text
stringlengths 1
809k
|
---|
bao quát tất cả, là tư tưởng thuần chính.” Chú thích. – Kinh Thi có 311 thiên nhưng sáu thiên chỉ có tên mà mất lời, còn lại là 305 thiên; nói là 300 là số chẵn. Trình tử [31] cho rằng chữ tà không có nghĩa là trái với chính, mà có nghĩa trái với thành thực: lời nào trong Kinh Thi cũng tả đúng sự thực, có thành thực mới cảm được người. Nhiều nhà theo cách hiểu của Trình tử vì trong Kinh Thi có nhiều bài tả tình luyến ái của trai gái, sao có thể bảo là “vô tà” là thuần chính được. Có người nghĩ: những bài ca dao tả tình trai gái yêu nhau, bất kì dân tộc nào cũng rất nhiều. Khổng tử đã “san định” Kinh Thi, tất đã bỏ đi một số; và những bài giữ lại, có thể ông cho là vô hại: tình trong đó tự nhiên, chính đáng. Ông không quá nghiêm khắc như các nhà nho thời sau chăng? Thuyết này có người cho là sai: Khổng tử không hề san Kinh Thi, ông giữ đủ; và “tư vô tà” [32] là thái độ của ta nên có khi đọc Kinh Thi. Nhưng theo nguyên văn thì Khổng tử xét về Kinh Thi chứ không xét về cách đọc Kinh Thi. II.3 Tử viết: “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách.” Dịch. – Khổng tử nói: “Dùng chính lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường |
chính.” Chú thích. – Chữ tề [齊] có thể hiểu là tề chỉnh, hoặc nhất luật như nhau. “Vào khuôn phép” diễn đủ được hai ý đó. Chữ cách [格], có người giảng là chí [至][33], đến (đạt được mức thiện). Lại có bài giảng là “thuần phục.” Bài này bổ túc bài 1 ở trên. II.4 Tử viết: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học; tam thập nhi lập; tứ thập nhi bất hoặc; ngũ thập nhi tri thiên mệnh; lục thập nhi nhĩ thuận; thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tức khắc kỉ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm); bốn mươi tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức, nên hiểu rõ ba đức nhân, lễ, nghĩa); năm mươi tuổi biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được); sáu mươi tuổi biết theo mệnh trời (chữ nhĩ ở đây không có nghĩa là tai, mà có nghĩa là dĩ = đã)[34]; bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lí (không phải suy nghĩ, gắng sức mà hành động tự nhiên, hợp đạo lí). Chú thích. – Có người hiểu lập [立] là tự mình biết theo chính đạo; chúng tôi theo những câu “lập ư lễ” (Thiên Thái Bá, bài 8), “bất tri lễ vô dĩ lập” (Thiên Nghiêu viết, bài 3) mà dịch như trên. – Thiên mệnh [天命] có người hiểu là luật trời, sự biến hoá, diễn tiến trong vũ trụ. – Nhĩ thuận [耳順], hầu hết các sách đều giảng là: tai thuận, tức nghe ai nói thì hiểu được ngay người đó nghĩ gì, muốn nói gì, có ý gì. |
II.5 Mạnh Ý tử vấn hiếu. Tử viết: “vô vi[35]. ” Phàn Trì ngự, tử cáo chi viết: “Mạnh tôn vấn hiếu ư ngã, ngã đối viết: “vô vi”. Phàn Trì viết: “Hà vị dã?” Tử viết: “Sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ.” Dịch. – Mạnh Ý tử hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Không trái.” (Một hôm) Phàn Trì đánh xe (cho Khổng tử). Khổng tử bảo: “Mạnh Tôn hỏi ta về đạo hiếu, ta đáp: “không trái”. Phàn Trì hỏi: “Thầy đáp như vậy nghĩa là gì?” Khổng tử đáp: “Cha mẹ sống thì phụng sự cho hợp lễ, mất rồi thì tống táng cho hợp lễ, cúng tế cho hợp lễ.” Chú thích. – Mạnh Ý tử, họ Trọng Tôn, tên Hà Kị, là một đại phu nước Lỗ. Theo Tả truyện thì Mạnh Hi tử, cha Mạnh Ý tử, trước khi chết, dặn Ý tử phải lại Khổng tử xin học lễ. Mạnh Tôn cũng là Mạnh Ý tử. – Phàn Trì, họ Phàn, tên Tu, tự Tử Trì, học trò Khổng tử. II.6 Mạnh Vũ Bá vấn hiếu. Tử viết: “Phụ mẫu duy kì tật chi ưu.” Dịch. – Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Cha mẹ chỉ lo cho con bị bệnh tật.” Chú thích. – Bài này có nhiều cách hiểu. Hiểu như chúng tôi dịch thì chữ kì chỉ con cái. Có thể Mạnh Vũ Bá, tên là Trệ, con Mạnh Ý tử, chơi bời quá độ, không giữ gìn sức khoẻ, khiến cha mẹ lo, nên Khổng tử khuyên vậy. Ai làm cha mẹ cũng lo nhất cho con khi chúng đau ốm. Có người giảng hơi khác: người con có hiếu thì thận trọng trong mọi việc, không làm gì cho cha mẹ phải lo; duy có bệnh tật là không đề phòng được, cho nên chỉ lo mình có bệnh tật, khiến cha mẹ buồn. |
Lại có thuyết cho chữ kì chỉ cha mẹ. Người con mà lo cha mẹ bệnh tật (hết sức săn sóc sức khoẻ của cha mẹ) là người con có hiếu. II.7 Tử Du vấn hiếu. Tử viết: “Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ?” Dịch. – Tử Du hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Ngày nay người ta hiếu là có thể nuôi cha mẹ, nhưng đến chó, ngựa kia, người ta cũng nuôi, nếu không kính cha mẹ thì có khác gì?” Chú thích. – Tử Du, họ Ngôn, tên Yển, học trò Khổng tử. Có người cho hiểu như trên thì lời Khổng tử gay gắt quá, so sánh việc nuôi cha mẹ (của hạng con có hiếu) với việc nuôi chó ngựa; cho nên bảo hai chữ khuyển mã chỉ bọn con bất hiếu không kính cha mẹ. Tôi nghĩ Khổng tử tính tình ôn hoà, có mắng bọn đó thì chỉ gọi là bất nhân, chứ không tàn nhẫn đến bảo họ là chó ngựa. Lại có thuyết hiểu là: loài vật như chó ngựa cũng biết nuôi cha mẹ chúng. Điều đó không đúng: chó, ngựa khi lớn rồi, không nhận ra cha mẹ nữa, hoặc nhận được thì cũng không hề nuôi cha mẹ. Một thuyết nữa: chó giữ nhà, ngựa chở nặng, như vậy là chó, ngựa cũng nuôi người, nhưng chúng không biết cung kính; người nuôi cha mẹ mà không cung kính thì khác gì chó ngựa nuôi chủ. Cũng ép nữa. II.8 Tử Hạ vấn hiếu. Tử viết: “Sắc nan. Hữu sự, đệ tử phục kì lao, hữu tửu thực, tiên sinh soạn, tằng thị dĩ vi hiếu hồ?” Dịch. – Tử Hạ hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Khó ở chỗ giữ |
được nét mặt vui vẻ. Khi cha có việc, con phải khó nhọc (để giúp cha), hoặc khi có cơm rượu, mời cha ăn uống, như vậy là hiếu chăng?” Chú thích. – Chữ sắc [色] trong bài trỏ nét mặt của con. Tử Hạ cương trực, nên Khổng tử khuyên như vậy. Nhưng có người cho là nét mặt của cha mẹ: con phải làm sao cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ. II.9 Tử viết: “Ngô dữ Hồi ngôn chung nhật, bất vi như ngu. Thoái nhi tỉnh kì tư, diệc túc dĩ phát. Hồi, dã bất ngu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta với (Nhan) Hồi nói (về đạo) suốt ngày, anh ấy không hỏi vặn ta điều gì cả, có vẻ như ngu đần. Nhưng khi anh ấy lui về, ta xét kĩ đời tư của anh ấy thì thấy cũng phát huy được lời ta giảng. Anh Hồi không phải là ngu.” Chú thích. – Nhan Hồi, tự Tử Uyên, người nước Lỗ, học trò của Khổng tử, chết trước thầy, năm 32 tuổi. II.10 Tử viết: Thị kì sở dĩ, quan kì sở do, sát kì sở an, nhân yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?” Dịch. – Khổng tử nói: “Xem việc làm của một người, tìm hiểu vì lẽ gì họ làm việc ấy, xét xem họ (làm việc đó) có an tâm (hay vui vẻ) không, như vậy người ta còn giấu mình sao được?” II.11 Tử viết: “Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới (hoặc: ôn lại điều mình đã biết mà thêm điều mới) như vậy có thể làm thầy được.” II.12 Tử viết: “Quân tử bất khí.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không phải là một đồ |
dùng” (nghĩa là chỉ dùng vào được một việc, mà phải hiểu rộng, biết nhiều, làm được nhiều việc). II.13 Tử Cống vấn quân tử. Tử viết: “Tiên hành kì ngôn, nhi hậu tòng chi.” Dịch. – Tử Cống hỏi thế nào là quân tử. Khổng tử đáp: “Làm trước điều mình muốn nói rồi hãy nói sau.” II.14 Tử viết: “Quân tử chu nhi bất tị, tiểu nhân tị nhi bất chu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử thân với mọi người mà không kết đảng vì tư lợi; tiểu nhân kết đảng vì tư lợi mà không thân với mọi người.” II.15 Tử viết: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Học mà không suy nghĩ thì mờ tối (không hiểu được gì, quá tin sách), suy nghĩ mà không học thì nguy hại (hao tâm lực).” Chú thích. – Có người hiểu là: suy nghĩ mà không học thì nghi hoặc, không biết thế nào là phải trái. II.16 Tử viết: “Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ[36]. ” Dịch. – Khổng tử nói: “Chuyên tâm nghiên cứu những cực đoan thì có hại.” Chú thích. – Có người hiểu khác: công [攻] là công kích, dĩ [已] nghĩa là [止] (chỉ): công kích những cái cực đoan thì ngăn được hại. Lại có người cho dị đoan [異端] trỏ tà thuyết. Có thể như vậy, nhưng chắc chắn là Khổng tử không ám chỉ học thuyết Dương Chu, Mặc Địch, vì thời ông học thuyết đó chưa xuất hiện. Có người bảo dị đoan cũng như lưỡng đoan [兩端] trong bài IX.7 là hai mặt của vấn đề. Xét cả hai mặt, rồi chiết trung thì ngăn được hại. Chúng tôi hiểu dị đoan là không trung chính, nên dịch như |
trên. II.17 Tử viết: “Do, hối nhữ[37] tri chi hồ! Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Do, ta dạy cho anh thế nào là “biết” này. Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận không biết, như vậy là biết.” Chú thích. – Do là tên, họ là Trọng. Trọng Do tự là Tử Lộ, người nước Lỗ, học trò Khổng tử, có sức mạnh, giỏi chính trị, kém Khổng tử mười tuổi. II.18 Tử Trương học can lộc. Tử viết: “Đa văn, khuyết nghi, thận ngôn kì dư, tắc quả vưu. Đa kiến, khuyết đãi, thận hành kì dư, tắc quả hối. Ngôn quả vưu, hành quả hối, lộc tại kì trung hĩ.” Dịch. – Tử Trương muốn học để làm quan, được bổng lộc. Khổng tử bảo: “Nghe nhiều, điều gì còn nghi thì để đó, đừng nói, những điều còn lại (tin được) thì khi nói, phải thận trọng, như vậy sẽ ít lỗi. Thấy nhiều, điều gì chưa yên lòng (hoặc còn nghi ngờ) thì để đó, đừng làm, những điều còn lại (tin được)[38] thì khi làm phải thận trọng, như vậy ít phải ăn năn. Lời nói ít lỗi lầm, việc làm ít ăn năn; bổng lộc tự nhiên trong đó (nghĩa là tự nhiên sẽ có). Chú thích. – Tử Trương, họ Chuyên Tôn, tên Sư, học trò Khổng tử. II.19 Ai công vấn viết: “Hà vi tắc dân phục? Khổng tử đối viết: “Cử trực, thố chư uổng, tắc dân phục. Cử uổng thố chư trực, tắc dân bất phục.” Dịch. – Vua Ai công hỏi: “Làm thế nào thì dân phục tòng?” Khổng tử đáp: “Đề cử người ngay thẳng lên trên hạng người cong queo thì dân phục tòng, đề cử người cong queo lên trên người ngay thẳng thì dân không phục tòng.” |
Chú thích. – Ai công là vua nước Lỗ, con Định công, lên ngôi năm 494. Bài này có thể hiểu hai cách: chữ thố [錯] là bỏ, chữ chư [諸] là hết thảy, như vậy “cử trực thố chư uổng” nghĩa là: Dùng người ngay thẳng, bỏ hết những người cong queo. Chúng tôi hiểu theo Triệu Thông ( Luận ngữ dịch chú – Hữu Liên xuất bản): thố [錯] là đặt lên, chư [諸] là hai chữ chi ư [之 於] hợp lại (như từ ảnh = anh ấy của ta, hoặc từ Smog = Smoke + fog của Anh) mà dịch như trên. Triệu Thông cho rằng hiểu như vậy mới hợp với câu “cử trực thố chư uổng, năng sử uổng giả trực” trong bài 20 thiên XII (Nhan Uyên): cứ đề cử người ngay thẳng lên trên người cong queo thì người cong queo cũng tự ý rút đi, nếu không tự sửa mình, không cần phải đuổi hết bọn họ đi. II.20 Quí Khang tử vấn: “Sử dân kính, trung dĩ khuyến[39], như chi hà? Tử viết: “Lâm chi dĩ trang tắc kính, hiếu từ tắc trung, cử thiện nhi giáo bất năng tắc khuyến.” Dịch. – Quí Khang tử hỏi: “Muốn cho dân cung kính, trung thành và khuyên nhau làm điều thiện, thì làm cách nào?” Khổng tử đáp: “Xử với dân mà nghiêm trang thì dân cung kính. Hiếu thuận (với cha mẹ), từ ái (với người dưới) thì dân trung thành. Cất nhắc người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên nhau làm điều thiện.” Chú thích. – Quí Khang tử, họ Quí Tôn, tên Phì, là một đại phu của Lỗ. II.21 Hoặc vị Khổng tử viết: “Tử hề bất vi chính.” Tử viết: “Thư vân: “Hiếu hồ duy hiếu, hữu vu huynh đệ”. Thi |
ư hữu chính, thị diệc vi chính, hề kì vi vi chính?” Dịch. – Có người hỏi Khổng tử: “Tại sao ông không tòng chính (ra làm quan). Khổng tử đáp: “Kinh Thư có câu: “Hiếu thuận a, hiếu thuận với cha mẹ, thân ái a, thân ái với anh em”. Thi hành câu nói đó mà cảm hoá được hạng người cầm quyền, thì cũng là tòng chính, sao cứ tham gia chính sự mới là tòng chính?” Chú thích. – Chúng tôi dịch như trên theo cách chấm câu của một số học giả ngày nay: Triệu Thông trong sách đã dẫn, và Thẩm Tri Phương trong Luận ngữ độc bản – Khải Minh thư cục xuất bản. Hai nhà đó cho “Hiếu hồ duy hiếu” là chữ trong Kinh Thư[40] ca tụng đức hiếu, cũng như mấy chữ “lễ hồ lễ” trong Lễ Kí là lời ca tụng lễ. Còn bốn chữ “Thi ư hữu chính” là lời của Khổng tử, nếu là lời của Kinh Thư thì không dùng chữ ư mà dùng chữ vu như câu trên. Các học giả thời trước chấm câu khác: Tử viết: “Thư vân hiếu hồ?” Duy hiếu, hữu vu huynh đệ, thi ư hữu chính”. Thị diệc vi chính… Họ cho “Thư vân hiếu hồ” là lời Khổng tử, mà “thi ư hữu chính” là lời trong Kinh Thư, và dịch là: “Khổng tử đáp: “Có biết Kinh Thư nói về đạo hiếu chăng? Cho có hiếu với cha mẹ, hoà thuận với anh em, thi hành cho có chính sách. Ấy cũng là làm việc chính trị; tại sao cứ phải tòng chính mới là làm việc chính trị?” Chấm câu cách nào thì ý nghĩa cũng không thay đổi. Khổng tử muốn nói: “ông không ra làm quan nhưng dạy người ta hiếu |
đễ, và người ta nghe ông, khi cầm quyền mà thi hành hiếu đễ, thì nước sẽ trị, như vậy cũng là ông giúp vào việc chính sự, giúp nước rồi. II.22 Tử viết: “Nhân nhi vô tín, bất tri kì khả dã. Đại xa vô nghê, tiểu xa vô ngột, kì hà dĩ hành chi tai?” Dịch. – Khổng tử nói: “Người mà không đức tín thì không hiểu sao thành người được (hoặc làm nên việc được). Cũng như xe lớn không có đòn nghê (đòn gỗ ngang để buộc trâu); xe nhỏ không có đòn ngột (đòn gỗ cong để buộc ngựa) làm sao mà đi được?” II.23 Tử Trương vấn: “Thập thế, khả tri dã?” Tử viết: “Ân nhân ư Hạ lễ, sở tổn ích khả tri dã. Chu nhân ư Ân lễ, sở tổn ích khả tri dã. Kì hoặc kế Chu giả, tuy bách thế, khả tri dã.” Dịch. – Tử Trương hỏi: “Mười đời (sau này) có thể biết được không?” Khổng tử đáp: “Nhà Ân theo “lễ” của nhà Hạ, thêm bớt cái gì, ta có thể biết được. Nhà Chu theo “lễ” của nhà Ân, thêm bớt cái gì, ta có thể biết được[41]. Sau này hoặc có nhà nào nối nhà Chu, dù có trăm đời cũng có thể biết được.” Chú thích. – Chữ thế [世] (đời) ở đây nên hiểu là triều đại, chứ không phải là đời người. Chữ lễ [禮] có nghĩa rộng: điển chương, chế độ, nghi thức, tập tục. Khổng tử muốn nói sự diễn hoá của lịch sử theo luật nhân quả, do đó mà xét việc đời trước có thể biết được việc đời sau. – Nhà Hạ (2205 1767); nhà Thương sau đổi tên là Ân (1766 1122); nhà Chu (1122 274), ba triều đại đó nối nhau, gọi là tam đại. |
II.24 Tử viết: “Phi kì quỉ[42], nhi tế chi, siểm dã. Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Không phải tổ tiên mình đã khuất mà mình tế thì là nịnh bợ; thấy việc nghĩa mà không làm là không có dũng.” THIÊN III BÁT DẬT III.1 Khổng tử vị Quí thị bát dật vũ ư đình: “Thị khả nhẫn dã, thục bất khả nhẫn dã.” Dịch. – Khổng tử bàn về việc Quí Thị dùng vũ “bát dật” (của thiên tử) ở đại sảnh (họ Quí), bảo: “Việc đó nhẫn tâm làm được thì việc gì mà không nhẫn tâm làm được?” Chú thích. – Bài này nhiều bản cũ chấm câu như sau: “Khổng tử vị Quí thị: “Bát dật vũ ư đình, thị khả nhẫn dã…”, nghĩa là Khổng tử bảo Quí thị: “Vũ bát dật ở đại sảnh (nhà ông), việc đó ông nhẫn tâm làm được…”. Thời đó đã qui định: thiên tử mới dùng vũ bát dật: tám hàng người, mỗi hàng tám người; chư hầu thì lục dật: 6 hàng, mỗi hàng 6 người; khanh, đại phu thì tứ dật: 4 hàng, mỗi hàng 4 người; sĩ thì nhị dật: 2 hàng, mỗi hàng 2 người. Quí thị đây có lẽ là Quí Tôn Hoàn tử, chỉ là một đại phu nước Lỗ, không dùng vũ tứ dật, mà dùng vũ bát dật là dùng càn lễ thiên tử, trái phép. III.2 Tam gia giả dĩ Ung triệt. Tử viết: “Tướng duy tịch công, thiên tử mục mục”, hề thủ ư tam gia chi đường?” Dịch. – Ba nhà đại phu (nước Lỗ: Mạnh Tôn, Thúc Tôn, Quí Tôn) cho hát Ung (một thiên trong Chu tụng – Kinh Thi) khi dẹp đồ tế lễ đi. Khổng tử nói: “(Hai câu trong thơ Ung đó:) “trợ tế là vua các chư hầu, thiên tử (làm chủ tế) thì rất nghiêm túc”, hát trong ba đại sảnh ba nhà đó thì còn ý nghĩa gì nữa?” |
Chú thích. – Theo lễ, khi thiên tử tế ở tôn miếu, thì các chư hầu trợ tế, và cho hát thơ Ung mà dẹp tế lễ. Khổng tử chê ba nhà đó, đã tiếm lễ của thiên tử, thơ Ung hát trong những trường hợp đó hoá vô nghĩa. III.3 Tử viết: “Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?” Dịch. – Khổng tử nói: “Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì? Người không có đức nhân thì nhạc mà làm gì?” Chú thích. – Khổng tử cho đức nhân là gốc của lễ nhạc. III.4 Lâm Phỏng vấn lễ chi bản. Tử viết: “Đại tai vấn! Lễ, dữ kì xa dã, ninh kiệm; tang dữ kì dị dã, ninh thích.” Dịch. – Lâm Phỏng hỏi về gốc của lễ. Khổng tử đáp: “Câu hỏi đó quan trọng đấy! Lễ mà quá xa xỉ thì kiệm ước còn hơn; tang mà quá chú trọng nghi tiết thì thương xót còn hơn.” Chú thích. – Không rõ Lâm Phỏng là ai[43]. III.5 Tử viết: “Di Địch chi hữu quân, bất như chư Hạ chi vô[44] dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Các nước Di, Địch (ở chung quanh Trung Quốc, lạc hậu) dù có vua cũng không bằng các nước Hoa Hạ (Trung Quốc) không có vua (vì Hoa Hạ có lễ nghi).” Chú thích. – Chu Hi cho hai chữ “bất như” [不如] là không giống; và nghĩa khác hẳn: Khổng tử có ý than thở các nước chư hầu hồi đó cho thiên tử nhà Chu không ra gì, thành thử Trung Quốc cũng như không có vua. Hiểu theo hai cách đều được cả. Phải biết trong hoàn cảnh nào, Khổng tử nói câu đó thì mới rõ |
ông muốn nói gì. III.6 Quí thị lữ ư Thái Sơn. Tử vị Nhiễm Hữu viết: “Nhữ[45] phất năng cứu dư?” Đối viết: “Bất năng”. Tử viết: “Ô hô! Tằng vị Thái Sơn bất như Lâm Phỏng hồ?” Dịch. – Họ Quí tế lữ ở núi Thái Sơn. Khổng tử hỏi Nhiễm Hữu (làm quan tể của họ Quí): “Anh không ngăn được sao?” Nhiễm Hữu đáp: “Không ngăn được”. Khổng tử nói: “Than ôi! Vậy là cho rằng núi Thái Sơn không bằng Lâm Phỏng sao?” Chú thích. – Núi Thái Sơn ở nước Lỗ. Theo lễ thì chỉ vua Lỗ mới tế thần núi đó, Quí thị một đại phu, lại đó tế là tiếm lễ. Thần núi Thái Sơn tất không hưởng tế lễ của Quí thị, vì nếu hưởng thì chẳng hoá ra thần không bằng Lâm Phỏng sao? (Lâm Phỏng là người hiếu lễ – coi bài 4 ở trên). Nhiễm Hữu, họ Nhiễm, tên Cầu, học trò Khổng tử. III.7 Tử viết: “Quân tử vô sở tranh, tất dã xạ hồ? Ấp nhượng nhi thăng, há nhi ẩm, kì tranh dã quân tử.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không ganh đua với ai, nếu có thì chỉ trong lúc bắn chăng? Vái nhường rồi mới bước lên, khi lui xuống thì mời người kia uống rượu. Ganh đua nhau như vậy mới là quân tử.” III.8 Tử Hạ vấn viết: “‘Xảo tiếu thiến hề, mĩ mục phán hề, tố dĩ vi huyến hề’ hà vị dã?” Tử viết: “Hội sự hậu tố”. Viết: “Lễ hậu hồ?” – Viết: “Khởi dư giả Thương[46] dã! Thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ.” Dịch. – Tử Hạ nói: “(Kinh Thi nói:) miệng xinh chúm chím cười, mắt đẹp long lanh sáng[47], trên nền trắng vẽ màu sặc sỡ[48]“ nghĩa là thế nào?” Khổng tử đáp: “Có sẵn nền trắng rồi sau mới vẽ”. – Tử Hạ (lại hỏi): “(Nghĩa là) lễ phải ở sau (nhân)[49] chăng?” Khổng tử nói: “Anh Thương phát khởi được ý ta, như anh mới có thể giảng Kinh Thi cho được.” |
