text
stringlengths 1
809k
|
---|
季康子问政於孔子曰:“如杀无道,以就有道,何如?”孔子对曰:“子为政,焉用杀?子欲 善而民善矣。君子之德风,人小之德草,草上之风, 必偃” 。 Quý Khang tử vấn chính ƣ Khổng tử viết: Nhƣ sát vô đạo, dĩ tựu hữu đạo, hà nhƣ? 107 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Khổng tử đối viết: “Tử vi chính, yên dụng sát ? Tử dục thiện nhi dân thiện hĩ. Quân tử chi đức phong, nhân tiểu chi đức thảo, thảo thƣợng chi phong, tất yển. Quý Khang tử hỏi Khổng tử về chính sự: Giết kẻ vô đạo, khiến dân biết mà theo đạo, đƣợc không ? Khổng tử đáp: Ngài cầm quyền quốc gia, cần gì phải giết ngƣời ? Ngài thực sự làm điều thiện thì dân sẽ làm điều thiện. Đức hạnh quân tử nhƣ gió, đức hạnh kẻ tiểu nhân nhƣ cỏ. Gió thổi trên cỏ thì cỏ nhất định rạp theo chiều gió. 12·20 子张问:“士何如斯可谓之达矣?”子曰:“何哉,尔所谓达者?”子张对曰:“在邦必闻,在 家必闻”。子曰:“是闻也,非达也。夫达也者,质直 而好义,察言而观色,虑以下人。 在邦必达,在家必达。夫闻也者,色取仁而行违,居之不疑。在邦必闻,在家必闻” 。 Tử Trƣơng vấn: Sĩ hà nhƣ tƣ khả vị chi đạt hĩ? Tử viết: Hà tai, nhĩ sở vị đạt giả? Tử Trƣơng đối viết: “Tại bang tất văn, tại gia tất văn”. Tử viết: Thị văn dã, phi đạt dã. Phu đạt dã giả, chất trực nhi hiếu nghĩa, sát ngôn nhi quan sắc, lự dĩ hạ nhân. Tại bang tất đạt, tại gia tất đạt. Phu văn dã giả, sắc thủ nhân nhi hành vi, cƣ chi bất nghi. Tại bang tất văn, tại gia tất văn. Tử Trƣơng hỏi: Kẻ sĩ nhƣ thế nào gọi là thành đạt ? Khổng tử nói: “Theo ngƣơi nghĩ đạt là gì?”. Tử Trƣơng thƣa: Khi làm quan ở triều đình có danh tiếng, ở quê nhà cũng có danh tiếng. Khổng tử nói: Đó gọi là văn chứ không phải đạt. Đạt nghĩa là phải có phẩm chất chính trực, thích làm việc nghĩa, giỏi phân tích lời nói và giỏi quan sát sắc mặt ngƣời khác, khiêm tốn nhƣờng nhịn ngƣời khác. Ngƣời nhƣ vậy làm quan triều đình nhất định đạt, ở |
nhà cũng đạt. 12·21 樊迟从游於舞雩之下,曰:“敢问崇德、修慝、辨惑”。子曰:“善哉问!先事后得,非崇德与 ?攻其恶,无攻人之恶,非修慝与?一朝之忿,忘兲身,以及兲亲,非惑与?” Phàn Trì tòng du ƣ Vũ Vu chi hạ, viết: Cảm vấn sùng đức, tu thắc biện hoặc. Tử viết: Thiện tai vấn ! Tiên sự hậu đắc, phi sùng đức dự? Công kỳ ố, vô công nhân chi ố, phi tu thắc dự ? Nhất triều chi phẫn, vong kỳ thân, dĩ cập kỳ thân, phi cảm dự ? Phàn Trì theo chân Khổng tử đi thăm đài Vũ Vu, hỏi: Dám hỏi thầy làm thế nào để tu dƣỡng đạo đức, diệt ác trừ mê hoặc ? Khổng tử nói: Câu hỏi hay quá! Trƣớc hãy làm việc thiện, chẳng phải là sùng đạo à? Phê phán cái xấu của mình, không chỉ trich cái sai của ngƣời khác, đó chẳng phải trừ bỏ lòng ác ƣ? Nhất thời nóng giận mà quên bản thân, lại làm liên lụy cả cha mẹ, đó không phải mê hoặc ƣ? 12·22 攀迟问仁。子曰:“爱人” 。问知。子曰:“知人”。樊迟未达。子曰:“举直错诸枉,能使枉 者直”。樊迟退,见子夏曰:“乡也吾见於夫子而问 知,子曰„举直错诸枉,能使枉者直‟, 108 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 何谓也?” 子夏曰:“富哉言乎!舜有天下,选於众,举皋陶,不仁者远矣。汤有天下, 选於众,举伊 尹,不仁者远矣”。 Phàn Trì vấn nhân. Tử viết: Ái nhân. Vấn tri. Tử viết: Tri nhân.Phàn Trì vị đạt. Tử viết: Cử trực thố chƣ uổng. Năng sử uổng giả trực. Phàn Trì thoái, kiến Tử Hạ viết: Hƣơng dã ngô liến ƣ phu tử nhi vấn trí, Tử viết: Cử trực thố chƣ uổng. Năng sử uổng giả trực, hà vị dã?. Tử Hạ viết: Phú tai ngôn hồ! Thuấn hữu thiên hạ, tuyển ƣ chúng, cử Cao Đào, bất nhân giả viễn hĩ. Thang hữu thiên hạ, tuyển ƣ chúng, cử Y Doãn, bất nhân giả viễn hĩ. Phàn Trì hỏi về chữ nhân. Khổng tử nói: “Yêu ngƣời”. Hỏi về sự hiểu biết, Khổng tử nói: “Biết ngƣời”. Phàn Trì không hiểu đƣợc. Khổng tử nói tiếp: “Cử ngƣời ngay thẳng ở trên kẻ ác thì có thể biến kẻ ác thành ngay thẳng”. Phàn Trì ra về, gặp Tử Hạ, nói: “Vừa rồi tôi gặp thầy hỏi về đức trí, thầy bảo „đem ngƣời ngay thẳng ở trên kẻ ác thì có thể biến kẻ ác thành ngay thẳng‟. Nhƣ vậy là thế nào? Tử Hạ nói: Câu nói này rất phong phú ! Vua Thuấn xƣa đƣợc thiên hạ, chọn nhân tài trong quần chúng là ông Cao Đào, kẻ bất nhân dần dần không còn nữa. Vua Thang đƣợc thiên hạ cũng chọn nhân tài trong dân chúng cất nhắc đƣợc ông Y Doãn. Dần dần kẻ bất nhân cũng không còn. |
12·23 子贡问友。子曰:“忠告而善道之,不可则止,毋自辱也”。 Tử Cống vấn hữu. Tử viết: Trung cáo nhi thiện đạo chi, bất khả tắc chỉ, vô tự nhục dã. Tử Cống hỏi về quan hệ bằng hữu. Khổng tử nói: Đem lòng trung thành mà khuyên bạn làm điều tốt, không đƣợc thì thôi, đừng tự chuốc lấy nhục nhã. 12·24 曾子曰:“君子以文会友,以友辅仁”。 Tăng Tử viết: Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân. Tăng Tử nói: Quân tử dùng văn chƣơng để tập hợp bạn bè, dùng bạn mà bồi dƣỡng nhân đức. Hết thiên 12 1. 13. 子路Tử Lộ 第十三篇 thiên 13 109 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 13·1 子路问政。子曰:“先之劳之”。请益。曰:“无倦” 。 Tử Lộ vấn chính. Tử viết: Tiên chi lao chi. Thỉnh ích. Viết: Vô quyện. Tử Lộ hỏi về quản lý chính sự. Khổng tử nói: Phải chịu vất vả cùng dân khó nhọc. Tử Lộ xin giảng thêm. Khổng tử nói: Không biết mệt mỏi. 13·2 仲弓为季氏宰,问政。子曰:“先有司,赦小过,举贤才”。曰:“焉知贤才而举之?” 曰:“ 举尔所知。尔所不知,人其舍诸?” Trọng Cung vi Quý thị tể, vấn chính. Tử viết: Tiên hữu ti, xá tiểu quá, cử hiền tài. Viết: Yên tri hiền tài nhi cử chi?. Viết: Cử nhĩ sở tri. Nhĩ sở bất tri, nhân kỳ xá giả ? Trọng Cung làm tổng quản cho họ Quý, hỏi về chính sự. Khổng tử nói: Trƣớc hãy giao việc và kiểm soát ngƣời dƣới quyền, bỏ qua lỗi nhỏ, chọn cử hiền tài. Cung nói: Làm sao biết hiền tài để cử ra? Khổng tử nói: Cử ngƣời mà mình biết, còn ngƣời mà mình không biết, ngƣời ta có bỏ họ đâu. 13·3 子路曰:“卫君待子为政,子将奚先?”子曰:“必也正名乎!”子路曰:“有是哉,子之迂也!奚兲 正?” 子曰:“野哉,由也!君子於兲所不知,盖阙如也。名不正则言不顺,言不顺则事不成, 事不成则礼乐不兴,礼乐不兴则刑罚不中,刑罚不中,则民无所措手足。故君子名之必可 言 也,言之必可行也。君子於兲言,无所苟而已矣” Tử Lộ viết: Vệ quân đãi tử vi chính, tử thƣơng hề tiên ? Tử viết: Tất dã chính danh hồ! Tử Lộ viết: Hữu thị tai, tử chi vu dã ! Hề kỳ chính ? Tử viết: Dã tai, Do dã ! Quân tử ƣ kỳ sở bất tri, thiện khuyết nhƣ dã. Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự |
bất thành tắc lễ nhạc bất hƣng, lễ nhạc bất hƣng tắc hình phạt bất trung, hình phạt bất trung tắc dân vô sở thố thủ túc. Cố quân tử danh chi tất khả ngôn dã, ngôn chi tất khả hành dã. Quân tử ƣ kỳ ngôn, vô sở cẩu nhi dĩ hĩ. Tử Lộ nói: Nếu vua nƣớc Vệ mời thầy đi làm quan, thầy làm gì trƣớc tiên? Khổng tử nói: Tất phải chính danh đã. Tử Lộ nói: Phải vậy ƣ ? Thầy nói viển vông quá, sao phải chính danh ? 110 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Khổng tử nói: Trò Do sao nói năng thô thiển thế? Quân tử gặp việc mình chƣa rõ thì không nên nói tùy tiện…Danh không hợp thì lời nói sẽ không thuận, nói không thuận thì việc không thành. Việc không thành thì lễ nhạc mất trật tự. Lễ nhạc mất trật tự thì hình phạt không đúng đắn, hình phạt không đúng thì dân không biết làm thế nào cho đúng. Vậy ngƣời quân tử khi có danh phù hợp với thực thì có thể nói ra đƣợc, nói đƣợc thì thực hành thông suốt. Quân tử không bao giờ sơ suất với lời nói của mình. (Chú thích: Bài này thể hiện rõ Thuyết chính danh của Khổng tử) 13·4 樊迟请学稼。子曰:“吾不如老农”。请学为圃。曰:“吾不如老圃”。樊迟出。子曰: “小人 哉,樊须也!上好礼,则民莫敢不敬,上好义,则民莫敢不服;上好信,则民莫敢不用情。 夫如是,则四方之民襁负其子而至矣,焉用稼?” Phàn Trì thỉnh học giá. Tử viết: “Ngô bất nhƣ lão nông”. Thỉnh học chi phố. Viết: “Ngô bất nhƣ lão phố”. Phàn Trì xuất. Tử viết: “Tiểu nhân tai, Phàn tu dã! Thƣợng hiếu lễ, tắc dân mạc cảm bất kính, thƣợng hiếu nghĩa tắc dân mạc cảm bất phục; Thƣợng hiếu tín, tắc dân mạc cảm bất dụng tình. Phu nhƣ thị, tắc tứ phƣơng chi dân cƣỡng phụ kỳ tử nhi chí hĩ, yên dụng giá ?”. |
Phàn Trì xin học làm ruộng. Khổng tử nói: Ta đâu phải lão nông. Phàn lại xin học làm vƣờn. Khổng tử đáp: Ta đâu biết làm vƣờn. Phàn Trì ra ngoài. Khổng tử nói: Phàn Trì đúng là kẻ tiểu nhân. Ngƣời trên trọng lễ thì dân đâu dám coi thƣờng. Ngƣời trên trọng nghĩa thì dân ai dám không phục tùng. Ngƣời trên coi trọng tín thì dân nào dám giả dối. Làm đƣợc nhƣ vậy thì dân chúng bốn phƣơng cõng con tới theo mình hết. Cần gì phải học trồng trọt. 13·5 子曰:“诵诗三百,授之以政,不达;使於四方,不能专对。虽 多,亦奚以为?” Tử viết: Thông thi tam bách, thụ chi dĩ chính, bất đạt; Sử ƣ tứ phƣơng, bất năng chuyên đối. Tuy đa, diệc hề dĩ vi? Khổng tử nói: Học thông ba trăm bài Kinh Thi, khi đƣợc giao chính sự thì làm không nổi, đi sứ nƣớc ngoài không ứng đối đƣợc. Học nhiều thế có ích gì ? (Chú thích: Khổng tử chê cái anh thuộc lòng mà không hiểu nghĩa l ý) 13·6 子曰:“兲身正,不令而行;兲身不正,虽令不从” 。 Tử viết: Kỳ thân chính, bất mệnh nhi hành; Kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Khổng tử nói: Bản thân chính đáng, dù không ra lệnh ngƣời dƣới vẫn chấp hành.; 111 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Bề trên thiếu ngay thẳng, tuy ra mệnh lệnh ngƣời dƣới cũng chẳng thi hành. 13·7 子曰:“鲁卫之政,兄弟也” 。 Tử viết: Lỗ Vệ chi chính, huynh đệ dã. Khổng tử nói: Chính sự nƣớc Lỗ và nƣớc Vệ giống nhƣ hai anh em vậy. 13·8 子谓卫公子荆:“善居室。始有,曰:„苟合矣‟。少有,曰:„苟完矣‟。富有,曰:„苟美矣 ‟”。 Tử vị Vệ công tử Kinh: Thiện cƣ thất. Thỉ hữu, viết: Cẩu hợp hĩ. Thiếu hữu, viết: Cẩu hoàn hĩ. Phú hữu, viết: Cẩu mỹ hĩ. Khổng tử nói về công tử Kinh nƣớc Vệ: “Thật khéo cƣ xử việc nhà. Vừa mới có của ông ấy đã bảo „Thế là đủ rồi‟. Vừa có thêm một ít, ông ấy lại bảo: „Vậy là đầy đủ rồi‟. Về sau giàu có hơn, ông ấy bảo: „Thế là hoàn mỹ rồi‟. |
(Lời bàn: Công tử Kinh là ngƣời giản dị, có thế nào cũng hài lòng, không ham muốn, dễ thỏa mãn) 13·9 子适卫,冉有仆。子曰:“庶矣哉!”冉有曰:“既庶矣,又何加焉?” 曰:“富之” 曰:“既富矣,又何加焉?” 曰:“教之”。 Tử đích Vệ, Nhiễm Hữu bộc. Tử viết: Thứ hĩ tai! Nhiễm Hữu viết: Kí thứ hĩ, hựu hà gia yên ? Viết : Phú chi. Viết : Kí phú hĩ, hựu hà gia yên ? Viết: Giáo chi. Khổng tử đến nƣớc Vệ có Nhiễm Hữu theo hầu. Khổng tử nói: Dân chúng đông quá!. Nhiễm Hữu hỏi: Dân đã đông thì làm thế nào? Khổng tử đáp: Phải làm cho họ giàu lên. Nhiễm Hữu lại hỏi: Dân giàu rồi thì làm gì nữa? Khổng tử nói: Phải giáo hóa họ. 13·10 子曰:“苟有用我者,期月而已可也,三年有成”。 Tử viết: Cẩu hữu dụng ngã giả, tƣ nguyệt nhi dĩ khả dã, tam niên hữu thành. 112 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Khổng tử nói: Nếu có ai bổ dụng ta làm quản lý một nƣớc, một năm sau đã khá rồi, ba năm nhất định thành công lớn. 13·11 子曰:“善人为邦百年,亦可以胜残去杀矣。诚哉是言也!” Tử viết: Thiện nhân vi bang bách niên, diệc khả dĩ thắng tàn khứ sát hĩ. Thành tai thị ngôn dã ! Khổng tử nói: Ngƣời xƣa bảo nếu bậc thiện nhân nối nhau trị nƣớc thì sau một trăm năm có thể cảm hoá kẻ tàn bạo thành lƣơng thiện, không cần hình phạt chém giết nữa. Lời này thật hay. 13·12 子曰:“如有王者,必世而后仁”。 Tử viết: Nhƣ hữu vƣơng giả, tất thế nhi hậu nhân. Khổng tử nói: Nếu bậc thánh nhân cai trị, cũng phải đời sau mới thực hiện đƣợc nhân chính (cai trị bằng lòng nhân) (Lời bàn: Cai trị bằng đức nhân là một quá trình lâu dài, kiên trì, không thể thấy ngay kết quả, phải mất nhiều thế hệ mới thực hiện rộng rãi toàn xã hội.) 13·13 |
子曰:“苟正兲身矣,於从政乎何有?不能正兲身,如正人何?” Tử viết: Cẩu chính kỳ thân hĩ, ƣ tòng chính hồ hà hữu? Bất năng chính kỳ thân, nhƣ chính nhân hà? Khổng tử nói: Nếu sửa mình ngay thẳng thì lãnh đạo chẳng thành công ƣ? Không thể tự mình ngay thẳng thì làm sao cho ngƣời khác ngay thẳng đƣợc? 13·14 冉子退朝。子曰:“何晏也?”对曰:“有政”。 子曰:“兲事也?如有政,虽不吾以,吾其与闻之”。 Nhiễm tử thoái trào. Tử viết: Hà yến dã? Đối viết “Hữu chính”. Tử viết: Kỳ sự dã ? Nhƣ hữu chính, tuy bất bất ngô dĩ , ngô kỳ dự văn chi. 113 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Nhiễm Hữu từ nhà họ Quý về. Khổng tử nói: Sao về muộn thế? Nhiễm đáp: Có việc chính sự. Khổng tử nói: Đó chỉ là việc nhà họ Quý thôi. Nếu là chính sự, ta bây giờ tuy thôi làm quan vẫn biết đƣợc. (Chú thích: Nhiễm Hữu làm tổng quản cho nhà họ Quý quan đại phu nƣớc Lỗ. Họ Quý lộng quyền thƣờng mang việc nƣớc về nhà bàn bạc. Nếu là việc nƣớc thì Khổng tử phải đƣợc tham dự… Lời nói của Khổng tử chỉ nhằm răn dạy Nhiễm Hữu về cách làm việc quan đúng đắn vậy). 13·15 定公问:“一言而可以兴邦,有诸?” 孔子对曰:“言不可以若是兲几也。 人之言曰:„为君难,为臣不易‟. 如知为君之难也,不几乎一言而兴邦乎?” 曰:“一 言而丧邦,有诸 ?”. 孔子对曰:“言不可以若是兲几也”。 人之言曰 :„予无乐乎为君,唯其言而莫予违也‟。 如兲善而莫之违也,不亦善乎?如不善而 莫之违也,不 几乎一言而丧邦乎?” Định công vấn: Nhất ngôn nhi dĩ hƣng bang, hữu giả? Khổng tử đối viết: Ngôn bất khả dĩ nhƣợc thị kỳ kỷ dã. Nhân chi ngôn viết: „Vi quân nan, vi thần bất dịch‟. Nhƣ tri vi quân chi nan dã, bất kỷ hồ ngôn nhi hƣng bang hồ”. Viết: Nhất ngôn nhi tang bang, hữu giả? Khổng tử đối viết: Ngôn bất khả dĩ nhƣợc thị kỳ kỷ dã. Nhân chi ngôn viết: Dƣ vô lạc hồ vi quân, duy kỳ ngôn nhi mạc dƣ vi dã. Nhƣ kỳ thiện nhi mạc chi vi dã, bất diệc thiện hồ ? Nhƣ bất thiện nhi mạc chi vi dã, bất kỷ hồ nhất ngôn nhi tang bang hồ? |
Vua Định Công hỏi: Một lời nói có thể làm đất nƣớc phát triển phải không? Khổng tử đáp: Lời nói khó có thể đạt nhanh nhƣ vậy. Ngƣời ta từng nói „Làm vua khó, làm bề tôi cũng chẳng dễ‟. Nếu biết làm vua khó thì đấy là lời nói chẳng phải có thể làm cho nƣớc hƣng thịnh đƣợc sao? Định Công hỏi tiếp: Một lời nói có thể làm cho đất nƣớc tan hoang, phải không? 114 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Khổng tử đáp: Một lời nói chƣa thể tác hại nhanh nhƣ vậy đƣợc. Nhƣ có ngƣời từng nói „Ta làm vua chƣa thấy sung sƣớng gì, chỉ sƣớng khi nào ta nói ra mà không có ai dám trái lời‟. Nếu vua nói phải thì chẳng ai cãi, nhƣ thế thì tốt quá. Nếu vua nói sai mà chẳng ai phản đối, đó chẳng phải một lời nói có thể làm tan nát đất nƣớc sao? 13·16 叶公问政。子曰:“近者悦,远者来”。 Diệp Công vấn chính. Tử viết: Cận giả duyệt, viễn giả lai. Diệp Công hỏi về chính sự. Khổng tử đáp: Ngƣời ở gần vui vẻ, ngƣời ở xa kéo tới. 13·17 子夏为莒父宰,问政。子曰:无欲速,无见小利。欲速则不达,见小利则大事不成 。 Tử Hạ vi Cử Phụ tể, vấn chính. Tử viết: Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt, kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành. Tử Hạ làm huyện trƣởng huyện Cử Phụ, hỏi về chính sự. Khổng tử nói: Chớ vội vàng, đừng tham lợi nhỏ. Muốn nhanh thì không đến đích, tham lợi nhỏ thì bỏ mất việc lớn. 13·18 叶公语孔子曰:“吾党有直躬者,兲父攘羊,而子证之” 。孔子曰:“吾党之直者异於是:父为 子隐,子为父隐,直在其中矣”。 Diệp Công ngữ Khổng tử viết: Ngô đảng hữu trực cung giả, kỳ phụ nhƣơng dƣơng, nhi tử chứng chi. Khổng tử viết: Ngô đảng chi trực giả di ƣ thị: Phụ vi tử ẩn, bất vi phụ ẩn, trực tại kỳ trung hĩ. |
Diệp Công nói với Khổng tử: Nơi con làm việc có một ngƣời rất ngay thẳng. Cha ăn trộm dê, con ra làm chứng. Khổng tử nói: Ngƣời ngay thẳng ở nơi ta khác với chỗ ngƣơi. Cha che giấu cho con, con che giấu cho cha. Sự ngay thẳng cũng ở trong đó. (Lời bàn: Theo Khổng tử, cha và con che giấu lỗi cho nhau là lẽ thƣờng tình vì có tình phụ tử, nên không thể nói là không ngay thẳng. Vậy, lý và tình có khi không nhất trí với nhau mà là quan hệ tƣ pháp còn chứa đựng mâu thuẫn. Về lý, con làm chứng cha phạm tội là theo lý ngay thẳng, không sai. Nhƣng về tình, cha che giấu tội con cũng thƣờng xảy ra. Quan điểm Khổng tử là phải đem lý và tình thống nhất đƣợc với nhau mới phù hợp thực tế thời bấy giờ). 13·19 樊迟问仁。子曰:“居处恭,执事敬,与人忠。虽之夷狄,不可弃也”。 115 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Phàn Trì vấn nhân. Tử viết: Cƣ xứ cung, chấp sự kính, dự nhân trung. Tuy chi di địch, bất khả khi dã. Phàn Trì hỏi về đức nhân. Khổng tử nói: Cƣ xử cung kính, làm việc thì nghiêm túc cẩn thận, giúp việc ngƣời thì tận lực. Dù đi tới xứ mọi rợ cũng không thể vứt bỏ đức tính này. 13·20 子贡问曰:“何如斯可谓之士矣?” 子曰:“行已有耻,使於四方,不辱君命,可谓士矣”。 曰:“敢问其次”。 曰:“宗族称孝焉,乡党称弟焉”。 曰:“敢问其次”。 曰:“言必信,行必果,硁硁然小人哉!抑亦可以为次矣”。 曰:“今令之从政者何如 ?” 子曰:“噫!斗筲之人,何足算也?” Tử Cống vấn viết: Hà nhƣ tƣ khả vị chi sĩ hĩ ? Tử viết: Hành dĩ hữu sỉ, sử ƣ tứ phƣơng, bất hổ quân mệnh, khả vị sĩ hĩ. Viết: Cảm vấn kỳ thứ. Viết: Tông tộc xứng hiếu yên, hƣơng đảng xứng đệ yên. Viết: Ngôn tất tín, hành tất quả, khanh khanh nhiên tiểu nhân tai ! Ức diệc khả dĩ vi thứ hĩ. Viết: Kim lệnh chi tòng chính giả hà nhƣ? |
Tử viết: Ái ! đấu sao chi nhân, hà túc toán dã ? Tử Cống hỏi: Ngƣời thế nào đáng đƣợc gọi là kẻ sĩ? Khổng tử nói: Làm trái phải biết xấu hổ. Đi sứ nƣớc ngoài không làm mất thể diện vua mình, nhƣ thế có thể gọi là kẻ sĩ. 116 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử Cống hỏi; Xin hỏi kém kẻ sĩ một bậc gọi là ngƣời gì? Khổng tử nói: Đó là ngƣời mà họ hàng bảo là kẻ có hiếu, làng xóm cho là biết đạo anh em. Tử Cống lại hỏi: Kém một bậc nữa thì gọi là gì ạ? Khổng tử: Đó là ngƣời có lời nói tin cậy, hành động quả quyết, cũng là những kẻ nhỏ nhen, kiến thức hẹp hòi. Tuy vậy cũng gọi họ là kẻ sĩ kém hai bậc. Tử Cống hỏi tiếp: Những ngƣời đang làm quan nƣớc Lỗ là loại ngƣời nào? Khổng tử đáp: Ai chà! Những kẻ bụng dạ hẹp hòi, có gì đáng nói! 13·21 子曰:“不得中行而与之,必也狂狷乎!狂者进取,狷者有所不为也” Tử viết: Bất đắc trung hành nhi dự chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ, quyến giả hữu sở bất vi dã. Khổng tử nói: Chẳng gặp đƣợc ngƣời đạt đƣợc tính trung dung để truyền đạo, đành phải tìm đến hạng cuồng giả, quyến giả. Cuồng giả có chí tiến thủ mãnh liệt, quyến giả biết giữ lòng ngay thẳng không làm chuyện bất nghĩa. (Lời bàn: “Cuồng giả” có chí lớn, tính cách mạnh mẽ thái quá, “quyến giả” thì lại rụt rè, biết giữ bổn phận không làm điều bất nghĩa. Cả hai loại ngƣời này đều chƣa đạt trung dung (vừa phải). Khổng tử nói vậy để khuyến khích cả hai đều tiến về phiá đạo lý trung dung thì tốt hơn) 13·22 |
子曰:“南人有言曰:„人而无恒,不可以作巫医‟。善夫!”。 不恒 兲德,或承之羞”。子曰:不占而已矣”。 Tử viết:Namnhân hữu ngôn viết „ Nhân nhi vô hằng, bất khả dĩ tác vu y‟. Thiện phu !” „Bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu‟. Tử viết: Bất chiêm nhi dĩ hĩ. Khổng tử nói: Ngƣời phƣơng nam có câu „Ngƣời không có hằng tâm thì không thể làm thầy cúng hay thầy thuốc đƣợc‟. Câu này rất hay! Kinh Dịch lại có câu „Ngƣời không có đức hạnh bền vững thì thế nào cũng có lúc chuốc lấy sự hổ thẹn‟. Khổng tử nói tiếp: Ngƣời nhƣ thế thì làm thầy bói cũng chả đƣợc. (Chú thích: Hằng tâm là bền lòng, bền chí, kiên định đạo lý, dù thế nào cũng không thay đổi) 13·23 117 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 子曰:“君子和而不同,小人同而不和”。 Tử viết: Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa. Khổng tử nói: Quân tử hoà hợp nhƣng không nhất thiết giống nhau, tiểu nhân a dua mà không hoà hợp. (Lời bàn: Hòa hợp và a dua (阿諛) bề ngoài có vẻ giống nhau. Hòa hợp là thống nhất về tinh thần đạo lý, a dua là mù quáng làm giống ngƣời khác để vụ lợi). 13·24 子贡问曰:“乡人皆好之,何如?” 子曰:“未可也”。“乡人皆恶之,何如?” 子曰:“未可也。不如乡人之善者好之,其不善者恶之”。 Tử Cống vấn viết: Hƣơng nhân giai hiếu chi, hà nhƣ? Tử viết: Vị khả dã. Lại hỏi: Hƣơng nhân giai ố chi, hà nhƣ? Tử viết: Vị khả dã. Bất nhƣ hƣơng nhân chi thiện giả hiếu chi, kỳ bất thiện giả ố chi. Tử Cống hỏi: Ngƣời đƣợc cả làng đều khen thì thế nào? Khổng tử nói: Chƣa hẳn là ngƣời tốt. Tử Cống lại hỏi: Ngƣời mà cả làng đều ghét thì sao ? Khổng tử đáp: Chƣa hẳn là kẻ xấu. Ngƣời thiện trong làng đều khen, kẻ ác đều ghét, ấy mới là ngƣời tốt. |
(Lời bàn: Ngƣời đƣợc cả làng (gồm cả tốt, xấu) khen – ấy là ngƣời “ba phải”. Ngƣời bị cả làng ghét, có thể ngƣời ấy ngay thẳng, không chịu a dua) 13·25 子曰:“君子易事而难说也。说之不以道,不说也;及其使人也,器之。小人难事而易说也。 说之虽不以道,说也;及其使人也,求备焉” 118 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử viết: Quân tử dịch sự nhi nan thuyết dã. Thuyết chi bất dĩ đạo, bất thuyết dã; Cập kỳ sử nhân dã, khí chi. Tiểu nhân nan sự nhi thuyết dã. Thuyết chi tuy bất dĩ đạo, thuyết dã; Cập kỳ sử nhân dã, cầu bị yên. Khổng tử nói: Làm việc với ngƣời quân tửn thì dễ, nhƣng đƣợc lòng quân tử thì khó. Nếu lấy lòng quân tử bằng cách không chính đáng thì quân tử không thích; Ngƣời quân tử sử dụng ngƣời thì dựa theo tài năng, đạo đức mà giao việc. Làm việc với kẻ tiểu nhân thì rất khó. Lấy lòng họ bằng cách không chính đáng thì rất dễ. Kẻ tiểu nhân sai khiến ngƣời khác lại đòi ngƣời ta phải hoàn hảo. 13·26 子曰:“君子泰而不骄,小人骄而不泰”。 Tử viết: Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái. Khổng tử nói: ngƣời quân tử rộng rãi mà không kiêu, tiểu nhân kiêu mà không rộng rãi. 13·27 子曰:“刚、毅、木、讷近仁”。 Tử viết: Cƣơng, nghị, mộc, nột cận nhân. Khổng tử nói: Ngƣời có tính cƣơng trực, chí quyết đoán, lòng mộc mạc, nói cẩn thận là gần với đạo nhân. 13·28 子路问曰:“何如斯可谓之士矣 ?” 子曰:“切切偲偲,怡怡如也,可谓士矣。朋友切切偲偲,兄弟怡怡” Tử Lộ vấn viết: Hà nhƣ tƣ khả vị chi sĩ hĩ ? Tử viết: Thiết thiết ti ti, di di nhƣ dã, khả vi sĩ hĩ. Bằng hữu thiết thiết ti ti, huynh đệ di di. Tử Lộ hỏi : Nhƣ thế nào đƣợc gọi là kẻ sĩ ? Khổng tử nói: Thân mật khuyên bảo, nhẹ |
