text
stringlengths 1
809k
|
---|
15.5. Triệu: " nhị nhân phân kim " Nghĩa: hai người chia vàng. Chủ về sự: nhường nhịn người thì sẽ hanh thông 16. LÔI ĐỊA DỰ 16.1. Lý do tiếp nối: có của cải ( là quẻ Đại Hữu ) mà biết nhún nhường (quẻ Khiêm ) tất hanh thông vui vẻ. Dự có nghĩa là vui vẻ. Quẻ Dự có tính động ( là quẻ Chấn ) mà hoà thuận ( là quẻ Khôn ). Động mà thuận hoà tức là vui vẻ. 16.2. Thoán từ: dự lợi kiến hầu, hành sư 63 16.3. Dịch nghĩa: quẻ Dự ( vui vẻ ) dựng tước hầu để trị dân, ra quân thì tốt. 16.4. Giảng: quẻ trên là quẻ ChÊn, là khí dương phát động thì muôn vật phát sinh, là cảnh tượng vui vẻ. Hào 4 dương làm chủ quẻ mà 5 hào âm kia phải theo. Thuận với lẽ tự nhiên thì trời đất cũng phải theo huống hồ là con người. Trên dưới hoà thuận vui vẻ. Quẻ này có lợi ở sự dựng tước hầu ( tư¬ng ứng với việc bầu ra 1 người lãnh đạo ) và việc xuất quân. Khí dương lúc đầu nằm trong đất thì bế tắc, tới khi nó ra khỏi đất thì phấn chấn oai phong. Lúc bế là uất, khi đã thoát ra ngoài thì thông xướng hòa vui cho nên mới là quẻ Dự. 16.5. Triệu: " thanh long đắc vị " Nghĩa: rồng xanh ở đúng chỗ Chủ sự: luôn tham gia vào các việc chung. Đây là quẻ tốt. 17. TRẠCH LÔI TÙY 17.1. Lý do tiếp nối: đạo lý khi vui thích, người ta thường đồng ý, đồng ý là theo. Quẻ Đoài là đẹp lòng, quẻ Chấn là động, đẹp lòng thì động mà động thì hay đẹp lòng đều có nghĩa là theo. Con gái nhỏ ( là quẻ Đoài ) theo con trai trưởng ( là quẻ Chấn ) là đúng đạo vì phận con gái thường phải theo chồng như người xưa từng nói: con gái sống thì ở quê cha, chết thì làm ma quê chồng. |
17.2. Thoán từ: tuỳ nguyên hanh lợi trinh, vô cữu. 17.3. Dịch nghĩa: tùy theo rất hanh thông nhưng phải theo điều chính đáng mới có lợi, không có lỗi. 17.4. Giảng: quẻ Đoài ở trên có tính vui vẻ, quẻ Chấn ở dưới có tính động. Chỉ có vui vẻ mà hành động mới là tuỳ theo. Sấm động trong đầm, nước đầm động theo tiếng sấm nên nghĩa là tuỳ. Trong quẻ Tuỳ có thêm 1 ý là tuỳ nhưng phải đúng thời. Cuộc cách mạng tháng 8 thành công là tuỳ hợp với thời cơ, còn nhà Hồ có chính sách mới, tân tiến và có tính cách mạng nhưng chưa đúng thời cơ nên thất bại. Trong sử Tàu đời Hán, Vương Mãng muốn cướp ngôi nhưng quá sớm nên hỏng việc, đời Tống, Vương An Thạch có nhiều cải cách nhưng chưa hợp thời cũng thất bại. Thời vua Quang Tự nhà Thanh cũng thế, nhà vua tập hợp những người trẻ tuổi, đi học nước ngoài về, muốn cải biến xã hội, khai khoáng hầm mỏ, đúc vũ khí tàu bè, mở đường sắt nhưng bị các đại thần thủ cựu bàn với Từ Hy Thái hậu lật đổ Quang Tự vµ đem «ng giam lỏng nên lòng yêu nước, chí nam nhi và hoài bão của Quang Tự không thể thực hiện được. Nhìn vào tượng quẻ ta thấy hào 3 âm nhu quấn quít với hào 4 dương cương, thường thì kẻ âm nhu không thể tự lập nên hay bám theo dương, đó cũng có nghĩa là theo. Tuy nhiên đạo của sự theo lợi ở sự trinh chính, hễ theo được chính đính thì mới cả hanh mà không mắc lỗi, còn theo mà mất đường chính thì có lỗi, còn cả hanh sao được. |
17.5. Triệu: " song xe kháo nhai " Nghĩa: hai xe dựa vào nhau trên khắp nẻo đường. 64 Chủ sự: vui vẻ mà hành động, dựa theo hoàn cảnh mà làm, có nghĩa là tuỳ theo nhưng đúng thời cơ. 18. SƠN PHONG CỔ 18.1. Lý do tiếp nối: cổ có nghĩa là công việc và đổ nát. Dự là vui vẻ, vui vẻ thì tuỳ theo, tuỳ theo sự vui vẻ ắt có công việc nên tiếp theo là quẻ Cổ. Nếu không có việc thì vui vẻ theo để làm gì? Quẻ Cổ là quẻ dưới núi có gió, gió dưới núi, gặp núi thì lật lại làm cho rối loạn, nát loạn. Dịch nói: rối loạn là có việc. 18.2. Thoán từ: cổ nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên, tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật. 18.3. Dịch nghĩa: đổ nát mà làm lại mới tốt, vượt qua sông lớn thì có lợi, phải tìm nguyên nhân từ 3 ngày trước, phải nghĩ đến tương lai 3 ngày sau nên thế nào. 18.4. Giảng: gió quật vào núi, núi quật lại gây rối loạn, có rối loạn là có công việc, lập lại trật tự thì cái sau tốt hơn cái trước. Nhiều lúc đổ nát mà làm lại mới tốt. Chúng ta đánh Mỹ, sau thắng lợi xây dựng đất nước to đẹp nhiều lần so với ngày trước. Khi xưa Nero, nhà thơ bạo chúa cho đốt cả thành La Mã và từ đåi cao nhìn lửa cháy để lấy cảm hứng mà làm thơ. Hành động ấy thật man rợ nhưng về mặt kiến trúc, có lẽ như vậy thành La Mã mới đẹp như b©y giê. Gây nên lầm than cho nhân dân Trung Quốc để xây dựng bức tường thành ngăn quân thù trong giấc mộng mà làm rối loạn xã hội nhưng ngày nay Trung Quốc tự hào vì có một công trình vĩ đại duy nhất có thể nhìn thấy từ vệ tinh bằng mắt thường. Đó chính là Vạn Lý Trường Thành. Quẻ này còn có thể hiểu: quẻ Tốn bên dưới thuận mà bên trên là quẻ Cấn ngồi im, người dưới thì nhu mà người trên thì cương. Quẻ Tốn thuộc âm (âm x dương x dương) mà hào một ( sơ |
lục ) cũng âm. Quẻ Cấn thuộc dương (âm x âm x dương) mà hào trên cùng cũng dương đè nén người dưới gây nên sự đổ nát phải làm lại. Trình Di cho rằng trưởng nữ ( quẻ Tốn ) mà chịu ở dưới thiếu nam ( quẻ Cấn ) là loạn về tình. Trên thực tế con gái cả thường lo toan quán xuyến công việc thay cha mẹ chăm sóc các em. Con trai út hay dựa dẫm nên khi lấy nhau khó có thể làm chủ gia đình, dạy vợ con, nên rất dễ rối loạn. Vì vậy muốn khỏi đổ nát, người con út phải vươn lên, làm việc chăm chỉ và có tài thì mới trị nổi vợ. Những điều này là suy đoán và chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong thiên can thì Giáp là can đầu tiên, chính là buổi đầu công việc, là đầu mối của các việc. Cách mà người ta trị cuộc cổ ( đổ nát, công việc ) là phải nghĩ ngợi trước sau 3 ngày. Trước Giáp là trước lúc đó hãy suy xét xem tại sao mà lại như thế. Sau Giáp là sau lúc đó lo rằng cái gì sắp sửa xảy ra. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày là có ý nói hãy lo cho sâu và nghĩ cho xa. Xét xem tại sao lại thế để biết cách cứu chữa, lo rằng sắp sửa như thế thì biết mẹo để mà phòng bị. Những người đời sau không hiểu tại sao lại lo trước sau 3 ngày, chỉ lo nông cạn, lo việc gần mà chẳng nghĩ tới việc xa cho nên muốn cứu đời mà không khỏi loạn, công chưa thành mà loạn đã sinh ra. 18.5. Triệu: " suy ma phấn đạo " |
65 Nghĩa: diệt trừ loài ma quỷ đạo tặc. Chủ sự: tránh bị mê hoặc, có việc không hay đây. Đây là quẻ xấu. 19. ĐỊA TRẠCH LÂM 19.1. Lý do tiếp nối: theo Trình Di thì cổ là có việc, có việc thì tới, có việc thì sau mới có thể lớn. Lâm tức là lớn, lâm còn có nghĩa là tới như giá lâm, lâm trận, lâm chung. theo tượng quẻ, hai hào dương ở dưới lớn dần lên, đó là cái tượng đầm tiến về đất, nước và đất gần nhau chỉ có ở quẻ Tỵ và quẻ Lâm. 19.2. Thoán từ: lâm nguyên hanh, lợi trinh, chí vu bát nguyệt hữu hung. 19.3. Dịch nghĩa: quẻ Lâm rất hanh thông, chính đáng thì có lợi, đến tháng 8 hoặc 8 tháng nữa sẽ xấu. 19.4. Giảng: hai hào dương ở dưới là dương lớn dần, còn có nghĩa là dần tới ngày thịnh vượng nên gọi là lâm, dương lớn dần, âm tiêu dần nên sẽ hanh thông. Nhưng cũng chính vì hanh thông vui vẻ thì không nên phóng túng mà phải giữ chính đạo nếu không tháng 8 tới sẽ xấu. Tại sao lại nói tháng 8, bởi vì thánh nhân cho rằng đang lúc thịnh phải lo tới lúc suy chứ để suy rồi mới lo là không kịp. Mặt khác theo Chu Hy thì không nói tháng 8 mà là 8 tháng sau sẽ xấu, ấy là vì quẻ Lâm thuộc về tháng chạp, lúc này khí dương tiêu dần mà thành ra xấu chăng! Tám tháng chỉ từ quẻ Phục rồi đến quẻ Cấu đã xuất hiện 1 khí âm, quẻ Độn có 2 khí âm là âm lớn dần mà dương tiêu dần đi. Đại Tượng Truyện bàn thêm: đất tới đầm có cái tượng người quân tử tới dân, giáo hoá dân không bao giờ thôi. |
19.5. Triệu: " phát chính thi nhân ". Nghĩa: sự ngay thẳng, chính trực được bày tỏ ra cho người ta thấy. Chủ sự: vui vẻ, ứng thuận, hoà hợp tiếp xúc thì tốt tiếp đón quý nhân thì có lợi. 20. PHONG ĐỊA QUÁN 20.1. Lý do tiếp nối: quẻ Lâm tức là lớn, các vật có lớn thì mới đáng xem, ngửa mặt lên là xem, nhìn xuống là xét, vì vậy quẻ Quán nối tiếp quẻ Lâm. Quán còn có nghĩa là quan tức là xem và bị xem. 20.2. Thoán từ: quán, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược 20.3. Dịch nghĩa: quẻ Quán, biểu thị cũng như người chủ tế, phải thanh khiết thì không cần bày cỗ ( quán nhi bất tiến ) chỉ có lòng thành thì cũng làm người khác chí thành như mình ( hữu phu ngung nhược ), chữ ngung có nghĩa là ngửa lên mà trông. 20.4. Giảng: gió đi trên đất ( quẻ Tốn bên trên quẻ Khôn), thổi khắp muôn loài, đó là cái tượng xem xét. Về tượng có 4 hào âm bên dưới ngửa xem 2 hào dương ở trên cũng 66 có nghĩa là xem. Người trên xem dưới để xét dân tình, kẻ dưới ngửa xem trên mà biết được tiền đồ chính sự. Còn ý của việc rửa tay trước khi tế lễ, làm mình trong sạch, thanh khiết để tỏ rõ thành ý của mình cho thiên hạ thấy mà noi theo, ở đây có ý nói người trên nên làm tấm gương cho thiên hạ noi theo. Mọi cử chỉ, hành động của người trên đều ảnh hưởng to lớn đến xã hội. Khi thượng bất chính thì hạ tắc loạn. 20.5. Triệu: " hồn bồng phùng hà " |
Nghĩa: đẩy thuyền gặp sông nước lớn. Chủ sự: xem xét kỹ trước khi nghe theo, cẩn thận sẽ thoát hiểm. 21. H0Ả LÔI PHỆ HẠP 21.1. Lý do tiếp nối: phệ là cắn, hạp là hợp, có cái gì ngăn cách phải cắn đi, phá bỏ đi rồi mới hợp lại. Quán là xem, là đáng xem thì mới có kẻ đến với nó. Do đó tiếp quẻ Quán là quẻ Phệ Hạp. 21.2. Thoán từ: phệ hạp, hanh, lợi dụng ngục. 21.3. Dịch nghĩa: cắn để hợp, sẽ hanh thông, dùng vào việc hình ngục thì có lợi. 21.4. Giảng: quÎ này nói về việc hình ngục, hào sơ và hào thượng là hai vạch dương, tựa như hàm trên và hàm dưới, có ba hào đứt như miệng há ra rồi xen vào giữa một hào cứng như cái que cản ngang miệng làm ngăn cách hai hàm. Do đó phải cắn nó đứt ra, trừ nó đi thì hai hàm mới khép lại được. Trong xã hội, bọn gian tà, nịnh thần, tiểu nhân hay kẻ thứ ba trong hôn nhân thường làm ngăn cách trên dưới, nghi kỵ nhau, thường hay gặp trong kế ly gián. Trương Lương dùng kế ly gián mà làm cho Hạng Vũ đuổi Phạm Tăng. Phải trừ bỏ kẻ tiểu nhân, loại người luôn bưng bít thông tin làm cho lãnh đạo không biết gì về xã hội, cơ quan, đời sống thực của người dân. Đó là trên dưới ngăn cách thuộc vào quẻ Bĩ. Nếu trừ bỏ sự ngăn cách thì trên dưới thông nhau, nên trừ khử chúng bằng hình ngục, khi hết ngăn cách, đó là tương ứng với quẻ Thái. Nội quái Chấn là uy, ngoại quái Ly là sáng suốt, vừa có uy vừa sáng suốt thì dùng hình không sai sót. Do đó phệ là cắn mà hạp vậy. Quẻ Phệ Hạp hanh vì tự quẻ có nghĩa hanh, cắn mà hợp lại thì đã hanh thông rồi, nếu sự ngăn cách ấy xảy ra ở thiên hạ |
mà không dùng hình ngục thì lấy gì mà trừ bỏ được. Nhiều kẻ không dùng hình ngục thì nhất định ngoan cố không khai, nếu chỉ có giáo dục, cải tạo mà không có hình phạt răn đe thì không thể làm bọn tiểu nhân run sợ mà như vậy thì không thể trừ bỏ sự ngăn cách để mà cả thông được. 21.5. Triệu: " cơ nhân ngộ thực " Nghĩa: người đói gặp được thức ăn. Chủ sự: chưa thông suốt thì hoà mình vào để tìm ra sự ngăn cách, nắm bắt thời cơ tốt mà trừ khử gian thần. 67 22. SƠN HỎA BÍ 22.1. Lý do tiếp nối: các vật khi đã hợp nhau thì không thể cẩu thả, phải có văn vẻ, mà văn vẻ tức là trang sức. Các vật họp nhau thường theo quy luật. Các khoảng cách bằng nhau trong không gian thì tạo nên kim cương, hoa muốn ong bướm tới thì phải tạo nên sắc màu hương hoa để hấp dẫn, mọi vật tìm đến nhau đều do một sức hấp dẫn nào đó, hoặc bằng hình vẻ bên ngoài, hoặc vì văn vẻ hay, giọng hát hay, hay đôi mắt đẹp, đó chính là trang sức. Trang sức làm mọi vật hợp lại với nhau. Bí là trang sức vì vậy quẻ Bí nối với quẻ Phệ Hạp. 22.2. Thoán từ: bí hanh, tiểu lợi hữu du vãng. 22.3. Dịch nghĩa: trang sức văn vẻ thì hanh thông nhưng làm việc gì mà chỉ nhờ trang sức thì chỉ có lợi bé nhỏ thôi. 22.4. Giảng: trên là núi, dưới là lửa chiếu sáng trên núi, làm núi đẹp lên, tức là trang sức cho núi. Quẻ Bí trên là núi dưới là lửa. Trong các ngày hội, người ta dùng đèn màu chiếu vào các toà nhà, dùng bóng đèn treo vào các lùm cây tạo nên sắc màu lung linh rực rỡ. Trang sức, trang trí các ngày hội mà không dùng đèn, dùng ly hoả thì còn gì là trang sức nữa. Đến cá còn tìm đến nơi có ánh đèn nữa là. Từ xưa, thoán từ đã viết trang sức chỉ có cái lợi nhỏ thôi, trang sức chỉ là bên ngoài, cần phải có nội dung tốt mới được. Trang sức chỉ là tạo ấn tượng trong giao tiếp còn thực lực và tài năng là quyết định sau cùng. Hàn Phi nước Tàu bị Tần Thuỷ Hoàng rất gét vì tật nói lắp mặc dù Hàn Phi giỏi hơn Lý Tư. Tần Thuỷ Hoàng nhốt Hàn Phi vào ngục, nhưng khi ngẫm nghĩ ra mới hiểu được nhiều đạo lý, mới biết Hàn Phi là người có tài, bèn cho người mời ra giúp nước. Không ngờ Hàn Phi đã bị Lý Tư giết mất. Đó có phải chăng là sự bất lợi của vẻ ngoài con người không! Trong truyÖn Tam Quốc cũng vậy, mặc dù Bàng Thống có tài nhưng quá xấu xí nên Tào Tháo, Ngô Quyền và cả Lưu Bị nữa cũng chán không dùng mà chỉ có Khổng Minh mới nhận ra chân giá trị của ông mà thôi. Vì vậy Đại Tượng Truyện khuyên: việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được, còn việc lớn hoặc phán đoán mưu mô, hoặc trong các vụ án thì đừng nên lạm dụng. |
22.5. Triệu: " hỷ khí doanh môn " Nghĩa: không khí vui mừng tràn đầy trước cửa Chủ sự: mọi sự tốt lành, văn vẻ, đẹp xinh, đây là quẻ tốt nhưng chớ lạm dụng 23. SƠN ĐỊA BÁC 23.1. Lý do tiếp nối: bí là trang sức, trang sức đến cùng thì thôi, sau cái rực rỡ nhất là bỏ ra, không ai trang điểm mãi được nên tiếp đến quẻ Bác. Bác là lột là gọt, vật cùng tất biến. Trang sức đến cùng, hanh thông hết mức thì dừng lại. 23.2. Thoán từ: bác, bất lợi hữu du vãng. 68 23.3. Dịch nghĩa: tiêu mòn, hành động thì bất lợi. 23.4. Giảng: theo tượng quẻ, năm hào âm tiến dần từ dưới lên quyết trừ nốt hào dương còn lại. Đó là đạo tiểu nhân lấn át người quân tử thì người quân tử chỉ nên ngồi đợi thời cơ chớ nên hành động. Lão Tử khuyên " đại trí nhược ngu, đại dũng nhược khiếp, đại xảo nhược chuyết " nghĩa là trí tuệ tuyệt vời thì giả vờ ngu ngốc, anh dũng vô song giả vờ khiếp sợ, hèn nhát. Đầy mưu lược mà giả vờ vụng về. Người quân tử phải như vậy để yên thân mà chờ cơ hội. Trong lịch sử, Cơ Tử là hoàng tử nhà Ân khuyên Trụ Vương không được bèn giả điên mà thoát chết, Văn Vương ăn thịt con mà giả vờ khen ngon. Hàn Tín chịu nhẫn nhục chui qua đũng quần tên bán thịt. Đó chính là những người biết chịu đựng mà chờ thời cơ vậy. Trình Di cho rằng Bác là gọt, là chất mềm lớn lên thì chất cứng phải biến đổi, vào ngày hạ chí, một khí âm bắt đầu sinh ra rồi lớn dần dần, đến tháng 9 thì nó cùng cực mà thành quẻ Bác, rồi tháng 10 biến thành quẻ |
Khôn, tháng 11 lại biến tiếp thành quẻ Phục. Còn về tượng quẻ thì Đại Tượng Truyện cho rằng sơn lµ nói và địa là đất, đất có vững thì núi mới bền vì nội quái là Khôn bên dưới có vững thì ngoại quái Cấn mới vững bền và có ý khuyên người cầm quyền nên lo cho dân an cư lạc nghiệp thì địa vị mới vững. Đó là nguyên lý lấy dân làm gốc vậy. Ta thấy quẻ Cấn chồng lên quẻ Khôn, dưới là đất mà trên là núi có hàm ý là dưới là gốc của trên, chưa có khi nào gốc dầy bền vững mà sụt lở được, kẻ bề trên phải biết như thế để dốc lòng nuôi dân, làm dầy lên cái gốc của mình thì mới có thể lâu dài được. 23.5. Triệu: " nhuyễn mộc mô tước " Nghĩa: cây non mềm bị tước lột vỏ. Chủ sự: mất mát, hành động không có lợi. Đây là quẻ xấu. 24. ĐỊA LÔI PHỤC 24.1. Lý do tiếp nối: theo luật "cùng thượng phản hạ" leo tới đỉnh núi rồi thì xuống. Hào dương bị lột tới cùng thì quay lại mà phát sinh ra ở dưới, đó là ánh sáng cuối đường hầm, đó là âm cực thì dương sinh, vì vậy quẻ Phục mới nối quẻ Bác. Đó là quân tử, cái tốt trở lại, tiểu nhân, cái xấu suy vi. 24.2. Thoán từ: phục hanh, xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng. 24.3. Dịch nghĩa: trở lại thì hanh thông, ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ tới, không bị lầm lỗi nữa. Vận trời tráo đi tráo lại, cứ 7 ngày thì thì trở lại, làm việc gì cũng có lợi. |
24.4. Giảng: khi khí dương đã trở lại ở hào đầu là đã hanh thông, cây đã đâm chồi, hạt đã nảy mầm, người mẹ đã mang thai là có quyền hy vọng. Đã có hào dương ban đầu thì sẽ có các hào dương khác tới. Con người ta cũng vậy, lúc đầu đơn độc, nhưng đã tìm được chỗ đứng thì bạn bè lần lượt kéo tới thì sẽ không còn cô đơn, không còn sai lầm nhiều nữa. Theo thứ tự các hào dương tăng lên từ một hào dương ở quẻ Địa Lôi Phục, hai hào dương ở quẻ Địa Trạch Lâm, ba hào dương ở quẻ Địa Thiên Thái, bốn 69 hào dương ở quẻ Lôi Thiên Đại tráng, năm hào dương ở quẻ Trạch Thiên Quải, sáu hào dương ở quẻ Bát Thuần Càn. Vận trời theo quy luật cứ bảy ngày quay trở lại vì sau quẻ Càn là quẻ Cấu, một hào âm lại xuất hiện dưới năm hào dương. từ quẻ Phục tới quẻ Cấu là bảy quẻ, như vậy đúng chu kỳ một vòng. Quẻ Phục tháng 11 âm lịch đến quẻ Cấu tháng 5 âm lịch, đó là 7 tháng 7 quẻ. Sở dĩ ra vào không gặp tai nạn, ít lầm lỗi, bạn bè kéo tới là theo tượng quẻ, nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận. Hành động thuận theo trời đất là tốt, là thuận theo vương đạo, là hợp lẽ trời đất theo lý luận " thiên thời, địa lợi, nhân hoà " vì thế mới có câu " thuận thiên thừa vận, hoàng đế chiếu rằng ". Ta còn thấy từ quẻ Cấu vào tháng 5, lúc này chỉ có một vạch âm bên dưới rồi hai vạch âm là quẻ Độn, ba vạch âm là quẻ Bĩ, bốn vạch âm là quẻ Quán, năm vạch âm là quẻ Bác, sáu vạch âm là quẻ Khôn và tiếp nối là quẻ Phục có đúng là vận trời tráo đi tráo lại, cứ theo chu kỳ 7 lần biến mà ra quẻ Phục. |
Đạo của trời đất: tĩnh lâu rồi động, ác nhiều thì thiện, có vậy thì vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Đại Tượng Truyện có dẫn ra tích các vua ngày xưa vào ngày đông chí, ngày mà khí nhất dương sinh như tượng quẻ Phục là sấm nằm dưới đất ( Địa Lôi Phục ) thì đóng cửa ải, nhà vua và các quan không đi xem xét các nơi là có ý giữ yên lặng mà nuôi dưỡng khí dương non nớt mới sinh. 24.5. TriÖu: " phu thê phản mục " Nghĩa: vợ chồng bất hoà Chủ sự: cái tốt trở lại. Không trở lại là xấu. 25. THIÊN LÔI VÔ VỌNG 25.1. Lý do tiếp nối: vọng là càn, bậy, vô vọng là không càn bậy. Phục là trở lại, trở lại là tốt, là biết lỗi, là không càn bậy. Do đó quẻ Vô Vọng nối tiếp quẻ Phục. 25.2. Thoán từ: vô vọng nguyên hanh, lợi, trinh. Kỳ phỉ chính hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng. 25.3. Dịch nghĩa: quẻ Vô Vọng rất hanh thông, lợi về sự chính bền, cái gì không hợp với chính đạo thì có lỗi, có hại, hành động thì bất lợi. 25.4. Giảng: vô vọng là không càn bậy. Quẻ Chấn là có tính động mà ở dưới quẻ Càn trời. Động theo lẽ trời thì không càn bậy, còn động theo lòng dục của con người thì thường là càn bậy. Xét về hào quẻ, hào 9 ngôi 5 trung chính làm chủ ngoại quái, hào 6 ngôi 2 trung chính làm chủ ở nội quái, âm dương đối đãi cùng là trung chính, hợp với lẽ trời nên rất hanh thông. Trình Di cho rằng không càn tức là thành thật mà thành thật tức là đạo trời, trời nuôi nấng vạn vật, vạn vật sinh sôi không cùng, vật nào giữ đúng tính mệnh vật ấy mới đúng là không càn mà không càn bậy thì mới hanh thông. Do đó quẻ Vô Vọng chính là đạo trời. |
