id
int64
0
23k
passage
stringlengths
27
4.61k
metadata
dict
23,000
Title: Zeta Hydri Zeta Hydri, được Latin hóa được viết là ζ Hydri, là một ngôi sao đơn lẻ, trong khu vực phía nam của chòm sao Thủy Xà. Nó có thể nhìn thấy rõ bằng mắt thường với cường độ rõ ràng là 4,83. Khoảng cách đến ngôi sao này có thể được ước tính từ sự thay đổi thị sai hàng năm của nó là 11,47 mas, cho thấy nó cách Trái Đất khoảng 284 năm ánh sáng. Nó đang di chuyển ra xa Mặt trời hơn với vận tốc hướng tâm là +3,6  km / s. Quang phổ của ngôi sao này phù hợp với phân loại sao là A2 IV, cho thấy nó là một ngôi sao gần mức khổng lồ đang trong quá trình tiến hóa ra khỏi dãy chính khi nguồn cung cấp hydro ở mã của nó đang dần bị cạn kiệt. Nó có tốc độ quay rất nhanh, cho thấy tốc độ quay dự kiến là 116 km / s. Điều này mang lại cho ngôi sao một hình dạng dẹt nhẹ với độ phồng xích đạo lớn hơn 5% so với bán kính ở hai cực. Nó có khối lượng gấp 2,4 lần khối lượng Mặt trời và kích thước gần gấp bốn lần bán kính của Mặt trời. Zeta Hydri có độ sáng đang tỏa ra 80 lần so với độ sáng của Mặt trời vào không gian từ không gian quang cầu của nó ở nhiệt độ hiệu dụng là 9.144   K.
{ "split": 0, "title": "Zeta Hydri", "token_count": 301 }
23,001
Title: Zig Ziglar Hilary Hinton "Zig" Ziglar (ngày 6 tháng 11 năm 1926 – 28 tháng 11 năm 2012) là một tác giả, chuyên viên bán hàng và diễn giả truyền cảm hứng người Mỹ. Tiểu sử. Giáo dục và cuộc sống ban đầu. "Zig" Ziglar được sinh ra ở , phía đông nam Alabama. Cha mẹ ông là John Silas Ziglar và Lila Wescott Ziglar. Ông là con thứ mười trong 12 người con của gia đình. Năm 1931, khi Ziglar lên năm tuổi, cha ông đảm nhiệm vị trí quản lý tại một trang trại ở Mississippi. Gia đình sau đó chuyển đến thành phố Yazoo, Mississippi. Năm sau, cha ông qua đời vì đột quỵ, và em gái ông qua đời hai ngày sau đó. Từ năm 1943 đến năm 1945, ông tham gia Chương trình đào tạo Đại học Hải quân V-12 tại Đại học Nam Carolina ở Columbia, Nam Carolina. Nghề nghiệp. Cùng với Richard "Dick" Gardner và Hal Krause, Ziglar là thành viên điều lệ trong quá trình thành lập American Salesmasters năm 1963. Mục tiêu của công ty là tổ chức hội thảo nhằm nâng cao hình ảnh của nhân viên bán hàng ở Mỹ. Hoạt động công ty bắt đầu với các thành phố trên khắp miền Trung Tây (Memphis, Atlanta, Kansas City, St. Louis, Chicago, Denver, v.v.), với các diễn giả như Ziglar, Norman Vincent Peale, Ken McFarland, Cavett Robert, Bill Gove, Maxwell Maltz, Red Motley. Khán giả bao gồm các đại lý bảo hiểm, nhân viên bán xe, cố vấn tài chính, doanh nhân, chủ doanh nghiệp nhỏ, v.v... Ziglar tiếp tục diễn thuyết rộng rãi cho khán giả của Hiệp hội Giáo dục Bán hàng Quốc gia (NASE), được thành lập bởi Dick Gardner vào năm 1965. Ông cũng đồng thời giữ vai trò giảng viên bán hàng cho Mary Kay Cosmetics. Năm 1968, ông trở thành phó chủ tịch và giám đốc đào tạo cho công ty Automotive Performance và chuyển đến Dallas, Texas. Công ty phá sản hai năm sau đó. Sau đó, Ziglar đã diễn thuyết tại các hội thảo cho Peter Lowe, của Get Motivated, và cuối cùng ký thỏa thuận độc quyền để hỗ trợ các sự kiện của Peter Lowe.  
{ "split": 0, "title": "Zig Ziglar", "token_count": 505 }
23,002
Title: Zig Ziglar Ngoài việc diễn thuyết, Ziglar đã viết hơn 30 cuốn sách. Tác phẩm đầu tiên của ông, "See You At The Top", đã bị từ chối 39 lần trước khi được xuất bản năm 1975. Vào năm 2007, một cú ngã xuống cầu thang khiến ông gặp vấn đề về trí nhớ ngắn hạn. Tuy nhiên, Ziglar tiếp tục tham gia các hội thảo truyền cảm hứng cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 2010 Cuộc sống cá nhân. Ziglar gặp vợ của mình, Jean, vào năm 1944 tại Jackson, Mississippi. Cặp đôi kết hôn vào cuối năm 1946 và có bốn người con: Suzan, Tom, Cindy và Julie. Là một tín đồ Baptist, Ziglar đã tích hợp các nội dung của Kitô giáo vào công việc truyền cảm hứng của mình. Ông là một thành viên đảng Cộng hòa, từng ủng hộ cựu Thống đốc bang Arkansas Mike Huckabee cho đề cử tổng thống của đảng vào năm 2008 Cái chết. Ngày 28 tháng 11 năm 2012, Ziglar qua đời vì viêm phổi tại một bệnh viện ở Plano, Texas. Sách. <templatestyles src="Module:Citation/CS1/styles.css"></templatestyles> <templatestyles src="Module:Citation/CS1/styles.css"></templatestyles> <templatestyles src="Module:Citation/CS1/styles.css"></templatestyles>
{ "split": 1, "title": "Zig Ziglar", "token_count": 353 }
23,003
Title: Zingiber bisectum Zingiber bisectum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Fang Ding (Phương Đỉnh) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996. Tên gọi trong tiếng Trung là 裂舌姜 (liệt thiệt khương), nghĩa đen là gừng lưỡi rách. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Fang D. 17878"; thu thập ngày 8 tháng 8 năm 1975 ở cao độ 260 m, tọa độ khoảng (ZRC đưa ra tọa độ - nhưng điều này thiếu chính xác, do địa điểm ở tọa độ này thuộc trấn Na Lâu, quận Vũ Minh, cao độ ~100 m, cách điểm mà Phương Đỉnh liệt kê là Cửu Đường, Côn Lôn Quan khoảng 53 km về phía tây nam) trên sườn đồi tại Cửu Đường (九塘), Côn Lôn Quan (昆仑关), huyện Ung Ninh (nay là xã khu Cửu Đường, trấn Côn Lôn, quận Hưng Ninh), Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc. Holotype lưu giữ tại Viện Y học Cổ truyền và Khoa học Dược liệu Quảng Tây ở Nam Ninh, Quảng Tây (GXMI). Phân bố. Loài này có tại miền nam khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc và có thể có ở Thái Lan. Được tìm thấy trên các sườn đồi, ở cao độ khoảng 300 m. Mô tả.
{ "split": 0, "title": "Zingiber bisectum", "token_count": 310 }
23,004
Title: Zingiber bisectum Thân rễ ruột màu vàng, dạng củ; các rễ có củ ở đỉnh. Thân giả cao tới 3,4 m. Bẹ lá có lông nhung; lưỡi bẹ 2 khe, 1–6 cm, gần khô xác; cuống lá từ không có đến dài tới 5 mm, có lông nhung ở mặt xa trục; phiến lá gần thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, ~8,5 × 4,5–10 cm, mặt gần trục lốm đốm lông màu nâu dọc theo gân giữa, mặt xa trục thưa lông nhung, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng hoặc gần thuôn dài, 7-10 × 2,5–7 cm, nhiều hoa; cuống cụm hoa 2-12,5 cm, có lông nhung; lá bắc màu đỏ hoặc xanh lục, thuôn dài, 4-4,5 × ~1,1 cm, có lông nhung; lá bắc con thuôn dài, 3,5–4 cm × ~7 mm, có lông nhung. Đài hoa ~2 cm, chẻ 1 bên, có lông nhung, đỉnh 3 răng. Ống tràng hoa màu trắng, 4-4,7 cm; các thùy màu ánh vàng, thùy giữa ~2,5 cm × 8–9 mm, các thùy bên hình mác, ~2,3 cm × 5 mm. Cánh môi có đốm màu tía đen; thùy giữa hình trứng ngược, ~2 × 1,3 cm, đỉnh 3 răng; các thùy bên ~10 × 7 mm. Bao phấn không cuống, ~1,5 cm; phần phụ kết nối ~1,2 cm. Bầu nhụy rậm lông nhung. Ra hoa tháng 8.
