title
stringlengths
4
119
content
stringlengths
90
172k
metadata
dict
Cường Bạo đại vương
Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trẻ tuổi làm nghề mò tôm bắt cá tại vùng sông Bồi. Tuy quanh năm chỉ che thân một mảnh khố rách, chui rúc trong một túp lều ven sông, nhưng anh vẫn vui vẻ làm ăn, miệng luôn ca hát. Bố mất từ thuở lọt lòng, anh sống với người mẹ cho đến khôn lớn, rồi bỏ nhà đến đây. Vốn tính ngang tàng, từ người đến thần, anh chẳng sợ một ai, lại thường tự xưng mình là Cường Bạo. Nhất sinh Cường Bạo chỉ làm quen với Táo Quân. Lúc bắt được cá ngon tôm béo, Cường Bạo thường dọn mời Táo Quân cùng ăn. Bởi thế hai bên chơi với nhau thân thiết lắm. Những khi trời sắp bão lụt, hay ở đâu có xảy ra việc gì lạ, Táo Quân thường bảo cho Cường Bạo biết. Cậy có chỗ dựa tốt, Cường Bạo ngày càng tỏ ra kiêu căng, khinh thị mọi yêu ma thần thánh, thậm chí coi Trời chỉ bằng cái vung. Từ ngày có vợ, Cường Bạo đối đãi với mẹ không được như trước. Đã nhiều lần anh tỏ ra ngỗ ngược quá lắm, làm cho người mẹ hết sức giận dữ, phải kêu lên đến tận Trời. Thấy một tên dân hạ giới không tuân phép tắc, Ngọc Hoàng thượng đế phái ngay Thiên Lôi xuống trừng phạt. Nghe tin chẳng lành, Táo Quân liền báo cho anh biết. Cường Bạo vấn kế: - Làm thế nào để tránh được lưỡi búa của Thiên Lôi ? Táo Quân đáp: - Tối nay anh đừng có đi đâu cả, Thiên Lôi xuống thế nào cũng phải đứng trên nóc chòi. Vậy giá có một thứ nước nhờn đặt trên nóc làm Thiên Lôi trượt ngã thì hay nhất. Lúc đó chỉ việc cho hắn ăn đòn. Cường Bạo nghe lời, cứ theo cách ấy để trị Thiên Lôi. Bèn lấy rau mùng tơi giã ra lấy nước rồi hòa với dầu vừng thành một thứ nước nhờn sền sệt như mỡ. Đoạn anh dùng thứ ấy rưới lên nóc lều, lại quét vào lá chuối gác lên mái. Xong mọi việc, anh nấp trong xó tối ngồi đợi Thiên Lôi. Quả nhiên đêm hôm ấy, Thiên Lôi cùng với thần Mưa thần Gió ầm ầm lao xuống. Vừa đặt chân lên nóc lều Cường Bạo, Thiên Lôi vô tình giẫm phải thứ nước trơn, trượt chân ngã lăn oạch xuống đất. Thế là Cường Bạo nhảy xổ ra cầm gậy vụt lấy vụt để. Sa cơ, Thiên Lôi bị đòn đau, cố gắng lắm mới nhỏm dậy được rồi chạy vụt về Trời. Trong khi hốt hoảng, Thiên Lôi đánh rơi cả búa. Cường Bạo mừng lắm, nhặt lấy búa Thiên Lôi làm vũ khí tùy thân. Từ đấy đi đâu cũng khoe với mọi người rằng đã đánh ngã được Thiên Lôi rồi. Về đến Thiên đình, Thiên Lôi chẳng những đau ê ẩm cả người mà còn bị Ngọc Hoàng mắng cho một trận nên thân. Lập tức Ngọc Hoàng ra lệnh cho vua Thủy phải trừ ngay Cường Bạo vì hắn đã xúc phạm đến tướng nhà Trời. Vua Thủy vốn có một lũ bộ hạ rất đông và đắc lực. Thoạt đầu Vua Thủy giao công việc ấy cho Quận Rết. Quận Rết vâng lệnh bò đến chỗ nằm của vợ chồng chàng đánh cá, chui vào trong gối, định đến khuya sẽ ra cắn vào cổ. Táo Quân được tin, vội báo cho Cường Bạo biết. Anh bèn bảo vợ nấu một nồi nước sôi rồi đem chiếc gối nhúng vào, Quận Rết chết không kịp ngáp. Đợi mãi không thấy Quận Rết về, Vua Thủy lại sai Quận Rắn lên. Biết hai vợ chồng Cường Bạo hay đi đái đêm ở sau hè, Quận Rắn bèn nấp vào đống rạ gần đó. Táo Quân lại kịp thời mách cho Cường Bạo biết. Đêm ấy hai vợ chồng hai gậy đón đánh dập đầu Quận Rắn. Thấy cả hai bộ hạ có đi không về, vua Thủy vô cùng tức tối, mới tìm đến Diêm Vương kể chuyện cho nghe và nhờ báo thù. - Hà ! Hà! Việc ấy chẳng có gì khó. Để tôi sai bộ hạ lên lôi cổ nó xuống giam dưới tầng ngục thứ mười tám cho nó biết tay. Bác cứ yên trí. Diêm Vương nói vậy, lập tức sai Quận Cú lên làm phận sự. Quận Cú lên trần đúng vào lúc Cường Bạo còn đang đi đánh cá vắng. Đứng trên nóc lều của Cường Bạo, Quận Cú kêu lên ba tiếng. Ngay lúc đó vợ Cường Bạo nằm trong lều thiếp đi và tắt thở. Chừng Cường Bạo về thấy thế, vội vã đi cầu cứu Táo Quân, Táo Quân bảo: - Anh khéo tay, hãy làm cho tôi một cái lồng chim cho thật đẹp. Tôi sẽ có cách cứu vợ anh. Cường Bạo đan lồng không mấy chốc đã xong. Táo Quân xách lồng đi một mạch xuống cõi âm tìm đến nhà Quận Cú. Thấy cái lồng Quận Cú vui vẻ: - Kính chào ngài Táo Quân. Ngài đi đâu mà xách cái lồng xinh thế kia. Ngài có thể vui lòng cho tôi xin được không? Táo Quân đáp: - Thật chẳng đáng là bao, ta sẵn sàng biếu ngươi. Nhưng trước hết ngươi hãy vào lồng xem có vừa mắt không đã. Quận Cú không nghi ngờ gì cả, chui ngay vào lồng. Lập tức Táo Quân đóng sập cửa lại, bảo: - Ngươi bây giờ là tù của ta. Ta chỉ cho mở cửa là ngươi đi đứt. - Cắn cỏ lạy ngài Táo Quân. Xin ngài sinh phúc tha cho tôi. - Được thôi. Miễn là ngươi cho ta biết cách ngươi làm cho người ta chết như thế nào. Cứ nói thật đi, ta hứa sẽ thả. - Tôi có hai cái lưỡi: một lưỡi âm và một lưỡi dương. Hễ bao giờ tôi kêu bằng lưỡi âm thì có người phải chết, kêu bằng lưỡi dương thì người sống lại. - Ngươi hãy thè lưỡi âm ra cho ta xem. Quận Cú vừa há miệng thè lưỡi âm thì Táo Quân bèn rút dao xẻo đứt ngay. Đoạn Táo Quân xách lồng đi gấp lên nhà Cường Bạo, bắt Quận Cú phải kêu lên ba tiếng. Tiếng kêu vừa dứt thì người vợ Cường Bạo tự nhiên sống lại. Táo Quân mở lồng cho Quận Cú về. Diêm Vương tiu nghỉu khi thấy tướng tài của mình phái đi trở về thân tàn ma dại, bèn tâu báo lên Ngọc Hoàng biết. Ngọc Hoàng chưa bao giờ kinh ngạc và giận giữ đến như thế. Bèn hạ lệnh cho vua Thủy phải hợp sức với Thiên Lôi và các thần Mưa, thần Bão mau mau dâng nước cho thật cao làm cho vợ chồng Cường Bạo chìm xuống tận đáy biển, lôi cổ đến để trị tội. Được tin, Táo Quân lại mách cho Cường Bạo hay. Cường Bạo hỏi kế, Táo Quân bảo: - Vua Thủy và thần Mưa chỉ giỏi về nghề dâng nước đổ nước; thần Bão và thần Gió chẳng qua cũng chỉ thổi bạt đi đó đi đây. Hãy chuẩn bị làm cho cái bè thật chắc, như thế dù cho nước dâng đến tận đâu, bão thổi bạt đi đến phương nào, cũng không làm gì được. Nhưng nhớ phải chuẩn bị cái ăn và phải đề phòng Thiên Lôi đánh lén. Cường Bạo một mực tuân lời. Lúc vua Thủy bắt đầu dâng nước thì vợ chồng Cường Bạo đã ngồi trên một bè chuối, trên bè có dựng rạp bằng lá chuối quét sẵn thứ nước trơn hôm nọ. Ngoài ra anh còn cắm mỗi góc một lá cờ và đặt trước chỗ mình ngồi một cái trống, một cái chiêng. Lại có mang theo một con gà. Chẳng bao lâu, nước dâng lên mênh mông như biển cả, ngập hết làng mạc núi non; mặt khác, bão thổi đùng đùng mỗi lúc mỗi dữ dội. Nhưng trên bè, Cường Bạo đã ung dung phất cờ giong trống chiêng. Lại giục gà trèo lên nóc lều gáy lên từng hồi dõng dạc. Đoạn đứng dậy múa lưỡi búa lấy được của Thiên Lôi và nói: - Phen này ta quyết lên phá trời một chuyến chơi! Ngọc Hoàng đang ngồi ở trên thiên đình chợt nghe tiếng chiêng trống vang lừng và tiếng hô hét, bèn phái một thiên thần xuống xem thử là tiếng gì. Thiên thần nghe ngóng lúc lâu rồi về báo là Cường Bạo đang chống cự với các thần, và nhân nước lớn đang đe dọa lên phá cả thiên đình. Ngọc Hoàng thượng đế sợ, bèn phán: - Thôi, kíp bảo Thủy thần lập tức rút nước ngay đi, và gọi các thần kia lập tức trở về Trời, mặc cho nó muốn làm gì thì làm, để dịp khác sẽ hay. Nhờ vậy, Cường Bạo lại sống yên ổn với vợ. Anh càng yêu quý Táo Quân và không quên biện rượu thịt, thỉnh thoảng mời Táo Quân chè chén. Nhưng một hôm, trong khi Cường Bạo đi thăm đồng, anh bỗng thấy từ dưới ruộng đi lên một con cua. Cua dừng lại trước mặt anh giương mắt, giơ cả hai cái càng đòi kẹp. Cường Bạo hề hề nói: - Thiên Lôi, Hà Bá, tao chẳng sợ thay, thứ mày tí hon có mấy sức mà dám hỗn láo. Nói rồi co chân đạp một cái như trời giáng xuống mình cua; cua chết không kịp ngáp. Nhưng Cường Bạo đâu ngờ rằng cái càng cua có mảnh nhọn xóc vào chân mình, lâu dần da thịt thối loang ra. Vợ Cường Bạo lo lắng, hết sức tìm thầy chạy thuốc, nhưng không kịp nữa. Chẳng bao lâu Cường Bạo lăn ra chết. Đó là bộ hạ của vua Thủy theo lệnh chủ tìm cách lên trần hại Cường Bạo bằng chước khiêu khích. Người ta nói do việc Cường Bạo la hét, đánh trống chiêng, cho gà gáy, chống cự các thần và làm cho Ngọc Hoàng phải ra lệnh lui binh, nên từ đấy về sau, Thiên Lôi rất sợ tiếng gà gáy, còn vua Thủy thì lại sợ tiếng chiêng trống, tiếng la hét. Mỗi lần có sấm sét người ta bắt chước tiếng gà gáy để cho Thiên Lôi không dám bén mảng, hay khi bão lụt người ta thường gióng chiêng trống hay la hét cho Thủy thần phải trốn chạy, hy vọng nhờ thế nước lụt có thể mau rút.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cuong-bao-dai-vuong" }
Quân tử
Ngày xưa, có một anh chàng nghèo sống một thân một mình. Anh thường ăn ở nhân đức với mọi người, lòng nhân đức của anh còn ban phát đến cả giống vật. Bởi thế người ta quen gọi anh là Quân tử. Trong nhà có bao nhiêu của nả, anh lần lượt đem ra giúp đỡ cho người nguy kẻ khó, còn mình thì sống rất đạm bạc. Một hôm, gần ngày kỵ cha, Quân tử có để dành được mấy bát gạo nếp và một con gà để làm giỗ. Có một con chuột quen mui ăn vụng, hôm ấy chui vào hũ gạo, bất đồ bị anh chộp được. Anh bảo chuột: - Chuột ơi! Nhà tao nghèo, chỉ có từng ấy gạo nếp để làm giỗ cha. Mày đi tìm những thứ khác mà ăn. Đừng có ăn vụng của tao tội nghiệp! Nói đoạn thả chuột ra. Tối lại, có con cáo lẻn vào bắt gà, nhưng chưa kịp lọt ra khỏi chuồng thì đã bị Quân tử nắm lấy gáy. Cáo nằm chờ chết thì đã nghe Quân tử nói: - Cáo ôi! Nhà tao nghèo lắm chỉ có con gà dành cho ngày giỗ cha. Mày hãy thương tao đi kiếm ăn nơi khác, đừng có bắt mất gà tao, đến ngày ấy biết lấy gì mà cúng. Nói đoạn cũng thả cáo ra. Cáo được phóng thích lủi một mạch. Đến ngày giỗ cha, Quân tử đồ xôi luộc gà, thắp hương đèn sửa soạn vào làm lễ, thì một chú ruồi đánh hơi bay đến đậu vào cỗ xôi đánh chén thỏa thích. Nhưng Quân tử đã nhanh tay quơ được. Bị kẹt chặt, ruồi ta hết đường giãy giụa, chắc là khó thoát cái chết. Nhưng rồi ruồi cũng may mắn được thả ra sau khi nghe những lời của Quân tử: - Cỗ xôi của ta dâng cúng lên cha mẹ, sao mày lại hỗn hào dám đến ăn trước. Mày hãy đi đi, có gì chốc nữa lại tới. Tiếng đồn về lòng nhân đức của Quân tử vang khắp nơi. Buổi ấy nhà vua đang muốn kén chọn người tài đức để gả công chúa. Nghe tin đồn về Quân tử, vua bèn sai quan quân đi triệu về kinh. Nhưng khi gặp mặt Quân tử, thấy anh ăn nói không được lễ phép thì vua không được hài lòng. Để tiện từ chối, vua bèn phán: - Ta vui lòng gả công chúa cho nhà ngươi, nhưng nhà ngươi cũng phải có một mâm vàng làm sính lễ mới được. Nghe vậy Quân tử lủi thủi trở ra, tin rằng không có hy vọng làm phò mã. Ngày hôm sau anh đi dạo rừng, mặt buồn rười rượi. Bỗng anh gặp con cáo ngày nọ chạy ngang trước mặt. Nó hỏi anh vì sao mà buồn. Quân tử bèn kể chuyện đầu đuôi cho cáo nghe. Nghe xong, cáo nói: - Thế thì cứ đi theo tôi, tôi sẽ mách cho một chỗ có vàng. Quân tử lần theo chân cáo tiến vào một hang sâu. Trong một góc hang có bày một dãy ba cái hũ. Giở nắp ra anh thấy toàn vàng bạc, châu báu. Anh cảm ơn cáo, rồi chuyển ba cái hũ về, và ngày hôm sau anh đã cho người đội mâm vàng vào cung dâng vua. Vua không ngờ anh lại có đủ vàng làm sính lễ, đành phải y ước gả. Nhưng vua vẫn chưa vừa lòng. Cho nên đến ngày cưới, vua gọi anh vào cung, phán: - Ở đây có mười mâm cỗ, trong đó có một cỗ Tơ hồng dành cho ngươi và công chúa. Nhà ngươi hãy chọn đúng mâm cỗ ấy mà ngồi. Nếu ngồi vào mâm cỗ khách thì ta sẽ coi như khách. Quân tử nhìn vào thấy mười mâm cỗ giống nhau như hệt, không biết nên ngồi vào đâu. Trong khi đang bối rối thì chàng đã nghe tiếng ruồi vo ve bên tai: - Tôi đã chịu ơn trước đây, nay xin giúp để đền ơn. Hễ tôi sà vào mâm nào thì anh cứ ngồi vào mâm ấy. Nghe nói thế, Quân tử yên tâm. Sau đó anh ung dung bước vào mâm cỗ có con ruồi đậu. Vua thấy anh ngồi vào đúng cỗ Tơ hồng thì ngạc nhiên, nhưng vua vẫn còn bắt anh chịu thử thách lần nữa chứ chưa thôi. Sau khi yến tiệc xong, đến giờ động phong hoa chúc, vua phán bảo: - "Nhà ngươi hãy tự đi tìm buồng của công chúa mà vào, nếu vào không đúng buồng thì chịu vậy". Lại một lần nữa Quân tử lấy làm bối rối vì cả một dãy buồng đóng kín, buồng nào buồng ấy cửa lớn cửa sổ cũng đều ngăn ngắt, phía ngoài treo đèn kết hoa y hệt như nhau. Trong khi chưa biết làm thế nào thì con chuột ngày nọ đã bò tới nói nhỏ: - Tôi vẫn nhớ ơn anh tha chết cho tôi ngày nọ. Anh cứ đi theo tôi, tôi chạy vào buồng nào thì đúng là công chúa ở đấy. Quả nhiên khi Quân tử mở cửa buồng vào thì đã thấy công chúa tươi cười bước ra đón. Thấy cả ba lần anh đều thắng cuộc, vua đành vui lòng nhận anh là phò mã. Khi vua chết, vì không có con trai nối dõi nên Quân tử được các quan đưa lên ngôi.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/quan-tu" }
Sự tích cây khoai lang
Ở bìa rừng, có hai bà cháu nghèo khổ sinh sống. Hằng ngày, hai bà cháu phải đi đào củ mài để ăn. Một hôm, cậu bé nói với bà: – Bà ơi, bây giờ cháu đã lớn. Từ nay trở đi, cháu sẽ đi kiếm củi đổi lấy thóc giống và cây lúa để có gạo nấu cơm cho bà ăn, ăn củ mài mãi thì khổ lắm! Từ đó, cậu bé cấy cày và chăm chút cho nương lúa của mình. Nhìn cây lúa trổ bông, rồi chín vàng, cậu sung sướng nghĩ: “Thế là bà sắp được ăn cơm rồi!”. Nhưng chẳng may, một hôm cả khu rừng bị cháy thành tro. Cậu bé buồn quá, bưng mặt khóc. Bỗng có ông Bụt hiện lên và bảo: – Hỡi cậu bé hiếu thảo chăm chỉ, ta cho con một điều ước, con hãy ước đi! – Thưa ông, con chỉ mong bà của con không bị đói thôi, bà con già yếu lắm rồi… Ông Bụt gật đầu và biến mất. Buổi trưa cậu bé vào rừng đào củ mài nhưng kiếm mãi cũng chẳng còn củ nào. Đến vài cái nấm hay khóm măng chua cũng chẳng có. Bỗng cậu bé đào được một củ gì rất lạ. Ruột nó màu vàng nhạt và bột mịn mềm. Cái củ đó cũng bị lửa rừng hâm nóng và bốc mùi thơm ngòn ngọt. Cậu bé bẻ một miếng nếm thử thì thấy ngon tuyệt, Cậu bèn đào thêm mấy củ nữa đem về mời bà ăn. Bà cũng tấm tắc khen ngon và thấy khỏe hẳn ra. Bà hỏi: – Củ này ở đâu mà ngon vậy hả cháu? Cậu bé hào hứng kể lại câu chuyện được gặp ông Bụt cho bà nghe. Bà nói: – Vậy thì thức củ này là của ông Bụt ban cho người nghèo chúng ta đấy. Cháu hãy vào rừng tìm thứ cây quý đó đem trồng khắp bìa rừng, bờ suối để cho mọi người nghèo cũng có cái ăn. Nếu ai muốn trồng, chỉ cần đem vài dây khoai xuống đất và chăm bón thì tới mùa sẽ thu hoạch được rất nhiều củ. Và cho đến bây giờ, khoai lang vẫn được nhiều người ưa thích.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-khoai-lang" }
Phân xử tài tình
Ngày xưa, có một ông quan huyện có tài xét xử. Trong dân gian có vụ nào rắc rối gay go nhất, ông đều có cách tìm ra manh mối và phân xử công bằng. Một hôm, có hai người đàn bà dắt nhau đến công đường với một tấm vải. Trước mặt quan một người mếu máo thưa: - Bẩm quan, sáng nay con mang một tấm vải đi chợ bán, bà này hỏi mua, con đưa ra cho bà ấy xem. Thế rồi tự dưng nó cướp không tấm vải bảo là của nó, nhất định không chịu trả lại cho con nữa. Thật là chuyện ngược đời! Xin quan đèn trời soi xét. Quan nhìn người đàn bà thứ hai thì thấy bà này cũng rưng rưng nước mắt kể: - Bẩm quan, chính nó mới là đồ ăn cắp. Tấm vải này là của con vừa dệt xong mang đi chợ. Con để nó trong cái thúng khảo thế mà vừa ngoảnh đi một lát nó dám thò tay vào lấy, chính con bắt được quả tang. Thế mà nó còn dám đặt điều để vu oan giá họa... Quan ngắt lời hai người, mỗi bên phải cử ra một người ít nhất cũng đã chứng kiến vải của mình bị lấy mất. Nhưng cả hai đều không tìm ra được người làm chứng chỉ vì sự việc xảy ra ở một nơi vắng vẻ, lúc đó chưa có người qua lại. Quan lại gọi hai người lính lệ, bảo chúng đi về tận nhà mỗi bên thử xem có phải đúng vải của họ dệt ra như lời khai hay không. Nhưng khi hai người lính trở về thuật lại thì quan rất lấy làm ngạc nhiên, vì cả hai đều có khung cửi như nhau, khổ vải bằng nhau và chính sáng sớm ngày xảy ra câu chuyện bên nào cũng mang một tấm vải đi chợ bán. Thật rắc rối làm sao! Quan cố nhìn vào thần sắc từng người để dò ý tứ. Nhưng quan chỉ thấy vẻ đau đớn vì mất của hiện trên nét mặt của cả hai người, không có gì khác hơn. Suy nghĩ một chốc, quan ôn tồn bảo họ: - Cả hai mụ đều có lý do cả. Biết làm sao bây giờ. Thôi ta phân xử cho thế này: giờ đem cắt tấm vải ra làm đôi, chia cho mỗi người một nửa. Thế là ổn. Hãy đi về nhà mà làm ăn! Nói xong, quan sai lính đo vải xé ngay giao cho mỗi người một nửa. Thấy thế, một người đàn bà bỗng ôm mặt khóc thút thít. Lập tức quan sai trả cả tấm cho người đàn bà ấy rồi thét lính trói người kia lại vì chỉ có chủ nhân thực sự của tấm vải mới đau xót bật ra tiếng khóc kia. Quả nhiên, sau một hồi tra khảo, người đàn bà kia đành cúi đầu nhận tội. Một hôm khác, quan đi hành hạt qua một cái chợ. Bỗng nghe tiếng chửi rủa huyên náo, vội tiến lại xem có việc gì. Đến nơi, thấy một người đàn bà đang gân cổ lớn tiếng chửi kẻ bắt trộm con gà của mình. Hỏi người xung quanh thì họ cho biết là mụ ta chửi như thế đã được hai ngày, ai cũng lấy làm khó chịu. Quan vội sai người hầu bước tới dùng lời khuyên can: - Này mụ kia, sao lắm lời thế? - Của tôi, tôi xót - người đàn bà đáp - can gì đến chú. Nói xong lại tiếp tục chửi. Quan bèn cho chức dịch đòi người đàn bà lại hỏi: - Sao mụ ác khẩu thế! Một con gà phỏng có bao nhiêu mà mụ chửi rủa nặng lời? Người đàn bà nói: - Bẩm quan, con chăm chút bấy lâu mới được một ổ gà. Nay nó lấy mất cả gà lẫn trứng, không căm tức sao được! Quan hất hàm bảo bọn chức dịch: - Ta ghét con mụ này ngoa ngoắt, độc mồm độc miệng làm cho xóm giềng điếc tai nhức óc đã hai ngày, không thể không trị tội được. Vậy cho đi rao trong xóm đòi tất cả mọi người lại đây. Cho mỗi người tát cho mụ một cái vào má, cho rõ đau để trả nợ việc mụ xúc phạm đến sự yên tĩnh của hàng xóm. Lệnh quan ban ra, mọi người không thể không tuân theo. Mặc dầu ai cũng ghét mụ ngoa ngoắt, người ta vẫn thấy thương con người đã mất gà lại bị đánh, cho nên ai cũng sẽ tay và nhẹ mỗi người một cái vào má cho xong. Chỉ có tên trộm căm mụ đã gào đến tam đại nhà mình nên hắn cứ theo đúng lệnh quan, vả mụ một cái thật đau cho bõ tức. Nhưng khi hắn vừa bước ra khỏi đám đông thì quan đã gọi giật lại, vạch đúng tội trạng và tâm lý của hắn. Hắn không thể chối cãi được, đành thú nhận. Một hôm khác, quan đi qua một ngôi chùa lớn, ghé vào vãn cảnh. Sư cụ trong chùa thấy quan, liền ra đón tiếp kính cẩn, mời vào phương trượng ngồi uống trà. Sư than thở với quan rằng mình có giữ cho chùa một số tiền lớn không may bị kẻ trộm trộm mất cả. Nhưng sư không biết ngờ cho một ai. Lại cũng không muốn trình quan, sợ làm khổ lây đồ đệ. Nay sư có ý nhờ quan kín đáo xét hộ mình một tý. Quan hỏi rõ sự tình vụ trộm trước sau rồi chỉ lên tượng phật bảo với sư cụ: - Đức Phật ngài thiêng lắm, sao hòa thượng không cầu người tìm giúp, chả hơn nhờ tôi ư? Đức Phật có phép làm cho kẻ gian cầm hạt thóc nảy mầm. Nếu hòa thượng muốn, tôi sẽ xin vì nhà chùa thử một phen. Nói rồi bảo sư cụ biện lễ cúng Phật. Trong khi hòa thượng làm lễ, quan cho gọi tất cả sư vãi và những kẻ ăn người ở trong chùa ra để chay đàn. Quan bảo mỗi người một tay cầm cành phan và tay kia cầm một nắm thóc, đã ngấm nước, rồi nói: - Sư cụ có cho biết chùa ta trước đây có mất một số tiền mà không biết rõ ai là người lấy trộm. Ta chắc chỉ có người trong chùa lấy mà thôi. Ta nghe đức Phật ngài rất thiêng. Bây giờ, mỗi người cầm một nắm thóc đã ngâm nước rồi vừa chạy vừa niệm Phật. Nếu đúng là kẻ gian, đức Phật sẽ làm cho thóc trong tay nảy mầm. Như vậy gian ngay tỏ rõ, khỏi phải tra khảo phiền phức. Cả đoàn người mới chạy được vài vòng thì quan đã thấy có một chú tiểu thỉnh thoảng lại hé tay cầm thóc ra xem. Liền đấy, quan sai mọi người dừng lại, bắt lấy chú tiểu, vì chỉ kẻ có tật mới giật mình, nên thỉnh thoảng lại nhìn trộm như thế. Chú tiểu thấy vạch đúng lý, nhận tội...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/phan-xu-tai-tinh" }
Làm ơn hóa hại
Xưa có Trần Công là người có lòng sốt sắng. Ai có việc gì nhờ vả, ông đều sẵn sàng. Trong đời ông, ông đã từng đi lại nhiều nơi, đến đâu cũng hết lòng giúp đỡ người nguy kẻ khó mà không quản ngại. Một hôm Trần Công vai đeo đãy, tay chống gậy tới vùng Hạ-hòa. Ở đây đang có nạn hạn hán. Trời nắng chang chang như thiêu như đốt, ruộng nứt nẻ hết. Trải qua một đoạn đường dài, ông thấy khát khô cổ nhưng đi mãi vẫn không gặp một hàng quán nào cả. Ông ghé vào một nhà nọ ở bên đường. Cả nhà đều đi vắng. Nhìn vào chum vại, ông thấy khô kiệt. Vào nhà thứ hai cũng vậy. Ông vội đi tìm giếng nhưng không thấy đâu cả. Ông bèn trèo lên một hòn đá đứng để tìm ao hồ, nhưng bao nhiêu ao hồ đều khô rông rốc. Mãi sau mới thấy một đám đông đang lúi húi chắt mạch ở một vũng nọ, ông vội tìm đến nơi. Gặp một người cầm bình nước, ông gọi xin uống. Uống xong, Trần Công tỉnh ra liền hỏi; - May quá, nếu không gặp ông, có lẽ tôi chết mất. Không ngờ ở đây hột nước lại hiếm đến như vậy. Người kia đáp: - Vâng, chúng tôi đều nguy mất. Đã hai năm nay cái bà thần Mưa ác nghiệt đã quên mất vùng này. Giá có ai lên đó nhắc bà ấy hộ nhỉ. Trần Công khảng khái nói ngay: - Vậy thì tôi xin đi tìm thần Mưa giục phải làm mưa sớm cho bà con ta! Từ giã ra đi, Trần Công quyết tìm đến xứ sở của thần Mưa. Ông trèo lên nhiều núi, lội rất nhiều khe, qua rất nhiều ngày mà vẫn chưa đến. Một hôm, Trần Công trèo lên một quả đồi. Một con vượn già bị mắc bẫy, thấy có người đến thì kêu lên: - Cứu tôi với! Cứu tôi với! Ông vội chạy lại tháo bẫy cho nó. Được tự do, vượn hết lời cảm ơn ông. Nó hỏi: - Ông đi đâu bây giờ? - Ta đi tìm xứ sở của thần Mưa. - Xứ sở của thần Mưa còn xa đây lắm, ông già rồi làm sao có thể tới nổi? - Dù xa bao nhiêu ta cũng quyết đi để giục thần Mưa phải mau mau cứu vùng Hạ-hòa đang bị hạn. - Thế thì để tôi biếu ông một vật. Vượn bèn bảo ông ngồi chờ, rồi chạy vội vào rừng, chốc sau nó trở lại với một cái gậy con. Đưa cho Trần Công, vượn nói: - Cái gậy có phép rút đất, ông có thể đi bất cứ nơi nào cũng được, chỉ cần nói chỗ mình đến là đủ. Trần Công vui vẻ nhận món tặng vật, cảm ơn vượn rồi bảo gậy: - Hỡi thần gậy, hãy đưa ta đến xứ sở của thần Mưa. Tự nhiên ông thấy mắt hoa lên, cây cối núi non hai bên như chạy rạt rất nhanh về phía sau, chỉ độ nửa buổi là đứng lại. Ông nhận thấy mình đứng giữa một nơi quang cảnh lạ lùng. Nhưng ở cũng có người và vật như ở trần gian. Ông hỏi nhà thần Mưa, người ta chỉ cho ông. Ông gọi đến cổng. Có tiếng nói vọng ra: - "Ai đó mời vào". Bước vào nhà, ông thấy một bà già hom hem đang nằm trên giường. Ông hỏi: - Bà có phải là thần Mưa không? - Phải. - Tại sao bà để cho trần gian có những vùng hạn hán đến nỗi không đủ nước mà uống. Sao bà ác thế? Bà không biết ở hạ giới người ta rủa bà hàng ngày hàng giờ đấy ư? Bà già không nói gì, mời ông ở lại khoản đãi cơm nước tử tế. Ở được vài ngày vẫn không thấy bà làm gì cả, suốt ngày chỉ nằm rên khừ khừ, Trần Công lại tới nhắc. Bà già nói: - Ta vốn có phận sự làm mưa ở trần gian. Nhưng mấy lúc này ta bị một ác chứng không thể đi đâu được. Ta có ý chờ con gái ta về, nhưng không hiểu sao nó đi chơi lâu quá! Nay trời cũng có lệnh truyền bảo làm mưa, ta muốn cậy ông làm hộ. - Tôi thì biết gì mà làm. - Công việc kể ra không có gì khó lắm, chỉ cần làm theo lời dặn là đủ. Ông nhìn trên vách kia có một cái bầu, nếu ông bằng lòng đi, tôi sẽ múc nước đầy bầu cho ông. Bên cạnh bầu có một nhành lá. Chỉ cần trèo lên lưng con sư tử mà ngồi cho vững. Nó sẽ đưa ông đi tới những miền đã định sẵn. Thế rồi ông cứ nhúng những nhành lá vào bầu mà vẩy xuống, nhưng phải vẩy từ từ mới được. - Thế thì tôi sẵn lòng làm giúp. Bà cứ sắm sửa mọi thứ ngay đi! Bà già ngồi dậy ra bể múc đầy bầu nước và gọi một con sư tử đến dặn dò mọi việc, Trần Công trèo lên lưng sư tử, một tay cầm bầu, một tay cầm nhành lá. Sư tử liệng một vòng trên không rồi bay xuống hạ giới lần lượt đến những chỗ làm mưa. Trần Công nhìn xuống thấy mọi vật đều nhỏ li ti như hạt bụi. Nhưng ông lo lắng đến công việc đã hứa. Ông bèn cầm nhành lá nhúng vào bình rồi vẩy lia lịa. Nhìn xuống đã thấy một phía trời mịt mù. Ông đoán chắc là mưa to, trong lòng lấy làm thích thú. Ông cứ lần lượt vẩy mãi, vẩy mãi, mỗi lần đến một chỗ mới. Khi đi đến vùng trời Hạ-hòa, ông sực nhớ tới những lời than phiền hạn hán của những người dân nơi đây, bụng bảo dạ: -"Ta phải cho họ thêm một ít nước để bù vào những cơn nắng hạn dữ dội, chứ mưa như thế chắc không thấm tháp gì. Và lại để đền ơn cho họ đã cứu ta khỏi chết khát". Bèn không vẩy nữa mà cầm cả bầu dốc ngược. Thấy thế sư tử tỏ vẻ hoảng sợ ngoái lại bảo ông dừng tay, rồi quay trở về. Chỉ một lát sau nó đã về đến nhà. Bà già ra đón hỏi. Ông thực thà kể lại đầu đuôi. Nghe đoạn, bà già chép miệng: - Thôi, thế là ông đã làm hại người ta rồi. Ở chốn ấy bây giờ chắc chẳng còn một mống nào sống sót. Trần Công nghe nói giật mình, nhưng vẫn không tin lời bà già lắm. Hôm sau ông từ giã thần Mưa ra về. Chiếc gậy rút đất lại đưa ông xuống cõi trần một cách chóng vánh. Đường đi qua vùng Hạ-hòa, ông dừng lại để xem thử thế nào. Thì ra ở nơi này nhà cửa, cây cối, người và vật đều chẳng còn một tí gì. Cả cái mô đất cao cũng bị hóa bằng, nếu không có hòn đá lớn mà ông nằm nghỉ hôm nọ còn lại, thì cơ hồ ông cứ tưởng là cõi hoang vu nào thưở trước. Ông tặc lưỡi hối hận: - Thật có ai ngờ làm ơn hoá hại
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lam-on-hoa-hai" }
Con ma báo thù
Ngày xưa ở Gia-định có một tên cướp lợi hại bị bắt và kết án tử hình. Trong ngục, hắn ta bảo người nhà đem hậu lễ đến chạy chọt với tên quan án để mong quan cố tìm cách cứu hắn thoát chết. Quan án nhận lời, đòi phải có đủ hai mươi nén bạc mới có thể lo lót xong. Người nhà tên cướp lo đủ số bạc. Nhưng sau khi nhận đủ bạc rồi, quan lại muốn ăn không một mình, không muốn chia với bọn quan đầu tỉnh và bọn quan trong bộ. Vì thế, cái đơn xin ân xá của tên cướp bị bộ bác, tên cướp vẫn bị đem ra pháp trường xử trảm. Còn quan án ta sau đó, để tránh mặt, bèn cố chạy chọt để được đổi về kinh làm lang trung bộ Hộ. * * * Một hôm, có một ông cử quê quán ở Gia-định sửa soạn về kinh thi hội. Nhưng nhà ông nghèo quá không biết lấy gì để chi tiêu dọc đường. Ông đi vay hết mọi nơi nhưng vẫn không đủ số. Sắp đến ngày phải ra đi, bỗng có một người khách tự dưng tìm đến làm quen, nói rằng mình cũng sắp trẩy kinh nên đến rủ ông cùng đi cho có bạn. Thấy ông cử than rằng mình chưa lo xong tiền ăn đường, người khách lạ ấy hứa sẽ chịu mọi phí tổn, quý hồ được cùng đi với ông là tốt rồi. Sau ngày khởi hành, ông cứ dần dần thấy người bạn đồng hành của mình quả tốt bụng hơn ông tưởng. Mỗi lần đến một chặng nghỉ ở nhà trạm, ông thấy hắn chăm lo cho ông từ cơm nước cho đến chỗ ăn, chỗ ở, hơn cả một người hầu. Tiền nong hắn chịu tất, trái lại về phần hắn, chẳng thấy hắn lo liệu gì sốt. Không bao giờ hắn chịu ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu với ông. Càng ngày ông cử càng thấy áy náy không yên. Từ chỗ chịu ơn đến ngạc nhiên, ông thấy không thể im lặng mãi, nên nhân lúc vượt qua một cái đèo, bèn hỏi: - Bác lo lắng chỗ ăn chỗ trọ cho tôi thực là chu đáo. Tôi không biết cảm tạ thế nào cho xứng cả. Nhưng tại sao về phần bác, tôi chẳng thấy bao giờ bác bận tâm đến mình. Thế bác ăn ở đâu? ngủ ở đâu? Người khách lạ không ngần ngại trả lời: - Chả giấu gì bác, tôi không phải là người mà chỉ là một con ma. Tôi theo bác là chỉ cốt nhờ bác làm ơn chỉ đường cho để báo thù... - Báo thù ai? Ông cử vội hỏi. - Báo thù một kẻ trước đây đã ăn tiền của tôi mà nuốt lời hứa để tôi thọ tội. - Tên hắn là gì? - Là án sát Đặng. - Trời ơi! Ông Đặng này là thầy học cũ của tôi. Nghe ông cử kêu lên như thế, người khách lạ nói tiếp: - Không can gì. Tôi mang oán thì tôi cứ trả oán; còn bác chịu ơn thì cứ lo mà đền ơn. Chỉ cần bác giúp tôi khi đến kinh chỉ nhà tên đó cho tôi là đủ. Khi hai người đến kinh bèn từ giã nhau. Một người tìm vào khu trường thi để sắp đặt chỗ trọ, còn con ma thì tìm đến nhà viên án sát để nghĩ cách báo thù. Thoạt đầu hắn làm cho đứa con quan án phát điên. Thằng bé trạc mười bốn, mười lăm tuổi, đang hiền lành lễ phép, bỗng dưng sinh ra hung hăng dữ tợn, hoa chân múa tay, miệng nói nhảm nhí gây gổ với mọi người. Cơn điên bốc mạnh, thằng bé cầm con dao múa lên rồi chạy khắp nơi, cuối cùng làm bị thương một đứa bé khác và đâm chết một người đi đường. Thân nhân người chết khôn xiết đau đớn, vội mang xác đến nhà cha mẹ đứa bé bắt đền mạng. Quan án phải bỏ ra một lúc rất nhiều tiền không những để sắm hòm ván, thuê chôn cất và đền cho thân nhân người bất hạnh, mà còn dùng đút lót cho quan nha sở tại để họ khỏi sinh sự lôi thôi. Trong khi đó, quan phái người nhà tìm bắt con về để tìm thầy chạy thuốc. Nhưng bao nhiêu thuốc men uống vào đều vô hiệu. Quan án lại mời một thầy phù thủy cao tay đến để trị tà bắt quỷ. Nhưng sau ba ngày ba đêm chứng điên của thằng bé vẫn không thuyên giảm chút nào. Thầy thú thực rằng vì tà ma quá mạnh không thể trấn áp được. Quan án tuy tiêu tốn đã nhiều công của, vẫn không nản lòng, hứa sẽ thưởng một số tiền lớn cho người nào chữa được con mình lành bệnh. Cho đến ngày trường thi treo bảng, ông cử Gia-định mới biết mình "trượt vỏ chuối". Đang khổ vì tứ cố vô thân, không biết xoay đâu tiền ăn đường, thì bỗng gặp lại người khách lạ. Hắn bảo ông: - Bây giờ là lúc bác có thể trả ơn cho thầy học của bác được rồi đấy. Tôi ra đây lúc đầu định vật chết con nó báo thù chơi, nhưng sau nghĩ lại thấy tội của nó chỉ đáng làm cho con nó điên khùng một dạo là đủ. Bây giờ bác đến đấy trả ơn cho người ta, lại vừa có thể kiếm một số tiền lộ phí. Còn tôi, tôi phải vội về trước. Ông cử liền tìm đến nhà thầy học cũ. Quan án vì trong nhà đang có chuyện bối rối, không muốn tiếp người học trò của mình, bèn bảo người nhà ra nói dối là mình đi vắng. Nhưng ông cử vội đáp: - Tôi đến đây là vì công tử con thầy đấy! Nghe nói thế, quan vội sai mời ông vào. Ông cử giả thác rằng mình có một phương thuốc bí truyền có thể chữa chạy những bệnh điên cuồng rất hiệu nghiệm. Cách chữa của ông rất giản dị: hàng ngày ông đến trước con bệnh, mặc cho nó gào thét múa may, ông thong thả ngâm lên những bài phú cổ. Ông cứ kiên nhẫn làm như vậy suốt ba ngày. Bệnh của đứa bé lui đi trông thấy. Cuối cùng, khi thấy thằng bé đã hết điên, ông cắt cho nó những chén thuốc bổ. Quan án vô cùng mừng rỡ, ca ngợi không tiếc lời tài thuốc của người học trò cũ, và trước khi người ấy ra về, mang tặng hai mươi nén bạc để đền công đã chữa cho đứa con mình.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-ma-bao-thu" }
Sự tích chim kền kền
Trong xóm kia có hai người sống hai cảnh đời trái ngược. Một người giàu của để tận ngoài ngõ, chê cơm gạo đỏ không ăn, trong nhà thịt rượu ê hề. Lại có một người tàn tật, ít khi được bát cơm nóng. Rau dưa cũng không đủ no lòng. Lão nhà giàu phung phí tiền của, ra khỏi nhà là thuê người hầu người cáng khiêng. Chơi bời vô độ nên tóc còn đen, răng chưa rụng mà người lão đã gầy khô như cái xác chết. Anh nghèo mang tật từ lúc bé, chân tay co rúm, lưng còng, cổ queo, đi một bước vững cũng khó khăn. Quanh năm chỉ có hai mảnh quần áo rách. Một năm kia, trời nắng kéo dài, rau cỏ cũng không mọc nổi. Những đám rau già quanh làng đã hết, anh tàn tật cố bò ra cây sung giữa đồng, nhặt quả ăn thay cơm. Đường từ nhà ra đây chẳng xa xôi gì. Người khỏe, hút chưa tàn điếu thuốc đã đi đến. Nhưng anh tàn tật phải bò suốt từ sáng sớm đến nửa buổi chiều. Cố lê được đến gốc cây sung anh đã mỏi mệt rã rời chẳng làm sao nhặt được quả rụng mà ăn. Đến chiều, khi mặt trời sắp lặn, có một cơn gió thổi qua rất mạnh. Cành sung oằn xuống, quả rụng chật đất. Anh tàn tật cố gượng dậy, lê đi nhặt lại thành đống định để ăn dần. Đêm đó anh ngủ bên gốc sung. Sáng ngày hôm sau có một đàn chim từ hướng đông bay đến, đáp xuống ngọn cây sung. Đàn chim đi tìm quả sung chín, nhưng gió đã thổi rụng cả từ hôm qua, nên chúng ngơ ngác tìm kiếm một chốc rồi đáp xuống đất ! Trông thấy đám quả sung của anh tàn tật, đàn chim đứng nhìn nhưng không dám lại gần. Anh tàn tật nhặt sung vãi ra: – Có đói vào đây mà ăn …… Nghe anh nói, con chim có một cái khoang trắng trên cổ, óng ánh như bạc, nói lại rõ như tiếng người vậy : – Chim không có công nhặt, sao người cho nhiều quả thế? – Cây trời sinh, tôi không trồng, không tưới, công nhặt quả có đáng là bao, có đói thì cứ ăn. Anh tàn tật lại bốc sung vãi thêm ra. Lũ chim không sợ nữa, xúm lại ăn. Ăn xong, con chim có khoang cổ lại hỏi : – Người tàn tật mà tốt bụng. Quả ăn trừ cơm được mà không tiếc. Tôi đền lại người một điều ước, để trả ơn. Đàn chim bay đi. Anh tàn tật ngồi một mình, ngẫm nghĩ về điều ước con chim đã cho. Lâu nay nghèo khổ, chưa được biết cái gì là sung sướng, nên cũng chẳng biết ước điều gì. Chợt thấy mấy người lính kiệu một viên quan đi qua. Thấy viên quan rất oai vệ, mà toán lính cũng bảnh bao. Anh tàn tật định ước được là một trong hai hạng người này. Nhưng khi bọn họ đến quãng đường lầy, thì toán lính đã bị thụt sâu, không đi nhanh được. Còn viên quan thì cau có, quát tháo, cầm gậy vụt đánh toán lính. Thấy vậy anh tàn tật tự bảo : – Làm lính thì bị quan đánh, mà làm quan thì … mặt mũi cau có, đánh người thế kia, chẳng ai thương được. Anh bỏ ý định ước làm quan, làm lính. Một chốc có mấy người thầy cúng đi qua. Người nào cũng quảy một xâu thịt, mấy chai rượu, tay chống gậy, đầu đội khăn rằn, khăn đỏ, buông xuống tận vai. Trông có vẻ an nhàn lắm. Anh tàn tật muốn ước làm thầy cúng. Bỗng cái cổ quẹo của anh đau nhói lên. Cái cổ này khi nhà còn tiền của, cha mẹ anh đã mời thầy cúng mãi mà không khỏi rốt cuộc vẫn tiền mất tật mang. Nhớ việc cũ, anh lại tự bảo: – Thầy cúng là người dối trá. Người ốm mất tiền mà chẳng khỏi bệnh. Một chốc anh lại thấy một lão nhà giàu đi đòi nợ về. Anh tàn tật toan ước làm một người giàu để được ăn no sung sướng. Nhưng lão nhà giàu đi chưa khuất đã thấy một toán người đến, tay dắt trâu, vai gánh thóc, mồ hôi nhễ nhãi, mặt mũi hốc hác, khổ sở. Anh bèn hỏi : – Sau có trâu dắt mà không vui, có thóc gánh trên vai mà còn khóc? Mấy người kia chỉ lão nhà giàu đang đi : – Sắp đến mùa cày mà lão bắt mất trâu. Lúc có lúa, lão ấy đòi nợ ! Ông ấy là chủ nợ. Chúng tôi là con nợ. Cảnh khổ anh đã biết rất rõ. Anh lắc đầu : – Làm người giàu sẽ gây khổ cho người nghèo. Đắn đó một lúc, anh tàn tật, nhìn lại mình. Thấy cổ quẹo, lưng còng, anh liền ước : – Thôi, chim hãy cho tôi lành lặn, có đủ sức khỏe nhổ trốc gốc cây sung nàỵ Lời ước vừa dứt, lưng anh đã thẳng ra, cổ hết quẹo, người to lớn lực lưỡng. Anh bước tới đến ghé vai vào cây sung, hai tay ôm choàng, nhổ thử. Cây sung bật cả gốc rễ. Anh cởi áo túm mớ quả sung còn lại, vác cả cây sung về trồng trước làng. Tên nhà giàu thấy anh tàn tật đã béo tốt đẹp trai liền đến hỏi : – Mày làm sao chong được khỏe vậy ? Anh tàn tật kể chuyện được sức khỏe cho tên nhà giàu nghe. Lão muốn vợ chồng con cái và mẹ nó được béo tốt như anh tàn tật, liền về dắt cả lũ đến với anh: – Mày béo khỏe vậy là tốt lắm rồi. Mớ quả sung còn lại cho tao xin. Người nhà tao ai cũng gầy guộc quá. Tao muốn tao, mẹ tao, vợ con tao đều có sức khỏe như màỵ Anh tàn tật không định để mớ quả sung lại làm gì, nhưng anh chưa kịp cho thì lũ kia đã xúm lại cướp mỗi đứa một vốc, chạy lẹ ra đồng. Chúng nó ngồi thù lù bên chỗ cây sung anh đã nhổ trốc gốc, để chờ chim đến. Đàn chim đến thật. Mẹ, vợ và con lão nhà giàu không hiểu đổi chác thế nào, nên cứ trố mắt nhìn. Còn tên nhà giàu thì đưa quả sung ra nhử chim, hắn nói: – Cây sung bị thằng tàn tật nhổ mất rồi. Từ nay kiếm được một quả sung chẳng dễ gì ! Đây, những quả sung này ngon lắm, ngon gấp mười quả sung của thằng tàn tật kia! Chim có chịu đổi một trăm điều ước tao mới đổi. Đàn chim đã đói, nhưng mỗi lần chỉ cho được một điều ước, nên không đổi được cho tên nhà giàu. Khi mặt trời gần lặn, đàn chim chắp cánh sắp bay. Biết không thể đổi được hơn, tên nhà giàu mới chịu đổi. Được điều ước nó cười hả hê, giục cả nhà đứng dậy rồi lớn tiếng: – Cho cả nhà tao trẻ lại … này, khỏe này, béo này …… Nhưng nói chưa hết câu, thì những cái mồm của lũ nó đã nhô ra nhọn hoắt, tay biến thành cánh, móng chân biến thành vuốt, lông mọc khắp người, hôi thối khét lẹt. Cả nhà nó hóa thành một đàn Kên Kên. Lũ Kênh Kênh bay dạt vào rừng. Giàu có, ăn uống sung sướng quen miệng, nay đã hóa thành Kên Kên, chúng vẫn giữ nguyên cốt cách như lúc còn làm người. Mỗi khi gặp con trâu, con bò chết là cả lũ bâu lại.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-ken-ken" }
Chuyện chàng Lút
Ở làng nọ có anh chàng Lút bị hủi ăn từ đầu đến chân. Trông người xấu xí, hom hem như sắp chết đến nơi rồi. Trong làng chẳng ai thèm lui tới chơi với Lút. Kẻ khinh anh nghèo đói, người sợ lây bệnh tật của anh. Tuy vậy, hàng ngày anh Lút vẫn cố lê ra suối đi câu cá. Anh đi câu xa, mãi tận chỗ thác nước chảy rì rào, trắng xoá dưới chân suối trúc. Hôm ấy, câu hồi lâu, anh Lút bắt được hai con cá trắng tinh, trông như bạc đúc vậy. Anh để cá trên tảng đá anh đang ngồi câu. Lút đang chăm chú nhìn cần câu, thì có hai con quạ băng ngang qua quắp mất hai con cá đem đi tận chỗ xa, nơi đầu ngọn suối. Có một đoàn cô gái đi xuống suối. Các cô đi rừng về. Vai cô nào cũng nặng trĩu những gùi củi đầy. Các cô đặt gùi xuống nghỉ, lội xuống suối tắm. Thân mình các cô mềm mại như tàn lá chuối, thon thon như cây lau, cây lách, đẹp rạng rỡ như ánh mặt trời.Tắm xong ai nấy lên bờ sửa soạn ra về. Chỉ còn lại hai chị em cô nọ đang nghịch nước suối reo ồ ồ, nước thác chảy trắng phau. Hai chị em lên bờ, sửa soạn ra về. Bỗng hai cô gái thấy hai con cá bạc bé như sợi lá thông, nhấp nháy như cọng cỏ chỉ. Hai cô bèn nhặt lên, giấu cá trong gùi mang về nhà, không cho cha mẹ biết. Hai cô lén mang cá ra nướng ăn. Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai cô ngạc nhiên thấy bụng to hẳn lên: hai cô đã có mang. Hai cô lo lắng quá, khóc lóc tỉ tê với mẹ: - Mẹ ơi! không biết làm sao mà hai con khốn khổ ra thế này? Hai con có tội với cha mẹ, xấu hổ với bà con xóm làng lắm. Chẳng kịp hỏi đầu đuôi ra thế nào, bà mẹ lớn tiếng nhiếc mắng hai cô thậm tệ: - Bay là đồ gái hư, gái thối! Bay là quân sống nhuốc, sống nhơ! Ðừng có làm trò bêu danh, xấu tiếng cho nhà tao! Hai cô tìm lời giãi bầy nỗi oan với mẹ: - Mẹ ơi! Ðêm nào hai con cũng ngủ ở nhà với mẹ: Các con có dám đi ngủ lang ngủ chạ với ai đâu Bà mẹ lại lồng lên nhiếc móc ầm ĩ: - Liệu bề khai thật ra, thì may ra tao còn tìm cách... Không thì hãy cút xéo đi! Hai cô nghĩ ngợi một chốc, se sẽ nói tiếp: - Mẹ ạ! Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có hai con cá trắng lọt được vào nhà ta thôi! Sau hai chị em sinh được hai cô gái rất xinh đẹp. Bố mẹ hai cô bèn cho mời cả dân làng lại. Trai tráng khắp nơi lục tục kéo đến. Ai nấy đều khoác chăn, mang gùi đến để cho hai đứa bé nhận mặt, xem thử ai là cha của chúng. Nhưng hai đứa trẻ không nhận ra ai cả. Bố mẹ hai cô lấy làm thất vọng. Bỗng họ sực nhớ ra còn anh chàng Lút nữa, anh chàng nghèo khổ bệnh tật mà chẳng có ai nhớ tới. Bà mẹ bèn gọi người nhà ra bảo: -Phải đi gọi ngay thằng Lút đến đây! Mau lên! Một chốc, chàng Lút què lò dò tới, Lút vừa bước tới chưa kịp ngồi, hai đứa bé đã chạy ùa ngay lại. Hai đứa reo ầm lên: - Bố ơi, Bố! Ðúng là bố các con đây rồi. Bố gùi con trên lưng, bố cõng con trong chăn đây rồi! Dân làng ai cũng trố mắt nhìn về phía hai cô gái. Dần dần người ta lặng lẽ bỏ ra về. Hai người tan lòng nát ruột thấy mình buộc phải làm vợ của anh chồng hủi. Hai cô khóc nức nở. - Trời ơi là trời! Chân anh què, làm sao anh đi rừng cho được! tay anh cụt, làm sao anh phát rẫy cho nên! Miệng anh hủi, làm sao anh khấn vái cúng thần! Bố mẹ bắt vợ chồng con cái anh Lút phải dọn ra ở riêng. Chẳng ai cho họ ở trong làng nữa. Nhà ở của họ chỉ là túp lều con lẻ loi, chỉ là một cái chòi bằng lá sơ sài! Họ chẳng có cơm ăn, chẳng có thuốc hút. Mẹ con đi phát một cái rẫy bé tí ti. Còn anh què phải ở lại nhà. Ngày ấy, hai chị vợ đi làm rẫy vắng, Thừa cơ, có con khỉ xấu bụng đến tìm cách lừa gạt anh Lút. Khỉ mình ướt đẫm mồ hôi, vừa thở phều phào có vẻ mệt nhọc và nói: - Anh Lút ơi! Chị dặn anh dán cho chị một đĩa trứng, nấu một nồi đầy cơm cho tôi ăn đấy. Tôi đi giúp hai chị đốt rẫy về đây, đói lắm rồi! Tin lời khỉ, anh Lút nấu cơm cho nó ăn. Khỉ chén sạch nhẵn cả cơm lẫn trứng rồi bỏ đi. Chiều đến hai chị vợ đi làm về, bụng đói meo, nhưng nhà chẳng còn lấy một quả trứng, một hạt gạo! Anh Lút khổ sở bị hai chị vợ la cho một trận. Vợ con không tin anh nữa, cho anh chàng là người ăn gian nói dối... Hôm sau, hai chị vợ lại lên rẫy đi làm. Nghĩ đến chuyện khỉ lừa, anh Lút căm tức anh ách trong bụng. Lần này, anh lo sắp sẵn những sợi dây thừng thật chắc để làm bẫy, giăng sẵn quanh nhà. Quen hơi,khỉ lại mò đến. Anh Lút vừa ân cần ra mời khỉ vào, vừa nghĩ thầm trong bụng: "Mày lại muốn giở trò gì nữa chăng?" khỉ vừa bước đến gần nhà bị vướng phải bẫy ngay. Hắn ta nghĩ bụng phen này chắc chết quá nên rối rít van lạy anh Lút: - Anh Lút ơi! Xin anh đừng giết em. Nếu anh muốn tạ tội chiêng đồng, chiêng thau gì em cũng xin nộp. Anh Lút lắc đầu: - Tao không thèm chiêng! - Em xin tạ tội anh một con trâu mộng vậy. Anh Lút lại lắc đầu: - Tao cũng không cần trâu! - Em xin nộp anh bao nhiêu lúa cũng được. - Lúa tao cũng không cần! Lưỡng lự một lát khỉ buột mồm: -Thì em xin truyền lại cho anh phép bùa quý vậy. Lút gật đầu: - Thế thì được! Anh Lút bèn gỡ bẫy, vòng dây thắt ngang bụng khỉ. Tuy vậy, anh vẫn đề phòng thói tráo trở của chú khỉ tinh ranh, anh vẫn nắm chắc một đầu dây, không bao giờ buông ra. Khỉ về nhà kì kèo xin vợ lá bùa phép cất kỹ trên sàn. Khi dùng bùa, anh Lút đọc câu thần chú: "Bùa hãy hoá phép cho ta đi! Hãy giúp ta trừ được bệnh hủi. Ta sẽ đánh chiêng mừng..." Trong giây lát Lút khỏi hẳn bệnh hủi. Mình mẩy trơn tru, da dẻ hồng hào tốt tươi. Bấy giờ Lút đọc tiếp thần chú. Muốn chiêng, có chiêng. Muốn ché, có ché. Muốn trâu, có trâu. Nhà chàng Lút bấy giờ xinh đẹp như bức gỗ chạm, trong làng vang lên lời ca ngợi nhà cửa xinh đẹp của anh. Lút có phép lạ: Nhà anh đẹp như ché Nhà anh khoẻ như chiêng Nhà anh thẳng liền như tre Nhà anh khoe màu huệ Từ nay trở đi anh Lút trở nên một con người giầu có xinh đẹp. Trong nhà không thiếu thứ chi. Người ta lui tới thăm chơi chật trong chật ngoài như ngày hội. Nhà Lút ở trên ngọn suối. Nhà bố mẹ vợ ở dưới đuôi suối. Bà ta đi múc nước, nhưng nước bị thối mùi tre ngâm! Bà lội lần mé trên tìm xem thử có ai sục mà nước vẫn đục lên như thế. Bà thấy một bầy vịt đang hụp lặn tắm dưới suối. Mụ hỏi mấy đứa bé ở đấy: - Vịt nhà ai nhiều vậy các em? - Vịt ấy là vịt của ông. Lợn ấy cũng là lợn của ông. Trâu ấy cũng là trâu của ông... Mụ già nghe mấy đứa bé nói sốt ruột: - Nhưng ông nào mới được? - Ông Lút đấy mà, bà không biết à? Nghe nói, bà mẹ đâm ra sửng sốt, suýt nữa đánh rơi vỡ mấy bầu đựng nước! Bà mẹ bèn đi ngược dòng, để tìm xem cho được nhà của anh Lút. Bà đi đến nơi, nhưng anh chàng không ra mở cửa. "Xưa kia bà chẳng xua đuổi vợ chồng chàng như đuổi tà là gì?". Ngay lúc đó, trời đổ mưa to, giông bão đầy trời. Một hồi sau, nghĩ thương bà già bị mưa gió sấm sét, sẽ rét mướt nguy hiểm. Lút ra mở cửa. Thấy bà mẹ vợ đã biết lỗi, vợ chồng anh Lút cũng quyên chuyện cũ. Anh chị làm lễ mừng, mời ông bà lên nhà ăn uống, vui chơi với con cháu. Từ đấy, ai ai cũng trầm trồ khen vợ chồng anh Lút giầu có, ăn ở tốt bụng với bà con dân làng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chuyen-chang-lut" }
Thầy cứu trò
Ngày xưa có một anh học trò côi cút hiền lành. Nghe tin ở một tỉnh Đàng ngoài có một ông thầy nổi tiếng tài cao học rộng, ngoài "bách gia chư tử", các môn "nhâm, cầm, độn, toán" thảy đều tinh thông, anh học trò liền để người vợ trẻ ở nhà, cố lặn ngòi noi nước tìm đến tận nơi theo học. Học được ba năm, một hôm anh bỗng nhớ tới vợ bèn xin phép thầy trở về thăm quê. Thầy bảo trò ngửa bàn tay cho xem, xem xong, thầy bảo: - Con về lần này lành ít dữ nhiều, không nên con ạ! Tuy người học trò vâng lời, nhưng thầy thấy vẻ mặt anh ta không được vui việc học có phần trễ nải, nên sau đó ít lâu, thầy lại bảo: - Như chí con đã quyết thì con cứ về. Con sẽ gặp một số tai nạn, để ta đọc cho nghe mấy câu này, con nhớ kỹ lấy và theo đúng thì mới tránh được: Gặp đình chớ tới, Gặp thơm chớ gội, Gặp gà chớ đuổi, Ba, Bốn, Sáu chớ hỏi. Anh học trò nhẩm lấy thuộc lòng và từ giã thầy ra về. Đi luôn mấy ngày đường, một hôm anh bỗng gặp một trận mưa lớn, lúc ấy anh đang đi giữa một cái đồi vắng, anh vội vã bước mau để tìm chỗ nấp. Vừa hay trong lùm cây trước mặt, anh thấy thấp thoáng có một ngôi đình cổ trong đó có mấy người đang ẩn mưa. Anh co cẳng chạy tới nhưng lúc sắp tới nơi bỗng sực nhớ tới lời dặn đầu tiên của thầy nên anh dừng lại. Những người nấp trong đình gọi rối rít: - Anh kia chạy vào mau kẻo ướt! Anh thủng thỉnh đáp: - Thầy tôi đã dặn không được trú trong đình, bà con hãy ra đi kẻo nguy. Mọi người đều cười khi thấy anh cứ đứng giữa mưa gió mà không chịu vào. Nhưng chỉ một chốc sau đình bỗng dưng đổ xuống rầm một cái mấy người nấp trong đó đều thiệt mạng. Anh học trò chỉ còn biết nhỏ nước mắt khóc cho những người xấu số, rồi lại tiếp tục lên đường về nhà. Lại nói chuyện người vợ của anh, sau khi chồng đi học vắng, ở nhà tằng tịu với một gã trai khác. Hai người say mê nhau và điều ước muốn của họ là làm sao lấy được nhau mới thỏa dạ. Cuối cùng họ trù tính chỉ có tìm cách khử anh chồng của ả kia đi thì mới có thể sum họp với nhau lâu dài. Thấy chồng về, vợ làm bộ mừng rỡ rồi rít. Chuyện trò được một chốc, vợ đòi đi chợ để sắm cái ăn, kỳ thực là chạy đến nhà tình nhân báo tin cho y biết để y định liệu. Anh tình nhân bảo người đàn bà: - Về nhớ nấu nước bồ kết trong đó bỏ vào một ít lá thơm cho nó gội. Đêm đến ta sẽ có cách. Vợ trở về nhà nên cứ y kế nấu nước thơm cho chồng gội đầu. Hắn bảo chồng: - Mình yêu quý của tôi ơi! Hãy tắm gội thay áo quần đi kẻo đi đường bao nhiêu ngày bụi bặm. Tôi đã nấu sẵn bồ kết nước thơm cho mình đây! Chồng nghe nói đến hai tiếng "nước thơm" thì giật mình, sực nhớ tới lời dặn thứ hai của thầy, bèn chối từ không gội. Vợ cố dỗ dành đôi ba lần. Thấy vợ nài mãi, chồng kiếm cách nói cho vợ khỏi phật lòng: - Ngày hôm qua khi đi qua bến tôi đã tắm gội sạch sẽ, mình đừng có lo gì cho tôi cả. Vợ thấy nói không được mà đổ đi thì tiếc của, sẵn đầu tóc lâu ngày chưa gội, cuối cùng đành dùng nước ấy gội đầu cho mình. Đêm hôm ấy, khi hai vợ chồng đang ngủ say, thì người tình nhân lẻn đến bên giường tay cầm một con dao sắc. Tuy đêm hôm tối tăm hắn cũng tìm ra cái đầu thơm một cách dễ dàng và dùng dao cắt cổ êm thắm và mau lẹ. Khi giết xong, hắn toan gọi tình nhân dậy để cùng mình khiêng xác vứt xuống sông, nhưng bỗng hắn nhận ra là mình đã giết nhầm người yêu. Sợ quá, hắn bèn nhanh chân thoát ra khỏi nhà, may làm sao không một ai biết cả. Anh học trò ngủ một giấc mê man mãi đến sáng mới tỉnh dậy. Anh hết sức kinh ngạc khi thấy vợ mình đã đầu lìa khỏi cổ. Anh vội kêu cứu ầm lên. Làng xóm đổ tới rất đông. Anh kể hết mọi việc. Có mấy người đồ rằng anh này đã tự tay giết vợ rồi bày chuyện la làng để đánh lừa mọi người. Bọn hào lý không cần phân biệt phải trái, sai đóng gông anh lại và giải lên quan. Sau những ngày tra khảo, anh học trò vẫn một mực khai rằng mình không can cớ gì làm hại vợ cả. Vả chăng, nếu đã định tâm giết vợ thì trốn đi, dại gì mà kêu làng tới. Nhưng anh cũng không có cách gì để chỉ ra thủ phạm, vì thế vẫn cứ phải giam vào ngục để còn cứu xét. Một hôm ở nhà giam người ta phơi thóc để bắt tù phạm xay giã. Anh học trò được bọn lính cắt cho công việc canh gà là việc nhẹ nhất. Anh ngồi ở một góc sân nhìn ra. Bầy gà trong trại thấy có thóc thì rủ nhau mò tới kiếm ăn. Nhưng anh học trò bỗng nhớ tới lời dặn thứ ba của thầy nên cứ để cho gà ăn mà không chịu xua. Bọn lính gác thấy vậy mắng anh: - Sao bảo canh gà mà mày cứ ngồi trơ ra như phỗng thế? Anh chỉ cười khì không đáp. Sau đó mấy lần bầy gà lại sà vào, anh vẫn ngồi nhìn và không nhúc nhích. Thấy vậy, bọn lính cho anh là một tên bướng bỉnh, sẵn roi quất cho một trận. Anh nhăn nhó kêu khóc rầm lên. Lúc bấy giờ quan đang ngồi ở công đường, nghe tiếng ồn ào, vội sai người đến xem chuyện gì. Khi biết đầu đuôi, quan bèn cho gọi anh tới và hỏi: - Anh là học trò mà lại là kẻ có tội, vậy tại sao lại bướng thế? Người ta thương hại chỉ bắt xua gà là công việc nhẹ, sao anh nhất định không chịu làm? Anh học trò đáp: - Bẩm quan, trước khi ra về thầy học của tôi có cho tôi bốn câu thơ để phòng thân. Tôi đã theo hai câu đầu, nhờ đó tránh được tai nạn, nên câu thứ ba không thể không theo. - Thơ như thế nào? Quan hỏi. - Câu thứ nhất là "Gặp đình chớ tới". Suýt nữa tôi đã tự chuốc lấy cái chết thê thảm vì trên đường về toan vào ẩn mưa trong một ngôi đình sắp đổ. Tránh được là nhờ nhớ đến câu ấy. Câu thứ hai là: "Gặp thơm chớ gội". Chính vợ tôi đã gội nước thơm thay tôi nên bị một kẻ lạ mặt cắt cổ. Còn câu thứ ba thầy tôi dặn là "Gặp gà chớ đuổi." Vì vậy mà tôi không dám đuổi gà, chứ không phải bướng đâu. Quan vội hỏi tiếp: - Vậy còn câu thơ thứ tư là gì? - Bẩm quan, câu thứ tư là: "Ba bốn sáu chớ hỏi". Đêm hôm đó quan nằm suy nghĩ mãi về câu thơ thứ tư. "Ba bốn sáu chớ hỏi, vậy thì chỉ có thể là Năm. Phải chăng có một người nào đó tên là Năm đã hạ sát người đàn bà". Nghĩ vậy, sáng dậy, quan lập tức thảo trát đòi lý hương của xã xảy ra án mạng phải khai ngay trong xã có người nào tên là Năm hay không. Nếu có ai đúng tên đó thì phải bắt giữ lại và giải lên quan. Trong xã ấy quả có một người tên là Năm. Và chính nó là tình nhân của người đàn bà. Khi thấy bỗng nhiên vô cớ có nha lại về bắt giải đi, hắn nghĩ rằng nếu không phải oan hồn của người nhân ngãi bị mình giết nhầm hiển hiện, thì làm sao quan lại bắt được đích danh như thế. Nghĩ vậy, hắn không đợi tra tấn, tự thú.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/thay-cuu-tro" }
Người học trò và con hổ
Một con hổ đi dạo trong rừng, vô tình bị lọt vào bẫy. Con vật hung hăng giãy giụa, hết húc đầu đến dùng răng gặm bẫy tìm cách chui ra, nhưng bẫy làm bằng những cây tre đực rất chắc nên không thể làm gì được. Đương cơn nguy khốn, bỗng có một người học trò đi qua. Thấy người học trò, hổ bèn lấy giọng ngọt ngào: - Chào thầy tú, làm sao thầy tú lại đi vào nơi nguy hiểm này. Chao ôi! Thầy không biết rằng bạn bè tôi hiện đang ở khắp mọi ngả để rình mồi đấy ư? Thôi, chúng ta hãy giao ước với nhau điều này nhé! Về phía thầy, thầy làm ơn mở nắp cho tôi ra. Về phía tôi, tôi sẽ luôn luôn bảo hộ thầy, không để cho một con hổ nào động đến. Mặt khác, tôi sẽ làm cho dân vùng quanh đây kính trọng thầy, tôn thờ thầy như một vị thần. Người học trò đáp: - Nhưng nếu ta mở cho ngươi ra, ngươi sẽ ăn thịt ta mất! Nghe nói thế, hổ một hai xin thề và nói: - Chao ôi! Thầy tú! Thầy há lại không biết rằng tôi là kẻ xưa nay chưa hề nói dối! Tôi đã nói không ăn thịt thầy thì lẽ nào vì một miếng ăn mà tôi làm sai lời. Tôi là chúa sơn lâm có đâu lại phí mất tiếng tăm của tôi. Thầy hãy mở cho ra, suốt đời tôi sẽ không quên ơn. Người học trò nhẹ dạ nọ cảm động về những lời khẩn cầu của chúa sơn lâm, và tin vào những câu thề thốt nặng lời của nó, nên vui lòng rón tay làm phúc. Cần bẫy một khi kéo lên, hổ ta nhanh nhẹn chui ngay ra, ngáp dài và gầm lên một tiếng làm cho người học trò giật mình kinh hãi: - Ôi! - người học trò nói, ngươi hét to quá làm ta đinh tai nhức óc. Nhưng nếu lúc nãy hổ tỏ ra hèn hạ quỵ lụy bao nhiêu thì bây giờ lại lộ mặt hung hăng trắng trợn bấy nhiêu. Nó đổi giọng: - Tiếng của tao làm mày khó chịu ư? Tao còn muốn ăn thịt mày nữa kia đấy! - Ngươi vừa mới giao ước thề bồi với ta chưa buông mồm, sao đã trở mặt nhanh như vậy? Người học trò chưa kịp dứt lời, hổ đã gầm lên: - Tao cám ơn lòng tốt của mày. Nhưng mày phải hiểu rằng cái bụng đói của tao thì không cần biết phải trái gì hết. Tao nhịn đói đã mấy ngày nay và bây giờ thì cần có sức để trở về hang cái đã. Vậy mày hãy nộp mạng cho tao đi! Trong khi con vật phản phúc đang tìm cách nuốt trôi lời hứa thì một vị thần Núi biết được câu chuyện. Thương hại người học trò bị mắc lừa, thần Núi bèn hiện ra trước mặt hai bên với trạng mạo một ông quan tòa mặt mũi dữ tợn, mắt sáng long lanh, râu tóc trắng xóa. Thần nạt lớn: - Chúng mày làm gì mà cãi nhau ồn ào ở đây? Ai phải ai trái? Hãy nói ngay cho ta rõ, ta sẽ phân xử cho. Người học trò vội kể lại câu chuyện vừa qua. Nhưng hổ đã chỉ vào cái bẫy mà cãi biến: - Làm gì có chuyện đó. Tôi đang ngủ yên lành trong kia thì bị tên này ở đâu đến quấy nhiễu. Không những nó không cho tôi nghỉ ngơi mà còn tìm cách hại tôi. Vì thế, tôi phải ăn thịt nó để trả thù. Thần phán bảo: - Đúng! Ngươi có quyền trả thù kẻ nào dám xâm phạm chỗ ở của ngươi. Nhưng ta lại không tin rằng đó là chỗ ở của ngươi. Vì thân hình ngươi to lớn dường vậy làm sao có thể nằm trong một chỗ chật hẹp như kia được chứ? Bây giờ thì hai bên sẽ trở lại đúng nguyên vị trí cũ, ta sẽ xem xét và phân xử sau. Hổ tin rằng mình thắng nên hí hửng chui vào bẫy. Lập tức vị thần hạ cần bẫy xuống và mắng hổ: - Đồ khốn kiếp! Mày đã bội ước và lấy oán trả ơn đối với người đã cứu mày. Giờ thì mày đừng có mong ai cứu cho nữa. Và quay lại phía người học trò, vị thần nói: - Và đấy là một bài học rất quý cho ngươi! Cần phải tốt và nhân hậu đối với mọi người, nhưng trước hết phải nhớ rằng chớ có bao giờ tốt và nhân hậu đối với kẻ độc ác cả !