nhàng vui vẻ có thể là kẻ sĩ. Bạn hữu thân thiết, anh em vui vẻ. 13·29 子曰:“善人教民七年,亦可以即戎矣”。 119 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử viết: Thiện nhân giáo dân thất niên, diệc khả dĩ tức nhung hĩ. Khổng tử nói: Ngƣời thiện nắm quyền giáo hóa dân bảy năm có thể bảo họ ra trận đƣợc. 13·30 子曰:“以不教民战,是谓弃之”。 Tử viết: Dĩ bất giáo dân chiến, thị vị khi chi. Khổng tử nói: Dùng dân chƣa huấn luyện đi đánh trận, là vứt bỏ họ. Hết thiên 13 1. 14. 宪问Hiến vấn 第十四篇 thiên 14 44 bài 14·1 宪问耻。子曰:“邦有道,谷;邦无道,谷,耻也”。“克,伐, 怨, 欲不行焉,可以为仁矣?”. 子曰:“可以为难矣,仁则吾不知也”。 Hiến vấn sỉ. Tử viết: Bang hữu đạo, lộc; Bang vô đạo, lộc, sỉ dã. “ Khắc, phạt, oán, dục bất hành yên, khả dĩ vi nhân hĩ ?”. Tử viết: Khả dĩ vi nan hĩ, nhân tắc ngô bất tri dã. Nguyên Hiến hỏi về chữ sỉ (hổ thẹn). Khổng tử nói: Nƣớc có đạo thì làm quan hƣởng lộc; Nƣớc vô đạo cũng làm quan hƣởng lộc ấy là sự hổ thẹn. Lại hỏi: “Nếu không hiếu thắng, phô trƣơng, oán hận, tham lam thì có thể xem là ngƣời nhân không?”. Khổng tử nói: Có thể coi là ngƣời làm đƣợc việc khó. Ta chƣa biết ngƣời ấy có thể là ngƣời nhân không. 14·2 子曰:士而怀居,不足以为士矣。 Tử viết: Sĩ nhi hoài cƣ, bất túc dĩ diệc sĩ hĩ. Khổng tử :Kẻ chỉ biết tìm cách đƣợc an nhàn thì không thể gọi là kẻ sĩ. 120 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 14·3 子曰:邦有道,危言危行;邦无道,危行言孙。 Tử viết: Bang hữu đạo, nguy ngôn nguy hành; Bang vô đạo, nguy hành ngôn tôn. Khổng tử nói : Nƣớc có đạo thì lời nói ngay thẳng (dám nói lời nguy hiểm), việc làm táo bạo mà đúng đắn. Nƣớc vô đạo thì lời nói phải nhún nhƣờng e dè, nhƣng việc làm vẫn phải giữ |
đúng đắn. (Lời bàn: Nƣớc có đạo tức là do những ngƣời anh minh sáng suốt nắm giữ, họ nghe hiểu đƣợc những lời nói thẳng (nguy), việc làm táo bạo (nguy)… Nƣớc vô đạo do những kẻ độc tài tàn ác cai trị, họ rất ghét những lời nói ngay thẳng trái ý họ, những việc làm không có lợi cho họ) 14·4 子曰: 有德者必有言,有言者不必有德。仁者必有勇,勇者不必有仁。 Tử viết: Hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức. Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả bất tất hữu nhân. Khổng tử nói: Ngƣời đạo đức thì lời nói có đạo lý; Còn ngƣời nói đạo lý chƣa chắc đã có đạo đức. Ngƣời có nhân rất dũng cảm, nhƣng ngƣời dũng cảm chƣa chắc có nhân. 14·5 南宫适问於孔子曰:“羿善射,奡荡舟,俱不得其死然。禹稷躬稼而有天下”。夫子不答。南 宫适出。子曰:“君子哉若人!尚德哉若人!” Nam Cung Đích vấn ƣ Khổng tử viết: Nghệ thiện xạ, Ngạo đãng chu, câu bất đắc kỳ tử nhiên Vũ Tắc cung giá nhi hữu thiên hạ. Phu tử bất đáp. Nam Cung Đích xuất. Tử cung viết: Quân tử tai giả nhân ! Thƣớng đức tai giả nhân! Nam Cung Quát hỏi Khổng tử: Nghệ bắn giỏi, Ngạo đánh trận thủy chiến thành thạo thế mà cuối cùng phải chết bất đắc kỳ tử. Ông Vũ ông Tắc chỉ cần cù làm ruộng mà đƣợc cả thiên hạ (?) Khổng tử không đáp. Nam Cung Quát ra ngoài. Khổng tử nói: “Quát thật là ngƣời quân tử ! Thật là ngƣời ham chuộng đạo đức!”. (Lời bàn:NamCung Quát tức Nam Dung con ngƣời hoàn hảo đã đƣợc Khổng tử gả cháu gái cho. Nam Dung hỏi về Nghê, Ngạo là quyền thần đời trƣớc cậy tài sức, không đƣợc hƣởng phúc, Vũ, Tắc có đức nên thành đạt. Câu hỏi của Dung rất khó, lúc đó Khổng tử chƣa hiểu đƣợc nên ngài khen Dung) |
121 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 14·6 子曰:“君子而不仁者有矣夫,未有小人而仁者也”。 Tử viết: Quân tử nhi bất nhân giả hữu hĩ phu, vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả dã. Khổng tử nói: Ngƣời quân tử có khi lỡ làm việc bất nhân, nhƣng kẻ tiểu nhân chẳng bao giờ làm đƣợc việc nhân. (Lời bàn: Khi ngƣời tử tế mắc sai lầm cũng cần châm chƣớc bởi hoàn cảnh nào đó mà ngƣời ấy lỡ làm sai…) 14·7 子曰:“爱之,能勿劳乎?忠焉,能勿诲乎?” Tử viết: Ái chi, năng vật lao hồ? Trung yên, năng vật hối hồ? Khổng tử nói: Yêu con mà không cho con làm việc nặng nhọc ƣ? Trung với vua mà không khuyên can vua làm cho đúng ƣ ? 14·8 子曰:“为命,裨谌草创之,世叔讨论之,行人子羽修饰之,东里子产润色之”。 Tử viết: Vi mệnh, Tỳ Thầm thảo sáng chi, Thế Thúc thảo luận chi, hành nhân Tử Vũ tu sức chi, đông lý Tử Sản nhuận sắc chi. Khổng tử nói: Theo mệnh vua,Tỳ Thầm viết văn bản, đến Thế Thúc thảo luận, qua Tử Vũ tu sửa, đến phần Tử Sản trau chuốt lần cuối. (Chú thích: Nƣớc Trịnh có tập quán coi trọng việc làm ra văn bản. Có bốn viên quan phụ trách viết văn bản ngoại giao. Kể chuyện này, Khổng tử nhắc nhở học trò sau này làm quan khi viết văn bản phải cẩn thận vì tầm quan trọng của văn bản với quốc gia). 14·9 或问子产。子曰:“惠人也”,问子西。曰:“彼哉!彼哉!”. 问管仲。 曰:“人也。夺伯氏骈邑三百,饭疏食,没齿无怨言” 。 122 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Hoặc vấn Tử Sản. Tử viết: Huệ nhân dã. Vấn Tử Tây. Viết: Bỉ tai ! Bỉ tai! Vấn Quản Trọng. Viết: Nhân dã. Đoạt Bá Thị Biền ấp tam bách, phạn sơ thực, một xỉ vô oán ngôn. Có ngƣời hỏi Khổng tử về Tử Sản. Khổng tử nói: Ngƣời ấy rất khoan dung và yêu dân. Lại hỏi về Tử Tây, Khổng tử nói: “Ngƣời ấy… ngƣời ấy…”. |
Lại hỏi về Quản Trọng, Khổng tử nói: Ngƣời này ƣ, vua Tề lấy ấp Biền ba trăm nhà của Bá Thị thƣởng công cho Quản Trọng khiến Bá Thị nghèo khổ suốt đời mà không hề oán hận. (Chú thích: Tử Tây là tể tƣớng nƣớc Sở chẳng có công tích gì, khi Khổng tử đến nƣớc Sở thì Tử Tây đem lòng đố kỵ vì sợ vua Sở tín nhiệm Khổng tử hơn. Nay nhắc đến hắn, Khổng tử không nỡ đả kích mà rất bao dung độ lƣợng. Quản Trọng là quan tài giỏi, có công lao lớn của nƣớc Tề. Bá Thị bị vua lấy bớt đất cấp cho Quản Trọng mà Bá Thị tâm phục Quản Trọng nên không chút oán giận) 14·10 子曰:“贫而无怨难,富而无骄易”。 Tử viết: Bần nhi vô oán nan, phú nhi vô kiêu dịch. Khổng tử nói: Nghèo mà không oán hận thì rất khó, giàu mà không kiêu rất dễ làm. 14·11 子曰:“孟公绰为赵魏老则优,不可以为滕薛大夫”。 Tử viết: Mạnh Công Xƣớc vi Triệu, Ngụy lão tắc ƣu, bất khả dĩ vi Đằng, Tiết đại phu. Khổng tử nói: Mạnh Công Xƣớc làm gia thần cho họ Triệu, họ Ngụy thì còn dƣ tài năng, nếu làm đại thần nƣớc Đằng, nƣớc Tiết thì chƣa đủ năng lực. 14·12 子路问成人。子曰:“若臧武仲之知,公绰之不欲,卞庄子之勇,冉求之艺,文之以礼乐, 亦可以为成人矣” 曰:“今之成人者何必然?见利思义,见危授命,久要不忘平生之言,亦 可以为成人矣” 。 123 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử Lộ vấn thành nhân. Tử viết: Nhƣợc Tang Vũ Trọng chi tri, công xƣớc chi bất dục, biện trang tử chi dũng, Nhiễm Cầu chi nghệ, văn chi dĩ lễ nhạc, diệc khả dĩ vi thành nhân hĩ. Viết: Kim chi thành nhân giả hà tất nhiên? Kiến lợi tƣ nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cữu yếu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hĩ. |
Tử Lộ hỏi về một ngƣời thành đạt. Khổng tử nói: Có trí tuệ nhƣ Tang Vũ Trọng, liêm khiết nhƣ Mạnh Công Xƣớc, dũng cảm nhƣ Biện Trang Tử, tài nghệ nhƣ Nhiễm Cầu, lại nắm đƣợc lễ nhạc nữa thì xem nhƣ những ngƣời toàn tài. Rồi Khổng tử nói thêm: Bây giờ ngƣời thành nhân có cần nhƣ thế nữa không ? Chỉ cần thấy lợi thì trƣớc hết nghĩ đến nghĩa, gặp việc nguy nan thì sẵn sàng đối phó, lời hứa dù lâu cũng không quên, đƣợc nhƣ vậy thì xem nhƣ thành nhân rồi. 14·13 子问公叔文子於公明贾曰:“信乎,夫子不言,不笑,不取乎?”. 公明贾对曰:“以告者过 也。夫子时然后言,人不厌其言;乐然后笑,人不厌其笑;义然后取,人不厌其取” 子曰 :“兲然?岂其然乎?” Tử vấn Công Thúc Văn Tử ƣ Công Minh Giả viết: Tín hồ, phu tử bất ngôn, bất tiếu, bất thủ hồ? Công minh thúc đối viết: “ Dĩ cáo giả quá dã. Phu tử thời nhiên hậu ngôn, nhân bất yếm kỳ ngôn; nhạc nhiên hậu tiếu, nhân bất yếm kỳ tiếu; Nghĩa nhiên hậu thủ, nhân bất yếm kỳ thủ”. Tử viết: Kỳ nhiên ? Khải kỳ nhiên hồ? Khổng tử hỏi Công Minh Giả về Công Thúc Văn Tử: “Ta nghe nói Công Thúc Văn Tử không nói, không cƣời, không nhận cái gì của ai, điều đó đúng không? Công Minh Giả đáp: “Là ngƣời ta nói quá đấy. Văn Tử chỉ nói lúc đáng nói, nên ngƣời ta nghe không chán; Khi vui mới cƣời nên ngƣời ta thấy cƣời mà không chê; Của hợp nghĩa mới nhận nên ngƣời ta thấy nhận là thích hợp, không khinh bỉ”. Khổng tử nói: Thật vậy ƣ? Chẳng lẽ thật vậy ƣ? 14·14 子曰:“臧武仲以防求为后於鲁,虽曰不要君,吾不信也”。 Tử viết: Tang Vũ Trọng dĩ Phòng cầu vi hậu ƣ Lỗ, tuy viết bất yêu cƣ, ngô bất tín dã. Khổng tử nói: Tang Vũ Trọng lấy đất ấp Phòng để ép vua Lỗ cho con ông ta làm chủ ấp ấy. |
Tuy có ngƣời nói ông ta không ép vua nhƣng riêng ta không tin. 14·15 124 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 子曰:“晋文公谲而不正,齐桓公正而不谲”。 Tử viết: Tấn Văn Công quyệt nhi bất chính, Tề Hoàn Công chính nhi bất quyệt. Khổng tử nói: Tấn Văn Công xảo trá mà bất chính, Tề Hoàn Công chính trực mà không xảo trá. 14·16 子路曰:“桓公杀公子纠,召忽死之,管仲不死”。曰:“未仁乎?”子曰:“桓公九合诸侯 ,不以兵车,管仲之力也。如其仁,如其仁”。 Tử Lộ viết: Hoàn Công sát công tử Củ, Triệu Hốt tử chi, Quản Trọng bất tử. Viết: Vị nhân hồ? Tử viết: Hoàn Công cửu hợp chƣ hầu, bất dĩ binh xa, Quản Trọng chi lực dã. Nhƣ kỳ nhân, nhƣ kỳ nhân. Tử Lộ nói: Tề Hoàn Công giết em là công tử Củ, Triệu Hốt vì thế mà tự sát, còn Quản Trọng không tự sát. Nhƣ thế Quản Trọng không đƣợc coi là ngƣời có nhân chăng? Khổng tử nói: Vua Tề Hoàn Công nhiều lần triệu tập họp chƣ hầu mà không dùng binh lực. Đó là nhờ công sức của Quản Trọng, nhƣ thế còn ai nhân bằng? (Chú thích: Khi Tề Hoàn công và em trai là công tử Củ tranh giành ngôi vua thì Quản Trọng và Triệu Hốt theo giúp công tử Củ. Nghe tin Tề Hoàn Công giết công tử Củ, Triệu Hốt liền tự sát, còn Quản Trọng thì không. Quản Trọng còn theo đuổi lý tƣởng lớn lao hơn một ngôi vua đó là liên minh chƣ hầu tránh dùng vũ lực gây chiến tranh, đó là ngƣời theo đuổi đạo nhân, Vì thế Khổng tử đánh giá cao công trạng của Quản Trọng. Còn Triệu Hốt chỉ đƣợc tiếng khen là ngƣời trung thành với chủ. Quản Trọng để lại một tấm gƣơng sáng rực trong lịch sử Trung Quốc về chính trị, kinh tế, văn hóa và đạo đức). |
14·17 子贡曰:“管仲非仁者与?桓公杀公子纠,不能死,又相之。”子曰:“管仲相桓公,霸诸 侯,一匡天下,民到於今受其赐。微管仲,吾其被发左衽矣。岂若匹夫匹妇之为谅也,自 经於沟渎而莫之知也”。 Tử Cống viết: Quản Trọng phi nhân giả dự? Quản Công sát công tử Củ, bất năng tử, hựu tƣơng chi. Tử viết: Quản Trọng tƣơng Quản Công, bá chƣ hầu, nhất khuông thiên hạ, dân đáo ƣ kim thụ kỳ tứ. Vi Quản Trọng, ngô kỳ bị phát tả nhẫm hĩ. Khải nhƣợc thất phu phụ chi vi luộng dã, tự kinh ƣcâu độc nhi mạc chi tri dã. Tử Cống nói: Quản Trọng không phải là ngƣời có nhân chăng? Vua Tề Hoàn Công giết công tử Củ, Quản Trọng đã không tự sát lại còn làm tể tƣớng cho Tề Hoàn Công. 125 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Khổng tử nói: Quản Trọng làm tể tƣớng cho Tề Hoàn Công, giúp ông ta làm bá chủ chƣ hầu, khiến cho thiên hạ thái bình, đời nay dân chúng vẫn còn chịu ơn. Nếu không có Quản Trọng, sợ rằng hôm nay chúng ta còn đầu bù tóc rối, áo quần rách rƣới, lang thang đó đây. Quản Trọng đâu phải nhƣ ngƣời thƣờng vì việc nhỏ mà tự sát ở khe núi để chẳng ai biết đến. 14·18 公叔文子之臣大夫僎与文子同升诸公。子闻之,曰:“可以为文矣”。 Công Thúc Văn Tử chi thần đại phu soạn dự văn tử đồng thăng giả công. Tử văn chi, viết: Khả dĩ vi văn hĩ. Gia thần của Công Thúc Văn Tử là đại phu Soạn nhờ Công tiến cử mà đƣợc thăng chức đại thần. Khổng tử nghe tin, nói: Công Thúc Văn Tử đáng đƣợc đặt tên thụy là “văn”. (Chú thích: “văn” là có kiến thức) 14·19 子言卫灵公之无道也,康子曰:“夫如是,奚而不丧?”孔子曰:“仲叔圉治宾客,祝鮀治 宗庙,王孙贾治军旅,夫如是,奚其丧?” Tử ngôn Vệ Linh Công chi vô đạo dã, Khang tử viết: Phu nhƣ thị, hề nhi bất tang. Khổng tử viết: Trọng Thúc Ngữ trì tân khách, Chúc Đà thỉ tông miếu, Vƣơng Tôn Giả thỉ quân lữ, phu nhƣ thị, hề kỳ tang ? |
Khổng tử chê vua Vệ Linh Công là kẻ vô đạo. Quý Khang tử hỏi: Dù cho Vệ Linh Công nhƣ vậy, sao nƣớc Vệ không diệt vong? Khổng tử đáp: Bởi vì nƣớc Vệ có Trọng Thúc Ngữ giỏi việc ngoại giao, tiếp đãi tân khách, Chúc Đà quản lý tốt việc tế lễ tông miếu, Vƣơng Tôn Giả giỏi cầm quân. Biết dùng ngƣời nhƣ vậy thì làm sao mất nƣớc đƣợc? (Chú thích: Vua nƣớc Vệ vô đạo nhƣng còn biết dùng nhân tài, do vây còn giữ đƣợc đất nƣớc. Nếu vua Vệ có đạo thì đất nƣớc còn phát triển tốt đẹp hơn). 14·20 子曰:“兲言之不怍,则为之也难” 。 Tử viết: Kỳ ngôn chi bất tạc, tắc vi chi dã nan. Khổng tử nói: Kẻ nói khoác mà không biết tủi thẹn, ắt là khó làm đúng lời đã nói. 126 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 14·21 陈成子弑简公。孔子沐浴而朝,告於哀公曰:“陈恒弑其君,请讨之”公曰:“告夫三子” 。孔子曰:“以吾从大夫之后,不敢不告也。君曰„告夫三子‟者”。 之三子告, 不可。孔子曰 :“以吾从大夫之后,不敢不告也”。 Trần Thành Tử thí Giản Công. Khổng tử mộc dục nhi triêu, cáo ƣ Ai Công viết: Trần Hằng thí kỳ quân, thỉnh thảo chi. Công viết: Cáo phu tam tử. Khổng tử viết: Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất cảm bất cáo dã. Quân viết „cáo phu tam tử‟giả. Chi tam tử cáo, bất khả. Khổng tử viết: Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất cảm bất cáo dã. Trần Thành Tử giết vua Tề Giản Công. Khổng tử tắm gội sạch sẽ, vào triều thƣa với vua Lỗ Ai Công: “Trần Hằng đã giết vua của hắn, xin bệ hạ cho cử binh đi phạt tội hắn”. Vua Lỗ nói: Việc này báo cho ba đại phu biết đã. Khổng tử lui ra nói: “Ta tuy thôi làm quan nhƣng còn đứng sau hàng đại phu, cho nên biết việc này mà không thể không đi báo vua, thế mà vua lại bảo cứ đi hỏi ba đại phu kia”. |
Khổng tử đến báo cho ba đại phu kia, nhƣng chẳng ai ƣng thuận. Khổng tử nói: Ta đứng sau hàng đại phu, cho nên biết việc này thì không thể không đi báo (Chú thích: Theo phép thời Xuân thu, kẻ giết vua là vô đạo, trái lẽ trời, phải bị trừng phạt. Trách nhiệm Khổng tử đã từng làm quan đại phu nên phải tâu lên nhà vua. Ba quan đại phu nƣớc Lỗ cũng là loại quyền thần lấn át vua nên việc làm của Khổng tủ tuy không đạt yêu cầu những cũng có ý răn đe ba vị đai phu ấy). 14·22 子路问事君。子曰:“勿欺也,而犯之”。 Tử Lộ vấn sự quân. Tử viết: Vật khi dã, nhi phạm chi Tử Lộ hỏi về đạo thờ vua, Khổng tử nói: Không đƣợc lừa dối vua, dám can ngăn dù xúc phạm vua. 14·23 子曰:“君子上达,小人下达”。 Tử viết: Quân tử thƣợng đạt, tiểu nhân hạ đạt. Khổng tử nói: Quân tử càng hƣớng về đạo cao, tiểu nhân càng sa xuống thấp hèn. 127 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 14·24 子曰:“古之学者为己,今之学者为人”。 Tử viết: Cổ chi học giả vi kỷ, kim chi học giả vi nhân. Khổng tử nói: Ngƣời xƣa học cho mình, ngƣời đời nay học cho ngƣời khác. (Lời bàn: Ngƣời xƣa đi học là tu thân rồi ra giúp nƣớc để thực hành tri thức. Nay thiên hạ đi học để lấy bằng cấp cho ngƣời ta biết mình, học vì danh lợi) 14·25 蘧伯玉使人於孔子,孔子与之坐而问焉。曰:“夫子何为?”对曰:“夫子欲寡兲过而未能 也” 。使者出,子曰:“使乎!使乎!” Cừ Bá Ngọc sử nhân ƣ Khổng tử, Khổng tử dự chi tọa nhi vấn yên. Viết: Phu tử hà vi? Đối viết: Phú tử dục quả kỳ quá nhi vị năng dã. Sứ giả xuất, Tử viết: Sứ hồ! Sứ hồ ! |
Cừ Bá Ngọc sai ngƣời tới thăm Khổng tử, Khổng tử mời khách ngồi rồi hỏi thăm: Phu tử Cừ nay làm gì? Sứ giả đáp: Ông chủ con muốn giảm lỗi lầm mà chƣa làm đƣợc. Sau khi sứ giả từ biệt ra về, Khổng tử khen: Thật là một sứ giả giỏi, sứ giả giỏi ! (Lời bàn: Sứ giả ngoại giao thật khôn ngoan đúng mực, không phô trƣơng công tích của chủ mà nói chủ đang lo sửa lỗi) 14·26 子曰:“不在兲位,不谋其政”. 曾子曰:“君子思不出兲位”。 Tử viết: Bất tại kỳ vị, bất mƣu kỳ chính. Tằng Tử viết: Quân tử tƣ bất xuất kỳ vị. Khổng tử nói: Không giữ chức vụ gì thì đừng lo nghĩ về chức vị ấy. (Lời bàn: Khổng tử cho rằng ai nên lo phận nấy. Việc ngƣời khác mình không hiểu đƣợc nội tình nên nhận xét có thể sai lạc; lại làm cho tình hình rối loạn hơn). 14·27 子曰:“君子耻兲言而过其行”。 Tử viết: Quân tử sỉ kỳ ngôn nhi quá kỳ hành. Khổng tử nói: Quân tử phải biết hổ thẹn vì lời nói quá so với việc làm. 128 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 14·28 子曰:“君子道者三,我无能焉:仁者不忧,知者不惑,勇者不惧”。子贡曰:“夫子自道也”。 Tử viết: Quân tử đạo giả tam, ngã vô năng yên: nhân giả bất ƣu, tri giả bất hoặc, dũng giả bất cụ. Tử Cống viết: Phu tử tự đạo dã. Khổng tử nói: Đạo quân tử có ba điều mà ta chẳng làm đƣợc một. Ngƣời nhân không lo buồn, kẻ trí không nghi hoặc, ngƣời dũng không sợ hãi”. Tử Cống thƣa: Thầy nói khiêm tốn quá đấy. 14·29 子贡方人。子曰:“赐也贤乎哉?夫我则不暇”。 Tử Cống phƣơng nhân. Tử viết: Tứ dã hiền hồ tai ? Phu ngã tắc bất hạ. Tử Cống hay so sánh ngƣời hơn kẻ kém. Khổng tử nói: Ngƣời giỏi vậy ƣ ? Ta thì không nhà n rỗi nói chuyện đó. |
(Lời bàn: Tử Cống có óc phân tích, so sánh lại thẳng thắn, nhƣng gây cho ngƣời khác mất lòng. Khổng tử khuyên anh ta chẳng nên thế) 14·30 子曰:“不患人之不己知,患兲不能也”。 Tử viết: Bất hoạn nhân chi bất kỷ tri, hoạn kỳ bất năng dã. Khổng tử nói: Chẳng lo ngƣời ta không biết đến mình, chỉ lo mình không có khả năng đức độ để ngƣời ta biết đến. 14·31 子曰:“不逆诈,不亿不信,抑亦先觉者,是贤乎!” Tử viết : Bất nghịch tác, bất ức bất tín, ức diệc tiên giác giả, thị hiền hồ ! Khổng tử nói: Không cần đoán trƣớc sự lừa dối, sự bất tín của ngƣời khác, nhƣng nếu có thì biết ngay. Nhƣ vậy coi là ngƣời hiền rồi. 14·32 129 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 微生亩谓孔子曰:丘,何为是栖栖者与?无乃为佞乎? 孔子曰:非敢为佞也,疾固也 。 Vi Sinh Mẫu vị Khổng tử viết: Khâu, hà vi thị tê tê giả dự ? Vô nãi vi nịnh hồ? Khổng tử viết : Phi cảm vi nịnh dã, tật cố dã. Vi Sinh Mẫu nói với Khổng tử: Ông Khâu, sao cứ phải miệt mài dạy dỗ ngƣời đời nhƣ thế ? Phải chăng ông khoe tài ăn nói, đặng lấy lòng ngƣời ƣ? Khổng tử đáp: Tôi không dám khoe tài, chỉ vì ghét những kẻ cố chấp không chịu hiểu đạo lý. 14·33 子曰:“骥不称其力,称其德也”。 Tử viết : Ký bất xứng kỳ lực, xứng kỳ đức dã. Khổng tử nói: Không nên khen sức mạnh ngựa thiên lý, mà khen cái đức tính của nó. (Chú thích: Đức tính của ngựa đáng khen là dễ sai khiến, trung thành, có tình. Ngƣời xƣa từng nói “khuyển mã chi tình” (tình chó, ngựa). Ý Khổng tử so sánh với con ngƣời: nên trọng ngƣời trung thành có tình hơn kẻ tài giỏi mà vô đức) |
14·34 或曰:“以德报怨,何如?”子曰:“何以报德?以直报怨,以德报德”。 Hoặc viết „Dĩ đức báo oán, hà nhƣ?‟ .Tử viết: Hà dĩ báo đức ? Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức. Có ngƣời hỏi: Lấy đức báo oán thù, vậy đƣợc không? Khổng tử đáp: “Thế lấy gì báo ân đức ? Hãy lấy ngay thẳng báo oán, dùng ân đức để báo đáp ân đức” 14·35 子曰:“莫我知也夫!” 子贡曰:“何为其莫知子也?” 子曰:“不怨天,不尤人。下学而上达,知我 者兲天乎!” Tử viết : Mạc ngã tri dã phu ! Tử Cống viết: Hà vi kỳ mạc tri tử dã? Tử viết: Bất oán thiên, bất vƣu nhân. Hạ học nhi thƣợng đạt, tri ngã giả kỳ thiên hồ ! Khổng tử nói: Chẳng có ai hiểu ta cả! Tử Cống hỏi: Sao không có ai hiểu thầy? Khổng tử nói: Ta không oán trời, không trách ngƣời, ta học việc con ngƣời từ nơi thấp cạn mà hiểu đƣợc việc trời cao siêu. Hiểu ta may ra chỉ có trời. 14·36 公伯寮愬子路於季孙。子服景伯以告,曰:“夫子固有惑志於公伯寮,吾力犹能肆诸市朝” 。子曰:“道之将行也与,命也;道之将废也与,命也。公伯寮兲如命何!” 130 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Công Bá Liêu tố Tử Lộ ƣ Qu í Tôn. Tử Phục Cảnh Bá dĩ cáo, viết: “Phu tử cố hữu hoặc chí ƣ Công Bá Liêu, ngô lực do năng tứ chƣ thị triêu”. Tử viết: “Đạo chi thƣơng hành dã dự, mệnh dã; Đạo chi thƣơng phế dã dự, mệnh dã. Công Bá Liêu kỳ nhƣ mênh hà !”. Công Bá Liêu nói xấu Tử Lộ ở nhà Qu í Tôn. Tử Phục Cảnh Bá nghe đƣợc, nói: Quý Tôn đã bị Công Bá Liêu mê hoặc rồi. Con có thể làm cho Quý Tôn giết Công Bá Liêu đem bêu xác ngoài chợ để thị uy. Khổng tử nói: Đạo của ta có thực hiện đƣợc hay không là do mệnh trời. Công Bá Liêu làm sao bằng mệnh trời đƣợc. |
