id
int64
0
23k
passage
stringlengths
27
4.61k
metadata
dict
22,900
Title: Y học Hy Lạp cổ đại Y học Hy Lạp cổ đại (tiếng Anh: Ancient Greek medicine) là một tập hợp những lý thuyết và thực hành không ngừng mở rộng qua hệ tư tưởng và thử nghiệm mới. Nhiều thành phần đã được coi là thuộc về y học Hy Lạp cổ đại, kết nối với tinh thần vật lý. Vào đầu thời La Mã cổ đại, người Hy Lạp cổ tin rằng bệnh tật là "sự trừng phạt của thánh thần" và chữa bệnh là một "món quà từ các vị thần". Người ta nhận ra rằng tâm trí đóng một vai trò quan trọng trong chữa bệnh, và nó cũng có thể là căn nguyên duy nhất của bệnh. Hippocrates, "Cha đẻ của Y học Hiện đại", đã thành lập một trường học y khoa tại Cos và là nhân vật quan trọng nhất trong nền y học Hy Lạp cổ đại.
{ "split": 0, "title": "Y học Hy Lạp cổ đại", "token_count": 186 }
22,901
Title: Y học thế thân Y học thế thân sử dụng trong nghiên cứu và phát triển y tế, tư vấn lâm sàng, phát hiện và chẩn đoán cũng như hỗ trợ điều trị dựa trên các mẫu hoặc dữ liệu được cá nhân hóa. Bằng cách sử dụng hình đại diện thực hoặc ảo thay vì cơ thể con người, y học thế thân có thể giảm thiểu rủi ro cũng như thời gian và các hạn chế về khoảng cách, có thể đi kèm với việc sử dụng cơ thể thực của bệnh nhân để làm xét nghiệm. Y học cổ truyền chủ yếu sử dụng mô tả triệu chứng của chính người bệnh và khám định kỳ để chẩn đoán bệnh thông qua dữ liệu lâm sàng và kinh nghiệm của thầy thuốc. Khi chẩn đoán bệnh, các phương án điều trị hoặc các phương pháp dùng thuốc giống nhau thường được khuyến cáo cho các bệnh tương tự. Tuy nhiên, trên thực tế, các phương pháp điều trị này có tác dụng rất khác nhau dựa trên các bệnh nhân, ngay cả khi họ mắc cùng một căn bệnh. Để phá vỡ lầm tưởng về “loại thuốc phù hợp với tất cả”, một thế hệ thuốc chính xác được cá nhân hóa mới đã được ra mắt, tập trung nhiều hơn vào phân tử sinh học của bệnh (DNA, protein, chất chuyển hóa). Sau khi so sánh, phân tích diễn biến bệnh của bệnh nhân với cơ sở dữ liệu giúp bác sĩ tiên lượng chính xác hơn, thu hẹp phương án điều trị, tăng hiệu quả của bài thuốc so với y học cổ truyền. Mặc dù xét nghiệm di truyền có thể sử dụng thông tin bộ gen khác nhau của các cá nhân để cung cấp các xét nghiệm tương tự, nhưng nhiều ngành y tế đang tập trung vào Y học thế thân. Đồng thời, họ vẫn đang tiếp tục cải thiện những thiếu sót của xét nghiệm gen.
{ "split": 0, "title": "Y học thế thân", "token_count": 375 }
22,902
Title: Y học thế thân Hiện tại, vấn đề chính của xét nghiệm di truyền nằm ở chỗ nó có xu hướng bỏ qua tính không đồng nhất của bệnh và nó không thể phản ánh các tương tác động giữa các phân tử sinh học trong cơ thể con người, chẳng hạn như tương tác gen-protein, protein-protein và chất chuyển hóa protein. Đã có một lịch sử lâu đời về việc sử dụng thuốc thế thân để chữa các bệnh như tiểu đường, bệnh Parkinson và ung thư. Trong thời hiện đại, điều quan trọng là phải mở ra cánh cửa cho y học chính xác để cho phép một tương lai y học ung thư thông minh hơn. Cuộc cách mạng y học này sẽ giúp đạt được mục tiêu giúp bệnh nhân điều trị tối đa đồng thời giảm thiểu tác dụng phụ. Khối u Organoids. Các organoids có nguồn gốc từ khối u là các tế bào khối u được nuôi cấy trong ống nghiệm 3D được phân lập từ mô khối u của bệnh nhân. Một số yếu tố tăng trưởng bắt buộc nhất định được thêm vào để thiết lập trạng thái gần với vi môi trường khối u in vivo để tạo thành vi mô khối u. Nguồn mô khối bao gồm mô khối u tại chỗ hoặc tuần hoàn tế bào khối u (CTC) của bệnh nhân. Ngày nay, các chất hữu cơ tạo khối u được thiết lập thành công bao gồm ung thư đại trực tràng, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư dạ dày, ung thư vú, ung thư tuyến tụy, ung thư nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng. So với hệ thống nuôi cấy dòng tế bào ung thư trong phòng thí nghiệm, các organoids khối u có thể mô phỏng cấu trúc hình thái và đặc tính chức năng của khối u in vivo và bảo tồn các đặc điểm của tính không đồng nhất của khối u. Điều này mang lại một tiến bộ lớn trong lĩnh vực nghiên cứu và điều trị ung thư, vì nó có thể được sử dụng trong các trường hợp như nhạy cảm với thuốc chống ung thư, nhạy cảm với bức xạ và kiểm tra độ nhạy cảm vật lý.
{ "split": 1, "title": "Y học thế thân", "token_count": 437 }
22,903
Title: Yéssica Mouton Yessica Mouton Gianella (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1988) là một người mẫu và là nữ hoàng sắc đẹp người Bolivia, cô đã giành chiến thắng tại cuộc thi Hoa hậu Bolivia 2011, sau đó đại diện cho Bolivia tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2012. Cuộc sống cá nhân. Yéssica Mouton thông thạo tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Cô theo học ngành Quan hệ công chúng ở Nur. Cô đã tham gia tranh tài ở các cuộc thi từ khi còn nhỏ. Yessica Mouton trở thành "Goddess of Fortune" Bingo Bahiti 2010, sau khi vượt qua 14 ứng cử viên trong thành phố. Hoa hậu Bolivia 2011. Yéssica Mouton với tư cách là Hoa hậu Litoral 2011, đã giành chiến thắng tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Bolivia 2011 vào ngày 30 tháng 6 tại Siriono, Fexpo ở Santa Cruz. Cô cũng giành được giải thưởng khác là Hoa hậu Ảnh. Yéssica nói, "Tôi muốn đại diện cho đất nước của chúng tôi ở quốc tế để thể hiện vẻ đẹp đa dạng của Bolivia, một đất nước hăng say lao động với những con người sáng tạo". Hoa hậu Hoàn vũ 2012. Yéssica Mouton là đại diện của Bolivia tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2012 được tổ chức tại Las Vegas, Hoa Kỳ nhưng không lọt vào bán kết. Đời tư. Mouton kết hôn với Gerson Guiteras vào năm 2013, cặp đôi này có con đầu lòng vào năm 2014.
{ "split": 0, "title": "Yéssica Mouton", "token_count": 309 }
22,904
Title: Yên Ý công Yên Ý công (chữ Hán: 燕懿公; trị vì: 554 TCN-549 TCN), là vị vua thứ 25 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Không rõ tên thật và thân thế của ông. Năm 549 TCN, vua thứ 24 của nước Yên là Yên Tiền Văn công qua đời, ông lên nối ngôi, tức Yên Ý công. Sử sách không ghi rõ những hành trạng của ông trong thời gian ở ngôi. Năm 545 TCN, Yên Ý công mất. Ông ở ngôi 5 năm. Con ông là Yên Huệ công lên nối ngôi.
{ "split": 0, "title": "Yên Ý công", "token_count": 134 }
22,905
Title: Yên Cường, Ý Yên Yên Cường là một xã thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Địa lý - Hành chính. Địa giới hành chính xã phía Bắc giáp với Yên Lương; phía Nam giáp với xã Yên Nhân; phía Đông giáp với xã Yên Lộc và phía Tây giáp với xã Yên Thắng. Diện tích tự nhiên của xã 8,1 km², dân số vào khoảng.11353 người vào năm 2022. Xã được phân thành các thôn: Trực Mỹ, Duyên Mỹ, Nhân Lý, Phúc Xá, Mậu Lực, Tâm Bình, Thắng Lợi, Quyết Tiến, Đông Mẫu, Phúc Lâm, Nguốn. Trung tâm hành chính của xã Yên Cường là thôn Phúc Xá nằm trên huyện lộ 57b Phạm Văn Nghị Lịch sử. Nơi đây là vùng đất màu mỡ được kiến tạo từ phù sa bồi đắp bởi hai con sông Hồng và sông Đáy. Trước năm 1965, đơn vị hành chính ở đây gọi là xã "'Quốc Tuấn". Năm 1965, xã Yên Cường được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai xã Yên Vượng và Yên Cường. Giao thông. Xã có dự án quốc lộ 37C nối từ Quốc lộ 37B tại Ý Yên đi qua Cát Đằng - Phố Cháy - Yên Phương vượt sông Đáy tới Gián Khẩu, Me, Nho Quan (Ninh Bình) và kết thúc tại đường Hồ Chí Minh ở Lạc Thủy (Hòa Bình). Trục quốc lộ 37C khởi đầu và chạy ngang qua địa phận xã hiện đang được xây dựng. Tiếp giáp với đường quốc lộ 37C là Quốc lộ 37B (đường 56 cũ), đây là hai con đường huyết mạch trong huyện Ý Yên. Ngoài ra còn có đường Đanh nối đường 57b xuống sông Đào, con đường Đanh hay đúng hơn là con đường Đinh (gọi Đanh để tránh phạm húy) vì con đường này được làm vào thời nhà Vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Hệ thống giao thông nông thôn của xã đã hoàn chỉnh cuối năm 2013 và vừa được hoàn tất quá trình tu sửa mở rộng rất khang trang vào năm 2018 Kinh tế.
{ "split": 0, "title": "Yên Cường, Ý Yên", "token_count": 449 }
22,906
Title: Yên Cường, Ý Yên Đất Yên Cường khi xưa là biển Đông,trong quá trình bồi đắp lấn biển tự nhiên của hai con sông Hồng và sông đáy, đất đai màu mỡ phù sa bồi đắp hình thành, đất Yên Cường rất thích hợp với các loại cây hoa màu như lúa nước, lạc, ngô, khoai...Có lợi thế tập trung nhiều trường học (trường mầm non, tiểu học, thcs, thpt), chợ, bưu điện, bệnh viện, đền chùa và các cơ quan, ngân hàng nhà nước. toàn xã hiện có 2 cây ATM phục vụ nhu cầu tài chính cho người dân xã và nhiều xã lân cận, Yên Cường còn đang phát triển mạnh lĩnh vực buôn bán, dịch vụ. Hiện nay, kinh tế của xã đang hội nhập rất mạnh với nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước Di tích - Danh thắng. Hội chính diễn ra ngày 13 tháng Tám âm lịch hàng năm. Lễ hội rất đông người dân tham gia những trò chơi đặc sắc như bịt mắt đập niêu,kéo co,đua thuyền trên hồ,võ vật và đặc biệt là môn cờ tướng sân rộng.
{ "split": 1, "title": "Yên Cường, Ý Yên", "token_count": 249 }
22,907
Title: Yên Cường, Bắc Mê Yên Cường là một xã thuộc huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, Việt Nam. Yên Cường là xã vùng sâu, vùng xa cách trung tâm huyện Bắc Mê 12 km với 17 thôn và 1.335 hộ, bằng 7.284  nhân khẩu, xã có 10 dân tộc, trong đó: Dân tộc Dao chiếm 38%; Dân tộc Mông chiếm 35%; Dân tộc Tày chiếm 22%; Dân tộc khác chiếm 5% (trong đó có 01 dân tộc rất ít người Pu Péo). Địa lý. Xã Yên Cường có vị trí địa lý: Xã Yên Cường có tổng diện tích đất tự nhiên là 9.087.83 ha, trong đó đất rừng là: 5.642.86 ha "(Rừng sản xuất: 3.681.49 ha, đất rừng phòng hộ: 1.961.37 ha)" đất chưa có rừng và chưa sử dụng là: 1.328,5 ha, diện tích còn lại là đất khác. Chính trị - Hành chính. Xã Yên Cường được chia thành 17 thôn: Bản Khun, Bản Nghè, Bản Trà, Bản Trung, Bản Túm, Cốt Phát, Đồn Điền, Cao Sơn, Nà Lang, Nà Nghè, Nà Khảo, Nà Lỳ, Nà Chảo, Tả Lùng, Tùng Hản, Tiến Xuân, Ký Thì Lịch sử. Trước đây, Yên Cường là một xã thuộc huyện Vị Xuyên. Ngày 18 tháng 11 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 136-HĐBT<ref name=136/1983/QĐ-HĐBT>Quyết định 136-HĐBT năm 1983 điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh Hà Tuyên</ref> về việc thành lập huyện Bắc Mê trên cơ sở tách xã Yên Cường của huyện Vị Xuyên.
{ "split": 0, "title": "Yên Cường, Bắc Mê", "token_count": 403 }
22,908
Title: Yên Cường, Bắc Mê Ngày 13 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 28-HĐBT<ref name=28/1987/QĐ-HĐBT>Quyết định 28-HĐBT năm 1987 về việc chia một số xã và thành lập thị trấn của các huyện Bắc Mê, Na Hang và Yên Sơn thuộc tỉnh Hà Tuyên</ref> về việc chia xã Yên Cường thành hai xã là xã Yên Cường và xã Phiêng Luông. Xã Yên Cường có 9.198 hécta đất với 3.074 nhân khẩu. Cảnh quan du lịch. Xã Yên Cường có 03 di tích lịch sử cấp quốc gia: Căng Bắc Mê (nhà tù của thực dân Pháp), Hang Đán Cúm, Nà Chảo (hang người tiền sử từng ở
{ "split": 1, "title": "Yên Cường, Bắc Mê", "token_count": 181 }
22,909
Title: Yên Hà Yên Hà là một xã thuộc huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, Việt Nam. Địa lý. Xã Yên Hà nằm ở phía đông nam huyện Quang Bình, có vị trí địa lý: Xã Yên Hà có diện tích 40,40 km², dân số năm 2019 là 3.785 người, mật độ dân số đạt 94 người/km². Lịch sử. Trước đây, Yên Hà là một xã thuộc huyện Bắc Quang. Ngày 19 tháng 2 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 14/1986/QĐ-HĐBT<ref name="14/1986/QĐ-HĐBT">Quyết định số 14/1986/QĐ-HĐBT năm 1986</ref> về việc thành lập xã Việt Hồng trên cơ sở điều chỉnh 570 hécta đất với 205 nhân khẩu của xã Yên Hà. Sau khi điều chỉnh, xã Yên Hà có diện tích tự nhiên 681 hécta với 1.971 nhân khẩu. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 112/1994/NĐ-CP<ref name="112/1994/NĐ-CP">Nghị định số 112-CP năm 1994 của Chính phủ</ref> về việc thành lập xã Xuân Giang từ một phần của xã Yên Hà. Ngày 1 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 146/2003/NĐ-CP<ref name="146/2003/NĐ-CP">Nghị định 146/2003/NĐ-CP thành lập xã thuộc huyện Bắc Quang và thành lập huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang</ref> về việc thành lập huyện Quang Bình trên cơ sở điều chỉnh xã Yên Hà thuộc huyện Bắc Quang sang trực thuộc huyện Quang Bình.
{ "split": 0, "title": "Yên Hà", "token_count": 375 }
22,910
Title: Yên Huệ công Yên Huệ công (chữ Hán: 燕惠公; trị vì: 544 TCN-536 TCN), tên thật là Cơ Khoản, là vị vua thứ 26 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc đời. Cơ Khoản con của Yên Ý công- vị vua thứ 25 của nước Yên. Năm 545 TCN, Yên Ý công qua đời, Cơ Khoản lên nối ngôi, tức Yên Huệ công. Năm 540 TCN, Yên Huệ công khinh ghét các họ quý tộc, lập mưu tiêu diệt, rồi trọng dụng các quan lại nguồn gốc thấp hèn như Cơ Tống (姬宋) làm "đại phu", gây ra sự bất bình và phản đối mãnh liệt của các quý tộc trong nước. Các họ quý tộc nổi lên chống Hụê công, Huệ công phải chạy sang nước Tề lánh nạn. Bốn năm sau, Tề Cảnh công sai Cao Yển đến xin Tấn Bình công cùng nhau giúp Yên Huệ công. Liên quân Tấn-Tề hợp sức đưa Yên Huệ công về nước. Nhưng đi được tới nửa đường thì Yên Huệ công qua đời. Người nước Yên lập Yên Điệu công lên nối ngôi. Sử ký không ghi rõ quan hệ giữa ông và Điệu công. Yên Huệ công làm vua được 9 năm.
{ "split": 0, "title": "Yên Huệ công", "token_count": 290 }
22,911
Title: Yên Lập Yên Lập là một huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Địa lý. Huyện Yên Lập nằm ở phía tây của tỉnh Phú Thọ, có địa bàn trải dài theo hướng tây bắc - đông nam và có vị trí địa lý: Dân số. Dân số tính đến năm 2019 là 92.858 người. 5% dân số theo đạo Thiên Chúa. Lịch sử. Trước đây, huyện Yên Lập thuộc phủ Quy Hóa, trấn Hưng Hóa (năm 1831 đổi là tỉnh Hưng Hóa). Từ năm 1903 thuộc tỉnh Phú Thọ. Theo quyết định số 178-CP ngày 5 tháng 7 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ Việt Nam, huyện Yên Lập sáp nhập với huyện Cẩm Khê và 10 xã của huyện Hạ Hoà ở phần hữu ngạn sông Thao (sông Hồng) thành huyện Sông Thao. Ngày 22 tháng 12 năm 1980, Hội đồng Chính phủ tách huyện Sông Thao thành 2 huyện Yên Lập và Sông Thao. Khi vừa tái lập, huyện Yên Lập có 17 xã: Đồng Lạc, Đồng Thịnh, Hưng Long, Lương Sơn, Minh Hòa, Mỹ Lung, Mỹ Lương, Nga Hoàng, Ngọc Đồng, Ngọc Lập, Phúc Khánh, Tân Long, Thượng Long, Trung Sơn, Xuân An, Xuân Thủy, Xuân Viên. Ngày 28 tháng 5 năm 1997, chuyển xã Tân Long thành thị trấn Yên Lập, huyện Yên Lập. Huyện Yên Lập có 1 thị trấn và 16 xã như hiện nay. Hành chính. Huyện Yên Lập có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Yên Lập (huyện lỵ) và 16 xã: Đồng Lạc, Đồng Thịnh, Hưng Long, Lương Sơn, Minh Hòa, Mỹ Lung, Mỹ Lương, Nga Hoàng, Ngọc Đồng, Ngọc Lập, Phúc Khánh, Thượng Long, Trung Sơn, Xuân An, Xuân Thủy, Xuân Viên.
{ "split": 0, "title": "Yên Lập", "token_count": 395 }
22,912
Title: Yên Phương, Ý Yên Yên Phương là một xã thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Xã có diện tích 6,1 km², dân số năm 1999 là 5.696 người, mật độ dân số đạt 934 người/km². Giao thông. Xã Yên Phương có dự án quốc lộ 37C nối từ Quốc lộ 37B tại Ý Yên đi qua Cát Đằng - Phố Cháy - Yên Phương vượt sông Đáy tới Gián Khẩu, Me, Nho Quan (Ninh Bình) và kết thúc tại đường Hồ Chí Minh ở Lạc Thủy (Hòa Bình). Tại xã Yên Phương sẽ có cầu vượt qua sông Đáy để nối với Gia Trấn của Ninh Bình Di tích. Đình Cổ Hương thuộc xã Yên Phương là di tích lịch sử văn hóa thờ thánh tổ nghề đúc đồng Nguyễn Minh Không.
{ "split": 0, "title": "Yên Phương, Ý Yên", "token_count": 176 }
22,913
Title: Yên Thắng, Lang Chánh Yên Thắng là một xã thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Địa lý. Xã Yên Thắng nằm ở phía tây của huyện Lang Chánh, dọc theo một chi lưu của sông Âm, có vị trí địa lý: Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 1999, dân số xã Yên Thắng là 4.601 người. Đến tháng 8 năm 2009, dân số của xã Yên Thắng là 5.366 người. Thành phần dân tộc gồm: người Thái chiếm 97,6%, người Mường chiếm 0,7%, người Kinh chiếm 1,7%. Hành chính. Xã Yên Thắng được chia thành 10 bản: Bay, Vịn, Vặn, Vần Ngoài, Vần Trong, Cơn, Peo, Ngàm, Pốc, Tráng. Lịch sử. Vùng đất thuộc xã Yên Thắng ngày nay, vào thời Lê thuộc động An Khương. Đến trước Cách mạng tháng Tám (1945) thuộc mường Đeng (Tày Đeng), tổng Yên Thọ, châu Lang Chánh. Sau năm 1945, thuộc xã Yên Khương. Năm 1981, xã Yên Khương được chia thành hai xã là Yên Khương và Yên Thắng.