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-hoc-tro-va-con-ho" }
Hai bảy mười ba
Ngày xưa, ở huyện Hà-đông thuộc tỉnh Quảng có hai vợ chồng nhà nọ, chồng quen thói lấn lướt vợ, nhưng vợ cũng không phải tay vừa. Một hôm nhà có giỗ. Người vợ nấu một nồi chè để cúng. Chè nấu xong, vợ lần lượt múc vào bát. Nhưng vì mâm ở bếp còn bận, nên vợ cứ hai tay hai bát bưng lên cho chồng bày lên bàn thờ. Cứ như thế, vợ lần lượt bưng đến bảy chuyến mới hết. Vợ lẩm bẩm một mình: - Bảy chuyến vị chi là mười bốn bát. Chồng xếp tới xếp lui mấy bát chè vào lòng mâm trên bàn thờ. Cuối cùng thấy thừa một bát, xếp gọn thế nào cũng không để lọt. Bụng bảo dạ: - Chẳng lẽ lại đặt nó lẻ loi ra ngoài mâm. Thôi, sẵn dịp vắng vẻ không có ai, ta hãy nếm thử, chắc vợ mình cũng chẳng đếm đâu mà biết. Nghĩ vậy nhân lúc vợ còn loay hoay sau nhà, chồng bèn lấy bát chè thừa đưa ra sau bàn thờ húp lấy húp để. Húp xong, hắn ra bể cạn rửa, rồi đi vào bếp úp cái bát sạch vào rổ. Đoạn trở lên nhà trên làm nốt công việc khác. Đến chừng cúng xong, bưng mâm chè xuống, người vợ ngẩn ra khi thấy đếm đi đếm lại mấy lần vẫn cứ thiếu một bát chè. Vợ tự hỏi: - Quái, chắc là chồng ta ăn, hay là trong khi xếp làm đổ mất một. Ta phải tìm cho ra lẽ mới được. Nghĩ vậy vợ bèn hỏi chồng: - Tại sao lại thiếu một bát chè? Chồng làm ra vẻ tự nhiên: - Ủa, mình bưng lên bao nhiêu thì tôi bày ra bấy nhiêu đó. Vợ phân trần: - Tôi bưng lên cả thảy là bảy lần, mỗi lần hai bát, hai bảy mười bốn. Đầu đuôi là thế. Tại sao bây giờ chỉ còn mười ba? Chồng không ngờ vợ đã có đếm hằn hoi, nhưng chẳng lẽ bây giờ lại nhận là mình ăn thì đâm ngượng. - Nhận mình ăn cũng chẳng sao, nhưng có nhận thì nhận ngay từ đầu, để đến bây giờ đã muộn. Bèn làm mặt giận: - Tôi biết đâu đấy. Hay là mình nghi cho tôi ăn chăng? Vợ không nhịn được: - Còn gì nữa. Trong nhà lúc ấy chỉ có tôi với mình, con thì đi vắng. Vậy chẳng lẽ ai vào đây mà nuốt mất bát chè. Đến đây chồng đỏ mặt tía tai, sừng sộ: - Mày bảo tao ăn thì tang chứng đâu? À quân này láo! Nói rồi chồng sấn lại. Vợ không xuống nước, nhất quyết đổ riệt cho chồng ăn vụng. Thế là một cuộc xô xát xảy ra giữa hai người, đi liền theo là mâm bát đổ vỡ, bàn ghế xiêu vẹo. Bữa giỗ vì thế không những mất ngon mà còn thiệt hại cả đơn lẫn kép. * * * Thấy mình nắm chắc phần đúng trong tay, không ngờ kết quả lại đến thế, người vợ vừa đau thân vừa giận đời, bèn phát đơn kiện lên quan. Biết vậy, người chồng từ chỗ hung hăng chuyển sang lo lắng. Hắn nghĩ bụng: - Nếu nó làm ra chuyện thì chuyến này không những xấu hổ với bà con làng xóm mà rồi đây còn khó ăn khó nói với con cái trong nhà! Hắn bèn mang lễ vật lên lo lót quan, xin quan gỡ cho để khỏi "mất mặt". Nhìn món lễ vật hậu hĩ, quan gật gù: - Được được, ta sẽ lo cho êm thắm. Hôm ra trước công đường, sau khi nghe nguyên cáo trình bày, quan phán: - Giỗ là giỗ ông bà nhà nó, không lẽ nó lại thất lễ với ông bà. Hơn nữa hai bảy không nhất thiết là mười bốn, cũng có khi hai bảy mười ba kia đấy. Này, hãy ngước mắt nhìn những đường đòn tay trên mái công đường mà xem. Mái trước bảy đường, mái sau cũng bảy đường. Vậy mà hai bảy chỉ có mười ba thôi. Đó, cả vợ lẫn chồng hãy mở to con mắt thử đếm xem có đích là hai bảy mười ba không ? Vợ chồng cùng ngửa mặt lên nhìn. Chồng chịu là quan có tài. Nhưng vợ thì còn muốn cãi lại. Quan đập bàn phán tiếp: - Thánh nhân có nói: "Phu xướng phụ tùy". Vợ chồng chúng bay hãy dẫn nhau về ăn ở hòa thuận, đừng có bày điều kiện tụng làm cho thiên hạ chê cười. Lần này ta tha cho, lần sau tái phạm ta sẽ phạt nặng. Nói rồi thét lính đuổi cả vợ lẫn chồng ra khỏi công đường. Khi họ về đến nhà, bà con xóm giềng tới hỏi thăm. Giữa lúc người chồng hoa chân múa tay có vẻ thích chí, thì người vợ than: Nực cười ông huyện Hà-đông, Xử vị lòng chồng hai bảy mười ba. Không nghe tan cửa hại nhà, Nghe thì hai bảy mười ba cực lòng . Người ta còn nói câu tục ngữ: "Cha mẹ nói oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa" là do truyện trên mà ra.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-bay-muoi-ba" }
Cái chết của bốn ông sư
Xưa có một người làm nghề kiếm mật ong và sáp nuôi thân. Hàng ngày ông ta đeo trên lưng một chiếc gùi, tay cầm cán có buộc bùi nhùi và giẻ đi vào rừng tìm tổ ong. Một hôm đang đi trên một con đường vắng, ông bỗng nghe ong kêu vù vù, ngẩng nhìn lên thì thấy một tổ ong mật. Mừng quá, bèn như thường lệ, ông đốt bùi nhùi rồi trèo lên cây đuổi ong đi để gỡ lấy sáp và mật. Nhưng tổ ong hôm ấy lớn quá, ông thu được một gùi đầy ắp nên không thể xuống được, vì cây vốn đã khó trèo, lại sợ không khéo đổ hết mật thì uổng. Đành phải ngồi lại ở một cành chẽ ba, đợi có người đi qua nhờ họ giúp cho xuống. Đợi đến trưa, ông bỗng nhác thấy bóng một con voi sắp sửa đi tới, trên đầu có một thằng nài. Người kiếm mật mừng quá, bèn nói lớn: - Anh nài ơi anh nài! Vì tôi lấy được nhiều mật và sáp mà cây lại khó xuống, anh hãy làm ơn đỡ tôi một tí, tôi sẽ chia cho một nửa về mà dùng. Từ xa, anh nài đã nhìn thấy thế cheo leo của người kiếm mật, liền nghĩ ngay một cách giúp bèn đáp: - Ông hãy leo nhanh ra phía ngoài nhánh cây, hai tay nắm lấy nhánh rồi buông thõng chân xuống, tôi đứng ở lưng voi, tôi sẽ đỡ ông. Mau lên! Nói đoạn anh nài bèn đứng dậy chuẩn bị tư thế chờ voi đến nơi để kịp thời đỡ người kiếm mật. Nhưng khi hai tay anh nài nắm lấy hai chân người kiếm mật, thì con voi tưởng là giục nó đi nhanh, bèn cứ thẳng đường rảo bước. Thành thử nài ta hổng chân, đã không đỡ được người kiếm mật mà lại đu người vào chân ông ta. Về phía người kiếm mật đã đeo một gùi nặng sau lưng lại đeo thêm một khối nặng ở dưới chân, bên càu nhàu: - Ối! Anh hãy buông tôi ra mau, không có nhánh cây mà gãy, cả hai rơi xuống gãy cổ chết hết bây giờ. Nài ta cũng nổi xung nhưng nén giận, nói: - Buông sao được! Buông thì què mất còn gì. Tôi không ngờ vì ông mà phải thế này. Thôi ông hãy níu cho chắc đừng có buông mà chết cả đôi. Thế là cả hai rên rỉ trên cây cao, riêng nài ta vẫn bám chặt vào hai chân người kiếm mật. May sao, chỉ chừng giập bã trầu, bỗng có bốn ông sư đi làm đám về qua đó. Thấy họ, hai người mừng rỡ như gặp cứu tinh, bèn nói chõ xuống: - Bạch các thầy, xin các thầy hãy thương lấy chúng tôi. Cứu được một người phúc đẳng hà sa. Có sáp đầy gùi đây, chúng tôi xin dâng tất cả để cúng Phật. Bốn nhà tu hành "phát bồ đề tâm", vội nghĩ cách cứu hai người bị cảnh nguy cấp. Họ đều bối rối không biết tính thế nào. Sau cùng có một người hiến kế giở tấm vải bọc quyển kinh ra, buộc mỗi góc tấm vải vào cổ một người, và ai nấy đều đứng ưỡn cổ ra phía sau, thủ thế dưới chỗ nhánh cây cho hai người kia nhảy xuống đúng vào giữa tấm vải. Như vậy dù vải có rách thì cũng không làm cho họ đau đớn, ít nhất là khỏi chết oan mạng. Nghe nói, cả ba vị sư kia đều lấy làm phải, và họ bắt tay vào làm ngay. Xong, họ ra hiệu. Trên cây cả hai người buông tay rơi trúng đích, lăn vào lòng tấm vải. Nhưng thật là bất ngờ. Vì quá nặng, nên bốn cái đầu trọc va vào nhau quá mạnh, chết ngay tại chỗ, không kịp la. Hai người kia thấy vậy, nghĩ đến gông cùm đang chờ mình ở công đường, nên không ai bảo ai, trốn ngay tắp lự. Gần chỗ xảy ra tai nạn không xa, có một cái quán bán rượu. Chủ quán là một người đàn bà, nhưng hôm ấy lại đi vắng, mãi đến quá trưa mới về. Thấy có bốn cái xác sư ông chết ở gần quán của mình, thì hồn vía mụ lên mây, không phải vì sợ hồn ma quấy phá, mà sợ rồi đây quan nha lính tráng hương chức làm tình làm tội, khó lòng sống nổi. Nghĩ vậy mụ quán đem hết can đảm và sức lực lần lượt lôi bốn cái xác kia về phía sau quán để tìm cách chôn đi cho biệt tích. Khi mụ kéo xong cái xác thứ tư thì ngoài cửa bỗng có một người đi vào. Mụ quán xanh mắt tường việc của mình đã bại lộ. Vừa ló mặt ra nhìn, mụ mới biết đó là một lão sãi, khách hàng quen thuộc vẫn hay đến quán mụ để thỉnh thoảng làm vài chén ấm bụng. Chợt nghĩ ra được một kế, mụ quán ân cần rót cho khách một chén rượu ngon, rồi làm bộ rầu rĩ, nói: - Tôi vô phúc có một đứa cháu trai mấy lâu đi ở với người ta, rồi nó mang bệnh trở về. Tôi đã cạo đầu cho nó để may ra nhờ Phật tổ tế độ cho khỏi tiền oan nghiệp chướng, không ngờ ngày hôm qua nó nhiễm gió độc mà chết. Tôi già cả chẳng biết tính liệu làm sao, thật là cơ khổ. Sãi ta vốn quen nghề chôn cất thuê, liền đáp ngay: - Khó gì việc ấy. Chỉ một vài nhát thuổng là xong, tôi sẽ giúp cho mụ. Còn công xá thì mụ cho tôi vài bầu rượu là đủ. Mụ quán không từ chối tấm nhiệt tình của sãi, bèn nói: - Lão cứ giúp tôi chu tất, rồi muốn uống bao nhiêu cứ đến đây mà uống, tôi có tiếc gì. - Thế thì mượn cho tôi một cái cuốc, một cái thuổng, chập tối tôi sẽ đến. Chập tối lão sãi đến rất đúng hẹn. Mụ quán đã lấy chiếu bọc cái xác thứ nhất bó thành một bó. Lão vác lên vai rồi cầm cuốc thuổng dò dẫm đi lên cồn hoang quen thuộc sau khi phải qua một cái cầu tre gập ghềnh. Nhưng khi lão chôn xong, vừa về quán đã thấy mụ quán đang ngồi khóc trước một bó chiếu đặt giữa quán. Lão chưng hửng: - Lạ chưa, lại còn xác nào đây? Mụ mếu máo nói: - Lão chưa biết, cháu nó vốn mồ côi cha mẹ nên rất mến tôi. Hồi nó đi ở, tôi phải la mắng năm hồi bảy chập, nó mới chịu ra đi. Nay nó chết oan, không nỡ bỏ tôi, lại tìm cách lộn trở về. Ôi cháu ơi là cháu? Lão sãi sờ vào đầu quả thấy cái đầu trọc, thì tỏ vẻ tin, nói: - Lạ quá! Thôi được, tôi sẽ mang đi xa hơn và đào sâu hơn, coi thử nó có về được nữa hay không? Thế rồi cầm bát rượu của mụ quán trao cho, lão làm một tợp rồi vác bó chiếu cắm cổ ra đi. Nhưng lúc lão ta về quán lần thứ hai thì lại đã thấy một bó chiếu đặt nằm giữa quán như trước. Lão không cón hiểu thế nào nữa, hỏi dồn: - Lạ chửa. Nó vẫn còn về sao? Mụ trả lời nước mắt giàn giụa: - Tôi đã dặn rồi, không đào sâu chôn chặt thì nó còn làm khổ cả tôi và ông. Cháu tôi thiêng lắm. - Thôi được, lần này tôi chôn thì không thể nào về được nữa. Nói rồi lão lại vác bó chiếu lên vai ra đi. Nhưng lần thứ ba trở về lão lại thấy lù lù giữa quán một bó chiếu như cũ. Lão dụi mắt nhìn cho rõ. Vẫn cái đầu trọc lấp ló trong chiếu. Lần này mụ quán làm mặt giận, nói: - Tôi tưởng lão đã quen với việc đó, có ngờ đâu cứ để nó lộn về mãi thế này. Thật là cháu tôi làm tội làm tình lão mà rồi đêm nay nó còn làm phiền tôi đến đâu. Sãi ta tuy bực hết sức nhưng cũng dịu giọng: - Cả đời tôi chôn biết bao nhiêu là xác rồi, chưa bao giờ tôi thấy lạ lùng như hôm nay. Thôi mụ bớt giận. Để tôi chôn lần nữa coi. Nếu nó còn về thì tôi thề không làm cái nghề này nữa. Nói rồi lão lại vác bó chiếu đi. Đến một nơi xa, lão đào lỗ sâu quá đầu người rồi mới bỏ bó chiếu xuống, lại nện đất thật chặt mới ra về. Khi lão về đến cầu, tuy đêm hôm tối tăm, lão vẫn nhận ra một cái bóng như bóng người đang ngồi xổm ở mép cầu. Tiến lại gần: lão đã nhìn thấy thấp thoáng một cái đầu trọc. Lão chép miệng: - "Chết thật. Cả đêm nay, tao những khổ sở về mày. Mày có quyến luyến bác mày cũng phải nể tao với chứ. Tao đã vì mày đào sâu chôn chặt đến bốn lần rồi, vậy mà bây giờ mày còn định làm tội làm tình như thế nào nữa?". Số là người ngồi ở cầu vốn là một chú tiểu đêm khuya ra ngồi phóng uế, không ngờ lại nhằm vào lúc lão sãi vừa chôn cái xác thứ tư trở về. Thấy có người tới, tiểu ta vội đứng dậy định đi, nhưng lão sãi đã cho một đạp lộn cổ xuống sông, vừa đạp lão vừa nói: - Tao mệt lắm rồi, thôi lần này cho mày xuống thủy phủ đi thôi.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cai-chet-cua-bon-ong-su" }
Rắn báo oán
Ngày ấy, trong một gò đất cây cối mọc um tùm ở làng Nhị Khê gọi là gò Rùa, có một con rắn mẹ sống với một đàn con. Con rắn làm tổ ở đó đã ngót một trăm năm, chỉ còn chờ ít lâu nữa là thành xà tinh có thể đi mây về gió, biến hóa huyền diệu. Vào thời ấy có một ông đồ họ Nguyễn mở trường dạy học trong làng. Thấy đám đất ở gò Rùa có mạch rất đẹp, trước mặt là đầm làm minh đường, sau lưng là gò làm án, ông đồ bèn xin làng cấp cho mình đám đất để dựng một ngôi nhà làm nơi tĩnh mịch dạy học. Được phép làng, một buổi chiều nọ trước khi tan lớp, thầy bảo trò: - Từ mai các con tạm nghỉ học một vài ngày rồi đến phát dọn hộ cho thầy đám đất bên gò Rùa kia. Nghe tin ông đồ sắp cho người đến phá phách chỗ ở của mình, đêm ấy rắn mẹ bèn đến báo mộng cho ông đồ biết. Ông đồ đang ngủ mơ màng thấy có một người đàn bà vẻ mặt hầm hầm đến sừng sộ: - Này ông kia! Nào ta có gây thù chuốc oán gì với nhà ngươi mà nhà ngươi lại toan phá nhà cửa của ta. Muốn tốt thì chớ có động đến, nếu không thì đừng hòng ăn ngon ngủ yên với ta đâu Nói xong quay ngoắt trở ra. Ông đồ giật mình tỉnh dậy thì trời đã sáng. Suy nghĩ mãi về giấc mộng lạ, ông chưa hiểu thế nào cả. Sực nhớ hôm nay là ngày học trò mình bắt tay khai phá đám đất hoang, ông cho rằng hẳn có ma quỷ gì ở đấy muốn ngăn cản không cho mình tới ở. Sợ tai vạ, ông đã toan bảo học trò ngừng tay, nhưng suy đi nghĩ lại, ông thấy không nên: - Ồ, mộng mị vô chừng, tội gì phải bận tâm cho mệt. Rồi đó ông đồ chống gậy đi đến khoảnh đất mới xem học trò làm việc. Lúc đến nơi thì thấy học trò đã dọn quang một đám khá rộng. Ông đồ hỏi: - Các con có thấy gì lạ không? Học trò đáp: - Thưa thầy, không có gì lạ cả. - Nếu có gì lạ hãy báo cho thầy biết nghe không. Đêm hôm sau con rắn lại báo mộng. Ông đồ đang mơ mơ màng màng, bỗng thấy người đàn bà hôm trước lại đến, tay bế ba đứa con nhỏ, nhưng lần này vẻ mặt thay đổi hẳn: - Xin nhà thầy hoãn cho ba hôm nữa, để cho đàn con tôi cứng cáp đã rồi sẽ xin đi. Thấy người đàn bà vật nài mấy lần, ông đồ động lòng trắc ẩn, nói: - Được, được, tôi sẵn lòng để cho nhà chị nán lại ít hôm. Sáng dậy ông đồ nghĩ mãi vẫn chưa hiểu ra thế nào. Ông bèn đi tới đám đất đang được phát dọn xem sao. Vừa đến nơi, người trưởng tràng đã chạy đến nói với ông: - Thầy ạ, vừa rồi có một con rắn lớn, tiếc rằng chúng con mới chém phải một nhát ở đuôi thì nó đã chạy mất. Trong hang có một ổ ba con rắn con, chúng con đều đánh chết cả. Ông đồ bèn hiểu ra, bèn tặc lưỡi ân hận: - Đúng là người đàn bà ở trong con rắn đã đến cầu khẩn với ta. Nhưng ta không kịp cứu bầy con nó như lời ta đã hứa. Lại nói đến con rắn mẹ tự nhiên bị chết mất cả đàn con lại bị thương tích nặng nề, thì căm tức ông đồ vô hạn. Nó quyết tìm dịp báo thù. Một tối trong khi ông đồ đang đọc sách ở một ngôi nhà vừa mới dựng xong, con rắn lẻn bò vào mái tranh, đến gần sát chỗ ông ngồi, toan cắn chết. Nhưng ông đồ vừa liếc thấy đã kịp hô hoán cho người nhà chạy lại. Rắn ta hoảng hốt bỏ trốn, chỉ kịp nhỏ xuống trang sách một giọt máu. Ông đồ kinh hãi nhìn lại trang sách thì thấy giọt máu nhỏ thấm tới tờ thứ ba. Thở dài, ông lẩm bẩm: - Chắc nó sẽ báo oán đến đời con cháu ta chứ không sai. * * * Mấy chục năm đã trôi qua. Con rắn ẩn nấp trong chằm lúc này đã lành vết thương và đã trở thành xà tinh. Nhớ lại món nợ cũ, nó bèn hóa thành một người con gái rất đẹp đi tìm kẻ thù. Lúc này ông đồ đã mất, con ông cũng lưu lạc chết ở quê người, chỉ còn cháu bé lúc này là Nguyễn Trãi bấy giờ đang làm quan đại thần ở kinh đô, chức cả quyền cao, vua quan đều trọng vọng. Một hôm, Nguyễn Trãi nhân thong thả đi chơi chợ ở phía ngoài kinh thành. Con rắn biết tin, bèn hóa thành một người con gái gánh một gánh chiếu đi chợ bán. Cho nên, lúc ông vào đến chợ, đã trông thấy một cô gái trẻ tuổi đang đặt gánh chiếu đứng đọc tờ cáo thị dán ở cổng. Thấy người con gái bán chiếu ăn mặc nghèo khổ mà mặt mũi đẹp tựa trăng rằm, lại dáng điệu thanh tú, chẳng có gì là lam lũ, ông sai dừng cáng, bảo người lính hầu gọi cô tới và hỏi: - Ả tên là gì, con cái nhà ai, tại sao lại làm nghề này? Nàng đáp: - Thiếp tên là Nguyễn Thị Lộ, vì bố mẹ đã mất cả không biết nương tựa vào ai, nên đi ở với một người dệt chiếu. - Làm sao lại biết chữ? - Hồi còn nhỏ, cha mẹ thiếp có cho theo đòi bút nghiên. - Nếu vậy thì ta có bài thơ này, thử họa lại xem: Ả ở đâu, bán chiếu gon? Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn? Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi? Đã có chồng chưa? Được mấy con? Cô gái liền đọc bài thơ sau: Tôi ở Tây-hồ bán chiếu gon Cớ chi ông hỏi hết hay còn Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ Chồng còn chưa có, có chi con. Nguyễn Trãi tấm tắc khen: - Chao ôi! Tài này thật nàng Ban, ả Tạ dễ không sánh kịp! Ta đang cần một người hầu bút nghiên, chẳng hay nàng có muốn bỏ nghề bán chiếu, về ở với ta trong phủ không ? Biết là mưu đã dắt, cô gái gật đầu. Sau lần đi dạo chợ ấy, Nguyễn Trãi đưa Thị Lộ về làm hầu gái. Càng ngày ông càng yêu vì nết, trọng vì tài. Với ông, Thị Lộ vừa là một người vợ, vừa là một người bạn văn chương. Sắc đẹp của nàng làm cho cả phủ nổi ghen. Nhưng nàng lại rất khôn ngoan, biết lấy lòng tất cả mọi người. Đối với Nguyễn Trãi thì hết sức chiều chuộng, lại giúp ông thảo các giấy tờ việc quan rất trôi chảy, nên ông rất yêu dấu. Tiếng đồn về người hầu gái của Nguyễn Trãi chẳng mấy chốc vang đi khắp nơi. Buổi ấy nhà vua đang cần một người hầu giảng sách, nghe tiếng Thị Lộ tài sắc hơn đời, vua bèn buộc Nguyễn Trãi dâng luôn cho mình. Thị Lộ lại trổ tài và hết mực chiều chuộng ông vua trẻ. Càng ngày vua càng yêu mến không rời, phong cho làm nữ học sĩ. Một hôm, mẹ vua bị bệnh đau mắt rất nặng, thái y viện không có cách gì chữa khỏi. Nghe tin này, Thị Lộ bèn tâu vua: - Thiếp ngày xưa, ngoài việc học chữ còn võ vẽ đôi chút về nghề y. Nếu được phép bệ hạ, thiếp xin thử chữa cho hoàng thái hậu xem sao. Vua không ngờ nữ học sĩ lại lắm tài nghề, bèn y cho. Thị Lộ đến nơi, chỉ dùng lưỡi mình liếm vào con mắt của mẹ vua, tự nhiên bệnh đau mắt của mẹ vua khỏi hẳn, không cần tra thuốc men gì. Sau việc ấy vua lại càng yêu dấu và tin cậy. Một hôm, vua bị bệnh đau lưỡi. Sực nhớ tới Thị Lộ, nhà vua bèn đòi nàng vào cung để chữa cho mình. Thấy đúng là cơ hội báo thù đến nơi, Thị Lộ bèn bảo nhà vua lè lưỡi cho mình chữa. Vua thè lưỡi ra, rắn liền cắn vào lưỡi một cái. Vua ngã chết ngay không kịp kêu lên một tiếng. Triều đình lập tức bắt giam Thị Lộ và bắt giam luôn cả họ nhà Nguyễn Trãi để xét xử. Chẳng mấy chốc mà cái án giết vua đã thành.Thị Lộ bị tội trảm quyết. Khi đao phủ sắp sửa đem xử tù, thì nàng xin phép được xuống sông tắm gội lần chót. Người ta y theo lời xin, cho một người lính gác tù đi theo canh giữ. Nhưng khi vừa bước xuống nước, rắn lập tức trở lại nguyên hình và trườn xuống sông mất tích. Người lính gác để sổng mất nữ tù liền bị bắt giam và theo luật phải chết thay. Vụ án Thị Lộ, vì chính phạm trốn mất, nên búa rìu dư luận tự nhiên giáng xuống đầu cả họ Nguyễn Trãi. Theo lệnh triều đình, bà con thân thích của ông bất kể nam nữ già trẻ, tất cả đều bị xử giáo. Riêng có Nguyễn Trãi và người lính gác tù thì bị đem đi chôn sống. Người ta đào một cái hố, đẩy phạm nhân xuống rồi lấp đất lại. Đó là cách hành hình kinh khủng nhất của triều đình. Hôm thi hành bản án, người lính gác là kẻ chịu cực hình đầu tiên. Khi sắp sửa đến lượt Nguyễn Trãi, bỗng có một người đàn bà vợ anh lính gác, ở đâu chạy tới nhảy chồm lên mộ chồng gào khóc thảm thiết, đòi một hai chết theo cho trọn đạo. Trước cảnh thương tâm, Nguyễn Trãi khuyên chị: - Ta vì một người thiếp mà chết oan cả họ, còn chồng nàng thì lại vì ta mà bị thiệt thân. Thôi, nàng hãy coi đó là số mệnh, đừng khóc nữa. Hãy ngửa bàn tay cho ta ghi lại một chút dấu tích. Sau này nếu có việc gì thì đừng quên ta! Khi người đàn bà ngửa tay ra trước mặt ông, ông bèn nhổ vào lòng bàn tay một bãi nước bọt. * * * Vợ người lính gác vừa hứng lấy bãi nước bọt thì bỗng nhiên rùng mình cảm động. Từ đấy nàng có mang, đủ chín tháng mười ngày sinh được một người con trai rất khôi ngô. Nàng đặt tên là Anh Vũ. Và nghĩ rằng đó là dấu tích của vị đại thần bị chết oan, nên tuy mình họ Phạm, nàng cũng khai cho con họ Nguyễn. Khi con lớn khôn, nàng cố gắng cho nó đi học. Anh Vũ thông minh, học chóng tấn tới. Năm Anh Vũ hai mươi tuổi cũng là năm có lệnh ân xá cho cả nhà Nguyễn Trãi, vì đức hoàng đế mới lên ngôi đã thấu rõ mối oan tày trời của bậc công thần. Tất cả những của cải, ruộng đất, nô tỳ trước đây triều đình tịch thu đều trả lại cho dòng dõi của ông. Nhưng dòng dõi của Nguyễn Trãi thì chẳng còn một ai. Thấy thế, vợ người lính gác bèn đưa Anh Vũ đến kinh thành đánh trống đăng văn. Nhà vua cho gọi vào. Trước sân rồng, nàng kể lại cho vua nghe mọi việc kể từ lúc Nguyễn Trãi nhổ bãi nước bọt vào tay đến lúc mình nuôi con khôn lớn. Vua nghe đoạn trầm ngâm một hồi, rồi phán rằng: - Đúng đây là dấu tích của Nguyễn Trãi. Chưa nói đến sự hiển ứng, chỉ xem nét mặt cũng phảng phất giống vị công thần. Anh Vũ bèn được coi là con đẻ của Nguyễn Trãi và được bổ làm quan. Càng ngày lòng vua thương xót vị đại thần chết oan càng dồn vào Anh Vũ. Sau một thời kỳ bước dần lên nấc thang danh vọng, Anh Vũ được cử đi sứ Trung Quốc vì nhà vua biết chàng không những có tài văn chương mà còn có tài hùng biện. Lại nói chuyện con rắn từ ngày báo được thù cũ và trốn thoát thì nó ngao du trên mọi ngả sông hồ, không có chỗ ở nhất định. Một hôm, nghe tin dòng dõi của Nguyễn Trãi vẫn còn, lòng căm tức của nó lại bừng bừng bốc lên. Lúc thuyền sứ bộ qua hồ Động Đình thì bỗng dưng mọi người thấy một con rắn lớn đuổi theo thuyền; đuôi nó như cột buồm quẫy sóng rất dữ làm cho thuyền tròng trành cơ hồ muốn chìm nghỉm. Cả đoàn sứ bộ và thủy thủ đều sợ xanh mắt. Một lúc sau, con rắn vừa lội theo thuyền vừa ngóc đầu lên khỏi mặt nước réo tên Anh Vũ. Thấy vậy, Anh Vũ biết là món nợ của tổ tiên hãy còn dai dẳng chưa thôi. Ông phải tính liệu một bề để cứu lấy mọi người trên thuyền. Suy nghĩ một chốc, ông ra đứng ở mũi thuyền nói to: - Hỡi rắn thần, nghe ta nói đây! Hãy để cho ta làm tròn sứ mạng của nhà vua. Xong việc nước, ta sẽ về đây nộp mình. Nói đoạn tự nhiên sóng êm, gió lặng. Con rắn đã biến đi mất. Mấy tháng sau, công việc giao thiệp đã xong, thuyền sứ bộ lại trên đường về qua hồ Động Đình. Rắn lại hiện ra đằng mũi thuyền sứ réo tên Anh Vũ. Sau khi dặn dò sứ bộ mọi điều, Anh Vũ cầm một con dao nhọn vào tay và nói: - Tôi phải xuống để báo thù cho cha tôi! Đoạn từ mũi thuyền, chàng lao thẳng xuống mặt hồ. Cả đoàn sứ bộ nhìn theo ứa nước mắt khi thấy vị chánh sứ trẻ tuổi của mình một đi không trở lại. Nhưng lúc ấy, bọt tung sóng vỗ, rồi máu đỏ lênh láng trên mặt nước
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ran-bao-oan" }
Hai con cò và con rùa
Ngày trước, có một người đàn bà rất mực kiêu căng và chua ngoa. Hễ giận người nào hay gặp việc gì trái ý là bà ta nói cạnh nói khóe chửi bới không tiếc lời, cố gào đến tận tam đại người ta cho được mới nghe. Khi người đàn bà ấy chết, Diêm vương cho đầu thai làm một con rùa nhỏ. Con rùa ấy từ lâu sống một mình ở ao sen. Một năm kia trời làm đại hạn. Ao sen nước cứ khô dần cho đến lúc chỉ còn một vài vũng bùn, sắp cạn. Một hôm, có hai con cò ở đâu tới sà xuống ao kiếm ăn. Chúng nó mới lội bì bõm một lúc mổ được vài ba con tép riu, thì bỗng rùa bắt gặp. Sợ cò ăn hết thức ăn của mình, rùa bèn ra đứng trước cửa hang chửi ầm lên. - Đứa nào đấy ? Muốn tốt thì xéo ngay đi, không có bà ra bà vặt lông bây giờ. Hai con cò thấy rùa chửi bới thì không vui nhưng cũng đấu dịu, kiếm chuyện làm quen để rùa khỏi làm lôi thôi. Cho nên chúng làm bộ vui vẻ: - Ủa, chị rùa, chị cũng ở đây sao? Chúng tôi không đến tranh ăn của chị đâu. Chúng tôi đến đây muốn kết bạn với chị, chúng ta sẽ cùng giúp nhau kiếm ăn trong thời buổi khó khăn này. Rùa đáp rất xẵng: - Thì thôi! Bạn với chả bè. Tôi đây từ nhỏ đến lớn một thân một mình cũng sống được. - Nhưng mà chúng tôi cũng đến báo cho chị và bà con ở đây biết một tin: ao này có thể khô cạn không còn gì mà ăn nữa. Rùa nghe nói thế lại càng nổi giận, đáp: - Không có gì ăn thì kệ xác chúng tôi có được không? Ai bảo các người nhúng mũi vào công việc của người khác làm gì. - Chị rùa, chị đừng vội nóng! Chúng tôi bay từ xa tới đây qua bao nhiêu đường đất, có nhiều vũng nước đầy ăm ắp, không thiếu gì thức ăn ngon lành, chứ chúng tôi có cần gì kiếm ăn ở nơi khô rông rốc như thế này đâu. Sở dĩ chúng tôi đến đây là để làm quen với chị và nhân thể báo tin cho chị biết để kịp lo liệu với nhau. Trời có thể còn nắng lâu dài, và ao này thì nhất định rồi sẽ không còn một tý gì mà ăn nữa. Rùa bấy giờ chuyển giận thành lo. Rùa vội hỏi cò: - Thế thì tôi phải làm thế nào mà sống đây? - Nếu chị muốn, chúng tôi sẽ dẫn chị tới một nơi cách đây không xa, nhưng nước thì thật là ê hề, cây cối xanh tươi, thức ăn không bao giờ cạn. - Tôi không biết bay thì làm sao mà đi đến đấy được? - Có khó gì việc ấy. Chị cứ cắn thật chặt vào giữa một cái gậy, còn chúng tôi thì cắn vào hai đầu gậy. Cứ thế mà bay thì có thể đưa chị đi đến cùng trời cuối đất cũng được. Nhưng chị phải nhớ là dọc đường hãy ngậm miệng đừng nói, dù có thấy gì lạ hay có ai kêu gọi, trêu chọc, cũng cứ một mực làm thinh, đừng có mở miệng mà rơi xuống chết oan đó. Nghe bùi tai, rùa ta cám ơn hai con cò và làm theo. Quả nhiên hai con cò vỗ cánh mang được rùa lên không trung. Lúc bay qua một cái quán nước, những người ngồi ở quán trông thấy cảnh tượng lạ mắt, vội bảo nhau: - "Ô kìa, có hai con cò tha một cục cứt trâu". Rùa giận lắm, nhưng nhớ tới lời cò dặn, không dám nói gì hết. Một lát sau, bộ ba bay qua một cái chợ. Những người đi chợ thấy vậy bèn reo lên: - "Kìa có hai con cò tha một con chó chết!" Lần này rùa nổi giận xung thiên nên không kìm giữ được thói cũ của mình, định chửi lại một câu thật đau, nhưng vừa mở miệng thì đã rơi bịch xuống đất, bị người đi chợ bắt về ăn thịt. Hai con cò thấy rùa chết bảo nhau: - Tội nghiệp, chị ấy không chịu nghe lời. Cũng đáng kiếp cho cái tật ngoa mồm. Thôi bây giờ chúng ta có thể trở lại ao sen kiếm ăn mà không sợ ai chửi bới nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-con-co-va-con-rua" }
Sự tích đền Cờn
Ngày xưa có một ông vua một nước láng giềng tên là Đế Bính. Vua lên ngôi giữa lúc nước nhà có giặc ngoài đột nhập bờ cõi. Quân giặc rất đông và rất mạnh. Quân đội nhà vua chống chọi không nổi đành chịu thất bại. Vì thế chúng tiến rất nhanh, đi đến đâu cũng như vào chỗ không người. Chẳng bao lâu chúng đã chiếm lấy kinh thành và ruổi về phương Nam. Vua tôi Đế Bính chỉ còn đem nhau chạy dài. Trong cơn nguy cập, một người trung thần đưa vua và hoàng hậu lên thuyền kéo buồm chạy trốn ra biển khơi. Không ngờ đoàn thuyền đi được ba ngày thì một trận bão nổi lên đánh đắm tất cả. Những người trên thuyền đều không tránh khỏi tai nạn, trong đó có Đế Bính. Chỉ còn hoàng hậu và hai người con gái bấu vào được một mảnh ván đành để mặc cho nước trôi sóng giạt. * * * Hồi ấy ở cùng cửa Cờn xứ Nghệ có một ngôi chùa cổ dựng trên một hòn đảo. Trong chùa có một sư ông trụ trì. Là người quyết chí tu hành, nên sư ta tìm đến hòn đảo hẻo lánh này để rũ sạch bụi trần, bạn cùng kinh kệ. Hôm ấy trời về chiều, sư đang đi tản bộ quanh chùa, miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay lần tràng hạt. Thốt nhiên khi nhìn ra ngoài khơi, sư trông thấy thấp thoáng có một vật gì bập bềnh trên mặt sóng. Sư cố nhìn mãi để đoán xem nó là cái gì. - Có thể là người đi biển bị nạn. Sau trận bão vừa qua có biết bao nhiêu là ván và đồ đạc trôi vào bờ. Ta phải chèo thuyền ra xem, may ra có cứu được một mạng người nào thì thật là "phúc đẳng hà sa". Nghĩ vậy, sư vội vàng xuống bãi, cởi dây buộc thuyền rồi chèo ra khơi. Chỉ một chốc sau, sư đã đến gần vật lạ. Thì ra đó là ba người đàn bà đang bám vào một mảnh ván. Lập tức, sư đỡ từng người một lên thuyền của mình. Nhìn cách ăn mặc, sư đoán họ là những người thuộc dòng quyền quý. Khi thuyền chèo về đến đảo, một mình sư lần lượt vực từng người lên chùa rồi đốt lửa cho họ sưởi, lại nấu cháo cạy miệng đổ vào. Sự chữa chạy tận tình của nhà sư không uổng. Khoảng độ canh năm, cả ba người đàn bà dần dần tỉnh lại. Sư chăm sóc vẫn không chút ngơi tay. Đến sáng hôm sau, cả ba người đều đã ngồi dậy được. Họ cho biết mình là ba mẹ con, đi thuyền không may bị bão. Tuy giấu kín tung tích nhưng họ không giấu được vẻ xinh xắn và lịch sự. Khi biết rõ ai là ân nhân của mình, ba người đàn bà cúi rạp xuống lạy tỏ ý cảm ơn. Nhà sư vui vẻ nhường cho họ chỗ nằm trong tăng phòng, rồi lui ra ngoài nghỉ cho lại sức. Ba ngày sau, sư vẫn hết lòng chăm sóc ba người bị nạn. Họ đã dần dần đi lại được và ăn trả bữa. Có bao nhiêu lộc chùa, sư đều lấy ra khoản đãi. Sư còn chèo thuyền vào đất liền để tìm những thức ăn mà nhà chùa không có. Mười lăm ngày trôi qua. Giờ đây sức khỏe của họ đã trở lại bình thường. Họ chỉ hàng ngày ngồi than khóc. Nhưng về phía nhà sư thì trong lòng không được bình thản như trước. Chưa bao giờ sư được nhìn thấy những người đàn bà mày ngài mắt phượng xinh đẹp đến thế, lại đã từng được gần gũi đụng chạm nên sư đâm ra thẫn thờ. Đã nhiều lần sư đọc kinh cầu nguyện suốt buổi, cố tránh sự cám dỗ, nhưng công trình hơn ba mươi năm tu luyện cũng không thể kìm giữ được lòng ham muốn. Vì vậy việc trả họ vào đất liền để trao cho quan sở tại là việc dễ làm nhưng sư vẫn dùng dằng không quyết. Giữa một ngôi chùa trơ trọi, xung quanh là trời với nước, bên cạnh lại có ba người đàn bà yếu đuối và cô đơn, sư cho đó là một cơ hội hiếm có. Rồi một đêm kia, nhân lúc hai cô gái ngủ say, sư bèn đến bên cạnh người thiếu phụ... Nhưng người đàn bà đã nghiêm nét mặt lại: - Ôi! Sao lạ thế? Anh là người cứu sống mẹ con chúng tôi, mẹ con chúng tôi suốt đời không quên công ơn to lớn đó. Nhưng còn việc đồi bại thì đừng có hòng! Tôi là gái có chồng và cũng biết nhân luân đạo lý. Còn anh là một kẻ ăn chay niệm Phật, lẽ nào nói đến chuyện sắc dục mà không thẹn miệng. Nghe lời đầy lẽ phải, sư ta lủi thủi đi ra. Nhưng đến khuya, sư lại mò vào, tay cầm một con dao nhọn: - Nếu nàng không chịu, ta sẽ giết chết cả ba mẹ con rồi vứt xác xuống biển. Lời dọa của sư vẫn không làm cho người thiếu phụ sợ hãi. Nàng đánh thức hai con gái dậy và nói to: - Nếu anh cứ cố tình phạm vào người mẹ con chúng tôi thì sẽ phải hối hận. Mẹ con chúng tôi thà chết chứ không chịu nhục! Thấy ba người đàn bà quyết tâm kháng cự và toan đập đầu vào cột chùa, nhà sư đâm ra hối hận. Sư bèn ngăn họ lại rồi nói: - Đừng làm thế! Đừng làm thế! Chính ta mới là kẻ đáng chết. Chao ôi! Ta có ba tội đáng chết. Đi tu mà chẳng trót đời: đó là một. Ép nài người đàn bà sa cơ lỡ vận: đó là hai. Ép nài không được lại toan hành hung: đó là ba. Ôi! Ba tội như thế, ta đáng chết lắm! Nói đoạn sư cầm ngược lưỡi dao đâm thẳng lên cổ. Thấy cái chết của ân nhân diễn ra quá đột ngột, người đàn bà tỏ ra hết sức hối hận. Nàng gục xuống bên cái thây ma mà than khóc: - Ôi! Ta nhờ có anh mà sống. Thế mà anh lại vì ta mà chết. Vậy ta còn mặt mũi nào mà sống lấy một mình nữa. Trong một cơn xúc động đến cực điểm, bà liền chạy ra khỏi chùa rồi nhảy xuống biển tự vẫn. Thấy mẹ chết, hai cô con gái than khóc rất thảm thiết rồi cũng nhảy xuống biển chết theo. * * * Mấy ngày sau, những người dân chài ở cửa Cờn vớt được xác ba người đàn bà. Nhìn kiểu ăn mặc và nhờ những tin tức nhận được, các quan chức cũng đoán ra đó là ba mẹ con bà hoàng hậu Đế Bính. Cũng vào lúc ấy, những người dân địa phương còn tìm thấy xác sư ông tự tử trong ngôi chùa trên đảo. Quan sở tại sau khi mở cuộc điều tra, dần dần cũng vén được tấm màn bí mật bao phủ lấy câu chuyện éo le trong ngôi chùa cổ. Về sau, để kỷ niệm những người đàn bà tiết liệt, dân chúng đã tạc tượng ba mẹ con, lập đền thờ gọi là đền Cờn. Trong đền cũng có cả tượng nhà sư để nhắc đến một kẻ vừa là ân nhân, vừa là nạn nhân của họ..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-den-con" }
Cái vết đỏ trên má công nương
Ngày ấy có một ông thượng thư đầu triều nổi tiếng là người nghiêm khắc và hách dịch. Ông có tính nóng như lửa. Đã thế ông lại có quyền "tiền trảm hậu tấu" nên không khỏi giết oan một số người vô tội. Trong triều ngoài quận người ta coi ông như vị hung thần. Mỗi lần ông thét đao phủ chém một người nào, thì dù là kẻ thân thiết nhất cũng không ai có thể can được, cho nên những người ở gần đều sợ ông như cọp. Ông thượng có một sở thích đệ nhất là món hát bội. Ngày ấy chưa có rạp tuồng bán vé cho công chúng vào xem như sau này, cho nên các nhà quyền quý thường nuôi gánh hát riêng. Chẳng những ông thích xem hát mà còn tự tay biên soạn nhiều vở tuồng, vì vậy ông cũng có một gánh hát trong nhà. Trong số đào kép của gánh hát này thì có kép Châu là một tay xuất sắc. Kép Châu tuổi trẻ tài cao, thường được người xem tán thưởng về hát hay múa dẻo, nhất là đám nữ giới mỗi lần thấy anh thủ vai chính trên sân khấu thì thường mê như điếu đổ về cả thanh lẫn sắc. Ông thượng không có con trai, chỉ có một cô con gái rất xinh tên là Nhung. Cũng như thói thường của mọi nhà quyền quý khác, ông chăm dạy cho con mọi điều công, dung, ngôn, hạnh. Thấy con gái thông minh và tài hoa, ông yêu dấu rất mực. Đến nỗi hàng ngày hút thuốc, nếu không có thuốc do con ông quấn thì ông hút không ngon. Tuy nhiên, một việc oái oăm ông không bao giờ ngờ tới là cô Nhung được ông dạy dỗ chăm sóc là thế lại thầm yêu trộm dấu kép Châu. Về phần kép Châu tuy biết thân phận hèn kém, tuy biết tính mạng treo đầu sợi tóc cũng không nỡ vô tình với công nương. Hai bên đã nhiều lần kín đáo gặp gỡ và cũng đã từng chỉ non thề biển, quyết sống chết có nhau. Một hôm ông thượng ăn mừng thọ. Ngoài tiệc tùng đãi khách như thường lệ, còn có một đêm hát bội đặc biệt diễn một vở do ông biên soạn. Thủ vai chính không có ai khác ngoài kép Châu. Trong khi đào kép đang cố gắng trổ tài trên sân khấu thì ông thượng chăm chú cầm chầu. Hứng thú, ông đốt hết điếu này sang điếu khác. Bỗng chốc số thuốc quấn sẵn đựng trong một cái hộp bằng vàng đã hết nhẵn, ông bèn sai lính hầu vào bảo công nương quấn tiếp cho ông mười điếu nữa. Nhưng tên linh hầu đi quá lâu làm cho ông sốt ruột. Cho đến khi hắn bưng được hộp thuốc vào, ông mắng ngay: - Mày đi đâu mà lâu thế? Tên lính hầu đáp: - Bẩm, vì công nương không có nhà nên con lại phải đi tìm, công nương vừa quấn xong là con mang đến đây liền. Ông thượng không nói gì. Nhưng khi cầm lên một điếu ông lập tức chau mày. Thuốc của con gái ông quấn bao giờ cũng khéo: vừa gọn vừa chặt bằng giấy quyến tinh khiết, mười điếu không sai một. Đằng này đã quấn lỏng lại có nhiều vết bẩn. Bực mình, ông quát tên lính hầu: - Vào gọi công nương mày tại đây tao bảo. - Dạ. Ấy thế nhưng lần này tên lính hầu cũng lại đi mất hút. Đợi một thôi một hồi, ông mới thấy cô con gái yêu đến. Ông mắng phủ đầu ít câu về điếu thuốc quấn không thành điếu, rồi đuổi con ra. Nhưng khi cô Nhung lui gót, ông vừa nhìn theo chợt trông thấy trên má của con có một cái vết đỏ. - "Hừ, làm sao nó lại có vẻ nhem nhuốc thế kia". Nghĩ thế, song ông vẫn để tâm trí vào trống chầu. Giữa lúc ấy, đến lượt kép Châu bước lên đài. Ông thượng liếc nhìn thấy bộ mặt hóa trang của hắn cũng nhem nhuốc, nhợt nhạt, thì ông bỗng đoán ra nông nỗi. Một cơn giận bừng bừng bốc lên: - "Chà thằng này láo thật. Đồ xướng ca vô loài". Rồi ông lại nghĩ đến con gái: - "Không ngờ con gái ta lại đâm ra mê say nó, giở trò trên bộc trong dâu. Không thể tha thứ được. Tuy nghĩ vậy, ngoài mặt ông vẫn điềm tĩnh, tay vẫn đánh trống chầu không nhầm lỗi. Khi màn bắt đầu hạ để chuyền sang một cảnh khác, lập tức ông đứng dậy dõng dạc truyền lệnh: - Quân đâu, dẫn kép Châu ra sân, chém đầu! Tiếng quân hầu dạ ran. Các quan khách và mọi người đang xem hát ai nấy đều ngơ ngác kinh hồn. Chẳng ai hiểu duyên cớ vì đâu mà có cái án tử hình đột ngột này. Đây đó tiếng người thì thầm: - "Có lẽ nó đã làm điều gì đó hỗn xược với cụ lớn". Hay là - "Chắc tên kép ấy đã phạm "húy" cụ lớn hay là phạm "húy" hoàng đế thì phải". Trong khi kép Châu còn nguyên cả y phục tướng bị đao phủ lôi ra sân, thì cô Nhung vẻ mặt hốt hoảng chạy tới trước của cha mình ngồi thụp xuống vái lấy vái để: - Trăm lạy cha, xin cha tha cho anh ấy. Có giết xin cha cứ giết mình con đây! Nghe câu nói, ông thượng vẫn không động lòng, mà ông còn cảm thấy như bị thách thức. Trợn mắt, ông quát: - A, nếu thế thì quân bay hãy cởi trói cho kép Châu mà bắt giải công nương ra chết thế. Bọn quân hầu nhìn nhau toáng đảm, không ai dám ra tay động chân. Ông thượng đứng bật dậy quát: - Chúng mày đã nghe rõ lệnh ta chưa ? Lại có tiếng dạ ran. Lính hầu xúm lại dẫn cô Nhung đi ra sân. Không có một lời can ngăn. Không một ai nhúc nhích. Một lát sau, một tiếng rú của công nương bật lên ai oán, rồi tất cả rơi vào im lặng. Bấy giờ ông thượng quay lại phía bọn đào kép đang chui vào một xó, nhắc: - "Chúng mày hãy diễn tiếp đi!" Tiếng đàn, nhị, trống, chiêng, v.v... thốt nhiên lại cất lên. Người xem tuy chẳng còn hứng thú xem tiếp, nhưng không một ai dám bỏ chỗ ngồi ra đi. Ông thượng miệng vẫn hút thuốc, tay vẫn nắm lấy dùi trống chầu như không có việc gì xảy ra. Màn diễn đến đoạn cuối: vai chính sẽ than thở bên xác người yêu. Kép Châu lại bước lên đài, mặt cắt không được giọt máu. Anh hát những câu hết sức buồn thảm, anh khóc thật và tỏ điệu bộ não nùng chưa bao giờ làm rung động người xem đến thế. Cứ như vậy, tiếng than khóc mỗi lúc một ai oán. Cho đến câu hát cuối cùng vừa dứt, kép Châu kêu lên mấy tiếng thảm thiết không có trong vở: - Em ôi! Em hãy đợi anh với! Đoạn rút trong tay áo một con dao găm đâm ngay vào cổ họng và ngã lăn xuống khán đài .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cai-vet-do-tren-ma-cong-nuong" }
Sự tích chim Cu Gáy
N gày xưa, ở một nơi rất xa về phía bắc, nơi đó lúc nào trời cũng lạnh và tuyết phủ mặt đất gần như suốt năm, có một người đàn bà nghèo khổ sống ở đó. Bà ta có bốn người con. Bốn đứa con ngỗ nghịch và hung dữ, chỉ nghĩ tới chuyện chạy chơi trên tuyết suốt cả ngày mà không giúp đỡ gì cho mẹ chúng cả. Cả gia đình sống trong một căn lều lợp da hươu. Khi bước vào lều, lũ trẻ không bao giờ để ý đến những tảng tuyết dính vào giày chúng, mà chúng mang theo vào, và bà mẹ đáng thương lại phải lau quét sạch. Nhiều khi chúng còn bị ướt hết lúc trở về, vì chúng đã lăn lộn trong tuyết lâu quá. Và bà mẹ đáng tội nghiệp lúc bấy giờ lại phải hong khô quần áo chúng. Còn chúng thì không bao giờ chịu mang gỗ về cho mẹ chúng đốt lò, hoặc mang nước về cho mẹ chúng nấu cháo cả. Về mùa hè khi tuyết tan, chúng cũng không giúp mẹ câu cá trong sông, và cũng không khuân dùm mẹ những vật nặng. Chúng cũng không phụ mẹ phơi khô cá để dành cho mùa đông nữa. Và bà mẹ đáng thương cứ khổ cực làm lụng như thế mãi. Lại cũng chính bà là người phải cạo rửa những bộ da hươu để làm giày mũ và quần áo. Cứ làm việc mãi như vậy, bà bị kiệt lực. Và một ngày kia, bà ngã bệnh. Nằm trong lều, bà gọi lũ con đến bảo: - Các con, mang nước cho mẹ uống đi, mẹ khô cả cổ rồi… Đi kiếm cho mẹ chút nước đi các con! Nhưng bọn trẻ không nghe lời và cứ tiếp tục đùa nghịch. Bà mẹ gọi một lần, hai lần… Đến lần thứ ba, đứa con lớn trả lời: - Con không có giày. Đứa thứ hai nói: - Con không có mũ. Đứa thứ ba nói: - Con không có áo ngoài. Đứa thứ tư không trả lời gì hết. Bà mẹ nói: - Sông gần đây lắm mà. Các con có thể tới được, dẫu không đủ quần áo. Đi lẹ đi, các con, mẹ khát quá… Bọn trẻ cười và xô đẩy nhau để chạy ra ngoài chơi nữa. Chúng chơi rất lâu như vậy, không thèm nghĩ đến mẹ chúng đang ở trong lều. Rồi đứa con trưởng bỗng thấy đói, bèn trở vào căn lều. Và ở đó, nó thấy một chuyện rất lạ lùng đang xảy ra: Mẹ nó, đứng giữa phòng, mặc bộ áo da hươu. Và bỗng nhiên, bộ áo này phủ đầy lông chim. Mẹ nó cầm lấy cái mảnh gỗ dùng để nạo da hươu và mảnh gỗ biến thành cái đuôi chim. Bà cầm một cái đê bịt đầu ngón tay để khâu và bỗng cái đê trở thành cái mỏ. Sau cùng mẹ nó duỗi dài hai cánh tay ra và hai cánh tay biến thành đôi cánh. Và bà mẹ, biến thành chim, vỗ cánh một lúc rồi bay ra khỏi nhà. Đứa con lớn kêu to lên: - Các em, coi kìa, mau lên, mẹ biến thành chim và bay đi rồi. Lũ trẻ chạy theo mẹ chúng và gọi bà: - Đợi chút, mẹ ơi, đợi chút, chúng con sẽ mang nước đến cho mẹ! Nhưng bà mẹ trả lời: - Cúc cu! Cúc cu! Ta không cần các con nữa! Sông hồ sẽ cho ta nước, Ta uống bao nhiêu cũng được! Bọn trẻ chạy theo con chim và giơ ra một bình nước, nhưng con chim lại hót: - Cúc cu! Cúc cu! Ta không cần các con nữa! Lũ trẻ chạy như thế rất lâu, xây xát hết cả da chân ra trên đá sỏi, và khản cổ gọi mẹ chúng… Nhưng đã trễ quá rồi. Con chim đã bay đi mất. Và từ hồi ấy cho đến nay những người dân miền bắc nói rằng loài chim cu không xây tổ và cũng không nuôi con, đó là hết sự tích của con chim cu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-cu-gay" }
Nhà sư mất tai
V ào một thời xa xưa của xứ Phù Tang tam đảo, các sứ quân tranh quyền, giành ảnh hưởng, khu vực… rất là gây cấn. Nơi một đảo nọ có hai vị sứ quân Lang và Hân tranh chấp với nhau từ mấy mươi năm qua, hao binh tổn tướng rất nhiều mà phần thắng bại chưa nghiêng về bên nào cả. Rồi năm ấy, hai bên đồng thoả thuận đánh một trận then chốt… Họ dàn chiến thuyền ra, hết bắn xa lại cận chiến. Chiến sĩ đôi bên đều chết rất oai hùng. Sau cùng đoàn cảm tử của sứ quân Lang nhờ trên gió nên có phần thắng thế hơn, phe của sứ quân Hân lần lượt hy sinh vì tên, giáo của đối phương… Lửa cháy phừng từ cánh buồm, lan xuống cột rồi sàn, mạn thuyền… Trên chiến thuyền chạm rồng, phụng chỉ còn sót lại một bé gái độ 3 tuổi. Bà nhũ mẫu ẵm con của sứ quân Hân lo lắng kêu cứu, còn có ai ngoài vài cung nữ cũng sợ hãi gào khóc. Họ không thể chui trở xuống khoang núp tên. Thôi thì liều mình nhảy đại xuống đại dương xanh thẳm, bây giờ đỏ nhuộm vì máu đào và lửa khói lan tràn. Không có ai giải cứu thà họ tự tử hơn là bị giặc bắt về giam cầm, hành hạ. Cũng kể từ đó dân chúng quanh vùng đêm ngày bị đoàn âm binh phá khuấy không sao làm ăn được. Bọn họ cùng chung nhau lập nên một cảnh chùa, để mong nhờ tiếng chuông đánh lên, lâng lâng vào cõi hư vô mà cảnh tỉnh đi được phần nào lòng hiếu sát của đoàn âm binh. Ngôi chùa hoang vắng lắm. Riết rồi dân chúng như quên hẳn hoà thượng trụ trì. Có việc gì dân cũng tránh con đường gần nhưng phải đi ngang qua bãi tha ma. Họ sợ trông thấy dãy mộ buồn tênh không người nhang khói. Họ sợ cả mái ngói đỏ của chùa dần sương phủ rêu phong, nhất là tiếng kinh kệ giải oan đều 1 điệp khúc sầu bi của hoà thượng trụ trì vẳng đưa. Còn người phương xa không thể ngờ được giữa cảnh điêu tàn ấy lại có một cảnh chùa cô đơn, âm thầm thách thức với thời gian, không màng sự lãng quên của người đời. Ấy, vậy mà cũng có kẻ lần mò đến chùa cho bằng được mới là kỳ. Bởi vì gã trẻ tuổi nọ chỉ còn sử dụng có thính giác, tự ý tìm theo tiếng chuông mõ công phu ban chiều. Và gã đã có một chốn dung thân, sau 1 thời thanh xuân trác táng. Hoà thượng trụ trì cũng bằng lòng nhận gã võ sĩ đạo sa cơ. Không phải vì hoà thượng muốn có người bầu bạn hay đỡ đần công việc. Nhưng hoà thượng đã thấy rõ sát kiếp quá nặng ở con người của chàng tuổi trẻ. Đã một thời gã phí đời trai trong tiệc rượu, canh bài. Gã bị mất ánh sáng trong 1 cuộc so kiếm khoe tài trước gái đẹp. Địch thủ hèn hạ ám toán vôi bột, làm chàng mù đôi mắt. Chàng tuổi trẻ thất trí, bẻ kiếm, vác chiếc đờn tỳ bà gia bảo đi lang thang. Lâu rồi chàng cũng quên ý định trả thù. Mà kẻ thù cũng không thèm truy đuổi 1 phế nhân làm gì. Từ đó, nơi cảnh chùa vắng vẻ thêm sự hiện diện của 1 nhà sư trẻ tuổi, vốn chưa quen lắng đọng tâm tư sôi nổi. Không như hoà thượng trụ trì chịu tĩnh mịch đã quen. Hoà thương vẫn hằng khuyên nhà sư cố tu tâm, dưỡng tánh, đừng nuôi lòng hướng về cõi trần tục lụy, lắm đam mê, dục vọng thấp hèn. * Vào một đêm tuyết rơi phủ trắng đầu non, thêm gió rít hãi hùng. Nơi cửa tam quan ngồi thu lu bóng nhà sư Đạo Nhất khảy đờn tỳ bà. Tiếng đờn muôn điệu réo rắt, như oán như than, như nức nở giọng ai hoài nỗi hờn vong quốc, như đánh thức giấc miên triền ngái ngủ của đoàn âm binh. Khiến cho 1 oan hồn tên cận tướng được phái đến mời nhà sư, về tận cung điện nguy nga của họ để biểu diễn tài nghệ, cho vị tiểu công nương thưởng thức luôn thể. Nhà sư Đạo Nhất mê mẩn tuân lệnh vời, ôm đờn ra đi giữa trời mù bão tuyết. Qua mấy nhịp cầu chênh vênh, lối ngang, đường dọc… khỏi những lượt cửa thành dày thần bí mở từ từ, bên trong có những ngọn lửa thiêng trên giá treo, hay trên những chạc ba chân, ngọn tỏ, ngọn lập loè. Một cảnh cung điện huy hoàng, tráng lệ, dát ngọc, phết vàng, nhiễu gấm lót êm ái… Chao ôi ! Giá nhà sư được sáng mắt dù chỉ một phút thôi. Đoàn âm binh dựng lại cảnh tượng này có hơi thừa đối với nhà sư mù. Nhà sư được ngồi giữa sân rộng khảy khúc nhạc thúc quân, rồi khúc bi ai xen lẫn hùng tráng của trận thủy chiến then chốt ngày xưa. Tất cả đều say sưa thưởng thức… Trên ngai, nàng công nương nhỏ bé cũng nhoẻn cười. Nhưng đến sáng ra, khi nhà sư bừng tỉnh giấc, sờ soạng cây đàn lạnh tuyết, biết mình nằm ngủ ở giữa bãi tha ma. Đạo Nhất nhớ lại và nhận định những vị trí chỗ ngồi của các công hầu, tướng sĩ trong đêm qua, thì bấy giờ chính là các ngôi mộ cỏ mọc lan tràn, đúng theo lời thuật chuyện của hoà thượng trụ trì. Sau khi nghe đệ tử kể rõ nguồn cơn, hoà thượng trụ trì cho biết nhà sư Đạo Nhất đã vướng phải âm binh khuấy phá, có thể chết nếu không được ông tìm cách phòng trị. Thế rồi trước bóng Phật đài, sau những hồi kinh tụng niệm, giải trừ ám ảnh trong đầu của nhà sư mù. Hoà thượng trụ trì dùng bút lông viết nguyên pho kinh Phật lên khắp thân thể trần trụi của nhà sư Đạo Nhất. Hoà thượng căn dặn đệ tử khi có bọn âm binh đến kêu tên thì đừng lên tiếng. Hoạ chăng thoát được tiền căn, nghiệp chướng mà sư Đạo Nhất trong kiếp trước đã giết người gây nên. Thời gian chờ đợi, chỉ một buổi tắt nắng mà lâu như cả năm… Quả nhiên đêm đó, tên cận tướng âm binh lại tìm đến rước nhà sư mù. Kêu mãi mà không nghe tiếng trả lời, tên cận tướng sồng sộc đi lục soát. Khắp chùa chỉ thấy bóng Phật ngự trị hiền hoà và 1 hoà thượng mải mê hồi công phu, tiếng đại thần chung vang rền từng hồi… như giục giã nhiệm vụ của hắn thêm. Sau cùng hắn chỉ tìm gặp chiếc đàn tỳ bà nằm trên gian giữa chính điện. Và có 2 chiếc tai của nhà sư đang lắc lư. Muốn chứng minh rằng mình đã có hành động, nên hắn định mang 2 chiếc tai về nạp cho chủ. Khổ thay 2 chiếc tai đó là 2 chiếc tai sống của nhà sư Đạo Nhất, mà trong khi vẽ kinh vào mình đệ tử, hoà thượng trụ trì đã vô tình vẽ sót, nên âm hồn mới có thể nhìn thấy. Hắn rứt 2 chiếc tai để đem về, làm cho nhà sư chảy máu đầm đìa, hét lên và chết ngất giữa nền gạch thâm u. Chính khi âm hồn nhận biết  nhà sư đang hiện diện cũng là lúc máu tươi rỏ xuống làm tan biến hắn ngay. Và hắn phải mau trở về phục mạng, kẻo trời sắp sáng và hoà thượng trụ trì vừa nghe tiếng thét chạy qua. Ngoài kia tuyết vừa tạnh. Hình như có những giọt máu rỏ từ 2 chiếc tai sống của sư Đạo Nhất rơi rớt và đông nhanh trên tuyết xốp. Dấu máu đỏ nhỏ dần và mất hẳn theo tai ách của sư Đạo Nhất cũng chấm dứt từ đây. Nhà sư Đạo Nhất đã trả xong cái quả ở tiền kiếp, từng có lần dùng kiếm cắt mất 2 tai của một kẻ thù. Hoà thương trụ trì chỉ còn biết băng bó, cầm máu cho nhà sư Đạo Nhất. Hai chiếc tai của nhà sư không mất, nhưng nằm lìa dưới gạch. Âm hồn tên cận tướng mang nạp hai chiếc tai trên hình thức. Hình thức mà chỉ có thế giới của chúng nhìn thấy. Lặng lẽ nhà sư Đạo Nhất đi đào một lỗ cạnh cây si đại thụ. Ở đó vùi lấp cây đàn tỳ bà gia bảo và 1 phần thân thể của nhà sư. Nhà sư mất tai quyết sẽ chuyên tâm hơn để giúp cho các oan hồn chóng siêu thoát. Nhờ dứt khoát với dĩ vãng như vậy nhà sư Đạo Nhất sẽ dễ giữ thanh tịnh, giúp mình thoát vòng ảo ảnh chỉ hiển hiện do mình.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nha-su-mat-tai" }
Ngậm ngải tìm trầm hay là sự tích núi Mẫu tử
Ngày xưa, trên một vùng núi cao tại một tỉnh Đàng trong, có hai vợ chồng nhà nọ đến sinh cơ lập nghiệp. Họ cũng trồng lúa bắp, chăn nuôi gà lợn và săn chim bắt thỏ như mọi nhà khác. Nhưng nhờ của cải của bố mẹ để lại, họ sống có vẻ phong lưu. Vì thế tuy có vất vả, hai vợ chồng vẫn vui thú gia đình với đứa con trai lên năm tuổi. Đột nhiên một hôm có một người bạn cũ tới thăm. Hai người đàn ông lâu ngày không gặp, tay bắt mặt mừng. Người bạn nói: - Nghe nói anh chị dời đến ở đây đã lâu. Nay có việc đi lối này, tôi mới ghé thăm được. Sẵn có cặp ngỗng mang tới biếu anh chị. Chủ hỏi: - Mấy lâu nay anh ở đâu mà không hề có tin tức gì cả. Chẳng hay anh làm nghề gì? - Tôi chẳng nghề ngỗng gì cả. Chẳng giấu gì anh, từ lâu tôi đi tu tiên để mong đắc đạo. Trong năm năm liền ngồi tù cẳng một nơi, bây giờ có việc phải lên núi. - Lên núi để làm gì? - Để tìm trầm. Phải có trầm đốt lên khi muốn đạt một lời cầu nguyện. Trầm sẽ đưa lời cầu của mình lên cung Tam-thanh. Nhờ đó "chư tiên" mới biết được điều ước muốn của mình và sẽ cho mình như nguyện. Chủ lại hỏi: - Núi rừng trùng điệp, cây cối bạt ngàn, làm sao mà tìm cho ra trầm? Khách đáp: - Khó gì. Tìm trầm phải ngậm ngải. Nói rồi khách móc trong tay nải ra một gói nhỏ bọc vải điều, giở ra lấy ngải cho bạn xem rồi nói: - Đây là ngải tôi đã luyện, trải bao nhiêu năm nay mới thành. Chỉ cần ngậm mót tý ngải này, có thể đi suốt năm trong rừng sâu, không sợ hùm beo rắn rết làm hại, không cần phải ăn uống gì cả, lại có hy vọng được "chư tiên" phù hộ, giúp cho tìm thấy trầm. Lúc đó thì có thề cầu được ước thấy, trường sinh bất lão. Chủ nhân thấy bạn cũ tu luyện sắp thành công, có thể cầm chắc sự phú quý trong tay, thì hoa cả mắt. Hắn cầm lấy ngải nâng lên đặt xuống mấy lần, bụng bảo dạ: - Chà, chỉ một tý thuốc này có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão, sung sướng biết bao nhiêu. Vui miệng hắn cũng kể cuộc sống của mình trong mấy năm qua cho bạn nghe, rồi giục vợ làm cơm rượu khoản đãi. Trong mấy ngày cầm khách ở lại, vốn biết tính khách thích chơi cờ, chủ nhân lấy ra một bộ cờ bằng ngà mời khách cùng đánh. Hắn chọn một con cờ đưa cho bạn, nói: - Bộ cờ này của tiền nhân tôi để lại bằng ngà rất quý. Nhưng chúng không quý bằng con tốt này. Nó bằng ngọc bích không mảy may tì vết, mà bao giờ cũng sáng óng ánh, kể cả khi để trong xó tối. Khách cầm lấy con cờ bằng ngọc xem đi xem lại, thấy quả là của quý hiếm có ở thế gian thì tắc lưỡi khen thầm, đoạn tự nhủ: "Làm sao ta có được một viên như thế để dâng lên Lão tổ..". Tuy hai bên suy nghĩ nước cờ nhưng trong bụng người nào cũng chỉ những tìm mưu lập kế chiếm đoạt của nhau: Một bên muốn làm chủ gói ngải, còn một bên muốn có con cờ bằng ngọc. Ngày chia tay đã đến. Giữa khi chủ khách đang "vượt xe thách pháo" thì bỗng nghe tiếng gọi của vợ, chủ vội đi vào nhà trong. Sau đó một tiệc rượu bưng ra. Trong khi thu dọn con cờ, khách đã giấu biến con tốt bằng ngọc vào trong tay áo. Nhưng khách không ngờ chính mình cũng bị tước đoạt. Sau khi chén chú chén anh được một chốc, khách nằm vật xuống bên trường kỷ. Thấy người bạn đã bị mấy chén rượu pha thuốc của mình làm đổ gục, chủ nhân vội lục tay nải chọn lấy gói ngải, rồi lật đật ra đi không kịp từ giã vợ con. Khách ngủ một giấc đến hai ngày sau mới tỉnh dậy. Hắn ta giật mình khi sờ vào tay nải đã không còn thấy gói ngải quý đâu nữa, tìm bạn bạn cũng đi mất đường nào, hỏi vợ con bạn cũng không ai biết đâu mà trả lời. Khách bèn lủi thủi ra đi quyết tìm cho thấy bạn để đòi lại vật quý. Từ núi này sang núi nọ, khách trèo liên miên không nghỉ, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng kẻ bất lương. Một hôm, hắn trèo lên một đỉnh núi cao để phóng mắt nhìn ra xa, nhưng chẳng may trượt chân rơi xuống dốc, viên ngọc văng ra hóa thành đá, thân hắn hóa thành cây, rễ cây luôn luôn quắp chặt lấy đá như muốn bảo vệ của quý. Còn về phía chủ nhân khi bước chân ra đi, nghe theo cách bày vẽ của bạn, hắn cũng bỏ ngải vào miệng để tìm trầm. Nhưng hắn đi mãi, đi mãi, vượt qua trăm núi ngàn khe mà trầm đâu chẳng thấy. Khi bụng đã chán nản muốn quay trở về thì khốn nỗi lại quên mất lối. Năm này qua năm khác, gói ngải dần dần chỉ còn lại một tí bằng cái móng tay. Hắn đâu có ngờ rằng hễ bao giờ ngải tan hết thì con người sẽ hóa thành hổ. Lúc này da hắn lông đã mọc tua tủa thay cho những chỗ quần áo rách bươm. Rồi một hôm hắn biến thành con hổ xám. Lại nói chuyện vợ con của hắn ở nhà trông đợi mỏi mòn. Nước mắt hai mẹ con mỗi ngày chảy một ít đã xói đất thành suối. Cuối cùng, ngày lụn tháng qua, hai mẹ con biến thành đá cùng với mấy gia súc và các đồ dùng quen thuộc. Về sau, hổ xám ta cũng tìm được lối về nhà cũ. Từ đằng xa nhìn thấy bóng dáng vợ con, cả con chó, con gà đang quanh quẩn bên cạnh, hổ lấy làm mừng rỡ, bèn ba chân bốn cẳng vọt nhanh. Nhưng khi biết vợ con và gia súc đã hóa đá thì nó lồng lộn, gầm lên mấy tiếng đau xót, rồi bỏ đi biệt. Ngày nay ở quận Khánh-dương, tỉnh Khánh-hòa, còn có núi đá gọi là núi Mẫu-tử, nổi bật là một hòn đá dựng, bên cạnh có một hòn nhỏ hơn, người ta nói đó là mẹ con. Xung quanh đá còn nhiều hòn khác nằm rải rác, người ta nói đó là con chó, con gà, cái rổ may và sợi chỉ, cái cối xay, cối giã, cái chày, cái sàng, cái chổi, v.v...Lại còn một tảng đá khác vuông vắn người ta nói đó là bàn cờ có nhiều quân nhưng thiếu mất con tốt. Gần đấy có một dòng suối gọi là suối Tiên, nước không bao giờ cạn, người ta nói đó là do nước mắt của hai mẹ con khơi thành. Trên dòng suối thỉnh thoảng có bóng một cặp ngỗng vùng vẫy, người ta cho là dòng dõi của cặp ngỗng mà khách mang đến biếu, sở dĩ chúng không hóa đá là vì chúng chưa phải là gia súc quen thuộc của chủ. Còn ở tỉnh Phú-yên, trên núi Tịnh-sơn có một hòn đá tròn gọi là đá Con cờ, người ta cho đó là con tốt bằng ngọc trong áo khách văng ra. Bên cạnh là một cây cổ thụ to hàng vầng, rễ mọc chi chít, nhưng rễ cây bao giờ cũng quắp chặt lấy đá, người ta nói đó là người bạn biến thành.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ngam-ngai-tim-tram-hay-la-su-tich-nui-mau-tu" }
Tam và Tứ
Ngày xưa có một người làm nghề bưng trống tên là Tam. Mỗi lần làm xong một số hàng có đủ trống con trống lớn, ông thường mang đi các vùng lân cận để bán. Bán hết, ông lại trở về làm chuyến khác. Một hôm ông gánh hàng đi bán ở một vùng khá xa. Vừa trèo lên một ngọn đèo, ông bỗng thấy một người ngồi ẩn dưới bóng một cây đa. Thấy mệt và nóng bức nên ông cũng dừng lại ở đây nghỉ chân. Trong khi trò chuyện, hai người hỏi tên tuổi và nghề nghiệp của nhau. Người hàng trống biết khách thên là Tứ làm nghề buôn vặt nhưng hết vốn, đang định tìm chỗ làm thuê để nuôi miệng. Tam thương cảnh ngộ của Tứ, bèn giở gói cơm ra mời ngồi lại cùng ăn, đoạn bảo Tứ: - Bây giờ anh hãy gánh giúp cho tôi một đoạn đường từ đây tới khi anh rẽ lối khác. Tôi sẽ trả anh một số tiền. Hai người bắt đầu xuống núi. Đi một thôi đường, họ thấy khát nước, và sau đó, cả hai đều dừng lại bên một cái giếng thơi ở vệ đường. Nhìn thấy giếng sâu, thành đứng lại đầy rêu, không biết làm sao mà múc, Tứ bảo Tam: - Bây giờ ta làm cách này thì uống được. Tôi buộc sợi dây lưng vào người, ông nắm chặt lấy một đầu dây, để tôi bám vào thành giếng trèo xuống. Uống xong ông kéo lên cho. Sau đó đến lượt ông lại làm như tôi để xuống. Họ làm như lời đã bàn. Nhưng đến lượt Tam xuống thì Tứ để mặc Tam dưới đáy giếng rồi quảy gánh trống đi luôn một mạch. Tam gọi mãi không thấy Tứ, biết là bị lừa, bèn đứng dưới giếng kêu cứu ầm ĩ. Không may cho Tam là đoạn đường ấy rất vắng nên kêu khản cả cổ mà chả có một tiếng trả lời. Mãi đến chiều tối mới gặp được mấy người khách bộ hành đi qua, nhờ đó được họ kéo lên khỏi giếng. Tam vừa xót của vừa giận phường bội nghĩa, đi thất thểu mãi đến chiều rồi lạc vào một ngôi chùa. Ông gọi người thủ hộ, nài nỉ xin cho mình được vào nghỉ nhờ một đêm. Thủ hộ bảo: - Ở đây có bốn con quỷ "quàn tài" dữ lắm. Thường đến canh ba thì chúng hiện ra. Người quen thì chớ, còn người lạ thì chúng nó bóp cổ. Thôi, ông đi chỗ khác mà trú, đừng lân la nơi đây mà thác uổng mạng! Tam bấy giờ đầu gối đã mỏi, mắt đã ríu, nên đáp liều: - Bạch thầy, thầy cứ làm ơn cho tôi ẩn nấp một chỗ nào đó kín đáo, để tôi ngủ nhờ một tối, kẻo tôi bây giờ không thể lê bước đi đâu được nữa. Thủ hộ chỉ vào một cửa hang và bảo: - Đó là cái hang mà bốn con quỷ hay ra vào, bên cạnh cửa hang có một chỗ kín có thể nấp được, ông vào đó mà ngủ may ra thì thoát. Ngoài đó ra chả có nơi nào kín kết! Tam đành chui liều vào chỗ thủ hộ chỉ, rồi đặt mình xuống một giấc. Đến canh ba, tỉnh dậy, thấy bốn con quỷ vừa đi đâu mới về. Chúng nó đứng lại ở cửa hang trò chuyện với nhau. Con quỷ thứ nhất nói: - Phía sau ngôi chùa này, cách mười bước về phía bên trái có chôn sáu chĩnh bạc. Con quỷ thứ hai nói: - Phía sau ngôi chùa này, cách mười bước về bên phải cũng có chôn sáu chĩnh vàng. Con quỷ thứ ba nói: - Còn tôi, tôi có biết một chỗ giấu một viên ngọc quý, ai mà bắt được thì có thể làm chúng ta chết ngay lập tức! Con quỷ thứ tư nói: - Ngọc ở đâu? - Ở bên cạnh cửa hang này. Nghe nói thế, Tam nhớ lại lúc đi ngủ quả có thấy một viên gì tròn tròn và sáng ở ngay cạnh chỗ nằm; lập tức chàng với tay chộp lấy ngọc. Giữa lúc mấy con quỷ chưa kịp bỏ đi, Tam đã vung tay ném hòn ngọc vào giữa chúng, làm cho cả bốn đều chết thẳng cẳng. Sáng dậy, Tam bước ra khỏi chỗ nằm đi tìm thủ hộ để cảm ơn. Sau đó ông trở về gọi người nhà tìm đến chùa, đào lấy mấy chĩnh vàng và bạc. Từ đó, Tam trở nên giàu có sung sướng. Còn Tứ sau khi cướp được gánh trống của Tam, bèn tìm đi một nơi xa để bán. Chiều tối hắn ghé lại một cái quán xin nghỉ trọ. Chủ quán bảo: - Ở đây khuya lại có quỷ hiện ra làm hai khách lạ. Vậy ông hãy gắng đi thật xa mới khỏi làm mồi cho chúng. Nghe nói Tứ hoảng sợ, nhưng bấy giờ tìm đến làng xóm thì đã quá muộn, hắn đành phải xin chủ quán chỉ cho một chỗ kín đáo để nấp tránh lũ quỷ. Chủ quán chỉ cho Tứ một cái hang kín. Tứ đặt gánh trống ở ngoài cửa hang, chui vào nằm ngủ. Khuya lại, quả có một lũ quỷ kéo đến cửa hang. Chúng vô tình giẫm lên mặt trống, trống phát tiếng "thùng thùng". Giật mình kinh sợ, mỗi con quỷ chạy trốn vào một xó. Một con quỷ chui nhào vào hang Tứ nằm giữa lúc hắn đang ngủ mê. Thế là tiện tay quỷ bóp cổ, hắn chết.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tam-va-tu" }
Sự tích đình làng Đa Hòa
Ngày xưa ở làng Đa-hòa có một ông thầy phù thủy cao tay, tên là Dọng. Không những ông có nhiều phép lạ mà còn có lòng thương người. Từ lâu, ông được bầu làm hương trưởng, và được dân trong vùng kính phục. Hồi ấy làng Đa-hòa gặp mấy năm hạn hán, mùa mất liên tiếp, dân tình cơ cực. Nhiều người phải đem vườn ruộng đi cầm đi bán. Nhưng giá gạo ngày một cao, ruộng ngày một hạ. Cuối cùng ruộng đất của dân đều vào tay mấy tên trọc phú. Thấy vậy, ông Dọng nghĩ cách để cứu giúp người nghèo. Ông bảo bọn nhà giàu: - Thần thánh phù hộ cho các người, bao nhiêu ruộng nhà nghèo đều lấy về ban cho một số người có của. Đó là lộc thánh. Nhưng nếu không biết tạ ơn thì rồi có lúc sẽ bị thánh phạt đấy. Biết ông là người có thể thông được với thần, bọn nhà giàu lo sợ, hỏi ông: - Muốn tạ ơn thánh thì phải làm gì? Ông Dọng đáp: - Làng ta vốn không có đình. Thánh ngự về không có cái mà ở. Vậy phải mau mau dựng một cái đình. - Dựng đình tốn kém lắm sao có thể làm nổi. - Nhà giàu bỏ của, nhà nghèo bỏ công, mỗi người vun đắp một tý thì việc lớn không mấy chốc mà thành. Nếu được như vậy, tôi tuy bất tài cũng xin đứng ra đốc công. Bọn nhà giàu nghe lời ông. Chúng bèn họp làng quyết định dựng đình: những người có của thì quyên tiền, còn người nghèo thì gánh đất gánh cát. Ông Dọng thân hành thu góp tiền nong và làm người đôn đốc. Ông bảo bọn trọc phú: - Thần thánh đều có con mắt, "sởi lởi trời gởi của cho, quăn co trời gò của lại". Hằng tâm hằng sản ai bỏ nhiều thì được phúc nhiều. Chúng nghe nói đều thi nhau quyên những món tiền lớn và góp lại trao cho ông. Nhưng thu được bao nhiêu ông phân phát cho dân đói bấy nhiêu. Ông bảo họ gánh đất đắp thành nền đình, xung quanh trồng bờ giậu cho kín, ở sân đình trồng các thứ cây cối kể cả các loại cây dây như cây bìm hìm, v.v... Đoạn, ông hẹn với bọn trọc phú ba tháng nữa đình sẽ hoàn thành. Bọn trọc phú thấy ông phân phát hết tiền thì sinh nghi, nhưng thấy ông nói cứng, thì lại nửa tin, nửa ngờ. Vả xưa nay ông chưa từng thất hẹn với ai, nên cũng không dám hỏi. Thời gian trôi qua, nền đình đã đắp xong, tiền quyên góp đã nhiều, hạn cũng sắp hết mà chưa thấy động tĩnh gì cả. Thấy gỗ lạt không có một que, gạch ngói chẳng có nửa mảnh, bọn nhà giàu đến thúc ông Dọng. Ông chỉ đáp gọn lỏn: -"Đình khắc có đình! Ai sinh sinh sự sẽ sự sự sinh!". Một số phú thương ở làng bên cạnh là làng Vạn-phước trước đây cũng bỏ những số tiền lớn quyên vào công việc làm đình ở Đa-hòa để mong được thánh ban lộc, nay đợi mãi không thấy đình, chúng lấy làm nóng ruột, liền đến vặn ông Dọng: - Chúng tao qua đây buôn bán thấy việc phúc đức, nên cũng vón tay vào để vo tròn quả phúc. Không ngờ mày "nhũng lạm" đi mất cả rồi, chỉ ngồi trơ thổ địa nói phét. Nói rồi chúng xúm lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh ông sưng cả mặt mũi. Ông Dọng đáp: - Đình khắc có đình! Nhưng đánh người là có tội, đánh bậc "cao niên" tội lại càng nặng. Kẻ nào đánh ta thì phải đền tội. Ta không nói chơi đâu! Đoạn ông mang gậy nón đi sang làng Vạn-phước để bắt đền. Tới nơi, ông vào đình Vạn-phước, ngả gậy nón ngay ở gian giữa mà ngồi. Rồi ông cởi áo giở chỗ bị đánh phân vua với những người dân Vạn-phước có mặt: - Các ông các bà xem. Đánh người không phải là chuyện chơi. Bọn những tên Giáp tên Ất ở làng này vô cớ gây sự đánh ta. Kẻ nào sinh sinh sự thì sự sự sinh! Sẽ phải đền đình! Nói thế rồi ông cứ ngồi ở giữa gian vót đũa và xe chỉ. Có ai hỏi làm thế để làm gì thì ông trả lời "đính nèo" (tức nói lái là néo đình). Bọn lý hào làng Vạn-phước được bọn phú thương xúi giục, ra đình đuổi ông Dọng đi. Ông không đi, nói: - Các ông phải trả lời cho tôi cái chuyện người làng này, những tên Giáp tên Ất, tự dưng vô cớ đánh tôi. Tôi được rửa nhục rồi thì sẽ đi ngay! Chúng hỏi: - Ông muốn rửa nhục thế nào? - Kẻ nào đánh tôi thì phải làm đình để đền. - Không làm đình thì sao? - Không làm đình thì vay tạm đình này rồi sẽ đền sau. Cho đòi hỏi của ông là vô lý nên chúng không chịu xử. Cuối cùng chúng lấy thế đông đến đuổi ông đi. Ông đợi cho họ tập hợp đông đủ, rồi mới thủng thỉnh nói: - Bây giờ tôi sẽ cắm cái gậy này xuống trước sân đình. Nếu làng ta nhổ được gậy lên thì tôi xin đi ngay. - Nếu không nhổ được thì sao? - Thì mất đình. Họ bảo "được". Hai bên làm giấy ký kết. Rồi đó, ông Dọng ung dung bước ra sân cầm cây gậy trúc của mình cắm phập xuống sân đình, và nói: - "Nhổ đi! Cho các người nhổ đi!". Vừa thấy thế, một tên hào cường trẻ tuổi xắp tay áo lên hùng hổ: - Cần gì phải nhiều người mất công. Xin mời các quan viên hãy ngồi nghỉ, chỉ một mình tôi nhổ cũng đủ. Này này, lão già hãy trông đây, rồi có đường có nẻo cút ngay! Và hắn chạy tới, dùng một bàn tay nắm lấy cây gậy để nhổ, nhưng không được. Sau đó, hắn lôi bằng cả hai tay, nhưng cũng không nổi. Sau, hắn ôm cả người vào rán sức lắc mà cũng không chuyển. Mồ hôi nhể nhại, hắn gọi những người xung quanh vào giúp sức. Ông Dọng nói: - Ta thách tất cả bọn bất nhân chúng mày! Mọi người liền xúm xít lại quanh tên hào cường, một người, hai người tới hàng chục người; nhưng lạ thay dù có đến hàng chục bàn tay, chiếc gậy vẫn không nhúc nhích. Bọn lý hào mệt nhoài. Chúng đánh mõ cho trai làng đổ ra buộc thừng mà kéo, song cũng chẳng ăn thua. Cuối cùng, chúng bàn buộc thừng vào cổ trâu, ra roi cho trâu kéo, tuy vậy chúng chỉ làm một công việc vô ích: mọi dây thừng đều đứt, còn gậy của ông vẫn vững như trời trồng. Ông Dọng phá lên cười: - Thế là thua cuộc rồi nhé! Rồi ngoảnh mặt về phía dân, ông nói: - Xin đồng dân nhớ cho, nếu làng ta có mất đình, chẳng phải tại tôi. Đó là do bọn tên Giáp tên Ất nó sinh sự sự sinh. Bắt chúng nó làm lại đình khác để đền! Nửa đêm hôm ấy, trời bồng nổi phong ba, sẩm chớp đùng đùng, gió rít từng cơn rất dữ. Giữa lúc ấy người ta nghe xen vào những tiếng như tiếng kèn trống cùng những tiếng truyền lệnh của ông Dọng: - "Nâng lên!... Hạ xuống...Xích về bên trái...". Đình làng Vạn-phước thốt nhiên bay bổng lên không trung cùng với cả những hòn đá tảng kê chân cột; đình vượt qua các lũy tre rồi tiến đến bờ sông lối sang làng Đa-hòa. Ông Dọng đã đợi ở đấy từ lâu. Ông ngồi lên chiếc nón tu lờ bơi sang sông theo đình để điều khiển. Đình vượt qua sông là là mặt nước. Sau đó đình bay bổng về Đa-hòa rồi hạ xuống một cách êm thấm trên cái nền mới đắp. Lại có những tiếng hô của ông Dọng và tiếng ồn ào dội lên ở đây, được một chốc thì vắng lặng như tờ. Soát lại mọi chỗ, ông Dọng chỉ thấy có một viên đá tảng bị rơi lúc vượt sông, còn mọi thứ đều không hề suy suyển. Cuộc chuyển đình hoàn thành một cách chu đáo. Sáng hôm sau, dân làng Vạn-phước nhìn đến đình thì thấy chỉ còn một cái nền trơ trọi. Họ đến nhà của mấy tên phú thương đòi đình. Mấy tên này lo lắng, bèn họp bọn hào lý bắt đệ đơn lên quan tố cáo ông Dọng ăn trộm đình. Quan huyện đòi ông Dọng lên hỏi: - Sao mày dùng phép ma thuật quỷ ăn trộm đình của người? Ông Dọng làm bộ ngơ ngác. Quan lại nói: - Làng Vạn-phước tố cáo mày ăn trộm đình về cho làng Đa-hòa. Có thế nào cứ thực tường khai để khỏi phải tra khảo. - Bẩm quan, ông Dọng nói, chuyện bên nguyên đưa ra "thậm ư vô lý". Vậy xin phép hỏi, đình mất từ bao lâu? - Mới hôm kia chứ đâu? Ông Dọng cười ha hả: - Quan lớn nhân danh "dân chi phụ mẫu" phụ họa với bọn không đặt làm có, mà cũng nghe được. Quan huyện đập bàn quát lên: - Lính đâu, hãy đóng gông tên này lại cho ta. Ông Dọng thong thả đáp: - Xin quan lớn bớt cơn thịnh nộ cho kẻ hạ dân hỏi bên nguyên: Nền đình làng Vạn-phước có dấu tích gì để biết đình mất đã bao lâu? Bọn lý hào Vạn-phước nói: - Cải đã lên lá. Ông Dọng cười: - Bẩm quan, một bên mất đình chỉ nói cải vừa trổ lá, còn đình làng tôi thì bìm bìm đã mọc lên tận nóc. Xin mời quan về khám hư thực. Quan về khám đình làng Đa-hòa thì quả thấy xung quanh đình, bờ giậu đã mọc xanh kín, ở sân đình cây cối um tùm: đặc biệt là dây bìm bìm đã leo lên tới nóc. Thấy vậy, quan đành xử cho ông thắng cuộc. Bọn hào lý làng Vạn-phước chịu thua kiện, cắm cổ ra về. Sau đó, do dân làng buộc tội, mấy tên phú thương đã đánh ông Dọng ngày xưa tức là bọn tên Giáp tên Ất phải ngửa cổ đền cho làng Vạn-phước một cái đình khác. Người ta nói đình làng Đa-hòa cho đến nay vẫn còn, một cột cái của nó vẫn để lơ lửng vì thiếu mất một hòn đá tảng lúc vượt sông.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-dinh-lang-da-hoa" }
Huyền Quang
Vào thời nhà Trần có một người học trò trẻ tuổi ở xứ Bắc tên là Huyền Quang. Nhà chàng không đất cắm dùi nhưng cha mẹ chàng thì cố công cố sức làm thuê làm mướn các nơi để nuôi con ăn học. Khi Huyền Quang đến tuổi lấy vợ, cha mẹ dạm cho một cô gái, con một nhà khá giả trong vùng. Trải mấy năm trời, chàng đã từng sêu tết và đi làm rể bên nhà vợ khá là vất vả. Cho đến ngày gia đình sắm lễ vật xin cưới thì đột nhiên bên nhà gái trở mặt, trả lễ lại và từ hôn. Huyền Quang lấy làm buồn lòng vì thói đời tráo trở, chàng càng đau khổ hơn khi thấy cô gái thuận lấy người cháu họ một viên an phủ sứ. Sau đó, cha mẹ chàng lại tìm cho con một đám khác, nhưng cuộc nhân duyên lần này cũng dở dang, chỉ vì nhà gái chê nhà trai không có mả làm nên, không phải là nơi nương tựa. Vì vậy cho đến năm hai mươi tuổi Huyền Quang vẫn một thân một mình. Từ khi thất vọng về đường tình duyên, Huyền Quang lại càng bấm chí về đường kinh sử. Năm hai mươi tuổi, chàng thi đậu ở trường thi quê nhà, rồi vào thi đình đậu luôn Trạng Nguyên. Nghe tin Huyền Quang đậu Trạng Nguyên, có mấy tay phú hộ ở quanh vùng bắn tin cho con gái đến tuổi lấy chồng kèm theo cả một tư cơ đồ sộ. Một ông quan lớn ở kinh kỳ cũng mời quan tân khoa về thái ấp mình để xem mặt cô con gái yêu tuổi vừa đôi tám. Tiếp đó, ngày chàng vào kinh bái mạng để nhậm chức, một viên quan nội giám đến gặp riêng chàng và rỉ vào tai: - Hoàng hậu đang kén phò mã cho công chúa ba đấy. Nếu quan Trạng muốn, thì việc tốt đẹp nhất định phải thành. Thấy tính đời như vậy, Huyền Quang than: Khó khăn thì chẳng ai nhìn, Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên. Than đoạn, chàng nguyện sống suốt đời sẽ không lấy vợ. Thế rồi người ta thấy chàng nhất quyết từ chối mọi hứa hẹn tốt đẹp. Nhưng cuộc đời danh vọng của Huyền Quang cũng không làm chàng thấy vui lòng. Nhìn thấy những cảnh tượng xấu xa trong đám quan trường, chàng lại càng ghê tởm. Từ đấy Huyền Quang tỏ ra chán đời. Làm quan chưa được bao lâu, chàng đã đệ đơn lên vua xin từ chức để đi tu. Bấy giờ cha mẹ chàng đã nối gót nhau qua đời. Vua không thể nào bắt ép chí của chàng được. Huyền Quang tu hành rất chăm chỉ. Chẳng bao lâu, chàng đã thông thuộc tất cả kho tàng kinh sách của nhà Phật. Rồi đó, nhờ có học vấn không ai bì kịp, Huyền Quang được nhà vua ban cho danh hiệu Quốc sư. Vua còn cho chàng trông nom thư viện Trúc-lâm và cho trụ trì ở một ngôi chùa lớn cai quản hàng mấy nghìn tăng ni. Còn ít tuổi như chàng được trở thành một bậc giáo chủ, người đời bấy giờ coi là việc hiếm có. * Hồi bấy giờ vua Anh Tông mới lên ngai vàng. Thấy vị tổ Trúc-lâm là một người còn ít tuổi, vua không tin là có thể chịu đựng nổi sự diệt dục khổ hạnh. - "Cứ đưa đến một cô gái đẹp, nhất định thế nào thầy cũng sa ngã". Nghĩ vậy, vua có ý định thử xem đạo đức của vị tổ trẻ tuổi này như thế nào. Nhân mấy ngày hoàng hậu se mình, vua cho triệu tổ về kinh làm lễ cầu siêu. Sau mấy đêm ngày, công việc cầu siêu đã xong, trước khi chàng trở về chùa, vua sai ban cho 10 lạng vàng để đền công khó nhọc. Huyền Quang không tiện chối từ đành phải cầm lấy, nhưng chàng đâu có ngờ rằng cái bẫy đã bắt đầu giương ra để đợi người nhẹ dạ. Thế rồi sau đó ít lâu, vua cho một cung nữ nhan sắc xinh đẹp tên là Điểm Bích, tìm cách đến chùa, nơi Huyền Quang trụ trì, bảo phải quyến rũ cho bằng được. Vua còn dặn Điểm Bích phải làm sao lấy ở sư thầy ít nhất là một lạng vàng đưa về làm tang chứng. Lại nói chuyện Huyền Quang hôm ấy nghỉ tại một thiền trai cất trên một ngọn đồi cách viện Trúc-lâm chừng vài dặm. Đây là một gian nhà nhỏ rất tĩnh mịch mà vua sai xây cho chàng để nghỉ ngơi sau những ngày giảng kinh mệt nhọc. Vào khoảng tắt mặt trời, chú tiểu đưa vào một cô gái vẻ mặt hốt hoảng nhợt nhạt, áo xống tơi tả. - Bạch thầy, người này bị cướp đuổi vừa gọi cửa kêu cứu. Đó là Điểm Bích, lúc này đã cải trang thành một cô gái quê mùa. Nàng khóc sướt mướt, một hai xin chùa cho ở trọ đêm nay. Nàng bịa ra câu chuyện bị côn đồ đuổi và phải chạy chốn vất vả như thế nào làm cho Huyền Quang không thể nào từ chối được. Cuối cùng theo lệnh của chàng, chú tiểu sắp xếp cho Điểm Bích một chỗ nghỉ ở phía ngoài thiền trai. Sự việc vừa xảy ra làm cho Huyền Quang thấy trong lòng không được yên tĩnh. Chàng để cho chú tiểu đi nghỉ, rồi giở quyển kinh ra tụng niệm mãi tới khuya. Sắp sửa đặt lưng xuống giường, chàng bỗng nghe thấy tiếng rên rỉ của người đàn bà. Chàng lại phải đánh thức chú tiểu dậy xem thử như thế nào. Khi nghe nói người đàn bà muốn xin được vào nằm phía trong thiền trai, vì ở ngoài không ngăn được sự sợ hãi, Huyền Quang lấy làm bối rối. Nhà thì hẹp chỉ có ba gian, nhân thân chỉ có hai thầy trò; các tăng chúng đều ở xa không tiện gọi. Suy nghĩ giây lát, Huyền Quang bất đắc dĩ cho người đàn bà vào ở chỗ tiếp khách, còn mình thì lui vào trai phòng khóa cửa lại. Nhưng vừa chợp mắt đi được một lúc, đã nghe tiếng rên rỉ ở phía ngoài. Chàng lại ngồi dậy cầm lấy tràng hạt và quyển kinh. Nhưng khi bước ra khỏi trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói, chàng thấy người đàn bà nằm lõa lồ trên bộ ván. Chàng bước vội trở vào và quyết định ngồi trên giường tụng niệm cho tới sáng để tránh sự cám dỗ. Không ngờ giữa lúc những tiếng tụng niệm vừa cất lên, thì Điểm Bích từ phòng ngoài đã chạy vào, sán lại ngồi bên cạnh chàng, nói những câu cảm ơn nhưng lại xen vào nhiều lời khêu gợi. Biết người đàn bà này đến đây có mục đích không lương thiện, Huyền Quang liền nghiêm nét mặt lại: - A-di-đà Phật. Nàng là ai ? Tại sao lại tìm đường vào đây để quấy rối người tu hành? Nếu không mau mau cải tà quy chính, ta sẽ hô hoán lên cho mọi người đến cầm lá dắt ra khỏi tu viện. Thấy Huyền Quang không phải là hạng người dễ quyến rũ, Điểm Bích đành phải thay đổi thái độ. Nàng chuyển sang bộ mặt rầu rĩ và bịa ra câu chuyện để gợi lòng trắc ẩn. - Thiếp vốn là con nhà thế phiệt. Bố thiếp làm quan một huyện ở vùng biển. Mùa tháng Năm vừa rồi nhân đi thu thuế được ba nghìn quan, cho dân phu đài tải về kinh. Không ngờ bị bọn cướp đường đón lấy mất cả. Quan trên thương tình cho khất đến cuối năm. Hiện nay bố thiếp đã thu góp tư trang mới được chừng một nửa. Bởi vậy thiếp phải đi khắp đó đây xin các nhà từ thiện kẻ ít người nhiều để bù vào số thiếu. Hôm nay đánh bạo đến đây định xin hòa thượng rủ lòng thương xót quyên cấp cho ít nhiều. Nhưng thấy cảnh chùa tôn nghiêm, nếu nói thật chưa chắc đã được, vì vậy phải dùng mẹo nhỏ để gặp hòa thượng, sau đó mới tỏ bày mục đích. Dám xin hòa thượng mở lượng hải hà cứu vớt bố thiếp và cả nhà thiếp. Thiếp nguyện đưa thân nữ tì hầu hạ suốt đời. Nghe nàng sụt sùi kể lể, Huyền Quang không ngăn được cảm động. Chàng vội trả lời: - Nàng đừng có lo lắng gì cả. Ngày mai ta sẽ tiến triều, tâu với vua xin tha tội cho cha nàng. Sợ Huyền Quang về triều thì việc của mình không đạt, Điểm Bích lại nói: - Bạch hòa thượng, việc của bố thiếp còn may là chưa đến tai Thánh thượng. Hòa thượng về tâu giúp cho thật là công đức vô biên, nhưng thiếp không muốn vì việc nhà thiếp làm phiền hòa thượng phải xuống núi nhọc sức. Huyền Quang sực nhớ tới mười nén vàng của vua còn bày ở trai phòng. Chàng vội lấy ra đưa cho người đàn bà mà rằng: - Ta biếu nàng tất cả, nàng đưa về mà chuộc tội cho cha! * Lại nói chuyện khi trở về cung, Điểm Bích liền đưa nộp mười nén vàng và tâu đối với vua rằng mình đã cám dỗ đước con mồi. Để vua tin, nàng còn đọc lên một bài thơ yêu đương nói là của Huyền Quang đã ngâm tặng mình trước khi phá giới. Vằng vặc trăng mai ánh nước, Hiu hiu gió trúc ngâm sinh. Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ, Mâu Thích Ca nào chẳng hữu tình. Nghe xong câu chuyện và nhìn thấy mấy nén vàng, nhà vua thở dài hối hận: - Chao ôi. Bậy quá! Ta đã làm hại một vị tu hành trẻ tuổi. Tự dưng vô cớ đi gài bẫy, nhất định con chim khó có thể tránh được. Biết làm thế nào bây giờ ? Nghe nói thế, một viên quan ghé vào tai vua hiến kế: - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cho thiết lập một lễ cúng Phật dọn toàn cỗ mặn rồi mời thầy về làm lễ. Nếu quả là thầy còn trong sạch thì chư phật sẽ độ cho cỗ mặn hóa thành chay, nhược bằng hư hỏng rồi thì chẳng bao giờ được độ. Vua cho là phải, bèn hạ lệnh cho gọi Huyền Quang về triều để chàng làm một lễ chay trọng thể vào dịp rằng tháng Bảy sắp tới.Vua còn bắt quân hầu dựng một đàn tràng nguy nga, các rạp đều trần trướng toàn bằng lụa hoàng quyến.Trái hẳn với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, vua ra lệnh cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn. Khi sắp bước vào rạp. Huyền Quang biết nhà vua cố ý làm nhục mình. Các mâm cỗ mặn tanh tưởi bày trên đàn kia nếu không phải là một sự xỉ vả thì còn gì nữa. Lụa hoàng quyến nói lái lại rõ ràng ám chỉ hai tiếng "Huyền Quang". Chàng bèn ngửa mặt lên trời lớn tiếng khấn: - Kẻ đệ tử này nếu có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống A-tì địa ngục, còn nếu không, thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả! Tự nhiên một trận gió mạnh nổi lên, cát bụi mù mịt, trời đất tối sầm cả lại. Một chốc gió tan, mọi người nhìn lên đàn tràng thì, lạ thay, tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm tho, mọi mùi tanh tưởi đều đã bị quét sạch từ bao giờ. Huyền Quang thủng thỉnh bước lên đàn tràng giữa tiếng reo hò của chúng tăng và mọi người. Vua Anh Tông được tin, lập tức ra lệnh bắt Điểm Bích tra hỏi cho ra sự thật. Biết là bại lộ, người cũng nữ ấy cúi đầu thú hết tội lỗi. Vua truyền bắt Điểm Bích bỏ ngục để chờ ngày phán xử, rồi xa giá tới gặp Huyền Quang tạ lỗi. Câu nói đầu tiền của Huyền Quang là xin vua tha tội cho Điểm Bích
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/huyen-quang" }
Chàng đốn củi và con tinh
Ngày xưa có một anh chàng nghèo khó, sống một thân một mình. Tuy làm việc tất lực nhưng đói rách vẫn hoàn đói rách. Những bông lúa đẹp do bàn tay chàng vun bón thì cứ thi nhau chạy về nhà lão trọc phú. Cuối cùng, chàng đành bán tất cả những thứ còn lại trong nhà để mua một lưỡi búa, với ý định từ nay làm nghề đốn củi nuôi thân, may chi thay đổi được số phận. Nhưng kiếm được một gánh củi không phải là dễ. Một hôm, theo lệ thường chàng tiến vào rừng sâu tìm củi. Sắp giơ búa giáng vào một cây đại thụ bỗng có một con tinh từ trong thân cây hiện ra trước mặt van lạy, van nài. Chàng dừng tay hỏi: - Mày muốn gì? Đáp: - Xin ngài làm ơn đi chặt chỗ khác, tha cho chúng tôi ở đây được yên ổn. Thấy thế, chàng càng làm già: - Không được. Tao hết hơi, hết sức mới tìm được cây gỗ này chặt về lấy tiền nuôi thân mà mày lại bảo tao đi đâu. Hãy cút ngay cho tao làm việc. Con tinh thấy anh chàng lại giơ búa, hốt hoảng: - Cây này với chúng tôi như bóng với hình, không thể nào rời được. Ngài hãy thương cho, chúng tôi sẽ xin kính biếu ngài một vật. - Vật gì? Đưa ra đây. Mau! Nếu không thì đừng có trách. Con tinh bảo chờ một lát, đoạn mang đến một cái mâm đồng và nói: - Ngài chỉ cần gõ vào mâm ba tiếng là có ăn ngay, muốn thức ngon vật lạ bao nhiêu cũng có. Nghe nói, anh chàng vô cùng mừng rỡ, vội nhận lấy mâm ra về, không quên hứa để cho con tinh được yên ổn. Khi đi qua chợ, chàng ghé ngay vào quán cơm, nơi mà thường ngày mình vẫn đặt gánh củi nặng trước cửa vào một cái bánh, vài đĩa xôi ăn đỡ đói và đỡ mệt. Lần này, chàng có ý khoe với nhà hàng là từ nay mình sẽ không cần ăn chịu và cũng không cần ăn khổ như trước nữa. Nghĩ vậy, bèn đặt mâm của mình trước mặt vợ chồng chủ quán và mọi người, gõ lên ba tiếng. Tự nhiên trong long mâm tuôn ra những bát cơm, bát canh, những đĩa cá, thịt, giò, chả đầy tú ụ, những chén rượu cúc tràn trề, v.v..., toàn là những thức ăn chưa bao giờ được nếm. Trước con mắt ngạc nhiên của đám đông khách ăn trong quán, chàng đốn củi đắc chí mời họ cùng ngồi dự tiệc. Ăn xong, say rượu, chàng nằm lăn ra giường làm một giấc ly bì. Lão chủ quán thấy thế thì động lòng tham lam. Thừa dịp mọi người tản đi, hắn vào buồng chọn một cái mâm giống với chiếc mâm màu nhiệm kia, rồi đánh tráo vào. Chàng đốn củi thức dậy không biết là mâm đã bị đánh tráo, hý hửng mang về. Sắp về tới làng, anh nghĩ bụng nên cho mọi người biết số phận của mình từ nay đã khác trước và nhân thể đãi làng xóm chén một bữa ra trò. Cho nên chàng rẽ ngay vào đính đánh trống gọi làng ầm ĩ. Tất cả mọi người từ ông tiên thứ chỉ cho đến anh mõ, ai nấy đều tưởng là có việc, lục tục đổ ra đình đông như hội. Anh chàng trịnh trọng lên tiếng: - Không mấy khi cháu có bữa rượu, vậy mời quý cụ và đồng dân thượng hạ ngồi vào dự cuộc. Nói rồi đặt mâm xuống chiếu, gõ lên thành mâm mấy cái. Nhưng anh ngạc nhiên thấy lần này mâm không còn mầu nhiệm như trước nữa. Chàng gõ mãi, gõ mãi, mâm vẫn trơ trơ bất động. Cho là đánh lừa mọi người, ông xã trưởng liền sai tuần đinh xông lại nện cho chàng một trận nên thân. Trở về nhà, chàng đốn củi bực mình vô hạn. Chắc chỉ có con tinh nó lừa mình nên chuyện mới xảy ra như thế. Cho nên qua ngày mai, anh lại vác búa lên rừng tìm đến cái cây cũ ra sức giáng búa vào. Con tinh hốt hoảng chạy ra van lạy chí chết và xin tặng một con ngựa ỉa ra vàng để được tha tính mạng. - Đưa ngay ra đây cho ta. Đồ lừa đảo! Chàng quát lên như thế và chỉ lát sau một con ngựa đã hiện ra. Chàng cưỡi lên phi một đoạn để cho ngựa ỉa, quả nhiên có rất nhiều vàng vụn văng ra sáng giấp giới. Chàng mừng quá, giắt búa vào lưng và cưỡi ngựa ra về. Đến chợ, chàng lại xuống ngựa, vào khoe với vợ  chồng lão chủ quán: - Lần này tôi có con ngựa vô cùng quý báu. Trong bụng nó là cả một kho vàng đấy ông bà ạ! Rồi nó sẽ làm cho mà xem! Lão chủ quán thấy quả đúng như thế thì hoa cả mắt. Hắn sung sướng được chàng biếu trọn số vàng rơi ra. Nhưng hắn còn muốn được cả con ngựa. Hắn vội dọn cho anh một mâm đầy rượu thịt. Rồi chờ lúc anh chàng ngủ say, hắn lại đi tìm một con ngựa khác cũng có màu lông hung hung y hệt để thay vào, rồi dắt con kia đi biệt. Khi tỉnh dậy, chàng đốn củi vẫn không ngờ vực gì cả. Chàng lại nhảy lên ngựa cưỡi về đến đầu làng. Bụng bảo vệ: - "Lần trước vì con tinh khiến cho ta mang tiếng là đánh lừa mọi người. Lần này ta phải biếu bà con một ít vàng để bà con thấy ta thực bụng". Thế rồi, chàng lại vào đình đánh trống ầm ĩ. Làng lại đổ ra đình. Chàng nói: - Tôi lần này có con ngựa rất có phép ỉa ra vàng. Vậy mời làng ra đây để nhận cho tôi một ít của báu. Đoạn chàng phi cho ngựa ỉa, nhưng con ngựa ấy thì làm gì mà có vàng. Nhìn thấy đống phân ngựa vãi ra không hơn gì những đống phân ngựa khác, các cụ cho là thằng cha đã xỏ xiên cả làng nên không nên được cơn tức giận. Cuối cùng, chàng bị làng tịch thu con ngựa và còn bị tuần nọc xuống đánh ba mươi roi. Qua ngày hôm sau hắn lại dậy sớm vác búa lên rừng quyết trị cho con tinh một mẻ. Lần này chàng bổ những nhát búa rất dữ dội. Thấy con tinh hiện ra quỳ lạy khóc lóc, chàng quát to: - Sao mày dám lừa ông làm ông mang oán với mọi người. Mâm và ngựa của mày chỉ là những của vứt đi, không đáng một đồng kẽm. Con tinh hết sức phân trần, vạch tội lão chủ quán, rồi nói tiếp: - Để tôi xin biếu ngài cái ống này, lúc về có thể lấy lại những của đã mất. Hắn đưa ống ra và dặn: - Cái ống này có phép làm cho bất kỳ bao nhiêu người cũng phải chống ngược lên trời nếu cầm ống chỉ lên không ba lần. Cho đến khi nào gõ xuống đất ba lần thì mọi sự trở lại như cũ. Nghe bùi tai, chàng đốn củi lại dừng tay búa, cầm ống phép bắt con tinh phải chống đít lên trời xem thử, thấy quả nghiệm rồi mới ra về. Đến chợ, chàng lại ghé vào quán cơm tươi cười hỏi mọi người: - Các ông các bà có muốn chống chăng? Vợ chồng lão chủ quán tưởng có món gì bở nên vội đáp: - Cơm ăn no, trầu đầy đây, không chống để làm gì? Lập tức cái ống mầu nhiệm đã bắt cả nhà lão chủ quán chống hai tay xuống đất, chân giơ lên trời không cụ cựa. Chắc là lần này chàng đốn củi đã rõ mưu mô gian dối của mình nên cố tâm phạt mình với phép thuật thần dị, lão chủ quán van khóc hết lời. Hắn hứa trả lại mâm và ngựa để xin tha mạng. Anh chàng chỉ cần có mấy món bảo vật cũ, nên vui lòng làm phép tha cho cả nhà lão đứng dậy. Khi châu đã về hợp phố, chàng phi ngựa nước đại trở về làng. Chàng không quên tiến vào đình thúc một hồi trống lớn mời làng như mấy lần trước. Thế rồi trước mặt quan viên và đồng dân thượng hạ, chàng đặt mâm xuống chiếu mời mọi người chia hàng ngồi vào. Tiếng gõ mâm lúc này rất có hiệu quả. Cơm rượu và mọi thức ngon vật lạ tuôn ra đầy mâm đầy chiếu. Cả làng không đợi mời nhiều, ai nấy cắm đầu ăn uống mặc sức. Ăn uống xong đâu đấy, chàng chỉ vào con ngựa và nói: - Nếu quý cụ và mọi người vui lòng nhận một ít vàng tôi sẽ bảo con ngựa này làm ngay. Không một người nào từ chối lòng tốt của chàng. Họ đứng ra hai hàng, mỗi người cầm một cái rá chực hứng phân ngựa. Quả nhiên, ngựa chạy đến đâu, người ta đổ xô nhau nhặt đến đấy vì họ thấy lấp lánh trên mặt đất bao nhiêu là vàng vung vãi. Xong cuộc nhặt vàng, anh chàng giơ ống lên và hỏi: - Bây giờ còn ống phép này, bà con ta ai muốn chống xin mời đứng về phía này. Bấy giờ người đã no say lại được vàng giắt lưng, ai nấy chắc mẩm lại có món quà gì nữa, nên chẳng một ai từ chối. Ống vừa giơ lên, tất cả mọi người đều chổng đít lên trời, dù cố gắng thế nào cũng không buông xuống được. Hôm ấy, không ngờ lại có lão trọc phú và con gái lão cũng có mặt ở đấy. Con gái lão là người đã làm cho chàng đốn củi chết mê chết mệt. Mọi ngày, tuy thấy anh nghèo khổ mà nàng vẫn tỏ lòng quyến luyến, những lúc chàng đến làm công cho lão trọc phú, hai bên từng có cơ hội gặp gỡ, chuyện trò. Nhưng đối với lão thì đừng có hòng tính chuyện lấy nhau. Bây giờ đây, thấy lão van như vạc, chàng tới thỉnh cầu lão gả con gái cho mình. Lão gật. Thế là chiếc ống lại gõ xuống đất buông tha tất cả mọi người. Rồi đó, anh chàng đốn củi lấy được vợ như ý muốn. Với ba món bảo bối, chàng đi khắp thiên hạ giúp đỡ những người nghèo khổ và trị tội những bọn tham lam độc ác..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-don-cui-va-con-tinh" }
