id
stringlengths
1
8
revid
stringlengths
1
8
url
stringlengths
37
44
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
162
259k
n_paragraphs
int64
1
1.15k
n_sents
int64
1
1.93k
n_words
int64
51
56.9k
1310602
70658610
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1310602
Cắt hỏa mai
Cắt hỏa mai hay bồ cắt (danh pháp hai phần: "Accipiter nisus") là một loài chim trong họ Ưng. Loài này tìm thấy trên khắp các khu vực ôn đới và cận nhiệt đới của Cựu Thế giới, trong khi các thành viên ở khu vực phía bắc của phạm vi phân bố di cư xuống phía nam trong mùa đông, nhóm ở phía Nam là nhóm định cư hoặc sống phân tán. Mô Tả. Cắt hỏa mai là một loài chim săn mồi nhỏ, với cánh rộng và đuôi dài. Chim mái có thể lớn hơn đến 25% so với chim trống và cân nặng tới hai lần. Chim trống trưởng thành có chiều dài 29–34 cm, với sải cánh 59–64 cm và trọng lượng 110-196 g; chim mái lớn hơn nhiều với chiều dài khoảng 35–41 cm, sải cánh 67–80 cm, và trọng lượng 185-342 g. Chim trống có lông màu xám xanh, còn chim mái có lông màu nâu sẫm hoặc nâu xám. Phần dưới của cả chim trống lẫn chim mái có lông vằn màu cam xen lẫn màu sáng. Chim chưa trưởng thành có lông màu nâu nhạt. Cắt hỏa mai đôi mắt màu vàng nhạt, với cái mỏ nhỏ và sắc bén. Đôi chân dài và đặc trưng ngón chân của chúng thích nghi cho việc săn bắt chim. Đôi cánh tròn, rộng, ngắn và đuôi dài giúp chúng dễ dàng bay liệng trong môi trường cây cối rậm rạp. Phân bố và môi trường sống. Cắt hỏa mai phân bố phổ biến rộng khắp các vùng ôn đới và cận nhiệt đới của Cựu thế giới, trong một phạm vi toàn cầu ước tính khoảng 23.600.000 km2 và có số lượng ước tính là 1,5 triệu con trong năm 2009. Các thành viên sống ở các vùng lạnh phía Bắc Âu và châu Á di cư về phía nam vào mùa đông, còn các thành viên sống ở phía Nam là chim cư trú. Nó là một trong những loài chim săn mồi phổ biến nhất ở châu Âu. Cắt hỏa mai rất phổ biến ở hầu hết các loại rừng trong phạm vi phân bố của nó và cũng ở trong các khu vực cây cối thưa. Chúng thích sống và săn bắt mồi ở bìa rừng, nhưng chim di cư có thể được nhìn thấy trong bất kỳ môi trường sống nào. Chúng cũng được thấy trong vườn, trong khu vực đô thị và thậm chí là sống ở các công viên trong thành phố. Lối sống. Cắt hỏa mai sinh sản ở vùng rừng gỗ bất kỳ. Chúng làm tổ trên cây với chiều ngang đến 60 cm, từ các cành cây. Chúng đẻ 4-5 quả trứng màu xanh nhạt, nâu đốm, sự thành công của nỗ lực sinh sản phụ thuộc vào con mái duy trì trọng lượng cao, trong khi con trống mang mồi cho con mái. Trứng nở sau 33 ngày ấp chim non được nuôi đủ lông đủ cánh trong thời gian sau khi nở 24 đến 28 ngày. Chim trống có xu hướng săn bắt những con chim nhỏ hơn, bao gồm cả bạc má, chim sẻ, sẻ thông và sẻ đồng, còn chim mái bắt chủ yếu săn chim hoét và sáo đá, nhưng có khả năng giết chết con mồi có trọng lượng 500 gram hoặc lớn hơn, như bồ câu hay ác là. Đôi khi chúng săn cả các loài động vật có vú nhỏ, dơi và sâu bọ. Phân loài. Có sáu phân loài Cắt hỏa mai được công nhận:
13
27
599
1310634
827006
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1310634
Wannarot Sonthichai
Wannarot Sonthichai (tiếng Thái: วรรณรท สนธิไชย, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1989) còn có nghệ danh là Vill (วิว), là một nữ ca sĩ, diễn viên và người mẫu người Thái Lan. Cô được biết đến qua vai Nampetch trong "Đêm định mệnh", Dao trong "Vì sao lạc" và hai chị em sinh đôi Kandaomani/Kandaowasi trong "Bi tình song sinh" ... Sự nghiệp. Wannarot Sonthichai từng theo học một trường trung học ở Thái Lan. Sau này, cô tốt nghiệp Đại học Silapakorn (khoa "Khảo cổ học", chuyên ngành "Nhân học"). Cô bước vào làng giải trí Thái cùng với Yuke Songpaisan khi họ cùng nhau thử giọng tại Exact. Cả hai sau đó đã cặp đôi và trở thành những vai diễn hàng đầu trong lakorn "Đêm định mệnh" (bản làm lại của phim "Dòng máu phượng hoàng"). Bộ phim là một thành công lớn và đạt được đánh giá cao nhất cho một tập phim là 17. Cả hai đã nhanh chóng trở thành một trong những cặp Koo Jin nổi tiếng nhất trong những năm đó. Năm 2010, cô đóng phim "Em là phụ nữ" cùng với ca sĩ nổi tiếng Bie Sukrit Wisedkaew. Rating của phim đạt đến con số 14 và được giải thưởng "Bộ phim nước ngoài của năm hay nhất" của đài An Huy Trung Quốc 2011. Bộ phim đạt tỉ lệ người xem cao nhất trên đài Ch5 năm 2010. Năm 2013, Vill đóng cặp với Toomtam Yuthana Puengklarng, quán quân The Star 7 trong phim "Bi tình song sinh". Bộ phim đạt tỉ lệ người xem cao nhất trên đài Ch5 năm 2013. Tập cuối của phim đạt rating 6.8. Năm 2014, Vill đóng cặp với Put Puttichai trong phim "Bắt lấy thiên thần". Bộ phim cũng được đánh giá là top 10 phim hay nhất xứ sở chùa Vàng năm 2014, cặp đôi Push - Vill trong phim cũng trở thành một trong những cặp đôi đẹp nhất màn ảnh và được yêu cầu tái hợp liên tục.
6
16
339
1310923
798851
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1310923
X.Org Server
X.Org Server đề cập đến các gói phát hành máy chủ X stewarded của X.Org Foundation, được tổ chức bởi freedesktop.org, và cho phép công chúng truy cập vào các tiêu chuẩn X Window cho những nỗ lực của cộng đồng phần mềm miễn phí và mã nguồn mở. Các dịch vụ mà X.Org Foundation hỗ trợ X Server bao gồm đóng gói của bản phát hành; chứng nhận (với lệ phí); đánh giá các cải tiến cho các mã; phát triển các trang web, và xử lý việc phân phối các khoản đóng góp tiền tệ. Các bản phát hành được mã hoá, tài liệu, và đóng gói bởi các nhà phát triển toàn cầu Lịch sử. X.Org Foundation hiện đại ra đời năm 2004 khi cơ quan giám sát và phát hành các tham chiếu chính của X chuẩn gia nhập lực lượng với các cựu nhân viên phát triển XFree86. X11R6.7.0, phiên bản đầu tiên của X.Org Server, được tách ra từ XFree86 4.4 RC2. Lý do lúc đo cho sự chia tách là một số bất đồng với giấy phép mới cho các phiên bản phát hành cuối cùng của XFree86 4.4, nhưng bất đồng nhau trong những đóng góp nổi lên trước khi tách. Nhiều người trong số các nhà phát triển XFree86 rước đó đã tham gia dự án X.Org Server. Việc phát hành X11R6.9.0/X11R7.0.0 chủ yếu là thêm một hệ thống kiểu mô-đun xây dựng dựa trên GNU Autotools. 6.9.0 được sử dụng hệ thống cũ xây dựng imake trong khi 7.0.0 dùng autotools, cả hai trên cùng một codebase. Đường dẫn kiểu mô-đun (dùng GNU Autotools) tuy nhiên, định hướng tương lai của X.Org server, và cũng đã thấy X 11 nhị phân di chuyển ra khỏi riêng của họ /usr/X11R6 thư mục con cây và vào cây toàn cầu /usr trên nhiều hệ thống Unix. Thông qua. X.Org Server là phổ biến với các hệ điều hành tương tự Unix, được chấp nhận trong hầu hết các bản phân phối Linux và các biến thểBSD. Nó cũng được bao gồm trong hệ điều hành Solaris của Sun Microsystems, và là máy chủ phổ biến cho các hệ thống x86; Dựa trên hệ thống SPARC hầu như chỉ sử dụng máy chủ Xsun độc quyền của Sun Microsystems, như driver đồ họa Sun hỗ trợ cho X.Org là rất giới hạn. Nó cũng được dùng trong Cygwin/X, thi hành X server Cygwin cho Microsoft Windows, VcXsrv và trong Xming. Mac OS X phiên bản trước 10.5 ("Leopard") phát hành với giao diện dựa trên XFree86, nhưng X server của 10.5 dựa trên các codebase X.Org.
9
15
443
1310970
297622
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1310970
KDrive
KDrive (hoặc freedesktop.org Xserver hoặc đơn giản là Xserver) là một hệ thống X Window nhỏ được tạo bởi Keith Packard. Không giống X.Org Server, KDrive không dựa trên mã XFree86. Nó được sử dụng bởi các nhà phát triển X.Org như là một mặt bằng thử nghiệm cho những ý tưởng mới, chẳng hạn như EXA. Nó thực tế thay thế SmallX (thường biết đến như TinyX) và thường được sử dụng trong các hệ thống nhúng với sự cần thiết cho một X server nhỏ. Một tính năng đặc biệt của KDrive rằng nó đã được cấu hình tại thời gian biên dịch, không phải ở thời gian chạy. Nó thường được biên dịch để sử dụng thiết bị vùng đệm khung Linux bản xứ như đầu ra.. Giống như X.Org Server phiên bản 7.1, KDrive framework được tích hợp vào thực hiện tham chiếu và bây giờ là một phần của việc phát hành mã nguồn chung của máy chủ.
4
6
163
1310975
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1310975
Cắt cổ áo
Cắt cổ áo (danh pháp hai phần: "Accipiter cirrocephalus") là một loài chim lá thuộc accipiter trong họ Ưng. Loài này phân bố ở Úc, và New Guinea và các đảo nhỏ gần đó. Mô tả. Các phần trên có màu xám với một cổ áo màu hạt dẻ, dưới là chủ yếu là màu hung đo, sọc dọc mịn với màu trắng. Nó tương tự như màu cắt nâu nhưng nhỏ hơn, và giống ở kiểu bay nhanh và linh hoạt của nó. Chiều dài cơ thể là 30–40 cm (11,8-15,7) và sải cánh dài 55–80 cm (21,7-31,5 in). Con mái trưởng thành cân nặng 240 g còn con trống nặng 125 g. Phân bố và môi trường sống. Cắt cổ áo phổ biến rộng rãi khắp Úc và New Guinea, ngoại trừ cho những sa mạc cát. Nó được tìm thấy trong rừng và rừng cây gỗ. Nó ăn chủ yếu vào những con chim nhỏ bị bắt trong khi bay như chim sẻ nhà thông thường và sáo thông thường, đôi khi chúng ăn côn trùng.
5
10
179
1310996
874327
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1310996
Hồ Nam TV
Đài Truyền hình vệ tinh Hồ Nam (Hunan Broadcasting System | HBS) (giản thể: 湖南广播电视台; phồn thể: 湖南廣播電視台; bính âm: Húnán Guǎngbò Diànshìtái), trước đây được biết đến với tên gọi Đài Truyền hình vệ tinh Golden Eagle (Golden Eagle Broadcasting System | GBS), là mạng lưới truyền hình lớn thứ hai của Trung Quốc sau Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV). Các mạng lưới truyền hình thuộc sở hữu của chính quyền tỉnh Hồ Nam. Mạng lưới này có trụ sở tại Trường Sa, Hồ Nam và Tây Ninh, Thanh Hải. Ngày 20/05/2009, mạng lưới truyền hình mở rộng dịch vụ của mình đến Hồng Kông và Bắc Mĩ. Lịch sử. Đài phát thanh nhân dân Hồ Nam. 7 tháng 11 năm 1949, Đài phát thanh nhân dân Hồ Nam được thành lập, kênh chính của Đài phát thanh nhân dân Hồ Nam chính thức được phát sóng. Vào ngày 6 tháng 11 năm 1993, kênh chính của Đài phát thanh nhân dân Hồ Nam được đổi tên thành Đài truyền hình nhân dân Hồ Nam. 8 tháng 8 năm 1992, kênh kinh tế Hồ Nam chính thức bắt đầu phát sóng. 28 tháng 3 năm 1995, Kênh Văn học Nghệ thuật bắt đầu phát sóng; Ngày 8 tháng 12 năm 1997, Kênh Giao thông bắt đầu phát sóng. 8 tháng 3 năm 2000, theo tiêu chuẩn về tên gọi của một đài phát thanh và truyền hình do Cục Quản lý Nhà nước về Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình quy định, Đài phát thanh nhân dân Hồ Nam, kênh Kinh tế, kênh Văn học và Nghệ thuật và k6nh Giao thông vận tải đã thay đổi cách gọi thành "Kênh tin tức của Đài phát thanh truyền hình nhân dân Hồ Nam" và "Đài truyền hình nhân dân Hồ Nam". "Kênh Kinh tế của Đài phát thanh truyền hình Hồ Nam", "Kênh Nghệ thuật của Đài phát thanh truyền hình nhân dân Hồ Nam" và "Kênh Giao thông của Đài phát thanh truyền hình nhân dân Hồ Nam". Kể từ năm 2005, việc phát sóng Xiaoxiang Voice, Travel Voice và Music Voice đã liên tiếp được khởi động. 25 tháng 1 năm 2010, với việc thành lập và tái cơ cấu Đài phát thanh và truyền hình Hồ Nam, Đài phát thanh nhân dân Hồ Nam bị bãi bỏ và Trung tâm truyền thông phát thanh truyền hình Đài phát thanh và truyền hình Hồ Nam được thành lập, là một tổ chức nội bộ và là một pháp nhân cấp hai của Đài phát thanh và truyền hình Hồ Nam. Đài truyền hình Hồ Nam. Năm 1960, đài truyền hình Trường Sa tiền thân của nó bắt đầu phát sóng và sau đó ngừng phát sóng vào năm 1962. Nó tiếp tục phát sóng vào ngày 29 tháng 9 năm 1970, và được đổi tên thành Đài truyền hình Hồ Nam. 1 tháng 7 năm 1987, kênh truyền hình nghệ thuật Hồ Nam bắt đầu phát sóng. Tháng 10 năm 1991, nó được đổi thành chương trình thứ hai của đài truyền hình Hồ Nam. Năm 1993, kênh thông tin đồ họa Hồ Nam bắt đầu phát sóng. 1 tháng 1 năm 1997, chương trình đầu tiên của Đài truyền hình Hồ Nam chính thức được phát sóng trên vệ tinh, và được đổi tên thành Kênh truyền hình vệ tinh Hồ Nam (gọi tắt là Truyền hình vệ tinh Hồ Nam). Năm 2004, Đài truyền hình vệ tinh Hồ Nam đưa ra khái niệm "Trung Quốc hạnh phúc" và đi đầu trong việc nỗ lực xây dựng "Thương hiệu giải trí truyền hình năng động nhất Trung Quốc". Đây cũng là hãng truyền hình đầu tiên trong nước định vị rõ ràng và Phiên bản nước ngoài của Truyền hình vệ tinh Hồ Nam phát trên vệ tinh nền tảng Vạn Lý Trường Thành đã được phát sóng. 28 tháng 6 năm 1999, chương trình thứ hai của Đài truyền hình Hồ Nam được đổi thành kênh Văn hóa và Thể thao của Đài truyền hình Hồ Nam. Tháng 12 năm 2002, kênh thông tin Đồ họa Hồ Nam được tổ chức lại thành kênh Thể thao Truyền hình Hồ Nam. Đồng thời, kênh văn hóa thể thao của Đài truyền hình Hồ Nam được đổi tên thành kênh giải trí của Đài truyền hình Hồ Nam. 28 tháng 12 năm 2003, kênh công cộng của đài truyền hình Hồ Nam được ra mắt với tên gọi là "Hunan Public TV". 18 tháng 6 năm 2004, Kênh Thể thao truyền hình Hồ Nam được đổi thành Kênh Thời trang truyền hình Hồ Nam. Ngày 17 tháng 3 năm 2006, kênh Thời trang Hồ Nam được đổi thành Kênh mua sắm vui vẻ và bắt đầu phát sóng. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2010, Kênh mua sắm vui vẻ 2 (Kênh Thời trang của Đài truyền hình Hồ Nam) được phát sóng thử nghiệm. 28 tháng 9 năm 2004, chương trình truyền hình vệ tinh Golden Eagle Cartoon được phát sóng thử nghiệm, và chính thức ra mắt vào ngày 30 tháng 10. 20 tháng 11 năm 2005, Kênh phim Xiaoxiang được phát sóng thử nghiệm và chính thức ra mắt vào ngày 1 tháng 1 năm 2006. Kênh này không trực thuộc quản lý của đài truyền hình Hồ Nam mà do tập đoàn điện ảnh Xiaoxiang chịu trách nhiệm. 3 năm 2009, phiên bản nước ngoài của Truyền hình vệ tinh Hồ Nam đã bị thu hồi và chuyển đổi, và phiên bản này đã được nâng cấp thành tên gọi "Kênh quốc tế truyền hình vệ tinh Hồ Nam" và bắt đầu phát sóng thử nghiệm, ngày 20 tháng 5 cùng năm, Kênh quốc tế truyền hình vệ tinh Hồ Nam bắt đầu phát sóng và phủ sóng trên toàn thế giới. 28 tháng 9 năm 2009, truyền hình vệ tinh Hồ Nam chính thức bắt đầu đưa vào loạt kênh video vệ tinh HD và SD đầu tiên. Đài truyền hình kinh tế Hồ Nam. Tháng 4 năm 1990, đài truyền hình cáp cấp tỉnh đầu tiên của cả nước Đài truyền hình cáp Hồ Nam bắt đầu phát sóng. Năm 1992, đài truyền hình cáp Hồ Nam Channel 2 bắt đầu phát sóng. Năm 1995, kênh truyền hình kinh tế thứ ba của tỉnh Hồ Nam, Kênh truyền hình Kinh tế Hồ Nam, được thử nghiệm và chính thức ra mắt vào ngày 1 tháng 1 năm 1996. 25 tháng 10 năm 1998, kênh cuộc sống của đài truyền hình Hồ Nam bắt đầu phát sóng.
25
40
1,109
1311008
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311008
Ó Trung Quốc
Ó Trung Quốc (danh pháp hai phần: "Accipiter soloensis") là một loài chim thuộc chi accipiter trong họ Ưng. Loài này sinh sản ở trong khu vực Đông Nam Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Siberia; mùa đông ở Indonesia và Philippines, đi qua phần còn lại của khu vực Đông Nam Á. Nó là một loài sinh sống các khu vực rừng gỗ. Nó có thân dài 30–36 cm với con mái lớn hơn con trống. Con trưởng thành có đầu mũi cánh màu đen nổi bật. Con trống ở trên có màu xám, dưới màu trắng và có đôi mắt màu đỏ. Con mái có ngực và dưới cánh màu hung đỏ, và đôi mắt màu vàng. Con chưa trưởng thành có khuôn mặt màu xám, phía trên màu nâu và đôi mắt màu vàng. Ó Trung Quốc chủ yếu ăn ếch, nhưng cũng ăn thằn lằn.
3
8
150
1311045
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311045
Cắt ngực màu rượu vang
Cắt ngực màu rượu vang (danh pháp hai phần: "Accipiter rhodogaster") là một loài chim thuộc chi accipiter trong họ Ưng. Nó là loài đặc hữu của Indonesia. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ngập mặn cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới, rừng núi cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới ẩm.
1
3
64
1311188
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311188
Ưng ngỗng châu Phi
Ó châu Phi (danh pháp hai phần: Accipiter tachiro) là một loài chim săn mồi thuộc chi Accipiter trong họ Ưng ("Accipitridae"). Như định nghĩa ở "Handbook of the Birds of the World", nó được tìm thấy ở Angola, Botswana, Burundi, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Eritrea, Ethiopia, Kenya, Lesotho, Malawi, Mozambique, Namibia, Rwanda, Somalia, Somaliland, Nam Phi, Sudan, Swaziland, Tanzania, Uganda, Zambia, và Zimbabwe. Nó được xem là cùng loài với ó ngực đỏ của tây và trung châu Phi (BirdLife International 2007).
1
3
88
1311194
940378
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311194
Xfce
Xfce (phát âm như bốn chữ riêng lẻ) là một phần mềm môi trường desktop miễn phí cho các nền tảng Unix và tương tự Unix, chẳng hạn như Linux, Solaris, và BSD. Nó được tạo ra nhằm mục tiêu tạo ra một môi trường desktop nhanh, nhẹ, trong khi vẫn trực quan hấp dẫn và dễ sử dụng. Nó bao gồm các thành phần đóng gói một cách riêng biệt mà cùng nhau cung cấp các chức năng đầy đủ của môi trường desktop, nhưng có thể được lựa chọn trong tập hợp để tạo ra môi trường làm việc cá nhân ưa thích của người dùng. Xfce được sử dụng chủ yếu cho khả năng chạy một môi trường desktop hiện đại trên phần cứng tương đối yếu Xfce được bao gồm như là một trong những giao diện người dùng đồ họa trên hệ thống chơi game cầm tay Pandora. Tính năng. Nó dựa trên bộ công cụ GTK+ 2 (giống như GNOME 2.x). Nó sử trình quản lý của sổ Xfwm, được mô tả dưới. Cấu hình của nó hoàn toàn được điều khiển bằng chuột, với các tập tin cấu hình ẩn với người sử dụng bình thường. Có thể chạy Xfce với 40 MB bộ nhớ bằng cách dùng Alpine Linux. Trên Ubuntu, các kiểm tra cho thấy Xfce 4.6 sử dụng bộ nhớ thấp hơn GNOME 2.29 và KDE 4.4, nhưng cao hơn LXDE 0.5. Lịch sử. Olivier Fourdan bắt đầu dự án năm 1996. Cái tên "Xfce" ban đầu được đứng cho "XForms Common Environment", nhưng kể từ thời gian đó Xfce đã được viết lại hai lần và không còn sử dụng bộ công cụ XForms. Cáci tên vẫn còn, nhưng nó không còn viết hoa như là "XFCE", thay vào đó là "Xfce". Lập trường hiện tại của nhà phát triển rằng tư tưởng ban đầu không còn đại diện cho bất cứ điều gì cụ thể. Nó có biệt danh "Cholesterol Free Desktop Environment", ngay cả trong một số các trang chính của nó. Phiên bản đầu tiên. Xfce bắt đầu như là một dự án đơn giản được tạo ra với XForms, có nghĩa là một bản sao miễn phí của CDE cho Linux. Fourdan phát hành chương trình, một thanh công cụ đơn giản, đến ibiblio (sau đó là "SunSITE"). Fourdan tiếp tục phát triển dự án, và vào năm 1998, Xfce 2 được phát hành với phiên bản đầu tiên của trình quản lý của sổ của Xfce, Xfwm. Ông yêu được tham gia các dự án bên trong của Red Hat Linux, nhưng bị từ chối vì dự án dựa trên XForms. Red Hat chỉ chấp nhận phần mềm mã nguồn mở và phát hành theo một trong hai giấy phép tưng thích GPL hoặc BSD, nhưng, vào lúc đó, XForms đã bị đóng mã nguồn chỉ miễn phí cho sử dụng cá nhân. Vì lý do tương tự, Xfce đã không có trong Debian trước phiên bản 3. Xfce 2 đã được chỉ được phân phối trong thành phần đóng góp của Debian. Tháng 3/1999 Fourdan bắt đầu viết lại hoàn toàn của dự án dựa trên GTK+, một bộ công cụ không độc quyền và ngày càng phổ biến. Kết quả là Xfce 3.0, đã được cấp phép theo GNU GPL. Cùng với được dựa hoàn toàn vào phần mềm miễn phí, dự án đã đạt được hỗ trợ kéo-và-thả, ngôn ngữ bản xứ của GTK, và cấu hình được cải thiện. Xfce được tải lên SourceForge.net trong tháng 2/2001, bắt đầu với phiên bản 3.8.1. Modern Xfce. Phiên bản 4.0.0, Xfce được nâng cấp để sử dụng thư viện GTK+ 2. Thay đổi trong 4.2.0 bao gồm quản lý kép cho Xfwm bổ sung xây dựng hỗ trợ cho tính minh bạch và thả bóng tối cũng như một tập hợp các icon SVG mới. Tháng 1/2007, Xfce 4.4.0 được phát hành. Nó bao gồm trình quản lý file Thunar, một thay thế cho Xffm. hỗ trợ cho icon desktop đã được bổ sung. Ngoài ra, nhiều cải tiến đã được thực hiện bảng điều khiển để ngăn chặn các plugin lỗi bị treo toàn bộ bảng điều khiển. Trong tháng 2/2009 Xfce 4.6.0 được phát hành. Phiên bản này có một phụ trợ cấu hình mới, thiết lập một nhà quản lý mới và một máy trộn âm thanh mới, cũng như một số cải tiến đáng kể để quản lý phiên và phần còn lại của các thành phần cốt lõi của Xfce. Tháng 1/2011, phát hành Xfce 4.8.0. Phiên bản này bao gồm thay đổi chẳng hạn như sự thay thế của ThunarVFS và HAL với GIO, udev, ConsoleKit và PolicyKit, và các tiện ích mới để duyệt chia sẻ mạng từ xa bằng cách sử dụng một số các giao thức như SFTP, SMB, và FTP. Cửa sổ lộn xộn được giảm bởi việc sáp nhập tất cả các hộp thoại sự tiến bộ tập tin vào một hộp thoại duy nhất. Các ứng dụng bảng điều khiển cũng được viết lại cho tốt hơn vị trí, minh bạch, quản lý mã và thiết bị phóng. 4.8 cũng đã giới thiệu một plugin trình đơn mới để xem thư mục. Khuôn khổ 4,8 plugin vẫn tương thích với các plugin 4,6. Hộp thoại cấu hình hiển thị trong 4.8 hỗ trợ RandR 1.2, việc phát hiện màn hình tự động và cho phép người dùng lựa chọn độ phân giải màn hình hiển thị ưa thích của họ, tỷ lệ làm mới và xoay màn hình. Màn hình có thể được cấu hình cho một trong hai công việc trong chế độ bản sao hoặc được đặt bên cạnh nhau. Chọn bàn phím đã trở nên dễ dàng hơn và nhiều hơn nữa thân thiện với người sử dụng. Ngoài ra, trình soạn thảo hướng dẫn sử dụng các thiết lập đã được cập nhật thêm chức năng. Chu kỳ phát triển 4.8 là lần đầu tiên sử dụng các chiến lược phát hành mới được hình thành sau khi "Xfce Release and Development Model" phát triển tại hội nghị Ubuntu Desktop Summit vào tháng 5/2009. Một ứng dụng web được sử dụng để làm cho phiên bản quản lý dễ dàng hơn, và một máy chủ chuyên dụng Transifex đã được thiết lập cho người dịch Xfce. Các dự án hạ tầng máy chủ và phản ánh được cũng nâng cấp, Mostly để đối phó với nhu cầu dự đoán sau thông báo phát hành cho 4.8. Các ứng dụng. Xfce cung cấp một khuôn khổ phát triển cho các ứng dụng. Nhiều hơn chính Xfce, có những chương trình bên thứ ba mà sử dụng các thư viện Xfce, đáng chú ý nhất là trình soạn thảo văn bản Mousepad, lịch Orage và Terminal. Một trong các dịch vụ cung cấp cho các ứng dụng của khuôn khổ là một biểu ngữ màu đỏ trên đầu trang của cửa sổ ứng dụng đang chạy với quyền root cảnh báo người dùng rằng họ có thể gây tổn hại các tập tin hệ thống.. Các thành phần Xfce khác bao gồm: Mousepad. Mousepad, dựa trên trình soạn thảo văn bản Leafpad, là trình soạn thảo văn bản mặc định của Xfce và được phát triển bởi Erik Harrison và Nick Schermer. Ban đầu nó được phát triển để cung cấp hỗ trợ in ấn, Leafpad không có tính năng đó vào thời điểm này. Đã có không có bản phát hành mới của Mousepad trong vòng hai năm gần đấy và bây giờ leafpad có hỗ trợ in ấn. Orage. Bắt đầu với phiên bản 4.4, Xfcalendar được đổi tên thành Orage và một số tính năng được thêm vào. Orage có hệ thống chuông và sử dụng định dạng iCalendar, làm cho nó tương thích với các ứng dụng lịch khác. Nó cũng bao gồm một plugin bảng đồng hồ và đồng hồ một đơn quốc tế có khả năng đồng thời hiển thị đồng hồ từ các múi giờ khác nhau. Parole. Parole là một trình nghe nhạc dựa trên nền tảng GStreamer. Nó được phát triển bởi Ali Abdallah và là một phần của Xfce Goodies. Ban đầu là chỉ danh sách chơi dựa, nhưng bây giờ bao gồm một tùy chọn để thay thế các danh sách nhạc toàn bộ khi mở một tập tin để chơi. Thunar. Thunar là trình quản lý tệp tin mặc định cho Xfce, thay thế Xffm. Nó giống như Nautilus của GNOMEđược thiết kế cho các máy có tốc độ chậm và thiếu bộ nhớ cũng như tùy biến cao thông qua các plugin. Xfce cũng có một công cụ quản lý lưu trữ nhẹ được gọi là Xarchiver, nhưng điều này không phải là một phần của lõi Xfce 4.4.0. Gần đây, "Squeeze" đã được bắt đầu như là một trình quản lý lưu trữ được thiết kế để tích hợp tốt hơn vào máy tính để bàn Xfce, mặc dù không có thêm Cập Nhật nào được phát hành từ 24/3/2009, các chi nhánh git phát triển cho cả hai squeeze và xarchiver cập nhật và tính năng phong phú hơn so với bản phát hành ổn định cuối cùng. Xfwm. Bắt đầu với phiên bản 4.2, Xfwm tích hợp "trình quản lý kép" của riêng nó.
29
72
1,572
1311201
38264
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311201
Vận động viên
Vận động viên hay còn gọi là lực sĩ là những người được đào tạo để thi đấu các môn thể thao đòi hỏi phải có sức mạnh, dai sức và nhanh nhẹn. Vận động viên có thể là người thi đấu thể thao chuyên nghiệp, nghiệp dư hay bán chuyên nghiệp. Phần lớn các vận động viên chuyên nghiệp có thể hình cân đối có được nhờ một quá trình tập luyện lâu dài kèm theo một chế độ dinh dưỡng nghiêm ngặt.
2
3
84
1311229
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311229
Địa lý Khánh Hòa
Khánh Hòa là một tỉnh ven biển Nam Trung Bộ Việt Nam, đa số diện tích mặt đất là núi non xen kẽ là các đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Cũng vì điều đó mà Khánh Hòa được ưu đãi có những đầm phá, vịnh rộng lớn và các bãi biển đẹp. Địa lý tự nhiên. Vị trí địa lý. Tỉnh Khánh Hòa ở về phía khu vực duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam, phía Bắc giáp ba huyện Sông Hinh, Đông Hòa và Tây Hòa của tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp hai huyện M'Drắk và Krông Bông của tỉnh Đắk Lắk, phía Nam giáp huyện Bác Ái và Thuận Bắc của tỉnh Ninh Thuận, phía Tây Nam giáp huyện Lạc Dương của tỉnh Lâm Đồng, phía Đông giáp Biển Đông. Tỉnh lỵ của Khánh Hòa là thành phố Nha Trang, cách Thành phố Hồ Chí Minh 447 km và cách thủ đô Hà Nội 1.278 km đường bộ. Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.217,6 km². Phần đất liền của tỉnh nằm kéo dài từ tọa độ địa lý 12°52’15" đến 11°42’50" vĩ độ Bắc và từ 108°40’33" đến 109°27’55" kinh độ Đông. Điểm cực Đông trên đất liền của Khánh Hòa nằm tại Mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh và cũng là điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam. Chiều dài vào khoảng 150 km, chiều ngang chỗ rộng nhất vào khoảng 90 km. Địa hình. Là một tỉnh nằm sát dãy núi Trường Sơn, đa số diện tích Khánh Hòa là núi non, miền đồng bằng rất hẹp, chỉ khoảng 400  km², chiếm chưa đến 1/10 diện tích toàn tỉnh. Miền đồng bằng lại bị chia thành từng ô, cách ngăn bởi những dãy núi ăn ra biển. Do đó để đi suốt dọc tỉnh phải đi qua rất nhiều đèo như đèo Cả, đèo Cổ Mã, đèo Chín Cụm, đèo Bánh Ít, đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì. Vùng núi và bán sơn địa. Khánh Hòa là một tỉnh có địa hình tương đối cao ở Việt Nam, độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng 60  m. Núi ở Khánh Hòa tuy hiếm những đỉnh cao chót vót, phần lớn chỉ trên dưới một ngàn mét nhưng gắn với dãy Trường Sơn, lại là phần cuối phía cực Nam nên địa hình núi khá đa dạng. Phía Bắc và Tây Bắc tỉnh có vùng núi cao thuộc dãy Vọng Phu cao hơn 1000  m, trong đó có dãy Tam Phong gồm ba đỉnh núi cao là Hòn Giữ (cao 1264  m), Hòn Ngang (1128  m) và Hòn Giúp (1127  m). Dãy Vọng Phu - Tam Phong có hướng tây nam - đông bắc, kéo dài trên 60 km, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Đắk Lắk. Các núi thuộc đoạn giữa của tỉnh thường có độ cao kém hơn, có nhiều nhánh đâm ra sát biển tạo nên nhiều cảnh đẹp, gắn với những huyền thoại dân gian và di tích lịch sử, sự kiện của địa phương. Đến phía nam và tây nam, lại xuất hiện một vùng núi rộng, với nhiều đỉnh núi cao trên 1500  m đến trên 2000  m, trong đó có Đỉnh Hòn Giao (2062  m) thuộc địa phận huyện Khánh Vĩnh, là đỉnh núi cao nhất Khánh Hòa. Do có nhiều núi cao, mật độ chia cắt lớn bởi khe, suối, sông tạo thành nhiều hẻm, vực, thung lũng sâu, gây khó khăn cho giao thông. Ngoài ra, khu vực này còn có thung lũng Ô Kha, được biết đến là một vùng nguy hiểm cho hàng không. Đồng bằng. Đồng bằng ở Khánh Hòa nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi các dãy núi đâm ra biển. Chẳng những thế, địa hình rừng núi của tỉnh không thuận lợi cho quá trình lắng đọng phù sa, nên nhìn chung Khánh Hòa không phải là nơi thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Các đồng bằng lớn ở Khánh Hòa gồm có đồng bằng Nha Trang - Diên Khánh nằm ở hai bên sông Cái với diện tích 135  km²; đồng bằng Ninh Hòa do sông Dinh bồi đắp, có diện tích 100  km². Cả hai đồng bằng này đều được cấu tạo từ đất phù sa cũ và mới, nhiều nơi pha lẫn sỏi cát hoặc đất cát ven biển. Ngoài ra, Khánh Hòa còn có hai vùng đồng bằng hẹp là đồng bằng Vạn Ninh và đồng bằng Cam Ranh ở ven biển, cùng với lượng diện tích canh tác nhỏ ở vùng thung lũng của hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh. Bờ biển và biển ven bờ. Khánh Hòa là một trong những tỉnh có đường bờ biển đẹp của Việt Nam. Đường bờ biển kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối vịnh Cam Ranh, có độ dài khoảng 385 km tính theo mép nước với nhiều cửa lạch, đầm, vịnh, cùng khoảng 200 đảo lớn, nhỏ ven bờ. Khánh Hòa có sáu đầm và vịnh lớn, đó là Đại Lãnh, vịnh Vân Phong, Hòn Khói, đầm Nha Phu, vịnh Nha Trang (Cù Huân) và vịnh Cam Ranh. Trong đó có nổi bật nhất vịnh Cam Ranh với chiều dài 16 km, chiều rộng 32 km, thông với biển thông qua eo biển rộng 1,6 km, có độ sâu từ 18-20  m, và thường được xem là cảng biển có điều kiện tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á, trước đây được sử dụng làm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ rồi Liên Xô (sau này là Nga) nhưng về sau được chuyển thành cảng dân sự. Thềm lục địa tỉnh Khánh Hòa rất hẹp. Địa hình vùng thềm lục địa phản ánh sự tiếp nối của cấu trúc địa hình trên đất liền. Các nhánh núi Trường Sơn đâm ra biển trong quá khứ địa chất như dãy Phước Hà Sơn, núi Hòn Khô, dãy Hoàng Ngưu không chỉ dừng lại ở bờ biển để tạo thành các mũi Hòn Thị, mũi Khe Gà (Con Rùa), mũi Đông Ba... mà còn tiếp tục phát triển rất xa về phía biển mà ngày nay đã bị nước biển phủ kín. Vì vậy, dưới đáy biển phần thềm lục địa cũng có những dãy núi ngầm mà các đỉnh cao của nó nhô lên khỏi mặt nước hình thành các hòn đảo như hòn Tre, hòn Miếu, hòn Mun... Xen giữa các đái đảo nổi, đảo ngầm là những vùng trũng tương đối bằng phẳng gọi là các đồng bằng biển, đó chính là đáy các vũng, vịnh như vịnh Vân Phong, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh. Ngoài các đảo đá ven bờ, Khánh Hoà còn có các đảo san hô ở huyện đảo Trường Sa, với khoảng 100 đảo bãi cạn, bãi ngầm rải rác trên một diện tích từ 160 đến 180 ngàn km², trong đó có từ 23 đến 25 đảo, bãi cạn nổi thường xuyên, với tổng diện tích 10 km². Đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa là Ba Bình chỉ rộng 0,65 km². Bãi lớn nhất là bãi Thuyền Chài, dài 30 km; rộng 5 km (ngập nước khi triều lên). Địa hình trên bề mặt các đảo rất đơn giản, chỉ là những mõm đá, vách đá vôi san hô, cao vài ba mét. Sông ngòi. Sông ngòi ở Khánh Hòa nhìn chung ngắn và dốc, cả tỉnh có khoảng 40 con sông dài từ 10 km trở lên, tạo thành một mạng lưới sông phân bố khá dày. Hầu hết, các con sông đều bắt nguồn tại vùng núi phía Tây trong tỉnh và chảy xuống biển phía Đông. Dọc bờ biển, cứ khoảng 5–7 km có một cửa sông. Mặc dù hướng chảy cơ bản của các sông là hướng Tây - Đông, nhưng tùy theo hướng của mạch núi kiến tạo hoặc do địa hình cục bộ, dòng sông có thể uốn lượn theo các hướng khác nhau trước khi đổ ra Biển Đông. Đặc biệt là sông Tô Hạp, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Khánh Sơn, chảy qua các xã Sơn Trung, Sơn Bình, Sơn Hiệp, Sơn Lâm, Thành Sơn rồi chảy về phía Ninh Thuận. Đây là con sông duy nhất của tỉnh chảy ngược dòng về phía Tây. Hai con sông lớn nhất tỉnh là Sông Cái (Nha Trang) và sông Dinh. Địa chất. Cấu tạo địa chất của Khánh Hòa chủ yếu là đá granit và ryolit, dacit có nguồn gốc mác ma xâm nhập hoặc phún trào kiểu mới. Ngoài ra còn có các loại sa thạch, đá trầm tích ở một số nơi. Về địa hình kiến tạo, phần đất của tỉnh Khánh Hòa đã được hình thành từ rất sớm, là một bộ phận thuộc rìa phía Đông-Nam của địa khối cổ Kom Tom, được nổi lên khỏi mặt nước biển từ đại Cổ sinh, cách đây khoảng 570 triệu năm. Trong đại Trung sinh có 2 chu kỳ tạo sản inđôxi và kimêri có ảnh hưởng một phần đến Khánh Hòa. Do quá trình phong hóa vật lý, hóa học diễn ra trên nền đá granit, ryolit đã tạo thành những hình dáng độc đáo, đa dạng và phong phú, góp phần làm cho thiên nhiên Khánh Hòa có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng. Khí hậu. Khánh Hòa là một tỉnh ở vùng duyên hải cực Nam Trung Bộ, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa. Song khí hậu Khánh Hòa có những nét biến dạng độc đáo với các đặc điểm riêng biệt. So với các tỉnh, thành phía Bắc từ Đèo Cả trở ra và phía Nam từ Ghềnh Đá Bạc trở vào, khí hậu ở Khánh Hòa tương đối ôn hòa hơn do mang tính chất của khí hậu đại dương. Thường chỉ có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50% lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2.600 giờ nắng. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Khánh Hòa cao khoảng 26,7 °C riêng trên đỉnh núi Hòn Bà (cách Nha Trang 30 km đường chim bay) có khí hậu như Đà Lạt và Sa Pa. Độ ẩm tương đối khoảng 80,5%. Từ tháng 1 đến tháng 8, có thể coi là mùa khô, thời tiết thay đổi dần. Những tháng đầu mùa, trời mát, nhiệt độ từ 17-25 °C, nhưng từ tháng 5 đến tháng 8 trời nóng nực, nhiệt độ có thể lên tới 34 °C (ở Nha Trang) và 37-38 °C (ở Cam Ranh). Tháng 9 đến tháng 12, được xem như mùa mưa, nhiệt độ thay đổi từ 20-27 °C (ở Nha Trang) và 20-26 °C (ở Cam Ranh). Khánh Hòa là vùng ít gió bão, tần số bão đổ bộ vào Khánh Hòa thấp chỉ có khoảng 0,82 cơn bão/năm so với 3,74 cơn bão/năm đổ bộ vào bờ biển Việt Nam. Các trận bão được dự đoán sẽ đổ bộ vào Khánh Hòa trong những năm gần đây thường lệch hướng vào Nam hoặc tan ngay khi gần vào bờ. Tuy vậy, do địa hình sông suối có độ dốc cao nên khi có bão kèm theo mưa lớn, làm nước dâng cao nhanh chóng, trong khi đó sóng bão và triều dâng lại cản đường nước rút ra biển, nên thường gây ra lũ lụt.
24
69
1,953
1311241
708383
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311241
Michalovce
Michalovce (; , , tiếng Romani: Mihalya, tiếng Yiddish: Mikhaylovets hoặc Mykhaylovyts) là một thị xã bên sông Laborec ở phía đông Slovakia, với dân số khoảng 40.000 người. Nó là đô thị lớn nhất của quận Michalovce (okres) ở khu vực Košice. Thị xã nằm trong khu vực Košice, trong vùng đất thấp bên sông Laborec Đông, trong lịch sử thuộc quận Zemplén. Thị xã có cự ly khoảng 48 km về phía đông của Košice và 30 km về phía tây của Uzhhorod, Ukraina. Đặc điểm địa lý gần đó bao gồm các dãy núi Vihorlat và Zemplínska šírava hồ. Lịch sử. Khu định cư đầu tiên được biết đến trong khu vực xung quanh Michalovce trong thời kỳ đồ đá mới. Người Xlavơ đến trong khu vực trong thế kỷ thứ năm . Khu vực là một phần của đế chế Moravia trong thế kỷ thứ chín. Michalovce là nơi huyền thoại về cái chết của Laborec. Từ thế kỷ thứ mười trở đi, khu vực đã là một phần của Hungary. Sau cuộc chinh phục bởi Ottoman ở phía nam miền trung Hungary vào thế kỷ XVI, Hungary bị chia cắt, và Michalovce ngày nay đã trở thành một phần của vương quốc Hungary Đông, và sau đó Hoàng gia Hungary. Thị trấn đã tăng trưởng đáng kể trong thế kỷ XVIII và XIX và kể từ khi Ausgleich Áo-Hungary năm 1867, nó đạt được một tư cách của một cộng đồng lớn và ngay sau đó đã trở thành thủ phủ của một trong các quận hạt Zemplén. Sau chiến tranh thế giới thứ I, năm 1918 (xác nhận bởi Hiệp ước Trianon vào năm 1920), Michalovce, cùng với một số bộ phận khác của hạt Zemplén, đã trở thành một phần của Tiệp Khắc sau đó thành lập. Năm 1944, 3500 cư dân Do Thái bị trục xuất khỏi Michalovce. Từ năm 1993, sự khi tách khỏi Tiệp Khắc, Michalovce là một phần của Slovakia. Năm 1996, thị xã đã được chọn làm thủ phủ quận Michalovce. Nhân khẩu. Năm 1910, Michalovce có 6.120 cư dân, gồm có 3.792 người Hungary, 1586 người Slovak và 542 người Đức. Cơ cấu tôn giáo có 38,6% Công giáo La Mã, người Do Thái 32,3% và 23,2% của Hy Lạp Công giáo. Theo điều tra dân số năm 2001, thị xã có 39.948 dân cư. 94,57% số dân là người Slovak, người Roma 2,24%,% 0,73% người Séc và 0,47% người Ukraina. Thành phần tôn giáo là 53,92% Công giáo La Mã, 19,65% người Công giáo Hy Lạp, người không theo tôn giáo và Chính thống giáo 5,19% 9,73%.
8
23
441
1311258
859204
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311258
Xếp loại sân vận động UEFA
Tổ chức "Quy chuẩn Cơ sở hạ tầng Sân vận động" (Stadium Infrastructure Regulations) của UEFA đã phân loại các sân bóng đá thành bốn loại từ hạng một đến hạng bốn tăng dần theo chất lượng của sân. Kẻ từ năm 2006, cách đánh giá này đã thay thế phương pháp xếp loại sân vận động từ một đến năm sao có trước đó. Các sân vận động phải được xếp hạng bốn nếu muốn đăng cai các trận đấu playoff trong khuôn khổ vòng loại UEFA Champions League hoặc bất cứ trận đấu nào trong trận đấu chính. Điều kiên tương tự cũng được đặt ra cho sân vận động nào muốn đăng cai các trận cầu trong giải đấu chính của UEFA Europa League hoặc Giải vô địch bóng đá châu Âu.
1
4
135
1311287
70907439
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311287
Nguyễn Cường
Nguyễn Cường (sinh năm 1943), là một nhạc sĩ của Việt Nam. Ông là một người nặng lòng với vùng đất Tây Nguyên, có nhiều ca khúc viết về Tây Nguyên, tuy nhiên ông vốn là một chàng trai gốc Hà Nội. Tiểu sử. Gia đình. Nguyễn Cường sinh năm 1943 trong một gia đình gốc trung lưu ở phố Hàng Bạc, Hà Nội. Cha ông, cụ Nguyễn Quang Hộ, quê gốc ở Phú Xuyên, Hà Tây cũ, nhưng sinh năm 1910 tại Hà Nội. Thời Pháp thuộc, cha ông là phi công hãng Air France, đã tử nạn trên một chuyến bay dân dụng vì đâm vào núi ở Sơn Trà năm 1953. Mẹ ông, cụ Nguyễn Thị Nhung sinh năm 1920, gia đình nhà ngoại đã có năm đời sống ở Hà Nội. Từ khi cha ông tử nạn máy bay năm 1953 đến nay, mẹ ông vẫn hưởng lương trợ cấp ở Pháp gửi về, đều đặn khoảng hơn 1.000 euro mỗi tháng.. Ông còn 1 em trai, 3 em gái . Em gái thứ ba của ông, Thu Hằng là vợ nhà sử học Dương Trung Quốc. Em gái thứ hai của ông là Nguyễn Thị Minh Tâm. Sự nghiệp. Năm 16 tuổi, ông thi vào trường Trung cấp Âm nhạc Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam - Nhạc viện Hà Nội) để học về Violoncelle. Học được vài tuần, thì gia đình ông bị tịch thu gia sản vì diện "gia đình tư sản", ông bị cắt học bổng và phải sống nhờ bằng suất cơm của người bạn cùng trường . Sau khi tốt nghiệp năm 1965, ông được phân công về Đoàn Ca múa Tây Nguyên (nay là Đoàn Ca múa Đam San), lúc đó đóng tại Hà Nội và ở lại đó hai năm (1965-1967). Từ năm 1967, ông chuyển về công tác tại phòng Giáo dục chính trị Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tháng 5 năm 1980, sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, và sau khi tốt nghiệp khoa Sáng tác Nhạc viện Hà Nội, ông và nhạc sĩ Trần Tiến và một số nhạc sỹ đã được Đoàn Ca múa Đăk Lăk mời về sáng tác . Từ lần đầu tiên đến Tây Nguyên này, ông đã bị cuốn hút vì cái nắng cái gió, cà phê, vì thiên nhiên và con người Tây Nguyên, nên từ đó bắt đầu cho những sáng tác về Tây Nguyên của ông sau này. Ấn tượng mạnh mẽ nhất trong ông lúc ấy là được nghe người dân đánh chiêng trong một đêm uống rượu cần. Tiếng chiêng ấy đã tạo cho ông cảm xúc để viết bài hát "Nhịp chiêng buôn Kơ Siar".. Tuy nhiên, một trong những bài hát về Tây Nguyên đầu tiên của ông, "H'Ren lên rẫy" (hay là "H'Zen lên rẫy"), lúc đầu lại bị một lãnh đạo văn hóa "quy vào tội khủng khiếp là: "Sai đường lối của Đảng"".,tuyền truyền chống phá nhà nước Ông được xem là người đã ứng dụng khá thành công chất liệu âm nhạc Tây Nguyên vào ca khúc của mình, mặc dù ông không dùng từ "Tây Nguyên" trong bất cứ tác phẩm nào. Mỗi khi ông đến Tây Nguyên thì lại có cảm xúc để viết ca khúc mới, nhiều khi là sáng tác ngẫu hứng tại chỗ. Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2007 vì các ca khúc "Hò biển" (1974), "H'Zen lên rẫy" (1981), "Một nét ca trù ngày xuân" (1984), "Em muốn sống bên anh trọn đời" (1989), "Đôi mắt Pleiku" (1994) cũng như nhiều giải thưởng của Hội Nhạc sĩ về mảng ca khúc. Ngoài ra ông còn dàn dựng các chương trình biểu diễn cho các đoàn ca múa chuyên nghiệp như Đoàn Ca Múa Đak Lak, Nhà hát Tuổi trẻ... Năm 1987, ông chuyển về Trung tâm Phương pháp Câu lạc bộ Trung ương làm việc cho đến nay. Năm 2009, ông đã bắt tay vào việc thực hiện ý tưởng là viết một hợp xướng để hát với trống đồng, và ra đời "Ngàn năm Thăng Long nổi trống Lạc Hồng" - một hợp xướng cần tới hàng ngàn nghệ sĩ theo hình thức Acapella không có dàn nhạc đệm, mà biểu diễn trên 100 trống đồng của các nghệ nhân Thanh Hóa đúc tặng Thủ đô Hà Nội nhân sự kiện "Nghìn năm Thăng Long". Từ đó hoàn thành bản hợp xướng "Ngàn năm Thăng Long - Nổi trống Lạc Hồng", đoạt giải thưởng Bùi Xuân Phái năm 2010 Ông trăn trở: Tác phẩm. Bao nhiêu năm qua, Nguyễn Cường đã cho ra đời khoảng 100 tác phẩm ca khúc và khí nhạc... Một số sáng tác của ông:
17
26
801
1311616
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311616
Freedesktop.org
Freedesktop.org (fd.o) là một dự án làm việc trên các cơ sở khả năng tương tác và chia sẻ công nghệ cho các phần mềm môi trường desktop miễn phí cho hệ thống X Window (X11) trên Linux và các hệ điều hành tương tự Unix. Nó được thành lập bởi Havoc Pennington từ Red Hat vào tháng 3 năm 2000. Các máy chủ của dự án được lưu trữ bởi Portland State University, do đó được tài trợ bởi HP, Intel và Google. Dự án tập trung vào người sử dụng. Có rất nhiều framework phát triển cho X, và điều này là không thay đổi. Dự án tìm cách bảo đảm rằng những khác biệt trong khuôn khổ phát triển không sử dụng có thể nhìn thấy. Những dự án sử dụng rộng rãi phần mềm miễn phí X cho desktop như GNOME, KDE và Xfce đang cộng tác với dự án freedesktop.org. Năm 2006, dự án phát hành Portland 1.0 (xdg-utils), một tập hợp các giao diện chung cho các môi trường desktop. freedesktop.org trước đây được biết như là X Desktop Group, và từ viết tắt "XDG" vẫn còn phổ biến trong công việc của họ. Theo một bài viết vào tháng 10 năm 2018 được xuất bản bởi Phoronix, freedesktop.org sẽ chính thức gia nhập X.Org Foundation. Các dự án đang lưu trữ. freedesktop.org cung cấp lưu trữ cho một số dự án có liên quan. Chúng bao gồm: Ngoài ra, Avahi (một triển khai Zeroconf miễn phí) bắt đầu như là một dự án fd.o nhưng đã di chuyển đến nơi khác. Mục tiêu tuyên bố. Mục đích của dự án không phải là để làm luật tiêu chuẩn chính thức. Thay vào đó, nó nhằm mục đích để nắm bắt các vấn đề khả năng tương tác nhiều trước đó trong quá trình này.
10
16
311
1311706
658556
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311706
Thái Ung
Thái Ung (chữ Hán: 蔡邕; 133-192), cũng gọi Sái Ung, biểu tự Bá Giai (伯喈), là một danh sĩ trứ danh vào cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông được biết đến không chỉ là một danh sĩ đương thời mà còn là phụ thân của nữ sĩ Thái Diễm (Thái Văn Cơ). Thời Hán Hoàn Đế. Thái Ung người quận Trần Lưu (nay là huyện Kỷ, Hà Nam, Trung Quốc), tổ Thái Huề (蔡攜), tự "Thúc Nghiệp" (叔業), cha là Thái Lăng (蔡棱), tự "Bá Trực" (伯直), mẹ Viên thị là em gái của Tư đồ Viên Bàng (袁滂). Thời trẻ Thái Ung thờ mẹ có hiếu. Sau khi mẹ qua đời, sống với chú và em họ. Lòng hiếu thảo của ông được mọi người khen ngợi. Thái Ung có tài học rộng, theo thụ giáo thầy Thái phó Hồ Quảng học kinh thuật và từ chương, thiên văn, âm luật, trở nên nổi tiếng về học thuật của mình. Thời Hán Hoàn Đế, các hoạn quan Từ Hoàng, Tả Tá chuyên quyền. Nghe nói Thái Ung giỏi đánh đàn, họ bèn tâu lên Hán Hoàn Đế. Hoàn Đế bèn lệnh cho Thái thú quận Trần Lưu đốc thúc ông về Lạc Dương. Thái Ung không muốn làm quan nhưng không thể từ chối, đành phải lên đường. Do dọc đường trèo đèo lội suối vất vả, đi tới Yển Sư, ông cáo ốm và quay về. Thời Hán Linh Đế. Sửa Lục kinh. Năm 170 thời Hán Linh Đế, Thái Ung lại được triệu vào cung làm việc cùng Từ đồ Kiều Huyền, được Kiều Huyền trọng dụng. Ít lâu sau ông được phong làm Hà Nam bình trưởng, Triệu bái lang trung, Hiệu thư Đông Quán, rồi thăng làm Nghị lang. Tại Đông Quán có nhiều sách vở của triều đình, Thái Ung có điều kiện tiếp cận. Ung nhận thấy sách trong Đông Quán có nhiều sai sót do người đời trước có sự kiến giải khiên cưỡng gây hiểu lầm cho người sau, vì vậy ông muốn đính chính lại. Năm 175, cùng các đại thần Đường Khê, Mã Nhật Đê, Trương Thuần, Hàn Thuyết, Đan Lậu tâu lên Hán Linh Đế đề nghị đính chính lại văn tự "Lục kinh". Linh Đế ưng thuận. Thái Ung cùng các cộng sự kiên trì rà soát và điều chỉnh lại kinh sách, cuối cùng ra được văn bản chính thức để. Ung tự tay viết lên bia đá, mời thợ giỏi về khắc chữ. Công trình hoàn thành, các tấm bia đá được dựng ngoài cổng nhà Thái học. Nhiều kẻ sĩ các nơi tới xem và sao chép, có tới hàng ngàn cỗ xe đến làm đường phố kinh thành tắc nghẽn. Các bản kiến nghị. Thời Đông Hán thực hiện chế độ Tam hỗ, nghĩa là hai nhà thông gia của hai châu không được làm quan tại nơi cư trú của nhau. Do các nhà thế tộc có nhiều quan hệ họ hàng nên quy định này gây khó khăn cho việc bổ nhiệm quan chức, khiến một số nơi như U châu và Ký châu không đủ quan lại. Thấy tình trạng đó, Thái Ung bèn làm sớ kiến nghị Hán Linh Đế bỏ chế độ Tam hỗ. Nhưng Hán Linh Đế không chấp thuận. Ít lâu sau ông lại dâng lên Hán Linh Đế một kiến nghị khác để cải thiện tình hình chính trị đang xuống dốc khi đó. Kiến nghị của ông có 7 điểm: Kiến nghị của Thái Ung thống thiết dài vài ngàn chữ, được Linh Đế coi trọng. Linh Đế chuyển những người giúp việc cho Thái tử không có thực tài sang làm thái tử xá nhân vu úy - chức nhỏ ở địa phương. Vì việc này, nhiều người bị động chạm quyền lợi nên thù hằn Ung. Năm 176, có nhiều điềm tai dị xảy ra, khiến vua Linh Đế lo lắng. Thời đó những điềm tai dị được xem là có liên hệ tới việc chính trị. Vì vậy, Linh Đế triệu Ung cùng các đại thần Mã Nhật Đê, Dương Tứ, Trường Hoa, Đan Cấu cùng hoạn quan Tào Tiết, Vương Phủ vào hỏi nguyên nhân. Linh Đế ban đặc chiếu cho ông, đề nghị kiến giải những chuyện tai dị vì ông là người có học thức sâu rộng. Thái Ung cảm động, tự mình soạn một bản tấu, thẳng thắn vạch ra những điểm chưa tốt của nền chính trị lúc đó, ông cho rằng do xây cất cung thất quá nhiều gây tốn kém, có nhiều tiểu nhân đắc chí làm quan lớn, tham nhũng nhiều; nên ông đề nghị bãi miễn những người này, bổ nhiệm người tài đức. Bị trả thù. Thái Ung biết bản kiến nghị của mình đụng chạm tới nhiều người, nên ông đề nghị Linh Đế giữ kín. Linh Đế xem xong thở dài, khiến hoạn quan Tào Tiết hầu cận để ý. Nhân lúc Linh Đế đi thay áo, Tào Tiết xem trộm rồi nói lại với những người cùng phe cánh. Do đó trong triều càng thêm nhiều người thù ghét Thái Ung. Dương Cầu thù oán ông bèn chủ mưu cùng các hoạn quan làm hại ông. Ít lâu sau, hoạn quan Trình Hoàng sai người trình bản tấu kể tội Thái Ung đang có ý định cùng chú là Thái Chất muốn trả thù tư đồ Lưu Lân vì nhờ một việc riêng tư không được. Thái Ung dâng biểu phân trần nhưng không được chấp nhận, ông bị tống giam vì "kết oán với người làm việc công, hãm hại đại thần", chuẩn bị mang xử tử. Việc khép tội Thái Ung khiến nhiều người không phục. Trung thường thị Lã Cường tâu Hán Linh Đế rằng Thái Ung vô tội và xin tha cho ông. Linh Đế xem lại án nhưng chỉ tha cho ông tội chết nhưng vẫn đày ông đi Sóc Phương ở biên cương phía bắc, vĩnh viễn không cho trở về. Dương Cầu chủ mưu giết ông, bèn thuê thích khách đuổi theo để giết ông. Nhưng thích khách biết ông là người thẳng thắn chính trực nên không cam tâm hạ thủ. Dương Cầu thấy ý định không thành bèn hối lộ cho quan địa phương nhờ hãm hại ông, nhưng viên quan này cũng không làm theo, báo cho ông biết để đề phòng. Do được những người ngay thẳng giúp đỡ, Thái Ung giữ được tính mạng, đến sống tại An Dương, Sóc Phương. Một thời gian sau, Thái Ung dâng thư lên Hán Linh Đế xin được trở về quê để viết nốt sách Hậu Hán ký mà trước đây khi ở Đông Quán ông đang cùng Lư Thực, Hàn Thuyết soạn chưa xong. Linh Đế thấy ông có tài, bèn nhân kỳ đại xá năm 177 cho ông được trở về quê. Thái thú Vương Trí thấy ông được tha bèn bày tiệc đãi ông. Vương Trí vốn là em trai hoạn quan Vương Phủ trong triều, ngày thường kiêu ngạo, vì vậy Thái Ung coi thường. Vương Trí tức giận quát mắng Thái Ung, ông liền phẩy tay áo bỏ về. Vương Trí bèn viết thư về triều nói rằng Thái Ung bất mãn trong lúc bị lưu đày, thường phỉ báng triều đình. Thái Ung biết mình đã gây thù oán với nhiều đại thần trong triều, không thể dâng thư biện bạch mà vẫn có thể bị bức hại, nên ông không trở về quê nữa mà đi sang vùng Ngô Việt (Triết Giang). Cuộc sống lưu lạc của Thái Ung kéo dài 12 năm. Thời Hán Hiến Đế. Năm 189, Hán Linh Đế mất, con là Hán Thiếu Đế lên thay. Đổng Trác vào triều cầm quyền, phế Thiếu Đế lập Hiến Đế. Để thu phục nhân tâm, Đổng Trác cho gọi Thái Ung về kinh phong chức. Thái Ung bị hại nhiều lần trên quan trường nên dâng sớ cáo ốm. Đổng Trác nổi giận hạ lệnh sẽ tru di cả họ Thái Ung, ép ông phải trở về. Thái Ung bèn trở về Lạc Dương. Đổng Trác rất quý trọng Thái Ung, chỉ trong 3 ngày đã phong ông làm các chức Tế tửu, Thị ngự sử, Thượng thư, rồi Thị trung. Sang năm 190, chư hầu do Viên Thiệu cầm đầu nổi lên thảo phạt Đổng Trác vì tội giết vua Thiếu Đế. Cùng lúc, thủ hạ của Đổng Trác muốn tôn Trác làm Thượng phụ. Đổng Trác bèn hỏi Thái Ung. Ông khuyên Đổng Trác chưa nên xưng hiệu vì thiên hạ đang rối ren không phục. Đổng Trác nghe theo ông. Thái Ung biết Đổng Trác trọng dụng ông, nhưng họ Đổng tàn bạo chuyên quyền, mất lòng người, ông sẽ bị liên lụy khi Đổng Trác diệt vong. Vì vậy ông định bỏ trốn đến Ký châu. Nhưng em ông là Thái Cốc khuyên rằng ông có tướng mạo khác thường, rất dễ bị nhận diện. Vì vậy Thái Ung bèn thôi ý định bỏ trốn. Đổng Trác bị chư hầu đánh bại phải mang triều đình bỏ chạy về Tràng An. Năm 192, Đổng Trác bị tư đồ Vương Doãn và tướng Lã Bố giết chết. Mọi người đều hả hê vì cái chết của Đổng Trác, riêng Thái Ung lại tỏ ra buồn bã. Tư đồ Vương Doãn bèn sai bắt Thái Ung trị tội. Thái úy Mã Nhật Đê thấy vậy vội nói với Vương Doãn rằng Thái Ung là người có tư cách và tài năng, nên để ông sống để viết nốt sử nhà Hán. Nhưng Vương Doãn không đồng tình, dẫn gương Tư Mã Thiên viết Sử ký phỉ báng triều đình, vì vậy quyết không tha cho Thái Ung. Ít lâu sau Thái Ung qua đời trong ngục. Ông là người sinh cùng năm và mất cùng năm với Đổng Trác, lúc đó 61 tuổi. Một người học trò của ông là Cố Ung về sau trở thành thừa tướng nước Đông Ngô thời Tam Quốc. Trong Tam Quốc diễn nghĩa. Thái Ung được nhắc tới trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung rất ngắn trong hồi 9. Cái chết của Thái Ung được đề cập khi ông chạy tới khóc bên xác Đổng Trác, do đó bị Vương Doãn bắt mang chém. Thái Ung xin được nhận hình phạt chặt chân để viết nốt sử nhà Hán nhưng không được Vương Doãn chấp nhận.
35
91
1,763
1311745
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311745
Xa lộ George Parks
Xa lộ George Parks (tiếng Anh: "George Parks Highway"), có mã số là Xa lộ Liên tiểu bang A-4 và Xa lộ Alaska 3 và thường được gọi đơn giản là Xa lộ Parks, có tổng chiều dài 323 dặm (520 km), bắt đầu từ Xa lộ Glenn khoảng 35 dặm (56 km) ở phía bắc thành phố Anchorage đến thành phố Fairbanks nằm trong Vùng nội Alaska. Xa lộ được biết với tên gọi ban đầu là Xa lộ Anchorage-Fairbanks được hoàn thành năm 1971, và được đặt tên như hiện tại vào năm 1975. Xa lộ, phần lớn chạy song song với Đường sắt Alaska, là một trong số những con lộ quan trọng nhất tại tiểu bang Alaska. Nó là con đường chính giữa thành phố Anchorage và thành phố Fairbanks (hai vùng đô thị lớn nhất của tiểu bang Alaska), là lối đi chính yếu đến Khu bảo tồn và Công viên Quốc Denali và Công viên Tiểu bang Denali, và là xa lộ chính trong Thung lũng Matanuska-Susitna. Có khái niệm chung sai lầm là cái tên "Xa lộ Parks" có được vì xa lộ này gần các công viên quốc gia và công viên tiểu bang Denali; thật ra xa lộ được đặt tên như thế để vinh danh George Alexander Parks, thống đốc của Lãnh thổ Alaska từ năm 1925 đến năm 1933. Các mốc dặm dọc theo Xa lộ Parks không bắt đầu bằng 0 (số không). Thay vào đó, chúng bắt đầu bằng Dặm số 35 (km số 56), tiếp theo mốc dặm của Xa lộ Glenn là nơi hai xa lộ giao cắt nhau gần Palmer. Mốc dặm 0 của Xa lộ Glenn nằm ở điểm đầu của nó tại phố chính thành phố Anchorage ở nơi giao cắt của Phố số 5 đông và Phố Gambell. Vì vậy các mốc dặm dọc theo Xa lộ Parks phản ánh chiều dài từ thành phố Anchorage chớ thật sự không phải là chiều dài của Xa lộ Parks. Có hai đoạn xa lộ được xây dựng theo chuẩn mực xa lộ cao tốc. Các đoạn này gồm có một đoạn gần nơi giao cắt của xa lộ với Xa lộ Glenn trong Palmer và một đoạn có tên gọi là Xa lộ cao tốc Mitchell trong thành phố Fairbanks dẫn đến nơi giao cắt của xa lộ với Xa lộ Richardson. Vấn đề gây tranh cãi. Cựu thống đốc Alaska Tony Knowles chỉ trích Sarah Palin vì ủng hộ xây Cầu Knik Arm, Cầu Đảo Gravina, và một con lộ nằm ở phía bắc bên ngoài thành phố Juneau thay vì xây dựng lại Xa lộ Parks. Tuy nhiên, Tờ nhật báo "Ketchikan Daily News" ghi nhận rằng, trong số các ứng cử viên thống đốc, "Chỉ có Palin là kiên định với lập trường ủng hộ tất cả các dự án".