{ "split": 0, "title": "Yên Thắng, Lang Chánh", "token_count": 246 }
22,914
Title: Yên hầu Chỉ Yên hầu Chỉ (chữ Hán: 燕侯旨; trị vì: ?-?), là vị vua thứ hai của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên thật là Cơ Chỉ (姬旨), theo Yên quốc sử cảo, ông là con trai thứ ba của Triệu công Thích, phụ chính của nhà Chu dưới thời Chu Vũ Vương, Chu Thành Vương và Chu Khang Vương. Cha ông được phong đất Yên nhưng ở lại triều đình phụ chính, sai anh ông là Cơ Khắc ra thay. Sau đó, Yên hầu Khắc mất, ông lên nối ngôi, còn người anh thứ hai của ông nối chức phụ chính nhà Chu. Sử sách không ghi rõ những hành trạng của ông trong thời gian ở ngôi cũng như những sự việc xảy ra tại nước Yên vào thời của ông. Sau không rõ ông mất năm nào. Sau khi ông mất, con ông là Yên hầu Vũ lên nối ngôi.
{ "split": 0, "title": "Yên hầu Chỉ", "token_count": 199 }
22,915
Title: Yêu quái Yêu quái (Chữ Hán:妖怪) hay yêu ma quỷ quái là tên gọi chung để chỉ các sinh vật như động vật, thực vật, yêu, ma, quỷ, quái trong tín ngưỡng dân gian đã thành tinh. Yêu quái có thể là gọi là yêu quỷ (妖鬼 yāoguǐ), yêu ma (妖魔 yāomó) hay yêu tinh (妖精 yāojīng). Chúng có rất nhiều loại từ có hại cho đến vô hại. Chúng có thể biến hóa thân dạng người hoặc nửa người nửa thú tùy thuộc vào việc chúng đã đạt được cấp độ ma Pháp như thế nào. Yêu quái chia ra làm hai loại đó là sống ở trên cạn và dưới nước. Trường hợp Yêu quái sống dưới nước thường gọi là Thủy quái. Các tác phẩm văn học như Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết của các nước trên thế giới cũng nhắc đến nhiều loại Yêu quái khác nhau. Riêng thực vật thành tinh gọi là Mộc tinh. Trong Tây Du Ký, Yêu quái thường được miêu tả là cư ngụ ở những nơi hẻo lánh như núi, rừng, hang động để xưng Vương và dưới chúng là những bầy yêu tinh phục vụ, điển hình là Bạch Cốt Tinh. Chúng thường quấy nhiễu và làm hại dân chúng. Ngoài ra Yêu quái cũng thường hoạt động theo số lượng lớn hoặc đơn lẻ. Nhưng không phải yêu quái nào cũng xấu xa và độc ác.
{ "split": 0, "title": "Yêu quái", "token_count": 322 }
22,916
Title: Yến đuôi nhọn họng trắng Yến đuôi nhọn họng trắng (danh pháp hai phần: Hirundapus caudacutus) là một loài chim thuộc họ Yến ("Apodidae"). Yến đuôi nhọn họng trắng sinh sản ở ngọn đồi đá ở trung bộ châu Á và miền nam Xibia. Loài này là chim di cư, trú đông ở phía nam tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và Úc. Nó là một loài lang thang hiếm gặp ở Tây Âu, nhưng đã được ghi nhận như xa đến phía tây tận Na Uy, Thụy Điển và Anh. Yến đuôi nhọn họng trắng là loài chim bay nhanh nhất kiểu bay vỗ cánh, có khả năng tốc độ 170 km/h. Loài chim này có đôi chân rất ngắn mà chúng chỉ sử dụng để bám vào bề mặt thẳng đứng. Chúng xây những chiếc tổ của họ ở các khe đá ở các vách đá hoặc cây rỗng. Chúng không bao giờ chủ động đậu trên mặt đất và dành phần lớn cuộc sống của chúng trong không trung, ăn các loài côn trùng mà chúng bắt được.
{ "split": 0, "title": "Yến đuôi nhọn họng trắng", "token_count": 256 }
22,917
Title: YG''MM YG"MM () là một hãng thu âm Thái hoạt động liên doanh giữa GMM Grammy tại Thái Lan và YG Entertainment từ Hàn Quốc. Công ty được thành lập với vốn điều lệ 200 triệu baht giữa các nhà điều hành GMM Grammy nắm giữ 51% cổ phần, còn lại YG Entertainment chiếm 49% cổ phần. YG"MM là một công ty phát triển nghệ sĩ với mục tiêu đưa Thái Lan trở thành một trong những cơ sở phát triển nghệ sĩ toàn diện. Từ buổi thử giọng, đào tạo, sáng tạo, và quảng bá đến trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp toàn cầu, cũng như tổ chức buổi biểu diễn, sân khấu, và nhiều thể loại khác trong tương lai. Vào ngày 27 tháng 9 năm 2021, YG"MM lần đầu tiên mở buổi thử giọng cho nghệ sĩ thần tượng. Vào năm 2022, công ty đã tiết lộ dự án lớn đầu tiên, "YG"MM Boy Audition 2022".
{ "split": 0, "title": "YG''MM", "token_count": 203 }
22,918
Title: Yabu Meizan Yabu Meizan (, tên khai sinh Yabu Masashichi (), (20 tháng 1 năm 1853 1934) là một nghệ sĩ và chủ xưởng người Nhật Bản nổi tiếng với việc vẽ tranh trên sứ. Ông là nhà sản xuất đồ sứ satsuma với số lượng lớn nhất. Thuật ngữ gốm sứ satsuma ban đầu chỉ được đặt ra nhằm ám chỉ đồ sứ được vẽ nghệ thuật từ tỉnh Satsuma. Sau này, thuật ngữ trên được mở rộng ra, bao hàm cả sứ chất lượng thấp được sản xuất hàng loạt để xuất khẩu, trong khi Meizan là một trong những nghệ sĩ tiếp tục truyền thống chất lượng nghệ thuật cao trong khi cũng xuất khẩu thành công. Ông được coi là "hoàng tử" của loại hình nghệ thuật này. Ngày nay, các tác phẩm của ông được nhiều nhà sưu tập tìm kiếm. Một bộ sưu tập lớn các tác phẩm nghệ thuật của ông hiện là một phần của Bộ sưu tập nghệ thuật Nhật Bản Khalili. Cuộc đời và sự nghiệp.
{ "split": 0, "title": "Yabu Meizan", "token_count": 219 }
22,919
Title: Yabu Meizan Yabu Meizan sinh ngày 20 tháng 1 năm 1853 tại Nagahori, Osaka. Năm 1880, ông mở xưởng sản xuất đồ gốm ở Osaka, tuyển mộ và đào tạo nghệ sĩ làm gốm. Gốm dùng làm chế tác được ông mang từ lò Chin Jukan ở tỉnh Satsuma đến Osaka để trang trí. Nhà sáng lập bảo tàng nghệ thuật người Mỹ Charles Parsons kể lại chuyến viếng thăm xưởng của Meizan trong cuốn sách "Ghi chú về một chuyến đi vòng quanh thế giới vào năm 1894 và 1895" như sau: "Ông ấy rất nổi tiếng. Ông có 17 người đàn ông và con trai đều cùng làm việc, tất cả đều làm công việc trang trí. Ông đảm nhận vai trò thiết kế và tận tụy hướng dẫn những đứa con cẩn thận trong khi thực hiện công việc. Một vài nghệ nhân ở đây là những người lao động rất tuyệt vời. Tất cả đều trật tự, gọn gàng và im lặng, không nói lời nào". Meizan tích cực tiếp thị công việc của mình trên phạm vi quốc tế cũng như trong nước, đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức trình bày các sản phẩm của Nhật Bản tại các hội chợ trên thế giới. Điều này mang lại cho ông sự hoan nghênh lớn cũng như nguồn thu nhập dồi dào. Thành công của ông đã truyền cảm hứng cho một xưởng khác sử dụng tên và bắt chước phong cách của ông, nhưng độ tinh tế và chi tiết thì không thể sánh bằng. Sự nghiệp của ông lao dốc trong Thế chiến I khi chiến tranh và bất ổn kinh tế gây khó khăn cho việc điều hành một doanh nghiệp xuất khẩu. Nghệ thuật Nhật Bản cũng không được lòng người mua Mỹ và châu Âu, những người dần dần ngó lơ thị trường Nhật để chuyển hướng sang Trung Quốc. Phong cách.
{ "split": 1, "title": "Yabu Meizan", "token_count": 395 }
22,920
Title: Yabu Meizan Các tác phẩm của Meizan được đặc trưng bởi cách trang trí tỉ mỉ dựa trên việc sử dụng các tấm lát bằng đồng. Những tấm đồng khắc này ban đầu sẽ được dùng để in các thiết kế trên giấy, sau đó chúng sẽ lần lượt được cắt để dán các tấm giấy nến vẽ lên trên lọ hoặc đĩa. Đồ trang trí của ông sử dụng các chủ đề của Trung Quốc và Phật giáo cho đến những năm 1890, khi ông bắt đầu sử dụng nhiều hơn những biểu tượng của Nhật Bản, như ngư dân hoặc samurai chiến đấu. Trong quá trình sáng tác, Meizan thường vẽ hoặc sao chép các bản in phổ biến của nhiều nghệ sĩ, trong đó có Hiroshige. Các thiết kế của ông ngày càng có thêm nhiều chi tiết hơn. Một tác phẩm có thể mô tả hàng ngàn bông hoa hoặc con bướm, hoặc hàng trăm người trong một đám rước. Cuối sự nghiệp, Meizan áp dụng một cách tiếp cận khác, bao quát toàn bộ bình hoa trong một mô típ duy nhất. Hướng nghệ thuật mới này có thể xem như lấy cảm hứng từ ý kiến của các nhà phê bình. Tuy nhiên, nó là một thất bại thương mại vào thời điểm đó. Người mua vẫn ưa chuộng mẫu thiết kế chật kín trên sản phẩm. Triển lãm. Từ 1885 đến 1916, Meizan trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của mình tại một số cuộc triển lãm quốc gia và hội chợ thế giới và giành được nhiều huy chương. Trong số này có thể kể đến Triển lãm Kyoto lần thứ tư năm 1885 (nơi ông giành được huy chương đồng), Triển lãm Paris năm 1899 và năm 1900, Triển lãm tại Louisiana, Hoa Kỳ năm 1904, Triển lãm nghệ thuật London-Nhật Bản Triển lãm năm 1910. Đối với buổi triển lãm tổ chức tại Louisiana, Meizan vinh dự được bổ nhiệm làm thư ký Hiệp hội Triển lãm Nhật Bản, có nhiệm vụ tổ chức, sắp xếp và trang trí hội trường. Triển lãm quốc tế cuối cùng của ông là Triển lãm quốc tế Panama Thái Bình Dương năm 1915 tại San Francisco.
{ "split": 2, "title": "Yabu Meizan", "token_count": 435 }
22,921
Title: Yabu Meizan Sau này, các tác phẩm của Meizan cũng được đưa vào các buổi triển lãm cho Bộ sưu tập Khalili tại Bảo tàng Quốc gia xứ Wales và Cardiff lần lượt những năm 1994 và 1995. Bộ sưu tập của ông cũng hiện diện tại Trung tâm Nghệ thuật Wilmington, Delwar năm 1999, tại Bảo tàng Nghệ thuật Portland năm 2002 và Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam năm 2006.
{ "split": 3, "title": "Yabu Meizan", "token_count": 87 }
22,922
Title: Yad Vashem Yad Vashem (יד ושם - Yad Vashem) là một khu tưởng niệm ở Jerusalem. Đây là trung tâm tưởng niệm cho các nạn nhân của Holocaust, rộng 18,0 ha (44,5 mẫu Anh) và bao gồm Hội trường tưởng niệm (Hall of Remembrance), Bảo tàng Holocaust nghệ thuật, điêu khắc, các địa điểm ngoài trời như Thung lũng của các cộng đồng, một giáo đường Do Thái, một viện nghiên cứu với các tài liệu lưu trữ, thư viện, nhà xuất bản, và một trung tâm giáo dục tên là Trường Quốc tế / Viện Nghiên cứu Holocaust. Được thành lập vào năm 1953, Yad Vashem nằm trên sườn phía tây của núi Herzl trên Núi Remembrance ở Jerusalem, cao 804 mét (2.638 ft) trên mực nước biển và tiếp giáp với rừng Jerusalem. ("Mount of Remembrance", "Núi tưởng niệm").
{ "split": 0, "title": "Yad Vashem", "token_count": 197 }
22,923
Title: Yakovlev Yak-28 Yakovlev Yak-28 là một loại máy bay chiến đấu phản lực cánh cụp, 2 động cơ được Liên Xô sử dụng trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Lúc đầu được sản xuất như một máy bay ném bom, nhưng về sau nó còn được chế tạo thành nhiều phiên bản với các mục đích như máy bay trinh sát, tác chiến điện tử, máy bay tiêm kích đánh chặn, và máy bay huấn luyện. Tên ký hiệu của NATO là Brewer, Firebar, và Maestro cho từng phiên bản. Miêu tả. Mẫu thử nghiệm cơ bản của Yak-28 bay lần đầu tiên vào 5 tháng 3-1958, và bắt đầu phục vụ trong biên chế các đơn vị vào năm 1960. Phương Tây được tận mắt chứng kiến Yak-28 lần đầu tiên tại ngày hàng không Tushino, đúng vào ngày quốc tế lao động 1 tháng 5-1961. Các học giả phương Tây lúc đầu đánh giá nó là máy bay tiêm kích hơn là máy bay cường kích, và đây là một bản mở rộng của Yak-25M, do đó nó có tên ký hiệu là 'Flashlight'. Sau khi vai trò của nó được làm sáng tỏ, seri Yak-28 ném bom lại có tên gọi là 'Brewer' - người ủ bia. Tổng cộng đã có khoảng 700 chiếc Yak-28 đủ mọi phiên bản được chế tạo. Yak-28P được rút khỏi biên chế vào đầu những năm 1980, nhưng phiên bản huấn luyện và các phiên bản khác còn được sử dụng cho đến khi Liên Xô sụp đổ, đến năm 1992. Máy bay trinh sát 'Brewer' và ECM cuối cùng được thay thế bởi các biến thể của Sukhoi Su-24 'Fencer'. Yak-28 có một đôi cánh giữa lớn, cụp một góc 45°. Trên cánh thẳng đứng ở đuôi, còn có 2 cánh nhỏ hơn được thêm vào để tăng khả năng điều khiển bay). Những cánh tà nhỏ được đặt lên cánh chính. 2 động cơ phản lực Tumansky R-11, lúc đầu lực đẩy mỗi chiếc là 57 kN (12.795 lbf), được đặt ở 2 cánh chính, giống như là Yak-25 trước đây. Ở phần cánh chính còn được đặt các bánh máy bay, điều này làm thân máy bay rộng hơn, cho phép mang nhiều nhiên liệu hơn. Yak-28 có thể đạt đến vận tốc âm thanh, tốc độ Mach 1 có thể đạt được ở trên độ cao lớn.
{ "split": 0, "title": "Yakovlev Yak-28", "token_count": 510 }
22,924
Title: Yakovlev Yak-28 Các phiên bản. Rất nhiều phiên bản của Yak-28 đã được sản xuất. Đầu tiên là 3 mẫu có tên ký hiệu của NATO là 'Brewer-A', 'Brewer-B', và 'Brewer-C', là những máy bay ném bom chiến thuật, với phần ghế ngồi ở mũi cho sĩ quan hoa tiêu kiêm điều khiển vũ khí, nó có thể mang 3.000 kg (6.600 lb) vũ khí, và một khẩu pháo (lúc đầu là pháo 23 mm NR-23, sau đó được thay thế bằng GSh-23L), ở cánh có các giá treo vũ khí để mang thêm bom hoặc tên lửa chùm. 2 mẫu 'Brewer-A' và 'Brewer-B' không được sản xuất hàng loạt với số lượng lớn, và mẫu được sản xuất hàng loạt đầu tiên là Yak-28B ('Brewer-C'). Nó được trang bị loại radar đặc biệt là RBP-3. Vào năm 1961, Yak-28B được nâng cấp thành Yak-28L, với radar với có hệ thống hỗ trợ ném bom 'Lotos', và vào năm 1962 nó được thay thế bởi Yak-28I, với radar 'Initiativa'. Động cơ được thay thế bởi loại R-11AF2-300 với lực đẩy 61 kN or 13.700 lbf). Một vài chiếc Yak-28B được nâng cấp với radar 'Initiativa' và có tên gọi là Yak-28BI. Một số Yak-28L sau đó được cải tạo để làm nhiệm vụ giám sát sự ô nhiễm phóng xạ và có tên gọi là Yak-28RR. Yak-28R (NATO 'Brewer-D') là phiên bản chuyên dụng để trinh sát, được thêm vào radar dò tìm. Yak-28PP (NATO 'Brewer-E') được cải tạo từ 'Brewer-C' được trang bị để tác chiến điện tử/đối phó điện tử. Các giá treo ở cánh có thể được dùng để treo thùng nhiên liệu phụ hoặc chùm rốc két. Những chiếc Yak-28PP đầu tiên có thể giữ lại pháo, nhưng sau đó đã bị loại bỏ. Yak-28U (NATO 'Maestro') là phiên bản huấn luyện với một buồng lái dành cho giáo viên bên cạnh buồng lái tiêu chuẩn.
{ "split": 1, "title": "Yakovlev Yak-28", "token_count": 497 }
22,925
Title: Yakovlev Yak-28 Một phiên bản máy bay tiêm kích đánh chặn tầm xa cũng được chế tạo, Yak-28P (NATO 'Firebar'), nó được phát triển vào những năm 1965-1966. Nó bỏ qua khoang chứa vũ khí trong thân để tăng khả năng mang nhiên liệu, và thêm vào radar đánh chặn 'Oriol-D', có khả năng mang tên lửa không đối không R-98 (AA-3 'Anab'). Các khẩu pháo cũng bị loại bỏ. Trong văn hóa đại chúng. Trong bộ phim hoạt hình của Nhật Bản mang tên "Stratos 4", máy bay hư cấu "Yak-28MST" được dựa trên Yak-28.
{ "split": 2, "title": "Yakovlev Yak-28", "token_count": 144 }
22,926
Title: Yakovlev Yak-4 Yakovlev Yak-4 (Tên trong biên chế là Yak-4, BB-22 (Ближний бомбардировщик, "Blizhnij Bombardirivschik", "máy bay ném bom tầm gần") là một máy bay ném bom của Liên Xô trong chiến tranh thế giới II, được phát triển dựa trên loại Ya-22/Yak-2. Lịch sử. Dự định trước đây là một máy bay trinh sát tốc độ cao, nguyên mẫu Yakovlev Ya-22 được trang bị 2 động cơ Klimov M-103 và thực hiện chuyến bay đầu tiên vào 22 tháng 2 1939. Sau đó, Yakovlev được thông báo thiết kế thêm một máy bay ném bom, chính là BB-22. Điều này đã dẫn đến những thay đổi để thích ứng với vũ khí trang bị và lượng nhiên liệu trên máy bay, công thêm một khoang chứa bom bên trong thân máy bay. Một loạt BB-22 đầu tiên được hoàn thành vào 31 tháng 12 1939 và bay thử nghiệm vào 20 tháng 2 1940. Cùng thời gian đó, 2 nhà máy được đưa vào sản xuất và thử nghiệm - phiên bản trinh sát chụp ảnh R-12 và phiên bản hộ tống tầm xa I-29 (hay BB-22IS) - chúng được xử lý đặc biệt để bay thử nghiệm. BB-22 được chính thức mang tên Yak-2 vào cuối năm 1940, và được trang bị 2 động cơ 716 kW M-103, có vận tốc cực đại là 530 km/h trên độ cao 8800 m và tầm bay là 800 km. Vào năm 1940, thiết kế cơ bản xa hơn nữa được thực hiện để cải tiến những vị trí của phi hành đoàn, tầm nhìn và lớp giáp bảo vệ; động cơ M-105 được đưa vào hoạt động với hệ thống nhiên liệu được bảo vệ tốt hơn, tăng tốc độ tối đa lên 574 km/h, tầm hoạt động là 925 km, thêm vào những giá treo bom ở cánh. Sau khi có tên gọi chính thức là Yak-4, máy bay bắt đầu được sản xuất vào mùa thu năm 1940 và khoảng 600 chiếc gồm cả hai phiên bản đã được chế tạo, phần lớn là Yak-4. Chúng không thành công trong hoạt động, nhiều chiếc bị mất ngay vào những ngày đầu cuộc chiến.