Sự tích Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng
Ngày xưa, có một ông cụ già sống một thân một mình trong một túp lều còn trên bãi biển vắng. Những người dân gần đó không biết ông cụ đến đấy làm gì và đến từ lúc nào. Một hôm, tự nhiên ngoài biển khơi có một vùng sóng gió nổi lên dữ dội làm bầu trời tối mịt. Hồi lâu có một con giao long rất lớn ngoi vào bờ, trườn lên đất liền. Giao long quằn đuôi trên bãi cát làm vẹt đất thành từng đường ngoằn ngoèo. Gió thổi ào ào, bụi cát mù mịt. Gian lều của ông già gần đó xem chừng muốn đổ. Cuối cùng một tiếng gào rống lên, rồi một chiếc trứng lớn trong bụng giao long xuất hiện bên cạnh nhà của ông già. Đẻ xong, giao long lại trườn xuống biển đi mất. Một lát sau lại đến lượt một con rùa vàng to lớn cũng từ ngoài khơi tiến vào. Rùa vàng đào đất chôn trứng vào bãi cát. Đoạn, rùa bò đến trước mặt ông lão bảo rằng: - Ta là thần Kim quy. Ta muốn người phải hết sức bảo hộ giọt máu này của Long quân! Ông già trả lời: - Sức cùng tài tận nhà tôi thì làm sao mà bảo hộ đựơc. Rùa liền trao cho ông già một cái móng và nói: - Người hãy cầm lây cái này, bao giờ có việc gì khó khăn nguy cấp thì đặt nó vào tai, ta sẽ giúp ngay. Không lo gì cả. - Được, tôi sẽ xin hết sức. Một hôm từ đàng xa tiến đến một chiếc xe trâu, trên có mấy tên lính hung dữ. Ông già hoảng hốt lo sợ vì chiếc xe cứ nhằm đúng hướng trứng mà lao tới. Ông đứng dậy khoát tay làm dấu cho xe chạy đi ngả khác mà không được. Ông vội đặt móng rùa vào tai. Tự nhiên có một tiếng nói nhỏ đủ lọt vào tai ông: "Nằm xuống! Nằm xuống!". Ông vừa phủ phục thì hóa ngay một con hổ lớn. Bọn lính trên xe hoảng hốt đánh xe quay trở lại. Sau đó, ông cụ tháo gian nhà của mình đưa tới dựng lên che cho trứng thần. Nhưng ông không ngờ rằng trứng thần cứ mỗi ngày một lớn mãi. Thoạt tiên nó làm nổi cát lên. Rồi ngày một, ngày hai nó rẽ dần cát ra và nhô lên khỏi mặt đất. Mỗi lần như thế thì cụ già lại hì hục xúc cát lấp lại. Nhưng vô ích vì chỉ ngày mai ngày kia nó đã nhô cao hơn, đến nỗi đội cả gian nhà của ông cụ lên trời. Trứng càng ngày càng lớn làm cho ông cụ thấy sức của mình bé lại. Tuy nhiên, ông vẫn hết lòng vì trứng thần. Ông đi chặt cây, chặt lá về che cho kín trứng. Nhưng cây lá cũng không che nổi nữa vì trứng ngày một phình to ra. Không những nó nhô cao lên trời mà còn nở cả bề rộng. Màu vỏ trứng xanh đỏ tím vàng lóng lánh như một hòn ngọc khổng lồ. Một hôm, gian lều của ông cụ bị những tên vô lại đốt cháy. Ông cụ cầu cứu với móng rùa. Tự nhiên trong lòng trứng hiện ra một cái hang đá có đủ giường chiếu sẵn sàng. Ông già vừa đặt mình xuống là ngủ thiếp ngay. Giữa lúc đó thì một cô gái bé từ trong lòng trứng ra đời bên cạnh giường của ông già. Sữa ở mạch đá trong hang chảy ra nuôi cô gái bé lớn lên như thổi. Nhưng tuy ông già ngủ mà cô gái cũng không cô quạnh. Hàng ngày có những con khỉ hái hoa quả đến cho cô ăn, có những con chim cu tha bông đến dệt cho cô mặc. Ông già ngủ một giấc tỉnh dậy lấy làm kinh ngạc khi thấy một thiếu nữ xinh đẹp ngồi bên cạnh mình. Cô gái reo lên: - "Mười lăm năm nay con ngày ngày lắng nghe hơi thở đều đặn của cha. Nay cha đã dậy, con vui mừng biết mấy". Ông già ngơ ngác nhìn trứng thần bây giờ đã thành một hòn núi đá to lớn, cỏ cây đã rậm rạp, chim chóc thú vật đã đến sinh hoạt nhộn nhịp. Móng rùa vẫn còn ở đầu giường. Ông vội cầm lấy để vào tai. Móng rùa mách đường cho ông già và cô gái ra khỏi hang và cho biết phải làm những việc gì. Từ đây ông già lại có thêm chức trách dạy dỗ săn sóc cô gái của Long quân. Trong khi đó, chim chóc và thú rừng đến quán quýt bên cạnh hai người. Bọn mục đồng cũng không quên lui tới làm quen với với bọn họ. Một hôm có một đội quân không hiểu từ đâu lại, mặt mũi hung ác, gươm tuốt sáng lòe, đến bổ vây chiếm lấy hòn núi mới. Bọn chúng xô tới định bắt cả trẻ lẫn già đi, nhưng móng rùa đã làm cho chúng chết không kịp ngáp. Cả một vòng lửa rất dày ùn ùn bốc lên vây lấy chúng và chẳng cho một tên nào chạy thoát. Thấy núi và người bỗng dưng xuất hiện ở địa phương mình, nhân dân quanh vùng cho là một sự lạ chưa từng có. Tin là tiên xuống trần cứu dân, họ đến gặp cô gái và ông già để xin thuốc và cầu khẩn mọi việc. Thấv họ cần dùng thuốc, cô gái lấy những mảnh đá có màu xanh, đỏ sáng giấp giới, buộc lại với nhau rồi ném ra xung quanh chỗ ngồi. Trên mặt đất bỗng mọc lên một loại cây cỏ hoa năm cánh dùng để chữa bệnh sốt rét rất hiệu nghiệm. Người ta đua nhau đi hái hoa đó về chữa bệnh. Họ gọi là hoa Tứ quý. Tiếng đồn thổi mỗi ngày một rộng. Ai ai cũng nhắc đến nàng tiên bé nhỏ với một tấm lòng trìu mến. Sau đó chẳng bao lâu, nhà vua nghe tin có nàng tiên xinh đẹp, bèn sai quan quân mang lễ vật đến cầu hôn cho hoàng tử. Khi sứ giả đến thì trông thấy một già một trẻ đang đánh cờ "gánh" trên tảng đã lớn. Sứ giả bước vào đệ trình lễ vật và quốc thư. Giữa khi ông cứ già lúng túng chưa biết nên xử trí thế nào thì rùa vàng đã tự dưới biển hiện lên báo tin cho ông biết là Long quân đã bằng lòng gả. Từ đây núi vắng người tiên. Cô gái từ biệt cha nuôi lên kiệu đi theo sứ giả, có mấy trăm quân sĩ theo hầu. Còn ông già trả móng lại cho rùa thần rồi cưỡi lên lưng rùa đi biệt. Ngày nay hòn núi đá ấy vẫn hãy còn. Nó là hòn núi đẹp nhất nổi lên ở bờ biển Quảng-nam. Người ta gọi nó là núi Ngũ-hành. Ở phía Tây núi có sông Vĩnh-điện chảy ra cửa Hàn. Người ta bảo sông đó cũng như sông Cẩm-lệ, sông Hàn đều do bà vợ Long quân vô tình làm ra trong khi quằn quại ở cữ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ngu-hanh-son-da-nang" }
Từ Đạo Hạnh hay là sự tích Thánh Láng
Vào thời Lý có một ông sư quê ở làng Láng gần kinh đô, tên là Từ Vinh. Từ Vinh học được phép tàng hình. Không những thế, hắn còn biết cả phép biến mình thành bất cứ con vật gì hay bất cứ một người nào khác. Khi học được phép lạ, hắn không nghĩ đến việc lợi dụng phép thuật để giúp đỡ người nguy kẻ khó mà chỉ nghĩ cách tìm khoái lạc cho bản thân. Cho nên, hắn đi khắp mọi vùng, bề ngoài làm bộ giảng đạo nhưng kỳ thực là để gần gụi những người đàn bà mà mình ưa thích. Hắn đã có phép, lại không kém khôn ngoan, nên chả một ai hay biết cả. Từ lúc Từ Vinh thi đậu khoa thi Bạch-liên, được vua phong chức tăng quan đô sát, một chức quan lớn trong triều đình, thì hắn lại lén lút tìm gái ở vùng kinh kỳ. Bấy giờ, ở kinh có một nhà quý tộc tên là Diên Thành hầu có phủ đệ đẹp đẽ trên bờ sông Cót gần làng Từ Vinh. Diên Thành hầu có một đám vợ và nàng hầu, trong đó có một nàng trẻ tuổi, nhan sắc xinh đẹp trên đời khó ai sánh kịp. Từ Vinh chú ý đến nàng. Phủ đệ Diên Thành hầu canh gác rất nghiêm ngặt, nhưng đối với Từ Vinh thì chẳng mùi gì. Nhè những đêm Diên Thành hầu vắng mặt, Từ Vinh tàng hình lọt vào buồng của nàng, rồi biến thành chồng nàng lên giường giao hoan. Sáng dậy, y lại tàng hình đi ra khỏi cổng trước mắt bọn gác. Vì thế, chẳng những cả nhà Diên Thành hầu không một ai biết mà chính người đàn bà nọ cũng không ngờ là ngoài chồng mình ra, còn có một người đàn ông thứ hai nữa. Một hôm, giữa lúc Từ Vinh tàng hình bước ra khỏi buồng người đàn bà, thì chính là lúc Diên Thành hầu lại vào với vợ. Người đàn bà vội kêu lên: - Sao phu quân vừa ra đã lại trở vào? Nghe nói thế Diên Thành hầu hiểu ngay nông nỗi và sau khi tra gạn vợ, ông mới biết gian phụ không phải người tầm thường, nếu không có một pháp sư cao tay thì đừng hòng trị nổi. Diên Thành hầu căm tức vô cùng, sau một lúc lâu suy nghĩ, ông sực nhớ đến nhà sư Đại Điên phép thuật cao cường nhất trong nước, từng được vua ban tước quốc sư và đã trổ tài mấy phen trị tà bắt quỷ. Khi nghe Diên Thành hầu kể lại câu chuyện, Đại Điên đưa cho ông ta một sợi chỉ ngũ sắc và dặn rằng: - Hầu về đưa sợi chỉ này cho bà ấy, chờ lúc gian tế đến, lẳng lặng buộc vào ngang lưng. Một mặt cho rắc một lớp tro mỏng trước cửa buồng, cho người nấp chỗ kín canh gác. Đợi lúc nào thấy có dấu chân giẫm lên tro thì đóng ngay cửa lại, dán lá bùa này vào rồi cho người tức tốc đến đây báo tin cho bần đạo. Bần đạo sẽ vì hầu trừng trị con dâm quỷ. Diên Thành hầu về, làm đúng như lời đã dặn. Quả nhiên, một đêm nọ Từ Vinh tàng hình mò tới. Hai tên nô hầu chực đêm ở cửa, bỗng nhìn thấy có những dấu chân tiến vào buồng mà không thấy có người, vội dán lá bùa lên cách cửa rồi phi báo cho chủ biết. Đêm ấy, Từ Vinh vô tình, không ngờ có cạm bẫy đang giương ra chờ mình, nên chỉ một lúc sau người vợ Diên Thành hầu đã buộc được sợi chỉ ngũ sắc quanh lưng mà hắn cũng không hay biết gì cả. Nghe tiếng động, Từ Vinh vội niệm chú biến thành một con gián. Nhưng chỉ bay đến cửa, hắn mới biết rằng khắp mọi nơi đều có phép thần kín mít như bưng, không một khe hở nào chui lọt. Giữa lúc đó thì Đại Điên đã cầm đuốc tiến vào buồng. Gián ta hoảng hốt bò vào một khe vách nằm im tại đó. Cuộc tìm tòi của Đại Điên đã tưởng như trở nên vô hiệu. Mãi về sau, nhờ có sợi chỉ ngũ sắc buộc quanh người thò ra ngoài vách, nên Đại Điên lôi ngay được gián ra. Trong tay thần của Đại Điên, Từ Vinh hết phương trốn tránh đành chỉ kêu van xin tha mạng. Đại Điên hỏi: - Mày là ai? Đáp: - Tôi là Từ Vinh. Xin hòa thượng nghĩ đến tình đồng triều, đồng đạo, tha cho tội chết. Nghe kẻ tội phạm xưng tên, Đại Điên nghĩ bụng: - "Phép thuật của hắn có tiếng là cao cường không kém gì ta. Nếu không sa cơ vì mấy lá bùa chưa chắc hắn đã chịu kêu van như thế này đâu. Tha cho hắn sẽ nguy hiểm cho ta. Tất phải trừ đi để khỏi hậu họa". Nghĩ vậy sư ta cười gằn bảo Từ Vinh: - Mày là kẻ tu hành, lại được triều đình trọng dụng mà cố tình phá giới, phạm tội chồng chất như thế này ư? Tha cho mày sao được! Thôi ta hóa kiếp cho mày để lo tu tỉnh về sau. Từ Vinh chưa kịp kêu thì đã bị bàn tay Đại Điên bóp nát vụn. Xác con gián vừa rơi xuống đất thì hiện nguyên hình thành Từ Vinh. Đại Điên đá vào cái thây nói: Kiếp này đã vụng đường tu, Hãy đền tội lỗi, đền bù kiếp sau. Đoạn, ngoảnh bảo Diên Thành hầu: - Thế là trừ được một con dâm quỷ. Hầu cứ bảo người nhà vứt thây nó xuống sông. Diên Thành hầu hết lời cảm tạ và sai người nhà mang mười lạng vàng tống tiễn quốc sư về chùa. Nhưng sáng hôm sau, giữa lúc Đại Điên đang tụng kinh thì một tên nô của nhà Diên Thành hầu đã hốt hoảng chạy tới báo tin: - Bạch sư cụ, cái thây hôm qua không chịu trôi. Nó cứ đứng sừng sững giữa sông Cót trên mặt nước, tay chỉ vào nhà hầu tôi, mắt nhìn trừng trừng rất dữ tợn. Hầu tôi kính mời sư cụ đến trị ngay cho! Nghe nói, Đại Điên theo đến, chỉ tay vào thây Từ Vinh, đọc một câu quyết: Sống chết là giấc chiêm bao, Dầu giận thế nào không để cách đêm. Tự nhiên cái thây chìm xuống nước và trôi đi. Lại nói chuyện Từ Vinh có một người con tên là Từ Đạo Hạnh. Chàng mới hai mươi lăm tuổi, rất chăm học và rất có hiếu. Cái đêm cha bị giết, Từ Đạo Hạnh được cha báo mộng cho biết sự tình và nhắc đi nhắc lại tên Đại Điên, dặn phải trả thù cho bằng được. Tỉnh dậy, chàng hốt hoảng đi tìm cha, và chàng xiết bao đau đớn khi thấy thây cha nổi trên mặt nước. Nóng lòng vì báo thù, chàng cầm côn đi tìm Đại Điên. Chờ lúc Đại Điên đi đường một mình, chàng đuổi theo kẻ thù toan chuyện phang cho một côn lên cái đầu trọc. Nhưng vừa định vung côn, chàng bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng can của cha mình: - Chớ! Chớ nóng nảy. Muốn bóc vỏ quýt dày cần có móng tay nhọn đã! Vì thế Từ Đạo Hạnh lại thu côn vào nách, nuốt giận trở về. Chàng tính chỉ có cách tìm thầy học phép mới trừ được kẻ thù lợi hại kia. Nghĩ vậy, chàng bỏ nhà đi khắp nơi tìm thầy, thế quyết bao giờ "đắc đạo" mới chịu trở về. Hồi ấy ở về ven biển phía Nam có hai người bạn tâm giao: một người là Nguyễn Minh Không và một người là Dương Không Lộ. Cả hai đều làm nghề chài lưới nhưng rồi rủ nhau cắt tóc đi tu. Sau bao nhiêu năm đọc kinh gõ mõ vẫn chưa được đắc đạo, một hôm Nguyễn Minh Không nói với bạn: - Tôi nghe muốn nhìn được xa thì phải trèo lên núi cao, muốn uống nước ngọt thì phải tìm đến tận nguồn. Vậy muốn đắc đạo trừ phi tìm đến quê hương của Như Lai thì không còn cách nào khác. Dương Không Lộ đáp: - Tôi sẵn lòng đi với bạn, dù có gặp núi cao biển rộng khó khăn đến đâu cũng không quản ngại. Thấy hai chú tiểu cùng phát thệ đi đến đất Phật, một vị sư bác trong chùa cũng hăm hở đòi đi theo. Nhưng hồi ấy đường đất từ nước nhà sang đến Thiên-trúc thật là muôn vàn nguy hiểm và vô cùng gian khổ, cho nên sau khi đi được mấy ngày, vị sư bác đã thấy chùn chân, đành cáo bệnh trở về chùa cũ. Chỉ có hai bạn trẻ vững lòng nhắm hướng Tây tiến bước. Một hôm, họ đến một vùng núi cao, hai người chui vào một ngôi miếu cổ bên đường để ẩn mưa, bỗng gặp một người trẻ tuổi đang ngồi đốt lửa sưởi ở trong đó. Họ bắt đầu làm quen và biết rằng đấy là Từ Đạo Hạnh, cũng lặn lội đi tìm thầy học phép để trả thù cho cha. Sau một đêm chuyện trò, ba người kết bạn với nhau. Từ Đạo Hạnh nhiều tuổi hơn được tôn là anh cả. Dương Không Lộ thứ hai và Nguyễn Minh Không là em út. Cuộc hành trình vất vả kéo dài mấy năm trời. Họ đã trèo qua bao nhiêu là núi rừng, lội qua bao nhiêu là sông suối, chung sống với bao nhiêu là người dị chủng. Mặc cho ốm đau, đói khát, rách rưới, họ vẫn không chịu nản. Một hôm, vừa qua xứ Mán Răng Vàng, họ bỗng gặp một ông cụ chở chiếc thuyền độc mộc ở giữa sông. Họ gọi lại hỏi đường. Ông cụ cho biết là theo con đường sông này sang quê hương Phật tổ thì không còn bao xa nữa. Ông cụ còn sẵn lòng chở họ đến nơi. Mừng quá, cả ba người xuống thuyền và thuyền đi nhanh vùn vụt chả mấy chốc đã đến đất Phật. Ông cụ lái đò chình là đức Phật Như Lai. Nghe tin có người thành khẩn mộ đạo đến nỗi không quản gian lao nguy hiểm, nên đức Phật hiện xuống, dùng phép thần thông đưa họ đi. Nhưng khi nghe nói mục đích học đạo của Từ Đạo Hạnh thì đức Phật không bằng lòng. Cho nên khi đến nơi, ông cụ lái đò bảo Từ Đạo Hạnh ở lại trông thuyền cho hai anh em lên thăm dò trước đã rồi có gì sẽ báo lại sau. Thế rồi đức Phật đưa Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về độ cho thành chính quả, và truyền cho tất cả các thuật biến hóa huyền diệu. Sau khi đắc đạo, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không cúi đầu lạy tạ đức Phật rồi lên đường về nước. Nói chuyện Từ Đạo Hạnh ngồi chờ mãi không thấy hai em trở lại, trong bụng lấy làm lo lắng chưa biết nên tính cách gì. Xảy gặp một bà cụ già từ trên bờ đi xuống bến xin sang sông. Chàng vui lòng chống đò giúp bà cụ. Luôn tiện chàng hỏi thăm: - Cụ có thấy một ông già và hai anh chàng đi về ngả ấy không? Bà cụ đáp: - Có. Họ đã gặp đức Phật và đã đắc đạo rồi! Nghe nói thế, Từ Đạo Hạnh đoán chắc bà cụ này không phải là người phàm trần, vội sụp lạy kêu nài: - Xin cụ rủ lòng thương cho, kẻ đệ tử này mối thù cha trong lòng canh cánh không lúc nào nguôi. Bà cụ vốn là một vị Bồ tát được đức Phật sai đến đây, bèn trả lời: - Chính vì tìm đến cõi Phật với một điều ác trong lòng nên không được độ. Chàng mếu máo bày tỏ lời thề của mình trước linh sàng của cha cho bà cụ nghe và lạy lục van nài đến kỳ cùng. Bà cụ bảo: - Nếu lấy oán báo oán sẽ không tránh khỏi "nghiệp báo". Nhưng vì người có lòng thành khẩn nên ta cũng truyền cho. Đoạn dạy cho Từ Đạo Hạnh mọi thuật biến hóa mầu nhiệm và để cho chàng có thể đối địch với kẻ thù, nên Bồ tát còn dạy cho phép hô thần tróc quỷ bằng cách tụng chú Đà-la-ni, v.v... Thế là từ đó Từ Đạo Hạnh cũng biết một số phép thần thông. Cho nên, lúc Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không từ đất Thánh trở về thì chàng đã độn biết được trước, mới định tâm đùa một mẻ để cho hai bạn hoảng sợ chơi. Khi họ sắp sửa đến bến đò phải đi qua một khu rừng rậm, Từ đã hóa làm một con hổ lớn từ trong bụi rậm xông ra định vồ, nhưng chàng không ngờ rằng hai bạn mình đều đã học được phép Phật, nên khi nhìn thấy hổ thì đoán ngay ra đó là Từ. Họ đồng cười lên. Nguyễn Minh Không đi đầu, nói: Thôi đừng đùa cợt chi nhau, Muốn làm kiếp ấy rồi sau được làm. Nghe thế Từ Đạo Hạnh giật mình tỉnh ngộ. Nhờ phép thần, chàng thấy được kết quả tội lỗi của mình ở kiếp sau. Chàng bèn niệm chú hiện lại nguyên hình rồi cười đỡ thẹn: - Anh chỉ định tâm thử chơi, không ngờ mua cười với hai em. Phép thuật của hai em như thế đủ biết không phải tầm thường. Anh chỉ mong em ba đến lúc đó sẽ hết sức giúp anh qua khỏi "nghiệp chướng". Thế rồi ba anh em lên đường về nước. Lần này, họ đi vùn vụt như tên, chả mấy chốc mà trước mắt họ đã thấy sông Lô núi Tản. Ba người chia tay nhau. Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về quê hương còn Từ Đạo Hạnh thì không về nhà. Chàng nghĩ bụng: - "Ta phải tìm một nơi nào yên tĩnh để tu luyện thêm cho đến chừng hơn hẳn kẻ địch, lúc bấy giờ sẽ gọi hắn đến đương trường tỷ thí chứ không thèm đánh lén lút". Bèn tìm đến Thạch-thất, vào một hang đá ngồi xếp bằng tu luyện theo lối trường định. Theo như lời dặn, hàng ngày chàng niệm chú Đà-la-ni một vạn tám nghìn lần. Sau ba tháng mười ngày khổ luyện, tự nhiên một hôm chàng vừa đọc câu chú, bỗng có một vị thần mặt xanh mỏ đỏ hiện ra trước mắt rồi nói: - "Từ Đạo Hạnh, anh cần sai bảo gì, tôi xin tuân lệnh". Từ biết là đạo pháp của mình đã đến ngày thông được với thần, mừng quá vội nói: - "Ta cần trả thù cha. Lập tức đưa ngay ta về kinh thành". Thốt nhiên chỉ trong nháy mắt, Từ Đạo Hạnh đã xuất hiện ở phía Bắc hoàng cung. Chàng bước lần đến ngã ba sông Cót ném xích trượng xuống nước. Giữa dòng nước chảy xuôi, gậy cứ lừ lừ trôi ngược. Chàng đuổi theo cây gậy bấy giờ đã lướt sóng như một con rồng cho đến cầu Tây-dương thì dừng lại. Chàng vội tàng hình bước vào nhà Đại Điên. Bấy giờ Đại Điên đang ngồi nói chuyện trước một số đông quan khách. Chàng tiến đến trước mặt, hiện lại nguyên hình và bảo Đại Điên: - Đại Điên! Mày có biết tao là ai không? Tao là Từ Đạo Hạnh con Từ Vinh. Ác giả ác báo. Mày giết chết cha tao, tao phải giết lại mày! Thôi cho mày sửa soạn đi! Biết là gặp phải đối thủ không vừa, Đại Điên khởi thế công ngay. Nhưng phép thuật của hắn không thể nào đương nổi chiếc gậy thần của Từ Đạo Hạnh. Vì thế, cuộc chiến diễn ra không lâu. Chỉ một gậy của Từ Đạo Hạnh giáng xuống, hắn ngã vật chết ngay, chỉ kịp nói được mấy tiếng: - Hỡi Từ Đạo Hạnh, tao sẽ diệt mày! * Nói chuyện vua nhà Lý, hồi ấy tuổi đã già mà không có con. Bao nhiêu hoàng hậu và phi tần trong hậu cung chưa từng có một người nào chửa đẻ. Nhà vua hết cầu Trời khấn Phật đến tìm thầy chạy thuốc, nhưng chẳng ích gì. Những phép bùa thuốc men của các pháp sư, các lang y chả có thứ nào ra hồn. Người ta đều nói, vì mẹ vua ác nghiệt nên bị Trời phạt như thế, mà Trời đã phạt thì đừng hòng cưỡng lại. Thất vọng, nhà vua dự định nuôi con nuôi. Một hôm, viên chuyển vận sứ Thanh-hoa về kinh chầu vua có báo một tin rất lạ: một nhà dân chài ở miền biển có sinh được một đứa bé thần dị. Lên ba tuổi, nó đã biết nói và tự xưng là Giác Hoàng. Nó biết tất cả các việc trên trời dưới đất và tất cả mọi việc trong triều, ngoài nội. Và điều này mới đáng để ý, là hoàng thượng làm gì nó cũng biết cả. Nó còn tự xưng là con của hoàng thượng. Nghe nói thế, vua liền cho đưa đứa bé về cung. Thấy mặt mũi nó sáng sủa, hỏi đâu biết đấy, nhà vua đem lòng yêu dấu, muốn nuôi làm con để một ngày kia trăm tuổi sẽ truyền cho ngôi báu. Có mấy vị đại thần khi nghe vua dò ý tứ thì vội can ngăn: - Tâu bệ hạ, bệ hạ làm thế sợ lòng dân không phục. Nếu nó linh dị như thế, sao không thác sinh vào cung để mang lấy dòng máu của hoàng đế, lại đi làm kiếp con nhà bần tiện. Nhà vua mang lời tâu ấy kể cho đứa bé nghe. Giác Hoàng xin vua dựng cho một cái đàn tràng, mời thầy làm lễ trong bảy đêm ngày, nó sẽ có cách đầu thai được. Vua mừng lắm, vội sai các quan làm y như lời nó dặn. Tin ấy truyền đi khắp nơi và đến tai Từ Đạo Hạnh. Biết ngay đó là kẻ thù của mình, chàng bèn tìm đến nhà chị ruột đưa cho chị bốn lá bùa, nhờ về kinh tìm tới đàn tràng giắt lên mái; mỗi lá giắt về một phương. Quả nhiên sau đó ba ngày, Giác Hoàng bỗng bị bệnh nguy kịch. Găp vua, hắn tâu: - Tâu bệ hạ, bây giờ thì khắp mọi nơi đâu đâu cũng có lưới sắt vây kín, không thể nào thác sinh được. Hạ thần chỉ còn chờ chết. Mong bệ hạ trị tội Từ Đạo Hạnh, vì chính hắn đã âm mưu giết hạ thần và phá hoại cơ nghiệp lâu dài của bệ hạ. Nói xong thì chết. Thấy Giác Hoàng chết, vua nổi cơn thịnh nộ, lập tức sai người đi tra xét, quả bắt được mấy lá bùa có pháp ấn Từ Đạo Hạnh. Vua vội sai mấy đội vệ sĩ đi bắt Từ về kinh trảm quyết. Bị quân lính giải đi, Từ Đạo Hạnh không dám trái mệnh. Qua phủ đệ Sùng Hiền hầu ở phía Tây kinh thành, chàng cố nài bọn họ cho mình vào yết kiến. Sùng Hiền hầu nguyên là em ruột vua. Và cũng như vua, hầu không có con trai.Từ Đạo Hạnh chợt nghĩ ra được một kế cho nên khi gặp hầu, chàng cố nài nhờ tâu giúp để vua tha tội cho mình. Đổi lại, chàng sẽ tìm cách đầu thai làm con hầu và chắc chắn thế nào cũng phải được. Sùng Hiền hầu nghe bùi tai, liền đi vào hoàng cung bênh vực cho Từ: - Tâu bệ hạ, không nên nghe lời một đứa bé để giết hại một nhà tu hành. Nếu Từ Đạo Hạnh mà diệt được Giác Hoàng thì phép thuật của Giác Hoàng sao ví được với Từ Đạo Hạnh. Bệ hạ nên lưu ý lại để dùng khi quốc gia hữu sự... Nhân đấy, Từ Đạo Hạnh cũng tâu thêm: - Tâu bệ hạ, nó là tà ma ngoại đạo hiện ra để hãm hại mọi người. Bần tăng không thể ngồi yên mà nhìn để cho tà ma làm loạn cả chính pháp, nên vượt phép bệ hạ trừ bỏ nó đi. Nay việc đã xong, bần tăng xin cúi đầu chịu tội. Nghe mấy lời nói có lý, nhà vua dần dần nguôi giận, tha bổng cho Từ. Hôm đó về đến nhà Sùng Hiền hầu, Từ Đạo Hạnh xin phép vào gặp vợ hắn. Người nhà cho biết là phu nhân đang bận tắm. Từ bảo: - Thế thì lại càng hay. Xin cho đưa vào ngay! Bấy giờ người vợ Sùng Hiền hầu đang giội nước trong buồng tắm, bỗng thấy có một vị hòa thượng xô cửa bước vào. Trong lúc hoảng hốt chưa kịp kêu la thì hòa thượng đã biến đi đâu mất, mà lại thoáng thấy ở trong bồn nước có bóng một đứa trẻ. Người đàn bà ấy chưa hiểu ra thế nào cả thì đứa trẻ cũng đến lượt biến đi. Từ Đạo Hạnh đã bước ra khỏi nhà tắm. Gặp lại Sùng Hiền hầu, Từ dặn: - "Bao giờ phu nhân sắp sửa ở cữ, xin cho người hỏa tốc báo tin cho biết ngay". Dặn đoạn, trở về Thạch-thất. Từ hôm ấy, Sùng Hiền hầu trông trông mừng mừng khi thấy vợ có chửa, bụng ngày một lớn. Một đêm nọ thấy vợ chuyển bụng, theo đúng lời dặn, ông vội sai gia nhân phi ngựa lên Thạch-thất báo tin. Hôm đó, Từ Đạo Hạnh đang ngồi trước hang đá thuyết pháp, học trò có đến hàng ngàn người vây quanh cửa hàng. Bỗng có tin người nhà Sùng Hiền hầu xin ra mắt hòa thượng, Từ Đạo Hạnh bảo các môn đồ: - Thời đã đến rồi vậy! Ta sắp sửa đi đây! Nói xong đọc mấy câu kệ dặn dò, rồi xếp bằng lại mà hóa. * Giữa lúc Từ Đạo Hạnh chết thì ở Thăng-long người vợ Sùng Hiền hầu sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Dương Hoán. Năm mười lăm tuổi, Dương Hoán được vua nuôi là con và sau đó lấy làm đẹp lòng vì tính nết chàng có thể giữ được ngôi báu dòng họ Lý, nhà vua phong cho làm Hoàng thái tử. Năm hai mươi tuổi, Dương Hoán lên ngai vàng kế vị cha nuôi, trị vì thiên hạ tức là Lý Thần Tông. Nhưng sau khi lên ngôi báu được ba năm thì Lý Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ lùng. Thoạt tiên, nhà vua thấy ngứa ngáy khắp cả mình mẩy. Càng gãi bao nhiêu thì lông càng mọc bấy nhiêu. Mãi về sau toàn thân mọc thứ lông màu vàng có vằn đen như da hổ, miệng thỉnh thoảng lại gầm lên những tiếng dễ sợ. Nhà vua suốt ngày ngồi lù lù trong một góc buồng, áo quần mặc vào bao nhiêu xé rách bấy nhiêu. Trước tin này, mọi thần dân đều ngơ ngác. Tất cả các viên ngự y đều lắc đầu bó tay, không biết bệnh gì mà chữa. Bọn nội thị kháo nhau: - "Có lẽ hoàng đế hóa làm chúa sơn lâm thì phải". Triều đình và nội cung vì có việc vua đau cuống quýt cả lên. Ngoài những vị lương y còn có những pháp sư phù thủy được triệu đến làm phù phép, nhưng luôn trong năm tháng, bệnh của vua chỉ ngày một tăng chứ không có giảm. Hoàng thái hậu lo sợ quá, sai yết bảng rao: nếu ai chữa được vua lành sẽ chia cho nửa nước. Thì bỗng nhiên, một hôm có vị đại thần đi ra ngoài cửa ô, nghe đám trẻ chăn trâu hát lên mấy câu: Tập tầm vông! Có ông Nguyễn Minh Không, Chữa cho vua khỏi hóa. Tập tầm vá! Muốn chữa vua khỏi hóa, Phải đón Nguyễn Minh Không. Viên đại thần vừa ngạc nhiên vừa mừng, vội về triều báo tin cho hoàng gia biết. Lập tức triều đình phái một viên võ tướng mang năm trăm quân sĩ xuống mười chiếc thuyền lớn, xuôi sông đi về biển triệu Nguyễn Minh Không. Lại nói chuyện từ khi chia tay hai bạn, Nguyễn Minh Không vào Ninh-bình trụ trì ở một ngôi chùa nhỏ, lấy hiệu là Giác Hải. trong những cuộc đi chơi, chàng đã dùng đúng pháp thuật của mình giúp đỡ mọi người. Một lần đi qua xã An-vệ thấy người dân ở đây đang khổ vì đại hạn: lúa héo khắp cả cánh đồng, chàng bảo người làng đan gấp cho mình một cái giỏ bằng tre thật lớn, ngoài phết giấy. Đoạn, đưa ra sông cả múc nước, một mình đội về giội xuống ruộng, nước chảy lênh láng khắp cả cánh đồng; chỗ nước giội xuống nay hóa thành cừ. Nhờ thế mà lúa lại mọc khỏe, dân làng lại được mùa. Khi quân sĩ tìm được đến chùa thì Nguyễn Minh Không đang tụng kinh buổi trưa. Viên võ tướng mang quốc thư lên trình. Chàng đọc xong, quay lại nói với bọn họ: - Bây giờ đã quá trưa, các vị đi đường chắc là đói bụng. Nhà chùa thanh đạm chẳng có gì nhưng cũng mời tất cả các vị dùng cơm chay một bữa rồi hẵng nhổ sào cũng chưa muộn. Mời đoạn, chàng giục một chú tiểu bắc nồi thổi cơm và làm thức ăn. Nhìn thấy chú tiểu bắc một chiếc nồi tý tẹo lên bếp, lại thấy hòa thượng giết thịt một con chim sẻ thì viên tướng không nhịn được cười: - Bạch hòa thượng, chúng tôi đi đây có đến năm trăm quân sĩ. Nay hòa thượng cho ăn như thế chỉ sợ một người vẫn chưa thể nào thòm thèm, huống hồ là năm trăm người. Hiện nay lương thực còn ở dưới thuyền, xin để chúng tôi tự lo lấy cái ăn, khỏi phải làm phiền đến cửa Phật. Nguyễn Minh Không đáp: - Các vị chớ ngại, nhà chùa tuy nghèo nhưng không để các vị phải đói đâu. Nói xong, quay ra đun nấu một tý rồi bảo quân sĩ sắp hàng theo từng đội ngũ, lần lượt vào nhận phần cơm. Quân sĩ lũ lượt từng người đến trước hai cái nồi đất tý hon xới cơm và gắp thịt chim sẻ vào bát. Không ai không ngạc nhiên vì từ hai cái nồi mầu nhiệm ấy bới hết bao nhiêu lại đầy ùn lên bấy nhiêu. Nguyễn Minh Không luôn luôn giục họ bới cho thật đầy để an cho rõ no. Và rồi chỉ trong một lúc, năm trăm quân sĩ dự xong bữa tiệc của nhà chùa thết. Ăn xong, chàng bảo họ ai về thuyền nấy nghỉ ngơi trước khi nhổ sào tiến kinh. Cả tướng lẫn quân quay ra làm một giấc ngon làng. Nhưng khi tỉnh dậy họ đều hết sức sửng sốt vì thấy mình đã đến bến Ngự từ lúc nào rồi. Nguyễn Minh Không theo viên tướng vào hoàng cung. Bấy giờ các pháp sư ngồi đầy cả điện Thái-hòa. Họ đang tụm năm tụm ba vẽ bùa thử phép rì rầm khắp nơi. Thấy một nhà sư có vẻ quê mùa bước vào, họ liền bĩu môi: Chuông khánh còn chả ăn ai, Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre. Chàng không nói gì cả, cúi đầu chào mọi người rồi rút trong áo lấy ra một chiếc đinh dài đóng sâu vào cột chừng một tấc, đoạn ngoảnh lại nói to lên, bảo rằng: - Ai tay không nhổ được cái đinh này thì người ấy sẽ chữa lành bệnh cho thiên tử. Nghe nói thế, các pháp sư đều chạy lại thử rút cây đinh nhưng chả một ai lắc nổi. Cuối cùng, Nguyễn Minh Không bước lại dùng hai ngón tay khẽ rút ra như bỡn trước con mắt kính phục của mọi người. Thế rồi chàng đi thẳng vào nội điện, đến trước long sàng. Lý Thần Tông bấy giờ đang nằm ngửa, xung quanh có đến hàng chục nội thị đang giữ lấy tay chân. Thỉnh thoảng, bệnh nhân lại gầm lên và cố sức giãy giụa. Nguyễn Minh Không nhìn trừng trừng vào mắt bệnh nhân và nói lớn: - Còn nhớ cố nhân nữa không? Được làm con Trời giàu có bốn biển mà cũng không thoát khỏi nghiệp báo ư? Nghe nói, nhà vua bắt đầu có vẻ sợ, nằm im thin thít. Chàng sai đặt trước điện một cái vạc lớn đổ thuốc và dầu vào, bắt đầu nấu sôi lên sùng sục. Đoạn chàng xắn tay áo, thò tay vào vạc khuấy đều lên. Chàng ra lệnh vực vua lại gần rồi tự tay cầm gáo múc dầu trong vạc ra tắm cho vua. Dầu chảy đến đâu lông lá trôi đến đấy, da thịt nhà vua lại trắng trẻo như xưa. Sau khi nhà vua lành bệnh, triều đình không ngớt lời khen ngợi phép thần diệu của Nguyễn Minh Không. Họ y ước cắt đất phong thưởng nhưng chàng không nhận, nói: - Bần tăng vì một lời hứa với người bạn cũ chứ không phải vì phú quý. Đoạn bỏ về chùa cũ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tu-dao-hanh-hay-la-su-tich-thanh-lang" }
Sự tích chim tu hú
Ngày xưa có hai nhà sư Năng Nhẫn và Bất Nhẫn. Hai người cùng cạo đầu xuất gia từ ngày còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh. Sau một thời gian dài tu luyện thì bỗng một hôm, Năng Nhẫn được đức Phật độ cho thành chính quả. Bất Nhẫn thấy mình tu hành không kém gì bạn mà không được hưởng may mắn như bạn thì rất buồn bực. Chàng đến trước tòa sen hết sức kêu nài với đức Phật bày tỏ lòng chân thành tu đạo cùng mọi sự khổ hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật bảo chàng: - "Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo, lại là người trong sạch, thật đáng khen ngợi. Nhưng tính tình nhà ngươi vẫn như con trâu chưa thuần, chưa thể đắc đạo được. Vậy hãy cố gắng tỏ rõ tấm lòng nhẫn nhục trong một cuộc khổ hạnh trường kỳ rồi sẽ theo bạn cũng chưa muộn". Bất Nhẫn nghe lời bèn lên núi chọn một gốc cây bắt chước người xưa ngồi xếp bằng tu theo lối trường định. Chàng cương quyết ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm, dù có phải thế nào cũng không chịu dậy. Và từ hôm đó, Bất Nhẫn như một vật vô tri vô giác. Những con sâu con kiến bò khắp mình chàng. Những con thú cà vào thân chàng. Những con chim ỉa phẹt lên đầu chàng. Chàng đều không hề bận tâm. Chàng chỉ một mực tâm tâm niệm niệm nghĩa lý cao thâm của đạo Phật. Cứ như thế, trải qua hai mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ ba là kết liễu cuộc tu luyện. Một hôm tự dưng có hai vợ chồng con chim chích ở đâu đến làm tổ ngay trong vành tai của Bất Nhẫn. Chàng cứ để yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm. Chúng đi về tha rác lên đầu, lên mặt. Rồi chim mái đẻ trứng. Rồi cả một thời kỳ hai vợ chồng thay phiên nhau ấp. Cho đến lúc trứng nở, những con chim non kêu léo nhéo suốt ngày. Nhưng Bất Nhẫn không lấy thế làm khó chịu. Một hôm, lúc ấy chỉ còn mười ngày nữa thì Bất Nhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây. Hôm đó, đến lượt con chim vợ đi tìm thức ăn cho con. Suốt một buổi chiều nó vẫn không kiếm được một chút gì. Mãi đến gần tối lúc lượn qua một cái hồ, chim vợ mới thấy một con nhện đang giăng tơ trong một đóa hoa sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn mình vào giữa những cánh hoa làm cho chim mất công tìm mãi. Không ngờ hoa sen vừa tắt ánh mặt trời đã cụp ngay cánh lại, nhốt chim vào trong. Chim cố công tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa vây bọc dày quá đành chịu nằm lại đó. Ở nhà, chim chồng hết bay đi kiếm vợ lại trở về. Đàn con đói mồi nháo nhác suốt đêm. Mãi đến sáng mai, chờ lúc hoa nở, chim vợ mới thoát được bay về tổ. Một cuộc cãi lộn nổ ra bên tai Bất Nhẫn. Ghen vợ, chim chồng mắng nhiếc vợ hết lời. Nhưng chim vợ vẫn hết sức bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc đấu khẩu kéo dài suốt cả buổi sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu. Thêm vào đó, đàn con khóc đói chíu chít điếc cả tai. Nhè lúc vợ chồng chim cãi vã đến chỗ găng nhất, Bất Nhẫn bỏ tay lên tai giật cái tổ chim vứt mạnh xuống đất và nói: - "Đồ khốn! Chỉ có mỗi một chuyện đó mà chúng mày làm điếc tai ông từ sáng đến giờ". Thế là công sức tu luyện của Bất Nhẫn sắp hoàn thành thốt nhiên vứt bỏ trong chốc lát. Nhưng Bất Nhẫn vẫn không nản chí. Trước tòa sen, chàng hứa sẽ kiếm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình. Chàng tìm đến một khúc sông nước chảy xiết, tình nguyện làm người chèo đò đưa khách bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở cho đến người thứ một trăm mới chịu nghỉ tay. Lần này Bất Nhẫn tỏ ra một người rất nhẫn nại. Tuy bến sông thường vắng khách, chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm chàng chở được chín mươi tám người mà không xảy ra việc gì. Một hôm vào khoảng giữa thu, nước sông tự nhiên tràn về chảy xiết hơn mọi ngày. Trời bỗng đổ một trận mưa lớn. Giữa lúc đó có một người đàn bà dắt một em bé đòi qua sông. Hắn có vẻ là vợ một viên quan sở tại; chưa bước xuống thuyền đã dọa Bất Nhẫn: - Chú nhớ chèo cho vững nghe không. Che mui cho kín. Nếu để chúng ta mà ướt thì liệu chừng kẻo roi quắn đít đó. Nghe nói thế Bất Nhẫn đã hơi bực, nhưng chàng nín được và vẫn giữ vẻ mặt tươi cười đáp: - Bà và cậu đừng sợ gì cả. Tôi xin cố sức. Rồi chàng vận dụng hết tài nghề để đưa hai mẹ con nhà nọ qua bên kia sông được vô sự. Lúc sắp lên bờ, người đàn bà bỗng kêu lên: - Ta quên khuấy đi mất. Có một gói hành lý bỏ quên ở quán bên kia. Vậy nhà ngươi chịu khó chèo sang lấy hộ. Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi đến gần tối chật vật lắm chàng mới đưa được gói hành lý sang cho người đàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người đàn bà nọ lại kêu lên: - Thôi rồi! Còn một đôi giày của thằng bé bỏ ở gậm giường. Thế nào nhà ngươi cũng phải gắng sang lấy cho ta một lần nữa. Người đàn bà nói chưa dứt lời thì Bất Nhẵn đã chỉ tay vào mặt: - Cút đi đồ chó ghẻ! Tao có phải sinh ra để hầu hạ mẹ con nhà mày mãi đâu. Nhưng người đàn bà ấy vốn là đức Phật Quan âm hiện hình xuống thử lòng người đệ tử khổ tu đó; bấy giờ lại hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng: - Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như thế thì tu gì mà tu. Có tu hú! Bất Nhẫn thẹn quá đành cúi đầu nhận lỗi. Phật bà Quan âm sau đó bắt Bất Nhẫn hóa thành một giống chim mà người đời sau quen gọi là chim tu hú. Họ bảo thứ chim đó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất hiện, đúng vào lúc xảy ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn với Phật bà[1]. Chú giải [1] Theo lời kể của người Hà-tĩnh và theo Pháp-Á tạp chí. [2] Xem sách Vị thành giai cú tập. [3] Nguyễn Văn Ngọc. Tục ngữ phong dao, tập II.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-tu-hu" }
Người học trò nghèo và Ngọc hoàng
Ngày xưa, có một nhà kia trải đã mấy đời sống trong cảnh khố rách áo ôm. Đến đời người cháu nội là một anh học trò không đất cắm dùi. Ngày ngày anh cố công làm thuê làm mướn để tối đến học năm ba chữ, may chi thay đổi được số phận, nhưng mãi đến năm ba mươi tuổi, cuộc sống của anh vẫn không nhích lên được tí nào. Không chịu được nỗi đói khổ dằn vặt, một hôm anh ngồi than thở một mình: - Tục ngữ có câu:  "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời". Ấy vậy mà đã ba đời nay dòng họ mình toàn là đói rách xơ xác. Ta nghe nói ngoài biển Đông có Ngọc Hoàng thượng đế thường xuống ngự trên một hòn đảo. Vậy ta phải đi tìm một phen để hỏi cho ra lẽ. Nghĩ vậy, anh bèn khăn gói quả quyết lên đường. Anh cứ ngày đi đêm nghỉ đã được mươi hôm. Vì tiền, lương mang đi không có bao nhiêu nên chóng cạn. Đành phải lần vào một nhà nọ để xin giúp đỡ. Người chủ nhà này là một phú ông. Phú ông sai người dọn cơm nước đãi anh tử tế, đoạn hỏi: - Anh đi đâu có việc gì? Người học trò không giấu giếm một tý nào cả: - Nghe nói Ngọc Hoàng thượng đế thường xuống ngự trên một hòn đảo ngoài biển Đông, tôi cất công đi tìm Ngọc Hoàng để hỏi tại sao người ta thường nói: - "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời", thế mà nhà tôi đói khổ từ ba đời nay không cất mặt lên được. Nghe đoạn, phú ông đưa cho anh học trò một số tiền ăn đường, và nói: - Thế thì nhân thể anh làm ơn hỏi giúp Ngọc Hoàng cho tôi một việc. Nhà tôi từ xưa đến rày không hề làm việc gì ác đức, vậy mà không hiểu tại sao vợ chồng tôi chỉ sinh hạ có mỗi một mụn con gái mà lại câm từ thuở nhỏ. Người học trò gật đầu nhận lời, rồi lên đường, tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng số tiền ăn đường của anh chẳng mấy chốc lại hết veo. Anh lại lần vào nhà một người nọ ở dọc dường để cầu giúp đỡ. Người chủ nhà này cũng đãi đằng cơm nước tử tế, đoạn hỏi anh về mục đích chuyến đi. Anh cũng kể lại tỉ mỉ số phận đen đủi của mình cũng với ý định đi tìm Ngọc Hoàng thượng đế. Nghe thủng câu chuyện, người kia mang tiền gạo ra tặng anh, và nói: - Nếu anh đi gặp Ngọc Hoàng thượng đế thì nhân thể làm ơn hỏi hộ cho tôi việc này một tý. Nguyên nhà tôi có trồng mây cây cam, không hiểu tại sao cây tốt sum suê mà lại không hề có quả. Người học trò nhận lời và lại tiếp tục lên đường. Anh đi mãi rồi cũng đến đích. Nhưng khi muốn vượt biển để tìm đến hỏi đảo chỗ Ngọc Hoàng thường ngự xuống thì thấy một trời một nước mênh mông, chẳng có thuyền bè gì cả. Anh ngồi lại ở trên bờ chờ đợi. Chờ luôn ba hôm không thấy gì, anh không khỏi sốt ruột. Bỗng một hôm anh trông thấy một con ba ba khổng lồ nổi lên mặt nước bơi vào bờ, hỏi anh có việc gì mà ngồi chờ ở đây. Người học trò liền kể hết tâm sự của mình cho ba ba nghe và nói lên điều mong mỏi trước mắt là chờ gặp một con thuyền để đi nhờ ra đảo. Ba ba nghe vậy liền bảo: - Anh cứ trèo lên lưng tôi, tôi sẽ vui lòng đưa giúp anh ra đến tận đảo. Nhưng nhân thể nhờ anh hỏi hộ Ngọc Hoàng cho tôi là tại sao tôi sống ở đây đã được một ngàn năm rồi mà vẫn cứ thế này mãi chứ không thay đổi. Người học trò lại nhận lời của ba ba. Anh ngồi lên lưng ba ba để cho con vật rẽ sóng đưa mình băng qua muôn trùng sóng nước. Đảo xa mù tít ngày một rõ dần. Không bao lâu, bàn chân anh đã giẫm lên đảo. Anh còn tiếp tục đi một đoạn đường rất dài và trèo lên tận đỉnh một ngọn núi. Theo lời chỉ dẫn thì đây chính là chỗ Ngọc Hoàng thỉnh thoảng thường ngự xuống nghỉ ngơi. Cho nên, anh dừng chân lại và gắng sức chờ đợi. Quả nhiên ba hôm sau, vào một buổi sáng, bỗng có một vầng sáng từ trên trời bay vụt xuống đỉnh núi, Ngọc Hoàng từ trong vầng sáng bước ra rồi khoan thai tới ngự trên một cái ngai đầy châu báu rực rỡ. Không rụt rè một tí nào, anh học trò tiến đến trước mặt Ngọc Hoàng quỳ xuống tâu xin. Nhìn thấy anh, Ngọc Hoàng chau mày: - Nhà ngươi muốn cái gì mà đến đây. Người học trò chưa vội hỏi việc của mình, anh bắt đầu kêu hộ việc của ba ba. Ngọc Hoàng nghe xong, liền nói: - Nó có hòn ngọc ở trong cổ nên không hóa kiếp dược. Chỉ cần bỏ ngọc ra là hóa được ngay. Anh lại đem việc của người trồng cam ra tâu. Ngọc Hoàng bảo: - Những cây cam ấy không có quả là vì dưới gốc của chúng có vàng. "Kim khắc mộc" nên mới như thế. Anh học trò lại chuyển sang hỏi hộ cho người con gái câm. Ngọc Hoàng bảo: - Nó không nói được là vì chưa có ông trạng nào đến "khai khẩu" cho nó. Người học trò sắp sửa chuyển sang hỏi việc cho chính mình, thì không ngờ Ngọc Hoàng thượng đế thấy anh hỏi mãi nên học mình, gắt: - Bực quá! Ta đến ngồi ở đây tưởng cách biệt với thiền đình để kiếm chút yên tĩnh, không ngờ lại bị bọn trần gian tìm đến quấy rầy. Nói đoạn, Ngọc Hoàng vội cưỡi mây bay về trời. Cho là số phận của mình đen đủi nên mới xui ra vậy, anh học trò đành ngậm ngùi quay trở về. Đến bờ biển đã thấy ba ba chực sẵn ở đó, nó bảo anh trèo lên, chở vào đất liền, rồi hỏi: - Việc của tôi thế nào? - Tại trong cổ mày có hạt ngọc mà mày thì cứ khư khư giữ mãi không chịu bỏ ra, nên không thể hóa kiếp được? Ba ba bèn nhả viên ngọc đưa ra biếu anh và chỉ một chốc sau nó đã được đầu thai làm kiếp khác. Anh học trò lại lần theo đường cũ trở về. Đến nhà có cây cam, người chủ ra đón anh, hỏi: - Việc của tôi thế nào? - Vì dưới gốc cây có vàng chôn, cứ đào lên là khắc có quả. Người làm vườn bèn lấy thuổng đào, quả tìm thấy dưới mỗi gốc cây có một chĩnh vàng. Ông ta vui lòng chia cho người có công đi hỏi giúp mình một chĩnh. Anh học trò lại lên đường về. Đi ngang qua kinh thành nhà vua thì một không khí tấp nập làm anh chú ý. Ở đây người ta đang mở khoa thi để kén Trạng nguyên. Nhờ có viên ngọc, anh học trò đã trở nên sáng dạ lạ thường, bao nhiêu kinh sử ôn đến đâu thuộc làu đến đấy. Vì thế anh bèn nấn ná ở lại. Sẵn có vàng, anh sắm sửa mọi thứ: quyển thi, lều chiếu và lễ vật... để được có tên vào danh sách ứng thí. Khoa ấy, văn bài của anh làm rất xuất sắc. Chánh chủ khảo lấy anh lên đầu bảng. Nhà vua vô cùng khen ngợi vì kén được nhân tài xứng đáng, phong cho anh đậu Trạng nguyên. Sau đó ít lâu Trạng cưỡi ngựa vinh quy. Một đoàn lính tiền hô hậu ủng theo Trạng cùng đi. Khi đi qua nhà phú ông, Trạng vẫn không quên lời hứa ngày nọ. Chàng bèn dừng ngựa ghé vào. Phú ông lấy làm ngạc nhiên khi thấy có quân gia kéo vào nhà mình, liền khăn áo chỉnh tề ra tiếp đón. Thấy Trạng không phải ai khác hơn người học trò nghèo đi hỏi Ngọc Hoàng dạo trước, phú ông lại càng bội phần kinh ngạc. Nhưng Trạng vừa kịp truyền cho phú ông biết câu trả lời của Ngọc Hoàng thượng đế, thì từ buồng trong, cô gái câm đã bước ra mỉm cười cúi chào Trạng và tự nhiên thốt lên thành lời. Để cám ơn người có công giúp mình, phú ông bèn đem con gái gả cho Trạng làm vợ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-hoc-tro-ngheo-va-ngoc-hoang" }
Sự tích ông bình vôi
Ngày xưa, có một người con gái con một nhà giàu có. Cô rất đẹp nhưng cũng rất kiêu. Cô đã từng làm cho các bạn gái xa lánh mình. Cô làm cho các chàng trai ghét cô vô hạn. Cũng vì thế đến tuổi lấy chồng, cô gái vẫn chưa có đám nào vừa ý. Chàng trai nào cũng bị cô sổ toẹt, vì cao chê ngỏng, thấp chê lùn, lớn chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương sườn bày ra. Nhưng rồi cô cũng lấy được chồng. Chồng cô yêu vợ nhưng lại bực mình vì thói ghen của vợ. Cô ghen chồng làm cho xóm giềng luôn cau mặt vì những lời qua tiếng lại của họ. Cuối cùng hai người không vừa ý nhau và ly dị. Buồn bực vì duyên phận, cô bỏ đi tu. Cô xuất gia ở một ngôi chùa cổ trên núi suốt hai mươi năm. Những con chim, con thú rừng hầu như quen thuộc bóng dáng của người sư nữ. Hai mươi năm qua, cô vẫn chưa đắc đạo. Cô thắc mắc, vì tự cho mình thông kinh kệ hơn người và chịu đủ mọi sự khổ hạnh của nhà chiền. Một ngày kia cô quyết định sang Tây-trúc một phen để tìm cho ra lẽ. Đường sang Tây-trúc thiên nguy vạn hiểm nhưng cô quyết định đi cho bằng được. Một hôm, sau khi vượt qua một trái núi, sư nữ tìm vào một ngôi nhà hẻo lánh dọc đường để nghỉ chân. Hai mẹ con chủ nhân tuy người rừng núi quê mùa nhưng vốn là kẻ ăn chay niệm Phật, nên thấy khách là nhà tu hành thì tiếp đãi rất hậu. Khi được nghe kể công trình tu luyện của sư nữ họ càng cung kính, coi như bậc thầy. Và khi biết rõ ý định của sư nữ thì họ cũng xin phép bỏ nhà bỏ cửa đi theo thầy để mong được đắc dạo. Nghe họ câu khẩn, sư nữ cười: - Hai mẹ con nhà này cũng muốn thành Phật ư? Được, cứ đi theo ta!. Nhưng bụng nàng bảo dạ: - "Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre". Từ hôm đó nhà sư có thêm hai người bạn đồng hành. Chân bớt mỏi, đường bớt dài, họ đi chả mấy chốc đã tới đất Thánh. Từ trước đến sau, hai mẹ con nhà nọ vẫn cung kính, coi sư nữ như thầy. Còn sư nữ đối với họ không được như trước: - Không biết chừng họ được thành Phật trước ta. Họ sẽ hơn ta... Bọn này mà đắc đạo, thật là một điều nhục cho Thiền môn. Nói chuyện đức Phật khi vừa nghe tin có người tìm đường đến Tây-trúc cầu đạo, vội hóa thân đi theo dõi. Từ đầu đến cuối, đức Phật vẫn không bỏ sót một lời nói, một cử chỉ nào của sư nữ. Khi họ sắp qua một con sông rộng, đức Phật hóa phép hiện ra ở bên kia bờ một tòa cổ tự, trước cửa có một cây bồ đề rất lớn, để chờ họ. Muốn cho hai mẹ con khỏi lẽo đẽo theo mình đến đất Thánh, nên khi qua sông sư nữ giả cách ngạc nhiên, chỉ ngôi chùa và ngôi đền mà bảo rằng: - Kìa, chúng ta đã tới Tây-trúc. Chóng thật! Chính là cây bồ đề của đức Thế Tôn tu luyện ngày xưa. Thôi! Hai mẹ con cứ việc trèo lên một cành cao niệm kinh rồi buông tay rơi xuống là tức khắc thành Phật!. Tin tưởng ở lời nói của bậc thầy, hai mẹ con mừng rỡ làm theo không chút ngần ngại. Nhưng khi họ buông tay cho người rơi xuống thì đức Phật đã đón họ đưa lên trời. Có bốn vị La hán mang tòa sen đến rước đi. Tay hai mẹ con vẫy vẫy như có ý gọi người bạn đồng hành. - "Đúng là họ thành Phật rồi!. Sư nữ vừa kinh ngạc vừa mừng, vội trèo lên cây để làm như họ và để mong được như họ. Nhưng đức Phật đã có ý trừng phạt người đàn bà kiêu ngạo và độc ác ấy một cách đích đáng, nên đã để cho cái xác rơi phịch xuống đất, tan xương vỡ sọ. Và sau đó đức Phật lại bắt con người khốn nạn ấy hóa thành bình vôi. Tại sao lại cho hóa thành bình vôi? Có người bảo chính là đức Phật muốn bắt những kẻ trong lòng bất nhân, nhưng lại đeo bộ dạng từ bi, phải để cho người đời luôn luôn móc ruột. Một truyện khác nhiều tính chất phật thoại cũng nói về sự tích ông bình vôi: Có một anh ăn trộm từng sống bao nhiêu năm với nghề. Hắn ta không vợ con gia sản, chỉ độc có một túp lều bên cạnh đường cái. Một hôm, có cặp vợ chồng người ăn mày qua đó xin trú chân. Hắn cho họ ở lại và sau đó hắn thấy chồng bảo vợ: - "Hôm nay không xin được tí gì cả. Gần đây có một nương khoai, chờ đến tối tôi sẽ đào trộm về ăn". Vợ can chồng: - "Thôi đi ông! Chỉ vì kiếp trước chúng ta ăn ở thất đức nên mới như thế này. Có lẽ nào phạm thêm vào cho nặng tội kiếp sau. Tôi thà chết không ăn trộm!". Người ăn trộm nghe chuyện bỗng dưng hối hận. Cuối cùng hắn giao tất cả nhà cửa cho hai vợ chồng người ăn mày rồi bỏ di. Hắn tìm đến một ngôi  chùa trên núi cao xin hòa thượng cho cạo đầu tu hành. Người ta giao cho hắn công việc nấu ăn: một bữa phải nấu từ tinh sương và một bữa từ chiều. Phận sự của hắn là giữ lửa không được để tắt, vì một lần tắt lửa thì lại phải xuống núi xin về, cách xa hàng bao nhiêu dặm. Từ lúc nhận việc nhà chùa, hắn tỏ ra chu đáo lạ thường, chưa có bữa nào để lửa tắt. Một sư bác trên chùa ghét chú tiểu mới, bèn chờ một hôm tiểu ta ngủ say, tưới tắt lửa nhấm ở bếp. Gần sáng, chú tiểu dậy thấy không còn lửa, nghĩ đến phận sự, vội vã ba chân bốn cẳng vượt mấy khu rừng tìm xuống làng xin lửa. Giữa đường hắn gặp một con cọp già đòi ăn thịt. - "Tôi vui lòng để ngài xơi thịt - hắn nói - nhưng hãy cho tôi chạy xuống làng xin lửa cho nhà chùa, rồi tôi sẽ tới nộp mạng". Cọp bằng lòng để cho đi. Khi đưa được lửa về, hắn kể sự tình và xin phép hòa thượng cho đi nộp mình cho cọp. Đến nơi, cọp bảo: - "Tao già rồi, răng đã rụng hết mà xương của mày cứng khó nhai. Vậy mày hãy trèo lên cây kia buông mình rơi xuống cho gẫy xương, tao mới ăn được". Hắn vâng lời cọp, nhưng khi buông tay thì đức Phật đã đón sẵn rước lên trời, độ cho thành Phật, tức là Phật Nhiên Đăng. Vị sư bác kia thấy chú tiểu chỉ bằng vài hành động đơn giản mà được  thành chính quả thì cũng muốn được như thế. Hắn bèn xin phép hòa thượng cho mình ra đương việc nấu ăn và giữ lửa. Thế rồi một hôm hắn cũng giả tảng để cho lửa tắt, rồi cũng chạy xuống núi xin lửa. Và hắn cũng gặp cọp, cũng khất cọp xin đưa lửa về cho nhà chùa dùng rồi sau đó sẽ xin nộp mình. Nhưng đức Phật vốn hiểu rõ những việc làm của hắn xuất phát từ tấm lòng không thực, nên khi hắn trèo lên cây và buông tay, thì Phật lập tức bắt hắn hoá thành bình vôi. Một dị bản của truyện trên cũng là một phật thoại, là Sự tích cái ống nhổ. Ở đây cũng có hai nhân vật chính là chú tiểu và sư bác. Chú tiểu mới đi tu nhưng rất chăm chỉ, biết lo lắng làm tròn chức trách. Thấy lửa ở đống nhấm tắt (kỳ thực là do sư bác ghen tỵ phun nước cho tắt), tiểu không nề hiểm nguy chạy xuống núi vào lúc mờ sáng để có lửa về kịp nấu ăn cho nhà chùa. Phật hiện ra với trạng mạo một ông già khuyên can chú tiểu đừng đi, nhưng thấy chú cương quyết đi, bèn bảo chú trèo lên cây buông tay xuống, sẽ có kẻ đưa đi an toàn. Quả nhiên chú tiểu buông tay rơi đúng trên lưng một con muông; nó đưa chú xuống làng, rồi sau khi xin được lửa lại đưa về vô sự. Sư bác vốn không phải là chân tu, nhưng thấy chú tiểu gặp Phật, cũng muốn được như vậy, bèn cũng xin ra làm công việc nấu ăn và giữ lửa, sau đó hắn đã để tắt lửa và cũng được gặp Phật. Nhưng khi buông tay thì Phật đã bắt hắn hoá thành cái ống nhổ, miệng luôn luôn há ra cho người ta khạc nhổ vào, để tỏ lòng khinh bỉ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ong-binh-voi" }
Sự tích hoa ban trắng
Thuở ấy, có một chàng trai tên là Khum đem lòng yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài săn bắn. Ban thì khéo tay dệt vải lại có giọng hát làm say đắm nhiều chàng trai. Thế nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà tạo mường, vốn là một thanh niên lười nhác, lại có tật gù lưng. Mặc cho cô gái hết lời van xin, người cha vẫn không từ bỏ ý định, và ông đã bàn bạc cùng với nhà tạo mường sửa soạn làm lễ cưới cho hai người. Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum gặp chàng để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy. Cuối cùng kiệt sức nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao. Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoa mang búp trắng như búp tay người con gái. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi rừng Tây Bắc, và hằng năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban. Về phần Khum, sau khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm nàng. Dò hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được là nàng đã bỏ nhà ra đi, còn đi đâu thì không rõ. Thế là chàng trai lên đường đi tìm người yêu, đi mãi hết mường này, bản khác mà vẫn không tìm thấy bóng người yêu. Cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng hoá thành con chim sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại hót vang như tiếng gọi người yêu tha thiết từ năm nào.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-ban-trang" }
Chiếc hũ thần kỳ
Ngày xưa có hai anh em nhà kia, người anh nhờ buôn bán nên giàu có, em làm nghề đốn củi nên chỉ đắp đủ qua ngày. Tết đến, người em túng thiếu không tiền làm cỗ cúng ông bà, mới sang nhà anh nài nỉ, người anh chỉ thí cho một giò lợn luộc rồi đuổi về. Người em mang chiếc giò lợn luộc đi ngang một cánh rừng, bỗng nghe tiếng rên rỉ thảm thương, liền tìm đến nơi thì thấy một lão tiều phu bị cây ngã đè qua chân nằm kêu la than khóc. Động mối từ tâm, người em khuân lấy cội cây bỏ đi nơi khác vào đỡ lão tiều phu dậy, định biếu chiếc giò lợn luộc cho ông đỡ lòng. Cảm lòng tốt của nguời em, lão tiều phu từ chối và bảo: – Ta muốn đáp lại tấm lòng tốt của ngươi, vậy ngươi hãy đem chiếc giò lợn này đến cái động đá đằng kia để gặp các sơn thần, nếu họ đòi đổi giò heo lấy ngọc vàng thì ngươi đừng chịu, phải xin đổi cho được cái hũ sành. Đó là cái hũ thần ước gì được nấy, nhưng đừng nên tham lam, chỉ ước đủ dùng thôi và cần nhất phải giúp đỡ những người nghèo khó, khi nào vừa đủ thì phải hô to: “Đủ rồi” thì tự nhiên miệng hũ đóng lại. Nghe lời dặn dò của lão tiều phu, người em tìm tới động đá, quả nhiên thấy rõ các vị sơn thần nhảy múa vui đùa. Lúc bấy giờ các vị sơn thần đánh hơi được mùi lợn quay nhìn lại thấy người em thập thò ngoài động đá liền gọi vào bảo đổi giò heo lấy vàng ngọc, người em nhất định không chịu, chỉ nhận đổi cái hũ sành. Rốt cuộc các sơn thần phải đem hũ sành đổi lấy giò heo. Bấy giờ người em sung sướng đem cái hũ sành về nhà khoe với vợ. Rồi vợ chồng ước gì được nấy, chẳng mấy chốc vợ chồng người em trở nên giàu sang sung sướng, họ ước thêm vàng bạc rồi đem chia chác cho những người nghèo khó trong làng. Tiếng đồn người em có cái hũ thần loan ra khắp nơi, người anh liền tìm đến tận nhà để xem hư thật, quả đúng như lời thiên hạ đồn. Người anh động lòng tham bảo em đổi cái hũ sành lấy cả sản nghiệp của mình. Biết rằng người anh tham lam, nếu được cái hũ thần sẽ ham sự giàu sang quên điều nhân nghĩa, nên người em từ chối không chịu đổi chác với anh. Tuy nhiên, người anh vẫn không bỏ qua giấc mộng làm chủ cái hũ sành, mới mưu mẹo, nhờ đứa ở của người em đánh cấp cái hũ thần rồi vợ chồng người anh trốn lên thuyền đi ra miền biển. Giữa lúc đó người anh nghe các nơi thiếu muối nếu có nhiều muối đem bán chắc được nhiều tiền, nên đem hũ thần ra ước, muối từ trong hũ tràn ra như nước chảy, chẳng mấy chốc mà đầy cả thuyền. Ngặt vì người anh chỉ biết có lời ước được muối, còn lời ước cho nắp hũ đóng lại thì không biết, nên muối chảy hoài như nước tràn đê vỡ làm ngập cả thuyền rồi chìm luôn. Cả hai vợ chồng người anh đều chết đắm giữa biển khơi. Vì không có ai biết ước nắp hũ thần đống lại, thành ra muối tuôn chảy khắp đai dương hòa tan trong nước, làm nước biển mặn như ngày nay.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chiec-hu-than-ky" }
Chiếc hũ thần diệu
Ngày xưa có hai anh em nhà kia, người anh nhờ buôn bán nên giàu có, em làm nghề đốn củi nên chỉ đắp đủ qua ngày. Tết đến, người em túng thiếu không tiền làm cỗ cúng ông bà, mới sang nhà anh nài nỉ, người anh chỉ thí cho một giò lợn luộc rồi đuổi về. Người em mang chiếc giò lợn luộc đi ngang một cánh rừng, bỗng nghe tiếng rên rỉ thảm thương, liền tìm đến nơi thì thấy một lão tiều phu bị cây ngã đè qua chân nằm kêu la than khóc. Động mối từ tâm, người em khuân lấy cội cây bỏ đi nơi khác vào đỡ lão tiều phu dậy, định biếu chiếc giò lợn luộc cho ông đỡ lòng. Cảm lòng tốt của nguời em, lão tiều phu từ chối và bảo: – Ta muốn đáp lại tấm lòng tốt của ngươi, vậy ngươi hãy đem chiếc giò lợn này đến cái động đá đằng kia để gặp các sơn thần, nếu họ đòi đổi giò heo lấy ngọc vàng thì ngươi đừng chịu, phải xin đổi cho được cái hũ sành. Đó là cái hũ thần ước gì được nấy, nhưng đừng nên tham lam, chỉ ước đủ dùng thôi và cần nhất phải giúp đỡ những người nghèo khó, khi nào vừa đủ thì phải hô to: “Đủ rồi” thì tự nhiên miệng hũ đóng lại. Nghe lời dặn dò của lão tiều phu, người em tìm tới động đá, quả nhiên thấy rõ các vị sơn thần nhảy múa vui đùa. Lúc bấy giờ các vị sơn thần đánh hơi được mùi lợn quay nhìn lại thấy người em thập thò ngoài động đá liền gọi vào bảo đổi giò heo lấy vàng ngọc, người em nhất định không chịu, chỉ nhận đổi cái hũ sành. Rốt cuộc các sơn thần phải đem hũ sành đổi lấy giò heo. Bấy giờ người em sung sướng đem cái hũ sành về nhà khoe với vợ. Rồi vợ chồng ước gì được nấy, chẳng mấy chốc vợ chồng người em trở nên giàu sang sung sướng, họ ước thêm vàng bạc rồi đem chia chác cho những người nghèo khó trong làng. Tiếng đồn người em có cái hũ thần loan ra khắp nơi, người anh liền tìm đến tận nhà để xem hư thật, quả đúng như lời thiên hạ đồn. Người anh động lòng tham bảo em đổi cái hũ sành lấy cả sản nghiệp của mình. Biết rằng người anh tham lam, nếu được cái hũ thần sẽ ham sự giàu sang quên điều nhân nghĩa, nên người em từ chối không chịu đổi chác với anh. Tuy nhiên, người anh vẫn không bỏ qua giấc mộng làm chủ cái hũ sành, mới mưu mẹo, nhờ đứa ở của người em đánh cấp cái hũ thần rồi vợ chồng người anh trốn lên thuyền đi ra miền biển. Giữa lúc đó người anh nghe các nơi thiếu muối nếu có nhiều muối đem bán chắc được nhiều tiền, nên đem hũ thần ra ước, muối từ trong hũ tràn ra như nước chảy, chẳng mấy chốc mà đầy cả thuyền. Ngặt vì người anh chỉ biết có lời ước được muối, còn lời ước cho nắp hũ đóng lại thì không biết, nên muối chảy hoài như nước tràn đê vỡ làm ngập cả thuyền rồi chìm luôn. Cả hai vợ chồng người anh đều chết đắm giữa biển khơi. Vì không có ai biết ước nắp hũ thần đống lại, thành ra muối tuôn chảy khắp đai dương hòa tan trong nước, làm nước biển mặn như ngày nay.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chiec-hu-than-dieu" }
Sự tích cây Ngô
Khi đã gần 70 tuổi, Phùng Khắc Khoan vẫn được tin tưởng cử đi sứ nhà Minh để xin cầu phong cho vua Lê Thế Tông. Trên đường đi sứ, ông luôn tìm hiểu cách làm ăn của người dân ở mỗi địa phương đi qua, nhằm giúp cho dân mình khi trở về nước. Dạo ấy, vào cuối tháng Ba, trên các sườn đồi, sườn núi bạt ngàn, chỗ nào ông cũng thấy trồng một thứ cây xanh ngắt một màu. Trạng Bùng không biết đó là cây gì, lấy làm lạ lắm, bèn lân la dò hỏi. Mãi sau ông mới biết đó là “ngọc mễ” (tức gạo ngọc), thứ ngũ cốc hạt to gấp mấy lần hạt gạo, ăn thay gạo rất bùi. Ông nghĩ bụng, người dân ở đây có tới hàng vạn, hàng triệu người sống bằng thứ “gạo ngọc” quý giá này, vậy phải tìm cách đưa về nước trồng. Đến kinh thành, nhà Minh có ý khinh thường không tiếp, phái đoán của ông phải nằm trực ở ngoài dịch xá. Phùng Khắc Khoan liền làm 36 bài thơ chúc thọ rồi nhờ quan Tể Tướng tiến dẫn. Đọc thơ, vua Minh Thần Tông hết lời ca ngợi, biết đây là nhân tài hiếm có nên mới mời ông vào gặp mặt. Nhờ tài năng đối đáp cùng học vấn uyên bác của Phùng Khắc Khoan mà vua nhà Minh mới nhân nhượng nhiều điều. Lúc sắp về, nhà Vua thết đãi ông một bữa yến sào, Phùng Khắc Khoan nói: - Thưa Đức Vua, bấy lâu nay tôi ăn ‘ngọc mễ’ đã quen dạ, xin phép được ăn thay yến. Vua Minh sai người đưa hầu ông mọt bát “ngọc mễ” bung. Mọi người ăn tiệc yến vui vẻ, riêng ông vẫn ăn “ngọc mễ” bung ngon lành. Ông còn xin vua Minh cho đem theo “ngọc mễ” để ăn dọc đường. Vua Minh bằng lòng. Trên đường về, mỗi ngày Phùng Khắc Khoan ăn một bữa, nhịn một bữa, dành dụm để đem về làm giống. Nhưng về đến cửa ải Nam Quan, bỗng phía trước có một tốp lính nai nịt gọn gàng, phóng ngựa tới. Sứ giả nhà Minh lễ phép nói: - Thưa tiên sinh! Lệnh nhà vua không cho đem hạt ‘ngọc mễ’ nào ra khỏi biên giới. Đây là pháp lệnh, xin tiên sinh hiểu cho. Phùng Khắc Khoan lúc này bàng hoàng cả người, không biết phải làm sao. Ông vốn muốn đưa giống “ngọc mễ” này về giúp người dân. Giả như lúc còn ở kinh thành mà Phùng Khắc Khoan biết được lệnh cấm này, thì ông còn có thể dùng tài năng của mình mà thuyết phục nhà vua cho đem hạt giống về nước. Thế nhưng đã gần đến biên giới rồi, không lẽ bây giờ lại phải quay ngược trở lại kinh thành hỏi xin vua Minh. Không còn cách nào khác, ông đành bốc lấy một nắm bỏ vàọ túi áo, còn bao nhiêu dỡ cả xuống đường, trước mặt sứ giả, rồi đánh xe đi. Đến quãng đường vắng, ông ra lệnh cho tất cả mọi người dừng lại và nói: - Bên này có giống gạo quý, dễ trồng, thu hoạch cao, thế nào cũng phải đưa về một ít làm giống. Mỗi người phải mang về kì được hai hạt. Các ông lại đây nhận lấy ! Để đảm bảo đưa được hạt giống về nước, ông còn nhấn mạnh: - Đây là quốc pháp, không ai được làm mất. Ai không làm tròn bổn phận, phải chịu tội nặng. Mọi người loay hoay tìm cách giấu “ngọc mễ”. Đến cửa ải Nam Quan, lính tráng nhà Minh khám xét rất kỹ, nắn từ đầu đến chân, mở cả hành lý ra. Khi không tìm thấy gì, viên quan coi ải mới tỏ vẻ nhã nhặn: “Thưa tiên sinh! Xin thứ lỗi cho chúng tôi việc làm hồ đồ này. Vả lại đấy là lệnh vua” . Đến lúc qua ải Nam Quan, khi cửa quan từ từ khép lại, mọi người mới thấy mình nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Họ hồ hởi đến nộp lại “ngọc mễ” cho ông. Riêng người lính đi tiền trạm vẻ mặt lo lắng, bần thần. Mọi người đã nộp xong mà anh ta vẫn đứng ì ra đó. Ông bèn bảo: - Nộp đi ! Anh lính lúng túng: - Thưa… thưa… Ông vội hỏi: - Thưa gì ? Sao, làm mất rồi hả ? Anh lính sợ hãi thanh minh: - Thưa… con đi trước, đến cửa Nam Quan bị khám kĩ quá. Hắn bóp má, nhòm lỗ mũi, vạch lỗ tai, con sợ quá nuốt mất ! Mọi người cười ồ cả lên. Thế là hạt “ngọc mễ” được đưa vào nước ta từ hồi ấy. Vì giống này lấy từ đất Ngô, nên Phùng Khắc Khoan gọi là “cây ngô” . Cũng chính trạng Bùng là người nhân giống cây ngô này cho người dân cả nước...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-ngo" }
Sự tích hoa Cỏ May
Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có đôi trai gái yêu nhau rất thắm thiết. Nàng xinh đẹp, là con gái của một gia đình giàu có, một tiểu thư khuê các, còn chàng chỉ là anh đốn củi nghèo, mồ côi sống trong túp lều tranh xơ xác. Có không ít những người môn đăng hộ đối muốn cùng nàng “kết tóc xe tơ”, nhưng nàng chẳng cảm mến ai, vì trọn con tim đã gửi cho chàng trai chăm chỉ, thật thà, tốt bụng. Mối tình của họ không được chấp thuận, bố mẹ nàng đuổi chàng ra khỏi làng. Vì quá yêu nhau, họ bàn bạc đi đến một nơi thật xa, nơi không ai biết để cùng làm ăn sinh sống. Chàng sẽ cày cuốc thuê, nàng ở nhà trồng rau, dệt vải. Họ chấp nhận cơ cực để được sống bên nhau trọn đời. Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng từ một tiểu thư khuê các thành người đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực yêu quý phải vất vả đầu tắt mặt tối, chàng không an lòng. Hàng đêm chàng tự dày vò, trách cứ bản thân đã không đem lại được cuộc sống đầy đủ cho vợ. Nỗi day dứt khiến chàng quyết chí ra đi làm giàu. Chàng để chút vốn liếng ít ỏi còn lại đỡ đần người vợ trẻ rồi ra đi, hẹn một năm sau trở về với cuộc sống đầy đủ, khá giả hơn. Người con gái ở nhà dệt đan, trồng rau, nuôi trong mình niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt chàng sẽ trở về. Một năm, hai năm, rồi ba năm…thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, nàng vẫn không nhận được tin tức của chồng. Nỗi nhớ nhung cùng niềm mong mỏi làm nàng ngày càng trở nên xơ xác, héo hon. Tình yêu, niềm tin vào người chồng thật thà, tốt bụng khiến nàng quyết định đi tìm chàng với ước mong về một ngày mai đoàn tụ. Nàng ra đi, đi đến đâu cũng hỏi về tung tích người chồng yêu quý. Biển người mênh mông bao nhiêu, đất trời rộng lớn bao nhiêu cũng không làm người con gái ấy nản lòng. Tình yêu vẫn luôn thường trực và bùng cháy trong sâu thẳm trái tim, một trái tim khát khao kiếm tìm hạnh phúc. Thế nhưng tình yêu, niềm tin và hy vọng của nàng cuối cùng chỉ đổi lại bằng những cái lắc đầu, xua tay. Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến một ngày mệt quá xỉu lúc nào không hay. Nàng nằm xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm chờ mong, hy vọng. Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của người vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ, loài hoa cỏ màu tím bàng bạc, có sức sống mãnh liệt giống như tình yêu thủy chung của nàng. Chị gió tốt bụng cảm động trước tấm chân tình của người con gái đã đem loài hoa cỏ ấy đi khắp mọi nơi trên các nẻo đường gần xa. Dù cho người con gái ấy không còn nữa, nhưng tình yêu của nàng thì bất diệt cùng tháng năm, để rồi mỗi lần có khách đi đường ngang qua, nàng vẫn cố gắng níu bám vạt áo họ để hỏi thăm tin tức về chồng. Hoa cỏ may sắc nhọn, nhức nhối một nỗi niềm đau của tình yêu trong xa cách.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-co-may" }
Sự tích chim gò sóng
Các già làng thường chỉ tay ra con suối trước nhà chảy từ rừng sâu đổ về thung lũng uốn lượn quanh bản trông giống như một con rắn lớn, để bắt đầu câu chuyện về con nước hiền, con nước dữ. Chỉ nghe một lần là người ta nhớ mãi không quên… Ở một nơi kia, mãi chỗ tận cùng của con suối có một cái hố thông xuống ruột đất to lắm, sâu lắm. To và sâu đến nỗi nước khắp trời hàng năm rơi xuống, đổ về, không bao giờ đầy. Bên cạnh miệng hố mỗi năm mọc thêm một cây bầu thần kỳ. Hàng năm nõ chỉ đậu một quả. Quả to rất nhanh. Người ta bảo cây bầu ấy do Be Dòng trồng, quả nó che lấp mất lỗ thông xuống ruột đất, nước sẽ ứ ngập khắp trần gian, giết hại loài người và muôn thú. Thường thì năm nào cũng vậy, khi quả bầu lớn lên chắn ngang miệng hố, nước trên trời rơi xuống không chỗ thoát, tràn khắp đồi thấp, đồi cao. Muôn loài rơi vào thảm họa của nạn hồng thủy. Nhưng rồi quả bầu ấy không hiểu vì sao lại tự vỡ ra. Nước lại chui hết xuống ruột đất. Vào một năm, quả bầu nằm im ở miệng hố trong nhiều lần trăng mọc, nhiều lần trăng chết. Thế là muôn loài chim đắm trong biển nước mênh mông. Người và muông loài muôn thú chết gần hết. Chỉ có chim gò sóng nhờ có đôi cánh khỏe, bay được cao, nên mới qua khỏi cơn biến nạn. Bụng Gò Sóng căm Be Dòng nhiều. Gò Sóng ngày ngày bay tới cái hố thông với ruột đất đó, dùng những chiếc lông cánh vừa cứng vừa nhọn hơn mũi tên của mình, đâm xiên cho vỡ quả bầu. Quả bầu chỉ vỡ từng mảnh nhỏ. Gò Sóng vẫn không nản lòng, hết ngày này đến ngày khác. Đến khi quả bầu vỡ vụn hết mới thôi. Nước miệng hố lại chảy thông với ruột đất. Sau lần ngập nước kéo dài năm đó, loài người chỉ còn sống sót lại hai anh em Mó Hù và Mó Po. Mó Hù là con trai, Mó Po là con gái. Thấy núi rừng xác xơ trơ trọi. Bụng Mó Hù và Mó Po không vơi nỗi lo âu buồn bã. Ông trời động lòng, sai người xuống trần gian bảo hai anh em: – Hai người này khóc nhiều, nước mắt khô rồi. Cạn dòng nước mắt cũng đến thế thôi. Bây giờ chúng mày phải thành vợ thành chồng để gây lại nòi giống thôi! Trời bảo thế. Nghe nói, đầu Mó Hù lắc lắc, mắt Mó Hù nghoảnh đi chớp chớp không dám nhìn Mó Po. Mãi sau Mó Hù mới thở dài nơi với người trời: – Không được đâu người trời à! Mó Po là em gái tôi, ngủ chung làm vợ làm chồng sao được! Bụng mình không ưng đâu! Biết rằng lời nói suông khó có thể thay đổi được ý nghĩ của loài người, người trời lựa lời nói: – Ta sẽ cho chúng mày hai hạt giống. Mỗi người trồng một hạt xa nhau mười lần cánh tay. Nếu hai cây mọc lên mà tự tìm về gốc quấn lấy nhau thì chúng mày phải nên vợ nên chồng thôi! Ý trời bảo thế đấy! Mó Hù và Mó Po nhận hai hạt giống đem trồng như lời người trời nói. Sáng hôm sau cả hai hạt giống đã nảy mần. Hạt Mó Hù trông mọc thành dây leo, hạt Mó Po trồng đâm lên cây thẳng. Rất lạn, cả hai cây lớn rất nhanh. Sang ngày hôm sau rồi hôm sau nữa, dây của cây Mó Hù đã bò tới quấn lên thân cây. Rồi chúng bắt đầu đâm hoa kết trái. Thấy vật Mó Hù và Mó Po cùng nghĩ: Trời đã định thế ta phải làm theo thôi! Trái ý trời sao được. Thế là Mó Hù và Mó Po nên vợ nên chồng. Rồi họ sinh con, nhiều trai nhiều gái. Con  họ lại sinh thêm nhiều cháu. Loài người từ đó ngày một thêm đông đúc. Từng bản, từng bản lại được dựng lên. Hai vợ chồng Mó Hù chờ cho cây đó ra quả, lại lấy hạt gieo khắp núi cao, đồi thấp, thung xa. Rồi cây cối lại sinh sôi mọc ngút ngàn. Kết thành từng rừng lớn. rừng nhỏ. Còn loài chim Gò Sóng vẫn sinh sôi này nở. Các loài chim thú khác cũng ngày một sinh sôi. Từ đó, để cho cuộc sống loài người cũng nhe muôn loài được yên ổn, Gò Sóng vẫn ngày ngày bay đến chỗ có lỗ nước thông với ruột đất đẻ xem nếu có nguy cơ của nạn hông thủy như năm nọ thì chim lại dùng những chiếc lông cánh của mình bắn vỡ quả bầu thần. Năm nào Gò Sóng mải kiếm ăn, quên đi bắn thì quả bầu lớn nhanh chắn ngang miệng hố và nạn lụt lan lan tràn…Khi ấy người dân ở đây thường bảo nhau cầu khấn chim Gò Sóng mau trở lại để phá quả bầu thần, cứu cho muôn loài khỏi gập lụt. Chuyện về con nước hiền, con nước dữ ngừng ở đây, thường thì như vậy. Nhưng nếu câu chuyện được kể vào tháng sáu, tháng bảy khi những cơn giông gầm thét ầm ào ngoài rừng, từng đợt mưa trút xuống thì các già làng lại kể đoạn tiếp đoạn sau này nữa: …Thấy chưa! Gò Sóng và Be Dòng đang đánh nhau đấy! Gò sóng dùng cánh bắn Be Dòng tạo nên gió lớn. Còn Be Dòng dâng nước lên cao để định cuốn gò sóng xuống làm cho mưa to. Sau những trận giao tranh quyết liệt, Gò Sóng thường bắn hết lông cánh. Nó phải mượn đũa của con người để bắn tiếp. Vì vậy vào tháng sáu, tháng bảy con người bị mất đũa thường ít kêu ca, tìm kiếm. Còn khi vào rừng thấy Gò Sóng gãy cánh hay rụng hết lông rớt xuống, người ta mang về nuôi chu đáo. Đến khi Gò Sóng đủ lông liền cánh lại thả nó về rừng. Con người không nỡ giết thịt loài chim đã giúp mình thoát khỏi những nạn lụt khủng khiếp, chính là từ câu chuyện này.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-go-song" }
Mỵ Châu - Trọng Thủy hay là truyện nỏ thần
Ngày xưa trị vì cõi đất Âu-lạc có một ông vua tên là An Dương Vương. Vua có một nàng công chúa tên là Mỵ Châu. Mỵ Châu rất xinh đẹp và ngày ấy đã đến tuổi yêu đương. Vua chỉ có một mình nàng là con gái nên rất yêu thương chiều chuộng. Vua An Dương Vương lại là người chăm lo việc triều chính. Từ khi bờ cõi mở rộng, vua nghĩ đến việc kinh doanh và phòng thủ đất nước, -"Phải có một tòa thành kiên cố thì mới giữ được giang sơn xã tắc lâu dài". Nghĩ vậy, vua sai người đi chọn đất đặt kinh đô và ra lệnh cho đinh tráng cả nước phải lần lượt về phục dịch việc xây thành. Nhưng điều làm cho mọi người ngạc nhiên là thành hễ xây lên cao quá đầu người, thì chỉ trong một đêm tự nhiên đổ sụp. Xây đi xây lại đã mươi bận, lớp dân phu này về có lớp khác đến, ấy thế mà thành vẫn không xong. Chắc là do trời làm, vua nghe lời các quan, bèn sai lập đàn rồi tự mình trai giới cầu cúng. Sau mấy ngày đêm, một buổi sáng bỗng thấy một cụ già từ biển đi vào báo cho vua biết là sẽ có thần Kim Quy là sứ giả của thần Thanh Giang đến giúp vua xây thành. Quả nhiên sáng hôm sau trong khi mọi người chầu chực ở Cửa Đông thì trên mặt nước, thần bỗng xuất hiện dưới dạng mạo của một con rùa vàng to lớn rực rỡ. Đặt chân lên đất, rùa liền tự xưng là sứ giả Thanh Giang. Thị vệ đã chực sẵn bèn đem đến một mâm vàng cho rùa trèo lên. Gặp vua, thần Kim Quy cho biết: - Thành sở dĩ xây lên đổ xuống là vì có nhiều yêu quái phá phách. Chúng nó biến hóa thiên hình vạng trạng. Thấy nhà vua có lòng thành, tôi sẽ vì nhà vua tìm cách diệt trừ. Chẳng bao lâu nhờ phép thần thông của thần Kim Quy, yêu quái bị tiêu diệt không còn một mống. Thần còn ngày đêm bảo cách cho nhà vua xây thành. Để bảo vệ hoàng cung, thành được đắp nhiều lớp vòng quanh theo lối trôn ốc chưa đâu có. Vì thế người ta gọi là Loa thành (thành ốc). Kẻ địch dù có vượt qua cửa thành này cũng phải trả giá đắt nếu muốn lọt vào tận cung vua. Chỉ trong vòng nửa tháng, tòa thành đồ sộ xây xong. Vua An Dương Vương mừng rỡ, đãi thần rất mực cung kính. Trước khi thần từ biệt ra về, vua nói: - Cảm tạ thần linh đã giúp cho việc diệt trừ yêu quái, xây xong tòa thành vững vàng này. Dân Âu-lạc đời đời không dám quên ơn. Nhưng một mai nếu có giắc ngoài đến vây đánh thì lấy gì mà chống? Thần Kim Quy bèn rút một cái vuốt của mình trao cho vua và nói: - Ta biếu nhà vua cái này, dùng nó làm lẫy nỏ thì không còn lo gì nữa. Thấy vua vẫn còn tỏ vẻ lưu luyến, thần lại dặn tiếp: - Nếu một mai có việc gì cần, thì cứ gọi "Sứ giả Thanh Giang" ba lần, ta sẽ đến giúp! Nói đoạn, thần đi thẳng xuống biển. Vua An Dương Vương đưa vuốt cho viên tướng Cao Lỗ, bảo làm lẫy nỏ như lời dặn của thần. Nỏ làm xong, mỗi một phát bắn hàng ngàn mũi tên tua tủa bay vút ra, kẻ địch dù đông cũng khó lòng sống sót. Hồi bấy giờ, ở phía Bắc Âu-lạc có nước Nam-việt của Triệu Đà là một nước cường thịnh. Cậy có đất rộng, dân đông, lại thiện chiến, Triệu Đà mấy lần kéo quân sang đánh, nhưng mỗi lần vượt cõi là một lần chuốc lấy thất bại. Bên này An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn. Mỗi phát bắn ra, tên bay rào rào, quân Nam-việt chết như rạ. Thấy nhiều phen bị thiệt hại nặng nề, Triệu Đà đành phải gác chuyện can qua. Tuy vậy hắn vẫn còn căm tức, ngày đêm trù mưu tính kế để chiếm cho được Âu-lạc mới thỏa dạ. Nghe nói vua An Dương Vương có cô con gái chưa chồng, Triệu Đà mượn cớ giảng hòa, cho sứ giả sang cầu hôn Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Mục đích đích của hắn không phải là thắt chặt tình giao hiếu giữa hai nước mà để dò xét tình hình Au-lạc. Thấy địch muốn chuyện cầu thân, đổi bụng hằn thù ra đường tình nghĩa, An Dương Vương vui lòng nhận lời. Cuộc hôn nhân không mấy chốc đã thành. Theo phong tục, chàng rể phải sang ở nhà bố vợ một thời gian, gọi là ở gửi rể. Hôm động phòng, tai tài gái sắc gặp nhau, tình cảm mặn nồng không nói hết. Lấy được Mỵ Châu rồi, Trọng Thủy lân la hỏi vợ về nội tình Âu-lạc như lời bố mình dặn dò trước lúc đi làm rể. Chàng tỉ tê gạn vợ: - Tại sao dân Âu-Lạc không đông, nhưng mỗi lần ra quân đều thu được thắng lợi? Mỵ Châu trước chỉ mỉm cười không đáp. Nhưng ngày một ngày hai, thấy chồng thật lòng yêu thương, và nghĩ hai nước đã trở nên một nhà, nên nàng không còn nghi ngờ gì. Dần dần nàng cho chồng biết nào là việc yêu quái phá thành, việc cầu được thần Kim Quy diệt trừ yêu quái, nào việc thần dạy cho cách xây thành, việc tặng cho vuốt thần để làm lẫy nỏ, v.v... Trong cơn say đắm, Mỵ Châu không tiếc gì cả. Nàng còn giấu cha mình dẫn chồng đến xem trộm nỏ thần ở một ngôi đền cấm cạnh cung vua. Nhân vợ không để ý, Trọng Thủy bèn lấy trộm nỏ thần thật mà đánh tráo vào một lẫy nỏ giả. Sau đó mấy hôm, Trọng Thủy nói dối với vợ và bố vợ rằng mình xa cha ngái mẹ đã lâu, nên xin phép được về thăm cho thỏa lòng mong nhớ, rồi ít lâu sau lại xin trở lại. Cả vợ chàng và An Dương Vương đều bằng lòng. Lúc từ biệt vợ, Trọng Thủy tỉ tê: - Chuyến đi này tôi nhớ nàng khôn xiết. Trong khi tôi về bên ấy, ngộ nhỡ hai nước lại có chuyện bất hòa, Nam bắc cách biệt, tôi muốn đi tìm nàng thì biết làm thế nào để gặp được nhau? Mỵ Châu đáp: - Thiếp có cái áo lông ngỗng, lông nó sáng rực khác thường, thiếp sẽ mặc vào người, đi đến đâu rứt lông rắc dọc đường. Chàng cứ theo dấu ấy mà tìm gặp. Lại nói chuyện Triệu Đà vừa nắm được lẫy nỏ thần vào tay, lập tức hạ lệnh kéo quân xâm lăng Âu-lạc. Nghe tin biên giới báo về gấp, vua An Dương Vương cười ha hả mà rằng: - Giặc Đà hết sợ nỏ thần của ta rồi hay sao? Nói rồi vẫn một mực coi thường không lo lắng gì cả. Cho đến khi quân địch đã đến sát chân thành, vua mới sai đem nỏ thần ra bắn, thì ôi thôi lẫy nỏ đã bị đánh tráo, không còn mầu nhiệm như trước nữa. Thấy quân địch ào ào xông tới vây thành như kiến cỏ, vua An Dương Vương vội vã nhảy lên mình ngựa, bảo Mỵ Châu ngồi sau lưng, rồi nhân tối trời thoát ra khỏi thành cho phi một mạch về hướng Nam. Trong khi quân Nam-việt chưa biết vua An Dương Vương chạy về hướng nào để mà đuổi thì Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng của vợ, bèn thúc ngựa đuổi theo sát nút. Phía trước, con ngựa chở cha con An Dương Vương cứ theo dọc bờ biển phi miết, luôn mấy đêm ngày. Một buổi sớm, ngựa đến sát dưới chân một hòn núi, cung quanh là làng xóm đông đúc. Vua hỏi một bô lão bên đường: - Núi này là núi nào? Bô lão đáp: - Tâu bệ hạ, đây là núi Mộ-dạ, đã sắp đến vùng Nam-giới. Thấy đã tới lúc cùng đường, vua sực nhớ tới lời dặn của thần Kim Quy, bèn ngửa cổ kêu lên mấy lần: - Hỡi sứ giả Thanh Giang, mau mau trừ giặc giúp ta! Bỗng nhiên từ biển cả, thần Kim Quy hiện kên sừng sững khỏi mặt nước, nói to: - Người ở sau lưng nhà vua chính là giặc đó! Vua An Dương Vương quay lại nhìn không thấy ai chỉ thấy Mỵ Châu, liền hiểu ra nông nỗi. Cơn giận bốc lên dữ dội, vua bèn tuốt kiếm chém chết con gái yêu. Đoạn vua tìm lại thần Kim Quy thì thấy thần đang rẽ nước cho mình đi xuống biển cả. Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng đến núi Mô-dạ thì chỉ còn thấy xác Mỵ Châu. Vừa thương vợ, vừa hối hận về việc mình làm, Trọng Thủy bèn ôm xác vợ than khóc hồi lâu, rồi cũng nhảy xuống một cái giếng tự tử. Người ta nói máu Mỵ Châu chảy xuống nước, những con trai con hến ăn vào đều hóa thành ngọc. Ai bắt được ngọc ấy đem đến rửa ở giếng Trọng Thủy trẫm mình thì sắc ngọc tự nhiên rực lên.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/my-chau-trong-thuy-hay-la-truyen-no-than" }
Sự tích bao lì xì ngày tết
Theo truyền thuyết , có một con yêu quái đáng sợ tên là “Sui.” Hàng năm vào đêm giao thừa, nó sẽ đến chạm vào đầu trẻ em đang ngủ ba lần. Sợ quá, em bé sẽ khóc lớn và sau đó sẽ bị đau đầu, bị sốt, và nói nhảm. Khi những triệu chứng này biến mất, đứa trẻ sẽ trở nên ngu đần. Vì sợ yêu quái Sui hãm hại trẻ nhỏ, cha mẹ chúng thường không tắt đèn và thức qua đêm giao thừa để xua đuổi yêu quái. Đây là nguồn gốc tập tục thức qua đêm giao thừa. Có một nhà họ Quan nọ sinh sống tại thành phố Gia Hưng, tuổi đã cao mới sinh hạ được một cậu con trai nên rất cưng chiều. Vào một đêm giao thừa, sợ Sui đến hãm hại, họ cũng thức tỉnh cậu bé. Họ cho cậu ta 8 đồng xu để đùa nghịch. Cậu bé bọc những đồng xu này vào tờ giấy đỏ, mở ra, rồi lại bọc lại, lặp đi lặp lại như thế đến khi chú bé mệt quá và ngủ thiếp đi mất, 8 đồng xu khi ấy đang được bọc bởi giấy đỏ và đặt ngay bên cạnh gối cậu ta. Lúc ấy đôi vợ chồng ngồi ngay bên cạnh để trông chừng. Vào nửa đêm, một cơn gió lạnh thổi tung cánh cửa và làm tắt đèn. Đúng lúc quỷ Sui vươn tay đến đầu cậu bé, từ bao giấy đỏ tỏa ra một luồng sáng bạc làm cho yêu quái khiếp sợ và bỏ trốn. Vào Tết năm đó, đôi vợ chồng đã kể cho hàng xóm láng giềng về câu chuyện hôm giao thừa. Từ đó về sau, họ bắt đầu bắt chước làm theo và trẻ em không còn bị quấy nhiễu nữa. Hóa ra 8 đồng xu kia chính là 8 vị Thần đã âm thầm bảo vệ cậu bé. Vì thế người ta gọi tiền lì xì là “Tiền may mắn trong Năm Mới.”