{ "split": 1, "title": "Zingiber bisectum", "token_count": 380 }
23,005
Title: Zingiber bradleyanum Zingiber bradleyanum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Grant Craib miêu tả khoa học đầu tiên năm 1912. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Kerr A.F.G 763"; do Arthur Francis George Kerr (1877-1942) thu thập ngày 22 tháng 8 năm 1909 trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh khá ẩm thấp ở cao độ 300 m, tọa độ khoảng trên Doi Suthep, Chiang Mai, Thái Lan. Lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), các isolectotype tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Anh tại London (BM), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Học viện Trinity ở Dublin, Ireland (TCD). Phân bố. Loài này có tại các tỉnh Chiang Mai, Lampang, Lamphun, Mae Hong Son, Phayao, Tak ở miền bắc Thái Lan cũng như tại Myanmar. Mô tả.
{ "split": 0, "title": "Zingiber bradleyanum", "token_count": 232 }
23,006
Title: Zingiber bradleyanum Cây thảo cao 58-63(-100) cm. Thân rễ ruột màu vàng tươi. Thân giả tới 14 lá. Lá hình mác hoặc thuôn dài-hình mác, đỉnh nhọn thon, nhọn, đáy thon nhỏ dần, lá to nhất dài ~40 cm, rộng ~6,5 cm, gần như không cuống, mặt trên nhẵn nhụi, màu xanh lục sẫm với vết màu xám bạc dọc theo gân giữa, mặt dưới rậm lông. Lưỡi bẹ chẻ đôi, dài gần tới 3 cm, rộng 5 mm, màu xanh lục, thưa lông tơ, như thủy tinh tại mép. Bẹ thấp nhất 2-3, các bẹ trên mỏng, màu hồng. Cụm hoa gồm 4 cành hoa bông thóc ở bên, sắp xếp thành đôi trên dưới; cuống các cành hoa dưới dài 2-4 cm, vài lần ngắn hơn cuống các cành hoa trên, vảy xếp lợp che phủ. Cành hoa bông thóc dài ~3-3,5 cm; các lá bắc mặt lưng mỏng, các lá bắc thấp nhất dài 3 cm, màu hồng, các lá bắc trên màu xanh lục với gân màu ánh đỏ. Lá bắc con dài 2,3 cm, rộng 0,3 cm. Đài hoa như thủy tinh, màu trắng trong suốt, dài 9 mm. Các phần khác của hoa màu từ trắng tới màu kem, trừ mào bao phấn màu vàng tươi. Tràng hoa màu trắng, ống tràng dài 3,7 cm; các thùy thuôn dài hoặc thẳng-hình mác, nhọn, dài ~2,3 cm, rộng 3-7 mm. Nhị lép bên với các thùy bên giả lập cánh môi. Cánh môi dài 1,8 cm, rộng 1,3 cm. Bao phấn dài ~1 cm, phần phụ kết nối dài hơn một chút.
{ "split": 1, "title": "Zingiber bradleyanum", "token_count": 413 }
23,007
Title: Zingiber corallinum Zingiber corallinum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Fletcher Hance miêu tả khoa học đầu tiên năm 1880. Tên gọi trong tiếng Trung là 珊瑚姜 (san hô khương), nghĩa là gừng san hô. Mẫu định danh. Lectotype "Hancock W. 20747"; thu thập tháng 12 năm 1878 ở tọa độ , tại đảo Hải Nam, Trung Quốc. Mẫu này được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Anh ở London (BM). Phân bố. Loài này có tại Trung Quốc (Hải Nam, Quảng Tây, Quảng Đông), Lào, Thái Lan. Môi trường sống là rừng rậm. Phân loại. Schumann (1904) xếp nó vào tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Nó là một thành viên của nhóm "Z. montanum"; bao gồm "Z. corallinum", "Z. griffithii", "Z. idae", "Z. montanum", "Z. neesanum", "Z. purpureum", "Z. tenuiscapus". Mô tả.
{ "split": 0, "title": "Zingiber corallinum", "token_count": 252 }
23,008
Title: Zingiber corallinum Thân giả ~1 m. Lá không cuống; bẹ lá thưa lông hoặc nhẵn nhụi; lưỡi bẹ 2-4 mm; phiến lá thuôn dài-hình mác hoặc hình mác, 20-30 × 4-6 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục thưa lông hoặc nhẵn nhụi. Cụm hoa mọc ra từ thân rễ, thuôn dài 15-30 cm; cuống cụm hoa 15-20 cm, bẹ hình vảy 4-5 cm; lá bắc màu đỏ, hình trứng, dài 3-4 cm, đỉnh nhọn. Đài hoa 1,5-1,8 cm, chẻ tới giữa. Ống tràng hoa ~2,5 cm; các thùy với sọc tía, thuôn dài, ~1,5 cm, đỉnh nhọn, thùy giữa lớn hơn các thùy bên. Thùy giữa của cánh môi hình trứng ngược, ~1,5 cm; các thùy bên ~8 mm, đỉnh nhọn. Bao phấn không cuống, ~1 cm; phần phụ liên kết giống mỏ, cong, ~5 mm. Bầu nhụy 2-2,5 mm, như lụa. Hạt màu đen, bóng. Ra hoa tháng 5-8, tạo quả tháng 8-10. "2n" = 22. Mu Mu Aung (2016) mô tả loài mới "Zingiber neomontanum" ở Myanmar và cho rằng nó khác với "Z. corallinum", nhưng tới nay vẫn chưa được công nhận.
{ "split": 1, "title": "Zingiber corallinum", "token_count": 326 }
23,009
Title: Zingiber corallinum Mô tả loài này như sau: Cây thảo thân rễ sống lâu năm, cao tới 2 m. Thân rễ vỏ màu nâu ánh trắng, ruột màu trắng kem, mùi thơm nhẹ. Thân lá thẳng đứng, màu xanh lục, nhẵn nhụi hơi có lông tơ ở gần đỉnh bẹ. Lá 10–12 cặp, sắp xếp thưa dọc theo các lóng dài, màu xanh lục; phiến lá thẳng tới hình mác, dài 45–50 cm, rộng 4–4,5 cm, đỉnh nhọn thon, đáy hình nêm hẹp, mép hơi gợn sóng, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục thưa lông tơ; lưỡi bẹ 2 thùy, dài 2 mm, dạng màng như thủy tinh, rậm lông tơ, đỉnh cụt; cuống lá rất ngắn, có lông tơ, gối khác biệt. Cụm hoa thường 1, mọc từ thân rễ; cuống cụm hoa từ thân rễ, thẳng đứng, dài ~20 cm, lá bắc bẹ màu xanh lục, thuôn dài tới hình trứng hẹp, dài 5–6 cm, rộng 1 cm, đỉnh thuôn tròn, rậm lông tơ; cành hoa bông thóc hình thoi, dài 18–28 cm, rộng ~5 cm, đỉnh tù hơi thon búp măng. Lá bắc hình trứng, dài ~4,5 cm, rộng 2–2,5 cm, màu đỏ tươi, đỉnh từ nhọn đến nhọn thon, rậm lông tơ áp ép, lông lụa rất mịn về phía đáy. Lá bắc con thuôn dài, dài 3 cm, màu trắng, rậm lông tơ áp ép ở mặt ngoài, mặt trong nhẵn nhụi, đỉnh khía răng cưa. Hoa dài ~8,3 cm, thò ra từ lá bắc; đài hoa hình ống, dài ~2,2 cm, màu trắng, dạng màng, nhẵn nhụi, đỉnh 3 răng; ống hoa hình trụ đến hình phễu ở đỉnh, màu trắng kem, dài 4,5 cm, nhẵn nhụi; thùy tràng hoa 3, màu kem đến vàng nhạt, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng hình trứng, dạng thuyền, cuốn trong, dài 3 cm, rộng 1,5 cm; các thùy tràng bên thẳng-hình mác, dài 2,6 cm, rộng 9 mm; cánh môi 3 thùy, màu trắng đến kem hoặc vàng nhạt; thùy giũa hình trứng ngược, dài ~3,4 cm, rộng 1,5 cm, đỉnh có khe hở, mép nhăn; các nhị lép bên hình trứng đến hình trứng ngược với đỉnh thuôn tròn, dài ~1,5 cm, rộng 8 mm. Nhị dài ~2,4 cm; chỉ nhị không cuống; bao phấn màu trắng, có đốm đen dày đặc trên cả mào lẫn phần phụ (chỉ nhìn thấy ở vật liệu ngâm cồn); mào bao phấn dài ~1,1 cm, cong mạnh; mô vỏ bao phấn dài 1,3 cm với phần phụ liên kết. Bầu nhụy màu trắng, gần hình elipxoit, rậm lông tơ, 3 ngăn với nhiều noãn đính trụ; vòi nhụy dài, hình chỉ; đầu nhụy màu trắng, có lông rung; tuyến trên bầu 2, thẳng, dài ~7 mm, màu trắng. Quả nang không rõ.