{ "split": 0, "title": "Yakovlev Yak-4", "token_count": 473 }
22,927
Title: Yamaguchi Akane Yamaguchi Akane (tiếng Nhật: 山口 茜; sinh ngày 6 tháng 6 năm 1997) là một vận động viên cầu lông người Nhật Bản thi đấu ở nội dung đơn nữ. Cô là một trong những thành viên của đội cầu lông Kumamoto Saishunkan. Yamaguchi giữ vị trí số một trong bảng xếp hạng cầu lông đơn nữ của BWF vào ngày 19 tháng 4 năm 2018, là vận động viên Nhật Bản đầu tiên giữ vị trí số một. Sự nghiệp. Yamaguchi lọt vào chung kết Giải vô địch cầu lông trẻ thế giới của BWF trong ba năm liên tiếp, giành huy chương bạc tại Giải vô địch cầu lông trẻ thế giới 2012 tại Chiba, Nhật Bản và hai lần giành huy chương vàng, một lần vào năm 2013 của BWF tại Bangkok, Thái Lan và năm 2014 tại Alor Setar, Malaysia. Ở độ tuổi 16 tuổi 3 tháng, Yamaguchi trở thành tay vợt trẻ nhất từng giành chức vô địch trong một giải đấu thuộc BWF Super Series, đánh bại đối thủ đồng hương của cô là Uchida Shizuka trong trận chung kết Japan Super Series 2013 ở Nhật Bản. Đây là lần đầu tiên một tay vợt nữ người Nhật Bản giành chức vô địch đơn nữ tại Japan Open. Cô cũng là người Nhật Bản đầu tiên vô địch tại Japan Open. Sau thất bại trước Okuhara Nozomi tại tứ kết Thế vận hội Mùa hè 2016, Yamaguchi giành được danh hiệu Super Series thứ hai của mình tại Korea Open, đánh bại hạt giống số 5 Sung Ji-hyun. Cô sau đó vô địch giải Đan Mạch mở rộng được tổ chức tại Odense, trở thành nữ tay vợt thứ ba không phải người Trung Quốc từng giành hai chức vô địch super series liên tiếp trong một mùa giải. Những người từng có thành tích này là Tai Tzu-ying, Ratchanok Intanon và Tine Baun. Trên chặng đường đến chiến thắng ở Đan Mạch, cô đã giành chiến thắng trước nhà vô địch thế giới và huy chương vàng Olympic Carolina Marín trong một trận đấu diễn ra trong ba set, cũng như trong trận đấu với Okuhara Nozomi người mà cô chưa bao giờ đánh bại trước Thế vận hội. Vào ngày 19 tháng 4 năm 2018, cô là người Nhật Bản đầu tiên giữ vị trí số một ở nội dung đơn nữ trên bảng xếp hạng cầu lông thế giới. Thành tích.
{ "split": 0, "title": "Yamaguchi Akane", "token_count": 510 }
22,928
Title: Yamaguchi Akane BWF World Tour. BWF World Tour, được tổ chức vào ngày 19 tháng 3 năm 2017 và được áp dụng vào năm 2018, là chuỗi những giải cầu lông uy tín được Liên đoàn cầu lông thế giới (BWF) tổ chức. Các giải đấu của BWF được chia thành sáu cấp độ, cụ thể là World Tour Finals, Super 1000, Super 750, Super 500, Super 300 (một phần của HSBC World Tour), và BWF Tour Super 100. BWF Super Series. BWF Super Series, được khởi động vào ngày 14 tháng 12 năm 2006 và được áp dụng vào năm 2007, là chuỗi những giải cầu lông uy tín, được Liên đoàn cầu lông thế giới (BWF) tổ chức. BWF Super Series có hai cấp độ: Super Series và Super Series Premier. Một mùa giải Super Series có mười hai giải đấu trên khắp thế giới, được tổ chức từ năm 2011, trong đó những vận động viên thành công nhất tham gia Super Series Finals được tổ chức vào cuối năm. BWF Grand Prix. BWF Grand Prix có hai cấp độ, Grand Prix và Grand Prix Gold. Đó là những giải đấu cầu lông được Liên đoàn cầu lông thế giới (BWF) tổ chức từ năm 2007.
{ "split": 1, "title": "Yamaguchi Akane", "token_count": 259 }
22,929
Title: YanTV YanTV là một thương hiệu truyền hình âm nhạc, giải trí (60% âm nhạc, 40% giải trí) tại Việt Nam, chính thức ra mắt vào ngày 16 tháng 6 năm 2009 trên kênh SCTV2. Lịch sử hình thành. Ngày 1 tháng 12 năm 2008, YanTV phát sóng trên SCTV2 , cuối năm 2009, YanTV có mặt trên hệ thống cáp VTVCab (VCTV). Đến giữa năm 2012, YanTV cũng đã phủ sóng khắp cả nước thông qua các mạng cáp: K+ (VSTV), nâng tổng số lượt xem lên 5 triệu khán giả. YanTV đã phát sóng các giải đấu thể thao như: Copa America, Thế vận hội mùa hè. Các sản phẩm khác của YanTV. Channel B. Channel B là kênh truyền hình giải trí chuyên về phụ nữ và gia đình , được phát sóng 24/7 thay thế cho kênh YanTV trên HTVC+ do YanTV vướng phải tranh chấp thỏa thuận phát sóng bên SCTV, hiện tại YanTV đã ngừng phát sóng trên mạng cáp HTVC và độc quyền trên SCTV2, kênh Channel B cũng đã ngừng phát sóng trên HTVC. YAN News. YAN News là trang thông tin về các sự kiện âm nhạc, các tin tức về các ngôi sao trong và ngoài nước, là nơi để đăng tải các cuộc thi hay những sự kiện do chính Yan tổ chức. Yan Radio. Đây là trang cho đăng tải các sản phẩm âm nhạc mới nhất và các sản phẩm âm nhạc do chính Yan sản xuất. Ngoài ra còn đăng tải những chương trình hay nhất mà khán giả có thể xem lại tại trang này khi bạn không xem được chương trình mà mình yêu thích.
{ "split": 0, "title": "YanTV", "token_count": 350 }
22,930
Title: Yandex Browser Yandex Browser là một trình duyệt web freeware được phát triển bởi công ty tìm kiếm trên web của Nga Yandex sử dụng công cụ trình duyệt web Blink và dựa trên dự án nguồn mở Chromium. Trình duyệt kiểm tra bảo mật trang web bằng hệ thống bảo mật Yandex và kiểm tra các tệp đã tải xuống bằng phần mềm diệt virus Kaspersky. Trình duyệt cũng sử dụng công nghệ Turbo của Opera Software để tăng tốc độ duyệt web trên các kết nối chậm. Trình duyệt có sẵn cho Windows, macOS, Android và iOS. Vào tháng 10 năm 2014, phiên bản beta Linux đã được giới thiệu. Yandex đang đối mặt với cạnh tranh tìm kiếm trên web ở Nga với Google Search. Google Chrome, Trình duyệt web phổ biến nhất của Nga, sử dụng Google Search làm công cụ tìm kiếm mặc định của nó. Vào tháng 6 năm 2012, Mozilla Firefox, trình duyệt web phổ biến thứ ba trên thế giới, đã ký một thỏa thuận để thay thế công cụ tìm kiếm mặc định của nó là Yandex Search với Google Search. Khi "Smartbox" của Yandex Browser sử dụng Yandex Search làm công cụ tìm kiếm mặc định của nó, trình duyệt sẽ giúp Yandex cạnh tranh để giành thị phần tìm kiếm của Nga. Tính năng khác biệt. Các tính năng phân biệt của Trình duyệt Yandex bao gồm các tính năng sau: Bảo mật. Bảo vệ giả mạo DNS. Công nghệ bảo mật hoạt động quét các tệp và trang web cho vi-rút, chặn các trang web gian lận, bảo vệ mật khẩu và chi tiết thẻ ngân hàng và giữ thanh toán trực tuyến an toàn khỏi hành vi trộm cắp. DNSCrypt. Trình duyệt đầu tiên trên thế giới có hỗ trợ công nghệ DNSCrypt. Mã hóa Hệ thống tên miền (DNS). Ví dụ, nó bảo vệ khỏi trojan DNSChanger, nhà cung cấp dịch vụ theo dõi Internet hoặc tin tặc. Tùy chọn này phải được bật trong cài đặt trình duyệt. Bảo vệ Wi-Fi. Khi kết nối để mở mạng Wi-Fi hoặc tới các điểm sử dụng tính năng bảo vệ WEP yếu, Trình duyệt Yandex sẽ tự động mã hóa lưu lượng giữa các mạng đó và các trang web HTTP. Thị phần.
{ "split": 0, "title": "Yandex Browser", "token_count": 464 }
22,931
Title: Yandex Browser Theo phân tích của Liveinternet.ru, Yandex Browser đã đạt 2,3% thị phần tại Nga sau 2 tháng phát hành. Tính đến tháng 11 năm 2016, Trình duyệt Yandex dành cho máy tính đã đạt 19,1% và 4.9% trên thiết bị di động ở Nga.
{ "split": 1, "title": "Yandex Browser", "token_count": 61 }
22,932
Title: Yankee Hotel Foxtrot Yankee Hotel Foxtrot là album phòng thu thứ tư của ban nhạc tới từ Chicago, Wilco. Album được hoàn thiện từ năm 2001, song Reprise Records – hãng đĩa con của Warner Music Group – lại từ chối phát hành. Wilco có lại được mọi quyền lợi với album sau khi chấm dứt hợp đồng với hãng đĩa. Tháng 9 năm 2001, Wilco cho công bố toàn bộ album của họ miễn phí qua trang web chính thức của ban nhạc. Họ ký hợp đồng thu âm sau đó với Nonesuch Records (một hãng đĩa con khác của Warner) vào tháng 11 cùng năm, và album được chính thức phát hành vào ngày 23 tháng 4 năm 2002. "Yankee Hotel Foxtrot" có được thành công thương mại cũng như chuyên môn vượt bậc, trở thành sản phẩm thành công nhất của họ với hơn 500.000 bản được tiêu thụ tại Mỹ và đứng đầu danh sách xếp hạng nổi tiếng Pazz and Jop của năm 2002. Album cũng có được vị trí số 13 tại "Billboard" 200. Những đánh giá chuyên môn thì tiếp tục kéo dài và đưa album trở thành một trong những sản phẩm xuất sắc nhất thập niên 2000 từ nhiều nguồn uy tín khác nhau, trong đó có vị trí số 3 trong danh sách của tạp chí danh tiếng "Rolling Stone". Đây là album đầu tiên của Wilco có sự tham gia của tay trống Glenn Kotche, song lại là album cuối cùng có sự góp mặt của nhạc sĩ đa nhạc cụ và người viết nhạc của nhóm, Jay Bennett. Năm 2012, "Yankee Hotel Foxtrot" được tạp chí "Rolling Stone" xếp hạng 493 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất". Danh sách ca khúc. Ca từ được viết bởi Jeff Tweedy; giai điệu được sáng tác và biên soạn bởi Jeff Tweedy và Jay Bennett, ngoại lệ được ghi chú bên.
{ "split": 0, "title": "Yankee Hotel Foxtrot", "token_count": 386 }
22,933
Title: Yaou Aïssatou Yaou Aïssatou (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1951) là Tổng Giám đốc của Tập đoàn Đầu tư Quốc gia của Cameroon (NIS). Bà cũng là Bộ trưởng Phụ nữ đầu tiên của Cameroon. Bà là con gái của lamido Tchéboa ở khu vực phía Bắc của Cameroon, nơi bà theo học trung học. Bà tiếp tục với chuyên ngành "Kỹ thuật Lycée" ở Douala, nơi bà đã có bằng tú tài vào năm 1971. Sau khi tốt nghiệp, bà theo học ngành kinh tế tại Đại học Rouen ở Pháp, lấy bằng cử nhân năm 1975. Bà đã phục vụ với NIS trở lại ở Cameroon trong một thời gian ngắn trước khi chuyển đến Hoa Kỳ để học tại Đại học Georgetown và Trường sau đại học Claremont, tốt nghiệp MBA. Khi trở về Cameroon vào năm 1979, bà đã gia nhập NIS với tư cách là Phó Giám đốc Tài chính. Vào tháng 2 năm 1984, bà được trao vị trí bộ trưởng đầu tiên của mình với tư cách là Bộ trưởng Bộ Phụ nữ đầu tiên của Cameroon. Bà đã thay thế Delphine Zanga Tsogo vào tháng 3 năm 1985 với tư cách là chủ tịch văn phòng quốc gia của Tổ chức Phụ nữ của Phong trào Dân chủ Nhân dân cầm quyền ở Cameroon và bà được thăng chức vào tháng 5 năm 1988 với vai trò là Bộ trưởng Bộ Xã hội và Phụ nữ, phục vụ cho đến tháng 4 năm 2000. Năm 2009, bà được bổ nhiệm bởi sắc lệnh của tổng thống với tư cách là người đứng đầu mới của NIS, thay thế Esther Dang Belibi.
{ "split": 0, "title": "Yaou Aïssatou", "token_count": 350 }
22,934
Title: Yate Town F.C. Yate Town F.C. là một câu lạc bộ bóng đá Anh tọa lạc ở Yate, Gloucestershire. Đội bóng được thành lập năm 1906 với tên gọi Yate Rovers và đổi tên thành Yate YMCA năm 1946, và trở thành Yate Town năm 1969. Đội chính đang thi đấu ở Southern Football League Division One South and West, nằm ở cấp độ 8 của hệ thống các giải bóng đá Anh, và đội dự bị chơi tại Gloucestershire County League nằm ở cấp độ 11. CLB là hội viên của Gloucestershire County FA. Lịch sử. Họ là thành viên sáng lập của Gloucestershire County League năm 1968, chuyển đến Hellenic League năm 1983. Sau 2 mùa giải ở Division One, họ thăng hạng lên Premier Division và sau 2 mùa giải đứng giữa bảng xếp hạng thì đội bóng vô địch Hellenic League trong 2 mùa giải, 1987–88 và 1988–89. Chức vô địch thứ 2 giúp họ giành quyền thăng hạng lên Southern League, và họ tiếp tục thi đấu cho đến năm 2000. Năm đó đội bóng xuống hạng lại Hellenic League trong 3 mùa giải trước khi được thăng hạng trở lại lên Southern League năm 2003, nơi mà họ vẫn thi đấu cho đến nay, thi đấu tại hạng đấu đầu tiên khi trở lại là Division One South & West level ở mùa giải 2009–10. Ngày 23 tháng 10 năm 2012, Yate đánh bại Newport County A.F.C. (sau đó là nhà vô địch của Conference Premier) 3–1 để vượt qua vòng loại FA Cup lần đầu tiên trong lịch sử. Các bàn thắng lịch sử được tạo nên bởi Tom Knighton, Scott Thomas và Matt Groves. Yate thi đấu với Cheltenham Town ở vòng 1. Cùng với Slough Town, Yate là đội bóng có cấp độ thấp nhất bước vào vòng đấu này. Trong các lần tham dự FA Vase họ vào đến vòng cho 16 đội mạnh nhất (vòng 5) ở mùa giải 1992–93, và gần đây là vòng cho 64 đội mạnh nhất (vòng 3) của FA Trophy mùa giải 2004–05.
{ "split": 0, "title": "Yate Town F.C.", "token_count": 442 }
22,935
Title: Yau gok Jau gok hoặc Yau gok hay bánh quai vạc (tiếng Hán:油角, tiếng Hán Việt: du giác, "bánh sừng (chiên) dầu") là một loại bánh thuộc Ẩm thực Hồng Kông của tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Nó phổ biến nhất vào những ngày Tết Trung Quốc và được tiêu thụ ở những vùng và cộng đồng nói tiếng Quảng Đông, trong đó có cả Hồng Kông và Malaysia. Nguồn gốc. Yau Gok có hình dạng như những cái thỏi vàng. Những cái bánh yau gok được làm ra giống như một loại tiền cổ của Trung Quốc (lượng vàng). Những người theo Đạo giáo quan niệm rằng khi ăn những chiếc bánh này sẽ đem lại tài lộc cho bạn. Trong một tài liệu được viết vào triều đại nhà Chu (1,056-256 B.C.E.), công thức làm yau gok đầu tiên được viết là: “ Lấy 2 phần cơm và một phần thịt, gấp lại rồi đem đi chiên.” Những nhà sử học không thể xác định được thời điểm xuất hiện của công thức, nhưng đa số họ đều đồng ý rằng đó chính là nguồn gốc của món ăn. Chuẩn bị. Những cái bành này trước kia được làm từ gạo nếp Sau khi tạo hình bánh, ta sẽ đem đi để chiên ngập dầu trong một cái wok. Nhân thịt. Những chiếc bánh yau gok nhân thịt thường được gọi là "haam gok zai" (, Hán Việt: hàm giác tử, "bánh sừng mặn"). Có rất nhiều loại nhân phổ biến dựa vào nền ẩm thực của một khu vực nào đó. Thịt lợn, lạp xưởng, nấm hương được sử dụng nhiều. Do trong nhân bánh gồm có thịt nên bánh hơi bị ngấy dầu. Nhân dừa. Phiên bản nhân dừa của món này được gọi là "tim gok zai" (, hàn việt: điềm giác tử, "bánh sừng ngọt"). Loại nhân truyền thống gồm có dừa sấy khô trộn với đường. Sau khi chiên, chiếc bánh sẽ rất giòn. Phiên bản này thích hợp cho những người ăn chay.
{ "split": 0, "title": "Yau gok", "token_count": 473 }
22,936
Title: Yeezus Yeezus là album phòng thu thứ sáu của nghệ sĩ hip hop và nhà sản xuất người Mỹ Kanye West. Nó được phát hành vào ngày 18 tháng 6 năm 2013 bởi Roc-A-Fella Records và Def Jam Recordings. Album bắt đầu được sản xuất trong một căn phòng khách ở một khách sạn tại Paris. Trong quá trình, West mời nhiều nghệ sĩ khác nhau và công tác viên để sản xuất album, bao gồm Mike Dean, Daft Punk, 88-Keys, No ID và Symbolyc One. "Yeezus" cũng có sự xuất hiện của các giọng hát khách mời từ Assassin và King L, cũng như nhiều công tác viên trước đây Justin Vernon, Frank Ocean, Chief Keef, Kid Cudi và Charlie Wilson. West tranh thủ sự giúp đỡ của nhà sản xuất Rick Rubin chỉ 15 ngày trước trước ngày bán. West lấy cảm hứng từ thiết kế tối giản, với sự quan tâm tới các tác phẩm của Le Corbusier, West cũng tới thăm bảo tàng Louvre nhiều lần khi ở Paris. Về âm nhạc, "Yeezus" đen tối và có nhiều âm thanh thử nghiệm, kết hợp các yếu tố của nhạc drill Chicago, dancehall, acid house, và industrial music. West tiếp tục sử dụng các đoạn nhạc mẫu bao gồm cả và đáng chú ý nhất, đoạn điệp khúc bị bóp méo của "Strange Fruit" do Nina Simone hát lại. West đã phát hành hai đã phát hành hai đĩa đơn từ album, "Black Skinhead" vào và "Bound 2" vào .
{ "split": 0, "title": "Yeezus", "token_count": 330 }
22,937
Title: Yeezus Album nhận được nhiều đánh giá cao từ nhà phê bình, xem "Yeezus" là một trong những tác phẩm hay nhất của West và ca ngợi sự khác biệt trong âm thanh so với các album trước đây của anh. Tuy nhiên, nó gặp phải phản ứng trái chiều từ công chúng, với nhiều ý kiến khác nhau sau khi album bị rò rĩ từ Internet bốn ngày trước khi phát hành. "Yeezus" đứng vị trí số một trên Billboard 200, bán được 327,000 bản trong tuần đầu được phát hành. Nó đứng đầu các bảng xếp hạng của 30 quốc gia khác, bao gồm cả Vương quốc Anh và Úc. Sau chưa đầy hai tháng phát hành, album đã được chứng nhận vàng bởi RIAA và sau đó bạch kim vào này 1 tháng 4 năm 2014. "Yeezus" được đề cử ở hai hạng mục tại lễ trao giải Grammy 2014 bao gồm cả cho "Album rap xuất sắc nhất".
{ "split": 1, "title": "Yeezus", "token_count": 195 }
22,938
Title: Yeidy Bosques Yeidy Enid Bosques Pérez (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1987) là một nữ hoàng sắc đẹp. Các cuộc thi sắc đẹp. Bosques tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Puerto Rico 2006 vào ngày 10 tháng 11 năm 2005.Cô đại diện cho Moca và lọt vào Top 13. Bốn năm sau, cô tiếp tục dự thi Hoa hậu Hoàn vũ Puerto Rico 2010 vào ngày 12 tháng 11 năm 2009. Lần này, cô đại diện cho Mayagüez và đoạt ngôi vị Á hậu 3. Ngày 22 tháng 4 năm 2010, cô tham dự Hoa hậu Trái Đất Puerto Rico 2010 và đoạt vương miện. Cô đại diện cho Mayagüez. Cô đến Nha Trang, Việt Nam tham dự Hoa hậu Trái Đất 2010 với tư cách là đại diện của Puerto Rico Cuối cuộc thi, cô được trao vương miện Hoa hậu Lửa (tức Á hậu 3).