25.5. Triệu: " diêu bi lung lao " Nghĩa: buồn rầu, khổ sở, vất vả, tủi hổ Chủ sự: phải dè dặt, không vọng động. Đang gặp sự buồn lo 70 26. SƠN THIÊN ĐẠI SÚC 26.1. Lý do tiếp nối: quẻ Đại Súc có nghĩa là chứa lớn, ngăn không càn quấy thì mới có thể chứa được mọi thứ, kể cả văn chương chữ nghĩa, lòng bao dung con người. Không càn có nghĩa là theo con đường chính thì mới chứa được lòng người. 26.2. Thoán từ: đại súc lợi trinh, bất gia thực cát; lợi thiệp đại xuyên. 26.3. Dịch nghĩa: chứa lớn chính đáng có thì lợi, không phải ăn cơm nhà, tốt. Làm việc lớn như lội sông có lợi. 26.4. Giảng: chẳng gì lớn bằng trời, mà lại vào ở trong núi, có thể nói sức chứa của núi là vô cùng lớn, ở con người ta, đạo đức học thuật văn chương chứa đầy bên trong, sức chứa cũng vô cùng lớn. Người ta cãi rằng, núi làm sao mà chứa được trời, vậy thì có người thông thạo vài chục ngoại ngữ, có nhà văn chứa trong đầu hàng nghìn nhân vật như O.Banzac, Victor Hugo thế thì có làm sao? Có người học cả đời cũng chẳng thông thạo mét thứ tiếng, ngay cả tiếng mẹ đẻ cũng không thể hiểu được hết. Người quân tử phải tu luyện tài đức cho nhiều, phải cương kiện như quẻ Càn, thành thực vững chắc như quẻ Cấn, hơn nữa mài dũa cho đức tài ngày một tiến thêm. Người trượng phu nào, quân tử nào được như vậy thì được quốc gia nuôi, trọng dụng nhằm khi "quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách", ở đây hào 6 ngôi 5 và hào 9 ngôi 2 cũng hợp nhau vì trung mà không chính ( trên dương dưới âm hoặc trên âm dưới dương ). Sự chứa đựng nếu theo chính đạo thì cả tốt, được ở ngôi trên, hưởng lộc trời mà thi thố với thiên hạ, không những tốt cho mình mà còn tốt cho mọi người nữa, còn nếu phải ở vào hoàn cảnh khốn cùng, phải ăn cơm nhà là lúc bĩ tắc rồi, có khác gì đi buôn mà phải ăn vào vốn, vì vậy lời thoán nói rằng không phải ăn cơm nhà thì tốt ( bất gia thực cát ). |
26.5. Triệu: " trần thế đặc khải " Nghĩa: cuộc đời đặc biệt mở mang, yên ổn, vui vẻ Chủ sự: luôn tự trau dồi, làm mới bản thân. 27. SƠN LÔI DI 27.1. Lý do tiếp nối: quẻ Di, tự quái nói rằng: chứa rồi thì phải nuôi, không nuôi thì làm sao có thể tồn tại được, không nuôi thì chứa làm gì. Vì vậy quẻ Di mới nối quẻ Đại súc. Di nghĩa là nuôi, là đạo nuôi nấng. 27.2. Thoán từ: di trinh cát, quan di, tự cầu khẩu thực. 27.3. Dịch nghĩa: đạo nuôi nấng hễ chính thì tốt, xem cách nuôi người và tự nuôi mình. 27.4. Giảng: quẻ Di có 2 nghĩa: nuôi nấng và cái cằm. Hình quẻ như đang mở miệng ra. Hai nét dương ở ngoài như 2 cái hàm, còn lại các hào âm như miệng rỗng gợi cho ta 71 sự ăn uống và sự nuôi nấng. Quan di là xem cách nuôi người, tự cầu khẩu thực là xem xét cách nuôi mình, hễ mà theo điều chính đáng thì rất tốt Khi đặt quẻ, thánh nhân suy rộng chữ nuôi: lớn thì như trời đất nuôi muôn vật, thánh nhân nuôi người hiền, nuôi muôn dân, còn ở người ta thì nuôi mình và nuôi người khác, quần áo thì nuôi hình hài, dáng dấp hạnh nghĩa để nuôi đạo đức. Động cựa hay nghỉ ngơi, dè dặt hay phát tiết ra là để nuôi người khác. Đó là đạo nuôi nấng.Theo tượng quẻ, quẻ Chấn là sấm mà ở dưới núi, có sấm nghĩa là sự sống ( dương khí ) bắt đầu phát động mà vạn vật trong núi phát triển, như vậy là trời đất nuôi vạn vật ( Sơn Lôi Di ). Người quân tử tự nuôi mình ý nói phải tu dưỡng đạo đức bằng lời ăn tiếng nói, suy nghĩ, ở với dân tuy hoà mà không lẫn, tiết độ về ăn uống để nuôi thân thể theo chân lý ăn để sống chứ không phải sống để ăn " quân tử di ngôn ngữ, tiết ẩm thực ". |
Bởi vì " họa tòng khẩu xuất, bệnh tòng khẩu nhập ". Do đó nên cẩn thận giữ gìn nhất cái miệng như ngạn ngữ: trượt chân thì còn được chứ trượt miệng thì không được. 27.5. Triệu: " vi thuỷ phong hiển " Nghĩa: nước chảy vòng, gió bốc cao. Chủ sự: tư dưỡng đạo đức như nước xoáy gió lồng. Được nâng đỡ trong thăng tiến. 28. TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ 28.1. Lý do tiếp nối: Phan Bội Châu giải thích: có nuôi thì sau mới có việc lớn quá. Ngoài ra có 2 cách hiểu: 4 hào dương bên trong mà hào âm chỉ có 2, dương làm âm nứt ra 2 bên như tượng cái cột ỏe ra, cả gốc và ngọn đều yếu, giữa mạnh mà 2 đầu trên dưới đều yếu nên mới oẻ ra ( có nghĩa tương tự như oằn xuống ) và cách thứ 2 là: đạo đức lớn quá. Nuôi thì lớn quá. Đại quá là lớn quá. Do đó quẻ Đại Quá nối tiếp quẻ Di. 28.2. Thoán từ: đại quá đống náo, lợi hữu du vãng, hanh. 28.3. Dịch nghĩa: dương lớn quá, âm ít quá ( đại quá ) như cột yếu, oẻ đi không chống nổi ( đống náo ), sự tiến lên có lợi được hanh thông. 28.4. Giảng: theo nghĩa đại quá là dương nhiều quá, âm ít quá nên có tượng cột yếu cong đi. Quẻ này nội quái Tốn bên dưới thuận, ngoại quái Đoài bên trên vui vẻ nên tiến hành công việc hòa thuận hanh thông, khí dương đang mạnh, khí âm đang suy cho nên hành động được thuận lợi. Trình Di còn cho rằng đầm trên cây ( quẻ Đoài trên quẻ Tốn ) tức là làm ngập cây. |
Đầm nuôi cây mà làm ngập cây nên cả quá . Do vậy người quân tử cũng phải có đạo đức quá hơn người, việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình chống lại đông người, có hại đến bản thân cũng chịu, giống như kẻ sĩ có thể chết chứ không thể bÞ làm nhục được. Đấng quân tử sở dĩ hơn người vì có thể đứng một mình mà không sợ, trốn đời mà không buồn, thiên hạ chê mình mà không đoái hoài bởi một lẽ rất giản đơn là khi tấm lòng trong sạch, mục đích tốt đẹp, chỉ có một ước muốn duy nhất là dân có cơm no, áo ấm, được học hành thì có thể ngẩng cao đầu mà không thẹn với trời xanh. 28.5. Triệu: " dã mộng kim ngân " 72 Nghĩa: người nơi thôn dã nằm mộng được vàng. Chủ sự: thời cơ đến, tiến lên có lợi nhưng tiến quá thì lỗi lớn 29. TẬP KHẢM 29.1. Lý do tiếp nối: khảm là nước, là mây, là mưa. Nghĩa của khảm là lõm xuống, là sụp, là hiểm. Các vật không thể quá mãi không thôi, căng quá thì phải trùng xuống, lõm xuống. Vì vậy quẻ Khảm tiếp nối quẻ Đại quá. 29.2. Thoán từ: khảm hữu phu, duy tâm hanh, hành hữu thượng. 29.3. Dịch nghĩa: hai lớp khảm có đức tin, chỉ theo lòng mà hanh thông, hành động thì được trọng thưởng. 29.4. Giảng: Tập Khảm nghĩa là hai lần trùng quẻ Khảm lên nhau thì hiểm càng thêm hiểm. Nhìn vào quẻ Ly trái với quẻ Khảm, quẻ Ly thì ngoài đặc giữa rỗng, quẻ Khảm ngược lại giữa đặc ngoài rỗng, có chỗ nứt nên quẻ Khảm là nước, chỗ nào trống thì nước chảy vào. Không gì nguy hiểm hơn là vùng nước sâu, không cẩn thận thì chết đuối, nên khảm hiểm là vậy. |
Theo hình quẻ, ở giữa là vạch liền, là hình ảnh của sự trung thực, thành tín. Vì quẻ Khảm có đức tín ( hữu phu ) trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm, có lòng chí thành thì thoát hiểm, việc làm được coi trọng và có được công lao, lòng chí thành có thể cảm được cả trời đất thì còn có sự hiểm nạn nào mà không thể vượt qua. Thoán Truyện bàn thêm: vì hào 5 và hào 2 đã ở giữa lại cương quyết nên gặp hiểm vẫn hanh thông. Trời có tượng hiểm là không lên trời được. Đất có tượng hiểm là núi sông. Nếu người tài đức vận dụng cái hiểm hợp thời thì thành quả cực lớn, chẳng hạn như các con sông, các dãy núi tạo nên biên giới quan ải, các vùng rừng núi tạo nên chiến khu. Miền Tây Thục của Trung Quốc chỉ có đường sạn đạo rất hiểm trở, đốt sạn đạo là cắt đứt trong ngoài. Rừng núi còn là căn cứ địa của các cuộc cách mạng. " rừng che bộ đội, rừng vây quân thù ". 29.5. Triệu : " hải để lao nguyệt " Nghĩa: sóng nước khuấy động ánh trăng dưới đáy biển. Chỉ về sự: gian nan hiểm trở mà có đức tin thì sẽ thoát 30. BÁT THUẦN LY 30.1. Lý do tiếp nối: ly có nghĩa là dính, bám, theo tượng quẻ, hai hào dương dính vào nhau, các lỗ hổng như mắt lưới nên Phục Hy chế ra lưới để đánh cá. 73 Quẻ Ly tự quẻ nói rằng: khảm tức là bị hãm, bị hãm thì phải mắc vào, phải bám vào. Bị hãm vào chỗ hiểm thì phải dính bám, đó là thể theo tự nhiên, vì vậy quẻ Ly mới nối quẻ Khảm. |
30.2. Thoán từ: ly lợi trinh, hanh, súc tẫn ngưu cát. 30.3. Dịch nghĩa: bám vào chỗ chính đáng thì hanh thông có lợi, nuôi trâu cái thì tốt. 30.4. Giảng: dựa vào chỗ chính đáng thì tốt, như danh có chính thì ngôn mới thuận. Nếu đã tìm được chỗ dựa chính đáng rồi thì phải nghe theo hết lòng, phải giữ đạo thuận hoà mềm mỏng, tựa như nuôi giống trâu bò cái thì tốt. Quẻ Ly trên dưới toàn Ly nên sáng quá, rực rỡ quá vì vậy phải giấu bớt cái sáng của mình đi. Phàm người đời không ưa người sáng quá, giỏi quá, hơn mình nên phải giấu bớt sáng mà trau rồi đức thuận hoà, " nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm " ( đạo người thường ghét người giầu có huyênh hoang mà quí mến người khiêm tốn ) là vì vậy. Sáng thì có thể soi rọi mọi nơi nhưng có nơi chẳng cần soi rọi, cứng thì có thể quyết đoán để phân biệt tốt xấu, chính tà nhưng sáng quá thì không sự nhỏ nhặt nào mà không soi tới, quyết đoán quá thì không tha thứ điều gì, nếu không có sự điều chỉnh vừa phải thì sẽ có hại về việc soi xét quá nghiêm. Thương Ưởng là một ví dụ, chính vì đề ra chính sách quá hà khắc mà thân làm tể tướng cũng không cứu được mẹ thoát kiếp nô lệ, bản thân mình gặp nạn mà không tìm đâu được chốn dung thân. Quẻ Ly là bám, trên đời muôn vật chẳng có vật nào không có chỗ bám. Đã bám rồi thì phải bám chỗ chính mà thuận. Nuôi trâu cái chính là nuôi cái đức thuận đó. Ly là bám như mặt trời, mặt trăng bám trên trời, trăm giống cây cỏ thì bám vào đất. Muôn vật chẳng loại vật nào không có chỗ bám. Ở người ta nên xét xem chỗ bám của mình, hễ được chỗ chính thì hanh. Trong thực tế đời sống, người ta vẫn nói, chim khôn tìm chủ mà thờ. Tìm được minh quân như Khổng Minh tìm được Lưu Bị nên rạng danh một đời, hết lòng phò tá để đền ơn tri ngộ. Ngũ Tử Tư phò cho Phù Sai để rồi chết không nhắm được mắt. Nói nhỏ thì số phận một con người, về cơ quan, tình yêu sự |
nghiệp mà được chỗ chính đáng là cả một đời hạnh phúc, tỏ rõ được tài năng, và ngược lại cuộc đời như tù ngục. 30.5. Triệu: " thiên quan ngũ phúc " Nghĩa: thiên quan, thiên phúc, quý nhân Chủ sự: ngay chính thì tốt, được quẻ này thì hanh thông, nhưng phải thận trọng. Phần 3 CHU DỊCH HẠ KINH Chu Dịch Thượng Kinh bắt đầu bằng hai quẻ Càn Khôn là trời và đất. Có trời, có đất rồi mới có vạn vật, có vạn vật rồi thì mới có nam nữ, vợ chồng, cha con, vua tôi, trên dưới, lễ nghĩa. Kinh thượng nhà Chu mở đầu bằng hai quẻ Càn Khôn là nói về vũ trụ, là giai đoạn tiên thiên, là lý lẽ của trời đất cho nên nói Chu Dịch Thượng Kinh là hình nhi thượng học nghiên cứu về thiên lý, còn Chu Dịch Hạ Kinh là hình nhi hạ học nghiên cứu về nhân sự. Đó là giai đoạn thứ 2, giai đoạn nói về con người, về nam nữ. Hàm là trai gái, là cảm nhau, hàm còn là đạo vợ chồng. Hằng là đạo vợ chồng ăn ở với nhau lâu dài. Hàm là đạo chồng, nhờ hàm mà "thiên địa cảm nhi, vạn vật hoá sinh" có nghĩa là nhờ hàm mà trời đất cảm nhau để hóa sinh ra muôn vật Hằng là ®¹o vợ, là đạo vợ chồng đầu bạc răng long, thuỷ chung không đổi nên nhờ hằng mà "tứ thời biến hoá nhi năng cửu thành" nghĩa là nhờ hằng mà cuộc đời, năm tháng, bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều trải qua các quá trình biến hóa để sinh thành và bền vững muôn đời. 31. TRẠCH SƠN HÀM |
31.1. Lý do tiếp nối: quẻ Hàm là cảm, là đạo vợ chồng. Hết Chu Dịch Thượng Kinh thì tiếp đến Chu Dịch Hạ Kinh. Đầu Chu Dịch Thượng Kinh là hai quẻ Càn Khôn do đó giai đoạn hai là Chu Dịch Hạ Kinh là đến lượt quẻ Hàm Hằng. Do đó quẻ Hàm tiếp nối. Theo Trình Di thì có trời, có đất rồi sau mới có muôn vật, có muôn vật rồi sau mới có trai gái, có trai gái mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi mới có cha con, có cha con rồi mới có vua tôi, trên dưới rồi sau mới có lễ nghĩa. Càn là đạo trời, Khôn là đạo đất, vậy thì hàm là đạo chồng còn hằng là đạo vợ. 31.2. Thoán từ: hàm hanh, lợi trinh, thù nữ, cát. 31.3. Dịch nghĩa: giao cảm thì hanh thông, giữ đạo chính thì lợi, lấy con gái thì tốt. 31.4. Giảng: quẻ Đoài là con gái út ở trên, quẻ Cấn là con trai út ở dưới. Trai lớn gái lớn thì đứng đắn đúng mực nhưng cảm nhau thân thiết thì không gì bằng trai trẻ và gái trẻ. Cảm nhau thì tất hanh thông. Thiếu nữ ở trên, thiếu nam phải hạ mình cầu cạnh , hồi mới yêu nhau thì phải vậy, chứ nếu thiếu nữ phải cầu cạnh thiếu nam là bất chính. Vì vậy thoán từ nói phải giữ đạo chính mới có lợi. Hai bên cùng giữ đạo chính cả thì cuộc cưới xin chắc sẽ tốt lành. Thoán từ cho rằng trai gái cảm nhau thì phải chân thành. Khi đã cảm nhau rồi thì phải tự chủ, giữ lễ, đừng để hoá ra bất chính bởi vì đã cảm thì phải thông, nếu lấy nhau không theo chính đạo thì mất sự hanh và các việc đều có kết quả xấu. Trai mà nhường gái, ấy là hoà tột bậc cũng như trời chịu đất. Vua hạ |
mình cầu người hiền tài, làm lễ bái tướng như Lưu Bang bái Hàn Tín làm tướng thì 75 mọi việc rất hanh thông. Vì vậy mới bảo quẻ Hàm theo chính đạo cảm thông thì lấy con gái như vậy là tốt, đậu ( Cấn ) mà đẹp lòng ( Đoài ) nghĩa là trai chịu dưới gái, dùng cách đó mà lấy con gái thì được chính đáng mà tốt lành. Xưa người Tàu cưới vợ thì nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, phu thê tam bái. Điều này có ý nghĩa rất thiêng liêng, có trời đất chứng giám, có cha mẹ chủ trì, vợ chồng vái nhau đã là bình đẳng lắm rồi, vợ thì lo việc nhà, chồng thì lo việc nước, hào 9 ngôi 5 trung chính ứng với hào 6 ngôi 2 cũng trung chính thì thật là tốt. 31.5. Triệu: " manh nha xuất thổ " Nghĩa: mầm cây non nhú ra khỏi đất. Chủ sự: giao cảm thì hanh thông, nên giao thiệp rộng rãi, mọi sự yên ổn. Đây là quẻ tốt. 32. LÔI PHONG HẰNG 32.1. Lý do tiếp nối: hằng là lâu dài, không đổi. Đạo vợ chồng thì lâu dài không đổi, trong đạo thiên chúa cũng vậy, tình gia đình, tình vợ chồng trước chúa luôn bền vững. Điều này càng đúng trong nho giáo. Quẻ Hàm là đạo vợ chồng, quẻ Hằng là không đổi, đó là lý do tại sao quẻ Hằng nối tiếp quẻ Hàm. 32.2. Thoán từ: hằng hanh, vô cữu, lợi trinh, lợi hữu du vãng. 32.3. Dịch nghĩa: lâu dài thì hanh thông, không có lỗi, giữ đạo chính thì có lợi, hành động thì thành công. 32.4. Giảng: quẻ Hằng trên là trai lớn ( quẻ Chấn ) dưới là gái lớn ( quẻ Tốn ). Chồng trên vợ dưới, trai tôn gái ty rất hợp đạo lý nên được lâu dài. Nói về quẻ thì sấm gió giúp sức nhau. Chấn động trước Tốn theo sau, thế là thuận đạo, hơn nữa trong quẻ cã ba hµo dương vµ ba hµo âm ứng với nhau nên càng thuận mà giữ đạo chính được lâu dài. Bàn về tình cảm thì trai trẻ gái trẻ quấn quít nhau cho nên Đoài Cấn hợp nhau mà thành quẻ Hàm, bàn về thứ tự tôn ty thì trai lớn ( Chấn ) gái lớn ( Tốn ) phải cẩn thận đứng đắn cho nên Chấn Tốn hợp nhau mà thành quẻ Hằng. Trai ở trên gái, trai động bên ngoài, gái thuận ở trong tức là lẽ thường của đạo người, cứng trên mềm dưới, sấm gió cùng nhau, nhún mà động đều có nghĩa là hằng bởi vì muốn bền vững lâu dài thì phải đối nghịch với nhau nhưng đối nghịch để đi đến thống nhất theo luật âm dương. Đạo hằng vẫn có thể hanh thông mà không có lỗi nhưng phải theo con đường chính đáng thì mới có thể lâu dài. Đạo của trời đất sở dĩ có thể lâu dài cũng vì có sự |
chính đáng mà thôi. 32.5. Triệu: " ngư lai động võng " Nghĩa: cá tới làm rung lưới Chủ sự: hanh thông, việc mong đang có kết quả, nếu không chớp thời cơ, thời cơ sẽ qua mất. 33. THIÊN SƠN ĐỘN 33.1. Lý do tiếp nối: quẻ Độn là: trốn, lui, đi, tránh. Các vật không thể tồn tại mãi được theo lý "vật cùng tất biến". Không ai giàu 3 họ, không ai khó 3 đời, âm cực sinh dương, dương cực sinh âm. Lâu quá rồi thì phải đi, cuộc vui nào cũng đến lúc tàn. Do đó quẻ Độn nối tiếp quẻ Hằng. 33.2. Thoán từ: độn hanh, tiểu lợi trinh 33.3. Dịch nghĩa: trốn đi thì hanh thông. Trong việc nhỏ, giữ điều chính là có lợi. 33.4. Giảng: đây là quẻ dưới trời có núi, trời cao thì vút lên trên, núi cao nhưng bị giữ lại. Trời tiến xa, núi muốn tiến theo không được, đó là trời bỏ núi mà đi. Dưới tiến lên mà trên bỏ đi, ấy là xa nhau, nghĩa là trốn đi, lánh đi. Hai hào âm phía dưới, tiểu nhân đang thịnh, đấng quân tử lui mà tránh nó nên mới gọi là trốn. Tuy vậy so với quẻ Bĩ có 3 hào âm thì quẻ Độn mới có 2 hào âm, chưa phải thời Bĩ ( âm còn nhỏ ) nên chưa xấu lắm, trong việc nhỏ mà giữ được điều chính thì còn có lợi, còn làm được chút ít. Ngoài ra hào 9 ng«i 5 trung chính ứng với hào 6 ng«i 2 cũng trung chính nên còn tốt, chưa nên trốn hẳn, để xem còn nên tính làm được việc gì thì làm, tuỳ cơ ứng biến. Đại Tượng Truyện khuyên trong hoàn cảnh quẻ này nên tránh mặt tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm, đừng dữ dằn với chúng để tránh bị làm hại. Quẻ Độn có 2 hào âm bên dưới, ứng vào tháng sáu, tuy không xấu bằng quẻ Bĩ nhưng người quân tử cũng nên tránh nó và lời chiêm của nó là: đấng quân tử lánh được thì thân mình dù lui mà đạo mình vẫn sáng, bọn tiểu nhân tuy nắm chính quyền cũng không thể lấy cớ gì mà lấn bách khí dương. Lời chiêm quẻ này với hào sơ và hào nhị của quẻ Bĩ là giống nhau. |
33.5. Triệu: " nùng vân tế nhật " Nghĩa: mây dầy che khuất mặt trời Chủ sự: giấu tài năng mình đi, đợi thời cơ 34. LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG 34.1. Lý do tiếp nố i: đại tráng nghĩa là lớn mạnh. Theo Trình Di: các vật không thể trốn mãi được, quẻ Độn do khí âm lớn lên mà khí dương phải bỏ đi, bỏ đi mãi thì trở về và lớn mạnh lên. Quẻ Đại Tráng có 4 hào dương ở dưới. Đó là sự lớn mạnh không ngừng. Do đó tiếp theo quẻ Độn là quẻ Đại Tráng. 34.2. Thoán từ: đại tráng lợi trinh 34.3. Dịch nghĩa: lớn mạnh theo điều chính thì có lợi. 34.4. Giảng: hào 9 ng«i 2 trung mà không chính. Quẻ tốt nhưng chưa hoàn toàn, quẻ Đại Tráng từ hào sơ cửu đến cửu tứ toàn dương, dương đang lớn mạnh mà âm sắp tiêu hết. Sấm trên trời có đức dương cương mà động, tiếng vang của sấm đi rất xa. Thường 77 lớn mạnh ai mà chẳng muốn nhưng thường lớn mạnh hay sinh kiêu căng. Trong đánh cờ tướng cũng vậy, khi thế cờ quân hơn hẳn thường hay vỗ đùi đắc ý thì đột nhiên thua đột ngột vì những nước cờ quá giản đơn. Trong bóng đá, có khi đội bị đuổi người lại ghi bàn trước và chiến thắng. Cho nên thoán từ dặn: hãy giữ điều chính, lúc đắc ý phải nghĩ đến lúc thất cơ thì mới có lợi. Cổ nhân đã từng nói "làm người chớ cậy khi quyền thế, có lúc cờ tàn tốt đuổi xe" đó sao! Thoán Truyện bàn thêm: quẻ Phục chỉ có 1 nét dương ở hào đầu, đây chỉ là cái lòng của trời đất, đến quẻ Đại Tráng thì dương đã lớn hơn 4 nét rồi thì mới thấy được cái tình của trời đất bởi vì lớn mạnh mà không theo chính đạo tức là hành vi của kẻ hung tợn, không phải đạo của người quân tử. |