{ "split": 2, "title": "Zingiber corallinum", "token_count": 751 }
23,010
Title: Zingiber discolor Zingiber discolor là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Jana Leong-Škorničková, Trần Hữu Đăng và Romana Rybková miêu tả khoa học đầu tiên năm 2015. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Jana LeongŠkorničková, Romana Rybková, Jan Ponert, Trần Hữu Đăng, Trịnh Tấn Thành, Trương Quang Tâm, Trương Bá Vương HB-96"; thu thập ngày 4 tháng 7 năm 2010 ở cao độ 897 m, tọa độ , Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà, tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Bảo tàng Tự nhiên Quốc gia Việt Nam ở Hà Nội (VNMN), các isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Bảo tàng Quốc gia tại Praha (PR), Vườn Thực vật Singapore (SING) và phòng mẫu cây của Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà. Phân bố. Loài bản địa các tỉnh Khánh Hòa (Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà) và Lâm Đồng (huyện Bảo Lâm), Việt Nam. Loài cây thảo thân rễ này được tìm thấy trong rừng lá rộng thường xanh từ núi thấp đến núi cao, ở cao độ từ 800 đến 1.500 m. Ra hoa ở nơi lấy mẫu điển hình diễn ra vào tháng 5 đến tháng 7. Quả non được quan sát vào tháng 7 và dự kiến sẽ tiếp tục ra quả cho đến tháng 9. Các quần thể ở Bảo Lâm được quan sát thấy ra hoa vào tháng 4. Mô tả. Với cành hoa bông thóc trên cuống cụm hoa mọc thẳng đứng, nó thuộc về tổ "Zingiber". Cây thảo cao đến 1 m, thân màu nâu đỏ nhạt. Lá có mùi hắc, phiến lá hình bầu dục, 12-16 × 4-6 cm, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới nâu đỏ; cuống lá rất ngắn, khó thấy; lưỡi bẹ màu trắng-nâu đỏ rất nhạt, dài đến 5 mm, đầu xẻ ngắn thành 2 thùy, đầu thùy tròn, không lông. Các lá bắc xanh lục, xếp lợp lên nhau. Cụm hoa mọc từ thân rễ, ở bên thân lá. Các bộ phận hoa màu vàng nhạt trừ cánh môi màu nâu đỏ có nhiều đốm trắng trên toàn bộ cánh môi.
{ "split": 0, "title": "Zingiber discolor", "token_count": 507 }
23,011
Title: Zingiber elatius Zingiber elatius là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade nâng cấp thành loài độc lập năm 1998 với danh pháp "Zingiber elatior"; dựa trên thứ "Zingiber gracile" var. "elatior" do Henry Nicholas Ridley mô tả năm 1899. Từ nguyên và lưu ý. Tính từ Latinh giống đực/giống cái: "elatior", giống trung: "elatius"; nghĩa là cao hơn. Danh từ "Zingiber" là giống trung nên danh pháp chính xác là "Z. elatius" (như ghi nhận của IUCN, POWO, IPNI, WCSP, ZRC), không phải "Z. elatior" như ghi nhận trong các bài báo gốc hoặc trong The Plant List, TROPICOS. Ở đây là để nói tới thân cây cao hơn của nó so với dạng nguyên chủng của loài mà ban đầu nó được coi là một thứ trong đó là "Z.gracile". Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Ridley H.N. 9340"; thu thập tháng 6 năm 1898 ở cao độ 760–762 m, tọa độ khoảng , tại Richmond Pool, Penang Hill, Penang, Malaysia bán đảo. Mẫu lectotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Lưu ý rằng thông tin về lectotype và isotype của Theilade (1998) là thiếu chính xác (tháng 4 năm 1896, lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore - SING, isotype tại K). Các mẫu khác có "Burkill SFN 3312", "Burkill SFN 1529", "Fox W. 61" (tháng 8 năm 1899) tại Penang; "King’s Coll. 7954" (= "Kunstler H. 7954"), "Burkill & Haniff SFN 12712" tại Perak. Các mẫu "Ridley 7954" (tháng 8 năm 1904), "Hume 8717" tại Selangor; "Ridley H.N. s.n." (tháng 12 năm 1905) tại Johor. Phân bố.
{ "split": 0, "title": "Zingiber elatius", "token_count": 479 }
23,012
Title: Zingiber elatius Loài này có tại các bang Penang (Penang Hill trên đảo Penang), Perak (Bukit Larut, tên cũ Maxwell Hill) thuộc Malaysia bán đảo. Môi trường sống là rừng, ở cao độ 600-1.150 m. Các bang Johor và Selangor theo thông tin của Theilade (1998) không được IUCN ghi nhận. Phân loại. Thuộc nhóm "Zingiber gracile" trong tổ "Zingiber", bao gồm "Z. aurantiacum", "Z. elatius", "Z. gracile", "Z. kelantanense", "Z. petiolatum", "Z. raja", "Z. singapurense" và "Z. sulphureum". Mô tả. Chồi lá cao tới 1,5–2 m. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 2–10 mm, có lông tơ. Lá màu xanh lục sẫm, không cuống, thẳng hẹp tới hình mác nhọn thon, 20-30 x 2-2,8 cm, mặt dưới và gân giữa về phía đáy có lông tơ. Cán hoa dài 30-40(-45) cm. Cành hoa bông thóc hình thoi thanh mảnh, dài 10-20(-25) cm và rộng 2-2,5 cm. Lá bắc màu da cam chuyển thành đỏ hay đỏ-tía, có lông tơ dọc theo mép. Lá bắc con 2,5–3 cm, khá cứng. Đài hoa dài ~2,5 cm. Tràng hoa 6 cm, màu kem. Cánh môi chẻ đôi sâu, màu vàng, đôi khi với vài đường nhỏ, ngắn, màu đỏ và đen (mẫu "Burkill SFN 3312"). Về mặt sinh dưỡng, giống với "Z. montanum" ở Ấn Độ ở chỗ có lá thẳng, nhưng khác ở chỗ phiến lá hẹp hơn và cụm hoa hình thoi thanh mảnh với các lá bắc màu từ da cam tới đỏ.
{ "split": 1, "title": "Zingiber elatius", "token_count": 416 }
23,013
Title: Zingiber fragile Zingiber fragile là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 脆舌姜 (thúy thiệt khương), nghĩa là gừng lưỡi bẹ dễ gãy. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Tong S.Q. 24814"; thu thập ngày 7 tháng 7 năm 1981 ở cao độ 560 m, tọa độ , huyện Mãnh Lạp, châu tự trị Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (HITBC). Từ nguyên. Tính từ định danh "fragile" (giống đực/giống cái: "fragilis") là tiếng La tinh, nghĩa là dễ vỡ, dễ gãy; ở đây để nói lưỡi bẹ dễ gãy của loài này. Phân bố. Loài này có tại tây nam tỉnh Vân Nam (các huyện thị Mãnh Lạp, Cảnh Hồng, Hồng Hà), Trung Quốc và miền bắc Thái Lan (các tỉnh Chiang Rai, Nan). Môi trường sống là rừng, ở cao độ 560-1.500 m. Các loại môi trường sống chính là rừng mưa nhiệt đới; rừng mưa nhiệt đới gió mùa xen lẫn rừng mưa nhiệt đới; rừng mưa gió mùa nhiệt đới lẫn với rừng mua nhiệt đới; rừng thường xanh lá rộng gió mùa; rừng thường xanh lá rộng rêu; các hệ sinh thái nông nghiệp với lúa, ngô, mía và các hệ lâm nghiệp với cây cao su. Mô tả.