7
14
481
1311767
822130
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311767
Trận Solicinium
Trận Solicinium là một trận đánh đẫm máu giữa Quân đội La Mã và người Alemanni vào năm 367 hoặc 368. Hai năm sau khi các tướng của ông đè bẹp quân xâm lấn Alemanni trong nhiều trận như ở Châlons, Hoàng đế La Mã là Valentinianus I lại xua quân vượt sông Rhine và tiến công quân Alemanni trên các sườn núi ở Solicinium - một địa điểm không được xác định rõ mà có thể là ở Baden. Trong một đợt giao tranh lẻ tẻ ban đầu, Hoàng đế có lúc suýt chết và bị mất chiếc mũ trụ của ông. Cuộc tấn công của các chiến binh La Mã gặp khó khăn lớn, nhưng mỗi bước tiến của họ đã gia tăng sĩ khí của họ và giảm dần sức kháng cự của người Alemanni, và cuối cùng, quân La Mã đã giành một thắng lợi lớn hơn cả chiến thắng Châlons trước đó. Khi tháo chạy, tàn quân Alemanni đã đụng phải một toán quân La Mã dưới quyền Sebastianus, và bị tiêu diệt. Chỉ một số người Alemanni trốn thoát khi đêm đến. Tuy nhiên, trận Solicinium là một chiến thắng đắt giá do quân La Mã đã hy sinh vài tướng sĩ tài ba. Sử cũ La Mã của Ammianus Marcellinus đã miêu tả tài nghệ của các chiến binh La Mã trong các đợt giao phong cũng như sự kiên cường của quân Alemanni. Dù quân Alemanni có vị trí phòng thủ thuận lợi, quân La Mã đã thắng nhờ khả năng kéo dài cuộc tấn công của họ. Sau chiến thắng vang dội, Valentinianus I không tiến sâu vào đất Đức mà rút khỏi sông Rhine về nghỉ đông ở Trier và tổ chức ăn mừng thắng lợi. Bối cảnh lịch sử. Sau khi Hoàng đế La Mã là Jovianus qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 364, quân tướng đã tôn Valentinianus I lên nối vị. Ông liên kết với em là Valens và làm chủ Đế quốc Tây La Mã. Vừa đến thủ đô Mediolanum, ông hay tin "các rợ" - được cổ vũ do sự suy sụp của Quân đội La Mã trong chiến dịch Ba Tư của Hoàng đế Julianus trước kia - đã tấn công từ mọi phía và cướp phá các tỉnh La Mã. Người Alemanni lần lượt xâm lấn xứ Gaule và Rhaetia mà không vấp phải kháng cự; họ đốt phá làng mạc và bắt cư dân về những khu rừng ở Đức trước khi tướng tá La Mã có thể đánh bại họ. Tháng 1 năm sau, quân Alemanni lại vượt sông Rhine đóng băng, giao tranh với hai Quân đoàn La Mã và dỡ bỏ cờ hiệu của hai Quân đoàn này. Thực chất, hai Quân đoàn này gồm một Quân đoàn người Heruli và một Quân đoàn người Batavi - khi ấy phần lớn quân La Mã là dân rợ. Các tướng lĩnh của Valentinianus I liên tiếp đánh thắng quân Alemanni ở gần Metz, trên sông Moselle và ở Châlons gần Champagne. Hoàng đế cũng thân hành thị sát các thị trấn Rheims, Amiens, Treves, Worm và Köln, và đẩy quân rợ vào thế thủ ở xứ Gaule. Cùng thời gian đó, theo bộ sử "Ammianus Marcellinus XXVI", nhân lúc cư dân vùng Mainz đã tổ chức nghi lễ Ki-tô giáo, chúa rợ Alemanni là Rando đã đột chiếm Maintz bắt hết nam nữ làm nô lệ và thu được nhiều chiến lợi phẩm. Vụ việc này làm ô uế thanh danh của Valentinianus I, và người La Mã đã báo thù bằng việc gửi sứ thần sang đút lót cho dân Alemanni khiến họ ám sát một vị chúa của họ là Vithicabius. Ngoài ra, Hoàng đế cũng quyết tâm thân chinh kéo toàn quân vượt sông Rhine tấn công người Alemanni để trả đũa trên danh nghĩa toàn đế quốc. Ông đến Trier vào ngày 13 tháng 10 năm 367 là trễ nhất, và ở đây cho đến đầu năm 368 thì phá trại để lên đường. Ammianus đã miêu tả quy mô lớn chưa từng thấy của cuộc chinh phạt cũng như sự tận tâm của Hoàng đế trong việc huy động và vũ trang cho đại quân. Qua sông Rhine, ông và con là đồng Hoàng đế trẻ tuổi Gratianus đã tiến vào lãnh thổ đối phương một cách thận trọng. Đoàn hùng binh của hai Hoàng đế được yểm trợ từ hai cánh bởi Jovinus và Severus - hai Trưởng quan Kỵ binh ở phía Tây. Ông cũng xuống lệnh cho Bá tước Sebastianus mang các đạo quân ở Ý và Illyricum tấn công quân rợ nhất là từ hướng Rhaetia. Tuy nhiên, người Alemanni chủ trương không đánh một trận, khiến các chiến binh La Mã nổi điên vì muốn băm nát quân rợ. Trong tuyệt vọng, lính La Mã đã đốt nhà cửa và đất trồng. Nhưng cuối cùng, do không thể ngăn cản quân La Mã tàn phá làng mạc, người Alemanni đã quyết định đụng độ với người La Mã ở một địa điểm gọi là Solicinium. Nơi này không được xác định, nhưng có thể là Sulz am Neckar hay Schwetzingen ở Baden ngày nay. Trong cuốn "A Global Chronology of Conflict: From the Ancient World to the Modern Middle East", tác giả Spencer Tucker cũng ghi nhận nơi đây là Sulz trên sông Neckar. Diễn biến. Quân Alemanni đóng cứ ở các sườn núi. Ngọn núi này cao ngất và gần như là không thể leo lên được. Các đạo quân La Mã đã hội quân, và các tướng lĩnh truyền lệnh cho ba quân, vốn đang hừng hực khí thế, chờ lệnh bố trận. Trước khi miêu tả trận đánh, Ammianus ngưng lại để kể rằng Valentinianus I ra lệnh cho Sebastianus phải dàn quân sau trận tuyến của quân Alemanni để tiêu diệt đối phương ngay khi họ tháo chạy. Khi duyệt binh, Hoàng đế đột ngột rời đi tìm phương cách tốt hơn, một con đường nào đó rộng mở không bị canh giữ, để chiếm được ngọn núi mà quân Alemanni đóng giữ. Ông ra quyết định này khi chưa hề tham vấn các võ tướng của mình, thành ra tai hại. Hoàng đế và các tùy tùng của ông bị đánh úp và bản thân ông thì thoát chết nhưng mất cái mũ trụ được trang hoàng bằng vàng và đá quý và được các cận vệ giữ cho ông. Các cận vệ này cũng biến mất trong cuộc chạm trán mà không để lại dấu tích gì. Theo cuốn "An universal history: from the earliest accounts to the present time", Phần 1, Tập 17, bất chấp lợi thế của quân Alemanni, các chiến binh La Mã đã tấn công quân rợ bằng lòng vô cùng dũng cảm. Theo sử gia Anh là Edward Gibbon, khi cuộc tổng tiến công bắt đầu, quân La Mã vây khắp và tiến lên ngọn núi từ ba hướng khác nhau. Dù một vài lần họ bị đánh bật, cứ mỗi bước tiến của các chiến binh La Mã đã gia tăng sĩ khí của họ và làm nhụt chí kháng cự của người Alemanni. Miêu tả của Ammianus về trận đánh là hỗn hợp của một loạt các yếu tố cục bộ như khả năng giao đấu của quân La Mã và sự táo bạo của quân Alemanni, ngoài ra còn một số chi tiết rất súc tích như vai trò quan trọng của hai Sĩ quan trẻ tuổi trong cuộc chiến đấu trên dốc. Cuối cùng, sau khi leo lên đồi với khó nhọc khủng khiếp, quân La Mã hợp lại và chiếm được đỉnh núi, quân Alemanni lâm vào hỗn loạn. Tàn quân Alemanni bắt đầu bỏ chạy và quân La Mã hăng hái dụ rợ xuống phía Bắc - nơi Bá tước Sebastianus và đạo quân hùng hậu đã được lệnh chờ sẵn. Đạo quân của ông đã tàn sát quân Alemanni trong biển máu, khiến cho quân Alemanni hoàn toàn tan rã. Một số người Alemanni đã trốn thoát khi màn đêm buông xuống, song do cuộc triệt thoái của họ bị Sebastianus cắt mất nên phần lớn đội quân của họ đã bị tiêu diệt. Trong sử cũ của mình, Marcellinus đã ghi rõ tên của hai Sĩ quan quả cảm cùng với quân tướng La Mã trận vong ở Solicinium. Hệ quả và những gì sau trận đánh. Trận Solicinium là một chiến thắng đắt giá của La Mã, do họ phải hy sinh nhiều binh lực trong đó có vài tướng sĩ giỏi giang trong cuộc tàn sát ghê gớm này. Nhưng đây cũng được công nhận là một thắng lợi to lớn hơn cả chiến thắng Châlons trước đó. Sau đại thắng, Valentinianus I kéo quân (theo một kiểu ca khúc khải hoàn) về Trier để nghỉ đông, nơi đây ông tổ chức lễ lạc hoành tráng để ăn mừng chiến thắng, thu hút sự hân hoan của dân chúng. Antonius - thầy dạy môn Khoa học cho tiểu Hoàng đế Gratianus - là khán giả của những lễ hội ấy. Tuy nhiên, theo Gibbon, vị quốc trưởng sáng suốt thay vì tiến sâu vào đất Đức đã chuyển tầm nhìn sang việc tổ chức phòng thủ kiên cố biên giới Gaule vốn là một chính sách cần thiết để chống lại người Alemanni, khi sức mạnh của họ đã được phục hồi nhờ một làn sóng quân tình nguyện bạo dạn vốn luôn đến từ các bộ lạc xa nhất ở phương Bắc. Sách khác thì cho rằng ông không phát huy chiến thắng do tổn thất không nhỏ trong trận Solicinium và thời tiết không phù hợp. Dù sao đi chăng nữa, công cuộc phòng vệ xứ Gaule của Valentinianus I đã giữ yên vùng này trong suốt 9 năm cuối thời ông. Trong các năm 371, 374, Hoàng đế lại phát động hai chiến dịch quy mô nhỏ hơn bên sông Rhine và đều giành thắng lợi. Song, trận chiến ở Solicinium vẫn được xem là trận đánh lớn và quan trọng duy nhất giữa quân La Mã dưới thời ông và rợ Alemanni, cũng như là chiến thắng tiêu biểu nhất được biết đến trong các chiến dịch sông Rhine của ông.
13
60
1,728
1311776
822668
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311776
Xa lộ Liên tiểu bang 68
Xa lộ Liên tiểu bang 68 (tiếng Anh: "Interstate 68" hay viết tắt là I-68) là một xa lộ liên tiểu bang dài nằm trong hai tiểu bang West Virginia và Maryland, kết nối trong thành phố Morgantown đến trong thị trấn Hancock. cũng là Hành lang E thuộc Hệ thống Xa lộ Phát triển Vùng Appalachia. Từ năm 1965 cho đến khi xa lộ cao tốc được xây dựng hoàn thành năm 1991, nó có tên là . Tại tiểu bang Maryland, xa lộ được biết với tên là Xa lộ cao tốc Quốc gia, cái tên gợi nhớ đến Lộ Quốc gia lịch sử mà chạy song song giữa khu chưa hợp nhất Keysers Ridge và thị trấn Hancock. Xa lộ cao tốc này phần lớn chạy qua các khu vực nông thôn, và băng qua vô số đỉnh núi nằm dọc theo đường của nó. Một chỗ xa lộ chạy cắt ngang qua đồi núi nằm trong khu vực Đồi Sideling phơi bày nhiều đặc điểm địa chất, thu hút khách tham quan. Công cuộc xây dựng bắt đầu vào năm 1965 và tiếp tục trong hơn 25 năm cho đến khi hoàn thành vào ngày 2 tháng 8 năm 1991. Trong lúc con lộ này đang được xây dựng thì người ta tiên đoán rằng điều kiện kinh tế sẽ cải thiện dọc theo hành lang này. Hai thành phố lớn được xa lộ này kết nối là Morgantown và Cumberland. Cả hai đều có dân số thường trực ít hơn 30 ngàn người. Mặc dù sự thật là xa lộ cao tốc này không phục vụ vùng đô thị lớn nào nhưng tạo ra một con đường giao thông chính tại miền tây tiểu bang Maryland và miền bắc tiểu bang West Virginia và cũng tạo ra một con đường nhiệm ý đi đến Xa lộ thu phí Pennsylvania đối với xe cộ lưu thông theo chiều hướng tây từ thủ đô Washington, D.C. và thành phố Baltimore. Mô tả xa lộ. I-68 có chiều dài tổng cộng là  – kết nối trong thành phố Morgantown, Tây Virginia đến tại thị trấn Hancock, Maryland ngang qua Dãy núi Appalachia. Các thành phố có tên trên bản chỉ dẫn trên xa lộ I-68 là Morgantown, Cumberland, và Hancock. là con đường chính kết nối miền tây Maryland đến phần còn lại của Maryland. cũng được Cơ quan Quản trị Xa lộ Tiểu bang Maryland mô tả cho người lái xe trên I-70 như là một "xa lộ nhiệm ý để đi đến tiểu bang Ohio và trực chỉ hướng tây". West Virginia. bắt đầu tại nút giao thông khác mức 148 trên I-79 gần thành phố Morgantown và chạy theo hướng đông, gặp Quốc lộ Hoa Kỳ 119 khoảng 1 dặm (1,6 km) ở phía đông điểm cuối của nó tại I-79. quay sang hướng đông bắc, uốn khúc quanh thành phố Morgantown với 4 nút giao thông lập thể nằm trong khu vực Morgantown – I-79, , Xa lộ Tây Virginia 7, và Xa lộ Tây Virginia 705. Rời khu vực Morgantown, lại chạy theo hướng đông, có nút giao thông lập thể với Xa lộ Tây Virginia 43, tạo lối đi đến Hồ Cheat và thành phố Uniontown, Pennsylvania. Gần nút giao thông lập thể này, đi qua Hồ Cheat và lên đoạn dốc nằm ngoài Hẻm núi Cheat. Vào Quận Preston, xa lộ có nút giao thông lập thể với Xa lộ Quận 73/12, tạo lối đi đến Rừng Tiểu bang Coopers Rock. Đối ngược với khu vực thành phố Morgantown, đoạn đường qua Quận Preston mà đi qua phần lớn là nông thôn với chỉ một thị trấn nằm dọc theo đoạn này là Bruceton Mills. Tại Bruceton Mills, gặp Xa lộ Tây Virginia 26. gặp Xa lộ Quận số 5 (Lộ Hazleton) tại lối ra cuối cùng trước khi đi vào Quận Garrett, Maryland. Vùng Tây Virginia mà xa lộ đi qua là nông thôn là đồi núi. Có vài đoạn có độ dốc cao, đặc biệt là gần Hẻm núi Sông Cheat nơi có một đường dẫn dành riêng cho tải sử dụng khi bị tuộc dốc. Mật độ đỉnh của xe cộ trên Xa lộ Liên tiểu bang 68 tại Tây Virginia trung bình hàng năm là 32.900 mỗi ngày tại nút giao thông lập thể với I-79 trong thành phố Morgantown. Xe cộ thưa dần càng xa về phía đông, đến đỉnh điểm thấp là 14.600 xe mỗi ngày tại lối ra Hazleton. Maryland. Sau khi vào Quận Garrett, tiếp tục chạy qua các vùng nông thôn, băng qua phần phía bắc của quận này. Địa hình của khu vực này gồm có các đỉnh núi kéo dài từ tây nam đến đông bắc với băng qua các đỉnh núi theo hướng đông tây. Lối ra đầu tiên tại tiểu bang Maryland là ở trong Friendsville. đi lên Keysers Ridge là nơi nó gặp và . Cả hai quốc lộ nhập với xa lộ I-68 tại Keysers Ridge. đi qua Núi Negro, đỉnh cao nhất dọc theo Lộ Quốc gia lịch sử mà xa lộ này chạy song song ở phía đông Keysers Ridge. Đây là nguồn gốc tên của xa lộ I-68 tại tiểu bang Maryland: Xa lộ cao tốc Quốc gia. Ba dặm (5 km) ở phía đông Grantsville, Quốc lộ Hoa Kỳ 219 rời Xa lộ cao tốc Quốc gia để chạy về hướng bắc đến Meyersdale, Pennsylvania, trong khi đó I-68 tiếp tục hướng đông, băng qua Núi Savage trước khi vào Quận Allegany. Trong Quận Allegany, xa lộ đi qua Allegheny Front và nó giảm xuống độ cao khoảng trong đoạn đường dài khoảng . Mật độ xe cộ trên trong Quận Garrett thì hiếm hơn so với trong Quận Allegany. Tại ranh giới Maryland – Tây Virginia, trung bình hàng năm có khoảng 11.581 xe lưu thông mỗi ngày. Mật độ này gia tăng đến đỉnh điểm tại lối ra số 22 trong Quận Garrett là nơi Quốc lộ Hoa Kỳ 219 rời ; 19.551 xe mỗi ngày đi qua đoạn này. Tại ranh giới Quận Allegany, mật độ xe giảm dần đến 18.408 xe mỗi ngày. Trong Quận Allegany, con số xe cộ gia tăng đến 28.861 tại LaVale. Sau khi vào Quận Allegany, đi tránh khỏi Frostburg về phía nam với 2 lối ra, một đến Lộ Midlothian và một đến Xa lộ Maryland 36. Ở phía đông Frostburg, đi qua một cây cầu trên Spruce Hollow gần Clarysville. Xa lộ chạy dọc theo rìa đồi bên trên . Vào LaVale, có các lối ra đi đến và Xa lộ Maryland 658. I-68 chạy lên Núi Haystack, vào thành phố Cumberland. Đây là đoạn đường đông xe nhất của xa lộ trong tiểu bang Maryland. Tốc độ giới hạn trên xa lộ giảm từ trong LaVale xuống cho đến lối ra Quốc lộ Hoa Kỳ 220, và xuống đến trong phố chính thành phố Cumberland. Tại lối ra số 44 tại phía đông Cumberland, gặp xa lộ cao tốc và kết thúc tại lối ra số 46, Quốc lộ Hoa Kỳ 220 rời và chạy về hướng bắc đến Bedford, Pennsylvania. tiếp tục đi ngang qua đông bắc Quận Allegany, đi ngang qua Công viên Tiểu bang Rocky Gap gân lối ra 50. I-68 đi qua vài đỉnh núi dọc theo đoạn này trong đó có Núi Martins, Đèo Town và Đỉnh Green. Xa lộ cũng đi qua Rừng Tiểu bang Green Ridge. đi vào Quận Washington ở Lạch Đồi Sideling và chạy lên trên Đồi Sideling. Vết cắt ngang ngọn Đồi Sideling để xây xa lộ I-68 có thể được nhìn thấy vài dặm từ mỗi chiều và nó trở thành một điểm hấp dẫn khách du lịch vì vết cắt này để lộ hình dạng địa chất của ngọn đồi. Bên sườn phía đông của Đồi Sideling, lại có nút giao thông lập thể với Quốc lộ Hoa Kỳ 40 tại điểm đầu phía đông của nó nằm ở Lộ Woodmont.
18
57
1,343
1311778
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311778
Lotfi A. Zadeh
Lotfali Askar Zadeh (sinh 4 tháng 2 năm 1921), thường được biết với tên Lotfi A. Zadeh, là một nhà toán học, kỹ sư điện tử, nhà tin học chuyên ngành trí tuệ nhân tạo và giáo sư danh dự ngành khoa học máy tính của trường Đại học California tại Berkeley. Cuộc đời và sự nghiệp. Zadeh sinh tại Baku, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan với tên khai sinh Lotfi Aliaskerzadeh , trong một gia đình Iran gốc Azerbaijan. Cha ông, Rahim Aleskerzade, quê ở Ardabil là một phóng viên thường trú của Iran còn mẹ ông, Fanya Koriman, một phụ nữ Nga gốc Do Thái là một bác sĩ nhi khoa . Chính phủ Liên Xô thời điểm này lấy lòng các phóng viên nước ngoài nên gia đình sống khá thoải mái ở Baku . Zadeh học tiểu học trong ba năm ở đây , mà về sau ông nhận xét: "đã có một ảnh hưởng đáng kể và lâu dài đến tư duy và cách nhìn nhận sự vật của tôi" . Năm 1931, khi Zadeh 10 tuổi, gia đình ông chuyển về quê nhà ở Tehran. Zadeh đăng ký học trường Alborz. Đó là một trường dòng của Giáo hội Trưởng Nhiệm. Tám năm sau, ông tốt nghiệp trường này và cũng gặp người vợ tương lai của mình, Fay, ở đây . Zadeh sau nhận xét rằng ông đã bị "ảnh hưởng sâu sắc" bởi cách truyền giáo "cực kỳ lịch sự, tốt đẹp, trung thực và hữu ích" từ những người Mỹ điều khiển trường này. "Đối với tôi họ đại diện cho những điều tốt nhất mà bạn có thể tìm thấy ở Hoa Kỳ - những con người từ Trung Tây với cội nguồn rõ ràng. Họ thực sự là những người giúp đỡ những kẻ hoạn nạn, sẵn sàng từ bỏ lợi ích của mình vì lợi ích của người khác. Vì vậy, thái độ này ảnh hưởng đến tôi sâu sắc. Nó cũng gieo vào lòng tôi một ước muốn sâu xa sống tại Hoa Kỳ" . Trong thời gian này, Zadeh cũng được cấp một số bằng sáng chế . Mặc dù sử dụng tiếng Nga nhuần nhuyễn hơn tiếng Ba Tư, Zadeh tham gia kì thi đại học và đứng thứ ba toàn quốc . Ông đứng đầu lớp trong hai năm đầu đại học. Năm 1942, ông tốt nghiệp Đại học Tehran ngành kĩ thuật điện. Ông là một trong ba sinh viên duy nhất tốt nghiệp ngành này trong năm. Do Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đánh chiếm Iran vì vua Iran lúc đó Reza Shah là một người thân Đức. Liên Xô cùng Anh quản lý đất nước Iran. Hơn 3 vạn lính Mỹ cũng có mặt. Zadeh làm việc cho cha mình, một nhà buôn ngũ kim và vật liệu xây dựng với quân Mỹ . Năm 1943, Zadeh quyết định di cư sang Mỹ, tới Philadelphia qua con đường Cairo sau khi trễ vài tháng vì giấy tờ hoặc tàu bè. Ông tới Mỹ vào giữa năm 1944, sau đó đăng ký học sau đại học tại Học viện Công nghệ Massachusetts (M.I.T.) . Trong thời gian ở Mỹ, ông đổi tên thành Lotfi Asker Zadeh . Ông nhận bằng thạc sĩ về kỹ thuật điện ở M.I.T. năm 1946, sau đó đăng ký học tiếp Đại học Columbia vì cha mẹ ông định cư ở New York . Columbia nhận ông làm nghiên cứu sinh và cho phép ông làm trợ giảng . Ông nhận học vị tiến sĩ về kỹ thuật điện tại Columbia năm 1949 và trở thành giáo sư dự khuyết năm sau đó . Zadeh giảng dạy 10 năm tại Columbia, được bổ nhiệm chức danh giáo sư năm 1957. Từ năm 1959 ông dạy ở Đại học California tại Berkeley. Ông đề ra lý thuyết về tập mờ, một công trình có tầm ảnh hưởng sâu rộng về sau, năm 1965. Trong nghiên cứu này ông trình bày chi tiết về mặt toán học của lý thuyết tập mờ. Năm 1973 ông công bố lý thuyết về logic mờ. Cuộc sống và đức tin cá nhân. Zadeh được coi là "nhanh chóng thoát ra khỏi chủ nghĩa dân tộc, nhấn mạnh có những vấn đề đáng quan tâm hơn nhiều trong cuộc sống", như câu trả lời trong một lần phỏng vấn của ông: ""Câu hỏi rõ ràng không phải là tôi là người Mỹ, Nga, Iran, Azerbaijan hay bất cứ dân tộc nào khác. Tôi đã được định hình bởi tất cả những dân tộc và những nền văn hóa trên và tôi cảm thấy khá thoải mái khi ở giữa họ Zadeh cũng phát biểu trong cùng cuộc phỏng vấn đó: "Ngoan cố và kiên trì. Không sợ bị lôi kéo vào tranh luận. Đó rõ ràng là truyền thống Thổ. Đó cũng là một phần tính cách của tôi. Tôi có thể rất cứng đầu. Đó có thể là điều có lợi cho sự phát triển của logic mờ" . Ông tự mô tả mình là "một người Mỹ hướng tới toán, một kỹ sư điện gốc Iran, sinh tại Nga" . Zadeh cưới Fay Zadeh và có hai con, Stella và Norman Zadeh. Công trình khoa học. Tập mờ và hệ thống mờ. Zadeh, trong lý thuyết của mình về tập mờ, đề xuất việc sử dụng hàm thành viên (trong khoảng [0,1]) hoạt động trên mọi giá trị có thể thuộc tập xác định. Ông đề xuất những phép toán mới cho việc tính toán logic và chỉ ra rằng logic mờ là sự tổng quát hoá của logic cổ điển và logic Bool. Ông cũng đề xuất số mờ là một trường hợp đặc biệt của tập mờ, cũng như những luật tương ứng cho các phép toán thích hợp (số học mờ) . Những công trình khác. Lotfi Zadeh là người, cùng với John R. Ragazzini, đi tiên phong trong việc phát triển phương pháp biến đổi z trong xử lý và phân tích tín hiệu thời gian rời rạc theo thời gian năm 1952. Những phương pháp này ngày nay là tiêu chuẩn trong Xử lý tín hiệu số, điều khiển tín hiệu và các hệ thống rời rạc theo thời gian được sử dụng trong công nghiệp và nghiên cứu. Ông là biên tập viên cho tạp chí International Journal of Computational Cognition. Công trình gần đây nhất của Zadeh về "Tính toán với từ vựng và nhận thức". Những bài báo mới nhất của ông công bố năm 2005, khi ông đã 84 tuổi. Giải thưởng và vinh danh. Zadeh là thành viên của IEEE, Viện hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ, Hiệp hội kỹ thuật tính toán (ACM), Hiệp hội vì sự phát triển của Trí tuệ nhân tạo, Viện hàn lâm kỹ nghệ quốc gia. Ông cũng là thành viên của Viện hàn lâm khoa học các nước Azerbaijan, Ba Lan, Bulgaria, Hàn Quốc, Phần Lan và Viện hàn lâm quốc tế về các nghiên cứu hệ thống ở Moskva. Ông nhận được 24 bằng tiến sĩ danh dự . Những giải thưởng chính. Dưới đây liệt kê những giải thưởng chính Zadeh nhận được, bên cạnh nhiều giải thưởng khác.
21
64
1,227
1311781
683380
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311781
Georges Boudarel
Georges Boudarel (21 tháng 12 năm 1926 – 26 tháng 12 năm 2003) là một học giả người Pháp, người từng tham gia cùng với Việt Nam trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông từng bị cáo buộc đã tham gia tra tấn những tù binh người Pháp trong cuộc chiến này. Tiểu sử. Georges Boudarel sinh ngày 21 tháng 12 năm 1926 tại Saint-Étienne, Loire, trong một gia đình Công giáo. Sau khi tốt nghiệp đại học ngành văn chương, ông tham gia Đảng Cộng sản Pháp. Vào cuối những năm 1940, Georges Boudarel làm giáo viên triết học tại trường trung học Marie-Curie ở Sài Gòn. Thời gian này, ông tham gia với một nhóm Marxism của những người Pháp và qua đó bắt liên lạc với phe kháng chiến Việt Nam. Năm 1949, Georges Boudarel rời bỏ cương vị giáo viên tại trung học Yersin, Đà Lạt, để tham gia vào Việt Minh với bí danh Đại Đồng. Ông được Phạm Ngọc Thạch phân công làm việc tại Địch vận Việt Minh, phát thanh cho ban Pháp Ngữ đài Nam Bộ Kháng chiến. Thời gian sau, Georges Boudarel được thuyên chuyển lên Việt Bắc, giữ nhiệm vụ phó trưởng trại cho trại tù số 113 giam tù binh Pháp tại Láng Kiều, gần biên giới Trung Quốc, phía nam Hà Giang. Theo Georges Boudarel, ông chỉ làm thông dịch và giảng cho các tù binh Pháp các chính sách và quy định của chính phủ Hồ Chí Minh đối với các tù binh. Tuy vậy, nhiều tù binh đã nói rằng chính Georges Boudarel tham gia vào việc thẩm vấn và tra tấn họ. Cáo trạng của các cựu tù nhân nêu rõ ông đã góp phần bỏ đói tù nhân, tra tấn vật lý, tàn phá cơ thể, tuyên truyền chính trị và chỉ điểm tố cáo giữa các tù binh. Sau khi cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc, Georges Boudarel nhờ sự can thiệp của Đảng Cộng sản Pháp để rời Việt Nam sang Praha vào năm 1964. Ông được Đảng Cộng sản Tiệp Khắc sắp xếp một công việc tại Tổng Công Đoàn thế giới (World Federation of Trade Unions). Năm 1967, sau khi chính phủ Pháp thông qua đạo luật ân xá cho những người phạm tội trong các cuộc chiến tại Đông Dương và Algérie, Georges Boudarel trở về Pháp và tiếp tục đi học. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài về Phan Bội Châu. Georges Boudarel trở thành một nhà nghiên cứu về Việt Nam quan trọng và được giới học giả công nhận, với nhiều tác phẩm giá trị như " 'Phan Bội Châu', 'Cải cách ruộng đất', 'Trăm Hoa đua nở trong bóng đêm miền Bắc', 'Tự do tính dục tại các làng xã Việt cổ truyền' ", v.v. Ông cũng là một dịch giả đã giới thiệu nhiều tác phẩm Việt Nam ra tiếng Pháp, như "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, "Dế mèn phiêu lưu ký" của Tô Hoài, "Đại thắng mùa xuân" của Văn Tiến Dũng... Từ năm 1967 đến khi nghỉ hưu, Georges Boudarel giảng dạy tại trường Đại học Paris VII. Không giống với những người khác, Georges Boudarel không giấu đi quá khứ đã rời bỏ phía Pháp để theo Việt Minh. Ông nhìn nhận thẳng thắn vào lịch sử của phong trào cộng sản Việt Nam mà bản thân ông có liên quan. Tháng 4 năm 1991, Georges Boudarel bị luật sư Jean-Marc Varaut, đại diện cho Wladislav Sobanski, một cựu tù nhân của trại 113, và Hội Cựu Tù nhân Đông Dương kiện vì tội ác chống lại loài người. Những năm cuối đời, Georges Boudarel sống trong trại dưỡng lão và mất vào ngày 26 tháng 12 năm 2003, thọ 77 tuổi.
5
23
637
1311782
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311782
Philippe Papin
Philippe Papin là một nhà sử học người Pháp, tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo về lịch sử và văn hóa Việt Nam, đặc biệt về lịch sử Hà Nội. Philippe Papin sinh năm 1967 tại Blois. Lịch sử. Năm 1987, ông vào học ở trường Sư phạm Saint-Cloud và sau đó tốt nghiệp đại học tại Sorbonne. Philippe Papin hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài Lịch sử Hà Nội cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Philippe Papin tới Việt Nam lần đầu vào năm 1988, khi đó vẫn còn là một đất nước chưa thực sự mở cửa đối với du khách phương Tây. Trong khoảng thời gian 1992 đến 1995, ông làm việc tại Đại học Quốc gia Hà Nội với tư cách trợ lý. Khi hết hợp đồng, Philippe Papin được nhận vào Viện Viễn Đông Bác cổ, nghiên cứu tại trung tâm của viện ở Hà Nội. Sống tại Hà Nội nhiều năm và lấy một người vợ Việt Nam, Philippe Papin đã viết nhiều cuốn sách và bài báo về Hà Nội. "Histoire de Hanoi", nhà xuất bản Fayard phát hành năm 2001, được Papin tham khảo những tài liệu chính sử như "Đại Việt sử ký toàn thư", hồi ký của người nước ngoài vào thế kỷ 17, các điều tra thực địa tại những đình, chùa... và tìm hiểu gia phả của các gia đình. Năm 2010, "Histoire de Hanoi" được Mạc Thu Hương, vợ của Philippe Papin, dịch ra tiếng Việt với tên "Lịch sử Hà Nội", và được nhà xuất bản Mỹ thuật cùng Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam phát hành.
4
11
284
1311783
781648
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311783
William S. Logan
William Stewart Logan (sinh năm 1942) là một học giả người Australia, giáo sư tiến sĩ tại Đại học New South Wales, Sydney, và từng là chủ tịch Quỹ Di sản và quy hoạch của UNESCO. William S. Logan là một chuyên gia có nhiều kinh nghiệm về lịch sử kiến trúc, quy hoạch đô thị và bảo tồn đô thị. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm thuộc lĩnh vực này, trong đó đặc biệt về những đô thị ở những nước đang phát triển châu Á. William S. Logan từng giữ cương vị chuyên viên thuộc các cơ quan tài trợ văn hóa của UNESCO và Quỹ Viện trợ Australia, tham gia vào nhiều dự án quy hoạch và bảo tồn ở Hà Nội. Ông cũng là tác giả một cuốn sách viết về Hà Nội mang tên "Hanoi, biography of a city" ("Hà Nội: Tiểu sử một đô thị"). Cuốn sách được viết trong thập niên 1990, sau nhiều nghiên cứu của tác giả trên thực địa và các nguồn thư tịch tại Hà Nội, Paris, Aix-en-Provence, Melbourne và Moskva.
2
5
184
1311911
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311911
Corydoras aeneus
Cá chuột (danh pháp hai phần: "Corydoras aeneus") là một loài cá thuộc họ Callichthyidae. Loài cá này phân bố rộng rãi ở Nam Mỹ về phía đông của dãy Andes, từ Colombia và Trinidad đến lưu vực Río de la Plata. Ban đầu nó được mô tả với danh pháp "Hoplosoma aeneum" bởi Theodore Gill vào ănm 1858 và cũng đã được gọi với tên "Callichthys aeneus".. Loài cá này có phương pháp thụ tinh bất thường (uống tinh dịch) được ghi nhận. Giải phẫu. Kích thước là 6 ½ cm đối với con đực và một lớn hơn một chút 7 cm đối với con cái (2 ½ đến 2 ¾ inch). Tuổi thọ bình quân là 10 năm. Nó có một cơ thể màu vàng hoặc màu hồng, bụng màu trắng, và màu xanh-màu xám trên đầu và lưng. Vây của nó có màu vàng hoặc màu hồng và nguyên vẹn. Một miếng vá màu nâu-cam thường hiện diện trên đầu, nằm ​​phía trước vây lưng, và là điểm đặc biệt nhất của nó khi nhìn từ trên các dòng nước. Bên trên của chúng thường là màu xanh, đó là lý do một tên khác cho loài cá này là Green Corydoras. Giống như nhiều cá da trơn khác, con cái lớn hơn con đực của loài này. Sinh thái học. Chúng được tìm thấy ở vùng nước cạn, yên tĩnh với đáy mềm mà đôi khi có thể bị ô nhiễm nặng nề bởi những đám mây bùn từ phía đáy, nhưng nó cũng sinh sống ở nước chảy. Trong môi trường tự nhiên của nó, nó sống ở vùng nước có nhiệt độ từ 25 °C đến 28 °C (77 °F đến 82 °F), độ pH 6,0-8,0, và độ cứng 5-19 dGH. Giống như hầu hết các thành viên của Corydoras, chúng có một phương pháp duy nhất đối phó với mức oxy thấp. Ngoài việc sử dụng mang giống như bất kỳ loài khác, chúng bơi đến mặt nước và hút không khí vào qua miệng của chúng. Ch1ng thường tụ tập thành một nhóm từ 20 đến 30 cá thể. Nó ăn sâu, động vật giáp xác đáy, côn trùng, thực vật. Bạch tạng. Sự bạch tạng Corydoras aeneus đã được phát triển cho thị trường cá cảnh, với một cơ thể mà hồng nhạt hay màu cam với mắt đỏ. Có người nói rằng cá bạch tạng thực tế là mù và những con đực có phần vô sinh, mặc dù điều này có thể là do giao phối cận huyết.
8
21
430
1311969
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1311969
Phreatobius cisternarum
Phreatobius cisternarum là một loài cá da trơn trong chi "Phreatobius". Loài cá Brasil này là một trong vài loài cá sống dưới lòng đất trong môi trường sống nước ngầm. Chứng tỏ có vấn đề trong phân loại của nó, mà còn chưa chắc chắn. Phân loại học. "P. cisternarum" được thu thập vào năm 1903 và lần đầu tiên được mô tả bởi E. A. Goeldi năm 1905.. Loài cá này và chi đã được mô tả lại trong năm 2005. Phân bố và nơi sinh sống. "P. cisternarum" được tìm thấy ở Brasil. Chúng sinh sống trong môi trường sống ngầm ở cả hai phía bắc và nam cửa sông Amazon cũng như đảo Marajó. Loài cá này sinh sống trên bề mặt, môi trường sống nước ngầm, nhưng không sống trong các tầng chứa nước ngầm tự chảy ở sâu hơn. Những con cá này được tìm thấy phổ biến trong các giếng đào thủ công ở Marajó. Những giếng này có độ sâu 4-13 mét (13–43 ft). Trong những giếng này, những con cá phổ biến hơn trong mùa khô khi mực nước rút chỉ còn khoảng 30 cm (12 in), và hiếm hơn trong mùa mưa khi độ sâu có thể tăng lên tới vài mét. Nước ấm và có tính chua (pH 5-6).
6
13
220
1312174
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1312174
Cá nheo Mỹ
Cá nheo Mỹ (danh pháp hai phần: "Ictalurus punctatus") là một loài cá thuộc chi "Ictalurus". Nó là cá chính thức của Missouri, Iowa, Nebraska, Kansas, và Tennessee, và tên trong tiếng Anh không chính thức là "channel cat". Tại Hoa Kỳ chúng là đối tượng là đánh bắt loài cá da trơn với khoảng 8 triệu người đi câu nhắm vào nó mỗi năm. Sự phổ biến của cá da trơn kênh cho thực phẩm đã góp phần vào sự tăng trưởng nhanh chóng của nuôi trồng thủy sản của loài này tại Hoa Kỳ. Phân bố và nơi sống. Cá nheo Mỹ là loài bản địa Tân bắc giới, phân bố ở hạ Canada và miền đông và miền bắc Hoa Kỳ, cũng như các khu vực miền bắc Mexico. Chúng cũng đã được du nhập vào một số vùng biển của lục địa châu Âu và các bộ phận của Malaysia và các bộ phận gần như Indonesia. Chúng phát triển mạnh trong các con sông nhỏ và lớn, các hồ chứa, hồ tự nhiên, và ao. Chúng đẻ trứng ở các khe, hốc, hoặc các mảnh vỡ, để bảo vệ chúng khỏi dòng nước chảy nhanh cuốn đi. Tại Canada, các loài chủ yếu là, mặc dù không phải là độc nhất, hạn chế trong lưu vực Đại Ngũ Hồ từ hồ Nipigon về phía nam. Nó là loài ăn tạp. Trọng lượng tối đa của nó là từ 18 đến 23 kg.
4
12
247
1312343
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1312343
Chiến dịch tấn công Proskurov–Chernovtsy
Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã trong các hoạt động quân sự ở hữu ngạn Ukraina thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong 44 ngày diễn ra chiến dịch, Phương diện quân Ukraina 1 thực hiện các đòn vu hồi sâu đến 350 km từ căn cứ bàn đạp Rovno - Lutsk xuống phía Nam dọc theo kinh tuyến 26 (Đông) đến Chernovtsy, chia cắt Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) với chủ lực Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), tiến ra vùng ngã ba biên giới Liên Xô - Tiệp Khắc - Romania. Cùng thời gian này, Phương diện quân Ukraina 2 phát động cuộc tổng tấn công theo hướng Đông Bắc - Tây Nam từ khu vực Uman - Pervomaisk đến Bălţi và Botosani trên đất Romania. Các hoạt động tấn công do hai phương diện quân mạnh nhất trên mặt trận Ukraina của Quân đội Liên Xô tiến hành đã tạo nên một vòng vây rất rộng bao bọc chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 và cánh Bắc của Tập đoàn quân 8 (Đức) tại khu vực Proskurov - Vinitsa - Kamenets Podolsky. Chiến dịch này đã làm thiệt hại nặng Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) và các sư đoàn còn lại của Tập đoàn quân 8 (Đức) chưa bị đánh tan trong Chiến dịch hợp vây Korsun-Shevchenkovsky trước đó. Lẽ ra chiến dịch này có thể thành công mỹ mãn nếu như cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 tiến công sớm hơn, phối hợp tốt hơn với cánh trái của Phương diện quân Ukraina 1 trong việc kiềm chế Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) và Phương diện quân Ukraina 1 bố trí nhiều lực lượng dự bị hơn để tăng dày vòng vây phía ngoài trên hướng Lvov - Stanislav. Nguyên soái G. K. Zhukov và Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 cũng mắc sai lầm khi triển khai một vòng vây quá rộng ở phía Tây với binh lực mỏng và phán đoán sai ý đồ hướng phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Về phía quân đội Đức Quốc xã, mặc dù rút được một phần lực lượng khỏi "cái túi" Kamenets Podolsky nhưng các sư đoàn xe tăng của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã bỏ lại 357 xe tăng, 42 pháo tự hành, 280 khẩu pháo xe kéo và thiết bị quân sự hạng nặng cùng những tổn thất lớn về quân số. Các trung đoàn xe tăng hạng nặng 503, 506, 509 (Đức) khi vào trận đều được biên chế 56 xe tăng Tiger I nhưng khi thoát vây chỉ còn lại 5 đến 7 chiếc. Kết quả của chiến dịch này và cũng là của Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani đã cắt đôi mặt trận của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) tại Tây Ukraina. Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã đã phải chia Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) làm đôi. Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina do Thượng tướng Walter Model chỉ huy và Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina do Thượng tướng Johannes Hans Frießner chỉ huy. Thống chế Erich von Manstein bị huyền chức sau khi được tặng Thanh kiếm danh dự và Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ. Thành công của chién dịch này đã mở ra trước mặt Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) hai hướng tấn công chính. Một hướng qua núi Carpath vào Tiệp Khắc và một hướng qua thượng nguồn sông Vistula tiếp cận biên giới nước Đức. Quân đội Liên Xô bắt đầu tác chiến trên lãnh thổ nước ngoài với nhiều thách thức và điều kiện hoàn toàn khác lạ đang chờ họ ở phía trước. Quân đội Đức Quốc xã đã phải huy động đến nguồn quân lực từ các chính quyền Đông Âu là đồng minh của họ như Romania, Hungaria và cả quân Slovakia, buộc Quân đội Liên Xô phải áp dụng các biện pháp chính trị, ngoại giao để hỗ trợ cho các hoạt động quân sự theo hướng cô lập Quân đội Đức Quốc xã ngay trên lãnh thổ các đồng minh không lấy gì làm chắc chắn lắm của họ. Bối cảnh lịch sử và tình huống mặt trận. Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1944, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phải liên tục đối phó với nhiều đòn tấn công tổng lực của Quân đội Liên Xô trên khắp chiến trường miền Tây Ukraina. Trong khi Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky đang ở vào giai đoạn gay cấn thì hai chiến dịch nhỏ hơn được Quân đội Liên Xô liên tiếp mở ra tại Rovno–Lutsk và Nikopol-Krivoi Rog. 18 sư đoàn xe tăng, những trụ cột phòng ngự cơ động của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phải di chuyển như con thoi từ Nam lên Bắc và ngược lại để ứng cứu cho bộ binh Đức tại các đột phá khẩu rất lớn mà Quân đội Liên Xô đã mở ra. Trong Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky, 8 sư đoàn xe tăng Đức (1, 3, 11, 13, 14, 16, 17 và 1 SS) phải tập trung lại trên một địa đoạn hẹp không quá 100 km chính diện để cứu 10 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn xe tăng trong vòng vây đã để lộ một giãn cách rộng đến hơn 120 km giữa Tập đoàn quân xe tăng 1 với Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đang phòng ngự tại khu vực Tarnopol - Proskurov - Vinitsa. Những giãn cách nguy hiểm tương tự của Quân đội Đức Quốc xã cũng xuất hiện tại các khu vực Uman, Novoukrainka, Novyi Bug và dọc theo sông Nam Bug. Mặc dù chiến tranh đã đến gần nước Đức hơn nhưng cự ly giữa mặt trận và các đơn vị dự bị (Đức) vẫn còn rất lớn; nơi gần nhất cũng mất 2 đến 3 ngày chuyển quân bằng xe lửa, chưa kể thời gian chất hàng và xuống hàng. Ở phía Bắc, sau Chiến dịch Rovno–Lutsk, một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng ngự của Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) cũng đã xuất hiện tại tuyến Mlynov - Shumskoye - Izyaslav. Đây chính là nơi mà quân đội Liên Xô sẽ khởi sự một trong các đòn đột kích sâu nhất của họ tại hữu ngạn Ukraina. Trong ba tháng cuối năm 1943 và ba tháng đầu năm 1944, không chỉ Cụm tập đoàn quân Nam mà cả Cụm tập đoàn quân Bắc và Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) cũng phải chống trả liên tục các đòn tấn công của quân đội Liên Xô, khởi đầu cho một chuỗi chiến dịch mà giới sử học quân sự vẫn gọi là "Mười đòn đánh của Stalin". Chỉ trong nửa năm đó, đã diễn ra 5 chiến dịch lớn tại chính diện của Cụm tập đoàn quân Bắc, 3 chiến dịch lớn nhằm vào Cụm tập đoàn quân Trung tâm. Quân đội Đức Quốc xã không còn được tự do di chuyển lực lượng tăng - thiết giáp từ những mặt trận còn tương đối yên tĩnh đến những khu vực chiến sự sôi động hơn như thời gian từ giữa năm 1942 đến giữa năm 1943. Với tình trạng bắt đầu thiếu hụt xe tăng, biên chế các trung đoàn xe tăng, đơn vị chiến đấu cơ bản, cũng bị cắt giảm về phương tiện. Nếu như thời kỳ 1941-1943, một trung đoàn xe tăng Đức có thể có từ 72 đến 81 xe tăng, trong đó có từ 36 đến 45 xe tăng hạng nặng thì đến đầu năm 1944, con số này chỉ còn từ 50 đến 60 chiếc, trong đó có từ 27 đến 30 xe tăng hạng nặng. Các nhà máy sản xuất các loại xe tăng cũ (trừ loại Panzer IV) bắt đầu phải sửa chữa, phục hồi nhiều xe tăng hỏng trong khi chưa triển khai được dây chuyền sản xuất xe tăng mới. Trong khi đó, Quân đội Liên Xô vẫn tiếp tục nhận được binh lực bổ sung đều đặn từ các tập đoàn quân dự bị và các trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại hơn từ nền công nghiệp quốc phòng đã phục hồi nhanh chóng và liên tục phát triển của họ. Việc phục hồi vùng các công nghiệp Kharkov và Donets đã đem lại cho họ thêm 31.000 tấn than mỗi ngày, 10.000 tấn thép cán và 1.094 máy kéo mỗi tháng. Hơn 1.300 nhà máy quốc phòng trọng yếu ở các vùng Ural, Povolzhe, Tây Sibir... trong đó có các nhà máy sản xuất xe tăng, pháo và các vũ khí hạng nặng ở Chelyabinsk, Sverdlovsk, Ural Khimaz, Novosibirsk, Magnitogorsk... vẫn tiếp tục đưa đến tiền tuyến hàng trăm xe tăng, hàng nghìn súng, pháo, hàng vạn tấn đạn dược, hàng chục vạn tấn quân nhu mỗi tuần trên những "con đường xanh", những chuyến vận tải đường sắt ưu tiên tuyệt đối, không phải dừng lại ở bất kỳ ga trung gian nào, trừ lý do kỹ thuật. Các nhà máy công nghiệp quốc phòng cũ như Tula, Gorky, Kirov cũng phục hồi với sản lượng và chất lượng cao hơn hẳn trước chiến tranh. Khu vực Proskurov, Chernovtsy, Kremenets, Starokonstantinov, Ternopil, Vinitsa chính là nơi khởi đầu các trận đánh mở màn Chiến tranh Xô-Đức tại chiến trường Ukraina. Tại đây đã diễn ra những trận hội chiến biên giới năm 1941, trong đó có Trận Dubno - Lutsk - Brody và Trận Uman. Sau gần 3 năm, những đạo quân xe tăng có nhiều duyên nợ của Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã lại gặp nhau trên chiến trường cũ trong những trận quyết đấu. Tuy nhiên, thế và lực của họ đã khác nhau rất nhiều. Binh lực và kế hoạch. Quân đội Liên Xô. Binh lực. Phương diện quân Ukraina 1 do Nguyên soái G. K. Zhukov tạm thời chỉ huy thay đại tướng N.F.Vatutin bị thương nặng. Đây là một trong hai phương diện quân có binh lực mạnh nhất vùng Ukraina khi đó. G. K. Zhukov chỉ để lại Tập đoàn quân 13 phối hợp với Phương diện quân Byelorussia 2 kiềm chế cánh Bắc của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức). Còn lại 7 tập đoàn quân của phương diện quân, trong đó có 3 tập đoàn quân xe tăng đều được huy động vào hướng tấn công chính của chiến dịch. Tập đoàn quân xe tăng 1 do trung tướng M. E. Katukov chỉ huy, biên chế có: Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 do thượng tướng P. A. Rybalko chỉ huy, biên chế có: Tập đoàn quân xe tăng 4 do trung tướng D. D. Lelyushenko chỉ huy. Biên chế có: Tập đoàn quân cận vệ 1 do Thượng tướng A. A. Gresko chỉ huy. Biên chế có: Tập đoàn quân 13 do Trung tướng N. P. Pukhov chỉ huy. Biên chế có Tập đoàn quân 18 do trung tướng E. P. Zhuravlev chỉ huy. Biên chế có: Tập đoàn quân 38 do thượng tướng K. S. Moskalenko chỉ huy. Biên chế có: Tập đoàn quân 60 do thượng tướng I. D. Cherniakhovsky chỉ huy. Biên chế có: Tập đoàn quân không quân 2 do thượng tướng S. A. Krasovsky chỉ huy. Biên chế có 1 sư đoàn tiêm kích, 2 sư đoàn cường kích, 1 sư đoàn ném bom ban ngày, 1 sư đoàn ném bom ban đêm, 2 trung đoàn vận tải, 1 trung đoàn đổ bộ đường không, 1 trung đoàn trinh sát, 1 trung đoàn cứu hộ, 4 trung đoàn phòng không. Các đơn vị dự bị chiến dịch trực thuộc Bộ tư lệnh Phương diện quân Cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 do đại tướng I. S. Konev chỉ huy; chịu trách nhiệm hướng phụ công hợp vây ở phía Nam mặt trận. 2 tập đoàn quân được điều động tham gia chiến dịch. Tập đoàn quân xe tăng 6 do trung tướng A. G. Kravchenko chỉ huy. Biên chế có: Tập đoàn quân 40 do trung tướng F. F. Zhmachenko chỉ huy. Biên chế có: Kế hoạch tấn công. Ngay sau khi kết thúc Chiến dịch Korsun–Shevchenkovsky, ngày 18 tháng 2 năm 1944, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 đã đặt vấn đề mở cuộc tấn công mới trên hướng Proskurov-Chernovtsy. Ngày 23 tháng 2, Nguyên soái G. K. Zhukov và Hội đồng quân sự Phương diện quân đã thống nhất kế hoạch tấn công và báo cáo lên Đại bản doanh. Ngày 24 tháng 2, Đại bản doanh Liên Xô ra mệnh lệnh số 130315 đồng ý phê duyệt kế hoạch tấn công và chỉ thị: Đòn đột kích mạnh nhất sẽ được các tập đoàn quân xe tăng Liên Xô giáng vào đoạn tiếp giáp giữa Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đang mỏng đi sau nỗ lực phá vây cứu Cụm quân Đức ở Korsun–Shevchenkovsky. Xét thấy một mình Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 của tướng P. A. Rybalko không đủ mạnh để đột phá sâu, G. K. Zhukov yêu cầu Đại bản doanh lấy Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng D. D. Lelyushenko từ lực lượng dự bị để tăng viện cho Phương diện quân. I. V. Stalin đã đồng ý. Để bảo đảm đột phá sâu hơn và hình thành một vòng vây rộng, G. K. Zhukov điều động Tập đoàn quân 1 của tướng M. E. Katukov vốn đang hoạt động tại Pogrebische, phía trước Vinitsa bí mật chuyển quân đến Shepetovka. Theo kế hoạch, các tập đoàn quân bộ binh 18, 38 và cận vệ 1 phải hành động tích cực trên chính diện Lyubar - Lipovets để "lôi kéo" và "giữ chân" Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) trên khu vực Vinitsa - Proskorov, tạo điều kiện cho các tập đoàn quân xe tăng khép vòng vây ở phía Tây. Phương diện quân Ukraina 2 phải phối hợp chặt chẽ với Phương diện quân Ukraina 1 về thời điểm mở Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani để tạo vòng vây phía Nam, ngăn chặn Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) thoát sang Romania. Kế hoạch cũng tính đến các hành động tích cực trên cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 phối hợp với Phương diện quân Byelorussia 2 để che chắn, bảo đảm phía sau chủ lực của Phương diện quân Ukraina 1 không bị Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đột kích bọc hậu. Công tác hậu cần đảm bảo cho chiến dịch của quân đội Liên Xô ban đầu có gặp những khó khăn do đường giao thông kéo dài, hệ thống đường sắt bị phá hoại trong các chiến dịch chậm được khôi phục, các kho dã chiến, kho trung chuyển chưa kịp đưa lên gần mặt trận. Mãi đến ngày 1 tháng 3, Tập đoàn quân 60 mới vượt được 60 km từ Mlinov đến Yampol trên một vùng hầu như không có đường sá. Tập đoàn quân xe tăng 1 đến ngày 2 tháng 3 mới đổ quân xuống ga Shepetovka trong khi nhiên liệu của họ vẫn còn đang nằm ở đâu đó trên tuyến đường sắt Berdichev - Shepetovka. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 phải san sẻ cho Tập đoàn quân xe tăng 1 dự trữ xăng dầu của mình để bảo đảm bước vào chiến đấu đúng kế hoạch. Chỉ đến ngày 4 tháng 3, đúng ngày mở màn chiến dịch, tuyến đường sắt Novograd Volynsky đi Shepetovka mới được khai thông và việc tiếp tế cho các tập đoàn quân Liên Xô ổn định trở lại. Đến ngày 4 tháng 3, các tập đoàn quân chủ lực của Phương diện quân Ukraina 1 đã được đảm bảo 3 đến 4 cơ số đạn dược, 15 cơ số xăng dầu, 20 cơ số lương thực, thực phẩm và 2,7 cơ số y cụ, thuốc men. Quân đội Đức Quốc xã. Binh lực. Đối diện với Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) là hai tập đoàn quân xe tăng mạnh nhất của Quân đội Đức Quốc xã ở mặt trận phía Đông. Hai đạo quân này chiếm hơn nửa số xe tăng Đức trên toàn chiến trường Xô-Đức và đều do các tướng lĩnh cao cấp có nhiều kinh nghiệm chỉ huy. Tập đoàn quân xe tăng 1 do thượng tướng Hans-Valentin Hube chỉ huy được biên chế 3 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn bộ binh: Quân đoàn xe tăng 3 của trung tướng Hermann Breith, biên chế có: Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walther Nehring, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 46 của tướng Friedrich Schulz. Biên chế có: Quân đoàn bộ binh 59 của tướng Kurt von der Chevallerie. Biên chế có: Tập đoàn quân xe tăng 4 do thượng tướng Erhard Raus chỉ huy được biên chế 3 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn bộ binh: Quân đoàn xe tăng 42 của tướng Franz Mattenklott (phục hồi). Biên chế có: Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Hermann Balck. Biên chế có: Quân đoàn xe tăng 56 của tướng Friedrich Hoßbach. Biên chế có: Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Arthur Hauffe. Biên chế có: Kế hoạch phòng thủ. Sau khi giải thoát được hơn 4.000 quân Đức khỏi lòng chảo Korsun - Shevchenkovsky, thống chế Erich von Manstein kiên trì thuyết phục Hitler từ bỏ Phòng tuyến Panther-Wotan để lui về giữ các tuyến sông Nam Bug và sông Dniestr. Khác với chiến thuật bố trí phòng thủ tuyến sông Dniepr, sơ đồ phòng thủ mới của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sẽ gồm hai tuyến chính. Tuyến thứ nhất dọc theo sông Nam Bug là các cụm cứ điểm Proskorov (nay là Khmenniskyi), Vinitsa, Zhmerinka, Ladyzhin, Pervomaisk, Voznesensk, Nikolayev. Các cụm cứ điểm này sẽ dựa vào tuyến đường sắt Tarnopol đi Pervomaisk để cơ động lực lượng xe tăng và cơ giới, ứng cứu kịp thời cho các điểm bị đột phá. Các tuyến đường ngang Proskurov - Starokonstantinov, Zmerinka - Vinitsa, Vabniarka - Ladyzin, Kotovsk - Pervomaisk và Odessa - Voznesensk cũng phục vụ mục tiêu tác chiến phòng ngự cơ động từ trong ra ngoài và ngược lại. Các cụm cứ điểm Starokonstantinov, Vinitsa, Uman - Khristinovka, Pomoshnaya - Novoukrainka sẽ là các chốt phòng ngự tiền tiêu, ngăn chặn từ xa các đòn công kích của Quân đội Liên Xô khi họ tiếp cận tuyến sông Nam Bug. Tuyến thứ hai dọc theo sông Dniestr gồm các cụm cứ điểm Tarnopol, Zalesye, Khotin, Soroky (Soroca), Ryvnita, Bendery và Akkerman. Khi đó, con đường sắt Lvov qua Stanislav (Ivano Frankivsk), Chernovtsy, Yassy (Iasi), Kishinev, Izmail sẽ phục vụ cơ động cho tuyến phòng thủ này. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam tính toán rằng, cuộc tấn công từ Đông sang Tây của các phương diện quân Ukraina (Liên Xô) sẽ phải khắc phục khó khăn khi vượt qua hai con sông. Tuy không rộng và sâu bằng sông Dniepr nhưng sông Nam Bug và sông Dniestr cũng là những chướng ngại rất đáng kể, đặc biệt là trong mùa xuân tan băng, nước sông lên cao hơn. Hình thức phòng ngự chủ yếu của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) vẫn là bộ binh chốt giữ phối hợp với xe tăng cơ động. Hai tuyến dường sắt chạy dọc theo các Thung lũng sông Nam Bug và Dniestr sẽ bảo đảm cho việc cơ động đó. Việc lùi về hai tuyến sông này đã kéo quân Đức lại gần hai cụm dự bị chiến lược quan trọng là Cụm quân Đức - Hungary - Slovakia tại Tây Nam Ba Lan và cụm quân Đức - Rumania - Bulgaria ở Balkan. Ngoài ra, Cụm tập đoàn quân E đóng tại Hy Lạp cũng là một nguồn dự trữ khác đảm bảo cho việc phòng ngự. Khó khăn lớn nhất của quân đội Đức Quốc xã vẫn là thiếu xe tăng. Từ năm 1943, quân đội Đức Quốc xã không thể lấy lại được ưu thế về số lượng xe tăng trên mặt trận Xô-Đức mặc dù họ đã được trang bị nhiều xe tăng tốt hơn hẳn như Tiger I, Tiger II, Panther. Pháo binh cũng trong tình trạng tương tự vì suốt từ đầu cuộc chiến tranh, Quân đội Liên Xô luôn có tỷ lệ trội hơn về số lượng pháo, súng cối và đặc biệt là hỏa tiễn Katyusha, thứ vũ khí đột phá còn khủng khiếp hơn cả đại bác mà quân đội Đức Quốc xã từng gặp trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Khó khăn tiếp theo là vấn đề nhiên liệu. Mặc dù vẫn sản xuất được hơn 3 triệu tấn xăng dầu mỗi năm nhưng sản lượng đó vẫn không đủ cung cấp cho Quân đội Đức Quốc xã, đặc biệt là thiết giáp, cơ giới và không quân. Việc cơ động lực lượng xe tăng đến các mặt trận trông chờ rất nhiều vào đường sắt. Trong khi đó, đường sắt và các nhà ga đầu mối luôn là mục tiêu oanh tạc của không quân đối phương. Đây là một trong những điểm yếu nhất của kế hoạch phòng thủ dựa trên chiến thuật cơ động xe tăng phối hợp với bộ binh chốt giữ của người Đức. Diễn biến. Đến cuối ngày 3 tháng 3, trên tiền duyên của Phương diện quân Ukraina 1 đã tập trung 56 sư đoàn bộ binh, 6 sư đoàn kỵ binh, 7 quân đoàn xe tăng và cơ giới, 2 cụm pháo binh dã chiến với 24 trung đoàn pháo và súng cối. Đối diện với họ, các Tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Đức) có 25 sư đoàn, trong đó có 10 sư đoàn xe tăng và cơ giới, 1 trung đoàn và 6 tiểu đoàn xe tăng hạng nặng, 12 trung đoàn pháo tự hành, 2 cụm tác chiến độc lập, 11 trung đoàn pháo binh. Các đơn vị này được các Tập đoàn quân không quân 4 và 8 yểm hộ. Các ước lượng tình báo được báo cáo lên Thống chế Erich von Manstein và Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức Quốc xã, tướng Kurt Zeitzler đều cho rằng, hướng tấn công tiếp theo của Quân đội Liên Xô sẽ nhằm vào Lvov - Peremysl. Ngày 4 tháng 3 được chọn là ngày N của Phương diện quân Ukraina 1 và họ chọn điểm đột phá ở nơi quân Đức ít ngờ tới nhất và tiến công theo hướng khác hẳn với phán đoán của cơ quan tình báo quân sự Đức. Hướng chủ công của Phương diện quân Ukraina 1. Chọc thủng các tuyến phòng ngự vòng ngoài. 8 giờ 00 sáng ngày 4 tháng 3, sau 30 phút pháo binh bắn dọn đường, Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 60 (Liên Xô) phát động tấn công trên hướng Shumskoys - Kremenets và Yampol - Belogorye. Ngay sau khi bộ binh vượt qua được tuyến phòng thủ đầu tiên của quân Đức, các Tập đoàn quân xe tăng 4 và cận vệ 3 lập tức được tung vào đột phá khẩu. Đến cuối ngày 5 tháng 3, đòn tấn công bằng cả hai "quả đấm thép" của hai tập đoàn quân xe tăng Liên Xô đã chọc sâu từ 25 đến 45 km thủng tuyến phòng thủ thứ hai của quân Đức trên một chính diện rộng gần 50 km từ Yampol đến Yzyaslav, phía Nam Shepetovka. Ngày 5 tháng 3, tướng Hans-Valentin Hube điều các sư đoàn xe tăng 6, 19, các sư đoàn bộ binh 96 và 245, trong đó có các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 88 và 203 từ Proskurov kéo lên phản kích. Các sư đoàn xe tăng Đức công kích ác liệt vào nhà ga đầu mối Ostrov. Đến cuối ngày 7 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 4 do tướng V. N. Badanov được điều đến cửa đột phá, hợp lực với Tập đoàn quân cận vệ 1 và cánh trái của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 đẩy lùi đòn phản kích của các sư đoàn xe tăng Đức, dồn quân Đức về phía Starokonstantinovka. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) đánh chiếm Ostrov, cắt đứt giao thông đường sắt giữa Proskurov và Tarnopol. Ở cánh phải của cụm xung kích, ngày 7 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 60 đã vượt qua Volochisk, tấn công xuống phía Nam. Các sư đoàn xe tăng 11 và 16, trong đó có các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 616 và 731 cùng sư đoàn bộ binh 208 (Đức) cũng tổ chức phản kích từ Yarmolintsy lên Chernyi (???) nhưng không ngăn được dòng thác xe tăng Liên Xô từ phía Bắc tràn xuống. Sau một ngày kịch chiến tại thị trấn Chernyi, các sư đoàn xe tăng Đức phải rút về Gusyatin. Các sư đoàn xe tăng 6, 19 (Đức) phải rút về Solobkovtsy do không chống lại được đòn tấn công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) nhưng vẫn tiếp tục phản kích vào bên sườn Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) lúc này đã tiến đến gần Gusyatin. Ngày 8 tháng 3, Tập đoàn quân 38 triển khai Quân đoàn bộ binh 67, được tăng cường Quân đoàn xe tăng 25 tấn công trên khu vực Vinitsa. Cuộc tấn công bị hoãn lại ba ngày vì phải đối phó với đoàn phản kích của Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) tại phía Tây Lipovets. Cùng thời điểm, Quân đoàn bộ binh 101 (Tập đoàn quân 38) tổ chức tấn công theo tuyến Starokonstantinov, Nemirovka và Zhmerinka. Ngày 11 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 67 đã đánh bật đòn phản kích của sư đoàn xe tăng 1 SS và các lữ đoàn cơ giới 249, 300 (Đức) tại Lipovets và bắt đầu tấn công dọc theo đường cao tốc Fastov - Vinnitsa. Quân đoàn xe tăng 25 đã vượt lên phía trước, đánh chiếm Troshchiev (???), Voronovitsa, Demidovka, vây bọc Vinnitsa từ phía Nam. Quân đoàn bộ binh 67 tiến công liên tục từ Bogdanovka, Lipovets lần lượt đánh chiếm các cứ điểm Vladimirovka, Mervin, Lopatinka. Ngày 14 tháng 3, lợi dụng kẽ hở giữa Tập đoàn quân 38 và Tập đoàn quân 40 (Phương diện quân Ukraina 2), Quân đoàn bộ binh (Đức) sử dụng các sư đoàn bộ binh 75 và 82 tổ chức phản kích vào Ilintsy. Quân đoàn xe tăng 2 được điều động chuyển hướng sang cánh trái, khôi phục tình hình tại Ilintsy. Cuộc công kích đánh chiếm Vinitsa chỉ do một mình Quân đoàn bộ binh 101 thực hiện nên bị chậm trễ vài ngày. Ngày 20 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 101 mới vào được Vinitsa. Các trung đoàn pháo tự hành 1890, 1899, 1900 và Lữ đoàn pháo chống tăng 23 được điều động vọt tiến lên phía trước nhanh chóng đánh chiếm cây cầu đường sắt, thọc sâu qua sông Nam Bug, đánh chiếm Zhmerinka ngày 21 tháng 3 và phát triển theo hướng Kopaygorod. Ở phía Tây, ngày 10 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) hành quân đường bộ từ Shepetovka luồn theo sau các tập đoàn quân xe tăng 4 và cận vệ 3 (Liên Xô) đã đến phía Đông Tarnopol 20 km. Nguyên soái G. K. Zhukov giao cho Tập đoàn quân 60 tấn công Tarnopol với sự tăng viện của Quân đoàn xe tăng cận vệ 4. Tập đoàn quân xe tăng 1 tiếp tục tiến xuống Chertkov theo đúng kế hoạch. Ngày 11 tháng 3, một trận kịch chiến giữa Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) và các sư đoàn xe tăng 6, 17, 19 (Đức) đã diễn ra tại phía nam Ostrov, bên kia con đường sắt Proskurov - Tarnopol. Sau các đòn phản kích của quân Đức, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) phải dừng lại. Trong khi quân đội Đức quốc xã đang lo đối phó với ba cánh quân xe tăng cùng lúc xuất hiện thì Tập đoàn quân 4 (Liên Xô) giáng đòn đột kích quyết định vào Khmelnik và tiếp tục tấn công Proskurov từ phía Đông. Ngày 13 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tiếp tục tung ra 200 xe tăng chặn đánh Tập đoàn quân xe tăng 4 tại khu vực Arkadievtsy, Shpichentsy, Davydkovtsy, buộc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) phải quay mũi xuống phía Nam đối phó. Ngày 16 tháng 3, 100 xe tăng Đức được sử dụng cùng với sư đoàn bộ binh 254 chặn đánh Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 ngay trước cửa ngõ phía Bắc Proskurov. Ngày 18 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được Tập đoàn quân 18 chi viện đã chặn đứng đón phản công của quân Đức ở Ostrov. Ở cánh cực Bắc, Tập đoàn quân 13 đã triển khai tấn công từ ngày 11 tháng 3. Ngày 13 tháng 3, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và Quân đoàn bộ binh 24 đánh chiếm Dubno và đến ngày 16 tháng 3 đã đột nhập vào Beretechko. Quân đoàn kị binh cận vệ 6 phối hợp với Quân đoàn bộ binh 27 đánh chiếm Kremenets và đến ngày 17 tháng 3 đã giải phóng Brody, khép chặt sườn phải của các tập đoàn quân xe tăng Liên Xô đang tấn công xuống phía Nam. Tướng Erhard Raus phải điều động Quân đoàn bộ binh 13 (Đức) vừa được tăng cường Sư đoàn bộ binh 361 từ Đan Mạch đến để chặn cuộc tấn công của Tập đoàn quân 13 tại tuyến Brody - Beretechko. Các cuộc phản kích liên tục của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã buộc Phương diện quân Ukraina 1 phải điều chỉnh lại kế hoạch và bố trí lại lực lượng. Từ ngày 20 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được giao nhiệm vụ phối hợp với Tập đoàn quân 18 và Tập đoàn quân cận vệ 1 giải quyết dứt điểm cụm phòng ngự của quân Đức tại Proskurov, Yakmolintsy, Solobkovtsy trước ngày 28 tháng 3. Tập đoàn quân xe tăng 4 tiến công dọc theo nhánh sông Khoryn (chi lưu của sông Dniestr), đến ngày 30 tháng 3 phải giải quyết xong các cụm cứ điểm dọc sông Khoryn, trong đó có các cụm chốt quan trọng như Gusyatin, Balin, Orinin, từ phía Tây đánh chiếm Kamenets Podolsky tiến xuống Khotin. Tập đoàn quân xe tăng 1 tấn công dọc theo Thung lũng sông Zalozh, đến ngày 30 tháng 3 phải vượt qua được các cứ điểm Chertkov, Tolstoye, Borshev, Zaleschyky và đánh chiếm Chernovtsy. Tập đoàn quân 38 đến ngày 30 tháng 3 phải vượt qua Kopaygorod, đánh chiếm Novo Ushitsya và tấn công Kamenets Podolsky từ phía Đông. Tập đoàn quân 60 đến ngày 30 tháng 3 phải đánh chiếm Tarnopol, khép chặt sườn phải của Tập đoàn quân xe tăng 1 và triển khai phòng thủ trên tuyến sông Zalozh. Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, ngày 21 tháng 3, Phương diện quân Ukraina 1 tiếp tục tấn công. Đánh chiếm Tarnopol, Proskurov và Kamenets Podolsky. Ngày 21 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 và Tập đoàn quân 18 đã phối hợp đột kích vào hai bên sườn 3 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn bộ binh Đức đang phòng thủ phía Bắc Proskorov. Tướng P. A. Rybalko điều Quân đoàn xe tăng cận vệ 7 vòng ra phía Đông Proskurov, đột kích vào sau lưng các sư đoàn xe tăng Đức đang giao chiến với Quân đoàn xe tăng cận vệ 6 tại Ostrov. Quân đoàn cơ giới 9 phối hợp Quân đoàn bộ binh 52 thâm nhập vào Proskurov từ hướng Đông. Bị đột kích bất ngờ từ phía sau lưng, các sư đoàn xe tăng Đức bị đánh bật sang phía Tây Proskurov và rút lui theo đường sắt về Yarmolintsy. Ngày 25 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 tiến vào giải phóng Proskurov. Ngày 23 tháng 3, Tập đoàn quân 60 tràn ngập cứ điểm Romanovka do Sư đoàn bộ binh 340 (Đức) phòng thủ và đột kích vào Tarnopol. Tập đoàn quân xe tăng 1 đánh chiếm ngã ba đường sắt quan trọng Chertkov. Đến 10 giờ ngày 24 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 thuộc tập đoàn quân sau khi vượt qua Tolstoye đã tiếp cận sông Dniestr. Cũng trong ngày 24 tháng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 đã đánh chiếm Borshev và chiều tối ngày 25 tháng 3 đã chiếm giữ cây cầu đường sắt rất quan trọng tại Zaleschiki. Tấn công ở giữa cụm xe tăng xung kích Liên Xô, Tập đoàn quân xe tăng 4 phải đối phó với nhiều đòn phản kích liên tục của Quân đoàn xe tăng 46 (Đức) dọc theo Thung lũng sông Khoryn. Sức kháng cự của quân Đức tăng lên rất mạnh ở khu vực Pyanikorun (???) và Orinin, Tây Bắc Kemnets Podolsky. Vì Tập đoàn quân xe tăng 4 không có bộ binh, G. K. Zhukov phải điều động Sư đoàn bộ binh 148 từ Tập đoàn quân 60 sang hỗ trợ cho Quân đoàn xe tăng cận vệ 10; Quân đoàn bộ binh 28 cũng được điều sang phía Đông phối thuộc cho Tập đoàn quân xe tăng 4. Có bộ binh hỗ trợ nhưng cũng phải đến 16 giờ ngày 23 tháng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 mới nhổ được các cụm chốt Gzhimaliv (???) và Okno. Ngày 24 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 4 tiếp tục vượt qua các cứ điểm Kopychintsy và Skala. Tốc độ tấn công của tập đoàn quân đã chậm lại so với kế hoạch. 10 giờ ngày 24 tháng 3, tướng D. D. Lelyushenko nhận được mệnh lệnh từ Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 yêu cầu: Ngày 25 tháng 4, Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 sau khi đánh bật các đòn phản kích của Sư đoàn xe tăng 1 SS đã đánh chiếm một kho quân sự lớn của Đức tại Skala, thu 40 xe tăng, thiết giáp và 55 khẩu pháo. Ngày 25 tháng 3, Lữ đoàn xe tăng cận vệ 61 (Tập đoàn quân xe tăng 4) và Lữ đoàn cơ giới 20 (Tập đoàn quân xe tăng 1) đã đánh bật trung đoàn trắc vệ Đức khỏi thị trấn Zinkovtsy (???) và vượt sông Dniestr tại Zaleschiki Ustechko (Ustechko). Đêm 25 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 (Tập đoàn quân xe tăng 4) và Quân đoàn cơ giới 9 (Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3) bắt đầu công kích Kamenets - Podolsky. Theo tin tức ban đầu từ quân báo của Phương diện quân Ukraina 1, quân Đức phòng thủ tại thành phố có khoảng 9.000 người, 85 xe tăng, 62 khẩu pháo và hơn 300 súng máy. Ngày 26 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 28 và hai quân đoàn cơ giới Liên Xô đã lần lượt tiêu diệt các cụm chốt của quân Đức trong thành phố. Chiến sự lớn nhất diễn ra tại tòa nhà Tureshky, nơi quân Đức cố ngăn chặn quân đội Liên Xo tiến sang bên kia sông Smotrich và Muktsa, nơi chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 đang bị các tập đoàn quân 38 và xe tăng cận vệ 3 truy kích từ tuyến Proskurov, Solobkovtsy, Novo Ushitsya đổ dồn về đó. 20 giờ ngày 26 tháng 3, Quân đội Liên Xô hoàn thành việc đánh chiếm Kamenets Podolsky. 21 sư đoàn Đức, trong đó có 10 sư đoàn xe tăng, cơ giới đã bị vây tại phía Đông Bắc Kamenets Podolsky, trên khu vực Dunayevtsy, Minkovtsy, Novo Ushitsa, Lyantskorun. Bị thiệt hại nặng nề sau các trận đấu xe tăng quyết liệt ở khu vực Ostrov và cửa ngõ Proskurov. Ngày 28 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được rút về Kiev để củng cố lại. Quân đoàn xe tăng 25 được điều đến thay thế vị trí của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3. Trong khi đó, Kamenets Podolsky đã trở thành một chiếc nút chặn Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Tuy nhiên, việc tập trung binh lực của Tập đoàn quân xe tăng 4 đã bị tiêu hao vào cái nút này cùng với việc Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh Liên Xô rút Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 khỏi mặt trận của đã làm cho tuyến bao vây bên trong của Phương diện quân Ukraina 1 bắt đầu xuất hiện những "đứt gãy" ở khu vực Balin, nơi tiếp giáp giữ Tập đoàn quân xe tăng 4 với Tập đoàn quân cận vệ một trong khi Tập đoàn quân xe tăng 1 đã tiến sâu xuống phía Nam. Đánh chiếm Chernovtsy và hình thành các tuyến bao vây. Sau khi chiếm giữ cây cầu đường sắt còn nguyên vẹn tại Zaletsiky, ngày 25 tháng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 (Tập đoàn quân xe tăng 1) cùng song hành tiến về phía Nam. Ngày 26 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 11 phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 1 mở hướng tấn công sang phía Tây, đánh chiếm thị trấn Kolomyia trên thượng nguồn sông Prut. Quân đội Liên Xô đang tiến quân trên con đường mà quân kỵ binh Podolsk của Ukraina khi xưa do Bogdan Khmelnitsky, anh hùng dân tộc Ukraina chỉ huy đã đi qua. Chiều 25 tháng 3, Lữ đoàn cơ giới 20 (Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 khi tấn công làng Romanovka đã vấp phải nhiều ổ hỏa lực súng chống tăng và súng máy của quân Đức. Lữ đoàn này phải dừng lại phòng ngự lâm thời, chờ xe tăng đến phối hợp. Không để chậm tốc độ tấn công, 17 giờ cùng ngày, tướng M. E. Katukov tung Lữ đoàn xe tăng 47 còn đủ quân số và trang bị từ lực lượng dự bị đến tiếp ứng. 22 giờ đếm 25 tháng 3, các ổ hỏa lực của quân Đức lần lượt bị dập tắt. Lữ đoàn xe tăng 47 và Lữ đoàn cơ giới 20 đột nhập nhà ga Moshi (???), phía Bắc Chernovtsy. Sang 26 tháng 3, phát hiện xe tăng Liên Xô xuất hiện ở Moshy, Quân đoàn xe tăng 48 (Đức) tổ chức phản kích. Cả hai sư đoàn xe tăng 2 SS và 8 (Đức) đều đổ dồn về cây cầu Zaleshika chặn đánh Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 (Liên Xô) đang vượt qua cây cầu này. Mặc dù chặn được xe tăng Liên Xô dọc con đường sắt Zaleshika- Chernovtsy nhưng Quân đoàn xe tăng 42 (Đức) đã để hở hướng Đông. Tối 25 tháng 3, trinh sát cơ giới của Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 (Liên Xô) phát hiện các bãi cạn trên đoạn sông Dniestr gần làng Zastavnyi (Zastavna) và Varenchanky (Verenchanka). Ngay trong đêm, tướng A. L. Ghetman, tư lệnh quân đoàn đã bí mật tổ chức cho xe tăng vượt sông ngay tại các bãi cạn này. Sáng 26 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 11 bất ngờ đột kích vào sân bay Chernovtsy, thu 40 máy bay Đức đang chuẩn bị cất cánh nhằm vào các xe tăng Liên Xô đang chiến đấu với 2 sư đoàn xe tăng Đức phía trước cây cầu bắc qua sông Prut. Đòn đột kích bất ngờ của Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 (Liên Xô) buộc các tướng Otto Weidinger, tư lệnh Sư đoàn xe tăng 2 SS và Gottfried Frölich, tư lệnh Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) phải kéo quân sang phía Tây để tránh bị bao vây tiêu diệt. Ngày 27 tháng 3, tại Kolomyia, các sư đoàn xe tăng này đánh bật những đội trắc vệ mỏng yếu của Quân đoàn bộ binh 11 (Liên Xô) và chạy thoát về Stanislav và bị không quân Liên Xô truy kích trên suốt dọc đường rút lui. Phòng thủ tại Chernovtsy chỉ còn trơ lại Sư đoàn bộ binh 208 (Đức). Ngày 28 tháng 3, 4 lữ đoàn xe tăng, 2 lữ đoàn cơ giới và Sư đoàn bộ binh 24 đã đánh chiếm Chernovitsy, chấm dứt sự có mặt trong 2 năm 9 tháng của quân đội Đức Quốc xã tại thành phố này. Tàn quân của Sư đoàn bộ binh 208 (Đức) tháo chạy về phía Nam, đến Romania. Ngày 29 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 11 (Tập đoàn quân xe tăng 1) và Quân đoàn bộ binh 47 (Tập đoàn quân cận vệ 1 còn tiến về phía Tây thêm 60 km và phía Nam thêm hơn 35 km, thiết lập vành đai phòng thủ trên tuyến Tây Kolomyia - Kumy (???) - Krasnoylsk (???). Ngày 29 tháng 3, Moskva bắn 224 loạt đại bác chào mừng Phương diện quân Ukraina 1 đã tiến ra biên giới Liên Xô (1940). Với việc đánh chiếm Chernovtsy và Kolomyia, Phương diện quân Ukraina 1 đã hoàn thành mục tiêu lập vòng vây bên ngoài xung quanh 21 sư đoàn Đức đang mắc kẹt tại khu vực Đông Bắc Kamenets - Podolsky. Tuy nhiên, vòng vây này còn quá mỏng so với những gì mà Quân đội Liên Xô đã tạo được tại Stalingrad tháng 11-12 năm 1942. Sự suy yếu của Tập đoàn quân xe tăng 1 sau khi đột kích sâu đến gần 200 km tính từ Volochisk cũng như sự suy yếu của Tập đoàn quân xe tăng 4 ở phía trong và việc buộc phải rút Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 khỏi chiến dịch đã làm cho vòng vây này không được liên tục. Thêm vào đó, sự chậm chạp của cánh phải Phương diện quân Ukraina 2 cũng là một trong những nguyên nhân làm cho tốc độ phát triển chiến dịch bị kéo dài, tạo cơ hội cho quân Đức có thời gian củng cố lại binh lực và phá vây từ hai phía. Hướng phụ công của Phương diện quân Ukraina 2. Phương diện quân Ukraina 2 có nhiệm vụ riêng; đó là đánh bại Tập đoàn quân 8 (Đức), tiến ra biên giới Liên Xô - Romania với cự ly chiều sâu nhiệm vụ lớn không kém Phương diện quân Ukraina 1. Mặc dù có binh lực tương đương với Phương diện quân Ukraina 1 nhưng do không có những bàn đạp thuận lợi như ở Phương diện quân Ukraina 1 nên trong quá trình chiến dịch, các tập đoàn quân của Phương diện quân Ukraina 2 phải ba lần vượt qua các con sông Nam Bug, Dniestr và Prut. Hiểu rõ những khó khăn của Phương diện quân khi phát động tấn công ngay sau khi vừa hoàn thành Chiến dịch hợp vây Korsun-Shevchenkovsky nhưng vì lợi ích chung của toàn mặt trận, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô vẫn giao cho I. S. Konev nhiệm vụ phối hợp với Phương diện quân Ukraina 1 hợp vây cánh quân Đức tại Proskurov - Kamenets Podolsky. Để hoàn thành trách nhiệm phối hợp này, Tập đoàn quân 40 và một phần Tập đoàn quân xe tăng 6 được giao nhiệm vụ hiệp đồng với Tập đoàn quân 38 duy trì tốc độ tấn công, che chắn kín đáo các bên sườn và tiến đến thị trấn Khotin trên bờ sông Dniestr đúng thời hạn quy định. Do các sư đoàn xe tăng 1, 16, 17 và sư đoàn xe tăng 1 SS đã được điều sang phía Tây để đối phó với các Tập đoàn quân xe tăng 3 và 4 (Liên Xô) nên phía trước Phương diện quân Ukraina 2 chỉ còn 20 sư đoàn bộ binh và 4 sư đoàn thiết giáp thuộc Tập đoàn quân 8 (Đức). Khối quân mạnh nhất của Tập đoàn quân 8 (Đức) đóng tại Uman gồm 5 sư đoàn bộ binh và 3 sư đoàn thiết giáp. Mặc dù những đơn vị này đã bị "sứt mẻ" đáng kể tại Korsun-Shevchenkovsky nhưng vẫn còn khả năng phòng ngự cứng rắn sau khi được bổ sung binh lực và phương tiện. Trong kế hoạch tấn công, Tập đoàn quân xe tăng 6 được bố trí ở thê đội 2 và chỉ được đưa vào phát triển tấn công ở giai đoạn 2, khi Phương diện quân đã tiến ra tuyến sông Nam Bug. Ngày 5 tháng 3, Tập đoàn quân 40 bắt đầu đột kích từ khu vực Rizino vào Khristinovka và điểm cao 244,7. Đến cuối ngày, Tập đoàn quân này đã tạo được một bàn đạp rộng 8 km. Ngày 6 tháng 3, Tập đoàn quân 27 cũng tấn công từ Ryzhanovka về Talnoye và Uman. Đến ngày 7 tháng 3, cả hai tập đoàn quân đều vượt sông Gornyi Tikich và tiến đến tuyến Kishintsy (???), Monastyrysche. Ngày 8 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng được đưa đến dải tấn công của Tập đoàn quân 27 và đẩy nhanh tốc độ đánh chiếm đầu mối đường sắt Khristinovka. Ngày 10 tháng 3, các lữ đoàn cơ giới 9 và 45 (Quân đoàn cơ giới cận vệ 5) đã có mặt ở Gaysin. Từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 hợp lực với Tập đoàn quân 40 vượt sông Nam Bug tại Ladyzhin trong điều kiện Sư đoàn cơ giới "Đại Đức" phản kích quyết liệt, nhiều lần hất bộ binh và xe tăng Liên Xô sang tả ngạn sông Nam Bug. Đến ngày 16 tháng 3, khi Lữ đoàn xe tăng 233 bắt kịp đội hình của Quân đoàn cơ giới cận vệ 5, quân đoàn này mới mở rộng được bàn đạp Ladyzhin và dồn quân Đức về Vapnyarka. Ngày 17 tháng 3, Tập đoàn quân 40 cũng thừa thắng đánh chiếm thị trấn Tulchinsk (Tulchyn). Ngày 19 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 6 đánh chiếm đầu mối giao thông Mogilev - Podolsky và phải dừng lại vài ngày trước sông Dniestr chờ Tập đoàn quân 27 đuổi theo. Trong khi đó, Tập đoàn quân 40 của tướng F. F. Zhmachenko di chuyển lên phía Bắc và ngày 23 tháng 3 đã mở cuộc vượt sông Dniestr tại Movchan. Thống chế Erich von Manstein tăng cường phòng thủ trên tuyến sông Dniestr, con sông rộng thứ hai ở Ukraina. Quân đoàn bộ binh 59 của tướng Kurt von der Chevallerie được điều đến tăng viện cho cánh Bắc của Tập đoàn quân 8 (Đức). Các sư đoàn bộ binh 1, 82 và Sư đoàn pháo binh 18 được điều đến khu vực Mogilev Podolsky. Ngày 22 tháng 3, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô yêu cầu I. S. Konev điều các tập đoàn quân cánh trái hướng về phía biên giới Romania để khép chặt sườn với Phương diện quân Ukraina 3. Các tập đoàn quân xe tăng cũng tập trung về hướng Yassy - Kishinev. Trên cánh Bắc, chỉ còn lại Tập đoàn quân 40 làm nhiệm vụ phối hợp với Phương diện quân Ukraina 1. Chính diện của Tập đoàn quân này đã mở rộng thêm đến hơn 40 km. Đến ngày 3 tháng 4, Quân đoàn bộ binh 51 của Tập đoàn quân 40 mới tới được Khotin trong khi Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 (Tập đoàn quân xe tăng 4) đã chờ họ ở đây từ ngày 30 tháng 3. Việc Tập đoàn quân 40 đến Khotin quá muộn và không đủ biên chế đã làm cho Tập đoàn quân xe tăng 4 phải giữ Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 tại đây để bảo đảm mật độ của vòng vây. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tập trung binh lực của Quân đội Liên Xô để sớm thanh toán 21 sư đoàn Đức bị vây tại phía Đông Kamenets Podolsky. Cuộc phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Nếu tính theo đơn vị tác chiến cơ bản thì số sư đoàn Đức bị bao vây tại khu vực phía Đông Kamenets - Podolsky mùa xuân 1944 ngang bằng với số sư đoàn Đức bị vây tại Tây Bắc Stalingrad cuối năm 1942 với tổng số 21 sư đoàn. Tuy nhiên, cánh quân Đức bị vây tại Kamenets - Podolsky có cơ cấu mạnh hơn cánh quân của Thống chế Paulus tại Stalingrad. Nó gồm các sư đoàn bộ binh 1, 68, 75, 82, 96, 101, 168, 254, 291, 371, 291; các sư đoàn xe tăng 1, 6, 7, 11, 16, 17, 19, 20; Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler" và Sư đoàn pháo binh 18. Cụm quân khổng lồ này được bố trí trên hai hướng. Đối đầu với Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) trên hướng Melnitsy Podolsky là các sư đoàn bộ binh 1, 82, 168, 254, 371, 75, 101 và 2 trung đoàn của Sư đoàn pháo binh 18. Phía trước Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) trên khu vực Skala Podolsky (???) là các sư đoàn bộ binh 68, 96, 291; các sư đoàn xe tăng 1, 6, 7, 11, 16, 17, 19; Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler"; Sư đoàn cơ giới 20 và 2 trung đoàn của Sư đoàn pháo binh 18. So sánh lực lượng trên chiến trường cũng khác với Chiến dịch Cái vòng (1943). Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) chỉ có sức chiến đấu tương đương với 3 sư đoàn xe tăng Đức. Các tập đoàn quân cận vệ 1, 18 và 38 đều là các tập đoàn quân bộ binh. Lực lượng thiết giáp của các tập đoàn quân này chỉ có 1 lữ đoàn xe tăng và 8 trung đoàn pháo tự hành, trong đó có 2 trung đoàn pháo chống tăng. Trong khi đó, các Sư đoàn xe tăng đang sở hữu 6 tiểu đoàn xe tăng hạng nặng ngoài biên chế 3 trung đoàn xe tăng hạng trung và hạng nhẹ cho mỗi sư đoàn. So sánh binh lực về xe tăng nghiêng về phía Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) với tỷ lệ 1,8:1. Các tập đoàn quân Liên Xô chỉ chiếm ưu thế về pháo binh với tỷ lệ 4:1 và ưu thế không đáng kể về quân số với tỷ lệ 1,2:1. Như thường lệ, ngày 2 tháng 4, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 đã dùng máy bay thả những bản sao của cùng một tối hậu thư chiêu hàng đến các sư đoàn Đức trong vòng vây: Tuy nhiên, các chỉ huy Tập đoàn quân xe tăng 1 Đức không có ý định đầu hàng và họ cũng không chấp hành lệnh cấm rút quân của Hitler. Họ chọn giải pháp tự giải thoát cho mình. Trong một hình bán nguyệt có chu vi đến 150 km phía Bắc sông Dniestr, thượng tướng xe tăng Đức Hans-Valentin Hube nắm trong tay một đạo quân hơn 150.000 người, còn giữ lại được hơn 300 xe tăng, gần 100 pháo tự hành nhưng lại gần như không còn pháo binh. Nhiều tiểu đoàn pháo binh của Sư đoàn pháo 18 đã phải chiến đấu như bộ binh. Hans-Valentin Hube trông chờ vào không quân Đức sẽ bù đắp những thiếu hụt này. Ngay từ ngày 27 tháng 3, cánh quân phía Nam gồm các sư đoàn bộ binh 1, 68, 75, 82, 96, Sư đoàn xe tăng 17 và Sư đoàn sơn chiến 101 đã thử mở một cuộc đột kích vượt sông Dniestr để qua Khotin rút về hướng biên giới Romania nhưng không thành công. Tập đoàn quân xe tăng 4 và các trung đoàn pháo tự hành 1890, 1899, 1900 (Tập đoàn quân 38) đã có mặt ở bờ Bắc sông Dniestr để cản phá. Ngày 28 tháng 3, quân Đức lùi về Novo Ukraina (???), bỏ lại chiến trường hơn 300 xác lính, 40 xe tăng, 12 pháo tự hành, gần 400 súng máy, hơn 300 ô tô các loại. Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) bắt 140 tù binh Đức. Đòn phá vây của Quân đoàn bộ binh 59 (Đức) về hướng Khotin càng làm cho Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 tin tưởng vào các báo cáo của quân báo mặt trận rằng Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) sẽ phá vây về hướng Tây Nam. Nhưng tướng Hans-Valentin Hube đã có một giải pháp khác. Ông ta chọn con đường ngắn nhất: rút về phía Tây. Chọn hướng rút lui này, quân Đức phải vượt qua các con sông Zbruch, Seret, Khoryn và Koropets cũng như các chốt chặn của hai Tập đoàn quân Liên Xô bố trí tại Orinin, Balin, Borshev, Tolstoye, Chertkov nhưng lại là hướng gây bất ngờ cho Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1. Một phương án khác cũng được tướng Wend von Wietersheim đề xuất, đó là chia quân làm nhiều cụm và đồng thời đột phá về các hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam để tăng cơ hội thoát vây. Tướng Kurt von der Chevallerie vẫn kiên trì ý kiến rút theo hướng Tây Nam. Tướng Hans-Valentin Hube để ngỏ phương án này, coi nó như một giải pháp dự bị khi hướng rút lui phía Tây thất bại. Ngày 29 tháng 3, Thống chế Erich von Manstein điện cho tướng Hans-Valentin Hube yêu cầu quyết định sớm vì Cụm tập đoàn quân Nam không còn khả năng tiếp tế một khối lượng hậu cần khổng lồ cho số quân bị vây mà chỉ có thể dùng các đòn đột kích từ bên ngoài hỗ trợ cho các sư đoàn Đức thoát vây. Tướng Hans-Valentin Hube trả lời theo phương án rút về phía Tây và chấp nhận mạo hiểm. Theo kế hoạch, quân Đức chỉ để lại Sư đoàn xe tăng 20 và Sư đoàn bộ binh 371 làm nhiệm vụ cản hậu; các sư đoàn xe tăng, cơ giới đều được điều sang hướng Lyantskorun (???), tạo thành một "lá mộc thép" di động, che chắc phía trước và hai bên sườn cho các sư đoàn bộ binh rút theo sau. Ngày 31 tháng 3, quân Đức bên ngoài vòng vây bắt đầu hành động. Sư đoàn xe tăng 2 SS Das Reish từ Maryampol (???) công kích vào Lữ đoàn xe tăng 93 (Liên Xô) tại Buchak (Buchach). Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) phá vỡ các vị trí phòng thủ của Lữ đoàn xe tăng 91 tại làng Losyach. Ở phía Bắc, Quân đoàn bộ binh 13 (Đức) sử dụng Sư đoàn xe tăng 7 và các sư đoàn bộ binh 213, 340 mở cuộc tấn công vào Tarnopol. Ngày 1 tháng 4, Quân đoàn bộ binh cận vệ 18 của Tập đoàn quân cận vệ 1 phản kích vào các sư đoàn xe tăng 8 và 2 SS (Đức) tại Buchach nhưng không thành công. Ngày 3 tháng 4, quân đoàn này bị thiệt hại nặng và phải rút xuống phía Nam, đến vị trí phòng ngự của Tập đoàn quân 38. Tại Tarnopol, Tập đoàn quân 60 phản đột kích vào Podgaisty cũng bị Sư đoàn xe tăng 5 SS "Khonstaufen" và Sư đoàn cơ giới 381 (Đức) chặn đứng và bị đánh bật về Tarnopol. Bên trong vòng vây, ngày 1 tháng 4, các sư đoàn xe tăng 6, 7, 11 và Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler" bắt đầu đột kích vượt sông Zbruch. Các sư đoàn xe tăng 1, 16, 17 và 19 hình thành các nhóm trắc vệ yểm hộ hai bên sườn. Đi ở giữa là các sư đoàn bộ binh Đức. Tập đoàn quân 18 hoàn toàn bị bất ngờ trước đòn đột kích của quân Đức và đã để tuyến phòng ngự của họ ở Balin bị vỡ. Lữ đoàn xe tăng 93 (Liên Xô) phải từ tuyến ngoài quay vào phía trong hỗ trợ cho Lữ đoàn cơ giới cận vệ 29 chặn kích nhưng không thể ngăn được "khối thép" gồm 4 sư đoàn xe tăng Đức đang đánh nống từ trong ra. Một trận kịch chiến xe tăng đã xảy ra chiều ngày 1 tháng 4 tại Balin. Hai lữ đoàn cơ giới Liên Xô chỉ có thể giữ được quân Đức đến hết đêm 1 tháng 4. Cả hai bên đều tổn thất nặng về xe tăng. Ngày 2 tháng 4, các sư đoàn xe tăng Đức đã có mặt ở Borshev bên kia sông Khoryn. Thay vì thực hiện các đòn chia cắt vào cụm quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức), Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) phải mở cuộc truy kích lên phía Bắc. Từ ngày 2 đến ngày 7 tháng 4, 89 xe tăng và 15 pháo tự hành còn lại của Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 đã giao chiến với 3 sư đoàn xe tăng Đức trong các trận đánh đẫm máu tại khu vực Orinin - Zherdyev (Zherdya). Các xe tăng Đức bị bắn hỏng, bắn cháy cũng được sử dụng như các vật cản để ngăn cuộc truy kích của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô). Các sư đoàn bộ binh và các tướng lĩnh chỉ huy Đức được che chắn bằng các sư đoàn xe tăng đã tháo chạy qua các rào cản xe tăng Liên Xô đổ dồn về Chertkov. Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 nhận được báo cáo về cuộc phá vây của quân Đức khá muộn, vào chiều ngày 1 tháng 4 và họ hoàn toàn bất ngờ trước quy mô của đòn đột kích phá vây cũng như hướng phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Nguyên soái G. K. Zhukov điện hỏi tướng P. S. Rybalko xem liệu ông có thể cho một quân đoàn xe tăng quay lại chiến trường nhưng không kịp, Tập đoàn quân xe tăng 3 đã về đến Kiev. Ngày 2 tháng 4, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) lập tức được lệnh điều động Quân đoàn xe tăng 11 quay về phía Bắc. Dự kiến phải đến ngày 4 tháng 4, Quân đoàn này mới có thể tiếp cận vị trí bị đột phá. Trong khi đó, Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) đã để mất cây cầu đường sắt qua sông Koropets ở Chertkov và quân Đức lũ lượt kéo qua cây cầu này. Quân đội Liên Xô chỉ còn cách sử dụng không quân và pháo binh dựng màn đạn bắn chặn đường rút lui của quân Đức. Một sĩ quan tham mưu của Sư đoàn xe tăng 16 (Đức) bị bắt làm tù binh cho biết, họ được lệnh vứt lại tất cả mọi vũ khí hạng nặng để dùng xe cơ giới hạng nhẹ có bánh xích chạy thoát cho nhanh. Ngày 4 tháng 4, Lữ đoàn xe tăng cận vệ 44 đến khu vực Chertkov nhưng không đủ sức giành lại cây cầu đường sắt. Chỉ huy lữ đoàn, đại tá G. A. Gasparyan phải chuyển sang đánh phá các bến vượt sông của bộ binh Đức tại Biala Kernitsy (???) và Lenchuvky (???). Ngày 5 tháng 4, Lữ đoàn xe tăng 45 (Quân đoàn xe tăng cận vệ 11) cũng tới nơi nhưng đã muộn. Phần lớn số quân Đức thoát vây đã sang bên kia sông Koropets và đánh vào sau lưng Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô). Sư đoàn bộ binh 359 của Quân đoàn bộ binh 107 (Liên Xô) có nguy cơ bị bao vây do chịu các đòn công kích của quân Đức cả từ hướng Buchak và từ hướng Chertkov. Lữ đoàn xe tăng 45 cùng với Lữ đoàn xe tăng cận vệ 13 (Quân đoàn xe tăng cận vệ 4) đã kịp thời giải vây cho Sư đoàn bộ binh 359. Từ ngày 6 đến ngày 15 tháng 2, các trận đánh chặn đẫm máu tiếp tục diễn ra trên những con đường mòn từ Chertkov đi Buchach. Chiến sự diễn ra khắp khu vực Bilchye (???), Gypsiets, Losyach (???), Davidkovtsy (???) và Ezerzhany (???). Đây là nhóm quân Đức lớn nhất trong các nhóm quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 đang tháo chạy về phía Tây. Nó gồm hơn 30.000 người, gần 200 xe tăng, hơn 4.000 ô tô các loại nhưng không còn pháo binh. Các lữ đoàn xe tăng 44, 45 (Tập đoàn quân xe tăng 1), các lữ đoàn cơ giới cận vệ 16, 17, 29 (Tập đoàn quân xe tăng 4) liên tục tập kích vào bên sườn các sư đoàn xe tăng Đức đang yểm hộ cho bộ binh rút lui. Tuy nhiên, bản năng sống đã thôi thúc các sĩ quan và binh lính Đức chống trả kịch liệt. Các lữ đoàn xe tăng, cơ giới Liên Xô không thể chia cắt được khối quân Đức đang ùn ùn rút lui. Dòng thác ô tô, xe máy đủ loại của quân Đức liên tục đổ về phía Tây, bất chấp pháo binh Liên Xô trút hỏa lực bắn chặn trên dọc đường rút lui. Ngày 15 tháng 2, tàn quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) về đến Maryampol và Stanislav (Stanislavka) với không quá 50% quân số các sư đoàn còn sống sót, kể cả những người bị thương. Tổn thất vật chất gồm 357 xe tăng, 42 pháo tự hành và 280 khẩu pháo. Ngày 17 tháng 2, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô lệnh cho Phương diện quân Ukraina 1 chuyển trạng thái sang phòng ngự tích cực. Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng. Kết quả. Sau chiến dịch Proskurov–Chernovtsy, quân đội Liên Xô đã tiến sâu 80-350 cây số, giải phóng một vùng lãnh thổ rộng lớn ở hữu ngạn sông Dniepr và tiếp cận đến dãy núi Carpath, cắt đứt đường liên lạc giữa các tuyến quân Đức và xé cụm Tập đoàn quân Nam thành hai nửa. Đồng thời, Hồng quân cũng giáng cho các Tập đoàn quân thiết giáp số 1 và số 4 của Đức những thiệt hại nặng nề, 21 sư đoàn Đức mất hơn 50% quân số và thiết bị. Các sư đoàn còn lại đều thiệt hại lớn về người và vũ khí. Theo các số liệu của Sovinform Liên Xô (nay là Thông tấn xã RIA Novosti), quân Đức bị loại khỏi vòng chiến 183.310 người, trong đó có 24.950 người bị bắt làm tù binh. Theo tổng kết của tướng K. S. Moskalenko, tập đoàn quân của ông đã diệt và bắt 32.000 sĩ quan, binh lính Đức, tịch thu trên chiến trường 272 xe tăng, 2.177 khẩu pháo, 1.365 súng cối, 31.468 ô tô các loại và 61 máy bay. Theo tướng D. D. Lelyushenko tổng kết, chỉ tính khu vực tác chiến của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) đã có 460 xe tăng và xe bọc thép Đức bị phá hủy (trong đó có 72 xe tăng Tiger I), 386 pháo và súng cối bị tịch thu. Quân đội Liên Xô còn phá hủy và tịch thu 9.500 ô tô, 250 mô tô, 60 máy kéo, hơn 60 kho nhiên liệu, đạn dược và thực phẩm; 152 máy bay Đức bị bắn rơi, 60 chiếc khác bị tịch thu; hơn 20.000 quân Đức chết trận, 14.000 người khác bị bắt làm tù binh. Trong số các sư đoàn Đức bị tổn thất, Sư đoàn cơ giới 20 và Sư đoàn bộ binh 371 bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Tướng Hermann Niehoff, chỉ huy Sư đoàn bộ binh 371 bị tử trận ngày 15 tháng 3. Theo các báo cáo còn lưu trữ được của Bộ tham mưu các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 Đức (Pz AOK 1 và Pz AOK 4), tổng số thiệt hại của cả hai tập đoàn quân từ tháng 3 đến trung tuần tháng 4 năm 1944 gồm 14.329 người chết và mất tích, 31.319 người bị thương. Trong đó, 8.702 người chết và mất tích, 18.032 người bị thương thuộc Tập đoàn quân xe tăng 1; 5.627 người chết và mất tích, 13.297 người bị thương thuộc Tập đoàn quân xe tăng 4. Đáng chú ý là các số liệu thương vong của Tập đoàn quân xe tăng 1 từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 10 tháng 4 năm 1944 đều do Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức Quốc xã (OKW) tạm tính. Riêng Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) không có báo cáo thương vong từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1944. Quân đội Liên Xô cũng chịu những tổn thất không nhỏ. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 chỉ còn lại hơn 50 xe tăng và phải rút khỏi cuộc chiến, đưa về lực lượng dự bị để củng cố lại. Tập đoàn quân xe tăng 4 cũng suy yếu nặng, chỉ còn lại hơn 90 xe tăng, không thể hoàn thành được nhiệm vụ chủ công trong việc chia cắt và tiêu diệt cụm quân Đức bị vây. Quân đội Liên Xô cũng không thể ngăn chặn gần 40.000 quân Đức thoát khỏi vòng vây. Một Stalingrad mới đã không được lặp lại. Quân đội Liên Xô đã tiến sâu từ 80 đến 350 km về phía Tây, giải phóng một phần lãnh thổ Ukraina rộng gần 42 nghìn km vuông, với ba trung tâm quan trọng của khu vực là Novo Ukraina - Vinnitsa, Kamenetz-Podolsk, Chernovtsy và 57 thị xã, thị trấn khác. Đánh giá. Quân đội Liên Xô. Điểm mạnh Thành công lớn nhất của Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 là việc họ chọn hướng tấn công chính tương đối bất ngờ và thuận lợi cho các cuộc đột kích bằng xe tăng nhưng lại phù hợp với một yếu tố ảnh hưởng lớn đến tác chiến, đó là địa hình. Nếu tấn công theo hướng cũ từ Đông sang Tây như các chiến dịch trước đó, tốc độ tấn công bị giảm đi rất nhiều không chỉ do đối phương phòng ngự cứng rắn mà còn do sự ngăn cách của chướng ngại sông nước. Bất kỳ bên nào trong chiến tranh thông thường cũng dựa vào chướng ngại sông nước để tăng hiệu quả phòng ngự. Kinh nghiệm các chiến dịch vượt sông Dniepr năm 1943 và các chiến dịch tấn công vượt sông khác cho thấy các cuộc tấn công vượt sông thường gây ra những tổn thất lớn về người và vũ khí, trang bị; việc chuẩn bị vượt sông cho xe tăng, cơ giới và pháo binh hạng nặng đòi hỏi thời gian và phương tiện đặc chủng, tốc độ tấn công bị giảm xuống rất nhiều. Vì vậy, tấn công theo các "cửa ngõ tự nhiên" dọc các Thung lũng sông ngòi tạo ra lợi thế cho các phương tiện cơ giới. Trong chiến dịch Proskurov–Chernovtsy, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 đã chọn hướng đột kích chính từ Bắc xuống Nam, dọc theo các con sông Zalozh, Khoryn, Zbruch và năm con sông nhỏ khác chảy dọc từ cao nguyên Khmelnik đổ vào sông Dniestr theo hướng Bắc - Nam. Hướng tấn công dọc theo Thung lũng các con sông kể trên của ba tập đoàn quân xe tăng 1, 4 và cận vệ 3 (Liên Xô) trong chiến dịch này đã gần như loại bỏ được chướng ngại sông nước, một thứ rào cản hữu hiệu đối với xe tăng, cơ giới. Các đòn tấn công này cũng loại bỏ được những hàng rào phòng ngự mà quân Đức thiết lập dọc theo các con sông. Các quân đoàn xe tăng Liên Xô có thể nhanh chóng tiếp cận hậu tuyến của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) phá hủy các căn cứ hậu cần, làm rối loạn đội hình và kế hoạch tác chiến của đối phương, giành thế chủ động ngay trong giai đoạn đột phá đầu tiên. Trong chiến dịch này, Quân đội Liên Xô đã tập trung cả ba Tập đoàn quân xe tăng và hai Tập đoàn quân bộ binh vào cùng một hướng tấn công thuận lợi nhất, đột phá trên một địa đoạn hẹp và sau đó tỏa ra tấn công theo hình rẻ quạt. Các tập đoàn quân bộ binh đã yểm hộ tương đối tốt các bên sườn cho các Tập đoàn quân xe tăng đột kích sâu trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Sức đột phá của đội quân xe tăng lên đến hơn 1.000 chiếc đã tạo ra những "lỗ thủng" lớn không thể "vá" lại trên phòng tuyến của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Trong giai đoạn đầu và giai đoạn 2 của chiến dịch, chỉ một đòn đột kích sâu của các Tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Liên Xô) đã hoàn toàn bỏ lại sau lưng những sư đoàn xe tăng Đức đang phòng thủ trên tuyến đầu, buộc các sư đoàn này phải xoay chính diện về phía Nam và bị các Tập đoàn quân bộ binh Liên Xô đột kích từ sau lưng. Đòn đột kích đó cũng tạo ra tuyến chia cắt sâu và rộng giữa hai Tập đoàn quân xe tăng lớn của Đức trên cánh Bắc Cụm tập đoàn quân Nam, đẩy hai tập đoàn quân này vào thế bị động đối phó trên nhiều hướng cùng một lúc. Do đó, quân Đức bị phân tán lực lượng, không còn đủ sức tập trung binh lực để mở các trận phản kích lớn, giành lại các vị trí đã mất. Việc giữ bí mật hướng tấn công chính cũng là một trong các yếu tố quan trọng tạo nên thành công của quân đội Liên Xô trong giai đoạn thực hành chiến thuật đột phá và bao vây. Tập đoàn quân xe tăng 1 vốn đang hoạt động ở Pogrebishensky, phía trước Vinitsa được bí mật điều động đến Shepetovka là bất ngờ thứ nhất đối với Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Điều bất ngờ thứ hai là Tập đoàn quân này được sử dụng làm thê đội 2 để phát triển đột kích sâu ở giai đoạn 2 của chiến dịch đã tạo hiệu quả rất lớn. Tướng Hans-Valentin Hube hoàn toàn không thể ngờ rằng xe tăng Liên Xô từ phía Bắc có thể đột kích sâu đến Chernovtsy. Trong khi theo tư duy quân sự thông thường, các tập đoàn quân xe tăng của Phương diện quân Ukraina 2 sẽ làm việc đó bởi Chernovtsy nằm trong chiều sâu nhiệm vụ của họ trên chính diện được phân công. Điểm yếu Nếu như trong Chiến dịch Stalingrad, không có đơn vị nào của quân Đức thoát vây bằng đường bộ hay ở Chiến dịch hợp vây Korsun-Shevchenkovsky chỉ có không quá 10% quân Đức thoát vây bằng đường bộ thì ở chiến dịch Proskurov–Chernovtsy, ít nhất 1/3 quân Đức trong vòng vây đã chạy thoát. Đó không chỉ là một vài đơn vị nhỏ lẻ mà có đến gần chục trung đoàn, bao gồm cả một số lượng đáng kể xe tăng, cơ giới. Đây là điều rất khó chấp nhận đối với I. V. Stalin. Đối với Quân đội Liên Xô, chiến dịch Proskurov–Chernovtsy được giới nghiên cứu lịch sử Nga coi là thành công nhưng không thực sự toàn vẹn. Ngay từ khâu vạch kế hoạch, đã có sự không ăn khớp giữa Bộ Tổng tham mưu với Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 và Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 2. Trong khi đòn vu hồi sâu của ba tập đoàn quân xe tăng 1, 4, và cận vệ 3 cần có sự phối hợp ở phía Nam từ Phương diện quân Ukraina 2 nhưng trong kế hoạch Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani, Bộ Tổng tham mưu đã không coi trọng đúng mức hướng phụ công do cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 thực hiện mặc dù hai chiến dịch này gần như diễn ra đồng thời. Hướng tấn công chính của Phương diện quân Ukraina 2 được Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô chỉ định gồm hai tuyến chính: từ Ladyzhin, Gayvoron, Novo-Ukrainka đến Mogilev-Podolsky-Yagorlyk ở giai đoạn 1 và tuyến sông Prut ở giai đoạn 2, không hề có nhiệm vụ nào đề cập đến các mục tiêu Kopaygorod và Khotin, những địa điểm có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phối hợp bao vây cụm quân Đức ở Kamenets - Podolsky. Trong quá trình triển khai chiến dịch, Tập đoàn quân 40 bên cánh cực hữu của Phương diện quân đã phải san sẻ bớt hỏa lực của mình gồm 300 khẩu pháo để hỗ trợ cho Tập đoàn quân 27 đột phá sâu, trong khi Tập đoàn quân 40 có vai trò phối hợp không nhỏ đối với việc hợp vây Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) ở Kamenets - Podolsky. Không những thế, Phương diện quân Ukraina 2 còn được giao thêm nhiệm vụ sử dụng cánh trái, gồm các tập đoàn quân cận vệ 5, cận vệ 7 hỗ trợ cho Tập đoàn quân 57 (Phương diện quân Ukraina 3) thực hiện chiến dịch hợp vây Tập đoàn quân 6 (Đức) tại khu vực Bereznegovatoye-Snigirevka. Nhiệm vụ này đã "hút" các tập đoàn quân của Phương diện quân Ukraina 2 lệch dần về phía Nam trong quá trình tấn công để không làm rộng giãn cách giữa các tập đoàn quân và các quân đoàn. Kết quả là giãn cách giữa Phương diện quân Ukraina 1 và Phương diện quân Ukraina 2 trở nên quá rộng, buộc Tập đoàn quân xe tăng 1 của Phương diện quân Ukraina 1 phải tiến sâu hơn về phía Nam và kéo căng đến tận Seret trên tuyến sông Prut trong khi họ có thể dừng lại ở tuyến Chernovtsy - Kolomyia, đủ để đảm bảo mật độ tuyến bao vây bên ngoài và thu hẹp chính diện cho Tập đoàn quân cận vệ 1. Đến gần cuối giai đoạn hai của chiến dịch Uman–Botoşani, Tập đoàn quân cận vệ 7 mới được rút ra khỏi hướng Pervomaisk - Dubotsary để "chêm" vào giãn cách giữa Tập đoàn quân 40 và Tập đoàn quân 27 thì Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã lợi dụng tuyến bao vây mỏng yếu của Tập đoàn quân cận vệ 1 để phá vây. Sai lầm trong đánh giá tin tức tình báo của G. K. Zhukov và Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 về hướng phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã dẫn đến việc tập trung lực lượng của các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Liên Xô) quá sâu về phía Tây Nam khu vực Kamenets - Podolsky, khiến cho tuyến bao vây cả bên trong và bên ngoài ở hướng Tây, nơi tiếp giáp gần nhất giữa Tập đoàn quân xe tăng 1 với Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) còn đang sung sức trở nên mỏng yếu. Đến khi phát hiện quân Đức phá vây về hướng này, Bộ tư lệnh Phương diện quân mới điều động Tập đoàn quân xe tăng 1 quay lại phía Bắc thì thời gian đã trôi qua mất ba ngày quý giá. Các lữ đoàn xe tăng phái đi trước của Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 không đủ sức ngăn cản cuộc đột phá qua vòng vây của 4 sư đoàn xe tăng Đức. Trong khi đó, các tập đoàn quân 18 và 38 vẫn giữ nguyên chiến thuật đánh kiềm chế như cũ, không kịp thời tung các quân đoàn chủ lực để cùng với Tập đoàn quân xe tăng 4 truy kích vào sau lưng cánh quân Đức đang rút lui. Điểm yếu cuối cùng của Quân đội Liên Xô vẫn là vấn đề hậu cần. Trên các báo cáo thì việc tập trung quân số, phương tiện, tích lũy đạn dược, nhiên liệu, thực phẩm đều bảo đảm cho giai đoạn đột phá đầu tiên và có kế hoạch cho các giai đoạn sau đó nhưng trên thực tế, việc thực hiện không được như dự kiến. Trong 15 cơ số xăng dầu cần đáp ứng cho các Tập đoàn quân xe tăng, chỉ có 7 cơ số ban đầu được đưa đến đúng kỳ hạn và địa điểm tiếp nhận, đạt chưa đầy 50%. Số còn lại đến rải rác và thường không theo kịp tốc độ tấn công của các quân đoàn xe tăng, cơ giới. Mặc dù được tiếp tế đủ đạn dược nhưng chủng loại đạn dùng cho pháo tăng không phải lúc nào cũng đáp ứng được yêu cầu của tình huống chiến đấu thực tế. Tại Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3, đã có lúc pháo tăng phải dùng chung đạn trái phá cùng cỡ (85 mm và 76 mm) của pháo tự hành, ảnh hưởng không nhỏ đến hỏa lực của xe tăng khi tấn công. Các xe tăng IS-1 và IS-2 của Liên Xô có đủ cơ số đạn pháo 100 mm và 122 mm (mỗi cơ số 28 viên) nhưng số lượng còn ít, tốc độ chậm (chỉ 37 km/h), sức cơ động không cao nên khả năng đáp ứng được yêu cầu đẩy nhanh tốc độ đột phá bị hạn chế. Nhưng dù sao thì chiến thắng của Phương diện quân Ukraina 1 cũng đạt được mục tiêu chiến lược rất lớn, đó là chia cắt hai cánh Nam, Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức). Giờ đây, khi chuyển quân từ Bắc xuống Nam và ngược lại, quân Đức buộc phải đi vòng qua dãy núi Carpath trên một địa hình đồi núi, giao thông không phát triển, đặc biệt là về đường sắt. Những tuyến mặt trận mà Quân đội Liên Xô mới chiếm lĩnh được tại Beretechko, Tarnopol, Chernovtsy, Kolomyia đã trở thành bàn đạp tấn công thuận lợi cho Chiến dịch Lvov–Sandomierz và Chiến dịch Đông Carpath diễn ra sau đó ít lâu. Quân đội Đức Quốc xã. Điểm mạnh Mặc dù đã suy giảm sức mạnh khá nhiều nhưng vào dầu năm 1944, quân đội Đức Quốc xã vẫn do những viên tướng có nhiều kinh nghiệm chỉ huy. Trong đó, phải kể đến Thống chế Erich von Manstein được coi như người cứu vãn quân đội Đức Quốc xã kể từ sau trận thảm bại ở Stalingrad. Quân đội Đức vốn có kỷ luật cao đã tổ chức phòng ngự rất cứng rắn, buộc đối phương của họ phải tổ chức những đòn đột phá tổng hợp với quy mô lớn của cả bộ binh, xe tăng, pháo binh và không quân mới có thể vượt qua được. Điều không may cho họ là người Nga vốn có tiềm lực và kinh nghiệm sử dụng pháo binh thành thạo ở quy mô lớn trong khi hỏa lực pháo binh của quân Đức được chia sẻ cho cả xe tăng và pháo binh. Chiến thuật phòng thủ bằng cơ động xe tăng của Erich von Manstein vẫn phát huy hiệu quả trên chiến trường Tây Ukraina và cả sau khi ông ta bị Hitler cách chức. Chiến thuật đó đã gây không ít khó khăn cho bộ binh và xe tăng Liên Xô nếu không dùng đến chiến thuật tổng hợp của pháo binh, bao gồm cả pháo tầm xa, lựu pháo, pháo chống tăng, pháo tự hành và hỏa tiến Katyusha với mật độ cao. Xét về hình thức logic thông thường, việc bố trí phòng ngự của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) chủ yếu hướng về phía Tây và dựa vào các tuyến sông là hợp lý. Việc bố trí các sư đoàn xe tăng xen kẽ với các sư đoàn bộ binh để hỗ trợ nhau trong phòng ngự cũng đem lại hiệu quả giống như điều mà quân đội Đức Quốc xã đã làm trong Chiến dịch tấn công Zhitomir–Berdichev. Các cụm chốt phòng ngự của quân Đức đều được bố trí ở các đầu mối giao thông, các bến vượt sông quan trọng có thể làm giảm tối đa tốc độ tấn công của đối phương. Điều này thể hiện rõ hiệu quả ở phía Đông khu vực Proskurov, Khmelnik, Vinitsa, nơi diễn ra các đòn tấn công vỗ mặt của ba tập đoàn quân Liên Xô. Điểm yếu Cho dù các cựu sĩ quan chỉ huy và tham mưu Đức Quốc xã sau này có tự an ủi rằng mình đã có một cuộc thoát vây tạm coi là thành công thì hậu quả tổn thất cả về thế và lực của Tập đoàn quân xe tăng một trong vòng vây cũng Tập đoàn quân xe tăng 4 ứng cứu cho quân Đức phá vây cũng không hề nhỏ. Qua đó, thế trận và binh lực của Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) cũng bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng bởi các tổn thất đó. Nguyên nhân thất bại đầu tiên của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) chính là ước lượng tình báo sai lầm về hướng tấn công chính của quân đội Liên Xô. Ngay cả khi Tập đoàn quân 13 và 60 (Liên Xô) bằng Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk đã tạo ra một bàn đạp nhô ra về phía Bắc Tập đoàn quân xe tăng 1 thì các tướng lĩnh và sĩ quan tham mưu của Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam cũng như Tập đoàn quân xe tăng 4 đều cho rằng, người Nga sẽ giáng đòn tiếp theo vào Kovel. Lính biệt kích quân báo Đức cũng phát hiện ra xe tăng Liên Xô có mặt tại Shepetovka từ đầu tháng 3 nhưng không xác định được quy mô, số lượng và kế hoạch hành động của quân đội Liên Xô. Do phán đoán sai lầm về hướng tấn công chính của quân đội Liên Xô nên trên khu vực Proskurov - Kamenets Podolsky, các sư đoàn Đức vẫn "ngoảnh mặt" về hướng Đông. Khi chủ lực Phương diên quân Ukraina 1 tấn công từ phía Bắc, các sư đoàn Đức phải "xoay bản lề" để chống đỡ nhưng địa hình khu vực gồm tám con sông nhỏ chảy theo hướng Bắc - Nam đã làm cho các sư đoàn Đức bị chia cắt về địa hình trước khi bị chia cắt về thế trận quân sự. Điểm yếu tiếp theo thuộc về chính chiến thuật phòng ngự cơ động bằng xe tăng, một "phát minh" của cả thống chế Von Manstein và tướng Paul Ludwig Ewald von Kleist. Nếu trong điều kiện mùa hè ở thảo nguyên Kuban cũng như thảo nguyên Đông Ukraina khô ráo thì chiến thuật này rất đắc dụng. Nhưng tại miền Tây Ukraina với địa hình phức tạp hơn, bị chia cắt bởi nhiều con sông nhỏ và các Thung lũng sâu thì chiến thuật này đã làm cho các sư đoàn xe tăng Đức rơi vào những "cái bẫy" do chính họ tạo ra. Dù đã tính toán đến việc sử dụng mạng lưới đường sắt khá phát triển trong miền Tây Ukraina nhưng trong các khu vực mặt trận hẹp bị nhiều sông ngòi chia cắt vào mùa xuân tan băng, các xe tăng Đức, đặc biệt là các xe tăng hạng nặng Tiger I cũng như xe tăng hạng trung cải tiến Panther đã mắc kẹt trong bùm lầy. Tốc độ không cao và sức cơ động giảm đã làm những cỗ xe tăng hiện đại không hơn gì những lô cốt cố định bằng thép. Bắt đầu từ năm 1944, các chỉ huy quân đội Đức Quốc xã dù có nhiều kinh nghiệm tác chiến đã trở nên cứng nhắc và chạm chạp hơn trong hành động, khác hẳn với tính linh hoạt sáng tạo của chính họ hồi 1941-1942. Điển hình là Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức). Khi cho Tập đoàn quân xe tăng 1 "mượn" một số sư đoàn xe tăng để sử dụng trong cuộc giải vây cho Cụm tác chiến B, Tập đoàn quân này gần như không có trách nhiệm chỉ huy được quân của mình, trong khi tướng Hans-Valentin Hube không thể quán xuyến nổi một đội quân thiết giáp đông không kém một Cụm tập đoàn quân. Hậu quả đã diễn ra khi quân đội Liên Xô chia cắt hai tập đoàn quân xe tăng Đức bằng đòn đột kích cực mạnh của cả ba tập đoàn quân xe tăng, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đã phản ứng không đủ quyết liệt để chí ít cũng làm chậm lại đòn đột kích đó. Để diễn ra sự phối hợp tác chiến lỏng lẻo giữa hai tập đoàn quân xe tăng mạnh nhất nhì mặt trận phía Đông chính là lỗi của người chỉ huy, của thống chế Erich von Manstein, cho dù Hitler không đề cập đến điều này khi cách chức ông ta. Cuối cùng, chính Hitler phải là người chịu trách nhiệm cao nhất về thất bại của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Mơ tưởng đến việc biến các thành phố, thị xã, thị trấn miền Tây Ukraina thành các pháo đài, Hitler đã bỏ ngoài tai lời khuyên bảo của tổng tham mưu trưởng quân đội Đức khi đó là tướng Kurt Zeitzler rằng cần rút một số vị trí về phía Tây để nắn thẳng tuyến mặt trận, tránh các "chỗ lồi" nguy hiểm ở hai bên sườn và thu hẹp chính diện để tăng mật độ binh lực, hỏa lực và trang bị trong tác chiến phòng thủ có chiều sâu. Đối với Hitler, tư duy chính trị đã thắng tư duy quân sự và hậu quả là có thêm hàng hàng chục vạn lính Đức chết trận, mặt trận của quân Đức vẫn bị đẩy lùi về phía Tây và giới tướng lĩnh quân sự Đức đã không còn coi trọng ông ta như trước đây nữa. Ảnh hưởng. Thất bại nặng nề của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tại Chiến dịch Proskurov–Chernovtsy đã đặt dấu chấm hết cho Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sau 33 tháng tung hoành trên khắp các vùng đất Ukraina, thảo nguyên Kuban, bán đảo Krym, thảo nguyên Volga - Don. Ngày 4 tháng 4 năm 1944, Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía Đông truyền chỉ thị của Führer chia Cụm tập đoàn quân Nam làm đôi. Từ Krasnoilsk trên sườn Đông dãy Carpath (Tây Nam Chernovtsy 45 km) đến phía Bắc Kovel 30 km là chính diện phòng ngự của Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina. Từ thị trấn Krasnoilsk xuống phía Nam, đến Biển Đen là chính diện phòng ngự của Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina, gồm các Tập đoàn quân 6, 8 (Đức) và các tập đoàn quân 3, 4 (Romania) và kiêm quản cả Tập đoàn quân 17 đang bị vây ở Krym. Thượng tướng Walter Model được phong Thống chế từ ngày 1 tháng 3, nguyên tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc được Hitler chỉ định làm Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina. Thượng tướng Ferdinand Schörner được giao tạm quyền chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina. Đến ngày 25 tháng 7, Thượng tướng Johannes Frießner được chỉ định làm Tư lệnh Cụm tập đoàn quân này. Tuy được tách làm hai nhưng sự hiệp đồng giữa hai cụm tập đoàn quân này vẫn rất khó khăn vì bị dãy núi Carpath ngăn cách. Mặc dù một số lượng lớn quân Đức đã thoát khỏi vòng vây nhưng thất bại của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) làm cho Hitler "điên tiết" và ông ta bắt đầu đi tìm những "vật tế thần". Giới quân sự Đức rất ngạc nhiên khi hai thống chế hàng đầu của quân đội Đức Quốc xã phải chịu cơn thịnh nộ của Hitler là Erich von Manstein và Paul Ludwig Ewald von Kleist. Trong buổi lễ huyền chức của hai vị thống chế này, sau khi trao tặng họ các Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ hạng nhất và thanh kiếm danh dự, Hitler đã nói với Manstein: Do hao hụt quân số quá lớn, nguồn động viên từ nước Đức và các nước Trung Âu không đủ, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã phải bổ sung trang bị cho quân đội các nước chư hầu Đông Âu (Hungary, Rumania, Slovakia) những vũ khí, kỹ thuật hiện đại hơn để sử dụng các đơn vị này chiến đấu dưới sự chỉ huy của các tư lệnh Đức Quốc xã. Các tập đoàn quân Romania 3, 4; Tập đoàn quân Hungary 1; Quân đoàn Slovakia đều có các tướng lĩnh quân sự Đức tham gia chỉ huy và các sĩ quan cao cấp SS giám sát để đảm bảo sự trung thành của họ đối với nước Đức Quốc xã. Kết quả chiến dịch đã đem lại cho quân đội Liên Xô một thế trận thuận lợi hơn rất nhiều so với khi họ phải vượt sông Dniepr. Mỗi cụm tập đoàn quân Đức ở biên giới Ukraina giờ đây phải đối phó với 2 phương diện quân Liên Xô có ưu thế về người và vũ khí trang bị. Trong khi các cụm tập đoàn quân Đức bị chia cắt bởi đầm lầy Polesia ở phía Bắc và dãy Carpath ở giữa mặt trận thì Quân đội Liên Xô lại có thể tự do cơ động lực lượng của họ trên các tuyến đường sắt ở khắp Ukraina để chuẩn bị cho chiến cục mùa hè. Quân đội Liên Xô bắt đầu các hành động quân sự trên lãnh thổ nước ngoài và họ được các lực lượng kháng chiến chống Đức Quốc xã ủng hộ, trong đó có nhiều tổ chức cộng sản, những người cùng chí hướng với họ. Nhiều tổ chức dân tộc chủ nghĩa khác cũng hợp tác với những người cộng sản ở Rumania, Bulgaria và Slovakia. Những hoạt động vũ trang và các trận đánh theo chiến thuật du kích của họ dù không có hiệu quả bằng hoạt động của du kích Liên Xô những cũng đủ làm cho hậu phương trực tiếp của quân Đức luôn trong tình trạng bất ổn. Nguyên soái G. K. Zhukov, người trực tiếp chỉ huy chiến dịch chỉ được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng hạng nhất (lần thứ tư). I. V. Stalin đã hạ một mức khen thưởng đối với ông vì chiến dịch đã không thành công trọn vẹn. Khi về đến Moskva để dự hội nghị bàn kế hoạch hoạt động quân sự mùa hè 1944 tại Byelorussia, G. K. Zhukov đã không đến nhận huân chương mà đi thẳng đến phòng làm việc của Stalin. Trước khi khai mạc hội nghị, I. V. Stalin đã phải nhắc ông đến phòng làm việc của N. M. Shvernik để nhận tấm huân chương này. Sau chiến dịch này, 31 đơn vị chiến đấu xuất sắc của quân đội Liên Xô đã được trao tặng các tên gọi danh dự tương ứng với các địa danh trong chiến dịch. Tập đoàn quân xe tăng 1 được phong danh hiệu "Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1" ngày 25 tháng 4 năm 1944. Tướng M. E. Katukov, tư lệnh tập đoàn quân và các sĩ quan cao cấp chỉ huy các quân đoàn xe tăng, cơ giới thuộc tập đoàn quân tặng thưởng Huân chương Suvorov hạng nhất. Quân đoàn cơ giới cận vệ 10 (Tập đoàn quân xe tăng 4) được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ.
122
463
15,545
1312587
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1312587
Họ Cá mút
Họ Cá mút (danh pháp khoa học: Catostomidae) là một họ thuộc bộ Cypriniformes. Có 78 loài cá nước ngọt còn sinh tồn trong họ này, được tìm thấy chủ yếu ở Bắc Mỹ, với 1 loài ("Myxocyprinus asiaticus") ở lưu vực sông Dương Tử tại miền đông trung bộ Trung Quốc, 1 phân loài có ở Bắc Mỹ và đông Xibia ("Catostomus catostomus catostomus") và 1 loài ("Ictiobus meridionalis") ở Trung Mỹ. Các chi và loài. Họ Cá mút ("Catostomidae"), chủ yếu là trong các chi "Catostomus" (27 loài) và "Moxostoma" (22 loài). Phân loại dưới đây dựa theo Nelson 2006. Phát sinh chủng loài. Cây phát sinh chủng loài dưới đây vẽ theo Chen & Mayden (2012). Từ cây phát sinh chủng loài này có thể thấy chi "Catostomus" là không đơn ngành và tốt nhất có lẽ nên gộp cả các chi "Chasmistes", "Deltistes" và "Xyrauchen". Tông Thorbuniini là cận ngành trong tương quan với tông Moxostomatini.
5
9
160
1312617
797883
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1312617
Cá chạch lá tre
Cá chạch lá tre (danh pháp hai phần: Macrognathus siamensis) là một loài cá nhiệt đới thuộc họ Mastacembelidae. Nó là loài cá cảnh. "Macrognathus siamensis" có chiều dài tối đa . "M. siamensis" là cá nước ngọt, được tìm thấy ở tầng đáy. Nó sinh sống ở các sông Đông Nam Á, bao gồm sông Mekong, Chao Phraya, và Mae Klong. Ban ngày, "Macrognathus siamensis" vùi mình dưới đáy sông, ban đêm chui ra ăn côn trùng, giáp xác và giun.
2
6
82
1312649
186726
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1312649
Sân bay Hải quân Hoàng gia Thái Lan U-Tapao
Sân bay Hải quân Hoàng gia Thái Lan U-Tapao là một sân bay của không lực hải quân Thái Lan và là căn cứ của Không đoàn 1 Hải quân Hoàng gia Thái Lan. Nó cách Bangkok khoảng 140 km về phía Đông Nam, sát bờ vịnh Thái Lan, thuộc địa phận huyện Sattahip tỉnh Rayong. Trước năm 1965, U-Tapao chỉ là một sân bay nhỏ của quân đội Thái Lan. Khi Chiến tranh Việt Nam nổ ra, Thái Lan cho Hoa Kỳ sử dụng sân bay U-Tapao làm căn cứ cho các máy bay B-52 oanh tạc xuống các chiến trường ở Nam - Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Quân đội Hoa Kỳ đã đầu tư xây dựng mở rộng và hiện đại hóa U-Tapao thành một trong những sân bay lớn nhất và hiện đại nhất Đông Nam Á. Ngày 10 tháng 1 năm 1972, sân bay U-Tapao bị một đơn vị đặc công tấn công. Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, quân đội Mỹ rút dần khỏi U-Tapao. Ngày 13 tháng 6 năm 1976, sân bay này được không quân Hoa Kỳ trao trả cho chính phủ Thái Lan. Bắt đầu từ 1981, sân bay U-Tapao nhiều lần là nơi tổ chức cuộc tập trận Hổ Mang Vàng. Thái Lan cũng cho Hoa Kỳ sử dụng sân bay U-Tapao vào mục đích hậu cần cho các chiến dịch quân sự ở Iraq và Afganistan.
4
9
239
1312650
616481
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1312650
Ginza
Ginza (銀座 "Ngân Toạ", ぎんざ) là một quận của khu Chūō, Tokyo, nằm về phía nam của Yaesu và Kyōbashi, phía tây của Tsukiji, phía đông của Yūrakuchō và Uchisaiwaichō và phía bắc của Shinbashi. Nó được biết đến như một khu vực sầm uất của Tokyo với nhiều cửa hàng bách hóa, cửa hàng thời trang, nhà hàng và quán cà phê. Ginza, nơi tập trung đông nhất các cửa hiệu phương Tây ở Tokyo, cũng được công nhận là một trong những quận mua sắm sang trọng nhất thế giới. Nhiều cửa hiệu thời trang cao cấp có mặt ở đây, có thể kể đến như là: Chanel, Dior, Abercrombie & Fitch, Gucci, và Louis Vuitton. Ngoài ra, tại đây còn có những cửa hàng bán lẻ điện tử hàng đầu của các nhãn hàng như Sony hay Apple.
4
5
141
1313129
737265
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1313129
Ho-103
Ho-103(12.7mm kiểu 1) là một súng máy dùng trên máy bay của lực lượng lục quân Đế quốc Nhật Bản. Thiết kế của loại súng này giống như khẩu M2 Browning nhưng sử dụng loại đạn nhỏ hơn và tốc độ bắn nhanh hơn. Loại súng này được chế tạo để thay thế súng máy Kiểu 89 trong việc gắn trên các xe bọc thép khi nhận thấy loại súng này có hỏa lực quá yếu sau chiến dịch Khalkhyn Gol, tuy nhiên Ho-103 đã trở thành loại súng tiêu chuẩn của các máy bay tiêm kích trong lực lượng không quân Đế quốc Nhật Bản khi nó chứng tỏ hỏa lực của mình trong việc chiến đấu trên không tốt hơn các loại súng khác trước đó. Loại súng này đã được sử dụng phổ biến tại mặt trận Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai. Ngoài việc được sử dụng nhiều trên máy bay thì nó còn được sử dụng để chiến đấu dưới mặt đất bằng cách gắn trên các xe bọc thép như kế hoạch phát triển trước đó.
1
5
186
1313140
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1313140
Eurocopter AS365 Dauphin
Eurocopter Dauphin hay còn gọi với tên đầy đủ là Eurocopter SA 365/AS365 Dauphin 2 (Dauphin hay Dolphin tức Cá heo) là loại trực thăng đa năng 2 động cơ nhưng dùng chủ yếu là để vận tải, cứu hộ và chống tàu ngầm do hãng Eurocopter của Pháp sản xuất (ban đầu là Aérospatiale). Thiết kế và phát triển. Eurocopter Dauphin SA 365/AS365 được phát triển từ loại máy bay trực thăng Aérospatiale SA 360 1 động cơ do công ty Aérospatiale của Pháp sản xuất. Dauphin là một trong những mẫu máy bay thành công nhất của Eurocopter cũng như Aérospatiale. Nó rất hữu ích trong công việc cứu hộ, vận tải, y tế, trinh sát trên không và tác chiến điện tử. Nó cũng có khả năng chống ngầm nếu được trang bị vũ khí nhưng phiên bản quân sự của nó là Eurocopter Panther mới thực sự là loại trực thăng chống ngầm. Phiên bản quân sự của Eurocopter SA 365/AS365 Dauphin 2 là AS565 Panther và Eurocopter HH-65 Dolphin. Hoa Kỳ cũng sử dụng phiên bản Eurocopter HH-65 Dolphin cho lực lượng tuần duyên bờ biển nhăm mục đích cứu hộ (SAR) và bảo vệ bờ biển. Dauphin cũng được sản xuất tại theo giấy phép Trung Quốc mang tên Cáp Nhĩ Tân Z-9, tiếng Anh là Harbin Z-9. Z-9 được sản xuất bởi Tổng công ty sản xuất máy bay Cáp Nhĩ Tân. Khoảng 800 trực thăng Dauphin đã được sản xuất với mọi biến thể, phục vụ trong nước và cả xuất khẩu. Có 500 chiếc Dauphin 2 được sản xuất cho đến năm 1981. 90 chiếc Eurocopter EC 155 (phiên bản dân dụng hiện đại hóa của Dauphin) cũng đã được chuyển giao. Tai nạn. Từ khi được đưa vào sử dụng đến nay thì loại máy bay này đã bị khoảng 106 vụ tai nạn với các biến thể khác nhau. Vụ gần đây nhất được biết là một chiếc Dauphin 2 đâm đầu xuống khu thương mại ở thành phố Gwangju thành phố Gwangju tỉnh Gangwon, Hàn Quốc khiến 5 người trên máy bay thiệt mạng khi trở về sau cuộc tìm kiếm 11 nạn nhân còn mất tích trong vụ chìm tàu Sewol vào ngày 17 tháng 7 năm 2014, trước đó vài ngày thì mẫu Harbin Z-9 do Trung Quốc sản xuất của Campuchia cũng đã rơi vào ngày 14 tháng 7 năm 2014 khiến 5 người trên máy bay thiệt mạng trong đó có một chuẩn tướng đang là phó chỉ huy lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia. Biến thể. Về vấn đề tên gọi thì trong thời gian Dauphin được Aérospatiale sản xuất thì các mẫu đều gọi là SA, đến tháng 1 năm 1990 thì chúng được gọi là AS. Ví dụ như mẫu SA 365 được đổi lại khi Eurocppter lên sản xuất là AS 365. Sau này, các máy bay lại được gọi là "EC"' điển hình là chiếc Eurocopter EC 155. Biến thể dân dụng, cứu hộ. Bài chi tiết: Eurocopter EC 155 Xuất hiện tại triển lãm Pari năm 1997. Mẫu thử nghiệm của nó là AS 365N4. Có hệ thống động cơ mới Arriel 2C/2C2. Rotor FADEC 5 lưỡi Spheriflex. Cabin chính lớn hơn tới 30%. Chuyến bay thử vào ngày ngày 17 tháng 6 năm 1997. Đây là mẫu sản xuất chính hiện nay. Phiên bản quân sự. Bài chi tiết:Eurocopter Panther Phiên bản trang bị vũ khí chống tăng, chống tàu ngầm. Cũng có khả năng vận chuyển binh lính. Bài chi tiết:Eurocopter HH-65 Dolphin Phiên bản trinh sát, cứu hộ cứu nạn và tuần tra bờ biển có trang bị radar. Nó được lực lượng tuần duyên bờ biển Hoa Kỳ và cảnh sát biển Hoa Kỳ sử dụng nhiều. Các nước sử dụng. Phiên bản Z-9 Không quân Dominica Không - Hải quân Pháp Cảnh sát biển Ai-len Lực lượng Hải quân Hoàng gia Saudi Cảnh sát biển, tuần duyên bờ biển. Hải quân - Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam, phiên bản AS 365N2/N3. Hải quân Việt Nam có kế hoạch mua thêm một số máy bay trực thăng EC225 và EC155 do Eurocopter chế tạo. Hiện nay, Quân đội Nhân dân Việt Nam đang sở hữu các phiên bản EC-130, EC-135, EC-155, AS-332, EC225, SA-330, AS-350 nhằm mục đích cứu hộ, vận tải và tuần tra bờ biển.