{ "split": 0, "title": "Yeidy Bosques", "token_count": 192 }
22,939
Title: Yemi Alade Yemi Eberechi Alade (sinh ngày 13 tháng 3 năm 1989), còn gọi tắt là Yemi Alade, là một ca sĩ và nhạc sĩ người Afropop, Nigeria. Cô đã nổi tiếng sau khi thắng được chương trình Tài năng Đỉnh cao năm 2009, và được biết đến với đĩa đơn hit "Johnny". Cuộc đời. Yemi Eberechi Alade sinh ngày 13 tháng 3 năm 1989 tại Abia State, Nigeria. Cha cô, James Alade, có nguồn gốc từ Yoruba trong khi mẹ cô, Helen Uzoma, có nguồn gốc Igbo, kết quả là cô được gọi là "cô gái Yoruba-Igbo". Alade là người thứ năm trong số bảy người con trong gia đình cô. Cô theo học trường tiểu học St Savior British, sau đó tiếp tục học tại Trường Ngữ pháp Victory ở Lagos, trước khi lấy bằng về Địa lý tại Đại học Lagos. Nghề nghiệp ca sĩ. Alade xuất hiện lần đầu trong một nhóm nhạc nữ Ally Girl vào năm 2005, nhưng âm nhạc của cô trở nên phổ biến rộng rãi sau khi cô giành được giải thưởng Tài năng Đỉnh cao vào năm 2009. Sau đó cô phát hành đĩa đơn đầu tiên "Fimisile" dưới tên Jus 'Kiddin'. Năm 2012, cô đã ký hợp đồng với hãng nhạc Effyzzie Music Group và phát hành đĩa đơn "Ghen Ghen Love". Vào tháng 7 năm 2013, Alade phát hành video cho bài hát R & B lãng mạn của cô "Bamboo", do Fliptyce sản xuất. "Bamboo" tiếp tục là một hit trung bình và là một bài hát đám cưới phổ biến. Trong quý cuối cùng của năm 2013, đĩa đơn của cô, "Johnny", do Selebobo sản xuất, đã bị rò rỉ trên internet. Bài hát đã trở thành một hit quốc tế ở Tanzania, Kenya, Ghana, Nam Phi, Liberia, Uganda, Zimbabwe, và Vương quốc Anh, và một số quốc gia khác. Vào thời điểm nó không có video âm nhạc đi kèm. Alade đã được giới thiệu trên bìa của một số tạp chí và biểu diễn trên khắp thế giới, hát chung các bài hát với Mary J. Blige, Shina Peters, M.I, Wizkid, Becca, May D, Waje và Yemi Sax. 
{ "split": 0, "title": "Yemi Alade", "token_count": 499 }
22,940
Title: Yemi Alade Vào năm 2014, Alade đã xuất hiện trên bản "Lights" của Yung6ix, cũng như bản phối lại của "Sebiwo" của ngôi sao nổi tiếng Benropop của Beninese. Alade hợp tác với nhà quay phim Clarence Peters để tạo một video âm nhạc cho "Johnny", được phát hành vào tháng 3 năm 2014 và đã được đánh giá cao và hiện có hơn 91 triệu lượt xem trên YouTube, tính đến tháng 6 năm 2018. Alade tham gia cùng với M.I, Waje, Timi Dakolo và Burna Boy hát bài hát chủ đề cho Port Harcourt, Thủ đô Sách Thế giới năm 2014 của UNESCO, như một phần của dự án kêu gọi những người trẻ tuổi đọc sách và ở lại trường. Ngay sau đó, Alade phát hành một đĩa đơn mới mang tên "Tangerine", có bài hát Selebobo; bài hát phổ biến trên khắp châu Phi. Cô xuất hiện như một nghệ sĩ khách mời trong album đầu tay của Falz. Cô phát hành album đầu tay, King of Queens, vào ngày 2 tháng 10 năm 2014, và sau đó đi lưu diễn. Alade sau đó phát hành album phòng thu thứ hai, có tiêu đề Mama Africa, vào tháng 3 năm 2016.
{ "split": 1, "title": "Yemi Alade", "token_count": 266 }
22,941
Title: Yemisi Aribisala Yemisi Aribisala (sinh ngày 27 tháng 4 năm 1973) là một nhà tiểu luận, nhà văn và nhà hồi ký ẩm thực người Nigeria. Cô được mô tả là người có "chất giọng không sợ hãi, dí dỏm và không biện giải", được Sarah Ladipo Manyika nêu tên là một trong bảy chất giọng quốc tế mới và táo bạo. Aribisala nổi tiếng với công việc của mình trong việc ghi lại nét ẩm thực Nigeria như một điểm khởi đầu cho những suy nghĩ và hiểu biết về văn hóa xã hội. Cuốn sách đầu tiên của cô, "Longthroat Memoirs: Soups, Sex, and the Nigerian Taste Buds" đã giành giải thưởng John Avery tại Giải thưởng Sách André Simon 2016. Cô hiện đang sống ở Cape Town, Nam Phi với người con của mình. Cuộc sống và sự nghiệp. Aribisala theo học tại Đại học Wolverhampton, Vương quốc Anh, nơi cô có bằng luật năm 1995. Sau đó, cô lấy được bằng thạc sĩ về Legal Aspects of Maritime Affairs and International Transport (các Khía cạnh Pháp lý Vấn đề Hàng hải và Vận tải Quốc tế) từ Đại học Wales, Cardiff, vào năm 1997. Viết lách. Cô là chủ bút sáng lập ấn phẩm văn học và văn hóa Nigeria "Tạp chí Farafina" Từ năm 2009 đến 2011, bà đảm nhận chuyên mục ẩm thực cho tờ báo 234Next, nơi bà lần đầu tiên được đọc giả chú ý dưới cái tên "Yẹ́misí Ogbe". Cô thường xuyên đóng góp các ấn phẩm văn học, bao gồm cả "Chimurenga Chronicle", một tờ báo văn hóa tiên phong.
{ "split": 0, "title": "Yemisi Aribisala", "token_count": 369 }
22,942
Title: Yesünto'a Yesünto'a là con của Mutukan, và là cháu trai của Sát Hợp Đài, người sáp lập Hãn quốc Sát Hợp Đài. Là anh trai của Yesü Möngke và Baidar. Cháu trai của ông là Alghu (con của Baidar) và em trai ông là Yesu Mongke, cả hai đều là Hãn của Hãn quốc Sát Hợp Đài. Ông là cha của Hà Lạt Húc Liệt, Hãn của Sát Hợp Đài (1242-1246, 1252) và Baraq, Hãn của Sát Hợp Đài (1266–1271). Phả hệ của Hãn quốc Sát Hợp Đài. Trong Babur Nama được viết bởi Babur, Trang 19, Chương 1; mô tả phả hệ của Hãn Yunus: "Hãn Yunus là hậu duệ của Hãn Sát Hợp Đài, Hãn Sát Hợp Đài con trai thứ hai của Thành Cát Tư Hãn.(theo phả hệ như sau) Hãn Yunus là con trai của Hãn Uwais, Hãn Uwais là con trai của Sher-'ali Aughlon, Sher-'ali Aughlon con trai của Hãn Muhammad, Hãn Muhammad là con trai của Hãn Khizr Khwaja, Hãn Khizr Khwaja là con trai của Hãn Tughluq-timur, Hãn Tughluq-timur là con trai của Hãn Aisan-bugha, Hãn Aisan-bugha là con trai của Hãn Duwa, Hãn Duwa là con trai của Hãn Baraq, Hãn Baraq là con trai của Hãn Yesü Nto'a, Hãn Yesü Nto'a là con trai của Mutukan, Mutukan con trai của Hãn Sáp Hợp Đài, Hãn Sáp Hợp Đài con trai của Thành Cát Tư Hãn" Genealogy of Abdul Karim Khan. Theo Tarikh-i-Rashidi của Mirza Muhammad Haidar Dughlat "Chughtai Khanates" Một dự án nghiên cứu của Dr Abdul Rauf Mug
{ "split": 0, "title": "Yesünto'a", "token_count": 474 }
22,943
Title: Yevgeny Viktorovich Prigozhin Yevgeny Prigozhin (tiếng Nga: "Евгений Викторович Пригожин"; sinh ngày 01 tháng 6 năm 1961) là một nhà Tài phiệt Nga, chỉ huy lính đánh thuê Wagner. Ông Prigozhin đôi khi được gọi là "đầu bếp của Putin" vì ông này đã từng sở hữu các nhà hàng và công ty cung cấp dịch vụ ăn uống cho Điện Kremlin. Từng là một tù binh chiến tranh trong thời kỳ Liên Xô nhưng Prigozhin hiện đã kiểm soát một mạng lưới các công ty có ảnh hưởng bao gồm một công ty lính đánh thuê do nhà nước Nga hậu thuẫn là Tập đoàn Wagner và ba công ty vốn đã bị cáo buộc can thiệp vào cuộc bầu cử năm 2016 và bầu cử năm 2018 của Hoa Kỳ. Theo một cuộc điều tra năm 2022 của các hãng thông tấn phương Tây là "Bellingcat", "The Insider" và "Der Spiegel" thì các hoạt động của trùm Prigozhin "được phối kết hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng Nga và cơ quan tình báo GRU". Sau nhiều năm phủ nhận mối liên hệ của mình với Wagner, cuối cùng ông đã thừa nhận rằng mình chính là người sáng lập tổ chức đánh thuê khét tiếng này vào ngày 26 tháng 9 năm 2022. Ông ấy thú nhận rằng đã thành lập lực lượng này vào tháng 5 năm 2014, để hỗ trợ các lực lượng Nga trong cuộc chiến ở Donbass. Việc thừa nhận này được đăng tải trên một video lan truyền trong đó Prigozhin xuất hiện trong một nhà tù Mari El đang chiêu mộ các tù nhân, hứa hẹn trả tự do cho họ nếu họ phục vụ sáu tháng trong Tập đoàn Wagner. Trùm Prigozhin, các công ty và cộng sự của ông ấy từng phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt kinh tế và cáo buộc hình sự ở Hoa Kỳ và ở Vương quốc Anh, ông này vẫn là người phải chịu các lệnh trừng phạt. FBI đã ra quyết định treo thưởng 250.000 đô la cho những ai cung cấp được thông tin liên quan đến Prigozhin để phục vụ cho việc bắt giữ ông. Tuy nhiên, về sau Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã dỡ bỏ các lệnh trừng phạt nhắm vào Prigozhin sau khi biết tin ông này "có xảy ra mâu thuẫn với giới lãnh đạo Nga".
{ "split": 0, "title": "Yevgeny Viktorovich Prigozhin", "token_count": 506 }
22,944
Title: Yevgeny Viktorovich Prigozhin Prigozhin công khai chỉ trích Bộ Quốc phòng Nga tham nhũng và yếu kém trong cuộc chiến chống Ukraina. Vào ngày 23 tháng 6 năm 2023, Prigozhin chính thức phát động cuộc nổi dậy chống lại giới lãnh đạo quân sự Nga và sau đó cùng ngày, Prigozhin đã tuyên bố rằng lực lượng Wagner của ông đã chiếm được Rostov-on-Don trước khi có ý định tấn công Moskva. Sau khi nhận được tin trên, giới lãnh đạo Nga đã ra lệnh khởi tố, bắt tạm giam Prigozhin; Các cuộc đàm phán dẫn đến cuộc nổi loạn dừng lại vào ngày hôm sau. Prigozhin đồng ý chuyển đến Belarus và các cáo buộc hình sự đối với ông vì tội nổi loạn đã được bãi bỏ. Cáo buộc binh biến đối với Wagner sẽ được đình chỉ nếu họ đồng ý ký hợp đồng với Bộ Quốc phòng Nga hoặc chuyển đến Belarus. Thời trẻ. Prigozhin sinh ra và lớn lên ở Leningrad (nay là Saint Petersburg) ở Liên Xô vào ngày 1 tháng 6 năm 1961, Mẹ của cậu, Violetta Kirovna Prigozhina, là y tá bệnh viện. Cha của cậu, Viktor Yevgenyevich Prigozhin, là một kỹ sư khai thác mỏ, qua đời khi Yevgeny mới 9 tuổi. Ông nội của cậu, Yevgeny Ilyich Prigozhin, là đại úy trong Hồng quân trong thế chiến II, được trao Cờ đỏ sau khi chiến đấu trong trận Rzhev. Bố cậu mất sớm nên mẹ của cậu phải làm việc tại một bệnh viện địa phương để nuôi cậu và bà ngoại ốm yếu. Cha và cha dượng của cậu là người gốc Do Thái. Cha dượng của cậu, Samuyil Fridmanovich Zharkoy, là một huấn luyện viên trượt tuyết và đã giới thiệu Prigozhin với trượt tuyết băng đồng. Mong muốn trở thành vận động viên trượt tuyết chuyên nghiệp, cậu tốt nghiệp trường nội trú thể thao Leningrad số 62 năm 1977. Tuy nhiên, cậu đã từ bỏ sự nghiệp thể thao của mình sau một chấn thương. Sau đó, cậu làm huấn luyện viên thể dục tại một trường thể thao dành cho trẻ em.. Tiền án tiền sự.
{ "split": 1, "title": "Yevgeny Viktorovich Prigozhin", "token_count": 479 }
22,945
Title: Yevgeny Viktorovich Prigozhin Vào tháng 11 năm 1979, Prigozhin, 18 tuổi, bị kết án 2,5 năm tù treo vì tội trộm cắp vặt, anh ta thụ án khi làm việc tại một nhà máy hóa chất. Hai năm sau, vào năm 1981, anh ta lại bị bắt quả tang đang ăn cắp và bị kết án 12 năm tù vì tội cướp, lừa đảo và lôi kéo thanh thiếu niên phạm tội. Anh ta và một số đồng phạm bị kết tội cướp căn hộ ở những khu dân cư cao cấp. Anh ta được ân xá vào năm 1988, và được trả tự do vào năm 1990. Tổng cộng, anh ta đã trải qua chín năm bị giam giữ.
{ "split": 2, "title": "Yevgeny Viktorovich Prigozhin", "token_count": 156 }
22,946
Title: Yevhen Konoplyanka Yevhen Olehovych Konoplyanka (; sinh ngày 29 tháng 9 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina chơi ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ CFR Cluj tại Liga I và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina. Anh ấy bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình tại Dnipro Dnipropetrovsk, nơi anh ấy ra mắt vào năm 2007 và góp mặt trong 211 trận đấu trên tất cả các cuộc thi, ghi 45 bàn và giúp họ vào Chung kết UEFA Europa League 2015. Sau đó, anh chuyển đến đội bóng đã thắng trận đấu đó,Sevilla FC, dưới dạng chuyển nhượng tự do và giành được UEFA Europa League trong mùa giải duy nhất của anh ở Tây Ban Nha trước khi gia nhập FC Schalke 04, ban đầu được cho mượn. Một quốc tế đầy đủ kể từ năm 2010, Konoplyanka đã kiếm được ra sân hơn 80 lần cho Ukraine và ghi được 21 bàn thắng quốc tế. Anh chơi cho Ukraina ở Euro 2012 và Euro 2016, và là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Ukraina.
{ "split": 0, "title": "Yevhen Konoplyanka", "token_count": 231 }
22,947
Title: Yevpatoria Yevpatoria (tiếng Ukraina: Євпаторія, tiếng Nga: Евпатория, tiếng Tatar Krym: Kezlev, tiếng Hy Lạp: Ευπατορία, Κερκινίτις - Eupatoria, Kerkinitis, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Gözleve, tiếng Armenia: Եվպատորիա - Yevpatoria) là một thành phố Nga, hiện do Nga quản lí. Thành phố thuộc tỉnh Krym. Dân số theo điều tra năm 2012 là 123.777 người. Thành phố có diện tích km2. Khu định cư đầu tiên ở khu vực có tên gọi là Kerkinitis (Κερκινίτης), được xây dựng bởi thực dân Hy Lạp khoảng 500 trước Công nguyên. Cùng với phần còn lại của Crimea, Kerkinitis là một phần của DOMINIONI của Mithridates VI, Vua của Pontus, mà từ tên riêng ông, Eupatoria, thành phố được đặt tên theo.
{ "split": 0, "title": "Yevpatoria", "token_count": 209 }
22,948
Title: Yitzchak Abadi Yitzchak Abadi (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1933) là một Rabbi Do thái chính thống và là một Posek và là một nhà lãnh đạo nổi bật của Đạo Do Thái Chính thống ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Năm đầu đời. Rabbi Abadi sinh ra ở Venezuela và cùng với cha mẹ của Rabbi Abadi di chuyển đến Tiberias, Israel vào năm 2 tuổi. Sự nghiệp học hành của Rabbi Abadi bắt đầu ở Tel-Aviv, Israel và tiếp tục ở Yeshivat Chevron ở Jerusalem. Năm 19 tuổi, Rabbi Abadi được Chazon Ish gửi đến học tại Lakewood, NJ, dưới sự cai quản của Rabbi Aharon Kotler nổi tiếng . Sự ảnh hưởng. Rabbi Abadi là một posek, và các đệ tử của ông là rabbis trên toàn cầu thế giới. Sau cái chết của Rav Kotler, Rabbi Abadi nổi lên như một người tiên phong hàng đầu cho toàn thể cộng đồng Lakewood. Rabbi Abadi đã tự tách riêng thành lập môn phái riêng của ông vào năm 1980, mở một buổi ra mắt kollel halacha ở Lakewood. Vào năm 1993, Rabbi Abadi đã chuyển kollel của ông tới Har Nof, Jerusalem, nơi nó tiếp tục tạo ra các vị học giả được đào tạo để quyết định những câu hỏi phức tạp về halachic đụng đến mọi khía cạnh của luật Do Thái. Rabbi Abadi chuyển về Lakewood trong năm 2009. Các quyết định đáng chú ý. Do sự nổi bật tiếng tăm lẫy lừng của ông là một posek, Rabbi Abadi đã được hỏi những câu hỏi khó khăn nhất, trong đó ông đưa ra một số quyết định sáng tạo và mang đầy tính tranh cãi. Ví dụ, phán quyết của ông cho phép viết một torah sefer qua một quy trình màn hình lụa và một phán quyết gần đây rằng tóc giả được làm bằng tóc Ấn Độ có thể được sử dụng. Rav Abadi cũng viết một phiên bản ngắn của Birkat Hamazon dựa trên Rambam và các Rishonim khác. Rav Abadi, cùng với Rabbi Ralbag của Tam giác K, là những Rabbi chính thống duy nhất xác nhận các loại thịt quốc gia của Hebrew như là thực phẩm kosher, mặc dù không phải là glatt kosher. Tác phẩm. Ohr Yitzchak Vol 1 Ohr Yitzchak Vol 2
{ "split": 0, "title": "Yitzchak Abadi", "token_count": 507 }
22,949
Title: Yitzchak Abadi Booklet on Niddah Laws Birkat Hamazon Hakatzar (based on the views of the Rambam and the other Rishonim)
{ "split": 1, "title": "Yitzchak Abadi", "token_count": 39 }
22,950
Title: Yodo-dono Yodo-Dono (Kana: よどどの; chữ Hán: 淀殿; Hán Việt: Điến Điện; 1569 - 4 tháng 6 năm 1615), còn được gọi là và đôi khi là Đại Ngu viện (大虞院) hoặc Đại Quảng viện (大廣院), là một trong các thiếp được sủng ái nhất của Toyotomi Hideyoshi, sau chính thất Nene. Trong thời đại Edo, bà thường được gọi là "Yodo-Gimi", một cái tên làm giảm phẩm giá của bà. Yodo-Dono nổi tiếng bởi xuất thân và gia thế, cũng như việc bà trở thành người được Toyotomi Hideyoshi, người đàn ông quyền lực nhất lúc bấy giờ, sủng ái và mê đắm. Trong văn hóa người Nhật, bà thường được cho là một "yêu cơ" mê hoặc đàn ông, và thường bị lên án vì dẫn đến sự diệt vong của gia tộc Toyotomi. Tiểu sử. Yodo-Dono bổn danh là Thiển Tỉnh Trà Trà (淺井茶茶; "Azai ChaCha"), con gái của Azai Nagamasa (淺井長政; Thiển Tỉnh Trường Chính) và Oichi, em gái của Oda Nobunaga. Theo vai vế, bà là cháu gọi Oda Nobunaga bằng cậu. Bà sinh vào khoảng năm 1569, tại Tỉnh Ōmi, bên trong thủ phủ Tiểu Cốc thành (小谷城; おだにじょう). Trong nhà bà còn có 2 em gái là Ohatsu và Oeyo, những người về sau cũng trở thành các quý phu nhân ảnh hưởng trong lịch sử Nhật Bản. Ngoài ra, bà còn có một người em trai duy nhất là Manjumaru. Năm 1570, Azai Nagamasa phá vỡ liên minh với Oda Nobunaga và chiến tranh 3 năm liền cho đến năm 1573, khi quân đội của Nobunaga bao vây Nagamasa tại lâu đài Odani. Trước khi hạ thành, Nobunaga đã gửi tối mật thư đòi em gái là Oichi phải trở về an toàn cùng với 3 người con gái. Lâu đài Odani thất thủ, cha và em trai của bà tự sát bằng seppuku.