{ "split": 0, "title": "Zingiber fragile", "token_count": 379 }
23,014
Title: Zingiber fragile Thân giả cao 0,8–3 m. Lá không cuống; lưỡi bẹ màu đỏ có đốm ở đáy, 2 thùy, dài 3–4 cm, dạng màng, dễ gãy; phiến lá hình mác hoặc hẹp như vậy, 40-50 × 9–11 cm, hơi có lông tơ ngoại trừ rậm lông tơ dọc theo các bên của gân giữa, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng hoặc hình đầu, 4-8 × 3-7,5 cm; cuống cụm hoa rất ngắn; lá bắc màu đỏ, hình trứng hoặc thuôn dài, 3-5 × 2,8-3,8 cm, có lông tơ màu nâu, đỉnh lồi, nhọn, các lá bắc trong hình tam giác, 3,8-4 × 1,1-1,3 cm, đỉnh thon nhỏ dần; lá bắc con màu đỏ nhạt, dài 2,8–3 cm, có lông tơ màu trắng. Đài hoa dài 1,9-2,2 cm, đỉnh 3 răng, có râu. Ống tràng hoa dài 3,1-4,2 cm, có lông tơ màu trắng; các thùy màu đỏ, hình mác, 2,3-3,2 × 0,8-0,9 cm, các thùy bên hẹp hơn. Cánh môi màu nâu với các đốm màu nâu ánh tía; thùy giữa giống lưỡi bẹ, 2-2,4 × 0,7-0,9 cm; các thùy bên hình tai, 1,3-1,5 cm. Chỉ nhị dài ~3 mm; bao phấn dài ~2 cm; phần phụ liên kết màu tía, dài ~1,3 cm. Bầu nhụy màu trắng, có lông tơ. Ra hoa tháng 7.
{ "split": 1, "title": "Zingiber fragile", "token_count": 377 }
23,015
Title: Zingiber martinii Zingiber martinii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1988 (xuất bản năm 1989). Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Burtt B.L. & Martin A.M. B 5302"; thu thập ngày 29 tháng 9 năm 1967 trên đảo Borneo, ở tọa độ khoảng , ven suối gần trại số 3 trên đường từ Bakelalan tới núi Murud, trên ranh giới giữa tỉnh số 4 và số 5 (tương ứng hiện nay là các tỉnh Miri và Limbang), bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E). Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, được tìm thấy tại bang Sarawak, Malaysia. Môi trường sống là rừng, ở cao độ tới 1.700 m.
{ "split": 0, "title": "Zingiber martinii", "token_count": 207 }
23,016
Title: Zingiber mawangense Zingiber mawangense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được C. A. Noor Ain và Meekiong Kalu miêu tả khoa học đầu tiên năm 2015. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Noor Ain C.A., Angela George, Mas Izzaty M. & Meekiong K. NNZ 040"; thu thập tháng 10 năm 2013 ở tọa độ , trong hào rãnh gần suối, rừng khộp hỗn hợp, Kampung Tema Mawang, Tebakang, Serian, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Cục Lâm nghiệp bang Sarawak, Kuching (SAR), mẫu paratype "NNZ 042" lưu giữ tại phòng mẫu cây Đại học Malaysia Sarawak (HUMS). Từ nguyên. Tính từ định danh "mawangense" lấy theo địa phương nơi thu mẫu định danh là Matang. Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, được tìm thấy ở tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Loài cây thảo này được tìm thấy trong các rừng khộp (Dipterocarpaceae) hỗn hợp. Mô tả.
{ "split": 0, "title": "Zingiber mawangense", "token_count": 267 }
23,017
Title: Zingiber mawangense Cây thảo cao 50–80 cm. Thân rễ màu kem tới ánh trắng với rễ bất định. Lá sắp xếp so le, 5-7 đôi, các lá phía dưới nhỏ, hình trứng, 3,2 × 2,1 cm. Bẹ lá màu xanh lục, nhẵn nhụi. Phiến lá hình trứng tới hình mác, 20–36 × 10-10,6 cm, mép nguyên, đỉnh nhọn thon, đáy thon nhỏ dần, hơi uốn nếp, mặt trên màu xanh lục sẫm và nhẵn nhụi, mặt dưới màu xanh lục xỉn ánh bạc, có sáp. Cuống lá dạng gối, dài 5–6 mm, màu từ xanh lục nhạt tới xanh lục-vàng. Lưỡi bẹ dài 4–5 mm, 2 thùy, mép nguyên, màu xanh lục. Cuống cụm hoa 9,5 × 1,4 cm, màu vàng ánh đỏ và đỏ tươi về phía đáy. Cành hoa bông thóc hình con suốt, xếp lợp, 22 × 4,1 cm, màu vàng tới da cam. Lá bắc 4-4,8 × 3,7-4,5 cm, đỉnh nhọn thon, thuôn tròn, màu vàngđôi khi viền hồng về phía đáy. Lá bắc hoa 2-3,5 × 0,5-1,6 cm, màu vàng nhạt trong mờ tới màu kem hay trắng, đỉnh nhọn thon. Đài hoa 1,7-2,1 × 1,1-1,2 cm, màu ánh trắng trong mờ. Ống tràng hoa 3,2-4,9 × 0,2-0,3 cm, màu vàng và kem về phía đáy. Thùy tràng lưng 23-41 × 6–9 mm, màu vàng hay kem trong mờ, đỉnh nhọn thon, cong về phía sau; các thùy tràng bên 21-30 × 3–6 mm, trong mờ, màu vàng hay kem. Cánh môi 1,8-2,8 × 0,6-1,1 cm, mép hơi nhăn; thùy giữa 6-16 × 7–11 mm; các thùy bên 12-17 × 4–6 mm. Nhị và phần phụ 17-24 × 4 mm. Nhị 10-17 × 4–5 mm, màu nâu sẫm; chỉ nhị 7–10 mm. Bầu nhụy gần hình cầu, có lông lụa, 2-3 × 1–4 mm. Nhụy lép 5-7 × 1 mm..
{ "split": 1, "title": "Zingiber mawangense", "token_count": 519 }
23,018
Title: Zingiber mawangense Tương tự như "Z. argenteum" và "Z. martinii" về bề ngoài; cụ thể là mặt dưới phiến lá màu ánh bạc như ở "Z. argenteum" và cụm hoa hình con suốt thuôn dài như ở "Z. martinii"; nhưng khác với "Z. argenteum" ở chỗ cuống lá ngắn hơn (gần như không cuống) cùng phiến lá rộng hơn và khác với "Z. martinii" ở chỗ màu của lá bắc là vàng sẫm nổi bật và bóng với thùy tràng lưng cong về phía sau. Có giá trị làm cây cảnh cao với mặt dưới lá màu ánh bạc và mặt trên xanh lục sẫm, với nhiều cụm hoa (tới 15) mọc cùng một lúc.
{ "split": 2, "title": "Zingiber mawangense", "token_count": 179 }
23,019
Title: Zingiber nanlingense Zingiber nanlingense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Lin Chen, An Qiang Dong và Fu Wu Xing miêu tả khoa học đầu tiên năm 2011 dưới danh pháp "Zingiber nanlingensis". Tuy nhiên, do "Zingiber" là danh từ giống trung nên danh pháp đúng quy tắc chính tả phải là "Zingiber nanlingense" và điều này được WCSP, POWO ghi nhận; trong khi IPNI, The Plant List, ZRC vẫn ghi nhận theo danh pháp gốc. Từ nguyên. Tính từ định danh "nanlingense" (giống đực/giống cái: "nanlingensis") lấy theo tên gọi dãy núi Nam Lĩnh ở phía bắc tỉnh Quảng Đông. Mẫu định danh. Các mẫu định danh bao gồm: Phân bố. Loài này là đặc hữu Trung Quốc, được tìm thấy trong khu vực phía bắc tỉnh Quảng Đông, ở cao độ khoảng 100 m. Phân loại. Gần giống với "Z. mioga", loài được Schumann (1904) xếp trong tổ trong tổ "Cryptanthium".