Chú thích. – Khổng tử khen Tử Hạ nghe một biết hai. III.9 Tử viết: “Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỉ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc, cố dã. Túc, tắc ngô năng trưng chi hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Lễ chế nhà Hạ, ta có thể nói được, nhưng nước Kỉ không đủ làm chứng; lễ chế nhà Ân, ta có thể nói được, nhưng nước Tống không đủ làm chứng, vì văn kiện và người hiền hai nước đó không đủ. Nếu đủ thì ta có thể chứng minh lời ta nói được.” Chú thích. – Nước Kỉ là hậu duệ của nhà Hạ, nước Tống là hậu duệ nhà Ân. Văn hiến: Văn là văn kiện, hiến là hiền tài. Nên coi lại bài 23 thiên II. Khổng tử trong bài đó bảo nhà Ân theo lễ của nhà Hạ, thêm bớt gì ông biết được. Trong bài này ông bảo ông biết nhưng không thể dẫn chứng được vì không đủ văn kiện và hiền tài. III.10 Tử viết: “Đế (có sách đọc là duệ), tự kí quán nhi vãng giả, ngô bất dục quan chi hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tế đế, từ lúc rót rượu xuống đất trở đi, ta không muốn xem nữa.” Chú thích. – Tế đế là một tế lớn đời xưa, năm năm một lần, làm ở tôn miếu nhà vua. Có sách nói rót rượu xuống đất là để dâng thần, rồi mới bày bài vị tổ tiên để tế. Khổng tử không muốn xem việc bày bài vị đó vì vua Lỗ Văn công bày bài vị sai, không hợp lễ, đặt bài vị Hi công ở trên bài vị Mẫn công. Hi công là anh của Mẫn công, giết Mẫn công để cướp ngôi. Văn công là |
con Hi công cho nên đặt cha trên Mẫn công. Khổng tử cho Mẫn công mới thực là vua, Hi công thí quân để tiếm vị, phải đặt bài vị của Mẫn công lên trên. III.11 Hoặc vấn đế chi thuyết. Tử viết: “Bất tri dã. Tri kì thuyết chi ư thiên hạ dã, kì như thị chư ư hồ?” Chỉ kì chưởng. Dịch. – Có người hỏi về thuyết tế đế. Khổng tử đáp: “Không biết. Nếu biết thuyết ấy, thì việc trị thiên hạ cũng như ở trong cái này chăng?” Ngài vừa nói vừa chỉ vào bàn tay. Chú thích. – Khổng tử chủ trương dùng lễ để trị thiên hạ. Tế đế là một tế quan trọng, nếu hiểu được nó (biết được lễ) thì trị thiên hạ rất dễ. Ông nói không hiểu thuyết tế đế, có thể vì không muốn vạch lỗi của vua Lỗ khi làm tế đó chăng? III.12 Tế như tại, tế thần như thần tại. Tử viết: “Ngô bất dữ tế, như bất tế.” Dịch. – Tế tổ tiên như tổ tiên ở trước mặt, tế thần như thần ở trước mặt[50]. Khổng tử nói: “Khi ta (vì lẽ gì) không đích thân đứng tế (mà mượn người thay)[51] tuy có tế đấy, vẫn (ân hận) như chưa tế.” III.13 Vương Tôn Giả vấn viết: “Dữ kì mị ư Áo, ninh mị ư Táo”; hà vị dã?” Tử viết: “Bất nhiên – Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã.” Dịch. – Vương Tôn Giả (một đại phu cầm quyền ở Vệ) hỏi: “Tục ngữ có câu: “Nịnh thần Áo, thà nịnh thần Táo còn hơn”, câu ấy có nghĩa gì? Khổng tử đáp: “Không phải vậy. Mắc tội với trời thì cầu đảo đâu cũng vô ích.” Chú thích. – Thần Áo là thần trong nhà, thần Táo là thần trong bếp. Thần Táo thấp hơn thần Áo nhưng coi việc bếp nước, |
ăn uống, nên quan trọng hơn. Có người cho rằng Vương Tôn Giả nói bóng bẩy: Thần Áo chỉ Vệ Linh công, thần Táo chỉ nàng Nam Tử và Di Tử Hà, những người Vệ Linh công yêu. Khổng tử như muốn được dùng ở Vệ thì lấy lòng Vệ Linh công không bằng lấy lòng Nam Tử và Di Tử Hà. Khổng cự tuyệt một cách khéo léo. Ông cứ theo đạo trời, ngay thẳng, chẳng cần lấy lòng ai cả. III.14 Tử viết: “Chu giám ư nhị đại, úc úc hồ văn tai! Ngô tòng Chu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nhà Chu châm chước lễ chế của hai triều đại trước (Hạ, Ân) nên văn vẽ rực rỡ biết bao! Ta theo Chu.” III.15 Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Hoặc viết: “Thục vị Trâu nhân chi tử tri lễ hồ, nhập thái miếu, mỗi sự vấn” [52]. Tử văn chi, viết: “Thị lễ dã.” Dịch. – Khổng tử vào thái miếu, thấy việc gì cũng hỏi. Có kẻ bảo: “Ai bảo con người đất Trâu (quê hương của Khổng tử ở Lỗ) ấy biết lễ. (Nếu biết thì sao) vào thái miếu, thấy gì cũng hỏi.” Khổng tử hay được bảo: “Như vậy là lễ đấy.” Chú thích. – Vô thái miếu thờ Chu công ở Lỗ, mà hỏi từng chút cho biết kĩ, đó là thái độ kính cẩn, là lễ. Không xấu hổ hỏi người, cũng là lễ (khiêm tốn) nữa. III.16 Tử viết: “Xạ bất chủ bì, vị lực bất đồng khoa, cổ chi đạo dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Bắn (cốt trúng chứ) không cốt xuyên qua tấm da, vì sức không đều nhau (nghĩa là không phải để đọ sức), đạo xưa như vậy.” III.17 Tử Cống dục khứ Cáo (thời xưa đọc là cốc) sóc chi khái (có người đọc là hí) dương. Tử viết: “Tứ dã, nhĩ ái kì dương, ngã ái kì lễ.” |
Dịch. – Tử Cống muốn bỏ việc dâng cừu trong lễ Cáo sóc. Khổng tử bảo: “Tứ, anh tiếc con cừu, ta tiếc cuộc lễ.” Chú thích. – Đời Chu, vào thu hay đông mỗi năm, thiên tử ban lịch năm sau cho chư hầu, vua chư hầu cất vào trong tổ miếu, năm sau mới mở ra coi; cứ ngày sóc (mùng một) mỗi tháng giết một con cừu để cúng tổ tiên. Lễ đó là lễ Cáo sóc. Lễ xong rồi, vua mới họp triều. Vua Lỗ đã bỏ lễ đó từ lâu, không tới tổ miếu làm lễ mà có khi ngày mùng một cũng không họp triều nữa; nhưng người ta vẫn giết một con cừu để dâng ở tổ miếu. Tử Cống muốn bỏ hình thức đó đi, Khổng tử muốn giữ lại để người ta đừng quên lễ. III.18 Tử viết: “Sự quân tận lễ, nhân dĩ vi siểm dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Thờ vua hết lễ thì người ta cho là nịnh.” Chú thích. – Khổng tử than về thói đời thời đó coi vua không ra gì. III.19 Định công vấn: “Quân sử thần, thần sự quân, như chi hà? Khổng tử đối viết: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung.” Dịch. – (Vua Lỗ là) Định công hỏi: “Vua khiến bề tôi, bề tôi thờ vua, phải như thế nào?” Khổng tử đáp: “Vua khiến bề tôi phải giữ lễ, bề tôi thờ vua phải trung (hết lòng).” III.20 Tử viết: “Thư cưu[53] lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương.” Dịch. – Khổng tử nói: “Thiên Thư cưu trong Kinh Thi, vui mà không quá mức, buồn mà không thương tổn” (Nghĩa là vui buồn đều trúng tiết, vừa phải). Chú thích. – Chữ dâm [淫] ở đây có người hiểu là dâm đãng như ngày nay; thời xưa, hễ quá mức thì đều gọi là dâm. |
Thiên Thư cưu ở đầu Kinh Thi vinh một người quân tử tìm một người thục nữ để cưới, tìm chưa được thì ước mong, không ngủ được; tìm được rồi thì hưởng cảnh cầm sắt hoà hợp. III.21 Ai công vấn xã ư Tể Ngã. Tể Ngã đối viết: “Hạ hậu thị dĩ tùng, Ân nhân dĩ bá, Chu nhân dĩ lật, viết: sử dân chiến lật.” Tử văn chi, viết: “Thành sự bất thuyết, toại sự bất gián, kí vãng bất cữu” [54]. Dịch. – (Vua Lỗ) Ai công hỏi Tể Ngã về việc lập đàn xã[55]. Tể Ngã đáp: “Nhà Hạ trồng cây tùng ở đàn xã, nhà Ân trồng cây bá, nhà Chu trồng cây lật, là có ý khiến dân phải sợ hãi[56]. Chú thích. – Tể Ngã, tên Dư, học trò Khổng tử. III.22 Tử viết: “Quản Trọng chi khí tiểu tai!” Hoặc viết: “Quản Trọng kiệm hồ?” – Viết: “Quản thị hữu tam qui, quan sự bất nhiếp, yên đắc kiệm?” “Nhiên tắc Quản Trọng tri lễ hồ?” – Viết: “Bang quân thụ tắc môn, Quản thị diệc thụ tắc môn. Bang quân vi lưỡng quân chi hiếu hữu phản điếm; Quản thị diệc hữu phản điếm. Quản thị nhi tri lễ, thục bất tri lễ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Khí lương của Quản Trọng nhỏ nhen thay! [57] Có người hỏi: “Quản Trọng tiết kiệm không?” Khổng tử đáp: “Họ Quản thu thuế “tam qui” [58] không cho gia thần nào kiêm nhiếp nhiều việc, sao gọi là tiết kiệm được?” “Thế Quản Trọng có biết lễ không?” – Đáp: “Vua Tề dựng bình phong che cửa, Quản Trọng cũng dựng bình phong che cửa: vua Tề khi khoản đãi hai vua nước ngoài, dùng cái phản điếm[59]. Quản Trọng mà biết lễ thì ai mà không biết lễ?” |
III.23 Tử ngữ Lỗ thái[60] sư nhạc viết: “Nhạc kì khả tri dã: thủy tác, hấp như dã, túng chi, thuần như dã, kiểu như dã, dịch như dã, dĩ thành.” Dịch. – Khổng tử nói về nhạc lí với nhạc quan nước Lỗ: “Có thể biết được phép tấu nhạc: mới đầu, các âm thanh phấn khởi nhiệt liệt; rồi tới khúc phóng thì các âm thanh thuần nhiên điều hoà, rõ ràng, lại liên tục nhau, như vậy là thành khúc nhạc.” III.24 Nghi phong nhân thỉnh kiến, viết: “Quân tử chi chí ư tư dã, ngô vị thường bất đắc kiến dã”. Tòng giả kiến chi. Xuất viết: “Nhị tam tử hà hoạn ư táng hồ? Thiên hạ chi vô đạo dã cửu hĩ, thiên tương dĩ phu tử vi mộc đạc.” Dịch. – Viên quan phong nhân (giữ biên cương) ở ấp Nghi (của Vệ) xin được yết kiến Khổng tử, bảo: “Bậc quân tử (tức có đạo đức) nào tới đây, không có ai mà tôi không được yết kiến”. Học trò theo hầu Khổng tử thông báo với thầy rồi dắt vô. Viên quan đó, (yết kiến rồi) ra bảo: “Mấy thầy đừng lo phu tử mất chức. Thiên hạ vô đạo (tức loạn) đã lâu rồi, Trời sẽ dùng phu tử làm cái mõ gỗ (để tuyên dương giáo hoá).” III.25 Tử vị Thiều: “Tận mĩ hĩ, hựu tận thiện dã”, vị Võ: “Tận mĩ hĩ, vị tận thiện dã.” Dịch. – Khổng tử khen nhạc Thiều: “Cực hay lại cực tốt lành”, khen nhạc Võ: “Cực hay, nhưng chưa cực tốt lành.” Chú thích. – Thiều là nhạc của vua Thuấn, Võ là nhạc của Võ vương nhà Chu. Thuấn nối vua Nghiêu, làm cho thiên hạ thịnh trị; Võ vương diệt Trụ để cứu dân, công hai ông đó ngang |
nhau; nhưng Thuấn được Nghiêu truyền ngôi, Võ phải đánh dẹp thiên hạ mới được ngôi. Khổng tử cho như vậy là đức của Võ không bằng của Thuấn. Mĩ là hay về thanh điệu; thiện là xét về nội dung. Bài này tỏ rằng Khổng tử không ưa dùng võ lực, không ưa cách mạng, dù là chính đáng. Ông thích truyền ngôi cho người hiền hơn là cho con. III.26 Tử viết: “Cư thượng bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan chi tai.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ở bậc trên mà không khoan hồng, làm lễ mà không nghiêm túc, gặp việc tang mà không bi thương, hạng người như vậy còn có gì cho ta xét nữa?” THIÊN IV LÍ NHÂN IV.1 Tử viết: “Lí nhân vi mĩ. Trạch bất xử nhân, yên đắc trí?” Dịch. – Khổng tử nói: “Làng nào có đức nhân, là nơi ấy tốt. Chọn chỗ ở mà không lựa chọn nơi có đức nhân, thì sao gọi là sáng suốt được.” IV.2 Tử viết: “Bất nhân giả, bất khả dĩ cửu xứ ước, bất khả dĩ trường xứ lạc. Nhân giả an nhân, trí giả lợi nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người không có đức nhân thì không thể ở lâu trong cảnh khốn cùng, cũng không thể ở lâu trong cảnh hoan lạc. Người có đức nhân vui lòng làm điều nhân, người thông minh sáng suốt biết rằng đức nhân có lợi cho mình và cho người nên làm điều nhân.” Chú thích. – Chữ an nhân và chữ lợi nhân ở đây, nghĩa cũng như “an nhi hành chi, lợi nhi hành chi” trong sách Trung dung. IV.3 Tử viết: “Duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân.” |
Dịch. – Khổng tử nói: “Chỉ có người đức nhân mới biết yêu người, ghét người (một cách công tâm, chính đáng).” IV.4 Tử viết: “Cẩu chí ư nhân hĩ, vô ác dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nếu quyết chí thực hành đức nhân thì không làm điều ác.” IV.5 Tử viết: “Phú dữ quí, thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kì đạo đắc chi, bất xử dã. Bần dữ tiện, thị nhân chi sở ố dã, bất dĩ kì đạo đắc chi, bất khứ dã. Quân tử khứ nhân, ố hô thành danh? Quân tử, vô chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị.” Dịch. – Khổng tử nói: “Giàu và sang, người ta ai cũng muốn, nhưng chẳng phải đạo mà được giàu sang thì người quân tử chẳng thèm. Nghèo và hèn, người ta ai cũng ghét, nhưng chẳng lỗi đạo mà phải nghèo thì người quân tử chẳng bỏ” [61]. Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử? Người quân tử dù trong bữa ăn (một thời gian ngắn) cũng không làm trái điều nhân, dù trong lúc vộ vàng cũng theo điều nhân.” IV.6 Tử viết: “Ngã vị kiến hiếu nhân giả, ố bất nhân giả. Hiếu nhân giả, vô dĩ thượng chi; ố bất nhân giả, kì vi nhân hĩ, bất sử bất nhân giả gia hồ kì thân. Hữu năng nhất nhật dụng kì lục ư nhân hồ? Ngã vị kiến lực bất túc giả. Cái hữu chi hĩ, ngã vị chi kiến dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta chưa thấy ai thật ham điều nhân và ai thật ghét điều bất nhân, Người thật ham điều nhân thì không cho điều gì hơn điều nhân; người thật ghét điều bất nhân thì khi làm điều nhân không để cho điều bất nhân vướng |
vào mình. Có ai trọn ngày tận lực làm điều nhân chăng? Ta chưa thấy ai không đủ sức làm điều nhân cả. Hoặc có chăng mà ta chưa thấy.” IV.7 Tử viết: “Nhân chi quá dã, các ư kì đảng. Quan quá, tư tri nhân hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Lỗi của một người thuộc về từng loại. Xét một người phạm những lỗi nào, có thể biết người đó có đức nhân hay không.” Chú thích. – Thí dụ: người có đức nhân, thường mắc lỗi quá hậu, quá thương người; người thiếu đức nhân thường ngược lại, quá bạc, quá tàn nhẫn. Có người cho rằng chữ nhân [仁] trong “tư tri nhân hĩ” nên sửa là [人] (người) và giảng là: “biết được hạng người nào”, như vậy dễ hiểu hơn, nhưng ý nghĩa tầm thường. IV.8 Tử viết: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Sáng được nghe đạo lí, tối chết cũng được (không hận).” IV.9 Tử viết: “Sĩ chí ư đạo nhi sỉ ác y ác thực giả, vị túc dữ nghị Dịch. – Khổng tử nói: “Người nào để chí vào đạo mà thẹn vì cái ăn cái mặc thì chưa thể đem đạo bàn được.” IV.10 Tử viết: “Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích (có sách đọc là địch) dã, vô mạc dã, nghĩa chi dữ tỉ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cách xử sự của người quân tử không nhất định phải như vầy mới được, không nhất định như kia là không được, cứ hợp nghĩa thì làm.” Chú thích. – Thái độ đó là vô khả, vô bất khả. IV.11 Tử viết: “Quân tử hoài đức, tiểu nhân hoài thổ[62], quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử nghĩ làm sao cho đạo đức tăng tiến, kẻ tiểu nhân nghĩ làm sao cho đời sống được yên |
ổn; người quân tử nghĩ làm sao khỏi trái với phép nước, kẻ tiểu nhân nghĩ làm sao được ân huệ người khác.” IV.12 Tử viết: “Phóng ư lợi nhi hành, đa oán.” Dịch. – Khổng tử nói: “Hành động mà theo lợi thì gây nhiều oán” (Người oán mình mà mình cũng oán người). IV.13 Tử viết: “Năng dĩ lễ nhượng vi quốc hồ hà hữu? Bất năng dĩ lễ nhượng vi quốc, như lễ hà?” Dịch. – Khổng tử nói: “Biết dùng lễ nhượng trị nước thì có khó gì đâu? Nếu không dùng lễ nhượng trị nước thì dù có lễ chế tốt cũng như không?” IV.14 Tử viết: “Bất hoạn vô vị, hoạn sở dĩ lập. Bất hoạn mạc kỉ tri, cầu vi khả tri dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đừng lo không có chức vị, chỉ lo không đủ tài đức để nhận chức vị. Đừng lo không ai biết mình, chỉ mong sao mình có tài đức để cho người ta biết đến.” IV.15 Tử viết: “Sâm hồ! Ngô đạo nhất dĩ quán chi”. Tăng tử viết: “Duy”. Tử xuất, môn nhân vấn viết: “Hà vị dã?” Tăng tử viết: “Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Sâm này! Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả”. Tăng tử thưa: “Dạ.” Khổng tử ra rồi, các môn sinh khác hỏi Tăng tử: “Thầy muốn nói gì vậy?” Tăng tử đáp: “Đạo của thầy chỉ có trung, thứ[63] mà thôi.” IV.16 Tử viết: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử hiểu rõ về nghĩa, kẻ tiểu nhân hiểu rõ về lợi.” Chú thích. – Hiểu rõ nghĩa là thích nghĩa. Hiểu rõ lợi nên thích lợi. Có sách bàn thêm: Vì tiểu nhân hiểu rõ về lợi, thích lợi, cho nên người quân tử (trị dân) riêng về mình thì không nên nói về lợi, nhưng phải xét cái lợi của tiểu nhân (dân) mà làm lợi cho họ. |
IV.17 Tử viết: “Kiến hiền, tư tề yên; kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Thấy người hiền thì mong làm sao bằng người; thấy người bất hiền thì phải tự xét mình (có mắc tật của người đó không).” IV.18 Tử viết: “Sự phụ mẫu ki gián, kiến chí bất tòng, hựu kính bất vi; lao nhi bất oán.” Dịch. – Khổng tử nói: “Thờ cha mẹ, nên nhỏ nhẹ khuyên can, nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính mà không xúc phạm cha mẹ; tuy khó nhọc, lo buồn, nhưng không được oán hận.” IV.19 Tử viết: “Phụ mẫu tại, bất viễn du. Du tất hữu phương.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cha mẹ còn thì con không nên đi chơi xa. Nếu đi thì phải có nơi nhất định.” IV.20 Tử viết: “Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ.” (Bài này trùng với nửa dưới bài I.11, nên không dịch lại). IV.21 Tử viết: “Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri dã: nhất tắc dĩ hỉ, nhất tắc dĩ cụ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tuổi của cha mẹ, không thể không biết: một là để mừng (vì cha mẹ sống lâu), một là để lo (vì cha mẹ già yếu). IV.22 Tử viết: “Cổ giả ngôn chi bất xuất, sỉ cung chi bất đãi dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà làm không được.” IV.23 Tử viết: “Dĩ ước thất chi giả tiển hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ít có người biết tự tiết chế mà phạm lỗi.” Chú thích. – Có thể hiểu là: Người nào biết tự chế (không phóng túng) thì ít khi phạm tội. |
IV.24 Tử viết: “Quân tử nột ư ngôn, nhi mẫn ư hành.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử chậm chạp (thận trọng) về lời nói, mà mau mắn về việc làm.” IV.25 Tử viết: “Đức bất cô, tất hữu lân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người có đức thì không cô độc, tất có người đồng đạo kết bạn với mình như ở đâu thì có láng giềng ở đó.” IV.26 Tử Du viết: “Sự quân sác, tư nhục hĩ; bằng hữu sác, tư sơ hĩ.” Dịch. – Tử Du nói: “Thờ vua mà can gián nhiều lần quá thì sẽ bị nhục, chơi bạn mà can gián nhiều lần quá thì bạn sẽ xa mình.” Chú thích. – Có người hiểu “sác” [數] là thân mật quá; và ý bài này như ý trong câu: “Quân tử chi giao đạm như thuỷ”: người quân tử lạnh nhạt như nước lã trong sự giao thiệp, không vồ vập quá. Lại có người hiểu “sác” là khoe công lao (!) THIÊN V CÔNG DÃ TRÀNG V.1 Tử vị Công Dã Tràng: “Khả thế dã. Tuy tại luy tiết chi trung, phi kì tội dã”. Dĩ kì tử thế chi. Tử vị Nam Dung[64]: “Bang hữu đạo bất phế; bang vô đạo miễn ư hình lục”. Dĩ kì huynh chi tử thế chi.” Dịch. – Khổng tử khen Công Dã Tràng[65]: “Có thể gả con gái cho trò ấy. Tuy bị tù, nhưng không phải tội của nó”. Rồi đem con gái gả cho. Khổng tử khen Nam Dung: “Nước có đạo (chính trị tốt) trò ấy tất được dùng; nước mà vô đạo (chính trị xấu, hôn ám) thì không bị hình phạt”. Rồi đem con gái của ông gả cho. V.2 Tử vị Tử Tiện[66]: “Quân tử tại nhược nhân; Lỗ vô quân tử |