{ "split": 0, "title": "Yodo-dono", "token_count": 481 }
22,951
Title: Yodo-dono Cái chết của Nobunaga năm 1582 khiến lộ ra sự thù địch giữa Shibata Katsuie và Toyotomi Hideyoshi về vấn đề kế vị. Theo kế sách của Oda Nobutaka, mẹ của ChaCha là Oichi kết hôn với Shibata Katsuie, nhằm thiết lập sự ràng buộc giữa Katsuie và gia tộc Oda. Tuy nhiên ngay sau đó, quân đội của Katsuie bị đánh bại trong trận Shizugatake. Khi bị vây hãm ở Lâu đài Kitanosho, Katsuie khuyên Oichi đưa 3 người con gái đi trốn thoát, nhưng Oichi chỉ sai người đưa ba con gái đi trốn, còn bản thân bà cùng Katsuie quyết định chết cháy khi lâu đài bị phóng hỏa. Trước khi qua đời, Oichi viết thư nhờ Hideyoshi chăm sóc Chacha cùng với hai người chị em khác của bà. Dưới sự bảo hộ của Toyotomi Hideyoshi, ChaCha lớn lên trong yên bình cùng 2 người em gái, và Toyotomi Hideyoshi nhận ChaCha làm con nuôi. Tuy nhiên, càng lớn ChaCha càng đẹp và quyến rũ, và Toyotomi Hideyoshi đã quyết định nạp ChaCha làm thiếp của mình. Khi đó, ông đã có chính thất là Phu nhân Nene, xuất thân từ một gia đình daimyo có gia thế lớn. Thiếp của Hideyoshi. Azai ChaCha trở thành thiếp của Hideyoshi và sau đó chuyển đến lâu đài Yodo, từ đó bà được gọi là Yodo-Dono vì lẽ đó. Vợ của Hideyoshi, Phu nhân Nene vốn không thể sinh nở, do đó phu nhân Yodo-Dono được thừa hưởng nhiều đặc quyền của bà. Bà có hai con trai với Hideyoshi, Toyotomi Tsurumatsu, bị chết trẻ, và Toyotomi Hideyori, sinh vào năm 1593, người trở thành người thừa kế hợp pháp của Hideyoshi.
{ "split": 1, "title": "Yodo-dono", "token_count": 422 }
22,952
Title: Yodo-dono Năm 1594, gia tộc Toyotomi chuyển đến lâu đài Fushimi, nhưng bi kịch ập đến khi Hideyoshi qua đời năm 1598 và gia tộc Toyotomi mất đi phần lớn ảnh hưởng và vị thế của mình. Yodo-Dono chuyển đến lâu đài Osaka với con trai Hideyori, âm mưu việc phục hồi lại gia tộc Toyotomi. Sau khi Hideyoshi qua đời, bà nhận pháp hiệu Đại Quảng viện (大廣院), sau đổi thành Đại Ngu viện (大虞院). Tokugawa Ieyasu, người năm quyền kiểm soát từ Hideyori sau cái chết của cha cậu bé, giờ xem Hideyori như vật cản trên con đường thống nhất Nhật Bản. Đại thần Ishida Mitsunari thấy được nguy cơ của Tokugawa và gây chiến với ông ta, tạo nên trận Sekigahara. Tuy nhiên, Mitsunari thất bại và bị giết chết, Tokugawa sau đó thành lập cơ sở của mình tại Thành Edo. Năm 1614, Tokugawa Ieyasu bắt đầu tấn công Thành Osaka để tiêu diệt gia tộc Toyotomi. Mặc dù quân của Toyotomi chỉ bằng nửa quân số của Tokugawa, nhưng họ đã đánh bật được 200.000 lính của Tokugawa và bảo vệ được vòng thành phía ngoài của lâu đài. Tuy nhiên, Tokugawa tìm cách khóa tay Toyotomi lại bằng cách lấp các con hào bảo vệ lâu đài, làm cho nó mất đi khả năng phòng thủ của mình. Thấy tình hình không có lợi, Tokugawa Ieyasu quyết định ký hòa ước với Hideyori. Tự sát. Năm 1615, vào mùa hạ, Tokugawa Ieyasu tiến hành Cuộc vây hãm Ōsaka, Thành Osaka bị Tokugawa bao vây nhiều tháng trời. Yodo-Dono và con trai Hideyori, cùng các đại thần Ōno Harunaga và Ōkurakyōnotsubone tự sát, kết thúc triều đại của gia tộc Toyotomi.
{ "split": 2, "title": "Yodo-dono", "token_count": 435 }
22,953
Title: Yodo-dono Yodo-Dono qua đời ngày 4 tháng 6 năm 1615, hưởng thọ 49 tuổi. Bà sau đó được an táng tại Thái Dung tự (太融寺), có pháp hiệu đầy đủ là Đại Quảng viện điện anh nham (大廣院殿英巖); Đại Ngu viện anh nghiêm đại thiện định ni (大虞院英嚴大禪定尼) và Đại Ngu viện hoa nhan diệu hương (大虞院花顏妙香). Văn hóa đại chúng. Người ta nói rằng, phu nhân Yodo-Dono đã ngoại tình với rất nhiều chư hầu của Toyotomi, hai người nổi tiếng nhất là Ishida Mitsunari và Oono Harunaga, cả hai đều rất trung thành với Hideyori. Những sự suy đoán lan rộng vì Hideyoshi không có con với vợ và các thê thiếp khác của mình và có một người vô sinh. Bà đôi khi bị coi là một người phụ nữ đáng ghét, người làm mê đắm Toyotomi Hideyoshi, chiếm mất vị trí đáng ra thuộc về vợ của Toyotomi Hideyoshi, và cố điều khiển gia tộc Toyotomi để phục vụ cho lợi ích của mình, gián tiếp dẫn đến sự diệt vong của toàn gia tộc. Tuy nhiên, nhiều người tin rằng những lời buộc tội chống lại bà thực ra là một chiến dịch tuyên truyền được khuyến khích bởi Mạc phủ Tokugawa. Vì phu nhân Yodo—Dono là người bảo hộ cho Toyotomi Hideyori trẻ tuổi, người thực chất đang lãnh đạo Thành Osaka và gia tộc Toyotomi, việc bôi nhọ hình ảnh của bà sẽ giúp đỡ cho việc Tokugawa dễ khai mào chiến tranh với các hành động quân sự chống lại lâu đài Osaka.
{ "split": 3, "title": "Yodo-dono", "token_count": 374 }
22,954
Title: Yodo-dono Yodo Gimi xuất hiện trong bản tiếp theo của seri game Onimusha Capcom, Onimusha: Dawn of Dreams, với vai trò là thiếp của Toyotomi Hideyoshi và chị của nhân vật chơi được O-Hatsu, người gọi âu yếm Yodo bởi tên thuở nhỏ của bà, "Cha-Cha". Bà bị chuyển thành Genma Mother Tree, và được thay thế bằng Ophelia, người giả dạng làm bà. Ophelia, Genma High Priestess, là thành viên của Genma Triumvirate, với mục đích cuối cùng là làm sống lại Genma/Demon God of Light Fortinbras bằng cách sử dụng Hideyoshi làm vỏ ngoàil. Yodo được Soki và những người bạn giải cứu, và chạy trốn khỏi lâu đài Fushimi. Vào cuối game, ta thấy Yodo nay sống với em gái O-Hatsu của mình. Bà cũng xuất hiện trong tiểu thuyết Shogun của James Clavell với tên gọi "phu nhân Ochiba", người không ưa Toranaga (Tokugawa Ieyasu) vì ông biết con trai bà không phải là con của Taikō (Toyotomi Hideyoshi). Tuy nhiên, bà ngưỡng mộ và tin vợ góa của Taikō, Yodoko (Nene), người khuyên bà và Toranaga kết hôn để Nhật Bản vẫn có thể thống nhất, và khi người thừa kế, Yaemon (Toyotomi Hideyori) đến tuổi trưởng thành, cậu có thể nhận quyền thống trị một cách an toàn. Trong tiểu thuyết tiếp theo của James Clavell, cũng giống trong lịch sử, Toronaga cuối cùng giam Ochiba và Yaemon trong lâu đài, yêu cầu họ tự sát.
{ "split": 4, "title": "Yodo-dono", "token_count": 372 }
22,955
Title: Yosakoi Yosakoi (よさこい) là một phong cách nhảy bắt nguồn từ Nhật Bản và được trình diễn ở các lễ hội và sự kiện ở nước này. Lễ hội Yosakoi đầu tiên được tổ chức vào năm 1954 ở tỉnh Kochi. Phong cách nhảy Yosakoi được trải dài và phổ biến rộng khắp ở nước Nhật. Phong cách nhảy rất tràn đầy năng lượng, kết hợp với các động tác nhảy truyền thống Nhật Bản và nhạc hiện đại. Nhảy choreography yosakoi thường được diễn ra ở các đội lớn hơn. Hiện tại có nhiều đội yosakoi chuyên nghiệp tại các trường và thị trấn, yosakoi cũng nổi tiếng tại các lễ hội thể thao được tổ chức tại các trường tiểu học, trung học, và cao trung Nhật Bản. Những người tham gia nhảy yosakoi bao gồm nam và nữ ở mọi độ tuổi – thỉnh thoảng trong một đội duy nhất. Trang phục và "naruko". Các trang phục được dùng bởi các đội yosakoi rất đa dạng. Áo khoác Happi và yukata là những trang phục. Tuy nhiên, một vài nhóm khác chọn các trang phục dựa trên sự kiện lịch sử, các mốt nổi tiếng, hoặc văn hóa dân tộc. Tất cả các thành viên trong cùng một nhóm đều phải mặc trang phục giống nhau. Một khía cạnh khác của điệu nhảy yosakoi là "naruko": một vật bằng gỗ có cán cầm để đập hoặc lắc phát ra âm thanh. "Naruko" từng được dùng bởi người dân ở tỉnh Kōchi để đuổi chim chóc ra khỏi ruộng lúa. Một "naruko" truyền thống có màu đen vàng ở phần thân, nhưng hầu hết các nhóm yosakoi hiện đại đều tạo ra "naruko" của riêng mình, chọn màu hoặc chất liệu phù hợp với trang phục của họ. Việc sử dụng "naruko" là cần thiết cho điệu nhảy yosakoi, nhưng nhiều nhóm khác cũng sử dụng các nhạc cụ như trống hoặc cờ. Yosakoi Naruko Dancing.
{ "split": 0, "title": "Yosakoi", "token_count": 428 }
22,956
Title: Yosakoi Điệu nhảy yosakoi được dựa trên một bài hát có tên là "Yosakoi Naruko Dancing", được viết bởi Eisaku Takemasa. Bài hát là sự kết hợp các yếu tố của ba bài hát: "Yosakoi-bushi" ("giai điệu yosakoi"), "Yocchore" (bài hát trẻ em), và "Jinma-mo" (nhạc dân gian của tỉnh Kōchi). Các cuộc thi gốc ở tỉnh Kōchi bắt buộc nhạc của các nhóm nhảy có một hoặc vài phần của bài hát gốc. Các cuộc thi và lễ hội được tổ chức ở các nơi khác không cần phải có điều kiện này (mặc dù cho phép mỗi nhóm tự biên soạn bài nhạc của mình), hoặc phải bao gồm các yếu tố truyền thống hoặc nhạc gian dân gian của nơi đó. Takemasa cho phép bài hát "Yosakoi Naruko Dancing" được trình diễn bởi công chúng. "Yosakoi Naruko Dance" do Eisaku Takemasa sáng tác, tựa dịch Tiếng Anh từ Youtube Takeaki Mitsunaga ヨッチョレヨ ヨッチョレヨ / Yotchoreyo Yotchoreyo ヨッチョレ ヨッチョレ ヨッチョレヨ / Yotchore Yotchore Yotchoreyo ヨッチョレ ヨッチョレ ヨッチョレヨ / Yotchore Yotchore Yotchoreyo 高知の城下へ来てみいや(ソレ)/ Come to near Kochi castle / Hãy tới gần kinh thành Kochi じんまも ばんばも よう踊る / Grandfather and grandmother are dancing well / Ông bà đang nhảy rất tốt 鳴子両手に よう踊る よう踊る / Dancing well holding Naruko in hands / Nhảy thật hay cầm Naruko trong tay 土佐のー(ヨイヤサノ サノ サノ) 高知の はりまや橋で(ヨイヤサノ サノ サノ)/ Near the Harimaya bridge in Kochi known as Tosa / Gần cầu Hariyama ở Kochi là Tosa 坊さん かんざし買うをみた(ソレ)/ A monk is buying a hairpin / Người thầy chùa đang mua kẹp tóc
{ "split": 1, "title": "Yosakoi", "token_count": 508 }
22,957
Title: Yosakoi よさこい よさこい(ホイ ホイ)/ Yosakoi Yosakoi hoi hoi 二、(※くり返し)/ Verse 2 御畳瀬(ヨイヤサノ サノ サノ) 見せましょ 浦戸を開けて(ヨイヤサノ サノ サノ)/ Lets show Mimase. By opening Urato / Hãy xem Mimase. Bằng cách mở Urato 月の名所は 桂浜(ソレ)/ The famous location to see the moon is Katsurahama / Địa điểm nổi tiếng để ngắm mặt trăng là Katsurahama よさこい よさこい(ホイ ホイ)/ Yosakoi Yosakoi hoi hoi 三、(※くり返し) 土佐のー(ヨイヤサノ サノ サノ) 名物 さんごに 鯨(ヨイヤサノ サノ サノ) 紙に 生糸に かつお節(ソレ) よさこい よさこい(ホイ ホイ) 四、(※くり返し) 言うたち(ヨイヤサノ サノ サノ) いかんちや おらんくの 池にゃ(ヨイヤサノ サノ サノ) 潮吹く 魚が 泳ぎよる(ソレ) よさこい よさこい(ホイ ホイ) Yosakoi Matsuri. Yosakoi Matsuri ("lễ hội yosakoi") là một lễ hội ở thành phố Kōchi, Nhật Bản. Đây là lễ hội yosakoi gốc: sự kiện được diễn ra vào mỗi tháng 8 kể từ năm 1954. Tại lễ hội này, mỗi nhóm nhảy và đám đông nhảy "yosakoi naruko dance" cùng nhau. Số lượng người tham gia tăng dần theo mỗi năm: vào năm 2005 có hơn 10,000 người tham gia vào cuộc thi mỗi năm. Nguyên tắc cuộc thi yosakoi của tỉnh Kōchi bao gồm: Sự nổi tiếng của Yosakoi.
{ "split": 2, "title": "Yosakoi", "token_count": 463 }
22,958
Title: Yosakoi Từ khi được giới thiệu vào năm 1954, yosakoi đã trở nên nổi tiếng khắp Nhật Bản. Lễ hội Yosakoi-Soran bây giờ được tổ chức chức ở khắp Nhật Bản xuyên suốt trong năm từ ngôi làng nhỏ có vài nhóm nhảy, cho đến một thành phố lớn như Sendai, được tổ chức lễ hội Michinoku Yosakoi Festival, lễ hội lớn thứ ba tại Nhật Bản. Vào năm 2005, lễ hội và cuộc thi yosakoi được diễn ra hơn 200 địa điểm. Bộ phim có điệu nhảy yosakoi như là "The Harimaya Bridge", được quay tại tỉnh Kōchi. Sêri manga năm 2011, "Hanayamata", được chuyển thể anime vào tháng 7 năm 2014, cũng tập trung vào điệu nhảy yosakoi. Quốc tế. Yosakoi được trình diễn tại Penang, Malaysia thường niên vào tháng 3 tại giữa thành phố di sản UNESCO. Được tổ chức bởi những người đam mê có tên là Pink Hibiscus Yosakoi Dancers cùng với hội đồng thành phố Penang, tương tự ở Accra, Ghana như một sự kiện để gắn kết Nhật Bản và Ghana. Tại Việt Nam, yosakoi được biểu diễn thường niên tại lễ hội Japan Sakura Matsuri được tổ chức vào tháng 4 ở Hà Nội bởi Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản Việt Nam (JPF) để giới thiệu văn hóa Nhật Bản. Lễ hội này có sự xuất hiện của 10 nhóm nhảy Yosakoi của Việt Nam và khách mời đến từ Nhật Bản. Yosakoi cũng xuất hiện tại các sự kiện anime-manga-cosplay tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng. Cho đến bây giờ, có đến 4 nhóm nhảy yosakoi Việt Nam tham gia vào lễ hội Harajuku Omotesando Super Yosakoi Festival, bao gồm nhóm Hanoi Sennen Yosakoi Team, nhóm Nakama Yosakoi Team, nhóm Hanuyo và nhóm Nui Truc Sakura Yosakoi Team. Cũng có những nhóm yosakoi tại các đại học ngoài Nhật Bản, như là UC Berkeley, Kansas State University., Minnesota State University Moorhead, và ở thành phố New York. Tại Canada, nhóm có tên là Sakuramai trình diễn tại các sự kiện văn hóa và hội chợ ở Toronto và Montreal.
{ "split": 3, "title": "Yosakoi", "token_count": 489 }
22,959
Title: Yosakoi Tại Châu Âu, cũng có nhiều nhóm Yosakoi tại Hà Lan, Pháp, Thụy Điển, Đức, và Anh. Được thành lập bởi một học sinh của trường đại học Leiden, nhóm người Hà Lan Raiden trình diễn yosakoi ở nhiều các hoạt động liên quan tới Nhật Bản như là Japanmarkt thường niên, hội chợ anime và các sự kiện văn hóa khác. Một nhóm người Pháp được thành lập vào năm 2010 và trình diễn tại một số lễ hội, bao gồm "International Fair of Bordeaux"". Nhóm người Thụy Điển Zyka Yosakoi" trình diễn tại các sự kiện liên quan tới Nhật Bản và một số sự kiện khác. Có một nhóm tại Luân Đôn có tên là Temuzu trình diễn tại các sự kiện Nhật Bản như là "HyperJapan".
{ "split": 4, "title": "Yosakoi", "token_count": 169 }
22,960
Title: Yotsutsuji Yotsukō (? - 9 tháng 1 năm 1639) là một mệnh phụ Nhật Bản sống vào đầu thời kì Edo, là phi tần của Thiên hoàng Go-Mizunoo, mang cấp bậc điển thị. Cha bà là Yotsutsuji Kintō, giữ chức quyền đại nạp ngôn, phẩm hàm chính nhị vị. Chị gái bà là Keigan-in, trắc thất phu nhân của daimyō samurai nổi tiếng Uesugi Kagekatsu. Năm 1618, Yotsutsuji Yotsukō hạ sinh Hoàng trưởng tử Kamonomiya, nhưng yểu mệnh và mất sớm ba năm sau đó. Năm 1619, bà sinh ra Hoàng trưởng nữ Ume, về sau phong làm Nữ vương Bunchi.
{ "split": 0, "title": "Yotsutsuji Yotsukō", "token_count": 166 }
22,961
Title: You Bo You Bo là nhà văn người Khmer và là chủ tịch Hội Nhà văn Khmer, có trụ sở đặt tại Wat Botum, số 7 đường Oknha Suor Srun, Sangkat Chaktomuk, Khan Daun Penh, Phnôm Pênh 12207, Campuchia. You tốt nghiệp trung học vào năm 1962, sau đó ra làm giáo viên. Để tăng thêm thu nhập ít ỏi từ việc giảng dạy, ông đã tập tành viết thơ và truyện ngắn cho các tờ báo địa phương, chẳng hạn như báo "Mietophoum". Sau đó, ông trở thành tổng biên tập của tờ báo đấy khi ông quyết định bỏ nghề dạy học vào giữa thập niên 1960 để tập trung vào sự nghiệp văn chương. Khi còn là giáo viên đã kết bạn với một số nhà văn Campuchia nổi tiếng như Nou Hach, Keng Vansak và Samdech Preah Moha Chorn Nath. Tác phẩm chính. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông gồm:
{ "split": 0, "title": "You Bo", "token_count": 205 }
22,962
Title: You've Got a Friend "You've Got a Friend" là bài hát từ năm 1971, do Carole King sáng tác và thể hiện lần đầu tiên. Ca khúc đã nhận giải Grammy cho Bài hát của Năm và được rất nhiều nghệ sĩ cover lại. Lời bài hát. When you're down and troubled and you need a helping hand, and nothing, whoa nothing is going right. Close your eyes and think of me and soon I will be there to brighten up even your darkest nights. You just call out my name, and you know wherever I am I'll come running, oh yeah baby to see you again. Winter, spring, summer, or fall, all you got to do is call and I'll be there, yeah, yeah, yeah. You've got a friend. If the sky above you should turn dark and full of clouds and that old north wind should begin to blow Keep your head together and call my name out loud now and soon I'll be knocking upon your door. You just call out my name and you know where ever I am I'll come running to see you again. Winter, spring, summer or fall all you got to do is call and I'll be there, yeah, yeah, yeah. Hey, ain't it good to know that you've got a friend? People can be so cold. They'll hurt you and desert you. Well they'll take your soul if you let them. Oh yeah, but don't you let them. You just call out my name and you know wherever I am I'll come running to see you again. Oh babe, don't you know that, Winter spring summer or fall, Hey now, all you've got to do is call. Lord, I'll be there, yes I will. You've got a friend. You've got a friend. Ain't it good to know you've got a friend. Ain't it good to know you've got a friend. You've got a friend.