(Chú thích: Công Bá Liêu là kẻ xấu, muốn phá hoại sự nghiệp của thầy trò Khổng tử nên thƣờng nói xấu với nhà Quý Tôn đại thần nƣớc Lỗ. Tử Phục Cảnh Bá là một học trò của Khổng tử muốn giết Công Bá Liêu nhƣng Khổng tử không đồng ý, ngài tin ở mệnh trời) 14·37 子曰:“贤者辟世,兲次辟地,兲次辟色,兲次辟言”。子曰:“作者七人矣”。 Tử viết : Hiền giả tịch thế, kỳ thứ tịch địa, kỳ thứ tịch sắc, kỳ thứ tịch ngôn. Tử viết: Tác giả thất nhân hĩ. Khổng tử nói: Hiền giả tránh đời vô đạo đi ở ẩn, một số tránh nƣớc loạn mà chạy qua nƣớc khác, một số tránh mặt vua trở mặt, không biết lễ, một số khác tránh kẻ tiểu nhân hay gièm pha. Lại nói thêm: Những ngƣời ấy đã có đến bảy ngƣời rồi. (Chú thích: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trƣơng, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên là bảy ngƣời hiền đi ở ẩn) 14·38 子路宿於石门。晨门曰: “奚自?”.子路曰:“自孔氏”.曰:“是知兲不可而为之者与?” Tử Lộ túc ƣ Thạch Môn. Thần môn viết:“Hề tự?”. Tử Lộ viết: Tự Khổng thị. Viết: Thị tri kỳ bất khả nhi vi chi giả dự ? Tử Lộ nghỉ đêm ở Thạch Môn. Ngƣời giữ của thành hỏi: Thầy ở đâu đến? Tử Lộ trả lời: Từ chỗ thầy Khổng tử đến. Ngƣời giữ thành hỏi: Có phải (Khổng tử) là ngƣời biết chủ trƣơng của mình không thực hiện nổi mà cứ cố làm không ? 14·39 子击磬於卫,有荷蒉而过孔氏之门者,曰:“有心哉,击磬乎!”. 既而曰:“鄙哉!硁硁乎 !莫己知也,斯己而已矣。深则厉,浅则揭”子曰:“果哉!末之难矣” 。 131 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử kích khánh ƣ Vệ, hữu hà khoái nhi quá Khổng thị chi môn giả, viết: Hữu tâm tai, Kích khánh hồ ! K í nhi viết: Bỉ tai ! Khanh khanh hồ ! Mạc kỷ tri dã, tƣ kỷ nhi dĩ hĩ. Thâm tắc lệ, thiển tắc yết. Tử viết: Quả tai! Mạt chi nan hĩ. |
Khổng tử ở nƣớc Vệ đang gõ khánh, có ngƣời bán sọt đựng cỏ đi ngang, nói “Nghe tiếng khánh, biết ngƣời gõ khánh là kẻ có tâm”. Lát sau lại nói: “Tiếng khánh rất khiêm tốn Không có ai biết mình thì chỉ giữ mình thôi. Nƣớc sâu để nguyên quần áo lội qua, nƣớc cạn thì xắn quần lên đi”. Khổng tử nói: “Quả quyết tự tin chƣa kìa! Vậy trên đời chẳng còn có gì khó ƣ?!” (Lời bàn: Ngƣời bàn sọt muốn khuyên Khổng tử chẳng nên cố chấp. Không thể cứu đƣợc đại sự thì mặc nó trôi qua, còn Khổng tử thì luôn luôn bền chí lo đến sự an nguy của thời cuộc mà tim cách phổ biến đạo lý thánh hiền. “Nƣớc sâu để nguyên áo quần lội qua”: câu này đa nghĩa, tạm hiểu: lỡ có chết đuối thì còn nguyên trang phục, mất thân mà giữ đƣợc danh dự chữ lễ ). 14·40 子张曰:“书云:„高宗谅阴,三年不言。‟何谓也?”子曰:“何必高宗?古之人皆然。君薨, 百官总己以听於冢宰三年” Tử Trƣơng viết: Thƣ vân: Cao tông Lƣơng Âm, tam niên bất ngôn. Hà vị dã? Tử viết: Hà tất Cao tông? Cổ chi nhân giai nhiên. Quân hoăng, bách quan tổng kỷ dĩ thính ƣ trủng tể tam niên. Tử Trƣơng nói: Kinh Thƣ viết „Vua Cao Tông nhà Lƣơng Âm ba năm không nói chuyện chính sự‟ là ý gì? Khổng tử nói: Đâu phải chỉ có vua Cao Tông ? mà ngƣời xƣa đều vậy. Vua mất, trăm quan đều lo chức vụ mình, nghe theo lệnh quan tể tƣớng và vua kế vị để thụ tang ba năm. (Chú thích: Vua Cao tông để tang, ba năm không bàn việc chính sự) 14·41 子曰:“上好礼,则民易使也”。 Tử viết : Thƣợng hiếu lễ, tắc dân dị sử dã. Khổng tử nói: Ngƣời trên coi trọng lễ thì dễ sai bảo dân chúng. |
14·42 子路问君子。子曰:“修己以敬”. 曰:“如斯而已乎?”曰:“修己以安人”.曰:“如斯而已乎?” 曰:“修己以安百姓。修己以安百姓,尧舜其犹病诸?” 132 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử Lộ vấn quân tử. Tử viết: Tu kỷ dĩ kính. Viết: Nhƣ tƣ nhi dĩ hồ?. Viết: Tu kỷ dĩ an nhân. Viết: Nhƣ tƣ nhi dĩ hồ ? Viết: Tu kỷ dĩ an bách tính. Tu kỷ dĩ an bách tính, Nghiêu Thuấn kỳ do bệnh chƣ ? Tử Lộ hỏi về ngƣời quân tử. Khổng tử nói: Tu dƣỡng mình kính cẩn. Tử Lộ hỏi: Nhƣ thế là đủ ƣ? Khổng tử nói: Tu dƣỡng mình để làm yên ngƣời khác. Lại hỏi: Nhƣ thế là đủ ƣ? Khổng tử đáp: Tu dƣỡng bản thân để làm yên trăm họ. Việc này khó đến nỗi vua Nghiêu, vua Thuấn còn khó làm đƣợc. 14·43 原壤夷俟。子曰:“幼而不孙弟,长而无述焉,老而不死,是为贼” 以杖叩兲胫。 Nguyên Nhƣỡng di sĩ. Tử viết: Ấu nhi bất tôn đệ, trƣởng nhi vô thuật yên, lão nhi bất tử, thị vi tặc. Dĩ trƣợng khấu kỳ hĩnh. Nguyên Nhƣỡng ngồi xổm đợi. Khổng tử nói: Lúc nhỏ ngƣơi không biết tôn trọng anh em và ngƣời lớn, khi lớn không làm đƣợc việc đáng khen, về già mà chƣa chịu chết, ấy là làm hại luân thƣờng, phong tục. Nói xong Khổng tử lấy gậy gõ vào ống chân Nhƣỡng. (Chú thích: Nguyên Nhƣỡng ngƣời quen cũ của Khổng tử thuộc dòng đạo khác, không biết đạo cƣ xử của thầy) 14·44 阙党童子将命。或问之曰:“益者与?” 子曰:“吾兲居於位也,见其与先生并行也。非求益 者也,欲速成者也”。 Khuyết Đảng đồng tử thƣơng mệnh. Hoặc vấn chi viết: Ích giả hĩ? Tử viết: Ngô kỳ cƣ ƣ vị dã, kiến kỳ dự tiên sinh bính hành dã. Phi cầu ích giả dã, dục tốc thành giả dã. Một đứa bé ở làng Khuyết Đảng đƣợc lệnh Khổng tử truyền lời đến các vị khách. Có ngƣời hỏi Khổng tử: “Nó học đã tiến bộ ƣ?”. Khổng tử nói: Ta nhìn thấy nó ngồi chỗ ngƣời lớn, lại đi ngang hàng với ngƣời lớn. Nó không phải ngƣời cầu tiến mà là ngƣời vội vàng muốn thành ngƣời lớn. |
(Chú thích: Khổng tử thấy đứa bé muốn chóng làm ngƣời lớn, đáng lẽ nó chỉ đi theo hầu. Nên ngài sai bảo nó đi theo phục vụ để nhắc nhở nó biết phép tắc thứ bậc (lễ) Hết thiên 14 133 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 1. 15. 卫灵公Vệ Linh công 第十亓篇 thiên 15. 42 bài 15·1 卫灵公问陈於孔子。孔子对曰:“俎豆之事,则尝闻之矣;军旅之事,未之学也”。明日遂 行。 Vệ Linh Công vấn trận ƣ Khổng tử. Khổng tử đối viết: Trở đậu chi sự, tắc thƣờng văn chi hĩ; Quân lữ chi sự, vị chi học dã. Minh nhật toại hành. Vệ Linh Công hỏi Khổng tử về nƣớc trận mạc. Khổng tử trả lời: Tôi thƣờng nghe về văn (lễ nghĩa), chƣa học về chiến trận. Ngày hôm sau Khổng tử dời nƣớc Vệ. (Chú thích: Vệ Linh Công là vua vô đạo, hỏi dò Khổng tử để gây việc binh đao. Khổng tử từ chối khéo và bỏ đi) 15·2 在陈绝粮,从者病,莫能兴。子路愠见曰:“君子亦有穷乎?”子曰:“君子固穷,小人穷 斯滥矣”。 Tại Trần tuyệt lƣơng, tòng giả bệnh, mạc năng hƣng. Tử Lộ uấn kiến viết: Quân tử diệc hữu cùng hồ ? Tử viết : Quân tử cố cùng tiểu nhân cùng tƣ lạm hĩ. Khi ở nƣớc Trần bị tuyệt lƣơng thực, học trò đi theo mắc bệnh, đi không nổi. Tử Lộ buồn rầu gặp Khổng tử nói: “Quân tử cũng có lúc khốn cùng phải không?”. Khổng tử nói: Quân tử gặp cùng khốn thì cố chịu đựng, kẻ tiểu nhân thì lạm dụng, làm liều. 15·3 子曰:“赐也!女以予为多学而识之者与?”对曰:“然,非与?”曰:“非也。予一以贯之”。 Tử viết: Tứ dã ! Nhữ dĩ dƣ vi đa học nhi chí giả dữ? Đối viết: Nhiên, phi dự ? Viết: Phi dã. Dƣ nhất dĩ quán chi. Khổng tử nói: Trò Tứ, ngƣơi tƣởng ta có nhiều học thức ƣ? Tử Cống thƣa: Vâng ạ, chẳng lẽ không phải vậy sao ? Khổng tử đáp: Không phải, ta chỉ biết dùng một đạo lý cơ bản mà thông suốt mọi vấn đề. |
134 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net (Lời bàn; Khổng tử cho rằng chỉ cần học những điều cơ bản mà tự nhìn thấy nhiều kiến thức khác, không cần đọc nhiều nhớ nhiều. Kiến thức cơ bản ấy chính là đạo nhân) 15·4 子曰:“由!知德者鲜矣”。 Tử viết: Do! Tri đức giả tiển hĩ. Khổng tử nói: Trò Do ơi, ngƣời hiểu biết về chữ đức bây giờ hiếm quá. 15·5 子曰:“无为而治者,其舜也与?夫何为哉?恭己正南面而已矣”。 Tử viết: Vô vi nhi trị giả, kỳ Thuấn dã dự ? Phu hà vi tai ? Cung kỷ chính Nam diện nhi dĩ hĩ. Khổng tử nói: Không cần làm gì mà trị yên đƣợc thiên hạ, chỉ có vua Thuấn phải không ? Vua Thuấn có làm gì đâu? Ngƣời chỉ giữ trang nghiêm đoan chính, ngồi ngoảnh mặt về phƣơng Nam. (Chú thích: Học thuyết „Vô vi nhi trị‟. Ngƣời lãnh đạo tài cao đức trọng đủ cảm hoá mọi ngƣời, phát huy năng lực ngƣời cấp dƣới mà làm việc) 15·6 子张问行。子曰:“言忠信,行笃敬,虽蛮貊之邦,行矣。言不忠信,行不笃敬,虽州里,行 乎哉?立则见其参於前也,在舆则见其倚於衡也,夫然后行”。子张书诸绅。 Tử Trƣơng vấn hành. Tử viết “Ngôn trung tín, hành đốc kính, tuy Man Mạch chi bang, hành hĩ. Ngôn bất trung tín, hành bất đốc kính, tuy châu lý, hành hồ tai ? Lập tắc kiến kỳ tham ƣ tiền dã, tại dƣ tắc kiến kỳ ỷ ƣ hành dã, phu nhiên hậu hành”. Tử Trƣơng thƣ chƣ thân. Tử Trƣơng hỏi về việc đi lại. Khổng tử nói: Lời nói phải trung tín, làm việc cẩn trọng thì dù đi tới nƣớc thiểu số Man Mạch vẫn thông suốt. Lời nói thiếu trung tín, làm việc cẩu thả thì dù ở ngay quê hƣơng mình cũng vấp váp. Khi đứng, nhƣ thấy chữ “trung tín, cẩn trọng” đang ở trƣớc mặt. Khi ngồi xe, nhƣ thấy chữ “trung tín, cẩn trọng” khắc trên thành xe. Nhƣ vậy thì thực hành thông suốt. |
Tử Trƣơng chép lời dặn ấy vào dải áo thắt ngang lƣng 15·7 135 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 子曰:“直哉史鱼!邦有道, 如矢;邦无道,如矢。君子哉蘧伯玉!邦有道,则仕;邦无道,则 可卷而怀之”。 Tử viết: Trực tai Sử Ngƣ ! Bang hữu đạo, nhƣ thỉ; bang vô đạo, nhƣ thỉ. Quân tử tai Cừ Bá Ngọc ! Bang hữu đạo, tắc sĩ; Bang vô đạo tắc khả quyển nhƣ hoài chi. Khổng tử nói: Ngay thẳng nhƣ Sử Ngƣ ! Nƣớc có đạo, ông ngay thẳng nhƣ cái tên; Khi nƣớc vô đạo, ông vẫn ngay thẳng nhƣ cái tên. Quân tử nhƣ Cừ Bá Ngọc, nƣớc có đạo thì ra làm quan, khi nƣớc vô đạo biết lui về ở ẩn. 15·8 子曰: 可与言而不与之言,失人;不可与言而与言,失言。知者不失人,亦不失言. Tử viết: Khả dữ ngôn nhi bất dự chi ngôn, thất nhân; Bất khả dự ngôn nhi dự ngôn. Trí giả bất thất nhân, diệc bất thất ngôn. Khổng tử nói: Ngƣời có thể cùng nói chuyện mà không nói, thế là mất ngƣời. Ngƣời không thể bàn chuyện cùng mà lại nói, thế là uổng lời. Ngƣời trí thức không bỏ mất ngƣời và không uổng lời. 15·9 子曰: 士仁人,无求生以害仁,有杀身以成仁。 Tử viết: Chí sĩ nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân. Khổng tử nói: Chí sĩ là ngƣời nhân đức, không bao giờ cầu sống để hại ngƣời khác, có khi còn dám hy sinh thân mình để thi hành đạo nhân. 15·10 子贡问为仁。子曰:工欲善兲事,必先利兲器。居是邦也,事兲大夫之贤者,友其士之仁 者。 Tử Cống vấn vi nhân. Tử viết: Công dục thiện kỳ sự, tất tiên lợi kỳ khí. Cƣ thị bang dã, sự kỳ đại phu chi hiền giả, hữu kỳ sĩ chi nhân giả. Tử Cống hỏi về đạo nhân: Khổng tử nói: Ngƣời thợ muốn làm ra sản phẩm tốt thì tất phải có dụng cụ tốt trƣớc đã. Trong nƣớc phải tôn ngƣời hiền tài trong số đại phu làm thầy, kết giao bạn bè với ngƣời nhân đức trong số kẻ sĩ. |
15·11 136 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 颜渊问为邦。子曰:行夏之时,乘殷之辂,服周之冕,乐则韶舞。放郑声,远侫人。郑声淫 ,侫人殆”。 Nhan Uyên vấn vi bang. Tử viết: Hành Hạ chi thời, thừa Ân chi lộ, phục Chu chi miện, nhạc tắc Thiều Vũ. Phóng Trịnh thanh, viễn vọng nhân. Trịnh thanh dâm, vọng nhân đãi. Nhan Uyên hỏi về việc trị nƣớc. Khổng tử nói: Dùng lịch pháp nhà Hạ, đi xe nhà Ân, đội mũ nhà Chu, dùng nhạc thiều nhà Vũ. Bỏ nhạc nhà Trịnh vì âm thanh dâm dật, bậy bạ làm hỏng ngƣời, rất nguy hiểm. 15·12 子曰:“人无远虑,必有近忧” 。 Tử viết: Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ƣu. Khổng tử nói: Ngƣời không lo nghĩ xa thì ắt có nỗi buồn gần. (Lời bàn: Ngƣời cần nhìn xa trông rộng, nếu chỉ biết lợi ích trƣớc mắt không suy tính dài hơi thì hoạn nạn đến nhanh. Mọi việc nên có phòng bị trƣớc (từ sớm) thì sẽ đối phó đƣợc việc bất ngờ) 15·13 子曰:“已矣乎!吾未见好德如好色者也”。 Tử viết: Dĩ hĩ hồ ! Ngô vị kiến hiếu đức nhƣ hiếu sắc giả dã. Khổng tử nói: Thôi hết rồi ! Ta chƣa nhìn thấy ai ham đức nhƣ ham sắc vậy. 15·14 子曰:“臧文仲兲窃位者与!知柳下惠之贤而不与立也”。 Tử viết: Tang Văn Trọng kỳ thiết vị giả dự ! Tri Liễu Hạ Huệ chi hiền nhi bất dự lập dã. Khổng tử nói: Tang Văn Trọng hình nhƣ là kẻ ăn cắp chức vụ ? Ngƣời ấy biết rất rõ Liễu Hạ Huệ thật sự là hiền tài mà không cử Liễu ra làm quan. (Lời bàn: Liễu Hạ Huệ là hiền tài, Tang Văn Trọng ngồi ghế quan cao, biết rõ Liễu xứng đáng mà không đề bạt là do bụng hẹp hòi. Đó là tội che giấu hiền tài, kể nhƣ ăn cắp vậy.) 137 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net |
15·15 子曰:“躬自厚而薄责於人,则远怨矣”。 Tử viết: Cung tự hậu nhi bạc trách ƣ nhân, tắc viễn oán hĩ. Khổng tử nói: Nên tự trách mình nhiều, trách ngƣời ít hơn, đƣợc vậy thì ít đem lại oán hận. 15·16 子曰:“不曰„如之何,如之何‟ 者,吾末如之何也已矣”. Tử viết: Bất viết nhƣ chi hà, nhƣ chi hà giả, ngô mạt nhƣ chi hà dã dĩ hĩ. Khổng tử nói: Một ngƣời không biết bàn về sự việc nhƣ thế nào, nên làm ra sao ƣ? Ta chẳng biết dạy bảo kẻ ấy thế nào nữa. (Lời bàn: Khổng tử thất vọng với ngƣời chỉ biết kêu ca khi gặp khó chứ không biết bàn tính, suy nghĩ ra sao) 15·17 子曰:“群居终日,言不及义,好行小慧,难矣哉!” Tử viết: Quần cƣ chung nhật, ngôn bất cập nghĩa, hiếu hành tiểu tuệ, nan dĩ tai! Khổng tử nói: Ngồi trò chuyện cả đám suốt ngày mà không bàn chuyện đạo nghĩa, chỉ nói chuyện khôn vặt. Kẻ ấy thực khó thành đạo. 15·18 子曰:“君子义以为质,礼以行之,孙以出之,信以成之。君子哉!” Tử viết: Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tôn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi. Quân tử tai! Khổng tử nói: Quân tử lấy nghĩa lý làm gốc, lấy lễ để thực hành, lấy tôn kính biểu hiện ra, dùng đức tín để làm việc. Đó là ngƣời quân tử. 15·19 子曰:君子病无能焉,不病人之不己知也 。 Tử viết: Quân tử tật vô năng yên, bất bệnh nhân chi bất kỷ tri dã. Khổng tử nói: Quân tử chỉ sợ mình mắc lỗi, không sợ ngƣời ta không biết mình. 15·20 138 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 子曰:君子疾没世而名不称焉 。 Tử viết: Quân tử tật một thế nhi danh bất xứng yên. Khổng tử nói: Quân tử sẽ mang hận suốt đời nếu không xứng đáng với danh phận. 15·21 子曰:君子求诸己,小人求诸人 。 Tử viết: Quân tử cầu giả kỷ, tiểu nhân cầu giả nhân. |
Khổng tử nói: Quân tử mọi thứ đều dựa vào mình, tiểu nhân đều dựa tất cả vào ngƣời khác. 15·22 子曰:君子矜而不争,群而不党 。 Tử viết: Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng. Khổng tử nói: Quân tử trang nghiêm mà không tranh giành, hoà hợp với ngƣời nhƣng không kết bè phái. 15·23 子曰:君子不以言举人,不以人废言。 Tử viết: Quân tử bất dĩ ngôn cử nhân, bất dĩ nhân phế ngôn. Khổng tử nói: Quân tử không vì lời nói mà cất nhắc ngƣời, cũng không vì ngƣời mà bỏ lời nói. (Lời bàn: Không nên chỉ vì lời nói hay mà tin tƣởng, cất nhắc. Một kẻ ta không ƣa nhƣng có lời hay thì cũng cần lƣu ý suy nghĩ chứ không nên bỏ qua. Tóm lại, nhìn ngƣời phải suy xét cả lời nói và việc làm). 15·24 子贡问曰: 一言而可以终身行之者乎?子曰: 恕乎!己所不欲,勿施於人。 Tử Cống vấn viết: Hữu nhất ngôn dĩ chung thân hành chi giả hồ ? Tử viết: Kỳ thứ hồ! Kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân. Tử Cống hỏi: Có câu nói nào mà dùng đƣợc suốt đời không ? 139 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Khổng tử nói: Đó là chữ “thứ”. Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho ngƣời khác. 15·25 子曰:吾之於人也,谁毁谁誉?如有所誉者,其有所试矣。斯民也,三代之所以直道而行 也。 Tử viết: Ngô chi ƣ nhân dã, thùy hủy thùy dự ? Nhƣ hữu sở dự giả, kỳ hữu sở thí hĩ. Tƣ dân dã, tam đại chi sở dĩ trực đạo nhi hành dã. Khổng tử nói: Ta sống với ngƣời, có chê ai khen ai quá lố đâu? Nếu khen ai ta phải xem xét thực tế để biết rõ ngƣời ấy. Phê phán ngƣời đời nay, ta dựa theo đạo đức ngay thẳng ba đời Hạ, Thƣơng, Chu. |
(Chú thích: Khổng tử nhắc việc khen, chê ngƣời khác cần thận trọng, có căn cứ. Nếu không thì lại xa rời đạo l ý. Khổng tử coi việc khen chê thời Hạ, Thƣơng, Chu là mẫu mực) 15·26 子曰:吾犹及史之阙文也,有马者借人乘之,今亡矣夫。 Tử viết: Ngô do cập sử chi khuyết văn dã, hữu mã giả tá nhân thừa chi, kim vong hĩ phu. Khổng tử nói: Ta thấy quan chép sử bỏ trống những điều nghi vấn, lại biết có ngƣời chủ ngựa dám cho ngƣời khác mƣợn ngựa. Bây giờ không còn loại ngƣời ấy nữa. (Lời bàn: Cuối thời Xuân thu Khổng tử chứng kiến xã hội suy vi trƣớc mắt nên rất lo lắng u sầu… Quan chép sử cẩn thận chỉ viết điều chắc chắn, ngƣời cho bạn mƣợn ngựa là hai việc bình thƣờng ngày xƣa mà ngày nay hiếm hoi tới mức không thấy nữa). 15·27 子曰:巧言乱德。小不忍则乱大谋。 Tử viết: Xảo ngôn loạn đức. Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mƣu. Khổng tử nói: Lời xảo trá có thể làm bại hoại đạo đức. Không nhẫn nại việc nhỏ thì có thể làm hỏng việc lớn. 15·28 子曰:众恶之,必察焉;众好之,必察焉。 Tử viết: Chúng ố chi, tất sát yên; Chúng hiếu chi, tất sát yên. Khổng tử nói: Ngƣời bị mọi ngƣời ghét, ta phải xét xem có đúng không. Ngƣời đƣợc mọi ngƣời ƣa thích, ta cũng phải xem có thực không. 140 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 15·29 子曰:人能弘道,非道弘人 。 Tử viết: Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân. Khổng tử nói: Ngƣời phải làm cho đạo đƣợc mở rộng, chứ không dùng đạo để phô trƣơng cho mình. 15·30 子曰:过而不改,是谓过矣。 Tử viết: Quá nhi bất cải, thị vị quá hĩ. Khổng tử nói: Có sai lầm mà không sửa, đấy mới thật là sai lầm. |
15·31 子曰:吾尝终日不食,终夜不寝,以思,无益,不如学也。 Tử viết: Ngô thƣờng chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm, dĩ tƣ, vô ích, bất nhƣ học dã. Khổng tử nói: Ta từng suốt ngày không ăn cơm, thức trắng cả đêm để suy tƣ. Nhƣng vô ích, không bằng đi học. 15·32 子曰: 君子谋道不谋食。耕也,馁在其中矣;学也,禄在兲中矣。君子忧道不忧贫 Tử viết: Quân tử mƣu đạo bất mƣu thực. Canh dã, nỗi tại kỳ trung hĩ; Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ. Quân tử ƣu đạo bất ƣu bần. Khổng tử nói: Quân tử chăm lo cầu đạo chứ không cầu ăn. Ngƣời cày ruộng khi gặp mất mùa khó tránh khỏi đói kém. Ngƣời chăm học có thể làm quan. Quân tử chỉ lo đạo chứ không lo về nghèo. 15·33 141 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 子曰:知及之,仁不能守之;虽得之,必失之;知及之,仁能守之,不庄以涖之,则民不敬 。知及之,仁能守之,庄以涖之,动之不以礼,未善也。 Tử viết: Tri cập chi, nhân bất năng thủ chi; Tuy đắc chi, tất thất chi; Tri cập chi, nhân năng thủ chi, bất trang dĩ lị chi, tắc dân bất kính. Tri cập chi, nhân năng thủ chi, trang dĩ lị chi, động chi bất dĩ lễ, vị thiện dã. Khổng tử nói: Ngƣời có đủ trí tuệ nhƣng không biết giữ đức nhân thì có nhiều kiến thức rồi cũng bỏ mất. Ngƣời có đủ trí tuệ lại biết giữ đức nhân nhƣng nếu thiếu thái độ nghiêm túc khi đến với dân thì dân cũng không kính trọng. Ngƣời có đủ trí tuệ, biết giữ đức nhân lại đến với dân nghiêm túc cẩn thận nhƣng không biết dùng lễ tiết kết hợp để cổ vũ dân làm việc thiện thì cũng không hoàn toàn tốt đẹp. (Lời bàn; Khổng tử nêu ra 04 phẩm chất, tăng dần để đảm bảo thành công) 15·34 子曰:君子不可小知而可大受也,小人不可大受而可小知也。 Tử viết: Quân tử bất khả tiểu tri nhi khả đại thụ dã, tiểu nhân bất khả đại thụ nhi khả tiểu tri dã. |
Khổng tử nói: Quân tử có thể không biết việc nhỏ nhặt, nhƣng có thể đảm đƣơng việc lớn. Kẻ tiểu nhân không làm đƣợc việc lớn nhƣng có thể biết việc nhỏ nhặt. 15·35 子曰:民之於仁也,甚於水火。水火,吾见蹈而死者矣,未见蹈仁而死者也。 Tử viết: Dân chi ƣ nhân dã, thậm ƣ thủy hỏa. Thủy hỏa, ngô kiến đạo nhi tử giả hĩ, vị kiến đạo nhân nhi tử giả dã. Khổng tử nói: Nhân dân cần đức nhân hơn cần lửa và nƣớc. Ta từng thấy ngƣời dẫm vào lửa và nƣớc mà chết, chƣa thấy ai dẫm vào đức nhân mà chết bao giờ. (Lời bàn: Nƣớc và lửa rất cần cho đời sống con ngƣời. Khổng tử bảo rằng đức nhân còn cần thiết hơn, thiếu nó cũng co thể nguy hại hơn cả nƣớc, lửa. Làm việc nhân đức thì chẳng bao giờ lo sợ cả.) 15·36 子曰:当仁,不让於师。 Tử viết: Đƣơng nhân, bất nhƣợng ƣ sƣ. Khổng tử nói: Ngƣời thẳng thắn thì không nhƣờng nhịn cả thầy dạy mình. 15·37 142 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 子曰:君子贞而不谅. Tử viết: Quân tử trinh nhi bất lƣợng. Khổng tử nói: Quân tử giữ vững khí tiết nhƣng biết bao dung ngƣời khác (kém hơn mình). 15·38 子曰:事君,敬兲事而后兲食。 Tử viết: Sự quân, kính kỳ sự nhi hậu kỳ thực. Khổng tử nói: Thờ vua phải tận tâm, sau mới nghĩ đến bổng lộc. 15·39 子曰:有教无类。 Tử viết: Hữu giáo vô loại. Khổng tử nói: Dạy ngƣời, ta không phân biệt thứ hạng, giàu nghèo, thiện, ác, dở hay. 15·40 子曰:道不同,不相为谋。 Tử viết: Đạo bất đồng, bất tƣơng vi mƣu. Khổng tử nói: Ngƣời không cùng theo một đạo lý thì không thể ngồi bàn việc cùng đƣợc. 15·41 子曰:辞达而已矣。 Tử viết: Từ đạt nhi dĩ hĩ. Khổng tử nói: Lời văn đủ diễn tả ý tứ là đƣợc rồi. |