{ "split": 0, "title": "Zingiber nanlingense", "token_count": 249 }
23,020
Title: Zingiber recurvatum Zingiber recurvatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) và Yong Mei Xia (夏永梅, Hạ Vĩnh Mai) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi trong tiếng Trung là 弯管姜 (loan quản khương), nghĩa là gừng ống [tràng hoa] cong. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "S.Q.Tong 24805"; thu thập ngày 4 tháng 7 năm 1981, trong rừng ẩm ướt trên sườn dốc, cao độ 700 m, tọa độ , huyện Mãnh Lạp, tỉnh Vân Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Thực vật Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI) tức Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp (HITBC), mẫu isotype được lưu giữ tại Viện Thực vật Côn Minh (KUN). Từ nguyên. Tính từ định danh "recurvatum" (giống đực: "recurvatus", giống cái: "recurvata") là tiếng Latinh có nghĩa là cong ngược; ở đây là để nói tới ống tràng hoa cong ngược của loài này ("Corollae tubus … sub angulo recto extrinsecus curvatus…"). Phân bố. Loài này có tại tây nam Trung Quốc (cực nam tỉnh Vân Nam), miền bắc Lào (tỉnh Louangphabang); và có thể có ở miền bắc Việt Nam. Môi trường sống là rừng thường xanh, nơi có độ ẩm cao và đất sét pha trộn với đá nhỏ, thường xuất hiện cùng các loài dương xỉ và "Piper umbellatum". Ở Trung Quốc, nó cũng xuất hiện trong rừng thường xanh ẩm ở cao độ khoảng 700 m. Phân loại. "Z. recurvatum" thuộc tổ "Cryptanthium", có quan hệ họ hàng gần với "Z. skornickovae". Mô tả.
{ "split": 0, "title": "Zingiber recurvatum", "token_count": 450 }
23,021
Title: Zingiber recurvatum Thân giả 2-3 m × 2-3,5 cm, mập chắc. Lá không cuống; lưỡi bẹ 2 thùy, 8-11 mm, rậm lông tơ màu nâu nhạt; bẹ lông tơ màu trắng sớm rụng; phiến lá hình elip-hình mác hoặc hình elip-hình mác hẹp, 45-55 × 11-15 cm, mặt gần trục màu xanh lục sẫm, có lông ở hai bên gân giữa, mặt xa trục màu đỏ ánh tía, có lông tơ mịn ngoại trừ rậm lông tơ dọc theo hai bên gân giữa, đáy thuôn tròn, đỉnh nhọn thon hoặc hình đuôi. Cụm hoa 1-3, mọc từ thân rễ, màu đỏ máu, hình trứng hoặc hình đầu, 7-9 × 6-7 cm; cuống cụm hoa chìm trong lòng đất, dài 3-5(-15) cm, vảy che phủ nhạt màu; lá bắc đỉnh nhọn thon hoặc nhọn thon ngắn, lông tơ sớm rụng; các lá bắc ngoài hình trứng-hình tròn hoặc hình trứng rộng, 3,4-5 × 2,6-4 cm, các lá bắc trong hình elip hoặc hình elip hẹp, 5-5,6 × 1,6-2 cm, đỉnh nhọn thon ngắn; lá bắc con màu đỏ, dài ~4,5 cm, đỉnh lông tơ dài sớm rụng. Đài hoa dài ~1,9 cm, đường kính ~6 mm, đỉnh 2 răng hình dùi tới gần cắt cụt, có râu, hơi có đốm đỏ. Tràng hoa màu đỏ với đáy nhạt màu; ống tràng hơi 4 góc, cong uốn ngược, dài 4,6-5 cm, đường kính 4-5 mm, hơi có lông hơi trắng; các thùy màu đỏ, đỉnh có mấu nhọn; thùy tràng lưng hình mác, 3-3,2 × 1-1,2 cm; các thùy tràng bên hình mác hẹp, rộng 8-9 mm. Cánh môi dài 3,3-3,5 cm, rộng 3,2-3,3 cm, màu trắng với các đốm đỏ, nhẵn nhụi; thùy giữa hình trứng ngược rộng, đỉnh lồi; các thùy bên (nhị lép bên) hình tai, nhỏ. Nhị dài ~3,4 cm. Chỉ nhị dài ~1 mm; mô vỏ bao phấn dài ~1,5 cm; phần phụ kết nối dài ~1,7 cm, đáy màu vàng đỏ. Bầu nhụy màu vàng nhạt, rậm lông tơ trắng và mềm. Vòi nhụy nhẵn nhụi. Đầu nhụy nhạt màu, có lông rung. Các tuyến trên bầu thẳng, dài ~7 mm, màu vàng nhạt. Quả nang màu đỏ tía, hình trứng tam giác dài, 4,5-5 × 2,2-2,6 cm, 3 góc, đỉnh với đài bền. Hạt hình trứng ngược, hạt non màu xanh lục sau đó chuyển sang màu đỏ rồi cuối cùng màu đen, mặt trên có sọc mắt lưới; áo hạt dạng màng, màu trắng che phủ. Ra hoa và tạo quả từ tháng 7-11. Hoa nở buổi sáng.
{ "split": 1, "title": "Zingiber recurvatum", "token_count": 675 }
23,022
Title: Zinnia peruviana Zinnia peruviana là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Chrysogonum peruvianum". Năm 1759 ông chuyển nó sang chi "Zinnia" cũng do chính ông tạo ra. Tên gọi thông thường trong tiếng Anh của nó là Peruvian zinnia, trong tiếng Trung là 多花百日菊 (đa hoa bách nhật cúc), 山菊花 (sơn cúc hoa), 疏花百日菊 (sơ hoa bách nhật cúc) và 五色梅 (ngũ sắc mai). Mô tả. "Zinnia peruviana" là thực vật một năm, cao 30-100 cm, trung bình khoảng 50 cm; không phân nhánh hoặc phân nhánh thưa ở phần xa gốc, có lông cứng. Thân cây ban đầu màu xanh lục sau chuyển thành màu vàng hoặc tía. Lá hình trứng, elip hay hình mác rộng, dài 2,5–7,0 cm, rộng 0,8–3,5 cm; 3 tới 5 gân; hơi thô ráp. Cuống lá dài 1,0–7,0 cm. Tổng bao hình chuông hẹp tới rộng, 0,9–1,8 × 1,0–2,0 cm. Lá bắc tổng bao hình trứng ngược tới thuôn dài, trở thành khô xác, nhẵn nhụi, đỉnh thuôn tròn, thường nguyên hoặc có khía không đều, đôi khi có lông rung. Vảy trấu (lá bắc con) màu đỏ tới tía hay vàng, đỉnh tù, có khía không đều hoặc gần như nguyên. Đầu hoa với 6–21 hoa tia màu đỏ thắm, nâu sẫm hay vàng (với cánh hoa thẳng hay hình thìa dài 0,8–2,5 cm) bao quanh 12–50 hoa đĩa màu vàng (với thùy tràng hoa dài 0,1 cm). Quả (tựa quả bế 1 hạt) hình mác ngược tới elip hẹp, dài 0,7–1,0 cm, 3 góc hay ép dẹp, có gân và lông rung, mào lông thường 1 râu mập dài 4-6 mm. "2n" = 24. Ra hoa mùa hè tới mùa thu. Môi trường sống là vệ đường đá, khe núi, đất đá vôi; ở cao độ 1.200–1.600 m. Phân bố.
{ "split": 0, "title": "Zinnia peruviana", "token_count": 507 }
23,023
Title: Zinnia peruviana Loài bản địa châu Mỹ, từ miền nam Hoa Kỳ ở phía bắc tới miền bắc Argentina ở phía nam. Tìm thấy tại Argentina, Bolivia, Colombia, Ecuador, El Salvador, , Guatemala, Hoa Kỳ (Arizona, Florida, Georgia, North Carolina, South Carolina), Honduras, Mexico, Nicaragua, Paraguay, Peru, Venezuela. Nó cũng du nhập vào Australia, Bahamas, Bangladesh, Botswana, Cabo Verde, Cuba, Cộng hòa Dominican, Đông Himalaya, Eritrea, Ethiopia, các đảo trong vịnh Guinea, Haiti, Hawaii, quần đảo Leeward, Lesotho, Mauritius, Nam Phi, Namibia, Nepal, Puerto Rico, Rodrigues, Réunion, Swaziland, Trinidad và Tobago, Trung Quốc, quần đảo Tubuai, Zimbabwe.