{ "split": 0, "title": "You've Got a Friend", "token_count": 440 }
22,963
Title: Youma Diakite Youma Diakite (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1971), còn được gọi đơn giản là Youma, là một người mẫu người Mali, nữ diễn viên, nhân vật truyền hình và showgirl, chủ yếu hoạt động ở Ý. Cô nổi tiếng quốc tế cũng như "người kia Naomi " vì cô rất giống với Naomi Campbell. Sinh ra ở Mali và lớn lên ở Paris, Diakite được biết đến trên toàn thế giới vào năm 18 tuổi khi cô được Tập đoàn Benetton làm phát ngôn viên cho một chiến dịch quảng cáo. Chuyển đến Ý vào năm 1998, Diakite là một người mẫu đường băng cho các nhà tạo mẫu đáng chú ý bao gồm Armani, Versace và Dolce & Gabbana. Diakite xuất hiện trong một số chương trình truyền hình. Cô cũng là một thí sinh trong chương trình tài năng thực tế "Ballando con le Stelle" (phiên bản tiếng Ý của "Dancing with the Stars") do Rai Uno phát sóng và cả trong chương trình trò chơi thực tế "L'isola dei famosi" (phiên bản tiếng Ý của "Người nổi tiếng sống sót") được phát sóng bởi Canale 5. Diakite cũng xuất hiện trong "", một bộ phim hành động của đạo diễn Chad Stahelski vào năm 2017. Diakite cũng là một nhà hoạt động chính trị quốc tế chống phân biệt chủng tộc.
{ "split": 0, "title": "Youma Diakite", "token_count": 291 }
22,964
Title: Youri Tielemans Youri Marion A. Tielemans (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ, chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Premier League Aston Villa F.C và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ. Anh sẽ gia nhập câu lạc bộ Aston Villa vào ngày 1 tháng 7 năm 2023. Được coi là một trong những triển vọng trẻ sáng giá nhất của bóng đá thế giới,  anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại Anderlecht, nơi anh có 185 lần ra sân chính thức và ghi 35 bàn trong bốn mùa. Anh đã hai lần vô địch giải đấu và năm 2017 được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Bỉ. Anh là cầu thủ trẻ nhất của Bỉ chơi ở UEFA Champions League, xuất hiện lần đầu tiên trong giải đấu ở tuổi 16 và 148 ngày. Tielemans đại diện cho Bỉ ở một số cấp độ trẻ và có được chiếc mũ đầu tiên của anh ấy cho toàn bộ vào tháng 11 năm 2016, ở tuổi 19. Anh là một phần của đội hình của họ đã đứng thứ ba tại World Cup 2018. Danh hiệu. Anderlecht Leicester City Đội tuyển Bỉ
{ "split": 0, "title": "Youri Tielemans", "token_count": 252 }
22,965
Title: Yui Oguri Yui Oguri (tiếng Nhật: 小栗有以, Hán Việt: "Tiểu Luật Hữu Dĩ", Hepburn: "Oguri Yui") (sinh ngày 26 tháng 12 năm 2001), hay còn được biết đến với biệt danh Yui Yui, là một nữ ca sĩ thần tượng, vũ công, người mẫu kiêm diễn viên người Nhật Bản. Bắt đầu sự nghiệp vào năm 2014, cô được khán giả biết đến là thành viên của nhóm nhạc nữ thần tượng AKB48, với tư cách là thành viên của nhóm 8 và nhóm B. Cô hiện được quản lý bởi công ty ZEST. Ngoài sự nghiệp ca hát, cô cũng được chọn là người mẫu đại diện cho thương hiệu LARSE.
{ "split": 0, "title": "Yui Oguri", "token_count": 161 }
22,966
Title: Yuki Chitose là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti ACT. Tên diễn trước đây của cô là Saegusa Chitose (七草 ちとせ/さえぐさ ちとせ) và Yura Chitose (由來 ちとせ/ゆら ちとせ). Đời tư. Tháng 9/2014, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm dưới tên Saegusa Chitose. Tháng 7/2016, cô chuyển công ti từ Orb Entertainment sang Arrows. Cô cũng đổi tên diễn thành Yura Chitose. Sở thích của cô là đi bộ và làm bánh kẹo. Đạo diễn phim khiêu dâm Masaki Nao nói rằng cô là "một con đĩ thật sự và tỏa sáng. Cô thích đổ lỗi cho đàn ông và bị đổ lỗi. Cô có cả tính cách S (lạc loài) và M (sầu muộn). Cô rất thích SEX (không phải công việc)." Tháng 6/2018, cô thông báo sẽ rời ngành phim khiêu dâm trên Twitter. Trong cuối thông báo, cô nói rằng "nếu tôi trở lại thế giới phim khiêu dâm, tôi mong các bạn sẽ đón chào tôi với một nụ cười". 5/10/2019, cô hoạt động lại trên Twitter. 25/6/2020, cô trở lại ngành dưới tên Yuki Chitose. Cô thuộc về công ti ACT. 7/7/2021, cô thông báo sẽ rời công ti chủ quản. 26/9/2021, cô thông báo sẽ tham gia công ti chủ quản mới Y's Promotion.
{ "split": 0, "title": "Yuki Chitose", "token_count": 335 }
22,967
Title: Yuki Hsu Từ Hoài Ngọc (giản thể: 徐怀钰; phồn thể: 徐懷鈺; phiên âm: "Xú Huái Yù"; sinh ngày 3 tháng 3 năm 1978), được biết với nghệ danh Yuki Hsu hay Yuki, là một nữ ca sĩ và diễn viên người Đài Loan. Cô nổi tiếng với loạt ca khúc nổi trội ở Đài Loan vào những năm từ 1998 đến 2001. Hầu hết các bài hát của cô trong thời kỳ đầu sự nghiệp là những bản nhạc dance du dương, bắt tai, thường có chủ đề hoặc ca từ trẻ trung. Yuki cũng được chú ý với những kiểu tóc đa dạng và kỳ dị mà cô ấy đã thể hiện trong nhiều video ca nhạc đầu tiên của mình. Sự nghiệp. Các bài hát nổi bật nhất của Yuki bao gồm "Ding Dong" (bản cover hit "Ring A Ling" của ca sĩ người Đan Mạch Tiggy), "Who's Bad" (bản cover "Calcutta (Taxi Taxi Taxi)" của Dr Bombay), và một bản được làm lại từ bản techno thập niên 90 "Dub-i-Dub". Năm 1997, cô đóng quảng cáo trên truyền hình về thức uống thảo mộc và thu hút nhiều sự chú ý. Cùng năm đó, cô tham gia trong quảng cáo sản phẩm AMIGO hàng năm của Uni-President Enterprise và hát bài hát cùng tên. Đầu năm 1998, cô bước chân vào làng nhạc với ca khúc "Flying Up". Vào thời điểm đó, công ty thu âm tư nhân đã đánh giá rằng nếu đợt bán đầu tiên của đĩa đơn này không thể bán hết thì album đầu tiên sẽ không được phát hành. Ca từ của bài hát sống động và vui tươi, đồng thời nhấn mạnh hình ảnh những cô gái trẻ can đảm thể hiện bản thân, và ca khúc của cô đã giành được vị trí đầu tiên trong danh sách IFPI trong tuần đầu ra mắt. Vào tháng 3 cùng năm, album đầu tiên cùng tên của Yuki được phát hành, với "Miao Miao Miao", "I'm a Girl" và "Love Like a Bad Cold" đã lập kỷ lục doanh thu hàng triệu bản.
{ "split": 0, "title": "Yuki Hsu", "token_count": 466 }
22,968
Title: Yuki Hsu Năm 1999, Yuki Hsu đến Hàn Quốc để thu âm album solo thứ ba "Angel". Cô hợp tác với nam rapper Hàn Quốc Yoo Seung Jun trong bản song ca "Can't Wait". Để kỷ niệm, cô đã xăm lên cánh tay phải biểu tượng Song Ngư của mình. Năm 2001, Yuki đã tạm dừng sự nghiệp ca hát và chuyển sang lĩnh vực diễn xuất. Năm 2007, cô trở lại làng nhạc với album Bad Girl. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2018, Yuki Hsu đã tổ chức buổi hòa nhạc Only for Meet You tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Đài Bắc, kỷ niệm 20 năm sự nghiệp ca hát của cô. Cuộc sống cá nhân. Yuki dần chìm vào quên lãng sau hậu quả của một vũng lầy pháp lý liên quan đến vi phạm hợp đồng và báo chí đưa tin tiêu cực. Tòa án buộc cô phải bồi thường thiệt hại 2 triệu Đài tệ và tiền phạt hợp pháp, và mẹ cô đã vay tiền để giúp cô vượt qua vụ việc đó. Năm 2010, cô nhận công việc trợ lý pháp lý không lương để có thể nghiên cứu các vấn đề luật pháp nhằm chuẩn bị cho những thách thức của mình. Vào năm 2011, Yuki Hsu tuyên bố rằng quản lý cũ của cô tại Tập đoàn sản xuất phim quốc tế Dragon Imperium đã nhắn tin cho cô những tin nhắn không phù hợp. Yuki nói rằng cô ấy có một hồ sơ tồn đọng của những tin nhắn như vậy. Yuki đã từng bị khiếu nại vì vi phạm hợp đồng khi cô không xuất hiện trong một buổi hòa nhạc và đã xuất hiện trước công chúng trái phép trên các chương trình phát sóng của Đài Loan.
{ "split": 1, "title": "Yuki Hsu", "token_count": 353 }
22,969
Title: Yun Young-sun Yun Young-sun (; sinh ngày 4 tháng 10 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá Hàn Quốc thi đấu ở vị trí trung vệ cho Seongnam FC ở K League 2 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc. Sự nghiệp câu lạc bộ. Yun được chọn trong đợt tuyển quân K League 2010 bởi Seongnam Ilhwa Chunma. Ngày 9 tháng 3 năm 2010, Yun ra mắt chuyên nghiệp tại Giải vô địch bóng đá các câu lạc bộ châu Á trước Melbourne Victory, ghi bàn thắng thứ hai cho Seongnam trong chiến thắng 2–0 trên sân khách của đội. Yun ra mắt tại K League ngày 19 tháng 3 khi làm khách trước Jeonbuk Hyundai Motors, vào sân từ ghế dự bị cho Kim Jin-Yong ở phút thứ 72. Anh liên kết với đội bóng tại Giải bóng đá ngoại hạng Trung Quốc Henan Jianye vào tháng 1 năm 2014, tuy nhiên, vụ chuyển nhượng bị ngăn cản vì anh không vượt qua được bài kiểm tra thể lực. Sự nghiệp quốc tế. Vào tháng 5 năm 2018 anh có tên trong đội hình sơ loại 28 người tham dự Giải bóng đá vô địch thế giới 2018 ở Nga.
{ "split": 0, "title": "Yun Young-sun", "token_count": 248 }
22,970
Title: Yuri Averbakh Yuri Lvovich Averbakh (Ю́рий Льво́вич Аверба́х; sinh 8 tháng 2 năm 1922 - 7 tháng 5 năm 2022) là một đại kiện tướng và tác giả viết về cờ vua người Liên Xô và nay là Nga. Tính đến nay, ông là đại kiện tướng cao tuổi nhất. Ông sinh tại Kaluga, Nga. Cuộc đời và sự nghiệp. Cha ông là người Do Thái gốc Đức . Tổ tiên ông gốc Đức có họ là Auerbach, nghĩa là "suối cỏ". Mẹ ông là người Nga. Cả hai bên ông bà của ông đều không ủng hộ đám cưới của cha mẹ ông vì cha ông là một người gần như vô thần còn mẹ ông lại là một tín đồ Chính thống giáo Đông phương. Ngoài ra một lý do nữa là bà ngoại ông mất khi còn trẻ nên mẹ ông phải gánh vác việc gia đình. Yuri tự gọi mình là một người theo thuyết định mệnh. Thành công ở các giải đấu. Thành công đầu tiên của Averbakh là chức vô địch ở Moskva năm 1949, xếp trên các đối thủ như Andor Lilienthal, Yakov Estrin và Vladimir Simagin. Ông nhận danh hiệu đại kiện tướng năm 1952. Năm 1954 Averbakh vô địch Liên Xô, xếp trên các danh thủ như Mark Taimanov, Viktor Korchnoi, Tigran Petrosian, Efim Geller và Salo Flohr. Hai năm sau, cũng tại giải vô địch quốc gia ông đồng điểm hạng nhất với Taimanov và Boris Spassky, tuy nhiên chỉ giành ngôi á quân sau vòng đấu chọn ra nhà vô địch giữa ba kỳ thủ này. Nhà vô địch Taimanov sau này từng có thời gian là con rể của ông. Những thành công khác của Averbakh là giải Viên năm 1961 và Moskva năm 1962. Ở các giải vô địch thế giới, Averbakh từng lọt vào vòng lựa chọn ứng cử viên năm 1953, xếp hạng 10 / 15 kỳ thủ tham dự. Ông cũng lọt vào vòng tuyển chọn liên khu vực năm 1958 tại Portorož nhờ vào việc xếp hạng tư tại Giải vô địch Liên Xô cùng năm. Tại Portorož, Averbakh xếp đồng hạng bảy và chỉ kém nửa điểm để có suất vào vòng lựa chọn ứng cử viên. Phong cách thi đấu.
{ "split": 0, "title": "Yuri Averbakh", "token_count": 495 }
22,971
Title: Yuri Averbakh Phong cách thi đấu chắc chắn của ông đã gây khó cho những kỳ thủ có thiên hướng tấn công muốn vượt qua, như ông từng viết:"... Khi mà Nezhmetdinov đã tấn công thì có thể vượt qua được bất cứ đối thủ nào, kể cả Tal. Tuy nhiên tỉ số đối đầu của tôi với ông ấy hình như là 8½–½ vì tôi không cho ông ấy bất kì cơ hội chủ động nào. Trong những tình huống đó ông ấy sẽ làm hỏng thế trận của mình vì ông ấy muốn đưa về thế trận phức tạp." Tác phẩm. Bên cạnh việc là một kỳ thủ danh tiếng, Averbakh còn là một nhà nghiên cứu lý thuyết cờ vua, chủ yếu về tàn cuộc. Ông đã xuất bản trên 100 tác phẩm. Nhiều tác phẩm trong số đó đã có những đóng góp đáng kể tới lý thuyết tàn cuộc. Năm 1956 ông nhận được danh hiệu "Giám khảo quốc tế của các cuộc thi cờ thế" của FIDE và tới năm 1969 ông nhận danh hiệu "Trọng tài quốc tế". Ngoài ra, Averbakh còn là một phóng viên và tác giả một số sách cờ. Ông từng là biên tập tạp chí định kỳ "Шахматы в СССР" ("Cờ vua ở Liên Xô") và "Шахматный бюллетень" ("Bản tin cờ vua"). Từ 1956 đến 1962 ông (cùng với Vitaly Chekhover và một số người khác) biên tập một tuyển tập 4 cuốn về tàn cuộc, "Шахматные окончания" ("Tàn cuộc cờ vua", được tái bản và bổ sung năm 1980-84 và dịch sang tiếng Anh với tựa đề "Comprehensive Chess Endings" ("Tàn cuộc cờ vua toàn diện") gồm 5 cuốn). Đóng góp về khai cuộc. Averbakh được đặt tên cho một vài biến thể khai cuộc. Những hoạt động khác. Trong thập niên 1960, Averbakh làm việc cho tạp chí Liên Xô "Знание - сила" ("Tri thức là sức mạnh") chuyên đăng tải các truyện khoa học và khoa học viễn tưởng. Qua đời. Ông mất ngày 7 tháng 5 năm 2022. Averbakh được sống sót bởi một cô con gái, người đã kết hôn với Mark Evgenievich Taimanov trong mười năm. chỉ sau 3 tháng mới khép lại sinh nhật và Lễ mừng thọ thứ 100 tuổi của ông.
{ "split": 1, "title": "Yuri Averbakh", "token_count": 506 }
22,972
Title: Yuri Georgievich Felshtinsky Yuri Georgievich Felshtinsky (, sinh ngày 7 tháng 9 năm 1956 ở Moskva) là một nhà sử gia Mỹ gốc Nga. Felshtinsky đã viết một số sách về lịch sử Nga bao gồm "The Bolsheviks and the Left SRs" (Paris, 1985), "Towards a History of Our Isolation" (London, 1988; Moscow, 1991), "The Failure of the World Revolution" (London, 1991; Moscow, 1992), "Blowing up Russia" (cùng với Alexander Litvinenko), và "The Age of Assassins" (với Vladimir Pribylovsky). Tiểu sử. Felshtinsky bắt đầu học ngành Sử học 1974 tại Đại học sư phạm quốc gia Moskva. In 1978, ông ta di dân từ Liên Xô sang Hoa Kỳ và tiếp tục học ở đó. Ông đã tốt nghiệp từ Brandeis University và lấy bằng tiến sĩ về Sử học ở Rutgers University. In 1993, ông trở lại Moskva và lấy bằng tiến sĩ tại viện Sử học Nga của Viện khoa học Nga. Sự nghiệp. 1998, Felshtinsky trở lại Moskva để học chính trị học Nga hiện đại. Lúc đó, ông ta làm quen với Alexander Litvinenko, một trung tá của FSB. 2000, Felshtinsky và Litvinenko bắt đầu cùng nhau viết "Blowing Up Russia", một cuốn sách mô tả sự chiếm đoạt dần dần quyền lực nước Nga bởi cơ quan an ninh và chi tiết về những dính líu của FSB vào một loạt cuộc khủng bố mà xảy ra giữa 1994 và 1999. Tháng 8 2001, nhiều chương từ cuốn "Blowing Up Russia" được xuất bản trong một ấn bản đặc biệt của tờ báo "Novaya Gazeta". 2002, cuốn sách được dùng để làm nền tảng cho cuốn phim tài liệu, "Blowing Up Russia" (cũng còn được biết tới như là "Assassination of Russia"). Cả cuốn sách và phim tài liệu đều bị cấm lưu hành tại Nga. Cho tới 2006, Felshtinsky tiếp tục làm việc với Litvinenko để mà thâu thập thêm tài liệu ghi nhận dính líu của FSB về việc đặt bom nhà chung cư vào tháng 9 năm 1999 Theo như các tác giả, bom được đặt bởi FSB, là một hoạt động dấu mặt để biện hộ cho Chiến tranh Chechnya lần thứ hai. Vụ ám sát Boris Nemtsov.
{ "split": 0, "title": "Yuri Georgievich Felshtinsky", "token_count": 510 }
22,973
Title: Yuri Georgievich Felshtinsky Felshtinsky là một trong số ít người đã quả quyết là Putin đã ra lệnh FSB ám sát Nemtsov. Trong cuộc phỏng vấn với tuần báo Đức "die Zeit" ngày 6.3.2015, Felshtinsky nêu lý do: " Bất cứ kẻ giết người nào mà không làm việc chung với công an chìm Nga, sẽ giết Nemtsov ở một nơi khác. Những người đã giết ông ta, trông không giống như tội phạm, mà như cảnh sát đặc biệt thi hành nhiệm vụ. Bởi vậy họ không đếm xỉa tới là đã bị quay phim hay có ai khác thấy họ hành động."
{ "split": 1, "title": "Yuri Georgievich Felshtinsky", "token_count": 139 }
22,974
Title: Yuttajak Kornchan Yuttajak Kornchan(, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1982), còn được biết với tên đơn giản Nhon () là một cầu thủ bóng đá người Thái Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho Chiangmai, anh đoạt chức vô địch Giải bóng đá Ngoại hạng Thái Lan năm 2008. Anh có khả năng đặc biệt với cú sút đầy uy lực. Sự nghiệp quốc tế. Yuttajak là một phần của Thái Lan tại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2004. Sau nhiều năm vắng bóng ở đội tuyển quốc gia, thi anh được triệu tập bởi Kiatisuk Senamuang vào tháng 6 năm 2015.
{ "split": 0, "title": "Yuttajak Kornchan", "token_count": 141 }
22,975
Title: ZGMF-X20A Strike Freedom Lịch sử hình thành. Sau khi Mobile Suit Freedom cũ bị nổ. Lacus Clyne đã trở lại PLANT và trên đó cô có một nơi bí mật tập hợp những người chống chiến tranh gọi là Clyne Faction.Ở Clyne Faction những người chống chiến tranh đã sản xuất ra Mobile ZGMF-X20A Strike Freedom. Đây là một Mobile vô cùng hiện đại với nhiều tính năng mới mà Freedom cũ không có như: DRAGOON system, HiMAT...và một lò phản ứng hạt nhân đã được thiết kế lại khiến tầm bay của Strike Freedom gần như vô hạn và chỉ phụ thuộc vào sức khỏe của phi công. Mobile này được thiết kế để cho Kira Yamato lái và nó cũng được thiết kế để đánh cặp với Gundam ZGMF-19A Infinite Justice. Thông số kỹ thuật. Tên: ZGMF-20A Strike Freedom. Nguồn năng lượng: Lò phản ứng hạt nhân kiểu mới. Chế tạo: Clyne Faction. Chiều cao: 19m. Tổng trọng lượng: 60 tấn. Vũ khí: Chú thích. -ZGMF:Zero Gravity Maneuver Fighter. -Dragoon system:Disconected Rapid Armament Group Overlook Operation Network system -CIWS:Close In Weapon System.