giả, tư yên thủ tư?” Dịch. – Khổng tử khen Tử Tiện: “Quân tử thay Tử Tiện! Nước Lỗ mà không có người quân tử thì trò ấy làm sao có được phẩm cách như vậy.” V.3 Tử Cống vấn viết: “Tứ dã hà như?” Tử viết: “Nhữ, khí dã”. Viết: “Hà khí dã?” Viết: “Hồ liễn dã.” Dịch. – Tử Cống hỏi: “Còn Tứ (tên Tử Cống) con như thế nào?” Khổng tử đáp: “Anh như một đồ dùng.” Lại hỏi: “Thứ đồ dùng nào?” Đáp: “Như cái hồ liễn” (Một thứ liễn đẹp, quí dùng đựng xôi để cúng). Chú thích. – Thấy Khổng tử khen Tử Tiện, Tử Cống cũng muốn được thầy khen nên hỏi như vậy, Khổng tử đáp: “Như một đồ dùng”, ý nói Tử Cống chỉ dùng vào được một việc, chưa được vào hạng đa tài. (khí – coi II.12). Tử Cống chắc hơi thất vọng lại hỏi nữa. Khổng tử an ủi: Tuy là một đồ dùng nhưng là một đồ dùng quí. V.4 Hoặc viết: “Ung dã nhân nhi bất nịnh”. Tử viết: “Yên dụng nịnh? Ngữ nhân dĩ khẩu cấp, lũ tăng ư nhân. Bất tri kì nhân, yên dụng nịnh?” Dịch. – Có người bảo với Khổng tử: “Thầy Ung[67] là người nhân nhưng không có tài ăn nói”. Khổng tử đáp: “Cần gì phải dùng tài ăn nói? Ung đối với người, mà khéo biện luận, thường bị người ta biết thôi. Ta không biết anh ấy có đức nhân không, nhưng cần gì phải dùng tài ăn nói.” V.5 Tử sử Tất Điêu Khai sĩ. Đối viết: “Ngô tư chi vị năng tín”. Tử duyệt. Dịch. – Khổng tử bảo Tất Điêu Khai ra làm quan. Tất Điêu Khai đáp: “Con chưa tin mình có thể làm quan được”. Khổng tử |
vui lòng. V.6 Tử viết: “Đạo bất hành, thừa phu phù ư hải, tòng ngã giả, kì Do dư? Tử Lộ văn chi hỉ. Tử viết: “Do dã, hiếu dũng quá ngã, vô sở thủ tài.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đạo của ta không thi hành được, ta sẽ cưỡi bè vượt biển (đi nước ngoài, có thể trỏ Triều Tiên) người theo ta có lẽ là anh Do chăng? Tử Lộ nghe vậy mừng. Khổng tử nói tiếp: “Anh Do hiếu dũng hơn ta, nhưng ta chưa có tài liệu (gỗ) để làm bè.” Chú thích. – Chữ tài [材] (là tài liệu), có nhà nghĩ chữ tài [裁] nghĩa là tiết chế, chọn lựa, (chê Tử Lộ hiếu dũng nhưng không sáng suốt) hoặc là: không biết xét đoán, không hiểu rằng Khổng tử chỉ muốn nói đùa, chứ đâu có ý bỏ Trung Quốc mà đi. Lại có nhà bảo chữ tài [材] đó chính là tai [哉][68] và Khổng tử chê Tử Lộ là hiếu dũng, nhưng vô dụng. Cách hiểu đó sai. Tử Lộ là một học trò giỏi, (coi bài dưới đây), không lí gì Khổng tử chê như vậy. V.7 Mạnh Võ Bá vấn: “Tử Lộ nhân hồ?” Tử viết: “Bất tri dã”. Hựu vấn. Tử viết: “Do dã, thiên thặng chi quốc khả sử trì kì phú[69]; bất tri kì nhân dã.” “Cầu dã hà như?” Tử viết: “Cầu dã, thiên thất chi ấp, bách thăng chi gia, khả sử vi chi tể dã; bất tri kì nhân dã?” “Xích dã hà như?” Tử viết: “Xích dã, thúc đái lập ư triều, khả sử dữ tân khách ngôn dã; bất tri kì nhân dã.” Dịch. – Mạnh Võ Bá[70] hỏi: “Thầy Tử Lộ phải là người nhân không”. Khổng tử đáp: “Không biết”. Lại hỏi nữa, Khổng tử bảo: |
“Anh Do có thể điều khiển quân đội một nước có ngàn binh xa; còn nhân hay không thì không biết.” “Thầy Cầu là người thế nào?” Khổng tử đáp: “Anh Cầu có thể làm quan tể cai trị một ấp có ngàn nhà hoặc một thái ấp (của một quí tộc) có trăm binh xa; còn nhân hay không thì không biết.” “Thầy Xích[71] là người thế nào?” Khổng tử đáp: “Anh Xích có thể thắt đai (bận lễ phục) đứng ở triều đình để tiếp đãi tân khách; còn nhân hay không thì không biết.” V.8 Tử vị Tử Cống viết: “Nhữ dữ Hồi dã, thục dữ?” Đối viết: “Tứ dã hà cảm vọng Hồi, Hồi dã, văn nhất dĩ tri thập, Tứ dã, văn nhất dĩ tri nhị.” Tử viết: “Phất như dã. Ngô dữ nhữ phất như dã.” Dịch. – Khổng tử hỏi Tử Cống: “Anh với anh Hồi, ai hơn?” Tử Cống đáp: “Tứ con đâu dám được như anh Hồi. Anh ấy nghe một biết mười, con nghe một chỉ biết hai”. Khổng tử bảo: “Phải, anh không bằng. Ta đồng ý với anh rằng anh không bằng anh Hồi.” Chú thích. – Câu cuối Hán nho hiểu là: ta với anh đều không bằng anh Hồi và bảo Khổng tử muốn an ủi Tử Cống đừng buồn. Như vậy thì chữ dữ là liên từ chứ không phải động từ. Khó biết được thuyết nào là đúng. V.9 Tể Dư trú tẩm. Tử viết: “Hủ mộc bất khả điêu dã, phẩn thổ chi tường bất khả ô dã. Ư dư dư hà tru? Tử viết: “Thủy ngô ư nhân dã, thính kì ngôn nhi tín kì hành; kim ngô ư nhân dã, thính kì ngôn nhi quan kì hành. Ư Dư dữ cải |
thị.” Dịch. – Tể Dư ngủ ngày, Khổng tử bảo: “Gỗ mục không thể chạm khắc được, vách bằng đất dơ không thể trát được? Đối với trò Dư, còn trách làm gì?” Rồi Khổng tử lại nói: “Mới đầu, đối với người, ta nghe lời nói mà tin việc làm, nay đối với người ta nghe lời nói mà còn phải xem việc làm nữa. Vì trò Dư mà ta thay đổi như vậy.” Chú thích. – Khổng tử đã chê Tể Dư (Tể Ngã) trong bài III.21. V.10 Tử viết: “Ngô vị kiến cương giả”. Hoặc đối viết: “Thân Trành”. Tử viết: “Trành dã dục, yên đắc cương.” Dịch. – Khổng tử bảo: “Ta chưa thấy người nào cương cường”. Có người nói: “Có Thân Trành”. Khổng tử đáp: “Thân Trành nhiều thị dục sao gọi là cương cường được.” Chú thích. – Người cương cường thì tự chủ được mà bất khuất. Người thị dục nhiều quá khó tự chủ và bất khuất được. Thân Trành là học trò Khổng tử. V.11 Tử Cống viết: “Ngã bất dục nhân chi gia chư ngã dã. Ngô diệc dục vô gia chư nhân”. Tử viết: “Tứ dã, Phi nhĩ sở cập dã.” Dịch. – Tử Cống nói: “Điều gì (xấu) tôi không muốn người ta làm cho tôi thì tôi cũng không muốn làm cho mình.” Khổng tử bảo: “Tứ, anh không được như vậy đâu.” Chú thích. – Câu của Tử Cống nghĩa y như câu: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân” [72]. Theo được câu ấy là có đức nhân. V.12 Tử Cống viết: “Phu tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã, phu tử chi ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã.” Dịch. – Tử Cống nói: “Công trình nghiên cứu về văn hóa (như Thi, Thư, Lễ, Nhạc) của thầy (tức Khổng tử) thì chúng ta |
được nghe, còn quan niệm về thiên tính và đạo trời của thầy thì chúng ta không được nghe.” Chú thích. – Danh từ “văn chương” thời đó khác với thời nay, mà trỏ những điển tịch cổ. – Có người hiểu: “văn chương” là đạo đức, văn từ. V.13 Tử Lộ hữu văn, vị chi năng hành, duy khủng hữu văn.” Dịch. – Tử Lộ nghe được điều gì mà chưa kịp thi hành được thì sợ được nghe thêm điều khác. Chú thích. – Câu này chắc của môn sinh nhận định về Tử Lộ. V.14 Tử Cống vấn viết: “Khổng Văn Tử hà dĩ vị chi Văn dã?” Tử viết: “Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị dĩ vị chi Văn dã.” Dịch. – Tử Cống hỏi: “Ông Khổng Văn tử[73] sao được đặt cho tên thuỵ là Văn?” Khổng tử đáp: “Thông minh mà lại hiếu học không thẹn hỏi người kém mình, vì vậy được đặt tên thuỵ là Văn.” V.15 Tử vị Tử Sản: “Hữu quân tử chi đạo tứ yên, kì hành kỉ dã cung, kì sự thượng dã kính, kì dưỡng dân dã huệ, kì sử dân dã nghĩa.” Dịch. – Khổng tử khen Tử Sản[74]: “Ông ấy có bốn điều hợp với đạo người quân tử: giữ mình thì khiêm cung, thờ vua thì kính cẩn, nuôi dân thì có ân huệ, sai dân thì hợp tình lí (hợp nghĩa). V.16 Tử viết: “Án Bình Trọng[75] thiện dữ nhân giao, cửu nhi kính chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Án Bình Trọng khéo cư xử với bạn, lâu ngày mà vẫn tôn kính bạn.” V.17 Tử viết: “Tang Văn Trọng cư thái, sơn tiết tảo chuyết, hà như kì trí dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tang Văn Trọng làm nhà cho con |
“thái” ở (một con rùa lớn dùng để bói), đầu cột khắc hình núi, xà nhà vẽ rong rêu, sao được gọi là người trí (sáng suốt). Chú thích. – Chỉ thiên tử mới cất nhà và dùng những trang sức như vậy ở trong thái miếu để nuôi rùa “thái”, Tang Văn Trọng là một đại phu mà hành động như thiên tử là trái lễ. Còn một lẽ nữa: Tang sa hoa quá, lại mê tín, tưởng trọng con “thái” như vậy thì nó sẽ phù hộ cho mình, quả là bất trí. Tang Văn Tử, họ Tang Tôn, tên Thìn, là một đại phu nước Lỗ. V.18 Tử Trương vấn viết: “Lệnh doãn Tử Văn, tam sĩ vi lệnh doãn, vô hỉ sắc; tam dĩ chi, vô uấn sắc. Cựu lệnh doãn chi chính, tất dĩ cáo tân lệnh doãn. Hà như?” Tử viết: “Trung hĩ”. Viết: “Nhân hĩ hồ?” Viết: “Vị tri. Yên đắc nhân?” Thôi Tử thí Tề quân, Trần Văn tử hữu mã thập thặng, khí nhi vi chi. Chí ư tha bang, tắc viết: “Do ngô đại phu Thôi tử dã” – Vi chi. Chi nhất bang, tắc hựu viết: “Do ngô đại phu Thôi tử dã” – Vi chi – hà như.” Tử viết: “Thanh hĩ”. Viết: “Nhân hĩ hồ?” Viết: “Vị tri. Yên đắc nhân?” Dịch. – Tử Trương hỏi: “Quan lệnh doãn (tể tướng nước Sở) Tử Văn ba lần làm lệnh doãn mà không mừng, ba lần bị bãi chức mà không oán hận, lại đem việc cũ bàn giao cho quan lệnh doãn mới. Người như thế ra sao?” Khổng tử đáp: “Trung thực đấy”. Lại hỏi: “Có phải là người nhân không?” Đáp: “Chưa biết. Có gì chắc để gọi là người nhân.” (Tử Trương hỏi thêm): “Thôi tử[76] giết vua Tề. Trần Văn tử có mười cổ xe (mỗi cỗ xe có bốn ngựa) bỏ mà đi. Đến một nước |
khác bảo: “Quan đại phu chấp chính ở đây cũng không hơn quan đại phu Thôi tử nước ta”, rồi lại bỏ đi. Tới một nước khác, lại bảo: “Quan đại phu chấp chính ở đây cũng không hơn quan đại phu Thôi tử nước ta”, rồi lại bỏ đi. Người như thế ra sao?” Khổng tử đáp: “Trong sạch đấy”. Lại hỏi: “Có phải là người nhân không?” Đáp: “Chưa biết[77]. Có gì chắc để gọi được là người nhân.” V.19 Quí Văn tử tam tư nhi hậu hành. Tử văn chi viết: “Tái tư khả Dịch. – (Quan đại phu nước Lỗ là) Quí Văn tử (gặp việc gì cũng) suy nghĩ ba lần rồi mới hành động. Khổng tử nghe được bảo: “Hai lần thôi cũng đủ rồi.” V.20 Tử viết: “Ninh Vũ tử, bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc ngu. Kì trí khả cập dã, kì ngu bất khả cập dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ông Ninh Vũ tử (đại phu nước Vệ), khi nước có đạo (chính trị tốt) thì tỏ ra là người trí; khi nước vô đạo (chính trị xấu) thì làm ra vẻ ngu. Cái trí của ông, ta theo kịp, cái ngu của ông, ta không theo kịp.” V.21 Tử tại Trần viết: Quy dư, qui dư? Ngô đảng chi tiểu tử cuồng giản, phỉ nhiên thành chương, bất tri sở dĩ tài chi.” Dịch. – Khổng tử ở nước Trần bảo: “Về thôi, về thôi! Môn sinh ở quê hương ta có trí lớn nhưng không thận trọng (nông nổi) có văn thái rõ ràng, nhưng không biết tự chế tài mình.” Chú thích. – Lúc này Khổng tử chán ngán vì không thi hành được đạo trong thiên hạ, mà lại gặp nhiều điều chẳng may, nên |
muốn trở về Lỗ, để chỉ bảo, hướng dẫn thanh niên theo đạo trung chính, sửa lỗi “cuồng giản” của họ. V.22 Tử viết: “Bá Di, Thúc Tề bất niệm cựu ác, oán thị dụng hi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Bá Di và Thúc Tề không nhớ điều xấu của người, nên ít oán ai.” Chú thích. – Bá Di và Thúc Tề đều là con vua Cô Trúc, không chịu nhận ngôi vua, bỏ đi ở ẩn; sau giúp vua Văn vương làm người có đức. Nhưng khi Võ vương (con Văn vương) đem quân đánh Trụ nhà Thương, hai ông không can được, vào ở ẩn trong núi Thú Dương, chịu chết đói. Coi truyện trong bộ Sử Kí của Tư Mã Thiên. “Oán thị dụng hi” có người hiểu là: ít người oán hai ông ấy. Nhưng bài VII.14 Khổng tử có nói: “… cầu nhân đắc nhân, hựu hà oán?” (hai ông ấy) cầu nhân thì được nhân, còn oán cái gì?” Vì vậy chúng tôi dịch là “nên ít oán ai”, chứ không dịch là ít bị người ta oán. V.23 Tử viết: “Thục vị Vi Sinh Cao[78] trực? Hoặc khất ê yên, khất chư kì lân nhi dữ chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ai bảo Vi Sinh Cao là ngay thẳng? Có người đến xin giấm, ông xin của hàng xóm mà cho.” V.24 Tử viết: “Xảo ngôn, lệnh sắc, túc cung, Tả Khâu Minh[79] sỉ chi, Khâu diệc sỉ chi. Nặc oán nhi hữu kì nhân,Tả Khâu Minh sỉ chi, Khâu diệc sỉ chi.” niềm nở, thái độ quá cung kính, ông Tả Khâu Minh lấy vậy làm xấu hổ, Khâu này cũng lấy vậy làm xấu hổ. Giấu lòng oán mà bề ngoài làm bộ thân thiện với người, ông Tả Khâu Minh lấy vậy |
làm xấu hổ, Khâu này cũng lấy vậy làm xấu hổ.” V.25 Nhan Uyên, Quí Lộ thị. Tử viết: “Hạp các ngôn nhĩ chí? Tử Lộ viết: “Nguyện xa mã, y khinh cừu, dữ bằng hữu cộng, tế chi nhi vô hám.” Nhan Uyên viết: “Nguyện vô phạt thiện, vô thi lao.” Tử Lộ viết: “Nguyện văn tử chi chí.” Tử viết: “Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiểu giả hoài chi.” Dịch. – Nhan Uyên và Quí Lộ theo hầu. Khổng tử bảo: “Sao không kể chí hướng của các anh cho ta nghe?” Tử Lộ thưa: “Con mong có xe, ngựa, áo lông cừu nhẹ để các bạn cùng hưởng, dù có hư nát, con cũng không hận.” Nhan Uyên thưa: “Con không muốn khoe điều hay, kể công lao của con.” Tử Lộ thưa: “Xin thầy cho chúng con biết chí thầy.” Khổng tử đáp: “Ta muốn các người già được an vui, các bạn bè tin lẫn nhau, các trẻ em được săn sóc vỗ về (như vậy là muốn truyền đạo, cải tạo xã hội). Hoặc: “Ta muốn các người già yên lòng nơi ta, các bạn bè tin cậy nơi ta, các người trẻ được an ủi nơi[80] ta (như vậy là muốn mình giữ được đạo hiếu thuận với người già, đạo thành tín với bạn, thi ân với người trẻ). V.26 Tử viết: “Dĩ hĩ hồ, ngô vị kiến năng, kiến kì quá nhi nội tự tụng giả dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Hết rồi (hoặc quá rồi), ta chưa thấy người nào thấy lỗi của mình mà tự trách mình cả.” V.27 Tử viết: “Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín như Khâu giả yên, bất như Khâu chi hiếu học dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Trong một ấp mười nhà, tất có người trung tín như Khâu, nhưng không có ai ham học như Khâu này. |
THIÊN VI UNG DÃ VI.1 Tử viết: “Ung dã khả sử nam diện.” Trọng Cung vấn Tử Tang Bá tử. Tử viết: “Khả dã, giản.” Trọng Cung viết: “Cư kính nhi hành giản, dĩ lâm kì dân, bất diệc khả hồ? Cư giản nhi hành giản, vô nãi đại giản hồ”. Tử viết: “Ung chi ngôn nhiên” [81]. Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Cung có thể làm vua được[82].” Trọng Cung (tức Nhiễm Ung) hỏi Tử Tang Bá tử ra sao. Khổng tử đáp: “Cũng được (hoặc cũng khá), giản dị[83]“. Trọng Cung bảo: “Tự mình thì cung kính, mà giản dị trong việc trị dân, chẳng phải là giản dị trong việc trị dân, chẳng là tốt ư? Nếu tự mình thì giản dị (xuề xoà) mà giản dị trong việc trị dân, chẳng phải là giản dị thái quá sao?” Khổng tử bảo: “Anh Ung nói phải VI.2 Ai Công vấn: “Đệ tử thục vi hiếu học?” Khổng tử đối viết: “Hữu Nhan Hồi giả hiếu học, bất thiên nộ, bất nhị quá; bất hạnh đoản mệnh tử hĩ, kim dã tắc vô[84], vị văn hiếu học giả dã.” Dịch. – Vua Lỗ Ai công hỏi: “Học trò của thầy, ai là người hiếu học?” Khổng tử đáp: “Có Nhan Hồi là người hiếu học, không giận lây, không phạm một lỗi nào tới hai lần; chẳng may đã mất sớm rồi, nay không có người nào như vậy nữa, tôi không nghe nói có ai hiếu học cả.” Chú thích. – Chúng ta để ý: hiếu học theo Khổng tử là ham sửa mình, học đạo. VI.3 Tử Hoa[85] sứ ư Tề, Nhiễm tử[86] vi kì mẫu thỉnh túc. Tử viết: “Dữ chi phủ”. Thỉnh ích. Viết: “Dữ chi dữu”. Nhiễm tử dữ chi túc ngũ bỉnh. Tử viết: “Xích chi thích Tề dã, thừa phì mã, y khinh cừu. Ngô văn chi dã: “Quân tử chu cấp bất kế phú.” |
Nguyên Tư vi chi tể. Dữ chi túc cửu bách. Từ. Tử viết: “Vô! Dĩ dữ nhĩ lân lí, hương đảng hồ? Dịch. – Tử Hoa đi sứ nước Tề, Nhiễm Hữu xin cấp lúa cho mẹ Tử Hoa. Khổng tử bảo: “Cấp cho một phũ (6 đấu 4 thăng). Nhiễm Hữu xin thêm, Khổng tử bảo: “Cho một dữu (16 đấu)”. Nhiễm tử cấp cho một bỉnh (16 hộc, mỗi hộc là 10 đấu). Khổng tử bảo: “Anh Xích đi sang Tề, cưỡi ngựa mập, mặc áo cừu nhẹ (ý nói giàu sang). Ta nghe nói: Người quân tử chu cấp cho kẻ nghèo chứ không làm giàu thêm cho người giàu.” Nguyên Tư làm quan Tể. Khổng tử phát cho chín[87] trăm (hộc hay đấu, không rõ). Nguyên Tư từ chối. Khổng tử nói: “Đừng! Sao không đem lúa cấp cho những người nghèo trong làng xóm, láng giềng?” VI.4 Tử vị Trọng Cung[88] viết: “Lê ngưu chi tử, tuynh (hoặc tinh) thả giác, tuy dục vật dụng, sơn xuyên kì xá chư? Dịch. – Khổng tử nói về Trọng Cung: “Con của con bò lang[89] lông đỏ mà sừng ngay ngắn; dù người ta không muốn dùng nó làm vật cúng tế (vì chê nó là con của bò lang) nhưng thần núi sông đâu có bỏ nó (mà không hưởng).” VI.5 Tử viết: “Hồi dã, kì tâm tam nguyệt bất vi nhân, kì dư tắc nhật nguyệt chí yên nhi dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Hồi (Nhan Uyên), lòng ba tháng không lìa đạo nhân, còn các anh khác, một ngày, một tháng là cùng.” VI.6 Quí Khang tử vấn: “Trọng Do khả sử tòng chính dã dư?” Tử viết: “Do dã quả, ư tòng chính hồ hà hữu?” Viết: “Tứ dã, khả sử |
tòng chính dã dư?” Viết: “Tứ dã đạt, ư tòng chính hồ hà hữu?” Viết: “Cầu dã, khả sử tòng chính dã dư?” Viết: “Cầu dã nghệ, ư tòng chính hồ hà hữu?” Dịch. – Quí Khang tử hỏi: “Thầy Trọng Do (Tử Lộ) có thể tòng sự chính trị (tức làm quan đại phu) được không?” Khổng tử đáp: “Trọng Do là người quyết đoán, tòng sự chính trị có gì mà không được?” Hỏi: “Thầy Tứ (Tử Cống) có thể tòng sự chính trị được không?” Khổng tử đáp: “Tứ thông hiểu sự lí, tòng sự chính trị có gì mà không được?” Hỏi: “Thầy Cầu (Nhiễm Hữu) có thể tòng sự chính trị được không?” Đáp: “Cầu tài nghệ, tòng sự chính trị có gì mà không được?” VI.7 Quí Thị sử Mẫn Tử Khiên[90] vi Phí (hoặc Bí) tể. Mẫn Tử Khiên viết: “Thiện vi ngã từ yên. Như hữu phục ngã giả, tắc ngô tất tại Vấn thượng hĩ.” Dịch. – Họ Quí sai Mẫn Tử Khiên làm quan tể đất Phí. Mẫn Tử Khiên nói với sứ giả: “Ông khéo từ chối dùm cho tôi. Nếu triệu tôi lần nữa thì tôi sẽ lên ở bờ phía Bắc sông Vấn (tức trốn qua Tề). VI.8 Bá Ngưu[91] hữu tật, Tử vấn chi, tự dũ chấp kì thủ, viết: “Vô[92] chi, mệnh hĩ phù? Tư nhân dã nhi hữu tư tật dã! [93]. ” Dịch. – Bá Ngưu đau, Khổng tử lại thăm, đứng ngoài cửa sổ, nắm tay Bá Ngưu, bảo: “Vô lí! Do mệnh trời chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó!” VI.9 Tử viết: “Hiền tai, Hồi dã! Nhất đan tự, nhất biều ẩm, tại lậu hạng, nhân bất kham kì ưu. Hồi dã bất cải kì lạc. Hiền tai, Hồi dã!” |
Dịch. – Khổng tử nói: “Hiền thay, anh Hồi. Một giỏ cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẻm, người khác ưu sầu không chịu nổi cảnh khốn khó đó. Anh Hồi thì không đổi niềm vui. Hiền thay, anh Hồi!” VI.10 Nhiễm Cầu viết: “Phi bất duyệt tử chi đạo, lực bất túc dã”. Tử viết: “Lực bất túc giả, trung đạo nhi phế, kim nhữ hoạch.” Dịch. – Nhiễm Cầu thưa: “Không phải con không thích đạo của thầy, chỉ tại sức con không đủ (không theo kịp). Khổng tử bảo: “Nếu sức không đủ thì nửa đường bỏ dở; còn anh thì tự vạch giới hạn để không tiến nữa.” VI.11 Tử vị Tử Hạ viết: “Nhữ vi quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho.” Dịch. – Khổng tử bảo Tử Hạ: “Anh nên làm nhà nho quân tử, không nên làm nhà nho tiểu nhân.” Chú thích. – Theo sách Thuyết văn thì “nho” đã có trước Khổng tử từ lâu và mới đầu trỏ các thuật sĩ, tới thời Khổng tử trở đi, mới trỏ những người trí thức chuẩn bị ra làm quan; từ sau Khổng tử trở đi, mới trỏ những người theo đạo Khổng. Khổng tử khuyên Tử Hạ đừng nên làm một nhà nho (người trí thức) chỉ có tài nghệ mà thôi, mà nên làm một nhà nho quân tử, có đạo đức: Tử Hạ giỏi về văn học, Khổng tử muốn cho Tử Hạ có cả đạo đức cao nữa. VI.12 Tử Du vi Võ Thành tể. Tử viết: “Nhữ đắc nhân yên nhĩ hồ?” Viết: “Hữu Đam Đài Diệt Minh[94] giả, hành bất do kính, phi công sự, vị thường chí ư Yển chi thất dã.” Dịch. – Tử Du làm chức tể ấp Võ Thành. (tể cũng như |