27
38
736
1313614
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1313614
Chim cánh cụt Adélie
Chim cánh cụt Adélie (danh pháp khoa học: Pygoscelis adeliae) là một loài chim trong họ Spheniscidae. Chúng là loài chim cánh cụt phổ biến dọc theo toàn bộ bờ biển Nam Cực. Chúng nằm trong nhóm phân bố cực nam nhất trong tất cả các loài chim biển, như được chim cánh cụt hoàng đế, các Stercorarius maccormicki, Oceanites oceanicus, Pagodroma nivea, Thalassoica antarctica. Trong năm 1840, thám hiểm người Pháp Jules Dumont d'Urville đặt tên loài chim này theo tên vợ ông, Adèle. Phân bố và môi trường sống. Có 38 quần thể chim cánh cụt Adélie, và có hơn 5 triệu con chim cánh cụt Adélie trong khu vực biển Ross. Đảo Ross hỗ trợ một thuộc địa của khoảng nửa triệu con chim cánh cụt Adélie. Các con chim cánh cụt Adélie sinh sản từ tháng 10-12 trên bờ biển khắp nơi trên lục địa Nam Cực. Adélies xây dựng tổ thô bằng đá. Mỗi con mái đẻ 2 quả trứng, được chim cha và chim mẹ thay nhau ấp từ 32 đến 34 ngày (thay đổi thường kéo dài trong 12 ngày). Chim con vẫn còn trong tổ cho 22 ngày trước khi tham gia "nhà trẻ" ("crèche"). Chim con thay lông vào bộ lông vị thành niên của chúng và đi ra biển sau khi 50 để 60 ngày. Chim cánh cụt Adélie sống trong các nhóm gọi là thuộc địa. Mô tả. Chim cánh cụt này có kích thước dài 46 đến 75 cm và cân nặng và 3,6–6 kg với điểm khác biệt là vòng màu trắng xung quanh mắt và lông ở gốc mỏ. Những lông dài che mỏ đỏ. Đuôi dài hơn đuôi chim cánh cụt khác. Bên ngoài trông hơi giống như một "tuxedo". Chúng một chút nhỏ hơn so với các loài chim cánh cụt khác. Chim cánh cụt Adélie có thể bơi đến 45 dặm một giờ (72 km/h). Chim cánh cụt Adélie bị săn bởi hải cấu báo, skua, và thỉnh thoảng bởi arca. Hành vi. Chim cánh cụt Adélie có tính xã hội cao, tìm thức ăn và làm tổ trong các nhóm. Chúng cũng rất tích cực để các chú chim cánh cụt khác ăn cắp viên đá từ tổ của chúng. Chế độ ăn uống. Chim cánh cụt Adélie được biết đến ăn chủ yếu là nhuyễn thể Nam Cực, cá bạc Nam Cực, loài nhuyễn thể biển và mực băng (chế độ ăn uống khác nhau tùy thuộc vào vị trí địa lý) trong mùa nuôi con.
11
26
425
1314137
630332
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314137
Đa diện
Hình đa diện gồm một số hữu hạn đa giác phẳng thỏa mãn hai điều kiện: a) Hai đa giác bất kì hoặc không có điểm chung, hoặc có một đỉnh chung, hoặc có một cạnh chung. b) Mỗi cạnh của một đa giác là cạnh chung của đúng hai đa giác. Hình đa diện chia không gian thành hai phần (phần bên trong và phần bên ngoài). Hình đa diện cùng với phần bên trong của nó gọi là khối đa diện. 2. Mỗi khối đa diện có thể phân chia được thành những khối tứ diện. Số cạnh của hình đa diện luôn lớn hơn hoặc bằng 6 Lịch sử. Tiền sử. Khối đa diện xuất hiện trong các dạng kiến ​​trúc sơ khai như hình khối và hình khối, với các kim tự tháp bốn mặt sớm nhất của Ai Cập cổ đại cũng có niên đại từ thời kỳ đồ đá. Người Etruscan đi trước người Hy Lạp trong nhận thức của họ về ít nhất một số khối đa diện đều, bằng chứng là việc phát hiện ra khối khối đa diện Etruscan làm bằng đá xà phòng trên Monte Loffa. Mặt của nó được đánh dấu bằng các thiết kế khác nhau, gợi ý cho một số học giả rằng nó có thể đã được sử dụng như một khối xúc xắc. Những ghi chép bằng văn bản sớm nhất được biết đến về những hình dạng này đến từ các tác giả Hy Lạp Cổ điển, những người cũng đưa ra mô tả toán học đầu tiên được biết đến về chúng. Những người Hy Lạp trước đó chủ yếu quan tâm đến khối đa diện đều lồi, được gọi là khối rắn Platonic. Pythagoras biết ít nhất ba trong số chúng, và Theaetetus (khoảng năm 417 trước Công nguyên) đã mô tả cả năm. Cuối cùng, Euclid đã mô tả cấu trúc của chúng trong cuốn sách "Elements" của chính mình. Sau đó, Archimedes mở rộng nghiên cứu của mình sang khối đa diện lồi mà bây giờ mang tên của anh ấy. Tác phẩm ban đầu của anh ấy đã bị mất và chất rắn của anh ấy đến với chúng ta thông qua Pappus. Xúc xắc chơi game hình khối ở Trung Quốc đã có từ năm 600 trước Công nguyên Vào năm 236 sau Công Nguyên, Lưu Huy đã mô tả sự phân tách khối lập phương thành tứ diện đặc trưng (orthoscheme) và các chất rắn liên quan, sử dụng các tập hợp các chất rắn này làm cơ sở để tính toán khối lượng trái đất sẽ di chuyển trong quá trình khai quật kỹ thuật. Sau khi kết thúc thời kỳ Cổ điển, các học giả trong nền văn minh Hồi giáo tiếp tục nâng cao kiến ​​thức Hy Lạp. Học giả Thābit ibn Qurra ở thế kỷ thứ 9 đã đưa ra các công thức tính thể tích của các khối đa diện như hình chóp cụt. Sau đó vào thế kỷ thứ 10, Abu al-Wafa' Buzjani đã mô tả khối đa diện hình cầu lồi và hình bán nguyệt. Phục hưng. Cũng như các lĩnh vực khác của tư tưởng Hy Lạp được các học giả Hồi giáo duy trì và nâng cao, mối quan tâm của phương Tây đối với khối đa diện đã hồi sinh trong thời kỳ Phục hưng của Ý. Các nghệ sĩ đã xây dựng các khối đa diện bằng xương, mô tả chúng từ cuộc sống như một phần của cuộc điều tra về quan điểm của họ. Một số xuất hiện trong các tấm gỗ cẩm thạch của thời kỳ này. Piero della Francesca đã đưa ra mô tả bằng văn bản đầu tiên về việc xây dựng hình học trực tiếp của các hình chiếu phối cảnh như vậy của các khối đa diện. Leonardo da Vinci đã tạo ra các mô hình xương của một số khối đa diện và vẽ các hình minh họa về chúng cho một cuốn sách của Luca Pacioli. Một bức tranh của một nghệ sĩ vô danh của Pacioli và một học sinh mô tả một khối hình thoi bằng thủy tinh chứa một nửa nước. Khi thời kỳ Phục hưng lan rộng ra ngoài nước Ý, các nghệ sĩ sau này như Wenzel Jamnitzer, Albrecht Dürer và những người khác cũng đã khắc họa các khối đa diện với nhiều loại khác nhau, nhiều người trong số họ là tiểu thuyết, bằng các bản khắc giàu trí tưởng tượng. Hình đa diện hình sao. Trong gần 2.000 năm, khái niệm về một khối đa diện như một vật rắn lồi vẫn được các nhà toán học Hy Lạp cổ đại phát triển. Trong thời kỳ Phục hưng các dạng sao đã được phát hiện. Một bức tượng tarsia bằng đá cẩm thạch ở sàn của Vương cung thánh đường Thánh sử Máccô, Venice, mô tả một khối hai mặt bằng đá. Các nghệ sĩ như Wenzel Jamnitzer rất thích thú khi mô tả các hình thức giống ngôi sao mới lạ với mức độ phức tạp ngày càng tăng. Johannes Kepler (1571–1630) đã sử dụng các đa giác sao, điển hình là các ngôi sao năm cánh, để xây dựng các khối đa diện sao. Một số trong số những hình này có thể đã được phát hiện trước thời của Kepler, nhưng ông là người đầu tiên nhận ra rằng chúng có thể được coi là "thông thường" nếu người ta loại bỏ hạn chế rằng khối đa diện đều phải lồi. Sau đó, Louis Poinsot nhận ra rằng các hình vẽ đỉnh sao (các mạch xung quanh mỗi góc) cũng có thể được sử dụng, và phát hiện ra hai hình đa diện sao đều đặn còn lại. Cauchy đã chứng minh danh sách của Poinsot đã hoàn chỉnh, và Cayley đã đặt cho họ những cái tên tiếng Anh được chấp nhận của họ: (Kepler's) khối mười hai mặt được mạ nhỏ và khối mười hai được mạ vàng lớn, và (của Poinsot)icosahedron lớn và khối dodecahedron lớn. Gọi chung chúng được gọi là khối đa diện Kepler-Poinsot. Kepler-Poinsot polyhedra có thể được xây dựng từ chất rắn Platon bằng một quá trình gọi là stellation. Hầu hết các bản sao không thường xuyên. Nghiên cứu về các hình mẫu của chất rắn Platonic đã được HSM Coxeter và những người khác thúc đẩy vào năm 1938, với bài báo nổi tiếng hiện nay là "The Fifty-Nine Icosahedra". Quá trình tương hỗ đối với sự tạo thành được gọi là quá trình ghép mặt (hoặc ghép mặt). Mọi cách viết của một đa giác là kép, hoặc tương hỗ, đối với một số khía cạnh của đa hình kép. Khối đa diện hình sao thông thường cũng có thể thu được bằng cách tiếp xúc với chất rắn Platonic. Bridge (1974) đã liệt kê các mặt đơn giản hơn của khối mười hai mặt, và chuyển đổi qua lại chúng để phát hiện ra một tên của khối icosahedron bị thiếu trong tập hợp "59".  Kể từ đó, người ta đã phát hiện ra thêm nhiều điều, và câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Công thức và cấu trúc liên kết của Euler. Hai phát triển toán học hiện đại khác có ảnh hưởng sâu sắc đến lý thuyết đa diện. Năm 1750, Leonhard Euler lần đầu tiên xem xét các cạnh của một hình đa diện, cho phép ông khám phá ra công thức đa diện của mình liên quan đến số đỉnh, cạnh và mặt. Điều này báo hiệu sự ra đời của tôpô, đôi khi được gọi là "hình học tấm cao su", và Henri Poincaré đã phát triển những ý tưởng cốt lõi của nó vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Điều này cho phép nhiều vấn đề tồn tại về cái gì là hoặc không phải là một khối đa diện được giải quyết. Max Brückner đã tóm tắt công việc về khối đa diện cho đến nay, bao gồm nhiều phát hiện của riêng ông, trong cuốn sách "Vielecke und Vielflache: Theorie und Geschichte" (Đa giác và khối đa diện: Lý thuyết và Lịch sử). Được xuất bản bằng tiếng Đức vào năm 1900, nó vẫn còn ít được biết đến. Trong khi đó, việc khám phá ra các kích thước cao hơn đã dẫn đến ý tưởng về một khối đa diện như một ví dụ ba chiều của khối đa diện tổng quát hơn. Sự phục hưng của thế kỷ 20. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các nhà toán học đã chuyển sang và hình học ít được nghiên cứu. Phân tích của Coxeter trong "Năm mươi chín Icosahedra đã" giới thiệu những ý tưởng hiện đại từ lý thuyết đồ thị và tổ hợp vào việc nghiên cứu các khối đa diện, báo hiệu sự tái sinh của mối quan tâm đến hình học. Bản thân Coxeter đã lần đầu tiên liệt kê các khối đa diện đều hình sao, coi các khối của mặt phẳng là khối đa diện, phát hiện ra khối đa diện xiên đều và phát triển lý thuyết về khối đa diện phức tạp lần đầu tiên được Shephard phát hiện ra vào năm 1952, cũng như làm cơ sở đóng góp cho nhiều lĩnh vực hình học khác. Trong phần thứ hai của thế kỷ XX, Grünbaum đã xuất bản những công trình quan trọng trong hai lĩnh vực. Một là trong các khối đa diện lồi, nơi ông ghi nhận xu hướng của các nhà toán học là định nghĩa một "khối đa diện" theo những cách khác nhau và đôi khi không tương thích để phù hợp với nhu cầu của thời điểm này. Bài báo còn lại là một loạt các bài báo mở rộng định nghĩa được chấp nhận về một khối đa diện, chẳng hạn như khám phá ra nhiều khối đa diện đều mới. Vào cuối thế kỷ 20, những ý tưởng sau này đã hợp nhất với các nghiên cứu khác về phức hệ số để tạo ra ý tưởng hiện đại về một khối đa diện trừu tượng (như một khối 3 đa diện trừu tượng), đáng chú ý được trình bày bởi McMullen và Schulte. Tham khảo. https://en.wikipedia.org/wiki/Polyhedron
36
64
1,730
1314233
345883
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314233
Trận Brumath
Trận Brumath năm 356 là một phần của các chiến dịch của Hoàng đế La Mã là Julianus chống lại các dân tộc German. Sau trận Reims, quân của Julianus truy sát một vài toán quân German qua xứ Gaule lân cận. Ngoài Brumath, một toán quân mở trận đánh với Julianus và bị Quân đội La Mã đánh bại. Tuy thương vong không cao, thất bại của quân German để gây cho các bộ lạc khác trong vùng nhụt chí, và phần nào giúp lập lại ổn định.
1
4
89
1314256
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314256
Will Sasso
William "Will" Sasso (sinh ngày 24 tháng 05 năm 1975) là một diễn viên điện ảnh người Canada, nổi tiếng với vai diễn trong "MADtv" từ năm 1997 đến 2002 và vai Curly trong phim The Three Stooges. Tiểu sử. Sasso sinh ra ở Ladner, British Columbia, Canada. Cha mẹ ông là người Ý nhập cư.
3
4
56
1314257
789789
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314257
Sean Hayes
Sean Patrick Hayes (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1970) là một diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ. Anh được biết đến với vai Jack McFarland trong bộ phim sitcom "Will & Grace" của đài NBC, bộ phim mà anh đã giành được một Giải Primetime Emmy, bốn Giải SAG và một Giải Hài kịch của Mỹ, đồng thời giành được sáu đề cử Quả cầu vàng. Anh cũng điều hành một công ty sản xuất truyền hình có tên Hazy Mills Productions, chuyên sản xuất các chương trình như "Grimm", "Hot in Cleveland", "The Soul Man", và "Hollywood Game Night". Anh được biết đến với tác phẩm điện ảnh trong các bộ phim như "Billy's Hollywood Screen Kiss", "Cats & Dogs", "Pieces of April", "The Cat in the Hat", "Win a Date with Tad Hamilton!", "The Bucket List", & "The Three Stooges". Anh cũng được biết đến với các tác phẩm trên sân khấu Broadway như "An Act of God" và "Promises, Promises", nơi anh đóng vai Chuck Baxter và nhận được đề cử Giải Tony cho Diễn xuất xuất sắc nhất của Nam diễn viên chính trong vở nhạc kịch. Anh đã tổ chức Lễ trao giải Tony lần thứ 64, nhờ đó anh đã được trao Giải Primetime Emmy cho Chương trình Lớp học Đặc biệt Xuất sắc. Đời tư. Hayes đã từ chối thảo luận về xu hướng tính dục của mình trong nhiều năm, nói rằng anh tin rằng khán giả sẽ cởi mở hơn về các nhân vật của anh. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2010 với "The Advocate", anh dường như ngụ ý rằng anh là người đồng tính, nói rằng: "Thật sao? Bạn sẽ bắn hạ gã đồng tính? Tôi chưa bao giờ gặp vấn đề khi nói tôi là ai. Tôi là chính tôi." Anh cũng chỉ ra rằng anh đang trong một mối quan hệ. Anh nói rằng anh cảm thấy như anh đã "đóng góp một cách đáng kể vào sự thành công của phong trào đồng tính ở Mỹ, và nếu ai đó muốn tranh luận về điều đó, tôi sẽ cởi mở với điều đó." Anh nhận bằng PhD danh dự từ Đại học Bang Illinois vào tháng 2 năm 2013. Vào tháng 11 năm 2014, Hayes thông báo rằng anh đã kết hôn với người bạn đời của mình tám năm, Scott Icenogle. Vào tháng 10 năm 2017, khi xuất hiện trong một tập của "The Ellen DeGeneres Show", Hayes tiết lộ rằng anh đã phải nhập viện với một tình trạng hiếm gặp, trong đó ruột non của anh bị vỡ. Ruột đã được phẫu thuật thành công.
7
19
446
1314266
818407
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314266
Đĩa đơn maxi
Một maxi single (hay đĩa đơn maxi, đôi khi viết tắt là MCD) là một đĩa đơn âm nhạc được phát hành với nhiều hơn hai bản nhạc thông thường của mặt A và mặt B đĩa. Thuật ngữ này được đưa vào sử dụng rộng rãi từ những năm 1970, lúc đó nó thường được gọi là đĩa đơn vinyl 7-inch với một bản nhạc ở mặt A và hai bản ở mặt B. Đĩa đơn "Space Oddity" của David Bowie phát hành vào năm 1975, đi kèm với hai ca khúc "Changes" và "Velvet Goldmine", là ví dụ điển hình. Đến giữa những năm 1970, nó được dùng để chỉ đĩa đơn vinyl 12" với ba hay bốn bản nhạc (hoặc phiên bản mở rộng hay phối lại của đĩa/bài hát cốt lõi) ở mặt A, và bổ sung thêm hai hay ba bài ở mặt B. Sau đó, trong những năm 1980, việc phát hành đĩa nhạc điển hình thực hiện dưới dạng đĩa đơn gồm hai bản nhạc trên đĩa viny l7" và băng cassette, và một maxi single trên đĩa vinyl 12". Những maxi single 12" đầu tiên này được quảng cáo bởi và chủ yếu gửi đến các vũ trường và đài phát thanh.
1
4
210
1314272
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314272
Nippon Ichi Software
(còn có tên là Prism Kikaku Ltd. từ tháng 7 năm 1993 đến tháng 7 năm 1995) là một hãng phát triển và phát hành trò chơi video của Nhật Bản. Họ tham gia sản xuất các tựa game nổi tiếng như ', "Phantom Brave", ' và "". Nippon Ichi Software thành lập vào tháng 9 năm 1991 ở Gifu, Nhật Bản, như một công ty phần mềm giải trí. Nó được di dời và tái kết hợp vào ngày 12 tháng 7 năm 1993. Từ đó Nippon Ichi Software, Inc. đã phát triển thành một công ty quốc tế tập trung vào sáng tác các trò chơi video trên các nền máy cầm tay console hiện đại. NIS America, Inc. là công ty con của Nippon Ichi Software, được thành lập và hoạt động ở Bắc Mỹ vào ngày 24 tháng 12 năm 2003. Đặt trụ sở tại Santa Ana, California, NIS America đảm nhiệm các hoạt động bao gồm bản địa hóa, tiếp thị, và phát hành các tác phẩm của Nippon Ichi.
2
7
175
1314283
539651
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314283
Tariq Shabbir Khan Mayo
Tariq Shabir Khan Mayo là thành viên của Quốc hội Pakistan. Ông Tariq được bầu MNA từ cử tri NA-129 của Lahore. Một lệnh bắt giữ đã được ban hành ngày 04 tháng 06, 2011 để buộc ông có mặt tại tòa án liên quan đến một trường hợp gian lận.
2
3
51
1314301
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314301
Tương tự Unix
Một hệ điều hành tương tự Unix (đôi khi được gọi là UN*X, *nix hay Unix-like) là hệ thống hoạt động theo cách tương tự như hệ thống Unix, trong khi không nhất thiết phải tuân thủ hoặc được chứng nhận với bất kỳ phiên bản nào của Single UNIX Specification. Một ứng dụng tương tự Unix là một ứng dụng hoạt động tương tự như lệnh hoặc shell Unix tương ứng. Không có tiêu chuẩn để xác định thuật ngữ và có thể có một số khác biệt về quan điểm về mức độ mà một hệ điều hành hoặc ứng dụng nhất định là "tương tự Unix". Thuật ngữ có thể bao gồm hệ điều hành tự do nguồn mở lấy cảm hứng từ Unix của Bell Labs hoặc được thiết kế để mô phỏng các tính năng của nó, các công việc thương mại và độc quyền và thậm chí các phiên bản dựa trên mã nguồn UNIX được cấp phép (có thể đủ "tương tự Unix" để nhận được chứng nhận và mang nhãn hiệu "UNIX"). Định nghĩa. The Open Group sở hữu thương hiệu UNIX và quản lý Single UNIX Specification, với tên gọi "UNIX" được sử dụng như một nhãn hiệu chứng nhận. Họ không chấp nhận việc dùng thuật ngữ ""tương tự Unix" hay "Unix-like"", và xem đấy là một lạm dụng thương hiệu của họ. Các hướng dẫn của họ yêu cầu "UNIX" phải được trình bày bằng chữ in hoa hoặc phân biệt với văn bản xung quanh, đặc biệt khuyến khích sử dụng nó như một tính từ xây dựng thương hiệu cho một từ chung chung như "hệ thống" và không khuyến khích sử dụng nó trong các cụm từ được gạch nối. Các bên khác thường xem "Unix" là nhãn hiệu chung. Một số thêm ký tự đại diện vào tên để viết tắt như "Un*x" hoặc "*nix", do các hệ thống tương tự Unix thường có tên tương tự Unix giống như AIX, HP-UX, IRIX, Linux, Minix, Ultrix, và Xenix. Các mô hình này không thực sự khớp với nhiều tên hệ thống, nhưng vẫn thường được công nhận để chỉ bất kỳ hệ thống con cháu UNIX nào, ngay cả những mẫu có tên hoàn toàn khác nhau như Darwin/macOS, illumos/Solaris hoặc FreeBSD. Năm 2007, Wayne R. Gray đã khởi kiện về tình trạng tranh cãi về tên gọi của UNIX như là một thương hiệu, nhưng bị bác đơn, và kháng cáo của ông tiếp tục bị bác. Cũng trong năm 2007, Open Group đã đạt được một thỏa thuận ràng buộc pháp lý để ngăn chặn trường University of Kassel của Đức sử dụng "UNIK" làm tên viết tắt của nó. Lịch sử. Các hệ thống "tương tự Unix" bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Nhiều phiên bản độc quyền, như Idris (1978), UNOS (1982), Coherent (1983), và UniFlex (1985), nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp với các chức năng có sẵn cho người dùng nghiên cứu UNIX. Khi AT&T cho phép cấp phép nhị phân thương mại tương đối rẻ cho UNIX vào năm 1979, một loạt các hệ thống độc quyền đã được phát triển dựa trên nó, bao gồm AIX, HP-UX, IRIX, SunOS, Tru64, Ultrix, và Xenix. Chúng thay thế phần lớn các bản sao độc quyền. Sự không tương thích ngày càng tăng giữa các hệ thống này đã dẫn đến việc tạo ra các tiêu chuẩn tương tác, bao gồm POSIX và Single UNIX Specification. Nhiều sự thay thế miễn phí, chi phí thấp và không giới hạn cho UNIX đã xuất hiện vào những năm 1980 và 1990, bao gồm 4.4BSD, Linux, và Minix. Một vài trong số này đã lần lượt là nền tảng cho các hệ thống "tương tự Unix" thương mại, như BSD/OS và macOS. Trong khi đó, các dự án GNU được bắt đầu vào 1983 với mục đích là tạo ra GNU, một hệ điều hành mà tất cả người dùng máy tính có thể tự do sử dụng, học tập, sửa đổi và phân phối lại. Các hệ điều hành "tương tự Unix" phát triển cũng với GNU, thường xuyên chia sẻ các thành phần đáng kể với nó (dẫn đến một số bất đồng về việc liệu chúng có nên được gọi là "GNU" hay không). Những thay thế phục vụ chủ yếu có chi phí thấp và không hạn chế cho UNIX, bao gồm 4.4 BSD, Linux, và Minix. Một số trong số trên đã trở thành nền tảng cho các hệ thống "tương tự Unix" thương mại, như BSD/OS và Mac OS X. Đáng chú ý, Một số phiên bản (Mac) OS X/macOS chạy trên máy tính Mac dựa trên CPU Intel đã nhận được chứng nhận Single UNIX Specification. Các biến thể BSD là hậu duệ của UNIX được phát triển bởi Đại học California tại Berkeley với mã nguồn UNIX từ Bell Labs. Tuy nhiên codebase của BSD đã phát triển kể từ đó, thay thế tất cả các mã của AT&T. Do các biến thể BSD không được chứng nhận là tuân thủ Single UNIX Specification, nên chúng được gọi là "tương tự UNIX". Phân loại. Dennis Ritchie, một trong những tác giả ban đầu của Unix, đã bày tỏ quan điểm của mình tương tự Unix như Linux là hệ thống Unix trên thực tế. Eric S. Raymond và Rob Langley đã đề nghị rằng có ba loại hệ thống tương tự Unix: Khả năng tương thích. Một số hệ điều hành không phải tương tự Unix nhưng cung cấp một lớp tương thích Unix, với sự biến đổi các chức năng tương tự Unix. Các phương tiện khác của khả năng tương tác Windows-Unix bao gồm:
17
32
971
1314303
126698
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314303
Khu đô thị mới Songdo
Khu kinh doanh quốc tế Songdo (âm Hán Việt: Tùng Đảo) là một đặc khu "thông minh" thuộc Seoul giáp Incheon. Songdo tọa lạc trên bãi lầy khu ven biển Hoàng Hải sau được chính phủ cho bồi lên tạo diện tích mới rộng 6,1 km² và phát triển theo quy hoạch tổng thể với trị giá 35 tỷ đô-la Mỹ. Khu vực này cách trung tâm Seoul 40 dặm về hướng Tây Nam. Trung tâm đô thị mới có đường giao thông với sân bay quốc tế Incheon và tuyến xe điện ngầm vào Seoul. Chủ đầu tư dự án Songdo là Công ty New Songdo City Development LLC, một liên doanh với tỷ lệ góp vốn 70:30 giữa Gale International và Công ty Hàn Quốc POSCO Engineering & Construction Co. Ltd. Việc xây cất bắt đầu năm 2003 và khi hoàn thành vào năm 2015 thì dự tính có 65.000 cư dân cùng công ăn việc làm cho 300.000 người ra vào mỗi ngày. Khu Songdo theo quy hoạch đã dành 40% diện tích đất cho không gian xanh cùng những biện pháp khuyến khích người đi bộ và đi xe đạp. Songdo là nơi có các tháp chọc trời Northeast Asia Trade Tower và Incheon Tower.
4
7
209
1314304
679363
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314304
Northeast Asia Trade Tower
Northeast Asia Trade Tower (tiếng Hàn: 동북아무역타워)) là một nhà chọc trời tại trung tâm kinh doanh quốc tế Songdo. Nhà chọc trời này cao 312 mét, có 68 tầng, cao nhất Hàn Quốc. Tháp này đã vượt qua tháp giữ kỷ lục trước đó, Samsung Tower Palace 3 - tháp G tại Seoul, khi nó đứng đầu ra trong năm 2009. Tòa nhà sẽ là một bước ngoặt của khu kinh doanh quốc tế Songdo. Nó có 19 tầng không gian văn phòng hạng A, đài quan sát cao nhất của Hàn Quốc trên tầng 65, cửa hàng khách sạn sang trọng, khu dân cư dịch vụ và bán lẻ. Các tầng không có cột bao gồm một sảnh văn phòng trên mặt đất với tầng đá vôi Pháp và tường đá Vermont. Tòa nhà bên cạnh Songdo Convensia, trung tâm mua sắm Riverstone, và khách sạn Incheon Sheraton. Nó có một trạm đỗ xe mở rộng cửa tiếp theo, và sẽ có quyền truy cập cho người đi bộ đến một ga tàu điện ngầm trong tương lai. NEATT cho phép số lượng lớn người đi bộ vào sảnh văn phòng bằng cầu thang cuốn. Vận động hành lang được thường xuyên của cư dân của NEATT, và người dân phát triển khác gần đó. Trong tháng 2 năm 2010, đài quan sát 65 tầng mở cửa cho công chúng cho cuộc họp của các bộ trưởng tài chính các nền kinh tế lớn G-20.
4
11
247
1314308
705327
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314308
Kevin De Bruyne
Kevin De Bruyne (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ và đồng thời là đội trưởng của cả câu lạc bộ Premier League Manchester City và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ. Được đánh giá là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong thế hệ của mình, cũng như là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá, nhiều chuyên gia thường mô tả anh là một cầu thủ bóng đá toàn diện. De Bruyne bắt đầu sự nghiệp của mình tại Genk, nơi anh là cầu thủ thường xuyên khi họ vô địch Belgium Pro League 2010–11. Năm 2012 anh gia nhập câu lạc bộ Anh Chelsea, nơi anh ít được sử dụng và sau đó được cho mượn đến Werder Bremen. Anh ký hợp đồng với Wolfsburg với giá 18 triệu bảng vào năm 2014, nơi anh khẳng định mình là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất tại Bundesliga và là thành viên không thể thiếu trong chức vô địch DFB-Pokal 2014–15 của câu lạc bộ. Vào mùa hè năm 2015, De Bruyne gia nhập Manchester City với giá kỷ lục của câu lạc bộ là 54 triệu bảng. Kể từ đó, anh đã giành được UEFA Champions League, năm chức vô địch Premier League, năm League Cup và hai FA Cup với câu lạc bộ. Trong mùa giải 2017–18 anh đã đóng một vai trò quan trọng trong kỷ lục của Manchester City khi trở thành đội bóng Premier League duy nhất đạt được 100 điểm trong một mùa giải. Trong mùa giải 2019–20, De Bruyne cân bằng kỷ lục kiến tạo nhiều nhất trong một mùa giải Premier League và được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải (anh đã giành được một lần nữa trong mùa giải 2021–22). Anh ra sân rất nhiều vào mùa giải 2022–23 khi Man City giành được cú ăn ba lịch sử đầu tiên của họ. De Bruyne ra mắt đội tuyển quốc gia đầy đủ vào năm 2010, và kể từ đó anh đã kiếm được hơn 90 mũ và ghi 26 bàn cho Bỉ. Anh là thành viên của đội tuyển Bỉ lọt vào tứ kết tại cả hai giải đấu FIFA World Cup 2014 và UEFA Euro 2016. Anh có tên trong Đội hình toàn sao FIFA World Cup tại FIFA World Cup 2018 khi Bỉ kết thúc ở hạng ba, cũng như góp mặt ở UEFA Euro 2020 và FIFA World Cup 2022. De Bruyne đã được xướng tên trong Đội hình của mùa giải UEFA Champions League và Đội tuyển nam thế giới IFFHS mỗi đội năm lần, Đội hình ESM của năm bốn lần, FIFA FIFPRO Men's World 11 và UEFA Team of the Year ba lần mỗi lần, "France Football" World XI, và Đội hình Bundesliga của năm. Anh cũng đã ba lần giành được Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải, Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA hai lần, Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Manchester United bốn lần, Tiền vệ xuất sắc nhất mùa giải UEFA Champions League, Cầu thủ xuất sắc nhất Bundesliga, Cầu thủ xuất sắc nhất năm (Đức), Vận động viên Bỉ của năm và Cầu thủ kiến thiết xuất sắc nhất thế giới của IFFHS hai lần. Sự nghiệp câu lạc bộ. Genk. De Bruyne bắt đầu sự nghiệp của mình với câu lạc bộ quê hương KVV Drongen vào năm 1997. Hai năm sau, anh gia nhập Gent và chuyển đến Genk năm 2005. De Bruyne tiếp tục phát triển trong đội trẻ của họ và được khen thưởng cho sự tiến bộ của anh ấy khi được đôn lên đội một vào năm 2008. Từ một cuộc phỏng vấn với câu lạc bộ trẻ của anh, De Bruyne đã tiết lộ rằng anh là một người hâm mộ Liverpool và ngưỡng mộ Michael Owen. De Bruyne ra mắt đội một cho Genk trong trận thua 0–3 trước Charleroi vào ngày 9 tháng 5 năm 2009. Đã thành danh trong đội ở mùa giải tiếp theo, vào ngày 7 tháng 2 năm 2010, De Bruyne ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, giúp Genk giành trọn 3 điểm trong chiến thắng 1–0 trước Standard Liège. Anh ghi 5 bàn và thực hiện 16 pha kiến tạo trong 32 trận đấu ở mùa giải 2010–11 khi Genk lên ngôi vô địch Bỉ lần thứ ba. Vào ngày 29 tháng 10 năm 2011, De Bruyne ghi hat-trick đầu tiên cho Genk trước Club Brugge, trận đấu kết thúc với chiến thắng 5–4 cho Genk. Vào ngày 28 tháng 1 năm 2012, De Bruyne ghi một cú đúp vào lưới OH Leuven trong chiến thắng 5–0. Vào ngày 18 tháng 2 năm 2012, De Bruyne ghi bàn thắng đầu tiên cho Genk sau khi anh đồng ý chuyển đến Chelsea và cũng kiến tạo bàn thắng còn lại trong chiến thắng 2–1 trên sân khách trước Mons. De Bruyne kết thúc mùa giải bằng bàn thắng ấn định chiến thắng 3–1 trước Gent. Anh đã kết thúc chiến dịch giải đấu với tám bàn thắng sau 28 lần ra sân. Chelsea. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2012, vào ngày cuối cùng của kỳ chuyển nhượng mùa đông, câu lạc bộ Premier League Chelsea và Genk đã thông báo về việc ký hợp đồng vĩnh viễn với De Bruyne, với mức phí được đồn đoán là vào khoảng 7 triệu bảng. Anh ấy đã ký hợp đồng 5 năm rưỡi tại Stamford Bridge, nhưng sẽ ở lại Genk trong phần còn lại của mùa giải 2011–12. De Bruyne nói trên trang web của câu lạc bộ, "Được đến với một đội bóng như Chelsea là một giấc mơ nhưng bây giờ tôi phải làm việc chăm chỉ để đạt được đẳng cấp cần thiết." Vào ngày 18 tháng 7 năm 2012, De Bruyne có trận ra mắt đầu tiên cho Chelsea trong trận giao hữu với đội bóng Major League Soccer (MLS) Seattle Sounders FC trong chiến thắng 4–2. De Bruyne cũng đã chơi hiệp một trước gã khổng lồ Ligue 1 Paris Saint-Germain tại Sân vận động Yankee, Thành phố New York. Werder Bremen (mượn). Vào ngày 31 tháng 7 năm 2012, Chelsea thông báo rằng De Bruyne sẽ gia nhập Werder Bremen ở Bundesliga theo hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Bremen trong trận thua 2–3 trước Hannover 96 vào ngày 15 tháng 9, ghi bàn từ cự ly 11 thước sau khi Eljero Elia vào sân. Anh ấy tiếp tục phong độ tốt của mình, ghi bàn trong trận đấu tiếp theo của Bremen, trận hòa 2–2 với VfB Stuttgart, vào ngày 23 tháng 9. De Bruyne trở lại bảng tỷ số vào ngày 18 tháng 11, ghi bàn thắng quyết định — mặc dù đội của anh ấy chỉ còn 10 người — khi Bremen từ một bàn thắng đánh bại Fortuna Düsseldorf 2–1. De Bruyne ghi bàn thắng đầu tiên sau hơn hai tháng vào ngày 4 tháng 5 năm 2013, kể từ khi ghi một bàn thắng an ủi trong trận vùi dập Bremen 6–1 của Bayern Munich, đưa đội bóng của anh dẫn trước 2–0 trên sân nhà trước TSG 1899 Hoffenheim trước cú đúp muộn của Sven Schipplock đồng nghĩa với việc trận đấu kết thúc với tỷ số 2–2. Anh ấy tiếp tục điều này với một bàn thắng trong trận đấu tiếp theo của Bremen, đảm bảo một suất tham dự Bundesliga cho mùa giải tiếp theo với trận hòa 1–1 trước Eintracht Frankfurt vào ngày 11 tháng 5. Trở lại Chelsea. Sau thời gian cho mượn thành công ở Bundesliga với Werder Bremen, De Bruyne được cho là sẽ ở lại Đức với Borussia Dortmund hoặc Bayer Leverkusen. Tuy nhiên, huấn luyện viên mới José Mourinho đảm bảo với De Bruyne rằng anh là một phần trong kế hoạch của Chelsea cho tương lai, và cầu thủ này chính thức trở lại Chelsea vào ngày 1 tháng 7 năm 2013. De Bruyne dính chấn thương đầu gối khi ghi bàn thắng đầu tiên cho Chelsea, trong trận giao hữu trước mùa giải với Malaysia XI, nhưng đã đủ sức khỏe để ra mắt thi đấu vào ngày khai mạc của mùa giải Premier League 2013–14 trước Hull City, và thực hiện một pha kiến tạo cho bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2–0. Vfl Wolfsburg. Mùa giải 2013–14. Vào ngày 18 tháng 1 năm 2014, Wolfsburg ký hợp đồng với De Bruyne với mức phí 18 triệu bảng (22 triệu euro). Vào ngày 25 tháng 1 năm 2014, anh có trận ra mắt cho Wolfsburg trong trận thua 3-1 trên sân nhà trước Hannover 96 . Vào ngày 12 tháng 4 năm 2014, De Bruyne đã kiến ​​tạo 2 bàn thắng trong chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước 1. FC Nürnberg . Sau một tuần, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Wolfsburg trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Hamburger SV . Anh cũng ghi bàn trong hai trận đấu cuối cùng của Bundesliga giúp đội của anh giành chiến thắng trước VfB Stuttgart và Borussia Mönchengladbach . Mùa giải 2014–15. De Bruyne ghi bàn thắng đầu tiên của mình trong mùa giải 2014–15 vào ngày 2 tháng 10 năm 2014, bằng cú vô lê từ ngoài vòng cấm để cứu vãn trận hòa 1-1 trước Lille ở Europa League . Trong trận đấu thứ ba trên sân khách với Krasnodar vào ngày 23 tháng 10, De Bruyne ghi hai bàn giúp Wolfsburg giành chiến thắng đầu tiên tại giải đấu với chiến thắng 4–2. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2015, anh ghi một cú đúp khác trong chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước Bayern Munich, trận thua đầu tiên tại Bundesliga của họ kể từ tháng 4 năm 2014. Vào ngày 1 tháng 3 năm 2015, De Bruyne kiến tạo ba bàn thắng trong chiến thắng 5–3 về câu lạc bộ cũ của anh ấy Werder Bremen. Vào ngày 12 tháng 3 năm 2015, De Bruyne ghi hai bàn trong chiến thắng 3-1 ở trận lượt đi vòng 16 đội Europa League trước Internazionale . Vào ngày 15 tháng 3 năm 2015, anh ghi một bàn và kiến ​​tạo hai bàn khác trong chiến thắng 3–0 trước SC Freiburg . De Bruyne kết thúc mùa giải với 10 bàn thắng và 21 đường kiến ​​tạo, đây là kỷ lục mới của Bundesliga khi Wolfsburg đứng thứ hai tại Bundesliga và đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League 2015–16 . Vào ngày 30 tháng 5 năm 2015, anh đá chính và ghi bàn trong trận chung kết DFB-Pokal 2015 khi Die Wölfe đánh bại Borussia Dortmund 3–1 tại Olympiastadion ở Berlin. Với 16 bàn thắng và 27 kiến tạo trên mọi đấu trường, De Bruyne đã được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất nước Đức năm 2015. Mùa giải 2015–16. De Bruyne bắt đầu mùa giải bằng việc giành chức vô địch DFL-Supercup 2015 trước Bayern Munich , thực hiện quả tạt giúp Nicklas Bendtner gỡ hòa ở phút 89 để hòa 1-1 và sau đó ghi bàn trong loạt sút luân lưu tiếp theo . Vào ngày 8 tháng 8 năm 2015, anh tiếp tục phong độ tốt khi ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải và cung cấp hai đường kiến ​​tạo trong chiến thắng 4–1 trước Stuttgarter Kickers ở vòng đầu tiên của DFB-Pokal . Vào tháng 8, giữa những đồn đoán về chuyển nhượng, De Bruyne nói rằng anh sẽ không ép Wolfsburg bán anh, nhưng cũng nói rằng anh không thể bỏ qua sự quan tâm từ Manchester City , nói: "Nếu có một lời đề nghị đến, tôi sẽ nghe về nó. và nó là bao nhiêu, nhưng tôi vẫn chưa nghe thấy gì... Tôi sẽ không đến Anh chỉ để chứng minh rằng tôi có thể chơi ở đó. Tôi không cần phải đến Anh... Nếu tôi đến đó là vì tôi và đối với gia đình tôi đó là một lựa chọn tốt. Đó là chìa khóa đối với tôi." Vào ngày 10 tháng 8, có thông tin cho rằng Manchester City đã đưa ra lời đề nghị thứ hai cho De Bruyne trị giá 47 triệu bảng. Giám đốc thể thao của Wolfsburg, Klaus Allofs , cho biết câu lạc bộ sẽ đấu tranh để giữ anh ấy, nói rằng "Tôi nghĩ một số câu lạc bộ khác chắc chắn đã quay đầu lại với Kevin ... Một số nhân vật to lớn đang thực hiện các vòng đấu và tôi có thể hiểu tại sao Kevin lại để mọi thứ bỏ ngỏ." Vào ngày 27 tháng 8, có thông tin cho rằng Man City đã ra giá thêm cho De Bruyne trị giá 58 triệu bảng. Klaus Allofs nói rằng Man City đã đưa ra mức lương "đáng kinh ngạc" cho De Bruyne. Manchester City. Mùa giải 2015–16. Ngày 30 tháng 8 năm 2015, De Bruyne chính thức gia nhập Manchester City và mang áo số 17. Manchester City đã mua anh từ Vfl Wolfsburg với giá là 75 triệu Euro, cái giá đắt nhất trong lịch sử mua bán cầu thủ tại giải Bundesliga. Kỷ lục trước đó là 41 triệu Euro, mà Liverpool đã trả cho 1899 Hoffenheim để được cầu thủ người Brasil Roberto Firmino. De Bruyne ký hợp đồng 6 năm, và sẽ được lương cho mỗi mùa tới 20 triệu Euro. Cũng vào ngày hôm đó Manchester City thông báo về sự xuất hiện của De Bruyne theo hợp đồng 6 năm, với mức phí kỷ lục câu lạc bộ được báo cáo là 55 triệu bảng (75 triệu euro), khiến anh trở thành vụ chuyển nhượng đắt thứ hai trong lịch sử bóng đá Anh sau Ángel Di María chuyển đến Manchester United vào năm 2014. Anh có trận ra mắt đội bóng ở Premier League vào ngày 12 tháng 9 trước Crystal Palace , thay thế cho Sergio Agüero bị chấn thương ở phút thứ 25. Vào ngày 19 tháng 9, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào lưới West Ham United ở phút bù giờ của hiệp một trong trận thua chung cuộc 2-1. Anh tiếp tục ghi bàn trong chiến thắng 4–1 ở League Cup trước Sunderland vào ngày 22 tháng 9. và trận thua 4–1 trước Tottenham Hotspur ở Premier League vào ngày 26 tháng 9. Vào ngày 3 tháng 10, anh ghi bàn trong chiến thắng 6–1 của đội trước Newcastle United . Vào ngày 2 tháng 10, De Bruyne được công bố là một trong những cầu thủ có tên trong danh sách dài cho giải thưởng Quả bóng vàng FIFA danh giá , cùng với các đồng đội Agüero và Yaya Touré . Chỉ 18 ngày sau, vào ngày 20 tháng 10, anh được FIFA tiết lộ là một trong những cầu thủ có tên trong danh sách rút gọn 23 người cho Quả bóng vàng. Vào ngày 21 tháng 10, De Bruyne ghi bàn thắng quyết định ở phút bù giờ vào lưới Sevilla ở UEFA Champions League , giúp Man City kém đội đầu bảng Juventus một điểm khi còn ba trận. Vào ngày 1 tháng 12, anh ghi một cú đúp trong chiến thắng 4–1 trước Hull City để đưa Manchester City lọt vào bán kết của League Cup. Vào ngày 27 tháng 1 năm 2016, De Bruyne ghi một bàn thắng trong chiến thắng 3–1 ở bán kết League Cup trước Everton , nhưng dính chấn thương ở đầu gối phải khiến anh phải rời đội trong hai tháng. Vào ngày 2 tháng 4, De Bruyne trở lại sau chấn thương trong chiến thắng 4–0 trước Bournemouth tại Dean Court , ghi bàn thắng thứ hai cho đội ở phút thứ mười hai. Bốn ngày sau, anh ghi bàn mở tỷ số trong trận hòa 2–2 với Paris Saint-Germain trong trận lượt đi tứ kết UEFA Champions League tại Parc des Princes . Vào ngày 12 tháng 4, De Bruyne ghi bàn thắng quyết định vào lưới Paris Saint-Germain, đưa Manchester City vào bán kết Champions League, lần đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ, với tổng tỷ số 3–2. Viết trên tờ The Independent , Mark Ogden cho biết, "Đó là một bàn thắng tuyệt đẹp của cầu thủ người Bỉ, anh đã chạm bóng để kiểm soát bóng trước khi dứt điểm vượt qua Kevin Trapp từ rìa vòng cấm." Bàn thắng tiếp theo của De Bruyne đến vào ngày 8 tháng 5 năm 2016 trong trận hòa 2–2 với Arsenal , mặc dù kết quả này khiến hy vọng giành suất dự Champions League của Man City vụt tắt trong tay họ. Mùa giải 2016–17. Vào ngày 10 tháng 9 năm 2016, De Bruyne ghi bàn và kiến tạo trong trận derby Manchester đầu tiên của mùa giải mà Man City thắng 2-1 và được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất trận . Vào ngày 17 tháng 9 năm 2016, De Bruyne được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất trận trong chiến thắng 4–0 trước Bournemouth. De Bruyne ghi bàn đầu tiên, kiến ​​tạo bàn thứ tư và thực hiện những đường chuyền quan trọng trong cả bàn thắng thứ hai và thứ ba. Sau kỳ nghỉ quốc tế, Manchester City hòa trận tiếp theo, gặp Everton, diễn ra vào ngày 15 tháng 10 năm 2016 với tỷ số kết thúc là 1-1. Agüero và De Bruyne đều đá hỏng quả phạt đền trong khi Nolito vào sân từ băng ghế dự bị để gỡ hòa cho Man City. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2016, De Bruyne ghi bàn từ một quả đá phạt trực tiếp trong chiến thắng 3–1 của đội trước FC Barcelona . Vào ngày 21 tháng 1 năm 2017, De Bruyne đã tham gia vào cả hai bàn thắng của Man City, khi anh ghi một bàn và cũng kiến ​​tạo cho Leroy Sané , trong trận hòa 2–2 trên sân nhà với Tottenham Hotspur ; sau đó anh ấy được vinh danh là cầu thủ hay nhất trận đấu. Vào ngày 19 tháng 3 năm 2017, De Bruyne đã thể hiện một màn trình diễn xuất sắc trong trận hòa 1-1 trước Liverpool tại Sân vận động Etihad , nơi anh kiến tạo cho Agüero. Mùa giải 2017–18. De Bruyne đã kiến tạo cho cả Agüero và Gabriel Jesus, vào ngày 9 tháng 9 năm 2017, trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Liverpool. Vào ngày 16 tháng 9, De Bruyne kiến ​​tạo cho Agüero ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng chung cuộc 6–0 trước Watford . Vào ngày 30 tháng 9 năm 2017, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải Premier League 2017–18 , khi Man City đánh bại câu lạc bộ cũ Chelsea với tỷ số 1–0 tại Stamford Bridge . Vào ngày 14 tháng 10, De Bruyne đã có hai pha kiến ​​tạo trong chiến thắng 7–2 trước Stoke City . Vào ngày 5 tháng 11, De Bruyne ghi bàn trong chiến thắng 3-1 trước Arsenal. Vào ngày 18 tháng 11, anh ghi bàn trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Leicester City . Vào ngày 29 tháng 11, anh ghi bàn mở tỷ số cho Man City và kiến ​​tạo cho Raheem Sterling ghi bàn thắng ở phút cuối trong chiến thắng 2-1 trước Southampton. Vào ngày 13 tháng 12, De Bruyne ghi bàn trong chiến thắng 4–0 trên sân khách trước Swansea City , kéo dài kỷ lục thắng liên tiếp ở giải đấu cao nhất của họ lên 15 trận. Vào ngày 16 tháng 12, anh ghi bàn trong chiến thắng 4–1 trước Tottenham Hotspur , Pep Guardiola nói rằng De Bruyne đang "giúp câu lạc bộ trở thành một tổ chức tốt hơn". Vào ngày 27 tháng 12, De Bruyne đã kiến ​​tạo cho Sterling ghi bàn trong chiến thắng 1–0 trước Newcastle United . Vào ngày 9 tháng 1, De Bruyne ghi bàn trong chiến thắng 2-1 trước Bristol City trong trận lượt đi vòng bán kết EFL Cup . Vào ngày 20 tháng 1, anh kiến ​​tạo cho Agüero bàn thắng đầu tiên trong trận đấu (người đã lập hat-trick trong trận đấu), trong chiến thắng 3–1 trước Newcastle United. Vào ngày 22 tháng 1 năm 2018, De Bruyne ký hợp đồng dài hạn mới với câu lạc bộ, giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến năm 2023. Vào ngày 23 tháng 1, anh ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 3–2 trước Bristol City trong trận bán kết lượt về EFL Cup , giúp Man City tiến vào trận chung kết , sau khi giành chiến thắng với tỷ số chung cuộc 5–3. Vào ngày 31 tháng 1, anh ghi bàn và kiến ​​tạo trong chiến thắng 3–0 trước West Bromwich Albion , và được bầu chọn là "Cầu thủ xuất sắc nhất trận của BBC" . Vào ngày 10 tháng 2, anh thực hiện ba đường kiến ​​tạo, hai cho Agüero và một cho Raheem Sterling, trong chiến thắng 5–1 trước Leicester City , nâng tổng số đường kiến ​​tạo của anh lên 14. Vào ngày 25 tháng 2 , anh ấy đá chính trong trận chung kết Cúp EFL 2018 với Arsenal và chơi trọn 90 phút, giúp Manchester City giành chiến thắng 3–0 để giành được chiếc cúp bạc đầu tiên của mùa giải 2017–18 và chiếc cúp đầu tiên của họ dưới thời Pep Guardiola. Vào ngày 31 tháng 3 năm 2018, anh đã kiến ​​tạo cho Gabriel Jesus trong chiến thắng 3–1 trước Everton , đảm bảo rằng Man City sẽ chỉ cần một trận thắng nữa để đảm bảo chức vô địch Premier League . Vào ngày 22 tháng 4, anh ghi bàn trong chiến thắng 5–0 trước Swansea City. Vào ngày 13 tháng 5, vào ngày cuối cùng của mùa giải, De Bruyne đã kiến ​​tạo cho Gabriel Jesus ghi bàn quyết định trong chiến thắng 1–0 trước Southampton , nâng tổng số điểm của nhà vô địch Man City lên 100. De Bruyne cũng được bầu chọn là "Cầu thủ hay nhất của BBC của Trận đấu" . Với 16 pha kiến ​​tạo ghi được trong suốt mùa giải, De Bruyne đã giành được giải thưởng Cầu thủ kiến ​​tạo xuất sắc nhất mùa giải của Premier League . Anh cũng được chọn vào Đội hình PFA của năm và cũng được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Manchester City . Kết thúc mùa giải 2017-18 anh là cầu thủ có số đường kiến tạo nhiều nhất Premier League (23 đường kiến tạo) và được nhiều câu lạc bộ săn đón. Mùa giải 2018–19. Vào ngày 15 tháng 8 năm 2018, De Bruyne bị chấn thương đầu gối trong một buổi tập, với một số trang web tin tức đưa tin rằng anh ấy có thể không thi đấu tới ba tháng. Hai ngày sau, Manchester City xác nhận rằng anh ấy đã bị tổn thương dây chằng bên ở đầu gối phải, không cần phẫu thuật và anh ấy dự kiến ​​​​sẽ không thi đấu trong ba tháng. Ngay sau khi De Bruyne trở lại thi đấu vào tháng 10 năm 2018, anh một lần nữa dính chấn thương dây chằng đầu gối ở vòng 4 EFL Cup gặp Fulham. Chấn thương dự kiến ​​​​sẽ khiến anh ấy phải nghỉ thi đấu trong 5–6 tuần. nhưng anh ấy đã tiếp tục tập luyện đầy đủ sớm hơn nhiều so với dự kiến ​​chỉ sau 3 tuần nghỉ thi đấu. Anh vào sân thay người trong trận chung kết FA Cup với Watford , ghi bàn thắng thứ ba và kiến ​​tạo hai bàn nữa, giúp Man City giành cú ăn ba quốc nội đầu tiên ở bóng đá nam Anh. Màn trình diễn của anh ấy đồng nghĩa với việc anh ấy được trao tặng giải thưởng là "Cầu thủ hay nhất trận đấu" . Kết thúc mùa giải 2018-19, phần lớn thời gian anh bị chấn thương hành hạ nên có ít đóng góp cho câu lạc bộ này nhưng vẫn kịp quay trở lại để giúp đội có cú ăn 3 quốc nội lần đầu tiên trong lịch sử. Mùa giải 2019–20. Vào ngày 30 tháng 11 năm 2019, De Bruyne ghi một cú vô lê trong trận hòa 2–2 trước Newcastle trong giải đấu, pha lập công đó sau đó được bầu chọn là Bàn thắng đẹp nhất tháng của Premier League vào tháng 11. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2019, anh ghi một cú đúp trong chiến thắng 3–0 ở Premier League trước Arsenal tại Emirates. De Bruyne ghi bàn thắng thứ 50 cho Man City trên mọi đấu trường vào ngày 26 tháng 2 năm 2020 trong chiến thắng 2-1 của họ, trước Real Madrid trong cuộc đụng độ ở Vòng 16 đội Champions League . Trong trận đấu cuối cùng của mùa giải tại Premier League, Man City đã đánh bại Norwich City với tỷ số 5–0 trên sân nhà. De Bruyne ghi hai bàn và có pha kiến ​​tạo thứ 20 tại giải đấu, cân bằng kỷ lục của Thierry Henry về số đường kiến ​​tạo nhiều nhất trong một mùa giải, đồng thời cũng giành được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải thứ hai. Cú sút xa của anh ấy trong trận đấu đó cũng giúp anh ấy giành được Bàn thắng đẹp nhất tháng ở Premier League lần thứ hai trong mùa giải. Cũng ngay trong mùa giải đó Man City của anh đã kết thúc ở vị trí thứ 2 và đã để cho Liverpool lên ngôi vô địch. Vào ngày 16 tháng 8 năm 2020 anh và đồng đội đã bị loại đầy đáng tiếc trước Lyon ở vòng tứ kết UEFA Champions League, trong trận đấu đó anh đã có một pha chuyền vào cận thành cho Raheem Sterling nhưng đáng tiếc thay Sterling đã dứt điểm ra ngoài. Vào cuối mùa giải, anh được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải Premier League sau khi ghi 13 bàn, cung cấp 20 pha kiến ​​​​tạo và tạo ra 104 cơ hội từ những trận đấu mở, nhiều nhất đối với một cầu thủ ở năm giải đấu hàng đầu châu Âu kể từ năm 2006 . Anh cũng có tên trong Đội hình PFA của năm và giành được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA , trở thành cầu thủ Manchester City đầu tiên giành được giải thưởng này. Mùa giải 2020–21. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2020, De Bruyne ghi bàn và kiến ​​tạo trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Wolverhampton Wanderers trong trận đấu đầu tiên của mùa giải với Man City. Với chuyến làm khách quan trọng của nhà vô địch Premier League, Liverpool, De Bruyne đã kiến ​​tạo cho Gabriel Jesus gỡ hòa trước khi thực hiện quả phạt đền, sau đó anh sút chệch cột dọc. Trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1-1. Vào ngày 7 tháng 4, De Bruyne ký hợp đồng 4 năm, sau khi đàm phán với sự trợ giúp của dữ liệu thống kê để làm cơ sở cho việc tăng lương 30%. Vào ngày 25 tháng 4 năm 2021, cú đá phạt trực tiếp của De Bruyne đã được Aymeric Laporte đánh đầu vào khung thành , giúp Man City giành chiến thắng 1–0 trước Tottenham Hotspur trong trận chung kết EFL Cup tại Sân vận động Wembley . Vào ngày 28 tháng 4, anh ghi một bàn thắng trong chiến thắng 2-1 trên sân khách trước Paris Saint-Germain ở bán kết Champions League . Vào ngày 29 tháng 5, De Bruyne dính chấn thương đầu sau khi va chạm với Antonio Rüdiger trong nửa sau trận chung kết Champions League , và được thay thế bởi Gabriel Jesus; tuy nhiên, đội của anh ấy đã thua 1–0 trước câu lạc bộ cũ Chelsea. Kết quả kiểm tra y tế sau trận đấu cho thấy De Bruyne đã bị gãy xương mũi cấp tính và gãy xương quỹ đạo bên trái , đặt ra nghi ngờ về khả năng anh tham gia giải đấu UEFA Euro 2020 đã được lên lịch lại . Vào cuối mùa giải, Kevin đã được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA cùng với chức vô địch Ngoại Hạng Anh lần thứ 2 liên tiếp của đội chủ sân Etihad. Mùa giải 2021–22. Vào ngày 26 tháng 4 năm 2022, De Bruyne ghi bàn thắng nhanh nhất ở trận bán kết Champions League sau 93 giây trong chiến thắng 4–3 trước Real Madrid ở trận lượt đi. Vào ngày 5 tháng 5 năm 2022, anh và các đồng đội của Man City đã bị loại đầy khó tin trước Real Madrid với pha lội ngược dòng cùng với tỷ số 4-3 và tổng tỷ số 6–5 chung cuộc cả hai lượt trận dù Riyad Mahrez đã ghi bàn thắng cho Man City vươn lên dẫn trước ở phút 73' nhưng nhờ hai bàn thắng của Rodrygo trong 2 phút từ phút 90' đến 90+1' và bàn thắng trên chấm phạt đền của Karim Benzema trong hiệp phụ đã giúp Real Madrid vào chung kết và loại Manchester City của anh khỏi giải đấu. Vào ngày 11 tháng 5, anh ghi bốn bàn trong vòng 24 phút trong chiến thắng 5–1 của Man City trước Wolverhampton Wanderers, hat-trick đầu tiên của anh với câu lạc bộ và là cú hat-trick nhanh thứ ba trong lịch sử Premier League. Bình luận viên Andy Hinchcliffe của Sky Sports đã mô tả chiến tích này là "Hai mươi ba phút của thiên tài bóng đá" và Jeremy Wilson, viết trên tờ The Daily Telegraph , cho biết "Cú hat-trick 'chân nhầm' của De Bruyne là một trong những cú hat-trick màn trình diễn hay nhất trong lịch sử Premier League". De Bruyne một lần nữa được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải Premier League , trở thành cầu thủ thứ tư nhiều hơn một lần giành được giải thưởng này. Anh cũng tiếp tục giành được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Manchester City lần thứ tư. Kết quả là anh ấy đã cùng Richard Dunne giành được giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất năm tại câu lạc bộ. Ngoài ra, anh kết thúc mùa giải với tư cách là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho câu lạc bộ tại Premier League với 15 bàn thắng, đây cũng là thành tích tốt nhất của cá nhân anh. Mùa giải 2022–23. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2023, anh ghi một bàn thắng từ một pha sút xa ngoài vòng cấm địa trong trận hủy diệt RB Leipzig với tỷ số 7–0 ở vòng 16 đội Champions League. Vào ngày 26 tháng 4 năm 2023, De Bruyne ghi một cú đúp và kiến ​​tạo trong chiến thắng 4–1 trước Arsenal, giúp đối thủ của họ dẫn đầu trên bảng xếp hạng xuống còn hai điểm, khi đội của anh ấy còn hai trận trong tay. Vào ngày 9 tháng 5, anh ghi bàn gỡ hòa cho câu lạc bộ của mình trong trận hòa 1-1 trên sân khách trước Real Madrid ở trận bán kết lượt đi Champions League , trong đó anh ghi bàn ở cùng vòng đấu ở trận thứ ba. năm liên tiếp. Vào ngày 10 tháng 6, anh chỉ chơi 36 phút trong trận chung kết Champions League thứ hai do chấn thương gân khoeo và được thay thế bởi Phil Foden . Tuy nhiên, Manchester City cuối cùng đã giành chiến thắng 1–0 trước Inter Milan , đội hoàn tất cú ăn ba lịch sử và có danh hiệu châu lục đầu tiên trong lịch sử CLB. Sau mùa giải, De Bruyne được đề cử giải Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA cùng với Lionel Messi và đồng đội ở Manchester City, Erling Haaland . Mùa giải 2023–24. De Bruyne bắt đầu mùa giải 2023–24 với tư cách là cầu thủ vào sân từ băng ghế dự bị ở FA Community Shield 2023 trước Arsenal, anh đã đá hỏng quả phạt đền khi Pháo thủ thắng trong loạt sút luân lưu 4–1. Vào ngày 11 tháng 8, anh tái phát chấn thương gân khoeo trong trận mở màn mùa giải với Burnley, sau đó nhiều nguồn tin uy tín xác nhận rằng anh sẽ phải ngồi ngoài từ 4 đến 5 tháng. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. De Bruyne khoác áo tuyển Bỉ ở cấp độ , và . Anh ra mắt đội tuyển vào ngày 11 tháng 8 năm 2010 trong trận giao hữu quốc tế với ở Turku ; trận đấu kết thúc với tỷ số thua 1–0 cho Bỉ. Trước khi ra mắt chính thức cho đội tuyển Bỉ, De Bruyne đã đủ điều kiện chơi cho , quê hương của mẹ anh. De Bruyne trở thành cầu thủ trụ cột của đội tuyển Bỉ trong chiến dịch vòng loại FIFA World Cup 2014 , nơi anh ghi bốn bàn giúp Quỷ đỏ vượt qua vòng loại giải đấu lớn đầu tiên sau 12 năm. 2014–2016: Lần đầu tiên tham dự World Cup và Euro. Ngày 13 tháng 5 năm 2014, anh có nằm trong đội tuyển quốc gia Bỉ tại World Cup 2014. Trong trận đấu đầu tiên của họ tại giải đấu, gặp ở Belo Horizonte, De Bruyne đã hỗ trợ gỡ hòa cho Marouane Fellaini và được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trận. Ở vòng 16 đội, De Bruyne đã ghi bàn thắng mở tỷ số của Bỉ ở phút thứ ba của hiệp phụ khi họ đánh bại Hoa Kỳ với tỷ số 2-1. Anh và đồng đội đã phải dừng bước sau khi thua Á quân của giải đấu năm đó là với tỉ số 1–0 nhờ pha làm bàn của Gonzalo Higuaín. De Bruyne đã ghi hai bàn trong 6 trận đấu gặp tại vòng loại UEFA Euro 2016, bằng với chiến thắng kỷ lục của đội trong vòng loại châu Âu được thiết lập vào năm 1986. Vào ngày 3 tháng 9 năm 2015, De Bruyne đã ghi bàn trong chiến thắng 3-1 trước . Vào ngày 10 tháng 10 năm 2015, De Bruyne đã ghi bàn trong chiến thắng 4-1 trước Andorra, nơi đảm bảo vị trí của Bỉ tại UEFA Euro 2016. Ba ngày sau, anh ghi bàn trong chiến thắng 3-1 trước , đảm bảo vị trí hàng đầu của Bỉ trong bảng. Vào ngày 31 tháng 5 năm 2016, De Bruyne đã được chọn vào đội hình 23 người cuối cùng của đội tuyển Bỉ cho chiến dịch UEFA Euro 2016. Vào ngày 18 tháng 6 năm 2016, De Bruyne đã được khen ngợi vì màn trình diễn trong chiến thắng 3-0 của Bỉ trước . Vào ngày 26 tháng 6 năm 2016, De Bruyne đã được BBC bầu chọn là cẩu thủ xuất sắc nhất trận cho màn trình diễn của anh ấy trong chiến thắng 4-0 trước Hungary ở vòng 16 đội, nơi anh ấy đã cung cấp hai pha kiến ​​tạo. Vào ngày 2 tháng 7 năm 2016, Bỉ của anh đã phải dừng bước ở Euro 2016 sau trận thua Xứ Wales của Gareth Bale đang chơi rất xuất sắc với tỷ số 3–1 trong đó người ghi bàn duy nhất bên đội của anh là Radja Nainggolan. 2016–2018: World Cup 2018. De Bruyne đã được chọn vào đội hình 23 người cuối cùng của Bỉ cho chiến dịch FIFA World Cup 2018. Vào ngày 18 tháng 6, trong trận mở màn với , De Bruyne đã có pha kiến tạo đẳng cấp cho Romelu Lukaku dành chiến thắng 3-0 đầy thuyết phục. Vào ngày 6 tháng 7, anh đã ghi bàn thắng thứ hai từ một cú sút xa sấm sét trong chiến thắng 2-1 trước ở vòng tứ kết và được công nhận là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu đó. Tuy nhiên ở bán kết, Bỉ đã bị đánh bại 1-0 bởi nhà vô địch của giải là . Vào ngày 14 tháng 7, Bỉ đã đánh bại đội tuyển 2-0 trong trận play-off tranh hạng ba. 2018–2022: Euro 2020 và World Cup 2022. Vào ngày 17 tháng 6 năm 2021, De Bruyne ghi bàn thắng đầu tiên và là bàn thắng quyết định trong trận đấu thứ hai của Bỉ tại UEFA Euro 2020 , chiến thắng 2-1 trước , trước đó trong trận đấu anh đã có kiến ​​tạo bàn thắng đầu tiên cho đội tại giải đấu này. De Bruyne bị chấn thương mắt cá do một pha vào bóng từ phía sau của João Palhinha của tại vòng 16 đội Bỉ đã chiến thắng 1–0 với bàn thắng duy nhất của Thorgan Hazard từ một pha sút xa ngoài vòng cấm. Vào ngày 2 tháng 7, huấn luyện viên Bỉ Roberto Martinez nói rằng De Bruyne có thể bình phục kịp thời cho trận tứ kết, vào cuối ngày hôm đó, mặc dù không tập luyện cả tuần và sau đó anh ấy đã được xác nhận trong đội hình xuất phát. Vào ngày 2 tháng 7 năm 2021, đội tuyển của anh đã nhận thất bại 2–1 trước với hai pha lập công của Nicolò Barella và Lorenzo Insigne, đội tuyển của anh có một bàn thắng danh dự nhờ công của Romelu Lukaku trên chấm phạt đền qua đó khép lại hành trình tại Euro 2020. Anh đã có tên trong danh sách 26 cầu thủ tham dự World Cup 2022 của đội tuyển Bỉ. Đội tuyển của anh khởi đầu khá khó khăn khi chỉ dành được chiến thắng tối thiểu trước ở vòng đấu đầu tiên nhờ công của Michy Batshuayi. Nhưng sang đến vòng đấu thứ hai, đội tuyển của anh đã có một trận đấu thất vọng khi để thua với tỷ số 0–2 và có nguy cơ bị loại khỏi giải đấu nếu không thể thắng ở vòng đấu cuối cùng gặp . Vào ngày 1 tháng 12 năm 2022, đội tuyển của anh chính thức bị loại khỏi World Cup sau khi hoà với tỷ số 0–0, trong trận đấu đó anh đã liên tiếp chuyền bóng về phía của Lukaku nhưng cầu thủ này liên tiếp bỏ lỡ những cơ hội ngon ăn, đỉnh điểm là pha sút lên trời từ khoảng cách 5 mét, ở giải đấu này anh đá chính cả ba trận đấu của Bỉ ở vòng bảng. 2022–nay: Mang băng đội trưởng. Vào ngày 21 tháng 3 năm 2023, De Bruyne được công bố là đội trưởng mới của , sau khi Eden Hazard nghỉ thi đấu quốc tế . Một tuần sau, anh đã dẫn dắt Bỉ đánh bại Đức trong một trận giao hữu lần đầu tiên kể từ năm 1954, bằng cách ghi một bàn thắng và cung cấp hai đường kiến ​​tạo trong chiến thắng 3–2 trên sân khách. Phong cách thi đấu. Được coi là một cầu thủ thông minh và đa năng, De Bruyne chơi chủ yếu ở vị trí tiền vệ trung tâm hoặc tiền vệ tấn công lệch phải (tại Manchester City) nhưng cũng có thể hoạt động ở một số vị trí khác như tiền vệ cánh hoặc tiền đạo thứ hai; anh ấy thậm chí đã được triển khai ở vị trí tiền vệ kiến thiết lùi sâu, hoặc thậm chí đôi khi trong vai trò box-to-box. Anh ấy được các chuyên gia đánh giá là một trong những cầu thủ có phong cách chơi bóng hiện đại và hoàn hảo nhất hiện nay, nhờ kỹ thuật, kỹ năng, tốc độ, tầm nhìn, khả năng chuyền bóng và tạt bóng cực kì chính xác, phạm vi chuyền rộng, và những cú sút xa uy lực bằng cả hai chân. Đời tư. Mẹ của anh sinh ra ở thủ đô London, nước Anh nên anh có thể thi đấu cho Đội tuyển Anh nhưng anh vẫn chọn nơi mà mình đã sinh ra là tuyển Bỉ.Anh có người em họ là 1 cầu thủ trẻ tài năng đang chơi cho đội U17 Manchester City
80
221
6,804
1314336
71006199
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314336
Cồn Nổi
Cồn Nổi là một hòn đảo thuộc vùng biển tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Từ năm 2019, Cồn Nổi được nối với đất liền bằng một cầu vượt biển dài 6 km. Khu sinh cảnh Bãi ngang - Cồn Nổi ở Kim Sơn đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng đồng thời trở thành khu kinh tế ven biển của tỉnh Ninh Bình. Cồn Nổi đang được đầu tư xây dựng thành một điểm du lịch nghỉ dưỡng và hướng tới trở thành đô thị du lịch loại V theo Quy hoạch đô thị Ninh Bình. Vị trí. Cồn Nổi Kim Sơn có diện tích gần 1000 ha, nằm cách bờ đê biển Bình Minh 4 (Ninh Bình) 4 km, cách phao số 0 cửa Đáy 5 km. Cồn Nổi nằm ở tọa độ 19°53'50" độ Vĩ bắc và 106°00'35" độ Kinh đông. Từ thành phố Ninh Bình theo Quốc lộ 10 về hướng đông nam 27 km tới thị trấn Phát Diệm, tiếp tục theo quốc lộ 12B về phía Nam 15 km đến bờ biển Kim Sơn để ra Cồn Nổi. Đặc trưng. Cồn Nổi được hình thành do quá trình tương tác giữa dòng chảy mang phù sa của sông Đáy ra biển đông. Cụ thể, dòng chảy sông đưa phù sa ra khơi bị sóng biển lại đẩy ngược vào trong và tương tác giữa hai quá trình này đã tạo ra cồn Nổi. Cồn được phát hiện từ năm 2003 bởi một thủy thủ tên Trần Văn Thông - người Ninh Bình. Khi tàu đánh cá của ông bị mắc cạn nơi đây, ông đã khám phá vùng đất này rồi sau đó đề xuất với địa phương xin được thực hiện dự án trồng phi lao chắn sóng và nuôi trồng thủy sản tại đây. Gần Cồn Nổi có đảo Cồn Mờ có toạ độ: cũng nằm trong hải phận tỉnh Ninh Bình, cách bờ biển Kim Sơn khoảng 5 km, về phía đông đông nam, có diện tích xấp xỉ 3 km² đã và đang được khai thác để trồng rừng ngập mặn trên đảo và rừng chắn sóng xung quanh. Theo báo cáo của cơ quan chức năng: Cồn Nổi có diện tích là 30ha phần nổi, tính cả phần chìm là khoảng 1.000ha; hiện đã được Bộ Quốc phòng đầu tư xây dựng kè chống xói lở Cồn Nổi giai đoạn I và giai đoạn II với chiều dài 5km. Hiện nay, Bộ Quốc phòng đang lập dự án đầu tư xây dựng tuyến kè nối từ Cồn Nổi về đến đê Bình Minh IV với kinh phí 698 tỷ đồng. Du lịch Cồn Nổi. Tiềm năng. Kim Sơn có 18 km bờ biển nằm giữa hai cửa sông lớn là sông Đáy và sông Càn với những biến đổi kiến tạo địa chất diễn ra mạnh mẽ. Toàn bộ khu vực bãi ngang gồm thị trấn Bình Minh, các xã: Kim Đông, Kim Hải, Kim Trung, đảo Cồn Nổi và vùng biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Tại đây thiên nhiên, sự sống còn đa dạng và hoang sơ, thuận lợi phát triển loại hình du lịch sinh thái đồng quê. Thắng cảnh khu vực ven biển Kim Sơn nằm trong quy hoạch du lịch của tỉnh Ninh Bình bao gồm bãi biển, rừng phòng hộ, các đảo Cồn Nổi, cồn Mờ, cửa sông Đáy, cảnh quan đê biển, khu vực nuôi trồng và khai thác thủy hải sản... Vùng bãi ngang - Cồn Nổi Kim Sơn có tiềm năng rất lớn về du lịch sinh thái đồng quê, tham quan và tìm hiểu về thế giới tự nhiên. Cồn Nổi là nơi cư trú của những loài chim, có khoảng 200 loài chim, trong đó có gần 60 loài chim di cư, hơn 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới như: cò thìa, mòng bể, rẽ mỏ thìa, cò trắng bắc... Sinh cảnh đặc sắc nơi đây là những cánh rừng ngập mặn rộng hàng ngàn ha, đầm lầy mặn, bãi bồi ven biển và cửa sông. Những cánh rừng này được ví như bức tường xanh bảo vệ thiên nhiên khỏi bị tàn phá bởi gió bão, nước biển dâng, và cả thảm hoạ sóng thần nếu xảy ra. Đầu tư. Theo quy hoạch du lịch Ninh Bình, Cồn Nổi thuộc tuyến du lịch Nhà thờ Phát Diệm và vùng ven biển Kim Sơn. Cồn Nổi được gắn kết chuỗi trong chuỗi du lịch sinh thái - tâm linh này, cùng với nghề nuôi trồng thủy sản và đánh cá tạo thành thế mạnh kinh tế biển, kinh tế du lịch cho Kim Sơn. Kim Sơn đã xây dựng Đề án "Khai thác, phát triển tiềm năng du lịch huyện Kim Sơn đến năm 2020, định hướng phát triển đến năm 2030" nhằm đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, phát triển vùng bãi bồi ven biển và Cồn Nổi trở thành một trong 7 khu du lịch hấp dẫn của Ninh Bình với nhiều loại hình du lịch và các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn. Khu vực bãi bồi, Cồn Nổi ven biển Kim Sơn sẽ được xây dựng thành một khu du lịch sinh thái biển có tầm cỡ quốc gia, quốc tế với tổng hợp tất cả các loại hình du lịch mà đặc trưng cơ bản là lịch sử, văn hóa, tâm linh, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Dự án sẽ xây dựng đền thờ Lạc Long Quân tại Cồn Nổi và đền thờ Âu Cơ tại rừng Quốc gia Cúc Phương. Tổng diện tích của dự án trên 4.155 ha. Tại đảo Cồn Nổi sẽ xây dựng các khách sạn, biệt thự cao cấp, khu vui chơi giải trí, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cây xanh; khu trồng rừng ngập mặn chắn sóng; khu bãi tắm, thể thao lướt ván, lượn dù, khu du thuyền, ngắm cảnh, vui chơi trên biển; hệ thống giao thông, điện, nước. Dịch vụ du lịch. Hiện nơi đây chưa có dịch vụ du lịch gì đáng kể. Cầu vượt biển Cồn Nổi. Năm 2021, tuyến đường ra Cồn Nổi có tổng chiều dài 5,8 km bao gồm một đoạn đường và một đoạn cầu trên trụ cọc bê tông cốt thép. Đây là tuyến đường kết nối giữa điểm cuối quốc lộ 12B nằm trên đê Bình Minh III và đảo Cồn Nổi. Thị trấn Cồn Nổi. Theo đề án điều chỉnh quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị đến năm 2030, tầm nhìn 2050 của tỉnh Ninh Bình thì Cồn Nổi được xây dựng thành thị trấn Cồn Nổi và là một đô thị du lịch, cùng với thị trấn Kim Đông trở thành 2 thị trấn của vùng ven biển Kim Sơn. Hiện tỉnh Ninh Bình đã thành lập khu kinh tế ven biển Kim Sơn tại vùng biển bãi ngang - cồn nổi và 7 xã ven biển Kim Sơn.