{ "split": 0, "title": "ZGMF-X20A Strike Freedom", "token_count": 287 }
22,976
Title: ZH-29 ZH-29 là loại súng trường bán tự động được phát triển bởi Václav Holek tại nhà máy sản xuất vũ khí Ceska Zbroevka ở Tiệp Khắc vào những năm 1920. Loại súng này được phát triển theo đơn đặt hàng của Trung Hoa Dân Quốc. Đến những năm 1930 thì một mẫu sử dụng đạn 7×51mm đã được thử nghiệm tại Hoa Kỳ để so sánh với súng trường Pedersen và Garand nhưng thấy là không đạt yêu cầu. Nó cũng được yêu cầu phát triển các mẫu để sử dụng các loại đạn khác như 7×57mm Mauser và 7.62×63mm. ZH-29 được sản xuất một cách giới hạn từ năm 1929 đến năm 1938. Việc sản xuất loại súng này hoàn toàn bị ngừng lại và không được tiếp tục khi Đức Quốc xã chiếm được Tiệp Khắc. Súng được làm khá tinh xảo nhưng lại khá đắt và khá nhạy cảm với các môi trường khắc nghiệt. Thiết kế. ZH-29 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén và sử dụng hộp đạn để nạp đạn. Súng làm mát bằng không khí và để tăng khả năng tản nhiệt nòng súng được gắn một bộ phận bằng nhôm khắc rãnh nó sẽ hoạt động giống như một hệ thống gom và tản nhiệt. Ống trích khí nằm phía dưới nòng súng và được lớp ốp lót tay bao bọc. Nút khóa an toàn nằm phía bên phải súng phía trên vòng bảo vệ cò súng. Thoi nạp đạn sẽ chèn nghiên chống vào một khe phía bên trái trong thân súng để khóa cố định. Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Hộp đạn rời của súng có thể chứa 5, 10 đến 15 viên. Thoi nạp đạn sẽ được giữ ở phía sau nếu hộp đạn không còn đạn. Sau khi nạp đạn dù bằng cách thay hộp đạn mới hay nạp trực tiếp vào hộp đạn đang gắn sẵn bằng kẹp thì chỉ việc bóp cò để thoi nạp đạn trở về chỗ cũ và bóp tiếp lần thứ hai để khai hỏa.
{ "split": 0, "title": "ZH-29", "token_count": 439 }
22,977
Title: Zabelia parvifolia Zabelia parvifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Charles Baron Clarke mô tả khoa học đầu tiên năm 1880 dưới danh pháp "Abelia triflora" var. "parvifolia". Năm 1972 Golubkova nâng cấp nó thành loài và chuyển sang chi "Zabelia". Loài này có ở Afghanistan (tỉnh Laghman), Pakistan (các tỉnh Baluchistan và Khyber Pakhtunkhwa (quận Kurram, Swat, Waziristan)), Ấn Độ (bang Jammu và Kashmir). Một số tác giả coi loài này là đồng nghĩa của "Zabelia triflora" như là "Z. triflora" var. "parvifolia", do khác biệt cơ bản là lá nhỏ hơn (dài đến khoảng 2,5 cm) và hoa hơi nhỏ hơn.
{ "split": 0, "title": "Zabelia parvifolia", "token_count": 189 }
22,978
Title: Zahra Bani Zahra Bani (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1979 tại Mogadishu, Somalia) là một vận động viên ném lao người Somalia - Ý. Tiểu sử. Bani sinh năm 1979 tại Mogadishu, thủ đô của Somalia, có cha là người Ý và mẹ là người Somalia. Năm 1989, cô chuyển đến Torino, Ý cùng gia đình và bắt đầu chơi bóng chuyền. Cô ấy ngay sau đó đã phát hiện ra chuyên môn của mình: ném lao. Cú ném tốt nhất của Bani là 62,75 mét, đạt được tại Giải vô địch thế giới năm 2005 tại Helsinki. Tuy nhiên, kể từ năm 2005, cô đã phải chịu đựng các vấn đề về sức khỏe, điều này đã cản trở đáng kể các màn trình diễn thể thao của cô. Bani đứng thứ hai trong danh sách mọi thời đại của Ý sau Claudia Coslovich. Danh hiệu quốc gia. Cô đã giành được giải vô địch quốc gia cá nhân 16 lần. (Người phụ nữ kỷ lục mọi thời đại của Ý).
{ "split": 0, "title": "Zahra Bani", "token_count": 213 }
22,979
Title: Zaidpur Zaidpur là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Barabanki thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Địa lý. Zaidpur có vị trí Nó có độ cao trung bình là 109 mét (357 feet). Nhân khẩu. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Zaidpur có dân số 30.065 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Zaidpur có tỷ lệ 34% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 43%, và tỷ lệ cho phái nữ là 25%. Tại Zaidpur, 19% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.
{ "split": 0, "title": "Zaidpur", "token_count": 157 }
22,980
Title: Zaira Nara Zaira Tatiana Nara ( sinh ngày 15 tháng 8 năm 1988) là người dẫn chương trình và người mẫu Argentina. Tiểu sử. Cô là em gái của Wanda Nara, vào năm 2010, theo tạp chí FHM, được xếp hạng 47 trong số những phụ nữ quyến rũ nhất thế giới năm 2010 Zaira Nara đã làm người mẫu cho các thương hiệu như Herbal Essences, McDonald, La Serenísima, Gillette, Pantene và Falabella. Cô cũng xuất hiện trên trang bìa các phiên bản Argentina của "Cosmopolitan" và "Women Health". Nghề nghiệp. Zaira Nara được sinh ra tại Boulogne Sur Mer, Argentina. Cô bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một người mẫu nhí ở tuổi vị thành niên cho công ty Dotto Model, nhưng sau đó vào năm 2008, cô rời nơi đây để gia nhập Chekka Buenos Aires, công ty của Mauricio Catarain, trong đó Zaira đã giành được nhiều hợp đồng quảng cáo để trở thành nhãn hiệu cho quần áo, đồ lót và mỹ phẩm. Năm 2010, Zaira là thí sinh trong chương trình Marcelo Tinelli của "Bailando 2010," bị loại lần thứ 9, sau đó cô làm người dẫn chương trình "La Cocina del Show". Năm 2011, Zaira giành được quả bóng đá hồng và cho chị gái Wanda ở "Bailando 2011". Cuộc sống cá nhân. Vào ngày 9 tháng 3 năm 2011, sau 2 năm gắn bó, cầu thủ bóng đá Diego Forlán tuyên bố trên trang Twitter của mình rằng anh và Zaira đã đính hôn; tuy nhiên vào tháng 6 năm 2011, họ đã phá vỡ hôn ước (và cô cho rằng: "Bây giờ điều tôi có thể nói là cảm ơn chúa vì mình đã không kết hôn!") sau khi chia tay. Từ tháng 10 năm 2011 đến tháng 11 năm 2014, Zaira đã hẹn hò với tay quần vợt Juan Mónaco. Cô đính hôn với Jakob Von Plessen vào tháng 4 năm 2015; Zaira mang thai vào tháng 10 năm 2015; và hạ sinh một cô con gái, Malaika Von Plessen vào ngày 6 tháng 4 năm 2016.
{ "split": 0, "title": "Zaira Nara", "token_count": 449 }
22,981
Title: Zalo Zalo là một ứng dụng nhắn tin nhanh đa nền tảng được phát triển bởi công ty VNG ở Việt Nam. Ngoài Việt Nam, ứng dụng này còn được sử dụng tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Úc, Đức, Myanmar và Singapore. Lịch sử phát triển. Tên gọi của Zalo được kết hợp từ Zing (trang tin điện tử được quản lý bởi VNG) và "alo" (cụm từ dùng để bắt cuộc gọi ở Việt Nam). Phiên bản thử nghiệm đầu tiên của Zalo được ra mắt vào tháng 8 năm 2012, mất 8 tháng kể từ khi bắt đầu phát triển vào cuối năm 2011. Đến tháng 9 cùng năm, Zalo mới phát hành phiên bản trên 3 nền tảng iOS, Android và Nokia S40. Tuy nhiên, Zalo không nhận được sự quan tâm do có nhiều cản trở khi tiếp cận người dùng, như dùng Zing ID để đăng nhập hay sử dụng nền tảng web cho ứng dụng trên điện thoại di động. Tháng 12 năm 2012, phiên bản chính thức của Zalo mới được tung ra thị trường. Ngày 8 tháng 1 năm 2013, Zalo lần đầu tiên chiếm vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng App Store ở Việt Nam, vượt qua đối thủ mạnh nhất lúc đó là WeChat của Trung Quốc. Ưu điểm của Zalo khi đó là nhắn tin ổn định trên mọi hạ tầng như 2G, 2,5G, 3G, 4G và wifi. Do đặt máy chủ tại Việt Nam nên tốc độ nhắn tin của Zalo cũng vượt trội, cũng như tiết kiệm pin hơn so với các phần mềm ngoại. Tranh cãi và bê bối. Hoạt động thiếu giấy phép. Vào tháng 7 năm 2019, Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông TP.HCM đã có văn bản đề nghị các bên đăng ký và quản lý tên miền tiến hành thu hồi hai tên miền của Zalo là "Zalo.vn" và "Zalo.me" của công ty cổ phần VNG do hoạt động mạng xã hội mà không xin phép. Trước đó, việc Zalo không đăng ký hoạt động mạng xã hội đã được phát hiện từ năm 2018 và đã bị xử phạt, nhưng Sở vẫn để tên miền này hoạt động để tạo điều kiện cho Zalo bổ sung các giấy tờ cấp phép.
{ "split": 0, "title": "Zalo", "token_count": 475 }
22,982
Title: Zalo Bắt đầu từ ngày 11 tháng 11 năm 2019, tên miền "Zalo.vn" bị dừng hoạt động trong vòng 45 ngày để các cơ quan chức năng xử lí hành vi vi phạm, mặc dù VNG đã nộp hồ sơ. Theo một nguồn tin cho biết, hồ sơ của Zalo nộp lên chưa đủ điều kiện để được cấp phép nên bị tạm ngừng trong 45 ngày để Zalo khẩn trương hoàn thiện hồ sơ. Làm lộ thông tin người dùng. Để sử dụng chức năng "Tìm kiếm quanh đây", người sử dụng phải bật chế độ định vị, khi đó Zalo sẽ quét được toàn bộ người lạ ở xung quanh trong vòng bán kính đến vài km. Tuy nhiên, Zalo lại mặc định bật chế độ này trên ứng dụng di động khiến bất kỳ ai cũng có thể bị lộ vị trí cá nhân khi chức năng định vị được bật. Tháng 5 năm 2022, Zalo đã áp dụng phương thức mã hóa đầu cuối (E2EE) cho các cuộc trò chuyện cá nhân trên ứng dụng di động, Zalo PC hay phiên bản web nhằm tăng cường bảo mật thông tin người dùng. Zalo thu phí người dùng, hạn chế một số tính năng của người dùng phổ thông. Từ ngày 1 tháng 8 năm 2022, Zalo thu phí người dùng, đối với tài khoản miễn phí sẽ bị hạn chế một số tính năng nhất định. Ngay sau đó Zalo nhận về nhiều đánh giá 1 sao trên App Store và Google Play, bị nhiều người dùng tẩy chay, đe doạ xoá ứng dụng.
{ "split": 1, "title": "Zalo", "token_count": 320 }
22,983
Title: Zarya Zarya là một module của trạm không gian quốc tế ISS. "Zarya" trong tiếng Nga có nghĩa là "bình minh". Là một "khối hàng hoá chức năng" ("Functional Cargo Block"), viết tắt theo tiếng Nga là FGB, module này được tài trợ bởi Hoa Kỳ nhưng lại được Nga xây dựng và phóng lên. Nó được đưa lên quỹ đạo vào ngày 20 tháng 11 năm 1998 tại sân bay vũ trụ Baikonur Cosmodrome, Kazakhstan bởi một tên lửa đẩy Proton của Nga. Lịch sử. Là module đầu tiên của ISS đi vào quỹ đạo, FGB là mốc quan trọng đánh dấu một kỷ nguyên hợp tác mới trong công nghệ vũ trụ giữa hai cường quốc Nga và Mỹ sau nhiều thập niên đối đầu. Sau khi ở trên quỹ đạo vài tuần, vào ngày 7 tháng 12 năm 1998 Zarya được kết nối với module Unity của Mỹ bởi tàu con thoi Endeavour. Unity được phóng lên quỹ đạo trên tàu Endeavour vào ngày 4 tháng 12 năm 2008. Module này được chế tạo bởi Trung tâm không gian liên bang nghiên cứu và sản xuất Khrunichev ("Khrunichev State Research and Production Space Center") ở Moskva theo một hợp đồng phụ với hãng Boeing. Chức năng. Nhiệm vụ chính của Zarya là điều chỉnh hướng cho trạm, đảm bảo thông tin liên lạc với mặt đất cũng như cung cấp năng lượng cho module Unity trước khi những chức năng này được giao lại cho Zvezda, dự định được đưa lên quỹ đạo 6 tháng sau đó. Tuy nhiên, do một sự đình trệ mà phải hai năm sau module thứ 3 này của trạm ISS mới được phóng lên. Zvezda là một module hậu cần ("service module") cung cấp những điều kiện sống đầu tiên tạo tiền đề cho những phi hành đoàn đầu tiên sinh sống trên trạm. Hiện tại, chức năng chủ yếu của Zarya là để tích trữ hàng hóa cũng như là hành lang nối các bộ phận thuộc phần của Nga trên trạm. Thông số kỹ thuật.
{ "split": 0, "title": "Zarya", "token_count": 420 }
22,984
Title: Zarya Nặng 19.323 kg, Zarya dài 12,6 m, bề rộng lớn nhất của nó là 4,1 m. Thời gian hoạt động dự kiến là 15 năm, nhưng có thể còn lâu hơn. Nó nhận năng lượng từ 2 tấm năng lượng mặt trời kích thước 10,7 m × 3,4 m. Mỗi tấm được bao bởi một tấm kính có phủ một lớp chuyển đổi quang điện. Các tấm năng lượng mặt trời này được bung ra sau khi module được đưa vào quỹ đạo. 90% năng lượng được hấp thu từ bên bề mặt hướng về phía Mặt Trời, 10% còn lại là ở bề mặt kia thu được từ ánh sáng mặt trời bị phản xạ bởi Trái Đất. Năng lượng được nạp vào 6 ắcquy niken-cadmi trong hệ thống cung cấp năng lượng. Hệ thống này có thể cung cấp một công suất trung bình khoảng 3 kW điện. Trong giai đoạn đầu của dự án ISS, hệ thống này dùng để cung cấp năng lượng cho 2 module Zarya và Unity. Sau này, với sự sáp nhập thêm của Zvezda, FGB được dùng để biến đổi năng lượng từ phần của Mỹ (128 Vdc) để sử dụng ở phần của Nga (28 Vdc). Ngoài ra, 16 thùng chứa xăng ngoài của Zarya còn có thể chứa tới hơn 6 tấn nhiên liệu. Hệ thống điều chỉnh hướng của module gồm 24 vòi đẩy ("steering jet") lớn và 12 vòi đẩy nhỏ. 2 động cơ lớn có thể dùng để nâng độ cao cho trạm cũng như để thay đổi quỹ đạo trước khi Zvezda được lắp ghép vào trạm. Các cổng lắp ghép ("docking port") của nó có thể cho phép sự lắp ghép với tàu chuyên chở người Soyuz cũng như tàu vận tải không người lái Progress đều của Nga. Module này đã được chỉnh sửa để có thể được nạp nhiên liệu bởi tàu vận tải Progress mỗi khi tàu này đậu vào cổng lắp ghép phía dưới của module.
{ "split": 1, "title": "Zarya", "token_count": 421 }
22,985
Title: Zastava M88 Zastava M88 là loại súng ngắn bán tự động sản xuất bởi Zastava Arms tại Serbia. Dựa trên các thông số kỹ thuật thiết kế thì nó là phiên bản nâng cấp của khẩu Tokarev mẫu M57 và M70A với điểm khác biệt chính là nó sử dụng loại đạn 9x19mm Parabellum khiến nó trở nên dễ dàng hơn cho việc xuất khẩu. Một mẫu biến thể của nó gọi là M88A có thêm nút khóa an toàn. M88 được thấy sử dụng một cách hạn chế trong lực lượng cảnh sát và quân sự tại Serbia và Montenegro nhưng sau đó nó đã bị thay thế bởi loại súng mạnh hơn là CZ 99. Từ khi đó nó trở nên thông dụng trong dân sự cũng như một loại súng bắn tập trong lực lượng quân sự tại Serbia. M88 cũng được xuất khẩu sang Hoa Kỳ và bản quyền do EAAcorp giữ, tại đó nó được sửa chữa để có thể sử dụng loại đạn .40 S&W.
{ "split": 0, "title": "Zastava M88", "token_count": 209 }
22,986
Title: Zavkhan, Uvs Zavkhan (tiếng Mông Cổ: Завхан) là một sum của tỉnh Uvs ở Mông Cổ. Vào năm 2008, dân số của sum là 1.936 người. Địa lý. Sum có diện tích khoảng 6.800 km. Trung tâm sum, Sharbulag, nằm cách tỉnh lỵ Ulaangom 170 km và thủ đô Ulaanbaatar 1.450 km. Khí hậu. Zavkhan có khí hậu bán khô hạn. Nhiệt độ trung bình hàng năm trong khu vực là 4 °C. Tháng ấm nhất là tháng 7, khi nhiệt độ trung bình là 27 °C và lạnh nhất là tháng 1, với −24 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 108 mm. Tháng ẩm ướt nhất là tháng 8, với lượng mưa trung bình là 29 mm, và khô nhất là tháng 1, với 2 mm. Kinh tế. Sum có một trường học, bệnh viện, trung tâm thương mại và nhà văn hóa.
{ "split": 0, "title": "Zavkhan, Uvs", "token_count": 209 }
22,987
Title: Zaynab Alkali Zaynab Alkali (sinh năm 1950 Tura-Wazila, bang Borno) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà văn viết truyện ngắn Nigeria. Bà được coi là tiểu thuyết gia phụ nữ đầu tiên từ Bắc Nigeria. Đời sống. Kiềm được sinh ra ở Tura-Wazila ở bang Borno năm 1950. Cô tốt nghiệp Đại học Bayero Kano với bằng cử nhân năm 1973. Bà có bằng tiến sĩ về nghiên cứu châu Phi trong cùng một trường đại học và trở thành hiệu trưởng của trường nội trú Shekara Girls '. Bà tiếp tục làm giảng viên tiếng Anh tại hai trường đại học ở Nigeria. Bà kết hôn với cựu Phó hiệu trưởng của Đại học Maiduguri, Mohammed Nur Alkali và họ có sáu người con . Bà đã trở thành một trưởng khoa trong khoa nghệ thuật tại Đại học bang Nasarawa ở Keffi, nơi bà dạy viết sáng tạo. Bà được coi là tiểu thuyết gia phụ nữ đầu tiên từ Bắc Nigeria. Nghề nghiệp. Cô làm việc tại Đại học Maiduguri với tư cách là giảng viên cao cấp của khoa tiếng Anh nơi cô làm việc trong hai mươi năm. Sau đó, cô rời Đại học Maiduguri đến Cơ quan Phát triển Chăm sóc Sức khỏe Tiểu học Quốc gia tại Abuja, nơi cô làm việc trong ba năm cho đến khi cô rời khỏi để làm việc tại Đại học Bang Nasarawa. Giải thưởng. Giải thưởng văn học của Hiệp hội các tác giả Nigeria (ANA), 1985
{ "split": 0, "title": "Zaynab Alkali", "token_count": 313 }
22,988
Title: Zbigniew Kundzewicz Zbigniew Władysław Kundzewicz (sinh ngày 4 tháng 12 năm 1950 tại Augustów, Ba Lan) là nhà thủy văn học và khí hậu học Ba Lan. Ông đồng thời là giáo sư Khoa học Trái đất, và là thành viên tương ứng của Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan và Viện hàn lâm châu Âu. Sự nghiệp giáo dục. Zbigniew Kundzewicz tốt nghiệp Khoa Điện tử tại Đại học Công nghệ Warszawa. Ông thăng hàm tiến sĩ (PhD) năm 1979, học hàm DSc năm 1985 về khoa học vật lý với chuyên ngành địa vật lý và thủy văn. Năm 1993, ông giữ chức giáo sư khoa học Trái đất. Năm 2010, ông là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan (PAS), và năm 2017 ông là thành viên của Viện Hàn lâm Châu Âu. Từ 1974 đến 1989, ông làm việc tại Viện Vật lý Địa cầu trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan. Từ năm 1990, ông làm việc tại Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan về Môi trường Nông nghiệp và Rừng ở Poznań. Ông cũng là nhân viên nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Tác động Khí hậu Potsdam (2001-2016), một trong những trung tâm nghiên cứu biến đổi khí hậu hàng đầu thế giới. Nghiên cứu. Lĩnh vực nghiên cứu của Kundzewicz tập trung vào các hiện tượng thủy văn cực đoan như lũ lụt, đặc biệt là tác động của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên nước. Ông là chuyên gia trong lĩnh vực này. Ông từng là chủ tịch của Ủy ban Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan về Nghiên cứu các mối đe dọa thiên tai. Từ năm 1994, ông là một trong những chuyên gia của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC). Ông đã xuất bản rộng rãi hơn 550 ấn phẩm khoa học do ông là tác giả hoặc đồng tác giả. Từ tháng 4 năm 1997 đến tháng 4 năm 2015, ông là Tổng biên tập "Hydrological Sciences Journal (Tạp chí Khoa học Thủy văn)".