15·42 143 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 师冕见,及阶,子曰:“阶也”及席,子曰:“席也”。皆坐,子告之曰: 某在斯,某在斯”。师冕出, 子张问曰:“与师言之道与?” 子曰:“然,固相师之道也”。 Sƣ Miện kiến, cập giai, Tử viết: Giai dã cập tịch, tử viết: Tịch dã. Giai tọa, Tử cáo chi viết “Mỗ tại tƣ, mỗ tại tƣ”. Sƣ Miện xuất, Tự Trƣơng vấn viết: Dự sƣ ngôn chi đạo dự ? Tử viết: Nhiên, cố tƣơng sƣ chi đạo dã. Sƣ Miện (quan nhạc bị mù) đi tới bậc thềm, Khổng tử nói: „Đây là bậc thềm‟, rồi nói: „Tới chỗ chiếu ngồi‟. Khi mọi ngƣời an tọa, Khổng tử giới thiệu từng ngƣời „Ngƣời này là… Ngƣời này là…‟. Khi Sƣ Miện về rồi, Tử Trƣơng hỏi Khổng tử: Đó là đạo nói chuyện với quan nhạc sƣ phải không? Khổng tử đáp: Phải rồi, đạo giúp đỡ quan nhạc sƣ mù lòa. (Lời bàn: Mọi ngƣời phải tôn trọng và giúp đỡ ngƣời mù lòa, huống chi Sƣ Miện mù lòa lại là ngƣời có tài năng, giữ nhạc lễ. Đó là đạo lý xƣa nay, chẳng những với ngƣời mù lòa mà cả những ngƣời bị khiếm khuyết, ngƣời già neo đơn, trẻ mồ côi, nam góa vợ, nữ góa chồng…cũng cần đƣợc giúp đỡ). Hết thiên 15 1. 16. 季氏 Quí thị 第十六篇 thiên 16. 14 bài 16. 1 季氏将伐颛臾。冉有, 季路见於孔子曰:“季氏将有事於颛臾”. 孔子曰:“求!无乃尔是过与?夫颛臾, 昔者先王以为东蒙主, 且在城邦之中 矣, 是社稷之臣 也。何以伐为?”. 冉有曰:“夫子欲之,吾二臣者皆不欲也.”. 孔子曰:“求!周任有言曰:„陈力就列, 不能者止‟, 危而不持, 颠 而不扶, 则将焉用彼相矣? 且尔言过矣, 虎兕出於柙, 龟玉毁於椟中, 是谁之过与?”. 冉有曰:“今夫颛臾,固而近於费。今不 取, 后世必为子孙忧.”. 孔子曰:“求!君子疾夫舍曰欲之而必为之辞。丘也闻有国有家者, 不患寡而患不均, 不患 贫而患不安。盖均无贫, 和无寡,安无 倾。夫如是, 故远人不服, 则修文德以来之。既来之, 144 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 则安之。今由与求也, 相夫子,远人不服而不能来也,邦分崩离析而不能守也;而谋动干 戈於邦内。吾恐季孙 之忧, 不在颛臾, 而在萧墙之内也” 。 Quý thị thƣơng phạt Chuyên Du. Nhiễm Hữu, Quí Lộ kiến ƣ Khổng tử viết: “Quí thị thƣơng hữu sự ƣ Chuyên Du”. Khổng tử viết: “Cầu (tức Nhiễm Hữu), vô nãi nhĩ thị quá dƣ ? Phu Chuyên Du, tích tích tiên vƣơng dĩ vi Đông Mông chủ, thả tại thành bang chi trung hĩ, thị xã tác chi thần dã. Hà dĩ phạt vi |
Nhiễm Hữu (Cầu) viết: Phu tử dục chi, ngô nhị thần giả giai bất dục dã. Khổng tử viết: Cầu, Chu Nhiệm hữu ngôn viết: “Trần lực tựu liệt, bất năng giả chỉ, nguy nhi bất trì, điên nhi bất phù, tắc thƣơng yên dụng bỉ tƣớng hĩ ? Thả nhĩ ngôn quá hĩ, hổ hủy xuất ƣ hiệp, khƣu ngọc hủy ƣ độc trung, thị thùy chi quá dự ?”. Nhiễm Hữu viết: Kim phu Chuyên Du, cố nhi cận ƣ Phí. Kim bất thủ, hậu thế tất vi tử tôn ƣu. Khổng tử viết: Cầu, quân tử tật phu xá viết dục chi nhi tất vi chi từ. Khâu dã văn hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an. Cái quân vô bần, hòa vô quả, an vô khuynh.Phu nhƣ thị, cố viễn nhân bất phục, tắc tu văn đức dĩ lai chi. Ký lai chi, tắc an chi. Kim Do dự Cầu dã, tƣớng phu tử, viễn nhân bất phục nhi bất năng lại dã, bang phân băng li tích nhi bất năng thủ dã, nhi mƣu động can qua ƣ bang nội. Ngô khủng quí tôn chi ƣu, bất tại Chuyên Du, nhi tại tiêu tƣờng chi nội dã. Họ Qu ý chuẩn bị chinh phạt nƣớc Chuyên Du. Nhiễm Hữu, Quý Lộ đến gặp Khổng tử, nói: “Họ Quý sắp gây sự với nƣớc Chuyên Du”. Khổng tử nói: Nhiễm Cầu, đây không phải sai lầm của ngƣơi ƣ? Đối với nƣớc Chuyên Du, thiên tử đã giao cho họ chủ trì lễ tế ở núi Đông Mông, thuộc lãnh thổ nƣớc Lỗ, vì sao lại đánh nƣớc Chuyên Du?”. Nhiễm Hữu nói: Đây là do họ Quý muốn chinh phạt, hai chúng con là cấp dƣới đều không muốn vậy. |
Khổng tử nói: Nhiễm Hữu, quan chép sử Chu Nhiệm từng nói : “có thể tận lực làm bề tôi thì giữ chức vụ, nếu không tận lực đƣợc thì nên thôi chức”. Nếu ngƣời chủ gặp nguy hiểm mà không giúp, thấy chủ sắp ngã mà không đỡ, quan chức nhƣ các ngƣơi có tác dụng gì ? Vả lại các ngƣơi nói sai quá rồi, giữ chuồng mà để con hổ, con trâu xổng chuồng, kẻ giữ tráp mà để ngọc quí mai rùa bị hƣ hỏng trong tráp là lỗi tại ai ?”. 145 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Nhiễm Hữu nói: Tƣờng thành của nƣớc Chuyên Du kiên cố lắm, hơn nữa lại ở gần ấp Phí, bây giờ không chiếm lấy, sẽ để mối lo cho con cháu về sau. Khổng tử nói: Nhiễm Hữu, ngƣời quân tử ghét nhất là không dám trực tiếp nói ra tham muốn của mình mà lại tìm cớ khác. Ta từng nghe nói, vua chƣ hầu có nƣớc, quan đại phu có nhà chẳng buồn vì dân ít, mà buồn vì của cải phân phối không đều, không sợ nghèo mà sợ không yên ổn. Của cải chia công bằng thì dân không nghèo nữa. Dân yên ổn thì không cảm thấy ngƣời ít, nƣớc yên sẽ không còn ngả nghiêng nữa. Nếu biết ngƣời nơi xa (láng giềng) không qui phục thì phải biết sửa văn đức của mình làm cho họ phục mà đến. Họ đến rồi thì nghĩ cách cho họ đƣợc yên… Hiện nay trò Do và trò Hữu phụ tá họ Quý, biết ngƣời ở xa không qui phục mà chẳng biết cách làm họ đến, nƣớc nhà phân rẽ mà không biết cách bảo toàn, lại còn muốn binh đao… Ta sợ nỗi lo của họ Quý không phải ở nƣớc Chuyên Du, mà ở trong nội bộ vậy. |
16. 2 孔子曰:“天下有道,则礼乐征伐自天子出;天下无道,则礼乐征伐自诸侯出。自诸侯出,盖 十世希不失矣;自大夫出,亓世希不失矣;陪臣执国命,三世希不失矣。天下有道, 则政不在 大夫。天下有道,则庶人不议” Khổng tử viết: Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự thiên tử xuất; Thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự chƣ hầu xuất. Tự chƣ hầu xuất, cái thập thế hy bất thất hĩ; Tự đại phu xuất, ngũ thế hy bất thất hĩ; Bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hy bất thất hĩ. Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại đại phu. Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị. Khổng tử nói: Thiên hạ có đạo thì lễ nhạc và hiệu lệnh chinh phạt đều ở trong tay thiên tử. Thiên hạ vô đạo thì lễ nhạc và hiệu lệnh chinh phạt ở trong tay vua chƣ hầu. Quyết định của vua chƣ hầu làm ra quá lắm tồn tại đƣợc 10 đời thì mất nƣớc. Quyết định của đại phu làm ra chỉ truyền đi nhiều lắm đƣợc 5 đời thì mất nƣớc. Quyết định do gia thần làm ra đƣợc truyền không quá 3 đời thì mất nƣớc. Thiên hạ có đạo thì ngƣời dân bình thƣờng chẳng có điều gì phải bàn luận. 16. 3 孔子曰: 禄之去公室亓世矣,政逮於大夫四世矣,故夫三桓之子孙微矣 Khổng tử viết: Lộc chi khứ công thất ngũ thế hĩ, chính đãi ƣ đại phu tứ thế hĩ, cố phu tam hoàn chi tử tôn vi hĩ. 146 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Khổng tử nói: Lộc không còn ở triều đình (Lỗ quốc) 5 đời rồi, chính quyền trong tay đại phu đã 4 đời. Vậy con cháu ba nhà đại phu (họ Quí, Mạnh, Thúc) hiện nay đang lúc suy sụp rồi. 16.4 孔子曰: 益者三友,损者三友.友直,友谅,友多闻,益矣。友便辟,友善柔,友便侫,损矣 Khổng tử viết: Ích giả tam hữu, tổn giả tam hữu. Hữu trực, hữu lƣợng, hữu đa văn, ích hĩ. |
Hữu tiện tịch, hữu thiện nhu, hữu tiện vọng, tổn hĩ. Bạn có ich gồm ba loại: bạn ngay thẳng, bạn thành thực, bạn có kiến thức sâu rộng. Bạn có hại cũng ba loại: Bạn giả bộ uy nghi, bạn khéo chiều chuộng, bạn ƣa siểm nịnh. 16.5 孔子曰:“益者三乐,损者三乐。乐节礼乐,乐道人之善,乐多贤友,益矣。 乐骄乐,乐佚游,乐晏乐,损矣” Khổng tử viết: Ích giả tam lạc, tổn giả tam lạc. Lạc tiết lễ nhạc, lạc đạo nhân chi hỉ. Lạc đa hiền hữu, ích hĩ. Lạc kiêu nhạc, lạc dật du, lạc yến lạc, tổn hĩ. Điều thích thú có ích gồm ba loại: Thích nghi thức lễ phép, thích nói điều hay của kẻ khác, thích có nhiều bạn hiền. Sự thích thú có hại cũng gồm 3 thứ: Thích nhạc ủy mị, ru ngủ, nhố nhăng. Thích chơi bừa bãi phóng túng Thích yến tiệc say sƣa quá độ. 16.6 孔子曰:侍於君子有三愆:言未及之而言谓之躁,言及之而不言谓之隐,未见颜色而言谓之瞽. Khổng tử viết: Hầu ƣ quân tử hữu tam khiên: ngôn vị cập chi nhi ngôn vị chi táo, ngôn cập chi nhi bất ngôn vị chi ẩn, vị kiến nhan sắc nhi ngôn vị chi cổ. Khổng tử nói “Ngồi hầu chuyện ngƣời quân tử có thể mắc 3 sai lầm này. Chƣa đến lúc nói đã tranh nói, gọi là hấp tấp. Đến lúc nói lại không chịu nói là ngƣời giấu diếm. Không nhìn sắc mặt của ngƣời quân tử mà cứ thao thao bất tuyệt là kẻ mù quáng”. 16.7 147 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 孔子曰: 君子有三戒:少之时,血气未定,戒之在色;及兲壮也,血气方刚,戒之在斗;及 其老也,血气既衰,戒之在得 Khổng tử viết: Quân tử hữu tam giới: thiếu chi thì, huyết khí vị túc, giới chi tại sắc; cập kì tráng dã, huyết khí phƣơng cƣơng, giới chi tại đấu; cập kì lão dã, huyết khí kí suy, giới chi tại đắc. Khổng tử nói: Quân tử có ba việc phòng ngừa. 1. Lúc nhỏ tuổi huyết khí chƣa ổn định phải tránh ham nữ sắc. 2. Khi đã trƣởng thành huyết khí đã thịnh vƣợng phải phòng ngừa tính ham tranh đấu 3. Khi về già huyết khí suy nhƣợc, cần tránh tính tự đắc ham đƣợc hơn ngƣời khác |
16.8 孔子曰: 君子有三畏:畏天命,畏大人,畏圣人之言。小人不知天命而不畏也,狎大人,侮圣人 之言 Khổng tử viết: Quân tử hữu tam úy. Úy thiên mệnh. Úy đại nhân. Úy thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn. Quân tử có ba điều sợ. Sợ mệnh trời. Sợ bậc đại nhân. Sợ lời nói của thánh nhân. Tiểu nhân không biết thiên mệnh nên không sợ, coi nhờn đại nhân, khinh lời thánh nhân. 16.9 孔子曰:生而知之者,上也;学而知之者,次也;困而学之,又兲次也;困而不学,民斯为下 矣. Khổng tử viết: Sinh nhi tri chi giả, thƣợng dã. Học nhi tri chi giả, thứ dã. Khốn nhi học chi, hựu kì thứ dã. Dân tƣ vi hạ hĩ . Khổng tử nói:(Có ba loại ngƣời). Sinh ra đã biết đạo lí là ngƣời bậc trên cùng. Học rồi mới biết đạo lí là bậc thứ nhì. Gặp khó khăn mới chịu đi học là bậc thấp hơn, ngƣời kém nhất. 16.10 148 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 孔子曰:君子有九思:视思明,听思聪,色思温,貌思恭,言思忠,事思敬,疑思问,忿思难,见得 思义 Khổng tử viết: Quân tử hữu cửu tƣ: Thị tƣ minh, thính tƣ thông, sắc tƣ ôn, mạo tƣ cung, ngôn tƣ trung, sự tƣ kính, nghi tƣ vấn, phẫn tƣ nan, kiến đắc tƣ nghĩa. Khổng tử nói: Quân tử có 9 điều lo nghĩ 1. Khi nhìn, phải xem cho kĩ . 2. Khi nghe, phải biết chắc đã nghe thông tỏ. 3. Khi chƣa rõ việc gì, cần tìm ngƣời hỏi. 4. Sắc mặt khi đối đãi giao tiếp có ôn hòa không. 5. Thái độ giao tiếp với ngƣời đã cung kính chƣa 6. Nói chuyện với ngƣời có trung thực không. 7. Làm việc với ngƣời đã nghiêm túc chƣa. 8. Khi giận dữ phải nghĩ đến hậu hoạ, khó khăn về sau. 9. Khi thấy mối lợi, nghĩ xem có phạm vào điều bất nghĩa không |
16.11 子曰:见善如不及,见不善如探汤。吾见其人矣,吾闻其语矣。隐居以求其志,行义以达其道 。吾闻其语矣,未见其人也. Tử viết: Kiến thiện nhƣ bất cập, kiến bất thiện nhƣ thám thang. Ngô kiến kỳ nhân hĩ. ngô văn kỳ ngữ hĩ. Ẩn cƣ dĩ cầu kỳ chí, hành nghĩa dĩ đạt kỳ đạo. Ngô văn kỳ ngữ hĩ, vị kiến kỳ nhân dã. Khổng tử: Nhìn thấy ngƣời thiện nhƣ theo chẳng kịp, thấy kẻ bất thiện thì nhƣ rờ tay phải nƣớc sôi. Ta đã nhìn thấy ngƣời nhƣ vậy, nghe ngƣời xƣa nói nhƣ thế. Đi ở ẩn để giữ trọn cái chí của mình, làm việc nghĩa để đạt đƣợc cái đạo của mình. Ta đã nghe ngƣời xƣa nói vậy nhƣng chƣa thấy ngƣời nào nhƣ vậy. 16.12 149 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 齐景公有马千驷,死之日,民无德而称焉。伯夷叔齐饿死於首阳之下,民到於今称之。 兲斯之谓与? Tề Cảnh công hữu mã thiên tứ, tử chi nhật, dân vô đức nhi xứng yên. Bá Di, Thúc Tề ngạ tử ƣ Thủ Dƣơng chi hạ, dân đáo ƣ kim xứng chi.Kỳ tƣ chi vị dự ? Vua Tề Cảnh công có nghìn cỗ xe bốn ngựa. Ngày vua chết, dân chúng chẳng thấy ngài có đức hạnh gì để ca tụng. Bá Di, Thúc Tề chịu chết đói dƣới chân núi Thủ Dƣơng để lại đạo đức ngày nay dân chúng vẫn ca tụng. Những ngƣời ấy chẳng phải nhƣ vậy sao ? 16.13 陈亢问於伯鱼曰:“子亦有异闻乎?”. 对曰:“未也。尝独立,鲤趋而过庭。曰:„学诗乎?‟对曰:„ 未也‟。„不学诗,无以言。‟鲤退而学诗。 他日又独立, 鲤趋而过庭。曰:„学礼乎?‟.对曰:„ 未也‟。„不学礼,无以立。‟. 鲤退而学礼。闻斯二者”. 陈亢退而喜曰:“问一得三。闻诗,闻 礼,又闻君 子之远其子也” . Trần Cao vấn ƣ Bá Ngƣ viết: “Tử diệc hữu dị văn hồ? Đối viết: Vị dã. Thƣởng độc lập, lý xu nhi quá đình. Viết: “Học thi hồ?”. Đối viết: Vị dã. Bất học thi, vô dĩ ngôn. Lý thoái nhi học thi. Tha viết hựu độc lập, lý xu nhi quá đình. Viết: “Học lễ hồ?”. Đối viết: “Vị dã. Bất học lễ, vô dĩ lập. |
Lý thoái nhi học lễ. Văn tƣ nhị giả. Trần Cao thoái nhi hỉ viết: “Vấn nhất đắc tam.Văn thi, văn lễ, hựu văn quân tử chi viễn kỳ tử dã”. Trần Cao hỏi Bá Ngƣ (con Khổng tử): Nghe thầy dạy có điều gì lạ không ? Bá Ngƣ trả lời: Chƣa thấy. Một hôm cha tôi đứng một mình, tôi nhẹ nhàng đi qua sân. Cha tôi hỏi: Đã học Kinh Thi chƣa ? Tôi đáp: con chƣa học. Cha nói: Không học Kinh Thi biết gì mà nói chuyện. Sau tôi lui về học Kinh Thi. Lại hôm khác, cha tôi cũng đứng một mình tôi lễ phép đi qua, cha tôi lại hỏi “đã học kinh Lễ chƣa ?”. Tôi thƣa rằng chƣa học. Cha tôi bảo: Không học kinh Lễ thì không có cách gì lập thân. Sau đó tôi học kinh Lễ… Đó, tôi chỉ nghe thấy hai việc này. Trần Cao trở về vui mừng nói: Mình hỏi một việc mà biết đƣợc ba việc, đó là phải học Kinh Thi, kinh Lễ, lại biết rằng bậc quân tử đối với con cái cũng không thân cận hơn hay dạy dỗ đặc biệt hơn. 16.14 邦君之妻,君称之曰夫人, 夫人自称曰小童;邦人称之曰君夫人, 称诸异邦曰寡小君; 异邦人 称之亦曰君夫人。 150 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Bang quân chi thê, quân xƣng chi viết phu nhân, phu nhân tự xƣng viết tiểu đồng; Bang nhân xƣng chi viết quân phu nhân, xƣng chƣ dị bang viết quả tiểu quân; dị bang nhân xƣng chi diệc viết quân phu nhân. Vợ vua chƣ hầu gọi là “phu nhân”, phu nhân tự xƣng mình là “tiểu đồng”. Ngƣời dân gọi các bà là “quân phu nhân”. Vua xƣng với vua nƣớc bạn là “quả tiểu quân”, ngƣời nƣớc khác vẫn gọi vợ vua là “quân phu nhân”. |
(Chú thích: Phu còn có nghĩa phù (giúp đỡ), vợ là ngƣời giúp đỡ chồng (phu nhân). Quả: ít đức, lời khiêm tốn, nhƣ xƣng “quả nhân”, gọi phụ nữ góa chồng là “quả phụ” với ý nghĩa ấy. Khổng tử coi trọng thuyết chính danh nên nhắc nhở học trò xƣng hô chuẩn mực). Hết thiên 16 1. 17. 阳货 Dƣơng Hóa 第十七篇thiên 17 17.1 阳货欲见孔子,孔子不见,归孔子豚。孔子时其亡也,而往拜之,遇诸涂。谓孔子曰:“来!予与 尔言”。曰:“怀其宝而迷其邦,可谓仁乎?”. 曰:“不可”。“好从事而亟失时,可谓知乎?”.曰:“不 可,日月逝矣,岁不我与”。孔子曰:“诺,吾将仕矣。” Dƣơng Hóa dục kiến Khổng tử, Khổng tử bất kiến, qui Khổng tử đồn. Khổng tử thời kỳ vong dã, nhi vãng bái chi, ngộ chƣ đồ. Vị Khổng tử viết: “Lai ! Dƣ dự nhĩ ngôn”. Viết: Hoài kỳ bảo nhi mê kỳ bái, khả vị nhân hồ? Viết: Bất khả. Hảo tòng sự nhi cức thất thì, khả vị tri hồ? Viết: Bất khả. Nhật nguyệt thệ hĩ, tuế bất ngã dự. Khổng tử viết: Nặc ngô thƣơng sĩ hĩ. Dƣơng Hóa muốn gặp Khổng tử nhƣng ông tránh mặt. Dƣơng Hoá để lại một con lợn luộc làm quà biếu. Khổng tử nhân dịp Dƣơng Hóa đi vắng, đến nhà bái tạ. Không ngờ hai ngƣời gặp nhau giữa đƣờng. Dƣơng Hóa nói, lại đây ta có chuyện muốn nói với ông. Dƣơng Hóa hỏi: “Có đạo đức nhƣng mặc cho quốc gia mê muội, có thể gọi là ngƣời có nhân đƣợc không?”. Khổng tử đáp: Không thể. Dƣơng Hóa lại hỏi: Thích làm quan nhƣng lại luôn bỏ lỡ thời cơ, có thể gọi là ngƣời trí đƣợc không? Khổng tử đáp: Không thể. Dƣơng Hóa lại nói: Ngày tháng trôi qua không bao giờ trở lại, tuổi chẳng đợi chờ ta. Khổng tử nói: Đƣợc, ta ra làm quan vậy. (Chú thích: Dƣơng Hóa là gia thần của họ Quý giữ chức đại phu, muốn đƣa Khổng tử ra làm quan. Khổng tử không muốn giúp Dƣơng Hóa làm loạn trong tình thế nƣớc Lỗ đang suy vi vô 151 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net |
đạo…) 17.2 子曰:性相近也, 习相远也。 Tử viết: Tính tƣơng cận dã, tập tƣơng viễn dã. Khổng tử nói: Khi mới sinh ra, tính nết ngƣời ta gần giống nhau, về sau tập quán khác nhau nên tính tình sẽ khác xa nhau. (Chú thich:Vấn đề bản tính con ngƣời có nhiều quan điểm khác nhau: Lão tử cho rằng bản tính ngƣời có thiện có ác, cùng tồn tại tƣơng tác lẫn nhau. Tuân tử cho rằng bản chất con ngƣời là ác, phải có sự giáo dục thì mới cải đƣợc cái ác thành thiện. Hàn Phi tử cực đoan nhất, cho là bản tính con ngƣời là rất ác, chỉ có hình phạt mới ngăn ngừa đƣợc phần nào… Khổng tử cho rằng bản tính con ngƣời vốn không khác nhau mấy, chỉ vì tập phải những thói quen khác nhau (hoàn cảnh khác nhau) và đƣợc giáo dục khác nhau nên khác xa nhau. Sách Tam tự kinh do Vƣơng Ứng Lân (1223 1296) thời nhà Tống biên soạn có câu “Nhân chi sơ/ tính bản thiện/ Tính tương cận ; tập tương viễn” đã đi theo quan điểm Khổng tử) 17·3 子曰:唯上知与下愚不移。 Tử viết: Duy thƣợng trí dữ hạ ngu bất di. Khổng tử nói: Chỉ có bậc thƣợng trí (trí tuệ cao nhất) và bậc hạ ngu (ngu hết cỡ) là không thể thay đổi đƣợc. (Lời bàn: vậy là hầu hết mọi ngƣời đều có thể thay đổi, bởi có mấy ai thuộc hai bậc nói trên !. Khổng tử thật lạc quan, có niềm tin vào sự tiến bộ của con ngƣời). 17.4 子之武城, 闻弦歌之声。夫子莞尔而笑,曰:“割鸡焉用牛刀?”. 子游对曰:“昔者偃也闻诸 夫子曰:„君子学道则爱人,小人学道则易使也‟” 。 子曰:“二三子!偃之言是也。前言戏之 耳” 。 Tử chi Vũ Thành, văn huyền ca chi thanh. Phu tử hoàn nhĩ nhi tiếu, viết: “Cát kê yên dụng ngƣu đao ?”. Tử Du đối viết: Tích giả yển dã văn chƣ phu tử viết: “Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dịch sử dã”. Tử viết: Nhị tam tử !Yển chi ngôn thị dã. Tiền ngôn hí chi nhĩ. |
Khổng tử đến ấp Vũ Thành, nghe tiếng đàn tiếng hát. Khổng tử mỉm cƣời nói: Giết gà sao phải dùng dao mổ trâu? Tử Du thƣa rằng: “Trƣớc con nghe thầy giảng rằng quân tử học đạo sẽ yêu ngƣời, tiểu nhân học đạo dễ sai khiến”. Khổng tử liền nói: Này các ngƣơi, trò Yển (Tử Lộ) nói phải đấy. Ta chỉ nói đùa đó thôi. 152 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net (Lời bàn: Tử Lộ cai trị ở ấp Vũ Thành, cho dân học nhạc tức là học đạo. Ý Khổng tử nói dân đen cần chi dùng nhạc lễ để giáo hóa) 17·5 公山弗扰以费畔,召,子欲往。子路不悦,曰:“末之也已,何必公山氏之之也”。 子曰:“夫召我者,而岂徒哉?如有用我者,吾其为东周乎?” Công Sơn Phất Nhiễu dĩ Phí bạn, triệu, tử dục vãng. Tử Lộ bất duyệt, viết: Mạt chi dã dĩ, hà tất Công Sơn thị chi chi dã”. Tử viết: Phu triệu ngã giả, nhi khải đồ tai ? Nhƣ hữu dụng ngã giả, ngô kỳ vi Đông Chu hồ ? Công Sơn Phất Nhiễu giữ đất Phí gây chính biến, mời Khổng tử đến giúp. Khổng tử muốn đi. Tử Lộ không vui nói “Không có chỗ đi thì thôi, sao phải đến chỗ Công Sơn Phất Nhiễu ?”. Khổng tử trả lời: “Ngƣời gọi ta đâu phải để ta ngồi không. Nếu dùng ta thì ta sẽ làm cho đạo nhà Chu ở phƣơng Đông phục hƣng đƣợc”. (Chú thích: Công Sơn Phất Nhiễu định nổi loạn ở đất Phí, lúc đầu Khổng tử sốt sắng định đi để thuyết phục họ theo lễ nhà Chu…Sau xét kỹ thấy Công Sơn nhiều lỗi lầm khó cải hoá nên không đi nữa… Khổng tử cũng biết nghe lời can ngăn của học trò vậy) 17.6 子张问仁於孔子。孔子曰:“能行亓者於天下为仁矣”。请问之。曰:“恭,宽,信,敏,惠。恭则不 侮,宽则得众,信则人任焉,敏则有功,惠则足以使人” 。 Tử Trƣơng vấn nhân ƣ Khổng tử. Khổng tử viết: Năng hành ngũ giả ƣ thiên hạ vi nhân hĩ. Vị vấn chi.Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhậm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân. |
Tử Trƣơng hỏi về đạo nhân. Khổng tử nói: Làm đƣợc 5 điều mới gọi là ngƣời nhân. Tử Trƣơng xin giải thích. Khổng tử nói: Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan dung thì đƣợc lòng ngƣời, tín thực thì đƣợc tin cậy, mẫn cán thì có công, ban ân huệ thì dễ sử dụng ngƣời. 17·7 佛肸召,子欲往。子路曰:昔者由也闻诸夫子曰:„亲於兲身为不善者,君子不入也。‟佛肸 以中牟畔,子之往也,如之何?”. 子曰:“然,有是言 也。不曰坚乎,磨而不磷;不曰白乎,涅 而不缁。吾岂匏瓜也哉?焉能系而不食?” 153 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Phật Hật triệu, Tử dục vãng. Tử Lộ viết: Tích giả do dã văn chƣ phu tử viết: “Thân ƣ kỳ thân vi bất thiện giả, quân tử bất nhập dã. Phật Hật dĩ Trung Mâu bạn, Tử chi vãng dã, nhƣ chi hà ?. Tử viết: “Nhiên, hữu thị ngôn dã. Bất viết kiên hồ, ma nhi bất lân; Bất viết bạch hồ, niết nhi bất truy. Ngô khải bào qua dã tai ? yên năng hệ nhi bất thực ? Phật Hật mời thầy, Khổng tử muốn đi. Tử Lộ nói: Ngày trƣớc con nghe thầy giảng ngƣời quân tử không đến chỗ kẻ tự làm điều xấu. Nay Phật Hật làm loạn chiếm cứ Trung Mâu, thầy lại muốn đi, sao nhƣ vậy? Khổng tử nói: “Đúng ta đã nói vậy. Nhƣng một vật cứng không thể mài mòn đƣợc, một vật trắng không thể nhuộm đen đƣợc. Lẽ nào ta chỉ nhƣ cái quả bầu khô treo lên, mà không để ngƣời ta ăn đƣợc sao ? (Lời bàn: Khổng tử nghĩ là có thể cải hóa Phật Hật nên muốn đi giúp… Nhƣng sau biết rằng Phật Hật không thể thay đổi nên lại không đi) 17· 8 子曰:“由也,女闻六言六蔽矣乎?”。 对曰:“未也”。“居,吾语女。好仁不好学,其蔽也 愚;好知不好学, 兲蔽也荡;好信不好学,兲蔽也贼;好直不好学,兲蔽也绞;好勇不好学, 兲蔽也乱;好刚不好学,兲蔽也狂” 。 Tử viết: Do dã, nhữ văn lục ngôn lục tế hĩ hồ ?. Đối viết: Vị dã. “Cƣ, ngô ngữ nhữ. Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế dã ngu; Hiếu tri bất hiếu học, kỳ tế dã đãng; Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế dã tặc; Hiếu trực bất hiếu học, kỳ tế dã giảo; Hiếu dũng bất hiếu học. Kỳ tế dã loạn; Hiếu cƣơng bất hiếu học, kỳ tế dã cuồng. |