trưởng, cầm đầu một cơ quan hay cai trị một nơi). Khổng tử hỏi: “Anh đã tìm được người nào tốt chưa”. Tử Du đáp: “Có Đam Đài Diệt Minh; người ấy không theo đường tắt, không vì việc công thì không đến nhà Yển con.” VI.13 Tử viết: “Mạnh Chi Phản[95] bất phạt. Bôn nhi điến, tương nhập môn, sách kì mã, viết: “Phi cảm hậu dã, mã bất tiến dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ông Mạnh Chí Phản không khoe công. Khi thua chạy, ông ở lại sau quân. Lúc sắp vào thành, ông quát con ngựa, bảo: “Không phải tôi dám ở lại sau, chỉ vì con ngựa không chạy mau được.” VI.14 Tử viết: “Bất hữu Chúc Đà[96] chi nịnh nhi hữu Tống triều chi mĩ, nan hồ miễn ư kim chi thế hĩ” Dịch. – Khổng tử nói: “Không có tài khéo nói (nịnh nọt) của Chúc Đà mà có dung nhan đẹp đẽ của công tử Triều nước Tống thì khó tránh được hoạ ở thời này.” VI.15 Tử viết: “Thùy năng xuất bất do hộ? Hà mạc do tư đạo dã?” Dịch. – Khổng tử nói: “Ai ra khỏi nhà mà không qua cửa? Thế thì tại sao không theo chính đạo?” Chú thích. – Ai ra khỏi nhà cũng do cửa, nghĩa là do đường chính, (chứ không trèo tường chẳng hạn), vậy mà trong việc cư xử lập thân thì người ta lại không theo chính đạo, mà theo lối tắt. VI.16 Tử viết: “Chất thắng văn tắc dã; văn thắng chất tắc sử; văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử.” Dịch. – Khổng tử nói: “Chất phác thắng văn nhã thì là người nhà quê mùa, văn nhã thắng chất phác thì là người chép sử (giữ việc văn thư), văn và chất đều nhau mới là người quân tử.” |
VI.17 Tử viết: “Nhân chi sinh dã trực, võng chi sinh dã hạnh nhi miễn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Lẽ sống là phải ngay thẳng, chẳng ngay thẳng mà sống thì may mắn khỏi chết đấy thôi.” Chú thích. – Có người hiểu: “Bản tính con người là ngay thẳng…” VI.18 Tử viết: “Tri chi giả bất như hiếu chi giả; hiếu chi giả bất như lạc chi giả.” Dịch. – Khổng tử nói: “Biết (đạo lí) không bằng thích nó; thích nó không bằng vui làm theo nó (hoặc coi nó là một thú vui).” VI.19 Tử viết: “Trung nhân dĩ thượng khả dĩ ngứ thượng dã; trung nhân dĩ hạ bất khả dĩ ngứ thượng dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người có tư chất từ bậc trung trở lên thì có thể giảng đạo lí cao xa cho được, từ bực trung trở xuống, không thể giảng đạo lí cao xa cho được VI.20 Phàn Trì vấn trí. Tử viết: “Vụ nhân [97] chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi, khả vị trí hĩ”. Vấn nhân. Viết: “Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch, khả vị nhân hĩ.” Dịch. – Phàn Trì hỏi thế nào là trí (sáng suốt). Khổng tử đáp: “Chuyên tâm làm việc nghĩa giúp người, kính trọng quỉ thần nhưng tránh xa, như vậy có thể gọi là trí”. Lại hỏi thế nào là nhân. Đáp: “Người có đức nhân phải chịu khó nhọc làm lụng để rồi sau mới lượm được kết quả, như vậy có thể gọi là đức nhân.” VI.21 Tử viết: “Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn. Trí giả động, nhân giả tĩnh. Trí giả lạc, nhân giả thọ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người trí thích nước, người nhân thích núi. Người trí thì hoạt động, người nhân thì trầm tĩnh, người trí vui sống, người nhân sống lâu.” |
VI.22 Tử viết: “Tề nhất biến, chí ư Lỗ, Lỗ nhất biến chí ư đạo.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nước Tề mà thay đổi (chính trị và giáo hoá) một bực thì đến trình độ nước Lỗ; nước Lỗ thay đổi một bực thì đạt được đạo (của tiên vương đạt được vương đạo). Chú thích. – Tề theo bá đạo, từ thời Tề Hoàn công, gấp về mưu lợi, tuy cường nhưng giáo hoá kém rồi; Lỗ tuy nhược, nhưng còn trọng lễ giáo, trọng tín nghĩa; nếu thay đổi một bực thì sẽ thật tốt. VI.23 Tử viết: “Cô bất cô, cô tai! Cô tai.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cái cô[98] mà không có cạnh góc thì sao gọi là cái cô! Sao gọi là cái cô!” VI.24 Tể Ngã vấn viết: “Nhân giả, tuy cáo chi viết: “Tỉnh hữu nhân yên”, kì tòng chi dã?” Tử viết: “Hà vi kì nhiên dã? Quân tử khả thệ dã, bất khả hãm dã, khả thi dã, bất khả võng dã.” Dịch. – Tể Ngã hỏi: “Người có đức nhân[99] nghe bảo: “Có người té xuống giếng” thì có nhảy xuống vớt mà chết theo không?” Khổng tử đáp: “Sao lại làm như vậy? Người quân tử có thể lại giếng xem (rồi tìm cách cứu) chớ không thể để cho người ta hãm hại mình (hoặc: chứ không tự hãm hại mình); có thể bị gạt một cách hợp lí, chứ không thể bị gạt một cách vô lí.” VI.25 Tử viết: “Quân tử bác học ư văn, ước chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất bạn hĩ phù!” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử học rộng về Thi, Thư, tự ước thúc bằng lễ (qui tắc, nghi thức, kỉ luật tinh thần) như vậy có thể không trái với đạo lí.” |
VI.26 Tử kiến Nam tử, Tử Lộ bất duyệt. Phu tử thỉ chi viết: “Dư sở phủ giả, thiên yếm chi, thiên yếm chi!” Dịch. – Khổng tử vô chào nàng Nam tử, Tử Lộ không bằng lòng. Khổng tử thề: “Ta có làm gì trái thì trời bỏ ta, trời bỏ ta!” Chú thích. – Khổng tử hồi đó đến nước Vệ – Vợ vua Vệ Linh công là Nam tử có tiếng dâm đãng, mời ông tới để gặp mặt, ông theo lễ, không thể từ chối. Tử Lộ lấy làm xấu hổ. Việc này chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Nhưng nhiều học giả không hiểu tại sao Khổng tử phải thề độc như vậy, và đưa ra vài ba cách hiểu khác nhau đều gượng cả. (Coi Luận ngữ nhị thập giảng). VI.27 Tử viết: “Trung dung chi vi đức dã, kì chí hĩ hồ! Dân tiển cửu Dịch. – Khổng tử nói: “Trung dung là đức cực đẹp vậy. Từ lâu rồi, người ta ít có đức đó.” Chú thích. – Có người dịch câu sau là ít người giữ được đức đó lâu. VI.28 Tử Cống viết: “Như hữu bác thí ư dân nhi năng tế chúng, hà như? Khả vị nhân hồ?” Tử viết: “Hà sự ư nhân! Tất dã thánh hồ! Nghiêu, Thuấn kì do bệnh chư! Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ.” Dịch. – Tử Cống hỏi: “Nếu có người thi ân cho nhân dân và cứu đại chúng, thì người ấy thế nào. Có thể gọi là người nhân không?” Khổng tử đáp: “Sao chỉ gọi là người nhân thôi? Phải gọi là bực thánh chứ! Vua Nghiêu, Thuấn cũng chưa làm được như |
vậy thay. Người nhân, mình muốn tự lập thì cũng muốn giúp người thành công. Biết từ bụng ta suy ra bụng người (mình muốn gì thì giúp người được cái đó) đó là phương pháp thực hành của người nhân.” THIÊN VII THUẬT NHI VII.1 Tử viết: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết bỉ ư ngã Lão Bành.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta truyền thuật (đạo của cổ nhân) mà không sáng tác, tin và thích (kinh điển của) cổ (nhân); ta trộm ví với ông Lão Bành của ta.” Chú thích. – Chu Hi bảo Lão Bành là một đại phu thời Thương. Có người bảo Lão Bành là Lão Đam (Lão tử). Người khác lại bảo Lão Bành là Bành Tổ, sống bảy trăm tuổi, bề tôi vua Nghiêu. Trịnh Huyền bảo Lão Bành là hai người: Lão Đam và Bành Tổ. Không thuyết nào tin được cả. Sự thực chưa biết là ai. VII.2 Tử viết: “Mặc nhi chí chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện, hà hữu ư ngã tai!” Dịch. – Khổng tử nói: “Trầm mặc suy nghĩ rồi ghi vào lòng, học không chán, dạy người không mỏi, ngoài ra ta có cái gì khác đâu?” (có người dịch là: ba đức có đủ nơi ta chăng?). VII.3 Tử viết: “Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất năng tỉ, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đạo đức không sửa tiến, học vấn chẳng giảng tập, nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi, đó là những mối lo của ta.” VII.4 Tử chi yến cư, thân thân như dã, thỉ thỉ[100] như dã. Dịch. – Khổng tử lúc nhàn cư thì đoan trang, thần thái hoà vui. |
VII.5 Tử viết: “Thậm hĩ ngô suy dã! Cửu hĩ, ngô bất phục mộng kiến Chu Công[101]. ” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta đã suy lắm rồi! Từ lâu không còn mộng thấy ông Chu Công.” VII.6 Tử viết: “Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Để tâm chí vào đạo, giữ gìn đức hạnh, nương theo điều nhân, vui vẻ lục nghệ (tức lễ, nhạc, xạ, ngự, thư – viết chữ, số – toán pháp). VII.7 Tử viết: “Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ai dưng lễ để xin học thì từ một bó nem trở lên, ta chưa từng (chê là ít) mà không dạy.” VII.8 Tử viết: “Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ nào không phát phẫn để tìm hiểu thì ta không mở (giảng cho); không ráng tỏ ý kiến (muốn nói mà không được) thì ta không khai phát cho. Ta vén cho một góc rồi mà không tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia, thì ta không dạy cho nữa.” VII.9 Tử thực ư hữu tang giả chi trắc, vị thường bão dã. Tử ư thị nhật khốc tắc bất ca.” Dịch. – Khổng tử ăn với người tang thì (buồn mà) không ăn no. Ngày nào Khổng tử (đi điếu mà) khóc thì ngày đó không đờn ca. VII.10 Tử vị Nhan Uyên viết: “Dụng chi tắc hành, xá chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù! Tử Lộ[102] viết: “Tử hành tam quân, tắc thùy dữ”. Tử viết: “Bạo hổ bằng hà, tử nhi vô hối giả, ngô bất dữ dã. Tất dã lâm sự nhi cụ, hiếu mưu nhi thành giả dã.” |
Dịch. – Khổng tử bảo Nhan Uyên: “Có ai dùng thì ta đem đạo ra thi hành, không dùng thì thu tàng (giữ) đạo lí (có người dịch là ở ẩn với đạo lí), chỉ thầy và anh được như vậy thôi!” Tử Lộ hỏi: “Nếu thầy thống lĩnh tam quân thì thầy lựa ai giúp đỡ?” Khổng tử đáp: “Tay không mà bắt cọp, không mà lội qua sông[103], chết không tiếc thân, kẻ ấy ta không cho theo giúp ta. Nhất định là biết kẻ nào lâm sự mà biết lo sợ, thận trọng, khéo mưu tính rồi mới quyết định (hoặc thành công). VII.11 Tử viết: “Phú nhi khả cầu dã, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi; như bất khả cầu, tòng ngô sở hiếu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Phú quí mà có thể cầu được thì dù làm kẻ cầm roi đánh xe hầu người (công việc ti tiện), ta cũng làm, phú quí mà không thể cầu được, thì ta cứ theo sở thích của ta.” VII.12 Tử chi sở thận: trai, chiến, tật. Dịch. – Khổng tử thận trong những khi trai giới, chiến tranh và bệnh tật. VII.13 Tử tại Tề văn thiều, tam nguyệt bất tri nhục vị, viết: “Bất đồ vi nhạc chi chí ư tư dã.” Dịch. – Khổng tử khi ở Tề, nghe nhạc Thiều, ba tháng liền không biết mùi thịt, bảo: “Không ngờ nhạc đó tác động tới ta được như vậy”. (có người dịch: không ngờ vua Thuấn làm được khúc nhạc tận thiện, tận mĩ như vậy). Chú thích. – Về nhạc Thiều, coi bài III.25. VII.14 Nhiễm Hữu viết: “Phu tử vị Vệ quân hồ?” Tử cống viết: “Nặc, ngô tương vấn chi”. Nhập viết: “Bá Di, Thúc Tề, hà nhân dã. |
Viết: “Cổ chi hiền nhân dã”. Viết: “Oán hồ?” Viết: “Cầu nhân nhi đắc nhân, hựu hà oán? Xuất viết: “Phu tử bất vị dã.” Dịch. – Nhiễm Hữu hỏi: “Thầy ta có thiên vị với vua Tề không?” Tử Cống đáp: “Ừ, tôi cũng có ý hỏi thầy việc đó”. Rồi vô hỏi Khổng tử: “Thưa thầy, Bá Di và Thúc Tề là người như thế nào?” Đáp: “Là người hiền xưa”. Lại hỏi: “Hai ông ấy có oán hận gì không?” Đáp: “Cầu nhân được nhân thì còn oán hận gì nữa?” Tử Cống trở ra bảo Nhiễm Hữu: “Thầy không thiên vị với vua Vệ đâu.” Chú thích. – Khổng tử lúc đó ở nước Vệ, mà vua Vệ là Vệ Xuất công bất hiếu, cướp ngôi cha trong khi cha tị loạn ra nước ngoài; rồi khi cha về, đem quân ra cự cha. Nhiễm Hữu và Tử Cống nghi Khổng tử có ý định bênh vực vua Vệ, cho nên Tử Cống đem việc Bá Di, Thúc Tề hỏi để dò ý Khổng tử. Bá Di, Thúc Tề (coi bài V.22) là hai anh em ruột, con vua Cô Trúc, cuối đời Thương, đầu đời Chu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi. Triều đình theo di mệnh, lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại cho Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, bảo cứ tuân theo lệnh cha. Không ai chịu nhận rồi trốn cả vào núi, triều đình phải lập người con giữa. Vậy hai người đó lấy nghĩa làm trọng, trái hẳn với vua Vệ. Khổng tử khen họ tức thị là chê vua Vệ rồi; cho nên Tử Cống bảo Nhiễm Hữu: “Thầy không thiên vị |
với vua Vệ đâu”. Coi lời nhận xét về ý nghĩa và nghệ thuật bài này trong Cổ văn Trung Quốc của tôi, tr.20 21 (Tao Đàn – 1966). Bá Di, Thúc Tề còn được coi là nhân vì lẽ dám can Võ vương (nhà Chu) đừng đánh nhà Ân (diệt vua Trụ). VII.15 Tử viết: “Phạn sơ tự, ẩm thủy, khúc quăng nhi chẩm chi, nhạc diệc tại kì trung hĩ. Bất nghĩa nhi phú thả quí, ư ngã như phù vân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ăn gạo xấu, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái vui. Làm điều bất nghĩa mà được giàu sang thì ta coi như mây nổi.” VII.16 Tử viết: “Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cho ta sống thêm ít năm nữa, tới năm chục tuổi nghiên cứu Dịch (để biết lẽ tiến thoái) thì có thể không lầm lỗi lớn.” Chú thích. – Khổng tử nói câu đó chắc vào khoảng ngoài 40 tuổi. Nhưng có người bảo hai chữ “ngũ thập” [五十] chính là chữ tốt [卒] chép lầm, chữ dịch [易] chính là chữ diệc [亦] (cũng), và chấm câu như sau: “Gia ngã sổ niên tốt dĩ học, diệc khả dĩ vô đại quá hĩ”, dịch là: “Cho ta sống thêm ít năm nữa để học thì cũng có thể không lầm lỗi lớn” [104]. VII.17 Tử sở nhã ngôn, Thi, Thư, chấp lễ, giai nhã ngôn dã.” Dịch. – Khổng tử cũng có lúc dùng ngôn ngữ tiêu chuẩn (của triều đình nhà Chu); khi đọc Thi, Thư và làm lễ, đều dùng ngôn ngữ tiêu chuẩn. Chú thích. – Thời đó, ngôn ngữ dùng ở triều đình nhà Chu là ngôn ngữ tiêu chuẩn, phổ thông cho mọi nước (cũng như tiếng |
Bắc Kinh ngày nay dùng cho cả nước Trung Hoa, cho nên gọi là tiếng phổ thông). Khổng tử ngày thường dùng ngôn ngữ của Lỗ, nhưng khi đọc Thi, Thư và làm lễ thì dùng ngôn ngữ của Chu. Có người hiểu khác hẳn: nhã ngôn là giảng luận và dịch là: Khổng tử hay giảng về Kinh Thi, Kinh Thư và giữ lễ…” VII.18 Diệp công vấn Khổng tử ư Tử Lộ, tử lộ bất đối. Tử viết: “Nhữ hề bất viết: kì vi nhân dã, phát phẫn vong thực, lạc dĩ vong ưu, bất tri lão chi tương chí vân nhĩ.” Dịch. – Diệp công (đại phu nước Sở, họ Thâm, tên Chư Lương, hồi đó làm quan lệnh ở huyện Diệp, tự xưng càn là “công”) hỏi Tử Lộ về Khổng tử, Tử Lộ không đáp. Khổng tử bảo: “Sao anh không bảo: ấy làm người phất phẫn đọc sách (tìm hiểu đạo lí) đến quên ăn, khi tìm được rồi thì vui sướng đến quên mọi lo buồn, không biết rằng cái già nó tới nơi rồi, như vậy đó.” VII.19 Tử viết: “Ngã phi sinh nhi tri chi giả, hiếu cổ, mẫn dĩ cầu chi giả dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta chẳng phải trời sanh ra đã biết đạo lí, ta ưa thích văn hoá cổ mà siêng năng tìm học.” VII.20 Tử bất ngữ: quái, lực, loạn, thần. Dịch. – Khổng tử không nói về (4 cái này): quái dị, dũng lực, phản loạn, quỉ thần. VII.21 Tử viết: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên: trạch kì thiện giả nhi tòng chi, kì bất thiện giả nhi cải chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ba người cùng đi (ta với hai người nữa) tất có người làm thầy ta: lựa cái hay của người này mà học, xét cái quấy của người kia mà tự sửa mình.” |
Chú thích. – Có người cho chữ tam (ba) ở đây trỏ một số không nhất định: vài ba hoặc hơn cũng được. VII.22 Tử viết: “Thiên sinh đức ư dư, Hoàn Khôi kì như dư hà?” Dịch. – Khổng tử nói: “Trời cho ta có phẩm đức, Hoàn Khôi làm gì được ta?” Chú thích. – Việc này, Tư Mã Thiên chép trong Sử kí: “Khổng tử qua nước Tống cùng với đệ tử tập về lễ ở dưới một gốc cây lớn. Quan tư mã nước Tống là Hoàn Khôi (không hiểu vì lẽ gì) muốn giết ông, cho đốn cây đó. Khổng tử (thủng thẳng) đi. Đệ tử bảo: “Mình đi mau lên”, Khổng tử đáp: “Trời cho ta phẩm đức…”. Coi lời bàn trong cuốn Khổng tử. VII.23 Tử viết: “Nhị tam tử dĩ ngã vi ẩn hồ? Ngô vô ẩn hồ nhĩ. Ngô vô hành nhi bất dữ nhị tam tử giả, thị Khâu dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Các trò ngờ rằng ta có điều gì giấu các trò chăng? Ta chẳng có điều gì giấu cả. Ta không làm điều gì mà chẳng cho các trò hay. Khâu này như vậy đó.” VII.24 Tử dĩ tứ giáo: văn, hành, trung, tín. Dịch. – Khổng tử dạy học trò về: văn (điển tịch, văn hiến), hành (hành vi, thực hành) lẫn trung (tận tâm), tín. Có thể đọc là hạnh (đức hạnh)[105]. VII.25 Tử viết: Thánh nhân, ngô bất đắc nhi kiến chi hĩ, đắc kiến quân tử giả, tư khả hĩ”. Tử viết: “Thiện nhân, ngô bất đắc nhi kiến chi hĩ, đắc kiến hữu hằng giả, tư khả hĩ. Vô nhi vi hữu, hư nhi vi doanh, ước nhi vi thái, nan hồ hữu hằng hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Bậc thánh nhân, ta chưa được thấy, thấy được bậc quân tử cũng khá rồi”. Khổng tử nói: “Bậc thiện |
nhân, ta chưa được thấy, thấy người tiết tháo không thay đổi cũng khá rồi. Không có mà bảo là có, rỗng mà bảo là đầy, thiếu mà bảo là dư (có người dịch là tằn tiện mà bảo là rộng rãi), như vậy khó bảo là tiết tháo không thay đổi được. VII.26 Tử viết: “Tử điếu nhi bất võng, dặc bất xạ túc.” Dịch. – Khổng tử câu thì không dùng lưới, bắn thì không bắn chim đang ngủ. VII.27 Tử viết: “Cái hữu bất tri nhi tác chi giả, ngã vô thị dã. Đa văn, trạch kì thiện giả nhi tòng chi, đa kiến nhi chí chi, tri chi thứ dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Có những kẻ không biết mà làm càn, ta không như vậy. Nghe nhiều, chọn điều phải làm theo, thấy nhiều mà ghi nhớ, như vậy mà biết được, biết như vậy chỉ là hạng thứ (kém hạng sinh ra đã biết). Chú thích. – Tri (chi thứ dã) có người đọc là trí. E lầm vì thiên XVI Quí thị, bài 9 có câu: “Sinh nhi tri chi, thượng dã; học nhi tri chi, thứ dã”; mà thiên VII, bài 19, Khổng tử cũng nói: “Ngã phi sinh nhi tri chi giả”; rõ ràng Khổng tử nhận là hạng “học nhi tri chi”, tức hạng “thứ chi.” VII.28 Hỗ hương nan dữ ngôn. Đồng tử kiến, môn sinh hoặc. Tử viết: “Dữ kì tiến dã, bất dữ kì thoái dã, duy hà thậm? Nhân khiết kỉ dĩ tiến, dữ kì khiết dã, bất bảo kì vãng dã.” Dịch. – Người làng Hỗ (có tiếng là ác nghịch) khó giảng điều phải cho họ nghe được; một thanh niên làng đó lại yết kiến (để xin học); Khổng tử tiếp, đệ tử phân vân nghi hoặc. Khổng tử |