{ "split": 0, "title": "Zbigniew Kundzewicz", "token_count": 434 }
22,989
Title: Zbylut Grzywacz Zbylut Grzywacz (sinh ngày 4 tháng 6 năm 1939 - mất ngày 16 tháng 7 năm 2004) là một họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà thiết kế đồ họa người Ba Lan. Ông từng là một giáo sư của Học viện Mỹ thuật ở Kraków. Zbylut Grzywacz là tác giả của nhiều bức tranh đang nằm trong các bộ sưu tập thường trực của Bảo tàng Quốc gia ở Kraków, Warsaw, Poznań, Gdańsk và Wrocław. Tác phẩm của Zbylut Grzywacz được trưng bày trong hơn một trăm cuộc triển lãm nghệ thuật ở Ba Lan và quốc tế, trong đó có khoảng 40 cuộc triển lãm cá nhân. Sự nghiệp. Zbylut Grzywacz học hội họa tại Học viện Mỹ thuật ở Kraków và nhận bằng thạc sĩ ngành Emil Krcha atelier vào năm 1963. Ông làm trợ giảng tại Khoa Hội họa của học viện này từ năm 1972 và đến năm 1991 trở thành một giáo sư tại đây. Sau khi bị cầm tù trong thời gian thiết quân luật năm 1981, Zbylut Grzywacz tích cực ủng hộ phong trào bất đồng chính kiến ở Ba Lan cộng sản trước cuộc Cách mạng năm 1989.
{ "split": 0, "title": "Zbylut Grzywacz", "token_count": 253 }
22,990
Title: Zcash Zcash là một đồng tiền kỹ thuật số (hay tiền điện tử) cho phép thực hiện giao dịch "trong suốt" và riêng tư. Tất cả các giao dịch Zcash đều được để công khai trong cuốn sổ cái (public blockchain), nhưng người nhận, gửi, và lượng giao dịch có thể để riêng tư. Tên giao dịch của đồng Zcash là ZEC, tuy nhiên không thật sự đúng với tiêu chuẩn đặt tên mã tiền tệ ISO 4217. Cũng giống như Bitcoin, Zcash chỉ có giới hạn 21 triệu đồng ZEC có thể đào và lưu hành. Công nghệ. Tính riêng tư. So sánh. Đối với công nghệ chuỗi khối (Blockchain) truyền thống như Bitcoin và Ethereum, mỗi bản ghi trong chuỗi khối chứa toàn bộ thông tin của các bên tham gia giao dịch và lượng giao dịch. Phương thức ẩn danh CoinJoin của Bitcoin làm ẩn đi lượng giao dịch bằng cách trộn nhiều người gửi và nhận với nhau trong cùng một pool giao dịch, và không thể biết được mỗi người được chia cụ thể bao nhiêu từ tổng pool giao dịch đó. Tuy nhiên vẫn không ẩn được tổng lượng giao dịch trong một pool và pool giao dịch cũng cần những người tham gia giao dịch phải trực tuyến (không có tính bất đồng bộ). BitShares 1.0 mang đến khả năng ẩn được toàn bộ lượng giao dịch, ngoại trừ người gửi và người nhận. Tuy nhiên, lượng giao dịch vẫn có thể suy được nếu kiểm tra các kết quả của các giao dịch trước và sau giao dịch bị ẩn đó. Đồng Monero đã tiến thêm một bước nữa bằng việc tạo ra một số lượng lớn các nhập xuất giả (dummy) giữa mỗi giao dịch, tạo ra một tập các địa chỉ lớn hơn trộn vào giao dịch ban đầu. Điều này vẫn có thể làm rò rỉ thông tin các bên phải tạo ra các giao dịch giả và bắt chước giống như các giao dịch thật. Giữa tháng 4 năm 2014 đến tháng 1 năm 2017, 62% các giao dịch đồng Monero đã được liên kết bằng phần mềm trên client tạo ra các đầu vào giả để giao dịch from từ các ví mà không có bất kỳ tài khoản nào. Các mô hình còn lại bị rò rỉ khoảng 90% thông tin về các giao dịch. Zcash.
{ "split": 0, "title": "Zcash", "token_count": 483 }
22,991
Title: Zcash Zcash sử dụng mã hóa zero-knowledge proofs (zk-SNARKs) để bảo vệ toàn bộ thông tin về giao dịch được gọi là các giao dịch "shielded" (được bảo vệ). Điều này làm tăng lượng đầu vào và đầu ra tiềm ẩn cho giao dịch. Mặc dù xác suất của một đầu vào được bảo vệ tương ứng với bất kỳ đầu ra trước đó là không thống nhất (ví dụ, địa chỉ cũ hơn ít có khả năng được sử dụng hơn), không có thông tin nào bị rò rỉ ngoại trừ việc có tồn tại giao dịch này, cũng như thông tin về thời gian giao dịch và các metadata. Ngoài ra, Zcash đồng thời cũng cho phép các giao dịch trong suốt, nghĩa là không cung cấp bất kì tính năng ẩn danh hay che giấu thông tin nào. Đào Zcash. Zcash là một loại tiền điện tử đầy hứa hẹn, vì vậy nhiều thợ đào đã chọn nó. Các chuyên gia tin rằng, về chi phí nó có thể được so sánh với Bitcoin, thậm chí còn bỏ qua Bitcoin. Cũng giống như Bitcoin, có một số cách để khai thác Zcash. Hai phương pháp chính để khai thác Zcash, cũng như hầu hết các loại tiền điện tử là khai thác theo nhóm và khai thác đơn lẻ. Hãy xem chi tiết từng phương pháp và tìm ra phương pháp nào phù hợp nhất với bạn. Khai thác theo nhóm nghĩa là bạn tham gia lực lượng với những người khai thác khác để tăng cơ hội nhận được phần thưởng khối. Phần thưởng trong trường hợp này được chia tùy thuộc vào sự đóng góp về sức mạnh tính toán của mỗi thợ đào trong nhóm. Ngay sau khi khối giao dịch được xác nhận thành công bởi nhóm, nó sẽ nhận được phần thưởng và chia cho những người tham gia. Khai thác đơn lẻ không giống như khai thác theo nhóm, nó không yêu cầu bạn tham gia vào bất kỳ nhóm nào. Mặc dù thực tế là một số nguồn cho rằng kết quả hoàn toàn tương tự khi khai thác theo nhóm và khai thác đơn lẻ. Đối với một số đồng tiền, như Bitcoin hoặc Zcash, sự phát triển của công nghệ theo hướng này đã làm cho việc khai thác đơn lẻ đồng Zcash và Bitcoin thực tế trở nên vô dụng và lỗi thời.
{ "split": 1, "title": "Zcash", "token_count": 486 }
22,992
Title: Zcash Hiện tại Đào Zcash khả thi bằng GPU hoặc CPU. Zcash cũng giống như ETH "miễn nhiễm" với các chip chuyên đào coin ASIC, bởi vì nó sử dụng thuật toán Equihash. Chọn card màn hình là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Tùy thuộc vào sức mạnh của thẻ, thu nhập có thể khác nhau rất nhiều. Dung lượng RAM GPU tối thiểu phải là 1 - 2 GB. Zcash thường được khai thác trên thẻ NVIDIA bằng chương trình EWBF Miner. EWBF Miner được thiết kế đặc biệt cho thẻ NVIDIA và cho phép bạn đạt được hiệu suất cao.
{ "split": 2, "title": "Zcash", "token_count": 136 }
22,993
Title: Zdenko Hans Skraup Zdenko Hans Skraup (3.3.1850 – 10.9.1910) là nhà hóa học người Tiệp Khắc/Áo, đã phát hiện ra phản ứng Skraup, việc tổng hợp lần đầu quinoline. Cuộc đời và Sự nghiệp. Skraup sinh tại Praha, học tại trường Oberrealschule từ năm 1860 tới năm 1866 rồi theo học Đại học Kỹ thuật Praha từ năm 1866 tới 1871. Sau khi làm phụ tá cho Heinrich Ludwig Buff gần một năm, ông chuyển sang làm việc ở một nhà máy làm đồ gốm sứ, rồi đổi sang làm ở xưởng đúc tiền ở Viên năm 1873. Năm 1873, ông trở thành phụ tá của Rochleder, mặc dù được thăng chức trong việc làm cũ. Rochleder từ trần năm sau (1874) và Skraup vẫn tiếp tục làm việc với các người kế vị của Rochleder là Franz Schneider và Adolf Lieben. Ông đậu bằng tiến sĩ ở Đại học Gießen ngày 17.3.1875, và hoàn tất habilitation ở Đại học Wien năm 1879. Nhưng bằng tiến sĩ của ông do một trường đại học Đức cấp, nên ông phải chờ tới năm 1881 mới được bổ nhiệm làm giáo sư ở Học viện Thương mại Wien. Năm 1886 ông đổi sang Đại học Graz, rồi sang Đại học Wien năm 1906. Ông từ trần ngày 10.9.1910 tại Wien.
{ "split": 0, "title": "Zdenko Hans Skraup", "token_count": 289 }
22,994
Title: Zeituni Onyango Zeituni Onyango (29 tháng 5 năm 1952 – 7 tháng 4 năm 2014) là em gái cùng mẹ khác cha với thân phụ của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Nhiều năm trước bà rời bỏ quê hương để trốn tránh những cuộc xung đột sắc tộc tại Kenya và tới thành phố Boston, Mỹ sinh sống. Thân thế. Onyango giúp trông nom các người em cùng cha khác mẹ với Obama khi còn sống ở Kenya. Bà sang Hoa Kỳ năm 2000 và xin tị nạn năm 2004, nhưng đơn của bà bị bác bỏ và chính quyền thành phố yêu cầu Onyango rời khỏi Mỹ từ năm 2004, song bà vẫn ở lại trong căn chung cư do chính phủ tài trợ cho người nghèo tại thành phố Boston. Bà không hề gặp khó khăn khi viếng thăm gia đình Obama lúc ông còn là nghị sĩ tiểu bang Illinois hay sau khi ông trở thành nghị sĩ Liên bang Hoa Kỳ. Việc bà sống ở Hoa Kỳ bất hợp pháp được tiết lộ vào tháng 10 năm 2008, chỉ ít ngày trước khi ông Obama được bầu vào chức vụ tổng thống. Obama nói rằng ông không biết cô mình sống bất hợp pháp tại Hoa Kỳ và tin rằng phải hành xử đúng theo luật lệ. Tòa án nhập cư tại Boston xét xử cô của tổng thống vào ngày 31 tháng 3 năm 2009. Trước tòa, Onyango nói rằng bà sẽ gặp nguy hiểm nếu trở lại Kenya, đặc biệt là kể từ khi người cháu trở thành tổng thống Mỹ. Sau phiên tranh luận, thẩm phán quyết định tổ chức phiên xét xử tiếp theo vào ngày 4 tháng 2 năm 2010. Onyango được cảnh sát liên bang bảo vệ nghiêm ngặt sau khi rời khỏi tòa án. Obama khẳng định ông không hề biết người cô đang cư trú bất hợp pháp trên lãnh thổ Mỹ. Phát ngôn viên Nhà Trắng tuyên bố tổng thống không can thiệp vào vụ án của Onyango và sẽ chấp thuận mọi phán quyết của tòa án. Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng Onyango đã đẩy Obama vào thế khó xử cả về mặt cá nhân lẫn chính trị. Buồn tủi vì bị xa lánh.
{ "split": 0, "title": "Zeituni Onyango", "token_count": 429 }
22,995
Title: Zeituni Onyango Onyango ôm mặt khóc khi kể lại sự buồn khổ do việc không còn liên lạc gì với Tổng thống Obama và gia đình ông sau khi có tin tiết lộ bà sống bất hợp pháp từ nhiều năm nay ở Hoa Kỳ trong khu chung cư chính phủ trợ cấp cho người nghèo. Onyango nói với AP rằng bà lo buồn vì những trở ngại liên quan đến di trú đã khiến bà trở thành một gánh nặng chính trị cho cháu trai. Onyango tự xa lìa gia đình sau khi tham dự lễ nhậm chức của Tổng thống Obama vì bà không muốn là lý do để các đối thủ chính trị của ông tấn công. Tổng thống Obama và gia đình của ông cũng không tìm cách liên lạc. "Trước đây, chúng tôi là gia đình họ hàng. Nhưng nay, có rất nhiều vấn đề chính trị, và cá nhân tôi không màng gì đến chính trị cả," theo lời Onyango, nộp đơn xin tái cứu xét việc được tị nạn ở Hoa Kỳ. Gia đình Obama là thân nhân duy nhất của bà tại Mỹ. "Thật đáng buồn khi điều này xảy ra. Đây là do người ngoài, bạn biết không, họ xen vào, họ chia rẽ gia đình," bà nói. Onyango không bao giờ nhờ ông can thiệp vào trường hợp của bà và cũng không cho ông biết về các khó khăn liên quan đến di trú của mình. Tòa Bạch Ốc nói Tổng thống Obama không dính líu gì đến trường hợp của cô mình và tin rằng phải để cho mọi việc diễn ra theo tiến trình tự nhiên.
{ "split": 1, "title": "Zeituni Onyango", "token_count": 330 }
22,996
Title: Zenani Mandela-Dlamini Zenani Mandela-Dlamini (sinh ngày 4 tháng 2 năm 1959) là tên của nột nữ ngoại gia người Nam Phi và cũng là con gái đầu của cố tổng thống Nam Phi Nelson Mandela và người vợ thứ hai của ông là nữ chính trị gia Winnie Madikizela-Mandela. Lí lịch. Bà gần như là được sinh trong tù khi mẹ của bà bị bắt khi đang mang thai ở cuối tháng thứ 8. Khi bà lên 4 tuổi, cha bà bị tống giam trong suốt 27 năm. Đến khi bà 16 tuổi thì bà mới thể thăm cha bà. Bà học ngành khoa học tự nhiên tại trường đại học Boston. Tại đó, bà gặp hoàng tử Thumbumuzi Dlamini của Swaziland (anh trai của vua đương thời là Mswati III) cũng học cùng ngành khoa học tự nhiên với bà. Cả hai người kết hôn với nhau và có bốn người con lần lượt tên là: Zaziwe (sinh năm 1977), Zamaswazi (sinh năm 1979), Zinhle (sinh năm 1980) và Zozuko (sinh năm 1992) và hiện có bốn người cháu. Tuy nhiên, hiện tại bà và chồng bà đang trong tình trạng li thân. Vào tháng 7 năm 2012, bà được bổ nhiệm làm đại sứ của Nam Phi để đến Argentina (tuy nhiên thời gian nhậm chức là tháng 10). Sau đó, đối thủ của bà là nhà ngoại giao Tony Leon nghỉ hưu, vì thế bà được bổ nhiệm vào vị trí này. Sau đó đến năm 2017, bà không còn giữ vị trí này nữa vì bà đã được bổ nhiệm làm đại sứ đến đến Mauritius. Sau khi cố tổng thống Nelson Mandela được bầu làm tổng thống và li dị với mẹ của bà, bà được bổ nhiệm làm chức "đệ nhất phu nhân" hay hiểu nôm na là vợ tổng thống cho đến khi cha bà tái hôn vào năm 80 tuổi với bà Graça Machel.
{ "split": 0, "title": "Zenani Mandela-Dlamini", "token_count": 407 }
22,997
Title: Zenon Przesmycki Zenon Przesmycki (bút danh Miriam; sinh ngày 22 tháng 12 năm 1861, Radzyń Podlaski – mất ngày 17 tháng 10 năm 1944, Warsaw) là một nhà thơ, dịch giả và nhà phê bình nghệ thuật người Ba Lan. Ông từng theo học chuyên ngành luật ở Ý, Pháp và Anh. Trong những năm 1887 - 1888, ông là tổng biên tập của tạp chí "Życie (Life)" - ấn phẩm đầu tiên có tầm ảnh hưởng đến chủ nghĩa hiện đại ở Ba Lan lúc bấy giờ. Sự nghiệp. Zenon Przesmycki từng là thành viên của Học viện Văn học Ba Lan. Ông là người đầu tiên phát hiện và phổ biến các tác phẩm của nhà thơ Ba Lan Cyprian Norwid, người gần như bị lãng quên khi sống lưu vong ở nước ngoài. Ông đã xuất bản tạp chí nghệ thuật "Chimera" "(1901–1908)" đề cập đến những tác phẩm của nhà thơ Norwid. Przesmycki đã xuất bản nhiều bản dịch tác phẩm của các nhà thơ quốc tế nổi tiếng, bao gồm Charles Baudelaire, Paul Verlaine, Edgar Allan Poe và Algernon Charles Swinburne.
{ "split": 0, "title": "Zenon Przesmycki", "token_count": 260 }
22,998
Title: Zentralblatt MATH Zentralblatt MATH (tiếng Đức có nghĩa "tạp chí toán học trung ương") là một dịch vụ cung cấp các ý kiến và tóm tắt các bài báo trong toán học cơ bản và toán học ứng dụng, xuất bản bởi Nhà xuất bản Springer. Đây là một dịch vụ rà soát quốc tế chính bao gồm toàn bộ lĩnh vực của toán học. Nó sử dụng các toán Phân loại Chủ đề mã số cho các tổ chức đánh giá theo chủ đề. Lịch sử. Dịch vụ này được thành lập vào năm 1931 bởi Otto Neugebauer như "Zentralblatt für Mathematik und ihre Grenzgebiete". Vào cuối những năm 1930 nó đã bắt đầu từ chối một số người Do Thái nhận xét ​​và một số nhà phê bình trong nước Anh và Mỹ đã từ chức để phản đối. Một số trong số họ đã giúp bắt đầu Mathematical Reviews, một ấn phẩm cạnh tranh. Các hình thức điện tử được cung cấp dưới tên INKA-MATH (viết tắt cho In hình thành hệ thống Ka rlsruhe-Cơ sở dữ liệu về Toán ematics) ít nhất là từ năm 1980. Tên này sau đó được rút ngắn xuống còn Zentralblatt MATH. Dịch vụ. Các dịch vụ trừu tượng Zentralblatt MATH cung cấp ý kiến (tài khoản ngắn gọn về nội dung) của bài viết hiện tại, báo cáo hội thảo, sách và các ấn phẩm khác trong toán học, ứng dụng của nó, và các khu vực liên quan. Các ý kiến chủ yếu là trong tiếng Anh, với mục thỉnh thoảng ở Đức và Pháp. Nhận xét ​​là tình nguyện viên mời bởi các biên tập dựa trên công việc của họ được công bố hay một khuyến cáo của một người đánh giá hiện tại. Zentralblatt MATH được cung cấp cả trên web và ở dạng in. Dịch vụ đánh giá hơn 2.300 tạp chí và serial trên toàn thế giới, cũng như các sách và biên bản hội nghị. Zentralblatt MATH hiện đang được chỉnh sửa bởi Hội Toán học châu Âu, FIZ Karlsruhe, và Viện hàn lâm Khoa học Heidelberg. Các cơ sở dữ liệu Zentralblatt cũng kết hợp 200.000 mục của các ấn phẩm tương tự trước đó Jahrbuch über chết Fortschritte der Mathematik 1868-1942, bổ sung năm 2003. Access là do thuê bao. Hiện nay, ba hồ sơ đầu tiên trong một tìm kiếm được cung cấp miễn phí mà không cần đăng ký.
{ "split": 0, "title": "Zentralblatt MATH", "token_count": 506 }
22,999
Title: Zeppan Zeppan (tên đầy đủ: Zeppan Manga Toshokan) là trang web phát hành trực tuyến miễn phí các manga không còn in ấn. Các manga này đều đã được cho phép bởi tác giả và nhà xuất bản. Trang web duy trì bằng quảng cáo. Do các manga đều đã ngừng in (không còn phát hành dạng sách giấy), Zeppan không cạnh tranh với bất cứ nhà xuất bản nào. Người sáng lập nó là mangaka nổi tiếng Akamatsu Ken (tác giả của Love Hina). Trang bắt đầu hoạt động thử nghiệm lần 1 vào ngày 25 tháng năm 2008 và lần 2 vào ngày 26 tháng 11 năm 2010 dưới cái tên J-Comi. Lần 1 gồm toàn bộ 14 tập Love Hina, trang web đã đạt 1 triệu lượt tải trong 2 ngày. Lần 2 bổ sung manga từ Kodansha và Shueisha, trong đó riêng After School Wedding của Shinjo Mayu đã mang về 525 000 yên 1 tháng. Ngày 12 tháng 4 năm 2011, trang chính thức hoạt động dưới tên Zeppan. Zeppan phản đối đạo luật 156 bằng việc bổ sung các manga thuộc thể loại yaoi và yuri. Đến tháng 9 năm 2011, trang có 103 tựa truyện. Tháng 10 năm 2011, trang mở thêm tên miền phụ R18 cho manga hentai (gồm cả lolicon). Người dùng có thể thêm bản dịch của mình vào mỗi tựa. Zeppan cũng hợp tác với Google để đa dạng hóa ngôn ngữ giao diện. Với Zeppan, Akamatsu hi vọng sẽ đẩy lùi được nạn manga lậu, kiếm thêm thu nhập cho các tác giả và bản thân đồng thời giúp người đọc tiếp cận các manga tuy cũ nhưng vẫn hay.
{ "split": 0, "title": "Zeppan", "token_count": 352 }