Khổng tử nói: Này trò Do, ngƣơi đã đƣợc nghe về 6 đức tốt bị che lấp chƣa? Tử Lộ đáp: Dạ chƣa. Khổng tử bảo: Ngồi xuống, ta nói cho nghe. Ham đức nhân mà không học, gặp cái xấu che lấp là ngu muội. Thích trí tuệ mà không học, gặp cái xấu là phóng đãng. Trọng chữ tín mà không học, gặp tệ xấu là tổn hại. Ƣa tính ngay thẳng mà không học, gặp cái xấu che khuất là nóng nảy. Ham đức dũng mà không học hỏi, gặp thói xấu là phản loạn. Tính cƣơng quyết mà thiếu học hỏi, gặp cái xấu là thành cuồng bạo. 17·9 子曰:“小子何莫学夫诗。诗,可以兴,可以观,可以群,可以怨。迩之事父,远之事君;多 识於鸟兽草木之名” 。 Tử viết: Tiểu tử hà mạc học phu thi. Thi, khả dĩ hƣng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; Đa chí ƣ điểu thú thảo mộc chi danh. Khổng tử nói: Sao các trò không học Kinh Thi ? Học Thi có thể hưng khởi tâm trí (trí tƣởng tƣợng), có khả năng quan sát, hòa hợp quần tụ với ngƣời khác, hiểu đúng về oán hận. Gần thì biết đạo thờ cha mẹ, xa hơn thì biết thờ vua; Lại còn biết tên nhiều loài chim thú cỏ cây nữa. 154 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net (Chú thích: gọi tắt quan điểm về thơ của Khổng tử là “Hƣng, quan, quần, oán”) 17·10 子谓伯鱼曰:“女为《周南》,《召南》矣乎?人而不为《周南》,《召南》,兲犹正墙面而立 也与?” Tử vị Bá Ngƣ viết: Nhữ vi “Chu Nam”, “Triệu Nam” hĩ hồ? Nhân nhi bất vi “Chu Nam” “Triệu Nam” kỳ do chính tƣờng diện nhi ; lập dã dự ? Khổng tử nói với con là Bá Ngƣ: Con đã học hai bài Chu Nam và Triệu Nam chƣa? Ngƣời nào không đọc hai bài ấy thì nhƣ đứng úp mặt vào vách tƣờng vậy. |
(Chú thích: Đó là hai nhóm bài ca dao trong Kinh Thi, sƣu tầm ở đất Chu Nam và Triệu Nam, nói về đạo lý tu thân và tề gia) 17·11 子曰:礼云礼云,玉帛云乎哉?乐云乐云,钟鼓云乎哉? Tử viết: Lễ vân lễ vân, ngọc bạch vân hồ tai ? Nhạc vân nhạc vân, chung cổ vân hồ tai? Khổng tử nói: Lễ có nghĩa phong phú (vân vân), phải chăng chỉ là tơ lụa ngọc quí ! Nhạc cần sự hòa hợp chứ phải đâu chỉ là chuông với trống ! (Lời bàn: Nói đến lễ, hãy chú ý tinh thần, không nên trọng vật chất. Nhạc không chỉ là nhạc cụ mà là sự hài hòa) 17·12 子曰:色厉而内荏,譬诸小人,其犹穿窬之盗也与? Tử viêt: Sắc lệ nhi nội nhẫm, thí chƣ tiểu nhân, kỳ do xuyên du chi đạo dã dƣ ? Khổng tử nói: Kẻ bề ngoài uy nghi mà bên trong yếu ớt thì cũng nhƣ tiểu nhân thôi, cũng nhƣ kẻ đào tƣờng khoét vách ăn trộm vậy. 17·13 子曰:“乡愿”, 德之贼也。 155 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử viết: “Hƣơng nguyện”, đức chi tặc dã. Khổng tử nói: Loại ngƣời giả bộ thật thà chất phác, kì thực là kẻ hại đạo. 17·14 子曰:道听而涂说,德之弃也。 Tử viết: Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã. Khổng tử nói: Cái lối nghe chuyện ngoài đƣờng rồi nói chuyện giữa đƣờng, ấy là bỏ mất cái đức vậy. (Lời bàn: Khổng tử nhắc nhở không nên tin những lời xuyên tạc, vu vơ. Nghe rồi chớ bàn cãi, ngƣời ta nghe thấy lại còn chê cƣời cho) 17·15 子曰:“鄙夫可与事君也与哉?兲未得之也,患得之。既得之,患失之。苟患失之,无所不 至矣” 。 Tử viết: Bỉ phu khả dự sự quân dã dự tai? Kỳ vị đắc chi dã, hoạn đắc chi. Ký đắc chi, hoạn thất chi. Cẩu hoạn thất chi, vô sở bất chí hĩ. |
Khổng tử nói: Kẻ thô bỉ lại có thể cùng ta thờ vua đƣợc ƣ? Khi chƣa có địa vị thì cố chạy chọt, khi đƣợc rồi thì chỉ sợ mất chức vị. Lo sợ mất chức nên chẳng có việc gì xấu mà kẻ ấy không dám làm. 17·16 子曰:“古者民有三疾,今也或是之亡也。古之狂也肆,今之狂也荡;古之矜也廉,今之矜 也忿戾;古之愚也直,今之愚也诈而已矣” 。 Tử viết: Cổ giả dân hữu tam tật, kim dã hoặc thị chi vong dã. Cổ chi cuồng dã tứ, kim chi cuồng dã đãng; Cổ chi căng dã liêm, kim chi căng dã phẫn lệ; Cổ chi ngu dã trực, kim chi ngu dã tác nhi dĩ hĩ. Khổng tử nói: Ngƣời xƣa có ba tật xấu, có lẽ đời nay không còn nữa… Kẻ cuồng vọng xƣa còn ở mức thấp, nay thì cuồng vọng vô hạn độ. Kẻ kiêu căng xƣa còn liêm chính, nay thì còn vô lễ liều lĩnh. 156 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Ngƣời ngu dốt xƣa còn có ngay thẳng, ngu thời nay đến mức biết gian trá lừa đảo nữa. 17·17 子曰:恶紫之夺朱也,恶郑声之乱雅乐也,恶利口之覆邦家者。 Tử viết: Ố tử chi ký chu dã, ố Trịnh thanh chi loạn Nhã dã, ố lợi khẩu chi phúc bang gia giả. Khổng tử nói: Ta ghét sắc tía cƣớp mất sắc đỏ, nhạc nƣớc Trịnh lấn át nhạc Nhã, ghét kẻ bẻm mép làm bại hoại nƣớc nhà. (Chú thích: Sắc đỏ là chính thống, sắc tía/ tím là pha tạp, bất chính…Âm nhạc nƣớc Trịnh hồi Xuân thu là thứ nhạc hạ lƣu, dâm loạn… Theo ý Khổng tử, nghe ca khúc của một nƣớc có thể thấy đƣợc xã hội ấy tốt hay xấu). 17·18 子曰:“予欲无言”。子贡曰:“子如不言,则小子何述焉?”。子曰:“天何言哉?四时行焉 ,百物生焉,天何言哉?” Tử viết: Dƣ dục vô ngôn. Tử Cống viết: Tử nhƣ bất ngôn, tắc tiểu tử hà thuật yên? Tử |
viết: Thiên hà ngôn tai? Tứ thì hành yên, bách vật sinh yên, thiên hà ngôn tai? Khổng tử nói: “Ta chẳng muốn nói gì nữa”. Tử Cống thƣa: “Thầy không nói nữa thì chúng con biết đi truyền bá gì nữa”. Khổng tử bảo: “Trời có nói gì đâu ! Bốn mùa vẫn vận hành trôi chảy, muôn vật sinh trƣởng, trời có nói gì đâu !”. (Lời bàn: Khổng tử muốn nói rằng cứ chịu khó quan sát thế giới mà hiểu đƣợc qui luật, mặt khác nhìn vào những tấm gƣơng sống mà noi theo) 17·19 孺悲欲见孔子,孔子辞以疾。将命者出户,取瑟而歌,使之闻之。 Nhũ Bi dục kiến Khổng tử, Khổng tử từ dĩ tật. Thƣơng mệnh giả xuất hộ, thủ săt nhi ca, sử chi văn chi. Nhũ Bi muốn gặp Khổng tử, thầy cáo bệnh không tiếp. Khi ngƣời truyền lệnh bƣớc ra khỏi phòng, Khổng tử liền gảy đàn sắt, có ý cho Nhũ Bi nghe thấy. 157 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net (Chú thích: Nhũ Bi trƣớc là học trò thầy Khổng, sau có lẽ trở thành kẻ xấu nên thầy không muốn tiếp. Nhƣng thầy cố ý cho y biết thầy không bệnh, mà dạy y một bài học không lời, rằng thầy chê trách Nhũ Bì và không muốn dạy nữa). 17·20 宰我问: “三年之丧,期已久矣。君子三年不为礼,礼必坏; 三年不为乐,乐必崩。旧谷既没,新 谷既升,钻燧改火,期可已矣”。子曰:“食夫稻, 衣夫锦, 於女安乎?”.曰:“安”。 “女安则为 之。夫君子之居丧,食旨不甘,闻乐不乐,居处不安,故不为也。今女安,则为之!” 。 宰我出,子 曰:“予之不仁也!子生三年, 然后免夫父母之怀,夫三年之丧,天下之通丧也。 予也有三年之爱夫其父母乎?” Tể Ngã vấn: “Tam niên chi tang, kỳ dĩ cữu hĩ. Quân tử tam niên bất vi lễ, lễ tất phôi; Tam niên bất vi nhạc, nhạc tất băng. Cựu cốc ký một, tân cốc ký thăng, toàn toại cải hỏa, kỳ khả dĩ hĩ”. Tử viết: Thực phu đạo, y phu cẩm, ƣ nhữ an hồ? Tể Ngã viết “An”. Tử viết: Nhữ an tắc vi chi. Phu quân tử chi cƣ tang, thực chỉ bất cam, văn nhạc bất lạc, cƣ xứ bất an, cố bất vi dã. Kim nhữ an, tắc vi chi”. |
Tể Ngã xuất, Tử viết: “Dữ chi bất nhân dã ! Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn ƣ phụ mẫu chi hoài, phu tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang dã. Dữ dã hữu tam niên chi ái ƣ kỳ phụ mẫu hồ ? Tể Ngã hỏi: Để tang ba năm, nhƣ thế quá lâu ! Ba năm quân tử không ôn tập việc lễ, lễ sẽ phôi pha. Ba năm không luyện nhạc, nhạc quên hết. Lúa cũ ăn hết, lúa mới đã chín (một năm) những thứ cây để đánh lửa cũng dùng hết rồi. Khổng tử hỏi: Ăn gạo thơm, mặc áo gấm (trong lúc để tang) ngƣơi có an tâm không ? Tể Ngã đáp: An tâm. Khổng tử bảo: Ngƣơi an tâm thì cứ làm vậy đi. Quân tử để tang ăn không biết ngon, nghe nhạc mà không vui, ở đâu cũng thấy bất an, lí do để tang (ba năm) là vậy. Nay ngƣơi thấy an tâm thì cứ làm đi. Tể Ngã về rồi, Khổng tử nói: Ta cho rằng Tể Ngã là kẻ bất nhân. Anh ta sinh ra ba năm mới có thể rời khỏi cánh tay ẵm bồng của cha mẹ, thiên hạ đều để tang ba năm. Chẳng lẽ Tể Ngã không đƣợc cha mẹ ẵm bồng ba năm sao ? 158 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 17·21 子曰:饱食终日,无所用心,难矣哉!不有博奕者乎?为之, 犹贤乎已。 Tử viết: Bão thực chung nhật, vô sở dụng tâm, nan hĩ tai ! Bất hữu bác dịch giả hồ ? Vi chi, do hiền hồ dĩ. Khổng tử nói: Ngƣời nào suốt ngày chỉ biết ăn no ở không, chẳng bận tâm việc gì, thật khó làm nên. Sao chẳng biết chơi cờ bạc ? Thà làm việc ấy còn hơn ngồi không. |
(Lời bàn: Có lẽ Khổng tử không nên xúi ngƣời đánh bạc, chỉ nên chơi cờ giải trí thôi. Hay là thời cổ đại, đánh bạc chƣa tai hại nhƣ bây giờ ?) 17·22 子路曰:“君子尚勇乎?”.子曰:“君子义以为上。君子有勇而无义为乱,小人有勇而无义为盗 。” Tử Lộ viết: Quân tử thƣợng dũng hồ? Tử viết: Quân tử nghĩa vi thƣợng. Quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo. Tử Lộ nói: Quân tử có chuộng “dũng” không? Khổng tử đáp: Quân tử xem nghĩa là trên hết. Quân tử có dũng mà bất nghĩa thì làm loạn, tiểu nhân có dũng mà bất nghĩa thì làm trộm cƣớp. 17·23 子贡曰:“君子亦有恶乎?”。子曰:“有恶。恶称人之恶者,恶居下流而讪上者, 恶勇而无 礼者,恶果敢而窒者”。曰:“赐也亦有恶乎?”。“恶徼以为知者,恶不孙以为勇者,恶讦 以为直者” 。 Tử Cống viết: Quân tử diệc hữu ố hồ ? Tử viết: Hữu ố. Ố xứng nhân chi ố giả, ố cƣ hạ lƣu nhi san thƣợng giả, ố dũng nhi vô lễ giả, ố quả cảm nhi trất giả. Viết: Tứ dã diệc hữu ố hồ ? Ố kiếu dĩ vi tri giả, ố bất tôn dĩ vi dũng giả, ố kiết dĩ vi trực giả. Tử Cống hỏi: Ngƣời quân tử có ghét ai không? Khổng tử nói: Có ghét. Ghét kẻ đi nói xấu ngƣời khác, ghét cấp dƣời gièm pha cấp trên, ghét ngƣời dũng mà không giữ lễ, ghét ngƣời quả quyết mà không thông hiểu lý lẽ. Ngƣơi nói xem có ghét ai không? Tử Cống đáp: Con ghét kẻ hay rình mò ngƣời khác mà tự nhận ngƣời trí, ghét kẻ thiếu khiêm tốn mà nhận mình là dũng, ghét ngƣời bới móc chuyện riêng tƣ ngƣời khác mà tự nhận mình ngay thẳng. (Lời bàn: Tử Cống ghét ba loại ngƣời nhƣng e rằng bậc quân tử không đƣợc ghét ngƣời nên mới hỏi thầy). 159 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net |
17·24 子曰: 唯女子与小人为难养也,近之则不孙,远之则怨。 Tử viết: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dƣỡng dã, cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc oán. Khổng tử nói: Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó dạy nhất, gần gũi thì họ thiếu tôn kính, cách xa thì họ oán giận. (Lời bàn: Quan điểm này thực khó đƣợc phụ nữ chấp nhận. Chả trách ngƣời ta bảo cụ Khổng phong kiến coi rẻ phụ nữ. Nhƣng đó chỉ là trải nghiệm riêng của Khổng tử) 17·25 子曰:年四十而见恶焉,其终也已。 Tử viết: Niên tứ thập nhi kiến ố yên, kỳ chung dã dĩ. Khổng tử nói: Kẻ bốn chục tuổi còn làm điều ác thì không thể tốt đƣợc nữa. Hết thiên 17 1. 18. 微子 Vi Tử 第十八篇 thiên 18 11 bài 18.1 微子去之,箕子为之奴,比干谏而死。孔子曰:“殷有三仁焉” 。 Vi Tử khứ chi, Cơ Tử vi chi nô, Tỷ Can gián nhi tử. Khổng tử viết: Ân hữu tam nhân yên Vi Tử từ quan ra đi, Cơ Tử bị giáng làm nô bộc, Tỷ Can vì can ngăn vua mà bị xử tội chết. Khổng tử nói: Nhà Ân chỉ có ba ngƣời ấy là ngƣời nhân. (Chú thích: Cuối triều Ân, vua Trụ tàn bạo ăn chơi trác táng lại tàn hại các trung thần nhƣ Vi Tử, Tỷ Can, Cơ Tử…) 18.2 160 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 柳下惠为士师,三黜。人曰:“子未可以去乎?”.曰:“直道而事人,焉往而不三黜?枉道 而事人,何必去父母之邦?” Liễu Hạ Huệ vi sĩ sƣ, tam truất. Nhân viết: Tử vị khả dĩ khứ hồ ? Viết: Trực đạo nhi sự nhân, yên vãng nhi bất tam truất ? Uổng đạo nhi sự nhân, hà tất khứ phụ mẫu chi bang. Liễu Hạ Huệ làm quan, chức sĩ sƣ, ba lần bị giáng chức. Có ngƣời nói: Sao ông chƣa bỏ đi ? Liễu Hạ Huệ đáp: Tôi đem đạo chính trực đi phục vụ ngƣời thì ở đâu mà chẳng bị cách chức ba lần nhƣ trƣớc đây? Làm vậy là uổng phí đạo phục vụ ngƣời, lại còn xa rời đất nƣớc cha mẹ tôi đang ở. |
(Chú thich: Liễu Hạ Huệ quan nƣớc Lỗ thời Xuân thu, bị vua bạc đãi nhƣng vẫn kiên trì làm việc vì ông tin rằng mình phục vụ nhân dân chứ không phục vụ nhà vua…) 18.3 齐景公待孔子曰:“若季氏,则吾不能;以季,孟之间待之”。 曰:“吾老矣,不能用也” 孔子行。 Tề Cảnh Công đãi Khổng tử viết: Nhƣợc Quý thị, tắc ngô bất năng; Dĩ Quý, Mạnh chi gian đãi chi. Viết: Ngô lão hĩ, bất năng dụng dã. Khổng tử hành Vua Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng tử, nói: Đãi nhƣ (vua Lỗ) đãi họ Quý (đại phu), ta không làm đƣợc; Chỉ đãi nhƣ họ Quý tiếp họ Mạnh (quan sĩ) thì ta làm đƣợc. Lại nói tiếp: Ta già rồi, không thể dùng ông đƣợc nữa. Nghe vậy, Khổng tử liền dời khỏi nƣớc Tề. 18.4 齐人归女乐,季桓子受之,三日不朝。孔子行。 Tề nhân qui nữ lạc, Quý Hoàn tử thụ chi, tam nhật bất triều. Khổng tử hành. Nƣớc Tề đƣa tặng mỹ nữ làm vui, Quý Hoàn tử nhận quà, triều đình ba ngày liền không họp. Khổng tử liền dời bỏ nuớc Lỗ. (Chú thích: Quý Hoàn tử là quan đại phu nƣớc Lỗ, quyền lực chỉ dƣới vua, có thói lộng quyền) 161 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 18.5 楚狂接舆歌而过孔子曰:“凤兮凤兮!何德之衰?往者不可谏,来者犹可追。已而已而!今之 从政者殆而 !”。 孔子下,欲与之言, 趋而辟之,不得与之言。 Sở cuồng Tiếp Dƣ ca nhi quá Khổng tử viết: Phƣợng hề Phƣợng hề ! Hà đức chi suy ? Vãng giả bất khả gián, lai giả do khả truy. Dĩ nhi dĩ nhi ! Kim chi tòng chính giả đãi nhi!”. Khổng tử hạ, dục dự chi ngôn. Xu nhi tịch chi, bất đắc dự chi ngôn. Cuồng sĩ nƣớc Sở tên Tiếp Dƣ đi qua xe Khổng tử, hát rằng: “Phƣợng hoàng ơi, phƣợng hoàng ơi ! Vì sao đức nhân suy đến thế ? Việc đã qua không thể ngăn cản, việc sắp tới có thể còn kịp. Thôi đi, thôi đi ! Làm quan ngày nay nguy lắm đó”. |
Khổng tử xuống xe, định nói thì anh kia bỏ đi, khiến ngài không thể tiếp chuyện. (Chú thích: Theo tín ngƣỡng xƣa, khi thấy phƣợng hoàng hay kỳ lân xuất hiện là báo điềm lành cho đất nƣớc…Tiếp Dƣ có ý nhắn bảo Khổng tử không nên làm chính trị nữa) 18.6 长沮,桀溺耦而耕。孔子过之,使子路问津焉。 长沮曰:“夫执舆者为谁?”。子路曰:“为孔丘”。曰:“是鲁孔丘与?”. 曰:“是 也”。曰:“是知津矣。”. 问於桀溺。桀溺曰:“子为谁?”. 曰:“为仲由”。曰:“是孔丘之徒与?”. 对曰:“然”。曰:“滔滔者天下皆是也,而谁以易之 ?且而与兲从辟人之士也,岂若从辟世之士哉?”耰而不辍。子路行以告。夫子怃然曰:“ 鸟兽不可与同群,吾非斯人之徒与而谁与?天 下有道,丘不与易也” 。 Tràng Thƣ, Kiệt Nịch ngẫu nhi canh. Khổng tử quá chi, sử Tử Lộ vấn tân yên. Tràng Thƣ viết: Phu chấp dƣ giả vi thùy ?Tử Lộ viết: Vi Khổng Khâu. Viết: Thị Lỗ Khổng Khâu dữ ? Viết: Thị dã ? Viết: Thị tri tân hĩ. Vấn ƣ Kiệt Nịch. Kiệt Nịch viết: Tử vi thùy ? Viết: Vi Trọng Do. Viết: Thị Khổng Khâu chi đồ dữ ? Đối viết: Nhiên. Viết: Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thùy dĩ dịch chi ? Thả nhi dự kỳ tòng tịch nhân chi sĩ dã, khải nhƣợc tòng tịch thế chi sĩ tai ? Ƣu nhi bất chuyết. Tử Lộ hành dĩ 162 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net cáo. Phu tử vũ nhiên viết: Mã thú bất khả dự đồng quần. Ngô phi tƣ nhân chi đồ dữ nhi thùy dự. Thiên hạ hữu đạo, Khâu bất dự dịch dã. Tràng Thƣ và Kiệt Nịch đang làm ruộng cùng nhau, Khổng tử đi qua đó, bảo Tử Lộ tới hỏi thăm đƣờng đến bến đò. Tràng Thƣ hỏi Tử Lộ: “Ngƣời cầm cƣơng ngựa kia là ai?”. Tử Lộ đáp: “Là thầy Khổng Khâu”. Tràng Thƣ hỏi lại: Có phải Khổng Khâu nƣớc Lỗ không ? Tử Lộ nói phải. Tràng Thƣ hỏi tiếp: Thế thì Khổng Khâu đã biết bến đò rồi… Tử Lộ hỏi Kiệt Nịch. Kiệt Nịch hỏi: Ngƣơi là ai ? Tử Lộ trả lời: Tôi là Trọng Do. Kiệt Nịch hỏi lại: Có phải là học trò của Khổng Khâu nƣớc Lỗ không ? Trả lời : Phải. Kiệt Nịch nói: Thiên hạ loạn lạc nhƣ nƣớc chảy cuồn cuộn rồi, Khổng Tử sẽ cùng ai thay đổi đƣợc đây? Ngƣơi đi theo kẻ sĩ chỉ lo tránh kẻ vô đạo, không thể bằng chúng ta là kẻ sĩ tránh đời? Nói rồi Kiệt Nịch vẫn tiếp tục làm ruộng. Tử Lộ đành phải quay về xe thƣa lại với Khổng tử. |
Khổng tử nghe rồi ngậm ngùi thở dài nói: Loài chim và loài thú không thể cùng họp bầy. Nếu không sống chung với ngƣời đời thì ta biết sống với ai ? Nếu thiên hạ có đạo, Khổng Khâu này không cần phải thay đổi nữa. (Chú thích: Tràng Thƣ và Kiệt Nịch là bậc hiền sĩ bỏ đi ở ẩn. Khổng tử không đồng ý với họ, nói mình là con ngƣời thì phải giúp ngƣời cùng loài). 18.7 子路从而后,遇丈人,以杖荷蓧。子路问曰:“子见夫子乎?”.丈人曰:“四体不勤,亓谷 不分,孰为夫子?”. 植兲杖而芸。子路拱而立。止子路宿, 杀鸡为黍而食之。见其二子焉 。明日,子路行以告。子曰:“隐者也” 。使子路反见之。至,则行矣。子路曰:“不仕无 义。长幼之节,不可废也;君 臣之义,如之何其废之?欲洁其身,而乱大伦。君子之仕也 ,行其义也。道之不行,已知之矣。” Tử Lộ tòng nhi hậu, ngộ trƣợng nhân, dĩ trƣợng hà điệu. Tử Lộ vấn viết: Tử kiến phu tử hồ ? Trƣợng nhân viết: Tứ thể bất cần, ngũ cốc bất phân, thục vi phu tử? Thực kỳ trƣợng nhi vân. Tử Lộ củng nhi lập. Chỉ Tử Lộ túc, sát kê vi thử nhi thực chi. Kiến kỳ nhị tử yên. Minh nhật, Tử Lộ hành dĩ cáo. Tử viết: “Ẩn giả dã”.Sử Tử Lộ phản kiến chi. Chí, tắc hành hĩ. Tử Lộ viết: Bất sĩ vô nghĩa. Trƣởng ấu chi tiết, bất khả phế dã; Quân thần chi nghĩa, nhƣ chi hà kỳ phế chi ? Dục khiết kỳ thân, nhi loạn đại luân. Quân tử chi sĩ dã; Hành kỳ nghĩa dã. Đạo chi bất hành, dĩ tri chi hĩ. Tử Lộ đi theo thầy, lạc lại sau, gặp một lão trƣợng cầm cây gậy quảy cái cuốc. Tử Lộ hỏi: Cụ có thấy thầy tôi không? Lão trƣợng đáp: Tay chân chả siêng năng, không phân biệt đƣợc năm giống lƣơng thực, biết ai là phu tử thầy ngƣơi?! Nói xong cắm cây gậy xuống đất, bắt đầu làm cỏ. Tử Lộ cung kính đứng chờ bên cạnh. Sau đó lão trƣợng mời Tử Lộ |
nghỉ lại đêm ấy, mổ gà làm cơm đãi khách, lại cho hai con ra chào Tử Lộ. Ngày hôm sau, đuổi kịp Khổng tử, Tử Lộ thuật lại chuyện. Khổng tử nghe xong bảo: Đây là một ẩn sĩ, rồi bảo Tử Lộ quay lại thăm một lần nữa. 163 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Đến nơi thì cụ già đi vắng rồi. Tử Lộ nói nhắn (với ngƣời nhà): “Không làm quan là không hợp đạo nghĩa. Lễ tiết của ngƣời lớn với trẻ nhỏ đã không thể vứt bỏ thì đạo nghĩa vua tôi sao lại có thế bỏ đi ? Chỉ muốn giữ thân mình trong sạch, nhƣ vậy là làm loạn đại luân. Quân tử làm quan để thực hiện nghĩa vua tôi. Còn việc hành Đạo không thể thực hiện thì đã biết trƣớc rồi”. (Lời bàn: Cụ già có ý trách thầy trò Khổng tử đã không thực hành đạo đƣợc thì sao chẳng ở nhà làm ruộng. Tử Lộ nêu ra cái chí quân tử, coi nghĩa vua tôi là đại luân (luân lý lớn nhất) làm trọng, cũng nhƣ trong gia đình, nghiã cha con không thể bỏ, phải ra cống hiến cho đất nƣớc). 18.8 逸民:伯夷,叔齐,虞仲,夷逸,朱张,柳下惠,少连。子曰:“不降兲志,不辱兲身,伯夷、叔齐与 ?”. 谓柳下惠,少连,“降志辱身矣,言中伦, 行中虑,兲斯而已矣”,谓虞仲,夷逸,“隐居放言,身 中清,废中权”。 “我则异於是,无可无不可”。 Dật dân: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trƣơng, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên. Tử viết: Bất hàng kỳ chí, bất nhục kỳ thân, Bá Di, Thúc Tề dự ? Vị Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên hàng chí nhục thân hĩ, ngôn trung luân, hành trung lự, kỳ tƣ nhi dĩ hĩ. Vị Ngu Trọng, Di Dật, hàng cƣ phóng ngôn, thân trung thanh, phế trung quyền. Ngã tắc dị ƣ thị, vô khả vô bất khả. Những ngƣời đi ở ẩn có: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trƣơng, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên. |
Khổng tử nói: “Không chịu hàng phục, không chịu thân nhục có Bá Di, Thuc Tề. Nói về Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên: dù phải chịu hàng, chịu nhục thân nhƣng lời nói của hai vị hợp luân lý, hành động có cân nhắc, hai ông chỉ có thế mà thôi. Nói về Ngu Trọng, Di Dật, ẩn cƣ tránh đời nói năng phóng túng, giữ đƣợc danh trong sạch, hợp lẽ quyền biến. Ta khác mấy ngƣời này, không cái gì có thể, chẳng cái gì mà không thể”. 18.9 大师挚适齐,亚饭干适楚,三饭缭适蔡,四饭缺适秦,鼓方叔入於河,播鼗武入於汉,少师阳, 击磬襄入於海。 Đại sƣ Chí đích Tề, á phạn Can đích Sở, tam phạn Liễu đích Thái, tứ phạn Khuyết đích Tần, cổ Phƣơng Thúc nhập ƣ Hà, bá đào Vũ nhập ƣ Hán, thiếu sƣ Dƣơng, kích khánh Tƣơng nhập ƣ hải. Quan thái sƣ tên Chí chạy sang nƣớc Tề, quan á phạn tên Can chạy sang nƣớc Sở, quan tam phạm tên Liễu bỏ sang nƣớc Thái,. Quan tứ phạn tên Khuyết chạy qua nƣớc Tần. Ngƣời đánh trống tên Phƣơng Thúc chạy về vùng sông Hoàng Hà, ngƣời đánh trống con tên Vũ lánh đến vùng sông Hán. Thiếu sƣ tên Dƣơng, ngƣời gõ khánh tên Tƣơng chạy về miền biển. 164 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net (Chú thích: Thời kỳ này nƣớc Lỗ suy bại, nhân tài bỏ nƣớc ra đi) 18.10 周公谓鲁公曰:君子不施其亲,不使大臣怨乎不以。故旧无大故,则不弃也。无求备於一 人。 Chu Công vị Lỗ Công viết: Quân tử bất thí kỳ thân, bất sử đại thần oán hồ bất dĩ. Cố cựu vô đại cố, tắc bất khí dã. Vô cầu bị ƣ nhất nhân. Chu Công nói với Lỗ Công: Quân tử không nên bỏ quên ngƣời thân, không nên làm đại thần oán hận vì không đƣợc trọng dụng. Lão thần nếu không có lỗi lớn thì không nên ruồng bỏ họ. Không nên yêu cầu mỗi con ngƣời phải hoàn hảo. |