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-bao-li-xi-ngay-tet" }
Hai anh em và con chó đá
Ngày xưa có hai anh em ruột, người nào cũng đã có vợ và ở riêng. Vợ chồng người anh thóc bồ rạ đụn, có của ăn của để, nhưng keo cú thì không ai bằng. Trái lại, vợ chồng người em tuy không đất cắm dùi nhưng lại tốt bụng, đối đãi với bà con làng xóm như bát nước đầy. Tuy họ phải đi làm thuê làm mướn nuôi thân, nhưng ai nghèo khó vẫn sẵn lòng giúp đỡ. Một hôm có lão ăn mày rách rưới lần vào ngõ nhà người anh để xin ăn. Nhưng vợ chồng nhà này vừa trông thấy lão thì mặt đã rắn lại như đá cuội. Chúng đã không thí cho lão chút gì lại còn thả chó dữ ra khiến lão phải nhanh chân lủi bước. Khi lão lọt vào cổng của nhà người em thì vợ chồng nhà này đang ăn cháo bữa chiều. Trông thây ông già có vẻ đói lả người chồng liền ra dắt tay đưa vào ngồi bên cạnh mâm. Anh bảo vợ múc cháo thêm ra bát, và nói: - Mời cụ ngồi ăn bát cháo với chúng tôi cho đỡ dạ, rồi hãy đi nhà khác. Ông lão ăn xong một bát, lại xin thêm bát nữa, rồi bát nữa. Tuy cháo không nhiều, hai vợ chồng vẫn múc không ngần ngại. Ăn xong, ông lão chống gậy đứng lên rồi bỗng đột ngột bảo hai người: - Các con nghèo mà lại thảo, thật là đáng quý. Ta biết có một chỗ có nhiều vàng bạc. Vậy hãy theo ta lên núi, ta chỉ cho. Cả hai vợ chồng nhìn nhau ngơ ngác. Thấy ông lão thúc giục đôi ba phen mới tin là ông không đánh lừa, bèn đánh bạo đi theo lên núi. Trèo lên một hòn núi cao đã nhìn thấy một nền gạch có mấy bậc thềm. Vào sâu một đoạn nữa, thấy có hai con chó đá đang chầu trước một cái bệ. Ông lão bước lại gần, sẵn cái gậy trúc ở tay, ông cầm gõ vào đầu chó ba cái. Bỗng nhiên chó đá há miệng thật to. Ông lão bảo: - Đấy. Các con muốn lấy bao nhiêu vàng bạc thì lấy! Hai vợ chồng đang rụt rè thì bỗng chốc ông lão đã biến đi đâu mất. Chồng đánh bạo thò tay vào miệng chó mà khoắng thì quả nhiên lấy ra được những thỏi sáng giấp giới. Bèn lấy vội mỗi người mấy thỏi giắt lưng đem về. Từ đó họ giàu có sung sướng. Vợ chồng người anh thấy em đang nghèo xơ nghèo xác bỗng chốc tậu ruộng, làm nhà, mua trâu, thuê người v.v..., thì hết sức ngạc nhiên. Bèn tìm đến nhà em để xem tai sao lại có chuyện lạ lùng như vậy. Vợ chồng người em vốn thật bụng, vui lòng kể lại vận đỏ gặp một ông tiên giả dạng ăn mày cho anh chị nghe. Nghe xong, người anh vội nói: - Tưởng là ai chứ ông lão ấy thì hôm nọ có đến ăn xin ở bên nhà. Rõ tiếc chửa. Thế mà chúng ta lại không biết. * * * Từ đó, hai vợ chồng người anh thường để ý tìm ông lão ăn xin, hy vọng được của như em. Họ cất công đi các chợ búa làng mạc. Họ còn thuê người đến tận các nơi xa để tìm tòi, nhưng chẳng thấy bóng dáng đâu cả. Một hôm vừa ra khỏi cổng, người chồng đã bắt gặp ông lão đang ngồi bên vệ đường, vẫn chiếc áo nâu rách, cây gậy trúc, và bộ râu trắng xóa không thể lầm vào đâu được. Hắn bèn chạy ngay đến, cung kính chào hỏi và khác với lần trước, hắn cố chèo kéo ông lão về nhà mình cho bằng được. Khi ông lão đã ngồi yên vị đâu đấy, hắn quát người nhà giết gà làm cỗ mời ông lão xơi. Đợi cho ông ăn xong, hai vợ chồng mới đến gần, quỳ xuống nói. - Hôm nọ tiên ông giúp cho nhà chú nó được vàng được bạc, thật là quý hóa. Chúng tôi với chú nó là chỗ ruột rà. Vậy xin tiên ông rủ lòng thương cho cả hai anh em được đội ơn luôn thể. Vợ chồng chúng tôi không bao giờ quên. Ông lão nghe xong, gật gù nói: - Cũng được. Vậy thì hãy đi theo lão. Hai vợ chồng hí hửng mang theo quang gánh lật đật chạy theo. Đi đến nơi: ông lão cũng dùng gậy trúc gõ vào đầu một con chó đá. Chó vừa há miệng thì chồng đã nhanh tay thò vào. Nhưng tay hắn chưa kịp rút ra thì chó đá đã ngậm miệng lại. Hắn ta cuống cuồng quay lại cầu cứu tiên ông thì tiên ông đã biến mất từ lúc nào. Vợ cố lôi kéo hộ chồng, nhưng miệng chó đá ngậm chặt không thể gỡ nổi. - Thôi đích là ông tiên trừng phạt về tội tham lam của chúng ta. Nói xong, hai vợ chồng nhìn nhau khóc lóc than thở. Cuối cùng chồng bảo vợ: - "Nay chết thì không chết, mà rút cũng không rút ra được. Bây giờ trời đã chiều, nàng hãy về kiếm cơm cháo hàng ngày đưa lên cho tôi với để may chi kéo dài cuộc sống thừa". Từ đó hằng ngày vợ lo cơm nước lên núi cho chồng ăn. Khi chồng ăn xong, vợ lại về để chuẩn bị cho ngày mai. Cứ như thế, trong ba năm đi đi về về không biết mệt, người vợ cũng đã bán hết ruộng vườn nhà cửa để cung đốn cho chồng. Một hôm, sau khi ăn xong, chồng bảo vợ: - Ta vì tham của nên mới ra nông nỗi này. Nay tài sản đã khánh kiệt chắc không thể kéo dài cuộc sống như thế này được mãi. Thôi sẵn hôm nay vắng vẻ, nàng hãy xích lại đây cho ta được vui đùa một lát, kẻo chết là hết. Thấy chồng van nài nhiều lần, vợ cũng thương hại, bèn chiều chồng, xích lại một bên. Nhưng khi vợ vừa cởi áo xống thì chó đá đã há miệng ra cười. Chồng vội vàng rút cánh tay bị cầm giữ bấy lâu trong hàm chó. Rồi cả hai chẳng nghĩ đến sửa soạn, cứ thế chạy một mạch xuống núi. không dám ngoảnh cổ lại. Ngày nay còn có câu tục ngữ: "Chó đá biết cười" Ý nói có những việc thậm chí làm cho chó đá cũng không thể nhịn được, là do truyện trên mà ra.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-anh-em-va-con-cho-da" }
Ba cô tiên
Ngày xửa ngày xưa, có một chú bé mặc dầu tuổi đã lên sáu nhưng chú vẫn bé tí ti, chú chỉ bé vỏn vẹn bằng ngón tay cái của mọi người. Chính vì vậy ai cũng gọi chú bé là chú bé tí hon. Nhà chú bé tí hon rất nghèo, bố mẹ chú phải đi làm thuê làm mướn cho nhà địa chủ, họ phải làm quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mà vẫn không có tiền để có một cuộc sống no đủ. Tí Hon nhìn thấy bố mẹ vất cả nên chú rất thương, chỉ muốn đi làm kiếm tiền để phụ giúp bố mẹ. Một hôm, Tí Hon nói với bố mẹ rằng chú muốn đi chăn trâu để phụ giúp bố mẹ. Bố mẹ tí hon thì thấy chú còn quá nhỏ, trong khi đó đàn trâu con nào cũng to lớn hơn chú gấp nhiều lần nên bố mẹ tí hon không cho chú đi trăn. Nhưng với sự năn nỉ kiên trì của Tí Hon thì bố mẹ chú cũng đành bằng lòng cho chú đi trăn thử. Tí hon mặc dù nhỏ bé nhưng chăn trâu rất giỏi, chú không để con trâu nào ăn hại lúa ngô của bà con trong vùng, con nào con nấy cũng ăn no căng cả bụng. Cả làng ai nấy cũng đều khen Tí Hon. Nhà địa chủ cũng rất ưng Tí Hon chăn trâu. Một hôm, cánh đồng làng không còn cỏ, Tí Hon phải dắt trâu lên trên núi để cho trâu ăn cỏ. Đang chăn trâu thì Tí Hon thấy có một bông hoa hồng to bằng chiếc nón nở trên cành cây. Tí Hon dắt trâu tới gần cây đó rồi cậu leo lên tai trâu rồi khẽ chuyển sang cành cây vào leo vào giữa bông hoa. Vào bông hoa tí hon thấy rất ngạc nhiên và thích thú vì bên trong bông hoa có ba cô tiên người cũng bé tí hon như cậu, một cô áo xanh, một cô áo vàng còn cô còn lại thì mặc áo đỏ. Ba cô tiên thấy tí hon thì vui mừng hỏi han rồi đem bánh kẹo ngon cho Tí Hon ăn. Tí Hon chưa ăn ngay mà lại bỏ số bánh kẹo các cô cho vào túi, thấy lạ nên ba cô tiên hỏi: – Kẹo chúng tôi cho, sao Tí Hon không ăn ? Tí hon đáp: -Tôi không ăn, tôi mang về cho bố mẹ tôi ăn, nhà tôi nghèo lắm, bố mẹ tôi thì vất vả, tôi thương bố mẹ tôi lắm. Ba cô tiên cùng nói: -Tí Hon cứ ăn đi, chúng tôi còn nhiều kẹo bánh mà. Ăn xong chúng tôi sẽ giúp Tí Hon. Một lát sau, đợi trâu ăn no cỏ. Tí Hon và ba cô tiên nhỏ bé leo lên ngồi trên sừng trâu và cùng đàn trâu đi về làng. Về đến nhà Tí Hon, ba cô tiên thấy đúng như Tí Hon kể, nhà của cậu rất nghèo, gian nhà thì đổ nát hoang xơ, ba cô tiên bảo Tí Hon đi tìm bố mẹ của chú về. Ba cô tiên cầm bút thần vẽ một đám ruộng to, trên ruộng là những bông lúa nở chín vàng ươm như màu nắng, cô tiên áo xanh thì vẽ rất nhiều quần áo thật đẹp. Vừa vẽ xong thì tất cả ruộng, lúa và quần áo đều biến thành thật. Vừa lúc ấy Tí Hon và bố mẹ về đến nơi. -Ồ, nhà đẹp thế ? Ruộng của ai tốt thế ? Áo quần ai nhiều thế ? Ba cô Tiên ở trong nhà bước ra chào bố mẹ Tí Hon và nói : -Chúng cháu làm giúp hai bác và Tí Hon đấy. Từ nay hai bác không nghèo nữa. Có ruộng cày, có nhà ở, có quần áo mặc. Rồi cô Tiên áo xanh lại cho Tí Hon một chiếc áo, mặc áo vào là lớn bỗng lên. Bố mẹ Tí Hon mừng quá, quay lại định cám ơn thì ba cô Tiên đã biến thành ba con bồ câu trắng bay vù lên mây. Từ đấy, không ai trông thấy ba cô Tiên đâu nữa. Còn Tí Hon lúc này rất to lớn, khoẻ mạnh làm việc rất chăm chỉ, khéo léo chẳng kém gì ba cô Tiên hoa hồng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-co-tien" }
Bảy cánh hoa vàng
Chiếc tủ của những phép màu trên tiên giới bấy lâu nay vẫn còn khóa kín. Bao nhiêu mây trắng đã trôi qua, rồi biết bao nhiêu mây xanh, mây hồng, mây cam, mây tím..., nói chung là đủ loại mây cũng đã trôi qua. Vậy mà chiếc tủ của những phép màu vẫn khóa kín. Chiếc tủ thật ra chẳng cần khóa lại thì cũng không ai lấy trộm làm gì, vì trên tiên giới thì làm gì có kẻ trộm, và những kẻ trộm cũng chẳng bao giờ được sống chung với những nàng tiên. Cho nên, chiếc khóa của chiếc tủ đựng phép màu là một bông cúc vàng xinh đẹp. Nghe nói, bông cúc vàng này được lấy từ vườn hoa của bà tiên Mùa Xuân. Hoa thiên đình trồng trăm năm mới nở, kết tụ bao nhiêu hương thơm đất trời nên rất khó tàn phai. Bông cúc vàng nhìn rất mỏng manh gắn hờ trên mép cánh cửa, tưởng chừng như không có một tác dụng nào, nhưng thực ra đây là một bông hoa rất kỳ diệu. Bất cứ ai đến gần, những bông hoa tiên sẽ rực lên những ánh sáng ngũ sắc, làm chóa mắt người có ý định mở tủ ăn cắp những phép màu. Đó là nói đến sự công hiệu của bông cúc vàng kỳ diệu, chứ thực ra các vị tiên cần gì phép thuật. Họ sống với nhau thật thà, hồn nhiên và không hề nghĩ rằng mình sẽ dùng phép thuật để tạo ra lợi lộc cho bản thân. Thế rồi một ngày chiếc tủ đựng phép màu được mở ra. Đó là một ngày cuối năm, vị Chúa Tiên bỗng sực nhớ là bao ngàn năm nay những phép tiên kia không hề được dùng tới. Chúa Tiên bỗng lo ngại là với khoảng thời gian dài dằng dặc như thế kia, phép màu có còn công hiệu nữa không? - Thôi thì cứ mở ra xem sao. Chúa Tiên nghĩ bụng thế, rồi đưa tay rút nhẹ bông hoa vàng thay cho ổ khóa. Cánh cửa của chiếc tủ đựng phép tiên bật mở, hòa quang từ bên trong lóe sáng ra. Trong tủ có nhiều nhất là những chiếc đũa quyền lực, những chiếc đũa quyền lực đã được nhiều người biết đến qua phim ảnh hoặc những trang báo có ảnh minh họa. Họ thường vẽ những nàng tiên cầm những chiếc đũa thần. Nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra. Khi Chúa Tiên đưa tay chạm vào những chiếc đũa thần đang nằm xếp ngay thẳng trong tủ thì chúng bỗng mềm hẳn ra, rồi biến thành một đám bụi. Thì ra thời gian cũng làm những chiếc đũa tiên trở thành tro bụi. Đôi mắt tò mò của nàng tiên nhỏ tên Hy Vọng đang sống trong chốn thần tiên xịu xuống. Hy Vọng mơ ước được một lần cầm chiếc đũa tiên để hóa phép cho biết thế nào là phép tiên. Nhưng những chiếc đũa tiên bây giờ chỉ còn là... bột tiên, ắt hẳn sẽ không thể nào biến hóa ra được những thứ mà nàng tiên Hy Vọng muốn làm! Nhìn đôi mắt thất vọng của nàng tiên Hy Vọng. Chúa Tiên nói: -Không sao đâu, những chiếc đũa tiên đã bị hư hỏng hết, nhưng còn đóa hoa cúc vàng. Con cầm lấy đóa hoa cúc vàng này coi như ta tặng con trong dịp năm mới. -Dạ, con cám ơn ChúaTiên-Nàng tiên Hy Vọng đưa tay nhận bông cúc vàng. Nàng tiên Hy Vọng chực bay đi thì Chúa Tiên đưa tay chặn lại: -Trong bông cúc vàng này chỉ có 7 cánh. Con nên nhớ mỗi cánh hoa sẽ có một ước mơ. Tuy nhiên, con đừng bao giờ cho luôn ước mơ thứ 7, vì như thế thì con sẽ chẵng bao giờ còn một nàng tiên nữa. -Dạ, con xin nghe lời Chúa Tiên. Bông cúc hoa vàng được trao cho cô tiên Hy Vọng. Những cánh hoa cứ long lanh màu sắc, chúng thì thầm với cô tiên Hy Vọng: "Chị Hy Vọng ơi, cho chúng em thành ước mơ của chị nhe!ự" - o O o - 7 cánh hoa cúc vàng là 7 ước mơ của nàng tiên Hy Vọng trong dịp xuân này. Thực ra, đã là tiên thì cần gì đến ước mơ? Hy Vọng để đoá hoa cúc vàng 7 cánh vào chiếc lọ thủy tinh ngay nơi giường ngủ của mình. Những cánh hoa vẫn cứ lao xao, lao xao. Rồi mặt trời bắt đầu tỏa sáng cho một ngày xuân bắt đầu. Nàng tiên Hy Vọng cầm đóa hoa cúc vàng nương theo đám mây trắng xốp dạo chơi phố tết. " Ta sẽ thực hiện những ước mơ thật đẹp. Những ước mơ ấy mãi mãi sẽ làm cho ta thỏa mãn những gì mà bấy lâu nay ta chưa thực hiện được " Nàng tiên Hy Vọng suy nghĩ. Và gió đưa đám mây có nàng tiên Hy Vọng đi từ nơi này đến nơi khác. Cánh hoa cúc vàng đầu tiên được rút ra cho một bộ quần áo đẹp. Ngày tết, ai cũng đều mặc áo mới phải chăng? Nhưng nàng tiên Hy Vọng chợt bắt gặp một cô bé đang đứng khóc bên đường, giữa trời xuân vui vẻ cô bé không có chiếc áo mới như những cô bé khác vì mẹ cô quá nghèo. Cánh hoa vàng đầu tiên đã trở thành bộ quần áo mới cho cô bé đó. Vừa lúc ấy, một chim két mỏ đỏ bay tới, đậu trên vai nàng tiên Hy Vọng: " Chị Hy Vọng ơi, chị có thể cho em xin một cánh hoa vàng xinh đẹp của chị không? " Hy Vọng nói: "Mỗi cánh hoa là một ước mơ đó, chim két xin làm gì? " Chim két vẫy vẫy đôi cánh:" Tối hôm qua, ngọn gió đêm giao thừa đã làm chiếc tổ của nhà em bị rơi xuống gốc cây. Em muốn có một chiếc tổ kịp cho cả nhà đón tết...". Cánh hoa vàng thứ 2 được bứt lìa. Trong phố kia nàng Hy Vọng thấy một đôi giầy màu đỏ nằm trong tủ kính. Oi đôi giày đẹp làm sao. Nó giống như được làm nên bởi những tia nắng mặt trời. Nàng tiên Hy Vọng chuẩn bị bứt cánh hoa vàng thứ 3 cho điều ước của mình. Nhưng kìa, một con chim ưng sửa soạn sà xuống vồ con gà bé nhỏ tội nghiệp đang mổ thóc. Nàng tiên Hy Vọng đã cứu chú gà bé nhỏ bằng cánh hoa thứ ba. " Có sao đâu! Mình có 4 cánh hoa. Bốn cánh hoa là 4 ước mơ ". Hy Vọng cùng đám mây trời dạo quanh mọi nơi. Tất cả đều chan hòa một màu xanh xinh đẹp, trời xuân đẹp, từng cỏ non tơ. Thế rồi cánh hoa thứ 4 bứt ra, một đám cháy được dập tắt. Cánh hoa thứ 5 giúp cho một chú cá chép được cứu sống. Cánh hoa thứ 6 là mâm cỗ đầy cho đám trẻ lang thang trên hè phố... Ngày xuân trôi qua dịu dàng như thế. Bông hoa cúc vàng chỉ còn một cánh, sáu cánh kia đã thực hiện 6 ước mơ cho người khác. Đôi giày đỏ ước mơ của nàng tiên Hy Vọng vẫn chưa được thực hiện được. Nhưng trên tay nàng tiên Hy Vọng chỉ còn 1 cánh hoa cuối cùng. Đó là cánh hoa để Hy Vọng trở về lại xứ sở của những chuyện thần tiên. Nàng tiên Hy Vọng nương theo mây bay về. Chúa Tiên đã ở đó tự bao giờ, nói: "Con ngoan lắm, giờ đây con có quyền thực hiện ước mơ của mình bằng cánh hoa cuối cùng". Nàng tiên Hy Vọng bứt cánh hoa vàng thứ 7 thả lên trời. Đôi giày màu đỏ bọc lấy đôi chân xinh đẹp. Và đó là đôi giày xinh đẹp nhất của những nàng tiên trong mùa xuân này.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bay-canh-hoa-vang" }
Sự tích nghề mộc
Sau khi đã sáng tạo ra loài người, lại thấy loài người phải sống chui rúc trong các hang đá tối tăm lạnh lẽo. Ngọc Hoàng thương tình bèn sai một vị thần bày cho loài người cách làm nhà cửa và các vật dụng sinh hoạt. Vị thần này xuống trần dưới dạng một người đàn bà đã già với mái tóc trắng như cước và vẻ mặt bí hiểm. Bà già sống lẩn lộn trong dân gian, cùng làm cùng ăn với mọi người và ngày càng có uy tín với nhân dân. Bấy giờ loài người chỉ mới biết đẵn gỗ hoặc tre nứa làm chỗ tránh mưa, tránh nắng tạm thời. Bà già đã tìm cách hướng dẫn loài người làm cưa, để cưa gỗ cho nhanh chóng hơn. Nhưng cách truyền nghề của bà cụ độc đáo. Không bao giờ bà nói thẳng cách thức làm mà chỉ hướng dẫn một cách gián tiếp. Chẳng hạn, bà đưa mọi người ra bờ suối, bên  những bụi dứa dại đầy gai. Bà bứt lấy một chiếc lá và cứa vào chân của từng người. Ai tinh ý thì nghĩ ra cách làm chiếc cưa, tương tự như chiếc lá dứa. Trong số những người đi theo bà, có hai anh em nhà nọ tên là Lỗ Ban, Lỗ Bốc tinh ý hơn cả. Họ suy nghĩ cách hướng dẫn của bà và rèn được một lưỡi cưa. Có lưỡi cưa, mọi người xẻ gỗ nhanh hơn. Từ đó anh em Lỗ Ban trở thành những người thầy đầu tiên của nghề mộc. Nữ thần còn dạy cho mọi người cách làm nhà, làm thuyền bằng gỗ. Cách làm nhà được bà hướng dẫn như sau: bà đứng thẳng trước mọi người, hai tay chống vào hai bên hông, để từ đó Lỗ Ban, Lỗ Bốc suy diễn. Lỗ Ban cho rằng nữ thần dạy làm kiểu nhà có một cột chính ở giữa, giao múi với hai đầu kèo, còn Lỗ Bốc thì lại cho rằng có thể làm kiểu hai cột đâm lên vào khoảng giữa hai kèo, v.v... Hai anh em tranh luận và mỗi người làm một kiểu, kiểu nhà nào trông cũng chắc chắn, vững chãi. Dân chung quanh từ hai kiểu nhổ nào biến chế được rất nhiều kiểu khác nữa. Nữ thần lại còn dạy cho dân cách làm thuyền để đi trên mặt nước. Bà nằm ngửa, hơi co người, để cho tay và chân gấp lại. Anh em Lỗ Ban, Lỗ Bốc bắt chước kiểu đó nghĩ ngay với việc lấy một khúc gỗ, đục rỗng lòng và đặt những mái chèo ngắn ở hai đầu. Sau này họ còn tìm cách trang trí những hình chạm trổ chim, hoa, cá... vào những công trình bằng lỗ của mình cho thêm đẹp. Nghề làm mộc phát triển  từ đấy nhưng nguồn gốc ban sơ chính là nhờ nữ thần nghề mộc truyền cho từ  thuở xưa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-nghe-moc" }
Bà Khổng Ôn
Thời bà Khổng Ôn sống là thời kỳ đất nước mới thanh bình, đất còn thấp, nước chiếm phần nhiều. Nước thường xuyên cậy thế mạnh gây ra những trận lũ lụt hòng dìm đất xuống. Lần ấy, sau một trận lụt rất lớn, nhà cửa đồng điền đều bị dòng nước bạc nhấn chìm. Bà Khổng Ôn cũng chạy lụt với mọi người. Bỗng nhiên bà thấy ở một cánh đồng cao còn sót lại hai bông lúa lạ đứng bên cạnh nhau, vươn hẳn lên khỏi mặt nước. Bà liền đưa tay ngắt lấy thì thấy một bông hạt to bằng đầu đũa, một bông hạt nhỏ bằng chân hương. Buồn miệng bà lấy một hạt lúa to ăn chắt, không ngờ, hạt gạo vừa nuốt xuống bà bỗng thấy người  mình cao lớn hẳn lên, bà to cao nhanh đến nỗi chỉ một lúc sau đầu đã đụng phải tầng mây cao, tay có thể với tới cả những vì sao lạnh buốt. Bà đưa mắt nhìn xuống dưới thì làng mạc, cây cỏ, thú vật chỉ bé không bằng con kiến, con trùng đến nỗi bà không dám bước đi nữa vì sợ giẫm phải người ở dưới. Bà cứ đứng mãi như thế, lẻ loi, cô độc, lo lắng trước bốn bề chỉ có gió với mây. . . Bỗng bà nhớ đến hai bông lúa đang cầm trên tay bèn lại bứt một hạt của bông nhỏ nhấm thử. Thì lại một điều kỳ diệu nữa là khi hạt gạo trôi qua khỏi cổ bà lại dần dần thu nhỏ lại như người bình thường. Biết đấy là hai bông lúa thần, bà mừng quá, bèn giấu kỳ vào người. Từ đó bà gìn giữ hai bông lúa quí để đi khắp nơi cứu giúp thiên hạ. Những này mưa to có lớn, hoặc những lần hạn cháy đồng khô, bà lại ăn một hạt thóc lớn để có thể chắn gió ngăn bão cho cả một vùng hoặc kéo mây đong nước về cho đồng ruộng. . . Xong việc, bà lại ăn hạt lúa bé để thành người bình thường trở về sống với bà con trong xóm ngoài làng. Vốn là một cô gái xinh đẹp, dịu hiền, đến tuổi trưởng thành bà cũng tươi trẻ như nhiều cô gái cùng lứa tươi và cũng có những ước mơ về một tấm chồng, về những đứa con như mọi người con gái lúc bấy giờ. Nhưng khốn thay, hết thảy mọi chàng trai, anh nào thấy bà cũng len lén tránh né, vì họ biết bà có lúa thần, thỉnh thoảng lại vụt to lớn lạ thường. Làm sao có thể làm vợ, làm chồng  trong một hoàn cảnh như vậy được? Nhưng rồi cuối cùng cũng có một chàng trai đến xin cưới bà. Chàng chỉ ra có một điều kiện là bà phải bỏ bông lúa thần đi để giữ mãi dáng vóc thon thả bình thường như mọi cô gái trong làng. Bà Khổng Ôn vì cũng muốn có chồng, có con nên đã nhận lời. Nhưng bà vẫn lén giấu chồng hai bông lúa ở một nơi kín đáo. Một hôm, vợ chồng đang ân ái thì trời nổi một cơn giông ghê gớm. Giông bão đến bất ngờ làm bay cả nhà cửa, đổ cả cây cối, và bốn phía nước cuồn cuộn dâng lên, sóng réo ầm ầm. Dân tình xao xác, kẻ kêu, người khóc ồn ã khắp nơi.  Bà Khổng Ôn thương dân quá bèn lấy một hạt thóc to, ăn vụng chồng để cứu  nạn. . . Trong khi ân ái, người chồng cứ thấy vợ mình to mãi ra, thoáng chốc ông đã không tài nào nhìn thấy đầu, thấy chân tay vợ nữa. Bấy giờ ông mới hiểu ra là bà dám làm trái lời mình, ông bực lắm. Nhìn quanh, bỗng ông thấy được bông lúa to bà chưa kịp giấu bèn giật phăng lấy và hất tung lên trời làm cho tất cả các hạt lúa bắn tung toé. Biết chồng giận mình lắm nhưng bà vẫn cố hứng lấy một  hạt thóc to nữa rồi mới quay lưng chắn gió, xua mây gạt giông bão cứu dân lành. Vài giờ sau, mưa tạnh, gió ngừng, bà lấy hạt thóc nhỏ ăn cho người bé lại. Vừa ăn xong định vào nhà thì chợt bà nhận ra nhà đang bị nước cuốn trôi, ở giữa dòng nước ông chồng cũng đang ngoi ngóp sắp chết đuối cùng với rất nhiều  người nữa. Bấy giờ bà đành phải ăn nốt hạt thóc to cuối cùng rồi lội ra giữa dòng nước để cho mọi người bám lấy mà leo lên. Ông chồng nhờ đó mà thoát nạn và mới thấy công lớn của người vợ. Ông hối hận vì sự nóng nảy của mình, nhưng đã muộn rồi, những hạt thóc to mầu nhiệm đã không còn nữa. Sóng nước đã cuốn trôi bởi một chút giận dữ thường tình. Chỉ còn những hạt thóc bé nhỏ  vừa đủ nuôi những vóc dáng tầm thường, không đủ sức để cho bà Khổng Ôn to lớn như những lần trước nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-khong-on" }
Sự tích thác Cam Vàng
Ngày xửa ngày xưa, cạnh thác nước Cam Vàng, có hai ông bà lão nọ sinh sống bằng nghề trồng trọt. Hai người đã già mà vẫn không có con cái nên cuộc sống rất khổ cực, buồn tẻ. Khi còn trẻ, ông lão đã đến bên thác nước này dựng nhà và trồng tất cả một trăm cây cam vàng trước và sau nhà mình. Nhiều năm trôi qua, những cái cây này đều đã lớn. Cạnh nhà ông bà lão là một thác nước lớn, không ai biết tên thác nước là gì cả. Một năm nọ, một trăm cây cam vàng của ông lão nở nhiều hoa hơn hẳn những năm trước, hơn nữa, hoa cũng rất to. Mỗi khi có gió thổi, cách hàng dặm cũng ngửi thấy hương hoa. Hai ông bà lão rất mừng vì tin rằng, năm nay số lượng quả sẽ nhiều hơn năm ngoái. Ông lão cứ nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần rằng: “Bà nó này, đợi khi bán cam đi, bà sẽ có đủ tiền để mua một bộ quần áo mới, thay cho bộ quần áo cũ kĩ này.” Bà lão cũng nhắc đi nhắc lại: “Ông cũng có thể mua vài cân thịt với một bình rượu về để nhâm nhi rồi nhé.” Cuộc sống cứ thế trôi đi, những bông hoa đã rụng. Ngày nào ông lão cũng ngắm nghía những cây cam nhưng mãi vẫn chưa thấy đậu quả. Chiều hôm đó, bà lão mừng rỡ nói với ông lão: “Ông mau ra xem đi, có quả rồi!” Ông lão vội lật đật chạy ra xem. Ồ! To quá. Ông lão cảm thấy rất kì lạ, hoa cam mới rụng có mười mấy ngày, vậy mà quả cam này đã to gấp mấy lần những quả cam chín cây khác. Hai ông bà lão lại đi xem những cây cam khác nhưng không thấy thêm một quả cam nào nữa. Mấy hôm sau, nhà ông bà lão có một vị khách quý ghé thăm. Sau khi biết chuyện về quả cam khổng lồ, vị khách này đã vượt quãng đường xa hàng trăm dặm để đến đây, tên ông ta là Thiểm Lão. Thiểm Lão đến nhà ông bà lão, vừa mở miệng đã hỏi: “Ông lão, ông có bán quả cam này không?” “Quả cam này để làm giống, không bán đâu.” Ông lão thuận miệng trả lời. “Hai trăm lượng bạc có bán không?” Ông lão vừa nghe thấy thế thì ngây người ra, cả đời ông chưa bao giờ nhìn thấy nhiều tiền như thế. Thiểm Lão thấy ông lão có vẻ do dự, liền nói: “Thế này đi, ta trả ông một nghìn lượng bạc.” Bấy giờ, ông lão càng thêm phần bối rối. Bà lão đứng bên cạnh nói chen vào: “Bán, bán mau đi ông ạ, để tôi đi hái cam.” “Không cần!” Thiểm Lão ngăn lại, “Bây giờ tôi chưa cần đến quả cam này, đúng một trăm ngày sau, ta sẽ đến lấy. Nhưng hai người hãy nhớ, trong vòng một trăm ngày tới, cho dù là ngày hay là đêm, hai người cũng phải canh giữ quả cam cho cẩn thận, không được để kẻ khác sờ vào đâu đấy.” “Ông yên tâm đi!” Ông lão nói, “Chỗ chúng tôi cả năm cũng không có mấy ai ghé qua. Nhưng ông phải nói ông cần quả cam này làm gì, nếu không nói thì tôi sẽ không bán đâu.” “Quả cam này chính là một báu vật!” Thiểm Lão thì thầm vào tai ông lão. “Nó dùng để làm gì?” Ông lão hỏi lại. “À, điều này… sau này nói tiếp đi!” Thiểm Lão không muốn nói thêm mà ông lão cũng không tiện hỏi. Sau khi dặn dò thêm vài câu, Thiểm Lão vội vàng rời khỏi căn nhà nhỏ. Từ hôm đó, hai vợ chồng ông lão thay nhau canh giữ dưới gốc cây, cả ngày cả đêm. Chín mươi chín ngày trôi qua rất nhanh, hai ông bà lão mệt rã rời, hai mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ, chỉ muốn nằm xuống ngủ một giấc. Ông lão nghĩ bụng: Đã canh chừng hết chín mươi chín ngày rồi, dù sao thì quả cam này cũng đã chín, hái trước một ngày chắc cũng không sao. Thế là hai người liền hái quả cam xuống. Hôm sau, Thiểm Lão đến, vừa vào đến cửa đã hỏi: “Ông lão, quả cam vàng thế nào rồi?” Thiểm Lão đưa cho ông lão ngân phiếu một nghìn lượng bạc, lại còn mang theo cả một chiếc thang dây bện bằng dây thừng nữa. Ông lão đút tờ ngân phiếu vào ngực và nói: “Quả cam đã chín rồi, tối hôm qua, chúng tôi đã hái nó xuống.” “Đã hái rồi sao?” Thiểm Lão kinh ngạc thốt lên, “Để ta xem.” Ông lão liền lấy quả cam ra. Quả cam này vừa thơm vừa to không thua kém gì một quả bí đỏ. Thiểm Lão ngắm nghía một hồi rồi thở dài nói: “Tiếc quá, chỉ thiếu có một ngày thôi, không đủ sức lực rồi.” “Rốt cuộc là quả cam này có tác dụng gì vậy?” Ông lão hỏi. Thiểm Lão chỉ về thác nước đối diện và nói: “Cái đầm dưới thác nước kia chính là một kho báu, vàng bạc châu báu nhiều không kể xiết, chỉ có điều không lấy lên được. Quả cam vàng này chính là chìa khóa để mở kho báu đó, chỉ tiếc rằng hôm qua ông đã hái nó xuống, sợ là năng lực của nó chưa đủ mạnh để mở cửa. Tuy nhiên, chúng ta có thể thử xem sao.” Nói rồi, Thiểm Lão liền ôm lấy quả cam, vác thang dây lên vai và đi về phía thác nước. Hai vợ chồng ông lão giúp ông ta buộc thang dây vào tảng đá bên bờ đầm. Buộc xong thang, Thiểm Lão nâng quả cam vàng lên, vứt xuống đầm. Một chuyện kì lạ đã xảy ra: Thác nước đang đổ xuống ầm ầm bỗng nhiên ngừng lại, đầm nước bên dưới bỗng nhiên khô cạn. Hai ông bà lão ngó xuống dưới thì nhìn thấy ánh vàng, ánh bạc, kim cương, ngọc ngà châu báu tỏa sáng lấp lánh dưới đáy đầm. Thiểm Lão hớn hở ra mặt, vội vàng thả thang dây xuống đầm, trèo xuống, nhét đầy vàng bạc vào cái túi bên người, sau đó nhặt quả cam vàng và trèo lên. Trèo được nửa đường, bỗng một tiếng động long trời lở đất vang lên, hai ông bà lão sợ quá, không dám nhúc nhích. Hóa ra, thác nước phía trên đang ào ạt đổ xuống, bên dưới, nước trong đầm dâng lên cuồn cuộn. Khi hai ông bà lão định thần nhìn lại, trước mặt chỉ còn lại cái thang dây, không thấy bóng dáng Thiểm Lão đâu cả. Ông lão lắc đầu, thở dài, rút tờ ngân phiếu ra, không do dự, vứt luôn xuống đầm nước. Ông quay lại nói với vợ: “Đây không phải là thứ mà những người làm nghề trồng trọt như chúng ta nên nhận, có giữ lại cũng không ích gì.” Từ đó về sau, thác nước này được gọi là Thác Cam Vàng. Tuy ai cũng biết rằng dưới thác nước này có một cái đầm, dưới đáy đầm có biết bao ngọc ngà châu báu, nhưng không ai tìm ra chìa khóa để mở cánh cửa đó cả.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-thac-cam-vang" }
Sự tích Hùng Hải trị nước
Lạc Long Quân xuống biển, giao lại nước cho con trai cả là Hùng Quốc Vương. Hùng Vương thấy các sông ngòi năm nào cũng dâng nước to làm hại dân làng, mới sai thủy bộ chia nhau giữ gìn các thác ghềnh. Miền Động Đình thường bị loài thủy quái dâng nước làm mất người mất của. Vua Hùng sai em là Hùng Hải về Động Đình chủ giữ các sông. Hùng Hải cùng vợ là Trang Hoa thường đi xem xét các sông Đà, sông Thao. Các loài giải thuồng luồng, ba ba về chầu rất đông, dân vô cùng khiếp sợ. Hùng Hải mắng các loài thủy tộc, dặn lần sau không được lộ hình cho dân thấy. Một hôm, Hùng Hải nằm mộng thấy sứ mời về gặp Lạc Long Quân, Lạc Long Quân báo cho biết sẽ cử ba rồng trông coi một dải sông Thao để trấn giữ giặc nước và lệnh cho Hùng Hải về cửa sông Nhị. Sau đó, Trang Hoa có mang. Tới ngày sinh nàng ngồi thuyền ra giữa sông ở ngã ba Bạch Hạc. Sóng nước nổi lên, mây đen kéo kín trời, chớp loà sấm động. Trang Hoa đau đẻ mấy này và sinh ra ba rồng Hùng Hải mừng rỡ. Ba Rồng vừa ra đời thì trời quang mây tạnh sóng lặng, sấm tan. Ba rồng vươn vai vụt trở thành ba chàng trai cao lớn tuấn tú, lạy chào cha mẹ. Hùng Hải liền vỗ về ba rồng, truyền cho rồng cả về trị nhậm ở ghềnh Ngọc Tháp, rồng hai về ghềnh Ba Triệu, rồng ba về đầm Đào Xá. Bắc Thành địa dư chí của Lê Đại Cương lại  chép "Thần núi Tản Viên có ba vị: Nguyễn Hưởng, Nguyễn Tuấn và Nguyễn Lang'' . Khâm Động Việt sử lại ghi thần Tản Viên có tên là Hương Lang con Lạc Long Quân. Đời thường Nghiên, nước ngập cả núi non, Hương Lang có phép tiên trừ được nạn lụt Thần rất thiêng, đi đâu thường có hạc múa, voi quì, rồng chầu, hổ phục. Cao Biền nhà Đường có ý muốn yểm nhưng không yểm nổi.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hung-hai-tri-nuoc" }
Thần trụ trời
Thuở ấy, chưa có muôn vật và loài người. Trời đất chỉ là một vùng hỗn độn, tối tăm. Bỗng xuất hiện một vị thần khổng lồ, cao lớn vô cùng, chân dài không sao tả xiết. Mỗi bước thần đi là băng từ vùng này qua vùng khác, vượt từ núi nọ sang núi kia. Một hôm, thần vươn vai đứng dậy, ngẩng đầu đội trời lên. Thần đào đất, khuân đá, đắp thành một cái cột vừa to, vừa cao để chống trời. Cột đắp lên cao chừng nào thì trời như tấm màn mênh mông được nâng dần lên chừng ấy. Thần một mình hì hục đào, đắp, cột đá cứ cao dần, cao dần và đẩy vòm trời lên tận mây xanh. Từ đó, trời đất mới phân đôi. Đất bằng như cái mâm vuông, trời tròn như cái bát úp, chỗ trời đất giáp nhau ấy là chân trời. Khi trời đã cao và khô cứng, thần liền phá tan cột đi, lấy đất đá ném tung ra khắp nơi. Mỗi hòn đá văng đi biến thành một hòn núi hay một hòn đảo, đất tung tóe ra mọi nơi thành gò, đống, thành những dải đồi cao. Vì thế, mặt đất ngày nay không còn bằng phẳng mà có chỗ lõm, chỗ lồi. Chỗ thần đào sâu để lấy đất đá đắp cột, ngày nay là biển cả mênh mông. Cột trụ trời bây giờ không còn nữa. Người ta kể rằng vết tích cột đó ở núi Thạch Môn, vùng Hải Dương. Núi ấy còn gọi là Kình Thiên Trụ tức Cột chống Trời. Sau khi thần Trụ Trời chia ra trời đất thì có những thần khác nối tiếp công việc xây dựng nên cõi thế gian này. Các vị thần đó rất nhiều, như thần Sao, thần Sông, thần Núi, thần Biển... Vì vậy, dân gian có câu hát còn truyền đến ngày nay: Ông đếm cát Ông tát bể Ông kể sao Ông đào sông Ông trồng cây Ông xây rú Ông trụ trờị..
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/than-tru-troi" }
Bắc kim thang
Ngày xửa ngày xưa , ở một làng quê nọ, có hai người bạn làm nghề buôn bán cùng nhau. Một người đi soi đèn bắt ếch về đêm, còn anh kia thì chuyên đi bán dầu thắp đèn vào rạng sáng. Nhà họ dựng trên một cù lao nhỏ ven sông, tách biệt với làng xóm, muốn đi vào chợ làng phải đi ngang một cây cầu khỉ vắt vẻo. Do hoàn cảnh đơn chiếc, nên hai anh cũng thân thiết với nhau. Có lần vì mẹ già của anh bán ếch bệnh mà không có tiền chạy chữa nên qua đời, anh bán dầu liền bỏ tiền ra giúp đỡ ma chay mà không hề tính toán, vì thế mà anh bắt ếch càng quý trọng tình bạn của anh bán dầu. Một đêm nọ, trong lúc đi làm việc, anh bắt ếch nghe tiếng kêu thảm thiết phát ra từ một cái bẫy trên đồng. Tính tò mò, anh lại mở ra coi thì phát hiện ra hai con chim le le và bìm bịp nằm trong bẫy, do chúng giành ăn với nhau mới bất cẩn rơi vào bẩy của con người. Hai con chim ra sức năn nỉ anh bắt ếch mở bẩy tha cho mình, rồi hứa sẽ đền ơn báo đáp. Vốn là người có tính nhân từ, anh bắt ếch cũng xuôi lòng rồi giải thoát cho chúng. Vài ngày sau, hai con chim cùng bay đến nhà anh bắt ếch để cảnh báo cho anh biết tai ương sắp đến. Chúng nghe được hai con ma da ở sông bàn với nhau rằng sẽ kéo chân anh bán dầu và anh bắt ếch, cho hai anh chết, thế mạng cho chúng để chúng được đầu thai. Vì hai con ma này chết đã lâu, nếu trong 7 ngày không bắt được người thay thế sẽ bị hồn phách tứ tán, không được đầu thai nữa. Thêm vào đó, ma da cũng chỉ có thể bắt hai anh khi trời vừa rạng sáng, lúc anh bán dầu ra chợ và lúc anh bắt ếch về nhà, bởi vì khi mặt trời lên thì chúng không còn ma phép. Ban đầu anh bắt ếch đem cớ sự nói anh cho bán dầu nghe, khuyên anh nên ở nhà, nghỉ bán một tuần lễ, nhưng anh bán dầu lại không tin, cho rằng đấy là mê tín vớ vẩn, trên đời không có ma, quỷ. Theo lời le le và bìm bịp, anh bắt ếch viện cớ đến ngày cúng mẹ, gọi anh bán dầu qua nhà tiệc tùng ăn nhậu, chuốc cho anh say mèm đến mức sáng hôm sau không ra chợ bán được. Ngày kia lại lấy cớ sang nhà cảm ơn anh bán dầu đã giúp đỡ, lại bày tiệc ăn uống no say, trì hoãn việc đi ngang cây cầu kia. Hôm ấy là ngày cuối cùng của thời hạn 7 ngày ma da bắt hồn, do say sỉn nhiều ngày liền nên anh bắt ếch ngủ quên. Anh bán dầu sực tỉnh vào sáng sớm, nhận ra mình đã bỏ buôn bán mấy ngày liền bèn nhanh chóng quẩy hàng ra chợ. Do bước vội vàng qua cầu khỉ cheo leo, lại bị bọn ma da biến phép cho cầu trơn trượt nên sẩy chân rơi xuống nước mà chết. Anh bắt ếch vì tiếc thương bạn nhưng do còn sợ bọn ma da nên phải đợi hết một ngày sau mới dám vớt xác bạn lên mà làm ma chay. Thấy ân nhân của mình đau lòng, le le và bìm bịp cũng bay đến, cất tiếng kêu thảm thiết như tiếng kèn trống đám ma để tiễn biệt một người chết oan. Đọc hết truyện cổ tích này thì có lẽ mọi người đều sáng tỏ vì sao trong bài đồng dao “Bắc kim thang” lại là: Bắc kim thang, cà lang bí rợ Cột qua kèo, là kèo qua cột. Chú bán dầu, qua cầu mà té. Chú bán ếch, ở lại làm chi. Con le le đánh trống thổi kèn, Con bìm bịp thổi tò tí te tò te. Thực chất là để diễn tả lại câu chuyện cổ tích đề cao tình bạn và tính chất cứu vật vật trả ơn của người xưa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bac-kim-thang" }
Sự tích chiếc kèn môi
Trên ngọn núi cao nọ, có một cái hang lớn. Trong hang có một con quỷ dữ. Ngày nào con quỷ cũng thịt bò thịt ngựa lấy máu làm rượu uống, lấy thịt làm thức nhắm. Khi hết ngựa hết bò, nó lại xuống các bản quanh vùng bắt trâu, bò, ngựa về ăn. Dân bản quanh vùng căm tức con quỷ lắm, nhưng không ai dám chống lại. Thấy chúng mọi người đều bỏ chạy. Một hôm, một nàng công chúa con độc nhất của vua Mèo vào rừng chơi. Cô đang mải mê hái bông hoa đẹp thì quỷ dữ đã đến sau lưng. Hắn nheo mắt ngắm nàng cười khà khà. – Nàng đẹp lắm! Ta sẽ bắt nàng về làm người hầu ta. Nói xong, hắn liền tung tà áo. Tà áo của hắn như có cánh, bay vù đến nàng công chúa và chụp lấy nàng. Quỷ thổi phù một cái, áo cuốn nàng công chúa bay về hang… Công chúa mê đi. Lúc tỉnh dậy, nàng đã thấy mình ở hang quỷ. Chợt nhìn xuống chân, nàng thấy sợi dây đã buộc ở cổ chân từ lúc nào rồi. Quỷ bắt công chúa hầu hạ nó. Ngày ngày, nàng phải xuống suối dưới chân núi vác nước về cho quỷ tắm rửa. Nàng buồn rầu và nhớ nhà lắm nhưng không làm cách nào trốn được, vì hễ động mạnh một cái là sợi dây thần lại báo cho quỷ biết ngay. Một buổi sáng kia, nàng xuống suối vác nước thấy một con cá đẹp đang lội tung tăng trước mắt. Thỉnh thoảng, cá lại ngoi lên mặt nước, nhìn nàng bằng đôi mắt óng ánh. Công chúa nhìn con cá tung tăng vui sướng, nghĩ phận mình cực khổ, nàng cất tiếng than: Cá buồn cá lội tung tăng Ta buồn ta biết ngỏ cùng ai đây? Quanh ta trời thẳm đất dày, Tấm thân tù tội biết ngày nào vui. Nghe lời than của nàng, con cá bỗng nổi lên và hóa thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Chàng trai bước lên bờ, đến bên nàng và nói: – Ta là con trai của vua Thủy Tề. Nghe tin nàng bị quỷ dữ bắt giam ta vội lên đây để cứu nàng. Chàng trai vội cõng công chúa trên lưng và băng rừng chạy trốn. Trong lúc vội vã, nàng quên mất sợi dây thần đang buộc chân. Thấy động, sợi dây báo cho quỷ biết, quỷ tức giận, gầm lên vang động như sấm rền và lấy kính thần ra soi. Chàng trai cõng công chúa đi được một lúc thì bị sợi dây thần níu lại. Biết không thể đi xa được trong lúc này, chàng liền phù phép biến nàng thành một bông hoa, còn chàng thành cành lá che chở cho nàng. Biết mưu kế của chàng trai, quỷ liền hóa phép thành đàn ong ào ào bay tới đến. Cành lá bị ong châm, lá rụng, lá lại thành chàng trai, còn hoa bị ong châm lại thành nàng công chúa. Quỷ nắm đây thần lôi công chúa về. May chàng trai trốn được. Chàng đi lang thang, lòng buồn rầu. Tiên ông hiện đến và cho chàng một con dao, một chiếc lá, rồi ân cần dặn chàng: – Khi nào con muốn nói gì với vợ con, con hãy để chiếc lá này vào miệng và nói, vợ của con sẽ nghe tiếng. Tiên ông lại hiện đến chỗ nàng công chúa, cho nàng chiếc lá và bảo: – Khi nào con muốn nói gì với chồng con, con cứ để chiếc lá này vào miệng mà nói, chồng con sẽ nghe thấy. Nói rồi tiên ông biến mất. Công chúa có chiếc lá nên nàng đã nói với chàng tất cả nỗi đau khổ của nàng và mong chàng mau trở lại cứu nàng. Lần này, hai người lại hẹn gặp nhau ở bờ suối. Nhờ có dao của tiên ông cho, chàng chém đứt dây thần và cõng nàng chạy trốn. Dây thần bị đứt, báo ngay với quỷ. Quỷ liền đuổi theo. Hai người vừa chạy đến bờ con sông lớn thì đã thấy bóng quỷ thấp thoáng đằng sau. Thấy vậy, chàng liền quay ra bờ sông, lấy tay vỗ nước và gọi: – Hỡi đàn cá lớn cá nhỏ! Hỡi cá chép, cá chầy! Hãy đưa ta qua sông! Vừa dứt lời, chàng đã thấy một con cá lớn rẽ sóng lội vào và đưa hai người qua sông. Quỷ đuổi đến bờ sông liền cởi áo khoác tung lên trời. Tấm áo bay, đưa quỷ vượt qua sông rộng. Hai người đến một ngọn núi rất cao thì tiên ông đã cho một con chim lớn bay đến đưa hai người vượt qua ngọn núi. Quỷ đuổi đến ngọn núi cũng tung áo lên và áo đưa quỷ qua núi. Quỷ đuổi gần kịp hai người, liền dừng lại, thổi phù một cái, tấm áo bay vù vù và chụp luôn lên đầu hai người và cuốn chặt lấy. Bắt được rồi, quỷ đánh chàng trai chết và bắt công chúa về. Cái chết oan của chàng trai đến tai tiên ông. Tiên ông liền phù phép cho chàng sống lại, và cho chàng một thanh kiếm, một chiếc nỏ, rồi bảo chàng: – Lần này, con hãy cõng vợ chạy vào rừng chuối… Chàng liền để chiếc lá vào mồm và hẹn vợ ra suối để cùng trốn. Yên chí chàng đã chết, quỷ lại cho nàng đi vác nước dưới suối. Chàng liền dùng kiếm cắt dây thần và cõng nàng chạy vào rừng chuối. Quỷ biết, đuổi theo. Chàng vừa chạy vừa chặt chuối chặn đường quỷ. Vướng chuối, quỷ trượt chân ngã. Nó liền hóa ra sấm chớp, thổi mây đen tối mịt để không cho chàng chạy. Chàng liền giương nỏ bắn tan những đám mây. Quỷ liền hóa ra lửa đốt hai người. Chàng liền phun nước dập tắt. Cuối cùng, quỷ tung áo lên để bắt chàng. Thấy áo quỷ đang bay, chàng giương nỏ bắn rách áo. Quỷ hết phép. Chàng kết liễu đời nó bằng một nhát kiếm. Chàng đưa vợ về cung vua. Vua cha thấy thế mừng rỡ, làm lễ cưới cho hai người và phong chàng làm phò mã. Từ đó, mỗi khi vui chơi, chàng lại mang chiếc kèn môi ra thổi, để nhớ lại những kỷ niệm xưa. Dân bản Mèo cảm phục gương anh dũng của chàng nên cũng làm kèn môi để thổi. Và cứ mỗi đôi thanh niên nam nữ yêu nhau, họ lại dùng kèn môi. Tiếng kèn môi thủ thỉ tâm tình.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chiec-ken-moi" }
Sự tích bà chúa Vĩnh
Tục truyền rằng: Bà chúa Vĩnh chính là con gái của bà Tồ Cô. Khi các chị  em cùng một bọc đã chia nhau đi mỗi người một nơi, riêng bà chúa Vĩnh thương mẹ hơn cả nên vẫn quanh quẩn ở lại vùng Phật Tích cho gần gũi mẹ. Thấy ruộng bãi trong vùng còn chật hẹp, bông lúa cấy ra lơ thơ như bông cỏ may, bà chúa Vĩnh buồn lắm nhưng chưa biết làm cách nào. Một lần ra đồng bà để ý thấy góc ruộng có nhiều phân trâu bò, lúa tốt hơn. Từ đó, bà nghĩ ra cách đi nhặt phân về bón cho lúa. Vừa làm, bà vừa hướng dẫn cho người trong vùng  làm theo. Quả nhiên vụ lúa năm ấy, bông thóc nào cũng uốn câu, nặng trĩu hạt mẩy. Những bông thóc đầy chín dần trong nắng vàng hoe. Cơn gió đi qua mang mùi thơm lúa chín, mang tiếng rì rào của những hạt thóc reo vào nhau bay xa. Những bầy thú, bầy chim rừng đưa nhau kéo đến cắn phá. Bà chúa Vĩnh gọi mọi người ra săn bắt, đuổi đánh chim thú đi. Một lần chạy theo hai con hươu đã bị đánh què chân, bà chúa Vĩnh thấy chúng cố lết vào bụi cây rồi vặt lá nhai, đắp vào vết thương một lúc vết thương lành lại, hai con hươu lại chạy đi như thường. Biết là cây ấy có thể làm thuốc được, bà chúa Vĩnh để mặc cho hươu trốn thoát, rồi vào bụi cây cắt lá mang về... Từ đó, để ý quan sát các loài thú vật, chim chóc, bà chúa Vĩnh học được rất nhiều phương thuốc quí. Trong làng ngoài xóm ai có bệnh gì bà đều đến chữa khỏi, danh tiếng bà chúa Vĩnh được khắp một vùng biết tới. Một đêm đã gần về sáng bà chúa Vĩnh chợt tỉnh dậy, nghe tiếng động rất mạnh ngoài phên cửa, bà về ngồi lên thì cửa bỗng mở tung. Một con Hổ đen, to như con bò mộng lừng lửng đi vào. Bà chúa Vĩnh định kêu lên nhưng thấy dáng điệu con Hổ có vẻ hiền lành, nên lại bình tĩnh. Bà chúa Vĩnh bảo Hổ: - Mày đau chỗ nào, tao chữa cho. Con Hổ phủ phục xuống dưới chân bà chúa Vĩnh, nó quay đầu lại phía sau, ra hiệu mời bà đi chữa cho con khác cơ. Bà chúa Vĩnh vội tìm túi thuốc mang theo. Hổ đen đặt bà chúa lên lưng mình rồi phóng vào rừng sâu. Ở đây có  con Hổ vàng bụng trướng lên đang nằm vật vã lăn lộn. Thì ra, Hổ đen đón bà  đến đỡ đẻ cho vợ nó. Bà chúa Vĩnh lấy thuốc ra đắp vào trán con Hổ vàng. Một  lúc, cơn đau Hổ cái dịu đi, cái bụng trướng thót lại, nó đã đẻ ra một con Hổ con. Hổ đen gầm lên mừng rỡ, đưa bà chúa Vĩnh trở lại nhà. Lúc đó, trời mới tang tảng sáng. Chuyện bà chúa Vĩnh đỡ đẻ cho Hổ, lẽ ra thì không ai biết, nhưng vì Hổ đen nhớ ơn bà, hôm sau bắt được con lợn rừng. Hổ đen đã mang đến tạ ơn. Con lợn to quá, bà chúa gọi dân làng đến chia cho, nhà nào cũng được thịt ăn, nên khắp nơi dân gian đều ca tụng. Từ đấy cứ dăm bữa nữa tháng, Hổ lại mang lợn đến cho bà. Có lần Hổ tha lợn tới giữa ban ngày, dân làng gặp kêu kinh sợ, xô  nhau chạy. Bà chúa Vĩnh thất thế, bảo hổ: - Đến với ta, mày phải ngoan, cấm dọa nạt ai. Hổ cúi đầu, vẫy vẫy nghe lời. Thấy Hổ hiền lành dần dần dân làng quen đi, đã dám đến gần. Nhất là trẻ con, bạo hơn thường tới sát, vuốt ve trên lông Hổ. Thỉnh thoảng Hổ lại cõng bà chúa Vĩnh vào rừng, lên núi xem phong cảnh. Mỗi lần đi như thế, bà chúa Vĩnh lại có quà cho dân làng. Một bận bà chúa Vĩnh bảo Hổ đen lên núi Nguyệt Hằng thăm mẹ. Hai ba tháng sau không thấy bà chúa Vĩnh trở lại, mọi người đều lo lắng. Đúng lúc mọi người đang xôn xao bàn tính, định cử người đi tìm thì Hổ đen đưa bà chúa Vĩnh trở về. Trên lưng Hổ, bà chúa Vĩnh như càng xinh đẹp, mạnh mẽ hẳn lên. Đối mắt lóng lánh nhìn xa. Tấm yếm đào căng đầy trước ngực. Dải yếm đào bay bay  như múa. Hai tay cầm hai dải yếm đào, bà chúa Vĩnh phất ra trước mặt. Lạ thay, càng phất hai dải yếm càng dài, dài mãi ra. Dải yếm bên trái phất ra đến đâu thì những rừng ngập nước câu búi lúp xúp u tối, những đầm lầy đen đặc muỗi dĩn, đỉa vắt đều biến đi cả. Dải yếm bên phải phất ra đến đâu thì đồng ruộng phì nhiêu, ngô lúa tươi tốt mở mang ra đến đấy. Dưới dải yếm bay bay, dân làng chia nhau đi cắm đất làm ăn, cày cấy... Tiếng giục trâu bò, tiếng hát hò đối đáp, tiếng nước reo, gió thổi âm vang khắp vùng sông bãi bằng phẳng màu mỡ... Vùng Phật Tích bây giờ vẫn còn một con đường thẳng tắp chạy suốt về phía chân trời. Đó là con đường dải yếm, mang tên di tích của bà chúa Vĩnh. Đến nay không ai biết do đâu bà chúa Vĩnh có được  tấm yếm đào thần kỳ ấy. Có người bảo, bà được tiên truyền cho. Có người bảo, tấm yếm đó chính là yếm của bà Tồ Cô, đấng sáng tạo, đã tạo cho người con gái  hiếu thảo biết thương dân...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ba-chua-vinh" }
Chuyện tổ tiên mở nước
Hùng Vương trị đất lạc, đặt tên nước là Văn Lang, chia ra thành nhiều khu vực cho các anh em mỗi người cai quản một nơi, còn một số thì ở với mẹ, anh cả được tôn làm vua, tức là Hùng Vương. Buổi đầu, vật dùng của dân chúng chưa đủ, lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy nước nhựa làm rượu, lấy bột cây quang lang làm cơm, lấy cầm thú  ngư trung làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, cấy bằng lửa. Đất nhiều gạo nếp, lấy ống tre để nấu. Gác cây làm nhà để tránh hùm sói. Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Con mới sinh thì lấy lá chuối lót. Khi có người chết thì lấy cối chài ra mà giã, hàng xóm nghe thì chạy đến cứu giúp nhau. Trai gái lấy nhau thì chưa dùng trầu cau, lấy phong muối làm lễ đầu, rồi sau đem trâu dê để thành lễ. Tổ chức thô sơ dần dần thành lập nên kinh đô Phong Châu, các bộ lạc thì  ở dưới quyền tù trưởng gọi là lạc tướng, các lạc tướng thì phục tòng ít nhiều một  vị tù trưởng có thế lực hơn hết cả gọi là lạc hầu hay lạc vương. Thôn ở dưới  quyền một gia trưởng gọi là bố chính. Vương có nô lệ tôi tớ, con trai gọi là quan lang, con gái gọi là mị nương hay mệ nàng, cha chết thì truyền ngôi cho con  trưởng, người nào cũng xưng hiệu là Hùng Vương. Trong xứ có nhiều ao, đầm, hồ, sông và tiếp giáp biển, dân chúng sinh hoạt về nghề chài lưới thường bị các giống thủy tộc như thuồng luồng, cá sấu  làm hại. Hùng Vương nghe những tai nạn dân sự hay gặp phải mới bảo rằng: - Ta cùng các anh em vốn thuộc giống rồng. Rồng thường ưa đồng loại mà ghét dị loại, vậy nên dùng chàm vẽ hình rồng vào người, để khi lạn xuống các em nhận ra là đồng loại mà không làm hại nữa. Do đó mà người Lạc Việt có tục xăm mình và tin rằng mình là con cháu giao long. Nước của Hùng Vương cũng vì thế mà gọi tên là Văn Lang. Đất nước Văn Lang phía đông giáp biển Nam hải, phía tây đến nước Ba Thục, phía bắc đến hồ Động Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành). Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái thì về phía đông nước Văn Lang hồi bấy giờ có một dân tộc thuộc về giống cá sống trên các hòn đảo. Tự thời xưa cá đã  biến thành người, dần dà ăn nói như người, lên ở trên cạn: Họ lên đất thì chóng mặt, đi đứng khó khăn, nhưng xuống nước thì khỏe mạnh bơi lội rất tài. Họ sinh sống bằng nghề bắt cá và đưa cá vào đất liền để  đổi lấy gạo ăn. Phía nam Văn Lang, là nước Hồ Tôn tức Chiêm Thành về sau có một ông vua tên Thập Xa Vương có nhiều phép thuật, cai quản một bộ lạc mặt người đuôi vượn, rất khoẻ và hung dữ. Giáp giới phía nam nước này là nước Diệu Nghiêm có một ông vua có mười cái đầu nên gọi là Thập Đầu Vương. Ông vua  hình dạng cổ quái này có tài biến hóa phi thường. Thập Đầu Vương nghe tiếng con trai của Thập Xa Vương là Trưng Tư có một người vợ rất đẹp tên là Bạch Tĩnh, bèn đem bộ hạ đến nước Hồ Tôn vây đánh bất ngờ, rồi hóa phép vào cung bắt nàng bạch Tĩnh đem về nước. Bị cướp mất vợ, Trung Tư đem quân mặt người đuôi vượn kéo đi báo thù hóa phép dời núi lấp khoảng biển hẹp cách ngăn hai nước Hồ Tôn và Diệu  Nghiêm, mở đường tiến vào nội địa tình địch. Sau một trận giao chiến ác liệt, Trung Tư giết được Thập Đầu vương, giành lại được vợ đưa về. Phía tây nam Văn Lang, có nước Tiết Hầu, nhân có việc rắc rối về ranh giới hai vua đôi bên mới phân định bằng cách mỗi bên cử một người từ nước mình, ở một chỗ nhất định rồi bắt đầu cùng một ngày, một giờ hướng về phía nhau mà đi, hễ gặp nhau ở đâu thì lấy đó làm giới hạn. Bên Văn Lang cử một người đàn bà tên là Mụ Giạ, người cao lớn, có tài đi rất mau. Đôi bên đi gặp nhau ở một cái đèo, thuộc dãy núi ngày nay gọi là Trường Sơn. Dãy núi ấy được lấy làm ranh giới đôi bên theo lời giao kết. Cái đèo người ta vẫn gọi là đèo Mụ Giạ. Ở chỗ từ Tân Ấp (Hà Tĩnh) ngày nay sang  Ban Thông Kham (Ai Lao).