{ "split": 1, "title": "Zinnia peruviana", "token_count": 177 }
23,024
Title: Zip Zip Zip Zip (tên tiếng Việt: Đội lốt thú cưng) là chương trình hoạt hình Pháp được tạo bởi Aurore Damant, dựa vào ý tưởng của Anne Ozannat và được sản xuất bởi GO-N Productions và 20th Century Fox. Bộ phim ra mắt trên kênh Super RTL vào ngày 23 tháng 3 năm 2015, trên kênh France 3 vào ngày 4 tháng 4 năm 2015. Nội dung. Cáo Washington, hai anh em lợn hoang Sam và Eugenie và chim sẻ Suzie rất chản nản đời sống ở rừng. Vì vậy, họ phải cải trang thành thú cưng để lên thành phố mà không bị phát hiện là thú hoang. Họ đã được nhận nuôi bởi một gia đình rất yêu động vật, nhà Livingstone. Họ đã trở thành bạn của mèo nhà Victoria. Những phiêu lưu của thú cưng nhà Livingstone bắt đầu từ đây. Ngoài ra, họ phải giữ bí mật của mình và tránh gấu xám Mitch, hàng xóm của Washington và muốn đưa các động vật cải trang này về rừng. Các tập phim. Mùa 1. Mùa 1 bao gồm 52 tập dài 11 phút, được chiếu lần đầu vào ngày 23 tháng 2 năm 2015. Mùa 2. Mùa 2 đang ở trong quá trình sản xuất.
{ "split": 0, "title": "Zip Zip", "token_count": 264 }
23,025
Title: Zip2 Zip2 là một công ty cung cấp và cấp phép phần mềm hướng dẫn du lịch thành phố trực tuyến cho các tờ báo. Công ty được thành lập tại Palo Alto, California với tên ban đầu là Global Link Information Network vào năm 1995 bởi Greg Kouri và hai anh em Elon Musk và Kimbal Musk. Ban đầu, Global Link cung cấp cho các doanh nghiệp địa phương một sự hiện diện trên Internet nhưng sau đó bắt đầu hỗ trợ các tờ báo thiết kế các hướng dẫn du lịch trực tuyến trước khi được mua lại bởi Compaq vào năm 1999.
{ "split": 0, "title": "Zip2", "token_count": 117 }
23,026
Title: Zirconi diboride Zirconi điborua (công thức hóa học là ZrB2) là một vật liệu gốm chịu nhiệt có độ bền cao với cấu trúc tinh thể lục giác. ZrB2 là chất gốm có khả năng chịu được nhiệt độ cực cao, với điểm nóng chảy lên đến 3246 °C. Hợp chất này có mật độ tương đối thấp, khoảng 6,085 g/cm³ (mật độ đo được có thể cao hơn, do thường lẫn tạp chất hafni) và độ bền, chịu được nhiệt độ cao làm cho nó trở thành một hợp chất tiềm năng cho các ứng dụng hàng không vũ trụ nhiệt độ cao như máy bay siêu âm hoặc hệ thống đẩy tên lửa. Đây là một loại gốm đặc biệt, có độ dẫn nhiệt và điện cao tương đối, tính chất nó chia sẻ với titan điborua và hafni. Từng phần của ZrB2 thường được cho ép nóng (áp lực lên bột nóng) và sau đó gia công lại để tạo hình. Quá trình thiêu kết ZrB2 bị cản trở bởi tính chất cộng hoá trị của vật liệu và sự hiện diện của các oxit bề mặt làm gia tăng hạt trước khi đông cứng trong quá trình nung. Thiêu kết áp suất của ZrB2 có thể thực hiện với các chất phụ gia thiêu kết như cacbon carbide và cacbon phản ứng với các oxit bề mặt để tăng lực đẩy cho quá trình kết dính, nhưng các tính chất cơ học bị phân hủy so với ép ZrB2 nóng.
{ "split": 0, "title": "Zirconi diboride", "token_count": 333 }
23,027
Title: Zoella Zoe Elizabeth Sugg (sinh ngày 28 tháng 3 năm 1990) là vlogger, nhân vật YouTube và nhà văn về thời trang và sắc đẹp người Anh. Cô được biết đến trên YouTube với biệt danh Zoella. Tiểu thuyết đầu tay của cô, "Girl Online" xuất bản tháng 11 năm 2014 và phá kỷ lục về doanh số mở màn cho một tiểu thuyết đầu tay của nhà văn nữ, từ khi Nielsen BookScan thống kê năm 1998. Đời tư. Sugg là chị gái của Joe Sugg, người cũng làm video và vlog trên YouTube với biệt danh ThatcherJoe. Cô sinh ra và lớn lên tại Lacock, Wiltshire, nơi cô theo học trường cấp 2 The Corsham School và cao đẳng nghệ thuật, hiện nay cô đang sống ở Brighton. Sugg đang hẹn hò với người đồng hương cũng là người làm video youtube Alfie Deyes, được biết đến trên youtube là PointlessBlog. Sự nghiệp. Sugg học việc cho một hãng thiết kế nội thất khi tạo trang blog "Zoella" vào tháng 2 năm 2009. Cuối năm đó, trang blog của cô thu hút một ngàn người theo dõi và tổng cộng 540 triệu lượt xem . Trang blog về thời trang và làm đẹp chuyển sang YouTube năm 2009, lúc Sugg làm việc tại hãng bán lẻ quần áo New Look. Năm 2013, Sugg là Đại sứ của Dịch vụ Công dân quốc gia và trở thành "Đại sứ kỹ thuật số" đầu tiên cho Mind, một tổ chức từ thiện y tế. YouTube. Kênh Youtube chính thức của cô, Zoella, ban đầu là "zoella280390" có nghĩa là ngày sinh của cô, đa phần về thời trang, sắc đẹp, và các video 'yêu thích' (nói về những sản phẩm yêu thích của cô vào tháng trước). Kênh thứ hai của cô, MoreZoella, nội dung đa phần về vlogs, là nơi cô cho người xem biết cô làm gì hôm đó. Cô là thành viên của Style Haul Network và là đại diện bởi Dominic Smales tại Gleam Futures. Sugg còn xuất hiện bên cạnh các Youtubers khác trên channel Daily Mix, kênh được quản lý bởi Gleam. Sugg đã hợp tác trên kênh Zoella của cô với các Youtubers khác, bao gồm: Louise Pentland, Tanya Burr, Alfie Deyes, Tyler Oakley, Troye Sivan, Grace Helbig và một số khác.
{ "split": 0, "title": "Zoella", "token_count": 509 }
23,028
Title: Zoella Sugg có sự ảnh hưởng qua cộng đồng mạng, đã được nhắc đến bởi The Telegraph là một trong 'Những Tweeters người Anh có sự ảnh hưởng nhất' năm 2013. Vào tháng 9 năm 2015, kênh Youtube chính của Sugg đã có tận 9.9 triệu subscribers và hơn 663 triệu lượt xem, và đứng thứ 50 trong các kênh được đăng ký nhiều nhất trên trang web; kênh thứ hai của cô "MoreZoella" có hơn 3,4 triệu subscribers và hơn 290 triệu lượt xem. Cô còn có 4 triệu lượt theo dõi trên Twitter và hơn 7 triệu lượt trên Instagram. Xuất bản. Sugg ký một hợp đồng gồm 2 cuốn sách với Penguin Books năm 2014. Quyền xuất bản tại Mỹ thuộc về Atria. Tiểu thuyết đầu tay của Sugg, "Girl Online" phát hành ngày 25 tháng 11 năm 2014. Cuốn sách hướng đến tầng lới khán giả mới lớn, kể về một blogger vô danh mới 15 tuổi và khi trang blog của cô trở nên nổi tiếng. Dựa vào những trải nghiệm tương tự, Sugg khẳng định quyến sách này "không phải là tự truyện". Quyển sách này đạt "doanh số tuần đầu cao nhất của một tiểu thuyết đầu tay từ khi thống kê năm 1998," với 78.109 bản. Tính đến tháng 12 năm 2014, đây cũng là quyển sách bán chạy nhất năm. Hãng Penguin khẳng định "Sugg không viết "Girl Online" một mình" mà "hợp tác với một nhóm biên tập viên chuyên nghiệp để giúp cô đưa những nhân vật và trải nghiệm từ đời thực sang một câu chuyện ấm áp và lôi cuốn". Có nhiều thông tin cho rằng Siobhan Curham là một tác giả ảo của cuốn tiểu thuyết này, dù Penguin và Sugg chưa hề khẳng định điều này. Penguin chia sẻ Curham là một "biên tập viên tư vấn" cho cuốn tiểu thuyết. Một quyển sách tiếp nối, "" xuất bản ngày 20 tháng 10 năm 2015. Âm nhạc. "Bài viết chính:" Band Aid 30 Sugg được giới thiệu trong single năm 2014, "Do They Know It's Christmas?" là thành viên trong Band Aid 30, siêu ban nhạc từ thiện, quyên góp tiền cho dịch bệnh Ebola ở Tây Phi. Single ra mắt ở No.1 trên UK Official Singles Chart. Truyền hình.
