân núi Bơng. Hạ thần chỉ muốn bệ hạ ban cho một số ruộng đất bằng cách đứng trên núi ném dao xuống, hể đao cắm đến đâu hạ thần xin lĩnh số đất ấy để lập nghiệp. Vua đáp: - Tưởng là khanh muốn thế nào, chứ đã muốn ruộng đất thì phải ném dao làm gì cho mệt! Nhưng Lê Phụng Hiểu thì chỉ muốn ném dao. Vua không đợi nói nhiều, bằng lòng ngay. Ngày hôm sau lễ ném dao, mọi người đổ tới xem như đám hội. Trên hòn Băng-sơn chưa khi nào có chiêng trống cờ quạt và quan dân đi lại rộn rịp như vậy. Dứt tiếng trống, Hiểu cởi trần đóng khố, cầm dao xoay mấy vòng lấy đà, rồi phóng đi. Chiếc dao bay bổng lên như một con chim được thả. Mọi người ngạc nhiên và say sưa nhìn nó bay mãi như một chiếc dấu chấm ở lưng chừng trời, xa đến mười dặm rồi mới chịu hạ xuống. Mũi dao chọc xuống địa phận của làng Đa-mỹ. Các quan hầu hết đi đo đạc đóng mốc, trở về cho biết từ chân núi cho tới chỗ ném dao xuống quy vuông lại được hơn mười ngàn mẫu. Vua nhà Lý y ước ban cho Hiểu làm hương hỏa truyền cho con cháu và tha không đóng thuế. Từ đó, những ruộng thưởng cho công thần, người ta quen gọi là ruộng thác đao...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/goc-tich-ruong-thac-dao-hay-la-truyen-le-phung-hieu" }
Hai ông tiến sĩ
Ngày xưa có chàng học trò nghèo không may mồ côi cha mẹ sớm, gia cảnh khó khăn nhưng chàng chịu khó đèn sách nên sớm nổi tiếng là người đức độ và văn hay chữ tốt. Biết ở làng bên có người con gái xinh xắn nết na, chàng nhờ người mai mối xin cưới nàng làm vợ. Cha mẹ cô gái vốn quý trọng người hiền tài, ông bà lại thấy con gái ưng thuận nên vui long nhận lời gả con gái cho chàng học trò. Cô gái về nhà chồng được ít laau thì cha mẹ già nhuốm bệnh theo nhau qua đời. Gia tài các cụ để lại cho con chỉ có nếp nhà tranh và mảnh vườn nhỏ. Nhưng nhờ khéo léo lo toan, vun vén nên người vợ trẻ vẫn giúp chồng yên tâm lo việc học hành. Cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ vô cùng hạnh phúc. Chẳng mấy chốc đã sắp đến kỳ thi, người vợ lo sắm sửa lều chõng để chồng chuẩn bị đến kinh đô thi tài. Bỗng nhiên chàng học trò lăn ra ốm. Vợ chàng đôn đáo lo thuốc men chữa chạy cho chồng khắp nơi, nhưng căn bệnh hủi của chàng ngày càng nặng hơn. Nhà cửa, vườn tược đã phải bán hết để lấy tiền chữa trị nhưng bệnh tình của chàng học trò hiểm nghèo khó chữa. Những vết lở loét trên người làm chàng đau đớn ăn không ngon ngủ không yên. Đã thế chàng còn bị mọi người xa lánh, chẳng ai dám đến gần thăm hỏi vì sợ lây bệnh. Thương chồng người vợ trẻ không nề hà sớm tối tận tâm chăm sóc. Chàng học trò thương vợ vất cả lại nghĩa chắc mình không qua khỏi nên đã mấy lần lựa lời khuyên vợ để mặc chàng với số phận. Nhưng người vợ nhất định không nghe mà càng thương yêu chàng hơn. Thấy ai mach ở đâu có thuốc hay hay thầy thuốc giỏi, nàng lại lặn lội tìm đến nơi. Khó khăn  mấy nàng cũng không ngại, chỉ một mực mong sao chữa được bệnh cho chồng. Một hôm nàng phải đi xa cắt thuốc, khi trở về thì chàng học trò đã bỏ nhà ra đi, chỉ để lại một bức thư vẻn vẹn có mấy chữ: “Nàng hãy quên ta đi và tìm người tử tế để nương tựa”. Người vợ khóc lóc vội bỏ đi tìm chồng, ròng rã mấy tháng trời ngược xuôi khắp nơi nhưng nàng vẫn không thấy bóng dáng chàng đâu. Nghe nhiều người nói rằng chàng đã quyên sinh, nàng không tin lời đòn thổi ấy, vẫn mỏi mắt ngóng trông chồng. Suốt mấy năm trời đằng đẵng nàng tìm kiếm đợi chờ vẫn không thấy chồng trở về. Cuối cùng nàng đành lập bàn thờ để hương khói cho chồng. Thấy nàng xinh đẹp và hiền thục, nhiều chàng trai muốn được kết tóc xe tơ nhưng nàng đều từ chối nguyện ở vậy thờ chồng. Nhưng có một người con trai quá yêu mến nàng nên kiên trì theo đuổi một hai xin được cưới nàng. Do cảm tấm tình của người con trai, lại thêm mọi người xúm vào khuyên nhủ nàng đành nhận lời đi bước nữa. Cuộc sống mới của nàng cũng rất ấm êm, hạnh phúc. Chồng nàng là con nhà gia giáo, chàng chuyên cần sớm khuya đèn sách mong lập được công danh. Nhờ có được người vợ hiền, việc học hành của chàng ngày một tấn tới. Ít lâu sau chàng thi đỗ tiến sĩ và được bổ làm quan án sát Sơn Tây. Vợ chàng lại sinh được hai cậu con trai kháu khỉnh, ngoan ngoãn và khỏe mạnh. Nhà quan án sát tuy không giàu nhưng luôn thuận hòa. Quan là người thanh liêm chính trực nên ông rất được dân chúng mến yêu, tin cậy. Còn người chồng cũ của quan bà từ khi trốn vợ bỏ nhà ra đi cứ lang thang nay đây mai đó, sống bằn nghệ bị gậy. Mặc cho bệnh tật hoành hành, chàng chỉ mong đi được càng xa càng tốt. Chàng không muốn trở về, không muốn vợ mình phải khổ vì mình. Chàng lê tấm than lang bạt đến vùng Sơn Tây, đúng lúc có cuộc phát chẩn, chàng lần mò tìm tới. Chàng đến gần tốp lính đang luôn tay phát chẩn và nói với họ: - Tôi tàn tật lại không nhà không cửa, không nồi niêu nên muốn xin các ngài ít tiền cho tiện. Quan án sát nghe mấy người lính bảo rằng có người đến lĩnh chẩn nhưng không nhận gạo mà cứ muốn xin tiền, ông lấy làm lạ nên bèn gọi vào. Sau mấy câu trò chuyện biết người kia vốn là học trò, chữ nghĩa tinh thông, quan thương lắm. Ông lấy tiền ra cho và ngỏ ý muốn giúp đỡ nhưng người kia chỉ xin chút ít tiền rồi từ tạ đi ngay. Hôm ấy về dinh, quan án kể cho vợ nghe về người ăn mày, bà ngờ ngợ nghe chồng tả lại hình dáng người kia. Nàng ra chợ dò hỏi tung tích người ăn mày rồi nhờ người đưa đến chỗ anh ta tá túc. Vừa nhìn thấy bóng dáng người ấy nàng giật mình sững sờ nhận ra chồng cũ. Trở về nhà, nàng lựa lời xin quan án giúp đỡ chàng ăn mày. Vốn đã có cảm tình với chàng học trò có tài mà bất hạnh, quan án bằng lòng ngay. Ông cho dựng một nếp nhà nhỏ để đón chàng học trò về ở, lại còn sai lo thuốc thang ăn uống cho chàng tử tế. Vợ quan án mừng lắm thỉnh thoảng nàng còn sai người đem thêm quần áo, sách vở cho chàng. Nhưng chàng cũng không lộ cho chồng biết mọi chuyện và cũng không bao giờ cho chàng học trò gặp mặt. Một hôm thức dậy lấy nước rửa mặt, chàng học trò giật bắn người khi thấy trong chum có một con rắn trắng bị chết từ bao giờ. Thật không ngờ một thời gian sau, những vết lở loét trên người chàng học trò tự nhiên biến mất. Căn bệnh quái ác hành hạ chàng bấy lâu dần dần khỏi hẳn. Chàng trở lại khỏe mạnh và tuấn tú như xưa. Chàng học trò vui mừng khôn xiết vội xin với quan án cho mình được tiếp tục theo việc học hành. Vốn thông minh lại cần cù nên chỉ trong một thời gian ngắn chàng đã quyết tâm lều chõng đi thi. Khoa thi năm ấy, chàng học trò đã đỗ tiến sĩ. Nghĩ đến người vợ hiền ở quê nhà đã vì mình mà chịu cực khổ, ông tiến sĩ nóng lòng mong sớm đến ngày được vinh quy bái tổ. Vợ quan án nghe tin chàng học trò đỗ đạt thì vừa vui mừng, vừa đau khổ. Nàng luôn nghĩ mình đã có lỗi với cả hai ông tiến sĩ. Một hôm nàng viết một bức thư dài kể hết nỗi lòng của mình cho quan án biết rồi nàng lo cắt đặt việc nhà đâu đó và dặn dò hay con trai cặn kẽ mọi điều. Sáng sớm hôm sau, nàng gạt nước mắt bỏ nhà ra đi. Nàng đi mãi, đi mãi đến khi gặp một ngôi chùa nhỏ mới chịu dừng chân. Và cũng từ đó không ai còn gặp bà quan án nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-ong-tien-si" }
Nàng tiên thứ chín
Ngày xưa, có một bà cụ già có một người con trai lớn, nhưng bà nghèo quá chẳng có tiền để hỏi vợ cho con. Ðêm nào thấy con trai nằm ngủ một mình bên bếp lửa, bà cũng ra đầu sàn ngồi nhìn trời mà khóc. Một đêm, sau khi khóc nhiều quá, bà ngã đầu vào cái vách ngủ mê đi lúc nào không biết. Một ánh chớp loé lên, bà cụ vội mở mắt thì thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo xanh, đi giầy xanh, chống gậy xanh, đứng trên ngọn cây mít. Hoảng quá, bà cụ định chạy vào bếp, thì thấy ông cụ già khoát tay, cất giọng hiền từ bảo: “Ta là tiên, biết bà đang khổ vì cảnh nghèo khó, không có tiền đi hỏi vợ cho con, nên ta giúp. Ngày mai bà bảo con trai bà đi theo hướng ta chỉ, cứ đi mãi đến ngọn núi có phiến đá trắng to như cái nhà kia, sẽ thấy chín nàng tiên xuống tắm. Con trai bà yêu cô nào, thì cứ lấy đôi cánh của nàng tiên ấy đem về nhà là được .” Nói xong Tiên ông biến mất. Mừng quá, bà cụ liền đẩy cửa, vào thổi bếp lửa cháy bùng lên, gọi con dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa qua. Tờ mờ sáng hôm sau, người con trai gói cơm, đeo ống nước, băng rừng, leo núi, leo hết núi này đến núi khác, đúng trưa mới đến chỗ tiên ông bảo. Một cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Hồ nước xanh biếc, trong vắt như gương, có đường xuống bến tắm, trên bờ hoa thơm, cỏ lạ đang đua nở khoe sắc cùng ong bướm, sỏi đá lấp lánh như kim cương. Thấy nắng rung rinh, chàng đưa mắt ngó lên trời, bỗng từ trong đám mây hồng có chín nàng tiên mặc áo xiêm trắng, đang bay và hạ xuống dần. Chàng con trai nghèo liền nép vào bụi nhìn theo. Chín nàng tiên đã đứng trên các phiến đá ngọc, cởi cánh ra, lội xuống tắm. Nước trong, da các nàng tiên trắng ngần, nhìn cô nào cũng đẹp lộng lẫy như mặt trời mọc. Duy có nàng thứ chín là đẹp hiền hậu hơn cả. Tóc nàng đen mướt và dài như dòng suối, giọng cười trong và thanh như tiếng sáo ngân vang: miệng đẹp hơn hoa nở, mắt sáng như sao, khi nàng nhìn vào vật gì vật đó rực lên như có trăm ngàn ánh hào quang chói sáng. Chàng trai liền lẻn đến lấy trộm cặp cánh tiên của cô thứ chín, rồi trở về nhà. Trống trên trời gióng bảy hồi khoan nhặt báo giờ các cô phải về tiên cung. Tám cô chị lên bờ, lắp cánh của mình và bay trước. Còn cô em mải đùa nghịch dưới làn nước mát, lên sau. Không thấy cánh tiên đâu nữa, nàng hoảng hốt cuống cuồng chạy quanh bờ. Trống trên trời vẫn giục giã, sắp đến giờ đóng cửa của thiên đình. Nàng tiên thứ chín lại chạy quanh bến nước chăm chú tìm lại, nhưng thông thấy. Nhìn dấu chân người còn in trên cát mịn, dấu chân trên đường xuống núi, biết có kẻ lấy đôi cánh của mình rồi, nàng vội vã cài lại áo xiêm, lần theo dấu chân đi mãi . Xế chiều nàng đến một ngôi nhà sàn nhỏ, dựng lẻ loi dưới chân núi. Nàng đang phân vân không biết đi ngả nào, thì một cụ già đến bên nàng chào hỏi: “Cháu ơi! Ðường xa vắng vẻ, cháu đi một mình như thế này nguy hiểm lắm, cháu hãy vào nhà ta ăn cơm, uống nước rồi nghỉ lại đã.” Nhìn nét mặt hiền hậu của bà cụ, nàng tiên gục đầu vào vai bà khóc, kể lại việc nàng bị mất đôi cánh tiên nên không về trời được. Bà cụ đưa nàng vào nhà. Chàng con trai sung sướng bước ra chào hỏi, rồi vào rừng bẻ măng, nhổ nấm đem về đưa mẹ nấu canh cho cô gái ăn. Tối chàng ngồi kéo đàn kơ ri – loại nhạc cụ réo rắt như đờn cò của người kinh – cho cô gái yên giấc. Ở đây một tháng, hai tháng, lúc đầu nàng tiên thứ chín hết sức nhớ mẹ, nhớ cha, nhưng được sự chăm sóc, trìu mến của bà cụ và chàng trai hiền hậu, siêng năng, nên nàng khuây khoả dần. Buổi sáng nàng cũng đi lên rẫy, vào rừng, buổi chiều nàng cũng ra giếng đội nước với chị em. Nửa năm sau người con trai bà cụ lấy nàng tiên. Hai vợ chồng sống bên nhau rất hòa thuận, vui vẻ. Dân làng ví họ là cặp vợ chồng chim sáo – vì họ vừa xinh đẹp, vừa chịu khó làm ăn. Người chồng chưa bao giờ mắng vợ nửa lời. Chiều nào lên rừng về, chàng cũng cố tìm cho mẹ và vợ một ống mực thơm, một bó rau ngót, một bó măng, hay lưng gùi ngô non thơm sữa. Hai mùa, ba mùa, đến một đêm trăng tròn vành vạnh, nàng tiên thứ chín sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Từ đó, trong nhà càng thêm đầm ấm, vui vẻ hơn. Nhưng một hôm trời đang yên lành, bỗng có tiếng sấm ầm ầm, giận dữ. Mây đen, mây xám kéo đầy trời. Lửa đỏ rực, chớp nhằng nhịt dữ tợn. Người vợ vừa cõng con ra đứng đầu sàn phía tây, đột nhiên thấy thiên lôi từ trên trời cầm búa nhảy xuống sân. Mặt giận dữ, Thiên lôi bảo rằng, hắn vâng lệnh Trời, xuống bắt nàng tiên phải về ngay, nếu không sẽ giết chết con nàng, giết cả chồng và người mẹ chồng của nàng nữa. Thương con, thương chồng quá, nàng tiên ngã gục xuống khóc nức nở rồi chạy vào nhà rút ba ống nứa dài vắt đầy sữa, nhẹ nhàng đặt con lên chiếu, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo Thiên lôi về thiên đình. Chiều bà cụ và người chồng về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy đứa con nằm ngủ bên nắm tóc thơm của mẹ nó. Nhìn cây cối ngả nghiêng, cháy xém, biết có điều hung dữ xảy ra, chàng cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang đi vào rừng, nhìn trời khóc suốt chín ngày đêm. Tiếng khóc ai oán, ấm ức nghe nghẹn cả cổ, đau cả lòng. Ðược tin, dân làng thương quá, rủ nhau giúp sức, góp của. Nhờ bác thợ rèn chuyên nghề chim sắt biết bay, đúc cho hai cha con người xấu số ấy một con chim công sắt. Ðược chim sắt rồi, hai cha con ngồi trên lưng công bay vút lên trời. Qua mây hồng, mây bạc, mây xanh, đến sông Hằng sắp tới triều đình, thì công sắt không tài nào bay qua được. Gió to, sóng gầm dữ dội. Năm bảy lần con công cất cánh đều lao đao muốn rớt. Hai cha con đành ở bên này sông. Một hôm, người vợ ra sông giặt áo, đứa con nhỏ thấy mẹ, liền gọi lên. “Mẹ ơi!” Người vợ quay sang, hai vợ chồng nhìn thấy nhau, nhưng không gần nhau được. Ðau khổ quá, họ bưng mặt khóc. Dân làng nhà trời thấy vậy vô cùng thương xót. Họ vào xin thiên đình cho hai vợ chồng được gặp nhau. Nhưng thiên đình không cho, viện cớ sắp gả nàng tiên thứ chín cho chàng trai thuộc dòng họ quyền quý. Không quản ngại, dân làng liên tiếp cử người đến gõ cửa, buộc thiên đình phải xử. Cuối cùng Ngọc Hoàng phải xuống lệnh nếu chồng cô thứ chín làm được mấy việc sau này mới lấy được con gái nhà trời. Thứ nhất là trong một ngày phải nhặt hết số vừng rơi trong khu rẫy dài bằng một khoảng chim bay mỏi cánh. Thứ hai là phải ăn hết những ớt gió đã chín trong một khu rừng ớt. Thứ ba là phải làm một cái nhà bằng kim cương thật đẹp giữa sông Hằng. Thương con, thương vợ người chồng phải nhận. Sáng hôm sau, hai cha con dậy thật sớm để nhặt vừng, nhưng mãi cho tới trưa, khi mặt trời đã ở giữa đỉnh đầu mà vẫn chưa nhặt được bao nhiêu. Thấy thế, Tiên ông liền đọc phù chú, gọi một bầy chim sẻ đông nghịt, bay xuống nhặt hộ, chẳng mấy chốc đã hết nhẵn. Nhưng còn rừng ớt chín đỏ kia làm sao hái hết cho được. Người chồng cố hái ăn, bụng nóng như lửa đốt, mắt đỏ xè, thế mà mới ăn được mấy quả. Tiên ông thấy vậy , liền niệm thần chú hoá ra một đàn chim chào mào bay xuống ăn giúp. Trong giây lát cả rừng ớt chỉ còn trơ lại cành lá. (Ðến nay người Hê- rê giải thích chim chào mào đỏ đít là do ngày xưa nó ăn ớt cứu người). Ðã đến lúc phải xây nhà kim cương giữa sông Hằng chảy xiết. Chàng trai và dân làng đổ rất nhiều công đẵn gỗ thả xuống sông, nhưng gỗ dù nặng dù to mấy đều bị nước cuốn phăng đi như cuốn một cái lá. Một ngày không được, một tháng không được, một mùa không được, một năm không xong, hết phương kế, chàng trai ôm con ngồi bên bờ sông than khóc thảm thiết. Thần cá liền ra lệnh cho cá chình, cá sấp, cá chép, lươn chạch, cua, rùa, cá lóc, cá nghạnh… đều bơi lại giúp. Một con chình to lớn quẫy mạnh, nhô đầu lên bảo: “Anh đừng lo, ngày mai anh sẽ có nhà đẹp và sẽ được gặp vợ. Hãy vui lên, đừng khóc nữa!” Quả đúng như vậy, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa thức giấc, bỗng có một ngôi nhà lấp lánh bằng kim cương hiện lên đồ sộ giữa sông. Chung quanh sóng vỗ rạt rào. Chiếc nhà do các loài cá xây nên, cá chình nhận làm cột, cá lóc làm sạp, cá sấp, cá chép làm mái nhà. Cá nghạnh làm xà, rùa làm bếp, cua làm móc chiêng, lươn, chình thì nối đuôi nhau thành một cái cầu tuyệt đẹp từ bờ ra đến giữa sông. Ngọc Hoàng cùng thần hung ác thấy nhà đẹp mới chịu đem thuyền cho anh chàng nghèo sang sông gặp vợ. Còn bọn chúng thì hí hửng khiêng lúa, gạo, chiêng, ché ra nhà kim cương ở, chúng lao nhao tổ chức lễ ăn mừng. Nhưng khi vừa nhóm lửa nấu thịt thì rùa làm bếp bị nóng lưng quá lăn ngay xuống nước. Cùng lúc cá chình, cá lóc, cá sấp, cá trê… cũng lăn theo. Nhà đổ sập làm chìm cả lũ gian thần xuống dòng sông chảy xiết đầy cá sấu, cá măng. Trời cao vòi vọi, sóng nước mênh mông trắng xoá. Từ đó nàng tiên thứ chín và chồng được cai quản thiên đình, làm cho mưa rơi xuống, mát mẻ trần gian. Làm cho nắng chiếu xuống để cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Lâu lâu họ chắp cánh bay xuống tắm ở suối ngọc rồi về thăm mẹ già và bà con quê cũ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-tien-thu-chin" }
Người lấy Ếch
Vào đời nhà Lê, có ông bà Trần Cao ngày rằm tháng bảy một năm nọ theo lệ thường mang vàng hương lễ vật tìm đến miếu Long Hải vương để làm lễ cầu phúc. Miếu này ở trên một ngọn núi sát bờ biển có tiếng linh thiêng. Lần này hai vợ chồng lại đưa cả con trai là Trần Sinh đi theo. Cúng xong, cả gia đình quây quần ở trước hiên miếu chuẩn bị ngủ lại để cầu mộng. Đêm ấy, Trần Cao mộng thấy một người mặt đỏ râu dài, oai phong lẫm liệt, mặc áo lụa, lưng thắt đai vàng, đến trước mặt mình mà bảo rằng: - Ta là Long Hải vương trấn trị ở vùng này. Thấy người thành tâm ta rất vui lòng. Ta có đứa con gái nhỏ vốn có "túc duyên" với con trai ngươi. Nay con trai ngươi cũng đã khôn lớn, nên ta đến đây nói chuyện để cho đôi trẻ thành hôn được sớm. Nếu người cũng bằng lòng thì cứ cho người mang sính lễ đến miếu này, ta sẽ cho đưa dâu về nhà, không cần phải đón rước lôi thôi gì cả. Trần Cao tỉnh dậy cho là mối nhân duyên lạ, vừa mừng vừa sợ, vội đem việc mộng kể lại cho vợ con biết. Nhưng mẹ con Trần Sinh không cho là việc có thực. - Ồ! Mộng mị vô thường ông ạ. Âm dương cách trở làm sao con thần lại kết duyên được với con người kia chứ. Mặc cho vợ nói, Trần Cao vẫn tin lời thần. Trở về nhà, ông sai người giết lợn đồ xôi và sắm sanh áo quần, trang sức cho cô dâu. v.v... y như chuẩn bị một đám cưới thật sự. Sau đó, đến giờ hoàng đạo ông cho người nhà mang tới miếu Long Hải vương đặt lên hương án khấn vái như lời ông dặn, xong việc, lại trở về nhà báo cho mình biết. Quả nhiên vào khoảng chập tối, người nhà trở về mới chừng giập bã trầu, thì mọi người đã nghe tiếng đàn sáo nhã nhạc vang vang trước ngõ. Họ vội chạy ra xem thì đã thấy đám rước dâu có họ hàng và kẻ hầu người hạ rộn rịp, chỉ khác một điều là không phải người mà toàn là ếch. Ai nấy đang kinh ngạc thì kiệu hoa đã đặt trước cổng, trong kiệu bước ra một người con gái rất đẹp trang sức lộng lẫy. Cô gái có vẻ bạo dạn đi thẳng vào nhà, quỳ lạy ông bà Trần Cao mà thưa rằng: - Con là Bạch Nga Long vâng lời vương phụ về giao hôn cùng chàng Trần Sinh, xin cha mẹ ngồi lên cho con làm lễ. Lạy đoạn, cô gái rón rén lui ra chào hỏi mọi người rất đon đả. Hai ông bà Trần Cao thấy con dâu xinh xắn, lễ phép thì rất mừng, mới gọi Trần Sinh lại, hai người làm lễ gia tiên rồi đưa nhau vào buồng. Trong lúc đó người nhà của họ Trần dọn cỗ bàn, mời họ nhà gái ngồi lại ăn. Tuy là ếch, họ cũng ăn uống chẳng khác gì người. Đến quá nửa đêm họ nhà gái mới từ giã ra về, chỉ còn một số là thị tỳ thì ở lại hầu hạ cô dâu. Sau khi lấy vợ, Trần Sinh được bố mẹ làm nhà cho ra ở riêng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau rất hòa thuận. Nhưng Trần Sinh thấy người hầu của vợ toàn là ếch thì trong bụng không vui. Mỗi lần có khách, ếch nhảy nhót đi hầu trà nước làm cho chàng đâm ngượng với khách. Chàng chỉ muốn làm thế nào sớm tống được chúng đi cho rảnh mắt, nhưng vì nể vợ nên không nói gì. Một hôm, nhân đi chợ thấy có người bán rắn, Trần Sinh mua luôn mấy con. Mang về, chàng giấu vợ, lẳng lặng thả rắn ở gầm giường. Khi lũ thị tỳ ếch thấy rắn thì kêu la om sòm, bỏ chạy toán loạn. Bạch Nga Long đỏ mặt khuyên chồng: - Sao chàng lại độc ác với chúng nó thế? Nếu chàng không muốn cho chúng nó ở nhà này hầu hạ thiếp, thì cứ bảo cho thiếp biết để thiếp cho chúng nó về, chứ làm thế không nên! Trần Sinh đang lúc giận dữ, thấy vợ nói thế, quay ra mắng luôn cả vợ. Hai vợ chồng to tiếng cãi nhau. Cơn giận đang muốn dịu đi, bỗng bốc lên bừng bừng, Trần Sinh quát: - Nếu nàng muốn về ta cũng không cấm. Nghe nói thế, Bạch Nga Long vội sai con hầu gói ghém tư trang rồi chờ đến chập tối, cả thầy lẫn trò dắt nhau đi mất. Thấy vắng con dâu, hai ông bà Trần Cao đến nhà con hỏi duyên cớ. Trần Sinh kể lại cho bố mẹ nghe mọi việc xảy ra và nói: - Con không thể nào sống mãi với một lũ ếch được! Nghe đoạn, Trần Cao mắng chửi con trai hết lời. Sợ Long thần giận, hai ông bà lại sai biện lễ vật rồi ép Trần Sinh đến miếu Long Hải Vương để tạ tội. Nhưng khi đến nơi, họ chỉ thấy mênh mông một trời một nước, chẳng còn núi non miếu mạo đâu cả. Cho là Long thần giận dữ mới làm ra thế, cả ba người sợ hãi, bèn lủi thủi quay về. Lại nói chuyện Long Hải vương khi thấy con gái trở về thì nổi giận đùng đùng, quyết tìm dịp báo thù cha con nhà thông gia cho bõ ghét. Hôm cả nhà Trần Cao tìm đến. Long Hải vương không những không tiếp mà còn thừa lúc họ đi vắng, sai bộ hạ lẻn tới đốt nhà. Một ngọn lửa xanh tự nhiên bùng lên giữa nóc nhà họ Trần, gây nên nạn cháy khủng khiếp. Xóm giềng đổ tới cứu chữa nhưng ngọn lửa đã quá to, không thể dập tắt được. Thế là chỉ trong phút chốc tất cả tài sản của Trần Cao đều tiêu tan. Tin rằng đó chính là sự báo thù của Long Hải vương, ông bà Trần Cao đành gạt nước mắt đi vay mượn xóm giềng một số tiền, dựng tạm một cái quán bán nước sống cui cút qua ngày. Một đêm sáng trăng, Trần Sinh mang cần ra sông câu cá. Chàng giật được lên một con ếch. Nhớ lại chuyện vừa xảy ra cho nhà mình, chàng bực bội quẳng ếch xuống sông. Lần thứ hai giật lên: lại một con ếch mắc vào lưỡi câu. Chàng lại ném trả lại mặt nước. Nhưng lần thứ ba cũng lại như lần trước. Lần này chàng bắt ếch bỏ vào giỏ đem về. Đến nhà, chàng treo giỏ lên đầu hồi rồi lên giường nằm, nhưng tiếng ếch kêu ồm ộp làm cho chàng không tài nào ngủ được. Tức mình, Trần Sinh trỗi dậy bắt ếch ra đánh. Càng đánh ếch lại càng kêu to. Bỗng chốc ếch tuột khỏi tay người, nhảy đi khắp nơi. Trần Sinh vội đuổi theo để chụp bắt. Ba lần bắt ba lần hụt, nhưng đến lần thứ tư chàng cũng chộp được. Thốt nhiên ếch trút lốt ra, hóa thành Bạch Nga Long. Thấy vợ xuất hiện đột ngột trong cánh tay của mình, Trần Sinh thẹn thò buông ngay ra, hai tay ôm lấy mặt không dám nhìn. Bạch Nga Long quỳ xuống, nói: - Để cho cha mẹ chàng khổ, đó là lỗi tại thiếp! Nói đoạn tìm đến bố mẹ chồng sụp lạy tạ tội. Ông bà Trần Cao đỡ dâu dậy an ủi, mọi ưu phiền trước đây bỗng nhiên trút sạch. Rồi Bạch Nga Long đưa vàng của mình ra tậu đất làm nhà, dần dần cơ nghiệp của bố mẹ chồng lại được phục hồi, có phần vinh thịnh hơn xưa. Nàng còn đón thầy về cho chồng học tập. Về sau Trần Sinh đi thi đỗ trạng nguyên.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-lay-ech" }
Gái ngoan dạy chồng
Ngày xưa có một người nhà giàu, vợ chết sớm, chỉ có độc một người con trai, đứa con vốn người xấu nết, đần độn, lại là tay chơi bời lêu lổng không chịu học hành hay làm ăn gì cả. Thấy con không lo nối nghiệp nhà, người nhà giàu rất buồn phiền, biết rằng của cải của mình sẽ có một ngày đội nón ra đi mà thôi. Bởi vậy, ông mới tính chuyện kiếm cho con một người vợ khôn ngoan đảm đang, để may chi nó sẽ ngăn chặn tay chồng, bảo vệ một phần nào cơ nghiệp. Nghĩ vậy, ông cất công đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng đi đã nhiều nơi mà vẫn chưa thấy một người nào vừa ý. Một hôm, đến một vùng kia, nhân mỏi chân, ông nghỉ lại một gốc cây bên đường. Ông bỗng thấy ở một cây táo gần đấy có một bọn trẻ đang tranh nhau trẩy ăn. Một chốc sau, một cô gái tuổi chừng đôi tám, cũng đến trẩy táo. Ông mới lân la lại gần hỏi xin ăn. Lúc này, táo chín đã bị bọn người trước trẩy hết, chỉ còn những quả xanh, nhưng cô gái cũng cố chọn lấy những quả ương ương đưa cho khách. Thấy cô gái tốt bụng, ông ta nghĩ: -"Sởi lời, trời gởi của cho, quăn co trời gò của lại. Chỉ có người nào tốt bụng với mọi người mới xứng đáng được hưởng giàu có sung sướng . Bởi vậy ông bèn tìm đến nhà cô gái, giả làm một người lỡ độ đường xin nghỉ trọ một tối. Và rồi ông được gia đình cô gái ân cần tiếp đãi. Để thử xem cô gái có khôn ngoan không, ông lân la làm quen với nàng. Khi biết cô sắp đi chợ, ông đưa ra một quan tiền, nhờ mua hộ cho mình "một nắm gió, một bó lửa". Cô gái chẳng nói thẳng rằng, mua về cho ông một cái quạt và một con dao đánh lửa. Thấy thế, ông thầm khen ngợi, nhưng vẫn định thử thêm cho biết. Qua ngày mai ông dậy sớm, giở tay nải đưa cho cô gái mấy bát gạo nếp, nhờ nàng thổi giúp cho mình một nồi vừa cơm vừa bánh để ăn và đem đi ăn đường. Cô gái không từ chối, vội lấy gạo ra vo. Trước khi cho vào nồi, nàng bớt lại một ít giã làm bột vắt bánh rồi hấp luôn vào cơm. Khi nàng bưng ra, ông già lấy làm vừa ý, cho là con người đó đủ cả đức hạnh, khôn ngoan, đảm đang ít có. Bèn quyết định trở về sửa lễ hỏi cho con trai làm vợ. * Đứa con trai của ông từ ngày có vợ lại càng thêm lêu lổng, hắn thường bỏ nhà đi đánh đàn đánh đúm với bọn vô lại, làm cho ông hết sức buồn. Và điều làm cho ông lo lắng nhất là hắn thỉnh thoảng lại trộm tiền của ông, khi dăm bảy quan, khi một vài vác, tung vào cuộc đỏ đen. Mặc dù ông đánh đập, mặc dù vợ khuyên lơn, nhưng hắn chứng nào vẫn giữ tật ấy. Dần dần ông buồn phiền thành bệnh. Một hôm, biết mình sắp chết, ông gọi con dâu đến bên giường dặn nhỏ: - Nay cha đã gần đất xa trời. Chồng con là một thằng "phá gia chi tử", cơ nghiệp này chỉ còn một sớm một chiều mà thôi. Cha rất thương con xấu số. Từ lâu cha làm ăn dành dụm, có để được một hũ vàng chôn ở sau vườn. Vậy cha cho riêng con hũ vàng đó, đừng cho chồng con biết. Sau này, chồng con có thật sự ăn năn hẵng giúp cho nó làm lại cuộc đời. Đứa con trai ông sau khi người cha qua đời, lại càng chơi bời mặc sức. Vợ hết khuyên lơn đến cầu khẩn, hắn chẳng những không nghe, lại còn phũ phàng với vợ. Mỗi lần thua bạc, hai người lại càng xô xát. Nhiều lần vì vợ cản trở, hắn đánh đập vợ không tiếc tay và làm nhục nàng trước mặt mọi người. Một hôm để khỏi vướng, hắn viết giấy cho vợ đi lấy chồng khác rồi đuổi nàng ra khỏi cửa. Từ đó: hắn phỉ chí tung hoành không một ai dám cản. Quả như lời đoán của bố hắn, mấy chục mẫu ruộng đều lần lượt "nướng" vào sòng bạc. Hết ruộng vườn tới nhà ở, chẳng bao lâu tất cả cái cơ nghiệp mấy đời truyền lại tiêu sạch sành sanh. Cuối cùng, không một đồng dính túi, không một nghề cầm tay, hắn đành bỏ làng mạc quê quán đi lang thang khắp đầu đường xó chợ, ngửa tay ăn xin qua ngày. Lại nói chuyện người đàn bà sau khi bị chồng đuổi, bèn đổi tên họ tìm đến trấn thành mở một ngôi hàng nước. Sau ít lâu, kiếm được một số tiền nhỏ, nàng bắt đầu buôn hàng tấm. Số vốn của nàng ngày một lớn dần lên. Một hôm, gặp hai em bé mồ côi đi ăn xin, nàng thương tình đưa về nuôi làm con, coi như ruột thịt. Cuộc đời dần dần nở hoa trước mắt nàng. Trong một dịp đi kiếm củi, hai con nàng nhặt được một khúc gỗ mục, về chẻ ra thấy có mấy thoi vàng. Có vốn lớn lại có tài kinh doanh nên chẳng bao lâu nàng trở nên giàu có: nổi tiếng trong trấn. Tiền bạc tuôn về như nước. Tuy sống sung sướng nhưng nàng vẫn ở một thân một mình. Thấy nàng giàu có, nhiều kể ngấp nghé muốn "gá nghĩa Châu Trần", nhưng người đàn bà ấy nhất thiết từ chối mọi lời đường mật. Mặc dầu người chồng bạc bẽo và mặc dầu mười lăm năm xa cách, nàng vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ. Đã nhiều lần nàng thuê người lần đi các chợ búa phố phương dò hỏi, nhưng tin tức của chồng càng hỏi càng bặt tăm. * Năm ấy, sau mấy tháng hạn, lúa khoai chết dần chết mòn trên những cánh đồng nứt nẻ. Giá gạo cứ lên vùn vụt. Ngoài đường, người đi xin ăn kéo từng đoàn. Người đàn bà lúc này đã là bà chủ hiệu. Bà xin phép quan trên cho mình đem tiền gạo ra phát chẩn cho kẻ khó. Làm như thế, nàng còn mong một khi thấy yết thị dán khắp thôn xóm thì chồng mình tất sẽ lần mò về, nếu hắn còn sống. Y như thế thật, ngày bắt đầu phát, nàng đã thấy bóng dáng của chồng ngồi ở xa xa, lấp ló trong đội quân lĩnh chẩn. Đúng là hắn. Từ ngày bắt đầu cầm bị gậy đến nay, hắn vẫn chưa có cách gì để sống khá hơn và đỡ hèn hạ hơn trước. Bây giờ nghe nói có phát chẩn, hắn vội mò đến đây và ngồi về đầu hàng phía tả. Thế nhưng khi phát, những người giúp việc cho bà chủ hiệu lại được lệnh phát từ phía hữu lại. Khi sắp sửa đến lượt hắn thì bọn họ tự nhiên nói lớn: - "Hôm nay đã hết gạo, mời bà con về đợi đến ngày mai!". Hắn buồn bực trở ra. Qua ngày mai, hắn cố tìm đến thật sớm, ngồi vào đầu hàng bên hữu. Nhưng hắn không ngờ những người phát chẩn hôm nay lại bắt đầu phát từ phía bên kia. Lúc sắp phát đến hắn thì chúng lại giơ thúng không lên: - "Hôm nay thế là lại hết gạo, bà con hãy đợi đến mai". Hắn thở than cho số đen đủi, lần trở ra về. Qua hôm sau, lại lần mò đến thật sớm. Lần này hắn len vào ngồi đúng chính giữa đội quân lĩnh chẩn. Trong bụng hắn nghĩ lần này thì không thể mất phần được. Nhưng đến giờ phát hắn không ngờ người nhà của bà chủ hiệu hôm nay lại phát hai đầu phát lại và cuối cùng người không được gì cả vẫn lại là hắn. Ba lần hỏng cả ba, hắn rất ngao ngán, bèn đánh liều tìm đến dinh cơ bà chủ để xin ăn. Gặp hai đứa con gái nuôi của vợ, hắn ngả nón kêu van hết lời. Ở trong nhà, người đàn bà nhìn ra biết là chồng đã do mưu của mình mà đến đây, bèn sai người hầu ra hỏi, xem hắn có biết làm việc gì không để thuê mượn. Nghe hỏi thế, hắn vội trả lời: - Xin ông bẩm với bà lớn rủ lòng thương cho tôi được ở hầu bà, rửa bát, quét nhà, mọi việc tôi đều xin hết sức. Chỉ cho tôi ăn ba miếng là đủ rồi! Người nhà trở ra cho hắn biết bà chủ nhận lời. Từ đó, hắn chăm chỉ làm lụng, cố làm vừa lòng chủ. Nhưng chung quy hắn vẫn không biết chủ chính là vợ cũ của mình. Về phần người vợ cũng không để lộ một tý gì cho hắn biết, chỉ dặn hai con và người nhà đối đãi tử tế mà thôi. Sau một thời gian, thấy hắn chịu khó làm ăn, người đàn bà mừng lắm. Một hôm, nàng cho gọi hắn lên nhà hỏi xem có biết chữ nghĩa gì không? Hắn đáp: - Tôi lúc nhỏ được đi học có biết ít nhiều. - Vậy từ mai trở đi anh không phải hầu hạ nữa, cho anh ở gian nhà khách dạy đám trẻ học phóng, tôi sẽ trả mỗi năm ba mươi quan. Nghe nói, hắn sung sướng bội phần, cảm thấy lòng nhân đức của bà chủ đối với mình bằng trời bằng biển, vội nhận lời ngay. Từ đó, hắn đóng vai thầy đồ, cố sức làm cho chủ tin cậy. Nhưng người vợ vẫn thử mãi không thôi. Một lần, gặp ngày Tết, bà chủ sai lấy tiền ra cho kẻ hầu người hạ. Nàng nói: - Ta cho mỗi người năm quan, hãy mang đi đánh bạc cho vui, nếu hết sẽ cho thêm. Thầy đồ ta cũng được năm quan tiền. Nhưng trong khi mọi người đem tiền nướng vào xóc đĩa bài mười, thì trái lại, hắn mang nguyên vẹn số tiền đó về gửi cho chủ. Bà chủ hỏi: - Tại sao anh không thích đánh bạc? Hắn trả lời: - Bẩm bà, tôi ngày xưa vì cờ bạc mà đến nông nỗi này. Cho nên bây giờ buộc chỉ cổ tay thề rằng không đụng đến nó nữa. Thế rồi luôn miệng hắn kể hết cho chủ nghe, từ cuộc đời cũ có ruộng nhiều, có vợ ngoan như thế nào, rồi bán ruộng đuổi vợ ra sao, cho đến lang thang đói rách, và ngày nay đã ăn năn hối lỗi. v.v... Bà chủ hỏi: - Anh còn thương vợ nữa không? Hắn rầu rĩ: - Tôi đã nhiều lần dò tìm mà không thấy. - Nghe anh nói tôi rất thương tình. Vậy tôi cho anh năm quan để anh đi tìm vợ. Nếu hết tiền mà vẫn chưa thấy, anh cứ về đây tôi sẽ cho thêm mà tìm cho ra. Hắn mừng rỡ vâng vâng dạ dạ, mang tiền đi tìm. Nhưng sau ba tháng trở về với bộ mặt thiểu não, hắn cho chủ biết không hề thấy tung tích đâu cả, chắc là vợ đã chết. Từ đấy, vợ thấy chồng chí tình, lại có lòng tu tỉnh, nên rất mừng. Nhưng nàng vẫn chưa ra mặt vội, chỉ an ủi hắn hãy ở lại đây, may chi sẽ có ngày hội ngộ. Một hôm, nhân ngày giỗ cha chồng, bà chủ nhờ thầy đồ chép bài văn tế. Hắn ta ngạc nhiên và khôn xiết mừng rỡ khi thấy bài vị của tổ tiên nhà chủ chính là bài vị tổ tiên mình. Lập tức, hai vợ chồng ôm nhau khóc lóc. Rồi sau khi cúng xong, họ mời làng xóm và người nhà ngồi lại kể rõ sự tình. Ai nấy đều cho là một cuộc tái ngộ hiếm có. Về sau, hai vợ chồng dựng vợ gả chồng cho hai con nuôi, giao cửa hiệu lại cho chúng cai quản. Sau đấy, họ dắt nhau trở về quê hương xưa, chuộc lại vườn tược nhà cửa cũ. Và sau khi đã sống yên ổn ở quê nhà, vợ mới sai đào hũ vàng của bố chồng cho mình ngày xưa lên. Nàng nói: - Có vàng chắc gì đã có hạnh phúc. Cho nên trong những cơn túng thiếu nhất, tôi vẫn không cần đến nó. Nói đoạn, đem số vàng ấy cúng cho đền chùa để bố thí cho người nghèo. Từ đấy hai vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc. Câu tục ngữ: Làm trai rửa bát quét nhà, Vợ gọi thì: - "Dạ, bẩm bà tôi đây!". là do truyện này mà ra.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/gai-ngoan-day-chong" }