24
41
1,198
1314346
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314346
Nevermind
Nevermind là album phòng thu thứ hai của ban nhạc rock người Mỹ Nirvana, phát hành vào ngày 24 tháng 9 năm 1991, là album đầu tiên mà ban nhạc thu âm bởi hãng DGC Records. Giọng ca chính Kurt Cobain muốn thực hiện một album khác với dòng nhạc rock phổ thông tại Seattle. Anh sáng tác hầu hết các ca khúc trong album này và bắt đầu thu âm cùng nhà sản xuất Butch Vig vào tháng 4 năm 1990. Sau khi bị trì hoãn, tay trống Chad Channing rời nhóm và thay thế bằng Dave Grohl. Nhóm cũng đổi sang hãng đĩa Sound City Studios và quay trở lại phòng thu vào tháng 5 năm 1991 với nhiều bài hát mới, bao gồm "Smells Like Teen Spirit" và "Come as You Are". "Nevermind" bất ngờ đạt thành công vào cuối 1991, vượt xa mong đợi của hãng thu và cả ban nhạc, phần lớn nhờ vào đĩa đơn đầu tiên "Smells Like Teen Spirit". Album đưa tên tuổi Nirvana ngang hàng với những cây đại thụ của làng nhạc rock, biến họ trở thành đại diện ưu tú nhất của nhạc grunge. Các đĩa đơn của album, bao gồm "Smells Like Teen Spirit", "Come as You Are", "Lithium" và "In Bloom", đều là những ca khúc bất hủ của ban nhạc này. Tháng 1 năm 1992, "Nevermind" trở thành album đứng đầu bảng xếp hạng của "Billboard". Với khoảng 30 triệu đĩa đã bán, đây là một trong những album bán chạy nhất lịch sử và là một trong những album nhạc rock được biết tới nhiều nhất và có ảnh hưởng lớn nhất. "Nevermind" trở nên nổi tiếng trong cộng đồng nhạc grunge tại Seattle, đưa hình ảnh của alternative rock trở nên phổ biến khi tạo nên một thị trường và văn hóa chung. Năm 2004, tạp chí "Rolling Stone" xếp "Nevermind" ở vị trí số 17 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất mọi thời đại" và đến năm 2005, album được đưa vào trong danh sách thu âm quốc gia của Thư viện Quốc hội Mỹ. Hoàn cảnh ra đời. Kurt Cobain và Krist Novoselic thành lập nên ban nhạc Nirvana tại Aberdeen, Washington và họ ký hợp đồng thu âm tự do với một hãng đĩa nhỏ có tên Sub Pop. Album đầu tay của họ "Bleach" được ra mắt vào năm 1989 với Chad Channing chơi trống. Tuy nhiên, Channing rời nhóm vào năm 1990, khiến ban nhạc tạm ngưng hoạt động cho tới lúc nhóm tìm được tay trống mới. Trong một lần Nirvana cộng tác với nhóm Scream, tay trống của nhóm này là Dave Grohl đã bị ấn tượng mạnh bởi Cobain và Novoselic. Khi Scream tan rã không lâu sau, Grohl đã nói chuyện với Novoselic, chuyển tới Seattle rồi đề nghị xin gia nhập nhóm. Novoselic cảm thấy rất vui vì sự tham gia của Grohl và gọi mọi thứ "như đã tìm thấy đúng chỗ". Cobain tiếp tục là người sáng tác chính cho nhóm. Anh tham khảo phong cách từ R.E.M., The Smithereens và cả Pixies. Cảm thấy không hài lòng với thứ rock phổ thông tại Seattle mà Sub Pop cũng đang cố định hình cho họ, Cobain – lấy cảm hứng từ thói quen nghe nhạc của mình – đã quyết định viết những ca khúc giàu tính giai điệu hơn. Ca khúc bước ngoặt trong việc thực hiện album chính là "Sliver" mà Sub Pop phát hành trước ghi Grohl tới nhóm, được Cobain miêu tả như "một lời tuyên bố theo cách nào đó. Tôi viết một ca khúc pop và cho phát hành nó dưới dạng đĩa đơn chỉ để thông báo cho mọi người về những sản phẩm tiếp theo. Tôi thích viết kiểu như vậy." Grohl cũng cho rằng vào thời điểm đó, ban nhạc vẫn thường xuyên tìm những điểm tương đồng giữa âm nhạc của họ với âm nhạc dành cho thiếu nhi khi cố gắng viết những ca khúc đơn giản nhất có thể. Tới đầu những năm 1990, Sub Pop bắt đầu vướng phải những khó khăn tài chính. Khi có những lời đồn rằng Sub Pop sắp buộc phải nhượng quyền để được bảo trợ bởi một hãng đĩa lớn hơn, Nirvana quyết định cắt hợp đồng để "chia tay với bên trung gian" và đi tìm hãng đĩa mới. Vài hãng đĩa đã tới chào mời nhóm, song ban nhạc cuối cùng ký hợp đồng với Geffen Records thuộc DGC Records theo lời đề nghị của công ty quản lý Gold Mountain vì Geffen cũng là hãng đĩa của ban nhạc thần tượng của họ – Sonic Youth và Kim Gordon. Thu âm và sản xuất. Đầu năm 1990, Nirvana lên kế hoạch thực hiện album thứ hai của họ với tên "Sheep". Lần này, quản lý của Sub Pop là Bruce Pavitt đã gợi ý Butch Vig trở thành nhà sản xuất cho album. Nirvana vốn rất thích thú với những dự án của Vig cho nhóm Killdozer nên đã chủ động liên hệ: "Chúng tôi muốn có những âm thanh cũng mạnh mẽ như vậy." Đến tháng 4, cả nhóm bay tới phòng thu Smart Studios của Vig ở Madison, Wisconsin để bắt đầu công việc. Hầu hết những phần hòa âm cơ bản của các ca khúc đều được thực hiện trong thời gian này, song Cobain vẫn có nhiều khó khăn trong việc chọn ca từ, còn bản thân ban nhạc cũng chưa chắc chắn sẽ chọn ca khúc nào để thu âm. Tuy nhiên, đã có tám ca khúc được thu tại đây, bao gồm "Imodium" (sau này được đổi tên thành "Breed"), "Dive" (sau này được cho vào mặt B của đĩa đơn "Sliver"), "In Bloom", "Pay to Play" (sau đó được đổi tên thành "Stay Away" với phần lời mới hoàn toàn), "Sappy", "Lithium", "Here She Comes Now" (sau này được cho vào album tri ân "Velvet Underground Tribute Album: Heaven and Hell Volume 1") và "Polly". Nhóm cũng muốn thu thêm vài bài nữa, nhưng vì giọng của Cobain đã bị biến dạng sau khi thu "Lithium" nên buộc tất cả phải dừng công việc lại. Vig đề nghị nhóm hãy quay lại nếu tiếp tục thu âm các ca khúc, song ông không được nghe câu trả lời nào. Thực tế, ban nhạc đã lấy những buổi thu tại đây làm demo để đi tìm hãng đĩa mới. Chỉ vài tháng sau, các bản demo này đã được chuyển qua lại giữa nhiều hãng đĩa, tạo nên vài lời xì xào về ban nhạc. Sau khi ký hợp đồng với DGC, hàng loạt nhà sản xuất được hãng giới thiệu, có thể kể tới Scott Litt, David Briggs và Don Dixon, song Nirvana lại đề nghị Butch Vig. Novoselic nói vào năm 2001, rằng ban nhạc đã phát bực với hãng đĩa về việc thu âm và các nhà sản xuất đã nói rằng thực ra DGC muốn có vài phần trăm từ việc thực hiện album này. Cuối cùng, họ đã cộng tác với Vig, người mà họ cảm thấy thoải mái nhất. Với tổng số tiền sản xuất là khoảng 65.000$, Nirvana đã thu âm "Nirvana" tại phòng thu Sound City Studios tại Van Nuys, California trong tháng 5-6 năm 1991. Họ ban đầu dự định thực hiện album từ tháng 3, song cuối cùng đã bị đình trệ vì nhóm khi đó chưa có hứng để bắt đầu việc thu âm. Để có tiền bay tới Los Angeles, ban nhạc đã phải làm một buổi diễn nhỏ mà tại đây họ đã trình bày "Smells Like Teen Spirit" lần đầu tiên. Nirvana sau đó đã mang tới cho Vig tất cả các bản thu từ trước cũng như tại Smart Studios, ngoài ra còn có vài ca khúc mới như "Smells Like Teen Spirit" và "Come as You Are". Khi cả nhóm tới California, Nirvana đã tận dụng vài ngày tiền-sản-xuất khi họ cùng Vig tiến hành sửa sang lại các bản hòa âm. Chỉ có duy nhất một ca khúc được giữ nguyên từ thời kỳ Smart Studios là "Polly", trong đó có cả tiếng chũm chọe đánh lỗi bởi Chad Channing. Khi tất cả quá trình hoàn thiện, ban nhạc trở lại với lịch làm việc 10 tiếng/ngày. Mỗi ca khúc được họ thu hai hoặc ba bản với các nhạc cụ khác nhau và nếu bản thu không làm họ hài lòng ở bất kể điểm nào, họ liền tiến tới việc thực hiện một điều gì mới. Họ cũng thử chơi các ca khúc vô số lần trước khi thu, dẫn tới việc xuất hiện rất nhiều bản nháp. Novoselic và Grohl thì sớm hoàn thiện phần chơi bass và trống, song Cobain phải phụ trách lượng công việc lớn hơn với guitar, ghi đè, hát và đặc biệt là viết lời (đôi khi chỉ được hoàn thành vài phút trước khi bắt đầu thu âm chính thức). Thường thì phần thu của Cobain nằm rải rác ở nhiều băng thâu và được Vig trộn lại bằng kỹ thuật ghi đè. Vig cũng nói rằng chính ông đã gợi ý Cobain sử dụng kỹ thuật ghi đè này sau khi thấy anh thu rất nhiều bản. Đặc biệt, ông đã thuyết phục được Cobain ghi đè với "In Bloom" sau khi nói "John Lennon cũng đã làm như vậy đấy." Sau khi tất cả mọi việc đã tương đối, Vig nhớ lại rằng Cobain trở nên ủ rũ và khá khó gần: "Cậu ấy đã rất tuyệt vời sau hàng giờ, rồi đột nhiên cậu ta ngồi một góc và không nói gì suốt hàng giờ." Sau khi quá trình thu âm kết thúc, Vig và ban nhạc bắt đầu quá trình trộn âm. Tuy nhiên, chỉ sau vài ngày, họ đã nhanh chóng cảm thấy không hài lòng về chất lượng trộn âm. Vì thế họ đã yêu cầu có thêm vài chuyên gia tới hỗ trợ, và Geffen Records đã nhờ tới DGC nhằm đưa ra những lựa chọn cần thiết. Danh sách của DGC có nhiều cái tên quen thuộc, như Scott Litt (phụ trách của R.E.M.) hay Ed Stasium (phụ trách của The Smithereens). Tuy nhiên, Cobain lại cảm thấy không hứng thú do anh không muốn sản phẩm của mình lại giống với những nhóm nhạc trên. Cuối cùng, họ chọn Andy Wallace (người từng sản xuất album nổi tiếng "Seasons in the Abyss" của Slayer) – vốn chỉ là cái tên cuối cùng của danh sách. Novoselic nhớ lại: ""Chúng tôi đã nói "Đây rồi!" vì các bản thu của Slayer nghe rất mạnh mẽ."" Wallace liền mang các ca khúc cùng với rất nhiều máy trộn âm, nhấn mạnh vào tiếng trống và đặt chỉ tiêu mỗi ngày hoàn thiện một bài. Cả Vig lẫn Wallace đều công nhận rằng ban nhạc đã rất thích phần trộn âm này. Tuy nhiên, ngay sau khi album được phát hành, các thành viên của Nirvana đều tỏ thái độ không hài lòng với phần âm thanh có được từ "Nevermind". Trong cuốn "Come as You Are", Cobain bộc bạch: "Cứ nhìn lại quá trình thực hiện "Nevermind" là tôi lại cảm thấy phiền lòng. Nó cứ như kiểu một sản phẩm của Mötley Crüe được trình bày theo kiểu punk rock." "Nevermind" được chỉnh âm toàn bộ vào lúc chiều tối ngày 2 tháng 8 tại The Mastering Lab ở Hollywood, California. Howie Weinberg bắt đầu công đoạn một mình này khi toàn bộ nhân viên của phòng thu đều không thể thu xếp vào khoảng thời gian này; khi Nirvana, Andy Wallace và Gary Gersh tới, Weinberg đã hoàn chỉnh hầu hết cả album. Một trong những ca khúc được chỉnh âm vào lúc đó chính là ca khúc ẩn "Endless, Nameless" đã được chèn vào phía cuối của "Something in the Way" vì một sai sót của Weinberg. Ông nhớ lại: "Ban đầu, như kiểu ai đó đã từng nói rằng nên đưa ca khúc đấy vào sau ca khúc cuối cùng của album. Có thể tôi đã nghe nhầm hướng dẫn, nên bạn có thể quy đó là lỗi của tôi. Có thể tôi đã quên không viết điều đó ra giấy khi Nirvana và hãng đĩa giải thích. Vậy nên nó không tồn tại trong khoảng 12.000 sản phẩm đầu tiên cho CD, album hay băng cassette." Khi ban nhạc phát hiện ra ca khúc này tồn tại trong album, Cobain đã yêu cầu cá nhân Weinberg phải trực tiếp sửa chữa lỗi này. Weinberg liền thay thế bằng cách đè 10 phút lặng sau "Something in the Way", rồi sau đó cho phát ca khúc ẩn này trong các ấn bản sau đó của album. Âm nhạc. Cobain – người viết nhạc chính của Nirvana – đã lựa chọn việc sử dụng nhiều hợp âm power chord và chú trọng việc sáng tác các ca khúc thiên về pop song theo kèm những đoạn gằn guitar. Quan điểm của anh về "Nevermind" là việc tạo ra âm thanh "như The Knack và The Bay City Rollers bị bắt chước bởi Black Flag và Black Sabbath." Rất nhiều ca khúc của album bao gồm nhiều đoạn chuyên hợp âm dữ dội khi ban nhạc quyết định chuyển từ đoạn nhạc nhẹ nhàng sang đoạn ồn ào hơn. Dave Grohl nhớ lại rằng cách xử lý này tới từ quá trình bốn tháng thu âm album, khi ban nhạc có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các đoạn chuyển hợp âm trong quá trình thu jam. Tạp chí "Guitar World" viết: "Âm thanh guitar của Cobain trong "Nevermind" đã định hình nhạc rock thập niên 90." Trong album này, Cobain sử dụng chủ yếu chiếc Fender Mustang của những năm 1960, chiếc Fender Jaguar nhãn DiMarzio, cùng vài chiếc Fender Stratocasters có lắp humbucker. Anh cũng thường dùng các đoạn chỉnh méo âm cùng âm vọng bằng pedal, rồi cả hiệu ứng "nước" trong "Come as You Are" hay trong đoạn mở đầu của "Smells Like Teen Spirit". Krist Novoselic thì thường hạ cây bass của mình xuống một cung rưỡi xuống âm Rê để "có được âm chuẩn". Ca từ. Grohl nhớ lại Cobain từng nói với anh: "Âm nhạc đi trước, ca từ theo sau," và Grohl tin rằng Cobain luôn tập trung tất cả cho giai điệu các ca khúc của mình; lần này, Cobain cũng đã hoàn thành rất tốt công việc viết lời cho "Nevermind". Thậm chí quan điểm của Cobain qua album này còn có nhiều lúc khó hiểu. Vig cho rằng rõ ràng khả năng của Cobain vào lúc này chưa tới đỉnh của mình. Ông bình luận: "Cho dù bạn không thể hiểu hết những gì anh ấy hát thì bạn cũng thấy nó đã rất căng rồi!" Cobain sau đó đã cảm thấy bực dọc khi nhiều nhà báo cố giải mã cách hát và nghĩa của những phần ca từ anh viết. Anh từng viết: "Chuyện quái gì mà các nhà báo cứ cố tìm hiểu với một tư tưởng Freud hạng hai để đánh giá ca từ của tôi, khi mà 90% những gì họ hiểu đều sai be bét?" Charles R. Cross viết trong cuốn tiểu sử về Cobain, "Heavier than Heaven" (2001), rằng hầu hết những gì Cobain viết trong "Nevermind" đều lấy cảm hứng từ những trục trặc tình cảm với Tobi Vail. Sau khi mối quan hệ kết thúc, Cobain bắt đầu viết và vẽ theo chiều hướng bạo lực, trong đó phần nhiều là những căm hờn chính anh và mọi người. Các ca khúc được viết dù ít mang tính bạo lực hơn, nhưng vẫn mang nhiều sự khác biệt so với những sản phẩm đầu tay của anh vốn không tồn tại sự giận dữ. Cross viết: "Khoảng bốn tháng sau khi chia tay, Kurt đã viết tới nửa tá ca khúc và hầu hết đều bất hủ. Tất cả đều để nói về Tobi Vail." "Drain You" được bắt đầu bởi câu hát "One baby to another said 'I'm lucky to have met you'" vốn là lời Vail từng nói với anh, còn câu hát "It is now my duty to completely drain you" nhằm miêu tả vai trò của Vail trong mối quan hệ tình cảm với Cobain. Theo Novoselic, """Lounge Act" là để nói về Tobi"", và câu hát "I'll arrest myself, I'll wear a shield" nhằm miêu tả việc Cobain xăm hình logo của hãng K Records lên cánh tay để gây ấn tượng với Vail. Cho dù ca khúc "Lithium" được sáng tác trước khi Cobain gặp Vail, phần ca từ đã được thay đổi vì cô. Cobain cũng từng nói với tạp chí "Musician" rằng "một trong những kinh nghiệm cá nhân của tôi, như việc chia tay bạn gái và có những mối quan hệ tồi tệ, khiến cho ta thấy nhân vật trong các ca khúc thực sự cô đơn và mệt mỏi." Thiết kế. Album ban đầu định mang tên "Sheep" và được Cobain thiết kế theo kiểu châm biếm nhằm tới những người có ý định mua đĩa của nhóm. Anh thậm chí đã viết cả một lời tựa cho album "Sheep" này: "Bởi vì chỉ mình bạn không muốn; bởi vì mọi người khác thì có." Novoselic nhớ lại rằng ban nhạc đi tới ý tưởng này khi họ có ý nhạo báng thái độ của công chúng với Chiến tranh vùng Vịnh. Sau khi quá trình thu âm hoàn tất, Cobain cảm thấy mệt mỏi về nhan đề album và đề nghị với Novoselic về cái tên "Nevermind". Cobain cảm thấy khá thích thú về cái tên này vì nó có cảm hứng nhiều từ cuộc sống của riêng anh, và thực tế nó bị viết sai về mặt ngữ pháp. Phần bìa của album là hình chụp một cậu nhóc trần truồng trong bể bơi, cố với về phía đồng tiền được móc vào lưỡi câu trước mặt. Theo Cobain, anh có ý tưởng này sau khi xem một chương trình truyền hình về một ca sinh dưới nước cùng Grohl. Anh đã đề nghị điều này với nhà sản xuất của Geffen là Robert Fisher. Fisher muốn thiết kế một buổi chụp ca sinh dưới nước thật, song nó quá tốn kém với kinh phí của hãng đĩa. Hơn nữa, những chịu trách nhiệm về đứa trẻ đã chấp nhận khoản tiền 7.500$/năm cho việc sử dụng bức hình, vậy nên Fisher đồng tình chuyển phương án sang việc gửi thợ chụp tới bể bơi để chụp hình cậu nhóc. Năm tấm hình đã được thực hiện với cậu nhóc ba tháng tuổi Spencer Elden, con trai người bạn của người thợ chụp hình. Tuy nhiên, có vấn đề khá nhạy cảm đó là dương vật của cậu nhóc lại rất dễ thấy trong bức hình. Geffen liền chỉnh sửa để có một bức hình không có hình ảnh nhạy cảm này, song họ lại sợ rằng điều đó dễ gây phản cảm cho người xem. Cuối cùng, họ đã chấp thuận khi Cobain đưa ra thỏa thuận sẽ có một miếng dán nhỏ che đi phần hình nhạy cảm đó. Anh nói: "Nếu bạn vẫn còn phản đối về chuyện này, chứng tỏ bạn là một kẻ ấu dâm." Mặt bìa sau là bức hình một chú khỉ bằng nhựa được đặt trước một phông nền cắt dán được thiết kế bởi Cobain. Phần hình này có cả một chút quảng cáo cho một sản phẩm thịt bò, và lấy cảm hứng từ câu chuyện "" của Dante Alighieri và vài bức chỉnh sửa hình âm đạo phụ nữ mà Cobain có được từ một bệnh viện tư nhân. Cobain bổ sung: "Nếu bạn thử nhìn kỹ hơn, thực ra đó là bức hình của Kiss được đặt trên một miếng thịt bò." Phần phụ chú cho album có ghi không đầy đủ phần lời các ca khúc, thay vào đó là các phần lời ngẫu nhiên cùng nhiều phần lời không được sử dụng mà Cobain từng sáng tác cho các bài thơ của mình. Phát hành. "Nevermind" được phát hành vào ngày 24 tháng 9 năm 1991. Các cửa hàng băng đĩa tại Mỹ nhận được 46.251 đĩa trong đợt phát hành đầu tiên, trong khi 35.000 đĩa được chuyển tới Anh – nơi mà trước đó album "Bleach" đã có được thành công đáng kể. Đĩa đơn đầu tay "Smells Like Teen Spirit" được ra mắt ngày 10 tháng 9 với mục đích xây dựng phần nền alternative rock tới người hâm mộ, trong khi đĩa đơn tiếp theo "Come as You Are" là một sản phẩm tiếp theo đảm bảo nhận được nhiều sự chú ý. Ban nhạc cũng tổ chức một tour diễn ngắn trong 4 ngày tại Mỹ để quảng bá album. Geffen Records hi vọng rằng "Nevermind" sẽ bán được khoảng 250.000 bản, tương đương với lượng đĩa bán được bởi album đầu tay "Goo" của Sonic Youth. Điều họ mong đợi nhất chính là nếu tất cả làm việc hết sức, album có thể có được chứng chỉ Vàng vào tháng 9 năm 1992. Album xuất hiện tại "Billboard" 200 ở vị trí 144. Geffen dành 1 nửa số lượng đĩa phát hành cho thị trường Tây Bắc nước Mỹ, nơi mà lượng tiêu thụ là rất lớn và album trở nên hết hàng từ rất sớm. Họ đành phải cho sản xuất thêm các album khác của nhóm nhầm đảm bảo lượng yêu cầu tại đây. "Nevermind" bán khá chạy, song mọi việc chỉ thực sự khác biệt khi đĩa đơn "Smells Like Teen Spirit" trở nên ngày một nổi tiếng. Video của ca khúc được công chiếu lần đầu trên kênh MTV qua chương trình "120 Minutes", nhưng vốn dĩ ca khúc đã được biết tới rất nhiều ngay từ trước chương trình đó. Chẳng bao lâu sau, đĩa đơn đã có được chứng chỉ Vàng, song ban nhạc lại không bận tâm tới điều đó. Novoselic nhớ lại: "À phải chúng tôi cũng vui chứ. Thật sự nghe nó rất hay. Thậm chí khá trang nhã. Nhưng tôi chưa bao giờ có chút thích thú về mấy cái danh hiệu đó. Nó nghe rất hay, tôi chỉ nghĩ vậy thôi." Khi ban nhạc bắt đầu tour diễn vòng quanh châu Âu vào tháng 11 năm 1991, và "Nevermind" bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên trong "Billboard" 40 với vị trí 35. Khi đó, "Smells Like Teen Spirit" đã trở thành bản hit kinh điển và album được bán rất chạy, cho dù Geffen không thực hiện một chiến dịch quảnh bá rầm rộ tương xứng với lượng đĩa tiêu thụ. Giám đốc Ed Rosenblat của hãng từng trả lời phỏng vấn với tờ "The New York Times": ""Chúng tôi chẳng làm điều gì cả. Nó chỉ là một bản thu "làm cho xong" như bao bản thu khác."" Khi Nirvana đi diễn vòng quanh châu Âu vào cuối năm 1991, họ nhận ra rằng buổi diễn đã bị cháy vé, truyền hình đã quay trực tiếp cả chương trình của họ, còn "Smells Like Teen Spirit" thì xuất hiện khắp nơi cả trên đài phát thanh lẫn vô tuyến. "Nevermind" trở thành album quán quân đầu tiên của Nirvana vào ngày 11 tháng 1 năm 1992 sau khi thay thế Michael Jackson tại "Billboard" 200. Vào lúc đó, album bán được khoảng 300.000 bản. "Come as You Are" được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 3 năm 1992 và cũng trở thành bản hit toàn cầu, đạt vị trí số 9 tại UK Singles Chart và 32 tại "Billboard" Hot 100. 2 đĩa đơn tiếp theo là "Lithium" và "In Bloom" lần lượt có được vị trí số 11 và 28 tại bảng xếp hạng UK Singles Chart. Album sau đó có được chứng chỉ Vàng và Bạch kim từ RIAA vào tháng 11 năm 1991, Kim cương vào tháng 3 năm 1999. Tại Canada, album cũng có được chứng chỉ Kim cương (tương đương với 1 triệu đĩa bán) bởi CRIA vào tháng 3 năm 2001. "Nevermind" cũng có 2 lần chứng chỉ Bạch kim tại Anh. Năm 1996, Mobile Fidelity Sound Lab cho phát hành album này dưới dạng đĩa than như một phần cho serie ANADISQ 200, cùng với đó là 1 CD khảm 24 carat vàng. Bản CD cũng có ca khúc "Endless, Nameless". Bản LP thì nhanh chóng được bán hết vì số lượng rất hạn chế, trong khi bản CD vẫn còn bày bán sau nhiều năm. Năm 2009, Original Recordings Group cũng cho phát hành "Nevermind" với đĩa than tráng xanh 180g ấn bản hạn chế, theo kèm là một đĩa than đen 180g chỉnh âm bởi Bernie Grundman từ những phần băng gốc đầu tiên. Sản phẩm được đánh giá rất cao về chất lượng âm thanh. Tính tới năm 2008, album đã bán được tổng cộng hơn 30 triệu bản. Ấn bản 2001 và ấn bản Deluxe. Tháng 12 năm 2001, nhân kỷ niệm 20 năm phát hành album, Universal Music Enterprises cho ra mắt ấn bản 2-CD Deluxe và 4-CD/1-DVD Super Deluxe của "Nevermind". CD thứ nhất của cả hai ấn bản là album gốc với phần thu tại phòng thu cũng như trực tiếp ở mặt B. CD thứ 2 bao gồm những bản thu nháp đầu tiên, trong đó có cả những ca khúc sau này nằm trong album, các buổi thu tại Smart Studios và một vài bản thu của nhóm với máy thu âm cầm tay. CD thứ 2 này cũng có cả hai ca khúc được thu tại phòng thu của BBC. Đĩa thứ 3 còn có tên Super Deluxe bao gồm những bản mix bởi Butch Vig, ghi đè kiểu "Devonshire Mixes" cho tất cả các ca khúc trừ "Polly" và "Endless, Nameless". Đĩa thứ 4 trong ấn bản Super Deluxe là CD và DVD "Live at the Paramount". Đón nhận của công chúng. Việc quảng bá "Nevermind" của Geffen không được thực hiện tốt như những hãng đĩa lớn khác. Họ tập trung chủ yếu vào những đơn vị phát hành lâu năm cũng như hướng tới những tạp chí lớn thuộc khu vực Seattle. Một trong những đánh giá tích cực bất ngờ nhất là những nhận xét cho rằng hãng đĩa đã chuẩn bị khâu phát hành vô cùng kỹ càng. Ban đầu, Nevermind không có được nhiều chú ý, và khá nhiều cửa hàng từ chối bán đĩa. Sau nhiều tháng và đặc biệt sau khi "Smells Like Teen Spirit" xuất hiện nhiều hơn trên đài phát thanh, việc "chạy đua" phát hành album đột phá này bắt đầu. Tuy nhiên, những chú ý dồn vào Coban thậm chí còn lớn hơn cả với album. Hầu hết những đánh giá vào thời điểm này là khá tích cực. Karen Schoemer của tờ "The New York Times" viết: "Với "Nevermind", Nirvana đã có những thành công rõ rệt. Nó chứa đựng nội dung hấp dẫn, cảm xúc đa dạng, nhiều đoạn hòa âm và cả những từ ngữ sáng tạo nhằm lấp đầy hàng giờ thưởng thức." Schoemer kết luận ""Nevermind" thực sự tinh tế và được sản xuất tốt hơn những gì mà mấy ban nhạc ngang hàng như Dinosaur Jr. hay Mudhoney từng thực hiện." "Entertainment Weekly" dành cho album điểm A- và cây viết David Browne cho rằng với "Nevermind", Nirvana đã chứng minh rằng họ "chưa bao giờ thỏa mãn" với việc có một thứ âm thanh "bình thường" khi so sánh với những ban nhạc đương thời khác. Để kết thúc bài nhận xét của mình trên tờ "Melody Maker", Everett True viết "Khi Nirvana cho ra mắt "Bleach" vài năm trước, những người lạc quan trong số chúng ta đã mường tượng ra rằng họ có tiềm năng tạo nên một album có khả năng làm lu mờ tất cả những sản phẩm khác. Cảm ơn Chúa rằng chúng ta đã đúng." Tạp chí "Spin" dành cho album đánh giá "tích cực" khi nhấn mạnh "bạn có thể hát nhẩm theo tất cả các ca khúc này cho tới cuối đời – hoặc chí ít là cho tới khi băng hay CD của bạn bị hỏng". Tờ "Select" cũng tặng album 4/5 sao tối đa, so sánh ban nhạc với những nghệ sĩ như Jane's Addiction, Sonic Youth và Pixies, kết luận album "đã chứng minh rằng Nirvana thuộc về một đẳng cấp cao". Nhiều đánh giá thì không hoàn toàn tích cực. Tạp chí "Rolling Stone" chỉ cho album 4/5 sao. Cây bút Ira Robbins viết: "Nếu Nirvana không thể tìm tới một điều gì đó mới thì "Nevermind" không có nhiều ca khúc, hình tượng và quan điểm đặc sắc hơn một sản phẩm tổng hợp lại những ca khúc hit được ưa chuộng qua đài phát thanh của các trường trung học." "The Boston Globe" tỏ ra không có nhiều hứng thú với album, nhà phê bình Steve Morse viết "Nhìn chung, "Nevermind" được tạo nên từ thứ punk-pop mà chúng ta vẫn thấy từ Iggy Pop cho tới Red Hot Chili Peppers", và cho rằng "ban nhạc chỉ có một chút thậm chí không có gì để diễn đạt, chủ yếu dựa vào những cảm xúc lan man của ca sĩ - người viết lời Kurt Cobain." Nevermind được bình chọn là album của năm bởi mục Pazz & Job của tuần báo "The Village Voice", ngoài ra "Smells Like Teen Spirit" cũng đứng đầu trong danh sách đĩa đơn và video của năm. Nevermind còn đứng đầu tại nhiều bảng xếp hạng khác, và nhà phê bình Robert Christgau đã nhận xét trong bài viết của mình về album: "Với một thứ pop khiêm nhường bất ngờ nhất, họ đã có được thành công khiêm nhường nhất giống như De La Soul vào năm 1990. Hơn nữa, những chứng chỉ Bạch kim liên tiếp đã minh chứng một cách đầy đủ đánh giá của công chúng về thứ nhạc indie từ nước Mỹ – âm thanh, nhịp điệu và quan điểm – mà tới một nửa độc giả [của mục Pazz & Jop] đã đồng tình." Di sản. "Nevermind" trở nên vô cùng nổi tiếng trong cộng đồng nhạc grunge tại Seattle, tuy nhiên nó cũng đưa hình ảnh của alternative rock trở nên phổ biến khi tạo nên một thị trường và văn hóa chung. Thành công của "Nevermind" gây bất ngờ cho chính bản thân Nirvana vào lúc đó, những người vốn chưa thực sự được biết tới nhiều so với bản thân album này. Guy Picciotto của nhóm Fugazi bình luận: "Nó như kiểu biến album của chúng tôi như một bãi tiểu bậy giữa khu rừng lớn nếu so sánh với tầm vóc của nó vậy. Nó khiến chúng tôi như kiểu chỉ chơi ukulele nếu nhìn vào sự tác động khác biệt mà họ đã tạo nên." Năm 1992, Jon Pareles của tờ "The New York Times" đã nói về những ảnh hưởng sau khi album được phát hành: "Đột nhiên, chẳng ai còn muốn đặt cược nữa. Chưa có một ai từng có những ca khúc của khoảng chục, có lẽ là hàng trăm, ban nhạc bừa bãi, nghịch ngợm và lếch thếch ấy – những người có thể sẽ bán được cả triệu đĩa ngoài kia." Những nhà sản xuất thu âm bắt đầu có được những bước tiến và cả hợp đồng thu âm với các nhóm nhạc, và những chiến dịch cũ dành cho các ban alternative rock đã được thay thế bằng các phương pháp nhằm có được sự nổi tiếng một cách nhanh nhất. Michael Azerrad trong cuốn tiểu sử "" (1993) về ban nhạc đã cho rằng "Nevermind" đã đánh dấu bước ngoặt thế hệ thời đại kết thúc thời kỳ bùng nổ âm nhạc rock and roll từ những năm 50 và cả thời kỳ thống trị của thế hệ baby boom đối với âm nhạc. Ông viết: ""Nevermind" xuất hiện thực sự đúng lúc. Đây là thứ âm nhạc được tạo ra bởi, dành cho, và nói về một thế hệ trẻ mới – những người quá bị giám sát, bị lãng quên hoặc quá được chiều chuộng." Tạp chí "Rolling Stone" bình luận trong đoạn giới thiệu khi "Nevermind" ở vị trí số 17 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất": "Chưa từng có một album nào có thể tạo ảnh hưởng lên cả thế hệ – cả một thế hệ trẻ tuổi bỗng đột ngột chuyển sang punk – như một hiệu ứng thảm họa bởi những người tạo ra nó." "Nevermind" tiếp tục nhận được nhiều đánh giá tích cực sau khi phát hành. "Rolling Stone" đánh giá đây là album hay nhất của thập kỷ 1990, gọi đây "album đã cho phép nói rằng thập niên 90 không phải là vứt đi". Cây viết Josh Tyrangiel của tạp chí "Time" gọi đây là "album mượt mà nhất thập kỷ" trong danh sách "100 album vĩ đại nhất" của họ. Pitchfork Media xếp album ở hạng 6 trong danh sách album của thập kỷ với lời chú thích "bất kể ai đã từng ghét album này thì giờ phải cố tỏ ra là mình hay, và buộc phải cố gắng hơn nữa." Năm 2006, độc giả tờ "Guitar World" xếp album ở vị trí số 8 trong danh sách "100 album guitar hay nhất". "Entertainment Weekly" cũng xếp "Nevermind" ở vị trí số 10 trong danh sách album vĩ đại nhất của họ vào năm 2013 Năm 2005, album được Thư viện Quốc hội Mỹ cho vào trong danh sách thu âm quốc gia trong vai trò tuyển tập những âm thanh "quan trọng về mặt văn hóa, lịch sử và thẩm mỹ" của thế kỷ 20. Danh sách bài hát. Tất cả các bài hát đều được viết và biên soạn bởi Kurt Cobain, các sáng tác khác được ghi chú bên.
42
210
5,724
1314356
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314356
Sa giông đuôi kiếm Nhật Bản
Sa giông đuôi kiếm Nhật Bản (danh pháp hai phần: Cynops ensicauda) là một loài kỳ giông trong họ Kỳ giông. Sa giông đuôi kiếm Nhật Bản có phạm vi phân bố rất nhỏ và có thể tìm thấy ở một số đảo cực nam Nhật Bản. Loài này dài 5-7 inch .
1
3
53
1314357
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314357
Sa giông Trình Cống
Sa giông Trình Cống (danh pháp hai phần: Hypselotriton chenggongensis) là một loài kỳ giông trong họ Kỳ giông. Chi cynops sẽ được chia. Các loài Trung Quốc và loài Nhật Bản sẽ được chia thành hai chi khác nhau, sa giông Trình Cống nằm giữa hai chi dự kiến này. Có nhiều cuộc tranh luận về tính hợp lệ của Cynops cyanurus và "Cynops chenggongensis". Có một gợi ý rằng hầu hết các động vật nuôi nhốt có gọi là "Cynops cyanurus" có thể là "chenggongensis". Phân tích của chi là cần thiết để làm rõ tình hình.
1
6
99
1314359
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314359
Sa giông bụng đỏ Trung Quốc
Sa giông bụng đỏ Trung Quốc (danh pháp hai phần: Cynops orientalis) là một loài kỳ giông trong họ Kỳ giông. Loài này dài 6–10 cm và có màu đen với màu cam sáng ở phía bên bụng. Loài này thường được nuôi làm cảnh, thường bị nhầm lẫn với sa giông bụng đỏ Nhật ("Cynops pyrrhogaster") do tương đồng về kích cỡ và màu sắc. "C. orientalis" thường có da mượt hơn và đuôi tròn hơn "C. pyrrhogaster", và có các tuyến mang tai ít rõ ràng hơn. Sa dông bụng đỏ Trung Quốc có độc tố nhẹ độc và bài tiết qua da của chúng.
2
5
107
1314363
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314363
Theridion impressum
Theridion impressum là một loài nhện trong họ Theridiidae. Loài này thuộc chi "Theridion". "Theridion varians" được miêu tả năm 1881 bởi L. Koch. Loài nhện này phổ biến rộng rãi ở nam trung bộ nước Anh, nhưng trở thành rải rác hoặc vắng mặt trong các bộ phận phía tây và phía bắc, và rất hiếm ở một số vùng phía đông, bao gồm ghi lại các hạt như Essex. Nó có một bản phân phối rộng rãi ở Cổ bắc giới (miền Toàn bắc) (Platnick 1998) và phổ biến rộng rãi ở miền tây và Trung Âu.
3
5
99
1314367
658556
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314367
Đặng Vũ
Đặng Vũ (, 2 - 58), tên tự là Trọng Hoa, người Tân Dã, Nam Dương, tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, đứng đầu Vân Đài nhị thập bát tướng. Từ nhỏ thông minh. Ông từ nhỏ thông minh, 13 tuổi đã biết làm thơ, về sau du học Trường An. Khi ấy Lưu Tú cũng du học Trường An, Vũ tuy nhỏ tuổi, nhưng gặp Lưu Tú đã biết không phải kẻ tầm thường, lập tức kết thân. Mấy năm sau, ông quay về nhà. Cuối thời nhà Tân, khắp nơi nổi dậy, hào kiệt quê nhà muốn đề cử Vũ làm thủ lĩnh để khởi sự, ông không theo. Nghe tin Canh Thủy đế mệnh cho Lưu Tú bình định Hà Bắc, ông lập tức khăn gói vượt sông sang bờ bắc, đến Nghiệp thì gặp được. Hai người nói chuyện thâu đêm, Vũ khuyên ông ta mời gọi anh hùng, thu lấy lòng dân mà tự lập. Lưu Tú rất hài lòng, lệnh cho bộ hạ gọi ông là Đặng tướng quân, mỗi khi có việc lớn, ắt được cùng bàn bạc. Không lâu sau, Vương Lang nổi dậy, Vũ theo Lưu Tú lánh sang Kế , rồi đến Tín Đô , có được mấy ngàn quân, lệnh cho ông soái lĩnh, đánh hạ Quảng A . Trong thời gian này, Lưu Tú tuyển nhiệm tướng lĩnh, thường hỏi qua ý kiến của Vũ. Những người mà ông tiến cử, đều là kỳ tài quân sự, nên càng được kính trọng. Về sau Lưu Tú mệnh cho Vũ và bọn Cái Duyên đi dẹp nghĩa quân Đồng Mã ở Thanh Dương. Bọn Duyên đi trước, không thắng được, lui về giữ thành, bị địch vây khốn. Ông soái quân đại phá nghĩa quân mà giải vây, bắt sống đại tướng của địch. Đưa quân tây tiến. Năm Canh Thủy thứ 2 (24), Lưu Tú muốn tranh giành Quan Trung với triều đình Canh Thủy, bèn bái Vũ làm Tiền tướng quân, Trì tiết, soái 2 vạn tinh binh, được tự chọn cấp dưới đi cùng. Ông lấy Hàn Hâm làm Quân sư, Lý Văn, Lý Xuân, Trình Lự làm Tế tửu, Phùng Âm làm Tích nỗ tướng quân, Phàn Sùng làm Kiêu kị tướng quân, Tông Hâm làm Xa kị tướng quân, Đặng Tầm làm Kiến uy tướng quân, Cảnh Hân làm Xích mi tướng quân, Tả Vu làm Quân sư tướng quân, dẫn binh tây tiến. Tháng giêng năm Kiến Vũ đầu tiên (25), Vũ soái quân vượt núi Thái Hành, ra khỏi Cơ quan tiến đánh Hà Đông . Hà Đông đô úy đóng cửa cố thủ, quân Hán tấn công 10 ngày, phá được, thu lấy rất nhiều quân nhu lương thực. Kế đó soái quân vây An Ấp , nhưng mấy tháng vẫn chưa hạ được. Tướng Canh Thủy là Phàn Tham soái mấy vạn quân, vượt núi Đại Dương đến tấn công, ông sai các tướng quay lại đánh trả ở Giải Nam, đại phá địch, chém đầu Tham. Tướng Canh Thủy là bọn Định Quốc thượng công Vương Khuông, Huấn Tương Ấp vương Thành Đan, Kháng uy tướng quân Lưu Quân hợp quân hơn 10 vạn, tiếp tục tấn công, quân Hán gặp bất lợi, Phàn Sùng tử trận. Trời về chiều, đôi bên bãi chiến. Bọn Hàn Hâm khuyên Vũ nhân đêm tối lui quân, ông không nghe. Ngày hôm sau là ngày Quý Hợi, bọn Khuông tránh ngày cuối của Lục Giáp nên không ra đánh, ông nhân đó chỉnh đốn đội ngũ, sắp xếp chỉ huy. Ngày thứ 3, Vương Khuông dốc quân đến đánh, Vũ lệnh cho trong quân không được vọng động, đợi đối phương đến gần, mới nổi trống cùng tiến lên, đại phá địch. Bọn Khuông bỏ quân mà chạy, Vũ soái khinh kỵ đuổi theo, bắt được Lưu Quân cùng Hà Đông thái thú Dương Bảo, Trì tiết trung lang tướng Nhị Cương, đều chém đầu, thu được 6 ngọn cờ tiết, 500 ấn thụ, binh khí không đếm xuể, bình định xong Hà Đông. Ông thừa chế lấy Lý Văn làm Hà Đông thái thủ, đặt các chức huyện lệnh để trị lý. Cùng tháng, Lưu Tú lên ngôi ở Cảo Ấp , chính là Hán Quang Vũ đế, phái sứ giả mang cờ tiết đến bái Vũ làm Đại tư đồ, ban ấn thụ Phụng xa đô úy, phong Toản hầu, thực ấp vạn hộ. Khi ấy Vũ mới 24 tuổi. Vũ đưa quân từ Phần Âm vượt sông, vào Hạ Dương . Trung lang tướng Tả phụ đô úy của Canh Thủy tấn công Thừa Hấp, đưa 10 vạn người hợp với quân ở Tả Phùng Dực cùng chống lại Vũ, ông đánh bại bọn họ. Khi ấy quân Xích Mi tiến vào Trường An, quân kỷ không tốt, trăm họ hoang mang. Nghe nói quân của Vũ kỷ luật nghiêm minh, trên đường không tơ hào gì, lại không ai địch nổi, nên người theo hàng có đến hàng ngàn. Ở nơi ông dừng xe dựng cờ tiết, úy lạo trăm họ, già trẻ trai gái chen chúc dưới xe, ai cũng vui mừng, vì thế tiếng tăm vang dội Quan Tây. Quang Vũ đế nghe biết, rất hài lòng. Đánh mất Trường An. Bộ hạ của Vũ khuyên ông vào Quan, nhưng Vũ muốn trước tiên đánh lấy 3 quận Thượng Quận, Bắc Địa, An Định, nuôi dưỡng sức người, sức của. Vì thế ông đưa quân về phía bắc tiến đến Tuần Ấp , các quận, huyện nối nhau quy phục. Quang Vũ đế thúc giục ông tiến quân, nhưng Vũ vẫn kiên trì quan điểm, phái quân đánh lấy các huyện của Thượng Quận , lưu Phùng Âm, Tông Hâm ở lại giữ Cẩu Ấp, tự thống quân chủ lực bình định Bắc Địa . Nhưng 2 người lại tranh quyền giành công, Âm giết Hâm rồi quay ra chống lại Vũ. Ông sai sứ hỏi kế Quang Vũ đế, đế suy đoán thuộc hạ thân tín của Âm là Hộ quân Hoàng Phòng sẽ bắt Âm, quả nhiên như vậy! Mùa xuân năm Kiến Vũ thứ 2 (26), Vũ được tăng phong làm Lương hầu, thực ấp 4 huyện. Nghĩa quân Xích Mi có nội loạn, rời Trường An chạy sang phía tây đến Phù Phong , Vũ nhân lúc Trường An trống rỗng mà tiến vào, đóng quân ở hồ Côn Minh , khao thưởng sĩ tốt. Ông soái các tướng trai giới, chọn ngày lành, sửa soạn lễ vật mà cúng tế miếu Cao Tổ, tìm lại bài vị của 11 đời Hoàng đế nhà Hán, sai sứ báo tin về Lạc Dương, nhân đó xem xét lăng tẩm, cắt đặt quan chức coi sóc. Vũ đưa quân giao chiến với Duyên Sầm ở Lam Điền, không thắng, quay về thu hoạch lương thực của Vân Dương. Hán Trung vương Lưu Gia đến hàng, gia tướng Lý Bảo của ông ta có hành vi vô lễ, ông chém đi. Em trai Bảo thu lấy bộ hạ của ông ta chống lại Vũ, giết chết tướng quân Cảnh Hân. Từ khi Phùng Âm làm phản, uy tín của Vũ đã kém đi, lại thiếu thốn lương thực, những người quy phụ đều rời bỏ. Lúc này nghĩa quân Xích Mi quay lại đánh Trường An, Vũ đưa quân giao chiến, thua chạy, lui về Cao Lăng, sĩ tốt đói kém, phải ăn rau cỏ. Đế gọi về, trách ông cố chống lại quân Xích Mi liều chết vì đói nên mới thất bại. Vũ lấy làm xấu hổ về việc không lập được công, mấy lần phái binh quay lại dò xét, đều gặp bất lợi. Mùa xuân năm thứ 3 (27), Vũ nhận lệnh tiến đánh Xích Mi, yêu cầu Phùng Dị cùng chống địch. Dị cho rằng nên thả cho quân Xích Mi đi qua, rồi đông – tây giáp kích, ông không nghe, cùng bộ tướng là Xa kỵ tướng quân Đặng Hoằng gấp gáp đón đánh. Hoằng cùng nghĩa quân giao chiến cả ngày, quân Xích Mi lui chạy, ngụy trang những xe chở đất bùn làm xe chở lương thực. Quân Hoằng tranh giành lẫn nhau, nghĩa quân quay lại tấn công, Hoằng đại bại. Vũ, Dị hợp quân đến cứu, Xích Mi lui chạy, Vũ đuổi theo, đại bại, chỉ còn 24 kỵ binh chạy thoát về Nghi Dương. Ông dâng trả ấn thụ Đại tư đồ, Lương hầu, có chiếu giao lại cho ông ấn thụ Lương hầu. Mấy tháng sau, được bái làm Hữu tướng quân. Mùa xuân năm thứ 4 (28), Vũ cùng Phục Hán tướng quân Đặng Diệp, Phụ Hán tướng quân Vu Khuông tại Đặng đánh bại Duyên Sầm. Ông đuổi đến Vũ Đương, lại phá được địch. Duyên Sầm trốn về Hán Trung, còn bộ hạ của ông ta đều hàng. Cuối đời. Năm thứ 13 (37), bình xong thiên hạ, Quang Vũ đế gia phong công thần, phong Vũ làm Cao Mật hầu, thực ấp 4 huyện Cao Mật, Xương An, Di An, Thuần Vu; lại phong em trai của ông là Khoan làm Minh Thân hầu. Theo lệ, ông bị bãi tất cả các quan chức, nhưng nằm trong số ít các công thần thường được gọi vào triều khi có việc lớn. Vũ thờ mẹ rất hiếu, có 13 con trai đều nuôi dạy thành tài. Của nhà chỉ cần đủ dùng, không có ý làm giàu, nên rất được Đế xem trọng. Năm Trung Nguyên đầu tiên (56), được coi việc Đại tư đồ, là ngoại lệ hiếm có trong số các công thần khai quốc. Theo xa giá tuần thú phía đông, được phong "Đại tông". Minh đế lên ngôi, bái ông làm Thái phó. Cùng năm, mất, hưởng thọ 57 tuổi, thụy là Nguyên hầu. Mộ của ông ở vị trí ngày nay cách 200m về phía tây thôn Ngự Giá, huyện Tế Nguyên, Hà Nam. Tương truyền, do Hán Minh đế đích thân tống táng Vũ, nên mới có tên thôn là Ngự Giá. Trong Văn Cách, mộ đã bị đào lên một phần. Đánh giá. Chiến công của Vũ không sánh bằng bọn Ngô Hán, Giả Phục. Nhân cách của ông cũng không bì kịp bọn Phùng Dị, Sái Tuân. Nhưng ông có công vạch ra sách lược, củng cố lòng tin cho Quang Vũ đế trong buổi đầu khởi nghiệp khó khăn, từ đó giành lấy Hà Bắc, Quan Tây làm cơ sở vững chắc đi đến thành công sau này. Thêm nữa, Vũ tiến cử Ngô Hán, Khấu Tuân,… cho thấy khả năng nhìn người sắc sảo, càng được Quang Vũ đế kính trọng. Bình xong thiên hạ, Vũ vui thú điền viên, thờ mẹ dạy con, thể hiện đạo đức cao đẹp, khiến cho Quang Vũ đế hài lòng. Ông là một trong vài công thần khai quốc được tái bổ nhiệm, làm đến Thái phó. Gia đình, dòng họ. Sau khi Vũ mất, con cháu đời đời làm quan, họ Đặng ở Nam Dương cùng họ Đậu ở Phù Phong, họ Dương ở Hoằng Nông và họ Viên ở Nhữ Nam là 4 thế gia đại tộc hiển hách nhất trong thời kỳ Đông Hán. Ông có 13 con trai. Hậu Hán thư có chép liệt truyện của trưởng tử Đặng Chấn, con thứ Đặng Tập, con thứ 3 Đặng Trân, con thứ 6 Đặng Huấn và con nhỏ Đặng Hồng. Chấn, Tập, Trân được thế tập hầu tước. Huấn sinh ra Đặng Tuy, là Hoàng hậu của Hán Hòa đế, tức Đặng thái hậu về sau. Những nhà nghiên cứu đời Tống là cha con Đặng Danh Thế, Đặng Xuân Ai đã soạn "Cổ kim thắng thị thư biện chứng" kể rằng: "Sau khi trung hưng, họ Đặng nhiều đời được sủng quý: hầu (tước) 29 người; công (tước) 2 người; đại tướng quân trở xuống 13 người; trong đó 14 người nhận (lương bổng) 2000 đam; liệt hiệu 22 người; châu mục, quận thú 48 người; còn thị trung, tướng, đại phu, lang, yết giả nhiều không đếm xuể." Tuy nhiên, sau khi Đặng thái hậu qua đời, có người vu cáo bọn Đặng Khôi, Đặng Hoằng từng phản đối lập Hán An đế, khiến cho họ Đặng chịu 1 phen tai kiếp. Con cháu từ đó luân lạc đến Hồ Nam, Hồ Bắc, thậm chí là Sơn Tây, Cam Túc. Trọng thần Đặng Chi nhà Thục Hán, thân tín Đặng Dương của Đại tướng quân Tào Sảng nhà Tào Ngụy vào thời Tam Quốc đều là hậu duệ của Đặng Vũ.
33
92
2,117
1314368
695286
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314368
Cá nóc chóp
Cá nóc chóp hay cá nóc hòm năm góc lưng (danh pháp: Tetrosomus gibbosus) là một loài cá biển thuộc chi "Tetrosomus" trong họ Cá nóc hòm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758. Từ nguyên. Tính từ định danh "gibbosus" theo tiếng Latinh có nghĩa là "có bướu", hàm ý đề cập đến sống lưng đặc biệt nhô cao của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. Cá nóc chóp có phân bố rộng ở vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ vùng biển bao quanh bán đảo Ả Rập và Đông Phi trải dài về phía đông đến Philippines và Papua New Guinea, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Cá nóc chóp là thành viên đầu tiên của họ Cá nóc hòm tiến vào được Địa Trung Hải nhờ kênh đào Suez. Cá nóc chóp sống ở vùng có nền đáy bùn hoặc cát, thường là ở vùng nước sâu ngoài khơi, có khi trên thảm cỏ biển với nền đáy là đá vụn, độ sâu thường gặp trong khoảng 37–110 m. Mô tả. Tổng chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá nóc chóp là 30 cm, nhưng hay bắt gặp với kích thước khoảng 20 cm. Sống lưng nhô cao, có một gai lớn hình tam giác. Gờ bụng có 4 gai nhỏ, chĩa rộng sang hai bên. Đầu dô rất cao, rất dốc. Mắt tròn, trên mỗi mắt có một ngạnh. Thân màu vàng nâu hay vàng xám, có những vệt nâu đen lớn. Dọc theo gờ bụng có 4-5 vằn nâu tím. Gốc vây lưng màu đen. Vây lưng và vây hậu môn màu vàng. Vây đuôi màu nâu tím. Bắp đuôi màu tím nhạt. Số tia vây ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10; Số tia vây ở vây ngực: 10–11; Số tia vây ở vây đuôi: 10. Sinh thái. Thức ăn của cá nóc chóp bao gồm tảo và những loài thủy sinh không xương sống như động vật thân mềm, hải miên, giun nhiều tơ và động vật giáp xác. Theo nghiên cứu của Văn Lệ và cộng sự (2006), chưa phát hiện độc tính ở cá nóc chóp (không gây chết người khi ăn dưới 1000 g cá nóc có chứa lượng độc dưới 10 MU/g). Phân tích mẫu cá này trước đó ở Nha Trang (năm 2003) cũng chưa phát hiện độc tố chết người. Hình dạng cơ thể của cá nóc chóp giúp chúng chống lại ngoại lực làm nghiêng cơ thể khỏi tư thế ổn định. Bụng và sống lưng của cá tạo ra các cột xoáy nước theo hướng nằm ngang đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự thăng bằng của cá. Thương mại. Cá nóc chóp được khai thác trong ngành thương mại cá cảnh. Người dân Việt Nam vẫn có thói quen sử dụng loài này làm thực phẩm.
15
29
504
1314373
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314373
10BASE2
10BASE2 (còn được gọi là cheapernet, thin Ethernet, thinnet, và thinwire) là một biến thể của Ethernet có tốc độ băng thông (bandwidth) là 10Mbps(10) sử dụng cáp đồng trục mỏng được kết nối bằng đầu nối BNC.Từ giữa đến cuối những năm 1980, đây là chuẩn Ethernet 10 Mbit/s chiếm ưu thế, nhưng do nhu cầu lớn về mạng tốc độ cao, chi phí thấp của cáp xoắn đôi Cat5, và sự phổ biến của mạng không dây 802.11, cả 10BASE2 và 10BASE5 đã trở thành ngày càng lỗi thời, mặc dù các thiết bị vẫn tồn tại ở một số địa điểm. Kể từ năm 2011, IEEE 802.3 đã không chấp nhận tiêu chuẩn này cho các cài đặt mới. Nguồn gốc tên. Tên gọi "10BASE2" được bắt nguồn từ một số đặc điểm của môi trường vật lý. Số "10" xuất phát từ tốc độ truyền 10 Mbit/s. Từ "BASE" là viết tắt của tín hiệu băng tần cơ sở (baseband signalling), và số "2" cho chiều dài phân đoạn tối đa gần 200 m (chiều dài tối đa thực tế là 185 m). Mã hóa tín hiệu. Ethernet 10 Mbit/s sử dụng mã hóa Manchester. Số không nhị phân được biểu thị bằng chuyển đổi từ thấp đến cao ở giữa chu kỳ bit và số một nhị phân được biểu thị bằng chuyển đổi từ cao xuống thấp ở giữa chu kỳ bit. Mã hóa Manchester cho phép đồng hồ được phục hồi từ tín hiệu. Tuy nhiên, các chuyển tiếp bổ sung liên quan đến nó tăng gấp đôi băng thông tín hiệu. Thiết kế mạng. Cáp đồng trục 10BASE2 có độ dài tối đa . Số lượng nút thực tế tối đa có thể được kết nối với phân đoạn 10BASE2 được giới hạn ở 30 với khoảng cách tối thiểu là giữa các thiết bị. Trong mạng 10BASE2, mỗi đoạn cáp được kết nối với bộ thu phát (thường được tích hợp vào bộ điều hợp mạng) bằng cách sử dụng đầu nối BNC-T, với một đoạn cáp nối với mỗi đầu cái của đầu nối chữ T. Đầu nối chữ T phải được cắm trực tiếp vào bộ điều hợp mạng mà không có cáp ở giữa. Giống như hầu hết các bus tốc độ cao, các đoạn Ethernet phải được kết thúc bằng một điện trở ở mỗi đầu. Mỗi đầu cáp có một điện trở 50 ohm (Ω) kèm theo. Thông thường, điện trở này được tích hợp vào đầu BNC đực và được gắn vào thiết bị cuối cùng trên bus. Nó thường được kết nối trực tiếp với đầu nối chữ T trên máy trạm. Nếu đầu nối bị thiếu hoặc nếu có đứt cáp, tín hiệu AC trên bus sẽ được phản xạ, thay vì tiêu tan, khi đến cuối. Tín hiệu phản xạ này không thể phân biệt được với một vụ va chạm, vì vậy không có giao tiếp nào có thể diễn ra. Một số thiết bị đầu cuối có một dây kim loại gắn liền với chúng cho mục đích nối đất. Cáp nên được nối đất ở một đầu. Việc nối đất cả hai đầu có thể tạo ra một vòng lặp nối đất và có thể gây ra sự cố mất mạng hoặc hỏng dữ liệu khi các luồng điện đi qua tấm chắn bên ngoài của cáp đồng trục. Khi nối mạng 10BASE2, phải đặc biệt cẩn thận để đảm bảo rằng cáp được kết nối đúng với tất cả các đầu nối chứ T. Tiếp xúc kém hoặc chạm mát cực kỳ khó chẩn đoán. Một lỗi tại bất kỳ điểm nào của hệ thống cáp mạng có xu hướng ngăn chặn tất cả các thông tin liên lạc. Vì lý do này, các mạng 10BASE2 có thể khó bảo trì và thường được thay thế bằng các mạng 10BASE-T, vốn (cung cấp cáp xoắn đôi Cat5 hoặc tốt hơn đã được sử dụng) cũng cung cấp khả năng nâng cấp tốt lên 100BASE-TX.
10
27
676
1314383
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314383
Nepenthes epiphytica
Nepenthes epiphytica là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài chỉ có ở các huyện Berau và Đông Kutai của Đông Kalimantan, Borneo, nơi nó mọc ở độ cao khoảng 1000 m trên mực nước biển. Prior to its formal description as a species, "N. epiphytica" đã được xem là một biến thể của loài có quan hệ gần gũi "N. fusca". "Nepenthes epiphytica" thuộc tổ hợp được định nghĩa lỏng lẻo "N. maxima", cũng bao gồm "N. boschiana", "N. chaniana", "N. eymae", "N. faizaliana", "N. fusca", "N. klossii", "N. maxima", "N. platychila", "N. stenophylla", và "N. vogelii".
1
4
102
1314392
920660
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314392
Lewis Martin (Chính trị gia Úc)
Lewis Ormsby Martin (sinh năm 1872 – mất ngày 17 tháng 4 năm 1944) là chính trị gia người Úc. Ông sinh ra ở Bairnsdale, Victoria, con của thợ mỏ Robert Martin và vợ Antoinette Laura. Martin đã thua cuộc một ứng cử viên độc lập vào năm 1941, và ông mất tại Taree năm 1944.
1
3
56
1314393
539651
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314393
Nepenthes baramensis
Nepenthes baramensis là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài nhiệt đới bản địa tây bắc Borneo, nơi nó mọc trong rừng đầm lầy than bùn và rừng thạch nam dưới 200 m trên mực nước biển. Trước khi mô tả như là một loài, đơn vị phân loại này được coi là một biến của "N.rafflesiana" và được gọi chính thức là 'hình thức kéo dài' của "N. rafflesiana", "N. rafflesiana var. elongata", hoặc "N." sp. "elegance".. Loài này rất giống với hình thức điển hình của "N. rafflesiana". Nó được ghi nhận từ Brunei và các khu vực ven biển của miền bắc Sarawak trên Miri và vườn quốc gia Gunung Mulu. Nepenthes baramensis dường như dựa vào chiến lược bẫy con mồi khác so với cách của "N. rafflesiana". Không giống như N. rafflesiana, nắp bình của "N. baramensis" có một khu vực sắp mở rộng và ướt, ít chất lỏng nhớt đàn hồi. Chúng cũng dường như thiếu các mô hình tia UV và sản xuất mật hoa và mùi hấp dẫn.