34.5. Triệu: " cộng sự đắc mục " Nghĩa: cộng tác với nhau thì đạt được mục đích Chủ sự: đang mạnh thế. Việc lớn sắp thành 35. HỎA ĐỊA TẤN 35.1. Lý do tiếp nối: tấn là tiến lên. Đã lớn mạnh rồi thời phải tiến lên. Đó là lý do quẻ Tấn nối tiếp quẻ Đại Tráng bởi vì có bao giờ đang lớn mạnh mà lại ngừng, chỉ có thừa cơ tiến lên mà thôi. 35.2. Thoán từ: tấn khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp. 35.3. Dịch nghĩa: tiến lên bậc công hầu có tài trị nước, được thưởng ngựa nhiều lần. Có ngày được tiếp tới ba lần. 35.4. Giảng: quẻ này có tượng mặt trời lên khỏi đất, càng lên cao càng soi sáng khắp nơi. Quẻ Ly sáng suốt và quẻ Khôn thuận hòa ví như có vị khang hầu có tài trị dân được vua thưởng ngựa và ngày tiếp ba lần. Bậc công hầu có tài trị dân, gặp được bề trên sáng suốt thì hết lòng thuận theo và được bề trên yêu thương cho ngựa rất nhiều, xe ngựa là vật ban thưởng long trọng, chẳng những nhà vua cho thưởng hậu hỹ mà còn thân mật kính trọng, trong có một buổi sáng mà tiếp tới ba lần là yêu thương trọng hậu tới tột bậc rồi. Thời quẻ Tấn là thời tiến mạnh, trên thì vua sáng, dưới thì tôi thuận, vua tôi hợp nhau thì đất nước an bình. Xem quẻ này thì người quân tử tự rèn đức độ của mình sáng như ly hoả hiện trên mặt đất và càng ngày càng sáng lên. 35.5. Triệu: " sừ địa đắc kim " Nghĩa: bừa đất được vàng |
Chủ sự: tiến lên và hanh thông. Đây là quẻ tốt. 36. ĐỊA HỎA MINH DI 36.1. Lý do tiếp nối: minh di là ánh sáng bị thương tổn. Tiến lên thì tất có lúc bị thương tổn. Quẻ Minh Di ngược lại với quẻ Tấn, quẻ Tấn thì đất dưới lửa trên. Quẻ 78 Minh Di thì lửa dưới đất trên theo lý "cùng thượng phản hạ". Do đó quẻ Minh Di nối tiếp quẻ Tấn. 36.2. Thoán từ: minh di lợi gian trinh 36.3. Dịch nghĩa: ánh sáng bị tổn thương, lợi về sự khó nhọc mà giữ được chính bền. 36.4. Giảng: mặt trời cũng như ngọn lửa, phải nhô khỏi mặt đất mới thoả sức vẫy vùng, còn đã bị vùi lấp đi thì ánh sáng còn đâu là ánh sáng nữa. Vì vậy mới gọi là ánh sáng bị tổn hại. Đó là cái thời mà người tài giỏi bị vùi lấp, còn hôn quân vô đạo ở địa vị tối cao. Trong hoàn cảnh ấy người quân tử phải giữ trong lòng đức sáng ( như quẻ Ly ) mà bên ngoài thuận hoà ( như quẻ Khôn ) để chống với hoạn nạn như tượng quẻ nói. Thời cuối nhà Thương Ân, Trụ Vương nghe nói Tây Bá Hầu Cơ Xương là hiền tài ở xứ Tây Giao nên gọi về triều và tìm cớ để giết ông. Chỗ này nhiều người thắc mắc tại sao Trụ Vương lại tìm cách giết người tài giỏi, thực ra vấn đề hết sức đơn giản, nếu như minh quân cần người tài bao nhiêu thì hôn quân sợ và ghét người tài bấy nhiêu bởi vì bóng đêm sợ ánh sáng, hôn quân vô đạo rất sợ người ta nắm được điểm yếu của mình và can ngăn. Trước khi đi, ông có dặn con là ông gặp hạn bảy năm, đừng có tìm cách cứu mà mang vạ, sau vài năm, Bá Ấp Khảo, con đầu của ông, thấy mình sung sướng mà cha già bị tù tội nên không cam lòng. Bá Ấp Khảo mang các đồ trân bảo sang biếu vua Trụ để mong cứu cha về. Không ngờ Trụ Vương giết luôn , làm mắm và gửi cho Văn Vương. Lý do vua Trụ giết Bá Ấp Khảo chỉ đơn giản vì đất nước có người con hiếu nghĩa như vậy thì thật đáng sợ cho địa vị của mình. Văn Vương biết lọ mắm là thịt con mình mà vẫn phải ăn, lại còn khen ngon. Trụ Vương thấy vậy coi khinh, tha chết và cho về nước. Khi Văn Vương tới gần biên giới thì vua Trụ mới sực nghĩ ra rằng người mà mình cho là ngu ấy mới là bậc đại trí ( đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết, đại dũng nhược khiếp ), mới cho người đuổi theo. Gần tới biên giới, quân Trụ |
đuổi kịp nhưng xuất hiện Lôi Chấn Tử là con thứ 100 của Văn Vương xuất hiện và cứu được cha. Nhờ bên ngoài thuận hoà, không chống đối Trụ, dùng tài trí đÓ viết thoán từ giải thích các quẻ trong Kinh Dịch, giúp dân trong thành Dữu Lý để làm sáng thêm nội quái Ly. Cũng giống như vậy, Cơ Tử nhà Chu can Trụ Vương không được, giả điên để khỏi chết, mong có cơ hội khôi phục nhà Ân. Khi nhà Chu lên, Chu Võ Vương thấy tư cách ông tốt nên mời ra giúp nước, ông cũng không chịu nên Chu Võ Vương cho ông ra Triều Tiên để lập một nước riêng. Đó là Cơ Tử giấu sự sáng suốt bên trong mà bên ngoài vẫn hòa thuận nên vượt qua được hạn Minh Di. Đại Tượng Truyện còn nói: người quân tử khi gặp thời Minh Di nên dùng thủ đoạn làm ngơ cho kẻ tiểu nhân, đừng rạch ròi quá mà bị hại, để chúng không nghi ngờ mình và để chúng lộ hết dã tâm ra. Sau đó đợi thời cơ thích hợp, trốn thoát và tìm minh chủ để thực hiện cho được hoài bão của mình. Theo Trình Di thì người quân tử gặp thời minh di, chịu khó nhọc mà không lỗi đạo trinh chính. Ở thời tối tăm khó khăn mà như vậy thì mới là người sáng láng, bản thân không chống triều đình nhưng đời con ông là Võ Vương mới là người diệt nhà Thương Ân 36.5. Triệu: " qua hà chiết kiều " Nghĩa: qua sông làm gẫy cầu. Chủ sự: người tài bị hại, che cái tài đi thì thoát. Qua sông làm gẫy cầu đi để người ta không thấy cái tài của mình, giống như Lưu Bang khi vào đến đất Thục liền đốt sạn đạo, tỏ ý sẽ không bao giờ quay trở lại trung nguyên nữa mà lừa Hạng Vũ. |
37. PHONG HỎA GIA NHÂN 37.1. Lý do tiếp nối: gia nhân có nghĩa là người nhà. Quẻ Minh Di là đau, đau ở ngoài, tổn thương va vấp ở ngoài thì trở về nhà, trông cậy sự giúp đỡ của người nhà. Vì vậy quẻ Gia Nhân mới nối tiếp quẻ Minh Di. 37.2. Thoán từ: gia nhân, lợi nữ trinh 37.3. Dịch nghĩa: người trong nhà, hễ đàn bà trong nhà mà chính đáng thì có lợi. 37.4. Giảng: gia nhân là đạo người nhà, là tình cha con, là nghĩa vợ chồng. Nó là quẻ bên ngoài là ngoại quái Tốn, bên trong là nội quái Ly, tức là gió từ trong lửa mà ra. Sáng ở trong mà nhún ở ngoài, đó là cách khu xử trong nhà. Ở người ta, cái gì mà thi hành được ở nhà thì thi hành được ở nước rồi đến thiên hạ. Người mà đạo nhà nát thì làm sao có thể trị được thiên hạ. Vậy có câu " tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ ", là vì lý do ấy. Về đạo nhà, thường lợi ở người đàn bà, người đàn bà chính thì nhà ấy có phúc. Người ta vẫn bảo " phúc đức tại mẫu " đó sao! Cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng thì đạo nhà mới chính. Quẻ này hào 9 ngôi 5 và hào 6 ngôi 2 đều là trung chính, rất tốt nên nói lợi về nữ trinh. Lợi về nữ trinh chính là nếu chính bên trong thì bên ngoài không gì mà không chính. Quẻ Gia Nhân phải lấy sự cứng rắn làm phép tắc như hào sơ, hào 3, hào thượng, người anh hùng còn có khi đắm đuối tình ái mà quên tự chủ, huống chi người nhu nhược có thắng được tình cảm vợ con chăng? Từ |
xưa đến nay, anh hùng không qua ải mỹ nhân, Đường Minh Hoàng say đắm Dương Quí Phi mà làm chìm đắm cơ đồ, bỏ cả giang sơn, nhiều bậc quan lại vì nghe vợ nghe con hoặc không dạy nổi vợ con mà thân bại danh liệt. Trình Di coi trong thoán từ có nói: trong nhà có bậc tôn nghiêm mà làm chúa trùm, đó là cha mẹ, không có chúa trùm thì phép tắc đều bỏ. Nhà là khuôn phép của nước vậy. Về tượng quẻ, hào âm ở ngôi 2 là âm trùng âm, là trung chính nên chính đáng, hào dương ngôi 5 là quân tử được ngôi , quẻ này âm dương đều đúng vị trí nên đàn bà là hào âm ngôi 2 lo việc nhà, hào dương ngôi 5 là đàn ông lo việc nước nên đều chính đáng cả. Tuy chưa bình đẳng nhưng trong nhà về tư cách đạo đức thì nam nữ đều có trách nhiệm đúng theo phận của mình. Theo tượng quẻ, gió từ trong lửa mà ra thì suy rộng ra là việc gì ở bên ngoài biết cũng đều từ trong nội bộ mà ra. Vì vậy phải tu thân, tề gia thì mới trị quốc và bình thiên hạ được. Khi xưa, lúc An Dương Vương thua trận đang trên đường chạy trốn thì gặp thần Kim Quy, thần đã chỉ cho vua xem, nguyên nhân của sự thất bại chính là cô con gái yêu của mình ngồi sau ngựa. Đó là câu chuyện Mỵ Châu: "nỏ thần vô ý trao tay giặc, để nỗi cơ đồ đắm biển sâu" là một ví dụ về sự cai quản người nhà không tốt. 37.5. Triệu: " quản thủ lân chi " Nghĩa: cai quản người trong nhà |
Chủ sự: người trong nhà phải đối xử với nhau cho đúng phép tắc. 38. HỎA TRẠCH KHUÊ 38.1. Lý do tiếp nối: khuê là sai trái, lìa xa, chống đối. Quẻ Khuê, tự quái nói rằng: gia nhân là người nhà, là đạo trong nhà. Đạo nhà mà cùng, suy vi thì mọi người lìa xa, chia rẽ, phản bội nhau. Do đó quẻ Khuê nối tiếp với quẻ Gia nhân. 38.2. Thoán từ: khuê tiểu sự cát 38.3. Dịch nghĩa: quẻ Khuê việc nhỏ tốt 38.4. Giảng: nhìn tượng quẻ Khuê ta thấy ngoại quái Ly bên trên, nội quái Đoài bên dưới, Ly bốc lên cao, Đoài tính thấm xuống, đó là xa nhau, lìa nhau. Quẻ Ly là trung nữ, quẻ Đoài là thiếu nữ, trước cùng là chị em gái trong một nhà thế rồi cuối cùng cũng đi lấy chồng, mỗi người một ngả, đó là cái tượng chia lìa. Hơn nữa hào 6 ng«i 5 ứng với hào 9 ng«i 2, tuy ứng nhau, cũng là quÎ tốt nhưng trung mà không chính nên chỉ tốt trong việc nhỏ thôi. Quẻ này là quẻ xấu nhất trong Kinh Dịch. Xét hào trên cùng là dương ở bậc cao tột cùng nên khó hoà hợp, cứng đến cùng cực thì táo bạo khôn lường, sáng đến cùng cực thì xét nét mà hay ngờ vực. Người ta tuy có họ hàng bè đảng mà phần nhiều tự mình ngờ vực sinh ra trái lìa, tuy là chỗ cốt nhục mà thường nghi kỵ lẫn nhau. Khi lên ngôi vua thì nghi ngờ các lão thần cùng sát cánh với mình thủa hàn vi nên thường xa lánh mọi người và tự gọi mình là " quả nhân " nghĩa là người cô độc. |
Tuỳ Dạng Đế giết bố cướp ngôi, sợ trả thù nên gọi tất cả các hoàng tử anh em lại và giết sạch. Đạo nhà cũng lìa tan là vì thế. Do đó nhà Tuỳ mới rơi vào tay Lý Uyên với sự ra đời của nhà Đường . Xét trong vũ trụ, trời cao, đất thấp vốn chia lìa nhau vậy mà thiên địa lại cảm nhau để vạn vật hoá sinh. Trai gái vốn ngược nhau vậy mà cảm thông nhau để sinh sinh hoá hoá. Thế là trong cái dị tìm thấy cái đồng. Trong cái khác nhau có chỗ giống nhau, hợp nhau. Một già một trẻ mà thân nhau thì gọi là bạn vong niên. Tuy nhiên ngược lại, tuy là đồng, cũng nên tìm cái dị, nghĩa là tìm cái khác người. Người quân tử hoà mà không lẫn, vẫn giữ đức độ người lãnh đạo và địa vị tôn quí của mình như gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Đó chính là đoá sen trong đầm lầy. Hoặc khi hòa với thế giới, tiếp thu văn minh nhân loại nhưng không làm mất đi bản sắc dân tộc. Nhiều người cho rằng, ăn cùng, làm cùng, sống cùng với quần chúng là phải giống quần chúng toàn bộ. Đó là sai trái hoàn toàn. Đây là thời xa cách chia lìa, không thể làm được việc lớn nhưng trong tượng quẻ thì bên trong đẹp lòng mà bên ngoài sáng sủa, hào âm ngôi 5 ứng với hào dương ngôi 2, tuy có trung mà không chính nên chỉ làm được việc nhỏ thôi. 38.5. Triệu: " thái công bất ngộ " Nghĩa: thái công chẳng gặp thời sớm. Đây là nói về Khương Tử Nha, tức Lã Vọng ngồi câu cá mà chờ thời, hơn 80 tuổi mới được làm tướng giúp Chu Võ Vương để diệt vua Trụ nhà Thương Ân mà thành lập nhà Chu. |
Chủ sự: hoà hợp với mọi người, làm việc nhỏ thì tốt. 39. THỦY SƠN KIỂN 39.1. Lý do tiếp nối: kiển là khó, kiển là hiểm trở, ở thời chia lìa chống đối thì tất gặp gian nan hiểm trở, cho nên sau quẻ Khuê là đến quÎ Kiển. 39.2. Thoán từ: kiển, lợi tây nam, bất lợi đông bắc, lợi kiến đại nhân, trinh, cát. 39.3. Dịch nghĩa: khó khăn, đi về phía tây nam thì có lợi, đi về phía đông bắc thì không lợi, gặp quí nhân giúp cho thì có lợi, bền vững giữ đạo chính thì tốt. 39.4. Giảng: theo Hậu Thiên Bát Quái, phía tây nam là phương quẻ Khôn, là miền đất đồng bằng, thể xuôi thuận, phía đông bắc là phương quẻ Cấn là rừng núi, là hiểm trở vì vậy đi về phía tây nam thì có lợi, còn đi về phía đông bắc bất lợi là vì thế. Thường cái khó ló cái khôn, khi khó khăn hay gặp quí nhân chỉ đường giúp đỡ vượt qua tai nạn nên nói là có lợi gặp được quí nhân. Theo Chu Hy thì quẻ Cấn ở bên dưới, quẻ Khảm ở bên trên, thấy chỗ hiểm mà đậu lại nên gọi là kiển, do đó phải kiếm đường dễ đi, đó là hướng tây nam thuộc quẻ Khôn mà đừng đi hướng đông bắc thuộc quẻ Cấn. Đại ý là tìm chỗ dễ mà đi và tìm người có tài đức giúp cho. Quẻ này tuy là kiển khó, nhưng hào 9 ng«i 5 và 6 ng«i 2 đều là trung chính. Trên dưới đều trung chính cả mà không vượt qua được vận kiển khó là tại tài của bề tôi, cấp dưới không đủ. Từ xưa những người thủ tiết giữ nghĩa mà tài không đủ vượt qua vận Kiển có phải ít đâu. Lý Cố, Vương Doãn nhà Hán, Chu Khải ,Vương Đạo nhà Tấn, Quang Tự nhà Thanh đều là hạng người đó. Quẻ này trên hiểm dưới đậu tức là thấy chỗ hiểm thì dừng lại, nếu phạm vào chỗ hiểm mà vẫn tiến lên thì sẽ có lỗi lầm hối hận. Tây nam là chỗ bình dị, đông bắc là chỗ hiểm trở nên trong thời kiển khó thì đừng chạy vào chỗ hiểm trở, lúc này phải giữ cho lòng chính đính, tìm được quí nhân mà vượt qua vận kiển. |
39.5. Triệu: vũ tuyết tại đồ. Nghĩa: mưa tuyết trên đường Chủ sự: khi thấy hiểm trở, gian nan thì nên dừng lại. Đây là quẻ xấu. 40. LÔI THỦY GIẢI 40.1. Lý do tiếp nối: giải có nghĩa: cởi ra, gỡ ra, giải tán, dãn tan. Theo Trình Di: quẻ Giải, tự quái nói rằng: kiển là khó, các vật không thể khó đến cùng, khó cực thì phải tan, phải giải vì vậy quẻ Giải mới nối quẻ Kiển. 40.2. Thoán từ: giải lợi tây nam, vô sở vãng, kỳ lai phục cát, hữu du vãng, túc cát. 40.3. Dịch nghĩa: giải đi về phía tây nam thì lợi, đừng đa sự, cứ khôi phục lại như cũ thì tốt. Nhưng có những điều đáng làm thì làm cho tốt. 40.4. Giảng: tượng quẻ là âm dương giao hòa với nhau. Sấm ( quẻ Chấn ) động thì mưa ( quẻ Khảm ) đổ, bao nhiêu khí u uất tan hết nên gọi là giải. Hoặc Khảm hiểm mà sinh ra tai nạn, nhờ Chấn động mà thoát hiểm nên gọi là giải. Khi hoạn nạn qua rồi, dân chúng mới lìa khỏi sự gian khổ thì phải khoan sức dân, miễn thuế cho dân. Tây nam thuộc quẻ Khôn có đức khoan dung bình dị. Đừng đa sự, cứ khôi phục trật tự cũ cũng đủ tốt rồi. Trong các cuộc cách mạng giải phóng cũng vậy, cán bộ lưu dung ( là những công chức trong chính quyền cũ được chính quyền mới sử dụng ) là một ví dụ, các công chức nguỵ quyền vẫn được sử dụng như trong các ngành bưu điện, ngân hàng, giao thông công chính v.v., nên giữ nguyên, không nên xáo động. Lời quẻ nói vậy. Tuy vậy cũng phải trừ đi các tệ nạn của xã hội cũ không tốt như cờ bạc, xã hội đen, mại dâm v.v. , sửa sang chính trị để xã hội được yên càng nhanh càng tốt. |
Đại Tượng Truyện khuyên sau khi giải nạn rồi, nên tha tội cho những kẻ lầm lỗi trước, đừng tắm máu nước Triệu như Thuỷ Hoàng Đế nhà Tần đã làm. Nếu không tha được thì nên giảm nhẹ tội cho họ. 40.5. Triệu: " ngũ quan thoát nạn " Nghĩa: như Quan Công vượt qua năm cửa ải mà thoát nạn. Chủ sự: cẩn thận trong hành động, việc xấu sẽ thoát nhưng việc tốt không cẩn thận có khi bị hỏng. 41. SƠN TRẠCH TỔN 41.1. Lý do tiếp nối: tổn là thiệt hại hoặc là giảm đi. Giải nghĩa là hoãn, hoãn thì có mất, khoan nới thì có điều sơ ý mà bị thiệt hại. Do đó quẻ Tổn nối tiếp quẻ Giải. 41.2. Thoán từ: tổn hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu du vãng. 41.3. Dịch nghĩa: giảm đi nếu có đức tin thì rất tốt, không có lỗi, có thể chính bền, có lợi trong hành động. 41.4. Giảng: hào thượng cửu lấy từ cửu tam của quẻ Thái mà thành quẻ Tổn. Đang từ quÎ Thái mà lấy bớt quẻ dưới cho quẻ trên là thành quẻ Tổn. Hoặc có thể hiểu, khoét đất ở đầm ( quẻ Đoài ) đắp lên cao thành núi ( là quẻ Cấn ). Núi càng cao thì đầm càng sâu, núi cao như vậy không vững bền mà dễ đổ. Thoán Truyện còn giảng thêm: khi dân đã nghèo mà còn bóc lột của dân cho vua quan là xấu, khoét đầm sâu thì núi đổ tức thì, nhưng hạng dân giàu thì bắt họ đóng góp thêm cho quốc gia thì tốt. Tổn dưới ích trên là quẻ Tổn có tượng đẽo gọt dân, còn tổn trên ích dưới là tượng quẻ Ích. Quẻ Tổn còn có ý nghĩa nữa là bớt đi cái thái quá cho tới mức vừa phải, lấy sự cúng tế mà nói thì có rất nhiều phiền phức nhưng phải lấy sự thành kính làm gốc, nếu bày biện nhiều quá sự |
thành kính thì đó là giả dối, giống như những ngày lễ tết của một số nhỏ quan lại, vì vậy Trình Di nói nên bỏ bớt đồ tế lễ để cho còn sự thành kính. Lòng thành chính là cái gốc. Tai hại của thiên hạ thường là do gốc yếu mà ngọn lớn quá, nóc nhà cao thì tường yếu, ao rượu rừng thịt làm hại cái gốc của sự ăn uống, dâm bạo tàn nhẫn do gốc là hình 83 phạt không đủ sức răn đe, tất cả điều này theo ý quẻ Tổn là bớt lòng tham muốn của người để khôi phục lẽ trời mà thôi. 41.5. Triệu: " tổn kỷ lợi nhân " Nghĩa: hao tổn về mình ích lợi cho người. Chủ sự: nên chịu thiệt cho mình thì tốt hơn làm người khác thiệt như câu ích kỷ hại nhân. 42. PHONG LÔI ÍCH 42.1. Lý do tiếp nối : ích là tăng lên, làm ích lợi cho nhau. Quẻ Ích tự quái nói rằng tổn mãi rồi phải ích. Thịnh suy được mất như một vòng tròn, cái mất chính là cái được. Trong thể thao cũng như cuộc đời, cái được của người này nhiều khi là do cái mất của người khác. Nhiều khi kẻ cười thì người khóc. Ông chủ hết mồ hôi thì mồ hôi ở kẻ hầu quạt mát cho ông chủ chảy ra. Đó chính là qui luật, vì vậy quẻ Ích mới nối quẻ Tổn. 42.2. Thoán từ: ích lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên 42.3. Dịch nghĩa: ích lợi tiến lên thì có lợi, qua sông lớn cũng có lợi. 42.4. Giảng: quẻ này trái với quẻ Tổn, ngoại quái là quẻ Càn bớt đi cho nội quái là quẻ |
Khôn 1 vạch dương mà biến thành quẻ Tốn ( phong ). Nội quái là Khôn nhờ xin ngoại quái 1 vạch dương mà ra quẻ Chấn ( lôi ). Quẻ Ích là bớt trên cho dưới, quẻ Tổn là bớt dưới cho trên. Thoán viết: " ích: tổn thượng ích hạ, dân nguyệt vô cương, tự thượng há hạ, kỳ đạo đại quang " nghĩa là bớt trên cho dưới thì dân đẹp lòng vô bờ, từ trên xuống dưới, đạo đức sáng ngời. Xét về tượng quẻ thì sấm nhờ gió mới làm sấm vang xa, hoặc sấm lớn thì gió dữ dội. Người trên ở địa vị cao mà giúp người bên dưới, càng làm càng có lợi. Người nghèo, người dân hay cảm ơn lâu dài, " một miếng khi đói bằng một gói khi no ". Ngày xưa, khi các vị tướng nhận được sự tin tưởng giúp đỡ của bề trên thường có câu: " xin nguyện gan góc lầy đất cũng không thể báo đáp nổi cái ơn tri ngộ này ". Hơn nữa quẻ này hào 9 ng«i 5 và hào 6 ngôi 2 đều trung chính nên càng tốt. Lấy đạo trung chính mà đối xử với nhau thì dân vui vẻ vô cùng mà đạo càng sáng sủa. Tuy vậy quẻ này tốt hay xấu còn phụ thuộc vào cách thức và thời cơ nữa, dân đói cần gạo mà cho vé đi xem đá bóng, dân cần áo rét mà lại phát bút mực là không hợp lẽ. Quẻ này đã chú ý tới vấn đề lấy dân làm gốc " dĩ dân vi bản " khi dân ủng hộ thì việc khó mấy cũng vượt qua như lội qua sông lớn vậy ( lợi thiệp đại xuyên ). Quẻ |
Ích là đạo làm lợi ích cho thiên hạ nên có thể vượt qua được hiểm nạn, đó chính là có thể lội qua sông lớn. Đạo Ích lúc bình thường vô sự thì cái ích còn nhỏ, đến lúc gian nguy hiểm nạn thì cái ích của nó mới to lớn vô cùng. Khi ta giúp một người nào đó, có thể họ trả ơn ngay, có người thì tránh mặt không dám gặp lại, không phải họ vô ơn đâu mà chỉ vì họ nghèo quá, trong thâm tâm, họ mang một tâm lý mắc nợ. Đến một lúc nào 84 đó, biết đâu khi ta sa cơ lỡ vận, chính cái người xưa đó lại là người cứu ta, hoặc có thể không phải người đó mà là người khác, đó chẳng qua chỉ là luật nhân quả mà thôi. 42.5. Triệu: " khô mộc khai hoa " Nghĩa: cây khô nở hoa Chủ sự: mọi sự tốt đẹp, tiến lên vượt qua khó khăn thì có lợi. Đây là quẻ tốt. 43. TRẠCH THIÊN QUẢI 43.1. Lý do tiếp nối: truyện của Trình Di: tự quái nói rằng: ích mãi không thôi, ắt quyết liệt. Vì vậy quẻ Quải nối tiếp quẻ Ích. Trên là đầm, dưới là trời. Tăng lên đến cùng cực thì nứt vỡ. Quải có hai nghĩa quyết liệt và nứt vỡ. 43.2. Thoán từ: quải dương vu vương đình, phu hiệu hữu lệ, cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng. 43.3. Dịch nghĩa: quyết liệt: phải tuyên cáo tội ác của nó trước sân vua, lấy lòng chí thành mà phát hiệu lệnh, có điều nguy sợ đây, phải tự răn phe mình đã, đừng chỉ dùng võ lực, được như vậy thì sự nghiệp của mình càng tiến tới và có lợi. |