Sự tích đầm mực
Ngày ấy vào đời nhà Trần có một cụ đồ nho ở xã Quang-liệt tên là Chu An. Học vấn của cụ sâu và rộng. Cũng vì tiếng tăm của cụ truyền khắp mọi nơi nên học trò xa gần đến học rất đông. Về sau nhà vua nghe tiếng, vời cụ về kinh giao cho trông nom trường Quốc tử và dạy thái tử học. Cụ để nhà lại cho vợ con rồi đi nhậm chức. Nhưng được hơn một năm đã thấy cụ chống gậy trở về. Cụ bảo mọi người rằng: - Ta không thể chịu được bảy tên quyền thần dối vua hại nước! Từ đó người ta thấy cụ trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin "Nhập môn" đông vô kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa mới đủ chỗ để chứa học trò. Nhà trong xóm chật ních những anh đồ nho, đủ mặt người kinh, người trại. Đó là chưa kể những người ở quanh vùng hàng ngày cơm đùm cơm gói đi về học tập. Trong số học trò của cụ có hai anh em con vua Thủy. Nghe tiếng cụ đồ, vua Thủy cũng cho con lên học. Ngày ngày hai anh em đến bờ sông trút lốt thuồng luồng ở nước rồi lên đất, nói năng, cử chỉ không khác gì người trần. Một hôm cụ đồ đang chấm bài thì anh trưởng tràng đến kể cho biết rằng sáng hôm nay, khi chưa rõ mặt người, anh có việc đi chợ huyện đến cầu Bưa tình cờ dưới sông có hai người đi trên mặt nước tiến vào bờ: - Đúng là hai anh em nhà Gàn thầy ạ! Con đầu tiên sợ nhưng cũng cố đi theo. Quả nhiên họ vào đây. Thầy bảo bây giờ nên làm thế nào? Cụ đồ gật gù đáp: - Con cứ để yên mặc họ, con ạ! Nếu là quỷ thần mà họ chuộng đạo thánh hiền thì lại càng hay chứ sao! * Năm ấy vùng Thanh-đàm trời làm đại hạn. Suốt từ cuối năm ngoái cho đến tháng Hai năm nay không có lấy một giọt mưa. Đồng ruộng nứt nẻ. Mấy đám lúa, đám ngô cứ héo dần. Thấy mọi người nhao nhác, cụ đồ sốt ruột không kém. Một chiều kia sau buổi học, cụ đồ lưu hai anh em chàng Gàn ở lại rồi bảo: - Thầy muốn các con thương đến dân một chút. Hai anh em là bộ ngơ ngác không nói gì. Thấy họ còn giấu mình, ông cụ nói: - Các con bất tất phải giấu. Thầy đã biết cả. Bây giờ đây chỉ có các con là cứu được dân sự. Các con hãy làm mưa cho họ nhờ. Hai anh em đưa mắt nhìn nhau, hồi lâu bảo cụ: - Dạ, nhưng hiềm vì sông hồ đều có lệnh "phong bế" cả thì lấy đâu ra nước bây giờ. Ông cụ khẩn khoản: - Các con nghĩ thử xem có thể lấy nước ở đâu được không. Không cứu được nhiều thì ta hẵng tạm cứu ít vậy! Hai anh em ngần ngừ hồi lâu rồi chỉ vào nghiên mực đặt trên án thư, bảo cụ đồ: - Dạ, oai trời thì rất nghiêm nhưng lời của thầy thì rất trọng. Chúng con xin vâng lời thầy. Chúng con sẽ dùng nước ở nghiên mực này tạm thấm nhuần trong một vùng vậy. Cụ đồ mừng rỡ chạy lại án thư bê cái nghiên mực lớn còn đầy mực và cả quản bút lông của mình thường dùng, đưa cho họ. Hai anh em đỡ lấy rồi cả ba người cùng tiến ra bờ sông. Đến nơi họ xắn ống tay áo rồi sau đó em bưng nghiên mực, anh cầm quản bút nhúng mực vẩy lên trời nhiều lần. Đoạn họ vứt cả nghiên lẫn bút xuống nước, cúi vái cụ đồ rồi biến mất. Đêm hôm ấy quả nhiên mây mù tối tăm rồi mưa một trận như trút. Cụ đồ vừa mừng vừa sợ , suốt đêm chạy ra chạy vào không ngủ. Sáng dậy, điều mà ai nấy đều lấy làm lạ là nước chỉ lênh láng suốt mấy cánh đồng trong vùng Thanh-đàm mà thôi. Hơn nữa sắc nước chỗ nào chỗ nấy đều đen như mực. Trận mưa đêm hôm đó quả cứu vớt được biết bao nhiêu là ruộng lúa, ruộng ngô và các hoa màu khác. Dân trong vùng Thanh-đàm lại vui vẻ như xưa. Nhưng trong lúc đó ở thiên đình, các thiên thần đều lấy làm lạ về một trận mưa bất ngờ. Ngọc hoàng nổi giận sai một thiên thần đi bắt cho được thủ phạm trị tội. Và cả hai anh em đều không thoát được khỏi lưới trời nghiêm ngặt: cả hai đều rơi đầu dưới lưỡi búa của thần sét. Xác của họ hiện nguyên hình là hai con thuồng luồng song đầu một nơi mình một nẻo, giạt vào gậm cầu Bưu. Cụ đồ nghe tin rất thương xót. Cụ khóc và cụ bắt tất cả học trò đưa đám chôn hai con thuồng luồng. Khăn áo hôm ấy trắng phau cả một bờ sông. Xác hai con vật được chôn cất một cách tử tế ở bên trên cầu và cũng đắp thành nấm như mộ của người. Cái nghiên mực của cụ đồ Chu An sau đó trôi về làng Quỳnh-đô làm đen cả nước cái đầm ấy, ngày nay người ta vẫn quen gọi là đầm Mực. Còn quản bút thì trôi về làng Tó cho nên cho nên các cụ thường truyền rằng nhờ thế làng Tó tức làng Tả Thanh-oai bây giờ mời có lắm người học hành đỗ đạt. Còn chỗ ngôi mộ hai con quái vật tức hai anh em thuồng luồng sau đó người ta lập miếu thờ ngày nay còn có tên là miếu Gàn...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-dam-muc" }
Chiếc cầu phúc đức
Ngày xưa có anh chàng chuyên sống về nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc được nhiều, có lúc được ít, nhưng trong nhà không bao giờ có của để dành. Hai mẹ con chàng thường phải chịu bữa ăn, bữa nhịn. Một hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng ôn lại cho chàng nghe cuộc đời của ông và cha chàng xưa kia. Xưa kia ông nội của chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được những món đáng bạc chục, bạc trăm, vậy mà khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để lại cho cha chàng được chút gì. Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi rình mò hết làng trên đến xóm dưới, mà cũng không bao giờ kiếm được nổi hai bữa cho hai vợ chồng và đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến đời chàng, lao theo cái nghề này đã gần hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần bốn chục tuổi đầu. Ôn lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc đời mình chàng không khỏi thấy ngán ngẩm. Một đêm, chàng đến rình nhà ông thầy đồ ở xóm bên, định ăn trộm cái thủ lợn mà một nhóm học trò mang đến biếu. Rình mãi tới khuya, ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách khác. Chợt ông thầy đọc tới câu: - Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Chàng bụng bảo dạ: - Phải chăng ông cha ta làm nghề thất đức nên để khổ nhục lại cho tả. Rồi tự đáp: - Phải, quả thật đúng như vậy. Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết từ nay bỏ nghề ăn trộm. Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng hái củi mang ra chợ bán. Công việc thật là vất vả, hái được một gánh củi chàng phải đổi một bát mồ hôi mới kiếm được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy yên tâm hơn mọi ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: - Cẩn thận đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến kia! Cái tiếng "ba đời ăn trộm" làm cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: - Từ nay ta phải làm những việc gì phúc đức họa may mới xóa được mấy tiếng đó. Một ngày mùa hạ, trời mưa to nước lũ tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội qua sông như mọi hôm được. Hàng trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã khuất sau rặng núi, mà mọi người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới việc bắc một cái cầu. Đêm ấy, ngủ lại bến sông cùng với nhiều người khác, chàng đem chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói: - Đó là một điều phúc đức được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng đã có người làm nhưng rồi lại bỏ dở... Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội sông về nhà, tới nhà, chàng đem ý định bắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng rất vui và giục chàng dốc sức bắc cầu! Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; chiều ra sức chuyển gỗ; trưa cố hái thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ. Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc cầu, không bao lâu đã bắc được hơn chục sải cầu. Công việc còn nhiều nặng nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói mà làm nhiều nên chàng bị kiệt sức. Một hôm đói quá chàng nằm lăn ra mê man ở đoạn cầu đang làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng vẫn chưa hồi tỉnh. Giữa lúc ấy có một viên quan võ đi đến, thấy một đám đông đang xúm quanh một người nằm sõng soài, viên quan xuống ngựa đến gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết đây là anh chàng bắc cầu làm phúc đang làm thì vì mệt quá mà lăn ra ngất đi... Viên quan liền mở túi lấy thuốc cho chàng uống. Được một lúc, chàng bắc cầu tỉnh lại, mọi người tản dần ra về, viên quan ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật thà kể hết cho ông nghe cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang làm. Viên quan võ nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: - Xưa kia cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói nghèo. Nay, chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là hay vô cùng! Về phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi, ông tôi, ông cụ ông kỵ tôi, đời đời làm quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của. Đấy cũng là điều thất đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: lấy vợ đã hơn hai mươi năm rồi mà không có một đứa con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng hay chàng có cho tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không? Chàng bắc cầu vui mừng nói: - Nếu quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân chúng sẽ mau được qua lại, còn gì tốt hơn! Hai người bèn kể cho nhau biết tên tuổi, quê quán rồi kết làm anh em, viên quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi, được nhận là anh. Chàng bắc cầu nói: - Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ đem củi ra chợ bán lấy tiền. Viên quan võ thân mật bảo chàng: - Anh có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như vậy chúng ta sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào? Chàng bắc cầu nói: - Nếu vậy thì còn gì hay hơn! Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ. Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là cầu Phúc Đức. Các cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn mừng cầu. Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão và tất cả dân chúng quanh vùng nô nức đến dự, ai cũng cầu xin Ngọc Hoàng ban phúc cho hai người bắc cầu, họ ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một cơn gió bất chợt kéo đến, gió thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi. Thấy người em kết nghĩa của mình hết lòng hết sức hàng ba năm trời ra làm cầu mà lại không được hưởng phúc, viên quan xót xa lắm. Sau khi mọi người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa. Lại nói đến chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một cái hang trên một ngọn núi cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững. Cơn gió bỗng vụt hóa thành người tươi cười nói với chàng: - Nhà ngươi chớ sợ, ta là thần Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về đây để thưởng cho ngươi cái công thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Chàng bắc cầu nhìn vào hang thấy đống vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng vác gói vàng lên vai, tiến ra cửa hang, thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn chàng đi, trả về bản và đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà. Chàng bắc cầu sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ chàng và hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc cầu hiện về, liền dắt nhau lại ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười lại một lần nữa chàng lên tiếng gọi: - Mẹ ơi! Anh ơi! Em đây mà! Em hãy còn sống trở về nhà đây! Mau mau mở cửa! Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng quýnh, lật đật xuống giường. Vợ chồng viên quan võ cũng chạy ra mở cửa, đón người em kết nghĩa. Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn ngành câu chuyện được thần Gió đưa đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo mừng sung sướng. Từ đấy mẹ con chàng bắc cầu bắt đầu trở nên giàu có, chàng mời hai vợ chồng người anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn. Ít lâu sau, vợ viên quan võ có mang, đến tháng đến ngày chị sinh hạ được một con trai. Hai vợ chồng mừng vô kể. Còn chàng bắc cầu ít lâu sau cũng lấy vợ có con và sống sung sướng đến già.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chiec-cau-phuc-duc" }
Sự tích cây Thì Là
Ngày xưa, xưa lắm rồi, cây cỏ chưa có tên chi cả. Một hôm, ông Trời tập hợp tất cả các loài lại, ban cho mỗi loài một cái tên. Thôi thì, các loại cây giành nhau đến trước được đặt tên theo đúng ý của mình muốn. Có cây thì dịu dàng tỏa hương, đòi được gọi là Lan, có cây lại õng ẹo múa nhịp nhàng, xin được đặt là Tóc Tiên, có cây lại hiên ngang đi đến, được gọi là Thông. Các loại rau cỏ cũng vậy, cũng chen chúc nhau, nài nỉ những cái tên thật đẹp như Quế, Dấp Cá, Tía Tô, Húng, v.v… Cho đến cuối ngày, khi ông Trời đã mệt, có một nhành cây nho nhỏ hớt hơ hớt hải chạy đến, chỉ xin tên gì cũng được. Nhành cây đó xin lỗi ông Trời đã đến trễ, vì nó phải chăm sóc bà của nó đang bị bệnh. Ông Trời thấy lòng hiếu thảo của nó thì cảm động lắm nên không phạt nó, nhưng ông không thể nghĩ ra được tên gì khác, cho nên ông ngập ngừng: – Tên của con là… thì là…thì là… Nhành cây nghe vậy, mừng quá hét toáng lên: – Ôi tôi có tên rồi ! Tôi là Thì Là Nó vui quá nên vội vàng cám ơn ông Trời rồi chạy nhanh về nhà khoe bà của nó, và để xem sức khỏe của bà. Nó nào biết đâu rằng chữ “thì là” không phải là tên ông Trời dự định đặt cho, mà là sự ngập ngừng chưa nghĩ ra được cái tên cho nó. Từ đó, muôn loài gọi nó là cây Thì Là, hay là Thìa Là. Tuy rằng cái tên đó rất bình dân, nhưng không một loài nào dám chế diễu, bởi vì lòng hiếu thảo của nó đã hơn tất cả các loại cây khác rồi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-thi-la" }
Sự tích đèn kéo quân
Ngày xưa, gần đến dịp tết Trung Thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ lạ… nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: -Ta là Thái Thượng Lão Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua. Hôm sau theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng 8 cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất hài lòng. Khi Vua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: “Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa đèn là biểu hiện trục khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, cũng như con người tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện cá tính của con người”. Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn đốt lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau. Tất cả những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy. Vua ban thưởng cho mẹ con Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu. Từ đó, mối khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức, dân chúng đua nhau bắt chước chàng làm nên những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn kéo quân...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-den-keo-quan" }
Sự tích con tằm
Ngày xửa ngày xưa ở một làng nọ có người con gái tên gọi là Tơ, mà cả cha lẫn mẹ của nàng đều mất từ sớm, bởi vậy nàng phải đem thân đi hầu hạ cho một bà góa nhà giàu để có cái ăn nơi ở. Tính tình của bà góa nhà giàu này cô cùng ác nghiệt khiến cho một ngày kia Tơ không thể nào chịu nổi nữa nên phải bỏ đi. Nàng chạy sâu vào trong rừng, lại nghĩ thầm trong bụng rằng có phải chết ở trong miệng của thú dữ chứ không thể nào mà ở mãi cái cảnh khốn cùng hằng ngày đều bị hành hạ được. Thị Tơ cứ đi, đi mãi, vượt qua một quãng đường khá xa, một phần do bao lâu nay đều ăn uống vô cùng thiếu thốn nên đuối sức, thêm phần nữa là do vất vả vì phải vượt suối băng rừng nên nàng ngất xỉu ở trên một tảng đá lớn. Thần núi trông coi nơi này rất rõ hoàn cảnh vô cùng đáng thương của cô gái ngây thơ hiền lành vì vậy mới âm thầm theo dõi và che chở cho nàng. Lúc thị Tơ mở mắt bừng tỉnh thì cứ ngỡ như mình vừa trải qua một giấc chiêm bao dài dằng dặc vậy. Cảnh vật ở chung quanh cũng khác hẳn khi nàng ngất. Tơ thấy mình đang nằm ở trong một cái động, nơi nàng nằm rêu trải dầy mềm dịu y như là nhung, ở dưới chân nàng còn có một dòng suối, nước trong vắt đang chảy qua những kẽ đá tạo ra những âm thanh vui tai nghe như là tiếng nhạc vậy. Và ở ngay trước mắt nàng, chỉ ngay trong tầm với của tay thì nàng nhìn thấy vô số trái cây chín đỏ ngon mắt đang treo lủng lẳng ở trên dây leo, mà dây leo ấy buông xuống ngay cửa động nhìn như một bức rèm che đẹp đẽ. Giữa lúc nàng đang đói khát vô cùng, nàng liền vươn đôi bàn tay của mình ra để với những thứ trái cây ngon ngọt kia và ngấu nghiến ăn ngon lành. Tuy chỉ là một bữa ăn thanh đạm toàn trái cây nhưng là khiến cho cơ thể Tơ cảm thấy vô cùng khỏe khoắn khác thường. Và thần núi hiện thân thành một ông lão có râu tóc bạc trắng, tay còn chống theo một chiếc gậy trúc và từng bước tới gần chỗ của nàng. Nhìn thấy một cụ già vẻ mặt phúc hậu tiến tới, thị Tơ liền kính cẩn mà vái chào cụ. Ông lão nhìn nàng rồi làm ra vẻ như mình ngạc nhiên lắm, sau đó hỏi thăm xem nàng từ nơi nào tới đây, và làm sao lại một mình lạc lõng ở nơi núi rừng hoang vu như thế này. Thị Tơ thấy cụ già quan tâm mình thì cũng thành thật mà kể lại toàn bộ câu chuyện đau thương về cái kiếp sống đọa đầy của chính mình. Ông lão nghe nàng kể xong thì lắc đầu, nhìn nàng vẻ tội nghiệp rồi khuyên bảo nàng: – Cháu trốn đi như vậy là đúng rồi. Nếu cháu ở lại nơi đây thì có lẽ sẽ được sống yên hơn đấy, nơi này sẽ có lão trông chừng giúp cháu. – Thưa cụ, cụ chính là ân nhân đời này kiếp này của cháu ạ, xin cụ hãy nói cho cháu biết cụ à người nơi nào ạ? – Cháu à, khu núi rừng này đây đều là nhà của lão đấy. Lão cũng chỉ sống qua ngày bằng nghề đốn củi thôi, vì vậy luôn nay đây mai đó mà. Cháu cũng đừng lo ngại gì cả, thi thoảng lão sẽ tới đây thăm cháu. Còn nếu như cháu có việc gì muốn lão giúp thì chỉ cần tới chỗ mỏm đá này và gọi to “Ông tiều ơi!” thì lão sẽ lập tức tới ngay đây. Vào sáng ngày hôm sau thì ông lão đem theo một bọc toàn quần áo mới trở lại nơi thị Tơ ở, đưa cho nàng để nàng thay cho bộ quần áo cũ nát đang mặc trên người. Kể từ ngày đó trở đi thì thị Tơ được sống một cuộc sống vô cùng thanh thản và tự do, nàng chẳng bao giờ phải lo lắng chuyện cái ăn cái mặc nữa, cũng không phải lo lắng xem ngày mai như thế nào, cũng chẳng bao giờ phải buồn rầu khi nghĩ đến những ngày qua. Và dần dần thì đàn chim chóc cùng muông thú trong rừng cũng tới đây để làm quen cùng nàng, và ngày ngày chúng lại đem theo những trái cây tươi ngon và quý lạ tới để làm thức ăn cho nàng. Cuộc sống cứ thế trôi qua khiến cho nhan sắc của thị Tơ càng ngày càng rạng rỡ, hệt như những đóa hoa rừng thời kì nở rộ tươi tốt vậy. Thuở ấy ở nơi Thượng giới có vị thần trầm mê khoái lạc, thần sống nơi thượng giới rồi biến thiên đình vốn uy nghiêm trở thành một chốn ăn chơi trác táng, sau đó vì đã chán với những thú vui hoan lạc nơi Thượng giới, thần liền tìm xuống nơi trần gian đầy mới mẻ. Nhờ có phép thuật siêu phàm nên thần thường biến mình thành đủ hình dạng khác nhau để mà cám dỗ không biết bao nhiêu đàn bà cũng như con gái có nhan sắc xinh đẹp, quyến rũ. Bất kể giới thượng lưu hay là bình dân, vị thần này đều có mặt ở khắp mọi nơi, lúc thì thần hóa thân thành một vị quan tài hoa và lỗi lạc, lại trẻ đẹp; có lúc thần lại biến mình thành bộ dáng là một chàng thanh niên khôi ngô, tuấn tú, đa tình và phong nhã; thần đã lôi cuốn được không biết bao nhiêu là người đẹp trầm luân vào vòng sắc dục của mình. Cũng chưa từng có người con gái nào mà được thần để ý đến có thể chống cự được sự thu hút và cám dỗ của thần để tránh được vòng đam mê chết người ấy. Khi thần đã cảm thấy chán ngán với những khoái lạc ở giới thượng lưu sa đọa, vào một ngày kia, thần liền tới những nơi thôn dã để tìm cho mình những lạc thú tươi mới hơn. Khi thần vượt qua được khu rừng vắng vẻ, cũng không có lấy một bóng người nào, tình cờ lại gặp được một cô gái của rừng xanh đang mải mê nô đùa cùng mới bầy chim và muông thú. Thần sững sờ khi nhìn thấy nhan sắc của thị Tơ, vẻ đẹp ấy khiến cho lòng dục của thần bùng cháy dữ dội, thần liền mon men nhẹ nhàng rẽ những cành lá tiến tới gần định bất ngờ mà vồ lấy cô gái xinh đẹp kia. Đột nhiên thì có tiếng chim kêu lên thất thanh, thị Tơ cùng với cả đám muông thú liền vội vội vàng vàng mà bỏ chạy một mạch trước người lạ kia. Còn thần ở phía sau thì vẫn ra sức để đuổi theo được người đẹp. Bởi vì thị Tơ đã quen thuộc với thiên nhiên nên giờ đây cũng nhanh nhẹn hơn bình thường rất nhiều, đôi chân nàng sải ra những bước chân dài, nàng chạy còn nhanh hơn cả gió nữa, thần thấy vậy thì lập tức giở phép của mình ra để phóng theo sau. Khi thần đã gần chụp được nàng thì có một con nai lớn lập tức khụy chân xuống để cho nàng trèo lên lưng nó rồi vụt đi, may mắn mà thoát được khỏi dàn tay của vị dâm thần kia. Nai liền chạy vun vút đưa thị Tơ trở về động, nàng vô cùng sợ hãi nên chẳng dám bước ra ngoài dù chỉ nửa bước. Nàng nhớ tới cụ già, lập tức leo lên chỗ mỏm đá mà gọi ba lần “Ông tiều ơi!” thì ông lão lập tức xuất hiện. Khi nghe nàng kể lại mọi chuyện thì ông lão liền căn dặn từ giờ nàng ra ngoài phải hết sức cẩn thận, còn tặng cho nàng chiếc vòng ngọc, ông lão nói chỉ cần đeo chiếc vòng này vào thì dù muốn được tàng hình khi nào cũng được cả. Chính nhờ thế nên nàng mới có thể tránh thoát được sự truy đuổi sát sao của vị thần đang muốn được chiếm đoạt nàng. Bởi vì thấy bao công sức đeo đuổi đều không có kết quả, đường đường là một vị thần lại thua trí bởi một sơn nữa thì thần vô cùng giận dữ, thần thề phải bắt bằng được cô gái ấy mới thôi. Nhờ vào phép thần thông của mình mà thần đã giăng được một tấm lưới rất rộng bằng những sợ chỉ vô cùng nhỏ nhưng lại rất chắc chắn vây gọn cả cánh rừng. Không ngờ tới nên thị Tô dễ dàng mắc bẫy của thần, may mà có bạch tượng lấy ngà của mình đâm thủng lưới nên nàng mới có cơ hội thoát nạn lần hai. Khi về đến động, nàng lại gọi ông tiều tới. Ông lão hiện ra, nghe xong câu chuyện liền bảo nàng lần sau nhỡ may vướng phải lưới nữa thì hãy gọi Phật Bà Quan Âm thì sẽ thoát được. Cũng vì sợ mình lại mắc vào bẫy nên thị Tơ cũng lâu chưa rời khỏi động. Tuy nhiên thì sự ham muốn với tự do cùng chạy nhảy của nàng không kiềm được bao lâu lại bắt đầu thúc giục. Nhưng lần này thì nàng chọn hướng khác mà đi để có thể tránh được sự săn đuổi của vị thần kia. Nhưng một lần nữa nhờ vào phép thần của mình mà thần biết rõ được từng đường đi nước bước của nàng, vì vậy thần lại giăng lưới và bắt được nàng. Nhớ tới lời dặn của ông lão, thị Tơ bèn gọi tên của Phật Bà Quan Âm và nhiệm màu ngay tức khắc. Và tất cả những sợ chỉ đều rút gọn và thu trong lại như hạt đậu nhỏ. Khi nàng gọi tên Phật Bà Quan Âm lần hai thì tất cả những hạt đậu nhỏ từ sợi chỉ kia đều theo đường hít thở của nàng mà bay hết vào trong bụng của nàng. Trong thấy phép thần của mình bị cô gái lấy mất ngay trước mắt thì lòng tự ái của một vị thần đã bị một kẻ phàm tục trêu tức, lần này thần cực kì tức giận liền tìm cách để trả thù này. Thần liền gọi Thiên Lôi, vốn là người dưới quyền của mình ngày trước tới. Thần Sét còn không quên rủ theo mấy người bạn của mình là Thần Chớp, Thần Sấm, Thần Mưa và Thần Gió cùng tới để ra mắt thần. Cái vị thần ham mê sắc dục này liền nhờ Thiên Lôi tới để giúp mình đánh tan bộ quần áo đang mặc trên người của cô gái đang vui vẻ nô đùa cùng đám thú hoang ngay giữa rừng, nhưng thần cũng dặn kĩ rằng không được làm tổn hại đến thân thể của nàng. Tất nhiên là Thần Sét rất vâng lời, chỉ trong một cái nháy mắt thôi, ngay lúc cô gái kia đang mải mê vuốt ve đám nai con ngay cạnh dòng suối mát, đột nhiên trên trời bị giăng kín bởi mây đen, gió bão nổi lên vô cùng dữ dội, còn có ầm ầm tiếng sấm dậy, và chớp thì cứ chằng chịt trên trời, và rồi mưa cứ thế tuôn xuống xối xả. Thị Tơ thấy trời đổi liền chạy nhanh về động, đột nhiên có một tiếng sét rạch trời, khiến cho cả núi rừng đều bị rung chuyển, nhắm ngay hướng nàng mà tới. Cơ thể của nàng thì không hề có chút tổn thương nào, tuy nhiên quần áo bên ngoài của nàng thì đã hoàn toàn tan biến. Thần đứng ở hòn đá cao đường hoàng chiêm ngưỡng toàn bộ cảnh tượng mị hoặc ấy, thần phá lên cười, vẻ mặt đắc thắng không hề che giấu, sau đó vô cùng hứng trí mà chạy tới chỗ của người đẹp. Tuy nhiên thì lần này thần cũng phải chịu thêm thất vọng, bởi vì nhờ có chiếc vòng ngọc trên tay mà nàng lập tức trở thành người vô hình rồi. Khi đêm xuống thì thị Tơ mới khó nhọc mà về được tới động của mình. Nhưng nàng lại cảm thấy vô cùng thẹn thùng, nàng thẹn với mọi thứ ở chung quanh, nàng luôn có cảm giác như mọi vật đều có mắt và chúng đang nhìn nàng đầy tò mò. Trần truồng rồi nên nàng không dám tìm ông lão, cũng không dám gọi đám thú rừng thân quen tới để cứu giúp mình. Nàng co mình rúc vào nơi cuối động, nằm đó mà cơ thể run lẩy bẩy vì lạnh. Lúc ấy tấm lưới thần mà nàng đã nuốt vào trong bụng lại khiến cho nàng cảm thấy khó chịu vô cùng, nàng nôn ra cả một đống những sợ chỉ vô cùng mềm nhẹ và bền chắc. Vì quá lạnh nên làng vơ luôn đống chỉ ấy mà đắp vào người như một tấm mền ấm áp. Và rồi nàng tắt thở dần ở bên trong cái ổ dịu êm do chính mình tạo ra. Và trước lúc linh hồn của nàng rời ra khỏi thể xác thì nàng vô cùng khẩn thành mà nghĩ tới những người khốn khổ, nghèo nàn, không có mảnh vải che thân, rồi phải chịu chết lạnh hệt như nàng vậy, vì vậy nàng nguyện giúp họ may mặc, nguyện đem đống chỉ này dệt thành những quần những áo ấm áp. Bởi ước nguyện mạnh mẽ của mình nên khi nàng chết đi liền biến thành một con tằm. Để có thể thực hiện được lời nguyện ước của mình, linh hồn của nàng liền đem theo những sợi chỉ tơ của mình đến chăng trên ngọn cây dâu trồng ở vườn Thượng uyển của nhà vua, nơi mà hoàng hậu thường xuyên cùng nhà vua tới thưởng ngoạn vào mỗi buổi chiều. Đúng như dự đoán của nàng, lúc hoàng hậu đi ngang qua những cây dâu, nàng lập tức nhả những sợi tơ màu vàng lấp lánh, khiến cho chúng tung bay được những cơn gió mơn man. Thấy cảnh này, hoàng hậu vô cùng ngạc nhiên, liền đưa tay ra đỡ lấy những chỉ tơ xinh đẹp mà ánh vàng kia, hoàng hậu cảm thấy đám sợ chỉ tơ này mềm dịu, nhìn thì cảm thấy vô cùng mong manh nhưng lại dẻo chắc không ngờ. Hoàng hậu lập tức dâng lên cho nhà vua, và nói với vua nguyện vọng được mặc những chiếc áo được dệt ra từ những sợi chỉ tơ vàng ánh ấy. Nhà vua tất nhiên không hề cự tuyệt, lập tức sai người đi thực hiện mong muốn của hoàng hậu. Mọi người đem thu gom tất cả những sợi chỉ tơ vàng ở vườn Thượng uyển, nhà vua lại triệu tập toàn bộ những người thợ dệt giỏi giang nhất trong nước vào trong hoàng cung. Chẳng bao lâu sau thì đống chỉ tơ vàng đã được dệt thành một tấm lụa màu vàng vô cùng mềm dịu và bền chắc, lập tức đem tấm vải rực rỡ ấy mà dâng lên cho nhà vua. Nhìn thấy tấm vải xinh đẹp ấy thì hoàng hậu vô cùng vui mừng, hoàng hậu sai người may cho mình một tấm áo dài để ngày hôm sau có thể mặc ngự triều cùng nhà vua. Quân thần ở trong triều nhìn thấy tấm áo đẹp đẽ trên người hoàng hậu thì vô cùng sửng sốt, nó khiến cho vẻ đẹp của người mặc được tôn lên rất nhiều. Thấy vậy vua cũng giải thích cho quân thần của mình biết về việc hoàng hậu làm sao khám phá ra được thứ chỉ tơ xinh đẹp mà quý giá ấy. Nhà vua cũng cho phép tất cả các quan cùng những nhà giàu ở trong nước được phép may mặc những bộ quần áo giống với của hoàng hậu. Kể từ ngày đó thì nghề trồng dâu và nuôi tằm cũng bắt đầu phát triển, nguyện vọng vô cùng tha thiết của cô gái nhà quê thị Tơ cũng được thực hiện...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-tam" }
Con sáo và phú trưởng giả
Ngày xưa có một con sáo nói được tiếng người và hiểu được ý người. Từ lâu, sáo làm bạn với một bác nông dân rất nghèo. Hôm ấy, bác đi cày bắt được sáo ta bị thương nằm nép trong bụi lúa, bèn đưa về chăm sóc, dần dần dạy sáo học, sáo biết đủ mọi thứ. Đối với sáo bác rất tận tình; mỗi khi có miếng ăn đều dành phần cho sáo. Bác bảo sáo: - Tao già rồi mà không có con nên tao nhận mày làm con! Sáo được tự do muốn đi đâu mặc ý, không bị nhốt trong lồng. Nhưng sáo rất quyến luyến bác, không muốn rời. Gần đấy có phú trưởng giả giàu nứt đố đổ vách. Nhà hắn tiền ròng bạc chảy đến nỗi thỉnh thoảng hắn lại đem vàng ra phơi nói là cho đỡ ẩm. Một hôm sáo bay qua nhà phú trường giả gặp kỳ hắn đang phơi vàng. Sáo biết là của quý vội sà xuống cắp lấy mấy thoi đưa về cho bố nuôi. Từ đấy bác nông dân sống dễ chịu hơn trước. Phú trưởng giả từ ngày mất vàng không biết nghi cho ai được, vì hắn phơi tận trên nóc nhà lại nghiêm cấm không cho một ai tới gần, nên hắn đành nín lặng. Nhưng hắn vẫn để tâm rình mò quyết tìm cho ra. Một hôm khác, hắn lại phơi vàng. Sáo bay qua trông thấy lại sà xuống lấy, nhưng không may bị phú trưởng giả nhanh tay chộp được. Lập tức hắn tra khảo sáo để mong tìm lại những vàng đã mất lần trước. Hắn hỏi sáo: - Mày ở nhà nào? Sáo đáp: - Tôi ở trên rừng. - Ai dạy mày trộm vàng của tao? - Chả ai dạy cả. - Mày trộm về cho ai? - Tôi quẳng lên rừng. Tức tối vì không tìm ra được manh mối, phú trưởng giả liền sai gia nhân vặt lông sáo cho kỳ trụi để cho sáo chết một cách đau đớn. Nhưng mới nhổ được mấy cái lông thì sáo đã giả bộ chết, nằm ngay đơ, cánh sã ra, không cựa quậy. Phú trưởng giả sai vứt sáo ra ngoài bụi tre. Chỉ một chốc sau sáo đã đứng dậy và gượng lần về nhà. * Mấy tháng sau, ở một ngôi đền của làng bỗng xảy ra một việc rất lạ. Mỗi lần người thủ từ vào thắp hương đều nghe trên tượng Đức ông có phát ra tiếng gọi: - Sắp có nạn lớn, hãy bảo phú trưởng giả đến cho ta bảo. Người thủ từ trước còn hồ nghi, nhưng nghe đến lần thứ hai thì hốt hoảng, vội đi báo tin cho phú trưởng giả biết. Nghe thủ từ nói, phú trưởng già cũng không kém hốt hoảng, vội mang khăn áo tới đền với một mâm cỗ để nghe Đức Ông phán bảo. Khi hắn đang lễ xì xụp thì tiếng ở trên tượng truyền xuống bảo hắn phải cạo đầu quy y một thời gian mới mong tai qua nạn khỏi. Hắn toát mồ hôi, vâng vâng dạ dạ. Cuối cùng, hắn đành nhờ người cạo phăng mớ tóc và mặc đồ nâu sồng xin hòa thượng cho vào ở chùa để mong Phật che chở như lời Đức Ông truyền. Nhưng được mấy ngày sau, Đức Ông lại bảo người từ giữ đền gọi hắn đến. Khi lão phú trưởng giả và mọi người đang quỳ lom khom đợi Đức Ông bảo ban, thì sáo ta từ bức tượng bay ra nói với chúng: - Hãy mở mắt ra mà nhìn đây! Tao đây chả phải thần thánh gì cả. Chỉ vì mày làm tao đau đớn suýt chết nên tao phải báo thù mày một phen. Nói đoạn, sáo cười lên một thôi rồi sà xuống mâm mổ lấy mổ để. Cái đầu trọc của phú trưởng giả ngửng lên, và khi thấy được sự thực, hắn giận tràn hông, nhảy xô lại định bắt giết con sáo cho hả giận, nhưng sáo ta đã bay ra khỏi đền và đi mất...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-sao-va-phu-truong-gia" }
Người thợ đúc