2
9
180
1314397
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314397
Ó cá
Ó cá hay ưng biển ("Pandion haliaetus") là một loài chim săn mồi ăn cá, sống về ban ngày với phạm vi sống toàn cầu. Loài chim này có kích thước lớn với chiều dài hơn và sải cánh . Đặc điểm dễ nhận biết là vùng lưng và phía sau đầu có màu nâu xám, cánh và xung quanh mắt có màu đen. Ó cá sống trong nhiều kiểu môi trường khác nhau, làm tổ ở bất cứ nơi nào gần vực nước cung cấp đủ thức ăn cho chúng. Chúng được tìm thấy trên tất cả các lục địa trừ châu Nam Cực, riêng ở Nam Mỹ chúng chỉ xuất hiện ở dạng di cư không sinh sản. Loài này được IUCN đánh giá là ít quan tâm, chỉ tính riêng châu Phi thì số cá thể có khoảng 460.000 con. Như tên gọi của chúng, thức ăn của chúng hầu như chỉ là cá. Chúng có các đặc điểm hình thái và hành vi rất đặc biệt giúp chúng có thể săn và bắt con mồi. Do các đặc điểm độc đáo này, chúng được phân loại vào một chi riêng, chi Pandion duy nhất của họ Pandionidae. Có 4 phân loài được công nhận trên thế giới. Mặc dù có xu hướng làm tổ gần các khu vực có nước, chúng không phải là một loài đại bàng biển. Phân loại học. Ó cá là một trong những loài được Carolus Linnaeus mô tả trong công trình của ông trong thế kỷ XVIII, "Systema Naturae", và được đặt tên là "Falco haliætus" thuộc chi Cắt "Falco". Chi "Pandion" là chi duy nhất trong họ Pandionidae, và chỉ chứa một loài duy nhất là "P. haliaetus". Chi "Pandion" được nhà động vật học Pháp Marie Jules César Savigny mô tả năm 1809, và được đặt theo tên vị vua thành Athens trong thần thoại Hy Lạp là Pandion II. Tên loài "haliaetus" biến thể từ tiếng Hy Lạp cổ đại "Haliaeetus/đại bàng biển". Trong tiếng Việt, tên gọi ưng biển hay ó cá xuất phát môi trường sinh thái ngoài biển và tập tính bắt cá làm thức ăn của chúng. Ó cá có một số nét khác với các loài chim săn mồi ban ngày khác. Các ngón ở chân của ó cá dài bằng nhau, xương cổ chân có dạng lưới, còn móng vuốt lại tròn thay vì có rãnh. Ó cá và cú là các loài săn mồi duy nhất mà ngón chân cái của chúng lại ở bên ngoài, ngược lại so với các loài chim săn mồi khác (thường thì ngón cái ở phía bên trong), cho phép chúng có thể bắt được con mồi với hai ngón trước và hai ngón sau. Điều này đặc biệt có ích khi bắt các loài cá trơn trượt. Nó luôn thể hiện một điều gì đó còn thách thức đối với các nhà phân loại học, nhưng trong trường hợp này nó được xem là một thành viên trong họ Pandionidae, và họ này từng được xếp vào bộ Cắt. Theo một số người khác thì chúng cũng được xếp cùng với diều, ưng và đại bàng vào họ Ưng, và nằm trong một bộ lớn là bộ Ưng hoặc họ Cắt trong bộ Cắt. Ví dụ như phân loại của Sibley-Ahlquist xếp nó cùng với các loài săn mồi ban ngày khác vào một đơn vị phân loại lớn hơn là Ciconiiformes, nhưng cách xếp này làm cho việc phân loại cận ngành không tự nhiên. Phân loài. Ó cá có đặc điểm khác thường ở chỗ nó là loài duy nhất có mặt trên khắp thế giới trừ Nam Cực. Có một số loài của ó cá được phân chia không rõ ràng nên nhìn chung hiện nay chỉ có 4 phân loài được nhận dạng, mặc dù những phân loại dựa trên những khác biệt không lớn lắm, và ITIS chỉ liệt kê có 2 phân loài đầu tiên. Hóa thạch. Có hai loài tuyệt chủng được ghi nhận từ việc phát hiện ra các hóa thạch. "Pandion homalopteron" được Stuart L. Warter đặt tên năm 1976 từ một hóa thạch có tuổi thuộc thế Miocen giữa, tầng Barstow, được tìm thấy trong các trầm tích biển ở một vài nơi thuộc miền nam tiểu bang California. Loài thứ hai là "Pandion lovensis" được Jonathan J. Becker mô tả năm 1985 từ các nghiên cứu hóa thạch được tìm thấy ở tiểu bang Florida và được xác định là có niên đại thuộc giai đoạn Clarendon sớm và có thể đại diện một nhánh riêng biệt của nó là "P. homalopteron" và "P. haliaetus". Một số hóa thạch móng vuốt đã được thu nhặt trong các trầm tích Pliocen và Pleistocen ở Florida và Nam Carolina, Hoa Kỳ. Tuy nhiên hóa thạch cổ nhất là của họ Pandionidae được tìm thấy thuộc Oligocene, giai đoạn hình thành Jebel Qatrani, ở Faiyum, Ai Cập. Tuy nhiên, những đặc điểm của chúng không đủ để có thể xếp vào loài cụ thể. Một hóa thạch khác của họ Pandionidae cũng đã được tìm thấy trong các lớp trầm tích Oligocen sớm tại thung lũng Mainz, Đức, đã được Gerald Mayr mô tả năm 2006. Mô tả. Ó cá có trọng lượng trung bình 0,9-2,1 kg, chiều dài 50–66 cm và sải cánh rộng 127–180 cm. Các phân loài có kích thước gần giống nhau, trung bình 1,53 kg: phân loài "P. h. carolinensis" là 1,7 kg và "P. h. cristatus" là 1,25 kg. Cánh có chiều dài 38–52 cm, đuôi 16,5–24 cm và xương cổ chân 5,2-6,6 cm. Phần trên có màu nâu đậm trong khi ức có màu trắng và đôi khi có sọc màu nâu, còn phần lông còn lại có màu trắng. Phần đầu màu trắng với một vòng màu sẫm quanh mắt, kéo dài đến hai bên cổ. Đồng tử có màu vàng và nâu, trong khi vòng màng xung quanh trong suốt có màu xanh dương nhạt. Mỏ có màu đen, phần đỉnh nhô lên có màu xanh dương, và bàn chân có màu trắng với các móng vuốt đen. Với một cái đuôi ngắn, cánh hẹp và bốn lông vũ dài như những ngón tay, lông thứ 5 ngắn hơn làm cho nó có hình dáng rất đặc biệt. Con trống với con mái gần như giống nhau về diện mạo, nhưng con trống trưởng thành khác với con mái ở chỗ cơ thể nó mảnh hơn và cánh hẹp hơn. Phần lông ở ngực của con trống nhỏ và nhạt hơn so với con mái hoặc có thể là chỉ có màu trắng tinh khiết, và lông dưới cánh của con trống cũng nhạt hơn con mái. Có thể dễ dàng phân biệt khi chúng mới nở hơn so với các cá thể trưởng thành. Ó cá non có thể được xác định bởi màu sắc phần lông trên lưng, dưới bụng, và các lông sọc trên đầu. Đến mùa xuân, ó cá non có thêm một lớp lông vũ dày hơn so với lớp lông tơ trước đây của nó. Khi bay, ó cá cong các cánh và rủ xuống giống với mòng biển. Chúng có tiếng kêu thanh, như "cheep, cheep" hay "yewk, yewk". Nếu tổ của chúng có nguy hiểm, chúng phát ra tiếng kêu như "cheereek"! Phân bố và môi trường sống. Ó cá là loài chim ăn thịt phân bố rộng rãi thứ hai trên thế giới chỉ sau loài "Falco peregrinus". Chúng được tìm thấy ở tất cả các châu lục trừ lục địa Nam Cực, tại các vùng đất có khí hậu nhiệt đới và ôn đới. Ở Bắc Mỹ, nó sinh sản khắp các vùng đất từ Alaska, Newfoundland đến tận phía Nam các bang Vùng vịnh của Hoa Kỳ và Florida, trú đông từ miền Nam Hoa Kỳ đến tận Argentina. Tại châu Âu, ó cá được tìm thấy tại khắp bán đảo Scandinavia và Scotland vào mùa hè. Những khu vực khắc nghiệt bao gồm cả Iceland, Bắc Phi không thấy sự xuất hiện của chúng. Ở Úc, ó cá chủ yếu sinh sống rải rác xung quanh bờ biển, tuy nhiên chúng cũng di trú không sinh sản ở Tây Victoria và Tasmania. Có một khoảng cách 1000 km so với bờ biển của đồng bằng Nullarbor, giữa điểm sinh sản cận Tây của nó ở Nam Úc và các điểm sinh sản gần nhất về phía Tây ở Tây Úc. Ó cá cũng có mặt tại các đảo thuộc Thái Bình Dương như quần đảo Bismarck, quần đảo Solomon và Nouvelle-Calédonie, và các hóa thạch đã được tìm thấy ở Tonga, có lẽ do sự lấn chiếm đất đai của con người khiến chúng mất dần khu vực sinh sống tại đây. Có thể chúng từng có thời gian phân bố khắp các đảo thuộc Vanuatu và Fiji. Tại châu Á, các khu vực di trú bao gồm Nam Á, và Đông Nam Á từ Myanmar qua Đông Dương, miền Nam Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Philippines. Tập tính. Thức ăn. 99% thức ăn của ó cá là cá. Nó chủ yếu ăn cá có cân nặng 150–300 gam và chiều dài khoảng 25–35 cm, nhưng cũng ăn cá cân nặng từ 50 đến 2000 gam với kích thước bất kỳ. Ó cá có thị lực tốt để nhận dạng các vật thể dưới nước từ trên không. Nó nhìn thấy con mồi đầu tiên khi ở độ cao 10–40 m trên mặt nước, sau khi đảo một chút nó lao xuống và đưa 2 chân xuống nước để bắt. Ó cá đặc biệt thích nghi với cách bắt mồi này, với các ngón trước có thể đảo ngược, các gai nhỏ sắc bén ở mặt dưới của móng, hai lỗ mũi có thể khép lại để giữ không cho nước tràn vào khi lặn, và các vảy mọc ngược trên vuốt có vai trò như các móc câu để giữ con mồi. Thỉnh thoảng, ó cá có thể săn động vật gặm nhấm, thỏ, động vật lưỡng cư, các loài chim khác, và động vật bò sát nhỏ. Sinh sản. Ó cá sinh sản cạnh các hồ nước ngọt, và đôi khi là các vùng nước lợ ven biển. Các vách đá ngoài khơi được sử dụng ở đảo Rottnest bờ biển của Tây Úc có khoảng 14 địa điểm làm tổ trong đó có từ 4-7 là được sử dụng trong một năm. Một số được làm lại theo từng mùa, và một số có thể sử dụng cho 70 năm. Tổ là một đống các than gỗ, cỏ biển được xây dựng trong các ốc cây, mỏm đá, cột điện, các công trình nhân tạo trên các đảo nhỏ ngoài khơi. Nhìn chung, ó cá đạt đến tuổi trưởng thành và bắt đầu sinh sản từ đó đến 3 hoặc 4 năm tiếp theo, mặc dù ở một số khu vực có mật độ ó cá lớn, như vịnh Chesapeake ở Hoa Kỳ, chúng có thể không bắt đầu sinh sản mãi cho đến khi được 5 đến 7 tuổi, và có thể là sự thiếu hụt các cấu trúc có độ cao thích hợp cho chúng làm tổ. Nếu không có các vị trí làm tổ, ó cá con có thể buộc phải trì hoãn sinh sản. Để giải quyết vấn đền này, các trụ đôi khi được xây dựng để tạo ra các vị trí thích hợp cho chúng xây tổ. Di cư. Phụ loài ở châu Âu thì sống qua mùa đông ở châu Phi, ở Hoa Kỳ và Canada thì sống qua mùa đông ở Nam Mỹ, thậm chí một số sống ở các bang tận cùng phía nam của Hoa Kỳ như Florida và California. Một số ó cá từ Florida di trú sang Nam Mỹ. Ó cá ở Úc thì có khuynh hướng không di trú. Các nghiên cứu về ó cá của Thụy Điển cho thấy rằng các con cái có khuynh hướng di cư đến châu Phi sớm hơn con đực. Có nhiều chặng dừng chân trong suốt đợt di cư trong mùa thu. Sự thay đổi về giờ và khoảng thời gian trong mùa thu thì có ý nghĩa nhiều hơn trong mùa xuân. Mặc dù di chuyển chủ yếu trong ngày, thỉnh thoảng chúng bay một vài giờ trong đêm đặc biệt là qua các vực nước và trung bình bay 260–280 km/ngày, tối đa là 431 km/ngày. Các loài chim châu Âu cũng có thể di trú mùa đông ở Nam Á, ó cá xung quanh Na Uy cũng được phát hiện ở miền tây Ấn Độ. Hiện trạng. Ó cá có diện phân bố rộng lớn, chỉ tính riêng châu Phi và châu Mỹ là 9.670.000 km², và có số cá thể trên toàn cầu ước tính khoảng 460.000 con. Mặc dù các khuynh hướng cá thể trên toàn cầu không định lượng được nhưng loài này được cho là không nằm ở ngưỡng giảm số cá thể theo tiêu chí của IUCN (như giảm hơn 30% trong vòng 10 năm hoặc 3 thế hệ), và do đó, loài này được xếp vào nhóm ít quan tâm. Có dấu hiệu cho thấy sự sụt giảm cá thể ở Nam Úc ở những nơi thuộc vịnh Spencer và dọc theo hạ lưu của sông Murray. Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các mối đe dọa chính đối với số lượng cá thể ó cá là việc thu lượm trứng và săn bắt con trưởng thành cùng với các loài chim săn mồi khác, số cá thể ó cá đã giảm nhiều mạnh ở một số khu vực trong thập niên 1950 và 1960, một phần là do ảnh hưởng của các thuốc trừ sâu như DDT lên hệ sinh sản của chúng. Thuốc trừ sâu can thiệp vào quá trình trao đổi calci của chim làm cho trứng trứng có thành mỏng, dễ vỡ hoặc không thể thụ tinh. Có thể vì cấm sử dụng DDT ở nhiều quốc gia vào đầu thập niên 1970 cùng với việc giảm săn bắt, số cá thể ó cá cũng như những loài bị ảnh hưởng khác đã hồi phục đáng kể. Ở Nam Úc, các địa điểm làm tổ của chúng trên bán đảo Eyre và đảo Kangaroo là dễ bị tổn thương bởi các hoạt động giải trí không kiểm soát ven biển và phát triển đô thị. Ó cá là loài chim biểu tượng của tỉnh bang Nova Scotia, Canada và tỉnh Södermanland, Thụy Điển. Trong văn hóa. Nisos, vua của Megara trong thần thoại Hy Lạp, đã hóa thành đại bàng biển hoặc ó cá để tấn công cháu ông ta sau khi cô ấy phải lòng Minos, vua của Crete. Nhà văn La Mã Pliny Già đã viết về cặp ó cá bố mẹ tập cho con chúng bay dưới ánh nắng mặt trời và trừng phạt nếu con chúng thất bại. Một giai thoại khác đề cập rằng loài chim bắt cá này được ghi nhận trong các tác phẩm của Albertus Magnus và được ghi nhận trong Holinshed's "Chronicles" rằng nó có một chân có màng và một chân có vuốt. Những người trung cổ cho rằng cá cũng bị mê hoặc bởi ó cá bằng cách ngửa bụng lên để đầu hàng, và điều này được đề cập trong màn 4 cảnh 5 trong tác phẩm "Coriolanus" của Shakespeare: I think he'll be to Rome As is the osprey to the fish, who takes it By sovereignty of nature. (Tôi nghĩ anh sẽ ghé Rome Như loài chim ưng biển bắt cá Bằng quyền lực của tự nhiên.) Nhà thơ Ireland William Butler Yeats đã sử dụng hình tượng con ó cá xám bay lang thang để mô tả nỗi buồn trong tác phẩm "The Wanderings of Oisin and Other Poems" (1889). Ó cá được mô tả là đại bàng trắng trong lĩnh vực huy chương học, và gần đây hơn là biểu tượng của những phản ứng tích cực đối với thiên nhiên, đã được chọn để in trên hơn 50 loại tem, được sử dụng làm thương hiệu cho các sản phẩm khác nhau và tên của các đội thể thao. (Như Ospreys, một đội thuộc Rugby Union; Missoula Osprey, một đội thuộc tiểu liên đoàn bóng chày; Seattle Seahawks, một đội bóng bầu dục Mỹ; và North Florida Ospreys) hoặc là linh vật (như Springs School Ospreys ở Springs, New York; đội trượt tuyết Geraldton ở Úc; Đại học Bắc Florida; Đại học Salve Regina; Đại học Wagner; Đại học Bắc Carolina tại Wilmington; Richard Stockton College; hay Wells International School ở Bangkok, Thái Lan).
43
106
2,807
1314402
781648
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314402
Nepenthes hamiguitanensis
Nepenthes hamiguitanensis là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài bản địa ở một đỉnh núi Hamiguitan trên đảo Mindanao của Philippines, nơi nó mọc ở độ cao 1200-1600 mét trên mực nước biển. Từng được cho là một loài lai tự nhiên giữa "N. micramphora" và "N. peltata", loài cây này nay được coi là một loài có thể có nguồn hybridogenic.
1
3
67
1314407
781648
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314407
Nepenthes chang
Nepenthes chang là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài bản địa các núi Banthad ở miền trung Thái Lan, nơi nó mọc ở độ cao 300-600 mét trên mực nước biển. Người ta cho rằng loài này quan hệ gần gũi với "N. kampotiana" Tên chi tiết "epithet" đề cập đến đảo Ko Chang, nơi mẫu điển hình đã được sưu tập.
2
3
67
1314408
539651
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314408
Nepenthes maxima
Nepenthes maxima là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Loài này phân phối khá rộng khắp, bao gồm Sulawesi, New Guinea và quần đảo Maluku. "Nepenthes maxima" thuộc "phức hợp N. maxima" được định nghĩa lỏng lẻo, bao gồm trong đó cả các loài khác như: "N. boschiana", "N. chaniana", "N. epiphytica", "N. eymae", "N. faizaliana", "N. fusca", "N. klossii", "N. platychila", "N. stenophylla", và "N. vogelii".
1
3
69
1314412
539651
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314412
William Tutty
William Tutty "đáng kính" (sinh năm 1715 – mất ngày 24 tháng 11 năm 1754) là giáo sĩ nhà thờ Anh người đào tạo và thụ phong linh mục ở Anh. Ông đến Canada năm 1749 với tư cách là nhà truyền giáo cho Nova Scotia. Tutty "đáng kính" mở Nhà thờ thánh Paul (Halifax) vào ngày 2 tháng 9 năm 1750, và nhà tổng linh mục trưởng đầu tiên (1750-54).
2
3
71
1314416
539651
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314416
Starships
"Starships"là một bài hát của rapper người Mỹ gốc Trinidad Nicki Minaj nằm trong album phòng thu thứ hai của cô, "" (2012). Nó được phát hành vào ngày 14 tháng 2 năm 2012 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi Young Money Entertainment, Cash Money Records và Universal Republic Records. Bài hát được đồng viết lời bởi Minaj, Wayne Hector, Bilal Hajji với những nhà sản xuất của nó RedOne, Carl Falk và Rami Yacoub, và họ cũng hợp tác với nữ rapper trong nhiều bản nhạc khác từ "Pink Friday: Roman Reloaded". Ban đầu,"Va Va Voom"được chọn làm đĩa đơn chủ đạo cho album, nhưng sau khi thấy được tiềm năng của"Starships", Minaj và hãng đĩa của cô đã quyết định thay đổi kế hoạch trong phút chót và chọn bài hát như là đĩa đơn đầu tiên. Đây là một bản eurodance kết hợp với những yếu tố từ electropop mang nội dung đề cập đến việc thách thức những kỳ vọng và nhận ra tiềm năng của bản thân. Sau khi phát hành,"Starships"nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu bắt tai và quá trình sản xuất nó, đồng thời so sánh với bài hát năm 2010 của Minaj"Super Bass"cũng như những tác phẩm của Britney Spears, Jennifer Lopez và Lady Gaga. Bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm đề cử tại giải thưởng âm nhạc "Billboard" năm 2013 cho Top Bài hát Dance."Starships"cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Úc, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Ireland, Nhật Bản, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ hai của Minaj vươn đến top 5 và là một trong những đĩa đơn trụ vững ở top 10 lâu nhất tại đây với 21 tuần. Video ca nhạc cho"Starships"được đạo diễn bởi Anthony Mandler, trong đó bao gồm những cảnh Minaj vui vẻ trên bãi biển trước khi tham gia một bữa tiệc vào buổi tối. Nó đã nhận được nhiều lượt yêu cầu phát sóng liên tục trên những kênh truyền hình, như MTV, VH1 và BET, đồng thời chiến thắng một hạng mục tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2012 cho Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ. Để quảng bá bài hát, nữ rapper đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "American Idol", "The Ellen DeGeneres Show", "Today" và "The Tonight Show with Jay Leno", cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của cô. Kể từ khi phát hành,"Starships"đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như Pentatonix, Cody Simpson, Bart Baker, Madilyn Bailey, Megan Nicole và dàn diễn viên của "Glee". Tính đến nay, nó đã bán được hơn 7.2 triệu bản trên toàn cầu, trở thành đĩa đơn bán chạy thứ bảy của năm 2012 cũng như là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại. Chứng nhận. !scope="col"colspan="3"| Streaming
5
16
574
1314436
781648
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314436
Nepenthes jacquelineae
Nepenthes jacquelineae là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài thực vật nhiệt đới đặc hữu của đảo Sumatra. Do hình thái bình độc đáo của nó, nó được coi là một trong những loài nắp ấm "nepenthes" ngoạn mục nhất bản địa tới đảo này. Nepenthes jacquelineae được phát hiện vào năm 2000 bởi Charles Clarke và Troy Davis. Loài cây này đã được tìm thấy phía bắc của Bukittinggi, Tây Sumatra, mọc ở độ cao khoảng 1.700 m trên mực nước biển. Mô tả chính thức của N. jacquelineae được xuất bản trong một chuyên khảo Clarke của năm 2001, "Nepenthes of Sumatra and Peninsular Malaysia". Hai bộ sưu tập của loài đã được thực hiện ngày 13 tháng 7 năm 2000. Các mẫu tiêu bản Clarke, Davis & Tamin 1307 đã được chỉ định là các mẫu của N. jacquelineae. Nó bao gồm hai tấm từ hai cây khác nhau. Cả hai mẫu vật được gửi tại các tiêu bản của đại học Andalas (Anda) Một mẫu vật thứ ba, Nepenthes Nhóm NP 384, cũng được gửi tại các tiêu bản. Loài này được đặt theo tên vợ của Charles Clarke, Jacqueline Clarke.
3
11
200
1314437
885899
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314437
Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka
Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka (6 tháng 3 - 18 tháng 3 năm 1944) là một chiến dịch tấn công cấp Phương diện quân thuộc các hoạt động quân sự tại hữu ngạn sông Dniepr năm 1944 trên Mặt trận Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng chiến dịch này, Phương diện quân Ukraina 3 và cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 4, quân đội Liên Xô đã đánh bại Tập đoàn quân 6 của quân đội Đức Quốc xã và Tập đoàn quân 3 của Romania tại khu vực giữa sông Ingulets và sông Nam Bug. Cuộc tấn công mở đầu bằng đòn vu hồi của xe tăng và kỵ binh Liên Xô vượt sông Ingulets đánh vào sau lưng cụm quân Bereznegovatoye–Snigirevka do tướng Ferdinand Schörner chỉ huy đang đóng ở phía Bắc Nikolayev. Phối hợp với họ, các tập đoàn quân xung kích 5, cận vệ 8 và các tập đoàn quân bộ binh 6, 28, 46 cũng khép vòng vây quanh khu vực Bereznegovatoye–Snigirevka. Trên cánh Bắc, các Tập đoàn quân 37 và 57 làm nhiệm vụ phối hợp chặn sườn tại chỗ tiếp giáp giữa hai phương diện quân Ukraina 2 và 3 cũng tiến đến tuyến sông Nam Bug. Chỉ nhờ có cuộc phá vây liều chết sang phía Tây bằng Quân đoàn xe tăng 57 ở khu vực Snigirevka-Nikolayev, Tập đoàn quân 6 (Đức) mới thoát khỏi nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn một lần nữa. Sau hai tuần giao chiến, Phương diện quân Ukraina 3 phải dừng lại trên hạ lưu sông Nam Bug sâu và rộng. Phương diện quân Ukraina 4 cũng phải dừng tại trước cửa ngõ thành phố Nikolayev. Trong 13 ngày tấn công trong các điều kiện khó khăn của mùa xuân tan băng, Phương diện quân Ukraina 3 đã tiến lên được từ 140 đến 200 km, giải phóng một phần lớn đất đai Ukraina khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức. 14 đơn vị xuất sắc nhất trong chiến đấu được mang các tên gọi "Novobugskie" và 6 đơn vị khác được mang tên "Berislavskie" và "Kherson". Đối với quân đội Liên Xô, chiến dịch thành công nhưng không đạt được các mục tiêu cuối cùng. "Cái túi" Bereznegovatoye–Snigirevka không được đóng chặt trên khu vực Nikolayev và một phần Tập đoàn quân 6 (Đức) đã thoát vây. Đến cuối tháng 3, Phương diện quân Ukraina 3 phải tiếp tục tổ chức thêm Chiến dịch tấn công Odessa mới có thể đánh bại hoàn toàn Tập đoàn quân 6 (Đức) và Tập đoàn quân 3 Romania, đẩy quân Đức về bên kia sông Dniestr. Sau chiến dịch, các lực lượng còn lại Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn quân 3 Romania tổ chức tuyến phòng thủ trên sông Nam Bug và cố gắng giữ đầu cầu Nikolayev. Phương diện quân Ukraina 3 tiếp quản toàn bộ chính diện mặt trận dọc theo hạ lưu sông Nam Bug từ Konstantinovka đến Nikolayev. Phương diện quân Ukraina 4 được lệnh tập trung toàn lực về phía Nam, phối hợp với Tập đoàn quân Độc lập Duyên Hải mở Chiến dịch Krym (1944) thanh toán Tập đoàn quân 17 (Đức) đang bị cô lập tại đây. Tình huống mặt trận. Trong khi quân Đức đang cố gắng tập trung lại lực lượng đã bị thiệt hại lớn sau khi bại trận tại Nikopol–Krivoi Rog để chống giữ các vị trí còn kiểm soát được ở Tây Nam Ukraina thi quân đội Liên Xô đã có kế hoạch mở một cuộc tấn công tổng lực trên toàn mặt trận Ukraina từ Bắc xuống Nam với sự tham gia của cả ba phương diện quân Ukraina 1, 2, 3 gần như vào cùng một thời điểm (các ngày 4, 5, 6 tháng 3 năm 1944). Bộ Tổng tham mưu Liên Xô dự tính rằng các đòn đánh này sẽ đẩy lùi quân Đức khỏi lãnh thổ Liên Xô trong vòng 2 tháng. Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka là cuộc tấn công thứ ba của toàn bộ kế hoạch đó. Những cuộc tấn công liên tiếp của Hồng quân trong mùa đông 1943-1944 đã gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho quân đội Đức Quốc xã, giải phóng nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn và quan trọng về chiến lược. Đến ngày 29 tháng 2, các phương diện quân Ukraina 3 và 4 đã thanh toán xong "cái chảo" Nikopol-Krivoi Rog và đẩy quân Đức về phía Tây sông Ingulets. Lúc này, thời tiết ấm lên, chuyển dần sang mùa xuân. Hiện tượng bùn lầy mùa xuân do băng tan trong lòng đất (raputista) cộng với mưa xuân và tuyết tan trên mặt đất đã khiến đường sá trở nên lầy lội. Do đó, quân đội Đức Quốc xã cho rằng đà tiến công của phía Liên Xô bị chậm lại và vì vậy họ sẽ có thêm thời gian để củng cố lại lực lượng. Khu vực hạ lưu gần cửa sông Nam Bug và sông Ingulets là vùng trũng, thấp, không phát huy được khả năng cơ động của xe tăng, cơ giới và kỵ binh. Trên vùng cửa sông Dniepr (khu vực Kherson) và cửa sông Nam Bug (Nikolayev), các đồng lầy ngập mặn chỉ mọc một số loại cây cỏ dại, thuận lợi cho việc ẩn nấp, phục kích nhưng rất khó khăn cho vận động tấn công. Việc sử dụng các phương tiện nặng trên địa hình này là bất khả thi. Ở phía Nam khu vực Bereznegovatoye–Snigirevka hầu như không có đường bộ lớn. Các tuyến đường sắt nối Nikolayev với Kherson, Kherson với Snigirevka và Snigirevka với Nikolayev là những con đường độc đạo xuyên qua các đầm lầy, đã bị phá hỏng nhiều đoạn trong các trận chiến hồi mùa hè năm 1941. Trừ 2 tuyến đường sắt Nikolayev - Nikopol và Nikolayev - Dolinskaya, các tuyến đường sắt còn lại đều đã ngừng hoạt động. Binh lực và kế hoạch. Quân đội Liên Xô. Binh lực. Phương diện quân Ukraina 3 do đại tướng R. Ya. Malinovsky làm tư lệnh, đảm nhận toàn bộ chiến dịch. Thành phần gồm có: Binh lực tổng cộng: 60 sư đoàn, 573 xe tăng và pháo tự hành, 7.184 đại bác và súng cối, 593 máy bay Kế hoạch tác chiến. Theo kế hoạch, các Tập đoàn quân cận vệ số 8 và Tập đoàn quân số 46 của Phương diện quân Ukraina 3 sẽ tấn công theo hướng Novyi Bug. Sau khi đột phá được trận tuyến địch quân, nhiệm vụ phát triển hướng tấn công sẽ được giao cho Cụm Kỵ binh-Cơ giới hóa của thiếu tướng I. A. Pliyev. Cụm Kỵ binh-Cơ giới hóa có nhiệm vụ phải đánh chiếm Novyi Bug vào ngày N+1 của chiến dịch và đến ngày N+5 phải đột phá được đến tuyến Zaselye - Burkhanovka - Snigirevka nhằm cắt đường rút lui của quân Đức. Để đảm bảo chắc thắng, Quân đoàn xe tăng 23 sẽ được tăng cường cho Tập đoàn quân 46. Phần còn lại của lực lượng được giao nhiệm vụ nghi binh. Cản trở lớn nhất đối với kế hoạch tấn công là hiện tượng hóa bùn từ trong lòng đất do sự tan băng mùa xuân (raputista). Trung tướng I. A. Pliyev, chỉ huy cụm Kỵ binh-Cơ giới hóa mang tên ông đã kể lại tại cuộc họp phổ biến kế hoạch tác chiến về những khó khăn do raputista gây ra và việc khắc phục nó như sau: Tuy nhiên, quân đội Liên Xô vẫn chủ trương tấn công, không cho quân đội Đức Quốc xã có thời gian nghỉ ngơi để củng cố phòng thủ và tăng viện. Các tập đoàn quân được lệnh chuẩn bị các loại "giày" chuyên dùng để đi trên bùn, được đan bằng cành liễu do nhân dân địa phương hướng dẫn cách làm. Các đơn vị xe tăng, cơ giới, pháo binh phải chuẩn bị các phương tiện chống lầy, sức kéo cứu hộ. Kỵ binh phải chuẩn bị các loại xe "ghệt" (xe dùng càng có gắn bàn trượt thay bánh xe) để di chuyển trên bùn lầy hoặc trên tuyết. Ngoài các phương tiện vượt sông, công binh phải chuẩn bị các vật liệu chống lầy, chủ yếu là gỗ cây, gỗ cành, gạch, đá, đất cát... để làm đường dã chiến cho xe tăng, cơ giới vượt lầy. Kỵ binh phải trang bị cho ngựa những tấm móng đặc biệt, dễ dàng lắp vào và gỡ ra để có thể cơ động cả trên nền đất yếu và nền đất thường. Đức Quốc xã. Binh lực. Lực lượng của Cụm Tập đoàn quân A do Thống chế Ewald von Kleist làm tư lệnh phòng thủ trên tuyến sông Ingulets và khu vực Bereznegovatoye–Snigirevka-Nikolayev gồm chủ lực Tập đoàn quân 6 (Đức) và một phần Tập đoàn quân 3 (Romania). Binh lực tổng cộng: 33 sư đoàn, 359 xe tăng và pháo tự hành, 3.386 đại bác và súng cối, 600 máy bay. Kế hoạch phòng thủ. Có cùng tư duy với tướng Otto Wöhler, các tướng Karl-Adolf Hollidt và Maximilian de Angelis đều bố trí phòng thủ dựa vào các tuyến sông. Điểm thuận lợi cho Tập đoàn quân 6 (Đức) là vị trí phòng thủ của nó đều nằm ở hạ lưu và vùng cửa sông của các con sông Ingulets, Ingul, Nam Bug và Dniestr. Ở đây, mặt sông rộng, lòng sông sâu, hai bên bờ có nhiều bãi lầy và vùng đất trũng ngập, khó triển khai xe tăng và cơ giới nặng. Thời tiết mùa xuân băng tạn làm cho các vùng trũng bị ngập sâu hơn, mặt đất trở thành bùn nhão. Điểm bất lợi là muốn xây dựng được các vị trí phòng thủ kiên cố, cần phải cấu trúc bằng bê tông hoặc các phương tiện bọc thép. Tận dụng các xe tăng cũ, hỏng, các loại xác pháo, xác xe cơ giới, các toa tàu... tập đoàn quân 6 (Đức) đã dựng lên những hỏa điểm và các rào cản dọc theo sông Ingulets, sông Ingul, sông Nam Bug và con đường sắt Nikolayev - Dolinskaya. Các sư đoàn xe tăng được triển khai ở giữa mặt trận làm lực lượng phòng ngự cơ động. Riêng sư đoàn xe tăng 3 SS "Totenkoff" được giao phòng thủ Nikolayev. Thành phố Nikolayev nằm gần cửa sông Nam Bug được cấu trúc thành trung tâm phòng ngự vững chắc. Các cụm cứ điểm mạnh được triển khai tại Kazanka, Vladimirovka, Snigirevka, Bereznegovatoye, Kherson ở phía Nam, đầu mối đường sắt quan trọng Dolinskaya ở phía Bắc và điểm cực Bắc tại thị trấn Novgorodka. Tuyến phòng thủ thứ hai gồm các cụm cứ điểm Bobrinets, Novyi Bug, Bashtanka, Odesvo (???) dọc theo con đường sắt Nikolayev - Dolinskaya và sông Ingul. Tuyến phòng thủ thứ ba dọc theo sông Nam Bug gồm thành phố Nikolayev, Novaya (Novaya Odessa), Voznesensk và Konstantinovka. Các tướng Karl-Adolf Hollidt và Maximilian de Angelis hy vọng với chiến thuật phòng thủ nhiều lớp từ xa sẽ ngăn chặn được quân đội Liên Xô và ít nhất cũng giữ được hai trung tâm quan trọng là Odessa và Nikolayev. Từ Königsberg, Hitler đã gửi bức điện động viên các tướng lĩnh của Tập đoàn quân 6. Ông ta không tiếc lời ca ngợi binh lính của Tập đoàn quân 6 là "Đạo quân phục thù", ý nói đến việc trả thù cho sự thất bại của Tập đoàn quân 6 của Thống chế Paulus trước đó đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong Chiến dịch Stalingrad. Như thường lệ, Hitler kêu gọi các tướng lĩnh, sĩ quan và binh lính Đức hãy biến Nikolayev và Odessa thành "Những pháo đài của Führer". Diễn biến. Các cuộc vượt sông Ingul. Tối và đêm mùng 5 tháng 3, R. Ya. Malinovsky lệnh cho tướng V. A. Sudets huy động toàn bộ máy bay ném bom ban đêm của Tập đoàn quân không quân 17 oanh kích Nikolayev, Bereznegovatoye, Novyi Bug, Kherson, các đầu mối đường sắt Dolinskaya và Snigirevka. Đòn mật tập bằng không quân đã gây rối loạn trong hậu phương trực tiếp của mặt trận thuộc Tập đoàn quân 6 (Đức). Sáng ngày 6 tháng 3, hơi ẩm từ biển Đen kéo vào đã tạo một màn sương mù dày đặc trên các con sông Dniepr và Ingulets. Hầu hết các khẩu đội pháo của các sư đoàn pháo binh 7, 9 và cả pháo binh của các tập đoàn quân đều không thể nhìn thấy vật chuẩn để xạ kích chính xác. Đến 12 giờ trưa, sương đã tan bớt và sau một đợt pháo kích chuẩn bị 30 phút, Tập đoàn quân cận vệ 8 phát động tấn công vượt sông. Các sư đoàn bộ binh Đức chốt giữ tại phía trước bến vượt Shirokoye và phía Tây Krivoy Rog kháng cự kháng cự quyết liệt nhưng không thể ngăn được Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 5 tràn qua sông yểm hộ cho Quân đoàn bộ binh cận vệ 4 đánh thẳng vào trung tâm phòng ngự. 15 giờ chiều ngày 6 tháng 3, Quân đoàn bộ binh cận vệ 28 tiếp tục sang sông cùng quân đoàn bộ binh cận vệ 4 đánh tỏa ra hai bên sườn bến vượt, mở rộng đột phá khẩu lên đến 18 km, sâu 12 km. Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev lập tức được đưa vào cửa mở và hành tiến suốt đêm trong trời mưa tầm tã về phía Novyi Bug. Toàn bộ chiến tuyến của Tập đoàn quân 6 (Đức) đều bị các đơn vị nghi binh Liên Xô tấn công, khiến cho quân Đức phải căng lực lượng ra đối phó và không thể đem quân ứng cứu lẫn nhau. Ở phía Bắc, Lữ đoàn công binh cầu phà 151 đã làm xong cây cầu phao dài 180 mét phía hạ lưu cây cầu đường sắt Krivoy Rog bị phá hủy, Tập đoàn quân 46 cũng tràn qua sông Inlulets và chiếm được căn cứ đầu cầu phía Đông Kazanka. 14 giờ ngày 6 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 23 (phối thuộc Tập đoàn quân 46) vượt sông và đột kích về Kazanka. Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) tung ra hơn 40 phi vụ cường kích nhằm vào đoàn xe tăng Liên Xô đang tiến về Kazanka nhưng các máy bay Ju-87 đều bị các máy bay tiêm kích của Tập đoàn không quân 17 (Liên Xô) và pháo cao xạ của Tập đoàn quân 46 đánh lui. Tối mùng 6 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 23 đã tiếp cận Kazanka. Tập đoàn quân 37 cũng vượt sông nhằm hướng Dolinskaya. Ngày 8 tháng 3, có Quân đoàn xe tăng 23 mở đường, Tập đoàn quân cận vệ 46 đã tiến đến tuyến phòng thủ thứ hai của quân Đức, đánh chiếm một loạt cứ điểm Zelenoye (???), Novo Malinovka, Kazankovka, Annovka, Vetselyi (Veselyi Stav) và tiến nhanh đến sông Ingul. Các hướng tấn công chính. Ngày 11 tháng 3, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev đã vượt qua bùn lầy trên hương lộ Tsvetkove - Kostyleva (???), tiếp cận cửa ngõ Novyi Bug, một trung tâm phòng ngự mạnh và quan trọng ở chính giữa mặt trận do Quân đoàn bộ binh 29 (Đức) trong đó có Sư đoàn tăng 9 (Đức) đóng giữ. Đây cũng là nơi đóng Sở chỉ huy tiền phương của tướng Karl-Adolf Hollidt. Quân đoàn xe tăng 23 được lệnh chuyển hướng đến Novyi Bug, cùng với Cụm kỵ binh cơ giới công kích trung tâm phòng ngự này. Trong suốt ngày 11 tháng 3, xe tăng và kỵ binh cơ giới Liên Xô liên tục đột kích vào phía Bắc và phía Đông Novyi Bug nhưng vẫn không thể đột nhập và thành phố. Chiều 11 tháng 3, tướng Karl-Adolf Hollidt điều thêm Sư đoàn xe tăng SS "Großdeutschland" đến tăng viện cho Novyi Bug, đẩy Cụm kỵ binh cơ giới Pliyev về tuyến xuất phát. Trong trận đụng độ tại cụm 3 cứ điểm Zelenyi Gaye (Zelenyi Yar) - Bashtanka - Shevchenko, phía Tây Nam Novyi Bug, ngày 11 tháng 3, Quân đoàn trưởng quân đoàn xe tăng 23, tướng Ye. G. Pushkin, tử thương vì mảnh bom. Ngày 12 tháng 3, tướng A. O. Akhmanov, tham mưu trưởng quân đoàn được giao quyền tư lệnh Quân đoàn xe tăng 23. Để giải quyết nhanh điểm nút Novyi Bug, ngày 12 tháng 3, Đại tướng R. Ya. Malinovsky tung Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 phối thuộc cho Cụm kỵ binh cơ giới của Piyev tăng thêm sức đột phá. Cuộc công kích Novyi Bug diễn ra suốt hai ngày 12 và 13 tháng 3. Tối 13 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (có 100 xe tăng và 23 pháo tự hành) đột nhập vào nội đô Novyi Bug từ phía Bắc, Quân đoàn xe tăng 23 (có 102 xe tăng và 16 pháo tự hành) vòng qua phía Tây chặn đường rút của quân Đức. Tướng Karl-Adolf Hollidt phải rời sở chỉ huy tiền phương Tập đoàn quân 6 về Bereznegovatoye. Còn bản thân ông ta thì rút về sở chỉ huy chính tại Nikolayev, giao lại cho thiếu tướng Max Hermann Bork, tham mưu trưởng Tập đoàn quân ở lại trực tiếp chỉ huy tại tuyến đầu. Ngày 14 tháng 3, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 giải phóng Novyi Bug. Sau khi đánh chiếm Novyi Bug, cả I. A. Pliyev và A. O. Akhmanov đều nhận được lệnh tiến dọc sông Ingul xuống phía Nam, khép vòng vây sau lưng cụm quân chủ yếu của Tập đoàn quân 6 (Đức) đang phòng thủ tại khu vực Bereznegovatoye–Snigirevka-Bashtanka. Nguy cơ của một Stalingrad mới lại đang đe dọa Tập đoàn quân 6 (Đức). Trên cánh cực Bắc, Tập đoàn quân 57 phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 7 (Phương diện quân Ukraina 2) nhanh chóng tiêu diệt cứ điểm Novgorodka trên đường phân giới giữa 2 phương diện quân và tiến công qua phía Bắc Dolinskaya, đánh chiếm Bobrinets ngày 11 tháng 3. Tập đoàn quân 37 cũng tấn công qua phía Nam Dolinskaya và ngày 10 tháng 3 đã tiếp cận sông Ingul. Ngày 12 tháng 3, Quân đoàn bộ binh cận vệ 6 (Tập đoàn quân 37) có lữ đoàn pháo tự hành 22 yểm hộ và Quân đoàn bộ binh 64 (Tập đoàn quân 57) có Lữ đoàn xe tăng 96 mở đường đã hợp vây 3 sư đoàn Đức tại Dolinskaya, tiêu diệt sư đoàn bộ binh 38 (Đức) đánh thiệt hại nặng các sư đoàn bộ binh 46 và 123. Ngày 13 tháng 3, Tập đoàn quân 57 đã tiến đến bờ sông Ingul cũng phải dừng lại chờ phương tiện vượt sông và phối hợp với cánh trái của Tập đoàn quân cận vệ 7 tấn công Konstantinovka trên bờ đông sông Ingul. Ở hướng Nam, các tập đoàn quân xung kích 5, 6 và 28 cố tình để hở hướng sông Dniepr và mở cuộc tấn công trực diện từ Blakitnoye - Kachkarovka về phía Tây. Trong khi tập đoàn quân 6 và xung kích 5 tiến dọc theo hai bên bờ sông Ingulets, hình thành thế vây bọc Snigirevka thì Tập đoàn quân 28 có Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 mang tên "Tanatsisin" mở đường chỉ trong một tuần đã tiến công một mạch dọc theo hữu ngạn sông Dniepr, quét sạch các vị trí phòng thủ của các sư đoàn bộ binh 304, 306 (Đức) và Sư đoàn bộ binh 4 (Romania) khỏi bờ bắc. Ngày 11 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 giải phóng Berislav. Ngày 13 tháng 3, Sư đoàn bộ binh cận vệ 48 của đại tá quân đổ bộ đường không V. F. Magelov và Sư đoàn bộ binh 96 của đại tá Dorofeev đã tiến vào Kherson. Ngày 14 tháng 3, tàn quân Đức ở Kherson rút lên phía Bắc, nhập vào tàn quân của các Quân đoàn bộ binh 17, 29, 30 đang vị nửa hợp vây tại "cái túi" Bereznegovatoye–Snigirevka. Khi vòng vây chưa khép chặt. Ngày 13 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 23 tấn công dọc theo bờ Đông sông Ingul. Cụm Kỵ binh cơ giới của tướng Pliyev tấn công dọc theo con đường sắt đi Nikolayev, đánh chiếm Barmashovo, hình thành hai vòng vây song song bao bọc lấy cụm quân Đức ở Bereznegovatoye–Snigirevka. Ở phía Đông, các Tập đoàn quân 6 và xung kích 5 tiếp tục gây sức ép vào Snigirevka. Ở phía Bắc, Tập đoàn quân 46 đã vượt sông Ingul trong hành tiến, đánh chiếm Novaya Odessa (Nova Odesa) trên bờ Đông sông Nam Bug. Ngày 15 tháng 3, Tập đoàn quân 37 cũng vượt sông Ingul và tiến đến bờ sông Nam Bug đối diện với thành phố Voznesensk bên kia sông. Ngày 14 tháng 3, không cần xin ý kiến cấp trên, tướng Ewald von Kleist ra lệnh cho tướng Max Hermann Bork phá vây. Ông cũng ra lệnh cho tướng Friedrich Kirchner chỉ huy Quân đoàn xe tăng 57 đang phòng thủ tại Nikolayev điều Sư đoàn xe tăng 3 SS "Totenkopf" đột kích vào Barmashovo, chặn đường tiến của Quân đoàn xe tăng 23 và tướng Maximilian Fretter-Pico điều Sư đoàn xe tăng 9 tấn công vào Bashtanka, không cho Cụm kỵ binh của tướng I. A. Pliyev tiến sâu xuống phía Nam. Từ trong vòng vây, Sư đoàn xe tăng 23 (Đức) và các sư đoàn bộ binh 123, 387 cũng tấn công từ phía Đông vào Barmashovo, các sư đoàn bộ binh 15, 38, 153 tấn công vào Bashtanka, vào phía sau Cụm kỵ binh cơ giới Liên Xô để mở đường thoát vây. Từ ngày 14 đến ngày 17 tháng 3, các trận kịch chiến dữ dội bằng cả xe tăng, kỵ binh và bộ binh diễn ra dọc theo con đường sắt Nikolayev - Bashtanka. Trên cánh Bắc, cuộc đột phá của các sư đoàn bộ binh 15, 38, 125 (Đức) bị Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (Liên Xô) đánh bật sang phía Đông và rơi vào tuyến tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 8 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4. Kỵ binh Liên xô có pháo tự hành yểm hộ đã đánh lui đòn đột phá của ba sư đoàn bộ binh Đức và truy kích họ trên đường rút trở lại Bereznegovatoye. Tình hình cụm quân Đức bị vây ở hướng Barmashovo tỏ ra khả quan hơn. Lợi dụng kẽ hở giữa Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 và Quân đoàn xe tăng 23 (Liên Xô), các sư đoàn xe tăng đã chọc được một lỗ thủng xuyên qua đội hình tấn công của quân đội Liên Xô để giải vây cho nhóm quân phía Nam. Từ ngày 16 tháng 3, quân Đức lũ lượt rút theo con đường goòng Snigirevka - Nikolayev về Nikolayev, len lỏi qua vòng vây chưa khép chặt của Quân đội Liên Xô để chạy về Nikolayev, nơi còn lại chiếc cầu duy nhất bắc qua hạ lưu sông Nam Bug. Phát hiện quân Đức rút lui, Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn quân cận vệ 5 tăng tốc độ tấn công truy kích nhưng họ vẫn không thể theo kịp cuộc "rút lui về phía trước mặt" của quân Đức. Do thiếu phối hợp chỉ đạo của Bộ Tư lệnh mặt trận, Tập đoàn quân 28 (Liên Xô) đã không quay lên phía Bắc để đón gặp Quân đoàn xe tăng 23 mà đột kích thẳng vào Nikolayev. Đòn tấn công đơn độc của Tập đoàn quân 28 đã bị Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) chặn đứng trước cửa ngõ phía Đông Nikolayev. Ngày 16 tháng 3, cả ba quân đoàn bộ binh cận vệ của Tập đoàn quân cận vệ 8 mở cuộc đột kích từ Bắc xuống Nam lần lượt đánh chiếm các cứ điểm NovoSergeyevka, NovoGorozheno, NovoPavlovka, NovoSevastopol và NovoBratsk. Ngày 18 tháng 3, Tập đoàn quân cận vệ 8 hoàn thành việc thanh toán các sư đoàn bộ binh (Đức) còn lại bị mắc kẹt tại "cái túi" Bereznegovatoye–Snigirevka. Quân Đức để lại trên hai bờ sông Ingul 25.000 xác chết. Quân đội Liên Xô bắt giữ 7.500 tù binh. Các sư đoàn 15, 79, 96, 125, 258 (Đức) bị đánh thiệt hại nặng, các sư đoàn 294, 304, 306 và 387 (Đức) gần như bị xóa sổ. Ngày 17 tháng 3, Sư đoàn bộ binh 394 (Tập đoàn quân 46) đã vượt sông ở Novo Odessa và đánh chiếm một đầu cầu hẹp rộng 4 km, sâu 1 km nhưng ngày hôm sau, Sư đoàn xe tăng SS "Großdeutschland" (Đức) đã ngay lập tức phản kích, hất Sư đoàn bộ binh 394 trở lại bờ Đông sông Nam Bug. Cùng ngày 17 tháng 3, Sư đoàn bộ binh cận vệ 59 (Tập đoàn quân 37) cũng đã vượt sông ở phía Nam Voznesensk, cứ điểm được mệnh danh là pháo đài của Hitler. Cuộc vượt sông không thành công. Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) đã điều đến đây 2 trung đoàn của sư đoàn xe tăng 23, phá được căn cứ đầu cầu và các bến vượt, đẩy Sư đoàn bộ binh cận vệ 59 (Liên Xô) khỏi bờ sông. Nhận thấy tình trạng suy yếu của các Quân đoàn xe tăng, cơ giới và tình trạng chậm trễ của các đơn vị công binh, 23 giờ đêm 18 tháng 3, đại tướng R. Ya. Malinovsky ra lệnh cho các tập đoàn quân tạm dừng tấn công để chuẩn bị chu đáo hơn cho một chiến dịch mới. Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng. Kết quả. Mặc dù trong điều kiện bùn lầy khó khăn của mùa xuân, Phương diện quân Ukraina 3 của Hồng quân Liên Xô vẫn đánh bại Tập đoàn quân số 6 (Đức), tiến sâu 140 cây số và giải phóng một phần lãnh thổ rộng lớn của miền Ukraina bên hữu ngạn Dniepr. Tái lập với mục đích phục thù nhưng Tập đoàn quân 6 (Đức) cũng vẫn không thể "trả được mối thù Stalingrad" cho các sĩ quan và binh lính tiền bối mà còn chịu những thiệt hại nặng nề. Sư đoàn xe tăng 9, các sư đoàn bộ binh 15, 294, 302, 304 và 355 bị mất hơn 50% quân số cùng phần lớn số vũ khí nặng; Sư đoàn xe tăng 9 và Sư đoàn bộ binh cơ giới 16 mất khả năng chiến đấu, Sư đoàn bộ binh 125 bị xóa sổ. Mặc dù các thông cáo của Sovinform vào thời điểm ngay sau chiến dịch cho biết có khoảng 36.000 quân Đức tử trận, 13.859 sĩ quan và binh lính Đức bị bắt nhưng các tổng kết sau này của Nguyên soái A. M. Vasilevsky và Đại tướng V. I. Chuikov đều đưa ra con số thấp hơn: 25.000 quân Đức tử trận, 7.500 người khác bị bắt làm tù binh (theo V. I. Chuikov thì số tù binh Đức khoảng 10.000). Số liệu thương vong của phía Liên Xô cho đến nay vẫn được tính gộp vào toàn bộ thương vong của Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr. Đánh giá và ảnh hưởng. Về phía Liên Xô, trong phối hợp tác chiến cấp Phương diện quân, sự chậm trễ trong hoạt động vượt sông Nam Bug của cánh phải Phương diện quân Ukraina 3 đã ảnh hưởng tiêu cực đến các tập đoàn quân cánh trái của Phương diện quân Ukraina 2, làm cho hướng tấn công của các tập đoàn quân này lái dần xuống phía Nam và chính diện của họ bị mở rộng ra. Lợi dụng điều này, các quân đoàn cánh trái của Tập đoàn quân 6 (Đức) đã cầm cự dai dẳng tại khu vực Pervomaisk, hãm chậm tốc độ tấn công của các tập đoàn quân cận vệ 5 và 7, tạo kẽ hở cho Quân đoàn 52 (Đức) phản kích vào bên sườn các tập đoàn quân này, gây nhiều thiệt hại. Phương diện quân Ukraina 3 đã không đạt được mục tiêu cuối cùng là bao vây và tiêu diệt gọn Tập đoàn quân 6 (Đức) tại vùng đất giữa hai con sông Ingulets và Nam Bug. Đòn vây bọc bằng Cụm kỵ binh cơ giới và Quân đoàn xe tăng 23 của Quân đội Liên Xô chỉ đủ để tạo vòng vây nhưng không đủ để giữ vòng vây. Toàn bộ hai đơn vị này chỉ có trong tay 1 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn cơ giới cùng 2 lữ đoàn xe tăng-cơ giới độc lập với hơn 200 xe tăng và pháo tự hành; trong khi Tập đoàn quân 6 (Đức) nắm trong tay 4 sư đoàn xe tăng, có sức chiến đấu tương đương với 4 quân đoàn xe tăng, cơ giới của Liên Xô. Đòn tấn công vỗ mặt của Tập đoàn quân cận vệ 8 vào Bereznegovatoye chỉ có thể đuổi được quân Đức khỏi "cái túi" Bereznegovatoye–Snigirevka mà không tạo được nguy cơ hợp vây đối với cánh quân này. Sự phối hợp không khớp giữa Tập đoàn quân 28 và Cụm kỵ binh cơ giới cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho vòng vây bị hở một đoạn lớn ở phía Đông Nikolayev. Thất bại của quân Đức đã khiến một số tướng lĩnh cao cấp tham gia trận đánh này bị cách chức. Tướng Hollidt buộc phải rời khỏi nhiệm sở vào ngày 20 tháng 3. Trung tướng xe tăng Sigfrid Henrici thay thế ông ta chỉ huy Tập đoàn quân 6. Tướng Kleist thì bị thải hồi vào ngày 31 cùng tháng. Tướng Ferdinand Schörner được giao tạm quyền chỉ huy Cụm tập đoàn quân Ukraina. Nhưng hai tháng sau đó, ông này đã đổi chỗ cho tướng Johannes Frießner để chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc. Quân đội Liên Xô cũng tổn thất thêm một nhân sự cao cấp. Ngày 11 tháng 3, Thiếu tướng Ye. G. Pushkin, Quân đoàn trưởng quân đoàn xe tăng 23 tử thương vì mảnh bom. Thất bại của "Đội quân báo thù"-Tập đoàn quân 6 (Đức) đã giáng một đòn nặng nề vào tuyến phòng thủ phía Nam của Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina (Đức). Mặc dù cản được đà tấn công của Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) trong một tuần nhưng thiệt hại quá nặng nề của Tập đoàn quân 6 đã làm suy yếu mặt trận phòng thủ của liên quân Đức-Romania. Mặc dù họ còn giữ được hai trung tâm lớn là Nikolayev và Odessa nhưng Tập đoàn quân 3 Romania với sức chiến đấu kém hơn hẳn quân Đức không có khả năng một mình giữ được Odessa. Quân đội Liên Xô tiếp tục chiếm lĩnh những vị trí xuất phát tấn công có lợi phía Bắc và việc họ tạm dừng chiến dịch chỉ là một cuộc chuẩn bị ngắn trước khi giáng đòn quyết định tiếp theo, giải phóng các thành phố Nikolayev và Odessa và tiến ra biên giới Moldova.
47
181
5,253
1314442
814981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314442
Chim cánh cụt Macaroni
Chim cánh cụt Macaroni (danh pháp khoa học: "Eudyptes chrysolophus") là một loài chim cánh cụt. Loài này cư trú ở cận Nam Cực đến bán đảo Nam Cực. Một trong sáu loài chim cánh cụt có màu, rất chặt chẽ liên quan đến chim cánh cụt hoàng gia, và một số tác giả xem xét hai là một loài duy nhất. Nó mang một mào màu vàng nổi bật, và khuôn mặt và phía trên có màu đen và ranh giới rõ ràng từ phần dưới màu trắng. Con trưởng thành cân nặng trung bình 5,5 kg (12 lb) và dài 70 cm (28 in). Con mái và con trống bề ngoài tương tự mặc dù con trống lớn hơn một chút với mỏ tương đối lớn. Giống như tất cả chim cánh cụt, nó không bay được, với một cơ thể sắp xếp hợp lý và đôi cánh cứng lại và dán thành chân chèo cho một lối sống biển. Chế độ ăn uống của nó bao gồm một loạt các động vật giáp xác, chủ yếu là nhuyễn thể, cũng như con cá nhỏ và động vật thân mềm, chúng ở trong nước biển hàng năm nhiều hơn loài chim biển khác. Loài chim này thay lông mỗi năm một lần, ở trên bờ 3-4 tuần trước khi quay trở lại biển. Số lên đến 100.000 cá thể, các quần thể sinh sản của chim cánh cụt Macaroni là một trong những lớn nhất và dày đặc nhất của tất cả các loài chim cánh cụt. Sau khi trải qua mùa hè sinh sản, chim cánh cụt phân tán thành vào các đại dương trong sáu tháng, một nghiên cứu năm 2009 cho thấy rằng các chim cánh cụt Macaroni từ Kerguelen đã đi qua hơn 10.000 km (6.200 dặm) ở trung bộ Ấn Độ Dương. Với khoảng 18 triệu cá thể, chim cánh cụt Macaroni có số lượng nhiều nhất các loài chim cánh cụt. Tuy nhiên, hiện tượng giảm phổ biến rộng rãi trong dân số đã được ghi nhận kể từ giữa những năm 1970. Những yếu tố này dẫn đến tình trạng bảo tồn của chúng được phân loại loài dễ thương tổn.
2
14
370
1314444
672165
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314444
Google Street View
Google Street View hay Chế độ xem phố là một tính năng được sử dụng để định dạng đường đi theo kiểu đi trên xe mà bạn đang chạy, được sử dụng nhiều nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan... và nhiều quốc gia phát triển khác với những chiếc xe Camera của Google được sử dụng tại nhiều nước trên thế giới. Hiện nay Chế độ xem phố của Google được sự ủng hộ của nhiều người, đặc biệt là những người đang sử dụng ô tô. Hướng dẫn sử dụng. Ở bên góc phải trên bản đồ có một hình nộm người màu vàng, chỉ cần click chuột xê vào chỗ được tô bằng nền màu xanh (trừ những dấu chấm màu xanh) đặt vào đó, sau đó click vào mà chỗ muốn tới đó và nó sẽ tự động đi tới đó.
3
4
156
1314455
388182
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314455
Đồng Khánh địa dư chí
Đồng Khánh địa dư chí (chữ Hán: 同慶地輿志), còn gọi là Đồng Khánh địa dư chí lược (chữ Hán: 同慶地輿志略) là bộ sách địa chí viết bằng chữ Hán. Theo các nhà nghiên cứu, sách được vua Đồng Khánh ra sắc chỉ sai làm, bắt đầu từ khoảng tháng 5 năm 1887 và được hoàn thành trong khoảng thời gian từ đó cho đến mấy năm đầu đời Thành Thái. Khái quát. Nguyên bản gồm 25 tập chép tay (có tài liệu ghi là 27 tập), ghi lại địa lý các tỉnh trong cả nước (chỉ gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ) thời Đồng Khánh (1886-1888). Mỗi tỉnh gồm các mục: vị trí, giới hạn, số huyện, tổng, xã, thôn, phường, số đinh, binh lính, ruộng đất, thuế khóa, phong tục, thổ sản, khí hậu, núi sông, đường sá, đồn lũy, đền miếu, cổ tích, kỹ nghệ. Ngoài ra, mỗi quyển có bản đồ huyện, phủ, tỉnh, tổng cộng 314 bức. Các phiên bản. Sau khi hoàn thành, sách được lưu giữ tại Nội các của triều đình Huế. Khoảng những năm đầu thế kỷ XX, Viện Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội được phép mượn bản đó để sao chép ra một bản đưa vào sưu tập thư tịch Hán Nôm của Viện này, đánh ký hiệu A.537. Khoảng năm 1940, cơ quan Toyo Bunko (Đông Dương văn khố) của Nhật Bản đã nhờ Viện Viễn Đông Bác cổ giúp tổ chức sao chép cho một bản chép tay sao lại từ bản A.537. Tuy nhiên, do phần các bản đồ hơi mờ nên sau đó Toyo Bunko cho người sang Hà Nội xin chụp thu nhỏ bằng phim ảnh. Riêng về bản gốc của triều đình Huế, vẫn được xác nhận tồn tại đến tận năm 1967 ở Đà Lạt, trong kho tài liệu của triều đình Huế do chính quyền Việt Nam Cộng hòa di chuyển từ Huế vào. Tuy nhiên, hiện tại bản gốc đã bị thất lạc, không rõ tung tích.
7
13
337
1314513
798851
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314513
Trường đua chó Vũng Tàu
Trường đua chó Vũng Tàu được tổ chức tại sân vận động Lam Sơn, thành phố Vũng Tàu, là nơi duy nhất ở Việt Nam tổ chức đua chó. Các cuộc đua chó được tổ chức vào thứ 6, thứ 7 hàng tuần, trường đua chó mở cửa cho người dân và du khách tới tham dự. Khán giả có thể tham gia chương trình dự thưởng bằng cách đánh cược vào các con chó tham gia cuộc đua. Trường đua này do một Việt kiều Úc đầu tư và được chính thức cấp phép từ năm 2001 tại Vũng Tàu. Giống chó đua là một giống chó săn có nguồn gốc từ Ireland được người Úc nhân giống, rồi cung cấp cho trường đua chó Vũng Tàu và nhiều nước khác.
2
5
132
1314623
345883
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314623
Greyhound
Greyhound là một giống chó săn chủ yếu được nuôi để trình diễn và đua, gần đây giống chó này cũng đã trở thành loài thú cưng được nuôi phổ biến ở các gia đình. Nó là một giống chó hiền lành và thông minh. Một sự kết hợp của chân dài và mạnh mẽ, ngực nở, xương sống linh hoạt và thân hình mảnh mai cho phép nó đạt tốc độ đua trung bình vượt quá 18 mét mỗi giây hay . Tại tốc độ tăng tốc tối đa, greyhound đạt đến tốc độ chạy 70 km mỗi giờ trong vòng 30 mét, sáu bước tiến từ các hộp, chạy với tốc độ gần 20 mét mỗi giây cho 250 m đầu tiên của một cuộc đua. Loài động vật khác chỉ có thể tăng tốc nhanh hơn trên một khoảng cách ngắn là con báo, có thể đạt tốc độ 109 km mỗi giờ (68 mph) 3-4 trên những bước tiến từ một chỗ đứng. Greyhound là giống chó cổ xưa có dấu vết được tìm thấy ở hầu hết mọi quốc gia trên mọi lục địa. Giống chó này là biểu tượng của tầng lớp quý tộc thời bấy giờ. Bằng chứng đầu tiên về tổ tiên của Greyhound được phát hiện trên các hình chạm khắc trong các ngôi mộ Ai Cập có niên đại khoảng 2900 đến 2751 năm Trước Công Nguyên, tức khoảng 4.000 năm trước. Cả người dân La Mã và Hi Lạp xem Greyhound như một giống chó đồng hành trong những cuộc săn bắn với khả năng săn lùng tuyệt vời các con thú từ lớn đến nhỏ, bao gồm hươu, nai, thỏ, cáo, lợn rừng và thậm chí cả gấu. Sau này, giới quý tộc trên khắp châu Âu cũng vì yêu thích giống chó này, đã xây dựng nên các trại chó Greyhound quy mô lớn, vừa nuôi dưỡng làm chó săn, vừa chăm sóc như các vật nuôi trong gia đình. Nhận ra tốc độ vượt trội và sự nhanh nhẹn của Greyhound, giống chó này dần tham gia vào môn thể thao đua chó. Cuộc đua Greyhound được tổ chức chính thức lần đầu tiên vào năm 1876 diễn ra ở gần London. Giống chó Greyhound được mang đến Mỹ từ trước năm 1776 bởi những người di cư. Trong suốt những năm 1800, chúng được sử dụng để tham gia các cuộc đi săn hoang dã ở miền Tây Hoa Kỳ. Chó đua Greyhound từ châu Âu tiếp tục được nhập vào Mỹ trong những năm 1800 và 1900 và trở thành nền tảng của Greyhound ngày nay. Rất nhiều trường đua chó được tổ chức ở khắp nơi tại Mỹ và sau này mở rộng ra khắp thế giới. Những chú chó Greyhound được nuôi dưỡng và rèn luyện theo chế độ đặc biệt để đạt được tốc độ chạy nhanh nhất có thể. Tuy nhiên, nhiều chú chó đua mặc dù còn khỏe mạnh nhưng đã “hết thời” đem ra thi đấu thường bị chủ nhân giết bỏ để tiết kiệm chi phí nuôi nấng. May mắn là có nhiều nhóm cứu hộ đã tiến hành giải cứu những em chó này để chúng có thể tiếp tục cuộc sống như một thú cưng của con người. Đặc Điểm. Chó Greyhound sinh ra đã sở hữu đặc điểm ngoại hình phù hợp cho việc chạy nhanh. Chúng có cơ thể cao ráo, thân hình mảnh mai nhưng săn chắc. Cân nặng trung bình của giống chó này là khoảng 27 – 43 kg đối với con đực và 27 – 40 kg đối với con cái. Chiều cao phổ biến ở mức 71 – 76 cm ở con đực và 68 – 71 cm ở con cái. Chó Greyhound có phần ngực nở lực lưỡng, bụng hóp, phần đầu nhỏ còn mõm khá dài và nhọn rất phù hợp cho việc tăng tốc theo khí động lực học. Đặc biệt nhất là những đôi chân dài mạnh mẽ cho phép chúng sải những bước chạy rất xa. Ngoài ra chúng có chiếc cổ cao và hơi cong, đôi tai nhỏ thường cụp xuống, phần đuôi dài và nhọn đóng vai trò bộ phanh và bánh lái khi chạy. Tốc độ chạy trung bình của chó Greyhound đạt trên 63 km/giờ và khi tăng tốc thì có thể đạt tốc độ tối đa lên tới 70 km/h. Bộ lông của Greyhound ngắn, ôm sát cơ thể với sợi lông mịn và bóng. Những chú chó thuộc giống này có thể có nhiều màu lông khác nhau, từ đen, trắng, nâu, cam hoặc các màu trộn lẫn như màu vện, màu cam trắng, đen trắng, nâu trắng… "Tính cách". Greyhound từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng với bản tính điềm đạm và thanh lịch. Chúng là những chú chó đồng hành tuyệt vời nhờ vào sự trầm lặng, lịch sự, độc lập và sạch sẽ. Đây là lý do khiến tính cách của Greyhound có nhiều nét tương đồng với loài mèo. Một điều cần lưu ý chính là Greyhound là sinh vật nhạy cảm và dễ bị giật mình, vậy nên hãy đối xử nhẹ nhàng với Greyhound mọi lúc mọi nơi, đồng thời đừng nuôi dưỡng chú chó của bạn trong môi trường có nhiều tiếng la hét, cãi cọ hoặc trong không khí gia đình căng thẳng. Thi thoảng có những em Greyhound rất nhút nhát, nhưng nếu được xã hội hóa đúng cách thì tính cách này có thể điều chỉnh được. Greyhound thực sự là những thú cưng ngoan ngoãn. Những chú chó thuộc giống này không bao giờ hung hăng, khi bị một con chó khác tỏ thái độ thì Greyhound chỉ đơn thuần đứng im lẳng lặng quan sát, lý do một phần cũng vì chúng hoàn toàn không có bản năng chiến đấu. Nhưng với bản năng săn đuổi mạnh mẽ, mèo và những chú chó nhỏ có thể bị nguy hiểm khi chơi đùa xung quanh Greyhound khi chúng “nổi hứng” đuổi theo các vật thể di chuyển. Vì vậy, nếu bạn có đưa em Greyhound nhà mình ra công viên dành cho chó, thì nhớ chỉ cho chúng chơi trong khu vực dành cho chó có kích thước lớn thôi nhé! Vốn là những chú chó được phát triển để săn lùng các động vật nhỏ, Greyhound có thị giác cực nhạy bén có thể phát hiện những con vật nhỏ xíu từ khoảng cách xa, đồng thời chúng có tốc độ vô địch mà các giống chó khác không thể nào sánh nổi. Ngày nay, Greyhound vẫn duy trì sở thích săn đuổi và có thể chạy nhanh hơn ngựa. Chạy nước rút là môn thể thao rèn luyện cơ thể phù hợp với Greyhound. Thay vì để em Greyhound của bạn tham gia vào các cuộc chạy đường dài không có lợi chó sức khỏe của chúng, bạn chỉ nên cho phép chúng chạy nước rút vài lần một tuần hoặc một lần mỗi ngày. Nếu được vận động thường xuyên, Greyhound sẽ là những vật nuôi khỏe mạnh, hạnh phúc và ngoan ngoãn. Huấn luyện Greyhound là nhiệm vụ khá dễ dàng, ngay cả đối với những người lần đầu nuôi chó vì giống chó này ngoan “từ trong trứng nước” và nhanh nhạy với các mệnh mệnh từ chủ nhân. Tuy nhiên huấn luyện theo phương pháp khắc nghiệt có thể gây ra những tổn hại tâm lý cho những sinh vật nhạy cảm như Greyhound. Thay vào đó, hãy sử dụng phương pháp động viên, đối xử nhẹ nhàng, nhiều lời khích lệ và phần thưởng thì chú chó của bạn sẽ tiếp thu nhanh hơn rất nhiều. Nguồn dữ liệu được cung cấp bởi nhà phân tích và nghiên cứu : LÊ QUANG TIẾN DŨNG - Việt Nam
15
48
1,319
1314627
925152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314627
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á, tên tiếng Anh: "Nam A Commercial Joint Stock Bank", viết tắt là Nam A Bank, là một Ngân hàng TMCP đầu tiên tại Việt Nam, được thành lập ngày 21 tháng 10 năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Giới thiệu. Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank) chính thức hoạt động từ ngày 21/10/1992, là một trong những Ngân hàng TMCP đầu tiên tại Việt Nam được thành lập sau khi Pháp lệnh về Ngân hàng được ban hành năm 1990. Từ những ngày đầu hoạt động, Nam A Bank chỉ có 3 Chi nhánh với vốn điều lệ 5 tỷ đồng và gần 50 cán bộ nhân viên. Đến nay, qua những chặng đường phấn đấu đầy khó khăn và thách thức, Nam A Bank không ngừng lớn mạnh với mạng lưới gần 150 điểm kinh doanh và 100 Điểm giao dịch số tự động ONEBANK trên cả nước, đã có quan hệ với 330 ngân hàng ở khắp quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. So với năm 1992, vốn điều lệ hiện nay tăng hơn 2000 lần, số lượng cán bộ nhân viên tăng hơn 104 lần, phần lớn là cán bộ trẻ, năng động, được đào tạo chính quy trong và ngoài nước, có năng lực chuyên môn cao. Mục tiêu hiện nay của Nam A Bank là phấn đấu thành một trong những ngân hàng hiện đại, hàng đầu của Việt Nam trên cơ sở phát triển nhanh, vững chắc, an toàn và hiệu quả và không ngừng đóng góp cho sự phát triển kinh tế chung của xã hội. https://www.namabank.com.vn/tong-quan Ban điều hành. Hiện Nam A Bank có ban điều hành như sau: Ông Trần Ngọc Tâm - Tổng Giám đốc Ông Trần Khải Hoàn - Phó Tổng Giám đốc thường trực Ông Hoàng Việt Cường - Phó Tổng Giám đốc Ông Hà Huy Cường - Phó Tổng Giám đốc Ông Nguyễn Vĩnh Tuyên - Phó Tổng Giám đốc Ông Lê Anh Tú - Phó Tổng Giám đốc Ông Võ Hoàng Hải - Phó Tổng Giám đốc Bà Hồ Nguyễn Thúy Vy - Phó Tổng Giám đốc Mạng lưới phân phối. Tính đến 07/08/2023, mạng lưới Ngân hàng Nam Á đã gần 150 đơn vị kinh doanh và 100 điểm giao dịch ngân hàng số OneBank trên toàn quốc Chương trình cộng đồng. Ngân hàng Nam Á đã triển khai chương trình Nhớ cội nguồn - Hướng tương lai với hi vọng giúp đỡ các cụ già neo đơn, kém may mắn; hỗ trợ các trẻ em nghèo vượt khó, học giỏi trên toàn quốc. Chương trình thể hiện bản sắc văn hóa của Ngân hàng Nam Á: phát triển doanh nghiệp luôn đi đôi với xây dựng và phát triển cộng đồng.