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chuyen-to-tien-mo-nuoc" }
Nàng tiên gạo
Ngày xưa, có một nhà chỉ có hai mẹ con. Người mẹ già yếu, không đi nương rẫy làm được nữa. Cô gái rất thương mẹ, suốt ngày chăm chỉ làm lụng nuôi mẹ già. Năm ấy hạn hán to, mất mùa đói kém xảy ra. Cô gái và mọi người trong làng đổ dồn về làm thuê cho lão nhà giàu trong vùng. Lão bắt mọi người làm việc cả ngày nhưng chỉ cho ăn một bát cơm độn với rất nhiều ngô sắn. Mỗi ngày cô ăn nửa bát cơm, còn nửa bát cô gói mang về cho mẹ. Ban đêm, cô phải ngủ cạnh kho lúa canh chuột. Một đêm, vừa chợp mắt thì cô nghe thấy tiếng thở dài, rồi một giọng dịu dàng: “Ta là Tiên gạo đây. Ta đã nhầm khi giúp lão keo kiệt kia, có của mà không biết thương người. Lão xưa kia nghèo khổ, nhưng thương người nên ta giúp hắn trở nên giàu có. Nhưng càng giàu hắn càng thay đổi tính nết, đâm ra tham lam độc ác. Rồi ta sẽ trị lão thích đáng”. Khi nương lúa vàng ươm, chỉ còn đợi gặt. Lão sợ người làm trộm lúa nên đuổi hết thảy mà chẳng trả một xu. Bỗng nước từ đâu ào tới tràn ngập nhà lão, lúa má trên nương dưới ruộng đều bị cuốn sạch. Sau đại hạn, mưa thuận gió hòa, khắp nơi được mùa. Trong khi đó lão nhà giàu gọi người làm nhưng không ai đến. Họ bảo nhau tránh xa lão tham lam keo kiệt. Lão khánh kiệt, không còn nổi bát cơm ăn. Cô gái lại vào rừng đào củ, hái măng, tần tảo nuôi mẹ già. Một hôm vừa ra đến cửa rừng thì gặp bà lão ăn mày. Bà cụ run lẩy bẩy vì rét, miệng rên hư hử: “Tôi… mệt… Tôi… đói!”. Cô vội vàng vơ lá đốt lửa sưởi, nướng măng cho bà ăn. Bà cụ nhai ngon lành, hết cái măng thì kêu khát nước. Cô liền xách ống tre ra suối lấy nước. Trở lại, chẳng thấy bà cụ đâu. Chỉ thấy cái gùi không. Cô bèn đeo gùi về định hôm sau trả lại, nhưng mãi chẳng gặp lại bà cụ. Cô đành cất gùi lên gác bếp. Kỳ lạ thay, đi làm về, cô lại thấy trong gùi có đầy thóc. Thì ra đó là những hạt ngọc nuôi sống con người mà bà tiên đã ban tặng cho cô. Cô gái mang thóc cho mọi người làm giống. Dân trong làng chẳng bao giờ biết đến cái đói cái rét nữa. Từ các cụ già đến trẻ con, ai cũng tấm tắc khen cô gái đẹp người lại đẹp nết.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-tien-gao" }
Sự tích bà Chóa
Những người con gái của bà Tổ Cô sau khi rời bọc mẹ đẻ, họ bảo nhau đi thật xa. Cứ đi, cứ đi, đâu chẳng là Đất Mẹ. Dù cách bao nhiêu đường đất mà biết làm đúng lời mẹ dạy thì vẫn gần với mẹ. Tục truyền rằng: Trong những người con gái đi xa. Bà Chóa là đi xa nhất. Mải mê với cảnh đẹp bên đường, bà Chóa ngược lên tới dòng sông Cầu. Thuở đó, dân cư bên sông còn thưa thớt. Càng ngược lên càng vắng vẻ hơn. Con sông trong xanh uốn khúc trôi đi, để lại hai bên từng vạt sa bồi nục nạc. Nhìn những soi bãi hoang, mặc cho lau lách cây cỏ trùm lấn, bà Chóa hỏi: - Đất tốt thế này, sao không trồng dâu? Người dân bên sông ngơ ngác nhìn nhau, rồi hỏi: - Cây dâu là cây nào? Trồng dâu làm gì? Thấy người vùng này chưa ai biết cây đâu, bạ Chóa liền bước xuống bãi sông vạch lau cỏ tìm tòi. Tìm một ngày, hai ngày. Tìm mãi tới ngày thứ ba, bà Chóa mới gặp một vạt dâu dại, nhìn giống dâu ta, cây bánh tẻ nào cũng mập mạp, xanh mỡ, lá vừa  to vừa dày bà Chóa mừng rỡ. Cắt một cành, bà Chóa đưa khoe với mọi người: - Tiếc quá, giống đâu ở đâu quý thế này, sao không biết nuôi tằm? Giằng lấy cành dâu ném đi, người bên sông quát: - Vớ vẩn, dâu với tằm cái gì, cút đi Cút đi... Đám đông xúm vào đánh đuổi. Bà Chóa ôm mặt chạy trốn. Chạy được một quãng, thấy mọi người đã tan cả, bà Chóa lại quay lại bãi sông. Không được vào làng sống với mọi người, bà Chóa đành tự dựng lấy túp lều, ở một mình ven  sông. Từ đó, ngày ngày bà Chóa ra bãi cuốc phá cây hoang cỏ dại. Làm ngày làm đêm, thui thủi một mình, lắm lúc nghĩ cũng cực thân, nhưng nhìn vạt đất lộ  ra, bà Chóa lại vui quên cả mệt mỏi. Có lẽ vì đất tốt quá nên cây cỏ hôm nay vừa  chặt phá, dọn dẹp sạch sẽ, qua đêm, sớm hôm sau ra đã mọc um tùm. Hầu như ngày nào bà Chóa cũng phải bắt đầu làm lại từ đầu. Buồn lắm, nhưng bà Chóa vẫn không nản. Một hôm, trời nắng to, dậy đi làm từ sớm, nên nửa buổi bà Chóa đã thấy  khát nước. Khi cổ họng khô đắng lại, mắt hoa lên, khát không thể chịu được  nữa, bà Chóa mới lách qua bãi soi, tìm xuống bên sồng múc nước uống. Tới sát mặt nước, bà Chóa gỡ nón đang đội ra, chao chao xuống nước định múc, không ngờ nước tự nhiên rút đi. Bà Chóa vội bước tiếp đuổi theo.  Nước lại rút tiếp. Cứ như thế, bà Chóa đi đến đâu, nước rút tới đấy. Đi được một quãng xa, thấy trong lòng sông vừa có một vết chân to, bà  Chóa lấy làm lạ liền đặt chân mình lên ướm thử. Đột nhiên, bốn phía rềnh lên,  nước sông ở đâu cuồn cuộn kéo đến dâng ngập, rồi cuốn bà đi. Sau một hồi mê man, bà Chóa mơ màng tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên một cỗ giường ngọc, trong tòa lâu đài vàng son lộng lẫy. Đang phút lạ lùng, bà Chóa thấy một người trai trẻ, mặc giáp trụ lóng lánh, hai bên có hai người võ  tướng cắp gương theo hầu đi vào. Đứng trước giường ngọc, người trai trẻ bảo: - Nàng chớ lấy làm lạ. Ta là Hoàng tử con cả vua Thủy Tề. Được vua cha cho cai quản khúc sông này, ta đã biết tình cảnh của nàng, nên từ lâu đã đem lòng ái mộ. Dưới chốn thủy cung này ngọc trai châu báu không thiếu, ta chỉ ao  ước có người tâm đầu ý hợp. Nay ta mời nàng tới đây để xin được kết nghĩa tóc tơ với nàng. Cũng là để tạo cho nàng có người giúp đỡ mai sau. . . Thấy hoàng tử đã đẹp trai lại ân tình chân thực, bà Chóa e lệ cúi đầu ưng thuận. Lập tức, cả thủy cung được lệnh treo đèn kết hoa, mở tiệc cưới. Từ đó, tình nghĩa vợ chồng ngày càng khăng khít. Mỗi lần hoàng tử đi tuần tiễu các mặt sông đều đưa cả thủy phủ đi theo. Qua mặt nước nhấp nhóa, bà Chóa lại thấy cái bãi hoang với căn lều vắng hiện ra. Cảnh cũ làm bà Chóa nôn nao nỗi nhớ. Cố nhắm mắt quên đi, mà ước vọng khai phá bãi hoang lại trở về... Cứ thế, lo nghĩ làm bữa ăn giấc ngủ kém đi, tuy sống cuộc đời nơi thủy cung nhàn nhã, thừa mứa, mà bà Chóa ngày một vàng vọt, xanh xao. Vóc người đầy đặn xinh đẹp xưa, trở thành rộc rạc yếu ớt. . . Thấy Hoàng tử rất lo lắng cho sức khỏe của mình, bà Chóa đành thú thật: - Bệnh của thiếp là tại nỗi sầu nhớ trên bờ. Tuy nơi ấy không phải là quê, nhưng thiếp đã nguyện gắn đời mình với bãi sông. Xin chàng cho thiếp trở lại chốn cũ. Bao giờ bãi hoang thành bãi dâu, ngày ngày thiếp ra hái lá chăn tằm, vẫn là gần sông nước, gần chàng. Hoàng tử rất yêu thương vợ, nhưng chẳng còn cách nào khác đành sai người sửa soạn đưa bà Chóa lên bờ. Phút chia tay chàng dặn vợ rằng: - Việc phá bãi hoang không phải dễ, bây giờ nàng đang có mang, hãy cứ lo mẹ tròn con vuông, rồi sau các con sẽ đỡ đần nàng thêm. Hãy nhớ là dù đẻ ra cái gì, nàng cũng phải giữ lấy mà nuôi. . . Quả nhiên từ ngày lên bờ, trở lại với không khí quen thuộc, bà Chóa thấy phấn chấn mạnh khoẻ lên. Nước da trở lại hồng hào trắng trẻo, trông bà Chóa càng xinh đẹp hơn xưa. Chả mấy chốc đã đến kỳ sinh nở, bà Chóa đẻ ra hai quả trứng. Dân làng biết chuyện, cho là việc quái dị, bắt bà Chóa vứt bỏ đi. Nhớ lời  chồng, bà Choa quyết giữ lại nuôi. Thấy thế, dân làng hò nhau phá tan lều, một  lần nữa đuổi bà Choa ra khỏi địa phương mình. Tủi nhục quá, bà Chóa đã tính đi nơi khác cho rảnh nợ. Nhưng nghĩ đến  bãi sông bỏ hoang phí, bà Chóa lại quay về sống lẩn lút nơi bờ cây, búi cỏ qua ngày. Đi đâu, bà Chóa cũng bọc hai quả trứng vào vạt áo, mang theo. Ngày tháng nặng nề trôi, rồi cũng đủ chín tháng mười ngày, hai quả trứng đã trở thành hai con rắn nhỏ, giống nhau như hai giọt nước. Vừa ra khỏi vỏ trứng, hai con rắn đã nhảy ngay vào lòng mẹ đòi bú. Lúc này bà Chóa đã dựng lại được túp lều khuất sau búi cây to giữa bãi sông. Có hai con rắn làm vui, túp kều như ấm cúng thêm lên. Ngày ngày mấy  mẹ con quấn quít. Đêm đêm hai con rắn lại nhảy vào ổ của mình mà ngủ. Lúc mới nở, bà Chóa để hai con ở cái nồi đất nhỏ. Chả mấy chốc hai con rắn lớn lên, cái nồi đất chật chội phải chuyển sang cái nồi dâu. Nồi dâu chật rắn lại chuyển  sông chum. Ở chum chật chuyển sang vại. Rồi khi vại chật, bà Chóa phải chuyển hai con rắn ra ở trong vũng nước giữa bãi sông. Vũng nước chật, hai con  rắn xin mẹ cho xuống sông vùng vẫy. Từ đó hai con rắn thoả sức bơi lặn, đùa rỡn làm nổi sóng một vùng sông nước. Có hôm ham chơi, hai con rắn quên cả về  với mẹ. Tối mịt, bà Chóa  phải đi dọc theo sông tìm con. Khi hai con rắn lên bờ, thấy mẹ buồn rầu, đều cúi đầu biết lỗi. Lần ấy, một con rắn cất tiếng người bảo bà Chóa: - Mẹ ơi, xuống sông chúng con đã gặp bố. Nay chúng con tập luyện đã khỏe, xin cùng mẹ khai phá bãi hoang. Bà Chóa nghe nói mừng lắm. Sáng hôm sau ba mẹ con dậy sớm, bắt đầu vào bãi hoang. Gặp cỏ thì cuốc, gặp cây thì chặt. Một con rắn đi thu cây cỏ vào một đống, một con rắn nổi lửa đốt cây cỏ, lấy tro rắc khắp bãi đất vừa mở. Lạ thay, sớm hôm sau không thấy cây cỏ nào mọc lại được nữa. Nhờ các con giúp sức, chả bao lâu bà Chóa đã vỡ xong cả bãi sông. Mấy mẹ con lại đi chặt giống dâu về trồng. Mùa xuân tới, hom dâu đua nhau nảy cành đâm nhánh xanh tốt um tùm. Ba mẹ con lại kéo nhau đi hái lá về chăn tằm, nuôi tằm chín làm kén kéo tơ. Rồi tơ mắc lên khung cửa. Một hôm bà Chóa có việc phải dậy từ tờ mờ đất, để chuẩn bị khuôn dệt. Mải làm, bà Chóa không để ý đến hai con rắn cũng dậy từ bao giờ. Mỗi bước bà đi, hai con rằn đều quấn theo. Vô tình bà Chóa dẫm mạnh vào đuôi một con rắn. Đau quá, con rắn quẫy mạnh làm khúc đuôi đứt rời. Con cộc đứt đuôi, nén đau, bảo: - Máu thịt cha mẹ cho ta, không thể phí. . . Nói rồi quay lại đớp khúc đuôi cụt ngậm vào miệng. Bà Chóa mắc xong cửa, nhưng lúng túng mãi chưa biết cách nào dệt được hàng tơ ngang vào. Con rắn Cộc lúc này mới nhả khúc đuôi của mình ra, đưa cho mẹ: - Mẹ lấy khúc đuôi này làm con thoi sẽ dệt được! Bà Chóa cầm mẩu đuôi đã cứng đanh như sừng, làm theo cách rắn Cộc bày cho, quả nhiên dệt được sợi ngang vừa đều vừa đẹp. Tấm lụa dệt xong bà Chóa cùng con mang ra giăng rộng phơi trên bờ sông. Dân làng đi làm sớm, trông thấy bảo nhau: - Sao mặt trời chưa lên, đã có mảng nắng vàng óng lạ quá thế kia! Người nọ ới người kia, cả lang lũ lượt kéo nhau tới xem. Lúc đó mới biết đây là tấm lụa của bà Chóa. Người khen tơ lụa mịn mát chưa từng thấy bao giờ. Người ao ước có được tấm lụa may quần áo đi dự hội xuân. Người thiết thực hơn thì ngỏ lời nhận lỗi với bà Chóa vì cách đối xử thậm tệ khi trước rồi xin bà vui lòng truyền nghề cho. . . Mọi người xúm xít vây quanh bà Chóa, khen ngợi ca tụng không hết lời. Đứng bên tấm lụa, bà Chóa chợt nhớ tới hai con rắn: - Công dệt tấm lụa này còn có hai con tôi. Cộc ơi, Dài ơi, các con đâu rồi? - Có chung con đâu mẹ ạ! Trả lời xong, Cộc và Dài đều trút bỏ lốt rắn, thành hai chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, tiến đến bên mẹ. Sau bao gian lao vất vả, ba mẹ con đã được thật sự đoàn tụ trong kiếp người. Từ đó, ba mẹ con ra sức truyền nghề. Ngày nay ở vùng Dũng Liệt, Yên Phong vẫn còn đền thờ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ba-choa" }
Sự tích hoa Ngọc Lan
Ngày xửa ngày xưa, tất cả các loài cây trên Trái Đất thuở ban đầu mới chỉ có lá mà chưa có hoa như bây giờ. Trời sai Thần Sắc Đẹp dùng bút vẽ muôn ngàn bông hoa khác nhau cho cây cối. Vâng mệnh trời, Thần Sắc Đẹp bay xuống trần gian, đi khắp nơi để vẽ hoa cho cây cối. Vẽ xong, Thần ngắm lại vẫn chưa hài lòng. Thần muốn tặng các hương thơm lên các loài hoa Thần vừa vẽ. Ngặt một nỗi Thần không đủ hương để chia đều cho tất cả các loài hoa. Thần quyết định sẽ tặng làn hương quý báu này cho loài hoa nào có tấm lòng tốt nhất, thơm thảo nhất. Thần hỏi Hoa Hồng: – Nếu có hương thơm thì nhà ngươi sẽ làm gì? – Cháu sẽ nhờ chị gió mang tặng cho tất cả. – Hoa Hồng trả lời. Thần Sắc Đẹp hài lòng, tặng ngay cho Hoa Hồng làn hương quý báu. Thần hỏi Hoa Sữa: – Nếu có hương thơm thì nhà ngươi sẽ làm gì? – Cháu sẽ tỏa ngát trong đêm để dù đêm tối đến đâu ai cũng nhận ra cháu. – Hoa Sữa trả lời. Câu trả lời này không làm Thần Sắc Đẹp hài lòng lắm. Nhưng rồi Thần cũng ban tặng làn hương thơm cho Hoa Sữa. Gặp hàng Râm Bụt đỏ chót, Thần lại hỏi: – Nếu có hương thơm thì nhà ngươi sẽ làm gì? Hoa Râm Bụt loe cái miệng trả lời: – Nếu có hương thơm thì ai cũng nể phục tôi. Cái đám hoa Dong Riềng kia không dám khoe sắc, đọ tài với tôi nữa. Thần Sắc Đẹp lắc đầu, buồn rầu bỏ đi. Đi mãi, ban tặng gần hết bình hương thì Thần gặp hoa Ngọc Lan: – Hỡi hoa Ngọc Lan bé nhỏ. Nếu ta ban cho nhà ngươi làn hương thơm còn lại kỳ diệu này thì nhà ngươi sẽ làm gì? Hoa Ngọc Lan suy nghĩ một hồi. Thần Sắc Đẹp nhắc lại câu hỏi đến lần thứ ba hoa Ngọc Lan mới ngập ngừng trả lời: – Cháu xin cảm ơn Thần Sắc Đẹp. Cháu thích lắm. Nhưng cháu không muốn nhận đâu. Thần Sắc Đẹp ngạc nhiên hỏi: – Loài hoa nào cũng muốn ta ban tặng. Tại sao nhà ngươi lại từ chối? – Cháu muốn Thần đem phần hương này đến ban tặng cho loài Hoa Cỏ. Cháu còn được ở trên cao. Hoa Cỏ đã xấu xí lại còn bị giày xéo hàng ngày. Hoa Cỏ khổ lắm… Nói đến đấy hoa Ngọc Lan òa khóc. Thần Sắc Đẹp vô cùng cảm động liền ban tặng cho hoa Ngọc Lan phần hương nhiều hơn các loài hoa khác. Chính vì có tấm lòng thơm thảo mà từ đó hoa Ngọc Lan lúc nào cũng thơm ngát hương hơn hẳn các loài hoa khác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-ngoc-lan" }
Sự tích cây Quất
Ngày xưa, có ba người bạn nhỏ chơi rất thân với nhau. Thư thích đọc sách ngâm thơ. Mộc ham trồng cây, hái cỏ. Quân mê xem đánh võ, múa đao. Quân vừa bị câm lại bị điếc. Muốn nói gì, Quân phải ra hiệu bằng tay chân. Tay chân của Quân nhanh nhẹn và như nói được thành lời. Xem người múa đao, đánh võ, Quân về nhà cũng tập đánh võ, múa đao. Có con dao nào trong nhà, Quân đều mang ra tập đâm, tập chém. Không con dao nào tránh khỏi bị sứt, bị gãy. Cha mẹ Quân liền giấu hết dao lớn, dao con, và chỉ đưa cho Quân một cành tre nhỏ làm roi. Ngày ngày, cha mẹ Quân đi lên rừng đẵn củi. Quân cầm roi, đánh trâu lên, kéo củi về nhà. Không có dao, Quân cầm roi múa, đánh suốt ngày không biết chán. Quân lớn nhanh hơn hai bạn, người to cao và khỏe mạnh ít ai bì. Quân cứ chập hai, ba, rồi bốn, năm cây mây lại cho vừa tay, cân sức để tập luyện. Quất Giỏi của Quân, mỗi lần múa lại vù vù như bão nổi. Gặp trăn dữ, Quân vụt một cái, trăn dữ đứt đôi; gặp hổ ác, Quân quật một roi, hổ ác toác đầu. Người quanh vùng thấy tài quất roi của Quân liền gọi là Quất Giỏi. Năm ấy, nước đang yên thì có tin giặc dữ kéo đến. Giặc đông tiến ào ào như sóng. Vũ khí chúng nhiều, nhìn tua tủa như rừng mía, rừng lau. Tên tướng giặc lại có phép tinh: dao chặt vào người, đứt chỗ nào thịt da lại liền ngay chỗ ấy. Vua cho quan quân đi tìm người tài giỏi để giết giặc. Quất Giỏi xin phép cha mẹ lên đường về kinh. Thư cho Quất Giỏi cây bút đẹp nhất, Mộc cho Quất Giỏi bị gạo ngon nhất. Thấy Quất Giỏi đến, vua liền hỏi: – Liệu ngươi có đủ sức để giết chết tên tướng giặc kia không? Tưởng vua hỏi cầm gì ở tay, Quất Giỏi liền giơ lên cây bút Thư đã cho mà dọc đường Quất Giỏi đã đánh rơi mất cái đầu. Quan liền tâu: – Anh ta quyết sẽ chặt bay đầu giặc. Vua lại hỏi: – Liệu đánh bao lâu thì trừ được giặc kia? Tưởng vua hỏi mang gì ở vai, Quất Giỏi liền mở bị ra. Quan liền tâu: – Anh ta hứa, ăn hết chừng ấy gạo thì giặc không còn! Vua hỏi thêm: – Dẹp xong giặc, ngươi muốn ta thưởng gì cho xứng đáng? Tưởng vua hỏi kiếm đâu, Quất Giỏi liền giơ ngang cây roi mây to lớn đang cầm ở tay. Ngọn cây roi chỉ vào một cây chanh đầy quả. Quan liền tâu: – Tâu bệ hạ, chắc anh ta biết bệ hạ có cây chanh quả bằng vàng nên có ý xin chăng? Vua gật đầu: – Được! Ta sẽ không tiếc gì với ngươi cả. Quất Giỏi ra hiệu, xin vua đúc ngay cho anh một cây roi sắt ba cạnh, nhỏ như cây mây, nhưng dài bằng cây tre. Quất Giỏi cầm roi sắt, cưỡi voi ra trận. Tên tướng giặc cũng vừa cưỡi voi, kéo quân đến sát kinh thành. Vừa thấy Quất Giỏi, tên tướng giặc đã cười khẩy vuốt râu: – Chú nhãi! Định cầm roi đến phủi bụi áo giáp ta đó à? Hắn chưa dứt lời, đường roi của Quất Giỏi đã rít lên nghe lạnh gáy. Một bên hông của tên giặc bị rách toác. Nhưng trong nháy mắt, thịt da hắn đã lại kín liền. Hắn lại vung cây đại đao sáng loáng to hơn cả cái mái chèo, chém xuống đầu Quất Giỏi. Quất Giỏi tránh được và cắn răng, lấy hết sức lực vút một đường roi thứ hai. Cây cối quanh đấy như bị bão lốc, rạp cả xuống như lạy quỳ. Tên tướng giặc cúi đầu tránh được đường roi, nhưng vừa ngẩng lên thì đã bị ngay một đường roi thứ ba nhanh hơn chớp tiện ngang cổ tên giặc. Đầu hắn rơi cạnh chân voi, lăn đi lông lốc. Vua mừng rỡ đón Quất Giỏi thắng trận trở về. Vua vừa hỏi: “Tướng giặc bay đầu thực rồi ư?” Quất Giỏi bỗng đã nghe được, nói được: – Tâu bệ hạ, giặc có phép tinh liền được da thịt, nhưng không liền được đầu! Vua liền thưởng cho Quất Giỏi cây chanh quý lóng lánh quả bằng vàng và bảo: – Muốn lấy vàng thì hái quả, muốn xua rét gọi nắng thì bẻ cành trồng xuống đất sâu! Quất Giỏi cảm tạ vua, mang cây quý về làng. Năm đó, trời trở rét dữ, Quất Giỏi về đến quê thì thấy mùa màng sắp hỏng mười mươi. Thư đang ốm vì chịu rét không nổi. Mộc đang âu sầu vì cây cối Mộc trồng đều sắp chết đến nơi. Không ngần ngại, Quất Giỏi liền bẻ từng cành cây chanh vàng cắm sâu xuống đất. Cái rét bỗng tan đi, mây mù biến mất. Sáng ra lại thấy mặt trời trở về rực rỡ, vui tươi. Người người khỏe lại. Cây cỏ đâm chồi, chim chóc líu lo. Bà con khắp nơi mừng rỡ, lạ lùng… Ba người bạn từ đó càng yêu thương nhau hơn. Thư học giỏi đi thi đỗ Trạng . Mộc gây được giống lúa hạt cứ to dần, cơm cứ dẻo thơm lên. Quất Giỏi xách roi đi giết thú dữ quanh vùng cho bà con yên ổn làm ăn. Ông cũng vui sướng. Từ đấy mỗi năm, mùa Đông, hễ cây chanh quả vàng đơm quả là nắng về. Xuân sang. Người ta lấy tên Quất Giỏi đặt cho cây. Cây Quất có bắt đầu từ đấy…
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-quat" }
Chàng Na Á
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ. Anh thẳng tính, không kiêng nể một ai, cũng chẳng sợ trời phật. Thấy anh thật thà, lại hay lam hay làm, người trong vùng ai cũng yêu mến. Cảm lòng tốt của anh, Táo Quân thường hóa thành một ông già làm bạn với anh. Còn anh cũng rất yêu quý Táo Quân. Táo Quân bảo gì, anh cũng nghe và thường tìm cách mách cho mọi người làm theo. Nhờ vậy, bà con trong vùng tránh được nhiều tai nạn. Trong vùng có một cô gái đẹp người, tốt nết vẫn thầm yêu anh. Một hôm, nhân lúc trò chuyện, Táo Quân ướm hỏi anh: – Na Á này, anh có muốn lấy vợ không? Na Á thành thật đáp: – Thưa cụ, cháu nghèo thế này thì ai lấy ạ! Táo Quân nói: – Thôi anh cứ muốn có vợ là được. Mọi việc cứ mặc lão lo liệu. Ít lâu sau cô gái nọ trở thành vợ Na Á. Hai vợ chồng sống với nhau rất hòa thuận, tiếng khen khắp gần xa. Cả hai vợ chồng Na Á đều chăm chỉ làm lụng, trong nhà dần dần có cái ăn cái để. Mỗi lần ai khen Na Á tốt số thì anh thường bảo: “Số mệnh gì đâu. Âu cũng là nhờ hai bàn tay”. Không ngờ câu nói ấy của Na Á lọt đến tai Ngọc Hoàng. Đã từ lâu Ngọc Hoàng ghét Na Á vì tội bất kính, nay lại nghe anh coi thường cả số mệnh thì nổi giận. Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lôi lập tức xuống đánh Na Á. Lệ thường hễ nhà nào sắp xảy ra chuyện gì thì Táo Quân được biết trước. Táo Quân tìm Na Á, bảo: – Này Na Á! Tối nay Thiên Lôi xuống đánh anh đấy! Na Á hỏi: – Biết lúc nào Thiên Lôi xuống, hở cụ? Táo Quân bảo: – Tối nay, khi nào có mưa to gió lớn, sấm chớp nổi lên là lúc Thiên Lôi xuống đấy! Thiên Lôi xuống thế nào cũng phải đứng trên nóc nhà. Vậy anh có cách gì làm cho Thiên Lôi trượt chân ngã thì sẽ không việc gì. Na Á suy nghĩ mãi. Cuối cùng anh nghĩ ra một kế. Anh lấy lá chuối lợp lên mái nhà. Anh lại hái thật nhiều rau đay và rau mồng tơi giã nhỏ, nấu thành một thứ hồ sền sệt, trơn nhầy nhẫy. Anh đem phết thứ hồ ấy lên lá chuối trên nóc nhà. Tối đến, anh cầm sẵn đòn ống, ngồi ở góc nhà đợi Thiên Lôi. Trời mỗi lúc một tối. Đến nửa đêm thì mưa to, gió lớn nổi lên. Sấm chớp nổ vang trời. Thiên Lôi hung hăng rẽ mây bay xuống. Nhà Na Á đây rồi! Thiên Lôi nhảy thẳng xuống nóc nhà để đánh Na Á. Huỵch! Thiên Lôi vừa đặt chân xuống nóc nhà thì giẫm phải lá chuối phết hồ, bị trượt chân, ngã lăn quay xuống sân, đánh rơi cả lưỡi tầm sét. Thiên Lôi chưa kịp hoàn hồn thì bỗng: “Phịch! Phịch! Phịch!” và Thiên Lôi bị đòn ống nện vào lưng! Hắn kêu: “Cứu với! Cứu với!”. Tiếng Thiên Lôi kêu cứu hỗn loạn trong tiếng sấm ầm ỳ… Vất vả lắm Thiên Lôi mới thoát được trận đòn, tơi tả bay về trời. Nghe tiếng sấm sét, Ngọc Hoàng khấp khởi mừng thầm, tưởng Thiên Lôi đã đánh chết Na Á. Giữa lúc đó, Thiên Lôi mặt mày sưng húp, áo quần rách bươm, bước vào. Thiên Lôi kể hết mọi nỗi cho Ngọc Hoàng nghe. Ngọc Hoàng vô cùng kinh sợ, tức tốc ra lệnh cho Diêm Vương phải trừ ngay Na Á. Diêm Vương vốn căm ghét Na Á từ lâu, bây giờ được lệnh Ngọc Hoàng, Diêm Vương lấy làm mừng lắm. Diêm vương vội hội họp các tướng độc ác nhất để bàn mưu giết Na Á. Quận Rết là viên tướng giỏi nhất của Diêm Vương tình nguyện một mình đi trị tội Na Á. Rết vốn thân hình nhỏ bé, dễ luồn lỏi. Rết leo giường, chui vào gối, định ban đêm sẽ bò ra cắn cổ Na Á. Táo Quân dò biết việc này vội mách cho Na Á biết, Na Á mỉm cười bảo ông vua bếp: – Cụ đừng lo! Cháu đã có cách. Tối đến, trước khi đi ngủ, anh đem nhúng chiếc gối vào nước sôi. Thế là quận Rết chết chín nhừ. Diêm Vương đợi mãi không thấy Rết về, lấy làm lo, liền sai quận Rắn lên hợp sức với quận Rết. Rắn vâng lệnh đi ngay. Rắn ta chui vào đống rạ đầu hè, chờ ban đêm sẽ bò ra cắn chết Na Á. Táo Quân lại tin cho Na Á biết. Ông bảo: – Quận Rắn độc lắm đấy, anh phải cẩn thận mới được! Na Á cười bảo: – Cụ đừng lo! Cháu đã có cách. Tối đến, Na Á vác gậy ra đống rạ. Quận Rắn đang rúc trong đống rạ ngủ say thì bị Na Á đập cho mấy gậy giập đầu. Thấy hai tướng giỏi đi mất không trở về, Diêm Vương lại càng lo, sai quận Cú là viên tướng miệng lưỡi độc địa đi dò la tin tức. Quận Cú vâng lệnh đi ngay. Cú đi một lúc, vội quay về báo với Diêm Vương: “Hai tướng đã bị Na Á giết cả”. Diêm Vương kinh sợ, liền sai Cú đi báo thù. Cú bay đến nhà Na Á. Lúc này, Táo Quân và Na Á đi vắng. Cú bay thẳng vào cửa sổ, thấy vợ Na Á đang nằm ngủ trên giường. Cú vươn cổ nhìn vào và kêu luôn ba tiếng. Vợ Na Á bỗng giật mình, rồi tắt thở. Giết xong người phụ nữ, Cú bay vào rừng xanh, đợi dịp trở lại giết luôn cả người chồng là Na Á. Đi làm về, thấy vợ mình bỗng dưng lăn ra chết, Na Á thương xót vô cùng, vội chạy đi hỏi Táo Quân. Táo Quân bảo: – Việc này là do quận Cú đây! Anh phải bắt cho được Cú thì mới có cách cứu vợ anh. Na Á suy nghĩ rồi nói: – Cháu có kế này nhưng phải nhờ tay cụ. Chiều nay, mời cụ trở lại đây. Na Á chặt tre đan một cái lồng hình cái nơm nhưng có đáy. Anh đem quét sơn xanh đỏ cái lồng, trông rất đẹp. Anh đưa lồng cho Táo Quân và bảo: – Quận Cú là giống chim, ắt thích ở lồng. Cụ giả đem biếu hắn cái lồng này. Chờ khi hắn chui vào thì cụ đóng ngay cửa lại, rồi xách lồng về đây cho cháu. Táo Quân cầm lồng đi thẳng đến rừng xanh, núi đỏ. Quả như lời Na Á nói. Thấy Táo Quân xách lồng son đến, quận Cú mừng khấp khởi. Qua vài câu chuyện, Cú ngỏ ý xin cái lồng. Táo Quân bảo: – Tôi định đem đến biếu anh. Nhưng không hiểu anh có ưng ý không. Anh thử chui vào xem có vừa không đã. Cú ta tối mắt về cái lồng sơn xanh đỏ, liền chui tọt vào. Táo Quân đóng sập cửa lại. Cú ngơ ngác bảo: – Ông định nhốt tôi lại à? Táo Quân hỏi: – Mày dùng cách gì mà giết được vợ Na Á? Quận Cú đành phải thú tội: – Tôi chỉ cần kêu ba tiếng thì có người phải chết. Táo Quân lại hỏi: – Tại sao mày chỉ kêu có ba tiếng mà chết người được? Quận Cú nói: – Việc này không thể nói cho ngài biết được. Táo Quân tức giận bảo: – Mày không nói thì tao sẽ giao mày cho Na Á giết thịt. Vừa nói Táo Quân vừa lắc mạnh cái lồng làm cho Cú tối tăm cả mặt mũi. Cú đành nói thật: – Tôi có hai lưỡi. Một lưỡi đen kêu lên thì chết người. Còn kêu bằng lưỡi đỏ thì người chết sẽ sống lại. Táo Quân bảo: – Cho tao xem cái lưỡi đen của mày! Cú thè lưỡi đen ra cho Táo Quân xem. Táo quân rút dao cắt phăng cái lưỡi độc ấy đi. Quận Cú mất lưỡi độc rồi, Táo Quân xách ngay lồng Cú về cho Na Á. Na Á xách dao đến, bảo Cú: – Kêu ba tiếng ngay, nếu không tao sẽ giết chết! Cú buộc lòng phải kêu lên ba tiếng. Cú vừa dứt tiếng kêu thì vợ Na Á từ từ mở mắt. Chị sống lại, khỏe mạnh như xưa. Xong việc, Na Á mở cửa lồng cho Cú bay ra. Cú vội bay về báo cho Diêm Vương biết mọi việc xảy ra. Diêm Vương run sợ, vội làm sớ tâu lên Ngọc Hoàng. Được tin, Ngọc Hoàng lo toát mồ hôi, liền xuống lệnh cho Long Vương đem tất cả các loài thủy tộc dâng nước lên thật mau để dìm chết Na Á. Táo Quân vội báo tin dữ này cho Na Á biết. Cụ bảo Na Á: – Phen này thì nguy mất, anh ạ. Na Á ung dung nói: – Cụ đừng lo! Nước dâng lên thì cháu sẽ lên đánh trời. Thế rồi Na Á bảo dân làng mỗi người đóng một chiếc bè lớn, sắm sửa thật nhiều lương khô, trên bè cắm thật nhiều bông lau làm cờ. Khi nào nước lụt thì kéo nhau lên bè. Hễ nước dâng lên thì cứ đánh trống, reo hò thật khỏe vào. Mọi người nghe theo lời Na Á. Anh cũng tự mình đóng một chiếc bè. Bè làm vừa xong thì nước lụt tràn đến. Na Á và dân làng cứ mỗi nhà một bè, sẵn sàng chống lụt. Nước càng lên. Na Á càng thúc trống, bảo mọi người hò hét cho thật ầm ĩ. Nước lên mỗi lúc một cao, ngập cả ruộng vườn đồi núi. Trâu bò, gà vịt đều bị cuốn theo dòng nước. Na Á và mọi người không chút sợ hãi, vừa đánh trống vừa reo hò. Mưa càng to, gió càng lớn thì những bông lau trên các bè càng lung lay mạnh. Na Á thét lớn: “Nước lên nữa đi! Mau mau đưa ta đến cổng trời để ta phá Thiên đình”. Nước dâng lên gần đến nhà trời. Ngọc Hoàng nghe tiếng hò hét ầm ĩ, liền sai một tướng nhà trời ra xem. Viên tướng đi một lúc, vội chạy về báo: – Nguy to! Nguy to! Na Á kéo quân định phá Thiên đình! Ngọc Hoàng hoảng sợ, vội ra lệnh cho Long Vương lập tức rút nước xuống. Ngọc Hoàng lại tức tốc triệu các thiên thần về trời, mặc cho Na Á muốn làm gì thì làm ở trần gian. Từ đó, hễ khi nào lau trổ bông thì trời không còn sấm sét nữa, mực nước các sông cũng đều rút thấp. Người già bảo đó là vì Ngọc Hoàng, Thiên Lôi và Long Vương sợ Na Á lại kéo quân lên phá Thiên đình.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-na-a" }
Người con gái Thần Rắn
Về phía Nam suối Ngọc có cái miếu cổ, hư sập rồi không ai chữa lại. Dựa bên miếu có cây đào to lớn, cành lá um tùm. Trong miếu có hang, hang sâu thăm thẳm. Dưới hang có một con rắn to lớn không biết ngần nào. Rắn sống lâu năm, linh thiêng hóa hình người được. Cây đào bên miếu sống cũng lâu và cũng thiêng. Mỗi năm đến cuối mùa đông, bắt đầu mùa xuân, khi hoa đào đua nở, thì trong những cành sây bông hiện ra một giai nhân đẹp tươi như hoa đào; cứ mỗi đêm ca hát trước miếu. Mãn mùa xuân, lúc hoa tàn, cánh hoa đào rơi trước gió, người ấy biến mất, chờ mùa xuân sang năm lại ra. Chốn ấy hoang vu, không ai lai vãng. Có người bảo đấy là ổ trăn, vì họ thấy mang máng nhiều sọ người nằm trong bụi rậm. Có hôm mưa giông người ta gặp một con rắn lớn dị thường bò trước miếu, hoặc khoanh tròn dưới gốc đào, lúc tạnh thì biến mất. Từ đấy họ sợ thêm, và lần lần quanh miếu thành một khu rừng nhỏ, không dấu chân người. Bấy giờ cuối mùa đông, cây cỏ đâm chồi, trên nhành đào lấm tấm lộc non. Khi xuân đến, hoa điểm hồng mơn mởn. Một đêm nồng, giai nhân hiện ra tha thướt. Nàng cất tiếng hát. Rắn thần đang yên giấc thức dậy lắng nghe. Đêm Trong, ngàn sao lóng lánh, từng trận gió thoảng rải hương ngào ngạt. Thần rắn nhìn giai nhân nhởn nhơ bên những cành đào, lòng thần hồi hộp. Rồi uốn thân mình, thần hoá một trang thanh niên tuấn tú. Chàng là một tài tử, tiếng sáo véo von, nhịp nhàng với lời ca thanh tao của giai nhân… Từ đó hai người quen biết nhau, thân mật nhau rồi trở nên vợ chồng. Mùa xuân năm ấy hoa đào lộng lẫy hơn các hôm khác. Đêm đến, trong không uyển chuyển tiếng yêu đương của chàng và nàng. Những chim én đưa thoi, dệt thời gian lẹ làng và thấm thoắt. Sang hè, cuộc ái ân tạm ngừng. Giai nhân tuy buồn về nỗi tạm biệt chàng, nhưng vui tươi bày tỏ cùng chàng một mầm hy vọng. Rắn thần dẫu bịn rịn khúc chia ly, nhưng khấp khởi mừng thầm vì ái ân đã kết quả. Rồi một tia nắng nồng, một ngày nồng nực làm héo những đáo hoa cuối mùa. Luồng gió nồm thoảng nhẹ, rải trên bờ cỏ úa vàng bao cành hoa đẹp. Giai nhân từ biệt thần rắn và biến theo vẻ đẹp cây đào. Mùa xuân năm sau, hoa đào nở rất ít nhưng màu sắc đậm đà. Thần rắn trông chờ giai nhân, và, một tối đầu mùa xuân nàng trở về. Sắc nàng kém tươi nhưng thâm thuý. Nàng sinh một gái, xinh đẹp hồng hào. Thần rắn vui mừng khôn xiết, nhưng một cái buồn tự đâu xâm về chiếm lấy tâm linh chàng. Giữa mùa xuân, trong lúc cây cỏ xanh tươi, trăm hoa đến lúc dậy thì dưới ánh vàng ấm áp, giai nhân than thở cùng chàng: – Thiếp không dè ái ân của đôi ta đến đây kết thúc. Thiếp không còn sống nữa để cùng chàng sum họp và nuôi con, ái tình đã đem cho thiếp tất cả nhan sắc và đẹp đẽ của sự sống. Ăn ở với chàng được một mụn con, đó là kỷ niệm êm đềm trong đời hai ta. Chàng sống lâu vì chàng là sức mạnh. Chàng sẽ ở lại săn sóc con thơ. Thiếp là sự đẹp rất mong manh, ái tình đã làm cho thiếp thêm xuân nhưng cũng làm cho thiếp chóng tàn. Bây giờ thiếp chết, nhưng thiếp còn để dấu vết nhan sắc lại cho con. Chàng nuôi con hết lòng, đó cũng như chàng tỏ tình còn mến thiếp. Nhưng thiếp xin nhờ chàng một điều: lúc con khôn lớn, chàng nên căn dặn nó, đừng lâm vào vòng ái ân mà kiếp sống phải ngắn lại. Nếu nó muốn sống đời đời kiếp kiếp, trẻ mãi, vui tươi mãi, thì phải xa lánh ái tình. Nói xong, nàng khóc rất lâu, trao con cho thần rồi biến mất. Hôm sau, những hoa đào tàn rụng. Cây đào khô héo lần rồi chết. Thần rắn chắt chiu nuôi con thơ, dấu tích của người yêu quý. Ngày ngày chàng vào rừng xa tìm sữa đem về. Ngày qua, nàng lớn khôn; đúng mười sáu năm thì nàng đẹp đẽ và thông minh hơn loài người. Nhan sắc nàng chính là nhan sắc của mẹ ngày xưa; nhưng trong nhan sắc ấy ẩn vẻ huyền bí của cha. Thông minh của nàng là thông minh của loài Rắn. Đôi mắt của nàng trong như trời quang không mây. Cái nhìn nàng chính cái nhìn thôi miên thu cả tâm hồn người và vật của tổ tiên loài rắn để lại. Miệng nàng cười xinh đẹp như hoa đào. Nàng đi tha thướt, yểu điệu, uyển chuyển. Tất cả tính nết và sắc đẹp của cha mẹ, nàng đều thọ lãnh. Thần rắn thấy con lớn khôn và xinh đẹp thì lo âu. Ngày ngày dặn con chơi quanh nơi miếu, không được đi xa. Thần lo sợ nàng bị ái tình quyến rũ. Thần chưa dám ngỏ cái sợ ấy cho con biết, cùng nói lại lời trối của giai nhân cho con nghe. Thần cũng không nói câu nào với con mà có lẫn hai tiếng ái tình vào, vì thần biết hai tiếng ấy có sức mạnh vô ngần. Ngày ngày nàng quanh quẩn bên miếu, tâm hồn ngây thơ và chất phác. Hàng ngày, thần rắn ra sức tìm thức ăn về cho con. Cực nhọc, nhưng thần vẫn sung sướng vì thấy con chóng lớn và khôn ngoan. Nhiều lần suýt chết với thú dữ trong rừng, thần trở về buồn rầu, gương mặt còn in nét sợ. Nhưng khi thấy nàng chạy đến mừng rỡ, nói những lời ngây thơ, thần bỗng quên tất cả ưu tư, trở lại vui vẻ, nô đùa với con. Một buổi chiều, trời mưa tầm tã, thần quảy thức ăn về xong, hồi tưởng đến ngày xưa… Thuở ấy, thần hống hách oai linh, không ai dám phạm đến tên tuổi. Thú dữ, người vật thảy đều xa lánh. Thần rất khoẻ mạnh, không biết mệt nhọc là gì. Nhưng từ lúc yêu cho đến bấy giờ, linh tính phai dần, để san sẻ cho con. Ngày trước, thần muốn đi đâu, chỉ uốn mình hoá gió bay đi. Bây giờ phép ấy không linh nghiệm. Thần đã mất thiêng. Nhưng mất phép màu nào, thì con thần được thêm một đức tính. Cảm nhận bấy nhiêu, thần tự an ủi: Dẫu sao, ta sẽ còn sống mãi mãi, bởi đứa con ta? Cứ như thế mà ngày tháng trôi đi. Rồi một hôm, thần mệt nhọc, biết mình sắp chết. Thần gọi con lại bên mình trối rằng: – Con chắc không biết ta là ai và mẹ con ở đâu. Ta xưa là rắn, rất công phu luyện tính mình. Trải mấy trăm năm lao khổ, tính mới được linh và hoá được làm người. Ta phải trau dồi trong mấy trăm năm lòng ta trong sạch, trí ta sáng suốt để hơn cả mọi người và thành thần. Ta ước ao sống đời đời kiếp kiếp dung dưỡng tính tình, nhưng vì ta yêu mà sự sống phải bớt lại để trao sự sống cho con. Mẹ con trước kia là cây đào, cùng trải mấy trăm năm chất chứa tinh hoa, gộp cả nhan sắc từ đời nào mới hoá hình người được. Rồi cũng vì yêu, mà đem cả vẻ đẹp san lại cho con để phải bỏ mình. Chúng ta đều vì yêu mà chết, vì con mà hy sinh tất cả thông minh, tất cả vẻ đẹp của chúng ta. Ngày ấy, lúc mẹ con sắp mất, có lời trối này mà cũng là lời trối của ta. Con là kết quả ái tình của một thần linh và một nhan sắc tuyệt trần. Con là một giai nhân của những giai nhân trong đời, một thần linh trong những thần linh. Đời con sẽ là đời của mẹ con và của ta hợp lại. Nhưng nếu con muốn giữ vẹn toàn đức tính, con phải xa lánh tình yêu đi; gương mẹ con ngày trước và của ta bây giờ đủ cho con thấy xa…? Nói xong, thần rắn thấy lòng bứt rứt, giãy giụa. Một lát sau lăn lộn dữ dội, biến hình rắn hổ mang mà chết… Nàng thương tiếc khôn xiết, đem thây cha chôn cạnh gốc đào. Từ ấy nàng ghê tởm ái tình. Nàng không biết là gì, nhưng cũng nguyện trước mồ cha mẹ, hễ gặp ái tình chốn nào sẽ tiêu diệt đi. Nhan sắc và thông minh của nàng quyến rũ các loài vật. Những con ong về đóng ổ nhả mật cho nàng, những chim trĩ, gà rừng đẻ trứng và để nàng bắt làm thịt. Sự sinh sống như vậy mà dễ dàng, sung sướng. Ở mãi một nơi, nàng thấy bực dọc muốn đi xa, tìm cảnh mới, muôn dịp tìm ái tình để trả thù cho cha mẹ, nàng hoá một bà cụ già, đầu tóc bạc phơ xuống kinh đô, hỏi thăm ái tình ở đâu. Những người nghe hỏi đều mỉm cười chế nhạo. Họ bảo nhau: – Đã già từng ấy tuổi mà còn đi tìm thú nguyệt hoa. Nàng thấy họ chế nhạo mình, tưởng rằng ái tình không có đây, và mình tìm một việc không có cho nên họ cười. Nàng đi nơi khác, thay hình một trang thanh niên tuấn tú. Gặp đoàn thiếu nữ đang chuyện trò với nhau, vui cười thích chí, nàng đến gần hỏi có biết ái tình không. Bọn ấy cả thẹn, đôi má mỗi người đều ửng hồng, họ nhìn nhau e lệ, rồi tản lạc bỏ nàng đứng đấy. Hoài công tìm kiếm, nàng trở lại chốn cũ, và nản chí tưởng không cách gì gặp được ái tình. Một buổi chiều, nàng ra bờ suối ngọc, ánh chiều rọi trên dòng, gió mát từng chặp thoảng qua, nàng nghe lòng lâng lâng bát ngát. Một đôi chim song song, bay về phương xa, tận chân trời, rồi khuất trong làn sương; nàng cảm thấy buồn vơ vẩn, một thứ buồn nhẹ nhàng và vô cớ, nương theo gió theo mây, để tràn thấm vào tâm tư nàng. Từ đấy không đi đâu nữa, chiều đến, nàng chỉ ra nhìn làn nước suối để lắng nghe cái cảm giác ấy, như ru như cám dỗ. Nàng không biết cảm giác ấy là gì, nàng thấy ngày một lẻ loi, và lòng mang mang khát khao thèm thuồng. Đôi khi nàng hổ thẹn với nàng, nhưng có lúc, dường táo bạo hơn nữa, nàng trông chờ…, nhưng nàng cũng không rõ mình trông chờ sự gì nữa. Bỗng một buổi chiều gần tàn. Vòm trời phương Tây trong như nước biếc, tha thướt một vài áng mây hồng. Mặt trời đã khuất lâu rồi, nhưng chót vót mấy ngọn thông cao, còn nhuộm một ít điểm vàng của ngày sắp tắt. Gió thổi, cành lá đong đưa. Nàng nhìn màu chiều biến đổi trên dòng như mọi ngày. Bỗng nàng e thẹn tránh núp vào một khóm lau để xem. Một thanh niên dắt một bầy trâu xuống bờ bên kia uống nước. Thanh niên an nhiên cởi trần, tắm vào dòng mát. Chàng lội bơi nô đùa, tưởng chốn ấy vắng vẻ, không còn giữ gìn lo sợ điều gì. Nàng nghe má nóng bừng, muốn quay đi. Nhưng chàng trai có một hấp lực gì, khiến nàng đứng yên một chỗ để trộm nhìn chàng. Tắm xong, chàng dắt trâu đi. Cảnh đẹp, chàng ngồi trên lưng trâu lấy tiêu ra thổi. Tiếng tiêu uyển chuyển trong không khí tịch mịch. Nàng nhìn chàng đến lúc khuất đằng sau những nẻo quanh, nhưng thanh âm vẫn trầm bổng du dương trong không khí, lòng đê mê phập phồng, nàng khóc lúc nào cũng không hay. Từ đó, như hẹn với dòng nước, cứ chiều đến, chàng trai ấy trở lại suối tắm mát. Khi trời còn sớm, chàng ngồi trên bờ xanh lấy tiêu ra thổi. Ở bên này, nàng vẫn lắng nghe cái âm thanh kỳ diệu ấy như cám dỗ nàng, và gợi cho nàng một cảm giác say mê. Thế rồi một hôm nàng gặp chàng trai, vì nàng cảm thấy tiếng tiêu của chàng mỗi ngày thêm thiết tha, quyến luyến. Nàng không cần giấu thân thể nàng được nữa. Hai người yêu nhau, nhưng nàng vẫn ngây thơ, không biết mình đang yêu, chỉ cảm nhận mơ hồ đang chiều theo một sự kích thích nào của cơ thể. Nàng rất ưa cái sức khoẻ cuồng bạo của Chàng, cái luồng điện ngây ngất của chàng truyền sang người nàng. Những đêm trăng sáng, trong như ngọc, chàng lại với nàng, thổi tiêu cho nàng nghe, rồi cả hai mê nhau đắm đuối. Một đêm như thế, nàng nằm trong lòng thanh niên, nhìn chàng và hỏi: – Sao chàng mạnh khoẻ vậy? Chàng thanh niên cười đùa mà đáp: – Ta mạnh khoẻ vì muốn sống lâu dài. Rồi chàng khẽ nâng mặt nàng lên, nhìn đôi mắt trong. Nàng lim dim đê mê chờ đợi… Lúc tỉnh, chàng còn thiêm thiếp ngủ, nàng mệt nhọc thấy mình oán hận sự gì. Nhìn lại chàng, nàng đột nhiên nhớ lời của chàng đã thốt trong cơn âu yếm, và liên tưởng đến lời trối của cha; chàng muốn sống lâu dài, cha mẹ nàng cũng muốn sống lâu dài. Nàng nghe mình yếu ớt vì mệt mỏi; cái yếu ớt do sức mạnh của chàng gây ra. Nàng bỗng sợ hãi cái sức cuồng bạo ấy đã làm giảm sức nàng. Nàng nghĩ đến cái họa ái tình, và cho cái sức mạnh của chàng là ái tình đáng ghê kia vậy. Một áng mây qua, làm mờ ánh sáng trăng. Bóng tối trùm lên gương mặt thanh niên. Một hình ảnh tiều tuỵ hiện ra trước mắt, nàng sực nhớ đến cái chết của cha. Nàng ngồi phắt dậy, lần tay vào mái tóc lấy một mũi kim dài và sắc của cha nàng để lại, chích sâu vào ngực của chàng. Chàng thanh niên rú lên: – Nàng làm gì thế? – Thiếp giết ái tình. Mũi kim truyền nọc độc của loài rắn vào mạch máu. Mắt thanh niên hoa lên, cả người chàng mềm nhũn. Rất khẽ, chàng bảo nàng trong một hơi thở: – Không, nàng giết ta chớ không giết được ái tình. Lòng nàng không yên. Chiều chiều nàng vẫn ra bờ suối trông chàng, vì nàng không tin chàng đã chết. Nàng chỉ giết ái tình. Trong gió chiều, nàng còn vẳng nghe tiếng sáo của chàng. Lắm lúc ở bên này nhìn sang bờ bên kia, nàng mơ thấy chàng cởi áo, rồi nhảy vào dòng suối. Làn nước nổi sóng và bọt trắng tung toé trên dòng. Nhưng, đó chỉ là bông lau bị gió hốt rải trên mặt nước. Nàng trở lại chốn đêm xưa, một mùi hôi tanh xông lên. Thây chàng thanh niên túa ra những đường nước vàng mà từng đám ruồi đáp xuống. Đôi mắt chàng chỉ là hai hố sâu, lúc nhúc những ký sinh trùng. Nàng quay đi, ghê tởm cái chết của ái tình. Nhưng còn chàng thanh niên xinh đẹp kia, chàng không thể chết, vì chàng không phải ái tình. Trong gió chiều, nàng còn vẳng nghe tiếng sáo của chàng. Chàng trai ấy không bao giờ trở lại, và nàng cũng không thôi trông mong. Một hôm, ngồi nhìn dòng nước, hồi tưởng chuyện đêm xưa, nàng bỗng nghe ngóng. Một tiếng người êm ả rót vào tai nàng: – Không, nàng giết ta chớ không giết được ái tình. Nàng run lên sợ hãi. Một luồng gió nhẹ lướt qua, khóm lau nghiêng đầu về một phía. Nàng bịt tai chạy trốn để không nghe lời kỳ dị ấy. Nàng hãi hùng, tưởng tượng ái tình còn đeo đuổi, hãm hại nàng. Nàng bỏ chốn cũ, lìa mồ mả đi lang thang. Nàng tìm nơi nào có thể không còn nghe tiếng kêu gọi tha thiết ấy. Nàng tìm khắp nơi, và lúc đi tìm, nàng nhận thấy người nàng đổi khác. Dạ dưới của nàng mỗi ngày một lớn thêm. Có người bảo nàng có thai, nàng lắc đầu không hiểu, và không biết họ bảo gì. Nàng cảm nhận mỗi ngày, đức tính của cha mẹ để lại kém sút lần, và không rõ những đức tính ấy san sẻ về đâu. Nàng bớt nhanh nhẹn, bớt vui tươi như ngày còn nhỏ, sức mạnh kém thuở nàng gặp chàng thanh niên. Một hôm, uống nước trên sông, nước trong in bóng nàng. Nàng bỗng rú lên ngạc nhiên. Nàng không còn vẻ đẹp lộng lẫy ngày trước. Dòng nước lặng lẽ bảo nàng: đôi má hóp, đôi mắt lờ đờ, đôi môi lợt lạt. Nàng ôm mặt khóc rưng rức như trẻ con. … Mấy tháng sau, một hôm nhớ cha mẹ, nàng trở về thăm mả cũ. Cảnh điêu tàn. Nàng bùi ngùi nhớ lời dặn của cha mẹ ngày xưa. Nàng lưỡng lự không biết có theo lời dạy của cha mẹ nàng không; sau rồi nàng quả quyết rằng có, và không bao giờ nàng bị ái tình quyến rũ. Hơn nữa, nàng đã giết ái tình và rửa thù cho cha mẹ. Đêm ấy, nàng thấy trong người đau tức, không sao chịu nổi. Nàng rên xiết lăn lộn. Đến khuya, trăng mờ, hệt như đêm xưa, nàng khát nước, ôm bụng lần ra bờ suối. Uống xong, mệt lả người, nàng gục xuống bờ cỏ, rồi ngất đi. Sáng hôm sau, một lữ khách qua đấy nghe tiếng trẻ khóc, bèn vạch lau đi tìm. Trên nỗng cỏ, một đứa bé hồng hào vừa lọt lòng, nằm khóc vì khát sữa. Cạnh đứa nhỏ, một con rắn – lưng điểm những chấm hồng xa trông như lấm tấm Hoa đào – nằm khoanh thiêm thiếp. Nơi bụng con rắn, đứt một lằn dài. Lữ khách sợ hãi, cầm đòn đập chết con vật, rồi vội vã bồng đứa bé đi.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-con-gai-than-ran" }
Sự tích chim đa đa
Ngày xưa có một em bé mồ côi cha từ hồi còn nhỏ. Người mẹ sau một thời gian tang chế cũng đi lấy chồng. Vì bà con thân thích nội ngoại không còn ai nên nó phải theo mẹ về ở với bố ghẻ. Bố ghẻ tính rất vũ phu, coi cả hai mẹ con  như kẻ ăn đứa ở. Nhất là thằng bé chưa biết làm gì cả, nên hắn lại càng ghét dữ. Nhiều lúc có việc trái ý, hắn đánh thằng bé thâm tím cả mình mẩy. Nhà hắn cũng không có gì. Hắn thường sinh nhai bằng cách lên rừng đốn củi. Người đàn bà vừa về với hắn được một ngày đã phải gánh củi của chồng đi bán ở chợ. Không may, năm đó trời làm mất mùa. Miếng ăn kiếm rất chật vật. Củi rẻ như bèo. Trước kia một gánh củi nuôi sống gia đình được mấy ngày thì bây giờ không đủ nuôi được một bữa. Thằng bé chưa làm được nghề ngỗng gì cả, trở nên một cái gai trước mắt bố ghẻ. - Thằng bé này chỉ ăn hại đái nát. Chỉ làm cho ta khó khăn thêm. Hắn bảo vợ thế và khuyên vợ đem con đi bán cho kẻ khác nuôi. Nhưng người đàn bà nhất quyết không chịu. Thà là cả hai mẹ con cùng chết chứ bà không đời nào chịu lìa con. Người bố ghẻ bèn có ý định muốn giết chết con riêng của vợ. Mạng người lúc này nhỏ bằng cái tơ cái tóc. Huống chi đối với hắn, hắn chẳng coi ra gì. Nạn đói coi chừng đang kéo dài và ngày càng dữ dội. Một gánh củi lớn bây giờ không đổi nổi một bát gạo. Hôm đó, chờ lúc vợ đi chợ sớm, hắn đưa thằng bé lên rừng. Hắn rủ: - Mày có muốn trèo ổi và bắt bướm không? Trên ấy thì tha hồ. Thằng bé nghe thế lấy làm thích, cố xin đi theo cho được. Cảnh rừng có nhiều cái lạ làm cho thằng bé lon ton chạy theo bố ghẻ không biết mệt. Người đàn ông đưa nó vào rừng sâu. Khi đến chỗ mấy cây ổi rừng, hắn bảo thằng bé: - Ổi đấy. Và có bát cơm đây. Chốc nữa tao lại tìm. Thế rồi hắn bỏ mặc thằng bé, lẳng lặng lui ra, đến một chỗ khác kiếm củi. Nhưng buổi chiều, khi bước chân vào nhà hắn lấy làm ngạc nhiên thấy thằng bé đã về trước hắn rồi. Số là thằng bé trong khi đang bơ vơ giữa rừng rậm thì may mắn gặp một bọn đi đào khoai mài về ngang. Thế là họ đưa nó về. Nhờ có bát cơm, nó vẫn đủ sức đi được đến nhà. Nghe đứa bé kể, hắn bực mình vô hạn. Hắn vờ mắng: - Chỉ vì mày, làm tao tìm mãi không được! Một lần khác hắn lại dỗ được đứa bé đi theo lên rừng. Lần này hắn cố tâm đưa nó vào thật sâu, đến những nơi chưa ai dám tìm vào hái củi bao giờ. Khi trốn khỏi thằng bé, hắn nghĩ bụng: - "Không chết vì thú dữ thì cũng chết vì lạc, không chết vì lạc thì cũng chết đói mà thôi". Mãi đến chiều tối vẫn không thấy bố ghẻ trở lại, thằng bé khóc lóc, kêu gào nhưng chỉ có tiếng vọng của núi rừng trả lời nó thôi. Nó cuống cuồng chạy tìm khắp mọi ngả nhưng không hề thấy một bóng người. Khi đã mệt lử và đói bụng, nó tìm đến chỗ bát cơm của bố ghẻ để lại thì không ngờ đấy là một bát cát trên có rắc một lớp cơm với một quả cà để đánh lừa. Thằng bé nhặt những hạt cơm phủi cát bỏ vào miệng. Cuối cùng đói quá, nó cầm lấy bát chạy khắp nơi và kêu lên: - "Bố ghẻ ơi! Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!". Nhưng tiếng kêu gào của nó chỉ làm cho một vài con chim rừng giật mình mà thôi. Rồi thằng bé chết, hóa thành chim đa đa, luôn luôn kêu những tiếng "Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!". Đợi mãi không thấy con về, người đàn bà khóc thương vô hạn. Đoán biết thằng chồng tàn bạo đã ám hại con mình, bà ta đứng lên xỉa xói vào mặt hắn. Cuối cùng bà ta bắt hắn phải đi kiếm con mình về ngay, nếu không sẽ lên quan tố cáo. Túng thế hắn phải vào rừng. Hắn tìm mãi. Đột nhiên trong khu rừng hẻo lánh nổi lên mấy tiếng "Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!". Hắn rụng rời. Đích thị là oan hồn thằng bé đã lên tiếng vạch tội ác của hắn. Nghe luôn mấy tiếng liên tiếp, hắn không còn hồn vía nào nữa, vội bỏ chạy. Nhưng mấy tiếng "Bát cát quả cà" đuổi theo hắn. Hắn chạy mãi, băng hết khu rừng nọ sang khu rừng kia. Tự nhiên hắn vấp phải đá ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Mấy ngày sau, những người tiều phu thấy thi thể hắn nằm vật ở mé rừng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-da-da" }
Chó thần
Ngày xưa, ở một phủ nọ miền thượng du, có vị lão quan họ Lê được dân chúng kính yêu như cha già, vì trong bao nhiêu năm cai trị vùng này, cụ đối xử với dân như con cháu trong nhà, không một việc oan ức nào mà chẳng được cụ xét đến. Vị tri phủ già họ Lê có một con chó rất khôn ngoan, được cụ thương mến như con. Việc quan xong, mỗi đêm cụ nằm ngủ trên sập hút thuốc phiện, con vật trung thành nằm cạnh dưới chân, ngước nhìn chủ đầy vẻ trìu mến, đôi mắt thông minh ý nghĩa tưởng chừng như không là của loài bốn chân. Thỉnh thoảng ông quan già ngừng tay vuốt ve con vật thân yêu rồi bốn mắt nhìn nhau như trao đổi cảm tình không phải nói ra thành lời. Một đêm, vị lão quan nằm luôn ở sập không dậy nữa. Dân chúng trong vùng thương tiếc khóc đưa không khác nào cha chết. Chôn xong, mọi người ra về, trên ngôi mả mới, con chó trung thành còn nán lại rên rỉ, ứa nước mắt, từng lúc kêu lên áo não. Người con trai cụ Lê là cậu cả Tông, bấy lâu nhờ sự dạy bảo của cha học hành xuất sắc, được bổ nhậm nối nghiệp người đã khuất. Song Lê Tông tính nết lại khác hẳn cụ phủ, trong việc cai trị thường tỏ ra khắc nghiệt, tham lam, tàn bạo. Đối với cụ phủ Lê trước kia, dân có cảm tình bao nhiêu, thì ngày nay đối với cậu cả Tông, họ lại oán ghét bấy nhiêu. Cả Tông chỉ bắt chước cha ở một điểm là hút thuốc phiện, hút ngay tối hôm hạ huyệt cụ phủ Lê. Dân chúng phải lo cung cấp đủ số thuốc phiện cho vị tân quan, và lỡ người nào đem nộp thứ thuốc không được ngon là bị nọc ra đánh ngay trước phủ đường. Một đêm Tông hút nhiều hơn lệ thường, đang nằm mơ màng bên ngọn đèn dầu lạc, bỗng nghe có tiếng động nhẹ rồi thấy con chó nhảy lên sập gụ, nằm dài phía dưới mâm đèn á phiện. Tông muốn quát lên đuổi nó đi, song đã quá say, chỉ lầm bầm mấy tiếng: - Cút đi, đồ khốn kiếp! Đôi mắt thông minh của con vật chăm chú nhìn lại khiến Tông khó chịu, ấp úng: - Đồ khốn kiếp! Rồi im bặt, kinh ngạc, hoảng sợ khi thấy con chó lên tiếng: - Sao cậu lại rủa tôi, đuổi tôi đi? Tôi làm gì hại cho cậu? Qua phút hãi hùng, Tông trấn tĩnh lại, nhận thấy sự buồn cười nghe con chó biết nói, mới bảo nó: - Này, mày là loài chó, làm sao biết nói được thế kia? Rồi Tông không nhịn được cười sặc sụa lên một hồi. Con chó lại nói: - Cậu lầm rồi, cậu tưởng tôi chỉ là chó, thật ra tôi chính là thần. – Thần! Thần… chó! Tông muốn cười phá lên, song đã say đờ đẫn, nên chỉ mở hé hai mắt cười gằn. – Cậu không tin lời tôi nói à? Tông lại cười rồi đáp: – Tao không tin thần thánh gì cả. – Rồi một ngày kia cậu bắt buộc phải tin, mà ngày đó cũng không xa đâu. – Ngày đó mà có, là bao giờ mày làm được cho tao thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi xin ăn. Con chó không trả lời ngay, cậu cả Tông không để ý đến nữa, tiếp tục nướng thuốc hút. Trong khi cả Tông ro ro kéo thuốc phiện, con chó lên tiếng kể lại bao nhiêu tội lỗi của con chủ rồi trách: - Cậu hãy nên hối cải đi, theo gương của cụ ngày trước, kẻo tủi cho vong linh người đã khuất. Tông chán nghe con vật khuyên răn, nhấc đầu lên bảo: - Tao đã chán tai nghe mày nói rồi, thôi mày đi đi. Giọng con chó trở nên nghiêm nghị: - Cậu đã muốn thế thì mặc cậu. Tôi đi đây, song chẳng mấy chốc đâu cậu lại phải gặp tôi. Cậu hãy nhớ lấy những lời cậu vừa nói: “Bao giờ thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi ăn xin”. Nói xong con chó nhảy xuống đất đi mất... Tông ngủ thiếp đi, chập chờn trong ác mộng, đến lúc tỉnh dậy, đầu óc căng lên như búa bổ. Viên quan trẻ tuổi càng ngày càng gắt gao, nha lại được lệnh bắt bớ đòi ăn hối lộ người giàu, hành hạ đánh đập dân nghèo. Con chó không thấy trở lại nữa, Tông cũng quên hẳn đêm gặp gỡ con vật trong thành của cha già. Một buổi chiều trời giông, mây đen vần vũ, có một sứ giả cùng một toán lính đến trước phủ đường. Người cầm đầu vừa xuống ngựa, ra lệnh báo tin cho quan phủ hay. Quan phủ Tông thường ngày vẫn cấm quân hầu không được đánh thức trong lúc mình đang giấc, nên người nhà chần chờ không dám gọi. Khách lạ lớn tiếng ra lệnh một lần nữa, tên lính hầu cận mới rón rén vào phòng quan phủ run sợ, tâu bẩm. Phủ Tông đang ngái ngủ gắt mắng ầm ỹ lên, nhưng đến khi nghe thấy tiếng khách, liền vội vã phóc dậy khoác áo ra khúm núm tiếp đón. Vì khách kia chính là sứ giả của triều đình đến báo tin nhà vua sắp ngự qua đây nay mai. Thế là những ngày sau đó, dân chúng sở tại phải khốn đốn trăm chiều, vì quan phủ cho thuộc hạ bắt buộc mọi người phải dẹp bỏ hết công việc để sửa soạn tưng bừng bày hương án trên đường đón tiếp hoàng đế. Nha lại lính tráng được dịp tha hồ làm tình, làm tội dân, hạch xách, quấy nhiễu đủ điều. Lính phủ phải ê tay vì đánh đập, thúc hối dân làm việc quan. Tới ngày vua ngự đến, phủ Tông vận trào phục lộng lẫy, ngồi cáng che lọng có lính hầu khiêng đi nghênh đón. Khi thấy bóng kiệu nhà vua xa xa, phủ Tông đã xuống cáng, vòng tay đứng chờ cạnh hương án khói trầm nghi ngút. Bỗng từ bụi cây bên đường một con chó phóng ra, chồm lên người phủ Tông mà cắn xé rách nát cả triều phục. Lính hầu hốt hoảng không kịp ra tay, con chó đã chạy mất biến. Phủ Tông chưa kịp hoàn hồn thì xa giá đã đến. Trông thấy viên phủ áo quần tả tơi, gần như trần truồng, vua nổi giận đùng đùng, xuống lệnh nghiêm trị tức khắc viên quan phạm thượng, dám tiếp đón hoàng đế một cách khiếm lễ, khi quân như vậy. Phủ Tông rập đầu van lạy kêu ca về tai nạn bất ngờ vừa xảy ra, song chẳng được đoái hoài đến. Nhà vua đã hay biết lối trị dân độc ác của viên phủ tham ô, bèn nhân dịp này mà ra oai thiên tử. Vị quan cận thần được lệnh vua truyền lột hết chức của Tông, giáng làm thường dân và xử trảm ngay tại trước phủ đường về tội khi quân. Tông bị trói chặt dẫn về đến trước dinh phủ, đã biến thành pháp trường. Trong khi đao phủ đang sửa soạn, một bô lão sở tại đến xin ra mắt vua, tâu xin nhà vua nên nghĩ đến vong linh vị lão quan hiền đức họ Lê thân sinh ra Tông mà tha tội chết cho đứa con bất hạnh. Vua chuẩn y lời thỉnh cầu thành khẩn. Tông thoát chết, lạy tạ nhà vua, lầm lũi kiếm đường lẩn tránh mọi người. Tông men vào rừng gần đấy, vừa đi vừa chạy, cho đến khi khuất hẳn giữa ngàn cây, không còn thấy bóng người nào, mới vật mình xuống chân một gốc cây mà khóc mùi, hận tủi, nhục nhã. Tông chua xót, mệt mỏi lịm người đi. Đến lúc bừng tỉnh, thấy trời đã xế chiều, trong bụng đói khát cồn cào, lồm cồm đứng lên, thất thểu tìm đến một giòng suối uống nước và kiếm trái cây rừng đỡ dạ. Tông quanh quất ở trong rừng ngày này sang ngày khác, ăn trái rừng, uống nước suối, tránh các lối mòn, sợ người trông thấy cảnh mình điêu vong. Đói lạnh, thú dữ, nhọc nhằn giữa rừng sâu, Tông cắn răng chịu đựng, không muốn trở lại với loài người, vì lòng kiêu hãnh đã bị tổn thương. Một hôm, Tông đi đến một cánh rừng thưa, trông thấy một túp lều tồi tàn ở gần bờ suối. Sức người đã kiệt, bụng đói thèm cơm khiến Tông không còn giữ kiêu hãnh được nữa. Tông lê gót về phía túp lều, trông như là một chốn Cực Lạc đối với anh lúc bấy giờ. Trước khi đến cửa lều, thấy nước trong ở một con suối, Tông dừng là.i đưa hai tay vốc uống, và nước lên mặt cho tỉnh táo. Tông kinh hoảng khi nhận thấy gương nước phản chiếu hình ảnh của mình: khuôn mặt hốc hác tiều tụy, thân hình sạm đen, da bọc lấy xương, áo quần tả tơi, bẩn thỉu. Anh đập tan gương nước, như muốn xóa đuổi hình ảnh ghê rợn của mình rồi toan cắm đầu chạy trốn, nhưng đã đuối sức, mất cả thẹn thuồng, lê người vào túp lều tranh. Cánh cửa mở, Tông thấy hiện ra một người con gái trạc chừng mười lăm tuổi, áo quần nâu thô rách, nhưng trông rất dịu hiền, xinh đẹp. Cô gái thoạt tiên trông không khỏi kinh sợ khi thấy người lạ mặt, nhưng trông lại vẻ tiều tụy, gầy yếu của con người tuấn tú, không thể là kẻ trộm cướp được, nên yên lòng ngay. Một người đàn ông lực lưỡng bước tới sau lưng cô gái lên tiếng hỏi han. Đấy là một gia đình tiều phu, sống ở ven rừng, lam lũ mà an vui với cuộc sống riêng biệt. Họ mời Tông vào nhà, gặp bữa mời cùng ăn. Chưa bao giờ Tông ăn được ngon miệng đến thế, và cơm đỏ trộn sắn dọn trong chén đá với muối vừng, cà muối, thức ăn thường ngày của nhà này, anh thấy quý trọng gấp bội các món cao lương mỹ vị bày ở đĩa sứ, chén bạc thời làm quan. Người tiều phu không khỏi mỉm cười thích thú khi thấy khách không chê bữa cơm đạm bạc, ăn hết bốn bát đầy có ngọn. Chủ nhà rót mời Tông một chén rượu rừng, anh uống vào tưởng chừng như đã nhấp tiên tửu, thấy cả cuộc đời cao sang vừa qua, chưa bao giờ được ăn uống ngon lành như vậy. Sau đó Tông lễ phép hết lời cám ơn chủ nhà, rồi chào ra đi. Người tiều phu thấy Tông yếu mệt, bảo anh nghỉ lại đến mai hẵng đi. Tối hôm ấy, Tông nằm ngủ trên một mảnh chiếu cũ, nhưng cảm thấy khoan khoái nhất đời. Sự nhọc nhằn, thiếu thốn dồn dập trong bao nhiêu hôm tụ lại thành một cơn sốt kịch liệt, sáng hôm sau Tông không gắng gượng ngồi dậy nổi. Trong liền mấy hôm, Tông mê man li bì, nhờ vợ người tiều phu đi kiếm thuốc lá ở rừng về sắc cho uống mới hạ dần cơn bệnh. Khi Tông đã bình phục, người tiều phu mới nói rằng: - Tôi không rõ là anh ở đâu đến, định đi đâu, nhưng nếu anh không chê nhà này, còn có chỗ đụt mưa tránh nắng hơn là lang thang ngoài trời thì mời anh ở lại đây với chúng tôi. Củi rừng không thiếu, miễn là anh chịu khó làm với chúng tôi. Tông ngần ngại, ngẩng đầu lên bỗng gặp đôi mắt đen lánh, trong sáng của người con gái đang chăm chú nhìn mình, thắc mắc chờ đợi. – Tôi ở lại. Tông chỉ biết nói thế và từ hôm đó, anh bắt đầu chia xẻ đời sống của người tiều phu, những nặng nhọc và vui thú của gia đình nghèo hèn này. Chẳng bao lâu anh học được nhiều điều hay trong lúc đem sức cần lao ra để đổi lấy sự sống, mà suốt quãng đời nghiên bút, kinh sử anh đã không hề biết đến. Ban ngày vào rừng đốn củi, tối lại Tông còn dạy cho người con gái học dưới ngọn đèn nhựa trám mờ khói. Anh không nề hà một sự khó nhọc nào để giúp đỡ chung quanh, vui vẻ nhận lấy sự tiến bộ mau chóng của cô học trò ngây thơ. Cô gái không dấu được thích thú mỗi lúc gần người trai lạ bí mật, chẳng hề nhắc nhở đến quá khứ, có khi thẫn thờ xa vắng tận đâu. Hai năm êm đềm trôi qua, Tông hầu như quên hẳn con người quyền quý của mình ngày trước. Cô gái tiều phu bây giờ đã trở nên một thiếu nữ xinh đẹp mà lớp quần áo nâu sồng không làm giảm vẻ tươi sáng của tuổi dậy thì. Vẻ trong trẻo, đằm thắm của cô gái thuần phác đã biến đổi hẳn tính nết độc ác, ích kỷ, kiêu ngạo của Tông trước kia. Anh đã thành ra một người bình thường như mọi người, hàng ngày làm lụng vất vả, nhưng trong lòng êm ả, nhẹ nhàng. Tông bắt đầu hưởng hạnh phúc mà cả quãng đời nhung lụa ở phủ đường không được biết đến, là tình yêu. Một hôm, Tông vừa hạ xong một thân cây lớn, đang vuốt mồ hôi trán, thì nghe co tiếng kêu rên ở gần, ngoảnh lại trông thấy một con chó đang ngước mắt nhìn anh một cách thảm thương. Con chó đã già lắm, gầy yếu, trông như sắp chết. Tông ngồi xuống đưa tay vuốt ve lên mình con vật, nó đưa mắt nhìn tỏ ý cám ơn. Sẵn mo cơm và cá khô gói theo ăn trưa, Tông lấy một phần cho nó. Con chó chỉ ăn một lúc là sạch nhẵn. Tông im lặng nhìn nó, bỗng sực nhớ lại hình ảnh của mình hai năm trước đây, cũng đến chốn này kiệt sức như con vật đáng thương hiện thời. Khi Tông vác rìu trở về lều, con chó lẽo đẽo theo sau chân. Đêm đến, mọi người trong nhà lần lượt yên ngủ, Tông đang nằm thao thức, bỗng nghe có tiếng động nhẹ, đoán chừng là con chó đến nằm ở cạnh chân. Tông vỗ về con vật liếm tay mình, rồi trong đêm tối yên lặng bỗng nghe tiếng nó nói: - Anh không nhận ra tôi sao? Chính là tôi đã đưa anh đến đây mà! Anh có nhớ những lời mà anh đã nói với tôi là “nếu anh thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi ăn xin”? Con chó im một lúc lâu rồi lại nói: - Bây giờ anah tin là có thần linh không? Tông thầm đáp: - Ta tin ở mi và cầu xin vong hồn cha tha tội cho con. – Anh có sẵn lòng nghe lời tôi không? – Nói đi cho ta nghe. * * * Hôm sau, đã tối mịt rồi mà chưa thấy Tông trở về. Trọn đêm cũng không thấy đâu. Người con gái thao thức, đợi chờ, khóc thầm. Sáng tinh sương nàng đã cùng cha đi vào rưng, đến chỗ Tông thường đẵn củi, thấy bầu nước và rượu ở gốc cây. Nhìn lên lưng thân cây vừa lột một miếng vỏ lớn, nàng đọc thấy những chữ của Tông đã dùng lưỡi dao sắc cạnh ghi lại rằng: - Tông có việc phải đi, luôn luôn nhớ đến nàng và hẹn sẽ trở lại. Trong khi cô gái buồn rầu trở về túp lều giữa rừng thì Tông đã đi xa, theo sau con chó, cũng không tìm hỏi nó đưa mình đi đến đâu. Tới một ngôi làng, vào buổi phiên chợ đông, con chó làm nhiều trò xảo thuật theo lời bảo của Tông, khiến nhiều người tò mò xúm lại xem, bỏ tiền ra thưởng. Các nhà buôn giàu có tranh nhau mời mọc thày trò con chó kỳ tài về nhà khoản đãi. Từ làng này qua xã khác, từ huyện nọ đến tỉnh kia, Tông cùng con chó đi đến đâu cũng được thán phục, tặng quà biếu tiền. Hai thày trò sống một cách đầy đủ, phong lưu dọc theo đường gió bụi. Từ mạn ngược về đường xuôi, người và vật đi, đi mãi. Cái túi vải đeo bên mình Tông đã bắt đầu rủng rỉnh tiền, và mỗi ngày một nặng thêm. Tông chưa hề hỏi con chó là rồi sẽ đi đến đâu. Con chó cũng không nói nữa, và trông cũng chẳng khác gì đồng loại nó, ngoài ra tài múa nhảy và sự thông minh tỏ ra hiểu biết lời nói của người ta. Một buổi chiều vào lúc trâu bò về chuồng, Tông và con chó đi đến kinh thành. Qua cửa thành đô, Tông hồi tưởng lại năm nào mình vác lều chiếu đi thi, và ngày tên ghi bảng vàng, kết quả bao nhiêu năm khó nhọc dùi mài kinh sử. Tại kinh đô chẳng mấy chốc tiếng tăm của thày trò Tông đồn đãi khắp mọi nhà. Ngoài các trò múa nhảy tài tình theo lời sai bảo của chủ, con chó còn làm cho mọi người kinh ngạc về sự nhận xét không bao giờ sai. Đàn ông hoặc đàn bà có vợ chồng hay chưa, con cái nhiều hay ít, làm chức nghiệp gì, bao nhiêu tuổi, giàu hay nghèo, con chó đều trả lời đích xác theo ước lệ đã định trước. Thiên hạ truyền miệng đi là chó thần, tiếng đồn đến tai vua. Vua cũng muốn biết qua tài diệu kỳ của con chó, thử xem lời đồn của bá tính có quá đáng chăng. Có lệnh vua vời vào trước sân rồng để biểu diễn. Tông không khỏi làm cho vua ngạc nhiên thấy một kẻ thường dân ra mắt vua đúng với nghi lễ triều đình. Vua không nhận ra Tông là viên tri phủ đã bị thải hồi. Con chó bắt đầu múa nhảy, vua cười chảy cả nước mắt khi thấy nó chỉ đúng phẩm tước của bá quan theo từng hồi tiếng sủa. Trò cuối cùng là chó làm thơ. Tông xin giấy trắng trải lên sân rồng, buộc bút vào chân chó. Sau khi chấm bút lông vào nghiên mực, chó gật gù suy nghĩ rồi thảo luôn một bài luật thi dâng tặng vua. Chữ viết như rồng bay phượng múa, lời thơ trang nhã, bóng bảy khác thường. Thị vệ dâng vua ngự lãm, vua sửng sốt thấy chưa có một thi sĩ hữu danh nào đương thời có thể làm được hay hơn bài thơ của con vật bốn chân kia. Trong lúc hào hứng, vua truyền cho Tông cùng con chó từ đây được ở luôn tại viện trong cung nội và được lương bổng nhà vua ban cho. Tông hết lời cảm tạ ơn vua rồi tâu: - Bệ hạ chỉ mới thấy vài trò tiểu xảo đó thôi, con vật trung thành của thần còn biết được nhiều điều lạ hơn nữa. Thấy vua càng ngạc nhiên tò mò hơn nữa, Tông bèn thưa: - Nếu bệ hạ muốn chứng kiến thực hư, thần xin bệ hạ cho triệu họp đông đủ văn võ bá quan triều đình lại ở sân rồng. Vua nóng lòng muốn xem trò mới lạ, liền chuẩn y ngay đề nghị của Tông và truyền cho khắp triều thần ngày mai phải có mặt. Tông lại xin được hội kiến riêng trong chốc lát với một mình vua trước khi bắt đầu trình diễn các trò phi thường. Lời yêu cầu tuy táo bạo song cũng được chấp thuận trong khi vua đang cao hứng. Ngày mai lại, trước giờ vua lâm triều, bá quan văn võ tề tựu đông đủ trước sân rồng. Tông và con chó được đưa vào gặp riêng vua ở cấm điện. Vua ra lệnh cho thị vệ tả hữu lui ra, Tông mới thưa rằng: - Tâu bệ hạ, con chó của thần ngoài sự thông minh xuất chúng khác hẳn đồng loại nó, còn có kỳ tài đoán biết được những ý nghĩ thầm kín, những hành động bí mật của người ta mà ngỏ riêng cho thần hiểu, và lại có nhiều ý kiến khôn ngoan thần tình. Nếu bệ hạ cho phép, nó sẽ kể rõ về mỗi vị thượng quan ở triều phục vụ bệ hạ ra sao. Vua nghe nói hết sức ngạc nhiên, hỏi Tông làm cách nào. Tông đáp: - Bệ hạ cho thị vệ xướng danh và chức phẩm của mỗi quan triều rồi cho phép con chó của thần được đến gần để nhận xét, đánh hơi từng vị, rồi sau đó, cho nó gặp riêng thần một lúc để thần được nghe báo cáo của nó mà tâu lại cùng bệ hạ. Vua lâm triều, phán cho thi hành theo lời đề nghị của Tông. Con chó lần lượt đi qua trước các hàng thượng thư, quan lại triều đình, theo tiếng loa của thị vệ báo danh trước mỗi vị. Các quan bối rối thầm nghĩ là vua định bày trò đùa gì đây, khi thấy con chó dừng lại trước từng người, đứng trên hai chân sau, giương hai mắt ra nhìn xét, đưa mũi đánh hơi quần áo. Sau đó, Tông và con chó được đưa vào một phòng riêng giữa bốn vách tường kín mít. Con chó nói qua cho Tông hay sự tình để tâu lại, rồi hai thày trò được đưa đến bệ kiến riêng vua. Sau khi tâu lại những nhận xét của con chó về các quan, nhất nhất đều đúng với sự thực, Tông báo cho vua hay một sự khám phá quan trọng: - Tâu bệ hạ, hiện đang có một cuộc âm mưu tiếm vị, khuynh đảo bệ hạ cùng các quan trung thành với đương triều. Kẻ cầm đầu cuộc phản loạn này không ai khác hơn là quan thượng thư bộ Hình, người đã thọ lãnh ân tứ của bệ hạ nhiều hơn ai hết. Vua lặng đi vì kinh ngạc, hãi hùng, Tông kể luôn danh sách của nội bọn mưu phản và kế hoạch của chúng đã trù liệu, rồi phục mình trước ngai vàng tâu rằng: - Thần cúi xin bệ hạ cho mật xét lại để xem thực trạng có đúng thế không. Nếu con chó của thần biết sai và thần tâu man để làm rộn đến bề trên, thì thần xin chịu tử hình về tội khi quân. Ví bằng đúng sự thực… Vua đang trầm ngâm suy nghĩ bỗng ngước đầu lên bảo: - Nếu sự thực quả như lời khanh tâu, trẫm sẽ không bao giờ quên công ơn thày trò khanh đâu. Bây giờ trẫm muốn cho khanh cùng con vật trung thành ở riêng một nơi tại cung cấm, không phải thiếu một thứ gì, đợi cho đến khi trẫm xét rõ lời khanh nói có đúng không. Theo lệnh vua, Tông được đưa đến một cung riêng, có sẵn người hầu hạ và quân sĩ tuốt gươm trần canh gác bên ngoài. Ba hôm sau một vị cận thần đến mời Tông đi. Qua dẫy cung điện sơn son thếp vàng, Tông theo chân vị quan triều đi vào giữa chánh điện, trông thấy vua đang ngồi trầm tư trên ngai rồng. Tông toan quỳ xuống thi lễ thì vua đã bước xuống ngai đỡ dậy mà bảo rằng: - Trẫm cho phép khanh từ đây là thần dân duy nhất được miễn quỳ lạy trẫm, để ghi nhớ công khanh đã giúp trẫm giữ vẹn long thể và ngôi báu, giúp giang sơn khỏi nạn binh đao. Tất cả những lời khanh tâu đều được chứng nghiệp chính xác. Lũ loạn thần bị bắt đều đã thú tội. Chúng sẽ được xử theo phép nước. Vua không dấu nổi kinh hoàng vừa khám phá ra âm mưu thí vua của đám gian thần, xúc động nói với Tông: - Trẫm không biết khanh là ai, ở đâu đến, nhưng từ đây trẫm muốn khanh ở bên mình trẫm, với chức Quốc Sư, tước quan nhất phẩm triều đình của trẫm ban cho khanh. Trẫm lại cho khanh được phép ra vào trong cung cấm, muốn gặp trẫm bất cứ lúc nào cũng được, và khanh chỉ ở dưới quyền của trẫm thôi. Vua dành riêng cho Tông một dinh thự lớn, ban cho bao nhiều vàng bạc, châu báu, gấm vóc, và mỗi khi quyết định việc gì quan trọng cũng đều hỏi ý kiến vị quốc sư. Sống trong cảnh quyền thế, nhung lụa, Tông cũng không thấy gì là sung sướng, người ta không bao giờ thấy Tông cười. Một hôm, vua thân mật hỏi chuyện nguyên nhân sự buồn bã của vị Thượng Khanh, Tông mới thành thật tâu rằng mặc dầu được hưởng bao nhiêu đặc ân của vua ban cho, không bao giờ tông thấy lòng vui thú giữa chốn cung vàng điện ngọc, và xin phép vua được trở về quê nhà thăm phần mộ cha già. Vua không muốn rời xa ân nhân, song cũng đành phải nghe theo lời thỉnh cầu của Tông. Mấy hôm sau, trên đường về quê, Tông không còn phải là kẻ dắt chó làm trò nữa, mà oai vệ ngồi trên con tuấn mã vua ban cho, đi giữa đoàn lính tráng cờ lọng uy nghi theo hầu. Về đến đầu làng, chỗ ba năm trước đây Tông quỳ rước vua bị con chó cắn xé áo mũ gây ra bao nhiêu nông nỗi, Tông xúc động xuống ngựa bảo đoàn tùy tùng dừng lại. Anh đi lại tảng đá bên đường, ngồi ôm đầu suy nghĩ. Đến lúc ngẩng đầu lên, Tông không khỏi ngạc nhiên thấy một dám rước trọng thể do viên tri phủ sở tại dẫn đầu đi đón, Tông lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe vị quan đã thay mình ba năm trước đây phụng đọc chiếu vua bổ nhậm Tông cai trị vùng này. Dân chúng hay tin vị Quốc Sư thân cận của hoàng đế đến hạt mình, già trẻ lớn bé rủ nhau đi xem đầy đường, tiếng chào mừng dậy đất khi thấy Tông ngồi trên mình ngựa hiện ra. Tiếng ồn ào bỗng im bặt khi người ta nhận rõ vị thượng quan nhất phẩm triều đình chính là viên phủ độc ác trước đây đã làm cho tất cả dân chúng trong vùng khiếp sợ. Tông mỉm cười nhảy xuống ngựa, cho gọi các bô lão đến mà nói rằng: - Xin các cụ yên tâm và bảo con em hãy yên lòng. Người trở về hôm nay không phải là người mà dân đã xua đuổi trước đây. Xin bà con biết cho rằng con trai của cụ phủ Lê ngày trước sẽ cố gắng được xứng đáng với danh tiếng của ông cha. Có một điều tôi muốn cho tất cả rõ: con chó ở bên cạnh tôi đây, là bạn trung thành của thày tôi trước kia, đã giúp cho tôi được như ngày nay, phải được mọi người trọng vọng cũng ngang bằng tôi. Tôi đã hối cải về những sự lầm lỗi ngày trước, bây giờ tôi còn sống là để mà làm việc giúp dân. Tông giữ đúng lời hứa, dân chúng trong vùng lại được sống yên lành với một vị quan cai trị công bình, nhân đức. Con chó vẫn ở bên cạnh Tông, yên lặng không hề nói nữa. Một tối bất ngờ nó lại lên tiếng bảo Tông: - Anh đã nghĩ tới việc lấy vợ để sinh con nối dõi giòng họ chưa? Tông mỉm cười đáp: - Đã, nhưng lần này tôi không nghe ai đâu, tôi tự ý quyết định lấy một mình thôi. Con chó không nói gì nữa, sằng sặc trong miệng như cười. Ngày hôm sau, Tông sửa soạn ra đi, theo sau một đoàn người ngựa chuyên chở nhiều lễ vật. Mặc dù Tông không nói trước là đi đâu, song con chó đã đoán biết trước, chạy đi đầu dẫn đường. Băng rừng, lội suối, đến gần chiều tối đoàn người ngựa tới trước túp lều của người tiều phu mà Tông đã sống qua hai năm trời lao lực. Cô gái sợ hãi thấy một toán quân đến trước nhà mình, chạy trốn vào trong. Cả nhà vừa sợ, vừa mừng khi thấy lại Tông áo mũ xênh xang ra mắt. Lễ cưới của tri phủ Tông với con gái người tiều phu cử hành lớn lao. Tất cả dân nghèo trong vùng đều được mời đến ăn uống linh đình luôn ba hôm liền. Vua phái sứ mang tặng vật quý giá đến mừng. Sau đó, Tông mời cha mẹ vợ về dinh ở, song ông bà nhất quyết không bỏ chốn rừng núi đã quen thuộc. Mấy tháng sau, Tông được tin mừng là vợ đã có thai, cùng với tin buồn là con chó già nằm ngủ luôn không dậy nữa. Đám táng con chó được cử hành rất trọng thể, vợ chồng Tông mặc tang phục đi sau linh cửa, cùng với đủ mặt dân chúng trong vùng theo đưa. Mộ con vật có nghĩa được xây cất lớn lao, có bia ghi chép công trạng, còn lưu truyền đến ngày nay. Qua bao nhiêu đời, câu chuyên con chó thần vẫn còn nhắc nhở trên cửa miệng dân chúng miền thượng du.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cho-than" }
Sự tích con Heo
Ngày xưa có một gia đình nông dân sống rất nhân hậu. Vợ chồng cày sâu cuốc bẫm, tiết kiệm giúp đỡ người nghèo. Họ đã tạo được trâu khỏe, ruộng tốt, cất được 5 gian nhà gỗ lim, vườn cau, ao cá. Cuộc sống tưởng thế đã thanh nhàn. Nhưng oái oăm thay, vợ chồng lại không có mụn con nào. Vợ chồng buồn rầu. Làng xóm chế giễu. Mỗi lần như thế, hai vợ chồng lại tìm thầy tìm thuốc tốn kém vô kể. Một hôm có người mách: – Ông bà có con phải cầu tự. Nghĩa là phải làm một chuyện gì đó để lại công đức cho thần thánh, cho người đời. Hai vợ chồng từ đó đêm nào cũng trằn trọc tìm việc làm công đức. Người chồng đề nghị còn bao nhiêu vốn liếng xây dựng một ngôi đền. Người vợ đồng ý và ngay ngày hôm sau ra sông mua gỗ. Ba tháng sau, ngôi đền uy nghi mọc giữa thôn Đoài. Các vị thần: Của cải, Trí tuệ, Sức khỏe, Ăn chơi đã tụ tập về. Ai ước nguyện thế nào thì được thế ấy. Ông bà nọ ước ao có con, thần thương lắm đã cho người con trai đẹp và khỏe mạnh. Đáng tiếc, vợ chồng người nông dân quý con quá hóa tội. Cậu bé tên Hợi trái ngược tính nết với người sinh ra nó. Cậu thích ngủ và chơi bời, dỗ dành mãi mới đến trường, nhưng vừa ngồi xuống ghế đã ngủ gật, thành thử ba năm sau vẫn chưa viết nổi cái tên của Hợi. Về sau Hợi bỏ học la cà trong làng, ngoài bãi, ven sông. Tệ hơn nữa khi Hợi có vợ lại đuổi cha mẹ ra ở riêng. Mặc thế, ông bà vẫn dốc lòng chiều chuộng thương con. Hôm người mẹ hấp hối, bà bảo chồng gọi Hợi lại, nắm lấy tay và nói đứt quãng trong hơi thở: – Cha mẹ thật ân hận chưa lo cho con được nhiều. Nay mẹ sắp qua đời muốn hỏi con có nguyện vọng gì để khi xuống suối vàng mẹ biết mà cầu xin phù hộ cho con. Người con nói ngay: – Con ao ước suốt đời không làm mà được ăn no, được ngủ không ai quấy rầy. Nói tóm lại được người ta hầu hạ. Mai táng vợ xong, người chồng vào đền cầu xin nguyện vọng đó cho con. Các vị thần linh hội ý với nhau thấy thật khó xử. Thật ra nếu xin của cải giàu sang, trí tuệ minh mẫn, sức khỏe phi thường hay ăn chơi phóng đãng thì dễ. Đằng này nó chỉ ước mơ tầm thường ăn no ngủ kỹ. Có khó một chút là bắt người ta hầu hạ. Khoản này vượt quá quyền hạn của các thần trong đền. Họ bàn với nhau tâu lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nghe xong ngoảnh lại nói với thần Trí tuệ: – Thật đáng buồn cho giống người. Ta sinh ra họ cốt để làm đẹp cho thiên hạ. Vậy mà nay có kẻ chỉ ước ao ăn ngủ, lại còn muốn người ta hầu hạ nữa. Tệ. Tệ thật. Thần Trí tuệ cúi đầu lạy: – Bẩm thưa Thượng đế, cha mẹ của Hợi là người nhân đức. Chính họ đã có công thờ thần linh. Nếu ta không giúp họ thì sẽ mất niềm tin ạ. Ngọc Hoàng thấy thần Trí tuệ nói phải. Nhưng như thế thì vô lý quá. Ai đời cùng loài người với nhau lại bắt người này hầu hạ người nọ. Bỗng Ngọc Hoàng reo lên: – Ta nghĩ ra rồi. Thần lại đây ta bảo. Thần Trí tuệ mặt tươi như hoa đến quỳ lạy dưới chân Ngọc Hoàng. – Tên Hợi ước: Ăn no, ngủ yên, có người hầu hạ chứ gì? Ta cho làm kiếp lợn. Kiếp ấy được như thế, nhưng đoản thọ và chính tay người hầu hạ giết nó. Thần Trí tuệ toan nói hộ cho người nông dân vài điều nữa thì Ngọc Hoàng đã giũ áo bào đi ra. Thần buồn bã bay về làng Đoài thì được tin ông lão nông dân và con trai tên Hợi đã mất cách đây nửa năm. Điều lạ là trong làng Đoài mọc lên ngọn núi nhỏ có lửa, cháy chập chờn dòng chữ “Ốc Thượng Thổ”. Trong làng Đoài nhà ai cũng có ổ tò vò mọc chi chít trên nóc nhà, nhà nào cũng nuôi một giống vật lạ: Mõm dài, tai lớn, bốn chân nhỏ, mình nục nạc những thịt. Nó không biết kêu mà chỉ biết éc. Giống ấy phàm ăn. Ăn xong thì ngủ. Hơi ngót dạ lại đòi ăn làm cho người làng phải bưng xách nấu nướng thật vất vả. Vì nguyện vọng nuôi nó chóng lớn để mau giết thịt nên người ta đặt tên là Lớn. Tiếng này lâu ngày đọc chệch thành Lợn.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-heo" }
Sự tích tiếng kêu của vạc, cộ, dủ dỉ, đa đa và chuột
Xưa Cò, Vạc, Cộc, Dủ dỉ và Đa đa ăn ở với nhau như anh em một nhà. Chúng nó sống một cuộc đời sung sướng và hòa thuận. Con nào con ấy đều có nhà cửa, ruộng đồng riêng, nhưng mỗi khi kiếm được món gì ngon như mớ cá, rổ tép, v.v... trong đồng của mình thì chúng thường chia nhau ăn rất vui vẻ, tử tế. Không ngờ một ngày kia chúng nó rủ nhau đánh bạc. Trước còn đánh một đồng, hai đồng nhưng sau ăn thua lớn. Trong cuộc bạc hôm ấy, Cò vơ tất cả. Cuối cùng cả mấy con kia phải vay nợ của Cò để gỡ gạc, nhưng chúng chỉ "gỡ vào", mà thôi. Hơn nữa. Cò âm mưu với Chuột viết vào văn tự nhiều hơn số tiền bọn họ đã vay. Vì không biết chữ, không ngờ bị Chuột làm gian nên hầu hết tài sản của Vạc, Cộc, Dủ dỉ và Đa đa đều thuộc về tay Cò cả. Thua cay hơn hết là Đa đa. Cờ bạc đến lúc "khát nước nó bèn đánh những tiếng rất táo bạo. Vì thế, đến lúc phủi áo đứng dậy, Đa đa đã gán hết từ ruộng đồng cho đến nhà ở của mình cho Cò. Ngay buổi sáng hôm sau, Đa đa trần như nhộng, phải bán xới đi kiếm ăn ở miền núi cao. Dủ dỉ không thua quá nhiều như Đa đa. Nhưng Chuột đã chơi cho nó một vố khá đau. Trong văn tự, Chuột đã viết là Dủ dỉ sẽ gán tất cả phần đồng điền của nó nếu quá hạn không trả được nợ. Vì thế đến hạn, Dủ dỉ mất hết cả ruộng đồng, chỉ còn lại cái nhà ở. Từ đó nó phải ngày ngày đi làm thuê làm mướn kiếm ăn rất cực khổ. Còn Vạc chỉ thua có ba mươi quan. Nhưng khi nhờ Chuột làm giấy hộ: Chuột đã viết còn số ba thành con số chín. Cho nên cuối cùng Vạc cũng mất gần hết phần ruộng đồng của mình cho Cò. Nhưng Vạc vốn không sợ Cò. Không dám kiếm ăn công khai thì Vạc ta lại kiếm ăn lẩn lút trên đồng đất của Cò. Đêm đến, chờ khi Cò về nhà nghỉ ngơi, Vạc mới mò ra đồng ăn trộm con tôm cái tép. Nhờ thế cũng đủ sống qua ngày. Riêng Cộc cũng thua cháy túi như Đa đa. Cuối cùng vốn liếng còn lại chỉ có mười quan định để dành đong gạo, nhưng máu mê cờ bạc xui nó đánh luôn một tiếng vào cửa lẻ. Khi mở bát ra thì bốn đồng tiền trắng xóa làm cho Cộc sững sờ), rồi ngất đi. Cho đến khi những con khác gào vào tai: - "Thua rồi, ớ Cộc! thì nó mới tỉnh dậy, và vì xấu hổ quá nên đâm đầu chạy miết, không ngoái cổ lại. Còn Cò nhờ cuộc bạc hôm ấy lại nhờ khóe gian của Chuột nên làm chủ đồng ruộng mênh mông. Hàng ngày nó bay hết đồng này sang trồng khác ăn uống thỏa thích. Từ đó, dòng dõi của Cò thong dong đi lại kiếm ăn ban ngày. Người ta bảo "ruộng cò bay thẳng cánh" là thế. Trên đầu nó có mấy cái lông "seo" người ta vẫn gọi là cò văn tự", để chỉ những khế tự giấy tờ của nó mang theo luôn luôn bên người. Dòng dõi Vạc thì chờ lúc tắt mặt trời mới rúc ra khỏi bụi tre và kêu luôn mồm: - "Thua một vác! Thua một vác!"[1]. Trời chưa sáng, chúng nó đã lò mò về tồ, chỉ sợ dòng dõi nhà Cò bắt gặp. Dòng dõi của Dủ dỉ thường kêu những tiếng ai oán: - "Đông Tây tứ chi bán hết! Mần như ri cực cực? Mần như ri cực cực!"[2]. Dòng dõi Đa đa thì không dám trở về quê hương đồng ruộng nữa. Tuy thế, chúng nó vẫn kêu lên những lời tỏ ý tiếc nhớ đời sống sung sướng ở đồng ruộng của cha ông chúng ngày trước: - "Tiếc rổ tép đa đa? Tiếc rổ tép đa đa!"[3]. Dòng dõi Cộc thì thỉnh thoảng lại gào lên mấy tiếng: - "Thua rồi, ớ Cộc!" rồi đâm đầu xuống nước, lặn một mạch thật xa mới trồi đầu lên tìm chỗ vắng mà đậu. Còn chuột, người ta bảo trong việc làm gian lận nói trên, nó chả được lợi lộc gì cả. Dòng dõi của nó ngày nay sống trốn tránh lẩn lút chỉ sợ con cháu Vạc và Dủ dỉ báo thù. Miệng vẫn kêu mấy tiếng: - "Chín chục! Chín chục"[4]. Tục ngữ có câu: Con vạc bán ruộng cho cò, Cho nên vạc phải ăn mò cả đêm. hay là: Vạc sao vạc chẳng biết lo, Bán ruộng cho cò, vạc phải ăn đêm. Chú thích [1] Ngày xưa, một vác tiền gồm có 5 quan đồng, mỗi quan đồng có 6 quan kẽm, vị chi 30 quan. [2] Có nơi cho tiếng kêu Dủ dỉ là: "Đi mô cũng cực! Đi mô cũng cực!". [3] Có người kể "Tiếc đồng tép cha ta!" hay "Tiếc vùng tép của ta!" Lại có người kể: "Bát cát quả cà?". Về lời kể sau, xem truyện Sự tích chim đa đa (số 9). [4] Theo lời kể của người Hà-tĩnh, Quảng-bình, và Ca-đi-e (Cadière) trong BEFEO tập 1, số 3, 1901.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-tieng-keu-cua-vac-co-du-di-da-da-va-chuot" }
Nữ thần Vàng
Nữ thần Vàng thường hiện lên dưới dạng một thiếu nữ kiều Diễm với những vòng hào quang rực rỡ. Ở nơi nào nàng hiện ra thường sẽ là những vùng sáng rực trong đêm. Đó là theo lời đồn của thiên hạ chứ thực ra ít ai được chiêm ngưỡng dung nhan của Nữ thần Vàng. Người ta kể rằng có một chàng trai nghèo làm nghề đánh cá, nhờ có công trong việc cứu giúp nhân dân thoát qua được cảnh lụt lội nên được nhiều vị thần linh trên trời yêu mến ban phép lạ và gươm báu cho. Từ khi được thần ban phép màu và gương quý chàng trai này đã đi khắp thiên hạ để cứu với những người gặp cảnh khốn cùng. Một lần chàng đi đến một trái núi cao thì trời tối, chàng bèn tìm một nơi thoáng đãng để nghỉ ngơi. Bỗng nửa đêm chàng giật mình tỉnh giấc vì cảm thấy trên trán mình có một bàn tay nào đang nhè nhẹ vuốt ve. Mở mắt ra chàng xiết bao ngạc nhiên vì trước mặt mình là một tiên nữ đẹp mê hồn.  Mái tóc của nàng chảy dài như một dòng suối, bàn tay của nàng mát rượi và khuôn mặt ánh lên muôn ngàn hào quang quyến rũ lòng người. Nữ thần Vàng như một cô gái trần gian đang ở ngay bên cạnh chàng trông coi giấc ngủ cho chàng. Không cầm lòng được, chàng trai nắm lấy cổ tay nàng và vùng ngồi dậy. Nữ thần cố gắng vùng ra nhưng chàng cứ níu chặt. Trong lúc giằng co có lúc mặt hai người kề sát nhau, chàng trai cảm thấy hơi thở của Nữ thần vô cùng thơm tho, nồng ấm, cuối cùng nàng rút tay ra được, chạy thoát và biến vào đêm  tối. Từ đó về sau, đêm đêm nàng lại hiện ra nhưng dưới dạng một người khổng lồ, đứng giữa trời chia vàng cho thiên hạ. Nhờ có vàng của nữ thần trao cho mà tất cả mọi người dân trở nên giàu có, cuộc sống ngày càng thịnh vượng mãi lên. Song cũng chính vì sự giàu có ấy mà làm cho giặc ở mãi phương bắc xa xôi cũng thèm thuồng muốn tìm cách cướp nữ thần Vàng. Chúng cất quân sang đánh ta một cách ồ ạt, bất ngờ. Nhưng chàng trai đã kịp chiêu tập quân binh, ra quân giết giặc. Với sức khoẻ vô song và thanh gươm thần nắm chắc trong tay  chàng trai càng đánh càng hăng và đã cùng dân làng đuổi quân giặc chạy tán loạn. Giặc yên, chàng lại nhớ tới nữ thần Vàng, bèn trở về trái núi đã gặp nàng ban đầu để nghỉ.Canh ba đêm ấy tỉnh giấc, chàng lại thấy nàng hiện lên. Nhưng lần này nàng không phải là một cô gái bằng vàng nữa mà là một cô gái trần gian "bằng xương, bằng thịt” óng ả, thướt tha. Nàng cũng không lẩn tránh mà chủ động đến bên chàng thủ thỉ: - Thiếp cảm ơn chàng vì chàng đã mang hết sức mạnh che chở cho thiếp thoát khỏi tay lũ người hung hãn, tàn bạo. Từ nay thiếp nguyện làm người nâng khăn sửa tội cho chàng. Chàng trai cảm động không nói nên lời. Hai người cùng ngồi trò chuyện với nhau đến gần hết đêm thì bất ngờ tụi giặc quay trở lại bao vây. Chàng trai bị dồn vào thế bị động, nhưng chàng vẫn không nhụt chí sờn lòng. Một mình chàng lại tả xung hữu đột, chém quân thù như chém chuối. Nhưng vì thân cô thế cô nên cuối cùng chàng hy sinh. Trước khi chết, chàng còn kịp dặn nàng hãy trở về với cuộc sống của các thần và trốn vào trong lòng đất, đừng bao giờ để cho lũ  giặc tham lam nhìn thấy nữa. Nghe theo lời dặn của người yêu, nữ thần Vàng biến thành một ánh chớp sáng loè, ẩn sâu vào trong lòng đất. Từ đó không bao giờ người ta còn thấy nàng hiện ra trọn vẹn như xưa nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nu-than-vang" }
Sự tích Cao Lãnh
“ Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm ” Đồng Tháp Mười ngoài ruộng lúa phì nhiêu và cá tôm lấp lánh, sen nở bạt ngàn, còn có sự tích về một địa danh mà không hẳn ai cũng biết, đó là: Cao Lãnh. Hồi trước có cặp vợ chồng Đỗ Công Tường, tục danh là Lãnh, từ miền trung đến đây lập nghiệp. Sau mấy năm chí thú làm ăn, gia cư ông Lãnh khá khang trang. Tính tình ông chính trực ngay thẳng nên được dân làng cử làm chức câu đương, một chức danh để phân xử những vụ tố tụng trong làng. Ông bà Lãnh trồng một vườn quít. Hàng xóm thường tụ tập đến đây để đổi chác, mua bán. Lâu ngày chỗ ấy thành chợ. Đó là chợ Cầu Ông Lãnh ngày nay. Đến năm Canh Thìn (1820) , nạn dịch tả hoành hành rất dữ. Dân chúng trong lành bị bệnh , chết rất nhiều. Xóm làng chợ búa trở nên vắng vẻ, ảm đạm. Thuở ấy, chưa có thuốc men như bây giờ nên người ta cho rằng bệnh dịch tá là do trời đất, thần thánh gây ra để quở phạt dân làng. Ông Lãnh cũng không suy tư gì hơn quan niệm đương thời nên ông lập bàn thờ giữa sân chợ để khấn vái xin trời đất, thần thánh giúp dân thoát khỏi tình cảnh chết chóc bệnh hoạn ấy. Điều đáng nói là hai ông bà nguyện thế mạng mình để cầu cho dân chúng thoát cảnh đau thương. Cúng xong, hai ông bà ăn chay ba bữa. Đến sáng hôm thứ tư thì bà Lãnh mắc bệnh. Đến tối bà qua đời. Đang lo việc an táng cho bà thì ông lại phát bệnh và cũng ra đi đột ngột. Nhân dân trong làng lo việc chôn cất ông bà xong thì bệnh dịch tá cũng tự dứt luôn. Mọi người trở lại cuộc sống an nhàn như cũ. Do vậy, họ cho rằng nhờ vợ chồng ông Lãnh thế mạng nên cứu được chúng dân. Để tưởng nhớ công ơn, dân làng lập miếu ngay trên ngôi mộ của hai ông bà, tại làng Mỹ Trà bên bờ kinh Thầy Khâm để thờ phụng, gọi là miếu ông Chủ Chợ. Chợ vườn quít từ đó được gọi theo tên ông. Vì tên tục của ông là Lãnh, lại làm chức cầu đương, nên dân chúng thường gọi là Câu Lãnh và chợ gọi là chợ Câu Lãnh, chợ Câu Lãnh ngày càng thịnh vượng và người đến mua bán lại đọc trệch Câu Lãnh thành Cao Lãnh nên tên Cao Lãnh được dùng từ đó.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cao-lanh" }
Ba chàng dũng sĩ
Ở làng kia, có một người đàn bà rất chăm làm. Từ mờ sáng, khi chim Mơ lang vừa cất tiếng hót thì đã thấy bà rời làng lên nương rồi. Bà cặm cụi làm việc cho đến khi ngôi sao Bắc đẩu lấp lánh trên trời cao mới lại trở về làng. Một hôm, đang làm rẫy, bà bỗng thấy trong người choáng váng, khó chịu, cổ họng khô cháy như lửa đốt. Bà vội tìm đến chiếc chòi giữa rẫy, nhấc ống nước định uống thì thấy trong ống chẳng còn giọt nước nào. Cơn khát ngày càng hành hạ bà. Bà đảo mắt nhìn quanh để tìm nước uống, chợt thấy xa xa từ khe núi có một khe nước đang rỏ giọt. Bà mừng rỡ vội vã rảo cẳng chạy tới. Đó là một quả núi giống hình một người đành ông to lớn, đang cầm chà gạc (*) ngó trời. Từ trên đỉnh đầu hình người chảy ra những giọt nước trong vắt, mát lạnh. Bà ngửa cổ vừa uống ba ngụm đã thấy cơn khát dịu ngay, cổ họng còn đọng mãi vị thơm ngọt của dòng nước lạ. Từ hôm đó, bà thấy trong người khang khác và bụng ngày một to dần. Bà đã thụ thai. Nhưng đã chín tháng mười ngày rồi mà bà vẫn chưa đẻ. Một năm, rồi hai năm, ngày sinh vẫn chưa tới. Cho mãi đến năm thứ ba, vào một ngày mặt trăng và mặt trời gặp nhau (nhật thực) tỏa ánh sáng vàng dìu dịu, bà mẹ mới trở dạ. Bà sinh được ba đứa con trai bụ bẫm, kháu khỉnh và giống nhau như lột. Ngày tháng trôi qua, ba đứa trẻ lớn dần lên. Từ đấy, núi rừng có thêm ba chàng trai khỏe mạnh. Cánh tay họ cứng như sắt có thể bẻ gãy cây to như ngắt ngọn cỏ. Cặp chân họ chạy nhanh như gió, một bước nhảy vượt băng một cánh rừng. Mắt họ sáng, nhìn xa hơn mắt chim ưng. Thấy các con đã khôn lớn, một hôm bà mẹ bảo họ: – Đất trời mình còn rộng lắm. Các con hãy chia nhau đi các ngả mà làm ăn. Lâu lâu, các con hãy về thăm mẹ nhé! Ba chàng trai vâng lời, từ biệt mẹ lên đường. Người em út theo hướng mặt trời mọc mà đi. Đường đi mỗi ngày một xuống thấp và chẳng bao lâu đồng bằng bát ngát, biển khơi mênh mông sóng nước hiện ra. Người em út ưng miền đất đẹp này lắm và chọn nơi ấy làm chốn ở của mình. Từ đó, ngày tắm nước bể trong xanh, đêm nằm dài trên cát mịn, da dẻ chàng thay đổi dần, trắng trẻo như cục bột. Người ta gọi chàng là Ngọc. Người em thứ hai cứ theo hướng mặt trời lặn mà đi. Đất dưới chân chàng ngày một cao dần lên, rừng rậm trùng điệp hiện ra và núi non hùng vĩ nhô lên như chào đón chàng. Gặp một khe suối nước chảy óng ánh như màu đồng hun, chàng cởi áo lội qua bờ bên kia. Dòng nước kì lạ ấy đã làm cho người em thứ hai khi từ khe nước bước lên đổi hẳn màu da, trở thành ngăm ngăm đen hệt như màu nước. Thấy đất màu mỡ, chàng bèn dừng lại và dựng trại làm ăn. Từ đó người ta gọi chàng là chàng Lèo. Còn người anh cả ở giữ quê hương. Chàng dựng lên một chiếc nhà rông cao nhất trời, mái nhà cong vút chấm tới mây, cột nhà dựng san sát như cây rừng. Chàng sống ở đó, trông núi rừng cho suối đánh đàn, cho hoa nhảy múa, cho muôn thú và gió lộng hát ca… Nhưng bỗng một hôm, một con Xà tinh không biết từ đâu hiện ra, mình nó lớn bằng cả một dãy núi. Nó có cánh để bay vút lên trời, lại có vây để lặn sâu xuống nước. Nhưng lợi hại nhất là ba viên ngọc ước của họ nhà trời mà Xà tinh đã ăn cắp được, đem về cất giấu trong chiếc túi tròn, đeo ở nách bên phải của nó. Hòn ngọc thứ nhất màu xanh biếc, khi giơ ra thì lập tức giông bão nổi lên, gió gào thét điên cuồng, thổi bật đi cả từng khu rừng một. Hòn ngọc thứ hai màu trắng nhạt, cầm đến nó thì lập tức sóng nước cuồn cuộn trào dâng, cuốn trôi băng cả hàng chục làng. Hòn ngọc thứ ba màu đỏ chói, khi tung lên thì khói lửa rừng rực bốc lên, thiêu rụi hết mọi vật. Xà tinh dùng ba viên ngọc ước này để tàn phá tất cả những miền mà nó đi qua. Một hôm, Xà tinh mò đến quê hương của ba chàng trai . Nó đi đến đâu, cây rừng nghiêng ngả, gió rú ào ào, khói mây bay mù mịt đến đấy. Người anh cả thấy có chuyện lạ, vội từ trong nhà rông bước ra, một tay cầm chiếc khiên đính lục lạc đồng, một tay cầm con dao nhọn, sắc như nước. Trông thấy vẻ hùng dũng của người anh cả, Xà tinh cũng có ý chờn. Nó thò tay vào túi, bốc viên ngọc xanh biếc ra, tức thì dông bão ầm ầm nổi lên, cây bật rễ, đá núi bay rào rào. Thấy Xà tinh bỗng dưng tác oai, tác quái, tàn phá buôn làng quê hương mình, người anh cả nổi giận lao người tới trước mặt nó, vung mạnh tay khiên. Chiếc khiên quay vun vút làm thành một trận gió mạnh, xô bạt cơn dông của Xà tinh đi. Sau nửa ngày đánh nhau kịch liệt, Xà tinh đuối sức phải thu ngay viên ngọc xanh lại. Nó tức giận gầm lên một tiếng vang trời rồi nhấc viên ngọc màu trắng nhạt ra. Lập tức cả một bể nước ậo tới, phủ kín núi rừng. Lợn lòi, chồn, rắn nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Trước sức mạnh ghê gớm của nước lụt, người anh cả thấy hết phương chống cự. Chàng chạy vội lên ngọn núi cao nhất, quờ cây khô, dồn lá héo, chất thành đống lớn, châm lửa đốt lên. Ngày trước, lúc chia tay lên đường, ba anh em đã hẹn ước với nhau rằng bao giờ có giặc hay gặp nguy nan, người anh cả sẽ dùng ánh lửa đốt trên núi cao để báo hiệu gọi các em về, một ngọn là hiệu gọi em út, hai ngọn là gọi em thứ hai. Thấy một ngọn lửa nơi quê mẹ bùng cháy, chàng Ngọc lúc đầu ngỡ là ánh sáng mặt trời rọi lên, chẳng để ý tới. Nhưng ánh lửa mỗi lúc một cháy to, ngọn lửa lắc lư như vẫy gọi. Biết là lửa của anh cả gọi mình, chàng Ngọc bèn chạy một mạch như bay về quê hương. Tới làng cũ, nhìn thấy núi rừng tiêu điều, xơ xác, chàng Ngọc vô cùng căm giận, ngồi bên suối ngày đêm nghĩ cách trừ Xà tinh. Một buổi sáng, chàng Ngọc từ biệt anh cả đi thẳng vào sào huyệt của yêu quái. Thấy chàng trai trắng trẻo, Xà tinh gầm gừ rồi quát lớn: – Hỡi con thỏ trắng kia! Mày mang da đến đây cho tao lột phải không? Chàng Ngọc dũng cảm thét vào mặt nó: – Ta đến tìm mày để hỏi tội đây. Thần nước ở quê ta, ta còn trị được nữa là vũng nước chân trâu hôi thối của mày! Xà tinh giận lắm. Hắn bốc ngay viên ngọc trắng nhạt ra. Lập tức sóng ngàn, nước cả hiện ra trắng xóa một vùng. Nhanh như chớp, chàng Ngọc co mạnh tay, dẫm mạnh chân xuống đất. Tức thì, từ trong lòng đất nổi lên một bức thành dài dằng dặc. Lớp thành đất vững chắc như thép nhô cao lên mãi, vây chặt lấy bể nước rồi khép dần lại. Dòng nước hung dữ cố sức phá vỡ bức thành để tràn ra ngoài nhưng không nổi. Nước ngày một cạn dần đi. Xà tinh yếu thế vội thu viên ngọc trắng lại và giở viên ngọc đỏ chói ra. Lập tức khói bốc lên mù trời, lửa cháy rừng rực, cây xanh cháy thành than. Nước suối sôi lên ùng ục. Người em út không trị được nạn lửa ghê gớm ấy, đành phải chạy về vùng biển. Thấy nguy khốn, người anh cả lại lên núi cao, chất hai đống lửa lớn, gọi người em thứ hai về cứu. Trông thấy hiệu lửa, chàng Lèo liền nhắm hướng lửa mà chạy như gió, chẳng quản ngày đêm. Đến quê mẹ, chàng chạy thẳng đến hang Xà tinh và gặp nó đang mài vuốt trước cửa hang. Chẳng nói, chằng rằng, chàng Lèo nhằm giữa mặt nó phóng một ngọn lao mạnh như sấm sét. Biết dòng họ dũng sĩ đã lại đến, Xà tinh liền tìm cách thử tài. Lùi lại tránh mũi lao, nó bốc một nắm lá, niệm thần chú rồi tung lên trời. Lập tức một bầy ong vò vẽ hiện ra vù vù xông tới. Chàng Lèo bình tĩnh tháo bông hoa cài trên đầu cắm nhẹ trên đất. Tức thì khắp một cánh rừng, những bông hoa muôn sắc tỏa ra rồi dệt lại thành một tấm thảm đẹp tuyệt vời. Đàn ong bén mùi mật hoa, sà cả xuống bám đen nghịt. Chúng chui vào bông hoa để hút mật. Bỗng nhiên bông hoa rùng mình khép luôn cánh lại, nhốt chặt đàn ong ma quái ở bên trong. Thấy phép thuật của mình đã bị hại, Xà tinh gầm lên, bốc viên ngọc đỏ chói ra, thét lớn: – Đến ngọc này thì mày cũng sẽ phải chạy như hai tên nhãi trước thôi! Thấy ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, cháy rừng rực, dữ tợn, chàng Lèo liền cởi ống nước phép đeo trên lưng, trút xuống đất. Những tia nước mát rượi bắn tung ra rồi bỗng dâng cao thành những suối nước khổng lồ bao lấy lửa. Chẳng bao lâu, lửa của Xà tinh đã bị các suối nước làm tắt ngấm hết. Bị thua, Xà tinh càng điên cuồng gầm thét. Hắn thu viên ngọc đỏ lại rồi vung viên ngọc trắng nhạt ra. Lập tức sóng nước dâng lên cuồng cuộn, mưa xối ào ào như nước chảy trong ống. Nước dâng lên rất nhanh khiến người em thứ hai không tài nào chống nổi, đành phải theo hướng mặt trời lặn mà chạy về núi. Người anh cả thấy các em mình không trị được Xà tinh thì vô cùng lo lắng. Dâng làng thấy vậy cũng rất lo. Họ liền hợp sức nhau lại, góp công đóng một chiếc thang thật dài, bắc qua sông, bảo người anh cả leo lên hỏi Trời xem có phép gì giúp cho dân làng giết được Xà tinh không. Người anh cả leo thang lên Trời ngay. Sáng hôm ấy, Trời ngủ dậy muộn, vừa mở mắt Trời đã thấy người anh cả quỳ trước mặt, thưa rõ đầu đuôi câu chuyện và xin Trời giúp cho cách đánh Xà tinh. Suy nghĩ một lát, trời gật gù bảo: – Con Xà tinh này quả là có lắm phép. Nhưng tài trí của các cháu cũng không kém gì nó lắm đâu. Chỉ vì các cháu chưa biết hợp sức lại mà đánh nên mới trị được phép này, nó lại giở phép khác. Thôi, bây giờ hãy trở về núi cao, đốt lửa gọi hai em cháu về. Rồi cả ba anh em cùng hợp sức đánh thử xem. Nếu vẫn thua, ta sẽ bày cách khác. Người anh cả vâng lời, trở về núi cao đốt lửa gọi hai em lần nữa. Ba anh em hợp nhau lại cùng với dân làng, chia thành ba ngả kéo thẳng đến sào huyệt Xà tinh. Đang gục đầu ăn gan trâu trắng, uống rượu đen, chợt thấy ba chàng dũng sĩ đứng chặn ngay trước cửa hang, Xà tinh liền gầm gừ: – Kìa, ba con thỏ non lại kéo đến nộp mạng rồi. Hãy đợi đấy, ăn uống xong, ta sẽ hỏi tội chúng mày. Người anh cả đáp lại, giọng to như tiếng cồng vang: – Yêu quái, hôm nay mày sẽ phải đền tội. Mày đã tàn phá núi rừng này, giết hại dân làng này, giờ đây anh em ta sẽ hợp sức nhau lại trị tội mày. Xà tinh giận lắm. Nó nhảy ra khỏi hang, giơ viên ngọc xanh ra. Dông bão nổi lên. Nhanh như chớp, người anh cả vung chiếc khiên, giơ đằng đông, núi đằng đông sạt; giơ đằng tây, núi đằng tây đổ. Chiếc khiên quay tròn, cuốn gió thổi bạt cả dông bão của Xà tinh đi. Xà tinh thua trận đầu, vội giở tiếp ngay viên ngọc trắng ra. Nước lũ ào ào tràn tới. Người em út lao ngay ra giữa dòng nước, giơ cao kiếm dẫm chân mạnh xuống đất. Tức thì lớp lớp thành lũy nổi lên, bủa vây và nhốt chặt dòng nước lại. Thấy phép màu bị hại, Xà tinh hấp tấp bốc vội viên ngọc đỏ ra. Khói lửa cuộn đến, cháy ngút trời. Nhanh như cắt, người em thứ hai trút ngay ống nước phép xuống đất. Những dòng nước nhỏ, trong chốc lát biến ngay thành trăm ngàn con rồng bằng nước lạnh, uốn khúc, lấp loáng bám lấy bể lửa. Lửa lụi dần rồi tắt ngấm. Thấy mất trọn cả ba phép lạ, Xà tinh cuống cuồng toan chạy trốn ra bể. Nhưng chàng Ngọc đã lăm lăm thanh kiếm chặn mắt đường. Xà tinh hoảng sợ vội quay đầu chạy lên núi. Nhưng chàng Lèo đã chống ngọn lao đợi sẵn ở đấy. Bí thế, Xà tinh toan chạy trốn lên trời, nhưng người anh cả đã nhảy vọt tới, vung con dao sắc như nước xả tới tấp vào mình nó. Xà tinh gào thét giãy giụa chuyển cả rừng, rung cả đất. Cuối cùng kiệt sức, nó lăn ra chết, hóa thành dãy núi Róc Ron lởm chởm, nứt nẻ, lồi lõm, cằn cỗi màu chết chóc. Từ đó, núi rừng Tây Nguyên trở lại cảnh thanh bình ngày trước. Nương đầy lúa, rẫy đầy khoai, sông đầy cá, bờ suối khoe sắc hoa vàng hoa đỏ. Ba chàng dũng sĩ lại chia tay nhau, kẻ xuống hướng đông, kẻ lên phía tây làm ăn. Người anh cả ở lại rừng, dựng nhà rông cao to hơn xưa để giữ gìn quê mẹ. Hàng năm, người em út dưới biển gánh muối lên cho hai anh em, người em thứ hai cõng chiêng, mền lên cho anh cả. Còn anh cả thì chia cho các em gỗ quý, mật ong, thịt rừng, nếp thơm. Cho đến nay, đồng bào Tây Nguyên còn truyền tụng rằng: người anh cả có tài múa khiên bạt gió, đó là người Tây Nguyên. Chàng Ngọc, người em út ở gần sông gần bể nên thạo nghề đắp đê ngăn nước, là người Việt. Còn người em thứ hai – chàng Lèo ở xứ nóng bức, có gió Lào, hay bị hỏa hoạn nên có tài chống lửa, đó là người Lào. Ba anh em xưa là con một mẹ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-chang-dung-si" }
Sự tích dưa bở
Ngày xửa ngày xưa, có một cặp vợ chồng nhà nghèo quanh năm bảo ban chăm chỉ làm lụng mà vẫn không đủ ăn. Vì thế, họ thường xuyên phải đi xin thóc gạo của những người ở cùng trong bản. Nhưng xin mãi thì mọi người cũng chán, chẳng cho nữa. Hỏi vay thì mọi người sợ hai vợ chồng sẽ chẳng có trả nên cũng không cho vay. Chỉ có mỗi một bà cụ độc thân sống ở cuối bản là bảo với hai vợ chồng: – Xin thì ta không có mà cho. Nhưng ta sẽ cho vay một thùng thóc giống và tính lãi. Vay một thùng, phải trả thùng rưỡi. Hai vợ chồng đồng ý vay, và hy vọng rằng đến mùa sẽ vừa có thóc ăn, lại vừa có thóc để trả bà cụ. Nhưng mùa vụ đã qua lâu rồi, mà bà cụ vẫn không thấy hai vợ chồng đem thóc tới trả. Ngược lại, hai vợ chồng còn tới gặp bà cụ để tiếp tục vay thêm thóc giống. Bà cụ giận quá, nói: – Chắc chúng mày không chịu làm việc, chỗ thóc giống ấy mang về giã ăn thôi chứ gì. Ta không cho hai vợ chồng chúng mày vay nữa. Hai vợ chồng mặt buồn rười rượi, thưa chuyện cho bà cụ hiểu rõ: – Chúng cháu đâu dám lười biếng. Chỉ tội, số thóc giống bà cho vay, chúng cháu vừa quãi xuống nương thì bị bầy chim sẻ rừng bay đến ăn hết. Bà cụ hết giận, đem một thùng thóc giống nữa cho hai vợ chồng nghèo vay, và dặn: – Làm nương thì phải trông canh nương. Hạt thóc giống gieo xong hãy nhớ lấp đất phủ lên, thì lũ chim sẽ không ăn được. Hai vợ chồng nghe theo lời của bà cụ, hạt thóc được quãi gieo xuống là liền lấy đất lấp phủ lên. Nào ngờ, lũ chim sẻ rừng tai quái vẫn lấy chân bới đất lên và ăn hết sạch thóc giống. Vậy là hai vợ chồng nghèo vẫn không có thóc để trả cho bà cụ. Họ thở dài than ngắn, thất vọng vì không biết phải làm thế nào. Thương tình, bà cụ gọi hai vợ chồng đến và lại tiếp tục cho vay thêm một thùng thóc giống nữa. Bà bảo: – Lần này, trước khi gieo giống thì hãy lấy một ít thóc để làm mỗi bẫy bắt chim. Như thế, lũ chim sẽ sợ mà không dám đến quấy phá nữa. Hai vợ chồng nghèo bèn hì hục cả đêm lẫn ngày để làm bẫy trên nương. Làm bẫy xong, hai vợ chồng bỏ thóc vào trong đó rồi ngồi nấp rình đợi bầy chim sẻ tới. Theo thói quen, thấy thóc là bầy chim sẻ rừng không bỏ qua, chúng rủ nhau sà vào trong bẫy để ăn thóc. Bẫy sập xuống, nhưng cả bầy chim sẻ bay thoát gần hết, chỉ có đúng mỗi con chim sẻ đầu đàn bị dính mắc ở lại. Hai vợ chồng không biết nên làm thế nào với con chim sẻ bắt được, nên cầm nó đến hỏi ý kiến của bà cụ. Bà cụ bảo: – Vợ chồng anh chị đem nó về thịt mà ăn! Vậy là hai vợ chồng đem con chim sẻ đầu đàn về nhà định thịt. Nhưng bỗng bất ngờ, con chim sẻ cất tiếng nói: – Xin hai ông bà đừng có giết cháu. Cháu đã chót ăn hạt thóc thì nay xin trả bằng hạt mák teng lại (dưa bở) . Đó là loại dưa lúc chín thơm lừng cả bản. Ông bà đem gieo nó lên nương, khi có quả chín, hái đem bán thì sẽ không bị đói nghèo nữa. Nói xong, chim sẻ đầu đàn nhả ra trước mặt hai vợ chồng nghèo một nhúm hạt dưa. Nhưng hai vợ chồng bảo: – Lũ chim sẻ rừng chúng mày đã hại vợ chồng tao khốn đốn, làm sao có thể tin mày được! Chim sẻ năn nỉ: – Nếu không tin thì hai ông bà hãy làm một cái lồng, đem nhốt tạm cháu vào đó. Đến bao giờ ông bà được thu hoạch dưa quả thì lúc ấy hãy thả cháu ra. Hai vợ chồng làm y theo như lời của chim sẻ. Giống mák teng lại (dưa bở) được hai vợ chồng chăm sóc mọc rất nhanh. Chẳng mấy chốc chúng đã xanh um khắp mảnh nương của hai vợ chồng. Thế rồi dưa ra quả. Quả nào cũng mang sọc vằn trắng, vằn vàng. Đến mùa dưa chín, mùi thơm toả ngào ngạt theo gió bay xuống tới tận bản. Đúng lúc này, có một vị xen cha (thần tiên) ở trên mường bun xuống mường lúm để đi săn. Khi đi qua nương dưa, ngửi thấy mùi dưa thơm ngào ngạt, xen cha ghé vào định xin dưa ăn cho đỡ khát. Xen cha đi tới chỗ hai vợ chồng nghèo thì thấy hai người đang làm cỏ, mồ hôi mồ kê nhễ nhại toát ra mà vẫn không dám hái dưa để ăn. Thấy lạ, xen cha mới hỏi hai vợ chồng: – Dưa nhiều như vậy, hai người lại làm mệt mà sao không bứt lấy dưa mà ăn? Vợ chồng nghèo đáp: – Chẳng giấu gì, chúng tôi còn phải dành dưa để bán lấy tiền mua thóc giống đem trả nợ bà cụ đã có ơn giúp chúng tôi. Sau đó, hai vợ chồng tiếp tục giãi bày, kể cho xen cha nghe tình cảnh của hai vợ chồng. Biết rõ đầu đuôi mọi chuyện, xen cha không dám xin dưa ăn nữa. Khi trở về mường bun , xen cha đem chuyện mình được chứng kiến nói lại cho Vua Then nghe. Vua Then cảm động, bèn sai xen cha trở lại xuống mường lúm mua hết tất cả nương dưa chín của vợ chồng nghèo nọ để đem lên mường bun . Sau đó, Vua Then sai người đem hạt của giống dưa này quãi xuống mường lúm để ai ai cũng có thể được ăn thứ dưa ngon. Có tiền bạc rồi, hai vợ chồng nghèo mua thóc giống, trả hết nợ cho bà cụ và có chút của ăn của để. Hằng ngày, họ vẫn bên nhau cặm cụi chăm chỉ tiếp tục trồng dưa. Đến mùa dưa chín, ai đi qua nương dưa cũng khen dưa thơm và ngọt. Vốn sẵn lòng thơm thảo, lại nhớ tới cảnh ngộ trước đây khi nghèo khó cũng luôn được mọi người giúp đỡ nên ai xin dưa là hai vợ chồng biếu ngay. Tiếng lành đồn xa rơi tận chín suối. Thế là người khắp các nơi kéo nhau tới để xin giống dưa của hai vợ chồng. Vậy là vụ dưa năm ấy, hai vợ chồng biếu hết cả nương dưa, chỉ còn sót lại đúng một quả bị lấp ở trong bụi  rậm. Có một bà cụ người Mán (người Dao), cũng muốn xin dưa về để làm giống tìm đến gặp họ. Người chồng mới hái nốt quả dưa còn sót lại, đưa biếu bà cụ và bảo là không lấy tiền. Người vợ mới nói rằng: – Lấy dưa về làm giống trồng thì phải trả tiền. Nếu không, sợ sau này dưa ra sẽ không sai quả. Nghe thấy người vợ nói có lý, nên bà cụ người Mán trả cho họ ít xu lẻ rồi mang dưa về trồng. Từ đó, trên nương của người Mán, người Mèo (người H’mông) mới có thứ dưa bở vừa thơm vừa ngọt. Còn người Thái, vốn bản tính sởi lởi, hay đem biếu đem cho nên dưa bở trên nương dần dần thưa quả. Vì thế, dưa bở giận quá nên chỉ mọc tốt ở trên nương của người Mán, người Mèo. Dưa bở trồng ở những nơi khác không thể thơm và ngọt bằng. Vậy nên mới có thơ rằng: “Dưa bở trồng nơi núi cao, nương người Mán “Không trồng nơi nương bông đồi thấp, đất bằng”
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-dua-bo" }
Người đàn bà tiết liệt
Ngày xưa ở vùng Bắc Ninh là đất nổi tiếng có nhiều con gái đẹp, có một cô gái làng Cách bi, về làm vợ ông cử nhân Nguyên Hanh, giữ chức tri huyện Thủy đường, người ta vẫn thường gọi là bà huyện Thủy đường. Lấy chồng sinh được một con trai vừa được 7 tháng thì chồng mất. Bà huyện đang còn trẻ đẹp, nhưng nhất quyết ở vậy thờ chồng nuôi con. Trong làng có tên lý trưởng, vốn là tay cường hào, thấy bà huyện goá đang độ “gái một con trông mòn con mắt” nên thường kiếm cách trêu ghẹo. Muốn được yên thân nuôi con, bà khôn khéo từ chối, bảo chờ đến ngày bà đoạn tang chồng. Một hôm tên lý trưởng đón đường bà đi chợ về, xông ra ôm bà. Bà bỏ chạy về nhà, lạy bàn thờ chồng, rồi trao nhà cửa cho họ hàng, bế con lên chùa Kim giang để tu. Khi con trai được 7 tuổi, bà đưa con trở về nhà, bày lễ tế chồng, giết trâu mời họ hàng và xóm làng đến dự tiệc. Tên lý trưởng đã làm nhục bà lò mò đến, hí hửng nhắc đến lời hứa hẹn cũ. Bà trả lời rằng đợi cúng chồng xong rồi sẽ bàn tính đến. Trước đông đủ mặt bà con làng xóm, bà lạy bàn thờ chồng xong rồi cầm dao sắc chỉ vào mặt tên lý trưởng mà kể tội làm nhục bà trước kia. Bà nói rằng bà còn sống đến nay là vì đứa con trai nối nghiệp còn nhỏ, bây giờ bà có thể gửi con lại cho họ Nguyễn mà chết theo chồng cho trọn tiết nghĩa. Nói xong, bà tự cắt đứt lìa bên vú đã bị tên lý trưởng chọc ghẹo trước kia, rồi ngã xuống chết. Cả họ liền bắt trói tên cường hào giái lên quan trên trị tội. Con trai bà huyện Thủy đường là Nguyễn Cao, về sau học hành thi đỗ ra làm quan vào cuối triều vua Tự đức. Khi mất nước, Nguyễn Cao bỏ quan về làng, dù rất nghèo túng. Người Pháp dụ ông ra làm quan, nhưng ông từ chối, họ bảo ông rằng: – Chúng tôi nghi bụng ông lắm. – Nguyễn Cao trả lòi: các ông nghi thì để tôi vạch bụng ra cho mà xem. Vừa nói, ông vừa lấy móng tay bấm thủng bụng, lôi ruột ra. Người Pháp vội vàng đưa thầy thuốc đến cứu chữa, nhét ruột ông vào. Không được chết phô bày gan ruột yêu nước của mình, Nguyễn Cao liền cắn lưỡi tự tử. Dân gian khi nhắc đến mẹ con bà, thường nói: ” Mẹ anh hùng sinh ra con hào kiệt”.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-dan-ba-tiet-liet" }
Sự tích núi Tản Viên
Ngày xưa, có một người tiều phu cứ sáng tinh mơ thì vác búa vào rừng đốn củi. Mọi lần, anh chặt một ít cây khô ở rừng, được nặng gánh thì trở về; nhưng lần này anh định chặt thêm một cây gỗ cứng để đem về chống túp lều tranh, nên anh phải đi vào rừng sâu. Ðang đi, anh chợt nghe có tiếng trẻ khóc. Anh đứng lại nghe xem tiếng khóc ấy ở đâu đưa lại thì thấy ở phía trước mặt, dưới một lùm cây to, có một con dê rừng rất lớn đang lấy chân trước bới một đống cỏ khô, tiếng trẻ khóc ở đống cỏ đưa ra. Người tiều phu rón rén đến nấp sau một gốc cây lớn ở gần xem con dê làm gì. Con vật bới đống cỏ rất nhẹ nhàng, lòi dần ra một đứa trẻ còn đỏ hỏn, bụ bẫm, rồi nó nằm xuống cho đứa trẻ bú. Ðứa trẻ rít lấy rít để bầu sữa căng, một chốc con dê đứng dậy liếm mớ tóc bờm xờm của đứa trẻ rồi chạy đi. Con dê vừa đi khỏi thì một đàn chim bay đến phủ những cỏ khô lên người đứa bé, chỉ trong chớp mắt lại bay vù cả đi. Người tiều phu lẩm bẩm một mình: “Số mệnh đứa trẻ này thật kỳ lạ.” Anh đến bới đống cỏ khô, thì thấy là một đứa con trai. Anh bế lấy, đem về nuôi. Ðứa bé rất chóng lớn, người tiều phu chăm nom như con đẻ có một số mệnh kỳ lạ, anh đặt tên cho nó là Kỳ. Lớn lên, Kỳ rất khoẻ mạnh. Ngày ngày Kỳ vác búa theo cha nuôi vào rừng đốn củi. Một hôm, Kỳ chặt một cây lớn đến hai người ôm, chặt từ sáng tinh mơ đến nhá nhem tối mà vẫn chưa xong, nên đành bỏ dở ra về. Sáng hôm sau, đến gốc cây định chặt tiếp thì anh hết sức ngạc nhiên: Cái cây lớn chặt dở hôm qua bây giờ lại liền ruột liền vỏ như chưa có một vết búa nào chạm đến. Thấy thế, Kỳ không ngả lòng, anh lại giáng những nhát búa thật mạnh vào chỗ thân cây đã chặt hôm trước. Tuy anh gắng hết sức, nhưng đến nhá nhem tối anh vẫn chưa hạ xong cây. Sáng sớm hôm sau, Kỳ lại vác búa định tiếp tục công việc còn bỏ dở thì anh thấy vết chặt hôm trước hôm nay lại liền như cũ. Anh không nản chí, lại bắt đầu chặt, nhưng đến lúc nhọ mặt người, anh vẫn chưa chặt xong. Lần này anh không về. Anh leo lên một cây gần để rình xem ban đêm cây tự liền da liền thịt như thế nào. Ðến nửa đêm trăng sao vằng vặc đầy trời, bỗng có một ông già chống gậy đi từ từ đến cái cây chặt dở. Ông cụ cầm gậy chỉ vào cây, trong chớp mắt vết chặt lại liền như cũ. Kỳ vội tụt từ trên cây xuống, chạy đến hỏi ông cụ: – Tôi khó nhọc mới sắp hạ được một cây lớn, sao cụ lại phá hỏng công việc của tôi như thế ? Ông cụ đáp: – Ta là Thái bạch tinh quân đây, ta không muốn người chặt cây cổ thụ này. Thôi ta cho ngươi cái gậy ngươi đi tìm cây nhỏ mà chặt. Nói xong ông cụ trao cho Kỳ cái gậy chống ở tay rồi biến mất. Một hôm đi chơi men sông, Kỳ nhìn thấy con rắn lớn bị đánh dập đầu, đã chết từ lâu, Kỳ cầm gậy chỉ vào đầu rắn, thốt nhiên rắn sống lại vẫy đuôi, ngẩng đầu lên nhìn Kỳ rồi bò xuống sông mất. Một buổi tối Kỳ đang ngồi trong lều tranh thì một chàng thanh niên tuấn tú khăn áo chỉnh tề, đem châu báu đến tạ ơn Kỳ. Chàng xưng là Tiểu Long hầu con Long Vương ở biển Nam, bị trẻ chăn trâu đánh dập đầu chết ở bờ sông và được Kỳ cứu sống hôm nọ. Kỳ nhất định không nhận lễ vật. Chàng thanh niên có ý băn khoăn, cố mời Kỳ xuống thủy cung chơi. Chàng đưa cho Kỳ một ống linh tê để rẽ nước đi xuống. Ðược Kỳ xuống chơi, Long Vương rất lấy làm mừng rỡ, mở yến tiệc linh đình thết đãi. Ðến khi về, Long Vương đưa tiễn đủ các thứ vật lạ dưới biển, nhưng Kỳ nhất định không nhận. Sau Long Vương lấy ở tráp ra một quyển sách nói với chàng rằng: – Ngài cứu sống con lão, lão không biết lấy gì đáp lại. Nay biếu vật gì ngài cũng không nhận, lão xin có quyển sách này tặng ngài. Dùng quyển sách này, ngài sẽ ước gì được nấy. Kỳ nhận sách ước và trở lại trần gian. Từ đó, Chàng cầu được ước thấy, có phép biến hoá trở nên một vị thần cứu nhân độ thế. Thần đi qua cửa bể thần phù, theo dòng sông lớn, đổ ngược mãi lên, tìm nơi đất cao phong cảnh đẹp để cắm chỗ ở. Ðến một nơi thấy có một ngọn núi cao chót vót ba tầng, tròn như cái tán, thần hoá phép mở một con đường qua các động và các suối lên đỉnh núi và hoá phép thành lâu đài để ở. Khi đã định cư rồi thần thường xuống núi đi xem khắp phong cảnh đẹp và dùng phép cứu nhân dân rất nhiều. Ngọn núi thần ở là núi Tản Viên, nên người ta gọi thần là thần Tản Viên hay Sơn Tinh.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-nui-tan-vien" }
Sự tích hoa Thiên Lý
Ngày xưa, xưa xưa, có một chàng trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã quyết tâm tu luyện cho thành người để giành chàng làm chồng, mặc dù chàng đã có vợ. Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất trở về, vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ trẻ vừa xinh, vừa hiền của mình ra đón. Chàng vui lắm, đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành người và đã giả giọng giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng, dáng đi… Về đến nhà, chàng trai bỗng rụng rời thấy một người vợ thứ hai bước ra… Chàng trai không còn biết ai là vợ thật của mình nữa. Hai người đàn bà trẻ giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ giúp đỡ. Nghe chàng nói rõ ngọn ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà trẻ đến. Cụ già lấy vải đen bịt mắt cả hai lại rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba người đàn ông khác nhau và dặn: – Cứ ngửi đi và cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu! Cô vợ thật được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo. ông cụ liền cho mang đến ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. ông cụ dặn: – Thứ canh nào chồng thích ăn thì gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu. Sự việc lại diễn ra như lần thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả cũng gật đầu theo. ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm. Hôm sau, cụ lại cho mời hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa. -Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường. Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng. Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ giả đã vẫy tay và gọi to: – Anh ơi! Em ở đằng này này! Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là chồng cô. Cụ già liền dẫn chàng trai thứ ba đến trước cô vợ giả và nói: – Như vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ manh tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô. Rồi cụ lại cho gọi cô vợ thật đến và hỏi: – Trong ba chàng trai, không có ai là chồng cô sao? – Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra! Cụ già liền cho ba chàng trai khác tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ: – Anh ơi! anh ơi! Đúng đó là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất . Hai vợ chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. ông cụ tươi cười bảo: – Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi. Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của ông thôi! Chàng trai liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê… Hai vợ chồng sau đó liền kéo nhau trở về nhà. Họ sống bên nhau đầm ấm vui vẻ. Hai vợ chồng cùng làm ruộng. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng nghe. Ngày hội, ngày Tết, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu đời và quý mến nhau. Một buổi chiều, người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để có gió, hương hoa càng bay thơm khắp nhà. Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai vợ chồng đều lạ lùng thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa sổ. Và sau đó, không phải chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở tiếp theo. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt. Loại hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa thiên lý. Vì sao lại có cái tên ấy? Các cụ xưa giải nghĩa: Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn thiên lý là vì ông cụ có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt tên mới cho cô và trêu cô: – Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý. Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình… ! Các cụ còn nói thêm: Cô vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối với cô vợ thật… Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên Lý, yêu mùi hương Thiên Lý. Nhưng cho đến nay càng ngày mọi người càng quý càng yêu loại hoa có mùi hương rất dung dị và mộc mạc này.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-thien-ly" }
Một điều ước
Một ngày mùa thu, khi đó trong những cánh rừng, những hàng cây đã rụng hết những chiếc lá cuối cùng trên thân mình để đón đợi một mùa đông giá rét. Những con chim trú đông cũng đã bỏ chỗ trú ẩn của mình để đi nơi khác, khiến cho khu rừng trở nên vắng vẻ và buồn bã vô cùng. Nhưng có một con chim không đi trú đông. Đó là chú chim sâu bé nhỏ, sống ẩn trong một hốc cây trong rừng. Hàng ngày, chú chim sâu thường bay vào khu làng ven rừng. Tại đây có một ngôi nhà nhỏ xinh xắn. Ở trên căn gác của ngôi nhà có một ô cửa kính bị vỡ, lâu lắm rồi không được thay thế. Chim sâu vẫn thường bay vào chỗ kính vỡ ấy để nghỉ ngơi, hay kiếm một thứ gì đó ăn được. Một buổi sáng nọ, khi chú chim sâu mới vừa bay vào căn phòng nhỏ ở căn gác thì nghe tiếng gọi: - Anh chim sâuChim sâu ngạc nhiên, ngó quanh quất. Trong ánh sáng mờ mờ, chim sâu chỉ thấy những màng nhện giăng ngang dọc, những vết nứt của bức tường lâu ngày không quét dọn, sơn sửa và đủ thứ đồ chơi linh tinh trên nóc chiếc tủ cũ. - Anh chim sâu. Anh chim sâu ! Tiếng gọi lại vang lên một lần nữa. Ma chăng ? Chim sâu e dè. Lại ngó qua, ngó lại, ngó lên, ngó xuống. Không thấy gì cả. Rõ ràng là không con chim nào có thể lọt vào căn phòng từ chỗ ô cửa vỡ, vì chỗ vỡ chỉ vừa vặn cho chú chim sâu lọt vào. Ngần ngừ một lát, chim sâu cất tiếng hỏi lại : - Ai vậy ? Ai hỏi tôi vậy ? - Tôi đây, tôi ở trên nóc tủ đây. Chim sâu lúc ấy mới nhìn lên nóc tủ. Trên nóc tủ có một con búp bê. Con búp bê trang phục giống như nàng Công chúa nhưng đã tơi tả chứng tỏ rằng trước khi bị vứt vào đây đã có một thời xinh đẹp. Khi bắt gặp cái nhìn của chim sâu, búp bê Công Chúa chớp chớp mắt : - Tôi đây, Công Chúa gọi anh đấy anh chim sâu ạ. - Gọi tôi, gọi tôi để làm gì ? Chim sâu trố mắt nhìn con búp bê Công Chúa, hỏi lại. - Có gì đâu, tôi chỉ muốn làm bạn với anh. - Làm bạn với tôi ? Tôi chỉ là con chim xấu xí. Còn cô là Công Chúa. - Công Chúa gì mà Công Chúa ? Tôi chỉ là con búp bê được cưng chiều, cô chủ nhỏ đã vứt tôi lên đây. Tôi buồn lắm. Xưa nay, chim sâu gần như không có bạn. Khi đến gần những chú vàng anh có bộ lông vàng rực rỡ, chim sâu bị hỏi: - Ê, thằng xấu xí, mày có biết hát không? Mày có bộ lông đẹp không ? Đi chỗ khác chơi Chim sâu buồn lắm, lại bay tìm bạn. Nhưng bất cứ đó là chim gì - Két, chóp mào, manh manh hay cả những con cu cườm lười biếng đang nằm trong những chiếc tổ sơ sài nơi bụi gai cũng đuổi: - Cút đi, đi đi, ai mà làm bạn với thứ nhóc con Vậy mà, giờ đây có một nàng Công Chúa đòi làm bạn với chim sâu. Từ ngày đó, hàng ngày chim sâu bay qua ô cửa kính vỡ, thăm người bạn của mình, Đôi bên trò chuyện với nhau như không bao giờ hết. Theo lời kể, ngày xưa Công Chúa sống ở một gian hàng bán đồ chơi đắt tiền trong thành phố. Được chủ nhà mua vể tặng sinh nhật cho con gái. Nhưng chơi chẳng bao lâu. Công Chú bị hành hạ đủ điều, một con mắt bị mất, một cách tay suýt nữa thì tàn tật và mái tóc vàng bị cắt lam nham. Rồi Công Chúa bị vất lên căn gác làm nhà kho này. - Tôi đặt tên cho anh là Anh Dũng, được không ? - Công Chúa nói. - Cũng được, nhưng tôi chỉ là con chim sâu. Chim sâu nói. - Ở ngoài rừng đẹp không ? - Đẹp. Mùa thu sắp hết rồi. Và chú chim sâu - giờ có tên là Anh Dũng hàng ngày cứ bay đi, rồi kể lại cho Công Chúa nghe. Biết bao chuyện để mà kể ? Này nhé, hai vợ chồng chú gấu cãi nhau vì không tìm ra mật để dành cho mùa đông. Con chim vàng anh bị khản giọng vì hót nhiều quá. Còn nữa, có đám cháy bên kia rừng đỏ lửa một ngày trời. - Thích quá, thích quá. Không có anh làm sao tôi biết được như thế ? À, anh có thể tặng tôi một bông hoa tím dại mọc ven bờ suối không ? - Hoa tím dại để làm gì ? - Chim sâu hỏi . - Anh không biết câu chuyện cổ tích à ? Hôm còn ở với cô chủ, tôi có nghe cô đọc câu chuyện này. Chuyện nói là ai được một người tặng bông hoa tím dại thì uớc gì được nấy. - Công Chúa định ước gì ? Công Chúa cười : - Bí mật, khi nào có hoa tím dại tôi sẽ ước. Anh sẽ biết. - Nhưng tôi đâu phải là con người ? - Ờ há, nhưng tôi cũng chỉ là con búp bê. Đó là lý do chú chim Anh Dũng không đi trú đông. Bởi lẽ, khi ngọn gió lạnh đầu tiên thổi tới, loại hoa tím dại ven bở sông mới nở. Loại hoa cũng thật lạ cứ lựa vào mùa đông mà nở hoa. Chim sâu đã hứa với công chúa là sẽ đem hoa tím dại về, mà đã hứa với ai thì phải thực hiện cho bằng được. Mỗi lần ghé y như rằng Công Chúa đều hỏi: - Hoa tím dại nở chưa ?  Hoa tím dại có thực hiện được lời hứa cho Công Chúa không ? Chim Anh Dũng không biết - Nhưng chứ chim sâu vẫn tò mò muốn biết Công Chúa ước điều gì. Rồi sáng hôm ấy, như thường lệ chú chim Anh Dũng bay vòng qua bờ suối. Chợt chú chim sâu cảm thấy lòng mình rộn rã, trước mặt chú là một bông hoa tím đầu tiên đã nhú lên đón chào ánh nắng mặt trời. Một cơn gió lạnh tràn tới. Cái lạnh kinh khủng khiến cho chú chim sâu chịu không nổi. Đáng lẽ với cái lạnh này, kẻ không có việc thì nên trú ẩn trong tổ ấm của mình. Nhưng chú Anh Dũng không thể không hái hoa tím kia cho bạn. Phải vất vả lắm chú chim sâu mới ngắt được đóa hoa tím. Nhưng khi đã dồn hết sức lực để hái hoa tím. Nhưng khi đã dồn hết sức lực để hái hoa tím, tưởng chừng chú chim sâu không còn sức lực, để đem đóa hoa đến Công Chúa nữa. - Không được đâu, mình phải đem bông hoa tím này cho Công Chúa. Có thể Công Chúa cần điều ước mà mình mang tới. Nhủ như thế, rồi chú chim sâu nhả đóa hoa trước mặt mình. Đóa hoa xinh đẹp biết nhường nào. Công Chúa đã mơ ước điều này lâu lắm rồi, đó là Công Chúa sẽ được xinh đẹp như xưa, sẽ được cô chủ cưng chiều như ngày trước. - Hoa tím, hoa tím … tôi ước … Lúc đó Công Chúa chợt nhìn thấy chim sâu nằm bất động dưới sàn nhà, đang thoi thóp thở. - Tôi ước … tôi ước … trời ơi, Anh Dũng … tôi ước Anh Dũng sống lại như anh đã sống … Những giọt nước mắt của Công Chúa nhỏ xuống nền đất, chạm vào chim sâu. Chim sâu bỗng vỗ cánh trở lại, rồi bay vút lên, ngơ ngác, nhìn cành hoa tím. - Sao ? Công Chúa ước chưa ? - Rồi - Công Chúa trả lời. Câu chuyện tới đây là hết. Có người nói sau đó Công Chúa đã được biến thành con chim sâu như chú chim Anh Dũng - và đôi bạn đã bay về phương Bắc trú đông. Người khác nói, sau đó Công Chúa được trở về với chủ cũ, thỉnh thoảng chim sâu tới thăm. Nhưng đó chỉ là điều kể lại. Điều quan trọng là chú chim sâu của chúng ta đã giúp bạn hết lòng. Còn búp bê Công Chúa đã có một điều ước đẹp...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/mot-dieu-uoc" }
Hai chị em
Ngày xưa, trong nhà nọ có hai chị em, mỗi người một tính nết. Người chị xinh đẹp, tham lam và lười nhác. Người em bị què tay, nhưng rất siêng năng làm lụng. Người chị cậy khoẻ, cậy xinh, sáng trưa chiều tối chỉ luẩn quẩn nào gương nào lược. Chơi bời vô độ nên chẳng bao lâu người chị đã gầy khô hơn que củi mặt mũi héo tóp như một xác chết. Người em mang tật: Tay phải co quắp từ thửa lọt lòng, mọi việc như cầm dao, cầm cầy, vốc cơm ăn cũng nhờ ở bàn tay bên trái. Quanh năm chỉ có một bộ váy áo chăn rách như tổ đỉa. Một hôm nọ, trời làm lũ lụt lớn, nước ngập hết làng, cây cỏ lúa, ngô hết chỗ cắm chân, người em bèn ngồi ôm lấy chóp núi đá, kêu trời gọi đất. Mệt quá, người em ngủ thiếp đi ba ngày bẩy đêm liền, thấy em ngủ lặng, người chị ngỡ là em đã chết, bèn cưỡi bè chuối chèo đi, bỏ mặc em trên chóp núi. Người em mở mắt choàng dậy thì nước vẫn chưa rút. Ðợi khi mặt trời đến người em liền kêu to: – Ơi, ông trời! Ông trời dừng lại hỏi: – Cháu muốn gì? Người em nói: – Ông cứu lấy chị cháu, chị cháu bị nước lũ nhận chìm mất rồi. Ông cứu được, cháu muốn chị ấy lấy được ông Mặt Trời làm chồng. Ông mặt trời cười bảo: – Chị cháu đến nhà tiên ông rồi. Cháu hãy gieo hạt này ở chóp đá của cháu thì cháu muốn cái gì cũng được cái ấy. Nói xong, ông Mặt Trời lại lặn đi. Cũng lúc ấy người chị chèo bè chuối đến gõ cửa nhà Tiên ông, bè chuối giạt lên sân thì người chị hò hét: – Cho tôi gặp chàng tiên đẹp nhất! Tiên ông nhìn ra thấy có người con gái lạ, lại đòi gặp tiên, liền mời vào nhà. Người chị nói luôn: – Tôi không lấy ông đâu, ông già và xấu quá, cho tôi lấy chàng tiên đẹp nhất. Tiên ông gật đầu bảo: – Ừ! Nói rồi, Tiên ông khoát tay một cái, lập tức từ trong nhà có một chàng trai đi ra, nắm lấy tay người chị. Chàng trai là dòng họ của Cóc tía, cho nên tiên ông đặt tên chàng là chàng Cóc tía. Từ đấy, vợ chồng người chị sống cuộc sống sung sướng trong cảnh tiên. Người em gieo cái hạt của ông mặt trời cho vào kẽ đá, nàng lấy bàn tay trái của mình vơ rêu lá, giật cả vạt áo mình phủ cho hạt được nguyên lành. Chẳng bao lâu từ kẽ đá vươn ra một cây bầu, quả to như cái sọt. Nàng lăn bầu xếp ra rìa núi. Núi bầu cứ nối nhau, nối nhau mọc ra, vùng nước lũ cứ thu hẹp dần nhường chỗ cho bầu ở. Một ngày kia, người tiên thấy có nhiều núi nhỏ lên chật cả gầm trời. Vợ chồng Cóc Tía nhìn xuống thì thấy người con gái cầm dao bằng tay trái cứ quần quật bổ bầu ra chia cho mọi người. Người chị nhận ra kẻ ngồi với núi bầu là đứa em của mình, lòng ghen ghét lại nổi lên. Mụ liền kéo tay chồng bảo: – Cái con què đó còn sống, nó có nhiều bầu kia kìa. Chàng Cóc Tía chưa kịp hỏi thêm đầu đuôi ra sao thì mụ đã nắm tay chồng bảo nhảy ào xuống các chỏm núi bầu. Nhẩy khỏi nhà trời, vợ chồng hắn hiện nguyên hình một đôi Cóc Tía. Ðôi vợ chồng Cóc Tía ngồi chồm chỗm trên một quả bầu. Người em hỏi: – Cóc muốn gì? Cóc nói: – Ta muốn nhận mày là em gái. Người em lắc đầu: – Chị ta lên trời lâu rồi. Cóc bảo: – Tao là chị đây, còn đây là anh rể của mày. Người em ngồi nghe Cóc Tía vợ kể lại chuyện cũ gặp lũ to, chèo bè chuối lên trời ra sao… Nghe mãi rồi tin lời Cóc là phải. Người em liền nhận anh chị và cho ở chung trên ngọn núi cùng chăm nom dây bầu với mình. Khi ấy, ông Mặt trời đi qua, dừng lại nói với người em: – Anh chị đã về với cháu đấy. Người em nói: – Vâng. Ông mặt trời bảo: – Bây giờ ta cho cháu một người chồng, cháu hãy bổ quả bầu xấu nhất ra thì gặp chồng. Người em liền bổ quả bầu vặn vẹo xấu xí, vỏ bầu tách ra thì có một chàng trai khôi ngô, tuấn tú hiện ra nhận là chồng của người em, Hai vợ chồng người em lại lấy quả bầu xếp bậc xuống thấp dần. Họ xếp quả bầu đến đâu thì mực nước lui xuống đến đó. Ðồng ruộng làng mạc lại hiện về như xưa. Bà con làng xóm trở về làm ăn sing sống yên ấm. Cũng từ đấy vợ chồng Cóc Tía được người em đưa xuống cùng ăn ở, làm lụng với dân bản. Người chị không còn ghen ghét với em gái như xưa nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-chi-em" }
Sự tích quả roi
Ngày xưa, có một người thầy nổi tiếng là dạy giỏi và hiền lành.  Một hôm có ba người trẻ tuổi đến xin ông nhận vào học. Hai anh là con nhà nghèo. Một anh là con nhà giàu, không muốn học nhưng bị bố bắt ép phải học để may ra kiếm được vài chữ, rồi khéo chạy chọt thì anh ta có thể thi đỗ và ra làm quan to. Đã giàu lại làm quan to thì lúc đó mới thật là sung sướng. Lúc nhận vào học, ông thầy nói trước với ba người trẻ tuổi: – Học tôi thì phải học cái hay, cái tốt trước rồi sau mới học cái chữ, cái nghĩa. Học giỏi thì được khen. Học kém thì phải phạt. Tôi không phạt bằng roi. Tôi có con ốc này thay cho roi nên tôi gọi nó là con ốc roi. Tự nó sẽ khen và chê rất công bằng. Học giỏi thì nó sáng lên như đèn và sẽ giúp cho các anh thành đạt. Học kém thì nó đen dần lại như than và chỉ có đem vứt vô xó. Nói xong, thầy trao cho mỗi người một con ốc roi màu xám, to bằng ngón chân út và bảo buộc dây đeo vào cổ. Thầy lại nói tiếp: – Thiên hạ có ba bồ chữ, nhưng tôi thì chỉ được có một bồ. Học hết bồ chữ của tôi, các anh đi tìm thầy khác mà học thêm. Ba người học trò, học được một năm thì ba con ốc đã đổi thành ba màu khác hẳn. Hai anh con nhà nghèo thì con ốc đeo ở cổ ngày càng sáng ra, một con sáng trắng, một con sáng hồng. Còn con ốc của anh con nhà giàu thì cứ đen dần và ngày càng đen thẫm lại… Hai anh con nhà nghèo vừa làm thuê kiếm sống vừa đến học thầy. Hai anh học giỏi lại biết đối xử với mọi người rất tử tế và lễ độ. Còn anh con nhà giàu thì cứ học đâu quên đấy vì anh mải say mê rượu chè, trai gái, và đối với mọi người thì anh ta hỗn láo, xấc xược. Ngay cả với thầy, anh ta cũng chê: – Lão ta chỉ có một bồ chữ, tao thèm học làm gì! Nay mai bố tao sẽ mời thầy có đủ ba bồ chữ về dạy! Thấy ốc của hai anh con nhà nghèo sáng ra, đẹp lên như đèn, như ngọc, còn ốc của mình cứ đen dần, tối lại, anh ta vừa ghen tức với hai anh kia vừa căm giận ông thầy. Anh ta liền về bịa chuyện nói xấu ông thầy và mách với bố: – Lão ta nói con học kém vì bố ngu dốt, mò khắp người bố cũng không kiếm được lấy nửa chữ, chứ đừng nói là một chữ! Lão nhà giàu giận lắm, lại nghĩ rằng con mình có học cũng không ra gì bèn nói: – Được! Để rồi lão sẽ biết tay tao! Ba ngày sau lão sai người đến đốt luôn nhà ông thầy và bảo thằng con đứng canh ở cửa không cho ông thầy chạy ra để ông chết cháy với ngôi nhà một thể. Nhưng hai anh học trò nhà nghèo đã liều chết xông vào, một anh cõng thầy, một anh cõng sách. Lúc cõng sách ra, mọi người mới thấy rõ là thầy đã nói ít đi chứ thật ra, ông có đủ cả ba bồ chữ lớn của thiên hạ. Cứu được thầy, hai người lại rước luôn thầy về nhà mình để vừa nuôi thầy, vừa nhờ thầy dạy tiếp. Hai con ốc của hai anh học trò nghèo từ đó càng sáng rực lên như ngọc. Còn con ốc của thằng con lão nhà giàu thì đen ngòm như một hòn than xỉ. Ngày hôm sau không nén được giận, nó liền bứt con ốc ra và vứt luôn xuống ao. Ngực nó bỗng đau nhói lên ở chỗ con ốc hay nằm trước kia, và liền đó, nó ngã lăn ra, hộc máu chết ngay tức khắc. Lão nhà giàu vừa sợ, vừa giận, liền cho một tên tay sai đi gọi thầy tới nhà để nó hỏi tội. Tên tay sai tới nhà thì vừa gặp lúc ông thầy đang nói chuyện với hai anh học trò nghèo. Vốn là một tay ranh ma, xảo quyệt, nó liền nấp vào một chỗ kín và rình nghe. Nó nghe ông thầy đang hỏi: – Hai con hãy nói thật cho thầy rõ vì sao ốc của hai con, con này sáng trắng, con kia lại sáng hồng! Hai anh học trò bối rối nhìn nhau rồi cùng đáp: – Thưa thầy, chúng con cũng không hiểu vì sao ạ! Ông thầy liền cười và nói với cái anh người nhỏ bé hơn: – Thôi, con đừng giấu thầy nữa. Ốc nó đã nói hết với thầy rồi. Có phải là con là con gái giả trai không? Người học trò kia tái cả mặt lại và mãi một lâu mới dám thú nhận: – Thưa thầy, vì phép vua không cho con gái đi thi nên con đành phải làm như vậy… Xin thầy xá tội cho con! Thầy liền nói: – Thầy biết lắm. Nhưng nếu việc này để lộ ra thì con sẽ bị tội chém đầu, mà thầy cũng không sống nổi! Ba thầy trò im lặng nhìn nhau: – Tuy vậy, thầy biết hai con là người tài giỏi, lại có chí lớn. Vì lẽ đó, thầy sẽ giấu kín việc này và hai con cứ việc học tiếp. Thầy tin là sau này hai con sẽ giúp được ích lớn cho đời… Tên tay sai lão nhà giàu nghe được đầu đuôi câu chuyện liền chạy tức tốc về nhà mách ngay với chủ. Lão nhà giàu mừng rỡ vì đã có cách trị tội mấy thầy trò nhà kia. Năm sau, hai người học trò nhà nghèo lên kinh đi thi. Người con gái giả trai đỗ nhất. Người con trai đỗ nhì. Bảng vàng vừa treo lên thì tên nhà giàu cũng đã kịp nhờ người tâu với vua là ba thầy trò nhà kia đã dám chống lại lệnh vua và dám lừa gạt cả vua. Cũng may là ở trong cung, có một cụ già giữ ngựa. Cụ rất ghét tên vua ác độc và lũ quan tham nhũng nên cụ nhờ người tin cho hai người học trò nghèo vừa đỗ nhất và nhì biết chuyện không hay sắp xảy ra… Hai người liền nhanh chân chạy trốn. Hai người lúc này đã cùng học, cùng sống gần nhau lâu ngày nên rất hiểu nhau và rất yêu nhau. Hai người bèn bàn nhau cùng về làng để đưa thầy lánh đi nơi khác. Nhưng về đến nhà thì biết thầy đang ốm nặng, khó sống nổi. Mang nặng ơn thầy lại được thầy yêu quý, hai người không nỡ để thầy ở lại một mình. Thấy hai người cứ nấn ná, ông thầy liền nói: – Thầy rất hiểu lòng và rất quý hai con. Nhưng hai con còn ở đây thì khó mà tránh khỏi tội chết. Hai con hãy trốn ngay đi cho thầy vui lòng, và hãy nghe thầy nhanh nhanh chạy lánh cho thật xa… Nói xong ông liền lấy ở dưới gối ra một chuỗi ốc dài, trao cho hai người học trò thân yêu và nói: – Đời thầy chỉ có nghề dạy học và chuỗi ốc này. Thầy cho hai con để hai con tiếp tục nghề của thầy, cố dạy cho lớp đàn em học đủ cái tốt, cái hay, cho đủ cái chữ cái nghĩa, để sau này sẽ có lúc đem tài sức ra mà giúp ích cho đời. Như để cho hai người học trò thân yêu của mình yên tâm và còn đủ thì giờ chạy trốn, ông thầy vừa nói hết lời cũng nhắm mắt từ giã cõi đời. Hai người chỉ kịp ôm lấy xác thầy thương khóc lần cuối, rồi cấp tốc ra đi. Hai người lánh vào một khu rừng ít người lui tới. Về sau, khi tên vua tàn ác bị giết và một vị hoàng tử được nhân dân quý mến lên thay thì hai người lại vâng theo lời thầy dạy trở về làng mở lớp dạy học. Và cũng như thầy cũ, mỗi khi nhận người vào học, hai người lại trao cho mỗi học trò một con ốc roi để theo dõi việc ăn ở, học hành. Khi hai người chết đi, và chỉ chết cách nhau mấy hôm thì không hiểu vì sao, từ mộ hai người mọc lên hai mầm cây rất đẹp, rất hiền. Và khi cây ra hoa kết quả thì đó là một thứ quả mới lạ nhìn giống như những con ốc roi ngày nào. Cây ở mộ người con gái giả trai thì quả màu hồng Còn cây ở mộ người con trai thì quả màu trắng. Cây ấy là cây roi ngày nay.Có lẽ trước kia, ông bà ta gọi đủ cả tên là ốc roi, nhưng dần dà thì chỉ còn lại cái tên Roi. Roi mà không dùng để đánh đập. Roi mà lại hiền lành và tươi mát. Và chỉ cốt để nhắc lại với người đời sau câu chuyện ngày xưa về tình nghĩa thầy trò, về những con người hết sức đáng yêu…
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-qua-roi" }
Sự tích người mẹ
Ngày xưa, khi tạo ra người Mẹ đầu tiên trên thế gian, ông Trời đã làm việc miệt mài suốt sáu ngày liền, quên ăn quên ngủ mà vẫn chưa xong việc.Thấy vậy một vị thần bèn hỏi: - Tại sao ngài lại mất quá nhiều thời giờ cho tạo vật này? Ông Trời đáp: - Ngươi thấy đấy. Đây là một tạo vật cực kì phức tạp gồm hơn hai trăm bộ phận có thể thay thế nhau và cực kì bền bỉ, nhưng lại không phải là gỗ đá vô tri vô giác. Tạo vật này có thể sống bằng nước lã và thức ăn thừa của con, nhưng lại đủ sức ôm ấp trong vòng tay nhiều đứa con cùng một lúc. Nụ hôn của nó có thể chữa lành mọi vết thương, từ vết trầy trên đầu gối cho tới một trái tim tan nát. Ngoài ra ta định ban cho vật này có sáu đôi tay Vị thần nọ ngạc nhiên: - Sáu đôi tay? Không thể tin được! Ông Trời đáp lại: - Thế còn ít đấy. Nếu nó có ba đôi mắt cũng chưa chắc đã đủ. - Vậy thì ngài sẽ vi phạm các tiêu chuẩn về con người do chính ngài đặt ra trước đây - vị thần nói. Ông Trời gật đầu thở dài: - Đành vậy. Sinh vật này là vật ta tâm đắc nhất trong những gì ta đã tạo ra, nên ta dành mọi sự ưu ái cho nó. Nó có một đôi mắt nhìn xuyên qua cánh cửa đóng kín và biết được lũ trẻ đang làm gì. Đôi mắt thứ hai ở sau gáy để nhìn thấy mọi điều mà ai cũng nghĩ là không thể biết được. Đôi mắt thứ ba nằm trên trán để nhìn thấu ruột gan của những đứa con lầm lạc. Và đôi mắt này sẽ nói cho những đứa con đó biết rằng Mẹ chúng luôn hiểu, thương yêu và sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của chúng, dù bà không hề nói ra. Vị thần nọ chạm vào tạo vật mà ông Trời đang bỏ công cho ra đời và kêu lên: - Tại sao nó lại mềm mại đến thế? Ông trời đáp: - Vậy là ngươi chưa biết. Tạo vật này rất cứng cỏi. Ngươi không thể tưởng tượng nổi những khổ đau mà tạo vật này sẽ chịu đựng và những công việc mà nó phải hoàn tất trong cuộc đời. Vị thần dường như phát hiện ra điều gì, bèn đưa tay sờ lên má người Mẹ đang được ông Trời tạo ra. - Ồ, thưa ngài. Hình như ngài để rơi cái gì ở đây. - Không phải. Đó là những giọt nước mắt đấy - ông Trời thở dài. - Nước mắt để làm gì, thưa ngài? - vị thần hỏi. - Để bộc lộ niềm vui, nỗi buồn, sự thất vọng, đau đớn, đơn độc và cả lòng tự hào – những thứ mà người Mẹ nào cũng sẽ trải qua...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-nguoi-me" }
Nàng vỏ trứng
Ngày xưa, trên đất Mường Ai có hai anh em mồ côi cha mẹ từ lúc còn nhỏ, người anh tên là Cả, em tên là Hai. Hàng ngày hai anh em vác cần câu ra suối, câu được cá đem đi đổi lấy quần áo để mặc, cơm gạo để ăn. Ngày nào Cả và Hai cũng câu được rất nhiều cá. Một hôm, câu từ sớm đến trưa mà chẳng được con cá nào, Hai bàn với anh: - Anh ạ, ta đi về thôi. Cả rút dây câu, lại thấy lưỡi câu động đậy, cái phao chìm nghỉm. Anh giật cần câu nhưng không kéo nổi. Hai lội xuống mò thì thấy lưỡi câu bị một hòn đá như cái trứng gà đè lên. Tưởng là có cá to, họ lại câu nữa. Nhưng cứ mỗi lần phao chìm là lưỡi câu lại mắc vào hòn đá nọ. Lần này, Hai mò hòn đá lên nhìn kỹ rồi reo to: - Ồ, cái trứng. Ngồi câu suốt buổi mà chỉ được mỗi cái trứng lạ, họ bèn quay về nhà. Hai bỏ trứng vào nồi đem luộc. Nước sôi lâu lắm mà trứng vẫn nổi lên kêu loong coong. Anh Cả bàn nên đập trứng ra xem, Hai ngăn lại nói: - Ta đem cho gà ấp thử coi. Gà mái ấp được nửa tháng, cái trứng vẫn không nở. Cả hai toan đập trứng, Hai lại ngăn, và họ đem trứng cất lên gác, Hai bàn với Cả: - Trời mưa, ta không đi câu được, ta sẽ đi phát rẫy để có ngô, lúa. Hôm sau, họ đã phát xong đám rẫy to bằng mười gian nhà thì chợt có con quạ đậu ở chót ngọn cây kêu: Tao nghe khát nước Ai tìm cho tao Rồi muốn cái nào Tao cho cái ấy. Nghe quạ kêu vậy. Hai mừng lắm, cầm vò nước giơ lên nói: Tao cần hột lúa, hột ngô Để trồng nương, trỉa rẫy Nếu cho tao giống với Thì xuống uống nước ngon. Quạ liền sà xuống uống một hơi cạn cả vò nước, rồi nó vỗ cánh bay đi. Hôm sau Cả và Hai đến rẫy thì thấy một đống ngô vàng và một gùi lúa. Họ liền lấy hạt ngô tỉa xuống rẫy, hạt thóc gieo xuống nương. Ngày tháng trôi đi, ngô đã vàng áo, lúa đã trau bông, Cả và Hai gánh ngô, lúa về chất kín cả nhà. Mỗi bận đi nương về, hai chàng đã thấy ngô lúa được xếp vào gác cẩn thận. Lại có hôm, họ thấy có nhiều đon lúa được vò sẵn thành hột, có cả gạo giã đầy cót, đầy nong. Hai chàng ngạc nhiên lắm. Lạ hơn nữa là buổi nào về nhà cũng thấy cơm canh dọn sẵn. Hai chàng chưa biết người nào đã tốt bụng giúp mình để đền ơn, hỏi nhà nào họ cũng lắc đầu không biết. Hôm ấy, Cả ra rẫy, Hai ở nhà rình, nhưng chẳng thấy gì lạ. Chiều họ bèn lên nương, sẩm tối về nhà lại thấy cơm canh dọn sẵn. Sáng hôm sau hai chàng lại lên nương, đến nửa đường, Hai lại trở về nấp kín sau những tàu lá cọ che cổng. Đứng nhìn lâu, bỗng anh thấy một cô gái đẹp từ trong trứng chui ra. Cô gái nhìn ngó chẳng thấy ai, bèn lấy lúa ra vò, lấy gạo nấu cơm. Hai vừa sợ, vừa mừng, anh đoán đó là người tốt thương hai anh em, nên yên bụng. Cô gái làm xong việc, đành trở lại vỏ trứng, thì Hai chạy bổ ra nắm chặt vỏ trứng bóp nát. Mất vỏ trứng, cô gái đành đứng run sợ. Hai nói: - Nàng là ai? Cô gái trả lời: - Tôi là con út vua Thủy Tề. Vua cha thấy hai chàng nghèo khó, siêng năng chăm chỉ nên sai tôi lên giúp việc cửa, việc nhà. Từ hôm có nàng Vỏ Trứng ở trong nhà, hai chàng làm ăn mỗi ngày mỗi khấm khá. Hai bàn với anh là nàng Vỏ Trứng nên kết làm vợ chồng với anh mình. Nàng Vỏ Trứng trồng một cây cam trước cổng nhà. Chẳng bao lâu cây cam có quả sai và to. Tin đồn anh Cả có vợ đẹp vang đi khắp mường. Tạo Nòi con lão lang lấy cớ đi săn nai ghé qua nhà Cả và Hai. Hắn thấy quả là có cô gái đẹp nhất vùng. Hắn liền sắm trâu, bò, lợn, rượu khiêng đến nhà Cả và Hai. Tạo Nòi nói: - Ta thương các anh siêng năng nên đem ít vốn này đến giúp. Anh Cả định nhận lấy, thì nàng Vỏ Trứng ra hiệu cho anh. Biết ý nàng, Cả liền nói: - Nhà tôi đã có hạt ngô, hạt thóc rồi! Xin ông Tạo Nòi chở các thứ này vào nhà khác. Nói rồi, Cả bảo vợ làm thịt gà, dọn cơm rượu cho Tạo Nòi ăn no, uống say. Hôm sau, Tạo Nòi ốm liệt giường. Nhà Lang chạy chữa hết thuốc này đến thuốc nọ, bệnh của Tạo Nòi càng tăng lên. Nhà lang vội kéo đến bắt vạ anh em Cả. Lão lang nói: - Thằng Tạo Nòi chết, tao sẽ không để yên cho hai anh em mày. Hai nhìn chị dâu. Nàng Vỏ Trứng lễ phép nói: - Tôi cho thuốc sẽ lành bệnh ngay, nhưng nhà lang không được đến nhà tôi mà làm tình làm tội nữa. Lão lang ngậm miệng chịu lời. Tạo Nòi uống thuốc khỏi ngay. Nhưng vài hôm hắn lại ốm nặng hơn. Nhà lang lại kéo đến bắt vạ anh em Cả. Không chịu nổi cảnh ức hiếp này nữa, Hai giương ná, lắp tên chỉ thẳng vào lão lang, nói: - Nhà lang chém anh em tôi thì cái ná này sẽ cho các ông chết trước. Lão lang vốn nhát gan, sợ tên thuốc độc, bèn gọi quân lính kéo nhau trở về. Một hôm, hai chàng lên nương làm cỏ lúa, nàng Vỏ Trứng ở nhà làm cơm nấu canh. Bỗng con trâu cột dưới sàn giẫm chân thình thịch. Nàng nhìn xuống chân thì thấy các góc nhà có người cầm dao nhọn. Nàng vừa ló mặt ra cửa, họ xô đến bắt nàng bỏ vào võng khiêng đi. Nghe trâu gọi ò ọ, Cả và Hai bỏ công việc về ngay. Đến nhà, thấy nhà cửa tan tác. Họ xộc lên nhà thì chẳng thấy nàng Vỏ Trứng đâu nữa. Từ hôm bắt nàng Vỏ Trứng mang về, Tạo Nòi cứ quẩn quanh chỗ nhốt nàng. Nhưng lạ thay, tối nào cũng có con rắn nằm ở xà ngang giữ cửa cho nàng. Tạo Nòi xô cửa định vào buồng nàng thì con rắn lao vút xuống. Tạo Nòi lăn đùng ra chết ngất. Nàng Vỏ Trứng bắt buộc phải ra đỡ Tạo Nòi dậy. Con rắn xanh tự nhiên cũng biến mất. Thế nhưng hễ sẩm tối là con rắn lại hiện lên. Tạo Nòi tức lắm, hắn tìm đủ cách để giết rắn mà không nổi. Tạo Nòi bèn nói với cha là phải tìm cách giết chết anh em Cả. Rắn xanh mách tin này vào tai nàng Vỏ Trứng. Nàng Vỏ Trứng nói với Tạo Nòi rằng: Chàng thương tôi thì xin chàng chớ giết anh em Cả và Hai. Hắn chiều lòng nàng, nhưng lại sai người đến nhà họ đào trốc lấy cây cam quý. Tạo Nòi lấy được cây cam thì thật là hể hả trong lòng. Nhưng cây cam lại mỗi ngày một héo úa. Tạo Nòi định đẵn cam, nàng Vỏ Trứng ngăn lại nói: - Để tôi tưới xem cam có sống lại không. Nàng liền vác nước suối ra tưới cam, cây cam xanh tươi trở lại. Hôm nữa, Tạo Nòi lại ra suối xem nàng vác nước, chợt thấy nàng trượt chân ngã xuống nước, Tạo Nòi liền nhảy theo để vớt nàng. Nước xoáy cuốn cả hai người chìm nghỉm. Nghe người làng kêu la Tạo Nòi và nàng Vỏ Trứng chết đuối, lão lang từ trong cửa nhà cũng nhảy xuống nước, hắn cũng bị nước cuốn phăng luôn. Lúc ấy, nàng Vỏ Trứng rẽ nước về thăm vua cha. Vua Thủy Tề cho nàng rất nhiều vàng, bạc, nhưng nàng chẳng nhận. Nàng nói: - Hàng năm xin cha cho chúng con mưa nắng thuận hòa. Vua Thủy Tề gật đầu, rồi trao thêm cho nàng một giọt nước và nói: - Cha cho con cái ao cá thần để con làm ăn sinh sống. Nàng nhận giọt nước ao thần và từ biệt vua cha trở về trần gian. Từ hôm nàng Vỏ Trứng ngã xuống nước, Cả và Hai tưởng nàng đã chết, lòng họ buồn hơn. Một đêm nghe tiếng gõ cửa, Hai ra mở, thì thấy nàng Vỏ Trứng trở về, mừng lắm. Cả nắm tay vợ mà rơi nước mắt. Lúc ấy, nàng mở bàn tay trao cho em Hai một giọt nước ao thần và nói: - Chị cho em cái ao cá thần của vua cha trao cho chị, em hãy chăm nom đàn cá cho nhiều. Hai giơ tay đỡ lấy giọt nước thần. Giọt nước liền nở bung ra thành một cô gái xinh đẹp như nàng Vỏ Trứng, e lệ bên cạnh bờ ao trong xanh. Nàng Vỏ Trứng bảo: - Đó là vợ của em đấy. Hai nắm tay vợ và đưa về nhà. Từ đó bốn anh chị em cùng đi nương, phát rẫy, nuôi cá, làm ăn sinh sống. Còn của cải nhà Tạo Nòi thì nàng Vỏ Trứng bàn rằng: - Người trong Mường ai thiếu trâu bò cứ lấy mà chăn dắt cày bừa. Lúa ngô chia đều cho các bếp. Dân Mường Ai được sống yên vui, ai cũng mến thương, quý trọng nàng Vỏ Trứng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-vo-trung" }
Sự tích bộ lông quạ và bộ lông công
Xưa kia Quạ và Công là đôi bạn chí thân. Cũng vì màu lông của chúng giống nhau: con nào con nấy đều xám xịt như vừa rúc ở bùn lên. Lúc ấy chúng làm gì đã có bộ cánh như bây giờ. Cả hai con đều tự biết mình xấu nên không dám chơi với ai cả. Riêng Công dưới mắt Quạ thì lại càng xấu tệ: cái đầu bé tý chẳng cân xứng với con người. Thêm vào đó, một cái cổ dài và ngẳng nghiu, thật khó coi hết sức. Một hôm Quạ bảo Công: - Đằng kia có người thợ vẽ có thuốc đủ các màu, chúng ta hãy ăn trộm về mà tô chuốt cho nhau, sửa lại bộ cánh cho đẹp. Công gật gù nhận lời. Hôm ấy, người thợ đang vẽ dở cho người ta một bô tứ bình, thuốc vẽ còn bỏ lăn lóc bốn bên người. Thừa dịp người thợ ngủ ngày, hai con vật lần lượt mò vào lấy trộm bút lông và thuốc vẽ đưa ra một gò con ở giữa hồ gần đấy. Lần thứ ba chúng nó toan vào lấy một mẻ nữa nhưng người thợ vẽ đã ngủ dậy. Chúng đành trở ra kiểm lại thì thấy chỉ được có một thỏi mục tàu, một gói thuốc xanh và một gói kim nhũ. Quạ bảo: - Thôi được, ta cứ bắt đầu vẽ cho nhau đi! Nói đoạn, Quạ bắt Công nằm xuống cho mình tô điểm. Quạ vốn khéo tay, thoạt tiên nó dùng màu xanh tô vào đầu vào cổ và mình Công. Tô đến đâu, rắc kim nhũ đến đấy. Đến cái đuôi, Quạ bắt Công phải cố xoè ra như cánh quạt cho mình vẽ được kỹ lưỡng. ở mỗi lông đuôi Quạ vẽ những vòng tròn và tô bằng mực tàu và kim nhũ rất đẹp. Tô xong đắc ý, Quạ bắt Công phơi cái đuôi cho thật khô. Công vốn vụng về nên khi bắt tay vào tô điểm cho Quạ thì nó lúng túng. Hơn nữa lúc đó màu xanh và kim nhũ đã cạn. Giữa lúc Công chưa biết trang sức cho Quạ như thế nào thì bỗng có Quạ khoang ở đâu bay đến. Quạ khoang vốn có họ với nhà Quạ. Hồi ấy màu lông của nó trắng toát như vôi. Chưa đỗ xuống, nó đã giục tíu tít: - Anh Quạ! Anh làm gì đó? Mau đi về phương Đông! - Để làm gì? - Có tin cho biết rằng phía đó mới có một trận đánh nhau to, thây chết như rạ. Thật là một dịp may hiếm có. Quạ nghe nói đến thịt người thì sự thèm muốn làm cho nó không tự chủ được nữa. Quạ bảo Quạ khoang: - Thế à? Nhưng để nó tô điểm cho tao cái đã. Chịu khó chờ tý nhé! - Không được. Phải đến trước ban đêm... Ngày mai mới đến thì người ta chôn hết còn gì nữa. Quạ nóng nảy, giục Công: - Thế thì phải làm gấp lên mới được! Quạ khoang thấy Công đẹp nên cũng muốn có một bộ cánh tươm tất. Nó xen vào: - Anh Quạ! Anh làm ơn cho tôi một tý với. Tôi cũng cần ăn mặc tử tế một chút. Quạ vui lòng chia sẻ phần thuốc vẽ của mình cho người em họ. Công nhân lúc Quạ vội nên chả cần ngắm nghía gì lôi thôi, trút một nửa số mực tàu lên đầu Quạ. Mực chảy đến đâu, người Quạ đen đến đó. Công còn hữu ý bôi cả vào mỏ vào chân làm cho toàn bộ người Quạ đen nhánh như cột nhà cháy. Đến lượt tô cho Quạ khoang, Công cũng đổ số mực còn lại lên người nó. Khi nước mực rót xuống đâu, Quạ khoang hơi ngại vội rụt cổ lại, thành thử cổ của nó có một cái ngấn không bị mực thấm đến. Nhìn thấy Công tô điểm cho Quạ khoang, Quạ mới biết là mình dại, không dưng lại để cho một kẻ vụng về trang điểm. Nhưng việc đã lỡ còn biết làm gì được nữa. Tức mình quá hai anh em nhà Quạ chỉ còn biết mắng cho Công một trận rồi bỏ đi. Từ đó Quạ không chơi với Công nữa. Cũng vì thế mà ngày nay dòng dõi loài Công có bộ cánh rất sặc sỡ. Đi đâu chúng nó cũng ưỡn ẹo và luôn miệng khoe khoang: "Cuông[1] tốt! Cuông tốt!. Trái lại, dòng dõi loài Quạ thì bộ cánh đen thui như mực, trong đó có Quạ khoang đặc biệt có một cái ngấn trắng ở xung quanh cổ. Vì phải bộ cánh xấu quá nên Quạ rất thẹn thò, đi đâu cũng than thở: "Quạ xấu hổ! Quạ xấu hổ!"[2]. Chú thích [1] Cuông: công, tiếng Nghệ - Tĩnh. [2] Theo lời kể của người miền Bắc, Tờ-ri-e (Triaire) và Trịnh Thục Oanh trong Con rùa vàng đã tiểu thuyết hóa truyện này, khiến cho câu chuyện khác với truyện kể trong nhân dân.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-bo-long-qua-va-bo-long-cong" }
Sự tích ao vua
Trên lưng chừng sườn núi Tản về phía địa phận xã Tân Lĩnh, huyện Ba Vì, có một cái ao sâu. Ao nhỏ nhưng bốn mùa lúc nào nước cũng trong xanh và sâu thẳm. Dân địa phương gọi đó là Ao Vua. Tục truyền, nước ở ao Vua vốn là nước "Vua Thủy" dâng lên để đánh Sơn Tinh ngày trước. Khi Thủy Tinh kéo quân lên đánh Sơn Tinh, hắn dâng nước sông lên dữ dội. Quân của Thủy Tinh dựa vào thế nước dâng, tràn theo các ngả sông Hồng,  sông Tích, sông Đà, đổ vào mạn đầm Đượng, cầu hang, suối Bon, ngòi Tôm, ngòi Bún rồi bốn phía ầm ầm kéo cả lên núi Tản. Chỉ trong vòng mấy ngày, quanh núi Ba Vì nước đã ngập mênh mông như biển. Thừa thế, Thủy Tinh tiến lên tận Ao Vua, hội quân ở đó để tìm đường đánh ngược lên đỉnh núi. Tình hình rất nguy ngập, nhưng Sơn Tinh vẫn bình tĩnh chỉ huy chống giặc. Trước hết, để nhanh chóng cản đường tiến của Thủy Tinh, Sơn Tinh lập tức tách núi Ba Vì thành nhiều ngọn, cắt ngang luồng nước dữ không cho tràn lên ngọn núi chính. Sau đó, Sơn Tinh lập kế bao vây quân của Thủy Tinh đang tập trung ở Ao Vua. Ông cho quân đeo những chiếc giỏ lớn chứa đầy hạt mây, đi rải quanh Ao Vua và các nẻo đường dẫn lên núi. Hạt mây gieo đến đâu thì chỉ trong chớp mắt, mây đã mọc lên thành rừng đến đó. Quân Thủy Tinh bị rừng mây vây chặt, tiến không được, lui cũng không xong, thảy đều hoang mang sợ hãi. Vào lúc đó, Sơn Tinh ra lệnh phản công kịch liệt. Từ trên đỉnh núi cao, cầm trong tay chiếc gậy thần đầu sinh đầu tử, chỉ núi núi tan, chỉ ngàn ngàn cháy. Sơn Tinh chỉ huy quân cùng một lúc tiến đánh quân của Thủy Tinh ở khắp các mặt xung quanh núi Ba Vì. Quân đôi bên đánh nhau  suốt một đêm ròng rã. Khoảng giờ Tý (nửa đêm), từ trên đỉnh núi, Sơn Tinh vỗ tay giả làm tiếng gà đập cánh gáy. Gà rừng liền vỗ cánh gáy ran khắp núi. Thủy Tinh tưởng sắp sáng vội vã rút tất cả các cánh quân từ cầu Hang đến ngòi Bún,  chạy trốn theo đường sông Hồng ra bể. Trong dãy Ba Vì ngày nay cũng thường gặp những giống mây sợi vừa dài vừa lớn, mọc rải rác khắp nơi trên núi, dưới khe. Người ta bảo rằng đó là giống mây Sơn Tinh cho quân gieo xuống để bao vây quân của Thủy Tinh nơi Ao Vua ngày trước. Ngay phía trên Ao Vua độ vài trăm thước, ở giữa anh U Bò còn thấy một cái giếng sâu. Mặc dù giếng ở trên đỉnh núi cao nhưng quanh năm lúc nào mạch nước cũng dâng đầy. Nước giếng ngọt và rất mát. Tục truyền, khi xưa, trong những ngày đánh nhau với Thủy tinh ở Ao Vua, quân của Sơn Tinh trên núi  không có nước ăn. Sơn Tinh liền rút gươm cắm xuống đỉnh U Bò, cho quân theo dấu gương đào giếng lấy nước. Quả nhiên, mới đào xuống mấy thước, đã thấy nước phun lên thành tia rất mạnh. Quân của Sơn Tinh nhờ đó mà không bị khát. Chiếc giếng kỳ lạ ấy đến nay vẫn được dân quanh vùng quen gọi là giếng Mũi Gươm.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ao-vua" }
Trạng Hiền
Vào thời nhà Trần, ở một làng nọ bây giờ thuộc về Nam-định có một em bé tên là Hiền. Hiền được cha mẹ cạo đầu làm tiểu, cho ở với một ông sư trên chùa. Hàng ngày, Hiền phải hầu hạ sư, quét dọn chùa và làm các công việc vặt rồi mới được sư dạy cho học. Thế nhưng Hiền học một biết mười, chả mấy chốc đã nổi tiếng thần đồng. Một hôm, Hiền quét chùa, nhân đề nghịch vào lưng một pho tượng mấy chữ "đày ba ngàn dặm. Đêm ấy hòa thượng trụ trì nằm mộng thấy một vị tôn giả đến từ giã mình, bảo rằng có việc phải đi xa. Tỉnh dậy hòa thượng trong bụng lấy làm phân vân, khi nhìn thấy lưng tượng Phật có mấy chữ Hán, đoán biết là chữ của Hiền, vội quát bắt phải lấy nước rửa ngay. Đêm hôm ấy hòa thượng lại mộng thấy vị tôn giả tới cảm ơn mình. Từ đấy cả chùa đều đoán Hiền sẽ làm nên sự nghiệp hơn người. Năm 12 tuổi, Hiền đi thi và đậu luôn Trạng nguyên. Khi Hiền vào bái mạng trước sân rồng, vua thấy Trạng bé loắt choắt trong bộ áo mũ quá khổ, bèn phán hỏi: - Trạng học với ai? Hiền đáp ngay: - Tâu bệ hạ, tôi lúc nhỏ ờ chùa không học với ai cả, chỉ khi nào không hiểu mới hỏi nhà sư một vài chữ mà thôi. Vua thấy Trạng đối đáp cộc lốc, cho là trẻ con chưa biết lễ phép bên cho Trạng về nhà học lễ phép trong ba năm, sẽ lại cho làm quan. * Hồi ấy có sứ nhà Nguyên đưa sang ta một câu đố để thử xem nước Nam có nhân tài chăng. Triều đình nhà Trần mở quốc thư ra chỉ thấy có bốn câu thơ chữ Hán: Lưỡng nhật bình đầu nhật, Tứ sơn điên đảo sơn, Lưỡng vương tranh nhất quốc, Tứ khẩu tung hoành gian[1] Cả vua lẫn quan đều ngẩn ra, không biết làm sao mà đoán được. Mấy ông cụ già trong Viện Hàn lâm, trong Quốc tử giám vắt óc suy nghĩ nhưng lâu lắm vẫn không tìm được câu trả lời. Mãi về sau có người nhớ đến Trạng Hiền, vua vội sai một viên quan văn đi mời ngay Trạng về triều để may ra có thể giải quyết điều bối rối cho cả triều thần. Viên quan không quản ngày đêm, phi ngựa nước đại tìm về làng Trạng, thấy một lũ trẻ đang đùa nghịch ở gốc đa đầu làng, quan thử ra một câu đối để dò xem Trạng có mặt trong đám ấy chăng: - Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con: con ai con ấy? Hiền tay vẫn chơi đùa, miệng đáp lại ngay: - Vu (于) là chưng, chặt ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa: đứa nào đứa này. Đáp đoạn, bỏ chạy về nhà. Khi viên quan tìm được vào nhà thì thấy Hiền đang đun bếp. Hắn lại ra một câu đối: - Ngô văn quân tử viễn bào trù, hà tu mị táo (Tôi nghe người quân tử xa chỗ bếp núc, sao lại nịnh ông Bếp). Hiền đối đáp lại: - Ngã bản hữu quan cư đỉnh nại, khả tạm điều canh (Ta vốn ở ngôi khanh tướng nhưng nay tạm nêm canh). Biết đích là Trạng, viên quan đưa chiếu chỉ của nhà vua, mời Trạng về triều để hỏi một việc quan trọng. Nhưng Hiền lắc đầu nói: - "Trước đây vua bảo ta không biết lễ phép, nhưng chính vua không biết lễ phép nữa là ai". Nói rồi nhất định không chịu đi. Về sau vua phải cho quân gia mang cờ quạt võng lọng đến đón Hiền vào triều. Trước mặt sứ thần của một cường quốc, ông trạng nhỏ tuổi ấy cầm cục than viết ra một chữ "điền" (田) giữa sân rồng. Thấy giải đáp đúng, sứ thần lặng lẽ rút lui. Vua và đình thần thở dài khoan khoái. Về sau, vua ban thưởng cho Trạng rất hậu và tuy Trạng còn ít tuổi cũng phong chức thượng thư. [1] Bốn câu thơ này nghĩa là: Hai mặt trời bằng đầu nhau (đồng thời có nghĩa là có hai chữ nhật 日). Bốn hòn núi nghiêng ngả (tức là có bốn chữ sơn 山). Hai vua tranh một nước (tức là có hai chữ vương  王). Bốn miệng ngang dọc trong khoảng đó (tức là có bốn chữ khẩu 口).
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/trang-hien" }
Nàng Cu Pên
Ngày xửa, ngày xưa ở trên một vùng núi cao phía bắc dãy Trường Sơn có chàng Đào Lu dũng mãnh, tuấn tú và nàng Cu Pên xinh đẹp thùy mị nết na. Hai người ở cách nhau một ngọn đèo cao quanh năm mây phủ, không một dấu chân người. Ngọn gió thổi qua ngọn đèo cao luôn kể cho họ nghe về nhau, nhưng không được thấy mặt nhau, vì thế ngày đêm họ ao ước được gặp nhau và mong sao sẽ nên vợ nên chồng. Ao ước mãi không được, chàng Đào Lu bèn giắt tên nỏ, xách gươm đi tìm nàng Cu Pên. Chính khi ấy, nàng Cu Pên cũng mặc váy đẹp nhất, đeo gùi chứa đầy lương khô, tay mang dao rừng lên đường đi tìm chàng Đào Lu. Họ phạt cây mở lối, vượt qua ngọn đèo chưa bao giờ có dấu chân người để tìm nhau. Đào Lu khỏe hơn, dũng mãnh hơn, nên đi nhanh hơn, đã vượt qua được ngọn đèo và tiến về phía quê hương Cu Pên. Vô tình hai người gặp nhau bên bờ một dòng suối lớn. Tuy không ai biết ai nhưng vừa gặp nhau cả hai đã bàng hoàng e thẹn. Chàng hỏi: – Ta đi tìm nàng Cu Pên nên rạch rừng đi lối này, tại sao lại gặp nàng ở đây? Nàng nói: – Em chính là Cu Pên, em cũng phát rừng mở lối đi tìm chàng Đào Lu, phải chăng chàng chính là Đào Lu? Hai người nhận ra nhau, tay cầm tay, mặt nhìn mặt, nghẹn ngào sung sướng. Vừa lúc đó có một chiếc thuyền của tên chúa từ xa tới. Thấy nàng Cu Pên xinh đẹp, tên chúa sai quân lên mời nàng xuống thuyền ăn với hắn miếng trầu. Nàng Cu Pên tưởng chúng thực tình, vừa bước xuống thuyền tên chúa liền sai rút ván chèo thuyền chạy như bay. Đào Lu đuổi theo bắn tên phóng lao nhưng không kịp. Chàng chỉ biết nhìn theo con thuyền đã cướp Cu Pên mà khóc. Thuyền trôi hết suối đến sông. Nàng Cu Pên không khóc nữa, vì biết có khóc cũng không thoát khỏi tay lũ người ác. Phải nghĩ ra một kế gì mới mong thoát nạn về với Đào Lu. Nhìn thấy giống cây Gơ rên mọc bên dòng sông nàng Cu Pên tự nhủ: Cái cây Gơ rên lá xanh quả chín vàng giống quả xoài rừng thơm ngon này sẽ cứu ta đây. Nàng nói: – Ai muốn cưới ta thì hái cho ta một quả Gơ rên chín nhất. Nghe Cu Pên nói vậy, tất cả binh lính quan quân của chúa ác đều tranh táp thuyền vào bờ và tranh nhau leo lên cây như một lũ khỉ. Cả tên chúa ác cũng leo lên. Thấy vậy nàng Cu Pên nói thêm: – Không kể quan quân, không kể chúa và nô lệ, hễ ai ngắt được quả Gơ rên chín nhất thì được nắm tay ta và được ăn đời ở kiếp với ta. Nghe thấy thế bọn giặc rút kiếm chém nhau để giành bằng được quả chín nhất hòng được kết duyên cùng nàng Cu Pên xinh đẹp. Nhân cơ hội ấy nàng Cu Pên cướp lấy tay lái thuyền, cho thuyền lách bến trôi theo dòng sông cuồn cuộn chảy. Thuyền trôi trong đêm thâu, một mình nàng Cu Pên ôm mặt khóc. Tiếng khóc của nàng vẳng đến tận trời. Trời động lòng thương sai hai người con trai xuống hạ giới xem ai khóc. Hai chàng trai bay xuống con thuyền trôi vô định, thấy một cô gái khóc, tưởng nàng khóc vì những người cùng đi đã chết dưới gốc cây Gơ rên. Hai chàng bèn biến thành hai con vượn, nhẩy nhót reo hù trên cây Gơ rên. Một con giả vờ ngã từ trên ngọn cây xuống chết. Con kia bèn cắn vỏ cây Gơ rên nhai, lấy nước phun vào con vượn chết. Lập tức con vượn kia sống dậy khoẻ mạnh như thường, rồi hai con cùng biến mất. Nàng Cu Pên đoán biết vượn bầy cách cứu người bèn bỏ thuyền leo lên cây bóc vỏ cây quý chất đầy thuyền, rồi lấy xà tích của chúa ác mặc vào giả làm đàn ông, nhổ sào thuyền trôi theo dòng. Thuyền đến làng kia. Cu Pên chợt nghe tiếng khóc của dân làng đang làm lễ chôn cất một cô gái vừa mới chết. Cu Pên bảo họ: – Dân làng đừng khóc nữa, tôi có phép làm cô gái xinh đẹp này sống lại. Dứt lời, Cu Pên nhai vỏ cây thần phun vào mặt cô gái, lập tức cô gái hồng hào đôi má và chớp chớp mắt tỉnh dậy. Dân làng vui mừng cố giữ người thầy thuốc nhân hậu tài ba ở lại. Ở với dân làng nhưng Cu Pên không nguôi nhớ người mình yêu. Một hôm nàng lập một cái chòi cao giữa ngã ba đường, đặt cái lược mà Đào Lu tặng nàng lúc gặp nhau lên chòi rồi bảo dân làng rằng: – Nếu có ai cầm cái lược này mà khóc thì giữ lại mang đến cho tôi ngay. Sau vài tuần trăng, quả thật có một chàng trai dừng lại bên chòi uống nước, trông thấy cái lược ngà liền cầm lấy ngắm nghía rồi than khóc. Dân làng bèn giữ lại và đem đến cho vị thần y của làng mình, nhưng vừa đến nơi, dân làng lạ quá, vị thầy thuốc đã biến thành con gái từ lúc nào. Nàng chạy ra và reo lên: – Chàng Đào Lu, em biết thế nào chàng cũng tìm ra. Chàng nắm tay Cu Pên mà nói rằng: – Ta đi cùng trời cuối đất tìm nàng vì tin là nàng đang chờ ta. Dân làng biết tình yêu của hai người đều cảm động rơi nước mắt. Họ chúc cho hai người gắn bó đời đời trong tình yêu thắm thiết. Hai người dẫn nhau về làng xưa ra mắt xin bố mẹ được làm lễ thành hôn. Nhưng bố mẹ nàng Cu Pên giầu có không bằng lòng cho con gái lấy chàng Đào Lu nghèo khó. Cu Pên khóc mấy đêm liền xin cha mẹ thương cho mối tình của mình nhưng cha mẹ nàng một mực không ưng. Buồn quá nàng ra gốc dừa và khóc rằng: – Dừa ơi, dừa rủ lá xuống đây che cho thân ta. Lá dừa rủ xuống, nàng Cu Pên nhân hậu và xinh đẹp nhắm mắt xuôi tay chết. Cha mẹ nàng vô cùng hối hận nhưng đã quá muộn. Họ làm lễ cúng linh đình, một con trâu, một cái chiêng và một cái gùi, chôn nàng theo nghi lễ sang trọng. Từ phía núi bên kia hay tin nàng Cu Pên không thắng nổi cha mẹ đã tự tìm đến cái chết, chàng Đào Lu cũng tìm đến cây dừa mà khóc rằng: – Dừa ơi hãy rủ lá xuống đưa ta đi theo người yêu của ta. Chàng Đào Lu chết theo người yêu. Hồn chàng bay qua suối sâu, bay trên núi xanh vào làng mây trắng. Vừa đi chàng vừa gọi: – Ơ làng mây trắng ơi, có thấy nàng Cu Pên xinh đẹp đeo gùi đi qua đây không? Ơ làng mây vàng ơi có thấy nàng Cu Pên nết na đeo chiêng đi qua đây không? Ơ làng mây xanh ơi, có thấy nàng Cu Pên chung tình dắt trâu đi qua đây không?… Dân làng mây trắng, mây vàng, mây xanh đều đồng thanh trả lời chàng Đào Lu rằng: – Nàng Cu Pên chờ chàng ở đây không được, vì nàng đã làm lễ gội đầu cho hồn nàng lên làng trời… còn chàng chàng chưa làm lễ gội đầu làm sao chàng vào cửa trời để gặp nàng Cu Pên xinh đẹp, nết na, chung tình. Vừa lúc ấy nàng Cu Pên từ trên làng trời gọi xuống rằng: – Em vẫn đợi chàng ở làng trời, chàng về bảo với mẹ cha làm lễ gội đầu cho hồn chàng, chàng lên đây ở với em mãi mãi. Hồn chàng Đào Lu lại vọng xuống trần gian xin cha mẹ làm lễ gội đầu. Nhà cha mẹ chàng nghèo không có trâu, không có chiêng để làm lễ. Cuối cùng hai ông bà già chỉ còn cách đan một cái gùi thật đẹp. Lệ trời không khe khắt như lệ trần gian, cái gùi đẹp cũng đủ làm lễ cho Đào Lu rồi, thế là Đào Lu được đi qua cửa nhà trời. Mãi đến lúc này, sau khi đã đi qua cửa nhà trời, nàng Cu Pên và chàng Đào Lu mới có thể sống đời đời bên nhau, gắn bó không gì có thể chia cắt được.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-cu-pen" }
Rể trăn
Xưa, có một bà sinh được ba người con gái. Một hôm bà đi bắt cá ngoài đồng, giữa lúc đang mò cá, bỗng có một con trăn bò đến quấn vào chân bà. Bà sợ hãi kêu lên, trăn nói: – Nếu bà muốn tôi thả ra thì phải gả cho tôi một trong ba đứa con gái của bà. Nếu không tôi sẽ cắn chết. Khi ấy có một người đi ngang qua, bà nhắn về gọi giúp ba đứa con gái ra cứu mình. Một lúc sau thì ba người con gái đến. Bà gọi đứa con gái đầu lại gần, và nói rằng: – Cả ơi, trăn quấn chân mẹ, con hãy thuận lòng lấy trăn để nó thả mẹ ra, nếu không trăn sẽ cắn chết mẹ. Con gái cả nhìn thấy con trăn to tướng thì sợ chết khiếp, nghe mẹ nói vậy bèn vội vàng trả lời: – Làm gì lại có chuyện người lại lấy trăn , con sợ lắm, con không ưng đâu. Bà mẹ lại gọi đứa con thứ hai mà than rằng: – Thứ ơi, mẹ bị trăn quấn chặt vào chân đau lắm, con bằng lòng lấy trăn để mẹ được thả ra đi con, nếu không mẹ chết mất. Đứa con thứ hai cũng trả lời nhừ đứa con gái đầu. Cô út thấy hai chị đều một mực từ chối, mà lòng thì rất mực thương mẹ, nàng bèn nói với trăn rằng: – Trăn ơi, hãy buông thả mẹ tôi ra, tôi sẽ bằng lòng lấy anh. Nghe nói vậy, trăn liền buông chân bà mẹ ra. Đêm đó, người chị cả rình xem việc gì sẽ xảy ra giữa trăn và em mình. Nàng rất đỗi ngạc nhiên thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú ở trong phòng và đang nói chuyện với em gái út chứ không thấy trăn đâu cả. Sáng hôm sau nàng cả đem chuyện đó kể cho mẹ nghe, và xin mẹ đi hỏi một con trăn về cho nàng. Vài hôm sau, có một con trăn to bò vào phòng của cô gái lớn. Nửa đêm hôm đó bỗng cô gái kêu lên: – Mẹ ơi, con sắp chết, trăn đã nuốt đến lưng con rồi, cứu con với mẹ ơi! Không biết rằng trăn có thể nuốt được người, bà mẹ lại khuyên con rằng: – Cố chịu đi con, rồi con sẽ được chồng đẹp trai, giàu sang hơn người. Sáng hôm sau, bà mẹ không thấy cô gái lớn thức dậy bèn sinh nghi. Bà mở cửa nhìn vào thì thấy một con trăn nằm dài, bụng trương phình. Bà khóc than, kể lể. Lúc bấy giờ chàng rể cô út biết là đã có chuyện chẳng lành, bèn lấy dao mổ bụng con trăn, lôi chị cả ra, rồi chạy tìm thuốc cứu sống chị.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/re-tran" }
Người học trò và con chó đá
Ngày xưa, có người học trò hôm nào đến nhà thày cũng phải đi qua một nơi có con chó đá. Khi người ấy qua thì con chó đá nhỏm dậy tỏ vẻ mừng rỡ. Người học trò lấy làm lạ, một hôm đứng lại hỏi con chó rằng: - Anh em học trò qua đây cũng đông, sao các người khác thì mày không mừng, lại chỉ mừng riêng có một mình tao? Con chó đáp: - Khoa này bao nhiêu người kia không ai đậu cả. Chỉ có một mình thày thi đậu mà thôi. Số trời đã định, nên tôi phải kính trọng mừng thày. Người học trò nghe nói vậy, lúc về nhà kể chuyện lại cho cha mẹ nghe. Từ đó, người cha bỗng lên mặt ta đây, hống hách với cả mọi người. Một hôm ông ta giắt trâu ra đồng cày, cho trâu dẫm cả lúa của người làng. Người ta nói, ông ta không thèm đáp lại. Rồi hôm sau, lại đưa thêm trâu, thêm người, cứ ruộng lúa của người ta bước bừa xuống dẫm be bét không kiêng nể chi cả. Chủ ruộng trông thấy thế lại kêu, thì ông trừng mắt dọa dẫm: - Khoa này con ông đỗ, rồi cho chúng bay sẽ biết tay ông! Chủ ruộng thấy ông nói vậy, cũng có lòng sợ, không dám lôi thôi gì nữa. Đến hôm sau, người học trò đi học, qua chỗ con chó đá thì không thấy nó đứng dậy nữa. Lúc về cũng vậy, nó cũng không mừng. Người học trò lấy làm lạ, đến hỏi con chó rằng: - Mọi buổi tao qua đây, mày vẫn đứng dậy mừng, hôm nay sao mày không đứng dậy nữa thế? Con chó nói: - Tại cha thày lên mặt hách dịch với cả mọi người, rồi lại cho trâu dẫm hại ruộng lúa của người ta, cho nên Thiên tào đã gạch tên thày đi, khoa này thày không đỗ được, nên tôi không phải mừng thày nữa. Người học trò về nhà đem lời con chó kể lại với chạ Người cha lấy làm hối. Từ đó dẹp hết thói khoe khoang lên mặt, rồi lại đến từ tạ người chủ đất rất khiêm tốn. Khoa ấy, người học trò đi thi đã vào lọt mấy kỳ, mà cũng không đỗ thật. Tuy vậy, người ấy không lấy làm nản, càng chăm chỉ học hành, mà người cha ở nhà cũng không lấy làm oán hận, càng tu thân tích đức để chuộc lỗi. Cách đấy ít lâu, người học trò đi qua chỗ con chó đá, lại thấy nó đứng dậy mừng rỡ như trước. Hỏi thì con chó nói rằng: - Nhà thày tu nhân tích đức đã ba năm nay, đủ chuộc lại những lỗi lầm trước rồi. Nên sổ Thiên tào lại định cho thày khoa này thi đỗ. Người học trò nghe nói về nhà không kể chuyện lại cho cha nghe nữa, chỉ biết ra sức cố học. Khoa ấy quả nhiên thi đỗ cao.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-hoc-tro-va-con-cho-da" }
Sự tích đèo phật tử
Ngày xưa có bốn người đêm ngày đọc kinh niệm phật quyết tu cho thành đạo. Bốn người có bốn họ khác nhau: Hoàng, Trần, Lí, Lắm. Ba người là đàn ông, riêng người họ Lắm là con gái. Sau hàng chục năm tụng kinh, niệm phật, ăn chay tu chí trong chùa, họ đều trở thành những tăng ni đắc đạo. Chọn được ngày lành tháng tốt, họ liền cùng nhau tìm đường lên núi Thiên Sơn để hóa Phật. Đường đi Thiên Sơn xa lắc xa lơ, thành thử họ phải đi ròng rã mấy năm trời mới tới nơi. Đến chân núi Thiên Sơn, cả bốn người đều mệt nhọc không sao tả xiết. Nhưng ai cũng nghĩ đã tu thân quyết chí đến được đây mà bỏ cuộc thì uổng quá. Nên dù trời đã gần tối, họ vẫn theo đường mòn để leo lên đỉnh núi. Khi tới đỉnh đèo, đêm đã khuya lắm, trời tối như mực, bụng đói cồn cào, họ kiệt sức, không đi tiếp được nữa. Cái đói và mệt nhọc buộc họ phải dừng lại nghỉ nhưng không ai chợp mắt nổi. Bỗng một người trong bọn họ lên tiếng: – Bây giờ nếu có một cây gậy ước thì các bậc đàn anh muốn ăn gì nào? Mọi người đã quá đói và mệt nên họ không còn giữ gìn nữa, ai thích thứ gì dù những người tu hành phải kiêng, nay cũng nói toạc ra. Thoạt tiên người họ Trần nói: – Tôi ước được chén một bữa thịt chó, có đủ gia vị, cúc tần, giềng lát, rau mùi, húng chó… Người họ Trần đang kể lể thì người họ Hoàng ngắt lời: – Tôi mơ ước một bữa thịt trâu. Trâu càng già càng dai, nhai càng đã răng. Người họ Lí nói tiếp lời luôn: – Tôi chỉ muốn bữa thịt gà luộc có lá chanh. Sau cùng ni cô Lắm nói: – Tôi chỉ thích một bữa rau luộc cho mát ruột và húp cho đỡ khát thôi. Sáng dậy, khi mọi người đang chuẩn bị xuống đèo đi tiếp, thì có một ông già râu róc bạc phơ chống gậy từ chân dốc đi lên, vẻ mệt nhọc nhưng cất giọng sang sảng hỏi: – Các người ở đâu đến đây? – Thưa cụ! Bầy tăng chúng tôi tìm đường lên núi Thiên Sơn để hóa Phật đấy ạ. Dám mong cụ chỉ đường giúp cho. Nghe xong câu trả lời, ông già nói: – Được, ta sẽ đưa các người đến núi Thiên Sơn nhưng bây giờ các người hãy nhổ nước bọt xuống lá cây xem đã. Nói xong, ông già rút từ trong túi ra bốn cáo lá bồ đề to như nhau, rồi đặt trước mặt cho từng người nhổ vào đất. Bốn người nhổ xong, đều cảm thấy lợm giọng, ruột gan nao nao buồn nôn. Trong nháy mắt cả bốn người đều nôn tống nôn tháo. Quái lạ là đêm hôm qua ai ước ăn gì đều nôn ra thứ đó. Thấy ba người nôn nào là thịt gà, thịt trâu, thịt chó, duy chỉ có ni cô họ Lắm là nôn ra rau xanh. Ông già bèn nói: – Chính đây là đỉnh núi Thiên Sơn, các người đã đến cõi Phật rồi. Nhưng nôn ra toàn những thứ kiêng kị thì sao gọi là chân tu được. Các người không thể hóa Phật được đâu. Rồi ông già lại chỉ vào ni cô họ Lắm nói: “Người này cứ theo đỉnh chóp mà lên, chớ đi xuống, sắp tới nơi rồi.” Ni cô họ Lắm theo đường mà lên, rồi hóa thành Phật Bà Quan Âm. Phật Bà có nhiều phép lạ để trị bọn âm binh quấy nhiễu, giữ gìn phúc lành cho muôn dân. Ngày nay họ Lắm thờ phật Quan Âm trong nhà và mỗi khi Tết đến cúng Phật Bà, đều phải có một bát canh rau. Còn ba người kia xấu hổ vì không được hóa Phật lại mất bao công sức tu thân, nên buồn rầu mà chết ở giữa đỉnh đèo. Họ chết ơ nơi hoang vắng đó, chẳng ai hay mà chôn cất, nên sau này người đời truyền nhau khi đi qua đèp đều phải mang theo nắm đất hay hòn đá ném vào chỗ đó để đắp thành mộ. Chỗ đất ấy người ta gọi là mộ “Phật”. Từ đó mộ “Phật” ngày một lên cao và tên đèo được đổi thành đèo Phật tử .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-deo-phat-tu" }
Sự tích 12 con giáp
Khi xưa tên các loại vật đều do Ngọc Hoàng đặt cho và ngài đang muốn chọn một số con vật nào đó xứng đáng để đặt tên năm và làm chúa tể thay mặt Ngọc Hòang cai quản ở hạ giới. Đến ngày hẹn các loại vật tất bật lên trời để nhận tên của mình và mong được chọn làm thủ lĩnh. Vốn sống vùng sông biển, Rồng cũng nhận được trát triệu lên thiên cung. Rồng tự đắc và tâm niệm: ta nhất định được chọn tên đẹp nhất và vị trí chủ quản. Trông bộ cánh của Rồng thật là hùng dũng oai phong, giáp trụ trên người nó cứ lấp la, lấp lánh, dưới mũi nó có bộ ria đâm ra tua tủa. Chỉ một điều duy nhất nó thiếu: đó là cái đầu nhẵn thín chẳng có cái gì mọc cả. Rồng nghĩ bụng giá mà ta kiếm được cặp sừng thì khi đó không có con nào có thể so sánh được. Nghĩ vậy, rồng liền tìm xem có thể mượn ai bộ sừng trong ít ngày. Vừa mới nhô đầu lên khỏi mặt nước, rồng liền thấy ngay trên bờ một chú gà trống. Chú gà bệ vệ đi đi lại lại, ngày ấy gà trống ngoài cái mào đỏ tía còn có cặp sừng khá to, màu vàng óng. Rồng mừng rỡ bơi ngay vào bờ và lên tiếng nịnh bợ với gà trống: – Bác gà trống thân mến của tôi ơi! Tôi có ý muốn mượn bác cặp sừng ít hôm. Đi chầu ngọc hoàng về, tôi xin trả lại cho bác ngay. Bác muốn gì tôi cũng chiều. – Bác Rồng thông cảm, ngày mai tôi cũng lên trời nên không thể cho bác mượn được đâu! – Bác gà trống ạ! Cặp sừng to chẳng hợp với bác tí nào, đầu bác quá là bé, tốt hơn là bác cho tôi mượn, có gì tôi sẽ hậu tạ. Vừa lúc đó tình cờ chú Rết ở trong hang đá bò ra. Cái họ nhà Rết là chúa thích dính mũi vào chuyện người khác. Nghe thấy rồng nói thế, Rết ta liền phụ họa ngay: Bác gà trống ạ! Bác cho ông anh em mượn cặp sừng đi, một lần thôi cũng đựơc. Mà bác sợ gì, có em xin sẵn sàng bảo lãnh cho. Nghe bùi tai Gà trống bằng lòng. Bởi vì đã có Rết – người hàng xóm bảo đảm. Vả lại không có cặp sừng nó cũng đẹp trai chán. Ngày hôm sau, tất cả muôn loài muôn thú đều lục tục kéo tới thiên cung. Muôn loài tụ tập đông khôn kể xiết. Ngọc hoàng ra ngự triều và phán bảo: – Từ nay các năm được lấy tên các loài muôn thú, còn thứ tự thì do các người tự bình chọn lấy cho dân chủ! – Và thế là muôn loài lựa chọn: trâu, hổ, rồng, ngựa, dê, chó, lợn, thỏ, rắn, khỉ, gà trống và chuột. Như vậy là chúng lựa chọn được 12 con, nhưng xếp đặt thứ tự ra sao? Đến đây thì nổ ra cuộc tranh cải, giành giật ngôi thứ, bắt thăm, bỏ phiếu cũng không xong. Cuối cùng Ngọc Hoàng đành phải quyết: – Lớn nhất trong các khanh là trâu, để cho nó đứng đầu tiên. Muôn thú thậm chí Hổ cũng thuận theo ngay. Nhưng chuột nhắt lại có ý kiến – Thế không lẽ tôi không to hơn trâu ư? Sao khi nhìn thấy tôi, mọi người đều thốt lên: - “Chà con chuột to quá !” - Nhưng không ai lại bảo: “Ái chà con trâu to làm sao!” - Như vậy con người đã cho tôi lớn hơn cả trâu rồi! Ngọc Hoàng phân vân không biết phân xử làm sao. Khỉ và ngựa, cho là chuột nói dóc (xạo). Sau hồi tranh cải thì chó, mèo, gà có ý kiến nên đến con Người để kiểm chứng. Khi Ngọc Hoàng cùng các con vật kéo nhau đến chỗ đám người đang tụ họp, họ thấy con trâu liền kêu lên: - Ồ con trâu béo đẹp làm sao. Đúng lúc ấy con chuột ma mãnh leo lên lưng trâu vuốt ve chòm râu để mọi người chú ý. Có tiếng người reo to lên: - Ồ trông con chuột to quá. Chính Ngọc Hoàng cũng nghe rõ điều đó và phán luôn: - Từ nay năm đầu lấy tên là Chuột (Tý) đến Trâu (Sửu), Hổ (Dần), Mèo (Mão), Thìn (rồng), Rắn(Tỵ), Ngọ (Ngựa), Dê (Mùi), Khỉ (Thân), Gà (Dậu), Chó (Tuất), Lợn (Hợi). Nghe Ngọc Hoàng phán xong, các loại thú dạ ran cả cung đình. Còn bây giờ ta lại nói đến gà trống. Gà trống trở về buồn thỉu, nó nghĩ bụng: “Ngọc hoàng xếp Rồng trứơc mình chắc hẳn vì trên đầu hắn có cặp sừng đẹp của mình mà hối hận “. Thế là gà trống quyết định đòi bằng được rồng trả lại cặp sừng. – Này bác Rồng đến ngày hẹn rồi, bác trả giúp tôi cặp sừng. – Bác gà trống đấy ư? Mà bác cần gì cặp sừng kia chứ? Nói thực sự ra thì, không mang cặp sừng trông bác còn đẹp hơn. Còn với tôi cặp sừng mang vào thật hợp! – Hợp hay không không cần bàn, anh mượn thì trả lại cho tôi được nhờ! – Tôi cũng bận chuyện long cung không có thời gian tranh luận với anh, nói rồi rồng lặn mất tăm xuống đáy biển, mặc cho gà trống trên bờ gào to rát cả cổ. Gà hồi tỉnh nhớ lại Rết bảo lãnh chuyện vay mượn này, bèn đến bắt vạ rết. – Bà Rết, bà đứng ra bảo đảm cho rồng, vậy thì không thể để sự việc như thế này được. – Này ông anh gà trống, ông đừng có bực với tôi làm gì cho uổng – Rết bắt đầu chống chế – Tự ông trao cho rồng cặp sừng. Còn tôi chẳng qua nói bảo đảm cho anh ấy thế thôi. Ai mà biết được anh rồng lại không đáng tin cậy như thế. – Thế thì bà là người bảo lãnh quái gì! Không việc gì phải xộc vào chuyện của người khác. Tôi gặp chuyện bất hạnh mà bà cứ như không can dự gì vậy!? Nói rồi gà trống xù lông rớn cổ mổ mấy nhát thật đau lên đầu rồi nuốt Rết vào diều, vì chuyện đó mà gà và rết có mối thù truyền kiếp. Ngày nay, gà tìm họ nhà rết mà mổ cho hả giận. Còn sáng sáng, gà trống gáy toáng: “ó.. o.. o ! Anh rồng trả cặp sừng cho tôi đi ".
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-12-con-giap" }
Cô gái lấy chồng hoàng tử
Ngày xưa ở một làng nọ có một cô con gái đẹp. Thấy mọi người đều trầm trồ về nhan sắc của mình, cô bỗng có cái nguyện vọng thầm kín là được lấy hoàng tử làm chồng. Ngày ngày cô đi chợ mua hương đến một ngôi đền trong vùng cầu thần phù hộ cho mình lấy được chồng như nguyện. Ở chợ hồi ấy có một người lái buôn hương. Thầy cô gái xinh đẹp lui tới gánh hàng của mình, hắn thường thả lời chòng ghẹo, nhưng lần nào cũng bị cô nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Tuy vậy hắn vẫn tìm cách lân la gạ chuyện không nản. Một hôm, hắn chợt có ý muốn tìm biết ngày nào cô gái cũng chịu khó mua hương để làm gì. Nhân khi cô vừa mua bán xong sắp sửa ra về, hắn vội gửi gánh hàng cho người quen rồi lén đi theo bén gót. Thấy cô gái vào đền, hắn cũng theo vào. Nấp sau một cánh cửa, hắn nghe được tất cả những lời khấn khứa rì rầm của nàng và hiểu được điều nàng muốn. Lần khác, sau khi cô gái mua hương xong, hắn đã ba chân bốn cẳng chạy trước tới đền, nấp sau pho tượng thần. Khi nghe cô khấn vừa dứt, hắn nói vọng xuống, giả làm lời thần phán: - Con gái như thế kia làm sao dám đòi lấy chồng hoàng tử. Trên thiên đình đã định cho con làm vợ người lái buôn hương ở chợ. Số con là thế: không thể khác được! Nghe lời truyền phán rõ ràng, cô gái lủi thủi ra về, trong bụng đinh ninh không thể tránh được số trời đã định. Ngày hôm sau, khi cô đi chợ, người buôn hương lại thả lời ong bướm, nhưng khác với các lần trước: lần này hắn được cô gái bắt lời. Biết là mưu mẹo của mình có kết quả, hắn hết sức tán tỉnh và cuối cùng cá đã cắn câu. Nhưng người buôn hương nghĩ rằng mình đã nhiều tuổi, nếu đưa lễ vật đến dạm hỏi, chắc chắn bố mẹ nàng không đời nào chịu gả. Vì thế hắn có ý định tìm cách dỗ dành cho cô gái theo không, rồi kín đáo đưa nàng trốn về quê. Mà phải làm sao cho bà con xóm giềng của nàng không có ai hay, kẻo họ tìm cách ngăn trở. Khi thấy miếng mồi mười phần đã chắc ăn cả mười, hắn bèn hẹn nàng một ngày nọ tới chờ mình ở một lùm cây sau chợ, hắn sẽ đưa đi trốn. Đúng hẹn, hai người gặp nhau ở lùm cây. Người buôn hương bảo cô gái ngồi vào trong một chiếc bồ lớn đậy mẹt và buộc chặt lại để hắn gánh đi cùng với một bồ khác đựng hàng. Hắn ghé vào tai dặn nàng: - "Làm như thế sẽ không bị lộ, qua một thời gian anh sẽ về thú thật với bố mẹ sau". Cô gái nọ cả tin ở số phận nên vâng theo lời hắn không chút ngần ngại. Đường đi phải qua một khu rừng vắng. Trong khi người lái buôn hương lòng mừng khấp khởi với gánh hàng quý trên vai, thì tiếng thét của một toán lính làm cho hắn giật nẩy mình. Hắn không ngờ rằng ngày hôm ấy có một hoàng tử đang đi săn ở khu rừng này. Đầu cửa rừng, người, ngựa, chó săn đang vây bọc các ngả. Vì đang làm việc gian lận, lái hương ta sợ quá, vội quẳng cả gánh hàng mà chạy. Sau đó, có mấy con chó săn đi qua cái bồ, ngửi thấy hơi người bèn lên tiếng cắn sủa inh ỏi. Nghi ngờ, bọn lính dừng lại lục soát. Khi thấy trong bồ có một cô gái đẹp, bọn chúng rất đỗi kinh ngạc, vội dẫn nàng đi gặp hoàng tử lúc đó cũng vừa phi ngựa đến nơi. Hoàng tử chưa bao giờ thấy có một người con gái xinh đẹp đến thế, bèn xuống ngựa bảo nàng ngồi lại chuyện trò. Nghe cô gái kể hết nỗi lòng, hoàng tử ngỏ ý đưa nàng về cung làm vợ. Nhân săn được một con hổ, hoàng tử bèn sai bỏ con thú vào bồ đậy mẹt và buộc chặt lại như cũ. Đoạn ra lệnh cho mọi người trở về kinh thành. Sau khi hoàng tử và quân lính đi đã xa, người lái hương từ chỗ trốn lại quay về tìm gánh hàng quý của mình. Thấy cặp bồ vẫn còn nguyên chỗ cũ, hắn vội vã đặt gánh lên vai và rảo bước một mạch về nhà. Đến nơi, người nhà xúm lại, hỏi hắn: - Bồ gì mà nặng thế? Hắn đáp đùa để dọa: - Đừng có nhìn mà chết. Hổ đấy? Nói đoạn, hắn vội xách bồ quý vào buồng đóng cửa lại. Nhưng vừa mở mẹt thì con hổ từ trong đã nhảy ra, vồ hắn ăn thịt.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/co-gai-lay-chong-hoang-tu" }
Sự tích chim năm trâu sáu cột và chim bắt cô trói cột
Ngày xưa, có một bác lực điền tên là Ba ở trong một xóm dưới chân núi. Bác không có ruộng phải làm rẽ năm sào của một phú ông ở làng bên cạnh. Phú ông là tay giàu có nhất tổng: ruộng đất trâu bò ở rải rác các thôn xóm nhiều không đếm xiết. Thấy bác là tá điền cũ, tính nết thật thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp thóc sòng phẳng, phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu. Từ đấy công việc của bác Ba thêm bận rộn. Ngày ngày bác phải chăn một bầy trâu của phú ông từ độ ấy sinh nở tổng cộng đã được năm con. Tự nhiên một ngày nọ, phú ông lăn ra chết. Hắn chết giữa lúc tuổi còn khá trẻ. Phú ông chưa có con trai, chỉ có mỗi một cô gái nên bao nhiêu ruộng đất trâu bò đều về tay cô. Mà ruộng đất trâu bò của phú ông giao cho các tá điền nhiều thứ linh tinh phức tạp, có thứ đã làm giấy tờ phân minh nhưng cũng có thứ vì cái chết đột ngột xảy đến nên chưa có giấy tờ gì cả. Cô con gái phú ông rất giống tính cha, lại là một người có mánh khóe vặt. Không bao giờ chịu để mất không cái gì cho người ngoài dù là những vật nhỏ mọn, Sau khi làm ma bố xong, cô gái mới bắt đầu đi kiểm soát một lượt gia sản của bố để lại. Cô đến nhà bác Ba vào một buổi chiều. Lúc đó bác ta còn đi chăn trâu chưa về. Nhà này có nuôi trâu, cô biết, nhưng tất cả số trâu nuôi trâu đẻ được mấy con và lớn bé như thế nào thì hãy còn mập mờ. Trừ phú ông ra chả ai biết rõ. Mấy người đầy tớ chỉ nhớ mang máng cả mẹ đẻ con đẻ đâu năm sáu con. Tục ở đây nuôi trâu không có chuồng. Người ta đóng ở góc sân những cái cột, tối về buộc mỗi con vào một cột. Thoạt vừa đến cô gái đếm ngay số cột được sáu cái: – “Sáu cột vị chi là sáu trâu” cô tự bảo thế. Cô không biết rằng trước đây một hôm vì có một cột gần gãy nên bác Ba phải đóng một cột khác, chưa kịp nhổ cái kia đi. Lúc bác lực điền đánh trâu về, cô gái đếm đi đếm lại chỉ có năm con, bèn ngẫm nghĩ: – “Quái thật! Sao chỉ có năm. Có lẽ vì không có giấy tờ, nên nghe tin cha chết lão này đã bán trộm một con”. Bèn nói to: – Này bác Ba. Còn một con nữa đâu? Bác lực điền ngạc nhiên: – Còn trâu nào nữa, tôi nuôi của cụ cả thảy chỉ có năm con. Cô gái lý sự: – Năm trâu sao lại sáu cột. Có lẽ bác đánh lạc mất một con trong rừng chứ gì? Bác Ba đem việc cột gãy ra phân trần, nhưng cô nào đâu có nghe: – Thôi bác chịu khó đi tìm cho tôi đi. Năm trâu sao lại có sáu cột? Thấy cô ta lẩm bẩm mãi mấy tiếng “ năm trâu sáu cột “, bác lực điền nổi xung: – Chỉ có bắt cô trói vào cột này thì họa chăng mới thành sáu được! Cô gái phú ông không phải là tay vừa, nhảy lên xỉa xói bác Ba. Bác Ba bực mình bỏ đi vào rừng. Cô tiếp theo chân bác. Rồi đó hai câu “năm trâu sáu cột” và “bắt cô trói cột” trở thành lời đối đáp của hai bên. Cả bác Ba và cô gái về sau đều hóa thành chim. Hai con chim đó xuất hiện ở vùng rừng núi Thái-nguyên, Bắc-cạn là vùng xảy ra câu chuyện. Hai con chim kiếm ăn từ nhá nhem cho đến mờ sáng: một con đàng này núi, một con đàng kia núi, một con kêu: “ Năm trâu sáu cột “, một con đáp: “Bắt cô trói cột”. Người ta nhận tiếng kêu của từng con một mà đặt tên.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-nam-trau-sau-cot-va-chim-bat-co-troi-cot" }
Sự tích quả dứa
Huyền Nương là tên một cô gái mười lăm, không thích làm những việc bếp núc, thêu thùa vá may, tối ngày chỉ lo ca hát không để ý vào việc gì. Mẹ nàng là một góa phụ không mấy giàu sang, lại có tính chanh chua soi mói thiên hạ nên người trong làng ít ai có thiện cảm với mẹ con Huyền Nương. Thình lình mẹ Huyền Nương lâm bệnh nặng nằm một chỗ, Huyền Nương phải thay mẹ vào trong bếp nấu cháo, nấu nước cho mẹ. Khỗ nỗi, ngày thường không để ý chi đến mọi việc trong nhà, nên lúc vào bếp, Huyền Nương lúng túng không biết vật nào để ở đâu, và phải làm thế nào. Vì vậy, chốc chốc Huyền Nương lên tiếng hỏi: – Mẹ ơi, gạo để đâu? Mẹ ơi, cục đá để đánh lửa mẹ để đâu? – Mẹ ơi, nước đổ vào nồi như vậy vừa chưa. Mẹ ơi, cái gàu múc nước mất rồi … Đang ốm, lại bị kêu gọi từng chập, người mẹ Huyền Nương lấy làm bực mình lắm, nên nói lẫy: “Mẹ ước gì con có thật nhiều mắt để con kiếm những đồ dùng đặng khỏi kêu nheo nhéo suốt ngày làm chói cả tai”. Huyền Nương cắc cớ hỏi: – Bộ mẹ không thương con hay sao? Người mẹ chanh chua càu nhàu: – Thương cái nổi gì, nếu không có con cũng không sao. Tức thì giữa thinh không có tiếng nói khàn khàn: – Lời ước của người mẹ không biết thương con sẽ thành sự thật. Người mẹ kinh sợ, nhìn sau trước không thấy ai thì sinh nghi, bà liền gượng đứng dậy đi xuống bếp tìm Huyền Nương, nhưng không thấy nàng đâu nữa. Bà sợ sệt đi thẳng ra vườn cất tiếng gọi: “Huyền Nương! Huyền Nương!” Không một tiếng trả lời. Bà rên rỉ: “Trời ơi! Huyền Nương đâu mất rồi”. Bà đi đến cuối vườn, bỗng bà nhận ra đôi hài cỏ của Huyền Nương nằm cạnh một bụi cây vừa trổ sinh một trái rất kỳ lạ, mình dài mà tròn có nhiều mắt bao bọc xung quanh, tỏa mùi thơm thoang thoảng. Đôi mắt bà sáng lên, tay nắm lấy đôi hài, tay sờ vào trái lạ, tự nhiên nước mắt ứa trào ra, bà than thở: – Huyền Nương! Mẹ đã hiểu vì sao rồi. Sau tiếng than của bà, nhiều tiếng khóc nỉ non từ trong lòng trái lạ vẳng lên. Da trái đang xanh, hứng phải nước mắt và tiếng khóc than của người mẹ dần dần ửng vàng. Ngày xưa, người ta gọi thứ trái lạ này là trái Huyền Nương, nhưng dần dần đổi lại là trái thơm.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-qua-dua" }
Sự tích Sao hôm và Sao mai
Xưa có một anh tiều phu nọ đến suối thình lình gặp một bầy tiên đang tắm. Tiên vội khoác áo bay về trời, còn sót lại một cô bay không được vì bộ áo của cô bị anh tiều phu giấu. Nhờ vậy, anh tiều phu nọ bắt cô tiên về làm vợ. Anh giấu bộ quần áo nọ thật kỹ dưới đáy bồ lúa, sợ vợ thấy được, ăn cắp bay trở về trời. Họ sinh được đứa con trai. Hôm nọ, anh tiều phu đi vắng nhằm lúc ở nhà có người đến xin lúa. Khi xúc tới đáy bồ, bộ xiêm y lòi ra. Vợ hết sức mừng rỡ, mặc vào rồi nói lại với đứa con: – Mẹ đây cốt tiên, không thể nào ở mãi dưới trần thế được. Con đừng buồn, Mẹ để lại cho con cái lược này làm dấu tích. Dứt lời nàng bay mất. Anh tiều phu về, hay được sự tình, ngã lăn ra khóc lóc, bất tỉnh nhân sự. Từ đó, ngày này qua ngày khác, anh dắt con ra suối tìm hình dáng người xưa. Suối đó vốn là suối tiên. Khi về được nơi tiên giới rồi, nàng tiên nọ không dám trở lại nữa, nên sai Ngọc Nữ xuống múc nước thế cho mình. Bữa đó hai cha con anh tiều phu gặp hai cô gái đang múc nước tại suối. Anh hỏi han tin tức nàng tiên, hai cô nọ trả lời không biết. Trong lúc nói chuyện qua lại đứa con anh làm rớt cây lược vô trong hũ nước. Chừng đem hũ nước về tiên giới, nàng Tiên nọ nhận ra chồng con mình đến suối để tìm, Nàng nói: – Ngọc Nữ hãy đem cái khăn này xuống cõi trần, bảo anh tiều phu và đứa con bịt nó ngang đầu, khăn phép này sẽ giúp họ đằng vân về đây. Anh tiều phu làm y theo lời. Quả nhiên đến cõi tiên gặp mặt vợ. Sau phút sum họp, nàng Tiên nói: – Ta là Tiên, chàng là khách tục. Hai ta không thể sum họp được hôm nay chỉ tạm gặp mặt nhau, rồi đây phải từ biệt. Nàng Tiên bèn thiết tiệc rồi bảo chồng và con lên ngồi trên một cái trống lớn có cơm đem theo để ăn dọc đường. Trên này có dây thòng xuống. Khi nào đến mặt đất thì anh phải đánh trống lên để trên này biết chừng mà chặt đứt dây. Trống nọ thả xuống tòn ten giữa trời. Bỗng nhiên, có con quạ thấy đứa bé đang ăn cơm nên bu lại mổ vào. Trống kêu lên Tung tung. Trên này, ngỡ là chồng và con đã xuống tới đất, nàng Tiên chặt đứt dây, hai cha con anh tiều phu nọ phải té xuống biển mà chết. Từ đó, sao Hôm và sao Mai mọc. Sao Hôm là anh tiều phu, sao Mai là nàng Tiên nọ. Họ không bao giờ gặp nhau. Đứa con thì hoá ra đòn gánh ở khoảng giữa mà ngóng cha trông mẹ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-sao-hom-va-sao-mai" }
Chum vàng chum rắn
Ngày xưa có hai vợ chồng quê nghèo đói nhưng ăn ở hiền lành và tử tế với mọi người. Một hôm, trong lúc cầy cuốc ở ngoài đồng, người chồng gặp được hũ vàng. Anh lẳng lặng vùi hũ vàng lại rồi về khoe với vợ: - Mình ơi! Hôm nay tôi đào được hũ vàng ngoài đồng. - Vàng đâu? - Tôi còn để ngoài đồng, chưa đem về. Người vợ dẫy nẩy người: - Đừng có khùng! Bắt được vàng sao không mang về. Để như thế, lỡ ai trông thấy lấy mất thì sao. Người chồng bình tĩnh: - Mình đừng lo! Vàng đó là của trời. Trời đã cho thì không mang về, nó cũng theo mình về. Trời đã không cho mà vào tay kẻ khác thì tiếc rẻ làm chi. Thằng ăn trọm nấp ở góc nhà nghe lỏm được câu chuyện. Đợi hai vợ chồng ngủ say, nó lẻn ra khỏi nhà và chạy thẳng tới chỗ chôn vàng. Tìm được hũ vàng, nó mừng rỡ vác về nhà. Nhưng vừa mở nắp ra, nó chỉ toàn thấy toàn rắn là rắn. Rắn lớn, rắn nhỏ, loi nhoi lúc nhúc trông thật là ghê rợn. Nó bèn đậy nắp lại rồi giấu kín vào một nơi. Sáng hôm sau, người nhà quê ra rung tìm hũ vàng thì hũ vàng đã biến mất. Đêm hôm ấy, anh về cho vợ hay thì bị vợ mắng: - Anh thật là một thằng ngốc. Anh đã không chịu nghe tôi nên mất vàng là đáng kiếp. Người chồng vẫn một giọng bình tĩnh: - Mất thì thôi chớ sao. Trời cho thì mình được. Trời lấy về thì xin vâng. Cuộc đối thoại giữa hai vợ chồng lại bị thằng ăn trộm nghe lỏm. Nó nghĩ thầm: - Đồ mù! Rõ là hũ rắn mà anh này lại nhìn ra vàng. Để sáng mai ta đem trả cái hũ vào chỗ cũ mới được. Sáng hôm sau, người nhà quê ra đồng làm việc. Gặp lại cái hũ, anh mở ra coi thì thấy số vàng còn nguyên vẹn. Chiều về anh khoe với vợ: - Mình à! Hũ vàng chưa mất. Còn nguyên chỗ cũ. Đấy, tôi nói có sai đâu! Trời đã cho thì không ai lấy của mình được. Nghe nói vậy, người vợ bèn giục: - Rõ khờ ! Sao không đem ngay cái hũ về đi. Còn đợi gì nữa? Người chồng lừng khừng: - Mang về làm gì cho cực cái thân. Mình đừng có lo! Tôi đã bảo là một khi Trời cho thì trước sau nó sẽ về tay mình. Đêm ấy, thằng ăn trộm cũng nghe được câu chuyện đối đáp giữa hai vợ chồng. Nó mỉm cười nghĩ thầm: - Anh thằng này tin ở Trời quá hoá mù quáng rồi, chẳng thấy gì nữa. Phải cho nó một bài học mới được. Nó lẻn ra đồng ngay đêm hôm đó, bê cái hũ về để ngay trước nhà hai vợ chồng người nhà quê, và tin rằng thế nào rắn cũng sẽ bò ra cắn chết hai vợ chồng. Sáng hôm sau, người chồng thức dậy, thấy cái hũ ở trước cửa nhà. Anh mừng rỡ mở ra nắp ra coi. Thấy hũ đầy ắp những vàng, anh bảo vợ: - Mình ơi, vàng nè! Ra đây mà coi! Tôi nói có sai đâu. Trời đã thật sự cho chúng mình rồi. Lời bình: Đã là của mình thì không mất. Đã không phải của mình, có hao tâm tổn trí chiếm đoạt cũng không được gì, lại còn mang vạ vào thân.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chum-vang-chum-ran" }
Ông Dài, Ông Cộc hay Sự tích sông Kỳ Cùng
Ngày xưa, ở vùng sông Tranh thuộc về tỉnh Đông có hai vợ chồng một nhà nọ, gia tư cũng vào hạng khá, nhưng tuổi già mà chưa có con. Thường ngày họ cầu trời có một đứa con cho vui tuổi già. Một hôm trong khi ra đồng phát ruộng, người chồng nhặt được hai quả trứng to bằng nắm tay, bèn đưa cho vợ xem. Xem xong, chồng định vứt đi, nhưng người vợ ngăn lại: – Đừng vứt, cứ để cho nó nở xem thử con gì. Bèn đưa vè bỏ vào vò đặt bên cạnh bếp. Chỉ trong mấy ngày, trứng nở thành một cặp rắn nhỏ trên đầu có mào đỏ rất xinh. Thấy vậy, người chồng định đánh chết, nhưng vợ ngăn lại: – Đừng đánh tội nghiệp. Cứ để mặc tôi, tôi nuôi chúng làm con. Hai con rắn rất khôn, từ đó quấn quít với người, đi đâu cũng đi theo. Chúng chóng lớn, mới bằng chiếc đũa, chẳng bao lâu đã to bằng ngón tay. Một hôm người chồng cuốc vườn, cặp rắn bò theo sát nút để kiếm cái ăn trong đất mới lật. Vô tình một nhát cuốc bổ xuống làm đứt đuôi một con. Con rắn quằn quại. Người vợ kêu lên: – Chà, tội nghiệp! Mày cứ quẩn bên chân ông lão làm gì cho khổ thân thế này!. Từ đó con rắn bị đứt đuôi ngày một trở nên hung dữ hơn con kia. Hai con càng lớn càng ăn khỏe. Chúng thường bò vào chuồng gà các nhà lân cận tìm bắt gà con. Bị xóm giềng chửi bới luôn canh, một hôm chồng bảo vợ: – Thôi! Ta đem thả chúng xuống sông cho chúng kiếm ăn, kẻo để lại có ngày mang họa. Hai vợ chồng bèn mang cặp rắn đến bờ sông thả xuống và nói: – Bớ các con! Các con hãy ở đây tự kiếm lấy cái nuôi thân, đừng có trở về, bố mẹ không đủ sức nuôi các con nữa! Cặp rắn vừa thả xuống nước, lập tức sóng gió nổi lên ầm âm, các loài thủy tộc ở các nơi về tụ hội bơi lượn đông đảo. Hai vợ chồng rất kinh ngạc. Đêm lại, chúng về báo mộng cho họ biết là chúng đã được vua Thủy cho cai quản khu vực sông Tranh. Từ đó hai con rắn làm oai làm phúc suốt cả một khúc sông rộng. Người ta lập đền thờ chúng bên sông, gọi chúng là Đức ông tuần Tranh, cũng gọi là Ông Dài, ông Cộc. Tuy mọi thứ cần dùng đã có bộ hạ cung đốn đầy đủ, nhưng chúng vẫn thỉnh thoảng bắt súc vật và người qua lại trên sông. Duy ông Cộc bản tính dữ tợn, ngày một trở nên ngang ngược, lại tỏ ra hiếu sắc. Thuyền bè đi qua đó, nó thường xoáy nước nổi sống dữ dội làm cho bị đắm để bắt người lấy của. Mỗi lần nghe tin có xảy ra tai nạn, hai vợ chồng bố mẹ nuôi ông Dài ông Cộc vẫn thường ra bờ sông hết lời van vái con, để mong chúng đỡ phá phách. Chúng cũng có nghe, nhưng rồi chứng nào vẫn tật ấy. o O o Một hôm, có hai vợ chồng một người họ Trịnh có việc đi thuyền qua đấy đỗ lại. Người vợ là Dương thị vốn người xinh đẹp làm cho ông Cộc mê mẩn. Đêm lại, bỗng dưng từ dưới nước có hai người con gái bước lên thuyền, mỗi người đầu đội một mâm lễ vật. Chúng đặt mâm xuống trước mặt anh học trò và nói: – Đây là lễ vật của ông Cộc. Đức ông chẳng bao giờ hạ mình làm những việc như thế này, nhưng chỉ muốn nhà thầy vui lòng nhường lại chỗ cho người vợ. Người học trò chưa bao giờ nghe có chuyện trắng trợn thế ấy, bèn quát: – Về báo với đức ông chúng mày hãy mau mau bỏ thói ngang ngược. Ta là người đọc sách thánh hiền, không bao giờ ta lại sợ loài quỷ quái. Chưa dứt lời đã không thấy hai người con gái đâu nữa. Người học trò tuy nói cứng, nhưng vốn từng nghe những câu chuyện về ông Dài, ông Cộc nên cũng có ý sợ. Bèn bảo vợ cầm lấy tay nải rồi cả hai từ giã chủ thuyền bước lên bờ. Nhưng không kịp nữa rồi. Ông Cộc đã nói là làm. Thấy con mồi đã lên bộ, ông bèn đuổi theo, hóa làm một trận mưa bão kinh khủng làm cho họ không thể tiếp tục đi được. Người học trò đành đưa vợ vào trú ở một ngôi đền gần đó. Mưa bão kéo dài suốt đêm. Sáng dậy bão tạnh, người học trò tỉnh dậy đã thấy vợ mình biến đi đâu mất. Anh theo dấu đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó. Đau xót vì mất người vợ yêu, anh chàng học Trịnh bèn đi lang thang khắp nơi tìm cách trả thù. Trải qua bao nhiêu ngày tháng. Một hôm qua một cái chợ, anh bỗng gặp một ông thầy bói hình dung cổ quái đang ngồi đón khách. Anh ngồi xuống xin một quẻ về gia sự. Thầy bói gieo quẻ, nói: – Nhà ngươi đang có sự lo buồn. Anh đáp lời: – Xin thầy cứ cho biết. – Vợ nhà ngươi bị một kẻ có quyền cướp mất. – Chịu thầy. Xin cho biết vợ tôi hiện nay ở đâu? và có cách gì cứu được vợ tôi không? – Không giấu gì nhà ngươi, ta vốn là Bạch Long hầu vốn có phận sự làm mưa ở vùng này. Thấy việc tác quái, ta muốn giúp nhà ngươi trả được mối thù. Ta đợi nhà ngươi ở đây đã lâu. Kẻ kia tuy quyền thế nhưng không thể làm loạn chính pháp. Vậy nhà ngươi hãy theo ta. Trước hết hãy dò tìm tung tích vợ ngươi để nắm được chứng cớ đầy đủ. Người học trò tưởng không còn gì mừng hơn thế nữa, bèn sụp lạy Bạch Long hầu, rồi bước theo bén gót. Đến bờ biển, Bạch Long hầu bảo anh nhắm mắt, đoạn rẽ nước đưa anh đi mãi, đi mãi đến một hòn đảo xa tít ngoài biển Đông. Sáng hôm sau, ông hỏi: – Ngươi có mang theo vật gì của vợ để nàng làm tin không? Người học trò đáp: – “Có.” – Nói rồi đưa ra một cành thoa của vợ. Bạch Long hầu cầm lấy đi ngay. Chỉ hai hôm sau, ông đã về kể cho chàng nghe tất cả mọi việc và nói: – Vợ người vẫn một lòng một dạ với người. Đó là một người thủy chung. Vậy mai đây ta sẽ đưa nhà ngươi đến triều đình đánh trống “đăng văn”, khi đưa nàng ra đối chất, tự nàng sẽ tố cáo kẻ thù. Nhưng ngươi cũng phải viết sẵn một lá đơn kiện mới được. Chưa đầy ba ngày, vụ kiện của người học trò đã xử xong. Ông Cộc không ngờ Dương thị lại vạch tội hắn trước tòa án vua Thủy, tuy rằng nàng đã sinh với hắn một đứa con. Vua Thủy khi thấy chứng cớ sờ sờ về hành động gian ác của bộ hạ mình thì đùng đùng nổi giận. Vua thét: – Hãy bắt nó đày đi thật xa cho đến tận cùng của đất nước! Dương thị được đưa trở về cõi trần với họ Trịnh, hai vợ chồng lại đoàn tụ. Còn đứa bé do Dương thị đẻ ra với ông Cộc thì giao cho ông Cộc nuôi. Ngày ông Cộc đi đày, tôm cá rắn rết náo động cả một khúc sông Tranh. Quân lính áp giải ông Cộc ra biển rồi đi ngược lên phía bắc. Trải đã nhiều ngày, một hôm họ đến một vùng nhìn vào thấy rừng cây mịt mù, không hề có khói lửa. Ông Cộc hỏi một số người địa phương: – Đây là đâu? Họ đáp: – Nơi đây đã sắp đến địa phận nước Việt rồi. Đi qua nữa là sang nước khác. Ông Cộc bảo quân lính áp giải: – Vậy là đã đến chốn kỳ cùng rồi đó. Theo lệnh nhà vua, ta sẽ ở đây. Cả đoàn bấy giờ rẽ sóng kéo vào cửa sông. Nhưng ở khúc sông này từ lâu vốn có một con thuồng luồng trấn trị. Hắn rất không muốn chia sẻ quyền hành với kẻ mới đến. Cho nên khi thấy ông Cộc tới, lập tức một cuộc giao phong diễn ra dữ dội từ cửa sông vào cho đến thượng nguồn. Nước bắn tung tóe, tôm cá chết như rạ. Hai bên bờ lở sụp, sinh mệnh tài sản của dân ven sông bị thiệt hại rất nhiều. Hai bên đánh nhau mấy ngày không phân thua được. Ông Cộc bị thương tích đầy người, nhưng thần thuồng luồng cũng bị toạc da chảy máu và bị đứt mất một bên tai. Thấy thế, những quân lính áp giải vội chạy về báo cho vua Thủy biết. Cuối cùng việc lại đưa đến tòa án cho vua Thủy. Vua bắt hai bên phải chia đôi khu vực, định lại ranh giới rõ ràng, và từ nay về sau không được xâm lấn của nhau. Ông Cộc bèn cho đưa một tảng đá lớn như hình một cái đầu đặt ở ven sông. Bên phía thuồng luồng cũng làm phép hiện ra một cái chuông úp ở bờ bên này làm giới hạn. Nhưng thần thuồng luồng vẫn chưa hết giận, vì cho rằng bỗng tự dưng vô cớ bị chia sẻ quyền hành là do ông Cộc mà ra. Bởi vậy thuồng luồng ta thỉnh thoảng lại gây sự đánh nhau với ông Cộc. Dân chúng hai bên bờ sông mỗi lần nghe tiếng chuông, tiếng nước sôi động ầm ầm thì biết rằng sẽ có cuộc giao tranh kịch liệt. Về sau vua Thủy giận thuồng luồng “bất tuân thượng lệnh”, bèn sai quân kéo tới bắt sống, xích lại, giao cho thần Núi địa phương canh giữ, còn ông Cộc từ đấy được cai quản cả hai khu vực. Ngày nay, bên bờ nam sông Kỳ Cùng, chỗ chân cầu tỉnh lỵ Lạng Sơn còn có một hòn đá lớn như hình cái đầu. Còn bờ bên kia, trong một ngôi chùa cổ còn có cái chuông bị xích, nhưng đã đứt mất một bên tai. Người ta nói cái đầu bằng đá là do ông Cộc đặt làm mốc, còn cái chuông là hiện thân của thuồng luồng bị thần Núi xích tại đây. Cái tên sông Kỳ Cùng cũng xuất phát từ cuộc đày ải ông Cộc mà có.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ong-dai-ong-coc-hay-su-tich-song-ky-cung" }
Sự tích đầm gà
Giáp chân núi Chẹ có một cái đầm sau gọi là đầm Gà. Tục truyền, ở quanh đầm ấy ngày xưa đã xảy ra một trận đánh lớn giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sau khi Sơn Tinh gánh núi Chẹ đặt án ngữ dòng nước sông Đà không cho xô thẳng vào mặt sau núi Tản. Thủy Tinh mất dòng nước làm chỗ dựa đành phải tháo lui. Nhân dân quanh vùng ghi nhớ công lao của Sơn Tinh, đặt tên cho núi Chẹ là Sụ Tùng. Còn Thủy Tinh thì rất căm tức. Hắn định lập quỷ kế, lừa khi đêm tối sẽ  xua quân nầm xẻ ngòi dẫn nước sông Đà vào phá đổ núi Chẹ. Hắn lại giao hẹn với Sơn Tinh chỉ đánh nhau từ chập tối đến gà gáy sáng thôi. Thấy Sơn Tinh vui vẻ nhận lời, tưởng ông trúng kế, Thủy Tinh mừng Lắm. Đến đêm, hắn chia quân làm hai cánh từ hai hướng tây nam và tây bắc núi Ba Vì ráo riết xẻ ngòi Tôm và ngòi Lạt vào sát chân núi. Thủy Tinh không những đánh đào bật núi Chẹ đi mà còn định phá đổ cả ba tòa núi Tản. Khoảng nửa đêm, khi quân của Thủy Tinh đã đi vào gần chân núi Chẹ,  Sơn Tinh liền vỗ tay và giả làm tiếng gà gáy. Gà trên núi đều cất tiếng gáy theo. Quân của Thủy Tinh tưởng trời đã sáng hoảng sợ chạy lui, dồn ứ lại ở vùng chân núi Chẹ. Lúc ấy tiếng gà gáy cũng là hiệu lệnh cho quân của Sơn Tinh lao gỗ đá từ trên cao đánh xuống. Quân của Thủy Tinh chết rất nhiều. Ở nơi Sơn Tinh vỗ tay giả làm tiếng gáy, nơi diễn ra trận đánh ác liệt, nước đã xoáy thành đầm. Nhân dân địa phương đến nay vẫn gọi đó là đầm Gà.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-dam-ga" }
Sự tích hoa đào
Ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, Bắc Việt có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào to lớn khác thường, bóng cây che phủ cả một vùng rộng. Có 2 vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này. Các vị diệt trừ ma quái, giúp cho người dân trong vùng có được cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Khiếp sợ trước quyền năng to lớn của 2 vị thần, lũ yêu ma cũng sợ luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là chúng đã sợ hãi bỏ chạy. Tuy nhiên, đến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, 2 thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Chính vì thế, lũ yêu tinh được dịp hoành hành, tác oai tác quái. Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã nghĩ ra một cách là đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ. Nếu ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà để xua đuổi ma quỷ. Từ đó, hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà để trừ ma quỷ. Tuy nhiên về sau, người ta quên mất ý nghĩa thần bí của tục lệ này vì không còn tin vào ma quỷ, thần linh như tổ tiên ngày xưa. Ngày nay, cành đào tươi thắm vẫn xuất hiện trong mỗi ngôi nhà vào dịp Tết đến xuân về nhưng ý nghĩa của nó đã khác xa với tục lệ ngày xưa. Vẻ đẹp của nó đã mang lại sự ấm cúng cho mỗi nhà, gieo vào lòng mỗi người niềm vui, niềm tin yêu, hy vọng vào năm mới tốt đẹp.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-dao" }
Lạc Long Quân giệt trừ Cửu vĩ Hồ tinh
Lạc Long Quân giúp dân trừ yêu diệt ma, lần diệt nạn nạn thủy quái khiến cho nhân dân miền biển vui mừng khôn xiết. Lạc Long Quân đi đến đâu cũng được hoan hô chúc tụng. Sau đó, thần lại tiếp tục đi thăm dân sự. Thần đi ngược dòng sông tiến dần vào nội địa. Đến đây, thần lại được nhân dân địa phương nhờ trừ hộ con Cửu - vĩ Hồ tinh. Số là ở đất Long Biên cứ như bây giờ là Hà Nội về mạn tây sát mé sông có một hòn núi đá. Dưới núi có hang sâu và rộng. Ở hang ấy từ lâu có một con cáo chín đuôi lấy làm nơi trú ngụ, cho nên về sau này người ta vẫn gọi là Lỗ hồ dỗng (động Con Cáo). Người ta kể chuyện cho Long Quân biết con cáo ấy sống đã hơn nghìn năm bây giờ thành tinh có thể biến hóa được thiên hình vạn trạng: khi hóa thành người, khi hóa thành vật, đi lại trà trộn trong nhân dân bắt đàn bà con gái đưa về hang để hãm hiếp. Lại có khi hóa thành qủy trêu ghẹo người và làm cho người mắc bệnh đến chết. Nó làm cho mọi người không khi nào yên ổn,  nhiều khi cùng ngồi với nhau mà ngờ vực nhau, không biết ai là người ai là yêu tinh. Nhân dân vì cái nạn Cửu vĩ Hồ tinh phải bỏ cửa nhà, bỏ ruộng đất trốn tránh đi các ngả. Nhưng thấy vắng bóng dân sự địa phương thì Cửu vĩ Hồ tinh lại táo bạo đi xa hơn, tìm vào chỗ người Mán ở để phá hại. Bấy giờ một bộ lạc người Mán từ trước tới nay sinh tụ xung quanh núi  Tản Viên nhờ được thần dạy cách trồng lúa và dệt vải nên đời sống tương đối dễ chịu hơn trước. Họ dùng vải may áo trắng mặc một kiểu thống nhất cho nên các dân tộc khác vẫn gọi là Mán áo trắng. Đời sống của họ đang sung sướng yên vui thì Cửu vĩ Hồ tinh tìm tới làm cho họ điêu đứng. Cũng như thói thường Hồ tinh khi hóa làm thanh niên, khi hóa làm thanh nữ xinh xắn, trà trộn vào dân áo trắng cùng hát xướng, cùng đàn địch rồi quyến rũ họ về hang để bắt phục dịch hoặc  hãm hiếp đến chết. Người Mán lấy làm khổ vô cùng mà không biết làm thế nào được. Lạc Long Quân nghe nói liền tìm đến sào huyệt Hồ tinh. Thấy có người lạ, Hồ tinh xông ra đánh đuổi, nhưng vừa giao chiến một chốc đã biết Long Quân không phải là tay vừa. Hồ tinh rút ra khỏi hang giở các phép thuật của mình khi bay lên trời, khi tụt xuống đất biến thành ác thú chực hại Long Quân, v.v. . . Chúng ta không biết rõ chi tiết cuộc chống đối của Long Quân như thế nào nhưng chiến trận tất không thể không gay go ác liệt. Cuối cùng Hồ tinh biết mình không thể địch nổi bèn tìm cách chạy trốn. Cuộc truy nã của Long Quân cũng không phải dễ dàng. Hồ tinh biến hóa trăm khoanh, nhưng chả mấy chốc đã bị Long Quân giết chết, hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ có chín  đuôi. Long Quân kéo xác Hồ tinh về núi, rồi vào hang giải phóng cho những trai gái, phụ nữ bị Hồ tinh bắt về đó. Đoạn Long Quân cho bộ hạ đem nước sông Cái phá hẳn sào huyệt con quái vật. Nước lênh láng suốt mấy ngày đêm, xoáy vào hang, đào băng hòn núi đá đi mất tích thành một cái hồ lớn vừa to vừa sâu mà người ta gọi là đầm Thây con cáo (Thi hồ trạch) hay đầm Con cáo (Lỗ hồ đâm) về sau mới đổi tên là hồ Tây. Sau khi diệt xong Cửu vĩ Hồ tinh, Lạc Long Quân chiêu tập nhân dân vì nạn Hồ tinh phải đi trốn tránh về, cho họ ở trên miếng đất cao ráo ở cạnh hồ mà ngày nay vẫn còn giữ tên là làng Hồ, Long Quân lại chỉ vẽ cho họ trồng trọt làm ăn trên cánh đồng bằng phẳng ở bên bờ phía tây hồ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lac-long-quan-giet-tru-cuu-vi-ho-tinh" }
Sự tích cây Kim Giao
Ngày xửa ngày xưa, có một đôi trai gái yêu nhau tha thiết lắm. Người con trai tên là Kim, người con gái tên là Giao. Cả hai đều là con của nhưng gia đình nghèo túng, quanh năm làm thuê, làm mướn, nhưng ai nấy cũng lương thiện và rất tốt bụng. Hai bên bố mẹ rất ưng thuận làm thông gia với nhau. Kim và Giao thề nguyện với nhau sẽ kết bạn trăm năm. Nếu không lấy được nhau thì sẽ ở vậy suốt đời. Mối tình của họ trong như nước suối, sáng tợ như trăng rằm. Ngờ đâu sóng gió nổi lên, giặc phương Bắc kéo sang xâm lấn quê nhà. Quan lại địa phương hèn nhát đánh không lại, giơ tay đầu hàng và cấu kết với chúng bóc lột, vơ vét của dân lành. Kim theo trai tráng trong làng gia nhập nghiã quân, chống lại bọn cường hào và  kẻ thù xâm lược. Không may, anh bị giặc bắt được, chúng hành hạ anh thậm tệ và đầy lên một vùng rừng núi hoang vu hẻo lánh. Người ngày nay đặt tên cho vùng này là rừng Cúc Phương, thuộc huyện Hoàng Long. Bị hành hạ khổ sở và nhớ thương gia đình, nhớ thương người yêu quá đỗi, Kim lâm trọng bệnh, không bao lâu thì chàng qua đời. Bạn tù và người dân điạ phương cảm mến, thương chàng đã sống chí tình chí nghĩa, họ đem xác chàng chôn cất cẩn thận giữa rừng, bên cạnh một giòng suối. Người con gái tên Giao từ khi xa người yêu cũng ngày đêm thương nhớ khôn nguôi. Rất nhiều trai làng và cả bọn quan lại, địa chủ giàu có trong làng mê mẩn sắc đẹp của nàng đến gạ hỏi nhưng nàng chẳng chịu một ai, nhất định từ chối tất cả. Nàng xin phép cha mẹ cho mình lên đường đi tìm người yêu.  Cha mẹ thương con gái chân yếu tay mềm không muốn cho đi.  Nhưng dù cha mẹ khuyên lơn, cản trở, nàng vẫn nhất định ra đi. Ðường xá xa xôi, núi rừng hiểm trở, nàng cứ vừa đi vừa hỏi đường, đóng giả người ăn mày để qua mắt bọn trộm cướp và quan lại. Hết ngày này đến tháng nọ, cuối cùng nàng cũng tìm đến được chỗ mà Kim đã từng bị giam cầm. Nhưng than ôi, khi nàng đến nơi thì người trong làng báo rằng Kim đã chết. Tê dại cả người, nàng lê gót trở lại trong rừng tìm mộ người yêu theo lời chỉ dẫn của họ. Tìm được mộ chàng, nàng ôm lấy vật vã khóc than, nước mắt như mưa.  Rồi nàng kiệt sức mà chết. Xúc động trước cảnh tình của hai người, dân trong làng lại  đào huyệt chôn nàng sát cạnh mộ của chàng Kim. Hai nấm mộ nằm sóng đôi giữa khu rừng vắng. Một thời gian sau, ở giữa hai nấm mộ mọc lên một thứ cây có thân rất thẳng, dân địa phương chưa bao giờ thấy. Lá cây phía trên có màu xanh thẫm, bóng láng, phía dưới màu trắng bạc. Cây tỏa ra một mùi thơm ngan ngát như mùi trầm quí giá. Người ta đồn rằng cứ đêm về, từ cây ấy vọng ra một thứ tiếng trầm trầm như tiếng người hát, nghe ai oán và buồn vô cùng. Quan lại trong làng tức giận, cho là cây có ma, cho người đến đốn đi. Trong lúc đứng xem quân lính chặt, bọn chúng bị nhựa cây văng phải vào mặt, về nhà được ít lâu thì hai mắt bị mù. Còn cái cây lạ thì chồi lại bật lên, chẳng bao lâu lại xanh tốt như cũ. Dân làng từ ấy trở đi cho là cây thiêng, bảo nhau không ai được chặt đi. Có lời đồn khi có ai bị cảm cứ đến hái ít lá đem về xông thì sẽ khỏi bệnh. Ðiều kỳ lạ hơn nữa là nếu lấy gỗ cây này chuốt làm đũa, bỏ vào thức ăn có độc, quanh đầu đũa sẽ sủi bọt mầu đen báo cho ta biết. Từ đó, nó trở thành một thứ cây quý vô cùng. Người trong làng đã đặt tên cho loại cây này là cây Kim Giao.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-kim-giao" }
Sự tích vịnh Hạ Long
Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa, xa xưa lắm, một lần nước ta có giặc ngoại xâm, trời sai rồng mẹ mang một đàn con xuống cứu giúp. Đánh giặc xong, rồng mẹ và đàn con ở lại hạ giới. Chỗ rồng mẹ đáp xuống nước là Hạ Long , chỗ đàn con là Bái Tử Long, còn chỗ đàn rồng con quẫy tung sóng là Bạch Long Vĩ. Hạ Long có rất nhiều cảnh đẹp như hang Đầu Gỗ ( hay còn gọi là Dấu Gỗ ), hang Bồ Nâu, hang Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, hang Trống, hòn Rồng, hòn Con Gái …v.v .. Nhiều hang, hòn , động đẹp tuyệt trần không sao kể hết . Trong số các hang động ở Hạ Long , phải kể đến hang Đầu Gỗ hay Độc Canh như một số sách xưa đã ghi. Trong hang có nhiều nhũ đá, măng đá và trụ đá đủ hình đủ màu. Sở dĩ hang được mang tên là Đầu Gỗ là vì khi xưa , trong cuộc chiến chống quân Nguyên, Hưng Đạo Vương đã cho quân sĩ chặt cây đẽo nhọn làm cọc gỗ. Trước khi mang vào cửa sông Bạch Đằng cắm , ông đã cho cất giấu vào đây. Vịnh Hạ Long thật là một tuyệt tác của thiên nhiên. Sự khép mở lạ lùng của những vách núi tạo nên một không gian lạ lùng và bí ẩn.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-vinh-ha-long" }
Nàng tiên cóc
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc. Con cóc lớn lên, biết nói tiếng người, song hình thù sần sùi, xấu xí, khiến cha mẹ nó lấy làm buồn phiền, thường than thở với nhau: “Vợ chồng mình già cả, hiếm hoi, tưởng sinh được mụn con nối dòng, trông nom đỡ đần mình, ngờ đâu oan gia nghiệp báo lại sinh ra cóc, còn trông mong gì nữa”! Cóc nghe thấy thế, khuyên cha mẹ đừng lo. Rồi ngay hôm sau cóc nhảy đi coi ruộng cho cha mẹ, và từ khi nó trông nom đồng áng thì chẳng có ai lấy trộm lúa ruộng nhà nó như trước nữa. Một hôm, có mấy thư sinh đi qua ruộng nó, dẫm lên lúa, bỗng nghe có tiếng lanh lảnh như giọng con gái bảo rằng: “Xin các cậu đi cho có ý tứ kẻo làm nát lúa nhà em”. Lũ thư sinh nhìn vào ruộng lúa, chẳng thấy ai, chỉ thấy một con cóc đang ngồi đó. Tiếng nói dịu ngọt làm cho một anh trong bọn đâm ra có cảm tình. Chàng thư sinh này bấy lâu đọc sách đạo thần tiên, tin tưởng có sự mầu nhiệm ở đời, nên về nhà nói với cha mẹ xin hỏi cóc làm vợ. Ban đầu cha mẹ thư sinh tưởng con mình hóa dại, song anh ta cứ một mực đòi lấy cóc làm vợ cho kỳ được, nếu không thì thề quyết chẳng lấy ai. Người cha bèn kiếm cớ từ khước, bảo chỉ có một mình anh ta là con trai, cưới cóc về có sinh ra được con cái để nối dòng không? Thư sinh tin là sẽ có sự nhiệm màu xảy đến trong ngày cưới cóc về, Tiên Phật sẽ giúp cho cóc thành người có đức hạnh, nhan sắc hơn đời. Thấy con đã nhất quyết như vậy, cha mẹ anh ta cũng đành phải chiều theo, đem trầu cau đi hỏi cóc. Đến ngày cưới, bên nhà trai mang đủ lễ vật, đồ nữ trang, quần áo cho cô dâu như người thường, chàng rể hy vọng Tiên Phật hóa phép cho cóc thành một cô gái xinh tươi như chàng vẫn mộng tưởng. Cả hai họ cũng trông mong như vậy, nhưng đến khi rước dâu, mọi người phải tức cười và xấu hổ vì đưa đón một con cóc nhảy về nhà chồng. Cha mẹ chồng vừa rầu, phiền cho con trai, vừa chua xót vì con dâu cóc, liền cấp ruộng cho đôi lứa đi ở riêng. Thư sinh cũng buồn lòng, cặm cụi học hành, nghiên cứu các khoa học thần bí, hy vọng gỡ rối cho gia đình, nhất là đối với cha mẹ già đang khát khao có cháu bế. Cóc thì siêng năng công việc ở nhà, thức khuya dậy sớm khuyên chồng chăm chỉ bút nghiên. Ngày ngày anh ta đi học về thì đã thấy cơm nước sẵn sàng, nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, mới nghĩ bụng rằng trong lúc vắng mình, chắc vợ trút lốt cóc thành người, chứ một con cóc thì làm sao lo việc nội trợ khéo léo được thế kia? Mấy bận anh ta thử rình, ra đi rồi thình lình trở về bất ngờ, hy vọng bắt gặp vợ là một cô gái xinh đẹp, song chỉ thấy một con cóc sần sùi ở nhà. Anh van nài cóc hóa thành người đẹp cho mình được sung sướng, nhưng cóc vẫn thản nhiên không tỏ vẻ gì cả. Một tối, anh cho cóc hay tin mình được bổ đi dạy ở trường tỉnh, ngỏ thật rằng mình không thể đưa vợ đi theo nếu vợ vẫn giữ lốt cóc. Từ ngày cưới về anh ta đã chịu biết bao lời chế diễu của hàng xóm, bè bạn. Hơn nữa, cha mẹ vẫn thúc dục anh lấy thêm vợ khác để có con nối nghiệp tông đường. Cóc lặng yên nghe chồng than thở, khuyên chồng chớ nên quá buồn phiền, và xin phép hôm sau về nhà thăm cha mẹ. Sáng ngày, cóc đi theo chồng, được một quãng thì nhảy vào một cái bụi bên đường. Thư sinh dừng bước lại thì thấy ở bụi cây đi ra một cô gái xinh đẹp lạ lùng, quá sức ước mong của anh bấy lâu. Anh sung sướng ngẩn ngơ nhìn người vợ đẹp lại gần, say đắm ngắm nghía vợ từ đầu đến chân rồi thiết tha xin vợ từ đây cứ giữ hình người. Biết là vợ đã trút lốt cóc ra trong bụi, anh ta kiếm cớ đi lùi lại sau rồi chạy lẻn đến bụi tìm lốt cóc mà dấu vào mình. Đến nhà, cha mẹ thư sinh mừng rỡ thấy con dâu cóc đã hóa ra người xinh đẹp, dịu dàng. Anh chồng hân hoan thừa lúc mọi người không để ý đến, đem lốt da cóc bỏ vào bếp lửa cho tiêu tan. Hai vợ chồng ở lại nhà cha mẹ cả đôi bên luôn mấy ngày, vui vẻ tiệc tùng liên tiếp rồi mới trở về nhà. Trên đường về vợ kiếm cớ vào bụi cây để tìm lại lốt cũ, không thấy, chồng mới cho hay là mình đã lấy đốt đi rồi. Vợ đành phải giữ nguyên hình người để về với chồng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau đằm thắm vui vẻ, vợ sinh được nhiều con cái, chồng học thi đỗ cao làm nên chức lớn, sống một đời sung sướng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-tien-coc" }
Vua bà
Tục truyền rằng: Cũng là con do bà Tồ Cô đẻ ra, nhưng Nhữ Nương khác hẳn các chị em sinh cùng một bọc. Nhừ Nương đã thấp gầy, da lại đen trong khi ai cũng môi son má đỏ, da trắng tóc dài, thân hình đầy đặn dịu dàng nổi tiếng xinh đẹp. Lúc bình thường trông cô gái lờ đờ, ngơ ngác, tưởng như hồn vía để đi đều mất rồi. Vậy mà nhập vào cuộc hát ca, Nhữ Nương trông linh hoạt, duyên dáng hẳn lên. Khuôn mặt ngời ngời tình cảm, khi nhí nhảnh vui tươi, lúc mặn mà đằm thắm. Giọng Nhữ Nương đã trong lại ấm, như rót vào tai người nghe. Lời ca Nhữ Nương đặt ra vừa bay bổng vừa chân thực, khi ngộ nghĩnh hồn  nhiên, khi thấm thía ân tình. Giọng hát, lời ca của Nhữ Nương đã tạo cho cô một khuôn mặt mới, kỳ ảo và mê đắm lòng người. Rời nơi mẹ sinh, Nhữ Nương lưu lạc tới vùng Viêm Xá sông cầu, nhà giàu trong làng mướn cô làm người ở. Nhữ Nương lắc đầu từ chối: - Ta tuy tứ cố vô thân, nhưng không muốn làm con chim hót tiếng đau xót trong lồng giam! Người nghèo nhìn cảnh cô bơ vơ, nay trú ở nhà này, mai ở tạm nhà khác, thì tỏ lòng ái ngại, Nhữ Nương cười bảo: - Ai thương ta trơ trọi đơn độc, liệu có đông bầu bạn thân thích bằng ta không? Ta có trời đất làm cha mẹ, có núi sông làm anh chị, chim bướm, hoa cỏ đều làm bạn bè ... Còn ai sướng hơn ta nữa! Ngày ngày Nhữ Nương lặn lội khắp đồng xa đồng gần mò tôm bắt cá, kiếm con cua con ốc mang về đổi lấy lẻ gạo sống qua bữa. Suốt ngày ướt sũng, lấm lem bùn đất. Nhữ Nương vẫn vui. Vừa làm nàng vừa nhẩm những câu hát chợt nghĩ ra. Có khi hứng chí, Nhữ Nương lại hát to lên một khúc. Giọng ca âm vang trên mặt sóng đồng không. Mùa khô ruộng cạn nứt toác chăn chim. Nhữ Nương rời đồng lên núi Quả  Cảm cắt cỏ gianh cỏ giàng về bán cho lò gốm ven sông. Từ những sườn đồi cỏ  mọc lút đầu, tiếng ca Nhữ Nương vút lên hòa với tiếng líu lo chim ngàn, tiếng rì  rào bờ sông nước chảy ... Khi ngơi công việc, bên bếp lửa quây quần bạn gái bạn trai đồng lứa tuổi, tiếng hát Nhữ nương càng say sưa, biến hóa. Người già nghe thấy trẻ lại, người trẻ nghe thấy chân tay tự nhiên gõ nhịp, miệng mấp máy hát theo. . . Nhữ Nương thường khuyến khích các bạn trong làng: - Cứ hát đi! Đừng ngại không có giọng. Cốt nhạc trong lòng mình muốn hát lên... Nhà giàu trong làng lắc đầu, bực tức: - Hát hỏng suốt ngày, còn lúc nào làm ăn được nữa! Lời than thở, dậm dọa của nhà giàu ngập chìm trong tiếng bước chân trâu rầm rập ra đồng cày bừa, tiếng thóc ngả rào rào vào tay liềm tay hái. . . Trai gái nhà giàu trong làng nắm tay hậm hực: - Chả nhẽ chúng mình lại chịu lép lũ khố dây ấy ư? phải tổ chức cuộc thi hát, cho Nhữ Nương biết tay! Cuộc thi kéo dài, phần hơn thua chỉ trông vào cuộc đấu tài giữa Nhữ Nương và cô tiểu thư nhà giàu đầu bọn. Vào cuộc, Cô tiểu thư ra trước. Đã xinh đẹp, tiểu thư lại trang điểm đủ thứ gấm vóc lụa là, ngọc dắt vàng đeo đầy người, trông càng rục rỡ, xúng xính chả kém gì các nàng công chúa con vua. Tiếng hát tiểu thư cất lên lảnh lót, thánh thót ngân rung... Đến lượt Nhữ Nương, đứng bên tiểu thư càng bị lấn át. Đã đen thấp, lại ăn mặc nâu sồng chân quê. Tiếng Nhữ Nương run run đưa lên nhè  nhẹ, mới đầu còn như thủ thỉ tâm tình rồi đột nhiên tiếng hát vút cao lồng lộng. Khuôn mặt Nhữ Nương bừng bừng như năn nỉ, như mời gọi, mỗi lúc một thêm rạng rờ, nở nang. Đang cao vời, tiếng hát chợt lắng đi, mãi mới khắc khoải nổi  vào những tiếng thở than nửa thương nữa trách, lưu luyến vấn vít. . . Người nghe nín thở, tất cả dồn sự chăm chú vào khuôn mặt linh động, kỳ ảo của Nhữ Nương. Lúc này không ai còn nhớ đến cô tiểu thư như phấn như bột kia nữa... Dành được sự chú ý về mình, Nhữ Nương lại khéo léo chuyển sang phần hát đối. Ngay từ câu hát đầu Nhữ Nương đã làm cho đối thủ lúng túng. Lời của cô đặt ra, khi châm chọc, khi ngoắt ngoéo làm cho tiểu thư không biết đáp lại cách nào, đành đỏ mặt đứng đực ra đấy. Nhữ Nương đã thật sự làm chủ cuộc hát, với phần thắng chắc chắn về mình. Tục truyền rằng, sau cuộc thi ấy Nhữ Nương thành người nổi tiếng khắp vùng. Trai gái các làng lân cận cũng rủ nhau thành bọn sang kết bạn với Nhữ Nương. Một hôm trời đã nhá nhem tối Nhữ Nương cùng các bạn đang ngồi hát ở bến sông, mải mê quên cả giờ về. Đột nhiên từ dưới mặt nước vang lên tiếng hát đáp lại, giọng nam trầm sâu thẳm. Giọng hát cứ tiến lên mỗi lúc một gần hơn. Nhìn ra thấy ba người con trai hình dáng thanh tú đi tới. Cả ba đều trùm khăn thâm che kín mặt. Thấy thế, Nhữ Nương và các bạn cũng bỏ khăn vuông xuống giấu mặt đi. Rồi cuộc hát lại tiếp tục, giọng nam giọng nữ đan xen nhau, nâng đỡ nhau, hòa quyện khăng khít. Chưa bao giờ Nhữ Nương gặp người hát đối tài  tình đến thế. Tiếng hát bên nam cũng như được chắp thêm cánh, chưa bao giờ thả sức phơi phới đến thế. Hát mãi, hát mãi tới khi tiếng gà gáy sáng hai bên mới chịu dùng dằng giã bạn, ba người con trai quay xuống bờ sông xin về. Rồi cả ngày hôm ấy, Nhữ Nương như đi trên gió, đứng trên mây tâm trí lâng lâng bất định. Không hiểu những người con trai ấy là ai? Các chàng học ở đâu được những câu hát hay thế? Liệu tối nay các chàng có trở lại không? Mỗi câu hỏi đều thắc thỏm, vương vấn nỗi nhớ niềm thương. Chờ mãi đến khi chiều tối, Nhữ Nương lại rủ các bạn ra bến sông. Câu hát bên nữ vừa bắt vào trổ đầu thì từ dưới mặt nước giọng nam lại vang lên. Giọng hát cứ tiến đến mỗi lúc một gần hơn. Và ba người con trai khăn thâm trùm mặt lại xuất hiện. Cuộc hát đêm  qua lại nối tiếp, càng sôi nổi, mê mải hơn. Rồi đêm thứ ba, đêm thứ tư cũng thế. Từ đêm thứ năm trở đi, những người đi theo đều cạn bài đối đáp, chỉ còn Nhữ Nương và người con trai thường đi giữa dáng thanh tú hơn là vẫn tiếp tục hát. Tới đêm thứ chín, những người đi theo không đủ sức thức liên tục, chỉ còn Nhữ Nương và người con trai đầu bọn đọ tài với nhau thôi. Gần cuối đêm hát, người con trai tự nhiên ngừng lại, cúi đầu Nhữ Nương hỏi: - Chắc chàng đã mệt rồi. Thôi chúng ta tạm dừng ở đây. . . Chàng trai thú thật: - Đúng là phải dừng rồi. Dừng đêm nay và hàng năm nữa may ra mới lại có dịp hát với nhau. Nàng không biết đâu, tôi chính là hoàng tử con út của vua Thủy Tề. Có lần đi dưới khúc sông này nghe tiếng hát của nàng, tôi mê quá nên  cố nhẩm thuộc. Rồi bao nhiêu lần nàng hát nơi bến sông này tôi cũng đều ở dưới nước lắng nghe. Dịp vừa qua vua cha có việc đi vắng nên tôi mạo muội kéo vài thủ hạ lên bờ, hát với nàng. Nay thời hạn đã hết, mà thật khó lòng giã bạn. Nàng, nếu nàng ưng thuận cho tôi kết duyên với nàng trên bờ này tôi sẽ xin được phép vua cha cho gần gũi luôn luôn với nàng. Tôi nhớ lần đầu tiên thấy nàng vừa cắt cỏ vừa hát, từng đám mây ngũ sắc đến che trên đầu... Lời chàng hoàng tử con vua Thủy Tề tha thiết quá, làm sao Nhữ Nương từ chối cho được, ít lâu sau, đám cưới do tiếng hát xe duyên đôi trai gái người trên  cạn kẻ dưới nước được cử hành ngay trên đất Kẻ Diềm - Viêm Xá. Dân làng tôn Nhữ Nương là đức Vua Bà. Mỗi cuộc hát quan họ đều được mở đầu bằng câu: Thủy tổ Quan họ làng ta Những lời ca xướng Vua Bà sinh nên...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vua-ba" }
Lạc Long Quân giết Mộc tinh
Nối tiếp chiến tích trừ yêu diệt ma của Lạc Long Quân là câu truyện mang lại sự yên ổn cho nhân dân ở đồng bằng. Đến đâu, thần cũng đưa những phương pháp canh tác mới, dạy cho mọi người thay vào lối làm ăn cũ. Nhưng tai nạn của nhân dân vẫn chưa hết. Ở trung châu còn có một con tinh vẫn thường tác yêu tác quái tàn hại mọi người. Số là ở Phong Châu cứ như bấy giờ thuộc về Sơn Tây có một cây cổ thụ  mọc từ hàng ngàn năm gọi là cây Chiên đàn cao hàng mất ngàn nhẫn, cành lá um tùm rậm rạp che một khoảng đất rộng không biết bao nhiêu mà kể. Khi cây còn sống đã từng nổi tiếng linh thiêng, dân sự quanh vùng không một ai dám đến gần. Sau đó có một trận bão, cây tự nhiên đổ và khô nát dần dần. Từ đó tinh của cây hóa thành một con yêu rất dữ tợn chẳng những trạng mạo kỳ quái mà còn nhiều phép thuật rất linh diệu. Yêu tinh nay đây mai đó không có chỗ ở nhất định. Nhiều lúc thấy bẵng đi một dạo rồi lại xuất hiện. Cũng có nhiều lúc Mộc tinh đang ở vùng này tự nhiên đã xuất hiện ở vùng kia. Cái sở thích của nó là bắt người ăn thịt sống. Nó đã giết hại rất nhiều người. Cái tên Mộc tinh truyền đi đến đâu trẻ già trai gái đều sợ mất vía. Sau khi trừ xong con Cửu vĩ Hồ tinh, Lạc Long quân lại được nghe kể đến  những tình trạng tang tóc do Mộc tinh gây ra. Thần quyết trừ hại. Nhưng phép thuật của Mộc tinh rất cao cường nên sau mất ngày giao tranh, Long Quân đã trở nên núng thế Bộ hạ quỷ đỏ của Long Quân xông vào trợ lực nhưng Mộc tinh chẳng coi vào đâu. Cuối cùng hắn đã làm cho mỗi người bỏ chạy mỗi ngả. Long Quân tự nghĩ sức mình khó lòng thắng nổi con yêu quái, bèn trở về nhờ cha là Kinh Dương Vương giúp sức. Cuộc giao chiến này giữa Kinh Dương Vương và Mộc tinh rất ác liệt. Chúng ta không rõ chi tiết của chiến trận lúc đó thế nào nhưng cũng có thể tưởng tượng được cảnh tượng cây đổ ào ào, đá rơi rầm rầm thật là kinh khủng. Mộc tinh tuy biến hóa phi thường nhưng trước sức khỏe và phép thần của Kinh Dương Vương lại thêm Lạc Long Quân giúp sức, nên chả mấy chốc đã chuốc lấy thất bại. Bị thương nặng, hắn gắng hết sức tàn bỏ chạy mãi về phía tây nam hóa thành qủy gọi là quỷ Xương Cuồng. Từ đó cõi Lạc Việt bắt đầu yên tĩnh. Lạc Long Quân cùng bộ hạ của mình về vùng xuôi kiến thiết đất nước. Quỷ Xương Cuồng sau này ẩn náu trong rừng núi một thời gian lại trở lại quấy nhiễu dân sự. Tuy không còn dữ dội như trước nhưng hắn vẫn thỉnh thoảng lần mò ở vùng hẻo lánh bắt người ăn thịt. Hàng năm dân cư ở thượng du phải  lần lượt nộp cho hắn mỗi nơi một người sống để cho hắn đỡ phá phách. Mãi về sau, có một pháp sư lập kế mở một hội lớn làm trò xiếc cho quỷ Xương Cuồng đến xem, rồi nhè lúc bất ngờ chém chết.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lac-long-quan-giet-moc-tinh" }
Con Rùa Vàng