43.4. Giảng: đầm trên, trời dưới, nước dâng ngập trời, làm đê ngăn nước các nơi phải nứt vỡ, mặt khác 5 hào dương từ dưới tiến lên quyết liệt trừ nốt hào âm trên cùng, vì hai lẽ đó nên đặt tên quẻ là Quải ( quyết liệt, nứt vỡ ). Quẻ này thuộc về cuối mùa xuân, sắp sang hạ, âm sắp tiêu hết. Tuy vậy vẫn phải đề phòng, phải tuyên cáo tội ác của tội nhân trước công chúng rồi mới có danh nghĩa để ra hiệu lệnh, cẩn thận hơn phải tự răn đe phe mình đoàn kết, dùng văn hơn dùng võ, cứ như vậy mà làm sẽ có lợi. So sánh quẻ Quải với quẻ Phục, quẻ Phục thì một quân tử chống lại năm tiểu nhân nhưng có một tiểu nhân ( hào 4 ) làm nội ứng nên có xu thế tiến lên. Còn quẻ Quải năm quân tử đuổi nốt một tiểu nhân nhưng có một quân tử ( hào 3 ) thân thiện với nó nên Đại Tượng Truyện khuyên phải cẩn thận, cương quyết tuyệt giao với tiểu nhân đi thì không có lỗi như hào 9 ngôi 5 là ngôi vua mà gần với hào thượng lục là tiểu nhân. ( chỗ này muốn nói hào 1 dương ứng với hào 4 âm và hào 6 âm ứng với hào 3 dương ) Trình Di nói rõ hơn là lúc tiểu nhân đương thịnh thì làm sao có thể chống nó mà phải kín đáo chờ thời, dần dần tính cách tiêu diệt nó đi. Nay tiểu nhân đã suy rồi, quân tử thịnh rồi thì nên tuyên bố tội ác của chúng rõ ràng trước triều đình cho mọi người rõ thiện ác. Phu là điều tin trong lòng tức là cái ý thành thực, hiệu là lời kêu gọi, là lời sai khiến nhiều người, dùng cái tốt của mình để thu phục, cải tạo tiểu nhân. Đem sự mạnh của các hào dương trừ nốt hào âm, tuy sức có thừa nhưng đừng ép nó quá, ép quá nó sẽ |
làm giặc. Đấng quân tử trị kẻ tiểu nhân nên dùng đức của mình mà cải hóa nó. Kinh Thư nói rằng khi vua Thuấn đánh rợ Miêu không được bèn rút quân về, dùng văn không dùng võ, chỉ trong bảy tuần mà thu phục được rợ Miêu, chính sách này sau 85 được Khổng Minh áp dụng khi 7 lần đánh, 7 lần tha Mạnh Hoạch cho tới khi tâm phục khẩu phục mới thôi ( nhân vật hư cấu trong truyện Tam quốc chí ). Quẻ này có ý răn là khi cường thịnh cũng không nên quá mà phải mềm mỏng. Đánh thắng còn bỏ ngỏ cho địch chạy, là mở lối, là cho người ta một con đường sống. Chính vì lợi ở sự đi thì quẻ Địa Lôi Phục ( 1 vạch dương ) mới thành quẻ Địa Trạch Lâm ( 2 vạch dương ), quẻ Địa Thiên Thái ( 3 vạch dương ), quẻ Lôi Thiên Đại tráng ( 4 vạch dương ), quẻ Trạch Thiên Quải ( 5 vạch dương ). Mà quẻ Quải mới thành quẻ Bát Thuần Càn ( 6 vạch dương ). Khi đặt lời cho quẻ Phục, thánh nhân nói bằng giọng bình thường. Còn khi đặt lời cho quẻ Quải lại nói bằng giọng lo sợ, phải chăng càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, khi lớn mạnh mà không theo chính đạo thì trở nên hung bạo, những phút cuối cùng, sắp tới thành công thường làm người ta lo sợ. Chiến tranh cũng vậy, thể thao cũng vậy, học tập thi cử và đường công danh cũng thế. không cẩn thận có khi phút chốc từ vinh quang trở nên tội đồ, từ quyền uy nghiêng nước trở nên thân bại danh liệt, tiếng nhơ muôn thủa, xưa đã thế và nay cũng vậy. |
43.5. Triệu: " du phóng thoát vong " Nghĩa: sự lo buồn, tệ hại được xua đuổi cho thoát đi, tiêu đi. Chủ sự: quyết liệt trong hành động, gạt bỏ mọi lầm lỗi sai trái, cẩn thận trong hành động thì tốt. 44. THIÊN PHONG CẤU 44.1. Lý do tiếp nối: cấu là gặp gỡ như chữ cấu thành, cấu tạo v.v. . Theo Tự Quái Truyện thì Quải nghĩa là quyết, đã quyết định xong thì biết được kết quả lành dữ ra sao, tất có người đến gặp nên sau quẻ Quải là tiếp đến quẻ Cấu. 44.2. Thoán từ: cấu nữ tráng, vật dụng thú nữ. 44.3. Dịch nghĩa: gặp gỡ: con gái cường tráng, đừng lấy nó. 44.4. Giảng: trời trên, gió dưới, gió đi khắp nơi đụng khắp muôn loài, đó là cái tượng gặp gỡ nên gọi là cấu. Quẻ này chủ yếu mô tả sự gặp gỡ của âm và dương, nhờ âm dương hội ngộ mà vạn vật sinh sôi nảy nở, về quẻ ta thấy 1 hào âm dưới cùng là dấu hiệu tiểu nhân xuất hiện, là lúc cường thịnh nhất bắt đầu có dấu hiệu suy đồi. Thịnh cao là có sự rạn nứt. Có thuyết nói là một người con gái chống được với năm người con trai, thì người con gái ấy mạnh lắm, hơn nữa hào âm ngôi 1 là không chính, vì vậy không nên cưới nó! Cách giải thích này nghe không ổn mà cách giải thích của Trình Di có lý hơn. Đó là một hào âm bên dưới, là khí âm mới sinh, sẽ lớn dần, là con gái đang mạnh lên. Âm lớn thì dương tiêu, con gái mạnh thì con trai yếu, cho nên lời thoán nói rằng " chớ lấy hạng con gái như thế ". Không nên hiểu là con gái mạnh khoẻ mà phải hiểu là tính tình nóng nảy nam tính. Lấy vợ phải là những người mềm mỏng, thuận hoà như đức quẻ Khôn để làm nên được đạo nhà. Quẻ Cấu là khí âm đang lớn dần, đối địch với khí dương cho nên không thể lấy. Con gái mạnh mẽ hơn con trai thì mất sự chính đính trong đạo trai gái, nó là âm thịnh, dần dần tiêu bớt khí dương, không thể cùng ăn ở với nhau lâu dài, thế thì đạo nhà hỏng rồi. |
Bây giờ nhìn quẻ Cấu tuy có 1 hào âm rất nhỏ nhưng có cơ lớn dần nên thánh nhân đặt lời để răn, giống như hào âm ngôi 1 của quẻ Khôn có câu " lý sương, kiên băng chí " nghĩa là đi trên sương thì phải biết một thời gian sau, sương sẽ kết thành khối băng cứng rắn cũng có ý như vậy. 44.5. Triệu: " tha hương ngộ hữu ". Nghĩa: phương xa gặp bạn Chủ sự: gặp gỡ, có thời cơ tốt, gặp người trên thì có lợi, kết bạn, lấy vợ thì lấy được gái trưởng. Đây là quẻ tốt. 45. TRẠCH ĐỊA TỤY 45.1. Lý do tiếp nối: tuỵ là họp, là hội họp. Quẻ Cấu là sự gặp gỡ, gặp gỡ thì phải họp, họp có nhiều hình thức, họp lớp, họp trường, cứ ba người gặp nhau thì vẫn là họp. Trong tiếng Anh, từ meet là gặp gỡ mà meeting là cuộc họp, ta nhận thấy ngôn ngữ các nước cũng giống nhau về bản chất. Do đó sau quẻ Cấu là quẻ Tuỵ tiếp nối. 45.2. Thoán từ: tuỵ hanh. Vương cách hữu miếu. 45.3. Dịch nghĩa: nhóm họp hanh thông. Vua đến nhà thái miếu. 45.4. Giảng: quẻ này đầm trên đất dưới, nước tụ lại nên có tượng tụ tập, nhóm họp nên gọi là quẻ Tuỵ. Mặt khác hào 9 ng«i 5 và hào 6 ng«i 2 đều là hào trung chính mà đối đãi nhau, ứng trì nhau nên nhóm họp được đông người thì có sự hanh thông. Khi nhóm họp, càng long trọng càng tốt, vì vậy người đến họp phải là những người có uy tín cầm đầu, nhà vua mà đến nhà thái miếu để chủ trì cuộc họp, cuộc họp tất thành công. Cuộc họp nếu không có người có uy tín cầm đầu thì cũng biết chắc là chẳng đạt được kết quả gì. Khi họp phải có tinh thần hoà thuận như quẻ Khôn, vui vẻ |
như quẻ Đoài, bỏ vũ khí bên ngoài để không nghi kỵ nhau. Đại ý quẻ muốn nói, khi muốn tổ chức một cuộc họp để lập nên một hội, một tổ chức nào đó thì phải có một người có tài đức, uy tín, danh vọng, có chủ trương đường lối, cương lĩnh chính đáng mới có thể thành công. Xưa vào thời tam quốc, Lưu Bị chỉ là người dệt chiếu bán dép, nhờ là hậu duệ dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương mà xưng Đế để cùng Tào Tháo, Tôn Quyền chia ba thiên hạ, ở Việt Nam thì Tôn Thất Thuyết dấy lên phong trào cần vương. Còn Lưu Bang không là gì cả, chỉ là một đình trưởng thôi thì bịa ra câu chuyện chém rắn trắng để ứng với điềm trời. Rắn trắng là Bạch Đế bị ông Xích Đế là Lưu Bang giết. Không thể thiếu một ngọn cờ, một lãnh tụ trong một đảng phái nào đó, cho nên trong xã hội, tôn miếu và xã tắc là rất quan trọng, tụ họp người đến tôn miếu là đỉnh cao của sự họp, nhất là sự có mặt của vua thì rõ được tầm quan trọng rồi. Bởi vì miếu là nơi hội họp tinh thần của dòng họ ông cha, tổ tiên và xã tắc. Nhưng hội họp phải chính đạo mới thành công, nếu mà hội họp không có lý do chính đáng thì ứng với hào thượng lục tức là kẻ tiểu nhân làm chủ cuộc họp, thiên hạ chẳng ai muốn đi cùng, cầu họp mà chẳng ai muốn đến, đến nỗi phải than thở một mình. 45.5. Triệu: " ngư hoá vi long " Nghĩa: cá hoá rồng Chủ sự: hanh thông, thuận hoà, vui vẻ, đây là quẻ tốt. |
46. ĐỊA PHONG THĂNG 46.1. Lý do tiếp nối: thăng là cao lên, đi lên. Nhóm họp thì đông dần, chồng chất lên ngày càng nhiều, hơn nữa quẻ Tốn là cây mà ở dưới đất ( quẻ Khôn ), thế nào cây cũng trồi dậy lên cao nên tượng quẻ là đi lên. Đó là lý do quẻ Thăng nối tiếp quẻ Tuỵ. 46.2. Thoán từ: thăng nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh cát. 46.3. Dịch nghĩa: đi lên rất hanh thông, phải dùng ( sử dụng ) người có tài đức ( đại nhân ), không có gì lo cả, đi về phương nam tốt. 46.4. Giảng: quẻ này hào 5 âm nhu và trung ứng với hào 2 dương cương cho nên rất hanh thông. Hơn nữa cây dưới đất thế nào cũng trồi lên khỏi mặt đất. Đi về phương nam còn có hàm ý là tiến lên. Quẻ này có tính thuận ( quẻ Khôn ) mà nhún ( quẻ Tốn ), nhún thuận mà đi lên ( quẻ Thăng ). Nói về đạo lên, đó là nói về sự tiến lên, thăng quan tiến chức, quan to thì lên chức công hầu, khanh tướng rồi đến tước vương, lên về đạo thì thành ông hiền, ông thánh. Tốn nhún mà Khôn thuận thì có thể lên cao. Phương nam là phương người ta ngảnh trông, đi về phương nam là đi về phía trước, tiến về phía trước là thỏa mãn sự lên và thi hành được chí hướng và hoài bão của mình 46.5. Triệu: " chi nhật cao thăng " Nghĩa: mặt trời đi ra và lên cao Chủ sự: mềm mỏng và nhún nhường đi lên thì tốt. Ra mắt quí nhân thì có lợi. Đây là quẻ tốt. |
47. TRẠCH THỦY KHỐN 47.1. Lý do tiếp nối: khốn là thời nguy khốn. Quẻ Khốn, tự quái nói rằng: lên cao mãi mà không biết dừng thì có lúc sẽ ngã đau mà khốn. Vì vậy quẻ Khốn nối tiếp quẻ Thăng. 47.2. Thoán từ: khốn hanh trinh đại nhân cát, vô cữu. Hữu ngôn bất tín. 47.3. Dịch nghĩa: quẻ Khốn hanh thông chính đính như quí nhân thì tốt, không lỗi. Dù có nói gì cũng không ai tin. 47.4. Giảng: quẻ Khảm là dương mà ở dưới, quẻ Đoài là âm mà ở trên, quân tử bị che lấp bởi tiểu nhân là khốn. Lại nữa, ở nội quái, 1 hào dương bị kẹp giữa 2 hào âm, ở ngoại quái 1 hào âm đè 2 hào dương là cái tượng người quân tử bị tiểu nhân làm khốn. Hoặc đầm trên, nước dưới, nước trong đầm thoát hết xuống dưới làm đầm khô, thành 88 ra cái tượng khốn. Trình Di có truyện nói rằng đấng quân tử là dương cương bị kẻ tiểu nhân âm nhu che lấp, đó là lúc đạo quân tử bị khốn tắc. Nhìn vào tính quẻ, quẻ Khảm là hiểm mà quẻ Đoài lại vui nên dù hiểm trở mà vẫn hanh thông, tuy vậy chỉ hành động với bậc tài trí mà giữ vững đạo chính trong cảnh khốn cùng, tài năng mới được thể hiện. Người ta vẫn nhớ cảnh Khổng Minh đấu trí với Tư Mã Ý. Khi Khổng Minh rút hết quân đi rồi, chỉ còn mình ông và một số lính già yếu đi sau thì có tin quân Nguỵ tới. Khổng Minh bèn mở toang cổng thành, cho lính già quét sân còn ông ăn mặc chỉnh tề, ngồi đánh đàn. Tư Mã Ý khi đến thấy vậy hoảng hồn và nghĩ rằng trúng kế nên cho quân rút chạy. Nếu hiểu được bản chất sự |
việc thì Khổng Minh đã bị bắt sống rồi. Điều làm Tư Mã Ý trúng kế chính là vì Khổng Minh suốt đời cẩn thận không bao giờ cẩu thả. Đó chính là bậc đại nhân vào cảnh khốn cùng mà đảo ngược thế cờ, biến nguy thành an vậy. Tuy nhiên, khi quân Ngụy rút chạy rồi thì đúng lúc ấy, dây đàn của Khổng Minh cũng đứt. Ở thời khốn, chỉ có cường quyền, không có công lý nên có nói cũng chẳng ai tin ví như có cơ quan, người tố giác cấp trên tham ô bị vu cho tội và đi tù hoặc buộc cho mắc bệnh tâm thần để vô hiệu bằng chứng tội lỗi của họ. Đó cũng chính ứng vào thời khốn. Theo Trình Di thì vào thời khốn, nếu mình xử sự có nghĩa thì đạo của mình vẫn hanh thông, thế mới là người quân tử, còn nếu thời đương khốn mà mình lại hanh thông, ấy là thân tuy hanh mà đạo thì khốn, điều này tương ứng với quẻ Tổn và quẻ Ích, khi nhân loại lầm than đói khổ mà vơ vét cho bản thân, ăn chặn tiền ủng hộ đồng bào bị lũ lụt thì dù thân chúng có phì nhiêu béo tốt mà đạo của chúng đã khốn cùng rồi. So sánh 3 quẻ về sự khó khăn: Quẻ Truân là khó khăn trong thời kỳ đầu mà ai thường cũng gặp, cái khó khăn này đôi khi lại là hạnh phúc, là niềm vui như một người vừa cưới vợ, ra ở riêng, một người ra nước ngoài làm ăn, một doanh nghiệp mới khai trương, cái khó khăn có vẻ đáng yêu và nhiều khi là kỷ niệm đẹp đầu đời. Quẻ Kiển là khó khăn thời kỳ giữa, nên chờ thời, có làm gì thì kết quả cũng không như ý. |
Quẻ Khốn là thời kỳ khó khăn tột đỉnh. Nhưng nếu giữ đức chính thì sẽ vượt qua, bởi vì hết cơn bĩ cực thì tới ngày thái lai. 47.5. Triệu: " loát hán du thê " Nghĩa: leo lên vách núi, bờ sông trơn tuột Chủ sự: vui ngoài mặt, khổ trước vui sau. 48. THỦY PHONG TỈNH 48.1. Lý do tiếp nối: tỉnh là cái giếng, là làng, là tề chỉnh. Lên cao quá (quẻ Thăng ) thì ngã ( quẻ Khốn ), ngã xuống dưới chỗ thấp, ( Tỉnh có nghĩa là cái giếng hoặc chỗ thấp hơn ), vì vậy quẻ Tỉnh mới nối tiếp quẻ Khốn. 48.2. Thoán từ: tỉnh cải ấp bất cải tỉnh, vô đắc vô táng. Vãng lai tỉnh tỉnh. 89 48.3. Dịch nghĩa: cái giếng đổi ấp chứ không đổi giếng, nước giếng không kiệt cũng không thêm. Người qua lại đều múc nước giếng mà dùng. 48.4. Giảng: theo tượng quẻ, quẻ trên là Khảm, quẻ dưới là Tốn, đó là trên nước dưới gỗ là chỉ về cái gầu múc nước, có ý thòng cái gầu bằng gỗ xuống giếng để múc nước lên. Nhìn vào tượng quẻ: hào đầu mềm là mạch suối , hào 2 và hào 3 là đá suối, hào 4 mềm là chỗ rỗng trong giếng, hào 5 cứng như nắp giếng, hào trên cùng là miệng giếng. Khảm là thứ nước do số 1 của trời sinh ra, mùa đông mà nước ấm thì chỉ có cái giếng mà thôi, tới khi chảy ra sông đầm, gió mưa sương móc đẽo gọt làm nó mất đi bản tính, không còn sự ấm áp của khí dương như trước nữa. Lại xem nước trong đáy giếng thì giống như trong thân thể người ta là tinh huyết, nước trong sông ngòi ở người ta là nước mắt, nước mũi. Nước mắt nước mũi sau khi làm hết công dụng của nó là rửa sạch mắt mũi rồi thì ra đi không trở lại cũng giống như nước sạch ra khỏi nguồn, sau khi phát huy hết công dụng rồi thì chảy đi xa. |
Đại Tượng Truyện nói : nước Khảm trên cây Tốn tức là nhựa trên ngọn cây, giống như mạch nước trong giếng chảy ra nên gọi là tỉnh ( tương đương với huyệt tỉnh trong ngũ du huyệt ). Trong các loài cây cỏ, tân dịch đều đi lên thẳng đến ngọn cây đó, nghĩa là trên cây có nước ( thuỷ phong tỉnh ). Bản chất của giếng là cung cấp nước cho mọi người một cách vô tâm, hào hiệp, ai lấy cũng được, vì thế làng ấp còn có thể thay đổi chứ cái giếng thì không đổi, nước vơi lại đầy, không thêm không bớt, trừ khi có sự thay đổi của trời đất như dời non lấp biển mà thôi.Vì vậy người quân tử hãy coi tượng cái giếng mà nuôi dân và chỉ cho dân cách giúp nhau trong công việc. Ta thấy các quẻ tốt thường hào trên cùng không tốt như quẻ Càn, quẻ Thái, các quẻ xấu như Bĩ và Khốn thì hào trên cùng thường tốt vì qui luật tốt quá hoá xấu, bĩ cực thái lai, càng tin tưởng thì khi phản bội càng nguy hiểm. Mặt khác, hào thượng quẻ Càn có lời thoán là: kháng long hữu hối, nghĩa là rồng cực quá thì ăn năn, còn hào thượng quẻ Thái là: thành phục vu hoàng nghĩa là thành trì được xây lên bằng đất thì nay đất thành lại sụt đổ trở về hào rãnh là nơi xưa kia nó được đào lên để xây thành trì. Hào thượng này của quẻ Thái là ngôi chót cùng mà lại do kẻ tiểu nhân ngồi thì sắp sửa bĩ rồi. Về hào thượng quẻ Bĩ, lời thoán viết rằng: khuynh bĩ, tiên bĩ, hậu bĩ, nghĩa là nghiêng bĩ, trước bĩ, sau bĩ, bĩ cực sau mừng . |
Trình Di cho rằng hào này là chót cuộc bĩ mà bĩ cực thì thái đến nơi rồi, trước cực là bĩ, sau nghiêng là mừng. Cũng như vậy, hào trên quẻ Khốn là khốn đến cùng cực thì phải thay đổi, bởi vì hết khổ là vui vốn lẽ đời. Riêng quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh thì hào trên cùng không xấu vì nó nói lên là phút cuối cùng đã xong là nước múc lên rồi hoặc thức ăn đã nấu chín xong tức là lúc đã thành công nên có kết quả tốt. Lý Long Sơn cho rằng đời xưa dựng ấp, đóng đô, phải tìm chỗ có sông có suối, chỗ ấy có tiện không rồi sau mới ở. Lại nói rằng khảm là thứ nước do số một của trời sinh ra, ở các quẻ khác, nó đều không giữ đượcmà trôi đi mất, chỉ có ở quẻ Tỉnh mới giữ được tính trinh nguyên của nước mà thôi. Người ta nhận thấy tất cả nước trong gầm trời, mùa đông mà giữ được ấm áp chỉ có nước giếng. Thường thì hào chót quẻ tốt là xấu, hào chót quẻ xấu lại tốt, riêng quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh lại tốt vì tạo nên sự ăn uống cho muôn vật, hào chót quẻ Tỉnh nói: tỉnh thu, hữu phu, nguyên cát nghĩa 90 là: giếng thu, có đức tin, rất tốt. Thể theo công dụng của giếng, luôn luôn ra ơn với mọi người cho tới cùng đạt tới thành quả chỉ có cái vạc và cái giếng mà thôi. 48.5. Triệu: " khô tỉnh sinh tuyền " Nghĩa: giếng khô sinh dòng nước Chủ sự: nuôi dưỡng mãi mãi không hết, mất mát rồi lại có. 49. TRẠCH HỎA CÁCH 49.1. Lý do tiếp nối: cách là cải cách, là thay cũ đổi mới. Giếng mà chứa mãi không đổi sẽ dơ, sẽ hỏng, đổi mới liên tục thì suối trong sạch cho nên sau quẻ Tỉnh thì đến quẻ Cách. |
49.2. Thoán từ: cách dĩ nhật nãi phu, nguyên hanh lợi trinh. Hối vong 49.3. Dịch nghĩa: thay đổi phải lâu ngày ( dĩ nhật ) người ta mới tin được ( nãi phu ), phải rất hanh thông, hợp chính đạo người ta mới phục. Được vậy thì mới không hối hận. 49.4. Giảng: theo tượng thì đầm trên lửa dưới, lửa đốt thì đầm cạn, nước xối thì lửa tắt, hai quẻ này xung đột nhau, tạo nên sự thay đổi cho nên gọi là quẻ Cách. Hoặc quẻ Ly là trung nữ thường nghĩ về chồng, quẻ Đoài là con gái út thường nghĩ về cha mẹ nên có sự khác nhau mà tạo nên thay đổi. Cách mạng đem lại nhiều điều mới làm thay đổi thói quen, lối suy nghĩ và tập quán nên mới đầu người ta không tin cho là đa sự, nên phải kiên trì thời gian lâu, khi có kết quả người ta mới tin. Hơn nữa, muốn có kết quả thì chính sách phải hợp với lòng người., hợp với lẽ phải và đạo lý, có vậy mới đắc nhân tâm. Sáng suốt như quẻ Ly, hoà vui như quẻ Đoài, có đủ tính đó thì không phải ăn năn hối hận ( hối vong ). Vua Thành Thang diệt Vua Kiệt vô đạo, Võ Vương diệt Trụ lập nên nhà Thương và nhà Chu, hai cuộc cách mạng đó hợp với lòng người, ứng với đạo trời nên đã thành công. Trời đất chừng mực mà làm nên 4 mùa, đó là sự thay đổi, cái gì lâu cũng nhàm chán, phải thay đổi đi thì mới tạo được sự hứng khởi để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. Có hỏng nát thì mới phải đổi mà thay đổi để làm cho nó hanh thông lên. Tuy nhiên chỉ nên thay đổi những cái cũ, dơ hỏng chứ không phải ý là thay đổi tất cả. Ngay cả khi thừa kế một cái gì đó người ta cũng thừa kế có chọn lọc, tiếp thu và duy trì cái tiến bộ và loại bỏ cái lạc hậu. Có những vấn đề hàng nghìn năm rồi mà vẫn còn mới và có cái ngày hôm qua đã là cũ rồi. Tuy vậy không phải cuộc cách mạng nào cũng đem lại kết quả, có hỏng nát thì mới phải thay đổi nhưng đổi thay mà không có ích lắm thì đáng ăn năn huống chi đổi thay mà còn có hại, chẳng hạn như cải cách giáo dục, chữ |