19
12
475
1314636
927377
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314636
Tiền tệ Đại Việt thời Lý
Tiền tệ Đại Việt thời Lý phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam. Tiền trong đời sống kinh tế - xã hội. Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy tiền đã được sử dụng và phát hành nhiều trong thời Lý Thái Tổ. Cả lương bổng lẫn tô thuế đều có thể trả bằng tiền. Thương mại phát triển bước đầu, nhu cầu trao đổi hàng hóa trong nước ngày càng tăng. Tiền do triều đình nhà Lý đúc ra không đáp ứng đủ nhu cầu lưu thông hàng hóa. Nhiều đồng tiền nhà Tống và thậm chí thời Đường vẫn được lưu hành trong nước. Với quan điểm trọng nông ức thương, sử sách đề cập rất ít về vấn đề tiền tệ. Các sách sử Việt Nam không nói rõ quan hệ giữa các đơn vị tiền vào thời kỳ này và không phản ánh quan hệ giá trị giữa tiền Việt và tiền Tống lưu hành khi đó. Theo lệ cổ bên Trung Quốc, 1 lạng bạc bằng 1 quan và bằng 1000 đồng nhưng từ thời Ngũ Đại rút bớt giá trị, sang thời Tống cũng theo tỉ lệ này: 1 quan tương đương 770 đồng. Các đồng tiền thời Lý. Nhà Lý đúc tiền bằng hợp kim đồng – giống như tiền lưu hành ở vùng Đông Nam Trung Quốc khi đó (nhà Tống ngoài tiền hợp kim đồng còn đúc cả tiền sắt). Các đồng tiền nhà Lý qua các đời vua gồm có: Đây là tiền kim loại được giới nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam cho là của Lý Thái Tổ vì ông vua này có một niên hiệu là Thuận Thiên. Bên Trung Quốc có Sử Tư Minh khi làm vua cũng có niên hiệu "Thuận Thiên", nhưng ông này cho đúc tiền "Thuận Thiên nguyên bảo đương bách". Sau này, Lê Thái Tổ cũng lấy niên hiệu "Thuận Thiên", nhưng tiền đúc ra gọi là "Thuận Thiên thông bảo" hoặc "Thuận Thiên nguyên bảo". Tương truyền là Lý Thái Tông đã cho phát hành Minh Đạo thông bảo. Sử liệu Lịch triều hiến chương loại chí có ghi rằng vua Lý Thái Tông cho đúc tiền Minh Đạo, nhưng không ghi rõ có phải là "Minh Đạo thông bảo" hay không. Sử liệu cũ của Việt Nam và kết quả khảo cổ đều không cho thấy có loại tiền này. Song, Lacroix và các tác giả "Lịch sử phong kiến Việt Nam" (tập I) đều cho là có và cũng do Lý Thái Tông phát hành. Việt Nam vào thời vua Lý Thái Tông đã đúc hai loại "Minh Đạo thông bảo" và "Càn Phù nguyên bảo". Song, khảo cổ học Việt Nam chưa cho thấy cả hai loại tiền này. Được cho là do Lý Nhân Tông phát hành vì ông có hai niên hiệu có chữ Thiên Phù trong đó. Sử liệu cũ của Việt Nam không nhắc đến tiền này. Nhưng khảo cổ học cho thấy có tiền "Thiên Phù thông bảo" với đường kính chừng 20 mm với mặt trước có bốn chữ Thiên Phù nguyên bảo đọc theo vòng tròn, mặt sau để trơn, có lỗ, không có gờ. Đỗ Văn Ninh cho rằng kích thước đồng tiền này nhỏ hơn so với các đồng tiền thời trước là vì thời Lý Nhân Tông trị vì có nhiều chiến tranh, nên để giành được ít đồng hơn cho việc đúc tiền. Lacroix có nhắc đến tiền này và còn công bố hình thù đồng tiền. Ông cho rằng đây là tiền do Lý Anh Tông phát hành vì vua này có một niên hiệu trong đó có chữ "Thiên Cảm". Tiền có gờ và mép rõ ràng. Khảo cổ học Việt Nam chưa tìm ra loại tiền này. Các vua Trung Quốc không có ai có niên hiệu có chữ Thiên Cảm. Không thấy chính sử đề cập đến đồng tiền này. Lacroix đã từng công bố một mẫu tiền mà mặt trước có bốn chữ "Thiên tư thông bảo", mặt sau để trơn. Lý Anh Tông có một niên hiệu trong đó có chữ Thiên Tư. Các vua Trung Quốc không ai có niên hiệu có chữ này.
15
34
721
1314647
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314647
S-400
S-400 Triumf (, tên mã định danh của NATO: SA-21 Growler) là hệ thống tên lửa phòng không di động chiến lược tầm cao chống khí cụ bay do phòng thiết kế tên lửa NPO Almaz thiết kế. Đây là 1 phiên bản tên lửa thuộc họ tên lửa tầm cao S-300. Đây là hệ thống phòng không đa năng có tầm bắn xa nhất thế giới cho tới khi hệ thống S-500 ra đời. Trong quá trình phát triển, Triumf được gọi bằng tên định danh là S-300PMU3, về sau đổi thành S-400 vì cái tên này mang hàm ý quảng bá nhiều hơn. Sự khác biệt giữa S-400 với các phiên bản S-300 trước chủ yếu là những cải tiến sâu hơn về các thiết bị điện tử cùng với việc triển khai thêm bốn loại tên lửa mới cho hệ thống, giúp người sử dụng có thể tùy chỉnh các tên lửa mang theo nhằm tăng khả năng tác chiến chống lại các thể loại mục tiêu nhất định. Phạm vi hoạt động của các loại tên lửa S-400 là 40–120 km với tên lửa 9M96, 250 km với tên lửa 48N6 và tới 400 km với tên lửa 40N6. S-400 có nhiều khả năng hơn S-300. Nó có thể phát hiện mục tiêu cách xa 600 km và cao 40–50 km., có thể theo dõi đồng thời 300 mục tiêu. Gọi là hệ thống tên lửa tầm cao nhưng thực sự S-400 là một tổ hợp tên lửa đa tầm, nó có thể hạ mục tiêu như máy bay ở độ cao 27 km. S-400 có thể tiêu diệt khí cụ bay của đối phương trong khoảng cách tới 400 km và tên lửa đạn đạo ở khoảng cách 60 km. So với hệ thống đối thủ MIM-104 Patriot PAC-3 của Mỹ, S-400 vượt trội về mọi thông số: Thời gian triển khai chiến đấu nhanh hơn (5 phút so với 30 phút), tầm bắn xa hơn (400 km so với 240 km), số mục tiêu có thể theo dõi cao hơn (300 so với 100), cự lý phát hiện mục tiêu lớn hơn (600 km so với 350 km) cũng như có thể đánh chặn mục tiêu bay nhanh hơn (4,8 km/giây so với 2 km/giây). Phát triển. Việc nghiên cứu S-400 bắt đầu từ tháng 1 năm 1990. Đúng 9 năm sau, tháng 1 năm 1999, lực lượng phòng không Nga chính thức công bố hệ thống này. Ngày 12 tháng 2 năm 1999, kết quả của các cuộc thử nghiệm cho thấy tên lửa đã rất thành công trong hoạt động. Năm 2001, Nga bắt đầu lên kế hoạch trang bị S-400 cho quân đội Nga. Năm 2003, Nga tuyên bố chưa sẵn sàng trang bị hệ thống này. Hai quan chức cấp cao trong Quân đội Nga lo ngại rằng hệ thống S-400 vẫn còn nhiều khiếm khuyết do còn sử dụng hệ thống điện tử đánh chặn "lỗi thời" từ S-300P. Vì thế, S-400 chưa sẵn sàng sản xuất. Cuối cùng, vào năm 2004, dự án S-400 hoàn thành chỉnh sửa và được công bố vào tháng 2 năm 2004. Trong tháng 4, Nga thử nghiệm thành công tên lửa đánh chặn 48N6DM tầm bắn 250 km trang bị cho S-400. Năm 2014, Nga thử nghiệm thành công tên lửa đánh chặn tầm bắn 400 km trang bị cho S-400. Đặc điểm. Cơ cấu phóng và tổ chức. Một đơn vị cấp lữ đoàn S-400 bao gồm Hệ thống chỉ huy 30К6Е có thể điều khiển các hệ thống vũ khí sau: Radar. S-400 sử dụng rađa đa chế độ 92N6E đặt trên xe tải MZKT-7930, phiên bản nâng cấp từ 30N6E2 dùng trên S-300, với chất lượng và tầm quan sát được cải thiện đáng kể. 92N6E có nhiệm vụ theo dõi mục tiêu, phân loại các mục tiêu, tính toán tên lửa cần phải phóng và hướng dẫn cho tên lửa định vị mục tiêu. Việc nâng cấp ra đa dẫn đến việc nâng cấp hệ thống ống truyền tín hiệu nhằm nâng cao hiệu suất và khẩu độ, cùng với việc cải tiến các thiết bị kích thích và khả năng nhảy tần tự động. Ngoài ra, S-400 cũng sử dụng ra đa tiếp nhận 96L6 với tầm quét 300 km, cũng đặt trên xe tải MZKT-7930. Một rađa khác được tích hợp là ra đa mảng pha 3 chiều 91N6E, phiên bản nâng cấp từ 64N6E2. Một số loại ra đa khác có thể được sử dụng trên S-400 là ra đa băng tần L 59N6 Protivnik GE và 67N6 Gamma DE, ra đa tần số rất cao (VHF) 1L119 Nebo SVU, hoặc ra đa đa tần Nebo M. Người ta hiện đang thử nghiệm các hệ thống định vị phát xạ Topaz Kolchuga M, KRTP-91 Tamara, và 85V6 Orion với nhiệm vụ "tìm bắt" các mục tiêu đã "qua mặt" hệ thống ra đa tiếp nhận hoặc khi ra đa tiếp nhận đã bị đối phương gây nhiễu. Phía Nga cũng đang thử triển khai các thiết bị điện tử của S-400 lên dòng xe tải BAZ Voschina, ví dụ 92N6 và 96L6-1 trên BAZ-69096, và 40V6M/T cùng 91N6 trên BAZ-6403.01. Tháp chỉ huy đang được dự tính triển khai trên BAZ-69092-012, và máy chuyển đổi năng lượng 63T6A cùng với máy phát điện 5I57A sẽ được đặt trên một phiên bản khác của BAZ-69092-012. 1 tiểu đoàn S-400 có thể theo dõi 300 mục tiêu ở phạm vi 600 km. Một lữ đoàn tác chiến (gồm 6 tiểu đoàn hợp thành) có thể khóa 36 mục tiêu và điều khiển đồng thời 72 tên lửa tấn công 36 mục tiêu này. Năm 2015, nhà sản xuất tuyên bố tính năng của S-400 đã được tăng cường, một lữ đoàn tác chiến lớn (gồm 6 tiểu đoàn hợp thành) có thể khóa 80 mục tiêu và điều khiển đồng thời 160 tên lửa tấn công 80 mục tiêu này. Thường thì 1 tiểu đoàn S-400 có khoảng 12 xe phóng với 48 tên lửa tầm xa hoặc rất xa (mỗi xe phóng có 4 tên lửa). Nếu muốn mang được nhiều tên lửa hơn thì có thể dùng loại tên lửa cỡ nhỏ và có tầm bắn ngắn hơn như 9M96E hoặc 9M96E2 (mỗi ống phóng tên lửa cỡ lớn có thể thay bằng 4 ống phóng tên lửa cỡ nhỏ), nếu dùng toàn bộ tên lửa 9M96E/E2 thì 12 xe phóng có thể mang tới 192 tên lửa. Khả năng tiêu diệt mục tiêu phụ thuộc vào tên lửa và hệ thống sử dụng. Theo báo cáo từ Bộ Quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ cho biết, S-400 thực sự có thể theo dõi các mục tiêu ở khoảng cách lên tới 600 km, điều này đã được chứng thực khi Thổ Nhĩ Kỳ dùng radar 96L6E của S-400 phát hiện tiêm kích F-16 từ cách xa tới 600 km, với điều kiện là mục tiêu ở độ cao 20 km và không có nhiễu địa hình địa vật. Khi mục tiêu ở độ cao dưới 5 km, hiệu suất phát hiện của nó sẽ bị giảm 30 - 40% Khi mục tiêu nằm ở độ cao 1 km, phạm vi phát hiện và tiêu diệt hiệu quả của S-400 giảm xuống còn 70 - 180 km (tùy thuộc vào địa hình), và khi mục tiêu nằm ở độ cao dưới 1 km thì S-400 chỉ nhận biết được ở khoảng cách 20 - 40 km. Nguyên nhân là do sóng radar của bất kỳ hệ thống tên lửa phòng không nào cũng bị giới hạn bởi đường chân trời do bề mặt cong của vỏ trái đất.. Cũng theo quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, hệ thống phòng không S-400 Triumf của họ đã có thể bắt được tín hiệu máy bay chiến đấu tàng hình F-35 của Mỹ bay trên biên giới Syria - Iraq vào ngày 17 tháng 12 năm 2019. Khi đó F-35 của Mỹ đã bay ở khoảng cách 450 - 550 km từ vị trí triển khai hệ thống phòng không S-400 ở Thổ Nhĩ Kỳ Lịch sử hoạt động. Nga. Vào ngày 21 tháng 5 năm 2007, Không quân Nga đã có thông báo rằng hệ thống S-400 sẽ được đặt trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu xung quanh Moscow và miền trung của Nga từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. Hệ thống S-400 cũng đã được triển khai gần Elektrostal. Vào ngày 26 tháng 8 năm 2007, trung đoàn S-400 đầu tiên đã được đưa vào hoạt động ở Moskva, theo Kênh 1. Đây là trung đoàn cận vệ tên lửa phòng không 606 của sư đoàn 9, quân đoàn 1 thuộc Bộ tư lệnh trung tâm Lực lượng Phòng không thuộc Bộ chỉ huy mục tiêu đặc biệt. Vào ngày 8 tháng 2 năm 2008, trung tướng Vladimir Sviridov nói rằng Nga sẽ thay thế các hệ thống S-300 ở tây bắc bằng các hệ thống S-400. Các chuyên gia quân sự Nga kì vọng rằng hệ thống sẽ là một nhân tố quan trọng trong hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo tới năm 2020. Tháng 9 năm 2006, phó thủ tướng Nga Sergei Ivanov đã đưa ra chương trình mua sắm vũ khí mới từ 2007-2015, bao gồm việc mua 18 tiểu đoàn S-400. Ngày 17 tháng 3 năm 2009, bộ trưởng bộ quốc phòng Nga đã thông báo về trung đoàn S-400 thứ 2 đã được đưa vào hoạt động. Ngày 26 tháng 8 năm 2009, bộ tổng tham mưu Nga nói rằng đã đưa hệ thống S-400 tới vùng viễn đông Nga để đánh chặn các tên lửa đạn đảo thử nghiệm của Triều Tiên và ngăn chặn các mảnh vỡ của tên lửa rơi xuống Nga. Tháng 2 năm 2011, đơn vị thứ hai của hệ thống S-400 sẽ được triển khai đến Dubrovki, bắc Moscow. Cũng trong tháng 2, một hệ thống S-400 sẽ được triển khai đến phía nam Quần đảo Kuril để "bảo vệ chủ quyền Nga ở vùng viễn đông". Hạm đội Baltic ở Kaliningrad cũng đưa hệ thống S-400 vào hoạt động từ tháng 4 năm 2012. Tính đến tháng 9 năm 2013, Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga có năm trung đoàn S-400: 2 ở Moscow, 1 ở Hạm đội thái bình duơng, 1 ở hạm đội biển đen và 1 ở Quân khu miền nam. Từ 2014, 2-3 hệ thống S-400 sẽ được bàn giao mỗi năm. Tháng 11 năm 2015, đã có thông tin rằng tàu tuần duơng Đô đốc Nakhimov sẽ được tái hoạt động trong năm 2018. Nó sẽ được trang bị tên lửa phòng không 48N6DMK dựa trên phiên bản S-400 trên đất liền. Tên lửa giúp tăng tầm tác chiến phòng không của tàu lên từ 100 km của hệ thống S-300FM lên 250 km. Tư lệnh hạm đội biển bắc trong cùng năm đã nói rằng lực lượng phòng thủ bờ biển thuộc hạm đội biển bắc đã triển khai hệ thống S-400. Ngày 1 tháng 3 năm 2016, thiếu tướng Vladimir Korytkov, chỉ huy Không lực số 14 và Lực lượng phòng không nói rằng 6 hệ thống S-400 đã được đưa vào hoạt động. TASS cũng báo cáo rằng tới cuối nắm 2015, tổng cộng 11 trung đoàn tên lửa của Nga đã được trang bị S-400 và đang tiếp tục tăng đến 16 trung đoàn. Can thiệp quân sự của Nga trong nội chiến Syria. Tháng 11 năm 2015, đã có thông tin rằn hệ thống S-400 sẽ được triển khai đến Syria cùng với bộ binh Nga và các thiết bị quân sự khác trong chiến dịch quân sự trên không do lực lượng Nga tiến hành. Tuy nhiên, thông tin này đã bị bác bỏ bởi Nga. Ngày 25 tháng 11 năm 2015, sau Vụ bắn rơi Sukhoi Su-24 năm 2015, Nga đã thông báo về việc triển khai hệ thống S-400 đến Syria để đáp trả. Đơn vị S-400 đầu tiên đã được khai gần căn cứ không quân Khmeimim. Đơn vị thứ hai cũng được triển khai 13 km về phía bắc Masyaf vào tháng 4 và tháng 7 năm 2017. Ngày 22 tháng 5 năm 2018, chỉ huy Không quân Isarel, thiếu tướng Amikam Norkin thông báo rằng Isarel sẽ trở thành nước đầu tiên trên thế giới sử dụng tiêm kích F-35I Adir trong chiến đấu. GIữa 2020, một vài nguồn tin, bào gồm cả Thổ Nhĩ Kì đã đặt ra câu hỏi về hiệu quả chiến đấu thực sự của hệ thống S-400. Cuối 2021, một vài máy bay của Không quân Isarel đã bay qua khu vực được bảo vệ bỏi hệ thống S-400 và hệ thống Pantsir ở Syria và không kích vào các mục tiêu của Hezbollah ở Latakia. Dựa trên tầm bắn được giới thiệu của S-400, hệ thống đã có thể bắn vào các máy bay của Isarel nhưng không có tên lửa nào đã được phóng. Ngoài ra cũng không có tiêm kích nào của Nga tiến hành đánh chặn các máy bay của Isarel. Vì thế đã có giả thuyết cho rằng đã có một thỏa thuận giữa Isarel và Nga về việc Isarel sẽ đảm bảo an toàn cho người và phuơng tiện của Nga trong các cuộc không kích và ngược lại, Nga sẽ không tấn công các máy bay của Isarel hay đáp trả các cuộc tấn công của Isarel. Cuộc tấn công của Nga vào Ukraine 2022. Theo Ukraine, ngày 25 tháng 2 năm 2022, một chiếc Su-27 do Oleksandr Oksanchenko lái đã bị bắn rơi bởi hệ thống S-400 tại Kyiv. Ngày 14 tháng 4 năm 2022, Bộ quốc phòng Nga đã nói rằng một chiếc Mi-8 của Ukraine đã bị bắn rơi gần Horodnia, Chernihiv khi đang qua lại sân bay sau cuộc tấn công lên lãnh thổ Nga gần Klimovo, Bryansk. Ngày 4 tháng 7 năm 2022, Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố rằng họ đã phóng hơn 1 tá tên lửa S-400, bắn hạ 3 tên lửa đạn đạo OTR-21 Tochka và 6 máy bay không người lái tấn công Tupolev Tu-143 của Ucraina. "Army Recognition" dẫn lại một bức ảnh được tài khoản Twitter “Special Kherson Cat” đăng tải ngày 30/5 năm 2023 cho thấy xe chỉ huy 55K6E thuộc hệ thống phòng không S-400 của Nga bị hư hại nghiêm trọng sau một đợt pháo kích vào trận địa tên lửa S-400. Nhiều khả năng quân đội Ukraine đã sử dụng hệ thống pháo phản lực cơ động cao HIMARS trong nhiệm vụ này. "Newsweek" dẫn thông tin từ cơ quan tình báo quân đội Ukraine tuyên bố rằng khoảng 10h ngày 23/8/2023, các đơn vị của họ đã đánh trúng một hệ thống phòng không S-400 của Nga tại Mũi Tarkhankut, phía tây bán đảo Crimea. Tổng cục tình báo Ukraine (GUR) cho biết trên Telegram kèm một video cho thấy một vụ nổ lớn và khói bốc lên dày đặc. Thông cáo báo chí của quân đội Ukraine đưa ra ngày 14/9 năm 2023 cho biết, lực lượng vũ trang Ukraine tuyên bố đã đánh trúng một hệ thống tên lửa S-400 Triumf của Nga gần thành phố Yevpatoriya, Crimea. Một đoạn video ghi lại khoảnh khắc tấn công nói trên cũng đã xuất hiện trên mạng xã hội Twitter, cho thấy một vụ nổ đã xảy ra, tiếp theo là sóng xung kích và khói cuộn lên hình thành một đám mây hình nấm. Một số nguồn tin đã xác nhận một số xe phóng trong hệ thống tên lửa S-400 này đã bị tiêu diệt bằng máy bay không người lái và tên lửa hành trình Neptune. Cụ thể, máy bay không người lái của Cơ quan an ninh Ukraine SBU đã phát hiện được vị trí đặt hệ thống radar của tổ hợp S-400 trước khi lực lượng hải quân bắn tên lửa hành trình Neptune đánh trúng hệ thống. Theo thống kê vào thời điểm từ sau khi chiến sự Ukraine bùng nổ, Nga đã bố trí tổng cộng 5 hệ thống tên lửa đất đối không S-400 Triumf, bao gồm cả radar của chúng trên khu vực Bán đảo Crimea mà họ đang kiểm soát. Tuy nhiên trong khoảng thời gian chưa đầy một tháng, Lực lượng vũ trang Ukraine đã làm hư hại được 2 tổ hợp. Điều quan trọng cần lưu ý là mỗi lần một hệ thống Triumf bị hư hại đều dẫn tới sự suy giảm thành trì phòng thủ của Hạm đội Biển Đen tại khu vực cảng Sevastopol. Belarus. Năm 2011, bộ trưởng bộ ngoại giao của Nhà nước Liên minh Pavel Borodin đã thông báo về việc Nga sẽ cung cấp hệ thống S-400 cho Belarus. Trung Quốc. Tháng 3 năm 2014, tổng thống Nga Vladimir Putin đã thông qua việc bán hệ thống S-400 cho Trung Quốc. Vào ngày 14 tháng 4 năm 2015, tổng giám đốc điều hành của Rosoboronexport xác nhận rằng Trung Quốc đã kí hợp đồng mua hệ thống phòng không S-400. Việc chuyển giao bắt đầu từ tháng 1 năm 2018. Trung Quốc đã tiến hành bắn thử hệ thống S-400 lần đầu vào tháng 8 năm 2018. Hợp đồng bao gồm 6 bệ phóng, giúp tăng cường đáng kể năng lực phòng thủ không gian và phòng thủ trước các cuộc tấn công tầm xa từ trên không của Trung Quốc. Với tầm bắn 400 km, toàn bộ Đài Loan sẽ nằm trong tầm bắn của hệ thống từ Phúc Kiến, và Quần đảo Senkaku cũng có thể được bao quát từ Sơn Đông, gây khó khác cho Mĩ và Nhật Bản trong triển khai máy bay chiến đấu qua không phận này. Tuy nhiên, Đài Loan cũng có thể tìm kiếm các vị trí các hệ thống S-400 thông qua trinh sát tín hiệu và phá hủy chúng bằng tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo và tên lửa chống bức xạ. Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối 2017, một hợp đồng trị giá 2,5 tỉ đô về việc chuyển giao hệ thống S-400 đã được kí bởi Thổ Nhĩ Kỳ và Nga. Bộ trưởng bộ ngoại giao Hoa Kì đã bày tỏ mối lo ngại về hợp đồng này, nhưng đã bị bác bỏ bởi tổng thống Erdogan và các chính trị gia Thổ Nhi Kỳ khác, họ chỉ trích về việc Mĩ không bán gói nâng cấp cho hệ thống MIM-104 Patriot cho Thổ Nhĩ Kỳ. Hệ thống đầu tiên được chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ vào 12 tháng 7 năm 2019. Ngày 17 tháng 7 năm 2019, Mĩ đã loại Thổ Nhĩ Kỳ khỏi chuơng trình phát triển tiêm kích F-35 vì "F-35 không thể cùng tồn tại với nền tảng thu thập công nghệ của Nga vì nó sẽ biết về những tính năng đặc biệt" và vào ngày 14 tháng 12 năm 2020, Mĩ đã áp đặt Đạo luật Chống lại Kẻ thù của nước Mỹ thông qua trừng phạt lên Thổ Nhĩ Kỳ. Tính tới năm 2020, 4 bệ phóng bao gồm 36 đơn vị phóng và hơn 192 tên lửa đã được giao cho Thổ Nhĩ Kỳ. Thỏ Nhĩ Kỳ đã thử nghiệm hệ thống S-400 với các máy bay không người lái và tiêm kích F-16 bay thấp. Theo truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ, quân đội nước này đã phát hiện 1 số nhược điểm với khả năng tác chiến của hệ thống với mục tiêu bay thấp và chậm. Ấn Độ. Vào ngày 15 tháng 10 năm 2016, Ấn Độ và Nga đã kí một hợp đồng về việc cung cấp 5 trung đoàn tên lửa S-400. Hợp đồng trị giá giá 5,43 tỉ đô đã được kí chính thức vào ngày 5 tháng 10 năm 2018, bỏ qua lời đe dọa về các lệnh trừng phạt của Mĩ. Tháng 3 năm 2021, bộ trưởng bộ ngoại giao Mĩ Lloyd Austin đã thảo luận với Ấn Độ về việc mua hệ thống S-400 và cảnh báo rằng việc mua hệ thống có thể kích hoạt Đạo luật Chống lại Kẻ thù của nước Mỹ thông qua trừng phạt như với Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Tháng 11 năm 2021, Nga nói rằng đã bắt đầu việc chuyển giao hệ thống S-400 cho Ấn Độ và việc triển khai vẫn đang diễn ra theo kế hoạch được thỏa thuận. Tháng 4 năm 2022, Nga xác nhận đã giao hàng trung đoàn S-400 thứ hai tới Ấn Độ. Kế hoạch chuyển giao đã không bị cản trở bởi xung đột Nga - Ukraine. Dư luận quốc tế. Giá của 1 hệ thống S-400 hiện nay là gần 200 triệu USD (thời giá 2007). 23-8-2007, Nga tuyên bố họ sẽ không xuất khẩu loại vũ khí này trong những năm tiếp theo. Rất nhiều quốc gia muốn mua hệ thống này như Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Ả rập Saudi, Ấn Độ, Iran... Phó chủ tịch Duma quốc gia nga Vladimir Zhirinovsky kêu gọi xuất khẩu hệ thống này cho Iran Ngày 24-8-2009, Belarus đệ trình yêu cầu muốn mua S-400 từ Nga . Trong chương trình tên lửa chống máy bay của Thổ Nhĩ Kỳ thì Istanbul tỏ ý muốn mua S-400 hơn là đối thủ của nó là Patriot. Năm 2011, Trung Quốc tỏ ý muốn mua S-400 và máy bay Sukhoi Su-35 của Nga nhưng bị từ chối vì từ trước đến nay Trung Quốc luôn sao chép công nghệ vũ khí mà Nga xuất khẩu cho. Hàn Quốc đang phát triển một phiên bản đơn giản của S-400 được gọi là M-SAM Cheolmae-2 với sự giúp đỡ của Almaz. Đây là một trong những động thái để đối phó với Bắc Triều Tiên của Hàn Quốc.. Bộ quốc phòng Nga đã chấp thuận việc xuất khẩu S-400 vào năm 2016. Có thông tin cho rằng Việt Nam dự kiến sẽ mua 4-6 hệ thống S-400 sau khi Nga đồng ý xuất khẩu. Do việc không mua được S-400 nên vừa rồi Trung Quốc vừa công bố đang phát triển một tổ hợp tên lửa mới mang tên HQ-19 (Hồng Kỳ 19). Trung Quốc tuyên bố HQ-19 có tính năng tương đương có khi còn tốt hơn phiên bản S-400 của Nga nhưng lại rẻ hơn rất nhiều. Người ta cho rằng đây là 1 phiên bản sao chép S-400 của Trung Quốc nhưng đương nhiên sẽ không tốt bằng S-400 . Năm 1997, Trung Quốc cũng ra mắt tổ hợp tên lửa mới mang tên HQ-9 (Hồng Kỳ 9) sao chép y gần như y nguyên từ bề ngoài đến công nghệ của các hệ thống S-300PMU1 mà Trung Quốc mua của Nga những năm 1993, tuy vậy về tính năng kỹ thuật nó lại không hoàn hảo và còn nhiều khuyết điểm so với S-300. Các quốc gia sử dụng. Các quốc gia hiện đang sử dụng. Không quân Thổ Nhĩ Kỳ:
66
132
3,856
1314663
888691
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314663
Mỹ Văn
Mỹ Văn là một huyện cũ thuộc tỉnh Hải Hưng, sau thuộc tỉnh Hưng Yên. Địa lý. Huyện Mỹ Văn nằm ở phía tây tỉnh Hải Hưng, có vị trí địa lý: Lịch sử. Huyện được thành lập vào ngày 24 tháng 2 năm 1979 trên cơ sở hợp nhất huyện Văn Mỹ và 14 xã thuộc huyện Văn Yên (gồm phần lớn huyện Yên Mỹ cũ). Trước đó, huyện Văn Mỹ được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 1977 trên cơ sở hợp nhất thành thị xã Mỹ Hào và huyện Văn Lâm, gồm 24 xã: Bạch Sam, Chỉ Đạo, Cẩm Xá, Dương Quang, Dị Sử, Đại Đồng, Đình Dù, Hòa Phong, Hưng Long, Lạc Đạo, Lạc Hồng, Lương Tài, Minh Đức, Minh Hải, Ngọc Lâm, Nhân Hòa, Như Quỳnh, Phan Đình Phùng, Phùng Chí Kiên, Trưng Trắc, Tân Quang, Văn Phú, Việt Hưng, Xuân Dục. Sau khi hợp nhất, đơn vị hành chính của huyện Mỹ Văn gồm 38 xã: Bạch Sam, Chỉ Đạo, Cẩm Xá, Dương Quang, Dị Sử, Đại Đồng, Đình Dù, Đồng Than, Giai Phạm, Hòa Phong, Hưng Long, Lạc Đạo, Lạc Hồng, Liêu Xá, Lương Tài, Lý Thường Kiệt, Minh Đức, Minh Hải, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Trụ, Ngọc Lâm, Ngọc Long, Nhân Hòa, Như Quỳnh, Phan Đình Phùng, Phùng Chí Kiên, Thanh Long, Trai Trang, Trung Hòa, Trung Hưng, Trưng Trắc, Tân Lập, Tân Quang, Tân Việt, Văn Phú, Việt Hưng, Vĩnh Khúc, Xuân Dục. Ngày 26 tháng 8 năm 1989, giải thể xã Văn Phú để thành lập thị trấn Bần Yên Nhân. Ngày 28 tháng 6 năm 1994, giải thể xã Trai Trang để thành lập thị trấn Yên Mỹ. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Mỹ Văn thuộc tỉnh Hưng Yên vừa tái lập. Ngày 24 tháng 2 năm 1997, chuyển xã Như Quỳnh thành thị trấn Như Quỳnh. Từ đó đến đầu năm 1999, huyện Mỹ Văn có 38 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 3 thị trấn: Bần Yên Nhân, Như Quỳnh, Yên Mỹ và 35 xã: Bạch Sam, Chỉ Đạo, Cẩm Xá, Dương Quang, Dị Sử, Đại Đồng, Đình Dù, Đồng Than, Giai Phạm, Hòa Phong, Hưng Long, Liêu Xá, Lý Thường Kiệt, Lương Tài, Lạc Đạo, Lạc Hồng, Minh Đức, Minh Hải, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Trụ, Ngọc Lâm, Ngọc Long, Nhân Hòa, Phan Đình Phùng, Phùng Chí Kiên, Thanh Long, Trung Hòa, Trung Hưng, Trưng Trắc, Tân Lập, Tân Quang, Tân Việt, Việt Hưng, Vĩnh Khúc, Xuân Dục. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, chuyển 2 xã Nghĩa Trụ và Vĩnh Khúc về huyện Văn Giang vừa tái lập. Đồng thời, chia lại huyện Mỹ Văn thành 2 huyện và 1 thị xã: Mỹ Hào, Văn Lâm và Yên Mỹ. Trước khi hợp nhất: Thị xã Mỹ Hào có 13 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 7 phường: Bạch Sam, Bần Yên Nhân, Dị Sử, Minh Đức, Nhân Hòa, Phan Đình Phùng, Phùng Chí Kiên và 6 xã: Cẩm Xá, Dương Quang, Hòa Phong, Hưng Long, Minh Đức, Ngọc Lâm, Xuân Dục. Địa giới hành chính thị xã Mỹ Hào: Phía đông giáp huyện Cẩm Giàng và huyện Bình Giang thuộc tỉnh Hải Dương; Phía tây giáp huyện Yên Mỹ; Phía nam giáp huyện Ân Thi; Phía bắc giáp huyện Văn Lâm. Huyện Văn Lâm có 11 đơn vị hành chính, bao gồm 1 thị trấn: Như Quỳnh và 10 xã: Chỉ Đạo, Đại Đồng, Đình Dù, Lạc Đạo, Lạc Hồng, Lương Tài, Minh Hải, Tân Quang, Trưng Trắc, Việt Hưng. Địa giới hành chính huyện Văn Lâm: Phía đông giáp huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; Phía tây giáp huyện Văn Giang và huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Phía nam giáp thị xã Mỹ Hào và huyện Yên Mỹ; Phía bắc giáp huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Huyện Yên Mỹ có 17 đơn vị hành chính, bao gồm 1 thị trấn: Yên Mỹ (huyện lỵ) và 16 xã: Đồng Than, Giai Phạm, Hoàn Long, Liêu Xá, Lý Thường Kiệt, Minh Châu, Nghĩa Hiệp, Ngọc Long, Tân Lập, Tân Việt, Thanh Long, Trung Hòa, Trung Hưng, Việt Cường, Yên Hòa, Yên Phú. Địa giới hành chính huyện Yên Mỹ: Phía đông giáp thị xã Mỹ Hào; Phía tây giáp huyện Văn Giang và huyện Khoái Châu; Phía nam giáp huyện Ân Thi; Phía bắc giáp huyện Văn Lâm.
19
19
730
1314671
95676
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314671
Ohrid
Ohrid ( ) với nền văn hóa lịch sử và môi trường tự nhiên bao gồm các tượng đài kỉ niệm, nhà thờ Ohrid, thành phố cổ Ohrid, Struga và toàn bộ di sản tự nhiên trên bờ hồ Ohrid (trừ khu vực thuộc Albania và phần thuộc vườn quốc gia Galicia) nhưng đang tiến tới mở rộng bổ sung thêm phần thuộc vườn quốc gia Galicia. Với những giá trị nổi bật về những di sản văn hóa, những công trình kiến trúc đặc sắc và hệ sinh thái, môi trường tự nhiên còn nguyên thủy được bảo tồn tốt, Ohrid đã được UNESCO công nhận là Di sản hỗn hợp vào năm 1979. Tự nhiên. Nơi đây là vùng hồ tự nhiên huyền diệu tuyệt đẹp, xung quanh là những ngọn núi ngoạn mục cùng với hệ động vật tự nhiên phong phú của núi và lòng hồ. Văn hóa. Ohrid là nơi định cư cổ xưa nhất ở châu Âu với những bằng chứng khảo cổ học từ thời kỳ đồ đá mới và đồ đồng Hy Lạp cổ đại với 250 địa điểm khảo cổ. Trung tâm của Ohrid là thành phố cổ Lichnid, nằm trên nền móng của thành phố thời trung cổ Lichnid. Đây từng là một trong những thành phố quan trọng nhất thời trung cổ trên bán đảo Balkans. Bên dưới những sườn đồi, gần hồ là rất nhiều nhà thờ, nhà nguyện, tu viện được xây dựng từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 14 như: Tu viện St Panteleimon, nhà thờ St Sophia, nhà thờ St Clement, nhà thờ Đức Mẹ Thiên Chúa... Các công trình có kiến trúc Byzantine và Armenia. Ngoài ra là một nhà hát cổ đại, tường thành thời La Mã, quảng trường cổ đại.. tổng cộng tất cả lên đến 800 tượng đài, tất cả được bảo tồn rất tốt trong một thành phố đô thị cổ ở châu Âu.
6
10
326
1314701
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314701
A Hard Day's Night (album)
A Hard Day's Night là album phòng thu thứ ba của ban nhạc người Anh, The Beatles. Album được phát hành ngày 10 tháng 7 năm 1964, trong đó, mặt A là các ca khúc soundtrack của bộ phim cùng tên. Bản phát hành tại Mỹ ra mắt muộn hơn 2 tuần, vào ngày 26 tháng 7 bởi United Artists Records, với một số thay đổi quan trọng. Đây là album đầu tiên của The Beatles mà họ thực hiện hoàn toàn bằng kỹ thuật thâu âm 4-băng. Cho dù "A Hard Day's Night" đã cho thấy những tiến bộ vượt bậc của ban nhạc trong việc sáng tác và trình bày các ca khúc, album vẫn thể hiện những đặc trưng cơ bản của rock and roll. Album bao gồm khá nhiều những ca khúc bất hủ của họ, trong đó có ca khúc tiêu đề, "And I Love Her" và "Can't Buy Me Love". Tên album được lấy theo ý tưởng của Ringo Starr. John Lennon nói trong buổi phỏng vấn trên tạp chí "Playboy" vào năm 1980: ""Tôi đang lái xe về nhà và Dick Lester gợi ý về tên album từ điều gì đó mà Ringo nói. Tôi đã từng dùng nó trong cuốn sách "In His Own Write", nhưng thực ra nó là một lời nhận xét của Ringo. Bạn biết đấy, có vẻ khá nực cười. Theo cách của Ringo, khi anh ấy nói rằng nó không phải là điều hay... thì hãy cứ nói đi. Vậy nên Dick bảo "Chúng ta phải dùng cái tên này thôi!""" Năm 2000, tạp chí "Q" xếp "A Hard Day's Night" ở vị trí số 5 trong danh sách "100 album Anh vĩ đại nhất". "A Hard Day's Night" cũng có mặt trong danh sách "500 album vĩ đại nhất" của tạp chí "Rolling Stone" ở vị trí số 307. Sản xuất và sáng tác. Phần mặt A của album bao gồm soundtrack của bộ phim cùng tên. Mặt B là các ca khú được viết cùng thời kỳ song không được đưa vào cho bộ phim, cho dù bản phát hành lại của bộ phim năm 1980 cũng có các ca khúc này vào trước phần giới thiệu thành phần sản xuất với ca khúc "I'll Cry Instead". "A Hard Day's Night" là album đầu tiên của The Beatles với tất cả các ca khúc được viết bởi Lennon-McCartney. Lennon có ảnh hưởng lớn khi viết 10 trên tổng số 13 ca khúc của album, ngoại trừ "And I Love Her", "Can't Buy Me Love", và "Things We Said Today". Đây cũng là một trong 3 album của họ, cùng "Let It Be" và "Magical Mystery Tour" mà Starr không hát chính ở bất kể ca khúc nào. Cùng thời kỳ này, Starr cũng thu âm ca khúc "Matchbox" song nó được phát hành trong album "Long Tall Sally" sau này. Theo Richie Unterberger, "Tiếng guitar điện 12 dây của Harrison là vô cùng ấn tượng; bộ phim cho thấy họ muốn học tập The Byrds, đem folk vào giọng rock & roll và đưa The Beatles vào sâu trong làn sóng folk-rock của năm 1965. Thành công của The Beatles đưa tên tuổi các ban nhạc Anh sang nước Mỹ, có thể kể tới The Rolling Stones, The Animals, và The Kinks, và khiến những ban nhạc trẻ của Mỹ, như Beau Brummels, Lovin' Spoonful đi theo con đường của Lennon-McCartney." Phát hành. Ngày 26 tháng 2 năm 1987, "A Hard Day's Night" lần đầu được phát hành dưới dạng CD, cùng với "Please Please Me", "With the Beatles" và "Beatles for Sale". Ngày 21 tháng 7 cùng năm, 13 ca khúc của album xuất hiện tại Mỹ. Các bản stereo của "A Hard Day's Night", "Can't Buy Me Love" và "And I Love Her" xuất hiện trong album "1962–1966" vào năm 1993. Các ca khúc còn lại được ra mắt trong album "The Capitol Albums, Volume 1" vào năm 2004. Ngày 9 tháng 9 năm 2009, bản chỉnh âm dưới dạng CD lần đầu được phát hành dưới dạng định âm stereo. Album này cũng có trong box set "The Beatles Stereo Box Set". Bản mono gốc ở Anh nằm trong box set "The Beatles in Mono" cũng được phát hành cùng năm 2009. Danh sách ca khúc. Các ca khúc đều là sáng tác của Lennon-McCartney. Phát hành ở Bắc Mỹ. Ấn bản ở Mỹ được phát hành vào ngày 26 tháng 6 năm 1964 với cả hai định dạng mono và stereo, và là album thứ tư của The Beatles được phát hành tại đây. Album dễ dàng chiếm vị trí số 1 tại bảng xếp hạng của "Billboard", ngự trị tại đó suốt 14 tuần và là album số 1 của năm tại Mỹ. "I'll Cry Instead" được nằm ở mặt A của album, dù nó đã từng bị cắt ngay trước quá trình hoàn thiện album gốc. Ấn bản của Mỹ bao gồm bốn bản nhạc hòa tấu các ca khúc của Lennon-McCartney, soạn bởi George Martin: "I Should Have Known Better", "And I Love Her", "Ringo's Theme (This Boy)", và "A Hard Day's Night". Với album này, nhãn đĩa lại là United Artists Records. Một số ca khúc bị ghi nhầm tên, ví dụ như "Tell Me Why" viết nhầm là "Tell Me Who", còn "I'll Cry Instead" và "I Cry Instead". Sau khi EMI mua lại United Artists Records, album này được phát hành lại vào ngày 17 tháng 8 năm 1980 bởi Capitol với số hiệu SW-11921. Tham khảo.
18
42
932
1314715
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314715
Phạm Hán Kiệt
Phạm Hán Kiệt (giản thể: 范汉杰; phồn thể: 范漢傑; Wade–Giles: Fan Han-chieh; 1894–1976), tự Jie-ying, là một vị tướng Trung Hoa từng phục vụ trong Chiến tranh Trung-Nhật và Nội chiến Trung Hoa. Trong Chiến dịch Liêu Thẩm, ông là Phó tổng tư lệnh Mãn Châu và Chủ nhiệm Bộ tư lệnh Cẩm Châu với quân hàm Thiếu tướng Quân đội Cách mạng Quốc dân. Thời trẻ và sự nghiệp. Phạm Hán Kiệt sinh tại Đại Bộ, Quảng Đông. Ông trải qua thời trẻ tại Đại học Trực Lệ do cha ông đồng sáng lập, và đến năm 1911 được nhận vào Học viện quân sự Quảng Đông, chuyên ngành thiên văn; sau khi tốt nghiệp năm 1913, ông gia nhập quân đội Quảng Đông, với tư cách sĩ quan tại cục thống kê ở Đông Giang và khu vực Triều Sán. Năm 1920 ông được thuyên chuyển sang Cục Lưỡng Quảng, chống lại cướp biển và trấn áp buôn lậu, rồi sau đó được thăng làm thuyền trưởng trên chiến hạm Giang Bình. Năm 1923, ông lại được thuyên chuyển sang Bộ Tổng tham mưu, và thăng hàm đại tá. Tháng 5 năm 1924, Trường quân sự Hoàng Phố thành lập tại Quảng Đông, khi Phạm Hán Kiệt đã gần 30 tuổi, điều này khiến ông đắn đo việc ứng tuyển, vì phần lớn học viên đều mới ở độ tuổi đôi mươi. Vì thành công của liên minh Quốc-Cộng thứ nhất, ông trở nên tin tưởng mạnh mẽ vào cuộc cách mạng quốc dân, rồi tham dự kỳ thi tuyển sinh và dễ dàng được nhận vào trường, trở thành học viên duy nhất trong trường mang quân hàm đại tá. Sau khi tốt nghiệp, cũng như những học viên khác, Phạm Hán Kiệt phải bắt đầu lại hoàn, từ cấp trung đội, đại đội đến tiểu đoàn trong chiến dịch trấn áp phản quân Trần Quýnh Minh trong cuộc Đông chinh lần thứ hai. Mùa hè năm 1926, Quân đội Cách mạng Quốc dân tiến hành Chiến tranh Bắc phạt, cũng là kinh nghiệm thực chiến đầu tiên của Phạm; ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Trung đoàn 10 thuộc Sư đoàn, là một trong những tư lệnh trung đoàn đầu tiên xuất thân là học viên Hoàng Phố. Phạm chỉ huy quân của mình tham chiến trong trận cầu Đinh Cửu nổi tiếng. Tháng 10 cùng năm, ông được thăng Phó tư lệnh Sư đoàn 10. Tháng 11 năm 1927, trong sự kiện Quốc – Cộng phân liệt, Trần Minh Khu, Tư lệnh Binh đoàn 1, và Tưởng Quang Nãi, Tư lệnh Sư đoàn 10, từ bỏ phe Tưởng Giới Thạch; Phạm Hán Kiệt cũng tới Nam Kinh. Theo lệnh Tưởng, ông được cử tới Chiết Giang làm tư lệnh quân đồn trú, vì là học viên Hoàng Phố khóa 1, và đến tháng 8, khi Tưởng Giới Thạch từ chức, Sư đoàn Chiết Giang bị giải tán và Phạm Hán Kiệt được thuyên chuyển về Bộ tư lệnh Lộ quân 8. Nhưng Tưởng Giới Thạch nhanh chóng quay lại nắm quyền, và Phạm Hán Kiệt được cử sang Nhật nghiên cứu chính trị và quân sự, rồi sang Đức học tập tại trường huấn luyện quân sự, cho đến khi Sự biến Mãn Châu xảy ra ngày 18 tháng 9 năm 1931. Năm 1936, ông thụ phong quân hàm Thiếu tướng. Nội chiến Trung Hoa. Tháng 3 năm 1945, ông được phong hàm Trung tướng. Ngày 6 tháng 5, ông được bầu vào Ủy ban Trung ương Quốc dân đảng, trở thành một viên tướng thân tín của Tưởng Giới Thạch. Tháng 7 năm 1948, ông theo lệnh Tưởng tiến hành tái ngũ 2 binh đoàn mới, Binh đoàn 5 và Binh đoàn 8, để tăng cường lực lượng Quốc dân đảng tại Mãn Châu. Tháng 9, Phạm được bổ nhiệm làm Phó tổng tư lệnh tại Mãn Châu và Chủ nhiệm Bộ tư lệnh tiền tuyến Cẩm Châu. Vì Vệ Lập Hoàng từ chối hội quân tại Cẩm Châu, và không thể bất tuân thượng lệnh, Phạm dù đã chiến đấu hết mình nhưng vẫn bị quân cộng sản của Lâm Bưu tràn ngập. Quân cộng sản tràn vào thành phố sau trận pháo kích dữ dội vào ngày 15 tháng 10 năm 1948, Cẩm Châu thất thủ và Phạm bị Phương diện quân Mãn Châu của phe cộng sản cầm tù. Cuối đời. Sau khi được thả vào năm 1962, ông được bầu vào Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, phụ trách văn kiện lịch sử, và viết nên tác phẩm "Hồi ký Chiến dịch Cẩm Châu". Đến năm 1964, ông được bầu làm ủy viên thứ 4 trong Ủy ban Chấp hành Hội nghị Chính trị hiệp thương. Ông qua đời tại Bắc Kinh vào ngày 16 tháng 1 năm 1976, thọ 82 tuổi.
7
28
816
1314728
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314728
Thịnh Thế Tài
Thịnh Thế Tài (chữ Hán: 盛世才; bính âm: Shèng Shìcái; Wade–Giles: Sheng Shih-ts'ai) (1897 – 13 tháng 7 năm 1970, Đài Loan) là một lãnh chúa Trung Hoa từng cai trị Tân Cương từ ngày 12 tháng 4 năm 1933 đến ngày 29 tháng 8 năm 1944. Sinh tại Khai Nguyên, Liêu Ninh, ông từng phục vụ trong Quốc dân quân. Đầu tiên ông được cử đến Tân Cương dưới quyền Tỉnh trưởng Kim Thụ Nhân vào năm 1930. Ông trấn áp được Loạn Kumul (tháng 2 năm 1931 – tháng 10 năm 1931) với sự giúp đỡ của Liên Xô, nhưng đổi lại là chủ quyền của Tân Cương. Tổng lãnh sự Xô viết tại Urumqi có vai trò như một viên thái thú bên cạnh Thịnh, buộc Thịnh phải tham vấn người Nga trước khi ra bất kì quyết định gì.. Tân Cương trở thành một "vệ tinh của Xô viết", hoàn toàn do Xô viết khống chế. Năm 1936, sau khi Thịnh Thế Tài trục xuất 20,000 người Kazakh từ Tân Cương sang Thanh Hải, quân Hán Hồi dưới quyền tướng Mã Bộ Phương đã thẳng tay tàn sát những người Hồi giáo Kazakh này, chỉ còn lại 135 người sống sót. Thịnh tiến hành chiến dịch thanh trừng tại Tân Cương cùng thời điểm với đợt Đại thanh trừng của Stalin vào năm 1937 trong Chiến tranh Tân Cương (1937). Thịnh được mật vụ Xô viết NKVD hỗ trợ, đã dựng lên một âm mưu Trotskyist quy mô và một "kế hoạch Trotskyist phát xít" hòng lật đổ Liên Xô. Tổng lãnh sự Xô viết Garegin Apresoff, các tướng Mã Hổ Sơn, Ma Shaowu, Mahmud Sijan, lãnh tụ Tân Cương trên danh nghĩa Huang Han-chang, và Hoja-Niyaz, nằm trong số 435 nhân vật bị cáo buộc trong vụ này. Tân Cương hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của Liên Xô. Stalin cũng chống đối Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo yêu cầu của Joseph Stalin, Thịnh gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô vào tháng 8 năm 1938 và nhận được thẻ đảng số 1859118 trực tiếp từ tay Molotov trong chuyến thăm bí mật đến Moscow. Tân Cương dưới thời Thịnh chỉ là một phần lãnh thổ Trung Quốc trên danh nghĩa, mọi hành động của Thịnh đều do Tổng lãnh sự quán Liên Xô tại Địch Hóa (Hán tự: 迪化, nay là Urumqi) chỉ thị. Trong những năm tại vị, ông nổi tiếng là kì thị người thiểu số (nhất là người Hồi và người Kazakh), cũng như là người tàn nhẫn và thích sử dụng đòn tra tấn. Đến năm 1942, thấy Liên Xô suy yếu vì Thế chiến II, ông quay sang chống Xô viết, trục xuất các cố vấn Xô viết và xử tử nhiều đảng viên Cộng sản người Hán, kể cả Mao Trạch Dân, em trai Mao Trạch Đông, hòng giành được sự ủng hộ của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, khi chiến tranh xoay chuyển có lợi cho Liên Xô sau Trận Stalingrad, Thịnh lại âm mưu loại bỏ Quốc dân đảng và xin viện trợ Xô viết, nêu rõ trong một bức thư của ông gửi cho Stalin. Stalin từ chối giúp đỡ Thịnh, và gửi lá thư của ông cho lãnh tụ Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, trong khi Thịnh đánh giá quá thấp tầm ảnh hưởng của Quốc dân đảng tại Tân Cương. Quốc dân đảng loại bỏ Thịnh vào tháng 8 năm 1944. Trần Lập Phu kể lại những lần gặp gỡ Thịnh trong hồi ký của mình "The storm clouds clear over China: the memoir of Chʻen Li-fu, 1900-1993", theo ông ta, Thịnh rất đa nghi với mọi người xung quanh, đến mức sắp sẵn "súng máy trước tư dinh vào ban đêm... các tủ văn kiện đều khóa kín". Ông rời Tân Cương vào ngày 11 tháng 9 năm 1944, để nhận chức Bộ trưởng Nông Lâm trong chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Đi cùng ông là khoảng 50 xe tải, chứa đầy những của cải vơ vét được trong 15 năm tại Tân Cương, bao gồm vàng (khoảng 1,500 kg) và bạc (khoảng 15,000 kg). Sau đó ông trốn sang Đài Loan cùng Quốc dân đảng vào cuối Nội chiến Trung Quốc. Năm 1958, ông cùng viết quyển "Sinkiang: Pawn or Pivot" với Allen S. Whiting. Thịnh có bốn người con hai trai hai gái. Hai con gái của ông được sinh tại Tân Cương.
10
25
747
1314738
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314738
Tô Bính Văn
Tô Bính Văn (giản thể: 苏炳文; phồn thể: 蘇炳文; bính âm: Sū Bǐngwén) (2 tháng 9 năm 1892 – 22 tháng 5 năm 1975), là một vị tướng Trung Hoa. Tốt nghiệp trường sĩ quan năm 1914, ông gia nhập Trung đoàn kiểu mẫu năm 1916, lần lượt làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, rồi tiểu đoàn trưởng. Ông trở thành Tham mưu trưởng Lữ đoàn 1 Phúc Kiến năm 1920, rồi làm Tham mưu trưởng Lữ đoàn 13 quân Đông Bắc. Năm 1921, ông chỉ huy Lữ đoàn 6 Đông Bắc, rồi lên chức Tư lệnh Sư đoàn 17 năm 1927. Năm 1928, trở thành Tham mưu trưởng rồi Phó tư lệnh quân phòng thủ biên giới Đông Bắc. Đầu tiên ông giữ chức tư lệnh đồn trú tuyến đường sắt Hoa Đông vào năm 1930, rồi tư lệnh đồn trú Hulun Buir năm 1931, đảm nhiệm các cứ điểm trong quận Barga về bờ tây Hắc Long Giang dọc biên giới Xô viết. Sau khi Sự biến Thẩm Dương nổ ra, tướng Tô đóng quân bên ngoài Đại Hưng An Lĩnh, nằm ngoài tầm tác chiến của quân Nhật, cũng không tỏ ra ủng hộ phe Mãn Châu Quốc hay Mã Chiếm Sơn. Nhờ đó mà nông dân sống dọc tuyến đường sắt Hoa Đông, phía tây Tsitsihar vẫn sinh sống và thu hoạch yên ổn trên mảnh đất của họ. Đến ngày 27 tháng 9, khi người Nhật bắt đầu chuyển hướng về phía nam hòng trấn áp lực lượng kháng chiến tại Nam Mãn Châu Quốc, Tô Bính Văn dàn xếp một vụ mưu phản, bắt giữ hàng trăm thường dân Nhật và cầm tù các sĩ quan Nhật làm con tin. Những người nổi dậy, với tên gọi Quân cứu quốc Hắc Long Giang, lên tàu tiến về phía đông đến Tsitsihar để gia nhập với Mã Chiếm Sơn cùng chiếm lại thủ phủ tỉnh. Mã Chiếm Sơn lại tiến ra vùng bình nguyên từ căn cứ của mình trên dãy Tiểu Hưng An dọc sông Hắc Long Giang, sau khi quân Nhật trấn áp được lực lượng kháng chiến ở phía bắc. Tháng 9, ông ta tiến đến Long Môn và bắt liên lạc với lực lượng của Tô Bính Văn. Nhưng từ tháng 9 – tháng 12 năm 1932, gần 30,000 quân Nhật – Mãn Châu Quốc, bao gồm Sư đoàn 14 Nhật và 4,500 kỵ binh Mông Cổ thuộc Binh đoàn "Hưng An" của Mãn Châu Quốc, tiến hành một chiến dịch lớn chống lại lực lượng Mã – Tô. Ngày 28 tháng 11 năm 1932, Sư đoàn 14 Nhật tấn công Mã Chiếm Sơn và Tô Bính Văn gần Qiqihaer. Máy bay Nhật ném bom đại bản doanh của Mã tại Hailaer. Tới ngày 3 tháng 12, quân Nhật chiếm được đại bản doanh của Mã Chiếm Sơn tại Hailaer. Hôm sau, sau một trận chiến ác liệt, Mã Chiếm Sơn và Tô Bính Văn cùng tàn quân rút khỏi Hailar lui về biên giới Liên Xô và tiến vào lãnh thổ Xô viết vào ngày 5 tháng 12. Phần lớn lực lượng này sau đó được chuyển về Nhiệt Hà. Sau khi rút vào lãnh thổ Liên Xô, Tô trở về Nam Kinh qua ngả Đức và phục vụ trong Bộ Tổng tham mưu và giữ chức Chủ nhiệm Quân chính trong Chiến tranh Trung-Nhật. Ông nghỉ hưu năm 1945 và trở về Bắc Kinh. Sau Nội chiến Trung Hoa, vào tháng 2 năm 1955, Tô trở thành ủy viên Ủy ban Chấp hành Hội nghị Chính trị hiệp thương tỉnh Hắc Long Giang, ủy viên Hội nghị Chính trị hiệp thương toàn quốc, và ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh Hắc Long Giang, cũng là người sáng lập và Phó chủ tịch phân ban Hắc Long Giang của Ủy ban Cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc, cùng nhiều chức vụ khác. Ngày 9 tháng 7 năm 1957, ông trở thành cố vấn cho chính quyền Cáp Nhĩ Tân. Ông mất vào tháng 5 năm 1975.
6
23
679
1314745
822668
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314745
Xa lộ Liên tiểu bang 72
Xa lộ Liên tiểu bang 72 (tiếng Anh: "Interstate 72" hay viết tắt là I-72) là một xa lộ liên tiểu bang tại Trung Tây Hoa Kỳ. Đầu phía tây của nó nằm trong thành phố Hannibal, Missouri tại một điểm giao cắt với Quốc lộ Hoa Kỳ 61; đầu phía đông của nó nằm ở Phố Country Fair trong thành phố Champaign, Illinois. Năm 2006, Nghị viện Tiểu bang Illinois đặt tên cho cả Xa lộ Liên tiểu bang 72 là Xa lộ Tưởng niệm Purple Heart (Purple Heart là huân chương cao quý do tổng thống Hoa Kỳ trao tặng cho những người bị thương hay hy sinh trong lúc phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ). Đoạn xa lộ giữa Springfield và Decatur cũng có tên là Xa lộ cao tốc Tưởng niệm Penny Severns, và đoạn nằm giữa dặm số 35 và Sông Mississippi được biết với tên gọi Xa lộ Lịch sử Free Frank McWorter (biệt danh của một người nô lệ Mỹ tự mua tự do cho mình). Mô tả xa lộ. I-72 chạy khoảng trên trong tiểu bang Missouri. Điểm đầu phía tây của nó là một nút giao thông khác mức với Quốc lộ Hoa Kỳ 61 đến Cầu Tưởng niệm Mark Twain trên Sông Mississippi. Cầu này nối thành phố Hannibal với tiểu bang Illinois. Hiện nay, chỉ có hai lối ra cho I-72 trong tiểu bang Missouri. Trong tiểu bang Illinois, I-72 chạy khoảng . Các đoạn của I-72 và I-172 từ Springfield đến Quincy thường được gọi tên là Xa lộ cao tốc Trung Illinois (CIE). Tính đến năm 2007, I-72 có một xa lộ thương mại là Xa lộ vòng Thương mại 72 trong thành phố Jacksonville. Gần Valley City ở mốc dặm số 42 là hai cầu Valley City Eagle. Hai cầu riêng biệt cho hai chiều xe bắt qua Sông Illinois trong vùng nông thôn trung-tây tiểu bang Illinois. Gần mốc dặm 78 có một biển dấu đánh dấu kinh tuyến 90 độ. Tại điểm đầu phía đông trong thành phố Champaign, I-72 tiếp tục và trở thành Phố Church (chiều đi hướng tây) và Phố University (chiều đi hướng đông). Cả hai chiều thành đường phố một chiều chạy thêm khoảng vào trong phố chính Champaign. Các xa lộ có liên quan. Xa lộ Thương mại Liên tiểu bang 72 (viết tắt là BL 72) là xa lộ thương mại hình cung của I-72 tại Jacksonville. Nó chạy từ nút giao thông lập thể U.S. 36/I-72/U.S. 67 ở tây nam thành phho61 Jacksonville về hướng bắc dọc theo đường tránh thuộc Quốc lộ Hoa Kỳ 67 tại thành phố Jacksonville đến con đường cũ của Quốc lộ Hoa Kỳ 36 (Phố Morton). Trên phố Morton, BL 72 chạy theo hướng đông qua phố chính thành phố Jacksonville cho đến khi đến I-72 tại lối ra 68. Con đường dài khoảng .
8
23
486
1314757
917409
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314757
Isaac Asimov
Isaac Asimov ( , tên khai sinh Isaak Yudovich Ozimov, tiếng Nga: Исаак Юдович Озимов; 2 tháng 1 năm 1920 - 6 tháng 4 năm 1992) là một tác giả người Mỹ và là giáo sư hóa sinh tại Đại học Boston, nổi tiếng nhất với các tác phẩm về khoa học viễn tưởng. Asimov là một trong những nhà văn sáng tác nhiều nhất mọi thời đại, ông đã viết và biên tập hơn 500 cuốn sách và khoảng 90.000 bài văn và bưu thiếp. Các tác phẩm của ông đã được xuất bản ở cả mười hạng mục của Hệ thống Thập phân Dewey. Asimov được xem là một bậc thầy của khoa học viễn tưởng, cùng với Robert A. Heinlein và Arthur C. Clarke, ông được coi là một trong ba nhà văn khoa học viễn tưởng tiêu biểu. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Asimov là "loạt chuyện Foundation"; các tác phẩm nổi tiếng khác bao gồm "Galactic Empire" và "Robot", cả hai tác phẩm này sau đó đều được hợp thể hóa vào cùng một vũ trụ với loạt chuyện Foundation để tạo nên Future History. Ông cũng sáng tác rất nhiều truyện ngắn, trong đó có "Nighfall", tác phẩm đã được Science Fiction Writers of America bầu chọn là truyện ngắn khoa học viễn tưởng hay nhất mọi thời đại năm 1964. Asimov cũng sáng tác loạt chuyện "Lucky Starr" của thể loại tiểu thuyết khoa học viễn tưởng dành cho thiếu nhi, trong loạt truyện này ông sử dụng bút danh là Paul French. Asimov cũng viết nhiều tác phẩm thuộc thể loại thần bí và tưởng tượng, cũng như những tác phẩm phi viễn tưởng. Hầu hết những tác phẩm này đều giải thích những khái niệm khoa học theo cách lịch sử, đưa người đọc trở lại thời khi hiểu biết về khoa học ở giai đoạn sơ khai nhất. Ông cũng đưa ra cả quốc tịch, ngày sinh, ngày mất cho những nhà khoa học ông đề cập, ông còn cung cấp cả từ nguyên học và chỉ cách phát âm những thuật ngữ kỹ thuật. Asimov là thành viên lâu năm và là phó chủ tịch của Mensa International, ông cũng là chủ tịch của Hiệp hội Nhân văn Hoa Kỳ. Tiểu hành tinh 5020 Asimov, một miệng núi lửa trên Sao Hỏa, một trưởng tiểu học ở Brooklyn, New York và Giải thưởng Văn học Isaac Asimov đều được đặt theo tên của ông.
4
12
416
1314770
153657
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314770
Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ
Chuẩn Cát Nhĩ Hãn quốc (chữ Hán: 準噶爾汗國) hay Hãn quốc Zunghar, là một đế quốc du mục trên thảo nguyên châu Á. Hãn quốc nằm trên khu vực được gọi là Dzungaria và trải dài từ cực tây của Vạn Lý Trường Thành đền miền đông Kazakhstan hiện nay, và từ miền bắc Kyrgyzstan hiện nay đến miền nam Siberia, phần lớn lãnh thổ của Hãn quốc nay thuộc địa giới Tân Cương. Năm 1678, Cát Nhĩ Đan nhận tước hiệu "Boshogtu Khan" từ Đạt Lai Lạt Ma. Điều này đã khẳng định người Zunghar là bộ tộc lãnh đạo mới của người Oirat (Vệ Lạp Đặc, Mông Cổ Tây). Tuy nhiên, những người lãnh đạo Zunghar mang tước hiệu Khong Tayiji (bắt nguồn từ tước hiệu "Hoàng thái tử") trong khi đất nước của họ thường được gọi là Hãn quốc Zunghar. Sau cái chết của Galdan Boshogtu Khan và Tsewang Rabtan, Hãn quốc suy sụp và bị nhà Thanh sáp nhập vào năm 1756-59. Từ nguyên. Từ "Dzungar" pha trộn giữa "jegün", nghĩa là "trái" hay "đông" và "γar" nghĩa là "quyền hành" hay "che chở". (Trong tiếng Mông Cổ, "trái" nghĩa là "đông" và "phải" nghĩa là "tây", tương ứng với nhìn về phía nam). Vùng Dzungaria có nguồn gốc tên gọi từ liên minh này. Mặc dù người Zunghar ở phía tây của người Mông Cổ Đông (Khalkha), nguồn gốc tên gọi của họ được cho là do trên thực tế họ đại diện cho phần tả của người Oirat. Lịch sử. Nét chính. Hãn quốc Zunghar được chú ý đến nhiều vì đây là đế quốc du mục thảo nguyên cuối cùng và ảnh hưởng của nó tới tiến trình bành trướng về phía tây của nhà Thanh. Khoảng 1620, người Oirat tiến đến thống nhất tại Dzungaria. Vào khoảng năm 1680, họ chinh phục lòng chảo Tarim ở phía nam. Năm 1688, Galdan đánh bại người Khalkha (Khách Nhĩ Khách hay Mông Cổ Đông), nhiều người trong số đó chạy về phía đông nam đến Nội Mông và trở thành thần dân của người Mãn. Năm 1696, người Mãn đánh bại Galdan gần Ulan Bator, đuổi ông về phía tây và giành lấy quyền kiểm soát đối với Ngoại Mông. Năm 1717, Tsewang Rabtan cử một đội quân đến Tây Tạng, người Mãn đẩy lui người Zunghar và thiết lập quyền bảo hộ tại Tây Tạng. Năm 1750-57, người Mãn tận dụng thời cơ Zunghar đang có nội chiến để chinh phục Dzungaria và tiêu diệt một phần lớn dân cư. Người Mãn tiến về phía nam và sáp nhập lòng chảo Tarim vào năm 1759, như vậy, người Mãn cuối cùng đã hoàn toàn kiểm soát được vùng biên giới phía tây của Trung Quốc hiện nay. Nguồn gốc. Những người lãnh đạo của người Zunghar thuộc dòng dõi Choros và tự coi mình là hậu duệ của các taishi Oirat là Toghoon (mất 1438) và Esen Tayisi (cai trị 1438-54). Vào lúc bắt đầu thế kỷ 17, một lãnh đạo trẻ tuổi tên là Khara Khula đã nổi lên để thống nhất người Oirat tiến đánh Sholui Ubashi Khong Tayiji, Altan Khan đầu tiên của người Khalkha, đây là người đã xua đuổi người Oirat khỏi quê hương của họ ở vùng Kobdo tại tây bắc Mông Cổ ngày nay. Vào đầu thời kỳ cai trị của mình, Khara Kula đã thống nhất các thị tộc Choros, Dorbod và Khoid, tạo thành một dân tộc Zunghar. Trong các cuộc chiến tranh chống người Khalkha vào thập niên 1620, ông đã giành được chiến thắng quyết định. Quê hương của người Oirat nằm dưới sự thống trị của Jasaghtu Khan của người Khalkha. Vào năm 1623, liên minh Oirat đã giết chết Ubashi Khong Tayiji và bảo vệ được nền độc lập của mình. Vào lúc đó, chỉ có Torobaikhu, một lãnh đạo của thị tộc Khoshud là có thể tuyên bố mình là "Hãn" trong khi Baatur Dalai Taishi của thị tộc Dorbod được coi là tù trưởng Oirat mạnh nhất. Con trai của Khara Khula là Baatur Khung Taiji (mất 1653) đã tham gia cuộc viễn chinh Tây Tạng do Gushi Khan Torobaikhu lãnh đạo vào năm 1636-42. Sau khi Baatur trở về Dzungaria với tước hiệu Erdeni (do Đạt-lại Lạt-ma ban cho) và nhiều chiến lợi phẩm, ông đã tiến hành ba cuộc viễn chinh chống lại người Kazakh (Cáp Tát Khắc). Với các cuộc nhập cư của người Torghud, người Khoshud và người Dorbod từ năm 1630 đến 1677, sức mạnh của người Zunghar được tăng cường tại Zungaria. Năm 1653, Sengge kế vị cha là Baatur Khung Taiji để trở thành lãnh đạo Zungharia, tuy nhiên một tranh chấp nội bộ giữa ông và người anh em trai khác mẹ là Chechen Tayiji đã nổ ra và thu hút sự tham gia của người Khoshuud. Từ năm 1657 trở đi, con trai của Senge là Amin-Dara và Galdan phải đối mặt với những chống đối từ những anh em trai cùng cha khác mẹ. Được Ochirtu Khan của người Khoshuud giúp sức, xung đột chấm dứt với thắng lợi của Sengge vào năm 1661. Vào năm 1667, ông bắt được Erinchin Lobsang Tayiji, vị Altan Khan thứ ba và cũng là cuối cùng. Tuy nhiên, chính ông lại bị các người anh em khác mẹ là Chechen Tayiji và Zotov giết hại trong một cuộc chính biến vào năm 1670. Người em trai của Sengge là Galdan ngay lập tức từ Tây Tạng hồi quốc để trả thù Chechen. Là một sư tăng Phật giáo, Galdan đã đến Tây Tạng vào năm 13 tuổi và được tu học dưới sự chỉ dậy của Ban-thiền Lạt-ma thứ 4 và Đạt-lại Lạt-ma thứ 5. Liên minh với Ochirtu Sechen của thị tộc Khoshuud, Galdan đánh bại Chechen và đẩy Zotov ra khỏi Zungharia. Tuy nhiên, hai con trai của Sengge là Sonom Rabdan and Tsewang Rabtan đã nổi loạn chống lại ông, song cuối cùng cả hai đều bị tiêu diệt. Năm 1671, Đạt-lại Lạt-ma ban tước hiệu Hãn cho Galdan. Mặc dù Galdan đã cưới Anu-Dara, cháu gái của Ochirtu, song ông ta lại bị cuốn vào xung đột với người ông của vợ mình. Lo ngại trước ảnh hưởng của Galdan, Ochirtu đã nhận được trợ giúp từ người chú của Galdan và cũng là kình địch, Choqur Ubashi, ông là người đã từ chối công nhận tước hiệu hãn của Galdan. Chiến thắng trước Ochirtu đã khiến Galdan đạt được quyền bá chủ đối với người Oirat. Vào năm sau, Đạt-lại Lạt-ma đã trao tước hiệu cao nhất Boshoghtu (hay Boshughtu) cho ông, Galdan thống nhất toàn bộ các thị tộc Oirat tại Zungaria và miền tây Mông Cổ. Chinh phục lòng chảo Tarim và chiến tranh với người Trung Á. Naqshbandi Sufi Imam đã thay thế Sát Hợp Đài Hãn vào đầu thế kỷ 17. Họ đã đánh bại Afaq Khoja và người này đã yêu cầu Đạt-lại Lạt-ma giúp đỡ quân sự vào năm 1677. Với danh nghĩa thực hiện yêu cầu này, Galdan đã lật đổ Naqshbandu và đưa Afaq Khoja trở thành người lãnh đạo của ông tại đây. Galdan đã ra lệnh rắng người Turkestan có thể được xét sử bằng luật của riêng họ ngoại trừ các trường hợp gây ảnh hưởng đến Đế quốc Zunghar. Người Zunghar giữ quyền kiểm soát lòng chảo Tarim cho tới năm 1757. Vào năm 1680, người Khirgiz Đen đã đột kích Moghulistan và chiếm Yarkent. Các cư dân Yarkent yêu cầu Galdan giúp đỡ. Hãn quốc Zunghar sau đó đã chinh phục Kashgar và Yarkend; và Galdan được các cư dân lựa chọn làm người lãnh đạo của họ. Năm sau, ông xâm chiếm lên phía bắc của dãy núi Tengeri tại Kazakhstan hiện nay; song thất bại trong việc chiếm thành phố Sairam. Cuối cùng ông đã có thể chinh phục được Turfan và Hami vào năm sau. Năm 1683, quân của Galdan dưới quyền Tsewen Rabtan đã đến Tashkent và Syr Darya và đè bẹp hai đội quân của người Kazakh. Sau đó Galdan đã khuất phục người Khirgiz Đen và tàn phá thung lũng Fergana. Từ năm 1685, quân của Galdan đã tấn công mạnh người Kazakh. Trong lúc tướng Rabtan chiếm thành Taraz, đội quân chính của ông đã buộc người Kazakh phải di cư về phía tây. Năm 1698, người kế vị của Galdan là Tsewen Rabtan đã vươn đến hồ Tengiz và Turkestan, người Zunghar kiểm soát Zhei-Su Tashkent cho đến năm 1745. Kình địch với người Khalkha. Ban đầu, người Oirat và người Khalkha nằm trong một liên minh, ràng buộc bởi các điều khoản của bộ luật Mông Cổ-Oirat. Để thắt chặt liên minh này, Galdan đã cố gắng liên minh với Zasaghtu Khan Shira, người đã bị mất một phần các thần dân vào tay Tushiyetu Khan Chakhundorji, và chuyển cung điện của ông đến gần dãy núi Altai. Tushiyetu Khan đã tấn công cánh hữu của người Khalkha và giết chết Shira vào năm 1687. Galdan đã phái quân dưới quyền chỉ huy của em trai Dorji-jav tấn công Tushiyetu Khan vào năm sau, nhưng họ cuối cùng đã bị thất bại và Dorji-jav đã bị giết chết trong trận đánh kế tiếp. Chakhundorji đã giết chết Degdeehei Mergen Ahai của Zasaghtu Khan khi người này trên đường đến chỗ Galdan. Triều đình nhà Thanh đã can thiệp và đình lại việc các quý tộc Mông Cổ tập hợp lại trong một hội nghị. Để báo thù cho cái chết của em trai và mở rộng ảnh hưởng của mình với các khu vực khác của người Mông Cổ, Galdan đã có sự chuẩn bị chiến lược cho một cuộc chiến với người Khalkha. Galdan thiết lập quan hệ hữu hảo với người Nga, thế lực đang có chiến tranh với Tushiyetu Khan tại các lãnh thổ gần hồ Baikal ở miền bắc Khalkha. Có lợi ích chung trong việc đánh bại người Khalkha, cả Galdan và người Nga đẫ đồng thời tấn công Khalkha và chinh phục hầu hết lãnh thổ Khalkha. Được vũ trang với các loại súng cầm tay mua từ người Nga, Galdan đã tấn công vùng đất của Zasaghtu Khan cuối cùng, và tiến đến lãnh địa của Chakhundorji. Người Cossack Nga trong lúc đó đã tấn công và đánh bại 10.000 quân Khalkha gần hồ Baikal. Sau hai trận đánh đẫm máu với người Zunghar gần Tu viện Erdene Zuu và Tomor, Chakhundorji cùng con trai ông ta là Galdandorji đã chạy trốn đến sông Ongi. Người Zunghar chiếm được quê hương của người Khalkha và buộc Jibzundamba Zanabazar phải bỏ trốn. Nhà Thanh đã cho củng cố các tiền đồn quân sự phía bắc và khuyến khích người Khalkha chống lại Galdan. Sau khi củng cố quân lực, Tushiyetu Khan Chakhundorji đã tấn công ngược người Zunghar, và đánh nhau với đội quân này gần hồ Olgoi vào ngày 3 tháng 8 năm 1688. Người Oirat chiến thắng sau một trận chiến kéo dài ba ngày. Cuộc chinh phục lãnh thổ người Mông Cổ Khalkha của Galdan đã khiến cho Zanabazar và Chakhundorji thần phục triều đình nhà Thanh vào tháng chín. Chiến tranh Oirat-Mãn Châu lần thứ nhất. Với chiến thắng năm 1688, Galdan đã đẩy người Khalkha vào vòng tay của nhà Thanh và khiến ông trở thành một mối đe dọa quân sự đối với người Mãn. Không may cho Galdan, Hoàng đế Khang Hy là một người mạnh mẽ và thiện chiến. Năm 1690, quân Mãn và quân Zunghar đã chiến đấu trong một trận đánh bế tắc và Galdan rút lui về phương bắc. Trận chiến diễn ra tại Ulan Butong, cách 350 km về chính bắc của Bắc Kinh gần nguồn phía tây của Liêu Hà tại cực nam của Đại Hưng An Lĩnh. Vấn đề trong tất cả các cuộc chiến du mục này là ở chỗ người Mãn đã không thể duy trì một đội quân trên thảo nguyên. Nếu người Mãn cử một đội quân đến thì những người du mục sẽ tạm thời rút chạy và họ trở lại khi quân Mãn cạn nguồn lương thảo. Năm 1696, Galdan ở thượng lưu sông Kerulen tại phía đông Ulan Bator, cách khoảng 700 km ở phía tây bắc của Bắc Kinh. Kế hoạch của Khang Hy là đích thân dẫn một đội quân tiến về phía tây bắc đến chỗ Galdan trong khi cử một đội quân thứ hai tiến về phía bắc từ vùng Ordos để chặn đường thoát của Galdan. Khang Hy đến Kerulen, thấy Galdan đã đi và cho quân quay trở lại do thiếu nguồn tiếp tế. Tròng cùng ngày mà Khang Hy trở về (12/6), Galdan đã phạm phải sai lầm khi lọt vào vòng đội quân Thanh ở phía tây (từ Ordos lên) và bị đánh bại ở Zuunmod gần thượng du sông Tuul, phía đông của Ulan Bator. Vợ của Galdan, Hoàng hậu Anu, bị giết chết và quân Mãn đã thu giữ được 20.000 gia súc và 40.000 cừu. Galdan chạy trốn cùng với 40 hay 50 lính. Ông tập hợp một vài ngàn người đi theo, song những người này bị bỏ lại do thiếu lương thực. Ngày 4 tháng 4 năm 1697, ông qua đời đột ngột tại khu vực dãy núi Altai gần tỉnh Khovd hiện nay khi đang ở cùng 300 người trong một hoàn cảnh bí ẩn. Kế vị ông là Tsewang Rabtan, một người đã nổi dậy chống ông. Can thiệp tại Tây Tạng. Người Zunghar dưới sự lãnh đạo của anh em của Tsewang Rabtan là Tsering Dondup đã xâm lược Tây Tạng, lúc bấy giờ đang do bộ lạc Khoshut thống trị. Vị Đạt-lại Lạt-ma thứ năm đã khuyến khích các lạt-ma người Mông Cổ ngăn cản bất cứ lời dạy nào không phải của phái dGe-lugs-pa trong cộng đồng người Mông Cổ. Người Zunghar sớm sau đó bắt đầu cướp phá Lhasa, làm mất đi thiện cảm ban đầu của người Tạng đối với họ. Hoàng đế Khang Hy đã trả đũa vào năm 1718, song cuộc viễn chinh của ông bị người Zunghar đánh bại không xa Lhasa. Nhiều Nyingmapa và Bonpo đã bị hành quyết và người Tạng đến chỗ chính quyền Zunghar bị bắt phải đặt lưỡi ra ngoài để cho người Zunghar có thể phát giác nếu một ai đó niệm thần chú. Thói quen dính lưỡi ra ngoài để tỏ lòng tôn trọng khi chào hỏi ai đó vẫn là một nét trong văn hóa Tạng cho đến thời gian gần đây. Hoàng đế Khang Hy gửi đến một đội viễn chinh thứ hai và lớn hơn, quân của Tsewang Rabtan đã bị đuổi khỏi Tây Tạng vào năm 1720 và đội quân viễn chinh được hoan nghênh như những người giải phóng. Họ đưa Kälzang Gyatso cùng họ từ Kumbum đến Lhasa và ông được lập làm Đạt-lại Lạt-ma thứ bảy vào năm 1721. Sụp đổ. Khi Galdan Tseren qua đời năm 1745, người Zunghar vẫn hùng mạnh. Hãn quốc tuy vậy đã đột ngột sụp đổ, nguyên nhân bắt nguồn từ các con trai của Galdan Tseren. Năm 1749, con trai của Galden Tseren là Lamdarjaa đã chiếm lấy ngôi vị từ người em trai. Tuy nhiên ông sau đó lại bị người anh em họ là Dawaachi và quý tộc bộ lạc Khoid là Amursanaa lật đổ. Hai người này về sau lại đánh lẫn nhau để tranh quyền kế vị. Năm 1753, ba người bà con của người cai trị bộ lạc Dorbod đã đầu hàng nhà Thanh, Amursanaa theo sau họ. Vào mùa xuân năm 1755, nhà Thanh tấn công Ghulja, và bắt giữ Hãn Zunghar. Amursana yêu cầu được tuyên bố mình là Hãn Zunghar, song Hoàng đế Càn Long chỉ cho ông làm Hãn của người Khoid, một trong bốn vị hãn của người Oirat. Vào mùa hè, Amursana cùng với Chingünjav lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại triều đình. Trong hai năm tiếp theo, quân Mãn và quân Mông Cổ của nhà Thanh đã phá hủy các tàn dư của Hãn quốc Zunghar. Vị lãnh đạo cuối cùng, Amursanaa đã nổi dậy chống lại nhà Thanh và chạy trốn về phía bắc để tìm nơi nương náu chỗ người Nga. Amursana sau đó chết vì bệnh đậu mùa. Vào mùa xuân năm 1762, thi thể đông cứng của ông được đưa tới Kyakhta để người Mãn xem. Người Nga sau đó chôn cất thi thể, từ chối yêu cầu của người Mãn muốn hành hạ thi thể. Để kỉ niệm chiến thắng, Càn Long cho lập Tổ hợp chùa Phổ Ninh tại Thừa Đức vào năm 1755. Hoàng đế Càn Long đã cho di chuyển những người Zunghar còn lại vào vùng nội địa và lệnh cho các tướng giết chết tất cả nam giới tại Barkol hay Túc Châu, còn phụ nữ và trẻ em được phân cho các binh lính nhà Thanh. Học giả thời nhà Thanh Ngụy Nguyên ước tính rằng tổng dân số Hãn quốc Zunghar trước khi sụp đổ là 600.000 người, hay 200.000 hộ. Theo một trích dẫn, Ngụy Nguyên viết rằng 40% số hộ Zunghar bị chết do bệnh đậu mùa, 20% chạy trốn đến Nga hay các bộ lạc người Kazakh, và 30% bị quân lính giết chết, sau này không còn một yurt (lều du mục) nào trong một khu vực rộng hàng nghìn lý ngoại trừ của những kẻ đầu hàng. Dựa trên số liệu này, Chu Văn Trường viết rằng 80% trong tổng số 600.000 hoặc hơn người Zunghar bị tiêu diệt do sự kết hợp của bệnh tật và chiến tranh , Michael Clarke mô tả điều này "sự tiêu diệt hoàn toàn không chỉ với nhà nước Zunghar mà còn với người Zunghar với vị thế là một dân tộc." Sử gia Peter Perdue quy việc sát hại người Zunghar là một chính sách hủy diệt rõ ràng do Càn Long đưa ra song ông cũng nhận thấy một chính sách khoan dung hơn sau giữa năm 1757. Mark Levene, một sử gia gần đây quan tâm nghiên cứu về vấn đề diệt chủng, phát biểu rằng việc tiêu diệt người Zunghar là "Người ta có thể cho đây là tội diệt chủng đặc biệt ở thế kỷ 18"." Người Mãn đã cho người dân từ những nơi khác trong đế quốc nhập cư đến vùng đất hoang vắng, nhưng một thế kỷ sau cuộc nổi loạn Hồi giáo lại tàn phá vùng đất này.
29
126
3,123
1314783
822668
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314783
Xa lộ Liên tiểu bang 74
Xa lộ Liên tiểu bang 74 (tiếng Anh: "Interstate 74" hay viết tắt là I-74) là một xa lộ liên tiểu bang tại Trung Tây và Đông Nam Hoa Kỳ. Điểm đầu phía tây nằm ở điểm giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 80 trong thành phố Davenport, Iowa; điểm đầu phía đông của đoạn Trung Tây nằm tại điểm giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 75 trong thành phố Cincinnati. Nó cũng tồn tại trong từng đoạn đứt khúc khác của các xa lộ khác trong tiểu bang North Carolina. Xa lộ Liên tiểu bang 74 là xa lộ liên tiểu bang duy nhất chạy trùng với một quốc lộ Hoa Kỳ mà cùng chia sẻ chung một mã số - đó là Quốc lộ Hoa Kỳ 74 tại tiểu bang North Carolina. Đây là một hiện tượng hiếm có vì các xa lộ liên tiểu bang và quốc lộ Hoa Kỳ được đặt số theo thứ tự đối nghịch ở hai đầu đất nước (đông tây hay nam bắc) và tránh không dùng chung mã số ở khi chạy trùng nhau. Mô tả xa lộ. Iowa. Trong tiểu bang Iowa, Xa lộ Liên tiểu bang 74 chạy theo hướng nam từ Xa lộ Liên tiểu bang 80 khoảng trước khi băng vào tiểu bang Illinois trên Cầu Xa lộ Liên tiểu bang 74. Ở phía bắc Sông Mississippi, I-74 chạy cắt hai các thành phố Bettendorf và Davenport. Illinois. Trong tiểu bang Illinois, Xa lộ Liên tiểu bang 74 chạy theo hướng nam từ Moline đến Galesburg; từ điểm này, nó chạy theo hướng đông nam qua Peoria đến vùng Bloomington-Normal và Xa lộ Liên tiểu bang 55. I-74 tiếp tục hướng đông nam đến vùng Champaign-Urbana, giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 57. Sau đó xa lộ này đi về hướng đông qua Danville tại ranh giới hai tiểu bang Illinois-Indiana. Quốc lộ Hoa Kỳ 150 chạy song song Xa lộ Liên tiểu bang 74 trong tiểu bang Illinois cho toàn tuyến đường của nó, cắt giảm bớt vài dặm cuối ở điểm phía đông (trong thành phố Danville khi Quốc lộ Hoa Kỳ 150 quay về phía nam trên Xa lộ Illinois 1) nơi nó chạy song song với Quốc lộ Hoa Kỳ 136. Indiana. Trong tiểu bang Indiana, Xa lộ Liên tiểu bang 74 chạy theo hướng đông từ ranh giới tiểu bang Illinois đến vùng Crawfordsville trước khi quay hướng đông nam. Sau đó nó chạy quanh trung tâm thành phố Indianapolis dọc theo Xa lộ Liên tiểu bang 465. Rồi nó vào tiểu bang Ohio tại Harrison, Ohio. Ohio. Trong tiểu bang Ohio, Xa lộ Liên tiểu bang 74 chạy theo hướng đông nam từ ranh giới tiểu bang Indiana đến điểm đầu phía đông hiện tại của đoạn đường nằm bên phía tây tại Xa lộ Liên tiểu bang 75, ngay phía bắc phố chính của thành phố Cincinnati. Nó cũng được cắm biển dấu với Quốc lộ Hoa Kỳ 52 cho toàn chiều dài. West Virginia. Tính đến tháng 10 năm 2009, Xa lộ Liên tiểu bang 74 vẫn chưa xây xong tại tiểu bang West Virginia. Nó sẽ được hoạch định nằm phần lớn dọc theo con đường hiện tại của Quốc lộ Hoa Kỳ 52. Virginia. Tính đến tháng 12 năm 2008, Xa lộ Liên tiểu bang 74 được đề xuất đi theo con đường của Xa lộ Liên tiểu bang 77 qua tiểu bang Virginia, nhưng vẫn chưa cắm biển từ ranh giới tiểu bang West Virginia đến ranh giới tiểu bang North Carolina. North Carolina. Trong tiểu bang North Carolina, tính đến cuối năm 2008 I-74 tồn tại trong vài đoạn. Nó gồm có phần phía cực tây nhất của Xa lộ Liên tiểu bang 74 chạy từ Xa lộ Liên tiểu bang 77 đến Quốc lộ Hoa Kỳ 52, ngay phía nam của Mount Airy, rồi đoạn nằm ở phía nam Xa lộ Liên tiểu bang 73 và Quốc lộ Hoa Kỳ 220 từ ngay phía bắc Asheboro đến phía nam Candor, và sau cùng là đoạn nằm ở phía đông hơn, chạy từ Laurinburg đến một điểm kết thúc tại Xa lộ Bắc Carolina 41 gần Lumberton. Một đoạn thứ tư, cùng được cắm biển là Quốc lộ Hoa Kỳ 311, được thông xe với vai trò là đường tránh High Point vào tháng 11 năm 2010; nó gồm có một nút giao thông khác mức với I-85 và kéo dài khoảng 3 ở phía đông xa lộ đó; nó được cắm biển là I-74/US 311. Đoạn gần xa lộ cao tốc Quốc lộ Hoa Kỳ 311 ở phía tây từ High Point đến I-40 ở phía đông Winston-Salem vẫn không có biển dấu vì có một vài điểm không đạt chuẩn mặc dù nó có biển hướng dẫn cho biết nó là một "hành lang xa lộ I-74 tương lai". South Carolina. Từ ranh giới tiểu bang North Carolina, I-74 sẽ theo Xa lộ Carolina Bay (hiện nay được cắm biển là Xa lộ Nam Carolina 31) quanh Myrtle Beach.
19
33
852
1314789
822668
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314789
Xa lộ Liên tiểu bang 76 (tây)
Xa lộ Liên tiểu bang 76 (tiếng Anh: "Interstate 76" hay viết tắt là I-76) là một xa lộ liên tiểu bang chạy từ Xa lộ Liên tiểu bang 70 tại Arvada, Colorado (gần thành phố Denver) đến một điểm giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 80 gần Big Springs, Nebraska. Mô tả xa lộ. Colorado. I-76 bắt đầu tại một nút giao thông khác mức với I-70 tại Arvada. Từ I-70, xa lộ cao tốc đi về hướng đông đến một lối ra tại Xa lộ Tiểu bang Colorado 95, có tên gọi là Đại lộ Sheridan. Xa lộ đi theo hướng đông bắc cắt ngang Quốc lộ Hoa Kỳ 287, được gọi là Đại lộ Liên bang đến một nút giao thông lập thể với I-25. Chạy gần như song song với Lạch Clear gần đó, I-76 gặp một nút giao thông lập thể khác với Xa lộ Liên tiểu bang 270 tại Welby, Colorado nơi Lạch Clear nhập vào Sông South Platte mà I-76 vượt qua. Sau một nút giao thông lập thể tại Xa lộ Tiểu bang Colorado 224, I-76 nhập vào với Quốc lộ Hoa Kỳ 85 và Quốc lộ Hoa Kỳ 6 tại Đại lộ Brighton. Qua Derby, Quốc lộ Hoa Kỳ 85 rời khỏi I-76 tại Dayton Way. Hai xa lộ kết hợp là Quốc lộ Hoa Kỳ 6 và I-76 đi về hướng đông bắc, băng qua Xa lộ Tiểu bang Colorado 2, được gọi là Đại lộ Sable trước khi gặp một lối ra tại E-470, một đường thu phí. Qua E-470, xa lộ ra khỏi Vùng đô thị Denver-Aurora. Khi qua phía tây Hồ Barr, xa lộ đi về hướng đông bắc ở phía đông Brighton. Gần Lochbuie, xa lộ băng qua SH 7 trước khi đi qua Quận Weld. I-76 gặp SH 52 tại Hudson, thành phố kế tiếp dọc theo xa lộ. Qua Hudson, hai xa lộ kết hợp là US 6 và I-76 quay lên hướng đông một ít để đi vào Keenesburg. Sau đó, I-76 quay sang hướng đông bắc và đông vào Roggen là nơi nó gặp Lộ Quận 73. Xa lộ đi ra khỏi vùng đất nông thôn mà trước đây nó từng đi qua và đi qua vùng đồng cỏ lớn. Ngay phía nam Empire Reservoir, xa lộ quay lại hướng đông, băng vào Quận Morgan, Colorado nằm bên trong những cánh đồng hình tròn. Đi về hướng đông, I-76 đi vào trong Wiggins mà gần đó I-76 nhập vào Quốc lộ Hoa Kỳ 34. Ba xa lộ kết hợp đi theo hướng đông qua các nông trại. Xa lộ chạy theo hướng đông vào Fort Morgan, gặp Xa lộ Tiểu bang Colorado 52, rồi lần nữa chạy gần Sông South Platte. I-76 hướng về ngay phía bắc Brush nơi nơi nó gặp một nút giao thông lập thể với Xa lộ Tiểu bang Colorado 71. Quốc lộ Hoa Kỳ 34 tách ra khỏi xa lộ vòng thương mại khi I-76 quay trở về hướng đông, cắt qua xa lộ vòng thương mại. I-76 BUS cùng chạy chung với Quốc lộ Hoa Kỳ 6 về phía Hillrose. Đi tránh thành phố đó, I-76 đi qua đông bắc vào Quận Washington, với nhiều nông trại ở phía bắc dọc theo con sông và các đồng cỏ ở phía nam. Đi qua Hồ nước Prewitt, xa lộ đi vào Quận Logan, Colorado. Hướng về hướng đông bắc, xa lộ cắt qua Xa lộ Tiểu bang Colorado 63 là xa lộ phục vụ Atwood. I-76 BUS sau đó đi vào Sterling. I-76 tiếp tục chạy song song với Sông South Platte với các nông trại nằm ở tây bắc và đồng bằng nằm ở đông nam. Phía tây bắc con sông là Quốc lộ Hoa Kỳ 138. Quốc lộ này phục vụ một số thị trấn mà xa lộ I-76 đi tránh. I-76 có một lối ra tại Xa lộ Tiểu bang Colorado 55 là xa lộ phục vụ thị trấn Crook. Với các nông trại nằm bên phía nam xa lộ, I-76 đi vào Quận Sedgwick, băng ngang qua Xa lộ Tiểu bang Colorado 59. Sau đó xa lộ theo hướng đông trước khi quay trở lại hướng đông bắc để đến Julesburg. I-76 đến một lối ra tại Quốc lộ Hoa Kỳ 385 và quốc lộ này hướng theo hướng tây bắc để đến Julesburg. I-76 sau đó theo hướng đông bắc đến ranh giới tiểu bang Nebraska. Nebraska. Tai Nebraska, I-76 đi một đoạn hơn 3 dặm (5 km). Nó được cắm biển dấu là hướng bắc–nam đối ngược với biển dấu hướng đông–tây như trong tiểu bang Colorado. Toàn tuyến trong tiểu bang Nebraska nằm trong Quận Deuel, song song với Sông South Platte và Quốc lộ Hoa Kỳ 138. Nút giao thông khác mức duy nhất của nó là ở Xa lộ Liên tiểu bang 80.
9
41
817
1314802
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314802
Siêu ban nhạc
Vào cuối thập niên 60 của thế kỷ 20, khái niệm siêu ban nhạc để miêu tả là "ban nhạc rock bao gồm những thành viên đã từng nổi tiếng trong vai trò solo hay ban nhạc". Trong một vài trường hợp, siêu ban nhạc còn dành để chỉ cho nhóm nhạc có các thành viên sau này trở nên nổi tiếng. Siêu ban nhạc thường tồn tại không lâu và họ chỉ ra mắt 1 thậm chí 2 album chủ yếu mang tính đại diện. Đôi lúc họ tham gia vào các dự án nhỏ hơn và có thể trở thành một dự án quan trọng của một vài thành viên. Ra đời. Khái niệm này ra đời vào năm 1968 với album "Super Session" với Al Kooper, Mike Bloomfield, và Stephen Stills. Sự kết hợp của bộ tứ Crosby, Stills, Nash & Young là một ví dụ khác, đem lại thành công cho những ban nhạc gốc của họ (The Byrds, Buffalo Springfield, và The Hollies). Năm 1966, người sáng lập tạp chí "Rolling Stone", Jane Wenner sáng lập ra ban nhạc Cream, được coi là siêu ban nhạc đầu tiên của lịch sử. Người viết nhạc cũng được kể tới trong khái niệm này, nhất là khi họ đã có được thành công vang dội trước đó, giống như trường hợp của Jimmy Page của Led Zeppelin khi họ mới thành lập. Ngược lại, khái niệm này cũng nhằm tới những nhóm nhạc mà các thành viên của họ đã từng có được những thành công lớn trước khi ban nhạc đã tan rã, như The Beatles, Pink Floyd, Queen, Genesis, Yes... Khái niệm này cũng để nói về một ban nhạc vốn đang tồn tại song tuyển thêm những nghệ sĩ thành danh khác tới, ví dụ như Van Halen với Sammy Hagar và Gary Cherone, The Eagles với Joe Walsh và Timothy B. Schmit, và Styx với Lawrence Gowan và Ricky Phillips. Đánh giá. Năm 1974, tờ "Time" viết bài báo có nhan đề "Return of a Supergroup" cho rằng siêu ban nhạc "tiềm năng song chỉ là một hiện tượng ngắn hạn" và là "một hỗn thể từ những tài năng đầy bất đồng từ các ban nhạc khác". Bài báo đề cập tới vài ban nhạc như Cream hay Blind Faith "chơi nhạc tại những sân khấu lớn và kiếm được siêu lợi nhuận, đôi khi cả những siêu âm nhạc" và những buổi trình diễn "thể hiện đồng thời tính cá nhân". Tuy nhiên, họ cũng nói "thứ âm nhạc đó tạo nên sự phấn khích hiển nhiên, song cũng vì thế sự tan vỡ là không thể tránh khỏi". Bài viết "Super or blooper?" năm 2008 của Chris DeVille, cùng với đó là phụ chú "Supergroups: So much promise, so often squandered", viết rằng "khi các rocker cùng tập hợp trong một ban nhạc mới, họ sẽ có được nhiều sự chú ý, song những cái tôi hiếm khi chịu nhún nhường như khi với những gì đã từng giúp họ trở nên nổi tiếng trước kia". DeVille lấy ví dụ những siêu ban nhạc như Crosby, Stills, Nash & Young, Emerson, Lake & Palmer, Fantômas, Velvet Revolver. Tác giả cũng nói rằng nhiều dự án đôi khi là "sự lầm lỡ", có thể kể tới Blind Faith, The Highwaymen, Traveling Wilburys, Audioslave, Zwan, Eyes Adrift, và The Good, the Bad & the Queen. Mở rộng. Khái niệm này được mở rộng trong nhiều trường hợp khác, bao gồm các siêu ban nhạc không hát rock, hoặc không cho ra album, hoặc chỉ tồn tại trong các buổi diễn trực tiếp hoặc chương trình từ thiện.
10
20
615
1314805
843044
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314805
Thân (nước)
Thân () là một nước chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Nước Thân do họ Khương (薑/姜) cai quản, được ban tước vị bá tước. Vào đầu thời Xuân Thu, nước Thân bị nước Sở sáp nhập và trở thành một huyện của Sở. Lãnh thổ. Nước Thân nằm tại phía nam của nước Trần và Trịnh. Đô thành nước Thân nằm tại Uyển huyện, phía bắc giáp với Minh Ách quan (冥厄關/冥厄关) và ở phía nam giáp với Hoài Hà. Lịch sử. Lịch sử nước Thân bắt đầu với việc thiên tử nhà Chu phong tước Thân bá (về sau thành hầu) cho thân gia mẫu hệ của mình. Thời Chu Tuyên Vương (trị vì 827 – 782 TCN), Thân bá được ban cho tước hiệu và đất đai của người "cữu" của Tuyên Vương tại nước Tạ trước đây (謝國/谢国). Lãnh thổ được cấp của nước Thân là cửa ngõ chiến lược ở phương nam của vùng đất mà vương triều Chu khống chế được. Tuyên Vương phái Triệu Bá Hổ (召伯虎) đến Thân để dàn xếp với Thân bá và ông có được một phần đất đai để hình thành nên hệ thống công điền (公田). Tuyên vương cũng cử cận thần Phó Ngự (傅御) đến để di dời cư dân nhằm nhanh chóng củng cố địa vị thống trị của ông tại khu vực. Chu U Vương lên ngôi năm 781 TCN, Hoàng hậu và người vợ cả của U Vương là con gái của Thân hầu. Tì thiếp của U vương là Bao Tự muốn phế Thái tử Nghi Cữu (宜臼) và đưa con trai của mình là Bá Phục (伯服) lên ngôi thái tử, gây nên cơn phẫn nộ của Thân hầu. Do vậy, năm 771 TCN, Thân hầu liên minh với nước Tăng (繒/缯) và tộc Khuyển Nhung (犬戎) tấn công kinh đô nhà Chu ở Hạo Kinh (鎬京/镐京). U Vương dùng phong hỏa triệu tập chư hầu, song không ai hưởng ứng, cuối cùng U Vương bị giết lại chân Ly Sơn, gần Tây An ngày nay. Thân hầu, Lỗ hầu và Hứa Văn công đã đưa Thái tử Nghi Cữu lên ngôi, trở thành Chu Bình Vương thời Xuân Thu bắt đầu từ đây. Năm 761 TCN, một người con gái khác của Thân hầu gọi là Võ Khương (武姜) đã kết hôn với Trịnh Vũ công (鄭武公/郑武公). Sau đó, bà đã sinh hạ được hai người con trai, người cả là Ngụ Sinh (寤生) đã kế vị cha và trở thành Trịnh Trang công. Vào những năm đầu thời Xuân Thu, nước Sở bắt đầu khuếch trương. Năm 688 TCN Sở Văn Vương phái quân đến thảo phạt nước Thân. Theo Tả truyện, đội quân đi qua nước Đặng, Đặng Kỳ hầu thuyết: "Sở Văn Vương là con của chị gái ta." Kết quả, Kỳ hầu cho phép quân Sở dừng chân tại Đặng và thiết yến khoản đãi. Các quan Chuy Sanh (騅甥/骓甥), Đam Sanh (聃甥) và Dưỡng Sanh (養甥/养甥) thỉnh cầu Đặng Kỳ hầu giết chết Sở Vương, Đặng hầu không nghe theo, ba người thuyết: "Người này liên hệ đến sự sống còn của Đặng quốc. Nay ông ta diệt nước Thân, khi quay về ông ta sẽ diệt Đặng. Dường như ông ta đang cắn vào rốn của ta và đã quá muộn để mưu ứng đối phó. Nay là lúc để ra tay" Sau khi Sở Vương thảo phạt nước Thân, Sở đã bị cản trở bởi một cuộc chiến tranh giữa Đặng và Ba, không rõ điều gì đã xảy đến với nước Thân. "Tả truyện • Ai công thập thất niên" mô tả việc Sở Văn Vương cho thành lập các huyện Thân và Tức (息), nước Tức bị diệt vong vào khoảng năm 680 TCN. Do vậy, việc nước Thân diệt vong có thể diễn ra vào cùng một khoảng thời gian – một mốc nào đó giữa 688 và 680 TCN. Sau khi bị sáp nhập vào Sở, Thân trở thành một huyện trọng yếu ở phương bắc của Sở. Trong trận Thành Bộc, lệnh doãn nước Sở là Thành Đắc Thần (成得臣) không nắm toàn bộ quân chủ lực xuất trinh của Sở song được trao một đội quân nhỏ hơn với binh lực chủ yếu đến từ lưỡng huyện Thân và Tức. Kết quả, Thành Đắc Thần thua trận và khi trở về Sở Thãnh Vương có nói "Nếu ngươi hồi quốc, các phụ lão lương huyện Thân Tức sẽ làm gì?" Năm 594 TCN, Sở Trang Vương đồng ý ban lãnh thổ hai huyện Thân và Lỗ cho Tử Trọng (子重). Nhưng đương thời trưởng quan Thân huyện của Sở là Vu Thần (巫臣) khuyên gián: Năm Lỗ Thành công thứ 6 (585 TCN), nước Tấn thảo phạt nước Sái. Sở bèn cử quân từ Thân và Tức đến cứu Sái. Tướng lĩnh nước Tân biết rằng mếu như họ thắng trận này thì chỉ có nghĩa rằng họ đánh bại hai huyện Thân và Tức chứ không phải toàn bộ nước Sở – nếu thua thì đây sẽ là một nỗi sỉ nhục lớn, do vậy đã quyết định rút lui. Viện sĩ Cố Kiết Cương (顾颉刚) đã chỉ ra rằng hai huyện Tức và Thân đủ binh lực và đủ mạnh để đối phó với quân Tấn, điều này cho thấy rõ ràng rằng hai huyện này đều giàu có và đông dân. Sau đó, vào năm 529 TCN, Sở Linh Vương mất và Sở Bình Vương lên kế vị. Trong những năm Linh Vương cai trị, sau khi diệt nước Sái, ông đã sáp nhập các nước Từ (徐国), Hồ (胡国), Thẩm (沈国), Đạo, Phòng (房国) và Thân, đưa chúng vào lãnh thổ của nước mình. Sau khi Bình Vương kế vị, ông đã cho phục hai nước Trần và Sái. Chữ khắc trên đồ đồng. Vào thập niên 1980, các khai quật khảo cổ học xung quanh kinh đô của Thân trước đây ở Nam Dương đã phát hiện một số đồ tạo tác bằng đồng quốc gia của Thân. Chúng bao gồm một bình dùng để cúng tế bằng đồng được khắc các văn tự mà học giả Lý Học Cần (李学勤) giải mã thành "Nam Thân bá" (南申伯). Lý Học Cần suy luận thêm rằng quý tộc được đề cập tới là một trong những người được nói đến trong phần Đại Nhã (大雅) của Kinh Thi ở bài thơ mang tên "Tung Cao" (崧高).
17
44
1,087
1314809
658556
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314809
Thân hầu (thời Chu U vương)
Thân hầu (? – 771 TCN) () là quân chủ nước Thân vào thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Thân là chư hầu của thiên tử nhà Chu, nằm ở khu vực nay là Nam Dương tại tỉnh Hà Nam. Thân hầu được biết đến là ông ngoại của Chu Bình vương, vua nước Chu và Trịnh Trang công, vua nước Trịnh. Thân hầu có một con gái là chính cung Vương hậu của Chu U vương, sinh Thái tử Nghi Cữu (宜臼). Về sau, sủng phi của U vương là Bao Tự sinh Công tử Bá Phục (伯服), U Vương quyết định phế truất mẹ con Thân hậu, lập Bao Tự làm Kế hậu, phong Bá Phục làm Thái tử, điều này khiến Thân hầu vô cùng phẫn nộ Năm 771 TCN, Thân hầu liên thủ với nước Tăng (繒/缯) và tộc Khuyển Nhung (犬戎) tấn công kinh đô nhà Chu ở Hạo Kinh (鎬京/镐京). U Vương dùng phong hỏa triệu tập chư hầu, song không ai hưởng ứng vì trước đó U Vương nhiều lần triệu tập suông để làm trò cười cho Bao Tự. Cuối cùng U Vương bị giết lại chân Ly Sơn (gần Tây An ngày nay.) Thân hầu, Lỗ hầu và Hứa Văn công tại nước Thân đã đưa Thái tử Nghi Cữu lên ngôi, trở thành Chu Bình vương. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc thời Tây Chu và bắt đầu thời Đông Chu. Năm 761 TCN, con gái khác của Thân hầu là Vũ Khương (武姜), kết hôn với Trịnh Vũ công (郑武公), sinh 2 người con trai. Con trai cả là Ngụ Sinh (寤生), sau kế vị cha trở thành Trịnh Trang công. Thân hầu mất năm 771 TCN.
4
13
292
1314814
781648
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314814
Clodius Albinus
Clodius Albinus (tiếng Latin: "Decimus Clodius Septimius Albinus Augustus"; khoảng 150 - 19, 197) là một người cướp ngôi La Mã được tuyên bố là hoàng đế bởi quân đoàn lê dương ở Anh và Hispania (bán đảo Iberia, bao gồm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay) khi xảy ra vụ vụ giết Pertinax vào năm 193. Albinus sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Hadrumetum ở châu Phi. Theo cha của ông thì ông đã nhận được tên của Albinus vì độ trắng bất thường của cơ thể của cậu bé. Thể hiện thiên hướng lớn đối với cuộc sống quân ngũ, ông nhập ngũ ở độ tuổi trẻ và phục vụ với sự ưu tú lớn, đặc biệt là trong các cuộc nổi loạn của Avidius Cassius chống lại hoàng đế Marcus Aurelius năm 175. Công lao của ông được công nhận bởi các hoàng đế trong hai chữ cái mà ông gọi là Albinus một người châu Phi, giống như đồng hương của mình nhưng ít, và đáng ca ngợi cho kinh nghiệm quân sự và vẻ nghiêm nghị trong tính cách của ông. Hoàng đế tuyên bố rằng không có Albinus các quân đoàn (ở Bithynia) sẽ đi qua Avidius Cassius, và rằng ông dự định để anh ta làm quan chấp chính tối cao.
2
6
224
1314990
539651
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1314990
Nepenthes ventricosa
Nepenthes ventricosa là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài bản địa Philippines, nơi nó mọc ở độ cao 1000-2000 mét trên mực nước biển. Nó đã được ghi nhận từ các đảo Luzon, Panay, và Sibuyan. Các bình đựng rất nhiều, cao đến 20 cm và có nhiều màu khác nhau, màu sắc từ trắng ngà sang đỏ. "Nepenthes ventricosa" có quan hệ rất chặt chẽ với cả "liên quan đến cả "burkei" và "N. sibuyanensis", nhưng có thể được phân biệt bởi giữa eo bình, miệng nhỏ hơn, và, nói chung, peristome mỏng hơn.
2
5
100
1315289
345883
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315289
Chrysoperla lucasina
Chrysoperla lucasina là một loài côn trùng cánh gân thuộc phân họ Chrysopinae trong họ Chrysopidae. Loài này chủ yếu là ở Vương quốc Anh, Cộng hòa Séc, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ, Tây Á và Bắc Phi. Con trưởng thành thường được tìm thấy từ cuối mùa xuân cho tới giữa mùa thu. Chúng là loài ăn tạp, ăn phấn hoa và mật hoa của thực vật có hoa thân thảo khác nhau (chủ yếu là các họ Brassicaceae, Graminaceae, Apiaceae và Asteraceae), cũng như dịch ngọt, loại thức ăn ưa thích trong mùa thu. Sau thời kỳ kiếm ăn, chúng bay tới gần các bầy rệp muội, nơi chúng giao phối và đẻ trứng. Trong thực tế, các ấu trùng là loài săn mồi đáng sợ đối với rệp muội hoặc động vật chân đốt nhỏ. Do đó, loài côn trùng này được sử dụng làm tác nhân kiểm soát dịch bệnh sinh học. Các cá thể trưởng thành của loài côn trùng này ngủ đông vào mùa đông.
4
8
179
1315326
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315326
Chrysoperla
Chrysoperla là một chi côn trùng cánh gân màu xanh lá cây trong họ côn trùng Chrysopidae thuộc bộ Neuroptera. Cụ thể, trong đó chi này thuộc về Chrysopini, tông lớn nhất của phân họ Chrysopinae. Các thành viên của chi này và chi "Chrysopa" rất phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu. Chúng chia sẻ các đặc tính tương tự và một số loài đã được di chuyển từ chi này sang chi kia và ngược lại rất nhiều lần. Ấu trùng của chúng là động vật ăn thịt và ăn rệp và các thành viên của chi này đã được sử dụng làm tác nhân phòng trừ dịch bệnh gây hại.
2
5
114
1315433
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315433
Chrysopidae
Chrysopidae là một họ trong bộ Cánh gân. Họ này có 85 chi với số loài khác nhau giữa các nguồn, từ 1.300-2.000 loài trong họ phân bố rộng khắp này. Các loài thuộc các chi "Chrysopa" và "Chrysoperla" rất phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu, chúng rất giống nhau và rất nhiều các loài đã được di chuyển từ chi này sang chi kia nhiều lần, và trong các tài liệu phi khoa học thì việc gán một loài nào đó vào chi "Chrysopa" hay chi "Chrysoperla" hiếm khi có thể tin cậy được. Do chúng là những loài bọ cánh gân quen thuộc nhất đối với nhiều người ở phương Tây, nên chúng thường chỉ đơn giản gọi là "lacewing" ("cánh ren" hay "cánh viền") trong tiếng Anh. Trong tiếng Việt, họ này còn được gọi là chuồn chuồn cỏ (từ tiếng Trung 草蛉 "thảo linh") hay bọ mắt vàng (từ tiếng Nga "златоглазки"). Mô tả và sinh thái. Những loài Chuồn chuồn cỏ ở châu Âu có thể sải cánh dài từ 6 đến 35 mm, các loài ở vùng nhiệt đới có thể kéo dài cánh hơn 65 mm. Cánh rộng xòe như màn ren với những đường gân và tĩnh mạnh xuyên trên lá cánh của chúng. Thân hình mỏng manh thường màu xanh lá cây hay xanh lá cây-nâu và mắt hợp chất có màu vàng ở nhiều loài. Trứng được đẻ vào ban đêm, từng chiếc đơn lẻ hoặc từng chùm nhỏ, một con cái có thể sinh sản khoảng 100-200 trứng, có loài đến 700 trứng . Trứng được đặt trên các nhánh cây, thường là gần những nơi có nhiều rệp. Trứng từng được treo trên một ống tơ trong suốt và mảnh dài khoảng 1 cm, thường là ở mặt dưới của lá. Ngay lập tức sau khi nở, ấu trùng thay lông, sau đó lên ống tơ của trứng để sống. Các ấu trùng của Chrysopidae là giống như con sâu bướm và có một hình dạng cơ thể đặc biệt. Cơ thể là một hình tam giác, mặt trước rộng hơn so với phía sau và nhô cao lên. Các ấu trùng trẻ trông có vẻ khác nhiều so với con lớn, cơ thể là không màu và có phần trong suốt., cơ thể cũng được trang bị với các chân khớp nối (càng) và tương đối lớn, và rậm lông cứng . Chúng là những kẻ săn mồi phàm ăn, tấn công hầu hết các côn trùng có kích thước phù hợp, đặc biệt là thân mềm (rệp, sâu bướm và ấu trùng côn trùng khác, trứng côn trùng, và với nếu thiếu ăn khi mật độ cao, chúng có thể tấn công cả đồng loại). Do đó, ấu trùng còn được gọi thông tục là ""sư tử rệp" ("aphidlions") hoặc "chó sói rệp" ("aphid wolves""), tương tự như các Kiến sư tử tương tự. Giác quan của chúng phát triển một cách rất yếu, ngoại trừ việc chúng rất nhạy cảm khi đụng chạm. Di chuyển xung quanh và lắc lư đầu từ hướng này sang hướng khác, và khi chúng tấn công một con mồi tiềm năng, ấu trùng nắm ngay lấy nó. Hàm trên của chúng trống rỗng, cho phép một chất bài tiết tiêu hóa được tiêm vào con mồi, làm tiêu hủy các cơ quan của rệp bằng cách này trong khoảng 90 giây. Tùy thuộc vào điều kiện môi trường, ấu trùng cần khoảng 1-3 tuần để hóa nhộng nằm trong một cái kén; loài từ các vùng ôn đới thường qua mùa đông như một con nhộng con, trong khi loài Chrysoperla carnea qua mùa đông như một con mới trưởng thành. Sử dụng trong phòng chống dịch hại sinh học. Trong khi phụ thuộc vào loài và điều kiện môi trường, một số loài Chrysopidae sẽ chỉ ăn khoảng 150 con mồi trong toàn bộ cuộc đời của chúng, trong các trường hợp khác thì tới 100 con rệp sẽ bị ăn trong một tuần. Vì thế, ở một số quốc gia, hàng triệu con Chrysopidae phàm ăn này được nuôi để bán như là tác nhân kiểm soát sinh học chống lại côn trùng phá hoại và sâu bệnh trong lĩnh vực nông nghiệp và làm vườn. Thường được phân phối ở dạng trứng, vì như đã nói ở trên là chúng rất hung hăng và sẽ ăn thịt cả đồng loại trong những khu vực chật hẹp và mật độ cao nhiều con chen chúc. Hiệu suất của chúng không ổn định, do đó, có rất nhiều quan tâm trong nghiên cứu thêm để cải thiện việc sử dụng Chrysopidae trong vai trò của tác nhân kiểm soát dịch hại sinh học. Một vài loài của chi "Chrysoperla" cũng như loài "Mallada signatus" cho đến nay vẫn thu hút được nhiều sự quan tâm hơn cả . Các nhà làm vườn có thể thu hút Chrysopidae và do đó đảm bảo nguồn cung cấp ấu trùng ổn định bằng cách sử dụng một số loại cây trồng xen canh và cỏ hữu ích nhất định. Chrysopidae thường bị thu hút chủ yếu bởi các loài hoa trong họ Cúc (Asteraceae) - ví dụ: cúc kim kê ("Coreopsis"), cúc vạn thọ ("Cosmos"), hướng dương ("Helianthus") và bồ công anh ("Taraxacum") - và Họ Hoa tán như thì là ("Anethum") hoặc bạch chỉ ("Angelica"). Các chi chọn lọc. Các chi còn sinh tồn của họ Chrysopidae được phân chia trong 3 phân họ; một vài chi chưa được phân định dứt khoát vào trong các nhóm này: Phân họ Apochrysinae Phân họ Chrysopinae Phân họ Nothochrysinae Incertae sedis Thông tin thêm. Tháng 6 năm 2012, tại một căn nhà ở Tuy Hòa (Phú Yên), gia chủ đã phát hiện trên lá cây sả trước nhà có một "khóm hoa" màu trắng li ti hình chuông, nhiều cánh, thân mảnh như tơ. Lúc đầu, các vị sư đến nhà chiêm bái và khẳng định đó là hoa Ưu Đàm, tương truyền là 3000 năm mới nở một lần, theo kinh điển Phật giáo. Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng có thể đây chỉ là một loại nấm hay là trứng của loài "lacewings" (Chrysopidae).
15
35
1,048
1315445
857377
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315445
Hoàng Châu (ca sĩ)
Hoàng Châu (sinh năm 26 tháng 9 năm 1975) là một nữ ca sĩ Việt Nam thuộc dòng nhạc trẻ, trữ tình Bolero, dân ca âm hưởng quê hương Việt Nam. Khởi đầu thành công với thể loại nhạc dân ca quê hương, cô từng được mệnh danh là "diva" hay "nữ hoàng nhạc sến miền Tây". Thân thế và sự nghiệp. Cô tên thật là Nguyễn Thị Yến Khoa, sinh ngày 26 tháng 9 năm 1975 tại tỉnh Bến Tre. Cha mẹ cô từng là những nghệ sĩ của Đoàn ca múa thời Chiến tranh Việt Nam, thỉnh thoảng vẫn tham gia biểu diễn trong các chương trình của Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh. Từng học ở Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, cô khởi đầu thành công với thể loại nhạc dân ca với nghệ danh Yến Khoa và xuất hiện trong các tập videos ca nhạc của Kim Lợi Studio, từ Mưa Bụi 4 (Tình đã bay xa 1) đến Mưa Bụi 9 (Tình đã bay xa 6), Tình Xuân 3 và 4. Cô được Trung tâm Làng Văn ký hợp đồng làm ca sĩ độc quyền và sang Mỹ để biểu diễn trong giới Việt kiều hải ngoại. Cuối năm 1998, cô quyết định trở về Việt Nam với lý do không thích ứng được môi trường khí hậu nên đã ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe. Do hợp đồng độc quyền thì đến năm 2002 mới hết hiệu lực, nên cô thường thực hiện chương trình bằng cách thu âm và quay hình tại Việt Nam rồi gửi qua Mỹ sản xuất và phát hành. Cũng theo các điều khoản của hợp đồng, cô không được biểu diễn trên sân khấu tại Việt Nam, vì vậy dù được biết đến nhiều trong các chương trình âm nhạc hải ngoại nhưng cô lại không tham gia các chương trình biểu diễn tại quốc nội. Năm 2000, bộ phim Đài Loan Hoàn Châu cách cách được trình chiếu tại Việt Nam và rất được khán giả yêu thích. Nhân sự kiện này Trung tâm Băng nhạc Đồng Giao phát hành một CD gồm các ca khúc trong phim được chuyển sang lời Việt. Cô được mời thể hiện một số ca khúc trong CD này. Do thời hiệu của hợp đồng độc quyền Trung tâm Làng Văn vẫn còn hiệu lực, nên cô lấy nghệ danh mới là Hoàng Châu. Với nghệ danh mới này, cô thực hiện bước trở về với dòng nhạc trẻ, vốn đã được đào tạo chính quy, và xuất hiện trở lại trên sân khấu biểu diễn Việt Nam từ cuối năm 2001. Tháng 8 năm 2002, cô chính thức ra mắt khán giả quốc nội bằng CD vol 1 mang tên "1.000 năm khó phai". Với thể loại nhạc trẻ và nghệ danh Hoàng Châu, cô được đông đảo khán giả biết đến với nhiều ca khúc như "Mãi yêu", "Tình anh trao", "Phút biệt ly", "Chờ phone của anh" (song ca cùng Lý Hải). Sau khi hết hợp đồng với Trung tâm Đồng Giao, cô ký hợp đồng ca sĩ độc quyền với Công ty Thiên Thi. Năm 2006, cô cho ra mắt album vol 4 với các ca khúc như: "Trái tim tôi sẽ gạt tên anh", "Làm người ai làm thế", "Trái tim hoàng tử", "Đường ai nấy đi" (với Lưu Chí Vỹ)... đặc biệt là ca khúc "Người đàn ông tham lam" trở thành hit thời điểm đấy, giúp tên tuổi cô vụt sáng. Năm 2008, cô một lần nữa gây được tiếng vang với ca khúc "Con lật đật" và tham gia liveshow "Thập đại mỹ nhân" của ca sĩ Đan Trường. Cuối năm này, cô chấm dứt hợp đồng với Công ty Thiên Thi và trở thành ca sĩ tự do, tự phát hành các album riêng của mình. Năm 2011, sau hơn 17 năm ca hát, cô trở lại với dòng nhạc dân ca, trữ tình, vốn đã làm nên sự thành công ban đầu của cô. Năm 2013 cô thực hiện Liveshow Hoàng Châu "Sao và Sao" đánh dấu chặn đường ca hát của mình! Tiếp theo cô thực hiện tiếp liveshow Cặp Đôi Hoàn Chỉnh cùng với nghệ sĩ Chí Tài Hoàng Châu được đánh giá là ít xuất hiện trong giới truyền thông báo chí. Mặc dù vậy, Hoàng Châu được trang tin điện tử "Zing News" đánh giá là "ngôi sao nữ ngang dọc các tỉnh miền Tây". Hoàng Châu là giọng hát nữ trữ tình Bolero được giới chuyên môn và công chúng đánh giá cao hàng đầu trong nước tại Việt Nam Cô đã lập gia đình cùng Đạo diễn Đồng Giao và có một cậu con trai.
13
26
800
1315456
808347
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315456
Tấn Minh Đế
Tấn Minh Đế (晋明帝/晉明帝, bính âm: Jìn Míngdì,) (299 – 18 tháng 10, 325), tên thật là Tư Mã Thiệu (司馬紹), tên tự Đạo Kỳ (道畿), là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Đông Tấn, cũng như là Hoàng đế thứ 7 của triều đại Nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gia trị vì ngắn ngủi của mình (323-325), ông đã lãnh đạo một triều Tấn suy yếu thoát ra khỏi sự chi phối của Vương Đôn (王敦), song sau khi ông băng hà, đế quốc được giao lại cho người con trai còn trẻ của ông là Thành Đế, tình trạng cân bằng quyền lực mà ông đã gây dựng nên đã nhanh chóng bị phá vỡ, dẫn đến Loạn Tô Tuấn (蘇峻) và khiến cho Đông Tấn suy yếu hơn nữa. Đầu đời. Tư Mã Thiệu sinh năm 299, là con trai cả của Tư Mã Duệ và người tì thiếp có địa vị thấp kém là Tuân phu nhân, năm 300 bà sinh được một người con trai khác là Tư Mã Bầu (司馬裒). Vợ của Tư Mã Duệ, Ngu Mạnh Mẫu (虞孟母) không có con cái, đã rất ghen tị với Tuân phu nhân và hành hạ bà rất nhiều. Tuân phu nhận không thể chịu đựng nổi, đã kêu nài và bị đẩy ra khỏi gia đình. Tư Mã Thiệu do vậy lớn lên bên cạnh Ngu Mạnh Mẫu, và dường như ông đã có một mối quan hệ thân thiết với bà. Khi còn thơ ấu, ông được coi là người thông minh và nhanh trí, mặc dù vậy, cuối cùng em trai ông là Tư Mã Bầu đã ngày càng được cha sủng ái. Một số nguồn cho rằng mẹ của Tấn Minh Đế, Tuân phu nhân là người Tiên Ti. Trong khi Tư Mã Duệ trở thành Tả thừa tướng dưới quyền Tấn Mẫn Đế, một Tư Mã Thiệu còn ở độ tuổi thiếu niên đã được giao phụ trách bảo vệ Quảng Lăng. Tư Mã Duệ xưng Tấn vương sau khi Mẫn Đế bị quân Hán Triệu bắt giữa vào năm 316, ông ban đầu muốn đưa Tư Mã Bầu làm thái tử, nhưng sau khi Vương Đạo (王導) chỉ ra rằng theo truyền thống thì con trai cả nên là người kế vị, Tư Mã Thiệu đã được lập làm thái tử. Tư Mã Thiệu vẫn có địa vị này sau khi cha của ông xưng đế (Nguyên Đế) vào năm 318, sau khi Hán Triệu sát hại Mẫn Đế. Vai trò thái tử. Trong thân phận thái tử, Tư Mã Thiệu đã cho tìm kiếm những người có tài và đối xử tốt với họ, coi họ như bạn bè thay vì là thuộc cấp. Trong số này có Vương Đạo, Dữu Lượng (庾亮, có em gái Dữu Văn Quân kết hôn với Tư Mã Thiệu), Ôn Kiệu (溫嶠), Hoàn Di (桓彝), và Nguyễn Phóng (阮放). Ông cũng được người đời biết đến với tấm lòng hiếu thảo và các học văn chương. Ông sau đó cũng học thêm võ thuật và thường đến thăm binh lính để khuyến khích họ. Khi Vương Đôn nổi loạn chống lại Nguyên Đế vào năm 322, kinh thành Kiến Khang đã dễ dàng lọt vào tay họ Vương. Sau khi hay tin Vương Đôn đã chọc thủng tuyến phòng thủ của Kiến Khang, Thiệu Thái tử đã tự mình đến để làm người kháng cự cuối cùng, song Ôn Kiệu đã ngăn ông lại bằng cách cắt đứt những sợi dây thừng khỏi chiến mã của ông. Khi Vương Đôn buộc Nguyên Đế phải khuất phục, y đã nghĩ đến việc phế Thiệu Thái tử bằng cáo buộc sai trái rằng Thái tử không nghe theo lời Nguyên Đế. Tuy nhiên, Ôn Kiệu đã ngăn chặn điều này bằng cách công khai ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Thái tử, khiến cho lời cáo buộc giả dối của Vương Đôn không còn đáng tin cậy. Đầu năm 323, Nguyên Đế mất trong đau buồn sau khi bị Vương Đôn đánh bại. Thiệu Thái tử kế vị và trở thành Minh Đế. Trị vì. Một trong những điều đầu tiên mà Minh Đế thực hiện là tìm mẹ đẻ và đưa bà vào cung. Tuy nhiên, ngoài lòng kính trọng cho người mẹ kế đã chết (mất năm 312 song vẫn có thụy hiệu Hoàng hậu), thì ông không bao giờ ban cho bà thụy hiệu của một hoàng thái hậu và Minh Đế thể hiện sự kính trọng đối với gia tộc của người mẹ kế như đối với gia tộc của một người mẹ, ông đặc biệt gần gũi với anh em trai của Ngu Mạnh Mẫu là Ngu Dận (虞胤). Một vài tháng sau khi lên ngôi, Tuân phu nhân được đưa vào cung. Minh Đế cũng lập vợ mình làm hoàng hậu. Vương Đôn không suy nghĩ nhiều về vị hoàng đế mới và âm mưu đoạt ngôi. Vào mùa hè năm 323, Minh Đế triệu Vương Đôn đến kinh thành, song thực tế là Vương đã không đến đó mà di chuyển từ bản doanh Vũ Xương (武昌, tại Ngạc Châu, Hồ Bắc) đến Cô Thục (姑孰, nay thuộc Mã An Sơn, An Huy), gần kinh thành hơn. Khi Minh Đế bổ nhiệm Si Giám (郗鑒) làm chỉ huy quân sự tại Hợp Phì, vị trí ở phía sau Vương, Vương chống lại, và Minh Đế buộc phải triệu hồi Si Giám. Năm 324, Vương Đôn bị bệnh, và trở nên quyết tâm trong việc lật đổ nhà Tấn và khi đó con trai nuôi của ông ta là Vương Ứng (王應) có thể trở thành hoàng đế. Ông cũng coi Ôn Kiệu là một trợ thủ tin tưởng, song Ôn lại trung thành với Minh Đế và đã về Kiến Khang báo cho Minh Đế kế hoạch của Vương, cũng như việc Vương bị ốm. Vương Đạo, cũng là người trung thành với Minh Đế, sau đó nói dối với quân triều đình rằng Vương Đôn đã chết để tăng thêm tình thần cho họ, Minh Đế đã củng cố quân đội bằng cách cho binh sĩ chiến đấu thử nghiệm ở biên giới phía bắc với Hậu Triệu rồi trở về kinh thành. Vương Đôn sau đó cử quân đông tiến về Kiến Khang, cầm quân là Vương Hàm (王含, cha ruột của Vương Ứng) và Tiền Phượng (錢鳳), song không thể đánh bại một cách dứt khoát quân triều đình. Quân triều đình sau đó tấn công và đánh bại Vương Hàm. Vương Đôn sau khi nghe tin thất bại ban đầu này đã chết. Quân triều đình sau đó đánh bại hoàn toàn quân của Vương Hàm, buộc Vương Hàm và Vương Ứng phải chạy trốn, song họ đã bị người anh em của Vương Đôn là Vương Thư (王舒) bắt giữ, Vương Thư đã cho dìm chết hai người này để tỏ lòng trung thành của mình. Năm 325, Minh Đế ban thụy hiệu cho các quan đã chết trong tay của Vương Đôn trong suốt các năm ông ta chi phối triều đình với tước hiệu và danh hiệu. Ông cũng phong cho Đào Khản, được biết đến với tài quân sự và quản trị, phụ trách hầu hết các lãnh địa cũ của Vương Đôn, bao gồm cả Kinh Châu (荊州, Hồ Bắc ngày nay). Vào mùa thu năm 325, Minh Đế phát bệnh. Ông giao phó cho con trai bốn tuổi của mình, Diễn Thái tử, cho một nhóm đại thần, bao gồm Tư Mã Dạng (司馬羕, Vương Đạo, Biện Khổn (卞壼), Si Giám, Dữu Lượng, Lục Diệp (陸瞱), và Ôn Kiệu, có lẽ với ý định rằng việc này sẽ giúp cân bằng quyền lực. Ông qua đời khi chỉ mới 26 tuổi. Thế cân bằng quyền lực mà ông để lại nhanh chóng bị phá vỡ, tuy nhiên, Dữu Hoàng thái hậu đã trở thành người nhiếp chính, và anh trai của bà là Dữu Lượng trở thành vị đại thần có quyền lực tối thượng, cuối cùng Tô Tuấn và Tổ Ước (祖约) đã tiến hành nổi loạn gây tổn hại cho Đông Tấn trong nhiều năm.
14
44
1,375
1315518
679363
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315518
Balkh
Balkh (; Pashto và , "Balkh"; , "Báktra"; , "Bakhlo") là thị trấn ở tỉnh Balkh của Afghanistan, cách tỉnh lỵ Mazar-e Sharif 20 km về phía tây bắc, cách sông Amu Darya và biên giới Uzbekistan 74 km về phía nam. Đây là trung tâm Phật giáo, Hồi giáo, và Hỏa giáo thời cổ đại và là một trong các thành phố lớn của Khorasan.
1
2
66
1315652
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315652
Karukh (huyện)
Karukh là một huyện thuộc tỉnh Herat, Afghanistan. Dân số thời điểm năm 2006 là 39,900 người. . Dân cư chủ yếu là người . Huyện này nổi tiếng với dâu tằm ngọt, nho, mơ và lựu. Hàng năm, hàng trăm du khách dành những ngày cuối tuần dọc theo sông Kohistan chảy vào hồ Surobi. Trong cuộc chiến chống Liên Xô, Kohistani là một trong những trụ sở chính của Mujahidin. Kohistan nằm ở cơ sở với các tỉnh Parwan và Panjshir. Jamal Aagha là một ngôi làng khác của Quận này. Địa lý. Hesa Duwum Kohistan là một quận mới được hình thành do sự phân chia của quận Kohistan. Lịch sử. Người Tajik Kohistani được coi là những nhóm có tổ chức tốt nhất và mạnh mẽ nhất chống lại sự chiếm đóng Kabul của người Anh vào năm 1879–1880 .
5
13
144
1315714
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1315714
Maymana
Maymana (tiếng Ba Tư/Uzbek/Pashto: میمنه) là thành phố thủ phủ tỉnh Faryab, tây bắc Afghanistan, gần biên giới Turkmenistan. Thành phố nằm cách Kabul 400 km về phía tây bắc, và là nơi sông Maymana, một nhánh của sông Murghab, chảy qua. Năm 2015 dân số của thành phố là 149.040 người.
1
3
52
1316123
721305
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1316123
Béni Abbès
Béni Abbès là một đô thị thuộc tỉnh Béchar, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 8.85 người. Beni Abbes là một thị trấn du lịch, có Ksar cũ, một khu rừng cọ và vẻ đẹp của sa mạc Sahara. Khí hậu. Béni Abbès có khí hậu sa mạc nóng (phân loại khí hậu Köppen "BWh").
4
5
57
1316271
781648
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1316271
Nepenthes adnata
Nepenthes adnata là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài bản địa Tây Sumatra, nơi nó mọc ở độ cao 600-1200 mét trên mực nước biển Nepenthes adnata lần đầu tiên được thu thập bởi Willem Meijer vào ngày 24 tháng 8 năm 1957. Một mẫu chuẩn đầu tiên, là Meijer 6941, được thu thập vào ngày đó gần Tjampo sông, phía đông của Payakumbuh, Taram, Tây Sumatra, ở độ cao 1000 m. Nó được gửi vào Cơ quan tiêu bản quốc gia của Hà Lan ở Leiden. Loài được mô tả lần đầu tiên vào năm 1986 bởi Hotta Mitsuru và Rusjdi Tamin dựa trên các mẫu tác giả thu thập gần Harau ở Tây Sumatra. Tuy nhiên, mô tả là không hợp lệ vì nó không có một mô tả đặc trưng bằng tiếng Latin. Mô tả đặc trưng bằng tiếng Latin đã được cung cấp tám năm sau đó bởi Jan Schlauer.
3
6
159