bảo: “Người ta tiến bộ thì mình tán thành, thoái bộ thì không tán thành, hà tất phải (nghiêm khắc) thái quá. Người ta tự tinh khiết mà mong được tiến bộ, thì ta tán thành lòng tinh khiết của họ (bây giờ) chứ không đồng ý về (hoặc kể tới) dĩ vãng của họ”. (Có người dịch là không bảo lãnh về dĩ vãng của họ. Lâm Ngữ Đường lại hiểu là… về hành động sau này của họ). VII.29 Tử viết: “Nhân viễn hồ tai? Ngã dục nhân, tư nhân chí hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Điều nhân, đâu có xa gì? Ta muốn nó thì nó đến.” VII.30 Trần tư bại vấn: “Chiêu công tri lễ hồ?” Khổng tử viết: “Tri lễ”. Khổng tử thoái ấp Vu Mã Kì nhi tiến chi, viết: “Ngô văn quân tử bất đảng, quân tử diệc đảng hồ? Quân thủ ư Ngô, vi đồng tính, vị chi Ngô Mạnh tử. Quân nhi tri lễ, thục bất tri lễ?” Vu Mã Kì dĩ cáo. Tử viết: “Khâu dã hạnh, cẩu hữu quá, nhân tất tri chi.” Dịch. – Quan tư bại (coi bộ hình) nước Trần hỏi: “Vua Chiêu công (nước Lỗ) có biết lễ không?” Khổng tử đáp: “Biết lễ”. Khổng tử lui ra rồi, quan tư bại vái Vu Mã Kì (học trò Khổng tử) mời tiến lên, hỏi: “Tôi nghe nói người quân tử không thiên vị, té ra quân tử cũng thiên vị sao? Vua Lỗ cưới con gái nước Ngô, cùng họ với mình, gọi trại ra là Ngô Mạnh tử[106]. Vua Chiêu công mà biết lễ thì ai mà không biết lễ?” Vu Mã Kì thuật lại với Khổng tử. Khổng tử nói: “Khâu này may mắn, có lỗi gì thì mọi người đều biết.” |
VII.31 Tử dữ nhân ca nhi thiện, tất sử phản chi, nhi hậu hoạ chi.” Dịch. – Khổng tử hát với ai, thấy người ấy hát hay thì bảo người đó hát lại để mình cùng hát. VII.32 Tử viết: “Văn, mạc ngô do nhân dã; cung hành quân tử, tắc ngô vị chi hữu đắc.” Dịch. – Khổng tử nói: “Học về học thuật, sách vở thì hoạ chăng ta cũng bằng người; còn làm người quân tử thì ta chưa được.” VII.33 Tử viết: “Nhược thánh dữ nhân, tắc ngô khởi thủ[107]? Ức vi chi bất yếm, hối nhân bất quyện, tắc khả vị vân nhĩ dĩ hĩ”. Công Tây Hoa viết: “Chính duy đệ tử bất năng học dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Làm được bực thánh với nhân thì ta đâu dám. Bất quá ta học làm (thánh, nhân) mà không chán, dạy người mà không mệt, chỉ có thể gọi được như vậy mà thôi”. Công Tây Hoa thưa: “Đó chính là điều chúng con không học được.” VII.34 Tử tật bệnh, Tử Lộ thỉnh đảo. Tử viết: “Hữu chư?” Tử Lộ đối viết: “Hữu chi, Lụy viết: “Đảo nhĩ ư thượng hạ thần chi”. Tử viết: “Khâu chi đảo cửu hĩ.” Dịch. – Khổng tử đau nặng, Tử Lộ xin phép cầu đảo. Khổng tử nói: “Có lệ ấy chăng?” Tử Lộ đáp: “Thưa có, sách Luỵ (sách chép các bài cầu đảo) có câu: “Vì ông mà cầu đảo với thần trên trời dưới đất”. Khổng tử nói: “Khâu này cầu đảo từ lâu rồi”. (Ý nói ăn ở phải đạo thì chẳng cần cầu đảo). VII.35 Tử viết: “Xa tắc bất tốn, kiệm tắc cố, dữ kì bất tốn dã, ninh cố.” Dịch. – Khổng tử nói: “Xa xỉ thì dễ hoá ra kiêu ngạo, kiệm phác thì dễ hoá ra quê mùa. Thà chịu tiếng quê mùa còn hơn là |
kiêu ngạo.” VII.36 Tử viết: “Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân trường thích thích.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử thì thản nhiên vui vẻ, kẻ tiểu nhân thì lo lắng u sầu.” VII.37 Tử ôn nhi lệ, uy nhi bất mãnh, cung nhi an. Dịch. – Khổng tử ôn hoà mà nghiêm trang, oai vệ mà không dữ dằn, cung kính mà thư thái. THIÊN VIII THÁI BÁ VIII.1 Tử viết: “Thái Bá, kì khả vị chí đức dã dĩ hĩ. Tam [108] dĩ thiên hạ nhượng, dân vô đắc nhi xưng yên.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ông Thái Bá đáng gọi là người đức rất cao. Mấy lần nhường thiên hạ (một cách rất kín đáo) khiến dân không biết mà ca tụng.” VIII.2 Tử viết: “Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giảo.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cung kính mà không biết lễ (nghĩa là không thích hợp, vừa phải) thì khó nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì loạn động, ngay thẳng mà không biết lễ thì gắt gao, mất lòng người.” “Quân tử đốc ư thân tắc dân hưng ư nhân; cố cựu bất di tắc dân bất du.” Dịch. – “Người quân tử (cầm quyền) giữ trọn đạo với người thân thì dân phát khởi lòng nhân ái; không bỏ người cũ thì dân không bạc bẽo.” VIII.3 Tăng tử hữu tật, triệu môn đệ tử viết: “Khải dư túc, Khải dư thủ. Thi vân: “Chiến chiến căng căng như lâm thâm uyên, như lí bạc băng”. Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù, tiểu tử.” Dịch. – Tăng tử bị bệnh nặng (khó qua), cho gọi các đệ tử |
tới, bảo: “Dở chân ta ra xem, dở tay ta ra xem. Kinh Thi có câu: “Phải nơm nớp chăm chăm, như đi xuống vực sâu, như đi trên lớp băng mỏng”. Từ nay về sau, ta mới biết thoát khỏi hình lục, đó các trò.” Chú thích. – Thoát khỏi hình lục, không bị chặt chân, chặt tay, mà giữ được trọn thân thể cha mẹ sinh ra, không làm nhục cha mẹ, như vậy là có hiếu (coi lời bàn của tôi trong cuốn Khổng tử – chương IV). VIII.4 Tăng Tử hữu tật, Mạnh Kính tử vấn chi. Tăng Tử ngôn viết: “Điểu chi tương tử, kì minh dã ai; nhân chi tương tử, kì ngôn dã thiện. Quân tử sở quí hồ đạo giả tam: động dong mạo, tư viễn bạo mạn hĩ; chính nhan sắc, tư cận tín tiếu; xuất từ khí, tư viễn bỉ bội hĩ. Biên đậu chi sự, tắc hữu tư tồn.” Dịch. – Tăng tử đau nặng, Mạnh Kính tử (đại phu nước Lỗ) đến thăm. Tăng tử bảo: “Con chim sắp chết, cất tiếng kêu bi ai, người ta sắp chết, thốt ra lời thiện. Người quân tử (cầm quyền) trong đạo giao thiệp, quí trọng ba điều: cử chỉ dung mạo đừng nên thô bạo, ngạo mạn; nét mặt nghiêm túc, thành tín; lời nói đừng nên thô bỉ, trái lẽ. Còn việc sắp đặt các đồ cúng tế thì có viên chức chăm nom”. (mình khỏi quan tâm tới). VIII.5 Tăng Tử viết: “Dĩ năng vấn ư bất năng, dĩ đa vấn ư quả; hữu nhược vô, thực nhược hư; phạm nhi bất hiệu, tích giả ngô hữu thường tòng sự ư tư hĩ.” Dịch. – Tăng tử nói: “Mình giỏi mà đi hỏi người dở, biết nhiều hỏi người biết ít, mình có tài đức mà tựa như không, đầy đủ mà |
tựa trống rỗng, bị xúc phạm mà chẳng xúc phạm lại, ngày xưa bạn ta thường theo được vậy.” Chú thích. – Có thể Tăng tử khen bạn cũ là Nhan Uyên. VIII.6 Tăng Tử viết: “Khả dĩ thác lục xích chi cô, khả dĩ kí bách lí chi mệnh, lâm đại tiết, nhi bất khả đoạt dã; quân tử nhân dư, quân tử nhân dã.” Dịch. – Tăng tử nói: “Một đại thần có thể giao phó cho một hoàng tử mồ côi cao sáu thước (khoảng sáu gang tay, mười tuổi), có thể giao vận mệnh một nước trăm dặm, trong khi nguy biến mà giữ tròn tiết tháo, người như vậy có phải là quân tử không? Hẳn là quân tử rồi.” VIII.7 Tăng Tử viết: “Sĩ bất khả dĩ bất hoằng nghị, nhiệm trọng nhi đạo viễn. Nhân dĩ vi kỉ nhiệm, bất diệc trọng hồ? Tử nhi hậu dĩ, bất diệc viễn hồ?” Dịch. – Tăng tử nói: “Kẻ sĩ không thể không cương cường, quyết tâm, là vì nhiệm vụ nặng mà đường xa. Nhiệm vụ là làm điều nhân, như vậy chẳng nặng sao? Làm cho đến chết mới thôi, như vậy đường chẳng xa sao?” VIII.8 Tử viết: “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư Nhạc.” Dịch. – Khổng tử nói: “Học Thi để phấn khởi, học Lễ để lập thân, hoàn thành sở học bằng Nhạc.” Chú thích. – Nhạc có công dụng điều hoà tính tình và hoà mình với người. VIII.9 Tử viết: “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Dân chúng, có thể khiến họ theo (điều nào đó), chứ không thể giảng cho họ hiểu được.” Chú thích. – Coi lời bàn của chúng tôi trong cuốn Khổng tử. |
Có người chấm câu: Dân khả, sử do chi; bất khả sử tri nghĩa là dân nào khá thì khiến cho noi theo; dân nào không khá thì khiến cho phải biết. VIII.10 Tử viết: “Hiếu dũng, tật bần, loạn dã. Nhân nhi bất nhân, tật chi dĩ thậm, loạn dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ hiếu dũng mà lại ghét cảnh nghèo khổ thì sẽ làm loạn. Người bất nhân mà bị ghét bỏ thái quá thì sẽ nổi loạn.” VIII.11 Tử viết: “Như hữu Chu công chi tài chi mĩ, sử kiêu thả lận, kì dư bất túc quan dã dĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Như có tài năng tốt đẹp như Chu công, mà có tính kêu ngạo, biển lận, thì những tài đức gì khác cũng không xét nữa.” VIII.12 Tử viết: “Tam niên học, bất chí ư cốc, bất dị đắc dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Học ba năm mà không có ý cầu bổng lộc, dễ được mấy người?” VIII.13 Tử viết: “Đốc tín hiếu học, thủ tử thiện đạo, nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư. Thiên hạ hữu đạo tắc hiện, vô đạo tắc ẩn. Bang hữu đạo, bần thả tiện yên, sỉ dã; bang vô đạo, phú thả quí yên, sỉ dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Vững tin đạo mà ham học, giữ đạo tới chết. Nước nguy đừng vào, nước loạn không ở. Thiên hạ chính trị tốt thì ra làm quan, chính trị hắc ám thì ở ẩn. Nước nhà có chính trị tốt mà mình nghèo hèn thì đáng xấu hổ, nước nhà chính trị hắc ám mà mình phú quí thì đáng xấu hổ.” VIII.14 Tử viết: “Bất tại kì vị, bất mưu kì chính.” Dịch. – Khổng tử nói: “Không ở chức vị nào thì đừng mưu tính việc của chức vị đó.” |
VIII.15 Tử viết: “Sư Chí chi thủy, Quan thư chi loạn, dương dương hồ doanh nhĩ tai!” Dịch. – Khổng tử nói: “Quan thái sư Chí (nhạc trưởng) khi mới tấu nhạc (có sách dịch là khi mới nhậm chức), đoạn ông hợp tấu kết thúc Quan thư đẹp đẽ và vui tai thay!” VIII.16 Tử viết: “Cuồng nhi bất trực, đồng nhi bất nguyện, không không nhi bất tín, ngô bất tri chi hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ cuồng vọng mà không ngay thẳng; ngây thơ mà không trung hậu, bất tài (hoặc dại dột) mà không thủ tín, ta không biết hạng người đó ra sao!” (có ý chê là bỏ đi). VIII.17 Tử viết: “Học như bất cập, do khủng thất chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Học thì (phải gắng sức) như sợ không kịp, học được điều gì rồi thì sợ quên mất.” VIII.18 Tử viết: “Nguy nguy hồ, Thuấn, Vũ chi hữu thiên hạ dã, nhi bất dự yên.” Dịch. – Khổng tử nói: “Vòi vọi thay, ông Thuấn và ông Vũ được thiên hạ (làm vua) mà chẳng lấy làm vui” (chẳng hưởng vinh hoa phú quí). Chú thích. – Có người hiểu là … được thiên hạ mà không do mình cầu mong (ý nói hai ông đều được nhường ngôi). Lại có thuyết: “…được thiên hạ mà vô vi (chẳng làm gì cả)” vì được hiền thần giúp sức trị dân cho. VIII.19 Tử viết: “Đại tai, Nghiêu, Thuấn chi vi quân dã. Nguy nguy hồ, duy thiên vi đại, duy Nghiêu tắc chi. Đãng đãng hồ, dân vô năng danh yên. Nguy nguy hồ, kì hữu thành công dã. Hoán hồ, kì hữu văn chương.” Dịch. – Khổng tử nói: “Lớn thay, sự nghiệp làm vua của ông Nghiêu, ông Thuấn. Vòi vọi thay, chỉ có trời là vĩ đại, và chỉ có vua Nghiêu là theo được trời. Lồng lộng thay, dân chúng không |
tìm được lời nào để khen cho đúng (đức nghiệp) của ông. Vòi vọi thay, sự thành công của ông. Rực rỡ thay, lễ nhạc và chế độ của ông.” VIII.20 “Thuấn hữu thần ngũ nhân nhi thiên hạ trị. Vũ vương viết: “Dư hữu loạn thần thập nhân”. Khổng tử viết: “Tài nan, bất kì nhiên hồ? Đường, Ngu chi tế, ư tư vi thịnh. Hữu phụ nhân yên, cửu nhân nhi dĩ. – Tam phân thiên hạ hữu kì nhị, dĩ phục sự Ân. Chu chi đức, kì khả vị chí đức dã dĩ hĩ.” Dịch. – Ông Thuấn có năm hiền thần mà thiên hạ thịnh trị. Ông Võ vương (nhà Chu) nói: “Ta có mười đại thần trị thiên hạ”. Khổng tử nói: (Người ta thường bảo) khó kiếm được nhân tài. Lời đó chẳng đúng ư? So với đời Đường (vua Nghiêu), đời Ngu (vua Thuấn) thì đời này (Văn vương, Võ vương nhà Chu) nhân tài nhiều hơn, nhưng trong số đó có một người đàn bà, thành thử chỉ còn chín người thôi. – Vua Văn vương (cha Võ vương) được hai phần ba thiên hạ theo mình mà vẫn thần phục nhà Ân. Đức của nhà Chu như vậy, có thể nói là cực cao.” Chú thích. – Năm vị hiền thần của vua Thuấn là: Vũ, Tắc, Tiết, Cao Dao, Bá Ích. Mười vị hiền thần của Võ vương là: Chu công, Triệu công, Khương Thượng, Tất công, Vinh công, Thái Điên, Hoành Yêu, Tán Nghi Sanh, Nam Cung Quát và bà Ấp Khương, vợ Võ vương. Loạn thần ở đây có nghĩa là bề tôi giỏi trị loạn. VIII.21 Tử viết: “Vũ, ngô vô gián nhiên hĩ. Phỉ ẩm thực nhi trí hiếu hồ quỷ thần, ác y phục nhi trí mĩ hồ phất miện, ti cung thất nhi tận lực hồ câu húc[109]. Vũ, ngô vô gián nhiên hĩ.” |
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta chẳng chê vua Vũ (nhà Hạ) vào đâu được cả. Ông ăn uống đạm bạc mà cúng tế quỉ thần rất trọng hậu; ăn mặc xấu xí mà khi cúng tế, lẽ phúc rất đẹp; cung thất nhỏ hẹp mà tận lực sửa sang ngòi lạch (ám chỉ công việc của Vũ). Vua Vũ, ta chẳng chê vào đâu được cả.” Chú thích. – Phất và miện là áo và mũ khi tế. THIÊN IX TỬ HÃN IX.1 Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân. Dịch. – Khổng tử ít nói tới lợi, với mệnh và đạo nhân. Chú thích. – Chu Hi hiểu như Trình tử và dẫn lời của Trình: “Tính tới lợi thì hại nghĩa, lí của mệnh huyền vi, mà đạo nhân rộng lớn, nên Khổng tử ít nói đến”. Nhưng nhiều người thắc mắc điều này: Trong Luận ngữ Khổng tử nói về lợi đến sáu lần, về mệnh mười lần, về nhân cả trăm lần, sao bảo ít nói về nhân được? 1. Có người giảng: chữ “ngôn” (nói) ở đây không phải là lời Khổng tử nói trong khi dạy học (dạy thì ông nói rất nhiều về nhân – cả trăm chỗ); mà là “tự ngôn”, có nghĩa là lời ông nói trong đời sống hằng ngày, trong khi xử sự, hoặc lời ông nói về ông, ông ít xét tới lợi, vì ông chỉ theo nghĩa; ít nói tới thiên mệnh vì ông chủ trương sửa đổi xã hội là việc không thể làm được mà ông vẫn làm (tri kì bất khả vi nhi chi), chính Tử Cống cũng bảo không được nghe ông nói về đạo trời (bài V.12); còn ông ít nói tới nhân, nghĩa là ông không tự cho mình là nhân mà cũng ít khen ai là nhân. |
2. Vũ Đồng trong Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ ấn quán) và Triệu Thông (sách đã dẫn) giảng khác: Khổng tử ít nói về nhân trong dạy học, nhưng vì môn đệ coi đức nhân là quan trọng, nên lần nào thầy nói tới cũng ghi đủ, vì vậy mà trong Luận ngữ chúng ta mới thấy nhiều. Hai thuyết trên có thể tạm chấp nhận được. Ngoài ra còn những thuyết này nữa: 3. Chữ dữ ở đây phải hiểu là kèm với. Khổng tử ít nói lợi kèm với mệnh, với nhân. 4. Chữ dữ có nghĩa là rồi đến. Khổng tử ít nói tới lợi, rồi đến mệnh (nói đến mệnh nhiều hơn lợi) sau cùng đến nhân (nói đến nhân nhiều hơn cả). 5. Chữ dữ có nghĩa là hợp với. Khổng tử ít nói rằng lợi hợp với mệnh, với nhân, mà cho rằng lợi thường trái với mệnh, với nhân. Có người chấm câu sau chữ “lợi”, và dịch là: mà theo (dữ) mệnh trời theo điều nhân. Chữ “dữ” đó dùng như trong câu: “Ngô dữ Điểm” (Ta muốn theo anh Điểm, muốn như anh Điểm) trong bài XI.25. 6. Lại có người bảo chữ hãn ở đây phải đọc là hiên, nghĩa là rõ ràng, Khổng tử nói minh bạch về lợi, mệnh và nhân. Sai. Khổng tử có nói gì minh bạch về lợi, về nhân đâu. IX.2 Đạt hạng đảng nhân viết: “Đại tai Khổng tử! Bác học nhi vô sở thành danh. Tử văn chi, vị môn đệ tử viết: Ngô hà chấp”. Chấp ngự hồ? Chấp xạ hồ? Ngô chấp ngự hĩ.” Dịch. – Có người trong đảng Đạt Hạng (thời đó 500 nhà là một đảng – cũng như làng xóm) bảo: “Ông Khổng tử thật là vĩ |
đại! Học vấn quảng bác, nhưng chẳng chuyên về một môn gì cả”. Khổng tử nghe được, nói với các đệ tử: “Ta chuyên về môn nào đây? Môn đánh xe, hay môn bắn cung? Ta sẽ chuyên về môn đánh xe.” Chú thích. – Đánh xe cũng là một trong lục nghệ, nhưng chuyên đánh xe cho người là nghề thấp hèn nhất. Khổng tử nói đùa với môn sinh như vậy vì trong bài XIII.4 ông chê Phàn Trì “nhỏ nhen” khi xin ông dạy cho nghề nông, (nghề này cao hơn nghề đánh xe). IX.3 Tử viết: “Ma miện, lễ dã, kim dã thuần, kiệm, ngô tòng chúng. Bái Hạ, lễ dã, kim bái hồ thượng, thái dã; tuy vi chúng[110], ngô tòng hạ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đội mũ gai là theo lễ xưa, nay dùng mũ tơ rẻ hơn (vì đỡ tốn công hơn), nên ta theo số đông. Bề tôi bái yết vua thì mới đầu đứng ở dưới thềm mà bái, (rồi lên trên thềm rồi lại bái nữa), đó là lễ xưa; ngày nay lên đến trên thềm rồi mới bái, như vậy là kiêu mạn; cho nên tuy trái với số đông, ta vẫn bái từ dưới thềm.” IX.4 Tử tuyệt tứ, vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Dịch. – Khổng tử bỏ hẳn bốn tật này: “vô ý” là xét việc gì thì không đem ý riêng (hoặc tư dục) của mình vào mà cứ theo lẽ phải; “vô tất”, tức không quyết rằng điều đó tất đúng, việc đó tất làm được; “vô cố”, tức không cố chấp; “vô ngã”, tức quên mình đi, không cho cái ta làm mờ ám (hoặc không ích kỉ mà phải chí công vô tư). Chú thích. – Có nhà bàn thêm: vô ý là trí, vô tất là nghĩa, vô cố là lễ, vô ngã là nhân. Đúng. |
IX.5 Tử úy ư Khuông, viết: “Văn vương kí một, văn bất tại tư hồ! Thiên chi tương táng tư văn dã, hậu tử giả bất đắc dữ ư tư văn dã. Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kì như dư hà?” Dịch. – Khổng tử bị vây ở thành Khuông (nước Vệ), bảo: “Vua Văn vương mất rồi, lễ nhạc, chế độ của ông chẳng truyền lại cho ta sao! Trời mà muốn huỷ diệt văn hóa đó thì người sau đâu được thừa hưởng văn hóa đó; Trời mà chưa muốn huỷ diệt văn hóa đó thì người đất Khuông làm gì được ta?” Chú thích. – Chuyện này chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Người đất Khuông ghét Dương Hổ (Luận ngữ gọi là Dương Hoá), gia thần họ Quí, thấy tướng mạo Khổng tử giống Dương Hổ nên muốn hãm hại; khi họ biết là lầm thì xin lỗi và thả ông ra. IX.6 Thái tể vấn ư Tử Cống, viết: “Phu tử thánh giả dư? Hà kì đa năng dã?” Tử Cống viết: Cố thiên túng chi tương thánh, hựu đa năng dã”. Tử văn chi, viết: “Thái tể tri ngã hồ? Ngô thiếu dã tiện, cố đa năng bỉ sự. Quân tử đa hồ tai? Bất đa dã”. Lao viết: “Tử vân: “Ngô bất thí, cố nghệ.” Dịch. – Một quan thái tể hỏi Khổng tử: “Phu tử (tức Khổng tử) phải là thánh chăng? Sao mà đa tài thế?” Tử Cống đáp: “Trời rộng rãi muốn cho người làm thánh nhân, lại cho người nhiều tài”. Khổng tử nghe được, bảo: “Quan thái tể biết ta chăng? Ta hồi nhỏ nghèo hèn nên học được nhiều nghề bỉ lậu. Người quân tử có cần biết nhiều nghề không? Không cần”. Lao |
bảo: “Thầy ta có lần nói: “Ta vì không được dùng (được làm quan) cho nên học được nhiều nghề.” Chú thích. – Lao là học trò Khổng tử, không biết họ gì. IX.7 Tử viết: “Ngô hữu tri hồ tai? Vô tri dã. Hữu bỉ phu vấn ư ngã, không không như dã, ngã khấu kì lưỡng đoan nhi kiệt yên.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta có biết rộng không? Không. Có người nhà quê nào lại hỏi ta, ta vốn không biết gì cả, nhưng ta hỏi đầu đuôi (hoặc mặt phải mặt trái) mối nghi ngờ của người đó, (do đó mà hiểu được) mà giảng giải hết cho.” IX.8 Tử viết: “Phượng điểu bất chí, hà bất xuất đồ, ngô dĩ hĩ phù[111]! ” Dịch. – “Chim phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sông Hoàng Hà, ta hết hi vọng rồi!” Chú thích. – Người Trung Hoa tin phượng là một linh điểu, vua Thuấn được người ta dâng một con, rồi tới đời Văn vương có chim phượng hót ở núi Kì. Bức đồ là bức có hình bát quái; thời Phục Hi, có con long mã đội nó trên lưng, hiện trên sông Hoàng Hà. Đó là những điềm thánh nhân xuất hiện. Khổng tử không thấy hai vật đó, cho rằng thánh vương không ra đời và đạo của ông không thể thi hành được. IX.9 Tử kiến tư thôi giả, miện y thường giả dữ cổ giả, kiến chi, tuy thiểu, tất tác, quá chi tất xô. Dịch. – Khổng tử thấy người bận đồ sô gai (đồ tang), người bận lễ phục với người mù, thì những người đó dù nhỏ tuổi, ông cũng đứng dậy; đi qua mặt những người ấy thì ông rảo bước. IX.10 Nhan Uyên vị nhiên thán viết: “Ngưỡng chi di cao, toàn chi di |
kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu. Phu tử tuần tuần nhiên thiện dụ nhân. Bác ngã dĩ văn, ước ngã dĩ lễ, dục bãi bất năng. Kí kiệt ngô tài, như hữu sở lập trác nhĩ, tuy dục tòng chi, mạt do dã dĩ.” Dịch. – Nhan Uyên bùi ngùi khen: “Đạo (thầy ta) càng ngửng lên trông càng thấy cao, càng đục càng cứng, mới thấy ở trước mặt, bỗng hiện ở sau lưng. Thầy tuần tự mà khéo dẫn dụ người. Thầy dùng thư tịch mà mở rộng tri thức ta, dùng lễ tiết ước thúc hành vi ta, dù ta có muốn thôi cũng không được. Ta tận dụng năng lực mà cơ hồ vẫn thấy có cái gì cao lớn sừng sững ở phía trước, ta muốn theo lên tới cùng mà không sao theo cho nổi.” IX.11 Tử tật bệnh. Tử Lộ sử môn nhân vi thần. Bệnh gián. Viết: “Cửu hĩ tai, Do chi hành trá dã. Vô thần nhi vi hữu thần. Ngô thùy khi? Khi thiên hồ? Thả dư dữ kì tử ư thần chi thủ dã, vô ninh tử ư nhị tam tử chi thủ hồ? Thả dư túng bất đắc đại táng, dư tử ư đạo lộ hồ?” Dịch. – Khổng tử đau nặng. Tử Lộ bảo anh em đồng môn làm gia thần (hộ tang nếu Khổng tử mãn phần). Khi bệnh giảm, Khổng tử (mới hay truyện đó) bảo: “Lâu[112] rồi, anh Do làm chuyện lừa dối đó! Nay ta không có gia thần[113] mà làm như có gia thần. Như vậy là dối ai, dối Trời chăng? Vả lại, ta chết trong tay gia thần, đâu bằng chết trong tay các trò?” Vả lại, không được đại táng, chẳng hơn chết dọc đường dọc xá ư?” [114] |
IX.12 Tử Cống viết: “Hữu mĩ ngọc ư tư, uẩn độc nhi tàng chư? Cầu thiện cổ[115] nhi cô chư? Tử viết: “Cố chi tai, cố chi tai, ngã đãi cổ giả dã.” Dịch. – Tử Cống nói: “Có viên ngọc đẹp ở đây, nên bỏ vào hộp mà cất đi chăng? Hay cầu có thương nhân tốt mà bán đi?” Khổng tử đáp: “Bán đi chứ, bán đi chứ! Ta đợi có thương nhân đây.” IX.13 Tử dục cư cửu di. Hoặc viết: “Lậu, như chi hà?” Tử viết: “Quân tử cư chi, hà lậu chi hữu?” Dịch. – Khổng tử (chán ngán) muốn qua các dân tộc kém văn minh miền Đông. Có người bảo: “Các nơi đó bỉ lậu, làm sao ở được?” Ông đáp: “Người quân tử lại ở (giáo hoá họ) thì còn gì bỉ lậu nữa?” IX.14 Tử viết: Ngô tự Vệ phản Lỗ, nhiên hậu nhạc chính Nhã, Tụng các đắc kì sở.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta từ Vệ trở về Lỗ, rồi mới đính chính lại nhạc, mà nhạc Nhã và Tụng được diễn tấu đúng âm luật.” Chú thích. – Hồi này Khổng tử trên 69 tuổi. Nhã, Tụng là những loại thi trong Kinh Thi, mà cũng là những nhạc điệu. Có người hiểu là Khổng tử sắp đặt lại những thiên Nhã, Tụng trong Kinh Thi, hoặc định lại trong trường hợp nào nên tấu những nhạc Nhã, Tụng. IX.15 Tử viết: “Xuất tắc sự công khanh, nhập tắc sự phụ huynh, tang sự bất cảm bất miễn, bất vi tửu khốn, hà hữu ư ngã tai?” Dịch. – Khổng tử nói: “Ra làm quan thì thờ bậc công khanh (các đại thần chấp chính), ở nhà thì thờ cha mẹ, việc tang không dám không làm tròn lễ, không để cho rượu làm loạn tính, |
bốn điều đó ta làm được điều nào không?” IX.16 Tử tại xuyên thượng viết: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ.” Dịch. – Khổng tử đứng trên bờ sông, nói: “Nước chảy đi hoài, ngày đêm không ngừng.” Chú thích. – Có thể hiểu là thời gian trôi đi hoài, đừng nên bỏ lỡ; hoặc: đạo trời, vạn vật biến hoá hoài. IX.17 Tử viết: “Ngô vị kiến hiếu đức nhi hiếu sắc giả dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc.” IX.18 Tử viết: “Thí như vi sơn, vị thành nhất quĩ, chỉ, ngô chỉ dã. Thí như bình địa, tuy phúc nhất quĩ, tiến, ngô tiến[116] dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ví như đắp núi, chỉ còn thiếu một sọt nữa là ngừng, là tại ta muốn ngừng vậy. Ví như tại trên đất bằng[117], tuy mới đổ xuống một sọt, mà tiếp tục đổ nữa, lại tại ta muốn tiếp tục vậy.” IX.19 Tử viết: “Ngữ chi nhi bất nọa giả, kì Hồi dã dư?” Dịch. – Khổng tử nói: “Giảng dạy cho mà thi hành không trễ nhác, thì chỉ có anh Nhan Hồi chăng?” IX.20 Tử vị Nhan Uyên viết: “Tích hồ! Ngô kiến kì tiến dã, vị kiến kì chỉ dã.” Dịch. – Khổng tử nói về Nhan Uyên: “Tiếc thay (vì Nhan Uyên yểu)! Ta chỉ thấy anh ấy tiến (trên đường đạo lí) mà chưa hề thấy ngừng.” IX.21 Tử viết: “Miêu nhi bất tú giả, hữu hĩ phù! Tú nhi bất thực giả, hữu hĩ phú!” Dịch. – Khổng tử nói: “Lúa mọc lên mà chẳng trổ bông, đã có như vậy rồi! Trổ bông mà không thành hạt, cũng có như vậy rồi!” IX.22 Tử viết: “Hậu sinh khả úy, yên tri lai giả chi bất như kim dã? |
Tứ thập, ngũ thập nhi vô văn yên, tư diệc bất túc úy dã dĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đừng sợ bọn trẻ, biết đâu sau này họ chẳng hơn mình bây giờ? Nhưng khi họ bốn chục, năm chục tuổi mà không có chút danh vọng gì, thì chẳng đáng sợ nữa.” IX.23 Tử viết: “Pháp ngữ chi ngôn, năng vô tòng hồ? Cải chi vi quí. Tốn dữ chi ngôn, năng vô duyệt hồ? Dịch chi vi quí. Duyệt nhi bất dịch, tòng nhi bất cải, ngô mạt như chi hà dã dĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người ta lấy lời phải nghiêm chính răn mình thì làm sao không nghe cho được? Nhưng nghe để tự sửa đổi mới là quí. Người ta lấy lời kính thuận tán thành mình, thì làm sao mà không vui lòng được? Nhưng nghe rồi mà suy xét người ta có hàm ý gì (nghĩa là lời khen có đúng không) thì mới là quí. Vui lòng mà không suy xét, nghe mà không sửa mình, hạng người đó ta chẳng biết dạy cách nào nữa.” IX.24 Bài này trùng với bài I.8[118]. IX.25 Tử viết: “Tam quân khả đoạt soái dã, thất phu bất khả đoạt chí dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Có thể (dùng sức mạnh) bắt được một vị nguyên soái, chứ chí hướng của một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt nổi.” IX.26 Tử viết: “Y tệ uẩn bào, dữ y hồ hạc giả lập, nhi bất sỉ giả, kì Do dã dư! Bất chí bất cầu, hà dụng bất tang?” Tử Lộ chung thân tụng chi. Tử viết: “Thị đạo dã, hà túc dĩ tang.” Dịch. – Khổng tử nói: “Bận áo bằng vải cũ đứng chung với người bận áo bào bằng da con chồn (hồ), con lạc[119] mà không xấu hổ, đó là anh Do chăng? ” [120]. “Chẳng đố kị, chẳng tham cầu, làm việc gì (trong hoàn cảnh nào) mà chẳng tốt? ” [121]. Tử |
Lộ ngâm hoài câu đó. Khổng tử bảo: “Cái đại đạo đó, đã đủ gì mà gọi là (hoàn toàn) tốt?” IX.27 Tử viết: “Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tới mùa đông lạnh lẽo, mới biết loài tùng, bách còn đủ cành lá.” IX.28 Tử viết: “Trí giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người trí thì không mê hoặc, người nhân thì không lo, người dũng thì không sợ.” IX.29 Tử viết: “Khả dữ cộng học, vị khả dữ thích đạo; khả dữ thích đạo, vị khả dữ lập; khả dữ lập, vị khả dữ quyền.” Dịch. – Khổng tử nói: “Có hạng người mình có thể cùng học với họ, mà vị tất đã có thể cùng đi vào chính đạo với họ; có thể cùng đi vào chính đạo với họ, mà vị tất đã có thể đứng vững trong chính đạo với họ; có thể đứng vững trong chính đạo với họ, mà vị tất đã có thể theo phép quyền biến với họ.” IX.30 “Đường lệ chi hoa, thiên kì phiên nhi. Khởi bất nhĩ ti, thất thị viễn nhi”. Tử viết: “Vị chi tư dã, phù hà viễn chi hữu.” Dịch. – “Những đoá hoa trên cây đường lệ, nghiêng ngả, lung lay. Tôi há chẳng nhớ em sao? Ngặt nỗi tôi ở xa quá (không tới được)” [122]. Khổng tử đọc bốn câu đó và bảo: “Như vậy là chưa thật là tưởng nhớ, (nếu thật là tưởng nhớ) thì có ngại gì xa?” THIÊN X HƯƠNG ĐẢNG X.1 Khổng tử ư hương đảng, tuân tuân như dã, tự bất năng ngôn giả; kì tại tôn miếu, triều đình, biền biền ngôn, duy cẩn nhĩ. |
Dịch. – Khổng tử ở làng xóm thì cung thuận, tựa như không biết ăn nói; ở tại tôn miếu, triều đình thì biện luận rành rẽ mà rất cẩn thận. X.2 Triều, dữ hạ đại phu ngôn, khản khản như dã; dữ thượng đại phu ngôn, ngân ngân như dã. Quân tại, thúc tích như dã, dư dư như dã. Dịch. – Khổng tử nói: Ở triều đình, nói với các quan hạ đại phu thì hoà nhã vui vẻ; nói với các quan thượng đại phu thì nghiêm túc, chính trực. Khi vua lâm triều thì ông cung kính, có vẻ như không an tâm, không mất vẻ uy nghi. Chú thích. – Thiên này nhiều từ cổ: tuân tuân, biền biền, khản khản, ngân ngân, dư dư… mỗi sách giảng mỗi khác. Đại khái chúng tôi theo Chu Hi. X.3 Quân triệu sử tẫn, sắc bột như dã, túc quắc (hoặc giác) như dã. Ấp sở dữ lập, tả hữu thủ, y tiền hậu xiêm như dã. Xô tiến, dực như dã. Tân thoái, tất phục mệnh viết: “Tân bất cố hĩ.” Dịch. – Khi vua (Lỗ) triệu ông tiếp khách (nước ngoài) thì ông biến sắc, chân bước run run, khách cùng đứng với ông thì ông chắp tay vái người bên tả, người bên hữu; vạt trước, vạt sau của áo phiêu động khi ông cúi, ngửng, ông rảo bước tiến tới (có sách dịch là khi đưa khách vào, ông đi mau), hai cánh tay đưa ra thẳng như cánh chim. Khách lui rồi, ông tất vào tâu với vua: “Khách không quay đầu lại (đã đi rồi).” X.4 Nhập công môn, cúc cung như dã, như bất dung. Lập bất trung môn, hành bất lí vực. Quá vị, sắc bột như dã, túc quắc như dã, kì ngôn tự bất túc giả. Nhiếp tư thăng ường, cúc cung |
như dã, bình khí tự bất tức giả. Xuất giáng nhất đẳng, sính nhan sắc, di di như dã. Một giai, xô tiến, xô dực như dã, phục kì vị, túc tích như dã. Dịch. – Khi vô cửa lớn của triều đình, ông khom khom như cửa thấp quá. Ông không đứng ở giữa cửa, khi đi, không dẫm lên ngạch cửa. Đi ngang qua ngai vua (ngai trống), ông biến sắc, chân bước run run, nói chẳng ra lời. Khi ông vén áo bước lên thêm, ông khom khom, nín hơi như nín thở. Khi lui, bước xuống một bực, sắc mặt ông lại hoà hoãn vui vẻ. Xuống đến bực cuối, ông đi mau, hai cánh tay đưa thẳng ra như cánh chim. Trở về chỗ cũ thì ông lại cung kính, có vẻ như không yên tâm. X.5 Chấp khuê, cúc cung như dã, như bất thắng, thượng như ấp, hạ như thụ, bột như chiến sắc, túc súc súc như hữu tuần. Hưởng lễ, hữu dong sắc, tư địch (hoặc tịnh) du du như dã. Dịch. – Khi đi sứ nước ngoài, cầm thẻ ngọc khuê thì ông khom khom như bưng chẳng nổi, đưa ngọc lên tới đầu như vái chào, hạ xuống tới ngực như trao cho ai. Ông biến sắc như sợ sệt, chân ren rén bước từng bước như noi theo một vật gì. Khi dâng lễ vật, thì dáng mạo ôn hoà. (Lễ xong rồi) lấy tư cách tư nhân yết kiến vua quan nước ngoài thì vẻ mặt thoải mái, vui vẻ. X.6 Quân tử bất dĩ cám tru[123] sức, hồng tử bất dĩ vi tiết phục. Đương thử, chẩn hi khích, tất biểu nhi xuất chi. Truy y cao cừu, tố y nghê cừu, hoàng y hồ cừu. Tiết cừu trường, đoản hữu duệ. |
Tất hữu tẩm y, trường nhất thân hữu bán [124]. Hồ lạc chi hậu dĩ cư. Khứ tang, vô sở bất bội. Phi duy thường, tất sái chi, cao cừu, huyền quan, bất dĩ điếu. Cát nguyệt, tất triều phục nhi triều. Dịch. – Người quân tử (trỏ Khổng tử) không dùng đồ trang sức (y phục) màu “cám” và màu “tru” (cả hai màu đó đều xanh đậm pha màu hồng, màu tru tối hơn và đều giống màu huyền, màu của lễ phục, vì vậy nên tránh để dùng trang sức); y phục thường ngày không dùng màu hồng và màu tía (vì giống với màu đỏ (xích), không phải chính sắc). Mùa nực, bận áo đơn bằng vải mỏng ở ngoài áo lót. Mùa rét, mặc áo đen ở ngoài với áo lông nghê (hưu con, lông trắng) ở trong; hoặc áo dài vàng ở ngoài với áo lông chồn màu vàng ở trong. Áo lông tuy dài, nhưng tay áo bên phải ngắn hơn bên trái (để dễ làm việc). Phải có áo ngủ (mềm nhỏ) dài gấp rưỡi thân người. Có nệm ngồi bằng da con chồn, con lạc dày. Cởi bỏ tang phục rồi, thì những đồ lặt vặt dắt vào dây lưng. Không phải là lễ phục, thì quần cắt ngắn bớt đi. Đi điếu tang, không bận áo lông dê đen, không đội mũ đen. Ngày nguyên đán (nguyên văn là cát nguyệt[125], có người dịch là ngày mùng một mỗi tháng), mặc trào phục để chầu vua. X.7 Trai, tất hữu minh y, bố, tất biến thực, cư tất thiên tọa. Dịch. – Lúc trai giới, tất dùng áo tinh khiết, bằng vải, tất đổi thức ăn, đổi chỗ ở. X.8 Tự bất yếm tinh, khoái bất yếm tế. Tự ế nhi ái, ngư nỗi nhi nhục bại bất thực. Sắc ác bất thực, xú ác bất thực. Thất nhẫm |
bất thực, bất thời bất thực. Cát bất chính bất thực, bất đắc kì tương bất thực. Nhục tuy đa, bất sử thắng tự khí. Duy tửu vô lượng, bất cập loạn. Cô tửu, thị bô, bất thực. Bất triệt khương thực. Bất đa thực. Tế ư công, bất túc nhục. Tế nguyệt bất xuất tam nhật, xuất tam nhật, bất thực chi hĩ. Thực bất ngữ, tẩm bất ngôn. Tuy sơ tự, thái canh, tất tế[126], tất trai như dã. Dịch. – Cơm càng trắng tinh càng tốt, (càng thích), gỏi thái còn nhỏ càng tốt. Cơm hẩm và thiu, cá ươn mà thịt đã nhão thì không ăn. (Thức ăn mà) sắc đã biến, hư rồi, không ăn; mùi hôi cũng không ăn. (Có sách dịch là những vật trái mùa). Cắt không ngay ngắn (hoặc không đúng cách), không ăn. Nước chấm không thích hợp, không ăn. Dù có thịt, (Khổng tử) cũng ăn ít thịt hơn cơm. Duy có rượu là không hạn chế, nhưng không uống tới say. Rượu bán ở cửa hàng, không uống, thịt mua ở chợ, không ăn. Bữa nào cũng ăn gừng. Không ăn tới quá no. Tế ở công miếu rồi, được phần thịt thì ông phân phát ngay, không để cách đêm. (Vì thịt tế vào buổi sáng thì làm vào hôm trước, nếu để cách đêm nữa, qua ngày hôm sau là ba ngày, thịt ôi đi). Thịt cúng tổ tiên, không để quá ba ngày, quá ba ngày thì không ăn. Khi ăn, không đàm luận, khi ngủ không nói chuyện. Tuy là cơm thô, canh rau, mà trước khi ăn cũng cung kính cúng vái như lúc trai giới. X.9 Tịch bất chính bất tọa. Dịch. – Chiếu trải không ngay, không ngồi. X.10 Hương nhân ẩm tửu, trượng giả xuất, tư xuất hĩ. Hương nhân |
na, triều phục nhi lập ư tạc giai. Dịch. – Dự tiệc với người làng, ông đợi các ông lão chống gậy bước ra rồi mới ra. Trong làng làm lễ “na” (lễ tống ôn dịch) ông bận triều phục đứng ở trên thềm phía đông mà dự lễ. X.11 Vấn nhân ư tha bang[127], tái bái nhi tống chi. Khang tử quĩ dược, bái nhi thụ chi. Viết: “Khâu vị đạt, bất cảm thường.” Dịch. – Nhắn ai hỏi thăm bạn ở nước ngoài thì khi tiễn hành, ông vai hai vái. (một: vái người ông nhắn, hai: vái bạn ở xa). (Quí) Khang tử tặng thuốc uống, ông vái, nhận, rồi nói với người đem thuốc: “Khâu tôi chưa hiểu tính chất của thuốc này, không dám uống.” X.12 Khải phần. Tử thoái triều, viết: “Thương nhân hồ?”, bất vấn mã. Dịch. – Chuồng ngựa cháy. Khổng tử ở triều về, hỏi: “Có ai bị thương không?”, chứ không hỏi ngựa. X.13 Quân tứ thực, tất chính tịch tiên thường chi. Quân tứ tinh, tất thục nhi tiến chi. Quân tứ sinh, tất súc chi. Thị thực ư quân, quân tế, tiên phạn. Tật, quân thị chi, đông thủ, gia triều phục, đà thân. Quân mệnh triệu, bất sĩ giá hành hĩ. Dịch. – Vua ban cho thức ăn đã nấu chín là lên ngồi giữa chiếu mà nếm trước. Vua ban cho thịt tươi thì cho nấu chín, cúng tổ tiên rồi mới ăn. Vua ban cho động vật còn sống thì nuôi. Hầu cơm vua, khi vua rót rượu vái tổ tiên, ông nếm thử thức ăn trước, như mình có trách nhiệm săn sóc món ăn. Ông đau, vua đến thăm thì ông quay đầu về hướng đông, đắp triều phục, đặt chiếc đai (thắc lưng) lên mình. Vua có lệnh vời, ông không đợi thắng xe mà đi bộ ngay. |
Chú thích. – Thời đó, ở trong nhà thì lấy hướng tây làm trọng, ông quay mặt về hướng đông, tức để vua quay mặt về hướng tây mà hỏi thăm ông[128]. X.14 (Bài này trùng với bài III.15, nên không dịch lại)[129]. X.15 Bằng hữu tử, vô sở qui, viết: “Ư ngã tẫn”. Bằng hữu chi quĩ, tuy xa mã, phi tế nhục, bất bái” Dịch. – Bạn bè mất mà không có người thân thích lo cho, thì ông bảo: “Đem về nhà tôi tẩm liệm”. Bạn bè tặng vật gì nếu không phải là thịt tế, thì dù là vật quí như xe, ngựa, ông cũng không vái khi nhận. X.16 Tẩm bất thi, cư bất dung[130]. Kiến tư thôi giả, tuy hiệp, tất biến, kiến miện giả dữ cổ giả, tuy tiết tất dĩ mạo. Hưng phục giả, thức chi. Thức phụ bản giả. Hữu thịnh soạn, tất biến sắc nhi tác. Tấn lôi, phong liệt, tất biến. Dịch. – Ngủ thì không nằm ngửa duỗi tay chân như người chết. Ở nhà, không có dung nghi (như ở triều), mà rất tự nhiên. Thấy người mặc đồ tang, dù quen biết, cũng đổi sắc diện (tỏ vẻ thượng xót). Thấy người đội mão lễ và người mù, tuy thường gặp, cũng tỏ ra lễ mạo. Ngồi xe, thấy người đi đưa ma, ông vịn vào cây ngang ở trước xe mà cúi đầu chào; thấy người mang bản đồ quốc gia và sổ hộ khẩu, ông cũng làm như vậy. Khi thấy (chủ nhân dọn) tiệc lớn (đãi mình) ông đổi sắc (tỏ vẻ cảm động) đứng dậy cảm tạ. Khi sấm to gió lớn, ông biến sắc. X.17 Thăng xa, tất chính lập, chấp tuy. Xa trung bất nội cố, bất tật ngôn, bất thân chỉ. |
Dịch. – Khi lên xe thì đứng ngay ngắn, rồi nắm lấy sợi dây để bước lên. Ngồi xe, không quay đầu lại, không nói nhanh và không chỉ trỏ. X.18 Sắc tư cử hĩ, tường nhi hậu tập. Viết: “Sơn lương thư trĩ, thời tai, thời tai! Tử Lộ củng[131] chi, tam khứu nhi tác. Dịch. – Con chim thấy người, kinh sợ bay đi (có người giảng là: thấy người có vẻ dữ tợn, nên bay đi); nó liệng mấy vòng (xem chừng) rồi mới xuống. (Khổng tử) nói: “Con trĩ mái đậu ở trên cầu Sơn cốc kia, biết thời cơ lắm, biết thời cơ lắm!” Tử lộ chắp tay hướng về nó, nó kêu ba tiếng bay đi. THIÊN XI TIÊN TIẾN XI.1 Tử viết: “Tiên tiến ư lễ nhạc, dã nhân dã; hậu tiến ư lễ nhạc, quân tử dã. Như dụng chi, tắc ngô tòng tiên tiến.” Dịch. – Khổng tử nói: “Về lễ nhạc, người đời xưa bị người đời nay coi là quê mùa; về lễ nhạc, người đời xưa được người đời nay khen là quân tử (toàn thiện). Dùng lễ nhạc thì ta theo người xưa.” Chú thích. – Chúng tôi theo cách hiểu của Trình tử và Chu tử mà dịch như trên. “Tiên tiến” trỏ người đầu đời Chu, thời đó theo Khổng tử nhạc có văn lẫn chất (tức như nội dung lẫn hình thức tốt). “Hậu tiến” trỏ người thời Chu đã suy, nhạc trọng văn hơn chất. Người thời Khổng tử thích văn hơn chất, nên cho lễ nhạc ngày xưa là quê mùa, mà khen lễ nhạc đời sau đẹp đẽ. Khổng tử ngược lại, thích văn hơn chất, nên theo lễ nhạc của người xưa. Có thuyết cho rằng “tiên tiến” trỏ[132] người học lễ |
nhạc rồi mới làm quan, tức hạng bình dân, như đa số các môn sinh của Khổng. “Hậu tiến”, trỏ giới quí tộc do đặc quyền mà làm quan sớm, rồi sau mới học lễ nhạc. Khổng tử có dùng nhân tài thì dùng hạng trên (bình dân) tức kẻ sĩ, chứ không dùng hạng dưới (quí tộc). Hai chữ dụng chi [用之] thuyết này hiểu là dùng người, chứ không phải dùng lễ nhạc như Trình, Chu giải thích. Thuyết này mới mẻ, cũng chấp nhận được. XI.2 Tử viết: “Tòng ngã ư Trần, Thái giả, giai bất cập môn dã”. Đức hạnh: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; ngôn ngữ: Tể Ngã, Tử Cống; chính sự: Nhiễm Hữu, Quí Lộ; văn học: Tử Du, Tử Hạ. Dịch. – Khổng tử nói: “Những môn sinh theo ta (chịu khốn) ở nước Trần, nước Thái, nay không còn học ta nữa”. Đức Hạnh (đáng khen nhất) có Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; giỏi ăn nói, từ lệnh có Tể Ngã, Tử Cống; giỏi về chính trị có Nhiễm Hữu, Quí Lộ; giỏi về văn học có Tử Du, Tử Hạ. Chú thích. – Đoạn sau từ “Đức hạnh…” không phải là lời Khổng tử. Mười môn sinh kể trong đoạn đó chưa chắc đều đã theo Khổng tử qua Trần và Thái. XI.3 Tử viết: “Hồi dã, phi trợ ngã giả dã, ư ngô ngôn vô sở bất duyệt.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Hồi không giúp ta được điều gì, lời giảng nào của ta, anh ấy cũng thích”. (Ý nói Nhan Hồi không nghi hoặc, chất vấn gì cả, không gợi thêm ý gì cho Khổng tử cả). XI.4 Tử viết: “Hiếu tai Mẫn Tử Khiên! Nhân bất gian ư kì phụ mẫu, |
côn đệ chi ngôn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Mẫn Tử Khiên thật là hiếu thuận! Cha mẹ, anh em trong nhà đều khen anh hiếu thuận mà người ngoài cũng nhận vậy là đúng.” XI.5 Nam Dung tam phục Bạch Khuê. Khổng tử dĩ kì huynh chi tử thê chi.” Dịch. – Nam Dung ưa đọc đi đọc lại thư Bạch Khuê. Khổng tử đem con gái anh mình gả cho. Chú thích. – Thơ Bạch Khuê trong thiên Đại nhã, Kinh Thi, đại ý bảo: “Cái vết trong ngọc Khuê trắng, có thể mài bỏ đi, chứ điểm xấu trong lời nói, không thể chữa được”. Khổng tử khen Nam Dung biết giữ gìn lời nói. Coi thêm bài V.1. XI.6 Quí Khang tử vấn: “Đệ tử thục vi hiếu học?” Khổng tử đối viết: “Hữu Nhan hồi giả hiếu học, bất hạnh đoản mệnh tử hĩ, kim dã tắc vô.” Chú thích. – Bài này như hệt bài VI.2, chỉ khác bài VI.2 chép là Ai công hỏi, và có thêm mấy chữ “bất nộ, bất nhị quá” ở sau: “Hữu Hồi giả hiếu học”, và mấy chữ: “vị văn hiếu học dã” ở cuối bài. Vì vậy không cần phải dịch lại. XI.7 Nhan Uyên tử, Nhan Lộ thỉnh tử chi xa dĩ vi chi quách. Tử viết: “Tài bất tài, diệc các ngôn kì tử dã. Lí dã tử hữu quan nhi vô quách. Ngô bất đồ hành dĩ vi chi quách. Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất khả đồ hành dã.” Dịch. – Nhan Uyên chết, Nhan Lộ (cha Nhan Uyên, mà cũng là học trò Khổng tử) xin chiếc xe của Khổng tử để bán mà mua quách chôn con. Ông bảo: “Nó có tài hay bất tài thì cũng chỉ là con thôi. Con ruột của ta là Lí (tự là Bá Ngư) chết, cũng chỉ |
dùng quan (ở trong) mà không dùng quách cho nó (ở ngoài). Không lẽ ta đi bộ, bán xe đi mà mua quách cho nó (Nhan Uyên). Ta theo sau hàng đại phu, nên không lẽ đi bộ.” Chú thích. – Khổng tử có hồi làm đại phu nước Lỗ, lúc này không làm quan nữa, nhưng vẫn giữ hàm đại phu. Nói “theo sau hàng đại phu” là nói nhũn. XI.8 Nhan Uyên tử, Tử viết: “Y thiên táng dư, thiên táng dư!” Dịch. – Nhan Uyên chết. Khổng tử than: “Ôi! Trời hại ta, trời hại ta!” XI.9 Nhan Uyên tử. Tử khốc chi động. Tòng giả viết: “Tử động hĩ”. Viết: “Hữu động hồ? Phi phù nhân chi vi động nhi thùy vị?” Dịch. – Nhan Uyên chết. Khổng tử khóc thảm thiết. Người (đệ tử) theo sau, thưa: “Thầy bi ai thái quá!” Khổng tử nói: “Bi ai thái quá ư? Ta chẳng vì con người đó bi ai thì vì ai?” XI.10 Nhan Uyên tử, môn nhân[133] dục hậu táng chi. Tử viết: “Bất khả”. Môn nhân hậu táng chi. Tử viết: “Hồi dã thị dư do phụ dã, dư bất đắc thị do tử dã. Phi ngã dã, phu nhị tam tử dã.” Dịch. – Nhan Uyên chết, môn nhân muốn mai táng trọng hậu. Khổng tử bảo: “Không nên”. Nhưng môn nhân vẫn mai táng trọng hậu. Khổng tử bảo: “Hồi coi ta như cha, mà ta không coi nó như con được. Đó không phải tại ta, mà tại các trò đây.” Chú thích. – Các sách đều chú thích: theo lễ thì tuỳ gia đình nghèo giàu mà mai táng trọng hậu hay không. Nhan Hồi nhà nghèo, mà chôn cất trọng hậu là trái lễ. Ông coi Nhan Hồi như |
con, chôn Nhan Hồi như chôn Bá Ngư (coi bài 7) nhưng không tiện can thiệp, để cho môn sinh nghe lời Nhan Lộ (cha Nhan Hồi) làm việc trái lễ đó. XI.11 Quí Lộ vấn sự quỉ thần. Tử viết: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ?” Viết: “Cảm vấn tử”. Viết: “Vị tri sinh, yên tri tử.” Dịch. – Quí Lộ hỏi đạo thờ quỉ thần. Khổng tử đáp: “Chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỉ thần?” Lại hỏi: “Con xin mạo muội hỏi về sự chết”. Đáp: “Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết?” XI.12 Mẫn Tử (Khiên) thị trắc, ngân ngân như dã; Tử Lộ hãng hãng như dã; Nhiễm Hữu, Tử Cống khản khản như dã. Tử lạc: “Nhược Do dã, bất đắc kì tử nhiên.” Dịch. – Mẫn Tử (Khiên) đứng hầu ở bên, vẻ mặt cung kính, chính trực; Tử Lộ có vẻ cương nghị; Nhiễm Hữu và Tử Cống có vẻ ôn hoà. Khổng tử vui vẻ (vì môn sinh nào cũng có tư cách cả). (Nhưng ông nói): “Anh Do (Tử Lộ) e sẽ bất đắc kì tử.” Chú thích. – Tử Lộ hay cậy sức mạnh của mình nên ông khuyên phải đề phòng. Sau Tử Lộ chết một cách vô nghĩa trong một vụ bạo loạn ở nước Vệ. XI.13 Lỗ nhân vi Trường phủ. Mẫn Tử Khiên viết: “Nhưng cựu quán, như chi hà? Hà tất cải tác?” Tử viết: “Phù nhân bất ngôn, ngôn tất hữu trúng.” Dịch. – Nước Lỗ định cất kho Trường phủ mới. Mẫn Tử Khiên bảo: “Dùng cái kho cũ mà tu bổ lại, không được sao? Hà tất phải cất cái mới (cho phí công, của). Khổng tử khen: “Con người đó ít nói, nhưng hễ nói thì trúng.” |
XI.14 Tử viết: “Do chi sắt hề vi ư Khâu chi môn?” Môn nhân bất kính Tử Lộ. Tử viết: “Do dã, thăng đường hỉ, vị nhập ư thất dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tiếng đàn sắt của anh Do sao lại nổi lên ở nhà Khâu này?” (Ý nói ông không ưa giọng đàn sát phạt của Tử Lộ). Vì vậy mà môn sinh coi thường Tử Lộ. Khổng tử giải rằng: “Học vấn của anh Do vào hạng lên đến thềm rồi, mà chưa vào nội thất đấy thôi” (nghĩa là khá lắm, chỉ chưa tinh vi thôi). Nhưng có người lại hiểu: “Anh Do chỉ mới gảy đàn ở ngoài thềm chứ không phải ở trong nhà (!), coi “nhập thất” ở bài 19. XI.15 Tử Cống vấn: “Sư dữ Thương dã thục hiền?” Tử viết: “Sư dã quá, Thương dã bất cập”. Viết: “Nhiên tắc Sư dũ dư?” Tử viết: “Quá do bất cập.” Dịch. – Tử Cống hỏi: “Anh Sư (Tử Trương) và anh Thương (Tử Hạ) ai hơn?” Khổng tử đáp: “Sư thái quá mà Thương bất cập”. Lại hỏi: “Như vậy là anh Sư hơn?” Đáp: “Thái quá cũng như bất cập.” XI.16 Quí thị phú ư Chu công, nhi Cầu dã vi chi tụ liễm nhi phụ ích chi. Tử viết: “Phi ngô đồ dã, tiểu tử minh cổ nhi công chi khả Dịch. – Họ Quí giàu hơn ông Chu công, thế mà Cầu (Nhiễm Hữu làm gia thần họ Quí) còn thu thuế bóp chẹt dân, làm giàu thêm cho. Khổng tử nói: “Nó không phải là môn đồ của ta nữa, các con nên nổi trống (hoặc hùa nhau) mà công kích nó đi.” XI.17 “Sài dã ngu, Sâm dã lỗ, Sư dã tịch, Do dã ngạn.” Dịch. – (Cao) Sài (Tử Cao) ngu, Sâm (Tăng tử) trì độn, Sư |
(Tử Trương) thiên lệch, Do (Tử Lộ) thô lậu. Chú thích. – Câu này cũng là lời của Khổng tử. XI.18 Tử viết: “Hồi dã kì thứ hồ, lũ không. Tứ bất thụ mệnh, nhi hóa thực yên, ức tắc lũ trúng.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Hồi gần đạt được đạo chăng, thường nghèo đói? Anh Tứ (Tử Cống) không an bần lạc đạo mà đi buôn bán, đoán điều chi thường trúng.” Chú thích. – Ba chữ “bất thụ mệnh” các sách giảng là: Không xin phép nhà nước để buôn bán. (Thời đó buôn bán phải xin phép quan sở tại). XI.19 Tử Trương vấn thiện nhân chi đạo. Tử viết: “Bất tiễn tích, diệc bất nhập ư thất.” Dịch. – Tử Trương hỏi như thế nào là người thiện. Khổng tử đáp: “Bẩm tính tốt chẳng phải học tập theo cổ nhân mà cũng tốt, nhưng không đạt được mức tinh vi của họ.” Chú thích. – Có người giảng: Người thiện không hoà mình với kẻ ác, xấu xa (bất tiễn tích) nhưng vì không học nên không thông đạt, không biết quyền biến. XI.20 Tử viết: “Luận đốc thị dữ, quân tử giả hồ? Sắc trang giả hồ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Đàm luận thì kính cẩn, người như vậy đã thực là quân tử chăng? Hay chỉ là bề ngoài trang trọng thôi?” XI.21 Tử Lộ vấn: “Văn tư hành chư?” Tử viết: “Hữu phụ huynh tại, như chi hà kì văn tư hành chi?” Nhiễm Hữu vấn: “Văn tư hành chư?” Tử viết: “Văn tư hành chi”. Công Tây Hoa viết: “Do dã vấn: “Văn tư hành chư?”, Tử viết: “Hữu phụ huynh tại…”; Cầu dã vấn: “Văn tư hành chư?”, Tử viết: “Văn tư hành chi”. Xích dã hoặc[134], cảm vấn?” Tử viết: “Cầu dã thoái, cố tiến chi; Do dã kiêm nhân, cố thoái chi.” |
Dịch. – Tử Lộ hỏi: Nghe (điều phải) rồi thì thi hành liền sao?” Khổng tử đáp: “Còn cha, anh (phải hỏi ý kiến cha, anh) sao có thể nghe rồi làm liền được”. Nhiễm Hữu hỏi: “Nghe (điều phải) rồi thi hành liền sao?” Khổng tử đáp: “Nghe rồi thì làm liền đi”. Công Tây Hoa hỏi: “Anh Do hỏi: “Nghe rồi thi hành liền sao?”, Thầy đáp: “Còn cha, anh…”; anh Cầu hỏi: “Nghe rồi thi hành liền sao? ” [135], Thầy đáp: “Nghe rồi thì làm liền đi”. Xích con chưa hiểu, xin thầy giảng cho”. Khổng tử đáp: “Bản tính anh Cầu không tiến thủ nên ta phải thúc cho tiến tới; còn anh Do, bản tính dũng mãnh muốn hơn người nên ta phải kéo lùi lại.” XI.22 Tử úy ư Khuông, Nhan Uyên hậu. Tử viết: “Ngô dĩ nhữ vi tử hĩ”. Viết: “Tử tại, Hồi hà cảm tử.” Dịch. – Khổng tử bị vây ở thành Khuông (coi bài IX.15), Nhan Uyên lạc phía sau. (Tới khi thầy trò gặp nhau), Khổng tử bảo: “Thầy ngỡ anh chết rồi chứ!” Nhan Uyên đáp: “Thầy còn sống, con đâu dám chết.” XI.23 Quí tử Nhiên vấn: “Trọng Do, Nhiễm Cầu khả vị đại thần dư?” Tử viết: “Ngô dĩ tử vi dị chi vấn, tằng Do dữ Cầu chi vấn. Sở vị đại thần giả, dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ. Kim Do dữ Cầu dã, khả vị cụ thần hĩ”. Viết: “Nhiên tắc tòng chi giả dư?” Tử viết: “Thí phụ dữ quân, diệc bất tòng dã.” Dịch. – Quí tử Nhiên (một người trong họ Quí ở Lỗ) hỏi: “Trọng Do và Nhiễm Cầu có thể gọi là đại thần được không?” Khổng tử đáp: “Tôi tưởng ông hỏi về ai kia, không ngờ ông hỏi |
về anh Do và anh Cầu. Gọi là đại thần thì cứ theo đạo lí mà thờ vua, không thi hành đạo lí được thì từ chức. Nhưng anh Do và anh Cầu có thể gọi là bề tôi thường (cho đủ số để làm việc thôi)”. Lại hỏi: “Nhưng hai ông ấy cũng thuận tòng vua chứ?” Khổng tử đáp: “Nếu là giết cha, giết vua thì họ không theo đâu.” Chú thích. – Lúc đó Tử Lộ và Nhiễm Cầu làm gia thần cho họ Quí. XI.24 Tử Lộ sử Tử Cao vi Phí tể. Tử viết: “Tặc phù nhân chi tử”. Tử Lộ viết: “Hữu dân nhân yên, hữu xã tắc yên, hà tất độc thư nhiên hậu vi học?” Tử viết: “Thị cố ố phù nịnh giả.” Dịch. – Tử Lộ (làm gia thần họ Quí), tiến cử Tử Cao làm quan Tể đất Phí. Khổng tử trách: “Như vậy là làm hại con người” (vì Tử Cao chưa học được bao, chưa làm quan được). Tử Lộ bảo: “(Làm chức tể thì) có nhân dân để trị, có thần xã (đất đai), tắc (mùa màng) để thờ, (đó là học), hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học?” Khổng tử nói: “Vì thế mà ta ghét những lời lợi khẩu (cưỡng lí để tự biện hộ).” XI.25 Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu, Công Tây Hoa thị tọa. Tử viết: “Dĩ ngô nhất nhật trưởng hồ nhĩ, vô ngô dĩ dã. Cư tắc viết: “Bất ngô tri dã”. Như hoặc tri nhĩ, tắc hà dĩ tai?” Tử Lộ suất nhĩ nhi đối viết: “Thiên thặng chi quốc, nhiếp hồ đại quốc chi gian, gia chi dĩ sư lữ, nhân chi dĩ cơ cận, Do dã vi chi, bí (hoặc tí) cập tam niên, khả sử hữu dũng, thả tri phương dã”. Phu tử thẩn [136] |
chi. “Cầu, nhĩ hà như?” Đối viết: “Phương lục thất thập, như ngũ lục thập, Cầu dã vi chi, bí cập tam niên, khả sử túc dân. Như kì lễ nhạc, dĩ sĩ quân tử”. “Xích, nhĩ hà như?” Đối viết: “Phi viết năng chi, nguyện học yên. Tôn miếu chi sự, như hội đồng, đoan chương phủ, nguyện vi tiểu tướng yên”. “Điểm, nhĩ hà như?” Cổ sắt hi, khanh nhĩ, xả sắt nhi tác, đối viết: “Dị hồ tam tử giả chi soạn”. Tử viết: “Hà thương hồ? Diệc các ngôn kì chí dã”. Viết: “Mộ xuân giả, xuân phục kí thành, quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui”. Phu tử vị nhiên thán viết: “Ngô dữ Điểm dã”. Tam tử giả xuất, Tăng Tích hậu. Tăng Tích viết: “Phù tam tử giả chi ngôn hà như?” Tử viết: “Diệc các ngôn kì chí dã dĩ hĩ!” Viết: “Phu tử hà thẩn Do dã?” Viết: “Vi quốc dĩ lễ[137], kì ngôn bất nhượng, thị cố thẩn chi”. Viết: “Vi quốc dĩ lễ, kì ngôn bất phương, thị cố thẩn chi” Duy Cầu tắc phi bang dã dư?” – “An kiến phương lục thất thập như ngũ lục thập, nhi phi bang dã giả!” – “Duy Xích tắc phi bang dã dư?” – “Tôn miếu hội đồng, phi chư hầu nhi hà? Xích dã vi chi tiểu, thục năng vi chi đại?” Dịch. – Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu và Công Tây Hoa ngồi hầu. Khổng tử bảo: “Các anh cho rằng ta có lớn hơn các anh một ngày[138] mà ngại, nhưng đừng ngại gì cả. Ở nhà, các anh thường nói: “Chẳng ai biết ta”. Nếu có người biết thì các anh đem tài gì ra dùng”. Tử Lộ vội vàng đáp: “Ví như một nước có |
một ngàn cỗ xe[139], bị ép giữa hai nước lớn, lại có thêm nạn chiến tranh, nhân đó dân chúng đói khổ; Do tôi mà cầm quyền nước ấy thì vừa đầy ba năm có thể khiến cho dân chúng dũng cảm mà biết đạo lí nữa”. Khổng tử mỉm cười. Rồi hỏi: “Cầu, còn anh thế nào?” Đáp: “Như có một nước vuông vức, sáu bảy chục dặm hoặc năm sáu chục dặm[140], Cầu tôi cầm quyền nước ấy thì vừa đầy ba năm có thể khiến cho dân chúng được no đủ. Còn về lễ nhạc thì xin đợi bậc quân tử”. – “Xích, còn anh thế nào?” Đáp: “Về lễ nhạc tôi không phải giỏi, nhưng xin được học. Trong việc tế tự ở tôn miếu hoặc trong hội nghị các chư hầu, Xích tôi mặc áo lễ huyền đoan, đội mũ chương phủ mà xin làm một tiểu tướng[141]“.– “Điểm, còn anh thế nào?” Lúc đó Tăng Tích gẩy đàn sắt vừa ngớt, đặt đàn xuống – keng! – mà đứng dậy đáp: “Chí của tôi khác hẳn với ba anh đó”. Khổng tử bảo: “Hại gì? Cũng là ai nấy tỏ chí của mình ra mà thôi”. Thưa: “Như bây giờ là cuối tháng xuân, y phục mùa xuân đã may xong[142], năm sáu người vừa tuổi đôi mươi[143] với sáu bảy đồng tử dắt nhau đi tắm ở sông Nghi rồi lên hóng mát ở nền Vũ Vu[144] vừa đi vừa hát, kéo nhau về nhà”. Khổng tử trầm ngâm một chút rồi than: “Ta cũng muốn như Điểm vậy”. Ba môn sinh đi rồi, Tăng Tích ở lại hỏi: “Thầy nghĩ sao về lời nói của ba anh kia?” Đáp: “Cũng đều là cho biết chí mình vậy thôi”. Hỏi: “Nhưng tại sao nghe anh Do nói, thầy lại mỉm cười”. Đáp: “Người trị nước phải |
theo lễ, anh Do không biết nhún nhường, nên ta mỉm cười” [145]. Lại hỏi: “Lời anh Cầu nói chẳng phải là việc nước sao?” Đáp: “Một địa phương vuông vức sáu bảy chục dặm hay năm sáu chục dặm, chẳng phải là một quốc gia thì là gì?” Lại hỏi: “Thế thì anh Xích chẳng phải là việc trị nước sao?” [146]. “Việc tôn miếu và việc hội nghị chẳng phải là việc chư hầu là gì? Anh Xích khiêm tốn xin dự làm tiểu tướng, vậy chứ ai làm đại tướng?” THIÊN XII NHAN UYÊN XII.1 Nhan Uyên vấn nhân. Tử viết: “Khắc kỉ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỉ phục lễ, thiên hạ qui nhân yên. Vi nhân do kỉ, nhi do nhân hồ tai?” Nhan Uyên viết: “Thỉnh vấn kì mục”. Tử viết: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”. Nhan Uyên viết: “Hồi tuy bất mẫn, thỉnh sự tư ngữ hĩ.” Dịch. – Nhan Uyên hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Khắc kỉ (chế thắng tự dục) mà trở về lễ (đạo lí) thì là nhân. Một ngày khắc kỉ trở về lễ, thì khắp thiên hạ sẽ khen đức nhân của mình (có sách giảng là sẽ bị mình cảm hoá mà theo đức nhân). Làm điều nhân là do mình, chứ đâu có do người?” Nhan Uyên hỏi tiếp: “Xin thầy chỉ cho con những điều mục (để thực hành)”. Khổng tử bảo: “Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, không hợp lễ thì đừng nghe, không hợp lễ thì đừng nói, không hợp lễ thì đừng làm”. Nhan Uyên thưa: “Hồi con tuy không minh mẫn cũng xin theo lời thầy dạy.” Chú thích. – Nhân là rất công tâm, hành động theo đạo lí, theo nghĩa, cho nên khắc kỉ phục lễ là nhân. |
XII.2 Trọng Cung vấn nhân. Tử viết: “Xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế. Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân. Tại bang vô oán, tại gia vô oán”. Trọng Cung viết: “Ung tuy bất mẫn, thỉnh sự tư ngữ hĩ.” Dịch. – Trọng Cung hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Ra khỏi cửa thì (phải nghiêm trang) như gặp khách quí; sai khiến dân thì phải thận trọng như trong một cuộc lễ lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người[147]. Trong nước không ai oán mình, trong “nhà” một đại phu[148] không ai oán mình”. Trọng Cung thưa: “Ung con tuy không minh mẫn cũng xin theo lời thầy.” XII.3 Tư Mã Ngưu vấn nhân. Tử viết: “Nhân giả, kì ngôn dã nhẫn”. Viết: “Kì ngôn dã nhẫn, tư vị chi nhân hĩ hồ?” Tử viết: “Vi chi nan, ngôn chi đắc vô nhẫn hồ?” Dịch. – Tư Mã Ngưu hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Người có đức nhân thì biết nhịn lời”. Lại hỏi: “Biết nhịn lời mà thành người có đức nhân ư?” Đáp: “Làm thì khó, (nói thì dễ), vậy chẳng nên nhịn khi mình muốn nói sao?” Chú thích. – Tư Mã Ngưu, họ Tư Mã, tên Canh, tự Tử Ngưu, người nước Tống, học trò Khổng tử, có tính hay nói và nóng nảy, cho nên Khổng tử khuyên như vậy. Đó là cách “tuỳ bệnh mà ra toa.” XII.4 Tư Mã Ngưu vấn quân tử. Tử viết: “Quân tử bất ưu bất cụ”. Viết: “Bất ưu bất cụ, tư vị chi quân tử hĩ hồ?” Tử viết: “Nội tỉnh bất cứu, phù hà ưu hà cụ.” Dịch. – Tư Mã Ngưu hỏi thế nào là quân tử. Khổng tử đáp: |
“Người quân tử thì không lo, không sợ”. Lại hỏi: “Không lo, không sợ mà thành người quân tử ư”. Đáp: “Tự xét mình không có điều gì đáng xấu hổ thì còn sợ nỗi gì?” XII.5 Tư Mã Ngưu ưu viết: “Nhân giai hữu huynh đệ, ngã độc vô”. Tử Hạ viết: “Thương văn chi hĩ: “Tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên. Quân tử kính nhi vô thất, dữ nhân cung nhi hữu lễ. Tứ hải chi nội giai huynh đệ dã”. Quân tử hà hoạn hồ vô huynh đệ Dịch. – Tư Mã Ngưu rầu rĩ bảo: “Ai cũng có anh em, duy có tôi là không?” Tử Hạ bảo: “Thương tôi nghe nói: “Sống chết có số, phú quí do trời. Người quân tử nghiêm túc mà không thất thố, giao thiệp với ai mà cung cẩn mà lễ độ. Như vậy thì người trong bốn bể đều là anh em của mình”. Người quân tử lo gì không có anh em.” Chú thích. – Có sách bảo câu: “Tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên” là lời của Khổng tử nên dịch: Thương tôi nghe thầy nói… Thời xưa người Trung Hoa cho rằng nước họ bốn bên là biển bao vây, cho nên gọi Trung Hoa là hải nội, ngoại quốc là hải ngoại. XII.6 Tử Trương vấn minh. Tử viết: “Tẩm nhuận chi trấm, phu thụ chi tố, bất hành yên, khả vị minh dã dĩ hĩ. Tẩm nhuận chi trấm, phu thụ chi tố, bất hành yên, khả vị viễn dã dĩ hĩ.” Dịch. – Tử Trương hỏi thế nào là sáng suốt. Khổng tử đáp: “Những lời gièm pha thấm nhuần mỗi ngày một chút, những lời vu cáo như đâm vào da thịt, những lời đó nếu không tác động |
gì đến ta thì có thể gọi là sáng suốt. Những lời gièm pha thấm nhuần mỗi ngày một chút, những lời vu cáo như đâm vào da thịt, những lời đó nếu không tác động gì đến ta thì có thể gọi là biết nhìn xa.” XII.7 Tử Cống vấn chính. Tử viết: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hĩ”. Tử Cống viết: “Tất bất đắc dĩ nhi khứ, ư tư tam giả hà tiên?” Viết: “Khứ binh”. Tử Cống viết: “Tất bất đắc dĩ nhi khứ, ư tư nhị giả hà tiên?” Viết: “Khứ thực, tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất lập.” Dịch. – Tử Cống hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Lương thực cho đủ, binh bị cho đủ, dân tin chính quyền”. Tử Cống hỏi: “Trong ba điều đó, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một, thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “Binh bị”. Tử Cống lại hỏi: “Trong hai điều còn lại, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một nữa, thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “Bỏ lương thực. Từ xưa vẫn có người chết, nếu dân không tin chính quyền thì chính quyền phải đổ.” XII.8 Cúc[149] Tử Thành viết: “Quân tử chất nhi dĩ hĩ, hà dĩ văn vi?” Tử Cống viết: “Tích hồ! Phu tử chi thuyết quân tử dã. Tứ bất cập thiệt. Văn do chất dã, chất do văn dã. Hổ báo chi quách do khuyển dương chi quách.” Dịch. – Cúc Tử Thành (một đại phu nước Vệ) bảo: “Người quân tử chỉ cái chất tốt là đủ, cần chi tới văn?” Tử Cống nói: “Tiếc thay ngài luận về quân tử (lầm lẫn) như vậy. Một lời thốt ra, bốn ngựa đuổi không kịp. Văn cũng như chất, chất cũng như văn (quan trọng như nhau). Da cọp da beo mà cạo lớp lông đi |
thì cũng như da chó da cừu vậy thôi”. (Nghĩa là chất (da) mà không có văn (lông) thì kém giá trị). Chú thích. – Sách Thuyết văn dịch nghĩa quách [鞟] là da đã cạo lông rồi, vì vậy mà nhiều nhà hiểu như chúng tôi dịch. Nhưng có người bảo quách chỉ có nghĩa là da, dù còn lông hay cạo rồi, và hiểu lời Tử Cống như sau: văn và chất quan trọng như nhau, văn như da con cọp con beo, chất như da con chó con cừu, mấy thứ da đó đều hữu dụng cả. “Tứ bất cập thiệt” – Tứ [駟] vốn có nghĩa là xe thắng bốn con ngựa. XII.9 Ai công vấn ư Hữu Nhược viết: “Niên cơ, dụng bất túc, như chi hà?” Hữu Nhược đối viết: “Hạp triệt hồ?” Viết: “Nhị, ngô do bất túc, như chi hà kì triệt dã”. Đối viết: “Bá tính túc, quân thục dữ bất túc? Bá tính bất túc, quân thục dữ túc?” Dịch. – Vua (Lỗ) Ai công hỏi Hữu Nhược: “Năm nay mất mùa, thuế không đủ tiêu làm sao bây giờ?” Hữu Nhược đáp: “Sao không thu thuế theo pháp triệt (tức mười phần thu một)? Bảo: “Mười phần thu hai còn không đủ tiêu, huống hồ còn thu theo pháp triệt”. Đáp: “Trăm họ no đủ thì làm sao nhà vua thiếu được? Trăm họ thiếu thốn thì làm sao nhà vua đủ được?” (Có người dịch là: Dân no đủ thì vua thiếu thốn với ai?…). XII.10 Tử Trương vấn sùng đức, biện hoặc. Tử viết: “Chủ trung tín, tỉ[150] nghĩa, sùng đức dã. Ái chi, dục kì sinh, ố chi dục kì tử, kí dục kì sinh, hựu dục kì tử, thị hoặc dã.” Dịch. – Tử Trương hỏi thế nào là tôn sùng đức hạnh và không mê hoặc. Khổng tử đáp: “Lấy trung tín thành thực làm chủ, điều gì không hợp nghĩa thì sửa đổi, như vậy là tôn sùng đức hạnh. Khi yêu thì muốn người ta sống, khi ghét thì muốn người ta chết, như vậy là mê hoặc. |
Chú thích. – Cuối bài này còn hai câu “Thành bất dĩ phú, diệc kì dĩ dị” ở trong Kinh Thi, Tiểu Nhã, thiên Ngã hành kì dã dẫn lầm vào đây, nên các sách đều bỏ. XII.11 Tề Cảnh công vấn chính ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Công viết: “Thiện tai! Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chư.” Dịch. – Tề Cảnh công hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Vua làm hết đạo vua, bề tôi hết đạo bề tôi, cha hết đạo cha, con hết đạo con”. Cảnh công khen: “Hay thật! Nếu vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì dẫu có lúa, ta chắc gì đã ăn được?” XII.12 Tử viết: “Phiến ngôn khả dĩ chiết ngục giả, kì Do dã dư?. Tử Lộ vô túc nặc. Dịch. – Khổng tử nói: “Chỉ nghe lời giảng của một bên mà có thể phán quyết được việc kiện tụng (hoặc việc quan), là anh Do chăng?” Tử Lộ hứa điều gì thì làm ngay. Chú thích. – Muốn phán quyết việc kiện tụng thì ai cũng phải nghe lời trình bày của hai bên. Tại sao Tử Lộ chỉ nghe một bên mà phán quyết được? Người viết bài này, sau khi chép lời Khổng tử, giảng: Vì Tử Lộ giữ chữ tín, cảm hoá được mọi người, nên không ai nói dối với ông, khai với ông điều gì, tất phải đúng, vì vậy ông không phải nghe lời trình bày của phía bên kia nữa. Còn một cách hiểu khác nữa: “Phiến ngôn” không phải là Tử Lộ nghe lời trình bày của một bên, mà là Tử Lộ chỉ nói ra nửa lời, chưa hết câu, người ta đã tin phục rồi, việc giải quyết xong rồi. |
XII.13 Tử viết: “Thính tụng, ngô do nhân dã; tất dã, sử vô tụng hồ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Xét kiện thì ta cũng như người khác thôi; phải làm sao (dạy dân phải biết nghĩa vụ nhường nhịn) cho dân không kiện nhau (thì mới làm chứ!).” XII.14 Tử Trương vấn chính. Tử viết: “Cư chi vô quyện, hành chi dĩ trung.” Dịch. – Tử trương hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Giữ chức vụ thì không mệt, không chán, chấp hành chính lệnh thì trung thành.” XII.15 Bài này trùng với bài VI.25. XII.16 Tử viết: “Quân tử thành nhân chi mĩ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử giúp người làm việc thiện, không giúp người làm điều ác (giúp người thành người tốt, không giúp người thành xấu). Tiểu nhân trái lại.” XII.17 Quí Khang tử vấn chính ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Chính giả, chính dã. Tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính.” Dịch. – Quí Khang tử hỏi Khổng tử về chính trị. Khổng tử đáp: “Chính trị là chính đính (ngay thẳng). Ông lãnh đạo dân một chính sách chính đính thì ai dám không chính đính.” XII.18 Quí Khang tử hoạn đạo, vấn ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Cẩu tử chi bất dục, tuy thưởng chi bất thiết.” Dịch. – Quí Khang tử lo nạn trộm cướp, hỏi cách trị. Khổng tử đáp: “Nếu ông không có lòng tham, dù có thưởng họ, họ cũng không trộm cướp.” XII.19 Quí Khang tử vấn chính ư Khổng tử, viết: “Như sát vô đạo dĩ tựu hữu đạo, hà như”. Khổng tử đối viết: “Tử vi chính yên dụng sát? Tử dục thiện nhi dân thiện hĩ. Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thượng chi phong tất yến.” |
Dịch. – Quí Khang tử hỏi Khổng tử về phép trị dân: “Giết kẻ vô đạo (độc ác) để cho kẻ khác thành hữu đạo (lương thiện) chăng? Khổng tử đáp: “Ông trị dân cần gì phải dùng biện pháp giết người? Ông muốn thiện thì dân sẽ hóa thiện. Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió, mà đức hạnh của dân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống.” XII.20 Tử Trương vấn: “Sĩ hà như tư khả vị chi đạt hĩ?” Tử viết: “Hà tai, nhĩ sở vị đạt giả”. Tử Trương đối viết: “Tại bang tất văn, tại gia tất văn”. Tử viết: “Thị văn dã, phi đạt dã. Phù đạt dã giả, chất trực nhi hiếu nghĩa, sát ngôn nhi quan sắc, lự dĩ há nhân, tại bang tất đạt, tại gia tất đạt. Phù văn dã giả, sắc thủ nhân nhi hành vi, cư chi bất nghi, tại bang tất văn, tại gia tất văn.” Dịch. – Tử Trương hỏi: “Kẻ sĩ (kẻ làm quan) như thế nào thì có thể gọi là đạt?” Khổng tử hỏi lại: “Theo ý anh, đạt là thế nào?” Tử Trương đáp: “Làm quan một nước có tiếng tăm, làm gia thân cho một nước có tiếng tăm”. Khổng tử bảo: “Như vậy là tiếng tăm chứ không phải đạt. Người đạt thì chất phác chính trực mà thích làm điều nghĩa, biết xét lời nói, quan sát nét mặt của người khác (mà hiểu tâm ý họ), biết suy nghĩ khiêm nhường ở dưới người: như vậy làm quan một nước sẽ “đạt”, làm gia thần cho một đại phu sẽ “đạt”. Còn người có tiếng tăm thì bề ngoài làm bộ nhân đức mà hành vi trái nhân đức, thế mà vẫn tin chắc rằng mình nhân đức. Như vậy làm quan một nước |
sẽ có tiếng tăm, làm gia thần một đại phu sẽ có tiếng tăm.” XII.21 Phàn Trì tùng du ư Vũ Vu chi hạ, viết: “Cảm vấn sùng đức, tu thắc, biện hoặc”. Tử viết: “Thiện tai vấn! Tiên sự, hậu đắc, phi sùng đức dư? Nhất triêu chi phẫn, vong kì thân dĩ cập kì thân, phi hoặc dư?” Dịch. – Phàn Trì tản bộ với Khổng tử ở chân đàn Vũ Vu, thưa: “Con xin hỏi thầy thế nào là tôn sùng đức hạnh, trị cái xấu ở trong lòng, không mê hoặc?” Khổng tử đáp: “Câu hỏi đó hay! Làm điều lành trước rồi mới lượm kết quả[151], như vậy không phải là tôn sùng đức hạnh sao? Tự trách lỗi của mình, mà không trách lỗi của người, như vậy không phải là trị cái xấu trong lòng sao? Trong một lúc tức giận mà quên mất mình đi, để liên luỵ cha mẹ, như vậy không phải là mê hoặc sao?” XII.22 Phàn Trì vấn nhân. Tử viết: “Ái nhân”. Vấn trí. Tử viết: “Tri nhân”. Phàn Trì vị đạt. Tử viết: “Cử trực thố chư uổng, năng sử uổng giả trực”. Phàn Trì thoái kiến Tử Hạ, viết: “Hướng dã, ngô kiến ư phu tử nhi vấn trí. Tử viết: “Cử trực thố chư uổng, năng sử uổng giả trực”, hà vị dã?” Tử Hạ viết: “Phú tai ngôn hồ! Thuấn hữu thiên hạ, tuyển ư chúng, cử Cao Dao, bất nhân giả viễn hỉ. Thang hữu thiên hạ, tuyển ư chúng, cử Y Doãn, bất nhân giả viễn hĩ.” Dịch. – Phàn Trì hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Yêu người”. Hỏi về đức trí, đáp: “Biết người”. Phàn Trì chưa hiểu rõ, Khổng tử giảng thêm: “Đề bạt người chính trực lên trên người cong queo thì có thể khiến cho người cong queo hoá ra chính trực”. Phàn Trì lui ra, kiếm Tử Hạ hỏi: “Mới rồi, tôi vô yết kiến thầy, hỏi về trí. Thầy bảo: “Đề bạt người chính trực lên trên người cong queo thì có thể khiến cho người cong queo hoá ra chính trực”. Như vậy nghĩa là sao?” Tử Hạ đáp: “Lời thầy hàm súc lắm. Ông Thuấn khi có thiên hạ (lên ngôi thiên tử) tuyển chọn trong dân chúng mà đề bạt ông Cao Dao, mà những kẻ |
bất nhân đều xa lánh. Ông Thang khi có thiên hạ, tuyển chọn trong dân chúng mà đề bạt ông Y Doãn, mà những kẻ bất nhân đều xa lánh.” Chú thích. – Cao Dao là hiền thần vua Thuấn. Y Doãn là hiền thần vua Thang. XII.23 Tử Cống vấn hữu. Tử viết: “Trung cáo nhi thiện đáo chi, bất khả tắc chỉ, vô tự nhục yên.” Dịch. – Tử Cống hỏi về cách cư xử với bạn bè. Khổng tử đáp: “(Bạn có lỗi) thì trung thành bảo bạn và khéo léo khuyên răn, bạn bè không nghe thì thôi đừng nói nữa mang nhục.” XII.24 Tăng Tử viết: “Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân.” Dịch. – Tăng Tử nói: “Người quân tử dùng văn chương để họp bạn, dùng bạn để giúp nhau tiến lên đức nhân.” THIÊN XIII TỬ LỘ XIII.1 Tử Lộ vấn chính. Tử viết: “Tiên chi, lao chi”. Thỉnh ích. Viết: “Vô quyện.” Dịch. – Tử Lộ hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Phải làm trước những công việc của dân, phải khó nhọc vì dân”. Tử Lộ xin thầy giảng thêm. Ông nói: “Làm không biết mệt.” Chú thích. – Có người hiểu là: “Phải làm trước công việc thiện để làm gương cho dân”. Có người bảo chữ [ 勞] đọc là lạo, và dịch: “phải vỗ về an ủi” dân. XIII.2 Trọng Cung vi Quí thị tể, vấn chính. Tử viết: “Tiên hữu ti, xá tiểu quá, cử hiền tài”. Viết: “Yên tri hiền tài nhi cử chi?” Viết: “Cử nhĩ sở tri. Nhĩ sở bất tri, nhân kì xá chư?” Dịch. – Trọng Cung làm quan tể cho họ Quí, hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Đích thân thống suất các viên hữu ti (các |
viên chức dưới quyền quan tể), tha những lỗi nhỏ của họ, đề bạt những người hiền tài”. Trọng Cung lại hỏi: “Làm sao biết được người hiền tài mà đề bạt?” Đáp: “Cứ đề bạt những người anh biết, còn những người anh không biết thì người khác lẽ nào bỏ họ (mà không giới thiệu)?” XIII.3 Tử Lộ viết: “Vệ quân đãi tử nhi vi chính, tử tương hề tiên? Tử viết: “Tất dã chính danh hồ?” Tử Lộ viết: “Hữu thị tai, tử chi vu dã, hề kì chính”. Tử viết: “Dã tai, Do dã! Quân tử ư kì sở bất tri, cái khuyết như dã. Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng, tắc dân vô sở thố thủ túc. Cố quân tử danh chi tất khả ngôn dã; ngôn chi tất khả hành dã. Quân tử ư kì ngôn, vô sở cẩu nhi dĩ Dịch. – Tử Lộ hỏi: “Nếu vua Vệ mà giữ thầy lại mà nhờ thầy coi chính sự thì thầy làm việc gì trước?” Khổng tử đáp: “Tất phải chính danh trước hết chăng?” Tử Lộ nói: “Vậy ư? Lời thầy vu khoát rồi. Sao lại phải chính danh?” Khổng tử nói: “Do, anh thật thô thiển. Người quân tử có điều gì không biết thì không nói bậy. Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lí (vì danh hiệu không hợp thực tế); lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc, chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng; hình phạt không trúng thì dân đâu biết đặt tay chân vào đâu (không |
biết làm thế nào cho phải). Cho nên người quân tử đã dùng cái danh gì thì tất nói ra được (nói phải thuận lí); đã nói điều gì thì tất phải làm được. Đối với lời nói, người quân tử không thể cẩu thả được.” Chú thích. – Thời đó vua Vệ là Xuất Công Triếp, chống cự với cha. (cha Triếp là Khoái Quí chống Nam Tử – mẹ Khoái Quí – vì dâm loạn; mà Triếp lại được Nam Tử đưa lên làm vua để cự Khoái Quí). Như vậy là cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi không ra tôi, danh không chính. Khổng tử muốn nói rằng, việc đầu tiên phải xin thiên tử nhà Chu lập một công tử khác làm vua Vệ, cho danh chính ngôn thuận đã rồi nước mới yên. XIII.4 Phàn Trì thỉnh học giá. Tử viết: “Ngô bất như lão nông”. Thỉnh học vi phố. Viết: “Ngô bất như lão phố.” Phàn Trì xuất. Tử viết: “Tiểu nhân tai, Phàn Tu dã! Thượng hiếu lễ, tắc dân mạc cảm bất kính; thượng hiếu nghĩa, tắc dân mạc cảm bất phục; thượng hiếu tín, tắc dân mạc cảm bất dụng tình. Phù như thị, tắc tứ phương chi dân cưỡng phụ kì tử nhi chí hĩ, yên dụng giá?” Dịch. – Phàn Trì xin học làm ruộng. Khổng tử bảo: “Ta không bằng một nông dân già”. Lại xin học làm vườn. Khổng tử bảo: “Ta không bằng một người làm vườn già.” Phàn Trì ra rồi, Khổng tử nói: “Phàn Tu (tức Phàn Trì) bỉ lậu thay! Người trên ham điều lễ thì dân không dám không kính; người trên ham làm điều nghĩa thì dân không dám không phục tòng; người trên ham đức thành tín thì dân không dám không trung trực. Được như vậy thì dân bốn phương sẽ chịu, cõng con |
mà tới, hà tất phải học làm ruộng.” XIII.5 Tử viết: “Tụng Thi tam bách, thụ chi dĩ chính, bất đạt; sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối. Tuy đa, diệc hề dĩ vi?” Dịch. – Khổng tử nói: “Đọc ba trăm thiên Kinh Thi, giao cho việc chính trị mà làm không nên; sai đi sứ bốn phương mà không biết ứng đối, như vậy đọc nhiều để làm gì?” XIII.6 Tử viết: “Kì thân chính, bất lệnh nhi hành; kì thân bất chính, tuy lệnh bất tòng.” Dịch. – Khổng tử nói: “Mình mà chính đáng (ngay thẳng, đàng hoàng), dù không ra lệnh, dân cũng theo; mình không chính đáng, tuy ra lệnh, dân cũng chẳng theo.” XIII.7 Tử viết: “Lỗ Vệ chi chính, huynh đệ dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Chính trị của nước Lỗ và nước Vệ giống nhau như anh em.” Chú thích. – Vua Lỗ là hậu duệ của Chu Công, vua Vệ là hậu duệ của Khang Thúc, mà Chu Công và Khang Thúc là anh em ruột, Nhưng chúng ta không biết Khổng tử muốn chê hai nước Lỗ, Vệ thời ông là suy loạn như nhau (nước Vệ thời đó quá suy); hay muốn khen hai nước ấy còn giữ được truyền thống cũ, về văn hóa, có hi vọng cải thiện được, vì vậy mà ông trước sau năm lần tới Vệ, muốn giúp Vệ? Cứ theo bài VI.22 ông khen Lỗ, thì bài này cũng có thể ông khen nữa. XIII.8 Tử vị Vệ công tử Kinh thiện cư thất. Thủy hữu, viết: “Cẩu hợp hĩ”. Thiểu hữu, viết: “Cẩu hoàn hĩ”. Phú hữu, viết: “Cẩu mĩ hĩ.” Dịch. – Khổng tử khen công tử Kinh nước Vệ là khéo tính việc nhà (kiệm tiên thi túc). Khi mới có của cải, công tử Kinh bảo: “Tạm cho là có của rồi”; khi tăng lên một chút, bảo: “Tạm |
đủ rồi”; khi giàu có, bảo: “Kể như tốt đẹp quá rồi.” XIII.9 Tử thích Vệ, Nhiễm Hữu bộc. Tử viết: “Thứ hĩ tai!” Nhiễm Hữu viết: “Kí thứ hĩ, hựu hà gia yên?” Viết: “Phú chi”. Viết: “Kí phú hĩ, hựu hà gia yên?” Viết: “Giáo chi.” Dịch. – Khổng tử tới nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe. Khổng tử nói: “Dân đông nhĩ?” Nhiễm Hữu hỏi: “Đông dân rồi thì (nhà cầm quyền) phải làm gì thêm nữa?” Đáp: “Làm cho dân giàu”. Hỏi: “Dân đã giàu rồi, phải làm gì thêm nữa?” Đáp: “Giáo hoá dân.” XIII.10 Tử viết: “Cẩu hữu dụng ngã giả, cơ nguyệt nhi dĩ khả dã, tam niên hữu thành.” Dịch. – Khổng tử nói: “Có ai dùng ta (cầm quốc chính) thì một năm cương kỉ đã khá, ba năm sẽ thành công.” XIII.11 Tử viết: “‘Thiện nhân vi bang bách niên, diệc khả dĩ thăng[152] tàn khứ sát hĩ’. Thành tai thị ngôn dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cổ nhân có câu: ‘Nếu có người thiện liên tục trị nước trong suốt một trăm năm thì có thể khiến kẻ tàn bạo thuần phục mà bỏ hình phạt chém giết’. Lời ấy rất đúng.” XIII.12 Tử viết: “Như hữu vương giả, tất thế nhi hậu nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Như có bậc thánh nhân làm thiên tử thì phải mất một đời (30 năm) thì mọi người mới có nhân đạo được.” XIII.13 Tử viết: “Cẩu chính kì thân hĩ, ư tòng chính hồ hà hữu? Bất năng chính kì thân, như chính nhân hà?” Dịch. – Khổng tử nói: “Nếu giữ thân mình cho đoan chính thì tòng sự chính trị có gì khó? Không giữ thân mình cho đoan chính thì làm sao sửa cho người khác đoan chính được?” |
Chú thích. – Bài này ý nghĩa như bài XIII. XIII.14 Nhiễm Tử thoái triều, Tử viết: “Hà án dã?” Đối viết: “Hữu chính”. Tử viết: “Kì sự dã. Như hữu chính, tuy bất ngô dĩ, ngô kì dữ văn chi.” Dịch. – Nhiễm tử ở triều đình (triều đình riêng của họ Quí) về. Khổng tử hỏi: “Sao về trễ vậy?” “Có việc quyết chính”. Khổng tử nói: “Ta ngờ chỉ là gia sự (của họ Quí) [153]. Nếu việc quốc chính thì tuy ta không tại chức, tất cũng được dự nghe” [154]. XIII.15 Định công vấn: “Nhất ngôn nhi khả dĩ hưng bang, hữu chư?” Khổng tử đối viết: “Ngôn bất khả dĩ nhược thị kì cơ dã. Nhân chi ngôn viết: “Vi quân nan, vi thần bất dị”. Như tri vi quân chi nan dã, bất cơ hồ nhất ngôn nhi hưng bang hồ”. Viết: “Nhất ngôn nhi táng bang, hữu chư?” Khổng tử đối viết: “Ngôn bất khả dĩ nhược thị kì cơ dã. Nhân chi ngôn viết: “Dự vô lạc hồ vi quân, duy kì ngôn, nhi mạc dự vi dã”. Như kì thiện, nhi mạc chi vi dã, bất diệc thiện hồ? Như bất thiện nhi mạc chi vi dã, bất cơ hồ nhất ngôn nhi táng bang hồ?” Dịch. – Vua Định công nước Lỗ hỏi: “Một lời nói có thể làm cho nước nhà hưng thịnh, có vậy sao?” Khổng tử đáp: “Lời nói không hẳn có tác động được như vậy, có thể gần được vậy. (Ví dụ) người đời nói: “Làm vua khó, làm bề tôi không dễ”. Nếu biết làm vua khó (mà phải hết sức cẩn thận) thì một lời nói cơ hồ chẳng làm cho nước nhà hưng thịnh được đấy ư?” Vua Định công lại nói: “Một lời nói có thể làm cho mất nước, có vậy không?” Khổng tử đáp: “Lời nói không hẳn có tác động được như vậy, có thể gần được vậy. (Ví dụ) người đời nói: “Ta làm vua chẳng có gì vui cả, ngoài cái vui này, ta nói ra không ai dám trái lời ta”. Vua nói lời phải mà không ai dám trái lời thì chẳng hay lắm sao? Nhưng nếu vua nói điều quấy mà không ai dám trái lời thì cơ hồ một lời nói chẳng làm cho mất nước đấy ư?” |