{ "split": 1, "title": "Zoella", "token_count": 494 }
23,029
Title: Zoella Tháng 6 2014 Sugg là khách mời của nhóm tham gia chương trình trên chat show buổi trưa Loose Women. Cô còn xuất hiện trên This Morning vào tháng 7 năm 2014, nói về những lo ngại trên mạng xã hội. Sugg tham gia vào phiên bản Comic Relief 2015 của The Great British Bake Off. Sugg, cùng với The Slow Mo Guys và Vice News, xuất hiện trên truyền hình, máy in, và quảng cáo của Billboard ở Anh từ ngày 25 tháng 11 năm 2014. Các quảng cáo TV vào giờ vàng sẽ được chiếu trên ba kênh truyền hình của Anh. Zoella Beauty. Sugg công bố một nhãn hiệu làm đẹp dưới cái tên Zoella Beauty vào tháng 9 năm 2014. Nhãn hiệu "sữa tắm và làm đẹp" này là "nhãn hàng làm đẹp lớn nhất năm", theo "Metro". Cô giới thiệu phiên bản của nhãn hiệu mang tên "Tutti Frutty" vào năm 2015, cũng được xem là phiên bản Giáng Sinh có giới hạn. Năm 2016 cô giới thiệu phiên bản mang tên "Sweet Insprirations." Giải thưởng và đề cử. Sugg thắng giải Cosmopolitan Blog Award 2011 cho "Blog làm đẹp xuất sắc nhất" và giải "Vlogger làm đẹp xuất sắc nhất" vào năm kết tiếp. Cô thắng giải Radio 1 Teen Awards cho "Vlogger Anh Quốc xuất sắc nhất" trong năm 2013 và 2014; giải Nickelodeon Kids' Choice Award cho "Vlogger Anh Quốc được yêu thích nhất"; và giải Teen Choice Awards 2014 cho "Ngôi sao web làm đẹp yêu thích nhất". "The Telegraph" xếp Sugg vào danh sách "40 blogger làm đẹp xuất sắc nhất" vào tháng 9 năm 2014. Kênh YouTube của cô đứng thứ tư trong danh sách phổ biến ở Anh Quốc năm 2014. Cô xuất hiện trong "Debrett's 500" 2015, một danh sách nhân vật gây ảnh hưởng tại Anh. Năm 2015, "Grazia" gọi cô là "Người phụ nữ gây cảm hứng nhất thập niên" trong thể loại công nghệ và xuất hiện trong danh sách "Những người phụ nữ hấp dẫn nhất hành tinh" của FHM.
{ "split": 2, "title": "Zoella", "token_count": 446 }
23,030
Title: Zolani Mahola Zolani Mahola (sinh ngày 19 tháng 7 năm 1981) là một ca sĩ, diễn viên, người Nam Phi, ca sĩ chính của nhóm nhạc Nam Phi Freshlyground. Tiểu sử. Mahola được sinh ra tại thành phố Port Elizabeth, thủ phủ của tỉnh Eastern Cape, Nam Phi. Cô lớn lên gần phía Đông London ở Bhisho, và theo học trường trung học Trinity (sau này đã sáp nhập vào trường St Priic's Priory). Cô làm nhân viên tiếp tân tại Makro vào cuối tuần và ngày nghỉ học. Cô ở lại với cha và em gái của mình từ năm 1999 đến năm 2001. Năm 2011, Zolani và Freshlyground đã có một buổi hòa nhạc miễn phí trên phố Ntshekisa như một phần trong chuyến lưu diễn kỷ niệm 10 năm hoạt động của họ. Sau khi học kịch tại Đại học Cape Town, cô được chọn đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Tsha-Tsha, phát sóng trên SABC 1. Mahola lồng tiếng cho nhân vật Zoë trong bộ phim hoạt hình Zambezia (2012), và đã thu âm bài hát "Get Up" cho bản nhạc nền của phim hoạt hình này. Vào tháng 3 năm 2013, Mahola đã công bố lần mang thai đầu tiên của mình. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2013, Mahola sinh một đứa con trai tên là Zazi Bastion Mahola-Klemp với Nicholas. Sự nghiệp âm nhạc. Mahola và sáu nhạc sĩ khác đã thành lập Freshlyground ở Cape Town vào năm 2002. Sau khi Freshlyground xuất bản album thứ hai của họ, Nomvula, vào năm 2004, The Sunday Times mô tả Mahola là một trong những ca sĩ trẻ tốt nhất và đầy cảm hứng nhất của Nam Phi. Cô đến Cape Town, Durban và Pretoria với ca sĩ nhạc pop người Anh Robbie Williams vào năm 2006, Freshlyground biểu diễn như một vai diễn hỗ trợ của Williams. Cô hát trong album phòng thu thứ ba của The Parlotones, Stardust Galaxies (2009). Tại World Cup 2010, Mahola, với Freshlyground và Shakira, biểu diễn "Waka Waka (This Time for Africa)" trong lễ khai mạc và bế mạc. "Waka Waka (This Time for Africa)" là bài hát chính thức của FIFA World Cup năm 2010.
{ "split": 0, "title": "Zolani Mahola", "token_count": 483 }
23,031
Title: Zolani Mahola Tại Lễ trao giải Phụ nữ của năm 2011, được tổ chức vào ngày 25 tháng 7 tại Johannesburg, Mahola là một trong tám người phụ nữ được vinh danh bởi hạng mục người phụ nữ quyến rũ Nam Phi.
{ "split": 1, "title": "Zolani Mahola", "token_count": 50 }
23,032
Title: Zond 1 Zond 1 là một phi thuyền trong chương trình Zond của Liên Xô. Đây là tàu vũ trụ nghiên cứu thứ hai của Liên Xô tiến đến sao Kim, mặc dù thông tin liên lạc đã thất bại vào thời điểm đó. Nó mang một viên nang hình cầu 90 cm, chứa thí nghiệm phân tích hóa học khí quyển, đo tia gamma của đá bề mặt, máy quang kế, đồng hồ đo nhiệt độ và áp suất, và cảm biến chuyển động/lắc trong trường hợp nó rơi xuống nước. Lịch sử. Ít nhất ba tàu vũ trụ thăm dò hành tinh của Liên Xô trước đó đã bị phá hủy do trục trặc của tên lửa đổ bộ (BOZ) trên sân khấu Blok L, nhưng một cuộc điều tra cho thấy vấn đề đã được giải quyết dễ dàng. Tàu vũ trụ lần này, một chiếc Venera 3MV-1, được phóng lên vào ngày 2 tháng 4 năm 1964 từ Tyuratam và lần này việc phóng được thực hiện một cách hoàn hảo. Trong giai đoạn hành trình, một sự rò rỉ chậm từ một cửa sổ cảm biến bị nứt khiến khoang điện tử mất áp suất không khí. Đây là một vấn đề nghiêm trọng khi các thiết bị điện tử của Liên Xô dựa vào các ống chân không mà sẽ bị quá nhiệt nếu không có không khí làm mát. Một lệnh không đúng lúc từ kiểm soát mặt đất đã bật hệ thống radio của nó trong khi vẫn còn một bầu không khí hiếm hoi bên trong, khiến cho các thiết bị điện tử bị ngắn mạch bởi sự phóng điện. Vì nhiệm vụ không thể thành công, nên các quan chức không thể chấp nhận cho tàu này một mã chỉ định Venera, nhưng khi tàu thăm dò đã rời khỏi quỹ đạo Trái đất, nó cũng không thể được đặt tên theo mã Kosmos, vì vậy chính quyền Xô Viết đã tuyên bố tàu thăm dò là "Zond" và tuyên bố nó được thiết kế để "thử nghiệm các thành phần ứng suất trong không gian sâu". Nhà thiết kế trưởng Sergei Korolev đã thất vọng trước thất bại của nhiệm vụ và yêu cầu kiểm soát chất lượng cao hơn từ Phòng OKB-1, bao gồm cả tia X để kiểm tra rò rỉ áp suất.
{ "split": 0, "title": "Zond 1", "token_count": 470 }
23,033
Title: Zond 4 Zond 4, một thành viên chính thức của chương trình Zond của Liên Xô và là phiên bản không người lái của tàu vũ trụ có người lái Soyuz 7K-L1, là một trong những thí nghiệm đầu tiên của Liên Xô đối với không gian vũ trụ có người lái. Nó đã được đưa ra để kiểm tra tính không gian của viên nang mới và thu thập dữ liệu về các chuyến bay trong không gian ngoại vi. Đây là tàu vũ trụ đầu tiên của Liên Xô mang theo một chiếc máy tính, Argon 11 nặng tổng cộng 34 kg. Tàu vũ trụ được phóng thành công vào một quỹ đạo dài 356.000 km, cách Mặt Trăng 180 độ, nó được phóng tách ra khỏi Mặt Trăng có lẽ để tránh các biến đổi quỹ đạo khi chịu ảnh hưởng của trọng lực Mặt Trăng. Tuy nhiên, khi tái nhập khí quyển Trái Đất hệ thống hướng dẫn của L1 đã không hoạt động. Tàu vũ trụ này đã rơi vào bầu khí quyển một cách chính xác đúng vào thời điểm đã tính toán, nhưng hệ thống hướng dẫn đã không kích hoạt lực nâng và tàu lại bay ra khỏi bầu khí quyển một lần nữa. Việc Zond 4 tái xâm nhập lại bầu khí quyển một lần nữa đồng nghĩa với việc tàu sẽ rơi tại vị trí không thuộc lãnh thổ của Liên Xô, vì vậy hệ thống hủy diệt APO tự động kích hoạt nổ Zond 4 ở độ cao 10 đến 15 km, cách bờ biển châu Phi ở Guinea 180–200 km.
{ "split": 0, "title": "Zond 4", "token_count": 315 }
23,034
Title: Zugdidi Zugdidi (; hay ზუგიდი) là một thành phố miền tây Gruzia, nằm trong tỉnh lịch sử Samegrelo (Mingrelia). Thành phố cao 100–110 trên mực nước biển, cách Tbilisi 318 km về phía tây, cách biển Đen 30 km về phía đông và cách dãy Egrisi 30 km. Zugdidi là thủ phủ vùng Samegrelo-Zemo Svaneti, hợp từ Samegrelo (Mingrelia) và vùng thượng Svaneti. Tên gọi. Cái tên "Zugdidi" ("ზუგდიდი") xuất hiện lần đầu vào thế kỷ XVII, với nghĩa đen tiếng Mingrelia là "đồi lớn" ("Zugu/ზუგუ" - đồi, "didi/დიდი" - lớn). Một phiên bản khác ghi nhận trong những tài liệu cổ hơn là "Zubdidi" (ზუბდიდი). Thành phố tên này nhờ một trái đồi nằm ở mạn đông thành phố, nơi mà tàn tích của một pháo xưa còn hiện diện. Khí hậu. Zugdidi có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (phân loại khí hậu Köppen "Cfa").
{ "split": 0, "title": "Zugdidi", "token_count": 254 }
23,035
Title: Zulkifli Syukur Zulkifli Syukur là một cầu thủ bóng đá người Indonesia hiện tại thi đấu cho PSM Makassar ở vị trí [[Hậu vệ (bóng đá)|hậu vệ phải. Danh hiệu. Vô địch Liên kết ngoài. [[Thể loại:Nhân vật còn sống]] [[Thể loại:Sinh năm 1984]] [[Thể loại:Người Bugis]] [[Thể loại:Người Makassar]] [[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Indonesia]] [[Thể loại:Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia]] [[Thể loại:Cầu thủ Persmin Minahasa]] [[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Arema F.C.]] [[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Persib Bandung]] [[Thể loại:Cầu thủ Mitra Kukar]] [[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Sriwijaya FC]] [[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Liga 1 (Indonesia)]] [[Thể loại:Hậu vệ bóng đá]] [[Thể loại:Cầu thủ Đại hội thể thao châu Á 2006]] [[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Đại hội thể thao châu Á 2006]]
{ "split": 0, "title": "Zulkifli Syukur", "token_count": 267 }
23,036
Title: Zygmunt Waliszewski Zygmunt Waliszewski (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1897 tại Saint Petersburg – mất ngày 5 tháng 10 năm 1936 tại Kraków) là một họa sĩ người Ba Lan. Ông là một thành viên của phong trào Kapist. Tiểu sử. Cha ông là một kỹ sư người Ba Lan và mẹ ông là Michalina, "nhũ danh" Regulska. Năm 1907, gia đình ông chuyển đến Tbilisi. Tại đây, Zygmunt Waliszewski theo học một trường mỹ thuật danh tiếng. Năm sau, ông tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên, đánh dấu sự khởi đầu cho cả cuộc đời theo đuổi phong cách mỹ thuật tiên phong. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Zygmunt Waliszewski gia nhập quân đội Nga. Sau khi giải ngũ, ông trở về Tbilisi vào năm 1917. Zygmunt Waliszewski đã đến Moscow vài lần và được những họa sĩ theo chủ nghĩa vị lai của Nga truyền cảm hứng. Sau đó, ông tham gia vào một nhóm chủ nghĩa vị lai sung mãn ở Tbilisi. Vào đầu thập niên 1920, Zygmunt Waliszewski chuyển đến định cư ở Kraków, Ba Lan. Trong giai đoạn 1921-1924, ông theo học tại Học viện Mỹ thuật ở Kraków và tại các xưởng vẽ của Wojciech Weiss và Józef Pankiewicz. Năm 1924, Zygmunt Waliszewski đến Paris cùng nhóm mỹ thuật tiên phong và được Pankiewicz chỉ dẫn. Ông từng tham gia các buổi vẽ tranh ngoài trời của Capists ở Cagnes, Valence, Cap Martin, và Avignon. Tại Louvre, Zygmunt Waliszewski làm công việc sao chép các tác phẩm nghệ thuật của những bậc thầy hội họa trước đây như Titian, Veronese, Velázquez, Vermeer, Goya và Delacroix. Ông cũng bị cuốn hút bởi phong cách nghệ thuật của Cézanne, van Gogh, và Matisse. Năm 1931, Zygmunt Waliszewski trở lại Ba Lan và lần lượt sống ở Warsaw, Krzeszowice và Kraków. Ông đảm nhận các công việc thiết kế bối cảnh sân khấu, thiết kế poster, vẽ minh họa sách và vẽ tranh biếm họa. Tại Kraków, Zygmunt Waliszewski kết bạn với nhóm Định hình Ba Lan. Ông chủ yếu vẽ tranh chân dung, tranh tượng đài và tranh phong cảnh nông thôn.
{ "split": 0, "title": "Zygmunt Waliszewski", "token_count": 492 }
23,037
Title: Zygmunt Waliszewski Zygmunt Waliszewski đột ngột qua đời vào năm 1936. Năm sau, ông được truy tặng Thập tự Sĩ quan Huân chương Polonia Restituta.
{ "split": 1, "title": "Zygmunt Waliszewski", "token_count": 44 }
23,038
Title: 'Prosperous' British India 'Prosperous' British India, hay tên đầy đủ hơn là Prosperous' British India: A Revelation from Official Records, là một cuốn sách được xuất bản vào năm 1901 bởi tác giả người anh William Digby nhằm mô tả các điều kiện kinh tế phổ biến ở Ấn Độ thuộc Anh trong nửa sau của thế kỷ XIX dưới sự cai trị của Đế quốc Anh. Sách sử dụng số liệu thống kê chính thức của chính phủ để làm sáng tỏ thu nhập giảm và tình trạng bần cùng gia tăng ở Ấn Độ dưới sự quản lý của Anh trong thời kỳ đó. Cuốn sách có sức ảnh hưởng lớn và vào thời điểm đó, đã thu hút sự chú ý do có số liệu thống kê thu nhập bình quân đầu người thực tế giảm xuống ghi bằng vàng trên gáy của cuốn sách. Cuốn sách cũng sử dụng số liệu thống kê của chính phủ để chứng minh rằng số người chết và tần suất của các thảm họa kinh tế thảm khốc ở Ấn Độ, chẳng hạn như nạn đói, đang gia tăng một cách có hệ thống dưới sự cai trị của Anh.
{ "split": 0, "title": "'Prosperous' British India", "token_count": 242 }