viết, phân ban, thi cử. Chỉ biết rằng tốn bao nhiêu của cải của nhân dân mà chất lượng giáo dục hầu như không được cải thiện chứ chưa nói đến xuống cấp. Vì vậy cổ nhân mới coi cải cách là việc vô cùng hệ trọng. Ngoài ra Trịnh Đông Hưng cho quẻ Cách có tượng cái lò, hào đầu là đáy lò, hào 2 là mắt lò, hào 3, hào 4, hào 5 là lưng lò,hào trên là miệng lò. Cái lò mới làm nên cuộc cải cách. Trịnh Đông Hưng là người chuyên lấy 91 hình tượng như bảo quẻ Đỉnh là cái vạc, quẻ Cách là cái lò, bảo quẻ Tiểu Quá là con chim bay…. 49.5. Triệu: " hạn miêu đắc vũ " Nghĩa: cây lúa non gặp hạn mà lại được cơn mưa xuống. Chủ sự: hoạn nạn đã qua, việc đã thay đổi, hanh thông. 50. HỎA PHONG ĐỈNH 50.1. Lý do tiếp nối: đỉnh là cái vạc. Cách là cách mạng, là sự thay đổi, thế mà làm thay đổi các vật không gì bằng cái vạc, nó biến thức ăn sống ra chín, biến rắn thành mềm. Do vậy quẻ Đỉnh mới nối quẻ Cách. 50.2. Thoán từ: đỉnh nguyên cát, hanh 50.3. Dịch nghĩa: cái vạc ( nấu ăn ) rất tốt, hanh thông. 50.4. Giảng: nói về tượng thì hào âm dưới như hai chân cắm xuống , ba hào dương tạo nên lòng vạc, nơi đựng chứa đồ vật để nấu ăn, hào âm thứ năm là tai vạc, còn hào thượng cửu là quai vạc, nói về hai thể trên dưới thì bầu rỗng ở trên, phía dưới có chân cũng là tượng cái vạc. Về ý nghĩa thì lấy gỗ cây cho vào lửa mà ninh nấu cũng là công dụng của cái vạc. Nhìn quẻ ta thấy bên dưới là quẻ Tốn nên nhún thuận, bên trên là quẻ |
Ly có hình tượng rỗng ở giữa, ly là mắt mà mắt sáng nghĩa là tinh mắt, hào năm là tai ( tai vạc ), suốt là nói về cái tai có tượng quẻ Khảm là thính tai. Vậy trên thì sáng, dưới thì suốt mà lại nhún thuận, đó là tượng lửa ly đốt nhừ các vật trong vạc. Quẻ Tỉnh là nói về việc uống, còn quẻ Đỉnh là nói về việc ăn. Cổ nhân trong việc nấu nướng trước hết là để cúng trời, sau để nuôi người hiền tài. Tế trời thì cốt ở thành tâm, nuôi người hiền tài thì cốt ở trọng hậu. Quẻ Đỉnh có nhiều đức tính tốt, ngoại quái Ly thông minh, nội quái Tốn vui thuận, hào năm âm nhu đối đãi với hào hai dương cương, hai hào này ứng viện nhau, tuy không chính nhưng mà trung thì có việc gì mà không làm được. Quẻ này cũng như quẻ Tỉnh, hào trên cùng cũng tốt cho tới lúc thành công. Theo Chu Hy thì nghĩa lời hào thượng cửu quẻ Đỉnh là: đỉnh quai ngọc, cả tốt, không gì không lợi ( đỉnh ngọc huyền, đại cát, vô bất lợi ), ý nói hào này là hào dương mà ở ngôi âm, cứng mà lại biết ôn hòa, cứng mềm vừa phải, động tĩnh không thái quá thì cả tốt, không gì không lợi 50.5. Triệu: " ngư ông đắc lợi " Nghĩa: ông đánh cá được lợi ở giữa cò và trai. Chủ sự: no đủ bền lâu, quẻ này tốt. 51. BÁT THUẦN CHẤN 51.1. Lý do tiếp nối: chấn là sấm, là con trai trưởng, tính động. Ngày xưa, đồ đạc trong gia đình thì cái vạc, cái nồi là thứ quí giá trong nhà. Đến tuổi trưởng thành, con trai cả |
phải thay cha quản lý gia đình. Vì vậy chủ đồ đạc trong gia đình thì không ai bằng con trai lớn. Do đó quẻ Chấn tiếp nối sau quẻ Đỉnh là thế. Quẻ Chấn là động, không phải là động bình thường mà còn có tính phấn chấn, kinh sợ, oai phong. 51.2. Thoán từ: chấn hanh, chấn lai hích hích, tiếu ngôn ách ách. Chấn kinh bách lý, bất táng chủy sưởng. 51.3. Dịch nghĩa: sấm động thì hanh thông, lúc sấm nổ ầm ầm mà biết nơm nớp lo sợ thì sau sẽ cười nói ha hả. Sấm vang xa trăm dặm mà không rơi mất muỗng và rượu nghệ. 51.4. Giảng: sấm phát động thì vạn vật nảy nở, cho nên bảo là hanh thông. Trong ca dao tục ngữ có câu đại ý " lúa chiêm lấp ló đầu bờ, nghe ba tiếng sấm mở cờ mà lên ". Lúc ra oai như sấm nổ mà biết lo sợ, biết tự sửa chữa lỗi lầm, giữ gìn sửa mình thì không bị tai họa mà sau có được vui vẻ. Do đó, dù sấm nổ vang động tới trăm dặm mà không hoảng hốt đến mức làm rơi mất đồ tế lễ thần linh như muỗng múc rượu và rượu nghệ là thứ rượu được chế từ lúa mạch và nghệ . Thế là tốt, còn ý về việc tế thần là muốn nói tới việc gìn giữ được tôn miếu, xã tắc. Con người ta chỉ có thực sự hết lòng thành kính khi tế lễ, mà khi đã thực lòng thành kính thì có thể cảm thông tới tận trời xanh, tuy oai sấm như thế mà không bị giật mình kinh hãi, chứ đâu như có kẻ có tật giật mình, mới chỉ nghe tiếng sấm mà đã đánh rơi cả đồ tế lễ. Lời chiêm quẻ này là biết lo sợ thì đem được phúc đến mà chẳng bị mất những thứ hệ trọng mà mình sở hữu |
51.5. Triệu: " thiên hạ dương danh " Nghĩa: nổi danh với thiên hạ Chủ sự: báo điều tốt tới, giữ đạo chính, bớt lo sợ th× phúc sẽ tới. Đây là quẻ tốt. 52. BÁT THUẦN CẤN 52.1. Lý do tiếp nối: cấn là dừng lại, ngăn lại, đỗ lại, đậu lại. Quẻ Cấn, bản thân tự quái đã cho thấy rõ: chấn là động, các vật không thể động mãi được, khóc mãi thì nín, cười nói râm ran rồi đến lúc ngồi im, động mãi rồi tĩnh, vì vậy quẻ Cấn mới nối quẻ Chấn. 52.2. Thoán từ: cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân, vô cữu. 52.3. Dịch nghĩa: ngừng ở cái lưng ( tĩnh như cái lưng ), không thấy được thân mình, như đi ở trước sân mà không thấy có người, không lỗi. 52.4. Giảng: trong thân thể người ta, cổ, tay, chân thường động, chỉ có cái lưng là tĩnh, đó là nghĩa " cấn kỳ bối ", bối là lưng, như hậu bối là nhọt sau lưng hay người lớp sau, tiền bối là người đi trước. Cấn là dừng lại, nó chính là quẻ Khôn lấy 1 hào dương quẻ Càn mà thành, 2 âm tĩnh kéo 1 dương động mà dừng lại. Hễ tĩnh thì không bị tình dục chi phối, tĩnh thì không nghĩ đến mình " bất hoạch kỳ thân " mà cũng quên cả người khác đi, lòng thấy nhẹ nhàng lâng lâng như đi ở trước sân đình là nơi đông người mà chẳng thấy có người, hầu như không phân biệt được mình với người như vậy thì không 93 có lỗi. Có nhiều người, sau một thời gian nổi tiếng thì lặng im, phải chăng lúc ấy là khoảng lặng sau cơn mưa, để có thời gian tìm lại chính mình. Có nhiều người yêu nhau, khi có khúc mắc, họ tạm xa nhau để có thời gian suy nghĩ mà tìm ra tình cảm thật của mình. Điều cơ bản nhất là phải ngừng đúng lúc, ngừng ở chỗ đáng ngừng như |
ông già Vialy trong tác phẩm Không Gia Đình, khi giọng ca bị hỏng thì thà đi làm ca sĩ hát rong, thay đổi tên họ, chỉ để duy trì cái hào quang năm xưa, hoặc đá bóng tới đỉnh cao phong độ thì nên chuyển sang nghề khác. Những vĩ nhân khác cũng thế, ai chỉ có tài khai sơn phá thạch, khi hết chiến tranh thì nên đi phá núi mở đường mà nhường chỗ cho người khác có trí tuệ và khả năng làm kinh tế xây dựng, đõng tham quyền cố vị mà làm hỏng xã hội và nêu danh xấu cho người đời đàm tiếu. Đó phải chăng là thông điệp quẻ Cấn mang đến. Đại Tượng Truyện khuyên người quân tử nên ngừng khi làm trọn bổn phận của mình và biết ngừng lại ở chỗ đáng ngừng, đó là đã hiểu được nhân ngã chỉ là nhất thể, không phân biệt mình với người, cũng như nội quái và ngoại quái chỉ là quẻ Cấn mà thôi. Theo Trình Di, người ta sở dĩ không yên mà dừng lại được là vì bị động về sự ham muốn. Sự ham muốn thường ở phía trước, nơi mà mắt ta nhìn thấy nên khó lòng mà dừng lại, đậu lại được, cho nên cái đạo dừng đậu thì nên đậu ở cái lưng. Những cái trông thấy thường ở phía trước nhưng mà cái lưng thì chẳng thấy cái gì nên dừng lại, đậu lại ở cái lưng là tốt nhất. Dừng đỗ ở chỗ không trông thấy thì không có sự ham muốn làm loạn lòng mình thì sự dừng lại, đỗ lại đó mới yên. Nếu được như vậy thì giữ được cho lòng yên tĩnh, không trông thấy, không giao tiếp với mọi vật bên ngoài. Vật ngoài không tiếp xúc, sự ham muốn bên trong không sinh ra, như thế mới đúng đạo đậu ( dừng lại ) và không có lỗi, chính vì vậy nên muốn thành đạo thì lên núi mà tu cho thành chính quả chứ tu ở thành phố thì bao giờ mới đắc đạo được, “ phải trái rụng theo hoa buổi sớm, lợi danh lạnh với trận mưa đêm, hoa tàn mưa tạnh non im vắng, xuân cỗi còn nguyên một tiếng chim ”. |
52.5. Triệu: " sơn mạch trùng tầng " Nghĩa: mạch núi tầng nọ lấp tầng kia. Chủ sự: bị ngăn lại, nên ngưng lại nếu như việc đáng ngưng mà chờ thời. Có việc to lớn trước mặt. 53. PHONG SƠN TIỆM 53.1. Lý do tiếp nối: ngừng rồi không thể ngừng mãi mà phải tiến lên, tiến lên không thể nhanh ngay mà tiến dần dần. Tiệm là tiến dần dần, do đó quẻ Tiệm nối theo quẻ Cấn. 53.2. Thoán từ: tiệm, nữ qui cát, lợi trinh. 53.3. Dịch nghĩa: tiến dần dần như con gái về nhà chồng, tốt. Giữ vững đạo chính thì có lợi. 53.4. Giảng: quẻ này là trên núi có cây, có cái tượng ở bên dưới thấp dần dần lên cao nên đặt tên là Tiệm. Ngoại quái Tốn là thuận, nội quái Cấn có nghĩa là ngăn lại, ngăn 94 ở dưới mà thuận ở trên thì chỉ có thể tiến dần dần giống như việc gả con gái phải thận trọng, điều tra tung tích rõ ràng, không nên hấp tấp. Có nhiều trường hợp gả con cho người nước ngoài, cứ tưởng rằng con sướng mà đâu có biết sự ngăn cách về ngôn ngữ, trình độ, phong tục mà biến con mình thành người hầu hạ không lương đầy tủi nhục. Theo Chu Hy thì quẻ Tiệm là tiến dần dần, nó là quẻ đậu dưới, nhún trên nghĩa là không tiến gấp vội, quẻ này có tượng con gái về nhà chồng thì tốt. Xét từ hào hai tới hào năm từ dưới tiến lên, hào nào cũng đắc chính. Hào âm vị trí hai, hào dương vị trí ba, hào âm vị trí bốn, hào dương vị trí năm, nhất là hào năm dương cương trung chính ứng với hào hai âm nhu trung chính nên thoán từ khuyên nên giữ đạo chính như các hào đó đều tốt. Tiến dần dần, không nóng nảy, bình tĩnh như nội quái Cấn và hoà thuận như ngoại quái Tốn thì không vấp ngã, khốn cùng. Đại Tượng Truyện khuyên: " quân tử di cư hiền đức, thiện tục " là có ý nói người quân tử theo tượng quẻ này mà tu thân tiến dần thành người hiền, rồi tới bậc thánh để cải thiện cho dân. So sánh Sơn Phong Cổ và Phong Sơn Tiệm thì hào thượng quẻ Tiệm nhẹ nhàng phơi phới cất cánh bay lên, hai hào dương giống như đôi chim sếu lìa hẳn chỗ đỗ mà bay lên chốn mây không, ở người ta thì trở nên siêu việt ra ngoài việc thường tình còn hào thượng quẻ Cổ như chìm đắm trong công việc, trong đổ nát. Hào thượng này là hào dương mà không có ứng viện của hào 3 ( nếu hào 3 là hào âm thì tốt hơn ), giống như người tài không gặp thời vì không có người giúp đỡ tiến cử. |
53.5. Triệu: " hồng nhạn cao phi " Nghĩa: chim hồng, chim nhạn bay cao. Chủ sự: dần dần mà tiến lên thì tốt như chim hồng, chim nhạn bay cao dần lên. 54. LÔI TRẠCH QUI MUỘI 54.1. Lý do tiếp nối: qui muội là con gái về nhà chồng, chữ muội là để gọi những người thiếu nữ. Tiệm là tiến lên, đã tiến lên thì phải tới một nơi cụ thể nào đó, nơi đó chính là nơi về. Do đó quẻ Qui muội nối tiếp quẻ Tiệm. 54.2. Thoán từ: qui muội, chinh hung, vô du lợi. 54.3. Dịch nghĩa: em gái nhỏ về nhà chồng, tiến lên thì xấu, không có lợi. 54.4. Giảng: quẻ Đoài là thiếu nữ, quẻ Chấn là trưởng nam, quẻ Chấn tính động, quẻ Đoài tính vui vẻ, thuận theo, con gái nhỏ theo về với con trai lớn nên gọi là qui muội. Con trai động mà con gái đẹp lòng, lấy sự đẹp lòng mà động đều có nghĩa là con trai làm đẹp lòng gái mà gái theo trai. Sấm động làm đầm động là cái tượng theo, không gì dễ động hơn là nước, chỉ làn gió thổi mà nước đã lao xao, huống chi là sấm động. Chấn làm cho đầm động nghĩa là con trai lớn làm con gái nhỏ động lòng và chính sự vui vẻ, thuận hoà của con gái nhỏ làm đẹp lòng con trai lớn nên về với nhau. Trai gái phối hợp với nhau là thuận theo trời đất, theo luật hàm hằng. Vậy mà thoán từ bảo là xấu là lẽ làm sao ? Vì rằng cặp trai gái này không cân xứng, trai lớn quá, gái nhỏ quá, hơn nữa động cơ của họ không trong sáng, chỉ vì vui mà theo trai, hoặc có thể hiểu gái 95 |
cầu trai, đẹp lòng trai, đem sự trẻ trung mà quyến rũ, như vậy là bất chính. Hơn nữa trong quẻ, bốn hào ở giữa không có hào nào ở vị trí chính đáng. Hào ba và hào năm là âm mà lại cưỡi lên dương là hào bốn và hào hai đó là cái tượng vợ ăn hiếp chồng. Ngay từ buổi đầu đã không có sự phối hợp chính đáng thì sau không có gì lợi cả. Thường trai lớn gặp gái lớn thì đứng đắn, trai trẻ gặp gái trẻ thì thân thiết là hợp lẽ hơn. Là đạo vợ chồng thì hợp lẽ trời đất, quẻ Hằng hợp lẽ vì trai lớn gái lớn thì đứng đắn, trai tôn gái ty, phu xướng phụ tuỳ. Còn quẻ Qui Muội, không theo đạo thường mà theo tình riêng, thấy đẹp lòng là động thì vợ chồng nhàm loạn, gái quen đẹp lòng mà quên nết thuận, trai vướng lòng dục mà quên nết cương, đó là không tốt. Theo Chu Hy: trai gái giao nhau, vốn đều là tốt, chỉ như quẻ này thì không được chính đáng mà thôi. 54.5. Triệu: " duyên mộc cầu ngư " Nghĩa: lên cây mà kiếm cá Chủ sự: cẩn thận trong hành động. 55. LÔI HỎA PHONG 55.1. Lý do tiếp nối: phong nghĩa là thịnh cả, giàu có, lớn lao, phong lưu. Qui là về, là đạt được mục đích, có kết quả, mà đạt được mục đích thì lớn lên, thịnh lớn cho nên sau quẻ Qui Muội thì tới quẻ Phong, nó là quẻ Chấn trên, Ly dưới, Chấn là động, là năng động, Ly là sáng suốt thông minh. Sáng suốt thông minh mà lại năng động là con đường dẫn đến thịnh cả giàu có. |
55.2. Thoán từ: phong hanh, vương cách chi, vật ưu, nghi nhật trung. 55.3. Dịch nghĩa: thịnh lớn thì hanh thông, bậc vương giả tới được, đừng lo, nên giữ đạo trung như mặt trời đứng giữa trời. 55.4. Giảng: phong là thịnh lớn, nghĩa nó vẫn hanh thông. Cao như ngôi trời, giàu đến như năm châu bốn bể, nhiều đến như các loài chỉ có các bậc vương giả mà thôi. Quẻ Ly là sáng suốt, tính quẻ Chấn là động. Sáng suốt hành động ắt làm nên nghiệp lớn. Chỉ có các bậc vương giả có quyền, có vị trí mới làm tới cùng được. Khi đã thịnh lớn thì người sáng suốt phải biết rằng có mầm họa suy vi thì phải thường xuyên lo lắng, phải giữ đạo trung như mặt trời đứng giữa trời mới tốt. Ở quẻ này tên là thịnh lớn, rất tốt mà không có hào nào thật tốt, hào hai và năm không ứng nhau như muốn nhắc nhở chúng ta ở vào thời thịnh lớn, có phúc thì cũng có sẵn mầm hoạ. Khi xưa nghèo thì thương nhau, khi giàu có thì xa cách, hạnh phúc nhiều khi tan vỡ, bạn bè xa lánh, người tốt ít dần. Càng giàu có, càng địa vị cao thì càng cô độc, cho nên lời khuyên của quẻ này là phải biết đồng đức, đồng tâm, sửa mình, làm điều thiện mới mong tránh được tai họa. Nhìn vào quẻ ta thấy hào hai trung chính sáng suốt mà phải thờ hào năm là ông vua nhu nhược, những ông vua như vậy chẳng bao giờ hạ mình cầu người tài cả, thế mà người tài tìm đến lại hay bị ghét bỏ. Trong hoàn cảnh này nếu người quân tử |
thờ chúa mà không được lòng họ thì phải đem hết lòng chí thành của mình để cảm hóa họ. Nếu lòng chí thành của mình lay động được họ thì dù họ có tối tăm cũng mở mang 96 được, dù họ có nhu nhược cũng có thể hiểu được, dù họ bất chính cũng có thể chính đính được. Người đời xưa thờ hạng vua hèn chúa tối mà vẫn thực hành được đạo của mình là do cái ý thành thực thấu lên mà cảm hóa được bề trên đó thôi. Chúng ta còn nhớ cuốn truyện nổi tiếng Nghìn Một Đêm Lẻ, đứng trước nhà vua bạo tàn, vì bị vợ phản bội một lần mà không còn tin phụ nữ nữa, cứ sau một đêm ân ái với người con gái trinh nguyên thì sáng hôm sau hạ lệnh chém đầu cô gái đó. Để cứu mọi người, nàng Sê hê ra rát đã xin vào chung sống với vua, bằng tài năng, đức độ và tấm lòng kiên trinh, trung thực, sau nghìn lẻ một đêm, nàng đã cảm hóa nhà vua, thay đổi được định kiến của nhà vua về phụ nữ và đã cứu sống được sinh mạng của nhiều thiếu nữ. 55.5. Triệu: " cổ kính trùng minh " Nghĩa: gương cũ lại sáng hơn xưa. Chủ sự: nên sáng suốt mà hành động. Khi thịnh phải lo lúc suy. 56. HỎA SƠN LỮ 56.1. Lý do tiếp nối: lữ là bỏ nhà mà đi tha phương. Lữ là ở trọ, quẻ Phong là thịnh lớn, thịnh lớn tới cùng thì phải suy đến nỗi không còn chỗ dung thân, phải đi ở nhờ. Trên thực tế nhiều người đã từng có rất nhiều nhà cửa mà mất hết, đến như người đứng đầu nhà nước như vua, khi thua trận còn phải trốn tránh, có nước mà chẳng dám về, có nhà mà chẳng dám ở. Đó chẳng phải lâm vào cảnh lữ hay sao và đây chính là lý do quẻ |
Lữ nối tiếp quẻ Phong. 56.2. Thoán từ: lữ tiểu hanh, lữ trinh cát. 56.3. Dịch nghĩa: ở trọ thì hơi hanh th«ng, ở trọ mà giữ đạo chính thì tốt. 56.4. Giảng: nơi ở của lửa là mặt trời chứ không phải trên núi, nếu lửa hắt từ dưới lên thì đẹp như Sơn Hoả Bí, còn lửa ở đây là lửa cháy rừng nên chỉ tồn tại một thời gian ngắn thôi. Vì vậy tượng lửa Ly trên núi Cấn để chỉ cái cảnh tạm bợ, xa nhà đi ở trọ quê người. Cảnh đi trọ là bất đắc dĩ nên chỉ nói là hơi hanh thông mà thôi, bởi vì chưa an cư thì đâu lạc nghiệp được. Ở vào thời Lữ, nếu biết giữ đức trung thuận như hào năm, yên lặng như nội quái Cấn, sáng suốt như ngoại quái Ly. Cái đạo đi ở nhờ là phải mềm mỏng, đừng làm cao để tránh bị ghét bỏ, tuy vậy cũng nên yên lặng và sáng suốt mà giữ tư cách để không ai khinh mình được. Nhìn vào tượng quẻ thì lửa ly bên trên, núi cấn bên dưới, núi thì đậu lại không dời, lửa thì đi không ở thì đó là hình tượng bỏ đi không ở lại, ứng vào hoàn cảnh của những người vì nhiều lý do mà phải xa nhà đi ở trọ. Có lẽ sướng nhất trong cảnh lữ là các tua du lịch lữ hành trong nước, quốc tế sau đó là những người ở trọ để học hành, còn lại đa số là vì cuộc sống, vì mưu sinh. Đại Tượng Truyện khuyên khi áp dụng vào luật pháp thì tuy thận trọng nhưng cũng phải sáng suốt, đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục mà không xử đoán gì. Tạp Truyện nói rằng " lữ là ít người thân yêu, là đường cùng khốn của người ta vậy ". Toàn bộ 6 hào không có chữ cát, chữ hanh nào cả. Lỡ sinh hồi đen đủi, sống nhờ nơi đất khách quê người, may khỏi tai họa là hạnh phúc lắm rồi, chẳng như trận bão Chan Chu 97 |
vừa qua, có những người sống trong thời Lữ, gặp họa nơi đất khách quê người, khi bị tử nạn cũng không có người nhận xác mà chỉ được sự đùm bọc của cộng đồng mà thôi. Vậy vào thời lữ, chỉ nên mang chặt hai chữ nhu trung làm bùa hộ mệnh. 56.5. Triệu: " tục điêu, phân sào " Nghĩa: nối lông da con chim, kéo chia các mối tơ. Chủ sự: đi cùng đám đông thì tốt, quẻ này vất vả nhưng biÕt nhu trung thì tốt. 57. BÁT THUẦN TỐN 57.1. Lý do tiếp nối: tốn là gió, là thuận hoà, là nhập vào, là nhún nhường, là cây cỏ, là gỗ. Lâm vào cảnh đi ở nhờ quê người, xảy nhà ra thất nghiệp thì thái độ nên thuận lòng người, nên nhún nhường, do đó sau quẻ Lữ thì tiếp đến quẻ Tốn. 57.2. Thoán từ: tốn tiểu hanh, lợi hữu du vãng, lợi kiến đại nhân. 57.3. Dịch nghĩa: thuận hoà thì hơi được hanh thông, hành động có lợi, tìm được người tài đức giúp mà tin theo thì có lợi. 57.4. Giảng: quẻ này có một hào âm dưới hai hào dương là âm phục tùng dương. Tiểu nhân phục tùng quân tử là tốt nhưng phải hành động chứ không thể ngồi yên chờ đợi, phải chọn người có tài đức làm quân sư, cố vấn cho mới tốt. Hào 9 ngôi 5 trung chính, hào 1 và 4 là tiểu nhân phải theo hào đó. Trong quẻ này, tính quẻ Tốn là nhún thuận. Lữ là kẻ đi đường, họ hàng ít, nếu không nhún thuận thì kiếm đâu được chỗ dung thân 57.5. Triệu: cô chu đắc thuỷ Nghĩa: thuyền đơn độc gặp nước xuôi. |
Chủ sự: hanh thông ít, mềm thuận mà tiến lên thì đi đâu cũng lọt. Thời vận tốt đã tới. 58. BÁT THUẦN ĐOÀI 58.1. Lý do tiếp nối: Đoài là đầm, là sông, suối, là hoà, vui vẻ. Tốn là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng nhau thì mới ưa nhau và vui vẻ với nhau. Cho nên quẻ Đoài nối theo sau quẻ Tốn. 58.2. Thoán từ: đoài hanh, lợi trinh 58.3. Dịch nghĩa: vui vẻ thì hanh thông. Hợp với đạo chính thì lợi. 58.4. Giảng: đoài là đầm mà cũng là thiếu nữ, nước đầm làm cho cây cỏ tốt tươi, thiếu nữ làm thiếu nam vui thích, vui thích thì hanh thông miễn là hợp đạo chính đáng. Quẻ Đoài có hai hào dương bên dưới và một hào âm bên trên nghĩa là trong lòng phải thành thực mà ngoài mặt thì nhu hoà. Vậy là hợp đạo chính thì thuận với trời đất. Thoán Truyện giảng rộng ra: vui vẻ mà đi trước dân thì dân quên khó nhọc, vui vẻ mà xông vào chốn hiểm nguy thì dân quên cái chết mà cũng xông vào theo. Khi được biếu một bình rượu quí, Nguyễn Trãi cho đổ xuống sông và cho mọi người múc một 98 chén nước sông để uống, vậy sao mà nước sông ngon thế ( hòa nước sông chén rượu ngọt ngào ). Khi mà được lòng quân sĩ vui vẻ đi theo thì thắng lợi là biết trước rồi. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử cho rằng quẻ này hai hào âm không át được bốn hào dương tựa như quân tử giữ chính đạo không bị tiểu nhân mua chuộc. Nhìn vào quẻ Đoài thì đạo làm vua lấy sự làm cho lòng người vui vẻ phục tùng làm gốc. Đó chính là đạo Đế còn bắt buộc người ta, người ta sợ mà nghe theo thì không bền, đó chính là đạo Bá mà thôi. Đoài là đẹp lòng mà đẹp lòng là cách đem đến sự hanh thông, nhưng sự |
làm đẹp lòng nhau ấy phải chính đáng thì mới bền vững, nếu trái đạo mà cầu đẹp lòng thì đó là xiểm nịnh, là cái đẹp lòng càn bậy. 58.5. Triệu: " lưỡng trạch tương tư " Nghĩa: hai cái đầm ao thương nhớ nhau Chủ sự: ngay chính và vui vẻ thì hanh thông. 59. PHONG THỦY HOÁN 59.1. Lý do tiếp nối: hoán là chia lìa, tan tác. Hoà vui tới cực điểm rồi thì giải tán, chia tay tan tác. Cuộc vui nào chẳng có lúc tàn. Khí của con người ta, lo thì kết lại mà đẹp lòng thì giãn tan. Vì vậy quẻ Hoán mới nối quẻ Đoài. 59.2. Thoán từ: hoán hanh, vương cách hữu miếu, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh. 59.3. Dịch nghĩa: lìa tan thì hanh thông, vua tới nhà thái miếu ,vượt qua sông lớn thì lợi, giữ đạo chính thì lợi. 59.4. Giảng: quẻ Hoán bên trên là gió, bên dưới là nước. Gió thổi thì mây bay, gió thổi làm nước tung toé. Đó là cái tượng giãn tan. Thường thì họp lại mới hanh thông như quẻ Tuỵ, nhưng ly tán cũng có khi hanh thông như sương mù tan đi dưới ánh mặt trời, hoặc cần giải tán các cuộc biểu tình chống đối, các cuộc đua xe bất hợp pháp. Giải tán lấn chiếm đất công, chiếm dụng hè đường. Muốn sự giải tán được hanh thông thì người cầm quyền phải có lòng chí thành, trung thực công bằng vô tư như ông vua tới nhà thái miếu, trước tổ tiên trời đất, ai dám điêu toa bao giờ, lại phải có gan vượt qua sông lớn mà giữ đạo chính, đừng làm các việc bất chính như giải tán người này còn người kia thì không, đền chỗ này nhiều, đền chỗ kia ít, kiếm chác lợi lộc bất chính thì còn đâu đạo chính nữa. |
Quẻ này còn có tượng gỗ đi trên nước ( quẻ Tốn trên quẻ Khảm ) tức là cái thuyền, nhờ thuyền mà vượt sông được. Nghĩa là nhờ người tài mà làm nên việc lớn. Phan Bội Châu so sánh quẻ Hoán và Tuỵ là hai thời trái ngược nhau, một quẻ thì nhóm họp, một quẻ thì lìa tan, nhưng thời nào cũng tốt cả, miễn là việc làm hợp lý và có lòng chí thành . Thoán từ hai quẻ đều có lời: " vua tới thái miếu " là vì vậy. Tuy vậy quẻ Tuỵ có lợi kiến đại nhân còn quẻ Hoán là lợi thiệp đại xuyên vì thời Tuỵ, hội họp là thuận lẽ, chỉ cần người có tài đức là nên việc, còn thời Hoán là nghịch cảnh thì phải có người tài đức mà lại phải mạo hiểm nữa. Sáu hào quẻ Hoán thì hào một là buổi đầu của sự tan còn cứu được, hào hai có nghĩa đương thời lìa tan mà ở chỗ hiểm, chưa cứu được phải chờ, hào ba bắt đầu hành động, hào bốn phải giải tán bè phái mà lấy lại lòng dân. Hào năm phát hiệu lệnh mới thì hào sáu sẽ thành công. Đại ý quẻ này muốn nói, trong khi thiên hạ lìa tan, muốn cứu lại, tập họp lại, nhà vua phải đến nhà thái miếu mà họp lại để thu phục lòng người rồi phải đi qua sáu giai đoạn, đúng thời, chí thành thì sẽ thành công. 59.5. Triệu: " cách hà vong kim " Nghĩa: bãi sông rơi mất vàng Chủ sự: tuỳ thời mà hợp tan cho đúng cách. Gặp xấu thì quyết lìa xa cho khỏi nạn. Đây là quẻ xấu. 60. THỦY TRẠCH TIẾT |
60.1. Lý do tiếp nối: tiết là tiết đoạn, tiết chế, chừng mực, dè dặt, là thẳng cứng, kiên nhẫn như tiết tháo, tiết nghĩa, còn có nghĩa là đoạn, gióng tre, đốt sống, tiết đoạn, tiết học. Quẻ Tiết tự quái nói rằng: hoãn là lìa tan, loài vật không thể lìa tan đến lúc chót, cần có chừng mực, cho nên tiếp đến quẻ Tiết là quẻ đầm dưới, nước trên, sức chứa của đầm chỉ có hạn thôi, nên phải có điều tiết cho vừa. 60.2. Thoán từ: tiết hanh, khổ tiết bất khả trinh. 60.3. Dịch nghĩa: tiết chế thì hanh thông, tiết chế đến khổ hạnh thì không bền lâu 60.4. Giảng: theo tượng quẻ, sức chứa của đầm có hạn, phải tiết chế cho vừa nên đặt tên là quẻ Tiết. Ở trên đời, cái gì vừa phải thì mới tốt, nó vừa sức chịu đựng của con người. Đạo lý của trời đất là âm dương phải quân bình, thái quá hoặc bất cập đều xấu cả. Trong ăn uống cũng vậy, nhiều khi sơn hào hải vị ăn nhiều cũng không ngon mà chỉ có mầm đá với muối vừng mà ngon lắm. Người dân thường thì mong là hoàng tử, công chúa trong khi đó các hoàng tử, công chúa nhiều người thực tâm muốn sống đời sống của người dân, cuộc sống của họ là cuộc sống chính trị, ngay cả người họ yêu thương cũng không được lấy, mà người họ lấy phải phục vụ cho hoàng tộc hay các mối quan hệ bang giao. Quẻ này có ba hào dương và ba hào âm, không bên nào thái quá mà hào năm và hào hai là dương cương và đắc trung, như vậy là xử sự trúng tiết, cho nên hanh thông. Nhưng tiết chế quá bắt người ta khổ cực quá thì không ai chịu nổi, như vậy không còn hanh thông nữa. |
Thoán Truyện khuyên nhà cầm quyền nên theo luật tiết chế của trời đất, trời đất có chừng mực mà làm nên bốn mùa để mà trị dân, hạn chế sự xa xỉ càn rỡ của con người, bắt dân làm việc vừa sức thôi, có nuôi sức dân thì nước mới bền. Luận Ngữ cũng nói: " tiết dụng nhi ái dân " nghĩa là chừng mực trong tiêu dùng mà yên dân. Tiết chế có nghĩa gần giống với tính kế hoạch hóa và sự phân phối công bằng xã hội. Sau cuộc ly tán như chiến tranh, kinh tế xã hội cùng quẫn nên phải tiết dục, tiết 100 chế nhu cầu nhưng đừng thái quá và hợp thời mới tốt. Đạo tiết tự nó đã có nghĩa hanh thông rồi nhưng tiết chế đến cực khổ thì không bền lâu ( khổ tiết bất khả trinh ). Trong sáu hào có ba cặp, hào sơ và nhị liền nhau thì hào sơ tốt, hào nhị xấu, hào tam và hào tứ liền nhau thì hào tam xấu hào tứ tốt, hào ngũ và hào thượng thì hào ngũ tốt hào thượng xấu, đó là do chúng có đúng vị trí của mình hay không, có hợp thời hay đắc trung, đắc chính hay không? Thế nhưng hào thượng lục ngôi âm là hợp mà sao lại bảo là xấu, bởi vì lời tượng hào thượng quẻ Tiết là: khổ tiết trinh hung, nghĩa là sự dè dặt đã khổ mà cứ cố giữ thì xấu. 60.5. Triệu : " tham tưởng phòng thân " Nghĩa: dẹp bỏ lòng tham mà giữ mình. Chủ sự: dè dặt trong hành động, ngay thẳng cứng cỏi khi thấy phải thì tốt. Không tham thì sẽ có 61. PHONG TRẠCH TRUNG PHU |
61.1. Lý do nối tiếp: trung phu là có đức tin ở trong lòng, có dè dặt mới làm ra tiết chế. Đã định ra tiết chế thì người trên phải giữ đức tín để người dưới tin theo, do đó quẻ Trung phu mới nối theo quẻ Tiết. 61.2. Thoán từ: trung phu đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh. 61.3. Dịch nghĩa: trong lòng có đức tin mà cảm được cả loài vật như heo và cá, tốt như vậy thì qua sông lớn được, giữ đạo chính thì lợi. 61.4. Giảng: nhìn vào quẻ ta thấy hào hai vµ hào năm trung và đặc, còn hào ba vµ bốn đứt đó là cái tượng ở giữa rỗng. Rỗng là hư tâm, đó chính là nghĩa chữ " trung ", mà đã rỗng là có thể chứa được người khác, không chút hoài nghi, khi đã ghét ai thì làm gì còn chỗ rỗng nữa mà chứa được, chữ " phu " là đức tin. Có trung thì có phu, đó là tượng của quẻ. Lợn nóng nảy, cá lờ mờ là giống khó cảm nhất trong các loài vật, thế mà trong lòng có đức tin cảm được cả loài heo cá thì không gì mà không cảm được, lòng trung tín có thể xéo lên nước sôi lửa bỏng chứ làm gì mà sông lớn chẳng vượt qua. Gió đi trên đầm, trên dưới thuận hòa vui vẻ mà cảm thông với nhau. Lấy lòng chí thành và sự tin tưởng vào người khác để ứng phó với hoàn cảnh khó khăn thì có thể vượt qua như ngồi trên thuyền trống ( quẻ Tốn ) vượt qua sông lớn, mà vẫn an toàn. Tuy vậy phải giữ gìn chính đạo mới tốt. Gió đi trên đầm là gió làm xao xuyến nước như lòng thành thực làm cảm động được người. Nên lấy lòng thành thực mà xét việc thiên hạ, như xử tội ai phải xét đi, xét lại, tìm cách cứu người, tha được thì nên cố mà tha. Tuy thành tín nhưng đừng thái quá mà phải biến thông. Tin đến ngớ ngẩn là không hiểu Dịch. Truyện kể: có người họ Vĩ |
hẹn với người con gái ở dưới chân cầu, người con gái không đến, nước sông dâng cao, anh ta cứ ôm chân cầu mà đợi đến chết thì thôi. Tin đến mức như vậy thật không bằng heo, cá. Ác tơ, một thanh niên trẻ tuổi tham gia Đảng Cách Mạng có chuyện bất hòa với các đồng chí của mình, chàng buồn và trong buổi đi rửa tội, chàng kể lại với cha cố. Ông này báo cho cảnh sát biết và toàn bộ các chiến sĩ cách mạng bị bắt. Mọi người đều tin là Ác tơ phản bội. Khi đón người yêu ra khỏi nhà tù, mọi người nhìn chàng bằng con mắt khinh bỉ và một cái tát của người yêu làm cho Ác tơ tỉnh ngộ, chàng hiểu rằng mình đã tin cha cố và cha cố đã bán đứng mình. Thế là chàng về nhà, hạ cây thánh giá xuống đập vỡ rồi ghi mấy dòng thư để lại cho cha linh hồn của mình :" tôi tin ông như tin đức Chúa Lời, nhưng đức Chúa Lời chỉ đập một nhát búa là vỡ tan, còn ông, ông đã lừa dối tôi suốt đời". Chỉ vì lẽ đó mà Ác tơ, một chàng trai ngây thơ cả tin sau này đã trở thành một chiến sĩ cách mạng vĩ đại. 61.5. Triệu: " hành tẩu bác bang " Nghĩa: đi lại phương xa Chủ sự: phải có lòng tin vào người khác, vào công việc mới thành 62. LÔI SƠN TIỂU QUÁ 62.1. Lý do tiếp nối: tiểu quá có hai nghĩa: lỗi nhỏ, cái nhỏ nhiều hơn, nhỏ thì qua. Có đức tin ( trung phu ) mà làm ngay, mà không xem xét có đáng tin hay không thì có thể |
mắc lỗi. Do đó quẻ Tiểu Quá nối tiếp quẻ Trung Phu. 62.2. Thoán từ: tiểu quá hanh, lợi trinh. Khả tiểu sự bất khả đại sự, phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát. 62.3. Dịch nghĩa: nhỏ qua hanh thông, nếu chính đạo thì có lợi. Có thể làm việc nhỏ, không thể làm việc lớn, chim bay để tiếng lại, không nên bay cao, nên xuống thấp, như vây rất tốt. 62.4. Giảng: quẻ này trái với quẻ Đại Quá số 28. quẻ Đại Quá có bốn hào dương ở giữa, hai hào âm ở trên và dưới, như vậy dương nhiều hơn âm nên gọi là đại quá ( vì dương gọi là lớn, âm gọi là nhỏ ). Tiểu quá thì ngược lại: hai hào dương ở giữa, bốn hào âm hai bên, như vậy âm ( nhỏ ), nhiều hơn dương ( lớn ) nên gọi là tiểu quá. Ở trên đời, không tin cũng dở, mà tin nhiều khi cũng dở, cứ tin mà phải xét đoán mới hay. Bình thường là tốt, ở mức vừa phải là hay, đôi khi quá một chút cũng hay. Lâu rồi mới gặp cố nhân, vui quá, có về nhà muộn một tí cũng hay. Gặp người tri kỷ, nói chuyện tâm đầu ý hợp, nói chuyện say sưa không nghỉ, nếu lúc cao trào mà xin phép về nhà ăn cơm thì còn gì là quá nữa. Người xưa thường nói thái quá bất cập bởi vì vừa phải là hay còn như quá cung kính, quá thương xót, quá tằn tiện thì không tốt hoặc là chỉ nên quá trong việc nhỏ chứ không nên quá trong việc lớn như bang giao, kinh tế, chiến lược chính sách, quá một tí có thể gây lỗi lầm nghiêm trọng. Còn phi điểu di chi âm, có người nói: ở thời tiểu quá, không nên có tiếng tăm quá lớn, mà chỉ như có tiếng chim thoảng qua mà thôi, mà chỉ tốt khi ở vị trí bình thường, không nên cao mà nên thấp. |
Đại Tượng Truyện giảng: sấm trên núi, tiếng sấm bị nghẹt vì núi thu hẹp sấm lại. Quẻ khuyên vào thời tiểu qu¸ là tiểu nhân ( âm ) quá nhiều thì đừng nên quá cương như hào 102 ba mà phải biến thông đi một chút. Hai hào dương ở giữa, bốn hào âm bên ngoài là trong thực ngoài hư, như con chim bay thì không nên bay cao, nên bay thấp mới yên bởi vì bay cao thì nghịch cảnh, bay thấp thì xuôi thuận. Hào hai và hào năm ở ngôi trung mà không chính, âm mềm mà được ngôi thì chỉ có thể làm được các việc nhỏ tốt lành mà thôi. Vì vậy ở thời tiểu quá, cái quá chỉ nên như con chim bay để tiếng lại mà thôi, chim bay nhanh, khi tiếng kêu phát ra thì thân hình nó đã bay qua rồi nhưng mà đâu có bay xa được, người ta vẫn biết đấy chứ nhưng mà người ta vẫn chấp nhận và cho qua. Có một điều trùng hợp là hào lục ngũ quẻ này cũng có câu: mật vân bất vũ, tự ngã tây giao nghĩa là mây dầy mà không mưa ở cõi trời phía tây của ta, lời kinh này cũng chính là thoán từ của quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, tiểu súc là chứa nhỏ, tiểu quá là dương nhỏ quá, âm lớn quá đều là những thời kỳ khó khăn, người quân tử phải long đong, hơn nữa hào âm 5 này lại không ứng với hào âm 2 ( lục ngũ và lục nhị ), ngôi cao mà không có ứng viện thì chỉ nên làm việc nhỏ thôi. 62.5. Triệu: " phi điểu di âm " Nghĩa: chim bay còn để tiếng kêu lại |
Chủ sự: tiểu nhân gặp thời, làm việc vặt thì có lợi. 63. THỦY HỎA KÝ TẾ 63.1. Lý do tiếp nối: ký tế là đã sang sông, đã nên việc, đã xong việc, theo Trình Di, có qua vật ắt phải sang. Do đó quẻ Ký Tế nối tiếp quẻ Tiểu Quá. 63.2. Thoán từ: ký tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn 63.3. Dịch nghĩa: đã xong hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ và giữ được kết quả mới có lợi, mới đầu tốt, sau rồi loạn. 63.4. Giảng: quẻ này trên là nước, dưới là lửa, lửa bốc lên, nước thấm xuống, nước lửa giao nhau hóa ra công dụng, cũng giống như quẻ Thái, nội quái Càn bên dưới, ngoại quái Khôn bên trên mà hanh thái, nếu nước dưới lửa trên thì còn gọi gì là ký tế nữa. Xét về hào quẻ, sáu hào ở quẻ này đều ở đúng vị trí của mình như hào dương ngôi lẻ, hào âm ngôi chẵn, các hào đều ứng nhau theo luật âm dương, hào một dương ứng hào bốn âm, hào hai âm ứng hào năm dương, hào ba dương ứng hào thượng âm đủ biết quẻ này hoàn chỉnh hết mức, hết chỗ nói, là xong rồi, mà xong rồi thì cần gì phải nói nữa. Tuy vậy, hào cuối của quẻ nói rằng: nhu kỳ thủ, lệ nghĩa là con cáo đã sang được sông rồi mà còn bị ướt đầu, nguy! Đã chót cuộc sang mà vẫn chẳng yên bởi vì kẻ tiểu nhân ngồi vào ngôi đó là tượng con cáo lội nước mà bị ướt đầu. Việc trong thiên hạ, không tiến thì lùi, không có cái lẽ nhất định, đã xong, đã tới chót cùng rồi mà dừng lại nghỉ |
ngơi thì cái sự hỏng đã nhìn thấy trước rồi, ở trên đời chỉ có thể biết nhiều hoặc biết ít chứ biết sao cho đủ, sự tự thỏa mãn với bản thân, cho là mình giỏi rồi, mình tài rồi, thế là xong rồi, từ nay có thể gối đầu cao lên mà ngủ, cái gì mình cũng biết rồi thì đó chính là sự tự giết chết mình. Chính vì vậy người ta phải phấn đấu liên tục, không bao giờ được phép dừng lại bởi vì dừng lại là không còn chỗ cho mình nữa, trong ngạn ngữ nước Anh có câu “ to be or not to be ” nghĩa là tồn tại hay không tồn tại, những điều này cũng được Vơ la đi mia I lích Lê nin đưa ra như kim chỉ nam cho nhân loại “ học, học nữa, học mãi ”, núi cao còn có núi cao hơn, sông Trường Giang, sóng sau xô sóng trước, nếu không hiểu được điều đó thì sơ cát, chung loạn sẽ là kết quả tất yếu. Đó cũng chính là lý do Văn Vương xếp quẻ Vị Tế nối tiếp sau quẻ này. Vào thời ký tế, thường là việc lớn đã xong nhưng còn bao nhiêu việc nhỏ phải làm, khi xưa trước nạn xâm lăng thì mọi người đoàn kết đánh giặc, hòa bình rồi thì bao nhiêu cám dỗ, những vinh hoa phú quí, những viên đạn bọc đường làm gục ngã những chiến sĩ năm xưa, nghi kỵ tranh giành quyền lực là mầm họa sau này. Khi xưa Lưu Bị lúc chinh chiến gian khổ thì chăm chỉ, thế mà chỉ sang Đông Ngô lấy vợ là em gái Tôn Quyền, ăn mặc sung sướng, vợ đẹp mà lười biếng chẳng chịu về nước, lâu ngày không cưỡi ngựa mà béo trắng ra. Nếu không sửa đức và được can ngăn từ những việc nhỏ ấy thì cuối cùng kết cục chẳng hay ho gì. Quẻ này trong y học tương ứng với hội chứng Tâm thận tương giao. |
63.5. Triệu: " kim bảng đề danh " Nghĩa: bảng vàng nêu tên thi đỗ Chủ sự: mọi việc đã xong thì hanh thông. Đề phòng việc nhỏ làm hỏng việc lớn. 64. HỎA THỦY VỊ TẾ 64.1. Lý do tiếp nối: vị tế là chưa sang, chưa xong việc, là không giúp nhau. Quẻ Vị Tế: tự quái nói rằng: vật không thể cùng mà đã sang rồi thì vật bị cùng, cùng tắc biến, biến tắc thông nên chuyển sang vị tế, ë đời việc đã xong thì không cần nhau nữa, mà xong việc này lại bắt đầu việc khác. Xong ngày nay thì lại là bắt đầu của ngày mai, vì vậy sau quẻ Ký Tế thì tiếp theo là quẻ Vị Tế mà quẻ Vị Tế chưa xong thì vòng quay lại từ đầu theo lý " chu nhi phục thỉ, như hoàn vô đoan" nghĩa là năm tháng, cuộc đời, các qui luật thiên nhiên và xã hội như một chiếc vòng ngọc không có điểm nối. 64.2. Thoán từ: vị tế, hanh, tiểu hồ hất tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi. 64.3. Dịch nghĩa: chưa xong, được hanh thông, con cáo nhỏ chưa vượt qua sông đã ướt đuôi, không qua được, không có lợi. 64.4. Giảng: quẻ này trái ngược với quẻ Ký Tế, nước lửa không giao nhau, nước không sôi, chưa xong, sáu hào đều trái ngôi, hào dương ở vị trí âm, hào âm ở vị trí dương nên chưa xong, chưa xong chứ không phải không xong, không làm được, nước còn đấy, lửa còn đấy thì sẽ có lúc làm được, lúc đó sẽ hanh thông bởi vì các hào tuy không chính nhưng âm dương ứng nhau mà nên việc. Thoán từ dùng hình ảnh con chồn nhỏ ( hào hai ) hấp tấp qua sông mà hỏng việc để khuyên vào hoàn cảnh này nên thận trọng, suy xét và chờ thời cơ thuận lợi mới được cả tốt, đừng có đặt lửa trên nước như trong quẻ này. Theo Trình Di, giống thú khi vượt qua sông thường ngỏng cái đuôi lên, nếu mà đuôi ướt thì không thể ngỏng đuôi lên thì làm sao có thể qua sông được. |
Con cáo già hay ngờ vực cho nên khi xuống nước còn phải nghe ngóng thế mà còn bị 104 ướt đầu, con cáo nhỏ chưa biết sợ hãi cẩn thận, giống như ngựa non háu đá cho nên mạnh bạo sang sông nhưng vì vội vã quá nên bị ướt đuôi. Điều này có ý là nên kết hợp kinh nghiệm, sự thận trọng và đa mưu túc trí của người lớn tuổi với nhiệt tình và lòng hăng say, bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ thì chắc việc sẽ thành công. 64.5. Triệu: " tiểu hồ hất tế " Nghĩa: sự qua đò chưa tới bến Chủ sự: việc chưa xong, thận trọng mà xét việc. Lêi kÕt Kinh Dịch mở đầu từ thời vua Phục Hy, từ cái thời ăn hang ở lỗ, người xưa mê tín, vạch quẻ xong treo lủng lẳng để trấn ma quỉ, đó là vào thời cổ trong sách Liên Sơn Dịch.Vào thời vua Thần Nông, nền nông nghiệp đã phát triển nên coi trọng đất và lấy quẻ Khôn làm chủ quẻ và đặt tên là Qui Tàng Dịch. Hai loại sách Dịch này đến nay không thấy nhắc tới nữa và cũng không tìm thấy trong các Y văn. Đến đời nhà Chu đã hiểu rõ vai trò của trời đất nên đặt Càn Khôn làm chủ. Đó là sách Dịch của nhà Chu. Dịch nhà Chu chia ra 3 giai đoạn: giai đoạn càn khôn nói về công hóa sinh của trời đất, là giai đoạn tiên thiên, là nguyên thể của vạn vật. Giai đoạn 2 là giai đoạn hàm hằng để chỉ về công việc của của con người, đó là giai đoạn hậu thiên, là công dụng của vạn vật. Cuối cùng là giai đoạn kết thúc là giai đoạn của xong rồi mà lại chưa xong, là giai đoạn của ký tế và vị tế để nói rằng Dịch là một qui luật vĩnh hằng luôn luôn trường tồn cùng nhân loại và thế giới quanh ta. |
Đời Tần Thủy Hoàng là nhà nước phong kiến đầu tiên rất coi trọng Kinh Dịch. Nhà Tần mệnh Thủy, Thủy Hoàng diệt nhà Chu, nhà Chu mệnh Hỏa nên nhà Tần tự nhận là mệnh Thủy. Do đó cờ Tần, quần áo quân Tần đều màu đen và học thuyết Âm Dương, Ngũ Hành được sử dụng rộng rãi, và cho tới ngày nay, giá trị của Kinh Dịch vẫn không ngừng được tăng lên vì trình độ khoa học và nhận thức của loài người cũng tăng lên để có thể lý giải được tính khoa học của Dịch. Kinh Dịch luôn luôn mới lạ với những ai muốn khám phá nó. Kinh Dịch hay nói tới quân tử và tiểu nhân, thực ra khái niệm này chỉ mang tính tương đối, trong con người chúng ta thường xen kẽ hai trạng thái này. Khi chúng ta đấu tranh với thói hư tật xấu, chúng ta xa lánh những dục vọng thấp hèn, chúng ta phấn đấu đi lên, bảo vệ lẽ phải thì lúc đó chúng ta là người quân tử, còn khi chúng ta lười biếng, ganh ghét với người tài giỏi, lúc nào cũng sống trong đố kỵ và hiềm khích thì chúng ta trở thành kẻ tiểu nhân. Chính vì vậy mà hầu hết các thoán từ đều dặn rằng cần phải giữ đạo chính thì mới bền vững, con người ta phải hướng thiện, luôn luôn tư dưỡng đạo đức để trở nên người tốt có hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội. MỘT SỐ ỨNG DỤNG CÓ TÍNH MINH HỌA I. KINH DỊCH VỚI Y LÝ Cổ nhân thường nói: bất tri Dịch, bất khả tri Y có nghĩa là: không học về Kinh Dịch thì không sao hiểu được y lý. Vậy Kinh Dịch gắn với nghề Y như thế nào? Tại sao không học Dịch thì không hiểu được y lý. Bản thân Kinh Dịch không giống như kinh Thư, kinh Thi, kinh Lễ, kinh Xuân Thu là các sách nói về các sự kiện thơ ca, lịch sử cụ thể |
mà Kinh Dịch chỉ là một mớ vạch đứt, vạch liền, sắp xếp theo một qui luật nhất định, bản thân Kinh Dịch không nói tới phủ tạng, không nói tới thuốc, vậy mà Kinh Dịch lại gắn với nghề Y là cớ làm sao? Hải Thượng Lãn Ông trong Huyền Tẫn Phát Vi đã nói: trước khi học thuốc thì hãy học qua Dịch đã, làm nghề thuốc mà không biết Dịch thì chỉ là thầy thuốc tầm thường mà thôi. Đá chứa ngọc mà núi sáng, nước chứa ngọc trai mà sông đẹp, Kinh Dịch chính là ngọc quí của nghề Y vậy. Dương Quí Sơn đến nhà Thiềm Quí Lỗ ở Hoàng Đình, Quí Lỗ hỏi về Kinh Dịch, Quí Sơn lấy tờ giấy vẽ vòng tròn, lấy mực bôi đen một nửa và nói đó là Dịch. Câu nói đó rất hay, Dịch chỉ là một không, một có, một trắng, một đen, một trong, một ngoài, phức tạp thì như con người, như vũ trụ mà xét đến tận cùng thì Dịch chỉ là một âm, một dương xoay xỏa với nhau mà thôi. Trước khi trời đất định ngôi thì dương dưới âm trên, sau đó dương nhẹ bay lên thành trời, âm nặng đi xuống dưới đất. Từ đó trời đất định ngôi, trời cao đất thấp, trời tôn, đất ty, trời quí đất tiện. Vì vậy trời thì tôn quí, đất thì ty tiện. Âm dương có ranh giới rõ ràng. Từ vô cực chuyển sang thái cực, từ thái cực chuyển sang lưỡng nghi. Có trời có đất thì muôn vật được sinh ra. Sau quẻ Càn, quẻ Khôn thì quẻ Truân tiếp nối, truân là muôn vật mới sinh, truân là muôn vật bắt đầu, truân là gian khổ và đứng đầu trong muôn vật là con người, con người là vạn vật chí linh. Trời sinh ngũ hành, ngũ |
hành vận động thì sinh ngũ tạng. Đầu tiên là hào dương trong quẻ Khảm, tức là mệnh môn hỏa có trước, rồi theo thứ tự trong Hà Đồ mà tâm, can, phế, tỳ lần lượt sinh ra. Loài người sinh ra ở hội dần, ở đốt sống thứ 14, và cũng từ đó, nhờ bẩm thụ hai khí của trời đất mà con người sử dụng dược vật thiên về một khí để điều chỉnh âm dương trong cơ thể nhằm mục đích chữa bệnh. Từ lý luận: con người là vũ trụ nhỏ, con người và trời đất là một, người xưa cho rằng các định luật chi phối vũ trụ cũng đồng thời chi phối con người mà con người lại là đối tượng chính và duy nhất của y học. Vì vậy Kinh Dịch có mối quan hệ và ảnh hưởng sâu sắc tới y lý y học cổ truyền. Nhìn vào các hào, các quẻ trong Kinh Dịch, từ những vạch liền vạch đứt trong Kinh Dịch và một mớ các lời quẻ, lời hào, có vẻ như ngô nghê nhưng khi suy ngẫm, người ta nhận thấy triết lý bên trong thật sâu sắc. Quẻ Ký Tế có quẻ Ly bên dưới , quẻ Khảm bên trên. Cứ tưởng rằng lửa phải ở trên, nước phải ở dưới mới đúng lẽ thường chứ đâu biết rằng khi trên dưới xa cách thì bao giờ mới có sự hòa hợp. Lửa ở dưới 106 nước mới làm nước sôi và vì vậy công cuộc sinh hóa mới thành, còn nước dưới, lửa trên (quẻ Khảm bên dưới, quẻ Ly bên trên ) thì chẳng có gì xảy ra cả. Đó chẳng phải là việc chưa xong, chưa sang sông như quẻ Vị Tế hay sao? |
Lấy cái cao siêu, tinh diệu trong Dịch để nghiên cứu về y học, để soi sáng cho lý luận y học cổ truyền và vận dụng các qui luật biến dịch trong Dịch vào chẩn đoán và điều trị mới làm người thầy thuốc bớt đi được sai lầm và nâng cao hiệu quả chữa bệnh. II. ỨNG DỤNG KINH DỊCH TRONG DỰ ĐOÁN HỌC Hào là vạch, quái là do hào lập nên, ba hào là đơn quái, sáu hào là trùng quái. Bát quái là tám hiện tượng kỳ lạ, quái dị, biến hóa ra thiên hình vạn trạng của tự nhiên II.1. Phép gieo đồng tiền để lập quái: Người xưa khi gieo quái thường cầm nghiêng ba đồng tiền, giơ hơi cao và thả xuống một cái đĩa. Nếu thấy: 1 đồng sấp ghi 1 vạch liền: là vạch dương 2 đồng sấp ghi 1 vạch đứt: là vạch âm 3 đồng sấp ghi 1 vạch liền: là vạch dương và dấu O 3 đồng ngửa ghi 1 vạch đứt: là vạch âm và dấu X Ghi O và X vào bên cạnh là để chỉ rằng hào này động và dương sẽ biến thành âm và âm sẽ biến thành dương. Ba lần gieo ta sẽ được ba hào, vạch từ dưới lên thành được nội quái. Sau đó người gieo có thể nghĩ về những ước muốn của mình một cách thành kính rồi lại gieo ba lần nữa thì được ngoại quái, tất cả được sáu vạch gồm hai quẻ nội và ngoại quái. Khi đọc, đọc tên ngoại quái trước, quẻ nội sau và tên quẻ kép. Gieo lần 6: 1 sấp ghi Gieo lần 5: 3 sấp ghi O Càn Gieo lần 4: 1 sấp ghi Thiên Lôi Vô Vọng |
Gieo lần 3: 3 ngửa ghi Gieo lần 2: 2 sấp ghi Gieo lần 1: 1 sấp ghi Quẻ hiện tại là Thiên Lôi Vô Vọng ( xem tính quẻ phần các quẻ ), tuy vËy do có 2 hào biến nên tương lai quẻ mới sẽ là Bát Thuần Ly, quẻ này chủ về ngay chính thì tốt, nên thận trọng và tìm cho mình chỗ đứng chính đáng. II.2. Phép bấm " độn trên bàn tay để t×m hào và quái." Người xưa khi cần kíp và không có phương tiện, thường dùng phép bấm độn để tìm hào, quái, nhưng phép này kém ứng nghiệm hơn phép gieo tiền. Đầu tiên đặt Hậu Thiên Bát Quái lên lòng bàn tay trái 107 Cách bấm độn: ví dụ vào ngày 16 tháng 7 âm lịch giờ dậu, ta lấy vị trí quẻ Khôn ở số 7 ( tương ứng tháng 7) và ngày đầu của của tháng là 1, rồi đếm 1 từ quẻ Khôn tới số 16, tương ứng với quẻ Ly, ta có quẻ Ly là nội quái, từ quẻ Ly ta đếm giờ khởi là tý rồi lần lượt tới giờ dậu thì tương ứng với quẻ Khôn. VËy ta có quẻ Địa Hỏa Minh Di. Đó là quẻ kép, còn gọi là quẻ Dịch. Cách tìm hào động. Cộng số thứ tự của nội quái, ngoại quái lại, trừ dần cho 6 là số hào, số lẻ còn lại là số thứ tự của hào động. Nếu trừ 6 mà hết như vậy hào động là 6, nếu số cộng mà nhỏ hơn 6 thì lấy ngay số đó làm hào động. Ở đây số của quẻ Ly là 3, số của quẻ Khôn là 8. Vậy 8 + 3 = 11, 11 6 = 5. Hào động là 5 |
Quẻ chính: §Þa Hỏa Minh Di. Quẻ biến: Thủy Hỏa Ký Tế Trong trường hợp này, quẻ chính chỉ vào thời hiện tại là khó khăn nhưng phải che bớt cái ánh sáng của mình đi, kiên nhẫn chờ thời, chỉ hoạt động văn tài viết lách, chớ nên hoạt động chính trị. Đó là quẻ xấu. Lời triệu là: " qua hà chiết cầu" nên chờ thời cơ tốt thì quẻ tiếp là Thủy Hỏa Ký Tế lại là quẻ tốt, đó là việc đã xong, là quẻ tốt với lời triệu là: " kim bảng đề danh " Tóm lại phương pháp suy đoán dựa trên quái chỉ có tác dụng tham khảo về xu thế và nói về những điểm chung nhất, luôn căn dặn con người ta giữ lấy chính đạo, trung thực, dũng cảm và biết nắm bắt thời cơ. Tuyệt nhiên không mang màu sắc mê tín, dị đoan. Suy đoán về Dịch không nên cụ thể vào một việc nào đó. Còn nếu có ai suy đoán theo thần thánh mê tín có lẽ họ đã làm biến đổi tinh thần của Dịch và như vậy không còn là tinh thần của Dịch nữa. 108 III. PHƯƠNG PHÁP DIỄN GIẢI BỘ VỊ MẠCH TRÊN CỔ TAY THEO ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH Như ta đã biết, người xưa đã phát hiện trạng thái bệnh của tạng phủ trong cơ thể với trạng thái mạch ở cổ tay. Có nhiều cách lý giải tại sao các bộ vị lại được xếp đặt như vậy. Tay trái Tay phải Thốn: Tâm Tiểu Trường Thốn: Phế Đại trường Quan: Can Đởm Quan: Tỳ Vị Xích: Thận âm Bàng quang Xích: Thận dương Mệnh môn hỏa III.1. Cách lý giải thứ nhất: Nếu giơ tay theo qui tắc Đông y: |
Bộ thốn trên cùng thuộc thượng tiêu gồm Tâm Phế Bộ quan thuộc trung tiêu gồm Tỳ Vị Bộ xích thuộc hạ tiêu gồm Can Thận. Cách lý giải này còn có một điều chưa rõ, can thuộc trung hay hạ tiêu? III.2. Cách lý giải thứ hai: Lấy tiên đề âm dương, ngũ hành để diễn dịch bộ vị mạch trên cổ tay. Đây chính là từ tiên đề âm dương ta có thể suy ra vị trí các bộ vị mạch trên cổ tay 109 IV. ỨNG DỤNG DỊCH LÝ TRONG HỌC THUYẾT THỦY HỎA CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG Hải Thượng Lãn Ông là người rất sâu sắc trong y lý và sự vận dụng Kinh Dịch vào y học của ông đã trở nên nhuần nhuyễn. Một trong những chương quan trọng nhất của ông là chương học thuyết thủy hỏa mà ông gọi là Huyền Tẫn Phát Vi nghĩa là nói rõ bí mật của âm dương, thủy hỏa. Ông đã từng nói: muốn làm nghề thuốc thì trước khi học thuốc, phải học Dịch đã, làm thày thuốc mà không biết Dịch chỉ là thày thuốc tầm thường mà thôi. IV.1. Bàn về thái cực trong nhân thể Quan niệm của ông về thái cực cũng giống như thái cực trong Dịch, hai quả thận trong người họp lại thành một hình thái cực, quả trái là âm thủy, quả phải là dương thủy, mệnh môn nằm ở giữa hai quả thận, bên trái mệnh môn có một vòng tròn nhỏ và đen đó là huyệt chân thủy. Bên phải mệnh môn có một vòng tròn nhỏ và trắng, đó là huyệt tướng hỏa. Đây chính là vận dụng quẻ Khảm trong bát quái, hai hào âm hai bên là hai quả thận, hào dương ở giữa là thận dương hay còn gọi là mệnh môn hỏa, ở người thì tại giữa đốt sống thắt lưng 2 và 3 là huyệt Mệnh môn, đo ra hai bên 1,5 tấc là hai huyệt Thận du, dương số nhỏ nhất là một nên thận dương có một, âm số nhỏ nhất là hai nên có hai quả thận. Âm là hữu hình nên thận nhìn thấy. Dương là vô hình nên mệnh môn hỏa không nhìn thấy mà chỉ thấy gián tiếp qua sức nóng của cơ thể là 370C. |
Quan niệm này của Hải ThượngLãn Ông cũng dựa trên tư tưởng của các danh y Trung Quốc, đó là hai hào âm của quẻ Khảm là hai quả thận, một quả là âm thủy, một quả là dương thủy còn hào dương ở giữa quẻ Khảm chính là mệnh môn . Trong Nội Kinh không có tên mệnh môn, mệnh môn xuất xứ từ nạn 36 sách Nạn Kinh của Biển Thước, thế nhưng trong sách Nạn Kinh xuất bản năm 2000 của chương trình quốc gia về Y học cổ truyền, mệnh môn lại ở Nạn 29, hơn nữa hai quả thận thì một quả là thận âm còn một quả là mệnh môn ! ? Dù sao chăng nữa thì mệnh môn cũng xuất xứ từ Nạn Kinh. Chử Tề Hiên nói: " con người sinh ra, bắt đầu thụ thai ở mạch nhâm ( nhâm chủ bào cung ), duy có mệnh môn là có đầy đủ trước rồi sau mới thành ngũ tạng. Điều này được chứng minh ở Hà Đồ. Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi, số 1 là số của thủy, và thủy do ngũ hành vận động mà tạo nên tạng thận. Thủy nằm ở phương bắc, là nơi ở của thiên can nhâm và quí, vậy nó có tên thiên quí. Thiên quí chính là nước của trời cho, nó mang số 1 và ở vị trí của nhâm quí. Thủy có trước tiên rồi các hành khác mới sinh ra, có phải theo thứ tự như trong tạng phủ không!" IV.2. Bàn về chữa bệnh phải chữa vào can thận. Ông cho rằng: rồng ( mệnh môn hỏa ) lặn ở đáy bể ( thận cung ) vì thận là khảm thủy, nơi ở của nó là biển, nước ở biển thuộc khảm thủy nên mệnh môn hỏa chính là con rồng dưới đáy bể, giống như long vương, lúc lặn hỏa còn non nên gọi là thiếu hỏa, khi rồng bay lên trời thì hỏa đi lên đó gọi là long hỏa, tráng hỏa. Trong cơ thể con người, quân hỏa có một, còn tướng hỏa có nhiều trong đó hay nói đến tướng hỏa của 110 |
can và thận. Tướng hỏa của thận ở khảm thủy nên gọi là long hỏa. Tướng hỏa của can là lôi hỏa vì can ở vị trí quẻ Chấn, đó là tướng hỏa dữ dội nhất trong cơ thể. Khi rồng bay lên làm mưa thì kéo theo lôi hỏa là sấm chớp, vì vậy long lôi tướng hỏa hay đi cùng với nhau. Theo Hà Đồ, vị trí của can mộc là giáp Êt, của tâm hỏa là bính đinh, của tỳ thổ là mậu kỷ, của phế kim là canh tân, của thận thủy là nhâm quý. Can với thận liền nhau mà thận thủy sinh can mộc. Ất quí lại cùng nguồn, long lôi hỏa hay phối hợp thì cớ gì khi chữa bệnh mà không chữa cả hai mà chỉ chữa vào một tạng mà thôi? IV.3. Bàn về thủy hỏa ký tế Tạng tâm thuộc quẻ Ly như mặt trời ở trên cao, là quân hỏa, một hào âm giữa hai hào dương, hào âm là chân âm, là máu trong cơ thể. Tạng thận thuộc quẻ Khảm, hào dương ở giữa hai hào âm, hào dương là tướng hỏa như hỏa trong lòng đất, còn được gọi là mệnh môn hỏa vậy. Hỏa của mệnh môn được bổ xung từ tâm hỏa. Thủy của tâm được thận cung cấp. Vậy là thận vận dụng lên trên, tâm truyền đạt xuống dưới. Hỏa của mệnh môn chưng đốt thủy làm thủy bốc lên bổ xung cho chân âm của tâm, lửa trên tâm cộng với khí trời bổ xung hỏa cho mệnh môn, đó chính là năng lượng để duy trì sự sống. Vì vậy nếu mệnh môn tắt thì đời người chỉ như một đống tro tàn mà thôi. Do đó khi mối quan hệ thủy hỏa tốt, đó chính là thủy hỏa ký tế hay còn gọi là tâm thận tương giao, còn khi thủy suy hỏa bốc mà sinh ra bệnh tật thì ứng với quẻ Hỏa Thủy Vị Tế làm cho tâm thận bất giao. |
Chính từ mối quan hệ thủy hỏa như trên mà Hải Thượng Lãn Ông hay sử dụng bài thuốc bổ dương trong điều trị chứng mệnh môn hỏa suy và ông ảnh hưởng rất nhiều tư tưởng của Trương Trọng Cảnh, khoảng 800 năm sau, ông Tiền Ất bỏ hai vị quế, phụ để tạo nên bài Lục vị để chữa bệnh cho trẻ con. Tuy nhiên, Hải Thượng nói rằng Trọng Cảnh còn dùng bài Lục vị để chế ngự quế phụ mà làm bền chặt thận dương. Vậy thì bài Lục vị là do ai tạo ra? Trọng Cảnh hay Tiền Ất ? Bài bổ âm là bài Lục vị gồm có sáu vị thuốc, đó chính là số 6, số của hành Thủy, nhằm bồi bổ chân âm mong giữ được hỏa. Bài bổ dương là Thận khí hoàn hay còn gọi là Bát vị quế phụ, gồm bài Lục vị và phụ tử, nhục quế. Lục vị bổ âm để giữ âm, phụ tử là thuốc lưu thông kinh mạch, tính chạy mà không giữ lại, nhục quế giỏi nạp khí dẫn hỏa qui nguyên, tính nó ngược với phụ tử là thích nạp, tính giữ mà không thích chạy, thích hợp với thận dương hư mà hư hỏa thượng phù. Phụ tử nóng, đi 12 kinh để dẫn hỏa qui nguyên. Quế nạp khí và tính giữ lại, lục vị thuần âm, bồi bổ thận để khống chế quế phụ, khơi thông đường rồi mới 111 dẫn xuống thận. Nhục quế và phụ tử ở bài này là quân dược và có tác dụng bổ thận, ở bài khác chỉ có tác dụng tuyên thông mà thôi. V. LINH QUI BÁT PHÁP V.1. Đại cương: Linh qui bát pháp (LQBP) còn gọi là kỳ kinh nạp quái pháp ( phép qui nạp kỳ |
kinh vào bát quái ) còn gọi là linh qui thủ pháp phi đằng châm, ý nói tác dụng nhanh như tên bay là phương pháp thời châm cứu lấy 8 huyệt của bát mạch kỳ kinh làm chủ phối hợp với bát quái cửu cung cùng với thiên can, địa chi để xác định huyệt mở theo giờ. Linh qui nghĩa là con rùa thiêng. Bát pháp là phép vận dụng tám huyệt giao hội với bát mạch kỳ kinh, bát quái, cửu cung, Hà Đồ, Lạc Thư, và hệ can chi. V.2. Bát mạch kỳ kinh a) Mạch Đốc: khởi từ tầng sinh môn qua cột sống lên huyệt Phong phủ qua đỉnh đầu, trán, chân răng hàm trên tại huyệt Ngân giao Mạch Đốc phối hợp với kinh Thủ Thái DươngTiểu trường tại huyệt Hậu khê Mạch Đốc phụ trách kinh dương và đưa dương khí lên não b) Mạch Nhâm: khởi từ tầng sinh môn theo đường giữa bụng lên mặt và mắt Mạch Nhâm phối với kinh Thủ Thái Âm Phế qua huyệt Liệt khuyết Mạch Nhâm chủ bào cung c) Mạch Xung: từ tử cung đi vào cột sống qua rốn đến ngực và tỏa ra Mạch Xung phối hợp kinh Túc Thái Âm Tỳ qua huyệt Công tôn Mạch Xung vào bể huyết, phụ trách điều hòa huyết d) Mạch Đới: vòng qua lưng như cái đai, giữ cho kinh âm dương không rối loạn Mạch Đới phối với kinh Túc Thiếu Dương Đởm qua Túc lâm khấp e) Mạch Dương Kiểu: khởi từ mắt cá ngoài ( huyệt Thân mạch ), dọc theo mặt ngoài đùi đi lên Mạch Dương kiểu phối với kinh Túc Thái Dương Bàng quang qua huyệt Thân mạch Mạch Dương kiểu có tác dụng quản lý quản lý chức năng vận động. |
f) Mạch Âm kiểu: Khởi từ Chiếu hải đi lên mặt trong của đùi. Mạch Âm kiểu thông với kinh Túc Thiếu Âm Thận qua huyệt Chiếu hải Mạch Âm kiểu có tác dụng quản lý chức năng vận động Hai mạch Âm kiểu, Dương kiểu chuyên trách về âm dương tả hữu có nhiệm vụ đóng mở mắt. g) Mạch Dương duy: từ mắt cá ngoài dọc theo mé đùi ngoài, gần với Dương kiểu Mạch Dương duy thông với kinh Thủ Thiếu Dương Tam tiêu qua huyệt Ngoại quan Mạch Dương duy quản lý chức năng thăng bằng, điều hòa các kinh dương h) Mạch Âm duy: từ mặt trong cẳng chân dọc theo mặt trong đùi, bám theo mạch Âm kiểu Mạch Âm duy thông với kinh Thủ Quyết Âm Tâm bào qua huyệt Nội quan Mạch Âm duy quản lý chức năng thăng bằng, điều hòa các kinh âm 112 V.3. Bản đồ phối hợp Bát Quái, Lạc Thư và 8 huyệt Bản đồ phối hợp Bát Quái , Lạc Thư và 8 huyệt Vị trí huyệt: 1. Thân mạch: từ mỏm mắt cá ngoài đo xuống 0,5 tấc 2. Liệt khuyết: từ lằn chỉ cổ tay đo lên 1,5 tấc theo kinh Phế 3. Ngoại quan: từ lằn chỉ cổ tay đo lên 2 tấc theo kinh Tam tiêu 4. Hậu khê: giữa đốt 1 ngón út và xương đốt bàn tay 5 5. Công tôn: sau khớp gốc ngón chân cái 1,5 tấc 6. Chiếu hải: đỉnh mắt cá trong đo xuống 0,5 tấc 7. Túc lâm khấp: kẽ ngón chân 4& 5 đo lên 1,5 tấc 8. Nội quan: lằn chỉ cổ tay đo lên 2 tấc, đối diện với huyệt Ngoại quan V.4. Bảng phối hợp giữa bát quái với các số bát mạch bát huyệt |
Quẻ số Phối hợp với huyệt Thuộc kinh Biểu lý với Thông với mạch Khảm 1 Thân mạch (VII. 62) Bµng Thận Dương kiểu Chiếu hải (VIII. 6 ) quang Âm kiểu Ngoạiquan (X. 5) Dương duy Túc lâm khấp ( XI.41 ) Tam tiêu Tâm bào Đới Công tôn ( IV. 4) Đởm Can Xung HËu khê ( VI. 3 ) Tỳ Vị Đốc Nội quan ( IX. 6 ) Tiểu trường Tâm Âm duy Liệt khuyết ( I. 7 ) Tam tiêu Nhâm Trung Phế Đại trường Cung Chiếu hải ( VIII. 6 ) Bàng quang 113 V.5. Bát mạch giao với bát hội huyệt; Bátquái, kinh âm, Huyệt khóa Thông với Hợp ở vùng dương và mã số mạch  Công tôn Cha Ngực, Nội quan Mẹ Tâm vị D Hâu khê Chồng Khóe mắt trong, Thân Mạch Vợ cổ Túc lâm khấp Nữ Khóe mắt ngoài Ngoại quan Nam Sau tai Liệt khuyết Chủ Yết hầu,ngực Chiếu hải Khách Ghi chú :  là kinh âm, D là kinh dương. *Công tôn thuộc Càn ( trời ), nên gọi là cha, huyệt Nội quan thuộc kinh Tâm bào là mẹ âm huyết ứng với Cấn ( số 8 ) số âm là mẹ * Hậu khê thuộc kinh Tiểu tràng ( hỏa ) ví là chồng Thân mạch thuộc kinh Bàng quang ( thủy ) ví là vợ * Ngoại quan ứng với quẻ Chấn ( số 3 ) thuộc dương là nam Túc lâm khấp ứng với ( số 4 ) quẻ Tốn thuộc âm là nữ * Liệt khuyết ứng với số 9 quẻ Ly thuộc dương là chủ Chiếu hải ứng với số 2 quẻ Khôn thuộc âm là khách Đề ra các mối quan hệ trên để giúp cho quá trình châm cứu đạt hiệu quả. Khi tính được số của huyệt, nếu được số 3 tương ứng với huyệt Ngoại quan thì ta có thể châm thêm Túc lâm khấp để tăng thêm tác dụng vì đó là mối quan hệ nam nữ, hoặc khi tìm ra số 6 thì ta châm huyệt Công tôn và có thể châm thêm Nội quan vì đó là mối quan hệ |