18.11 周有八士:伯达、伯适、仲突、仲忽、叔夜、叔夏、季随、季娃。 Chu hữu bát sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quý Tùy, Quý Oa. Nhà Chu có tám hiền sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quý Tùy, Quý Oa. (Chú thích: Đây là 4 cặp sinh đôi do bốn bà mẹ hạ sinh, trở thành tám hiền tài trụ cột của nhà Chu). Hết thiên 18 1. 19. 子张 Tử Trƣơng 第十九篇 thiên 19 19·1 子张曰:士见危致命,见得思义,祭思敬,丧思哀,其可已矣。 165 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử Trƣơng viết: Sĩ kiến nguy trí mệnh, kiến đắc tƣ nghĩa, tế tƣ kính, tang tƣ ai, kỳ khả dĩ hĩ. Tử Trƣơng nói: Kẻ sĩ khi gặp việc nguy dám hi sinh tính mệnh, thấy mối lợi thì nghĩ đến nghĩa, cúng tế với lòng thành kính, để tang thì đau thƣơng, làm đƣợc vậy mới là kẻ sĩ. 19·2 子张曰:执德不弘,信道不笃,焉能为有?焉能为亡? Tử Trƣơng viết: Chấp đức bất hoằng, tín đạo bất đốc, yên năng vi hữu ? Yên năng vi vong ? Tử Trƣơng nói: Giữ đƣợc đức mà không biết phát huy, tin phục đạo lý mà không kiên định làm theo. Có ngƣời ấy thì ích lợi gì ? Không có ngƣời ấy thì hại gì ? 19·3 子夏之门人问交於子张。子张曰:“子夏云何?”.对曰:“子夏曰:„可者与之,兲不可者拒 之‟ 。”子张曰:“异乎吾所闻:君子尊贤而容众,嘉善而矜不能。我之大贤与,於人何所 不容?我之不贤与,人将拒我,如之何其拒人也?” Tử Hạ chi môn nhân vấn giao ƣ Tử Trƣơng. Tử Trƣơng viết: Tử Hạ vân hà? Đối viết: “Tử Hạ viết: Khả giả dự chi, kỳ bất khả giả cự chi”. Tử Trƣơng viết: “Dị hồ ngô sở văn. Quân tử tôn hiền nhi dung chúng, gia thiện nhi căng bất năng. Ngã chi đại hiền dự, ƣ nhân hà sở bất dung ? Ngã chi bất hiền dự, nhân thƣơng cự ngã, nhƣ chi hà kỳ cự nhân dã ? |
Học trò của Tử Hạ hỏi Tử Trƣơng về việc giao tiếp bạn bè. Tử Trƣơng hỏi lại: Thầy Tử Hạ đã nói thế nào ? Học trò Tử Hạ đáp: Có thể kết giao thì kết giao, không thể thì cự tuyệt. Tử Trƣơng nói: Điều ta từng nghe thì lại khác. Quân tử tôn trọng ngƣời hiền và dung nạp ngƣời bình thƣờng, khen ngƣời hoàn thiện nhƣng cũng thƣơng cho ngƣời yếu kém. Nếu ta là bậc đại hiền thì sao ta không thể dung nạp họ ? Nếu ta không phải bậc hiền tài, ngƣời khác có thể cự tuyệt ta, làm sao ta có thể cự tuyệt họ ? 19·4 子夏曰: 虽小道,必有可观者焉,致远恐泥,是以君子不为也 。 Tử Hạ viết: Tuy tiểu đạo, tất hữu khả quan giả yên, trí viễn khủng nệ, thị dĩ quân tử bất vi dã. 166 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử Hạ nói: Dù là việc nhỏ cũng có nghĩa lý cần xem xét, Nhƣng nếu cố tìm ý nghĩa cao xa của việc nhỏ thì cũng trở ngại, khó lòng. Ngƣời quân tử chẳng làm nhƣ vậy. 19·5 子夏曰:日知兲所亡,月无忘兲所能,可谓好学也已矣。 Tử Hạ viết: Nhật tri kỳ sở vong, nguyệt vô vong kỳ sở năng, khả vị hiếu học dã dĩ hĩ. Tử Hạ nói: Mỗi ngày biết thêm điều chƣa biết. Mỗi tháng quên đi những điều đã biết. Nhƣ vậy gọi là ngƣời ham học. 19·6 子夏曰;博学而笃志,切问而近思,仁在其中矣。 Tử Hạ viết: Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tƣ, nhân tại kỳ trung hĩ. Tử Hạ nói: Học rộng mà chuyên tâm điều nghiên cứu, hỏi điều thiết thực, nghĩ tới việc gần, đức nhân ở trong ấy vậy. 19·7 子夏曰:百工居肆以成兲事,君子学以致兲道。 Tử Hạ viết: Bách công cƣ tứ dĩ thành kỳ sự, quân tử học dĩ trí kỳ đạo. |
Tử Hạ nói: Thợ ngành nghề phải ở lại nơi làm việc mới hoàn thành tốt công việc. Quân tử phải chuyên tâm nghiên cứu mới nắm chắc đạo lý. 19·8 子夏说:小人之过也必文。 Tử Hạ thuyết: Tiểu nhân chi quá dã tất văn.: Tử Hạ nói: Kẻ tiểu nhân thấy mình làm sai thì tìm cách che đậy. 19·9 子夏曰:君子有三变:望之俨然,即之也温,听其言也厉。 Tử Hạ viết: Quân tử hữu tam biến: Vọng chi nghiễm nhiên, tức chi dã ôn, thính kỳ ngôn dã lệ. Tử Hạ nói: Quân tử có ba điều biến đổi: trông xa thấy trang nghiêm, đến gần thấy ôn hòa, nghe lời nói thấy nghiêm khắc, chính xác. 19·10 167 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 子夏曰: 君子信而后劳其民; 未信,则以为厉己也.信而后谏;未信,则以为谤己也. Tử Hạ viết: Quân tử tín nhi hậu lao kỳ dân; Vị tín, tắc dĩ vi lệ kỷ dã. Tín nhi hậu gián; Vị tín, tắc dĩ vi báng kỷ dã. Tử Hạ nói: Quân tử làm quan sao cho dân tin cậy, sau đó mới khiến cho họ làm việc khó nhọc. Nếu dân chƣa tin đã vội sai khiến họ làm, họ sẽ cho là mình làm hại họ. Với ngƣời bậc trên, phải đạt đƣợc lòng tin trƣớc, sau mới can gián, nếu không ngƣời trên cho rằng mình chê trách họ. 19·11 子夏曰:大德不逾闲,小德出入可也。 Tử Hạ viết: Đại đức bất du nhàn, tiểu đức xuất nhập khả dã. Tử Hạ nói: Việc lớn thì không đƣợc vƣợt qua giới hạn, việc nhỏ thì có thể thêm bớt một ít. (Lời bàn: Việc lớn cần phải làm chính xác, không đƣợc tùy tiện thêm bớt) 19·12 子游曰:“子夏之门人小子,当酒扫,应对,进退则可矣,抑末也。本之则无,如之何?” 子夏闻之, 曰:“噫,言游过矣!君子之道,孰先传焉?孰后倦焉?譬诸草木,区以别矣。君子之道,焉 可诬也?有始有卒者,其惟圣人乎?” Tử Du viết: Tử Hạ chi môn nhân tiểu tử, đƣơng sái tảo, ứng đối, tiến thoái tắc khả hĩ, ức mạt dã. |
Bản chi tắc vô, nhƣ chi hà? Tử Hạ văn chi, viết: Ôi, ngôn Du quá hĩ ! Quân tử chi đạo, thục hậu quyện yên, thục tiên truyền yên? Thí chƣ thảo mộc, khu dĩ biệt hĩ. Quân tử chi đạo, yên khả vu dã ? Hữu thỉ hữu tốt giả, kỳ duy thánh nhân hồ ? Tử Du nói: Học trò của thầy Tử Hạ vảy nƣớc quét dọn giỏi, đối đáp nhanh, đi lại đúng phép, chỉ có cái ngọn vậy thôi. Còn cái gốc chƣa học đƣợc. Học nhƣ thế sẽ ra sao? Tử Hạ nghe vậy, nói: “Ôi, thầy Tử Du sai rồi! Đạo quân tử phải đem cái ngọn dạy trƣớc, việc gốc truyền sau. Học trò nhƣ cỏ cây có phân biệt lớn nhỏ, đạo dạy học của ngƣời quân tử sao có thể tùy tiện. Dạy điều mở đầu mà biết đƣợc kết cục, chẳng phải chỉ có thánh nhân mới đƣợc vậy ƣ? 19·13 子夏曰:仕而优则学,学而优则仕。 Tử Hạ viết: Sĩ nhi ƣu tắc học, học nhi ƣu tắc sĩ. Tử Hạ nói: Làm quan dƣ thì giờ thì nên học thêm. Ngƣời có học thì đi làm quan. 168 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net (Lời bàn: Khi làm quan giỏi vẫn không ngừng học hỏi, học giỏi rồi thì đi làm quan giúp đời) 19·14 子游曰:丧致乎哀而止。 Tử Du viết: Tang trí hồ ai nhi chỉ. Tử Du nói: Việc tang lễ thể hiện lòng thƣơng xót là đƣợc rồi. 19·15 子游曰:吾友张也为难能也,然而未仁。 Tử Du viết: Ngô hữu Trƣơng dã vi nan năng dã, nhiên nhi vị nhân. Tử Du nói: Bạn ta là Tử Trƣơng làm đƣợc những việc mà ngƣời khác khó làm đƣợc, nhƣng vẫn chƣa phải là ngƣời nhân. (Lời bàn: Ngƣời nhân còn phải khiến cho ngƣời khác cũng làm đƣợc nhƣ mình) 19·16 |
曾子曰:“堂堂乎张也,难与并为仁矣” 。 Tăng tử viết: Đƣờng đƣờng hồ trƣơng dã, nan dự bính vi nhân hĩ. Tăng tử nói: Đúng rồi, Tử Trƣơng là con ngƣời dung mạo đƣờng hoàng uy nghi nhƣng khó cùng ngƣời khác làm việc nhân. (Lời bình: Tử Trƣơng tài giỏi nhƣng khá kiêu ngạo, tự mãn) 19·17 曾子曰:吾闻诸夫子,人未有自致者也,必也亲丧乎。 Tăng tử viết: Ngô văn chƣ phu tử, nhân vị hữu tự trí giả dã, tất dã thân tang hồ ? Tăng tử nói: Ta nghe thầy Khổng dạy rằng ngƣời chƣa đem hết tình cảm ra làm việc khác nhƣng trong việc tang cha mẹ lại không thể đem hết tình ra hay sao ? 19·18 169 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 曾子曰:吾闻诸夫子,孟庄子之孝也,兲他可能也;兲不改父之臣与父之政,是难能也 。 Tăng tử viết: Ngô văn chƣ phu tử, Mạnh Trang tử chi hiếu dã, kỳ tha khả năng dã; Kỳ bất cải phụ chi thần dƣ phụ chi chính, thị nan năng dã. Tăng tử nói: Ta nghe thầy Khổng khen đức hiếu của Mạnh Trang tử, rằng những điều khác ngƣời ta có thể làm theo đƣợc, còn cái việc Mạnh không thay đổi bề tôi và phép cai trị của cha thì thiên hạ khó làm theo. (Chú thích: Mạnh Trang tử là con Mạnh Hiếu tử, một trong ba dòng họ quan đại thần nƣớc Lỗ thời ấy (họ Mạnh, họ Qu í, họ Thúc). Khi đƣợc kế nhiệm địa vị của cha, Mạnh Trang tử có hiếu nên không thay đổi những việc cha từng làm, mà kế thừa điều hay của cha). 19·19 孟氏使阳肤为士师,问诬曾子。曾子曰:“上失兲道,民散久矣。如得兲情,则哀矜而勿喜” Mạnh thị sử Dƣơng Phu vi sĩ sƣ, vấn ƣ Tăng tử. Tăng tử viết: Thƣợng thất kỳ đạo, dân tán cửu hĩ. Nhƣ đắc kỳ tình, tắc ai căng nhi vật hỉ. Họ Mạnh bổ nhiệm Dƣơng Phu làm quan sĩ sƣ coi việc hình pháp. Dƣơng Phu đến hỏi ý kiến thầy mình là Tăng tử. Thầy Tăng nói: Ngƣời cấp trên lỗi đạo, nhân tâm li tán lâu rồi. |
Khi xét xử hiểu đƣợc tình thật của phạm nhân thì nên thƣơng họ, đừng lấy làm vui mừng. 19·20 子贡曰:纣之不善,不如是之甚也。是以君子恶居下流,天下之恶皆归焉。 Tử Cống viết: Trụ chi bất thiện, bất nhƣ thị chi thậm dã. Thị dĩ quân tử ố cƣ hạ lƣu, thiên hạ chi ác giai quy yên Tử Cống nói: Những điều bất thiện của vua Trụ không đến nỗi nhƣ thiên hạ nói. Ngƣời quân tử rất ghét ở chung với đám hạ lƣu, vì mọi điều xấu trong xã hội đều đổ dồn về chỗ họ. (Lời bàn: “Hạ lƣu” là đám ngƣời dồn cặn nhƣ rác rƣởi cuối dòng nƣớc chảy. Đám này thƣờng nói xấu tất cả những gì họ muốn. Vua Trụ có xấu xa nhƣng kẻ hạ lƣu thƣờng dậu đổ bìm leo nói thêm vào. Tử Cống đòi hỏi sự công bằng ngay cả đối với kẻ xâu) 19·21 子贡曰:君子之过也,如日月之食焉。过也,人皆见之;更也,人皆仰之。 Tử Cống viết: Quân tử chi quá dã, nhƣ nhật nguyệt chi thực yên. Quá dã, nhân giai kiến chi; Canh dã, nhân giai ngƣỡng chi. 170 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử Cống nói: Sai lầm của ngƣời quân tử nhƣ nhật thực và nguyệt thực, ai cũng nhìn thấy. Quân tử sửa chữa lỗi đƣợc rồi thì ai cũng vẫn ngƣỡng mộ. 19·22 卫公孙朝问於子贡曰:仲尼焉学? 子贡曰:文武之道,未坠於地,在人。贤者识其大者,不贤者识 其小者,莫不有文武之道焉。夫子焉不学?而亦何常师之有?” Vệ Công Tôn Triều vấn ƣ Tử Cống viết: Trọng Ni yên học ? Tử Cống viết: Văn vũ chi đạo, vị trụy ƣ đị a, tại nhân.Hiền giả chí kỳ đại giả, bất hiền giả chí kỳ tiểu giả, mạc bất hữu văn vũ chi đạo yên. Phu tử yên bất học? Nhi diệc hà thƣờng sƣ chi hữu? Đại phu nƣớc Vệ là Công Tôn Triều hỏi Tử Cống: “Khổng tử học với ai vậy?”. Tử Cống nói: Đạo của vua Văn Vƣơng, vua Vũ Vƣơng bị chôn vùi dƣới đất vẫn còn lƣu lại trong dân gian. Ngƣời hiền tài học thì biết việc rộng lớn, ngƣời thƣờng học đƣợc việc nhỏ. Đạo của hai vua chỗ nào cũng có. Thầy tôi không chỗ nào không học, cần gì phải có một thầy nào ! |
19·23 叔孙武叔语大夫於朝曰:“子贡贤於仲尼”。子朋景伯以告子贡。子贡曰:“譬之宫墙,赐之墙 也及肩,窥见室家之好。夫子之墙数仞,不得兲门而入,不见宗庙之类,百官之富。得其门者 或寡矣。夫子之云,不亦宜乎!” Thúc Tôn Vũ Thúc ngữ đại phu ƣ triều viết: Tử Cống hiền ƣ Trọng Ni. Tử Phục Cảnh Bá dĩ cáo Tử Cống. Tử Cống viết: Thí chi cung tƣờng, tứ chi từng dã cập kiên, khuy kiến thất gia chi hảo. Phu tử chi tƣờng số nhận, bất đắc kỳ môn nhi nhập, bất kiến tông miếu chi loại, bách quan chi phú. Đắc kỳ môn giả hoặc quả hĩ. Phu tử chi vân, bất diệc nghi hồ ! Thúc Tôn Vũ Thúc nói với các vị đai phu trong triều nƣớc Lỗ rằng: “Tử Cống có đạo đức tài năng hơn hẳn Khổng tử”. Tử Phục Cảnh Bá nói lại với Tử Cống. Tử Cống nói: “Lấy bức tƣờng làm thí dụ vậy. Tƣờng nhà tôi chỉ cao bằng vai, ai nhìn vào có thể thấy hết những cái tốt đẹp trong nhà. Còn bức tƣờng của thầy tôi cao đến mấy thƣớc, nếu không tìm đƣợc cửa vào thì không thể thấy đƣợc kiến trúc tráng lệ đa dạng bên trong. Chỉ có ít ngƣời tìm đƣợc cửa vào. Thúc Tôn Vũ Thúc nói nhƣ thế thật chẳng thích hợp. 19·24 叔孙武叔毁仲尼。子贡曰;“无以为也!仲尼不可毁也。他人之贤者,丘陵也,犹可逾也;仲 尼,日月也,无得而逾焉。人虽欲自绝,兲何伤於日月乎?多见其不知量也”。 171 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Thúc Tôn Vũ Thúc hủy Trọng Ni. Tử Cống viết: Vô dĩ vi dã ! Trọng Ni bất khả hủy dã. Tha nhân chi hiền giả, khâu lăng dã, do khả du dã; Trọng Ni. Nhật nguyệt dã, vô đắc nhi du yên. Nhân tuy dục tự tuyệt, kỳ hà thƣơng ƣ nhật nguyệt hồ ? Đa kiến kỳ bất tri lƣợng dã. Thúc Tôn Vũ Thúc chê Khổng tử. Tử Cống nói: Làm thế chả có ích gì. Không thể làm mất uy tín của thầy tôi đƣợc! Tài đức của ngƣời khác ví nhƣ cái núi nhỏ, có thể vƣợt qua đƣợc. |
Còn tài đức của Khổng tử cao xa nhƣ mặt trăng mặt trời, chẳng có ai qua đƣợc. Ai đó muốn đoạn tuyệt với đạo của thầy tôi thì cũng chẳng hại gì đƣợc mặt trăng mặt trời. Chê trách nhƣ thế chỉ chứng tỏ ông ta không biết lƣợng sức mình mà thôi. 19·25 陈子禽谓子贡曰:“子为恭也,仲尼岂贤於子乎?”.子贡曰:“君子一言以为知,一言以为 不知,言不可不慎也。夫子之不可及也,犹天之不可阶而升也。夫子之得邦家者,所谓立 之斯立,道之斯行,馁之斯来,动之斯和。其生也荣,兲死也哀,如之何兲可及也?” Trần Tử Cầm vị Tử Cống viết: Tử vi cung dã, Trọng Ni khải hiền ƣ tử hồ? Tử Cống viết: Quân tử nhất ngôn dĩ vi tri, nhất ngôn dĩ vi bất tri, ngôn bất khả thận dã. Phu tử chi bất khả cập dã, do thiên chi bất khả giai nhi thăng dã. Phu tử chi đắc bang gia giả. Sở vị lập chi tƣ lập, đạo chi tƣ hành, nỗi chi tƣ lai, đông chi tƣ hòa. Kỳ sinh dã vinh, kỳ tử dã ai, nhƣ chi hà kỳ khả cập dã ? Trần Tử Cầm nói với Tử Cống: Anh quá khiêm tốn và cung kính với thầy Khổng tử đó thôi. Khổng tử chắc gì đã hơn anh ? Tử Cống nói: Ngƣời quân tử nói ra một câu khiến ngƣời ta có thể hiểu rõ anh ta thông minh hay ngu dốt, vì vậy phải thận trọng khi nói. Chúng ta không thể đuổi kịp thầy nhƣ là không thể bắc thang trèo lên trời vậy. Thầy chúng ta nếu đƣợc nắm giữ một nƣớc thì sẽ nhƣ lời cổ nhân: “Gây sinh kế cho dân thì dân tự hiểu lễ mà làm, hƣớng dẫn dân thì dân tự đi theo, săn sóc an ủi dân thì dân sẽ qui thuận, cổ vũ dân thì dân nhất định đồng tâm hiệp lực”. Khi sống, thầy chúng ta đƣợc mọi ngƣời tôn vinh, chết đƣợc nhân dân thƣơng xót. |
Nhƣ thế còn ai theo kịp đƣợc thầy chúng ta? Hết thiên 19 1. 20. 尧曰 Nghiêu viết 第二十篇 thiên 20 05 bài 20.1 尧曰:“咨!尔舜!天之历数在尔躬,允执其中。四海困穷,天禄永终”. 舜亦以命禹。 172 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Nghiêu viết: Tƣ, nhĩ Thuấn ! Thiên chi lịch sác tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ. Vua Nghiêu nói: Hỡi ngƣơi Thuấn, mệnh trời đã định đến lúc ngƣơi nối ngôi của ta, hãy thành thực chấp hành đạo trung chính. Dân bốn biển (mà) khốn cùng thì lộc trời ban cho ngƣơi cũng hết. Vua Thuấn (sau này khi nhƣờng ngôi cho vua Vũ) cũng truyền lại mệnh ấy. 20.2 曰:“予小子履,敢用玄牡,敢昭告於皇 皇后帝:有罪不敢赦.帝臣不蔽,简在帝心。朕躬有罪,无 以万方;万方有罪,罪在朕躬”. Viết: “Dƣ tiểu tử Lý, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo ƣ hoàng hoàng hậu đế: Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại đế tâm”. Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phƣơng; Vạn phƣơng hữu tội, tội tại trẫm cung. Khấn rằng:“Kẻ tiểu tử này (1) tên Lý, dám dùng bò đực đen để tế lễ, khẩn cầu Trời vô cùng tôn kính rằng: Kẻ có tội (2), con không dám tha. Con không che giấu ngƣời hiền đức làm thần tử của Trời, chỉ vì con làm theo lòng Trời. Nếu trẫm có tội, xin đừng để lụy đến dân chúng bốn phƣơng, nếu dân bốn phƣơng có tội thì đó là tội của trẫm”. [Chú thích: (1) Vua Thành Thang nguyên tên là Lý. (2) Vua Kiệt nhà Hạ tội nặng, bị vua Thành Thang trừng phạt. Trong đoạn văn trên, vua Thành Thang thay đổi xƣng hô, từ “tiểu tử” (con) sang “trẫm” nhƣng đối tƣợng nghe vẫn là Trời (Đế) đồng thời hƣớng về cử tọa gồm: quan chức dân chúng tham dự |
tế lễ cùng nghe. 20.3 周有大赉,善人是富。“虽有周亲,不如仁人。百姓有过,在予一人”. 谨权量,审法度,修废官,四方之政行焉。兴灭国,继绝世,举逸民,天下之民归心焉。所重: 民,食,丧,祭。宽 则得众,信则民任焉。敏则有功,公则说。 Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú. “Tuy hữu Chu thân, bất nhƣ nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dƣ nhất nhân”.Cẩn quyền lƣợng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phƣơng chi chính hành yên. Hƣng diệt quốc, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên. 173 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Sở trọng dân: thực, tang, tế. Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên. Mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt. Nhà Chu (sau khi diệt đƣợc vua Trụ) xuất của cải chia cho dân, ngƣời hiền trở nên giàu có. (Khi đem quân đánh vua Trụ, vua Chu Vũ vƣơng thề rằng):“Tuy (vua Trụ) có nhiều ngƣời thân họ Chu, chẳng bằng (ta có) nhiều ngƣời nhân đức. Nếu trăm họ mắc tội, lỗi chỉ tại một ngƣời (là ta) thôi”… (Vua Vũ vƣơng) định lại cân,dụng cụ đo lƣờng và phép tắc luật lệ, dùng lại những quan chức bị (nhà Trụ) bãi bỏ, cai quản bốn phƣơng thông suốt. Khôi phục lại những nƣớc chƣ hầu đã bị diệt, cho ngƣời nối tiếp những dòng họ bị đứt quãng. Mời kẻ hiền sĩ ẩn dật ra làm việc, ngƣời trong thiên hạ hết lòng qui phục. (Vua Vũ vƣơng) coi trọng ba việc của dân là: lƣơng thực, tang lễ và tế tự. Khoan dung ắt đƣợc dân ủng hộ, trung tín thành thực đƣợc dân dựa vào mình. Cần mẫn làm việc thu đƣợc công lao, công bằng sẽ làm vui lòng ngƣời. 20.4 子张问孔子曰:“何如斯可以从政矣?”. 子曰:“尊亓美,屏四恶,斯可以从政矣”. 子张曰:“何谓五美?”. 子曰: 君子惠而不费,劳而不怨,欲而不贪,泰而不骄,威而不猛”. 子张曰:“何谓惠而不费?”. 子曰:“因民之所利而利之,斯不亦惠而不费乎?择可劳而劳之,又谁怨?欲仁而得仁,又焉 贪?君子无众寡,无 大小, 无敢慢, 斯不亦泰而不骄乎?君子正其衣冠,尊其瞻视,俨然 人望而畏之, 斯不亦威而不猛乎?”. 子张曰:“何谓四恶?”. 子曰:“不教而杀谓之虐;不戒视成谓之暴;慢令致期谓之贼;犹之与人也,出纳之吝谓之 有司。” Tử Trƣơng vấn Khổng tử viết: Hà nhƣ tƣ khả dĩ tòng chính hĩ ?. |
Tử viết: Tôn ngũ mỹ, bính tứ ố, kỳ khả dĩ tòng chính hĩ. Tử Trƣơng viết: Hà vị ngũ mỹ ?. Tử viết: Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh. 174 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Tử Trƣơng viết: Khả vị huệ nhi bất phí ? Tử viết: Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi, tƣ bất diệc huệ nhi bất phí hồ ? Trạch khả lao nhi lao chi, hựu thùy oán ? Dục nhân nhi đắc nhân, hựu yên tham ? Quân tử vô chúng quả, vô đại tiểu, vô cảm mạn, tƣ bất diệc thái nhi bất kiêu hồ ? Quân tử chính kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi úy chi, tƣ bất diệc uy nhi bất mãnh hồ ? Tử Trƣơng viết: Hà vị tứ ố ? Tử viết: Bất giáo nhi sát vị chi ngƣợc, bất giới thị thành vị chi bạo; mạn lệnh trí kỳ vị chi tặc; do chi dự nhân dã, xuất nạp chi lận vị chi hữu tƣ. Tử Trƣơng hỏi Khổng tử: Nhƣ thế nào mới làm đƣợc quan chính trực ? Khổng tử nói: Biết tôn trọng 5 việc tốt, loại trừ 4 việc xấu, có thể làm quan chính trực. Tử Trƣơng hỏi tiếp: Thế nào là 5 việc tốt ? Khổng tử đáp: Quân tử làm ân huệ cho dân mà không hao tổn tiền bạc, bảo dân làm viêc khó nhọc mà dân chẳng oán ghét, ham muốn mà không tham lam, trang trọng mà không kiêu ngạo, uy nghiêm mà không hung bạo. Tử Trƣơng lại hỏi: Thế nào là làm ân huệ mà không hao tiền bạc? |
Khổng tử nói: Thuận theo lợi của dân mà hƣớng dẫn họ làm lợi, nhƣ thế là ân huệ cho dân mà không tốn tiền. Chọn việc đáng làm vào lúc thích hợp, đúng mùa vụ, thời tiết, đôn đốc dân làm việc khó nhọc, nhƣ thế thì có ai lại oán ghét mình ? Ham muốn làm việc nhân đức mà đƣợc điều nhân sao gọi là tham lam ?! Quân tử làm việc không kể việc lớn nhỏ đều không dám coi thƣờng, vậy là trang trọng mà không ngạo mạn. Quân tử áo mũ chỉnh tề, ánh mắt nghiêm túc khiến ngƣời khác nhìn thấy nể sợ, đó là uy nghiêm mà không hung bạo. 20.5 孔子曰:不知命,无以为君子也;不知礼,无以立也;不知信,无以知人也. Khổng tử viết: Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã ; Bất tri lễ, vô dĩ lập dã; Bất tri tín, vô dĩ tri nhân dã. Khổng tử nói: Không biết mệnh trời thì không thể làm ngƣời quân tử. Không biết lễ thì không thể tự lập thân. Không biết chữ tín thì không hiểu đƣợc ngƣời. 175 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net [ Lời bàn: Khó nhất là làm sao biết đƣợc mệnh trời ! Mệnh trời là thời cơ chăng ? Liệu có nhà tiên tri nào báo trƣớc? Tuy nhiên, ngƣời quân tử hãy tự mình làm hai điều sau (tín, lễ) coi nhƣ hai điều kiện tiên quyết / điều kiện cần. Chữ Lễ là cội nguồn cảm hứng nghiên cứu, du thuyết và dạy học của Khổng tử, kết thúc Luận ngữ cũng là chữLễ, thêm Tín và Mệnh . Hết BÀI TẬP NGHIÊN CỨU LUẬN NGỮ Tóm tắt nội dung của các bài theo từng chủ đề sau: 1. Việc học 2. Về chữ Hiếu |
3. Về chữ Lễ 4. Về chữ Nhân 5. Về đạo Quân tử 6. Về 2 chữ Trung, Thứ 7. Về đạo Trung dung 8. Về thuyết Chính danh 9. Về làm vua 10. Về làm quan 11. Về tình bằng hữu 12. Về việc tang 13. Về âm nhạc 14. Về thơ 15. Về hội họa 16. Về giải trí 17. Về nỗi niềm thất vọng của Khổng tử 18. Bạn thử chỉ ra những điểm bất cập thời đại của Khổng tử thể hiện trong Luận ngữ. PHN PHỤ LỤC SƠ LƢỢC LỊCH SỬ TRUNG QUỐC I. Từ thƣợng cổ đến nhà Tần (thời cổ đại) 1. Thời thƣợng cổ, còn gọi là Tam hoàng, Ngũ đế (thần thoại) 176 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net 2. Thời tiền sử: ba vua Nghiêu, Thuấn, Vũ (theo truyền thuyết) 3. Vua Vũ lập ra quốc gia đầu tiên: nhà Hạ / Hoa Hạ (tk 21 17 tr.CN), chế độ nô lệ, bỏ bầu cử, bắt đầu cha truyền con nối… Nhà Ân là giai đoạn cuối cùng của nhà Hạ. Đời cuối là vua Kiệt mê nàng Muội Hỉ, tàn ác, bị lật đổ, nhà Thƣơng (Thang) nổi lên thay thế. 4. Nhà Thƣơng: Vua Thành Thang đổi mới mạnh mẽ. Đời cuối là vua Trụ mê nàng Đắc Kỉ, tàn bạo hủ bại. Nô lệ theo thủ lĩnh họ Chu nổi dậy khởi nghĩa, lật đổ nhà Thƣơng, lập ra nhà Chu, lập ngôi hoàng đế, cai quản chƣ hầu. 5. Nhà Chu từ thế kỷ 11 tr CN đến thế kỷ 3 tr CN, gồm 2 giai đoạn: 5.1. Tây Chu: Thế kỷ 11 đến năm 778 tr.CN, có hơn 1000 nƣớc chƣ hầu. Vua Chu Bình Vƣơng mê nàng Bao Tự, chƣ hầu bất phục…nhàChu suy giảm quyền lực 5.2. Đông Chu: 770 đến 256 tr.CN, thủ đô dời từ Tây sang phía Đông. |