Ngày xưa có hai người bạn thân, người giầu tên là Đại trượng phu, người nghèo tên là Chí quân tử. Vợ chồng Đại trượng phu thấy bạn nghèo ngỏ ý muốn giúp cho để buôn bán. Chí quân tử nghĩ rằng mình lấy của bạn về không may buôn bán thua lỗ thì biết lấy đâu mà trả, nên không dám nhận, đành chịu phận nghèo. Nhà Đại trượng phu đồ đạc chẳng thiếu vật gì, một hôm lấy 5 làng vàng đưa cho thợ kim hoàn làm một con rùa để trưng bày. Gặp lúc Chí quân tử lại chơi, Đại trượng ohu đem rùa vàng mới đúc ra khoe với bạn. Xem rồi để trong cái đĩa, 2 người ngồi uống rượu nói chuyện, uống mãi say nằm ngủ quên đi. Con trai của Đại trượng phu đi học xa về thăm nhà, thấy con rùa lấy đem đi chơi. Đến khi 2 người tỉnh dậy quên lửng con rùa vàng. Chí quân tử từ giã bạn ra về, một lúc Đại trượng phu nhớ đến con rùa vàng, hỏi vợ, vợ nói không cất, mới chẳng biết tính sao, không lẽ nghi cho bạn là người có bụng tốt đã lấy đi. Một hôm Đại trượng phu đến nhà Chí quân tử chơi, hỏi xa xôi rằng:” Hôm trước anh có cầm con rùa vàng về cho chị coi không. Chí quân tử nghĩ bụng bạn nghi mình, nên nhận là có lấy về. Đại trượng phu mới bảo:” Anh cứ giữ con rùa vàng lại mà chơi”. Bạn về rồi, vợ chồng Chí quân tử không biết tính sao để trả lại cho được, bảo nhau:” Người ta thấy mình nghèo nên nghĩ cũng phải, không lẽ mình bảo không”. Rồi đành bán nhà cửa, đưa nhau đến nhà ông bá hộ Phú trưởng giả, vào lạy xin ông cho ở hầu hạ, để lấy 5 lạng vàng làm rùa trả cho bạn. Ông Phú trưởng giả nghe đầu đuôi câu truyện liền lấy vàng kêu thợ kim hoàn tới nhà làm một con rùa vàng, rồi trao cho vợ chồng đem về trả bạn. Nhưng Phú ông không nhận Chí quân tử cố thân làm tôi tớ, mà bảo chỉ giúp cho 2 người thôi. Vợ chồng Chí quân tử nhận rùa vàng rồi, cứ đến ở nhà Chí quân tử để hầu hạ. Được ít lâu, con trai Đại trượng phu trở về thăm nhà, mang theo con rùa vàng bảo cha mẹ: “Hôm nọ, may là con, chớ gặp phải người ngoài thì mất con rùa vàng rồi còn đâu nữa”. Vợ chồng Đại trượng phu ngạc nhiên, không rõ rùa vàng nào con mình lấy đi chơi, rùa vàng nào bạn đem trả, mới nghĩ ra là người bạn nghèo đã sợ mình nghi, nên mới làm con rùa vàng khác để thế. Đại trượng phu vội vàng đến nhà Chí quân tử, không thấy vợ chồng bạn đâu, hỏi thăm mới hay là đã đi cố thân cho nhà Phú trưởng giả để lấy vàng đúc rùa bồi thường cho của mình không lấy. Tìm đến nhà ông bá hộ, Đại trượng phu vào trả con rùa vàng cho Phú trưởng giả để xin lãnh vợ chồng Chí quân tử về. Hai bên gặp nhau cùng khóc ròng. Phú trưởng giả không chịu lấy rùa vàng, bảo Đại trượng phu:”Anh có mượn của tôi đâu mà anh trả? Nhìn vợ chồng Chí quân tử nói:” Tôi có bắt buộc gì đâu mà xin lãnh về”. Phú trưởng giả không lấy vàng trả, vợ chồng Chí quân tử cho là mình mắc nợ không chịu đi. Cả 3 người tính không xong, mới đem đến cửa quan để xin xét xử. Không nghe nói quan phân xử ra sao đối với ba người ngay thật và tốt bụng hiếm có này.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-rua-vang" }
Anh và em gái
Có hai anh em nhà kia mồ côi mẹ. Một hôm, anh dắt em gái đi thủ thỉ nói: – Từ ngày mẹ mất, anh em mình không có lúc nào sung sướng nữa. Mẹ ghẻ hàng ngày đánh đập, xin cái gì thì thượng cẳng chân, hạ cẳng tay đuổi đi. Ăn thì chỉ có mấy miếng bánh mì đầu thừa đuôi thẹo. Con cún ở chân bàn còn sướng hơn anh em mình, thỉnh thoảng nó còn được mẹ ghẻ vứt cho một miếng ngon. Lạy trời phù hộ để mẹ chúng mình thấy tình cảnh này! Thôi em ạ, anh em mình hãy bỏ nhà đi đi. Hai anh em đi suốt hai ngày qua đồng ruộng bãi hoang. Trời đổ mưa, anh bảo em: – Trời khóc cùng với anh em mình đấy. Chiều tối, hai anh em tới một khu rừng to. Chúng đi đường xa, vừa đói vừa mệt, chui vào hốc cây ngủ. Sáng hôm sau, khi chúng bừng mắt dậy thì mặt trời đã lên cao, nắng chiếu vào trong hốc cây. Anh nói: – Em ạ, anh khát quá. Hễ gặp suối là anh uống ngay. Mà nghe như có tiếng suối đâu đây. Anh đứng dậy dắt em đi tìm suối. Mẹ kế vốn là một mụ phù thủy. Mụ đã thấy hai đứa trẻ ra đi nên mụ rón rén bước theo. Mụ phù phép vào tất cả các suối trong rừng. Hai anh em thấy một cái suối chảy như thác bạc xuống đá. Anh muốn uống, nhưng em nghe như có tiếng rì rào trong suối: – Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp. Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp. Em bảo anh: – Em xin anh, anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành thú dữ xé xác em mất. Anh khát đến cháy cổ, vẫn cố nhịn không uống: – Thôi đợi đến suối sau. Tới suối thứ hai, em nghe thấy tiếng rì rào: – Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói. Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói. Em lại bảo anh: – Anh ơi, em xin anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành chó sói ăn thịt em. Anh không uống, nói: – Đến suối sau, em muốn nói gì thì nói, thế nào anh cũng phải uống, anh khát quá rồi. Hai anh em đến suối thứ ba thì em nghe thấy tiếng rì rào: – Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang. Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang. Em bảo: – Ối anh ơi, em xin anh, anh chớ có uống kẻo lại hóa thành con mang bỏ em mà chạy. Nhưng anh đã quì gối, cúi xuống uống nước suối. Môi vừa dính nước thì người đã hóa thành con mang. Em khóc than thương hại cho anh. Con mang cũng khóc lóc và ngồi rầu rĩ bên em. Mãi sau em mới nói: – Anh mang thân mến ơi, anh mang cứ yên tâm, em sẽ không bao giờ rời anh mang ra đâu. Rồi em tháo nịt vàng ra buộc cổ mang, lại đi nhổ cói tết một sợi dây mềm, dắt mang vào rừng sâu. Người và vật đi mãi thì tới một căn nhà nhỏ. Em nhìn vào thấy nhà bỏ không, nghĩ bụng ở lại đấy được. Em đi tìm rêu và lá khô làm đệm cho mang. Sáng sáng, em đi tìm củ, quả dại và hạt dẻ để ăn, lấy cỏ non, đút cho mang ăn. Mang vui thích nhảy nhót quanh em. Buổi tối, khi em mệt, em gối đầu vào lưng mang ngủ một giấc ngon lành. Nếu anh lại biến thành người được thì cuộc đời của hai anh em thật sung sướng. Chúng sống quạnh hiu như vậy một thời gian trong rừng hoang. Một hôm, vua tổ chức một cuộc săn lớn trong rừng. Tiếng tù và, tiếng chó sủa, tiếng người đi săn hò hét cười đùa vang trời. Mang nghe thấy, muốn nhập cuộc quá đi mất. Mang bảo em: – Anh xin em, em hãy cho anh nhập cuộc săn. Anh không chịu được nữa. Mang van xin mãi, em đành để cho đi. Em nói với mang: – Nhưng thế nào chiều tối anh cũng phải về nhé. Em sẽ đóng cửa lại để đề phòng bọn đi săn độc ác. Anh về nhớ gõ cửa nói: “Em ơi em, hãy mở cho anh vào, để em nhận ra anh. Nếu anh không nói thì em không mở cửa đâu nhé”. Mang nhảy ra ngoài trời rất là thảnh thơi vui thú. Vua và quần thần thấy con mang đẹp, đuổi theo nhưng không kịp. Lúc tưởng là bắt được đến nơi thì mang nhảy vọt qua bụi cây biến mất. Chiều tối, mang về nhà gõ cửa nói: – Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào. Cửa mở, mang nhảy vào, nằm nghỉ suốt đêm trên đệm ấm. Sáng hôm sau, cuộc săn lại bắt đầu, mang ta nghe tiếng tù và, tiếng người đi săn la hò, sốt ruột bảo: “Em ơi em, mở cửa cho anh, thế nào anh cũng phải ra mới được”. Em mở cửa cho mang ra và bảo: “Nhưng đến tối anh phải về nhé, nhớ nói câu em dặn”. Vua và quần thần vừa thấy con mang đeo vòng vàng thì đuổi theo liền, nhưng mang chạy nhanh hơn họ. Họ dồn mang suốt ngày, đến tối thì vây được mang. Một người bắn trúng chân mang khiến mang bị thương nhẹ, khập khiễng đi không được nhanh. Người đi săn theo dõi mang đến tận căn nhà nhỏ và nghe thấy mang gọi: – Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào. Cửa mở ra rồi đóng lại liền. Người đi săn nhớ kỹ những điều mắt thấy tai nghe, kể lại cho vua. Vua phán: “Ngày mai lại đi săn”. Em thấy mang bị thương sợ lắm. Em lau sạch máu, đắp lá, bảo mang: – Mang ơi mang, mang ra nằm nghỉ trên nệm đi cho khỏi. Nhưng vết thương nhẹ nên sáng hôm sau mang không thấy đau gì nữa. Thấy ở bên ngoài cuộc săn lại nhộn nhịp, mang bảo: – Mang không nhịn được nữa đâu, mang đi đây. Không phải dễ mà bắt được mang đâu! Em khóc lóc bảo: – Lần này thì họ giết chết anh mất, rồi em ở một mình trong rừng, chẳng ai nghĩ đến em nữa. Không, em không để anh ra đâu. Mang đáp: – Thế thì mang ở đây cũng đến sốt ruột mà chết. Hễ mang nghe tiếng tù và là lòng lại rộn lên. Em không biết làm thế nào, đành rầu rầu mở cửa. Mang vui vẻ, nhảy tót vào rừng. Vua trông thấy mang, ra lệnh cho các người đi săn: – Đuổi nó cho đến đêm, nhưng chớ đụng đến nó. Mặt trời vừa lặn thì vua bảo người đi săn đã đến báo vua lần trước: – Nào đi, ngươi hãy dẫn ta đến căn nhà nhỏ trong rừng. Tới cửa, vua gõ và gọi: – Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào. Cửa mở, vua vào, thấy một cô gái đẹp tuyệt trần. Cô sợ quá vì không thấy mang của mình mà lại thấy một người đội mũ miện vàng. Vua nhìn cô rất dịu dàng, cầm lấy tay cô bảo: – Nàng có muốn theo trẫm về cung làm hoàng hậu không? Cô nói: – Thiếp xin vâng, nhưng xin cho mang đi cùng, thiếp không bỏ mang đâu. Vua đáp: – Mang sẽ ở với nàng suốt đời và sẽ không bao giờ bị thiếu thốn gì. Giữa lúc ấy thì mang nhảy vào. Em lấy dây buộc mang, dắt ra khỏi nhà. Vua đặt em lên ngựa cùng ngồi đưa về cung, làm lễ cưới rất to. Em lên ngôi hoàng hậu, hai vợ chồng hưởng hạnh phúc lâu dài. Mang được chăm nom săn sóc, tha hồ nhảy nhót trong vườn thượng uyển. Mụ dì ghẻ ác nghiệt đã làm cho hai anh em phải bỏ trốn, vẫn tưởng là sau đó em bị thú rừng ăn thịt và anh thì bị bắn chết. Khi mụ được tin cả hai anh em đều sung sướng thế thì mụ ghen tức lồng lộn. Mụ lại nghĩ cách hại chúng. Con gái mụ xấu như ma lem, chỉ có độc một mắt, dằn vặt mụ: – Số con phải được làm hoàng hậu cơ! Mụ an ủi con: – Mày cứ yên trí. Tao sẽ không để lỡ dịp đâu. Hoàng hậu đẻ ra một đứa con trai xinh đẹp, trong khi vua đi săn vắng. Mụ phù thủy già chỉ chờ đợi lúc ấy. Nó hóa phép biến thành một người hầu gái, vào trong phòng hoàng hậu nói: – Tâu lệnh bà, nước tắm đã sẵn sàng, mời lệnh bà đi tắm cho khỏe người, lệnh bà đi ngay kẻo nước nguội. Con gái mụ đứng sẵn đó. Hai mẹ con khiêng hoàng hậu mệt lả vào buồng tắm, khóa cửa lại bỏ đi. Chúng hun lửa ở trong buồng tắm để cho bà hoàng hậu trẻ đẹp bị chết ngạt. Mụ già làm xong việc ấy liền đội mũ cho con, đưa vào nằm giường hoàng hậu. Mụ hóa phép cho con biến thành hoàng hậu hình dáng vẻ người y hệt, nhưng không sao chữa được con mắt hỏng cho con. Con mụ đành nằm nghiêng về mé mắt hỏng để vua không nhận ra. Buổi tối, vua đi săn về, nghe nói hoàng hậu sinh con trai mừng lắm, định tới giường hoàng hậu thăm. Mụ già vội nói: – Chớ chớ, bệ hạ chớ có kéo rèm lên. Hoàng hậu chưa nhìn ánh sáng được đâu, phải nghỉ ngơi đã. Vua lui về, không biết có hoàng hậu giả nằm trong giường. Đến nửa đêm, mọi người đều ngủ, người bảo mẫu một mình thức bên nôi Hoàng tử thấy cửa mở ra, hoàng hậu thật bước vào. Bà bế con ở nôi ra, cho con bú. Rồi bà giũ gối cho con, đặt con nằm và đắp chăn cho con. Bà cũng không quên con mang, bà đi tới góc phòng nó nằm và vuốt lưng nó. Sau đó, bà lẳng lặng ra. Hôm sau, người bảo mẫu hỏi lính canh có thấy ai ban đêm vào cung không. Lính canh đáp: – Không, chúng tôi chẳng thấy ai cả. Hoàng hậu đến mấy đêm như thế mà không bao giờ nói một câu gì. Người bảo mẫu nhìn thấy bà nhưng không dám nói hở cho ai biết. Sau một thời gian, hoàng hậu bắt đầu nói trong đêm tối: – Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến hai lần nữa thôi. Người bảo mẫu không trả lời, nhưng khi hoàng hậu biến đi, thì chị tìm vua kể lại hết. Vua phán: – Trời! Sao lại có chuyện thế nhỉ! Đêm nay ta sẽ thức trông con. Đến tối, vua vào buồng hoàng tử. Vào khoảng nửa đêm, hoàng hậu lại hiện ra và nói: – Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến một lần nữa thôi. Rồi hoàng hậu chăm sóc con như thường lệ, trước khi biến mất. Vua không dám lên tiếng, nhưng đêm sau lại thức. Hoàng hậu nói: – Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta đến lần này là lần cuối cùng. Vua không nhịn được nữa, liền chạy lại nói: – Đúng nàng là vợ yêu quí của ta rồi! Bà trả lời: – Thưa đúng, em là vợ của nhà vua. Vừa lúc đó thì nàng sống lại, tươi tắn, hồng hào, khỏe mạnh. Nàng bèn kể lại cho vua nghe tội ác của mụ phù thủy độc ác và con mụ. Vua cho đem hai đứa ra xử. Chúng bị tội chết, án xử xong thì mang lại hiện nguyên hình thành người. Hai anh em cùng nhau sống sung sướng mãi đến khi chết.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/anh-va-em-gai" }
Sự tích ngòi Lạt
Ở địa phận xã Minh Quang, phía tây núi Ba Vì có một con ngòi lớn từ sông Đà ăn thông vào chân núi. Tục truyền đó là dấu vết con đường tiến quân của Thủy Tinh ngày trước. Sau khi bị Sơn Tinh gánh núi Chẹ và núi Chẹ Đồng chặn mất ngả ngòi Tôm ở phía tây nam núi Tản và phục binh ở đầm Đượng đánh tan quân của Thủy Tinh ở phía đông. Thủy Tinh liền xẻ con ngòi này ở phía tây bắc xuống để dẫn nước sông Đà đánh tập hậu Sơn Tinh. Vào dịp tháng sáu, tháng bảy, hắn dẫn quân từ sông Đà theo đường ngòi ồ ạt đánh vào chân núi rất dữ dội. Chân núi Tản ở phía này bị phá từng mảng. Những chiếc cầu bắc qua ngòi đều bị đám quân hung hãn của Thủy Tinh lật đổ và quăng đi xa hàng dặm. Để chống lại Thủy Tinh, một mặt Sơn Tinh cho quân rải lưới sắt ngầm dưới đáy sông Đà từ Đá Chông lên triền núi Chẹ, một mặt ông sai quân ném mỗi người một cái lạt tre xuống ven ngòi. Trong phút chốc những chiếc lạt tre đó mọc lên thành luỷ tre dày đặc. Quân của Thủy Tinh húc phải lũy tre, thả đều bật trở lại, xô đẩy nhau rút ra phía sông Đà. Lúc ấy Sơn Tinh liền ra lệnh cho quân kéo lưới quây chúng lại. Thấy nguy, Thủy Tinh vội kéo tàn quân tháo chạy. Từ đấy trở đi, hắn không  dám bén mảng đến con ngòi này nữa. Để ghi nhớ công của Sơn Tinh, nhân dân quanh vùng đặt tên cho con ngòi ấy là ngòi Lạt. Tên đó vẫn lưu truyền cho đến ngày ngày nay.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ngoi-lat" }
Đám cưới chuột
Đây là một chú chuột nhắt. Một chú Chuột Nhắt còn trẻ. Tuy vậy, cứ thực sự thì diện mạo của chú cũng chẳng có vẻ mĩ miều gì mấy. Đó là tôi còn nể Chuột Nhắt mà giới thiệu với bạn đọc thế, chứ thẳng thừng ra nhiều họ Chuột khác thường thốt ra những giọng có ý khinh bỉ cười cợt Chuột Nhắt lắm. – Nó bẩn như cú – Ở cổ nó có ba cái sẹo to.– Thằng cha thưa râu ghê! Mà cái râu nào cũng gãy nửa, tại sao nhỉ? – Đuôi nó chỉ cụt một mẩu! – Thưa ngài, tính thằng cha Chuột Nhắt gian. Cứ trông cái mắt lấm lét của nó thì đủ hiểu. – Lại còn phải nói! – Đấy con ơi! Thiên hạ người ta phẩm bình thế đấy, ra đường đừng có chơi bời gì với Chuột Nhắt. Thấy nó đâu thì tránh xa ra nhé. Nhưng mồm miệng thiên hạ dông dài, thì chẳng đủ tin. Bởi vì, trong đời, có những cái miệng xấu, miệng tốt, miệng nói hay, miệng nói dở. Nhiều thứ miệng lắm và tạp nham lắm. Đừng ai vội ghét Chuột Nhắt. Đừng ai nói xấu thêm cho chú ta. Mà cũng đừng bà chuột mẹ nào cấm con cái chơi với Chuột Nhắt vội. Phải xét tận nơi, nhìn tận mặt mới nên buông lời. Một lời vô ý, trong lúc vui miệng bông lơn, có khi làm hại cho kẻ khác nhiều, lời nói đọi máu mà. Bởi vậy, chẳng nên hấp tấp mà bỉ mặt chú Chuột Nhắt, theo những lời chê bai trên kia. Vậy thì chú Chuột Nhắt có xấu người, xấu nết như lời đồn đại chăng? Cứ sự thực, dưới mắt hàng xóm, và dưới cả mắt tôi nữa, mặt mũi chú ta cũng không đáng diện với ai mấy. Cái thân mình chú dài không được bằng một ngón tay. Bốn chân như bốn cái tăm lũn cũn. Chiếc mõm nhọn hoắt, hai hàng râu cứng tủa sang hai bên. Đôi mắt chú nhỏ, nhưng lồi ra. Hấp háy, chớp chớp, nháy lia nháy lịa. Bởi vậy, người ta đổ cho chú có tính gian. Nhưng thực oan uổng cho Chuột Nhắt. Chú không có những cái tật xấu bị gán vu vơ. Chú vốn xấu mã, thì thiên hạ lại cho luôn là chú xấu cả nết nữa. Bậy quá! Chú cũng không xấu nết. Bởi vì chú đương là một anh học trò. Một học trò thì không bao giờ được có một vết xấu. Chú Chuột Nhắt cũng biết ăn lời thầy học. Có thể nói rằng: chú là một học trò tốt. Từ khi mới lọt lòng, Thử ông và Thử bà chỉ để Chuột Nhắt ở nhà có ít lâu, rồi ông bà gửi chú đi trọ học ở miền xa, cách nhà những vài ba cánh đồng lớn. Quả cau nho nhỏ Cái vỏ vân vân Nay anh học gần, Mai anh học xa Chuột Nhắt chịu khó học hành lắm. Âu cũng là một tính chăm học tự nhiên. Bởi vì bé thì bao giờ cũng phải học, việc học cần như Chuột cần phải ăn thóc vậy. Chuột Nhắt ta đã ăn và học ngay tại nhà thầy đồ. Hết lớp nọ lên lớp kia. Chú cố công dùi mài. Bởi vì chỉ còn ngót một năm nữa thì chú đã phải đi thi. Ở quê nhà, vợ chồng ông Thử khấp khởi mừng thầm. Quả cau nho nhỏ Cái vỏ vân vân Nay anh học gần, Mai anh học xa Tiền gạo thì của mẹ cha… Tiền gạo thì của mẹ cha tải đi cho con ăn, con học. Bao nhiêu là công lao! Chuột Nhắt nhấm một hạt thóc, nhớ đến nỗi khó nhọc của bố mẹ cần cù chạy kiếm từng hạt thóc vàng rụng trong mùa đông cóng lạnh, chú càng chăm chỉ sách đèn. Thấm thoát chẳng bao lâu đã tới khoa thi ấy. Hơn ba trăm học trò của các tỉnh trong xứ về thi. Hơn ba trăm sĩ tử trải qua một vòng loại, giẫm vỏ chuối mất quá nửa, cũng là học tài thi phận. Tới ngày yết bảng, thế mà tên chú Chuột Nhắt đứng vào hàng thứ ba. Tiếng đồn Chuột Nhắt thần động vang dậy từ cánh đồng này qua cánh đồng khác. Ai cũng trầm trồ khen ngợi. Và, chao ôi, nhiều kẻ ngày trước dè bỉu, nói xấu, bây giờ lại lật lưỡi tâng bốc, lại lấy Chuột Nhắt ra làm gương cho con cái trong nhà. – Trông Chuột Nhắt mới nho nhã làm sao – Chú Chuột Nhắt học giỏi, mặt mũi thật sáng sủa. – Râu chú ấy dài, đôi mắt tinh anh, vẻ thông minh lạ. – Thưa ngài, tính nết của chú Chuột Nhắt tốt. Cứ nhìn nét mặt hiền từ nho nhã của chú Chuột Nhắt ấy thì đủ hiểu. – Lại còn phải nói! Lanh lợi nhất trần gian này là chú Chuột Nhắt. – Đấy con ơi! Liệu làm sao mà bắt chước. Nên tìm những bạn tốt như Chuột Nhắt mà chơi. Thôi thì, ai cũng khen Chuột Nhắt đủ điều. Ở quê nhà, nghe tin con thi đỗ, Thử ông và Thử bà sướng phổng lỗ mũi. Hàng xóm kéo đến hỏi thăm rộn rịp đầy hang. Bắt đầu, những người hay nịnh, đã gọi Thử ông, Thử bà là “hai cụ cố sinh ra cậu cử tân khoa”. Thử ông hếch râu, nghiêng cái tai nhọn nghe khoái lỗ nhĩ lắm. Họ tán tụng: – Thưa hai cố, nhờ cậu cử mà làng xóm ta từ nay nên danh diện! – Cả vùng này chứ lị! Bác thử xem vùng ta, xưa nay đã ai đi học mà đỗ cao được bằng cậu cử nhà hai cụ cố đây chưa? – Vẻ vang lắm! – Nên mở một bữa khao thật to! – Bác nói sai rồi! Phải vinh quy bái tổ rồi mới khao vọng chứ. Xóm làng ta đây, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, giờ mới được một chuyện danh tiếng lẫy lừng. Sao lại không làm cho thiên hạ rõ mặt tường tên? – Bác bàn phải quá. Bẩm hai cụ cố, cho thiên hạ trông vào. – Công trời bể hai cố to lắm. Thử ông lim dim đôi mắt, gật gù: – Phải, phải. Thế nào cũng rước vinh quy cho cậu cử nó. Nên lắm ! Bà mủm mỉm đáp: – Phải, nên lắm. Mọi người đồng thanh: – Nên lắm! – Nên lắm! Thế là Thử ông và Thử bà quyết định lo đám rước vinh quy cậu cử Chuột Nhắt. Ông bà cho tin sang bên kia cánh đồng rằng cậu cử cứ hãy hoãn ngày về. Đợi để dân làng sang đón rước cho tỏ mặt với đời. Được tin ấy, Chuột Nhắt ta mừng hí hửng. Chú mừng và sướng chẳng khác lúc đứng nghe gọi loa xướng danh đến tên mình trúng tuyển. Nghe tin cha mẹ sẽ cho dân làng sang rước mình về, trong đầu Chuột Nhắt đã tưởng tượng ngay đến cái kiệu sơn son thếp vàng rực rỡ, mấy tay đô tuỳ xúm xít khiêng tân khoa. Chuột Nhắt ngồi bệ vệ, hai chân trước vắt xuống đùi gối hai chân sau, mắt làm vẻ nghiêm nhưng thực ra thì nhìn ngang nhìn dọc. Bên vệ lối đi, biết bao nhiêu bà con đứng xem, đứng đón. Tưng bừng quá! Chú Chuột Nhắt liền sắm sửa quần áo hòm xiểng nhong nhóng đợi ngày cha mẹ và làng xóm rước về. Bấy giờ, có một lão mèo đương xưng hùng xưng bá ở đất này. Các lão Mèo ở nơi nào cũng thế, đi đến đâu là sinh ra lắm chuyện rắc rối đến đấy. Lí lịch gốc gác của lão Mèo ra sao không mấy ai rõ. Chỉ nghe truyền khẩu lờ mờ rằng xưa kia Mèo vốn được nuôi nấng ở trong nhà, chung đụng với bọn Chó Đen, Chó Vàng. Nhưng vì Mèo vốn tính khoảnh ác, chơi với ai cũng giở thói phản bạn nên ai cũng ghét. Đến khi tất cả xung quanh, từ người chủ nhà trở xuống cho đến thằng chó con mới mở mắt ai cũng ghét và xa lánh thì biết mình khó lòng còn ở lại trong nhà được nữa, Mèo ra đồng ở, thành Mèo hoang. Người ta hay nói Mèo già hoá Cáo là như vậy. Mèo ở nhà, tìm đến cánh đồng họ nhà Chuột. Chuột sợ Mèo, là một sự dĩ nhiên. Nhưng thường cũng có thứ Mèo lành hiền. Riêng lão Mèo này thì ác quá. Càng bắt nạt được ai, lão càng bóp cổ tợn… Ai ai cũng oán ghét. Ai cũng đem lòng thù. Mèo cũng biết, song lão thấy người ta tức, lão càng hoạnh hoẹ làm ác tợn. Có những ông đồ Chuột thâm nho đã đặt ra những câu hát châm chọc, cho trẻ hát để trêu tức lão: Con Mèo mày trèo cây cau Hỏi thăm chú Chuột đi đâu vắng nhà Chú Chuột đi chợ đồng xa Mua mắm mua muối giỗ cha cái thằng Mèo! Mèo thường nghe tiếng hát văng vẳng trong những bờ cây khuất nẻo. Song lão không biết đích xác được ở đâu. Lão chỉ hầm hè ngồi gầm gừ suông. Khi lão Mèo hung tợn kia nghe tin vợ chồng Thử ông sắp rước vinh quy cho con trai thì lão khấp khởi mừng thầm. Lão chắc mẩm sắp được một món bổng to. Thế nào nhà Chuột chẳng phải lễ lạt đút lót hậu hĩnh. Không có thì lão sẽ phá. Lão Mèo xăm xăm đi đến cửa hang nhà Chuột. Bấy giờ trong hang, cả nhà Chuột đang ăn uống và om sòm, bàn bạc định ngày sang rước cậu cử Chuột Nhắt. Mèo ta cất giọng “meo” lên một tiếng rõ to như tiếng tù và rúc. Trong suốt hang im thin thít ngay. Rồi thì mấy cái râu, cái lỗ mũi thò ra, lại thụt vào ngay. Mèo quát: – Có đứa nào trong nhà không? Một tiếng run run đáp: – Thưa có. Thử ông mon men ra đứng nép vào khe cửa hang, nói vọng ra: – Ngài hỏi chúng tôi có việc chi? Mèo trừng mắt: – Lại còn việc gì nữa? Việc gì thì cả tổ bay đã biết đấy! – Bẩm không biết ạ! – Không à? Ông lại phá cả nhà bây giờ. Muốn bị cắt lưỡi, phỏng? – À, biết rồi, tôi cho cháu nó về bái tổ. Tôi bảo để đến chiều sẽ sang báo tin mừng với ngài. – Đủ cả đấy chứ? – Vâng, báo tin và xin biện đủ. Rước ngài cứ về, chốc nữa chúng tôi sang. Chiều hôm ấy, nhà Chuột đem lễ vật thịnh soạn sang dâng ông Mèo. Có thế ông mới để cho đám rước được yên ổn. Đám đi dâng lễ ông Mèo cũng trịnh trọng như một đám rước, có tranh vẽ để lại đời sau ai cũng biết đấy. Một anh Chuột đi đầu, thổi kèn. Một anh đeo cái trống cà rùng. Vừa bước đi, chốc chốc lại múa hai tay lên mà gõ trống nhịp nhàng. Một anh nữa xách khệ nệ hai con cá săn sắt lớn (mà người xem tranh nhầm là cá chép). Rồi mới đến một ông đứng tuổi, ria mép dài ngạnh trê, mặc áo the thâm, quần lụa điều đi sau cùng. Cái đám rước ấy vào đến hang Mèo thì lão này đương khề khà uống rượu. Lão nhận hai con cá săn sắt và nhắm luôn. Lũ Chuột cúi rạp, cúp cả tai xuống mà lạy tạ rồi lui ra ngay. Ra tới cửa, anh nào anh nấy ba chân bốn cẳng chạy mau như sợ lão Mèo đuổi theo, chộp lấy, chén thịt. Thế là xong việc dâng đồ lễ ông Mèo. Một ngày tốt lành kia, cả tổng Chuột nhộn lên vì sự tấp nập đi rước cậu cử tân khoa Chuột Nhắt. Đã quá trưa thì đám rước về tới đầu cánh đồng. Trước hết, một chú Chuột mặc áo nẹp đỏ thổi loa te te. Đến hai lá cờ kì lớn, trên lá cờ nào cũng viết hai chữ “Thái Bình”. Mấy cái biển sơn son thếp vàng, vác ngổn ngang. Những chữ “Vinh Quy” vàng chói khắc lên gỗ. Lại có hai chú Chuột khiêng một chiếc trống cái. Trống nặng quá, to phè phè, mỗi khi anh Chuột đi bên cạnh múa chiếc dùi lên, nện xuống một dùi, hai chú Chuột phu khiêng lại loạng choạng hai chân chực ngã xiêu đi. Tất cả đám rước, Chuột nào cũng mặc áo the thâm, thắt lưng điều bỏ giọt, chân đi đất, mặc quần lụa nâu. Anh nào cũng chít khăn kín cái đầu dài ngoẵng, lòi đôi tai lên trên. Có anh trai kiểu chơi chua, lại đội vênh vang chiếc nón dứa mới. Trong cái mõm nhọn, chuột chúm chím nhai trầu. Chấm hết cho đám rước, một lũ chừng mười lăm phu chuột xúm xít khiêng một cái kiệu. Ở trong kiệu, chú tân khoa Chuột Nhắt ngồi chõm choẹ. Cái điệu chú oai ghê. Đầu chú đội chiếc mũ xanh, có hai cánh chuồn. Mình chú mặc áo thụng lam. Chú ngồi vắt chân chữ ngũ. Một tay cầm cái quạt tàu phe phẩy. Một tay cầm điếu thuốc lá quấn. Chốc chốc, lại đưa lên miệng, hút phập phèo. Đôi mắt chú lúng liếng liếc sang hai bên đường, ra vẻ ta đây. Mà hai bên đường thì chật ních những họ hàng nhà Chuột đứng xem. – Te te te… Ai đi đường thì tránh ra cho quan cử vinh quy bái tổ… – Tùng… Bi li… Bi li… Tùng… Đám rước trịnh trọng, trang nghiêm. Mỗi bước dịch về gần trong xóm lại đi chậm thêm và làng xóm ở các hang ổ xa càng đổ đông ra xem. Đông quá. Thật lòng chú Chuột Nhắt chỉ thích được như vậy. Lát nữa, về đến đầu xóm, thể nào cũng có hương án bày bái vọng và tất nhiên là Thử ông và Thử bà đã đi võng ra đón con. Chú Chuột Nhắt thầm cảm ơn trời đã có một ngày nắng ráo và mát mẻ quá như hôm nay. Ai cũng lũ lượt kéo đi xem đám vinh quy của quan cử tân khoa. Đám rước trịnh trọng,trang nghiêm. Qua gần hết cánh đồng. Bỗng văng vẳng có tiếng ầm ĩ từ xa đi tới. Vang như tiếng trống, tiếng cồng, tiếng sấm. Nhưng lạ tai quá: – Meo! Meo! Meo! Ôi chao! Tiếng lão Mèo quát. Những đám đông đứng xem, rú lên chạy tán loạn. – Meo! Meo! Meo! Anh vác loa cút trước nhất. Mấy thằng cầm cờ cũng quẳng cờ mà chạy. Và có mấy tên rước biển “Vinh Quy” đều ù té chuồn. Chỉ có anh đánh trống thì vẫn mải mê đánh trống thòm thòm, không ngẩng đầu lên, cũng không nghe thấy gì. – Meo! Meo! Meo! Đến bấy giờ bọn đánh trống mới nghe thấy những tiếng khủng khiếp rền tai. Anh nào anh nấy ba chân bốn cẳng, hoảng hốt chạy thẳng một mạch. Và cái bọn khiêng kiệu cũng không còn hồn vía nào đứng lại nữa. Những tiếng quái ác ghê gớm kia là tiếng báo hiệu Thần Chết đương đi đến đây rồi. Thần Chết đã tới sau lưng. Ai mà còn hồn vía nào! Chúng buông phịch kiệu xuống, rùng rùng đi tìm hang lỗ trú ẩn. Chiếc kiệu bị buông mạnh, lật nghiêng và đổ khuỵu. Chú Chuột Nhắt đương đắc chí rung đùi, bị ngã chổng vó, không dậy được. Tất cả đám rước linh đình, trong phút chốc tan biến, không còn bóng vía gã Chuột nào. Bấy giờ người ta mới thấy lão Mèo lù lù từ phía Tây đi đến. Lão vừa đi lừ lừ, vừa kêu: “Meo! Meo!”. Thực vô tình mà lão cất tiếng ông ổng. Và đấy là lão hát chứ không phải lão kêu, lão hò hét chửi bới. Phải, vừa uống rượu xong, vui thì lão hát chơi. Lão cũng định ra xem đám rước vinh quy, nên lão vui trong bụng lão hát lên mấy câu cho vui đấy thôi. – Meo! Meo! Meo! Lão hát thế thì chết! Có ai, có chú chuột nào lại hiểu được rằng “meo, meo, meo” là một điệu hát bình thường của lão Mèo. Những con chuột chỉ nghĩ rằng Mèo đương đói, đương gào thịt ăn. Đám rước mới tan tác mất. Khi lão Mèo ra tới đường cái, thấy đường cái vắng tanh, chẳng còn một bóng chuột nào. Cờ quạt ngổn ngang, lổng chổng. Lão ngạc nhiên nói một mình: – Quái, ta có làm gì đứa nào đâu, mà chúng nó sợ? Lão lại hát “meo, meo”. Lão không biết rằng hò bổng lên như thế mà nhà Chuột đã đủ khiếp mà chạy xa thêm. Tức mình lão bần thần bỏ đi ra chơi mát ngoài đồng. Mãi cho đến xế trưa, mới có mấy anh Chuột mon men, nhớn nhác, từ trong xóm bò ra. Rồi thì một đám nữa nối đuôi nhau đi đến. Và họ hàng lại lặng lẽ rồi rộn ràng đi làm đám rước. Ai vào việc nấy Lại loa. Lại cờ. Lại biển. Lại trống cái và trống cà rùng. Nhưng đến khi xúm vào dựng kiệu lên thì thấy cậu cử tân khoa méo mó, nhăn nhó mặt mõm, cho đến lúc ấy vẫn không thể ngồi dậy được. Bởi vì lúc cái kiệu đổ, chú sái một khớp xương chân, ngoẹo hẳn đi, không thể ngồi và đi được. Đám rước, thế là chú đành nằm trong kiệu cho khiêng về nhà. Mất vui. Chẳng ai đi xem, và giá có đi xem, cũng chẳng nhìn thấy cậu cử tân khoa đâu nữa. Cậu cử tân khoa đau quá, không ngồi được, đã nằm phủ phục xuống sàn kiệu. Cái mộng được đi diễu qua làng xóm cho thiên hạ biết mặt tân khoa chú Chuột Nhắt bị sụp vỡ. Chỉ vì mấy tiếng hát vu vơ của lão Mèo phởn chí. Thử ông và Thử bà cũng cụt mất hứng. Nhưng dẫu sao, cũng là xong cuộc rước vinh quy Chuột Nhắt. Thử ông Thử bà dần dần cũng lấy lại hả hê, mà chẳng dám oán trách ông Mèo. Bởi oán ông thì chỉ thiệt thân mà thôi! Chỉ hận một nỗi từ ngày ấy, cái chân sai khớp của cậu Chuột Nhắt, chữa thế nào cũng không khỏi. Chuột Nhắt thành tật, một chân sau bước thậm thọt. Thử ông sợ cái tiếng con mình thọt chân, nên đút tiền cho những đứa khênh kiệu hôm vinh quy để chúng khỏi đi nói cho ai biết. Ông bà Thử có ý muốn giấu giếm cho con mình cái tật nọ. Là vì ông bà nghĩ: Chuột Nhắt đã lớn. Học đã thành tài. Nhưng còn thiếu một chút vợ con trong nhà. Cưới vợ cho chú ấy là mãn nguyện hai vợ chồng già. Nhà con một, lại khá giả, tất nhiên đường vợ con phải kén chọn kĩ. Những cô Chuột Nhắt loàng xoàng thì không có thể đáng mặt lấy về cho chú cử Chuột này được. Ông bà Thử băn khoăn về chỗ đó. Đại đăng khoa rồi tiểu đăng khoa thì vừa. Vả lại, họ hàng bà con cũng thúc giục ông nên lấy vợ cho cậu Chuột Nhắt. Đó là những mồm miệng quanh năm chỉ hong hóng muốn ăn cỗ. Được ăn cỗ là họ thích. Họ cứ xúi khôn xui khéo ông bà Thử: – Hai cố xem có đám nào kén về cho cậu cử! – Có vợ con thì mới chững chạc được! – Hai cố xem mặt cái đám xóm kia, có ưng không? – Không được, đám ấy đăng đối sao được với nhà này! Thuở ấy, một ông viên ngoại nhà ở hang ngoài bờ sông, có cô con gái kén chồng. Cô gái treo biển kén chồng đã hơn một năm nay. Cũng đã nhiều vương tôn công tử rắp ranh bắn sẻ, nhưng chưa ai được trúng cách. Bởi vì ông viên ngoại là một tay thâm nho. Và cô tiểu thư là một thiếu nữ có đôi chút nhan sắc, xa gần nức tiếng. Đó là cô tiểu thư Chuột Chù. Tiểu thư Chuột Chù đẹp – cô tự nghĩ thế. Lại càng làm dáng tợn. Bước đi yểu điệu. Mõm to và dài. Áo cô đen xù lúc nào cũng thơm lừng mùi nước hoa. Nhưng thiên hạ độc miệng lại đặt cho câu tục ngữ ác nghiệt: Hôi như chuột chù. Thoạt gặp, cứ tưởng rằng cô tốt nết. Nhưng thực cô có một tính xấu. Tính cô khinh khỉnh. Từ khi ông viên ngoại yết bảng ra cửa, đề bài thơ rằng: “Nhà ta có gái kén chồng. Xuân xanh xấp xỉ độ chừng đôi mươi” thì hai bố con ông đã làm bẽ mặt nhiều gã chuột đến dạm hỏi lắm. Thực ra, trong đám đó cũng nhiều người vô tài. Song, cậy mình có tài mà làm xấu hổ kẻ khác thì cũng chẳng nên. Một hôm kia, Thử ông gọi Chuột Nhắt đến mà bảo rằng: – Con ơi! Con đã lớn. Học con đã thành danh, không kém cạnh gì ở đời. Nay cha chỉ còn mong muốn lo vợ cho con. Con bằng lòng chăng? Chuột Nhắt thích tê người, nhưng còn làm bộ lưỡng lự: – Cái đó tuỳ cha. – Cha đã nghĩ kĩ. Cứ xem như quanh vùng này thì không có mặt nào đáng. Cha thấy có tiếng đồn ở bên sông có ông viên ngoại kén chồng cho con gái. Để mai cha thử sang chơi. Chuột Nhắt cười: – Thưa cha, con đã nói tuỳ ở ý cha mà. Biết thế là con đã bằng lòng, hôm sau, Thử ông ăn diện tề chỉnh, diện giày gia định và cầm cả ô che nắng, đi sang nhà viên ngoại nọ. Đến chiều, ông trở về. Hơi rượu sực nức. Ông viên ngoại đã thết ông cơm rượu linh đình. Ông Thử kể chuyện cho con trai và Thử bà nghe: – Ta nói đến con thì viên ngoại bằng lòng lắm, viên ngoại đã biết tiếng. Nhưng ông ấy muốn mời con sang chơi để ông được thử tài. – Ngày mai con sang. Ngày mai, Chuột Nhắt sang chơi nhà viên ngoại. Chú đi cùng với hai tiểu đồng Chuột. Đêm hôm qua, đã giở bao nhiêu pho sách để xem lại. Nhưng có điều rắc rối là chẳng hay Chuột Nhắt sẽ đi đứng thế nào. Bởi vì một chân sau của chú bị khập khiễng. Không hề chi. Chuột Nhắt sẽ cưỡi một con ngựa bạch. Quần lụa điều sẽ buông xuống lấp kín gót chân. Lúc xuống ngựa, hai tiểu đồng xách nách hai bên, ra lối kiểu cách đại công tử của những nhà phú gia. Chẳng ai có thể biết được công tử Chuột Nhắt thọt hay không thọt. Chuột Nhắt sang đến nơi, viên ngoại tiếp đón niềm nở lắm. Tiểu thư Chuột Chù nhòm trong rèm ra cũng lấy làm vừa lòng. Rồi viên ngoại ra cho Chuột Nhắt một câu đố. Đó, là cái lệ chung cho tất cả những ai ngấp nghé đến làm rể nhà ông viên ngoại đã yết bảng kén chồng, là phải giải được một câu đố. Mỗi người một câu khác nhau. Câu đố ông viên ngoại ra cho Chuột Nhắt rằng: Mặt em phương trượng chữ điền Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài Lòng em có đất có trời Có câu nhân nghĩa, có lời hiếu trung Dù khi quân tử có dùng Thì em sẽ ngỏ tấm lòng cho xem. Viên ngoại hẹn cho Chuột Nhắt phải trả lời được trong vòng ba ngày. Ba ngày thì tìm ra lời giải. Chuột Nhắt lĩnh mệnh, biên câu đố lại, rồi từ tạ viên ngoại ra về. Ngựa mới thủng thỉnh về đến nửa đường, chú Chuột Nhắt vỗ trán có mấy cái, đã nẩy ra được câu lời giải. Chú vuốt ria, vừa đi vừa tủm tỉm cười. Về nhà, chú kể chuyện cho cha mẹ nghe. Thử ông vội hỏi: – Thế con nghĩ ra câu trả lời chưa? – Viên ngoại vừa nói xong con đã đoán ra được. – Đoán được là gì? – Là cái quyển sách, chứ lại còn cái gì nữa! Thử ông ra vẻ nghĩ ngợi và gật gù khen là đúng. Ngày hôm sau, Chuột Nhắt đóng một quyển sách thật đẹp, bìa mo sơn then, trong viết cả một đoạn tam tự kinh, cho gửi sang nhà viên ngoại. Viên ngoại kinh ngạc và phục tài công tử Chuột Nhắt quá. Vì từ xưa tới nay, ông cũng đã ra nhiều câu đố, không những là ít ai đoán đúng, nhiều chàng trai không dám vác mõm trở lại nữa. Đằng này, Chuột Nhắt đoán chưa được một ngày đã ra. Quả là thần đồng! Tiểu thư Chuột Chù cũng tấm tắc khen: Tài, tài. Hai bố con liền cho tin sang bên nhà Thử ông để mời mối lái đến. Đôi bên nhà trai nhà gái đã định ngày làm lễ hỏi. * * * Nhưng câu chuyện không phải ổn thoả ở chỗ ấy. Một hôm, có một khách đến chơi nhà ông viên ngoại, nói rằng muốn ngỏ một câu chuyện cần. Viên ngoại mời vào, gã Chuột lạ ấy thi lễ rồi nói rằng: – Tôi nghe đồn viên ngoại sắp gả chồng cho quý tiểu thư? – Phải. – Quý tiểu thư lấy thằng chồng thọt chân đấy. Viên ngoại trợn mắt: – Thế nào? Ai thọt chân? Bác nói sao? – Tôi nói rằng viên ngoại sắp gả con cho một thằng thọt chân. – Ai thọt chân? Công tử Chuột Nhắt chăng? – Lại còn ai nữa! – Bác kể đầu đuôi cho ta nghe. – Tôi cũng chẳng rõ gia cảnh nhà ấy đâu… Tôi chỉ biết có mỗi một điều là công tử Chuột Nhắt thọt một bên chân trái. – Tại sao bác biết? – Ngày công tử Chuột Nhắt về vinh quy, tôi đi khiêng kiệu. Kiệu đổ. Lại chính tôi cõng công tử vào hang, vì công tử què chân, không đi được nữa. Về sau chữa chạy mãi không khỏi. Thử ông bịt tiếng, cho mỗi phu kiệu một ít tiền, để khỏi đi đưa chuyện. – Thế ông ấy có cho tiền bác không? – Không, ông ấy bỏ sót tôi. Viên ngoại ngẫm nghĩ: – Làm thế nào có thể tin được lời của bác? Chàng kia cả cười: – Có khó gì điều ấy. Viên ngoại cho mời công tử Chuột Nhắt đi bộ sang đây rồi lại mời ra chơi vườn hoa. – Ngộ công tử từ chối? – Thì cứ như là viên ngoại thách đố một lần nữa. Thách công tử Chuột Nhắt phải đi bộ sang bên này. Bấy giờ viên ngoại sẽ biết lời tôi đúng hay sai. Viên ngoại bán tín bán nghi. Ông bàn với con gái. Hai cha con luận bàn với nhau một lúc lâu. Cuối cùng, ông viên ngoại nói rằng: – Thì ta cứ thử như lời người kia nói. Nếu mà công tử Chuột Nhắt quả thật không có tật, nếu ta mời bó buộc như thế cũng chẳng hại gì. Rồi ông viên ngoại đưa tin sang nhà Thử ông. Rằng sáng hôm mười tư, mời công tử sang dự cỗ. Nhưng muốn theo đúng nghi lễ con cái nếp nhà, công tử nên đi bộ sang. Hai cha con viên ngoại đợi ngày mười tư xem sao. Sáng hôm ấy, có tiểu đồng Chuột bên nhà Thử ông sang thưa: – Bẩm, cậu con bữa nay hơi ấm mình, xin viên ngoại cho kiếu lỗi. Viên ngoại vào nói với con gái: – Con ơi! Có lẽ lời kẻ kia nói đúng. Nhưng ta phải thử một lần nữa. Một lần, viên ngoại lại cho gia nhân sang mời công tử Chuột Nhắt đến ăn giỗ kị. Theo lễ, công tử cũng phải đi bộ, và viên ngoại quý rể còn cho gia nhân sang đón tận nơi . Chao ôi! Thực là khổ sở cho chú Chuột Nhắt. Chú biết làm sao bây giờ. Chân chú thọt mất một bên trái. Nếu không đi ngựa, không kẻ xốc nách, chú phải bước lò cò, tập tễnh. Cứ kể, nếu bò quãng ngắn quanh quẩn trong hang, chú chuột cũng có thể gắng sức bò cho chỉnh chện được. Nhưng đằng này, phải cuốc bộ từ đây ra ven sông qua mấy cánh đồng. Tự dưng lại giở cái trò quái độc này, chắc lão viên ngoại đã nghe phong thanh ai nói thế nào rồi đấy. Mồm miệng đồn thổi gớm thật! Cái gì đã xảy ra, cái gì có thể nói được là sự thực, tất chẳng thể giấu nổi ai. Biết làm thế nào? Bắt buộc Chuột Nhắt lại phải cho tiểu đồng sang nói dối một lần nữa: – Thưa viên ngoại, công tử bị cảm chưa được mạnh, không dám ra ngoài. Thế là viên ngoại có thể đoán biết rõ mười mươi căn bệnh của công tử Chuột Nhắt như thế nào rồi. Hôm sau, ông viết thư sang khước hôn cho con gái. Thử ông và Thử bà giận lắm. Công tử Chuột Nhắt thì thở dài thườn thượt và chốc chốc lại ngước mắt lên nhìn trời. Thực ra Chuột Nhắt nghĩ giận vô cùng. Chú thấy thế này là đời tráo trở quá, ăn ở không có trước sau. Chú nghĩ cách báo thù. Chú cũng nhỏ nhen lạ. Bởi chú chẳng nghĩ được rằng vì cái chân thọt của chú mà người ta không gả con cho chú. Chính chú định giấu giếm trước kia mà. Chú báo thù ông viên ngoại thế nào? Học trò chân yếu tay mềm, biết làm gì nên chuyện! Nhà ông viên ngoại có nhiều thế lực, không mỗi chốc cách nào mà chú dám bắt nạt. Thế mới khó. Nuốt hận thì căm. Mà để vậy thì xấu hổ. Chú nghĩ ba ngày ba đêm mà không vỡ ra được một kế gì. Người chú gầy tọp lại. Lông tóc chú rụng nhiều quá, hói cả đỉnh đầu, Sang đến ngày thứ tư, chú đương đứng bần thần ở cửa hang bỗng reo lên. Chú đã nghĩ được một kế. Diệu lắm. Chú sẽ làm một bài hát chế ông viên ngoại. Tài học của chú để đâu mà lại không có thể làm được một bài vè thực hay! Lập tức, chú thảo luôn. Chú làm một bài. Đầu đề là bài vè chế ông viên ngoại thách cưới cho cô Chuột Chù. Làm xong, Chuột Nhắt hắng giọng kể thử. Vè rằng: Em là con gái nhà giàu Cha em thách cưới ra màu xinh sao Cưới em trăm tấm gấm đào Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời Nắp tròn dẫn đủ trăm đôi Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng. Sắm xe tứ mã mang sang Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu Ba trăm nón nghệ đội đầu Mỗi người một cái quạt tàu cầm xinh Anh về sắm nhiễu Nghi Đình May chăn cho rộng, tối mình đắp chung Cưới em chín chĩnh mật ong Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò Cưới em tám vạn trâu bò Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm Lá đa mặt nguyệt hôm rằm Răng nanh thằng Cuội, râu cằm ông Thiên Lôi Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi Xin chàng chín chục con dơi goá chồng Thách thế mới thoả trong lòng Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân Khi bài vè được chú Chuột Nhắt truyền ra, tất cả cánh đồng, có bao nhiêu làng xóm Chuột thì cả bấy nhiêu đều lập tức thuộc lòng như cháo. Ai cũng kể luôn miệng, ai cũng hát vung lên. Viên ngoại biết. Rồi tiểu thư Chuột chù cũng nghe Bố con chỉ còn tức mà nguyền rủa, không làm gì được. * * * Đương khi ấy, lão Mèo lại đâm bổ vào câu chuyện. Lão đến đâu, là xổ ra nguồn gốc của những rắc rối không lường được. Có lẽ đó là một lão đói ăn. Hay là một ngày mưa chi đó. Trời mưa thì nhàn rỗi. Mà nhàn rỗi, thường nghĩ vẩn vơ, rồi đâm ra nghĩ và làm bậy bạ. Dường như trong một lát thong thả lão nhớ thèm những con cá săn sắt béo ngậy mà dạo nọ Thử ông, Thử bà đem biếu vào dịp Chuột Nhắt vinh quy. Lão nghĩ đến thì lão tưởng ngay tới sự đòi hỏi. Bởi vì ở đất này, lão là chúa. Lão là chúa thì lão chẳng còn biết sợ ai! Vả lại, lão vừa nghe thoáng thoáng mấy bữa nay, có đứa nào hát hỏng một câu gì có vẻ nói như là Chuột Nhắt sắp lấy vợ. Rất có thể, lão đến nhà Thử ông mà đòi ăn uống, nhà ấy đương có việc vui mừng. Lão đi lừ đừ bốn chân, lão gườm gườm đôi con mắt. Vừa tới cửa hang Thử ông, lão hét lên mấy tiếng thật to. Thử bà vừa thò đầu ra thì lão giơ chân chộp lấy. Lão chộp trúng lưng bà lão. Bà lão co người lại, ngã chúi vào trong hang. Mèo đắc chí lại gào lên mấy tiếng. Lão đứng chờ mãi mà cũng chẳng thấy ai ra nữa. Bực mình, lão cào cào tung toé đất lên rồi ngoe nguẩy đuôi lững thững đi. Chắc lão không tưởng rằng lão vừa gây ra một tai nạn cho gia đình Chuột Nhắt. Bởi vì bà lão ngã vào trong nhà thì ở mảng sống lưng rời ra một miếng thịt đỏ hỏn vì bị móng chân của Mèo cào. Thử bà ngất đi. Cả nhà lay gọi rối rít. Nhưng vì chuột bà gầy yếu quá, và bị vuốt chân ông Mèo móc vào lưng cũng khá sâu, đau quá không tỉnh lại nữa, cứ bằn bặt thiếp… rồi tắt thở. Cả nhà khóc lóc thảm thiết. * * * Từ đấy Chuột Nhắt càng để tâm thù cha con cô Chuột Chù tợn. Bởi vì chú Chuột Nhắt lại cho rằng chính lão viên ngoại nọ đã sinh sự gây ra cái chết thảm của mẹ chú. Ôi, bà mẹ hiền của chú chết ai oán quá. Chú cần phải báo thù. Thù này chẳng đội trời chung. Chú Chuột Nhắt cố lo báo thù. Có lẽ chú cũng chú ý tìm thầy học võ. Nhưng tìm không thấy chú lại đặt ra nhiều bài hát châm chọc nữa để bôi xấu cha con nhà lão viên ngoại. Nhưng xỏ xiên mãi cũng chán. Bởi vì lão cũng chẳng chết. Bố con lão vẫn sống nhăn răng. Một ngày kia, Chuột Nhắt nghe người ta đồn rằng ở bên kia cánh đồng có ông Chuột Cống là một tay lão luyện giang hồ. Ông ta có nghĩa khí, có chí làm việc lớn. Ông lại võ nghệ cao cường. Ông giao du với nhiều bè bạn bốn phương thiên hạ. Chuột Nhắt lần mò đến hang Chuột Cống xin vào yết kiến. Chuột Nhắt kể lể việc đau đớn nhà mình cho Chuột Cống nghe, rồi nghiến răng mà nói: – Thưa ông, tôi thâm thù lão viên ngoại. Giá tôi có thể chết mà giết được lão, tôi cũng xin chết. Chuột Cống ha hả, vỗ lên đầu Chuột Nhắt mà rằng: – Khá khen cho anh. Anh còn trẻ mà có chí có gan, giỏi lắm. Nhưng tiếc thay, anh đã đem dùng nhầm cái tài của mình. Chuột Nhắt hỏi lại: – Ông bảo tôi phải làm thế nào mới đúng? – Đầu tiên, anh vinh quy ỏm tỏi, đó là một sự huyênh hoang vô ích. Về sau, anh lại hí hửng muốn lấy vợ. Chao ôi! Làm như ở trên đời này, một thanh niên chưa có vợ, chẳng thể sống được hay sao? Phải lập thân trước đã chứ! Anh nên quên cái lão viên ngoại tráo trở, cái cô Chuột Chù đỏng đảnh kia đi. Đừng bao giờ nghĩ rằng họ đã làm hại nhà anh. Đã nghĩ thì phải suy lên tận ngọn. Anh phải tự hỏi anh rằng bởi đâu mà chân anh thọt, bởi đâu mà mẹ anh chết. Bởi đâu mà họ nhà Thử chúng ta phải khổ sở đến thế này? Chỉ bởi tại thằng Mèo. Phải đánh đổ cho kì được thằng Mèo. Nếu nó chết chúng ta sẽ được sống yên lành trong hang, ngoài bờ cỏ, ngoài ruộng lúa. Chính tôi đương cổ động tất cả hãy hoạt động để phá cho bằng được cái lâu đài của thằng Mèo độc ác ấy đi. Chuột Nhắt reo lên như hét: – Tôi xin theo ông. Tôi sẽ đi nói cho tất cả xung quanh tôi ai cũng biết những điều to lớn ông đã bảo tôi. – Bạn ơi! Thế là bạn đã giác ngộ rồi đó! Từ đấy, gã Chuột Nhắt đã có một lý tưởng để theo. Gã Chuột Nhắt đã có một nghĩa vụ để làm. Từ đấy chúng ta thường thấy gã nhanh nhẹn trong mọi công việc của gã, dù gã vẫn mang cái chân bệnh tật. Và gã vẫn chưa có vợ. Mà gã cũng chẳng nghĩ đến những điều ấy nữa. Lập thân trước đã chứ! Về sau, cô tiểu thư Chuột Chù kia cũng héo hắt đi rồi chết già, chẳng ai buồn lấy, chẳng ai rước đi cho. Là vì cô đỏng đảnh, khinh người, làm bộ quá. Làm bộ mãi thì đời làm bộ trả. Ở đời, kiêu kì bắc bậc, chỉ tổ làm cho ai nấy sinh ghét.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/dam-cuoi-chuot" }
Vân cát thần nữ hay bà chúa Liễu
Bà chúa Liễu hay Quỳnh Nương công chúa. Ở thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, Sơn Nam Hạ (nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam Ninh) có vợ chồng ông Lê Thái Công rất hiền đức, hay làm điều lành. Ông bà đã có một con trai. Đến năm Thiên Hựu, đời vua Lê Anh Tông bà vợ có mang đã quá kỳ sinh mà không chuyển dạ, lại không ăn uống gì, chỉ ưa hương hoa thơm. Gia đình cúng lễ mãi vẫn không khỏi. Đêm ấy, Lê Thái Công nằm mơ thấy được người dẫn vào một tòa cung điện nguy nga, nơi đó bách thần đang làm lễ chúc thọ Ngọc Hoàng. Một nương tử áo hồng mang khay  rượu ra, lỡ tay làm rớt chiếc chén ngọc. Ngọc Hoàng nổi giận, trách phạt bắt đày xuống cõi nhân gian. Lê Thái Công hỏi chuyện các lực sĩ bên cạnh mới biết rằng đó là tiên chúa Quỳnh Nương, con gái trẻ nhất của Ngọc Hoàng, tính tình bướng bỉnh. Ông đang định hỏi chuyện nữa thì có người đi ra, mắng bảo vị quan giữ  cửa sao dám để người lạ vào? Lực sĩ vội vàng đẩy ông ra. Giật mình tỉnh giấc, thì cũng là lúc vợ ông sinh một người con gái. Nhớ lại giấc mộng, ông đặt tên  cho con là nàng Giáng Tiên. Ngày tháng qua đi, Giáng Tiên càng lớn càng xinh đẹp. Mọi việc nữ công nữ xảo đều thành thạo, mà về tài văn thơ, đàn nhạc lại cũng hơn người. Nhiều  người dạm hỏi, nhưng ông bà Lê Thái Công không nhận lời ai. Cách làng Vân Cát vài dặm là làng Tiên Hương, Thái Công có người bạn họ Trần ở đó. Vợ chồng Trần Công cũng đứng tuổi mà chưa có con cái. Một đêm Trần Công bắt được một đứa hài nhi nằm dưới gốc cây đào, đem về nuôi,  đặt tên là Đào Lang. Lớn lên, Đào Lang cũng là một chàng trai thông minh, tuấn tú. Hai ông Lê và Trần bàn bạc ước định thông gia. Ít lâu sau thì Giáng Tiên và  Đòa Lang kết duyên vợ chồng. Về nhà chồng, Giáng Tiên ăn ở xứng đáng là một người vợ hiền dâu thảo. Trong ba năm, nàng sinh được một trai, một gái rồi bỗng ngày 3 tháng 3, nàng không bệnh tật gì mà mất, mới có 21 tuổi. Cả hai gia đình than khóc tiếc thương nhưng chỉ ngậm ngùi chứ còn có cách gì cứu vãn! Giáng Tiên về trời, nhưng lòng trần canh cánh. Những ngày hội quần tiên vui vẻ, nàng vẫn thầm gạt nước mắt, nhớ chồng, thương con. Ngọc Hoàng hiểu thấu sự tình liền gọi lại cho đổi tên là Liễu Hạnh và cho trở lại cõi trần. Nàng về đến nhà vừa đúng giỗ hết tang mình, mọi người ngạc nhiên, Liễu Hạnh ôm lấy mẹ khóc, nói thực mình là người nhà trai, hết hạn phải về, nay lại được xuống trần, nhưng không thể sinh hoạt như người trần gian dạo trước. Sau đó, nàng dặn dò anh chăm sóc bố mẹ, rồi về nhà chồng. Đào Lang từ ngày vợ mất vẫn thổn thức không nguôi. Liễu Hạnh đẩy cửa bước vào. Vợ chồng cặp nhau mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng nói rõ sự tình cho chồng biết, khuyên chồng lập chí, yên tâm đeo đuổi công danh, nuôi dậy con thơ, phụng dưỡng bố mẹ. Nàng sửa sang nhà cửa, giúp đỡ chồng rồi lại thoắt biến lên không trung. Thỉnh thoảng nàng lại hiện về, giúp đỡ gia đình, cho đến khi mọi việc xong xuôi, không còn vướng víu gì nữa, nàng mới đi chu du khắp nơi trong nước. Từ đó, tung tích của nàng như mây nổi lưng trời, nhiều người đã đề thơ xướng hoạ với Tiên chúa. Họ đều khâm phục tài thơ của Tiên chúa huyền nhiệm, thanh cao. Tiên chúa lại rời Hồ Tây, vân du vào làng Sóc, Nghệ An. Ở đây Tiên chúa hiện thành một phụ nữ trần gian, kết duyên với một thư sinh không cần mối lái. Người này vốn là hậu thân của Đào Lang thuở trước. Nàng giúp chồng ăn học, thi đỗ cao được bổ vào Hàn lâm viện. Hai người sinh hạ được một con trai. Sum  họp chỉ mấy năm, Tiên chúa lại về trời. Người chồng ở góa nuôi con, từ chức trở về vui với cây cỏ, sông núi. Ở trên trời, Tiên chúa vẫn không sao quên được cõi trần. Nàng lại xin Ngọc Hoàng giáng sinh lần nữa. Lần này, chúa mang theo hai thị nữ xuống thẳng miền Phố Cát. Ở đây, người thường hiển linh, người lành được phúc, kẻ  ác bị tai vạ. Nhân dân lập đền thờ phụng. Nhưng nhà vua lúc đó là Lê Huyền Tông cho là yêu quái, sai quân Vũ lâm cùng thuật sĩ đến trừ. Đến chúa bị phá tan. Nhưng sau đó, cả vùng phát sinh bệnh dịch. Dân chúng cho là Tiên chúa trừng phạt, tâu lên vua xin lập lại đền. Vua phải thuận theo, lại sắc phong cho làm Mã hoàng công chúa. Tiên chúa cũng từng theo các đoàn quân chinh phạt âm phù cho tiễu trừ được giặc giã. Triều đình lại gia tăng là Chế Thắng Hóa diệu đại vương.([1]) Đền thờ Tiên chúa được dựng ở các nơi như Song, Phố Cát, Phủ Giày. Các nơi ấy hàng năm thường mở hội. Dân gian gọi người bằng cái tên nôm na: Bà Chúa tiễu, xem bà là vị chúa cai quản mười phương đất, nàng với các nữ thần cai quản rừng xanh và nữ thần sông biển. Không nhất định ở đâu cả. Đi đến đâu cũng biến hóa khôn lường, trần gian kính phục đều tôn nàng là Tiên Chúa. Có khi giả làm gái đẹp thổi tiêu dưới ánh trăng có khi hóa làm bà già tựa gậy trúc ở bên đường. Hoặc bán hàng ở lưng đèo hoặc chơi chùa vãn cảnh. Người nào thả lời bỡn cợt giở thói trăng hoa thì bị bà trừng trị, gây cho tai vạ. Người nào gặp nạn cầu khẩn thì được bà giúp đỡ gia ơn. Nhiều chuyện lạ của tiên chúa được nhân dân truyền tụng. Một lần tiên chúa hoá phép thành một cô hàng nước xinh đẹp bán ở đèo Ngang. Hoàng tử đi quá ve vãn không được, toan dùng sức mạnh. Tiên chúa dùng phép làm cho chàng sợ hãi, trở nên điên loạn mất trí. Nhà vua thương con, sai quân lính đến phá hủy ngôi hàng bị Tiên chúa đánh cho thảm hại. Vua cầu  đến đức Phật bắt nàng về, toan trị tội thì nàng đem đạo lý ra cãi lại, đòi nhà vua  không nên dung túng cho con cái về tội làm điều xằng bậy. Vua phải chấp nhận và hứa sẽ sắc phong, chỉ khuyên Tiên chúa không nên quá khắc nghiệt. Từ đó, Tiên chúa cũng có phần rộng lượng hơn với những kẻ vô tình phạm tội lần đầu. Một lần khác, lại có một ông vua đi qua làng Tiên Hương nghỉ lại ở một cái quán dọc đường. Quán này cũng do Tiên Chúa lập nên. Nhà vua biết chuyện tỏ ra có lễ độ. Sáng mai thức dậy nhà vua thấy đôi giày cũ của mình được thay bằng đôi hài mới. Vua rất kính phục làm lễ tạ và cho lập phủ phụng thờ, gọi là Phủ Giày. Hội Phủ Giày có từ đó. Tiên chúa vẫn ngao du khắp nơi. Có lần lên Lạng Sơn, đón đường sứ bộ do Phùng Khắc Khoan cầm đầu, đề thơ hẹn gặp. Sau Tiên Chúa lại hóa phép hiển linh ở Hồ Tây, Phùng Khắc Khoan cùng với mấy bạn thơ là ông Ngô, ông Lý cũng gặp Tiên chúa ở đây. [1] Có chi tiết nói thêm nhà vua gọi một thuật sĩ là Tiên Quân Thành đến đánh nhau với Chúa Liễu. Câu chuyện huyền hoặc này cũng được chép lỹ trong sách: Sùng Sơn đại chiến sử (Sùng là núi Sòng ở gần ga Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Ca dao nói: Đến Sòng thiêng nhất xứ Thanh, cũng hàm ý nhắc đến cuộc đại chiến ấy).
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/van-cat-than-nu-hay-ba-chua-lieu" }
Duyên nợ tái sinh
Ngày xưa, có một anh học trò trẻ tuổi nhà nghèo xơ nghèo xác. Vì có cha mẹ già, anh phải lang thang đây đó làm nghề gõ đầu trẻ để nuôi thân và nuôi cha mẹ. Mãi về sau, anh được một phú ông ở một làng nọ mời về "ngồi" tại nhà mình để dạy cho con học. Anh mừng thầm từ nay có chỗ yên thân để ôn luyện văn bài. Phú ông có nhiều nhà, y cho thầy đồ ở riêng ngôi nhà thờ ở góc vườn để được tĩnh mịch dạy học. Ngoài ba bữa cơm hàng ngày của phú ông, anh còn nhận được tiền gạo của những người khác có con đến học với anh, nên anh cảm thấy đầy đủ. Phú ông có một cô con gái đã đến tuổi lấy chồng. Từ ngày có anh đồ tới, cô con gái cảm thấy lòng mình đỡ trống trải. Mặc dầu ở ăn cách biệt, cô gái và anh đồ vẫn nhiều phen gặp gỡ. Cô đâm ra yêu chàng ngày một tha thiết và cô cũng được chàng yêu lại. Mối tình vụng trộm cứ thế mỗi ngày trở nên keo sơn, không thể gỡ ra được nữa. Vì thẹn thò và sợ hãi, cô gái cũng không dám nói thật cho cha mẹ biết. Hai người yêu nhau như vậy đã được vài năm. Nhưng một ngày nọ, có một nhà phú hộ khác ở cùng miền, mang trầu cau đến dạm cô cho con. Cha mẹ cô gái thấy hiếm có đám nào môn đăng hộ đối hơn thế, nên hối hả nhận lời. Nhưng khi hỏi ý kiến con gái thì phú ông đâu có ngờ rằng con mình xưa nay ngoan ngoãn là thế, trước việc nhân duyên tốt đẹp của mình lại tỏ ra khó tính lạ lùng. Cả vợ lẫn chồng hết lời dỗ dành con, nhưng không kết quả. Mãi về sau, cô gái mới cho cha mẹ biết là mình đã chỉ thề non hẹn biển với anh đồ và quyết kết nghĩa trăm năm. Nghe nói thế, phú ông từ lòng thương con chuyển sang giận dữ. Đời nào ông lại chịu hạ mình gả con cho một người kiết xác như vậy. Ông nhất định không để con gái làm sai chuyện hứa hôn. Cô gái trước còn khăng khăng từ chối, nhưng sau bị gia đình và họ hàng ép buộc, nên tuy uất ức mà đành ngậm miệng. Con về phía anh học trò biết phận mình không đất cắm dùi, nên cũng không dám tỏ bày nỗi lòng với vợ chồng phú ông. Vì vậy, sự định đoạt của phú ông coi như mười phần đã xong đến tám chín. Thấm thoát mà đã một năm nữa lại trôi qua. Con trai nhà phú hộ sau mấy lần sêu tết đã chuẩn bị xong lễ cưới. Vì không có ai bênh vực, không một người đồng tình nên cô gái nhẫn nhục kia cảm thấy quẫn trí. Không còn biết cầu cứu với ai, cô quyết tự liều tấm thân còn hơn phải lấy người mà mình không ưa. Một đêm nọ, trước ngày đón dâu, cô trốn lên nhà học tự tình với anh đồ. Hai bên chuyện trò than vãn với nhau đến tận sáng. Cuối cùng cô gái lấy gói thuốc độc mang sẵn trong mình ra uống lén, và chỉ một lát quằn quại chết ngay trong lòng anh học trò. Thấy người yêu tự vẫn mà trước sau vẫn không một lời bộc bạch cho mình biết, anh học trò lòng đau như cắt. Nhưng dầu không ngăn được nước mắt giàn giụa, anh cũng cảm thấy hết sức bối rối và sợ hãi, nghĩ đến cái chết bất ngờ của người yêu nhất định sẽ làm cho mình mang tai vạ vào thân. - Nếu mình đeo gông ngồi tù thì cũng đành cam chịu, nhưng cha mẹ già rồi đây biết cậy nhờ vào ai? Càng nghĩ anh càng bủn rủn chân tay. Cho đến lúc gà gáy canh năm mà anh vẫn chưa biết xử trí thế nào. Cuối cùng anh nghĩ ra một kế. Anh đứng dậy đi kiếm cuốc thuổng rồi đào dưới gậm giường mình nằm một cái huyệt. Đào xong anh ôm lấy thi thể của cô gái mà thề với vong linh nàng: Kiếp này duyên đã lỡ duyên Quyết xin giữ trọn lời nguyền kiếp sau. Sẵn có bút son trên bàn, anh viết vào tay cô gái hai câu: Thử sinh duyên vị liễu; Nguyện kết hậu sinh duyên . Viết đoạn, anh đặt xác cô xuống huyệt, lấp đất lại, lại sửa sang nền nhà thật cẩn thận, nhặt từng hòn đất, sắp từng viên gạch, rồi chùi rửa cuốc thuổng không để một vết tích gì khả nghi. Xong đâu đó anh lại lên giường nằm đợi trời sáng. Lại nói chuyện nhà phú ông sáng hôm sau thấy con gái mất hút, bèn cho người đi khắp mọi ngả để tìm. Bên nhà trai nghe tin cũng cho người do la khắp miền. Nhưng ngày một ngày hai vẫn không một manh mối, không một tin tức gì mới mẻ. Phú ông đoán con gái mình vì không cam chịu ép duyên nên đã liều thân hoại thể ở chỗ nào xa xôi. Mặt khác sợ bọn quan nha lính tráng dựa dẫm vào việc này để đục khoét, nên ông cố ỉm đi không dám trình báo. Cuối cùng, sau những ngày hối tiếc thở than của bà con thân thích, sau những cuộc bàn tán xôn xao của xóm giềng, câu chuyện cô gái mất tích cùng với thời gian xóa mờ dần trong mắt trong ký ức mọi người. Về phần người học trò, sau khi bí mật chôn xác người yêu, phần vì thương cảm quá độ, phần vì muốn tránh mặt vợ chồng phú ông, nên được ít lâu anh thôi dạy. Phú ông cho là thầy đồ thất tình, cũng không nghi ngờ gì cả. Rời nhà phú ông, anh đi thật xa, kiếm được một chỗ ngồi dạy khác, rồi cố nén đau khổ, tự rèn luyện thành tài để đợi khoa thi. Sau mười lăm năm sôi kinh nấu sử, sức học của anh uyên bác không ai bì kịp. Anh đi thi và đậu luôn tiến sĩ. Những ngày vinh quy rộn ràng tấp nập đã qua, nhà vua bổ anh làm quan ở một trấn gần kinh kỳ, bố mẹ cũng như hàng xóm mỗi lần gặp anh, ai cũng khuyên anh lấy vợ kẻo muộn người nối dõi, nhưng anh một mực mỉm cười, không gật đầu cũng không từ chối. Hồi bấy giờ ở một thị trấn do quan tân khoa trị nhậm, có một nhà phú hộ hiếm hoi sinh được một cô gái nhan sắc sinh đẹp, nhưng lại có tật. Từ lúc sinh ra, mấy ngoan tay cô bị váng dính liền nhau, và vì thế bàn tay trái luôn nắm lại không thể mở ra được. Thấy con tật nguyền, nhà phú hộ lấy làm buồn phiền. Họ bắn tin ra hễ ai chữa khỏi cho con gái mình thì sẽ vui lòng hậu tạ tất cả gia sản. Bao nhiêu danh y nội khoa, cũng như ngoại khoa tìm đến chữa chạy bằng đủ các món thuốc, nhưng cô gái chứng nào vẫn tật ấy. Quan tân khoa lúc mới tới vùng đó đã loáng thoáng nghe được tin này. Mặc dầu đó là cái tin hơi lạ, quan tân khoa vẫn không bận tâm. Mãi về sau, nhân một chuyến đi hành hạt, quan ghé vào nhà phú hộ định bụng xem thử cho biết. Thấy có quan đến nhà phú hộ tiếp đón rất trọng thể. Nghe con hỏi về chuyện bàn tay con gái, chủ nhân cho biết con gái mình đẻ vào ngày, tháng, năm nọ, nhưng vừa lọt lòng không may đã mang tật nguyền. Nghe lời trình bày của phú hộ, quan đã lấy làm chột dạ, vì ngày tháng năm sinh của cô gái này lại trùng khớp một cách lạ lùng với ngày tháng năm mất của người yêu của mình trước đây. Quan liền nói: - Chúng tôi cũng biết chút nghề y. Cụ hãy cho cô em ra đây thử xem sao. Nhà phú hộ vào buồng dắt cô gái ra, khi thấy mặt nàng, quan bỗng nhiên bồi hồi xúc động, vì giống hệt mặt người yêu xưa, hầu không sai một nét. Quan liền sai người hầu múc đến cho mình một thau nước lã. Đoạn quan cầm bàn tay nàng nhúng vào nước, rồi tự mình vuốt các ngón tay. Tay quan vuốt tới đâu, váng bỗng trôi đi tới đó. Cuối cùng năm ngón búp măng của cô lại xòe được ra như thường. Khi mấy ngón tay vừa duỗi một mối kinh ngạc đến với mọi người, vì họ thấy lộ ra những dòng chữ: Thử sinh duyên vi liễu, Nguyện kết hậu sinh duyên. Mười chữ son vẫn còn đỏ thắm trong bàn tay cô gái. Nhưng tất cả mọi người lấy làm ngạc nhiên hơn khi quan luôn tiện kể lại câu chuyện cũ của mình chôn kín trong lòng từ bao nhiêu năm nay: nào là hai người yêu nhau ra làm sao, cô gái nhà phú ông nọ bị ép uổng như thế nào, cuối cùng cô đã tự tử vào lúc nào và được mình chôn cất, thề bồi, v.v... Quan ứa nước mắt kể mãi, kể mãi; sau đó quan chỉ vào cô gái và nói: - Thật là có trời! Đúng là một cuộc tái sinh không thể nào ngờ được! Nhà phú hộ sau đó gả cô gái cho quan và biếu chàng rể tất cả gia sản làm của hồi môn. Đám cưới tổ chức rất linh đình, co vị đại thần, người của nhà vua về dự. Rồi quan đưa vợ về quê chào cha mẹ họ hàng. Quan còn không quên đưa vợ tìm đến nhà phú ông cũ, người đã đón mình ‘ngồi" dạy học tại nhà ngày trước. Thấy người đàn bà giống với con gái mình thủa xưa như đúc, phú ông rất đỗi kinh ngạc. Phú ông càng ngẩn người khi nghe quan kể lại câu chuyện về đứa con mất tích thủa nào. Mới đầu phú ông tỏ ý không tin. Nhưng khi quan chỉ chỗ chôn cô gái ở gậm giường, và sai đào lên, quả đúng như vậy. Từ đấy quan nhận cả hai người phú hộ làm ông nhạc, và ăn ở với cô gái trọn đời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/duyen-no-tai-sinh" }
Trọng nghĩa khinh tài
Ngày xưa ở Thanh-hóa có một người tên là Nguyễn Đình Phương. Nhà ông vườn cau ao cá, lại có chừng ba chục mẫu ruộng: trong nhà, vợ con, kẻ làm người lụng khá đông. Nhưng ông vốn là người hào hiệp. Khi có ai túng thiếu đến nhờ vả, ông sẵn lòng chu cấp, hay cho vay mượn, ít khi để họ phải về không. Nguyễn Đình Phương có một người bạn cố tri tên là Trần Bính Cung làm nghề buôn gỗ. Bính Cung trước kia có của ăn của để. Trong nhà năm miệng ăn đều do một mình Bính Cung lo liệu. Nhưng từ dạo ông đi mấy chuyến bè thất bại, có bao nhiêu ruộng vườn đều cầm bán sạch. Tiếp đó Bính Cung bị một trận ốm nặng, trở nên nợ đìa. Quá hạn không trả được, chủ nợ cho bọn nặc nô đến đòi rất ráo riết. May mà có Nguyễn Đình Phương chạy tiền trả hộ, nếu không thì gia đình Bính Cung chẳng có cái mà ở. Sau đó, Bính Cung còn cho vợ con đến nhờ vả khi năm quan khi ba quan làm tiền thuốc men, Đình Phương vẫn vui lòng chu cấp. Thấy bạn quá tốt bụng vợ mình, vợ chồng Bính Cung vô cùng cảm kích. Không ngờ bệnh của Trân Bính Cung mỗi ngày một nặng. Trước còn đi lại được, nhưng sau ốm hệt giường. Biết mình sắp chết, một hôm Bính Cung cho mời bạn tới. Khi thấy mặt Đình Phương, ông nói: - Tôi mắc nợ của anh một số tiền đã đã lâu rồi mà chưa nói đến chuyện trả, thật là phụ tấm lòng tử tế của anh. Đình Phương liền gạt đi: - Anh đừng nói thế! "Tiền là gạch, ngãi là vàng". Tình nghĩa mới là cái đáng quý, còn tiền bạc nào có nghĩa lý gì. Anh đừng nhắc đến nữa. - Không - Trần Bính Cung tiếp - Tôi sở dĩ mời anh đến đây là vì món nợ làm tôi không lúc nào nguôi. Bây giờ tôi tính thế này. Ngôi nhà này của tôi coi như gán vào món nợ, có văn khế viết sẵn ở đây. Nhưng trước mắt tôi: con thơ vợ dại, em yếu, mẹ già, tình cảnh đáng quan ngại. Một mai tôi mất đi, nếu gia đạo tôi có việc gì, dám xin anh tìm cách cứu vớt. Về sau, con tôi ăn lên, gia đình tôi cất đầu lên được, nó sẽ không bao giờ quên ơn. - Sao anh lại nói thế. Mẹ của anh cũng như mẹ của tôi, con của anh cũng như con của tôi. Còn nhà của tôi cũng như nhà của anh. Dù có thế nào: tôi cũng xin gắng sức. Anh cứ thuốc men cho lành, còn món nợ hãy gác lại, đừng bận tâm gì vì nó cả. Bính Cung không nghe lời, cứ ấn văn khế vào tay Đình Phương, lại gọi con mình ra bảo lạy sống Đình Phương, rồi nói: - Bây giờ tôi chết mới nhắm mắt. Đa tạ bạn. Tôi sẽ xin kết cỏ ngậm vành kiếp sau. Ngay sau khi Bính Cung tắt nghỉ. Nguyễn Đình Phương tỏ ra là người biết giữ lời hứa của mình. Ông bỏ tiền làm ma cho bạn chu tất. Ông sốt sắng giúp đỡ gia đình hạn: khi quan tiền, khi thúng thóc không biết sẻn. Cả nhà Bính Cung coi ông như cây cột trụ. Làng mạc xóm giềng đều khen ngợi không tiếc lời. Nhưng dần dà người ta thấy lòng hào hiệp của Nguyễn Đình Phương không phải là vô hạn. Sự giúp đỡ theo thời gian cứ thưa dần. Càng về sau, việc vay mượn của gia đình Bính Cung trở nên khó khăn. Nhiều lúc người con Bính Cung phải đợi suốt buổi, mà cuối cùng vẫn phải vác rá về không. Đình Phương tuy có mặt ở nhà, nhưng người nhà vẫn đáp là "đi vắng". Thái độ chuyển từ sốt sắng ra lạt lẽo của Đình Phương làm cho mẹ con Bính Cung thất vọng, coi như một sự lừa gạt. Một hôm, sau những ngày thiếu ăn, mấy lần đến vay không được, người vợ Bính Cung đón đường cố tìm gặp Đình Phương để hỏi cho ra lẽ. Khi gặp mặt, người đàn bà vật nài: - Mẹ con bà cháu chúng em đói no là nhà ở một tay bác. Mong bác rón tay giúp đỡ cho qua hội này. Đình Phương vội vàng từ chối: - Gia đình chúng tôi dạo này cũng túng bấn tợn. Chị có thể chạy hỏi các nơi khác xem thử. - Mẹ con chúng em chịu ơn bác rất nhiều, không bao giờ quên được. Biết đi lại mãi cũng làm phiền bác, nhưng tin vào lời hứa của bác với nhà em lúc sắp mất nên một hai cậy dựa vào bác. Chẳng lẽ tình nghĩa ngắn ngủi có thế thôi ư? Vợ Bính Cung không ngờ tới câu trả lời chát chúa của Đình Phương. - Chị dạy thế là lầm. Tôi cũng có vợ có con của tôi chứ. Có đâu cứ phải tư cấp cho gia đình chị mãi được. Không khéo tôi phải bán ngôi nhà bên nhà chị để trang trải vài món nợ đây! Nghe lời nói như một gáo nước lã giội vào lưng, người vợ Bính Cung đành gạt nước mắt ra về, không quên kể lại sự tình cho mọi người trong nhà nghe. Cả nhà ngồi lại khóc rấm rứt. Bỗng có một ông lão lối xóm chạy đến hỏi vì sao mà khóc. Người vợ Bính Cung kể lại đâu đuôi từ lúc tình bạn đậm đà, cho đến những câu trả lời tuyệt tình vừa rồi của Đình Phương, rồi nói: - Cụ tính, bác ấy là ân nhân của chúng tôi mà thay lòng đổi dạ chóng thế, thì cả nhà còn biết làm sao mà sống bây giờ! Nói xong lại khóc nức nở. Ông lão đáp: - Thắm lắm thì phai nhiều, âu đó là thường tình của người đời. Thôi bây giờ mẹ con bà cháu nhà mợ hãy cố gắng tìm lấy một nghề mà nuôi nhau. - Cụ tính, trong nhà một đồng một chữ cũng không có. Ngôi nhà này là của họ, họ còn dọa bán, nay mai biết trú ngụ vào đâu. Thế thì cụ bảo làm nghề gì? - Mợ cả và cô có biết dệt sồi chăng? - Nuôi tằm dệt lụa cũng có thể học mà làm được cả, nhưng vốn liếng ở đâu lấy gì mua khung cửi, lấy gì làm lương ăn cho cả nhà cho đến lúc có sồi đem đi chợ? - Tôi thì chả phải giàu có gì, nhà mợ cũng biết. Nhưng thấy tình cảnh nhà mợ cũng đáng thương. Bây giờ tôi bàn thế này. Cứ phải luôn luôn nhờ vả người ta mãi quả là không tiện. Trong tay cần phải nắm chắc lấy một nghề, có biết chèo lái thì mới hòng đưa con thuyền qua được sóng cả. Nhà tôi vốn làm nghề dệt đã ba đời nay. Nếu mợ quyết chí thì tôi sẽ xin truyền cái nghề của chúng tôi cho mợ. Còn vốn liếng khởi sự, tôi sẽ xin cố giúp, sau này đợi lúc khá giả sẽ hoàn lại cũng được. Ông lão nói rồi bắt tay vào làm ngay. Người vợ Bính Cung không ngờ một ông lão dệt sồi ở xóm lại tỏ ra hào hiệp có phần vượt xa Nguyễn Đình Phương. Ông xuất tiền một lúc mua ngay khung cửi và một đồ lề khác để cho hai người đàn bà học dệt. Lại bỏ vốn cân tơ. Ông lão còn mất khá nhiều thì giờ để bày vẽ cho họ mọi bí mật của nghề nghiệp. Chẳng mấy chốc họ đã có sồi đem ra chợ bán. Càng ngày nghề của họ càng tinh. Mẹ con bà cháu tằn tiện cũng đủ bát ăn và bắt đầu cho đứa bé đi học. Không bao lâu, gia đình đã dành dụm được tiền đem đi chuộc nhà và số ruộng vườn về. Từ khi chuộc được nhà, họ lơ hẳn Nguyễn Đình Phương coi như người xa lạ, trái lại ân cần coi ông lão là một vị ân nhân. Thấm thoắt bảy tám năm trôi qua, người con gái Bính Cung đã có người dạm hỏi. Hôm cưới, trong nhà rộn rịp giết lợn bày cỗ rất linh đình mà theo ý người vợ Bính Cung là để cho bõ những ngày gian truân vừa qua. Nhưng giữa tiệc cưới vui vẻ, khách khứa tấp nập, người vợ Bính Cung nhác thấy Nguyễn Đình Phương - người mà bà đã có chủ định không mời - cũng khăn áo đến dự. Vợ Bính Cung tiến ra đón ở cửa, chua chát: - Bác hôm nay cũng đến đây ư? Chao ôi! Tôi cứ tưởng bác phải quên chúng tôi lâu rồi. Chắc bác nghĩ rằng gia đình chúng tôi phải chết giấm chết giúi từ đời thuở nào, còn đâu được bác chiếu cố đến thăm nhà hôm nay nữa... Vợ Bính Cung còn định tìm những câu đau hơn nữa để nói cho Đình Phương biết mặt, nhưng lúc bấy giờ ông lão ân nhân đã bước ra, rỉ vào tai: - Mợ cả, mợ đừng vội nóng, để tôi nói mợ nghe. Tất cả vốn liếng mà tôi giúp mợ, cả công lao bày vẽ của tôi nữa đều là tiền bạc của ông Phương đây cả. Tôi chỉ là người trao hộ, làm hộ mà không nói ra cho mợ biết đó thôi !
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/trong-nghia-khinh-tai" }
Sự tích cây nhân trần
Ngày xưa có một nữ bệnh nhân mắc căn bệnh nan y thân hình ốm yếu gầy guộc, sắc mặt thì vàng vọt, niêm mạc hai mắt có màu mơ chín, mệt mỏi…. đến tìm gặp danh y Hoa Đà để chữa bệnh. Hoa Đà tiên sinh đã chuẩn đoán rằng cô gái bị mắc chứng “Hoàng Lao Bệnh” hay thời xưa còn gọi là “Hoàng Đản Bệnh”. Căn bệnh này được y học hiện đại ngày nay gọi là viêm gan vàng da. Thời điểm đó Hoàng Đản Bệnh là căn bệnh vô phương cứu chữa nên danh y Hoa Đa dù rất cố gắng và muốn chữa trị nhưng đành lòng nói với cô gái bất hạnh: - “Căn bệnh này tôi không chưa được, cô hãy về đi.” Buồn lòng và cảm giác như mọi hi vọng đã sụp đổ cô gái ngậm ngùi trở về nhà, cố sống những ngày cuối đời mình thật bình an và vui vẻ. Nhưng…Cuộc sống luôn có những kì tích. Sau một khoảng thời gian khá lâu sau, vẫn là bóng dáng cô gái đó đang đứng thấp thoáng ngoài cửa phòng của Hoa Đà tiên sinh, một giọng nói khỏe khoắn hơn cả ngày đầu, thân hình trắng trẻo tròn trịa có đôi phần mập mạp hơn, tinh thần, sắc mặt hồng hào, dáng đi hoạt bát nhanh nhẹn đã khiến cho Hoa Đà tiên sinh rất đỗi bất ngờ bèn hỏi: - “Cô..Cô vẫn còn sống ư, không biết cô đã gặp được tiên y nào mang cô trở lại cõi trần vậy”. Nhưng đáp lại lời ông chỉ là một cái lắc đầu nhẹ. Cô nói: - “Dạ không ạ. Cháu không uống thuốc của ông lang nào cả.” Hoa Đà càng bất ngờ hơn giọng gấp gáp hơn: - Tôi không tin, không lẽ.. cô đã tự tìm được một vị thuốc tiên? Mỉm cười nhẹ: - “Dạ không, cháu cũng không dùng thuốc gì cả.” Thấy vậy…Hoa Đà tiên sinh lòng đầy băn khoăn và nghi ngờ. Ngẫm trong đầu và tự hỏi: - “Bệnh mà không dùng thuốc làm sao có thể khỏi được.” Sau một hồi hỏi han, cô gái có nói rằng mấy năm nay sau khi từ biệt Hoa Đà tiên sinh trở về, cô chỉ thường xuyên lên núi hái Dã Cao Đầu để ăn, và thật bất ngờ điều này đã cứu sống 1 sinh mạng tuyệt vọng hoàn toàn của cô. Nghe vậy Hoa Đà không giấu được vẻ mừng thầm, tò mò và muốn tìm ra nguyên cớ của sự việc bèn vội thu vén hành lý cùng bảo cô gái đưa đi tìm cây Dã Cao Đầu – loại cây mà ông chưa nghe nói bao giờ. Sau khi tìm ra được cây đó thì ra đó chính là Hoàng Cao Đầu – một loại cây thuốc rất tốt để chữa Hoàng Đản Bệnh.. Từ đó trở đi, danh y Hao Đà chú tâm nghiên cứu khả năng chữa trị của Hoàng Cao Đầu đối với chứng viêm gan vàng da. Ông đã cho các bệnh nhân của mình dùng Hoàng Cao Đầu ăn một thứ rau trong một thời gian. Sau một quãng thời gian áp dụng và tìm tòi, Hoa Đã cho tìm ra Hoàng cao đầu có tác dụng tốt nhất vào thời điểm sau tiết Thanh Minh – đó là giai đoạn dương khí thượng thăng, cây cối đâm chồi, trăm hoa đua nở, sức sống của cây tràn đầy ở thân và cành nên có hiệu quả chữa bệnh cao nhất. Và quả nhiên không sai bệnh nhân của Hoa đã sau khi dùng thuốc, bệnh viêm gan vàng da đã thuyên giảm và dần khỏi cơ bản. Hoa Đà vui mừng khôn xiết, kể từ đó cứ vào ba tháng đầu năm Hoa Đà lên núi hái Hoàng cao đầu về tích trữ dùng dần. Sau này để tránh nhầm lẫn ông đã đặt tên cho cây thuốc này với tên mới là “Nhân Trần”. “Tam nguyên nhân trần tứ nguyệt cao Ngũ nguyệt khảm lai đương sài thiêu.” Câu thơ Hoa Đà để lại cho người đời ghi nhớ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-nhan-tran" }