cha mẹ. V.6. Thiên can và Địa chi phối số *Thiên can gồm có 10 can: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh, Tân, Quí Trong đó số lẻ thuộc dương và số chẵn thuộc âm *Địa chi gồm Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi 12 114 Cấu trúc của Linh Qui Bát Pháp ngoài bát quái, bát mạch, bát huyệt còn phối hợp với số can chi của ngày và can chi giờ rồi căn cứ vào số sinh thành của ngũ hành và tính âm dương của can chi. BẢNG PHỐI SỐ CAN CHI NGÀY Thiên can Địa chi Phối với số thành của ngũ hành Giáp (1) Kỷ (6) Thìn (5) Tuất (11) Sửu (2) Mùi (8) Ất (2) Canh (7) Thân (9) Dậu (10) Đinh (4) Nhâm (9) Dần (3) Mão (4) Mậu (5) Quý (10) Tý (1) Ngọ (7) Tỵ (6) Hợi (12) Bính (3) Tân (8) Các số phối này dựa vào số thành các hành trong Hà Đồ. Riêng Bính Tân cũng phối với số 7 vì quan hệ với thủy, hỏa BẢNG PHỐI SỐ CAN CHI GIỜ Phối với số Tý (1) Ngọ (7) Sửu (2) Mùi (8) Dần (3) Thân (9) Mão (4) Dậu (10) Thìn (5) Tuất (11) Tỵ (6) Hợi (12) Lý do phối số dựa vào số thứ tự. Từ Giáp tới Nhâm có 9 số. * Từ Tý đến Thân cũng có 9 số. Do đó Nhâm và Thân cùng thuộc số 9. * Về can ( Giáp & Kỷ) đến Nhâm cũng có 9 số nên phối với số 9 Về chi ( Tý & Ngọ ) đến Nhâm có 9 số nên phối hợp với 9 * Can ( Ất & Canh ) đến Thân có 8 số nên phối với số 8 |
Chi ( Sửu & Mùi ) đến Thân có 8 số nên phối với số 8 Thứ tự các số phối giống như trên Riêng Tỵ Hợi ( tương xung ) đếm đến Thân có 4 số V.7. Cách tính huyệt mở theo giờ của Linh Qui Bát Pháp Điều kiện là phải biết can chi ngày giờ, phối số can chi ngày giờ. Đem cộng 4 số phối can chi ngày giờ. Sau đó nếu ngày dương ( Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm ) thì chia cho 9, ngày âm ( Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quí ) chia cho 6. Rồi lấy số dư đối chiếu với bản đồ phối hợp nêu trên xem số ứng với mã số của huyệt mở nào. Nếu không còn dư thì ngày dương huyệt mở là 9, ngày âm huyệt mở là 6. Công thức tính mã số huyệt mở: Số phối can ngày+ số phối chi ngày+ số phối can giờ+ số phối chi giờ Mã số = 9 ( ngày dương ) hoặc 6 ( ngày âm ) 115 Ví dụ 1: Tính xác định huyệt mở ở giờ Ất Sửu ngày Giáp Tý: Theo bảng phối số can chi ngày thì Giáp là 10, Tý là 7 Theo bảng phối số can chi giờ thì Ất là 8, Sửu là 8. Ngày Giáp là ngày dương nên ta chia cho 9 Ta có số dư là mã huyệt mở = ( 10+7+8+8 ) : 9 = 3 , dư 6 Đem 6 đối chiếu với bản đồ phối Bát Quái Lạc Thư Bát huyệt thì 6 thuộc quẻ Càn là huyệt Công tôn. Trên lâm sàng, ta châm huyệt mở này trước, sau đó phối hợp với công thức điều trị bệnh, nếu kết quả chưa vừa ý ta châm thêm huyệt đôi của nó là Nội quan ( là mối quan hệ cha mẹ) |
Ví dụ 2: xác định huyệt mở giờ Kỷ Mão ngày Ất Sửu theo bảng phối số can chi ngày: Ất là 9, Sửu là 10, Can chi giờ Kỷ là 9, Mão là 6 Ngày Ất là âm nên chia cho 6. Do đó mã số huyệt mở ở giờ trên như sau: Số dư là mã số mở huyệt ( 9 + 10 + 9 + 6 ) : 6 = 5 , dư 4. Số 4 là mã số huyệt Túc lâm khấp ứng với quẻ Tốn. Muốn tăng hiệu quả nên châm thêm huyệt Ngoại quan là huyệt đôi của nó ( là mối quan hệ nam nữ ) Ngoài ra trong Linh Qui Bát Pháp còn có nguyên tắc " bệnh bên phải châm bên trái và ngược lại" và phép nghinh tùy bổ tả để hỗ trợ như xuôi đường kinh là bổ và ngược đường kinh là tả. KẾT LUẬN Sử dụng huyệt trong Linh Qui Bát Pháp về cách tính phức tạp nhưng chỉ cần nhớ 8 huyệt và có bảng tra sẵn. Còn Tý Ngọ Lưu Chú cần nhớ 66 huyệt ngũ du. Vì vậy Linh Qui Bát Pháp dễ sử dụng và có hiệu quả cao. Cần tra cứu nhanh, ta có bảng tra cứu sẵn, chỉ cần có quyển lịch ghi can chi ngày và giờ khởi là ta có thể tra ra mã số huyệt mở. Cách tra cứu giờ mở các huyệt trong ngày: Ví dụ 1: Một bệnh nhân bị hen phế quản lúc 8 giờ sáng ngày thứ hai mồng 5 tháng 6 2006 tức là ngày 10 5 âm lịch, ngày Ất Sửu giờ Thìn. Để tra bảng, ta tìm ngày Ất sửu, rồi đọc từ ngoài vào trong theo thứ tự: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, ta đươc số 2. |
Vậy số 2 chính là mã số huyÖt mở. Đó là huyệt Chiếu hải. Ta tiến hành châm các huyệt sau: a Huyệt mở: Chiếu hải và Liệt khuyết. b Huyệt điều trị: là các huyệt điều trị hen như Thái uyên, Phế du, Xích trạch, Khổng tối, Chiên trung …. Ví dụ 2: Một bệnh nhân bị viêm loét dạ dày, tá tràng lên cơn đau vào lúc 14 h chiều thứ bảy ngày 12 tháng 8 năm 2006 dương lịch tức là ngày 19 tháng 7 âm lịch. Đó là ngày Quí Dậu giờ Mùi. Tra bảng ngày Quí Dậu và đếm từ ngoài vào trong theo thứ tự: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi ta được số 3. Vậy số 3 là mã số huyệt mở, trên bản đồ đó là huyệt Ngoại quan. Ta châm huyệt mở là Ngoại quan và Túc lâm khấp phối hợp với công thức huyệt điều trị như Túc tam lý, Trung quản, Thiên khu, điểm dạ dày trên loa tai,…. 116 TRA CỨU GIỜ MỞ HUYỆT Theo Linh Qui Bát Pháp Chú thích : Số 1 : Thân mạch ( Huyệt số 62 kinh số VII ) Số 6 : Công tôn ( Huyệt số 4 kinh số IV ) Số 2 và 5 : Chiếu hải ( Huyệt số 6 kinh số VIII ) Số 7 : Hậu khê ( Huyệt số 3 kinh số VI ) Số 3 : Ngoại quan ( Huyệt số 5 kinh số X ) Số 8 : Nội quan ( Huyệt số 6 kinh số IX ) Số 4 : Túc lâm khấp ( Huyệt số 41 kinh số XI ) Số 9 : Liệt khuyết ( Huyệt số 7 kinh số I ) Phối hợp huyệt Công tôn + Nội quan |
Hậu khê + Thân mạch Ngoại quan + Túc lâm khấp Liệt khuyết + Chiếu hải TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Tất Tố, ( 1995 ) Kinh Dịch. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2. Phan Bội Châu, toàn tập ( 1990 ). NXB Thuận Hóa –Huế 3. Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch (1994 ). NXB Văn Học 4. Trần Thúy (1995 ). Y Dịch. NXB Y Học. 5. Hải Thượng Lãn Ông, ( 1995 ) Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. NXB Y Học 6. NguyÔn Hoµng §iÖp, ( 2002 ) B¸t Quái và Lịch Vạn Niên. NXB Văn Hóa Thông Tin 7. Nguyễn Văn Thang (1991 ) Lịch Thời Châm Cứu Học. Câu Lạc Bộ YHCT Thành Phố Hồ Chí Minh. 8. Trần Thúy Thái Hà ( 1995 ) Châm Cứu Giản Yếu. NXB Quân Đội Nhân Dân 9. Lê Gia ( 2000 ) Dịch Học Giản Yếu. NXB Văn Hóa Thông Tin 10.Nguyễn Tử Siêu ( 2001 ) Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn. NXB Văn Hóa Thông Tin. 11.Bộ Môn YHCT, Trường Đại học Y khoa Hà Nội ( 1993 ). Bài Giảng YHCT Tập 1. NXB Y Học 12.Bộ Môn YHCT, Trường ĐHYK Hà Nội ( 1993 ). Bài Giảng YHCT Tập 2. NXB Y Học. 13.Trần Thúy (2000 ). Nạn Kinh. NXB Y Học 14.Trần Thúy (2000 ). Nội Kinh. NXB Y Học 15.Thiều Chửu ( 1999 ) Hán Việt Tự Điển. NXB Văn Hóa Thông Tin. 16. Nguyễn Văn Đạm ( 1999 2000 ) Từ Điển Tiếng Việt. NXB Văn Hóa Thông Tin 17.Lê Quý Ngưu – Lương Tú Vân ( 1998 ) Hướng dẫn viết đọc và dịch Hán nôm trong Đông y. NXB Thuận Hóa 118 Document Outline Thoán từ và dịch nghĩa được trích nguyên văn từ Kinh Dịch do Ngô Tất Tố chú giải và biên dịch từ bản gốc là sách Chu Dịch. Những chỗ khó diễn đạt, chúng tôi vận dụng cách giải thích của Phan Bội Châu, Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Hoàng Điệp trên cơ sở khảo cứu hai tác giả trên |
Bát Quái Tiên Thiên Đồ IX. HẬU THIÊN BÁT QUÁI |
Luận Ngữ Khổng Tử 论语 Phùng Hoài Ngọc biên dịch – chủ giải bàn luận Đại học An Giang, 2011 Khổng tử dạy học 1 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net MỤC LỤC Lời nói đầu. 2 1. 学而 Học nhi 8 2. 为政Vi chính. 13 3. 八佾 Bát dật 20 4. 里仁 Lý nhân. 29 5. 公冶长Công Dã Tràng. 35 6. 雍也Ung dã. 44 7. 述而 Thuật nhi 53 8. 泰伯 Thái Bá. 63 9. 子罕Tử hãn. 69 10. 言乡党Hƣơng đảng. 78 11. 先进Tiên tiến. 85 12. 颜渊 Nhan Uyên. 95 13. 子路Tử Lộ. 103 14. 宪问Hiến vấn. 113 15. 卫灵公Vệ Linh công. 126 16. 季氏 Quí thị 137 17. 阳货 Dƣơng Hóa. 143 18. 微子 Vi Tử. 152 19. 子张 Tử Trƣơng. 157 20. 尧曰 Nghiêu viết 165 2 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net BÀI TẬP NGHIÊN CỨU LUẬN NGỮ. 167 PHỤ LỤC SƠ LƢỢC LỊCH SỬ TRUNG QUỐC……………………….…………. 168 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………….169 LỜI NÓI ĐẦU Văn học Trung Quốc thời cổ đại còn gọi Văn học tiên Tần, có 4 thành tựu chính: 1/Thần thoại, 2/ Ca dao dân ca (Kinh Thi) 3/ Khuất Nguyên và Ly Tao, 4/ Bách gia chƣ tử. Trong Bách gia chư tử, quan trọng nhất là Khổng tử và Nho học. Trong Nho học, Luận ngữ mang tính tiêu biểu, đƣợc coi là tập đại thành của Nho học. Luận ngữ cũng là tác phẩm đầu tiên của thể loại tản văn cổ đại. Khổng tử – Nho học Khổng tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trƣớc CN, mất tháng 4 năm 479 tr.CN, thọ 73 tuổi. Nho học là khoa học giáo dục do Khổng tử sáng lập, Mạnh tử đời sau nối tiếp và hoàn chỉnh về |
cơ bản. Giải thích nội dung chữ “Nho”: 儒. Thời Tây Chu, một chức quan coi việc lễ nhạc gọi là Nho quan (儒官). Đời Đông Chu, học thuyết Khổng tử ra đời rất coi trọng lễ nhạc nên đời sau gọi tên là Nho học (Xem bài 1 thiên Tiên tiến trang 76). Hơn hai thế kỷ sau khi Khổng tử qua đời, Nho học mới đƣợc chính thức phổ biến, áp dụng rộng rãi, từ thời nhà Hán (206 tr.CN 220 CN) kéo dài đến nhà Thanh. Qua mỗi triều đại, lại có các nhà nho nổi tiếng biên soạn gia giảm, chú giải, bàn luận… Tất cả những tác gia ấy đƣợc gọi chung là bậc thánh hiền, trong đó Khổng tử là đại thánh, Mạnh Tử là á thánh (hai vị đứng đầu Nho gia). 3 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Ở ViệtNam, học thuyết Khổng Mạnh do các quan thái thú Trung Quốc áp đặt cho ngƣời Việt học. Đến thời Lý Trần, khi nhà nƣớc Đại Việt giành lại độc lập, tự chủ, mở đầu kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc thì tổ tiên ta chủ động du nhập học thuyết này Khi đã đƣợc đông đảo dân chúng kể cả ngƣời mù chữ hâm mộ, coi trọng thì Nho học đƣợc gọi là Nho giáo (hoặc Khổng giáo), đƣợc sùng bái nhƣ một tôn giáo. Nho học gồm hai bộ sách cơ bản: Tứ thƣ (4 quyển) và Ngũ kinh (5 quyển). Tứ thƣ gồm: Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh tử, Ngũ kinh gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân thu Thử so sánh với các kinh điển khác (Ngũ kinh, Tứ thƣ): Kinh Thi: thành tựu thi ca dân gian đầu tiên, sau này Đƣờng thi, từ Tống vƣợt qua (sau khi đã tiếp thu nghệ thuật thi ca của Kinh thi). |
Kinh Thƣ:“sử” thời truyền thuyết (Nghiêu, Thuấn, Vũ, Hạ, Thang,Chu) nêu gƣơng tiền nhân. Kinh Dịch: sách triết học, sách bói. Ngày nay chỉ còn một số ít học giả Kinh Dịch ở Việt Nam tiếp tục nghiên cứu Kinh Dịch ứng dụng trong việc phục vụ cho bộ phận nhỏ ngƣời hâm mộ (làm nhà, xuất hành, đám cƣới, đám tang, tìm đất táng, xem hậu vận.v.v…) nhìn chung it phổ biến trong cộng đồng. Kinh Lễ: phần nghi lễ đã thay đổi nhiều qua các giai đoạn lịch sử, phần tinh thần đƣợc đúc kết chuyển vào trong Luận ngữ (Lễ là xuất phát điểm và trung tâm của Khổng học). Kinh Xuân thu: đã bị vƣợt qua bởi nhiều sử sách thời Hán về sau, mở đầu với “Lã thị Xuân thu” (Lã Bất Vi chủ biên), Sử ký Tƣ Mã Thiên… Mạnh tử thƣ: nội dung tập trung vào việc dạy dỗ khuyến cáo vua chúa, ít tính phổ biến cộng đồng. Đaị học: quan điểm tu thần, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trung dung: quan điểm về ứng xử cân bằng trong cuộc sống. Những điểm cơ bản của Đại học và Trung dung cũng đƣợc thể hiện trong Luận ngữ. So sánh, đối chiếu các sách trên, nhận thấy Luận ngữ có tính bao quát nhiều sách khác, đại diện cho bộ Tứ thƣ. Nội dung Luận ngữ tập trung vào rèn luyện phẩm cách cá nhân và còn giữ gần nguyên vẹn giá trị nhân văn cơ bản thời hiện đại. 4 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Ngày nay chúng ta tiếp tục Luận ngữlà kế thừa một hệ thống đạo đức mẫu mực, toàn diện vốn tồn tại cả nghìn năm. Chúng ta chỉ lƣợc bỏ các yếu tố lạc hậu, phục vụ cho việc giáo dục và tự |
giáo dục trong thời kỳ hiện đại. Nếu Ngũ kinh là “phần cứng” cần nắm vững thì Tứ thư là “phần mềm” nhằm vận dụng linh hoạt vào thực tiễn. Trong Ngũ kinh có hai tác phẩm quan trọng là Kinh Dịch và Kinh Thi (Kinh Thi đã đƣợc học trong chƣơng trình đại học Ngữ văn rồi). Trong Tứ thƣ, sách Luận ngữ đƣợc coi là then chốt bởi nó có khả năng bao quát hầu hết Tứ thƣ, lại miêu tả đƣợc những hằng số của con ngƣời một cách độc đáo, sinh động và còn hứa hẹn sức sống mãi về sau. Các nhà văn hóa nổi tiếng nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến…và nho sinh ViệtNamngót nghìn năm đều là học trò Nho học. Năm 1919 kỳ thi Hán học cuối cùng diễn ra ở Việt Nam. Năm 1940 chính quyền thực dân Pháp xoá hẳn giờ học chữ Nho trong chƣơng trình trung học. Nhƣng ngay năm 942, dƣới áp lực của giới trí thức tiến bộ và để tranh giành ảnh hƣởng với ngƣời Nhật, ngƣời Pháp đã cho lập ra chuyên ban Cổ học Á Đông, học 6 năm với 5 tiết chữ Hán /tuần ở bậc trung học. Sau Cách mạng tháng 8, trong vùng kháng chiến, bậc trung học cấp II nhiều nơi vẫn học chữ Hán mỗi tuần 3 tiết, nhƣng sau đó thì lại bỏ. Đặc biệt đến năm 1950, khi có cải cách giáo dục thì chữ Hán ở trường phổ thông bị bỏ hoàn toàn. Điều đó có nghĩa Nho học cũng không còn được truyền bá chính thức nữa. Tuy nhiên, c ó những gia đình nho phong tiếc rẻ vẫn lặng lẽ dạy con trẻ các bài học cơ bản rút trong Luận ngữ, họ coi đó là cái gốc rễ văn hóa của con ngƣời phƣơng Đông, bất kể chế độ chính trị thay đổi nhƣ thế nào. |
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết “Khổng tử, chúa Giê su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ sống chung với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò của các vị ấy”. (Trong cuốn“Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, tác giả Trần Dân Tiên, đƣợc công bố là bút danh Hồ Chí Minh). Tuổi trẻ Nguyễn Tất Thành đã từng là học trò của Nho giáo. Trong Giáo trình TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH (Bộ Giáo dục Đào tạo, xuất bản 2009) dành cho sinh viên cao đẳng, đại học, chƣơng 7 nêu tóm tắt quan điểm đạo đức cách mạng của Hố Chí Minh gồm 3 điểm: 1/ Trung với nước, hiếu với dân. 2/ Cần, kiệm, liêm ,chính, chí công, vô tư 3/ Có tinh thần quốc tế trong sáng. Chúng tôi thấy 03 nội dung đó đều cơ bản xuất phát từ Luận ngữ và học thuyết Nho gia với sự diễn đạt và vận dụng khác đôi chút. 5 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Ngày nay trong việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến giữ vững bản sắc dân tộc, chúng ta cần đãi cát tìm vàng, bảo tồn và trang bị tinh hoa truyền thống làm hành trang cho thế hệ trẻ đi vào hiện đại. Trong hành trang văn hóa đó, có truyền thống Nho học – một bộ phận cơ bản của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong công cuộc Đổi Mới hơn 20 năm qua, nhiều học giả đã lên tiếng yêu cầu khôi phục dạy Hán văn trong trƣờng phổ thông trên nhiều diễn đàn, báo chí và một số |
Hội thảo khoa học. Giáo viên dạy Văn ở nƣớc ta đôi khi cần thiết vẫn nhắc đến Khổng tử và Nho học trong bài giảng. Không chỉ vận dụng Nho học trong nghiên cứu văn học ViệtNamtrung đại, ngay cả văn học hiện đại cũng không thể bỏ qua Nho học. Tuy nhiên nhiều ngƣời chỉ đọc sách của các nhà nghiên cứu bình luận đánh giá ƣu điểm, nhƣợc điểm chung chung của Nho học mà chƣa đọc trực tiếp tác phẩm của Khổng tử. Đọc lời văn Khổng tử, chúng ta sẽ thấy nhiều thú vị hấp dẫn hơn và thu hoạch nhiều ích lợi khác trong nghiên cứu. Luận ngữ cuốn sách tiêu biểu của Nho học Luận ngữ là một trong những giá trị quí báu độc đáo, tài sản chung của các nền văn hóa khu vực đồng văn (Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Hàn quốc, Nhật Bản và Việt Nam). Luận ngữ ([1]) là sách do học trò và hậu thế ghi chép lại những lời nói, hành vi của Khổng tử, học trò ông và ngƣời đƣơng thời. Luận ngữ là sự tóm lƣợc những bài giảng, các buổi học và thuật lại nhiều sự việc, nét sinh hoạt của thầy trò Khổng tử. Sách gồm 20 thiên (tƣơng đƣơng với 20 chƣơng), mỗi thiên gồm nhiều bài. Cách đặt tên thiên: lấy hai chữ xuất hiện đầu thiên làm tựa đề. Có lẽ thật khó đặt một cái tên bao quát nội dung phong phú của thiên. Mỗi thiên có nhiều bài (mỗi bài chỉ là một câu nói, một đối thoại hoặc một câu chuyện rất ngắn). Toàn bộ Luận ngữ có 511 bài, chỉ là 511 câu nói, đối thoại, mẩu chuyện cực ngắn. Nội dung bao trùm hầu hết những quan niệm về lễ, nhân, đức, trung, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm, âm nhạc, văn chƣơng. hội họa, những tình huống đối nhân xử thế đa dạng trong cuộc sống cho đến việc giải trí, nghỉ ngơi, ăn uống. Qua những bài học ngắn gọn, hình ảnh ngƣời quân tử và tiểu nhân hiện lên tƣơng phản rõ nét, trong đó tấm gƣơng vua hiền, quan chức mẫu mực và kẻ sĩ chân chính nổi bật ở vị trí trung tâm của cuốn sách. |
Đọc qua Luận ngữ, ta thấy nội dung các thiên dƣờng nhƣ rời rạc, không có liên hệ với nhau. Thực ra, ngƣời quân tử chính là sợi chỉ đỏ kết nối, xuyên suốt tập sách. Chữ nhân (hai chữ:人, 仁) là phẩm chất của quân tử, khái niệm mở ra từ hẹp tới rộng, đến vô cùng. Nội dung chính của Luận ngữ là Quân tử. Chữ Hiếu là điều kiện tiên quyết của quân tử. Khổng tử coi chữ Hiếu ([2]) là điều kiện tiên quyết thì các vua chúa đời sau nhƣ Hán, Đƣờng, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đẩy nó xuống hàng thứ 2 và đặt chữ Trung (trung quân: trung thành với nhà vua) lên hàng đầu. 6 Luận Ngữ Khổng Tử Phùng Hoài Ngọc biên giả www.vietnamvanhien.net Đọc sách này, ta hiểu đƣợc phẩm chất tƣ cách của thầy trò Khổng tử và những ngƣời khác. Đó là những bài học thực tế, tránh đƣợc giáo điều. Luận Ngữ trình bày đạo quân tử qua lời nói và những câu chuyện sinh động, không giảng lý thuyết dài dòng nhƣng rất ấn tƣợng, dễ hiểu. Nhân vật chính là thầy Khổng tử với bao buồn, vui, lo âu, lạc quan, thất vọng. Thầy Khổng đôi khi cũng mắc khuyết điểm nhƣng không giấu diếm. Về phƣơng pháp giáo dục, Khổng tử thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi ngƣời. Có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi ngƣời một cách khác nhau. Luận ngữ có 5 mục tiêu giáo dục rõ rệt: Học làm ngƣời. Học làm công dân. Học làm quan. Học làm vua. Học làm thầy giáo. Đọc Luận ngữ rất khó hiểu thông nghĩa lý, bởi từ ngữ cổ và ngữ pháp cổ thô sơ. Vậy nên cần phải có thầy ngồi trên giảng sách. Thầy giảng bằng kim văn (tiếng nói đƣơng thời) thì học trò mới hiểu đƣợc. Thực ra, giảng bài tức là thầy đang “phiên dịch” cổ văn thành kim văn vậy. Lời văn của Luận ngữ rất ngắn gọn, diễn giải minh bạch bằng tiếng ngày nay ắt phải dài dòng hơn. |
Lời Khổng tử đƣợc dân gian coi nhƣ thành ngữ, tục ngữ khi truyền bá trong sinh hoạt. Sau khi “phiên dịch” cổ văn thành kim văn, thầy liên hệ với thực tế (tùy theo vốn sống của thầy) và cho học trò thảo luận, tự liên hệ thực tế. Ngay cả thầy giáo Trung Quốc ngày nay vẫn phải giảng (dịch) cổ văn cho học trò Trung Quốc, cũng nhƣ thầy giáo phong kiến Việt Nam từng giảng sách cho học trò thời xƣa. Có lẽ đó là một lí do của thành ngữ “Không thầy đố mày làm nên”.(Học trò Nho học thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn đã rất khổ công khi học và làm bài thi bằng Hán văn. Trong số họ, có hơn 200 ngƣời xuất sắc từng đƣợc cử đi làm sứ giả nƣớc Đại Việt sang Trung Quốc với hành trang Nho học “đem chuông đi gõ xứ ngƣời”, khiến giới trí thức phong kiến Trung Hoa rất khâm phục trí tuệ ViệtNam). Sách Luận ngữ (cùng với sách khác bổ sung qua mỗi triều đại) đƣợc dạy trong các nhà trƣờng từ thời nhà Hán, do học trò đời sau của Khổng tử sƣu tập lại, truyền đến đời Tống mới biên tập thành sách. Những ngƣời biên soạn cố gắng giữ nguyên lời nói Khổng tử xƣa. Lời cổ nhân đƣợc truyền bá nguyên văn, mang tính cổ kính thiêng liêng nên có sức thuyết phục hơn. Luận ngữ là cuốn sách với lời văn giản dị, bề ngoài tƣởng nhƣ đọc để giải trí. Đây là cuốn sách giáo khoa mở đầu cho truyền thống biên soạn sách học ở Trung Quốc về sau nhƣ Tam tự kinh, Ngũ tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi. v.v… Ngày nay bạn đọc có thể thấy vài điều trong Luận Ngữ đã lạc hậu, ta có thể phê phán, bỏ qua đi. |