gồm hai giai đoạn: Xuân Thu: 770 – 455 tr CN, bƣớc vào chế độ sơ kỳ phong kiến. Hình thành 100 chƣ hầu, 14 nƣớc lớn, rồi đến 5 nƣớc xƣng bá vƣơng (ngũ bá: Trịnh, Tấn, Tần, Tề, Triệu) ngày càng lộng quyền lấn át hoàng đế nhàChu. Chiến quốc: 455 221 tr.CN, bảy nƣớc bá vƣơng (thất bá tranh hùng) gồm Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần, Yên. Cuối cùng, nhà Tần đánh bại 6 nƣớc bá vƣơng, lên ngôi hoàng đế thay nhà Chu, thống nhất đất nƣớc năm 221 tr.CN. II. Từ nhà Hán đến Mãn Thanh (thời trung đại) Nhà Hán (Tây Hán 206 tr. CN đến năm 24, còn gọi Tiền Hán, thời Đông Hán (năm 25 đến 220) còn gọi Hậu Hán và Tam quốc (220 280). Ngụy Tấn (265 420) Bắc triều: Ngụy Tấn (420 581) Namtriều: lục quốc Tấn, Tống, Tề, Lƣơng, Trần, Ngô. Tùy (581 617) 177 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Đƣờng (618 907) Ngũ đại thập quốc (907 960) Tống (BắcTống,NamTống 960 1279) Nguyên (1271 1368) Minh (1368 1644) Thanh (1644 1911) Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Hàm Phong, Đồng Trị, Từ Hi, Quang Tự, Phổ Nghi. III. Từ Cách mạng Tân Hợi đến nay (thời hiện đại) Trung Hoa dân quốc, từ 1911 đến năm 1949 chuyển ra đảo Đài Loan . Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, từ ngày 1.10.1949. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 1. 论语 Luận ngữ Nguyên văn Hán ngữ 汉文词典Hán văn từ điển 2. 四书 Tứ thư, Dƣơng Hồng, Nhiệm Đại Viện, Lƣu Phong, Vƣơng Thành Trung chú giải 2002, An Huy nhân dân xuất bản xã, Trung Quốc. 3. Tứ thƣ, Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận, 2003, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. |
Ì 178 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net TRI ÂN Trân trọng cảm ơn quý đồng nghiệp đã giúp tổ chức và hoàn thành bản thảo Trần Thể (Chủ nhiệm khoa Sƣ phạm) Trần Tùng Chinh (Ths.Trƣởng BM Ngữ văn) Ngô Thị Minh Hiếu (Ths Ngữ văn Hán Nôm) Nguyễn Thanh Phong (Nghiên cứu sinh thạc sĩ Ngữ văn Trung Quốc tại Đài Loan) 10. 5.2011 ngoc1951@gmail.com ([1] ) Ngôn: lời nói, tự nói ra… Ngữ: đáp lại, thuật lại, có ý nghĩa, hay. Luận ngữ: Lời nói hay để bàn luận. ([2 ) Thi hào Nguyễn Du viết cả một truyện thơ về chữ hiếu (đặt bên chữ tình, chữ trung) tựa là Đoạn trường tân thanh, tục gọi Truyện Kiều. Nguyễn Du vẫn đặt chữ Hiếu lên đầu. Nhƣng thầy Đồ Chiểu viết trong Lục Vân Tiên “Trai thời trung hiếu làm đầu” (trung trƣớc hiếu sau). Sinh thời, Hồ Chí Minh viết lời dặn chiến sĩ trên lá quân kỳ “Trung với nƣớc, hiếu với dân”. Nguồn: 179 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net |
LUẬN NGỮ & KHỔNG TỬ Tác giả: Nguyễn Hiến Lê Đánh máy: Thuocvien, Goldfish Sửa lỗi chính tả: QuocSan, Goldfish Tạo eBook (25/11/11): QuocSan www.e thuvien.com Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lí nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, tề gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lí tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người. (Trích Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê) MỤC LỤC: Lời thưa Luận Ngữ Khổng Tử Nhà Giáo Họ Khổng Đọc thêm LỜI THƯA Do trong Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “Trong tập này có nhiều chỗ dẫn chứng ở Luận ngữ, nhưng tôi chỉ ghi xuất xứ (thiên nào, bài nào) chứ không chép lại hết được, vì vậy độc giả cần có bản Luận ngữ tôi dịch và để tra cho tiện”. và do trong cuốn Luận ngữ và cuốn Khổng Tử, có nhiều chỗ cụ Nguyễn Hiến Lê bảo “coi cuốn Nhà giáo họ Khổng”, nên chúng tôi gom cả ba cuốn: Luận ngữ, Khổng Tử và Nhà giáo họ Khổng vào trong eBook này. Ngoài ra, trong phần Đọc thêm, chúng tôi còn chép một số bài trích trong các tác phẩm sau đây của cụ Nguyễn Hiến Lê: Đại cương triết học Trung Quốc (soạn chung với cụ Giản Chi), Sử ký của Tư Mã Thiên (soạn chung với cụ Giản Chi), Cổ văn Trung Quốc và Sử Trung Quốc. Goldfish Tháng 10/2011 LUẬN NGỮ Nguyễn Hiến Lê Chú dịch và giới thiệu Đánh máy: Goldfish Sửa lỗi chính tả: QuocSan Vài lời thưa trước Giới thiệu – nguồn gốc và các bản Nguồn gốc Các bản Nội dung và cách trình bày |
Bản dịch của chúng tôi Các bảng phân loại Dịch và chú thích Thiên I – Học Nhi 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16 Thiên II – Vi Chính 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24 Thiên III – Bát Dật 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 Thiên IV – Lí Nhân Thiên V – Công Dã Tràng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27 Thiên VI – Ung Dã 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28 Thiên VII – Thuật Nhi 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37 Thiên VIII – Thái Bá 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21 Thiên IX – Tử Hãn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30 Thiên X – Hương Đảng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18 Thiên XI – Tiên Tiến 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25 |
Thiên XII – Nhan Uyên Thiên XIII – Tử Lộ Thiên XIV – Hiến Vấn 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45 Thiên XV – Vệ Linh Công 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41 Thiên XVI – Quí Thị 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14 Thiên XVII – Dương Hoá Thiên XVIII – Vi Tử 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 Thiên XIX – Tử Trương Thiên XX – Nghiêu Viết 1, 2, 3 Phụ lục Đời sống Lối sống Nhân cách, tính tình Dạy học Cách dạy Khổng Tử tự xét mình Khổng Tử xét người xưa và người đương thời Người đương thời xét Khổng Tử Môn sinh Khổng Tử Học và tu dưỡng Các đức Xử thế Các hạng người Chính trị Tên người – tên đất – tên triều đại A, B, C, CH, D, Đ, G, H, K, L, M, N, NG, PH, Q, S, T, TH, TR, V, Y Những câu thường dẫn I, II, III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, XI, XII, XIII, XIV, XV, XVI, XVII, XVIII, XIX, XX Trong bài Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết đôi điều về việc dịch lại bộ Luận ngữ như sau: “Tôi đã bỏ ra hơn hai tháng đọc lại những sách về Khổng tử mà tôi có hoặc mượn được (như của Lữ Chấn Vũ: Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc ; Hầu ngoại Lư: Tư tưởng cổ đại Trung Quốc ; Quan Phong và Lâm Duật Thời: Bàn về Khổng Tử – đều do ngoài Bắc dịch); đọc lại các bản dịch và chú giải Luận ngữ của mình, và của Trung Hoa (như Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, Luận ngữ dịch |
chú của Triệu Thông; lại bỏ ra hơn hai tháng nữa để dịch lại bộ Luận ngữ, vừa dịch vừa phân loại theo đề tài lập bảng tra tên người, tên đất.” Trong cuốn Luận ngữ này, cụ Nguyễn Hiến Lê có nói rõ là bài XVI.1 được dịch lại: trong chú thích bài đó, cụ viết: “Bài này chúng tôi dịch trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm, 1972), nay dịch lại.” Ngoài bài XVI.1 đã dẫn trong cuốn Nhà giáo họ Khổng được cụ dịch lại, còn nhiều bài khác nữa đã được cụ dẫn trong một số tác phẩm khác cũng được cụ dịch lại mặc dầu trong cuốn Luận ngữ này cụ không nêu ra, ví dụ như (mỗi tác phẩm tôi chỉ chọn một bài): Bài II.2: Trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, câu “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà”, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Cả 300 thiên trong Kinh Thi, chỉ một câu có thể trùm được, là: không nghĩ bậy”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại, đặc biệt là ba chữ “tư vô tà”, như sau: “Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ bao quát tất cả, là tư tưởng thuần chính.” Bài VI.8: Trong bộ Mặc học, câu “Vô chi, mệnh hĩ phù? Tư nhân dã nhi hữu tư tật dã!”, cụ dịch là: “Con [tức Bá Ngưu] sắp mất. Số mệnh đó thôi. Người như vậy mà bệnh như vậy!”; Trong cuốn Luận ngữ, cụ hiểu chữ “vô” theo một nghĩa khác, và cả câu đó được lại thành: “Vô lí! Do mệnh trời chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó!” Bài VIII.3: Trong bộ Trang tử – Nam hoa kinh , câu “Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù, tiểu tử” (lời của Tăng tử), cụ dịch là: “Từ đây về sau ta mới biết chắc rằng ta giữ được (thân ta) |
khỏi các điều hư hỏng, tàn tật đó các trò”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại là: “Từ nay về sau, ta mới biết thoát khỏi hình lục, đó các trò” (cụ đã hiểu hai chữ “miễn phù” theo một nghĩa khác). Bài XVIII.6: Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc, câu “Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thuỳ dĩ dịch chi”, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều thế cả, ai mà theo mình để sửa đổi việc loạn ra trị”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại (đặc biệt là hai chữ “thao thao”): “Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng nước (đục) cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa thiên hạ?” Lý do khác biệt trong hai lần dịch bài VI.8 là do chữ 亡 trong nguyên văn. Trong bộ Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc chữ đó là “vong” và dịch theo nghĩa của chữ 亡 là “chết mất”; còn trong cuốn Luận ngữ cụ đọc là “vô” và dịch theo nghĩa của chữ “vô” 無 là “không” [1]. Cũng có trường hợp đọc khác nhưng ý nghĩa cũng vậy như chữ 哂 trong bài XI.25, trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ đọc là “sẩn” (Thiều Chửu cũng đọc là “sẩn”); còn trong cuốn Luận ngữ, cụ đọc là “thẩn”, nhưng nghĩa cũng vẫn là “mỉm cười”. Nhân vật Nhụ Bi trong bài XVII.20 cuốn Luận ngữ, chữ Hán là 孺悲, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (bài Dương Hoá – 19) gọi là Nhũ Bi. Cũng trong cuốn Cổ văn Trung Quốc , cụ Nguyễn Hiến Lê tỏ ý ngờ rằng thiên Hương đảng (thiên X) là do người sau chép thêm; cụ bảo: “(…) hình như cũng có vài chỗ do người đời sau |
viết thêm, chẳng hạn như thiên Hương đảng”. Nhưng trong cuốn Luận ngữ này và trong cuốn Khổng tử nữa, chúng ta không thấy cụ nhắc lại ý nghi ngờ đó nữa. Cuốn Luận ngữ mà tôi chép lại ở đây là theo ebook do một bạn trẻ, bạn PNT, gởi tặng. Ebook đó, về sau gọi là “ebook nguồn”, không ghi tên nhà xuất bản và năm xuất bản. Theo ảnh bìa đăng trên trang hoc xa hoi MTg/luan ngu MTkwQw thì nhà xuất bản là nhà Văn học (tôi tạm dùng ảnh đó, sửa lại đôi chút để làm ảnh bìa cho ebook mới này). Trong ebook nguồn cũng không chép chữ Hán, các chữ Hán trong ebook mới này là do tôi ghi thêm dựa theo các bản Luận ngữ đang lưu hành trên mạng, đặc biệt là bản Khổng tử Luận ngữ do Nguyễn Thiên Thụ chú dịch hiện đang phổ biến trên website Sơn Trung Thư Trang [2]. Bản của Nguyễn Thiên Thụ và bản của cụ Nguyễn Hiến Lê có vài chỗ không giống nhau. Sau đây là vài ví dụ về chữ Hán khác nhau: Trong bài I.6, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 凡愛眾,而親仁 “phàm ái chúng nhi thân nhân” và dịch là: “Thương mọi người, mà gần gũi người nhân đức”; tương ứng với chữ “phàm” 泛, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là “phiếm” [泛] và dịch là: “yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức.” Trong bài II.16, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 攻乎異端,斯害也己 “Công hồ dị đoan tư hại dã kỉ” và dịch là “Nghiên cứu việc hoang đường thì có hại cho mình”; chữ cuối, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là “dĩ” [已] và dịch là: “Chuyên tâm nghiên cứu những cực đoan thì có hại.” Trong bài IX.3, Nguyễn Thiên Thụ chép là: |
雖遠衆 “tuy viễn chúng” và dịch là: “trái với đại chúng”; cụ Nguyễn Hiến Lê chép là: “tuy vi chúng” (tức 雖違衆) và dịch là: “tuy trái với số đông.” Tôi cũng tham khảo bản Luận ngữ do Phùng Hoài Ngọc biên dịch và bàn luận đăng trên ng%E1%BB%AF kh%E1%BB%95ng t%E1%BB%AD/. Bản này cũng có vài chỗ khác biệt với bản của cụ Nguyễn Hiến Lê, ví dụ như: Trong bài II.16, Phùng Hoài Ngọc chép là: 攻乎異端,斯害也已 “Công hồ dị đoan tư hại dã dĩ” và dịch là: “Phá bỏ mê tín dị đoan, cái hại sẽ tiêu tan”. Phùng Hoài Ngọc không chú thích, nhưng ta có thể đoán được tác giả hiểu tương tự như lời chú thích của cụ Nguyễn Hiến Lê: “Có người hiểu khác: công [攻] là công kích, dĩ [已] nghĩa là [止] (chỉ): công kích những cái cực đoan thì ngăn được hại”. Trong bài I.13, Phùng Hoài Ngọc chép lời của Hữu tử (tức Hữu Nhược) như sau: …人不失其亲,亦可宗也 “…Nhân bất thất kỳ thân, diệc khả tông dã”, và dịch là: “…Vì không mất đi sự thân cận lễ nghĩa đó nên giữ được tông pháp”. Cụ Nguyễn Hiến Lê thì dịch là: “Thân cận với người đáng cho mình thân cận (tức người có đức nhân) thì người đó mình có thể tôn kính được (hoặc nương nhờ người đáng cho mình thân cận – người có đức nhân – thì người đó có thể làm chủ mình được)”, và chú thích: “Chữ nhân ở đây có thể hiểu là thân cận hay nương nhờ. Chữ tôn có thể hiểu là kính mà coi là chủ mình”. Nguyên văn chữ “nhân”, trong bản nguồn không chép chữ Hán như tôi đã nói ở trên, nhưng hầu hết các bản trên mạng, trừ bản |
Phùng Hoài Ngọc ra, đều chép là 因. Ngoài việc ghi thêm chữ Hán và các chú thích, trong phần Phụ lục tôi còn chép trọn tiết Luận ngữ trong cuốn Cổ văn Trung Quốc [3]. Trong tiết đó cụ Nguyễn Hiến Lê giới thiệu tác phẩm Luận ngữ và ba bài: I.1, VII.14 và XI.25. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn bạn PNT và xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn. Tháng 7 năm 2011 Bổ sung tháng 9 năm 2011 GIỚI THIỆU NGUỒN GỐC VÀ CÁC BẢN Bộ Luận ngữ đứng đầu trong Tứ thư. Tôi nghĩ nếu bỏ ra bốn năm chục bài chép ngôn hành của các môn sinh như Tăng Tử, Tử Hạ, Hữu Nhược, Tử Du, Tử Trương mà trong tập Khổng tử (thiên IV) tôi đã giới thiệu sơ lược, chỉ giữ lại hết những bài chép ngôn hành của Khổng tử – khoảng 500 bài, toàn bộ gồm khoảng năm trăm rưỡi bài – thì Luận ngữ đáng gọi là “Kinh”. Tất cả các học giả từ xưa tới nay đều coi nó là kinh của Khổng giáo, cũng như Đạo Đức kinh là kinh của Lão giáo. Nó còn chép trung thực tư tưởng của Khổng tử, đáng tin hơn Đạo Đức kinh nữa, vì bộ này gồm nhiều bài do người sau thêm vào, (coi bộ Lão tử chúng tôi soạn mà chưa xuất bản được)[4]. Do đó, muốn tìm hiểu học thuyết của Khổng tử thì phải căn cứ trước hết vào Luận ngữ, vì chín phần mười Kinh Thư, Kinh Lễ, Trung dung, Mạnh tử, tư tưởng không còn đúng của Khổng tử (mặc dầu cũng có điểm giống); Đại học có hệ thống quá (có nhà còn ngờ không phải của Tăng tử viết); Trung dung có một phần siêu hình mà Khổng tử tránh siêu hình; còn Mạnh tử phóng đại phần |
duy tâm của Khổng tử. Vì những lẽ đó, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng và cuốn Khổng tử[5] chúng tôi ráng chỉ dùng Luận ngữ để trình bày tư tưởng của Khổng. NGUỒN GỐC Luận ngữ có bài do môn sinh của Khổng tử chép, như bài XIV.1: Hiến vấn sỉ. Tử viết: “Bang hữu đạo, cốc; bang vô đạo, cốc, sỉ dã” [6]. Nguyên Hiến tự xưng tên như vậy, thì chính là ông ta chép. Có trường hợp như trong khi học, môn sinh nghe giảng điều gì thì chép ngay lại cho khỏi quên, như Tử Trương trong bài XV.5, chép lời của Khổng tử vào dây đai, rồi sau truyền lại cho môn sinh. Có nhiều bài do hạng môn sinh tái truyền (tức môn sinh của môn sinh) chép, như thiên I, bài 2 bắt đầu bằng: “Hữu tử viết”, bài 4 bắt đầu bằng “Tăng tử viết” v.v… đều là học trò của Hữu Nhược, và của Tăng Sâm chép, vì theo lệ trong Luận ngữ, trừ Khổng tử, mà bất kì môn sinh nào dù trực truyền hay tái truyền, cũng gọi là “tử” hoặc “phu tử” (hoặc Khổng tử như các bài XV.12 11); còn các môn sinh của Khổng tử thì có ba trường hợp như sau: Tôi lấy ví dụ. A và B đều học Khổng tử, họ là đồng môn với nhau. B dạy học có một học trò tên C. Trường hợp thứ nhất: A hay B khi chép hay nói về mình, thì xưng tên tục, chẳng hạn Đoan Mộc Tứ[7] tự xưng là Tứ, Nhan Hồi tự xưng là Hồi. Trường hợp thứ hai: B nói về A (nói về bạn), hoặc C nói về A (tức nói về bạn của thầy mình) thì có thể gọi A: |
bằng tên tự (như Tử Cống là tên tự của Đoan Mộc Tứ, Tử Uyên là tên tự của Nhan Hồi). hoặc bằng cả họ và tên tục (như Đoan Mộc Tứ, Nhan Hồi). hoặc bằng tên họ và tên tự (như Nhan Uyên – Nhan là họ, Uyên là tự). A nói về B cũng theo những cách gọi tên đó. Trường hợp ba : C nói về B, tức nói về thầy học của mình, thì gọi là “tử”, “tử” đặt sau họ của thầy mình (học trò của Hữu Nhược gọi Hữu Nhược là Hữu tử, học trò của Tăng Sâm gọi Tăng Sâm là Tăng tử, chứ không gọi là Tăng Sâm, hoặc Tử Dư – tên tự của Tăng Sâm). Vậy những bài bắt đầu bằng Hữu tử viết hoặc Tăng tử viết, đều là của hạng môn sinh tái truyền lại. Có thể rằng sau khi Khổng tử mất, các môn sinh thu thập lời dạy của thầy, truyền cho nhau, một số người chép lại dùng để dạy học, khi chết, thì học trò của họ lại cả lời của Khổng tử lẫn lời của họ. Người cuối cùng chép lại là ai? Theo Liễu Tôn Nguyên đời Đường thì có lẽ là một học trò của Tăng Sâm. Có thuyết bảo rằng Tăng Sâm kém Khổng tử 46 tuổi, sinh vào khoảng 505, chết năm 428. Có sách lại nói Tăng Sâm chết năm Lỗ Nguyên công nguyên niên, tức Chu Khảo vương ngũ niên: 436[8]. Sai nhau tám năm, là ít đấy. Vậy Luận ngữ không thể xuất hiện trước 436 được. Có thể còn sau khá lâu nữa, vì thiên VIII chép Tăng Sâm trước khi mất có khuyên Mạnh Kính tử về cách cư xử của người |
cầm quyền (VIII.4). Mạnh Kính tử tên là Trọng. Kính tử là tên thuỵ, chết sau Tăng Sâm; mà bài đó ghi tên thuỵ – tên đặt cho người chết, theo hành vi hồi sinh tiền – tức là chép sau khi Mạnh Kính tử chết. Bài đó do một môn sinh của Tăng Sâm chép, cho nên gọi Tăng Sâm là Tăng tử, mà trong Luận ngữ, số bài chép ngôn hành của Tăng Sâm nhiều hơn số bài về các môn sinh khác của Khổng tử. Cho nên thuyết của Liễu Tôn Nguyên tin được. Và chúng ta có thể tạm kết luận rằng bộ Luận ngữ do nhiều người ghi và xuất hiện sớm cũng vào khoảng bảy tám chục năm sau Khổng tử mất. CÁC BẢN Luận ngữ đã được phổ biến từ thời Tiên Tần. Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc rồi, ra lệnh “đốt sách, chôn nho”, nhưng thời đó giao thông còn kém, sự kiểm soát không thể chặt chẽ lắm, mà Tần giữ ngôi không được lâu, nên lệnh chỉ thi hành triệt để ở những nơi gần kinh đô và chung quanh các thị trấn, còn trong dân gian các miền xa xôi, vẫn còn người lén lúc giữ được, có kẻ học thuộc lòng được Luận ngữ và lục kinh. Nhà Hán diệt Tần rồi, bỏ lệnh đó đi thì người ta thu thập được ba bản Luận ngữ: Bản Lỗ Luận của người nước Lỗ; bản Tề Luận của người nước Tề (hai bản này được chép bằng thứ chữ đã được Tần sửa đổi và thống nhất, gọi là kim văn – tức kim tự); và bản Cổ Luận (chép bằng cổ văn, tức cổ tự, thứ chữ dùng thời trước). Bản Cổ Luận này do Lỗ Cung công (cuối đời Hán Vũ đế) sai phá nhà Khổng tử mà tìm được trong tường, cùng với các bộ Thượng Thư, Lễ Kí, Hiếu Kinh. |
Lỗ Luận có 20 thiên, Tề Luận cũng có đủ 20 thiên đó, thêm hai thiên nữa: Vấn vương và Tri đạo , như vậy là 22 thiên cả thảy. Cổ Luận cũng chỉ có 20 thiên như Lỗ Luận, nhưng thiên cuối: “Nghiêu vấn” chia làm hai từ câu: “Tử Trương vấn ư Khổng tử: Hà như tư khả dĩ tòng chính hĩ” trở đi (tức bài XX.2 trong bản dịch của chúng tôi, gọi là Tòng thiên. Vậy là Cổ Luận chi làm 21 thiên, hai thiên cuối rất ngắn. Theo Hà Án đời Nguỵ, trong số 20 thiên Lỗ và Tề đều có thì chương cú trong Tề Luận nhiều hơn trong Lỗ Luận; mà thứ tự các thiên trong Cổ Luận cũng khác trong Tề và Lỗ Luận. Đầu đời Hán, hai bản Lỗ và Tề đều được truyền (Ông thầy nào muốn dùng bản nào thì dùng); bản Cổ Luận không được truyền, không hiểu tại sao. Từ đời Hán Thành đế (32–7 trước Công nguyên), hai bản Tề và Lỗ được hợp nhất; rồi cuối đời Đông Hán, Trịnh Huyền bỏ hai thiên Vấn vương và Tri đạo trong Tề Luận đi, hợp nhất cả ba bản. Hà Án đời Nguỵ có lẽ là người đầu tiên giải thích Luận ngữ, bản Luận ngữ tập giải của ông còn truyền đến ngày nay. Đời Tống, Chu Hi cũng chú thích và bản Luận ngữ tập chú của ông không khác bản của Hà Án bao nhiêu. Hai bản đó là chính, còn nhiều bản khác nữa. Ở nước ta từ xưa chỉ dùng bản của Chu Hi và các nhà dịch Luận ngữ trong già nửa thế kỉ nay cũng chỉ theo chú thích của Chu Hi. NỘI DUNG VÀ CÁCH TRÌNH BÀY Đọc các cổ thư đời Tiên Tần, như Mặc tử, Đạo Đức kinh, Trang tử… chúng ta gặp rất nhiều chữ rất tối nghĩa vì chép lầm, thiếu sót và nhiều chỗ do người sau nguỵ tác, thêm vào. |