Xưa có đức thánh Khổng Lồ, chuyên trông nom về nghề đúc và nghề rèn ở hạ giới. Đức thánh thường thân hành đi lại các nơi; khi giáng xuống miền này, lúc hiện ra xứ nọ, thành người trần, để tìm cách dạy thêm cho những người thợ về kỹ xảo. Nhưng trong khi theo dõi việc dạy nghề, đức thánh nhận thấy đám đệ tử của mình có những kẻ còn phạm thói lọc lừa điên đảo. Bởi vậy, đức thánh lại phải để tâm chữa cả thói hư tật xấu của họ. * Có một người thợ đúc rong vai quảy đôi bồ trong có đủ các thứ đồ nghề linh tinh như lò bễ, khuôn, kéo, kìm, cặp, v.v... miệng thỉnh thoảng cất tiếng rao: - "Ai đúc nồi, đúc sanh, đèn, chiêng, thanh la, bình hương, bình hoa, biến cũ thành mới không?". Vốn nghề nghiệp thành thạo, nên hễ có ai gọi đến, ông chỉ lúi húi làm một vài ngày là xong. Thế rồi cơm ăn tiền lấy, ông lại quảy gánh lên vai chuyển từ làng này sang làng khác. Một hôm, từ sáng sớm, người thợ đúc đang bước rảo cho kịp phiên chợ. Đang đi, ông bỗng gặp một chàng trai trẻ tuổi, vai cũng quảy đôi bồ. Gã trai thấy ông thì đứng lại chào một cách cung kính, rồi nói: - Xin cho hỏi thăm một tý. Con theo thầy con học nghề đã mấy tháng nay, không may hôm trước đây, khi qua rừng, thầy trò lạc nhau, tìm suốt mấy ngày không ai biết cả. Xin hỏi ông, ông có gặp một người tên là Chu, trạc ngoài năm mươi, người cao cao, râu quai nón hay không? Người thợ đúc lắc đầu: - Ta không hề gặp một người nào như vậy. Dừng một lát, anh chàng nói tiếp, vẻ khẩn khoản: - Thật khổ quá! Con học với thầy bấy lâu có biết nghề đúc chút đỉnh, còn muốn học thêm cho thành thạo, không ngờ thầy trò mỗi người đi một đường. Bây giờ xin ông cho đi theo, con xin gánh gồng và hầu hạ chu tất. Chỉ cốt học được nghề cầm tay, ngoài ra không có ý gì khác. Chẳng hay ông có lòng thương hạ cố được không? Người thợ đúc thoạt đầu nhìn anh chàng thấy đã có vẻ ngờ nghệch, nay nghe nói thế thì tỏ ý coi khinh. Ông ta nghĩ bụng: - "Đi đúc rong thì chỉ một mình mình cũng đủ, đến đâu đã có sẵn người của chủ nhà cung ứng đó rồi. Giá thử có một người quảy gánh cho thì vẫn là đỡ mệt nhưng sức mình còn khỏe, cũng chưa cần lắm. Vả chăng được một vài quan tiền công, không lẽ không chia cho người học việc". Bèn đáp: - Ta trông anh còn trẻ người non dạ, nhìn bàn tay còn trắng trẻo chưa sém tý nào. Học cái nghề này không phải dễ. Thôi, anh hãy trở về đi cày còn hơn! Nghe nói, anh chàng chắp tay cầu khẩn: - Con cũng đã biết đúc võ vẽ, thầy hãy cho con theo. Nếu làm không được, hay hầu hạ sơ suất thì lúc đó thầy đuổi con đi cũng không muộn! Thấy hắn kêu nài và cam đoan trung thành với mình, người thợ đúc bỗng đổi ý kiến, nhận lời. Chàng trai đổi buồn làm vui, sụp xuống làm lễ "bái sư", rồi trút các thứ đồ nghề, nhập gánh của mình với gánh của thầy làm một, đoạn quảy gánh lên vai đi theo ông thầy mới. Chưa đến chợ, đã có khách hàng đón thầy trò về nhà thuê đúc một chiếc sanh cỡ lớn. Ngã giá, thầy trò bắt tay vào đắp khuôn dựng lò thụt bễ, loay hoay trong mấy buổi đã làm xong. Nhưng qua công việc, người thợ đúc nhận thấy anh chàng học việc của mình còn vụng về hết sức, dường như chưa biết cái gì cả. Bởi thế, sau khi từ giã nhà chủ ra đi, trên đường, người thợ đúc cất tiếng mắng anh ta: - Tao nghe mày nói có biết nghề võ vẽ nên tao mới nhận, có ngờ đâu mày chỉ là đồ ăn hại. Ông ta không ngờ anh chàng học nghề không tỏ vẻ gì là thẹn thùng hay bối rối, chỉ ngước mắt nhìn mình rồi bình thản trả lời: - Thưa thầy, con đi theo thầy cũ của con, học được cách đúc khác kia, chứ không phải như cách đúc của thầy vừa rồi. Người thợ đúc ngạc nhiên, vội hỏi: - Sao? Mày nói mày học được cách đúc khác là đúc thế nào? - Thầy con không đúc nồi niêu, sanh chảo, bình hương, bình hoa, mà là đúc người: đúc người già thành người trẻ, đúc người xấu thành người tốt. Người thợ tưởng hắn mất trí nên càng sửng sốt: - Ô, mày nói gì lạ vậy? Tao chưa từng nghe điều đó bao giờ. - Thưa thầy thật đó ạ! Cách đúc cũng dễ, không khó khăn nặng nhọc gì lắm. Chỉ nhờ vào mấy cái khuôn của thầy con để lại, có mang theo đây. Nói rồi anh giở khuôn cho người thợ đúc xem. Trong khi thầy tò mò nhìn từng cái khuôn lạ, thì trò lại nói thêm: - Thưa thầy tuy con mới học võ vẽ, nhưng làm cũng dễ lắm, mà lại được nhiều tiền. Mỗi chuyến thầy làm nhiều lắm cũng bốn năm quan. Nhưng mỗi chuyến thầy cũ của con làm thì được những một hai trăm quan là thường. Người thợ đúc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nhưng thấy hắn ăn nói có vẻ chân thật, nên cuối cùng bụng cũng hơi tin. Sau đó lại hỏi: - Anh có tự tay đúc được như anh nói không? - Thưa thầy, thầy con đã từng cho con tự tay làm lấy một mình, nên chắc chắn có thể làm được. - Thế thầy anh rao hàng thế nào? - Thầy con thường rao thế này: "Nào ai muốn đúc người xấu thành tốt; da mồi tóc bạc đúc thành nhan sắc nõn nà; ông lão tám mươi thành đứa trẻ mười ba; bảy mươi đúc thành mười bảy không nào?". Nghe rõ đầu đuôi, càng thêm tò mò, người thợ đúc chỉ muốn anh học nghề làm ngay cho mình xem tận mắt, liền bảo hắn: - Thôi bây giờ tôi hãy tạm nghỉ công việc của tôi, để xem cách làm ăn của anh chút đã, anh cứ rao như thế đi! Nếu có ai thuê, thì anh thử làm cho tôi xem. Nhưng nên nhớ nếu có xảy ra việc gì thì tôi không biết đâu đấy nhé! Từ giờ phút đó, thầy nhường cho trò rao và liệu tính hết mọi việc. Đến một làng nọ, một người phú hộ nghe tiếng rao liền gọi vào hỏi: - Bảy mươi đúc thành mười bảy là thế nào? Chàng trẻ tuổi đáp: - Cũng như nồi cũ đúc thành nồi mới thôi! Nhưng đây là đúc người: xấu xí ra xinh giòn, già yếu thành trẻ khỏe. Nhà chủ nói: - Tôi có ông cụ, tuổi đã ngoài bảy mươi, yếu lắm nằm liệt đã mấy năm nay, nếu đúc cho trẻ và khỏe lại được thì hay quá! Nhưng anh lấy bao nhiêu tiền công? - Tôi lấy rẻ ông một trăm năm mươi quan, và cơm ăn cho cả hai thầy trò. Ngoài ra, phải có hai mươi sảo than, mượn cho tôi một cái bung ba mươi và dọn cho tôi một gian buồng kín, không để một ai được nhòm vào. - Nếu làm được thì trăm rưởi quan cũng không đắt, nhưng vị phỏng chết người thì thế nào? - Nếu chết thì tôi xin bồi mạng. Tôi sẽ biên giấy cam đoan cho ông. Người thợ đúc từ đầu đã chăm chú theo dõi việc làm của anh học nghề. Ông thấy anh ta có vẻ thông thạo. Trước hết, anh xin giấy bút viết ngay tờ cam đoan. Trong giấy, anh hứa nếu làm không xong thì không nhận tiền, hoặc nếu làm cho khách hàng chết hay bị thương tích gì thì xin chịu tù tội. Thế rồi ung dung chờ cho cơm nước vào đâu đấy, anh dẫn thầy vào buồng kín lấy khuôn ra tô đi nặn lại, vừa làm vừa bày vẽ từng tý cho thầy. Công việc chỉ trong một buổi là xong. Chiếc bung được bắc lên một bếp lửa hồng. Đoạn, anh đưa ông già vào buồng lột áo quần đánh nhẹ một cái. Ông già ngã lăn ra chết. Không bối rối chút nào, anh đưa xác ông già bỏ vào bung, đổ nước vào, rồi vừa thụt bễ vừa đảo. Sau ba ngày ba đêm nước trong bung đã trở nên quánh. Cuối cùng anh bưng bung nước ấy đổ tất vào khuôn. Đợi nguội ba ngày ba đêm nữa, anh mới tháo khuôn ra. Quả nhiên có người từ trong đó dần dần cựa quậy, rồi nhỏm dậy bước ra, mặt mũi vẫn còn phảng phất hình trạng ông già, nhưng má hóp hóa thành má căng, tóc bạc đã trở nên đen nhánh. Suốt mấy ngày người đúc hồi hộp chờ đợi, giờ đây mới thở phào khi người chết đã sống lại, lại khỏe và trẻ đúng như lời rao. Chủ nhà thấy bố mình được "cải lão hoàn đồng" thì mừng rỡ bội phần. Ông ta vội mang tới đặt lên bàn một trăm năm mươi quan tiền bó mo cùng nhiều tặng vật, rồi tỏ lời cảm ơn hai thầy trò. Anh chàng học nghề chia ngay cho thầy mình một nửa. Người thợ đúc sung sướng quá đỗi, ngợi khen chàng trai hết lời. Trong bụng ông ta thầm nghĩ: - Kể ra làm cũng chẳng khó mà lại được nhiều tiền. Thế mà từ lâu không ai biết cả. Hai thầy trò từ giã nhà chủ ra đi. Tới một làng khác, một ông lái buôn giàu có gọi họ vào để thuê đúc lại người vợ cả lưng đã gù, răng đã rụng. Công việc lại diễn ra hệt như trước: cũng viết giấy cam đoan, cũng đưa khuôn ra đắp, rồi cũng đánh chết bà già bỏ vào bung. Nhưng lần này thì người thợ đúc không còn hồi hộp. Hắn xắn tay áo giành lấy công việc ở người học trò và chịu khó làm đủ mọi chuyện. Sau sáu ngày sáu đêm chờ đợi, khuôn được tháo ra. Quả nhiên, bà lão đã biến thành người tố nữ làm cho ai nấy đều trầm trồ kinh ngạc. Khi cầm lấy những quan tiền tốt của anh học nghề trao cho, người thợ đúc suy nghĩ: - "Tất cả phép lạ đều ở trong cái khuôn kia cả. Chỉ nhờ có mấy cái khuôn của ông thầy hắn để lại mà làm ra bộn tiền. Hừ! Một cái nghề ngon ăn biết bao nhiêu! Có lẽ trẻ con nó cũng làm được. Tội gì mà không chiếm lấy để một mình hưởng lợi!". Nghĩ vậy, một hôm vừa đến một làng kia, người thợ đúc liền đến trình xã trưởng, vu cho anh học nghề của mình đã ăn cắp mấy nén bạc. Chàng trai cố sức cãi lại nhưng anh không làm sao minh oan được vì lúc giở ra khám, mấy nén bạc có đánh dấu không biết tại sao lại nằm lù lù trong "ruột tượng" của anh. Cuối cùng anh bị xã trưởng cho đóng gông lại để giải lên quan. Người thợ đúc bèn chiếm lấy tất cả đồ nghề rồi quảy gánh đi miết. Hắn đi đến một làng xa mới dừng lại, nhận đúc thuê cho một nhà nọ để "cải lão hoàn đồng" một ông già ngoài tám mươi tuổi. Bắt chước người học trò, hắn cũng làm giấy cam đoan tử tế, rồi cũng giở khuôn ra tô tô đắp đắp như kiểu hắn đã được chỉ vẽ. Khi đưa ông già vào buồng, hắn cũng choảng cho ông già một vố chết lăn, đoạn bắt tay vào những công việc như hắn đã làm lần trước. Nhưng khốn thay, sau mấy ngày đêm, mở nắp khuôn ra, hắn giật mình vì nước vẫn không đông lại thành người. Hết sức lo sợ, hắn lại cố chờ thêm ba ngày ba đêm nữa mà vẫn không thành công. Mấy người con ông già chờ mãi không được, bèn phá cửa buồng mà vào. Hắn hoảng quá, xin khất thêm ba ngày ba đêm nữa. Lại ba ngày ba đêm nữa trôi qua. Cuối cùng khi mở nắp khuôn hắn mới thật sự tuyệt vọng. Mấy người con ông già xông lại, bắt trói người thợ đúc đánh cho một trận thừa sống thiếu chết, rồi đóng gông để giải lên quan. Trên đường đi, cổ mang gông, mình thâm tím vì đòn, người thợ đúc chợt thấy sự trừng phạt về lòng tham lam gian giảo của mình. Hắn hết sức hối hận. Mồm hắn hết lời cầu khẩn đức thánh Khổng Lồ, hứa xin chừa mọi thói hư tật xấu, và xin đức thánh run rủi cho anh học nghề trở lại để cứu hắn khỏi tử tội. Hắn lầm rầm cầu khẩn suốt mấy ngày trời. Đến ngày thứ ba, lúc hắn đang bị tuần áp giải từ xã lên huyện, vừa ghé vào quán nghỉ chân thì bỗng thấy người học nghề của mình đang ngồi uống nước ở quán. Người thợ đúc liền sụp lạy như tế sao, và xin anh học trò hãy rón tay làm phúc. Anh học trò cười mà rằng: - Chính ta là Khổng Lồ đây. Ta không ngờ bụng dạ của lũ các ngươi lại nham hiểm đến thế. Đáng lý ta còn trị tội nặng hơn nữa, nhưng đã tỏ lòng hối hận thì cũng tha cho. Các ngươi phải lo bảo nhau: đã đi làm cái nghề của ta thì không được dối trá lường gạt người khác. Dù có nghèo khổ đến đâu, lương tâm cũng phải cho trong sạch. Nói vừa dứt lời thì vụt một cái, mọi người không thấy anh học trò đâu nữa. Nhưng giữa lúc đó, từ ngoài cửa, một người con của ông già đã hộc tốc bước vào, nói không ra hơi: - Thôi đừng giải người ta đi nữa. Bố tôi đã sống lại rồi, hiện đang cựa quậy ở trong khuôn. Người ta nói từ đấy về sau những người làm nghề đúc ai cũng sợ đức thánh Khổng Lồ; không một ai dám gian trá khi hành nghề, nhất là đã cùng làm với nhau thì không bao giờ lừa dối nhau...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-tho-duc" }
Mưu con thỏ
Ngày ấy trên rừng không có miếng gì ăn, một chú thỏ mò xuống một ruộng khoai bới trộm. Ngờ đâu chủ ruộng đã nấp sẵn ở túp lều bên cạnh, ập đến tóm ngay lấy thỏ. Thỏ ta giả bộ chết nằm sóng soài. Chủ ruộng khoai lật đi lật lại mấy lần không thấy thỏ động cựa tin là chết thật, vội nắm lấy tai xách về. Đến một cái quán bên đường, hắn vứt thỏ xuống gốc cây, thỏ cũng không chạy. Nhưng thừa dịp người ấy vào hàng uống nước, thỏ ta chồm dậy trốn mất. Qua mấy ngày đi thất thểu, thỏ không làm sao kiếm được miếng gì vào bụng. Đói quá, thỏ lại lần xuống ruộng khoai hôm nọ bới trộm. Không may, lần này lại bị chủ ruộng tóm được. Biết thỏ ranh mãnh hay giả chết, hắn trói nghiến thỏ lại mang về nhà. Đến nơi, hắn bảo vợ: - Bu mày nhốt nó vào nơm, mai kia ngày giỗ ta giết thịt! Thế là thỏ bị nhốt kín trong nơm, trên nơm đè một hòn đá nặng. Thỏ loanh quanh luẩn quẩn vùng vẫy mọi cách, nhưng không thể nào thoát được. Đang khi hết cả mưu kế thì chợt trông thấy gần nơm mình có một chậu nước. Trong chậu có một con cá quả lớn đang quẫy, thỏ khẽ gọi: - Cá ơi! Mày có biết mày sắp đến ngày tận số rồi không? Mai là ngày giỗ, chủ nhà nó bắt mày làm thịt đó! Có muốn thoát hãy vùng mạnh lên nữa cho vỡ chậu mà lóc ra ao. Cá nghe nói, càng quẫy mạnh, quả nhiên, chậu vỡ làm ba mảnh. Nước lênh láng cả mặt đất. Cá ngoe nguẩy cố lóc ra phía hờ ao. Thỏ cho cho cá lóc gần đến bờ ao mới làm bộ hốt hoảng gọi chủ nhà mau mau ra bắt cá. Cả vợ chồng lẫn con cái cuống quýt khi trông thấy cá đã trườn xuống ao. Đứa con chủ nhà giật vội lấy cái nơm nhốt thỏ chạy ra úp cá. Thỏ không đợi dịp nào may mắn hơn thế nữa, hướng lên phía rừng chạy một mạch. Chạy một lát, thỏ gặp một con sông rộng. Thật là cùng đường vì chả có cách nào vượt qua cả. Trong khi bối rối thì vừa gặp một con cá sấu đang ghếch mũi lên bãi sông, miệng thở phì phì. Thỏ tươi cười gọi to: - Anh sấu ơi! Hãy cõng tôi qua sông rồi tôi sẽ gả chị tôi cho anh. Chị tôi đẹp lắm kia. Nghe thỏ tán bùi tai, sấu gật đầu. Thỏ nhảy lên ngồi trên lưng sấu, sấu rẽ sóng bơi sang bờ bên kia. Gần đến nơi, thỏ đã làm một phóc nhảy lên bờ. Thỏ rảo bước nhưng không quên chọc tức sấu: - Cảm ơn nhé! Nhưng chị tao còn để gả chỗ khác chứ có phải thừa đâu mà gả cho mày, sấu ơi! Bị gạt, sấu giận điên cuồng, nghĩ bụng phải báo thù cho được. Một hôm, thỏ đi chơi, nhân khát nước cồn cào mới mò ra sông uống. Sấu đã trông thấy thỏ từ xa, liền đội một đống cỏ lên đầu, khẽ bơi đến gần thỏ. Ngỡ là đống cỏ trôi trên mặt nước, thỏ nhảy lên toan kiếm miếng ăn. Nào ngờ sấu đã tóm ngay được. Sấu ngậm thỏ vào răng, gầm gừ tỏ bộ tức giận. Thỏ bỗng cười phá lên: - Cái giống nhà mày, "hừ hừ" như dọa trẻ con, chả ai sợ cả. Chỉ có "hà hà" thì tao mới sợ thôi! Nghe nói, sấu vội mở miệng "hà hà" mấy tiếng, nhưng thỏ đã nhanh chân làm một phóc lên bờ. Thỏ dừng lại cười khanh khách hồi lâu rồi ung dung đi thẳng...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/muu-con-tho" }
Sự tích núi Bà Đen
Theo dân gian kể lại rằng, bà Đen tên thật là Lý Thị Thiên Hương, con của ông Lý Thiện – vị quan trấn nhậm Trảng Bàng triều Nguyễn và bà Đặng Ngọc Phụng – một người gốc Bình Định. Nàng vốn xinh đẹp, con nhà gia giáo nên được nhiều người để ý. Trong làng có chàng trai tên Lê Sỹ Triệt mồ côi cả cha lẫn mẹ, may được nhà sư Trí Tân nuôi dưỡng nên văn hay võ giỏi cũng tỏ lòng cảm mến nàng. Một vị quan nọ muốn bắt cóc Thiên Hương về làm thiếp, đã sai một thầy võ tên Châu Thiện hành hung nàng trên đường lên núi cúng Phật. Giữa lúc nguy khốn, Lê Sỹ Triệt dũng cảm xông ra bảo vệ nàng. Cảm động trước tầm lòng nghĩa hiệp của chàng, Thiên Hương đã về thuật lại với cha mẹ và được cha mẹ đồng ý gả cho Lê Sỹ Triệt. Tuy nhiên hai người chưa kịp lấy nhau thì Lê Sỹ Triệt phải ra tòng quân. Thiên Hương hứa ở nhà giữ trọn danh tiết chờ chồng. Ngày nọ, nàng lại lên núi lễ Phật và thăm dưỡng phụ của chồng là nhà sư Trí Tân thì bị bọn Châu Thiện vây bắt, toan làm nhục. Thiên Hương chạy cùng đường thì nhào xuống khe núi tử tiết. Ba hôm sau, Thiên Hương báo mộng cho vị sư Trí Tân, trong hình dáng một người phụ nữ đen đúa kể lại sự tình: – Đệ tử là Thiên Hương 18 tuổi, chẳng may bị gia nô của quan huyện Trảng Bàng vây bắt, phải nhảy xuống khe núi quyên sinh tử tiết. Nhờ căn tu kiếp trước nên xác 3 ngày vẫn còn nguyên, kính xin sư phụ xuống triền núi đông nam tìm thi hài đệ tử về mai táng giùm. Vị hòa thượng theo lời báo mộng lên núi tìm thấy xác Thiên Hương, đem về chôn cất đàng hoàng. Vì người phụ nữ báo mộng rất đen đúa nên vị sư gọi là nàng Đen. Người đời sau gọi là Bà Đen để tỏ lòng tôn kính. Chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi phải chạy đến Trảng Mang Chà vùng bùng binh hiện nay. Nghe tin đồn sự tích núi Bà Đen linh thiêng, Nguyễn Ánh liền sai quan phi ngựa lên cầu nàng mách giùm cách thoát nạn. Thiên Hương báo mộng mách Nguyễn Ánh qua Xiêm tá binh để chờ sau khôi phục cơ nghiệp, đồng thời chỉ đường chạy thoát thân cho. Câu chuyện sự tích núi Bà Đen được đồn đại đến tai Thượng Quốc công Lê Văn Duyệt. Vị quan quyết chí tìm hiểu sự thực và hứa sẽ dâng sớ với vua phong chức cho cô gái họ Lý này nếu cô hiển linh. Một hôm, nàng Thiên Hương nhập vào xác một cô gái để trò chuyện với Quốc công: – Hồn của thượng quan sau này sẽ được hóa thần nhờ tài đức, tuy nhiên phần xác sẽ bị hành hạ không vẹn toàn. Vị quan thanh liêm đáp lời: – Bổn chức không hỏi tương lai của mình, mà chỉ muốn biết căn nguyên nỗi oan của nàng. Cô gái rưng rưng nước mắt kể lại cái chết oan khiên, theo đó do chưa chung sống với chồng, nàng đã được trở thành tiên thánh và được cử xuống phàm trần để cứu nhân độ thế. Dứt lời cô gái bất tỉnh, mãi lâu sau mới dậy. Lê Văn Duyệt đã thay mặt vua phong cho nàng Thiên Hương làm “Linh Sơn Thánh Mẫu”, ngụ ở núi Một Cột. Từ đó núi thay tên là núi Bà Đen.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-nui-ba-den" }
Khổng Lồ đúc chuông hay là sự tích trâu vàng Hồ Tây
Vào đời nhà Lý có một người gọi là Khổng Lồ. Nhìn thấy thân thể ông, các tay lực sĩ trong triều ngoài quận đều khiếp sợ, mặc dầu ông chưa từng đọ sức với ai. Từ trẻ Khổng Lồ đã đi tu, ông thường đi chu du thiên hạ. Vật tuỳ thân của ông có một cây gậy sắt nặng không thể tưởng tượng được. Lại có một cái đãy rất màu nhiệm. Đãy trông không khác gì những đãy thường nhưng có thể bỏ lọt vào đấy bao nhiêu đồ vật to lớn, cồng kềnh. Dù chất chứa thế nào đãy cũng không đầy và không to thêm. Buổi ấy nhà vua cần rất nhiều đồng để đúc các khí vật thờ phật, nhưng ngặt vì ở đất Việt không có đồng đen. Nghe tiếng Khổng Lồ, nhà vua cho triệu đến kinh nhờ sư đi sang Trung-quốc quyên giáo. Khổng Lồ nhận lời và xách đãy đi về phương Bắc. Sau bao nhiêu ngày trèo non lội suối, Khổng Lồ đã đến kinh đô Trung-quốc. Thấy một nhà sư to lớn đi vào yết kiến, vua Trung-quốc lấy làm lạ hỏi: - Hoà thượng từ phương nào lại và đến đây làm gì? Ông đáp: - Chúng tôi đến cầu bệ hạ một ít đồng đen để mở rộng Phật pháp trong nước Đại-việt. Vua ngỡ là còn nhiều người theo ông nữa, bèn hỏi: - Quý quốc cần dùng bao nhiêu đồng? Hoà thượng đem sang cả thảy bao nhiêu đồ đệ? Khổng Lồ giơ đãy lên và tâu: - Kẻ hạ thần chỉ sang có một mình và chỉ xin một đãy này là đủ. Thấy cái đãy bé tý, vua Trung-quốc mỉm cười: - Hoà thượng có lấy cả trăm đãy, trẫm cũng vui lòng huống gì là một đãy. Đoạn vua sai nội thị mang lệnh chỉ cho quan giữ kho, mở kho đồng đen cho Khổng Lồ muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Trước khi vào kho phải đi qua một cái sân rộng. Ở đó có một cái nền gạch, trên nền dựng tượng một con trâu bằng vàng to như một cái nhà, sáng choé cả một vùng trời đất. Quan giữ kho chỉ vào trâu rồi hỏi đùa Khổng Lồ: - Hoà thượng có cần dùng cả con trâu này không? - Không, tôi chỉ cần một ít đồng đen mà thôi. Rồi đó Khổng Lồ trút tất cả đồng đen lọt thỏm vào trong đãy của mình mà đãy vẫn còn vơi. Đoạn Khổng Lồ mắc đãy vào một đầu gậy quảy về nước. Quan giữ kho thấy hết nhẵn cả đồng, vội vã đem sự tình tâu cáo cho vua mình biết. Vua Trung-quốc không ngờ có sự phi thường như thế, lấy làm hối và tiếc bèn sai 500 quân sĩ đuổi theo Khổng Lồ. Lúc ấy mặc dầu gánh nặng đè lên vai, nhưng sư cũng đã đi được ba trăm dặm đường. Vừa đến một khúc sông rộng, ông bỗng nghe có tiếng reo dậy trời ở sau lưng. Ông ngoảnh cổ lại thấy bụi bốc mịt mù, đoán biết là vua Trung-quốc đã cho quân đuổi theo. Ông lật đật thả chiếc nón tu lờ xuống nước, đặt đãy lên, rồi vừa bơi vừa đẩy qua sông. Bọn quân sĩ vừa đến bờ thì Khổng Lồ đã ra đến giữa sông rộng. Bọn chúng đánh lừa nói rằng: - Hoà thượng hãy chờ một tí, hoàng đế cho chúng tôi khiêng giúp đồng và hộ tống ngài về. Nhưng Khổng Lồ nói với lên: - Bần tăng gửi lời về cám ơn lòng tốt của hoàng đế. Còn như cái đãy này để mặc bần tăng mang lấy, đâu dám làm phiền đến thiên sứ. Bọn lính biết là không thể đuổi nổi bèn quay trở lại. Sau đó Khổng Lồ đi cứ theo dọc bờ biển, đi bộ lần về phương Nam. Đến một cửa sông, ông gặp một chiếc tàu lớn sắp sửa kéo buồm sang nước Việt. Khổng Lồ đặt đãy ở bến, đến gặp người chủ tàu xin cho đi nhờ. Chủ tàu thấy một mình hoà tượng với một chiếc đãy, ước lượng không nặng thêm cho tàu bao nhiêu nên vui lòng cho ông đi. Nhưng khi một thuỷ thủ xuống bến xách đãy hộ cho nhà sư lên tàu thì anh ta cảm thấy chưa có vật nào nặng đến như thế. Người thứ hai xuống giúp cũng chịu. Người thứ ba, người thứ tư cho đến khi tất cả mọi thuỷ thủ trên tàu cùng hè nhau khiêng, ai nấy đều phải lắc đầu vì chiếc đãy vẫn không hề nhúc nhích. Bấy giờ Khổng Lồ ở trên tàu xuống, cười và bảo: - Để bần tăng tự mang lên cho, không phiền đến các người! Nói rồi một tay xách đãy, một tay cầm nón và gậy bước lên tàu trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Thấy tàu quá nặng, nước mấp mé then, mọi người ngần ngại không dám nhổ neo. Khổng Lồ bảo họ: - "Các người chớ ngại, ta quyết không để cho tàu chìm đâu". Thuận buồm xuôi gió, tàu rẽ nước đi băng băng. Được mấy ngày bỗng xảy ra một trận phong ba dữ dội. Một con ngô công mình dài trăm trượng, miệng há đỏ như lửa đang vẫy vùng giữa sóng gió chồm đến toan nuốt cả tàu. Mọi người ngồi trên chiếc tàu chòng chành, vô cùng kinh sợ. Khổng Lồ nói to: - Các người cứ ngồi yên mặc ta diệt trừ con quái vật! Nói đoạn sẵn có quả bí lớn, ông cầm lấy đứng ở miệng mũi tàu ném vào miệng ngô công. Ngô công vừa đớp lấy thì ông đã nhảy xuống nước cầm gậy đánh vào mình nó. Ngô công chạy không kịp bị gãy xương, đứt làm ba đoạn và hiện thành ba hòn đảo nổi lên giữa biển. Ngay sau đó, sóng gió yên lặng, tàu lại đi một mạch về tới đất Việt. Về tới kinh đô, Khổng Lồ vào chầu vua và kể lại mọi việc.Vua sai sư đem đồng ra đúc thành bốn thứ bảo khí thờ Phật để cho mọi người ngưỡng mộ và truyền lại ngàn đời sau. Khổng Lồ bèn cho gọi bao nhiêu thợ đúc tài giỏi trong nước đến, rồi mở đãy lấy đồng ra chia làm bốn phần. Đầu tiên ông cho đúc một cái tháp cao 9 tầng gọi là tháp Báo-thiên. Tháp đúc xong hiện ra giữa kinh thành vòi vọi đứng đâu cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng phật cao vừa 6 trượng, một cái đỉnh to vừa bằng mười người ôm. Rồi còn bao nhiêu đồng, Khổng Lồ cho đúc một quả "hồng chung"- chuông đúc xong lớn không thể tưởng tượng được, đến nỗi khi đánh lên hồi đầu tiên, tiếng ngân vang cùng khắp bốn cõi, vang sang đến tận bên Trung-quốc. Lại nói chuyện con trâu vàng nằm trước kho đồng của vua Trung Quốc khi nghe tiếng chuông, tự nhiên như được thức tỉnh dậy. Vì đồng đen là mẹ của vàng cho nên do tiếng ngân, nó biết là mẹ của nó đã ở nước Việt. Nó bèn đứng dậy vươn người rồi ba chân bốn cẳng chạy một mạch sang Nam, không một sức nào có thể cản nổi. Cuối cùng nó tìm đến quả chuông do Khổng Lồ mới đúc, hôn hít hồi lâu rồi nằm xuống bên cạnh. Thấy việc không ngờ lại xảy ra như thế, Khổng Lồ tự nghĩ nếu để chuông lại thì mỗi lần đánh chuông, vàng trong bốn biển sẽ qui tụ cả lại vào trong nước mình. Như thế sẽ rất nguy hiểm vì gây hiềm khích với tất cả mọi nước. Ông bèn tâu vua xin đem quả chuông ném cho mất tích để tránh một cuộc binh đao tai hại có thể xảy tới. Nhận thấy lời tấu có lí, vua cũng bằng lòng. Ngày ném, Khổng Lồ đứng trên núi xách quả chuông vứt xuống hồ Tây. Chuông bị tung lên không bay ra giữa hồ, vang lên một hồi rất dữ dội. Con trâu vàng nghe tiếng, vội theo mẹ nó nhảy ngay xuống hồ. Từ đó về sau thỉnh thoảng những lúc thanh vắng, người ta vẫn thấy quai chuông nổi lên mặt nước. Còn con trâu vàng đôi lúc lên bờ hồ đi dạo, hễ thoạt thấy bóng người là lặn xuống ngay. Cũng vì câu chuyện trên mà hồ Tây còn có tên là vực Kim-ngưu (Trâu vàng). Riêng Khổng Lồ về sau được thợ đồng thờ làm thần nghề đúc đồng...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/khong-lo-duc-chuong-hay-la-su-tich-trau-vang-ho-tay" }
Hầu Tạo
Ở làng Tuần-lễ thuộc xứ Nghệ có một anh chàng tên là Tạo. Tạo sinh ra có một nốt đỏ trong vành tai, người ta cho là có tướng lạ. Chàng chẳng những có sức khỏe như voi mà còn có mưu lược hơn người. Thưở nhỏ, Tạo đi học thường được thầy khen văn hay và viết nhanh. Nhưng anh học trò ấy chẳng thích chuyện thi cử đỗ đạt mà chỉ muốn đua sức mạnh, nên sau đó bỏ văn sang học võ. Sau mấy năm luyện tập đủ nghề khiên mộc giáo roi và binh thư đồ trận, chàng để mẹ và vợ ở nhà, đi lang thang khắp mọi miền. Chàng kết giao với nhiều bạn ở các vùng sông La, sông Lam, đi lại khoảng ngàn Trươi, ngàn Hống. Và chàng đã tai nghe mắt thấy rất nhiều những việc bất bình trong thiên hạ. Thấy con nay đây mai đó, mẹ Tạo gọi con về, bắt phải chăm lo việc nhà. Chàng xưa nay rất thương mẹ và không muốn làm trái ý mẹ, đành trở về cày ruộng làm ăn. Nhưng tuy cầm lấy cái cày, bụng chàng còn nghĩ đến những hảo hán, bạn chàng ở bốn phương. Một hôm, trong một canh xóc đĩa, chàng thua rền: có bao nhiêu tiền để dành của mẹ, chàng trộm ra nướng sạch. Đêm ấy, vì không muốn để mẹ than phiền, Tạo tính chuyện vào nhà một tên trọc phú bên cạnh làng làm một mẻ. Nhà này đường ngang ngõ tắt, chàng đã biết hết. Cũng tưởng lọt vào êm như ru, nhưng không may cho chàng, vừa khoét vách lọt vào đã bị chúng phục sẵn chẹn bắt ngay, không kịp chống đỡ gì hết. Sa cơ, chàng bị chúng trói lại và giải lên quan. Nhưng Tạo không để mình bị giam lâu. Ở trong ngục, chàng tìm cách bẻ được xiềng sắt rồi trèo tường vượt ra ngoài. Thấy người ta truy nã mình ráo riết, chàng không dám về nhà nữa. Chàng rủ bạn bè đi làm giặc. Từ đó, chàng làm cho bọn nhà giàu và bọn quan lại sợ mất mật. Mọi người theo chàng rất đông. Chàng tự xưng tước hầu và lập đồn trại ở truông Mây. Nhà vua nghe tin quân truông Mây nổi loạn, sai Lê Văn Duyệt ra trấn Nghệ An tìm cách tiêu trừ. Bao nhiêu lần quan quân tiến vào truông Mây là bấy nhiêu lần bị quân của Tạo đánh cho tan tác. Lê Văn Duyệt kinh sợ bèn yết bảng treo giải một trăm nén vàng và chức tước lên cho kẻ nào bắt sống hoặc giết chết Tạo, người có nốt đỏ ở tai. Tạo nghe tin, bèn cho quân sam đủ cờ quạt võng lọng, rồi chọn lấy năm mươi người cải trang làm một đoàn quân đặc mệnh của nhà vua phái đi thanh tra các trấn. Tạo mặc áo gấm rất oai vệ, nằm trên cáng có diềm xanh diềm đỏ, có kẻ hầu trap, hầu điếu, v,v.... rồi cả đoàn tiến vào thành Nghệ An, Quân sĩ của Duyệt thấy một đội quân gươm tuốt trần, giáo mác súng ống tề chỉnh, đi trước có một lá cờ đề hai chữ "khâm sai" thì không nghi ngờ gì nữa, vội vã rước vào rồi chạy đi báo cho quan trấn thủ biết. Lê Văn Duyệt tưởng thật ra khúm núm lạy chào, đưa Tảo cùng vào quan sảnh. Duyệt chưa nói câu nào thì Tảo đã bảo ngay: - Nhà ngươi mấy lần ra trấn xứ Nghệ đã biết mặt Tạo ra thế nào chưa? Duyệt cung kính đáp: - Dạ, chưa biết mặt. - Tao đây chính thị là Hầu Tạo. Đây, nốt đỏ trong vành tai tao đây này. Duyệt lấm lét nhìn, kinh sợ, chưa biết nên làm thế nào, thì Tạo đã nói: - Hãy ngồi im, hễ rục rịch tao giết. Nghe tao hỏi đây. Tao có tội gì mà treo giải bắt? Duyệt trấn tĩnh đáp: - Ta thay mặt triều đình làm trấn thủ một phương, ai ai cũng thán phục, chỉ có mình ngươi là không quy thuận, nên ta phải vâng lệnh nhà vua tầm nã. Bây giờ xin tặng ngươi một trăm nén vàng và ba trăm nén bạc, ngươi hãy làm bạn với ta, ta sẽ tâu nhà vua tha tội, và cho làm một chức quan. Tạo cười, bảo: - Nên nhớ là bọn chúng tao cũng giúp triều đình một việc rất lớn là trừ khử lũ tham quan ô lại và lũ trọc phú cướp của hại dân đây! Tao đến đây không phải vì chức quan mà cốt nói cho chúng mày biết, đừng có tầm nã nhọc công vô ích. Không những thế, chúng tao còn có thể lấy đầu chúng mày như thò tay vào túi đó thôi! Đoạn, Tạo lại nói: - Các ngươi cho tiền, ta xin nhận. Nào, hãy đưa mau ra đây! Lê Văn Duyệt thấy hắn cầm lăm lăm thanh gươm thì sợ nguy đến tính mạng, đành phải sai lấy vàng bạc ra cho Tạo. Tạo sai thủ hạ nhận đủ, rồi bắt Duyệt phải đi cùng mình ra khỏi nơi nguy hiểm mới thả cho về, và nói: - Ta không muốn giết mày mang tiếng thất tín. Hãy coi chừng cái đầu tao gửi trên cổ đó! Được thả về dinh, Lê Văn Duyệt vừa xấu hổ vừa giận sôi gan. Hắn bắt chém ngay tên lính gác vì đã phạm tội lơ đễnh. Rồi từ đó, hắn dồn toàn lực vào việc trừ diệt Tạo. Thấy dùng binh mã đánh nhau với Tạo không nổi. Duyệt dùng đến mưu độc. Hắn sai thám tử đi dò tìm quê quán của Tạo và ra lệnh bắt gia quyến Tạo đem về dinh trấn để trả thù. Khi bắt được mẹ và vợ Tạo, Duyệt mừng lắm. Hắn sai dựng một cái chòi rất cao, nhốt hai người lên đó để cho mọi người thấy mặt. Đoạn hắn bắn tin cho Tạo biết, nếu quy hàng sẽ để cho mẹ và vợ được yên ổn trở về, bằng không sẽ cho đầu lìa khỏi cổ. Nghe tin này, Tạo rất buồn. Chàng bảo chúng bạn: - Đạo trời chỉ có cha với mẹ là lớn nhất. Ta một đời chưa lúc nào làm cho mẹ ta vui sướng. Nay ta ngựa cưỡi dù che mà để mẹ chết một cách oan khốc thì sống cũng bằng thừa. Nói rồi trói tay chịu hàng Lê Văn Duyệt. Bắt được Tạo một cách khỏe khoắn, Lê Văn Duyệt trở mặt, sai giam chàng lại chờ ngày ra pháp trường. Trong ngục tối, chàng viết những vần phú lời lẽ hùng tráng nói đến cái chí ngang trời dọc đất của mình, chỉ vì thương mẹ mà chịu chết chứ không sợ ai cả. Duyệt đọc bài phú lại càng lộn ruột, hắn sai lính hành hình ngay. Ngày chàng rơi đầu dưới lưỡi gươm của đao phủ là một ngày hết sức buồn đối với dân Nghệ: không ai là không rủa thầm Lê Văn Duyệt. Có những người bỏ cơm ba ngày vì cảm thương chàng. Nhà vua nghe lời tâu của Duyệt, không bằng lòng, lấy cớ là hắn đã tự tiện giết mất một người con hiếu, đáng lý phải chờ xin mệnh lệnh của mình. Vua bèn phạt Duyệt một năm lương!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hau-tao" }
Con thỏ và con hổ
Hổ bị thỏ chơi một mẻ mất mặt, thề từ nay không đội trời chung với thỏ. Một hôm, hổ đi chơi gặp thỏ đang trèo cây ăn mật ong. Hổ đứng đón dưới gốc, trừng mắt bảo thỏ: - Mày đừng có hòng chạy nữa nhé! Tao tìm mày lâu lắm rồi. Muốn tốt xuống đây nộp mạng! Thỏ bèn làm kế hoãn binh: - Ông làm ơn cho tôi đánh một hồi trống rồi tôi xin xuống để ông bắt tội. - Được, hổ trả lời. Thỏ giơ tay giả làm điệu bộ đánh trống liên hồi vào tổ ong. Bấy giờ tiếng ong bay vù vù, văng vẳng có âm thanh phát ra làm cho hổ nghe tưởng là trống thật. Thích quá, hổ bảo thỏ: - Mày cho tao đánh với! - Ông đánh cũng được thôi - thỏ đáp - nhưng có điều, ông mà đánh thì tôi sẽ điếc tai long óc mất. Vậy ông làm ơn để tôi đi thật xa đây đã, bao giờ không nghe tiếng hú của tôi nữa thì hãy đánh. Thế là hổ ta quên mất việc trị tội thỏ, để cho thỏ nhảy xuống chạy trốn mất. Khi không còn nghe tiếng hú, hổ mới trèo lên cây, đánh mạnh vào tổ ong. Tổ ong vỡ ra, cả bầy ong xông tới đốt cho hổ tối mày tối mặt. Hổ kinh hoàng sẩy chân rơi xuống đất đau điếng cả người. Nhưng ong vẫn không tha, hổ chạy đến đâu chúng đuổi theo đến đó, đốt cho mặt sưng húp mới chịu thôi. Hổ biết là mắc mưu thỏ, giận bầm gan tím ruột. Hôm khác hổ tình cờ gặp lại thỏ đang đứng bên bụi tre. Hổ chặn đường hét: - Mày làm ông khốn nạn bao nhiêu phen rồi? Thôi, đứng đó cho ông trị tội. Thỏ nghĩ ra được một kế khác, nói: - Ông hãy cho tôi gẩy một khúc đàn cha ông nghe đã rồi tôi sẽ để ông bắt tội. Tôi không dám trốn đâu mà ông lo. Hổ bằng lòng. Thỏ liền nhảy lên bụi tre giả làm như cách gảy đàn. Kỳ thực, lúc nào gió thổi hai cây tre sắp cọ vào nhau thì nó rút chân ra, lúc hai cây tre rời nhau thì nó đút chân vào. Tiếng tre cót két làm vui tai hổ, cho nên hổ lại bảo thỏ: - Mày để cho tao gảy một lúc chơi. Thỏ nói: - Ông cứ gảy tùy thích, những chơi cho khéo kẻo hỏng mất đàn của tôi đi! - Mày dạy tao cách gảy thế nào đã. - Tay ông to quá đánh hỏng đàn mất. Vậy ông hãy cứ đánh bằng đuôi thì tốt hơn. Đây này! Cứ lúc nào hai cây tre rời nhau thì ông cho đuôi vào giữa, thế là nó bật thành tiếng nghe rất thú. Nhưng ông hãy chờ cho tôi đi xa đây đã. Nói rồi, thỏ nhảy xuống, ba chân bốn cẳng chạy mất. Còn hổ làm đúng như lời của thỏ, bị tre nghiến đứt mất một khúc đuôi. Hổ đau đớn không thể nói hết, gầm rống vang trời, trông bộ dạng rất thiểu não. Hắn quyết bắt cho được thỏ xé xác ra mới hả dạ. Bẵng đi một ít lâu, hổ lại gặp thỏ. Nhưng lần này đang lúc thỏ vô ý sa xuống một cái hố sâu không làm sao lên được. Thấy mặt hổ, thỏ vội gọi: - Trời ơi! Ông còn chưa biết ư? Mau lên không thì nguy khốn đến nơi rồi! Hổ nghe nói thế, cuống lên hỏi lại thỏ: - Thế nào? Nói mau! - Ông ơi - thỏ đáp - ông có thấy gió thổi ào ào, cây cối rung chuyển đó không, đó là dấu hiệu trời sắp sập rồi, chỉ còn một cách nhảy xuống đây mới có thể thoát được mà thôi! - Thật thế à? Cho tao xuống với nhé! - Ông xuống ngay đi! Ở lại trên đó là chết bẹp xác. Thế là hổ không suy nghĩ gì nữa nhảy ngay xuống hố sâu, trong lòng lo ngay ngáy không còn nghĩ gì đến chuyện trị tội thỏ nữa. Thấy thế, thỏ tìm cách chọc hổ chơi. Bèn dùng tay cù vào nách hổ. Hổ không chịu được lối đùa nghịch của thỏ, mắng: - Yên. Mày nghịch như quỷ ấy! Nếu còn như thế nữa tao sẽ không đánh mày mà quẳng mày lên trên kia, cho trời sập đè bẹp xác. Thỏ chỉ yên lặng được một chốc rồi lại lẻn tới cù hổ. Tức mình, hổ nắm lấy hai chân thỏ vứt lên miệng hố. Thỏ đắc mưu, chạy một mạch vào làng báo cho mấy ông thợ săn biết. Lập tức họ vác cung tên giáo mác đến hố giết chết hổ, quảy về xả thịt.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-tho-va-con-ho" }
Lê Lợi
Hồi ấy, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, đối đãi với dân ta vô cùng tàn ác. Không một ai là không nghiến răng chau mày. Bấy giờ có Lê Lợi nổi quân đánh bại lại chúng; nhưng trong lúc mới khởi nghĩa, quân ít lương thiếu, mấy lần bị giặc đánh đuổi, mỗi người chạy một nơi. Nhưng ông không ngã lòng nản chí. Ít lâu sau, được mọi nơi giúp của giúp người nên thanh thế lại dần nổi lên. Một hôm, đội quân của Lê Lợi bị thua nặng. Một mình ông thoát được vòng vây chạy về một xóm kia. Nhưng một toán quân Minh đã phát hiện ra, đuổi theo rất gấp.Khi đi qua một lùm cây,ông bỗng thấy hai vợ chồng một ông lão đang be bờ bắt cá ở ruộng. Ông liền chạy xuống nói với ông lão: - Cụ làm ơn cho tôi bắt cá ở đây với, lũ chó Ngô sắp tới bây giờ! Ông lão cởi ngay chiếc áo đang mặc ném cho ông, và ra hiệu bảo ông cứ xuống mà bắt. Lê Lợi vừa thò tay xuống bùn thì cả toán quân giặc đã sồng sộc chạy tới. Một đứa trong bọn nhìn quanh nhìn quất rồi dừng lại bên cạnh đám ruộng: - Này lão kia có thấy Lê Lợi chạy qua đây không? Ông lão lắc đầu: - Từ khi chúng tôi tát cá ở đây chả có người nào chạy qua cả. Trong lúc những tên giặc khác đang lục soát bờ bụi, thì Lê Lợi cũng ngẩng đầu lên nhìn theo. Ông lão quát: - Thằng bé kia, mày không bắt đi để còn về ăn cơm, nhìn ngó cái gì? Lê Lợi biết ý, lại cúi xuống bắt cá như cũ. Quân giặc đứng trên bờ tưởng người nhà ông lão nên không hỏi thêm gì nữa. Một chốc sau, chúng rút đi nơi khác. Tối hôm ấy, ông lão đưa Lê Lợi về nhà mình. Một đám quân bị lạc chủ tướng lúc này cũng tìm được đến đây với Lê Lợi. Đây là một thôn ở gần núi, dân cư rất nghèo, thường ngày ăn uống rất kham khổ. Trong nhà ông lão có nuôi một con khỉ. Thấy không có gì đãi quân khởi nghĩa, mà đi mua bán thì sợ không giữ được kín tiếng, hai ông bà bàn nhau giết thịt con khỉ kho lên cho mọi người làm thức ăn, riêng Lê Lợi thì có thêm một đĩa cá chép vừa bắt được lúc chiều. Cơm dọn ra. Cả tướng lẫn quân vừa mệt vừa đói nên ăn rất ngon lành. Mờ sáng hôm sau trước khi từ giã, Lê Lợi nắm lấy tay ông lão, nói: - Chúng tôi không bao giờ quên ơn lão. Sau này lúc nước nhà hưng phục, sẽ mong có dịp báo đền. * Lần thứ hai, Lê Lợi lại bị thua to, quân sĩ không chống nổi với lực lượng hùng hậu của giặc nên xiêu bạt mỗi người một nẻo. Lê Lợi một mình trốn về rừng già, có ba tên giặc đuổi theo sát nút. Qua một đoạn đường rẽ ông bỗng bắt gặp thây một cô gái bị giặc hãm hiếp và giết chết. Ông vẫn còn đủ thì giờ dừng lại khấn: -"Xin vong hồn nàng hãy cứu ta lúc này, ta sẽ vì nàng ra sức báo thù lúc khác". Khấn đoạn lại chạy, nhưng bấy giờ nguy cấp quá, ông đành chui liều vào một bụi cây. Quân Minh đuổi theo đến khoảng đó thì dừng lại nhìn ngó quanh quất, chưa biết nên tìm ngả nào, chúng xuỵt chó đi sục sạo. Thấy con chó cắn vang ở phía bụi có Lê Lợi nấp, chúng liền lấy giáo thọc vào bụi, đâm phải đùi ông. Lê Lợi cắn răng để khỏi phải kêu lên, và trước khi ngọn giáo rút ra, ông vẫn không quên dùng vạt áo lau máu dính ở giáo. Nhưng chó vẫn cứ nhằm bụi cây cắn inh ỏi. Lũ giặc tin chắc có người nấp trong đây; chung toan lao giáo vào một lần nữa, thì bỗng trong bụi nhảy vụt ra một con chồn. Chó thấy chồn lập tức đuổi theo cắn râm ran. Lũ giặc thấy vậy đánh chó và mắng: -"Chúng tao nuôi mày để săn người An-nam chứ có phải săn chồn đâu?". Và rồi chúng kéo nhau bỏ đi nơi khác. Nhờ thế Lê Lợi lại được thoát nạn. * Sau những ngày chiến đấu gian khổ, quân đội khởi nghĩa bắt đầu thu hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, quân Minh cũng tiếp tục mất hết thành nọ đến thành kia. Cuối cùng bọn giặc phải bỏ giáp quy hàng. Lê Lợi lên ngôi vua ở Thăng Long. Nhưng ông chẳng bao giờ quên những người đã cứu giúp mình và nghĩa quân ngày trước. Ông mới sai đại thần mang một mâm vàng bạc về tận nhà hai ông bà già để tặng. Song bấy giờ cả hai vợ chồng đều đã chết cả. Ông bèn sai dựng một ngôi đền ở ngay trên nền nhà cũ. Hàng năm ông bắt các quan phải tới đây làm lễ quốc tế. Cỗ cúng rất đơn giản, chỉ có một đĩa xôi, một bát thịt khỉ và một đĩa cá chép nướng, đúng như lúc hai vợ chồng lão dọn cỗ cho nghĩa quân ăn. Còn chỗ có thây cô gái chết, ông cũng sai lập một miếu thờ vì nghĩ rằng chỉ có hồn thiêng của nàng đã hóa làm chồn đánh lạc hướng bầy chó của giặc thì ngày ấy mình mới qua cơn hiểm nghèo. Không biết tên của nàng, ông sai gọi nàng là Hộ quốc phu nhân, nghĩa là bà phu nhân giúp nước. Người ta cũng gọi là Hồ Ly phu nhân.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/le-loi" }
Ông Nam Cường
Vào thời ấy chẳng rõ là thời nào, ở làng Quần-anh có một người phù thuỷ có nhiều phép thuật lạ lùng. Thường mỗi lần nằm ngủ, ông ngủ liền ba ngày ba đêm, tiếng ngáy như sấm. Tỉnh dậy một cái, người nhà đã thấy ông lật đật ra đi, không ai rõ là đi đâu. Cũng thời kì này, nhiều nơi trong nước nổi lên đánh phù phá thành làm cho quân đội của triều đình phải đi dẹp luôn năm không nghỉ. Hành tung của ông phù thuỷ rất bí mật. Tuy nhiên, cũng có lúc vào khoảng nửa đêm, người ta nhìn ra ngoài đồng thấy âm binh của ông thao diễn rất đông mà ông là tướng cưỡi ngựa chỉ huy. Bên cạnh đó có ngọn cờ to tướng đề hai chữ "Nam cường" nghĩa là nước Nam mạnh. Bởi vậy, người ta quen gọi ông là Nam Cường . Nam Cường hay đánh bạc, mà đánh đâu được đấy. Mỗi lần đánh, ông thường vét cả bàn. Số tiền được, không mấy khi ông đưa về nhà mà phân phát ngay cho những người nghèo ở chợ. Bởi vậy ông đi đến đâu người vây lấy ông đến đấy. Một hôm ông đi đến chợ huyện. Ngày ấy đói kém, người ăn xin kéo nhau đi từng đoàn. Ông ghé vào một quán rượu đã thấy động đặc những người vây lấy mình. Trong đãy của Nam Cường bấy giờ không còn một đồng một chữ. Ông chợt thấy trong nhà trong, bên mâm rượu có lão lý trưởng đang ăn uống nhồm nhoàm. Hắn mới đi thu thuế về. Bên người hắn có một đãy đầy căng những tiền. Bỗng chốc Nam Cường đứng dậy bảo chủ quán: - Phiền chủ quán cho xin một ít trấu. Chủ quán chỉ vào bếp. Nam Cường đi vào xúc đầy đãy của mình rồi trở ra nhà ngoài dằn mạnh đãy lên chõng. Ông dằn sấp dằn ngửa năm lần bảy lượt, lần cuối cùng đã thấy tiếng kêu loẻng xoẻng. Ông cười khà khà vẫy tay bảo những người ăn xin đến gần mình, rồi thò tay vào bốc ra từng nắm tiền phân phát cho họ. Đồng tiền cuối cùng vừa cho xong, Nam Cường cũng ung dung đi ra khỏi quán. Khi lão lý trưởng ăn xong và cất đãy lên vai, hắn hết sức ngạc nhiên thấy đãy vẫn căng phồng nhưng không nặng một tý nào cả. Mở ra, hắn thấy đầy một đãy trấu. Mặt như chàm đổ, hắn hốt hoảng chạy đi tìm thì Nam Cường đã biến mất đằng nào rồi. Tiếng đồn về Nam Cường ngày một lan rộng. Những vụ phát tiền bất ngờ cho những người dân nghèo rất mong ngóng ông, coi ông như một vị cứu tinh. Nhưng ngược lại, bọn quan lại to nhỏ cũng rình ông như cáo rình gà mong lập công với triều đình. Một hôm, đang lúc ông vơ tiền trên chiếu bạc thì tự nhiên thấy bốn mặt gươm giáo chĩa vào người. Bọn đầu trâu mặt ngựa xông đến rất đột ngột khiến ông không tài nào xoay trở, đành để cho chúng bắt. Sợ ông có phép xuất quỷ nhập thần, chúng mang đến một cái áo quan, bỏ ông vào, đóng nắp lại, chỉ dùi cho một lỗ để thở. Nhưng lúc khiêng về phủ, lính mở nắp áo quan ra thì không ngờ đó là một cái áo quan rỗng, chỉ còn mấy bãi nước trầu, dấu vết của phạm nhân để lại. Quan phủ bị tẽn, giận sôi cả người. Hắn cho mời một đạo sĩ nhờ luyện cho mình một thứ bùa phép để quyết bắt cho được Nam Cường. Mấy tháng sau, được tin báo, hắn lại mật sai lính đến vây bắt. Nhưng khi chúng vào, đã thấy nhà ông vắng teo, cửa ngõ mở toang. Lính sục sạo mãi không thấy gì cả. Sau cùng chúng nghe ở ruộng lúa sau nhà có tiếng thở phì phào, chú ý nhìn xem thì chả thấy bóng người, chỉ thấy có một cây đòng đòng to gấp ba các cây đòng đòng khác. Biết đó là nơi Nam Cường ẩn, chúng bèn dùng chỉ ngũ sắc trói cả cụm lúa lại rồi nhổ lên đưa về phủ. Dọc đường chúng vẫn nghe tiếng thở phát ra từ bụi lúa nên rất yên tâm, chắc chuyến này sẽ được hậu thưởng. Bọn quan lại nghe nói bắt được Nam Cường hí hửng đến xem mặt. Nhưng khi sợ chỉ ngũ sắc vừa tháo, ông đã từ trong bụi lúa hiện nguyên hình nhảy vọt ra, chửi cho bọn chúng một thôi một rồi rồi biến mất. Hai lần bị tưng hửng, bọn chúng nghĩ ra được một kế thâm độc là bắt vợ để truy chồng. Lần thứ ba, sau khi mật báo có Nam Cường mới trốn về nhà, bọn chúng cho rất nhiều quân lính và cả một lão đạo sĩ cao tay kéo về, quyết bắt kì được. Chúng ập đến nhà ông lúc mờ sáng. Nam Cường biết được mưu mô của chúng nên khi chúng sắp đến, ông đã kịp biến vợ thành một người bé bằng ngón tay, đem đút lên một ống tre sau mái nhà. Còn mình thì chạy vội ra sông. Cũng như mọi lần, bọn lính sục sạo khắp xó vườn góc bếp. Nhờ có lão đạo sĩ nên một lúc sau chúng khám phá ra được trên ống tre sau mái nhà có thò ra một tí dải yếm. Chúng cầm lôi ra, người vợ Nam Cường lại trở nguyên hình. Chúng tra hỏi: - Chồng mày đâu? Hỏi đến mấy lần, người đàn bà vẫn lắc đầu nói rằng không biết. Sau cùng chúng phải giở lối "kìm nóng, kìm nguội", người đàn bà yếu đuối không thể chịu nổi mới thú thực: - Chồng tôi hiện ở ngã ba sông trước nhà, trong một con ốc! Nghe nói thế, bọn quan bèn sai lính đắp chặn ba phía sông lại rồi mới ra sức tát cạn. Nhờ có lão đạo sĩ, chúng bắt được một con ốc rất to, đập vỏ ốc ra quả bắt được Nam Cường
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ong-nam-cuong" }
Cố Bu
Ngày xưa ở làng Phan-xá thuộc Hà-tĩnh - một làng ngay sát nách con sông mà nước thuỷ triều vẫn lên xuống đều đều - có một người nghèo tên là Bu. Bu mới lọt lòng mẹ, người ta thấy dưới gan bàn chân có ba cái lông trắng, dấu hiệu của tài bơi lặn. Lớn lên quả nhiên ông lặn lội rất tài, có thể ở được lâu dưới nước. Không những có tài bơi lặn, Bu còn có một sức khoẻ tuyệt trần. Bu đi học võ với một ông thầy. Thấy là người có tài lạ, thầy truyền cho mười tám ban võ nghệ và các môn nhâm cầm độn toán. Bu không có chí làm quan với triều đình, chỉ đi lang thang hết xứ Đông đến xứ Đoài, ở đâu ông cũng có rất nhiều bè bạn. Cho đến năm năm mươi tuổi, Bu đã đi hầu khắp sông hồ, nghe được nhiều, thấy được rộng. Sau một thời kì lang bạt, Bu lại trở về quê hương. Lúc này ông đã để râu, một bộ râu rất đẹp. Người ta bảo nhau: "Râu như râu cố Bu". Ông bí mật chiêu mộ tráng sĩ, luyện tập võ nghệ, chia lương thực, có ý muốn lập nên một giang sơn riêng, lấy núi Hồng-lĩnh làm đồn trại. Nhờ có phép thuật và võ nghệ, ông hoạt động rất kín nhẹm. Lại nhờ có bè bạn ở các nơi làm tai mắt tay chân nên tuy ở trong núi sâu, Bu vẫn nắm được tình hình mọi nơi. Trong những năm mất mùa đói khát, mỗi lần có tin báo, Bu đem các tráng sĩ đến lấy thóc tiền của bọn trọc phú. Lấy xong, Bu đem chia cho tất cả những người nghèo khổ trong vùng. Bu làm rất kín đáo và chóng vánh, không giết chóc, không đốt phá, chỉ bắt buộc bọn chúng phải bỏ thóc bỏ tiền ra giúp mọi người. Cứ như thế, Bu đã cứu nguy cho không biết bao nhiêu thôn xóm đói khổ. Bọn nhà giàu sợ Bu mất mật, nhưng tất cả những người nghèo khổ coi Bu là vị cứu tinh. Quan quân tuy lùng bắt ráo riết nhưng chẳng kết quả gì. Đã hai lần chúng sắp tóm được Bu, nhưng một lần Bu nhảy xuống sông trốn thoát, một lần khác nhờ phép thuật của ông nên chúng mù tịt, chả còn tìm ra manh mối. Một hôm, Bu bí mật về làng cũ thăm bà con họ mạc. Bọn hào lý đã đánh hơn thấy ông nên chúng cấp tốc đi báo huyện. Huyện sợ bắt không nổi nên vội vàng đi báo tỉnh. Biết Bu không phải là người tầm thường nên bọn quan tỉnh điểm ngay hai nghìn quân sĩ với hai con voi và hai lưới sắt đi suốt đêm về làng. Bấy giờ, vào khoảng canh năm, quân gia chia nhau vây bọc bốn phía trùng trùng điệp điệp. Bu đang ngủ. Mọi người sợ nguy đến ông nên vội đánh thức ông dạy bàn cách chạy trốn. Nhưng Bu khoát tay bảo họ: - "Cứ bình tâm! Ta sẽ có cách". Đoạn ông hỏi thăm tình hình ở mọi nơi. Người ta cho biết là ở xóm phía Nam có một đám ma đang chuẩn bị kèn trống ra đồng. Bu bèn hướng về phía Nam trèo lên một cây cao, đứng im trên đó để nghe ngóng. Vừa khi đám ma đi qua, Bu liền tụt xuống xen vào đám đông, lấy vạt áo che mặt, kỳ thực là che bộ râu, giả bộ khóc lu loa. Thấy có đám ma, bọn lính rẽ ra cho đi. Nhưng khi ra khỏi vòng vây, Bu đã chìa bộ râu, cười lớn, bảo chúng: - "Tao là Bu đây! Chúng mày hãy nói với chủ tướng đừng có vây bọc mất công nữa". Nghe nói thế, quan quân xô nhau đuổi theo, nhưng Bu đã nhảy ngay xuống sông. Bọn quan tỉnh sai lấy lưới sắt giăng chặn hai đầu xông lại và cho hai con voi xuống giẫm. Nhưng chúng chỉ làm việc mệt nhọc vô ích vì Bu vốn là tay giỏi lặn, lặn luôn một mạch hàng trăm dặm, nên đã biến mất từ lâu. Một lần khác, Bu đi một mình. Nhân trời tối, ông vào nghỉ ở một làng nọ. Một người dân trong làng có giỗ khẩn khoản mời Bu đến ăn. Chưa xong bữa rượu thì quan quân đã kéo về rầm rộ vây kín tất cả các nẻo. Người ta đưa ông đến một cái hầm kín. Trước khi xuống hầm, Bu còn làm phép để đánh lừa quan quân. Bu sai múc một bát nước, đặt lên một chiếc đũa rồi niệm chú bước qua. Lần này bọn quan quân có đưa theo một thầy độn. Khi sục sạo các nhà không tìm thấy Bu, bọn tướng bảo thầy độn bấm xem thử thế nào. Thầy độn giở phép của mình ra nhưng hắn bị mắc lừa vì bát nước, chiếc đũa của Bu, nên sau khi bấm xong, hắn ngơ ngác trả lời rằng: -"Thằng giặc ấy đã đi qua một chiếc cầu tre bắc qua đầm trốn thoát mất rồi!". Bọn chúng tin lời, cho quân đi lùng sục các chỗ khác. Thế là một phen nữa, Bu lại thoát vòng nguy hiểm. Một lần khác, Bu đang phát thóc cho dân một xóm gần bãi. Chia vừa xong thì quan quân đã bổ vây bốn mặt. Bu lại dược mọi người dẫn đi trốn ở một nơi kín. Nhưg trước khi trốn, Bu cũng xin một mảnh chiếc trùm lên người làm phù phép, khiến cho thầy độn của quan quân một lần nữa lại bị lừa, bảo rằng ông đang trốn ở một bụi lác ngoài bãi. Quân quân nghe lời tất cả đổ xô ra bờ sông. Bu thừa dịp lại trốn đi vô sự. Quan quân cứ mấy lần tưng hửng như thế, chả làm gì được Bu. Còn Bu thì hết đi vùng này sang vùng khác, đến đâu cũng bí mật giúp đỡ dân nghèo và được họ che chở. Về sau không rõ Bu đi đâu. Ngày nay ở động Dang trên núi Hồng-lĩnh còn có dấu vết cột cờ, thành luỹ và nền nhà, nền kho, tương truyền là đồn trại cũ của cố Bu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/co-bu" }
Người con hiếu thảo
Ngày xưa trong một gia đình nọ có ba anh em trai, hai người anh thì lười biếng ích kỷ, tham lam ngược lại người con út vừa siêng năng, vừa thật thà hiếu thảo. Những việc khó khăn nặng nhọc trong nhà thì hai người anh đẩy hết cho người em nhưng khi có món ăn ngon hay quần áo đẹp thì hai anh lại tranh nhau giành hết về phần mình. Tuy vậy Út vẫn không than phiền gì lúc nào cũng vui vẻ nhường nhịn hai anh. Một hôm người cha lâm bệnh nặng, Út vô cùng lo lắng ngày đêm túc trực chăm sóc cha rất chu đáo, trong khi hai người anh vẫn mải mê rong chơi đầu làng cuối xóm. Bệnh tình của người cha ngày càng nguy kịch, thầy thuốc bảo: – Ông cụ mắc phải bệnh nan y khó lòng qua khỏi! Út hốt hoảng: – Thật vậy sao? Chẳng lẽ không còn cách nào cứu chữa sao? Thầy thuốc suy nghĩ một lát rồi nói: – Có một cách nhưng khó khăn lắm. – Thưa thầy, khó thế nào con cũng làm được xin thầy cứ cho con biết. – Giờ chỉ có một vị thuốc quý là có thể chữa khỏi bệnh cho cha của con, nhưng để sắc được loại thuốc này thì cần phải tìm được một loại cỏ quý trên núi Trúc Lĩnh, đường đi đến đó gian nguy, hiểm trở, phải đi qua một cây cầu làm bằng một sợi dây thừng bắc ngang con suối sâu, phải vượt qua một con sông rộng mà không có đò, rồi lại phải leo lên một ngọn núi bốn phía đá dựng lên như bức tường thành lúc đó mới đến được ngôi chùa có thứ cỏ thơm ấy. Người cha nghe vậy gắng gượng nói: – Ai trong các con kiếm được thuốc về chữa cho cha sẽ được hưởng toàn bộ gia tài. Hai người anh nghe thấy hai chữ “gia tài” sợ người em sẽ chiếm mất nên nhảy bổ đến bên giường cha nhanh nhảu nói: “Để chúng con đi.” Sáng hôm sau hai người anh lên đường đi đến núi Trúc Lĩnh, đến con suối sâu nước réo ùng ục họ sợ quá, lại thấy cây cầu bắc qua suối chỉ là một sợi dây thừng đung đưa trong gió, hai người họ cứ đùn đẩy nhau không ai dám bước qua trước. Bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ gánh củi từ trong rừng đi ra nói: – Các cháu có thể gánh giúp cụ bó củi này đi qua bên kia bờ được ko? Người anh cáu kỉnh đáp: – Chúng tôi đi người không mà còn chưa dám qua, ai lại đi gánh củi cho ông nữa. Rồi sau đó họ cố gắng bước qua cây cầu, nhưng sợi dây cứ chao qua chao lại như muốn hất cả hai xuống suối. Loay hoay mãi không được họ đành tay không trở về. Người em út thấy vậy liền từ biệt cha và hai anh lên đường quyết tìm cho được loại cỏ quý ấy. Đi đến bờ suối anh cũng gặp ông lão hôm nọ, ông lão chưa nói gì anh đã chạy lại đỡ gánh củi lên vai rồi lễ phép nói: – Thưa ông cây cầu này nguy hiểm lắm ông hãy để con gánh bó củi này qua rồi quay lại dìu ông sang bên kia bờ. Lạ thay anh bước lên cầu dễ dàng và đi một mạch sang bên kia anh mừng quá đặt gánh củi xuống định quay lại đón ông lão thì lại thấy ông lão đã đứng trước mặt mình từ bao giờ. Ông lão tươi cười hiền từ nói: – Con thật tốt bụng và gan dạ, bây giờ con muốn đi đâu? – Thưa ông con muốn đi tìm cây thuốc quý để chữa bênh cho cha. – À ta biết nơi có loại dược thảo đấy, để ta chỉ đường cho. – Dạ con xin cảm ơn ông. – Bây giờ con hãy đi thẳng theo con đường này đến khi gặp một con sông lớn, con hãy gọi ba lần: “Ơi Bạch hạc giúp ta sang sông”. Đi tiếp ba ngày trời con sẽ đến chân núi Trúc Lĩnh Con nhớ đi đến chân núi phía Nam, gõ vào vách đá 7 tiếng rồi gọi: “Hỡi núi cao hãy mở đường cho ta đi”. Lên đến ngôi chùa sẽ có sư ông giúp con. Anh bái tạ ông lão rồi lên đường. Anh làm theo những gì cụ già dặn và cuối cùng anh đã lên được đến ngôi chùa. Anh vừa tới nơi thì sư ông xuất hiện, anh vái chào sư ông rồi nói: – Thưa sư ông con lên đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho cha xin sư ông giúp con ạ. Sư ông nhìn anh trìu mến và nói: – A di đà phật, con đúng là một người con hiếu thảo. Thật đáng khen. Rồi sư ông dắt anh vào ông lão hái cho anh một nắm cỏ rồi dặn: – Con hãy đem nắm cỏ này về sắc với hoa bưởi rồi đem cho người bệnh uống. Người con út đa tạ sư ông rồi xin phép trở về. Anh đi theo con đường cũ để trở về nhà nhưng lạ thay sông suối rồi cây cầu bằng dây thừng đều biến mất và trước mắt anh là con đường bằng phẳng. Anh đi thật nhanh về nhà. Vừa về đến đầu làng người em đã gặp hai người anh đang đứng đợi mình. Hai anh nói: – Em đi đường xa chắc là mệt cứ ngồi ở đây nghỉ ngơi, để anh mang bó thuốc này về trước cho cha. Không hề so đo tính toán người em liền đưa bó thuốc cho hai anh. Chỉ chờ có thể hai người anh chạy thật nhanh về nhà đưa bó thuốc cho cha nhằm cướp công của người em. Hai người anh hí hửng lấy một ít thuốc ra cho vào ấm để đun lên. Người cha vui mừng khen ngợi hai người anh. Nhưng khi người cha vừa uống một ngụm thuốc thì ông thấy choáng váng và đau đớn vô cùng. Đúng lúc đó người em út về đến nhà. Thấy vậy người em chạy ra vườn hái hoa bưởi để sắc thuốc theo lời sư ông dặn. Quả nhiên khi vừa uống xong chén thuốc người em sắc ông trở nên khỏe mạnh hơn. Vài ngày sau ông gọi ba người con đến và nói: – Út đã không ngại khó khăn đi lấy thuốc về cho cha, nay cha sẽ để lại gia tài cho con. Người con Út thấy cha trở lại mạnh khỏe, nên vô cùng vui sướng và nói với cha: – Thưa cha, xin cha hãy chia đều gia tài cho 3 anh em con. Người cha thấy vậy liền nói: “Con đúng là em hiền con thảo, được, cha sẽ làm theo ý của con.” Trước nghĩa cử cao đẹp của người em hai người anh vô cùng hối hận từ đó họ bắt đầu thay đổi tính tình không còn tham lam và lười biếng nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-con-hieu-thao" }
Nông dân với thành hoàng
Ngày đó ở miếu Thành hoàng có hội hương khói, ai nấy cố biện lễ vật để cầu thần phù hộ. Thành hoàng sai một chú tiểu quỷ đi thám thính xem ai cúng nhiều cúng ít. Quỷ trở về cho Thành hoàng biết lễ vật linh đình nhất là của tên nhà giàu trong vùng, còn ít nhất là của một nông dân hay đi qua trước miếu. Thành hoàng nghe nói tức giận, bảo phán quan và tiểu quỷ làm cho lúa của anh nông dân kia "đầu bé đít to" cho bõ ghét. Cụ già giữ miếu nghe được liền mách với anh nông dân. Anh chàng bèn đổi việc trồng lúa ra trồng khoai môn nên vụ thu hoạch này năm đó được rất nhiều. Phán quan và tiểu quỷ thấy thế về tâu lại cho Thành hoàng biết. Thành hoàng tức giận lắm, bàn kế bảo làm cho hoa màu của nó "đầu nhỏ bụng to đít bé". Anh nông dân lại được ông từ mách cho việc ấy, bèn nghĩ ra kế trồng ngô thay cho khoai môn. Năm đó, vụ ngô của anh trúng, làm cho cả Thành hoàng lẫn tiểu quỷ tức đến lộn ruột. Chúng lại bàn tính làm cho hoa màu "từ đầu đến đít đều to như nhau". Lần này anh nông dân lại trồng mía. Kết quả mía mọc tốt như một khu rừng làm cho Thành hoàng tức điên lên, nọc cổ phán quan và tiểu quỷ đánh năm mươi hèo. Phán quan và tiểu quỷ lại hiến kế "đầu to đít bé". Không ngờ anh nông dân lại trở lại trồng lúa. Vụ lúa năm ấy thắng lợi, anh chàng mới sắm sửa làm một ngôi nhà gạch. Trong khi đó ở miếu, Thành hoàng luôn tay đánh đập phán quan và tiểu quỷ. Bọn này chờ chủ nguôi giận mới dâng một mẹo là thuật tàng hình đến nhà nó chờ khi lắp rầm, hễ thấy thợ lắp đằng này thì tháo đằng kia, lắp đằng kia thì tháo đằng này. Như thế nhà chả bao giờ làm xong, cơm gạo của nó sẽ bọn thợ mộc ăn hết. Thành hoàng bằng lòng sai đi. Ở nhà anh nông dân, thợ mộc lắp rầm mãi không xong, gõ đầu này vào thì đầu kia bị phán quan và tiểu quỷ tháo ra. Tức mình bác phó mộc nói to: - "Gõ mạnh vào đầu phán quan ấy!" (Thợ mộc Trung-quốc gọi chỗ gác trên hai đầu nóc của cây rầm là "đầu phán quan"). Phán quan nghe nói hoảng sợ dắt tiểu quỷ lủi một mạch. Từ đó chúng không dám quấy nhiễu anh nông dân nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nong-dan-voi-thanh-hoang" }
Vợ ba Cai Vàng
Ngày xưa ở tổng Hoàng-vân có một viên cai tổng, người ta thường gọi là Cai Vàng. Thưở trẻ ông ta bắt được một viên ngọc kỵ đạn, đeo vào người có phép làm cho những mũi tên hòn đạn sắp đụng vào da thịt phải rẽ đi lối khác. Ông rất mừng rỡ, từ đó đeo vào người không bao giờ rời. Trong thời kỳ làm cai tổng, có lần Cai Vàng tiêu mất tiền thuế, bị quan tỉnh bắt giam ở ngục, tra tấn rất khổ sở. Lúc quân canh giải qua một khu rừng, Cai Vàng nhân lúc mọi người sơ hở, bẻ gông bỏ chạy. Bọn lính áp giải vừa đuổi vừa bắn, nhưng nhờ có phép mầu của viên ngọc, ông trốn thoát vô sự. Từ đấy Cai Vàng chiêu tập đồ đảng, sắm sửa khí giới chống lại triều đình, tự xứng là Thượng công. Cai Vàng có ba người vợ, đáng chú ý là người vợ thứ ba, mới hai mươi tuổi mà võ nghệ tuyệt trần. Trước ngày mưu đồ việc lớn, ông cho gọi cả ba vợ đến họp với mình để dò tình ý. Ông hỏi: - Tôi nay không khác gì cưỡi trên lưng hổ, sớm muộn bọn chúng cũng chẳng để yên cho nào. Vậy tôi muốn một phen chọc trời khuấy nước, diệt cho hết lũ tham tàn để vẫy vùng riêng một cõi. Ba nàng nghĩ sao? Người vợ cả thưa rằng: - Châu chấu chống xe làm sao được? Chàng đừng nghĩ dại dột! Cái vạ diệt tộc hãy còn rình sau lưng đấy. Mong chàng nghĩ lại thôi. Nếu chàng dấy quân, thiếp đành xin trở về nuôi mẹ. Một mai nhỡ có việc gì, thiếp xin phụng dưỡng mẹ già thay chàng. Người vợ thứ hai cũng tiếp luôn: Chàng ơi! Nghe thiếp đừng đi, Cửa nhà cơ nghiệp thiếu gì ăn chơi! Nhưng nghe hai người đàn bà ấy một mực "bàn ra", người vợ thứ ba không nhịn được, tức giận hầm hầm quát to lên rằng: - Hai chị không biết lúc này là lúc nào ư? Chim không bay được, cây không mọc lên chỉ vì bọn chúng. Hiện nay bốn phương nhao nhác còn chờ Thượng công. Những lời yếu đuối của hai chị nên mang về xó bếp. Thiếp tôi nhất thua nhì được, quyết xin theo chàng đến cùng, diệt phường Kiệt Trụ, gây dựng cơ đồ. Người nào thương mẹ nhớ cha cứ cho về! Nói rồi cưỡi ngựa thét loa ra bãi tập với các quân sĩ. Thấy ý vợ ba cương quyết nên Cai Vàng không trù trừ nữa, nhất định tế cờ khởi nghĩa. Chẳng bao lâu mọi nơi hưởng ứng, người ngựa chật đất. Bộ hạ của ông sức khỏe như hùm sói, võ nghệ rất cao cường. Có những người như Lý Hạnh tự xưng là nguyên soái, Lý Chuột tự xưng là quận công, Tuần Cận làm tiền quân,v.v... Vợ ba Cai Vàng trỗi lên giữa đám tướng sĩ đó. Trong trận đánh chiếm phủ thành Lạng-giang, nàng hai tay cầm hai thanh gươm ngồi trên mình ngựa xông ra giữa hàng trận, quan quân chỉ còn biết rê ra mà chạy. Lấy được phủ Lạng, nàng giao thành lại cho chồng, rồi tự cầm quận tiên phong tiến đánh huyện Văn-giang. Nghe tin Cai Vàng nổi loạn, bọn quan tỉnh dồn tất cả quân sĩ đến vây phủ Lạng, hòng cướp lại. Bấy giờ vợ ba Cai Vàng đang vây huyện lỵ Văn-giang, nghe quân cấp báo, liền nói: -"Thằng nào dám cả gan như vậy! Ta chỉ vén váy diệt cho một trận thì e chúng mày chạy bằng bay cũng không thoát!". Lập tức, nàng kéo quân trở về kịch chiến với quan quân. Bọn quan tỉnh địch không nổi, bị đánh tơi bời. Thấy khó đương với giặc, bọn chúng liền làm biểu tâu vua. Vua sai mấy viên đại tướng điều quân sĩ mấy tỉnh khác về, bắt họ diệt cho được Cai Vàng. Hai bên cầm cự luôn mấy tháng. Mỗi lần giáp chiến, Cai Vàng xông lên trước, tên đạn bên quân triều đình trút vào người ông như mưa, nhưng chả ăn thua gì. Thấy thế, bọn chúng khiếp đảm, cho là ông có trời giúp, ai nấy ngã lòng, quân đảo ngũ ngày một nhiều. Về sau, có một người thủ hạ thân tín của Cai Vàng phạm tội, hắn sợ chủ giết, nhân đêm tối lẻn sang đầu hàng quân triều đình. Hắn mách: - Thầy tôi có ngọc đeo vào người, những thứ đạn gang bắn vào thì chẳng khác gì chạm vào vách sắt. Chỉ còn cách lấy vàng đúc đạn mà bắn, họa có trúng chăng. Bọn chúng nghe nói, lập tức đúc một số đạn bằng vàng giao cho những tên bắn giỏi, dặn chỉ gặp Cai Vàng mới nhất loạt nổ súng. Ngày hôm sau chúng đem quân khiêu chiến. Nguyên soái Lý Hạnh đem quân chống cự, nhưng chúng nhất thiết chỉ réo tên Cai Vàng từ sáng đến trưa không nghỉ. Thấy thế, Cai Vàng nổi giận ruổi ngựa tiến ra. Quả nhiên đạn vàng đã làm cho viên ngọc kỵ đạn mất hết mầu nhiệm. Đạn xuyên vào đầu ông và làm đứt mất một tai bên phải. Ông chỉ còn ôm đầu phi ngựa trở về phủ thành. Người vợ ba và bọn thủ hạ xúm lại chữa chạy, nhưng vết thương nặng quá, không thể cứu nổi. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Cai Vàng chỉ còn trối lại với vợ được mấy câu: - "Nàng ôi! Trời hại ta nửa đường đứt gánh... Ta giao phó tất cả quân sĩ cho nàng... Nàng gắng sức trả thù cho ta!". Thấy chồng chết, vợ ba Cai Vàng căm uất vô hạn. Một mặt, nàng bắt mọi người giữ kín tin chồng chết và cho quân bí mật đem xác chồng vượt vòng vây đưa về chôn ở quê hương. Còn mình thì tự điều khiển thủ hạ chống cự quân triều. Nàng chọn ba trăm người quyết tử theo mình ra trận. Hôm ấy viên thống lĩnh, người đã chỉ huy quân đội bắn đạn vàng, ra ứng chiến. Nàng chống đỡ mấy hiệp rồi giả cách thua chạy. Thống lĩnh ta đang quáng quàng về thắng lợi, mừng quýnh vội thúc ngựa đuổi theo rất gấp. Không ngờ thấp cơ thua trí đàn bà, hắn bị nàng dùng chước đà đao, thình lình quay lại bắt sống được. Lập tức nàng cắp nách đưa về thành, sai bỏ cũi giải về quê hương, đốt làm nến tế ma cho chồng. Từ đó, tướng sĩ lại càng hồ hởi. Trong một trận giao phong khác, vợ ba Cai Vàng lại bắt sống được một viên Hồng lô. Thấy tướng địch là một người trẻ tuổi đẹp trai, nàng không nỡ giết, sai giam hắn lại, cho ăn uống tử tế. Quân lính của nàng còn thắng mấy trận nữa, nhưng lúc bấy giờ quân triều đình biết tin Cai Vàng đã chết, nên lại cố sức vây đánh. Cuối cùng quân của nàng phải bỏ phủ thành tản về các nẻo. Biết cơ khó duy trì được lâu dài, một hôm vợ Cai Vàng hội các tướng sĩ lại, bảo họ: - Nay Thượng công đã mất, chúng ta chưa gặp thời. Vậy cho mọi người ai nấy về nhà làm ăn, đợi dịp tốt khác sẽ hay. Các tướng sĩ đành gạt nước mắt chia tay. Nàng cho người giải viên Hồng lô trả cho triều đình với điều kiện để cho quân mình được tự giải tán, không truy nã. Đoạn nàng sai đem tất cả của cải phân phát cho mọi người rồi bỏ đi, không biết là đi đâu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vo-ba-cai-vang" }
Hai nàng công chúa nhà Trần
Vào thời nhà Trần có một ông vua sinh được năm nàng công chúa, trong đó có hai nàng xinh đẹp: một người tên là Bảo Nương, một người tên là Ngọc Nương. Năm hai nàng đến tuổi lấy chồng, vua cha toan hạ chiếu kén rể nhưng cả hai đều từ chối. Họ chỉ thích đi xem núi sông cảnh vật trong nước. Họ tâu với vua cha trong một buổi vấn an: - "Thưa phụ hoàng! Phong cảnh nước nhà thật muôn phần cẩm tú. Chúng con chưa muốn lấy chồng. Chúng con chỉ xin phép phụ hoàng đi chơi một chuyến để xem cho thỏa thích". Vua Trần không biết làm sao can ngăn được, đành phải chiều ý hai con. Họ cải trang thành hai gã con trai, mang theo một số người hầu hạ, và từ đấy, đoàn du hành không quản gió sương, đi khắp mọi nơi trong nước, đặt dấu chân ở nhiều danh lam thắng cảnh. Vào hồi đó, có giặc Nguyên sang cướp nước ta. Quân của chúng rất hung ác, đi đến đâu thì cướp bóc tàn phá đến đấy. Dưới tay chúng, những đình đài miếu mạo cũng như nhà cửa dân cư đều lâm kiếp tro bụi. Nhà vua phái bao nhiêu quân đội đến biên thùy nhưng không sao ngăn được bước tiến của chúng. Chẳng bao lâu, chúng đã chia nhau chiếm khắp đầu gò cuối bãi một vùng hữu ngạn sông Thương, đóng đồn la liệt, để rồi hãm hiếp, chém giết, đốt phá không còn kiêng nể gì. Bấy giờ, hai nàng công chúa đang ở bên tả ngạn sông Thương. Vì vùng Đa-mỗi có nhiều phong cảnh đẹp, nên hai chị em sai làm nhà trên bờ sông để tiện trú chân ngắm cảnh. Thấy đất nước và dân cư bị tàn phá vì lũ giặc hung hãn, hai nàng xiết bao căm tức. Họ bèn bàn với nhau cho người về xin phép vua cha một phen liều mình diệt giặc. Cầm đầu lũ giặc lúc đó ở vùng Bắc Giang có hai tên tướng tiên phong. Chúng lăm le vượt sông tiến nhanh về phía Kẻ Chợ. Hai nàng bí mật bàn với các phụ lão làng Đa-mỗi giúp cho mình thực hiện được mưu kế. Thấy họ quả quyết, các phụ lão đành vâng lời. Hai nàng bèn trang điểm rất đẹp, giả làm hai cô gái bán hàng ở chợ ben sông, cố làm cho giặc ở bên kia trông thấy. Quả nhiên, hai tên tướng giặc vừa nhác thấy bóng hồng thì tâm thần mê mẩn, chúng liền rút lệnh tiễn cho quân hầu sang sông, truyền lệnh cho lang Đa-mỗi phải đưa sang dâng nạp hai người con gái đó, nếu kháng cự thì dân làng sẽ không thoát được cái vạ "làm cỏ" một khi quân "thiên triều" sang sông. Hai nàng bảo chúng: - Chị em chúng tôi vẫn có lòng chờ hai tướng quân. Nhưng chúng tôi vốn là con vua cháu chúa cũng biết chút lễ nghĩa. Nếu hai tướng quân có lòng thương thì cho sang đây hai chiếc thuyền hoa, chọn ngày lành tháng tốt, đón về tử tế. Nếu tính chuyện "cẩu hợp" thì chị em chúng tôi thà nhảy xuống sông phó cho dòng nước, chứ không chịu để nhơ nhuốc tấm thân. Quân hầu trở về tin lại. Hai tên tướng giặc bèn sai lấy hai chiếc thuyền, trang sức đẹp đẽ, cho mười quân hầu và thị nữ mang vàng bạc chèo sang đón về. Thấy chúng đến, hai nàng đón tiếp rất tử tế, sai dọn cỗ bàn mời chúng ăn. Trong khi đó, có mấy người thợ mộc đã cắt đặt sẵn, kín đáo lôi thuyền lên bãi dùng khoan đục mỗi thuyền chừng vài chục lỗ nhưng chú ý đút nút kín lại, rồi đưa xuống nước như cũ. Sau khi phái mấy người thân tín phi ngựa về Kẻ Chợ báo tin cho quân triều, hẹn ngày tiến quân, đồng thời gửi lời vĩnh biệt của mình tới hoàng hậu, vua cha và anh chị em hoàng thân quốc thích, hai nàng quay ra bảo mấy tên quân hầu của giặc: - Các người về bẩm với hai tướng rằng chị em chúng tôi đã chọn được ngày lành tháng tốt, đúng giờ thân sẽ xin xuống thuyền sang sông. Nhưng hai chị em chúng tôi phải lên chỗ muôn tên nghìn giáo thì rất sợ hãi, chỉ mong hai tướng quân cùng đi thuyền đến làm lễ hợp cẩn ngay trên thuyền hoa này. Đúng ngày hẹn, hai nàng công chúa xuống thuyền. Sắp sang bên kia sông, hai nàng nhất định bắt quân hầu cắm lại để đợi. Quả nhiên, hai tướng giặc chờ không được phải thân hành đi thuyền đến. Trông thấy hai nàng xinh đẹp, bọn chúng hết sức thèm muốn. Cho nên sau chén rượu hợp cẩn, chúng đã ra lệnh cho bao nhiêu thuyền khác lui ra xa. Giữa lúc hai tên tướng giặc đang say sưa vì rượu nồng gái đẹp thì những chàng trai làng Đa-mỗi đã ước hẹn sẵn, lặn ra giữa sông, lần đến dưới đáy hai chiếc thuyền hoa, tháo tất cả những cái nút to nhỏ ra. Nước chảy mạnh vào thuyền và không mấy chốc đưa tất cả xuống thủy phủ. Bấy giờ quân triều đình đã bí mật kéo tới rất đông. Khi được người Đa-mỗi kể lại tin đó, họ vượt sông ba mặt tiến đến đánh úp. Bọn giặc không tướng như rắn mất đầu nên tan vỡ rất chóng. Cuối cùng, quân ta đã tiêu diệt được cả một cánh tiên phong địch, chặn được bước tiến của chúng, nhờ đó đủ thì giờ cho vua quan và tướng sĩ rút lui khỏi kinh thành. Về sau, đến ngày đại quân của nhà vua đuổi giặc ra ngoài bờ cõi, người ra nhớ đến công lao hai nàng công chúa Bảo Nương và Ngọc Nương nên dựng đền tại nhà của họ ở Đa-mỗi để thờ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-nang-cong-chua-nha-tran" }
Rủ nhau đi kiếm mật ong
Có hai anh tên là Bự và Ngốc đều không ai chịu kém ai về mặt ngu đần. Nhưng Bự vẫn thường cho mình là khôn hơn Ngốc. Một hôm, nghe người ta nói đi kiếm mật ong vừa được ăn, vừa bán có tiền, hai anh bèn rủ nhau đi làm một chuyến. Nhưng cả hai lại quên hỏi xem đi hướng nào thì có tổ ong. Suy nghĩ hồi lâu, Bự làm mặt thạo, bảo Ngốc: - Mày ạ! Mật là chất có nước, vậy thì lên rừng không có đâu, phải tìm ở dưới nước mới thấy. Ngốc không chối cãi, gật đầu ngay. Hai anh bèn chèo thuyền ra đi. Chèo mãi suốt mấy ngày chẳng thấy tăm hơi tổ ong đâu cả. Ngày thứ ba, khi trời sắp tối, chúng cắm thuyền bên bờ sông để nghỉ. Sáng hôm sau khi thức dậy, cả hai nhìn thấy dưới nước có bỗng một tổ ong rất lớn. Bự vỗ vai Ngốc: - Tao nói có sai đâu. Lấy dược tổ ong này thì được ăn no và còn bán được vô khối là tiền, bõ công chúng ta đi tìm từ mấy hôm nay. Mày giỏi lặn thì hãy xuống lấy đi. Ngốc vâng lời cởi áo nhảy tùm xuống nước. Nhưng lặn mãi tìm đỏ cả mắt mà vẫn chẳng thấy gì. Thấy Ngốc lên tay không, Bự chỉ xuống nước nói: - Ong nhiều như thế sao mày lại không lấy được một chút gì. Cái giống ong hay bay, phải lặn lâu mới được, mày ạ. Ngốc ta lại lặn xuống tìm tòi một hồi lâu rồi lại trồi đầu lên. Thấy vẫn không được gì, Bự suy nghĩ hồi lâu, bỗng reo lên: - Vì mày lần nào cũng vội lên nên chẳng được gì. Cái giống ong phải mất công tìm mới được. Sẵn có nạng đây, tao sẽ lấy nó ghìm mày ở dưới nước cho thật lâu thì mày mới tìm ra. Ngốc lại lặn xuống để cho Bự cầm nạng đứng trên thuyền đè. Bự đè mãi gần nửa buổi mới thả nạng ra thì Ngốc đã chết nhăn răng từ bao giờ. Thấy xác Ngốc nổi lên mặt nước, Bự lại tưởng hắn còn sống nên mắng ngay: - Cái thằng tham lam, ăn một bụng mật ở dưới ấy rồi còn nhăn răng ra mà cười. Bấy giờ có một chiếc thuyền chèo qua đó, bọn lái thuyền thấy có một cái xác nổi bập bềnh, bèn bảo Bự: - Thằng kia chết rồi, sao mày không chôn đi, để như vậy thối hoăng ai mà chịu nổi. Nghe nói, Bự mới biết là Ngốc đã chết, bèn đưa xác lên bãi đào lỗ chôn cất. Sau khi chôn xong, hắn lại trở xuống thuyền. Bỗng nhiên hắn đánh một cái rắm. Thoáng thấy mùi thối, nhớ lại lời bọn lái, hắn bèn bụng bảo dạ: "Thối quá! Vậy là mình cũng đã chết rồi nên mới thối như vậy. Thôi, ta phải chôn ta đi mới được, không thì ai mà chịu nổi". Nghĩ vậy hắn bèn xuống bãi đào một cái lỗ tự chôn mình. Nhưng khi vừa bốc mấy nắm bùn lấp lên đầu, hắn thấy ngột ngạt khó chịu quá, nên lại ló đầu lên. Trông thấy có những chiếc thuyền qua lại gần bãi Bự gọi to: - Thuyền kia đi xê ra, kẻo đụng vào mả của người ta thì thối không chịu nổi đâu. Nghe Bự nói thế, một lũ trẻ cho trâu ăn gần đó không nhịn được cười. Chúng nó lấy một cây roi mây xuống bãi quất túi bụi vào người Bự, vừa quất vừa nói: - Nào, xem thử là chết hay là sống. Đau quá, Bự nhảy vọt lên khỏi lỗ chôn cắm đầu chạy. Đang chạy, hắn bỗng nghĩ ra rằng chính là mình đã chết rồi, nhưng may nhờ cây roi của chúng nó đánh mấy cái mới sống lại được. Vậy là cây roi ấy nhất định phải có phép thần thông. Đó là cây roi rất quý, ta phải trở lại xin chúng nó mới được. Nghĩ vậy, Bự bèn quay trở lại xin lũ trẻ cây roi. Bọn chúng không cho Bự phải lạy lục mãi, cuối cùng bọn chúng mới vứt cho. Được roi, Bự hết sức mừng rỡ, cho rằng từ nay mình có phép cải tử hoàn sinh. Thế là Bự cầm roi lên đường với ý định cứu chữa cho thiên hạ. Đi một hồi lâu, Bự trông thấy một đám ma. Làm ra vẻ nghiêm trang, Bự tiến lên đòi gặp cho được tang chủ. Khi gặp tang chủ, Bự nói: - Ta đây có cây roi có phép cải tử hoàn sinh đã từng thí nghiệm công hiệu như thần. Vậy các ông các bà hãy mở áo quan ra, ta sẽ cứu cho người chết sống lại mà về nhà làm ăn. Nghe Bự nói thế, tất cả những người trong tang gia ngừng tiếng khóc. Họ sụp lạy Bự và đồng thanh: - Ngài thương đến cho cụ chúng tôi sống lại, chúng tôi cắn cỏ lạy ngài và đời đời không quên ơn. Đám ma bèn được lệnh hạ đòn đặt xuống đám đất bên vệ đường. Mọi người xúm lai nạy ván thiên lên. Cái xác bị lột trần đặt sấp trên ván theo lệnh của Bự. Thế rồi Bự thong thả tiến lại giang thẳng cánh quất rất túi bụi vào cái xác, vừa quất vừa nói: - Xem thử là chết hay là sống! Xem thử là chết hay là sống! Nhưng quất đến roi thứ mười: Da thịt văng khắp nơi mà vẫn không thấy "ông cụ" của mình sống lại, bọn con cháu và thân thuộc người chết bèn xông lại, kẻ đấm người thoi vô hồi kỳ trận làm cho Bự ngã lăn ra chết giấc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ru-nhau-di-kiem-mat-ong" }
Sợi bấc tìm ra thủ phạm
Ngày xưa có một tay phú thương tên là Phong. Hắn ta có mười chiếc mành lớn chở hàng hóa bán khắp trong Nam ngoài Bắc. Mỗi một chiếc mành đều có một người lái do một thủ hạ tin cẩn cai quản. Trong số các lái có một người tên là Ninh, vốn tính nhanh nhảu được việc, nên được chủ rất tin cậy. Nhưng từ lâu, Ninh đã tằng tịu với vợ Phong mà Phong không hay. Hai người say mê nhau và điều ước muốn của họ là cuối cùng được công khai lấy nhau mới thỏa dạ. Một hôm, vào ngày đầu năm, mười chiếc mành sắp sửa xuất phát. Theo lệ thường khi đến cửa sông, các mành buôn có ghé lại trước miếu Ông để làm lễ rồi mới ra khơi. Lần này, Phong theo các mành của mình đến miếu làm lễ, đãi các lái và thủy thủ ăn một bữa linh đình, rồi mới trở về nhà bằng đường bộ. Thấy chủ về một mình, lại về vào lúc khuya khoắt, Ninh lẻn theo đường tắt đón ở một bụi rậm xông ra đánh chết. Đoạn, hắn nhanh chân chạy về mành, vừa kịp lúc sắp sửa nhổ neo. Thế là mười chiếc mành dong buồm ra khơi, trừ tên sát nhân, không một ai biết rằng chủ mình bị giết, và cũng không một ai ngờ cho lái Ninh là thủ phạm. * Án mạng đưa lên, quan địa phương phải chờ đến khi tất cả mọi người trên mười chiếc mành trở về, mới bắt đầu tra xét. Nhưng không có một chứng cớ gì để ngờ cho một người nào. Sau bao nhiêu ngày hỏi cung không tìm ra manh mối, quan địa phương đành phải đệ vụ án lên quan trên xét xử. Bọn quan tỉnh khi nhận được hồ sơ rất lấy làm bối rối. Những cuộc hỏi cung lại tiếp tục nhưng không có kết quả gì. Sau cùng, có một người trong đám ty thuộc, một hôm đến gặp quan tổng đốc xin hiến một mẹo nhỏ có thể tìm ra thủ phạm. Hắn ghé và tai quan nói thầm mấy câu. Lập tức quan sai bắt bọn lái và các thủy thủ đến miếu Ông. Quan bảo mọi người phải làm lễ và chầu chực ở miếu suốt đêm. Đến canh hai, quan cho gọi tất cả mọi người dậy và bắt mỗi người phải ngậm một đoạn bấc vào miệng, đồng thời mắt nhìn thẳng vào ngọn nến trên pho tượng thần. Quan nói: - Thần ở miếu này rất thiêng. Thần đã chứng kiến cái ngày ông Phong bị giết và đã biết ai là thủ phạm. Ta đã khấn xin thần: bấc này ngậm vào, nếu người ngay thì không việc gì cả, nếu là người gian thì nở dài hơn của những người khác. Theo lệnh quan, mọi người ngồi im lặng như thế cho đến sáng rõ mặt người. Trước án thư, mỗi người lần lượt đưa bấc tới đo. Quả nhiên, trong đó có một sợi khác với các sợi khác, nhưng không nở dài ra mà chỉ ngắn đi. Sợi bấc ấy chính là của lái Ninh. Khi nghe quan bắt ngậm bấc, Ninh sinh ra bàng hoàng lo lắng. Ngậm được một chốc, hắn cảm thấy sợ bấc trong miệng dài ra thật. Cho nên lúc gần sáng, hắn đã cắn bớt đi một tý. Khi đo bấc, hắn có ngờ đâu, chính vì thế mà bấc của hắn khác với của mọi người. Biết là sa vào mẹo của quan, và cũng nghĩ rằng oan hồn đến ngày báo phục nên lái Ninh đành thú nhận tất cả. Người ta bắt hắn cùng với người đàn bà bất chính kia đền tội.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/soi-bac-tim-ra-thu-pham" }
Vì sao người sống không còn thăm người chết được nữa ? (Truyện cổ dân tộc Bru)
Ngày xưa có hai anh em mồ côi đều chết vợ. Người em phát rẫy cạnh bên mộ vợ và thường bị lợn rừng đến phá. Một hôm, anh ta đặt bẫy, đánh trúng lợn. Chú lợn bị thương vùng khỏi bẫy chạy hút về phía mộ vợ anh. Người em cầm giáo đuổi theo. Con lợn bị đuổi chui tọt vào một cái hang bên cạnh mộ vợ anh. Theo dấu chân mồi, anh đuổi theo lợn.Chạy theo một đoạn vào trong hang sâu, dấu chân lợn mất đi và hang bỗng rộng ra. Đi thêm một đoạn nữa, anh lại bị ngáng trước một cửa hang chẹt. Từ cửa hang nhìn vào, anh nhận ra nhiều người quen cũ (nay họ đã chết rồi). Anh thầm đoán vợ mình cũng ở trong đám người đó. Anh định vượt qua cửa hang thì có người chặn lại hỏi: – Anh đi đâu? Anh trả lời liền: – Tôi muốn đến thăm vợ. Người kia tỏ ý bằng lòng và dặn thêm: – Đây là xứ Mường Lộc ( âm phủ ), anh vào đây nên tìm cách xin vợ về, không nên ăn cơm, uống nước. Đã ăn cơm, uống nước xứ Mường Lộc thì không còn lên mặt đất được nữa. Nói xong, người kia mở cửa cho anh vào. Suốt hai ngày, hai đêm, anh đi hết đường cao, lối thấp, qua những suối vàng, sông xanh để tìm vợ. Lúc cổ khát cháy, khi bụng đói cồn cào, lại qua nhiều nơi làm chay, làm hội, cỗ bày rượu thịt linh đình, có người rước đón, tiếp mời, anh vẫn một mực từ chối. Đến sáng ngày thứ ba, anh nhận ra vợ đang giã gạo dưới một sàn nhà cao. Vợ anh cũng đã nhận ra anh, vội buông chày chạy ra niềm nở hỏi han: – Sao anh đi thăm em lại không đưa con cùng đi? Con ta có khỏe không? Nó lớn bằng nào rồi? Anh rưng rưng nước mắt bảo vợ: – Con ta đã khóc khản cả cổ, ngày đêm trông ngóng mẹ về. Chị đưa mắt lên sàn nhà bảo anh: – Anh xin cho em về thì em về. Cha của chị bây giờ là vua xứ Mường Lộc có quyền to lắm, ít người dám bén chân đến thang sàn nhà ông. Anh vì thương vợ, thương con nên đánh liều leo lên sàn cao gặp vua. Ông vua đang ngồi bếp, thấy người lạ có nét mặt thật thà, dễ thương nên quay sang hỏi chuyện. Anh được dịp liền kể hết nỗi niềm tình cảm vợ chồng của mình cho vua nghe. Ông vua ra chiều xúc động, gật gật đầu, bảo: – Vợ chồng mày chung thủy như vậy là rất tốt, ta không nỡ gây cảnh phân li. Thôi được, ta cho vợ mày về Mường Lùm( trần gian ). Anh mừng quá xuống đón ngay vợ về. Đi được một buổi đường thì vợ chồng gặp một cây to chắn ngang đường. Người vợ vừa leo lên toan vượt qua thì trượt chân ngã, chết. Cùng lúc, tất cả đồ đạc, vật dụng chị ta mang theo đều biến thành vỏ cây. Anh chồng khóc lóc, bỏ xác vợ vào gùi, quyết vượt qua thân cây to để trở về mặt đất. Leo đến một ngày, hai ngày vẫn chưa vượt qua được thân cây, xác vợ anh ngày một thối rữa ra. Không quản gì thối tha, nặng nhọc, anh gùi xác vợ bên mình gắng qua nơi hiểm trở. Đến ngày thứ tư, khi vượt qua được thân cây to thì chợt vợ anh sống lại. Vợ chồng lại mừng rỡ, dắt tay nhau cùng đi về hướng quê nhà. Đi thêm một ngày nữa, vợ chồng lại gặp một con sông rộng. Đang bơi giữa dòng, người vợ bỗng chới với rồi chìm nghỉm. Anh chồng lại ngụp lặn tìm xác vợ. Mãi đến chiều ngày hôm sau, anh mới vớt được xác vợ lên. Anh lại đặt xác vợ vào gùi, mang đi. Xác chết phình nước nên chỉ đến chiều hôm sau là bắt đầu thối rữa. Mặc, anh vẫn gùi vợ đi. Được thêm một ngày nữa, người vợ sống trở lại, đúng lúc vợ chồng ra đến cửa hang. Họ nắm tay nhau chạy về nhà. Vợ chồng con cái lại sum họp như xưa. Người chồng đi làm rẫy, người vợ lo nuôi con, sửa sang lại nhà, nương. Ngày ngày, tiếng chày giã gạo của chị lại âm vang rừng núi. Người anh cả côi cút trong cảnh gà trống nuôi con, bỗng nghe tiếng chày giã gạo suốt sáng đến tối từ phía nhà em dội sang thì lạ lắm. Anh cho con sang xem ai đang giã gạo. Biết vợ em trở về, người anh dắt con sang chơi nhà em, hỏi chuyện làm sao em dâu chết lâu rồi nay sống lại được. Người em kể lại sự tình cho anh nghe và bảo: – Anh ơi, nếu anh muốn tìm chị về thì em sẽ đi giúp… Người anh xua tay: – Để anh đi tìm lấy. Ai lại để em chồng đi tìm chị dâu. Anh cả ra đi đúng như lời em dặn, như đường em đã đi. Anh cũng gặp được vợ, cũng xin vua Mường Lộc cho vợ được về với mình. Trên đường về, vợ anh cũng vượt qua cây gỗ và ngã chết, anh làm theo lời em, bỏ xác vợ vào gùi mang đi. Mùi thối của xác chết làm anh nhức óc. Có lần anh toan ném cái xác ấy đi, nhưng nhớ lời em dặn, anh bịt mũi, chịu khó mang đi tiếp. Vượt qua được thân cây to, vợ anh sống lại. Vì sợ phải mang xác chết lần nữa, anh cả tách rừng rẽ sang một lối khác. Cuối cùng anh vẫn phải vượt qua bến sông như lời em đã báo trước. Người anh cố dìu chắc để vợ khỏi chết đuối, nhưng khi ra giữa dòng, bỗng dưng giông tố nổi lên, người vợ bị tuột khỏi tay anh chìm nghỉm. Anh cố công lặn tìm suốt một ngày, một đêm thâu. Khi vớt được thì xác của vợ đã rữa ra, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Anh cả không chịu được nữa, đành buông xác vợ xuống sông. Anh cả tiu nghỉu lên bờ tìm đường về, liền nghe tiếng gọi rất quen từ bên kia dội sang. Anh nhận ra bóng dáng vợ mình đã sống lại, đang đứng ở bờ bên kia gọi nhắn sang: – Anh ơi, vợ chồng lấy điều chung thủy làm đầu. Anh đã không giữ được điều đó, từ nay trở đi anh đừng quay lại nữa. Nói rồi chị ta biến mất. Lúc quay về xứ Mường Lộc, chị ta thuật lại mọi chuyện cho vua nghe. Ông vua nổi giận, gọi hết những người coi cửa xứ ông đến, nghiêm khắc bảo: – Từ nay ta cấm tiệt việc người sống trên Mường Lùm về thăm người sống dưới xứ Mường Lộc ta. Từ đó đến nay, người sống bị cấm cửa, không còn được đi thăm người chết như trước nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vi-sao-nguoi-song-khong-con-tham-nguoi-chet-duoc-nua-truyen-co-dan-toc-bru" }
Người đầy tớ và người ăn trộm
Ngày xưa có hai anh chàng cùng yêu một cô gái và cùng một lúc đến dạm nàng làm vợ. Trong khi cô gái đang phân vân chưa biết nên lấy người nào thì hai người đàn ông đã rủ nhau ra một quán rượu làm quen và tỏ ý thương lượng với nhau về việc dạm vợ. Người thứ nhất vui vẻ cho biết tên mình là Trần Lực, làm đầy tớ cày cho một ông bá hộ ở một làng nọ. Thấy hắn có vẻ cởi mở, anh chàng thứ hai tên là Lê Đô cũng không giấu giếm nghề nghiệp đào tường khoét vách của mình. Nhưng khi nói đến chuyện dạm vợ, cả hai người không ai chịu nhường ai. Cuối cùng, Lê Đo bàn với Trần Lực hãy cùng mình thi tài, nếu người này nhận rằng người kia giỏi hơn, thì sẽ tự nguyện rút lui, nhường cô gái cho người kia lấy làm vợ. Trần Lực nghĩ ngợi một lát rồi cũng gật đầu nhận lời. Lê Đô đưa Trần Lực về nhà mình, tiếp đãi rất tử tế. Tối hôm ấy, hắn bảo anh chàng đi theo mình. Sau khi dắt bạn đi quanh quẩn bao nhiêu xóm làng, ruộng đồng, đến một nơi kia, hắn bảo: - Nhà này cũng không giàu lắm, nhưng hắn mới đưa dâu về. Đêm nay tôi muốn mượn tạm chiếc áo cô dâu đang mặc. Và tôi sẽ lấy được cho bác xem. Nói đoạn, hắn cắt rào chui vào, rồi mở cổng cho Trần Lực vào theo. Hai người trèo lên nóc nhà. Trần Lực rất lo ngại, nhưng Lê Đô ngắm nhìn bốn phía nhà hồi lâu rồi bảo nhỏ bạn: - Nhà này chỉ có hai cửa. Cửa phía Đông thì có một con chó đang nằm canh giữ. Còn phía Nam có một người đang ngồi vót mây. Thế là khó vào rồi đấy. Nhưng tôi đã có cách. Hắn bèn tụt xuống đi đến cửa phía Nam rình trong xó tối. Nhìn thấy mây của người kia đang vót là một sợi rất dài, vắt từ trong thềm nhà ra đến cuối sân, hắn bèn lén nắm lấy đầu sợi dây mây giật nhẹ một cái. Người vót mây bị hụt tay, dao cứa sâu vào ngón. Nhưng hắn vẫn tưởng mình lỡ tay chứ không biết có người gây nên. Đau quá, hắn nắm lấy ngón tay bị thương, bật lên mấy tiếng "chắt, chắt..." ở đầu lưỡi. Con chó tưởng chủ gọi cho ăn bèn từ cửa phía Đông ngoắt đuôi chạy đến. Thừa dịp tốt đó, Lê Đô đưa bạn vào nhà. Họ tìm đến buồng cô dâu chú rể. Hai người lúc ấy đang ngủ say. Lê Đô tìm một quả trứng đập giập, nhân lúc cô dâu nằm ngoảnh mặt vào vách, bèn cho vương vãi lòng trắng trứng xuống chiếu, rồi trở lại nấp vào một xó ngồi chờ. Được một chốc, cô dâu quay mặt trở ra nằm lên vũng nước trứng, nước trứng thấm vào áo, từ áo thấm vào da, làm cho nàng sực tỉnh. Khi thấy áo ướt, nàng lồm cồm dậy thay, đoạn trở lại nằm xuống như cũ. Lê Đô lập tức trộm lấy chiếc áo rồi nói với Trần Lực: - Chỉ lấy có chiếc áo thôi, chưa hẳn cô dâu đã dám kêu, mất trộm. Vậy chúng ta phải lấy thêm một cái gì cho chúng nó biết là đêm nay có kẻ vào thăm nhà. Nói đoạn, hắn lần đến hòm, mở ra, lấy món nữ trang đưa cho Trần Lực xem, rồi hai người tháo lui. Trần Lực tấm tắc khen hắn tài giỏi. Nhưng anh cũng cố nèo mời Lê Đô về nhà mình chơi. Lê Đô hỏi: - Anh đang kỳ hạn ở cày với chủ. Vậy đến nhà anh có bất tiện không? Trần Lực cười và trả lời: - Không. Đến nhà tôi tức là đến nhà lão chủ của tôi đấy. Lão chủ của tôi kể ra cũng khó tính. Nhưng không việc gì đâu, tôi đã có cách làm cho hắn tiếp đãi bác tử tế. Bác cứ đi với tôi, đừng lo gì cả. Hai người ra đi. Lúc sắp tới nhà, Trần Lực bảo bạn: - Lão chủ nhà tôi nóng nảy lắm. Về đây tôi sẽ bảo nó leo lên leo xuống trên mái nhà ít nhất là hai lần để cho nó dịu cái tính nóng đi trước khi tiếp bạn. Và tất nhiên, hôm nay tôi bảo nó để tôi ở nhà ít nhất là một ngày để tôi tiếp bạn tôi. Trước tiên bác hãy khoan vào vội, chỉ đứng ngoài cửa chỗ kho lúa này mà nhìn vào, để thấy chút tài mọn của tôi. Bao giờ tôi ra đón bác hãy vào. Trần Lực bước vào nhà, Lê Đô đứng ngoài nhìn theo thấy hắn đến kho lúa, bắc thang lên tường, lại dùng chân in những vết chân đất lên tường, lên nóc và lên thang,v.v... rồi mới vào nhà. Một lúc, thấy cả chủ nhà lẫn đầy tớ chạy ra kho lúa nhìn lên những cái dấu chân. Lão chủ bộ dạng hớt hơ hớt hải, bảo Trần Lực: - Thôi, mày hãy nghỉ cày một bữa rồi trèo lên xem xét tất cả cho tao một lượt! Trần Lực vâng lời, làm như chủ dặn. Nhưng lão chủ không tin ở đầy tớ. Hắn tự mình cởi áo, chật vật lắm mới đưa được tấm thân phục phịch lên chạn lúa, rồi leo lên nóc nhà quan sát rất kỹ lưỡng. Thế mà lúc bước chân xuống đất, tính đa nghi bắt hắn ta lại hì hục trèo lên một lần nữa. Một lúc sau, giữa khi Lê Đô đang ngồi đợi ở một gốc cây, đã thấy Trần Lực bước ra tươi cười: - Bác có thể vào được rồi. Hôm nay tôi được nghỉ để chẻ lạt tu bổ hàng rào. Tôi đã báo cho chủ biết bác là bạn thân của tôi. Bác chả phải lo gì sất. Chỉ khi chủ nó hỏi, bác cứ nói là mình làm lính lệ ở phủ về chơi. Thế là đủ. Lê Đô bước vào nhà. Thấy lão bá hộ chủ của Trần Lực, hắn ta có vẻ sợ sệt , chỉ sợ vỡ chuyện nó đi trình làng thì lôi thôi. Ban đầu lão bá hộ khinh Lê Đô ra mặt, chỉ ậm ừ chứ không thèm chào. Nhưng khi nghe Trần Lực nói người quen của mình làm lính lệ ở một phủ gần phủ nhà thì hắn tỏ vẻ cung kính ngay. Mặc dầu là người quen của đầy tớ, hắn cũng hối hả bảo người nhà làm cơm dọn rượu tiếp đãi rất tử tế. Xong cuộc đó, Lê Đô vẫn tự cho là mình giỏi hơn Trần Lực. Nhưng Trần Lực nhất định không chịu. Cuối cùng, hai người dắt nhau đến nhà một ông đồ để nhờ ông ta phân xử. Gặp ông đồ, hai người kể tất cả câu chuyện cho ông nghe. Đoạn cùng nói: - Cụ vì lẽ công bằng phân xử hộ cho ai là người đáng được làm chồng cô gái đó. Cụ đồ trả lời: - Hai người hãy nghe câu chuyện này: có hai con mèo, một con chuyên ăn vụng của nhà, còn một con chuyên ăn vụng của xóm giềng. Cả hai đều ăn vụng được luôn và lần nào cũng trót lọt. Vậy hai người thử nghĩ cho kỹ xem con nào tài hơn? Hai người ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đồng thanh cho con mèo ăn vụng của nhà là hơn. Cụ đồ tiếp luôn: - Vậy thì trong hai người đây, có tài hơn phải là người đã dùng mưu thường xuyên bắt chủ theo ý mình. Chứ còn thỉnh thoảng đi ăn trộm được một vài nhà sơ ý thì đâu phải là chuyện khó. Vả lại cũng chả hay hớm gì khi đem tài trí ra để chiếm đoạt của cải của người khác. Cho nên tôi cho rằng anh Đô nên nhường bước trước cho anh Lục mới phải. Ở nhà cụ đồ ra Lê Đô vui lòng nhường cô gái cho Trần Lực. Hai người sau đó kết bạn với nhau thân thiết.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-day-to-va-nguoi-an-trom" }
Người đàn bà bị vu oan
Ngày xưa, có hai người lái buôn tơ lụa, một người tên là Lý, một người tên là Tình. Tuy quê ở hai nơi nhưng họ thường đến bán hàng và thường gặp nhau ở một thị trấn nọ. Trong cuộc buôn bán kinh doanh, họ dần dần quen nhau, thỉnh thoảng mời nhau chè chén có vẻ thân mật. Một hôm, Lý mời Tình đến nhà hàng dự tiệc cùng mấy người bạn buôn khác. Khi rượu đã ngà say, họ xoay sang nói chuyện đàn bà. Một người cho rằng theo hắn, thì hai tiếng tiết trinh dường như thật vô nghĩa giữa cõi đời này. Một người đàn bà giữ chính chuyên suốt đời với một người đàn ông, đó là chuyện kỳ quái khó ai tin được. Lý đắc chí nói thêm vào: - Đối với tôi, chỉ mất một ít tiền và một vài lời nói ngọt thì dù là người đàn bà sắt đá đến đâu cũng phải mềm ra ngay. Tình nghe nói thế, cố cãi cho bằng được. Hắn nói vợ hắn ở nhà là một người đàn bà đã đẹp người, lại tốt nết, một tấm gương sáng về sự đoan chính. Thấy mọi người cười mỉa, hắn đoan: - Nếu bác nào quyến rũ được vợ tôi có bằng cớ hẳn hoi, tôi sẽ biếu bác đó tất cả gia tài! Lý cười ha hả rồi nửa đùa nửa thật: - Bác có dám đánh đố với tôi không? Tình khẳng khái viết ngay một giấy giao ước, trong đó hắn tình nguyện nộp tất cả gia tư điền sản cho Lý nếu trong một tháng Lý quyến rũ được vợ mình. Ngược lại, nếu cũng trong một tháng ấy mà Lý không làm nổi việc đó thì sẽ mất hết gia tài cho mình. Giấy viết xong, Tình mời Lý ký vào và mời tất cả các bạn buôn cùng ký làm chứng, và hứa rằng mình sẽ ở lại đây cho đến tháng thứ hai mới trở về nhà. Tìm đến đuợc quê hương của Tình, Lý bắt đầu giở thủ đoạn. Gặp vợ Tình ở chợ, hắn theo sát nút, liếc mắt đưa tình giở giọng ve vãn. Hắn chỉ nghe đuợc những tiếng chửi đáp lại. Nhưng hắn vẫn kiên nhẫn đuổi theo tán tỉnh không ngớt. Cuối cùng nguời đàn bà ấy phải nhờ tuần phiên can thiệp, hắn mới ôm đầu tháo chạy. Lần thứ hai, hắn mang những đồ trang sức rất đẹp đóng bộ một tay buôn giàu có và phong tình đến bán cho vợ Tình. Sau khi giới thiệu những món nữ trang quý giá và xinh xắn, hắn dùng lời đuờng mật để gạ nguời đàn bà đó. Hắn nói: - Tôi rất sung sướng được bán hàng cho một vị tuyệt thế giai nhân. Truớc hết, tôi xin tặng nàng chiếc nhẫn này. Nếu nàng bằng lòng - chỉ một lần thôi - tất cả những vật nhỏ mọn này đều là của nàng cả. Nhưng vợ Tình nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Không những nàng quăng lại chiếc nhẫn mà còn mới hắn ra ngay khỏi cửa. Lần thứ ba hắn lại đến nhà Tình, nhưng đến một cách lén lút. Trong đêm hôm tối tăm. Hắn lẻn đuợc vào buồng nguời đàn bà với những thỏi vàng cầm tay. Khi liệu chừng mọi nguời đã ngủ yên, hắn mới tiến đến bên giuờng lấy giọng ngọt ngào gọi khẽ và ấn những thỏi vàng vào tay nàng. Hắn nói: - Xin nàng chớ sợ! Tôi đến đây với rất nhiều vàng để giúp nàng khuây khỏa nỗi phòng không bóng chiếc. Hắn sà xuống ôm lấy vợ Tình, nhưng nguời đàn bà đã tỉnh liền vùng dậy. Một cuộc vật lộn xẩy ra trên giuờng. Chỉ trong một chốc, nguời đàn bà đã cho hắn một đạp ngã lăn ra. Hắn lóp ngóp bò dậy và chạy trốn mất. Thấy công việc của mình không một mảy may kết quả mà kỳ hạn thì đã sắp hết. Lý sực nhớ đến tờ giấy giao ước đã trót ký với Tình, đâm ra lo lắng hết sức. Hắn bèn nghĩ một mưu rất thâm độc. Hắn đi dò hỏi và tìm đến một bà mụ đã từng đỡ cho vợ Tình đẻ. Hắn cho nguời này rất nhiều tiền, dỗ dành mụ cho mình biết một vài nét đặc biệt trong người vợ Tình. Bà mụ là người thấy của thì híp mắt lại, nên khi được tiền của Lý, mụ ta ghé vào tai hắn: - "Ở quá phía dưới rốn của nàng có một nốt ruồi nhỏ". Thế rồi Lý trở về gặp lại Tình, hớn hở nói cho Tình biết rằng mình đã quyến rũ đuợc vợ hắn. Tình hỏi bằng chứng và khi nghe Lý dẫn ra cái nốt ruồi kín đáo thì hắn không còn hồn vía nào nữa. Hắn đành giao gia sản cho Lý rồi vì ghen tức đầy ứ, hắn trở về quê đánh cho vợ một trận rất tàn nhẫn và đuổi nàng đi. Bị vu oan và bị đánh oan, người vợ Tình vô cùng tức giận. Nàng nghĩ đến việc báo thù và tìm cách tự minh oan cho mình. Một hôm, nàng gặp Lý ở giữa đường, bèn xông tới xỉ vả và nắm lấy tóc giằng xé rất dữ dội. Người ta đưa hai người lên quan. Khi quan hỏi nàng tại sao vô cớ làm nhục một người đàn ông giữa đường thì nàng trả lời: - Bẩm quan, nó vay của con một số tiền là hai mươi quan, con tin ở nó quen biết không bắt làm giấy tờ gì cả, nào ngờ đến bây giờ nó trở mặt, đòi mấy cũng không chịu trả. Thấy vợ Tình vu vạ, Lý chỉ cười nhạt. Hắn bẩm quan: - Tôi xin đoan với quan lớn và mọi người ở đây rằng tôi chả hề quen thuộc gì với người đàn bà này cả chứ đừng nói tới vay hay mượn làm chi! Nghe nói thế vợ Tình mới kể cho quan biết sự tình: việc chồng mình thách hắn, âm mưu gian giảo của hắn đối với mình, cùng là nông nỗi mất gia tài sản nghiệp như thế nào. Cuối cùng nàng nói: - Nếu nó không hề quen tôi, thì làm sao nó lại ăn nằm với tôi được chứ. Tên lái buôn gian giảo điếng người vì câu nói hớ. Sau một cuộc khảo đả, âm mưu của hắn bị bại lộ. Quan xử cho Tình không những không mất tài sản mà còn được thêm tài sản của đối phương, đúng như lời giao ước. Hai vợ chồng nhờ đó lại đoàn tụ. Còn người đàn bà làm nghề bà mụ thì không những có tội làm cho gia đình người khác bị tan nát, mà còn làm trái với lương tâm của nghề nghiệp. Quan xử mụ tù chung thân là tội rất nặng đối với đàn bà để răn những kẻ khác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-dan-ba-bi-vu-oan" }
Hòa thượng và người thợ giày
Có một nhà sư tên là Diệu Kế trụ trì ở một ngôi chùa lớn làng Bích-khê. Sư ta vốn ít chữ nhưng được cái sáng dạ, trải qua những ngày cạo đầu cắp níp đi theo các bậc tu hành cũng võ vẽ được ít nhiều kinh kệ. Sống lâu lên lão làng, nhờ chuyện cần gõ mõ tụng kinh, nên chẳng mấy chốc được leo lên hàng sư bác. Từ đó Diệu Kế đã được dân làng vùng này vùng khác đón về thờ Phật cai quản chúng tăng. Qua nhiều lần ăn mày lộc Phật ở rất nhiều chùa, Diệu Kế đã nắm được cái chân lý: cuộc đời tu hành của mình chẳng qua cũng là một cách mưu sinh. Vậy thì tội gì mình theo "năm điều răn" cho mệt xác. Vì vậy, về mặt đức hạnh, Diệu Kế tuy không phải là hạng hổ mang, nhưng cũng chẳng phải thuộc hàng chân tu. Thỉnh thoảng sư ta cũng biết lén lút tìm cách làm vợi bớt những món tiền quyên cúng của thập phương đang ngộn lên ở tráp. Ở gần chùa có một người thợ giày cũng trạc tuổi và cùng khổ người khổ mặt với Diệu Kế. Hai người dàn dần quen nhau rồi trở nên một đôi bạn nối khố. Khi đã tương đắc, người thợ giày thường mang rượu thịt vào tăng phòng vào những lúc vắng vẻ, rồi cả hai đóng cửa lại, chén tạc chén thù. Họ tỉ tê kể cho nhau nghe những câu chuyện vượt ra ngoài mảnh vườn và mái chùa nhà Phật. Được cái người thợ giày am hiểu việc đời nên Diệu Kế ta rất thích. Mỗi khi thấy ông bạn túng thiếu, Diệu Kế thường phóng tay chu cấp khi năm quan ba quan không biết tiếc. Tuy nhà sư không bao giờ xao nhãng việc tụng kinh gõ mõ nhưng bọn hào lý trong làng cũng chẳng phải không có kẻ ghét ghen. Họ ngờ rằng về mặt kinh kệ, vốn liếng của sư ông hình như không có bao nhiêu. Hơn thế, mỗi lần nghe sư ông tụng kinh, thấy chỉ ê a suốt buổi, điểm vào những câu lạc lõng, tựa hồ không phải là kinh Phật. Mặc dầu vậy, họ cũng chả biết gì nhiều về tiếng kinh câu kệ vốn rất khó hiểu, nên chưa có cách nào để tìm cho ra sự thật. Hồi bấy giờ ở một ngôi chùa phương Nam có một vị hòa thượng nổi tiếng đạo học và đức hạnh. Vị hòa thượng này đã từng tu luyện rất nhiều năm và từng sang đất thánh. Vào lúc này bậc đại đức ấy dược vua ban tước quốc sư, cho phép đi chơi khắp mọi cảnh chùa trong nước. Tuy tuổi già, hòa thượng chuyên ăn chay nằm đất: lại có điều đặc biệt là do thuộc phái "vô ngôn", nên người nhất thiết không nói năng gì với ai, chỉ khi cần lắm mới làm dấu hiệu, hoặc viết ý nghĩ của mình lên mặt giấy. Nghe tin bậc đại đức này sắp quá làng mình, bọn hào lý Bích-khê bèn sửa soạn một cuộc đón rước trọng thể tại chùa và nhân thể nhờ hòa thượng kiểm tra hộ sư ông Diệu Kế về mặt đạo học. Nếu quả đúng như mối ngờ bấy lâu thì họ sẽ mời sư đi chỗ khác. Nghe tin này, Diệu Kế rất lo. Cuộc khảo hạch này chắc chắn sẽ làm lòi cái dốt của mình và có thể nếu không bị đuổi thì cũng mất mặt trước thiện nam tín nữ. Than ôi? Còn đâu là những ngày ngồi ung dung hưởng hàng chục mẫu hoa lợi và bao nhiêu tiền của thập phương. Nghĩ vậy, Diệu Kế quyết vắt óc tìm cách để ra khỏi cảnh khó khăn. Sực nhớ tới ông bạn nối khố thường tự xưng là người túc trí đa mưu. Diệu Kế bèn nhắn bạn đến chùa để cùng mình bàn tính. Sau khi nghe thủng câu chuyện, người thợ giày liền an ủi: - Tưởng gì chứ việc ấy thì để mặc tôi lo liệu. Tôi sẽ thay bạn trả lời tất cả những câu khảo hạch của lão già ấy. - Nhưng làm sao mà thay được, Diệu Kế hỏi. - Khó gì. Vì cùng trạc người như bạn, tôi sẽ kín đáo lẻn đến đây đúng vào hôm lão già ấy tới chùa. Chỉ cần bạn đòi bọn hào lý cho được một mình đối diện với lão ấy ở tăng phòng đóng kín cửa, không một người thứ ba nào cùng dự là ổn. Tôi sẽ từ chỗ nấp bước ra sắm vai của bạn. Tôi cam đoan sẽ chu toàn mọi việc. Bạn đừng lo gì cả! Nghe người thợ giày hiến kế, sư ông Diệu Kế có phần vững tâm. Mấy ngày sau, vị hòa thượng quả nhiên ghé vào chùa theo lời mời của bọn hào lý, và gật đầu nhận lời họ về việc khảo hạch sư ông. Khi cửa tăng phòng đã cài then, dưới ánh đèn le lói người thợ giày đầu mới cạo bóng nhoáng, mình mặc áo cà sa từ bệ bước ra trước mặt hòa thượng để chịu sự thử thách. Cuộc khảo hạch bắt đầu. Vị đại đức không hề hé răng, chỉ thong thả đưa bàn tay phải sờ lên đầu mình. Thấy vậy, ngươi thợ giày thình lình co cẳng trái đạp mạnh xuống nền tăng phòng một cái "thịch". Tiếp đó vị đại đức ngửa mặt lên trời hồi lâu rồi sờ tay vào nách. Để trả lời, người thợ giày lại quờ cánh tay mình ra đằng sau và đấm vào lưng mấy cái. Tiếp đó, vị đại đức mỉm cười và giơ ba ngón tay ra trước mặt. Người thợ giày liền trợn mắt cũng giơ bàn tay giăng đủ năm ngón lên trời. Sau đó, vị đại đức gật gù, không làm dấu hiệu gì nữa bước ra khỏi tăng phòng, trong khi người thọ giày lại trở về chỗ nấp cũ. * * * Trước khi từ giã làng Bích-khê, vị hòa thượng mà tên tuổi được mọi người tôn kính, không quên viết mấy câu vào mảnh giấy trao cho bọn hào lý, nói rõ kết quả cuộc khảo hạch vừa rồi. Đại ý trong giấy viết: "Từ thôn quê đến thị thành, ta chưa từng thấy có người nào thông hiểu nghĩa lý đạo Phật thâm thúy nhà sư ông Diệu Kế. Không những sư ông hiểu rõ những dấu hiệu ta đưa ra hỏi, mà còn dùng dấu hiệu để đối đáp với ta, y như những vế biến ngẫu tài tình. Thoạt đầu ta muốn nói: "Luôn luôn trong đầu phải tâm niệm lời dạy của đức Thích Ca" thì sư ông đã trả lời: "Cần phải giẫm xuống dưới chân những cám dỗ của Ma vương". Ta lại muốn nói: "Con hạc cắp dưới cánh lời cầu nguyện mang lên thượng giới". Sư ông trả lời: "Con rùa ghé tấm lưng đội bia đứng trước chùa". Cuối cùng ta giơ ba ngón tay để nói "Tam quy". Sư ông giơ cả bàn tay để đối lại là "Ngũ giới". Đó là điều không phải những kẻ đạo học tầm thường có thể trả lời một cách nhanh gọn được. Sư ông Diệu Kế quả là một ngôi sao trong rừng thiền chúng ta". Đọc xong, bọn hào lý làng Bích-khê cúi chào vị hòa thượng già, rồi sau đó trở về chùa xin ra mắt sư Diệu Kế. Bọn họ hết lời xin lỗi: - Chúng tôi quả thật người trần mắt thịt, không biết được đạo học của hòa thượng sâu rộng như biển. Chẳng qua chỉ vì có một vài người xấu thói thêu dệt điều này tiếng nọ vu cho hòa thượng nên buộc làng chúng tôi phải rước bậc đại đức đến chùa để bày cuộc thử thách. Giờ đây tất cả mọi nghi ngờ đều đã tiêu tan. Xin hòa thượng miễn chấp cho lũ ngu độn này. Sau khi bọn hào lý đã ra về hết, người thợ giày bèn ra khỏi chỗ nấp. Diệu Kế hỏi: - Bạn hãy mau mau cho biết bạn đã trả lời như thế nào về những câu hỏi của ông già ấy làm cho danh tiếng của tôi bỗng nổi lên như cồn trước bọn hào lý vậy? Người thợ giày đáp: Có gì đâu. Thoạt đầu lão già ấy chỉ tay lên đầu ý hỏi tôi có biết làm mũ ni hay không? Tôi đạp chân xuống đất để trả lời rằng tôi chỉ biết đóng giày mà thôi. Thế rồi lão lại chỉ vào nách để hỏi tôi có thứ da nào mềm như da nách để thửa một đôi. Tôi chỉ vào lưng để nói rằng dạo này chỉ còn thứ da dày như da ở lưng, nhưng dùng để đóng giày cũng khá bền tốt. Thế rồi ông lão quyết định thửa một đôi nhưng lại mà cả có ba quan. Tôi nhất định không chịu, đòi phải có đủ năm quan mới làm. Thế là ông lão bỏ đi ra, chắc ông lão bủn xỉn chê đắt không thửa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hoa-thuong-va-nguoi-tho-giay" }
Lê Văn Khôi
Ngày xưa vào triều Minh Mạng, có một chàng trai nhà nghèo nhưng có sức khỏe tuyệt trần. Anh chàng thường chống đò ngang ở bến đò Thiên Tả kiếm ăn. Lúc mới sinh, anh có ba cái nốt đỏ ở bụng, ai nấy đều bảo là tướng rất quý. Tiếng đồn thổi mỗi ngày một rộng. Quan trên nghe tin, cho là tướng nghịch, toan bắt nộp triều đình để lấy thưởng. Biết được tin ấy, anh bỏ lên miền núi rừng tỉnh Cao Bằng. Từ đây, anh kêu gọi các hài kiệt nhóm họp lại, làm giặc chống lại triều đình. Trong số đồ đảng của anh có Nguyễn Hựu Khôi, một chàng trẻ tuổi, nhưng sức khỏe và gan dạ thì được mọi người trầm trồ khen ngợi. Dần dần thế lực của họ rất mạnh. Họ chiếm được tỉnh Cao Bằng, rồi đánh lan ra các nơi. Quân đi đến đâu các tỉnh hàng phục đến đấy. Nhà vua lo sợ, sai Lê Văn Duyệt cầm quân đi đánh, nhưng quân của họ chiến đấu rất dũng cảm, mấy lần đánh lui những đạo binh đông đảo của triều đình. Chẳng mấy chốc họ tiến sát Bắc thành. Quân triều đình rút vào cố thủ. Bấy giờ vào tiết tháng Bảy, nước sông lên to. Thấy thế nguy khốn, Lê Văn Duyệt vô cùng lo lắng. Hắn bèn biện lễ vật cầu thần giúp đỡ. Thần báo mộng cho biết: tối hôm sau hễ thấy nơi nào có ngọn lửa xanh thì dồn toàn lực đánh ập vào chỗ đó, thần sẽ "âm phò" cho được thắng lợi. Được lời thần, Lê Văn Duyệt ra lệnh cho các đạo quân sẵn sàng. Vào lúc nửa đêm, bỗng nhiên có môt tiếng sét vang, một ngọn lửa xanh xuất hiện ở chỗ quân giặc đang đóng. Quân sĩ triều đình biết là có thần giúp, lăn xả vào chỗ có ngọn lửa. Quả nhiên, họ phá tan được giặc, bắt sống được hàng trăm người trong đó có anh lái đò Thiên Tả và Nguyễn Hựu Khôi. Khi đưa hàng trăm tội nhân ra pháp trường xử trảm, Lê Văn Duyệt liếc thấy một tù binh dáng người vạm vỡ khỏe mạnh, tướng mạo khôi ngô, thì đem lòng thương hại, mới gọi đến hỏi: - " Ngươi tên là gì?" -"Nguyễn Hữu Khôi" - người ấy đáp. - " Ngươi có tài nghệ gì không?" - " Lên rừng trói hổ, xuống sông bắt sấu, làm gì cũng được!". Lê Văn Duyệt bèn bảo lãnh cho chàng để được"đái tội lập công" rồi đưa vào Nam kỳ. * Chẳng mấy chốc Nguyễn Hựu Khôi đã chiếm được lòng tin của Lê Văn Duyệt. Bất cứ công việc gì khó khăn nặng nhọc chàng đều làm cho chủ vui lòng. Sức khỏe và lòng gan dạ của chàng đã làm mọi người khiếp phục. Những tay đô vật cũng như những nhà côn quyền đều coi chàng là bậc đàn anh. Bao nhiêu công việc hàng voi phục hổ, chàng chẳng coi ra mùi mẽ gì. Một hôm có sứ thần nước Xiêm đến Gia Định. Để sứ thần biết oai thượng quốc, Lê Văn Duyệt sai Khôi cải trang làm lính, trà trộn trong đám quân sĩ đợi lệnh ra trổ tài cho sứ thần xem. Ở Gia Định hồi ấy, người ta có nuôi hổ trong những cái chuồng đặt trong các "khai" rào kín xung quanh. Lê Văn Duyệt truyền mở hội đấu hổ cho mọi người tới xem rồi mời sứ thần Xiêm và các quan chức cùng mình lên ngồi trên vọng đài. Dứt tiếng trống, Duyệt truyền lệnh bắt đầu cuộc đấu. Khôi mình trần trùng trục, một tay cầm côn sắt, một tay cầm đùi lợn sống tiến lại chuồng hổ mở cửa cho nó ra. Không ngờ gặp phải con hổ quá dữ, vừa ra khỏi chuồng là chồm ngay lên mình Khôi. Chàng sợ nguy đến tính mạng, đành cho nó một côn, hổ ngã lăn ra tắt thở. Trong khi sứ thần và mọi người đều vừa run vừa phục tài Khôi, thì Duyệt làm bộ nổi giận lấy cớ tại sao lại tự tiện giết mất hổ quý, liền rút lệnh tiễn truyền quân đao phủ dẫn Khôi ra chém. Khôi sụp lạy xin tha tội để cho mình đi bắt trói con khác. Thế rồi chàng lại cầm đùi lợn vào "khai" mở cửa một chuồng hổ khác. Giữa những tiếng trống, tiếng reo dậy đất, chàng cùng hổ quần nhau hồi lâu. Cuối cùng một miếng đá của chàng làm cho hổ lăn ra ngã ngửa. Sẵn dây ở khố, chàng lấy ra trói lại, vác đưa đến trước đài phục mệnh. Trên vọng đài Lê Văn Duyệt hài lòng, sứ thần Xiêm vô cùng thán phục. * Lê Văn Duyệt từ chỗ trọng tài đến chỗ tin yêu, nhận chàng làm con nuôi. Về phần Lê Văn Khôi - tên họ mới của người tù - cũng cảm ơn tri ngộ của chủ. Từ ngày trở thành người thân của quan Tổng trấn, chàng muốn gì có nấy. Cởi áo tù binh khoác áo võ quan, dần dần từ Phó vệ lên Chánh vệ, bước đường công danh tiến nhanh vun vút. Nhưng không bao giờ Khôi quên những bạn nằm gai nếm mật đã rơi đầu dưới lưỡi đao của đao phủ. Được Lê Văn Duyệt che chở, vây cánh của Khôi mỗi ngày một đông. Nhưng giữa lúc đang thuận buồm xuôi gió thì không may Lê Văn Duyệt chết. Lại nói chuyện, trước kia vua Minh Mạng vốn có tỵ hiềm với Lê Văn Duyệt. Gia Long trước khi nhắm mắt có ý định bỏ trưởng lập thứ, nên cho đòi các quan đại thần về kinh để hỏi ý kiến. Riêng Lê Văn Duyệt tỏ ý bênh cho dòng đích. Nghe được tin này, Minh Mạng xiết bao căm tức. Từ khi lên làm vua, ông muốn ăn gan uống máu Lê Văn Duyệt cho hả giận. Nhưng hồi đó trong tay Lê Văn Duyệt còn nắm binh quyền, nên Minh Mạng đành nuốt giận làm lành. Cho đến ngày Duyệt chết, Minh Mạng mới bãi bỏ chức tổng trấn, giải tán Nam thành; thành Phiên An bây giờ chỉ là thủ phủ của Gia Định, còn sáu tỉnh Nam kỳ trực thuộc với triều đình. Minh Mạng lại cử bố vợ của mình là Bạch Xuân Nguyên làm bố chính Gia Định, dặn cố kiếm lỗi của Duyệt lúc sống để trị tội cho thỏa lòng căm tức bấy lâu. Lại nói chuyện quốc trượng Bạch Xuân Nguyên vốn là một tên hung ác. Bước chân tới Gia Định, hắn ra sức bới lông tìm vết để khép Lê Văn Duyệt vào tội lộng hành. Hắn đã giết mấy mấy người thân tín của Duyệt. Những người còn lại, hắn sai giam giữ để tra khảo. Về phần Lê Văn Khôi thì chàng hết sức đau xót cho chủ, hơn nữa lại nhìn thấy vây cánh của mình đang bị tỉa dần tỉa mòn, mưa đồ báo phục có cơ vỡ lở nay mai. Vì vậy ngọn lửa hận càng bừng bừng bốc lên. Đã đến lúc chàng và phó vệ Hùng, bạn chàng, được Bạch Xuân Nguyên gọi vào dinh. Biết hai người này vốn được Lê Văn Duyệt tin cậy, Bạch Xuân Nguyên hỏi ngay: - Vậy chớ hai thầy ở với Lê Văn Duyệt lâu năm, hai thầy có biết và làm chuyện chi "bất pháp" hãy nói cho ta hay thử? Không nhịn được nữa, Lê Văn Khôi lập tức mắng ngay: - Anh là kẻ hậu sinh mà dám khinh mạn một bậc lão tướng công thần. Nếu như thượng công còn sống thì anh làm một tên lính hầu trà của ngài cũng không đáng. Nay ngài mới thất lộc mà anh dám kêu tên ngài ra nói xách mé như vậy. Coi chừng kẻo chúng tôi lấy đầu đi đó! Nghe mấy lời nhục mạ mình như sét đánh bên tai, Bạch Xuân Nguyên giận tràn hông, vội thét lính bắt giam Khôi lại để trị tội. Nhưng Khôi không để bị giam lâu. Đêm hôm ấy, chàng đã tìm được cách vượt ngục. Lập tức, chàng kêu gọi quân sĩ của mình đột nhập vào các dinh thất bắt bọn quan tỉnh giam lại. Riêng Bạch Xuân Nguyên bị họ tẩm dầu làm bó đuốc sống đốt trước mồ Lê Văn Duyệt. Tuy mọi việc chưa sẵn sàng, nhưng đã lỡ cưỡi lên lưng hổ, Lê Văn Khôi đành liều cùng các bạn kêu gọi mọi người kéo cờ khởi nghĩa. Chỉ trong một tháng họ lấy được cả Nam kỳ. Minh Mạng cả sợ, sai tướng đem đại quân vào đánh. Quân của Khôi ít, lại bị dàn mỏng nên sau mấy trận quyết chiến giữ không nổi, cuối cùng phải rút vào thành Phiên An cố thủ. Minh Mạng hăm hở ra lệnh vây thành. Nhưng tuy bị vây, thành vẫn trơ gan đứng vững. Minh Mạng càng nóng lòng nóng ruột muốn hạ mau mau, song dù quân đông tướng giỏi súng nhiều, thành vẫn không làm sao hạ nổi. Việc đó làm cho nhà vua hết sức bực bội. Một hôm, Minh Mạng giả làm dân thường đi dạo chơi ở cánh đồng phía Tây kinh thành.Vua thấy có một bầy trẻ chăn trâu đang chơi trò xây thành bày trận.Tò mò, ông dừng lại xem. Toán trẻ trong thành hết sức cố thủ, toán trẻ ngoài thành đánh mãi không được bèn nghĩ ra kế chất rơm lên xe đốt lửa đẩy vào, nhờ đó cuối cùng thành bị hạ. Lập tức, Minh Mạng sai các tướng học theo kế hỏa công của bọn trẻ mà làm, và nhờ đó ông hạ được thành Phiên An.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/le-van-khoi" }
Nàng Bianat (Truyện cổ dân tộc người BaNa)
Ngày xưa, có gia đình ông bà Hơ Rô sinh được tám con gái. Tám cô đều xinh cả, nhưng đẹp nhất và tốt nhất là Bia Nát, cô gái út. Một hôm ngồi khâu với tám cô gái bên bờ suối, bà Hơ Rô hỏi: – Sau này, các con muốn làm dâu ai? Các cô tranh nhau trả lời. Cô cả thích làm dâu nhà ông Hoan giàu có. Cô hai muốn làm dâu nhà ông Bua nhiều trâu, nhiều ngựa… Cho đến cô thứ bảy, cô nào cũng muốn làm dâu nhà chủ làng. Bà Hơ Rô thích lắm. Bà nghĩ như thế, không những các con bà sau này sẽ giàu có mà nhà bà cũng được nhiều trâu, nhiều voi, nhiều ngựa… Nhưng khi hỏi đến nàng út thì cô bảo là cô thích lấy một anh đốt than. Nghe vậy, bà Hơ Rô tức lắm. Bà liền mắng con: – Mày khôn hơn con thỏ, con nai, sao mày lại muốn theo một thằng đốt than? Bia Nát không nói gì, nàng cứ ngồi yên khâu vá. Thấy thế, bà Hơ Rô càng tức: – Con thỏ sắp bị con cọp ăn thịt rồi đó. Con nai cũng sắp bỏ núi rừng rồi, còn mày thì đợi gì nữa mà không đi theo thằng đốt than! Nói xong, và ném cho con gái một cục vàng, rồi đuổi nàng đi. Bia Nát thấy mẹ không thương mình, các chị cũng lánh mặt, nàng liền nhặt cục vàng xách thúng khâu ra đi. Nàng quyết tìm được một chàng đốt than để lấy làm chồng. Nàng đi mãi vào rừng sâu, đi đến đâu cũng chỉ thấy núi non, cây rừng, hoa lá, còn chàng đốt than thì chẳng thấy đâu. Nàng cất lời hỏi rừng xanh, hỏi suối sâu. Con nai, con chồn không biết trả lời, con bướm, con sâu cũng im lặng. Ngày nàng đi lang thang. Tối nàng trèo lên cây ngủ, đói thì ăn quả, khát thì uống nước suối. Một hôm đi xa, mệt quá, nàng ngủ thiếp đi bên một gốc cây to. Trong giấc ngủ nàng mơ thấy một ông già râu tóc bạc phơ, chống gậy đến bên nàng và bảo: – Con hãy đi tìm khói. Cứ đi theo khói thì sẽ gặp được người mà con muốn. Khi tỉnh dậy, nàng lại đi. Gặp con chim, nàng hỏi: – Chim ơi! Chim bay khắp chim có thấy ở đâu có khói không? – Cô đi nữa đi, đi nữa đi, sắp đến chỗ có khói rồi đấy! Đi đuợc một đoạn, nàng lại gặp chú thỏ. Thỏ dẫn đường cho nàng đi. Một lát sau, nàng gặp được khói. Từ đàng xa, đã thấy một đám khói trắng xóa. Nàng đến gần, đám khói đó chính là đám khói đốt than. Người đốt than là một chàng trai khỏe mạnh. Nàng nhìn anh từ đầu đến chân. Người tầm thước, ngực nở, đùi to, mắt đen. Trông thấy Bia Nát, chàng trai cất tiếng hỏi trước: – Ơ cô gái đẹp đi đâu đó? – Tôi đi chơi. – Đi chơi sao lại mặc áo đẹp thế? – Áo đẹp rồi áo cũng xấu đi thôi! Anh đốt than không biết Bia Nát đên đây có việc gì, anh cứ đứng nhìn mãi.Thấy vậy, Bia Nát liền nói: – Anh nhìn gì tôi mà nhìn kĩ vậy, tôi có đẹp gì đâu. Anh nhìn kia kìa, hoa trên cành còn đẹp biết mấy, những con thỏ, con chim kia còn đẹp biết mấy. Anh đốt than nhìn theo ngón tay chỉ của Bia Nát không hiểu nàng định nói gì. Bia Nát bảo anh hãy nghỉ tay, hút thuốc, uống nước. Anh kêu lên: – Tôi không đùa đâu! Bia Nát cũng nói: – Tôi có đùa với anh đâu. Nhà anh ở đâu? – Nhà tôi ở chân núi đằng kia. – Bây giờ em mang gùi cho anh, anh mang thúng khâu cho em, ta đi về nhà anh. Anh đốt than cũng chưa hiểu nàng định làm gì, nói gì, nên bảo: – Ơ! Cô gái đẹp, lạ quá! Tôi không dám đùa đâu, đừng mang gùi than của tôi đi mà lấm váy, bẩn chân, bẩn da trắng đẹp của cô. Bia Nát không nói gì cứ mang gùi than đi trước, chàng đốt than đành lủi thủi mang thúng khâu của nàng đi theo sau. Về đến làng, mọi người hỏi, anh không đáp. Lúc tới nhà, anh bảo cô gái: – Nhà tôi che bằng vỏ cây, lợp bằng cỏ dại. Nhà tôi không có chỗ nằm, chỉ có một giường thôi. Giường của tôi làm bằng cây lau, cây sậy, con nai con thỏ cũng không nằm được. Tối đến, Bia Nát cứ lên giường đó ngủ, anh đốt than đành ngủ dưới đất. Bia Nát gọi chàng lên giường ngủ chung, chàng không dám. Đến giữa đêm, gió núi nổi lên rét lắm, chịu không nổi, chàng đành phải lên giường nằm với nàng. Và từ đó hai người thành vợ chồng. Hai người sống chung với nhau rất thuận hòa. Một hôm, Bia Nát mang than đi đổi muối. Ở nhà, thấy có gà rừng vào sân ăn lúa, chàng liền lấy cục vàng ném gà. Khi Bia Nát về, tìm không thấy cục vàng thì òa lên khóc. Thấy vậy, anh đốt thanh liền hỏi: – Làm sao em khóc? – Mất cục vàng trong thúng rồi! – Tưởng thứ gì, chứ thứ ấy thì ở chỗ anh đốt than có nhiều lắm. Đêm hôm ấy, hai vợi chồng ngủ ngon và sáng mai, khi gà rừng vừa dậy, hai vợ chồng dậy mang gùi ra đi. Người chồng bảo: – Em Bia Nát này, anh không biết loại đá ấy quý như thế nào, chỗ anh đốt than có nhiều loại đá ấy lắm. Đến hang đá, chàng chỉ cho nàng chỗ đá màu vàng. Nàng nhặt vàng bỏ vào gùi mang về. Mang xong chuyến này, hai vợ chồng lại đi gùi chuyến khác cho hết ngày hôm đó. Từ hôm ấy, Bia Nát mang vàng xuống chợ đổi lấy các thứ cần thiết. Một đêm, nằm ngủ, Bia Nát thấy ông già râu tóc bạc phơ, tay cầm gậy trúc đến bảo: – Con muốn cho chồng con trở thành người đẹp thì con hãy lấy lúa giã nhỏ, cả trấu cũng giã nhỏ, rồi đem đổ lên chính tàu lá chuối to. Con bảo chồng con nằm lên đống bột. Con phủ kín bột khắp người nó, trừ mắt, mũi, miệng. Đúng ba ngày, ba đêm, con bảo chồng con dậy đi tắm, thế là được. Sáng hôm sau, Bia Nát làm y như điều trong mộng. Quả nhiên, chồng nàng trở thành một chàng trai đẹp lạ thường. Trong khi chồng đi tắm, Bia Nát đã nhờ chim, nhờ voi trong rừng đến giúp làm xong ngôi nhà. Chồng đi tắm về đã thấy có nhà mới, liền hỏi: – Ơ em Bia Nát, nhà ai mà đẹp thế? – Nhà của anh và của em đấy! Người chồng sung sướng lắm vì suốt đời anh chỉ chui rúc trong túp lều rách. Bây giờ anh mới biết Bia Nát là người tài giỏi. Bia Nát bảo chồng đem vàng chia bớt cho bà con láng giềng để mọi người đổi lấy những đồ cần thiết cho mình. Bây giờ hai người mới nghĩ đến làm lễ cưới. Bia Nát đi mời bố mẹ và các chị đến, nhưng chẳng ai thuận đi. Bia Nát phải bảo chồng đi mời. Người chồng mặc khố thêu chỉ đỏ, mình khoác chân vàng, cưỡi ngựa trắng đi mời bố mẹ và các chị vợ đến dự lễ cưới. Bố mẹ Bia Nát nhìn thấy chàng, liền bảo: – A, chồng Bia Nát không phải là một thằng đốt than đâu! Được con rể và em rể về mời dự đám cưới, cha mẹ và các chị của Bia Nát mừng lắm, nhận lời đi ngay. Đến nơi thấy vợ chồng Bia Nát giàu có, ai cũng ngạc nhiên. Người mẹ đến bên cạnh con gái hỏi: – Con còn giận mẹ nữa không? Nàng không nói gì. Nàng mời mẹ và mọi người lên nhà. Bà mẹ đi sát bên con lại hỏi: – Chồng con có phải là một thằng đốt than không? – Đúng rồi! Chồng con là người đốt than đó. Rồi nàng kể cho mẹ nghe mọi chuyện. Nghe xong bà mẹ lấy làm xấu hổ và hối hận. ( Truyện cổ dân tộc người BaNa )
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-bianat-truyen-co-dan-toc-nguoi-bana" }
Ba Vành
Ngày xưa, ở làng Minh Giám có một chàng trai nổi tiếng khỏe mạnh. Lúc mới sinh có nhiều tướng lạ: tay dài quá gối, răng liền một hàng, trên trán có ba đường chỉ ngang.Vì thế lớn lên, người ta quen gọi chàng là Ba Vành. Còn một điều đặc biệt nữa là ở mỗi bên chân có một chòm lông xoăn. Hai chòm lông này có phép rất mầu nhiệm. Hễ lúc nào nắm lấy chòm lông mà vuốt thì thân thể tự nhiên nhẹ nhõm, có thể nhảy một phóc vọt qua nóc nhà, hay từ trên cây cao buông người rơi xuống đất mà không việc gì. Tuy có tướng lạ, Ba Vành vẫn giấu không cho ai biết. Nhà nghèo, Ba Vành phải đi ở chăn trâu độ thân. Chàng thường chơi với bọn trẻ chăn trâu trong làng. Một hôm, cả bọn rủ nhau bày trò chia phe đánh trận. Phe Ba Vành sau một lúc chiến đấu, bị thua phải bỏ chạy; những đứa trẻ thuộc phe bên kia đuổi theo. Khi sắp tới một khe sâu, bị đuổi kíp quá, Ba Vành liền dừng lại vuốt hai chòm lông rồi làm một nhảy vượt sang tận bờ bên kia. Cả đám trẻ thấy vậy trố mắt đứng nhìn và kêu lên: -"Kìa, trông thằng Vành có phép phi thân!". Từ đó, chúng thần phục Ba Vành, tôn chàng làm vua, gọi là vua Ba Vành. Một hôm, Ba Vành để trâu ăn lúa của một mụ nhà giàu trong vùng. Mụ này nổi tiếng ngoa ngoắt, đã từng được người ta gọi là Chua Lừng. Nghe tin báo, mụ chạy ra réo tên Ba Vành mà chửi ầm ĩ. Không nhịn được chàng liền ra lệnh cho bọn trẻ bắt lấy mụ đưa vào bãi lau gần đấy để trị tội. Ba Vành lấy dao rạch mồm, và bảo: -"Muốn chửi, ta mở rộng mồm mà chửi cho sướng!". Đoạn anh giết con trâu mình đang chăn cho bọn trẻ ăn khao.[1] Việc làm của Ba Vành bị bọn nhà giàu và bọn hào cường thù ghét. Chúng cho người truy lùng anh. Ba Vành trốn trên một lùm cây. Bọn chúng rình mò vây bọc trong mấy ngày trời. Nhưng khi chúng xông vào thì Ba Vành đã kịp thời vuốt lông xoăn làm một phóc vọt qua ngọn tre. Cả bọn kinh hãi bỏ dở cuộc vây bắt. Từ đó, Ba Vành làm giặc chống lại triều đình. Nghe tin Ba Vành có võ nghệ phi thường, người ta theo về rất đông. Họ vẫn gọi tên chàng là vua Ba Vành. Quân của chàng đánh đâu thắng đấy. Nhờ hai chòm lông, Ba Vành xuất quỷ nhập thần. Có những lúc chàng nhẹ nhàng nhảy vào doanh trại địch diệt sạch những tên chỉ huy. Rồi lại nhẹ nhàng nhảy ra, sau đó đưa quân tiến đánh. Bọn lính địch mất tướng như rắn mất đầu, chỉ còn biết vắt chân lên cổ mà chạy. Về sau, nhà vua sai Nguyễn Công Trứ làm tướng cầm mấy đạo quân triều đình đi đánh Ba Vành. Nhưng quan quân tuy đông, cũng không làm sao thu được thắng lợi. Dù bị vây bọc như thế nào, Ba Vành cũng phi thân nhảy ra được; việc đó làm cho quân triều đình hết sức ngơ ngác và khiếp đảm, tiếng đồn làm họ ngày một ngã lòng. Thấy kẻ địch có phép xuất quỷ nhập thần, Nguyễn Công Trứ cũng e ngại. Ông cho tra hỏi dân chúng các làng xem phép thuật của Vành ra làm sao, nhưng chẳng một ai biết mà trả lời. Nguyễn Công Trứ lại càng lo lắng. Dò la mãi không được, Nguyễn Công Trứ bèn lập một mẹo mới. Ông ra lệnh cho quân sĩ làm bộ rút lui, và cho phép các cơ đội đón phường chèo về mở cuộc vui trong mười đêm ngày. Quả nhiên, mẹo của ông có kết quả tốt. Quân lính của Ba Vành có nhiều người say mê hát chèo đến nỗi phải cải trang làm dân thường lẻn đến doanh trại triều đình, trà trộn trong đám dân làng xem hát. Nguyễn Công Trứ rình bắt được một số đem về tra hỏi, thì trong đó có hai người thân tín của Ba Vành. Ông chỉ cật vấn họ về những điều bí mật xung quanh phép lạ của Ba Vành. Hai người lúc đầu nhất định không chịu nói. Nhưng vị tướng của triều đình rất khôn ngoan, không hề dùng đến kìm kẹp mà vẫn cho tiếp đãi hai người rất hậu. Họ muốn gì có nấy. Quả nhiên, về sau hai người đành chịu khai ra hai chòm lông xoắn rất mầu nhiệm của chủ tướng. Nghe đoạn, Nguyễn Công Trứ liền lấn thêm một bước, dỗ dành hai người trở về tìm cách cắt cho được hai chòm lông của Ba Vành, để không những "đái tội lập công" mà còn mong ban thưởng quan cao lộc hậu. Hai người vâng lời trở về. Gặp lại chủ tướng, họ nói dối là mình bị bắt nhưng nhờ mưu trí nên trốn thoát được. Ba Vành không ngờ họ đã trở thành những tên phản bội, vẫn đối đãi thân cận như xưa. Một hôm đến phiên hai người túc trực cho chủ tướng nằm ngủ, họ lén dùng kéo cắt phăng hai chòm lông ở chân Ba Vành, rồi mật báo cho Nguyễn Công Trứ biết. Được tin, Nguyễn Công Trứ vội thúc quân tiến đánh, vòng vây mỗi ngày một xiết chặt. Ở trong đồn lũy, bộ hạ của Ba Vành khuyên chàng sớm trốn ra. Nhưng tin vào hai chòm lông mầu nhiệm của mình, Ba Vành vẫn cười ha hả bảo rằng: - Cho các ngươi lọt ra trước đi, còn ta, ta chờ chúng đến sẽ nhảy ra cũng chưa muộn. Không ngờ đến lúc quân triều đình đã lọt vào tận cửa buồng, Ba Vành mới mó đến hai chòm lông thì ôi thôi, chúng đã bị cắt gọn từ lúc nào rồi. Không còn có cách gì trốn tránh được nữa, ông đành giơ tay chịu trói.[2] KHẢO DỊ Về loại truyện có tình tiết dùng mẹo bày cuộc hát chèo để đánh phá khởi nghĩa, ở Nghệ An còn có truyện như sau: Vào thời hậu Lê, ở Sơn Nam có một nhóm khởi nghĩa nổi lên. Vì quân đóng ở làng Hóp nên người ta gọi là "giặc Hóp". Giặc Hóp rất mạnh. Nhà vua sai bao nhiêu danh tướng đi đánh đều thất bại. Có một trận, đại quân triều đình bị đối phương tập kích ngã xuống ao sâu chết không biết bao nhiêu mà kể. Những xác rơi xuống ao bị thối rữa có giòi, nên người ta gọi là ao Giòi. Sau cùng, nhà vua sai Trương Đắc Phú, một viên quan về hưu, quê ở làng Phú Nghĩa đi đánh dẹp. Trương Đắc Phú ra Sơn Nam không tiến công mà lại cho người đến giảng hòa với giặc Hóp. Rồi đánh tiếng là đi làm lễ cầu siêu cho quân sĩ triều đình tử trận, ông đến ao Giòi cho quân đóng lại, một mặt rước thầy cúng bầy đàn trăng làm lễ; mặt khác rước một đoàn hát chèo gồm nhiều cô gái đẹp, hát hay múa dẻo đến hát. Ông soạn một vở chèo gọi là "Sĩ nông công thương, ngư tiều canh mục" rất vui nhộn. Cuộc vui mở trong mười đêm. "Giặc Hóp" nghe tin, có nhiều người cải trang đến xem chèo. Đêm vui nhất cũng là đêm quân khởi nghĩa bỏ trại đi xem hầu hết. Thừa dịp đó, quân của Trương Đắc Phủ bí mật kéo đến vây trại, trong khi đó thì những tên làm nội ứng đã bí mật lấy trộm vũ khí của trại cất đi. Vì vậy, quân khởi nghĩa bị bắt gọn.[3] Về truyện Ba Vành, người miền Bắc kể sự tích và những trận chiến đấu của quân khởi nghĩa có khác với người Nghệ Tĩnh. Đại khái là: Ba Vành là người võ nghệ tinh thông, nổi bật là môn nhảy qua nóc nhà, ném cối đá qua tường, phóng và bắt mũi giáo mũi tên, trăm lần không sai,v,v...Thủ hạ của Vành có người sử dụng đại dao, có người phóng giáo tài tình, có người tướng lạ như tai to bằng lá bàng, mũi lớn lấp mặt, râu dài quá rốn, mặt to vuông tượng, bụng phệ tày bồ, v,v... Câu thành ngữ truyền tụng là: "Tai Tổng, mũi Ước, râu Nơi, mặt Tuần Nhưng, bụng huyện Xứng". Sau khi phá tan thủy đội của thống chế Cúc, uy danh Ba Vành lừng lẫy khắp Sơn Nam. Chiếm đóng phủ Kiến Xương. Vành cũng đồng thời chiếm được hai cô gái đẹp - hai chị em con Phủ Trúc - làm vợ. Tiếp theo là những trận Vành giao chiến với thống chế Đặng. Hai bên tỷ thí với nhau suốt ba ngày. Đến ngày thứ ba, Đặng vút thiết côn, Vành làm bộ bị thương ngã ngựa, nhưng kỳ thực ra hiệu cho thủ hạ ném giáo tới cho mình bắt. Bắt được mũi giáo nào, lập tức Vành phóng vào đối phương. Đến mũi thứ năm, thống chế Đặng không tránh kịp, thủng bụng mà chết. Mất hai tướng, triều đình tức giận dồn quân vây bọc căn cứ. Vành không đường tiến lui tưởng nguy đến nơi. Nhưng chàng đã kịp thời ra lệnh cho quân mình ngậm tăm khai một con sông từ căn cứ thông ra biển, chỉ trong một đêm là xong. Trời vừa sáng thì quân của Vành cùng quân nhu khí giới đều rút ra được ngoài biển làm cho tướng lĩnh nhà vua hết sức ngơ ngác. Cuối cùng, bọn tướng lĩnh dùng mưu cố sức tiêu diệt Ba Vành. Chúng kết án Phủ Trúc vào tội " thông phi", bắt phải dụ bắt chàng rể cho kỳ được để "đái tội lập công". Hôm ấy, nhà Phủ Trúc có giỗ, Vành đưa cả hai vợ về dự. Được tin báo, quân triều kéo về vây bọc trùng trùng điệp điệp. Vành khinh suất không nghe lời can của thủ hạ, đòi ngủ lại sau khi rượu say. Sắp đi nằm bỗng nghe tiếng động, Vành chạy ra. Mười thủ hạ liều chết mở một đường máu cho chủ tướng thoát. Nhưng sực nhớ tới hai người vợ yêu, Vành lại trở vào. Quân triều đổ dồn tới đông vô kể, Vành chạy ra đến bờ sông đã bị thương nặng. Tuy vậy, chàng còn phóng lao làm chết hàng đống mới chịu để chúng bắt. Đêm ấy Vành cắn lưỡi tự tử. Khi người ta đem đầu Vành bêu ở trấn, hai người vợ Vành đến cúng một tuần rồi cũng đâm cổ chết theo.[4] Về hình tượng Ba Vành với hai chòm lông xoăn đặc biệt, làm cho chàng có phép nhảy cao, xem lại nhân vật Cố Bu trong truyện Cố Bu (số 96) cũng nhờ có lông dưới lòng bàn chân nên có phép lặn giỏi. Trong một số truyện của các dân tộc cũng có loại hình tượng nhân vật nhờ một dị dạng nào đó (như có một sợi lông mọc ở chỗ đặc biệt) mà trở nên có phép lạ, nhưng có khác là những nhân vật đó không được xây dựng thành nhân vật chính diện trung tâm của câu chuyện. Ví dụ, ở truyện Quỷ háng trắng của dân tộc Mèo, có một anh hùng đánh nhau với mụ quỷ trắng, anh dùng vải phép trói được mụ, rồi cầm dao chém, nhưng lưỡi dao bật ra như chém vào đá, cầm giáo đâm thì mũi giáo quằn lại. Bỗng có người mách rằng: nếu không nhổ cái lông dưới lòng bàn chân mụ thì không giết được. Anh bèn lấy dao khoét lòng bàn chân mụ quỷ, nhổ ra được một cái lông như lông nhím. Bị nhổ mất lông, mụ bỗng rùng mình, tự nhiên lông lá mọc đầy người, biến thành lợn lòi chạy vào rừng.[5] Chú thích [1] Đoạn này theo lời kể của người Thái Bình. [2] Theo lời kể của người Hà Tĩnh (do Mạnh Sào Quan sưu tầm). [3] Theo Thần tích xã Phú Nghĩa. [4] Theo Thực nghiệp dân báo(1923) và theo lời kể của người Thái Bình, Nam Định [5] Theo Truyện cổ dân tộc Mèo, sách đã dẫn.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-vanh" }
Tìm mẹ
Ngày xưa, ở một làng nhỏ, có một người mẹ. Người mẹ nuôi hai đứa con. Đứa nhớn là thằng Nhà lên năm. Đứa nhỏ là con Gạo lên ba. Khi đẻ đứa con nhớn, người bố nói: – Mình làm ăn suốt ngày suốt tháng mà cái nhà cũng không có mà ở. Thôi, đặt tên cho nó là Nhà để sau này nó có cái nhà trú mưa trú nắng. Người mẹ nói: – Thế thì đặt tên cho nó là thằng Nhà. Vừa nói vừa ứa nước mắt. Khi đẻ đứa con gái, người bố nói: – Mình làm ăn suốt ngày suốt tháng, mà gạo chẳng có mà ăn. Thôi, đặt tên cho nó là Gạo để sau này nó còn có hột gạo ăn. Người mẹ nói: – Thế thì đặt tên cho nó là con Gạo. Vừa nói vừa ứa nước mắt. o O o Hai vợ chồng ra sức làm ăn quanh năm suốt tháng. Làm ngày không đủ phải làm cả đêm. Người bố ngày thì đi làm ruộng, đêm thì đi săn. Nhưng lúa gặt được bao nhiêu phải nộp cho Chúa làng bấy nhiêu. Hươu nai bắn được con nào phải nộp cho Chúa làng con ấy. Người mẹ thì đi mò cua bắt ốc. Cua ốc kiếm được cũng phải nộp cho Chúa làng. Mỗi khi Chúa làng nói thì mọi người trong làng phải cúi đầu không được nói. Chúa làng đòi gì là mọi người phải răm rắp tuân theo. Người bố nói: – Thế này thì thằng Nhà chẳng bao giờ có nhà, con Gạo chẳng bao giờ có gạo. Người mẹ nhìn hai đứa con, ứa nước mắt. Người bố nói: – Mình không có, còn chịu được. Nhưng chúng nó không có nhà, không có gạo thì chịu sao nổi. Phải cố cho con nó có gạo mà ăn, có nhà mà trú mưa trú nắng. Hai vợ chồng càng ra sức làm ăn quanh năm suốt tháng, ngày làm không đủ phải làm cả đêm. Chúa làng bắt nộp hết lúa, nộp hết hươu nai, nộp hết cua ốc. Một hôm thằng Nhà khóc tím người vì rét, con Gạo khóc lịm đi vì đói. Người bố đến lạy Chúa làng: – Xin Chúa làng rủ lòng thương cho con mang về một nắm lúa. Chúa làng trợn mắt, chỉ tay lên cây, lại chỉ tay xuống đất, nói: – Từ ngọn lá trên cây đến hòn sỏi dưới đất, cái gì cũng là của tao. Tao cho gì được nấy, ai xui mày đến trước mặt tao nói càn nói bậy? Chúa làng quát: – Cút đi! Và Chúa làng cưỡi ngựa trắng đi chơi, tiếng nhạc rung lên như tiếng vàng tiếng ngọc. Chúa làng chợt nghĩ: – Nó đã dám hỏi thì rồi nó cũng dám ăn cắp. Chúa làng quay ngựa lại, dọc đường gặp người bố đang lủi thủi về. Chúa làng đâm người bố, hất xác xuống khe sâu. Chúa làng cho là không ai biết việc này. Nhưng dưới khe sâu, người bố kêu thê thảm: Chúa làng giết tôi rồi! Và lá rừng rì rào: Chúa làng giết người! Núi thì thầm: Chúa làng giết người! Khe sâu róc rách: Chúa làng giết người! Chúa làng nghĩ: – Thế nào vợ con nó cũng biết. Chúa làng phi ngựa đi tìm giết ba mẹ con. o O o Trên núi, dưới một cây cổ thụ, người mẹ ôm hai con. Thằng Nhà khóc tím người vì rét. Con Gạo khóc lịm đi vì đói. Người mẹ bỗng thấy ruột mình như có ai đâm. Người mẹ nói: – Các con đừng khóc nữa. Ruột mẹ đau quá. Các con nín đi, bố cũng sắp về. Thằng Nhà, con Gạo thiu thiu ngủ. Thỉnh thoảng chúng nó giật mình cựa quậy vì rận cắn. Con rận trong manh áo rách của người mẹ cắn như đốt vào da. Để khỏi động đến giấc ngủ của hai đứa con, người mẹ khẽ bảo rận: – Rận ơi? Đốt tao chứ đừng đốt con tao. Đàn rận nói: – Chúa làng sai chúng tao đến hút máu vợ chồng con cái mày. Nay hết máu rồi, chúng tao cũng đi đây. Nói xong, đàn rận kéo nhau đi. Còn một con rận con quay lại thấy mặt người mẹ võ vàng, nó dùng dằng không nỡ đi. Sau nó nói: – Tình cảnh chị thật đáng thương. Tôi đi mà không nỡ. Tôi báo cho chị cái tin này. Chúa làng đã giết chồng chị rồi. Chúa làng đang phi ngựa đi tìm giết nốt ba mẹ con chị đấy. Trốn đi. Nhạc ngựa Chúa làng đã gần rồi. o O o Những ngôi sao trên trời rỏ nước mắt xung quanh ba mẹ con. Dưới chân núi, nhạc ngựa của Chúa làng vang vang, vó ngựa nện trên đá lộp cộp. Người mẹ đánh thức thằng Nhà và con Gạo. Người mẹ cõng Nhà trên lưng, ẵm Gạo trong tay, nhằm núi cao mà trèo. Thằng Nhà hỏi: – Mẹ ơi, đêm khuya mẹ cõng con đi đâu, con rét lắm. Bố đâu? Con Gạo hỏi: – Mẹ ơi, đêm khuya mẹ ôm con đi đâu, con đói lắm. Bố đâu? Người mẹ nói: – Lên núi thật cao kẻo Chúa làng đến bắt. Các con đừng nói to, Chúa làng nghe rõ. Người mẹ lại lo: lên núi cao, Chúa làng không bắt được nhưng lấy gì nuôi thằng Nhà, con Gạo? Con rận con còn ở lại trong manh áo rách người mẹ, nói: – Chạy vài bước nữa thì đến hang ông lão Đá. Ông lão Đá có một giỏ gạo đầy. Xin ông lão Đá một nửa. Người mẹ qua hang ông lão Đá. Người mẹ không dám hỏi. Ông lão Đá nói: – Cầm lấy nửa giỏ gạo mà nuôi con. Nói xong, ông lão Đá đưa cả giỏ gạo cho người mẹ. Người mẹ chưa kịp đỡ thì nhạc ngựa Chúa làng lại vang lên rất gấp. Ông lão Đá chạy theo người mẹ, đưa giỏ gạo và giục đi mau. Người mẹ cõng thằng Nhà trên lưng, ẵm con Gạo trong tay, cái giỏ gạo bên mình, trèo hết núi này đến núi khác. Tay chân người mẹ đã nát toạc vì gai và đá nhọn. Giời đã sáng. Người mẹ đứng trên cao nhìn xuống ruộng, bờ ruộng chỉ bé như cái ngón tay. Tiếng nhạc ngựa không nghe thấy nữa. Người mẹ nói với thằng Nhà: – Đây cao lắm rồi. Chúa làng không lên được. Thằng Nhà nói: – Người nhà Chúa làng có đứa lên được. – Sao con biết? – Hôm nọ con theo ông lão Đá lên đây, kiếm gỗ đẽo bắp cày. Người nhà Chúa làng đến cướp bắp cày. Người mẹ nghe nói, hốt hoảng: – Ta phải lên cao nữa. Thằng Nhà nói: – Mẹ để con xuống, con nhớn rồi. Thằng Nhà chạy lên trước. Người mẹ lại trèo, cõng con Gạo trên lưng, cái giỏ bên mình. Lên một đỉnh núi cao, nhìn xuống ruộng, bờ ruộng bé như sợi chỉ. Người mẹ nói với thằng Nhà: – Con có biết núi này không? Thằng Nhà nói: – Con biết. – Sao con biết. – Hôm nọ con theo ông lão Đá lên đây bứt mây. – Người nhà Chúa làng có lên được đây không? – Người nhà Chúa làng lên được, cướp mây của ông lão Đá. Người mẹ nghe nói, hốt hoảng: – Ta phải lên cao nữa. Con Gạo nói: – Mẹ để con xuống, con nhớn rồi. Thằng Nhà dắt con Gạo chạy lên trước. Người mẹ lại trèo, cái giỏ bên mình. Lên một đỉnh núi cao lắm, nhìn xuống, không thấy gì, chỉ toàn là mây trắng. Gió thổi mạnh đến nỗi thằng Nhà và con Gạo phải ôm lấy chân người mẹ. Người mẹ phải ôm chặt lấy một mỏm đá. Người mẹ hỏi thằng Nhà: – Con có biết núi này không? Thằng Nhà nói: – Con không biết. Người mẹ nghĩ: – Thế thì Chúa làng không lên được, người nhà Chúa làng không lên được. Chúa làng không giết được mẹ con ta. Hai đứa bé đã thiu thiu ngủ. Người mẹ để mỗi con nằm trên một đùi, mỗi tay ôm một đứa. o O o Người mẹ nghĩ: – Chúa làng không lên được, nhưng ta ở đây thì ăn hết gạo của hai con. Phải xuống núi kiếm thêm gạo cho chúng nó. Người mẹ hát cho thằng Nhà và con Gạo ngủ say, rồi đứng dậy. Người mẹ lại nghĩ: Phải treo giỏ gạo lên cao để con nó ăn dần, treo thấp thì con nó ăn một lúc hết ngay, nó không chờ được mẹ về, nó khóc hết hơi. Người mẹ trèo lên một cây gạo rất cao, cành lá trơ trụi, và treo cái giỏ gạo lên ngọn cây. Người mẹ trèo xuống nhìn hai đứa con đang ngủ say, hát cho chúng nó ngủ say hơn nữa. Người mẹ bẻ một sào trúc dài dựa vào gốc cây để thằng Nhà con Gạo chọc giỏ lấy gạo ăn. Cuối cùng, người mẹ cởi manh áo rách đắp cho hai con. Con rận con không đi với người mẹ. Nó ở lại trong manh áo rách người mẹ đã cởi đắp cho hai con. Người mẹ bước đi một bước lại quay nhìn hai con, ứa nước mắt đi không đành. Con rận con bò ra khỏi manh áo rách, bò lên một cành cây ngang vai người mẹ. Người mẹ vẫn quay nhìn hai con, ứa nước mắt đi không đành. Con rận con đã bò lên ngang tai người mẹ, nói nhỏ: – Chị đi đi, đi tìm gạo cho thằng Nhà, con Gạo. Người mẹ ứa nước mắt. Con rận con lại nói: – Chị đi nhanh lên. Dọc đường có gặp Chúa làng thì nhằm rừng mây mà chạy vào. Rừng mây chị chạy được, Chúa làng cưỡi ngựa không chạy lên được. Người mẹ hỏi: – Liệu Chúa làng có lên đây không? – Chúa làng gặp chị, đuổi theo chị, thì không lên đây nữa. – Chúa làng cứ lên thì làm sao? – Thì đã có tôi. Người mẹ gạt nước mắt xuống núi. Một lúc nghe văng vẳng tiếng nhạc ngựa của Chúa làng. Người mẹ chạy xuống đến lưng chừng núi thì nhạc ngựa của Chúa làng cũng vang lên ở lưng chừng núi. Người mẹ thấy ngựa Chúa làng trước mặt, kêu lên một tiếng và chạy rẽ vào rừng mây. Chúa làng nghe tiếng người mẹ kêu, phi ngựa đuổi theo vào rừng mây. Dây mây chằng chịt, ngựa Chúa làng vướng mây không chạy được, Chúa làng nhảy xuống ngựa, đuổi theo người mẹ. Mây rẽ ra cho người mẹ chạy. Gai mây đâm vào tay, vào chân, vào mặt Chúa làng. Chân nó, tay nó, mặt nó chảy máu. Chúa làng phải chạy trở ra, đứng ngoài rừng mây nhìn vào, gầm thét. Người mẹ ra sức chạy cho xa, cho thật xa tiếng gầm thét của Chúa làng. Người mẹ lạc mất đường về. Chúa làng gầm thét khản cả cổ, mà vẫn không thấy người mẹ ra. Chúa làng lên ngựa. Gai mây đâm vào chân, máu chảy ra đã khô. Gai mây đâm vào tay, máu chảy ra đã khô. Gai mây đâm vào mặt, máu chảy ra đã khô. Máu khô làm thành những đường vằn vện trên chân, trên tay, trên mặt Chúa làng. Mặt Chúa làng càng thêm hung ác. o O o Trên núi, thằng Nhà và con Gạo đã thức dậy. Hai đứa quờ tay không thấy mẹ, rụi mắt nhìn chung quanh cũng không thấy mẹ đâu. Con Gạo khóc, thằng Nhà nói: – Chúng ta hú to lên thì mẹ về. Chúng nó hú to. Tiếng vang cũng hú, con rận con nghe tiếng hú, nó bắt chước tiếng người mẹ hú, hú lên. Thằng Nhà nói: – Mẹ nghe tiếng chúng ta hú rồi. Mẹ sắp về đấy. Thằng Nhà dắt con Gạo ra gốc cây gạo, thấy giỏ gạo treo trên ngọn cây. Thằng Nhà thấy cái sào trúc, nói: – Mẹ treo cao để chúng ta ăn dè đây. Nó lấy cái sào chọc vào giỏ gạo, mấy hạt gạo rơi xuống. Hai anh em cúi xuống nhặt ăn. Ăn xong, hai đứa trẻ nhìn xuống dưới núi, chúng nó chóng mặt, lại ôm nhau, lấy manh áo rách của người mẹ đắp, rồi lại ngủ thiếp đi. Con rận con vẫn hú đều đều, ru ngủ hai đứa trẻ. o O o Chúa làng mặt mày vằn vện, cưỡi ngựa ra khỏi rừng mây, đang định về thì nghe tiếng hú trên núi. Chúa làng phi ngựa lên. Rận con nghe tiếng nhạc ngựa, vội vã bò xuống núi đón Chúa làng. Chúa làng phi ngựa lên tới chỗ có tiếng hú, chỉ thấy một con rận con, quát: – Có ba mẹ con chạy qua đây không? Chúa làng hỏi ba lần. Ba lần, con rận con trả lời không biết. Chúa làng tức giận đùng đùng, bắt con rận con bỏ vào mồm cắn, nuốt chửng, con rận con nói: – Chúa làng giết người, ăn rận, không được làm người nữa. Chúa làng sẽ biến thành con hổ. Con rận con nói xong thì Chúa làng biến thành con hổ, mặt mày vằn vện rất hung ác. Con hổ chạy vào hang trong rừng. Dọc đường nó gặp một người con gái đi kiếm củi. Con hổ gầm lên một tiếng, nhảy tới vồ người con gái, bắt về hang. Người con gái khóc lóc. Con hổ định ăn người con gái, nhưng nó thấy người con gái mắt sáng như sao, tay dẻo như mây, nó nói: – Tao tha chết cho mày, nhưng tao lấy mày làm vợ. Người con gái khóc lóc, giãy giụa. Về đến hang, con hổ giam người con gái vào một ngăn bên. Nó chất đá chung quanh. Nó chất những tảng đá to nhất, nặng nhất chung quanh người con gái. Từ khi Chúa làng biến thành hổ, dân làng làm ăn đã dễ chịu hơn trước. Nhưng con hổ lại bắt dân làng mỗi ngày phải nộp cho nó một buồng gan, gan trâu hay gan lợn. Nếu không nộp thì nó sẽ bắt người. Dân làng rất căm con hổ, nhưng khiếp oai nó, nên ngày ngày phải giết trâu, giết lợn, cắt lấy buồng gan đem ra bờ suối. Ngày ngày hổ ra đấy lấy gan ăn. Dân làng vẫn tìm cách trừ con hổ đi, nhưng chưa có dịp. Thằng Nhà, con Gạo ăn hết giỏ gạo thì vừa tròn một tháng. Người mẹ vẫn chưa về. Con Gạo khóc. Thằng Nhà nói: – Chúng ta phải đi tìm mẹ chứ khóc mẹ cũng chẳng về. Thằng Nhà cõng con Gạo xuống núi. Buổi chiều, hai anh em tới một bờ suối. Con Gạo vừa khóc vừa nói: – Sao mãi mẹ chẳng về. Gạo kêu đói, Gạo khóc đòi ăn. Thằng Nhà cũng đói lắm, nhưng nó không khóc, nó nói: – Mẹ thế nào cũng về. Thằng Nhà trông trước trông sau, thấy bên bờ suối có một buồng gan lợn. Nó định nhảy ra lấy thì con hổ vừa tới. Thằng Nhà giấu con Gạo vào một bụi kín. Hai đứa trẻ nhìn ra. Con hổ ăn gan xong, vươn mình vằn một cái rồi biến vào rừng. Hai anh em phải bịt mũi vì mùi hôi tanh của con hổ. Ngày hôm sau, gần về chiều, thằng Nhà và con Gạo núp trong bụi kín, thấy một ông cụ già đem một buồng gan đến đặt bên bờ suối, cũng vẫn chỗ hôm qua. Ông cụ lấm lét nhìn xung quanh rồi đi. Xâm xẩm tối, con hổ tới ăn gan xong, nó vươn mình vằn một cái rồi biến vào rừng. Hai anh em phải bịt mũi vì mùi hôi tanh của con hổ. Ngày hôm sau nữa, gần về chiều, thằng Nhà và con Gạo núp trong bụi kín, thấy một bà lão đem một buồng gan đến đặt ở bờ suối, cũng vẫn chỗ hôm qua. Bà lão lấm lét nhìn chung quanh rồi đi. Đợi bà lão đi khỏi, Nhà nhảy ra. Gạo giữ lại, nói: – Đừng ra, hổ cắn chết. Thằng Nhà nói: – Hổ chưa tới. Anh ra lấy gan về cho em ăn đỡ đói. Nói xong, thằng Nhà chạy rất nhanh ra bờ suối, lấy buồng gan trở về. Con Gạo nhảy ra khỏi bụi, tíu tít nói: – Nhanh lên, nhanh lên, hổ sắp tới đây. Thằng Nhà một tay cầm buồng gan, một tay dắt Gạo, nói: – Vào sâu trong rừng kẻo hổ vào bắt được. Hai đứa vào sâu trong rừng. Thằng Nhà nhớ hồi đi với ông lão Đá. Ông lão Đá dạy nó cách đập đá lấy lửa. Nó đập đá, lửa tóe ra. Hai đứa chất củi khô làm bếp nướng gan, nướng chín đến đâu ăn đến đấy. Con hổ đến bờ suối như mọi khi. Không thấy buồng gan , nó gầm lên một tiếng. Con Gạo ôm chầm lấy anh, nói: – Chạy đi không hổ bắt. Thằng Nhà nói: – Không sợ. Nó không vào đây được. Con hổ sục sạo chung quanh một hồi lâu. Nó đi đến đâu thì đá băng cây đổ đến đấy, nhưng nó không vào được chỗ thằng Nhà và con Gạo. Ngày hôm sau cũng thế. Ngày hôm sau nữa cũng thế. Con hổ sục sạo chung quanh một hồi lâu. Nó đi đến đâu thì đá băng cây đổ đến đấy, nhưng nó vẫn không vào được chỗ thằng Nhà và con Gạo. Nó gầm lên, tiếng gầm lay rừng chuyển núi. Cuối cùng nó lồng lộn ra về. Thằng Nhà, con Gạo lại nướng gan, chín đến đâu ăn đến đấy. Con Gạo nói: – Để dành cho mẹ một miếng gan kẻo mẹ đói. o O o Con hổ về hang, gầm thét dữ tợn. Vợ hổ sợ khiếp, chạy sang ngăn bên, ôm mặt khóc. Ngày hôm sau, con hổ ra bờ suối rất sớm. Nó nấp sau một bụi lau. Buổi chiều, nó thấy một ông lão mang buồng gan đặt bên bờ suối, lấm lét nhìn chung quanh rồi đi. Ông lão vừa đi thì có một thằng bé chạy tới xách buồng gan chạy vụt vào rừng sâu. Con hổ gầm lên: – Thằng bé hỗn láo, muốn sống thì để buồng gan đấy. Nó nhe nanh, vểnh râu, nhảy những bước nhanh như gió, đuổi theo thằng Nhà. Nó đứng xa, thấy một đống lửa to, hai đứa trẻ ngồi nướng gan, mùi thơm phưng phức. Con hổ thèm rỏ một bãi nước bọt tanh tưởi. Nó nhảy xồ vào, nhưng đá băng cây đổ, nó không vào được chỗ thằng Nhà và con Gạo. Nó gầm lên những tiếng lay rừng chuyển núi. Nó điên cuồng, lồng lộn ra về. Về đến hang, con hổ gầm thét dữ tợn. Vợ hổ sợ khiếp nằm trong ngăn bên, ôm mặt khóc. Con hổ quát: – Có hai đứa trẻ cùng giống người với mày, dám cả gan lấy gan của tao ăn. Mày vào rừng sâu, chỗ nào có lửa là chỗ chúng nó nấp, dỗ đem chúng nó về đây. Vợ hổ nói: – Hổ còn không đem về được, tôi đem thế nào được? Con hổ há rộng mồm, nhe nanh nhọn hoắt, mắt đỏ ngầu như miếng tiết. Nó lại gầm: – Không đem được hai đứa trẻ về đây, thì tao bắt hết dân làng ăn gan. Vợ hổ nghe nó dọa bắt hết dân làng ăn gan, lo sợ quá đành phải đi. Nhưng vừa đi, vợ hổ vừa khóc. Vợ hổ đến chỗ hai anh em Nhà và Gạo. Hai đứa đang ngủ, ánh lửa ửng hồng trên trán thằng Nhà trên trán con Gạo. Vợ hổ nhìn hai đứa trẻ càng thương, nước mắt chảy ròng ròng. Nước mắt chảy trên trán của Nhà, trên má của Gạo. Thằng Nhà và con Gạo choàng tỉnh dậy. Chúng nó rụi mắt, thấy trước mặt là một người con gái xinh đẹp, nhưng mặt buồn buồn như mặt người mẹ. Thằng Nhà ngồi dậy, hỏi: – Chị là ai? Con Gạo cũng ngồi dậy, chạy đến nắm tay vợ hổ, hỏi: – Chị ở đâu đến đây? Vợ hổ không trả lời được, đứng khóc. Con Gạo chạy đến ôm chân vợ hổ. Thằng Nhà cũng chạy đến cầm tay vợ hổ. Thằng Nhà hỏi: – Chị là ai mà lại khóc? Con Gạo cũng hỏi: – Chị ở đâu đến đây mà cứ khóc mãi thế? Vợ hổ nghẹn ngào nói: – Thôi, hai em đừng hỏi nữa. Hai em cứ đi theo chị đây, chị sẽ nói cho hai em hiểu. Thằng Nhà hỏi: – Đi với chị à? Đi đâu? Con Gạo cũng hỏi: – Đi với chị à? Chị đưa em đến với mẹ em nhé. Mặt vợ hổ cũng buồn như mặt người mẹ. Tiếng nói của vợ hổ cũng êm dịu như tiếng nói của người mẹ. Con Gạo bằng lòng đi với vợ hổ. Thằng Nhà cũng bằng lòng. Hai anh em giục vợ hổ đi, vợ hổ lại không đi, đứng nguyên một chỗ, nước mắt chảy ròng ròng. Vợ hổ nghĩ: – Không lẽ đem hai em về cho hổ ăn gan. Con Gạo nóng lòng tìm mẹ, giục vợ hổ đi. Thằng Nhà cũng giục. Vợ hổ vẫn chưa chịu đi. Chợt vợ hổ nghĩ ra một cách, bảo hai em chui vào váy, rồi tiến về hang. Hổ thấy vợ về, hỏi: – Có tìm thấy chúng nó không? Vợ hổ nói: – Chỉ thấy núi băng cây đổ, đống lửa vẫn cháy, hai đứa trẻ đi rồi. Hổ gầm lên một tiếng lay rừng chuyển núi. Vợ hổ sợ khiếp. Con Gạo bám chặt lấy thằng Nhà. Hổ nhìn váy vợ thấy lùng thùng hỏi: – Sao to thế kia? Vợ hổ nói: – Sắp đẻ, làm buồng cho tôi đẻ. Hổ chỉ vào ngăn riêng của vợ hổ, bảo: – Cứ vào đó mà đẻ đi. Vợ hổ nói: – Phải tha thêm đá vào. Hổ bèn đi tha đá chất đầy chung quanh ngăn của vợ hổ. Vợ hổ vào ngăn, cài cửa đá lại. Trong ngăn đá dầy, con Gạo khóc sụt sùi. Thằng Nhà hỏi vợ hổ: – Sao chị lại lừa chúng tôi về đây cho hổ ăn thịt chúng tôi? Vợ hổ lại khóc, cúi xuống chụm đầu vào hai đứa trẻ, kể lại vì sao vợ hổ bắt buộc phải đưa Nhà và Gạo về đây. Cuối cùng, vợ hổ nói: – Chị không đưa hai em về đây thì hổ ăn thịt hết dân làng. Chị đem hai em về đây, hai em trốn trong này với chị để tìm mưu giết hổ. Mặt vợ hổ buồn như mặt người mẹ. Tiếng nói của vợ hổ êm dịu như tiếng nói người mẹ. Nhà và Gạo bằng lòng trốn trong ngăn đá với vợ hổ. Hổ đi rừng về, nhìn vào phía ngăn đá, gầm lên, hỏi: – Đẻ chưa? Vợ hổ chưa kịp trả lời, nó đã phồng mũi lên. Nó ngửi thấy hơi trẻ con, nó gầm: – Đẻ người à? Mấy đứa? Đem ra đây. Vợ hổ trả lời: – Hai đứa, không đem ra được. Nó nhỏ, ra gió nó chết. – Không đem ra thì mở cửa tao vào. – Vào không được, nó nhỏ, nó thấy bố hổ, nó sợ nó chết. – Nó nhỏ, gan nó to chừng nào? – Nó nhỏ, gan nó bằng đốt tay. Hổ liếm mép bỏ đi, nghe xa xa có tiếng đá băng, cây đổ. Vợ hổ kể lại chuyện bị hổ bắt ép làm vợ như thế nào cho hai đứa trẻ nghe. Thằng Nhà cũng kể tình cảnh nhà mình cho vợ hổ nghe. Con Gạo ôm chặt lấy thằng Nhà, thằng Nhà ôm chặt lấy vợ hổ, vợ hổ ôm chặt lấy hai em. Từ đôi mắt vợ hổ sáng như sao, hai dòng nước mắt chảy ra trong như nước suối, rơi xuống bàn tay nhỏ của con Gạo và thằng Nhà. Con Gạo hỏi: – Mẹ em đâu? Vợ hổ nói: – Các em thế nào cũng tìm thấy mẹ. Chị thế nào cũng thấy nhà. Vợ hổ lẻn ra, vào rừng trảy muỗm về cùng hai em ăn. Ăn xong hai đứa trẻ ngủ. Vợ hổ ngồi nhìn hai em, thấy chúng nó hiền lành, thương chúng nó bơ vơ, vợ hổ lại khóc. Vợ hổ cất tiếng êm ái ru cho hai em ngủ say. o O o Hôm sau hổ lại hỏi: – Đã nhớn chưa? Đem một đứa ra đây tao ăn gan. Vợ hổ nói: – Còn bé lắm. Chưa nhớn được là bao. Ăn bây giờ chẳng bõ. Ngày hôm sau, hổ lại hỏi. Vợ hổ lại trả lời như thế. Hổ gầm lên, làm cho cả hang đá rung lên như sấm động. Hổ nói: – Mày không được nói quanh. Tao hẹn một ngày nữa. Ngày mai, mày không đưa một đứa ra thì tao sẽ phá cửa vào lôi cả ba đứa chúng mày ra ăn một lúc. Nói xong hổ ra đi, nghe xa xa đá băng cây đổ ầm ầm. Ba người trong hang ôm nhau khóc. Con Gạo nói: – Mẹ ở đâu, mẹ về đón con, hổ nó sắp ăn gan con rồi. Lúc này người mẹ thấy nhói đau trong ruột. Người mẹ đã đi lùng hết rừng núi, đầu sông ngọn nguồn để tìm con, nhưng không gặp. Ngày đêm người mẹ chỉ khóc, mắt người mẹ đã mờ đi. Thằng Nhà lấy tay gạt nước mắt, nói với vợ hổ: – Chị ra cắt lấy một miếng gan ở bờ suối về, ngày mai hổ hỏi thì đưa ra cho nó, bảo rằng gan người bé hơn gan trâu. Vợ hổ ra bờ suối cắt lấy một miếng gan trâu đem về. Thằng Nhà nói: – Chị lấy ba gai mây nhét kín vào trong miếng gan, hổ ăn gan, gai mây sẽ đâm thủng ruột hổ. Ngày hôm sau, hổ gầm: – Đem một đứa ra đây để tao ăn gan. Vợ hổ nói: – Tôi giết một đứa rồi. Đây đã sẵn buồng gan của nó để bố hổ ăn. Hổ cười, mặt hổ cười lại càng xấu xí, dữ tợn. Hổ khen vợ hổ tốt. Vợ hổ đưa miếng gan cho hổ. Hổ hỏi: – Sao gan không tươi? Vợ hổ nói: – Gan người không tươi bằng gan trâu, gan lợn, nhưng bổ hơn gan trâu, gan lợn. Hổ lại hỏi: – Sao gan người có cái gì vương vướng khó ăn? Vợ hổ nói: – Gan người không mềm bằng gan trâu, gan lợn, nhưng gan người bổ hơn gan trâu, gan lợn. Hổ ăn xong thì lưỡi hổ tóe máu, toạc ra làm đôi, ruột hổ đau như kim đâm. Vợ hổ cài cửa đá lại thật cẩn thận. Hổ gầm, hổ quát, hổ kêu. Hổ gọi vợ hổ ra đấm lưng cho hổ. Vợ hổ không ra, hổ nói: – Mày phản tao, tao biết rồi. Nó gầm lên một tiếng, đá trong hang lở ầm ầm. Nó húc vào ngăn bên, đá vỡ toác ra. Nó trông thấy vợ đang ôm hai đứa trẻ. Nó lách vào, nhưng đá đã kẹp lấy đầu con hổ, đầu con hổ vỡ toác ra. Thằng Nhà, con Gạo và vợ hổ phải đưa tay lên bịt mũi vì mùi tanh hôi của con hổ. Thằng Nhà nói: – Hổ chết rồi. Phải đem chôn hổ ngoài hang. Ba người đào một cái hố sâu, vứt xác hổ xuống, lấp đất lên. o O o Con Gạo đem manh áo rách của người mẹ ra phơi. Nhớ mẹ, Gạo khóc, nước mắt của Gạo rơi xuống đất. Thằng Nhà vừa nhớ mẹ vừa thương em, cũng khóc, nước mắt của Nhà rơi xuống đất. Người con gái vừa nhớ nhà vừa thương hai đứa trẻ bơ vơ, cũng khóc, nước mắt của người con gái rơi xuống đất. Thằng Nhà vào trong ngăn lấy ra một hột muỗm đem vùi xuống đất. Nó nói: – Muỗm ơi, mày mọc lên cho chúng tao khuây khỏa chút nào. Sáng hôm sau, ba người chạy ra, thấy muỗm đã mọc mầm. Gạo không khóc nữa. Người con gái cũng vui lên. Buổi trưa, ba người chạy ra, thấy muỗm đã cao bằng đầu người con gái. Ba người vỗ tay cười. Buổi chiều, ba người chạy ra, thấy muỗm đã cao vút tới mây, cành lá rườm rà như một cái tán lớn mở ra rợp cả một vùng. Ba người đứng dưới gốc muỗm nhảy nhót. Sáng hôm sau, muỗm chi chít những quả là quả. Người con gái trảy ba quả muỗm vừa ngọt vừa thơm. Ba người ăn vào mát lòng mát dạ. Chim rừng nghe tin hổ chết, trước hang hổ lại có cây muỗm to bóng râm rất mát, quả vừa thơm vừa ngọt. Chúng nó ríu rít ca, rủ nhau bay đến cây muỗm. Đầu tiên là chim chào mào. Thằng Nhà ngồi dưới gốc muỗm với con Gạo và người con gái, thấy chào mào nghiêng mào ăn muỗm, bèn hỏi: – Chào mào có biết mẹ tôi ở đâu không? Chào mào hỏi: – Người thế nào? – Giống tôi như đúc. – Thế thì không biết. – Chào mào không biết thì không cho chào mào ăn. Thằng Nhà xua con chào mào. Chào mào vừa bay đi thì một con sáo đến. Thằng Nhà ngồi dưới gốc cây muỗm với con Gạo và người con gái, thấy sáo đang lấy mỏ ngắt rỉa một quả muỗm, bèn hỏi: – Sáo có biết mẹ tôi ở đâu không? – Người thế nào? – Giống tôi như đúc. – Thế thì không biết. – Sáo không biết thì không cho sáo ăn. Thằng Nhà xua con sáo. Sáo vừa bay đi thì một con đại bàng đến. Đại bàng mào đỏ mỏ vàng, lông cổ óng ánh năm mầu, hai cánh xòe ra rợp cả hang hổ. Thằng Nhà ngồi dưới gốc cây muỗm với con Gạo và người con gái, thấy đại bàng ăn quả, bèn hỏi: – Đại bàng có biết mẹ tôi ở đâu không? Đại bàng nhìn thằng Nhà, nhìn con Gạo một lúc lâu lại nhìn người con gái. Đại bàng nói: – Đại bàng có biết một bà giống hai em như đúc, bà có một trai tên là Nhà, một gái tên là Gạo, bà vẫn nhắc hai con, nhưng không biết đường về. – Thế thì đúng là mẹ chúng tôi rồi. Mẹ tôi ở đâu, đại bàng? – Phải đi qua ba rừng, bốn sông, bảy núi, rồi đến một bến sông, nước trong như gương, bến có một cây đa um tùm mát rượi. Mẹ các em thường hay đến đấy tắm rửa. – Đại bàng dẫn chúng tôi đi tìm mẹ nhé. – Để đại bàng ăn no thì đại bàng dẫn các em đi tìm mẹ. – Thế thì đại bàng ăn đi, ăn nhanh lên rồi đưa chúng tôi đi tìm mẹ. Đại bàng ăn xong, nói: – Hai em trèo lên mình đại bàng, mình đại bàng êm như bông, ấm như nắng, đại bàng sẽ dẫn hai em đi tìm mẹ. o O o Thằng Nhà đỡ con Gạo lên mình đại bàng, rồi bước lên ngồi đằng sau đứa em. Hai anh em quay lại thấy người con gái đứng trước cửa hang, mặt buồn buồn như mặt người mẹ . Người con gái nói: – Hai em đi tìm mẹ, chị thì bao giờ tìm thấy nhà? Người con gái sa nước mắt, nước mắt trong như nước suối. Thằng Nhà nói: – Đại bàng ơi, đại bàng có giúp cho chị tôi tìm được nhà không? Đại bàng nói: – Ra bờ suối, đi vào con đường đá, đến tìm ông lão Đá ông lão Đá sẽ chỉ đường cho chị về nhà. Người con gái nói: – Làm sao mà tìm đến được nhà ông lão Đá? – Đại bàng sẽ thả lá muỗm ở dọc đường, chỗ nào có lá muỗm thì đi, chị sẽ tìm được nhà ông lão Đá. Người con gái nói với hai đứa bé: – Hai em tìm được mẹ rồi thì về chỗ ông lão Đá cho chị được gặp, kẻo chị nhớ hai em. Thằng Nhà nói: – Dù xa, dù khó chúng em cũng tìm gặp chị. Người con gái đứng trước cửa hang, nhìn hai đứa trẻ gật gật đầu. Con Gạo giữ chặt manh áo rách của mẹ. Thằng Nhà một tay giữ Gạo, một tay nắm lông cổ đại bàng. Đại bàng cất tiếng hót như tiếng sáo, xòe hai cánh biếc như mây xanh, bay bổng lên giời. Hai anh em quay lại thấy người con gái vẫn đứng trước cửa hang gật gật đầu. Đại bàng thỉnh thoảng lại nhả xuống một lá muỗm. o O o Đại bàng bay qua rừng, bay qua núi, mình đại bàng êm như bông, ấm như nắng, tiếng đại bàng kêu như tiếng sáo. Đại bàng bay qua một con sông, thằng Nhà giật lông cổ đại bàng, hỏi: – Đây rồi phải không, đại bàng? Đại bàng nói: – Chưa phải. Bến sông mẹ em hay tới trong chứ không đục. Thỉnh thoảng con Gạo nói: – Đại bàng ơi, đại bàng thả lá muỗm xuống kẻo chị tôi lạc lối. Đại bàng bay qua rừng, bay qua núi, mình đại bàng êm như bông, ấm như nắng, tiếng đại bàng kêu như tiếng sáo. Đại bàng bay qua một con sông, có bến um tùm. Thằng Nhà giật lông cổ đại bàng, nói: – Đây rồi phải không đại bàng? Đại bàng nói: – Chưa phải. Bến sông mẹ em hay tới là bến cây đa, không phải bến cây si. Con Gạo chực khóc. Nó nói: – Có gặp mẹ thật không? Đại bàng nói: – Gạo đừng sốt ruột. Phải bay qua đủ ba rừng, bốn sông, bảy núi mới tìm thấy mẹ. Đại bàng bay hết ba rừng, bốn sông, bảy núi, mình đại bàng êm như bông, ấm như nắng, tiếng đại bàng kêu như tiếng sáo. Tới một bến sông, có một cây đa cổ thụ um tùm, đại bàng từ từ đỗ xuống. Lúc ấy vào giữa trưa. Đại bàng nói: – Mẹ hai em ở đây. Thằng Nhà và con Gạo nhảy xuống đất vỗ tay cười. Thằng Nhà ôm lấy cổ đại bàng nói: – Đại bàng tốt lắm. Bây giờ đại bàng chỉ cho tôi đến chỗ mẹ tôi. Đại bàng nói: – Các em trèo lên cây đa, tới cái cành chĩa ngang mặt nước. Các em nhìn xuống sông. Lát nữa, bà con đi kiếm củi qua đây, thường hay xuống rửa mặt. Các em thấy trên mặt nước, ai giống mặt hai em, thì đấy chính là mẹ các em. Nói xong, con đại bàng mào đỏ, mỏ vàng, lông cổ óng ánh năm mầu, mình êm như bông, ấm như nắng, xòe cánh to rộng, vỗ cánh bay cao, tiếng kêu êm ái như tiếng sáo. Thằng Nhà đỡ con Gạo trèo lên cây đa. Hai anh em bám trên cái cành cao mọc chĩa ra ngang mặt nước. Chúng nó soi mặt trên dòng sông trong vắt, mặt hai đứa nổi trên mặt nước, giống nhau như đúc. Những người đàn bà đi kiếm củi về, buổi trưa oi bức, ai nấy đều đặt gánh củi dưới gốc đa, rồi xuống bến rửa mặt lau mình. Thằng Nhà và con Gạo nhìn xuống mặt sông. Mặt chúng nó hiện lên rất rõ, nhưng hai đứa không thấy mặt ai giống như mặt chúng nó. Đám người rửa mặt lau mình xong, lại cất gánh đi. Đám người khác đến. Thằng Nhà và con Gạo lại nhìn xuống mặt sông nhưng không thấy mặt ai giống như mặt chúng nó. Con Gạo khóc, thằng Nhà nói: – Em Gạo đừng khóc, đại bàng không nói dối đâu. Đám người rửa mặt lau mình xong, lại cất gánh đi. Đám người khác đến. Thằng Nhà và con Gạo nhìn xuống mặt sông, mặt chúng nó hiện lên rất rõ, giống nhau như đúc. Bỗng chúng nó thấy hiện trên mặt nước trong, mặt một người đàn bà giống mặt chúng nó như đúc. Người đàn bà đang rửa mặt, cũng thấy hiện trên mặt nước trong mặt hai đứa trẻ giống mặt mình như đúc. Nước mắt của người đàn bà rỏ xuống dòng sông. Nước mắt của thằng Nhà, nước mắt của con Gạo cũng rỏ xuống dòng sông. Dòng nước trôi, nước sông trong vắt, ba khuôn mặt giống nhau như đúc, chụm vào nhau rồi lại tỏa ra, tỏa ra rồi lại chụm vào nhau. Con Gạo giơ manh áo rách vẫy . Nó nói: – Mẹ ơi! Thằng Nhà cũng nói: – Mẹ ơi! Người đàn bà giơ tay ra đón hai đứa trẻ. Mặt người mẹ không buồn nữa, mắt người mẹ không mờ nữa. Tiếng nói êm như ru cất lên: – Lại đây con. Thằng Nhà và con Gạo ôm chặt lấy người mẹ, người mẹ ôm chặt lấy hai con. Người mẹ nói: – Mẹ đi kiếm ăn, mong cho Nhà có nhà, Gạo có gạo, không ngờ lạc đường, để đến nỗi hai con khổ sở. Vừa nói vừa vuốt tóc rối bù của con giai, lau nước mắt cho con gái. Tiếng người mẹ êm hơn tiếng sáo của đại bàng, êm hơn tiếng người con gái trong hang hổ. Tay người mẹ êm hơn bông, ấm hơn nắng. Thằng Nhà bắt đầu kể cho mẹ nghe những chuyện chúng nó gặp ở dọc đường. Người mẹ nói: – Chúa làng chết rồi, hổ cũng không còn. Mẹ con ta gặp nhau, thế nào Nhà cũng có nhà, Gạo cũng có gạo. Người mẹ cất tiếng hát ru cho hai con ngủ, và nói: – Các con ngủ đi cho đỡ mệt. Tội tình các con vất vả. Chốc nữa mẹ sẽ mua quà cho các con ăn. Trong tay người mẹ, hai anh em đánh một giấc ngủ ngon. Người mẹ nhìn con, khi thì mỉm cười, khi lại ứa nước mắt. Người mẹ hát: – Trở về làng từ nay có nhà, có gạo, có mẹ có con. Con ơi con ngủ cho ngoan…
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tim-me" }
Vụ kiện châu chấu
Ngày ấy có một con châu chấu mải mê kiếm ăn lạc mất đường về. Tối đến, trời rét lại mưa rơi rả rích, làm cho châu chấu ta run rẩy. Nó muốn tìm một chỗ ngủ, nhưng bóng đen dày đặc chẳng biết đường nào mà lần. -"Ta có bò liều may gặp chỗ nào khỏi ướt thì nằm tạm một đêm". Nghĩ vậy, chấu ta cứ lồm cồm bò mãi trên một cành cây mới bám được. Cuối cùng, không ngờ nó lại lọt vào nhà chim ri. Đến đây, châu chấu thấy ấm áp dễ chịu. Nhưng một tiếng hỏi cất lên: - Đêm hôm khuya khoắt, ai vào nhà tôi đó ? Khéo kẻo đạp lên mấy đứa con tôi! Thấy chim ri mẹ đứng lên hỏi thế, chấu rên rỉ đáp không ra hơi: - Tôi là chấu đây!...Đêm lạnh quá...Làm ơn cho ngủ nhờ một đêm, sáng dậy là đi ngay. - Nhà rách nát chật chội, mấy mẹ con nằm không đủ. Thôi chú tìm nơi khác đi! Nhưng chấu vẫn van nài: - Cho ghé lưng nằm một tí phía ngoài này cũng được, kẻo tôi lạnh cóng không thể bước đi đâu được nữa. Nghe nói, chim ri mẹ thương hại, bèn đáp: - Thôi được, cho chú mày nằm ghé bên kia, nhưng phải co cẳng kẻo đạp vào mấy đứa con ta. Thế là chấu xếp hai càng vào bụng, đặt lưng ngay bên cạnh mấy con bé của chim ri. Chỉ một chốc sau, chấu cũng như chim ri ai nấy đều ngon giấc. Đang ngủ say sưa, bỗng nhiên một tiếng nai kêu "tác" bên cạnh nhà. Tiếng kêu quá to làm cho châu chấu giật mình tỉnh dậy. Chấu vươn vai rồi quên mất lời chim ri dặn, duỗi thẳng đôi cẳng dài thượt của nó. Nhà chim ri vốn đặt lơ lửng trên một cành na, nhà quá rách nát vì gió đánh tả tơi lâu ngày chưa kịp chữa. Châu chấu duỗi mạnh đôi càng làm cho cả một chỗ nằm răng rắc: - Ôi chao! Đổ mất, đổ mất. Chim ri mẹ kêu tướng lên. Quả nhiên cái duỗi chân của chấu đã làm hại nó. Mấy con chim con bị đạp dồn về một phía, cái nhà nghiêng hẳn, chỉ một chốc rời khỏi cành na, một con chim non còn ngủ say cũng lăn theo và rơi tõm xuống sông. Mẹ con chim bay loạn xạ đi tìm thì nó đã bị nước cuốn trôi mất. Tức giận, vì châu chấu tự dưng vô cớ đến gây tai họa cho nhà mình, sáng hôm sau mẹ con chim ri bèn đi kiện với Bụt. Nghe nguyên cáo trình bày đầu đuôi, Bụt liền theo đến tận nơi xem xét rồi gọi châu chấu đến hỏi: - Tại sao nhà ngươi đêm hôm đến làm hại nhà người ta? Châu chấu cúi đầu nhận rằng quả nó có gây tang tóc cho nhà chim ri, nhưng nó cũng cho Bụt biết rằng nó vốn không có ác ý: - Tôi không phải là kẻ vô ơn bạc nghĩa đâu. Vì con nai tự dưng ở đâu đến kêu thét vào tai làm cho tôi giật nảy mình. Chính vì thế mà tôi duỗi chân theo thói quen nên mới ra nông nỗi. Thấy châu chấu thức tỉnh nên Bụt cũng thương hại, bèn cho gọi nai đến, kể cho nai biết đầu đuôi sự việc xảy ra, rồi bảo: - Nhà đổ, con chết, rõ ràng là tại tiếng kêu thét của nhà ngươi. Tại sao nhà ngươi đêm hôm khuya khoắt đến đây kêu rống lên làm gì để gây nên tai vạ? Nai vội vàng trả lời: - Oan tôi quá! Lúc ấy tôi cũng đang lim dim đôi mắt. Tự nhiên một quả na xanh rơi xuống trúng vào mặt làm tôi toáng đảm kêu lên. Vậy là tại quả na chứ không phải tại tôi. Nghe nai bày tỏ có lý, bụt quay sang hỏi cây na: - Vì sao ngươi lại để cho quả xanh rơi trúng vào mặt con nai, làm cho nó hét tướng lên, gây tai vạ cho nhà ngươi. Người đã biết tội chưa? Na đợi Bụt buộc tội xong, lập tức trả lời: - Bẩm ngài. Tôi đâu có muốn quả xanh của tôi rơi. Vì con sâu nó làm hại tôi, nó cắn cuống quả xanh, cho nên quả mới rụng đấy ạ! Đến lượt sâu được Bụt sai gọi đến kể cho nghe sự tình rồi kết tội: - Nhà ngươi đã thấy rõ chưa? Nếu nhà ngươi không cắn quả na xanh thì làm gì có tai vạ xảy đến cho nhà chim ri. Vậy ngươi không tránh được tội lỗi. Nhưng Bụt không ngờ sâu cũng không nhận tội. Sâu đáp: - Bẩm ngài, tôi vốn sống yên ở trong đám lá khô dưới kia. Ở đó tôi có nhiều thức ăn ngon lành. Nhưng mấy hôm nay có con gà ở đâu đến sục sạo tìm giết cả họ nhà tôi rất kinh khủng. May mắn làm sao, tôi ba chân bốn cẳng bò được lên đây. Chẳng có gì nhét vài bụng nên tôi phải gặm chút vỏ quả na cho đỡ đói. Nếu có rơi trúng vào nai hay con gì khác thì điều đó không phải tại tôi mà là tại con gà kia. Lại đến lượt gà được gọi đến đối chất. Gà vốn không phải quê tại khu vực này. Nó có một đàn con. Mẹ con thường dẫn nhau đi kiếm ăn. Nhưng thức ăn ngày một hiếm. Ngày hôm kia, mẹ gà nhờ được vịt, chỗ quen biết chở qua sông hứa sẽ xin ấp trứng để đến ơn. Vì thế mấy hôm gà được no bụng. Nhưng khi nghe Bụt bụt buộc tội vì đã gây vạ cho chim ri gà đờ người không biết tìn câu gì để chống chế vì khu vực này không phải quê quán của mình. Hỏi đến ba lần, gà không trả lời được, nên bị Bụt giam lại. Bầy con của gà có bốn con mái một con trống. Khi nghe vịt cho biết là mẹ mình bị giam ở bên kia sông thì chúng nó hết sức hốt hoảng. Chúng khẩn khoản nhờ vịt chở sang thăm mẹ. Bốn con gà mái nhớ thương mạ quá tranh đi trước. Chúng nó chỉ biết kiếm sâu tìm mồi nuôi mẹ mà không biết kêu van với Bụt để mạ được tha, nên cuối cùng lại về không. Hôm sau đến lượt con trống con đi thăm mẹ nó kể đầu đuôi sự tình vì sao Bụt bị bắt giam, gà trống con bèn đi tìm Bụt rồi phân trần: - Bẩm ngài, ngài bắt giam mẹ con quả thật oan ức. Bụt chau mày, hỏi: - Lại còn oan nỗi gì. Nếu mẹ mày cứ kiếm ăn ở bên kia sông đừng qua bên này, thì làm gì có chuyện con sâu bò lên cắn quả na xanh, làm gì có chuyện quả na xanh ấy đứt cuống rơi vào mắt con nai để con nai kêu thét lên, rồi làm gì có chuyện con châu chấu giật mình duỗi chân đạp đổ nhà chim ri và làm cho con nó chết. Chính thủ phạm là mẹ mày, mày còn kêu oan nỗi gì. Gà trống con lễ phép thưa: - Bẩm ngài, chính vì thế mà con phải kêu oan cho mẹ con, vì rõ ràng trong lục súc sáu loài, loài nào loài ấy khi sinh con đẻ cái đều được trời cho có sữa nuôi con riêng loài gà chúng con thì tuyệt nhiên không có lấy một giọt sữa. Vì thế gà phải chạy vạy tần tảo nuôi con. Mẹ con phải vất vả đi các nơi khác kiếm ăn là vậy. Bên kia người khôn của khó nên phải lần mò sang bên này. Tình cảnh khó khăn buộc phải thế, đâu có phải là tội tại mẹ con! Bụt thấy gà trống con cãi cho mẹ có lý có lẽ, đành phải thả cho mẹ nó về. Thấy gà trống bé người mà khôn ngoan, ai nấy đều khen ngợi. Từ đó mỗi lần có kiện tụng việc gì, người ta thường mang gà trống theo, hy vọng nhờ sự có mặt của nó mới thắng kiện. Còn gà thì phải ấp trứng vịt để trả ơn, dòng dõi của nó sau này vẫn thế.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vu-kien-chau-chau" }
Cô gái lừa thày sãi, xã trưởng và ông quan huyện
Ở một huyện nọ có một chị góa chồng mặt mày sáng sủa dễ coi, lại khôn ngoan lanh lợi. Thấy có đóa hoa xinh dễ vin dễ hái, nhiều anh chàng thường ngấp nghé. Trong số những người lui tới, có cả một thầy sãi, một xã trưởng và một quan huyện. Cả ba đều dày công thả lời ong bướm, ai cũng tưởng mình lọt vào mắt xanh cô nàng. Thực ra cô nàng chưa chút tơ vương. "Cả ba người đều có vai có vế, nhà ta từng đôi ba phen nhờ vả, thật khó mà ngang nhiên cự tuyệt". Nghĩ vậy, chị ta vẫn tiếp đãi cả ba rất ngọt ngào. Trước những cái liếc mắt đưa tình, những câu bóng gió, tuy chị không vồ vập, nhưng cũng không tỏ ra thờ ơ. Cả ba thấy thế tưởng rằng cá đã cắn câu nên lại ra công theo đuổi. Tuy nhiên cuối cùng cô nàng cũng buộc phải tỏ rõ thái độ, không thể giả lả qua ngày, nhất là đối với xã trưởng là tay quyền thế trong làng, lại gần đường lui tới nên cứ săn đón luôn canh. Chị ta bụng bảo dạ: - Thật là đáng ghét, chúng nó bám lấy ta như đỉa đói. Phải tìm cách cho cả ba một mẻ, không thể kéo dài mãi được Một hôm cô nàng đang ngồi ở nhà thì thầy sãi ở đâu bước vào. Sau khi trầu nước, thầy sãi bắt đầu tỉ tê đòi được một buổi hẹn hò. Chị ta đáp ngay: - Thầy sãi muốn gì nào, tối nay có được không ? Sãi ta như mở cờ trong bụng: - Ô thế thì hay quá! Có chắc như vậy không ? - Chắc như đanh đóng cột. Thầy nhớ đến chơi vào canh một nhé ! Sau khi thấy sãi ra về, chị ta cũng lật đật chạy đi báo cho xã trưởng làm cho xã trưởng sướng run lên vì cái tin đột ngột. Tiếp đó, đến lượt quan huyện cũng tràn ngập niềm vui vì nhận được ở cô nàng một lời hứa chờ đợi từ lâu. Đêm hôm ấy, vào khoảng trăng lặn, thầy sãi đã đến gọi cửa. Chị ta ra mở cho vào. - Trong nhà có ai không ? - Thầy sãi hỏi. Đáp: - Không. Cả nhà thiếp đều đi vắng Sãi ta chỉ đợi có câu ấy bắt đầu lả lơi. Thấy chị chàng không ra bộ cự tuyệt, sãi càng làm già. Nhưng giữa lúc thầy sãi sắp lên giường thì bỗng có tiếng gọi cửa. Như gáo nước lạnh giội vào lưng, sãi ta run lập cập. Người đàn bà làm bộ ngạc nhiên: - Tiếng ai như tiếng thầy xã, chẳng biết đêm hôm thầy tới đây làm gì ? Nghe nói thế, thầy sãi lại càng cuống quýt, nhờ người đàn bà chỉ cho một chỗ nấp. Cuối cùng thầy đành theo lời chỉ, chui đại xuống gậm giường, vì nhà không có cửa sau. Xong đâu đấy, chị ta mở cửa đón xã trưởng vào. Sau những câu chào hỏi mời mọc, người đàn bà nói: - Nhân thể thiếp có chút việc muốn hỏi thầy xã - Việc gì, cứ nói đi - xã trưởng hỏi: - Phận đàn bà con gái không biết phép vua lệ làng. Xin hỏi: - Như thầy sãi bỏ chùa mà đi ve gái thì làng xử ra làm sao ạ ? Xã trưởng cười hề hề đáp ngay: - Ồ! Quân đó là đồ trốn xâu lậu thuế, bắt được thì đem chém quách cho rồi, để làm chi ! Cũng như thầy sãi, khi biết nhà vắng vẻ, xã trưởng ta bắt đầu giở chuyện bài bây. Cô nàng cũng không ra vẻ cự tuyệt. Câu chuyện đang đi vào mặn nồng thì thình lình lại có tiếng gọi cửa. Xã trưởng thất kinh vì hắn nhận ra tiếng quan huyện. - Chết nỗi, đêm hôm khuya khoắt, chẳng biết quan đến đây làm gì ? Làm sao bây giờ đây ? - Thầy đừng lo. Để thiếp tìm cho thầy một chỗ nấp Cuối cùng xã ta cũng được dắt vào buồng, ngồi ẩn vào một xó. Xong đâu đấy, chị ta lại mở cửa đón quan huyện vào. Sau khi dọn trầu mời nước quan, chị ta hỏi: - Thiếp có chút việc muốn hỏi quan - À, việc gì đó cứ nói đi ! - quan đáp - Bẩm quan, như thầy sãi ban đêm bỏ chùa mà đi chơi gái thì nên xử vào lỗi gì ? - Ồ! Quan cười đáp: Bắt được thì đánh cho năm roi, mười roi, rồi bắt phạt xâu cũng như đối với dân sự vậy ! Quan vừa đáp xong thì thầy sãi từ dưới gậm giường lóp ngóp bò ra, lạy lấy lạy để, vừa lạy vừa nói: - Bẩm quan lớn, ngài minh lắm: chứ không như anh xã nấp trong kia thực là quá tay. Tội có như vậy mà anh ấy đòi xử chém.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/co-gai-lua-thay-sai-xa-truong-va-ong-quan-huyen" }
Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn
Trong một khu rừng nọ, có một con cọp dữ và một con heo rừng hung hãn. Cọp và heo, con thì cậy có móng vuốt sắc, con thì cậy có bộ nanh dài, bắt nạt tất cả mọi loài. Các con vật đều không thể nào sống yên lành với hai con thú hung ác này được. Mọi loài kéo nhau đến nhà thỏ, để bàn cách giết cọp và heo rừng. Chúng nghĩ mãi, vẫn chẳng tìm ra cách gì. Bỗng thỏ reo to: - Tôi nghĩ ra rồi! Tôi nghĩ ra rồi! Các con vật xúm lại. Thỏ ghé tai nói thầm với chúng. Cả bọn đều phục mư­u trí của thỏ. Sáng hôm sau, thỏ tìm gặp cọp trong một bụi rậm. Thỏ khẽ nói vào tai cọp: - Bác cọp ơi! Thằng heo rừng cứ luôn nói xấu dọa dẫm bác mà bác không biết sao? Cọp vừa nghe thấy vậy đã giận dữ gầm lên: - Cái gì? Thằng heo rừng mà dám nói xấu và dọa dẫm ta? Nó nói gì vậy? - Chu cha! Thỏ làm bộ bí mật - Thằng heo rừng nói bác cọp miệng to, răng to, mặt to mà nhút nhát, chỉ dám bắt nạt bầy dê và loài heo nhà thôi. Heo rừng còn bảo: nếu gặp bác, nó sẽ đâm thủng bụng bác. Sau đó, thỏ lại chạy theo đư­ờng tắt đến tìm gặp heo rừng. Heo rừng đang ngủ trong một cái hang sâu. Thỏ lay heo rừng dậy, giả bộ sợ hãi nói: - Bác heo ơi! Trốn mau đi! Thằng cọp đang tìm bác để ăn thịt đấy! Nó bảo phải cắn cổ heo rừng, vì heo rừng chỉ chuyên phá mì, phá bắp. Heo rừng hộc lên giận dữ. Thỏ nói thêm: - Thằng cọp nói rằng phải cắn cổ bác, xem tim bác có to không. Heo rừng vốn lì lợm và ngang ngạnh. Nó chẳng nói chẳng rằng, chạy ngay đi tìm cọp. Hai con vật hung dữ gặp nhau. Chúng mắng nhiếc, xỉ vả nhau thậm tệ. Cọp nói rằng heo rừng là loài chết đói. Heo rừng rủa cọp là bị quỷ Briơng ăn thịt. Mỗi lúc chúng một hung hăng, như­ng chúng vẫn sợ nhau. Chúng hẹn bảy ngày nữa sẽ gặp nhau để thử sức. Trong bảy ngày ấy, cọp lăn mình mãi ở trên đồi cỏ tranh cho khỏe người. Cả đồi cỏ tranh bị cọp lăn trở thành xơ xác. Cọp định bụng phen này sẽ ăn thịt heo cho hả giận. Còn heo rừng cũng lăn mình trong bùn suốt bảy ngày, để bùn trát vào da hết lớp này đến lớp khác. Heo rừng định bụng làm gẫy răng cọp, đâm cọp lòi ruột ra để cọp hết thói ba hoa. Đến ngày thứ bảy, cọp và heo rừng gặp nhau ở một trảng lớn ven suối. Chúng chẳng nói với nhau một lời, cứ lẳng lặng xông vào cắn xé nhau. Thỏ ngồi trên một thân cây thông, hò hét ầm ĩ, kích cho hai con vật đánh nhau chí tử. Cọp và heo rừng đánh nhau cho đến khi trời tối mịt, lại suốt cả ngày hôm sau. Cọp nhiều lần ngoạm vào mình heo, bị gẫy cả răng. Khắp mình heo rừng cũng đầy vết thư­ơng. Cả hai con vật, máu chảy đầm đìa, cùng gầm lên giận dữ và đau đớn. Mọi thú rừng đều im tiếng theo dõi hai tên chúa rừng đánh nhau. Riêng thỏ vẫn ngồi trên thân cây thông hò hét cổ vũ làm cho hai con vật càng điên tiết lao vào nhau mạnh hơn. Đến ngày thứ ba, heo rừng bị què một chân, còn cọp bị mù một mắt. Chúng lảo đảo lao vào nhau lần cuối cùng. Cả hai con vật ngã nhào xuống suối. Chúng chìm nghỉm, không đủ sức bơi vào bờ nữa. Giữa lúc mọi loài vật kéo nhau ra suối xem xác hai con vật hung ác, thỏ bỗng thấy đuôi nó bị nhựa thông dính chặt vào thân cây thông. Thỏ cố sức đứng dậy, vùng ra, mà không đư­ợc. Nó đành ngồi nghĩ, nghĩ mãi, và rồi nghĩ ra một kế. Thỏ chờ đúng lúc bác voi ở trong rừng đi ra, liền hét lên thật to. - Dừng lại! đây là suối nư­ớc của ta. Ai ra suối cũng phải xin phép! Bác voi sững lại ngạc nhiên: một chú thỏ nhãi ranh mà dám bắt nạt một bác voi to lớn! Voi tiếp tục đi. Thỏ lại quát: - Dừng lại! Đây là suối n­ước của ta. Ai ra suối cũng phải xin phép. Không xin phép, ta sẽ ăn thịt. Bác voi bực mình, bèn dừng lại, túm lấy tai thỏ, nhấc nó lên và quẳng sang một bên. Thỏ đau điếng nh­ưng mừng vì thoát nạn, cắm cổ chạy vào rừng. Thỏ bị bác voi túm tai nên tai dài ra. Còn đuôi thỏ trở nên ngắn cũn vì một mẩu đuôi bị đứt, dính ở thân cây thông ngày ấy!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-tho-tai-dai-duoi-ngan" }
Sự tích câu nói Trời đánh tránh miếng ăn
Người xưa kể lại, trong một gia đình có 3 người gồm bố mẹ đi làm ruộng và đứa con gái nhỏ ở nhà chuyên lo việc bếp núc. Như thường lệ, khi hai vợ chồng này đi làm, cô bé nấu cơm. Vì xót thương bố mẹ làm lụng vất vả, cô nhường cơm trắng cho họ ăn, còn mình chỉ gạn nước cơm uống. Tuy nhiên, cô vừa mới uống xong, thì ngoài kia bầu trời xuất hiện tia chớp, lôi cô bé ra quỳ ở ngoài sân. Cha mẹ đi làm về nhìn thấy cảnh tượng cô con gái quỳ dưới đất, chưa kịp hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao. Bỗng đâu từ trời rơi xuống tờ giấy ghi rằng đứa con này không có lương tâm, đã uống lén nước cơm gạo. Vì vậy mà trời truyền thư xuống bảo đợi đến trưa sẽ xử phạt. Sau khi nghe con gái kể lại sự tình, cha mẹ liền hiểu tấm lòng hiếu thảo của con. Nhưng vì thiên mệnh không thể làm trái nên chỉ có thể lẳng lặng chờ đợi. Ba người họ cùng nhau ăn bữa cuối, người cha quá thương con gái nên nhường cơm cho cô ăn. Trời đất bỗng nhiên tối sầm lại, ngỡ rằng thời khắc định mệnh đã đến, một tờ giấy bay đến chỗ cả nhà đang dùng bữa khiến mọi người bất ngờ. Trên đó nói rằng bởi vì thời gian ăn cơm trùng với thời gian xử phạt, nay đã qua giờ xử phạt. Lôi Công không đánh người đang ăn cơm, vì vậy cô gái trẻ được tha mạng. Dù đây chỉ là một cái cớ, để "chuộc" lại sự hiểu lầm của thiên đình dành cho cô gái, nhưng cũng phần nào nói lên sự công bằng của Lôi Công . Ông trời luôn có thể nhìn thấy mọi thiện niệm hay ác niệm xuất từ tâm con người. Mặt khác, cha mẹ trong câu chuyện, khi nhận được văn tự từ trời, không lập tức quát mắng con cái, mà phải hỏi lại con cặn kẽ đầu đuôi, hiểu rằng con gái bị oan, cũng càng thương con hơn. Lôi Công vốn dĩ là một vị thần chuyên cai quản việc sấm sét nổ xuống nhân gian. Thê tử của ông là bà Điện Mẫu - một tiên nữ trông coi việc đánh sét. Hai người thay phiên nhau cai quản mọi việc trên trời dưới đất. Tương truyền rằng, khi Điện Mẫu và Lôi Công cãi nhau, bầu trời cũng sẽ xuất hiện sấm sét vang dội. Dần dần, trách nhiệm được nâng cao hơn. Dân chúng giao cho họ nhiệm vụ đặc biệt có ý nghĩa, đó là trừng trị cái ác, tuyên dương điều thiện. Sấm sét lúc này có ý nghĩa thay trời hành đạo, trừng trị những kẻ ác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cau-noi-troi-danh-tranh-mieng-an" }
Sự tích đá Bà rầu
Ngày xưa, có gia đình một người thuyền chài có một cô gái rất xinh tươi. Khi cô đã lớn, nhiều chàng trai muốn xin kết duyên với nàng, nhưng chưa có đám nào thành cả. Mãi về sau một chàng trai người Quảng lấy được nàng làm vợ. Anh chàng là người khỏe mạnh, làm nghề buôn hàng bằng thuyền mà ở đây người ta gọi là buôn ghe. Sau thời kỳ ân ái ngắn ngủi, đôi vợ chồng ấy phải rời nhau vì sinh kế. Người chồng theo thuyền, theo bạn ra đi, để một mình vợ ở lại với gian nhà nhỏ. Thế rồi, cứ chiều chiều, người vợ lại ra bờ sông trông đợi bóng những cánh buồm tiến vào cửa sông. Nhưng qua ba bốn tuần trăng mà chồng và các bạn của chồng vẫn không thấy về. Những đoàn thuyền khác lần lượt cập bến không nhắc tới họ. Người đàn bà đâm ra lo sợ: hay là trận bão vừa qua đã nhận chìm thuyền xuống thủy phủ. Hay là chồng mình làm điều gì thất thố, nên bọn quan quân địa phương đã giam tất cả mọi người vào ngục tối... Năm, sáu tháng qua, người chồng vẫn chưa thấy về. Người đàn bà đó hàng ngày ra đứng bờ sông nhìn những cánh buồm tiến vào cửa biển. Mỗi một cánh buồm đối với nàng là một tia hy vọng, nhưng tia hy vọng ấy vừa lóe lên, thì một chốc sau đó lại tắt ngay. Đột nhiên chồng về giữa lúc vợ đinh ninh sống một thân một bóng lạnh lẽo. Người lái buôn bước vào nhà làm cho mọi người kinh ngạc và mừng rỡ. Anh kể rất dài về cuộc sống chung đụng với những người khác nòi ở hải đảo. Nếu không có mưu trí thì anh và bạn hữu chưa chắc đã sống sót để nhìn lại quê hương. Thế là ngày vui trở lại. Thú ái ân lại tràn ngập chăn gối cho bõ những lúc xa nhau. Nhưng vui chưa trọn mà buồn đã xuất hiện. Sự nghi ngờ bỗng nảy nở trong lòng người chồng. Chồng vốn là người cả ghen, lại cũng đã biết vợ ngày trước có phần nào tự do trong việc giao thiệp. Bây giờ đây, người ta mách nhỏ với anh rằng: trong những ngày vừa qua người đàn bà hay bỏ nhà ra đi từ buổi chiều cho đến tối mịt mới về. Nghe đoạn: máu ghen của anh bừng bừng bốc lên. Hắn không ngờ trong những lúc mình gian lao như thế, thì vợ lại có thể như thế được. Nhưng lời phân trần của người vợ chẳng ăn thua gì. Trong tình cảnh đó, nàng chỉ dành ngậm miệng. Vì thế chồng không tiếc tay hành hạ vợ. Không một lời oán trách, người đàn bà chỉ biết mình khóc với mình mà thôi. Vợ càng làm thế, thì chồng lại càng lạnh nhạt. Một hôm để cho vợ phải hối hận, người chồng lại cùng bạn dong buồm ra đi, không một lời rỉ tai với vợ. Người đàn bà ấy không biết chồng đi đâu và bao giờ trở lại. * Nhưng một hôm, người chồng lại cùng với các bạn bè trở về quê hương, sau một thời gian buôn bán ở phương xa. Hắn làm ra rất nhiều tiền, nhưng hắn thấy tiền của không đủ lấp sự trống trải trong lòng mình. Hắn ao ước được gặp lại vợ cũ để tìm hạnh phúc trong sum họp. Lần này, chồng dự định lúc về sẽ khuyên dỗ cho vợ mình tu tỉnh để nối lại những ngày thắm đẹp xưa kia. Nhưng khi bước chân vào nhà, người chồng thấy nhà lạnh lẽo. Xóm giềng cho hay rằng vợ anh bỏ đi đã hơn một tháng. Hắn thấy gánh buồn đè nặng lên người. Hắn vơ vẩn đi lại bờ sông, chỗ mà người ta cho biết là vợ mình lần trước cũng như lần này hay đứng đây trông đợi. Sự hối hận tràn ngập trong lòng người đàn ông. Tự nhiên hắn reo lên vì xa kia bên cạnh cái tháp Chàm có bóng một người thiếu phụ nổi bật trong ánh chiều giống hệt vợ mình. Mừng quá, hắn cắm đầu chạy tới. Quả đúng là vợ, nhưng vợ bấy giờ đã hóa thành đá, con mắt vẫn đăm đăm nhìn về phía chân trời vô tận. Thời gian bây giờ đã xóa đi mất tích nhiều sự vật, nhưng bức tượng người đàn bà cô đơn buồn rầu kia ở Quảng-nam vẫn còn. Bên cạnh đó là một ngọn tháp cổ. Cái tượng đó người ta gọi là tượng Bà-rầu. Vì tượng ở cạnh tháp, nên tháp cũng gọi là tháp Bà-rầu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-da-ba-rau" }
Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông
Ngày xưa có Giáp và Ất là hai người kết bạn với nhau. Nhà Giáp có của ăn của để, còn Ất thì túng bấn lắm, thường phải nhờ vả Giáp. Một hôm, để có vốn, Ất nằn nì vay của Giáp mười nén bạc rồi bán nhà cửa đưa vợ đi chỗ khác làm ăn. Đến một cái chợ vùng Nam, hắn và vợ hắn xoay ra buôn bán và cho vay lấy lãi. Hắn rất hà tiện và chịu khó trong mọi việc. Gặp mấy dịp may, hắn phất to, tiền của đổ về như nước. Không đầy mươi năm, vợ chồng hắn trở nên khá giả, có cơ nghiệp lớn ở vùng đó. Tuy làm nên, nhưng hắn cố tình quên mất người bạn cũ và số tiền nợ của bạn. Nói chuyện Giáp, từ ngày bạn bỏ ra đi, mãi không nhận được một tin tức gì, Giáp ngờ là bạn bị số nghèo đeo đẳng mãi chưa thôi, nên sống vất vưởng ở một nơi nào đó. Hơn nữa, lại vì nợ của mình một số tiền nhiều chưa có cách gì trả được, nên vợ chồng bạn không dám ghé về chơi hay nhắn tin tức gì. Nghĩ thế, Giáp rất thương bạn. Một hôm, ông ta mang theo mấy nén bạc đánh đường đi tìm Ất, hy vọng gặp bạn để giúp bạn thoát cơn chật vật. Giáp hỏi thăm mãi mới tìm đến nhà Ất. Ông ta ngạc nhiên và mừng rỡ khi thấy vợ chồng bạn không phải nghèo đói sa sút như mình tưởng, mà trái lại có nhà ngói cây mít, có ruộng đất ao chuôm, v.v... Ông nghĩ bạn mình bây giờ không cần đến mình giúp đỡ nữa. Cho nên trước khi vào nhà, ông ta đào đất chôn số tiền mang theo ở cổng nhà bạn. Ất gặp bạn, ngoài mặt vui vẻ chào mừng nhưng trong bụng chỉ nghĩ đến món nợ mình còn thiếu của bạn. Hắn vừa ngượng mặt vừa tiếc của. Tự nhiên phải bỏ ra một số tiền lớn để trả một món nợ từ đời nảo đời nào, hắn thấy xót ruột. Nghĩ thế, hắn bỗng có bụng muốn nuốt trôi số bạc thơm thảo bạn ứng cho làm vốn ngày xưa. Thế là đến nửa đêm, hắn đánh thức vợ dậy, bàn với vợ. Được vợ đồng tình, hắn làm ngay. Nhân lúc Giáp ngủ say ở nhà ngoài, cả hai vợ chồng lén tới cầm dao đâm chết. Đoạn hắn và vợ hắn mang xác Giáp bí mật đào lỗ chôn dưới một gốc khế sau vườn. * Cây khế nhà Ất từ đó tự nhiên xanh tốt rườm rà hơn trước. Nhưng lạ thay năm ấy chỉ có một quả rất lớn. Hai vợ chồng có hơi ngạc nhiên nhưng cũng chẳng mấy quan tâm. Khi quả khế chín, vợ Ất hái ăn. Và trong năm đó, vợ Ất có thai, đến kỳ sinh ra một đứa con trai. Vì hiếm con nên Ất rất mừng khi thấy thằng bé khôi ngô và chóng lớn. Nhưng đứa con của hắn có một tật câm, lên 7 tuổi mà không biết nói, làm cho 2 vợ chồng hết sức lo buồn. Ất cố tìm thầy chạy thuốc, lễ chùa lễ đền nhưng đều vô hiệu. Một hôm vợ Ất xới cơm cho con, nhân than với con rằng: - Con ôi! Mẹ mong con khôn lớn để học hành đỗ đạt cho cha mẹ mở mày mở mặt. Sao con chẳng nói chẳng rằng làm cho mẹ khổ. Tự nhiên thằng bé bật ra một câu: - "Mẹ cứ mời một ông quan về đây, ông ta sẽ làm cho con nói được". Thế rồi nó lại nín bặt, hỏi mấy cũng không nói nữa. Túng thế, hai vợ chồng Ất nghe lời con, sắm lễ vật đi mời quan huyện về xem thử thế nào. Nể lời mời mọc khẩn khoản của hai vợ chồng, quan huyện cho sắp võng, dắt một đoàn lính tráng theo hầu về thẳng nhà Ất. Thằng bé thấy mặt quan quả nhiên nói được. Nó tự xưng là Giáp, kể hết tình đầu cho mọi người nghe: nào cho Ất vay tiền, nào mang tiền đi kiếm bạn để toan giúp bạn, nào giấu tiền ở đâu, bị giết như thế nào, v.v... Nghe thủng câu chuyện, quan huyện sai lính đào gốc khế và đào ở mé cổng nhà Ất, quả thấy đúng như lời thằng bé. Lập tức quan sai giam cổ vợ chồng nhà Ất lại chờ ngày ra pháp trường. Còn bao nhiêu tài sản của tội nhân đều giao cả cho thằng bé. Và, thằng bé, vốn là Giáp tái sinh, sau đó lại trở về nhà Giáp. Khi Giáp ra đi, đứa cháu nội của mình mới đẻ, bây giờ thì nó đã lên 8, hơn mình một tuổi. Vì thế mới có câu: Sinh con rồi mới sinh cha, Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/sinh-con-roi-moi-sinh-cha-sinh-chau-giu-nha-roi-moi-sinh-ong" }
Tinh con chuột
Ngày xưa có một anh học trò, con một nhà phú hộ, được nuông chiều và chăm chút rất mực. Năm hai mươi tuổi, cha mẹ lấy vợ cho. Vợ chàng là một người có nhan sắc lại đoan chính. Hai người rất yêu nhau. Lấy vợ được nửa năm, chàng được lệnh cha mẹ bảo lên học với cụ nghè trên tỉnh. Chàng đưa theo một người lão bộc để lo cơm nước và hầu hạ. Vì đường sá cách trở, lại vì bài vở học tập ngày một nhiều, nên đã nửa năm, chàng chẳng có dịp nào về thăm vợ cả. Một hôm, vào khoảng nửa đêm, người vợ đang ngủ bỗng tỉnh dậy, thấy chồng thình lình bước vào buồng. Nàng vừa mừng vừa ngạc nhiên, hỏi: - Anh về lúc nào?. Đáp: - Vừa về xong. - Sao anh không thức thầy mẹ dậy chào hỏi trò chuyện rồi có ăn cơm để em đi thổi? Chồng khoát tay ngăn lại mà rằng: - Chớ! Chớ! Ta nhớ nàng quá lắm. Từ lâu, muốn về, chỉ sợ thầy mẹ mắng chết. Hôm nay lén về đây một chút rồi đến gà gáy lại đi. Nàng chớ thức giấc thầy mẹ dậy làm gì. Còn cơm thì ta đã ăn no ở chợ rồi. Nói rồi tắt đèn lên giường. Vợ tin là thực, không căn vặn gì cả. Đêm hôm sau, thấy chồng lại mò về, vợ không ngăn được mối nghi ngờ bèn gặng hỏi: - Nơi anh học cách nhà đến hai ngày đường, sao anh lại về luôn được như thế? Đáp: - Ta vì nhớ nàng nên đã giấu thầy mẹ xin về học với cụ huấn Lê cách đây chừng mười dặm để tiện vài ngày về với nàng một lần. Nàng cứ giả cách coi như không biết gì, nhất thiết chớ hở cho ai hay. Từ đó, chồng cứ vài ba ngày lại về một lần. Vợ vì yêu chồng nên kín tiếng. Vì thế trong nhà ngoài ngõ chả một ai biết cả. Cứ như thế được nửa năm. Bố mẹ chồng thấy con dâu ngày một xanh xao vàng vọt, cho là vì nhớ chồng mà như thế nên một hôm viết thư bảo con trai xin phép về thăm nhà. Thấy chồng về, vợ coi là chuyện rất thường. Trái lại chồng thì rất vồn vã, nhất là khi vào phòng riêng, chồng nói chuyện rất nhiều, kể lể nỗi niềm nhớ nhung mong mỏi ra làm sao; khi được phép thầy về thì vui sướng hồi hộp như thế nào, v.v... Không thấy vợ nói năng gì chồng tưởng là vợ giận nên lại cố dùng lời dịu ngọt mơn trớn vợ. Vợ vẫn cúi đầu im lặng. Chồng quay ra làm mặt giận, nằm day vào vách. Bấy giờ vợ mới lên tiếng: - Anh làm như anh cả đời mới về một lần. Đóng trò với thầy mẹ chứ có phải đóng trò với em đâu? Đến lượt chồng ngạc nhiên, ngồi nhỏm dậy, hỏi dồn một hồi: - Thế nào? Thế nào? Nói mau! Nói mau! Vợ bắt đầu cho chồng biết mọi việc từ nửa năm lại đây và nói: - Con người ở cổ có một nốt ruồi đỏ, hai tai xâu lỗ, và một cái sẹo giữa trán nếu không phải anh thì còn ai nữa. Nghe nói, chồng biết là có sự lộn sòng, liền ôm đầu kêu khóc rất thảm thiết. Bố mẹ và người nhà chạy vào hỏi chuyện. Sau khi nghe chồng kể rõ sự tình, vợ mới biết là trong nửa năm nay đã ăn nằm với một người lạ đội lốt chồng mình. Lại đến lượt vợ ôm đầu kêu khóc và toan sự đập đầu vào cột. Tất cả mọi người phải xúm lại, hết lời khuyên can dỗ dành mới làm dịu được cơn sóng gió. Sau đó mấy ngày, chồng lại cùng lão bộc lên trường, vợ đã thôi ý định tự tử, còn bố chồng thì xin mấy đạo bùa về dán ở nhà. Ông dặn con dâu hễ thấy có người vào, bất kể ai, cứ nắm lấy kêu lên; cả bọn con hầu đầy tớ đã chực sẵn hễ nghe tiếng kêu sẽ từ bốn phía xông vào, kẻ gian dù có chạy đường trời cũng không thoát. Mấy ngày yên lặng chả thấy có gì. Bỗng một đêm nọ nghe trong buồng, có tiếng hô hoán, cả nhà nhanh chân chạy ùa vào thì thấy người vợ đang nắm lấy tóc một người, miệng kêu la không ngớt. Họ xông lại trói thủ phạm vào cột nhà và toan nện cho một trận nhưng khi ông bố nhìn kỹ vào mặt thì lạ thay, rõ ràng không phải là ai xa lạ mà từ đỉnh đầu đến gót chân chính là đứa con yêu quý của ông. Đến nỗi bà mẹ khi thấy kẻ gian thì khóc òa lên và một hai bắt phải cởi trói ngay cho con mình. Bấy giờ cả xóm đó tới xem rất đông, không một ai làm sao mà phân biệt nổi. Nhiều người nói: - Thôi rồi, ông lại bắt lầm lấy con ông rồi! Mấy cụ già bảo: - Chi bằng cho người cấp tốc đi gọi con trai trên tỉnh về đây, lúc ấy muốn đoán định ra sao hãy hay. Đến ngày thứ hai, người con ở nhà trọ tiếp được tin, đi suốt đêm về đến nhà. Tất cả mọi người nhìn lại thì lạ lùng thay, "tuy hai mà một, tuy một mà hai". Họ giống nhau đến nỗi cuối cùng tất cả mọi người không biết ai là thực, ai là giả nữa. Vì thế, họ đành phải trói cả hai lại, đưa lên trình huyện. Quan huyện chả biết làm sao mà phân xử, liền sai giải luôn lên tỉnh. Quan tỉnh sau mấy ngày tra khảo cũng không tìm ra được manh mối gì, mới đệ vụ án về cho vua. Bấy giờ nhà vua đang trị vì là một tay xử kiện giỏi. Hoàng đế đã từng tìm ra được manh mối nhiều vụ án rất oái oăm. Khi thấy giải hai người đến trước sân rồng, trước hết, vua sai vệ sĩ lột hết áo quần của họ ra. Sau khi khám nghiệm, vua quan đều lấy làm kinh dị lạ không những nét mặt, hình dạng, ngay đến nốt đen, nốt đỏ, những chỗ hiểm trong người cũng đều giống như như rập khuôn vậy. Vua ngoảnh bảo các quan đại thần: - Đích là trong này có một con ma. Nếu là người thì đâu thể giống nhau thần dị như thế. Một viên quan tâu lên: - Tôi nghe loài ma quỷ là vật vô hình, ánh sáng mặt trời có thể xuyên qua không để lại bóng. Xin bệ hạ cho đưa chúng nó ra giữa nắng xem đứa nào không có bóng là chính thị. Lời tâu ấy được đem thi hành ngay nhưng không có kết quả, vì khi có hai vừa bước ra ngoài trời, bóng của họ đã in rõ trên nền gạch. Cuộc hỏi cung bắt đầu. Hai người được đưa ra hai nơi tra hỏi cặn kẽ từ cái tên cúng cơm đến những chuyện rất vụn vặt. Nhưng đọc lại hồ sơ thì vua lại càng ngạc nhiên thấy rằng cả hai bên khai đúng như nhau, không sai một ý. Nhà vua vò đầu suy nghĩ. Cả triều đình bó tay không tìm ra được một phương kế nào nữa. Cuối cùng, vua xa giá đến đền Phù Đổng đốt hương cầu thần giúp đỡ. Thần ứng đồng lên nói: - Nó là một con chuột già sống lâu năm thành tinh, bây giờ lửa nước đồng sắt không làm hại được, bùa chú đối với nó cũng mất linh nghiệm. Chỉ có cách là lên thiên đình mượn Ngọc Hoàng thượng đế viên ngọc mắt mèo, đưa ra, nó sẽ hiện nguyên hình. Nhưng nay trên thiên đình bận nhiều việc nên khó lòng mượn được. Tôi sẽ vì bệ hạ tử ra tay một phen. Trước hết đem hai đạo bùa dán vào lưng để nó không thể trốn được. Tự nhiên giữa không trung bay xuống hai đạo bùa rơi vào tay vua. Khi xa giá về cung, vua sai thị vệ dán ngay vào lưng hai người và bắt họ ngoảnh lưng vào nhau trước sân rồng. Tự nhiên thấy có một người cố sức dãy dụa nhưng dường như bị trói chặt không sao cựa nổi. Bỗng chốc mây kéo mù mịt rồi tiếp theo là tiếng sét nổ vang trời. Khi trời đã quang đãng lại, người ta thấy giữa sân chỉ còn có một người, bên cạnh đấy là một con chuột khổng lồ, lông lá xù xì có năm sắc, râu trắng như tuyết, nằm chết ngay đơ không động cựa. Vụ án nhờ thế được tỏ. Vua sai đốt xác con tinh thành than đem vứt xuống sông. Còn con dâu nhà phú hộ mãi đến hơn một năm mới trừ được hết độc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tinh-con-chuot" }
Lấy chồng dê
Ngày xưa, ở một vùng gần biển, có hai vợ chồng nhà nọ, đầu tóc đã hoa râm mà vẫn hiếm hoi. Hai vợ chồng cầu khấn khắp nơi mong có mụn con khỏi phải hiu quạnh lúc tuổi già. Thế rồi người vợ bỗng có mang, chín tháng mười ngày đẻ ra một bọc, khi mở ra thì không phải là người mà là một con dê đực. Chồng bực mình bảo vợ đem ném xuống sông cho khuất mắt, nhưng người vợ không nỡ, khuyên chồng cứ để lại nuôi. Trong lòng phiền não, người chồng phát ốm rồi từ giã cõi đời. Trái lại, dê thì hay ăn chóng lớn, lại biết trông gà, chăn lợn, giúp đỡ mẹ những việc vặt trong nhà. Vì thế, mẹ dê cũng phần nào khuây khỏa. Một hôm dê đi chơi đâu về, tới đặt đầu vào lòng mẹ nói: - Mẹ ạ! Phú ông làng bên có ba cô con gái, mẹ đi dạm cho con một cô! Mẹ dê nghe con nói không nhịn được cười, bảo: - Mày thật là đứa không biết phận mình. Đời nào phú ông lại gả con cho cái thứ dê như mày cơ chứ! Nhưng dê một hai bắt mẹ mang trầu cau đến hỏi cho bằng được. Sau cùng, thấy con vật nài hết sức, nên chiều lòng con, mẹ đành đánh bạo đến nhà phú ông. Giáp mặt phú ông, ngần ngại mãi, bà mới dám mở miệng ngỏ lời. Vừa nghe nói, phú ông đã đùng đùng nổi giận, quát mắng om sòm: - Câm mau cái con mụ này! Đồ láo! Dám vác mặt tới đây hỏi con vàng con ngọc của ta cho con dê của mụ kia à? Muốn tốt thì xéo ngay đi! Nhưng theo lời con dặn, mẹ dê vẫn cứ nhẫn nhục ngồi lại, một hai nói mãi không thôi. Cuối cùng phú ông bất đắc dĩ bảo: - Thôi được, ta cũng chiều lòng mụ gọi các con ta ra đây hỏi xem, hễ đứa nào bằng lòng lấy con mụ thì ta sẽ gả. Nói xong, phú ông cho gọi ba cô con gái đến trước mặt, rồi hỏi ngay con gái đầu lòng: - Con có muốn về làm dâu nhà mụ này không? Cô gái nguýt mẹ dê một cái rõ dài rồi hối hả đi vào, không quên buông một câu nói vội: - Úi dào, chồng người chả lấy, lại lấy chồng dê! Phú ông cười ha hả. Lại hỏi đến cô con gái thứ hai: - Còn con có ngại hắn là dê không nào? - Thưa cha, con là người không thể lấy được dê. Đến lượt cô con gái thứ ba, phú ông lại hỏi: - Còn con nữa, con cũng thế chứ? Nhưng cô thứ ba đã khép nép cúi đầu thưa: - Cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy! Phú ông chưa bao giờ ngạc nhiên đến thế. Nhưng đã chót hứa với mẹ dê, hắn không còn biết nói năng ra sao nữa. Hắn nghĩ: - "Không cần từ chối, ta cứ thách cưới cho rõ nặng, nhất định các vàng cũng không dám "chơi chèo". Hắn bèn đòi mẹ dê phải đủ sính lễ một trăm trâu bò, một trăm lợn, một mâm vàng, một mâm bạc mới được đón đâu về. Nghe nói, mẹ dê lật đật chạy về kể lại cho con nghe và nói: - Con ạ! Hãy từ bỏ ý định ngông cuồng đi thôi. Phú ông tuy nói gả nhưng lại thách cao như thế, họa có vua chúa mới biện đủ. - Đừng lo mẹ ạ - dê con trả lời - con sẽ lo được. Đêm hôm ấy, trong khi mẹ dê ngủ, thì dê bước ra sân trút lốt dê thành một chàng trai trẻ. Khi chàng hô lên: - "Lấy cho ta mọi thứ để làm sính lễ", lập tức các gia nô xuất hiện trước mặt chàng rất đông, họ đội đến đủ số vàng bạc và dắt đến đủ số trâu, bò, lợn, rồi biến mất. Chàng trai lại chui trở vào lốt dê, gọi mẹ dậy nhận đủ lễ vật để sửa soạn ngày mai đưa sang cho phú ông. Ngày rước dâu, dê bon bon đi trước, còn cô gái út phú ông lẽo đẽo theo sau cùng với hai chị. Sau khi vào buồng làm lễ hợp cẩn, cô gái bỗng thấy chồng mình trút lốt dê ra thành một chàng trai tuấn tú thì vừa sợ vừa mừng. Sáng dậy chồng lại chui vào lốt dê như cũ, rồi ra nhà ngoài. Hai người chị vợ cố nán ở lại để xem em mình ăn ở với dê ra làm sao. Nhưng khi gặp người em, họ chả thấy em có vẻ gì là băn khoăn hối hận về việc có chồng là dê cả. Không khỏi lấy làm ngạc nhiên, họ tỉ tê hỏi dò em cho ra sự thực. Vợ dê kể lại cho hai chị biết mọi việc trước sau. Đêm lại, hai chị lén trổ vách buồng của em nhìn vào quả thấy đúng như lời em nói. Họ không ngờ chồng của em lại khôi ngô trẻ đẹp vượt xa bọn con trai trong thiên hạ. Hôm sau hai chị khuyên em phá lốt dê đi để cho chồng không còn biến vào đâu được. Quả nhiên từ đấy dê chấn dứt cuộc đời đội lốt dê. Còn hai người chị thì lại hối tiếc và ghen tị với số phận may mắn của em. * Hơn một năm sau, một hôm chồng trao cho vợ một con dao và một hòn đá lửa, dặn rằng: - Tôi có một số công việc phải vượt muôn trùng sóng nước, chưa hẹn được ngày về, cũng không thể đem nàng đi được. Nàng ở nhà nhớ đừng đi đâu xa. Hai vật hộ thân này hãy luôn luôn mang bên người đừng quên, có khi dùng được việc. Rồi một sáng sớm, Dê từ biệt mẹ và vợ dong buồm ra khơi. Vợ Dê ở nhà thức khuya dậy sớm, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng. Nhớ lời chồng dặn, bao giờ con dao và hòn đá cũng được giắt ở bên lưng. Một ngày kia, hai chị đến nhà rủ em đi trẩy hội. Vợ dê trước chối từ nhưng sau thấy hai chị dỗ mãi, bèn theo họ ra đi. Cả ba người xuống một chiếc thuyền đậu sẵn ở bến. Thuyền băng băng rẽ sóng, chị em cùng nhau vui vẻ chuyện trò. Qua ngày hôm sau, ba chị em lại quây quần ngắm mây trông sóng ở đằng mũi thuyền. Nhưng đã lập mưu sẵn, hai chị thừa lúc em vô ý bất thần đẩy em xuống biển. Vợ dê chưa kịp kêu lên thì đã bị sóng khỏa chìm nghỉm. Còn hai chị, thi hành xong kế độc, liền hối hả cho thuyền vào bờ, rồi giả bộ hốt hoảng báo tin rằng em mình không may sẩy chân rơi xuống nước. Lại nói chuyện vợ dê trong khi đang vùng vẫy có ngoi lên khỏi mặt nước thì bỗng có một con cá kình lao tới đớp ngay vào bụng. Sẵn dao bên mình nàng lập tức rút ra đâm chém tứ tung. Cá kình bị thương quẫy rất dữ dội. Nhưng vì bị thủng bụng nên chỉ một lúc sau cá đã tắt thở, nằm phơi bụng nổi lên mặt nước. Chăng bao lâu sóng biển đánh giạt xác cá vào một hòn đảo. Vợ Dê liền cầm dao rạch luôn bụng cá, chui ra ngoài. Đó là một hòn đảo hoang không có bóng người. Nàng bèn chặt cây dựng lều làm thành một chỗ ở bên bãi biển. Sẵn có đá lửa, nàng đốt củi lên sưởi, và xẻo thịt cá kình nướng ăn. Sau đó lại vào rừng hái trái đào củ, thay cho lương thực. Cứ như thế tất cả những khó khăn trong cuộc sống dần dần nàng đều vượt qua. Một hôm, vợ Dê nhìn vọng ra ngoài khơi bỗng thấy xa xa có bóng một cánh buồm trắng. Nàng bèn buộc áo vào một cành cây phất lên làm hiệu. Con thuyền nhận được dấu hiệu của nàng, rẽ sóng tiến vào đảo. Khi thuyền cập bến, nàng sửng sốt thấy người trên thuyền không phải ai xa lạ chính là chồng mình. Đúng là chàng dê sau bao ngày vượt vời đang trên đường trở về quê hương, thấy dấu hiệu cầu cứu nên ghé vào đảo. Hai vợ chồng ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Chỉ một lát sau, Dê đã nghe hết đầu đuôi câu chuyện. Khi thuyền về đến nhà, Dê giấu vợ không cho ai biết, rồi sai người dọn một bữa cỗ linh đình nói là để cúng vợ. Chàng cho mời làng nước và bà con họ hàng, cả gia đình nhà vợ tới dự. Hai người chị nghe tin Dê đã về thì mừng khấp khởi, vội đến ngay. Cả hai làm bộ khóc lóc thảm thiết trong khi bịa ra câu chuyện cái chết thảm thiết của cô em xấu số. Sau đó chúng mấy lần liếc mắt đưa tình để cám dỗ người em rể tuấn tú mà chúng vẫn ao ước được chung tình. Dê vẫn thủng thỉnh đi từ bàn nọ sang bàn kia, mời mọi người ăn uống no say. Đoạn Dê khoan thai bảo hai chị: - Em xin vào nhà gọi người ra hầu hai chị! Dê vén màn cho vợ từ trong buồng bước ra. Nàng tươi cười chào hỏi hai chị và mọi người, làm cho ai nấy đều sửng sốt. Hai người chị vừa thẹn vừa sợ, nhân lúc mọi người không chú ý, len lén bước ra khỏi cổng. Nhưng chúng đi chưa được một quãng đường đã bị thần sét nhảy xuống đánh chết. Từ đấy hai vợ chồng Dê ăn ở với nhau sung sướng trọn đời .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lay-chong-de" }