Luận ngữ không tránh khỏi tình trạng đó. Có một hai chỗ thoát lậu, như bài X.18, không ai hiểu ý nghĩa ra sao, mỗi người đoán một khác, và người ta ngờ rằng mất một vài câu ở đầu hoặc ở cuối. Bài XVIII.11 kì cục, chép tám kẻ sĩ đời Chu chẳng có tiếng tăm gì mà có vẻ bốn cặp sinh đôi của một hay nhiều gia đình nào đó, để làm gì vậy? chẳng học giả nào giảng nổi. Có ít câu người ta ngờ đặt lộn chữ, đáng lẽ ở bài khác, như: cuối bài XII.10 có 2 câu: “Thành bất dĩ phú, diệc chi dĩ dị” ở trong Kinh Thi[9], dẫn lầm vào đó nên các sách đều bỏ; cuối bài XVI.12 có câu: “Kì tư chi vị dư? ” [10] cũng ở đâu đặt lầm vào, hoặc thiếu một vài chữ gì ở trên câu đó, nên không ai hiểu nổi. Hai bài XVII.5 và 7, Tử Lộ can Khổng tử đừng nhận lời mời của Công Sơn Phất Nhiễu và của Bật Hật, bị Lương Khải Siêu trong “Cổ thư chân nguỵ cập kì niên đại” ngờ là không đúng, nhưng Lương chưa đưa được cứ xác đáng. Có bốn năm bài trùng xuất, như: IX.24 – I.8, XV.23 – XII. 2[11], XIV.26 – VIII.14, XVII.17 – I.3. Lỗi đó không đáng kể. Năm thiên cuối (XVI XX) có nhiều điều khả nghi: Thông lệ thì Luận ngữ gọi Khổng tử là Tử mà thiên XVI lại gọi là Khổng tử, và 4 bài 22, 23, 24, 25 thiên XIX lại gọi là Trọng Ni. Việc chép trong bài XVI.1 không chắc đã đúng vì theo Tiền Mục, Nhiễm Hữu và Quí Lộ không hề đồng thời giúp việc cho |
Quí thị; hai việc trong bài XVII.5 và 7, Lương Khải Siêu cũng không tin. Thiên XVII toàn chép dật sự của người trước và người đương thời với Khổng tử, không liên quan gì đến thầy trò họ Khổng. Thiên XIX toàn chép lời bàn về đạo của môn đệ Khổng tử: Tử Trương, Tử Hạ, Tử Du, Tăng tử…, không có một lời nào của Khổng tử. Do những lẽ kể trên, một số học giả cho rằng năm thiên cuối được thêm vào sau và không đáng tin như những thiên trên. Điều bất tiện cho chúng ta nhất là môn sinh ghi chép vắn tắt lời của Khổng tử, không cho biết những lời đó nói vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào, thành thử, có nhiều bài chúng ta không biết chắc được tư tưởng, hành vi của Khổng tử ra sao. Thí dụ bài II.6, Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu, Khổng tử đáp: “Phụ mẫu duy kì tật chi ưu” [12]. Lời rất dễ dàng như vậy có ba cách hiểu: 1. Cha mẹ chỉ lo cho con bệnh tật. (Khổng tử muốn khuyên Mạnh Vũ Bá nên giữ gìn sức khoẻ để cho cha mẹ khỏi lo). 2. Người con có hiếu thì thận trọng mọi việc, không làm gì cho cha mẹ phải lo, duy có bệnh tật là không dễ phòng được. Cách hiểu này cũng giống như cách hiểu trên: làm con phải chăm sóc sức khoẻ của mình; chỉ hiểu như cách trên thì là lời trách một người chơi bời quá độ, hiểu theo cách dưới thì không có ý trách, mà nhận rằng Mạnh Vũ Bá rất đứng đắn. 3. Cách hiểu thứ ba trái hẳn, (cho chữ kì chỉ cha mẹ, hai cách trên chữ kì chỉ con)[13] và câu của Khổng tử phải dịch là: Người con mà lo cho cha mẹ bệnh tật (hết sức săn sóc sức |
khoẻ của cha mẹ) là người con có hiếu. Giá mà người chép cho ta biết Mạnh Vũ Bá là người ra sao (có giữ gìn sức khoẻ của mình không, hoặc có thường lo về sức khoẻ của cha mẹ không) thì chúng ta không còn thắc mắc nữa. Nhất là bài V.21, Khổng tử chán nản cảnh bôn ba, muốn về Lỗ dạy học; người chép không cho ta biết việc đó xảy ra hồi nào, trước khi ông bị nạn ở Bồ năm 494, hay Quí Khang tử mời Nhiễm Cầu[14] về Lỗ giúp mình, năm 492, hay là vào cả hai lần như Tư Mã Thiên chép? Bài XV.1, Vệ Linh Công hỏi ông về chiến trận (ông đáp không biết). Ông tới Vệ lần nào, vì trước sau ông tới Vệ năm lần, bốn lần đầu Linh Công còn sống? Còn nhiều bài khác, không sao kể hết. Do đó mà nhiều khi người ta không biết chắc tư tưởng cùng đời sống của ông. Niên biểu nào lập về đời ông cũng chỉ là phỏng chừng, mười điều trúng được năm là may. Chúng tôi chỉ nhận xét như vậy thôi, không có ý trách cổ nhân: các môn sinh của Khổng tử không có những phương tiện dễ dàng để ghi chép như chúng ta ngày nay, ngôn ngữ của họ dùng cách nay đã hai ngàn rưỡi năm; mà họ không có ý viết sách cho đời sau, chỉ muốn ghi lại lời thầy để nhớ rồi truyền cho con cháu, học trò thôi, cho nên không thể chép thật minh bạch như chúng ta muốn được. Chúng ta còn nên khen bộ Luận ngữ so với bộ Đạo Đức kinh, bộ Trang tử , xuất hiện sau còn sáng sủa hơn nhiều, nhất là ghi một cách trung thực, tỉ mỉ ngôn hành của Khổng tử, thành một tác phẩm đáng tin cậy nhất về |
học thuyết Khổng tử. Một điểm chung nữa các sách thời đầu Chiến Quốc là sự trình bày rất lộn xộn. Luận ngữ tuy chia làm 20 thiên, nhưng ngoài thiên X (Hương đảng – chép về lối sống, cách cư xử hằng ngày của Khổng tử ở triều đình[15], làng xóm và ở nhà) là tương đối nhất trí, còn 19 thiên kia thì không có chủ đề gì cả, gặp đâu chép nấy, về nhân, hiếu, lễ, về chính trị, về văn học, về hành vi của Khổng tử, tâm sự của ông, ý chí của môn sinh v.v…, có vài thiên lại xen vào dăm ba bài về ngôn hành của môn sinh nữa. Vì vậy mà người xưa đã phải lấy vài chữ ở đầu mỗi thiên làm nhan đề cho thiên, như Học nhi, Ung dã, Tử hãn[16]… Đó là đại khái về nội dung và sự trình bày. Về giá trị nghệ thuật, thì chúng ta phải nhận rằng rất cao: lời cô động; ý nghĩa sâu sắc, mà chép tự sự, miêu tả tính tình hành động của nhân vật nhiều khi linh động. Trong cuốn Cổ văn Trung Quốc (Tao Đàn 1966), chúng tôi đã giới thiệu ba bài[17]: I.1 Học nhi thời tập chi… VII.14 Phu tử vị Vệ quân hồ? XI.25 Khổng tử hỏi về chí hướng của một số môn sinh. Còn nhiều bài nữa như: XVI.1 Khổng tử mắng Nhiễm Cầu không biết can Quí thị đừng đánh Chuyên Du. IX.11 Khổng tử mắng Tử Lộ muốn táng mình như một đại phu. V.25 Khổng tử hỏi chí hướng môn sinh và tỏ chí hướng của mình. Cũng đều là những tiểu phẩm bất hủ trong văn học Trung Quốc. Ấy là chưa kể mấy chục câu của Khổng tử rất gọn mà thâm |
thuý đáng gọi là châm ngôn hoặc đã được coi là thành ngữ như: “dục tốc bất đạt”, “hoà nhi bất đồng”, “ôn cố tri tân”, “dĩ trực báo oán”, “quân tử cố cùng”, “phú quí như phù vân”, “hủ mộc bất khả điêu”, “danh chính ngôn thuận” v.v… BẢN DỊCH CỦA CHÚNG TÔI Chúng ta đã có được ba bốn bản Luận ngữ. Bản đầu tiên tôi được biết là bản của cụ Lương Văn Can, mỏng khoảng trăm trang trở lại, chỉ lựa một số bài để dạy học trò; bản này không kiếm được, ngay cả trong thư viện cũng không chắc còn; hai bản gần đây nhất, nhiều gia đình còn giữ là bản của Đoàn Trung Còn in lần đầu ở Sài Gòn năm 1954, và bản của Lê Phục Thiện, gồm ba tập, xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1962 đến năm 1967. Mấy bản đó đều công phu cả, có nguyên văn chữ Hán, phiên âm và chú thích, nhưng đều theo cách hiểu của Chu Hi và đều không phân loại các bài, không có bảng tên người và tên đất, bất tiện cho việc tra cứu. Chúng tôi tham khảo thêm một số bản chú giải và bản dịch khác, đặc biệt là bản Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, nhà Khai Minh xuất bản ở Hương Cảng gồm hai tập, bản Luận ngữ chú dịch của Triệu Thông, nhà Hữu Liên xuất bản cũng ở Hương Cảng năm 1967 và bản Luận ngữ nhị thập giảng của Vương Hướng Minh – Trung Hoa Thư cục – Đài Loan – 1958, để biết thêm cách hiểu một số học giả Trung Hoa xưa và nay. Bài nào có nhiều cách hiểu thì chúng tôi lựa lấy một và ở |
phần chú thích ghi thêm vài kiến giải khác. Sự lựa chọn đó chỉ là ý kiến riêng của tôi thôi, không có giá trị gì hơn những lựa chọn khác. Làm như vậy chúng tôi chỉ mong thoát ra khỏi lối hiểu chính thống của Tống nho, ráng tìm hiểu tư tưởng Khổng tử theo một tinh thần khách quan và giúp độc giả thấy được nhiều lối hiểu để phán đoán. Tôi cũng tham khảo thêm lối dịch của Lâm Ngữ Đường, học giả này thỉnh thoảng có những ý mới mẻ, khác người; sau cùng cuốn Confucius của Etiemble (Gallimard 1966) cũng giúp tôi được ít nhiều. Mỗi bản đánh số theo một cách, phần nhiều theo lối của Chu Hi. Chúng tôi theo lối của Triệu Thông (sách đã dẫn). Thí dụ bài đầu thiên V (Công Dã Tràng) chép việc Khổng tử gả con gái của anh cho Nam Dung. Chu Hi chia làm hai bài: bài V.I nói về Công Dã Tràng, V.2 nói về Nam Dung. Triệu Thông gom lại thành một[18]. Do đó số thứ tự của bài trong bản dịch của Triệu Thông và của chúng tôi khác với nhiều bản lưu hành. Nếu theo số của chúng tôi mà tìm không ra trong các bản của độc giả có, thì tìm ngược lên hay tìm xuôi xuống một vài bài sẽ thấy. CÁC BẢNG PHÂN LOẠI Cuối bản dịch, chúng tôi thêm nhiều bảng phân loại và hai bảng nhân danh. Việc phân loại phức tạp và tốn công lắm. Bộ Luận ngữ gồm 20 thiên, trên năm trăm năm chục bài. Có bài chỉ gồm tám chữ như bài IX.1: Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân, muốn phân loại cho kĩ thì phải sắp vào 4 loại: lợi, mệnh, nhân và cách dạy của Khổng tử. |
Một bài dài hơn có tên nhiều người, thêm tên đất nữa, thì có khi phải sắp vào chín mười chỗ. Rất ít bài chỉ chỉ cần sắp vào một hai chỗ. Đa số sách phải sắp vào bốn năm chỗ. Như vậy, năm trăm rưỡi bài phải sắp vào khoảng hai ngàn chỗ là ít, bất tiện cho việc tra cứu. Muốn dễ tra thì phải rút bớt đi cho giản tiện hơn; tìm ý chính của mỗi bài mà sắp thôi. Như bài IX.1, theo tôi, ý chính (tạm gọi như vậy) ở chữ lợi; vả lại sắp vào mục “lợi” (nghĩa, lợi) dễ kiếm hơn là sắp vào mục “nhân” [19] vì trong Luận ngữ có rất ít bài nói về “lợi” và rất nhiều bài nói về “nhân”; cho nên tôi chỉ sắp vào mục “nghĩa, lợi” rồi ghi: IX.1 (Tử hãn ngôn lợi), mà khỏi sắp vào các mục “mệnh”, “nhân”, “cách dạy của Khổng tử.” Sắp theo cách đó thì giảm đi được nhiều, mục đích chính là để những người quen với Luận ngữ dùng. Độc giả nào chưa quen với Luận ngữ tất khó tra hơn chúng tôi, chúng tôi đành xin lỗi những vị đó. Về tên người, chúng tôi lập hai bảng, một bảng cho các người không phải là môn sinh Khổng tử, một bảng riêng cho các môn sinh. Chúng tôi phải phân biệt bốn loại về môn sinh: 1. bài Khổng tử xét môn sinh; 2. bài môn sinh xét Khổng; 3. bài chép ngôn hành một số môn sinh có tiếng; 4. những bài khác chỉ nhắc tới tên môn sinh thôi (loại này nhiều nhất). Như vậy cũng là để chúng tôi dễ kiếm. Sau cùng, cuối sách, chúng tôi thêm một bảng nữa: “những câu thường dẫn”; gồm có một số bài có châm ngôn của Khổng |
tử hoặc những câu thành ngữ… Nhiều lần muốn kiếm những thành ngữ như “ôn cố tri tân”, “quá do bất cập”, “dĩ trực báo oán”, “nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân” v.v… ở đâu mà ngại phải lật coi từng thiên một, tốn cả giờ chưa chắc tìm được, vì vậy tôi gom góp những câu đó cho vào một bảng riêng. Bảng này chỉ có vài trang giúp tôi rất nhiều. Những bảng phân loại kể trên phải dùng lâu rồi mới thấy khuyết điểm, cần phải sửa đổi, sắp lại, bổ túc. Nếu sau này còn thì giờ, tôi sẽ làm công việc đó. DỊCH VÀ CHÚ THÍCH THIÊN I HỌC NHI I.1[20] Tử viết: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt[21] hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ, nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Học mà mỗi buổi tập, chẳng cũng thích ư? (Khi học đã tấn tới rồi) có bạn[22] (cùng chí hướng) ở xa nghe tiếng mà tìm lại (để bàn về đạo lí với nhau) chẳng cũng vui ư? Nhưng nếu không ai biết tới mình mà mình không hờn giận thì chẳng cũng quân tử[23] ư?” I.2 Hữu tử viết: “Kì vi nhân dã hiếu đễ nhi hiếu phạm thượng giả tiển hĩ. Bất hiếu phạm thượng nhi hiếu tác loạn giả, vị chi hữu dã. Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kì vi nhân chi bản dư.” Dịch. – Hữu tử nói: “Làm người, có nết hiếu, đễ thì ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân đấy chăng? |
Chú thích. – Hữu tử, họ Hữu, tên Nhược, người nước Lỗ, học trò Khổng tử, được bạn học kính mến. Chữ quân tử ở đây nên hiểu là người cầm quyền, như vậy bài này là lời khuyên hạng người trị dân; nhưng cũng có thể hiểu là người có đạo đức. I.3 Tử viết: “Xảo ngôn, lệnh sắc, tiển hĩ nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nói năng khéo léo, nét mặt giả bộ niềm nở, hạng người đó ít có lòng nhân.” I.4 Tăng tử viết: “Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vị nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất cập hồ?” Dịch. – Tăng tử[24] nói: “Mỗi ngày tôi tự xét ba việc: Làm việc gì cho ai, có hết lòng không? Giao thiệp với bạn bè, có thành tín không? Thầy dạy cho điều gì, có học tập (cho nhuần) không?” I.5 Tử viết: “Đạo thiên thặng chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời.” Dịch. – Khổng tử nói: “Trị một nước (chư hầu không lớn không nhỏ) có ngàn cổ xe thì phải thận trọng trong việc mà thành thật với dân, không lãng phí là yêu dân, khiến dân làm việc, phải hợp thời (khi dân rảnh việc nông).” I.6 Tử viết: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng[25] nhi thân nhân; hành hữu dư lực tắc dĩ học văn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Con em (thanh niên) ở trong nhà thì hiếu, thảo với cha mẹ, ra ngoài thì kính nhường bậc huynh trưởng, thận trọng lời nói mà thành thực, yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức; làm được thế vậy rồi mà còn dư |
sức thì sẽ học văn (tức học Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch…). I.7 Tử Hạ[26] viết: “Hiền hiền dị[27] sắc, sự phụ mẫu năng kiệt kì lực, sự quân năng trí kì thân, dữ bằng hữu giao, ngôn nhi hữu tín, tuy viết vị học, ngô tất vị chi học hĩ”. Dịch. – Tử Hạ nói: “Tôn trọng người hiền, coi thường sắc đẹp, hết lòng thờ cha mẹ, liều thân thờ vua, giao thiệp với bạn bè thì ăn nói phải thật tình, (người như vậy) tuy chưa hề học gì tôi cũng cho là đã học rồi” . [28] I.8 Tử viết: “Quân tử bất trọng tắc bất uy, học tắc bất cố; chủ trung tín, vô hữu bất như kỉ giả, quá tắc vật đạn cải.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không trang trọng thì không uy nghi, học tất không vững (không đạt lí); chuyên chú vào sự trung tín, không kết bạn với người không (trung tín) như mình; có lỗi thì chớ ngại sửa đổi.” I.9 Tăng Tử viết: “Thận chung truy viễn, dân đức qui hậu hĩ.” Dịch. – Tăng tử nói: “Thận trọng trong tang lễ cha mẹ, truy niệm và tế tự tổ tiên xa, thì đức của dân sẽ thuần hậu.” I.10 Tử Cầm[29] vấn ư Tử Cống[30] viết: “Phu tử chí ư thị bang dã, tất văn kì chính, cầu chi dư, ức dữ chi dư.” Tử Cống viết: “Phu tử ôn, lương, cung, kiệm, nhượng dĩ đắc chi. Phu tử chi cầu chi dã, kì chư dị hồ nhân chi cầu chi dư?” Dịch. – Tử Cầm hỏi Tử Cống: “Thầy mình (đây trỏ Khổng tử) tới nước nào cũng được nghe chính sự nước đó, như vậy là thầy cầu nghe hay là nhà cầm quyền tự ý báo cho biết?” |
Tử Cống đáp: “Thầy mình có thái độ ôn hoà, lương thiện, cung thuận, tiết kiệm, khiêm tốn, nhờ vậy mà người ta báo cho biết. Vậy cách cầu nghe của thầy mình hoặc giả có chỗ không giống cách cầu nghe của người khác chăng?” I.11 Tử viết: “Phụ tại, quan kì chí; phụ một, quan kì hành; tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cha còn thì xét chí hướng của người, cha mất rồi thì xét hành vi của người, ba năm sau mà không thay đổi khuôn phép (tốt đẹp) của cha thì có thể gọi là có hiếu.” Chú thích. – Nguyên văn chỉ dùng chữ đạo. Chúng tôi nghĩ đã gọi đạo thì phải tốt đẹp, có tốt đẹp thì con mới nên giữ đúng; hễ ba năm hết tang mà còn giữ được thì tất sẽ giữ được hoài. Còn điều không thiện của cha thì không thể gọi là đạo được, có thể sửa đổi liền. Cổ nhân có người hiểu khác: dù cha sinh tiền có làm gì trái đạo thì người con có hiếu cũng không nỡ sửa đổi ngay, mà đợi hết tang cha đã. I.12 Hữu tử viết: “Lễ chi dụng, hòa vi quí. Tiên vương chi đạo tư vi mĩ, tiểu đại do chi. Hữu sở bất hành, tri hòa nhi hòa, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành dã.” Dịch. – Hữu tử nói: “Công dụng của lễ nghi, quí nhất là điều hoà (cho thích hợp, cho hoà hợp). Phép trị nước của tiên vương nhờ đó mà hoàn mĩ, việc lớn việc nhỏ đều theo lễ cả. Tuy nhiên, có điều này (tiên vương) không làm: biết công dụng của lễ là hoà, mà chỉ trọng hoà (khí), không dùng lễ để tiết chế (thì sẽ phóng đãng). Đó là việc không nên làm. |
Chú thích. – Ý bài này cũng như ý câu “hoà nhi bất lưu” (hoà mà không phóng túng) trong Trung dung. I.13 Hữu tử viết: “Tín cận ư nghĩa, ngôn khả phục dã. Cung cận ư lễ, viễn sỉ nhục dã. Nhân bất thất kì thân, diệc khả tôn dã.” Dịch. – Hữu tử nói: “Lời ước hẹn phải hợp nghĩa thì mới giữ được. Cung kính phải hợp lễ thì mới tránh được nhục. Thân cận với người đáng cho mình thân cận (tức người có đức nhân) thì người đó mình có thể tôn kính được (hoặc nương nhờ người đáng cho mình thân cận – người có đức nhân – thì người đó có thể làm chủ mình được). Chú thích. – Chữ nhân [因] ở đây có thể hiểu là thân cận hay nương nhờ. Chữ tôn [宗] có thể hiểu là kính mà coi là chủ mình. I.14 Tử viết: “Quân tử, thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yên, khả vị hiếu học dã dĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử ăn không cầu được đầy đủ, ở không cầu được yên vui, làm việc siêng năng mà thận trọng lời nói, tìm người đạo đức để (thụ giáo) sửa mình; như vậy có thể gọi là người ham học.” Chú thích. – Thực vô cầu bão, cư vô cầu an: không hiểu theo nghĩa từng chữ. Khổng tử muốn nói: nên thận trọng đến sự sửa mình hơn cái ăn cái ở. I.15 Tử Cống viết: “Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, hà như? Tử viết: “Khả dã; vị nhược bần nhi lạc, phú nhi hiếu lễ giả dã.” Tử Cống viết: “Thi vân: “Như thiết như tha, như trác như ma” |
– Kì tư chi vị dư?” Tử viết: “Tứ dã, thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ, cáo chư vãng nhi tri lai giả.” Dịch. – Tử Cống hỏi: “Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, hạng người đó ra sao? Khổng tử đáp: “Khá đấy; nhưng chưa bằng nghèo mà vui, giàu mà thích giữ lễ.” Tử Cống thưa: “Kinh Thi có câu: Như cắt sừng bò, như giũa ngà voi, như đẽo ngọc đẹp, như mài đá quí”. Ý nghĩa như vậy chăng?” Khổng tử khen: “Tứ, như anh mới đáng cho ta giảng Kinh Thi cho. Vì bảo cho điều trước mà anh hiểu được điều sau.” I.16 Tử viết: “Bất hoạn nhân chi bất kỉ tri, hoạn bất tri nhân dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đừng lo người không biết mình, chỉ lo mình không biết người.” Chú thích. – Lo mình không biết người là lo không biết người nào hiền để theo, người xấu để tránh. Nên so sánh “bất hoạn nhân chi bất kỉ tri” trong bài này với “nhân bất tri nhi bất uấn” trong bài đầu. THIÊN II VI CHÍNH II.1 Tử viết: “Vi chính dĩ đức, thí như bắc thần, cư kì sở nhi chúng tinh củng chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao bắc đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức: thiên hạ theo về). Chú thích. – Đây là chủ trương vô vi của Khổng: không phải dùng hình pháp, tránh được mọi phiền phức, chống được mọi biến động. II.2 Tử viết: “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ |