text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Nguyễn Minh Châu với tác phẩm tiêu biểu cho cả phong cách lẫn nghệ thuật là "Chiếc thuyền ngoài xa” – đây là tác giả thuộc trong số những nhà văn mở đường tài năng, tinh anh nhất cho văn học nước ta hiện nay. Quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường đã được thể hiện rõ ở “Chiếc thuyền ngoài xa”. Nhân vật Phùng là một người quý trọng và say mê nghề nghiệp nhiếp ảnh của mình, anh được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh thuyền và biển trong sương mù vào giữa tháng bảy để in trong bộ lịch năm sau. Chính vì muốn tìm tới những điều mới lạ và đẹp đẽ cho nên Phùng đã tìm về vùng ven biển miền Trung nơi chiến trường xưa. Phùng còn là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp. Trước vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật, tâm hồn người nghệ sĩ trở nên khó tả: “tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào…tôi tưởng như chính mình vừa tham gia vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Trong giờ phút thăng hoa cùng cái đẹp anh cảm nhận cái đẹp chính là đạo đức”. Là người yêu cái đẹp khi mà được chứng kiến được chạm vào vẻ đẹp ấy thì quả là một điều tuyệt vời khó có thể diễn tả nổi Muốn có được những khoảnh khắc và bức hình ăn ý, Phùng đã bỏ ra thời gian là một tuần lễ suy nghĩ tìm kiếm, phục kích mới chụp được một bức ảnh ưng ý, một cảnh đắt trời cho.Trong tác phẩm này, anh không chỉ là người yêu cái đẹp mà thờ ơ với mọi thứ mà còn là người căm ghét áp bức bất công, dám đối diện với cái ác và hành động chống lại cái ác. Sau phút ngỡ ngàng thấy cái ác, diễn ra ngay trước mắt, Phùng đã phản xạ một cách tự nhiên như một người yêu sự công bằng. Anh vội vàng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy đến ngăn cản người đàn ông vũ phu. Là người từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người. Anh vẫn giữ quan điểm từ thời chiến tranh “cái xấu ắt là từ phía địch”, vì thế anh đã ngộ nhận “gã đàn ông vũ phu kia hẳn là từng đi lính ngụy”, rồi đặt ra một câu hỏi “ lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?”, Anh cho rằng hành động của anh là hành động của một người anh hùng “ tôi nện hắn ta bằng tay không nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay của một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay của một người lính đã từng mười năm cầm súng”.. Hình ảnh người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.người đàn bà ấy thật đáng cảm thông trân trọng sâu sắc chính bởi vì đức bao dung chịu thương chịu khó của người..Chồng của bà la 1 người đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài,những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào. Những người như Phùng khi chứng kiến cảnh tượng đó phải trăn trở đối phó ra sao. Chính vì thế cốt truyện đóng góp một phần quan trong không kém trong khắc họa những nội dung của tác phẩm.Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người , Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ. Từ đó ta rút ra một triết lí nhân sinh sâu sắc rằng:” Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá.Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống. Với lời kể tự nhiên và giống như tác giả cũng đang là người chứng kiến tất cả những cảnh đó cho nên những cảnh và cảm xúc tới với độc giả thật tự nhiên và đầy những nghệ thuật điển hình giúp tác phẩm ngày một thành công và giàu ý nghĩa hơn.Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ
948
Sách giáo khoa Ngữ văn 12 nâng cao tập I NXB Giáo dục 2008 trang 132 có nhận xét về nhà thơ Thanh Thảo: “Thơ Thanh Thảo dù viết từ cảm hứng công nhân hay từ các cảm hứng khác đều đậm chất triết luận. Mạch suy cảm trữ tình trong thơ ông thường hướng tới những vẻ đẹp tinh thần con người: nhân ái, bao dung, can đảm, trung thực và yêu tự do. Thơ ông dành mối quan tâm đặc biệt cho những con người sống có nghĩa khí, nhân cách ngời sáng dù số phận có thể ngang trái như Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê-nhin, Pa-xtéc- nắc, Gar- xi-a Lor-ca…". Trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca Thanh Thảo thể hiện niềm yêu thương, trân trọng đầy kính phục của mình không những bằng tất cả tâm hồn, tình cảm mà còn bằng cả một nghệ thuật tài hoa. Điều đó đã được thể hiện trong hai khổ đầu của bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca: Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi-ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy. Trong hai khổ này (khổ 2 và 3 – bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca) nhà thơ Thanh Thảo đã tái hiện giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời của Gar-xi-a Lor­ca. Giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời của Gar-xi-a Lor-ca là khi ông bị bọn phát xít sát hại rồi ném xác xuống giếng để phi tang. Khổ thơ thứ hai và thứ ba tập trung khắc đậm ấn tượng về cái chết bi phẫn đó. Để làm nổi bật được điều này, nhà thơ Thanh Thảo đã sử dụng hai biện pháp tu từ nổi bật là phép đối lập và phép nhân hóa. Trong phép đối lập, nhà thơ đã đem sự tự do của người nghệ sĩ đối lập với bạo lực và sự tàn bạo của bọn phát xít; đem tiếng hát yêu đời, vô tư của Lor-ca đối lập với hiện thực phũ phàng đến “kinh hoàng”, đầy máu me (“áo choàng bê bết đỏ”, “tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan”, “tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy”). Và trên hết là sự đối lập giữa tình yêu cái đẹp với những thế lực dã man tàn bạo. Trong phép nhân hóa, nhà thơ đã có một hình ảnh nhân hóa khá độc đáo: nhà thơ đã nhân hóa "tiếng ghi-ta" thành một nhân vật (Lor-ca), một cá thể con người đang “ròng ròng máu chảy”. Cách nhân hóa này có sức ám ảnh rất đặc biệt, có sức gợi cảm rất lớn, nó vừa nói lên nỗi bi phẫn của Lor-ca, vừa gợi lên nỗi đau đớn xót xa của nhà thơ trước tấn bi kịch của Lor-ca. Với cách nhân hóa này, nhà thơ Thanh Thảo đã cho chúng ta thấy: âm nhạc đã thành thân phận, tiếng đàn đã thành linh hồn, thành cả sinh thể, thân thể. Ngoài ra trong hai khổ thơ này, nhà thơ Thanh Thảo còn sử dụng biện pháp hoán dụ: dùng "tiếng hát" để chỉ Gar-xi-a Lor-ca, dùng “ áo choàng bê bết đỏ” chỉ cho cái chết của Lor-ca. Trong hai khổ thơ này còn dùng biện pháp so sánh và chuyển đổi cảm giác theo thuyết tương giao: “tiếng ghi-ta nâu”, “tiếng ghi-ta lá xanh”, “tiếng ghi-ta tròn”. Chúng ta có thể xem những so sánh này là những hình ảnh ẩn dụ về tình yêu, về cái đẹp,về cái chết, về nỗi đau… Tóm lại, trong hai khổ thớ thứ hai và thứ ba của bài thơ Đàn ghi-ta của Lor- ca nhà thơ Thanh Thảo đã đan dệt bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, có khi những biện pháp nghệ thuật này tách bạch ra; có khi đan xen vào nhau, thẩm thấu lẫn nhau để tái hiện giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời của Gar-xi-a Lor -ca một cách sinh động, đầy gợi cảm.
Phân tích giá trị nghệ thuật trong hai khổ thơ sau đây trong bài Đàn ghi-ta của Lor-ca của Thanh Thảo_ Tây Ban Nha…tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy
688
“Viếng lăng bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính,sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng bác .Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân giành cho Bác. Đặc biệt, những tình cảm ấy lại chan chứa và dạt vào ở hai khổ thơ cuối. Ở khổ thơ thứ ba là những cảm xúc của tác giả khi đi vào trong lăng và đứng trước di hài của Bác, bao tình cảm nhớ thương chất chứa bao lâu bây giờ đã vỡ òa. Chính vì thế cho nên khi gặp hình bóng của Người thì trào dâng thổn thức. Hình ảnh Bác nằm yên trong lăng được diễn tả một cách xúc động qua những dòng thơ ở khổ thứ ba này: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vãn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Bác Hồ đang nằm đấy rất dịu hiền ,nhân từ làm cho chúng ta cảm thấy rằng giống như Bác chỉ là đang ngủ một giấc ngủ yên,vẫn chưa đi xa và chưa rời khỏi thế gian này.và khi ngẩng mặt lên chúng ta thấy trời xanh, chúng ta thấy Bác , Bác vẫn sống mãi cùng với dân tộc, cùng với cuộc đời. Cho dù biết vậy nhưng sao chúng ta vẫn nghe nhói ở trong tim, mắt ta vẫn đẫm lệ khi nhận ra rằng Bác đã không còn nữa . KHổ thơ thứ hai và thứ ba được liệt ra một hình ảnh về thiên nhiên vũ trụ như là mặt trời,trời xanh, vầng trăng được lồng vào nhau như để ca ngợi tầm vóc lớn lao của Người đồng thời thể hiện lòng kính yêu vô hạn của tác giả, của toàn thể nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Để ý chúng ta sẽ thấy câu “con ở Miền Nam ra thăm Bác và cuối câu thơ cũng “mai về Miền Nam”, đó là giây phút chia tay bịn rịn ,tâm tạng không muốn xa rời khi phải chia tay với Bác Hồ kính yêu , một tâm trạng lưu luyến , bùi ngùi và xúc động : “Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Múốn làm đóa hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” Tình yêu thương của tác giả đã làm này sinh biết bao ước muốn, đó là làm con chim cất tiếng hót, đó là làm đóa hoa tỏa hương đâu đây, đó là cây tre canh giấc ngủ yên lành cho Bác. Điệp từ “muốn làm” được nhắc lại ba lần trong câu thơ với những hình ảnh được xuất hiện cho ta thấy niềm khao khát mảnh liệt và cháy bỏng của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi. Bằng những tình cảm hết sức chân thành nhà thơ Viễn Phương đã viết bài “viếng lăng Bác” như một bản tình ca sâu lắng để lại nhiều xúc cảm và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bài thơ không chỉ có giá trị hôm nay mà còn để lại mãi muôn đời sau.
Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác
560
“Viếng lăng bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính,sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng bác .Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân giành cho Bác. Tình cảm ấy chất chứa dạt dào cho chúng ta thấy ở hai khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đầu là những cảm xúc của nhà thơ khi đã đến lăng Bác, đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng. Câu thơ đầu Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác như một thông báo giản dị mà chứa đựng bao tình cảm thân thương. “ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” Cách đi vào bài của tác giả thật gần gũi và thân thương bởi nhà thơ đã hết sức khéo léo giới thiệu được vị trí của quãng đường từ Miền Nam Xa xôi để viếng lăng Bác . Tiếng “con” mở đầu cho bài thơ được cất lên với giọng tha thiết trìu mến, thân thuộc. Đó là cách xưng hô của người dân Nam Bộ , đã bộc lộ hết sự thương nhớ ngậm ngùi của nhà thơ nói chung và toàn thể đồng bào Miền Nam nói riêng. Trong cái mênh mang của sương mù Hà Nội, qua con mắt của nhà thơ thì ta chợt thấy một hàng tre xanh bát ngát . Khi đến với Bác,đến với hàng tre của thủ đô ta như nhớ về quê nhà, nhớ về làng mạc với những nhà mái lá che ngang ,rồi nhớ về tiếng ru à ơi của bà,của mẹ. Hình ảnh nhân hóa được sử dụng trong đoạn thơ này đó chính là “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”,không những đơn thuần là hình ảnh cây tre mà tác giả còn muốn nói rằng đó là biểu tượng bất diệt,kiên cường của con người Việt Nam chúng ta, màu xanh của cây tre là màu xanh của sức sống ,của hi vọng và hòa bình. Những dòng thơ độc đáo giàu ý nghĩa tượng trưng mộc mạc chân thành. Hàng tre xanh trồng xung quanh lăng của Bác Hồ kính yêu như muốn thay cả dân tộc canh giấc ngủ ngàn thu cho Người , thổi những làn gió mát vào trong lăng để Bác được ngủ ngon. Từ “ôi” đươc đặt đứng ở vị trí đầu câu , biểu hiện sự xúc động xen lẫn với niềm tự hào khôn xiết của tác giả. Đó chính là niềm tự hào của con người Việt Nam , dân tộc Việt Nam, tự hào về người Cha đã làm nên lịch sử hào hùng của cả dân tộc. ở khổ thơ thứ hai làm chúng ta lắng đọng với những vần thơ mộc mạc chứa chan tình yêu thương. “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân” Bài thơ được xem là cuộc hành hương sau bao năm chờ đợi để được trở về bên người cha già kính yêu của dân tộc. Nếu như ở khổ thơ đầu miêu tả hình ảnh hàng tre xanh như canh giấc ngủ trong lăng Bác thì ở khổ thơ thứ hai tác giả lại bộc lộ những suy nghĩ trực tiếp về Bác với những lời thơ mộc mạc chân tình. Mở đầu cho đoạn thơ là những hình ảnh đẹp vừa mang tính cụ thể lại mang một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Chúng ta phải nhận ra được rằng nhà thơ phải kính yêu lắm, phải quý mến Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình như thế .Ở trong hai câu thơ này,có hai mặt trời được tác giả nhắc tới, mặt trời thứ nhất tượng trưng cho mặt trời của vũ trụ thiên nhiên còn mặt trời thứ hai là mặt trời của nhân dân “mặt trời trong lăng” luôn chiếu sáng vĩnh hằng, luôn luôn đỏ mãi. Bác chính là vầng sáng hồng tỏa sáng giúp soi duồng dẫn lối cho chúng ta đi ,thoát khỏ kiếp nô lệ, là sức mạnh giúp cho cả dân tộc có thể chèo lái con thuyền cập tới bến bờ vinh quang, đi đến thắng lợi cuối cùng .Cho dù bac đã ra đi nhưng đối với mọi người dân Việt Nam thì người vẫn luôn luôn sống bất tử , soi đường dẫn lối cho đồng bào đứng lên. Ở đoạn thơ tiếp theo khi dòng người bùi ngùi bước bào lăng, tác giả xúc động mà viết : “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” Hình ảnh dòng người khi đi vào trong lăng Bác được tác giả ví như những tràng hoa dâng người, bảy mươi chín tràng hoa được tác giả ví như bảy mươi chín mùa xuân của người, những năm người đang sống là những năm cống hiến hết mình cho quê hương đất nước. Và Bác chính là mùa xuân, mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời của những người con của Người nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày “ đứng ở đầu câu như một quy luật tự nhiên, ngày ngày dòng người vào viếng lăng Bác không bao giờ hết, đó là quy luật của tạo hóa. Tràng hoa ở đây không chỉ là hoa thơm của thiên nhiên đất trời dâng cho Bác mà còn là những tràng hoa của niềm thương nhớ, biết ơn và ngưỡng mô. Chính niềm thương nhớ ấy đã kết một tràng hoa đầy đủ hương và sắc để dâng lên Người. Như chúng ta vừa nhắc ở trên về hình ảnh bảy mươi chín mùa xuân, đó là hình ảnh ẩn dụ , cho thấy cuộc đời của Bác đẹp như mùa xuân vậy, đó là bảy mươi chín năm sống và cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng của đất nước . Tràng hoa dâng lên như được thấy bác mãi luôn sống trong lòng mọi người dân Việt Nam. Tóm lại, chỉ với hai khổ thơ trên đã thể hiện được những suy nghĩ của nhà thơ về vị cha già của dân tộc. Tác giả đã cho chúng ta hình dung ra một cách rõ nét về hình ảnh của Người đồng thời bộc lộ niềm thương nhớ và sự thành kính sâu sắc của cả dân tộc đối với Bác.
Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Viếng lăng Bác
1,132
Tố Hữu là một nhà thơ luôn gắn liền với những chặng đường cách mạng và cũng là một nhà thơ mang phong cách nghệ thuật chính trị trữ tình. Và ông luôn có một kho tàng viết về những chủ đề về quê hương đất nước, trong đó tiêu biểu có bài thơ mang đến hình tượng của anh bộ đội cụ hồ Miền Nam. Trong thơ Tố Hữu thì những người chiến sĩ cách mạng Miền Nam luôn là những con người đẹp nhất bởi vì các anh là người đứng lên giải phóng cho đất nước khỏi những ách thống trị của bọn xâm lược. “Vì độc lập, tự do, núi sông hùng vĩ Vì thiêng liêng giá trị con người Vì muôn đời hoa lá xanh tươi” Lí tưởng của các anh hùng bộ đội cụ hồ được thừa kê từ ông cha ta để lại, lòng yêu thương đồng bào tổ quốc đã khiến cho các anh vững dạ hơn trên chiến trường. Các anh ra đi cũng là muốn cho đất nước được độc lập tự do , hạnh phúc, không những vậy còn giúp chúng ta đòi lại giá trị quyền làm người cho cả dân tộc . Có thể nói rằng các anh ấy đang mang trên mình cả sự nghiệp của non sông đất nước , tuy gian lao vất vả là thế nhưng các anh không hề lùi bước mà kiên quyết lên đường vì lí tưởng cao đẹp cứu nước. Các anh ra đi mà không hề cảm thấy mình bị éo buộc, ngược lại còn thấy được niềm hạnh phúc vì sự cống hiên trong đó . Và vẻ đẹp hình tượng của các anh được thể hiện qua những dòng thơ tiếp theo: “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa Vui gì hơn làm người lính đi đầu Trong đêm tối trái tim thành ngọn lửa” Các anh đang ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước , chính vì vậy cho nên mới có câu: vui gì hơn khi làm người lính đi đầu,mang lại sự ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Cho dù gian nan vất vả phải thức trắng cả đêm thì các anh vẫn luôn cảm thấy được lòng mình đầy sự tự tôn của dân tộc.Chính vì thế mà đêm có tối tăm mịt mùng tới cỡ nào thì chính trái tim của các anh vẫn là ngọn lửa để soi đường. Các anh còn hiểu được những việc làm của mình,làm cho ai và vì ai, tại sao phải làm như vậy, các anh chiến đấu không hề vô nghĩa hay trong sự ép buộc gì : “Ta hiểu vì sao ta chiến đấu Ta hiểu vì sao ta hiến máu” Những người chiến sĩ ấy luôn mang trong mình sự kiên cường với phẩm chất tốt đẹp đó chính là vượt qua được mọi gian lao khó khăn,ngọn núi đã cao nhưng ý chí của họ còn cao hơn cả núi và cứ như thế nhà thơ càng tháu hiểu được những phẩm chất đó của các anh . “…ngày đi vắt với sương Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương Đêm mưa rình giặc ta thao thức Mùa lại qua mùa rét nhức sương” Với những khó khăn gian lao vất vả với đem mưa, mùa rét nhưng các anh vẫn chiến đấu hết mình và kiên cường luôn nở nụ cười hiền lành để hoàn thành tốt công việc của mình. Nhà thơ Tố Hữu đã đặc biệt ghi lại những vẻ đẹp cam chịu gian khổ vất vả của các anh và qua đó ta thấy được những phẩm chất cao đẹp của họ: “Giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế” Hay là có đoạn : “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa đạn Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không lún Đó là những câu thơ hay có gái trị nhất nói về sự cam chịu, sự gian khổ của các anh khi ở trên chiến trường. Có thể nói rằng chính những lí tưởng sáng ngời ấy đã dẫn dắt được các anh vượt qua mọi gian khó, mọi điều kiện thiếu thốn vất vả ở trên chiến trường. Các anh bộ đội ấy còn hiện lên rất hào hùng kiên cường mạnh mẽ trong những cuộc hành quân dẫn đến thành công: “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trung trùng Ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan” Đặc biệt là hình ảnh anh bộ đội lúc đang cầm súng bắn hi sinh, tạo nên một hình ảnh bất diệt, nói lên sự căm thù của chúng ta đối với quân giặc và tố cáo tội ác của chúng : “Và anh chết trong khi đang đứng bắn Máu anh phun theo lửa đạn cầu vòng” Tuy bị trúng đạn nhưng các anh không hề ngã xuống và vẫn giữ được sự hiên ngang bất khuất ,làm nên một dáng đứng lịch sử. Tuy là chết nhưng các anh luôn bất tử trong lòng mọi người dân Việt Nam. Cho dù bản thân mình phải chịu nhiều gian khó vất vả khổ cực, còn đánh đổi cả xương máu nhưng vẫn lo nghĩ cho người mẹ ở nhà với nỗi tái tê lòng mình : “Con đi trăm núi ngàn khe Chẳng bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm Con đi đánh giặc mười năm Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi” Không những vậy còn có tình anh em đồng chí gắn bó keo sơn: “Ôi! Cái vui đồng chí, đồng bào Giữa ngày xuân, tiền tuyến xôn xao. . . Phải bao máu thấm trong lòng đất Mới ánh hồng lên sắc tự hào! Tình bạn, thêm nồng qua lửa đạn Đường xa, càng vững chí anh hùng” Như vậy qua đây chúng ta có thể thấy được những phẩm chất đẹp đẽ và quý giá của anh bộ đội cụ hồ Miền Nam được thể hiện một cách sâu sắc qua những vần thơ . Với những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc đó, vẻ đẹp và phẩm chất của anh được toát lên sáng ngời mãi mai sau và luôn làm gương cho các thế hệ noi theo.
Phân tích hình tượng anh bộ đội miền nam trong thơ Tố Hữu.
1,036
“Đứng trên đồi xà nu ấy mà trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp đến tận chân trời” – Đó là những gì mà tác giả Nguyễn Trung Thành đã miêu tả hình ảnh rừng xà nu hiện ra trước mắt độc giả ở ngay đoạn mở đầu cũng như kết thúc của tác phẩm. Vẫn là hình ảnh rừng xà nu bạt ngạt, xanh mát trong tầm mắt, vẫn là một màu xanh ngời ngợi của núi rừng Tây Nguyên, hình ảnh những cây xà nu xanh tươi ấy đâu chỉ là sừng sững ở đó, mà đó còn là hình tượng cây xà nu được tác giả nhắc đến ở trong bài. Cây xà nu ấy còn là hình tượng bất khuất của những người dân làng Xô-man anh hùng. Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Trung Thành và cũng là một hình tượng đem lại nhiều cảm xúc cho tác phẩm. Không phải vô tình hay vô ý mà nhà văn gần như điệp lại câu mở đầu cũng như câu kết trong truyện. Phải chăng đó chính là ẩn ý của tác giả dùng để nhấn mạnh hơn cho khúc ca hùng tráng, trầm hùng của tác giả. Ngay từ đầu đến khi kết thúc tác phẩm, hình tượng những cây xà nu vẫn luôn là chủ đạo và liên kết toàn bộ mạch viết trong bài, đôi khi là những lúc trầm buồn nhưng lại có lúc hào hùng, rực lửa. Những cây xà nu đôi khi dưới bút pháp tả thực của tác giả cô đơn, riêng lẻ, nhưng cũng có khi lại trở thành một biểu tượng lãng mạn khi hòa chung vào cuộc sống của người dân làng Xô-man, là nơi chứng kiến biết bao nhiêu tình cảm yêu thương, là nơi minh chứng cho đôi lứa yêu nhau. Nếu như các nhà thơ xưa lựa chọn một loài cây để gửi gắm tình cảm, hay một hình tượng để gửi gắm tâm tư như Hồ Xuân Hương gửi vào bánh trôi nước, đại thi hào Nguyễn Du lại chọn cây tre thì tác giả Nguyễn Trung Thành lại là hình tượng những cây xà nu. Và sự thật thì tác giả đã lựa chọn đúng đối tượng để có thể làm hình tượng xuyên suốt và tạo nên dấu ấn đặc biệt đối với chủ đề của bài viết. Tác giả viết về Tây Nguyên, một Tây Nguyên đầy nắng và gió thì hình tượng những cây xà nu cũng đem lại vẻ đẹp trọn vẹn và đầy sức sống cũng như con người ở nơi đây. Để tiếp cận với những câu xà nu, tác giả tiếp cận ở góc độ tả thực, đó không phải là một rừng xà nu bất kỳ nơi đâu, đó cũng không phải là rừng xà nu ở một nơi nào xa xăm, mà đó là rừng xà nu ở ngay cạnh bản Xô-man. Rừng xà nu đã gắn bó với con người Tây Nguyên từ rất lâu, cũng giống như làng quê Bắc Bộ thì gắn với hình ảnh cây đa, giếng nước, con đò thì người Tây Nguyên cũng như vậy đó. Cũng bởi vậy mà cây xà nu đã gắn bó mật thiết với cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi đây thì ngàn đời. Dù không được miêu tả một cách trực tiếp những hình ảnh những cây xà nu vẫn đang tồn tại, hiện hữu trong từng trang giấy, từng dòng bút của tác giả. “Cây xà nu nằm ngay cạnh làng, muốn về làng thì cũng phải đi qua rừng xà nu” . Cũng bởi vậy mà T-nú sau 3 năm tham gia lực lượng trở về làng thì hình ảnh chạm ngay vào mắt anh chính là những cây xà nu xanh mướt. Đâu chỉ có chạm vào mắt những người con khi trở về làng, những cây xà nu còn xuất hiện trong những bếp lửa của người dân làng Xô-man, nơi tụ họp của mọi người tại nhà ưng. Cây xà nu cũng là công cụ để T-nú và Mai học cái chữ. Cũng chính trong cái đêm mà cả dân làng nổi dậy “Đống lửa xà nu lớn giữa nhà cũng đỏ xác mười tên giặc nằm ngổn ngang trên đống lửa đỏ”. Cứ như vậy mà cây xà nu đã trở thành một thành viên không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của người dân làng Xô-man. Xà nu sinh ra đã trở thành người Tây Nguyên, gắn bó, che trở và bảo vệ cho làng. Là nơi chứng kiến những niềm vui và cả những biến cố của dân làng, hay đơn giản chỉ là những niềm vui nhỏ nhoi trong tâm hồn của mỗi con người. Cây xà nu lúc nào cũng thế, cũng luôn song song và đồng hành với con người Tây Nguyên, dù mộc mạc, giản dị nhưng cũng thật kiên cường, bất khuất. Cứ như vậy mà ngay cả ở góc độ tả thực, những cây xà nu vẫn luôn nổi bật trong mọi góc độ khi tả. Xà nu khi là cây, khi là cây, khi là khói, khi là lửa,… nhưng lúc nào xà nu cũng hiện diện. Ngọn lửa xà nu luôn thắp sáng cho không khí hừng hực của dân làng khi nổi dậy, để chứng kiến cho lời thề bằng máu của cả dân làng: “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Nếu như ở góc độ tả thực, rừng xà nu đã tạo nên một chất Tây Nguyên không thể trộn lẫn thì đến góc độ biểu tượng thì những phẩm chất, những vẻ đẹp của con người Tây Nguyên lại thực sự sống dậy trong cây xà nu. Hình ảnh những cây xà nu được tác giả đặc tả một cách mãnh liệt: “ Trong rừng, ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới gục ngã đã có bốn, năm cây con mọc lên xanh rờn,…” Cái sức sống tràn trề của cây xà nu đã được thể hiện qua hình ảnh “mũi tên lao thẳng lên trên trời” – đó là một sức sống mãnh liệt, bất khuất, là sức mạnh không có gì có thể ngăn cản được. Để diễn tả sức sống ấy, tác giả đã viết: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng,….từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Đó chính là cái sức sống căng tràn không bao giờ vụt tắt cây xà nu hay chính là người dân làng Xô-man. Ngay cả khi dưới sự hủy diệt khốc liệt của bom đạn, mà cây xà nu bi thương: “ nhựa ứa ra tràn trề,…rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, ấy vậy mà cây xà nu vẫn sống, vẫn sinh sôi rất mãnh liệt: “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn”. Nỗi đau mà kẻ thù gây ra cho rừng xà nu, cho người dân làng Xô-man chỉ là một thách thức để sức sống của rừng xà nu, của những con người Tây Nguyên nhân lên mạnh mẽ. Tác giả viết về rừng xà nu cũng như chính là viết về chính người dân làng Xô-man “chúng vượt lên rất nhanh để thay thể cho những cây đã ngã xuống”. Cây xà nu hiện lên trong sự tiếp nối giữa cây mẹ và cây con, cũng giống như những người dân làng Xô-man vẫn tiếp tục tiếp nối những truyền thống anh hùng của dân tộc ta, nhân dân ta. Lòng yêu nước và tinh thần quả cảm của nhân dân ta sẽ không bị mai một, từ anh Sút, bà Nhan, T-nú và ngay cả những thế hệ tiếp nối là Dít, là Heng. Lớp người trước đã gục ngã, thì lớp người sau đã tiếp tục lớn lên, kiên cường. Đó là một vẻ đẹp kiên cường, dũng mãnh hơn. Tác phẩm rừng xà nu là một bản anh hùng ca, ca ngợi vẻ đẹp của những con người Tây Nguyên. Lấp lánh trong từng câu văn là sắc xanh bạt ngàn của rừng xà nu. Sắc xanh ấy trở thành một phông nền tuyệt đẹp cho một bức tranh anh hùng, của những con người yêu nước. Không khí rừng xà nu trầm hùng, dũng mãnh, mang âm hưởng sử thi cho tác phẩm và cho chính những con người Tây Nguyên đã trở thành những anh hùng cho những thiên sử thi ấy.
Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu
1,447
Nội dung bài viết1 Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài làm 1 2 Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài làm 2 3 Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài làm 3 4 Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Dàn ý Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài làm 1 Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đò Sông Đà, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong cách đó. Người lái đò Sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và một con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện. Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này. Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần…" trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tò sự khâm phục đối với con người này. "Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng". Thật là một cách so sánh “rất văn chương" đầy thú vị và cũng "rất Nguyễn Tuân". Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun" và những cánh tay vẫn là cánh tay của một "chàng trai', "trẻ tráng quá", Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “Vàng mười”, ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với những thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền". Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh minh, ùa vào mà bè gẫy cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Cách miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả..”, vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh táo bảo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sông Đả thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông "reo lên như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ". “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay". Lại có những “hút nước" xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi"… Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trờ, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống lái…" Mặc dù mặt “méo bệch đi" vì những đòn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt mười lăm năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người và thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người đã chiến thắng, trở về cuộc sống thanh bình: "Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (…). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…". Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với Nguyễn Tuân, “đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng". Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ…, tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang. Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài làm 2 Mỗi khi nhắc đến những nhà văn viết tùy bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam chúng ta không thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Tuân. Vùng đất Tây Băc với những núi cao, thác ghềnh hiểm trở đã lôi cuốn ngòi bút của Nguyễn Tuân, để rồi năm 1960 ông xuất bản tập tùy bút Sông Đà trong đó có tùy bút Người lái đò sông Đà . Hình tượng nghệ thuật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ông lái đò Lai Châu được nhà văn tiếp cận tài hoa – nghệ sĩ. Ông lái đò năm nay khoảng chừng bảy mươi tuổi , ông sinh ra và lớn lên ngay bên bờ sông Đà “quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh”. Ông có một ngoại hình đặc biệt, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp : thân hình ông cao lớn “gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tay dài lêu nghêu như cái sào”, “chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như gò lại kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng” rồi “ giọng ông ào ào như tiếng nước thác”. Mọi thứ của ông giờ đây như đã hòa nhịp với con sông lúc hung hãn lúc lại dịu êm này , họ hòa vào nhau theo năm tháng , hòa vào nhau trong từng hơi thở nhịp nhàng, ăn ý một cách đến lạ lùng. Đối với ông lái đò thì sông Đà như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Ông “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào trong lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, làm chủ được dòng sông. Đó là tư thế và sự hiểu biết của con người làm chủ thiên nhiên , làm chủ hoàn cảnh. Ông hiểu về con sông cặn kẽ như hiểu chính bản thân mình vậy , có hiểu ông mới ngự trị , mới làm bạn được với nó . Thật đúng là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” giống như cách mà nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nói. Nếu ai đó nghĩ rằng chở đò là một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn người đó đã nhầm. Chở đò là một nghệ thuật đòi hỏi ở người lái đò sự thông minh, khôn khéo, trí dũng, tài ba. Cuộc chiến giữa ông lái đò và sông Đà là một cuộc chiến không cân sức . Bởi sông Đà có một lực lượng hùng hậu nào thì vách đá, nào thì những cái hút nước xoay tít sâu hun hút và cả những hàng chông đá nằm ngầm dưới lòng sông nữa. Ấy vậy mà ông lão chỉ có một mình “đơn phương độc mã” chiến đấu, vũ khí duy nhất có trong tay là cán chèo . Để chiến đấu với một Sông Đà quỷ quyệt trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò càng phái nắm chắc tài chèo, giữ vững tinh thần và đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” thì mới có thể thắng được trong trận đấu sinh tử này. Trận thủy chiến diễn ra căng thẳng đến nghẹt thở với ba “hiệp đấu”. Ở vòng vây thứ nhất thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”. Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà. Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé. Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh. Ông lái đò quả thật là một chiến tướng nhưng cũng là một tay lái tài hoa. Mỗi đường chèo của ông đều là nghệ thuật làm đẹp cho đời và trong lao động. Sau chiến thắng ông lái đò lại trở về với cuộc sống đời thường bình dị. Ông cùng với nhà đò “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh…, cũng chả thấy ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Bởi lẽ với họ những trận chiến như vừa rồi đã trở thành một phần trong cuộc sống của họ, có gì mà phải bàn tán, phải suy ngẫm, tất cả đã trở thành máu thịt , là sợi dây kết nối và gắn bó họ với nơi này. Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng thức cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ của ông. Một loạt các động từ được sử dụng dày đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn cuồng nộ của dòng Đà giang cũng như tài trí của ông lái đò. Đó là một cuộc hỗn chiến giữa người và sông nước đến nghẹt thở. Nguyễ tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi chiếu đối tượng, tạo cảm giác về một trận thỷ chiến đầy kịch tính, đầy sôi động vfa không hề kém phần hấp dẫn. Để viết về dòng Đà giang và ông lái đò một cách cặn kẽ và chi tiết đến vậy thì không phải ai cũng có thể viết được, phải yêu , phải hiểu và gắn bó lăm mới viết được kĩ đến vậy. Điều này như một minh chứng chân thực cho sự hi sinh vì nghệ thuật của tác giả Nguyên Tuân. Ông đã dành cả cuộc đời mình để đi tìm cái đẹp, cái thật trong con người và cuộc đời. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sỹ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà nó còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người. Khi con người đạt đến trình đô điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng. Bài tùy bút của tác giả Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác một cách tự nhiên đến lạ kì. Hình ảnh gợi ra xuyên suốt bài tùy bút là hình ảnh ông lái dò gạo cội và dòng sông Đà giang hung hãn nhưng cũng đồng thời gửi vào tâm trí độc giả một liên tưởng về một ông lái đò Nguyên Tuân như một ông lái bậc thầy , ông lái con thuyền ngôn từ trên một dải sông văn chương không kém những thác ghềnh chông gai. Ông ta tạo nên một khúc khải hoàn ca về những con người lao động chân chính trong thời kì mới. Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài làm 3 Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình. Chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả “Người lái đò sông Đà”, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả. Với ” Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã dựng hình ảnh một sông Đà mà ông đã từng muốn” trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người. Người lái đò sông Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một ông ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sông nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp nhất, kiêu hùng nhất, người lái đò trên sông Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh. Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông già bảy mươi tuổi đã giành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: ” Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100 lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần” trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ ” Bằng cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này ” sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thoạt nhìn, đó là một cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên này là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh, có sông nước hò réo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận vời đủ ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí trên tay chỉ là chiếc cán chèo – những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga sóng thác – trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi. Người xưa vẫn coi ” Cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lý tưởng sống anh hùng. Ông lái đò này dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu, ông đâu có đôi cánh tay Hec Quyn để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông đã ” Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, cái kinh nghiệm đò giang sông nước lên thác xuống ghềnh và cái trí tuệ ấy đã khiến cho ông lái dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác Sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Cuộc chiến đấu của người lái đò có thể chia thành 3 chặng vượt vòng vây của thác nước, đá sông. Ở trùng vi thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo vô khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo lệch đi. Con thuyền bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là một chiễn sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù. Ở trùng vi thứ hai: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử .Cửa sinh bố trí lệch sang phía tả ngạn, lập lờ, bí hiểm hơn ở trùng vi trước, hòng đánh lừa con thuyền. Nhưng ông đò đã nắm chắc binh pháp của thân sông, thần đá thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Ông”Cưỡi lên thác Sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nắm chặt được cái bờm của sóng đúng luồng rồi ông đò ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo con thuyền lướt nhanh, bất ngờ khiến cả bọn đá thủy quân không kịp trở tay, khiến ” Cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đá tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Ông đò người chỉ huy ấy thật thông minh tài giỏi xiết bao. Ở trùng vi thứ ba, ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở ngay giữa con thác. Ông đò như một người chỉ huy dày dạn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa, giữa đó ” Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được” . Bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng nước của Sông Đà. Trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đò anh hùng vừa dũng cảm thông minh vừa thật là tài hoa. Vậy là thác dữ đã không chặn bắt được con thuyền. Cuối cùng, vẫn là con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên, vẫn là con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng, qua bộ mặt xanh lè. Người lái đò đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông. Cần nói thêm, trong cuộc chiến này nguyên nhân làm nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn. Đó không phải là gì khác hơn sự ngoan cường, chí quyết tâm, và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã giúp cho con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, và qua đó, khuất phục dòng thác hồng hộc hơi thở của hùm beo. Người lái đò Sông Đàchính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung. Ở phần vĩ thanh của khúc ca vượt thác, nhà văn chuyển gam với mấy câu tả êm nhẹ câu kể thủ thỉ, tâm tình ” Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác, xèo xèo tan trong trí nhớ. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Ở đây ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp nữa của những người lái đò, chèo đò. Họ anh hùng xiết bao, cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống từ tay những con thác nên cũng “Không có gì là hồi hộp đáng nhớ”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hoà quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. Dường như cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp mang”Chất vàng mười” của những người lao động bình dị ở Tây Bắc trên một chặng vượt thác Sông Đà Nguyễn Tuân đã không cầm lòng được. Trước khi chia tay họ để gặp lại dòng sông, ông giữ lại một ước nguyện thật đẹp đẽ chân tình ” Tôi nghĩ nếu sau này làm phim màu về Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay, cho bay là là trên thác mà gí máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác trên thác hiên ngang một người lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà. Trong Người lái đò sông Đà, con người được ví với khối vàng mười quý báu lại chỉ là những ông lái, nhà đò nghèo khổ, những người trên hình hài còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chở thuyền quá đỗi gian nan, cực nhọc, hiểm nguy. Và còn điều nữa: Tất cả những người lái đò trong thiên tuỳ bút, không trừ một ai, đều làm lụng âm thầm, giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên tuổi của người nào trong họ. Song cũng lại Nguyễn Tuân cho thấy, những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ. Những người lái đò rất bình thường ấy không mang tên họ của cá nhân. Nhưng vì thế mà trong sự đối mặt với thiên nhiên nghiệt ngã, họ lại hiện lên như đại diện của con người. Có lẽ đấy chính là nguồn cảm hứng đã thôi thúc Nguyễn Tuân quyết tung ra đạo binh hùng hậu của ngôn từ để miêu tả cho thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc thuỷ chiến của ông lái đò với dòng sông để đưa thuyền vượt thác. Sử dụng nghệ thuật của ngôn từ rồi nghệ thuật của hội hoạ, âm nhạc với những tri thức trong chiến đấu, trong võ thuật với bao nhiêu hiểu biết rộng và sâu khác nữa để khắc hoạ, ngợi ca nhân vật mà vẫn cảm thấy chưa đủ đến đây nhà văn dùng thêm phương pháp của điện ảnh. Hình tượng người lái đò hiên ngang, sừng sững hiện lên trong ống quay phim của nhà nghệ sĩ, cao lớn, lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người anh hùng trí dũng tài hoa từng chiến thắng ghềnh thác, người lái đò thêm một “Chất vàng” nữa người lao động có tự do đạt tới độ thành thục, điêu luyện vì làm chủ được thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên, đem lại cuộc sống ấm no cho đời mình, sự giàu đẹp cho Tổ quốc. Ca ngợi người lao động phải chăng Nguyễn Tuân muốn ngợi ca lao động ngợi ca con người? Con người dưới con mắt nghệ sĩ tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân luôn luôn là hiện thân của cái đẹp của nghệ thuật của sự bất tử. Chính điều này người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân đã có điểm gặp gỡ với người nghệ sĩ Nga M.Gorki ” Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”. Đọc ” Người lái đò Sông Đà” suy ngẫm về nhân vật ông đò chúng ta nhớ tới Huấn Cao, hình tượng đặc sắc trong tác phẩm ” Chữ người tử tù” một sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Tất nhiên nhân vật ông đò trong tuỳ bút không hiện lên với đầy đủ phẩm chất, tính cách như nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn. Họ có nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau của lịch sử đất nước, cũng vì những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật và cảm hứng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất chiến sĩ vẻ đẹp thăng hoa của con người trong vị trí xã hội, trong công việc cụ thể khi làm người và một nét chung nữa, ông đò cũng như ông Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác đầy sáng tạo bất ngờ trong dùng từ, viết câu và nồng ấm một tình yêu con người. Cảm ơn Nguyễn Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và phép thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng một quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm và cho trí của ta dạy ta biết yêu hơn Tổ quốc, nhân dân, cuộc sống. Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Dàn ý I. MỞ BÀI – Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một nhà văn tài hoa, uyên bác và có một cách diễn đạt rất độc đáo. – Người lái đò sông Đà là một tùy bút thành công của Nguyễn Tuân, được rút từ tập tùy bút Sông Đà. Hình tượng nổi lên trong tùy bút đó là hình tượng người lái đò. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò trở thành một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Chỉ có những nghệ sĩ, những kẻ tài hoa tài tử mới trởthành nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. II. THÂN BÀI A. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT 1. Giới thiệu khái quát – Đó là một cụ già 70 tuổi người Tây Bắc có cái đầu bạc quắc thước, một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừngchất mun và đôi cánh tay còn trẻ tráng quá, – Ông là một con người từng trải, hiểu biết rất thành thạo trong nghề lái đò, thành thạo đến mức sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sâu chục lần… Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉnhư đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở… 2. Để khắc họa vẻ đẹp người lao động – người nghệ sĩ qua hình tượng ông lái đò sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác sông Đà của ông qua ba trùng vi thạch trận. Một số chi tiết nêu bật cái dũng mãnh, tỉnh táo, sự trầm tĩnh, khôn ngoan của người lái đò khi vượt thác sông Đà: • Vòng thứ nhất – Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sáng trận địa phóng thẳng vào mình. – Nhưng ông đò cốnén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm (…) trên cái thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. • Không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vâythứ hai… Ông lái đò nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. … ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định ráu thuyền lội vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sẵn lên mà chặt đôi ra đểmề đường tiến. • Trùng vây thứ ba nữa ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa nó… Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong… Thế là hết thác. Sau khi vượt thác, người lái đãtrở lại phong thái ung dung của một nghệ sĩ: Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ông cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá đầm xanh… Cũng chả thấy ai bàn thêm một lài nào vềcuộc chiến thắng vừa qua… B. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNHTƯỢNG NHÂN VẬT 1. Nhân vật chính diện trong các sáng tác của Nguyễn Tuân thường được mô tả như những con người tài hoa nghệ sĩ. Ởbài tùy bút này, ông lái đò trở thành một nghệ sĩ tài ba trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. 2. Mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều thể hiện sự tài hoa, uyên bác. Ởbài tùy bút này, cái tài hoa, uyên bác của nhà văn được thể hiện ở nhiều mặt. – Nhà văn đã sửdụng những tri thức về địa lí, lịch sử, nghệ thuật quân sự, võ thuật, hội họa, điêu khắc, điện ảnh… khi miêu tả thiên nhiên và sự điêu luyện của người lái đò. Tổng hợp những tinh hoa của các loại hình nghệ thuật vào tùy bút của mình là nét hiện đại của tùy bút Nguyễn Tuân. – Ngôn từ phong phú, điêu luyện: đôi cánh tay trẻ tráng, lái miết một đường chéo, đè sẵn lên mà chặt đôi ra, ghì cương lái… C. QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA TÁC GIẢ 1. Hình dáng người lái đò sông Đà hiện qua ngòi bút của Nguyễn Tuân như một người lao động đẩy trí dũng và một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác, leo ghềnh Người lái đò Sông Đà là một nhân vật chính diện của Nguyễn Tuân – những con người tài hoa nghệ sĩ ở đây có nghĩa rộng: không chỉ là những người làm nghệ thuật mà bao gồm cả những người làm nghề không dính dáng gì đến nghệ thuật, nhưng tất cả đều đạt tới trình độ nghệ thuật tinh vi điêu luyện. Người lái đò sông Đà, trong quan niệm của Nguyễn Tuân, cũng chính là một nghệ sĩ, không phải là người chở đò thông thường, mà đạt tới trình độ cao cường đầy tài hoa mà tác giả gọi là "tay lái ra hoa". 2. Nguyễn Tuân cũng ngụ ý rằng chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở chiến trường mà ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta, đang vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu, mà ở ngay những người dân lao động bình thường, Người lái đò sông Đà là một biểu tượng của con người chiến thắng và chinh phục thiên nhiên. III. KẾT BÀI – Qua hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân bàytỏ quan niệm về con người. Con người, bất kể địa vị nghề nghiệp gì, nếu hết lòng và thành thạo với công việc của mình thì bao giờ cùng đáng trọng. Chính Nguyễn Tuân cũng là một người hết mình và tài ba trong nghề văn. – Cũng qua bài tùy bút Người lái đò sông Bà, nguôi đọc thấy rõ tấm lòng nặng nghĩa với cuộc đời, với cái đẹp, với non sông đất nước của Nguyễn Tuân.
Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
6,840
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba, không chỉ tài ba mà còn yêu cái đẹp, sống vì cái đẹp, và trên hết, ông tạo ra cái đẹp. Mỗi tác phẩm của ông đều ẩn chứa những cái đẹp riêng, có khi là phô trương, có khi lại sâu lắng đầy ý nghĩa sâu xa. Ví dụ như trong “Chữ người tử tù”, cái đẹp được ca ngợi ở đây không chỉ là tài viết chữ đẹp, cái thiên lương đẹp mà còn là cả một con người đẹp, đẹp từ trong tâm ra đến hành động, từng con chữ. Chữ người tử tù là tập truyện ngắn rút từ tập vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao. Có thể khẳng định rằng, nhân vật Huấn Cao là hình mẫu xuất chúng, là linh hồn, là nhân tố tạo nên sự thành công của tác phẩm “Chữ người tử tù”. Để làm rõ chất xuất chúng trong xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta cùng phân tích nhân vật trên ba phương diện nổi bật: Huấn Cao- Anh Hùng; Huấn Cao- Nghệ sĩ tài hoa và Huấn Cao – Thiên lương trong sáng. Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao với tất cả những nét đẹp đáng quý nhất. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài ba! Nếu ai đã từng đọc “Chữ người tử tù” chắc hẳn đều ít nhất một lần rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao . Ông là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí; là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất. Nhờ đó, Huấn Cao trở thành một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Nhiều nhà phê bình lẫn độc giả cho rằng, hình tượng nhân vật Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát. Người vĩ nhân đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, sống dưới thời Nguyễn, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội PK thối nát, bỉ ổi. Trong “Chữ người tử tù” Huấn Cao cũng vậy. Ông bị gọi là kẻ cầm đầu quân phản loạn, ông học rộng hiểu nhiều, dám đứng lên chống lại cái sai, cái bất công; đả kích sự mục ruỗng thối nát của nhà Nguyễn, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn hình tượng nhân vật Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát? Và ngược lại, lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát để khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết. Khí chất của Huấn Cao giống như ánh sáng mặt trời hiên ngang, rực rỡ tỏa sáng trên cái nền đen nhơ nhớp, tối tăm chốn ngục tù. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng HC trước hết phải nhắc đến cái tài. Tài của Huấn Cao là tài viết chữ đẹp. Xét trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Tâm có đẹp, hồn có thanh, có tài ba, trí thức mới viết ra được những con chữ đẹp. Viết chữ đẹp và chơi chữ đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn lẫn trân trọng, nâng niu. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp, có người viết chữ thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã. Huấn cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. “Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh sơn.” Ngay cả viên quan quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm! có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”. Cho nên “Sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục mà còn phải liều mạng. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình. Một cái tài nữa nghe có vẻ rất không thống nhất với tài viết chữ đẹp đó là tài bẻ khóa vượt ngục. Người trí thức bàn tay hoa mỹ những tưởng chỉ để phát lên những nét rồng bay phượng múa, ai ngờ lại còn có thể bẻ khóa, ra vào tù ngục như chốn không người. Nếu như viết chữ đẹp thể hiện một con người trí thức, nho nhã, yêu cái đẹp thì tài bẻ khóa vượt ngục lại thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành. Điều này rất hợp logic với tính cách của một con người luôn đấu tranh cho chính nghĩa, dũng cảm đứng lên chống lại triều đình Phong Kiến mục nát. Hai biệt tài của Huấn Cao tưởng rằng máu thuẫn nhưng lại thống nhất, bổ sung cho nhau; tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để “chọc trời khuấy nước”. Nhưng anh hùng không gặp vận, người tài chẳng đúng thời! Giữa cái xã hội Phong Kiến còn đầy rẫy những chuyên chế, đàn áp, bất công ấy thì những người như Huấn Cao lại bị quy thành tội phạm, thậm chí là tội phản quốc phải gánh lấy cái án tử hình. Vẻ đẹp nổi bật thứ hai của Huấn Cao đó chính là khí phách hiên ngang, bất khuất của người anh hùng. Không chỉ văn võ song toàn, Huấn Cao còn là một người có khí phách, một người anh hùng dám làm dám chịu, không những không bị khuất phục trước quyền lực, bạo lực; mà còn không hề nao núng, sợ hãi khi đứng trước cái chết- kết cục tất yếu của tử tù phản quốc Huấn Cao xuất thân là nho sĩ, tầng lớp trí thức, học giả; thường khi những người như ông sẽ cống hiến tài mình phục vụ cho triều đình. Đặc biệt, thời phong kiến, tư tưởng quân chủ chuyên chế vẫn còn đè nặng. Làm việc cho triều đình là một cách báo quốc, đền dân; nhưng triều đình mục ruỗng, thối nát thì không đáng để ông phụng sự. Ông là người tài, không chỉ tài ở tài viết chữ, mà còn là người có cái nhìn thức thời, sáng suốt. Một nhân tài không sợ hãi trước cường quyền và bạo lực. Không chịu sống cảnh “cá chậu chim lồng”, “vào luồn ra cúi” nên ông đã tham gia khởi nghĩa cùng nông dân chống lại triều đình. Ông bị bắt và bị kết tội phản quốc chờ xử chém. Khí phách của ông trước hết thể hiện ở thái độ lạnh lùng và hành động cương quyết của ông khi vừa được đưa đến nhà ngục. Mặc cho những tên lính áp giải nói gì, “Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Phải là người có bản lĩnh, quyết đoán, tự chủ trước cường quyền, Huấn Cao mới có được hành động như vậy. Trong những ngày ở tù, ông luôn làm chủ bản thân, không luồn cúi. “Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù”. “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Thậm chí, ông còn có thái độ khinh bạc đối với viên quản ngục. Khi viên quản ngục hỏi ông xem ông có cần thêm gì thì cho viên quản ngục biết, ông đã thẳng thắn trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Quá thực, đó là một thái độ khinh bạc đến điều.“Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Huấn Cao rất cứng cỏi, không dễ dàng bị mua chuộc. Dù chí lớn không thành tư thế của Huấn Cao lúc nào cũng hiên ngang, bất khuất. Bị dẫn vào huyện ngục ông không chút run sợ trước những kẻ nắm giữ vận mệnh của mình. Chắc hẳn ai đã từng đọc “chữ người tử tù” đều không thể nào quên hình ảnh Huấn Cao thúc gông xuống thềm đá, chỉ một chi tiết ấy cũng làm toát lên khí chất kiên cường, có chút ngông lạnh của người anh hùng không màng cái chết. Hình ảnh đó thật đẹp, thật hào hùng khiến ta nhớ mãi không quên. Rõ ràng là một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường vậy mà Huấn Cao vẫn luôn ung dung, đạo mạo, toát lên khí chất coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trước sau không thay đổi. Điều đó thật đáng kính! Tuy nhiên, có lẽ vẻ đẹp đáng kính nhất ở Huấn Cao là vẻ đẹp của tâm hồn. Ông là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp hiếm có, đáng trân trọng! Trong truyện Chữ người tử tù khái niệm “thiên lương” được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại thì “thiên lương” là ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài của mình. Huấn cao có tài viết chữ nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài…Cho nên suốt đời Huấn Cao chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Lúc đầu, ông tỏ thái độ khinh bạc vì tưởng quản ngục có ý đồ đen tối gì khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông “cảm cái lòng biết ơn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù được tác giả gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cái đẹp từ “thiên lương” trong sáng của Huấn Cao chính là điểm sáng nhất của tác phẩm. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật Huấn Cao chỉ thực sự tỏa sáng khi đạt được sự thống nhất giữa cả 3 vẻ đẹp từ cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng. Trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm Nguyễn Tuân đã để cho vẻ đẹp của cái tâm, của “thiện lương” chiếu rọi, làm cho cái đẹp của cái tài của khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách cao đẹp của Huấn Cao. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lí tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân là chuẩn mực để ông đánh giá nhân cách của con người. Nguyễn Tuân đặt nhân vật dưới ánh sáng của lí tưởng ấy để các hình tượng bộc lộ vẻ đẹp với những mức độ khác nhau. Trên cái nền đen tối của nhà tù, quản ngục và thơ lại là hai điểm sáng bên cạnh cái vần sáng rực rỡ của Huấn Cao. Cũng chính lý tưởng thẩm mỹ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kì diệu kẻ tử tù trở thành người làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, dạy dỗ cách sống, quan coi ngục thì khúm núm sợ hãi. Hình tượng Huấn Cao vì thế trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với viên quan cai ngục nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”. Nguyễn Tuân thật tài tình khi miêu tả Huấn Cao để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài cái đẹp cái tâm và khí phách ngang tàng. Ông triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn đối lập giữa ánh sáng và bóng tối giữa cái đẹp cái cao cả với cái phàm tục dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ : bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên… Có sự đối lập tương phản giữa sự cho chữ và hoàn cảnh cho chữ. Đó là sự đối lập giữa công việc tạo ra cái đẹp “nói lên hoài bão tung hoành của một đời người” với chốn ngục tù hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do. Sự sự đối lập phong thái của người cho chữ với tư của kẻ nhận chữ cũng góp phần không nhỏ vào việc khắc họa hình tượng nhân vật.
Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù
2,533
Người gắn bó với Tây Nguyên suốt hai cuộc kháng chiến đó chính là Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc). Ông đã có rất nhiều tác phẩm thành công về mảnh đất và con người nơi này. Trong đó ta không thể không kể đến “Rừng xà nu”. Truyện ngắn “Rừng xà nu” ra đời năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam, là câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Và trong truyện ngắn đó xuất hiện hình ảnh Cây xà nu. Cây xà nu là một hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm. Tác phẩm nói về Tnú về thăm làng sau ba năm đi lực lượng. Bé Heng trở thành một giao liên chừng mực nhanh nhẹn. Dít trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Đêm hôm đó cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ – Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt, Tnú và Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng. Giặc bắt được Tnú, sau ba năm Tnú vượt Kon Tum trở về , lúc này anh Quyết đã hi sinh. Tnú lấy Mai, anh lại tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin chúng về làng càn quét khủng bố, kẻ thù bắt vợ con tra tấn tàn bạo trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng anh đã nhảy xổ ra xô ngã tên giặc nhưng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt 10 ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng nổi dậy giết chết hết bọn lính cứu Tnú. Câu chuyện kết thúc nằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnus trở lại đơn vị. Trước mắt họ là cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời. Hình tượng cây xà nu được đề cập đến trong tác phẩm. Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên. Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của vùng đất Tây Nguyên. Qua hình tượng cây xà nu nhà văn đã tạo dựng được bối cảnh hùng vĩ và hoang dã đậm màu sắc Tây Nguyên cho câu chuyện. Gắn bó che chở cho ngôi làng “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng. Cây xà nu gần gũi với đời sống người dân Xô Man là nhân chứng của những sự kiện quan trọng xảy ra với họ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì. Không những thế, cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và con người Tây Nguyên. Những thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương vô bờ mà đồng bào ta đã trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam khủng bố ác liệt. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt nửa thân mình, đổ ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương nhựa ứa ra, tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đăc quện thành từng cục máu lớn”. “Trong rừng có ít cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy”, sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu thể hiện sự bất khuất, kiên cường, sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên, đồng bào miền Nam trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù “cạnh cây xà nu mới gục ngã, đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Sự sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu thể hiện sự đoàn kết của con người nơi đây, mặc cho có điều gì xảy ra. Mặc dù bị vùi dập như thế, nhưng cây xà nu đã chứng tỏ sự kiên cường, chống trọi với kẻ giặc của mình. Có những cây bị đại bác chặt đứt làm đôi thì”vươn lên mọc cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ”. Quả thật kiê cường lắm mới có thể có sức sống mạnh mẽ như thế, vết thương rất mau lành. Rừng xà nu như tấm áo giáp che chở cho dân làng, tấm áo giáp vững chãi mà cũng rất kiên cường. Cùng với đó, cây xà nu có đặc tính “ham ánh sáng”. Nó tượng trưng cho niềm khao khát tự do, lòng tin vào lí tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam. “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Thật mãnh liệt. Đó là tất cả vẻ đẹp hình tượng cây xà nu. Để đạt được thành công trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp rất nhiều nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả kết hợp với so sánh, đối chiếu cùng với giọng văn vô cùng biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống như một đoạn thơ trữ tình. Tác giả đã sử dụng khéo léo những nghệ thuật trên để khắc họa hình tượng cây xà nu. Hình tượng cây xà nu tiêu biểu cho vẻ đẹp hào hùng, đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên.
Phân tích hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
933
Chính Hữu vừa là chiến sĩ vừa là một thi sĩ. “Đồng chí” là một bài thơ được sáng tác trong thời kì đất nước ta kháng chiến chống mỹ. Hình ảnh về người lính được khắc họa một cách chân thực và rõ nét nhất. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh tiêu tiểu nhất trong bài thơ. Bao trùm lên toàn bộ bài thơ “đồng chí” là hình ảnh người lính cụ hồ bất khuất,hiên ngang và luôn vượt qua mọi gian khó ,sự khắc nghiệt của thời tiết để hướng lên phía trước .Cuộc sống tuy nhọc nhằn và thiếu thốn là vậy nhưng vẫn không thể đánh gục những con người yêu nước này Giữa một rừng hoang sương muối bao phủ thì hình ảnh “đầu súng trăng treo” như một nét chấm phá tuyệt đẹp trong thơ ông.Nó hiện lên trong thơ Chính Hữu như một bức tranh : Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Nếu như ở hai câu đầu miêu tả lại sự khắc nghiệt và gian khổ của địa hình vùng núi hiểm trở thì ở câu thơ thứ ba chỉ có duy nhất là súng và trăng rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết lên bài thơ này. Giữa đêm đông lạnh giá và sương muối bao trùm khiến cho những anh bộ đội rét run người. Cho cuộc sống khắc nghiệt và khó khăn đến mấy thì hình tượng người lính vẫn hiện lên thật kiên cường và cao đẹp biết mấy. Họ vẫn luôn đứng cạnh bên nhau cầm chắc tay súng để “chờ giặc tới”. Tư thế của người lính luôn khiến cho chúng ta phải ngưỡng mộ và khâm phục. Những người lính ở đây luôn tràn đầy tình yêu thương và sự lạc quan để tiến lên phía trước đánh đuổi kẻ thù. Mặc dù như chúng ta đã thấy hình ảnh “đầu sung trăng treo” tưởng chừng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn và cái hiện thực đến khắc nghiệt nhưng ở trong thơ Chính Hữu nó lại trở nên mềm mại hơn bao giờ hết. Trăng và súng không còn đối lập nhau mà là hòa quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp ở giữa vùng núi hoang sương muối thấm ướt hết vai người lính trẻ. Đây chính là chất liệu lãng mạn được nổi bật trên một hiện thực khắc nghiệt .Đây thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả,người lính vẫn sẵn sàng để canh gác bảo vệ tổ quốc ,mũi súng chĩa hướng lên trời cứ ngỡ như chạm trúng trăng. Một nét chấm phá tạo nên bức tranh đối lập nhưng lại vô cùng hài hòa và tinh tế. Những người lính ở đây hầu như có tuổi đời còn rất trẻ ,họ sống vì lí tưởng và cống hiến hết mình cho đất nước nhưng họ vẫn luôn có những ấp ủ về giấc mơ cháy bỏng hay bóng dáng một người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, tin tưởng và cả sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh tuy khắc nghiệt nhưng lại không thể làm chai lì trái tim người lính, đây thực sự là một điều đáng quý trọng. Chính Hữu đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh “đầu súng trăng treo”,làm cho người đọc nhớ mãi,có ấn tượng sâu sắc và khi gấp trang sách lại thì hình anh này vẫn còn neo đậu mãi trong lòng người đọc.
Phân tích hình ảnh đầu súng trăng treo của bài thơ Đồng chí
611
Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu cùa giai đoạn văn học này, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, và chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thê quên được hình ảnh đoàn quân ấy: Tây Tiến đoàn quăn không mọc tóc Quăn xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành! Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một môtíp như thế: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùmg Nhưng, trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng hào hoa. Vì vậy, khó khăn, gian khố là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi, vơi đi nhừng tình cảm lãng mạn: Mát trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. “Mộng” và “mơ” cùa người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu – mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành binh vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồi”. Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh. Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi mồ viễn xứ của những kẻ chết xa quê. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn. Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến. Áo bào thay chiếu anh về đất. Sông Mã gầm lên khúc độc hành Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cánh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiêng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi. Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”… nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy. Tây Tiến là bài thơ, là tấc lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phân tích khổ 3 bài thơ Tây tiến của Quang Dũng
995
Khổ thơ thứ ba là những cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài Bác. Bao tình cảm ấp ủ bấy lâu, nên khi bắt gặp bóng dáng thân yêu của Bác là trào dâng thổn thức. Hình ảnh Bác nằm trong lăng được diễn tả rất xúc động qua hai câu thơ: Bác nằm trong lăng giấc ngứ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Câu thơ gợi được sự yên tĩnh, trang nghiêm, ánh sáng dịu nhẹ trong lành và hình ảnh đẹp đẽ của Bác. Bằng tình cảm, nhà thơ thấy Bác như đang ngủ trong giấc ngủ bình yên giữa thiên nhiên đẹp và thơ mộng, Bác vẫn ở cùng ta, như nhà thơ Hải Như đã viết: Suốt cuộc đời Bác có ngủ ngon đâu Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ (Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác Hồ ơi) “Vầng trăng sáng dịu hiền” là ánh sáng của tình thương mến, nâng niu, vầng trăng ấy như ru Bác ngủ. Giấc ngủ của Bác là giấc ngủ trong tình thương yêu. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh cũng đã viết: Trong lăng Bác vừa chợp nghỉ Như sau mỗi việc làm. Trăng ơi trăng biết thế Nên trăng bước nhẹ nhàng. (Trăng lên) Hình ảnh vầng trăng dịu hiền cũng gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Đến đây, cảm xúc ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi xót đau không thể kìm nén: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim! “Trời xanh” cũng như “mặt trời”, “vầng trăng” là những hình ảnh của vũ trụ kì vĩ, vĩnh hằng, là ẩn dụ sâu xa gợi suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt, trường tồn ở Bác. Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như trời xanh còn mãi (Bác sống như trời đất của ta Tố Hữu). Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Sự nghiệp của Người là bất tử. Dù vẫn tin như vậy, nhưng tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát thực tế, trái tim vẫn đau nhói khi nghĩ rằng Bác không còn nữa. Nỗi đau xót được biểu hiện cụ thể, trực tiếp: "Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Đó là nỗi đau vô hạn, là lòng thương xót rất thật, không lí do nào khuây khỏa được. Đó là tình cảm của đứa con về muộn bên di hài người cha.
Phân tích khổ ba bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
421
Bác không thể mất trong ý nghĩ, tình cảm của nhà thơ cũng như mỗi chúng ta. Lòng nhớ thương và những gì đẹp nhất ở mỗi người dâng lên Bác quả đúng là hoa của đời. Mặt trời lên cao dần và hình ảnh mặt trời lại gợi trong tác giả những liên tưởng mới: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời thiên nhiên theo quy luật của nó, vận hành trong vũ trụ, ngày ngày đi qua trên lăng và thấy một mặt trời khác trong lăng rất đỏ. Mặt trời trong lăng là ẩn dụ chỉ Bác Hồ. Mặt trời thiên nhiên thì đem lại ánh sáng, ban ngày, sự sống: Còn mặt trời Bác cũng là ánh sáng soi đường, đem lại cuộc sống hạnh phúc ấm no. Chi tiết đặc tả “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì Tố quốc, vì nhân dân, trái tim yêu thương vô hạn của Bác. Mặt trời Bác mãi tỏa sáng, tỏa ấm, tỏa thắm cho đời. Màu đỏ ấy làm ấm lại cả khung cảnh thương đau. Nhiều người đã ví Bác như mặt trời (Người rực rỡ một mặt trời cách mạng Tố Hữu), đặt mặt trời Bác sóng đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là sáng tạo riêng của Viễn Phương. Cách nói đó vừa ngợi ca sự vĩ đại, bất tử của Bác vừa thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ, biết ơn đối với Bác. Hình ảnh dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác cũng gợi bao xúc động trong lòng nhà thơ: Ngày ngày dòng người đỉ trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân. Điệp ngữ “ngày ngày” vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn, vừa gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” vừa thực vừa ảo. Nỗi nhớ thương vốn chỉ có trong lòng người nhưng ở đây nó bao trùm lên cả thời gian, không gian. Và mỗi người với lòng nhớ thương là một đóa hoa kết nên “tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” cuộc đời Bác một cuộc đời đã dâng cho đời bao hoa trái. Dòng người được tác giả ví như “tràng hoa” là một ẩn dụ độc đáo mà thích hợp. Dòng người vào viếng Bác đi thành vòng tròn dễ gợi liên tưởng đến tràng hoa. Nếu “vòng hoa” thì là viếng người đã khuất. Ở đây là “tràng hoa” để dâng “bảy mươi chín mùa xuân”. Bác không thể mất trong ý nghĩ, tình cảm của nhà thơ cũng như mỗi chúng ta. Lòng nhớ thương và những gì đẹp nhất ở mỗi người dâng lên Bác quả đúng là hoa của đời. Tràng hoa người ở đây hơn hẳn mọi tràng hoa của tự nhiên, nó được kết nên từ lòng ngưỡng mộ, thành kính, nhớ thương Bác. Nhịp thơ đoạn này chậm rãi, trải dài 8, 9 tiếng một dòng thơ, lặp lại từ ngữ, cấu trúc câu vừa diễn tả không khí thiêng liêng, thành kính trong lăng, vừa gợi bước đi chầm chậm của dòng người vào viếng Bác và lòng thành kính, thiết tha của nhân dân với Bác.
Phân tích khổ hai bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
549
Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Bài làm Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà (Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử) Những câu thơ cuối cùng trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ như trút hết bao nỗi niềm của nhà thơ khi nhớ về mối tình mong manh ở xứ Huế thân thương. Những hình ảnh mờ mờ ảo ảo xuất hiện trong câu thơ ngắt quãng giữa chừng càng khắc sâu thêm sự khắc khoải, day dứt và đầy luyến tiếc đang trào dâng trong lòng thi nhân. Cụm từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần và ngăn cách nhau bởi dấu phẩy giữa dòng khiến nhịp thơ bị đứt gãy giữa chừng như tiếng nấc lòng của chính Mặc Tử đang nấc lên trong vô vọng. Người con gái ấy giờ nơi đâu? Nỗi nhớ chơi vơi hòa với cảnh vật huyền ảo càng khiến cho nỗi buồn thêm sâu nặng. Nhớ em nhưng “Áo em trắng quá nhìn không ra”, cho lòng ai khắc khoải chờ mong trong sương khói mờ nhân ảnh. Những sương khói của cuộc đời đang giăng lối làm cản bước thi nhân không tới được với người mình yêu. Đó cũng chính là lý do “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Không về không phải vì “anh” không muốn về mà vì giờ đây “anh” không thể về được. Căn bệnh nan y ngày một trầm trọng, có thể lấy đi mạng sống của Mặc Tử bất cứ khi nào. Nơi xa xôi ấy, người con gái ấy, “Ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ đã nói lên bao nỗi xót xa, luyến tiếc. Nhà thơ đang tự trách mình, trách người yêu hay trách duyên phận ý trời không cho đôi lứa được hạnh phúc bên nhau? Số phận nghiệt ngã bủa vây cuộc đời, không cho Mặc Tử được ở bên cạnh người mình yêu. Tất cả mờ mờ ảo ảo như sương như khói. Sương khói vô tình vội vã tan vào hư vô. Như cuộc đời của chính tác giả cũng đang trôi dần vào cát bụi hư không. Phút giây này, ông chẳng tiếc gì nữa, chỉ khắc khoải một điều “Ai biết tình ai có đậm đà”. “Ai” là chính tác giả, “ai” cũng là cô gái ở phương xa kia. Có lẽ vì đường quá xa, và vì sương khói quá mờ khiến cho tình cảm hai người trở nên mong manh và chỉ còn là dĩ vãng. Xuân Diệu từng viết: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Còn đất trời nhưng chẳng còn tôi mãi (Vội vàng – Xuân Diệu) Xuân Diệu buồn khi tuổi xuân của đời người không tuần hoàn như mùa xuân của tự nhiên, nhưng ít nhất, ông còn có mùa xuân để hưởng, còn được chứng kiến thêm nhiều mùa xuân của đất trời. Còn Mặc Tử lúc này đang sống với mùa xuân cuối cùng của cuộc đời mình. Giá như ông có thêm một mùa xuân nữa, thì hẳn là thuyền sẽ chở trăng về kịp tối nay, hẳn là ông sẽ trả lời được câu hỏi Ai biết tình ai có đậm đà. Dù là ai đi chăng nữa cũng đều buồn, đều tuyệt vọng trước sự bất lực của tình yêu. Mặc Tử muốn đi, muốn về chơi thôn Vĩ nhưng số phận nghiệt ngã đã giữ chân ông ở lại trên chiếc giường bệnh đau thương. Nén nỗi đau, ông cầm bút viết vài dòng gửi tới vị khách đường xa đã một thời gắn bó thân thương. Bằng những câu thơ mang âm hưởng buồn thương da diết, Hàn Mặc Tử đã khiến người đọc rơi lệ và xót xa trước một mảnh tình mong manh chưa “kịp” vẹn tròn hạnh phúc.
Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
654
Viết về lí tưởng cách mạng, bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu đã trở thành câu ca, tiếng hát của hàng triệu con người hơn nửa thế kỉ nay. Giọng thơ sôi nổi, say mê, trẻ trung và yêu đời tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu. “Từ ấy" là tiếng hát của người thanh niên cộng sản thể hiện một tình yêu lớn: yêu lí tưởng cách mạng và yêu giai cấp cần lao. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn, gồm có 3 khổ thơ mỗi khổ 4 câu. Đây là khổ đầu ca ngợi lí tưởng và nói lên tình yêu lí tưởng cách mạng: "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim… Nhà thơ là đứa con của "Huế đẹp và thơ". Ông sinh ra và lớn lên trong đêm trường nô lệ "Nước mất nhà tan, đời khổ thế!". Trưởng thành trong phong trào yêu nước của thanh niên học sinh, nhà thơ nhiệt thành đi tìm đường cứu nước: "Con lớn lên con tìm Cách mạng". Và trong đêm dày nô lệ, nhà thơ cảm thấy tâm hồn "bừng nắng hạ" kể từ ấy: "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim". "Từ ấy" là thời điểm (1938) nhà thơ được giác ngộ cách mạng, bắt gặp lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. "Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ về lí tưởng cách mạng, về chủ nghĩa Mác – Lênin. Chữ "chói" (chói qua tim) nghĩa là chói lọi, soi vào, chiếu vào. Ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin vô cùng chói lọi đã chiếu vào, soi vào trái tim – tâm hồn yêu nước của nhà thơ trẻ. Bóng tối đêm dày nô lệ như bị xua tan, người chiến sĩ cách mạng cảm thấy cuộc đời mình, con đường mình hướng tới “bừng nắng hạ". Đây là hai câu thơ đẹp nhất của Tố Hữu viết về lí tưởng cách mạng. Ngôn từ (bừng, chói), hình ảnh (mặt trời chân lí) rất hay, rất sáng tạo. Lúc nào đọc, ta vẫn cảm thấy mới mẻ, vần thơ tràn ngập ánh sáng và niềm tin. Hai câu thờ 3, 4 tiếp theo nói về "hồn tôi" từ thuở ấy, từ khi "bừng nắng hạ": "Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim". Nhà thơ sử dụng một so sánh đặc biệt: "Hồn tôi là một vườn hoa lá"… Ngôi vườn ấy xanh màu xanh của lá, rực rỡ của sắc hoa, "rất đậm hương" ngào ngạt. Ngôi vườn đẹp tươi ấy "rộn tiếng chim" hót nghe rất vui. Các từ gợi tả: "đậm", "rộn" thể hiện sức sống và vẻ đẹp của vườn hoa lá, của "hồn tôi" từ khi có chủ nghĩa Mác – Lênin, có "Mặt trời chân lí chói qua tim". Hai câu thơ nói lên tác dụng kì diệu của lí tưởng cách mạng qua một không gian nghệ thuật kì diệu nên thơ. Tố Hữu yêu nước, yêu chủ nghĩa Mác – Lênin mới có cách nói hay, rất hình tượng về lí tưởng cách mạng. "Mặt trời chân lí" và "vườn hoa lá…" là hai hình tượng rất đẹp, rất thơ. Các từ ngữ: "từ ấy", "bừng". "chói", "đậm", "rộn" – được chọn lọc tinh tế làm cho vần thơ cất cánh trong tâm hồn chúng ta.
Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
573
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ miêu tả về mùa xuân rất đặc sắc và có ý nghĩa. Đặc biệt trong đoạn đầu tiên của bài thơ càng cho chúng ta thấy được mùa xuân hòa vào trong lòng người đọc rất rõ nét và sâu sắc. Mùa xuân được xem là khoảng thời gian đẹp nhất trong năm cho nên nói đến mùa xuân là dường như chúng ta cảm thấy yêu đời hẳn lên, có lẽ chính vì vậy mà mùa xuân trở thành một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Đoạn đầu bài thơ tác gỉa đã phác họa lên được một bức tranh xuân trước khung cảnh thiên nhiên của đất trời : “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chim mà vang trời” Dòng sông có màu xanh gợi nhắc một hình ảnh của những khúc sông uốn lượn quanh co của dải đất miền Trung. Trên gam màu xanh lơ nổi bật lên hình ảnh một bông hoa tím biếc,không có màu vàng của hoa mai hay là màu đỏ của hoa đào mà chỉ có một bông hoa màu tím hiện lên trước mắt. Cho thấy hình ảnh mang đậm bản sắc của xứ Huế, màu tím là màu đặc trưng của con người và đất trời Huế. Nhà thơ đã rất khéo léo khi dùng nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên ở phía đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tràn đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân của đất trời. Không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Một bức tranh đang suy tư bỗng đâu đó vang lên một tiếng chim hót làm sinh động hẳn lên, một con chim chiền chiện mà lại hót được vang cả trời, thực ra khoảng trời ấy chính là khỏang không gian riêng của tác giả, chính vì vậy mà chỉ có tác giả mới cảm nhận được điều đó mà thôi. Say mê với tiêng chim mà trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện được những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống “Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng!”. Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp bình dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động: “Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng” Giọt mưa xuân,giọt nắng hay là giọt sương được tác giả viết là “ giọt long lanh”. Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì đây được xem là giọt của âm thanh tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế,nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim như một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo chỉ người có tâm hồn nhạy cảm mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp đó. KHi đọc bài mùa xuân nhỏ nhỏ,nhất là ở đoạn đầu tiên, chúng ta như cảm nhận được hơi thở, men rượu của mùa xuân đang lan tỏa cả vào đất trời, hòa vào thiên nhiên. Đây quả là một mùa xuân nho nhỏ mà nhà thơ Thanh Hải đã giành tặng cho đời vào những giây phút cuối của cuộc đời mình.
Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
573
“Sang thu” là một áng thơ xinh xắn dâng tặng Nàng Thu của một thi nhân – một thi nhân yêu quý mùa thu như bao thi nhân khác – Hữu Thỉnh. Bài thơ có khổ thơ mở đầu thật hay: “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về". Những câu thơ mở đầu bài thơ giản dị đến bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se". “Bỗng” là bỗng nhiên, là bất ngờ, bất chợt. Đặt chữ “bỗng” ở đầu khổ thơ, đầu bài thơ để tất cả giác quan của ta được đánh động, phải giật mình mà chú ý đón nhận mọi biến đổi của đất trời. Biến đổi đầu tiên thu hút sự chú ý của nhà thơ là mùi hương nồng nàn của trái ổi chín thơm lừng. Ổi đã bắt đầu ủ mình để chín tự bao giờ và cũng lặng lẽ toả hương tự bao giờ nhưng vào khoảnh khắc này hương ổi mới đủ nồng nàn đánh thức giác quan của thi nhân. Hương thơm ấy rất mạnh, rất nồng nàn, ngào ngạt có vậy mới “phả vào trong gió se”. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào hương thơm của nó mới đủ mạnh để tạo ra một sự lan toả như vậy trong không gian. Thứ hương thơm ấy lại lan toả trong làn gió se nhè nhẹ ren rét. “Gió se” là gió heo may, chúng đến với nhân gian vào mỗi dịp đầu thu làm tẽ tê, gai gai những cánh tay trần mềm mại. Trước Cách mạng, Xuân Diệu đã từng mang gió se đến cho người đọc với những thoáng rùng mình ớn lạnh: “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Nhưng câu thơ của Hữu Thình lai dắt mùa thu đến bên ta êm ái, dịu dàng biết bao. Viết về những làn sương mùa thu, nhà thợ cũng có cách viết thật duyên dáng: “Sương chùng chình qua ngõ”. “Chùng chình” là cố ý làm chậm lại. Thủ pháp nhân hoá đã biến sương thành những cô bé, cậu bé nghịch ngợm đung đưa náu mình trong ngõ xóm, chùng chình chẳng muốn tan đi. Làng quê yêu mến dìu bước chản thi nhân đi từ hương ổi đến gió se… Rồi khi lạc giữa làn mây sớm chùng chình thì nhà thơ không nén nổi niềm xúc động, ông khe khẽ thì thầm: “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn khoăn rất tinh tế của nhà thơ khi ngỡ ngàng nhận ra “thu đã về”. Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khác giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ chuyển sang thu. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ “Sang thu”, một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam.
Phân tích khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh
520
Mùa xuân, đó có thế gọi là một khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong năm. Nói đến mùa xuân là ta dường như đang nói đến lòng yêu đời đang cuồn cuộn chảy và những mơ ước cháy bỏng của con người trong cuộc sống. Có lẽ chính vì vậy mà từ lâu mùa xuân đã trở thành một đề tài quen thuộc của các nhà thơ. Viết về mùa xuân, thì mỗi thi nhân đều có được những vần thơ thật hay, thật đặc trưng và nhất là đều mang được tính độc đáo riêng của mình, ở đây, ta chỉ nói về hình ảnh của mùa xuân trong bài thơ quen thuộc “Mùa xuân nho nhỏ’’ cùa nhà thơ Thanh Hải. Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân trước mắt chúng ta giữa khung cảnh thiên nhiên và đất trời, vũ trụ: Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời… Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cánh đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cánh hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả náng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ… Bức tranh thiên nhiên kia nãy giờ đang tĩnh lặng như chất chứa suy tư, chợt sinh động và “sống” hẳn lên vì một nét đâm ngang của cánh chim chiền chiện: Ơi! Con chim chiền chiên Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng! Bức tranh ấy giờ đây chợt đẹp hẳn lên và cũng độc đáo hơn vì có sự pha trộn giữa hai sắc màu: hài hoa (xanh, tím) và lung linh rực rỡ (long lanh). Câu thơ giờ cũng mang một nét gì đó lạ lùng chừng như là vô lí; con chim chiền chiện mà lại hót đến vang cả trời! Thực ra, khoảng trời ấy chính là khoảng không gian của riêng tác giả, trong tim tác giả, vì vậy mà chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được và nghe thấy được mà thôi. Tâm hồn nhà thơ nhỏ bé trước đất trời, chính vì vậy mà tất cá mọi cảnh cúa tâm hồn ấy cũng trở nên nhỏ xinh và dễ thương đến lạ: con chim nhỏ của mùa xuân nhỏ trong một khoảng không gian nhỏ. Nhưng chính cái “nhỏ” ấy đã phần nào tạo nên được nét độc đáo riêng trong thế đối lập của câu thơ. Tâm hồn ấy, trái tim ấy tuy nhỏ nhưng chỉ chính nó mới cảm nhận được hết mùa xuân của đất trời và vũ trụ thiên nhiên… Và giờ đây tiếng chim lại vang lên, tiếng chim quen thuộc của đồng quê dân dã: Ồ! tiếng hát vui say Con chim chiền chiện Trên dồng lúa chiêm Xuân chao mình bay liệng… (Tố Hữu) Say mê với tiếng chim, trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống: “Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng!”. “Từng giọt long lanh”… giọt gì? Giọt nắng, giọt sương, giọt hạnh phúc, hay là giọt xuân đang êm đềm rơi xuống từ cánh chim chiền chiện nhỏ đang tung mình bay lượn để ban phát mùa xuân đến cho mọi người? Nhưng chính xác hơn nhất có lẽ là giọt tiếng chim, giọt tiếng chim mà chỉ có một mình tác giả cảm nhận được, và “trông thấy” được! Nhìn được những vật mà mắt thường không thấy có lẽ do Thanh Hải đang nhìn bằng con mắt của một nhà thơ. Tiếng chim thì nghe, nhưng ở đây tác giả lại nhìn. Hiện tượng chuyến đổi cảm giác này lẽ ra chi có được ở những người say. Câu thơ đang vô lí giờ lại bỗng nhiên hợp lí. Quả thật Thanh Hải đang say, ông say trước khung cảnh thiên nhiên vào mùa xuân thật xinh tươi, đẹp đẽ, say vì nàng chúa xuân quá diễm lễ, yêu kiều. Và từ đó trân trọng, thật nhẹ nhàng, tác giả đã đưa tay ra hứng để đón lấy những điều may mắn, cái tốt đẹp và cái “lộc” của mùa xuân đã ban tặng cho tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là cho tác giả. Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc. Đây quả thật đúng là mùa một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải đã dâng tặng cho đời. Nếu chúng ta biết rằng Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh, ông viết không phải vào dịp xuân… và chỉ ít tháng thôi ông đã ra đi mãi mãi… dù sao, bông hoa tím biếc chung với đời, dòng sông xanh biếc của hi vọng, của niềm tin với đời vẫn là hình ảnh nhỏ nhẹ nói với ta bao điều…
Phân tích khổ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
1,124
Đọc truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, một trong những nhân vật để lại ấn tượng khó quên cho độc giả đó là nhân vật người đàn bà hàng chài. Nhà văn không đặt cho nhân vật một cái tên cụ thể bởi có lẽ bà là đại diện cho bao người phụ nữ Việt Nam đang phải chịu cảnh đông con, thất học, lam lũ nhọc nhằn và đặc biệt phải chịu nạn bạo hành gia đình từ người chồng thiếu hiểu biết, vũ phu, độc ác. Tuy nhiên, trong sâu thẳm tâm hồn người đàn bà ấy vẫn tỏa ra vẻ đẹp lấp lánh của đức hy sinh, lòng vị tha, bao dung tất cả. Xuất hiện trước mắt người đọc đó là hình ảnh người đàn bà thân hình cao lớn, đường nét thô kệch, rỗ mặt. Khuôn mặt hằn sâu mệt mỏi, tái ngắt sau một đêm thức trắng kéo lưới. Dáng đi mệt mỏi như một bà già. Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Hình ảnh ấy hiện lên của sự nghèo khổ, vất vả và cam chịu. Khi bị người chồng rút thắt lưng của lính ngụy ngày xưa ra quật tới tấp xuống lưng, vừa đánh vừa thở hồng hộc vừa chửi mà bà vẫn nhẫn nhục chịu đựng. Khi thằng Phác con trai bà nhảy xổ ra vào lão đàn ông, giằng lấy thắt lưng quật lại cha… thì người đàn bà lúc này dường như mới cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã. Bà ôm con vào lòng, nước mắt chan chứa lên khuôn mặt đầy những nốt rỗ chằng rỗ chịt. Thế rồi bà lại đẩy con ra chạy theo lão đàn ông về thuyền. Ba ngày sau vẫn trên bãi biển ấy, bà lại tiếp tục chịu đòn chồng như thế mà vẫn không có một thái độ phản ứng nào. Thái độ cam chịu, nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài khiến người trong cuộc phải kinh ngạc bất bình. Nhưng ở hoàn cảnh đông con, cuộc sống lênh đênh mặt nước lại đầy nhọc nhằn, bất trắc thì chỉ có người đàn bà này mới hiểu được. Con đường duy nhất bà lựa chọn là sự cam chịu, nhẫn nhục để bảo vệ cuộc sống gia đình bình yên. Tại tòa án huyện, người đàn bà trình bày sự thật về cuộc sống gia đình và những suy nghĩ, sự chịu đựng của bà khiến Phùng và Đẩu phải ngạc nhiên. Người đàn bà muốn gián tiếp nói với Phùng và Đẩu: Cuộc sống vất vả, khó nhọc, chúng tôi rất cần một người đàn ông. Trong nỗi buồn đau nhữnng lời lẽ của bà vẫn đầy bao dung, ví người chồng như biển kia khi có giông tố nhưng cũng có lúc hiền hòa, lặng gió. Là người thất học, quê mùa nhưng lại thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ mang triết lí của con người từng trải, chấp nhận chịu thiệt thòi, khổ đau để cho người con tội nghiệp khỏi bị tổn thương và để chúng có đầy đủ cả cha và mẹ. Từ cái nhìn nhân đạo, nhà văn đã phát hiện ra đằng sau câu chuyện buồn là vẻ đẹp tình mẫu tử, sự can đản và tấm lòng hy sinh bao dung của người phụ nữ. Đó là hạt ngọc ẩn dấu trong những cái lấm láp đời thường mà người nghệ sĩ phải kiếm tìm ngợi ca và nâng đỡ. Người đàn bà hàng chài không phải nhân vật trung tâm trong tác phẩm, nhưng lại là nhân vật đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện cách nhìn đa diện, nhiều chiều của Nguyễn Minh Châu. Người ta không thể nhìn con người, sự vật, hiện tượng từ bên ngoài mà phải phát hiện được bản chất thực sự bên trong nó.
Phân tích người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
648
Lưu Quang Vũ được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc trong thời kỳ hiện đại. Đương thời khi còn sống, kịch của anh luôn có mặt trên sàn diễn của nhiều đoàn nghệ thuật trong cả nước. Trong lịch sử sân khấu nước ta, thời kỳ kịch của Lưu Quang Vũ có lẽ là thời kỳ sôi động, giàu sức sống nhất. Những năm 80, kịch của Lưu Quang Vũ xuất hiện đã làm thay đổi tư duy của người biểu diễn cũng như của công chúng yêu sân khấu. Nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao tài năng, tâm huyết và những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền sân khấu nói riêng và với nền văn học nói chung. Anh cũng là một trong những "người đi trước” trong phong trào đổi mới văn hoá văn nghệ, dùng ngòi bút của mình góp phần đem lại những điều tốt đẹp cho con người và xã hội. Trong đó không thể không kể đến vở kịch Hồn trương Ba, da hàng thịt. Ngay từ nhan đề đã gây ấn tượng không nhỏ đối với người đọc. Kịch bản của Lưu Quang Vũ dù được sáng tác nhanh với một số lượng lớn: hơn 50 vở kịch trong khoảng thời gian chưa đầy 10 năm, nhưng hầu hết đều đạt đến một chất lượng nghệ thuật nhất định. Ngay cả những vở được coi là không thành công khi đã lên sàn diễn cũng có một giá trị văn học không thể phủ nhận. Chúng ta đều biết rằng vở diễn nếu tách rời khỏi hoạt động sân khấu sẽ mất đi phần “động" chỉ còn lại phần “tĩnh”. Sân khấu đem đến cho kịch một đời sống thứ hai, sống động, hấp dẫn và sân khấu cũng quy định cho kịch những đặc tính nhất định, nên kịch có những đặc trưng riêng khác hẳn với thơ và tiểu thuyết. Trước khi đến với sân khấu Lưu Quang Vũ đã là người làm thơ, viết văn có phong cách riêng. Anh đã kết hợp và phát huy được những thế mạnh của mình khi đến với loại hình nghệ thuật có ý nghĩa tổng hợp như sân khấu. Từ thơ và chất thơ trong văn xuôi, rồi từ chất văn xuôi của đời sống, Lưu Quang Vũ đã chuyển sang viết kịch và đã gặt hái được những thành công rực rỡ. Ở đó vẫn tiếp tục những nguồn mạch được khai mở từ khá sớm nhưng Lưu Quang Vũ đã chín chắn, tỉnh táo hơn. Kịch là nơi Lưu Quang Vũ có thể bộc lộ trực tiếp hơn những khám phá và nhận thức của anh, là nơi anh có thể đóng góp tích cực hơn cho đời sống. Lưu Quang Vũ đã nói lên những suy nghĩ của mình trong lời tự bạch, trước khi mất: “Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau. Đó là hai thể loại lớn của văn học, là cuộc sống và thế giới tinh thần của con người được biểu hiện ở dạng tinh chất nhất, mạnh mẽ nhất, tuy ngôn ngữ nghệ thuật của chúng có những điểm khác biệt. Tôi say mê sân khấu từ nhỏ và làm thơ cũng từ nhỏ, nhưng chỉ mãi đến khi hơn ba mươi tuổi, tôi mới dám cầm bút viết vở kịch đầu tiên. Tôi cho rằng nghề viết kịch đòi hỏi người ta phải có sự từng trải khá dày dạn về đời sống và một sự am tường nhất định về sân khấu. Đã có khá nhiều thi sĩ thành đạt từ thuở thiếu niên nhưng hình như khó có ai thành công về viết kịch khi chưa đến 30 tuổi… Động lực xui giục tôi viết kịch cũng là những động lực khiến tôi làm thơ, đó là khát vọng muốn được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình và thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”. Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại căn cứ vào cốt truyện của kịch bản. Cha ông ta có câu “có tích mới dịch nên trò”. Có thể hiểu nôm na “tích” chính là cốt truyện, phải có cốt truyện mới tạo dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của Lưu Quang Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn, chủ yếu tập trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch này được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987, trong không khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên cứu phê bình cho rằng đây là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới công diễn, vở kịch đã gây chấn động dư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong giới sân khấu. Những rắc rối đổ vỡ bắt nguồn từ sự sống vay mượn của Trương Ba trong xác anh hàng thịt đã khiến cho chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được sống trong một thể thống nhất. Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá nhân mà còn đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào Bắc Đẩu đã tước đi mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế Thích lại là tiền đề bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba. Mọi sự sửa sai không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui. Quyết định vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống vay mượn giả tạo của Trương Ba ở phần kết là một sự phản kháng mãnh liệt và đau đớn. Trích đoạn Hồn Trương Ba da hàng thịt là một phần thuộc Cảnh VII – cũng là cảnh cuối cùng của vở kịch, được đặt tên là Thoát ra nghịch cảnh. Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt – kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và “Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”. Tác giả đặt nhan đề như vậy để nói về Trương Ba một tâm hồn thanh cao, hồn hậu nhân từ giản dị,lại phải trú ngụ trong thân xác hàng thịt tầm thường bị chi phối, điều khiển. Trong khi xác hàng thịt thô lỗ, kềnh càng, âm u, đù mù, có sức mạnh. Qua nhan đề, tác giả muốn nói rằng được sống là một điều đáng trân trọng nhưng sự sống của Trương Ba thì đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì anh ta phải sống nhờ vào thân xác người khác, phải sống chung với sự dung tục, tầm thường, và bị nó sai khiến , đồng hóa. Bài học rút ra : khi con người phải sống trong sự dung tục và bị lệ thuộc vào nó , thì tất yếu sẽ bị nó chi phối, ngự trị và dần dần tàn phá những gì trong sạch, thanh cao, đáng quý của con người. Lưu Quang Vũ đã kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Anh cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng hơn của linh hồn so với thể xác. Hàng loạt nhân vật phụ được hư cấu đã phát ngôn cho tư tưởng đó của tác giả. Trong khi tất cả những người thân, kể cả người vợ, phủ nhận, xa lánh Trương Ba trong xác anh hàng thịt, thì cô con dâu lại càng thông cảm với ông hơn. Mặc dù cô cũng nhận ra bao nhiêu điều ngang trái xuất hiện nơi con người Trương Ba. Bằng những lời mộc mạc, giản dị, cô đã nói khá đúng, khá cơ bản về linh hồn: “Thày vẫn dạy chúng con: cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”; “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui, buồn, mừng, giận, yêu, ghét…”. Qua hàng loạt lời thoại của các nhân vật, nhà viết kịch đã thể hiện một cái nhìn biện chứng đối với mối quan hệ Hồn – Xác. Người sống mượn hồn hay xác của kẻ khác thì cũng đều bất ổn như nhau, đều không còn là mình nữa. Một linh hồn dù tốt đẹp khi trú ngụ trong thân xác khác cũng sẽ bị biến dạng, bởi nó bị chi phối theo thói quen và bản năng của thân xác đó, hơn nữa nó luôn bị dằn vặt trong mặc cảm giả dối và ích kỉ. Chưa kể còn hàng loạt những hệ lụy, rắc rối khác như đã xảy ra ở các màn kịch trước. Cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác, của những nhu cầu tầm thường đối với khát vọng sống cao đẹp. Cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia là một bi kịch cho Trương Ba và càng đau đớn hơn nữa khi ông ý thức được rằng sự vay mượn này còn đem lại bao đau khổ cho những người thân của mình. Nó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Hồn Trương Ba đã nói với cô con dâu: “Thầy đã làm u khổ. Có lẽ cái ngày u chôn xác thày xuống đất, tưởng thày đã chết hẳn, u cũng không khổ bằng bây giờ”. Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân khiến Trương Ba đi đến chấp nhận cái chết, trả lại xác anh hàng thịt. Từ tư tưởng triết lý đúng về quan hệ giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đẹp về cách sống: sống chân thật đúng là mình, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết nhưng ông vẫn sống, sống trong tình cảm, trong “cõi nhớ” của mọi người, sống trong Sự sống, không cần phải mượn đến thân xác của người khác. Đó là suy nghĩ vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thượng. Ý tưởng sâu sắc đó, sau này lại được Lưu Quang Vũ thể hiện đậm nét trong vở Người trong cõi nhớ – một vở diễn đạt Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Kịch bản này có một lối kết cấu khá độc đáo. Các nhân vật xuất hiện đồng thời theo các bình diện không gian khác nhau. Những người đang sống và những người đã chết. Đã chết như chỉ là mất đi cái phần thân xác, những tư tưởng, tinh thần, những khát vọng, ước mơ cao đẹp của họ vẫn sống. Sống trong sự nghiệp, trong nỗi nhớ thường ngày của những người đang sống hôm nay. Qua lời của một nhân vật kịch, Lưu Quang Vũ đã bộc lộ quan niệm của anh về sự sống chết: Con người tồn tại ở ba cõi. Đó là thế giới của những người đang sống và cõi lặng im. Cõi thứ ba: Cõi của những người đang sống TRONG TRÍ NHỚ CỦA NGƯỜI KHÁC, những người không bị lãng quên… Và có thể nói quan niệm này đã chi phối hàng loạt các vở kịch khác của anh. Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ. Năm 1990, tại Liên hoan Sân khấu Quốc tế lần I tổ chức tại Mátxcơva, lần đầu tiên xuất ngoại, vở diễn đã được đánh giá xuất sắc nhất Liên hoan. Năm 1998 vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đã đi lưu diễn tại Mỹ trong chương trình giao lưu sân khấu Việt – Mỹ (V.A.T.E.I) được đánh giá là sự kiện văn hoá lớn. Nhà văn Hồ Anh Thái – người được chứng kiến không khí sôi động của đêm diễn trên đất Mỹ sau này đã tái hiện lại qua bài viết Đêm không ngủ ở Seattle (mượn tên một bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Mỹ). Tác giả Phan Ngọc cũng đã có những lời đánh giá cao đối với tác giả vở diễn này: “Theo tôi nghĩ, Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa… Có một Kịch pháp Lưu Quang Vũ mà cả Đông Nam Á có thể tiếp thu: "Vũ là một Prôtê, vị thần trong thần thoại có thể thay hình đổi dạng tuỳ theo sở thích… Không ai bằng Vũ trong biệt tài nêu lên cái muôn đời trong cái bình thường, biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quý”
Phân tích nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt
2,561
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 4 5 Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Dàn ý Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 1 Nghệ thuật hướng tới cái đẹp. Nếu cái đẹp là một cái gì gắn liền với cuộc sống, bắt nguồn từ lao động, tiêu biếu cho cái đẹp của cuộc sống phải được coi là đối tượng miêu tả chủ yếu của nghệ thuật. Có lẽ xuất phát từ quan điểm ấy, Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã tập trung xây dựng các hình tượng nhân vật đẹp cả trong tâm hồn và tính cách. Trong số các nhân vật ấy, anh thanh niên làm công tác khí tượng ở Sa Pa gây một cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc. Là một thanh niên hai mươi bảy tuổi, cái tuổi sôi nổi yêu đời ham hoạt động, anh đã tự nguyện nhận công tác một mình ở đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Công việc tưởng như đơn giản, chỉ cần đo gió, đo mưa, tính mây, tính nắng cho chính xác nhưng anh phải vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách. Anh tâm sự với ông họa sĩ già: “Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…”. Nhưng có lẽ cái khó khăn nhất là phải sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, không một bóng người quanh năm suốt tháng. Ở đó, muốn gặp người khác, nhìn trông và nói chuyện là một điều khó. Vậy mà anh vượt qua tất cả vì sự gắn bó với công việc đến say mê khiến anh không cảm thấy cô độc, lẻ loi… “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được” vì anh thấy công việc của mình gắn liền với việc của bao anh em đoàn viên. Và nhất là anh thấy rõ với công việc của mình, anh đã được “dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Có hiểu được như vậy mới thấy được hạnh phúc của anh khi được biết mình cũng góp phần vào cuộc chiến đấu hạ phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng. Đẹp đẽ biết bao, càng đọc tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa, ta càng phát hiện những nét đáng yêu, đáng quý của người thanh niên ấy. Anh ham mê đọc sách và nghiên cứu sách vở, tự lo liệu để thường xuyên có sách đọc. Anh tâm sự với cô gái trẻ: “Cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện”. Anh đã tạo cho mình cuộc sống sôi nổi, năng động, đầy hứng thú. Anh nuôi gà lấy trứng, trồng hoa lay ơn, thược dược, vàng, tím đồi rực rỡ. Anh trồng vườn cây thuốc quý, anh sắp xếp một căn nhà ba gian sạch sẽ… Cuộc sống tinh thần của anh sáng như pha lê, không vương hạt bụi. Trong cuộc tiếp xúc ngắn ngủi ba mươi phút với bác lái xe, ông họa sĩ già và cô kĩ sư nông nghiệp trẻ, tính hiếu khách, thái độ nhân hậu, ấm tình người của anh làm ta cảm động. Anh lo lắng tìm thuốc quý để chữa bệnh cho vợ bác lái xe, anh hái hoa tặng cô gái, biếu làn trứng làm thức ăn trưa cho những vị khách quý bất chợt ghé thăm. Những nét tính cách trên ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của anh, người thanh niên sông trong chế độ mới, làm chủ tập thể. Thường, các tác giả rất quan tâm đến việc đặt tên cho các nhân vật. Nhưng trong Lặng lẽ Sa Pa thì lại không như vậy. Nhân vật chính của chúng ta không có tên. Tác giả chỉ gọi đơn giản là “Anh thanh niên” kèm theo là một bản vẽ đơn sơ “tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ”. Có lẽ đó cũng là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, nó phù hợp với tính cách quên mình của anh. Khi nói về sự làm việc lẻ loi, anh không muốn nói về mình mà nói về người khác: “Một mình thì anh bạn trên đỉnh Phăng-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu”. Khi ông họa sĩ già định vẽ anh thì anh giới thiệu ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa, đồng chí cán bộ khoa học nghiên cứu làm bản đồ sét riêng cho nước nhà. Tính khiêm tốn, anh không muốn mình được đề cao. Viết đến đây, ta lại nhớ đến bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân. Nhân vật trừ tình trong bài thơ của anh cũng là một người anh hùng “Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ” mà tác giả gọi bằng cái tên chung – Anh Giải phóng quân. Những con người của đất Việt đó đã gặp nhau ở đức tính hi sinh quên mình chăng? Những con người anh hùng vô danh ấy đã “ngày đêm làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước” một cách thầm lặng, không chút ồn ào khoa trương. Họ làm việc, công tác rất sôi nổi hăng hái nhưng không lên gân, tâm hồn họ đẹp đẽ và trong sáng nhưng không đơn giản. Trong Lặng lẽ Sa Pa ta thấy họ là cả một tập thể: người bạn ở đỉnh núi Phăng-xi-păng, ông kĩ sư, người cán bộ khoa học. Qua thân thế, cuộc đời của một con người bình thường từ quần chúng mà ra ấy, nhà văn đã phản ánh được tư tưởng mới của thời đại cách mạng chúng ta. Vì thế, nhân vật ấy trở thành điển hình và có tác dụng giáo dục mạnh mẽ. Mặt khác, các nhân vật trong truyện từ bác lái xe, đến ông họa sĩ già, cô gái trẻ đều góp phần làm cho hình ảnh anh thanh niên được sinh động và đậm nét hơn. Bác lái xe xuất hiện chí có tác dụng dẫn dắt, giới thiệu nhân vật chính, nhưng chính lời nói của bác lại gây sự chú ý, hứng thú cho người đọc. Ông họa sĩ già với niềm say mê và sự suy tư trầm lắng trước sự xuất hiện bất ngờ của một đối tượng nghệ thuật, mà bao lâu ông khó nhọc săn tìm, đã đem đến cho hình tượng anh thanh niên một vẻ đẹp hồn nhiên, chân thật mà cũng hết sức độc đáo. Đặc biệt, cuộc gặp gờ bất ngờ của cô kĩ sư nông nghiệp với anh cán bộ khí tượng trẻ tuổi. Cô gái bàng hoàng khi đột nhiên khám phá trên mấy trang sách đọc dở của anh cuộc sống tinh thần tuyệt đẹp. Những nét miêu tả tinh tế của tác giả về tâm tư, dáng điệu, cử chỉ góp phần tô điểm thêm một cách ý nhị, duyên dáng cho bức chân dung của nhân vật chính. Trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa không có nhân vật tiêu cực nhưng không phải vì thế mà tác phẩm kém giá trị hiện thực. Nhân vật của Nguyễn Thành Long gần gũi, quen thuộc với chúng ta vì tính cách nhân vật được bộc lộ qua những quan hệ thường ngày, qua những nỗi niềm, tâm sự, suy nghĩ… chứ không qua những biến cố, sự kiện ồn ào. Những thắng lợi và thất bại, niềm vui sướng và sự đau xót, cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới… ngày nay đang diễn ra xáo trộn suốt đêm ngày. Những mầm mống, những yếu tố mới, những hi vọng mới cứ kế tiếp nhau ngày càng náy nở. Đó là cảm nghĩ của chúng ta sau khi đọc xong những trang cuối cùng câu chuyện. Những con người rõ nét, xinh đẹp, say sưa lao động, nhiệt tình yêu cuộc sống hiện lên trong sách. Những hình tượng thu hút trí tưởng tượng và tình cảm của ta, làm ta thiết tha yêu mến và đồng tình, mong muốn noi gương sống như những con người đó. Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 2 Có những âm thanh rất nhỏ, đến như câm lặng, nhưng lại vang đi rất xa và tạo nên nhiều tiếng vang. Có những con người rất nhỏ bé, nói rất ít nhưng lại hiểu biết rất nhiều. Anh con trai trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã nói rất ít, rất ngắn, chỉ năm phút về mình, nhưng đã khiến chúng ta hiểu rất nhiều, rất sâu về anh để yêu mến, quý trọng con người ấy. Bên cạnh đó, qua tác phẩm, người viết còn kín đáo gửi gắm vào truyện lời khuyên mọi người hãy yêu thương nhau hơn và sống tốt đẹp hơn. Anh thanh niên không phải là một con người đặc biệt, chỉ là một con người có tầm vóc nhỏ bé, thậm chí tên anh, tác giả cũng không giới thiệu nữa. Hình như tác giả muốn nói: tên anh không phải là một điề quan trọng, đáng nhớ đâu, bỡi mỗi người trên đời này đều có thể có cái tên giống với anh. Cũng như mọi người, anh không muốn sống cô độc, anh sợ buồn. Cái việc anh đẩy một khúc cây ra chắn giữa đường buộc xe đi qua phải dừng lại, vừa ngộ nghĩnh buồn cười, vừa đáng yêu biết mấy… Với cuộc gặp gỡ chưa đầy nửa giờ, anh đã hoàn toàn chinh phục được ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Ông họa sĩ đã ghi lại những nét đẹp của đời đã tìm thấy vẻ đẹp ở anh. Cô kĩ sư mới tốt nghiệp, sau cuộc gặp gỡ với anh, cô đã có thêm niềm tin ở chính mình và cuộc sống. Vì sao vậy? Vì trong cuộc gặp mặt ấy, không phải bằng lời lẽ, mà bằng tất cả những gì toát ra từ con người của anh, xung quanh ấy, công việc của anh, họ đã nhận ra ở anh những vẻ đẹp của một con người cao quý. Như lời nhận xét có tính chất vui đùa cùa bác lái xe, anh là một con người “cô độc nhất thế gian”. Anh thanh niên, hai mươi bảy tuổi, một mình sống vắt vẻo trên đỉnh núi Yên Sơn làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu với rừng xanh, mây trắng, bão tuyết, sương rơi, ở độ cao hai ngàn sáu trăm mét. Đúng, xét về mặt đó, anh là một con người thật cô độc. Nhưng trong sự cô độc ấy, tâm hồn anh gần gũi con người biết chừng nào, ấm áp tình người biết chừng nào. Nếu một người tầm thường, nhút nhát và yếu đuối, hẳn anh không dám sống một nơi như thế – một nơi không thể ý lại, dựa dẫm vào ai, lại phải một mình làm việc giữa thiên nhiên khắc nghiệt. Ngược lại, ta biết ngay, anh là một thanh niên rất kiên cường và có bản lĩnh. Luôn luôn khát khao được gặp con người, được trò chuyện với con người, anh đã nghĩ ra cái mẹo vừa thông minh vừa tinh nghịch để mỗi chuyến xe khách đi qua đều dừng lại với anh, dẫu chỉ trong chốc lát. Không ai trách cái hành động ấy, vì nó nói lên một tình cảm đáng quý của anh. Trái lại mọi người còn cảm động trước hành động ấy, bác lái xe đã xử sự rất đúng khi đặt ra thành lệ việc ngừng xe lại nửa giờ nơi đỉnh núi cao, để thỏa mãn nguyện vọng của anh, nhưng là cũng để gặp gỡ và tỏ lòng yêu mến một tâm hồn trong sáng như anh. Thái độ quan tâm đến con người ở anh không chỉ vì một niềm vui của chính mình mà vì thực lòng yêu mến và quý trọng con người. Chỉ vì “Hôm trước bác bảo bác gái vừa ốm dậy là gì?? Anh chu đáo đi tìm được củ tam thất và ân cần trao cho bác lái xe để bác ấy cho vợ “ngâm rượu uống bồi bổ sức khỏe”. Thái độ quan tâm ấy còn bộc lộ ở những cử chỉ hiếu khách đặc biệt, khi ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ bước lên thăm nơi ở và làm việc của anh, anh đã vào khu vườn của mình, cắt một bó hoa rõ to tặng cô gái với những lời chân thành: “cô muốn lấy bao nhiêu nữa tùy ý, có thể cắt hết nếu cô thích”. Ai lại không hả lòng hả dạ trước một cách đón khách trân trọng mà thật thà như thế. Chính thái độ của anh đối với con người cũng đã nói lên phần nào thái độ của anh đối với công việc. Làm việc một mình, không có ai kiểm tra, anh thật đã có một ý thức trách nhiệm đầy đủ. Chỉ nói về mình có năm phút, một cách rất khiêm tốn, đã cho ta hiểu hết cái gian khổ của công việc anh làm, cũng cho ta hiểu biết sự tận tụy của anh. Nhưng quan trắc khí tượng xác định theo giờ, ban ngày và cả ban đêm đầy giá lạnh, có cả mưa tuyết, có cái im lặng đáng sợ của núi cao lúc nữa đêm… thế nhung anh không bỏ qua một giờ quan trắc nào, bởi anh hiểu được rằng mỗi việc làm của mình là một mắc xích trong cái chuỗi công việc chung của nhiều người, của mọi người. Cái sai, cái đúng của anh dẫu bé nhỏ nhưng góp phần vào cái sai cái đúng, cái thất bại hay cái thành công của những điều lớn lao. Việc dự báo chính xác sự xuất hiện của một đám mây bất ngờ có thể góp phần tạo nên thắng lợi của một trận đánh quan trọng, là có sự tham dự của anh. Sống ở vị trí của một người “cô độc nhất thế gian” mà anh không buồn, không chán nản , chính vì anh đã tìm được cái ý nghĩa lớn lao trong công việc của mình như thế nào.\ Có trách nhiệm đối với mọi người và trong công việc, anh cũng sống có trách nhiệm đối với chính mình. Thông thường trong hoàn cảnh sống như anh, người ta rất dễ sống buông thả. Chính ông họa sĩ cũng có cái ý nghĩ “khách tới bất ngờ chắc cu cậu chưa kịp quét dọn, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn. Không, nơi anh ở chẳng những không hề bừa bộn mà còn sạch sẽ, tinh tươm và đẹp nữa. Chẳng cần tìm hiểu sâu thêm, chỉ cần dừng ngay trước sân nhà của nơi anh làm việc, cũng đủ cho ta yêu mến, quý trọng anh, khi bắt gặp vườn hoa với bao nhiêu loài hao đủ sắc màu, hoa đơn, thược dược vàng, hồng phấn, tím đỏ,… có người sẽ hỏi anh trồng hoa làm gì kia chứ, ở một nơi heo hút như thế? Căn phòng của anh ngăn nắp, gọn gàng. Nếp sống hằng ngày của anh được tổ chứ nề nếp, làm việc, ăn uống, nghĩ ngơi, đọc sách, đọc báo,… như một con người đang sống và làm việc giữa một xã hội, với mọi người, chứ không phải một mình anh. Đó là một thái độ tự trọng, đó chính là sống đẹp, sống có văn hóa. Sống đẹp là gì? Ấy không phải là chỉ sự ăn mặc đẹp để mọi người nhìn thấy, mà biết làm đẹp chi cuộc sống, cho quần áo, mặt mũi mình, cho tất cả quanh mình ngay khi chỉ riêng mình. Cái đẹp ấy không bắt nguồn từ một ham muốn giả tạo mà bắt nguồn từ bản chất, một tâm hồn đẹp. Hãy xem anh thanh niên khiêm tốn biết bao! Nói về riêng mình chỉ năm phút trong tổng số ba mươi phút của cuộc gặp gỡ, mà thật ra anh chỉ giới thiệu về công việc của mình với những người khách cần biết. Tác giả như muốn nhấn mạnh cái tỉ lệ thời gian ấy để làm nổi bật một phẩm chất của anh. Nói về mình đã ít mà cách nói cũng hết sức nhẹ nhàng. Anh như cho rằng những điều anh làm, cái khắc nghiệt của cuộc sống cô đơn mà anh đang sống, thật ra không có nghĩa lý gì so với mọi người. Hãy nghe anh thanh niên nói gì khi chợt nhận ra ông họa sĩ đang trò chuyện vừa ghi vào sổ tay những nét kí họa về anh. Anh thật tình bối rối, cảm thấy không có gì đáng để một họa sĩ ghi lại. Anh lại chân thành giới thiệu bao nhiêu người đáng để vẽ hơn anh, nghĩa là tốt hơn, đẹp hơn, đáng quý, đáng mến hơn anh: một kỹ sư tận tình vời cây rau, một nhà nghiên cứu sét để làm một cái bản đồ sét cho nước ta, ngày đêm miệt mài với công việc. Ta có thể tự hỏi: sao anh ấy giản dị thế, tốt thế, đẹp thế? Đúng, đây là chỗ xuất phát của mọi điề. Anh là một con người ma trong lòng luôn rực rỡ một khát vọng: sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống có ích cho đất nước, cho mọi người. Đất nước có chiến tranh, anh xin ra trận. Không được ra trận, anh tận tụy làm công việc của mình. Khi biết công việc của mình rõ ràng là có góp phần vào chiến thắng, anh cảm thấy rất hạnh phúc. Vậy hạnh phúc của anh thật cụ thể, vì nghĩa đời sống của anh thật rõ ràng, một người cảm thấy hạnh phúc vì công việc của mình có ích cho xã hội, cảm thấy công việc mình là không thể dứt bỏ được, không thể sống chán nản, buông thả được. Anh đã có một lý tưởng sống thật cao cả cho mình. Dường như trong mỗi bức tranh tả cảnh, tả người, nhà văn đều gửi gắm một tình cảm yêu mến vào đó. Qua “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long không những lôi cuốn người đọc bằng tình tiết, sự kiện, bằng phẩm chất của từng nhân vật mà còn làm cho thế giới tâm hồn của mỗi người được mở rộng, nâng cao. Những bức tranh phong cảnh được vẽ bằng ngôn ngữ văn học trong sáng thể hiện sự rung cảm tinh tế và tài năng của nhà văn Sung sướng thay những con người sống với một khát vọng cao thượng và tìm thấy chỗ đứng của mình trong đời. Không cớ gì đi tìm một công việc phải to tát, vĩ đại thì con người mới bộc lộ được hết phẩm chất của mình, trong bất kì hoàn cảnh nào, ngay khi sống giữa thâm sơn cùng cố, sống trong hoàn cảnh “cô độc nhất thế gian”, con người có tâm hồn đẹp, có lối sống đẹp vẫn đầy sức hấp dẫn. Cùng với ông họa sĩ, nhà văn Nguyễn Thành Long thực sự đã vẽ được thành công chân dung của một nhân vật đẹp trong đời, một chân dung tuy chỉ kí họa trong mấy mươi phút nhưng vẫn có một vẻ đẹp thâm trầm… Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 3 Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết truyện nắng và kí. Nét đặc sắc trong truyện ngắn của ông là luôn tạo hình tượng đẹp, ngôn ngữ tỏng trẻo, nhẹ nhàng, sáng tác của nhà thơ có nhiều đặc sắc. Nổi bật sáng tác của ông có thể nói đến là " Lặng lẽ Sa Pa". Truyện được viết năm 1970, với tên truyện ta thấy sa pa là một nơi yên lặng để có thể nghỉ ngơi nhưng cạnh vẻ bề ngoài đó chính là sự sôi nổi của tuổi trẻ , chính là anh thanh niên. Trước tiên tác giả giới thiệu cho người đọc một vùng đất đầy ấn tượng, vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho con người Sa Pa những con người làm nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn chương vì lợi ích đất nước, cuộc sống con người. Trong đó có anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu Anh Thanh niên được giới thiệu" người cô độc nhất thế gian" một mình làm việc trên đỉnh yên sơn coa 2600 mét, quanh năm suốt tháng bốn bề mây phủ giá lạnh, anh cô độc " thèm người”, công việc mỗi ngày của anh “ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây đo trấn động mặt đất”. Nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu, công việc đòi hỏi tỉ mỉ, chính xác có tinh thần trách nghiệm cao. Công việc gian khổ vất vả nhưng anh thanh niên vẫn yêu nó, làm việc vất vả. Có lần anh phát hiện một đám mây khô lên quân ta đã tiêu diệt nhiều tiên Mỹ trên cầu Hàm Rồng, anh thấy mình hạnh phúc. Chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua nỗi buồn cô đơn buồn chán. Anh có những suy nghĩ trân thành mà sâu sắc: “ Hồi chưa vào nghề… bây giờ là làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa” và khi ta làm việc là đôi sao gọi là một mình được, huống chi vực của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy nhưng cất nó đi cháu buồn đến chết mất”. Qua những lời tâm sự này ta thấy đó là suy nghĩ và nối sống cao đẹp của anh thanh niên càng thấy yêu mến, quý trọng những con người như thế, biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc của mục đích làm việc. Vẻ đẹp, nết sống, tính cách biết tự làm đẹp cho cuộc sống. Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc biết sắp xếp lo toàn cuộc sống riêng ngăn nắp. Anh tự biết làm cho cuộc sống của mình vui vẻ đầm ấm thơ mộng, ý nghĩa. Anh trồng hoa “ hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, … vườn hoa khoe sắc rực rỡ hàng ngày như động viên tiếp sức làm cho tâm hồn mộng mơ, yêu cuộc sống”. Anh đọc sách, trò tuyện lấy sách làm bạn tri ân, tri kỉ. Anh nuôi gà anh lấy thêm thực phẩm tạo không khí gia đình vui tươi đầm ấm. Thế giới riêng của anh “ một gian nhà ba gian sạch sẽ với bàn ghế, sách vở… Có lẽ chính nối sống đẹp đẽ đó khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc khắc nghiệt để thấy yêu nghề yêu cuộc sống hơn. Anh là người khiêm tốn thành thực đáng quý. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh, anh từ chối bởi vì công việc và đóng góp của mình còn nhỏ bé, chưa thấm vào đầu so với những người mà anh rất cảm phục, ông kĩ sư dưới vườn rau sa pa, người đồng chí nghiên cứu khoa học. Anh nhiệt thành giới thiệu những con người làm việc thầm nặng. Đáng quý miến nữa ở anh đó là tấm lòng rộng mở, chân thành, gần gũi, thân thiết với tất cả mọi người. Với bác lái xe dường như đã trở thành người bạn thân tình, anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác mới ốm dậy, gửi củ tam thất về làm quà cho bác gái. Với những người bạn mới như ông họa sĩ, cô kĩ sư anh vui mừng đến luống cuống khi biết họ sẽ lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Anh đếm từng phút tìm thời gian gặp gỡ gắn bó vô cùng, anh thèm khao khát nghe truyện dưới xuôi, thời gian trôi đi thật nhanh, giờ phút chia tay đã đến anh thanh niên xúc động và đưa vào tay ông họa sĩ bằng vài nét khắc họa tác giả làm nổi bật hình ảnh anh thanh niên, bức chân dung với những vẻ đẹp tinh thần, tình cảm, nối sống, những suy nghĩ về lí tưởng. Qua bài Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long chúng ta cần phải biết quý trọng cuộc sống, yêu thương cuộc sống nhiều hơn nữa. Tác giả đã làm nổi bật nên một hình ảnh anh thanh niên chân thật, sống tình cảm và luôn khao khát có một cuộc sống tự do. Anh thanh niên là một trong những hình mẫu lý tưởng cho cuộc sống hiện nay để các bạn trẻ noi gương theo. Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Bài làm 4 Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn được rút trong tập “Giữa trong xanh” của Nguyễn Thành Long. Truyện ca ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi hết lòng vì tổ quốc, có trái tim nhân hậu cao đẹp. Bằng cảm hứng hiện thực và trữ tình nhà văn đưa ta đến với Sa Pa – thành phố trong sương của miền Tây Bắc đẹp như một huyền thoại từ cảnh sắc đến những con người rất đáng yêu. Anh thanh niên làm khí tượng thủy văn để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc. Lặng lẽ Sa Pa mang cốt truyện đơn giản xoay quanh một tình huống bất ngờ trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m.Truyện có một chất thơ bàng bạc từ khung cảnh thiên nhiên đến tâm hồn con người. Nhân vật anh thanh niên được hiện lên chủ yếu qua điểm nhìn của ông học sĩ bác lái xe. Cuộc gặp gỡ chưa đấy 30 phút nhưng cũng đủ để các nhân vật ghi lại trong ấn tượng của mình bức chân dung vè người thanh niên mới xã hội chủ nghĩa. Sa Pa đẹp và đầy chất thơ, mảnh đất Lào Cai là một tỉnh thuộc Tây Bắc của Tổ quốc vậy mà mảnh đất ấy không hề hoang vu trái lại rất hữu tình và rất tráng lệ. Khi xe vừa lên dốc,trạm dừng chân là con suối trắng xóa. Sa Pa với những rặng đào,những đàn bò lang cổ đeo chuông như dẫn hồn du khách lạc vào miền đất đẹp kì thú…Đó là nền thiên nhiên để con người nổi lên với tình yêu tổ quốc và hết mình cống hiến cho đất nước. Con người Sa Pa với sự say mê cống hiến lặng lẽ được khắc họa qua hình ảnh anh thanh niên mang vẻ đẹp trong cách sống trong tâm hồn trong suy nghĩ. Anh thanh niên qua điểm nhìn của ông họa sĩ là một anh thanh niên vô danh 27 tuổi, tốt nghiệp ra trường xung phong trở về quê hương làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m “một trong những người cô độc nhất thế gian”. Công việc của anh là “đo gió,đo mưa, đo nắng,tính mây, đo chấn động mặt đất” góp phần phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao ý chí nghị lực rất lớn “Rét, rét lắm bác ạ! Ở đây có cả mưa tuyết nữa đấy”. Nhưng gian khổ nhất là anh phải vượt qua sự cô đơn vắng vẻ quanh năm không một bóng người. Cuộc sống tuy gian khổ nhưng anh đã tự tạo cho mình một cuộc sống nề nếp phong phú: trồng hoa, nuôi gà, tự học và đọc sách ngoài giờ làm việc. Thỉnh thoảng xuống núi anh tìm gặp bác lái xe cùng khách qua đường thăm hỏi giúp đỡ để vơi bớt đi nỗi cô đơn nỗi nhớ người. Anh đã biết làm chủ mình sống có ích cho đời và anh rất vui sướng khi một lần nhờ anh góp phần phát hiện một đám mây khô nên quân ta hạ được bao nhiêu phản lực, anh thấy “Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc”. Anh không chỉ đáng yêu trong cách sống mà còn rất đáng yêu trong suy nghĩ. Với anh quan niệm về người cô độc rất đơn giản: “Khi ta làm việc ta với công việc là đôi huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia”. Rõ ràng cuộc sống của anh không còn buồn tẻ và cô đơn vì anh còn có một nguồn vui khác là công việc. Và anh tâm sự với cô kĩ sư “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện nghĩa là sách ấy mà”. Anh coi những cuốn sách như những người bạn quý để có bạn trò chuyện. Khi giải thích về nỗi nhớ người của mình thì anh cho rằng “người thì ai mà chả thèm? Mình sinh ra là gì? Mình đẻ ở đâu mình vì ai mà làm việc ?”. Anh không phải người đặc biệt nhưng nỗi nhớ người nhớ nhà anh đã cố dồn nén để hoàn thành nhiệm vụ góp một phần sức lực nhỏ bé của mình cho quê hương đất nước. Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Dàn ý * Mở bài: Góp mặt trong phong trào viết về cuộc sống mới của nhân dân sau chiến tranh, Nguyễn Thành Long đã nhanh chóng trình làng một truyện ngắn thật đặc sắc: Lặng lẽ Sa Pa – một tiếng nói lặng lẽ, êm dịu như chính tâm hồn tác giả. Nổi bậc và gây ấn tương nhất là hình ảnh người thanh niên, một cán bộ khí tượng thủy văn. * Thân bài: Trên chuyến xe khách từ Hà Nội lên Lào Cai, ông họa sĩ già, bác lái xe, cô kĩ sư trẻ tình cờ quen nhau. Bác lái xe đã giới thiệu cho ông họa sĩ và cô kĩ sư làm quen với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Đó là một cuocj gặp gỡ thật ý nghĩa, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc. Trong cuộc gặp gỡ 30 phút, anh thanh niên tặng hoa cho cô gái, pha trà và trò chuyện với mọi người về cuộc sống và công việc của anh. Ông họa sĩ muốn được vẽ chân dung anh. Anh thanh niên từ chối và giới thiệu với ông những người khác mà anh cho là xứng đáng hơn anh, nhưng ông họa sĩ cũng kịp phác họa. Những con người tình cờ gặp nhau bỗng trở nên thân thiết. Khi chia tay, ông họa sĩ hứa sẽ quay trở lại, cô kĩ sư thấy xúc động, yên tâm hơn về quyết định lên Lào Cai công tác, còn anh thanh niên tặng mọi người một làn trứng và những lời chúc tốt đẹp. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được xây dựng xoay quanh một tình huống truyện khá đơn giản mà tự nhiên nhưng cũng đủ sức làm tỏa sáng vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên. Qua “bức chân dung” của người thanh niên, qua sự cảm nhận của các nhân vật khác về anh và những người như anh, tác giả đã làm nổi bật được chủ đề của tác phẩm: Trong cái lặng lẽ, vắng vẻ trên núi cao Sa Pa, nơi mà nghe tên người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao nhiêu người đang ngày đêm làm việc miệt mài, say mê cho đất nước. Đọc hết thiên truyện, người đọc sẽ cảm thấy dường như nhà văn đã quá vội vàng khắc họa hình ảnh người thanh niên ngay từ đầu qua lời kể của bác tài xế và cảm nhận của mọi người trên xe. Có lẽ, nhà văn quá phấn khởi và háo hức khi kể về nhân vật này. Dù là hiện lên gián tiếp thế nhưng hình ảnh anh thanh niên được khắc họa rất rõ ràng. Đó là một người “cô độc nhất thế gian”, quanh năm làm công tác khí tượng thủy văn trên đỉnh núi cao. Cũng có thể hiểu, nhà văn đã tạo ra cái cớ để kích thích sự khám phá của các du khách và của người đọc. Sự đối lập giữa người và cảnh vật liên tục gây ra những đột phá lớn, sự chuyển đổi tình cảm từ bất ngờ này đến sự khâm phục khác chính là dụng ý của nhà văn. Từ đó, làm toát lên vẻ đẹp rạng ngời, hiếm có của nhân vật đặc biệt này. Trước hết ở anh thanh niên, người đọc nhận thấy ở anh có một lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm với công việc. Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người.Dù làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát, thúc giục anh vẫn luôn tự giác, tận tụy với công việc, không hề than vãn hay tắc trách. Suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp” đúng giờ. Phải ghi và báo về nhà trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng, anh vẫn không ngần ngại. Công việc anh làm lúc nào cũng hoàn thành tốt. Một công việc nhỏ nhưng đóng góp lớn vào chiến thắng lớn của không quân ta trên bầu trời Hàm Rồng. Mấy năm một mình trên đỉnh cao im lặng, thế nhưng anh kể về nó một cách say sưa và đầy tự hào.Với anh, công việc là niềm vui, là lẽ sống, là nguồn sống bất tận, không bao giờ vơi cạn. Thật đáng khâm phục và tự hào về những người con của đất nước đã không ngần ngại rời bỏ chốn phồn hoa đô thị để cống hiến sức mình dựng xây đất nước nơi địa đầu tổ quốc. Ở họ, tình yêu đất nước, tình yêu cuộc sống và niềm tin vào sức mạnh bản thân đã cho họ nghị lực phi thường chiến thắng cái ỷ lại, ích kỉ, của bản thân, vượt lên trên nghịch cảnh. Đó cũng là vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời đại mới, hăng say lao động, quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, thể hiện mạnh mẽ vai trò làm chủ cuộc sống, làm chủ đất nước. Một vẻ đẹp khác ở anh thanh niên khiến người đọc không khỏi bất ngờ đó là dù chưa có gia đình, anh đã biết tạo ra một cuộc sống nền nếp, gọn gàng và rất đẹp, rất thơ mộng. Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm… “độc tôn” trên đỉnh mây mù không khỏi khiến ta yêu mến và mơ ước. Nó được tô vẽ bởi một vườn hoa nhỏ, một chuồng gà và hàng rào bao quanh càng khiến cho khung cảnh vừa trở nên bình dị, gần gũi vừa rất thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Trên đỉnh gió nhưng cuộc sống của anh không hề cô đơn, buồn tẻ vì anh biết tạo ra những niềm vui đích thực và ý nghĩa. Anh đọc sách hàng ngày. Sách giúp anh ở gần hơn với con người, với cuộc sống, với đất nước. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. Bởi thế, khi được bác họa sĩ tặng quyển sách anh cảm kích vô cùng. Sự trân trọng các giá trị sống bình dị của anh thanh niên làm cho du khách ghé thăm và cả người đọc không khỏi ngậm ngùi và thán phục. Đó vốn là cuộc sống hiển nhiên vốn có nhưng giờ nó là “đặc biệt” trên đỉnh cao Yên Sơn này. Nó mạnh mẽ khẳng định phẩm chất con người và có một sức mạnh chinh phục lớn. Điều đó khiến cho ông họa sĩ và cô kĩ sư nông nghiệp càng thêm tin tưởng vào chuyến đi và công việc sắp tới của mình. Đối với ông họa sĩ như đã bắt gặp cái mà ông đang tìm kiếm bấy lâu và không nghi ngờ gì nữa. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Qua tâm tư của cô gái, ta nhận ra vẻ đẹp và sức ảnh hưởng của nhân vật anh thanh niên. Cung cách ứng xử hồn nhiên của anh thanh niên làm toát lên sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách thật đẹp. Dường như nỗi “ thèm người” khiến anh nồng nhiệt với tất cả, thấy yêu thương và quấn quýt vô cùng. Anh vui sướng cuống cuồng khi có khách đến thăm nhà và không quên tặng củ tam thất cho vợ bác tài xế vừa mới ốm dậy, ân cần chu đáo hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”, rồi pha nước chè mời ông họa sĩ. Hành động nào cũng mau chóng và thắm đượm nghĩa tình bởi anh biết nó rất ngắn ngủi vì ai cũng có việc cần phải làm, chuyến ghé thăm nơi ở của anh chỉ là một nảy sinh trong hành trình mà thôi. Khách lạ mà cứ ngỡ như đã quen biết nhau từ thuở nào. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí. Nổi bậc ở anh thanh niên còn là đức tính khiêm tốn thật đáng trân trọng. Lúc nào anh cũng cho rằng sự đóng góp thầm lặng của mình thật nhỏ bé, thấy ngại trước lời ngợi ca của bác lái xe. Anh thấy vẫn chưa bằng người bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp cầm sứng chiến đấu. Đối với anh, những người chiến sĩ trên chiến trường mới thực sự là anh hùng. Công việc của anh làm không có gì hiểm nguy, thách thức, không có hi sinh, không có trận chiến nào. Anh vẫn thường khâm phục những người như anh, có cống hiến quân trọng và ý nghĩa hơn như ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa hay anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Công việc của họ hoặc là tạo ra cái mới ( ông kĩ sư) hoặc thường xuyên đối diện với nguy hiểm (anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét). Họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc, là những anh hùng của thời đại mới. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ không e ngại hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình đến sống và làm việc nơi xa xôi, hẻo lánh đầy những khó khăn, vất vả. Cuộc sống của họ lặng lẽ và nhân ái biết bao. Đó cũng là một thành công của nhà văn đã khám phá ra nét đẹp con người trong thời đại mới. Đất nước hòa bình, ai mà chẳng muốn được về nhà sau bao hiểm nguy, gian khổ. Thế nhưng, vẫn còn biết bao nhiêu người đã tình nguyện tiếp tục cống hiến sức mình xây dựng quê hương đất nước, chiến đấu với kẻ thù khi miền Nam thân yêu vẫn còn đang trong khói lửa. Hình ảnh anh thanh niên làm ta không khỏi giật và suy nghĩ về bổn phận, trách nhiệm của mình. Hòa bình đâu có nghĩa là nghỉ ngơi, là hưởng thụ mà còn còn phải tiếp tục làm việc, tiếp tục cống hiến để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, tiếp tục cùng nhân dân miền nam chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ thành quả của xương máu của dân tộc vừa mới giành lại được. * Kết bài: Với cách kể chuyện nhẹ nhàng mà hấp dẫn, nghệ thuật miêu tả cảnh đặc sắc, khắc họa tâm lí tinh tế, ngắn gọn phù hợp với tình huống truyện, Nguyễn Thành Long đem đến cho người đọc một thiên truyện đặc sắc, đủ sức gợi lên trong người đọc khao khát kiếm tìm cái đẹp ẩn sâu trong cuộc sống. Chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện, nhưng tác giả đã phác họa được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa
7,116
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 4 5 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 5 6 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 1 Với Chí Phèo, Nam Cao đã xuât hiện trong văn học như một tác giả tiêu biểu nhất của văn học hiện thực phê phán 1940 -1945, thời kỳ mới đầy thử thách với dòng văn học đó. Cũng như các cây bút lớp trước, Nam Cao đặc biệt quan tâm thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những người nghừo bị áp bức bóc lột đương thời. Có điều, trong cảm hứng “vạch khổ” hcugn của mọi nhà văn hiện thực, ngòi bút Nam cao có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo – một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam – đã thể hiện đầy đủ cái nhìn mới mẻ ,độc đáo, có chiều sâu cua Nam Cao trong việc thể hiện nỗi khổ của người cố nông. Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc căm dìu, cả đời không hề biết đến bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở…Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ hoang, trong chiếc váy chụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này đến đi ở cho nhà nọ, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu… Đó là cuộc đời khốn khổ của một kể thuộc hạng “cùng đơn cả dân cùng” ở nông thôn trước cách mạng. Nhưng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo được ngòi bút Nam Cao tập trung thể hiện không phải ở những cái đó mà ở chỗ khác: người nông dân cùng hơn cả dân cùng ấy không được sống ngay cả một cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình, mà anh đã bị những thế lực đen tối cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn để trở thành một con quỷ dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, đầy ấn tượng: Chí Phèo say rượu, vừa đi vừa chửi. Nhưng phải đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo, có cái gì như sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể được. Trong cơn say đến mất cả lí trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận thấm thía “nông nỗi” của thân phận mình: đó là cái cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người. Hắn thèm được người ta chửi vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp, đối thoại, chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là người. Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ là “sự im lặng đáng sợ”. Chí Phèo vẫn có một mình trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!… Thực ra đâu phải Chí Phèo vốn là kẻ lưu manh, nát rượu. Khi còn trai trẻ, anh canh điền nhà Bá Kiến ấy đã áo ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lơn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm, tức là mơ ước một cuộc sống hạnh phúc hết sức bình dị bằng lao động. Khi ấy, tuy còn rất trẻ trung, anh cũng phân biệt tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa khi bị gọi lên bóp chân cho cái bà ba “quỷ quái”, anh chỉ thấy được nhục chứ không yêu đương gì! Nhưng bản chất lương thiện, trong tróng ấy của anh bị hủy hoại. Lão cường hào cào già Bá Kiến vì ghen tuông vu vơ đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để thả ra một anh Chí Phèo hung ác, lưu manh, tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một con quỷ dữ. Trở về làng Vũ Đại đầy bọn cường hào độc ác “ăn thịt người không tanh” đó, nều Chí Phèo hiền lành nhìn nhục thì càng bị đạp giúi xuống, không ngóc đầu lên được. Hắn sống thì phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy, Chí Phèo tìm rượu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say, và hắn say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chính xã hội ấy đã vằm nát bộ mặt con người, cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người, là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu người dân làng…và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa, ai cũng tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. Qua việc miêu tả hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa: người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào chỗ cũng đã quay lại chống trả bằng con đường lưu manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có chuyện Năm Thọ, rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo, hiện tượng ấy chắc gì đã chấm dứt. Chi tiết kết thúc truyện (nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và bỗng thấy thoáng hiện cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng không người qua lại…, có nhiều ý nghĩa: rất có thể, từ cái lò gạch cũ bỏ không, lại có một “hí Phèo con”ra đời để nối nghiệp bố..Điều chắc chắn là chừng nào còn bọn cường hào ức hiếp dân lành, không cho họ được sống, thì chừng đó còn những người lao động phải rơi vào con đường lưu manh để giành lấy miếng ăn, tức là bị hủy diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Truyện Chí Phèo cho thấy cái qui luật tàn bạo đó trong xã hội cũ. Tình trạng lưu manh hóa của Chí Phèo là một biểu hiện nỗi đau khôn cùng của con người sinh ra là người mà không được làm người. Có điều, khi Chí Phèo hầu như tê liệt về ý thức sống, sống mù tói trong kiếp sống không còn là người thì anh không cảm nhận rõ rệt nỗi đau thân phận bi đát đó của mình. Nhưng đến khi bản chất người lao động lương thiện trong Chí Phèo trở về, Chí Phèo bỗng thềm vô hanh được hòa với mọi người. Bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt, Chí Phèo mới thật sự rơi vào một bi kịch đau đớn trong tâm hồn và dẫn đến thảm kịch. Trong một cơn say rượu, cảm thấy bức rứt, ngứa ngáy da thịt, Chí Phèo đã gặp Thị Nởvà đã xông tới người đàn bà xấu xí đó một cách rất … Chí Phèo. Nhưng điều kì diệu là, nếu như lúc đầu, thị Nở chỉ khơi dậy bản năng sinh vật của gã đàn ông say rượu Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và tình yêu thương mộc mạc, chân thành cua thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong anh. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo sau lần gặp với thị nở là đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ. Sáng hôm ấy, sau khi tỉnh dậy. Chí Phèo thấy lòng bâng khuâng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười của những người đàn bà đi chợ về…những âm thanh bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và lay động sâu xa tâm hồn. Cuộc gặp gỡ Thị Nở như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm dằng dặt của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng của số phận mình. Tình yêu thương đã thức tỉnh anh, và linh hồn của anh bấy lâu nay đã bán cho quỷ để đổi lấy miếng ăn thì giờ anh đã trở về. Anh bỗng thẫy “Thèm” lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của thị Nở đã mở đường cho anh Chí Phèo trở lại làm người. Câu trả lời của thị Nở đã quyết định số phận của anh. Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu bà đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Hôm nay, linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo lại rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Khi hiểu ra rằng xã hội dứt khóat cự tuyệt mình. Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn, tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống…nhưng càng uống càng tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hanh của thân phận mình. Rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức cho đến khi uống say mêm và lại xách dao ra đi, lại vừa đi vừa chửi…như mọi lần. Nhưng lại khác hẳn mọi lần, trong cơn đau tuyệt vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ thù và tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Anh đến trước mặt Bá Kiến, đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó, anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về, anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như thú vật được nữa, nhưgn xã hội không cho anh sống cuộc sống của con người! Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu tươi của mình, chết trong niềm đau thương tột cùng vì nỗi khát khao mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm người đã không trở thành hiện thực. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo “Ai cho tao lương thiện” là câu hỏi chất chứ phẫn uất, đau đớn, còn làm ray rứt người đọc đên hôm nay. Câu hỏi ấy đã cô đúc cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm một cách sâu sắc và thắm thía. Làm thế nào để con người được sống của con người trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao và đưa Chí Phèo lên những tác phẩm hay nhất có giá trị nhất trong văn học hiện đại. Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 2 Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phấm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nối lên hình tượng Chí Phèo trong tác phấm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã đế lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc. Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hon nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khố đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm. Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khố đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khố và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thử cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hon phải tha hương cầu thực ở xứ người. Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đấy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình. Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ. Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với nhũng người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thế ngay trong nhừng hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hon khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh. Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Neu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đòi sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện. Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thế khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tụ’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ưót nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mất và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giói người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đòi trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon. Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã tù’ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỉ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và họp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đen nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình. Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thế hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người. Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan bởi bản thân nhũng người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lung vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biếu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuối, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hon?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Ket thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội. Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với nhũng kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hon, trân trọng hon hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này. Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 3 “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới. “Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó. Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật… Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó. Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn. Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo. Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa. Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh. Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngà nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao. Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 4 Khi Nam Cao đang còn loay hoay tìm lối đi riêng cho mình thì văn đàn lúc đó đã có rất nhiều tên tuổi nổi tiếng và xu hướng hiện thực đã có nhiều tác phẩm được khẳng định giá trị, đặc biệt, đề tài nông thôn đã được khai thác khá kỹ càng. Có người chú ý đến phong tục với những bức tranh sinh hoạt, có người đi tìm chất thơ trong cuộc sống thôn quê, thi vị hoá nông thôn, có nhà văn đi sâu phản ánh chân thực nỗi thống khổ của người nông dân vì nạn sưu thuế và ách áp bức của cường hào địa chủ cấu kết với thực dân,… Với phương châm “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”, Nam Cao đã đi sâu hơn vào từng số phận riêng để khái quát thành bi kịch chung của người nông dân sau luỹ tre làng. Đó là bi kịch tinh thần, bi kịch nhân cách được đặt trong bi kịch đói nghèo, bần cùng mà Chí Phèo là một điển hình. Tiếng kêu "hãy cứu lấy con người” của Nam Cao ở tác phẩm này trở nên khẩn thiết và đau đớn nhất. Bi kịch là sự khổ đau do người ta mong muốn mà không thể đạt được. Mong muốn càng khẩn thiết và hiện thực càng phũ phàng thì bi kịch càng lớn, người ta càng cảm thấy đau đớn. Có nhiều bi kịch thiên về cuộc sống vật chất như là bi kịch của chị Dậu, anh Pha,… muốn có cơm ăn, có ruộng cày, có tiền nộp sưu thuế để khỏi bị hành hạ, đánh đập mà không được, cứ bị vùi sâu xuống thảm cảnh đói nghèo, “không cất đầu lên được”. Đọc truyện Nam Cao ta cũng bắt gặp những bi kịch như thế. Nhưng đằng sau đó, Nam Cao còn xây dựng những bi kịch lớn hơn, đó là những bi kịch tinh thần. Cùng với quá trình “chết mòn” về thể xác, các nhân vật của Nam Cao, từ trí thức đến nông dân, đều có một quá trình “chết mòn” về tinh thần. Là con người, nhân vật Chí Phèo chỉ muốn được thừa nhận là một con người cũng không được. Nam Cao đã thể hiện một cách trọn vẹn và sâu sắc cả hai mệnh đề: vì áp bức, bóc lột mà con người lâm vào cảnh đói nghèo và vì đói nghèo mà nhân cách con người có nguy cơ băng hoại, thậm chí có lúc không thể cứu vãn đành giải thoát bằng cái chết. Chí Phèo cũng có những ước mơ hết sức bình dị của một con người bình thường nhất: muốn được sống một cuộc sống lương thiện dù đói nghèo. Nhưng từ chỗ bị bóc lột, bị áp bức một cách bất công, Chí Phèo bị tha hoá, biến chất rồi từ chỗ bị tha hoá, hắn đã bị lưu manh hoá, quỷ hoá, rồi bị gạt hẳn ra khỏi loài người, ngay cả đến một cơ hội hiếm hoi có thể hé mở cánh cửa cho Chí Phèo trở về cuộc sống bình thường cũng bị cự tuyệt. Bi kịch của Chí Phèo trước hết là bi kịch bị tha hoá. Các nhà văn hiện thực trước đó đã xây dựng được những nhân vật ông Nghị điển hình đặc sắc như: Nghị Hách (Giông rơ của Vũ Trọng Phụng), Nghị Quế (Tắt đèn của Ngô Tất Tố), Nghị Lại (Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan). Thoạt nhìn, Bá Kiến (Chí Phèo của Nam Cao) cũng giống tất cả các ông Nghị đó nhưng thực ra lại rất khác biệt. Họ đều là điển hình của giai cấp địa chủ phong kiến trước Cách mạng. Nhưng mỗi nhân vật được thể hiện tập trung ở một phương diện cơ bản. Tầng lớp thống trị này chủ yếu được khai thác ở hai phương diện: địa chủ và cường hào. Bản chất địa chủ gắn với bóc lột; bản chất cường hào gắn với áp bức. Bóc lột dẫn tới hiện tượng người nông dân bị bần cùng hoá. Hiện tượng bị tha hoá là do đã bị bần cùng lại còn chịu áp bức. Nghị Hách vừa tàn ác vừa hoang dâm vô độ. Hắn không chỉ là địa chủ mà còn là một tư sản. Nghị Quế là một địa chủ trọc phú dốt nát với đầu óc nô lệ. Bá Kiến mang bộ mặt ghê gớm hơn. Nhân vật được nhìn và miêu tả ở phương diện thứ hai- phương diện cường hào áp bức. Tuy chỉ hoạt động trong phạm vi làng xã nhưng có đủ ngón nghề lọc lõi, già đời. Người đọc hầu như không biết thật rõ ràng cụ thể sự giàu có của hắn nhưng lại hiểu tường tận tâm địa, thủ đoạn, bề dày tội ác của hắn trong việc đày đọa, ức hiếp và sai khiến con người. Từ "điệu cười Tào Tháo”, “tiếng quát rất sang” cho đến cách ứng xử vừa cương, vừa nhu, Bá Kiến hiện rõ bộ mặt gian trá, thâm hiểm, độc ác. Ngòi bút Nam Cao khá sắc sảo khi khắc họa một nhân vật thuộc tầng lớp thống trị làng xã Việt Nam trước Cách mạng. Đối với tầng lớp dưới, Bá Kiến có cả một quy trình để cai trị – từ non tay đến già đời lão luyện. Với Năm Thọ, ông Lí Kiến mừng hụt và từng phen hú vía, phải tốn bạc trăm mới tống cổ được hắn. Đến Binh Chức, ông không tống mà giữ lại và quả là được việc. Đến Chí Phèo thì chiêu bài của cụ Bá người thường không thể nào hiểu được. Sống trong một thế đất "quần ngư tranh thực”, Bá Kiến còn có cả những âm mưu với chính tầng lớp của mình. Ngoài mặt thì tử tế nhưng trong bụng thì trông cho nhau lụn bại. Đây chính là hiện thực xã hội mà ngay trong bản thân tầng lớp thống trị đã rạn nứt các mối quan hệ. Xây dựng nhân vật Bá Kiến, Nam Cao đã chỉ ra tội ác của một lực lượng xã hội đã xô đẩy người nông dân vào tình trạng bế tắc, trượt dài trên dốc tha hoá. Số phận oan nghiệt của Chí Phèo bắt đầu từ sự kiện bà ba gọi lên bóp chân rồi vô cớ bị bỏ tù. Rõ ràng việc vào tù của Chí Phèo là do bàn tay của Bá Kiến. Bá Kiến muốn mượn nhà tù thực dân để tiêu diệt hết "những thằng trai trẻ” chỉ vì thói ghen tuông thảm hại (háo sắc, sợ vơ vì cay đắng nhận ra mình già yếu quá). Nhà tù thực dân đã phát huy tác dụng. Ra tù, Chí Phèo mang bộ mặt gớm ghiếc, biểu hiện của sự thay đổi về nhân hình (bước đầu tiên của quá trình tha hóa): "Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét trạm trổ rồng phượng với một ống tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Anh Chí – anh canh điền khỏe mạnh, lành như đất, mỗi lúc bóp chân cho bà Ba lại xấu hổ, đỏ mặt đã không còn một chút bóng dáng nào trong cái bộ dạng ấy. Chí Phèo về làng tức là được trả lại quyền công dân, được về với con người nhưng oái ăm thay Chí lại hoàn toàn lạc loài, hoàn toàn xa lạ. Hắn không chỉ thay đổi về nhân hình mà còn thay đổi cả nhân tính. Với bộ mặt “cơng cơng”, với bộ dạng "đao búa”, với những cơn say và những tiếng chửi, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến. Đây là lần đầu sau khi ra tù, Chí đến Bá Kiến với ý định trả thù. Nhưng ý đồ ấy còn mơ hồ và nhanh chóng bị đánh gục trước sự xảo quyệt của cụ Bá. Chỉ mấy lời ngọt nhạt, vài cử chí tỏ ra ân cần, thân thiện, một bữa rượu và một đồng bạc, Bá Kiến đã khiến Chí Phèo thất bại ra về với niềm đắc ý hài hước và một bộ mặt tứa máu. Song, tội ác của Bá Kiến còn lớn hơn khi hắn đẩy con người này xuống hàng thú vật, biến Chí Phèo thành công cụ của mình. Đến nhà Bá Kiến lần thứ hai với bộ dạng liều lĩnh và gàn dở, Chí Phèo đã rơi vào sách lược "dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò” của Bá Kiến. Từ đây, Chí Phèo trượt dài trên dốc tha hoá và hắn bị đẩy hẳn ra khỏi xã hội loài người. Nam Cao cố tình miêu tả trạng thái mất ý thức của nhân vật khi sử dụng biện pháp "vật hoá”. Cái mặt Chí không phải là mặt người mà là mặt của một con vật lạ. Chí tồn tại bằng đâm thuê chém mướn mà bản thân không ý thức được những hành động đâm chém, phá phách, đốt nhà, đòi nợ của mình. Hắn quên cả cuộc đời của chính hấn, không còn ý thức về sự tồn tại trong không gian, thời gian. Khi Chí Phèo vênh vênh tự đắc “anh hùng làng này có thằng nào bằng ta” cũng là lúc Chí Phèo rơi xuống vực thẳm. Chị Dậu phải bán con, bán chó, bán sữa nhưng quyết không bán nhân phẩm còn Chí Phèo thì đã bán cả linh hồn, trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Chí Phèo là một nhân vật độc đáo của dòng văn học hiện thực phê phán. Nỗi thống khổ của Chí là nỗi thống khổ tận cùng của loài người: bị huỷ diệt nhân cách. Nam Cao đã khám phá ra một hiện thực mang tính quy luật: Sự nham hiểm, độc ác của tầng lớp thống trị đã tước đi nhân tính của những người dân vốn hiền lành, lương thiện. Luận về điều này, người ta thường dẫn chi tiết “cái lò gạch” như là mấu chốt cho kết cấu "đầu cuối tương ứng” và cho đó là hiện thân của cái vòng luẩn quẩn không lối thoát. Nhưng trong tác phẩm, tính quy luật còn thể hiện ở các nhân vật Năm Thọ, Binh Chức. Nam Cao không ngẫu nhiên dựng lên thế chân kiềng của ba nhân vật cùng loại trong tác phẩm. Năm Thọ, Binh Chức vừa là hiện thân, vừa là đồng dạng của Chí Phèo. Năm Thọ là dân “anh chị” có vai vế, lại thêm “đầu bò, đầu bướu”. Đó là một thái cực. Binh Chức là thái cực bên kia vốn an phận, nhu nhược và hèn hạ; còn Chí Phèo ở trung độ: hiền lành, khoẻ mạnh – hiền không đến mức nhu nhược, an phận như Binh Chức và khoẻ không đủ mạnh để thành “đầu bò” như Năm Thọ. Như vậy, ba điểm xuất phát của ba nhân vật khác nhau. Ba số phận, ba cuộc đời, ba con đường với những diễn biến khác nhau, cuối cùng lại chung một kết cục: quỷ dữ. Miêu tả điểu này, Nam Cao dã khiến cho tính quy luật của sự tha hoá trở nên chặt chẽ, khắc nghiệt hơn gấp nhiều lần. Bi kịch của Chí Phèo còn là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Làng Vũ Đại là hình tượng một vùng nông thôn điển hình trong tác phẩm Nam Cao. Làng Vũ Đại vừa có điểm giống vừa có nhiều điểm khác với nhiều thôn làng Việt Nam trong các tác phẩm văn học thời bấy giờ. Nơi đây cũng rất nghèo, gồm những con người lam lũ, đói khổ. Nhưng làng Vũ Đại xác xơ, tiêu điều, hoang vắng đến rợn người. Bằng trực cảm nhạy bén và bằng sự từng trải, thấu hiểu sâu sắc cuộc sống thôn quê, Nam Cao còn chỉ ra tình trạng tan rã của quan hệ làng xã. Chính xã hội bạo tàn đã bóp chết quan hệ nhân ái tốt đẹp giữa người với người. Người nông dân không chí chịu áp bức bóc lột của giai cấp thống trị mà ngay trong cộng đồng giai cấp với nhau, họ không còn là chỗ dựa tinh thần của nhau. Cuộc sống quá bi đát đã biến họ thành "tàn nhẫn”, "ích kỉ”, “ti tiện”. Xét ở một góc độ nào đó, ta nhận thấy tư tưởng Nam Cao rất gần với Lỗ Tấn. Nam Cao cũng đã "bắt mạch" và "chẩn đoán" những căn bệnh thời đại mình. Không chí Bá Kiến mà cả làng Vũ Đại đã đẩy Chí Phèo vào bước đường cùng, biến Chí thành con quỷ dữ, làm nên bi kịch của cuộc đời Chí. Tiếng chửi của Chí là tiếng chửi của một thằng say. Nhưng thật ra, đó là khát vọng được đối thoại theo cách của kẻ say, khát vọng được giao tiếp với đồng loại. Nếu chịu khó lắng nghe và suy ngẫm, ta sẽ nhận ra sự vật vã tuyệt vọng của một linh hồn đau khổ. Chí Phèo chửi những ai? Chí chửi Trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại; Chí còn chửi “cha đứa nào không chửi nhau với hắn”, rồi chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra cái thân hắn”… Đó là những tiếng chửi đầy chất bi hài. Dù say, nhưng dường như Chí Phèo vẫn cảm nhận thấm thía nông nỗi khốn khổ của thân phận không cha, không mẹ, không tấc đất cắm dùi và cả không được là người nữa. Mà tiếng chửi lại vu vơ rơi vào hố sâu đen ngòm của sự im lặng, mất hút vào sự tăm tối thê thảm. Người ta không chửi, không can vì không ai coi Chí là người. Đáp lại lời Chí chỉ có hai con chó‘. Khắp cõi nhân gian Vũ Đại thờ ơ, hờ hững đến lạnh lùng tàn nhẫn. Trước khi đi tù, Chí Phèo là “thằng cùng hơn cả dân cùng”. Nhưng Chí Phèo còn được coi là một con người: còn nhỏ thì được người ta nhặt về nuôi; lớn lên thì được người ta thuê làm việc; khi trưởng thành một gã trai khoẻ mạnh thậm chí còn được một kẻ đàn bà dâm đãng đam mê (cho dù đó là hành vi chưa mang tính người). Đi tù về, Chí Phèo chửi bới, gây sự với tất cả, nhưng tất cả đã không chấp nhận Chí là người. Họ sợ, họ xa lánh, họ xua đuổi Chí. Ngôi lều nát của Chí ở cạnh bờ sông đã trở thành ốc đảo hoang vu không một bóng người (trừ Thị Nở). Đừng tưởng Bá Kiến dỗ dành Chí, thậm chí còn mơn trớn nhận họ hàng với Chí là Bá Kiến coi Chí là người. Chí Phèo chỉ là công cụ không hơn. Mà thực tế trong cái xã hội làng Vũ Đại kia thì cha con Bá Kiến cũng chỉ là quỷ đội lốt người mà thôi. Bá Kiến bắt tay Chí Phèo là bắt đầu cho những giao ước của loài quỷ sứ. Bà cô Thị Nở không mặt đối mặt mà gián tiếp chửi Chí Phèo thông qua thị Nở. Lời bà ta là cụ thể hóa thành kiến, định kiến của làng Vũ Đại đối với Chí. Trong cái nhìn “ráo hoảnh”, trong những lời độc địa là thái độ tàn nhẫn. Chí Phèo không cha, lỗi đâu ở Chí – đáng lẽ phải thương Chí thì người ta lại coi đó là sự sỉ nhục, khinh bi. Chính bà cô Thị Nở đã phá vỡ mối tình vừa mới nhen lên, đẩy Chí vào điểm nút cuối cùng của sự tuyệt vọng khiến Chí phải tìm đến một cách giải thoát duy nhất: chết. Ngay cái chết của Chí Phèo cũng thật đáng sợ. Cuộc đời oan nghiệt đến mức trước khi chết, lão Hạc phải chuẩn bị tiền cho đám ma của mình, nhưng dù sao, lão còn nhận được sự xót thương, mủi lòng của người sống. Chí Phèo chết trong sự cô độc, không gì cô độc hơn, tủi nhục hơn khi người ta chết đi không có lấy một giọt nước mắt. Chết mà người ta mừng! Nam Cao đã nhìn và lí giải hiện thực nông thôn thật mới mẻ. Ông không tìm những vẻ đẹp thi vị và không dừng ở phản ánh tình trạng đói khát mà còn đi xa hơn phân tích kết quả của áp bức và đói khát: kẻ thì biến thành quỷ, kẻ thì dở ngây dở dại, kẻ thì cạn tình người, rồi thì sinh ra định kiến, hằn học, chỉ có cường hào và hạng cùng đinh, không có thân sĩ, trình độ văn hoá hầu như không có. Đó là một môi trường sống đáng sợ. Người ta độc ác mà không biết minh độc ác, người ta mê muội mà không biết minh mê muội. Sự cạn tình và vô tinh có thể sẽ giết chết con người. Đúng là Nam Cao đã yêu con người, thương con người và yêu thương làng quê bằng một tinh yêu đau đớn. Có phải vì thế mà nhà văn mảnh khảnh thư sinh ấy thỉnh thoảng lại thấy nhói lên phía ngực trái? Chí Phèo còn có bi kịch về “tình yêu”- đó là màn cuối của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Thị Nở là nhân vật có vị trí quan trọng trong tác phẩm. Nam Cao đã dành một phần bút lực để khắc họa thành công nhân vật này. Thị Nở là một phụ nữ mà tạo hoá bất công bắt tất cả đều méo mó, xộc xệch: từ hình dạng đến cách ngồi, điệu đi, ý nghĩ, hành động. Cuộc gặp gỡ của Thị Nở với Chí Phèo chủ yếu sinh ra từ khát vọng của nhà văn muốn khám phá tận cùng bản chất con người với một trái tim yêu thương. Vả lại, nếu Thị Nở không là người xấu xí, dở hơi như thế thì chắc thị chẳng dám qua lại căn lều nát của Chí Phèo. Đó là một lô-gíc được tính toán một cách chặt chẽ. Cốt truyện chủ yếu được tổ chức trên hai trục chính: trục thứ nhất xoay quanh mối quan hệ Chí Phèo – Bá Kiến gắn liền với sự huỷ diệt linh hồn của Chí Phèo; trục thứ hai xoay quanh quan hệ Chí Phèo – Thị Nở gắn với sự thức tỉnh linh hồn của Chí Phèo. Chí Phèo là một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bất cứ một người đàn bà binh thường nào cũng sẽ hoảng sợ không dám đến gần. Vậy muốn tạo dựng cho Chí một “mối tình”, ắt hẳn phải có một nhân vật khác thường. Có như thế, nhân vật ấy mới có thể yêu thương được Chí. Thị Nở đến với Chí Phèo bằng một tình thương chất phác, nguyên sơ. Bát cháo hành giản dị, mộc mạc nhưng đã đánh thức được một tâm hồn tưởng như đã hoàn toàn tê liệt của Chí Phèo. Từ chỗ đánh thức bản năng, Thị Nở dã đánh thức cảm giác, cảm xúc, và tất cả suy nghĩ bình thường… của Chí. Chí nghe được âm thanh của tiếng chim hót, tiếng trao đổi của người đi chợ về, tiếng gõ cá của anh thuyền chài,… Thiên nhiên và cuộc sống tưởng đã chết, bỗng sống lại và có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo. Bằng thiên chức bẩm sinh của người đàn bà, Thị Nở đã đưa Chí Phèo trở về với con người. Nhưng quan trọng hơn, nhờ Thị Nở mà Chí nhận ra một điều giản dị: "Người ta có thể cho chứ không phải bao giờ cũng cướp giật". Đặc biệt, Chí hồi tưởng về quá khứ với những ước mơ giản dị: “Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, trong chuồng nuôi vài con heo”… Chí cũng tỉnh thức về bản thân, về những điều sâu xa: tuổi già, đói rét, ốm đau, cô độc,… “Cô độc còn đáng sợ hơn cả đói rét ốm đau”. Chí nhận ra mình đã bước đến “cái dốc bên kia” của đời một con người… Tác giả miêu tả những chi tiết, những ý nghĩ của nhân vật hết sức cảm động khi nhân vật bộc lộ những phẩm chất người. Chí nao nao buồn, run rẩy, ngạc nhiên, có lúc đôi mắt hình như "ươn ướt". Chí hối hận về quãng đời đã qua và bộc lộ những khát vọng hết sức thành thật, giản dị về những gì sắp tới: “Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao”. Từ một kẻ lưu manh, Chí Phèo khát khao trở lại làm người lương thiện. Thị Nở là người duy nhất nhận ra chất người của Chí: “Sao có lúc hắn hiền như đất”. Đối với cuộc đời, Thị Nở có thể chỉ là một dị nhân nhưng đối với Chí Phèo – Thị Nở là một người tuyệt vời, thị là chỗ dựa tinh thần, là hạnh phúc lớn lao đối với Chí. Nam Cao đã khám phá và khẳng định bản chất người cho dù có bị huỷ diệt thì vẫn có điều bất diệt, như một đốm than tưởng như nguội lạnh nhưng nếu biết khơi dậy thì nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa. Nhà văn không chỉ đồng cảm mà còn trân trọng, nâng niu những đốm sáng nhân tính của con người đang có nguy cơ lụi tắt vĩnh viễn. Đặt Chí Phèo vào cuộc đời Thị Nở, gắn kết hai số phận với nhau, Nam Cao đã đặt họ vào một canh bạc đã biết trước phần thua. Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân, thị đâu có làm chủ được cuộc đời mình, nói gì đến làm chỗ dựa tinh thần cho ai? Đặt nhân vật vào canh bạc cuối cùng để nhân vật tay trắng, Nam Cao đã đi đến tận cùng của bi kịch, tận cùng của đau thương. Hành động bỏ đi của Thị Nở trực tiếp đẩy Chí Phèo vào tuyệt vọng, cô độc. Trong tuyệt vọng, Chí Phèo lại tìm đến rượu nhưng khác lần uống rượu trước đây, Chí Phèo càng uống càng tính và “Chí ôm mặt khóc rưng rức”- Chí khóc cho chính thân phận mình. Trước đây nếu Chí có khóc là khóc ra rượu còn giờ đây Chí mới thực sự khóc ra nước mắt – giọt nước mắt mặn chát những đau đớn quằn quại của kiếp người. Từ ý thức về tình trạng bi kịch của bản thân đến hành động giết Bá Kiến là một điều tất yếu. Đây là lần thứ ba, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, và đây cũng là một chi tiết có ý nghĩa sâu sắc- Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với nhận thức đúng đắn chứ không mơ hồ như lần thứ nhất, hay gàn dở như lần thứ hai. Đây là cuộc đụng độ giữa hai cá nhân, đồng thời cũng là cuộc đụng độ của hai giai cấp. Xảo quyệt như Bá Kiến mà lần này cũng không đủ khả năng để hiểu Chí Phèo, như vậy cũng không còn khả năng thống trị nữa. Đặc biệt tiếng cười ha hả của Bá Kiến là sự nhạo báng vào khát vọng thành thực và thiêng liêng của Chí. Đó là sự xúc phạm không thể tha thứ. Bá Kiến phải chết. Chí Phèo nhận rõ được kẻ thù của mình. Câu hỏi: “Ai cho tao lương thiện?” không cần trả lời bởi đó là vừa là khát vọng, vừa là lời cảnh cáo, đồng thời cũng là tiếng kêu tuyệt vọng của Chí Phèo. Nỗi đau nhức nhối của Chí còn thể hiện ở câu tự vấn: “Làm thế nào mất được những vết mảnh chai trên mặt này?” Câu cuối cùng mới thực sự là câu kết cho một tấn bi kịch đầy xót xa: “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Không muốn làm con quỷ mà không thể làm người lương thiện được nữa tất phải chọn con đường giải thoát độc nhất: cái chết! Xét chi tiết này, có ý kiến cho là hành động vô thức của kẻ say. Có người lại cho đây chỉ là một vụ giết người trong số nhiều vụ giết người của một tên lưu manh. Thực ra, hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí Phèo là quá trình tất yếu trên cơ sở miêu tả quy luật tâm lí nhân vật một cách đầy sức thuyết phục. Tác phẩm chứng tỏ một cảm quan nghệ thuật nhạy bén. Tính khốc liệt của xung đột giai cấp ở nông thôn Việt Nam không gì xoa dịu ngoại trừ giải quyết bằng máu. Đó cũng chính là tài năng của một nhà vãn hiện thực xuất sắc. Nam Cao đã dựng lên tấn bi kịch của con người thông qua nhân vật Chí Phèo, bằng tinh nhân đạo đặc biệt sấu sắc và cảm động, với những biểu hiện độc đáo chưa từng có dưới ngòi bút của các bậc nhà văn đàn anh khác. Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 5 Nam Cao (1915- 1951) là đại diện xuất sắc nhất trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng. Sáng tác của Nam Cao thời kỳ này hướng vào hai đề tài chính là nông dân và tiểu tư sản trí thức nghèo. Trong số các tác phẩm viết về đề tài nông dân thì Chí Phèo được coi là kiệt tác (trong ba kiệt tác thời kỳ 30-45 là: Tràng giang – Huy Cận, Số đỏ – Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo — Nam Cao). Toàn bộ tác phẩm xoay quanh cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo: Chí Phèo muốn sống một cuộc đời lương thiện cũng không được. Phản ánh bi kịch này, tác phẩm của Nam Cao vừa có ý nghĩa xã hội rộng lớn vừa mang tính triết lý, luận lý sâu sắc. Chí Phèo cũng là nhân vật kết tinh ngòi bút nghệ thuật của Nam Cao. Trước tiên, chúng ta cần hiểu Chí Phèo là nhân vật trung tâm trong tác phẩm của Nam Cao. Nhân vật này được nhà văn thể hiện trong mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Chí Phèo xuất hiện trước mắt mọi người ở thời điểm hiện tại với cơn say rượu, với tiếng chửi độc địa: Hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đã để ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Nhưng ai đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết, hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không biết. Đó là cách xây dựng nhân vật rất độc đáo về lai lịch của Nam Cao. Để trả lời cho câu hỏi trên, nhà văn đã đưa người đọc ngược thời gian, trở về quá khứ để tìm hiểu lí lịch của Chí Phèo: Chí Phèo là một đứa con hoang bị vứt bỏ bên một cái lò gạch cũ. Người ta nhặt hắn đem về trao qua, đổi lại. 20 tuổi, hắn trở thành một canh điền khỏe mạnh, hiền như đất, làm thuê cho nhà Bá Kiến. Đây là hình ảnh của người bần cố nông trước Cách mạng khổ từ trong trứng khổ ra và tứ cố vô thân. Ấy vậy mà, Bá Kiến còn ghen với Chí Phèo một cách vô lý để rồi cố tình đẩy Chí Phèo vào tù một cách oan uống đến bảy, tám năm sau. Ở tù về, Chí Phèo không còn hiền lành như anh canh điền ngày nào. Hắn trở thành một kẻ lưu manh. Thân phận của Chí Phèo là con ong cái kiến kêu gì được oan (Nguyễn Du), là con giun xéo lắm cũng quằn và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo bắt đầu từ đây – khi hắn bị tách khỏi cuộc đời của những người lương thiện. Đến đây, ta đã trả lời được câu hỏi: Ai đã đẻ ra Chí Phèo? Chính là xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời, chính bọn cường hào địa chủ đã trực tiếp xô đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh, tội lỗi. Dụng ý của Nam Cao thật sâu sắc khi ông trình bày cái gọi là lí lịch của Chí Phèo, khi ông tạo dựng màn đầu cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. Từ lúc ở tù về, Chí Phèo phải sống một chuỗi dài đau khổ nhất cuộc đời. Hắn đã trở thành một kẻ lưu manh từ đầu đến chân để kiếm ăn. Hình dáng hắn vô cùng dị dạng so với những người lương thiện: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết, quần thì quần nái đen, áo lại là áo tây vàng, cái ngực thì phanh ra, có hình xăm trổ của ông tướng cầm chùy,… Hành động của Chí Phèo thì bê tha, bạo ngược: Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở quán uống rượu với thịt chó suốt từ trưa cho tới xế chiều rồi say khướt, rồi quỵt nợ, rồi đòi đốt quán của người bán hàng, rồi cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến (Lý Kiến xưa), rồi tự rạch mặt, ăn vạ,… Từ một nông dân hiền lành, lương thiện, bây giờ, Chí Phèo đã bị tha hóa cả về nhân hình lần nhân tính. Nam Cao đã lựa ra hai chi tiết rất đắt để thể hiện triệt để tính cách lưu manh của Chí Phèo: Những cơn say và những tiếng chửi. Đây là cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo bị đẩy tới mức độ cao mà không trào, tức mà uất nghẹn. Chí Phèo đã trở thành kẻ đối lập, khác biệt hoàn toàn với xã hội lương thiện. Bá Kiến đã biến Chí Phèo thành tay chân, tôi tớ, thành công cụ làm giàu cho hắn, thành kẻ gây đau khổ cho những con người của xã hội lương thiện và đau khổ: Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập phá bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Đau khổ hơn nữa là Chí Phèo đã bị xã hội lương thiện bỏ rơi. Xã hội của những người lương thiện không còn chấp nhận hắn nữa: Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Chí Phèo trở thành kẻ đau khổ nhất trong xã hội của những người nông dân thời kì tiền khởi nghĩa. Khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan ra đời, tôi chắc ít ai nghĩ rằng thân phận người nông dân lại có những nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ những trang văn của Nam Cao thì người ta liền nhận ngay ra rằng: Đây mới là hiện thân đầy đủ nhất những gì khốn cùng của người dân ở nước thuộc địa, bị chà đạp, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính. Chị Dậu phải bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị còn được là Người. Chí Phèo phải bán cả linh hồn, bán cả diện mạo của mình để trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại (Nguyễn Đăng Mạnh – Nhớ Nam Cao, nghĩ về mấy bài học sáng tác của anh). Nhưng có một sự việc xảy ra đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời Chí Phèo – đó là cuộc gặp gỡ Chí Phèo – Thị Nở. Đây không phải là chuyện Đôi lứa xứng đôi để câu khách. Đây là những trang viết đầy tính nhân đạo: Hai con người đau khổ nhất hi vọng nương tựa vào nhau để sống một cuộc đời lương thiện. Thị Nở – người đàn bà xấu xí, bất hạnh ấy đã thức tỉnh niềm khát khao được sống lương thiện trong Chí Phèo. Gặp Thị Nở rồi, Chí Phèo ăn năn với quá khứ tội lỗi, buồn với cảnh già, cảnh nghèo của hiện tại và mong manh hy vọng vào tương lai. Bát cháo hành là tình người mà Thị Nở mang đến cho Chí Phèo, làm cho Chí Phèo cảm động. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, mắt hình như ươn ướt. Nam Cao như đã nhập thân vào nhân vật Chí Phèo để thể hiện đúng được tâm trạng Chí Phèo lúc đó: Trời ơi, hắn thèm lương thiện! Hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Và đồng thời, một buổi sáng tỉnh rượu, khi đón nhận những âm thanh vang động của cuộc đời, như tiếng chim hót, tiếng người đi chợ lao xao trao đổi về giá cả, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá,… thì ước mơ về cuộc sống lương thiện đã thức dậy trong Chí Phèo – ước mơ mà Chí đã xây dựng từ những ngày còn trẻ, những ngày chưa đi ở tù. Hình như, có một thời, hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Nam Cao đã phát hiện, chỉ ra được bản chất của người cố nông lương thiện trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chính điều này đã dẫn đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo ở cuối tác phẩm. Nhưng Chí Phèo không thể quay trở về cuộc sống lương thiện được nữa. Nguyên nhân trực tiếp là bà cô của Thị Nở ngăn cản. Nguyên nhân sâu xa là do Chí Phèo đã bị đẩy quá sâu vào con đường tội lỗi. Nam Cao đã miêu tả chân thực và sinh động những diễn biến tâm lý của Chí Phèo sau khi bị Thị Nở tuyệt tình. Lúc đầu, Chí Phèo nuối tiếc những ngày được sống cùng Thị Nở, được sống trong tình thương con người. Hắn bỗng nhiên ngẩn người, thoáng một cái, hắn lại như thấy hơi cháo hành. Khi Thị Nở bỏ về thì Chí Phèo hốt hoảng vì thấy mình bị bỏ rơi thực sự. Hắn sửng sốt đứng lên gọi lại (…) hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay…. Nhưng Thị Nở đã đẩy ngã Chí Phèo và bỏ về, bỏ mặc Chí sống trong đau khổ, tuyệt vọng: Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Bị đẩy tới đường cùng, Chí Phèo đã phản ứng liều lĩnh và quyết liệt. Hắn uống rượu say, mang theo dao nhọn, định đến nhà Thị Nở để đâm chết bà cô của thị, trả thù. Nhưng vì quen chân, lại đi trong lúc say nên Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến. Đến đây thì bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đi đến đĩnh điểm. Chí Phèo đã ý thức được quyền sống, quyền làm người, đòi Bá Kiến trả lại cho Chí Phèo quyền làm người lương thiện: Tao muốn làm người lương thiện. Nhưng Chí Phèo không thể quay trở lại cuộc đời lương thiện được nữa vì dù chủ quan hay khách quan thì Chí Phèo cũng đã gây ra quá nhiều tội ác. Trong những phút cuối cùng của cuộc đời mình, Chí Phèo đã có đủ tỉnh táo để nhận ra điều đó? Hay Nam Cao cố tình viết thế để người đọc tự trả lời? Đó cũng là một sự khéo léo của nhà văn. Chỉ biết, Hắn lắc đầu: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện được nữa!. Và Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Tiếng nói cuối đời trên đây của Chí Phèo là tiếng kêu tuyệt vọng. Hành động cuối đời của Chí là hành động của một kẻ cùng đường. Sau khi Chí Phèo chết, Thị Nở thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ hoang và vắng người qua lại. Rất có thể, một Chí Phèo con sẽ ra đời và nỗi khổ của người nông dân là tuyệt đối, truyền kiếp. Mà cũng vì thế, cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo càng trở nên bi đát hơn, bế tắc hơn. Gấp lại trang sách cuối cùng của tác phẩm Chí Phèo, người đọc vẫn còn cảm nhận được dư âm quằn quại của nó – cái tiếng vọng vang dội từ tác phẩm của Nam Cao. Đó là tiếng kêu cứu: Hãy cứu lấy con người! Hãy để cho con người được quyền sống làm người lương thiện! Hãy ngăn chặn cái xấu, cái ác, đừng để nó chà đạp lên nhân phẩm, giá trị của con người và cướp đi cả sinh mệnh của họ! Trong tác phẩm Đời thừa, Nam Cao cũng từng suy nghĩ: Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Và trong thực tế sáng tác, Nam Cao đã làm được điều đó qua Chí Phèo. Nếu như trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố viết về nỗi khổ của người nông dân do sưu thuế, nếu như trong Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan viết về nỗi khổ của người nông dân bị địa chủ, cường hào cướp đoạt ruộng đất thì trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao lại viết về tình trạng một bộ phận nông dân bị tha hóa, bị đẩy vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhân vật Chí Phèo của Nam Cao muốn sống lương thiện cũng không được. Nhà văn không đao to búa lớn nhưng cách mà ông xây dựng ngoại hình, hành động, cách mà ông phân tích tâm lý (nội tâm), cách mà ông sử dụng ngôn ngữ đa thanh cho nhận vật đã làm nên một Chí Phèo đầy giá trị nhân văn, triết lý, một Chí Phèo kiệt tác của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao – Dàn ý I.Mở Bài +Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 30-45 + Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao trước CM tháng 8 tập trung vào 2 mảng đề tài là người nông dân nghèo và trí thức tiểu tư sản nghèo +Tác phẩm Chí Phèo là một thành công của Nam Cao viết về người nông dân nghèo.Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã khắc hoạ bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát.Kết cục tha hoá lưu manh hoá tất yếu như một sự giải thoát. II.Thân Bài *)Trước khi gặp TN -Tuổi ấu thơ + Không cha,không mẹ,không họ hang thân thích +Lớn lên nhờ sự cưu mang của dân làng +Tuổi thơ bất hạnh tủi nhục -Trưởng thành +Làm anh canh điền cho nhà Lý Kiến(khỏe mạnh sống bằng thể chất ..) +Bị mụ 3 của bá Kiến bắt làm trò mờ ám Chí Phèo vừa sợ vừa nhục – Một con người giàu lòng tự trọng “20 tuổi người ta không phải là đá,cũng không phải toàn là xác thịt.Người ta không thích cái gì người ta khinh” ——>Cuộc đời Chí trước khi ở tù là một cuộc đời nghèo khổ,tủi nhục nhưng lương thiện -Sau khi ra tù :Cả nhân hình và nhân tính đều thay đổi (-)Nhân hình +Mọi người không nhận ra +Trông hắn như thằng săng đá(Cái đầu trọc lốc,răng cạo trắng hớn,mặt câng câng,hai mắt gườm gườm) (-)Nhân tính +Uống rượu rồi say khướt. Đến nhà Bá Kiến ăn vạ +Rạch mặt, đập đầu,chem. giết.giật cướp,doạ nạt,liều lĩnh +Bỗng chốc trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến Với hình tượng Chí Phèo.Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng phổ biến,có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam.Những lao động lương thiện bị đẩy vào đường cùng và họ đã phải quay lại đáp trả bằng chính con đường lưu manh để tồn tại.Trước Chí Phèo đã có Năm Thọ,Binh Chức.Liệu sau khi Chí Phèo chết điều đó có thể chấm dứt.Thật khó có thể nói trước được với cái xã hội “quần ngư tranh thực” người ăn thịt người này… (Có thể nói qua về nhà tù thực dân.Nơi mà chỉ tiếp nhận những anh chàng ngây ngô hiền như cục đất để rồi nhào nặn con người ta thành những kẻ đầu bò đầu bướu.Quả là trái với quy luật tự nhiên. ” Lò gạch đúc ra những viên gạch thì nhà tù đó chẳng khác nào cái lò và viên gạch ở đây không phải ai khác chính là Chí Phèo” Nếu như dừng ở đó thì Nam Cao cũng không hơn gì các nhà văn hiện thực phê phán trước đó.Nhưng cái hay cái tài tình của ông là đã rọi ánh sang vào những tâm hồn đã tha hoá đã nhơ bẩn ấy để thấy rằng trong Chí vẫn còn chút lương tri.Nhưng Nam Cao rọi thế nào ???Chỉ có tình yêu mới thức tỉnh được con quỷ dữ ấy.Và phải chăng tình yêu là một thứ gì đó hết sức thiêng liêng.Nó dường như đã cảm hoá được con quỷ dữ của làng Vũ Đại… (*)Sau khi gặp Thị Nở +Vẫn như bao ngày,Chí Phèo vẫn say,hắn ăn trong lúc say. Ăn vạ trong cơn say,thậm chí ngủ cả trong say.Và say chính trong lúc say.Có lẽ cuộc đời của Chí cứ mãi tuột dài trên con dốc thăm thẳm đó nếu không có bàn tay chăm sóc của Thị Nở ngăn lại …. +Chí Phèo say sưa trở về túp lều của mình,thấy Thị Nở nằm hớ hênh.Vậy là cuộc tình khốn khổ * của 2 người đã xảy ra +Nếu như Thị Nở ban đầu chỉ làm cho bản năng sinh vật của một người đàn ông trỗi dậy thì ngay sau đó.Sự chăm sóc quan tâm mộc mạc,chân tình của Thị đã đánh thức cái lương thiện trong người Chí +Lần đầu tiên Chí tỉnh trong suốt bao năm qua.Hắn còn cảm nhận được tiếng người qua lại kháo nhau giá vải hơn kém.Tiếng anh gõ mái chèo đuổi cá.Tiếng chim hót ríu rít. +Đặc biệt hắn cảm nhận được ánh nắng bên ngoài rực rõ trong khi bên trong túp lều mới chỉ hơi tờ mờ +Hắn nghĩ đến mình Quá khứ:Từng mơ ước:Chông quốc muớn cầy thuê,vợ dệt vải,chúng lại bỏ một con lợn nuôi làm vốn liếng.Khá giả mua giăm ba sào ruộng làm Hiện tại :Thấy mình già nua và cô độc Tương Lai: Đói rét, ốm đau và cô độc (cái này còn sợ hơn cả đói rét ốm đau) +Lúc Thị Nở mang cháo hành(tâm trạng Chí Phèo: mắt ươn ướt,vui buồn, ăn năn) (Làm rõ chi tiết bát cháo có ảnh hưởng sâu sắc trong nội tâm của Chí Phèo trong thời điểm này) +Chí bắt đầu suy nghĩ rằng Thị có thể làm lành với hắn thì tại sao người khác lại không?Hắn muốn mọi người chấp nhận hắn vào thể giới của loài người.Thế giới của người lương thiện .Phải chăng tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho hắn có những khát khao cháy bỏng trở về đúng nghĩa với một con người. +Hắn cảm nhận được tình yêu và nhớ về bà 3.Người đàn bà cũng quan tâm đến hắn nhưng chỉ để thoả mãn dục vọng chứ yêu đương gì!(Trích:”Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thôi à”) +Nhưng tội nghiệp thay cho Chí Phèo.Hắn cầu cứu vào Thị Nở thì khác nào người chết đuối vớ phải mảng bèo.Thị là một người đàn bà u mê,dở hơi. Ăn nằm với Chí 5 ngày rồi bỗng đột nhiên về hỏi bà cô và ả đã mang hết những gì bà cô nói tát hết vào mặt Chí Phèo. +Chí Phèo sửng sốt,gọi lại .Chí đuổi theo nắm lấy tay +Cuộc đời Chí Phèo là một bức tường cao,dày đặc chỉ có duy nhất một lối thoát nhưng bà cô của Thị Nở đã đứng đó và chặn lại.Chúng ta cũng không thể trách bà cô được.Vì bà cũng như bao người dân làng Vũ Đại đã quen coi Chí là tên lưu manh rồi. Hôm nay linh hồn của hắn trở về nhưng không ai nhận ra +Chí Phèo rơi vào nỗi đau đớn tuyệt vọng.Hắn bị cả cái xã hội kia ruồng bỏ.Hắn uống rượu nhưng sao càng uống càng tỉnh ra.Hơi cháo hành ở đâu bỗng nhiên trở về.Hắn càng thấm thía nỗi đau.Rồi ôm mặt khóc rưng rức (Bi kịch xảy ra.Có thể nói về bi kịch của Chí rất nhiều nhưng có vẻ bi kịch cuối truyện là bi kịch lớn và mang tính gay gắt nhất.) +Hắn hằn học đòi giết bà cô Thị Nở nhưng lại vác dao tới nhà Bá Kiến (Có thể coi đây là một tình tiết thiên tài của nhà văn Nam Cao) Trong tièm thức thì kẻ thù của Chí Phèo vẫn là Bá Kiến.Chí Phèo giết Bá Kiến rồi cũng dung dao kết liễu đời mình +Câu hỏi cuối bài: “Ai cho tao lương thiện” là câu hỏi làm day dứt người đọc .Qua hình tượng Chí Phèo Nam Cao đã gián tiếp đặt ra câu hỏi to lớn ấy. Đó là vấn đề mang ý nghĩa xã hội,có tầm vóc lớn lao III.Kết Bài +Câu truyện kết thúc bằng một cái kết đầy bi thương nhưng là tất yếu.Tất yếu của cái xã hội thực dân phong kiến xấu xa , đen tối đã không cho con người ta sống, mà chừng nào nó còn tồn tại thì còn những con người bị lưu manh hóa, còn những "Chí Phèo con" bên lò gạch bỏ hoang. +Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, cách kể chuyện cô đọng, dồn nén, Nam Cao đã khiến cho người đọc bao thế hệ sẽ mãi không thể quên "Chí Phèo". Bởi nó là hình ảnh tố cáo mạnh mẽ nhất cái xã hội xấu xa, đen tối ấy. + Ông đã cho người đọc thấy cái bi kịch thóng khổ nhất của người nông dân– đó không phải chỉ là nỗi nghèo khổ vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần, nỗi đau bi tước đoạt quyền sống, quyền làm người lương thiện, tưởng chừng như rất đỗi giản đơn, bình dị mà vô vọng
Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao
14,556
Theo dõi câu chyện Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, người đọc xót xa và căm phẫn nhưng cũng có khi lại hả hê, sảng khoái. Ấy là những lần nhà văn cho chị Dậu – một người đàn bà nông dân cùng khổ – dám đứng lên chống trả lại bọn quan lại, cường hào. Có ba lần chị Dậu vùng lên nhưng nhất quyết liệt nhất, mạnh mẽ nhất vẫn là cảnh “tức nước vỡ bờ”. Mỗi lần, chị Dậu bị bắt giải lên huyện vì tội dám hành hung người nhà nước thi hành công vụ! Tối thứ bảy, sau khi tiễn vợ lên ô tô đi tiếp quan trên để được thăng quan tiến chức, quan phủ Tư Ân cho đòi chị Dậu lên hầu, vì những ngày “sưu thế giới kì” quan bận, phải làm việc cả ban đêm! Y dở trò dê chó, chị đã kháng cự quyết liệt để bảo vệ phẩm giá – Chị không chút suy nghĩ, đắn đo đã vứt tọt nắm bạc của quan xuống đất làm cho mắt hắn phải tròn xoe kinh ngạc. Lại lần nữa, phải đi ở vú, ấy thế mà “quan cố” ngoài tám mươi tuổi, kề miệng lỗ, móm mén, phều phào… vẫn không tha, mặc dù chị van lạy: con là phận tội đồ, xin cụ tha cho con… Chị lại phải chống trả và chạy thoát ra ngoài trời. Nhưng lần này một mình chị phải đánh trả lại cả một bọn đầu trâu mặc ngựa, tay thước tay đao. Sức mạnh của lòng căm thù, tình yêu chồng thiết tha, cả cuộc đời chịu đựng, hi sinh vì chồng, con. Gia đình gặp cảnh nguy khốn, không có tiền nộp sưu, chồng bị bắt giam, tra đánh, hành hạ chết đi sống lại. Chị không thể khoanh tay, vì thương chồng chị đã tìm mọi cách để cứu chồng. Chị đã phải đứt ruột bán đứa con đầu lòng cùng đàn chó để nộp sưu cho chồng. Nào ngờ vợ chồng chị còn phải đóng thêm một suất sưu của em chồng đã chết từ năm ngoái. Anh Dậu vẫn bị trói, chết đi sống lại nhiều lần, bọn chúng đã ném trả anh cho chị Dậu trong trình trạng “thập tử nhất sinh”. Sáng hôm sau, anh vừa tỉnh lại một lát, chị Dậu rón rén bưng bát cháo đến chỗ chồng nằm dỗ dành: Thầy em hãy cố ngồi dậy hút ít cháo cho đỡ xót ruột. Anh Dậu vừa run rẩy kê bát cháo vào miệng thì bọn cai lệ, người nhà Lí Trưởng đã hùng hổ xông vào định trói anh Dậu đem ra đình: Anh Dậu hốt hoảng, sợ quá, vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó không nói được câu gì. Tình thế thật hiểm nguy, tính mạng chồng bị đe dọa, chị hết lời van xin: … Hai ông làm phúc nói với ông Lí cho cháu khất. Chị tự kìm chế, nín nhịn, dằn lòng xuống để cầu khẩn thiết tha. Chị hạ mình xuống làm thân kẻ hèn mọn để xin xỏ: Xin ông trông lại, … cháu van ông … ông tha cho. Nhưng bọn người hết cả nhân tính không hề một chút động lòng, một mực không buông tha, chạy sầm sập đến trói anh Dậu và đánh luôn vào ngực chị Dậu. Giọt nước dã tràn, chị Dậu chống cự lại: Chồng tôi đau ốm các người không được hành hạ. Tình thế bắt buộc người đàn bà nhà quê hiền lành ấy phải hành động để bảo vệ tính mạng cho chồng, bảo vệ hạnh phúc cho chính mình. Chị dùng lí lẽ đanh thép để cử lại. Cách xưng hô đã bắt đầu thay đổi, tỏ thái độ ngang hàng, lời lẽ dứt khoát kiên quyết như một mệnh lệnh. Sự chuyển hóa trong thái độ của chị Dậu là tất yếu, “con giun xéo lắm cũng quằn”, chị đã nhịn nhục đến cùng, bị dồn vào thế chân tường, chỉ còn một con đường duy nhất là chống trả. Cái tát vào mặt chị như lửa đổ thêm dầu là bùng lên ngọn lửa căm thù. Chị nghiến hai hàm răng: mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem. Đến đây, chị vụt đứng dậy trong tư thế của kẻ đầy tự tin, thách thức và coi thường bọn chúng. Cách xưng hô từ “ông – tôi” chuyển thành “mày – bà”. Lòng uất giận bị dồn nén như nước tứt ắt phải vỡ, biến thành sức mạnh sôi sục trào dâng vượt qua mọi sợ hãi. Chỉ với hai bàn tay không, người đàn bà con mọn đứng thẳng dậy tuyên chiến với kẻ thù, một trận đấu không cân sức, nhưng chị đã chiến thắng bằng chính sức mạnh của tình yêu và lòng căm hận. Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được. Đó là suy ghĩ và ý thức tranh đấu của người nông dân bị áp bức đè nén, phải đứng lên để tự bảo vệ mình. Hành động của chị Dậu tuy là tự phát nhưng nó phản ánh một quy luật xã hội: có áp bức có đấu tranh. Mặc dù nhà văn chưa phản ánh đầu đủ sức mạnh đấu tranh của người nông dân nhưng nói như Nguyễn Tuân: Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nổi loạn, là một cách phát động quần chúng nông dân chống quan Tây, chống vua ta… Đọc đoạn Tức nước vỡ bờ ta càng thêm khâm phục chị Dậu. Nhà văn Ngô Tất Tố đồng cảm, bênh vực chị, ngợi ca hành động chị. Vì thế đây cũng là lúc hồn văn chương của cụ “Đầu Xứ Tố” hả hê, sảng khoái nhất.
Phân tích nhân vật chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ
974
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 1 2 Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 4 5 Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 5 6 Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Gợi ý Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 1 Chữ người tử tù là truyện ngắn xuất sắc được in trong tập “ Vang bóng một thời’’ của Nguyễn Tuân xuất bản năm 1940. Tấp truyện được xem là :”một văn phẩm đạt gần tới sự toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Một trong những làm nên giá trị của tác phẩm là ở đó tác giả đã xây dựng nhân vật Huấn Cao, một hình tượng nhân vật hết sức độc đáo. Tác giả Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn nổi tiếng trước CM tháng Tám, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ônng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng là truyện ngắn và tùy bút. Trước CM thág Tám ông viết xoay quay 3 đề tài . Đề tài về cái tôi của chủ nghĩa xê dịch, cái tôi hưởng thụ trụy lạc và cái đẹp ngày xưa nổi tiếng một thời nay không còn nữa chỉ vang bóng lại. Sau Cách mạng tháng Tám ông viết phục vụ CM. Tác phẩm Chữ người tử tù lúc đầu có tên là dòng chữ cuối cùng được đăng trên Tạp Chí Tao Đàn (1938). Vế sau tác giả đổi tên la Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời (1940).Chữ người tử tù là chữ viết của người có tội bị giam trong ngục. Ở tác phẩm, tác giả ca ngợi thú chơi chữ có tính truyền thống văn hóa, ca ngợi nhứng con người biết chơi , dám chơi đồng thời qua đó thể hiện tấm lóng yêu nước của nhân vật HC. Trước một xã hội “ Tây Tàu nhố nhăng’’, Hán học suy vi ,mâu thuẫn xã hội gay gắt.Dường như con người ta muốn buông xuôi tắt cả. Thế nhưng "Thời thế tạo anh hùng" vẫn còn một số người, đại diện cho nhũng nho sĩ cuối mùa, nhũng con người tài hoa bất đắc chí muốn lấy cái “ tôi” tài hoa , ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục; phô diễn lối sống đẹp , thanh cao của mình như một thái độ phản ứng trật tự xã hội đương thời. Trong số những con người tài hoa ấy , nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao. Huấn Cao vốn là người văn võ song toàn, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp.Ngừoi tỉnh Sơn ai cúng biết Huấn Cao có tài viết chữ đẹp và rất nhanh, ngoài ra ông còn có tài bẻ khóa nữa. Huấn Cao bị nhà nước thực dân ghép vào tội đại nghịch nên bị bắt giam chờ ngày về kinh chịu tội. Trong những ngày bị giam giữ cuối đời, Huấn Cao vẫn toát lên vẻ đẹp hiên ngang , bình tĩnh và sáng suốt của 1 ngừơi anh hùng . Qua đó mới thấy được vẻ đẹp tài hoa, khí phách , khí tiết của Huấn Cao . Tài viết chữ đẹp của Huân Cáo đươc mọi ngừơi kính nể. Bởi lẻ, cái hiếu thẩm mỹ của người xưa về viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Huấn Cao viết chữ Hán đẹp, người ta xem những tác phẩm của ông như là những tác phẩm nghệ thuật để trang trí trong nhà . Ở trong truyện, Nguyễn Tuân không trực tiếp miêu tả vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao mà thông qua nhân vật Viên Quản ngục để làm bật lên cái tài viết chữ đẹp của ông. Viên quản ngục là một người rành chơi chữ, khi biết Huấn Cao sắp được giải đén nhà lao của mình , viên quản ngục đâm chiêu lưỡng lự, tìm cách đối xử với Huấn Cao như thế nào cho đúng. Lão ái mộ Huấn Cao đến mức xuống nước biệt đãi cơm , rượu , thịt cho Huấn Cao. Dù biết đó là việc hết sức nguy hiểm và nếu có người tố giác sẽ khiến viên quản ngục mất việc, hơn nữa là mất mạng nhưng lão vẫn bất chấp , đã thế còn bị Huấn Cao khinh bạc đủ điều: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đây nữa”. Viên Quản ngục nhịn nhục vì ông biết rằng:” Chữ HC đẹp lắm , vuông lắm có được chữ HC treo trong nhà là một vật báu ở trên đời”. Vì sao Viên Quản Ngục lại chịu nhịn nhục và bất chấp nguy hiểm để biệt đãi HC. Phải chăng trước vẻ lạnh lùng , ngang tàn của một người anh hùng khiến VQN có thái độ đặc biệt như vậy. Không , mà vì VQN rất trân trọng , khâm phục, yêu quí cái tài viết chữ đẹp của HC. Qua sở thich của VQN, ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa của HC. VÌ chữ đẹp của HC mà VQN có thể sẵn sàng chịu nhịn nhục, chịu bị HC trách mắng đủ điều và hơn nữa bất chấp cả tính mạng. Bên cạnh vẻ đẹp tài hoa , HC cò toát lên vẻ đẹp nhân cách, cái nhân cách cao đẹp chiếu sáng cả cuộc đời ông. Ông không luồn cúi, chịu cảnh cá chậu chim lồng mà đi làm giặc chốg lại triều đình. Điều này khiến ông hơn người Nhân cách ấy còn được thể hiện khi ông bị giải tới nhà lao. Nhà lao là nơi cái nơi tối tăm, xiềng xích bủa vây , tra tấn con người ta về mặt thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhứng với HC khi giải tới nhà lao ông vẫn hiên ngang, cổ mang gông tử tù bước vào ngục tử tội chờ chết mà ông vẫn không hề biết sợ. Cái hình ảnh của người anh hùng tuy thất thế mà vẫn hiên ngang ấy khiến người ta phải ngưỡng mộ. Đó là nhân cách của con người:” bần tiện, bất năng di, phú quí bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”. Bước vào nhà lao trước đông đảo bọn cai tù mặt nhìn soi mói như ăn tươi , nuốt sống . Nhưng như vậy cúng chẳng khiến HC bận tâm và cảm thấy sợ sệt một chút nào cả, ông lạnh lùng bảo 5 người cùng xích chung trong cùng một cái thang gông:”Rệp cắn tôi , đỏ cả cổ lên rồi, phải dỗ gông đi”. HC Cao cùng 5 người thúc thang gông xuống trong lúc bọn cai tù đe dọa châm biếm :” Các ngươi chỉ phải tập thêm nữa …cho mấy hèo bây giờ”.Nhưng HC vẫn thản nhiên: “ Khom mình cúi thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng”. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh , đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt, riêng HC vẫn lạnh lùng bình thản như không. Không chỉ có vậy nhân cách của HC còn được thể hiện khi VQN xuống tận buồng giam thăm và nói HC “ Ngươi cần j xin cho biết rồi sẽ liệu”. Nếu một người không có khí phách chắn hẳn sẽ năn nỉ van xin hay cảm ơn. Nhưng với HC thì không đời nào, ông không vì rượu thit mà lung lạc tinh thần. HC nói: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đay nữa”.Bất chấp sau câu nói ấy HC có thể sẽ làm VQN tức giận và không được ăn ngon như trước hay bị một trân đòn nhưng HC vẫn nói . Đó là khí phách của của một người có bản lĩnh kiên cường . HC còn bật lên vẻ đẹp khí tiết nữa.Đối vơi Hc tiền bạc, uy vũ sức mạnh không làm lung lạc tinh thần:” ta không vì tiền bạc , quyền thế mà ép mình viết chữ cho ai bao giờ”. Nhưng khi được Viên Thơ kể lại về sự tình của VQN, HC đã nhận thức được một tâm hồn trong sáng của VQN, người yêu cái đép, vì cái đẹp mà bất chấp nguy hiểm.VQN thật sự la ngườt tốt, xh rối ren khiến lão lạc vào đám cặn bã này thôi , khiến HC không nhận ra: “…nào ta có biết …Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng thiên hạ”. Đúng là HC dù là con người lạnh lùng, mạnh mẽ , cứng đầu lúc nhận ra con người thực của VQN , Quản ngục chỉ là cái áo khoác bên ngoài còn thực chất lão là người tốt , không mưu mô , xảo quyệt như trc đây HC đâ nghĩ .Trước thái độ chân thành cũng như tình cảm của VQN đối với mình khiến HC mềm lòng cảm động và quyết đjnh cho chữ VQN. Đêm hôm ấy, HC đã cho chữ VQN, một trong những cảnh tượng xưa nay chưa từng có. HC sàng tạo trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt: đêm khuya , trong căn phòng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện , đất bừa bãi phân nhện và phân gián, người sáng tạo ra cái đẹp , cổ đeo gông, chân vướng xiềng xích mà lại là người tự do và đầy uy quyền nhất. Người đọc không chỉ thấy đây là cảnh tượng cho chữ mà là cảnh truyền ngôi thụ giáo. Đẹp hơn nữa, HC còn tguyết giáo cho VQN cải tà quy chánh . VQN cảm động vài người tù một vài, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vàokẽ miệng làm cho nghẹn ngào:”Kẻ mê mụi này xin bái lĩnh “ Đó là vẻ đẹp khí tiết của một nhân cách cao thượng và ở khả năng cảm hóa con người của HC. Nguyễn Tuân đã khắc họa nhân vật Huấn Cao thật tài tình , ở nhân vật này người đọc không chỉ thấy sự tài hoa của người nghệ sĩ mà còn là một con người có khí phách , khí tiết cao đẹp.Đó cũng là ước muốn của Nguyễn Tuân cũng như cái nhìn của ông : người nghệ sĩ không chỉ có tài mà còn phải có tâm có nhân cách đẹp.Vì vậy tác giả xây dựng nhân vật HC nhú tấm gương sáng để các thế hệ sau có cái nhìn về cái đẹp tài hoa và cái đẹp trong nhân cách, khí tiết và để lại cho người đọc một sự yêu mến , một sự ngưỡng mộ. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã để lại ho nền văn học Việt Nam một tác phẩm đầy chất nhân văn . Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 2 Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba, không chỉ tài ba mà còn yêu cái đẹp, sống vì cái đẹp, và trên hết, ông tạo ra cái đẹp. Mỗi tác phẩm của ông đều ẩn chứa những cái đẹp riêng, có khi là phô trương, có khi lại sâu lắng đầy ý nghĩa sâu xa. Ví dụ như trong “Chữ người tử tù”, cái đẹp được ca ngợi ở đây không chỉ là tài viết chữ đẹp, cái thiên lương đẹp mà còn là cả một con người đẹp, đẹp từ trong tâm ra đến hành động, từng con chữ. Chữ người tử tù là tập truyện ngắn rút từ tập vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao. Có thể khẳng định rằng, nhân vật Huấn Cao là hình mẫu xuất chúng, là linh hồn, là nhân tố tạo nên sự thành công của tác phẩm “Chữ người tử tù”. Để làm rõ chất xuất chúng trong xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta cùng phân tích nhân vật trên ba phương diện nổi bật: Huấn Cao- Anh Hùng; Huấn Cao- Nghệ sĩ tài hoa và Huấn Cao – Thiên lương trong sáng. Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao với tất cả những nét đẹp đáng quý nhất. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài ba! Nếu ai đã từng đọc “Chữ người tử tù” chắc hẳn đều ít nhất một lần rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao . Ông là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí; là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất. Nhờ đó, Huấn Cao trở thành một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Nhiều nhà phê bình lẫn độc giả cho rằng, hình tượng nhân vật Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát. Người vĩ nhân đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, sống dưới thời Nguyễn, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội PK thối nát, bỉ ổi. Trong “Chữ người tử tù” Huấn Cao cũng vậy. Ông bị gọi là kẻ cầm đầu quân phản loạn, ông học rộng hiểu nhiều, dám đứng lên chống lại cái sai, cái bất công; đả kích sự mục ruỗng thối nát của nhà Nguyễn, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn hình tượng nhân vật Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát? Và ngược lại, lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát để khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết. Khí chất của Huấn Cao giống như ánh sáng mặt trời hiên ngang, rực rỡ tỏa sáng trên cái nền đen nhơ nhớp, tối tăm chốn ngục tù. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng HC trước hết phải nhắc đến cái tài. Tài của Huấn Cao là tài viết chữ đẹp. Xét trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Tâm có đẹp, hồn có thanh, có tài ba, trí thức mới viết ra được những con chữ đẹp. Viết chữ đẹp và chơi chữ đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn lẫn trân trọng, nâng niu. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp, có người viết chữ thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã. Huấn cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. “Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh sơn.” Ngay cả viên quan quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm! có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”. Cho nên “Sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục mà còn phải liều mạng. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình. Một cái tài nữa nghe có vẻ rất không thống nhất với tài viết chữ đẹp đó là tài bẻ khóa vượt ngục. Người trí thức bàn tay hoa mỹ những tưởng chỉ để phát lên những nét rồng bay phượng múa, ai ngờ lại còn có thể bẻ khóa, ra vào tù ngục như chốn không người. Nếu như viết chữ đẹp thể hiện một con người trí thức, nho nhã, yêu cái đẹp thì tài bẻ khóa vượt ngục lại thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành. Điều này rất hợp logic với tính cách của một con người luôn đấu tranh cho chính nghĩa, dũng cảm đứng lên chống lại triều đình Phong Kiến mục nát. Hai biệt tài của Huấn Cao tưởng rằng máu thuẫn nhưng lại thống nhất, bổ sung cho nhau; tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để “chọc trời khuấy nước”. Nhưng anh hùng không gặp vận, người tài chẳng đúng thời! Giữa cái xã hội Phong Kiến còn đầy rẫy những chuyên chế, đàn áp, bất công ấy thì những người như Huấn Cao lại bị quy thành tội phạm, thậm chí là tội phản quốc phải gánh lấy cái án tử hình. Vẻ đẹp nổi bật thứ hai của Huấn Cao đó chính là khí phách hiên ngang, bất khuất của người anh hùng. Không chỉ văn võ song toàn, Huấn Cao còn là một người có khí phách, một người anh hùng dám làm dám chịu, không những không bị khuất phục trước quyền lực, bạo lực; mà còn không hề nao núng, sợ hãi khi đứng trước cái chết- kết cục tất yếu của tử tù phản quốc Huấn Cao xuất thân là nho sĩ, tầng lớp trí thức, học giả; thường khi những người như ông sẽ cống hiến tài mình phục vụ cho triều đình. Đặc biệt, thời phong kiến, tư tưởng quân chủ chuyên chế vẫn còn đè nặng. Làm việc cho triều đình là một cách báo quốc, đền dân; nhưng triều đình mục ruỗng, thối nát thì không đáng để ông phụng sự. Ông là người tài, không chỉ tài ở tài viết chữ, mà còn là người có cái nhìn thức thời, sáng suốt. Một nhân tài không sợ hãi trước cường quyền và bạo lực. Không chịu sống cảnh “cá chậu chim lồng”, “vào luồn ra cúi” nên ông đã tham gia khởi nghĩa cùng nông dân chống lại triều đình. Ông bị bắt và bị kết tội phản quốc chờ xử chém. Khí phách của ông trước hết thể hiện ở thái độ lạnh lùng và hành động cương quyết của ông khi vừa được đưa đến nhà ngục. Mặc cho những tên lính áp giải nói gì, “Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Phải là người có bản lĩnh, quyết đoán, tự chủ trước cường quyền, Huấn Cao mới có được hành động như vậy. Trong những ngày ở tù, ông luôn làm chủ bản thân, không luồn cúi. “Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù”. “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Thậm chí, ông còn có thái độ khinh bạc đối với viên quản ngục. Khi viên quản ngục hỏi ông xem ông có cần thêm gì thì cho viên quản ngục biết, ông đã thẳng thắn trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Quá thực, đó là một thái độ khinh bạc đến điều.“Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Huấn Cao rất cứng cỏi, không dễ dàng bị mua chuộc. Dù chí lớn không thành tư thế của Huấn Cao lúc nào cũng hiên ngang, bất khuất. Bị dẫn vào huyện ngục ông không chút run sợ trước những kẻ nắm giữ vận mệnh của mình. Chắc hẳn ai đã từng đọc “chữ người tử tù” đều không thể nào quên hình ảnh Huấn Cao thúc gông xuống thềm đá, chỉ một chi tiết ấy cũng làm toát lên khí chất kiên cường, có chút ngông lạnh của người anh hùng không màng cái chết. Hình ảnh đó thật đẹp, thật hào hùng khiến ta nhớ mãi không quên. Rõ ràng là một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường vậy mà Huấn Cao vẫn luôn ung dung, đạo mạo, toát lên khí chất coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trước sau không thay đổi. Điều đó thật đáng kính! Tuy nhiên, có lẽ vẻ đẹp đáng kính nhất ở Huấn Cao là vẻ đẹp của tâm hồn. Ông là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp hiếm có, đáng trân trọng! Trong truyện Chữ người tử tù khái niệm “thiên lương” được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại thì “thiên lương” là ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài của mình. Huấn cao có tài viết chữ nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài…Cho nên suốt đời Huấn Cao chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Lúc đầu, ông tỏ thái độ khinh bạc vì tưởng quản ngục có ý đồ đen tối gì khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông “cảm cái lòng biết ơn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù được tác giả gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cái đẹp từ “thiên lương” trong sáng của Huấn Cao chính là điểm sáng nhất của tác phẩm. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật Huấn Cao chỉ thực sự tỏa sáng khi đạt được sự thống nhất giữa cả 3 vẻ đẹp từ cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng. Trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm Nguyễn Tuân đã để cho vẻ đẹp của cái tâm, của “thiện lương” chiếu rọi, làm cho cái đẹp của cái tài của khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách cao đẹp của Huấn Cao. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lí tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân là chuẩn mực để ông đánh giá nhân cách của con người. Nguyễn Tuân đặt nhân vật dưới ánh sáng của lí tưởng ấy để các hình tượng bộc lộ vẻ đẹp với những mức độ khác nhau. Trên cái nền đen tối của nhà tù, quản ngục và thơ lại là hai điểm sáng bên cạnh cái vần sáng rực rỡ của Huấn Cao. Cũng chính lý tưởng thẩm mỹ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kì diệu kẻ tử tù trở thành người làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, dạy dỗ cách sống, quan coi ngục thì khúm núm sợ hãi. Hình tượng Huấn Cao vì thế trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với viên quan cai ngục nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”. Nguyễn Tuân thật tài tình khi miêu tả Huấn Cao để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài cái đẹp cái tâm và khí phách ngang tàng. Ông triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn đối lập giữa ánh sáng và bóng tối giữa cái đẹp cái cao cả với cái phàm tục dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ : bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên… Có sự đối lập tương phản giữa sự cho chữ và hoàn cảnh cho chữ. Đó là sự đối lập giữa công việc tạo ra cái đẹp “nói lên hoài bão tung hoành của một đời người” với chốn ngục tù hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do. Sự sự đối lập phong thái của người cho chữ với tư của kẻ nhận chữ cũng góp phần không nhỏ vào việc khắc họa hình tượng nhân vật. Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 3 Chữ người tử tù là tác phẩm ca ngợi sự chiến thắng của khí phách, tài hoa và nhân cách đối với cái xấu xa, thấp hèn, là bài ca đầy cảm hứng động viên con người gắng gìn giữ “thiên lương” dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc đời. Nói đến những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, người ta nghĩ ngay tới “Vang bóng một thời”, trong đó truyện ngắn “Chữ người tử tù” từng được đánh giá là tác phẩm hay nhất của một nghệ sĩ tài hoa có phong cách độc đáo. Cái phong cách độc đáo ấy được gửi gắm trong nhiều hình tượng mà nổi bật nhất đó là nhân vật Huấn Cao – một con người có khí phách ngang tang, bất khuất, có tài hoa và phẩm chất thiên lương trong sang. Điểm nổi bật ở Huấn Cao đó là một con người mang vẻ đẹp của khí phách, tư thế hiên ngang. Vẻ đẹp ấy được bộc lộ ở lòng tự trọng sống hiên ngang, không khom lưng uốn gối. Là một con người cương trực, thẳng thắn và sống trong sang vô ngần, luôn gạt mọi quyền chức danh lợi sang một bên: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đó là một câu nói thể hiện một tư thế sống đẹp của Huấn Cao, rất có “thiên lương”. Sống trong một xã hội dơ bẩn nhưng tâm hồn của Huấn Cao vẫn ánh lên những tia sáng của sự trong sạch, ấy là điều đáng quý, đáng trân trọng, khâm phục. Tác giả đã rất khéo léo, khách quan khi để cho hình tượng Huấn Cao hiện lên với tư thế hiên ngang, bất khuất qua suy nghĩ của viên quản ngục: “Viên quản ngục không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Huấn Cao, một con người đang trong tâm thế bị động, bị tù đày, lẽ ra khi được viên quản ngục quan tâm phải lấy đó làm vinh hạnh, làm ân huệ cuộc đời, nhưng vốn ông là người ngay thẳng, chính trực nên đã tỏ thái độ rất lạnh lùng, khinh bạc đối với viên quản ngục. Huấn Cao chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ nhờ vả người quản ngục của mình. Trong hoàn cảnh éo le như thế, mạng sống đã bắt đầu không giữ nổi mà người tử tù vẫn giữ được thế đứng vững vàng, thật đáng phục biết bao. Đó là một nhân cách sáng lên giữa cảnh tăm tối của nhà tù, của xã hội lúc bấy giờ. Khi chí lớn không thực hiện được, Huấn Cao không hề có một chút run sợ trước thảm cảnh tương lai, tương lai đang đón đợi ông bằng cái chết. Nói về cái chết, Huấn Cao dửng dưng và coi thường mọi gian khổ, tư thế của ông đúng là tư thế người chiến sĩ: “Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa.” Chết chém mà không sợ thì còn sợ cái gì nữa đây? Có lẽ cái làm Huấn Cao sợ đó chính là sự phi lí của xã hội, sự dơ bẩn, xảo trá, đảo điên của thời đại ! Bên cạnh tư thế đĩnh đạc ông còn có những suy nghĩ , hành vi thật phóng khoáng. Ông không cố chấp, không gò bó bản thân mình, tuy vẫn kiêu bạc với viên quản ngục nhưng mỗi lần được ưu đãi ăn uống thì “ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt” , “coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Ở trong ngục, khi đối diện với cái chết thì người ta thường lo đứng lo ngồi, ăn không ngon miệng, ngủ chẳng đủ giấc, nhưng riêng với Huấn Cao vẫn cứ “rượu thịt” như thường, thể hiện một tâm thế ung dung, đứng ở tư thế chủ động để đón đợi mọi tình huống trong tương lai, cho dù đó là cái chết đi chăng nữa. Huấn Cao đã rất băn khoăn trước sự biệt đãi của viên quản ngục. Thực tình, ông không hiểu vì sao con người ấy không những đối đãi tử tế với một mình ông mà còn với năm người tử tù cùng đi với ông nữa. Cho dù vậy, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục vẫn vô cùng ngạo nghễ, khinh bạc. Khi quản ngục lo ấu, khép nép hỏi Huấn Cao có cần gì thêm nữa không để quản ngục cố gắng chu toàn, Huấn Cao đã lạnh lung nói một câu như tát nước vào mặt “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Điều đó thể hiện thái độ yêu ghét rất rõ ràng của Huấn Cao, dù viên quản ngục có tốt đến mấy nhưng trong mắt Huấn Cao, hắn vẫn là một kẻ cai ngục hèn hạ. Nghệ thuật chơi chữ, viết chữ vốn là một thú vui tao nhã của người xưa. Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, đẹp đến nỗi nổi tiếng cả tỉnh, và cái danh của ông đã được truyền đi rất xa: “tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Tuy viết chữ đẹp nổi danh như thế nhưng ông Huấn Cao vẫn rất khiêm tốn, cả một đời mà ông chỉ mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Lần cho chữ viên quản ngục như môt ngoại lệ, đó cũng chính là nét bút cuối cùng của Huấn Cao. Huấn Cao cho chữ viên quản ngục đâu phải vì gã đối xủa tử tế với mình mà chính bở Huấn Cao cảm nhận được một sự đồng cảm hài hòa giữa mình với con người đó. Ông cho chữ vì “ta cảm cái tấm lòng biết nhìn liên tài của ngươi”. Có nghĩa Huấn Cao cho chữ viên quản ngục vì hiểu được rằng quản ngục là người có “thiên lương” trong sáng, có con mắt biết nhìn đời, nhìn người đặc biệt là thưởng thức, quý trọng giá trị của cái đẹp. Điều này đã gặp gỡ với tâm hồn, con người của Huấn Cao. Cái cao đẹp, tài hoa của Huấn Cao được Nguyễn Tuân xây dựng trong một khung cảnh đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, cái cao cả và cái thấp hèn. Viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng với lụa trắng, mực thơm, nét chữ tươi tắn đối lập với cái dơ bẩn, ẩm ướt, đen tối của ngục tù đầy phân chuột, phân gián … Nhưng Huấn Cao vẫn chăm chú viết chữ là một hình tượng mà từ xưa đến nay chưa từng có “Một người tu, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang chậm tô nét chữ trên mảnh lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” và “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một mảnh lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lia lịa”. Giữa cái chật chội hôi hám của nhà tù mà những con người có bản chất thiên lương ấy vẫn vượt lên trên tất cả mọi khó khăn để sáng tạo nên cái đẹp đã biểu hiện một ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Cái đẹp có thể sản sin từ nơi cái ác hoành hành ngự trị , cái đẹp có thể tồn tại, sản sinh từ một mảnh đất chết. Cái đẹp ấy lại được sinh ra từ bàn tay của một người tử tù lại mang một ý nghĩa nhân văn cao cả: Dù cuộc sống có tàn nhẫn đến đâu thì giá trị nghệ thuật đích thực vẫn tồn tại vì nếu thiếu cái đẹp, cuộc sống sẽ tầm thường biết bao. Huấn Cao không chỉ là người có khí phách “đội trời đạp đất” mà còn là con người mang nét đẹp tâm hồn tài hoa. Ông không chỉ tu dưỡng mình để trở thành một con người có “thiên lương” trong sáng, bản chất tốt đẹp mà ông còn muốn người khác cũng như vậy, đặc biệt là một người có “thiên lương” như viên quản ngục. “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê nhà mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Chữ “tâm” trong sáng của Huấn Cao trong lời khuyên bảo sau cuối đối với viên quản ngục. Lời khuyên ấy càng làm đẹp thêm hình tượng Huấn Cao – chỉ có con người “thiên lương” mới có tư cách khuyên bảo, nhắn nhủ những điều đầy lương trí ấy. Huấn Cao mong mỏi những điều tốt đẹp cho viên quản ngục, mong muốn viên quản ngục hãy giữ lấy khí tiết và tấm lòng trong sạch ấy, tránh xa nơi nhem nhuốc này. Như vậy, Huấn Cao là người yêu cái đẹp và cảm thong với người biết quý trọng, biết thưởng thức cái đẹp. Ông là người kiêu bạc là thế nhưng lúc hiểu được tấm lòng chân thành của viên quản ngục, ông đã vui vẻ nhận lời cho chữ và tự kết án mình “thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao là người tạo ra cái đẹp, viên quản ngục lại là người biết thưởng thức cái đẹp, như vậy hai tâm hồn đẹp đã gặp nhau và cất lên sự đồng điệu, hòa hợp. Tác phẩm là câu chuyện về những người vang bóng một thời. Tác giả đã kết hợp hết sức nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ hiện đại và cổ kínhđể tạo được không khí trang trọng trong văn phong. Vận dụng tối đa thủ pháp tương phản, đối lập giữa cái sáng – tối nhằm làm nổi bật cái ác – cái thiện, cái cao cả – cái thấp hèn. Giọng văn chậm rãi, từ tốn, cách đối thoại làm bộc lộ tính cách tâm lý nhân vật một cách sâu sắc. Chữ người tử từ là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân. Thông qua bút pháp tài tình, điêu luyện, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xấy dựng các nhân vật của mình, đặc biệt là Huấn Cao. Từ hình tượng ấy, đặt trong hoàn cảnh mất nước lúc ấy thì đó chính là một cách giãy bày cảm động, kín đáo tấm lòng yêu nước sâu sắc của nhà văn. Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 4 Huấn cao được Nguyễn Tuân xây dựng dựa trên hình tượng Cao Bá Quát, một nhà nho yêu nước đồng thời cũng nổi tiếng về cái tài viết chữ đẹp. Tuy vậy, Huấn Cao luôn là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân bởi hình tượng nhân vật này là công sức sáng tạo của nhà văn. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, có tài viết thư pháp. Người viết chữ đẹp xưa nay đâu có hiếm, nhưng được tôn thờ nhờ tài viết chữ đến mức thần thánh thì hiếm vô cùng. Chữ Huấn Cao quý giá không chỉ vì được "viết rất nhanh và rất đẹp", không chỉ vì "đẹp lắm vuông lắm" mà quan trọng hơn đó là "những nét chữ vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người". Nguyễn Tuân không tả những nét chữ Huấn Cao mà dùng bút pháp ngợi, chủ yếu miêu tả cái thần thái tỏa ra từ những nét chữ đó. Nhà văn không trực tiếp giới thiệu cái tài đó mà thông qua lời ngợi khen của viên quản ngục và thầy thơ lại: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời". Cả đời ông Huấn mới cho chữ có 3 lần cho ba người bạn thân, vậy mà tiếng tăm của ông đã nổi danh khắp cả, đến viên cai ngục của một huyện cũng nghe đến tiếng Huấn Cao như sống động bên tai. Chi tiết Huấn Cao viết chữ rất nhanh mở ra một ông Huấn uyên bác, trí tuệ còn chi tiết viết chữ "rất đẹp" lại cho ta ấn tượng về những nét chữ vừa mềm mại uyển chuyển "như phượng múa rồng bay" lại vừa có cái phóng túng tự do trong hoài bão. Quan trọng hơn, nét chữ đó có khả năng lay động trái tim con người, khiến cho quản ngục tự bao giờ đã có cái mong muốn: "Một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết". Chính cái tài của Huấn Cao đã nuôi dưỡng một ước mơ rất đẹp nơi quản ngục. Như vậy, tài năng của Huấn Cao được đối phương công nhận và ngưỡng mộ, đó là một tài năng chân chính. Sáng hôm sau, Huấn Cao trực tiếp xuất hiện thông qua một chi tiết "dỗ gông" mặc cho mấy tên lính áp giải, ông Huấn vẫn lạnh lùng thúc mũi gông xuống đất đánh thuỳnh một cái, khiến cho trên nền đá điểm những chấm nâu nhạt của rệp. Huấn Cao đã cho thấy việc gì ông muốn là làm và hoàn toàn có thể làm được, bất chấp nó khó khăn đến đâu và có được phép hay không. Và từ đó, Huấn Cao cứ thế đi đến cuối chuyện, trong tư thế ung dung, đĩnh đạc, đường hoàng. Trong thời gian ở tù, Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu, thịt coi đó là việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh. Thậm chí, khi quản ngục ngỏ ý muốn biệt đãi ông, Huấn Cao đã trả lời quản ngục bằng những lời "khinh bạc đến điều". Tất cả những chi tiết ấy cho chúng ta thấy Huấn Cao đúng là con người chọc trời khuấy nước và việc vào nhà tù tỉnh Sơn chỉ giống như việc người anh hùng "chạy mỏi chân thì hẵng ở tù" (Phan Bôi Châu). Đặc biệt chỉ ngày mai phải vào kinh lĩnh án tử hình, đêm nay tại trại giam quê hương ông vẫn ung dung cho chữ mà không hề để ý đến cảnh ngộ của bản thân. Điểm đặc biệt nhất khiến Huấn Cao trở thành nhân vật đẹp nhất đời văn Nguyễn Tuân chính là: ông là người có "thiên lương" trong sáng, cao đẹp. Điều này thể hiện rõ nét ở phản ứng của ông trước những người xin chữ: "ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà viết chữ bao giờ" vậy nên cả đời Huấn Cao mới cho chữ 3 lần cho 3 người bạn thân của ông mà thôi. Ông Huấn đúng là một người quân tử mà quyền thế không thể khuất phục, giàu sang không thể mua chuộc. Mà để làm được điều đó phải có cái tâm trong sáng, vững vàng, bất biến. Khi Ngục quan bước vào buồng giam, ông đã mắng bằng những lời lẽ kiêu bạc nhưng khi nghe tâm sự và nguyện vọng xin chữ của quản ngục ông vô cùng xúc động. Bởi vậy không đắn đo suy tính, khi đã hiểu tấm lòng quản ngục ông nhận lời ngay: "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Điều này làm cho hình tượng Huấn Cao trở nên trọn vẹn, hoàn hảo. Một con người cả đời kiêu bạc như ông Huấn, những tưởng không khuất phục một ai, vậy mà lại mềm lòng trước một tấm lòng. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao được hội tụ trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm. Không còn hình tượng một người tử tù mà chỉ còn hình tượng Huấn Cao – một người nghệ sĩ đang say xưa trổ tài viết chữ đẹp, đang khai sinh chữ đẹp: "Một người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ". Không chỉ vậy ông còn để lại cho quản ngục những lời di huấn thiêng về đạo lý làm người: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên thay chốn ở đi, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi ra nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Cái đẹp của Huấn Cao là cái đẹp tổng hòa của tài năng, nhân cách, khí phách, một cái đẹp đạt đến mức lý tưởng. Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 5 Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ xở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp”. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một lí tưởng riêng. Nếu Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm mà u buồn, man mác thì Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới thanh cao, sang trọng, lịch lãm mà cổ kính. Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật lên hình tường Huấn Cao – nhân vật chính của “Chữ người tử tù”, một nét son chói lọi trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân Là một người nghệ sĩ coi cái đẹp là một tôn giáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, trước Cách mạng, bất mãn xã hội Tây tàu nhặng xị, Nguyễn Tuân trở về quá khúe kiếm tìm, nâng niu nhữnng vẻ đẹp còn vương xót lại. Trong hành trình đi tìm kiếm cái đẹp “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân chợt phát hiện ra không gì đẹp bằng những con người tài hoa tài tử. Nổi bật trong lớp người tài hoa ấy là danh sĩ Cao Bá Quát, một nhà Nho uyên bác, một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà thư Pháp kiệt xuất. Dựa trên nguyên mẫu về danh sĩ Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên hình tượng Huấn Cao – một nhân vật đẹp và sang nhất trong cuộc đời Nguyễn Tuân. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, tài tử, Huấn Cao còn là một đấng anh hùng. Ở Huấn Cao có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ và khí phách của trang anh hùng hào kiệt. Nghệ thuật thư pháp là một bộ môn nghệ thuật cổ xưa. Một nghệ sĩ thư pháp đòi hỏi một tay bút tài hoa điêu luyện, với những nét chữ rồng bay phượng múa, một học vấn uyên thâm, một cốt cách thanh cao. Với những đòi hỏi khắt khe như thế, thật ít nghệ sĩ dám theo đuổi bộ môn nghệ thuật thư pháp cao siêu. Thế mà Huấn Cao dám dấn thâm và tận hiến đời mình cho nghệ thuật thư pháp và trở thành người nghệ sĩ tài hoa tột bậc. Huấn Cao có tài viết chữ nhanh, đẹp, vuông. Hơn thế nữa, mỗi con chứa đựng cả hoài bão khát vọng của người nghệ sĩ. Danh tiếng của Huấn Cao lan truyền đến chốn ngục tù khiến cho những kẻ suốt đời tưởng chỉ biết đến đòn roi đánh đập, hành hạ, tra tấn cũng phải ngưỡng mộ. Đặc biệt đối với quản ngục. Ngay từ nghi đọc vỡ sách thánh hiền, ngục quan đã ấp ủ được treo ở nhà riêng đôi câu đối do tay Huấn Cao viết. Vì ngưỡng mộ tài năng, sùng kính nhân cách của ông Huấn, quản ngụ đã có lối ứng xủa lạ lùng chưa từng thấy đối với kẻ từ tù. Không chỉ tỏ thái độ kiêng nể kính trọng, ngục quan còn sẵn sàng hi sinh tất cả những gì vốn được coi là quý báu. Có được chữ của ông Huấn, quản ngụ vô cùng hạnh phúc, cảm động cung kính vái lạy người tử tù trong dòng nước mắt ngọt ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vẫn biết những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn có khả năng thanh lọc tâm hồn, cảm hóa con người nhưng thực sự hiếm có tác phẩm nào có sức cảm hóa mạnh mẽ diệu kì, lạ lùng chưa từng thấy như những con chữ viết của Huấn Cao. Là người nghệ sĩ tài hoa tột bậc, đồng thời Huấn Cao còn là người anh hùng có khí phách phi thường. Nếu vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ Huấn Cao được miêu tả gián tiếp thì khí phách hiên ngang bất khuất được miêu tả trực tiếp qua hành động, ngôn ngữ. Là một nhà Nho có chí khí, Huấn Cao không chấp nhận cảnh sống cá chậu chim lồng, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời thối nát để mong vinh thân phì gia. Vì sự công bằng của xã hội, hạnh phúc dân lành, Huấn Cao nổi dậy chống lại triều đình. Sự nghiệp anh hùng không thành, Huấn Cao bị khép vào án tử hình. Trước cái chết cận kề, Huấn Cao không hề hối tiếc hay lo lắng, sợ hãi. Trái lại, Huấn Cao luôn tỏ rõ dũng khí hiên nganh, bất khuất. Bẻ khóa vượt ngục đã trở thành tài của Huấn Cao khiến quản ngục và thầy thơ lại thán phục. Bất cứ lời nói hành động nào của Huấn Cao dường như cũng toát lên khí phách hiên ngang, bất khuất của vị đại trượng phu. Tuy nhiên, nếu phải chọn một hành động điển hình cho khí phách ấy, nhiều người chọn hành động dỗ gông lúc nhập ngục. Đối mặt với bọn tiêu lại giữ tù, cai tù hống hách, bạo ngược, Huấn Cao không hêd khúm núm, sợ sệt như những tù nhân khác. Hành động của Huấn Cao có khác nào một cái tát khinh bỉ vào mặt bọn cai tù cặn bã. Dõi theo hành động, thái độ của Huấn Cao trong nhà giam những ngày cuối cùng, người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chẳng những Huấn Cao thản nhiên nhận rượu thịt – quà biếu của quản ngục coi đó là việc vẫn là trong hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Trước cường quyền không lùi bước, trước cái chết không chịu khuất phục, đó là khí phách anh hùng Huấn Cao. Khi thầy thơ lại ngập ngừn báo tin cho ông biết sáng sớm mai ông phải về kinh lãnh án tử hình, không một phút lo âu, không một giây sợ hãi, Huấn Cao đón nhận cái chết bằng nụ cười. Đó là nụ cười ngông ngạo của người sẵn lòng tin “giữ trinh bạch linh hồn trong bụ bẩn”. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao đúng là trang anh hùng có khí phách phi thường Nhà văn vĩ đại V.Hugo đã từng nói: “ Trước bộ óc vĩ đại ta phải cúi đầu nhưng trước trái tim vĩ đại ta phải quỳ gối”. Học theo tư tưởng của văn hòa Hugo, trước hình tượng Huấn Cao, mỗi người đọc chúng ta ắt phải cúi đầu và quỳ gối. Bởi Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài năng siê biệt, một đấng anh hùng có khí phách phi thường mà ông còn là hiện thiên của nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng vô ngần. Là một người nghệ sĩ thư pháp tài hoa tột bậc, những con chữ của Huấn Cao là một vật báu đối với bao người. Cả đời, Huấn Cao mới tặng chữ cho ba người. Không mềm lòng trước tiền bạc, quyền uy, trước sau Huấn Cao chỉ trân trọng tình tri âm, tri kỉ. Đến khi hiểu được ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao chẳng những cho chữ mà còn mỉm cười mãn nguyện. Quả thật, không hạnh phúc sao được khi giữa thế giới ngục tù, tối tăm, bẩn thỉu ta lại bắt gặp một tấm lòng trong sáng, biết trọng người ngay, biết kính mến khí phách và tài năng. Tuy sẵn lòng cho chữ quản ngục nhưng Huấn Cao vẫn day dứt “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ở trên đời này, khi mắc lỗi, hầu hết con người ta tìm cách trốn tránh và đổi lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh thế nên hành động ăn năn, hối hận là rất đáng quý chỉ có ở những nhân cách tử tế. Lại day dứt ân hận trước những sai lầm suýt mắc phải, những sai lầm chỉ mình mình biết, mình mình hay, chỉ có ở những nhân cách cao đẹp mới như vậy. Kết lại truyện “Chữ người tử tù” là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Không chỉ vậy, nó còn là bệ phóng hoàn hảo làm nổi hình nổi bật các nhân vật và nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đặc biệt ở cảnh cho chữ, ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Vậy là, bằng tài năng bà tâm huyết, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, sự hiện thân cho cái đẹp kì diệu cùng hình tượng quản ngục và cảnh cho chữ. Không chỉ “Vang bóng một thời”, mà “Chữ người tử tù” sẽ neo đạu mãi trong tâm hồn người đọc như một dấu son không bao giờ phai. Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Gợi ý 1. Giới thiệu vài nét về tác phẩm và nhân vật. – Chữ người tử tù là truyện ngắn rút từ tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). – Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về các phương diện nghệ thuật. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao. 2. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa. – Huấn Cao có tài viết chữ. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán, loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật được gọi là thư pháp. Có người viết chữ, thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã. – Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. “Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh Sơn. Ngay cả viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (…). Có được chữ của ông mà treo trong nhà là có một báu vật trên đời”. Cho nên, “sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục, mà còn phải dũng cảm. Bởi vì, biệt đãi một kẻ tử tù, là việc làm nguy hiểm, có khi phải trả bằng tính mạng của mình. 3. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp. – Trong truyện “Chữ người tử tù”, khái niệm “thiên lương” được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại, thì “thiên lương” là tấm lòng yêu quý cái tài, cái đẹp rất chân thành của họ. Với Huấn Cao, thì “thiên lương” lại là ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài của mình. – Huấn Cao có tài viết chữ, nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc, hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài. Cho nên, suốt đời, Huấn Cao chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Ông tỏ thái độ khinh bạc vì tưởng quản ngục có âm mưu đen tối gì, khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông “cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù, được tác giả gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
9,444
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 4 Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 1 Thạch Lam là một ngòi bút truyện ngắn được nhiều người yêu thích Không phải vì cốt truyện đặc biệt, vì tình tiết li kì, mà chủ yếu là do ông đã sáng tạo ra một lối truyện ngắn: loại truyện tâm tình. Sức hấp dẫn của truyện ngắn Thạch Lam là ở tâm trạng nhân vật. Có thể thấy điều đó qua tâm trạng cô bé Liên đêm đêm thức đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của ông. Vì sao đêm nào cũng vậy, Liên (và em) đều cố thức để đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện? Tâm trạng thức đợi tàu của Liên như thế nào? Muốn hiểu được điều đó phải bắt đầu từ cuộc sống của em ở cái phố huyện này. Đó là cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, tàn lụi và đáng thương nơi phố huyện trong thời khắc của một ngày tàn. Phiên chợ chiều đã vãn, phô bày tất cả cái nghèo nàn, cái tiêu điều xơ xác trong hình ảnh những đứa trẻ lom khom tìm kiếm, nhặt nhạnh trong rác rưởi, và tiếng trống thu không dội xuống phố huyện, từng tiếng, từng tiếng mòn mỏi, rời rạc, buồn thấm thìa… Rồi đêm tối bao phủ kín mít phố huyện, bủa vây những kiếp người sống lầm lũi tội nghiệp như những cái bóng: mẹ con chị Tí hàng nước, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm với manh chiếu, chiếc chậu thau sắt và đứa bé bò lê la trên rác bẩn, một bà lão điên mua rượu uống cười sằng sặc… Đến mức cái ánh lửa từ thùng phở bác Siêu chỉ hắt ra một vầng sáng con con và ngọn đèn leo lét trên chõng hàng nước chị Tí cũng “chỉ chiếu sáng một vùng leo lét trên chõng hàng nước chị Tí cũng “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” – biểu tượng về những kiếp sống nhỏ nhoi leo lét, vô nghĩa giữa đêm tối mênh mông của cuộc đời. Hình ảnh ngọn đèn con của chị Tí cứ trở đi trở lại đến bảy lần trong mấy trang truyện ngắn như một ám ảnh không thôi về cuộc sống héo hắt, tội nghiệp nơi phố huyện nghèo nàn, tăm tối. Chính giữa cảnh điêu tàn như vậy của phố huyện, Thạch Lam đã miêu tả tâm trạng khắc khoải chờ đợi chuyến tàu của Liên. Đó là cô bé đã từng có những ngày sống ở một nơi không đến nỗi nghèo khổ và tối tăm như thế. Với Liên, nơi ấy, Hà Nội luôn đọng lại một kỉ niệm xa xôi và mơ hồ nhưng bao giờ cũng êm đềm, đẹp đẽ rực rỡ ánh sáng và niềm vui. Ngày nào cũng giống hệt ngày nào, cuộc sống cứ lặp lại một cách đơn điệu, tẻ ngắt: sáng dậy mở cửa dọn hàng, bán hàng; chiều tối lại kiếm tiền, thu hàng – và đó là những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi: một bao diêm, một cuộn chỉ, mấy bánh xà phòng… Chi tiết chiếc chõng tre cũ, sắp gãy được Thạch Lam đưa vào đây thật đầy ý nghĩa: cuộc sống của hai đứa trẻ lớn lên sao mà đã sớm già nua tàn tạ! Cái thế giới mà Liên và em gái đang sống, đang tiếp cận ngày này qua ngày khác chỉ có thế. Đâu là niềm vui biết lấy gì mà kì vọng? Tâm trạng buồn chán của Liên đã dẫn đến khát vọng muốn thoát ra khỏi cuộc sống mà cô đang phải sống, dù chỉ để hi vọng vu vơ về một cái gì ở bên ngoài khác với cái thế giới ngưng đọng và tàn lụi này. Cô phải tìm đến một cuộc sống khác, dù cuộc sống ấy chỉ đi qua trong khoảnh khắc. Và cô đã tìm thấy nó trong hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện mỗi đêm. Dù buồn ngủ ríu cả mắt, cô vẫn thức đợi tàu. Để được, trong chốc lát, thoát ra khỏi cuộc sống nhàm chán, đơn điệu hiện nay. Đoàn tàu là một nhu cầu bức thiết về tinh thần của cô, vì chuyến tàu là hình ảnh một thế giới khác đi qua cuộc đời cô, một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, huyên náo và đầy ánh sáng. Trong cả một ngày dài buồn tẻ, đây là những giây phút bừng sáng và hạnh phúc của cô, dù là chỉ sống trong mơ ước tưởng tượng. Bởi vậy, khi tàu đến thì tâm hồn Liên bị cuốn hút ngay vào đoàn tàu – đoạn này được Thạch Lam miêu tả sinh động và đẹp: “Liên phắt đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đoàn tàu đã đi qua nhưng tâm hồn Liên thi vẫn gửi hút theo nó mãi cho đến khi chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đến lúc ấy, cô như sống trong mơ tưởng, trong sự tiếc nuối một cái gì đã qua nhưng dư vang của nó thì vẫn còn đọng lại rõ rệt trong tâm hồn mình: “Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Trong tâm trạng cô bé có sự tương phản rõ rệt giữa hai cuộc sống: cuộc sống đẹp đẽ của ước mơ và cuộc sống nơi phố huyện. Khắc họa thành công tâm trạng đợi tàu của bé Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Thạch Lam muốn nói với người đọc nhiều điều sâu sắc. Đó là cuộc sống buồn tẻ đáng thương của những đứa trẻ trong chế độ cũ, và suy rộng ra, là cuộc sống của những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc, cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối, nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện, và rộng ra, trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ đói nghèo. Những cuộc đời mới đáng thương sao, nhưng lại có những ước mơ bé nhỏ, tội nghiệp mà chân thành tha thiết và cảm động rất đáng trân trọng như ước mơ đợi tàu đêm đêm của cô bé Liên. Ước mơ đó đã lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tắt, đốt lên trong lòng họ ngọn lửa của lòng khao khát được sống trong cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang muốn chôn vùi họ. Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 2 Thanh Lam là một trong những cây viết truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông là thành viên của nhóm tự lực văn đoàn nhưng ông mang một nét rất riêng so với các nhà văn trong nhóm. Văn của tự lực văn đoàn thường đượm một nổi buồn lãng mạn còn văn của Thạch Lam lại chất chứa những nổi buồn hiện thực. Nó như một thứ “Hương hoàng lan”, được cất từ những nổi đời. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” (1938), tác phẩm này tiêu biểu cho phong cách của Thanh Lam. Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn. Nét phong cách này thể hiện sâu sắc ở khung cảnh phố huyện và tâm trạng đợi tàu của nhân vật Liên. Truyện ngắn của Thạch Lam là kiểu truyện ngắn trữ tình buồn hiện thực, không có cốt truyện, giàu cảm xúc, nhẹ nhàng và thấm thía như một bài thơ. Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian, cảnh phố huyện lúc chiều xuống. Cảnh phố huyện lúc về đêm. Cảnh đợi tàu và cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu khuya đi qua. Liên là một cô gái nhỏ vì cha mất việc, cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về sống ở một phố huyện nghèo…Tuy còn nhỏ mà Liên đã tỏ ra đảm đang, thay mẹ trông coi một quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống và Liên cũng rất chu đáo khi thay mẹ chăm sóc bé An. Đặc biệt Liên là một cô gái nhỏ dịu hiền, nhân hậu, đa cảm. Tâm trạng của Liên được khắc qua bốn cảnh ở phố huyện, như bốn nấc thang tâm lí: chiều muộn, đêm về, cảnh đợi tàu và chuyến tàu khuya. Bức tranh thiên nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm nhìn nhạy cảm và tinh tế của Liên. Đó là “ Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran, ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng muỗi đã bắt đầu vo ve”. Trong bức tranh ấy có sự hòa trộn giữa hai hình ảnh: hình ảnh êm đềm lãng mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khó, bần cùng. Phải chăng do cảnh chiều tàn mà gợi cho Liên nổi buồn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngạp đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy long buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.” Thật khó để phân định rành rọt nỗi buồn ngoại cảnh thấm vào tâm cảnh hay nổi buồn tâm cảnh lan tỏa ra, nhuốm vào ngoại cảnh. Ta chỉ thấy ở đây là một nổi buồn sâu sắc trong tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như Liên mới thấu hiểu nó. Liên tuy không lam lũ vất vả như những mảnh đời kia. Nhưng lại là số phận đáng thương nhất. Vì quá khứ tươi đẹp của hai chị em Liên đã thuộc về dĩ vãng. Hiện tại thì buồn tẻ, tăm tối, bế tắc. Đúng là cuộc sống phố huyện cứ đang tàn dần, lụi dần trong đói nghèo lam lũ quẩn quanh. Những tâm hồn mới lớn như chị em Liên, chứng kiến những cảnh đó không buồn sao được, nhưng nổi buồn cũng chỉ man mác đọng trong đôi mắt Liên “bóng tối ngập đầy dần” nó đang thấm dần vào tâm hôn Liên. Phố huyện như một sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi của cả người lẫn cảnh. Đó là cuộc sống cứ “mốc lên, mòn đi, mục ra, rĩ ra” không lối thoát. Nó gợi liên tưởng bởi hình ảnh “chiếc ao đời phẳng lặng”. Nhà văn không trực tiếp tả tâm trạng này của Liên, nhưng cảnh vật và cuộc sống qua cái nhìn của Liên đã khắc họa được tâm trạng đó. Sống trong hoàn cảnh như vậy, chị em Liên sao không khỏi chờ đợi một cái gì đó dù mơ hồ. Nổi buồn dường như thấm thía hơn. Nhưng không hi vọng thì làm sao sống nổi. Và chuyến tàu đêm đã thắp lên niềm hi vọng đó. Cảnh chuyến tàu khuya và tâm trạng buồn vui của Liên, trong cả chuỗi thời gian dài buồn tẻ, thì ánh sáng, tiếng còi tàu chính là niềm vui lớn của hai chị em. Hai đứa đêm nào cũng náo nức thức chờ tàu. Chúng không chờ tàu để bán hàng, đó là niềm vui tinh thần của hai chị em. Khi đoàn tàu đến Liên và An đứng cả dậy, hướng về phía con tàu, và khi nó đi rồi, “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”, con tàu đến rồi lại đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nổi buồn tiếc. Tàu đi rồi, phố huyện lại trở về với đêm tối và sự tĩnh lặng, càng nặng nề hơn. Niềm vui của hai đứa trẻ vừa lóe lên lại bị dập tắt như đám than bổng bùng lên cháy rực rồi lại lùi dần trong đêm. Nổi chờ đợi bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều xuống, đêm về và phố huyện vào khuya. Hai đứa trẻ chờ đợi từng bước đi của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp đến, tàu vuột qua, tàu đi rồi chỉ còn lại ánh đèn ghi đỏ xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đêm tối lại bao bọc phố huyện. Miêu tả khung cảnh phố huyện buồn, nghèo nàn, tẻ nhạt , bế tắc và tâm trạng của hai đứa trẻ đặc biệt là Liên một cách trực tiếp và gián tiếp. Qua hiện thực và hồi ức đan xen, miêu tả bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ, nhà văn bộc lộ niềm xót thương những kiếp người đói nghèo, cơ cực, sống quanh quẩn, bế tắc trong xã hội cũ. Từ đó tác giả như muốn lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn. Muốn nhen lên trong họ ngọn lửa khát khao được sống một cuộc sống tươi đẹp , ý nghĩa hơn. Khát khao thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã thể hiện sâu sắc cái tài và cái tâm của Thạch Lam. Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 3 Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn, thế nhưng ông lại có một lối đi riêng khiến văn chương của ông vừa tràn đầy vẻ đẹp lãng mạn mà vẫn đậm chất hiện thực. Truyện ngắn tiêu biểu Hai đứa trẻ của ông đã giúp người đọc không chỉ nhìn ra sự thực cuộc đời mà còn thấy được những giấc mơ lãng mạn của con người dù cho họ có bị bỏ rơi trong nghèo khổ. Và nhân vật trung tâm của câu chuyện đó là chị em Liên. Vũ trụ nghệ thuật của Hai đứa trẻ là vũ trụ của bóng tối. Chọn cái “giờ khắc của ngày tàn” để khởi đầu trang truyện và đặt nhân vật của mình vào lòng đêm thăm thẳm, bí mật và ngập tràn bóng tối, nhà văn đã rất “hiện thực” trong việc miêu tả kiếp sống con người. Trên cái nền kiến trúc cơ bản: sáng và tối, Thạch Lam đã triển khai cuộc sống cho các nhân vật của mình, từ đó làm bật lên những điều bi thiết mà nhà văn muốn gửi gắm. Khung cảnh Hai đứa trẻ xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối. Thế giới nhân vật hiện hình hầu hết là những cuộc đời bóng tối: đám trẻ con nhếch nhác nhặt rác ở mặt chợ, mẹ con chị Tí với một gia tài nghèo nàn thảm hại, bác Xẩm mù chỉ biết bần bật mấy tiếng đàn trên chiếc chiếu rách với cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng nằm trống trơ trước mặt, rồi bà cụ Thi hơi điên điên, bác phở Siêu gánh phở đi bán rong… Có thể nói, nhịp thở của phố huyện trong Hai đứa trẻ phập phồng một sự sống tàn lụi, khuất lấp. Nó xào xạc, u tối và hiu quạnh. Trong cái ao tù ấy, theo dòng chảy thời gian, những con người có tên lẫn không tên cứ hiện ra như những vụn đời bé nhỏ âm thầm, yên lặng nhiều hơn là cử động, nếu cử động thì khẽ khàng, sè sẽ, chầm chậm, từ từ: gượng nhẹ, cúi nhìn, lặng ngước mắt lên, gượng nhẹ ngồi, khẽ quạt… Họ nghĩ nhiều hơn nói, nếu nói thì nhỏ nhẹ, chậm rãi, bâng quơ, vẩn vơ, ơ hờ,… hỏi cho có chuyện, và đáp cũng vì thế phẳng lặng, nhạt nhẽo, rời rạc. Họ hoạt động theo một nếp sinh hoạt có phần máy móc, quán tính, dọn hàng chờ đợi rồi dẹp hàng, gánh phở ra phố rồi kĩu kịt gánh trở về. Dường như đối với họ, cuộc sống chẳng bao giờ đem lại một cơ may, vì thế họ không có những dằn vặt nội tâm, hay những giằng xé về món nợ áo cơm. Ở họ, an phận là lẽ sống. Cứ thế, họ sống lặng lẽ, bình tĩnh, nhẫn nhịn, một sự nhẫn nhịn bất đắc dĩ của kiếp người. Vì thế, mong ước của họ chỉ là nỗi khắc khoải mơ hồ, chập chờn và vu vơ. Phần lớn các nhân vật trong Hai đứa trẻ được Thạch Lam lược giản tối đa để chỉ còn lại tựa hồ như những cái bóng thầm trong một vũ trụ bóng tối rộng lớn vô cùng. Thế nhưng, trong những cái bóng nhập nhòa của đời sống phố huyện ấy lại hiện diện chỉ một tâm hồn biết sống. Tâm hồn ấy là Liên. Liên vừa hòa vào khối người trong bóng tối, vừa tách ra như một điểm nhìn đầy ý thức của ”cái tôi”. Cô bé không chịu tự đánh mất mình trong một tổng thể nhạt nhòa dễ lẫn. Mở đầu tác phẩm, người đọc bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn”. Liên một cô bé – người lớn, nghĩa là Liên không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi Liên là “chị” vì cô bé như một trái cây chín sớm trước dòng chảy nghèo khó của kiếp người. Liên đã biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng như người mẹ. Liên lại đảm đang tảo tần thay mẹ quản lý cửa hàng tạp hóa như một người lớn. Liên chính là một cô bé có tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị nhưng đã sớm bước vào đời để kiếm kế sinh nhai. Liên chính là hiện thân của một kiếp sống nghèo khổ, an phận của con người tại một phồ huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám. Thế nhưng, trong cái hun hút khuya đêm, trong bóng tối tĩnh lặng của đời mình, Liên đã nhìn vào lòng đêm mà khắc khoải nhận ra một thứ hào quang cao rộng, xa xôi hơn của kiếp người. Đôi mắt mở to của cô thiếu nữ không chịu ngủ yên. Cuộc sống diễn ra trước mắt người khác sẽ lặng lẽ như một thứ ao tù, nhưng tâm hồn tinh tế nhạy cảm của Liên đã tự thấy ở cõi lụi tàn ấy cả một sự sống xôn xao. Đằng sau dáng ngồi bất động và gương mặt ưu phiền của Liên là cả một ”cái tôi” đa cảm và trầm tư. Bên ngưỡng cửa của người lớn, Liên vừa cứ hồn nhiên vừa biết lo toan, Liên đã cảm nhận cái gì đó thật mơ mộng, bâng khuâng mà cô bé không đặt tên nỗi: “Liên không hiểu tại sao chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Cho nên người đọc không lạ gì khi đôi mắt ngập buồn của Liên có thể vừa nhận ra sự giống nhau vừa nhận ra sự khác nhau trong các loại đèn: đèn nhà bác phở Mỹ, đèn Hoa kỳ leo lắt ở nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh ở hiệu khách, đèn ma trơi của tàu,… Thế giới còm cõi, đơn điệu với cô vì thế chẳng hề vô cảm. Tiễn một ngày tàn ở phố chợ hiu quạnh, từ cái mùi âm ẩm của xác lá và rác bốc lên hơi nóng của ngày lẫn mùi cát bụi, cô cũng nhận ra ở đấy có mùi riêng của đất quê hương, ở đấy có một cái gì rất đằm thắm, rất riêng tư. Cô còn nhận ra nỗi cô đơn muốn đồng cảm níu kéo gặp gỡ của những con người ”mặc dù đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi” nhưng cứ chưa rời nhau vì cố “đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”. Để lắng nghe và cảm thức được những điều ấy, rõ ràng tâm hồn cô bé Liên phải hết sức gắn bó âu yếm với mảnh đất này, một sự gắn bó chỉ ở một tâm hồn lãng mạn mới có. Ở nhân vật Liên, chúng ta có cảm tưởng rằng, Liên cũng chỉ quẩn quanh trong cái ngõ cụt như bao kiếp phận khác. Vì có gì buồn bằng bóng tối, có gì đáng sợ hơn bóng tối, ấy thế mà giữa cái tối vây quanh hun hút, Liên không thấy buồn, nhất là “đêm tối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Thực ra, tâm cảm của Liên đã quên bóng tối, cô để cho đôi mắt của mình bắt lấy mọi thứ ánh sáng, từ vệt đom đóm bay đến ngọn đèn con của chị Tí, từ những hột lửa của đoàn tàu bắn ra đến ”hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”, nghĩa là từ mặt đất quá thiểu não, nặng nề, tâm hồn bay bổng đã lặng lẽ tách Liên ra khỏi cuộc đời tăm tối để sống những phút giây mơ ước hi vọng, dẫu đó chỉ là những giấc mơ hão huyền. Hình ảnh đoàn tàu với Liên vì thế chất chứa một vẻ đẹp của ngày qua. Ở đó, lặng theo mơ tưởng, một thế giới hoài niệm nơi ký ức sâu đằm hiện lên ngân nga một dư vị ngọt ngào. Đó là một trang cổ tích ngày xưa bỏ quên ở Bờ Hồ, nơi hai chị em đã từng ”uống cốc nước lạnh xanh đỏ thần tiên”. Quá vãng đã trào lên muôn sắc hào quang, dù không rõ rệt nhưng vẫn hấp dẫn và quyến rũ mê hồn với những nhân vật lãng mạn. Vì vậy, ta hiểu vì sao Liên là nhân vật duy nhất trong phố huyện cố thức không phải chỉ để ”may ra còn có người mua” mà chỉ muốn được nhìn chuyến tàu. Đó là hạnh phúc duy nhất trong ngày, và phải chăng còn là mơ ước cả một đời ở con người. Vì thế con tàu trong mắt Liên đồ sộ lạ lẫm và đi với tốc độ phi thường, vừa tới đã vụt qua. Và cô bé đã xốn xang như uống lấy tiếng động của nó, sắc màu của nó. Thế nhưng, như một thứ trò chơi của số phận, con tàu mà Liên ngưỡng mộ khát khao đến rồi đi, trả lại cho cuộc đời thực cái bóng đêm cố hữu như số phận. Nó chỉ là một con sóng đột nhiên dội tới mặt nước bằng phẳng từ hãm của cuộc đời. Cái còn lại sau đó là môt bầu trời đầy sao, và Liên cũng như bao con người khuất lấp khác lại tiếp tục lầm lũi cẩn thận gài then cửa, vặn nhỏ ngọn đèn, khép lại cánh cửa thường nhật để gieo mình câm lặng trong bóng tối. Nhưng ngày mai, ngày mai lại bắt đầu, và giấc mơ của Liên sẽ trở lại,… Trong mắt nhìn của Thạch Lam, nhân vật Liên là thế đấy, một nhân vật lãng mạn. Có thể nói, thiên truyện Hai đứa trẻ vừa là một bức tranh hiện thực độc đáo, vừa là một phát hiện lãng mạn đáng giá về con người. Nói như một nhà nghiên cứu, hai đứa trẻ vừa nhỏ nhoi như hạt bụi vô thường vừa là một chủ thể nhạy cảm biết nhận ra mối liên hệ với thời gian và vũ trụ, với cuộc sống và con người, luôn khát khao tự tìm kiếm lại mình trên mảnh đất đầy nỗi buồn và sự gian khó này. Chính điều này, dù chỉ với một kiếp sống mỏng manh cùng một đời văn ngắn ngủi nhưng chỉ vài trang văn ít ỏi đối thoại với đời, Thạch Lam là nhà văn gây nhiều vang vọng nhất trong sự suy tư về kiếp người. Bằng một thứ ngôn ngữ đầy ám ảnh, ngân vang chất thơ, chất nhạc, Thạch Lam đã “phản ánh” được hiện thực những cuộc đời bé nhỏ như ”những chiếc đèn con”, nhưng tất cả tình thương của ông lại tụ hội nơi quầng sáng bé nhỏ của những tâm hồn biết đi tìm cái đẹp, niềm mơ ước, mang khát vọng được chia sẻ, được sống trong hạnh phúc ấy. Và nhờ thế khiến ông là thành viên duy nhất của Tự Lực văn đoàn đã ghi tên mình vào phía vĩnh cửu. Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Bài làm 4 “Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng. “Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng dây dứt về đời sống con người. Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lại càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổi chiều êm như ru như bao chiều khác. Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”. Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương. Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chấ văn lãng mạn.Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng : “Chiều, chiều rồi” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm”, của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển. Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế. Sự tài tình chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại”. “Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”. Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp” nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của người bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi. Ánh đèn của chị Tí đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phát đã trải qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ. Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo. Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã làm nên tổng thể của cảnh vật cuộc sống. Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn. Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tuyệt vời của ông. Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí. Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi người lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên. Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống , ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảnh đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi. Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗi buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồi lại trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuyến tàu vẫn là niềm mong mỏi của chị. Có người nói “chờ đợi là một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợi lại càng khủng khiếp hơn. Với Liên điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợi tàu. Cảnh đợi tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại vẫn chung một nỗi niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là người dẫn chuyện. Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ : “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại “cuộc đời” thật nhiều sâu sắc.
Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
6,361
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn hay nhất của Tô Hoài, là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông. Truyện kể về cuộc đời Mị và A Phủ ở Hồng Ngài với những ngày đen tối và những ngày tươi sáng, đầy hi vọng. Nhân vật Mị được tập trung khắc họa với sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ vượt lên kiếp sống đầy đau khổ, tủi nhục của người dân nghèo miền núi; đề cao bản chất tốt đẹp và khẳng định sức sống bất diệt của con người. Tác phẩm nói về số phận nhân vật Mị. Nàng là cô gái trẻ trung xinh đẹp, đa tài nhưng bạc phận. Vì cha mẹ nàng thiếu nợ nhà Thống Lí Pá Tra nên bị bắt về làm vợ A Sử, con trai nhà Thống Lí. Từ đó , nàng suốt ngày lủi thủi trong nhà như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Năm ấy tết đến, nàng nghe thấy tiếng sáo ở đâu vọng lại nàng muốn đi chơi, nhưng bị chồng nàng ngăn cản không cho đi, bắt nàng phải ở nhà. Trong một lần chồng nàng là A Sử đi chơi bên Làng bên, vì chọc ghẹo con giá nên bị A Phủ đánh, sau đó A Sử bắt A Phủ bồi thường tiền thuốc men cho A Sử, A Phủ không có tiền trả nên bị A Sử bắt về làm công trừ nợ suốt đời cho nhà A Sử. Trong đêm tình mùa đông năm ấy, A Phủ bị A Sử trói ở góc nhà, Nàng đã cởi trói cho A Phủ và cả hai cùng bỏ trốn khỏi nhà Thống Lý Pá Tra. Nhân vật Mị xuất hiện với phẩm chất tốt đẹp. Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời. Cô không những chăm chỉ làm ăn mà còn yêu tự do. Cô ý thức được quyền sống của mình. Lúc nào người ta cũng thấy cô ngồi kéo sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước dưới khe suối lên. Ở Mị toát lên đức tính giàu lòng vị tha và đức hi sinh: Mị thà chết chứ không sống tủi nhục nhưng rồi mị phải chịu sống khổ nhục để không bất hiếu. Nhà Mị thiếu nợ nhà Thống Lí Pá Tra nên bố Mị đành bán nàng cho nhà đó. Ban đầu Mị trốn về còn định tự tử, nhưng nghĩ thương cho bố, Mị lại trở lại nhà thống lí, Mị trở lại để không phải thấy cảnh bố mình già yếu mà vẫn phải chịu đựng bao nhục nhã, đau khổ. Về nhà Thống Lí, Mị bị đày đọa về cả thể xác lẫn tinh thần. Mang danh là con dâu nhà Thống Lí, vợ của quan nhưng Mị lại bị đối xử như một nô lệ. “Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết làm mà thôi”. Mị ở nhà chồng mà như ở địa ngục với công việc triền miên “tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi”. Mị sống khổ nhục hơn cả súc vật, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống như một tù nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm. Trong cuộc sống tù hãm ấy, Mị vô cùng buồn tủi, uất ức. Muốn sống cũng chẳng được sống cho ra người, muốn chết cũng không xong. Dường như Mị đã quen với thân phận khốn khổ, sống như cái bóng, như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Với hoàn cảnh như thế, nhưng Mị vẫn toát lên sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. hội xuân ở Hồng Ngài, đã chứng minh điều đó. Bên trong hình ảnh “con rùa nuôi rong xó cửa vẫn đang còn một người khao khát tự do, khát khao hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người, tất cả đã đánh thức tâm hồn Mị. Mị uống rượu để quên hiên tại đau khổ. Mị nhớ về thời con gái Mị sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo được coi như là biểu tượng của tình yêu và khao khát tự do. Mị nhớ những ngày trước, “Mị uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo”. Sau đó, Mị thắp đèn ở góc nhà. Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Nhưng nào ngờ, vừa chuẩn bị đi chơi thì Mị bị A Sử bắt lại va trói. Tuy bị trói nhưng nàng vẫn tưởng tượng va hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi. “Mị đứng im như không biết mình đang bị trói”, “chỉ còn nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vào vách,…” Trong đêm cuối cùng ở nhà Pá Tra, Mị thấy A Phủ bị trói. Ban đầu Mị vẫn thản nhiên. Nhưng đêm ấy Mị thấy dòng nước mắt trên má A Phủ. Nhớ lại cảnh ngộ mình đêm mùa xuân năm trước, Mị đồng cảm thương xót. Mị trở thành con người dũng cảm trong hành động cắt dây trói cứu A Phủ. Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao giằng xé trong lòng. Nhưng rồi khát vọng trỗi dậy mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, đến với tự do. Với bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lí tinh tế Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị tuy vất vả đau khổ nhưng lại có sức sống tiềm tàng, sức mạnh vươn lên mạnh mẽ của con người từ hoàn cảnh tối tăm hướng tới ánh áng của nhân phẩm và tự do.
Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
1,004
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 1 2 Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 4 Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 1 Vợ chồng A Phủ” là truyên thành công nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài. Trong truyện này, nhân vật Mỵ có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mỵ bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình. Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là ngươi con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày ”. Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói: “Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ… Không được con ơi!”. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí. Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi: “Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gá Ta đi tìm người yêu” Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng độy nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.” Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi Em yêu người nào, em bắt pao nào” Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội. Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng “ngọn lửa bập bùng sáng lên” thật là hay! Nàng nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng “Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này”. Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng “nổi loạn” trong lòng Mị và từ tư tưởng “nổi loạn” đến hành động “nổi loạn” chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: “Đi ngay…!”. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: “Đi với tôi” và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị. Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do. Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị cũa người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự huỷ diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu. Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 2 Có những sở thích nhất thời, song cũng có những sở thích đời đời không thay đổi, có những nỗi đau thoáng qua và cũng có những vết thương hằn sâu theo năm tháng. Nếu giở những trang đời đẫm lệ của Kiều ta sẽ khóc, nếu Chí Phèo chết ta xót thương thì khi đọc Vợ chồng A phủ ta cũng cho phép tim mình rung lên theo tiếng thổn thức của Mị. Một cô gái trẻ phải chôn vùi cuộc đời thanh xuân trong nhà tên thống lí đến khi trốn khỏi Hồng Ngài, ta vẫn còn thấy được một sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong người con gái Mèo ấy! Hạt nẩy mầm ra hoa kết trái là một qui luật tự nhiên. Là con gái lớn lên lấy chồng về làm dâu nhà chồng cũng là một tự nhiên và cũng là mơ ước của họ. Thế nhưng, hạnh phúc rất nhiều song nói như người đời, ông trời lại hay ích kỉ, ông chỉ ban cho một số người hạnh phúc còn khổ đau dường như nhân loại ai cũng được hưởng. Em nhớ H.Banzac trong “Miếng da lừa” có viết “Trên đời không có gì trọn vẹn hơn sự bất hạnh” là vậy. Ngay cả hạnh phúc tưởng chừng như tầm thường dễ dàng đó cũng không mỉm cười với Mị, nó quay lưng với cô và mở cho cô trang đời cơ cực: trang đời đẫm đầy nước mắt. Chân dung Mị hiện lên đầu tác phẩm gần như là tảng đá chai sạn khô lạnh, dường như ngọn lửa tình người đã vĩnh viễn tắt ngấm trong trái tim cô. Cô cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Từ ngày bị bắt về làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí đến nay, gương mặt Mị chỉ toàn nước mắt. Gia đình Pá Tra nào có xem Mị là một con người, là một thành viên hợp pháp? Một con ở! Thậm chí một con vật. Làm việc cạnh tàu ngựa, buồng ngủ gần tàu ngựa Mị giống như con ngựa nhà thống lí. Ngày nối ngày, Mị chỉ biết “quay tơ hái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước”. Mị tồn tại đấy song chỉ là cái xác biết đi, linh hồn Mị tắt lịm từ bao giờ rồi. Song, thật sự Mị vẫn chưa chết, con người của Mị ngày xưa vẫn còn sống trong thể xác héo mòn và vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Mị là con của núi rừng sơn cước, dòng suối rừng cây đã nhen nhóm trong cô một vẻ hồn nhiên mộc mạc. Cô sống như chính cô, không giả dối, không tính toán so đo. Mị rất yêu đời. Cô đẹp, cô có tài thổi sáo và đã từng vui chơi như tất cả mọi người. Cô không có con trai khép kín dưới lòng biển sâu mà cô là cánh chim hay hót của núi rừng. Mị đã từng phản đối khi nghe tin Pá Tra đòi bắt cô về làm dâu gạt nợ. Mị bảo với bố “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Mị yêu tự do, Mị yêu cuộc sống Mị muốn là cánh hải âu không sợ biển lớn, sông dài, cô sẵn sàng trả bằng mọi giá để được tự do bên bố, bên gia đình, được yêu, được ca hát. Mị đã có ý thức hẳn hoi về cuộc sống, thế nhưng sự ngang trái cuộc đời đã chụp lên Mị màu đen tang tóc. Đối với Mị tự do là điều quí nhất. Song, đóa hoa vừa chớm nụ xuân vừa rung rung ngỡ ngàng đón cuộc đời mới – đời thiếu nữ – đã bị người ta ngắt, người ta vò nát, không thương tiếc: Mị bị A Sử bắt. Đau đớn đến tận cùng “có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc” và rồi chính sức sống mãnh liệt, chính tình yêu cuộc sống đã đưa Mị đến ý định tự tử: Thà tự hủy diệt thân xác còn hơn sống mà không được tự do, sống theo lí tưởng của mình. Những ngang trái cuộc đời không buông tha Mị, cũng như bể khổ thế gian không cho phép Kiều phải chết, nàng phải sống, sống chịu đọa đày.Và Mị không thể chết vì Mị phải sống để gánh trên vai mối nợ truyền kiếp của cha mẹ. Cha mẹ cô cả đời khổ cực còn phải sống vì con. Còn cô? Cô đã làm gì chưa? Cô không thể chết phải cam chịu làm tảng đá vô tri, làm kiếp ngựa, kiếp con rùa thui thủi xó cửa nhà giàu. Năm tiếp năm, tháng tiếp tháng, ngày lại nối ngày, Mị cam chịu tất cả! Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ còn Mị chưa bao giờ được nghỉ ngơi. Ngày giờ chồng lên chừng nào thì sức sống của cô gái ngày xưa bị tiêu hao chừng ấy. “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Sự đọa đày đã trói buộc đã biến Mị thành nô lệ gần mất hẳn sức sống Mị quên hẳn việc tử tự của những năm về trước. Đối với Mị lúc này thời gian là vô nghĩa. Mị chỉ biết làm việc mà thôi. Đáng lo thay khi con người mất dần nhận cảm về thời gian vì như thế con người đó đã chết. Họ họat động chỉ bằng bản năng còn đời sống tâm hồn đã tắt ngấm buồn vui, thời gian trôi qua thật vô nghĩa. Thế lực phong kiến và thế lực thần quyền trong nhà thống lí đã nghiến nát, đã tước đọat được cuộc đời thanh xuân, yêu, sống của Mị. Đọc phần đầu tác phẩm em không khỏi liên tưởng Mị là cô Huệ Chi trong Cửa biển của Nguyên Hồng. Song, công bằng mà nói Huệ Chi hạnh phúc hơn Mị. Nàng chỉ sống như đã chết trong một thời gian ngắn mà thôi – lúc bị ép gả cho tên tướng Nhật và nàng lại diễm phúc hơn Mị gấp bội lần. Nàng được chết, được trở về một thế giới ngát hoa vĩnh hằng với đôi tay rộng mở tình yêu của Mẹ. Còn Mị đau đớn thay khi cô phải kéo lê cuộc đời khổ ải hàng mấy năm. Nhưng rồi Chí Phèo vẫn còn được bát cháo ân tình của Thị Nở đánh thức. Mị cũng thế! Người con gái yêu đời, yêu cuộc sống như thế mà lại phải “chết” dễ dàng thế sao? Tiếng sáo vang dội từ xa, len lỏi vào tâm hồn Mị. Tiếng sáo ngân vang ấy đã mở cửa ngôi nhà tâm hồn từ lâu “im ỉm khóa” của Mị. Mị chợt nhớ – Lần đầu tiên qua bao năm nay kí ức chợt ùa về với Mị, Mị nhớ đến ngày trước “Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Và lần đầu tiên, lại cũng là lần đầu ý định tự tử lại đến và Mị ước “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Khi con người ta muốn chết, hơn lúc nào hết lúc đó người ta tha thiết yêu cuộc sống và chính vì không được cuộc sống đáp ứng nên họ rơi vào sự thất vọng và tìm đến cái chết. Sức sống của Mị không bị hủy diệt mà tiềm ẩn và hôm nay như có một luồng gió mới thổi vào nó có dịp trỗi dậy. Mị đang thả hồn theo tiếng sáo như lần theo sợi dây quá khứ để tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Và bất giác “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng”. Mị muốn đi chơi, Mị “ngồi xuống giường trông ra cái ô cửa sổ mờ mờ trăng trắng”. Còn ô cửa sổ nhỏ? Ô cửa sổ trong tác phẩm này là một không gian nghệ thuật, nơi ấy Mị nhớ về quá khứ, về thuở con gái. Không gian mờ đục đó hôm nay, Mị mới nhận thức được. Bấy lâu nay Mị nào có quan tâm. Không gian âm u có phải chăng là đời Mị? Một cuộc đời trong màn sương không lối thoát, Mị có phải chăng là con mồi mãi sa vào lưới nhện? Hôm nay, tiếng sáo luồn qua khung cửa đã làm cho Mị nhớ về quá khứ, một thời son trẻ được tái hiện qua lớp “mờ mờ trăng trắng” ấy. Con người thực tế trong Mị đã sống dậy thay thế cho con người vô thức. Thế mà, mãi mãi bất hạnh cứ không thôi bám riết lấy Mị. Hai lần vươn tay đến hạnh phúc, hai lần sức sống trở về là hai lần A Sử đã lấy đi mất, đã dang tay đẩy Mị trở về số kiếp con rùa, con ngựa. A Sử trói Mị tàn ác như thời trung cổ, nhưng Mị bất chấp tất cả, Mị không sợ, Mị đang sống với hạnh phúc kỉ niệm, đang thả trôi mình theo tiếng sáo. Thế nhưng sự tàn ác luôn không cho Mị hưởng hạnh phúc dầu một thời gian ngắn ngủi thôi. Mị trở về kiếp lùi lũi như con rùa con ngựa. Cuối cùng sức sống ấy đã trỗi dậy hơn lúc nào hết, nó mãnh liệt bội phần. Lần Mị cởi trói cho A Phủ. Thoạt tiên lúc thấy A Phủ, Mị nhìn. Một cái nhìn hờ hững không xúc động, không lạ lùng. Cảnh nhà này trói người là chuyện thường. Nhưng đến một đêm, như bao đêm nào Mị cũng thức dậy và vẫn “thản nhiên thổi lửa hơ tay”. ánh lửa “bập bùng sáng lên” chính ánh lửa ấy đã buộc Mị “lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Và cũng như tiếng sáo, dòng nước mắt đau khổ của một con người đau khổ đã lôi tuột Mị trở về quá khứ khổ đau ngày nào. Nhìn A Phủ đứng đấy như một xác chết, bất giác Mị lại nhớ đến mình “Trông người lại ngẫm đến ta” là vậy, Mị nhớ đến hôm ấy mình cũng đã chịu trói như thế và nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ… không ai biết, ai hay. Nhìn A Phủ Mị thương mình quá! Sao đời mình lại khổ đến thế! Và từ thương bản thân Mị nghĩ đến người, nghĩ đến người đàn bà đã bị chết trói, nghĩ đến A Phủ Mị căm giận lũ người vô lương. Cái thương, cái căm giận, cái phẫn nộ ấy khác nào như nguồn hơi bơm vào một quả bóng đã căng và căng đến mức phải nổ tung, chính những điều đó đã làm Mị quan tâm đến A Phủ, một con người khổ sở chỉ vì đánh mất một con bò mà phải đem mạng mình đánh đổi. Không! Mị nhủ A Phủ không lí do gì phải chết. Và Mị đã hành động: “Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại, Mị rút dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi không biết mê hay tỉnh”. Mị hành động không hề tính toán. Thật vậy sau khi cởi trói cho A Phủ “Mị cũng hốt hoảng” Mị hành động chỉ vì thương và ý định trả thù… Mị không muốn một cái chết lại xảy ra, một tội ác nữa lặp lại, dù sao Mị cũng là một con người, Mị có trái tim nhân hậu của một con người. Và hành động đó là sự phản kháng của sức sống ngày xưa. Có người cho rằng đây là một hành động tự phát vô ý thức. Song theo em vẫn có thể hiểu đây là một hành động xuất phát từ một quá trình vận động tâm lí có ý thức. Có thể xảy ra lắm chứ! Nhưng cái quan trọng ở đây là kết quả một sức sống tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Mị cởi trói cho A Phủ là đã tự tay giật bỏ vòng xiềng xích cho mình. Và hành động tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn “rười rượi” từ cách uống rượu từng bát như uống cay đắng tủi nhục của cuộc đời… Và dĩ nhiên, nó trực tiếp hơn nhờ vào tiếng sáo gọi bạn, tiếng sáo đã làm cho lòng Mị bùng lên một ngọn lửa vốn dĩ đã dập tắp từ lâu. Giữa màn đêm u tối, Mị lao theo A Phủ, Mị lao vào bóng đêm để xé tọac bóng đêm đến với ánh sáng của tự do và hạnh phúc. Mị chạy theo A Phủ chạy trốn để tìm một vùng đất mới, để sống với hạnh phúc, được làm con người. Mặc dù giữa Mị và A Phủ chưa hề có khái niệm tình yêu, thứ tình yêu trai gái nhưng ở họ có một thứ tình khác: tình người, người cùng đau khổ. Và họ đã biết rằng phải dựa vào nhau để sống. Chỉ có một con đường sống, duy nhất và con người thực của cô gái Mèo ấy đã thắng, cô lao đi quên tất cả, quên thế lực quên sự trả thù của cha con thống lí, quên đi con ma thần quyền chi phối, trói buộc cụôc đời cô. Đối với cô bây giờ tự do là trên hết. Cô lao đi, đi đến phía trước dù cô chưa định hình rõ nhưng đấy là đường sống. Khác với chị Dậu trong Tắt đèn Chị Dậu lao ra đêm đen, và bóng tối như muốn nuốt chửng chị ấy, chị mò mẫm trong vùng tối ấy. Chị không có con đường sáng để đi. Chị lao ra chỉ đơn thuần là tránh nạn, chị lao ra để mà lao ra song không lối thoát: Chị Dậu không thể tự giải phóng nổi mình “Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị”. Còn Mị, Mị lao ra để cùng đi với A Phủ đến một miền đất sống. Kết thúc đoạn trích là cảnh A Phủ dìu Mị lao xuống dốc. Có lẽ tác phẩm dừng ở đây thì em chắc hẳn người đọc ai cũng sẽ tin chắc rằng A Phủ và Mị sẽ được sống yên lành và hạnh phúc. Bởi lẽ với sức sống mãnh liệt với niềm yêu cuộc sống đến thế thì không thể nào họ (mà đặc biệt là Mị) lại có thể không tìm được cuộc sống đích thực như í muốn. Và không những chỉ có Mị mà bất kì một ai khác đều yêu tin vào cuộc sống thì sớm hay muộn trái ngọt hạnh phúc cũng đến với tay họ, dù hôm nay đang chịu nhiều đau khổ, nhọc nhằn. “Hạnh phúc là một sự đợi chờ” (J.Rútxô). Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 3 “Vợ chồng A Phủ”, “Miền Tây”, “Vừa A Dính”… là những tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ Quốc ta. Tô Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi”. Tại truyện “Tây Bắc” là một nét son chói lọi trong sự nghiệp văn chương của Tô Hoài viết về đề tại miền Tây. Một chuyến đi dài, theo bộ đội vào giải phóng vùng Tây Bắc, ông đã sáng tác thành công tập truyện ngắn “ Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện “Vợ chồng A Phủ”. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để dành lấy hòa bình và hạnh phúc. Những trang viết về Mị – một trong hai nhân vật chính của chuyện vô cùng cảm động. Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời nhưng cô đã có một sức sống tiềm tàng kì lạ! Mị là một cô gái trẻ đẹp, duyên dáng, thổi sáo hay, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào bố Mị cũng phải trả lại một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Món nợ truyền kiếp bố Mị vay của thống lí Pá Tra như một oan trái cuộc đời. Mị đã bị A Sử – con trai của thống lí bắt về cùng trình mà. Mị đã trở thành dâu gạt nợ. Đau xót quá! “Chao ôi, thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không thể nào làm khác được rồi!”. Tiếng than của bố Mị nói lên một sự thật cay đắng: Mị là con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra, điều đó như một định mệnh bi thảm. Những năm đằng đẵng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con vật. Phải làm quần quật quanh năm suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, gặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp, lúc hái củi bùng ngô, lúc nào Mị cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí Pá Tra. Khổ cực quá chứng: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì làm việc cả ngày cả đêm”. Tuổi trẻ, sắc đẹp của Mị bị vùi dập, cô như một đóa hoa trong rừng chóng héo tàn. Lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Buồng của Mị như một cái chuồng nhốt thú kín mít, lúc nào cũng tối om, chỉ có một cửa sổ to bằng lòng bàn tay, “lúc nào nhìn ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.” Đau khổ quá, Mị nghĩ rằng: “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như một linh hồn đã chết. Cứ tưởng rằng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô đã cố vùng vẫy thoát khỏi cái dây oan nghiệt của cuộc đời. Hàng mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về nhà, tròng mắt đỏ hoe. Gặp bố “Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất nức nở”. Lần đầu tiên, Mị phản kháng số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị đi, ai sẽ làm nương ngô trả nợ cho thống lí khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”. Thương bố, “Mị không đành lòng chết”, Mị ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống lí”, cam chịu kiếp trâu ngựa, sống lùi lũi như con rùa nuôi xó cửa. Biết bao mùa xuân trôi qua, biết bao nước mắt đã chả xuống, cũng như những người đàn bà trong nhà thống lí “một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”… Mị thấy mình là con trâu, con ngựa, “chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng. Một bất ngờ khác đến với người đọc. Lần thứ hai Mị vùng dậy, Mị “lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát” rồi say “lịm mặt”, ngồi xem mọi người nhảy đồng rồi hát, “trong lòng Mị đang sống về những ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà chẳng uống rượu, hẳn Mị cũng vậy. Nhưng cách “uống ực từng bát” thì quả là bất thường. Mị uống cho quên hết mọi khổ đau? Mị uống cho hả giận, Mị uống để thức tỉnh lòng mình sống lại những ngày xuân, sống lại với quá khứ thời con gái. Nếu như những năm qua, bếp lửa và ngọn lửa đã sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguội đi, vợi đi bao đau nhục cuộc đời thì giờ đây, tiếng sáo, tiếng háy của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã thức dậy trong lòng Mị bao khát khao: “Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi…” Mị đã tự ý thức về mình. Mị thấy lòng phơi phới, vui sướng như thời con gái bước vào những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình “trẻ lắm..vẫn còn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn, Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác có chồng vẫn đi chơi. Thật vô lí hơn nữa khi Mị thấy mình với A Sử “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Mị khóc, Mị thương mình đau khổ. Mị ghê tởm A Sử “còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay. Một sức sống tiềm tàng trong lòng Mị như một ngọn lửa cháy âm ỉ. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mở bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi xuân. Hành động của Mị diễn ra trước mắt A Sử như thách thức. Không thèm trả lời khi hắn hỏi: “Mày muốn đi chơi xuân à?”. Sự vùng dậy này phải trả giá. Thằng con trai của thống lí đã vô cùng tàn nhẫn, trói đứng Mị trong căn buồng tối bằng một sợi đay và quấn cả tóc Mị lên cột làm Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Nhưng sức sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng, “dây trói thít lại đau nhức”, lúc mê, lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm trí Mị chập chờn, “có lúc vùng bước đi”, nhưng bị trói lại, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ, Mị thổn thức nghĩ “mình không bằng con ngựa”. Chúng ta đã từng đọc truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”. Co gái Thái bị ép duyên đau khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bằng con bọ ngựa – Bằng con chẫu chuộc thôi…”. Nỗi cay đắng của Mị còn gấp trăm nghìn lần như thế. Được cởi trói do một sự tình cờ, cô phải vào rừng hái lá thuốc, suốt đêm ngồi xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá, Mị gục đầu thiếp đi lại bị tên khốn nạn “đạp chân vào mặt”. Tô Hoài đã ghi lại một cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn e chề! Mị vẫn chưa gục ngã trước số phận! Lần thứ ba, Mị lại vùng dây. Hình như số phận của Mị đã gắn liền với số phận của A Phủ như một tiền định. Một bên là con dâu gạt nợ, bên kia là kẻ tội phạm đánh con của quan. Cả hai đều là trâu ngựa cho nhà thống lí Pá Tra. Mị đã bị A Sử trói đứng, A Phủ vì để hổ bắt mất bò mà bị trói vào cột bằng dây mây, “quấn từ chân lên vai, chỉ có cổ và đầu là nhúc nhích được”. Làm sao để bắt được con hổ? A Phủ nhất định phải thế mạng. Suốt mấy ngày đêm bị trói, A Phủ “chỉ đứng nhắm mắt”, má A Phủ xám lại. A Phủ sắp chết. Giữa đêm khuya, từ bên kia bếp lửa nhìn sang, Mị thấy những giọt nước mắt lăn dài trên má A Phủ mà xót xa, động lòng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí “Chúng nó thật độc ác… Người kia việc gì phải chết…” Mị không còn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao cắt lúa, cắt dây mây cởi trói và cứu A Phủ. Như một lời khích lệ “Đi ngay!” Cô đã chạy theo A Phủ và nói “A Phủ cho tôi đi… ở đây thì chết mất!”. Lương âm thức tỉnh, Mị đã cứu A Phủ và cũng là tự cứu chính mình. Thật là dữ dội khủng khiếp, tình huống truyện đã tạo nên tính bi kịch cho những số phận. Bao nhiêu máu, nước mắt, Mị mới dành được tự do. Mị thương người, tự thương mình. Khát vọng về tự do, hạnh phúc là nguồn sức mạnh để Mị vùng dậy. Trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ nên vợ chồng, họ trở thành du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và vùng A Phủ chạy trốn là đỉnh điểm của sự vùng dậy của Mị là thể hiện sức sống tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Khát vọng về tự do, quyền được sống, được hạnh phúc đã cho Mị sức mạnh để vùng dậy. Sức sống tiềm tàng của Mị đã khẳng định một chân lí: Bạo lực không đè bẹp được khát vọng tự do! Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong những sắc thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài đã làm cho truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình yêu, hạnh phúc và tự do. Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài – Bài làm 4 Trong truyền thống nhân đạo, văn học Việt Nam ta đã xây dựng thành công nhiều hình tượng đẹp về người phụ nữ. Đó là những người mẹ, người chị, người em cần cù, tần tảo, giàu tình thương, giàu đức hi sinh, luôn lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn đáng quý dẫu bị hoàn cảnh dập vùi. Nhắc tới điều ấy, khó thể quên nhân vật Mị trong chồng A Phủ của Tô Hoài. Đúng như nhiều nhà phê bình đã nhận xét, hình tượng Mị là điểm sáng, là thành công nổi bật nhất của Tô Hoài khi viết Vợ chồng A Phủ. Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng niêm đồng cảm sâu sắc trước cuộc đời người phụ nữ lao động miền núi Tây Bắc và ngòi bút nghệ thuật tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng Mị thành hình tượng điển hình cho một thế hệ phụ nữ Tây Bắc đang từ thân phận nô lệ tăm tối vươn ra ánh sáng tự do với sức sống tiềm tàng. Bước vào tác phẩm, người đọc bắt gặp ngay hình ảnh Mị. Cô đang ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa nhà thống lí. Dường như sự xuất hiện của Mị thường gắn với cái không gian chật hẹp, bẩn thỉu này. Lúc nào cũng vậy, dù đang làm công việc gì, cô gái ấy cũng “cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí thường thắc mắc: tại sao nhà thống lí lắm tiền nhiều của, lúc nào cũng tấp nập người mà lại có cô con gái buồn đến như vậy. Nhưng hỏi ra người ta mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra mà là vợ A Sử, con trai thống lí. Tô Hoài đã mở đầu truyện bằng một hình ảnh gợi ngạc nhiên, tô đậm ấn tượng vào lòng người đọc để từ đó quay lại kể về lai lịch Mị. Sinh ra trên đời, Mị đâu đã khổ. Tuổi thiếu nữ, cô từng được sống những tháng năm hạnh phúc, dù trong đói nghèo. Mị xinh đẹp, hát hay, có tài thổi sáo từng được bao trai bản mê. Nhiều đêm mùa xuân, con trai đến thổi sáo “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”". Một cô gái như thế, lẽ ra xứng đáng hưởng cuộc đời hạnh phúc. Nhưng Mị lại sinh ra trong một nhà nghèo và trăm sự cũng bới cái nghèo, bởi bọn thống trị tham lam và độc ác. Vì món nợ truyền kiếp, vì tục cướp vợ của người H’ Mông mà cô gái tự do, trong trắng ấy bỗng chốc bị biến thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Thời gian đầu bị bắt về nhà thống lí, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô thấm thía nỗi đau của một cuộc đời tự do bị tước đoạt. Đã có lần, Mị toan tìm đến cái chết để giải thoát. Nhưng rồi vì lòng thương bố mà Mị không đành chết. Cô vứt nắm lá ngón, lẳng lặng quay lại nhà thống lí chẳng khác gì trở về chốn địa ngục trần gian. Từ đó, Mị âm thầm chấp nhận thân phận nô lệ. Cô không còn biết khóc, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Suốt ngày, Mị quần quật hết việc này sang việc khác, tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa nhà thống lí. Cô giam mình trong căn buồng tối kín mít, có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay, trông ra chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Dường như Mị đã mất ý niệm về thời gian, về tuổi trẻ. Cuộc đời đối với Mị lúc bấy giờ chỉ là một đêm dài thăm thẳm mà thôi. Ngày trước, Thúy Kiều của Nguyễn Du đã vì chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Giờ đây, cô Mị của Tô Hoài có khác gì đâu, cô đành quên đi tuổi trẻ, đánh đổi tự do mà trả món nợ cho nhà giàu. Tưởng chừng ở lâu trong cái khổ, Mị đã hoàn toàn chai lì, mê mụ đi. Vậy mà không. Tận chiều sâu tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy vẫn âm thầm niềm khát khao hạnh phúc, khát khao được thay đổi. Khát khao này cứ âm ỉ tựa đốm than hồng bị vùi nén để khi gặp được ngọn gió lành sẽ bùng lên thành ngọn lửa. Ngọn gió lành đau tiên khơi dậy sức sống tiềm tàng trong Mị chính là tiếng sáo gọi bạn tình vào một đêm mùa xuân. Mùa xuân đã đem đến cho thiên nhiên và lòng người ở các bản Mèo một sức sống mới rộn rực. “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”, cô ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Vậy là tiếng sáo gọi bạn tình bắt đầu thức dậy nơi Mị hoài niệm về tuổi trẻ hạnh phúc. Ngòi bút Tô Hoài như cũng bắt đầu hồi hộp dõi theo các bước diễn biến tâm trạng và hành động của có gái để diễn tả thật tinh tế. Lúc bấy giờ, cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Mọi người đang nhảy múa, đánh chiêng ầm ĩ và uống rượu bên bếp lửa. Nhìn người ta như thế, Mị nghĩ: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu”. Cô lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Đã là con người, ai cũng có quyền uống đôi ba chén rượu ngày Tết. Mị cũng uống để chứng tỏ rằng mình đang là một con người. Mị uống thế như cho bõ tức, bõ hờn bấy lâu nay. Hành động uống rượu này của Mị chính là thể hiện của ý thức làm người, ý thức về quyển bình đẳng. Nó là gì nếu không phải là chứng tỏ của một sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy ? Uống rượu đến say, lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy múa nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Cũng những đêm mùa xuân như thế này. Mị được thổi sáo, được đi chơi. “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Cô uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Đột nhiên, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như những đêm Tết ngày trước. “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Lời văn Tô Hoài cũng chộn rộn, náo nức cùng cõi lòng cô gái ở thời điểm ấy. Chợt nghĩ lại thân phận bất hạnh của mình lúc này, một lần nữa Mị lại muốn chết: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau ! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường…”. Lần muốn chết trước là ý định giải thoát đầy uất ức. Lần muốn chết này cũng thế nhưng là kết quả của sự nhận thức đầy đủ hơn về cảnh ngộ éo le của mình. Tiếp đó, Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Cô cứ nghĩ, cứ làm như không có A Sử đang gần đấy. “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Từ âm thanh bên ngoài vọng đến, tiếng sáo giờ đây đã nhập vào hồn Mị, cứ ám ảnh, chập chờn như vẳng lên từ lòng cô. Bấy lâu nay, Mị có bận tâm gì tới bóng tối hay ánh sáng xung quanh mình đâu. Nhưng có lẽ giờ đây cô không còn chịu nổi cái bóng tối đang vây bọc lấy mình nữa. Thắp sáng thêm đĩa đèn hay là Mị đang muốn thắp sáng lại cả cuộc đời mình ?! Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi. Chính cái lúc sự phản kháng trong Mị trỗi dậy đến độ cao nhất thì bị phũ phàng chặn đứng. A Sử đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Mái tóc dài của Mị bị quấn lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Thế nhưng, thật là kì lạ, ngay trong lúc bị hành hạ như thế, sức sống tiềm tàng ở Mị vẫn không lụi tắt. “Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Có khi, Mị như không biết mình đang bị trói, định vùng bước đi. Nhưng sợi dây trói nghiệt ngã lại kéo Mị về với thực tại. Cô thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”, cả đêm ấy, Mị nửa sống với hiện tại, nửa sống về ngày trước. “Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ”. Cái sức sống tiềm tàng đã một lần trỗi dậy thì không thế lực nào dập tắt nổi. Nó cứ âm thầm tồn tại để rồi bùng lên mạnh mẽ hơn vào một đêm năm sau. Ấy là một đêm mùa đong giá lạnh trên vùng núi cao, Mị không ngủ được, trở dậy đốt bếp lửa sưởi. Đã mấy đêm nay như thế rồi. Mỗi khi ngọn lửa bùng lên. Mị nhìn sang, thấy mắt A Phủ vẫn mở trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Chuyện A Phủ bị trói nào có lạ lùng gì đối với Mị. Mặt khác, A Phủ sống hay chết thì có liên quan gì tới Mị đâu. Nhưng lần này? Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Một người như A Phủ đâu dễ khóc. Có lẽ đến lúc này, anh nhận ra mình sắp đi đến cái chết oan ức rồi đây. Từ đây, Mị mới bắt đầu nghĩ. Cô chợt nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị trói đứng vào cột như thế này, cũng dòng nước mắt tủi hờn chảy xuống miệng, xuống cổ không sao lau đi được. Rất tự nhiên, Mị nghĩ đến cái chết và cô so sánh hai cái chết: Ta là thân đàn bà, đã trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Còn người kia, việc gì mà phải chết oan ức đến như vậy. Chính từ so sánh này, Mị mới phảng phất nghĩ đến chuyện chết thay cho A Phủ. Nghĩ đến cảnh mình lại bị trói thay vào đấy, phải chết trên cái cọc ấy, Mị không khỏi cảm thấy lo sợ. Vậy là nước mắt đã gợi nhớ nước mắt. Dòng nước mắt nơi A Phủ bỗng thức dậy niềm đồng cảm, lòng yêu thương ớ người phụ nữ từng chịu nhiều đắng cay, bất hạnh này. Và tình thương đã chiến thắng nỗi sợ trong phút chốc. Mị đi đến một hành động thật táo bạo: cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ. Trong khi làm việc ấy và đến khi cắt đứt sợi dây trói, cuối cùng trên người A Phủ, Mị chỉ nghĩ tới chuyện chết thay chứ đâu đã định cùng chạy thoát khỏi nhà thống lí. Nhưng khi đứng lặng trong bóng tối nhìn theo A Phủ vừa chạy, vừa lăn xuống dốc để rời xa chỗ chết thì Mị lại không muốn chết nữa. Cô vùng chạy theo A Phủ. “Ở đây thì chết mất” – câu nói và hành động này của Mị chứng tỏ lòng ham sống trỗi dậy thật tự nhiên trong người con gái tiềm tàng khả năng phản kháng. Giải thoát cho A Phủ, đồng thời Mị cũng tự giải thoát cho chính mình. Lí giải hành động quyết liệt này của Mị, trước tiên ấy là niềm đồng cảm sâu sắc giữa hai thân phận. Nếu như Mị là con dâu gạt nợ thì A Phủ là đứa ở trừ nợ. Cả hai đều phải đem tuổi trẻ, tự do của mình mà trả món nợ cho nhà giàu. Nếu như Mị tùng bị trói đứng vào cột, dòng nước mắt tủi hờn chảy xuống miệng, xuống cổ không sao lau đi được thì giờ đây A Phủ cũng giống y như thế. Nhưng niềm đồng cảm là điều kiện cần chứ chưa thể là điều kiện đủ. Để đi đến hành động táo bạo ấy còn bởi trong Mị luôn tiềm tàng một sức sống. Rõ ràng không phải bất cứ người phụ nữ nào ở vào hoàn cảnh như Mị cũng đều hành động được như cô (Cũng như không phải bất cứ người phụ nữ nào cũng có thể đánh ngã cai lệ và người nhà lí trưởng trong hoàn cảnh “tức nước vỡ bờ” như chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố), ở đây, Tô Hoài đã miêu tả nhân vật đúng với lô gíc vận động nội tại của tính cách, với sự phát triển tự thân chứ không hề bắt ép gượng gạo. Tưởng chừng bột phát, bất ngờ song các hành động của Mị lại rất tự nhiên, hợp lí. Khi đi vào thể hiện cảnh ngộ bất hạnh cùng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ, tác phẩm văn học có điều kiện đê đạt tới chiều sâu nhân đạo, để khơi gợi niềm đồng cảm thiết tha ớ bạn đọc. Với nhân vật Mị. Tô Hoài đã làm được điều ấy. Vợ chồng A Phủ đã xây dựng thành công một hình tượng người phụ nữ Tây Bắc với vẻ phong phú, đa dạng. Một cô Mị xinh đẹp, hồn nhiên là thế mà có những lần toan tìm đến cái chết để giải thoát. Một cô Mị dặn lòng chấp nhận kiếp sống nô lệ, tưởng chừng chai lì, mê mụ đi trong cái khổ mà tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Cô Mị ấy đã vùng lên cắt đứt sợi dây trói của cường quyển, thần quyền để đi tới tự do. Thành công của hình tượng này chứng tỏ sự am hiểu, niềm đồng cảm sâu sắc của Tô Hoài đối với người phụ nữ lao động miền núi Tây Bắc, chứng tỏ khả năng nắm bắt và diễn tả tài tình quá trình tâm lí phức tạp, tinh tế của cây bút văn xuôi vào loại hàng đầu trong văn học Việt Nam hiện đại.
Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
8,478
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 4 5 Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Dàn ý Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 Nguyễn Trung Thành tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, bút danh Nguyên Ngọc, sinh năm 1932 ở tỉnh Quảng Nam. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhà văn chủ yếu sống ở Tây Nguyên. Cũng chính vì thế văn Nguyên Ngọc mang đậm âm hưởng sử thi của núi rừng Tây Nguyên. Ở đó, chất thơ hòa quyện với nét hoành tráng, hùng vĩ của núi rừng, của những con người bất khuất, kiên trung với quê hương đất nước. Cũng tuôn theo mạch cảm xúc ấy là “Rừng xà nu” – một truyện ngắn xuất sắc về đề tài chiến tranh chống Mĩ. Bởi đây là tác phẩm kết tinh vẻ đẹp truyền thống của Tây Nguyên anh hùng. Cuộc đời và số phận của anh tiêu biểu cho sức sống của người Tây Nguyên anh hùng đứng lên từ máu lửa dành quyền sống cho mình. Theo cách miêu tả của nhà văn, lúc còn nhỏ Tnú là một cậu bé có phẩm chất anh hùng, tức là không có chuyện đánh quay, thả diều, bắt dế. Tnú không giống một tuổi thơ bình thường mà sống tuổi thơ phi thường. Tuổi thơ đầy ắp những chiến công, kì tích biểu hiện trước hết đó là Tnú và Mai từng nuôi giấu cán bộ cách mạng. Đó là con đường máu lửa đầy hi sinh mất mát. Địch khủng bố dã man những người tham gia nuôi giấu cán bộ. A Sút đã bị chúng treo cổ ở cây vả đầu làng, lớp thanh niên bị lộ, người già lại phải thai họ trên con đường ấy. Bà Nhan lần này bị chúng chặt đầu, cột tóc treo trên đầu súng. Đó là hành vi man dợ của kẻ thù nhưng không khuất phục được tinh thần, ý chí của dân làng Xô Man. Tnú và Mai vẫn quyết đi trên con đường mà dân làng anh đã đi. Điều đó thể hiện trong cầu trả lời của Tnú với anh Quyết: “Cụ Mết bảo Đảng còn thì núi nước này còn”. Mặc dù Tnú mới chỉ nhắc lại lời của cụ Mết nhưng qua đó ta thấy được sự lựa chọn con đường anh đã đi qua giữa một bên là số phận cá nhân với một bên là vận mệnh của dân tộc, của Đảng. Tnú đã quên cái riêng của mình để sống cho cái chung ấy. Như vậy, ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ ra là một cậu bé gan góc, quả cảm, sớm bộc lộ lý tưởng yêu nước. Người anh hùng nhỏ tuổi Tnú không sống một cuộc đời bình thường vì ngay từ việc bình thường nhất như học chữ Tnú cũng học một cách phi thường để trừng trị tính hay quên, Tnú đã lấy đá đập vào đầu đến mức máu chảy ròng ròng – một chi tiết rất Nguyễn Trung Thành. Ông đẩy cái bình thường lên cái phi thường để diễn tả vẻ đẹp cao cả của con người anh hùng chủ nghĩa Việt Nam trong những năm chống Mĩ. Vẻ đẹp anh hùng của Tnú được thể hiện ở chi tiết Tnú đi liên lạc, tiếp tế cho cán bộ cách mạng, chữ Tnú hay quên “nhưng đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng”. Bị giặc phục kích, Tnú “xé rừng mà đi”, không thích “lội nước êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang…cưỡi lên thác băng băng như con cá kình.” Tnú chưa bao giờ làm xấu hổ người làng Xô Man, không may bị địch bắt, chúng tra tấn hỏi anh “cộng sản ở đâu?”. Tnú kiêu hãnh ấp tay vào trong bụng trả lời “ở đây này”. Đó chính là phẩm chất của người anh hùng “uy vũ bất năng khuất”. Càng lớn, Tnú càng mang vẻ đẹp truyền thống của con người Tây Nguyên anh hùng. Anh cường tráng như một thân cây xà nu lớn nồng căng sự sống với hai cánh tay khỏe chắc như lim. Chảy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của xứ sở Tây Nguyên truyền lại từ thời Đăm Săn, Xinh Nhã chứa đầy trong bộ ngực rộng rãi của anh là sức mạnh mênh mông man dại của đại ngàn. Tnú thừa gan bướng bỉnh, thừa sự kiêu hãnh và giàu lòng tự trọng. Dưới ngòi bút của nhà văn Tnú lúc trưởng thành mang dáng dấp của những chàng trai anh hùng trong sử thi, huyền thoại ở Tây Nguyên. Anh đã trở thành chỉ huy đội du kích khiến cho bọn thằng Dục lồng lộn, gầm thét “con cọp đó mà không giết sớm, nó làm loạn núi rừng này rồi”. Tnú đã trở thành nỗi lo sợ ám ảnh của bọn giặc. Nhà văn mô tả câu chuyện tình đượm màu bi tráng của Tnú và Mai. Tình yêu của họ đẹp như ánh trăng rằm rọi trên đỉnh núi Ngọc Linh và họ vừa sinh một đứa con trao hứa hẹn một tương lai hạnh phúc tốt đẹp. Nhưng kẻ thù đã phá vỡ tất cả. Chúng bắt mẹ con Mai với một triết lí “bắt con cọp cái cọp con tất cọp đực sẽ ra”. Chúng tra tấn dã man mẹ con Mai. Tnú nấp sau cây và nghiến răng đau xót bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay, đôi mắt anh như hai cục lửa lớn – căm thù đốt cháy trong hai con mắt của Tnú. Tnú không ra nhưng trước cảnh mẹ con Mai bị tra tấn tàn bạo, tình cảm của một người chồng, người cha chứng kiến vợ con mình bị tra tấn sắp chết Tnú đã xô ngã tên giặc ôm lấy mẹ con Mai. Mặc dù ở Tnú hội tụ rất nhiều nguồn sức mạnh nhưng anh vẫn không cứu được vợ con, còn bản thân thì bị giặc bắt. Chúng dùng nhựa xà nu tẩm vào dẻ quấn vào mười đầu ngón tay của Tnú châm lửa đốt: “Một ngón tay Tnú bốc cháy, hai ngón tay, ba ngón tay, không gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh mười đầu ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc”. Đây là một hình ảnh đầy sáng tạo không dễ sinh ra lần hai trong một đời văn. Hình ảnh bàn tay Tnú bốc cháy nó tố cáo tội ác dã man của quân giặc chúng thâm hiểm độc ác đã dùng vật gắn bó quen thuộc để đốt tay Tnú. Nhưng đồng thời hình ảnh này cũng cho người đọc thấy được lòng dũng cảm can trường của Tnú đối với cách mạng. Lửa có thể cháy trên mười đầu ngón tay nhưng không thể thiêu cháy được ý chí căm thù của Tnú. Tnú nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng, máu mặn chát ở đầu lưỡi nhưng anh không hề kêu van bởi “người cộng sản không thèm kêu van”. Đến khi anh thét lên một tiếng dữ dội “Giết” thì cũng là lúc nhà rưng rào rào chuyển động xen lẫn tiếng hô của cụ Miết “chém, chém hết”. Tnú được dân làng cứu thoát còn vợ con anh thì đã chết. Từ đây bật ra ý nghĩa triết học thâm trầm khi Tnú chỉ có một mình tay không, thì ngay cả thứ nhựa xà nu thân thiết cũng trở thành ngọn lửa hủy diệt “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”. Đời Tnú là một bằng chứng cho quy luật nghiệt ngã ấy. Ở nhân vật Tnú, nhà văn còn gửi gắm bao ý tưởng sâu xa ở hình tượng bàn tay Tnú. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá được tác giả chú ý tô đậm. Nhìn vào bàn tay của một con người, ta có thể đoán được số phận con người ấy và lai lịch miền quê. Dân gian cũng khẳng định vai trò của bàn tay: “Giàu hai con mắt khó đôi bàn tay” Nhà thơ Hoàng Trung Thông thì khẳng định: “Bàn tay làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời. Ban đầu nó hiện lên như một biểu tượng của con người sống ngoan cường, trung thực, tình nghĩa. Đấy là lúc Tnú cầm đá đập vào đầu để học chữ Bác Hồ và là lúc Tnú ấp tay vào bụng kiêu hãnh trả lời “Cộng sản ở đây” thể hiện một con người tín nghĩa trung thành. Bàn tay Tnú còn là bàn tay của con người giàu tình yêu thương đó là khi Tnú dắt Mai lên rẫy trồng tỉa, là lúc xô ngã tên giặc ôm lấy mẹ con Mai. Bàn tay ấy khi rực cháy thành mười ngọn đuốc lại là biểu tượng của tội ác quân thù và căm thù tột độ. Khi bị đốt cụt mỗi ngón, cụt một đốt thì nó trở thành chứng tích tội ác của quân thù nhưng bàn tay ấy không hề căm phẫn mà trở thành bàn tay quả báo. Trong cuộc đấu tranh anh đã truy giặc đến tận cùng sào huyệt vật lộn với nó trong hầm sâu nói cho nó biết một điều tất yếu: “Này tao có cả súng đây, dao găm đây nhưng tao không giết mày bằng súng, không đâm mày bằng dao tao giết mày bằng mười ngón tay cụt mà thôi”. Với Tnú thằng giặc nào cũng là thằng Dục mắt trắng xóa, kinh hoàng nhận lời phán xét, còn Tnú thực hiện cái điều đã trở thành chân lí sâu xa: kẻ gieo gió ắt phải gặp bão, đánh ngã ta ở chỗ nào ta đứng lên ở chỗ đó. Bàn tay Tnú trở thành bàn tay chiến thắng. Bàn tay nhỏ mang ý nghĩa lớn đó là bàn tay của người anh hùng, đó cũng là cuộc đời của một dân tộc đau thương và hào hùng. Nhân vật sử thi của Nguyễn Trung Thành gánh nặng số phận lịch sử khiến Tnú phảng phất hình ảnh những nhân vật anh hùng trong trường ca Tây Nguyên như Đăm Săn, Xinh Nhã. Tnú còn có tâm hồn trong sáng giàu yêu thương. Tnú mang tầm vóc của một dũng sĩ trong sử thi nhưng trong anh lại mang tâm hồn trong sáng giàu lòng yêu thương đúng như lời nhận xét của của cụ Mết: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Trên quãng đường tham gia chiến đấu, Tnú vẫn ôm ấp hình ảnh quê nhà, yêu con nước mát lạnh đầu làng, nhớ day dứt tiếng chày rộn rã chuyên cần của những cô gái, người đàn bà Sơn Trà, yêu cả những gốc cây xà nu kỉ niệm. Câu chuyện của Tnú là một câu chuyện đầy bi tráng. Tnú tập trung trong mình tất cả những đau thương mà con người nơi đây phải gánh chịu và Tnú cũng hội tụ mọi phẩm chất anh hùng, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung. Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc họa được hình ảnh tiêu biểu của con người mang dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với buôn làng, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng đi theo cách mạng, tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng. Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 2 Truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ông đã thành công khi xây dựng nhân vật chính là Tnú- một chàng trai Tây Nguyên sâu nặng nghĩa tình, một con người gan góc dũng cảm như cái tên của anh (T nú tiếng Bana có nghĩa là chàng dũng sĩ), đồng thời là điển hình cho con đường đến với cách mạng (CM) của dân tộc Tây Nguyên (TN). T nú “chàng dũng sĩ” vốn là một đứa trẻ sớm mồ côi của làng Xôman. Tnú sẽ không có cuộc đời của mình nếu không có sự cưu mang đùm bọc của nhân dân làng Xôman. Làng Xôman cho Tnú tình thương yêu, dạy cho Tnú biết đi, biết nói, biết yêu ghét, biết cầm dao chặt cây làm rẫy, …Tnú nợ dân làng Xôman tất cả cuộc đời. Như một cây xà nu non dại lớn lên giữa sự che chở, đùm bọc của rừng xà nu, Tnú trở thành một cậu bé rồi một chàng trai Tây Nguyên khỏe mạnh, dũng cảm như hình ảnh những chàng trai TN vẫn được nhắc đến trong truyện kể bên bếp lửa nhà rông. Thuở nhỏ anh đã là một đứa bé có cá tính, dũng cảm và mưu trí. Cùng với Mai, người bạn gái nhỏ của mình, Tnú vượt qua mọi vòng vây của kẻ thù để mạng gạo muối tiếp tế cho CM trong rừng. Tình yêu làng và CM đã cho Tnú lòng dũng cảm để không biết sợ hãi trước quân thù .Tnú ước ao trở thành người CM. Đó là cách tốt nhất, cách duy nhất vào lúc này để bảo vệ những gì mà cậu bé yêu thương. – Một cử chỉ thật ngây thơ đến buồn cười nhưng chứa đựng một ý nghĩa thật nghiêm túc và cảm động: bực bội vì cố học mà vẫn không nhớ được chữ, Tnú đã đập đến chảy máu đầu mình mà T nú thấy nó ngu quá. Khát khao cách mạng đến thế là cùng! Khao khát sống để trả cái ơn sâu nặng cả cuộc đời cho làng Xôman, Tnú cũng khao khát bảo vệ cách mạng, tình cảm ấy thật hông nhiên và cũng thật mãnh liệt nơi Tnú. Với bản chất nhanh nhẹn, mưu trí của một cậu bé quen đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống, Tnú càng nhanh nhẹn mưu trí trong việc bảo vệ CM. Khi làm liên lạc T nú luôn xé rừng mà đi với “cái đầu sáng lạ lùng”, lội qua chỗ nước chảy mạnh để tránh phục kích của kẻ thù “vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình ”.Khi bị bắt T nú nuốt luôn lá thư và kiên quyết bảo vệ bí mật CM. Bước từ tuổi niên thiếu lên tuổi trưởng thành, Tnú là một chàng trai trưởng thành cả về thể chất lẫn tâm hồn. Tnú rắn rỏi, cường tráng, Tnú cũng thực sự giác ngộ CM. Trở thành chồng Mai rồi thành cha của một đứa con nhỏ, Tnú càng gắn bó với làng, gắn bó với CM. Biết vượt qua bi kịch cá nhân và lòng căm thù giặc càng tăng khi chứng kiến cảnh vợ con bị giết hại dã man. Thật là một thử thách ghê gớm đối với Tnú khi từ trong rừng xà nu phải chứng kiến cảnh giặc bắt bớ, khảo tra người làng Xôman trong đó có Mai- vợ anh và đứa con nhỏ cô mang trên người. Tnú phải nắm chặt lấy cây rừng để khỏi xông ra khi những cây sắt của bọn lính quật vào người Mai. Tuy vậy, cái gì cũng có giới hạn, đặc biệt là sự kiên nhẫn phải ghìm lại nỗi phẩn uất chính nghĩa của con người. Khi những cây sắt mạn rợ quật trúng vào thân hình đứa bé mà Mai đã hết sức giữ gìn, thì không có gì có thể giữ được Tnú. Bị trói chờ hành hình, anh vẫn bình thản lạ lùng và chỉ nghĩ cho CM “ …ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xoman đánh giặc…chỉ tiếc cho T nú, T nú không sống được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng”. Tnú bị bọn lính bắt được. Chúng tra tấn anh bằng mọi cực hình khủng khiếp: tẩm nhựa xà nu lên mười ngón tay Tnú rồi đốt. Không them kêu la một tiếng, Tnú mở mắt trừng trừng nhìn mười ngón tay mình rừng rực cháy như mười ngọn đuốc. Chỉ đến khi nỗi đau đớn đã thấm đến tận cùng gan ruột, trước khi ngất đi Tnú mới thét lên một tiếng. Tiếng thét của Tnú đã trở thành một lời kêu gọi mạnh mẽ cho trai làng Xôman xông vào tiêu diệt kẻ thù. Hình ảnh bàn tay T nú mang ý nghĩa độc đáo trong bản anh hùng ca của tác. Bàn tay anh hùng được khắc họa đậm nét sử thi. Bàn tay lành: nghĩa tình, trung thực và đầy kĩ niệm, bàn tay dắt Mai lên rẫy, giấu gạo nuôi CM, viết chữ, bàn tay bảo vệ vợ con… Bàn tay bị đốt: bàn tay căm thù giặc suốt đời, thể hiện lòng trung thành với CM, bàn tay tuy tàn mà không phế, bàn tay ấy cầm súng để bảo vệ những người mà anh mang nợ yêu thương. Trở lên trên là cá tính cũng như tinh thần dũng cảm của T nú. Ngoài ra T nú còn là một người trung thành với cách mạng và kỉ luật cao. Thuở nhỏ khi làm liên lạc, T nú bị bắt anh nuốt luôn lá thư vào bụng và tra tấn nhưng anh vẫn không hề khai một lời nào. Giờ khi trưởng thành ý thức đó lại càng củng cố và phát triển. nó trở thành ý thức chấp hành kỉ luật của anh. T nú nhớ nhà, quê hương anh chỉ về thăm khi cấp trên cho phép và về đúng một đêm theo qui định. Trở về cuộc sống đời thường, T nú lại là một chàng trai Tây Nguyên sâu nặng nghĩa tình. Nói như cách nói của cụ Mết: “Cái bụng Tnú trong như nước con suối chảy qua làng Xôman”. Tnú gắn bó với cách mạng, yêu thương cán bộ cách mạng cũng tự nhiên như người ta uống dòng nước từ trong nguồn núi. Tnú yêu những gì, những ai mà người làng Xôman yêu bới chắc chắn đó phải là điều tốt, người tốt. Trong cuộc sống đời thường, T nú còn là người chồng, người cha giàu lòng yêu thương. Khi thấy vợ con bị tra tấn, T nú không kiềm chế được căm giận “ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”; “ Một tiếng hét dữ dội. T nú đã nhảy xổ vào giữa bọn lính”. Chính lòng yêu thương vợ con đã khiến T nú không còn tự chủ nhảy vào che chở cho vợ con “Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Cuộc đời bi tráng và con đường đến với CM của T nú điển hình cho con đường đến vớ CM của người dân Tây Nguyên, góp phần sáng tỏ Chân lí thời đại: phải dùng bạo lực Cm để tiêu diệt bạo lực phản Cm . Đấu tranh vũ tranh là con đường tất yếu để tự giải phóng. Hình tượng rừng xà nu và T nú có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có những con người biết hi sinh như T nú; sự hi sinh của những con người như T nú góp phần làm cho những cánh rừng mãi mãi xanh tươi. Tnú là một con người nhỏ bé giản dị như bao người nhỏ bé và giản dị của làng Xôman. Tnú là đứa con của làng Xôman, của miền đất Tây Nguyên bát ngát. Tuy vậy, trong những nét bình dị của Tnú ta lại thấy một chất huyền thoại thấp thoáng từ đầu đến cuối câu chuyện. Bất kì cuộc chiến đấu chính nghĩa nào cũng sản sinh ra huyền thoại, huống chi một cuộc chiến đấu như cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân VN. “Rừng xà nu” mang đậm chất sử thi. Chất sử thi ấy có trong nhan đề tác phẩm, có trong hình tượng cây xà nu bất khuất kiên cường và trong cuộc đời T nú. Gấp trang truyện người đọc mãi còn thích thú và cảm động về một nhân vật Tnú mang đầy nét sử thi. “Rừng xà nu” ra đời rất sớm khi cuộc đấu tranh CM chống Mĩ- Ngụy vừa mới bắt đầu ở miền Nam và như một ngọn lửa góp vào cuộc đấu tranh ấy, đến nay, sau hơn 40 năm, tác phẩm và nhân vật của Nguyễn Trung Thành vẫn còn để lại một dấu ấn sâu đậm trong nền văn xuôi VN hiện đại. Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 3 Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam, Đà Nẵng. Có thể nói: Mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ với những tập tục văn hóa lâu đời, với truyền thống đấu tranh bất khuất đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhà văn. Rừng xà nu là một trong số những tác phẩm tiêu biểu, là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là T nú. Bằng ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình và khuynh hướng sử thi làm chủ đạo, nhân vật T nú hiện ra với một góc nhìn vừa mới vừa đầy tính chất anh hùng của thời đại. Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra T nú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc. Cuộc đời Tnú sống chết với cộng đồng, gắn bó với những sự kiện có ý nghĩa nhất của cộng đồng. Anh là một cây xà nu trong muôn vàn những cây xà nu khác nằm dưới tầm đại bác của giặc. Cho dù dưới những cuộc chiến tàn khốc của đại bác và bom đạn của giặc mỹ, những cây xà nu bị cưa ngang thân nhưng ở dưới chúng những cây con lại bắt đầu nhú lên nhọn hoắt. Không cây nào không bị thương vì thế mà số phận của cây xà nu – T nú cũng phải chịu những thương tích do giặc gây ra. Ngôi Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù “ Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị bắn chết, cô bé Dít đã trở thành bia cho bọn giặc nhắm bắn vui cười…Đắng cay hơn,khi chính mắt anh phải nhìn phải chứng kiến cảnh giặc dùng roi sắt quật cho vợ con mình chết, và chính mình khi lao vào cứu vợ con cũng bị giặc tẩm lửa xà nu vào mười đầu ngón tay… đớn đau thấy cảnh tượng nhìn người thân mình chịu đòn roi của chính kẻ giặc, rồi T nú cũng lên đường tham gia lực lượng cũng như cộng đồng người Xô Man của anh nhất tề cầm vũ khí và xây dựng làng chiến đấu. Nhân vật Tnú có những nét tính cách tiêu biểu .Trước hết anh là một thanh niên gan góc, dũng cảm kiên cường có tính kỷ luật cao. Từ lúc còn nhỏ anh đã vào rừng nuôi cán bộ dù biết rằng bà Nhan, anh Xút đã bị bắt sát hại để cảnh cáo. Tnú đi liên lạc “thường xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt”, học chữ chậm thua Mai, Tnú đã lấy “đá đập vào đầu máu chảy ròng ròng”. Bị giặc bắt tra khảo anh đã quyết không khai, anh đã chỉ vào bụng mình – nói “Cộng sản ở đây”. Ghê gớm nhất đó là khi giặc đốt mười đầu ngón tay, mình vẫn cắn răng không kêu van. Và hành động xông ra cứu vợ con với hai bàn tay trắng phần nào cũng biểu hiện được sự gan góc bất chấp cái chết của Tnú,anh có thể làm tất cả mọi thứ dù hi sinh và cái chết đang đợi mình. Câu chuyện về Tnú được cụ Mết kể trong một đêm nhân sự kiện anh nhớ làng xin đơn vị về nghỉ phép trong một ngày, sáng mai Tnú đã lên đường, điều này chứng tỏ anh chấp hành rất đúng kỷ luật của đơn vị, tôn trọng kỷ luật của làng. Tính cách thứ hai của Tnú đó là con người giàu ý chí biết vượt lên bi kịch cá nhân để sống đẹp. Tnú từ nhỏ đã đi nuôi cán bộ, vượt ngục về anh lại cùng cộng đồng mình mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu dữ dội ác liệt hơn trong nay mai.Không gì đau đớn hơn có người vợ hiền thục có đứa con bụ bẫm, thế mà Tnú lại chứng kiến những đòn roi man rợ cùng với cái chết của vợ con. Không những thế, Tnú còn là nạn nhân của bọn giặc man rợ. Nét tính cách thứ ba của Tnú là con người giàu tình nặng nghĩa, gắn bó với cách mạng, hết lòng với anh Quyết, nghe theo lời anh Quyết năng học hành để làm cán bộ. Tnú mồ côi cha mẹ lại mất vợ con cho nên buôn làng, cộng đồng đối với giờ đây là tất cả. Dân làng là những ngươi đùm bocjanh chính vì thế sau này khi lớn lên khi am hiểu hơn thì anh có thể làm mọi thứ để cứu lấy dân làng của mình. Được nghỉ phép một ngày mà vừa tới đầu làng anh đã cảm nhận được mọi thứ thân thuộc.anh là người giữa tình cảm trọng tình nghĩa, gắn bó với cách mạng và quê hương. Chính bản tính gan góc của anh đã khiến cho tinh thần chiến đấu thêm gan dạ,kiên cường giống như hình ảnh của những cây xà nu. Mỗi khi chúng ta nhắc đến T nú người ta thường nghĩ về chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa đó là tay T nú- bàn tay đã từng cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay dắt Mai làm nương rẫy, bàn tay chỉ vào bụng mình nói đó là cộng sản, bàn tay sau vượt ngục đã run run nắm lấy tay Mai ở đầu con nước lớn của làng, bàn tay mài rìu, rựa, giáo mác… và rồi cũng bàn tay ấy đã ngắt những trái vả. Hình ảnh nữa là hai cánh rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh đã ôm chặt lấy mẹ con Mai lần cuối, rồi mười đầu ngón tay của Tnú bốc lửa. Trải qua bao nhiêu khốc liệt bao nhiêu trận đánh và chứng kiến bao cảnh chết chóc,bàn tay ấy tham gia trận đánh đã giết những thằng chỉ huy đồn giặc, bàn tay ấy lại cầm đèn pin soi rõ mặt xác quân thù. Tác phẩm”Rừng xà nu” của tác giả Nguyễn Trung Thành dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt Nam. Song song với anh là những nhân vật mang tính nguồn cội như cụ Mết hay những thế hệ tiếp nối như Dít. Câu chuyện và tinh thần bất khuất kiên cường ấy vẫn mãi bùng cháy trong mỗi con người dân Tây Nguyên. Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 4 Tác giả Nguyễn Trung Thành có một cuộc đời và sự nghiệp sáng tác được bắt nguồn từ dòng chảy lịch sử của một mảnh đất vùng Tây Nguyên dữ dội. Ông đã có những tháng năm sống và chiến đấu tại khu vực này, chứng kiến không biết bao nhiêu mất mát, đau thương mà mảnh đất này phải hứng chịu. Tác phẩm " Rừng xà nu" là một truyện ngắn được viết trong thời kì kháng chiến xảy ra ác liệt nhất. Tác giả Nguyễn Thành Trung đã khắc họa thành công hình ảnh một nhân vật Tnú – Một biểu tượng cho mảnh đất vùng Tây Nguyên hùng hồn và bi tráng. Tnú được coi là một trong những nhân vật trung tâm xuyên suốt trong tác phẩm, đây cũng là hình tượng của núi rừng xà nu đại ngàn. Tác giả đã khéo léo xây dựng một nhân vật với những đặc điểm, tính cách mang đậm dáng dấp của núi rừng Tây Nguyên. Với màu sắc sử thi hào hùng và đầy bi tráng, tác giả Nguyễn Trung Thành đã vẽ ra trước mắt chúng ta một hình ảnh hào hùng, bất khuất và kiên cường nhất. Truyện ngắn " Rừng xà nu" mang một màu sắc sử thi từ cách mà tác giả đã xây dựng nhân vật Tnú. Câu chuyện của một vùng đất, của một đời người được tác giả kể gói gọn trong một đêm như vậy. Đây được coi là một sự thành công ngoài của tác giả Nguyễn Trung Thành. Tnú là một người con của núi rừng vùng Tây Nguyên hùng vĩ với những tính cách và đặc điểm mà chỉ có nơi đây mới có. Tnú là một đứa trẻ bị mồ côi lớn lên trong sự đùm bọc, giúp đỡ và cưu mang của dân làng vùng Xô man, bởi vì vậy Tnu chính là một người con của cả dân làng, của cả mảnh đất vùng này. Tnú không thuộc về bất cứ riêng của ai, anh thuộc về cộng đồng, về nơi mà đã nuôi dưỡng anh suốt quá trình trưởng thành. Cụ Mết từng nói rằng " đời của nó, bụng của nó sạch như nước suối làng ta" là bởi vì điều đó. Cho dù hoàn cảnh suất thân kém may mắn nhưng cuộc đời của Tnu lại làm được rất nhiều việc có ích cho dân làng vùng này, anh mang phẩm chất của một người cách mạng chân chính trong tương lai gần. Mặc dù tuổi đời còn nhỏ nhưng Tnú lại là một người rất bản lĩnh và gan góc, không ngại mọi khó khăn và thử thách. Trong lúc đi liên lạc thì Tnú " xé rừng mà đi, không lựa chọn đường mòn, không lựa chọn quãng đường nước êm ấm mà còn chọn con đường gai góc, hiểm trở, chọn quãng nước chảy xiết, mạnh và lọt qua được hết mọi vòng vây của quân giặc". Tnú nguyện một lòng một dạ phục vụ cho cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì dân làng Xô man. Hành động của Tnu khi nuốt bức thư vào trong bụng khi bị giặc bắt đã chứng tỏ được rằng bản lĩnh và ý chí kiên cường, gan dạ sắc đá của anh. Hơn hết, lời nói chỉ tay vào bụng " Cộng sản ở đây này" Sau khi tiến hành đốt bức thư khiến cho người đọc vô cùng ngưỡng mộ về chí khí cũng như bản lĩnh phi thường của Tnú. Tnu tuy học rất chậm như " học chữ o thì quên chữ a " nhưng ngược lại có sự kiên trì và nhẫn lại. Tnú quyết tâm ghi nhớ nhuwgx lời dạy của anh Quyết " Phải học giỏi thì mời làm được các bộ giỏi" nên Tnú đã rất quyết tâm học hành thật tốt. Tnú có một tinh thần và ý chí thép kiên cường không phải ai cũng có được. Tnú chính là một điển hình cho tính cách đáng ngưỡng mộ đó. Sau khi Tnú vượt ngục để trở về làng, anh như một cây xà nu vạm vỡ, to lớn. Anh được tượng trưng cho cả một dân tộc vùng xô man, cho rừng xà nu, vẫn hiên ngang kiên cường đến cùng để chống lại sự xâm lược, tàn phá ghê rợn của quân thù. Cuộc đời của Tnú từ đó bắt đầu rơi vào nhiều bi kịch đau thương nhưng Tnú không hề nao núng, sợ xệt mà anh vẫn sống và cống hiến hết mình cho dân làng vùng xô man. Tnú có mưu trí, gan dạ và là một người cán bộ giỏi. Quân giặc đã bắt cóc cả con và vợ của Tnú để đe dọa nhưng Tnú giường như không sợ. Chúng tra tấn hai mẹ con Mai dã man cho đến chết. Khoảnh khắc Tnú đã chứng kiến cảnh hai mẹ con chết trước mặt mình, lòng căm hận trong anh đã sôi máu lên sùng sục, " Hai mắt như hai ngọn lửa lớn". Tnú đã lao đến để cứu hai mẹ con Mai nhưng không thể nào cứu được, ngược lại anh còn bị giặc bắt và tra tấn dã man. Hình ảnh đôi bàn tay của Tnú bị giặc thiêu cháy đã khiến cho người đọc giường như bị ám ảnh " Một ngón, hai ngón, ba ngón bị cháy rồi lại bén rất nhanh chỉ trong tích tắc mười ngón tay của Tnú như mười ngọn đuốc sống". Bi kịch đau lòng ấy của Tnú cũng chính là bi kịch đau lòng mà người dân vùng xô man phải hứng chịu. Tuy nhiên, Tnú vẫn không hề sợ xịt và nao núng, vẫn hiên ngang kiên cường để đánh giặc mặc dù đã mất đi đôi tàn tay ấy. Tnú đã phải chịu đựng bao nhiêu đau đớn về tinh thần và thể xác, nhưng lòng căm thù giặc trong anh vẫn còn cháy rừng rực. Đây được coi là một động lực để làm nên cái đêm lịch sử hào hùng của dân làn vùng xô man đó. Có thể nói tất cả đã châm ngòi để bùng nổ cái đêm khởi nghĩa của dân làn vùng xô man để chống lại quân thù. Hình ảnh Tnú được tác giả Nguyễn Trung Thành xây dựng song song bên cạnh một hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn, bất khuất, kiên cường chắc chắn có dụng ý. Bởi Tnú chính là một biểu tượng của mảnh đất vùng Tây Nguyên anh hùng, của núi rừng xà nu bất diệt. Bằng những hình ảnh vô cùng sinh động, chân thực, giàu chất sử thi tác giả đã tạc nên bức tượng hùng vĩ về con người vùng Tây Nguyên bất khuất, kiên cường. Đây là một tác phẩm thành công của tác giả, đã để lại lỗi ám ảnh lớn cho người đọc về một con người có trong đời thực như vậy. Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Dàn ý a. Mở bài : Giới thiệu Nguyễn Trung Thành và truyện ngắn Rừng xà nu. b. Thân bài : Phân tích hình tượng nhân vật Tnú. – Tnú là nhân vật chính của truyện ngắn Rừng xà nu. Đó là một đứa trẻ cha mẹ mất sớm, Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của dân làng. Tnú được cụ Mết nhận xét : “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta’’. – Tnú là người con gan góc, táo bạo của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. + Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, bỏ ra ngoài suối ngồi suốt ngày, sau đó, lấy một hòn đá “tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng’’ để sáng hôm sau lại ngượng ngùng gọi Mai ra phía sau hốc đá hỏi xem “chữ o có móc là chữ chi’’. + Nhưng “đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng’’. Khi làm liên lạc, Tnú không đi đường mòn. Qua sông, khôn lội chỗ nước êm, mà “cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình’’. + Khi bị giặc bắt và tra tấn, Tnú không hé răng một lời dù bị địch tra tấn dã man. + Khi bị địch đốt cháy mười ngón tay, Tnú nghiến răng chịu đựng chứ quyết “không thèm kêu van’’. – Đây cũng là một con người có mối thù chồng chất với quân giặc. Chúng không chỉ giết hại dân làng mà còn giết hại vợ con anh và khiến hai bàn tay anh “mỗi ngón chỉ còn lại hai đốt’’. – Tnú còn là một chàng trai dũng cảm và trung thành với cách mạng. + Những ngày ấy, làng Xô Man bị kẻ thù khủng bố điên cuồng “không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng’’. Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng ; bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng vì đã vào rừng nuôi cán bộ. Sau cùng đến lũ trẻ thay người già làm việc này. Tnú và Mai là hai đứa trẻ hăng hái nhất. Có đêm, chúng ngủ luôn ở ngoài rừng, vì đề phòng giặc lùng phải có người “dẫn cán bộ chạy’’. + Lòng trung thành với cách mạng của Tnú đã được bộc lộ qua nhiều thử thách. Khi bị giặc bắt, giải về làng, tra hỏi chỗ ở của cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói : “ở đây này’’. Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn lính. + Khi chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn dã man bằng gậy sắt, mặc dù tay không, Tnú dũng cảm nhảy vào giữa lũ giặc đang điên cuồng. Nhưng anh không cứu được vợ con, bản thân bị giặc bắt và đốt hai bàn tay bằng giẻ tẩm dầu xà nu. + Khi được dân làng cứu thoát, dù hai bàn tay đã cụt đốt, Tnú gia nhập giải phóng quân như một tất yếu… Phẩm chất anh hùng của Tnú là ở chỗ biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân : gia nhập bộ đội, chiến đấu dũng cảm, giết giặc để trả thù cho quê hương và gia đình. – Căm thù mãnh liệt, Tnú cũng la người biết yêu thương sâu sắc. Ba năm đi bộ đội, Tnú da diết cảnh và người của buôn làng quê hương. c. Kết luận – Số phận và tính cách của nhân vật Tnú tiêu biểu cho dân làng Xô Man và con người Tây Nguyên. – Nhân vật Tnú góp phần tô đậm chủ đề và làm nên màu sắc sử thu của truyện ngắn “Rừng xa nu’’.
Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
6,636
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Gợi ý 4 Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Dàn ý Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 1 Nguyễn Thi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi thời kháng chiến chống Mỹ. Truyện của Nguyễn Thi đã phản ánh khá sinh động cuộc sống của nhân dân Miền Nam dưới sự đàn áp dã man của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp của con người Miền Nam trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, giành độc lập, tự do về cho dân tộc. Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Thi đi sâu khai thác đề tài: chủ nghĩa yêu nước anh hùng cách mạng của nhân dân Nam Bộ. Đó là những tập thể anh hùng được làm nên bởi mọi lứa tuổi. Trong đó, tầng lớp thiếu niên đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bức tranh hào hùng này như nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của ông. Thật vậy, Việt là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Việt xuất thân trong một gia đình lớn, gia đình cách mạng. Những con người trong gia đình ấy đã gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, người nào cũng đáng yêu, đáng quý, người nào cũng có bản chất riêng, nhưng lại thống nhất với nhau về bản chất đó là: lòng căm thù giặc sâu sắc, hành động dũng cảm, gan góc trong chiến đấu, có niềm say mê và khao khát được đánh giặc, rất tình nghĩa, rất đỗi thủy chung với gia đình, với cách mạng và Tổ quốc. Hơn nữa, Việt xuất thân trong một gia đình mang nặng thù nhà, nợ nước. Ông nội của Việt bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng, bà nội bị lính quận Sơn hành hạ, đánh đập. Ba của Việt thì bị giặc chặt đầu, má Việt thì bị trái ca nông của Mỹ giết chết khi đi đấu tranh ở Mỏ Cày, thím Năm thì bị giặc hắn bể xuồng chết khi đi rọc lá chuối… những người thân trong gia đình của Việt lần lượt bị giặc sát hại. Những đau thương mất mát này đã sớm khơi dậy lòng căm thù giặc của Việt, đồng thời cũng sớm khơi dậy ý thức đấu tranh để trả thù nhà và góp phần vào việc đấu tranh giải phóng miền Nam của Việt. Việt là một cậu con trai mới lớn, ngây thơ và hiếu động. Việt đã tiến xa hơn thế hệ của ông cha mình. Lúc nhỏ Việt đã rất gan , đúng như lời nhận xét của chú Năm: “Việt là một thằng nhỏ nhưng rất gan lì". Trước nỗi đau mất cha, cậu bé Việt không còn biết sợ hãi là gì, Việt đã đi theo má mà la “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, rồi khi thằng giặc liệng đầu ba vào ngực mẹ, làm máu me văng cùng đầu chị em Việt. “Đầu ba ở dưới không lượm” mà Việt “cứ nhè cái thằng liệng đầu mà đá”. Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lớn lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh giặc trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chứ chừng nào tôi mới bị". Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý chí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sau khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập nên chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mỹ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. "Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp người nước hay máu không biết, chỗ ướt, chỗ sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng", “người Việt khô khốc”, “chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vải trấu…”. Thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội “Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi cuối cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt phải đi”. Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến… tỉnh ra Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ mà trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: Được, tao cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ các anh sẽ tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn trước khi đổ vẻ biển cả. Tuy chiến đấu rất dũng cảm nhưng ở Việt vẫn còn mang tính chất trẻ con: rất thương chị nhưng không biết lo toan cùng chị, chỉ biết đi chiến đấu. Đi chiến đấu mà Việt vẫn giắt sau lưng một chiếc ná thun. Khi bị thương Việt có thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng Việt cũng chưa hiểu cái chết là như thế nào: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết là người thật biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm lại đó? Việt chưa bao giờ nghỉ tới cái chết, mà cũng chưa nghe ai nói rõ nó ra xao”. Và Việt không hề biết sợ chết, chỉ sợ là “không còn được ở chung với anh Tánh và cũng không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm”. Những điều suy nghĩ của Việt thật ngây thơ và thật đáng yêu làm sao. Trước sau, trong hoàn cảnh nào Việt cũng nghĩ đến chiến đấu. Đó chính là bản chất vốn có của Việt và cũng chính là bản chất tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. Tóm lại, trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật Việt – một nhân vật tiêu biểu cho tuổi trẻ miền Nam, tuổi trẻ của cả đất nước anh hùng. Sức mạnh của tuổi trẻ không gì ngăn nổi, hứa hẹn sẽ mở ra những khúc sông hào hùng hơn, vẻ vang hơn để đổ về biển lớn của cách mạng. Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 2 Nhà văn Nguyễn Thi (1928 – 1968) là một cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền nam thời chống Mĩ. Trong văn chương của Nguyễn Thi vừa giàu chất hiện thực cái dữ dội của chiến tranh vừa đằm thắm chất trữ tình. Nguyễn Thi gắn bó với vùng đất nam bộ nên những nhân vật tiêu biểu trong truyện của ông là những người nông dân nam bộ hồn nhiên trung hậu nhưng anh dũng kiên cường. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” 1966 là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Thi được việt trong những ngày nhân dân nam bộ anh dũng kiên cường đánh Mĩ. Truyện kể về những đứa con trong gia đình giàu lòng yêu nước quyết tam chiến đấu để trả thù nhà đền nợ nước. Hai nhân vật trung tâm của tác phẩm là Việt và Chiến nhưng nhân vật được nhà văn tô đậm nhất là nhân vật Việt. Mặc dù trong truyện ngắn nhân vật Việt được tác giả khắc hoạ là một chiến sĩ kiên cường dũng cảm trên mặt trận nhưng trong đời sống Việt vẫn là một chàng trai tre có tính cách hồn nhiên vô tư như bao chàng trai khác. Qua hồi ức của Việt khi còn ở nhà Việt là một chàng trai hồn nhiên trong trẻo. Khi chị Chiến doạ “thù cha chưa trả mà bỏ về thì chú chặt đầu” thì “Việt lăn kềnh ra ván cười khì khì”. Khi chị Chiến trao đổi bàn tính sắp xếp chuyện nhà thì Việt vẫn vô tư “chụp một con đom đóm úp vào trong lòng tay”. Hay khi chị Chiến trao đổi việc nhà thì Việt vừa khen thầm chị Chiến “chị nói nghe thniệt gọn” vừa “ngủ quên lúc nào không biết”. Khi ở chiến trường, đã trở thành một chiến sĩ dũng cảm rồi vẫn giữ bên mình cái ná thun bắn chim hồi nhỏ. Bị thương nằm một mình giữa rừng không sợ chết mà chỉ sợ ma và bóng đêm. Khắc hoạ nét tính cách hồn nhiên này của Việt tác giả muốn nhấn mạnh rằng Việt là một chiến sĩ dũng cảm anh hùng nhưng vẫn là một con người của đời thường như bao người trai trẻ khác. Tuy sống hồn nhiên vô tư nhưng Việt không vô tâm với những người xung quanh. Việt luôn yêu thương cha mẹ chị em trong gia đình và người thân cũng như đồng đội xung quanh. Trong kí ức của Việt luôn in đậm hình ảnh của má. Trong cơn chập chờn tỉnh thức khi bị thương nằm một mình giữa rừng hình ảnh đầu tiên hiện về là hình ảnh người má thân yêu. “Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong đầu còn thoáng hình ảnh người mẹ” và “Việt ước gì bây giờ được gặp má”. Khi hai chị em cùng sắp xếp việc nhà cũng là lúc “cả hai chị em cùng nhớ đến má” và lo đưa bàn thờ của má gửi sang nhà chú năm trước khi đi đánh giặc. Đối với chị Chiến, Việt dành cho chị một tình thương sâu đậm. Việt đã coi chị như người mẹ, vâng lời sắp đặt việc nhà của chị. Tình thương chị Chiến được thể hiện rõ nhất khi hai vhị em khiêng bàn thờ má sang nhà chú năm “nghe tiếng chân chị Việt thấy lòng thương lạ”, “lần đầu tiên Việt muốn thấy lòng mình rõ như thế”. Đối với những người thân yêu như chú năm, anh Tám và những người đồng đội khác thì Việt vừa yêu thương vừa gắn bó tin cậy. Khi bị thương nằm giữa rừng Việt vừa nghĩ đến má vừa nhớ đến anh Tám “Việt muốn chạy thật nhanh” để gặp lại anh Tám níu chặt lấy anh mà khóc”. Việt hồn nhiên vô tư trong cuộc sống nhưng lại rất giàu lòng yêu thương gắn bó vơói mọi người, đó là một nét tính cách nổi bật ở nhân vật Việt. Nhà văn Nguyễn Thi tập trung khắc hoạ nét tính cách nổi bật của nhân vật Việt là tính cách của một con người dũng cảm kiên cường. Khi còn ở nhà “ý nghĩ đi bộ đội luôn thôi thúc Việt” đến nỗi “Việt đi đâu chị Chiến cũng dòm chừng coi Việt có bọc quần áo theo không” vì sợ Việt trốn nhà đi bộ đội. Mặc cho chị Chiến can ngăn Việt vẫn không nhường chị đi bộ đội trước Việt vẫn giành chị để được đi. May nhờ chú năm xin cho cả hai đi bộ đội thì mọi việc mới ổn. Những ngày ở chiến trường Việt luôn tỏ ra là một chiến sĩ dũng cảm kiên cường trong một trận đánh ác liệt sau khi tiêu diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ Việt bị thương nặng kiệt sức nằm giữa rừng vẫn ở trong tư thế chiến đấu “Việt vẫn còn đây nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng ngón cái còn lại sẵn sàng nổ súng”. Không chỉ ở tư thế chiến đấu mà Việt còn kiên cường hơn thế tự lết thân mình về phía mặt trận “Việt đã bò đi được một đoạn cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo chính trận đánh đang gọi Việt đến”. Việt mang nặng thù nhà nợ nước nên tinh thần chiến đấu luôn thôi thúc Việt và Việt đã chiến đấu đúng nghĩa của một người anh hùng. Việt là hình ảnh của một người thanh niên thời đại mới có khí phách kiên cường bất khuất. Với kết cấu tác phẩm theo lối đồng hiện, với nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đa dạng độc đáo và ngôn ngữ đời thường giàu chất nam bộ, nhà văn đã xây dựng được nhân vật Việt một cách sinh động. Nhân vật Việt là mẫu người anh hùng của nhân dân nam bộ thời đánh Mĩ. Họ vừa mang nặng mối thù chung và mối thù riêng đã ra đi chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Gợi ý 1.Giới thiệu tác phẩm và nhân vật: – Những đứa con trong gia đình được nhà văn Nguyễn Thi sáng tác vào năm 1966, in trong tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. – Nhà văn kể chuyện nhân vật Việt trong một trận đánh đã bị thương, lạc đơn vị, phải nằm lại ở chiến trường. Trong những cơn mê, tỉnh đứt nối, Việt nhớ lại những ngày còn ở nhà, nhớ kỉ niệm ấu thơ… Sau cùng đơn vị đã tìm gặp việt và đưa anh về chữa trị vết thương. – Truyện kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật. Nhờ kết cấu này mà truyện hết sức hấp dẫn. Dòng hồi ức hiện về đến đâu thì tính tình, tình cảm và ý chí của Việt hiên lên đến đó. 2. Phân tích hình tượng nhân vật Việt: a. Tính tình ngây thơ, hồn nhiên đến ngộ nghĩnh, thú vị – Việt là một chiến sĩ trẻ, chưa qua tuổi mười tám. Ở Việt vẫn còn giữ những nét hồn nhiên của một chàng trai mới lớn ( đi đánh giặc vẫn mang theo cái ná thun) – Bị thương nặng đến đêm thứ hai, trong bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo, Việt không sợ chết mà chỉ sợ bóng đêm và sợ ma. – Việt rất yêu thương chị Chiến, nhưng lại hay tranh giành hơn thua với chị. Việt giành phần hơn từ những đêm soi ếch ngoài ruộng đến việc lập chiến công bắn tàu Mĩ trên sông Định Thủy. – Đêm mít tinh ghi tên tòng quân, hai chị em cũng tranh giành nhau đi bộ đội đến ồn ào mà cũng thật cảm động. – Ở đơn vị Việt rất yêu quý đồng đội, nhưng lại không nói cho đồng đội biết là mình có chị. “Việt giấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu sợ mất chị mà”. b. Việt rất giàu tình cảm, yêu thương gia đình sâu đậm – Tình cảm của Việt đối với chị: + Mẹ mất, chị Chiến trở thành chỗ dựa tinh thần của Việt. Chị hết lòng chăm sóc Việt, nên Việt yêu thương chị hết lòng. Và Việt còn thương chị vì “chị giống in như má”. + Lúc hai chị em khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm để ngày mai lên đường nhập ngũ “ Việt thấy thương chị lạ”. – Tình cảm của Việt dành cho chú Năm: + Việt rất thương chú Năm. Tình cảm đó có từ ngày Việt còn nhỏ. + Việt thương chú Năm vì chú hay bênh Việt + Chú thường hay hò mỗi khi kể về gia đình hay chiến công của mảnh đất này. Qua tiếng hò chú thường gửi gắm ý nghĩa câu hò vào trí tưởng tượng, tâm hồn của Việt bằng tất cả tình yêu thương đứa cháu của chú. – Tình cảm của Việt đối với mẹ: + Mẹ luôn hiện hữu trong kí ức của Việt. Trong cái đêm thiêng liêng, hai chị em bàn tính thu xếp chuyện gia đình, Việt thấy “ hình như má cũng đã về đâu đây…”.Trong lúc bị thương trơ trọi giữa chiến trường, hình ảnh người mẹ thương yêu mãi chập chờn ẩn hiện trong Việt. Việt hồi tưởng về mẹ với bao kỉ niệm chua xót lẫn ngọt ngào. + Việt thương má, bởi má cả cuộc đời vất vả, thầm lặng hi sinh, lặng lẽ chịu đựng mọi gian lao, đau khổ trong đời để. Suốt đời má Việt chở che cho đàn con và tranh đấu. + Việt yêu quý má vô hạn, bởi má bao giờ cũng chăm chút ân tình đối với gia đình và đối với Việt. Nghĩ đến điều đó, Việt thèm muốn ước ao “ ước gì bây giờ mình được gặp má”. c. Việt chiến đấu dũng cảm và tính cách anh hùng: – Việt- đứa con của một gia đình có truyền thống cách mạng, yêu nước và căm thù giặc sâu sắc” + Việt sinh ra, lớn lên và được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền thống yêu nước, gắn bó với cách mạng. + Ông nội, chú Năm đến ba của Việt đều tham gia kháng chiến và hi sinh. + Chính mối thù nhà là động lực tinh thần mạnh mẽ và tình thương những con người ruột thịt đã thôi thúc Việt chiến đấu ngoan cường và dũng cảm. Chính có sự thừa hưởng truyền thống yêu nước và cách mạng của gia đình mà trong Việt đã hình thành ý thức chiến đấu bất khuất từ rất sớm. – Việt- người chiến sĩ trẻ anh hùng vượt lên thực tại thương tích khi lạc đồng đội: + Giữa trận đánh, Việt bị thương nặng, mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân một mình, chịu khát chịu đói, mình đầy thương tích, Việt vẫn can đảm chịu đựng. + Khắp người Việt không chỗ nào không thương tích. – Việt luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu: + Dù thương tích, dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi choàng tỉnh. + Tỉnh dậy lần thứ tư giữa đêm sâu thẳm, nghe tiếng súng của đồng đội từ nơi xa, Việt cố gắng bò về hướng đó. + Cuối cùng đồng đội đã tìm được Việt. Dù kiệt sức, Việt vẫn giữ tư thế sẵn sàng chiến đấu sinh tử với kẻ thù. 3. Đánh giá: – Nhân vật Việt trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là một nhân vật có tính cách độc đáo. Việt vừa là một con người hồn nhiên, ngây thơ, vừa là một người con, người cháu và người em tình nghĩa, vừa là một chiến sĩ trẻ gan dạ, anh hùng, ý thức chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để trả thù nhà đền nợ nước. Việt là khúc sông vươn xa hơn trong dòng sông truyền thống của gia đình. – Nét đặc sắc của Nguyễn Thi khi xây dựng nhân vật này là ở chỗ: nhà văn không bọc nhân vật mình trong những sắc màu tráng lệ, ngôn ngữ hoa mĩ mà bằng những chi tiết sống thực, hồn nhiên đến cảm động và ngôn ngữ mang màu sắc Nam bộ giản dị. Phải chăng đó là tình yêu con người và mảnh đất Nam Bộ thành đồng của nhà văn. Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Dàn ý I. MỞ BÀI Truyện Những đứa con trong gia đình là một số những tác sáng tác xuất sắc nhất của Nguyễn Thi. Thiên truyện thành công ở nhiều mặt, nhưng nổi bật nhất là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác giả đã giành nhiều trang miêu tả những nét tính cách độc đáo của Việt, nhân vật trung tâm đã tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. II. THÂN BÀI Truyện Những đứa con trong gia đình được kết cấu theo những đợt hồi tưởng của người lính trẻ tên Việt bị trọng thương, thất lạc đồng đội trong mây ngày đêm. Diễn biến truyện hết sức linh hoạt xáo động không gian lẫn thời gian, chéo quá khứ với hiện tại, trong đó nhân vật Việt hiện lên với đầy đủ các về tính tình, tình cảm, và tinh thần chiến đấu. 1. Tính tình hồn nhiên, thú vị Là một chiến sĩ trẻ, Việt vẫn giữ tính hồn nhiên của một thằng trai mới lớn. Việt luôn luôn giữ trong mình cái ná thun mà từ nhỏ Việt đã từng bắn chim. Còn hiện tại, Việt cầm súng tự động, bả súng còn thơm gỗ, đánh Mĩ bằng lê, ná thun vẫn còn nằm gọn trong túi áo. – Bị thương nặng đến đêm thứ hai, trong bóng đêm vắng lặng và lạnh Việt không sợ chết mà lại sợ bóng đêm và sợ ma. – Việt rất yêu thương chị Chiến nhưng hay tranh giành với chị, từ những đêm soi ếch ngoài ruộng đến việc lập chiến công. Soi ếch thì chú Năm đứng ra phân xử vì chị Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của minh, chị Chiến bao giờ cũng thương Việt. Sau này lớn lên, vết đạn bắn thằng Mĩ trên sông Định Thuỷ, chị cũng nhường… – Rồi đến đêm mít-tinh ghi lên lòng quân, hai chị em cùng tranh giành đi bộ đội, thật cảm động. – Ở đơn vị, Việt rất yêu quý đồng đội nhưng không nói thật là mình có Việt dấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu sự mất chị mà! 2. Tình thương yêu gia đình sâu đậm a) Vốn mồ côi, chị Hai ở xa, đứa em út còn nhỏ, tình cảm thương yêu Việt đối với chị thật sâu đậm. Sau khi cùng ghi lên vào bộ đội, sắp xếp việc xong. Việt và Chiến cùng khiêng bàn thờ má gởi sang nhà chú Năm. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bình bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thế rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. b) Ngoài tình thương chị, Việt còn rất thương mến chú Năm. Tình cảm hình thành từ những ngày Việt đang còn nhỏ. Việt thương chú Năm vì hồi đó hay bênh Việt. Mỗi khi cất giọng hò, chú làm như Việt chính là nơi cụ thể đế gởi gắm những câu hò đó. Theo từng hình ảnh liên tưởng của chú Năm, có Việt biến thành tấm áo và quàng hoặc con sông dài cá khi thì Việt thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển gò Công hoặc ngôi sáng ở Tháp Mười. c) Trong lúc Việt bị thương, hình ảnh cuả cha mẹ thân yêu luôn chập chờn ẩn hiện trong hồi ức của Việt với bao kỉ niệm chua xót lẫn ngọt ngào. Dường như cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ lặng lẽ trong đêm của má. cả những hiểm nguy gian lao của má đã trải qua một cách không hề sợ hãi, tất cả đều được gom và dồn lại vào trong ý nghĩ cuối cùng này: "Để má ráng nuôi bây lớn coi bây có làm được gì cho cha mày vui không? ” 3.Tính cách anh hùngề tinh thần chiến đấu dũng cảm a) Phải sống chiến đấu như thế nào, trả thù nhà, đền nợ nước sao cho xứng đáng là những đứa con trong một gia đình có truyền thống yêu nước, gắn bó với cách mạng từ thời chống Pháp đến thời chống Mĩ ?… Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, bằng ý chí bất khuất thừa hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông nội của Việt, chú Năm, ba Việt đều tham gia kháng chiến chống Pháp. Cha bị Tây chặt đầu, mẹ bị trúng pháo của giặc, những hình ảnh thê thảm đó mãi in sâu trong tâm trí Việt. Chính mối thù nhà là động lực tinh thần và tình cảm thúc đẩy chị em Việt anh dũng chiến đấu. b) Giữa trận đánh. Việt bị thương nặng. Mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân, chịu đói chịu khát, mình đầy thương tích, Việt vẫn can đảm chịu đựng, Việt mới cảm thấy chân tay tê dại, khắp người, nước hay máu không biết, chỗ ướt sùng, chỗ dẻo quẹo, chỗ khô cứng (,..)Trời tối kì lạ Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi sau cùng. Sau đó, Việt bò gấp qua những cái gì nữa Việt không cần biết, quên khắp cả người đang bị rì máu, quên cả trận địa sắt thép ngổn ngang mà một cành cây nhỏ đụng vào người Việt bây giờ cũng làm nặng thêm thương tích. c) Dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi choàng dậy, Việt day họng súng về hướng đó “Nếu mày đổ quân thì súng tao còn đạn”, Việt ngầm bảo bọn địch khi nghe tiếng xe bọc thép của chúng chạy mỗi lúc một gần. – Tỉnh dậy lần thứ tư giữa đêm sâu thẳm, nghe tiếng súng đồng đội từ nơi xa, Việt vẫn cố gắng bò về hướng đó. Việt đã cố gắng bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi tay của người theo. Việt cũng không ý thức răng mình đang bò đi, mà chính trận đánh đang gọi Việt đến. – Cuối cùng, đồng đội đã tìm được Việt. Dù kiệt sức, Việt vẫn giữ tư thế sẵn sàng chiến đấu sinh tử với kẻ thù: một ngón tay của cậu vần còn nhúc nhích, một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu, dấu xe bục thép cồn nằm ngang dục. Hình ảnh người lính bị thương vẫn giữ tư thế sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng đã thể hiện được tính cách anh hùng của nhân vật. III. KẾT BÀI Nguyễn Thi đã miêu tả nhân vật một cách sắc nét, từ tính tình, tình cảm tinh thần chiến đấu, không bằng những sắc màu ưtrng lệ mà qua hàng loạt hình ảnh sống thực, hồn nhiên đầy cảm động. Với ngôn ngữ mang màu sắc Nam Bộ những chi tiết về dáng cách, cử chỉ, lời nói của nhân vật, phát huy tối đa lời thoại nội tâm, những độc thoại khi đứt khi nối tưởng chừng như rời rạc nhưng thật chặt chẽ, truyện đã khắc hoạ hình tượng của một nhân vật tuổi trẻ anh hùng, đại biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
4,725
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 4 5 Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 5 6 Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Dàn ý Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 1 Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương. Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khả bất lìa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho nỗi vất vả gian lao của chồng: chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao… Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thủy chung: nhìn trăng soi thành củ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa… Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất, nàng đã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu dỏng đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ. Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống cùa người phụ nữ Việt Nam. Nàng xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh: Cách biệt ba nărn giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ của người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất vọng đến tột cùng vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió… đâu còn có thể Lại lên núi Vọng Phu kia nữa. Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan nghiệt ngả. Là một người phục nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh. Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gắng hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên mà hợp lí. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường chính là cha của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát. Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh nhưng bị đối xử bất công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ số phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào. Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 2 Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã nêu cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương Vũ Thị Thiết phải chịu nỗi oan khuất và để giải nỗi oan, nàng đã tìm đến cái chết thật thương tâm. Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Vũ Nương – một phụ nữ đẹp người, đẹp nết. Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gin khuôn phép để không xảy ra cảnh bất hoà. Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”. Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc. Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng lo toan mọi công việc gia đình, nuôi con từ trứng nước đến khi lớn khôn. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo rất mực, khi mẹ chồng đau ốm nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi bà cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ chu toàn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy. Tóm lại, Vũ Nương là một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Con người như vậy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình. Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềmvui chưa trọn vẹn thì bikịch xảy ra. Trương Sinh – một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con ngây thơ, không dò hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn buộc tội vợ, thậm chí còn mắng nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, làng xóm đều biện minh cho nàng nhưng cũng không thay đổi được thái độ của Trường Sinh. Không còn cách nào để minh oan được nữa, nàng chọn cái chết để giãi bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội nghiệp cho Vũ Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng trở về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. Bi kịch bị dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ có một con đường tìm đến cái chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng: Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng ("Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông) Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy, nàng nghĩ: “thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa”. Nhưng có lúc nàng lại băn khoăn: “không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng mong muốn thiết tha trở về quê hương đoàn tụ với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách biệt nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Vũ Nương càng làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đôi, gia đình. Trong một xã hội mà quyền sống con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay, những người phụ nữ có nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ sống cuộc đời hạnh phúc. Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một tác phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện người con gái Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc những ân tượng không phai mờ. Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 3 Chuyện người con gái Nam Xương rút trong tác phẩm Truyền kì mạn lục, áng văn xuối viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ XVI, một kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là ậ,thiên cổ kì hút". Truyện kể lại một câu chuyện truyền kì có nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền trong dân gian vể bi kịch gia dinh ở Nam Xương có dòng sông Hoàng Giang vào cuối thế ki XIV, dầu thế kỉ XV, một thời loạn lạc, dầy biến động. Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc mộnh đáng thương đó, có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho dức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ờ Nam Xương, thuộc phù Lí Nhãn, tinh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình "ké klió", nhimg Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh:'7ứi/i dã tliùy mị, nết na, lại thém cỏ tư dung tốt đẹp". Nàng là một cò gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "mến 17 (hing hạnh" đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong dạo vợ chổng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chổng có tính "đa nghi", nàng đã "giữgìn khuôn phép" không để xảy ra cành vợ chổng phải "thất hoà". Sống giữa thời loạn lạc, Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ờ biẻn ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương dã rót chén rượu dầy chúc chổng "được hai chữ bình yên"-, nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trờ về quê cũ… Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng dã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi còng danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chổng khôn xiết kể: "… mồi khi thấy bướm lượn dầy vườn, mây che kin núi, tlù nồi buồn góc bể chán trời không thể nào ngăn dược". Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy cùa Vũ Nương cũng là tâm trạng chung cùa những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay: … Nhớ chàng dằng dằng dường lên bằng trời Trời thăm thẩm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong… (Chinh phụ ngâm) Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ cùa Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thuỳ chung thương nhớ đợi chờ chổng của nàng. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chổng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa con trai dặt tên là Đàn. Mẹ chổng già yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chổng qua dời, nàng dã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lẻ dược lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như đối với cha mẹ đe’ mình". Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt dẹp: nàng dâu hiếu thảo, ngưòi vợ dảm đang thuỷ chung, người mẹ hiển đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tường trong xã hội phong kiến ngày xưa. Qua năm sau, "việc quản kết thúc", Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trờ vé. Thế nhưng, Vũ Nương không dược hường hạnh phúc trong cảnh vợ chổng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng dứa con thơ mới tập nói, mà Trương Sinh "đinh ninh là vợ hư", đã "mắng nhiếc" và "đánh đuổi di". Vốn là một kẻ vô học lại hồ đổ vũ phu, Trương Sinh dã bỏ ngoài tai mọi lời "bày tò" cùa vợ, mọi sự "biện bạch" cùa họ hảng làng xóm. Vũ Nương dã bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan là người vợ "mất nết hư thân". Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự từ để tỏ rõ lả người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng", mãi mãi soi tỏ với đời "vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cò Ngu mĩ". Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chổng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc dã gẫy nên. Chi một thời gian ngăn, sau khi Vũ Nương tự tử, một dêm khuya dưới ngọn đèn, chợt dứa con nói rằng: "Cha Dàn lại đến kia kìa!". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tinh ngộ thấu nổi oan cùa vợ, nliưng việc trót đã qua rồi!". Người đọc xưa nay cũng chì biết thờ dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự từ, nàng cũng chẳng cần chồng con "rày xin chén nước cho người thác oan" (Truyện Kiều). Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kẽu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng khồng giết thịt mà đem thà con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác dạt vào dộng rùa ở hài đảo. Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa. Tinh tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi, Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ cùa tiền nhân, tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa vàng về và dặn chồng lập đàn tràng ờ bến Hoàng Giang, hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán vỏng lọng rực rỡ dầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang dường, nhưng đã tô đậm nỗi dau của người phụ nữ "bạc mệnlì… duyên phận hẩm hiu", và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở vé nhản gian dược nữa" đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi oan tình của vo Nương dà dược minh oan và giải tỏa, nhưng àm – dương đã đôi đường cách trờ, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đàn mãi mãi là dứa con mồ côi mẹ. Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình tiết xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng áng vân Chuyện người con gái Nam Xương giàu giá trị nhân dạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch cùa người phụ nữ trong gia dinh và xã hội. Người dọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lé Thánh Tông trong bài Lại bùi viếng Vù Thị: … Chứng quả dã đôi vầng nhật nguyệt, Giái oan chẳng lọ mấy dàn tràng… Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 4 Những cuộc chiến tranh vô nghĩa giữa các phe phái phong kiến ở thế kỉ 16 đã đẩy bao số phận, bao con người, bao gia đình vào hoàn cảnh éo le, đau thương, tan nát. Thấu hiểu tận lòng nỗi khổ ấy, Nguyễn Dữ đã viết về họ, đặc biệt là người phụ nữ với tấm lòng yêu thương và sự cảm thông sâu sắc. Đọc "Chuyện người con gái Nam Xương" trích trong Truyền kì mạn lục ta bắt gặp những gửi gắm đầy nhân văn của tác giả và hình ảnh thân phận bị chà đạp của người phụ nữ thời phong kiến. Như chúng ta đã biết "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ đã làm xúc động bao thế hệ bạn đọc bởi những phẩm chất cao quý nhưng cuộc đời lại đầy oan trái của người con gái. Vũ Nương chính là nhân vật trung tâm của câu chuyện, nàng nổi bật với những nét phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tháo vát, chung thủy và khát khao hạnh phúc gia đình. Những cái xã hội nam quyền khắt khe đã đẩy cuộc đời nàng đến cảnh trái ngang, oan uất đầy bất hạnh. Mặc dù sống trong xã hội phong kiến nhưng Vũ Nương luôn biết hi sinh cái của riêng mình để đạt được cái lớn lao hơn đó chính là một gia đình êm ấm, hòa thuận. Sau khi tiễn chồng đi bằng những lời mặn nồng, tha thiết, Vũ Nương ở nhà sinh con và nuôi con một mình. Nàng cũng hết mình chăm sóc và phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang lễ bái và chôn cất mẹ chồng chu đáo khi mẹ chồng qua đời như đứa con đẻ không so bì, phân tính thiệt hơn. Trong mối quan hệ gia đình Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói có chừng mực, cho dù năm tháng xa cách, nàng vẫn luôn giữ mình, giá sạch tiết trong. Bởi thế, khi bị Chương Sinh nghi ngờ Vũ Nương phụ bạc mình, Vũ Nương chỉ biết một mực kêu oan, cuối cùng nàng đã đến bến Hoàng Giang tự vẫn. Nhưng trước đó, Chương Sinh đâu biết "người đàn ông" mà cậu bé Đản nói thật ra chính là cái bóng của chính Vũ Nương. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc giả. Liệu Vũ Nương có được cứu thoát khỏi cuộc sống đau khổ như hiện tại hay không? Liệu nàng có giải oan được cho mình hay không? Chúng ta biết khi Vũ Nương tự vẫn thì đã được Linh Phi cứu và hứa sẽ giúp cho nàng giải oan. Để giúp cho Vũ Nương giải oan, tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò chuyện với Vũ Nương nơi chốn thủy cung. Vì còn lòng yêu thương Chương Sinh nên nàng đã nhờ Phan Lang nói cho Chương Sinh biết nếu muốn gặp lại nàng thì hãy lập đàn giải oan bên sông và kêu Phan Lang đưa kỉ vật của nàng cho Chương Sinh. Khi trở về nhân gian, Phan Lang đã làm đúng theo những gì Vũ Nương đã nói. Chương Sinh vốn đa nghi nên đã không tin nhưng khi thấy kỉ vật là cây châm của Vũ Nương thì Chương Sinh đã làm theo lời Phan Lang nói. Chương Sinh lập đàn giải oan bên bờ sông thì ngay lập tức Vũ Nương hiện lên trên bờ sông ngồi trên chiếc kiệu hoa và theo sau có hơn 50 chiếc xe cơ tán, võng lọng và rực rỡ lúc ẩn lúc hiện. Vũ Nương chỉ nói một câu duy nhất: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về trần gian được nữa". Biết bao ý tình nhà văn Nguyễn Dữ đã gửi gắm và sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng định sự chung thủy, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như Chương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát vì con người đã ra đi mãi mãi không thể trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Chương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên đã đánh mất người vợ của mình. Từ những phân tích trên, chúng ta thấy cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh bèo trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chàng cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: "kẻ bạc này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài hãy chứng dám". Nói tóm lại, sự ra đi của Vũ Nương đáng thương biết bao để lại trong lòng người đọc bao niềm cảm thương, ngậm ngùi. Nhưng có lẽ đây là cách tốt nhất của tác giả để giải thoát cho số phận đau thương để cho Vũ Nương sống dưới thủy cung mới có thể tìm được hạnh phúc chính đáng và chốn nương thân che chở cho mình. Ngòi bút của Nguyễn Dữ đã mạnh dạn nêu ra và phê phán xã hội và nêu lên những nét đẹp từ phẩm chất cho người đương thời và mãi mãi về sau khâm phục, nâng niu và trân trọng. Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Bài làm 5 Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm sống giữa thế kỉ XVI lúc mà chế độ phong kiến nhà Lê đang bắt đầu suy yếu. Nguyễn Dữ chỉ làm quan có một năm rồi về sống ẩn dật viết sách và sáng tác văn học. “ Chuyện người con gái Nam Xương” được rút ra trong tập “ Truyền kì mạn lục” là một câu chuyện được nhà văn sáng tạo trở thành một tác phẩm văn học đích thực. Qua câu chuyện ta thấy nổi lên là nhân vật Vũ Nương với số phận và phẩm chất cao đẹp. Số phận của Vũ Nương là một tấn bi kịch đầy thương tâm. Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ phong kiến mang vẻ đẹp truyền thống “ công – dung – ngôn – hạnh”. Bằng sự đồng cảm sâu sắc và tấm lòng trân trọng nâng niu, Nguyễn Dữ đã dành hết tâm huyết của mình để ca ngợi Vũ Nương. Nhưng thật oái ăm, Vũ Nương được kết tinh bao nhiêu thứ đẹp thì để rồi trở nên trắng tay trong cuộc đời. Trong hoàn cảnh loạn lạc chiến tranh phong kiến, Trương Sinh phải đầu quân đi lính, nàng vất vả một mình nuôi con nhỏ chăm sóc mẹ chồng già yếu ốm đau. Cái bóng trên tường mà nàng vô tình dỗ con chính là nguyên cớ của sự sụp đổ. Ngày sum họp cũng là ngày nàng vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Đau đớn hơn nữa kẻ đẩy nàng vào chỗ chết không ai khác chính là chồng và con mình. Chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ “ Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư” mà Trương Sinh nghi vợ mình không thủy chồng. Tâm lý ghen tuông khiến Trương Sinh đến mù quáng, sự ích kỷ của kẻ vô học khiến Trương Sinh băm bổ phỉ bám và độc quyền không cho vợ thanh minh. Quả thực sự ghen tuông dẫn tới đa nghi đó của người đàn ông khiến cho người vợ dù có tinh khôn đến mấy thì cũng khó lòng mà lường hết được. Lẽ ra cuộc sống hạnh phúc là tin tưởng là cảm thông nhưng một kẻ tầm thường như Trương Sinh thì chỉ cần một cái cớ rất nhỏ ấy cũng có thể tưởng tượng ra sự việc vô cùng nghiêm trọng. Cứ thế mà dẫn tới tan nát cửa nhà. Tuy nhiên xét về khách quan, trong hoàn cảnh Trương Sinh trở về sau ba năm mẹ đã mất, chỗ dựa tinh thần lớn nhất là vợ và con. Chàng cứ suy diễn để rồi tưởng tượng có người thứ ba xen vào trong gia đình mình. Chàng không còn tỉnh táo để suy xét lời con nói ngay cả sự van xin của vợ cũng chẳng thèm lọt tai. Nàng không tự minh oan cho mình được nữa đành gieo mình xuống sông tự tử. Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi nếu như không có một đêm tình cờ “ Cha Đản lại đến kia kìa” Người cha thứ hai vô tình ấy chính là nguyên nhân sâu xa gây ra cái chết oan uổng của Vũ Nương. Thế là chỉ một trò đùa trong thương nhớ dẫn tới cái chết oan khiên của người vợ dung hạnh. Nàng chết sự lẻ loi cô đơn và nỗi ân hận sẽ là hình phạt dày vò Trương Sinh suốt quãng đời còn lại. Cái chết của Vũ Nương cũng là đại diện cho số phận chung của người phụ nữ phong kiến. Một con người đẹp nết đẹp người, thủy chung son sắt thì bị nghi oan là thất tiết. Một con người hết lòng xây dựng cho hạnh phúc gia đình đến cuối cùng phải bất hạn lìa xa cuộc đời. Tác phẩm tố cáo đanh thép cái xã hội nam quyền độc đoán, cảnh chiến tranh phong kiến dẫn tới sự chia lìa. Người đọc cũng được cảnh tỉnh về sự nhẹ dạ vô ý dẫn tới những hậu quả thương tâm. Dưới chế độ phong kiến người phụ nữ bị coi rẻ, mất hết quyền tự chủ nhưng bằng tấm lòng nhân đạo cao cả Nguyễn Dữ đã dành những trang viết hết sức xúc động để ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Mặc dù cuộc hôn nhân với Trương Sinh là hoàn toàn gượng ép nhưng nàng luôn sống yên phận hết lòng, vun đắp cho hạnh phúc nhà chồng. Biết chồng đa nghi và hay ghen lúc nào nàng cũng sống “ khuân phép” để vợ chồng khỏi “ thất hòa”. Nàng thủy chung son sắt đợi chờ chồng trong những năm tháng chồng phải đi trận mạc: “ Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Khi bị chồng nghi oan nàng cố gắng dãi bày và níu kéo khi hôn nhân có nguy cơ đổ vỡ. Chuyện mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến thường là chuyện đố kị nhất trong gia đình. Nhưng với Vũ Nương nàng là người con dâu hiếu thảo: “ Chăm sóc mẹ chồng như cha mẹ đẻ mình”, chạy chữa thuốc thang khi mẹ chồng ốm khiến cho mẹ chồng phải nể trọng. Trước khi chết bà cụ còn cầu nguyện “ xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi mẹ chồng mất một mình nàng lo ma chay rất chu đáo, được mọi người kính nể. Vũ Nương còn là người mẹ tận tụy đảm đang hết lòng yêu thương con. Một mình một bóng nuôi con Vũ Nương vừa là người mẹ dịu hiền vừa làm thay bổn phận người cha để làm chỗ dựa tinh thần cho con trẻ. Về với thủy cung, một thế giới lung linh huyền ảo, Vũ Nương được hồi sinh đúng như lời nguyện trước khi chết. Nàng vẫn mong muốn trở về với quê hương gia đình. Nhưng ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Tác giả thêu dệt bức tranh dưới thủy cung nhằm hoàn thiện nhân cách Vũ Nương: con người ấy ngay cả khi chết vẫn muốn được trở về với quê hương. Bằng tài năng sáng tạo và tấm lòng nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ là những con người có phẩm chất truyền thống tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều nỗi oan trái cay nghiệt cái xã hội mà ta nói đến là: “ Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son” ( Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương) Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Dàn ý 1) Mở bài: “Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương Miếu ai như miếu vợ chàng Trương Bóng đèn dù nhẫn đừng nghe trẻ Cung nước chi cho lụy đến nàng” (Lê Thánh Tông ) Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm ,ông sống ở thế kỉ 16, làm quan một năm, sau đó chán cảnh triều đình thối nát xin cáo quan về ở ẩn. “Truyền kì mạc lục” là tác phẩm văn xuôi đầu tiên của Việt Nam được viết bằng chữ Hán, trong đó truyện đã đề cập đến thân phận người phụ nữ sống trong XHPK mà cụ thể là nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam xương” 2) Thân bài: Vũ Nương: Đẹp người, đẹp nết: Tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, gia đình “ kẻ khó” tính tình thùy mị nết na,lại có thêm tư dung tốt đẹp Lấy chồng con nhà hào phú không có học lại có tính đa nghi. Sau khi chồng bị đánh bắt đi lính, nàng phải một mình phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạ con thơ, hoàn cảnh đó càng làm sáng lên những nét đẹp của nàng. + Là nàng dâu hiếu thảo : khi mẹ chồng bị ốm, nàng “hết sức thuốc thang” “ ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” “ khi bà mất, nàng “ hết lời thương sót”, lo ma chay lễ tế, “như đối với cha mẹ đẻ mình” + Là người vợ đảm đang, giữ gìn khuôn phép, hết mực thủy chung không màng danh vọng: ngày chồng ra trận nàng chỉ mong “ Ngày trở về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi” chứ không mong mang được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về. “ Các biệt ba năm giữ gìn một tiết” “ chỉ có cái thú vui nghi gia nghi thất” mong ngày “ hạnh phúc xum vầy” + Là người mẹ hết mực thương con muốn con vui nên thường trỏ bóng mình vào vách mà nói rằng đó là hình bóng của cha. “Chỉ vì nghe lời trẻ em Cho nên mất vợ rõ buồn chàng Trương’ Vũ Nương: Người phụ nữ dám phản kháng để bảo vệ nhân phẩm, giá trị của mình: Chồng trở về, bị hàm oan , nàng đã kiên trì bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm giá trị của mình qua những lời thoại đầy ý nghĩa Khi chồng không thể minh oan , nàng quyết định dùng cái chết để khẳng định lòng trinh bạch. Đòi giải oan, kiên quyết không trở lại với cái xã hội đã vùi dập nàng: “ Đa tạ tình chàng, thiết chẳng trở về nhân gian được nữa” Vũ Nương : Bi kịch hạnh phúc gia đình bị tan vỡ và quyền sống bị chà đạp. Bi kịch này sinh ra khi con người không giải quyết đượ cma6u thuẫn giữa mơ ước khát vọng và hiện thực khắc nghiệt, mặc dù con người hết sức cố gắng để vượt qua, Vũ Nương đẹp người đẹp nết đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc mà lại không được .Vũ Nương đã hết sức cố gắng vun đắp cho hạnh phúc gia đình, hi vọng vào ngày xum vầy, ngay cả khi nó sắp bị tan vỡ . Nhưng cuối cùng nàng đành phải chấp nhận số phận, hạnh phúc gia đình tan vỡ không bao giờ có được, bản thân đau đớn, phải chết một cách oan uổng. “ Trăm năm bia đá vẫn mòn Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” Những tính cách trên được xây dựng qua nghệ thuật: Tạo tình huống tuyện đầy kích tính Những đoạn đối thoại và những lời tự bạch của nhân vật. Có yếu tố truyền kì và hiện thực vừa haong đường. 3) Kết bài: – Nguyễn Dữ thật xứng đáng với vị trí tiên phong trong nền văn xuôi Việt Nam – Càng văn minh, tiến bộ càng quý trọng những bà mẹ, những người chị “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” “Trăm nghìn gửi lụy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng” (Nguyễn Du- Truyện Kiều)
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
6,156
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 3 4 Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 4 5 Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 5 6 Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 6 Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 1 Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã xây dựng thành công hình ảnh những con người Việt Nam kiên cường, bất khuất với một tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng. “Bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương để góp phần vào thắng lợi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc. Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật ông Hai – một người nông dân chân chất nhưng mang nặng tình yêu làng và lòng yêu quê hương, có tinh thần kháng chiến mạnh mẽ. Phải đi tản cư do làng bị địch chiếm đông nhưng ông Hai không lúc nào nguôi nỗi nhớ về làng mình. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bó sâu nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra, ở lớn lên. Tình yêu ấy được Kim Lân cảm nhận một cách sâu sắc và thể hiện hết sức giản đi, chân thành. Những ai đã đọc Làng đều cảm nhận được ở ông Hai tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với làng xóm, với quê hương. Đối với người nông dân chất phác ấy, tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim, ngấm sâu vào máu thịt. Cũng như bao người dân lao động khác, cả một đời ông Hai gắn bó với mảnh đất quê nghèo mà nặng sâu ân tình. Cái làng chợ Dầu ấy đã trở thành nguồn vui sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách chân thật, nồng nhiệt, vừa có những nét quen thuộc vừa có những nét riêng biệt chỉ có ở ông Hai. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì thuộc về làng, thậm chí yêu cả những cái mà ông và biết bao người đã phải khổ sở vì nó. Ông Hai tự hào vì làng Chợ Đầu của ông có những ngôi nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mùa phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất… Ông tự hào về tất cả những nét độc đáo, những thứ đã làm nên bề dày lịch sử của làng ông. Nhưng tình yêu làng của người nông dân ấy không bất biến mà thay đổi theo thời gian, theo sự biến chuyển của thời đại. Kháng chiến nổ ra mang theo những luồng tư tưởng mới chiếu rọi tâm hồn ông. Giờ đây, đối với ông Hai, cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia đầu đăng căm thù; niềm tự hào về làng là những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy tham gia; những hố, những ụ, những hào…, chiếc chòi phát thanh. Tất cả những điều đó, từ những cái nhỏ nhặt đến những điều "lớn laọ, đều trở thành đối tượng của tình yêu tha thiết, đậm sâu trong ông. Qua những lời khoe của ông Hai, ta cảm tưởng như cảnh vật làng xóm đã hằn in trong ông, chiếm trọn con tim, khôi óc người nông dân ấy. Yêu làng, ông Hai có nhu cầu thể hiện, thổ lộ tình yêu ấy với tất cả mọi người. Đi đến đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Ông say sưa kể về làng của mình mà không cần biết người nghe có chủ ý hay không. Mỗi khi bắt đầu nói về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mất biến chuyển”. Chỉ một chi tiết ấy thôi, Kim Lân đã khắc họa thành công tình cảm thiêng liêng của ông Hai dành cho mảnh đất quê mình. Tình yêu ấy luôn hâm nóng trong trái tim của ông Hai và càng trở nên mạnh mẽ hơn khi ông phải xa làng. Trong những ngày xa quê, sống nơi sơ tán xa lạ chính tình yêu làng đã trở thành trong ông. Những khi mệt nhọc, chỉ cần nghĩ về làng, kể chuyện làng là ông quên hết tất cả. Nếu như cuộc sống cứ diễn ra yên bình như thế thì tình yêu làng của ông Hai mới chỉ là "tâm lí làng xã” của những người dân quê Việt Nam – những con người cả đời gắn bó với lũy tre, cây đa, bến nước, sân đình; yêu nơi “chôn nhau cắt rốn” bằng một tình yêu bản năng, máu thịt. Kim Lân đã để cho nhân vật trải qua tình huống truyện độc đáo: ông Hai nghe tin làng theo Tây. Đây chính là tác nhân làm bùng nổ tình yêu nước thiết tha, sâu đậm của ông. Ở người nông dân ấy, tình yêu làng gắn liền với lòng yêu nước. Ta bắt gặp ở đây chân lí về cội nguồn của lòng yêu nước theo quan điểm của nhà văn Liên Xô (cũ) I. Ê-ren-bua: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Nghe tin làng theo giặc, “Cổ ông nghẹn đắng hắn lại, da mặt tê rân rân…, ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được”. Trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: ông tủi nhục, đớn đau, ông tự giày vò, “ông hồ nghi rồi lại tự nhủ mình phải tin vì mọi chuyện đã hết sức rõ ràng. Cuối cùng, ông cay đắng rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này,…”. Tiếng rít ấy là tiếng nói của lòng căm hờn, sự căm giận đang ngùn ngụt trong lòng ông Hai. Trong ông đang có cuộc giằng co dữ dội: ông yêu làng, làng ông đáng tự hào là thế, mà giờ lại thế mà giờ lại theo Tây. Tình cảm của ông phải thế nào đây? Nhưng sự giằng co ấy nhanh chóng đi đến kết luận: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì ta phải thù. Một thái độ dứt khoát, một tình yêu mạnh mẽ nhưng không mù quáng. Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải gắn với nước. Giờ đây, “làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thể yêu làng như xưa được nữa. Niềm tin, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết… tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai… Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng, những suy nghĩ và… cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai trong những ngày nghe tin làng theo Tây chính là tình huống giúp Kim Lân khắc họa rõ nét hơn bức: chân dung tinh thần và lòng yêu nước sâu nặng, tình yêu làng tha thiết của ông Hai. Ông thấy tủi hổ vì niềm tự hào bấy lâu nay của ông giờ thành ra như thế. Ông chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi, ông thương lũ con ông vì chúng có một quê hương đáng xấu hổ; “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”. Suốt những ngày đó, ông không dám đi đâu, chỉ “nằm rũ ở trên giường, không nói gì”, “quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội mà nghe ngóng”, lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Ta bỗng hiểu hơn tại sao tác giả lại kể và tả tỉ mỉ những biểu hiện của tình yêu làng nơi ông Hai những ngày làng còn chưa bị đồn là theo Tây. Nó là sự đối nghịch với thái độ kiên quyết khi nghe tin làng làm Việt gian, là sự khẳng định mạnh mẽ tình yêu nước lớn lao trong ông. Tình yêu ấy không chỉ là bản năng mà đã trở thành ý thức – ý thức của một công dân. Nó gắn liền với tình cảm dành thể kháng chiến và đối với Cụ Hồ, được thể hiện. thật cảm động khi ông giãi bày tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và là lời tự nhủ của chính ông trong những lúc căng thẳng, thử thách. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổbsoi xét cho bố con ông”. Những lời bộc lộ chân tình ấy là biểu hiện của tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ; cũng là thể hiện tình yêu đất nước thiết tha. của ông Hai. Tình cảm của một người nông dân nghèo đối với đất nước và kháng chiến thật sâu nặng và thiêng liêng: “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Niềm vui sướng vỡ òa khi ông Hai biết rằng làng mình vẫn là làng kháng chiến. Không còn nỗi tủi nhục đè nặng trong lòng, ông lại tiếp tục đi khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, lại ngồi trên chiếc chõng tre, nên quân lên tận bạn mà nói chuyện về cái làng của ông”. Người nông dân vốn gắn bó với nhà của ruộng vườn… Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thể. Nhưng ta lại bắt gặp hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi. rồi, hết hẳn”. Ông sung sướng bởi việc Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian. Làng vẫn là tình yêu, là niềm tự hào tha thiết của ông Hai. Nhà ông bị đốt hết nhưng như thế có là gì. Đó chỉ là một phần ông cống hiến cho đất nước. Tài sản riêng mất mát nhưng cách mạng, đất nước sẽ vững mạnh hơn,’đó mới thực sự là niềm vui, là hạnh phúc. Tình yêu làng, yêu nước, hòa quyện trong tâm hồn người nông dân mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. Làng của Kim Lân là một khúc ca về tình yêu quê hương đất nước mà những người lao động nghèo là những thanh âm trong trẻo, réo rắt nhất, để lại bao dư âm lắng đọng trong lòng độc giả. Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài. phong tục. Trong truyện Làng, sự thông hiểu về lễ thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thủy chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc.… Ai đó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải. Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 2 Có những tác giả chỉ dành riêng cho một chủ đề, một đối tượng, khi đọc thì không hề lẫn lộn với bất cứ ai hết. Kim Lân là nhà văn như vậy, có lẽ ngòi bút của ông chỉ giành cho người nông dân, ông viết hay về những mảnh đời nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có tấm lòng hiền hậu. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” ám ảnh người đọc vì sự bình dị và tấm lòng yêu , đất nước. Ông Hai là người nông dân rời làng đi tản cư, nhưng trong lòng ông vẫn đau đáu nhớ thương về quê hương và hết lòng ca ngợi mảnh đất từng gắn bó. Có lẽ người đọc sẽ rơi nước mắt khi thấy được những dằn vặt trong lòng ông Hai qua từng giai đoạn. Ông Hai được Kim Lân xây dựng bằng thứ ngôn ngữ bình dị, gần gũi và chân chất nhất. Ông Hai hiện lên trên trang viết của Kim Lân là người yêu quê hương, tự hào về quê hương. Dù rời làng đi tản cư nhưng ông Hai luôn mang theo ấy đi kể với mọi người. Ông khoe với mọi người làng của ông đẹp lắm, giàu có lắm, đậm tình người lắm “làng mình nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh; nào là đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối làng không hề lấm gót, ngày mùa phơi thóc phơi rơm thì tốt thượng hạng”. Qua lời kể của ông Hai thì của ông rất đẹp, rất trù phú, hơn hẳn những ngôi làng khác. Lòng tự hào, vui tươi qua từng lời kể về quê hương khiến người đọc hình dung được tình yêu mãnh liệt, tha thiết của một người con xa quê đối với nơi đã từng gắn bó rất lâu. Nơi mà ông luôn nhớ về là làng Chợ Dầu, kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác giả đã tạo tình huống truyện đi tản cư của ông Hai để khắc họa diễn biến cũng như tính cách nhân vật qua từng giai đoạn. Ông buộc phải rời bỏ quê nhà đến một nơi khác để sinh sống, và ông vẫn luôn dõi theo từng bước đổi thay của làng Chợ Dầu. Nỗi nhớ về làng quê trong ông cứ chồng chất qua từng ngày, ông cứ nhớ và cứ kể về mảnh đất ấy với niềm say sưa bất tận. Có lẽ sự dằn vặt, trăn trở trong những ngày tháng tản cư của ông Hai khiến người đọc phải thổn thức. Ông đã phải đấu tranh tư tưởng để có thể rời xa làng, rời xa nơi sinh ra và lớn lên. Nhưng có lẽ diễn biến tâm trạng của ông được diễn tả chân thực và sâu sắc qua đoạn nghe tin làng chợ Dầu theo Tây. Ông không tin, không cho rằng đó là sai sự thật, vì làng chợ Dầu của ông vẫn luôn kiên cường đối với khánh chiến. Ông Hai đau đớn khi biết tin làng mình theo Tây, bỏ cách mạng, bỏ những năm tháng sống gắn bó với nhau. Những ngày này, ông “nằm vật ra, đau đớn, sợ người ta để ý, bàn tán về việc làng chợ Dầu theo giặc”. Nỗi niềm này của ông Hai được Kim Lân diễn tả rất , chân thực và rõ nét nhất. Sự căm phẫn, đau đớn ấy đã được đẩy lên cao“Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Có lẽ đây là lần đầu tiên ông không kiềm chế được cảm xúc mà nói ra những lời nặng nề nhưng đầy đau đớn như vậy. Có những những ngày tháng này là những ngày tháng tối tăm nhất trong cuộc đời của ông Hai. Mặc dù yêu làng, yêu quê hương nhưng khi nghe tin quê hương bán nước ông lại vừa đau đớn, vừa căm phẫn đến cực độ. Đến khi nhận được tin báo làng chợ Dầu vẫn kiên cường chống địch thì ông bỗng nhiên vui tươi và phấn khởi. Sự thay đổi tâm lý, tình cảm đột ngột như vậy đã chứng tỏ được tình yêu nước của ông mãnh liệt như thế nào. Ông lại bắt đầu khoe làng chợ Dầu đã phải tự đốt làng mình như thế nào. Hơn hết chi tiết ông khoe “Chúng nó đốt nhà tôi rồi chú ạ” đã diễn tả được tâm sự của ông trong thời gian qua. Ông chỉ mong ông trong sạch và làng mình trong sạch, như thế là đã đủ rồi. Ông vui mừng vì dân làng chợ Dầu dù có bị đốt làng nhưng vẫn kiên quyết giữ làng, không hề bán nước. Như vậy, bằng ngòi bút chân thực, giản dị Kim Lân đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh người nông dân tiêu biểu cho tình yêu làng, yêu nước như ông Hai. Qua đó khẳng định được tình yêu luôn chiến thắng tất cả. Dù chiến tranh ác liệt thì chỉ cần có tình yêu và kiên trì nhất định sẽ giành thành công. Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 3 Người nông dân tự bao đời nay đã gắn bó thân thiết với làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi để lại trong cuộc đời biết bao kỉniệm đầm ấm. Làng trở thành niềm vui nỗi nhớ và biết mấy tự hào của người nông dân. Nhân vật ông Hai trong truyện “Làng” của Kim Lân đã yêu làng như thế đó. Ông Hai yêu làng say mê đến nỗi đi đến đâu, gặp ai cũng khoe về cái làng chợ Dầu của mình: nhà ngói san sát, sầm uất, đường lát toàn đá xanh, phòng thông tin sáng sủa rộng rãi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre… Ông tự hào làng mình cái gì cũng hơn làng khác, mỗi lần có khách đến chơi ông đều bắt họ đến xem cái “sinh phần” của viên tổng đốc. Nhưng sau cách mạng tình yêu làng của ông Hai có thay đổi. Cũng cái “sinh phần” đó của “cụ tôi” nay ông lại căm thùnó vì cái lăng đó làm khổ ông và làm khổ người làng. Từ này ông khoe làng theo cách khác, đó là không khí rộn rịp của những ngày khởi nghĩa, những buổi tập quân sự, những hố, những ụ, những giao thông hào để chuẩn bị kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến bùng nổ, nhiều nông dân ở quê ông phải tản cư. Vợ con ông đã đi, trong tình cảm sâu xa ông không muốn xa làng, bỏ anh em: “…ông cha cụ kỵ mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp cái lúc hữu sự như thếnày mình lại đâm đầu bỏ đi, còn ra thế nào nữa”. Nhưng rồi vì thương vợ con gieo neo, bà vợ lại khẩn khoảnnhiều lần nên ông cũng đành theo vợ con tản cư, lòng vẫn tự an ủi: “Thôi thì chẳng ở lại cùng anh em được thì tản cư âu cũng là kháng chiến”, Những ngày tản cư ông rất nhớ làng, nỗi nhớ đó cứ dày vò ông làm cho ông đâm ra buồn phiền, bực bội cáu gắt. Nhiều khi nghĩ đến làng, nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em lòng ông lại náo nức muốn về làng để tham gia kháng chiến cùng anh em. Rõ ràng tình yêu làng của người nông dân sau cách mạng có bước phát triển mới, yêu làng gắn liền với yêu nước, tham gia cuộc kháng chiến để bảo vệ xóm làng quê hương. Vì vậy khi nghe tin làng đã theo Tây làm Việt gian lòng ông rất đau xót và tủi nhục: cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi tưởng như không thở được. Từ nay ông không dám bước ra khỏi nhà, không dám vào nhà ai, không dám nhìn mặt ai, có đám đông xúm lại cũng để ý, có tiếng xì xào cũng chột dạ. Bà chủ cũng tỏ thái độ khinh bỉ cái làng ông, đuổigia đình ông đi cũng vì làng ông theo Tây làm Việt gian, và “đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”. Gia đình ông bế tắc, tuyệt đường sinh sống, có lúc ông lại muốn trở về làng nhưng ý nghĩ đó lập tức lại gạt đi: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Ông căm thù những đứa làm Việt gian, căm thù cái làng của ông: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Lòng yêu ghét của ông Hai thật phân minh, dứt khoát. Có lẽ trong những ngày tủi nhục này, niềm ai ủi duy nhất đối với ông là những lúc ôm thằng con trai út vào lòng vỗ về nó, trò chuyện với nó, một mực nó vẫn “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Dù trong hoàn cảnh nào kể cả khi làng chợ Dầu của ông đã theo Tây, cha con ông vẫn một lòng một dạ theo kháng chiến, ủng hộ cụ Hồ. Tấm lòng thủy chung son sắt của người nông dân đối với cách mạng thật cảm động. “Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai” là một lời nguyền của người nông dân với cách mạng. Nhưng nỗi niềm vui sướng hả hê đã đến với ông Hai khi ông biết tin đích xác do ông chủ tịch làng cải chính cái tin làng chợ Dầu theo Tây. Nét mặt ông vui tươi rạng rỡ hẳn lên, mồm bôm bẻm nhai trầu, mắt hung hung đỏ hấp háy. Ông thân mật, vui vẻ cởi mở với con cái. Ông sung sướng múa tay lên mà đi khắp các nhà khoe với mọi người làng mình vẫn theo kháng chiến. Mặc dù biết tin nhà mình bị đốt, “đốt nhẵn” nhưng vẫn không nuối tiếc gì, ông còn tỏ ra hả hê khoe với bà con: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn”. Cho dù nhà có bị đốt nhưng niềm vui sướng, hãnh diện nhất về cái làng chợ Dầu của mình không theo Tây làm Việt gian, làng mình vẫn theo kháng chiến. Niềm vui, nỗi buồn của người nông dân đều gắn chặt với cái làng quê thân yêu của họ. Nhà văn sống gần gũi, người nông dân, thấu hiểu tâmhồn của họ nên đã diễn tả được những nỗi thầm kín sâu xa của họ. Nhân vật ông Hai thật đáng yêu. Và ta càng cảm phục những người nông dân thật thà, chất phác, thủy chung như ông Hai trong hai cuộc kháng chiến vừa qua đã một lòng một dạ hi sinh vì cách mạng. Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 4 Cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến một "làn gió mới cho dân tộc ta, lật trang sử đất Việt sang một trang mới. Đất nước đổi khác, xã hội cứ theo đà mà ngày một tiến lên, con người Việt Nam cũng từ đó mà thay đổi. Từ những con người nông nghiệp, lam lũ vất vả, cả đời gắn bó nơi mảnh ruộng làng quê, sau lũy tre làng rì rào trong gió, giờ đây – khi đất nước đổi mới, họ đã thực sự ý thức được thế nào là tự do – tự chủ, lòng tự tôn dân tộc. Ở những người nông dân chân chất, mộc mạc đó xuất hiện một tình cảm mới, một thành quả tất yếu mà cách mạng đem đến: lòng yêu nước, yêu quê hương, làng xóm. Điều này – sự đổi thay đó được thể hiện rất rõ qua nhân vật ông Hài trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Ông đã đưa tình yêu làng lên tình yêu nước, gắn tình yêu làng với tình yêu cách mạng, nét giống đó mang vẻ đẹp tư tưởng mới ở người nông dân, đã đưa nhân vật ông Hai lên vị trí một điển hình người nông dân trong buổi giao thời mớ cũ". Nhân vật ông Hai là một điển hình của người nông dân trong buổi giao thời mới cũ, tức là trong buổi đầu của kháng chiến chống Pháp. Ông Hai là một lão nông nghèo, sống trong thời kì mà đất nước ta đang còn đang tồn tại song song hai chế độ: phong kiến và thực dân. Là một con dân của đất Việt, ông cũng như bao người dẫn thời bấy giờ, "một cổ mà phải chịu hai tròng", sống kiếp nô lệ, lầm than. Khi đất nước ta khởi động phong trào chống bọn thực dân xâm lược, ông Hai đã nghe theo tiếng gọỉ của Tổ quốc, giác ngộ ra chân lí của cách mạng, ông hiểu rằng việc nước có yên thì việc nhà mới ổn. Trong ông, tình yêu làng quê, xóm giềng luôn gắn bó chan hòa với tình yêu đất nước, một lòng một dạ trung hiếu với cách mạng, với Cụ Hồ. Đó là một vẻ đẹp tư tưởng mới mà chỉ những người nông dân trong thời kì này mới có – những con người đã được ánh sáng cách mạng soi sáng, mở đường chỉ lối thoát khỏi cuộc sống khổ sai, nô dịch. Tình làng nghĩa xóm là một tình cảm sâu nặng thiêng liêng và là đặc trưng của mỗi người Việt Nam, nhất là đối với người nông dân; những con người mà cả cuộc đời gắn bó với làng quê, với lũy tre làng, giếng nước, gốc đa.,. Cuộc sống của những con người đó là ở làng xóm, quê hương mình. Chính là mạng sống, là những gì thân thương nhất của cuộc đời họ. Ở ông Hai, tình yêu làng cũng giống như mọi người, nhưng lại rất riêng ở mức độ là một người nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, họ hàng gần xa, vậy mà giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông Hai phải xa rời quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách quê người. Do đó, lòng ông luôn đau đáu nhớ về quê hương. Để thỏa nỗi mong nhớ ấy, ông Hai suốt ngày khoe về làng mình, khoe đến mức "nghiện" được khoe làng. Tối nào ông Hai cũng sang nhà bác Thứ – một người dân tản cư khác để khoe về làng mình, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình, ông khoe làng ông đẹp nhất nhì thiên hạ, đường làng phong quang, sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cái cổng thành. Nào là làng ông là làng sầm uất nhất tỉnh, nào con đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa đi bùn không dính gót. Ông khoe với cái giọng "say sưa và náo nức", cái mặt thì ”biến chuyển", "quần vén lên tận bẹn, không cần để ý đến thái độ của người nghe, chỉ nói cho sướng miệng" và "cho đỡ cái nỗi nhớ làng”. Tính hay "khoe" này cho thấy ông rất tự hào về làng xóm của mình, làng Chợ Dầu thân yêu, tình yêu làng, của ông có thể nói là "nồng nhiệt, thiết tha" nhất! Nếu như trước Cách mạng, ông Hai chỉ yêu làng mình với những gì cụ thể, hiện hữu nhất, quen thuộc với đời sống sinh hoạt của làng xóm. Ông tự hào về tất cả những gì mà làng xóm mình có, thậm chí ông còn khoe cả cái sinh phần – cái lăng mộ – của viên quan tổng đốc người làng, mặc dầu dân làng ông đã vì nó mà đổ bao mồ hôi xương máu. Thì sau Cách mạng, trong kháng chiến mọi cảm xúc về làng quê của ông đều sống vội đời sống chiến đấu của làng mình, của cả dân tộc. Những khát khao, tự hào, sung sướng của ông đều gắn với cuộc sống kháng chiến. Ông Hai thường hay nhớ lại những ngày tháng cả làng ông chuẩn bị kháng chiến: đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá, ông cũng hát hỏng, cũng bông phèng, cũng đào, công cuốc mê man suốt cả ngày như thời trai trẻ "ồ, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra”, "Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!". Ông Hai còn thích nghe tin tức, thích nói chuyện chính trị ông ghét người đọc báo bằng mắt vì khổ nỗi, ông đọc chữ khó khăn lắm nên ông thích những người đọc to, rõ ràng, cho mọi người nghe thấy. Điều này, thể hiện niềm khát khao được biết, được hiểu. Ông muốn tìm hiểu những thông tin hay về kháng chiến, những thông tin cập nhật nhất về việc chiến đấu của quân dân ta. Nghe tin quân ta giành được nhiều thắng lợi mà "ruột gan ông cứ múa cả lên", quan điểm cách mạng của ông là tích tiểu thành đại, dần dà sẽ thắng được bọn thực dân "làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm". Ông khoe và tự hào về hào giao thông làng mình được phân bố rộng, chặt chẽ. Người dân trong làng thì hăng hái tham gia kháng chiến, nào là đào đường, đắp ụ… công việc có ích cho cách mạng, phục vụ công cuộc chiến đấu là làm tất! Cả làng làm, người người làm từ già đến trẻ, từ lớn đến bé đều hăng say làm việc, đoàn kết, giúp đỡ nhau. Ông còn tự hào về phòng phát thanh tuyên truyền vừa rộng, vừa sạch, nơi đầy có đủ loại sách báo, cập nhật những tin tức mới nhất về kháng chiến cho người dân. Cho đến khi được giải tỏa nỗi đau đớn, nghi ngờ về danh dự của làng Chợ Dầu khi nghe tin làng quê ông phản bội. Ông đã sung sướng biết nhường nào! "Cái mặt buồn thỉu mỗi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…”. Ông tất bật đi chia quà cho con rồi lại "lật đật" đi "khoe", "bô bô" khoe mọi người cái tin làng ông bị đốt nhẵn", nhà ông bị "đốt nhẵn". Ông đã sung sướng thông báo rằng: "Tây nó đốt nhà tôi rồi". Nội dung lời "khoe" của ông có vẻ vô lí vì không có thể vui mừng trước cảnh làng của mình, nhà của mình bị giặc tàn phá, nhưng lại hoàn toàn chân thực. Dường như đối với ông lúc ấy cái sự việc phũ phàng kia là một chứng minh hùng hồn nói với mọi người rằng làng quê ông đã dũng cảm chiến đấu chống quân thù, căn nhà ông bị cháy, bị thiêu hủy, đã như một dũng sĩ anh hùng ngã xuống vì sự nghiệp chung, là một minh chứng rõ ràng nhất cho sự trong sạch của quê hương ông. Hành động của ông Hai nổi lên rằng: những mất mát về vặt chất ấy chẳng thấm vào đầu sò với niềm vui tinh thần mà ông được đón nhận, làng ông vẫn là làng kháng chiến, vẫn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Ta có thể hiểu được niềm sung sướng, tự hào của một con người đã xóa bỏ hết mọi nghi oan, ngờ vực với "nơi chôn rau cắt rốn" của mình. Đặc biệt khi ông Hai lại có tình yêu làng sâu sắc đến vậy! Nghe tin cải chính mà lòng ông như trút được gánh nặng, giải tỏa mọi nỗi lo toan, sợ hãi, thất vọng, bế tắc của ông. Ông Hai yêu làng đến vậy, ông luôn tự hào về làng mình đẹp, rộng, thoáng mát, hơn nữa làng Chợ Dầu quê ông lại là làng kháng chiến, một lòng một dạ với cuộc chiến giành độc lập, tự do của dân tộc. Nhưng khi nghe làng ông đi theo Tây, phản bội lại cách mạng, phản bội lại Cụ Hồ ông đã rất đau xót, khổ tâm. Yêu quê hương đất nước; ông không muốn rời xa làng quê của mình đi sơ tán, ông muôn trụ bám cùng ngôi làng thân yêu. Do hoàn cảnh bắt buộc phải đi nhưng ông Hai có lúc cảm thấy xấu hổ, mặc cảm mình là người chạy trốn, không ở lại với làng, ở lại với anh em đồng bào để cùng chiến đấu vì thế ông thường gắt gỏng những chuyện không đâu. Chỉ khi nghe cán bộ nói "đi tản cư âu cũng là kháng chiến", đi tản cư cũng là ủng hộ cách mạng, ủng hộ Cụ Hồ, ông Hai mới thỏa nỗi lòng. Điều này cho ta thấy ước muốn trực tiếp tham gia kháng chiến đó cũng là biểu hiện cao độ của tình yêu làng. Đặc biệt, tình yêu quê hương đất nước càng sâu sắc hơn, khi ở nơi tản cư, ông nghe tin làng ông theo Tây. Mới đầu nghe những người tản cư nói giặc qua làng Chợ Dầu, "ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi" chắc hẳn trong đầu ông lão đang hi vọng làng anh hùng Chợ Dầu sẽ giết được nhiều giặc, lập nhiều chiến công như ông cũng vừa nghe trên báo. Thế nhưng từng lời của người đàn bà "Cả làng chúng nó Việt gian, Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi" như lưỡi dao cắt đứt từng khúc ruột ông. Như không tin vào hiện thực, ông hỏi lại với chút hi vọng nhỏ nhoi "Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…". Sự thật vẫn là sự thật dù ông cố tìm cách lảng tránh, trong lòng đầy tủi hổ. Ông lão đau khổ đến mức "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được". Cái nghèn nghẹn ấy phải chăng là sự uất ức, tức giận, ngạc nhiên không thể nuốt trôi? Về nhà, ông nằm vật ra giường "nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu..". Lũ con ông có tội tình gì đâu cơ chứ, chúng chỉ là những đứa trẻ ngây thơ vô tội thế mà giờ đây, những đứa trẻ đó cũng mang danh là "Việt gian". Chua xót thay! Ông Hai bắt đầu chửi thề, nhưng ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Ông đau khổ, tủi cực, ông lo không biết rồi tương lai của mình và gia đình sẽ như thế nào vì ai người ta chứa cái giống Việt gian! Suốt mấy hôm ông lão ở ru rú trong nhà, không đi đâu tới nửa bước, chỉ cần nghe người ta nói "Việt gian…" là ông lại chột dạ, lo lắng. Trong ông đang diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt giữa niềm tự hào kiêu hãnh về quê hương với sự thất vọng, đau xót, tủi hổ, nhục nhã vì mang tiếng là dân của làng Chợ Dầu phản bội. Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Đó không phải là một điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì dứt bỏ, còn cách mạng lại là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Qua những ngày đấu tranh tư tưởng, đau đớn, dằn vặt, có lúc ông Hai đã nghĩ đến việc quay về làng, nhưng sau đó ông gạt ra ngay vì về làng là theo giặc, phản bội lại cách mạng, phản bội lại Cụ Hồ, cuối cùng ông Hai đã đi đến quyết định "Làng thà yêu thật, nhưng làng đã theo Tây mất rồi thì phải thù". "Thù" – thù làng quê của chính bản thân mình là rất khó khăn mà lại thù cái mà mình yêu quý nhất, xem trọng nhất thì càng khó khăn hơn. Nhưng ông Hai đã quyết định, đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng. “Đưa tình yêu làng lên trên tình yêu nước, gắn tình yêu làng với tình yêu cách mạng, nét giống đó đã mang vẻ đẹp tư tưởng mới ở những người nông dân” Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Ông Hai đã được giác ngộ về ý thức làm chủ, về sự thủy chung với kháng chiến, với Cụ Hồ. Cuộc trò chuyện với đứa con út đã làm ông Hai vơi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng và yên tâm hơn về quyết định của mình. "Anh em đồng chí biết cho bố con ông", "Cụ Hồ trên đầu trên có xét soi cho bố con ông", "Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai". Chính vì không dám đơn sai mà ông Hai đã đi đến quyết định: "Làng thì yêu thật, nhưng làng đã theo Tây mất rồi thì phải thù". Quyết định đó là sự giác ngộ của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám, ý thức được rõ ràng mỗi người dân yêu nước là làm cho đất nước vững mạnh hơn. Trong kháng chiến, những tâm trạng, những tình cảm ấy người dân Việt Nam nào chẳng có. Nhưng nó thường trực và trở thành sự hối thúc, bức bách, chi phối mọi tình cảm, đời sống hàng ngày của con người đến thế thì chỉ có riêng ở nhân vật ông Hai. Những nỗi đau, những niềm vui đó phản ánh chân thực, sinh động sự gắn bó máu thịt của ông với làng quê, với đất nước, với cách mạng. Ông đến với cách mạng, yêu cách mạng một cách tự nhiên là nhờ tình yêu làng đó, thật đúng như lời nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã nói, "Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc". Chính sự hài hòa giữa tình yêu làng với tình yêu nước, tình yêu cách mạng mà nhân vật được nâng lên một vẻ đẹp mới, vừa truyền thống, vừa đầy tính dân chủ mới mẻ, mang một, tầm vóc mới cho người nông dân thời kháng chiến chống Pháp. Tình cảm, mối quan hệ giữa tình yêu làng, tình yêu đất nước, cách mạng là một tình cảm rất điển hình của người Việt Nam lúc bấy giờ. Chính nó cũng tạo sức sống riêng, đánh dấu mốc quan trọng trong đề tài người dân quê quen thuộc của nhà văn Kim Lân. Ý thức được trách nhiệm của bản thân trong cộng đồng, trong công cuộc chiến đấu chung của dân tộc là nét mới của người nông dân Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám. Vẻ đẹp của ông Hai làng Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam, tuy trình độ văn hóa thấp, nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Với những suy nghĩ thật đúng đắn về cách mạng, ông Hai xứng đáng là một điển hình người nông dân trong buổi giao thời mới – cũ. Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 5 Kim Lân là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ viết về sinh hoạt của nông dân và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn Nghệ xuất bản năm 1948. Truyện tập trung nói về lòng yêu nước của ông Hai, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình và nó đã hòa nhập giữa làng và nước. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở nỗi người dân Việt Nam ta trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Qua hình tượng ông Hai, người đọc sẽ hiểu rõ hơn lòng yêu nước của nhân dân ta lúc bấy giờ. Làng chợ Dầu có chiến sự, ông Hai phải tản cưđến làng Thắng, vùng tự do theo chính sách của cụ Hồ: “Tản cư là yêu nước”. Nhưng không phải ra khỏi làng chợ Dầu là ông Hai bỏ lại sau lưng tất cả mà ngược lại, lúc nào ông cũng trông ngóng tin tức và theo dõi những biến chuyển ở làng chợ Dầu. Đó là nơi tổ tiên ông sinh cơ lập nghiệp, nơi ông sinh ra và lớn lên. Biết bao tình cảm đã gắn bó với cảnh vật, với dân làng nơi mảnh đất quê hương ấy. Bởilẽ đó mà mỗi khi nói đến làng chợ Dầu, ông nói với giọng “say mê và náo nức lạ thường”, ông Hai đã yêu làng chợ Dầu bằng một tình yêu thật đặc biệt. Ông yêu tất cả những gì ở làng ông: những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh, cái sinh phần của viên quan Tổng đốc… Từ sau Cách mạng tháng Tám, lòng yêu làng quê của ông Hai có những chuyển biến rõ rệt. Trước kia ông hãnh diện vì làng ông giàu có, to đẹp. Giờ đây ông lại tự hào về những cái khác: phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi đắp ụ, hố, giao thông hào… luôn cả cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh… Trong con mắt ông Hai, cái gì của làng chợ Dầu cũng đều đáng tự hào hết. Vì vậy từ lúc phải đi tản cư, ông khổ tâm day dứt không nguôi. Quả thật cuộc đời và số phận của ông thật sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của mình đã trở thành truyền thống, là tâm lí chung của mọi người dân lúc bấy giờ. Chính cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu nước hòa nhập thống nhất với tình cảm làng quê thành một thứ tình cảm rộng lớn nhất. Đến đây, tác giả đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt đế bộc lộ sâu sắc lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai. Tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Nghe tin đột ngột, ông Hai sững sờ “cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quýcủa mình đã theo giặc Bao nhiêu điều tự hào trước kia giờ đây sụp đổvà nó trở thành nỗi xấu hổ vô cùng. Từ lúc ấy ông Hai không dám đi đâu, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ tưởng như người ta đang bàn tán đến chuyện ấy… Và từ nỗi ám ảnh nặng nề đó trở thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai với nỗi đau xót, tủi hổ trong lòng. Làng và nước trở thành đôi địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến một cuộc xung đột nội tầm ở ông Hai. Vì thếcó lúc ông nghĩ “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Rõ ràng tình yêu nước rộng lớn hơn nên bao trùm lên tình yêu làng quê. Mặc dù đã xác định như vậy nhưng ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng chợ Dầu được, nên nỗi ray rứt ngày càng văng thêm. Phải thật sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người nông dân nên nhà văn Kim Lân mới diễn tả rất đúng tâm trạng nhân vật ông Hai như vậy. Từ đó, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi khổtâm vào đứa con nhỏ ngây thơ: “Nhà ta ở làng chợ Dầu”, “ủng hộ cụ Hồ con nhỉ!”. Những lời tâm sự ấy thực chất là tự nhủ với chính mình nhằm khẳng định lòng thuỷ chung với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng là cụ Hồ. Lòng yêu nước của ông Hai còn được biểu hiện rõ nét hơn khi nghe tin đính chính: làng bị giặc tàn phá, không theo Tây. Những nỗi lo âu, xấu hổtan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng khôn xiết nên ông nói bô bô “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chúạ. Đốt nhẵn!”. Đây quả là một niềm vui kì lạ. Niềm vui mừng thể hiện một cách đau xót và đầy cảm động về tình yêu nước và cách mạng của ông Hai. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai cũng là tình cảm chung của những nông dân hay đúng hơn là của nhân dân ta lúc bấy giờ, thời kháng chiến chống Pháp. Đối với họ trong lúc này, trước hết và trên hết là Tổquốc. Vì Tổ quốc họ sẵn sàng hi sinh tất cả dù đó là tính mạng hay tài sản. Tình yêu nước của nhân dân ta là như thế. Thành công của Kim Lân là xây dựng theo cốt truyện tâm lí, tạo tình huống có tính căng thẳng thử thách nội tâm nhân vật đểtừ đó bộc lộ tâm trạng, tính cách nhân vật. Đặt tác phẩm vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ta mới thấy hết giá trị thành công của nó. Bởi lẽ thông qua nhân vật ông Hai với những ngôn ngữ, cử chỉ, tâm trạng… tiêu biểu là một người nông dân có cá tính riêng: vui tính, thích trò chuyện nhưng cũng ham nói chữ. Đó là nét tâm lí chung của quần chúng. Cách trần thuật tự nhiên, linh hoạt khiến cho truyện sinh động, hấp dẫn hơn. Tóm lại, “Làng” của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc, khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến: tình cảm quê hương, đất nước. Đây là một tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấytrong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang màu sắc riêng, tô đậm rõ cá tính của nhân vật. Tình yêu làng quê, yêu đất nước, yêu kháng chiến của nhân vật ông Hai trong truyện là tình cảm thực sự của nhân dân ta trong thời kháng chiến. Truyện giúp ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước tha thiết và cao cả đến thế. Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân – Bài làm 6 I. PHÂN TÍCH ĐỀ 1. Nội dung: • Ông Hai là người nông dân gắn bó thiết tha và tự hào về làng của mình. Niềm tự hào đó trước và sau cách mạng có thay đổi. • Yêu làng gắn liền với yêu nước, yêu kháng chiến vì thế ông rất đau khổ khi được tin làng mình theo Tây. Và hả hê vui sướng khi biết chính xác làng vẫn theo kháng chiến. • Nhân vật ông Hai có tính cách rõ nét: bản chất nông dân thật thà, chất phác, yêu ghét rõ ràng, trung thành với cách mạng. 2. Kiều bài: Phân tích nhân vật 3. Phạm vi kiến thức: Truyện “Làng”. Lưu ý: truyện này tương đối dài, cần nắm vững diễn biến của truyện và một số chi tiết tiêu biểu để phân tích. II. DÀN Ý 1. Mở bài: • Người nông dân vốn gắn bó với làng quê, họ yêu quý và tự hào về cái làng của mình. • Nhân vật ông Hai trong truyện “Làng” của Kim Lân thể hiện tình cảm đó của người nông dân. 2. Thân bài: a) Ông Hai yêu quý và tự hào về làng chợ Dầu của mình: • Yêu say mê làng mình đến nỗi đi đâu gặp ai cũng khoe làng mình. Làng mình hơn hẳn làng khác, có những cái mà làng khác không có. • Niềm tự hào về làng mình có thay đổi trước và sau cách mạng: ví dụ: trước đây thì tự hào về cái “sinh phần” của viên tổng đốc. Sau cách mạng lại khác. Ông tự hào về không khí sôi nổi trong những ngày khởi nghĩa và chuẩn bị kháng chiến. b) Rất yêu làng nhưng ông phải tản cư, xa làng: • Trong tình cảm sâu xa ông muốn ở lại với anh em để kháng chiến, không đành lòng bỏ làng mà đi nhưng vì hoàn cảnh gia đình gieo neo, thương vợ con, bà vợ khẩn khoản nhiều lần nên ông đã tản cư cùng vợ con. • Những ngày tản cư, ông rất nhớ làng đâm ra cáu gắt, bực bội, buồn phiền. Mỗi lần nghĩ đến làng ông lại muốn về với anh em đề tham gia kháng chiến. c) Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo Tây: • Ông rất đau xót và tủi nhục: không dám ra khỏi nhà, không dám nhìn mặt ai. • Ông căm thù bọn Việt gian đã theo Tây. • Bị bà chủ nhà khinh bỉ đuổi đi ông càng tủi nhục, bế tắc, tuyệt đường sinh sống, có lúc muốn quay về làng nhưng lại gạt đi vì làng đã theo Tây, về làng là bỏ kháng chiến. Từ đó ông thù cái làng của ông vì làng đã theo Tây. • Niềm an ủi còn lại: bốcon ông vẫn một lòng một dạ theo kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. d) Niềm vui sướng hả hêkhi biết đích xác làng mình vẫn theo kháng chiến. • Nét mặt vui vẻ rạng rỡ hẳn lên. • Đối với con cái ông tỏ thái độ vui vẻ, thân mật. • Đi khoe hết với mọi người: làng mình vẫn theo kháng chiến. • Mặc dù biết tin nhà mình bị đốt, đốt nhẵn, nhưng vần không tiếc nuối gì mà tỏ vẻ hả hê vui sướng về cái làng của mình theo kháng chiến không theo Tây. 3. Kết luận: • Về nghệ thuật, nhà văn thấu hiểu tâm hồn, cuộc sống người nông dân kháng chiến nên đã xây dựng được nhân vật có tính cách sinh động. • Yêu quý nhân vật ông Hai, người nông dân kháng chiến và ta càng cảm phục những người nông dân qua hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân
8,772
Nội dung bài viết1 Phân tích nhân vật Ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 2 Phân tích nhân vật Ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 3 Phân tích nhân vật Ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 Phân tích nhân vật Ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 Tác phẩm Chiếc Lược Ngà được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết vào thời điểm kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra hết sức căng thẳng và quyết liệt năm 1966. Truyện kể về tình phụ tử sâu nặng của cha con Ông Sáu sau chiến tranh trong cảnh ngộ éo le sinh li tử biệt đã để lại trong lòng người đọc những suy ngẫm và xúc động. Đây là một câu truyện ngắn vô cùng giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ, tác phẩm đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử. Ở thời đại nào cũng vậy chiến tranh không đem lại lợi ích cho con người mà ngược lại nó gây ra bao nhiêu đau thương. Sự bình yên, gây đau thương về tinh thần thể xác ông Sáu trong văn bản Chiếc Lược Ngà là như vậy. Trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi Ông Sáu càng gần gũi vồ vập thì Thu càng lạnh nhạt xa lánh, Ông Sáu càng chiều thương con thì con càng cự lại để rồi đến phút cuối chia tay ông Sáu mới được hưởng hạnh phúc mọi mặt trong tình cha con, tiếng ba buồn thốt như xé lòng ông, xé lòng mọi người. Nào ngờ chút hạnh phúc nhỏ nhoi đấy lại là lần sinh li tử biệt vĩnh viễn cha lìa con. Vậy biểu hiện cụ thể tình cảm của ông Sáu với con trong chuyến về thăm nhà. Trong chuyến về thăm nhà khi xuồng chưa kịp cập bến trông Sáu vội vàng " nhảy lên bờ, khom người hai tay đưa về phí trước miện lắp bắp " ba đây con, ba đây con" những tưởng bé Thu sẽ ào tới ôm lấy cổ ba cho thỏa những ngày xa cánh, nhưng không ông hẫng hụt bất ngờ khi thấy bé tròn mắt ngơ ngác nhìn tôi rồi sợ hãi bỏ chạy, thời gian ở nhà không nhiều lên ông Sáu không đi đâu xa suốt ngày chỉ gần gũi vỗ về con, mong con gọi một tiếng ba mà không được, có lúc giận quá ông đã đánh con. Lúc chia tay tình yêu mãnh liệt của bé Thu khín ông cảm động. " Một tay ôm con tay kia lấy khăn thấm nước mắt" cảm động và đau đớn hơn khi biết rằng đây là lần đầu tiên cũng là cuối cùng ông được nghe tiếng ba thân thương. Sau khi chia tay gia đình trở lại căn cứ ông nhớ con không nguôi. Nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc mình lỡ tay đánh con. Ông nhớ lời dặn của bé Thu trong tiếng khóc mếu máo khi chia tay ba về " ba mua cho con một cây lược nghe ba". Tình cảm yêu quí và thương nhớ con đã thúc đẩy ông khi tìm được một khúc ngà để làm lược cho con. Tác giả đã tập chung diễn tả tình cảm ông Sáu xung quanh truyện làm chiếc lược đó là những cảm xúc của ông khi kiếm được ngà " anh hớt hải chạy về tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi mắt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. rồi sau đó ông dồn hết tâm trí và công sức vào công việc" anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và kì công như một thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng tẩn mẫn khắc từng nét " Yêu nhớ tặng Thu con ba ". Chiếc lược và hàng chữ trở thành một vật quí giá thiêng liêng để mỗi khi nhớ con " anh lấy cây lược ra ngắm ngía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt" cây lược xoa đi lỗi ân hận vì đánh con mỗi khi ngắm cây lược ông càng thương mong gặp lại con. Đau đớn, chiến tranh khiến ông Sáu chẳng bao giờ trở về bên con cái được nữa ông đã hi sinh trong một trận chiến. Trước lúc hi sinh " dường như chỉ có tình cha con là không thể chết ông cầm chiếc lược trao cho bạn với niềm mong mỏi khó cắt thành lời". Từ lúc ấy cây lược bằng ngà đã thành biểu tượng thiêng liêng của tình mẫu tử, những dòng cuối cùng của văn bản khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Khép lại những trang sách, câu truyện về Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn âm vang mãi trong lòng người đọc. Nó gây nên những xúc động mạnh mẽ về tình phụ tử sâu nặng, thắm thiết và gợi cho người đọc những suy ngẫm về một quá khứ đau thương của dân tộc. Căm ghét chiến tranh đã gây ra và thấm thía những nỗi đau thương, éo le, mất mát của chiến tranh, biết bao nhiều con người, gia đình phải chịu cảnh tang thương chia lìa như thế. Song đó cũng là những niềm tự hào và vinh quang của cả một dân tộc anh hùng. Tác giả khẳng định và ngợi ca tình cảm cha con vô cùng thiêng liêng như một giá trị nhân bản sau sắc, nó lại càng cao đẹp ở trong cảnh ngộ khó khăn. Phân tích nhân vật Ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một truyện cảm động về tình cha con của những gia đình Việt Nam mà ở đó “lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Trong truyện đoạn cảm động nhất là đoạn “ba ngày nghỉ phép về quê của anh Sáu”. Năm 1946, năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, anh Sáu lên đường theo tiếng gọi của quê hương. Bấy giờ, bé Thu, con gái anh chưa đầy một tuổi. Chín năm đằng đẳng xa quê, xa nhà, anh Sáu vẫn mong có một ngày trở về quê gặp lại vợ con. Thế rồi, kháng chiến thắng lợi, anh được nghỉ 3 ngày phép về thăm quê, một làng nhỏ bên bờ sông Cửu Long. Về đến nhà, anh tưởng tượng bé Thu – con gái anh sẽ rất vui mừng khi được gặp cha. Giờ đây, nó cũng đã mười tuổi rồi còn gì. Mang một nỗi niềm rạo rực, phấn chấn, anh nôn nóng cho mau về đến nhà. Không chờ xuồng cập bến, anh đã nhảy lên bờ vừa bước, vừa gọi: “Thu! Con!” thật tha thiết. Ta co thể tưởng tượng nỗi vui sướng của anh như thế nào. Khi anh vừa bước đi, vừa lom khom người xuống đưa tay chờ con. Thế nhưng ngược lại với những điều anh Sáu mong chờ. Bé Thu tròn mắt nhìn anh ngạc nhiên rồi bỏ chạy. Phản ứng của bé Thu khiến anh Sáu sửng sờ, đau khổ. Còn gì đáng buồn hơn khi đứa con mà anh hết lòng thương yêu và khắc khoải từng ngày để được gặp mặt, giờ đây trở nên xa lạ đến mức phũ phàng ấy. Thế rôì, anh Sáu tìm mọi cách gặp con để làm quen dần vì anh nghĩ rằng khi anh đi nó vừa mấy tháng tuổi nên nó lạ. Anh mong sao nó gọi một tiếng “ba”, vào ăn cơm nó chỉ nói trống không “Vô ăn cơm!” Bữa sau, cũng là ngày phép thứ hai, bé Thu trông hộ mẹ nồi cơm để chị Sáu chạy mua thức ăn. Trước khi đi, chị Sáu dặn nó có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nồi cơm quá to mà bé thu thì còn nhỏ, vậy mà khi nồi cơm sôi không tìm được cách nào để chắt nước, loay hoay mãi, nó nhìn anh Sáu một lúc rồi kêu lên: “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái!” anh Sáu vẫn ngồi im, chờ đợi sự thay đổi của nó. Thế nhưng, nó nghĩ ra cách lấy vá múc ra từng vá nước chứ nhất định không chịu gọi anh Sáu bàng “Ba”. Con bé thật đáo để! Đến bữa ăn cơm, anh Sáu gắp cho bé Thu một cái trứng cá to, vàng bỏ vào chén. Lúc đầu nó để đó rồi bất thần hất cái trứng ra làm cơm đổ tung toé. Giận quá, không kìm được nữa, anh Sáu vung tay đánh vào mông nó. Thế là bé Thu vội chạy ra xuồng mở “lòi tói” rồi bơi qua sông lên nhà bà ngoại. Phép chỉ còn ngày cuối cùng, anh Sáu phải trở về đơn vị để nhận nhiệm vụ mới. Bao nhiêu mơ ước được hôn, ôm con vào lòng từ bấy lâu nay của anh Sáu giờ chỉ càng làm cho anh thêm đau lòng và gần như anh không còn để ý đến nó nữa. Thân nhân, họ hàng đến chia tay anh cũng khá đông nên anh cứ bịn rịn mãi. Chị Sáu cũng lo sắp xếp đồ đạc cho chồng, không ai quan tâm bé Thu đang đứng bơ vơ một mình bên cửa nhà. Thì ra nó theo bà ngoại trở về vì bà ngoại sang đây để tiễn chân anh Sáu. Giờ này, trên gương mặt Thu không còn cái vẻ bướng bỉnh, ương ngạnh nữa , mà thoáng một nét buồn trông đến dễ thương. Nó nhìn mọi người, nhìn anh Sáu. Đến lúc mang ba lô và bắt tay với mọi người, anh Sáu mới nhìn quanh tìm bé Thu. Thấy con, dường như mọi việc trong ba ngày phép hiện lên trong anh nên anh chỉ đứng nhìn con với bao nỗi xót xa … cuối cùng, anh cũng phải nói lên lời chia tay với con mà không hy vọng bé Thu sẽ gọi một tiếng “ba” thiêng liêng ấy. Thật là đột ngột và không ngờ, bé Thu chạy đến bên anh Sáu và tiếng “Ba!” được thốt lên thật cảm động biết nhường nào. Nó ôm chầm thật chặt như không muốn rời ba nữa. Nó khóc, khóc thật nhiều và thét lên những lời khiến mọi người xung quanh đều xúc động: “Không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con!” Sung sướng, hạnh phúc và cũng thật đau lòng, anh Sáu cũng chỉ biết ôm con và khóc cùng với con. Rồi cũng đến lúc phải chia tay, thật bịn rịn vô cùng. Vừa mới nhận được tiếng “ba” của đứa con thân yêu cũng là lúc phải nghẹn ngào chia tay với con để trở về đơn vị làm tròn trách nhiệm khi đang ở quân ngũ. Trước kia anh Sáu đã thương con, giờ đây anh càng thương con gấp bội. Bởi lẽ anh đã hiểu lí do vì sao bé Thu quyết định từ chối không gọi anh bằng “ba” từ ba hôm nay. Làm sao chấp nhận một người xa lạ mà khuôn mặt không giống trong tấm ảnh mà mẹ nó thường ngày vẫn nói với nó đó là “ba” được. Chính vết sẹo quái ác kia đã làm cho bé Thu không nhận anh Sáu, hằn học với anh Sáu. Sau khi hiểu rõ nguyên nhân của vết sẹo hằn trên gương mặt của ba, bé Thu mới 4thấy hổ thẹn và ăn năn. Tình cảm cha con bỗng dâng đầy, tràn ngập trong lòng em. Tình cảm đó được thể hiện bằng thái độ, cử chỉ dồn dập, gấp rút khi nó gọi và ôm chầm lấy anh Sáu. Ba ngày phép ngắn ngủi nhưng lại rất ngặng nề với anh Sáu và bé Thu. Nghịch cảnh này là một trong muôn ngàn nghịch cảnh khác mà đã có biết bao gia đình phải ngậm ngùi vì những ngộ nhận đáng thương. Đó cũng là một sự thật đau lòng của nước Việt Nam ta trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Phân tích nhân vật Ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 Mở bài Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến chông Pháp, chống Mĩ cũng như trong hoà bình. Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966 (khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ) và được đưa vào tập truyện cùng tôn. Truyện thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Ông Sáu là một trong những nhân vật chính của tác phẩm. Ông có nhiều phẩm chất cao đẹp. Phân tích nhân vật này, chúng ta sẽ thấy được vẻ đẹp của người chiên sĩ, người cha trong cuộc kháng chiến chông Mĩ. Thân bài Hoàn cảnh xuất thân của nhân vật Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ. Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chông Pháp và chống Mĩ. Ông ra đi đánh giặc năm 1946 mãi đến năm 1954, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày ông đi, đứa con gái của Ông mới một tuổi. Khi con gái lên 9, ông mới gặp lại con. Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra Bắc. Ông nhận nhiệm vụ ở lại miền Nam hoạt động bí mật. Hoàn cảnh của ông Sáu cũng chính là hoàn cảnh của biết bao người dân Nam Bộ trong chiến tranh. Chiến tranh gây ra biết bao cảnh chia lìa. Những người dân lao động bình thường đã sẵn sàng xa gia đình, quê hương để lên đường tham gia kháng chiến. Ông Sáu là người có tình yêu quê hương, đất nước Yêu quê hương, đất nước, ông sẵn sàng xa gia đình ra đi chiên đấu để bảo vệ quê hương. Tình yêu quê hương đất nước đã giúp ông vượt qua những năm tháng gian khổ, thiếu thôn: trong những ngày ở rừng, ở khư căn cứ, bị giặc khủng bố liên miên, ông đã cùng đồng đội phải ăn bắp, ăn mì thay cơm… cái chết bủa vây. Đạn bom của kẻ thù không biết sẽ cướp đi mạng sông của mọi người bất kì lúc nào, ông vẫn luôn kề vai sát cánh cùng đồng đội trong chiến đấu. Ong đã hi sinh vì quê hương, đất nước trong một trận càn lớn của quân Mĩ – nguy. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiên sĩ, đồng bào ta sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh vì quê hương, vì đất nước. Ông Sáu là người có tình yêu con tha thiết Tình cảm sâu nặng của ông Sáu đối với con được thể hiện rõ nét qua lần ông về thăm nhà và khi ông ở trong rừng tại khu căn cứ. * Tình yêu của ông Sáu đối với con trong những ngày ông về thăm quê. Tình yêu con tha thiết thể hiện qua tâm trạng, hành động của ông Sáu khi ông được về thăm nhà: Đến lúc dược về, cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh; không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lẽn, xô chiếc xuồng tạt ra; Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! con. Giọng lặp bặp run run: ba đây con!. Phải là người yêu con, nhớ con tha thiết, ông Sáu mới có tâm trạng, hành động và những lời nói như vậy. Tình yêu con tha thiết thể hiện qua những ngày ông ở nhà, và ngày ông lên đường. + Ông Sáu luôn tìm cách gần gũi con: Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào củng vỗ về con. + Trước khi đi anh muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như lại sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy, nên anh chí đứng nhìn nó. Anh nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. + Khi con gái ôm chặt lấy anh, Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con. Còn gì cảm động hơn khi lúc con gái nhận ra ông thì lại là lúc hai cha con phải chia tay. Có lẽ độc giả sẽ không bao giờ quên cảnh chia tay đặc biệt đó. * Tình yêu con tha thiết của ông Sáu thể hiện sâu sắc khi ông ở căn cứ. Những ngày ở rừng khu căn cứ lúc nhớ con, anh cứ ân hận sao mình lại đánh con. Nỗi khổ tâm đó cứ giày vò anh. Khi có được mảnh ngà voi, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một dứa trẻ được quà. Bằng tình yêu thương của người cha, ông Sáu đã từng ngày từng ngày ngồi cưa mảnh ngà thành một chiếc lược dài độ hơn một tấc. Trôn sông lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: Yêu nhớ tặng Thu con của ba. Những đèm nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thèm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con. Chiếc lược ngà đã trở thành vật quý giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương mong đợi của người cha đôi với đứa con xa cách… nhưng rồi, một tình cảnh đau thương đã đến với cha con ông Sáu: Ông đã hi sinh khi chưa kịp trao vào tay con gái chiếc lược ngà. Trong giờ phút cuối cùng, không còn dủ sức trăng trối lại diều gì, hình như là chí có tình cha con là không thể chết dược, anh đưa tay vào túi, móc cây lược dưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Kết bài Qua phân tích, ta thấy ông Sáu là người dân Nam Bộ hiền lành chất phác. Với lòng yêu quê hương đất nước cao đẹp, ông sẵn sàng xa gia đình, xa đứa con gái yêu quý của mình lên đường đi kháng chiến. Ông còn là người có lòng yêu con tha thiết, sâu nặng. Tình cảm của ông dành cho con không có gì sánh nổi. Câu chuyện không chỉ nói lôn tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thìa những đau thương, mất mát, éo le mà chiên tranh đã mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Sức hấp dẫn của truyện còn bởi tác giả xây dựng được cốt, truyện chặt chẽ, có những yêu tô’ bất ngờ nhưng hợp lí. Truyện còn thành công bởi ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả thật sắc sảo.
Phân tích nhân vật Ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
3,259
Nhân vật Đào là nhân vật có cá tính có số phận được xây dựng khá thành công trong “Mùa lạc”. Tác giả đã giới thiệu ngoại hình, đã cho ta thấy lai lịch và số phận cũng như cho thấy sự chuyển biến trong tâm lí và trong tính cách của Đào từ khi lên nông trường Điện Biên… Ở đầu truyện, bằng những nét vẽ khá tỉ mỉ, Đào đã xuất hiện bên máy tuốt lạc với Huân. Hai người này thật tương phản “một đôi bạn trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nét”. Ở cạnh một thanh niên khỏe, trẻ và đẹp trai, Đào đã nổi bật sự “thua thiệt” về hình thức của mình. Về ngoại hình Đào là “người đàn bà ít duyên dáng” cái “thân người sồ sề”, “cặp chân ngắn”, “người thấp lùn”, “hai bàn tay có những ngón rất to, khuôn mặt thô và “thiếu hòa hợp”, “cái đầu nhọn”, “hai gò má đầy tàn nhang vẫn nhọn hoắt bướng bỉnh” và cả cái cách “hai tay chống vào cạnh sườn nhìn mọi người lơ láo”. Đây là người phụ nữ đã “quá lứa lỡ thì”, bên cạnh những nét thô, thiếu duyên dáng thì Đào là người không có nhan sắc. Nhưng ở Đào còn có những nét ngoại hình khác gây sự chú ý và nó phản ánh một đời sống bên trong, phản ánh tính cách sắc sảo mạnh mẽ của chị. Nguyễn Khải đặc biệt miêu tả đôi mắt của Đào. “Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh” “Đôi mắt dài lóng lánh của Đào liếc qua Huân” “Chị quay sang nhìn mái tóc xanh mỡ,… cười mỉm” Quả là thông qua đôi mắt ta thấy Đào có cá tính không đơn giản, cuộc sống đã làm cho chị luôn ứng phó linh hoạt với các tình huống. Đôi mắt đó, vừa thông minh vừa ánh lên khao khát hạnh phúc. Và đôi mắt ấy cũng làm bật lên tính ghen tị, đanh đá khi “nhìn người ta hạnh phúc”: “Đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang Duệ, cặp môi như muốn mím chặt lại, gò má càng dồ lên đánh đá…”. Quả là cái “lóng lánh” sáng láng thông minh, đùa nghịch và thèm khát hạnh phúc khi liếc nhìn Huân nó khác xa với đôi mắt “loang loáng” như “dao muốn bổ dọc cô Duệ vốn là người yêu của Huân…”. Chi tiết rất nhỏ nhưng cũng cho thấy Nguyễn Khải đã nhìn nhận mổ xẻ con người tinh vi đến mức nào. Yếu tố giới tính và cảnh ngộ của Đào đã (tạo nên tính cách cho cô ta là): “sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho thân mình”. Ta cũng chú ý là khi miêu tả những nét xấu của Đào, Nguyễn Khải không có xu hướng phóng đại nó như Nam Cao miêu tả Thị Nở mà ông miêu tả có tính khách quan hơn và đặc biệt kết hợp giữa những yếu tố “thô ráp” và những yếu tố độc đáo “có duyên” của nhân vật này. Thí dụ miêu tả đôi mắt hẹp dài thì đàng sau nó là “lóng lánh” là “loang loáng” là “liếc” một cách rất sinh động gây chú ý. Khi miêu tả “hàm răng khểnh” thì tác giả nhận xét “luôn luôn đùa cợt”. Khuôn mặt “càng to nên thô, càng đỏng đảnh”. Rõ ràng Đào không phải là con người nhàn nhạt, quá đơn điệu và càng không phải là một nhân vật biếm họa. Có cái gì đó ẩn chứa bên trong khiến cô ta trở nên là lạ, khiến trở nên thu hút được sự chú ý của người khác và có nét “hấp dẫn” riêng. Cái tài của Nguyễn Khải là miêu tả khá kỹ chân dung nhưng không nhằm mục đích đồ họa mà cho thấy nhân vật hiện lên rõ nét trước mắt ta với cái vẻ sinh động như bản thân cuộc sống. Miêu tả chân dung mà đã cho ta thấy đời sống có cá tính bên trong của nhân vật. Ngay trong buổi lao động với Huân đôi nét tính cách của Đào đã được bộc lộ: dù rất mệt, đứng chung máy với một người khỏe trẻ và dẻo dai, nhưng Đào không chịu thua kém thanh niên! Qua miêu tả ngoại hình và hành động ta thấy hé lên số phận Đào không có gì là bình lặng và suôn sẻ trong quá khứ. Nguyễn Khải cũng rất thành công trong việc miêu tả ngôn ngữ đặc sắc của Đào. Chị “thuộc lòng nhiều truyện thơ cổ, các câu ca, hát ví xưa, khi nói chuyện chị hay vận thành vần” ví von do đó kho tàng ca dao, tục ngữ luôn được dùng tự nhiên trong đối thoại. Khi thì tâm sự với giọng đầy buồn tủi, hờn dỗi và chua cay. “Trâu quá xá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân hả các anh?” Khi thì phản ứng ngay lập tức để chứng tỏ giá trị của mình, lời nói trở nên sắc nhọn, chua ngoa: “Huê thơm bán một đồng mười, Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng. Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu”. Khi cần thì Đào nhún mình: “Cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có bố cháu ở dưới xuôi rồi”. Sau khi giới thiệu nhân vật gây rất nhiều chú ý cho người đọc, Nguyễn Khải kể lại lai lịch và số phận “bảy nổi ba chìm” của Đào. Đó là người phụ nữ: “lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, nhưng chồng cờ bạc nợ nần bỏ nhà đi” sau đó chồng trở về, Đào có người con trai hai tuổi thì chồng chết. Và sau đó đứa con cũng mất không nơi nương tựa, không người thân thích Đào phải bươn bả để kiếm sống, “đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngả đâu là giường” không còn chút hi vọng gì ở tương lai. Cuộc sống cực nhọc ấy đã tàn phá nhan sắc của chị “Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại đi như chết, hàm răng phai không thèm nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều”. Đào “muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống”. Quả là thái độ bất cần đời, “bốn bể là nhà, chỉ là thân mình sao cho cơm ngày hai bữa” Chính vì thế mà “chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, và hờn giận cho thân mình” Chính vì thế mà chị “ngang ngược” có những cử chỉ khác thường “tay chống cạnh sườn” “đứng khuỳnh tay”… Những lời nói và hành động của chị như là một phản ứng hoàn cảnh, bởi chị đã quá lăn lóc, quá cay đắng mùi đời! Điều Nguyễn Khải khai thác và làm cho chúng ta đồng tình là ở người phụ nữ lỡ thời ấy vẫn có khát khao như bao người con gái khác. “Chị muốn quên hết, lại ước ao mình được trẻ lại… một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác”. Đào lên nông trường với tư tưởng buông xuôi: của “con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới chị cũng không cần rõ… có gặp nhiều đau buồn hơn”. Thế nhưng khi ở với mọi người, nhất là gần Huân, con người luôn cảm thông với số phận của chị. Đào “bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn… Cứ lấp loé ở phía trước”. Cần chú ý giọng trần thuật nhập thân vào ngôn ngữ bên trong của nhân vật đã có tác dụng làm sống lại những mong ước thầm kín của nhân vật. Có thể nói từ khi lên nông trường nhằm để quên, nhưng chính cuộc sống lao động và những con người đầy lòng hữu ái đã làm cho Đào trỗi dậy những khao khát hạnh phúc vì Đào đã thay đổi cả tâm tính để rồi như một điều tất yếu, Đào tìm được hạnh phúc riêng trong cuộc đời ngỡ như quá muộn màng và thờ ơ với mình. Bức thư ngỏ lời của “ông thiếu úy lò gạch” – Dịu – đã đến thật bất ngờ. Đào đã phản ứng như là sự tự vệ của con người luôn mặc cảm sợ người khác nhạo báng và xúc phạm, thế nhưng sau đó lòng chị “êm đềm” vui sướng kỳ lạ dào dạt không thể nén nổi khiến chị ngây ngất… đó là sự “Thức tỉnh nỗi khao khát yêu thương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi”. Chính hạnh phúc bất ngờ và ngọt ngào ấy đã làm chị phải tâm sự với Huân, người luôn“có trách nhiệm với tin cần của người bạn gái mà anh vốn mến”. Đoạn văn tả cảnh Đào gặp Huân đã cho thấy sự chuyển biến quan trọng trong tính cách của chị. Đào nói giọng nhỏ nhẹ, ngập ngừng. Từ cách xưng hô cho đến suy nghĩ về tương lại, về gia đình và cả những lo toan với đứa con chồng… Đào đã thực sự là một người yêu, một người vợ, một người đàn bà, giàu nữ tính và biết tháo vát đảm đang để có khả năng xây dựng một tổ ấm tương lại. Đào đang sống thật với chính mình, “chẳng ai ở vậy được suốt đời… chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương…”.
Phân tích nhân vật Đào trong tác phẩm Mùa lạc của Nguyễn Khải
1,658
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn được mệnh danh là người mở đường cho văn học Việt Nam ở thời kì đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông trong thời kì đổi mới đó. Từ cốt truyện đơn giản nhưng tác giả đã làm nên một tác phẩm có nhiều giá trị đạo đức của con người. Đặc biệt là làm nên thành công cho truyện thì Nguyễn Minh Châu đã sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ để làm nổi bật ý nghĩa mà mình muốn truyền tải. Trước tiên đó là hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa. Nguyễn Minh Châu đã dày công xây dựng nên một bức tranh cảnh biển trong sáng sớm thật đẹp và trong mắt của nghệ sĩ Phùng thì đó là một bức tranh “đắt” nhất mà anh từng thấy. Mũi thuyền in một nét mơ hồ nhòe trong sương mù có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc giống như tượng trên chiếc mụi khum đang hướng mặt vào bờ. Tất cả mọi đường nét đều hiện lên một cách hài hòa ,đẹp và vẻ đẹp đó thật đơn giản toàn bích khiến đứng trước nó thì cảm thấy bối rối, trong trái tim cảm thấy như có cái gì đó bóp thắt vào. Thế nhưng sau hình ảnh con thuyền và biến ấy chúng ta lại thấy được một nghịch lí hết sức oái oăm,sau khi chụp được cảnh bức họa ấy thì nghệ sĩ đã chứng kiến được một cảnh hết sức đau lòng. Đó là hình ảnh của hai người vợ chồng ,thấy người chồng đánh vợ mình không thương tiếc . “Anh lấy chiếc thắt lưng của mình mà quất vào lưng vào mặt vợ không thương tiếc. Người đàn bà chỉ biết cam chịu đau đớn, chân hình chữ bát , mặt thì giỗ, tấm lưng gù với tà áo bạc phếch” .Khi chứng kiến được cảnh này đều làm cho con người ta đủ xót xa, và những đặc điểm ấy đủ đê cho chúng ta thấy được rằng người đàn bà đó hẳn là phải khổ sở như thế nào sau những trận roi đòn. Qua hình ảnh người đàn ông đánh vợ của mình bên chiếc xe tăng cũng cho thấy đó là một hình ảnh ẩn dụ về chiếc xe, đó không chỉ là cuộc sống khổ cực về vật chất mà còn về tinh thần. Chiếc xe thể hiện sự sót lại của chiến tranh trong cuộc sống đổi mới, khi thời kì đổi mới rồi nhưng vẫn còn có những con người phải sống khổ cực, họ phải chịu hậu quả trong tàn dư của chiến tranh. Không những là người chồng đánh vợ mà thằng con vì căm gét cha mình vì tội đánh vợ cho nên muốn giết cả cha của mình. Đó chính là nghịch cảnh oái oăm ẩn nấp sau cảnh đắt giá kia. Hình ảnh ẩn dụ nghệ thuật ở đây được thể hiện một cách sâu sắc, đằng sau cái nghệ thuật ấy chưa chắc đã thực sự là một cái thiện mà nó còn chứa cả những cái tàn bạo trong cuộc sống. Chính vì nghệ thuật là chân lí của đạo đức cho nên nghệ thuật phải phải phản ánh được đời sống, luôn đi liền và không hề tách rời nó. Như thế mới khiến cho phùng vừa phát hiện được cái đẹp lại vừa thấy được đằng sau cái đẹp ấy. Hình ảnh người đàn bà làng chài cũng là một hình ảnh ẩn dụ, với ngoại hình và tính cách chịu đựng của người đàn bà chúng ta đã thấy được hình ảnh của những con người khổ cực mặc dù đã ở trong thời kì đổi mới dân chủ. Người phụ nữ ấy hi sinh cam chịu , từ chối sự giúp đỡ của Phùng để quay về với cuộc sống ấy. Đó là vì cái gì? Đó là vì những đứa con, hi sinh chịu đựng những trận roi đòn từ người chồng nhưng vẫn không nói nửa lời là bởi vì những đứa con . Nghệ thuật ẩn dụ ở đấy chính là vẻ đẹp của sự nhẫn nhịn, vì gia đình mà quên đi bản thân mình. Người đàn ông vũ phu này thực chất ngày xưa là một người hiền lành tháo vát nhưng vì cuộc sống đã khiến cho anh như vậy. Nghệ thuật ẩn dụ ở đây chính là vì cuộc sống quá khổ cực đã làm cho con người trở nên như vậy. Như vậy qua đây chúng ta có thể thấy được Nguyễn Minh Châu đã rất dày công khi xây dựng hình ảnh nhân vật, từ hình ảnh của bức tranh cho đến hình ảnh về số phận của con người toàn cảnh xã hội. Từ đó mà tác giả muốn nói lên quan niệm của mình về nghệ thuật trong cuộc sống. Chúng luôn đi liền với nhau mà không thể tách rời nhau được .
Phân tích những ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền ngoài xa
855
Nắng Ba Đình mùa thu Thắm vàng trên Lăng Bác Vẫn trong vắt bầu trời Ngày Tuyên ngôn Độc lập. Mỗi lần đọc bài thơ “Nắng Ba Đình”, lòng tôi lại nao nao xúc động nhớ những thước phim tài liệu về ngày Quốc khánh 2 – 9 – 1945 – ngày đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử của dân tộc ta. Tôi chợt bắt gặp một vầng trán cao rộng, một ánh mắt nheo cười, Bác Hồ đang bước lên lễ đài cùng với giọng nói ấm áp, thân mật: “Hỡi đồng bào cả nước!” "Tuyên ngôn Độc lập" mở đầu bằng những câu văn hết sức giản dị, mộc mạc như vậy mà vẫn chứa chan tình cảm yêu thương, vẫn gợi không khí thật thiêng liêng. Hai tiếng “đồng bào” thật gần gúi, thân mật, vừa chứa chan tình yêu thương ruột thịt, vừa khơi dậy niềm tự hào, khơi dậy cội nguồn linh thiêng của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ riêng dân tộc ta là cùng sinh ra từ bọ trăm chứng của mẹ Âu Cơ. Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là xác lập cơ sở pháp lí. Cơ sở pháp ló ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, đó là những quyền không ai có thể chối cãi được của mỗi cá nhân. Những lời ấy được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập ở Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cấu hạnh phúc. Lấy những lời bất hủ được ghi dành dành trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.Pháp” đã được cả thế giới công nhận làm cơ sở pháp lí vô cùng vững chắc cho bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam. Từ cơ sở pháp lí ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã suy rộng theo tính chất bắc cầu khẳng định quyền dân tộc. Người dõng dạc khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự phát triển từ quyền con người, quyền dân tộc là suy luận hết sức thông minh và chặt chẽ. Đó còn là một sáng tạo có ý nghĩa to lớn, một cống hiến vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại. Sự phát triển ấy chẳng những là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. mà còn là phát súng hiệu thức tỉnh kêu gọi các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh để giải phóng độc lập tự do. Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lí lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lí sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh. Người ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược, chúng không thể phủ những lí lẽ, chân lí mà toàn thế giới Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, TNĐL đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ . Vậy là ngay từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng lập luận bậc thầy, sự sâu sắc trong tư tưởng, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ đanh thép hùng hồn tạo nên sức mạnh luận chiến bất ngờ và sức hấp dẫn kì lạ của đoạn văn.
Phân tích phần đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh
886
Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng, là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Người không chỉ là một người chiến sĩ trên mặt trận quân sự mà còn là một chiến sĩ trên mặt trận văn chương. Minh chứng cho điều này là Người đã để lại một kho tàng văn học đồ sộ với số lượng tác phẩm khổng lồ. Người viết văn, làm thơ trước hết và chủ yếu do nhận thấy văn chương là vũ khí sắc bén chống quân thù và là phương tiện thuận lợi để tuyên truyền cách mạng. Nhưng cũng có lúc,trước cảnh thiên nhiên vẻ đẹp con người, những vần thơ lại được viết ra với mục đích giãi bày và cho thỏa lòng yêu con người yêu thiên nhiên. Trước hết, nhiệm vụ và lí tưởng cách mạng là một trong những mục đích sáng tác lớn nhất trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh. Cho nên trước khi đặt bút, Bác thường đặt ra những câu hỏi: Viết để làm gì ? Viết cho ai ? Viết như thế nào ? Mỗi bài viết của Bác đều nhằm phục vụ một mục đích cụ thể, một đối tượng cụ thể, vì thế mà văn phong của Bác vô cùng linh hoạt và đa dạng.những tác phẩm viết ra đều mang một ý nghĩa vô cùng to lớn có nội dung và mục đích rõ ràng. Trải qua nhiều biến cố và thay đổi của cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác, tùy thuộc vào hoàn cảnh mà những tác phẩm do người viết ra cũng có những thay đổi nhằm phù hợp với tư tưởng hình thức và phong cách viết. Bác đã luôn luôn thay đổi cho phù hợp. Điều đó tạo nên đặc điểm phong phú, đa dạng trong sự nghiệp văn học của Bác. Bác sống và hoạt động ngay giữa hang ổ kẻ thù (Pari) Trong những thập kỉ đầu của thế kỉ XX. Bác đã viết một số tác phẩm bằng tiếng Pháp (Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Lời than vãn của bà Trưng Trắc…). Những tác phẩm này đều được viết theo phong cách văn xuôi hiện đại châu Âu, nhằm mục đích tố cáo những âm mưu thâm độc, xảo quyệt của thực dân Pháp và bản chất xấu xa, hèn hạ của triều đình phong kiến nhà Nguyễn tay sai bán nước. Đối tượng mà Bác hướng đến là nhân dân Pháp và những người nước ngoài biết tiếng Pháp. Các tác phẩm trên đã gây ra một tiếng vang lớn lúc bấy giờ trong dư luận và gây ảnh hưởng lớn với quần chúng. Văn chính luận là phong cách chính của Hồ Chí Minh. Bác đó là các tác phẩm với những vấn đề Bác nói đến không ngoài nội dung tuyên truyền cách mạng, giáo dục tiêu biểu như: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập, Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến… với lối lập luận sắc bén, dẫn chứng cụ thể,các tác phẩm có sức thuyết phục sâu sắc. Không chỉ dừng lại đó, chúng ta phải nhắc đến thơ chiếm một số lượng khá lớn. Bác làm thơ bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ và nhiều thể loại khác nhau (tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát.. trong đó “Nhật ký trong tù “là cuốn nhật ký viết bằng chữ Hán, dưới dạng thơ, ghi lại cụ thể diễn biến của mười bốn tháng Bác sống trong ngục tù của chính quyền quân phiệt Tưởng Giới Thạch từ năm 1942 đến 1943. Nó vừa là một tài liệu lịch sử vô giá, đồng thời là một tác phẩm văn chương lớn, nội dung toát lên vẻ đẹp lạ thường của một tâm hồn đại trí, đại nhân, đại dũng. Chính vì vậy mỗi khi nhắc tới Nhật Kí trong tù người ta vẫn có một cái nhìn đa chiều về chế độ, đời sống và tư tưởng của người. Thêm vào đó,trong quá trình hoạt động cách mạng, Người cũng sáng tác nhiều bài ca dưới hình thức văn vần để giác ngộ quần chúng: Bài ca binh lính, Bài ca sợi chỉ, Bài ca đoàn kết… Bác viết thật dễ hiểu, dễ nhớ để quần chúng có trình độ thấp dễ tiếp thu. Và người đã từng phê phán cách viết cầu kì, sính dùng chữ hoặc dài dòng “dây cà ra dây muống” không phù hợp với quần chúng nhân dân. Bằng chính hiểu biết của mình Người đã từng bước làm thay đổi cái nhìn về văn chương. Bước vào thời kì Kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp gian khổ, ác liệt là thế; Người lại phải gánh vác trách nhiệm cứu dân, cứu nước; song không vì vậy mà Người quên văn chương. Người sáng tác những bài thơ vừa có tính hiện thực sâu sắc vừa đậm đà chất lãng mạn cách mạng: Cảnh khuya, cảnh rừng Việt Bắc, Tức cảnh Pác Bó, Đi thuyền trên sông Đáy, Rằm tháng Giêng, Tin thắng trận, Lên núi, Tặng cụ Bùi… với nội dung chủ yếu là ca ngợi kháng chiến, qua đó Người thể hiện niềm tin tưởng sâu xa vào thắng lợi tất yếu của kháng chiến, ca ngợi nghĩa tình thủy chung, gắn bó giữa quần chúng và cách mạng, đồng thời vẽ nên những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp: Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. (Rằm tháng Giêng) Qua các tác phẩm và câu thơ ,Người muốn khẳng định một cách kín đáo: không có thơ ở ngoài cuộc sống của toàn dân tộc và hiện thực hào hùng của kháng chiến là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn đối với các nhà thơ: Trăng vào cửa sổ đòi thơ, Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau. Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu, Ấy tin thắng trận Liên khu báo về. (Tin thắng trận) Hay bên cạnh đó cũng có những câu thơ miêu tả cảnh sinh hoạt kháng chiến : Xem sách chim rừng vào cửa đậu Phê văn hoa núi ghé nghiên soi Tin vui thắng trận dồn chân ngựa Nhớ cụ, thơ xuân tặng một bài. (Tặng cụ Bùi) Mặc dù văn chương là một phần không thể thiếu khi nhắc tới Hồ Chí Minh và những sáng tác của Người đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm và ý nghĩa sâu sắc. Người làm văn chương trước hết là để phục vụ cách mạng, nhưng khi sáng tác Bác rất say mê và nghiêm túc, cho nên Người đã vô tình để lại trong kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị lớn lao về nội dung và nghệ thuật lẫn hình thức thể hiện.
Phân tích quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh
1,160
Nội dung bài viết1 Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 1 2 Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Gợi ý 3 Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 2 4 Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Gợi ý 2 Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 1 Chẳng phải ngẫu nhiên, "Chí Phèo" lại là tác phẩm lớn nhất trước cách mạng của Nam Cao, đồng thời đưa ông lên hàng tác giả. Rõ ràng, bị kịch số phận của con quỷ làng Vũ Đại phải bi, phải sót hơn những tấm bi kịch vốn đã được Nam Cao khắc họa tàn nhẫn mà đau đớn. Không phải những "Tư cách mõ", những "Lão Hạc", những "Sống mòn"…không phản ánh, không lột tả được cái sự bần cùng đến lê lết của một bộ phận tầng lớp nông dân và trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước cách mạng. Tất nhiên, các tác phẩm của Nam Cao và những cây bút đương thời xứng đáng được trân trọng và ngưỡng mộ, chỉ là, về một phần nào đó, chúng chưa diễn tả hết được những kiếp người của xã hội cũ. Nếu như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoa,…chỉ làm độc giả "đói" cái đói của nhân vật, cảm thông và cảm mến cái nhân tính và cốt cách con người sót lại của người nông dân trong bước đường cùng, thì "Chí Phèo" lại là một tác phẩm hoàn toàn khác: lại bỏ hết nhân tính, gạt phăng một số phận ra khỏi cộng đồng người. Đó là Cách Nam cao: "bức tử" nhân vật của mình. Hãy xem, ngay từ đầu, tác phẩm đã mang đến cho người ta sự khó chịu của tiếng chửi. Chí Phèo chửi. Nhưng hắn không chửi nhăng chửi cuội, tiếng chửi này có một sự logic. Ban đầu hắn chửi trời, chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng vũ đại….nhưng "trời có là của riêng ai"?, "đời là tất cả nhưng cũng chẳng là gì?", người nông dân Việt Nam vốn hay nói "không thèm chấp", thằng điên đấy hắn chửi thì cứ chửi, ai mắc hơi thừa việc mà đi chửi nhau với hắn. Thế là tiếng chửi của Chí Phèo đi từ chỗ mơ hồ vô định trở thành có chủ thể: mẹ cha đứa nào đẻ ra thằng Chí Phèo để bây giờ hắn khổ. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến sự bi kịch của bản thân. Phải cái, ngay lập tức, hắn hiểu ra mồm hắn chửi rồi tai liền nghe, hắn bắt đầu thấy thấm một nỗi khốn khổ. Chí Phèo đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. "Giá hắn biết hát thì có phải mọi người đỡ khổ không?". Đằng này, Chí chỉ biết có chửi. Cái nỗ lực tuyệt vọng để hòa nhập vào xã hội người cũng bị ngó lơ. Không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chí Phèo nhận lại một sự cô đơn đáng sợ. Như thể cả cái làng này vừa bỏ hắn lại trong sa mạc của sự cô đơn lẻ lo: "chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!". Bằng một cách mở đầu vô cùng đặc sắc, Nam Cao đã hé mở cho người đọc số phận của nhân vật – số phận của những con số không: không cha mẹ, không nghề nghiệp, không tấc đất cắm dùi,…mà trong đó, mỗi con số không đại diện cho một tấm bi kịch của cuộc đời hắn. Nếu đặt lại trang đời của gã cô hồn Chí Phèo, liệu bạn có cầm nước mắt được không? Cái số bị ruồng rãy ngay cả khi vừa sinh ra cũng chẳng ai biết được cha mẹ Chí là ai. Sinh linh nhỏ bé nằm trần truồng trong cái lò gạch cũ. Dân làng nhặt hắn về, nuôi nấng. Tuổi thơ con nhà nông trước cách mạng vốn chẳng sung sướng gì, thì hẳn quãng đời trai trẻ của Chí còn khổ gấp bội. Nhưng đây có lẽ là giai đoạn mà Chí cảm thấy sung sướng nhất. Trong cuộc đời của một gã đôi mươi lương thiện và có nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh bằng chứng là khi bà ba – vợ ba của Bá Kiến – bắt làm những điều không chính đáng, phần "người" trong Chí Phèo vừa làm mà tay vừa run, thấy "nhục hơn là thích". Như vậy, thì Chí lúc đó cũng như bao con người khác, chỉ mong: "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Ồ. Đẹp quá. Cuộc sống thanh tịnh dù trong khó khăn như vậy, ai mà chả ước mơ. Nhưng cuộc đời này, nhất là cuộc đời cám cảnh ở làng Vũ Đại không thích những thứ sạch sẽ trong trắng, bất lương thay đây là xã hội bóp chết những thứ trong trắng. Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến, ghen vì sự chung tình của một con trẻ, đẩy Chí vào con đường tù tội. Nơi mà nhà tù thực dân vắt ra khỏi con người ta những giọt lương tri cuối cùng, vắt nát cả thân thể và tâm khảm, nơi nặn ra một thằng Chí hoàn toàn khác – Chí Phèo. Bảy tám năm sau, Chí Phèo về làng. Người làng không còn ai nhận ra hắn nữa, cũng phải thôi, hắn đâu còn là anh canh điền hiền lành như đất của nhà Bá Kiến nữa. Giờ hắn mang thân hình của một con quỷ, và trái tim của một con chó hoang: "Cái đầu thì chọc lóc, cái mặt thì đen…hai mắt gườm gườm trông gớm chết…"cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Cuộc đời không ánh sáng của Chí Phèo đến đây, đã đại diện cho một phần không nhỏ những người nông dân – những người thuộc đáy xã hội cũ. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Chỉ có Nam Cao, người luôn nhìn cuộc sống qua con mắt nhân đạo mới nhận ra được điều ấy. Với cái nhìn đời đầy nước mắt ấy, ngay cả khi miêu tả lại cuộc đời của một con quỷ, tác phẩm của Nam Cao cũng chứa chan tình nhân đạo nhân văn. Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Gợi ý Cuộc sống lương thiện nghèo khó: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ, là một đứa con hoang. Được dân làng nuôi. Chí Phèo lớn lên như một loài cây dại, tuổi thơ hết đi ở nhà này lại đi ở cho nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Vì một chuyện ngờ ghen vớ vẩn, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Bị tha hoá: Sau bảy, tám năm biệt tích, Chí Phèo trở về làng, hoàn toàn biên đổi nhân hình lẫn nhân tính, chuyên đập đầu, rạch mặt để ăn vạ và dâm chém người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Anh hoàn toàn bị tha hóa, sông triền miên trong những cơn say, không ý thức được hành động và cuộc sống của chính mình. Rơi vào bi kịch và vùng lên để thoát khỏi bi kịch: Cho đến khi Chí Phèo gặp thị Nở trong một cơn ốm và anh được thị Nở chăm sóc. Tình cảm chân thật của thị Nở đã khơi dậy được ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Anh nghĩ rằng thị Nở cảm thông với mình thì người khác cũng có thể chấp nhận mình, nên mong được làm hòa với mọi người. Bản chmt tốt đẹp của người lao động trong Chí Phèo vốn tiềm tằng, nay có cơ hội tỉnh thức, anh muốn làm người lương thiện. Chí Phèo lại rơi vào bế tắc và thảm kịch xảy ra: Chí Phèo tha thiết muôn trở về với mọi người, nhưng tất cả làng Vũ Đại đều sợ hãi và xa lánh anh, thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Anh lại rơi vào tình thế hoàn toàn tuyệt vọng và bỗng nhận ra kẻ đã cướp quyền làm người của mình là bá Kiến, thảm kịch xảy ra: anh đâm chết bá Kiến rồi tự sát. THA HÓA VÀ QUÁ TRÌNH THA HÓA CỦA CHÍ PHÈO Tha hóa là hiến đổi thành cái khác: Trong truyện Chí Phèo, tình trạng con người bị tha hóa có thể hiểu ở hai phương diện. Một là không được sông như bản chất người của mình: Chí Phèo vốn là một nông dân lương thiện mà phải sông như một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hai là những sản phẩm do mình tạo ra lại trở thành xa lạ, thậm chí thù địch với chính mình: những người nông dân như Chí Phèo đã xây dựng nôn làng Vũ Đại cần lao và lương thiện, nhưng cái làng ấy không chấp nhận Chí Phèo quay về, thậm chí còn thù ghét và sợ hãi anh (khi Chí Phèo chết, cả làng cảm thấy mừng rỡ). Chí Phèo tuy bị tha hóa từ lâu, nhưng trước khi gặp thị Nở đã khơi dậy ý thức được tình trạng tha hóa của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm của anh. Nam Cao đã cho thấy tất cả nỗi thống khổ ghê gớm của nhân vật Chí Phèo. Nỗi thông khỏ đó không phải là không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích… mà chính là Chí Phèo bị xã hội vằm nát cả bộ mật người, cướp đi linh hồn người, phải sông kiếp sông tôi tăm của con vật lạ. Đó chính là nỗi thông khổ của cá thể sinh ra là người nhưng lại không dược làm người và bị xã hội từ chối, xua đuổi. Tình trạng ]ji thảm này được tác giả chứng minh trong đoạn mở đầu giới thiệu một chân dung, một tính cách “hấp dẫn”, vừa hé cho thấy một số phận bi đát. Dù say rượu đến điên khùng. Chí Phèo vẫn như cảm thấy thấm thìa “nông nỗi” khôn khố của thân phận mình. Anh chửi trời, chứi đời rồi lại chuyển sang chửi tất cả làng Vũ Đại, cuối cùng chửi thằng cha con mẹ nào đẻ ra cái thằng Chi Phèo. Không ai chữi lại anh vì rất đơn giản là không ai coi anh như một con người. Hơn nữa, con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo, bị chặn đứng lại: Bà cô của thị Nở dứt khoát không cho cháu bà đâm đầu lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Bà ta cũng giống như mọi người quen coi Chí Phèo là “con quỷ dữ” từ lâu rồi. Thế là Chí Phèo bị rơi vào một bi kịch tâm hồn đau đớn, bi kịch của con người không được nhận làm người. Ngay trong phút giây tuyệt vọng đó, anh xách dao đến nhà bá Kiến, không chỉ vì say mà chủ vếu chỉ vì lòng căm thù vẫn âm ĩ lâu nay trong đầu óc u tôi của anh giờ đây đã bừng lên. Những lời lõ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đau đớn đó: “Tao muốn làm người lương thiện… Không dược! Ai cho tao lương thiệnĩ Làm thế nào cho mất dược những ưết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện dược nữa. biết không!”. Sau khi đâm chết bá Kiến, Chí Phèo chỉ còn một cách là tự sát. Thế là trước đây, để bám lấy sự sông, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây ý thức về nhân phẩm thức dậy, linh hồn đã trở về, Chí Phèo lại phải tự hủy diệt cuộc sống của mình. GIÁ TRỊ TỐ CÁO HIỆN THỰC Chí Phèo là một sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột ở nông thôn nước ta trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là hiện tượng người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, dần dần bị tha hóa. Hờn ghen vớ vẩn, lí Kiên đẩy anh canh điền vào nhà tù. Nhà tù thực dân tiếp tay lão cường hào thâm độc để giết chết phần “người” trong con người Chí Phèo, biến Chí Phèo từ một người nông dân lương thiện thành quỷ dữ. Chi tiết kết thúc tác phẩm này đầy ngụ ý: biết đâu lại chẳng có một “Chí Phèo con” bước từ cái lò gạch cũ vào đời để “nối nghiệp bố”. Hiện tượng Chí Phèo chưa thê hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho con người được sông hiền lành, tử tế, vẫn còn những người dân lương thiện bi đây vào con đường lưu manh, tội lỗi. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là vạch ra được quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hội tối tăm của nông thôn nước ta thời đó. Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Bài làm 2 Chí phèo vốn là đứa trẻ mồ côi, được nuôi nấng trong vòng tay của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền khỏe mạnh cho nhà Bá Kiến. Canh điền nhưng hắn hiền như đất, thậm chí là nhút nhát. Từng có ước mơ giản dị, lương thiện như trăm người khác: “một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,…” Chí còn là người biết tự trọng. Vì tự trọng, anh nông dân ấy chỉ thấy nhục khi bị bà Ba gọi lên làm những việc không chính đáng. Làm canh điền cho Bá Kiến là khởi điểm cho quá trình tha hóa của Chí phèo, mà nguyên nhân trực tiếp là sự dâm ô của bà Ba và thói ghen tuông xấu xa của Bá Kiến. Vì sự ích kỉ của mình, Bá Kiến sẵn sàng hủy hoại cuộc đời người khác, đẩy Chí phèo vào tù. Nhà tù thực dân lại là môi trường thuận lợi, biến Chí phèo từ người lương thiện thành lưu manh. Sau bảy, tám năm, Chí phèo ra tù với hình hài của một thằng lưu manh: “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cương cường,..”. Đó là sự tha hóa về nhân hình. Còn về nhân tính, Chí không còn hiền như đất, mà hung hăng, liều lĩnh. Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến nhà Bá Kiến, gọi tận tên ra mà chửi. Rồi Chí phèo đánh nhau với Lý Cường, đập cái chai vào cột cổng, lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt. Không may cho Chí phèo, cái mãnh lực đen tối, tiềm tàng trong hắn đã gặp phải tên cáo già xảo quyệt là Bá Kiến. Chí như lửa to gặp gió lớn, càng tác oai tác quái nhiều hơn. Bá Kiến biết rằng với những thằng hiền thì phải bóp cho ra bùn, còn với hạng lưu manh côn đồ, phải biến nó thành tay sai. Bằng những đồng tiền lẻ, thủ đoạn “trị không được thì dùng”, Bá Kiến đã buộc Chí phèo phải bán dần bán lẻ thể xác và linh hồn. Kể từ đó, Chí phèo triền miên trong những cơn say, và hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Hắn đập phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ biết bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện. Để rồi hắn trở thành con quỷ dữ trong mắt người dân làng Vũ Đại. Cái mặt của Chí không còn phải là mặt người, nó là mặt của một con vật lạ, nó vằn dọc, vằn ngang, không thứ tự, bao nhiêu là sẹo. Dầu vậy, hình tượng Chí phèo không phải ngẫu nhiên, cá biệt. Trước hắn đã có Năm Thọ, Binh Chức và biết đâu chẳng có một Chí phèo con lại bước ra từ một cái lò gạch cũ mà Thị Nở đã thoáng hình dung để “nối nghiệp” bố? Trong một số truyện ngắn khác, Nam Cao cũng xây dựng một số nhân vật tương tự: Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò), Cụ Lộ (Tư cách mõ), Đức (Nửa đêm),.. Qua “Chí phèo”, Nam Cao đã khẳng định một sự thật đau đớn ở làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: hiện tượng người nông dân bị chà đạp về thể xác và tâm hồn lương thiện vốn có, bị xã hội phi nhân tính cướp đi cả hình hài lẫn tính người. Nhà văn không chỉ vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, mà từ hình tượng nhân vật, gián tiếp lên án, tố cáo các thế lực đen tối thống trị xã hội lúc bấy giờ. Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao – Gợi ý 2 Là một cây bút xuất sắc trong trào lưu văn học hiện thực, các tác phẩm của nhà văn Nam Cao chứa đựng một nội dung nhân đạo sâu sắc và độc đáo không lẫn vào đâu được. Trong đó, "Chí Phèo" là kiệt tác về đề tài người nông nhân trước Cách mạng tháng tám của ông. Qua nhân vật trung tâm của tác phẩm – Chí Phèo – Nam Cao đã vẽ nên một hiện thực về người nông dân trong xã hội cũ, bị tha hóa nhân cách làm người. Thế nhưng, qua đó, câu chuyện về nhân vật đã gieo vào lòng người đọc niềm tin đối với người lao động bất hạnh, đồng thời nói lên giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. 1. Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo: nông dân lương thiện ————-> lưu manh —————> quỷ dữ 1.1 Từ người nông dân lương thiện —-> lưu manh: – Chí vốn là một thằng không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, bạn bè,,, Cả một thời niên thiếu sống bơ vơ: "đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ". Lớn lên đi làm canh điền cho cường hào trong vùng. Lúc ấy Chí vẫn là một nông dân lương thiện, khỏe mạnh về thể xác và lành mạnh về tâm hồn – một con người "hiền như đất", giàu lòng tự trọng và biết phân biệt tình yêu cao thượng và nhục dục thấp hèn. Chí từng mơ ước một gia đình "chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải" – một ước mơ giản dị và rất người. Tuy nhiên, một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù, bắt đầu một quá trình tha hóa một con người. Nhà tù vốn là nơi để người có tội chuộc lỗi, là công cụ cải tạo con người. Vậy mà nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào, ác bá, giết chết đi phần người trong Chí Phèo, để Chí mãi trượt dài trên dốc của sự tha hóa. – Trở về sau 7,8 năm tù, Chí Phèo trở thành một "người ngoài" ở làng Vũ Đại vì sự đáng sợ toát lên ở vẻ ngoài: "Cái đầu trọc lốc… trông gớm chết!". Không chỉ biến dạng về diện mạo, hình hài đến trang phục, tính tình cũng khác: "Hắn mặc cái quần nái đen… trông gớm chết". Và Chí, giữa cái xã hội mà ai cũng nghĩ "chắc nó trừ mình ra", lạnh lùng xa lánh hắn, hắn uống rượu, chửi bới, dọa đốt quán, rạch mặt ăn vạ… Hắn đã trở thành một phần tử lưu manh một cách mù quáng. 1.2 Từ một kẻ lưu manh —-> quỷ dữ làng Vũ Đại: – Không dừng ở đó, dưới bàn tay quỷ quyệt của Bá Kiến, Chí Phèo đã trở thành một công cụ gây tội ác trong mắt người dân làng Vũ Đại. – Người đẩy Chí vào bước đường ấy là Bá Kiến, vậy mà chẳng những Chí Phèo không thể đòi lại công bằng cho mình mà còn trở thành một tên tay sai, một thứ công cụ: "hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì người ta sai hắn làm…". "Hắn tác quái cho bao nhiêu dân làng, phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… ". – Và cứ như thế, Chí Phèo trượt dài trong sự tha hóa, bản thân mình nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bào mòn, càng ngày càng dấn sâu vào tội ác, vực thẳm của đau thương và tội lỗi, bị chính kẻ thù lợi dụng và trượt dài trên con đường tha hóa, không lối thoát. => Tấn bi kịch đầy nghịch lý, vừa là nạn nhân của bọn cường hào, ác bá, vừa là con quỷ dữ của làng, bị mọi người xa lánh, ngoảnh mặt. Ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao đã vạch trần hiện thực trước mắt người đọc, đó là sự cùng quẫn của hoàn cảnh sống, sự nham hiểm, độc ác của bọn cường hào, địa chủ ở nông thôn, sự phi nhân tính của nhà tù thực dân và định kiến của đồng loại đối với những con người cùng đinh, khốn khổ như Chí Phèo. Chính xã hội phi nhân tính đã đẩy con người vào con đường lưu manh, tha hóa. 2. Quá trình thức tỉnh: 2.1 Sau đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo sống lại với những cảm xúc đầy nhân tính: – Lần đầu tiên sau những cơn say vô tận, "hắn tỉnh" và nhận ra cuộc sống xung quanh qua những âm thanh: "Tiếng chim hót… cá…". Những âm thanh cuộc sống rất thực ngoài kia đang đánh thức hắn, kéo hắn ra khỏi những ngày tháng u mê, tăm tối, gợi nhắc đến mơ ước rất người mà hắn từng ấp ủ. Chí cũng nhận ra bản thân mình "hình như đã trông thấy trước… và ốm đau". – Chí thức tỉnh và sống lại với những cảm xúc rất người cùng ý thức cũng đã trở lại trong hắn. 2.2 Sự chăm sóc của Thị Nở làm tâm hồn Chí Phèo thực sự hồi sinh: – Đó là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay một người đàn bà, bằng một bát cháo hành giản dị, chân thành của Thị Nở. Đó là bát cháo từ bàn tay ấm nóng tình thương làm "hắn rất ngạc nhiên", "hết ngạc nhiên hắn thấy mắt hình như ươn ướt". – Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh, những cảm xúc rất người. Hắn khóc. Bởi vì "đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho", hắn được cư xử như một con người. Trước đây, muốn được ăn, hắn toàn phải dọa nạt, giật cướp, phải rạch mặt ăn vạ… Hắn nhận bát cháo hành bốc khói mà "bâng khuâng", vừa "vui" vừa "buồn", vừa "có một cái gì đó như là ăn năn". Những cảm xúc con người đã thức dậy trong tâm can của Chí Phèo. Chính hương vị cháo hành – thứ hương vị của tình thương chân thành và cảm động. Hạnh phúc giản dị mà thấm thía lần đầu tiên Chí được nhận lấy đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện… thân thiện của những người lương thiện." Quả là kì diệu. Cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lương thiện bị vùi dập lâu nay lại bừng sáng trong tâm hồn Chí Phèo. 2.3 Sự thức tỉnh về quyền làm người và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện: – Thế mà, sự xuất hiện của Thị Nở chỉ như một tia chớp lóe lên rồi vụt tắt trong cuộc đời Chí Phèo. Hình ảnh người đàn bà ấy như một cách để Nam Cao soi rọi ánh sáng lương thiện vào tâm hồn Chí Phèo để làm hồi sinh những phẩm chất người trong hắn. – Trong lúc tưởng chừng như hạnh phúc đã thuộc về mình, hắn cay đắng nhận ra rằng mình "không thể làm người lương thiện được nữa", Thị Nở từ chối hắn, mọi người từ chối hắn. Bởi hắn chỉ là "một thằng không cha… ăn vạ". Hắn đã gây ra bao bất hạnh cho bao người. Mọi nẻo đường để quay về một cuộc sống bình dị, lương thiện đã bị khép chặt. Hắn thức tỉnh nên ý thức rất rõ bi kịch của cuộc đời mình, thấm thía và đớn đau. – Hắn tìm đến rượu, nào ngờ đâu không làm hắn say mà "càng uống càng tỉnh". Cái tỉnh của Chí là cái tỉnh của một con người với nỗi đau quá lớn và ý thức rất rõ về cuộc đời mình trong sự bất lực, buông xuôi. Sự từ chối của Thị Nở đã khép lại bao hy vọng của hắn. Hơn bất cứ lúc nào, hắn cảm thấy nỗi bất hạnh to lớn đè nặng tâm hồn mình, để rồi chỉ có thể bất lực mà "ôm mặt khóc rưng rức". – Không còn con đường nào khác, Chí Phèo vác dao đến nhà Bá Kiến. Chí ý thức rất rõ tình cảnh của mình. Đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo muốn đòi "lương thiện", đòi quyền làm người – một con người đúng nghĩa. "Tao muốn làm người lương thiện… nữa". Những vết cắt của tội lỗi đã hằn trên khuôn mặt hắn, hắn biết rằng đã quá muộn màng để quay đầu. Chí Phèo vung dao giết Bá Kiến nhưng hắn không để mình trở lại cuộc sống của một quỷ dữ như trước nữa. Và lưỡi dao oan nghiệt cũng đã kết thúc một kiếp người khốn khổ. Cái chết Chí Phèo đầy uất hận nhưng đó là nỗi khao khát của người nông dân bị tha hóa, muốn được lương thiện. Chí Phèo chết bởi hắn khao khát lương thiện nhưng định kiến xã hội đã không chừa cho hắn cơ hội. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rất rõ về chính mình và bi kịch bị từ chối ấy. 3. Đánh giá: – Miêu tả quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo là yếu tố làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác phẩm là tiếng nói đanh thép, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã xô đẩy bao con người lương thiện đến tận cùng của sự tha hóa. Tác phẩm còn là niềm tin yêu vào những người lao động cùng khổ: Xã hội dù đã hủy hoại nhân hình nhân tính của con người nhưng bản chất ốt đẹp và khát vọng làm người của họ vẫn hiện hữu. – Thể hiện quá trình tha hóa và thức tỉnh, Nam Cao đã thể hiện bản lĩnh của một cây bút hiện thực sắc sảo, tạo nên một hình tượng nghệ thuật đa diện có sức sống nội tạng, để lại nhiều suy ngẫm trong lòng độc giả. => Quá trình tha hóa và thức tỉnh của Chí Phèo được nhà văn Nam Cao thể hiện hết sức thành công bằng biện pháp nghệ thuật nghiêm ngặt của một cây bút văn học hiện thực xuất sắc cùng với cảm xúc của một trái tim "sống đời, trải đời" giàu tình thương với con người và cuộc sống, làm cho "người gần người hơn".
Phân tích quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao
4,899
Phân tích quá trình thức tỉnh hồi sinh của Chí Phèo Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là 1 kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. CP là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k đc làm người. Để quên đi số phận bất hạnh của mình, CP vùi đầu vào rượu, say triền miên và sống kiếp sống mù tối của thú vật. Những tưởng hẳn chỉ có thể sống 1 cuộc đời như thế, nhưng k, CP đã thật sự có thể hồi sinh sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Chúng ta không thể không cảm động trước quá trình hồi sinh trong cuộc đời của Chí Phèo – một người tưởng đã là một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy CP vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tên tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, Chí bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời. Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Thị Nở đi qua vườn nhà Chí và ngủ quên trong vườn nhà hắn vào một đêm trăng mát rười rượi. Còn Chí Phèo thì vừa uống rượu ở nhà tự Lãng về, muốn ra sông tắm, vô tình hắn gặp thị ở đó. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ấy hoàn toàn ngẫu nhiên, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy. Chút ty thương mộc mạc, tự nhiên cộng vs sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở – người con gái xấu xí ''ma chê quỷ hờn'' đã đánh thức lương tri trong Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người hắn. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỉ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện. Suốt 5 ngày đêm cả hai đều chìm đắm trong men say của tình yêu. Đoạn văn miêu tả tâm trạng CP sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng ''mơ hồ buồn''. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Đó là điều rất lạ ở Chí, sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cs đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa đc khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong qk, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ''có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ 1 con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm..'' bỗng dưng trở lại vs Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tỉnh cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, và cơ thể thì đã “hư hỏng nhiều”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, không chỉ buồn mà còn lo sợ, bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình, triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của 1 con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở CP. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cam vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần găp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ. Đúng lúc ấy thì Thị Nở đã bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ''hết sức ngạc nhiên'' đến xúc động ''thấy mắt mình như ươn ướt'' bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà''. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng trở thành 1 người đàn bà có duyên, cx biết lườm yêu, biết e lệ, biết ''ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe 2 tiếng ''vợ chồng''. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy của thị khiến Chí “ăn năn”. Trái tim tưởng chừng như chai đá của CP đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cx hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Tiếp đến, tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở đã mở đường cho CP trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn vs hắn thì sao người khác lại k thể đc''. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn ''thế này'' đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị…được như thế thì “thích nhỉ'' là sung sướng, hạnh phúc nào bằng. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở-một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại vs cs bt, đc làm hòa vs m.n. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn vs dân làng Vũ Đại. CP bâng khuâng, háo hức nghĩ tới 1 tương lai tốt đẹp Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tg đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nv sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiên lương, của lòng lương thiện. Quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đọan văn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nhà văn đã cảm thông sâu sắc với bi kịch của người nông dân và khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương. Lương thiện, khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con người. Không thế lực nào có thể hủy diệt. Từ đó, nhà văn kêu gọi mọi người hãy luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mổĩ người và cùng nhau xây đắp phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Phân tích quá trình thức tỉnh hồi sinh của Chí Phèo
1,957
Một trong những thành công của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tế, sâu sắc trong việc miêu tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật Mị. Mị là người phụ nữ tưởng chừng như cam chịu số phận, không còn sức sống và lối thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn vươn lên làm chủ cuộc đời. Và cái gì đã khiến bên trong “con rùa” câm lặng ấy bùng lên khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng được quyền làm người cho ra kiếp người, chính là đêm mùa xuân trở về trên rẻo cao. Khi trờ thành nô lệ nhà thống lí Pá Tra, Mị bị đầy đọa tới mức trầm cảm, vô vọng. Mị chôn vùi tuổi thanh xuân, thời con gái đẹp đẽ của mình. Ngày Mị không nói, sống như cái xác không hồn, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Tưởng rằng Mị sẽ chết tàn trong căn buồng u tối, nhưng ai có thể ngờ tiềm ẩn trong con người yếu đuối ấy vẫn chất chứa một sức sống tiền tàng. Đêm tình mùa xuân trở về đã đánh thức niềm yêu sống và khát vọng tự do trong Mị. Tiếng sáo gọi bạn đi chơi làm lòng Mị bổi hổi bồi hồi. Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát để mong muốn đi bao nỗi đời cay đắng ư? Không hề! Tiếng sáo và hơi men đã đưa Mị về quá khứ tươi đẹp. Khát vọng bùng lên, Mị muốn đi chơi. Quá khứ đẹp đẽ, hiện tại phũ phàng khiến Mị muốn ăn lá ngón mà chết cho khỏi phải nghĩ. Nhưng tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn réo rắt ngoài đường, xoáy sâu vào trái tim đầy thổn thức của Mị. Tiếng sáo như một ma lực cứ rập rờn, bay bổng, thôi thúc Mị khao khát được đi chơi, thôi thúc Mị búi lại tóc, với tay lấy cái váy hoa. Chẳng cần biết A Sử đã bước vào buồng bởi trong lòng Mị chỉ còn tiếng sáo và khát vọng tự do…. Tô Hoài cảm nhận được ý thức đang sống dậy một cách mãnh liệt trong Mị. Mị nhận ra mình còn trẻ đẹp, nhận ra quyền làm người của mình. Vì thế, Mị muốn thoát ra khỏi cái địa ngục tăm tối để được tự do đón gió xuân, hơi xuân, tìm lại những ngày tươi đẹp đã mất… Nhưng đau đớn thay! Khát vọng vừa bùng lên đã bị A Sử chặn đứng lại. Sợi dây tàn bạo đã cuốn chặt Mị vào cây cột trong căn buồng u tối cho tới sáng. Hơi rượu nồng nàn nâng tâm hồn Mị, Mị quên mình đang bị trói. Đau đớn, xót ra Mị nhận ra kiếp một con người mà không bằng kiếp vật. Suốt đêm, Mị bị trói đứng trong hơi men nồng nàn, trong tiếng sáo tình tứ đầy ai oán. Nhưng sức sống tiềm tàng luôn ẩn chứ trong con người Mị, tiếp cho Mị một sức mạnh, quên đi nỗi đau thể xác để tâm hồn được bay lên, giải phóng theo tiếng sáo. Có thể nói, miêu tả đời sống tinh thần của Mị là một trong những trang văn đặc sắc nhất. Tâm lí phức tạp, đầy biến động được nhà văn khám phá, miêu tả qua tiếng sáo. Tiếng sáo như một âm thanh kì lạ len lỏi vào tận sâu thẳm tâm hồn vốn câm lặng của Mị để khám phá, cứu vớt, thức tỉnh Mị ra khỏi cõi u mê. Dù trong đêm tình mùa xuân, Mị vẫn chưa giải phóng được cuộc đời nhưng sức sống tiềm tàng đó trong Mị sẽ báo trước cho sự đột biến quyết liệt tháo cũi sổ lồng ở lần sau. Đó chính là ý nghĩa nhân văn của tác phẩm. Tô Hoài phải là người hiểu đời, hiểu người sâu sắc mới có thể hòa tâm nhập cảnh vào niềm tâm tư sâu kín nhất của người phụ nữ bất hạnh, đau nỗi đau cùng nhân vật, khát vọng cùng họ, mở đường cho họ một tương lai tươi sáng.
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong Đêm tình mùa xuân
717
Thông thường, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm; còn cái dốt của học trò thì chỉ đáng chê trách, chứ không đáng cười. Người xưa nói:“ Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Thế nhưng trong cuộc sống, nhiều người lại có thói “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Vì thế mà cha ông ta đã sáng tác ra những câu truyện cười truyện ngụ ngôn để phê phán theo một cách hài hước, trong số đó truyện cười Tam đại con gà là một câu truyện khá phổ biến hướng đến sự châm biếm đả kích vào một anh học trò loại người “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”. Anh ta học hành dốt nát nhưng lại có tính khoe khoang đi đâu cũng ra vẻ cũng lên mặt “văn hay chữ tốt”. Cái xấu cái tốt càng che đậy càng dễ lộ ra kệch cỡm và đáng cười hơn rất nhiều lần. “Tam đại con gà” là câu truyện dân gian ngắn có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ kể về những sự việc hành vi tự nhiên của con người với tính chất giải trí. Câu chuyện thu hút người đọc ở các tình huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ hay tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên khi tình huống cuối cùng khép lại. Mấu chốt của câu chuyện chính là ông thầy được mời về gõ đầu trẻ.Bi kịch đã bắt đầu từ đó và khiến ông thầy không thể xoay xở được.Bắt đầu là việc nhận biết mặt chữ.Thầy đồ đi dạy học trò nhưng “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối quá học trò lại hỏi gấp,thầy cuống nói liều”. Thầy gặp chữ “kê” mà cũng không biết là chữ gì nên nói bừa “dủ dỉ là con dù dì”. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại. Dủ dỉ đâu phải chữ Hán? Và trên đời làm gì có con vật nào tên là dủ dỉ, dù dì? Như vậy là thầy vừa dốt Kiến thức sách vở, lại vừa dốt kiến thức thực tế. Người đọc đọc đến đây phải bật cười ngạc nhiên trước “trình độ” của “ông thầy kì quặc này. Tình huống thứ hai là thầy cũng khôn, sợ nhớ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ. Thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu nhẹm cái dốt của mình. Tạm thời, sự láu cá ấy cứu được thầy nhưng thực ra nó càng đẩy nhanh thầy vào ngõ cụt. Thầy khấn hỏi Thổ Công của gia chủ để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì ” không. Lẽ ra, không biết thì thầy phải tìm sách mà học, tìm người mà hỏi. Nhưng chuyện không có cái lẽ ra ấy. Tình huống này làm cho mâu thuẫn phát triển lên tới điểm đỉnh. Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện “khèo” cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đổ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần Tình huống thứ tư nằm ở phần kết thúc truyện. Khi thầy đồ bộc lộ đến tận cùng sự ngoan cố của thói giấu dốt thì cũng là lúc tiếng cười bật lên. Sự tin tưởng mù quáng vào thần thánh đã đưa thầy đến cuộc chạm trán bất ngờ với chủ nhà. Cái dốt nát của thầy đã bị lật tẩy. Lúc này, thầy đã tự nhận thức được sự dốt nát của mình và thầm trách Thổ Công: Mình đã dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa. Tác giả dân gian đã không hề đi sâu vào nội tâm nhân vật, nhưng chỉ với một câu trong suy nghĩ của anh học trò này đã gây ra tiếng cười hài hước cho người đọc. Vốn “vụng chèo khéo chống”, thầy vẫn cố gượng gạo giấu dốt bằng cách giải nghĩa quanh quẩn rất buồn cười. Không ngờ chữ dủ dỉ vô nghĩa mà lại được thầy tìm ra lắm nghĩa đến thế. Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng cười trào phúng hả hê. Truyện khai thác cả vần điệu, cả yếu tố thứ bậc trong tam đại con gà mà chế giễu, chọc cười: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của chuyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt. Câu chuyện ngắn gọn khai thác từ những chi tiết, khía cạnh sâu sắc để vấn đề xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ đáng phê phán. Sự phê phán nằm trong tiếng cười chính là một bài học cho người đời về vấn đề học thức của mỗi người, không biết thì hỏi, không cần che dấu để rồi dấu đầu hở đuôi làm trò cười cho thiên hạ.
Phân tích truyện cười Tam đại con gà
1,036
Nội dung bài viết1 Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 1 2 Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 2 3 Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Dàn ý 4 Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Gợi ý Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 1 Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân. Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người. Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng. Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều… lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất. Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao. Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó. Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ. Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng. Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm. Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện… mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng. Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 2 Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục. Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thày giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ. Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật. Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc. Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng nhứng tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ. Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên ***g lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù. Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao ***g lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn. “Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân. Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Dàn ý A – MỞ BÀI Truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân có nguyên mẫu lịch sử từ cuộc đời Cao Bá Quát (1855), một danh sĩ đời Nguyễn mà tài văn thơ và tính cách ngang tàng đã trở thành huyền thoại. Nguyễn Tuân vốn là một người đề cao chữ “ngông” – một phản ứng với thời đại và cũng là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo. Do đó Huấn Cao đã thừa hưởng hay nói đúng hơn là phiên bản của hai con người rất tài hoa và đầy khí phách. Đặt trong hoàn cảnh đen tối trước Cách mạng tháng Tám, việc Nguyễn Tuân ca ngợi Huấn Cao có tài, có tâm, có khí phách chính là một ẩn dụ để nhà văn bày tỏ niềm cảm phục với những người đương thời đang dũng cảm chiến đấu vì nước quên mình. B – THÂN BÀI 1) Một con người tài hoa Hình tượng Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm trước hết là vẻ đẹp của một người có tài viết thư pháp. Đây là những thủ pháp tinh thông điêu luyện để viết chữ đẹp. Thời xưa, chữ Hán vốn được coi là chữ của thánh hiền và thứ chữ khối vuông ấy có người thì viết như rồng bay phượng múa, có người thì viết cứng cỏi sắc sảo cho nên chẳng những nó có tính tạo hình mà còn ít nhiều biểu hiện tính cách của người viết. Có chữ thánh hiền ở trong bụng đã là con người được tôn trọng. Viết chữ thánh hiền mà không ai bắt chước thì đó là người đặc biệt được tôn trọng trong văn hóa của người xưa. Vì thế thưởng thức chữ đẹp đòi hỏi phải có văn hóa cao, có khả năng thẩm mĩ tinh tế. Chơi chữ trở thành một thú vui tao nhã bậc nhất của người xưa. Có điều thưởng thức chữ đẹp đã khó, sáng tạo chữ đẹp khó gấp bội phần (viết, chạm, khắc thành câu đối, thành hoành phi, thành những bức trung đường; có khi thành bộ tứ bình hay là bức châm…). Do đó người viết chữ đẹp đượccoi là nghệ sĩ và việc sáng tạo ra chữ đẹp đối với người xưa là một thứ nghệ thuật siêu việt. Trong truyện ngắn này Huấn Cao chính là một nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp, Nguyễn Tuân không trực tiếp miêu tả “tay tiên thảo những nét” của Huấn Cao. Nên nhớ rằng Nguyễn Tuân vốn rất thích chi li và luôn muốn quan sát đối tượng một cách trực tiếp. Đọc Người lái đò sông Đà thìrõ. Nguyễn Tuân đãdùng cái thủ thuật “vẽ mây nẩy trăng” một cách gián tiếp qua lời kể chuyện đầy cảm phục của viên quản ngục và viên thơ lại. Ngay khi Huấn Cao chưa đến nhà giam thì quản ngục đã chú ý nét đặc biệt của nhân vật Huấn Cao “người mà vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp… Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm… Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Thực ra trong toàn bộ tác phẩm, những băn khoăn tính toán, những mưu mẹo, những biệt đãi, những đau khỗ nhẫn nhục, những hốt hoảng tuyệt vọng và rồi hi vọng được nhen lên, rồi hồi hộp thành kính của viên quan ngục, là những thủ pháp nghệ thuật đầy hiệu quả để Nguyễn Tuân ca ngợi cái tài hoa vừa quý vừa hiếm của ông Huấn Cao. 2) Cái tâm cao cả Một kì tài như Nguyễn Du khi khép lại Truyện Kiều đã nói những điều gan ruột “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Có lẽ Nguyễn Tuân cũng rất đồng ý với suy ngẫm của cụ Tố Như và đã xây dựng tính cách ông Huấn Cao nghiêng hẳn về chữ “tâm”. Nên nhớ rằng Nguyễn Tuân rất cực đoan trong việc miêu tả ca tụng hết lời những người có tài. Nói chính xác hơn cái “tài” luôn là cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của Nguyễn Tuân. Đọc Chữ người tử tù cảm giác của độc giả kính mến trân trọng Huấn Cao có lẽ không phải vì tài mà có lẽ ở tấm lòng ông ta. Nhân vật Huấn Cao sáng ngời nhất trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân có lẽ là nhờ sự nghiêng lệch của chữ “tâm” này. Huấn Cao được tác giả thể hiện và ca ngợi cái tài của ông luôn đi với cái tâm và Huấn Cao coi trọng trước hết là chữ “tâm” (tâm hồn, đạo đức, nhân cách). Đối với Huấn Cao chữ đẹp không phải là ở kiểu chữ, ở cách viết mà quan trọng là nội dung của nó, ý nghĩa của nó. Nó có thể biểu hiện những phẩm chất trong sáng nói lên những ước mơ khát vọng cao đẹp của một đời người. Huấn Cao có ý thức rõ rệt khi sử dụng cái tài của mình. Ông biết chọn người để cho chữ “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ông không hề vì vàng ngọc và những kẻ có quyền thế cũng không bao giờ ép được ông viết chữ. Xét trong mối quan hệ giữa tài và tâm như thế việc Huấn Cao cho chữ người quản ngục là rất khác thường. Bởi vì chính Huấn Cao đã nói “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Ở đây, quản ngục là kẻ thù của Huấn Cao, là đại diện trực tiếp cho cái triều đình thối tha đã ra bản án tử hình ông. Tuy nhiên, nếuhiểu diễn biến câu chuyện sẽ thấy cái tâm của Huấn Cao thể hiện nổi bật trong việc ông phát hiện và cảm nhận cái tâm của viên quản ngục và viên thơ lại. Mới đầu thấy viên quản ngục biệt đãi mình, Huấn Cao nghi ngờ đấy chính là âm mưu đen tối “hay là hắn muốn đến dò những điều bí mật của ta”. Và vì thế Huấn Cao tỏ thái độ khinh bỉ đến mức tàn nhẫn “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Sau đó nghe viên thơ lại kể về tâm sự và nguyện vọng xin chữ của quản ngục, Huấn Cao hết sức xúc động “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy một con người biết coi khinh vàng ngọc như Huấn Cao nhưng rất sợ “một tấm lòng”, rất sợ mình phụ tình người. Dĩ nhiên đó là con người có chất người nhiều nhất, ở đây Huấn Cao trân trọng tấm lòng biết yêu cái đẹp biết quý cái tài, có sở thích cao đẹp. Theo Huấn Cao đó là tấm lòng của những con người còn giữ được thiên lương “là thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Có thể thấy Huấn Cao, viên quản ngục, viên thơ lại, tuy ba người ở ba vị trí khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở một điểm chung đó là cái đẹp. Một người biết sáng tạo cái đẹp; một người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp; một người ngưỡng mộ và tôn kính cái đẹp. Cả ba người đều đã chứng tỏ cái đẹp cố một sức mạnh kì diệu. Nó có thể làm cho những người khác nhau về mọi phương diện (đặc biệt là vị trí xã hội) gặp gỡ nhau có sự giao cảm với nhau về tâm hồn. Nói chính xác cái tâm, cái thiên lương cao cả của Huấn Cao đã gặp được cái tâm cái thiên lương đẹp đẽ của viên quản ngục, của viên thơ lại – những người tưởng như là kẻ thù của Huấn Cao. 3) Khí phách anh hùng Hình tượng Huấn Cao còn hiện lên trong tác phẩm với vẻ đẹp của khí phách anh hùng. Đấy là khí phách chân chính của kẻ sĩ không sợ cái chết, khí phách hiên ngang bất khuất của Cao Bá Quát. Khi Huấn Cao chưa đến nhà giam tỉnh Sơn Tây, chỉ qua những lời trò chuyện của viên quản ngục và viên thơ lại “Y văn võ đều có tài… một tên tù có tiếng là nguy hiểm…” người đọc có thể hình dung những hoạt động anh hùng của Huấn Cao trong cõi đời tự do. Tiếp đó là sự xuất hiện của Huấn Cao trước cửa nhà giam đã cho thấy một tính cách mạnh mẽ ngang tàng. Ở đây thái độ của Huấn Cao là thái độ của một người làm chủ tình thế chứ không phải là một người tử tù đang mang trên vai chiếc gông nặng trĩu. Ông nói với những người bạn tù “rệp cắn tôi đỏ cả cổ lên rồi, phải dỗ gông đi”. Sau đó trước lời đe dọa của tên lính áp giải, Huấn Cao vẫn lãnh đạm không thèm chấp chỉ “chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đả tảng đánh thuỳnh một cái”. Câu nói và hành động ấy không chỉ là sự ngang nhiên, coi khinh bọn lính giải tù mà là sự biểu thị ý chí tự do, muốn làm việc gì thì làm bằng được. Như vậy Huấn Cao là người bị tù đày về thể xác nhưng vẫn hoàn toàn tự do về tính cách và tư tưởng. Ông là “khách tự do” trong điều kiện nhà tù nghiệt ngã. Tất cả những điều đó gợi liên tưởng đến đôi câu đối vẻ ngỗ ngược ngang tàng của Cao Bá Quát. Một chiếc cùm lim chân có Đế Ba vòng xích sắt đứng thì Vương Những chuỗi ngày trong chốn lao tù chờ ra pháp trường, Huấn Cao vẫn giữ được tư thế cứng cỏi, ung dung đường hoàng trong cách ứng xử. Ông vẫn thản nhiên, vẫn cố ý trả lời viên quản ngục bằng cái giọng “làm ra khinh bạc”. Huấn Cao bình tĩnh “đợi trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quản ngục bị sĩ nhục”. Ông không hề sợ hãi bởi vì “đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Cùng với tính cách cứng cỏi như thế khi nhận được tin sắp bị giải về kinh chịu án tử hình, Huấn Cao trầm ngâm rồi mỉm cười tưởng như trong giây phút đó ông đã quên cảnh ngộ bi thảm của mình để nghĩ tới cái sở nguyện của viên quan coi ngục là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết. Chính vì thế Huấn Cao đã đồng ý cho chữ người quản ngục. Có lẽ bằng hành động ấy ông muốn truyền lại cái tài, cái tâm và khí phách cao đẹp của mình cho người đời sau. 4) Cảnh cho chữ Tất cả vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao được thể hiện tập trung nhất trong cảnh cho chữ. Đấy cũng là tình tiết khắc họa sâu sắc nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Trước hết cảnh tượng xưa nay chưa từng có ấy đã diễn ra trong phòng giam của một kẻ tử tù. Chỉ vài nốt bút vẽ khéo léo, Nguyễn Tuân đã tạo ra vẻ trang nghiêm cổ kính và có phần huyền bí kết hợp với việc cho chữ “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lèn ba cái đầu người đang chăm chú”. Không những thế, Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ pháp đối lập, tương phản. Một bên là “tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”, rất mới mẻ sạch sẽ, nơi con người sẽ sáng tạo cái đẹp và nâng niu cái đẹp. Đối lập với “trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đấy là hình ảnh tượng trưng cho sự xấu xa. Ánh sáng ngọn lửa làm cho cái xấu xa đáng kinh tởm mờ dần, nhường chỗ cho tấm lụa mỗi lúc một sáng đẹp lên, mỗi lúc càng có ý nghĩa hơn lên. Nguyễn Tuân rất có dụng ý miêu tả quá trình: bắt đầu là “tấm lụa bạch”, tiếp theo “người tù đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Cứ mỗi nét chữ được viết thì tấm lụa chuyển thành phiến lụa óng. Khi những nét chữ cuối cùng kết thúc, tấm lụa trở thành “bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn”. Cái tài, cái tâm của Huấn Cao được trọn vẹn nhất khi tấm lụa trở thành bức châm khiến cho cả ba người chỉ cần nhìn nó rồi nhìn nhau đã hiểu tấm lòng tri kỉ. Sự đối lập tương phản ở nơi nào cho chữ càng làm tăng thêm tínhchất tương phản trong cảnh cho chữ (giữa người cho chữ và kẻ xin chữ). Một bên là Huấn Cao, người tử tù, người đứng đầu bọn phản nghịch “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ”. Một bên là viên quản ngục và viên thơ lại, những kẻ coi tù, những kẻ đại diện cho triều đình bấy giờ. Hành động “run run bưng chậu mực” là thái độ ngưỡng mộ đầy vẻ tôn kính. Trong thế tương phản như vậy, Huấn Cao hiện ra như một nghệ sĩ tài hoa với một tư thế uy nghi lồng lộng đang ban phát cái đẹp. Sự có mặt của ông tượng trưng cho cái đẹp cao cả. Còn viên quản ngục và viên thơ lại biểu hiện cho tư thế của kẻ chịu ơn, những kẻ nhận sự ban phát cái đẹp. Điều kì diệu là dù có sự tương phản đối lập nhưng ở đây quyền uy lớn nhất chính là cái đẹp đã thống nhất “tam vị nhất thể”. Đây quả là một cảnh tượng chưa từng có, một tấm lòng đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ, một tấc lòng son của kẻ tri âm dành cho kẻ tri kỉ được tiến hành trong một khung cảnh không thích hợp chút nào. Huấn Cao không chỉ hiện ra như một nghệ sĩ tài hoa mà còn như một kẻ sĩ cứng cỏi, có phẩm tiết trong sáng, có cái tâm cao cả, có tinh thần bất khuất. Chính con người rất hiên ngang trước cường quyền bạo ngược, rất coi khinh vàng ngọc, quyền thế ấy cũng là người rất trân trọng và tinh tế trong việc đối xử với người tốt. Cảnh cho chữ đã hiện lên vẻ đẹp của một tấm lòng trọng nghĩa, một cách ứng xử cao thượng đầy tinh thần văn hóa. Những người nghĩa sĩ anh hùng xưa bao giờ cũng coi trọng đạo nghĩa. Vì chữ nghĩa, vĩ ân trả oán mà họ sẵn sàng coi khinh cái chết. Huấn Cao phát hiện được một nhân cách trong sáng giữa chốn tối tăm. ông không muốn nhân cách ấy bị bóng tối lao tù làm cho u ám. Ông ân cần khuyên bảo viên quản ngục bằng những lời tâm huyết “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng…”. Như vậy Huấn Cao không chấp nhận cái đẹp, cái tài lại chung sống lẫn lộn với cái xấu, cái ác. Ông càng không thể chấp nhận một người vừa biết yêu cái đẹp lại vừa dù là bắt buộc phải “nhúng tay vào chàm”. Do đó muốn yêu quí thưởng thức cái đẹp, muốn chăm lo cho nó thì trước hết phải giữ lấy điều thiện ở đời “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Tuy đang trong vai trò của một kẻ tử tù, đang bị uy quyền phong kiến đè bẹp nhưng Huấn Cao vẫn sáng rực rỡ như một con người tự do chủ động với giọng nói của bậc đàn anh. Có lẽ đây cũng là “lời châm” để vạch hướng chỉ đường giải thoát cho người tù chung thân: viên quản ngục. Điều lạ lùng xưa nay chưa từng xảy ra không phải chỉ vì việc cho chữ (vốn là một thú chơi tao nhã có phần đài các) mà nó diễn ra trong không gian tồi tệ, hơn thế nơi tù ngục bẩn thỉu này không phải cái ác, cái xấu làm chủ tình thế. Trái lại cái Đẹp – cái Thiện – cái Cao cả đã chiến thắng và tỏa sáng. Tất cả đều thấm đẫm trong ánh sáng thuần khiết của vẻđẹp, của thiên lương và khí phách. Đấy cũng chính là chiến thắng vĩ đại của tinh thần bất khuất so với thái độ nô lệ cam chịu. Và lúc này đã có một sự thay đổi ngôi diễn: kẻ tử tù như một giáo chủ ban ơn khuyên dạy điều hay lẽ phải, còn kẻ coi tù như một đệ tử lễ phép, một người chịu ơn thành kính. Nếu nói Huấn Cao chẳng hề sợ gì e không ổn. Thực ra người mà Huấn Cao sợ chính lại là kẻ đang vái mình và nói qua dòng nước mắt. Thái độ ấy khiến ta chọt nhớ đến câu thơ nổi tiếng của họ Cao “Nhất sinh đề thủ bái mai hoa”. Cảnh cho chữ diễn ra thật, cảm động khi ngục quan “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Tự xưng là kẻ mê muội tức là viên quan đã chấp nhận lời khuyên của Huấn Cao. Cử chỉ bái lạy người tử tù không chỉ nâng cao nhân cách Huấn Cao mà còn làm thăng hoa tính cách đẹp đẽ của chính viên quản ngục. . C – KẾT BÀI Đọc truyện ngắn Chữ người tử tù ta thấy bao phủ một không khí trang nghiêm cổ kính có phần bi tráng. Tác phẩm cho thấy Nguyễn Tuân không chỉ am hiểu sâu sắc và rất yêu quí những điều cao đẹp mà còn có ngòi bút điêu luyện đầy nghệ thuật để làm sống lại những con người, những cảnh sinh hoạt ngày xưa. Chính điều đó càng tăng thêm vẻ đẹp cho hình tượng Huấn Cao. Có thể khẳng định rằng truyện ngắn này như một áng văn yêu nước trong hoàn cảnh mất nước. Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Gợi ý I. Tác giả và tác phẩm 1. Tác giả Nguyễn Tuân (1910-1987) quê ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình nho học khi Hán học đã tàn. Nguyễn Tuân nhiều lần theo gia đình chuyển nơi ở nhưng ông làm báo và viết văn chủ yếu ở Hà Nội. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, ông dùng ngòi bút của mình phục vụ hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc. Nguyễn Tuân là một nhà văn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông là người đã góp phần thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa độc đáo. Những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân có thể kể đến như: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941),Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972). 2. Tác phẩm Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Nhân vật chính trong Chữ người tử tù là Huấn Cao, một nhân vật điển hình trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Đó là những người tài hoa, bất đắc chí. Họ không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng, mặc dù chí không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất II. Tìm hiểu tác phẩm 1. Tình huống truyện được tái dựng trong tác phẩm và tác dụng của nó đối với việc bộc lộ tính cách nhân vật và kịch tính của truyện – Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo cho câu chuyện thêm đặc sắc. Tình huống truyện biểu hiện mối quan hệ giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh sống, qua đó bộc lộ tâm trạng tính cách suy nghĩ… của nhân vật. – Nguyễn Tuân đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo, đặc sắc, giàu kịch tính cho hai tuyến nhân vật trong tác phẩm của mình. Hai nhân vật đó là Huấn Cao – người tử tù phạm tội đại nghịch đang bị giam chờ ngày hành quyết, người tài hoa nổi tiếng viết chữ đẹp… và nhân vật viên quản ngục – người quản lí tù nhân, đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời nhưng lại rất yêu cái đẹp, hâm mộ người tài và có tấm lòng lương thiện. Trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối lập nhau: nhưng họ lại có cùng điểm chung là say mê cái đẹp tao nhã và đều có tâm hồn thanh khiết, lương thiện, biết đãi ngộ nhân tài. Như vậy, trên bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ của nhau. – Hoàn cảnh gặp gỡ của họ thật éo le: đó là nơi tù ngục tối tăm, nhơ bẩn, nơi người này quản lí người kia. Tình huống này dẫn đến xung đột trong nội tâm của viên quán ngục: làm thế nào để vừa làm tròn phận sự của một người canh tù lại vừa giữ trọn tấm lòng đối với một người tài hoa mà mình từng quý trọng và ao ước gặp mặt. Từ đây nảy sinh nhiều kịch tính: người tử tù thành người mà viên quản ngục nhờ vả muốn xin chữ; đồng thời lại là người mở đường hướng thiện cho cuộc sống về sau của viên quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn, tự nhiên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao và làm sáng tỏ tấm lòng biệt đãi người tài của viên quản ngục. 2. Những vẻ đẹp độc đáo của nhân vật Huấn Cao – Huấn Cao là một người tài hoa khác thường, ông có tài viết chữ rất đẹp, chữ đẹp và vuông lắm”, khiến nhiều người mơ ước có được chữ viết của ông treo trong nhà của mình, trong đó có viên quản ngục. – Huấn Cao là một con người hiên ngang, khí phách, là một anh hùng đầu đội trời chân đạp đất. Một tử tù đợi ngày ra pháp trường vẫn giữ trạng thái ung dung, tự tại và không hề nao núng. Đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ. Sự ngang tàng của ông còn được thể hiện qua thái độ không quỵ lụy trước cường luyền và hơn nữa lại còn miệt thị viên quản ngục. – Ông còn là một người có thiên lương trong sáng và cao đẹp. Ông không phải là một con người sắt đá, ông cũng biết quý trọng người ngay, người tri kỉ. Khi hiểu được tấm chân tình và thái độ từ chỗ khinh miệt, coi thường, dè chừng sang thái độ tôn trọng. Đó là thái độ tôn trọng dối với con người có nhân cách sống tốt đẹp: trong người tài, yêu cái thú vui tao nhã, thanh khiết. Ông sẵn sàng cho chữ – cái chữ mà không cường quyền và bạc tiền nào có thể mua được – cái chữ mà cả cuộc đời ông chỉ mới viết cho ba người bạn thân. Tuy nhiên, cái đáng quý nhất và là cái thể hiện thiêng lương cao đẹp của ông chính là những lời khuyên chân thành, cuối cùng đối với viên quản ngục trước khi vào kinh thành thụ án. “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn đi… ở đây thiên lương khó giữ cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. – Cho chữ để cứu người là cái tâm cao đẹp của Huấn Cao. Cái tâm không chỉ là lòng nhân ái mà nó còn có sức mạnh cảm hóa lòng người. Ông đã khiến viên quản ngục cảm phục “Chắp tay vái người tù một vái… nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng Làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. 3. Tính cách và tâm hồn của nhân vật viên quản ngục – Nhân vật viên quản ngục xuất hiện trong tác phẩm làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Đây là một con người không sáng tạo được cái đẹp nhưng lại biết trân trọng yêu mến cái đẹp. – Là một ngục quan chịu trách nhiệm canh giữ tù nhân, giúp ích cho bộ máy cai trị đương thời nhưng viên quản ngục không phải là kẻ không có thiên lương, tàn ác, xảo trá mà ngược lại ông vẫn giữ được nhân cách sống cao quý trong cảnh tù ngục tối tăm, nhiều cám dỗ. – Viên quản ngục biết trân trọng giá trị con người, biết quý trọng nhân tài. Điều này thể hiện rõ qua những chi tiết về nhừng hành động biệt đãi đối với Huấn Cao và những người bạn tù của Huấn Cao. – Ông là một người có sở thích tao nhã, cao quý: đó là thú chơi chữ. Sở nguyện cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Cái sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp mọi nguy hiểm đến bản thân, làm đảo lộn trật tự trong tù, biến một phạm nhân có án tử hình thành một thần tượng để mình tôn thờ. – Diễn biến nội tâm, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục chứng tỏ dù sống ở nơi tăm tối nhưng ông vẫn giữ được nhân cách cao đẹp – một tấm lòng trong thiên hạ, xứng đáng trở thành bạn tri kỉ của Huấn Cao. Nhân cách và tâm hồn của viên quản ngục theo như nhận xét của Huấn Cao là “một âm thanh trong trẻo xen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". 4. Cảnh cho chữ trong nhà lao – Cảnh cho chữ trong nhà lao vào đêm khuya tăm tối là một trong những sáng tạo tuyệt vời của tác giả nhằm làm bộc lộ vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao. Đây là một cảnh tượng trước đây chưa từng có. Một cảnh tượng mà khung cảnh và nội dung của nó hoàn toàn trái ngược nhau: cảnh cho chữ vốn thanh tao, tươi sáng, đẹp đẽ lại diễn ra trong chốn tù ngục dơ bẩn, tối tăm, ẩm thấp. Nhưng chính trong cảnh tượng như thế, cái đẹp, cái thiện lại càng chứng minh tính giá trị của nó. – Người nghệ sĩ vượt qua những gông cùm, đau đớn để hiện mình tươi sáng hơn, uy nghi, lồng lộng hơn để viết lên những nét chữ xinh đẹp, những tâm huyết của cả đời mình: trong khi đó, người vốn đại diện cho uy quyền lại trờ nên khúm núm, run run đón nhận từng nét chữ quý giá mà cả đời tâm huyết. – Trật tự kỉ cương của nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược: tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, cái lương thiện, thanh cao còn ngục quan vốn đại diện cho công lí lại trở nên nhỏ bé, hèn mọn. – Giữa chốn ngục tù tàn bạo, không phải kẻ thống trị làm chủ mà là người tù làm chủ, cái thiện vẫn hiện lên mạnh mẽ chiến thắng được cái ác. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối; là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của con người.
Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
8,636
Bài làm 1 Tôi đi học là truyện ngắn mang màu sắc hoài niệm và đậm đà chất thơ của nhà văn Thanh Tịnh in trong tập “Quê mẹ” xuất bản năm 1941. Theo dòng hồi tưởng, tác giả kể lại những kỷ niệm mơn man, êm đềm sâu sắc của tuổi thơ trong buổi tựu trường đầu tiên trong đời, khi ông được mẹ dẫn đi đưa vào lớp Năm, lớp đầu tiên của cấp tiểu học của trường Pháp – Việt trước năm 1945. Mở đầu truyện là hai câu văn rất gợi cảm đã tạo thành hai đoạn văn: Hắng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Cứ mỗi độ cuối thu, khi tiết trời se lạnh, những chiếc lá vàng rơi, những đám mây bàng bạc thì kỉ niệm mơn man, nhè nhẹ, lâng lâng của buổi tựu trường đầu tiên lại hiện về trong kí ức của tác giả và của tất cả những ai đã từng cắp sách đến trường. Để rồi những cảm trong sáng lại nảy nở rong lòng như những cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Hình ảnh so sánh nhân hóa đầy ấn tượng và có sức biểu cảm. Câu văn như cánh cửa dịu dàng mở ra dẫn người đọc vào một thế giới đầy ắp những sự việc, những con người, những cung bậc tâm tư tình cảm đẹp đẽ, trong sáng, rất đáng nhớ, rất đáng chia sẻ và mến thương. Trung tâm của thế giới ấy là cậu học trò ngày đầu tiên tới trường, trong lòng nảy nở biết bao ý nghĩa, tình cảm xao xuyến, mới lạ, suốt đời không bao giờ quên. Buổi xa xưa ấy thật là đáng nhớ. Trên con đường cùng mẹ tới trường, nhân vật tôi – cậu bé lớp Năm, lớp đầu tiên của cấp học ấy – nhìn cảnh vật xung quanh và cảm thấy tâm trạng mình khó tả. Buổi mai ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạng… Con đường làng dài và hẹp vốn rất quen thuộc, tự nhiên cậu bé thấy lạ, thấy cảnh vật xung quanh đều thay đổi. Vì sao vậy? Vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học. Đi học quả là một sự kiện lớn, một đổi thay quan trọng đánh dấu bước ngoặt của tuổi thơ. Đặc biệt là đối với một em hôm qua chỉ biết chơi đùa, qua sông thả diều, ra đồng chảy nhạy với bạn… Vì thế tôi cảm thấy trang trọng, đứng đắn với bộ quần áo mới, với mấy quyển vở trên tay. Tôi muốn thử sức mình xin mẹ cho được cầm bút, thước như các bạn. Một ý nghĩ non nớt, ngây thơ nảy nở trong đầu chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ ấy thoáng qua… trôi nhẹ như một làn mây lướt trên ngọn núi. Cái trừu tượng (ý nghĩ) được so sánh với cái thực (làn mây) nhưng không làm mất đi sự duyên dáng và thú vị. Một nét đẹp, dịu dàng, trong sáng và khát vọng vươn tới của tâm hồn trẻ thơ. Đi hết đường làng, cậu học trò nhỏ tới sân trường. Nhìn quang cảnh trường, khi được gọi tên, rồi phải rời tay mẹ vào lớp học, tâm trạng ngỡ ngàng, cảm giác mới lạ của nhân vật tôi mới xáo động làm sao? Thanh Tịnh đã dùng nhiều hình ảnh, nhiều chi tiết cụ thể biểu hiện những cung bật tâm trạng của cậu bé. Trước hết cậu thấy ngôi trường trông vừa xinh xắn, vừa oai nghiêm… Sân nó rộng, mình nó cao sừng sững như cái đình làng. Rồi cảm thấy mình nhỏ bé và đâm ra lo sợ vẩn vơ. Tiếp sau, cậu bé thấy học trò, thầy cô giáo, người lớn, trẻ con đông đúc. Thấy mấy bạn mới cũng đang sợ sệt, lúng túng e ngại như mình. Họ như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay nhưng còn ngập ngừng e sợ. Lại một hình ảnh so sánh thú vị nữa! Nó vừa tả đúng tâm trạng nhân vật, vừa gợi cho người đọc liên tưởng về một thời nhỏ đứng giữa ngôi trường thân yêu. Ngôi trường đẹp như một tổ ấm, mỗi học trò ngây thơ, hồn nhiên như một cánh chim đầy khát vọng và biết bao bồi hồi lo lắng nhìn bầu trời rộng, nghĩ tới những chân trời học vấn mênh mang… Khi nghe gọi đến tên mình, cậu học trò tự nhiên giật mình và lúng túng. Động từ đặc tả tâm trạng được sử dụng liên tục: ngập ngừng, e sợ, rụt rè, lúng túng, dềnh dàng, run run… Từ láy lúng túng điệp tới bốn lần: Chung quanh là những cậu bé… lúng túng. Nghe gọi đến tên tôi, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Chúng tôi được người ta ngắm nhìn… đã lúng túng… càng lúng túng hơn. Điệp từ diễn tả tâm trạng có ý nghĩa khái quát, miêu tả chân thực cử chỉ, ánh mắt, ý nghĩ, cảm giác… hồn nhiên trong sáng của cậu học trò trong buổi tựu trường đầu tiên gợi cho người đọc chúng ta sống lại những kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ. Nó giúp chúng ta hiểu sâu thêm nỗi lòng nhân vật và tài năng kể chuyện của tác giả. Đỉnh cao của tâm trạng lúng túng là khi các cậu học trò nhỏ rời bàn tay, buông chéo áo của người thân để đứng vào hàng chuẩn bị vào lớp thì… một cậu ôm mặt khóc, tôi dúi đầu vào lòng mẹ nức nở khóc theo… và … trong đám học trò mới vài tiếng thút thít đang ngập ngừng… Thật buồn cười nhưng rất đáng yêu! Vừa lúc nãy, cảm thấy hãnh diễn vì được nhiều người chú ý, vậy mà giờ lại khóc. Tiếng khóc như một phản ứng dây chuyền, rất tự nhiên, rất ngây thơ và nhiều ý nghĩ. Nó là sự tiếc nuối những ngày chơi thoải mái, sự lưu luyến những người thân yêu… Nó cũng là những e sợ trước một thời kỳ thử thách không ít khó khăn, hay nó cũng là một niềm vui, niềm quyết tâm để bước vào một thế giới khác lạ mà đầy hấp dẫn? Với bao cấp độ của khóc: ôm mặt khóc, nức nở khóc và khóc thút thít, cây bút văn xuôi Thanh Tịnh truyền cảm biết bao, trữ tình biết bao và thấu tỏ lòng người! Có phải Thanh Tịnh đang sống lại những kỷ niệm của chính bản thân mình, giãi bày tuổi thơ của mình thì có những trang viết xốn xang lòng người đọc đến vậy. Ngồi trong lớp học, đây là những giây phút cuối cùng của buổi tựu trường, cảm giác càng trong sáng và chân thực hơn. Một cảm giác lạ và quen đan xen, trái nhau. Thấy một mùi hương lạ xông lên trong lớp, hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ”, những cậu bé nhìn bàn ghế chỗ mình ngồi tự nhiên lạm nhận làm vật riêng của mình, nhìn người bạn ngồi bên không cảm thấy xa lạ chút nào… Đoạn văn kết thúc câu chuyện ngắn gọn mà hiện lên nhiều hình ảnh đẹp, giàu ý nghĩ. Một chú chim nhỏ hót mấy tiếng rụt rè, vỗ cánh bay cao, mắt tôi thèm thuồng nhìn theo… Kỷ niệm bầy chim giữa đồng lúa vẫy gọi… Tiếng phần và chữ viết của thầy giáo nhắc nhở, níu giữ, đưa… chú về với thực tại! Cuối cùng là tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần bài tập viết: Tôi đi học. Đây là bài học đầu tiên trong buổi tựu trường thời thơ ấu của chú bé. Kỷ niệm ấy như một dấu son trong tâm hồn tươi sáng. Tôi đi học là dòng hồi ức về ngày tựu trường của tuổi ấu thơ, rất thơ và rất xúc động. Có lẽ đây không phải là ông viết văn, mà là những kỉ niệm của chính mình đã sống lại trong nhà văn, là một tiếng lòng man mác, bâng khuâng với những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường. Chính vì vậy, đã hơn 60 năm trôi qua, tác phẩm vẫn sống và còn sống mãi. Bài làm 2 Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh, sinh ngày 11/12/1911, mất ngày 17/7/1988, quê xóm Gia Lạc, ven sông Hương, ông học Tiểu học và Trung học ở Huế. Vốn có năng khiếu văn chương nên đến năm 1933, ông bắt đầu sáng tác. Thanh Tịnh viết được nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả là truyện ngắn và thơ. Các truyện ngắn của ông đều thấm đượm cảm xúc êm dịu, trong trẻo, vừa man mác buồn thương, vừa ngọt ngào sâu lắng. Giọng văn nhẹ nhàng thủ thỉ mà thấm thìa khó quên. Truyện ngắn Tôi đi học in trong tập Quê mẹ, xuất bản năm 1941 là một tác phẩm như vậy. Đây là thiên hồi ức rất xúc động về những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường ba mươi năm về trước. Trong kí ức mỗi con người thì những kỉ niệm vui buồn của tuổi học trò thường được lưu giữ bền lâu hơn cả, nhất là ấn tượng về ngày đầu tiên đi học. Thanh Tịnh bồi hồi nhớ về ngày ấy và tâm hồn ông vẫn rung động thiết tha như thuở nào. Bằng ngòi bút giàu chất thơ, tác giả đã gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Bố cục bài văn được sắp xếp theo trình tự thời gian. Tâm trạng nhân vật phát triển song song cùng với các sự kiện đáng nhớ của ngày đầu tiên đi học. Từ cảnh cậu bé được mẹ âu yếm dắt tay dẫn đi trên con đường tới trường, đến cảnh cậu say mê nhìn ngắm ngôi trường; cảnh hồi hộp nghe thầy gọi tên, lo lắng khỉ phải rời tay mẹ để cùng các bạn vào lớp nhận chỗ của mình và học giờ học đầu tiên. Sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp tự sự, miêu tả và bộc lộ cảm xúc đã tạo nên tính trữ tình đậm đà của bài văn. Mở đầu, tác giả tả khung cảnh thiên nhiên là yếu tố khơi gợi dòng hồi tưởng. Mùa thu thường đẹp và buồn. Những chuyển biến của đất trời làm cho tác giả nhớ về dĩ vãng xa xôi: Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kĩ niệm mơn man của buổi tựu trưởng. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Mạch cảm xúc được mồ ra hết sức tự nhiên. Nghệ thuật so sánh được tác giả sử dụng khéo léo, kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi cảm đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa thu thơ mộng với sắc lá vàng phai, với màu mây bạc lãng đãng trôi trên bầu trời mênh mông, xanh thẳm. Hình ảnh mấy em nhỏ rụt rè nấp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường khiến cho nhà văn nhớ lại ngày đầu tiên đi học không thể nào quên của mình. Sau mấy chục năm, tác giả – là cậu bé ngày xưa vẫn nhớ như in: Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Tâm trạng hồi hộp, cảm giác mới mẻ của cậu bé khi được mẹ dắt đi trên con đường tới trường được diễn tả rất tinh tế: Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ… cảnh vật chung quanh đều thay đổi. Cậu bé đã nhanh chóng tìm ra nguyên nhân của sự lạ lùng ấy: vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học. Đi học, đó là một sự kiện trọng đại trong đời. Điều đó có nghĩa là cậu bé đã lớn và từ nay, cậu sẽ không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô đùa như thằng Sơn nữa. Ý nghĩ ngây thơ trong sáng và nghiêm túc của cậu học trò trong bủổi đi học đầu tiên hồn nhiên và đáng yêu biết chừng nào! Cậu bé không chỉ thấy sự thay đổi của khung cảnh bên ngoài mà còn thấy cả sự thay đổi lớn lao trong con người mình. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật cậu bé trên đường tới trường thật chân thực và xúc động: Trong chiếc áo vải dù đen dài, tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn. Dọc đường thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tuổi tôi áo quần tươm tất, nhỉ nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng xệch ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước ôm sách vở nhiều lại kèm cả bút cả thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hốt. Trong ngày đầu tiên đi học, được mặc bộ quần áo mới, cậu thấy mình đã là người lớn cho nên tất cả mọi thứ đều phải thay đổi. Chính suy nghĩ và cảm nhận ấy khiến cho điệu bộ của cậu bé khác hẳn ngày thường. Mọi cử chỉ, hành động của cậu đều trở nên lúng túng, vụng về. Theo cậu thì chuyện đi học là ghê gớm lắm, nghiêm túc lắm ! Nghĩa là kể từ đây, cậu không còn được chạy nhảy tự do như trước nữa. Nhìn đám học trò lớp trên nhí nhảnh cười đùa, cậu cố gắng kìm nén, nhưng càng kìm nén lại càng thèm được như các bạn. Hai quyển vở có đáng kể gì mà cậu bắt đầu thấy nặng và phải bặm tay ghì thật chặt. Trong khi đó, các bạn khác mang nhiều sách vở hơn và còn cầm cả bút thước nữa mà vẫn không để lộ vẻ khó khăn gì hết. Không muốn thua kém bạn bè và muốn tỏ ra là mình đã lớn, cậu xin mẹ được cầm cả bút thước. Nghe mẹ bảo để mẹ cầm thì trong óc cậu bé nảy ra ý nghĩ thật ngây thơ: chắc chỉ người thạo mới cầm hổi bút thước. Nhớ lại tâm trạng của mình thuở ấy, tác giả thú vị nhận xét: Ý nghĩ ấy thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi. Hình ảnh so sánh trong câu văn trên vừa đẹp đẽ, vừa phù hợp với tâm lí tuổi thơ. Cậu bé choáng ngợp khi nhìn thấy cảnh sân trường làng Mĩ Lí dày đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt vui tươi và sáng sủa. Cậu nhớ lại cảm tưởng của mình về ngôi trường lúc cậu chưa đi học, đó là thái độ dửng dưng: Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang qua làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tồi có ghé lại trường một lần, Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo tường. Tôi không có cảm tưởng nào khác là nhà trường cao ráo và sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Nhưng giờ đây, lúc sắp sửa thành học trò, cậu bỗng thấy ngôi trường vừa xinh xắn vừa oai nghiêm khác thường và mình quá nhỏ bé so với nó. Vì vậy, cậu đâm ra lo sợ vẩn vơ. Trước mắt cậu là cả một thế giới mới mẻ, lạ lùng. Cậu và đám bạn cùng trang lứa nào có khác chi những con chim đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ… thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ. Trí óc non nớt của cậu không thể hình dung ra được những điều xảy ra hằng ngày trong ngôi trường đẹp đẽ kia. Tâm trạng lo sợ phập phồng, khao khát tìm hiểu, ước muốn được biết bạn, biết thầy trong ngày đầu đi học giờ đây vẫn hiển hiện rõ nét trong kí ức nhà văn: Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi thẳng vào lớp. Cảm thấy mình trơ vơ là lúc này. Vì chung quanh là những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa, hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp. Đoạn văn thật hay. Các hình ảnh được tả thực đến từng chi tiết. Buổi học đầu tiên, các cô cậu học trò sáu, bảy tuổi phải thử sức với chính mình. Giây phút đợi chờ thầy gọi tên vào lớp cũng đầy thấp thỏm, lo âu: … Ông đốc trường Mĩ Lí cho gọi mấy cậu học trò đến đứng trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ồng ta đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tồi đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Cậu bé bỗng cảm thấy sợ hãi khi sắp phải rời bàn tay dịu dàng của mẹ. Trong đám trẻ, những tiếng khóc bật ra khiến cậu bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ… nức nở khóc theo. Cậu hoang mang vì cảm thấy chưa lần nào thấy xa mẹ… như lần này. Khi đã ngồi yên trong lớp và đón nhận giờ học đầu tiên, cậu cảm thấy vừa xa lạ, vừa gần gũi với mọi vật xung quanh, kể cả với người bạn ngồi bên cạnh: Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tồi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên lạm nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi; một người bạn tôi chưa hề quen biết, nhưng lòng tồi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến tự nhiên và bất ngờ quả đến nỗi tôi cũng không dám tin có thật. Ngỡ ngàng và tự tin, cậu bé nghiêm trang bước vào giờ học đẩu tiên của đời mình: Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỉ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm sống lại đầy rẫy trong trí tôi. Nhưng tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học. Truyện ngắn Tôi đi học sống mãi với thời gian bởi nó được tạo nên từ cảm xúc trọng sáng, hồn nhiên và bút pháp nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế của nhà văn. Bằng câu chuyện của mình, Thanh Tịnh đã nói thay tất cả chúng ta cái cảm giác kì diệu của buổi học đầu tiên đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ, để lại ấn tượng sâu sắc trong cuộc đời mỗi người. Chính vì vậy mà nó đã làm rung động trái tỉm bao thế hệ bạn đọc trong hơn nửa thế kỉ qua.
Phân tích truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh
3,474
Nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) có duyên với Tây Nguyên. Cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Nguyên Ngọc đã sống và chiến đấu ở mảnh đất hùng vĩ này. Hai tác phẩm hay nhất của Nguyên Ngọc đều viết về Tây Nguyên là “Đất nước đứng lên” và “Rừng xà nu”. Truyện “Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (4 lần), “rừng xà nu” (5 lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc… Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống. Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai,mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế.” “Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. “Đặt trong hệ thống chủ đề, trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những Mai, Dít, Tnú, Heng, thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách mạng”. Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết mấy! “Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như “nhựa xà nu”. Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường. Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai biết bao. “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”. Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng. Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom đạn của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng” gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng. Chính cụ Mết cũng đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta…” Cụ còn nói với dân làng: “Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…” Viết về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) muốn gắn chặt đất nước với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là “Đất nước đứng lên”. Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
Phân tích truyện Rừng xà nu của nhà văn Nguyên Ngọc
1,264
Tác phẩm “Ông lão đánh cá và con cá vàng” là môt tác phẩm điển hình của đại thi hòa người Nga – Puskin. Qua tác phẩm , tác giả muốn gửi gắm một chân lí, cái thiện bao giờ cũng được đền đáp xứng đáng, cái ác cái tham lam luôn luôn bị quả báo. Tác phẩm viết về câu chuyện của hai vợ chồng sống nghèo khổ, ngày ngày ông lão ra biển đánh cá, còn mụ vợ thì suốt ngày đay nghiến ông lão, bắt ông lão phải làm cái này cái kia mà không hài lòng. Khi ông lão bắt được con cá vàng, con cá van xin ông thả đi thì con cá sẽ báo đáp ông.Nhưng ông chẳng muốn xin gì, ông về và kể lại câu chuyện cho mụ vợ. Thấy ông về nhà ,mụ vợ đay nghiến, mắng mỏ ông là ngu ngốc, rồi bắt ông ra biển để xin con cá vàng cho một cái máng lợn mới. Nhưng cái máng lợn mới vẫn không thỏa mãn lòng tham của mụ, mụ lại tiếp tục bắt ông lão ra bờ biển để xin ngôi nhà mới. Không dừng lại đó,mụ vợ lại được nước, bắt ông lão bắt con cá vàng cho mình làm trở thành nhất phẩm phu nhân. Nhưng mụ đâu có dừng lại đó, khi lòng tham vô đáy của mụ lên đến tột cùng,mụ đòi làm nữ hoàng và muốn có con cá vàng bên cạnh để hầu hạ cho ý muốn của mụ. Ông lão trong câu chuyện vốn dĩ là một người nghèo khổ nhưng lương thiện. Ông không quản mưa gió bão tố, làm việc cần cù cần mẫn để kiếm sống, sống một cuộc sống lương thiện. Trước tiên ông lão là một người nghèo khổ nhưng rất lương thiện. Khi ông lão bắt được con cá vàng, lẽ ra ông lão sẽ mang nó về nhà, nhưng khi nghe nó van xin ông lại thương lòng ,thả nó về với biển- về với nhà của nó. Ông sẵn sàng làm những việc mà có lẽ những người ở làng chài không bao giờ làm. Ông là một người bao dung, lương thiện. Nhưng trái ngược hoàn toàn với ông, mụ vợ của ông lại vô cùng tham lam. Mụ hết lần này tới lần khác bắt ông lão làm theo ý mình, bắt con cá vàng phải làm theo ý của mụ. Xét cho cùng, lẽ ra ông lão là một người đàn ông, phải là một người bản lĩnh trong gia đình,nhưng ông có phần hơi nhu nhược, khi làm theo ý mụ vợ rất nhiều lần. Dù nhiều lần ông khuyên ngăn nhưng trước sự hung hãn của mụ vợ,ông lại không có đủ can đảm để chống lại hay ngăn cản lại ý muốn của mụ. Lẽ ra được phục vụ được chấp thuận thì mụ phải cảm thấy sung sướng, phải cảm thấy biết ơn, cả ông lão và con cá. Nhưng chính lòng tham không đáy của mụ mà khiến mất tất cả mọi thứ biến mất. Con cá là một biểu tượng cho chân lí cái thiện sẽ luôn được đền đáp, sống lương thiện sẽ được báo đáp. Chân lí này giống như câu “ ở hiền gặp lành” của dân tộc Việt Nam ta. Đồng thời con cá vàng chính là công cụ để nhân dân lương thiện thi hành sự trừng trị thích đáng đối với những kẻ tham lam bạc bẽo. Câu chuyên kết thúc thật bất ngờ, khi trước mặt ông lão hiện ra với túp lều rách nát ngày xưa và trên bậc cửa , mụ vợ đang ngồi trên cái máng lợn sứt mẻ”. Mọi thứ lại trở lại như xưa cũ và cái kết cục này là tất yếu, và là một bài học xứng đáng cho những kẻ tham lam và không biết giới hạn của sự mong muốn của mình. Mọi thứ nếu tới một giới hạn nhất định, nếu đi qua giới hạn đó, có thể con người đánh đổi và mất tất cả. Tác phẩm kết thúc thật bất ngờ, qua tác phẩm tác giả muốn tỏ lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và sống thương thiện nhưng cũng đưa ra những bài học đích đáng cho những kẻ tham lam, không làm gì mà thích sai khiến người khác và đạt được nguyện vọng của mình.
Phân tích truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng
739
Nội dung bài viết1 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 2 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 2 3 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 3 4 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 4 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Bằng hàng loạt những sáng tác của mình, nhà văn đã phát hiện rất nhiều vấn đề có tính chất bức xúc trong cuộc sống hiện tại cũng như những vấn đề sâu sắc mang tính muôn thuở. Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn tiêu biểu cho sự đổi mới của ngòi bút Nguyễn Minh Châu. Cái nhìn về đời sống của ông trong tác phẩm là một cái nhìn thấu hiểu, trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu cho con người. Sau năm 1975, đất nước thống nhất bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển trong quỹ đạo hòa bình, mở ra cho văn học những tiền đề mới. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với kì vọng của nhân dân. Vốn rất giàu tâm huyết, Nguyễn Minh Châu sớm ý thức được yêu cầu phải đổi mới tư duy văn học. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh (1982), ngòi bút của ông giành sự quan tâm đặc biệt cho các vấn đề thế sự. Từ cảm hứng sử thi – lãng mạn từng làm nên vẻ đẹp rực rỡ của những tác phẩm như Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông, Dấu chân người lính… ông chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, kiếm tìm hạnh phúc, hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985) đã đưa tên tuổi Nguyễn Minh Châu lên vị trí tiên phong, mở đường của văn học Việt Nam thời kì đổi mới sau 1975. Chiếc thuyền ngoài xa lần đầu được in trong tập Bến quê, sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn từ Bức tranh trở đi (in năm 1987). Đây là tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp Nguyễn Minh Châu nhận ra đời sống con người bao gồm cả những quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên may rủi khó lường hết. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng làng chài, giam hãm họ trong cảnh đói khổ, bấp bênh. Người chồng tha hóa dần, trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người vợ vì thương con nên nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của chồng mà không biết rằng đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Cậu bé yêu mẹ, bênh vực mẹ thành ra thù địch với cha và ai biết được liệu trong tương lai cậu có thể sống khác cha mình? Phía sau câu chuyện buồn này trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng trước vẻ đẹp của tình mẫu tử, sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc ẩn khuất, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường. Theo ông, tình yêu ở người nghệ sĩ “vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình”. Nguyễn Minh Châu là nhà văn rất quan tâm tới việc xây dựng tình huống truyện. Có ba loại tình huống thường gặp trong các tác phẩm của ông: tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật, tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Nhiều truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu tập trung khai thác loại tình huống nhận thức mà Chiếc thuyền ngoài xa là một điển hình. Kết thúc sự kiện người đàn bà được mời đến tòa án để chánh án giải quyết bi kịch gia đình lại là “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Các chi tiết chính của câu chuyện đều định hướng “chuẩn bị” cho sự nhận thức mới mẻ ở Đẩu – vị Bao Công ấy. Người đàn ông đánh vợ như đánh đòn thù nhưng lại có gì như là bức bối không còn cách biểu hiện khác. Người đàn bà bị chồng đánh đã cam chịu một cách nhẫn nhục nhưng lại có gì như là uẩn khúc khi chính người đàn bà ấy một mực xin tòa đừng bắt bà li hôn. Đứa bé thương mẹ, đánh cha nhưng ai dám chắc lớn lên cậu không lặp lại cái bi kịch đau đớn kia? Và người phóng viên tên Phùng – nhân vật người kể chuyện nữa, tấm ảnh anh ta chụp Chiếc thuyền ngoài xa kia liệu có còn đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” khi mà anh ta đã chứng kiến toàn bộ bi kịch của những con người sinh sống trên chính chiếc thuyền ấy? Nguyễn Minh Châu cứ từng bước gieo vào tâm trí độc giả những nghi ngờ, băn khoăn để rồi cùng với nhân vật Đẩu, trong một lúc “vỡ ra” tất cả. Hành động đánh vợ của người đàn ông là hành động đáng lên án. Dù có trăm ngàn lí do để giải thích mà cảm thông cũng không thể tha thứ. Nhưng xâu chuỗi các chi tiết, tìm hiểu tâm lí, tính cách nhân vật này thật thấu đáo, chúng ta sẽ phần nào bớt đi cái nhìn căm phẫn để mà vừa giận vừa thương, vừa lên án vừa xót xa. Chính người đàn bà bị chồng đánh kia mới là người hiểu chồng và hiểu đời. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”, người phụ nữ ấy đã kể như vậy. “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc.”, người phụ nữ ấy bào chữa như vậy cho chồng mình trước “các ông” quan tòa, nhà báo. Hãy cứ chấp nhận những lời bào chữa ấy của chị và chịu khó lặn lội đi tìm chứng cứ đặng mà hiểu, đặng mà thương. Người đàn ông ấy là trụ cột của một gia đình nghèo, đông con, sống bằng nghề đi biển. Cả gia đình sống trôi dạt trên một chiếc thuyền nhỏ, có khi biển động, “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối” hàng tháng trời. Vợ lão đã ngậm ngùi: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Cái nghèo, cái đói, cái khổ đã hằn lên “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới” của người vợ. Người đàn ông dù vô tư tới đâu cũng không thể vô tâm khi nhìn nước da “tái ngắt” vì đói ăn, thiếu ngủ của vợ. Không hiểu người đàn ông ấy nghĩ gì khi “hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Có lẽ những lúc như thế người đàn ông ấy phải cảm thấy khổ sở lắm, hận đời, hận mình, hận cho cái số kiếp trời đày của mình lắm. Người đàn bà trở thành nơi trút khổ, trút hận của người đàn ông để rồi mỗi khi “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà” thì giọng lão lại “rên rỉ đau đớn”. Như vậy người bị đánh đau mà kẻ đánh cũng đau không kém. Còn gì đau đớn hơn phải hành hạ một người đã đi với mình tới tận cùng sóng gió, cùng mình chịu tới tận cùng nỗi khổ. Còn gì cay đắng hơn khi người vợ khốn khổ ấy phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh và người chồng lẳng lặng chấp nhận “bố trí” một nơi kín đáo (sau bãi xe tăng hỏng) để đánh vợ. Người vợ đã ao ước: “Giá mà lão uống rượu… thì tôi đỡ khổ”. Những người đàn ông chỉ biết cắm đầu ra biển, vật lộn với sóng gió, những lúc không thể chịu đựng được họ cũng chỉ biết hoặc uống rượu hoặc đánh vợ. Vậy, họ đánh vợ đâu phải vì họ ghét vợ, thù vợ mà họ không còn (hoặc không biết) cách nào để giải tỏa mối hận cực điểm trong lòng. Người đàn bà chỉ có thể hiểu như vậy mới gắng sức chịu đựng bởi để cho chồng đánh là giúp chồng lấy lại thăng bằng mà sống tiếp những ngày cơ cực. Thái độ của người đàn bà khi bị đánh: “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Thật lạ lùng! Vì thương chồng, muốn giúp chồng giải tỏa nỗi hận hay cam chịu đầu nhẫn nhục? Phải chăng bà ta bị đòn nhiều đến mức quen rồi không còn biết đau nữa? Hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình? Hay đó là một sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kĩ lưỡng, sáng suốt? Chắc chắn người đọc sẽ đặt ra rất nhiều câu hỏi như vậy xung quanh sự việc này. Nên nhớ Đẩu đã thay mặt tòa án gọi bà ta đến tới lần thứ hai mà bà vẫn một mực xin tòa đừng bắt bà li dị chồng. Trong người đàn bà ấy có một phần cam chịu, nhẫn nhục và không phải là không có một phần tăm tối, dốt nát. Nhưng trên hết vẫn là sự hi sinh cho chồng, cho con, một sự hi sinh đến đau đớn, một sự bao dung đến xót xa. Mặc dù người đàn bà phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh để tránh những đứa con. Nhưng cái kim trong bọc lâu ngày còn lòi ra huống hồ chuyện tày trời kia. Thằng Phác đã chứng kiến cảnh đó và: “Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm. nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông”. Cái lão đàn ông ấy không phải ai khác mà chính là cha của cậu bé. Cái người đàn bà đang bị lão đánh kia là mẹ của cậu. Cậu đã “giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” người bố. Hành động của Phác thể hiện tình yêu thương đối với mẹ. Trong con mắt cậu, cha cậu thật độc ác, mẹ cậu thật tội nghiệp. Nhưng có lẽ đáng thương nhất lại chính là cậu. Vì yêu thương, bênh vực mẹ mà thành ra thù địch với cha. Tâm hồn trẻ thơ bị tổn thương mặc dù người mẹ thương con đã cố tránh cho con sự tổn thương ấy nhưng không thể. Những trận cuồng phong của biển chưa đủ để Phác thấu hiểu lòng đại dương. Phác chưa thể hiểu hết cha mình, càng chưa thể hiểu thấu sự chịu đựng của mẹ mình. Cậu “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà”. Cậu đau. Cha cậu đau. Mẹ cậu đau hơn cả. Người bố tát Phác hai cái rồi bỏ đi. Người mẹ “dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Bà gọi tên con, “ôm chầm lấy nó”, rồi lại buông ra “chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Bà đã không khóc khi bị chồng đánh nhưng bà đã khóc khi ôm con vào lòng. Người mẹ ấy đau đớn vì rốt cuộc đã không sao tránh được cho con cái khỏi bị tổn thương vì cảnh bạo lực trong gia đình. Người mẹ ấy đau đớn vì con đẻ bỗng dưng thành thù địch cha nó chỉ vì nó chưa thể nào hiểu được. Bà thương con, xót chồng, muốn tạ tội với con, muốn con hiểu và đừng căm thù bố, đừng trở nên độc ác như bố. Đúng là trong cuộc mưu sinh này, người đàn bà thật khổ và cũng thật đẹp, đẹp trong nỗi khổ con người. Người đàn bà đã phải che chắn cả trăm chiều giông gió. Hậu quả của tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác mà nhà văn muốn nói với cả xã hội là nỗi đau khổ nặng nề mà người mẹ và những đứa con phải gánh chịu và không thể không nói tới nỗi dày vò bế tắc trong lòng người đàn ông vũ phu. Nguyễn Minh Châu không chỉ lên án thói vũ phu, báo động về tình trạng bạo lực mà còn đi vào tầng sâu, những góc khuất của cuộc sống và tính cách, tình cảm con người đặng hiểu và giúp ta hiểu những phức tạp của nó. Hãy nhìn sâu, nhìn kĩ vào từng bi kịch cụ thể để tìm ra trong những cái ta đang lên án có những điều rất cần sự cảm thông. Với cái nhìn thấu hiểu, trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu cho con người, Nguyễn Minh Châu chú trọng ngợi ca vẻ đẹp của tình mẫu tử, lên tiếng bảo vệ khát vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em. Con mắt nhân đạo của nhà văn còn thể hiện ở nỗi lo âu đầy trách nhiệm: cậu bé sẽ thành người thế nào nếu môi trường sống không được thay đổi theo chiều hướng tích cực? Cứ như thế, Nguyễn Minh Châu đem những nhận thức sâu sắc về con người, về cuộc đời trải dài lên trang viết với cái nhìn đa diện của mình. Tác giả đã dùng hình ảnh bãi xe tăng hỏng như một gợi ý rằng cuộc chiến đấu chống đói nghèo, tăm tối còn gian nan hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo, chừng đó con người còn phải chung sống với cái xấu, cái ác thậm chí biến mình thành xấu, thành ác. Cứ như thế, Nguyễn Minh Châu để cho người đọc cùng với nhân vật của mình tự nhận thức về những điều ông kể hay nói đúng hơn là nhờ anh chàng phóng viên Phùng kể. Đẩu mời người đàn bà đến công sở để trao đổi chuyện gia đình bà. Anh khuyên bà bỏ người chồng vũ phu nhưng bà kiên quyết từ chối, thậm chí còn nài nỉ, van xin. Đẩu là người tốt, một quan tòa đầy thiện chí nhưng lại có phần nông nổi (bất cứ ai dù tốt mấy cũng có những nông nổi). Đẩu hiểu luật pháp nhưng không thực sự hiểu đời sống, biết cách giải quyết theo pháp luật nhưng chưa biết “hòa giải” theo lòng người, biết giải quyết bi kịch trước mắt nhưng chưa lường hết để giải quyết bi kịch lâu dài. Để hiểu đời sống phải thực sự sống với những vui buồn, những cay đắng ngọt ngào của nó. Để hiểu lòng người phải đo bằng thước đo của lòng mình chứ không phải thước đo luật pháp… Rõ ràng, so với Đẩu, người đàn bà ngồi trước mặt anh kia là một người đàn bà làng chài đông con, đói nghèo, thất học, lạc hậu. Nhưng bà hiểu lòng người, thấm thía những nhọc nhằn kiếp đời, bà hiểu nỗi bế tắc khốn khổ của chồng và hơn ai hết bà hiểu thiên chức làm mẹ, hiểu những gì một người mẹ cần phải hi sinh cho con. Phải chăng vì cái thiên chức đó, vì những niềm vui nhỏ bé, bình dị: “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”, “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no” mà bà chấp nhận tình trạng bị hành hạ? Sau buổi nói chuyện thứ hai thì mọi lí lẽ của Đẩu đều bị người đàn bà chất phác, lam lũ “bác bỏ”. Hóa ra lòng tốt của anh ta là lòng tốt phi thực tế. Người đàn bà làng chài thất học, quê mùa nhưng thật sâu sắc khi “nhìn suốt cả đời mình” đã khiến “Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Có thể Đẩu vừa “ngộ” ra những nghịch lí của đời sống – những nghịch lí mà con người buộc phải chấp nhận, phải trút một tiếng thở dài đầy chua chát. “Trên thuyền phải có một người đàn ông. dù hắn man rợ, tàn bạo”. Cũng có thể anh bắt đầu hiểu ra rằng muốn con người thoát ra khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man rợ cần có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn. Đấy cũng là sự “vỡ ra” của người phóng viên về “độ chênh” giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” mà anh ta vừa hân hoan thu vào ống kính với cuộc sống khó nhọc nhằn không một chút thi vị của cái gia đình dân chài trên con thuyền mà anh lấy làm tâm điểm cho bức ảnh nghệ thuật của mình. Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa giống như một gợi ý về khoảng cách, về cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng. Khi quan sát từ “ngoài xa”, người nghệ sĩ sẽ không thể thấy hết những mảng tối, những góc khuất. Nhất là qua một lớp “sương mù trắng như sữa” mờ mờ, ảo ảo, cảnh thực dễ biến thành cảnh mộng. Chủ nghĩa nhân đạo trong nghệ thuật không thể xa lạ với số phận cụ thể của con người. Bức ảnh nghệ thuật Chiếc thuyền ngoài xa cũng như bức chân dung “chiến sĩ giải phóng” (Bức tranh) có thể được đánh giá cao về nghệ thuật, được tham dự triển lãm này đến triển lãm nọ, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng như người họa sĩ năm nào có thể vì những tác phẩm như vậy mà trở nên nổi tiếng. Nhưng ai biết cho người mẹ nhớ con khóc đến mù hai mắt, ai biết cho những bi kịch đang diễn ra với những con người đang sống bên trong con thuyền đẹp đẽ mĩ miều kia. Nghệ thuật mà không vì cuộc sống con người thì nghệ thuật phỏng có ích gì. Người nghệ sĩ khi thực sự sống với cuộc sống, thực sự hiểu con người thì mới có những sáng tạo nghệ thuật có giá trị đích thực góp phần cải tạo cuộc sống. Như vậy cái nhìn trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu cho con người của Nguyễn Minh Châu đã tác động đến cả cái nhìn về tác phẩm nghệ thuật và chỗ đứng của người nghệ sĩ. Vẻ đẹp của ngòi bút Nguyễn Minh Châu là vẻ đẹp toát ra từ tình yêu tha thiết đối với con người. Tình yêu ấy bao hàm cả khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp con người có tiềm ẩn, những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái ác. Đó cũng là vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đôn hậu, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí nhân sinh sâu sắc. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa với mọi thời, mọi người. Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 2 Nguyễn Minh Châu – người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” viết vào những năm đầu thời kì đổi mới. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo. Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện,Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữ có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng gười lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật. Tác phẩm không dừng lại ở đó,người nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa”: Bước ra là một người đàn bà mệt mỏi,cam chịu và một lão đàn ông dữ dằn, ác độc, coi việc đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc,hai hàm răng nghiến ken két..”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu,cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch,sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông..liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống sót xa. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp,nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình,tốt đẹp. Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất. Đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện.Bề ngoài,đó là một người đàn bà nhẫn nhục,cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ,đánh đập thật khốn khổ “ ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận nặng”,nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa..Quý tòa bắt tội con cũng được,phạt tù con cũng được,đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba,để cùng làm ăn nuôi nấng..phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người. Người đàn bà hàng chài không có tên, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh. Người đàn bà ấy thật đáng chia sẻ cảm thông. Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy? Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo. Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người. Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác. Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão. Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống. Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo. Lời kể trở nên khách quan, chân thật giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng lão đàn ông thô bỉ, lời người đàn bà xót xa cam chịu…Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đã góp phần khắc sâu hơn chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn giản,sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 3 Chiếc thuyền ngoài xa”là thuộc trong số những nhà văn mở đường tài năng, tinh anh nhất cho văn học nước ta hiện nay, là đứa con tinh thần của Nguyễn Minh Châu. Quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường đã được thể hiện rõ ở. “Chiếc thuyền ngoài xa”. Ở tác phẩm này ông thật sự thành công với nghệ thuật miêu tả nhân vật, ông đã xây dựng được các nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu mà nó cũng góp phần thể hiện những triết lí về cách nhìn cuộc sống. Triết lí đs được rút ra từ cuộc sống, từ bức tranh chân thực của cuộc sống con người. Cuộc sống vốn luôn chứa đựng nhiều khó khăn nhiều ngang trái hơn là cái màu hồng mà nó đang hiện ra. Không chỉ thế để có một cái nhìn thấu đáo con người phải trực tiếp đi vào cuộc sống đó và có cái nhìn đa chiều chứ không phải phiến diện nữa. Tác phẩm có các nhân vật chính là Nhân vật Phùng, người đàn bà, người đàn ông, bé Phác và nhân vật Phùng. Với nhân vật Phùng là một người quý trọng và say mê nghề nghiệp nhiếp ảnh của mình, anh được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh thuyền và biển trong sương mù vào giữa tháng bảy để in trong bộ lịch năm sau. Anh muốn tìm tới những điều mưới lạ và đẹp đẽ cho nên Phùng đã tìm về vùng ven biển miền Trung nơi chiến trường xưa. Qua những gì Nguyễn Minh Châu viết về Phùng thì anh là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp. Trước vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật, tâm hồn người nghệ sĩ trở nên khó tả: “tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào…tôi tưởng như chính mình vừa tham gia vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Trước cái đẹp trước vẻ đẹpc của cuộc sống của bức tranh thiên nhiên, thì Phùng như đắm chìm vào không gian đó, không những thế anh cho rằng khi nhận ra khoảnh khắc đó anh là người hanbhj phúc nhất. Trong giờ phút thăng hoa cùng cái đẹp anh cảm nhận cái đẹp chính là đạo đức”. Là người yêu cái đẹp khi mà được chứng kiến được chạm vào vẻ đẹp ấy thì quả là một điều tuyệt vời khó có thể diễn tả nổiPhùng đã bỏ ra thời gian là một tuần lễ suy nghĩ tìm kiếm, phục kích mới chụp được một bức ảnh ưng ý, một cảnh đắt trời cho. Phùng không chỉ là người yêu cái đẹp mà thờ ơ với mọi thứ mà còn là người căm ghét áp bức bất công, dám đối diện với cái ác và hành động chống lại cái ác. Phùng đã phản xạ một cách tự nhiên như một người yêu sự công bằng au phút ngỡ ngàng thấy cái ác, diễn ra ngay trước mắt,. Anh vội vàng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy đến ngăn cản người đàn ông vũ phu. Người đàn ông trong tác phẩm vốn dĩ là người hiền lành hơi cục tính nhưng bây giờ sau bao nhiêu chèo chống cuộc sống thì tính cách cũng đổ khác, ông trở nên đọc ác và bẳn tính hơn. ông không ngần ngại đánh lấy đánh để vào người phụ nữ của mình và là mẹ của những đứa trẻ của ông. Như thế trước cảnh bạo lực và độc ác của người đàn ông ta nhận ra rằng cuộc sống sẽ khiến cho con người ta thay đổi chứ đừng vội trách móc.Người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.người đàn bà ấy thật đáng cảm thông trân trọng sâu sắc chính bởi vì đức bao dung chịu thương chịu khó của người.mặc dù phải sống với một người chồng vũ phu nhưng chính vì cũng hiểu nỗi khổ của chồng nên bà cũng cam chịu.Chồng của bà la 1 người đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài,những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào. Những người như Phùng khi chứng kiến cảnh tượng đó phải trăn trở đối phó ra sao. Chính vì thế cốt truyện đóng góp một phần quan trong không kém trong khắc họa những nội dung của tác phẩm.Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người , Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ. Từ đó ta rút ra một triết lí nhân sinh sâu sắc rằng:” Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá.Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống. Tác giả với lời kể tư nhiên cũng đang là người chứng kiến tất cả những cảnh đó cho nên những cảnh và cảm xúc tới với độc giả thật tự nhiên và đầy những nghệ thuật điển hình giúp tác phẩm ngày một thành công và giàu ý nghĩa hơn.Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 4 Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhát của nền văn học ta hiện nay. Sự tinh anh và tài năng ấy trước hết thể hiện ở quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự công hiến, hi sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thế hiện chủ yếu trong mối quan hệ với kẻ thù, với đồng chí, đồng bào. Sau năm 1975, Nguyền Minh Châu là một trong sô" những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả nàng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chẳng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được cái nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện về đời sông và con người theo đúng hướng đó. Bao nghịch lí đời thường được mở ra: một người trưởng phòng thông minh muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn”, nhưng thực tế không thể tước bỏ được hình ảnh con người; một nghệ sĩ săn được cảnh thuyền và biển thật đẹp thì chính từ cảnh đó lại xuất hiện nhừng cái thật xấu; một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu thế nào đê giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh… Đấy là những minh chứng sinh động cho cách nhìn đa diện của Nguyễn Minh Châu, như chính ông từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Có thể phân tích tác phẩm theo kết cấu: hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh và câu chuyện của người đàn bà hàng chài. Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng đế “chộp được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trăng như sừa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới (…), toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và dẹp (…), tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt .diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh ta đã bắt gặp lại cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời. Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quá của cuộc sông. Phùng đã từng có cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt dính của ngoại cảnh vừa mang lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức, lại chẳng phải là đạo đức, là chân lí của sự hoàn thiện. Anh ta chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khố đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu đề có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thăng Phác, con lão đàn ông, đã kịp tới đế che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thế hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành cua cái ác… Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuôc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thành khủng khiếp, ghê sợ. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đấu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khố ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, vậy mà vần nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con: "… dám dàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần có người đàn ông dể chèo chống khi phong ba, dể cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào củng trên dưới chục đứa.. Phải sông cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiếu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy ý nghĩa và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được nhừng niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng tôi nó dược ăn no”; “ơ trên thuyền củng có lúc vợ chồng con cải chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”. Về nghệ thuật, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyền Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sông. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ môi quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ. Anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lí. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhần nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có một cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyền Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa đế phát hiện tính cách .con người, phát hiện sự thật cuộc đời. Hơn nừa, ngôn ngừ người kể chuyện và ngôn ngừ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kê chuyện như thê đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sông của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ cách nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; nhừng lời của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành: việc sử dụng ngôn ngữ rât linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề – tư tưởng của truyện ngắn. Tóm lại, từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đăng sau bức ảnh ấy, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, ơ đây là số phận đau đớn của một người phụ nữ, là cảnh ngộ ngang trái trong một gia đình hàng chài hiện dần lên" qua bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm. Từ đó, truyện còn cho thây rõ mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu lớp 12
8,004
Nguyễn Minh Châu từng khẳng định “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử” . Và khi tiếp cận nhân vật Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” ta đã bất ngờ bắt gặp một tâm hồn đa sầu, đa cảm chất chứa dưới một giọng văn trữ tình ấm áp trước thân phận con người. Nguyễn Minh Châu đã trở về mảnh đất miền Trung đầy nắng gió để đau đáu câu hỏi trong những phận người trong cuộc sống đời thường đầy nỗi cơ cực, đắng cay. Và ở tác phẩm này, nhà văn đã lấy con người là trung tâm phản ánh cho hiện thực cuộc sống, muốn bày tỏ một quan niệm văn chương mà trước nhất phải là câu chuyện của con người với tất cả chiều sâu. Hóa thân vào nhân vật Phùng từng là người lính vào sinh ra tử, được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh làm lịch. Trong vai một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh ghi lại những khoảnh khắc, những lát cắt đẹp đẽ của cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khỏe khoắn, tươi vui của những con người đang dựng xây quê hương, đất nước. Anh đã săn tìm ảnh nghệ thuật về biển, tìm những tấm ảnh có hồn bằng cách “phục kích” cả tuần lễ để suy nghĩ và kiếm tìm để cuối cùng mới tìm được một cảnh ưng ý, một khám phá phát hiện ra cái đẹp, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của chiếc thuyền lúc bình minh. Quả là một vẻ đẹp toàn bích của tạo vật “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”. Nhưng rồi nhân vật Phùng cũng đã chứng kiến cảnh lão đàn ông vũ phu trên chiếc thuyền chài đánh vợ một cách tàn bạo. Người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng. Nhân vật Phùng “kinh ngạc”, “há mồm ra mà nhìn” và anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Thật vậy, trước khi là trái tim nghệ sĩ, Phùng có một trái tim con người. Phản xạ của anh trước sự kiện trên là phản xạ tự nhiên của con người có bản chất thiên lương, tốt đẹp. Với trái tim nghệ sĩ, Phùng đã thức tỉnh. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời thì lại rất gần. Nghệ thuật chân chính là vì cuộc đời. Vì thế, đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, đừng mượn danh nghệ thuật mà vô trách nhiệm vơí cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với một con người Cũng sau chuyến đi này, anh đã có sự thay đổi, đặc biệt là trong nghệ thuật. Người nghệ sĩ không được đơn giản và dễ dãi khi nhìn nhận mọi vấn đề trong cuộc sống và nhìn nhận con người. Cũng chính bởi thế Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” . “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người nhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, tư tưởng ấy như một minh chứng cho khả năng của Minh Châu trong việc giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời, cho quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Thông qua cái nhìn của nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã chứng minh cho ta thấy “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương). Đó cũng là minh chứng rõ cho tấm lòng luôn hướng về con người.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
937
Sô lô khốp là một nhà văn xô viết lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Noben về văn học năm 1965. Ông có nhiều tác phẩm để lại bao gồm truyện, tiểu thuyết và đặc biệt hơn nữa là tác phẩm xuất sắc viết về số phận con người. Qua tác phẩm này chúng ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh. Nhân vật chính trong truyện là Sô lô khốp. Và anh là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc . Trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh mất hết tất cả từ người thân,nhà cửa,bạn bè. Đối với anh mà nói thì anh chiến đấu vì gia đình, vì quê hương đất nước nhưng khi mọi thứ bỏ anh mà đi thì không còn gì nữa cả. Anh phải sống trong một cuộc sống đau khổ , kể cả khi chiến đấu, anh bị thương rất nhiều. Vợ và hai người con của anh cũng bị bom của phát xít cướp đi tính mạng của mình. Anh chỉ còn hi vọng vào người anh trai nhưng rồi cuối cùng anh ấy cũng đã chết trận. Như vậy qua đây chúng ta có thể thấy được rằng số phận anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những giày vò về thể xác lẫn tinh thần rồi giờ về thì lại phải nếm trải niềm đau khổ về tinh thần tụt độ bởi người thân yêu duy nhất cũng không còn nữa. Từ đó chúng ta có thể thấy được những hậu quả mà chiến tranh đã để lại. Sau chiến tranh anh phải sống trong bết tắc và tuyệt vọng. Không có nhà cửa anh phải sống nhờ nhà một người bạn. Cho tới khi anh tình cờ gặp được cậu bé có ten VaNi. Nhà văn đã miêu tả ngoại hình của cậu bé bằng những lời văn hết sức chân thật đó là một cậu bé tầm 5 tới 6 tuổi ăn mặc rách rưới ,cả cha và mẹ của cậu bé đều đã chết trong chiến tranh,ít ra Sô lô khốp còn có thể lao động được còn cậu bé thì lại không có ai,ai cho ăn gì thì cậu bé ăn nấy và bạ đâu ngủ đấy. Duyên phận cho họ gặp nhau như để bù đặp cho nhau những thiếu sót của cuộc đời. Anh nhân nuôi bé Vani,chăm sóc tận tình chu đáo, anh còn mua quần áo cho cậu bé, là một chiếc áo bành tô rất đẹp. Chính lòng nhân ái đó đã đem hai trái tim đấy lại với nhau như để sưởi ấm cho nhau vậy. Anh cố gắng làm mọi việc để nuôi bé vani nhưng cuộc sống không giống như những gì mình nghĩ, anh vượt qua mọi nỗi đau, xe anh quệt nhẹ vào người ta và cuối cùng bị mất bằng lái cho nên anh phải đi khắp nơi ,đã thế sức khỏe anh lại yếu đi trông thấy, anh đau đến mức khóc nhưng anh lại không để cho bé VaNi biết được điều này. Qua điều này chúng ta thấy tác giả có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Đến đoạn cuối của tác phẩm thì nhà văn đã thể hiện sự thương xót của mình đối với nhân vật “ Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…”. Đoạn văn thể sự sự khâm phục , tính cách của những con người kiên cường trước những khó khăn của cuộc sống. Trong hoàn cảnh có nghèo khó thế nào thì họ vẫn luôn trao nhau những tình yêu thương nhân ái, họ luôn đùm bọc nhau để sống. Như vậy qua đây chúng ta có thể thấy được số phận đau khổ của con người qua chiến tranh là như thế nào, họ không những phải chịu những nỗi đau thể xác trên chiến trường mà còn phải chịu nhiều nỗi đau về tinh thần. Xô cô lốp cùng bé Va ni a chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Qua đó tác giả muốn kêu gọi mọi người hãy có trách nhiệm đối với những con người như vậy.
Phân tích tác phẩm Số phận con người của Sô lô khốp
709
Lỗ Tấn được biết tới không chỉ là một người thầy thuốc chữa bệnh trên cơ thể mà còn là một thầy thuốc chữa bệnh tinh thần cho người Trung Quốc rất giỏi, chính vì vậy mà tác phẩm Thuốc được xem như một được thuốc được ông gửi tới cho những người dân Trung Quốc . Có thể thấy ông là người rất giỏi chữa bệnh tinh thần trong việc truyền đạt văn chương. Nhan đề chỉ có duy nhất một chữ thuốc nhằm nói lên sự quan trọng của phương thuốc chữa bệnh tinh thần cho mọi người và nó còn được xem là phương thuốc tinh thần để ngộ nhận và thức tỉnh sự u muội của người dân Trung Quốc . Nhà văn đã quyết định học y thuật vì hồi nhỏ cha ông bị bệnh được một ông lang băm kê đơn thuốc làm cho cha ông uống bệnh càng nặng hơn và qua đời. Chính vì điều này mà ông muốn trở thành một người thầy thuốc giỏi để cứu chữa cho con người. Trong một lần đi học bên Nhật ông biết được tình trạng u muội của nhân dân cho nên ông quyết định quay về viết văn để chữa bệnh tinh thần cho người dân. Tác phẩm được mở đầu bằng hình ảnh ông bà Hoa Thuyên quyết định đi lấy thuốc về cho con trai mình uống, ông bà phải dậy từ khi màn sương vẫn còn dày đặc nhưng vẫn không ngại khó khăn vì tin rằng chính vị thuốc kia sẽ đem lại sự sống cho con trai độc đinh duy nhất của ông. Vị thuốc mà mọi người bảo có thể cứu con trai ông bà Hoa đó chính là bánh bao có tẩm máu người tử tù. Lão Hoa khép ép đưa tiền cho tên cai ngục rồi nhận bánh bao mang về vẫn còn tươi nguyên máu nhỏ giọt. ở trên đời này làm gì có loại thuốc như vậy ,thật là nghịch lí nhưng họ vẫn tin là có thật. Về đến nhà lão gọi con dậy ăn và bà Hoa cũng không dấu nổi sự vui mừng trên nét mặt. Hai ông bà tin rằng nếu như con ăn hết chiếc bánh ấy thì nó sẽ khỏi bệnh ngay.Những người ở trong quán họ cũng mừng ra mặt cho bà lão . KHông những vậy họ còn bàn tán về tên tử tù họ Hạ ,là phản động để rồi bị giết chết. Có thể nói hình ảnh Hạ Du đóng vai trò là một người tử tù và đối với nhân dân TRung Hoa thời bấy giờ thì họ xem đó là thích đáng. Ở đây chúng ta thấy rõ được sự xa rời của quần chúng đối với những cán bộ chiến sĩ cộng sản. Có thể nói chính vì sai lầm xa rời quần chúng cho nên cách mạng Trung Quốc lúc đó vẫn chưa thành công. Hạ Du đại diện cho những người yêu nước , còn ông Hoa lại đại diên cho những người dân Trung Hoa lúc bấy giờ. Hình ảnh người mẹ đi vào nghĩa trang cũng cho thấy sự xa rời. Một bên là hàng mộ của những người bị bệnh lao còn một bên là hàng mộ của những người tử tù ,được chia làm hai lối rõ rệt. Một bên là mẹ của người tử tù còn một bên là bà Hoa, con bà đã chết. Cuối cùng thì hai người bước đến bên nhau thể hiện sự thương xót ,đồng cảm giữa những người mẹ. Bức tường ngăn cách đó được xóa bỏ . Hai người phụ nữ ấy chính là hình ảnh mà nhà thơ muốn gửi gắm tới phương thuốc chữa bệnh cho nhân dân và những người cách mạng của Trung Quốc. Không những thê hai bà còn ngạc nhiên khi thấy một vòng hoa trên mộ Hạ Du không biết ai đã đặt nhưng vòng hoa ấy nhưng đó là tấm lòng của nhà văn giành cho những người chiến sĩ cộng sản để không nghe theo bọn xâm lược. Như vậy qua đây chúng ta thấy được thực trạng của người dân Trung Quốc thời bấy giờ, chính vì cách mạng không gần với dân cho nên đã có kết cục không tốt,không những vậy,nhân dân còn tin vào những thứ thuốc chết người đó là bánh bao tẩm máu người. Qua đó nhà văn muốn cho mọi người biết đươc căn bệnh mà họ đang mắc phải và từ đó nhanh chóng cứu chữa kịp thời để không bị quá nặng.
Phân tích tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn và nói lên suy nghĩ của bạn
768
Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ. “Truyền kì mạn lục" chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả. Với tập truyện ngắn “Truyền kì mạn lục” ông thực sự đã mang đến cho nền văn học nước nhà một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị sâu sắc về mọi mặt của nó. Chế độ phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI nhìn chung vẫn đang trên đà phát triển. Tuy nhiên sự cường thịnh của những giai đoạn trước đó thì đã giảm sút rõ rệt, bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của sự suy thoái. Trong tập đoàn giai cấp thống trị không còn những vua sáng tôi hiền. Triều đình đã gây nên bao nỗi thống khổ cho nhân dân. Ngoài xã hội, tình trạng đạo đức suy đồi, nhân tình thế thái đảo điên đã đẩy con người ta vào bước đường cùng. Sống giữa bối cảnh lịch sử xã hội như vậy, là một trí thức có tâm huyết, Nguvễn Dữ đã không thể không lên tiếng. Thái độ của tác giả được thể hiện qua “Truyền kì mạn lục” (quyển sách ghi chép tản mạn những điều kì lạ đang được lưu truyền) gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi tự sự (có xen văn biền ngẫu và thơ ca). Tác phẩm này được Nguyễn Dữ viết trong thời gian ở ẩn và hoàn thành trước năm 1547. Sự đan xen pha trộn giữa yếu tố hiện thực và yếu tố hoang đường, kì ảo là nét đặc trưng và sức hấp dẫn đặc biệt của những câu chuyện trong tác phẩm. Sau mỗi truyện ngắn đều có một lời bình ngắn (hiện chưa biết là của ai) đề cập đến phẩm chất đạo đức của các nhân vật trong tác phẩm. Tác phẩm Truyền kì mạn lục là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của Nguyễn Dữ đối với hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Do điều kiện lịch sử, Nguyễn Dữ không thể nói trực tiếp mà phải dùng cách gián tiếp: Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ…, tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Phương pháp này giúp nhà văn có thể tự do tung hoành ngòi bút của mình trên trang giấy và thể hiện được tất cả những suy nghĩ, thái độ, quan điểm của mình về con người, về xã hội. Thứ nhất là tinh thần phê phán, tố cáo giai cấp thống trị tàn bạo trà đạp lên cuộc sống con người. Bằng ngòi bút thông minh, sắc sảo, bằng thái độ công phẫn mãnh liệt, Nguyễn Dữ vạch trần tất cả những bản chất tham bạo ngược của bè lũ giai cấp thống trị từ hôn quân bạo chúa trong triều đến bọn cường hào ác bá ở địa phương. Đối tượng phê phán trước hết là bọn vua chúa với những tội ác được tác giả vạch trần. Lời người tiều phu ở núi Nưa tố cáo Hồ Hán Thương “ dối trá tham dục, đem hết sức dân để dựng Kim Âu, dốc cạn của kho để mở khố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung rải châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì phải giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng, lòng dân động lay…Vậy mà các kẻ nịnh thần trên dưới theo hùa” là thái độ phẫn nộ của tác giả. Với bọn quan lại thì có những điển hình sắc sảo cho tôi ác tham lam không đáy, nhũng nhiễu và hiếp bức dân làng. Quan trụ quốc họ Huỳnh: “ vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy….của cải trong nhà ấy không biết có cách nào tiêu mòn đi được” hay Lý Hữu Chi hung bạo, ngang ngược, làm những việc trái phép, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán,..( Truyện Lý Tướng Quân). Lúc này, tiếng nói cùa nhà văn trở thành tiếng nói đại diện của nhân dân. Nguyễn Dữ đã đứng về phía nhân dân để thay mặt họ lột trần bộ mặt thật của bọn tham quan ô lại và nói lên tiếng nói phản kháng quyết liệt của họ. Kèm theo đó là cảm hứng ngợi ca, khẳng định những người trí thức, những của họ. Kèm theo đó là cảm hứng ngợi ca, khẳng định những người trí thức, những bậc nho sĩ, những quan lại chính trực, khí tiết, bản lĩnh giữa một bối cảnh đầy ô tạp. Tuy nhiên, sự xuất hiện của những nhân vật này thường không nhiều. Thứ hai, tác phẩm còn thể hiện ý thức xây dựng, bảo vệ tinh cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Tình yêu trong tác phẩm của Nguyễn Dữ là tình yêu tự do nẩy sinh từ sự rung cảm giữa trái tim đôi bên, vượt ra ngoài khốn khổ phong kiến và đạo đức Nho Giáo. Ông đã nói lên được khá trọn vẹn và sâu sắc tiếng nói tâm tình riêng tư của tuổi trẻ đương thời, phản ánh một nhu cầu bức thiết, đòi hỏi được giải phóng khỏi lễ giáo khắc nghiệt. Ở khía cạnh này, Nguyễn Dữ tập trung ca ngợi sự gắn bó son sắt trong tình cảm vợ chồng, đặc biệt ông dành nhiều cảm hứng để đồng cảm với những bất hạnh và đề cao phẩm chất tốt đẹp ở con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Tác phẩm tiêu biểu “Người con gái Nam Xương” với một Vũ Nương – người phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, tiết hạnh….thế mà phải gánh chịu bao nỗi oan khiên, chịu sự hinh bỉ, ruồng rẫy của chồng.Người phụ nữ ấy chẳng còn con đường giải quyết nào khác để chứng minh sự trong sạch , cho điều oan khuất của mình, để rồi cuối cùng người đã trầm mình xuống sông với một lời nguyền. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương.Ông trân trọng, ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, bao dung với những người phụ nữ bị xã hội dồn ép thành kẻ xấu xa không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Vì thế, nội dung này đem đến cho Truyền kì mạn lục chiều sâu của tư tưởng nhân đạo. Thứ ba, ngoài hai vấn đề nội dung trên, thông qua Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ còn bộc bạch những nỗi niềm ưu tư sâu kín trước thời thế. Là một nho sĩ tài năng, tâm huyết với dời, thấu đáo bao đạo lí của trời đất nhưng ngày ngày phải nhìn thế thái nhân tình đổi thay, nhiều giá trị tốt đẹp trong cuộc sống con người có nguy cơ sụp đổ, tan rã, nhà văn không khỏi rơi vào nỗi bi uất. Mong mỏi giữ gìn và khơi dậy tất cả những giá trị cao đẹp bền vững của cuộc sống, Nguyễn Dữ cũng thể hiện rõ thái độ dứt khoát đấu tranh với tất cả những gì đang làm cho nó bị băng hoại. Ngoài ba vấn đề cơ bản trên trong Truyền kì mạn lục còn có nhiều vấn đề khác khiến cho tác phẩm có một giá trị nội dung tư tưởng hết sức sâu sắc. Bao trùm lèn tất cả là mơ ước về một xã hội công bằng, lí tưởng, là khát vọng về hạnh phúc cho con người của nhà văn nói riêng và nhân dân lao động nói chung. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Thành công của tác giả trong tác phẩm trước hết là ở sự sáng tạo trên cơ sở những cốt truyện có sẵn. Đa phần những câu chuyện trong tác phẩm đều có nguồn gốc từ dân gian hoặc trong sách vở của người xưa. Nguyễn Dữ đã sưu tầm, đồng thời bố sung, nhào nặn, chau chuốt, gọt giũa, biên những câu chuyện còn thô sơ, đơn giản trở thành những tác phẩm văn học tinh tế giàu ý nghĩa và có hiệu quả nghệ thuật cao. Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật kết cấu, dẫn dắt tình huống kết hợp với cách xây dựng nhân vật là những thành công rõ nét nhất trong quá trình sáng tạo của nhà văn, đem lại cho những cốt truyện quen thuộc một sức sống và sự hấp dẫn mới. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. “Truyền kì mạn lục” đã tồn tại bất chấp sự khắt khe của thời gian và giữ nguyên được giá trị trong mọi thời đại. 20 thiên chuyện, chuyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người… Giá trị lớn của Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó.
Phân tích tác phẩm Truyền kì mạn lục
1,876
Nhắc đến nguyên lí tảng băng trôi là chúng ta lại nhớ tới nhà văn nổi tiếng Hê minh uê. Có thể nói rằng ông là một nhà văn vĩ đại nhất nước Mỹ ở thế kì 20, ông đã để lại nhiều tiểu thuyết có giá trị viết về uỗ sống, trong đó nổi bật nhất là tác phẩm ông già và biển cả. Ông là một nhà văn đề xướng lối viết kiệm lời nhưng lại rất giàu ý nghĩa, được xem là nguyên lí tảng băng trôi. Theo ông thì một tác phẩm phải được viết theo nguyên lí tảng băng trôi, nguyên lí này đòi hỏi con người khi đọc phải biết chiêm nghiệm mới thấy được cái hay của nó. Nhà văn không trực tiếp không trực tiếp chỉ ra ý tưởng của mình mà ông xây dựng nhiều hình tượng có nhiều sức gợi, có những câu văn lại bỏ lững hoặc là để trống để cho mọi người tự chiêm nghiệm và suy nghĩ tự hiểu ra ẩn ý của tác phẩm. Về tác phẩm thì nhân vật chính là ông già Xantiago ,là một ông già đánh cá người Cu ba. Ông đã 74 tuổi và trong suốt 84 ngày liền lão không câu được bất cứ một con cá nào dù nhỏ hay to. Chính vì vậy bố mẹ của cậu bé Ma nô lin cấm không cho đi câu chung với lão nữa. Người ta cho rằng ông đã gặp phải vận xui. Với ý chí không chịu khuất phục mà ông đã quyết định ra khơi để đánh cá một mình và rồi câu chuyện được bắt đầu từ đây. Ông lão đi cho tới trưa ông thả bốn cần câu và đợi cho tới trưa thì có một con cá kiếm đã cắn câu, con cá ấy làm cho ông lão cảm thấy mình có tài nghệ. Chính vì thế mà ông lại quyết định phải bắt được nó vào bờ để cho người ta không nói gì nữa . Trong bài con cá hiện lên với một ấn tượng vô cùng đẹp đẽ đó chính là một con cá to với những vòng lượn tròn lớn. Không những vậy, ông còn thấy nó như một cái bóng đen vượt dài qua dưới thuyền và lão không hề tin độ dài của nó :”Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm”. “ Thân hình đồ sộ và những dọc dài màu tía”, “bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng”. Qua những hình ảnh trên cho thấy được nhà văn đã dùng những từ ngữ hay gọn nhất để có thể miêu tả về con cá kiếm. Con cá ấy lớn đến nỗi làm cho ông lão cảm thấy đang buộc một con thuyền lớn hơn vào chiếc thuyền của mình . Ngay khi đó thì con cá đã kéo ông lão ròng rã suốt hai ngày ra khơi, trong suốt hai ngày này ông chỉ cô độc với chai nước và ông quyết tâm phải bắt cho được con cá để cho xứng đáng với tài nghệ của mình Và một cuộc chiến giữa ông già và con cá bắt đầu từ đó, một cuộc chiến không cân sức. Về phía con cá nó cũng tỏ ra ngoan cố và không chịu khuất phục dưới bàn tay của ông lão. Khi thấm mệt thì nó lại chậm rãi, có khi ông lão còn tưởng rằng bắt được nó nhưng nó lại bơi ra xa. Qua đây chúng ta thấy được ý đồ nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm qua hình tượng con cá kiếm,đó là một hình ảnh mang sự bất khuất không chịu nhún nhường trước gian khó của cuộc sống . Không những vậy con cá còn là biểu tượng của thiên nhiên, nó còn thể hiện cho ước mơ và khát vọng của con người. Về phía ông lão thì tỏ ra vui mừng khi thấy con cá nhưng ông biết là mình còn phải chiến đấu với nó nhiều để còn đi về. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nó cũng rất mạnh,mạnh hơn cả lão thế những lão vẫn không chịu khuất phục mà vẫn kiên quyết để bắt được con cá về bằng được. Ông cảm nhận với những vòng luộn qua sợi dây, hành động nhất quyết của ông đã phóng lao trúng tim của con cá . Cuộc chiến tuy không cân sức nhưng cuối cùng ông đã thu phục được nó. Qua đây chúng ta đã thấy được sức mạnh và vẻ đẹp về hình tượng của ông lão. Đặc biệt là sự thắng lợi của con người trong quá trình chinh phục mọi thử thách. Thế nhưng cái thắng lợi của ông già lại không hề dừng lại ở đây, kết cục thật đáng thương tâm bởi ông bắt được nó huy hoàng như thế nhưng đến khi vào được đến bờ thì đàn cá mập cũng rỉa hết thịt rồi chỉ còn trơ trọi lại mỗi bộ xương không . Nhưng điều này không quan trọng , quan trọng là ông lão đã thắng nó . Đó chính là điều mà nhà văn muốn gửi gắm tới con người những ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Qua bài này chúng ta thấy được ba chìm bảy nổi của tác phẩm .Phần nổi ở đây là hành trình chinh phục con cá của ông già còn phần chìm thì được biểu tượng bằng sức mạnh và trí tuệ của ông nói riêng và những người dân lao động nói chung. Con cá kiếm còn biểu tượng cho sức mạnh,cho vẻ đẹp của thiên nhiên. Nó còn là hành trình theo đuổi những ước mơ và biến ước mơ đó trở thành hiện thực . Đồng thời nó còn là hành trình để vượt qua mọi khó khăn thử thách để vươn tới những thành công Như vậy qua đây ta thấy được nguyên lí tảng băng trôi của Hê Minh uê và tác phẩm ông già và biển cả. Qua tác phẩm chúng ta thấy được những phần chìm nổi của nó và cho chúng ta học tập được lối hành văn kiệm lời này của tác giả.
Phân tích tác phẩm Ông già và biển cả của Hê-minh-uê
1,046
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất săc nhất của nhà văn Kim Lân,nhà văn đã lột tả được hết sự cảnh nghèo khó của xã hội thời bấy giờ. Tiêu biểu là gia đình bà cụ tứ ở xóm nghèo trong nạn đói 1945. Với ngòi bút nhân đạo tài hoa của mình ông đã nói lên được hết vẻ đẹp tinh thần ẩn dấu sau sự đói khổ của nhân vật mình Cuộc đời của xóm nghèo được tác giả miêu tả điển hình quan ba nhân vật đó là bà cụ Tứ,Tràng và Vợ nhặt của Tràng. Bà cụ Tứ là nhân vật được tác giả miêu tả với những tâm trạng vô cùng phức tạp đã thể hiện được nội dung nhân đạo sâu sắc Tình huống đầu tiên là sự ngạc nhiên khi thấy con trai dẫn một người đàn bà về nhà và bảo đó là vợ mình. Lúc này bà cụ phần vừa ngạc nhiên vì con trai mình nghè xấu xí,dân ngụ lại trong cảnh đói khát nuôi mình chẳng xong thì ai dám lấy ,với lại đã đói thế này Tràng còn lấy vợ về là thêm một miệng ăn rồi. Ngạc nhiên hơn là khi bà đi làm đồng về và người đàn bà ngồi cạnh góc giường gọi mình là mẹ. và sau đó được Tràng giới thiệu đó là vợ mình. Bà ngạc nhiên đến cả việc không thể tin vào tai,vào mắt mình nữa rồi”bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhòe vì tự dung bà thấy mắt mình nhoèn đi thì phải, bà nhìn kĩ người đàn bà vẫn chưa nhận ra người nào,bà quay sang nhìn con mình tỏ vẻ không hiểu. Bà vừa mừng vừa tủi vì con mình “nhặt” được vợ rồi bà cúi đầu im lặng. Bà liên tưởng đến số phận và xót thương cho đứa con của mình. Bà còn liên tưởng đén đứa con gái đã qua đời,đến người chồng quá cố mà lòng bà trĩu nặng Bà lại mừng cho con mình vì đã nhặt được vợ mà không cần cưới xin rồi đã yên bề gia thất ,tủi thân mình không lo được vợ cho con. Giờ đây người chết ngoài đường như ngả rạ lại có người chịu theo con mình về làm vợ. từ ngạc nhiên rồi thành tủi buồn vì cái đói cái nghèo cùng quẫn. rồi bà lại lo khi lấy gì để trình làng,để cúng tổ tiên bây giờ. Bà khóc vì thương còn phần khóc vì thương cho số phận mình “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống hai dòng nước mắt”” ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”… Bao nhiêu yêu thương chất chứa của nguồi mẹ giành cho con mình thể hiện qua những lời nói đầy chân thành giản dị và mộc mạc ấy. Bao nhiêu là nổi lo lắng ngổn ngang bửa vây rong lòng của bà mà không biết làm như thế nào để vượt qua cơn đói này. Bà thực sự lo lắng cho con trai con dâu bởi liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau không rồi lại tự an ủi mình bằng câu “có khó khăn ,đói khổ này người ta mới đến lấy con mình chứ” rồi bà chỉ biết khuyên vai vợ chồng tràng yêu thương ăn ở hòa thuận với nhau nưng sự lo lắng và tủi hờn đã nhen nhòm trong bà một niềm tin. Trong cái tủi cái lo đó chúng ta vẫn thấy được niền tin của bà. Một niềm tin cứ bị cái đói khổ cái buồn đeo bám dai dẳng nhưng bà vẫn cố gắng làm cho con dâu của mình vui . Bà tự an ủi mình bằng câu”ai giàu ba họ ai khó ba đời” đây chsinh là niềm tin vào cuộc sống vào tương lại,bà tin rằng sẽ có một cái ngày đói khổ sẽ qua và sẽ không khổ nữa “bà toàn nói chuyện vui .chuyện sung sướng sau này” Niềm tin niềm vui của bà còn được thể hiện ở trong công việc”sửa sang vườn tược rồi và giẫy cỏ cho sạch vườn” “cái mặt bủng beo u ám của bà trở nên rạng rỡ hẳn lên". Niềm vui của bà còn được thể hiện trong bữa sáng đầu tiên có con dâu ,và đó là một bữa ăn với món cháo loãng chẳng có gì và món chè chat đắng như cái đắng của lòng người. mặc dù như vậy nhưng bà vẫn cố tỏ ra vui để động viên con mình. Cho thấy bà là một người mẹ gàu lòng nhân ái và có tình yêu thương con mình vô bờ bến Cái vui ấy thật sự rất nhỏ bé vẫn không thể nhen nhóm lên được bởi đâu đó có tiếng khóc,mùi đốt rấm ở những nhà có người chết đói. Bà đã ngĩ đến đứa con và ông lão nhà mình rồi phấp phỏng nghĩ cho đứa con trai về cai đói cứ giằng lấy trước mắt Qua tâm trạng thay đổi của bà cụ Tứ ta thấy được bà hiện thân là một người mẹ nghèo khổ từng trải đã hết lòng yêu thương đùm bọc con cái,thương cho những cảnh đời bất hạnh tội nghiệp,oái oăm. Bà nung nấu về một cuộc sống tươi đẹp mai sau hạnh phúc no ấm Như vậy nhân vật bà cụ Tứ diễn ra với những tâm trạng tâm lí diễ biến đầy phứ tạp. dưới ngòi bút tài tình của mình ông đã lột tả hết lòng nhân đạo sâu sắc của tác phẩm và đi vào lòng người.
Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt
947
Nạn đói năm 45 dường như đã trở thành một nỗi ám ảnh sâu sắc đối dân tộc ta. Nỗi đau thương ấy đâu chỉ được diễn tả bằng lời mà nó còn được in dấu trong từng câu văn, từng trang giấy của các nhà thơ, nhà văn. Đó có thể là Chí Phèo của nhà văn Nam Cao hay Chị Dậu của Ngô Tất Tố và trong số đó không thể nào thiếu được truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân. Đó được coi là một trong những tác phẩm có chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật đặc sắc. Trong tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, với những diễn biến thăng trầm nhằm khắc tả được thành công nội dung của truyện ngắn và thông qua đó làm nổi bật lên được tình hình chung của đất nước trong những năm kháng chiến đầy gian khổ đó. Để làm nên thành công của một tác phẩm không chỉ cần nhà văn viết hay, viết tài, nội dung phong phú mà hơn thể nữa tác phẩm phải cần một tình huống truyện tài tình. Và cũng như vậy, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công đã làm nên một tình huống truyện như thế, và nó đã được thể hiện ở ngay trong chính tiêu đề của tác phẩm: Vợ nhặt. Từ trước đến ngay, người ta nhặt đồ, nhặt nhạnh, lượm lặt chứ ai lại đi nhặt người và thậm chí là nhặt vợ? Vợ là người sẽ chung sống và đồng cam cộng khổ với ta, vợ phải là người được cưới hỏi đàng hoàng, chứ làm gì có ai lại đi nhặt vợ? Nhưng đặt trong bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm 1945, thì những người dân thường, những người bán mặt cho đất bán lưng cho trời may lắm thì mới có thể thoát khỏi được bàn tay tử thần, ấy thế mà “sống là tốt rồi, tự nuôi được mình là tốt lắm rồi chứ còn ai có cái suy nghĩ lấy vợ”. Ấy thế mà anh cu Tràng – cái anh chàng hiền làng, tử tế, nhưng lại quá nghèo mà không thể lấy được vợ lại nhặt được vợ, đó quả là một điều thật là lạ. Cũng bởi vì sống trong cái hoàn cảnh đó thì cái giá trị của con người lại càng trở nên rẻ rung, người ta cũng chỉ vì 1 bát bánh đúc mà lấy được vợ. Nhà văn Kim Lân với quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”, đã tạo ra một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn thu hút người đọc và hơn thế nữa là một nội dung truyện mang tính hiện thực nhưng cũng mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Cái thú của câu chuyện là chuyện anh cu Tràng trong cái tình huống trớ trêu đã nhặt được vợ như là một nghịch lý. Nếu nói trong thực tế thì việc Tràng có vợ cũng bởi vì người vợ “mới: của Tràng hơi ham sống, chứ không chỉ vì 4 bát bánh đúc mà anh Tràng đã “hào phóng” tặng cho “nàng”. Cái truyện mà nghịch lý, khiến ai ai cũng đều phải bất ngờ nhưng thực chất thì nó lại rất phù hợp với quy luật của cuộc sống. Bởi trong những tình huống khó khăn nhất, bần cùng nhất thì cái nhân cách của con người ta cũng trở nên rẻ rung hơn bao giờ hết. Không phải vì con người ta ngay từ khi sinh ra đã có bản chất như vậy mà do thực tại, do cái xã hội này đã tác động và đẩy con người ta vào những tình huống khiến chính họ cũng không thể nào nghĩ được cái bản chất của mình đã bị “tha hóa” đến như vậy. Bởi vậy mà việc Tràng có vợ không còn chỉ là niềm vui mà hơn thế nữa nó còn là một nỗi đau , một sự thương cảm cho chính thân phận của con người. Để tạo nên nét độc đáo cho câu chuyện, nhà văn đã xây dựng một khung cảnh thật ảm đạm, đầy thê lương của làng quê Việt Nam khi xảy ra nạn đói. Những người nông dân sống trong cái xã hội ấy, người nào người ấy trông cũng hốc hác, u tối. Đó là những gia đình: “những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như bóng ma”; bóng người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng ma”. Cũng chỉ bằng những chi tiết miêu tả đơn giản, nhà văn đã cho người đọc cảm nhận được về cái thời nghèo đói, cái thời mà đến nhân cách của con người cũng bị tha hóa, cái thời mà mạng sống của con người bị rẻ rúm, khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ mong manh như tờ giấy. Cũng chính bởi nhà văn đưa ra tình huống truyện như vậy đã khiến cho người đọc thấm thía được sự tăm tối, đau đớn của một thời. Nhà văn không xây dựng trong truyện một cuộc sống như mơ hay cố vẽ ra một viễn cảnh ảo mộng mà ngược lại, nhà văn không hề né tránh mà lại săn đuổi hiện thực tới cùng. Nhưng mục đích chính của nhà văn, làm từ chính hiện thực đó để có thể làm sáng tỏ vẻ đẹp trong lòng con người – cái vẻ đẹp mà tưởng chừng như đã bị sự nghèo đói làm cho tha hóa. Nhưng không, chính cái hiện thực ấy lại là một phép đòn bẩy cho tình yêu và tâm hồn của con người trở nên sáng rực hơn lúc nào hết. Tình huống độc đáo thứ nhất của truyện, chính là khi nhà văn cho Tràng nhặt được vợ. Cũng chính từ lúc đó, nhà văn Kim Lân đã gieo cho những con người một tia hy vọng, dù là một tia hy vọng mong manh nhất. Ấy là trước khi Tràng nhặt được vợ, cái xóm nghèo thê lương là thế: trẻ con thì ngồi rũ rượi 1 góc không thèm nhúc nhích, ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường,… thế nhưng từ khi Tràng nhặt được vợ thì mọi thứ dường như đã thay đổi hẳn, cái xóm ngụ cư nghèo ấy dường như đã được thổi một làn gió mới, một tia hy vọng mới. Xóm ngụ cư ấy từ chỗ chả ai nói với nhau câu nào cho đến khi mọi người bàn tán xôn xao chuyện Tràng lấy được vợ. Ai nấy cũng đều cảm giác tò mò, nhưng sâu thẳm trong trái tim của họ lại lóe lên một tia hy vọng sống, một tia hy vọng cho một tương lai mới. Niềm hạnh phúc của con người đến nhanh lắm, nó nhỏ bé nhưng lại có thể nhanh chóng làm con người ta quên hết những ê trề, mệt mỏi, nó dường như không chân thực lắm mà đôi khi còn khiến con người ta lơ lửng như đi ra từ giấc mơ. Chính vì thế mà khi đi bên cạnh người vợ mới nhặt về, Tràng dường như đã quên hết tất cả cái cuộc sống ê trề, tăm tối hàng ngày và thậm chí còn quên ngay cả cái nạn đói đang đeo bám con người ta hằng ngày. Hóa ra, nhà văn đã hóa thân vào trong tác phẩm để có thể gửi gắm đến nhân vật của mình cái tình cái nghĩa đậm đà, sâu sắc. Hạnh phúc của Tràng được xây dựng trên cái tình, cái nghĩa. Đó là tình yêu thương giữ con người với con người trong cơn khó khăn, hoạn nạn, là cái nghĩ của một người mang hàm ơn – trong cái lúc quẫn cùng ấy lại có một người tự dang rộng vòng tay để mình bấu víu, nương tựa. Cũng chính bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công sức sống mãnh liệt của tình cảm con người thiêng liêng mà bất diệt ấy để cùng nhau vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Lúc trở về nhà, cái niềm vui sướng, hạnh phúc ấy đã đã vợi đi muôn phần mà thay vào đó là Tràng đã trở về với hiện thực, trở về với cái nghèo, với nỗi lo về sự không chấp thuận của mẹ. Nhưng, lo lắng là thế nhưng cái niềm hạnh phúc trong anh nào có biến mất, mà ngược lại, nó vẫn ở đó, vẹn nguyên như lúc ban đầu. Niềm vui của anh cũng đã làm cho cả căn nhà vẫn im đìm là vậy mà bỗng nhiên sáng bừng sức sống. Bởi từ đây, Tràng đã nhận ra rằng: sau những ngày dài làm lụng vất vả sẽ vẫn luôn có người chờ đợi mình ở nhà, giờ đây, mọi niềm vui, nỗi buồn của anh đều sẽ có một người bạn để san sẻ, yêu thương. Nhà văn đâu chỉ cho Tràng được thay đổi, mà ngược lại, qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi, tưởng chừng như trêu đùa đã khiến hai con người ấy nên duyên vợ chồng. Thị chỉ là một người cong cớn, chỏng lỏn, chỉ biết quan tâm đến miếng ăn mà giờ đây lại trở thành vợ của người ta, chóng vánh là thế. Ấy vậy mà khi về đến nhà Tràng, khi đã trở thành dâu nhà người ta, thì thị lại trở nên nhẹ nhàng và e lệ là thế. Đọc đến đây, ắt hẳn nhà văn muốn người đọc phải tự hỏi: Cái chỏng lỏn, cong cớn kia đâu mất rồi? để giờ đây, đến chính người đọc còn thấy người vợ Tràng mới mang về lại là một người đàn bà hiền lành, đầy ý tứ và rất lễ phép với mẹ Tràng – bà cụ Tứ khi mới nói: “U đã về đấy ạ!” – Chỉ bằng một lời nói, một hành động, nhà văn đã khiến người đọc hiểu rằng người đàn bà ấy đã trở thành một người con dâu thực sự, biết lắng nghe những sự khuyên dạy của mẹ chồng. Nếu tưởng như đã người vợ ấy chỉ “làm bộ” như vậy thì đến sáng hôm sau, mọi thứ như một câu trả lời thích đáng nhất. Mới sáng sớm, nàng dâu mới đã tất bật dọn dẹp, sắp xếp lại gia đình – đó chỉ là những thay đổi tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng thấm thía đối với cả Tràng và bà cụ Tứ. Và cứ như thế, cuộc sống gia đình, niềm hạnh phúc cũng đã làm thay đổi thị, thay đổi tính cách và cả số phận của thị nữa. Kim Lân đã cố tình đặt nhân vật người vợ vào tình huống éo le như vậy để có thể nhấn mạnh rằng: “ Cái đó có lúc sẽ làm cho con người ta trở nên hèn mọn, yếu kém, nhưng đôi khi nó sẽ không làm lu mờ hay khiến con người ta trở nên vô nhân cách mà sau cùng thì con người vẫn luôn quay trở lại với những gì vốn có của riêng mình”. Trong nội dung của cốt truyện ấy, nhà văn còn khéo léo đưa diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Khi bà cụ Tứ mới về nhà, bà thấy một người đàn bà trẻ đang ngồi trong nhà cùng con trai của mình. Hàng loạt những câu hỏi dường như ùa về trong bà: “Người đàn bà đó là ai?, Sao lại chào mình bằng u?,…” Để rồi sau tất cả đó, là một tiếng “À”. Bà đã hiểu ra tất cả, bà lặng im không nói. Sự không không nói gì của bà, không phải là sự không đồng ý mà ngược lại bà lại thấy xót xa cho số phận của Tràng và người con dâu mới của mình. Rồi bà lạo tự trách mình, bà trách mình vì nghèo quá, mà không có đủ tiền để làm cho con mình một cái đám cưới, bà tự trách mình đã không thể làm tròn được bổn phận của mình. Nhưng dù gì thì bây giờ bà cũng chỉ biết vui thay cho niềm hạnh phúc của hai con mình. Cảm động biết bao khi kết thúc câu chuyện bằng hình ảnh nồi cháo cám – đó là món ngon từ tinh thần chứ không phải là về vật chất. Cái đắng, cái chát của cháo cám đã được tình yêu thương của bà cụ Tứ lấp đầy. Nhưng ẩn trong nụ cười của bà cụ Tứ ấy luôn ẩn chứa một nỗi lo: Bà lo cho cuộc sống trước mắt của hai đứa con của mình, làm sao để có thể sống cho qua những ngày tháng mà cái đói, cái nghèo luôn cứ đeo bám cuộc sống của gia đình bà. Phải chăng cái đắng chat và nghẹn bứ của nồi cháo cám cứ thế mà quẩn quanh trong cuộc sống của gia đình bà và ngay cả đối với những người dân sống trong xóm ngụ cư?”. Chỉ bằng một tình huống Tràng nhặt được vợ mà dường như đã làm nổi bật lên cái nhân đạo của nhà văn. Nó không chỉ giúp xóm ngụ cư ấy xóa tan đi cảnh thê lương, ảm đạm vốn có mà còn giúp cho nhân vật “nên người”. Giúp cho Tràng hiểu được lẽ sống, nhìn thấy được lá cờ đỏ sao vàng như chiếu rọi vào tim. Và cho đến cùng, chỉ là hình ảnh chiếc lá cờ tung bay đã làm Tràng mập mờ hiểu được rõ con đường mà mình sẽ chọn, sẽ hướng tới: đó là theo Cách Mạng. Và chỉ có Cách mạng mới có thể giúp cuộc sống của những người dân như Tràng, như những người dân nơi xóm ngụ cư này mới bớt cơ cực và có thể tìm lại ánh sáng. Thành công của nhà văn Kim Lân là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý tinh tế của con người. Họ nghèo ấy, họ khổ như thế ấy nhưng họ lại biết vươn lên trong mọi hoàn cảnh để biết yêu thương nhau, để biết khao khát hạnh phúc và để có thể tin tưởng vào tương lai. Chính nhà văn Kim Lân đã làm nên cái hồn của câu chuyện, để có thể tạo nên giá trị sâu sắc và cảm động cho tác phẩm Vợ nhặt này.
Phân tích tình huống độc đáo của truyện Vợ nhặt
2,449
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng của dân tôc, là danh nhân văn hóa của thế giới. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố và oan ức nhưng ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị đồ sộ cho đời sau kể cả về chữ nôm và chữ hán. Trong đó “bình ngô đại cáo” là một trong những tác phẩm kiệt xuất của ông. Bình ngô đại cáo là một khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Hơn thế nữa, tác phẩm này đã trở thành một áng thiên cổ hùng văn bất hủ đời đời, là một bản tuyên ngôn độc lập đanh thép ,hùng hồn về nền độc lập của dân tộc ta. Điểm cốt lõi của tác phẩm được thể hiện cả hai tư cách đó là “nhân nghĩa” mà nhân dân ta ca ngợi mãi cho đến về sau. Mở đầu cho tác phẩm thì Nguyễn Trãi đã nêu lê một nguyên li nhân nghĩa đó là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Tư tưởng nhân nghĩa đó xuyên suốt cả bài thơ, dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi chống giặc ngoại xâm mang lại sự bình yên,ấm no và hạnh phúc cho muôn dân. Nhân nghĩa là tinh thần chính nghĩa của nhân dân mang lại bản sắc riêng của dân tộc. Nhân nghĩa ở đây chính là để trừ bạo cho dân, nó được biểu hiện bằng những việc làm cụ thể hơn. Đó là chống quân xâm lược để giữ vững bờ cõi ,tiêu diệt các cuộc phản nghịch chống lại triều đình.“quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã xem việc an dân là mục tiêu của nhân nghĩa , đó là trừ bọn cướp nước . Dùng nhân nghĩa để đối xử với những bọn bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng là việc làm nhân nghĩa Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc tới đó là lòng thương dân , tin tưởng và biết ơn nhân dân. Dan chúng luôn được ông nhắc tới trong chiến tranh và trong thời bình . Nhân dân sản xuất ra của cải vật chất ,sống gần dân thương dân và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nhân dân trước tiên. Chính vì vậy mà chúng ta thấy được rõ ngay từ đầu bài cáo chúng ta thấy nhắc được tới nhân dân đầu tiên. Trong suốt cuộc đời của sống sống gần dân và ở ngay cạnh dân cho nên ông hiểu được mong muốn của nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa đó còn là sự bao dung đối với kẻ thù. Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thê hiện ở trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Có thể nói rằng chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược đã chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng nhân nghĩa đó còn được thể hiện ở sự khoan dung cho kẻ thù khi chúng bại trận. Nó thể hiện được đức hiếu sinh của dân tộc ta cũng như tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi khi đối phó với địch trong cuộc khởi nghĩa. Chúng ta đánh giặc bằng ý chí sức mạnh và sự căm thù nhưng khi chúng bại trận đầu rơi máu chảy thì chúng ta có sự khoan dung. Ta chiến đấu cũng chỉ để lấy lại lãnh thổ, lấy lại sự bình yên cho muôn dân, đó chính là mục tiêu cuối cùng. Những việc làm của dân tộc ta đối với kẻ thù làm cho nước họ phải tôn trọng, biết ơn. Và chính việc làm này cũng khiến cho quân minh e dè không dám quay đầu lại xâm lược nước ta nữa. “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đây thật sự là một tư tưởng lớn cho con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống vang mãi cho tới muôn đời sau. Ta cũng có thể hiểu được tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp ích cho nhân dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm người hiền tài càng nhiều thì lúc đấy xã tắc mới hưng thịnh được ,nhân dân mới ấm no hạnh phúc. Qua tác phẩm bình ngô đại cáo cho chúng ta thấy rằng tư tưởng nhân đạo, là một minh chứng cho cuộc chiến thắng hùng hồn của nhân dân ta. Tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo không chỉ là có ý nghĩa to lớn mà còn có tầm ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình chính trị của đất nước ở thời đại sau. Lí tưởng nhân nghĩa này luôn trường tồn mãi mãi với dân tộc ta cho đến tận bây giờ.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
835
Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu nước, thi ca đã thực sự hun đúc nên tượng đại của những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành hình tượng đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ “Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ. "Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 19471947, giữa những ngày đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Bài thơ được viết ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây) cuối năm 1948, lúc Quang Dũng rời xa đơn vị chưa lâu, Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi lại là Tây Tiến. Qua nỗi nhớ cảnh vật và con người Tây Tiến, bài thơ bày tỏ niềm ngưỡng mộ những người lính trong kháng chiến chống Pháp và ngợi ca một thời gian khổ mà anh hùng trong lịch sử dân tộc. Nỗi nhớ ấy xuyên suốt cả ba đoạn và bốn câu kết thúc của bài thơ. Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện sự thể hiện nỗi nhớ của mình về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây Tiến: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết như thế , nó như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm thời xưa. Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa,ngân mãi trong đêm :” ơi,vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính tây tiến trút hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. “ Đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể là đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu, nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân tây tiến hay chính là những hơi sương trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ… những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó,những hình ảnh hun hút , đầu súng của những người lính đang đùa giỡn vấy mây trời. Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn quân, mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển khơi… Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”… làm hiện lên cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường hành quân. Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, nhấn mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ “súng ngửi trời” gợi lên độ cao chóng mặt. Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất tương phản của các động từ "lên – xuống"trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ của của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở. Trong cả câu thơ đặc biệt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ. Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Dòng thơ mở ra một khoảng không gian bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa, Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ "nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng "nhà" mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng, suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, ở những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông… rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kì vĩ, bí mật của rừng thiêng, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao xuyến lòng người xa quê. Chúng cho biết không chỉ miền đất mà người lính đã đi qua mà khi “vừa mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối” (Trần Lê Văn). Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng: "Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" "Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng "thác", "thét" mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch", "cọp" cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. "Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hoàn, miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là "chiều chiều – đêm đêm" – sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng của heo hút mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến. Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây, ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi " Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện tòan bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua những nắng mưa, sương gió miền Tây . . . Hai câu thơ tựa nhưa một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt mỏi,gục lên ba lô và ngủ,bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bị nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm , “ bỏ quên đời” những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu. Ở đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, có một đời sống tinh thần cũng vô cùng vui vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với cô gái Viên Chăn xinh đẹp kiều diễm với tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng mà cũng hồn. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ “Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn) . Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ . “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr­ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phư­ơng xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư­ời lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ . Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp. Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:mang, huyền ảo: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một không gian bảng lảng khói s­ương như­ trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là ''Người đi Châu Mộc chiều sương ấy''. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ ''ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng! Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư­ời thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Băc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: ''Có nhớ dáng người trên độc mộc''. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông , vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà… Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng không bị ''dồi lên dập xuống'' mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa''. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc. Với những nét kiên cường dù cho sự khắc nghiệt làm cho ý chí và lòng quyết tâm của chiến sĩ không hề bị phôi phai, những đoàn binh phải chịu đựng hàng trăm những gian nan và nguy hiểm đó đã tác động xấu đến thân thể của người lính, nhưng nó không làm phôi phai đi tinh thần của người chiến sĩ Tây Tiến. “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu diễm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng tráng ướt mồ hôi" Căn bệnh đáng sợ khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc được Quang Dũng khai thác hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hi vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia..Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ.. Đó chính là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của những người được những người khác tôn trọng và biết ơn.Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu che thân. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ. “Tây tiến” được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ thuật. Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng,nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú. Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách ; ( trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo ( nhớ chơi vơi , Mai Châu mùa em…), tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm.. Ba chùm bài thơ là giọng điệu khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng… Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian khổ , thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng… Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc. Cũng từ đó mà toát lên chất lãng mạn bi tráng là vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ Quang Dũng Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu,giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng: “Tây Tiến biên cương mờ khói lửa Quân đi lớp lớp động cây rừng Và con người ấy, bài thơ ấy Vẫn sống muôn đời cùng núi sông”
Phân tích vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến
4,069
Đã từ lâu, chiều muộn luôn là khởi nguồn cho cảm hứng thi ca của nhiều thi sĩ. Trong đó không thể không nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh – dưới tư cách là một nhà thơ – với một phong cách “thơ chiều” hoàn toàn khác biệt! Có thể thấy, ngay từ tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), Người đã không ít lần rung động trước vẻ đẹp gợi cảm của cảnh chiều buông để rồi cho ra đời những áng thơ bất hủ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng hôn”… Song phải kể đến trước tiên có lẽ là “Mộ” (Chiều tối) – bài thơ được sáng tác trong thời gian bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942. Đây thực sự là một áng thơ tuyệt bút bởi nó không chỉ đẹp ở ý thơ mà còn đẹp trong tài hoa và nhân cách sáng ngời của Hồ Chủ tịch: “Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng. Dịch nghĩa: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng. (Nam Trân dịch) Ngay ở nhan đề của bài thơ đã toát lên nội dung chủ đạo chính là cảnh chiều tối, tuy nhiên, nếu để ý, ta dễ dàng thấy được trong bài thơ không hề có một chữ “chiều” nào. Ấy vậy mà cảnh chiều vẫn được Bác khắc họa một cách rõ nét, đẹp và đầy gợi cảm trong tâm trí người đọc. Bằng lối viết thi trung hữu họa mang phong vị cổ thi cùng những thi liệu gần gũi, thi sĩ giờ đây trở thành họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước giữa cảnh chiều tối: cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) tìm về chốn rừng sâu (quy lâm) sau một ngày kiếm ăn vất vả; những chòm mây đơn độc, lẻ loi (cô vân) chầm chậm (mạn mạn) trôi giữa bầu trời vô tận (độ thiên không). Chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ, tác giả đã khéo léo đưa hình ảnh “cánh chim” và “chòm mây” – những hình ảnh quen thuộc trong thơ chiều xưa và nay – vào bài thơ như một sự ẩn dụ không chỉ mang tính chất không gian mà còn có ý nghĩa thời gian. Tất cả tạo nên một phông lớn làm nền cho cảnh chiều. “Cánh chim” vốn là hình ảnh không mấy xa lạ với thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi khi nhìn thấy cánh chim bay về rừng lại làm người ta liên tưởng về một buổi chiều muộn nhiều hơn. Chất ước lệ càng được nâng cao khi các nhóm từ “Phi yến thu lâm”, “Quyện điểu quy lâm” thường được sử dụng trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, đại thi hào Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh chút chuyển động của cánh chim: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Hay trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi”. Hoặc với Huy Cận, bóng chiều như đang sà xuống cùng cánh chim đang nghiêng dần về phía cuối trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bong chiều sa”… Dường như với thi nhân, cảnh chiều “không thể hoàn thiện” nếu thiếu cánh chim. Nhưng qua đây ta cũng thấy được một điều: thơ văn xưa nhắc đến “cánh chim” thường chỉ như một chi tiết nghệ thuật thuần túy để gợi tả cảnh chiều cũng như gợi cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa: “Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch Hay: “Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên Cánh chim “phi tuyệt”, “phi tận” trong thơ Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên khiến ta có cảm giác tất cả như đang rơi vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, mang một ý niệm siêu hình. Đó dường như đã trở thành “lối mòn”, một cấu trúc không thể thay thế trong thơ văn cổ. Nhưng vượt qua rào cản ấy, Bác đã đưa cánh chim của chính mình ra khỏi thế giới siêu hình để trở về với thực tại: “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ” Dịch: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Không còn mang tính quan sát từ trạng thái bên ngoài (hoạt động “bay”), cánh chim trong thơ Bác là sự cảm nhận trạng thái từ bên trong, một sự cảm nhận của con người hiện đại dựa trên ý thức sâu sắc của cái “tôi” cá nhân trước ngoại cảnh (cánh chim bay). Câu thơ cho ta thấy sự tương đồng, gần gũi, hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật, thiên nhiên: Suốt một ngày rong ruổi khắp nơi kiếm ăn cánh chim đã mỏi đang bay về tổ ấm để nghỉ ngơi, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước đường trường và cũng đang khao khát tìm được một nơi để dừng chân nghỉ tạm. Chính sự đồng điệu đến tuyệt vời của người tù với cánh chim đã làm nên hình tượng mới mẻ của thi ca – “quyện điểu”. Cánh chim giờ đây đã thực sự có phương hướng, điểm dừng cũng như mục đích bay rõ ràng. Từ đây, ta nhận thấy cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống của Bác. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương cuộc sống, cảm quan của Bác cũng chính là cảm quan nhân đạo. Cũng mang phong cách Đường thi nhưng câu thơ thứ hai của bài thơ lại gợi chút cảm giác cô đơn, quạnh quẽ bởi hình ảnh của “cô vân”. Tuy nhiên, bản dịch dù đã dịch khá hay và uyển chuyển vẫn bỏ sót chữ “cô” và không thể hiện hết ý nghĩa của từ “mạn mạn” do vậy làm mất đi ý thơ vốn rất sâu sắc của nguyên tác. Trong thơ xưa, chòm mây thường gợi lên vẻ cô độc, thanh cao, phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không: “Cô vân độc khứ nhàn” (Lí Bạch). Còn với “Chiều tối”, chòm mây không chỉ đơn thuần là “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” mà cũng là một chòm mây lẻ loi, cô độc, chầm chậm trôi giữa bầu trời. Câu thơ làm ta nhớ tới những áng mây trong thơ Thôi Hiệu: “Bạch vân thiên tải không du du” (Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay – Tản Đà dịch), áng mây trắng mang hơi hướng của sự vĩnh hằng trong khi “chòm mây trôi nhẹ” làm sống dậy bao nỗi khắc khoải, mong chờ. Nhưng trên hết, chính hình ảnh “cô vân” đã tạo nên chiều cao, chiều sâu của bức tranh ngoại cảnh. Núi rừng Quảng Tây trong chiều thu như hiện ra trước mắt người đọc với bầu trời cao rộng, trong trẻo, êm ả. Chòm mây lẻ loi giữa bầu trời bao la, rộng lớn, trải dài đến vô tận càng khiến cho cảm giác trống trải, cô đơn được nhân đôi. Vì sự cô đơn ấy không chỉ của chòm mây lẻ bóng, mà còn là tâm trạng của người đang ngắm nó. Chỉ với những hình ảnh thơ rất đỗi quen thuộc, người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh đã vượt qua khuôn khổ thường tình của thi ca cổ điển để khắc họa bức tranh chiều trên đất khách quê người. Nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống vô hạn của Người. Nhưng phảng phất đâu đó trong hai câu thơ là một nỗi buồn thấm thía. Cánh chim bay tìm đường về tổ như một sự nhắc nhở nhẹ nhàng về giấc mơ đoàn viên. Người tù đang phải chịu cảnh tù đày nên ắt hẳn luôn hướng về quê hương, gia đình, nhìn thấy cánh chim phía cuối trời, cái mong ước nhỏ nhoi ấy lại càng trào dâng, mãnh liệt khiến ai dù không mấy mặn nồng với quê hương cũng phải đau đớn, huống hồ Bác là một người yêu nước tha thiết. Thêm vào đó, bóng mây chầm chậm trôi về phía trời xa gợi niềm xót xa cho thân phận nổi nênh, lênh đênh, trôi dạt giữa nơi đất khách càng làm cho khát vọng tự do được bay như chim, trôi như mây giữa trời của người tù trở nên mạnh mẽ, dứt khoát hơn bao giờ hết. Bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh đã thực sự hoàn làm một. Cũng từ đây ta thấy được vẻ đẹp sáng ngời trong nhân cách HCM – đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người. Không dừng lại ở việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, Bác bắt đầu đi vào xây dựng hình tượng trung tâm cho bức tranh. Bút pháp cổ điển giờ đây được thay thế bằng những hình ảnh mang phong cách hiện đại. Bức tranh không còn đơn điệu mà như được thổi hồn bởi sự xuất hiện của con người – cô gái xay ngô – và bếp lửa hồng. Khung cảnh thiên nhiên nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của con người. Đó là một luồng gió mới làm thay đổi toàn bộ “cục diện” của bức tranh: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.” Giữa rừng núi hoang sơ, hẻo lánh, trong lúc nỗi buồn thầm kín đang bủa vây lấy tâm trí thì đập vào mắt người tù là hình ảnh “cô em xóm núi” đang “xay ngô tối” cắt ngang mọi dòng suy nghĩ lẫn cảm xúc. Khi niềm hy vọng trong việc tìm kiếm điểm dừng chân sau một ngày đi đường mệt mỏi đang dần vụt tắt thì “xóm nùi” hiện ra trước mắt người tù, hệt như một giấc mơ, khiến bao mệt mỏi, lo toan dường như biến mất. Cái vẻ bình yên của xóm núi càng khiến lòng người thêm ấm áp bởi sự hiện diện của người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ trong tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều, tạo nên sự tươi vui, khỏe khoắn cho cả bài thơ. Đáng chú ý là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với người thiếu nữ trong cổ thi. Nhiều thi nhân xưa thường ví người thiếu nữ như “Liễu yếu đào tơ”, sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ cần biết “cầm, kì, thi, họa” là đủ: “Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.” (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du) Trong khi người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Bên cạnh đó, cùng đề cập đến con người nhưng trong thơ xưa, con người xuất hiện mà thiếu hẳn sức sống, dường như chỉ để tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời, thiên nhiên, mang một nỗi niềm hoài cổ, sầu muộn: “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên song chợ mấy nhà” (“Qua Đèo Ngang” – Bà Huyện Thanh Quan) Nhưng “Chiều tối” với sự có mặt của cô gái xay ngô thực sự đã đem lại hơi ấm, hạnh phúc cho không chỉ người tù đơn độc mà còn cho cả người đọc trước cái không khí âm u, heo hút của núi rừng. Phải chăng vẻ đẹp lung linh của bức tranh là do sự khỏe khoắn ấy tạo nên?!? Ở nguyên tác, Bác không cần dùng đến chữ “tối” như bản dịch nhưng vẫn cho ta thấy được sự vận động không ngừng của thời gian: từ chiều tà đến chiều tối. Đó chính là nhờ sự hiện diện của hình ảnh lò than hồng. Bởi phải vào thời điểm như thế người ta mới thấy hết sự rực hồng của than trong lò, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “tối” nhưng ý nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Hình ảnh lò than rực hồng trong đêm tối không chỉ làm nổi bật thêm tư thế xay ngô của cô gái mà hơn hết, ánh than hồng đã xua tan đi bóng tối đang dần bao trùm lấy vạn vật mà theo nhà thơ Hoàng Trung Thông – “Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác”- NXB Tác phẩm mới 1977, trang 231 đã nhận xét thì: “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “ hồng” trong nghệ thuật thơ Đường, người ta gọi là “thi nhãn” (con mắt thơ) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa…” Cũng vì thế mà hình ảnh lò than hồng có một sức lôi cuốn đặc biệt đối với mỗi người. Thoát khỏi văn phong cổ điển, hai câu thơ cuối mang nhiều chất “bạch thoại”, mộc mạc, đời thường và điều đó thể hiện rõ ở chữ “bao túc” xuất hiện đến hai lần. Cô gái miệt mài xay ngô mà không hề để ý đến thời gian. Cứ hết túi ngô này (ma bao túc) rồi lại đến túi ngô khác (bao túc ma) để rồi đến khi cô xay ngô xong (bao túc ma hoàn) thì mới nhận ra “lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng). Qua hình ảnh trẻ trung mà bình dị, hiện đại ta thấy được niềm xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ trước nỗi vất vả, khó khăn của cuộc sống con người lao động. Sự lặp đi lặp lại của công việc xay ngô như một vòng quay nặng nề, luẩn quẩn của con tạo. Tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù họ không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt cũng theo đó mà chân thành hơn bao giờ hết. Song trên một phương diện nào đó, câu thơ một lần nữa khơi gợi lại cảm giác về sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Đó như một cách nhấn mạnh nỗi lòng thườn trực trong trái tim Bác. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người . Nhưng dù là ý nghĩa nào chăng nữa thì cũng đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất, nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía: “Chỉ biết quên mình cho hết thảy” hay: “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Chúng ta nhận ra “Chiều tối” mang những vần thơ quên mình vĩ đại. Dẫu đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng Bác vẫn có thể rung động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của cảnh vật, con người bình thường khác mà Người tình cờ bắt gặp trên đường đày ải. Bị trói, bị tù đày, bị giải đi ” Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày” nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than vãn. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh. Trên phương diện văn học, “Chiều tối” vẫn luôn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của bài thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Đây là một tác phẩm có thể nói là đẹp về nhiều mặt và thực sự là một bông hoa sáng ngời trong thế giới thơ HCM. Mang phong cách cổ điển kết hợp với “hơi thở hiện đại”, bài thơ là bức chân dung tự họa, phản ánh con người tinh thần và nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Bác. Như những “vầng sáng” của lò than hồng trong câu thơ cuối, bài thơ thực sự trở thành một luồng sáng khai nguồn cho một phong cách thi ca hiện đại trữ tình, hoàn toàn mới mẻ, thoát ly với văn phong cổ điển. Và hơn cả, bài thơ là một điển hình mang dáng dấp nhân cách HCM bởi sự gởi gắm tất cả tâm tư, tình cảm của Bác trong “sâu thẳm” nó. Đó cũng chính là những yếu tố làm nên vẻ đẹp có “một không hai” của bài thơ.
Phân tích vẻ đẹp trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh
3,028
Đọc bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chúng ta có cảm giác như đang được chứng kiến tận mắt bức tranh thiên nhiên hùng vĩ vậy.Đặc biệt là đoạn thơ thứ hai, đó là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ hai này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng: “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” “Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh. “Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn. “ Kìa em xiêm áo tự bao giờ “ “Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc. “ Khèn lên man điệu nàng e ấp.” Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “mang điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh. Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo: “ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.’’ Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: ‘’ Có nhớ dáng người trên độc mộc ‘’ Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người. ở đây cảnh như làm duyên với người. '’ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa ‘’ Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến
1,069
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều Những vần thơ của Tố Hữu đã gợi ta nhớ tới Nguyễn Du- đại thi hào dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn cùng kiệt tác “Truyện Kiều”. Thi phẩm hàm chứa bao giá trị hiện thực và nhân đạo khi viết về cuộc đời và số phận của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn trong xã hội phong kiến xưa. Trong tập đại thành, nghệ thuật đã đạt đến đỉnh cao không chỉ có ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh cùng các biện pháp tu từ mà còn hấp dẫn người đọc bởi những khúc đoạn miêu tả tâm trạng Kiều. Mở đầu cho chuỗi bi kịch nội tâm trong cuộc đời Kiều là khi nàng phải tự tay trao duyên cho em gái được thể hiện trong đoạn trích “ Trao duyên”. “Truyện Kiều” là một bức tranh hiện thực xã hội phong kiến suy tàn không cưỡng lại được của bánh xe lịch sử. Kéo theo đó là sự tha hóa của bản chất con người, đồng tiền trở thành thế lực vạn năng đẩy con người lương thiện vào bức đường cùng. Gia đình Vương viên ngoại cũng không tránh khỏi tai vạ. Gia đình Kiều bị vu oan, phận làm con nên Kiều đã phải bán mình. Trước ngày đi, Kiều đã sắp xếp xong mọi việc, chỉ còn nỗi vướng bận duy nhất là mối tình dang dở với chàng Kim. Vào một đêm nọ, Kiều đã quyết định gọi Vân, kể rõ sự tình và trao tơ hồng giữa mình và Kim Trọng cho em. Đoạn trích “Trao duyên” kể về sự việc này đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi đã nhìn ra và tôn vinh vẻ đẹp và phẩm chất của Kiều trong lúc này. Vẫn biết trao duyên là khó khăn nhưng Kiều đắn đo trước sau, băn khoăn ngập ngừng mãi nhưng vẫn thốt ra câu khiến người đọc cũng mủi lòng: Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Kiều “cậy” với tất cả sự tin tưởng, khẩn khoản, tha thiết mong em sẽ giúp chứ không đơn giản là nhờ. Vì vậy nên Kiều cũng mong em “chịu lời” chứ không phải “nhận lời” bình thường. “Chịu lời” dường như Kiều có ý nài ép em phải nhận vì không nhận không được. Việc hẳn rất khó khăn và hệ trọng Kiều mới nói như vậy. Sau đó là một chuỗi hành động trang trọng, nàng “lạy” rồi “thưa” với em mình. Đối với nàng, sự nhận lời của Thúy Vân sẽ là một hành động hi sinh đáng kính và đó sẽ là cái ơn mà nàng phải lạy tạ ân nhân. Cách xưng hô rồi hành động thiêng liêng như muốn Vân chuẩn bị tâm lý mà nàng chuẩn bị nói, đó là trao duyên. Nàng đang nhúng nhường, cầu xin người ta nhận lấy người mà nàng yêu nhất, hạnh phúc mà nàng muốn có nhất. Hành động đó không phải vì nàng mà vì người nàng yêu là chàng Kim. Trong cái cử chỉ tội nghiệp kia, ta thấy tất cả sự cao khiết của một tấm lòng, một phẩm cách con người luôn hi sinh vì người khác. Trong nước mắt, Kiều đã giãi bày tâm sự, vừa kể vừa để thuyết phục em bằng cả lý và tình: Giữa đường đứt gành tương tư Keo loan chắp mối tờ thừa mặc em Tình yêu vốn là một gánh tương tư. Mối tình giữa Kim Kiều đang say đắm, nồng nàn nhất thì cơn gia biến lại ập đến, gánh tương tư này Kiều đã không đủ sức theo mang theo. Nàng đành phải đau đớn trao đi mối tình đẹp. Nhưng nàng không thể trao cho bất kì ai mà nhất định phải là em mình vì nàng coi trọng mối tình này và muốn thể hiện tấm chân tình với chàng Kim. Trao duyên cho em, Kiều hiểu rõ hơn ai nỗi khó của Vân khi phải nhận việc này. Kiều dùng điển tích “keo loan” mong em có thể hiểu cho sự bất lực trong tình duyên của chính mình. Vì đã từng yêu thương, nên Kiều lại càng xót xa khi Vân phải nhận “mối tơ thừa” này và kết hôn với một người mình không yêu. Nhưng Kiều cũng không làm được gì, cũng đành “mặc em”. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều đã không chỉ trao đi duyên mà còn trao cả nỗi đau cho em gái mình. Bế tắc khi không thể đến với chàng Kim, nàng giải thích em về lần trao duyên này còn vì lời ước nguyền năm xưa giữa hai người: Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày hẹn ước, khi đêm chén thề Kiều kể cho em nghe về quá khứ ngọt ngào, sống động “ngày quạt ước-đêm chén thề” của đôi uyên ương đã từng hẹn ước với nhau, điệp ba lần từ “khi” như những kỉ niệm, tình cảm sâu đậm khó có thể phai mờ. Những kí ức vốn dĩ rất ngọt ngào, giờ đây nhớ lại trở thành một nỗi dắng cay khi cố gắng chạm đến hạnh phúc nhưng không được. Nó lớn dần khi Kiều nghĩ tới nguyên nhân của nỗi đau: Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình vẹn lẽ khôn bề vẹn hai Từ “sự đâu” như lời oán trách số phận đã gây ra “sóng gió bất kì” làm cuộc đời nàng khốn khổ. Nhà có chuyện, phận làm con Kiều phải bán mình cứu cha. Đó là bổn phận nhưng Kiều có thực sự cam tâm khi làm vậy? Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại. Thật vô lý phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình mà đúng ra nó phải cùng tồn tại song song với nhau như điều thiêng liêng nhất trong con người. Câu hỏi tu từ “Hiếu tình vẹn lẽ khôn bề vẹn hai” vang lên trăm ngàn nuối tiếc, đắng cay mà nàng cố kim nén xin em, chữ hiếu chị đã nhận, em hãy giúp chị làm tròn chữ tình. Trong bi kịch mất tình yêu của chính mình, Kiều vẫn lo lắng, xót thương cho người khác, nàng đau đớn vì cố hi sinh hết thân mình mà Vân vẫn chịu khổ. Bởi vậy mà người ta mới thương Kiều, nhớ đến Kiều với hình bóng người con gái giàu đức hi sinh, nhạy cảm với nỗi đau của người khác. Cậy em bằng đủ các lý do thiêng liêng nhất, nhưng giờ phút hành động trao đi tín vật tình yêu, chính thức cắt đứt tơ tình lại khiến Kiều quyến luyến, mất mát vô cùng. Chiếc vành với bức tờ mây, Duyên này thì giữ, vật này của chung "Chiếc vành- Tờ mây" là vật thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng- Thúy Kiều. Có hai vật đó Kiều mới có thể đường hoàng bên chàng Kim đến “đầu bạc răng long”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Bởi vậy nên mỗi kỉ vật trao đi như từng mảnh tình yêu cuối cùng rời khỏi tay Kiều. Giọng điệu nghe ra bình thường như vẫn có tiếng nấc nghẹn ngào sau từng câu câu chữ. Trao đi “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết bằng hai chữ “của chung”. Tình yêu với Kiều là sự sống, là hơi thở nên đâu nói bỏ là dứt được. Nguyễn Du cuối cùng vẫn để kiều trở lại là người con gái yếu đuối nằm trong dòng xoáy tâm lí thường tình, khi mất đi thứ gì càng quan trọng với mình thì càng ý thức mạnh mẽ về giá trị thực của nó. Cho nên “của chung” mới vang lên trong Kiều với bao nhiêu giằng xé, mâu thuẫn . Dường như lý trí nàng đã quyết định dứt bỏ nhưng trái tim thì không thể tuân theo. Giống như kỉ vật đã trao nhưng vẫn níu kéo tình yêu, kỉ niệm cho riêng mình. Trước đây, khát vọng tình yêu vô bờ bến đã vẽ ra trong tưởng tượng của cô về tương lai ngập tràn màu hồng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời bể dâu với những “sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng do chính mình tạo ra khi nhìn vào phía trước vẫn hoàn hảo như vậy, chỉ thiếu bóng mình. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng là chàng Kim đã thuộc về người khác. Tương lai đã không có chỗ cho Kiều. Nàng cô độc, bơ vơ bên lề hạnh phúc. Nàng sẽ chẳng còn lại gì, thân “bạc mệnh” này chỉ mong chờ vào “chút của tin” cùng quá khứ xưa để được tưởng nhớ không bị lãng quên. Hiện tại vẫn còn đây “chút của tin”, nhưng đó chỉ còn là của “ngày xưa” , là vật gợi lại kí ức trong quá khứ của Kiều, còn mai sau sẽ là của Vân. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim Kiều. Lúc này, dường như nhớ về kỉ niệm tình yêu ấm áp “phím đàn với mảnh hương nguyền” kia lại càng khiến Kiều đau đớn hơn. Dấn thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, Kiều cảm thấy tương lai sống hay chết cũng không mấy khác biệt: Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so tơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin giọt nước cho người thác oan Lại thêm một lần nữa Kiều nói về cái chết của mình. Kiều lần đầu nhắc đến cái chết để cầu xin em nhận duyên như đang thực hiện di nguyện của chị mà đến sau này khi chết đi vẫn chỉ có một. Vân nhận lấy duyên của Kiều, nàng vẫn không hề thanh thản mà lại cảm thấy mình chết đi nhưng không thể siêu thoát được. Kiều đến cõi hư không mà vẫn chỉ là một mảnh hồn thác oan vất vương theo ngọn gió hiu hiu với tiếng tơ tình trên phím đàn, với mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Kiều đinh ninh mình sẽ là một hồn oan và tha thiết mong em sẽ đến rưới giọt nước cho người thác oan. Kiều chìm trong thế giới âm u của cõi chết hay sự ảm đạm trong chính tâm trạng mình. Xã hội xưa đã đày đọa con người ta đến đường cùng, cướp đi quyền yêu và hạnh phúc, khiến cho một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại bế tắc nghĩ đến cái chết. Nàng vùng vẫy vọng tuyệt vọng, muốn biết tại sao mình lại phải hy sinh thân mình, trao duyên, chịu đựng giằng xé vì một lỗi lầm không phải của ai cả. Sự không cam lòng ấy lại chẳng thể chia sẻ với ai, không ai thấu hiểu nên càng bế tắc. Cả cuộc đời, Kiều vẫn luôn sống trong sự trăn trở với những câu hỏi xem mình làm vậy có đúng hay không. Và ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy sự khốn khổ đó của con người trong xã hội cũ và để sự tự ý thức về cuộc đời, số phận, phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ rõ ràng, quyết liệt như thế. Nhà thơ đã lên tiếng che chở cho nhu cầu hạnh phúc cơ bản, vốn có của con người. Nếu những câu thơ đầu là lời Kiều thuyết phục em nhận duyên và sự đau đớn cho quyết định nghiệt ngã của mình thì 8ct cuối là tiếng khóc nghẹn ngào không kìm nén nổi cùng lời tạ từ Kiều gửi Kim Trọng. Nỗi đau mất tình yêu quá lớn đã khiến Kiều quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân, lúc này đối diện nàng chính là Kim Trọng. Bao nhiêu nhớ thương ấp ủ, lời tâm sự chua xót về số phận và tình yêu của mình nay bộc phát, trào dâng mạnh mẽ. Kiều khóc thương thân mình và dằn vặt khi nghĩ về sự đổ vỡ của tình yêu. Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Mối tình tan vỡ không còn hi vọng. Trâm đã gãy, gương đã tan, còn có điều gì để nối lại. Mà có nối lại thì vẫn sẽ còn mãi vết nối ấy cũng như tình cảm sẽ chẳng còn như xưa. Kiều ý thức rõ ràng bi kịch của mình là không gì cứu vãn nổi bởi mất mát vô hạn nàng gây ra đối với tình yêu của mình và Kim Trọng. Đáng lẽ ra nàng không nên nắm giữ tình yêu để khi không giữ nổi lại phụ lòng người khác. Đối với chàng Kim mà nói, tình cảm “kể làm sao xiết” chàng dành cho Kiều càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau chàng chịu sẽ lớn bấy nhiêu. Kiều nhận thấy điều này nên càng đau khổ hơn gấp nghìn lần. Nỗi đau biến thành hành động “lạy” tạ lỗi cũng là từ biệt. Trong lòng vẫn còn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn điều Kiều muốn nói với chàng nhưng tình duyên để dang dở lại cho em, lời thề nguyền hẹn ước cũng không thể giữ, nay tín vật cũng đã trao, nàng còn gì để nói ngoài hành động “trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Nàng cũng chỉ còn biết xót xa cho chính “tơ duyên ngắn ngủi” của mình. Bế tắc đỉnh điểm, nàng đã tự hỏi “Phận sao phận bạc như vôi”. Từ “phận” được lặp lại hai lần nhấn mạnh cho sự nhỏ bé của những con người bấy giờ. Thành ngữ “phận bạc như vôi” cho thấy sự bất hạnh, bạc bẽo trong cuộc đời Kiều. Cả câu mang theo sự uất ức không hiểu nổi tại sao mình phải trao duyên rồi chịu bất hạnh lúc này. Nhưng câu sau lại là sự đắng cay mà chấp nhận tuân theo số phận “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Bởi nàng biết rằng, dù có hàng trăm hàng nghìn câu hỏi nữa, hay bất kì sự chống đối nào lại số phận thì chỉ khiến cho mọi thứ khó khăn hơn giống như tình yêu của nàng mà thôi. Xã hội xưa đã đẩy con người vào sự ân hận và bất lực vì đã yêu chân thành mãnh liệt. Tình yêu, những điều chính đáng lại trở thành căn nguyên của bi kịch tinh thần Kiều. Nhưng trong nỗi đau đó, ta cảm nhận được một người con gái giàu đức hi sinh, ý thức được về tình yêu và cuộc sống mình. Giãi bày tâm sự, đau khổ, lo lắng, băn khoăn và cuối cùng là tiếng khóc xé lòng vang lên, Kiều chấp nhận buông tay, coi mình là kẻ phụ tình: Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Với nhịp thơ 3/3, Thúy Kiều đã gọi kim Trọng là ' kim lang' vởi trong sâu thẳm lòng Kiều Kim Trọng là phu quân. Điều đó thể hiện tình yêu Kiều với Kim Trọng rất sâu nặng. Nhưng do hoàn cảnh, Kiều đành phải phụ Kim Trọng, đành phải vứt bỏ mối tình đẹp của mình. Tiếng kêu xé lòng vang lên vọng cả trời đất. Vận dụng linh hoạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích điển cố nghệ thuật đặc sắc, mỗi câu thơ dường như đều thấm nỗi đau khi Kiều phải trao đi duyên tình sâu nặng đời mình. Diễn tả thành công nỗi đau của Kiều, khiến nó chạm đến trái tim bạn đọc, Nguyễn Du đã gửi gắm trái tim nhân hậu, niềm cảm thương xót đau cho kiếp đời bất hạnh qua từng trang viết. Đó cũng là lời cảnh tỉnh, tố cáo xã hội đồng tiền đã cướp đi quyền sống của con người. Có thể nói, người ta thích đọc “ Truyện Kiều” vì soi bóng nước mắt nàng Kiều, họ thấy bản thân mình. Và Nguyễn Du “nếu không có con mắt trông thấu vào sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có bút lực ấy”. Đoạn trích “ Trao duyên” mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của Kiều, mở đầu cho cuộc đời thứ hai với những sóng gió, trớ trêu, đau đớn, nhớ nhưng mà xã hội đương thời đẩy vào cuộc đời nàng, một thiếu nữ tài hoa, xinh đẹp. Đọc đoạn trích ta xót thương cho số phận bi ai của nàng để từ đó, ta hiểu được trách nhiệm của mình là phải chung tay xây dựng một xã hội thật bình đẳng, tươi đẹp hơn: Trải qua một cuộc bể dâu Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều
Phân tích đoạn trích Trao duyên của truyện kiều
2,988
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước và nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc. Văn thơ Hồ Chí Minh là một di sản vô giá, là một bộ phận gắn bó với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh vô cùng độc đáo và đa dạng. Đặc biệt là văn chính luận của người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận sắc sảo, chặt chẽ, bằng chứng giàu sức thuyết phục và đa dạng về bút pháp. Nói đến văn chính luận của Người, ta không thể không nhắc đến bản “Tuyên ngôn Độc lập” – một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, một áng văn chính luận mẫu mực. Phần đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập đặt ra cơ sở pháp lí và nêu lên những chân lí về nhân quyền và nhân quyền. Phần tiếp theo của bản Tuyên ngôn Độc lập đã nêu ra những tội ác của bọn thực dân và bác bỏ luận điệu xảo trá rằng: Pháp có công khai hóa và bảo hộ Việt Nam. Là kẻ thù trực tiếp nguy hiểm nhất của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ với dã tâm xâm chiếm nước ta lầ nữa, thực dân Pháp đã hùng hồn tuyên bố những luận điệu xảo trá: Pháp có công “mở mang”, “khai hóa” và “bảo hộ” Việt Nam. Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng vốn là thuộc địa của Pháp bị phát xít Nhật chiếm, nay Nhật đầu hàng đồng minh, Việt Nam đương nhiên thuộc Pháp. Pháp thuộc phe đồng minh nên có quyền quay lại Việt Nam để tước khí giới của quân đội Nhật. Trên nền tảng cơ sở pháp lí vững chắc đã khẳng định ở phần đầu, bước sang phần thứ hai của Tuyên ngôn Độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác bỏ luận điệu ản cướp của thực dân Pháp. Thực dân Pháp vỗ ngực tự hào vì có công khai hóa, bảo hộ Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập vạch trần luận điệu bịp bợm dối trá và hành động phản nhân đạo của bọn chúng. Hơn 80 năm qua, lợi dụng lá cờ bình đẳng, bác ái, thực dân Pháp đã cướp đất nước ta, áp bức đông bào ta. Đó là câu khẳng định đanh thép, hùng hồn. Tiếp đó, Tuyên ngôn Độc lập đã phân tích, chứng minh một các rõ ràng, chi tiết, tỉ mỉ tội ác của thực dân Pháp. Chúng thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay chém giết dân yêu nước, tắm cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong bể máu, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuộc phiện. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ nguyên liệu, chúng bóc lột dân ta đến sương tủy khiến dân ta nghèo nàn thiến thốn, xơ xác, tiêu điều. Thêm nữa, mùa thu năm 1940 thực dân Pháp mở của nước ta đón Nhật. Thế là chẳng những Pháp không bảo hộ nước ta mà trong 5 năm, chúng còn bán đất nước hai lần cho phát xít Nhật. Có thể nói biết bao tội ác dã man, tàn bạo chất chồng của thực dân Pháp đối với toàn thể dân tộc Việt Nam trong suốt hơn 80 năm qua đã được chủ tịch Hồ Chí Minh cô đúc lại với dung lượng chưa đầy một trang giấy mà vẫn đanh thép hùng hồn. Điều gì đã tạo nên sức mạnh tố cáo, ghê gớm đó? Chỉ có thể lí giải là tác giả “Tuyên ngôn Độc lập” đã sử dụng hiệu quả thao tác lập kuận phân tích chứng minh đã kết hợp linh hoạt các biện pháp sở trường trong văn chính luận. Trước hết, thủ pháp liệt kế được sử dụng rộng rãi khiến nhin đâu cũng thấy tội ác của thực dân Pháp, vùng miền nào cũng bị chúng tàn phá, tầng lớp nào cũng bị bóc lột tàn nhẫn, đẩy tới bước đường cùng. Một loại tội ác lại được chia tách thành từng nhóm, từng đoạn riêng. Thậm chí có những câu văn được tách riêng đứng độc lập một mình một đoạn. Cách diễn đạt như thế rất rõ ràng gây ấn tượng mạnh với người đọc. Tác giả còn đưa ra những mốc thời gian những số liệu cụ thể. Đó là những bằng chứng rành rành không thể chối cãi. Đặc biệt, điệp từ “chúng” được lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên điệp khúc nhức nhối. Mỗi chữ “chúng” mở đầu mỗi câu văn nặng như búa tạ giáng vào đầu bọn thực dân Pháp. Bên cạnh đó, chủ tịch Hồ Chí Minh còn sử dụng động từ mạnh giàu sức gợi hình: “thẳng tay chém giết”, “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”, “bóc lột nhân dân đến tận xương tủy”, “quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật”,… Qua từ ngữ đấy, hình ảnh thực dân Pháp hiện lên sống động. Pháp chẳng khác gì thú dữ chuyên ăn xương, đâm tủy dân ta nhưng vô cùng hèn hạ, đê tiện trước pháp xít Nhật. Năm 1925, tại thủ đô Pari, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo tội ác thực dân với thuộc địa. Vì thế hoàn toàn có thể coi đoạn văn trên của “Tuyên ngôn Độc lập” là bản án chế độ thực dân Pháp lần thứ ha, ở đó chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung kết tội thực dân Pháp đối với Việt Nam hơn 80 năm. Đây là bản án vô cùng đanh thép hùng hồn mà không một luật sư quốc tế nào có thể bào chữa, giảm tội cho thực dân Pháp được. Lời văn hừng hực ngọn lửa căm hờn, phấn uất. Ta thấy vang vọng đâu đây âm hưởng của áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Quần cuồng Minh và thực dân Pháp là hai kẻ thù thuộc hai thời đại khác nhau nhưng chung một tội ác trời không dung, đất không tha mà không một sử sách nào có thể ghi hết tội. Hướng đến kẻ thù căm hờn phẫn uất bao nhiêu, hướng đến nhân dân ta, đồng bào ta, ngòi bút của chủ tịch Hồ Chí Minh lại chan chứa niềm xót xa, thương cảm bấy nhiêu. Những hình ảnh “bóc lột dân ta đến tận sương tận tủy” khiến cho dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều cùng hàng loạt điệp từ “ta” lặp đi lặp lại khiến người đọc có cảm giác chủ tịch Hồ Chí Minh đang nhập thân để giãi bày nỗi thống khổ không riêng gì của nhân dân mà của chính người thân yêu của bản thân mình. Tiếp tục mạch tranh luận, “Tuyên ngôn Độc lập” bác bỏ luận điệu man trá của Pháp: Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp đương nhiên Pháp có quyền trờ lại Việt Nam. Để bác bỏ luận điệu này, “Tuyên ngôn Độc lập” đã đưa ra hàng loạt sự thật hiển nhiên “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.”. Điệp ngữ “ sự thật” láy đi láy lại đã đập tan toàn bộ luận điệu xảo trá của Pháp. Đó là sự thật thì không thể chối cãi. Vô cùng ngoan cố, thực dân Pháp lớn tiếng khẳng định Pháp thuộc phe đồng minh chống phát xít nên có quyền đại diện cho đồng bào Việt Nam tước khí giới quân đội Nhật. “Tuyên ngôn Độc lập” cũng đã bác bỏ luận điệu ăn cướp này của thực dân Pháp. Khi phát xít Nhật xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đồng minh, thực dân Pháp đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật. Khi Việt Minh kêu gọi Pháp liên minh chống Nhật. Với những chứng cớ như vậy, Pháp lại kẻ phản bội lại đồng minh làm gì có đủ tư cách đại diện cho đồng minh để trờ lại tước khí giới quân dội Nhật. Đến đây thì mọi luận điệu xảo trá và chiêu bài đen tối của thực dân Pháp đã bị vạch trần và đập tan hoàn toàn. Đoạn văn tố cáo tội ác thực dân Pháp là một điển hình mẫu mực về văn chương chính luận. Những dẫn chứng đưa ra đều có sự chọn lọc. Đặc biệt lời văn vừa súc tích vừa truyền cảm. Được viết bằng máu và nước huyết, “Tuyên ngôn Độc lập” là bản cáo trạng hùng hồn đanh thép hiếm thấy trong lịch sử đấu tranh dân tộc cũng như thế giới.
Phân tích đoạn văn tố cáo tội ác của thực dân Pháp trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh
1,539
I. Mục tiêu cần đạt: – Một lần nữa nắm lại khái niệm truyền thuyết. – Hiểu được nội dung, ý nghĩa của truyện, kể lại được truyện. – Giáo dục lòng tự hào về trí tuệ, văn hoá dân tộc. – Rèn luyện kỹ năng tìm hiểu ý nghĩa truyện, kỹ năng tự học. II.Tìm hiểu văn bản: 1. Tóm tắt. Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi. Các Lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những Lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy tế Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn làbánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam. 2. Hùng Vương và câu đố của nhà vua. – Triều đại của vua Hùng là triều đại thái bình thịnh trị. – Vua về già muốn nhường ngôi lại cho con. – Người nối ngôi vua phải làm “vừa ý vua” và nối được chí vua. 3. Cuộc thi tài giải đố. – Các Lang suy nghĩ theo kiểu thông thường, hạn hẹp cho rằng ai chẳng vui lòng với cỗ ngon, vật lạ không hiểu ý vua cha. – Lang Liêu được thần báo mộng thêm tài trí thông minh và lòng hiếu thảo đã dùng lúa gạo làm nên hai thứ bánh có ý nghĩa: + Bánh hình tròn tượng trưng cho trời gọi là bánh giầy. + Bánh hình vuông tượng trưng cho đất gọi là bánh chưng. – Lang Liêu được chọn nối ngôi vua vì chàng đã làm vừa ý vua và nối được chí vua. 4. Phong tục làm bánh chưng, bánh giầy: (ý nghĩa truyện) Nhằm giải thích nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy. Đề cao lao động, đề cao nghề nông, đề cao lòng hiếu thảo.
Soạn bài Bánh chưng bánh giầy
426
Mục tiêu cần đạt: – Hiểu được định nghĩa sơ lược về truyền thuyết. – Hiểu được nội dung, ý nghĩa truyện. – Chỉ ra và hiểu được ý nghĩa của các chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo của truyện. – Giáo dục tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc cho học sinh. Chú thích: Truyền thuyết: – Là loại truyện dân gian truyền miệng, kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ. – Thường có yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo. – Thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân. Đọc- hiểu văn bản: 1. Những chi tiết thể hiện tính chất lớn lao, kỳ lạ, đẹp đẽ của Lạc Long Quân và Âu Cơ: * Lạc Long Quân: Lạc Long Quân là vị thần vừa có tài vừa có đức, biết quan tâm đến mọi người, được nhân dân yêu mến, là người có công trong sự nghiệp mở nước. * Âu Cơ: Âu Cơ là người phụ nữ có dòng dõi cao quý, xinh đẹp tuyệt trần và có phong cách sống thanh cao, lịch lãm. 2. Việc sinh nở kỳ lạ và cuộc chia tay của LLQ và Âu Cơ: – Âu Cơ sinh ra một cái bọc trăm trứng nở ra trăm con, đàn con “không cần bú mớm mà vẫn lớn nhanh như thổi, sức khoẻ như thần” -> chi tiết hoang đường kỳ ảo. – Cuộc chia tay đầy ân tình, cảm động-> sự phát triển của cộng đồng dân tộc để mở mang đất nước. Theo truyện thì người VN chúng ta là con cháu của ai? ->Người VN là con Rồng cháu Tiên.
Soạn bài Con rồng cháu tiên
268
Vô cảm là trạng thái cảm xúc của con người . ĐÓ cũng là một căn bệnh đáng sợ, bởi ai mà mắc phải nó thì sẽ không hề có cảm xúc, sống cô độc một mình với xã hội. Con người càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh mình. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm. Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Còn nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú . Khi thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy? Trước hết là về cái đẹp, bây giờ ra ngoài đường, hiếm ai có thể bắt gặp một người đàn ông đạp xe ung dung dạo mát, thưởng ngoạn cái không khí trong lành, tươi mát dưới những hàng cây cổ thụ vàm bóng quanh bờ hồ; một người con gái dịu hiền, yêu kiều trong chiếc váy thanh thoát tản bộ trên những con đường hoa sấu, hoa sữa đầy mộng mơ mà hầu hết là những dòng người tấp nập, vội vã, chen lấn xô đẩy trên đường, xe buýt. Lúc ấy cũng chính là lúc mà con người ta mất một phần tâm hồn đẹp đẽ đã bị chôn vùi dưới lớp cát. Phải chăng cũng vì như thế mà họ càng lúc càng khép chặt cánh cửa trái tim mình lại, không còn biết hưởng thụ cái đẹp mà chỉ nghĩ đến tiền, đến công việc ngày mai? Vô cảm với cái đẹp mới chỉ là bước đầu thôi. Một khi người ta đã không biết ngưỡng mộ, không biết say mê, rung động trước những điều đẹp đẽ thì trái tim cũng dần chai sạn rồi đến đóng băng. Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Tuy họ nhìn thấy đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Thế rồi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Cuối cùng cô bé xấu số cũng đã được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người "không dại gì" và cũng chính "nhờ" những người "không dại gì" đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan. Vô cảm còn là con đường trực tiếp dẫn đến những cái xấu, cái ác. Nó là một căn bệnh lâm sàng mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động nhưng trái tim lại hoàn toàn băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu hiểu được nỗi đau, tình cảm của người khác, người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi ích của riêng mình mà thôi. Nếu không vô cảm, tại sao các cô giáo ở trường mầm non lại nhẫn tâm giật tóc, đánh đập, bịt miệng các cháu bé còn ngây thơ, nhỏ tuổi? Tại sao một người còn chưa qua tuổi trưởng thành lại vô tư chém giết cả nhà người ta để lấy của cải? Xa hơn nữa là các công chức bình thản ăn tiền ủng hộ, trợ giúp những số phận đau thương, bất hạnh của người dân để kiếm lợi cho riêng mình. Và còn nhiều, còn nhiều hành động xấu xa hơn nữa. Tất cả những điều vô lương tâm ấy đề xuất phát từ căn bệnh vô cảm mà ra. Chúng ta biết bệnh vô cảm vô cùng nguy hiểm nhưng lại đặt ra câu hỏi: Rốt cuộc thì nguyên nhân tại sao? Cuối cùng thì tình cảm là điều chi phối tất cả. Ai là người vô cảm là những người bị thiếu hụt tình yêu thương. Vì không cảm nhận được tình yêu thương mà người ta ngày càng lạnh giá. Thêm nữa là do xã hội hiện đại quá bận rộn và đòi hỏi con người phải làm việc, làm việc và làm việc mà bỏ quên thời gian để trao nhau hơi ấm của tình thương, để ươm mầm cảm xúc. Tình cảm như những hạt mưa, hạt mưa càng to, càng nặng thì càng dập tắt được những ngọn lửa của lòng thù hận, ghen ghét, bi ai và nó cũng như một ngọn lửa thổi bùng cháy mãnh liệt trong tâm hồn để nuôi dưỡng tiếp nguồn sống cho chúng ta. Chính vì vậy, điều duy nhất chúng ta có thể làm để cho căn bệnh cô cảm "không còn đất sống" là hãy biết mở cửa trái tim để biết cảm nhận, biết yêu ghét, thương giận và chia sẻ những điều tinh túy đó cho những người xung quanh mình.
Suy nghĩ của em về căn bệnh vô cảm
969
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao xưa – Bài làm 1 2 Suy nghĩ của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao xưa – Bài làm 2 3 Suy nghĩ của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao xưa – Bài làm 3 Suy nghĩ của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao xưa – Bài làm 1 Mỗi người chúng ta lớn lên trong những câu ca của mẹ của bà, được tắm táp trong những làn điệu dân ca mượt mà nhưng chất chứa cảm xúc của người xưa. Ca dao dân ca luôn là mạch nguồn tình cảm vô tận mà con người gửi gắm vào trong đó. Qua những lời mẹ hát, chúng ta cảm nhận được số phận của người phụ nữ với nhiều phẩm chất vừa đáng thương, vừa đáng quý. Có thể nói ca dao là nơi khơi nguồn tình cảm, làm cho cảm xúc trong trái tim trỗi dậy. Và người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở cho người sang tác. Dù ở thời đại nào thì người phụ nữ cũng đóng vai trò quan trọng. Nhưng ở thời đại phong kiến xưa, chế độ “trọng nam khinh nữ” còn ngự trị thì người phụ nữ bị coi rẻ, bị xã hội chèn ép, đè nén. Thân phận và cuộc đời của họ không thể kể hết trong mấy câu, mấy lời. Bởi nó đã được kể trong hàng nghìn câu ca dao, dân ca. Người xưa đã mượn những lời ca để vẽ lên một bức tranh nhiều màu sắc về phụ nữ Việt Nam thời đó. Hẳn rằng chúng ta đã bắt gặp những câu hát: Thân em như hạt mưa sa Hạt rơi xuống giếng hạt ra ruộng cày … Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai Chỉ với cụm từ « thân em » đã gợi nhắc đến sự cô độc, lẻ loi, không được coi trọng. Phận con gái mỏng manh, yếu đuối, không được nâng niu trân trọng. Xã hội coi rẻ người phụ nữ, coi họ như những món hàng, thích thì « mua « , không thích thì lại « bán ». Sự bạc bẽo đến tái tê lòng đó khiến cho người phụ nữ chạnh lòng nhưng cũng không biết làm thế nào, đành cam chịu và chấp nhận số phận đó. Thân phận của những người phụ nữ đi lấy chồng xa còn khắc nghiệt và chua xót : Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều Trăm bề đều là nỗi đau, là nỗi nhớ. Sống trong cảnh xa nhà, theo chồng nơi phương xa, người phụ nữ không biết giãi bày tâm sự cùng với ai. Với quan niệm « Xuất giá tòng phu » nên người phụ nữ chỉ biết câm lặng sống bên chồng, vì chồng mà chôn vùi tuổi xuân, chôn vùi đi nỗi nhớ mẹ, nhớ nhà vào sâu trong trái tim mình. Chỉ biết đau đáu nhìn về quê mẹ mà đau, mà xót. Bởi rằng kêu ai ai thấu, gọi ai ai thưa. Chúng ta bắt gặp người phụ nữ trong bài ca dao « Con cò » Con cò mà đi ăn đêm Dậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Ong ơi ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Dừng xáo nước đục đau lòng cò con Đây là tấm lòng của người mẹ người quanh năm bôn ba, lặn lộn vất vả vì con. Chăng may gặp chuyện chẳng lành nên người mẹ kêu gào thảm thiết, rằng có khổ có vất vả tới đâu thì vẫn nguyện hi sinh vì chồng vì con. Đó là những con người đáng trân trọng, đáng quý trong xã hội phong kiến. Họ vẫn âm thầm và lăng lẽ hi sinh đời mình vì con cái, vì gia đình nhiều như thế. Tấm lòng của họ trong thiên hạ thật đáng quý. Mỗi câu ca dao, dân ca viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến đều khiến cho người đọc chua xót và cảm thông. Họ là những người thấp cổ bé họng trong thiên hạ, chịu thương, chịu khó, nhọc nhằn vất vả nhưng vẫn giữ được tấm lòng son với chồng, giữ đạo làm me với con. Họ khổ, họ nghèo nhưng trái tim có sáng, tấm lòng họ trong. Đó là những con người đáng nhẽ ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, nhưng cuộc sống khắc nghiêt, xã hội khắc nghiệt. Ca dao dân là mềm mại, mượt mà là nơi làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt. Họ đáng đươc sống sung sướng và hạnh phúc. Họ là những tượng đài bất diệt vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Họ là vợ, là mẹ, là chị, là bà. Suy nghĩ của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao xưa – Bài làm 2 Chúng ta ai cũng lớn lên bởi những câu ca dao, những câu hát à ơi của bà, của mẹ. tiếng hát qua những câu ca dao như đi qua lũy tre làng, thấm được trong từng ngõ nhỏ của cuộc sống, những cánh cò bay lả lơi, nơi nuôi ta khôn lớn qua từng năm tháng. Và có lẽ, ca dao đã trở thành những điều không thể thiếu trong cuộc sống của những đứa trẻ lớn lên bởi tình thương yêu nơi nông thôn. Có lẽ ai cũng sẽ nhớ tới hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đã xuất hiện trong những câu thơ, câu ca dao. Đó là hình ảnh của những người phụ nữ, ngày ngày vất vả, chịu đựng hi sinh miếng cơm manh áo cho chồng cho con những luôn mang trong mình những đức tính trong sáng, thiện tâm, giàu đức hi sinh. Nơi đó, ta không thể quên được hình ảnh những con cò thân gầy ngày ngày lặn lội. Trong nền văn học nói chung và trong những bài ca dao xưa, hình ảnh của những người phụ nữ có lẽ đã là những hình ảnh không thể quên và tiêu biểu cho một kiếp người trong xã hội. Trong xã hôi phong kiến, người phụ nữ có địa vị thấp nhất trong xã hội, họ phải chịu những định kiến hà khắc trong xã hội, những tư tưởng mà tưởng chừng đơn giản nhưng chúng lại giam hãm cả cuộc đời của người phụ nữ. Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày Hay Thân em như tấm lụa đào Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai Người phụ nữ khi ấy phải theo quan niệm” tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. bởi vậy, họ không có quyền quyết định cuộc sống cho chính bản thân mình. Khi chưa đi xuất giá, họ phải nghe theo tất cả sự chỉ đạo của người làm cha. Người cha ấy mà có yêu thương, bảo vệ họ hay không còn tùy theo từng hoàn cảnh. Có những khi những người con gái cũng chỉ có thể là công cụ cho những người làm cha, làm chú trao đổi lợi ích của chính mình. Khi xuất giá, theo quan điểm” cha mẹ đặt đâu con nằm đó” có những lúc chính những người con gái ấy lại không thể biết ai mới là người mà mình sẽ chung sống suốt đời. thời kì phong kiến, không hiếm những người con gái không hề biết mặt chồng của mình như thế nào chứ không nói đến được tìm hiểu về nhân phẩm, tính cách. Thế mới nói, đó chính là cái bi ai của những người phụ nữ. bởi vì thế, họ luôn khóc thầm cho cuộc sống vợ chồng mà không tình yêu của mình. Ai may mắn, gặp được người chồng yêu mình tha thiết, họ được sống như một “ tiểu thư đài các”, được yêu thương, che chở. Thế nhưng nếu như không may mắn, cuộc đời của họ như bước vào những góc tối mà chính bản thân họ cũng không thể phản kháng lại được. bởi vậy thời kì này, không thiếu những câu ca dao nói về sự đau đớn, tủi nhục của người phụ nữ. họ luôn ngóng trông ngày trở về quê mẹ: Chiều chiều ra đứng bờ sông Muốn về với mẹ mà không có đò Hay chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều Mỗi khi nhớ nhà, nhớ mẹ mà không thể làm như thế nào. Những người làm con phải đi lấy chồng có khi phải xuất giá từ lúc còn rất nhỏ. Có lẽ chính các nàng cũng không biết, lấy chồng là như thế nào. ấy vậy mà nàng phải chịu đựng sự khắt khe của mẹ chồng và cả gia đình của chồng. Mỗi bước đi đầy chông gai, khó khăn. Bởi vậy mà đã có những câu thơ” bưng bát nhà giàu nước mắt chứa chan”. trong chế độ cũ, người mẹ chồng thường là “nỗi sợ” của những người con gái mới về làm dâu trong gia đình bởi quan niệm họ đã “mua “ những người con dâu về để phụ giúp gia đình nhà chồng cũng như người làm trong gia đình họ chứ đó đâu có phải là tình yêu thương của con người với con người với nhau. Đây cũng không còn là tình yêu đôi lứa được chấp nhận nữa mà chỉ là sự mua bán, trao đổi của hai bên mà thôi. Và người phải chịu thiệt thòi, không ai khác chính là những người phụ nữ đáng thương không về có sức phản kháng ấy. Con cò lặn lội bờ sông Tối tăm mù mịt ai đưa cò về Hay ông ơi ông vớt tôi nào Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng Có xáo thì xáo nước trong Chớ xáo nước đục đau lòng cò con Hình ảnh của con cò có lẽ là hình ảnh phản ánh rõ nét nhất hình ảnh người phụ nữ Vệt Nam. Những con cò luôn mang tấm thân gầy guộc, phải đi kiếm ăn trong những đêm lạnh vắng mà không có ai ở bên cạnh. Có những khi, họ phải tất bận với công việc, vì chồng, vì con. Thế nhưng dù có phải chịu cuộc sống đau khổ như thế nào thì những con người ấy vẫn luôn giữ được tấm lòng son sắt. “có xáo thì xáo nước trong”. Tấm lòng của họ như lay động cả những người đọc như chúng ta. Dù có phải chịu cuộc sống khắc nghiệt tới đâu, thế nhưng người phụ nữ vẫn kiên quyết giữ trọn phẩm giá của mình. Đó là một trong những đặc tính tốt đẹp nhất của người phụ nữ việt nam. Đẻ rồi, khi có con, họ lại cố gắng vun đắp cho con cái có được cái ăn, cái chữ dù cuộc sống của mình có vất cả tới đâu đi chẳng nữa. Công cha như núi thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Thật khó để có thể đong được tình cha nghĩa mẹ và những đứa hi sinh của cha mẹ đã dành cho chúng ta Gió mùa thu mẹ ru con ngủ Năm canh chày thức đủ năm canh Hình ảnh người mẹ cũng như hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, có lẽ cũng đã ghi sâu vào lòng người như vậy. những câu ca dao như khắc họa lại cuộc đời của những người phụ nữ từ khi còn ở nhà tới lúc đi lấy chồng và có con. Tuy vất cả nhưng không ai có thể phủ định tình yêu thương, sự nhẫn nại và cam chịu của những người con, người vợ, người mẹ. Bởi vậy, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam là hình ảnh đẹp nhất trong suy nghĩ của mỗi con người bây giờ và mãi mãi về sau. Suy nghĩ của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao xưa – Bài làm 3 Kho tàng văn học dân gian Việt Nam luôn là dòng sữa mát lành nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Cùng với các thể loại khác, ra đời trong xã hội cũ, ca dao diễn tả tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong các mối quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất nước… không chỉ là lời ca yêu thương tình nghĩa, ca dao còn là tiếng hát than thân cất lên từ cuộc đời xót xa, cay đắng của người Việt Nam, đặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội cũ. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn bị coi nhẹ, rẻ rúng, họ không được quyền quyết định trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã chà đạp lên quyền sống của họ, đàn ông được coi trọng, được quyền “năm thê bảy thiếp”, được nắm quyền hành trong xã hội, trong khi đó phụ nữ chỉ là những cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Họ phải làm lụng, vất vả cung phụng chồng con, một nắng hai sương mà cuộc đời thì tăm tối. Họ phải cất lên tiếng nói của lòng mình. “Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” Tiếng nói đầy mặc cảm, cay đắng. Người phụ nữ ví mình như một tấm lụa được người ta bày bán giữa chợ. Thân phận họ cũng chỉ là vật giữa chợ đời bao người mua. Thân phận họ bé nhỏ và đáng thương quá đỗi. Hai từ “thân em” cất lên sao xót xa, tội nghiệp. Xã hội lúc bấy giờ đâu cho họ được tự do lựa chọn, ngay từ lúc sinh ra, được là người họ đã bị xã hội định đoạt, bị cha mẹ gả bán, họ không có sự lựa chọn nào khác: “Thân em như con cá rô thia Ra sông mắc lưới vào đìa mắc câu" Không một lối thoát nào mở ra trước mắt, họ cảm thấy cuộc đời chỉ là kiếp nô lệ, bốn phía lưới giăng. Hình ảnh “Tấm lụa đào”, hay “con cá rô thia” trong hai câu ca dao trên là hình ảnh so sánh nghệ thuật. Hình ảnh này cho ta liên tưởng tới sự tầm thường, bé nhỏ của thân phận người phụ nữ: tấm lụa thì đem ra đổi bán, con cá rô thia thì được vùng vẫy đây nhưng chỉ trong chiếc ao tù. Hình ảnh con cá rô thia cho ta nghĩ đến người phụ nữ trong sự bủa vây của truyền thống, tập tạc, quan niệm phong kiến bao đời hà khắc, đến hạnh phúc của mình cũng không được quyền quyết định: “Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời, Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời, Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan”… Bao khát khao bị kìm hãm, hạnh phúc lứa đôi bị rào cản phong tục đè nén, họ ngẫm mình và cất lên tiếng than cay đắng. “Thân em như miếng cau khô Người thanh chuộng mỏng, người khô tham dày” Câu ca nào cũng đầy ai oán, số phận nào cũng được ví bằng những thứ bé nhỏ, tầm thường, đó là sự ý thức, sự phản kháng của những con người triền miên bất hạnh. Họ có quyền được sống, được tự do yêu đương, nhưng xã hội đã chà đạp lên quyền của họ, chỉ cho họ một cuộc đời lầm lũi, chua cay. “Năm nay em đi làm dâu Thân khác gì trâu mang theo ách Năm nay em đi làm vợ Thân mang cày, dây khiến không biết ai? Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm.” Người con gái trong bài ca dao H’mông này đang than thân trách phận mình khi “xuất giá tòng phu’’. Họ lấy chồng, không phải vì hạnh phúc mà để làm một con vật lao động trong nhà chồng, một con vật suốt đời “theo ách” như trâu mang. Cuộc sống như khép lại trước mắt họ, chỉ thấy một sự trói buộc đến phũ phàng: “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thuở nào ra” Có khi họ bị chồng đánh đập: “Cái cò là cái cò quăm Mày hay đánh vợ mày nằm với ai" Có khi bị chồng phụ bạc: “Nhớ xưa anh bủng anh beo Tay bưng chén thuốc lại đèo múi chanh, Bây giờ anh mạnh anh lành Anh tham duyên mới anh đành phụ tôi." Ở lĩnh vực nào người phụ nữ xưa cũng không được quyền hanh phúc. Cuộc sống không có tự do, tình yêu không được công nhận, hôn nhân không được định đoạt, quan hệ vợ chồng không được tôn trọng… Ở mặt nào họ cũng bị vùi dập xô đẩy, cũng không được quyền lên tiếng lựa chọn. Đến cả sự tỏ bày tình yêu cũng vô cùng tội nghiệp. “Thân em như củ ấu gai Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen Không tin bóc vỏ mà xem Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi’’ Ở câu than thân nào họ cũng ví mình thật tội nghiệp, nào là tấm lụa, nào là hạt mưa, nào là miếng cau khô, rồi củ ấu gai… thứ nào cũng nhỏ nhoi, tội nghiệp. Hạt mưa thì chẳng biết rơi vào đâu, miếng cau thì tùy người chọn, còn củ ấu thì có vẻ đẹp bên trong mà không ai biết. Bài ca dao này là một sự giãi bày của người phụ nữ. Người phụ nữ muốn xã hội công nhận giá trị của mình, nhưng vẫn đầy tự ti: “Không tin bóc vỏ mà xem, ăn rồi mới biết là em ngọt bùi”. Một sự mời mọc ngập ngừng Có thể nói, những bài ca dao than thân trách phận không chỉ là lời than thở vì cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực, đắng cay, mà còn là tiếng nói phản kháng, tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Suy nghĩ của em về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao xưa – Văn mẫu lớp 11
3,030
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện nay – Bài làm 1 2 Suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện nay – Dàn ý Suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện nay – Bài làm 1 Khi trẻ con tập đi Đường như có từ ngày đó Nhưng còn cần cho trẻ Tình yêu và lời ru Cho nên mẹ sinh ra Để bế bồng chăm sóc Mẹ mang về tiếng hát Từ cái bống cái bang Từ cái hoa rất thơm Từ cánh cò rất trắng Từ vị gừng rất đắng Từ vết lấm chưa khô Từ đầu nguồn cơn mưa Từ bãi sông cát vắng… (Xuân Quỳnh – Chuyện cổ tích về loài người) Những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế ấy của Xuân Quỳnh đã giúp cho con người ta thấy được vai trò to lớn của người mẹ cũng như những lời ru ngọt ngào trong cuộc đời mỗi con người. Mẹ trở thành nguồn cảm hừng dạt dào của biết bao thi sĩ. Bạn đọc yêu thơ chắc hắn đều rất ấn tượng với Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Nguyễn Duy, đặc biệt là hai câu thơ cuối khổ ba đã gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm vể tình mẫu tử trong xã hội hiện đại ngày nay: Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru Nguyễn Duy đã viết bài thơ trong nỗi xúc động nghẹn ngào khi người mẹ kính yêu của ông mãi mãi đi xa. Có thể nói, hai câu thơ mang đậm tính triết lí đã để lại trong mỗi trái tim nhiều rung cảm những dư vị thật khó quên, con ngưòi được sinh ra trong cõi đời này đâu chỉ lớn lên bằng dòng sữa ấm áp của mẹ mà còn bởi những lời ru "ầu ơ sớm chiều" – những lời ru từ "cái cái bang", từ "cái hoa rất thơm", từ cánh cò bay lả bay la trong những câu ca dao, từ "vị gừng rất đắng", từ "đầu nguồn" của những "cơn mưa", từ "bãi cát vắng"… Cuộc sống rất đỗi bình dị xung quanh đã góp phần khơi dậy những xúc cảm, rung động đầu tiên trong tâm hồn con. Và chính những lời ru ngọt ngào ấy lại là những bài học về đạo lí, những phẩm chất tốt đẹp của con người mà mẹ muốn mang đến cho đứa con bé bỏng: tình yêu quê hương đât nước, lòng vị tha, khoan dung, nhân ái với con người, tình cảm gia đình,.. Đặc biệt hơn cả, sâu thẳm trong lời ru giản dị ấy là tình yêu thương vô bờ, là niềm vọng mẹ dành cho con. Những bài học từ cuộc sống cùng tình yêu thương bao la trọn đời mà mẹ dành cho con, dẫu có đi hết cuộc đời này, đi "trọn kiếp người", con cũng không thể "đi hết mấy lời ru mẹ ru". Dù có cố gắng bao nhiêu, con cũng sẽ không bao giờ đền đáp được công ơn sinh thành và dưỡng dục to lớn của mẹ! Dẫu con có đi đến đâu, dù có xảy ra bất cứ điều gì thì mẹ vẫn sẽ mãi mãi ở bên con, sẽ dõi theo từng bước đi của con: Dù ở gần con, Dù ở xa con, Lên rừng, xuống bể, Cò sẽ tìm con, Cò mãi yêu con. Con dù lớn, vẫn là con của mẹ Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con. (ChếLan Viên – Con cò) Vâng, lòng mẹ ấm áp và bao la sẽ soi đường, dẫn lối cho con trên cuộc hành trình đầy gian nan, thử thách. Mẹ sẽ là đôi cánh nâng những ước mơ của bay cao, bay xa và lại vẫn sẽ là điểm tựa của cuộc đời con, là bến bờ neo đậu khi con cần sự bình yên, khi con mệt mỏi. Có thể nói, hai câu thơ của Nguyễn Duy đã khái quát thật hay về tình mẫu tử – một tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao quý và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đó là lòng kính trọng, sự biết ơn, tình yêu thương, con cái đối với mẹ và cũng là sự chăm sóc, quan tâm, sự đùm bọc, che chở, dạy dỗ cùng tình yêu thương bao la của mẹ đốì với những đứa con. Sau chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, giây phút được nhìn đứa con bé bỏng cất tiếng khóc chào đời là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của người mẹ. Cũng bời vậy mà những cử chỉ, hành động thể hiện tình yêu thương bao la của mẹ được biểu hiện ngay từ khi đứa trẻ lọt lòng. Ngay từ khi được sinh ra, những em bé đã phân biệt được giọng nói ấm áp của mẹ với cả mọi người xung quanh, đã cảm nhận được ánh mắt, cử chỉ yêu thương mẹ. Mỗi sinh linh bé bỏng ấy là một phần máu thịt của mẹ – đó cũng là sự khác biệt rõ rệt nhất giữa tình mẹ và những tình cảm thiêng liêng khác trong cuộc sống. Rồi khi đứa con thân yêu của mẹ lớn dần lên, mẹ nuôi nấng, chăm sóc con bằng tất cả tình yêu thương, dành cho con những gì tốt đẹp nhất. Tình mẫu tử thiêng liêng còn được thể hiện ở sự quý trọng, biết ơn,… của đứa con dành cho mẹ. Đâu phải chỉ những lời nói "con yêu mẹ" mới thể hiện tình cảm ấy! Cách tốt nhất để mỗi người thể hiện tình yêu với mẹ là biết nghe lời và luôn cố gắng, nỗ lực hết sức vì niềm tin, hi vọng của mẹ. Vậy đã bao giờ bạn thử hình dung một ngày nào đó, thế giới của chúng ta không còn tình mẫu tử? Lúc ấy, có lẽ, cả trái đất này chỉ là "một tinh cầu giá lạnh" mà thôi! Vì thế, tình mẫu từ vô cùng cần thiết trong cuộc sống. Tình mẫu tử khởi nguồn cho những tình cảm tốt đẹp khác. Bởi lẽ, ta làm sao có thể yêu thương một ai khác khi ta không tôn trọng, yêu quý chính người đã sinh ra ta, đã cho ta có cơ hội được tận hưởng cuộc sống tuyệt vời này? Làm sao có thể thương yêu với ai khi ta không yêu thương đứa con bé bỏng của mình? Có thể nói rằng, tình mẫu tử đã bồi đắp cho tâm hồn con người. Mẹ sinh ra chúng ta, ta một hình hài và cả một tâm hồn nữa. Chính mẹ và tình yêu thương cùng những lời ru ngọt ngào đã mang đến cho tâm hồn con những rung động đầu tiên. Mẹ dạy ta biết thế nào là tình yêu thương và cách thể hiện tình yêu thương đối với những người khác. Mẹ mang đến cho ta những bài học về đạo lí cũng như những kinh nghiệm sống quý giá. Cuộc sống không phải là một cuộc chạy đua, nó là một hành trình mà bạn phải từng bước khám phá. Trong trình ấy, sẽ có những lúc khó khăn, sẽ có những lúc ta thấy mệt mỏi, ta sẽ một điểm dừng chân, một bến đỗ, cần sự sẻ chia và hơn hết, ta cần một lời động viên, an ủi, khuyên răn. Đó là lúc ta nghĩ đến mẹ. Một cái ôm, một cái xoa đầu của mẹ cùng những lời yêu thương sẽ là động lực để ta bước tiếp, đê ta đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. Mẹ sẽ là đôi cánh nâng những ước mơ của ta bay cao, bay xa hơn nữa, bởi ta biết rằng sau lưng ta ánh mắt mẹ luôn dõi theo những bước ta đi; bởi ta biết rằng luôn có một bến đỗ bình yên trong cuộc đời. Tình mẫu tử vô cùng quan trọng còn bời lẽ nó sẽ góp phần hình thành nhân cách con người. Mỗi người con sẽ là những công dân, những chủ nhân tương lai đất nước. Dẫu biết rằng quá trình hình thành nên nhân cách của một con người cần rất nhiều thời gian và có rất nhiều yếu tố tác động nhưng mỗi cuộc trình vạn dặm đều bắt đầu từ những bước chân đầu tiên, và vì thế sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc của mẹ cũng đã góp công sức vô cùng to lớn trong hình trình ấy. Nếu không có tình mẫu từ thì có lẽ sẽ không bao giờ có những đứa con trên cuộc đời này. Bởi vậy, con cái phải có trách nhiệm sống tốt, sống có ích để đền đáp công ơn to lớn của mẹ, phụng dưỡng mẹ lúc tuổi già sức yếu. Và chính mối quan hệ tác động qua lại ấy đã làm nên tình mẫu tử bền chặt, gắn bó và là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay. Nhưng cũng có khi, tình mẫu tử không chi là tình yêu thương mà còn cần cả sự nghiêm khắc. "Thương cho roi cho vọt", "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương". Chúng ta hãy nghe tâm sự của một người mẹ: "Mẹ yêu con nên mẹ nói không" trước những đòi hỏi vô lí của con […]. Đây là cuộc đấu tranh khó khăn trong cuộc đời mẹ. Nhưng mẹ vui vì mẹ đã chiến thắng và cuối cùng con thành công". Chính vì mẹ yêu con nên mẹ luôn muốn con trưởng thành. Chính những lời khuyên, lời răn dạy của mẹ sẽ là con đường đưa con đến với tương lai một cách nhanh nhât. Rồi đến khi con trưởng thành, khi còn làm cha, mẹ, con mới hiếu hết công lao cũng như sự hi sinh thầm lặng của mẹ: Hoa cũng như đời mẹ, mẹ ơi! Nở lặng lẽ và rơi lặng lẽ (Thu Nguvệt – Mẩu tử) Tinh mâu tử đã trờ thành nét đẹp giàu tính nhân văn của con người. 7 nhũng năm tháng chiên tranh, tình mẫu tử làm rạng rõ hon cho tâm hcn ngưòi Việt Nam bởi lẽ tình yêu thương của những bà mẹ còn bao la, rộng lớn đốì với cả những đứa con không phải là máu mủ, là sự chằm sóc tận tình những chiến sĩ bị thương: Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi (ChếLan Viên – Tiếng hát con tàu) Tình yêu thương của mẹ còn là những giọt nước mắt lặng lẽ rơi khi những đứa con thân yêu của mẹ cứ lần lượt ra chiến trường và mãi mãi không bao giờ trở về nữa: "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ". Trong xã hội ngày nay, cuộc sồng của chúng ta ngày càng phát triển cuộc sống được nâng cao và con cái vẫn là niềm hạnh phúc, là sự quan tâm lớn nhất của bố mẹ. Xã hội ngày càng có nhiều cám dỗ. Chính vì vậy mà việc gần gũi quan tâm đến con, hình thành nhân cách cho con càng trở nên vô cùng quan trọng. Mẹ không chỉ là người chăm sóc cho con từng bữa ăn, từng giấc ngủ còn là người lắng nghe những tâm tư, tình cảm, chia sẻ những khó khăn con trong cuộc sống. Những đứa con bé bỏng vẫn cảm thấy thật hạnh phúc có mẹ ở bên, vẫn vững tin vào con đường phía trước bởi một điểm tựa vững chắc – đó chính là mẹ. Cuộc sống hiện đại đôi khi khiến con người thấy căng thẳng, mệt mỏi và sự chia sẻ là điều vô cùng cần thiết. Còn gì sung sướng hơn khi chúng ta có mẹ để động viên, chia sẻ, an ủi khi ta có khó khăn; lắng nghe những suy nghĩ của ta, cho ta những lời khuyên trên hành trình khám phá cuộc sống? Thế nhưng, cũng chính bởi nhịp sống xô bồ, hối hả hiện nay – tình cảm cao quý ấy đã có nhiều thay đổi. Cuộc sống quá bận rộn đôi khi làm cho những người mẹ không thể có nhiều thời gian chăm sóc gia đình và quan tâm đến con cái. Chính bởi vậy, con ít khi gần mẹ, ít tâm sự, sẻ chia suy nghĩ khó khăn với mẹ. Lúc đầu, đó chi là những vấn đề nhỏ nhưng dần dần cứ chồng chất lên, nếu không tháo gỡ kịp thời thì sẽ có chuyện không hay xảy ra với con. Việc nhiễm những thói hư tật xấu là điều dễ xảy ra khi không có sự quan tâm của gia đình, đặc biệt là của mẹ. Hơn nữa, trẻ em hiện nay có xu hướng thích ở một mình, không thích có sự quan tâm của bố mẹ vì cho đó là tự do và dường như thích chơi "game" hay "chat" qua mạng hơn là tâm sự, trò chuyện với mẹ. Cũng có những bà mẹ không đi sâu tìm hiểu những suy tâm tư, tình cảm của con hoặc quan niệm sai lầm rằng thương con là nuông chiều, đáp ứng mọi yêu cầu của con. Đáng báo động hơn là tình trạng một số người mẹ đã đánh đập, ngược đãi chính đứa con mà mình đã dứt ruột đẻ ra hoặc có những người con đã chối bỏ trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng người mẹ già yếu khiến cả xã hội bàng hoàng. Trước những thực trạng báo động như vậy, chúng ta cần có những biện pháp để khắc phục và trước tiên việc đó phải xuất phát từ trái tim của mỗi người. Mỗi người mẹ hãy cố gắng dành thời gian quan tâm, gần gũi con để hiểu và giúp con tháo gỡ những khó khăn. Còn đối với chúng ta – những đứa con – hãy luôn biết suy chín chắn, luôn nghĩ đến mẹ, đến những người thân của ta trưóc khi làm bất cứ việc gì. Công ơn sinh thành, dưỡng dụe của cha mẹ là vô cùng to lớn con cái phải hiếu thảo, nhận thức được rõ trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ. Ngoài ra, xã hội ta cần phái lên án những hành vi trái với đạo đức, phi nhân tính; đồng thời kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ về tình mẫu tư cao quý. Tình mẫu tử đã được nhắc đến trong những câu ca dao, tục ngữ đậm chất triết lí "Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Mẹ và tình yêu thương vô cùng của mẹ sẽ mãi soi đường chỉ lối cho con. Có ai đó đã nói "Có những lúc chỉ tình yêu của mẹ mới hiểu được những giọt nước mắt của chúng con, có thể giúp xua tan nỗi thất vọng và giúp chúng con vượt qua nỗi sợ hãi. Có những lúc chỉ tình yêu của mẹ mới có thể sẻ chia niềm vui cùng chúng con, khi chúng mơ ước điều gì đó, và nó hoá thành hiện thực trong đời". Những đứa con sẽ là thành quả cuối cùng của cuộc đời mẹ, là niềm hạnh phúc của mẹ: Và chúng tôi, một thứ quả trên đời Bảy mươi tuổi, mẹ đợi chờ được hái Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn một thứ quả non xanh (Nguvễn Khoa Điểm – Mẹ và quả) Hình ảnh mẹ trong cuộc đời mỗi con người đều mang những nét riêng: có những người mẹ vĩ đại, có những người mẹ tuyệt vời, còn đối với tôi, mẹ rất bình dị. Mẹ tôi không hát ru hay, không hay kể những câu chuvện cổ tích, không hay nói những lời lẽ yêu thương. Tình cảm của mẹ tôi giản dị nhưng ấm bao la. Yêu thương đâu nhất thiết phải bằng lời! Đối với tôi, tình yêu thương của mẹ là những bữa cơm gia đình ấm cúng, là sự lắng nghe, là những phút mắt lo lắng mỗi khi tôi mệt mỏi. Mẹ tôn trọng ý kiến của tôi, giúp tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Tôi vẫn luôn mong muốn chị em tôi là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của cuộc đời bố mẹ. Khi vui, người tôi muốn chia sẻ đầu tiên là mẹ; khi buồn, người tôi muốn chạy đến bên đầu tiên cũng chính là mẹ. Tôi tự hào đã được mẹ sinh ra, tự hào vì là con của mẹ và trọn đời này có lẽ tôi sẽ không bao giờ có thể đền đáp ơn sâu nghĩa nặng ấy. Cảm ơn những câu thơ của Nguyễn Duy đã nói hộ lòng biết ơn sâu nặng của những người con đối với mẹ. Mỗi người con hãy cố gắng sống tốt, hãy mở lòng mình, tự tin nói những lời yêu thương của mình đối với mẹ bởi biết đâu sớm mai thức dậy ta sẽ không còn có mẹ ở bên nữa. cảm ơn Thượng đế vì đã cho chúng ta được là con của một người mẹ! Suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện nay – Dàn ý Mở bài Dẫn dắt vào bài bằng các tình cảm cao quý trong cuộc sống của mỗi người: tình cảm gia đình, tình anh em, tình cảm bạn bè, tình yêu quê hương, đất nước… Nhấn mạnh tình mẫu tử là tình cảm có vị trí đặc biệt quan trọng Thân bài Bước 1: Khái quát về tình mẫu tử Theo nghĩa của từ thì “mẫu” là mẹ, “tử” có nghĩa là con, theo nguyên nghĩa thì “mẫu tử” có nghĩa là mẹ con . Nhưng thông thường người ta nói đến tình mẫu tử là nói đến tình cảm yêu thương , che chở, bảo vệ… của người mẹ dành cho con. Bước 2: Bình về tình mẫu tử Tình mẫu tử là tình cảm có vị trí đặc biệt và thiêng liêng trong lòng mỗi người bởi: – Đó là tình cảm đầu tiên mà mỗi người sinh ra đều cảm nhận được và sẽ gắn bó với nó trong suốt cuộc đời: từ khi mẹ mang năng đẻ đau, nâng đỡ con khi chập chững vào đời, sánh bước cùng con qua từng nấc thang của cuộc đời. Cuộc đời của người con cũng chính là cuốn nhật ký của người mẹ. – Là tình cảm mang tính cao cả: mẹ, là người bao dung ta trong mọi hoàn cảnh, là nơi cho ta nương tựa mỗi lần vấp ngã, là nơi để ta gửi gắm những điều thầm kín, là nguồn động lực giúp ta vững vàng trong giông tố. – Tình mẫu tử cũng là tình cảm tự nhiên và mang tính trách nhiệm (lấy dẫn chứng thực tế) – Tình mẫu tử có cội rễ sâu xa từ lòng nhân ái – truyền thống đạo lí của dân tộc ta hàng nghìn đời nay (dẫn chứng) Nếu được sống trong tình mẫu tử thì con người ta sẽ vô cùng hạnh phúc , còn nếu thiếu thốn tình mẫu tử thì sẽ là người chịu thiệt thòi và bất hạnh ( dẫn chứng). Tình mẫu tử có thể soi sáng con đường cho mỗi người, giúp con người thức tỉnh khi lầm đường lạc lối, sống tốt hơn và sống có trách nhiệm hơn. Phê phán những hành động đi ngược lại với đạo lí: mẹ bỏ rơi con hay con đối xử không tốt với mẹ, bỏ mặc mẹ. Bước 3: Trách nhiệm của mỗi con người trước tình mẫu tử Tình mẫu tử là tình cảm vô cùng bao la, rộng lớn và vĩ đại, mẹ là người đã suốt đời hi sinh vì con. Chính vì thế con cái cần biết trân trọng những tình cảm đó và phải sống làm sao để xứng đáng với tình cảm đó. Không ngừng nỗ lực học tập , tu dưỡng đạo đức, trở thành con người có ích cho xã hội để đền đáp lại những tình cảm cao cả mà mẹ dành cho ta. Bởi điều mà mỗi người mẹ mong muốn chỉ là con mình khôn lớn nên người. Không được có những hành động trái với đạo làm con như vô lễ, bất kính với mẹ, đối xử không tốt với mẹ, hay hơn cả là sử dụng bạo lực, bỏ rơi mẹ của mình. Đây như một tội ác không thể tha thứ được. Kết bài “Ta đi trọn kiếp con người – cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” (Nguyễn Duy) Tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất đối với mỗi người. Cần trân trọng tình cảm ấy, sống làm sao cho thật xứng đáng với công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Như lời Phật răn dạy “Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc – đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không”
Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong xã hội hiện nay – Văn mẫu lớp 12
3,512
Tuổi học đường – Lứa tuổi với những mơ mộng, đầy cảm xúc nhưng cũng xen lẫn những nông nổi và đôi chút dại khờ. Vấn đề về tình bạn, tình yêu tuổi học đường khá quan trọng. Tình bạn trong cuộc sống là không thể thiếu nhất là đối với lứa tuổi mới lớn, lứa tuổi mà tình bạn là một thứ gì đó vô cùng quan trọng. Người bạn là người có thể chia sẻ với ta mọi việc từ những niềm vui cho đến những nỗi buồn. Là người có thể đưa ra những lời khuyên hữu ích để ta vượt qua những khó khăn, vượt qua nhưng bối rối, những hoang mang. Có những tình bạn cùng tiến cũng có những tình bạn cùng giúp nhau trong học tập để cùng nhau tốt hơn. Nhưng không phải đối với ai ta cũng có thể kết bạn, có thể kết thân, trong việc chọn bạn mỗi chúng ta cần có suy nghĩ thật chín chắn, tránh chọn bạn tràn lan, chọn bạn theo trào lưu. Chỉ có những người bạn thật sự mới có thể giúp đỡ, cùng nhau sẻ chia cũng như đưa ra những lời khuyên thật hữu ích cho chúng ta. Việc chọn bạn tràn lan đôi khi đem đến cho chúng ta những hậu quả không hay cũng như không thể nào lường trước được. Nếu không may chúng ta kết bạn với những người bạn không được tốt và cũng chính những lời rủ rê của họ cùng với những khoảnh khắc sốc nổi của ta đã làm ta mắc phải những sai lầm. Đầu tiên sẽ là những việc cơ bản, là những việc nhỏ, đó là sự đua đòi, rồi dần dần từ những việc nhỏ đó, những việc cơ bản đó sẽ phát triển thành những việc nghiêm trọng hơn là ma tuý, là nghiện hút và điều đó cũng đồng nghĩa là chúng ta chọn lấy cái chết trắng, hay là bỏ học để lao vào các cuộc vui, các cuôc dua xe. Rồi khi không còn đủ điều kiện để phục vụ cho những cuộc chơi, cho những việc đua đòi thì việc trộm cắp là chuyện tất yếu. Những trò chơi điện tử ngày càng phát triển và trở nên thu hút giới trẻ, nhưng kiểm soát chưa thật chặt chẽ nên khó tránh khỏi hậu quả đáng tiếc xảy ra. Vì thế hãy chọn cho mình những người bạn thật đúng ý nghĩa, để cùng nhau phát triển một tình bạn tốt đẹp, cùng giúp đỡ nhau tiến bộ. Vậy nên hãu cùng những người bạn chân thành trao đổi thẳng thắn những suy nghĩ và quan niệm của mình để tình bạn đó đã tốt đẹp ngày càng tốt đẹp hơn nữa. Đó chỉ mới là vấn đề về tình bạn tuổi học đường, còn một vấn đề cũng không kém phần quan trọng đó chính là vấn đề tình yêu tuổi học đường. Ngày nay mọi người vẫn khẳng định không nên có tình yêu vào tuổi này. Tình yêu tuổi học đường đôi lúc được bắt nguồn từ tình bạn nhưng không phải lúc nào tình bạn cũng là khởi nguồn của tình yêu. Yêu tuổi học đường là một chủ đề rất cần được quan tâm khi mà ngày nay sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện thông tin đại chúng, phim ảnh, tạp chí, truyện của nước ngoài đã và đang gây ảnh hưởng rất mạnh tới tuổi mới lớn kèm theo là sự tìm hiểu vượt quá sự cho phép một cách thiếu ý thức. Và hậu quả xảy đến là điều tất yếu, là không thể nào tránh khỏi. Bi kịch xảy ra đốỉ với tuổi học trò là gì? Cái tuổi chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần. Nhẹ là sa sút trong học tập, thiếu tập trung trong việc học. Nặng là không ít các bạn gái ở tuổi này trở thành nạn nhân của việc nạo phá thai hay các bạn học sinh phải bỏ học để trở thành những ông bố, bà mẹ trẻ bất đắc dĩ ở cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới. Những hành động nông nổi, thiếu ý thức, thiếu suy nghĩ dẫn đến những cái kết đau lòng là tự tử, nhảy sông, nạo phá thai ngày càng nhiều. Ngày nay trên các báo dành cho tuổi mới lớn như mực tím, hoa học trò cũng có những chuyên trang dành để tư vấn và trả lời những thắc mắc đang được các bạn học sinh quan tâm nhưng vượt lên trên tất cả là sự tự ý thức của bản thân, là sự vượt lên của chính cá nhân, phải biết tránh xa cám dỗ. Trong tình bạn hãy chọn cho mỗi người chúng ta người bạn chân chính để cùng nhau bước tiếp. Còn về tình yêu, tình yêu chỉ thật sự cần khi nó đem đến cho nhau niềm tin, tạo cho nhau động lực cũng như giúp nhau cùng hướng tới tương lai. Tốt nhất ở tuổi này chúng ta không nhất thiết cần đến tình yêu. Tuy nhiên đối với những người bạn nào đã trót lỡ lầm thì cũng đừng nên vội vàng buông xuôi mà hãy đứng lên làm lại từ đầu. Tóm lại tình bạn và tình yêu tuổi học đường cũng khá đẹp nhưng đầy phức tạp. Tuổi học trò cần được tư vấn và định hướng đúng đắn để không phải có những ý nghĩ sai lệch và sa ngã mà trong đó vai trò của nhà trường và gia đình là rất quan trọng. Cũng là một học sinh ở lứa tuổi học đường, tôi và các bạn cùng nhau cố gắng học hành, tim cho mình những người bạn đỉch thực để cùng nhau học hành tốt hơn, suy nghĩ thật kĩ để không phải xảy ra những hậu quả đáng tiếc trong tình bạn lẫn tình yêu. Chắc hẳn mỗi chúng ta, ai cũng từng 1 lần "yêu" khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Cái xúc cảm ấy, trải nghiệm ấy nó thích lắm! Thế nên hãy thử một lần yêu nhé!
Suy nghĩ của em về tình yêu tình bạn tuổi học đường
1,039
Đọc sách là một việc rất quan trọng đối với mỗi con người chúng ta và Bác Hồ cũng đã từng khẳng định vai trò to lớn của việc đọc sách chính vì vậy mà Người không ngừng đọc sách và mãi cho tới ngày nay thì việc đọc sách vẫn vẫn là một việc không chỉ có tầm quan trọng đối với những người còn đi học mà còn giành cho mọi lứa tuổi mọi trình độ. Chu Quang Tiềm đã từng nói “Học vấn không chỉ là việc đọc sách nhưng đọc sách vẫn là con đường quan trọng của học vấn”. Chính vì đọc sách có tầm quan trọng như là con đường ngắn nhất quan trọng nhất của việc tích lũy nâng cao vốn tri thức để con người chuẩn bị cho cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn để phát triển thế giới mới, không những thế sách là một kho tàng quý báu cất giữ di sản tinh thần của nhân loại, sách ghi chép, cô đúc, lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu của loài người qua các thời đại. Chúng ta đọc sách là đọc những cái đã qua những cái thành tựu mà con người đã và đang đạt được, Chúng ta chỉ có thể đọc sách vì nếu muốn tạo ra những thành tựu mới thì trước hết phải biết tiếp thu những thứ đã qua. Sách như là một người bạn đồng hành đưa chúng ta đến với những chân trời mới những tri thức mới mà chúng ta không thể tìm đâu được ngoại trừ trong sách vở. Sách là một kho tàng khổng lồ của những tri thức, đọc sách ta biết thêm về phong tục tập quán của tất cả các vùng miền của tất cả các nơi trên thế giới làm tăng vốn tri thức trong ta. Vì thế việc đọc sách luôn là nhu cầu cần thiết và rất quan trong của mỗi chúng ta , Đọc sách còn giúp ta hoàn thiện bản thân hơn tâm hồn trong sáng hơn sống lành mạnh hơn tránh được những thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội. Người đọc sách là một người luôn luôn tự tin trong giao tiếp bởi lẽ họ luôn làm chủ được kiến thức. Không những thế họ còn là những người biết đối nhân xử thế luôn có thái độ nhã nhặn từ tốn. Họ luôn biết cách xử lý những tình huống một cách khoa học và họ thương ít mắc sai lầm bởi lẽ họ đã đọc được những bài học những thất bại sương máu cảu những thế hệ đi trước để lại nên họ tránh được những sai lầm đáng tiếc như thế. Đọc sách báo là một công việc nhiều người có thể làm được, nhưng đọc để hiểu được cái thần của sách, đánh giá được những ưu điểm và hạn chế của sách báo thì không phải ai cũng làm được. Muốn làm được điều đó đòi hỏi người đọc phải có sự hiểu biết rộng và khả năng phân tích tổng hợp tốt . Không chỉ dừng lại việc đọc rộng và biết cách ghi chép, đánh dấu, mà người đọc luôn phải có suy nghĩ kĩ càng không nhất thời hồ đồ tin ngay theo sách. Bác Hồ đã từng nhấn mạnh : “ Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu trong sách. Có vấn đề thông suốt thì mạnh dạn đề ra cho vỡ lẽ, đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt ra câu hỏi : “ vì sao” đều phải suy nghĩ kỹ càng, xem nó có hợp với thực tế hay không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ cho chín chắn. ” Khi đọc sách ta cần phải có thái độ trân trọng giữ gìn sách bởi người viết sách đã đặt hết tình cảm cũng như những hiểu biết và bài học của mình vào trong sách nên ta cần có thái độ tôn trọng người viết chính là tôn trọng sách. Ta không được xé nát hay vứt sách lung tung không được vẽ bậy vào sách. Trân trọng sách chính là ta tôn trọng những kiến thức tri thức mà ta có được qua việc đọc sách. Hãy giữ lại những quyển sách đã đọc xong hoặc là cho mọi người mượn để cùng được tiếp thu những tri thức mới. Trong thời đại hiện nay khi thông tin đại chúng ngày càng phát triển con người cũng phụ thuộc nhiều đần vào các trang mạng xã hội khi mà mọi thứ đều lên trên đó để tra cứu . Những phương tiện truyền thông kể cả về nghe và nhìn đều có những phát triển vượt bậc khi mà hình ảnh âm thanh đẹp thu hút mọi người khiến cho mọi người quên dần vào việc đọc sách. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nhìn nhận lại độ tin cậy của những thông tin đó khi ma hiện nay những báo lá cải xuất hiện này càng nhiều câu người đọc với những chiêu trò bịp bơm đưa tin sai sự thật . Điều nay đã ảnh hưởng đến tâm lí của quần chúng nhân dân nhất là những bạn trẻ sẽ dễ đi theo những thói hư tật xấu những tệ nạn không lành mạnh. Việc đọc trước đây là một thú vui nhưng gần đây nó đã mất dần đi nhất là đối với thế hệ trẻ. Họ không còn hứng thú với việc đọc sách nữa mà thay vào đó là trào lưu nghiện game nghiện facebook. Thật đáng buồn cho một lớp thế hệ trẻ đang mất dần đi cái thói quen đọc sách trong mình. Tuy vậy ta cũng thấy thật hạnh phúc khi đi ngang trên đường ta bắt gặp hình nhả những bạn trẻ đang giới thiệu cho mọi người về tầm quan trong của việc đọc sách không những thế ta thấy những ngày hội đọc sách ngày càng được diễn ra thường xuyên hơn và một niềm tự hào khi mà những ngày hội đó thu hút rất nhiều bạn trẻ sinh viên . Ta có thể tự hào và tin tưởng vào thế hệ trẻ sẽ làm cho truyền thống đọc sách của dân tộc Việt Nam ta ngày càng được phát triển mạnh mẽ. Đối với riêng tôi thì một buổi chiều đẹp trời khi đi xe buýt và miên man đọc một cuốn sách đúng là một điều thú vị biết bao. Đối với tôi và rất nhiều bạn trẻ ngày nay thì đọc sách vẫn là một thói quen không thể thiếu được bởi lẽ đọc sách là một trong những con đường của học vấn, của tri thức nhưng con đường ấy là con đường quan trọng và cốt yếu của học vấn và tri thức, vì từ việc đọc sách ta không những rèn luyện được đạo đức, tính sáng tạo và khả năng tư duy, tiếp nhận những giá trị vật chất lẫn tinh thần của cuộc sống mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội hiện tại: học vấn, vốn tri thức.
Suy nghĩ của em về việc đọc sách của con người
1,235
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Bài làm 1 2 Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Bài làm 2 3 Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Bài làm 4 4 Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Dàn ý Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Bài làm 1 Hiện nay an toàn giao thông là một vấn đề lớn, được cả xã hội quan tâm. Đi khắp các nẻo đường gần xa khẩu ngữ “An toàn giao thông là hạnh phúc cho mọi nhà” như lời nhắc nhở, cũng là lời cảnh báo với những người đang tham gia giao thông, hãy chấp hành luật giao thông để đem lại an toàn cho mình và hạnh phúc cho gia đình mình. Nhưng hàng năm số vụ tai nạn giao thông vẫn không hề suy giảm, ngược lại nó còn tăng lên rất nhiều. Cứ mỗi năm, Việt Nam có tới gần một nghìn vụ tai nạn giao thông, nhiều nhất là xe máy. Nguyên nhân chính gây ra các vụ tai nạn phần lớn là do ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân: uống rượu bia vượt quá nồng độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm ở phần đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, chở trên ba người phóng nhanh vượt ẩu… Một mặt, đó là chất lượng đường sá kém và nguyên nhân là do sự tắc trách của các cơ quan xây dựng, ăn hối lộ, rút xén vật liệu. Mặt khác chúng ta phải lên án những kẻ chỉ vì các lợi ích cá nhân mà quên đi tính mạng, sự an toàn của người đi đường. Trên đường quốc lộ, đường lớn vẫn còn những kẻ rải đinh xuống lòng đường để thu lợi bởi những đồng tiền kiếm được từ vá xe, thay lốp. Họ không hiểu hết được sự nguy hiểm của việc làm đó, với tốc độ cao như vậy những người tham gia giao thông khi bị thủng săm đột ngột sẽ bị văng người ra khỏi xe và nguy cơ tử vong là rất lớn. Theo thống kê, những người thiệt mạng do tai nạn giao thông chủ yếu là đàn ông, trụ cột của gia đình. Những người vợ xót xa khi mất đi người chồng thân yêu, đứa con nghẹn ngào trong dòng lệ vì tới đây sẽ chẳng còn được vòng tay người cha âu yếm vỗ về, bảo ban dạy dỗ trên đường đời. Họ mang đến sự thương tâm cho toàn xã hội. Hàng năm, nhà nước đã bỏ ra hàng tỉ đồng để nâng cấp các cơ sở giao thông, đường sá cầu cống phục vụ cho việc đi lại an toàn ở mọi nơi. Nhưng số tiền đó lại không được dùng hết, vậy thì nó rơi *** vào đâu? Phải chăng, số tiền đó đã rơi vào túi những kẻ rút lõi công trình, rút lõi vật tư để làm giàu cho mình. Đó là những kẻ vô lương tâm vì lợi ích bản thân mà quên đi sự an toàn chung cho xã hội. Một vấn đề cũng đang gây sự chú ý và bị lên án rất nhiều đó là tình trạng đua xe của giới trẻ, tầng lớp thanh niên – những người chủ tương lai đất nước. Đó là những thanh niên đua đòi với bản tính “con nhà giàu” cùng với sự rủ rê của bạn bè, họ sẵn sàng đánh cược với tính mạng của mình. Nhìn những chiếc xe SH, @, FX500 phi như bay trên những con đường lớn ta không khỏi xót xa cho họ. Chỉ vì quá được nuông chiều, thiếu sự bảo ban của cho mẹ mà họ đã phải trả giá đắt. Những tai nạn xảy ra là điều chắc chắn, nhẹ thì sứt đầu mẻ trán, gẫy tay gẫy chân. Nặng thì họ phải mãi mãi rời xa cuộc đời. Lý do vì đâu cũng là ở nhận thức của thanh niên. Họ chưa biết suy nghĩ đúng về những cái lợi hại của việc mình đã làm. Những bậc cha mẹ khi con mình xảy ra tai nạn, nhận ra thì đã quá muộn, tại sao họ sắm cho con những chiếc xe thật tốt, phân khối thật lớn để chúng đi đua. Họ làm ra nhiều tiền rồi cũng nhận ra khi mất đứa con thì tiền bạc cũng chẳng giải quyết được gì. Họ hối hận vì tại sao ngay từ đầu không bảo ban con cái mình. Tất cả những nguyên nhân gây ra tai nạn đều bắt nguồn từ ý thức của người dân. Nếu như họ biết quý bản thân mình, biết tuân thủ luật lệ giao thông thì sẽ chẳng có những điều thương tâm và đáng tiếc. Hồi chuông cảnh báo luôn rung lên, nhắc nhở mọi người hãy biết chấp hành giao thông, vì sự an toàn của bản thân và xã hội. Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Bài làm 2 Thực tế cho thấy, những năm gần đây, vấn đề giao thông, đặc biệt ở các đô thị lớn của cả nước, càng trở nên phức tạp. Hạ tầng giao thông không theo kịp với sự phát triển của kinh tế – xã hội đã dẫn đến sự ách tắc giao thông và đặc biệt đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng mà nhắc đến con số người chết và bị tàn tật do tai nạn giao thông gây ra, ai cũng thấy bàng hoàng. Vì thế, vấn đề an toàn giao thông đã trở nên cấp bách. Mọi thành phần trong xã hội hầu như tham gia giao thông trong đó có tuổi trẻ học đường. Vậy tuổi trẻ học đường sẽ ứng xử như thế nào về vấn đề này? Văn hóa, xét cho cùng là giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo thể hiện mối quan hệ, lối ứng xử, biểu hiện văn minh giữa con người với người. Văn hóa giao thông là biểu hiện lối ứng xử “đẹp" giữa những n tham gia giao thông trong cộng đồng xã hội. Giao thông trở nên rối loạn r không có cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ, hoặc khi tín hiệu đèn không có do mất điện. Va quẹt nhau một tí, không thấy lời xin lỗi nhau mà chỉ c' văng tục, gườm nhau… Tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, giao thông kh đúng luật lệ và cả việc thiếu ý thức giữ gìn vệ sinh công cộng vẫn diễn đặc biệt ờ các đô thị lớn, các bến tàu, xe, nơi sinh hoạt đông người. Biết bao lần người ta nói đến việc nhân viên xe buýt hành hung Báo Pháp luật đưa tin Ngày 14-3, Công an huyện Cái Bè cho biết đang đ tra làm rõ vụ một nhân viên xe buýt Nhật Long Cư đã hành hung một hành khách trọng thương chỉ vì… 1.000 đồng. Đó chỉ hành vi côn đồ, vô giáo dục phải kể đến là xe tải nặng “đánh võng” như xiếc trên xa lộ. Nào là người khoẻ mạnh giành đường với người khuyết tật. Chàng thanh niên sang trọng, cô gái xinh đẹp cứ dửng dưng đứng ngán ngữ ở đầu xe cứu thương, xe tang dù phía sau xe còi báo động xin đường inh ỏi,… và nhiều hình ảnh khác đã làm nhói lòng những ai yêu cái đẹp trong đời sống con người! Và, những tai nạn giao thông từ những cuộc đi “bão" mà người ta dùng chỉ những loại người bất hảo ưa trờ tốc độ một cách vô lí đã làm mất đi những công dân lương thiện đang tham gia giao thông. Hiện nay, một tình trạng xảy ra khá phổ biến là người vi phạm khi bị xử phạt dễ dàng chấp nhận việc nộp phạt, thậm chí chuẩn bị tư tưởng và tiền phạt để đi cho thật nhanh. Điều này cho thấy biện pháp xử lí hành chính hiện nay và hình thức xử phạt chưa đủ mạnh tay để răn đe người vi phạm Phương tiện đi lại, thời gian và công ăn việc làm rất quan trọng đối với mọi người, vì vậy chúng ta cần nhắm vào điểm này để buộc người điều khiển phương tiện tham gia giao thông luôn “thường trực ý thức” mỗi khi tham gia giao thông. Đáng buồn hơn, những người đi xe máy, xe đạp và đi bộ này luôn tồn tại tâm lí các phương tiện giao thông lớn phải “sợ” và “nhường xe nhỏ hơn và nếu xảy ra tai nạn, lỗi luôn thuộc về các phương tiện lớn hơn. Nhìn toàn cảnh bức tranh giao thông đường bộ những tháng gần đây, chính chúng ta cũng phải ngán ngẩm lắc đầu và sợ hãi chứ chưa kể đến người nước ngoài. Vì vậy, vấn đề là phải thượng tôn pháp luật và ý thức của con người. Tuổi trẻ học đường – đối tượng có học vấn, được trang bị kiến thức và văn hoá nhiều phương diện trong đó có văn hoá giao thông. Ý thức đầu tiên là đi đúng luật quy định, đội nón bảo hiểm, không lạng lách, gương mẫu và tuyên truyền mọi người cùng ý thức về một hình ảnh có văn hoá trong giao thông Việt Nam. Đề cao lòng tự tôn dân tộc từ những việc nhỏ trong đó có văn hoá giao thông. Nâng cao ý thức của người dân khi tham gia giao thông. Đây chính là vấn đề cấp thiết nhất mà chúng ta cần phải làm ngay và nó cũng là vấn đề tiên quyết nhất trong "kế sách" giảm thiểu tai nạn giao thông hiện nay. Vậy chúng ta phải làm như thế nào để thức tỉnh ý thức, tinh thần trách nhiệm của người dân khi tham gia giao thông? Điều này liên quan đến mặt nhận thức của con người về hành động của họ để nhận ra phải – trái, đúng – sai. Nhận thức này được hình thành trên cơ sở nền tảng giáo dục mà đặc biệt là giáo dục cộng đồng, mà tuổi trẻ học đường cán phải góp phần thay đổi ý thức của người dân trong văn hoá giao thông. Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Bài làm 3 Những năm gần đây tai nạn giao thông xảy ra càng nhiều, tỉ lệ tử vong ngày càng cao nhất là những người trẻ tuổi. Là những học sinh, chúng ta có suy nghĩ và hành động như thế nào để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông? Tình trạng tai nạn giao thông ở nước ta đã đến mức báo động đỏ và đứng vào “thứ hạng cao” trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Theo thống kê, mỗi ngày nước ta có khoảng hơn 30 người chết vì tai nạn giao thông. So sánh với thảm họa sóng thần Nhật Bản thì số người chết vì tai nạn giao thông ở nước ta bằng 75% người chết vì thảm họa sóng thần. Còn so sánh với cuộc chiến U-crai-na chống quân li khai đã cướp đi sinh mạng của trên 500 binh lính và người dân, hay cuộc chiến chống lực lượng hồi giáo cực đoan IS có khoảng trên 11000 người chết. Việt Nam – một đất nước ở thời bình mà mỗi năm có đến 11500 người chết vì tai nạn giao thông. Một con số đáng để chúng ta suy ngẫm. Hậu quả mà tai nạn giao thông gây ra là vô cùng khủng khiếp. Nó đã cướp đi sinh mạng của biết bao người vô tội, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, đạp đổ bao nhiêu ước mơ, hoài bão, gieo rắc bao nhiêu nỗi kinh hoàng và ám ảnh cho mỗi chúng ta khi ra đường. Và hơn nữa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cái nhìn của bạn bè quốc tế về Việt Nam. An toàn giao thông kém đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước và nhất là ngành du lịch. Tai nạn giao thông trở nên tồi tệ, nhức nhói hơn bao giờ hết khi chính người tham gia giao thông không có ý thức tự giác đảm bảo đúng quy định an toàn khi điều khiển phương tiện giao thông trên đường. Một số người thiếu ý thức khi lạng lách, đánh võng, đua xe trái phép, vượt đèn tín hiệu, gây ảnh hưởng đến mọi người xung quanh. Bên cạnh sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người tham gia giao thông thì còn có những người biết luật nhưng lại cố tình vi phạm. Những hành vi sai trái này cần được lên án, phê phán và bài trừ triệt để. Đáng buồn hơn trong những người vi phạm luật an toàn giao thông là học sinh, sinh viên – những người được giáo dục, hiểu biết về giao thông nhất lại là người hay thờ ơ, thiếu ý thức nhất. Chính những sự dửng dưng, lơ là đó đã gây ra những hậu quả đáng tiếc. Ngôi trường THPT Nguyễn Thần Hiến của chúng ta trong những năm qua, các bạn đã thực hiện tốt những cam kết về an toàn giao thông, Đoàn trường cũng đã phát động nhiều cuộc thi để giúp các bạn nâng cao nhận thức về an toàn giao thông. Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn một vài bạn chưa nhận thức hết ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề này. Như các bạn đã biết, Luật giao thông nghiêm cấm dưới 18 tuổi chạy xe phân khối lớn, vậy mà vẫn còn một số bạn đi xe phân khối lớn đến trường, một số bạn còn có những hành vi thiếu văn hóa khi tham gia giao thông như lạng lách, đánh võng, vượt ẩu, dùng xe máy đẩy, kéo xe đạp. Khi tan trường các bạn còn dàn hàng ba, hàng tư làm cho đoạn đường từ cổng trường đến cầu Đồn Tả rất mất trật tự, thiếu sự an toàn, làm mất đi hình ảnh người học sinh dưới mái trường THPT Nguyễn Thần Hiến thân yêu này. Các bạn thân mến! Là một học sinh mỗi người chúng ta cần phải xem xét lại toàn bộ hành động của mình khi tham gia giao thông. Mỗi chúng ta cần phải có ý thức tự giác chấp hành nghiêm chỉnh Luật an toàn giao thông. Bắt đầu từ những việc đơn giản nhất như: đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, đi đúng phần đường, làn đường của mình, không đánh võng, lạng lách, không điều khiển xe phân khối lớn khi chưa đủ tuổi và chưa có giấy phép lái xe,… Những việc làm tưởng chừng rất đơn giản này cũng góp phần đảm bảo an toàn giao thông cho chúng ta và mọi người xung quanh. Việc làm nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn, chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực chung tay vì một ngày mai tươi sáng không còn tai nạn giao thông. Sự giúp đỡ, chung tay của mọi người không bao giờ là muộn và vô ích. Đất nước sẽ trở nên tốt đẹp hơn khi chúng ta thay đổi cái nhìn, thái độ và hành động của mình theo hướng tích cực và ý nghĩa, điều này phải phụ thuộc vào mỗi công dân đang sống trên mảnh đất quê hương Việt Nam, nhất là các bạn thanh niên, học sinh chúng ta. Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Bài làm 4 Cuộc chiến tai nạn giao thông – không ai là người ngoài cuộc! Tai nạn giao thông đã và đang là vấn đề nóng hổi cũng là mảng tối trong bức tranh giao thông đòi hỏi cả xã hội phải có một cuộc chiến thực sự với nó. Đi khắp các nẻo đường, khẩu hiệu An toàn giao thông là hạnh phúc của mọi nhà như là lời nhắc nhở cũng là lời cảnh báo với những người tham gia giao thông hãy chấp hành nghiêm túc luật giao thông để đem lại an toàn cho mình và hạnh phúc cho mọi người.Đâu không phải là một chính trị gia, một nhà kinh tế, một nhà khoa học, một bác sĩ hay một kĩ sư nhưng bạn và tôi, mỗi học sinh chúng ta hoàn toàn có thể góp phần nhỏ bé vào việc đẩy lùi hiểm họa ấy vì sự bình yên của mỗi người, mỗi gia đình và của toàn xã hội. Bạn đã bao giờ tận mắt chứng kiến tai nạn giao thông — Điều đang xảy ra hằng ngày, hằng giờ trên đất nước chúng ta? Bạn đã bao giờ bực bội trước sự hỗn loạn của giao thông mà bất lực vì mình chẳng thay đổi được gì? Tôi tin chắc câu trả lời là “có”. Tất cả chúng ta đều phải thừa nhận một thực trạng đau xót: tai nạn giao thông là một điểm đen trong bức tranh giao thông phức tạp ở Việt Nam hiện nay. Theo số liệu thống kê, số vụ tai nạn giao thông ở Việt Nam trong những năm qua không ngừng tăng cùng với lưu lượng xe gắn máy di chuyển ngày càng nhiều. Thật khủng khiếp khi chúng ta biết rằng số người chết do tai nạn giao thông lớn hơn nhiều so với số người chết do bão lũ. Có gì đáng tự hào đâu khi Việt Nam nằm trong nhóm nước đứng đầu thế giới về số vụ tai nạn giao thông? Có gì để tự hào đâu khi phần lớn các vụ tai nạn giao thông dều do những người Việt trẻ gây ra? Nguyên nhân của thực trạng đáng buồn ấy, trước hết là từ ý thức của những người tham gia giao thông. Họ chưa biết quý trọng bản thân, chưa nhận thức đầy đủ sự nguy hiểm của nhừng hành vi vi phạm luật lộ giao thông, mà khi hối tiếc thì sự thể đã muộn. Vì thế, đi trên đường họ nghênh ngang, coi thường, không chấp hành luật giao thông. Bạn đừng giật mình khi tôi nêu ra một vài con số sau đây: 80% số người tham gia giao thông không dùng đòn báo khi chuyến hướng, 85% không đùng còi dũng luật quy định, 70% không dùng phanh tay, 90% không dùng đèn chiếu xa và rất rất nhiều người dội mũ bảo hiểm kém chất lượng hoặc không đúng quy cách nhằm đôi phó với lực lượng công an. Và bạn sẽ lại giật mình nữa khi nhận thấy người thân của chúng ta cũng vi phạm những lỗi như vậy một cách rất “hồn nhiên”. Bên cạnh đó, tai nạn giao thông còn xảy ra do ý thức thấp kém của những người chỉ vì lợi ích cá nhân mà bất chấp sự an toàn tính mạng của người đi đường. Ti vi, báo chí đã nhiều lần cảnh báo việc rải đinh trên đường quốc lộ làm người đi xe trên đường bị tai nạn dẫn đến thương tật hoặc tử vong. Đó là một thực tế đau lòng mà chúng ta không thể phủ nhận. Trên cái nền chung ấy, thực trạng tham gia giao thông của tuổi trẻ học đường ra sao? Chúng ta vui mừng trước việc ý thức tham gia giao thông của học sinh chúng ta ngày một nâng cao. Nhiều hoạt động, nhiều lời kêu gọi về an toàn giao thông đã được các bạn nhiệt tình hưởng ứng. Song bên cạnh đó, vẫn có những hiện tượng khiến chúng ta phái suy nghĩ. Chắc chắn bạn cũng như tôi đã từng chứng kiến cái cảnh cÔng trường giờ tan học bị mắc kẹt. Từng nhóm bạn chờ nhau, tụ tập nói chuyện, mặc bác bảo vệ ra sức giải tán, mặc người đi đường la lôi, nhắc nhở. Rồi khi đi trên đường, mặc cho mật độ giao thông vốn đã dày đặc, chúng ta dàn hàng ba, hàng bốn nói chuyện ầm I, mải mê đến mức quên cả xung quanh. Có những bạn đã bị tai nạn vì thiếu tập trung chú ý vào việc đi đường. Ngoài ra, chúng ta còn bát gặp những hiện tượng nổi cộm khác. Do điều kiện kinh tế khá giả, học sinh đi xe gắn máy đến trường dù chưa đủ tuổi được cấp giấy phép lái xe. Khi đi xe, nhiều bạn vưọt đèn đỏ, chở quá số người quy định, phóng nhanh lạng lách, quẹt lửa chân chống, “tráng trứng” trên đường,… Khi xảy ra va chạm giao thông thì có thái độ hung hăng, sẵn sàng gây gổ đánh nhau, bất chấp phải trái. Đặc biệt, một vấn nạn nhức nhối là hiện tượng các “anh hùng xa lộ” lập phi đội bay, sắn sàng đánh cược với tính mạng của mình. Nguyên nhân của tình trạng này không chỉ do ý thức của mỗi học sinh mà còn do đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi: bồng bột, ham vui, thích ra oai, thích thể hiện “cái tôi”. Tại sao bạn lại đánh dổi mạng sông của mình, để bốc đầu ra oai với bạn bè? Tại sao bạn lại đánh đối mạng sống của mình để lạng lách phóng nhanh, vượt ẩu chỉ vì một lời khích bác? Bạn ơi, Đó đâu phải cách tuyên xứng “cái tôi” cá nhân của mỗi người. Cái tôi của chúng ta được khẳng định bằng những dạng thức khác: bằng học tập, bằng tính cách chân thành, cởi mớ, nhiệt tình, ham học hỏi, … Và bạn sẽ đẹp dần lên trong mắt mọi người. Thực trạng giao thông Việt Nam nói chung và của nhiều bạn học sinh nói riêng đang gióng lên một hồi chuông khẩn thiết yêu cầu bạn và tôi, chúng ta cùng phải nhập cuộc và hành động. “Một cây làm chẳng nên non” nhưng “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Chỉ cần bạn thấy đau trước tai nạn giao thông, chỉ cần trong bạn vang lên tiếng nói của trách nhiệm, bạn hoàn toàn có thể tham gia giảm thiểu tai nạn giao thông bằng những việc làm thiết thực. Trước hết, mỗi chúng ta phải nắm vững luật giao thông, tôn trọng và chấp hành nghiêm túc luật giao thông. Bạn không chỉ là người thực hiện tốt mà hãy là một tuyên truyền viên tốt nữa, nhắc nhở chính bố mẹ, người thân, bạn bè nếu họ vi phạm, làm gương cho các em nhỏ tuổi hơn… Ngoài ra, bạn có thể tham gia các phong trào tìm hiểu về an toàn giao thông, phong trào tình nguyện trong giao thông. Một giọt nước không làm nên biển cá nhưng vô số giọt nước sẽ tạo thành đại dương. Chỉ cần tất cá chúng ta hợp sức, tôi có lòng tin vào sự chuyển biến tích cực của bức tranh giao thông Việt Nam Bản thân tôi cũng từng dàn hàng ngang đi trên đường khi tan học về và đã phải bó bột suốt hai tuần liền. Tôi tự thấy mình may mắn vì vẫn còn cơ hội để hối hận và sửa chữa sai lầm. Nhưng có bao nhiêu người đã không còn cơ hội để hối hận và làm lại nữa. Vậy thì bạn ơi, để không bao giờ phải thốt lên “nếu như “giá như bạn hãy nâng cao ý thức trách nhiệm khi tham gia giao thông nhé. Tôi rất tâm đắc với câu nói: “Ngày mai bắt đầu từ chính ngày hôm nay, tương lai bắt đầu từ chính hiện tại”. Bức tranh giao thông hôm nay và ngày mai phụ thuộc rất nhiều vào tuổi trẻ học đường – những chủ nhân tương lai của đất. nước. Vì vậy, chúng ta bằng sức trẻ và nhiệt huyết, hãy hành động thiết thực để đem lại khoảng sáng cho giao thông Việt Nam. Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Dàn ý 1. Mở bài – Một trong những hiện tượng đời sống đã, đang trở thành mối quan tâm không chỉ của riêng một quốc gia nào: đó là hiện tượng TNGT. – Tuổi trẻ học đường là một trong những lực lượng tham gia giao thông thường xuyên và đông đảo nhất trong hiện tại cũng như trong tương lai. Hơn ai hết, đây là lực lượng cần có nhận thức đúng đắn và hành động tích cực để góp phần giảm thiểu TNGT. 2. Thân bài a) Giải thích hiện tượng – Giao thông có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống. Đây là một trong những lĩnh vực đời sống có liên quan đến toàn thể xã hội bởi không ai không có nhu cầu đi lại, học tập, làm ăn, sinh sống. An toàn hay tai nạn khi tham gia giao thông có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống từng cá nhân, mỗi gia đình và cả xã hội. b) Phân tích vấn đề (1) Hiện trạng: Tai nạn giao thông là quốc nạn ở nước ta hiện nay – Tai nạn giao thông xảy ra ở mọi địa phương, vùng miền trên địa bàn cả nước: nông thôn, miền núi, thành phố. – TNGT diễn ra ở mọi loại hình giao thông: đường bộ, đường thuỷ, đường không, đường sắt. – TNGT ở tất cả các phương tiện từ thô sơ đến hiện đại: xe đạp, xe máy, ô tô… – Tất cả các đối tượng tham gia giao thông đều bị tai nạn giao thông: trẻ em, thanh niên, người già, người Việt Nam, người nước ngoài… (2) Hậu quả đối với cá nhân, gia đình, xã hội. – Cá nhân thiệt hại về tài sản, sức khoẻ, nhẹ thì khả năng lao động suy giảm, nặng thì mất khả năng lao động thành gánh nặng cho người thân, thậm chí thiệt mạng. – Gia đình có người bị TNGT cũng vậy, không chỉ thiệt hại về kinh tế mà còn chịu tổn thất về tinh thần: có không ít gia đình, cha mẹ bị TNGT không còn sức lao động nên con cái phải bỏ học, lao động tự kiếm sống và nuôi dưỡng cha mẹ; cha mẹ mất vì tai nạn trở thành trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, mất đi mái ấm…; cũng có những gia đình mất con do TNGT mà sống những ngày còn lại của cuộc đời trong đau khổ, bất hạnh khôn cùng. – Xã hội cũng phải gánh chịu những thiệt hại không kém: chi phí chữa bệnh cho người TNGT, an ninh, trật tự xã hội không ổn định… Những vụ TNGT xảy ra với người nước ngoài ảnh hưởng không nhỏ đến cách nhìn của bạn bè thế giới về Việt Nam. Thiện cảm, lòng tin của khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường du lịch và đầu tư Việt Nam chắc chắn có thay đổi… VD: Theo thống kê của Cục Cảnh sát Giao thông Đường bộ – Đường sắt, chỉ trong ba tuần đầu tiên sau Tết Đinh Hợi, trên địa bàn cả nước xảy ra 1090 vụ TNGT, làm chết tới gần 800 người và bị thương 1150 người. Tình trung bình mỗi ngày cả nước xảy ra 78 vụ, hơn 57 người chết và hơn 82 người bị thương. – Trong đó, vấn đề đáng lo ngại nhất khi tham gia giao thông hiện nay: hiện tượng vi phạm pháp luật trong thực hiện an toàn giao thông diễn ra thường xuyên mà chưa có giải pháp thực sự hiệu quả. (3) Nguyên nhân cơ bản – Chất lượng các công trình giao thông xuống cấp nghiêm trọng. Đầu tư của Nhà nước cho xây dựng cơ bản trong giao thông chưa có tầm chiến lược, manh mún, chưa tập trung, giao thông ở các đô thị cũng hay lấp mai đào, đường phố lúc nào cũng như công trường… – Chất lượng các phương tiện tham gia giao thông chưa được kiểm định, quản lí chặt chẽ. – Nhận thức, ý thức của người tham gia giao thông còn rất hạn chế: thiếu hiểu biết cơ bản về luật an toàn giao thông, đi xe không đội mũ bảo hiểm, không bằng lái, phóng nhanh vượt ẩu, lạng lách, đua xe tốc độ. – Việc ban hành các văn bản pháp quy về an toàn giao thông của các cấp quản lí chưa thực tế, chưa có tính khả thi; việc xử lí người vi phạm an toàn giao thông chưa nghiêm khắc, thậm chí người thi hành cũng vi phạm pháp luật. (4) Biện pháp Khó có thể chấm dứt TNGT nhưng hạn chế ở mức thấp nhất, giảm thiểu hiện tượng này là hoàn toàn có thể. Đây là trách nhiệm của toàn xã hội đặc biệt là HS, SV. – Trước hết, cần tự trang bị những hiểu biết cơ bản về ATGT. – Tự giác thực hiện an toàn trong quá trình tham gia giao thông. – Có trách nhiệm tuyên truyền cộng đồng, người thân, vận động bạn bè, giáo dục các em nhỏ thựchiện đúng pháp luật ATGT. – Tích cực đấu tranh, tố giác hiện tượng vi phạm nghiêm trọng phát luật trong thực hiện ATGT ở người tham gia giao thông, người quản lí về an toàn giao thông. – Nhiệt tình tham gia các hoạt động tình nguyện giữ trật tự an toàn giao thông ở nơi cư trú, học tập trong những giờ cao điểm… c) Bài học nhận thức và hành động – Nhận thức: Chấp hành luật an toàn giao thông và phòng tránh TNGT là trách nhiệm, nghĩa vụ của tất cả mọi người để cuộc sống luôn được bình an, vui vẻ. – Hành động: chúng ta ngay bây giờ hãy tích cực tham gia các hoạt động thiết thực do Đoàn trường tổ chức để tuyên truyền luật giao thông cho mọi người và gia đình, chấp hành nghiêm luật giao thông, đội mũ khi đi xe gắn máy. Không phải thực hiện theo cách đối phó mà hãy thực hiện vì chính sự an toàn của bản thân mình. 3. Kết bài Tai nạn giao thông là một vấn đề bức bách cần giải quyết. Vấn đề này cần sự ý thức trách nhiệm và hành động cụ thể của từng cá nhân trong xã hội này để giảm thiểu tối đa tình trạng tai nạn giao thông, góp phần đem lại sự bình yên cho mỗi ngôi nhà Việt.
Suy nghĩ và hành động của tuổi trẻ học đường để góp phần giảm tai nạn giao thông – Văn mẫu lớp 11
5,204
Suy nghĩ về bạn và chọn bạn – Văn mẫu lớp 12 Sống trong xã hội hầu như người nào cũng có bạn hữu. Có bạn tốt và có bạn xấu. Bạn tri âm, bạn tri kỉ, bạn chí thân… là nói về bạn tốt.. Trái lại có loại bạn sớm nắng chiều mưa, có kẻ lừa thầy phản bạn, khi vui thì bạn lúc hoạn nạn thì hết bạn! Khổng Tử chia bạn tốt ra làm ba loại: bạn chính trực, bạn biết giữ chữ tín, bạn có kiến thức uyên bác. Đó là những con người thắng thắn khuyên ngăn những sai lầm, khiếm khuyết của bạn, không bao giờ sai hẹn, sai lời, lúc hoạn nạn, khó khăn, lúc vui, buồn, lúc sống, chết đều có nhau; bạn có văn hóa, có học vấn, từng trải, có thế giúp ta mở mang kiến thức, vươn lên một tầm văn hóa mới: thành người có học và có hạnh, một nhân cách văn hóa. Câu chuyện cổ, vở chèo cổ rất được nhân dân ta yêu thích mang tên Lưu Bình – Dương Lễ ca ngợi tình bạn đẹp thủy chung như thế. Nhà thơ Chính Hữu có bài thơ Đồng Chí nói về thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954) từng gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau cùng chung lí tưởng chiến đấu cao cả. Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ… .. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Trong cuộc sống, có nhiều tình bạn rất đẹp: giúp nhau công việc, vốn liếng làm ăn, vượt qua số phận, vượt qua đói nghèo, vươn lên làm giàu. Có nhiều thu tình bạn: bạn đồng học, bạn tuổi thơ, bạn đồng hương, bạn đồng khoa, bạn đồng tuế Bạn tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên của thời áo trắng là thật đẹp. đáng tự hào. Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và Tiến sĩ Dương Khuê là hai bạn đồng khoa cuối thế ki XIX. Đọc bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến, ai cũng cảm động về một tình bạn thủy chung: Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước, Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau, Kinh yên từ trước đến sau, Trong lúc gặp gỡ khác đâu duyên trời. Khổng Tử cùng chia bạn xấu làm ba loại: bạn chỉ biết khua môi múa mép, bạn miệng nam mô bụng bồ dao găm, bạn chỉ ba hoa nói mà không làm. Đó là những ké đạo đức kém, hai mặt tráo trở, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, bán rẻ bạn bè cho quỷ dữ. Tục ngữ có câu: “Tin bạn mất vợ, tin bợm mất bò”. Bạn xấu nhan nhản khắp nơi; loại bạn này đáng sợ lắm! “Buôn có bạn, bán có phường”, “Ra đi vừa gặp bạn hiền /Sướng bằng ăn quả đào tiên trên trời". Bạn hiền là bạn tôt. Trong cuộc đời, ta không nên tin và kết bạn với những người chỉ biết nói mà không hề làm, chỉ biết đàn đúm vui chơi hưởng lạc, thấy lợi quên bạn, “tham vàng bỏ ngãi”, khi bạn gặp bất hạnh thì ngoảnh mặt làm ngơ, thậm chí còn ngấm ngầm hại bạn. Kết giao bạn bè có quan hệ rất lớn đến sự trưởng thành, đến sự thành bại trong sự nghiệp. Tuổi thơ được sống trong tình bạn đẹp, được kết giao với bạn tốt mà trở nên chăm ngoan, học giỏi. Nếu giao du với bạn xấu thì sớm muộn cũng trở thành ăn chơi đua đòi, nhác học, trốn học, bỏ học, thành học sinh hư, cá biệt. “Gần mực thì đen" là điều tất cần biết, cần nhớ. Hậu quả của việc chơi với bạn xấu, kết giao với bạn xấu thật đáng sợ. Có người bị bạn xấu lừa mà bị tổn thất tài sản, trắng tay. Có người chơi với bạn xấu mà dấn sâu vào vòng tù đày, tội lỗi. Có người không thận trọng khi kết bạn mà bị bạn lừa, tan nát cả gia đình, thậm chí mất cả mạng sống của mình. A dua theo bạn xấu là không nên. Phái tránh xa những kẻ “ngưu tầm ngưu, mã tầm mă”. Có trải qua hoạn nạn, khó khăn, ta mới phân biệt được bạn xấu, bạn tốt, bạn hiền, bạn thủy chung… Bước vào đời, không ai có thể sống cô đơn, cô độc, cần được sum vầy, trong bạn bè. Người xưa có nhắc: “Phải quảng giao để tìm tri âm, tri kỉ”, để được sống hạnh phúc, cổ ngữ có câu: “Nhân sinh, đắc nhất tri kì, túc hi", nghĩa là trên đời mà có được một người bạn tri kỉ, thế là đủ”. Có phải vi thế mà Nguyễn Sưởng, một danh sĩ thời Trần đã viết: “Trải qua biển hồ mười năm mà ít tri kỉ’’ (Hồ hải thập niện tri kĩ thiểu). Đó là sự thật, vì ở khắp mọi nơi, sỏi, đá thì nhiều mà vàng, ngọc thì ít! Chọn bạn mà học hành, làm ăn. Chọn bạn để được sống hạnh phúc trong tình người. Một vấn đề, một việc rất hệ trọng, không đơn giản.
Suy nghĩ về bạn và chọn bạn – Văn mẫu lớp 12
879
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ về câu nói: Học, quý ở sự kiên trì – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Suy nghĩ về câu nói: Học, quý ở sự kiên trì – Bài làm 2 Suy nghĩ về câu nói: Học, quý ở sự kiên trì – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Sự học như cái chìa khóa mở mọi kho tàng. Kho tàng đó là tri thức của nhân loại như biển cả mênh mông. Nhưng phải học hành như thế nào? Có ý kiến cho rằng :"Học, quý ở sự kiên trì". Kiên trì là bền bỉ, là nỗ lực vươn lên, vượt lên, không thay đổi ý định, ý chí, dù có gặp nhiều khó khăn, thử thách. Gần nghĩa với kiên trì là kiên nhẫn, kiên tâm, bền lòng, bền chí, nhẫn nại … "Kiên trì và nhẫn nại, Không chịu lùi một phân. Vật chất tuy đau khổ, Không nao núng tinh thần." (Nhật kì trong tù – Hồ Chí Minh) Kiên trì là một đức tính tốt, một phẩm chất tốt. "Học, quý ở sự kiên trì" là một ý tưởng sâu sắc, một bài học quý giá để ta suy ngẫm và rèn luyện. Tại sao, học, quý ở sự kiên trì ? Bể học rộng mênh mông, kiến thức về khoa học kĩ thuật, kiến thức về xã hội nhân loại là bao la. Sự hiểu biết của con người có giới hạn nhất định. Muốn mở mang vốn kiến thức thì phải cần cù siêng năng học tập, phải bền bỉ kiên trì trong nhiều năm tháng. Phải học hỏi suốt đời. Phải nỗ lực và quyết tâm cao mới có thể vượt qua mọi khó khăn trở ngại (khách quan, chủ quan). Có khi là sức khỏe. Có khi do hoàn cảnh kinh tế. Có lúc do điều kiện trường lớp mở nơi xa xôi….Nếu không kiên trì thì làm sao có thể vươn lên học giỏi, học tốt được? Về thời gian, trong học tập cũng phải chịu khó, chịu khổ, kiên trì. Các nho sinh ngày xưa phải "thập niên đăng hỏa", phải thức khuya dậy sớm "dùi mài kinh sử", "nấu sử sôi kinh" mới có thể thành ông Nghè, ông Cống. Tú Xương sau "tám khoa chưa khỏi phạm trường quy" đã phải chua chát thốt lên :" Học những sôi cơm nhưng chửa chín/ Thi không ăn ớt thế mà cay!" Nguyễn Khuyến hiếu học nhưng nhà nghèo. Vừa đánh giậm kiếm tiền ăn học. Vừa làm thầy đồ vừa tự học. Năm 1864 thi Hương, ông đỗ thủ khoa trường Hà Nội lúc 29 tuổi. Các khoa thi Hội sau đó (1865, 1868, 1869) đều bị rớt. Mãi đến năm 1871, mới chiếm được bẳng vàng, 37 tuổi mới trở thành "Tam nguyên Yên Đổ". Nếu không kiên trì học tập, nếu không khổ học, khổ luyện thì làm sao thành vẻ vang " Cưỡi đầu người kể đã ba phen" như thơ ông ghi lại? Làm bất cứ công việc gì cũng phải kiên trì. "Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên" (Hồ Chí Minh). Nhưng, "Học, quý ở sự kiên trì". Có kiên trì mới nâng cao được nghị lực, bản lĩnh, mới khơi dậy và phát triển trí thông minh sáng tạo, mới vươn lên "học một biết mười" và trở nên tài giỏi. Nói, "Học để làm người", muốn thế, tuổi trẻ chúng ta phải kiên trì, nêu cao tinh thần vượt khó trong học tập. Có kiên trì học tập mới có thể "mài sắt nên kim", sớm trở nên tài giỏi để cống hiến cho sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa của đất nước. Suy nghĩ về câu nói: Học, quý ở sự kiên trì – Bài làm 2 Người quý ở chỗ có chí, học quý ở việc kiên trì đây là đạo lí được con người đúc kết sau hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, tiến hóa, thể hiện sâu sắc một điều: Cái đáng quý trọng nhất trong mỗi con người là ý chí, chí hướng và trong những điều khó học thì tinh thần kiên trì là cái khó học nhất. Trên thế gian này không phải ai cũng học được tinh thần đó, trong những người có ý chí kiên trì nổi tiếng nhất phải nói đến Mark, ông có một nghị lực phi thường và tính kiên trì vô song. Ông nói: “Trên con đường nghiên cứu khoa học không bao giờ có con đường bằng phẳng, chỉ những người không sợ gian khó, quyết tâm vượt đèo, vượt ải mới mong đến ngày lên đỉnh vinh quang”. Lỗ Tấn cũng là người xuất chúng trong lĩnh vực văn học, đấy là nhờ tinh thần khắc khổ trong học tập của ông, ông luôn luôn bồi dưỡng cho mình tinh thần kiên định bất khuất. Ông từng nói: “Tôi đâu phải là thiên tài, tôi chỉ biết dành thời gian mà mọi người uống cà phê để dồn vào công việc, người biết cách sắp xếp và tiếc thời gian có nghĩa là sự sống được kéo dài hơn”. Beethoven sở dĩ thành nhạc sĩ nổi tiếng thế giới vì ông có tính kiên trì vô song, không sợ gian khó, không sợ mệt nhọc, như lời ông nói: “Không một ngày nào tôi không cầm bút, nếu có lúc tôi để thần nghệ thuật ngủ cũng chỉ vì muốn rằng sau khi vị thần tỉnh dậy sẽ làm hăng hái hơn mà thôi”. Nhưng có một số người không hiểu được đạo lí “học quý ở chỗ chuyên cần”, họ cho rằng ngày nào cũng học và học thì cuộc sống quá đơn điệu, nhạt nhẽo, vô vị. Còn có người lại nuôi lí tưởng vô cùng lớn, nhưng họ lại không thực hiện được vì họ thiếu kiên trì. Trong tác phẩm Quintus Horatius Flaccus, tác giả người Pháp đã khắc họa một nhân vật điển hình: “Anh ta có lí tưởng, từng lớn tiếng nói năng với mọi người về ý chí của mình, thậm chí trong giấc mơ anh ta cũng theo đuổi niềm đam mê, ước mơ đó. Nhưng một khi bắt tay vào hành động thực tế, hễ gặp khó khăn là anh ta bó tay bất lực. Hễ gặp thất bại là anh ta liền nản lòng, thối chí, gục hẳn không thể đứng lên được. Trong học tập thì sớm mưa chiều nắng, có hôm thì chong đèn đến sáng rồi nghỉ liên tiếp mười mấy ngày mới học lại. Cuối cùng tuổi già ập đến, không làm nên trò trống gì, chỉ người biết kết hợp lí tưởng với thực tế, có lí tưởng nhưng phải bắt đầu từ những bước chân thực của mình xuống đất này và phải biết kiên trì đến phút cuối mới mong gặt hái được thành công”. Tuân Tử nói: “Cứ dùi mài, không biết ngừng nghỉ, không nản chí thì vàng đá cũng phải xuyên thủng, nếu mới dùi mà liền bỏ cuộc thì dù đó là gỗ mục cũng khó mà xuyên qua”, điều mà ông muốn nhắn nhủ chúng ta chính là ý này. Quá trình học tập là quá trình không ngừng khắc phục khó khăn, giải quyết mâu thuẫn, nó cũng giống như hai đội quân giao chiến, không kiên trì đến giây phút cuối cùng thì sẽ đánh mất hết những công lao mình đã lập nên trước đây và thất bại thảm hại. Tri thức khoa học cũng giống như kho báu không bao giờ vơi cạn của tự nhiên, nó cần được con người khám phá phát hiện, hấp thụ những điều bổ ích trong đó. Vô số sự thực chứng minh rằng, người theo đuổi sự nghiệp học hành không bao giờ có bước nhảy vọt mang tính đột biến, chỉ có con đường duy nhất là chịu khó tích lũy dần, có như thế mới gặt hái thành công. Trong sự nghiệp học hành và trong lĩnh vực nghệ thuật cũng vậy, điều chúng ta nhận thấy là, nếu Da Vanci không bắt đầu nghiệp vẽ của mình từ việc vẽ trứng gà, khổ luyện kĩ năng cơ bản, thì ông không thể đạt đến đỉnh cao trong lĩnh vực nghệ thuật hội họa. Trước đây, tôi chưa hiểu nhiều ý nghĩa câu nói “học quý ở chỗ kiên trì”. Tôi từng là tên lính thất bại trong lĩnh vực học tập, từng làm tù binh trong chiến trường tri thức. Ví dụ như trong lĩnh vực học ngoại ngữ, tôi muốn học ngoại ngữ thật tốt để sau này góp chút sức mọn của mình làm chiếc cầu nối cho mọi người với bạn bè quốc tế. Khi mới bắt đầu học, tôi như con chim nhạn đang bay vút cao trên bầu trời, nhưng khi bắt tay vào học cụ thể tôi cảm thấy mình như bị rơi tõm xuống vực, lúc nóng, lúc lạnh, lúc quá siêng năng, lúc thì quá lười cuối cùng học được bao nhiêu lại quên bấy nhiêu. Siêng học vài ba hôm lại bỏ vài ba tuần, thế là khi siêng năng trở lại đã quên hết và phải học lại từ đầu. Thất bại đã cho tôi bài học, tôi bắt đầu lập chí, kiên trì đến cùng, không cúi đầu trước khó khăn. Sau mấy năm nỗ lực học tập, tôi thấy thành tích tôi lên dần, từ đó tôi hiểu thêm ý nghĩa câu nói: “học quý ở chỗ siêng năng”. Tôi nhận thức sâu sắc rằng: chiếc thuyền chở thành công chỉ bơi được trong biển mồ hôi mà siêng năng của chúng ta đã đổ xuống, bí mật khó tiếc lộ nhất của những người thành công là siêng năng. Bất kì một mục tiêu cao xa nào, bất kì một thắng lợi vĩ đại nào, đều bắt đầu từ những bước chân ngắn ngủi, thành tích nhỏ bé của mình. Một người có tinh thần kiên trì đến cùng với công việc mình theo đuổi thì cuối cùng nhất định sẽ thành công, nhất định đá phải nát, vàng phải phai vì sự kiên trì của mình. Cuộc đời công bằng như thế đó, thắng lợi đều thuộc về người có lòng kiên trì.
Suy nghĩ về câu nói_ Học, quý ở sự kiên trì – Văn mẫu lớp 9
1,721
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 1 2 Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 2 3 Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 3 4 Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 4 Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 1 Tình thương là một phẩm chất, một đức tính quý báu của con người. Từ ngàn xưa, nhân loại đã lấy tình thương làm cơ sở để xây dựng cộng đồng. Tình thương gắn kết mọi người lại thành xã hội, nhỏ là làng xóm, lớn là đất nước. Tình thương là sức mạnh, là cội nguồn, là mục đích sống của con người. Nếu không có tình thương, con người sẽ sống ra sao? Để lí giải điều đó, một nhà văn Nga đã nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương”. Thật vậy, Trên Trái đất có hai nơi lạnh nhất, đó là Bắc Cực và Nam Cực quanh năm băng giá, tuyết phủ, gió gào. Thiên nhiên hoang vu, thời tiết khắc nghiệt gây nhiều trở ngại cho cuộc sống của con người. Chỉ có rất ít động vật có sức chịu đựng cao mới chống chọi được cái lạnh ghê gớm đó. Còn đối với các nhà thám hiểm, các nhà khoa học nghiên cứu Bắc Cực thì cái lạnh cắt da cắt thịt là thử thách cam go mà họ phải có nghị lực, ý chí mãnh liệt mới vượt qua được. Tuy vậy, cái lạnh tê buốt của Bắc Cực cũng không đáng sợ bằng cái “lạnh” của nơi không có tình thương. Nói một cách khác, điều đáng sợ nhất là khi trong trái tim không còn hơi ấm của tình thương, nghĩa là không còn cảm xúc, không rung động trước niềm vui hay nỗi đau của người khác. Con người sống không có tình thương sẽ thờ ơ trước vẻ đẹp của đất trời, sẽ hững hờ trước sự sôi động của cuộc sống. Họ dửng dưng, vô cảm trước sự việc xảy ra xung quanh. Người không có tình thương thường có lối sống ích kỉ, thu mình lại trong vỏ ốc. Triết lí sống của họ là: “Mũ ni che tai”, “đèn nhà ai nấy rạng”, “an phận thủ thường”. Họ tự tách mình ra khỏi cộng đồng, vì thế mà cuộc sống của họ tẻ nhạt. Đối với những người sống vị kỉ, xã hội luôn quan tâm nhắc nhở và giáo dục họ. Người xưa từng khuyên nhủ: “Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân”. Ca dao đã khơi dậy tình thương yêu bằng câu: “Thương người như thể thương thân”; “Sông có khúc, người có lúc”; “Đông tay vỗ nên kêu”; “Không ai nắm tay suốt ngày tới tối”. Trong văn học cũng có nhiều tác phẩm phê phán những người không có “tình thương”. Mẹ con mụ dì ghẻ trong truyện cổ tích Tấm Cám đang tâm đày đọa và giết chết cô Tấm hiền lành để tranh quyền lợi. Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao cũng là một con người sống không có tình thương. Hắn là đại diện cho thế lực phong kiến thực dân chà đạp quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người. Bên cạnh việc phê phán những kẻ sống thiếu “tình thương”, văn học cũng ca ngợi, biểu dương những tấm lòng vàng. Bà cụ hàng nước trong truyện cổ tích Tấm Cám đã cưu mang cô Tấm. Chàng Thạch Sanh trong truyện cùng tên cũng hết lòng vị tha đối với Lý Thông- kẻ đã nhiều lần hãm hại chàng. Nguyễn Du xót xa thương cảm, đau đớn thốt lên lời thơ đứt ruột khi Thúy Kiều bị Tú Bà tra tấn: “Thịt da ai cũng là người, lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!”. Lục Vân Tiên với quan niệm của người quân tử: “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha” đã cứu mạng Kiều Nguyệt Nga bằng tấm lòng vị nghĩa vô tư “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Trong cuộc sống, cái tốt, cái xấu song song tồn tại, nhưng xu thế chung là bao giờ cái thiện cũng chiến thắng cái ác. Người tốt sẽ cảm hóa, thuyết phục được người xấu. Biện pháp giáo dục hiệu quả nhất là tác động vào “tình thương”, vào thiên lương của mỗi người. Con người muốn sống con ơi! Phải yêu đồng chí, yêu người an hem. (Tiếng ru- Tố Hữu) Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì sự phân biệt đẳng cấp, phân biệt giàu nghèo là điều không thể tránh khỏi, không thể phủ nhận. Nhưng những người giàu có cần thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo khổ. Những người khỏe mạnh, thông minh cần giúp đỡ, cưu mang những người yếu ớt, cơ nhỡ với tinh thần: “Lá lành đùm lá rách”; “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Cả xã hội cần mở rộng tấm lòng nhân ái, giúp sức hỗ trợ, đùm bọc bà con bị thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn, sẵn lòng giúp đỡ những người không may bị bệnh hiểm nghèo… Câu nói của nhà văn Nga ở một chừng mực nhất định nào đó có thể coi là phương châm sống đúng đắn. Thông điệp mà nhà văn gửi gắm đến mọi người là xin đừng vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Hãy chung tay xây dựng một mái ấm tràn đầy “tình thương” giai cấp, dân tộc và nhân loại. Sự chia sẻ và liên kết, sự nồng ấm của “tình thương’ sẽ làm cho băng giá của thói ích kỉ tan chảy, mỗi trái tim sẽ rạo rực tình yêu và sức sống. Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 2 Nhà thơ Tố Hữu từng viết: ” Người với người sống để yêu nhau” Câu thơ đã phần nào khái quát được quan niệm sống về tình yêu thương, sự cảm thông chia sẻ. Trái đất này sẽ như thế nào nếu không có tình yêu thương? Thấm thía khi ai đó nói rằng “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”. Như ta đã biết Bắc Cực là vòng cực Bắc của trái đất, nơi có khí hậu khắc nghiệt quanh năm lạnh giá, còn tình yêu thương là tình cảm thiêng liêng được tạo bởi sự gắn bó và trách nhiệm của con người với nhau. Nơi không có tình yêu thương là nơi con người không có sự gắn bó hòa hợp về tình cảm, không có trách nhiệm với nhau. Tư ” lạnh” trong hai vế có nghĩa khác nhau. Trước hết cái lạnh ở Bắc cực là cảm giác của con người khi nhiệt độ hạ thấp còn ” lạnh” ở nơi không có tình thương là cảm nhận của con người khi không tìm được mối liên hệ giữa mình với người xung quanh. Họ cảm thấy cô đơn, giá lạnh trong tâm hồn. Ý nghĩa của câu nói trên: Tình yêu là hơi ấm xua tan lạnh giá, giúp con người có nghị lực chống trọi với mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống. Câu nói trên có ý nghĩa vô cùng sâu sắc bởi thực tế con người luôn có khả năng chống trọi với mọi điều kiện khắc nghiệt của thời tiết. Bắc cực cũng chưa phải là nơi lạnh nhất vì ở đó con người và động vật vẫn có thể sinh sống, tồn tại. Nhưng không có tình yêu thương thì khác, đã bao giờ bạn cảm thấy lạnh và khát khao nguồn ấm của tâm hồn chưa? Đó chính là khao khát một tình yêu bằng sự gắn kết mọi người với nhau, tạo sức mạnh sưởi ấm tâm hồn mỗi người. Cha mẹ thương con bằng sự chăm sóc, dạy dỗ, anh chị thương em bằng sự nhường nhịn sẻ chia từ cái kẹo, mẩu bánh, con cái thương cha mẹ bằng tấm lòng hiếu thảo và cộng đồng yêu thương nhau bằng sự đùm bọc, giúp đỡ từ miếng cơm manh áo, đó là tình yêu thương chúng ta thường gặp trong cuộc sống. Để tình yêu thương bền chặt thì con người phải biết yêu thương giống như những gì mình nhận được bởi : ” sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” và khi ta đem tình yêu thương cho người khác một cách thật lòng ta sẽ thấy mình sống có ích hơn. Ngược lại nếu không có tình yêu thương thì trái tim con người sẽ băng giá cằn cỗi, mối quan hệ giữa con người sẽ trở lên mỏng manh yếu ớt, con người sẽ thờ ơ vô cảm trước nỗi đau của người khác. Vì vậy bản thân chúng ta phải biết yêu thương chia sẻ với bạn bè, thầy cô, những người thân trong gia đình, mọi người xung quanh và cộng đồng xã hội đó là một lối sống văn minh, lành mạnh và là cách để bồi đắp tâm hồn ta. Như vậy câu nói ” Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương” là hoàn toàn đúng, bởi không có tinh yêu thương thì nơi đó còn đáng sợ hơn cả cái lạnh của Bắc cực. Chính vì thế mà ta cần học cách yêu thương quan tâm chia sẻ với mọi người để cuộc sống của ta luôn ấm áp. Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 3 Nếu được ai đó hỏi rằng: Đâu là nơi lạnh nhất trên thế giới này? Bắc Cực chăng? Bạn sẽ trả lời như thế nào? Là đúng? Tôi cũng đã từng nghĩ như vậy. Nhưng giờ thì không. Đó là một chân lí khoa học. Bên cạnh nó tôi còn nhận ra một chân lí của cuộc sống, sâu sắc hơn: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”. Tình thương là những tình cảm đẹp đẽ và nồng nhiệt của con người, làm cho họ gắn bó và có trách nhiệm với nhau hơn. Nó có thể là tình cảm lứa đôi, tình cảm gia đình, bạn bè, và cao hơn nữa là tình cảm con người nói chung. Tình thương không chỉ thuộc về cảm xúc mà quan trọng là ở cả những biểu hiện của nó trong thực tế. Giúp bạn tiến bộ trong học tập, lắng nghe tâm sự, đồng cảm với nỗi niềm của người khác; thậm chí chỉ đơn giản chỉ là việc dẫn một cụ già hay một em nhỏ qua đường. Đó cũng là những biểu hiện của tình thương, có thể nói, tình thương là một thứ tình cảm thẩm mĩ tốt đẹp tồn tại bên trong con người cũng như luôn luôn được con người hướng tới. Nó mang tính nhân văn và trong một môi trường tốt sẽ được bồi dưỡng cho ngày càng rộng lớn hơn lên. Chúng ta đều biết rằng trên Trái Đất này Bắc Cực là nơi lạnh nhất, quanh năm tuyết phủ chỉ có một số loài động vật có khả năng thích nghi cao với cái lạnh thỉ mói có khả năng sống sót. Nhưng đó là cái lạnh được tạo nên do vị trí địa lí, điều kiện thời tiết. Với cái lạnh ấy, dù sao con người vẫn có thể có các cách khác nhau để giữ ấm cho mình: mặc áo ấm, đốt lửa… Còn một cái lạnh còn ghê gớm hơn, nơi mà con người ta hoàn toàn cô độc, lạnh lẽo và không cỏ khả năng chống đỡ: đỏ là cái lạnh trong chính thế giới của loài người, nơi không có tình yêu thương. Tình yêu thương có sức mạnh sưởi ấm tâm hồn con người. Nó luôn đi liền với hạnh phúc và làm cho tâm hồn con người được ấm áp. Nơi nào không có tình yêu thương, nơi đó sẽ chỉ còn sự lạnh lùng, vô cảm, con người sống ở đó trong cảm giác bơ vơ, cô độc; nó gặm nhấm và người ta không có cách nào để có thể phòng bị và chống đỡ. Hơn thế nữa, nếu nơi lạnh nhất trên Trái Đất này chỉ có thể có ở Bắc Cực thì cái lạnh lùng trong thế giới loài người trong tâm hồn con người vì thiếu tình yêu thương có thể có ở bất cứ nơi đâu. Ở giữa sa mạc cát, ở giữa xứ sở Mặt Trời, ở giữa mảnh đất của xứ sở nhiệt đới, không có tình thương, con người vẫn có thể cảm thấy cô đơn, hoang lạnh. Câu nói của nhà văn còn cho ta nhận thức sâu sắc hơn về sức mạnh của tình thương. Nơi không có tình thương là nơi lạnh lùng nhất, và chỉ có tình thương mới có thể nung chảy khối băng trong tâm hồn một ai đó, mang lại sự sống và sức sống cho nó. Là người ai cũng cần có tình thương. Thương và được thương – đó như một nhu cầu hạnh phúc mà mọi người ai cũng kiếm tìm trên suốt hành trình sống của mình. Đứa trẻ mới sinh ôm bầu vú mẹ bú say sưa, đó là tình thương đầu tiên con người dành cho chính mình và cho mẹ. Đó cũng là tình thương đầu tiên một con người sinh ra được nhận. Cuộc sống luôn là những con đường dẫn tới một đích nào đó, chịu khó đi, chịu khó quan sát thì ta thấy mình đáng yêu, đời cũng đáng yêu và chắc chắn một điều là có ai đó cũng yêu thương mình. Hạnh phúc khi được thương cho ta sợi dây nối vơi cộng đồng để mở lòng và trân trọng từng phút giây đang sống, được sống… Nhưng nếu chỉ bám víu vào mệnh đề “được thương” để sống thì cuộc đời chỉ là những chuỗi ngày đi tìm kiếm và lao chen mệt mỏi. Dừng lại để ngắm cuộc sống xung quanh mình, để mỉm cười với một ai đó mà mình gặp trên đường bằng tình thương và sự chia sẻ chân thành. Dừng lại để lắng nghe người thân, người bạn, những người xung quanh mình để thương và hành xử đúng, chân thành trong cái tình thương mà mình dành dụm, vun vén. Dừng lại để không phải chỉ trách móc người nào đó thương mà không hiểu mình để biết rằng tình thương của người ấy là chân thành và từ đó họ hiểu mình hơn. Nếu không có những phút giây dừng lại để lắng nghe, để hiểu người mình thương cũng như bản chất của tình thương mà mình đang muốn xây dựng thì ta sẽ làm cho người ta thương mệt mỏi, sẽ có lúc ta làm đau khổ cho mình và chính người mình thương. Tình thương và hạnh phúc luôn đi liền với nhau. Chính vì vậy, nó có khả năng cứu vớt con người, mang lại cho họ niềm tin vào cuộc sống, sưởi ấm cho họ trước những bất hạnh trong cuộc đời. Tình người, tình thương yêu của Thị Nở đã khiến một con quỷ dữ của làng Vũ Đại như Chí Phèo thức tỉnh. Sau biết bao nhiêu năm sống cuộc đời của một con quỷ, lần đầu tiên, Chí Phèo nghe thấy những thanh âm của cuộc sống, và cũng lần đầu tiên sau bao nhiêu năm khơi dậy ước mơ được làm một người lương thiện. Tình yêu thương khiến một kẻ như Gia-ve (Những người khốn khổ – V.Huy-gô) hiểu được còn những mối quan hệ khác mà con người đối xử với nhau, tốt đẹp và đáng trân trọng hơn rất nhiều thứ pháp luật hà khắc mà hắn tôn thờ. Và cũng chính tình yêu thương trên mảnh đất Điện Biên đang hồi sinh cũng đã làm hồi sinh một người đàn bà vốn chao chát, chỏng lỏn, vì những gì mình đã phải trải qua mà “hằn học” với đời trở thành một người phụ nữ dễ mến, bắt đầu biết ước mơ: rồi những đứa con của chị sẽ lớn lên, chúng sẽ đi học, cuối tuần về thăm mẹ, thăm những người anh em, bạn bè của chúng. Hạnh phúc đã nở hoa từ mảnh đất của đau thương. Nơi lạnh nhất vì không có tình thương khi con người không thương yêu ai và mở rộng lòng mình cho ai thương yêu cả giờ đây đã là nơi ấm áp để ươm mầm cho hạnh phúc, cho ước mơ. Tình yêu thương và hạnh phúc sẽ đi liền nhau và có ý nghĩa trong mọi thời đại, đưa con người vượt qua tất cả những khó khăn trong cuộc sống. Con người không thể sống mà không có tình thương. Chính vì thế nó cần thiết cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Hơn ai hết, thế hệ trẻ cần tình yêu thương vì chúng ta còn non nớt, chưa hiểu biết nhiều nên cần tình thương để được định hướng đúng những bước đi trong cuộc sống, cần tình thương để được sẻ chia, nâng đỡ. Do chưa đủ kinh nghiệm và sự từng trải họ dễ bị vấp phải những khó khăn. Khi đó, họ cần có một vòng tay yêu thương nâng họ dậy, dìu dắt trong những bước đi tiếp theo. Họ cần một thái độ yêu thương chân thành con người dành cho nhau, dành cho những người trẻ tuổi đang bước những bước đầu tiên vào đời để hạnh phúc sẽ đến với tất cả mọi người và cuộc sống thực sự trở nên có ý nghĩa. Tình yêu thương có sức mạnh vĩ đại và nó sẽ luôn là niềm hạnh phúc của con người, sưởi ấm họ, giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, cần biết trân trọng những gì ta đang có, yêu thương, san sẻ để cuộc sống có ý nghĩa hơn, và Trái Đất này sẽ không còn có thể có nơi nào lạnh lẽo hơn Bắc Cực được nữa. Suy nghĩ về câu nói: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Bài làm 4 “Tình thương” là một phẩm chất, một đức tính quý báu của con người. Từ ngàn xưa, nhân loại đã lấy “tình thương” làm cơ sở để xây dựng cộng đồng. “Tình thương” gắn kết mọi người lại thành xã hội, nhỏ là làng xã, lớn là đất nước. “Tình thương là sức mạnh, là cội nguồn, là mục đích sống của con người. Nếu không có “tình thương”, con người sẽ sống ra sao ?. Để lí giải điều đó, một nhà văn Nga đã nói : “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương”. Cái lạnh của Bắc cực là giá rét của đất trời. Ở đó thiên nhiên không được ưu đãi nên khí hậu thất khắc nghiệt, khó có thể tồn tại với điều kiện sống như thế.Nhưng cái lạnh từ trong câu nói trên không dừng lại ở hàm nghĩa nông cạn . Đọc kĩ câu danh ngôn ta sẽ hiểu nhà văn đang muốn gửi đến chúng ta suy nghĩ mới về khái niệm lạnh. Đó chính là sự lạnh lẽo khi con người ta thiếu vắng tình thương, thiếu vắng sự cảm thông chia sẽ gữa con người với con người. Cái lạnh đó cũng chính là sự quạnh vắng trong tim khi chúng ta bị cô lập. Liệu con người có thể sống vui và có ích khi gặp tình cảnh như thế ? Chúng ta sẽ không thể sống trong một gia đình mà tất cả mọi thành viên đều quan hệ với nhau theo kiểu xã giao, cha mẹ ghẻ lạnh, anh em không hòa thuận. Tất cả chúng ta đều biết rằng gia đình là cái nôi nuôi dưỡng thể chất lẫn tâm hồn ta, vun vén để ta trở thành một người tốt. Vì thế gia đình mang một sức ảnh hưởng hết sức to lớn đối với hành vi và suy nghĩ của mọi thành viên. Chúng ta hãy thử suy ngẫm, nếu trong hòan cảnh đó, chúng ta sẽ thế nào ? Điều đó còn tùy thuộc ở mỗi con người. Nhưng chắc một điều rằng, con người trong gia cảnh ấy sẽ thật trĩu nặng, buồn phiền. Bởi lẽ khi gặp chuyện phiền muộn đâu ai cùng họ san sẻ, sớt chia, khi sung sướng đâu ai cũng họ vui hưởng. Và cũng từ đó, những con người ấy sẽ đi theo quỹ đạo chung. Họ sẽ khép chặt lòng mình và nghĩ rằng tất cả, tất cả mọi người không ai quan tâm đến họ, họ đã bị ghẻ lạnh và cô lập. Lòng họ sẽ lạnh căm vì bởi lẽ không ai sưởi ấm cho con tim họ. Trong cuộc sống, khá dễ dàng để tìm được những hình ảnh khác của cái lạnh. Đó là sự ghẻ lạnh của cả xã hội đối với con người. Ta lấy một ví dụ điển hình. Một bệnh nhân bị nhiễm căn bệnh thế kỉ HIV, đã bị gia đình và cả xã hội khinh bỉ ghẻ lạnh. Bước ra đường, họ bị những cặp mắt kì thị, soi mói nhìn vào. Những tiếng xì xầm to nhỏ ! Các bạn nên hiểu rằng đôi lúc họ không tự làm nhưng hành động để gây bệnh. Tức là họ không tự chuốc lấy bệnh. Nhưng vì thiếu may mắn họ vẫn mắc phải theo ba con đường mà tất cả chúng ta đều biết. vậy thì chúng ta nghĩ mình nên thương, cảm thông cho họ hay ghẻ lạnh kì thị họ. Họ đã trải qua biết bao cú sốc tinh thần mà bệnh tật mang lại vậy mà ta lại đối xử khinh bạc với họ. Đó giống như là con dao đâm thêm vào trái tim đã rướm máu. Thật tàn nhẫn ! Đã thế theo một lẽ thường họ sẽ không sống vui vẻ được nữa, sẽ khép chặt bản thân mình và hơn thế nữa nhiều người sẽ tìm đến cái chết. Đó là hệ quả đau lòng nhất về sự cô lập của con người đối với con người. Một dẫn chứng hùng hồn nhất đó là : "Đói rét và bệnh tật lúc này không có nghĩa lý gì hết, hắn không sợ mà hắn sợ nhất là cô độc " – Chí Phèo-Nam Cao. Những cảm giác da thịt hay do tác động của môi trường bên ngoài con người ta đều chống chiu được còn cảm giác trong lòng thì nó hằn sâu và đã đi suốt cuộc đời lúc nào nó cũng có thể lên tới tột đỉnh, cái lạnh ở đây nó không chỉ lan toả vào đất trời mà là nó thấm đượm cả một cuộc sống, một con người vĩnh hằng . Băng bắc cực có thể chống lại bằng nhiệt độ cao, nhưng sự cô đơn, bơ vơ tột đỉnh khi không có một tình thương thì nó đã "phong hàn " cả một trái tim , một vũ trụ . Hơn nữa nó còn phản chiếu và ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống , những cảnh đời tương đồng , và kể cả không tương đồng . Người sống trong cảnh gia đình lạnh nhạt, kẻ cô đơn, người bị nhiễm HIV đã là những cuộc đời đang thiếu rất nhiều tình thương. Trái tim của họ đang lạnh băng. Chúng ta hãy dành tình yêu hay chí ít là sự cảm thông nhiều nhất ở mức có thể để sưởi ấm, thắp sáng trái tim đang thoi thóp của họ.Và đó cũng chính là chính do vì sao tôi phải khẳng định rằng câu danh ngôn của M. thật đúng. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì sự phân biệt đẳng cấp, phân biệt giàu nghèo là đương nhiên không thể phủ nhận. Nhưng những người giàu có cần thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo khổ. Những người khỏe mạnh, thông mình cần nâng đỡ cưu mang những người yếu ớt, cơ nhỡ với tinh thần : “Lá lành đùm lá rách” ; “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” ; “Những điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Cả xã hội cần mở rộng tấm lòng nhân ái, góp sức hỗ trợ, đùm bọc bà con bị thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn, sẵn lòng giúp đỡ những người không may bị bệnh hiểm nghèo… Câu nói của nhà văn Nga ở một chừng mực nhất định nào đó có thể coi là phương châm sống đúng đắn. Thông điệp mà nhà văn gửi gắm đến mọi người là xin đừng vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Hãy chung tay xây dựng một mái ấm tràn đầy “tình thương” giai cấp, dân tộc và nhân loại. Sự chia sẻ và liên kết, sự nồng ấm của “tình thương” sẽ làm cho băng giá của thói ích kỉ tan chảy ; mỗi trái tim sẽ rạo rực tình yêu và sức sống.
Suy nghĩ về câu nói_ Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương – Văn mẫu lớp 12
4,345
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ về câu nói: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà vì lòng người ngại núi e sông – Bài làm 1 2 Suy nghĩ về câu nói: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà vì lòng người ngại núi e sông – Bài làm 2 3 Suy nghĩ về câu nói: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà vì lòng người ngại núi e sông – Dàn ý Suy nghĩ về câu nói: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà vì lòng người ngại núi e sông – Bài làm 1 Cuộc sống ngày một phát triển với nhiều điều mới mẻ, thôi thúc ta tìm kiếm và vươn tới tầm cao của sự hiểu biết ,nhưng điều đó không phải dễ dàng vì để đạt được những ước mơ và khát vọng đó, con người phải vượt qua nhiều thử thách, gian nan. Vậy đâu là sức mạnh để con người vượt qua chặng đường nhiều chông gai đó để đạt được những ước mơ và khát vọng của mình ? Sức mạnh ấy đơn giản chính là chính bản thân ta như nhà cách mạng Nguyễn Bá Học đã đưa ra một lời khuyên vô cùng quý giá đối với con người :"Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Câu nói của ông không đơn thuần chỉ cho ta những bản chất của những khó khăn mà mỗi con người đã, đang và sẽ vấp phải trong cuộc sống này mà đã chỉ cho ta hướng đi đúng đắn để vượt qua điều đó. "Đường đi” chính là cuộc sống của ta đây, không gian nan vì “ngăn sông cách núi”mà khó vì ý chí “lòng người” không thể vượt qua. Tuy mỗi người đều có một cuộc sống riêng nhưng hình như mọi đường đời đều có chung một điểm chính là những con sông những vách núi đang chờ ta chinh phục .Thật vậy , có ai đi đến thành công mà chưa từng bị thất bại làm sờn lòng , nhụt chí nhưng với niềm tin và sự hi vọng chiến thắng ,ta tự tích lũy và rút ra được những bài học, kinh nghiệm đường đời quý giá, rồi từ đó ta biết được đâu là con đường riêng và cách đi riêng để đạt được mục tiêu .Hãy lấy việc học làm một điển hình tiêu biểu cho ý kiến trên. Càng lên lớp lớn , việc học tập ngày càng nhiều bắt ta phải thật kiên trì và bền bỉ . Khó khăn đấy gian khổ đấy , nhưng không vì lẽ đó mà các bạn học sinh lại đánh mất hi vọng và niềm tin của mình ,các bạn luôn cố gắng hoàn thành tốt việc học, đương nhiên có nhiều lúc thực sự mệt mỏi lắm nhưng đó không phải là cái cớ để các bạn lùi bước. Mọi nỗ lực luôn được đền đáp bằng những thành công to lớn , giờ đây các bạn trở thành những người công dân tốt , những người có ích và có chỗ đứng trong xã hội . Nhưng bên cạnh đó, một số khác thì lại nao núng, ngại ngần trước việc học khó khăn , họ vẫn ham chơi, thích làm quen và giao tiếp với bạn xấu . Liệu rồi những cái thú vui ấy cũng chẳng đem lại gì cho bạn chăng ? Và khi bạn nhận thấy đã lãng phí quá nhiều thời gian cho việc vui chơi thì hình như mọi thứ đã muộn đễ sửa đổi khi nó đã trở thành thói quen . Những trò chơi , những cuộc tán gẫu dài ấy chỉ là những cái lợi trước mắt, nó thể hiện sự ngại ngần của con người khi phải đương đầu trước khó khăn mà cuộc sống đang thử thách bản thân bạn. Rồi mọi hậu quả mà bạn gánh chịu lại bắt đầu từ chính sự e ngại và tư tưởng muốn hưởng thụ. Mỗi chúng ta cần phải hiểu, ngại khó, ngại khổ trong học tập sẽ dẫn đến thất học, lạc hậu trong tư tưởng ảnh hưởng đến chính mình và cả xã hội. Là học sinh, chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ và bổn phận của mình, luôn tự nhắc nhở bản thân: “Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên.” Và “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông.” Nói như vậy có nghĩa là, nhiệm vụ chính của chúng ta là học tập, sẽ không có lí do gì để chúng ta không cố gắng học tốt, chỉ có tích cực trau dồi kiến thức chúng ta mới trở thành những chủ nhân có ích cho đất nước, đứng trước một bài tập khó hay đứng trước những phút chúng ta lười biếng hãy nhớ tới câu nói của thầy Nguyễn Bá Học để vượt qua, để vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Câu nói của thầy giáo Nguyễn Bá Học là một lời khuyên vô cùng hữu ích đối với tuổi trẻ thời đại mới. Cuộc sống đang phát triển từng ngày, từng giờ, thế hệ trẻ chúng ta cần có một quyết tâm, một ý chí mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn mà vươn tới chân trời tri thức đang rộng mở. Phải luôn nhớ rằng hãy vượt lên chính mình để vươn tới những đỉnh vinh quan chói lọi đang chờ chúng ta chinh phục. Suy nghĩ về câu nói: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà vì lòng người ngại núi e sông – Bài làm 2 Đường đi khó! Đường đi khó! Nay ở đâu? Đường bao ngả? Cưỡi gió phá sóng hẳn có ngày Treo thẳng buồm mây vượt biển cả”. (Lý Bạch, Hành lộ nan) Từ xưa, nhà thơ Lý Bạch cũng đã nhận ra đường đời thật khó khăn: “Đường đi khó”, nhưng nếu vượt qua được sóng to gió lớn thì cánh buồm sẽ vượt ra biển rộng bao la. Cùng một suy nghĩ như vậy, Nguyễn Bá Học đã viết: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Câu nói sử dụng cách viết ẩn dụ rất hay, Nguyễn Bá Học đã dùng những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống góp phần làm cho mọi người hiểu sâu hơn về ý nghĩa của câu nói. Nghĩa đen, “đường đi” là con đường chúng ta bước đi hằng ngày từ nơi này đến nơi khác. Nhưng không phải con đường nào cũng bằng phẳng, đễ đi mà có khi phải vượt qua những trở ngại to lớn như núi cao, sông sâu. Nếu chúng ta chùn bước, mệt mỏi thì sẽ không bao giờ đến được nơi mong muốn. Từ đó người đọc liên tưởng đến nghĩa bóng: “đường đi” chính là cuộc đời đi đến tương lai của mỗi con người. Con đường này chứa nhiều ước mơ và hoài bão nhưng cũng rất “khó” vì đầy những thử thách: đó là những trở ngại thử thách làm cho “lòng người”, ý chí quyết tâm của con người phải “ngại”, phải chùn bước. Nhưng nếu vượt qua được những khó khăn thử thách ấy con người sẽ biết cách sống, biết cách vươn lên thật mạnh mẽ và hữu ích. “Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lèn đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. (Hồ Chí Minh) Câu nói của Nguyễn Bá Học khẳng định ý chí, sức mạnh của con người trong cuộc sống: Cuộc sống có biết bao thử thách phải vượt qua, nếu không có nghị lực và lòng quyết tâm, con người sẽ không đạt được điều mà mình mong muốn. Tấm gương tiêu biểu nhất về “vượt khó”, đó chính là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Con đường của Bác là: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn dấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Để thực hiện “con đường này”, Bác đã phải trải qua biết bao “núi cao, sông sâu”, biết bao gian nan, nguy hiểm, nhưng Bác đã không “ngại núi, e sông” mà vượt qua tất cả bằng ý chí, quyết tâm của mình. Bác đã để lại một bài học vô cùng quý báu: “Gạo đem vào giã bao đau đớn Gạo giã xong rồi trắng tựa bông Sống ở trên đời người cũng vậy Gian nan rèn luyện mới thành công”. Tại sao “Đường đi khó vì lòng người ngại núi e sông”? Vì có ai đi đến thành công mà chưa từng bị thất bại làm sờn lòng, nhụt chí. Trong thực tế cuộc đời mỗi người có lúc gặp những công việc vô cùng khó khăn đòi hỏi phải có ý chí, nghị lực mới vượt qua được. Mỗi người phải hiểu rõ khả năng của mình cũng như công việc mình định làm kiên trì theo đuổi thì việc khó cũng nên dễ dàng. Vì niềm tin và sự hi vọng chiến thắng, ta tự tích luỹ và rút ra được những bài học kinh nghiệm quý giá, rồi từ đó ta biết được đâu là con đường riêng và cách đi riêng để đạt được mục đích cuối cùng. Mọi nỗ lực luôn được đền đáp bằng những thành công to lớn. “Sẽ không có sự nghiệp lớn nếu không có thủ thách lớn”. (Vontaire) Tuy nhiên, có một số người lại nao núng, ngại ngần trước việc khó khăn. Khi gặp việc khó – “núi cao, sông sâu”, đã nhụt chí nản lòng, muôn bỏ cuộc. Và khi họ nhận thấy đã lãng phí quá nhiều thời gian cho những việc vô ích khác thì mọi thứ đã muộn để sửa đổi khi nó đã trỏ thành thói quen. Mọi hậu quả mà họ gánh chịu lại bắt đầu từ chính sự e ngại và tư tưởng muốn hưởng thụ. Mỗi chúng ta cần phải hiểu: ngại khó, ngại khó trong học tập sẽ dẫn đến thất học, lạc hậu trong tư tưởng ảnh hưởng đên chính mình và cả xã hội. “Không có nghèo gì bằng không có tài, không có gỉ hèn bằng không có chí”. (Uông Cách) Lời nói của Nguyễn Bá Học mang đậm ý nghĩa nhắc nhở chúng ta phải vượt qua chính bản thân mình. Con đường có biết bao nhiêu chông gai, khó khăn đi chăng nữa nhưng chỉ cần chúng ta có ý chí, quyết tâm thì sẽ có thê vượt qua được. Đôi khi cô gắng không mang lại thành công nhưng nếu bạn vẫn tiếp tục cố gắng thì xem như bạn đã chiến thắng, chiến thắng chính bản thân bạn rồi, đúng như câu nói: “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”. Chính vì vậy, ý chí nghị lực của bạn sẽ là sức mạnh làm chuyển dổi cuộc sống của bạn. Trong cuộc sống hôm nay, lời dạy đó càng trở nên sâu sắc… “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. (Platon) Câu nói của thầy giáo Nguyễn Bá Học là một lời khuyên vô cùng hữu ích đôi với tuổi trẻ thời đại mới. Cuộc sống đang phát triên từng ngày, từng giờ, thê hệ trẻ chúng ta cần có một quyêt tâm, một y chi mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn để vươn tới chân trời tri thức dang rộng mở. Mỗi học sinh chúng ta ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường hãy cố gắng hết mình tiến lên, can dảm vượt qua mọi thử thách dể vươn tới thành công, như lời khuyên của Bác: “Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bển Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên”. Suy nghĩ về câu nói: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà vì lòng người ngại núi e sông – Dàn ý I. Mở Bài Nguyễn Bá Học từng nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước này sẽ có suy nghĩ gì? Chúng ta sẽ hành động như thế nào? II. Thân Bài Đầu tiên cần phải hiểu Nguyễn Bá Học muốn nói gì với chúng ta Đường đi của chúng ta là những bước đi của những người đi trước. Những bước đi đó có thể gặp sông, gặp núi nhưng họ đã vượt qua. Tại sao chúng ta lại không thể vượt qua 1 lần nữa. Chỉ có lí do duy nhất chúng ta không muốn vượt qua, hoặc muốn nhưng chưa đủ sự quyết tâm để vượt qua. Đường đi không phải lúc nào cũng bằng phẳng giống như cuộc sông luôn đầy rẫy những khó khăn nếu chúng ta có quyết tâm thì dù có núi cao , sông sâu chúng ta cũng sẽ vượt qua Câu nói trên ý muốn nói rằng dù cuộc sống có khó khăn đến đâu nếu chúng ta muốn, chúng ta cố gắng chúng ta sẽ vượt qua. Như “Hiệp sỹ công nghệ thông tin” Nguyễn Công Hùng, anh chỉ có một ngón tay còn cử động nhưng anh đã vượt qua tất cả những khó khăn, vất vả của bệnh tật để trở thành đại biểu quốc hội, để góp phần nói lên tiếng nói rất nhỏ nhoi của gần sáu triệu người khuyết tật trên tổ quốc này. Anh đã là người khuyết tật đầu tiên làm giám đốc, đã giành được giải quả cầu vàng về công nghệ thông tin mà nhiều người bình thường mơ ước. Đó là sự quyết tâm vượt lên số phận, con đường của anh ấy đã đi có vô số núi cao vực sâu nhưng anh đã vượt qua. Và chắc chắn với sự quyết tâm này anh sẽ còn thành công nhiều hơn nữa vì sự quyết tâm luôn thôi thúc anh tiến lên. Tại sao một con người như anh Tăng Văn Bình lại có thể đậu thủ khoa đai học ngoại thương với số điểm tuyệt đối, tại sao một người mồ côi cha, mẹ đau ốm như thế lại có một nghị lực phi thường đến thế. Anh có khả năng học tập trời phú ư? Không! Sự quyết tâm, lòng ham thích cộng một chút thông minh đã làm nên con người ấy. Ở vào hoàn cảnh ấy rất nhiều người đã bỏ học, nhiều người đã nghĩ quẩn. Nhưng anh với sự quyết tâm đã vượt lên tất cả, vươt cả những người có điều kiện học tập hơn anh rất nhiều. Tôi xin phép được lan man một chút. Hôm nọ một cô bạn của tôi đi làm tình nguyện tại một trại mồ côi. Cô ấy kể rằng có nhiều số phận đáng thương. Nhưng xin đừng thương hại họ mà hãy khâm phục họ vì hộ đã quyết tâm sống, đã quyết tâm hòa nhập, đã quyết đi trên con đường mà họ đã chọn và họ sẽ không bao giờ lùi bước. Hãy dành sự thương hại cho một số người không thể chiến thắng được bản thân, những người đã ngã nhưng không đứng dậy, hoặc không thể đứng dậy, vì lòng quyết tâm đã chết trong cơ thể họ. Họ không thể đứng dậy nổi III. Kết Bài Vậy chúng ta hãy quyết tâm, đầu tiên là chiến thắng bản thân, chiến thắng số phận sau là làm giàu cho quê hương, đất nước. Tôi xin phép trích dẫn câu nói của Bác thay cho lời kết Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên
Suy nghĩ về câu nói_ Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà vì lòng người ngại núi e sông – Văn mẫu lớp 10
2,659
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ về hai chữ nhẫn nhịn và nhẫn nhục – Bài làm 1 2 Suy nghĩ về hai chữ nhẫn nhịn và nhẫn nhục – Bài làm 2 Suy nghĩ về hai chữ nhẫn nhịn và nhẫn nhục – Bài làm 1 Trong cuộc sống con người luôn phải gặp phải rất nhiều những khó khăn và gian lao vất vả, chính vì vậy con người cần trang bị cho mình rất nhiều những kiến thức và kĩ năng cho bản thân và trong đó nhẫn nhịn và nhẫn nhục là hai đức tính tốt và con người cần phải rèn luyện. Nhẫn nhịn đó là biết kiên trì nhẫn nhịn cho dù có bất cứ điều gì xảy ra, phải biết bình tĩnh để giải quyết mọi vấn đề và điều đó mới có ý nghĩa góp phần tạo nên những đức tính tốt và những điều mang những giá trị tốt đẹp cho con người, chúng ta cần phải rèn luyện đức tính nhẫn nhịn để chịu đựng và cam chịu những điều cho dù đó là khó khăn và gian lao vất vả nhất, hành động đó không chỉ tạo nên những thành phần quan trọng và là một niềm tự hào và những điều quan trọng đó mới tạo nên những phẩm chất tốt đẹp nhất cho con người. Còn nhẫn nhục đó là chịu đựng những điều nhục nhằn và những điều đó không chỉ làm cho con người trưởng thành hơn và nó cũng mang một ý nghĩa giáo dục và rèn luyện con người sâu sắc. Hai đức tính này con người cần phải rèn luyện và nó tạo nên một ý nghĩa lớn lao và những điều vô tri vô giác cho con người. Không phải ai cũng có được hai đức tính này muốn rèn luyện nó phải rèn luyện trong một quá trình và nó mới tạo nên được những phẩm chất đáng quý cho con người, mỗi chúng ta đều phải tự hào và những điều đó mang những giá trị riêng và vô cùng có ý nghĩa, không chỉ tạo nên những giá trị căn nguyên và những điều tuyệt vời cho mỗi con người, hành động đó không chỉ làm cho con người kiên nhẫn và biết lắng nghe và giải quyết mọi điều chín chắn và đúng đắn nhất, không chỉ vì những điều tầm thường và nông nổi mà giải quyết nó bộc phát kiên nhẫn và giải quyết mọi vấn đề xảy ra là điều tuyệt vời và mang những ý nghĩa giá trị nhất, mỗi chúng ta luôn luôn phải tự hào và biết quý trọng những giá trị này, nó không chỉ làm cho con người trưởng thành và phát triển hơn, nó cũng tạo nên những đức tính bền bỉ và kiên trì cho con người. Không chỉ vì những điều khó khăn và bộc phát mà con người không sử dụng nó hiệu quả và ý nghĩa hơn, khi những điều đó có ý nghĩa chúng ta đã tạo nên được những điều mang những ý nghĩa nhất và hiệu quả trong việc lựa chọn những công việc và một cách hiệu quả trong cách giải quyết công việc và ý nghĩa riêng trong những thành phần riêng và hiệu quả hơn. Nhẫn nhịn là cho dù có điều gì xảy ra cũng cần phải kiên nhẫn và chịu đựng để giải quyết mọi việc không vì những căng thẳng và những cảm xúc tức thì mà giải quyết nó một cách bộc phát và thiếu suy nghĩa chín chắn, không chỉ vì những điều đó mà con người hành động bộc phát và thiếu suy nghĩa, biết nhẫn nhịn là điều làm cho mọi việc trở nên hiệu quả hơn, biết lắng nghe nhẫn nhị mọi việc cho dù đó là những điều khó khăn nhất, lắng nghe và im lặng để có cách giải quyết hiệu quả, nhẫn nhịn là một phẩm chất đã được tạo nên và nó góp phần tạo dựng nên những giá trị hiệu quả của con người, chúng ta nên sử dụng nó hiệu quả và phù hợp với tất cả những yêu cần và hành động hiệu quả để đạt được mục tiêu đúng. Nhẫn nhục cũng là một phẩm chất tốt nhẫn nhịn khác nhẫn nhục ở chỗ nhẫn nhịn là sự chịu đựng bền bỉ khi gặp một tình huống nào đó, còn nhẫn nhục là cho dù nhục nhằn và gian nan thì con người cũng phải kiên trì và biết tạo nên những giá trị ý nghĩa nhất cho con người. Nhẫn nhị và nhẫn nhục tuy về mặt ý nghĩa có đôi chút khác nhau nhưng nhìn chung nó giống nhau và nó góp phần tạo dựng nên những phẩm chất tốt đẹp của con người, hành động đó và phẩm chất đó tạo dựng nên cả một hệ thống niềm tin trong sáng và ý nghĩa vô cùng, nếu những ai học được hai phẩm chất này thì cuộc sống vô cùng hạnh phúc bởi biết nhẫn nhục và nhẫn nhị sẽ làm cho con người bình an không phải chịu những mâu thuẫn căng thẳng cho dù đó là những điều khó khăn nhất. Chúng ta luôn phải tạo nên những niềm tin và những phầm chất đáng quý đó chỉ có trong con người biết làm chủ được cuộc sống và tạo dựng nên những giá trị mang những điều đáng quý và tuyệt vời nhất, mỗi người chúng ta không chỉ học kiến thức trong sách vở mà những phẩm chất về đạo đức chúng ta cũng phải tạo nên nhiều giá trị riêng và một hoàn cảnh riêng và cụ thể tạo nên những giá trị tuyệt vời và ý nghĩa nhất và tầm ảnh hưởng lớn đến con người. Hai phẩm chất này không phải học tập trong một hai ngày là được, chúng ta phải rèn luyện và kiên trì luyện tập để tạo dựng lên những giá trị tuyệt vời và mang những điều hạnh phúc và kì diệu nhất, khi con người làm chủ được chính mình, tạo dựng lên toàn bộ niềm tin yêu và hạnh phúc đó tạo nên trong cả hệ thống cấu trúc và ý nghĩa nhất, trong những hoàn cảnh đó con người không chỉ biết vận dụng hoàn cảnh và biết cẩn trọng trong rất nhiều những hoàn cảnh khó khăn và những điều đó chúng ta đã tạo nên những giá trị và hạnh phúc cho mối quan hệ trong gia đình, mỗi người nếu học được hai phẩm chất trên thì tất cả mọi điều trong cuốc sống này để có thể hoàn thành và thực hiện nó đúng đắn cho những con người và hành động hiệu quả hơn. Mỗi con người không chỉ biết vận dụng và biết xây dựng hai phẩm chất này trên con người của mình mà nó còn tạo nên những giá trị căn nguyên những điều lớn lao và hạnh phúc nhất, mỗi chúng ta không chỉ học tập và kiên trì rèn luyện mà còn phải biết vận dụng nó vào hoàn cảnh trong cuốc sống của mình, không biết vận dụng thì mọi thứ dường như vô ý nghĩa và mang lại những giá trị tốt đẹp nhất, mỗi chúng ta đều phải rèn luyện bản thân cho phù hợp với lễ nghi mà những điều giá trị nhất trong cốt cõi của con người về giá trị cốt lõi của con người cũng ohair học tập được, mỗi người đều rèn luyện vì bản thân mình và điều đó mới là giá trị tốt đẹp và căn nguyên nhất, không chỉ những gí trị đó mà con người quen đi nhiều việc khác, ngoài tu dưỡng về kiến thức thì việc tu dưỡng bản thân là một yếu tố quan trọng và mang một giá trị căn nguyên cốt cách nhất cho con người, hãy hành động và rèn luyện bản thân cho phù hợp với giá trị của cuộc sống. Nhẫn nhị và nhẫn nhục nhiều người đã vận dụng thành công, họ học tập được rất nhiều những ý nghĩa tốt nhất và căn nguyên nhất của con người, những giá trị cốt lõi con người phải rèn luyện đó là tính kiên nhẫn của bản thân, kiên trì sẽ là sức mạnh to lớn cho con người, chúng ta tạo dựng lên những niềm tin yêu thương và những giá trị đó mới tạo nên những điều mang tầm ảnh hưởng lớn đến con người, không biết vận dụng và học tập hai phẩm chất này con người sẽ làm và hành động bồng bột không đúng như những gì đã được hoàn thành và tạo dựng lên đó. Phẩm chất này đã tạo nên những giá trị ý nghĩa nhất cho con người biết vận dụng hai điều này vào cuộc sống con người sẽ sống một cuộc sống ý nghĩa và hạnh phúc hơn, những điều đó tạo dựng lên những hoàn cảnh tốt và ý nghĩa nhất, mang tầm ảnh hưởng quan trọng cho con người và những điều tốt đẹp và tuyệt vời ý nghĩa nhất. Chúng ta phải rèn luyện và góp phần tạo dựng cho bản thân mình để có thể làm nên những giá trị tốt và hiệu quả nhất cho con người.Góp phần tạo nên ý nghĩa cho xã hội. Suy nghĩ về hai chữ nhẫn nhịn và nhẫn nhục – Bài làm 2 Trong hành trang bước vào đời của mỗi chúng ta, không thể không mang theo chữ “nhẫn”, cổ nhân từng nói: “Tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu", nghĩa là, đối với chuyện nhỏ, việc nhỏ mà không kiềm chế, nhẫn nại, chịu đựng thì sẽ làm hỏng việc lớn. Vậy “Nhẫn” là gì? — Nhẫn là nhịn, dằn lòng xuống. Nhẫn thường đi liền với các từ, nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục. Nhẫn nại có nghĩa là bền bỉ, chịu đựng những khó khăn nào đó để làm việc gì. Nhẫn nhịn chịu nhịn, chịu dằn lòng xuống. Còn nhẫn nhục nghĩa là dặn lòng chịu đựng những điều cực nhục. Tất cả đó là những biêu hiện tâm lí tự làm chủ bản thân rất cao trước những áp lực bân ngoài. Trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày, rất ít khi tránh khỏi mâu thuần và xung đột. Không nên “việc bé xé làm to”. Nếu chuyện nhỏ mà cố chấp, không nhẫn nhịn, tự kiềm chế thì sẽ làm hỏng việc lớn. ông bà, cha mẹ thường khuyên bảo con cháu: “Một điều nhịn là chín điều lành”. Cổ ngữ có câu: “Tiểu bất nhẫn bất thành đại sự” không biết nhẫn nhịn chuyện nhỏ thì việc lớn không thành. Trong cuộc sống, có lúc ta phải làm ngơ trước những điều trái tai của những kẻ hung hăng, hiếu thắng. Có lúc bị “bắt nạt” một cách hồ đồ mà ta vẫn phải nén lòng nhẫn nhịn, chịu đựng, cho qua… Có nên tranh luận, cãi lí với những kẻ nóng náy, ăn nói hồ đồ, thậm chí vô lễ không? Ta phải biết “tránh voi” nhưng có lúc lại cần tránh xa ‘con trâu lấm”. Mà loại “trâu lấm” trên đường đời rất nhiều. Câu “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, và câu “thấy cứt tránh ngang, có sang gì cứt!” là những câu tục ngữ chí lí nêu lên bài học về chữ “nhẫn”. Sách cổ ghi lại bao câu chuyện lí thú về chữ “nhẫn”. Thuở thiếu thời, Trương Lương (đại mưu sĩ của Hán Cao Tổ sau này) lúc đi ngang qua bến đò sông Xích Thủy đã gặp một ông lão người nhỏ bé, mắt xếch, ngạo mạn bắt “nhặt giày”, rồi còn bắt “xỏ giày” cho ông ta. Sau lời khen: “Tay này có cốt cách làm người”, ông lão lên giọng bảo: “Năm ngày sau, nhà ngươi hãy đến gặp ta ở bến đò!…”. Trương Lương rất khó chịu, nhưng vẫn nén lòng chịu đựng. Sau đó, phải hai lần ra đứng đợi ở bến đò vào lúc nửa đêm, Trương Lương mới được gặp “lão già quái gở!”. Sự nhẫn nhục, nhẫn nại đã đưa đến một điều bất ngờ hiếm có: Trương Lương được ông lão tặng cho quyển sách quý Binh pháp Thái Công. Lúc đó, Trương Lương mới biết ông già ấy là Hoàng Thạch Công, một tiên ông ở chân núi thành Bắc. Chuyện thứ hai nói về Hàn Tín bị anh bán thịt giễu cợt, chua cay, thậm chí còn bị hắn bắt chui qua háng. Trong bụng thì chua cay, tức giận, nhưng Hàn Tín vẫn nhẫn nhục nhất nhất làm theo lời anh hàng thịt trước những cặp mắt ngạc nhiên và những tiếng cười ré lên của hàng trăm người đi chợ có mặt lúc ấy. Vị đại tướng của nhà Hán sau này, lúc đó không phải là một thằng hèn, trái lại ông ta đã nêu cao chữ “nhẫn”, làm đúng lời dạy của người xưa “Tiểu bất nhẫn tất loạn đạo mưu”. Nhẫn nhịn, nhẫn nhục là một đức tính đẹp của người biết làm chủ bản thản, tự kiềm chế mình trước hoàn cảnh bất thuận, bất lợi. Có trường hợp bị người thân trách nhầm, bị bạn bè hiểu nhầm, rất dễ dẫn đến bất hòa. Lúc đó, nóng giận sẽ làm cho mối quan hệ bị rạn nứt, chẳng khiến cho mây mù tan nhanh, không làm cho gió xuân thành mưa. Phải bình tĩnh, hết sức bình tĩnh là ta sẽ tìm dược cách “phá vây”, thoát ra khỏi tình trạng nặng nề, ngột ngạt! Nhẫn nhịn, nhẫn nhục không phải là sự nhu nhược đáng khinh. Trái lại, chính là biểu hiện của một phẩm cách tự tin, thể hiện ý chí vừa tự kiềm chế vừa kiên cường. Lan Tương Như, vị Tể tướng quyền cao chức trọng thời Chiến quốc, ở gia thất cũng như ở triều đình, ở đâu, tiếp xúc với ai, ông cũng lễ độ, nhường nhịn, khiêm nhường, cung kính. Nguyễn Công Trứ, nhà thơ lỗi lạc, vị đại quan thời Nguyễn, “lúc thủ khua, khi tham tán, lúc Tổng đốc Đông…", “lúc bình Tây cờ Đại tướng”, có khi bị cách tuột làm lính thú, thế nhưng ông vẫn nhẫn nhục chờ thời. Ông từng nói: “lúc làm Đại tướng, ta không lấy thế làm vinh thì lúc là lính thú ta cũng không lấy thể làm nhục!”. Giữa thời loạn, ông mang cốt cách một kẻ sĩ quân tử, một đấng trượng phu, lúc về trí sĩ, ông là “cây thông đứng giữa trời mà reo!” Bài học về chí nam nhi, chí anh hùng và bài học về chữ “nhẫn” mà ông nêu cao, cho đến nay vẫn còn được nhiều người ngưỡng mộ và giàu ý nghĩa nhân sinh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người anh cả của quân đội ta – cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền những trang sử vàng chói lọi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ xâm lược. Nghe nói, từ thập kỉ 80 của thế kỉ XX đến nay (năm 2010), trong tư dinh Đại tướng có treo một chữ “nhẫn” rất to, chắc do nhiều nguyên nhân, nhưng cái tâm đức của ông thật vô cùng trong sáng, được thiên hạ ngợi ca. Tóm lại, nhẫn nhịn là sự độ lượng, khiến cho đức trong, tâm sáng, lòng thanh thản. Người có thể tự kiềm chế, biết nhẫn nại là người sâu sắc, giàu bản lĩnh thể hiện một cốt cách trí tuệ, mưu lược, cao thượng. Ai cũng cần biết “nhẫn” trong cuộc sống. Tuổi trẻ cần biết “nhẫn” để rèn luyện bản lĩnh, để chờ thời cơ, để vươn lên lập đức, lập nghiệp.
Suy nghĩ về hai chữ nhẫn nhịn và nhẫn nhục – Văn mẫu lớp 12
2,642
Đối với không ít người, tháng giêng không phải là tháng "ăn chơi'' mà là “tháng…" "ăn làm". Họ vừa ăn Tết, vừa làm việc, nhiều trường hợp căng thẳng hơn cả ngày thường. Tết nhất vui vẻ nhân ngấm một chút men rượu, một bạn hiền trong bàn cao hứng "sửa một tí" mấy câu ca dao quen thuộc mà đọc thầm: "Tháng giêng là tháng ăn chơi. Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè. Tháng tư lẳng lặng mà nghe. Cái nghèo nó đến bên hè chói chang". Đọc xong lại cùng nhàn đàm tại chỗ về câu thứ nhất, tạm viết ra đây. Đối với không ít người, tháng giêng không phải là tháng "ăn chơi'' mà là “tháng…" "ăn làm". Họ vừa ăn Tết, vừa làm việc, nhiều trường hợp căng thẳng hơn cả ngày thường. Đấy là những người tham gia hoạt động trong "nền công nghiệp phục vụ Tểt". Hãy lấy ví dụ mấy ngày qua, những người đứng chân trong khu vực thương mại, bán hàng ở các siêu thị, các chợ đầu mối, chợ bán sỉ bán lẻ, eửa hàng thực phẩm rau quả có "rút chân" ra khỏi vị trí của minh để đi "ăn chơi" không? Chắc là chẳng thể. Vì nhu cầu xã hội và cung cách làm ăn đua tranh thời mới không cho phép những nhà quản lí ngưng "làm" để "chơi". Họ phải điều hành nhân viên có mặt thường trực trên thị trường. Mồng 3 Tết năm nay các siêu thị của hệ thống Coop Mart bán cả chục tấn gà tươi nguyên con mỗi ngày cho khách tiêu dùng ở Sài Gòn. Thế đó, khi bộ máy của "nền công nghiệp Tết" vận hành theo nhịp thở gấp gáp của đời sống đô thị hiện đại thì nó không thể điềm nhiên dừng lại ở "mủi giờ" giao thừa để "ăn chơi" suốt tháng giêng. Mà như ta thấy, ngay hai ngày đầu năm mới, Vissan mở hàng sát sinh "hóa kiếp" cho hơn 500 chú lợn và bò để đưa thịt chúng ra thị trường "tươi sống". Những cửa tiệm tạp hóa quanh năm bày bán cả trăm cả nghìn mặt hàng, đến mùng một, mùng hai nhiều chủ tiệm không muốn chờ ngày tốt để mở cửa bán tân niên, mà cứ thế theo đà "năm cũ rủ năm mới" nối liền một mạch đón khách ngay sáng sớm đầu năm. Mồng 3 mồng 4 tết, nhiều công ti như Bibỉca (Bánh kẹo Biên Hòa) hoặc Fahasa (Phát hành sách TP.HCM) đã sớm hoạt động. Bây giờ thử nhìn sang khu vực giải trí. Tuần đầu năm cả triệu lượt khách tìm đến các tụ điểm vui xuân, các công viên văn hóa như Đầm Sen, Suối Tiên, các nơi mở hội hoa xuân, bày cây cảnh như Tao Đàn, đường Nguyễn Huệ – TP.HCM, các điểm biểu diễn vãn nghệ, rạp hát, rạp chiếu bống, đại khái những chỗ nào đáp ứng nhu cầu vui chơi ba ngày Tết của dân. Ở những nơi đó, cả một guồng máy những người thưởng trực đảm đương nhiều phần việc khác nhau nhằm phục vụ cho kịp. Có chỗ khởi động công việc từ "trong tết" ra "ngoài tết", sang cho tới "mồng 11, mồng 12", mãi đến rằm tháng giêng chưa chắc đã dứt. Vì rằm tháng giêng lại sẽ bùng lên một loạt dịch vụ liên quan đến Tết Thượng nguyên của ngưởỉ Việt ta cũng là Tết Nguyên tiêu của người Hoa. Nào hương đèn, áo giấy, bánh trái, xe cộ, xăng dầu, đồ ăn uống… Có người tiêu thụ ắt phải có kẻ buôn bán. Nghĩa là có người vẫn "đi làm" chứ chẳng "ngồi chơi". Ai chơi thì chơi, chứ không có người "làm" lấy gì để "chơi". Như ai nấy đều biết qua hệ thống thông tin đầu năm, thì Tết này có ngót 3 vạn bà con Việt kiều về quê ốn Tết, và 140.000 khách nhập cảnh qua sân bay Tân Sơn Nhất, một số trong đó sẽ du lịch đó đây, lên Đà Lạt, ra Nha Trang, về Long Xuyên, Hà Tiên, viếng Hội An, Đà Nẫng, cư ngụ tại các khách sạn, đi lại qua các bến, ga, phố chợ… Cộng với số lượng người du lịch và khách vãng lai trong nước, nhu cầu sinh hoạt của tất cả họ đòi hỏi sô người làm việc đầu tháng giêng không thể vắng mặt. Sau Tết Bính Tuất, cùng với đồng nghiệp, vừa rắt xe ra đường trong đầu tôi chợt lóe lên câu ca dao đã nhàn đàm với bạn: "Tháng giêng là tháng ăn chơi", ừ, muốn ăn thì ăn, muốn chơi thì chơi, nhưng đâu chỉ "ăn chơi" suông, mà quanh ta đã bắt đầu khởi động nhịp quay nhanh của sinh hoạt đời mới. Trốt lại câu ca "tháng giêng ăn chơi" vẫn còn nguyên giá trị tinh thần gọi ta liên tưởng tới các phong thái làm việc điềm đạm từ tốn ngày xuân, cũng phản ánh phần nào sinh hoạt của một xả hội nông nghiệp xưa. Ngày nay nhịp sống công nghiệp ở đô thị cho thấy tháng giêng là tháng "ăn làm" và "làm ăn" của nhiều giới. Và trước hết đối với giới công chức, cán bộ công nhân viên Nhà nước thì không thể "ăn chơi" theo cái nghĩa đen sì sì như câu ấy. Song theo nghĩa "thăng hoa" ta vẫn thấy lòng mát dịu khi đọc lại mấy câu ca cũ. Bởi nghe như có một ngọn gió đồng xa xôi, từ quê nhà thái đến, vĩnh viễn làm rung những cánh chuồn chuồn hoặc những vòm hoa ớt rực đỏ trong kỉ niệm ngày kia…
Suy nghĩ về hiện tượng Tháng Giêng là tháng ăn chơi
963
Suy nghĩ về một thói quen trong xã hội: sự nịnh bợ – Văn mẫu lớp 12 Xu nịnh tức khen ngợi quá đáng hay hoang tưởng nảy sinh từ quyền lợi riêng tư, có thể được định nghĩa: “Đó là cử chi đáng khinh bỉ. Đó là quà tặng xấu xa và chỉ là bài học của những kẻ hợm hĩnh”. Kẻ nịnh hót thường là những tên ích kỉ nguy hiểm. Nó cố nhét vào trí óc con người những điều hư ảo hòm kiếm chát ân huệ hay đổi lại sự giúp đỡ thực lòng. Đó là kẻ xấu xa nhất trong số những kẻ thù. Nó vừa là tội phạm, vừa là nhân chứng: “Kẻ này lừa dối người phân xử, kẻ kia lừa dối chúng ta”. Một triết gia nói rằng: “Trong số những con thú hoang dã thì con thú gièm pha là đáng sợ nhất, còn trong số những người trong nhà thì đáng sợ nhất là kẻ xu nịnh”. Kẻ nịnh hót chỉ tìm kiếm cái lợi ích riêng tư và nó sống nhờ vào những kẻ đã lắng nghe nó. Những kẻ chân chính thường ít bị lường gạt bởi sự nịnh hót, bởi tâm địa của kẻ tim kiếm cái lợi ích riêng tư và sống nhờ vào những kẻ đã lắng nghe nó. Trong một số bức thư với lời lẽ dịu dàng, Louis Veuillot kể rằng hàng ngày ông nhận được những lời tán dương của biết bao bạn bè thân, sơ. Rồi cũng hàng ngày, đứng trước tấm gương để cạo mặt, ông tự hỏi: “Ta sẽ cạo nhẵn bao nhiêu người?”. Một người có chức vị, không muốn bị kẻ thuộc quyền khống chế, phải đương đầu chống lại bọn xu phụ, nịnh hót. Chúng cố nắm chỗ yếu của anh ta, làm cho anh ta tin phục, và coi những người khác đều là kẻ thù nghịch. Một hôm, vua Henry V đi ngang qua Amiens nghe thấy một vị quan tòa đang diễn thuyết. Ông ta ráng cổ trình bày những tiêu đề như: “Rất lớn, rất mạnh, rất tốt, rát nhân từ, rất cao thượng”. Nhà vua bèn nói: “Hãy thêm là rất mệt!”. Nhà vua làm ông quan tòa sửng sốt. Người tự trọng không bao giờ nịnh hót. Sự ca ngợi, còn gọi là “tâng bốc” là lời nói bùi tai, cách gợi cảm ngọt ngào cốt để cho người nghe thấy dễ chịu và nhấn mạnh về sự thành công cùa anh ta. Công tước De Morny nổi tiếng về nghệ thuật tỏ lời khen tặng. Vào năm 1862, tại Cleront Ferrand, ông kết thúc bài diễn văn bằng lòng khen ngợi hoàng hậu “là người đã đưa nhiều ân huệ lên ngai vàng, và hàng ngày ban bố xuống thần dân biết bao nhiêu lòng nhân ái”. Lời khen ngợi phải chân thực, thích hợp, xúc động. Nó mở ra những lời tán dương mà người la chưa diễn đạt hết và cũng tìm thấy ở đó đầy sự khoan dung. Nhưng nếu khen tặng lộ liễu thì có khi làm tổn thương tới tính khiêm tốn. Nếu nói thái quá thì trở thành kì cục, đôi khi còn bị người nghe phản đối. Sự khen tặng phải được cân nhắc cho hợp lí và công bằng, nhất là khi hạ thấp giá trị của người này để khen tặng người kia. Chẳng hạn có kẻ nói “Anh cũng rộng rãi như A, còn B thì hà tiện”. Phải trân trọng lời khuyên và cần lánh xa nó. Người ta lắng nghe và cử chỉ khiêm tốn ngay khi được khen, không nên tỏ vẻ vui mừng trên nét mặt và chỉ tỏ vẻ cảm ơn bằng cách nói: tôi chỉ làm hết bổn phận. Có lẽ khôn ngoan hơn là đừng nói gì cả…
Suy nghĩ về một thói quen trong xã hội_ sự nịnh bợ – Văn mẫu lớp 12
639
Nội dung bài viết1 Suy nghĩ về tình yêu của giới trẻ hiện nay – Bài làm 1 2 Suy nghĩ về tình yêu của giới trẻ hiện nay – Bài làm 2 Suy nghĩ về tình yêu của giới trẻ hiện nay – Bài làm 1 Tình yêu-đó là đề tài muôn thuở và hấp dẫn.Tuy nhiên ở những thời kì khác nhau thì quan niệm về tình yêu lại mang những nét riêng khác nhau.Việc nghiên cứu về chủ đề này có một ý nghĩa quan trọng đối với tuổi trẻ nói chung và học sinh (HS) nói riêng. Nó giúp chúng ta nhìn nhận một cách toàn diện hơn sự biến đổi các quan hệ xã hội dưới tác động của nền kinh tế thị trường.Từ đó giúp HS có nhận thức đúng đắn về tình yêu để xây dựng cho mình một nhân cách,một lối sống nhân văn. “Yêu là chết ở trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu…” Vậy với chúng ta, những người đang trực tiếp trải nghiệm cuộc đời HS-đều ở độ tuổi 14 đến 17; Đây là lứa tuổi đẹp nhất của mỗi con người cả về mặt thể chất lẫn tâm hồn. Trước mắt chúng ta là biết bao điều kì diệu đang diễn ra.Chúng ta luôn khát khao,tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ và sẽ được biết đến nhiều mối quan hệ xã hội mới mẻ và phức tạp hơn;Trong tất cả các mối quan hệ đó,quan hệ tình bạn,tình yêu luôn chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.Vì vậy có thể coi tình yêu là một trong những nhân tố quan trọng điều chỉnh hành vi và hoạt động của thanh thiếu niên,HS.Đó là một bộ phận trong cấu trúc nhân cách ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng,năng lực tính cách,lối sống…của HS.Vậy trong bối cảnh xã hội đang biến đổi một cách toàn diện và sâu sắc như hiện nay,HS chúng ta quan niệm như thế nào về tình yêu?HS có nên yêu hay không?…. Theo suy nghĩ của riêng mình thì : “không thể nói là HS nên hay không nên yêu được vì yêu ở giai đoạn nào,tốt hay xấu,hạnh phúc hay đau khổ phụ thuộc vào con người bạn và con người mà trái tim bạn hướng đến”. Ai dám khẳng định là thời HS không nên yêu?-Mình khẳng định là trên 60% các bạn trẻ hiện nay khi qua thời HS đều ít nhất trải qua một cuộc tình.Và quả thực cảm xúc như thế nào thì chỉ có họ mới trực tiếp cảm nhận được. Nhưng phải thừa nhận rằng tình yêu thời HS nó vừa có cái gì đó chưa đủ độ chín,nhưng vừa có cái gì đó rất đẹp,rất đáng trân trọng.Bởi các bạn đến với nhau bằng tình cảm thật sự, gắn kết với nhau bằng chính những sẻ chia,những khó khăn,những đồng cảm theo đúng nghĩa “HS”. Hãy tạm thời đừng nói đến việc tình yêu có đâm hoa kết trái hay không,nhưng chắc chắn nó sẽ là những kỉ niệm dù đắng cay hay ngọt ngào thì cũng được gói gọn trong hai từ “rất đẹp”….Bởi khi ra trường, tình yêu của bạn khi đó sẽ không hề giản đơn như thế nữa mà ngược lại, nó sẽ mang dáng dấp của kinh tế, của địa vị, của danh lợi….của “một chỗ dựa an toàn hơn những chỗ dựa khác”… Nhưng cũng không ai dám khẳng định nên yêu thời HS vì cũng có rất nhiều bất cập,nhất là lối sống có phần buông thả của nhiều bạn HS hiện nay,mà những hệ lụy của nó đôi khi lại vùi dập cả những tài năng. Trở lại quan điểm của riêng mình,không có gì là xấu khi yêu thời HS cả, điều quan trọng là con người bạn, trước hết là chính bạn,bạn có đủ tự tin không, đủ nghị lực không,để có thể yêu nhưng vẫn làm tròn nghĩa vụ tiếp thu tri thức… Có thể nói không mấy ai đã từng “mài đũng quần” suốt mấy năm trên ghế giảng đường Đại Học mà không có ít nhiều kỉ niệm yêu đương thời HS.Tất nhiên có người đủ dũng cảm bộc lộ tình cảm đó,có người thì do bản tính nhút nhát hay kín đáo sẽ chôn sâu những tình cảm đầu tiên ấy vào tận đáy con tim đến vài ba chục năm sau, khi mái tóc đã ngả màu muối tiêu, gặp nhau ở cuộc họp “đồng môn” mới nói ra được…Đã là con người thì ai chẳng có trái tim,sống trong một tập thể ngang tuổi nhau,lại cùng chung ước mơ lý tưởng, rất dễ nảy sinh tình cảm bạn bè,rồi từ tình bạn đến tình yêu thì không có gì lạ. Nếu tình yêu làm cho bạn tốt đẹp lên,động lực tình yêu làm cho sức học của bạn vượt trội lên hẳn lên,bạn có kế hoạch rõ ràng cho tương lai và đưa tình yêu đi vào quỹ đạo của nó, không cản trở việc học hành và chuẩn bị cho sự nghiệp lâu dài của bạn thì theo mình: tình yêu đó chẳng có gì phải né tránh. Sẽ thật vô lý nếu ai đó cấm HS không được yêu,bởi vì chúng ta là những người đã trưởng thành cả về mặt sinh học cũng như về mặt xã hội.Cho nên vấn đề không phải là HS có nên yêu hay không mà cái đáng bàn ở đây là HS nên yêu như thế nào?…. Chúng ta là những thanh niên tri thức,hàng ngày được cập nhật những thông tin khoa học tiên tiến nhất của thời đại,hơn ai hết chúng ta phải hiểu gia đình và xã hội phải bao vất vả mới cung cấp cho chúng ta những điều kiện ăn học trong trường học để làm gì? Để học hay để yêu?…Vì thế,nếu bạn yêu và biết cách làm thế nào cho tình yêu ấy thực sự đẹp để sau này ta nhìn lại có thể mỉm cười và kể cho nhau nghe về tình yêu ấy thì theo mình tình yêu HS này thật đáng trân trọng. Tất nhiên, điều quan trọng nhất là luôn phải định hướng để có một tình yêu không lệch lạc.Lệch lạc về tư tưởng sẽ dẫn đến sự mù quáng,quá đà trong tình yêu HS và kết quả là vết trược dốc không phanh khi thất tình,thậm chí còn là hành vi tự tử hoặc những hành vi vi phạm pháp luật khác như giết người mình yêu chẳng hạn…Lệch lạc trong cảm xúc giới tính sẽ dẫn tới những hậu quả như : Quan hệ tình dục trước hôn nhân,tình dục không an toàn, sống thử-một hiện tượng trong cuộc sống HS đang được dư luận nói đến khá nhiều trong thời gian gần đây…Và hậu quả của những sự lệch lạc đó là việc mang thai ngoài ý muốn,nạn phá thai, bệnh xã hội như HIV-AIDS…dẫn đến nhiều bạn phải bỏ học giữa chừng, cánh cổng tương lai tươi sáng dần khép lại trước mắt trong nỗi ân hận và sự nuối tiếc. Tóm lại,trả lời cho vấn đề này thì câu trả lời của mình là : Không quan trọng là yêu khi nào.Cái quan trọng đáng quan tâm và xem xét là các bạn yêu như thế nào.Vấn đề nào cũng có hai mặt tốt và xấu.Mình chỉ có một lời khuyên cho tất cả các bạn HS chúng ta là: tình yêu là điều thiêng liêng và cao đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho loài người chúng ta. Nhưng là HS, chúng ta phải luôn đặt việc học tập và tiếp thu kiến thức lên vị trí đầu tiên, quan trọng hơn. Nếu bạn yêu thì hãy để cho tình cảm ấy dừng lại ở mức độ yêu thực sự, như những mối tình trong trắng và dễ thương, ngây thơ và mang một chút nhí nhảnh, đáng yêu của thời HS. Tình yêu của bạn sẽ hoàn toàn đúng và được mọi người chấp nhận nếu bạn biết giới hạn của nó. Một nụ hôn hay chỉ là một cái nắm tay cũng là một tình yêu đẹp rồi, đừng nên làm những việc mà chúng ta chưa có đủ khả năng để đón nhận nó. Một tình yêu trong sáng sẽ giúp chúng ta, động viên chúng ta rất nhiều trong những nỗi buồn vui của bộn bề cuộc sống HS. Hãy yêu đúng lúc và dừng đúng nơi nhé bạn!!!! . Suy nghĩ về tình yêu của giới trẻ hiện nay – Bài làm 2 Tình yêu là vấn đề của muôn đời. Từ xa xưa đến mai sau, có lẽ nhịp đập của trái tim con người vẫn cứ bồi hồi, xao xuyến, khắc khoải, thao thức… như thế trước tiếng gọi của tình yêu. Nhưng quan niệm và cách ứng xử trong tình yêu thì chắc chắn sẽ có những đổi thay theo từng thời đại. Trong bối cảnh cuộc sống hiện nay, có khá nhiều điều cần phải bàn luận, suy ngẫm về tình yêu và trách nhiệm của tuổi trẻ với tình yêu. So với các thế hệ trước, con người hiện đại đã có được sự bình đẳng, tự do trong tình yêu. Họ không còn phải chịu cảnh "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy"; cũng không bị tróibuộc bởi các hủ tục xã hội khắt khe như thời xưa. Hầu hết mọi người được tự do lựa chọn và có thể chủ động trong việc kiếm tìm hạnh phúc. Chúng ta không còn phải chứng kiến nỗi đau khổ của lứa đôi yêu nhau tha thiết mà không được nên vợ nên chồng chỉ vì sự cách biệt về tài sản, đẳng cấp. Người phụ nữ cũng không còn phải nếm trải nỗi khổ vì thân phận lộ thuộc "Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"; hoặc "Em thương anh cũng muốn kết nghĩa giao hoà – Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời"… Thậm chí, sau khikết hôn, nếu tình yêu không còn, họ có thể chia tay và đi tìm hạnh phúc mới mà không phải gánh chịu "búa rìu dư luận" nghiệt ngã như thời xưa (Nứa trôi sông không dập thì gãy – Gái chồng rẫy không chứng nọ cũng tật kia…). Nhưng cũng chính môi trường của cuộc sống hiện đại đã làm nảy sinh không ít quan niệm lệch lạc và nhiều hiện tượng chưa đẹp trong tình yêu. Hình như chuyện đến và đi trong tình yêu có chiều hướng ngày càng dễ dãi và không hiếm bạn trẻ thay đổi người yêu như thay áo. Nhiều bạn yêu theo "trào lưu" – lớp mình, trường mình có các đôi cặp kè thì mình cũng thế cho khỏi "tụt hậu". Có người coi việc chinh phục được đối tượng là một chiến tích, càng nhiều "chiến công" càng tự hào về tài "chinh chiến" của mình! Có người biến tình yêu thành phương tiện để thoả mãn nhu cầu ăn chơi, hưởng lạc. Không ít đôi dễ dàng "sống thử" cuộc sống vợ chồng trước hôn nhân. Kết quả là những tình cảm "giống như tình yêu" ấy thường nhanh chóng tan vỡ, để lại nỗi chán chường, thất vọng và có khi là nỗi hận thù. Đáng buồn nhất là cách ứng xử của một số bạn trẻ khi tình yêu không được đáp lại hoặc dang dở, chia li: nhẹ thì bôi xấu, lăng mạ; nặng thì "cho một trận đòn dằn mặt"; thậm chí có người nhẫn tâm huỷ hoại hình hài người yêu bằng a-xít hoặc cướp đi cả sinh mệnh của họ. Tôi hoàn toàn không tin khi có người nói rằng những hành động kia bắt nguồn từ tình yêu, vì "quá yêu" mà hành động mù quáng. Bởi vì, tình yêu thực sự không bao giờ chung sống với thói vị kỉ, sự tàn nhẫn. Trái lại, tình yêu luôn gắn liền với lòng chung thuỷ, vị tha và đức hi sinh. Tinh yêu phải khiến con người biết hướng tới những hành động đẹp đẽ, cao thượng. Nó sẽ trở thành nguồn sức mạnh kì diệu giúp mỗi người vượt qua khó khăn, thử thách trên con đường đời. Tôi nhớ những câu ca xưa "Muối ba năm muối đương còn mặn – Gừng chín tháng gừng hãy còn cay – Đôi ta tình nặng nghĩa dày – Có xa nhau đi nữa ba vạn sáu ngàn ngày mới xa". Tôi nhớ mãi câu chuyện có thật về một chàng trai miền biển, đến bệnh viện chăm sóc người thân, tình cờ gập một cô gái mang bệnh hiểm nghèo và đem lòng yêu thương cô. Anh đã vượt qua sự phản đối của gia đình, sự mặc cảm của cô gái để trở thành người bạn đời thuỷ chung, ân cần. Hai người đã nên vợ nên chồng và họ hạnh phúc bất chấp những nhọc nhằn, gian khó của cuộc sống đời thường. Như thế, yêu không chỉ là đắm say, nồng nàn, nhớ nhung da diết, mà trước hết phải biết sống có trách nhiệm với mình, với người yêu. Ở trường tôi học, có một đôi thường được các lứa "đàn em" nhắc đến với lòng ngưỡng mộ. Anh và chị đều là học sinh sốngtrong khu nội trú. Khi anh học lớp 12 thì chị vào lớp 10. Mọi người xung quanh chỉ thấy anh quan tâm, săn sóc chị như một cô em gái mà không có chuyện hò hẹn, cặp kè như nhiều đôi khác. Vào đại học rồi, anh vẫn thường xuyên trở về thăm các em, giúp đỡ mọi người từ chuyện học hành đến việc treo lại một cái giá sách, đóng lại cái mắc áo… Ngày chị có kết quả thi đại học, anh mới trao cho chị cuốn nhật kí của ba năm được viết từ khoảnh khắc trái tim anh bồi hồi, xao xuyến trước gương mặt ngơ ngác của cô bé lớp 10 vừa nhập học; ghi lại bao lần anh phải kìm giữ lòng mình không dám thổ lộ tình yêu để giữ cho cô bé ấy những ngày tháng hồn nhiên, êm đềm của tuổi học trò… Tôi nghĩ, mình nghe kể đã thấy xúc động, cảm phục rồi, thì "người trong cuộc kia" không biết sẽ hạnh phúc đến thế nào khi được trao, được nhận một tình yêu như thế. Họ chính là những con người biết nâng niu, trân trọng tình yêu. Khi tình yêu không được đáp lại hoặc tan vỡ vì một lí do nào đó, con người càng phải có trách nhiệm cao hơn để gìn giữ vẻ đẹp của tình cảm thiêng liêng này. Chắc hẳn mỗi chúng ta còn nhớ "cảnh ngộ" của chàng trai trong bài thơ Tôi yêu em của Pu-skin: tâm hồn bị giằng xé bởi bao cảm xúc trái ngược của mối tình đơn phương, khi lặng lẽ, âm thầm, lúc hậm hực ghen tuông, lúc chân thành đằm thắm… Vậy mà chàng trai ấy đã tự nguyện giã từ vì tôn trọng sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn người con gái mình yêu thương. Anh từ biệt cô với lời chúc phúc "Cầu em được người tình như tôi đã yêu em". Trong cuộc sống, cũng có bao nhiêu đôi lứa không nên duyên chồng vợ vẫn có thể là bạn hoặc vẫn nhớ về nhau với những kỉ niệm tốt lành. Họ đã vượt lên nỗi đau khổ, thất vọng của riêng mình mà không làm tổn thương người khác, không xúc phạm tình yêu. Bố tôi có một người bạn thân từ nhỏ, bác ấy yêu một cô học cùng trường đại học nhưng cô ấy lại yêu người khác. Suốt mấy năm bác kiên trì "theo đuổi", rồi- thất vọng, đau khổ nhưng không có một lời oán trách, giận hờn dù tình cảm chân thành của mình chẳng được đáp lại. Khi mỗi người đã có gia đình riêng, bác vẫn quan tâm đến cuộc sống của cô, lặng lẽ giúp đỡ lúc cô ấy đau ốm, hoạn nạn. Năm 49 tuổi, cô ấy qua đời vì căn bệnh nan y, bác đi công tác xa về, cùng bố tôi đến nghĩa trang, đốt trên mộ cô tờ giấy có những dòng chữ ố vàng từ ba mươi năm trước: "Người mình yêu thương mãi mãi vẫn yêu thương"… Tôi nghĩ, chính những con người như thế đã tôn vinh giá trị của tình yêu giữa cuộc đời. Mỗi một thời đại có thể thêm và bớt đi những tiêu chí định giá con người và cuộc sống. Nhưng riêng với tình yêu, có lẽ "chuẩn giá trị" vẫn là một hằng số không đổi. Con đường đến với tình yêu muôn màu muôn vẻ và tình yêu có thể mang đến niềm vui, hạnh phúc; cũng có thể khiến ta đau khổ, xót xa, tiếc nuối song tình cảm ấy mãi mãi là món quà vô giá của cuộc sống. Tất nhiên, tuỳ thuộc vào cách mỗi người trao và nhận nó. Với tôi, yêu là phải biết sống đẹp hơn…
Suy nghĩ về tình yêu của giới trẻ hiện nay – Văn mẫu lớp 12
2,892
Sóng của Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một bài thơ tình rất đẹp vẻ đẹp của tâm hồn khao khát yêu thương trong mối tình đầu rạo rực của thiếu nữ. Vẻ đẹp của nhạc; nhạc của lòng cũng là nhạc của thơ, nhạc của sóng reo, sóng vẻ đẹp của men say tình ái được cất lên thành lời ca ngọt ngào, tha thiết bao: Con sóng dưới lòng sâu (…) Hướng về anh một phương. Hình tượng “sóng” đầy thi vị. Bất cứ ở đâu, dù ở “dưới lòng sâu” hay ở "trên mặt nước”, thì sóng vẫn “nhớ bờ”. Dù cả trong ngày và trong đêm dài vắng vẻ, sóng vẫn “không ngủ được”. Các động từ – vị ngữ: “nhớ bờ”, “không ngủ được” đã được nữ sĩ dùng rát đắt tinh tế và biểu cảm, đem đến cho ta bao cảm xúc đẹp về tình yêu: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được. Nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt. Dù ở không gian nào “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù ở thời gian nào “ngày” cũng như “đêm", sóng vẫn “nhớ bờ”, sóng vẫn bồn chồn, thao thức “không ngủ được”. Lấy không gian và thời gian để “đo” nỗi nhớ của em, tác giả đã thể hiện một cách sâu sác một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khao khát được yêu thương. Sóng đã được nhân hóa mang hồn em và tình em. Từ cảm “ôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một tiếng lòng chấn động rung lên: “ôi con sóng nhớ bờ…”. Từ hiện tượng sóng vỗ xôn xao suốt đêm ngày trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình cảm của thiếu nữ: Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức. “Cả trong mơ” và cả khi “còn thức”, trong thực và trong mộng, em vẫn “nhớ đến anh”. Hình bóng chàng trai – người tình đã choán ngợp tâm hồn cô gái. Yêu là sự hòa hợp nhập hai tâm hồn. Sóng trên đại dương là biểu tượng cho sự sống muôn đời, cũng như tình yêu của “em” đốì với “anh” mãi mãi là nỗi khao khát nhớ thương, mong đợi, trong không gian, trong thời gian, và “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh đã có một cách nói mới mẽ, một cách diễn đạt độc đáo khi thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, của “em”. Ta hãy trở về với ca dao: Nhớ ai em những khóc thầm Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa. Hay: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Hay: Nhớ ai nhớ mãi thế này ? Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn. Qua dó, ta mới cảm thấy cái ý vị đậm đà của ngôn từ, cái cảm xúc nồng cháy của tâm hồn thiếu nữ: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”.Tình yêu luôn luôn đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở về thời gian và không gian. Sự cách trở ấy đã làm cho tâm hồn thiếu nữ, tâm hồn “em” thêm đẹp, đinh ninh lời thề nguyền “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” {.Truyện Kiều). Lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu, họ quyết tâm vượt qua mọi thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thấtbát đèo cũng qua để được sống dưới một mái ấm hạnh phúc đời đời bên nhau.Với em thì dù đi đâu, dù có lên thác xuống ghềnh, “dẫu xuôi về phương bắc – dẫu ngược về phương nam” trong bom đạn thời chiến tranh chống Mĩ (1967),nhưng em vẫn “hướng về anh một phương”, hướng về “anh”, người mà “em” thương nhớ, đợi chờ: Nơi nào em củng nghĩ Hướng về anh một phương. Các điệp ngữ: “dẫu xuôi về”, “dẫu ngược về”, “phương” (phương bắc, phương nam, một phương) đã liên kết với các từ ngữ: “Em cũng nghĩ”, “hướng về anh” làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định một cách mạnh mẽ.Chữ “một” trong câu thơ “hướng về anh một phương" đã thể hiện một tình yêu sắt son thủy chung. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là một âm vang của tiếng sóng, là một khúc tâm tình của thiếu nữ “trăn trở, khát khao được yêu thương gẳn bó”. Trái tim thiếu nữ nồng hậu và đằm thắm biết bao! Sóng nhớ bờ, em nhớ anh là quy luật muôn đời của tự nhiên, của sự sống và tình yêu. Xuân Quỳnh đã viết nên mg vần thơ ngũ ngôn có nhạc điệu ngân vang tha thiết, có hình tượng sóng hình tượng em rất đẹp. Các ẩn dụ và liên tưởng đầy tính nhân văn. Cấu trúc song hành (câu 1 với 2, câu 3, 4 với câu 7, 8) và các điệp ngữ (sóng, dẫu…về,phương) đã tạo nên âm điệu triền miên, liên hồi như tiếng sóng vỗ xôn bồi hồi trong lòng “em”. Yêu là chết ở trong lòng một ít? – Không! Với Xuân Quỳnh, thì tình yêu là ‘khát vọng”, đã làm cho thiếu nữ hồn hậu hơn, cao quý hơn. Bởi lẽ: Tình yêu là thế, em ơi! Hai người mà hóa một người trăm năm… (Lạ chưa? – Tố Hữu)
Sóng là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh, thể hiện một tâm hồn yêu thương gắn bó. Bình giảng khổ thơ để làm sáng tỏ nhận định_ Con sóng dưới lòng sâu (…) Hướng về anh một phương
884
Thuyết minh về bến Ninh Kiều Cần Thơ – Bài làm của một bạn học sinh giỏi Tp Cần Thơ Cần Thơ gạo trắng nước trong Ai đi đến đó lòng không muốn về Câu hát bâng khuâng đưa ta về một miền Nam Bộ, nơi có những thiên cảnh làm vướng bận bao tao nhân mặc khách. Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, giữa một mạng lưới sông ngòi kênh rạch. Cần Thơ tiếp giáp với 6 tỉnh: bắc An Giang và Đồng Tháp, nam giáp Sóc Trăng, Bạc Liêu, tây giáp Kiên Giang, đông giáp Vĩnh Long. Cần thơ có nhiều hệ tống sông ngòi kênh rạch như sông Hậu, sông Cần Thơ, sông Cái Tư, sông Cái Sắn, kênh Quản Lộ, kênh Phụng Hiệp, kênh Xã No. Các tuyến đường lớn chạy qua tỉnh là quốc lộ 1A, quốc lộ 80, quốc lộ 91. Cần thơ là trung tâm giao thông thủy bộ của cả vùng Nam Bộ, nối liền với Kampuchia, có bến cảng khá lớn tiếp nhận tàu 5000 tấn, có sân bay Trà Nóc: nằm bên bờ sông Hậu. Từ xa xưa, Cần Thơ đã được coi là trung tâm của lúa gạo miền Tây Nam Bộ, hiện nay là một trong những tỉnh sản xuất và xuất khẩu lúa gạo chính của cả nước. Với đất đai phì nhiêu, bên cạnh thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại. Cần Thơ còn có nguồn thủy sản khá phong phú, chủ yếu là tôm cá nước ngọt (hơn 5.000ha ao nuôi tôm cá nước ngọt) và cahwn nuôi heo, gà, vịt. Các ngành công nghiệp hiện có chủ yếu là điện năng (nhà máy điện Trà Nóc: 33000kw), kĩ thuật điện, điện tử, hóa chất, may, da và chế biến nông sản, thủy sản… là thế mạnh của tỉnh. Xứ sở ấy là của những con người hào phóng, các tài tử giai nhân Cần Thơ. Họ luôn tự ào và kiêu hãnh khi nhắc đến bến Ninh Kiều: Cần Thơ có bến Ninh Kiều Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân Xưa, bến Ninh Kiều là một bến sông đầu chợ Cần Thơ. Ninh Kiều ngày ấy tấp nập thuyền bè qua lại giao thương, hàng cây dương chắn gió ven bờ đã trở thành tên gọi của bến sông: bến Hàng Dương. Công việc giao thương ngày thêm phồn thịnh, bến Hàng Dương do đó cũng đưuọc mở rộng và sửa sang, rồi dần trở thành một thắng cảnh của Tây Đô. Sau 1958, bến này chính thức được đặt tên là bến Ninh Kiều. Dân gian truyền tụng rằng xưa, tại Ninh Kiều vào những đêm trăng sáng, thuyền bè tấp nập, tài tử giai nhân cùng nhau lĩnh xướng thơ ca, do vậy bến này còn gọi là bến Cầm Thi, Cầm Thi đọc trại là Cầm Thơ, rồi sau trại ra thành Cần Thơ, là tên của đất Cần Thơ xưa nay vậy. Nay, Ninh Kiều là quận trung tâm của thành phố Cần Thơ. Theo Nghị định số 05/2004/ NĐ_CP ngày 02 tháng 01 năm 2004 của Chính Phủ, quận Ninh Kiều được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của phân lớn các phường nội thành của thành phố Cần Thơ cũ gồm Cái Khế, An Hòa, Thới Bình, An Nghiệp, An Cư, An Hội, Tân An, An Lạc, An Phú, Xuân Khánh, Hưng Lợi và xã An Bình (thuộc thành phố Cần Thơ cũ). Quận Ninh Kiều có gần ba ngàn hecta diện tích tự nhiên (2.922,04 ha) và 206.213 nhân khẩu (năm 2004). Người Cần Thơ luôn tự hào với bến Ninh Kiều, nơi bờ sông nhìn ra dòng Hậu Giang hiền hòa, thơ mộng. Bến Ninh Kiề là một địa điểm mà du khách hay tìm đến, nằm bên hữu ngạn sông Hậu, ngay ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ, gần trung tâm thành phố Cần Thơ. Trên bến sông, thuyền bè luôn qua lại tấp nập, chở đầy những sản vật vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bên bến Ninh Kiều là cảng Cần Thơ, cảng này được xây dựng hiện đại có khả năng tiếp nhận trọng tải 5.000 tấn, gần bến Ninh Kiều có chợ Cần Thơ, một trung tâm buôn bán lớn ở miền Tây Nam Bộ. Thời gian đắp đổi khôn lường như dòng sông Hậu hiền hòa trôi xuôi. Ninh Kiều nay là niềm tự hào của dân Cần Thơ, đây không chỉ là nơi các thương buôn tìm đến, mà còn là nơi các tao nhân mặc khách bao lần bịn rịn, lưu luyến bến Hàng Dương: "Đất Châu Thành anh ở Xứ Cần Thơ em về Bấy lâu sông cạn biển thề Phân tay mai trúc, dầm dề cuộc châu" Thật chẳng quá lời nếu ta nói Ninh Kiều là một kho trái cây đầy ắp, bởi liền kề với bến sông lại là nơi tập trung những quả ngon, vật lạ của Nam Bộ như xoài tượng, xoài thanh ca, xoài giòn của Cao Lãnh, vú sữa trắng, quýt đường của Cần Thơ, măng cụt, sầu riêng hay bưởi Biên Hòa, mít tố nữ Bà Rịa – Vũng Tàu, nhãn Bạc Liêu, cam mật Sa Đéc…. Cần Thơ hôm nay có nhiều nét đổi thay, là một thành phố năng động, trẻ trung, Tây Đô, một danh xưng đầy tự hào của thành phố Cần Thơ, nay được đặt trong khu công nghiệp, bến Ninh Kiều vẫn từng ngày chung ánh ban mai, chung những buồn vui hay lo toan vất vả… từ đó, lời thơ, tiếng hát vẫn ngày càng cất lên… Cần Thơ ngày tôi đến Mưa nhạt nhòa phố sông Đường mênh mông gió lộng Tự hỏi người biết không? Cần Thơ ngày anh xa Có mắt ai lệ nhòa? Có biết em chờ đợi Dù một lần người qua? Ai đi về Cần Thơ Cho tôi hỏi bao giờ Bước chân yêu chung nhịp Trên Ninh Kiều mộng mơ?
Thuyết minh về bến Ninh Kiều Cần Thơ – Văn mẫu lớp 8
990
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về chiếc bánh tét – Bài làm 1 2 Thuyết minh về chiếc bánh tét – Bài làm 2 Thuyết minh về chiếc bánh tét – Bài làm 1 Bánh tét ngày Tết là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng ông bà tổ tiên hay trên bàn ăn của người dân đất phương Nam. Một đòn bánh tét tròn trịa, đầy đặn phản ánh khát vọng về một cuộc sống no đủ của người dân Nam bộ- cư dân của vùng đất mới. Người dân Nam bộ còn lưu truyền câu ca dao: “Chim kêu ba tiếng ngoài sông Mau lo lựa nếp hết đông tết về” Lo lựa nếp để gói bánh tét trước cúng ông bà tổ tiên, kế biếu bà con lối xóm, sau cùng để ăn cho ba ngày tết. Do vậy, món bánh tét ngày Tết là loại bánh không thể thiếu được vào dịp xuân về, là nét văn hóa ẩm thực tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ. Vì thế, một số người mới cho rằng cách gọi bánh tét có thể được đọc trại từ bánh tết mà ra. Cứ đến khoảng 27, 28 tết là mấy bà nội trợ đã lo chuẩn bị nếp. Một ngày trước khi gói bánh, nếp được đem đi ngâm và gút. Hôm sau, họ cắt mấy tàu lá chuối còn nguyên và xanh um ở mé vườn hay sau hè. Lá chuối được rọc nhỏ lại theo kích cỡ đòn bánh, rồi lau sạch và quét lên tí dầu ăn cho láng. Nếp gút lại thật kỹ, sau đó mới bày lên lá với lớp nếp đến lớp nhân. Người gói bánh tiến hành gói phần lá bên ngoài và gói ở 2 đầu bánh, rồi dùng sức buộc dây lạt thật chặt thân bánh, phần dây thừa được gọi là đuôi bánh. Cách gói phần đầu bánh có hai dạng: Gói theo kiểu hình tròn hay hình tam giác. Người gói bánh cột phần đuôi 2 hay 3,4 đòn bánh lại với nhau thành từng xâu, rồi bỏ vào nồi nước sôi trên lò than, lò củi để luộc chín. Mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh nồi bánh tét chụm lửa. Hồi còn nhỏ, ai đã từng ngồi như thế thì chắc không thể quên được hình ảnh bập bùng của lò than với âm thanh tí tách, cái háo hức mong đợi khi bánh được vớt khỏi nồi nước luộc và cái hơi nóng tỏa ra làm ấm cả gian nhà bếp. Đó là cảm giác của ngày tết sắp về ở từng gia đình. Độ chừng 3 đến 4 tiếng, người ta vớt bánh ra khỏi nồi nước, treo thành từng xâu trên cái đòn dài của nhà bếp để bánh ráo nước và tránh sự dòm ngó của lũ mèo, chuột. Sáng 30 cúng rước ông bà, họ cắt bánh thành từng khoanh rồi đặt vào đĩa để cúng. Bánh cúng xong thì con cháu mới được ăn. Khi ăn cũng là dịp để thưởng thức sự khéo léo của người nội trợ. Bánh tét ngon là khi mở ra phần nếp không dính lá, nếp phải dẻo, mịn và trong, phần nhân phải vừa ăn (không quá mặn cũng không quá ngọt) và có mùi thơm. Muốn được như vậy phải biết kỹ thuật gói bánh. Nếp chọn là loại nếp thượng hạng, nếp rặt, không được pha với thứ khác. Còn lá chuối là loại lá còn nguyên vẹn, không được rách để tránh cho bánh bị “xì” khi nấu. Mặt khác, nếp phải được gút kỹ nhiều lần sao cho thật sạch để khi ăn bánh phần nếp mới dẻo, mịn. Kỹ lưỡng hơn nữa, khi gút người ta cho thêm muối vào cho nếp thêm sạch, dễ gút. Nước ngâm nếp phải được để trong lu vài ngày để lắng tạp chất xuống đáy. Điều này giúp bánh được giữ lâu hơn trong ba ngày tết. Khi gói bánh phải gói thật chặt, không được gói lỏng vì dễ làm hư bánh trong khi luộc. Đậu xanh ngâm kỹ, đãi vỏ thật sạch thì nhân mới ngon. Nói là bánh tét ngày tết, nhưng dân Nam bộ chia làm 2 loại: Bánh tét mặn và bánh tét ngọt. Bánh tét mặn là loại bánh tét có nhân đậu xanh với mỡ, thịt ba rọi, một số nơi còn thêm hột vịt muối. Còn bánh tét ngọt gồm bánh tét nước tro, bánh tét nhân chuối, nhân đậu xanh,…Bánh tét mặn được làm phổ biến vào dịp tết. Người ta chọn mỡ heo hay thịt ba rọi còn tươi, rửa sạch và để ráo nước. Khi gói bánh thì để thịt, mỡ trên lớp đậu xanh. Nếu gói bằng thịt ba rọi, khi cắt bánh, phần chính giữa vừa trong vừa đục, trông rất bắt mắt. Còn bánh tét nhân mỡ thì phần mỡ trong vắt mới ngon. Ở Tiền Giang, khi làm bánh tét nhân mỡ, mấy bà lấy mỡ ướp với tí đường, củ hành tím rồi phơi trong thau nhôm chừng 5 đến 6 tiếng. Mỡ ướp hành tím làm cho nhân không nặng mùi, thơm và dễ ăn, khác với ướp tỏi. Phơi mỡ trong thau nhôm để lấy nhiệt cho mỡ dễ chín, săn chắc. Mấy ngày tết, sợ ăn bánh tét mặn ngán, bà con còn gói thêm bánh tét ngọt để ăn thêm, đặc biệt ở một số gia đình ăn chay. Bánh tét ngày Tết bằng nước tro là loại bánh mà nếp được ngâm với nước tro tàu, phần nhân gồm đậu xanh xào chung dừa nạo. Bánh có mùi thơm lạ, màu hơi đen, ăn rất ngon. Gọi bánh tét chuối vì phần nhân được làm bằng chuối. Người ta chọn loại chuối xiêm chín rục làm nhân. Khi cắt bánh, phần nhân có màu đỏ thẫm, vị ngọt tự nhiên. Ở miệt Bến Tre còn có loại bánh tét không nhân. Bánh được làm toàn bằng nếp trộn chung với đậu đen hay đậu phộng và nước cốt dừa, ăn rất béo và thơm. Còn ở Tiền Giang, cũng bánh loại này, mấy bà còn cho thêm chuối xiêm chín đã bóp nhỏ vào hỗn hợp đậu, nếp, nước cốt dừa, đậu đen rồi mới gói. Khi cắt ra, bánh gồm nhiều màu, rất bắt mắt và có vị ngọt của chuối, vị bùi của đậu, vị béo của nước cốt dừa, vị dẻo của nếp. Ở Nam bộ, khi ăn, bánh tét ngày Tết thường được dùng chung với dưa kiệu, dưa muối cho đỡ ngán. Có người thích ngọt, khi ăn họ còn cho thêm đường trên mặt bánh. Người ta còn dùng bánh tét thay cơm. Họ chan nước thịt kho tàu dầm tí ớt, trộn thêm dưa giá hay dưa kiệu để ăn chung với bánh. Ăn kiểu này thì ngon và hết sẩy! Vị béo, ngọt của bánh cùng vị chua chua của dưa giá, dưa kiệu và vị mặn mặn, cay cay của nước thịt kho tàu tạo nên một hương vị khó tả và nhớ mãi. Mấy bà nội trợ ở Tiền Giang còn làm thêm món củ cải trắng ngâm với nước tương hoặc nước mắm, bỏ trong hủ sành để ăn kèm với bánh tét. Bánh tét ở Nam bộ có một số loại rất ngon, nổi tiếng, ăn thì khỏi chê, biếu rất sang như: Bánh tét Trà Cuôn (Trà Vinh), Bánh tét lá cẩm (Cần Thơ) và bánh tét Tiền Giang. Bánh tét Trà Cuôn có gốc tích từ xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Phần nếp bánh có màu xanh, nhân đậu xanh, trong cùng là thịt mỡ và hột vịt muối. Phần nếp có màu xanh do được làm từ nước lá chùm ngót giã nhuyễn trộn vào. Đây được cho là cách làm bánh tét của người Khmer Trà Vinh. Theo người dân Cần Thơ cho biết bánh tét lá cẩm có nguồn từ gia tộc họ Huỳnh ở Bình Thủy. Dòng họ này đã làm cho bánh độc đáo hơn bằng cách nấu lá cẩm lấy nước, sau đó cho nước hòa chung với nếp. Do đó,khi cắt bên ngoài,bánh có màu tím than, phần nhân có màu vàng của đậu, màu hồng của thịt, màu trắng của mỡ và màu đỏ của trứng vịt muối, trông rất đẹp và duyên dáng. Còn bánh tét Tiền Giang có nhân thịt ba rọi, tôm khô và hột vịt. Do nếp được ngâm nước lá dứa, nên khi ăn bánh có mùi thơm nhẹ. Mặt khác, trứng hột vịt muối- nguyên liệu chế biến thức ăn phổ biến của người Hoa có mặt trong nhân bánh tét hay sự tiếp thu từ cách làm bánh của người Khmer (bánh tét Trà Cuôn) đã phản ánh rõ nét sự giao lưu văn hóa ở vùng đất Nam bộ. Sự khác biệt trong cách làm bánh tét ở một số địa phương như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Cần Thơ thể hiện được tính thống nhất mà đa dạng của văn hóa ẩm thực. Phải chăng đó chính là những nét nghĩa văn hóa của đòn bánh tét ngày tết ở vùng đất phương Nam ấm áp và yên bình? Thuyết minh về chiếc bánh tét – Bài làm 2 I. Mở bài: giới thiệu vấn đề cần thuyết mình ( giới thiệu về bánh tét) Tết là một ngày lễ lớn của dân tộc Việt Nam. Tết là khoảng thời gian tụ họp sum vầy sau một thời gian làm việc mệt mỏi. chính vì thế mà tết là một phong tục truyền thống và lâu đời của dân tộc ta. Mỗi dịp tết đến nhà nhà luôn chuẩn bị sẵn sang các thứ cần thiết cho ngày tết như: bánh mức, hạt dưa, thịt,… và các thứ khác. Một phong tục truyền thống mỗi khi tết đến đó là gói bánh chưng- bánh tét. Để hiểu rõ hơn về bánh tét chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu về bánh tét. II. Thân bài 1. Nguồn gốc của bánh tét Theo tác giả Lê Tân trong bài “Bánh tét Trà Vinh” cho rằng bánh tét được làm và ăn quanh năm nhưng thường được nhắc đến nhiều nhất vào dịp lễ hội, đặc biệt là tết cổ truyền. Vì vậy nên theo dân gian lưu truyền ngày xưa cứ tết đến người ta gói loại bánh này và gọi bằng tên "bánh tết", lâu dần đọc trại ra thành "bánh tét". Tuy nhiên, tên gọi của bánh tét cũng có thể xuất hiện từ hành dộng “ tét bánh”. “tét” là một hành động cắt bánh, tay phải cầm đầu dây khoanh tròn đòn bánh đã lột (vỏ), "tét" từng khoanh một đơm lên đĩa. 2. Phân loại – Bánh tét ngọt hay còn gọi là bánh tét chay: được gọi là bánh tét ngọt hay bánh tét chay vì nguyên liệu làm nên bánh tét không có thịt và thường nhân làm bằng trái chuối. – Bánh tét mặn: bánh tét mặn thường có nhân thịt. 3. Nguyên liệu làm bánh tét Mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có nguyên liệu làm bánh tét khác nhau. Nhưng mỗi đòn bánh tét mặn đều có những nguyên liệu chung như sau: – gạo nếp – đậu xanh tách vỏ – thịt heo – một số gia vị 4. Quy trình làm bánh tét a. Chuẩn bị – Gạo nếp trước khi gói bánh thường được ngâm, trước vài tiếng, đãi sạch – Đậu xanh ngâm đãi sạch vỏ – thịt ba rọi xắt vuông dài làm nhân bánh – lá chuối phơi cho héo một chút b. Gói bánh – trước tiên trải lá chuối và đổ nếp lên trên – cho nhân thịt vào giữa bánh – gói lại thành một đòn bánh rồi buộc dây c. Nấu bánh – Bánh Tét phải luôn được nấu ngập trong nước – thời gian nấu tùy và kích cỡ bánh nhưng thông thường từ 6 – 8 giờ – Nhiệt độ nấu nằm trong khoảng 90 – 100oC 5. Sự khác biệt giữa các vùng về bánh tét – Vùng Bình Dương, Tây Ninh đất cát là xứ rẫy có nhiều đậu nên bánh tét ở đây làm bằng nếp trộn đậu phộng. – Đồng Nai có bánh tét nhân hột điều – Cần Thơ nổi thiếng bánh tét lá cẩm. – Sóc Trăng có bánh tét bắp non… 6. Ý nghĩa của bánh tét – Bánh tét thể hiện sự bao bọc của người mẹ dành cho con thể hiện qua lớp chuối bao bên ngoài. Bên cạnh đó, bánh tét còn thể hiện tính cảm gia đình sâu sắc. – Nhân bánh tét vàng thể hiện lòng biết ơn thiên nhiên đã ban tặng cho ta những thực phẩm quí giá. III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về bánh tét – Nêu cảm nghĩ về bánh tét – Sự cảm nhận của em khi ăn bánh tét
Thuyết minh về chiếc bánh tét – Văn mẫu lớp 8
2,137
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về chiếc bút máy – Bài làm 1 2 Thuyết minh về chiếc bút máy – Dàn ý Thuyết minh về chiếc bút máy – Bài làm 1 Trong rất nhiều loại bút mà con người sử dụng hằng ngày thì cây bút máy tiện dụng và cần thiết đối với tầng lớp học sinh, sinh viên, giáo viên và công chức. Cây bút máy có nguồn gốc từ châu Âu, được đưa vào nước ta từ đầu thế kỉ XX, nhưng phải đến giữa thế kỉ nó mới trở thành vật dụng quen thuộc và phổ biến. Cây bút dài 14 cm, đường kính khoảng 1 cm. cấu tạo của bút máy gồm hai phần chính: bên ngoài và bên trong, vỏ bút gồm nắp và thân. Đa số nắp làm bằng nhựa, cùng loại nhựa với thân bút, phù hợp với đối tượng học sinh, sinh viên. Hoặc được làm bằng kim loại (nhôm, sắt mạ bạc, mạ vàng), có cái để gài vào túi áo hoặc sách vở. Thân bút hình trụ rỗng, thon dần về phía đuôi, vỏ bút có nhiệm vụ bảo vệ cho các bộ phận bên trong. Bên trong bút gồm các bộ phận: ngòi bút, lưỡi gà, ống dẫn mực và ruột đựng mực. Ngòi bút làm bằng kim loại không rỉ, ở đầu có chấm tròn nhỏ gọi ià hạt gạo. Nửa trên của ngòi có rãnh giữa để dẫn mực khi viết. Nửa phần dưới cong, ốp sát vào bộ phận lưỡi gà có các rãnh ngang làm nhiệm vụ giữ không cho mực tràn ra đầu bút. Ống dẫn mực ngắn độ 3 cm, nhỏ như cây tăm, làm bằng nhựa trong và dẻo. Đầu trên gắn vào lỗ tròn của lưỡi gà, đầu kia thông với ống chứa mực. Ống chứa mực dài khoảng 5 cm, bằng cao su hoặc nhựa mềm, được bảo vệ bằng lớp kim loại mỏng. Khi ta nhúng đầu ngòi bút vào bình mực, lấy ngón tay cái và ngón tay trỏ bóp nhẹ vào ruột bút thì mực sẽ được hút vào ống chứa (ruột bút). Xong xuôi, cho đầu bút vào phần thân bút, xoay từ từ cho gắn chặt vào nhau là có thể sử dụng được. Lúc viết xong, ta nhớ lấy giấy mềm hoặc miếng giẻ ẩm, lau kĩ ngòi bút cho mực không đóng cặn. Cứ dùng khoảng 1 tháng thì tháo rời các bộ phận ra cho vào nước lã; rửa và thông thật sạch rồi lau khô, lắp lại như cũ. Nếu bảo quản tốt, bút máy có thể sử dụng được trong một thời gian rất dài. Tuyệt đối không được đâm ngòi bút vào vật cứng, đầu ngòi sẽ hư, không viết được nữa. Đối với lứa tuổi học sinh, cây bút máy là vật dụng không thể thiếu. Viết bằng bút máy, nét chữ sẽ đều và đẹp hơn hẳn viết bằng bút bi. Chiếc bút máy Hồng Hà mà bố mua tặng cho em từ năm ngoái đến giờ trông vẫn như còn mới. Ngày ngày, cây bút cùng em tới trường. Nó đã trở thành người bạn nhỏ thân thiết của em. Thuyết minh về chiếc bút máy – Dàn ý Mở bài – Bút máy là một dụng cụ học tập không thể thiếu được của người học sinh. – Ta dùng để ghi chép lại tất cả nội dung bài học cần thiết lưu lại. Thân bài * Cấu tạo: + Ngày xưa bút (bút tay) chỉ có ngòi cắm vào cán bút (cán này không thể đựng mực hoặc dẫn mực được). Người viết phải luôn cầm theo lọ mựa, viết đến đâu chấm vào mực đến đó. + Ngày nay bút có câu tạo phức tạp hơn có phần ruột chứa được nhiều hơn, người viết chỉ cần bơm đầy mực là có thể sử dụng cả ngày không cần phải xách theo bình mực rất bất tiện gọi là bút máy. Bút máy có cấu tạo gồm hai phần: Vỏ viết: Được làm bằng nhựa (có khi bằng sắt …). Bên dưới là phần thân viết bao bọc bên ngoài để bảo quản cho ruột viết. Phần nắp đậy phía trên phần thân. (hai phần này có khi đồng bộ cùng màu hoặc có màu sắc tương phản, phần nắp thường có màu sáng nổi bật). Ruột viết: Phần đầu để viết (tạo nét chữ) gồm có ngòi bằng kim loại. Có một lưỡi gà đỡ ngòi viết và điều hoà mực vừa đủ khi ngòi tạo chữ. – Phần dưới gồm một ống dẫn mực nhỏ xíu bên trong có một đầu cắm vào lưỡi gà. Một ống nhựa mềm dẻo đựng mực nối vào phần giữa bao bọc ngòi và lưỡi gà ở phần trên. – Nhìn chung thì cấu tạo của cây viết rất đơn giản nhưng cũng rất tinh vi dần theo tháng năm. * Các loại bút: Bút Hồng Hà, bút Hê-rô, bút Trung Quốc 307, bút Kim Tinh … * Tác dụng, cách bảo quản: – Bơm mực đầy ống nhựa bằng cách bóp mạnh rồi cấm phần đầu bút vào bình mực vào buông tay từ từ, mực bị hút vào ruột rất nhiều có thể sử dụng suốt buổi học rất tiện lợi. Không bị mực đổ vấy bẩn áo quần, tay chân, tập vở rất sạch sẽ. – Phần ngòi bút là phần quan trọng cho nên khi mua bút, người sử dụng cần lựa chọn ngòi thật kĩ. An nhẹ mũi ngòi xuống giấy để tạo chữ kiểm tra độ êm tay của ngòi. – Cần giữ ngòi không bị tróc ra (gai) thì sẽ không thể viết được. Tránh mạnh tay để xuống bàn, ngòi đâm mạnh vào vật cứng tưa ra, đầu viết sẽ bị sốc, khó viết. Khi viết xong phải đậy nắp bút lại rồi mới đặt xuống bàn. – Mực lọc không có cặn để không làm tắc ống dẫn mực. Khi sử dụng lâu lâu ta cần phải rửa bút bằng nước nóng, lau khô bơm mực sử dụng tiếp. – Không vặn nắp bút quá chặt tay, nắp sẽ bể. Bỏ bút vào trong hộp dựng tránh rớt xuống đất dễ hư ngòi, bể vỏ. Kết bài – Bút rất thiết thực của mọi người dân đặc biệt là với học sinh. Quí trọng và giữ gìn bút kĩ hơn.
Thuyết minh về chiếc bút máy – Văn mẫu lớp 8
1,046
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về chiếc cặp sách – Bài làm 1 2 Thuyết minh về cái cặp sách – Bài làm 2 3 Thuyết minh về chiếc cặp sách – Dàn ý Thuyết minh về chiếc cặp sách – Bài làm 1 Suốt quãng đời cắp sách tới trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước,… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì vật dụng để đựng các thứ kể trên chính là chiếc cặp – một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm! Cặp sách được sử dụng nhiều trong quá trình học tập cũng như trong đời sống. Chắc chắn một điều rằng, cặp sách có thể được đưa vào danh sách hàng loạt những phát minh quan trọng của loài người. Việc phát minh ra cặp sách là do người Mỹ nghĩ ra vào năm 1988. Về cấu tạo, bên ngoài, ta dễ thấy nhất: nắp cặp, quai xách, kẹp nắp cặp, một số cặp có quai đeo, một số khác có bánh xe nhỏ được dùng để kéo trên đường,… Cấu tạo bên trong, có thể có một hoặc nhiều ngăn dùng để đựng tập sách, đồ dùng học tập, áo mưa, có thể có ngăn đựng ví tiền hay cả đồ ăn, nước uống nữa,… Về quy trình, cho dù quy trình làm ra chiếc cặp như thế nào đi nữa thì nó cũng chỉ có những công đoạn chính gồm: lựa chọn chất liệu, xử lí, khâu may, ghép nối. Chất liệu thì có rất nhiều loại cho phù hợp với yêu cầu của người dùng: vải nỉ, vải bố, da cá sấu, gải da,… Dù làm bằng chất liệu gì thì cặp cũng phải chắc, vì nó phải khiêng vác rất nặng các tập sách. Kèm theo đó, kiểu dáng cặp cũng phải phù hợp, ví dụ như con trai thì thường đeo cặp có quai sang một bên cho có khí phách, năng động. Con gái mặc áo dài thì ôm cặp trước ngực để có vẻ dịu dàng, thùy mị. Con nít thì đeo cặp ra sau lưng để dễ dàng chạy nhảy, vui đùa. Cùng với màu sắc, hiện đang thịnh hành rất nhiều loại cặp với nhiều màu sắc, hình ảnh đa dạng, phong phú, bắt mắt phù hợp cho từng lứa tuổi. Một số lời khuyên về việc sử dụng cặp cho đúng cách: chiếc cặp khi đeo không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể của mình. Nên xếp những đồ vật nặng nhất vào phần trong của cặp (phần tiếp giáp với lưng). Xếp sách vở và đồ dùng học tập sao cho chúng không bị xô lệch. Chắc chắn rằng những vật dụng để trong cặp đều càn thiết cho các hoạt động trong ngày. Đối với cặp hai quai, chúng ta không nên đeo lủng lẳng một quai, dễ cong vẹo người. Đối với cặp chỉ có một quai, nên thay đổi vai đeo để tránh cong vẹo người. Khi mua cặp, nên chọn loại quai đeo có độn bông, mút hoặc vải,… Ngày nay, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như Miti, Samsonite, Tian Ling, Ling Hao,… phổ biến ở khắp mọi nơi như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Nhưng cho dù chúng đẹp đến đâu, bền cỡ nào đi chăng nữa, cũng từ từ theo thời gian mà hỏng dần đi nếu như chúng ta không biết cách bảo quản nó, chẳng hạn như quăng chúng ình ình mỗi khi gặp chuyện bực mình hoặc ham vui mà quăng nó đi. Thế nên, chúng ta không nên quăng cặp bừa bãi, mạnh tay, thường xuyên lau chùi cặp cho sạch sẽ. Nói tóm lại, cặp sách là một vật dụng rất cần thiết trong việc học tập và cả trong đời sống của chúng ta. Nếu chúng ta sử dụng đúng cách, nó sẽ mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích và có thể được coi là người bạn luôn luôn đồng hành với mỗi chúng ta. Đặc biệt là đối với học sinh- chủ nhân tương lai của đất nước. Thuyết minh về cái cặp sách – Bài làm 2 Trong tất cả các dụng cụ của học sinh, chúng tôi được xem như là anh cả, bởi lẽ chúng tôi có thân hình to lớn nhất. Các bạn có biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi là những chiếc cặp xinh xinh giúp các bạn đựng đồ dụng học tập. Họ hàng chúng tôi có tự bao giờ không rõ lắm, nhưng chắc chắn là từ rất xa xưa, khi con người có nhu cầu đi học. Cha ông chúng tôi trước kia được làm rất đơn giản, thân hình chỉ gồm những mảnh da lớn được may lại, nắp cặp có khóa sắt hoặc có day kéo để đóng mở cặp. Còn ngày nay, với công nghệ tiên tiến và hiện đại, chúng tôi được thiết kế với nhiều kiểu mẫu đẹp hơn, đa dạng hơn. Họ hàng chúng tôi có nhiều loại: cặp đeo, cặp mang trên vai, cặp xách. Chất liệu để làm ra chúng tôi cũng phong phú hơn xưa. Có loại làm bằng da mềm, có loại làm bằng vải dù, vải gin, vải bố… Riêng tôi, tôi có một thân hình tương đối đẹp, được làm bằng một loại vải da tốt. Bên ngoài có trang trí nhiều hình vẽ và màu sắc nổi bật. Tôi thích nhất là hình chú chó Pikachu ngộ nghĩnh, đáng yêu ở phía trước mặt cặp. Bên trên là nắp cặp với một cái khóa bằng sắt bóng loáng để đóng, mở. Mỗi khi đóng, mở cặp, những âm thanh vang lên lách cách rất vui tai. Bên dưới nắp cặp là một cái túi phụ có dây kéo để các cô, cậu học trò đựng các đồ vật nhỏ cần thiết. Bên hông là một cái túi lưới để đựng những chai nước mà các cô, cậu thường hay mang đến lớp. Tôi không chỉ có quai đeo mà còn có một cái quai nhỏ để xách. Bên trong quai có lót xốp nên sử dụng rất êm. Quan trọng nhất là bên trong cơ thể tôi. Nơi ấy có ba ngăn chính dùng để đựng sách vở. Ngoài ba ngàn chính tôi còn có một ngăn phụ để đựng bút, thước, compa. Mỗi ngăn cặp được ngăn bởi một miếng vải mỏng và bền. Tuy thân hình chúng tôi cấu tạo chỉ như thế nhưng chúng tôi rất có ích. Nhờ có chúng tôi, các cô, cậu chủ cảm thấy tiện lợi hơn, thoải mái hơn khi đến trường. Chúng tôi che nắng cho sách, vở. Và chúng tôi chũng lấy làm vinh dự với chức năng bảo vệ nguồn tri thức của các cô, cậu học trò. Có chúng tôi, nguồn tri thức ấy sẽ không bị mất đi, không bị mai một đi khi trải qua mọi sự thay đổi của thời tiết. Để chúng tôi phát huy hết vai trò của mình thì cần phải có sự bảo quản của con người. Cách bảo quản chúng tôi cũng dễ thôi: Khi đi học về, các cô, cậu chủ nhớ treo chúng tôi lên móc, để ở nơi sạch sẽ. Khi chúng tôi bị ướt, các cô, cậu chỉ cần dùng khăn lau khô rồi phơi lên. Chúng tôi cũng cần được giặt sạch rồi phơi khô để vải không bị mục hoặc mốc. Khi có bụi bám vào, cần lau chùi cho chúng tôi sạch sẽ, nhìn vào sẽ trông đẹp hơn, mới hơn. Đặc biệt, để dây kéo hoặc ổ khóa được bền thì cần sử dụng nhẹ nhàng, cẩn thận. Nếu không cẩn thận thì các bộ phận này dễ bị hỏng. Chúng tôi cũng không tầm thường chút nào đấy chứ! Chúng tôi là những người bạn tốt của các bạn học sinh, luôn đồng hành cùng các bạn, giúp các bạn mang theo mình nhiều tri thức để sau này trở thành những người tài đức vẹn toàn, giúp ích chó đất nước và mở ra cho mình một tương lai mới. Thuyết minh về chiếc cặp sách – Dàn ý Mở bài: Chiếc cặp vốn rất phổ biến trong đời sống, được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh. Suốt quãng đời cắp sách tới trường, người học sinh luôn bầu bạn với cặp, sách, vở, bút, thước,… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Thân bài: * Khái niệm: Cặp là một vật dụng dùng để chứa đựng và di chuyển đồ dùng khi đi xa, đi làm hoặc đi học… Chiếc cặp học sinh dùng để chứa đựng sách vở khi đến trường nên thường được gọi là cặp sách * Nguồn gốc, xuất xứ: Để chứa đựng những vật nhỏ khi đi xa, từ xa xưa con người đã nghĩ đến một túi xách. Lúc ban đầu chỉ là một cái túi có buộc dây. Khi xã hội phát triển, do nhu cầu cần chứa đựng nhiều hơn và di chuyển gọn nhẹ người ta đã sáng tạo ra những túi xách tiện lợi. Chiếc cặp đã ra đời từ đó. Năm 1988, nhận thấy đây là một cơ hội lớn, người Mỹ đã thiết kế những mẫu cặp và sản xuất hàng loạt . Tuy nhiên, nó vẫn còn mang phong cách cổ điển. Từ đó đến nay, hình thức và chức năng của chiếc cặp không ngừng được sáng tạo để phù hợp hơn với nhu cầu sử dụng và văn hóa của các quốc gia. Chắc chắn một điều rằng, chiếc cặp xách có thể được đưa vào danh sách hàng loạt những phát minh quan trọng của loài người.. * Đặc điểm và Cấu tạo; Về hình dáng: hầu hết các cặp đều có hình chữ nhật hoặc hình thang cân. Kích thước: thường có chiều dài 40 cm, chiều cao 30 cm, chiều ngang 16 cm. Màu sắc: Thường màu đen hoặc được trang trí nhiều màu phù hợp với thị hiếu người sử dụng. Tùy theo lứa tuổi và sở thích mà người ta sản xuất cặp có màu sắc khác nhau. Chất liệu: Chủ yếu được làm bằng vải nilon, cotton rất bền chắc. Cũng có nhiều chiếc cặp được làm bằng vải mềm, da thú, polime dẻo. Ngày nay, người ta còn sản xuất những chiếc cặp bằng nhựa cứng hoạc kim loại nhẹ rất bền để dùng trong những công việc đặc dụng. Cặp của học sinh thường được gọi thành cặp sách bởi nó được dùng để mang sách vở đến trường. Cấu tạo: Chiếc cặp có cấu tạo rất đơn giản gồm: khung, các ngăn chứa, quai xách, quai mang (hoặc quai đeo), đế cặp, nắp đậy, dây kéo. Để giữ cho cặp không bị biến dạng khi sử dụng, người ta thường tạo khung cho cặp. Khung cặp có thể được làm bằng thép, nhựa cứng hoặc giấy cứng. Mỗi cặp thường có ít nhất 4 ngăn chứa, được đóng mở bởi dây kéo hoặc nắp đậy. Ngăn lớn của cặp dùng chứa đựng sách, vở. Các màng ngăn được may chắc chắn. Trong các ngăn chứa lớn thường có các ngăn chứa nhỏ để đựng các vật nhỏ như hộp bút, thước và các vật dụng nhỏ gọn khác. Bên mặt ngoài của cặp là các bộ phận quai, nhãn hiệu cặp, cơ sở sản xuất hoặc các quảng cáo khác. Người ta thường in logo thương hiệu, mã sản phẩm và các thông tin khác ở mặt ngoài của cặp. Mỗi cặp thường có một quai xách và một quai đeo. Quai xách ngắn, được gắn ở trên cùng giữa cặp. Quai xách dùng để xách cặp. Quai đeo dài hơn, móc vào phía hai đầu cặp bằng bộ phận móc kim loại để chống xoắn. Quai đeo dùng để đeo cặp trên vai, hỗ trợ lực cho quai xách. Đối với cặp học sinh thường có quai mang trên lưng. Người ta còn gắn một đế nhựa cho cặp để giữ cặp đứng vững khi đặt xuống. Cặp sách học sinh thường không có đế. Nắp cặp là bộ phận bảo vệ không cho các vật dụng rơi ra ngoài. Nếu dùng dây kéo thì người ta không làm nắp đậy. * Quy trình làm ra chiếc cặp: Để tạo ra một chiếc cặp sách người ta phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp. Đầu tiên là phải thiết kế mẫu mã. Người ta thường thiết kế nhiều mẫu mã cho từng loại cặp khác nhau. Ở mỗi loại cặp người ta còn chọn cách trang trí, phối màu hoặc tạo các hoa văn bắt mắt thu hút người sử dụng Lựa chọn chất liệu: vải nỉ, vải bố, vải cotton cứng, da cá sấu, vải da. Sau khi có chất liệu, người ta đem cắt theo khuôn khổ định sẵn. Khâu may: thông thường các xí nghiệp sử dụng máy may để may từng phần của chiếc cặp lại với nhau theo thiết kế. Ngoài sản xuất công nghiệp, có một vài loại cặp người ta may thủ công, tạo ra những mẫu mã bắt mắt, phù hợp với người sử dụng. Những loại cặp này thường rất đắt tiền, thường dành cho những người giàu có. Dù làm bằng chất liệu gì thì cặp cũng phải chắc, vì nó phải chứa rất nhiều các tập sách mỗi khi đến lớp. Kèm theo đó, kiểu dáng cặp cũng phải phù hợp. Con trai thì thường đeo cặp có quai sang một bên cho có khí phách, năng động. Con gái mặc áo dài thì ôm cặp trước ngực để có vẻ dịu dàng, thùy mị. Học sinh tiểu học thì đeo cặp ra sau lưng để dễ dàng chạy nhảy, vui đùa. Cùng với màu sắc, hiện đang thịnh hành rất nhiều loại cặp với nhiều màu sắc, hình ảnh đa dạng, phong phú, bắt mắt phù hợp cho từng lứa tuổi. * Vai trò và ý nghĩa: Giá thành: mỗi loại cặp có giá cả khác nhau. Với cặp học sinh khoảng từ vài chục đến vài trăm nghìn một chiếc. Cặp của các doanh nhân có giá từ vài trăm đến vài triệu một chiếc. Chiếc cặp giúp con người chứa đựng và di chuyển thuận lợi những vật dụng mỗi khi đi xa. Cặp là vật để chúng ta đựng sách vở, bút viết mỗi khi đến trường. Cặp cũng là vật để che nắng, che mưa cho sách vở, bảo vệ những vật dụng chứa ở bên trong nó. Cặp cũng là vật đã để lại không biết bao nhiêu kỷ niệm vui, buồn, đồng thời cũng tô lên nét đẹp của tuổi học trò. * Cách sử dụng: Tùy theo từng đối tượng mà con người có những cách sử dụng cặp khác nhau: + Cặp học sinh: thường xách trên tay, đeo trên vai hoạc mang trên lưng. Các dây đeo được thiết kế có bộ phận rút xiết dây giúp điều chỉnh dây phù hợp với mỗi người. Cặp quai đeo vai thể hiện sự chững chạc, nghiêm túc. Cặp quai mang trên lưng thể hiện sự năng động, người đeo có thể chạy nhảy vui đùa. Cặp đeo ngang hông thể hiện sự dịu dàng, hồn nhiên nữ tính. + Các nhà doanh nhân: sử dụng các loại cặp đắt tiền, thường thì họ xách trên tay, gon nhẹ và phong cách sang trọng. Khi sử dụng cặp phải đúng cách: chiếc cặp khi đeo không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể của mình. Nên xếp những đồ vật nặng nhất vào phần trong của cặp (phần tiếp giáp với lưng). Xếp sách vở và đồ dùng học tập sao cho chúng không bị xô lệch. Chắc chắn rằng những vật dụng để trong cặp đều cần thiết cho các hoạt động trong ngày. Đối với cặp hai quai, chúng ta không nên đeo lủng lẳng một quai, dễ cong vẹo người. Đối với cặp chỉ có một quai, nên thay đổi vai đeo để tránh cong vẹo người. Khi mua cặp, nên chọn loại quai đeo có độn bông, mút hoặc vải,… Ngày nay, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như: Miti, Samsonite, Tian Ling, Ling Hao,…… Nhưng cho dù chúng đẹp đến đâu, bền cỡ nào đi chăng nữa, cũng từ từ theo thời gian mà hỏng dần đi nếu như chúng ta không biết cách bảo quản nó. * Cách bảo quản: Muốn sử cặp được bền lâu ta phải tuân thủ các yêu cầu sử dụng hiệu quả do nhà sản xuất khuyến cáo: + Không được để cặp sách gần lửa bởi cặp rất dễ bị cháy hoặc bị biến dạng. Cũng không để cặp nơi ẩm ướt, nơi có nhiều bụi hoặc dưới ánh nắng mặt trời quá lâu ngày. + Thường xuyên lau chùi hoặc giặt cặp để giữ độ mới của cặp. + Không quăng cặp hay mạnh tay để tránh làm rách cặp hay hư hao. + Nếu cặp đã cũ, hãy làm mới cặp bằng xi đánh giày không màu. + Đừng bao giờ cất cặp da trong túi nilon, nó có thể làm khô túi hoặc bị chất dẻo dính vào da. + Khi cất cặp không sử dụng nữa hãy nhét giấy vụn hoặc áo phông cũ vào cặp để giữ hình dáng. + Đặt cặp trong túi nỉ của cửa hàng hoặc vỏ gối để giữ khả năng đứng thăng bằng của cặp. Kết bài: Cùng với những vật dụng tiện lợi khác, chiếc cặp sách đã trở thành một người bạn trung thành và luôn đồng hành với mỗi con người, đặc biệt là đối với những học sinh. Từ khi chiếc cặp sách ra đời đến nay nó đã thực sự đem lại sự tiện dụng to lớn trong cuộc sống con người.
Thuyết minh về chiếc cặp sách – Văn mẫu lớp 8
2,972
Bài làm 1 Nếu nói rằng đôi mắt là cửa sổ tâm hồn của mỗi chúng ta thì ắt rằng những cặp kính chính là những người giúp việc tận tâm, những người bảo vệ vững chắc, những vật trang trí duyên dáng cho khung cửa mộng mơ ấy. Quả không quá khi nói như vậy về cặp kính đeo mất bởi kính, có rất nhiều loại và rất nhiều tác dụng, phù hợp với hầu hết nhu cầu của mọi người. Với những người bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ khắc phục được điểm hạn chế của bản thân. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần… Đối với người làm những công việc đặc thù như bơi, trượt tuyết, đi xe máy tốc độ cao,… kính lại giúp mắt họ tránh khỏi nước, tuyết, gió, bụi,… Những người không bị bệnh về mắt, không có những hoạt động trên, khi ra đường cũng nên mang theo một cặp kính: để tránh nắng chói và gió bụi. Thậm chí, có những người sử dụng kính như một vật trang trí đơn thuần. Giá trị thẩm mĩ của kính có được bởi sự đa dạng của kiểu dáng và màu sắc. Dù chủng loại phong phú như vậy nhưng về cơ bản, cấu tạo của các cặp kính rất giống nhau. Một chiếc kính đeo mắt gồm có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Gọng kính cũng gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ. Phần sau giúp gá kính vào vành tai. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trước mắt. Gọng kính có thể được làm bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Bộ phận quan trọng nhất của kính – tròng kính – thì không thể thay đổi cấu tạo gốc và có một tiêu chuẩn quốc tế riêng. Hình dáng tròng kính rất phong phú, nó phụ thuộc vào hình dáng gọng kính: tròn, vuông, chữ nhật… Tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống tia uv và tia cực tím (hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho mắt). Ngoài ra, một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít… Chúng có kích thước rất nhỏ nhưng lại khá quan trọng, dùng để neo giữ các bộ phận của chiếc kính. Bên cạnh loại kính gọng còn có loại kính áp tròng. Đó là một loại kính đặc biệt, nhỏ, mỏng, được đặt sát vào tròng mắt. Riêng với loại kính này phải có sự hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ của bác sĩ chuyên ngành. Việc sử dụng kính tác động rất lớn đến sức khoẻ của mắt bởi vậy cần sử dụng kính đúng cách. Để lựa chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn của bác sĩ. Không nên đeo loại kính có độ làm sần vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi lấy và đeo kính cần dùng cả hai tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng. Đối với loại kính tiếp xúc trực tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏ mắt từ sáu lần đến tám lần trong vòng từ mười đến mười hai tiếng để bảo vệ mắt. Kính áp tròng đưa thẳng vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước… Trong quá trình học tập, làm việc, đeo kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi cổ… Đeo một chiếc kính trên mắt hẳn ai cũng tò mò muốn biết sự ra đời của kính? Đó là cả một câu chuyện dài. Vào năm 1266 ông Rodger Becon người Italia đã bắt đầu biết dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Năm 1352, trên một bức chân dung người ta nhìn thấy một vị hồng y giáo chủ đeo một đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng. Như vậy chúng ta chỉ có thể biết được rằng đôi kính được làm ra trong khoáng thời gian giữa năm 1266 và 1352. Sự ra đời của những cuốn sách in trở thành động lực của việc nghiên cứu, sản xuất kính. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc nước Ý và miền nam nước Đức – là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm 1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm kính mắt. Đến năm 1784, ông Bedzamin Franklin người Đức đã sáng tạo ra những đôi kính có hai tiêu điểm. Chiếc mắt kính đeo mắt là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày. Nếu biết cách sử dụng và bảo quản tốt, kính sẽ phát huy tối đa công dụng của mình. Hãy cùng tìm hiểu về kính để có thể biến “lăng kính” của “cửa sổ tâm hồn” trở nên phong phú và hoàn thiện hơn. Bài làm 2 Trong những vật dụng mà chúng ta thường dùng thì chiếc kính đeo mắt rất cần thiết đối với mọi người thuộc các lứa tuổi khác nhau. Cấu tạo của chiếc kính gồm hai bộ phận chính là gọng kính và mắt kính. Gọng kính được làm bằng nhựa cao cấp hoặc kim loại quý. Gọng kính chia làm hai phần: phần khung để lắp mắt kính và phần gọng để đeo vào tai, nối với nhau bởi các ốc vít nhỏ, có thể mở ra, gập lại dễ dàng. Chất liệu để làm mắt kính là nhựa hoặc thủy tinh trong suốt. Gọng kính và mắt kính có nhiều hình dáng, màu sắc khác nhau. Kính đeo mắt có nhiều loại. Loại thường như kính râm, kính trắng không số dùng che nắng, che bụi khi đi đường. Loại kính thuốc gồm kính cận, kính viễn, kính loạn thị, kính dùng sau khi mổ mắt… Muốn sử dụng, người có bệnh về mắt phải đi đo thị lực để kiểm tra, từ đó mới có thể chọn kính chính xác, không gây ra các tác dụng phụ như nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn… Không nên vì lí do thẩm mĩ mà ngại đeo kính thuốc khi bị bệnh. Nếu vậy sẽ làm độ cận hoặc độ viễn của mắt tăng rất nhanh. Lúc sử dụng kính, nên nhẹ nhàng mở bằng hai tay. Dùng xong nên lau sạch tròng kính bằng khăn lau mềm, mịn. Cất kính vào hộp để ở nơi cố định dễ tìm như trong ngăn tủ, ngăn bàn, mặt bàn… tránh các vật nặng đè vỡ hoặc làm trầy xước mặt kính. Thường xuyên rửa kính bằng nước, lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng. Để mặt kính không biến dạng, khi đeo và tháo kính nên dùng hai tay cầm hai gọng kính. Đối với gọng kính kim loại, nên thường xuyên kiểm tra, vặn chặt các ốc vít để giữ chặt tròng kính. Phải dùng kính đúng độ thì thị lực đỡ suy giảm. Kính đeo mắt ngoài tác dụng giúp cho chúng ta nhìn nhận sự vật chính xác, tăng cường hiệu quả học tập và lao động thì còn là vật trang sức làm tăng thêm vẻ duyên dáng, thanh lịch cho mỗi người. Con người có năm giác quan thì thị giác là giác quan hoàn hảo nhất và quan trọng nhất. Vì vậy, việc giữ gìn để có đôi mắt trong sáng và tinh tường đồng nghĩa với bảo vệ cuộc sống của chính mình. Bài làm 3 Đa số người mang kính cận, viễn, loạn,… đều lấy làm vui mừng nếu họ không phải mang kính. Một số người phải bỏ ra một số tiền lớn làm phẫu thuật nhằm thoát khỏi cảnh nhìn đời qua hai mảnh ve chai. Sản phẩm mới nào sẽ xuất hiện và khách hàng của loại sản phẩm mới này là ai, nếu chúng ta thử cắt bỏ thành phần chính yếu nhất của tròng kính thuốc ? Câu trả lời là sản phẩm mới sẽ là loại kính đeo mắt có tròng kính 0 đi-ốp và khách hàng của loại kính này sẽ là một số người thích đeo kính !!! Tại sao có người lại thích đeo kính trong khi một số người khác phải tốn tiền để tháo bỏ kính ??? Lý do là những người này khi mang kính họ trông có vẻ thông minh, trí thức, đẹp trai, thời trang hơn,….. hay họ thích đeo kính cho giống thần tượng của họ. Ví dụ rất nhiều em nhỏ sẽ rất thích đeo kính để giống như Harry Potter. Một sản phẩm mới, một thị trường mới mở ra cho các hãng sản xuất kính với số tiền đầu tư vào nghiên cứu và phát triển hầu như bằng 0 !!!!!! Ngày nay hầu hết các chính khách và những người nổi tiếng đều đeo kính thì phải. Thật thú vị nếu biết được rằng lịch sử sẽ đi theo hướng nào nếu ngày xưa các bậc vua chúa đều đeo kính (tất nhiên nếu như thật sự họ cần đến kính). Vì như vậy họ đã có thể nhìn mọi vật, mọi việc tốt hơn và chắc hẳn đã trị vì các quốc gia tốt hơn! Không ai biết tên của người làm ra cặp kính đầu tiên. Chỉ biết rằng vào năm 1266 ông Rodger Becon đã dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Còn vào năm 1352 trên một bức chân dung người ta nhìn thấy hồng y giáo chủ Jugon có đeo một đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng. Như vậy chúng ta chỉ có thể biết được rằng đôi kính được làm ra đâu đó giữa năm 1266 và 1352. Khi những cuốn sánh in ra đời thì những đôi kính cũng trở nên rất cần thiết. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc nước ý và miền nam nước Đức, là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm 1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm kính mắt. Còn vào năm 1784 Bedzamin Franklin đã sáng tạo ra những đôi kính có hai tiêu điểm. Ngày nay ngoài việc giúp con người đọc và nhìn tốt hơn , những chiếc kính còn được sử dụng vào những mục đích khác nhau. Những chiếc kính dâm giúp chúng ta đỡ chói mắt và cản những tia nắng mặt trời có thể làm hại mắt. Người ta còn sản xuất những chiếc kính đặc biệt cho những người thợ thổi thuỷ tinh, những người trượt tuyết, các phi công, các nhà thám hiểm vùng cực… để bảo vệ mắt khỏi những tia cực tím và tia hồng ngoại. Chúng ta còn có thể kể ra đây rất nhiều ngành nghề cần có những đôi kính đặc biệt để đảm bảo sức khoẻ và an toàn lao động Các bác sĩ mắt cảnh báo, không hiểu do tiết kiệm tiền hay không được tư vấn sử dụng mà rất nhiều bạn trẻ dùng kính áp tròng mà không có dung dịch ngâm rửa và nhỏ mắt. Khi đeo kính áp tròng nếu không đủ nước sẽ làm mắt khô, kính cọ xát vào giác mạc dễ gây viêm, sưng đỏ và rách giác mạc. Nhiều bạn trẻ không hề hay biết là đeo kính áp tròng trong vòng từ 10-12 tiếng, người sử dụng phải nhỏ mắt từ 6-8 lần. Kính áp tròng đưa thẳng vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước… Kính đeo mắt dùng cho máy tính được khuyên là nên dùng loại tròng có chống tia phản xạ (tròng chống lóe) vì sẽ làm giảm bớt lượng ánh sáng phản xạ từ 2 bề mặt kính đeo gây mệt mỏi thị giác. Bạn cũng không nên đeo loại kính lão có độ làm sẵn vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Kính đeo mắt phù hợp sẽ giúp chúng ta rất nhiều khi sử dụng máy tính, như giúp ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi cổ… Chiếc mắt kính là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày.Không chỉ có khả năng điều trị các tật khúc xạ,kính còn đem lại thẩm mỹ qua nhiều lọai có kiểu dáng ,màu sắc phong phú. Tuy chỉ đóng vai trò phụ nhưng kính có ảnh hưởng lớn đến vẻ đẹp của bạn.Hãy chọn lọai kính phù hợp để tôn lên vẻ đẹp của “cửa sổ tâm hồn”.Nếu khéo chọn,một chiếc kính vừa có thể che lấp khuyết điểm mà vẫn làm nổi bật đường nét riêng. Chiếc gọng kính chiếm 80% vẻ đẹp của kính.Gọng kính là bộ phận nâng đỡ tròng kính và là khung cho mỗi chiếc kính ,giữa phần gọng trước và sau có một khớp nối bằng sắt nhỏ.Chúng được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ.Sở hữu làn da trắng,khuôn mặt trái xoan,bạn thật hạnh phúc khi phù hợp với tất cả kiểu và màu sắc gọng.Nhưng với làn da bánh mật và khuôn mặt tròn,hãy thử dùng kính màu lạnh và có thành gọng đậm nét vuông.Mắt kính mỏng làm cho gương mặt hẹp lại và gọng kính dài làm cho gương mặt có độ sâu.Chiếc kính thể hiện cá tình của mỗi người qua màu sắc và kiểu dáng.Mỗi lần chọn kính là bạn lại bạn lại có dịp làm mới cho khuôn mặt của mình,bạn nên tận dụng triệt để cơ hội này để sở hữu khuôn mặt như ý với chiếc kính thời trang. Thế nhưng,đây chỉ đơn thuần về mặt hình thức bên ngoài. Bài làm 4 Đọc sách, tôi rất thích một câu nói của nhà văn người Úc: "Không có gì là hoàn hảo, có chăng chỉ là sự đề cao mà thôi". Đúng, thử hỏi trong chúng ta có ai dám tự nói mình chưa mắc lỗi dù chỉ một lần không? Tôi cũng vậy, có lẽ tôi không thể quên lỗi lầm mình gây ra hôm đó, khiến người tôi yêu quý nhất – mẹ tôi, buồn lòng… Hôm ấy, đất dát vàng ánh nắng, trời mát dịu, gió khẽ hôn lên má những người đi đường. Nhưng nó sẽ là ngày tuyệt đẹp, nếu tôi không có bài kiểm tra khoa học tệ hại đến như vậy, hậu quả của việc không chịu ôn bài. Về nhà, tôi bước nhẹ lên cầu thang mà chân nặng trĩu lại. Tôi buồn và lo vô cùng, nhất là khi gặp mẹ, người tôi nói rất chắc chắn vào tối qua: "Con học bài kỹ lắm rồi". Mẹ đâu biết khi mẹ lên nhà ông bà, ba đi công tác, tôi chỉ ngồi vào bàn máy tính chứ nào có ngồi vào bàn học, bởi tôi đinh ninh rằng cô sẽ không kiểm tra, vì tôi được mười điểm bài trước, nào ngờ cô cho làm bài kiểm tra mười lăm phút. Chả lẽ bây giờ lại nói với mẹ: "Con chưa học bài hôm qua" sao? Không, nhất định không. Đứng trước cửa, tôi bỗng nảy ra một ý "Mình thử nói dối mẹ xem sao". Nghĩ như vậy, tôi mở cửa bước vào nhà. Mẹ tôi từ trong bếp chạy ra. Nhìn mẹ, tôi chào lí nhí "Con chào mẹ". Như đoán biết được phần nào, mẹ tôi hỏi: "Có việc gì thế con"? Tôi đưa mẹ bài kiểm tra, nói ra vẻ ấm ức: Con bị đau tay, không tập trung làm bài được nên viết không kịp”… Mẹ tôi nhìn, tôi cố tránh hướng khác. Bỗng mẹ thở dài! “Con thay quần áo rồi tắm rửa đi!”. Tôi "dạ" khẽ rồi đi nhanh vào phòng tắm và nghĩ thầm: "Ổn rồi, mọi việc thế là xong". Tôi tưởng chuyện như thế là kết thúc, nhưng tôi đã lầm. Sau ngày hôm đó, mẹ tôi cứ như người mất hồn, có lúc mẹ rửa bát chưa sạch, lại còn quên cắm nồi cơm điện. Thậm chí mẹ còn quên tắt đèn điện, điều mà lúc nào mẹ cũng nhắc tôi. Mẹ tôi ít cười và nói chuyện hơn. Đêm đêm, mẹ cứ trở mình không ngủ được. Bỗng dưng, tôi cảm thấy như mẹ đã biết tôi nói dối. Tôi hối hận khi nói dối mẹ. Nhưng tôi vẫn chưa đủ can đảm để xin lỗi mẹ. Hay nói cách khác, tôi vẫn chưa thừa nhận lỗi lầm của mình. Sáng một hôm, tôi dậy rất sớm, sớm đến nỗi ở ngoài cửa sổ sương đêm vẫn đang chảy "róc rách" trên kẽ lá. Nhìn mẹ, mẹ vẫn đang ngủ say. Nhưng tôi đoán là mẹ mới chỉ ngủ được mà thôi. Tôi nghĩ: Quyển "Truyện về con người" chưa đọc, mình đọc thử xem". Nghĩ vậy, tôi lấy cuốn sách đó và giở trang đầu ra đọc. Phải chăng ông trời đã giúp tôi lấy cuốn sách đó để đọc câu chuyện "lỗi lầm" chăng ! "… Khi Thượng đế tạo ra con người, Ngài đã gắn cho họ hai cái túi vô hình, một túi chứa lỗi lầm của mọi người đeo trước ngực, còn cái túi kia đeo ở sau lưng chứa lỗi lầm của mình, nên con người thường không nhìn thấy lỗi của mình". Tôi suy ngẫm: "Mình không thấy lỗi lầm của mình sao?". Tôi nghĩ rất lâu, bất chợt mẹ tôi mở mắt, đi xuống giường. Nhìn mẹ, tự nhiên tôi đi đến một quyết định: Đợi mẹ vào phòng tắm, rồi lấy một mảnh giấy nắn nót đề vài chữ. Mẹ tôi bước ra, tôi để mảnh giấy trên bàn rồi chạy ù vào phòng tắm. Tôi đánh răng rửa mặt xong, đi ra và… chuẩn bị ăn bữa sáng ngon lành do mẹ làm. Và thật lạ, mảnh giấy ghi chữ: "Con xin lỗi mẹ" đã biến đâu mất, thay vào đó là một chiếc khăn thơm tình mẹ và cốc nước cam. Tôi cười, nụ cười mãn nguyện vì mẹ đã chấp nhận lời xin lỗi của tôi. Đến bây giờ đã ba năm trôi qua, mảnh giấy đó vẫn nằm yên trong tủ đồ của mẹ. Tôi yêu mẹ vô cùng, và tự nhủ sẽ không bao giờ để mẹ buồn nữa. Tôi cũng rút ra được bài học quý báu: Khi bạn biết xin lỗi bố mẹ, bạn sẽ có nhiều hơn một thứ bạn vẫn đang có, đó là tình thương.
Thuyết minh về chiếc kính đeo mắt
3,258
Tài liệu về mũ bảo hiểm Mũ bảo hiểm là vật dụng nhằm mục đích bảo vệ phần đầu của người đội khi có va đập lúc đua xe đạp, đi xe máy, ô tô, cưỡi ngựa… (với nghĩa này, ở Việt Nam, người ta gọi bóng gió là "nồi cơm điện"). Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hơn, mũ bảo hiểm còn chỉ đến những loại mũ sắt, mũ cối trong quân đội, các loại mũ bảo vệ người chơi thể thao (bóng bầu dục, bóng chày, khúc côn cầu, trượt tuyết…) hay các loại mũ bảo hộ lao động (xây dựng, khai mỏ…) Theo truyền thống, mũ bảo hiểm không được làm bằng kim loại mà bằng nhựa tổng hợp như ABS, HDPE nhưng những thập niên gần đây, chất liệu được thay thế bằng Sợi Carbon vì độ bền cao và nhẹ hơn nhựa. Sự thúc đẩy mạnh mẽ phong trào, thậm chí bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi điều khiển các phương tiện hai bánh đã từng là đề tài tranh luận nóng bỏng của nhiều người và những nhà khoa học trong thập niên 1990. Đến nay, nhiều quốc gia đã áp dụng luật này. Tại Việt Nam, từ ngày 15 tháng 12 năm 2007 bắt đầu bắt đội mũ bảo hiểm đối với người ngồi trên mô tô xe máy trên mọi tuyến đường. Cấu tạo : Lớp vỏ ngoài làm từ nhựa cứng. Lớp lót trong là đệm được làm bằng xốp, bảo vệ đầu khi va chạm. Quai cài và có miếng giữ cằm để cố định mũ. Kính chắn gió làm từ nhựa trong suốt. Tác dụng : Giảm va đập và hấp thu chấn động do va đập. Giảm nguy cơ gây chấn thương sọ não. Phân loại : Nón bảo hiểm ở nước ta gồm 3 loại chính sau: – Nón bảo hiểm che cả hàm : giúp bảo vệ toàn bộ phần đầu.Cò ưu điểm là giúp người đội không bị ướt khi đi lúc trời mưa. Có nhược điểm là giá thành khác cao, cồng kềnh nên hơi bất tiện khi mang theo. – Nón bảo hiểm che đầu và tai : có độ bảo vệ gần giống như loại che cả hàm nhưng có 1 khuyết điểm lớn là nếu bị ngã về phía trước thì trở nên vô tác dụng. – Nón bảo hiểm loại nửa đầu : chỉ bảo vệ được phần đầu. Có ưu điểm là có giá thành khá phù hợp, khá nhẹ so với các loại mũ nêu trên. Cũng như loại nón bảo hiểm che đầu và tai, loại này nếu bị ngã về phía trước thì sẽ không phát huy tác dụng. Tiêu chuẩn cho mũ BH tại Việt Nam : Khi đi mua mũ BH, bạn cần chú ý: – Kiểm tra các thông tin chi tiết được in trên nhãn và bao bì với đầy đủ nội dung: tên sản phẩm, tên và địa chỉ cơ sở sản xuất, cỡ mũ và ngày, tháng, năm sản xuất (quan trọng fết, xin đọc bài fía dưới) – Mũ BH sản xuất trong nước bắt buộc fải có tem Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5756-2001(cho người lớn) và TCVN 6979:2001 đối với mũ sử dụng cho trẻ em. – Mũ BH nhập khẩu cũng phải được kiểm tra chất lượng và chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5756-2001. Khi đã được chứng nhận, MBH nhập khẩu phải được in hoặc dán tem chứng nhận, hoặc logo của Tổ chức Chứng nhận được chỉ định trước khi nhập khẩu vào Việt Nam. Những điều cần biết để lựa chọn cỡ mũ thích hợp: – Một chiếc mũ BH đúng cỡ fải là một chiếc mũ sát với đầu, nhưng không được gây nên cảm giác trói chặt – nghĩa là không tạo nên những "điểm nóng", không được có những điểm thấy bị nén chặt hơn nhiều so với những điểm còn lại. – Mỗi hãng mũ khác nhau sẽ có hình dáng khác nhau (đang nhấn mạnh fần trong nhé), vì vậy bạn nên thử mũ của các hãng khác nhau để tìm loại thích hợp nhất. – Đội mũ và thắt dây (dây fải đủ chặt, căn khe hở giữa dây và dưới cằm bằng cách móc hai ngón tay vào là ok), Dùng cả hai tay để xoay mũ theo chiều từ trên xuống và từ tai xuống vai (theo hình minh hoạ fía dưới). Một chiếc mũ vừa vặn sẽ làm da chuyển động theo, hoàn toàn không thể kéo tuột mũ ra khỏi đầu được. Bài làm thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm Sau ngày 15/12/2007, người ngồi trên xe gắn máy bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm khi lưu thông. Nhân sự kiện này, chúng ta cùng tìm hiểu về lịch sử của chiếc mũ – vật bảo vệ con người rất hiệu quả này. Thường được dùng để bảo vệ phần đầu, mặt và đôi khi cả phần cổ, mũ bảo hiểm đã ra đời từ rất lâu. Lịch sử ghi nhận mũ bảo hiểm xuất hiện cùng thời với chiến tranh. Trong khi giao chiến, phần cơ thể quan trọng nhất là đầu. Trước những loại vũ khí như dao, kiếm, mác… quân đội của người Assyrat, Ba Tư, đã biết dùng chiếc mũ bảo vệ binh lính một cách hữu hiệu. Ban đầu, mũ được làm bằng da rồi dần dần được rèn bằng sắt. Mũ bảo vệ được coi là một loại binh khí không thể thiếu của mỗi người lính trước khi ra trận. Đến thời người Hy Lạp tham chiến, họ đã sáng chế ra chiếc mũ bảo hiểm bằng đồng, chóp nhọn rất đặc trưng. Mũ được gia cố chắc chắn thêm như có phần che chắn cho mặt (chỉ để hở một khoảng nhỏ để nhìn và thở), chiều dài mũ cũng được tăng thêm – mũ trùm kín cả đầu. Người La Mã lại phát triển hình dạng của mũ bảo hiểm thêm một bậc nữa đó là chế tạo mũ cho binh lính riêng và mũ cho các võ sĩ giác đấu riêng. Phần vành mũ được nới rộng hơn và có phần lưỡi trai phía trước để cải thiện tầm nhìn, tránh trường hợp quân sĩ bị lóa mắt. Mỗi một lần thay đổi, chiếc mũ bảo hiểm lại tích hợp thêm những ưu điểm khiến người đội càng ngày càng an toàn hơn. Khi chiếc mũ bảo hiểm “chu du” đến vùng bắc và tây của châu Âu, lúc đầu mũ làm từ da. Nhưng dần dần, chiếc mũ da cũng được gia cố thêm những vành đai xung quanh bằng sắt hoặc bằng đồng nhưng vẫn giữ nguyên dạng hình nón hoặc hình bán cầu. Số lượng mũ bảo vệ cũng tăng nhanh chóng và mũ đã được làm hoàn toàn bằng sắt. Vào những năm 1200, người ta lại sáng chế ra một kiểu mũ hình trụ, chóp phẳng. Tuy nhiên, khi đưa vào sử dụng trong thực tế, binh lính tham chiến nhận ra rằng loại mũ này hoàn toàn kém cơ động. Sự cồng kềnh của nó dễ trở thành mục tiêu của đạn pháo từ kẻ thù. Kiểu dáng mũ này về sau được phổ biến rộng rãi trong đời sống nhưng được làm bằng chất liệu bình thường như vải hồ cứng hoặc da. Thời trung cổ, mũ bảo hiểm chứng kiến một sự cách tân đầy ý nghĩa: vật liệu làm mũ là thép nhẹ và có thêm phần mạng đằng trước để che chắn cho phần cổ đồng thời phần lưỡi trai không còn gắn cố định vào mũ. Binh sĩ có thể hất lên hay kéo phần lưỡi trai xuống phủ gương mặt khi bắt đầu vào cuộc giao đấu. Chiếc mũ được thiết kế tinh vi hơn, quan trọng là không còn quá nặng và vừa ôm gọn lấy đầu, tránh được hiện tượng mũ bị văng ra trong khi giáp mặt với quân địch. Vào thế kỷ XVI-XVII, chiếc mũ được làm với cùng chất liệu nhưng vành rộng hơn. Thế kỷ XVIII-XIX, tiến bộ trong công nghiệp vũ khí đánh dấu sự thoái trào của kiếm và giáo mác và các loại súng trường, súng lục lên ngôi. Mũ bảo hiểm không còn được trọng dụng như trước. Giới trung thành với mũ bảo hiểm lúc bấy giờ chỉ còn lại những đội kị binh. Tuy vậy, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, mũ làm từ thép được coi là một thiết bị bảo vệ chuẩn mực cho lính bộ binh. Có mũ bảo hiểm, quân lính được bảo vệ an toàn khỏi những mảnh kim loại văng ra với tốc độ cao mỗi khi pháo nổ. Người Pháp đã chính thức coi mũ bảo hiểm là một trang bị tiêu chuẩn của mỗi người lính vào năm 1914. Lần lượt, người Anh, người Đức và các nước châu Âu còn lại cũng theo gương. Chiếc mũ bảo hiểm đúng quy cách phải được làm từ loại thép đặc biệt, lớp lót có thể tháo rời ra được và trọng lượng cho phép là từ 0,5-1,8kg. Mũ bảo hiểm làm từ sắt hay thép được làm ở Persia, Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ thời Trung cổ còn lưu giữ được cho tới ngày nay đã trở thành những cổ vật quí giá. Mũ ở vùng Tây Tạng và Trung Quốc, mũ làm từ đồng, da hay sừng cũng có tuổi trải qua nhiều thế kỷ. Ngày nay, chiếc mũ bảo hiểm dần dần thâm nhập sâu vào đời sống chứ không đơn thuần là trang bị của quân đội. Mũ bảo hiểm được phổ biến rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như hàng không vũ trụ, quân đội, thể thao… Công nhân, kỹ sư vào phân xưởng lúc nào cũng đội mũ bảo vệ. Mũ bảo hiểm đi vào cuộc sống. Ngoài quân đội, những môn thể thao đối kháng như đấu kiếm, võ thuật, bóng bầu dục… rất cần mũ bảo hiểm để giữ an toàn cho vận động viên. Ngay cả những người bình thường đi xe đạp trên phố cũng được khuyến cáo là nên đội mũ bảo hiểm để giữ an toàn cho bộ phận đầu não của cơ thể. Tại Việt Nam, mũ bảo hiểm đạt tiêu chuẩn sử dụng cho người đi xe gắn máy thường làm bằng nhựa ABS siêu bền có thể chịu được lực cường độ cao, đảm bảo độ cứng và đàn hồi. Trọng lượng của mũ bảo hiểm cho phép dao động trong khoảng 1,0-1,5 kg. Phần nhựa trong che trước mặt có thể gập lên trên đỉnh mũ hoặc tháo rời. Thông thường các nhà sản xuất chào hàng 3 loại mũ: che nửa đầu (mũ vỏ cứng chủ yếu bảo vệ phần phía trên), che cả đầu và tai (mũ có vỏ cứng bảo vệ phần phía trên của đầu, vùng chẩm và quai hàm) và loại che cả hàm (mũ vỏ cứng bảo vệ phần phía trên của đầu, vùng chẩm và cằm). Tóm lại, bằng một động tác rất đơn giản nhưng đội mũ bảo hiểm là cách bảo vệ bản thân một cách hữu hiệu nhất.
Thuyết minh về chiếc nón bảo hiểm
1,855
Bài làm 1 Từ hàng ngàn năm trước, nón lá đã được làm ra.Đến bây giờ,chiếc nón lá được coi là biểu tượng của Việt Nam,đi kèm với áo dài là trang phục truyền thống của phụ nữ VN.Nón lá đã tôn vẻ đẹp của phụ nữ VN lên rất nhiều.Nón lá có 2 hình dạng chính là hình tròn(conical hat)và hình phẳng(flat design).Có nhiều làng nghề sản xuất nón từ Bắc chí Nam.Ở Huế,nón nổi tiếng vì sở dĩ là nơi bắt nguồn của nón và có những bài thơ được viết trong nón.Nón là bạn của người nông dân và mang nhiều chức năng thú vị,ví dụ:là chiếc quạt trong những trưa nắng trên cánh đồng,là chiếc ca múc nước,giỏ đựng đồ đi chợ…Nón còn công dụng ở chỗ tránh mưa,tránh nắng và tránh những người mình ko muốn gặp.Bây giờ,Nón được làm để bán cho Tây là chính(chứ bây giờ mà ai đội nón ra đường ở thành phố nữa!)Khách nước ngoài mua nón,đội cho vui,xong mang về nước coi như souvenir và vật treo tường nhưng ko biết để chỗ nào hít trên máy bay á!,có nước:đập cho nó dẹp lép mới mang về được.Ngoài ra,nón còn được bán online trên một số trang web nữa. Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao… chiếc nón được coi là một thứ phục trang truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Trước hết, nón là một đồ dùng rất "thực dụng". Nó dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn… tất cả đều để che chắn cho những con người sống trên một dải đất nắng lắm mưa nhiều. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ… Người ta đội nón làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương… Chiếc nón gợi nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: "Nón bài thơ, em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở"… Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: "Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái xõa". Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần: "Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che…". Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển, làm yên lòng người ra trận… Nón chính là biểu tượng của Việt Nam, là đồ vật truyền thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước. Nếu ở một nơi xa xôi nào đó không phải trên đất Việt Nam, bạn bỗng thấy chiếc nón trắng, đó chính là tín hiệu Việt Nam Nón Việt Nam có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 – 3000 năm về trước. Từ xa xưa, nón đã hiện diện trong đời sống thường ngày của người Việt Nam, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Trên đường xa nắng gắt hay trong những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre, cô gái có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của người phụ nữ Việt Nam. Chiếc nón lá chính là biểu tượng của Việt Nam, là đồ vật truyền thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước. Nếu ở một nơi xa xôi nào đó không phải trên đất nước Việt Nam, bạn bỗng thấy chiếc nón lá, đó chính là chính hiệu Việt Nam. Chiếc Nón Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao… chiếc nón được coi là một thứ phục trang truyền thống của phụ nữ Việt Nam. …". Trước hết, nón là một đồ dùng rất "thực dụng". Nó dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn… tất cả đều để che chắn cho những con người sống trên một dải đất nắng lắm mưa nhiều. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ… Người ta đội nón làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương… Chiếc nón gợi nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: "Nón bài thơ, em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở"… Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: "Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái xõa". Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần: "Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che…" Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển, làm yên lòng người ra trận… Chiếc nón xuất hiện từ khi nào không ai biết. Từ thời xưa đã có câu: "Nón chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ". Chiếc nón quai thao đã được các bà, các cô (tầng lớp trung lưu trở lên) ưa chuộng, chiếm vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội của phụ nữ mà thời Nguyễn được sử dụng phổ biến nhất. ở Hà Nội xưa, các "cô ả" mười lăm, mười sáu – cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi sắm chiếc nón Nghệ. Về cái nón Nghệ, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy mô tả kỹ lưỡng thế này: "nón rộng đến 80 cm, sâu 10 cm, lần lót đan bằng sợi tre rất nhỏ, đằng sau cài những mảnh gương vào. Nón Nghệ nặng lắm vì thế, cái "khua" phải cứng, sơn quang dầu. Lên Hàng Bạc sắm một bộ "chiên, thẻ". Chiên là miếng bạc vuông, trong đó có vòng tròn, chạm hai rồng chầu mặt nguyệt. Hai chiếc thẻ cũng bằng bạc, to như quân bài tam cúc, chạm hoa lá, ở giữa có cái vòng để buộc quai thao. Cắm hai cái thẻ vào bên trong nón, đặt cái chiên vào đáy khua, rồi chờ phiên chợ hàng tơ, các bà làng Triều Khúc ra bán quai thao. Một bộ quai thao gồm tám sợi bằng tơ, mỗi sợi gồm nhiều sợi tơ, ngoài bọc tơ dệt liên tục, như bấc đèn con. Quai thao dài độ 1,5m. Hai đầu mỗi sợi thao là một quả găng, từ đó rủ xuống những chỉ tơ, dài độ 20 cm. Phải đưa thao mộc đi nhuộm thâm, nhuộm kỹ". Chỉ như thế cũng đủ biết chiếc nón được làm công phu đến mức nào. Về cái quai thao của nón cũng rất nhiều chuyện thú vị. Có hẳn một làng giữ nghề làm thao. ấy là làng Triều Khúc (Thanh Trì – Hà Nội) nổi tiếng dệt quai thao nón dẹt nên còn có tên là Làng Đơ Thao (để phân biệt với làng Đơ Bùi, Đơ Đồng cũng ở gần đấy, chuyên nghề làm ruộng). Làng này còn có đền thờ, tượng, và sự tích tổ sư nghề Thao là Vũ úy, thời Lê – Trịnh (thế kỷ 17-18) được cử sang sứ Trung Hoa và học được nghề dệt Thao, khi về vua phong làm "Cục trưởng cục Thao" và tổ chức dạy nghề này cho dân làng Triều Khúc – Đơ Thao. Mộ cụ tổ nghề ở cánh đồng Miễu. Bia tạc đời Cảnh Hưng thứ sáu (1745). Bài làm 2 Nón là là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Gắn liền với người mẹ ra đồng, gắn liền với mấy chị buôn bán gánh bưng, gắn liền với những đứa trẻ mục đồng. Chiếc nón lá trông đơn giản nhưng để làm được một chiếc nón như thế người thợ phải làm một cách tập trung, công phu và tỉ mỉ đến từng chi tiết dù là nhỏ nhất. Trước tiên để làm một cái nón, người thợ cần một khuôn mẫu để nhìn theo mà làm. Để làm một cái khuôn gỗ người thợ cần khung tre. Tiếp theo, để làm vòng nón thì phải có vòng tre( lấy vài cây nứa rừng chuốt tròn đều). Xếp lần lượt mười sáu vòng tre lớn nhỏ vào khuôn bằng gỗ đã làm trước đó từ thấp lên cao. Kế tiếp, phủ lần lượt hai lần lá( lá này thường là lá buong non đã được sấy khô bằng than củi rồi phơi sương từ hai đến bốn giờ cho mềm, sau đó ủi lá cho phẳng và xén tỉa theo kích thước thích hợp)( lần trong khoảng hai mươi lá, lần ngoài khoang3 lá) xếp khít vào nhau, ngọn hướng lên trên tạo hình chóp. Công đoạn tiếp theo là khâu nón. Ở công đoạn này cần có sợi chỉ cước hoặc sợi guộc để khâu nón. Người thợ làm phải thật tập trung và phải có bàn tay khéo léo. Đặt từng lá vào khuôn , dùng sợi chỉ cước khâu theo mười sáu vòng( mũi kim phải hơi thưa và đều) để hoàn thành sản phẩm. Khi khâu xong phải hơ nón bằng hơi diêm sinh. Trên mỗi chiếc nón lá nào cũng phài có chiếc xoài được kết bằng chỉ rất chắc. Có nón thì được quét lớp dầu bóng cho đẹp và bền. Có nón thì dùng sợi chỉ len dể khâu hình bông hoa, cô gái Việt Nam hay một danh lam thắng cảnh nào đó. Có nón thì dùng bao ni lông trong suốt bao trùm cả cái nón để bảo vệ lớp lá bên trong…. Những chiếc nón này được sản xuất ở khắp nơi, khắp các vùng quê Việt Nam nhưng địa điểm nổi tiếng làm nón nổi tiếng nhất là ở Huế, Quảng Bình, Hà tây( làng Chuông),…. Môt chiếc nón bền và đẹp thường có màu lá trắng, nón mỏng, nhẹ và dáng thanh tú. Chiếc nón lá ngày trước ngoài để che nắng che mưa thì còn là một vật trang sức rất có duyên, mang nét trữ tình thấm kín của người phụ nữ Việt Nam. Và chắc là không ở đâu có nhiều nữ sinh duyên dáng với mái tóc đen dài óng ả phủ kín bờ vai với tà áo dài trắng thướt tha cùng chiếc nón lá e lệ. Đối với những người nông dân thì nón lá còn là một công cụ không thể thiếu, bác nông dân hay bà mẹ miền quê thường dùng nón múc nước, giản tiện vô cùng. Giải khát xong, nón lại được bàn tay ấm áp phe phẩy để xua tan đi cơn nóng, nhất là trong những buổi trưa hè. Dưới gốc cây đa, một em bé mục đồng và cả bác thợ cày đang nằm yên giấc cũng lấy nón lá che mặt để vừa tránh cái nắng chói chang, vừa ngăn ruồi muỗi quấy rầy giấc nhủ trưa hiền hoà. Đối với những người nước ngoài thì họ tỏ ra rất thích thú trước chiếc độ đơn giản của chiếc nón này. Ra đường ở Hội An thì thấy không ít người nước ngoài đội nón lá đi dạo dưới cái nắng chói chang.Đã biết bao ngôi sao quốc tế đã không ngần ngại đợi chiếc nón lá lên sân khấu biểu diễn lại còn chụp hình với nón lá làm kỉ niệm nữa chứ. Chiếc nón lá là một vật dụng không thể thiếu và là một người bạn thân thiết đối với con người. Tuy nó mang giá trị vật chất không cao nhưng về giá trị tinh thần thì không chiếc nón lá nào có thể sánh được. Bài làm 3 Việt Nam là một vùng nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều. Vì vậy chiếu nón đội đầu là vật không thể thiếu được để che nắng che mưa. Nón Việt Nam có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng ào Thịnh vào 2.500-3.000 năm về trước. Từ xa xưa, nón đã hiện diện trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam, trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón cũng có nhiều biến đổi về kiểu dáng và chất liệu. Lúc đầu khi chưa có dụng cụ để khâu thắt, nón được tết đan. Còn loại nón khâu như ngày nay xuất hiện phải nhờ đến sự ra đời của chiếc kim, tức là vào thời kỳ người ta chế luyện được sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên). Theo lời các cụ, trước kia người ta phân thành 3 loại nón cổ có tên gọi nón mười (hay nón ba tầm), nón nhỡ và nón đầu. Nhìn chung nón cổ vành rộng, tròn, phẳng như cái mâm. Ở vành ngoài cùng có đường viền quanh làm cho nón có hình dáng giống như cái chiêng. Giữa lòng có đính một vòng nhỏ đan bằng giang vừa đủ ôm khít đầu người đội. Nón ba tầm có vành rộng nhất. Phụ nữ thời xưa thường đội nón này đi chơi hội hay lên chùa. Nón đấu là loại nhỏ nhất và đường viền thành vòng quanh cũng thấp nhất. Trước kia người ta còn phân loại nón theo đẳng cấp của người chủ sở hữu nón. Các loại nón dành cho ông già, có loại cho nhà giàu và hàng nhà quan, nón cho trẻ em, nón cho lính tráng, nón nhà sư… Ở Việt Nam, cả hai miền Bắc, Trung, Nam đều có những vùng làm nón nổi tiếng và mỗi loại nón ở từng địa phương đều mang sắc thái riêng. Nón Lai Châu của đồng bào Thái; nón Cao Bằng của đồng bào Tày sơn đỏ; nón Thanh Hoá có 16-20 vành; nón Ba ồn (Quảng Bình) mỏng nhẹ và giáng thanh thoát; nón Gò Găng (Bình ịnh); nón Huế nhẹ nhàng, thanh mỏng nhờ lót bằng lá mỏng; nón làng Chuông (Thanh Oai, Hà Tây) là loại nón bền đẹp vào loại nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nguyên liệu làm nón không phức tạp. Ở nơi nào cũng vậy, muốn làm được một chiếc nón phải dùng lá của một loại cọ nhỏ mọc hoang, dùng sợi nón – một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc (ngày nay người ta thường dùng sợi chỉ nilon) và tre. Tàu lá nón khi đem về vẫn còn xanh răn reo, được đem là bằng cách dùng một miếng sắt được đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm dẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu nóng quá thì bị ròn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại răn như cũ. Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc. Tre chọn ống dài vuốt nhọn, gác lên dàn bếp hong khói chống mối mọt, dùng làm vòng nón. Nón Chuông có 16 lớp vòng. Con số 16 là kết quả của sự nghiên cứu, lựa chọn qua nhiều năm, cho đến nay đã trở thành một nguyên tắc không thay đổi. Chúng đã tạo cho những chiếc nón Chuông có được dáng thanh tú, không quá cũn cỡn, không xùm xụp. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chủ yếu nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ tạo nên. Người thợ khâu nón được ví như người thợ thêu. Vòng tre được đặt lên khuôn sẵn, lá xếp lên khuôn xong là đến công việc của người khâu. Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón duyên dáng đã thành hình. Trong lúc khâu nón, các cô gái làng Chuông thường không quên tìm cách trang trí thêm cho chiếc nón hấp dẫn. ơn giản nhất là họ dán vào lòng nón những hình hoa lá bằng giấy nhiều màu sắc thường được in sẵn và bán ở các phiên chợ Chuông. Tinh tế hơn, các cô còn dùng chỉ màu khâu giăng mắc ở hai điểm đối diện trong lòng nón để từ đó có thể buộc quai nón bằng những giải lụa mềm mại, đủ màu sắc, làm tôn thêm vẻ đẹp khuôn mặt các cô gái dưới vành nón. Các cô gái Việt Nam chăm chút chiếc nón như một vật trang sức, đôi khi là vật để trao đổi tâm tư tình cảm của riêng mình. Người ta gắn lên đỉnh của lòng nón một mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm duyên kín đáo. Công phu nhất là vừa vẽ chìm dưới lớp lá nón những hoa văn vui mắt, hay những hình ảnh bụi tre, đồng lúa, những câu thơ trữ tình, phải soi lên nắng mới thấy được gọi là nón bài thơ. Chiếc nón Việt Nam được làm ra để che mưa, che nắng. Nó là người bạn thuỷ chung của những con người lao động một nắng hai sương. Nhưng công dụng của nó không dừng lại ở đấy, nó đã trở thành một phần cuộc sống của người Việt Nam. Trên đường xa nắng gắt hay những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre cô gái có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Bên giếng nước trong, giữa cơn khát cháy cổ, nón có thể trở thành chiếc cốc vại khổng lồ bất đắc dĩ, hay có thể thay chiếc chậu vục nước mà áp mặt vào đó cho giải bớt nhiệt. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái người Kinh với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của phụ nữ Việt Nam. Với khúc hát quan họ Bắc Ninh, chàng trai và cô gái hát đối giao duyên, cô gái bao giờ cũng cầm trên tay chiếc nón ba tầm, nó giúp cô giấu khuôn mặt ửng hồng của mình khi chàng trai hát những lời bóng gió xa xôi về mối tình của chàng, thảng hoặc khi cô muốn kín đáo ngắm khuôn mặt bạn tình của mình mà không muốn để cho chàng biết. Nón chính là biểu tượng của Việt Nam, là đồ vật truyền thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước. Nếu ở một nơi xa xôi nào đó không phải trên đất Việt Nam, bạn bỗng thấy chiếc nón trắng, đó chính là tín hiệu Việt Nam. Bài làm 4 Chiếc nón lá Việt Nam là một công cụ che nắng, che mưa, làm quạt, khi còn để che giấu gương mặt, nụ cười hay tạo thêm nét duyên dáng cho người phụ nữ Việt Nam. Vật liệu để làm nên cái nón là lá cọ, chỉ tơ, móc, tre làm khung. Nón lá có cấu tạo đơn giản nhưng cũng đòi hỏi một sự khéo léo của người thợ. Nón có hình chóp đều, thành được bao bọc bởi những chiếc vành uốn quanh thành nhiều lớp. Vành nón làm bằng tre, vót tròn như bộ khung nâng đỡ cái hình hài duyên dáng của nón. Ở phần đáy nón có một chiếc vành uốn quanh, cứng cáp hơn những chiếc vanh nón ở trên. Vanh nón, vành nón cứng hay giòn sẽ quyết định đến độ cứng cáp, bền lâu của chiếc nón. Nhưng bộ phận quan trọng nhất của chiếc nón lại là hai lớp lá cọ – vật liệu chính để hình thành nên một chiếc nón. Lá cọ phải là lá non, phơi thật trắng. Lót giữa hai lớp lá cọ là lớp mo nang làm cốt, được phơi khô, lấy từ mo tre, mo nứa. Tất cả các vật liệu làm nên nón đều phải không thấm nước, dễ róc nước để chống chịu với những cơn mưa vùi dập, những ngày nắng oi ả thất thường. Để tăng thêm nét duyên dáng, đồng thời giữ chặt nón vào đầu người đeo, người ta làm ra chiếc quai bằng lụa mềm gắn cùng hai chiếc nhôi đính vào mặt trong của chiếc nón. Nhôi nón được đan bằng những sợi chỉ tơ bền, đẹp. Người ta cũng có thể trang trí những hoa văn đậm nét dân tộc vào bên trong chiếc nón hoặc quét một lớp quang dầu thông bóng bẩy lên mặt ngoài chiếc nón. Quy trình làm nón không khó lắm: trước hết, phơi lá nón (lá cọ non) ra trời nắng cho thật trắng, để rải trên nền đất cho mềm, rồi rẽ cho lá rộng bản. Sau đó, là lá trên một vật nung nóng cho phẳng. Vanh nón được vuốt tròn đều đặn. Việc cuối cùng là thắt và khâu khi lá đã đặt lên lớp vành khuôn. Sợi móc len theo mũi kim qua 16 lớp vòng bằng cột tre để hoàn chỉnh sản phẩm. Nón khâu xong có thể hơ trên hơi lửa cho thêm trắng và tránh bị mốc. Quy trình làm nón là vậy. Nói là: không khó lắm, nhưng thực ra đó là những tinh hoa, những đúc kết bao đời nay của nghệ thuật làm nón. Ở Việt Nam, có nhiều vùng nổi tiếng về nghề làm nón: nón làng Chuông (Hà Tây cũ) vừa bền vừa đẹp; ở Huế có nón bài thơ thanh mảnh nhẹ nhàng; nón Quảng Bình, Nam Định cũng có những nét đẹp riêng. Chiếc nón lá rất gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Nó che mưa, che nắng, là một món quà kỷ niệm đầy ý vị độc đáo, sâu sắc. Nó làm thêm phần duyên dáng cho các thiếu nữ Việt Nam trong các dịp hội hè. Còn gì đẹp hơn một người thiếu nữ mặc chiếc áo dài thướt tha, đội chiếc nón lá, bước đi uyển chuyển trong bài múa nón. Chiếc nón đã thực sự trở thành một biểu tượng sinh động của người phụ nữ Việt dịu dàng, nết na, duyên dáng: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại, chiếc nón đã không còn vị trí, vai trò như trước. Những chiếc mũ xinh xinh, những bộ quần áo mưa sang trọng đã thay dần chiếc nón bình dị xưa. Nhưng trong ý thức mỗi người dân Việt, hình ảnh chiếc nón cùng những nỗi nhọc nhằn, những mũi chỉ khâu tinh tế sẽ mãi mãi trường tồn vĩnh cửu. Nó mãi mãi là một nét đẹp trong nền văn hoá độc đáo của đất nước Việt Nam tươi đẹp. Bài làm 5 ”Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương lai”. Đó là lời của cố học giả Nguyễn Hiền Lê mà tôi muốn gửi đến bạn đọc và những ai quan tâm đến việc bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc của người Việt nam ta. Từ xưa, chiếc nón và áo dài duyên dáng đã làm nổi bật bản sắc văn hóa dân tộc. Nón lá tự bao giờ đã trở thành nét đặc thù riêng của người phụ nữ Việt Nam, không ai phủ nhận được. Nón lá có lịch sử rất lâu đời, là một trong những họa tiết được khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, trên thạp đồng Đào Thịnh.Nón lá gắn liền với đời sống tạo nên nét bình dị, duyên dáng.Một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre, lúc nghỉ ngơi, người nông dân dùng nón quạt cho mát, ráo mồ hôi. Nón lá có nhiều loại, thay đổi theo từng thời kì lịch sử.Binh lính thời xưa dùng nón dấu, nón ngựa hay nón gõ, trong tang lễ hay dùng nón cạp. Trong các lế hội của người miền Bắc, người phụ nữ mang nón quai thao, hát những câu quan học tha thiết. Nón bài thơ thì là mọt loại nón đặc trưng của xứ Huế. Người việt dùng nón lá, nhưng ít người để ý hay tìm hiểu xem nón được làm thế nào, có bao nhiêu vành, đường kính bao nhiêu?….nón lá tuy giản dị, rẻ tiền nhưng một chiếc nón đẹp được làm ra là nhờ những đoi bàn tay khéo léo cần cù. Nghề làm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ, người đàn ông trong gia đình cũng có thể vót tre làm khung nón. Từ cây tre, họ vốt thành từng nan vành một cách công phu, sau đó uốn thành từng vòng tròn trịa. Để cho nón có hình chóp, người ta làm từng vanh nhỏ dần cho lên tới chóp. Lá để làm nón là một loại lá khó tìm, có hai loại là Du Quy Diệp – thời xưa làm tơi dùng để chống mư gió, một loại khác là Bồ Quy Diệp, lá mỏng và mềm hơn. Ngoài ra ngày nay người ta cũng làm từ nhiều loại lá khác như lá cọ, lá hồi…Khi lấy lá, người ta thường lấy những lá non có màu xanh, sau đó phơi khô, dùng những đồ có mặt phẳng đặt trê nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ đè lên lá, làm công việc này giống như động tác khi là ủi, đổng thời tay kéo thẳng cho lá thẳng ra, nổi lên những đường gân, chọn những lá đẹp để là phần ngoài của nón. Tiếp đó lấy khung nón được làm từ 16 vanh chính, khoảng cách bằng nhau. Khâu làm khung phải do thợ chuyên môn làm thì nón mới đều và đẹp. Các vanh nón được nối lại với nhau bằng các que tre vót nhỏ. Nếu nón được lót bằng lớp lá đót thì sẽ có đọi bền cao hơn. Vành nón thường có đường kính khoảng 41 cm. khi xếp lá lên trên cần phải đều tay, không làm lộ ra các lớp lá xếp đè lên nhau. Người ta phết phía ngoài nón lớp sơn dầu mỏng, trong suốt, vừa tạo độ độ óng cho nón vừa để nước không thấm vào nón qua các lỗ kim vào bên trong. Tóm lại, để làm một chiếc nón cần phải trải qua 15 khâu, từ trên rừng lấy lá, rồi phơi khô, sấy lá, mở lá, là, làm vanh, vành nón, khâu nón, cắt chỉ, thêu non, làm quai… Thời trước khi chưa có chỉ, người ta dùng bẹ lá cây thuộc họ thơm tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ làm chỉ để chằm nón. Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nhgiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt phía sau vành nón thật e ấp, rạo rực. Mỗi thiếu nữ đều có cái duyên, có cái đẹp như vầng trăng non dưới vành nón lá. Sao anh không về thăm quê em Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên Bàn tay ” xây lá”, tay chuyền nón Mười sáu vành, mười sáu trăng lên. Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật trang sức của biết bao phụ nữ. Buổi tan trường, con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè cuối ngày oi ả, bởi những dáng mảnh mai của tà áo dài trắng, nón bài thơ. Nghề làm nón nổi tiếng ở các vùng Phú Hồ, Dạ Lễ, Tân Lễ,… còn tồn tại đến bây giờ. Ở các vùng này, ngày cưới họ vẫn giữu dược truyền thống từ xa xưa như rước kiệu, đi kiệu… Nón ngày nay hầu như không còn giữ được phưong pháp như ngày xưa nữa, họ quen vơi cách làm nón nhanh và đơn giản. Bảo quản nón rất dễ, ta chỉ cần không để nón nơi ẩm ướt, tránh ẩm ướt, tránh làm rách, làm thủng nón. Để cho nón bóng, ta nên quét lớp dầu mỏng lên Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt nam vẫ thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi nào, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng, dọc theo chiều dài đất nước, đều thấy nón lá thấp thoáng ngàn đời không đổi thay.
Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam
5,095
Bài làm 1 Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được nhập vào nước ta khoảng đầu thế kỉ XX. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người, cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… rất thuận lợi cho việc đi lại. Cấu tạo của xe đạp gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho xe chạy nhanh về phía trước. Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý. Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng (gác-ba-ga) lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước. Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết. Vào cuối thế kỉ XIX, bánh xe đạp còn làm bằng gỗ, nẹp sắt, do đó đi rất xóc. Người đầu tiên sáng chế ra chiếc lốp xe bằng cao su là Đân-lớp, một hộc sinh nước Anh. Từ một lần suýt ngã vì vấp phải ống cao su dẫn nước, Đân-lớp đã nghĩ ra cách cuộn ống cao su cho vừa vành bánh xe rồi bơm hơi căng lên thay cho gỗ và nẹp sắt. Phát minh của Đân-lớp được đăng kí chính thức vào năm 1880. Về sau, lốp xe đạp có thêm chiếc săm bơm căng hơi nằm bên trong có lực đàn hồi, xe chạy êm hẳn. Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trên quãng đường ngắn từ dăm cây số đến vài chục cây số như đi trong làng hay trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động bằng sức người nên không gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe đạp chỉ cần sử dụng một lực rất nhỏ nhưng đi được một đoạn dường dài. Đi xe đạp cũng là một cách vận động cơ thể có ích như hoạt động thể thao, thể dục. Trong kháng chiến 9 năm chống Pháp, chiếc xe đạp đã cùng dân công thồ hàng phục vụ cho bộ đội đánh thắng trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Mĩ, chiếc xe đạp lại cùng lực lượng thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, góp phần quét sạch quân xâm lược Mĩ ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày nay, chiếc xe đạp là phương tiện đi lại rất thuận lợi cho nhiều tầng lớp trong xã hội, nhất là các bạn học sinh ngày ngày đến trường học tập. Hiện nay, ở các thành phố lớn, số lượng xe máy quá nhiều, vừa gây ách tắc giao thông vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai, khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi. Bài làm 2 Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển công nghệ ngày một tiên tiến hơn, ngày càng có rất nhiều những phương tiện để giúp cho việc đi lại của chúng ta. Đó là xe máy xe đạp ô tô và cả máy bay nữa. Thế nhưng đối với rất nhiều người hiện nay thì một chiếc xe đạp để có thể đi lại cũng không thể thiếu được. Chiếc xe đạp đã trỉa qua một thời gian khá dài nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị của nó đối với tất cả mọi người. Vậy chiếc xe đạp được bắt nguồn từ đâu? Xe đạp thì rất nhiều người biết nhưng nếu hỏi nó được bắt nguồn từ đâu thì không mấy ai hiểu rõ. Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được du nhập đến nước ta vào đầu khoảng thế kỉ hai mươi. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người cấu tạo đơn giản dễ điều khiển và rất thuận lợi cho chúng ta trong việc đi lại. Nó đã gắn liền với con người rất nhiều từ những năm tháng kháng chiến nhưng bây giờ xe đạp không còn phổ biến ở những thành phố lớn nữa. Nó đã bị nhấn chìm bởi các thiết bị hiện đại các phát minh mới hơn so với xe đạp. Xe đạp là một phương tiện giao thông hai bánh và là một dụng cụ thể thao rất phổ biến. Đa sô xe đạp chuyển động nhờ vào lực đạp của người điều khiển, và giữ thăng bằng nhờ luật bảo toàn mô men quán tính. Xe đạp được coi là phương tiện thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở rất nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người thấp được sử dụng là phương tiện giao thông chính. Ở nhiều nước phương tây thì xe đạp không được sử dụng nhiều trong việc đi lại nhưng nó lại được sử dụng cho các hoạt động vui chơi thể thao hay đi dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp được khuyến khích ở rất nhiều nước bởi nó rất hợp với môi trường. Phương tiện này cũng rất thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp mà các loại phương tiện khác không thể nào vào được như các phố cổ có kiến trúc xưa kia. Cấu tạo của xe đạp gồ có hệ thống điều khiển và chuyên chở. Hệ thống xe gồm khung xe bàn đạp trục ở giữa dây xích đĩa ổ líp hai trục ổ bi và hai bánh trước sao. Khi đi người ta ngồi lên trên yên xe tay cầm gi đông chân đạp bàn đạp cho trục xe chuyển động đĩa chuyển động kéo theo dây xích cũng chuyển động làm quay ổ líp và bánh sau tạo lực cho xe chuyển động đẩy xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước. Hệ thống điều khiển gồm gi đông có hai tay cầm có thể quau qua trái và qua phải dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh trước đi theo ý muốn. Gi đông vừa là tay lái vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh gồm thắng phanh bóp phanh càng mạnh thì sức ép xuống càng nhanh khiến cho má phanh ép vào hai bên bánh xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chuyển động chậm lại hoặc đứng hẳn khi cần thiết. Nhờ có bộ phận phanh mà người đi xe có thể đi nhanh hoặc đi chậm khi cần thiết tùy vào từng trường hợp. Hệ thống chuyên chở gồm yên xe bộ phận đèo hàng hoặc chở giỏ hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi cua người đi xe tùy vào từng chiều cao của mỗi người mà yên xe được chỉnh cao thấp khác nhau. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên dựa trên trục bánh xe sau có thể chở được cả hàng tạ, giỏ đựng hàng được gắn thêm phía đầu xe dựa trên trục bánh trước. Hiện nay ở các thành phố lớn số lượng xe máy quá nhiều khiến cho ách tắc giao thông lại gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là một phương tiện cá nhân không thể thiếu vừa sạch sẽ lại tiện lợi. Bài làm 3 Vâng như các bạn biết, trong mỗi chúng ta không ai là không gắn bó với chiếc xe đạp thân quen. Từ xa xưa chiếc xe đạp đã trở thành một phương tiện thiết yếu của mỗi gia đình, không chỉ để di chuyển, mang vác mà nó còn mang một tinh thần bất khuất trong chiến đấu nữa. nhưng do xã hội ngày nay đang trên đà phát triển không ngừng, đời sống của mọi người dân trở nên sung túc hơn và đặc thù công việc họ phải đi xa thì chiếc xe đạp đã dần bị mai một ở các đô thị lớn trên toàn thế giới. Như vậy! Theo những con số thống kê về lượng xe đạp của Việt Nam ngày càng giảm sút. Do trình độ văn hóa ngày càng được nâng cao đã tạo cơ hội cho các loại xe chất lượng cao du nhập vào Việt Nam một cách nhanh chóng. Vâng! Quả thực là như vậy! Lượng ô tô, xe máy đang ngày càng gia tăng chính vì vậy việc tắc nghẽn giao thông cục bộ đang không ngừng gia tăng ở các đô thị lớn gây ra nhiều hậu quả nặng nề. Nhưng có lẽ họ chỉ biết sử dụng mà chẳng cần để ý đến nguồn góc xuất xứ của chúng. Chiếc xe đạp đầu tiên được chế tạo vào năm 1817, ngài nam tước Baron von Drais đã tượng tượng ra chiếc xe đạp đầu tiên mang tên ông. Không được hoàn mĩ như ngày nay chiếc xe này phải dùng đến lực của hai bàn chân chứ không có bánh như ngày nay, hơn thế nữa bánh xe ở đằng trước do đùng nó có tác dụng giúp người đọc dễ dừng lại hơn. Tiếp theo là sang kiến làm thêm pedan cho bánh truocs đó là sáng kiến của hai anh em nhà Mihaus – hai người thợ đóng xe Paris và cứ như thế càng ngày người ta dần dần sáng tạo ra nhiều tính năng hơn cho xe. Cho đến năm 1879 môt người nước Anh đã sáng tạo ra xích để truyền đông cho bánh sau và nó là lực giúp chiếc xe lăn bánh. Năm 1885, J.KSartley cho bánh trước có cùng kích cỡ cùng kích cỡ bánh sau và làm cái xe khung xe thép. Năm 1887 Jonh Boys Dunlop, một nhà thú y xứ Scotland tiếp tục cải tiến bánh xe với việc thêm ống hơi cho cao su giúp chiếc xe chạy êm hơn. Năm 1890, Robertono Anh và Edouard Michelin ở Pháp làm cho bánh xe có thế tháo lắp được. Năm 1920 việc áp dụng các hợp kim nhẹ vào chiếc xe khiến chiếc xe nhẹ hơn rất nhiều so với ban đầu. Và cứ như thế chiếc xe đạp ngày càng được hoàn thiện cho đến ngày hôm nay. Hiện nay có rất nhiều mẫu loại xe như: xe thiết kế cho phụ nữ, đàn ông, con trai, xe leo núi… cho các bạn tha hồ lựa chọn. Qua việc sáng tạo ra chiếc xe đạp quả thực là một phát minh cực kì sáng tạo của con người để rồi từ đó người ta có thể sáng tạo ra nhiều các loại xe khác như xe đạp điện, xe máy… với nhiều kiểu dáng bắt mắt… đấy là một quá trình không ngừng sáng tạo của con người. Bài làm 4 Trong cuộc sống, ai cũng đã trải qua thời tuổi thơ, tuổi thơ thường gắn liền với chiếc xe đạp. Và chiếc xe đạp là phương tiện đơn giản chuyển động nhờ sức người. Bây giờ các bạn nhìn thấy là một chiếc xe đạp đẹp với các hãng như: Martin; Fuhachi; Phượng Hoàng; Phi Long . . . Nhưng đã có ai nghĩ đến chiếc xe đạp có từ bao giờ chưa ? Đã trải qua bao nhiêu lần cải tiến chưa ? Và chiếc xe đạp gồm những bộ phận gì ? . . . Chiếc xe đạp đầu tiên xuất hiện vào năm 1790 do bá tước Sivrac sáng chế. Nó là một cái máy bằng gỗ, không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Năm 1813, nam tước người Đức Karl Friedrich Drais làm cho bánh trước có thể thay đổi hướng được. Xe này được đặt tên là Draisienne và nó đã được nhiều người hoan nghênh. Sáng kiến lắp thêm pêđan cho bánh trước được cho là thuộc về hai anh em thợ đóng xe ở Paris. Vào năm 1865, khi phải sửa chữa một cái Draisienne, họ đã lắp cho nó một chỗ để chân, mô phỏng tay quay của máy quay tay của họ. Tuy nhiên, trước đó, vào năm 1849, có thể một thợ cơ khí Đức là Heinrich Fischer đã sáng chế ra pê đan trước hai anh em Michaux. Pêđan ở bánh trước khiến cho bánh trước có kích thước lớn (lớn hơn bánh sau) để tăng quãng đường đi trong mỗi vòng đạp. Cải tiến này đã mang lại tên gọi mới cho thiết bị, bicycle (xe đạp). Xe đạp vốn được làm bằng gỗ. Từ năm 1869 các xe đạp này đã được làm bằng thép. Năm 1879, một người Anh là Lawson đã sáng chế xích để truyền động cho bánh sau. Sáng chế này kèm theo các cải tiến ở khung, đùi, đĩa, pêđan, hệ thống tay lái và phuộc. Năm 1885, J.K. Sartley cho bánh trước có cùng đường kính với bánh sau và làm cái khung bằng ống thép. Năm 1887, John Boyd Dunlop, một nhà thú y Scotland, tiếp tục cải tiến bánh xe với việc dùng ống hơi bằng cao su. Năm 1890, Roberton ở Anh và Michelin ở Pháp làm cho bánh có thể tháo lắp được. Năm 1920, việc áp dụng các hợp kim nhẹ đã giảm trọng lượng của xe được rất nhiều. Chiếc xe đạp địa hình hoàn chỉnh được chế tạo ở California vào năm 1973. Bây giờ người chạy xe có thể gắn thêm vào chiếc xe đạp của mình với nhiều phụ kiện như : Chuông; yên sau; giỏ dựng đồ . . . để chiếc xe tiện dụng hơn trong nihiều trường hợp. Xe đạp đã trải qua rất nhiều lần cải tiến trong rất nhiều năm. Bây giờ chiếc xe đạp đã hoàn chĩnh có đủ ba phần chính gồm: hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Như vậy, xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn. Quan trọng là xe đạp chuyển động nhờ sức người nên không gâp ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi các phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch vừa tiện lợi.
Thuyết minh về chiếc xe đạp
2,846
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa 2 Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 2 3 Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 3 4 Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 4 Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Tục ngữ Việt Nam có câu: Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Suy ngẫm nhiều, chúng ta thấy đúng là y phục góp phần quan trọng vào vẻ đẹp của mỗi con người, góp phần quan trọng vào sự thướt tha của phụ nữ. Áo dài Việt Nam là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân từ cổ đến đầu gối hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, hoặc nữ sinh mặc khi đi học. Không ai biết áo dài nguyên thủy có từ lúc nào và hình dáng ra sao, nhưng theo những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm, đã có hình phụ nữ mặc trang phục áo dài với hai tà xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết: Theo sách sử chép thì người Văn Lang xưa mặc áo dài cài nút về bên tả. Từ đó suy rằng trước thời Băc thuộc người Việt gài áo về tay trái, sau bắt chước người Trung Quốc, mới mặc áo gài về bên phải. Theo từng thời kì lịch sử mà chiếc áo dài có những thay đổi về chi tiết. Kiểu sơ khai của áo dài là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì không buộc hai vạt trước lại. Sau để tiện làm việc, áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân, gồm có hai vạt trước và hai vạt sau. Áo tứ thân hợp với phụ nữ thôn quê quanh năm bươn chải, lao động đồng áng. Sau đó, áo ngũ thân ra đời, phù hợp cho phụ nữ tỉnh thành với sự biến đổi vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân thu nhỏ, thành một vạt con. Vạt thứ năm nhỏ hơn, nằm dưới một vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình, không để hở áo lót, mỗi vạt có hai thân nối sống, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Vạt thứ năm nằm dưới vạt trước, khép kín nhờ năm chiếc khuy, tượng trưng cho "ngũ thường" của Nho giáo và "ngũ hành" của triết học Đông Phương. Đến thể kỉ XVIII, một số người Minh hương bất mãn với nhà Thanh, sang Việt nam lập nghiệp, mang theo một lối sắc phục của người Hoa. Để tạo bản sắc riêng cho dân tộc, Vũ Nương Nguyễn Phúc Khoát (1973 – 1965) đã ban hành một sắc dụ về ăn mặc cho toàn dân xứ Đàng Trong, đây là bước định hình quan rọng cho áo dài biến thành quốc phục Việt Nam: "Áo thì cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện, hai bên nách trở xuống phải khâu kín, không được xẻ mở…". Nhưng có ý kiến cho rằng áo ngũ thân xuất hiện trong thời vua Gia Long (1802-1819). Năm Minh Mạng triều đình có chiếu chỉ cấm mặc váy mà phải mặc quần hai ống (vì áo ngũ thân phải mặc với quần hai ống, không thể mặc với váy) nên có câu ca dao: "Tháng tám có chiếu vua ra Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng" Những năm đầu thế kỉ này tà áo dài theo hai khuynh hướng: Phối hợp với y phục Phương Tây, các nhà tạo mẫu cho ra dời những kiểu áo dài có dây kéo sau lưng. Những kiểu cổ áo trái tim, kiểu cổ truyền thống. Khoảng 1930, họa sĩ Cát Tường sáng tạo ra kiểu áo dài mới bằng cách biến tứ thân, ngũ thân thành áo hai tà. Thân trên áo dược may sát, ôm theo những đường cong của cơ thể tạo ra vẻ yêu kiều, gợi cảm rất độc đáo. Hàng nút cũng được chuyển dịch, cổ áo cũng nhiều thay đổi, và phong phú hơn, mặc với quần " sa tanh" trắng… gọi là áo dài "Le Mur", nhưng có đôi người đưa ý kiến phản bác vì quá "lai căng". Vũ Trọng Phụng cũng có thái độ trong tác phẩm Số đỏ. Một khuynh hướng khác của các nhà tạo mẫu là khuynh hướng trở về nguồn. các nhà thiết kế dùng những hoa văn hình chim hạc trên áo dùng dể thiết kế ở thân trước áo dài, cổ áo dài hoặc dùng những hoa văn trên vải thổ cẩm để làm viền, những chiếc ao dài vừa duyên dáng vừa hiện đại vừa cổ điển, rang phục kèm theo áo dài cũng thay đổi theo thời gian như quần màu đen, trắng hòa cùng màu với áo, khăn đóng ngày nay thay thế bằng vương miện dùng trong ngày cưới của cô dâu. Năm 1934, một hoạc sĩ khác là Lê Phổ đã bỏ bớt giới nét lai căng và đưa vào những nét đẹp truyền thống của áo dài dân tộc, dược nữ giới hoan nghênh nhiệt liệt. Sau Cách mạng tháng Tám, đối mặt với giặc đói, giặc dốt, Bác Hồ vận động nhân dân bỏ thói quen mặc áo dài. Ngày hòa bình thống nhất, chiếc áo dài lại được cả nước ca ngợi và sử dụng, nhờ sự khéo léo của những nhà thiết kế mà chiếc áo dài Việt Nam vừa tôn vẻ đẹp dịu dàng thể hiện nét kín đáo thướt tha của người phụ nữ Việt Nam. Vì sao vậy? Phần trên thường kín cổ, thể hiện vẻ kín đóa nhưng cũng làm hiện lên bờ vai và đôi tay trắng thon dài của cô gái rất đẹp. Nhờ cắt may khéo léo, phần trên thể hiện nét đẹp khỏe mạnh gọn gàng, thùy mị của cô gái Việt Nam, đồng thời hai tà áo lúc mở lúc khép, quấn quýt trong giá ạo vẻ thướt tha dịu dàng của chiếc áo dài. Nét đẹp đó làm say mê bao văn nhân, thi sĩ Việt Nam, say mê bao khách nước ngoài khi giao dịch tham quan du lịch Việt Nam. Nhà thơ Nguyên Sa đã viết nhiều bài thơ về áo dài Việt nam như: "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng Thơ anh viết vẫn nguyên màu lụa trắng" Cố nhạc sĩ Văn Cao và Phạm Duy cũng đưa hình ảnh áo dài Việt Nam vào trong bài "Bến xuân" của mình "Tà áo em rung trong giấc mộng ngập ngừng ngoài Bến Xuân." Đến thể kỉ XXI này, tuy xã hội Việt Nam đã theo nhiều trào lưu y phục phương Tây nhưng người ta vẫn không quên giữ gìn và phát huy vẻ đẹp của chiếc áo dài. Trong vài thệp niên gần đây, tà áo dài đã là đồng phục quy định của nhiều công sở và trường học ngay cả dịp quan trọng như ngày tết , ngày lễ, ngày cưới, người ta cũng dùng áo dài làm trang phục cho cô dâu và phụ nữ. Với những loại vải quý phái, chất liệu đặc biệt như tơ tằm gấm, lụa và vẽ màu sắc lộng lẫy hoặc nhu hòa, chiếc áo dài đã giúp cho người phụ nữ Việt Nam tăng thêm vẻ trang trọng và tươi đẹp. Các nữ sinh mới lớn cắp sách đến trường trong tà áo dài trắng tăng thêm nét yểu điệu, tinh khiết, trong sáng và vô tư như những thiên thần. Áo dài Việt nam là một trong những nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Người nữ sinh trung học ngày nay nên tự hào khi được mặc chiếc áo này! Bảo vệ nét đẹp áo dài Việt Nam là bảo vệ văn hóa và phong tục của người Việt Nam, nó cũng là nguồn đề tài vô tận cho các thi nhân nghệ sĩ Việt Nam. Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 2 Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những văn hóa, nét đặc trưng của từng vùng miền và trang phục truyền thống riêng. Phụ nữ Nhật tự hào với Kimono, phụ nữ Hàn Quốc nổi tiếng với Hanbok, phụ nữ Ấn Độ để lại cho ta ấn tượng rất đặc biệt với bộ Sari. Còn phụ nữ Việt Nam, từ xưa đến nay vẫn mãi song hành với chiếc áo dài duyên dáng và thướt tha. Áo dài có rất nhiều loại. Nhưng sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giai lãnh: cũng giống như áo tứ thân nhưng khi ,mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Vì sau này, phụ nữ phải làm việc đồng áng hay buôn bán nên áo giai lãnh được thu gọn lại thành áo tứ thân: gồm bốn vạt nửa trước phải, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái. Nhưng với những người phụ nữ tỉnh thành nhàn nhạ, muốn có một kiểu áo dài dược cách tân thế nào đó dể giảm chế nét dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng, khuê các. Thế là áo tứ thân được biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay lại được thu bé trở lai thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước trở thành áo ngũ thân. Ngoài ra còn áo dài Le Mor của một họa sĩ vào đầu thập niên 1930, áo dài Lê Phổ của họa sĩ Lê Phổ được thiết kế vào năm 1934, áo dài với tay giác lăng vào thập niên 1960, áo dài miniraglan danh cho các nữ sinh… Khác với Kimono của Nhật Bản hay Hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại vừa hiện đại, có thể mặc ở mọi lúc mọi nơi: dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc để tiếp khách trang trọng trong nhà… Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kì, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài guốc, hay giày đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm ái dài và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hay một chiếc miện Tây tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này. Áo dài có thể nhiều màu nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là chiếc áo dài trắng thể hiện sự thuần khiết của người phụ nữ Việt Nam. Trong trường học, không gì đẹp mắt và thanh bình cho bằng mỗi sáng, từng nhóm nữ sinh trong bộ áo dài, thướt tha, xõa tóc dài chạy xe đạp đến trường. Cũng nơi đó, những cô giáo, những người mẹ thứ hai của các học sinh nhẹ nhàng đón rón những đứa con của mình trước giờ vào học trong chiếc áo dài mới thực sự toát lên vẻ đằm thắm, và thương yêu. Trong những dịp lễ Tết, chiếc áo dài lại thêm một lần nữa thấp thoáng trên các ngã tư đường phố, cùng hoa va cảnh sắc của trời mới đất mới, khoe sắc ngày Tết. Áo dài giũa phố đông chật chội người và xe, ấm ào náo động, làm dịu lại cảnh sắc và làm mát lại những hồn người, làm cho ai đó phải quay lại ngắm nhìn dù chỉ một lần, dịu đi cái khó chịu và u uất vốn có trong bản tính mỗi con người bân rộn. Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn lên nét đẹp của mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật rộng trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ đến trên vòng eo khiến cho người mặc có cảm giác thoải mái, lại tạo dáng thướt tha tôn lên vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bằng vài lụa mềm lại cũng vừa khiêu gợi vì nó làm lộ ra sống eo. Chính vì thế, chiếc áo dài mang tính cá nhân hóa rất cao, mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người và chỉ dành cho ngươi ấy, không thể là một công nghệ “sản xuất đại trà” cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo rất kĩ, khi may xong phải thử và chỉnh sửa lại thêm vài lần nữa thì mới hoàn thiện được. Thực vậy, trong các hội nghị quốc tế, ở hội thảo khoa học nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nữ học giả Mỹ đã vận một chiếc áo dài, và mở đầu bài phát biểu của mình bằng một câu tiếng Việt: “Xin chào các bạn”, cả hội trường Ba Đỉnh trang trọng khi đó bỗng tràn ngập một không khí thân thương trìu mến. Trong hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 ở Việt Nam, áo dài đã được vinh dự là trang phục chính cho các vị lãnh đạo nguyên thủ quốc gia của các nước mặc trong buổi lễ bế mạc kết thúc hội nghị. Áo dài, như vậy có thể là đại sứ tinh thần của văn hóa Việt, mang nước Việt Nam cùng hòa chung vào dòng kinh tế năng động và nhiệt huyết trên thương trường thế giới, là một nét riêng của người phụ nữ Việt nói riêng và cả dân tộc Việt nói chung. Áo dài là hiện thân của dân tộc Việt, một vẻ đẹp mĩ miều nhưng đằm thắm, là một phần tất yếu trong mỗi phụ nữ Việt, là đặc trưng cho một quốc gia có người phụ nữ chịu thương chịu khó, luôn hy sinh, đứng phía sau để cổ động tinh thần cho nước nhà, cùng nhau hòa nhịp và phát triển. Trải qua từng thời kì, từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quà trình lịch sử Việt Nam, tà áo dài Việt Nam luôn tồn tại theo dòng thời gian, vẫn mãi sẽ là tâm hồn Việt, văn hóa Việt, là tinh thần Việt và là trang phục truyền thống mang đậm tính lịch sử lâu đời của nước Việt ngàn năm văn hiến. Kín đáo, duyên dáng và gợi cảm là một trong những yếu tố đưa áo dài trở thành niềm kiêu hãnh của người Việt. Không chỉ là cái áo nữa – chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của trang phục phụ nữ Việt, tạo thành sản phẩm văn hoá vật thể truyền thống không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của người phụ nữ Việt. Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 3 Khi nói đến khía cạnh thẩm mỹ, văn hóa và trang phục truyền thống của người Việt, người ta thường nghĩ ngay đến tà áo dài và chiếc nón lá, thật vậy trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quá trình phát triển lịch sử, tà áo dài Việt Nam luôn tồn tại cùng với thời gian, được xem là trang phục truyền thống mang tính lịch sử lâu đời của phụ nữ Việt. Cho đến nay, vẫn chưa ai biết rõ được nguồn gốc chính xác của chiếc áo dài, nhưng nếu ngược dòng thời gian tìm về cội nguồn, hình ảnh chiếc áo dài Việt với hai tà áo thướt tha trong gió đã được tìm thấy qua các hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm. Theo truyền thuyết kể lại, khi cưỡi voi xông trận đánh đuổi quân Hán, Hai Bà trưng đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng. Rồi do tôn kính hai bà, phụ nữ Việt tránh mặc áo hai tà mà thay bằng áo tứ thân. Một lý do khác xem chừng cũng cũng có vẻ hợp lý là thời trước kỹ thuật còn đơn giản, thô sơ và mộc mạc, không thể dệt vải theo khổ lớn được, nên người ta phải ghép bốn mảnh vải lại mới có thể tạo ra được một chiếc áo dài – áo dài tứ thân.Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, áo dài tứ thân cũng trôi nổi nhưng vẫn tồn tại và không thể bị xóa bỏ. Rồi chịu ảnh hưởng và thay đổi theo thời gian, trong khoảng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, để có dáng dấp trang trọng và mang vẻ quyền quý hơn, phụ nữ nơi thành thị đã biến tấu kiểu áo ngũ thân từ chiếc áo dài tứ thân nhằm thể hiện sự giàu sang cũng như địa vị xã hội của người phụ nữ, đồng thời chiếc áo ngũ thân cũng là biểu hiện của ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Giống như một quy luật, thời trang cũng đi liền với diễn biến của lịch sử, chiếc áo dài ngũ thân vẫn không thể là điểm dừng của trang phục truyền thống Việt, khoảng những năm 1932 trở đi, làn sóng văn hóa Tây Âu du nhập vào Việt Nam đã làm ảnh hưởng đến thị hiếu của người dân, đặc biệt là quan niệm về thẩm mỹ đối với áo dài. Thời kỳ này một nhân vật có tên là Cát Tường, tung ra kiểu áo dài mới gọi là áo dài Lemur, chữ Le mur trong tiếng Pháp có nghĩa là “cái tường”, là một cách đặt tên theo họa sĩ Cát Tường. Chiếc áo dài này được cắt may theo kiểu Tây phương nối vai ráp tay phồng, cổ bồng… hoặc được khoét hở cổ. Vài năm sau khi áo dài Lemur xuất hiện và có nhiều trào lưu khen chê khác nhau, họa sĩ Lê Phổ đã cải tiến chiếc áo này, loại bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ tạo ra kiểu áo cổ kín vạt dài ôm sát thân người để hai tà áo tự do bay lượn. Cho đến cuối thập niên 50, trong một buổi lễ khai mạc, phu nhân ông Ngô Đình Nhu, bà Trần Lệ Xuân đã xuất hiện với kiểu áo dài không cổ và tạo ra một làn sóng thời trang áo dài hở cổ mới. Khoảng đầu những năm 1960, áo dài tay raglan với chiếc quần xéo ống rộng trở nên phổ biến…Cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, tại miền Nam, nơi mà làn sóng Hippy của nền văn hóa phương Tây tác động mạnh mẽ, tuy không tồn tại lâu nhưng phong trào áo dài hippy cũng đã xuất hiện. Hình ảnh thiếu nữ trong trang phục áo dài với các sắc màu rực rỡ thể hiện nét đặc trưng của người phụ nữ hiện đại thời kỳ này. Qua nhiều giai đoạn và thời kỳ lịch sử, áo dài đã trở thành biểu tượng của trang phục phụ nữ Việt, là sản phẩm văn hóa không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của phụ nữ Việt. Không giống như kimono của Nhật Bản, Hanbok của Hàn Quốc hay Sari, trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ, người mặc không cần tốn nhiều thời gian, lại đơn giản, gọn gàng, duyên dáng mà thanh lịch, có lẽ chính vì vậy mà áo dài – trang phục truyền thống đã “len lỏi” vào cuộc sống hằng ngày của phụ nữ Việt một cách tự nhiên và dễ dàng. Không gì đẹp mắt và thanh bình cho bằng khi mỗi sáng từng nhóm nữ sinh trong bộ đồng phục áo dài trắng thướt tha đổ về các cổng trường. Trên chững chuyến bay đường dài với những sự thay đổi thời tiết và khí hậu đột ngột dễ gây mỏi mệt và bực bội đối với những hành khách trên không, hình ảnh những thiếu nữ Việt xinh tươi đằm thắm trong tà áo dài chính là “linh hồn” làm dịu đi những nỗi mệt nhọc cho hành khách của chuyến bay. Không chỉ có thế, ngày nay tại các công sở, cũng dễ dàng tìm thấy hình ảnh những phụ nữ gọn nhẹ trong tà áo dài nhưng vẫn hoạt bát nhanh nhẹn xử lý công việc thật ngăn nắp, chỉnh chu. Đúng như lời nhận xét của một chuyên gia thời trang Đông Nam Á: “Áo dài Việt Nam tạo ra sự thoải mái cho người phụ nữ. Trong khi áo dài Trung Quốc có một số hạn chế, áo dài Việt cho phép người mặc có thể hoạt động tự do và nó cũng có sức cuốn hút hơn”. Vào khoảng tháng 06.2001, lần đầu tiên áo dài Việt Nam được giới thiệu tại thành phố Tour, Pháp với sự tham dự của khoảng 300 người hâm mộ văn hóa Việt, chiếc áo dài được xem là di sản văn hóa phi vật thể của nước Việt. Một cô gái người Singapore gốc Trung Quốc từng phát biểu: “nhiều người đang có khuynh hướng làm đẹp theo kiểu phương Tây nhưng với tôi và không ít người khác lại muốn kế thừa những nét đẹp Á Đông. Áo dài đưa chúng tôi trở về với những giá trị châu Á”. Không chỉ tại châu Á, trong con mắt người phương Tây, từ lâu chiếc áo dài cũng đã được chú ý, chị Susan, một phụ nữ gốc Anh sống ở Úc từng qua công tác và làm việc ở Việt Nam, đã tìm may và sưu tầm cho mình ba bộ áo dài đẹp để mặc vào những dịp lễ hội khi chị còn ở Việt Nam, khi về nước chị đã kỹ càng gói lại và đem về mặc lại cho những người thân của mình xem khi có dịp. Và như là một hình thức để giới thiệu về đất nước và con người Việt, đài truyền hình KBS của Hàn Quốc cũng đã từng làm một bộ phim dài 30 phút về áo dài Việt Nam để trình chiếu tại nước này. “Ở đâu có phụ nữ Việt – ở đấy có áo dài Việt”. Áo dài không chỉ đơn thuần là trang phục truyền thống, mà chính là một nét văn hóa nói lên nhân sinh quan và gói trọn tinh thần Việt. Đó chính là “quốc hồn” của phụ nữ Việt. Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Bài làm 4 Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết, “Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải”[1]. Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ. Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ, “phụ tùng lệ bộ” cũng đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc sắc của thứ trang phục truyền thống có một không hai này. Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn bật nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa hở hang. Nó cho thấy thấp thoáng sống eo giữa hai tà vạt rất gợi cảm và quyến rũ. Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ “sản xuất đại trà” cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để vi chỉnh nữa mới hoàn thiện. Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Suy cứ này có cơ sở vì từ chiếc áo dài ngũ thân trang trọng cho phụ nữ tỉnh thành chắc chắn phải tồn tại bên cạnh đó một thứ áo trang trọng cho giới nam để cân xứng. Tuy nhiên theo sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thỉ sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn, “Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được” (trích sắc dụ này). Từ thập niên 1930 trở đi mới xuất hiện áo dài nữ phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam phục hai vạt cũng phải xuất hiện khoảng thời gian đó. Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh, đã chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, “quốc phục sơ khai” của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu “nhà Thanh”: dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục. Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục. Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam, vận chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt Nam. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC (2006) được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà.
Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam – Văn mẫu lớp 8
5,211
Bài làm 1 Đã từ lâu, khi nhắc đến người phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế lại trầm trồ nói về chiếc áo dài. Quả thực, chiếc áo dài Việt Nam xứng đáng được coi là loại trang phục truyền thống thể hiện được vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Gọi là áo dài là theo cấu tạo của áo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của người phụ nữ rồi từ đáy lưng ong 2 thân thả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên dáng, mềm mại, uyển chuyển hơn cho người con gái. Tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kín đáo trang nhã lướt trên đường phố trở thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yêu kiều, thanh lịch cho con người và khung cảnh xung quanh. Chiếc quần may theo kiểu quần ta ông rộng bằng thứ vải đồng chất đồng màu hay sa tanh trắng nâng đỡ tà áo và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ trang phục mượt mà duyên dáng, gợi vẻ đằm thắm đáng yêu. Đã ngót một thế kỷ nay, cô nữ sinh trường Quốc học Huế trong trang phục áo đài trắng trinh nguyên như là biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn người thiếu nữ đất Việt. Để đến bây giờ trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các trường phổ thông trung học như muốn nói với mọi người với du khách quốc tế về văn hoá và bản sắc dân tộc. Tà áo trắng bay bay trên đường phố, tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những cô cậu học sinh vương lại phía sau cùng mảnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho người qua đường một cảm giác lâng lâng, bâng khuâng nhớ về thuở học trò trong vắt những kỷ niệm thân thương. Ngày Tết hay lễ hội quê hương, đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà, các mẹ, các chị, chiếc áo dài nâu, hồng, đỏ… là một cách biểu hiện tâm lòng thành kính gửi đến cửa thiền một lòng siêu thoát, tôn nghiêm. Chiếc áo dài trùm gối, khăn mỏ quạ chít khéo như hoa sen, tay nâng mâm lễ kính cẩn lên cửa chùa, miệng "mô phật di đà"… hình ảnh ấy đã đi vào bức hoạ tranh dân gian Đông Hồ là một biểu tượng độc đáo của văn hoá Việt Nam. Ngày nay trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, váy đầm, áo ngắn, áo thời trang… chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và tâm hồn người Việt đến với năm châu và trở thành trang phục công sở ở nhiều nơi. Trải qua năm tháng, áo dài đã dần trở thành một thứ trang phục đặc biệt của riêng người Việt. Điểm qua một số thời kỳ được coi là "dấu ấn" trong quá trình hình thành và phát triển chiếc áo dài. Thời kỳ từ 1885-1915 Có giả thuyết cho rằng áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc. Nhưng áo dài là loại trang phục riêng của người Việt vì những khi lễ lạt, người xưa phải khoác ra ngoài áo dài một cái áo lễ, thí dụ như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áo bào, áo mệnh phụ trong triều. Chỉ có các lễ phục này mới mang ảnh hưởng của phương Bắc. Trong khi đó, từ đầu đến cuối quyển sách Trung Quốc Phục Trang Sử nổi tiếng, viết và minh họa về y phục Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho đến những năm đầu Dân Quốc (1920), không thấy đả động gì đến bì bào (áo mặc sát vào da). Loại bì bào độc nhất ở Trung Quốc, thường gọi là xường xám, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện từ Trùng Khánh và Thượng Hải trong thập niên 1930. Trong sách "Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine", xuất bản tại Lille năm 1631, giáo sĩ Borri đã tả rõ về cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17: "Người ta mặc năm sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu… Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông đẹp mắt… Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa… để tóc dài và vấn khăn như đàn bà". Có lẽ giáo sĩ Borri đã hiểu lầm về số lớp áo được người Việt cổ xưa mặc mỗi khi ra ngoài. Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng mà giáo sĩ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp dải lụa may chồng lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngắn dần. Bức tượng Ngọc Nữ tạc từ thế kỷ 17 ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh, là minh chứng rõ nhất cho cả áo dài, các giải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sĩ Borri đã mục diện từ bốn thế kỷ trước đây. Thế kỷ XIX – XX Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và áo may sát người dài đến mắt cá chân. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay vì các loại vải ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80cm. Cổ áo chỉ cao khoảng 2 – 3cm. Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 – 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn và cũng để khoe chuỗi hột trang sức quấn nhiều vòng quanh cổ.Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùng thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm. Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, thường được mặc với quần trắng hoặc đen. Những cách tân đầu tiên Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là nhà may Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội. Năm 1939 nhà tạo mẫu này tung ra một kiểu áo dài được ông Âu hóa. Áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình trái tim. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ. Vai áo may bồng, tay nối ở vai. Khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến khoảng năm 1943. Đến khoảng năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may có eo. Các thợ may lúc đó đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, nhất là ở phần mông, để áo ôm theo thân dáng mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt ngắn dần từ giai đoạn này. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống. Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60. Vì nịt ngực ngày càng phổ biến hơn, nên áo dài bắt đầu được may chít eo, nhiều khi rất chật, để tôn ngực. Eo áo cắt cao lên hở cạp quần. Gấu áo lúc này cắt thẳng ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Năm 1960, vì muốn thấy cổ phụ nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại áo dài cổ thuyền. Nhiều người sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn. Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối. áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn 3cm. Tay áo cũng được may rộng ra. Đặc biệt trong khoảng thời gian này, vai áo dài bắt đầu được cắt lối raglan để ngực và tay áo ôm hơn, nhăn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo được nối với thân từ chéo vai. Quần may rất dài với gấu rộng đến 60cm và nhiều khi được lót hai ba lớp. Năm 1975, đất nước thống nhất, điều kiện vật chất còn nhiều khó khăn nên áo dài có phần đơn giản hơn. Nhưng đến những năm 90, áo dài đã trở lại, cầu kỳ hơn, thanh nhã hơn và bắt đầu được bạn bè quốc tế nghĩ tới như là một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Năm 1989, báo Phụ Nữ tổ chức cuộc thi Hoa Hậu Áo dài đầu tiên. Sáu năm sau, tà áo dài xanh thướt tha đã đưa Việt Nam tới danh hiệu "Trang phục truyền thống đẹp nhất" tại Tokyo, Nhật Bản. Các nhà thiết kế đương đại thường "thí nghiệm" với các loại vải mới , các motif lạ mắt, các hoa văn của người dân tộc thiểu số hoặc thay đổi đường may nét cắt bằng cách mở rộng cổ, bớt tay áo hoặc thay tà trước bằng những chất liệu mềm mại hơn. Chiếc quần trắng ngày nào là mốt giờ đã nhường chỗ cho quần đồng màu hoặc ngược hẳn với áo. Ngày nay, áo dài vừa là đồng phục duyên dáng của nữ sinh cấp 3: Là hình ảnh của người tiếp viên hàng không Vietnam Airlines, lại vừa là trang phục lễ Tết, hội hè: Nhiều nhà tạo mẫu áo cưới có xu hướng kết hợp giữa áo cưới hiện đại với chiếc áo dài dân tộc. Với hai chất liệu tơ tằm và voan, chiếc áo dài cưới dân tộc được cách điệu vừa tạo nét duyên dáng cho cô dâu vừa tạo vẻ mềm mại, mỏng manh. Cách điệu lớn nhất của chiếc áo dài cưới được thể hiện ở vạt áo (vạt mỏng, mềm hơn) và nơi cổ áo. Nhìn chung kiểu dáng chính của chiếc áo dài cưới là chiếc áo dài dân tộc nhẹ nhàng nhưng cầu kỳ hơn một chút nơi tà áo, cổ áo và gấu quần. Thi hoa hậu, thi người đẹp không thể thiếu áo dài: Năm 2007, Hoa hậu Trái đất đến từ Chile, Hoa hậu Phillippines và Singapore rạng rỡ khoe sắc với tà áo dài, chiếc nón lá Việt tại TP.Hồ Chí Minh. Các người đẹp mang đến thông điệp về một môi trường sống xanh, sạch và bền vững. Cho dù bị ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa từ phương Đông đến phương Tây, áo dài vẫn mang nét riêng của mình để không thể bị lẫn lộn với kiểu dáng khác. Thế giới chỉ từng biết Việt Nam qua chiến tranh. Nhưng khi hàng triệu người Việt rời quê hương để định cư tại khắp bốn phương đã mang theo di sản văn hóa Việt từ ẩm thực đến đạo lý phong tục tập quán và trong đó có chiếc áo dài truyền thống. Trên khắp thế giới, áo dài "tung bay tà áo quê hương" là không thể thiếu trong các lễ hội của người Việt như Tết, Quốc Khánh, 8-3 và càng được phổ biến rộng hơn khi các nhà tạo mẫu biến chiếc áo hai tà thành thời trang. Bài làm 2 Áo dài là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Áo dài mang lại nét đẹp duyên dáng, đằm thắm làm say lòng người của người phụ nữ Việt. Bởi vậy đã có biết bao nhà thơ, nhà văn hết lời ca ngợi: “Có phải em mang trên áo bay Hai phần gió thổi một phần mây Hay là em gói mây trong áo Rồi thở cho làn áo trắng bay” (Tương tư – Nguyên Bá) Trải qua bao thế kỉ chiếc áo dài đã có nhiều thay đổi so với tổ tiên nó trước đây. Không ai biết rõ nguồn gốc nguyên thủy của chiếc áo dài vì chưa có tài liệu ghi nhận. Nhưng kiểu sơ khai nhất của chiếc áo dài là chiếc áo giao lãnh. Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát là người được xem là có công sáng chế chiếc áo dài và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Chính do sự di cư của người Minh Hương mà chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời chiếc áo dài giao lãnh để tạo nét riêng cho dân tộc Việt. “Thường phục thì đàn ông, đàn bà mặc áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở”…(Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên) – đây là bằng chứng lịch sử cho ta thấy chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời chiếc áo giao lãnh như thế nào. Qua bao giai đoạn thăng trầm của lịch sử áo dài đã thay đổi rất nhiều. Như đã nói ở trên, chiếc áo giao lãnh được coi là chiếc áo dài đầu tiên. Áo này cũng tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc hai tà không được buộc vào nhau. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả, cùng với váy thâm đen. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán nên khi mặc chiếc áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân với hai tà trước được thả nay cột gọn gàng mặc cùng váy xắn quai cồng tiện việc lao động. Đối với phụ nữ nông dân áo tứ thân được mặc rất đơn giản với áo yếm ở trong, áo ngoài cột tà và thắt lưng. Mặc kèm với áo thường là chiếc khăn mỏ quạ đen tuyền. Trong khi đó, áo tứ thân dành cho tầng lớp quý tộc lại rất nhiều chi tiết. Mặc ngoài cùng là chiếc áo the thâm màu nâu non, chiếc áo thứ hai màu mỡ gà, chiếc áo thứ ba màu cánh sen. Khi mặc thường không cài kín cổ, để lộ ba màu áo. Bên trong mặc chiếc yếm màu đỏ thắm. Thắt lưng lụa màu hồng đào hoặc thiên lý. Áo mặc với váy màu đen, đầu đội nón quai thao càng làm tăng thêm nét duyên dáng của người phụ nữ. Nhưng sau một thời gian áo tứ thân được cách tân để giảm chế nét dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng khuê các. Thế là chiếc áo ngũ thân ra đời. Áo ngũ thân được cải tiến ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu và vạt con nằm dưới vạt trước tượng trưng cho người mặc. Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Nhưng đến thời Pháp thuộc, chiếc áo đài lại một lần nữa thay đổi. “Lemur” là tên tiếng Pháp để chỉ chiếc áo dài cách tân. Chiếc áo dài này do người họa sĩ có tên là Cát Tường sáng tạo ra. Bốn vạt trước và sau thu gọn thành hai tà trước sau. Vạt trước dài chấm đất tăng thêm sự duyên dáng và uyển chuyển. Hàng nút phía trước của áo được chuyển dọc qua hai vai và chạy dọc một bên sườn. Áo may ráp vai, tay phồng, cổ bồng hoặc hở. Để cho đúng mốt, áo Cát Tường phải mặc với quần sa tanh trắng, đi giày cao, cầm bóp đầm. Do xã hội vẫn còn chưa cởi mở với cách ăn mặc này nên chiếc áo không được nhiều người chấp nhận vì họ cho là “đĩ thõa” (phản ánh của Vũ Trọng Phụng trong tác phẩm, “Số đỏ” đã chứng minh điều đó). Năm 1943, họa sĩ Lê Phổ đã bỏ bớt những nét cứng nhắc của áo Cát Tường, đưa thêm một số yếu tố dân tộc của áo tứ thân, ngũ thân đã tạo ra kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt trước tự do bay lượn. Sự dung hòa này được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đấy, áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó và từ đấy đến nay dù trải qua bao thăng trầm, bao lần cách tân, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn được giữ nguyên. Cho tới ngày nay, chiếc áo dài đã được thay đổ rất nhiều. Cổ áo cổ điển cao 4 – 5 cm, khoét hình chữ V trước cổ. Cổ áo làm tăng thêm nét đẹp của chiếc cổ cao ba ngấn trắng ngần của người phụ nữ. Phần eo được chít ben làm nổi bật đường cong thon thả của chiếc lưng ong của người phụ nữ. Cúc áo là loại cúc bấm, được bố trí cài từ cổ qua vai xuống eo. Từ eo, thân áo được xẻ thành hai tà dài đến mắt cá chân. Ống tay áo may từ vai ôm sát cánh tay dài qua khỏi cổ tay. Áo thường mặc với quần lụa có màu sắc hài hòa với áo. Áo dài thường được may bằng lụa tơ tằm, nhung, voan, the,… rất phong phú. Nhưng có sự lựa chọn chung là nên chọn loại vải mềm, rũ. Để làm tăng thêm nét duyên dáng, khi mặc áo dài phụ nữ thường đội nón lá. Ở đồng bằng Nam bộ, áo dài được cải biên thành áo bà ba mặc với quần đen ống rộng để tiện việc lao động. Chiếc áo dài là một trang phục không thể thiếu được của người phụ nữ ngày nay. Nó không chỉ là trang phục dân tộc mà còn là trang phục công sở của giáo viên, nữ sinh, nhân viên ngân hàng, tiếp viên hàng không,… Áo dài còn được mặc khi đi dạo phố, những buổi họp mặt quan trọng như lễ cưới chẳng hạn. Ngay cả cô dâu trong nghi thức bái gia tiên cũng không thể thiếu bộ trang phục này. Do được may bằng chất liệu vải mềm nên áo dài cần được bảo quản cẩn thận. Chỉ nên giặt áo dài bằng tay, giũ cho áo ráo nước và phơi ngoài nắng nhẹ, tránh nắng gắt vì áo dễ bạc màu. Dùng bàn ủi ủi với nhiệt độ thích hợp tránh nóng quá làm cháy áo. Luôn cất áo vào tủ cẩn thận giúp áo bền, đẹp và mới lâu. Nên giặt áo ngay sau khi mặc, treo bằng móc áo, nếu gấp phải gấp cẩn thận tránh làm gãy cổ áo. Áo dài là quốc phục của nước Việt Nam, là niềm tự hào của dân tộc Việt. Dù thời gian có đổi thay, những mẫu trang phục ngày càng đa dạng và hiện đại nhưng trên khắp nẻo đường ở đất nước bình yên này, tà áo dài vẫn nhẹ nhàng tung bay mang theo nét đẹp, nét duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam. Bài làm 3 Nếu như người Nhật tự hào với trang phục kimono, người Hàn Quốc tự hào về hanbok truyền thống thì người Việt Nam cũng có chiếc áo dài. Chiếc áo dài trở thành biểu tượng cho trang phục của người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Áo dài đã có lịch sử tồn tại lâu đời. Qua nhiều thay đổi, chiếc áo truyền thống đã trở thành chiếc ái dài tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lữ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, có thắt lưng. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng, cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bôn vạt nữa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy ngắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ. Một vài tài liệu cho rằng việc ra đời của chiếc ái dài quốc phục là do những tham vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải với người khách trú mà với Bắc triều. Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Vào năm 1930, một họa sĩ đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau. Vạt trước được họa sĩ nối dài châm đất để tăng thêm dáng vẽ uyển chuyển trong bước đi, đồng thời trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài mới có nhiều cải biến mà nhiều người thời đó cho là “lai căng” thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa, áo dài mới mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo dài mới, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ hân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên. Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan. Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặt từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thấm mỹ. Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân, đồng thời khi bước đi thấy thấp thoáng ẩn hiện mũi giầy dưới sóng lụa. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương, và đã làm xao xuyến lòng bao chàng trai. Khác với Kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp lễ tết mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kì, “phụ tùng lệ bộ” cũng đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn vành truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc sắc của thứ trang phục truyền thống có một không hai này. Chiếc áo dài hình như có cách riêng đế tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chít trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn bật nữ tính, vừa kín kẽ vì toài) thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa hở hang. Nó cho thấy thấp thoáng sông eo giữa hai tà vạt rất gợi cảm và quyến rũ. Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ sản xuất riêng cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ “sản xuất đại trà” cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy sổ đo thật kĩ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để việc chỉnh nửa mới hoàn thiện. Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng màu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, tráng hoặc lam thẫm. Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thông thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn. Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục. Áo dài sẽ mãi mãi tượng trứng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, đó là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam đối với bạn bè trên thế giới.
Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam
4,867
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về chợ Bến Thành – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Thuyết minh về chợ Bến Thành – Bài làm 2 Thuyết minh về chợ Bến Thành – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Ai đến Sài Gòn, chắc cũng đôi lần được bước tới và tham quan, mua sắm ở chợ Bến Thành. Nằm ở trung tâm thành phố, chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh. Sở dĩ có tên là chợ Bến Thành là vì chợ gần bến sông và gần thành Quy.Đầu thế kỉ XVII, khi người Việt đến lập cư ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thì vùng đất Sài Gòn xưa trở thành nơi phố chợ đông đúc náo nhiệt nhất vùng Nam Kì lục tỉnh. Giữa thế kỉ XIX, xuất hiện một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Chợ Bến Thành được mô tả trong sử cũ như sau: Đó là một " phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền". Thời ấy, đất Gia Định là một vùng nông nghiệp trù phú nên Chợ Bến Thành đầy hàng hóa, nào gạo, cá khô, tôm khô, cau, đường,…bán ra để ua tơ lụa, quả thô, nhang, trà, quạt, đồ sành sứ, thuốc uống, dược thảo… từ nước ngoài mang đến. Đây chính là khu vực mà nay dành cho thương cảng Sài Gòn. Sau cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833 – 1835) phố chợ Bến Thành không còn sầm uất như trước. Chợ được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh. Sau khi đánh chiếm Gia Định, thực dân Pháp đã cho lập một nhà lồng làm chợ ở ngay trên nền đất mà nay là Trường học Ngân hàng 3. Ngôi chợ này bị cháy năm 1870, nhưng đã được trùng tu với sườn sắt. Trước nhà lồng chợ có con kinh rộng chạy đến trước cửa tòa nhà nay là trụ sở của Ủy ban Nhân dân thành phố. Đến năm 1887 – 1888 thì con kinh này được lấp lại, làm cho khu vựa Võ Di Nguy, Tôn Thất Thiệp trở nên náo nhiệt hơn. Đại lộ Nguyễn Huệ trước kia là đường kinh lấp. Ngôi chợ Bến Thành được chuyển đến vị trí ngày nay. Nhà lồng chợ được khởi công xây cất trên vùng đất trước đó là một ao sình lầy gọi là ao Boresse. Ngôi chợ này được khởi công xây xất từ khoảng năm 1912 và khánh thành vào tháng 3 năm 1914. Ngày khánh thành có khoảng 100.000 người tham dự, có cả dân từ các tỉnh đổ về. Cuộc lễ diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo bông, xe hoa. Thế là chợ Bến Thành xưa trở thành Chợ Cũ, còn chợ Bến Thành mới được gọi là Chợ Mới Sài Gòn. Mãi đến năm 1940 hai con đường bên hông chợ còn là bến xe đò miền Đông và miền Tây. Gần một trăm năm qua, chợ Bến Thành bao giờ cũng là một tủng tâm thương mại, trung tâm phồn hoa náo nhiệt của thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ cũ. Dần dần nó trở thành mọt chợ lớn, nơi tập trung những mặt hàng quý hiếm của trong nước và nước ngoài. Chợ Bến Thành ngày nay có khoảng 3.000 hộ kinh doanh. Hình ảnh chợ Bến Thành thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố. Chợ Bến Thành ngày nay lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước, để nó xứng đáng là một trung tâm buôn bán lớn ở phía nam đất nước. Hàng hóa chợ Bến Thành rất phong phú, bao gồm hầu hết các sản vật trong nước – đặc biệt là sản vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – cùng các mặt hàng công nghiệp hiện đại trên thế giới. Thuyết minh về chợ Bến Thành – Bài làm 2 Không chỉ thuần túy là nơi buôn bán, một trăm năm qua chợ Bến Thành đã trở thành một chứng nhân lịch sử chứng kiến bao đổi thay thăng trầm của thành phố, là bộ mặt kinh tế nói lên sự phát triển của một thành phố thương mại lớn nhất nước vàl à điểm giao hòa giữa Sài Gòn xưa và nay. Những năm gần đây chợ Bến Thành còn là địa điểm tham quan không thể thiếu cho bất cứ tour du lịch nào đến TP. Hồ Chí Minh. Hẳn nhiên, du khách đến chợ không chỉ đơn thuần để tìm mua những hàng hóa hay quà lưu niệm mà còn tìm ở đó chút hình ảnh riêng, một cá tính đặc trưng thể hiện trong những sinh hoạt đời thường của một thành phố mà chợ chính là nơi bộc lộ rõ nhất. Bến Thành được xem là chợ bán lẻ quy mô nhất theo nghĩa có thể tìm thấy tại nơi này đủ thứ mặt hàng, từ bình dân đến cao cấp, đặc biệt hàng thực phẩm thuộc loại chọn lọc nhất. Ở đây không thiếu một thứ gì, từ củ hành, trái ớt, mớ rau, con cá, đủ loại hoa quả mùa nào thức nấy, cho tới bánh kẹo, vải vóc, giày dép, túi xách, đồ điện, điện tử, hàng lưu niệm… Chợ Bến Thành có tổng diện tích 13.056m², trung bình mỗi ngày đón khoảng 10.000 lượt khách lui tới mua bán và tham quan. Chợ có 1.446 sạp, 6.000 tiểu thương, 5 doanh nghiệp, với bốn cửa chính và 12 cửa phụ tỏa ra bốn hướng. Cửa Nam (nhìn ra quảng trường Quách Thị Trang) với biểu tượng ngôi tháp đồng hồ ba mặt, là cổng chính, bên trong nhà lồng là nơi bày bán các mặt hàng vải vóc và thực phẩm khô. Cửa Bắc (phía đường Lê Thánh Tôn) rực rỡ với những gian hàng hoa tươi và trái cây mời gọi người qua đường. Cửa Ðông (phía đường Phan Bội Châu) hấp dẫn khách hàng bởi các loại mỹ phẩm và bánh kẹo đầy màu sắc. Cửa Tây (phía đường Phan Chu Trinh) lại là nơi thu hút phái đẹp vì sự đa dạng về kiểu dáng và kích cỡ của giày dép, hàng mỹ nghệ, đồ lưu niệm. Ngoài ra, dọc theo các hành lang bao quanh nhà lồng chợ làn hững gian hàng bày bán đủ các loại mặt hàng tiêu dùng phục vụ khách du lịch, đặc biệt là hàng lưu niệm, quần áo may sẵn, vải tơ tằm, thủ công mỹ nghệ, tranh thêu, thổ cẩm… Nhắc đến chợ Bến Thành thì không thể bỏ qua khu ẩm thực với sự góp mặt của đầy đủ các món ăn truyền thống khắp mọi miền đất nước. Cuối tháng 1-2012, chợ Bến Thành đã được Tạp chí Ẩm thực Food and Wine nổi tiếng chọn là một trong 10 điểm đến có món ăn đường phố hấp dẫn nhất hành tinh,chính là lời khẳng định hùng hồn cho sự phong phú đó. Chợ Bến Thành cũng rất sôi động về đêm, bắt đầu từ 7 giờ tối, các quầy hàng đổ ra hai con đường Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh bên hông chợ với các quầy hàng mỹ nghệ, lưu niệm, quần áo và đặc biệt là hàng ăn. Khách đến chợ Bến Thành chủ yếu chia thành hai dạng: khách vãng lai và khách hàng thân thiết. Khách vãng lai phần lớn là du khách trong đó đa phần là người nướcngoài, còn khách hàng thân thiết gồm dân cư sống ở các con phố lớn xung quanhcũng như những cư dân lâu năm của Sài Gòn. Điểm độc đáo nhất, chẳng ở đâu có các cô bán hàng xinh đẹp, ăn mặc hợp thời trang và thành thạo ngoại ngữ như các tiểu thương chợ Bến Thành. Bước chân vào chợ là len lỏi giữa dòng du khách nước ngoài nườm nượp, tai nghe những lời chào bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Thái… xôn xao như một bản hợp âm. Có thể nói ít ngôi chợ nào trên đất nước thu hút được lượng du khách với mật độ cao,nhiều màu da và đa quốc tịch như cái chợ này. Còn khách bản địa khi vào chợ thì được coi như người nhà, nếu còn trẻ thường được gọi là cưng, em gái hoặc chị Hai, cô Ba… ngọt xớt! Bẵng đi một thời gian, cũng người ấy nếu trở lại chợ sẽ được trìu mến gọi là má, mẹ, dì, và đến lúc nào đó sẽ không khỏi bần thần khi được mọi người cung kính gọi bằng… ngoại! Hàng hóa ở đây đa dạng hơn rất nhiều nơi, có đủ các loại từ hàng xuất khẩu, hàng gia công đến hàng xách tay cao cấp. Thực phẩm thì đạt chuẩn vừa tươi vừa ngon,nhiều mặt hàng không đâu có được như rau củ trái mùa, trái cây ngoại nhập, thủy hải sản tươi sống, hàng đặc sản bào ngư, vi cá, hải sâm… được đưa thẳng tới từ sân bay Tân Sơn Nhất. Mặc dù xu hướng mua sắm của một đô thị hiện đại là vào siêu thị hoặc các trung tâm thương mại, nhưng đôi khi trong nhịp sống nhanh đó người ta cũng cần sống chậm đi, như một cách lấy lại thăng bằng cho tâm hồn. Đó là một trong những lý do để chợ Bến Thành nói riêng và các chợ truyền thống nói chung sẽ vẫn tồn tại mãi với thời gian. Và phần hồn của chợ Bến Thành nằm ngay trong nhà lồng, nơi đời sống đô thị diễn ra sinh động nhất qua những giao tiếp thân tình giữa con người với con người.
Thuyết minh về chợ Bến Thành – Văn mẫu lớp 8
1,723
Thuyết minh về con cá chép – Bài làm 1 Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quí… Màu đặc trưng của cá chép là màu vàng đen, sẫm dần về phía vây lưng. Mấy năm gần đây xuất hiện loài cá chép có màu đỏ rất đẹp. Vảy cá chép tròn và to, xếp chồng lên nhau như ngói lợp. Thân cá chép hình thoi, thon dài. Đầu gồm hai mắt, hai đôi lỗ mũi, hai đôi râu, miệng nhỏ. Chỗ giáp với thân là hai nắp mang, bên trong có mấy lớp mang màu hồng. Khúc đuôi bắt đầu từ đuôi vây hông và tận cùng là vây đuôi. Cá chép có một đôi vây ngực, một đôi vây hông là các vây chẵn và vây đuôi, vây lưng, vây hậu môn là những vây lẻ. Mỗi vây gồm nhiều tia vây được nối liền với nhau bằng một nếp da mỏng, mở ra, thu vào dễ dàng. Khi cá uốn mình, hai thùy của vây đuôi uốn theo hình số tám, đẩy cá tiến lên phía trước. Vây đuôi còn có tác dụng điều chỉnh hướng bơi của cá. Ngoài nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá khi bơi đứng một chỗ, đôi vây ngực và đôi vây hông còn giúp cá bơi theo hướng lên trên hoặc xuống dưới, rẽ phải hoặc rẽ trái, giảm vận tốc bơi, dừng lại hoặc bơi giật lùi. Khi cá bơi nhanh, các đôi vây chẵn áp sát vào thân để giảm sức cản của nước. Cá chép thường sống trong suối, sông, hồ, đầm, ao, ruộng, …Chúng thích kiếm ăn ở tầng nước giữa và tầng đáy. Cá chép là loại ăn tạp. Chúng ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép còn ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép… Cá chép dễ nuôi, ít bệnh nhưng tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng các loài cá khác. Sau sáu tháng, cá chép có trọng lượng nửa kí trở lên. Thịt cá chép dai, ngọt và thơm, được nhiều người ưa thích. Cá chép nấu cháo, cá chép rán, hấp, nấu canh chua hoặc sốt với cà, nấm, lẩu cá chép…là những món ăn ngon và bổ. Người ốm, người phụ nữ mới sinh con thường được nấu cháo cá chép ăn để tẩm bổ, mau khỏe lại. Hiện nay, cá chép được nuôi ở nhiều nơi, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho người nông dân. Trong dân gian, cá chép là biểu tượng cho sự may mắn và nghị lực vươn lên của con người. Câu chuyện “Cá chép vượt vũ môn hóa rồng” làm mọi người xúc động và tranh Cá chép Đông Hồ thường được người Việt mua về treo trong nhà ngày Tết. Cá chép ở Việt Nam còn là một loài cá gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc. Cứ đến ngày 23 tháng Chạp cuối năm, vào dịp Tết ông Táo, nhà nhà lại thả cá chép ra sông, hồ để đưa ông Công, ông Táo lên Trời báo cáo tình hình gia đình trong năm vừa qua, cũng là cầu phúc, cầu lộc cho năm tới. Thuyết minh về con cá chép – Bài làm 2 Việt Nam ta có rất nhiều loại cá nào là cá chuối, cá rô, cá rô diếc, cá trôi… trong đó không thể quên kể đến cá chép. Loài cá này có rất nhiều dưỡng chất và là một thực phẩm ngon cho nhân dân nước ta. Một lần được thưởng thức cá chép thì chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên được mùi vị của nó. Vậy nó có những đặc điểm gì mà được nhân dân ta ưa chuộng đến như vậy. Trước hết là về chỗ ở và nguồn gốc của nó. Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quí…Chính vì là loại cá nước ngọt cho nên rất gần gũi với đời sống của nhân dân ta nên cũng rất được ưa chuộng để làm thực phẩm của nhân dân ta. Chúng ta có thể bắt gặp nó dễ dàng trên những mương sâu ở quê. Cá chép hoặc tự có hoặc do nhân dân nuôi trồng trong những ao đầm. Những con cá chép được nuôi trong đầm sẽ có kích thước cơ thể to hơn. Thứ hai là về đặc điểm màu sắc của nó thì nó có màu vàng đen, sau đó thì có màu sẫm dần về phía đuôi lưng. Cái màu ấy của nó thật sự rất đẹp, chỉ cần nhìn một lần là biết là nó. Ngày nay thì có thêm con cá chép màu vàng đỏ rất đẹp. Vảy của cá chép thì rất to đều nhau, nhỏ dần xuống phía đuôi xếp đều nhau như những mái ngói màu vàng đen vì trải qua mưa gió. Về thân hình cũng như những cánh vây của nó thì nó có một thân hình dài, không quá dài như cá chuối nhưng cũng đủ để được gọi là dài. Nó mang dáng hình thon thả. Cái đầu với những bộ phận giống như những con cá khác nhưng đặc biệt nó có đôi mắt to và sáng hơn. Cái miệng nho nhỏ và những mang trong có màu hồng nhạt rất đẹp, nó còn có hai cái râu ở miệng nữa. Cá chép có những vây như vây ngực, vây hông là những vây chẵn còn vây lưng, vây hậu môn thì là vây lẻ. Những chiếc vay nhỏ ấy như những cái xương được bao bọc bởi một lớp da mỏng khiến nó giống như cái mái chèo giúp cho cá có thể bơi được. Vận dung vay của cá mà con người chúng ta có thể chế tạo những dụng cụ bơi giống hình vay cá. Vây đuôi thì uốn theo vòng số tám để đẩy cá tiến lên phía trước. Có thể nói rằng nó có nhiệm vụ để làm cho cá định hướng bơi của cá. Tất cả các vây ấy có nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá. Đặc biệt nhiệm vụ quan trọng đó là giúp cá tiến lên hoặc lùi xuống rẽ trái hay rẽ phải. Cách thức kiếm thức ăn của cá chép là chúng sống ở những đáy hoặc giữa nước để kiếm thức ăn ở đó. Cá chép là một loại ăn tạp chính vì thế mà nó có thể ăn được rất nhiều thứ như : ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép còn ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép. Không những thế thì cá chép còn là một loại rất dễ nuôi vì ít bị bệnh. Cá chép có công dụng rất lớn đó là một thực phẩm cho con người. Đặc biệt là người phụ nữ có thai thì thường ăn cá chép cho bổ. Thịt cá chép dai, thơm ngon có thể rán ăn chấm nước mắm tỏi, hoặc là nấu canh sốt cà chua, nâu canh dưa cá… Không chỉ là một loại thực phẩm thơm ngon mà cá chép còn có cả những truyền thuyết nữa. Đó chính là truyền thuyết cá chép hóa rồng vượt thác biểu tượng cho sự vươn lên trong cuộc sống của con người. Đặc biệt trong ngày tết ông công ông táo thì cá chép gắn liền với phương tiện của các táo lên trầu trời. Chính vì thế mà ngày lễ ông công ông táo người dân Việt Nam thường mua cá về cúng tổ tiên sau đó thả chúng ra sông hồ. Như vậy ta có thể thấy được những đặc điểm nổi bật của con cá chép. Những truyền thuyết của nó và những dưỡng chất của nó mang lại. Chính vì thế chúng ta nên bảo vệ loại cá này trước những hóa chất độc hại để từ đó cung cấp nguồn thực phẩm tươi sạch thơm ngon từ những con cá chép Và kết thúc cho sự thương xót bản thân nàng Kiều nhà thơ Nguyễn Du kết thúc bằng hai câu thơ lắng đọng: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Cảnh kia như đeo sầu của nàng Kiều. Bởi khi con người buồn thì cái nhìn cảnh vật cũng rất buồn. Hai câu thơ ấy vừa kết thúc đoạn trích lại vừa mang đến cho ta những cảm xúc rất thật của nàng Kiều và của nhà thơ Nguyễn Du nữa. Đoạn trích thể hiện được nỗi niềm xót xa của người con gái hồng nhan bạc mệnh. Người con gái ấy tưởng rằng có một cuộc sống yên lành hạnh phúc thế mà lại bị xã hội phong kiến kia vùi dập giữa đường đời. Không những thế mà chúng ta còn thấy được sự đồng cảm thương xót của nhà thơ với người con gái ấy qua đoạn trích này.
Thuyết minh về con cá chép – Văn mẫu lớp 8
1,542
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về con gà – Bài làm 1 2 Thuyết minh về con gà – Dàn ý 1 3 Thuyết minh về con gà – Dàn ý 2 Thuyết minh về con gà – Bài làm 1 Bức tranh thôn quê Việt Nam là một bức tranh tràn ngập sắc màu rực rỡ nhưng cũng rất yên bình, ở đó chứa đựng mơ ước của người nông dân, có cây đa, giếng nước, mái đình, con trâu,… nhưng gần gũi với mỗi gia đình nhất có lẽ là đàn gà chạy rộn rã trước sân nhà. Đối với người nông dân Việt Nam thì gà nhà luôn là con vật gần gũi và thân thuộc nhất trong số rất nhiều các loài gà khác nhau. Gà là vật nuôi quan trọng nhất của con người để lấy thịt và trứng. Đặc điểm chung của gà là cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lông. Để thích nghi với cuộc sống bới đất tìm mồi, từ thuở xưa, gà đã được tạo hóa ban cho một đôi chân to móng cùn và cứng, phủ vẩy sừng mỏng màu vàng và còn một cái mỏ ngắn khỏe nữa. Không phải từ thuở ban đầu gà sinh ra đã là gã nhà mà tổ tiên của chúng là gà rừng đã trải qua thuần hóa liên chúng không có khả năng bay lượn. Đại đa số thời gian chúng dùng chân nâng đỡ cơ thể đi lại trên mặt đất. Vì vậy, cơ hồng của gà đa số tập trung ở chân, cơ ngực và các bộ phận khác lại là cơ trắng. Các em thiếu nhi vẫn có bài hát rất dễ thương về loài động vật này: Gà không biết gáy là mẹ gà con. Gà mà không gáy là vợ gà cha. Đi lang thang trong sân có con gà có con gà”. Chỉ mấy càu hát đơn giản như vậy thôi đã cho ta thấy một gia đình gà. Gà trống được coi là gà bố, đúng như một ông bố có dáng bệ vệ, chân có cựa sắc, bộ lông óng mượt rực rỡ, nổi bật bởi bông hoa đỏ rực trên đầu mà người ta vẫn gọi là mào gà. Gà trống có tiếng gáy âm vang, từ lâu đã được coi như là đồng hồ báo thức của người nông dân. Gà mái hay là gà mẹ, cũng giống với một người mẹ, hiền lành và có dáng vẻ chậm chạp hơn, bộ lông không săc sỡ .như gà trống. Nhưng bù lại, với “thiên chức” của một người mẹ, gà mái có khả năng ấp trứng và nở ra những chú gà con rất đáng yêu: Gà mái đẻ mỗi lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số gà mái sau khi đẻ trứng thường kêụ “cục tác”. Đó là biểu hiện sự hưng phấn cùa gà mái, hay có thê nói đó là niềm vui của gà mẹ, một “người mẹ” có tình mẫu tử mãnh liệt. Gà con vừa chui ra khỏi vỏ trứng giống như một nắm nhung có sự sống, bé nhỏ trong bộ lông vàng tơ óng mượt. Gà con mới nở có thể theo mẹ đi kiếm mồi ngay. Đốì với gà thì hạt thóc hạt mạch… có thể được coi là sơn hào hải vị của chúng. Nhưng cho dù được ăn những thứ đó hàng ngàv thì chúng vẫn thích mổ đông bới tây, đề tìm ăn những hạt sỏi, hạt cát. Thật ra vì không có răng nên gà cần dựa vào thứ khác để nghiền thức ăn và chúng đã lợi dụng sỏi để tiêu hóa thức ãn. Thịt gà và trứng gà là những thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho con người. Không những từ xưa mà đến bây giờ vẫn vậy và không chỉ đối với người nông dân mà đối với hết thảy mọi người dân Việt Nam, con gà đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá ẩm thực. Có thể nói, con gà đã đi vào tín ngưỡng, vào đời sống tâm linh văn hóa của người dân Việt Nam. Nó là một trong mười hai con giáp, vẫn được gọi bằng cái tên thân mật là “Dậu”. Con “Dậu” là tượng trưng cho một tuổi đời. Ai đã từng đến Việt Nam, từng tìm hiểu và yêu nền văn hóa dân tộc Việt thì chắc hẳn không thể nào quên được những bức tranh Đông Hồ đậm đà bản sắc Việt với hình ảnh phong phú về thể loại, màu sắc cách điệu nhưng cũng giản dị vô cùng, nổi bật với những bức tranh như: “Vinh hoa”, “Gà trống hoa hồng”, “Gà dạ xương”… Dưới con mắt của người Việt Nam, con gà đáng trân trọng và thân thương như vậy đó. Từ lâu đã thành lệ, con gà là thứ không thể thiếu trong bất kì lễ tết truyền thống hay ngày cúng giỗ nào của người Việt Nam. Đêm giao thừa, vào giờ khắc chuyển giao, nhà nhà lại cùng nhau bày một mâm cỗ đặt trước cửa nhà để cầu mong tốt lành, hạnh phúc cho năm mới. Lẽ dĩ nhiên, mâm cỗ không thể thiếu con gà. Con gà luộc được đặt trong một,cái đĩa lớn đặt giữa mâm, miệng ngậm một bông hồng. Đó là tượng trưng cho sự an lành, may mắn mà nhà nhà đều mong đợi. Tự nhiên như thế, con gà trống như linh vật của người dân Việt Nam, tượng trưng cho sự may mắn yên bình, hạnh phúc, luôn luôn rất linh thiêng đối với nhân dân.Con gà còn đi vào văn học, vào ca dao, tục ngữ của dân tộc. Có câu chỉ nói đến kinh nghiệm trong văn hóa ẩm thực như: “Con gà cục tác lá chanh” nhưng có câu còn để răn dạy con người như: Khôn ngoan đối đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau Gần đây, dịch cúm gà hoành hành đã làm cho bữa cơm Việt Nam thưa vắng món thịt gà. Người ta cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó, nhất là mỗi độ Tết đến. Con gà là biểu tượng sự sống, của hi vọng, an lành đối với người dân Việt Nam. Mong rằng nạn dịch cúm sẽ nhanh chóng được đẩy lùi để con gà lại được hồi sinh, lại trở về bên người nông dân, trở về với bữa-cơm thường ngày và luôn gần gũi gắn bó với người dân Việt. Thuyết minh về con gà – Dàn ý 1 Mở bài: Gà là loài vật quen thuộc trong đời sống con người. có thể nói gà là loài vật nuôi được con người thuần hóa đầu tiên trong lịch sử. Trong thế giới loài gia cầm, gà là loài vật có số lượng áp đảo nhất với 24 tỉ cá thể (thống kê đến năm 2003). Gà mang lại cho con người nhiều lợi ích thiết thực. Nhiều quốc gia xem gà như một linh vật, biểu thị cho sức mạnh, sự may mắn và đời sống thịnh vượng. Thân Bài: * Nguồn gốc: Gà hay gà nhà, kê (Gallus gallus domesticus) là một loài chim đã được con người thuần hoá cách đây hàng nghìn năm. Gà được thuần hóa ở nhiều nơi trên thế giới. Một số ý kiến cho rằng loài này có thuỷ tổ từ loài chim hoang dã ở Ấn Độ và loài gà rừng lông đỏ nhiệt đới ở vùng Đông Nam Á. Rất có thể các thợ săn đã đem trứng của gà từ trong rừng về. Trứng nở thành con và được nuôi trong vườn. Với điều kiện nuôi nhốt, thức ăn có sẵn, chỗ ngủ an toàn, từ giống gà rừng dần biến đổi như các giống gà hiện có như ngày nay. Tại Ấn Độ, người ta tìm thấy giống gà Ali được xem là giống gà cổ xưa nhất hiện nay. * Đặc điểm hình dáng và sinh thái của loài gà: Gà là động vật có xương sống bậc cao đã thích ứng với điều kiện sống bay nhảy. Về cơ bản, bên ngoài của gà gồm: mào, tích, tai, mỏ, lông cổ cườm, ngực, cánh, lông đuôi, lưng, đùi, bàn chân và các ngón chân. Toàn thân được bao phủ bằng lông và yếm. Gà trống trưởng thành có thân hình to, chân cao, mào, tích, cổ lông đuôi đều to hơn gà mái. cân nặng từ 2,5 đến 3,5 kg. Gà trống thường trông khác biệt với gà mái bởi bộ lông sặc sỡ, chiếc đuôi dài và bóng, lông nhọn trên cổ và lưng thường sáng và đậm màu hơn. Gà trống có tiếng gáy trong trẻo vang xa. Bộ lông gà trống thường sặc sỡ. Đây cũng là đặc điểm nổi bậc của các giống gia cầm. Gà mái có thân hình thon, nhỏ, nhiều lông tơ, cân nặng từ 2.0 đến 3,0 kg. Gà mái có tập tính để trứng, ấp trứng và nuôi con. Gà con khi mới nở nặng khoảng 0.2kg, thường có bộ lông tơ bao vàng hoặc nâu đen bao phủ khắp thân. Khi mới nở gà con đã có thể mổ ăn được. Gà con thường sống với mẹ hơn 30 ngày là có thể tự lập. Thường thì gà con sẽ tự lập sớm hơn khi gà mẹ tiếp tục để trứng. Lông của gà có cấu tạo khác nhau và được chia thành hai loại: lông ống và lông tơ. Lông ống tập trung ở cánh và đuôi. Lông ống to, dài, cứng là loại lông giúp gà lấy thăng bằng khi di chuyển, hoặc bay lượn hoặc làm cho gà thêm phần đĩnh đặc. Lông tơ thường phân bố ở vùng ngực, nằm sát dưới da, dưới lớp lông cánh chính và đuôi, có chức năng giữ ấm cho thân thể. Gà mái có vai trò đẻ và ấp trứng nên có nhiều lông tơ hơn để giữ ấm trứng khi sinh sản. Ở gia cầm màu sắc lông rất đa dạng. Lông cườm và lông trên lưng có sự khác biệt giữa con trống và mái. Ở con trống lông cườm và lông lưng dài, mềm mại hơn ở con mái. Thường thì con mái có bộ lông dày, ít có các lông dài, màu sắc đơn điệu chứ không sặc sỡ như con trống. Bộ lông của gia cầm có tác dụng ngăn cản những tác động bất lợi của môi trường đối với cơ thể, giúp cơ thể duy trì thân nhiệt và là cơ quan cảm giác nhờ tận cùng của các thần kinh ngoại biên. Chân của gà được bao phủ bằng lớp vảy sừng và có sự khác nhau về màu sắc. Bàn chân có 4 ngón, ba ngón trước và 1 ngón sau giúp gà di chuyển linh hoạt và bới rác tìm thức ăn. Ở gà trống chân có cựa sừng cứng cáp, có tác dụng lớn trong các cuộc giao tranh giành lãnh thổ hoặc bạn tình. Phần đầu của gà trống thường mào đỏ vươn cao. Chiếc mào mỏng dẹp, viền hình răng cưa dựng đứng. Một vài gà trống có chiếc mào to, bè thấp. Tích kéo dài xuống phía dưới có vai trò tản nhiệt cho toàn bộ thân thể. Gà mái thường không có mào, tích cũng nhỏ hơn gà trống. Cánh gà có lông ống nhưng gà không bay được hoặc chỉ bay được một đoạn ngắn. Những chiếc lông ống dài tập trung ở phần đuôi vừa giúp gà di chuyển thăng bằng vừa làm đẹp cho hình thể của gà, đặc biệt là gà trống. * Đặc điểm sinh trưởng, phát triển và tập tính của loài gà: Lúc mới chào đời, gà con có thể chạy nhảy ngay chứ không yếu ớt như loài chim. Chúng theo mẹ kiếm thức ăn và sớm tự lập khi tròn 1 tháng tuổi. Gà là loài ăn tạp. Trong tự nhiên, chúng thường bới đất tìm hạt cây, côn trùng, thằn lằn hoặc chuột nhắt con. Tuổi thọ của gà có thể từ năm đến mười năm tùy theo giống. Con gà mái già nhất thế giới sống được 16 năm và được ghi vào Sách Kỷ lục Guinness. Tuy thuộc lớp lông vũ nhưng gà nhà không có khả năng bay xa. Chúng thường sống thành bầy đàn. Thường thì mỗi đàn gà là tập hợp của các cá thể có cùng huyết thống. Chúng biết tương trợ, chia sẻ nguồn thức ăn và thiết lập trật tự trong đàn. Một con gà trống thường sống cùng với nhiều gà mái. Gà trống thường gáy to vào buổi sáng. Tiếng gáy của gà trống là tín hiệu thông báo cho các gà trống khác về lãnh thổ. Tuy nhiên, gà có thể gáy khi bất ngờ bị phá rối. Gà mái cục tác ầm ĩ sau khi đẻ trứng và khi gọi gà con. Gà cũng có “tiếng kêu cảnh báo” âm lượng thấp khi chúng cho rằng có sự xuất hiện của loài ăn thịt. Gà mái có tập tính đẻ trứng và nuôi con non. Mỗi lứa. gà mái thưởng để từ 10 đến 20 trứng. Nếu chăm sóc tốt, một con gà mái trong trọn cuộc đời của nó có thể đẻ đến 350 trứng. Nếu được giao phối, sau 21 ngày là trứng nở thành gà con. Gà thường thích ngủ ở nơi cao ráo và thông thoáng. Mùa đông, cần phải che kín chuồng gà để tránh các luồng gió lạnh. Ở gà thường có một vài loại bệnh phổ biến như: toi gà, cúm, cầu trùng, huyết trùng, thương hàn, đậu gà,…. Để gà khỏe mạnh cần làm tốt khâu vệ sinh, phòng bệnh, phát hiện và chữa trị kịp thời. * Vai trò và lợi ích của gà trong đời sống con người: Gà là một động vật có ích, đem lại nhiều lợi ích về kinh tế cho con người. Trứng gà là nguồn thực phẩm lớn trong đời sống con người. Từ trứng gà có thể chế biến nhiều món ăn ngon như món trứng gà luộc, trứng gà chiên, trứng gà ốp la,… Thịt gà là món ăn ngon. Có nhiều món được chế biến từ gà như gà luộc chấm muối tiêu, gà xé trộn rau răm, gà hấp, gà chiên, gà quay,… Thịt gà là thực phẩm tiêu thụ chính ở các nước trên thế giới. Theo tính toán, mỗi năm một người ăn khoảng 13kg thịt gà. Riêng ở Mỹ là 34kg, cao vượt bậc so với thế giới. Thịt gà dễ ăn, giàu chất dinh dưỡng, chế biến phong phú thường là lựa chọn của các bà nội trợ cho bữa ăn hằng ngày. Thịt gà còn là phẩm vật để thờ cúng dâng lên tổ tiên hoặc các bữa tiệc tùng. Lông gà qua xử lí hoá học có thể trở thành một loại bột giặt hữu hiệu. Ngoài ra còn dùng làm cây cọ để viết, vẽ; làm chổi, làm quạt, làm áo lông gà, làm cầu cho môn thể thao đá cầu,…Ngay cả chất thải của gà cũng có thể dùng làm phân bón cho cây cối. Loại phân này rất thích hợp cho cây ớt và cây thuốc lá. Trong một vài nơi người ta nuôi gà để bắt sâu bọ, nuôi gà làm cảnh. Nhiều loài gà có giá trị kinh tế cao. Không những thế, ở một vài nước, hình ảnh con gà còn đi vào đời sống tâm linh và nghệ thuật. Đối với các nước Á Đông, gà đại điện cho dương khí. kêu gọi mặt trời. Ở Pháp, chú gà tróng Go-loa từ lâu đã được tôn vinh như một biểu tượng của sức mạnh, dũng khí và lòng quả cảm. Kết bài: Gà là một giống vật nuôi hữu ích, đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Thịt gà, trứng gà chiếm một tỉ lệ lớn trong cơ cấu thực phẩm của con người. Không những thế gà thường sống gần gũi như người bạn trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống con người Việt Nam ta. Với hình dáng nhỏ nhắn, cân đối, bước đi oai vệ, màu sắc sặc sỡ, tiếng gáy dõng dạt, lãnh lót, con gà trống trở thành biểu tượng của niềm tin, sức mạnh trấn áp cái xấu của con người trên khắp thế giới. Thuyết minh về con gà – Dàn ý 2 Mở bài: Có một loài vật nuôi gắn bó với đời sống của người Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho con người, không chỉ về vật chất mà cả về mặt tinh thần. Đó là loài gà. (Có thể từ những câu thơ của Xuân Quỳnh trong bài "Tiếng gà trưa" để dẫn đến việc giới thiệu loài gà) Thân bài: – Gà có nguồn gốc từ gà rừng, được con người đem về nuôi nên có tên là gà nhà. – Khác với gà rừng, do được chăm sóc, nên gà nhà có thói quen trở về chuồng mỗi khi trời tối. – Gà thuộc họ chim, nhóm lông vũ. Có nhiều loại gà như gà gô, gà ri, gà tam hoàng, gà ta,… – Xét về giới tính, có gà mái và gà trống: + Gà trống có thân hình vạm vỡ, trên đầu có mào đỏ chót, bộ lông rực rỡ, lông đuôi dài, chân có cựa – lực lưỡng và oai vệ. + Gà mái yểu điệu, đoan trang, lông mượt mà, lông đuôi ngắn, mắt tròn xoe, trên đầu không có mào, chân không cựa. + Thức ăn của gà là thóc, các loài côn trùng, giun đất, chuối cây thái nhỏ băm nhuyễn trộn cám, các loại bột dạng viên, … – Gà mái đẻ trứng, mỗi lứa có thể đẻ từ 15 đến hơn 20 quả. Trứng được ấp trong khoảng 3 tuần thì nở ra những chú gà con xinh xắn. Những chú gà con này vừa mở mắt có thể tự kiếm ăn, nhưng đối với gà nhà, chúng thường được mẹ dẫn đi kiếm mồi. Mỗi khi gà mẹ tìm được mồi liền cục cục,…gọi đàn con đến ăn. Những lúc gà mẹ dẫn con đi ăn, nếu có loài vật nào dám đụng đến đàn gà con thì lập tức bị gà mẹ chống trả quyết liệt. – Vai trò của gà trong đời sống con người: gà là một động vật có ích, đem lại nhiều lợi ích về kinh tế cho con người. + Trứng gà là nguồn thực phẩm lớn trong đời sống con người. Từ trứng gà có thể chế biến nhiều món ăn ngon như món trứng gà luộc, trứng gà chiên, trứng gà ốp la,…Trứng gà đánh với bột mì có thể làm bánh thuẩn, bánh ga tô, bánh kem,…Trứng gà còn là một dược phẩm dùng để dưỡng da. Ông bà ta thường luộc trứng để cạo gió mỗi khi bị cảm sốt. + Thịt gà là món ăn ngon. Có nhiều món được chế biến từ gà như gà luộc chấm muối tiêu, gà xé trộn rau răm, gà hấp, gà chiên, gà quay,… + Lông gà qua xử lí hoá học có thể trở thành một loại bột giặt hữu hiệu. Ngoài ra còn dùng làm cây cọ để viết, vẽ; làm chổi, làm quạt, làm áo lông gà, làm cầu cho môn thể thao đá cầu,… + Ngay cả chất thải của gà cũng có thể dùng làm phân bón cho cây cối. Loại phân này rất thích hợp cho cây ớt và cây thuốc lá. – Không chỉ có lợi ích về vật chất, mà còn có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. + Tiếng gà gáy là chiếc đồng hồ báo thức cho người dân quê. Tiếng gà gáy mỗi sớm, mỗi chiều trở nên quen thuộc gợi cuộc sống thanh bình, yên ả. Vì thế mà nó đi vào thơ văn một cách tự nhiên. Ngay từ thời xa xưa, trong truyện cổ tích "Sọ Dừa", tiếng gà gáy xuất hiện đã đem lại sự đoàn tụ cho Sọ Dừa và cô Út. Và "Tiếng gà trưa " của Xuân Quỳnh là một bài thơ rất hay về âm thanh "tiếng gà":"Trên đường hành quân xa- Dừng chân bên xóm nhỏ – Tiếng gà ai nhảy ổ – Cục cục tác cục ta – Nghe xao động nắng trưa – Nghe bàn chân đỡ mỏi" + Trên mâm cỗ cúng ông bà tổ tiên, đất đai, thần thánh thường có gà luộc nguyên con, để tỏ lòng trân trọng biết ơn ông bà, tổ tiên. + Gà còn xuất hiện trong các lễ hội truyền thống với trò chơi chọi gà độc đáo. Ở nước Pháp chú gà trống Gô-la tượng trưng cho sự phồn thịnh của nước nhà. – Hình ảnh gà mẹ dẫn đàn gà con đi kiếm mồi điểm thêm cho bức tranh làng cảnh Việt Nam. – Tuy nhiên hiện nay do bị ảnh hưởng của môi trường sống, nhiều loại dịch bệnh xuất hiện trong những năm gần đây, nhất là bệnh dịch cúm gia cầm H5N1. Vì thế mà con người cần chăm sóc cẩn thận để nguồn bệnh đỡ lây lan, không nên ăn gà bệnh. Cần phải có mạng lưới kiểm duyệt chặt chẽ nguồn thực phẩm này. Kết bài: – Khẳng định vị trí của loài gà. – Tình cảm của em với loài vật nuôi này.
Thuyết minh về con gà – Văn mẫu lớp 8
3,552
Bài làm 1 Bức tranh thôn quê Việt Nam là một bức tranh tràn ngập sắc màu rực rỡ nhưng cũng rất yên bình, ở đó chứa đựng mơ ước của người nông dân, có cây đa, giếng nước, mái đình, con trâu,… nhưng gần gũi với mỗi gia đình nhất có lẽ là đàn gà chạy rộn rã trước sân nhà. Đối với người nông dân Việt Nam thì gà nhà luôn là con vật gần gũi và thân thuộc nhất trong số rất nhiều các loài gà khác nhau. Gà là vật nuôi quan trọng nhất của con người để lấy thịt và trứng. Đặc điểm chung của gà là cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lông. Để thích nghi với cuộc sống bới đất tìm mồi, từ thuở xưa, gà đã được tạo hóa ban cho một đôi chân to móng cùn và cứng, phủ vẩy sừng mỏng màu vàng và còn một cái mỏ ngắn khỏe nữa. Không phải từ thuở ban đầu gà sinh ra đã là gã nhà mà tổ tiên của chúng là gà rừng đã trải qua thuần hóa liên chúng không có khả năng bay lượn. Đại đa số thời gian chúng dùng chân nâng đỡ cơ thể đi lại trên mặt đất. Vì vậy, cơ hồng của gà đa số tập trung ở chân, cơ ngực và các bộ phận khác lại là cơ trắng. Các em thiếu nhi vẫn có bài hát rất dễ thương về loài động vật này: Gà không biết gáy là mẹ gà con. Gà mà không gáy là vợ gà cha. Đi lang thang trong sân có con gà có con gà”. Chỉ mấy càu hát đơn giản như vậy thôi đã cho ta thấy một gia đình gà. Gà trống được coi là gà bố, đúng như một ông bố có dáng bệ vệ, chân có cựa sắc, bộ lông óng mượt rực rỡ, nổi bật bởi bông hoa đỏ rực trên đầu mà người ta vẫn gọi là mào gà. Gà trống có tiếng gáy âm vang, từ lâu đã được coi như là đồng hồ báo thức của người nông dân. Gà mái hay là gà mẹ, cũng giống với một người mẹ, hiền lành và có dáng vẻ chậm chạp hơn, bộ lông không săc sỡ .như gà trống. Nhưng bù lại, với “thiên chức” của một người mẹ, gà mái có khả năng ấp trứng và nở ra những chú gà con rất đáng yêu: Gà mái đẻ mỗi lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số gà mái sau khi đẻ trứng thường kêụ “cục tác”. Đó là biểu hiện sự hưng phấn cùa gà mái, hay có thê nói đó là niềm vui của gà mẹ, một “người mẹ” có tình mẫu tử mãnh liệt. Gà con vừa chui ra khỏi vỏ trứng giống như một nắm nhung có sự sống, bé nhỏ trong bộ lông vàng tơ óng mượt. Gà con mới nở có thể theo mẹ đi kiếm mồi ngay. Đốì với gà thì hạt thóc hạt mạch… có thể được coi là sơn hào hải vị của chúng. Nhưng cho dù được ăn những thứ đó hàng ngàv thì chúng vẫn thích mổ đông bới tây, đề tìm ăn những hạt sỏi, hạt cát. Thật ra vì không có răng nên gà cần dựa vào thứ khác để nghiền thức ăn và chúng đã lợi dụng sỏi để tiêu hóa thức ãn. Thịt gà và trứng gà là những thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho con người. Không những từ xưa mà đến bây giờ vẫn vậy và không chỉ đối với người nông dân mà đối với hết thảy mọi người dân Việt Nam, con gà đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá ẩm thực. Có thể nói, con gà đã đi vào tín ngưỡng, vào đời sống tâm linh văn hóa của người dân Việt Nam. Nó là một trong mười hai con giáp, vẫn được gọi bằng cái tên thân mật là “Dậu”. Con “Dậu” là tượng trưng cho một tuổi đời. Ai đã từng đến Việt Nam, từng tìm hiểu và yêu nền văn hóa dân tộc Việt thì chắc hẳn không thể nào quên được những bức tranh Đông Hồ đậm đà bản sắc Việt với hình ảnh phong phú về thể loại, màu sắc cách điệu nhưng cũng giản dị vô cùng, nổi bật với những bức tranh như: “Vinh hoa”, “Gà trống hoa hồng”, “Gà dạ xương”… Dưới con mắt của người Việt Nam, con gà đáng trân trọng và thân thương như vậy đó. Từ lâu đã thành lệ, con gà là thứ không thể thiếu trong bất kì lễ tết truyền thống hay ngày cúng giỗ nào của người Việt Nam. Đêm giao thừa, vào giờ khắc chuyển giao, nhà nhà lại cùng nhau bày một mâm cỗ đặt trước cửa nhà để cầu mong tốt lành, hạnh phúc cho năm mới. Lẽ dĩ nhiên, mâm cỗ không thể thiếu con gà. Con gà luộc được đặt trong một,cái đĩa lớn đặt giữa mâm, miệng ngậm một bông hồng. Đó là tượng trưng cho sự an lành, may mắn mà nhà nhà đều mong đợi. Tự nhiên như thế, con gà trống như linh vật của người dân Việt Nam, tượng trưng cho sự may mắn yên bình, hạnh phúc, luôn luôn rất linh thiêng đối với nhân dân.Con gà còn đi vào văn học, vào ca dao, tục ngữ của dân tộc. Có câu chỉ nói đến kinh nghiệm trong văn hóa ẩm thực như: “Con gà cục tác lá chanh” nhưng có câu còn để răn dạy con người như: Khôn ngoan đối đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau Gần đây, dịch cúm gà hoành hành đã làm cho bữa cơm Việt Nam thưa vắng món thịt gà. Người ta cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó, nhất là mỗi độ Tết đến. Con gà là biểu tượng sự sống, của hi vọng, an lành đối với người dân Việt Nam. Mong rằng nạn dịch cúm sẽ nhanh chóng được đẩy lùi để con gà lại được hồi sinh, lại trở về bên người nông dân, trở về với bữa-cơm thường ngày và luôn gần gũi gắn bó với người dân Việt. Bài làm 2 Nuôi gà trống không những chi để duy trì nòi giống, lấy thịt để cải thiện bữa ăn, tăng kinh tế gia đình mà nuôi gà trống còn để biết giờ giấc theo kinh nghiệm dân gian. Có thể xem gà trống là chiếc đồng hồ báo thức rất đúng giờ. Tiếng gáy của gà trống thật lảnh lót, trong trẻo. Có lúc, tiếng gáy ấy ròn rã, rành rọt, như một điệu đàn sôi động trong buổi mai hồng. Tiếng đàn ấy tựa hồ muốn các bạn gần xa đâu đó lắng nghe, muốn con người dậy sớm để chuẩn bị cho một ngày mới, muốn mọi vật bừng tỉnh dậy sau một giấc ngủ say nồng. Gà trống đến tuổi trưởng thành thì rất đẹp mã, oai vệ, nó giống như một ông vua trong triều đại nhà gà. Mào gà trống đỏ chót, thường lắc lư như cánh hoa đỏ đang rập rờn trong gió nhẹ. Mỏ gà nhọn, khoằm, mắt long lanh như hai hột cườm. Lông gà nhiều màu óng ánh. Khi gáy, gà vỗ cánh phành phạch rồi dồn hơi đầy ngực, ngửa mặt lên cao và gập thân mình rồi gáy vang, Lúc ấy, trông gà trống như người nghệ sĩ đang thổi kèn đồng. Tiếng gáy của gà trống để lại trong lòng người một cái gì sâu lắng, nó tựa như nhịp đập của thời gian và cũng giống như lời thúc giục con người nhanh chóng bắt tay vào nhiệm vụ đang chờ ở phía trước. Đứng quan sát gà trống ăn mồi hay ăn thóc thì mới thấy được bản chất hóm hỉnh và đáng yêu của nó. Thỉnh thoảng, gà bới được con giun thì tục… tục… như mời bọn gà mái đến xơi. Nghe tiếng gọi mời, các chị gà mái kéo đến thì gà trống lại nuốt chửng những con mồi rồi vờ cào cào, bới bới trong lòng đất, nhưng có lúc gà trống cũng nhường mồi để các chị gà mái ăn no, đẻ trứng thật nhiều. Gà trống rất siêng năng làm việc, siêng năng cùng đồng bọn kiếm mồi, bới tìm những con giun ẩn nấp dưới đất hay những con sâu trốn dưới luống rau xanh. Tuy bận rộn như thế nhưng gà trống không quên nhiệm vụ báo giờ giấc của mình. Gà trống là một vật nuôi có ích nên nó được bà con nông dân nuôi nhiều. Nhờ có gà trống mà con người nghe được âm thanh của bình minh trên quê hương, thấy được cảnh vật lúc bắt đầu một ngày mới ở làng quê, thôn xóm. Gà trống gợi nhắc con người không để thời gian trôi đi vô vị. Đặc biệt, gà trống góp phần cải thiện bữa ăn, nâng cao kinh tế gia đình. Thịt gà ngon và bổ, nó là một món ăn ngon được mọi người ưa thích. Đó là chưa kể gà trống là lễ vật để cúng thần, thiếu gà trống thì không đủ lễ. Ông bà xưa thường nói gà trống có đủ phẩm chất nhân, dũng, trí, tín, văn, võ. Đầu gà trống có mào là dáng quan văn, chân có cựa là thân tướng võ, có miếng ăn thì tục… tục… gọi bầy như thế là nhân, gáy sáng đúng giờ thì gà có tín, thấy kẻ địch xông tới đánh như thế là dũng. Bởi thế, gà trống là một loài vật quí. Thậm chí, lông gà cũng được tận dụng để làm chổi và làm những vật dụng khác. Gà trống đã trở thành một loài vật nuôi mang lại lợi ích kinh tế ở quê em. Nhà nào cũng có gà, có nhà nuôi đến ba bốn chục con. Tiếng gà gáy sớm hay tiếng gà cục tác… cục ta… đã làm cho con người thêm yêu mến quê hương, yêu vườn nhà tha thiết. Và đặc biệt, yêu những con vật nuôi đã gắn bó với mình.
Thuyết minh về con gà
1,713
Thuyết minh về con heo – Văn mẫu lớp 8 1) Mở bài: Lợn là loài vật nuôi có ích, cho nhiều thịt và có khả năng sinh sản cao. 2) Thân bài: a. Nguồn gốc – Phân loại: Lợn là thú thuộc bộ Guốc chẵn nhưng không nhai lại, còn được gọi là heo. Lợn nhà bắt nguồn từ lợn rừng, phân bố trên khắp thế giới, được con người thuần hóa từ 4000 – 5000 năm trước Công nguyên. b. Đặc điểm: Lợn mắt kém, tai thính, mũi tinh, mõm hơi dài. Lông lợn thưa và khô. Lợn ăn tạp và mắn đẻ. Lợn đẻ trung bình hai lứa một năm, mỗi lứa từ 8 đến 12 con. Lợn nuôi chủ yếu để lấy thịt. Lợn Ỉ: được nuôi phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Toàn thân lợn có màu đen, chân ngắn, mõm nhọn, bụng sệ, lưng võng. Một lứa lợn đẻ rất nhiều con và rất khỏe nuôi con. Thịt của loài lợn này mềm, trắng, thơm ngon. Lợn Mường Khương: được nuôi phổ biến ở miền núi Trung du Bắc Bộ. Thân cao to, lưng phẳng, phàm ăn, chịu rét giỏi. Nhược điểm của giống lợn này là phẩm chất thịt kém, đẻ con ít và nuôi con vụng. Lợn Ba Xuyên (heo bông): màu lông lang trắng đen, thân ngắn, tai nhỏ, được nuôi nhiều ở miền Tây và miền Trung Nam Bộ. Lợn Thuộc Nhiêu: màu lông trắng tuyền hoặc có đốm đen, tai nhỏ, chân thấp, được nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long. Lợn Yoóc Sai: có nguồn gốc từ nước Anh. Đặc điểm nổi bật là thân hình cao to, thích nghi tốt. Loài lợn này rất mắn đẻ, nuôi 6 tháng tuổi có thể đạt từ 80 đến 100 kg. Phân heo dùng làm phân bón rất tốt. 3) Kết bài: Lợn là nguồn cung thực phẩm rất quan trọng và chủ yếu của chúng ta. Lợn được thuần hóa từ lâu đời và là gia súc phù hợp với yêu cầu chăn nuôi của con người.
Thuyết minh về con heo – Văn mẫu lớp 8
335
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về con mèo – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Thuyết minh về con mèo – Bài làm 2 3 Thuyết minh về con mèo – Bài làm 3 4 Thuyết minh về con mèo – Bài làm 4 Thuyết minh về con mèo – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Từng ngày trôi, cuộc sống sẽ buồn tẻ biết bao nếu bên cạnh chúng ta không có những người bạn nhỏ. Em rất thích mèo và luôn tìm hiểu về chúng. Mèo là vật nuôi quen thuộc trong các gia đình từ xưa đến nay. Mèo là động vật thuộc lớp thú, có bốn chân. Trên mình phủ một bộ lông dày, mượt mà. Mèo nhà có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo được nuôi đầu tiên ở châu Phi, sau được nuôi ở các nước châu Âu và các nước nước khác. Thời đại phát triển ngày nay thì người ta đã lai tạo nhiều giống mèo mới như: mèo tam thể. mèo lông xù, mèo mướp, mèo mun, … Trên mặt mèo có bộ ria mép, đó chính là trợ thủ đắc lực của mèo. Những lúc đuổi chuột, chuột chạy vào hang, mèo muốn đuổi theo thì ria mép không được chạm vào cửa hang, còn nếu ria mép chạm vào thì mèo không thể đuổi theo được, vì chiều dài của ria đúng bằng chiều rộng thân. Đặt biệt tai mèo rất thính và mắt mèo rất tinh. Tai mèo có thể nghe mọi cử động của chuột, dù là nhỏ nhất. Mắt mèo có cấu tạo đặc biệt, có thể co giãn, ban ngày mắt mèo co lại, bạn đêm mắt mèo giãn ra, có thể nhìn được trong bóng tối. Điều đó giải thích vì sao mèo hay bắt chuột vào ban đêm. Mèo sợ lạnh, chúng thích ngủ ở những nơi ấm áp, thích cuộn tròn người và vuốt ve bộ lông. Vào mùa đông, mèo hay ngủ cạnh bếp lò, chui vào trong chăn ấm. Vào những ngày nắng, mèo hay nhảy lên mái bếp hoặc nằm ngoài sân để sưởi nắng. Lông mèo rất đặc biệt, khi được hiếu sáng sẽ tổng hợp thành vitamin D, mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông, chúng ta hay nhầm tưởng mèo tự làm sạch cho mình. Dưới chân mèo có một đệm thịt dày, dù nhảy trên cao xuống cũng không phát ra tiếng động. thức ăn chính của mèo là chuột, ngoài ra mèo còn ăn thêm cơm, cá và rau. Chân mèo có móng vuốt đàn hồi, bình thường móng cụp lại, khi tự vệ hay vồ mồi thì móng duỗi ra. Mèo đẻ con và nuôi con bằng sữa. Mèo đẻ mỗi lứa từ 2 – 6 con. Mèo con một tháng tuổi được mẹ dạy cách bắt chuột, vồ mồi. Mèo giúp diệt trừ các động vật có hại, mèo còn biết bắt gián. Hiện nay, số lượng mèo ngày càng ít vì có chi chít những quán Tiểu Hổ mọc lên. Vậy nên chúng ta phải bảo vệ mèo. Những chú mèo đáng yêu giúp cho con người rất nhiều việc. Từ việc bắt chuột trừ hại cho mùa màng, đến việc bắt gián cho tủ quần áo chũng ta thơm tho. Em rất yêu quý mèo và luôn bảo vệ chúng. Thuyết minh về con mèo – Bài làm 2 Trên đất nước Việt Nam, mỗi loài vật đều có những mặt lợi ích hoặc có hại riêng biệt đối với con người. Song, hiện nay, một số loài đã trở thành vật nuôi phổ biến trong mỗi gia đình như con chó để trông nhà, trâu, bò kéo cày và cho thịt, cho sữa… Loài mèo cũng là loài vật rất gần gũi, gắn bó với con người. Mỗi một loài mèo đều có đặc điểm riêng biệt nhưng nhìn chung loài nào đều dùng để bắt chuột. Tuỳ theo đặc điểm, hình dạng, tính nết của mèo mà còn mỗi con mèo có cái tên hay do người chủ của mình đặt như ” Mi Mi” “Bi Mi” “Sâu” thể hiện sự cưng chiều của người nuôi đối với con mèo. Loài mèo nào cũng vậy, cũng có bộ lông mượt như nhung. Đặc điểm, hình dáng, ngoại hình có những nét thích nghi với hoạt động bắt chuột. Đầu tròn, to chúm chím, cặp mắt to tròn trong suốt, lóng lánh như hai viên ngọc bích, có thể nhìn trong đêm tối và con người thay đổi hình dạng tuỳ theo ánh sáng. Cái mũi nhỏ ươn ướt làm nổi bật hai bên mép vài cọng ria trắng như hai chùm kim bạc bé nhỏ, nhọn hoắt. Hai tai mèo rất thích lúc nào cũng vểnh lên nghe ngóng. Cuối đuôi thon dài như cái măng ngọc, lúc nào cũng đập qua đập lại, tự đưa hai chân trước ôm lấy bắt hờ. Bốn chân thuôn nhỏ bàn chân dấu kín những chiếc vuốt nhọn sắc để cào, táp và vồ mồi. Mèo có những chiếc răng sắc và nhọn là thứ vũ khí lợi hại để bắt mồi và nhai thịt sống, mỗi bước đi đều rất nhẹ nhàng, khoan thai. Tuỳ theo màu sắc của bộ lông, đặc điểm ngoại hình mà người ta chia ra làm nhiều giống mèo như mèo tam thể, mèo hung, mèo mướp…. Nếu như mào tam thể có bộ lông ba màu, trắng lẫn vàng óng, lấm tấm đen kết hợp một cách hài hoà tuyệt đẹp, một vẻ đẹp quý phái kiêu sa thì mèo hung có màu lông sắc vằn đo đỏ. Mèo mướp có bộ lông hai màu: màu trắng kết hợp với màu đen. L0ại mèo nuôi rất dễ đơn giản không khó nuôi như bao loài động vật khác. Mèo ăn ít, nhỏ nhẹ, thức ăn của mèo là thức ăn tạp có thể là tôm, tép, thịt, bim bim… nhưng món mèo thích nhất là cá, chỉ vài thìa cơm và miếng cá nhỏ là mèo no say. Tuy nhiên, loài mèo cũng rất dễ nhiễm dịch bệnh của gia súc như bị kiết, nôn… Để con vật của mình luôn khoẻ mạnh, con người phải cho mèo uống thuốc có thể trộn thuốc với cơm của mèo phòng chống những dịch bệnh lây lan có thể làm chết vật nuôi nhà bạn. Vào mùa đông thường xuyên sưởi ấm cho mèo để tránh rét, có thể mặc cho mèo chiếc áo ấm và mùa hè tắm cho mèo. Không chỉ mang giá trị kinh tế cho gia đình mà mèo còn mang giá trị tinh thần trong mỗi thành viên, thịt mèo ngon và thơm nên thịt mèo rất đắt, mang lại lợi nhuận thu nhập cao cho người nuôi mèo. Thịt mèo có thể chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn và có khi được sử dụng trong các bữa tiệc bữa cỗ. Mèo dễ thích nghi với đời sống của con người nên nó sớm trở thành người bạn thân thiết của ta. Mèo ngoan ngoãn, biết cách nghe lời, biết cách nũng nịu khiến ta phải yêu quý. Con mèo biết leo trèo, đùa vui đôi lúc nó là người chị em bên ta chia sẻ chuyện buồn vui trong cuộc sống. Mèo biết đuổi bắt dế, bắt gián, vồ mồi và rình chuột: chuột to, chuột nhỏ, chuột nhắt, chuột cống đều phải sợ loài mèo nên con mèo như một vệ sĩ trung thành, lỗi lạc… diệt hết các loài vật có hại. Loài mèo là loại động vật rất thông minh có hoạt động nhanh nhẹn, tinh xảo. Nó mang lại nhiều lợi ích cho con người, nó mang đến niềm vui, hạnh phúc cho con người để ta phải yêu quý, mến thương loài mèo. Thuyết minh về con mèo – Bài làm 3 Trong chúng ta, chắc chẳng có ai không biết đến mèo, loài vật đáng yêu được nuôi rộng rãi trong gia đình. Nhưng các bạn có chắc là mình hiểu rõ về loài mèo chưa ? Nếu chưa, mời các bạn cùng tôi đến trò chuyện với chị mèo Thông Thái đằng kia. Sau khi chào tôi, chị mèo hào hứng kể rằng họ mèo nhà chị có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo bắt đầu được thuần hóa và nuôi ở Ai Cập sau đó lan nhanh sang châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, mèo bắt đầu được nuôi từ khoảng hai nghìn năm trước đây. Quả đúng như chị mèo Thông Thái nói, họ nhà chị ai ai cũng có vẻ ngoài nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống. Đầu mèo tròn, nhỏ và ở phía trước hơi nhô ra, đó là mõm mèo. Trông mèo nhỏ bé thế nhưng hàm răng nó lại có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Kỳ lạ nhất là đôi mắt mèo, đôi mắt trong veo như hai hòn bi ve. Đồng tử mèo có khả năng co dãn cực tốt. Ban ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới dãn ra. Thế là mèo ta có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có một cái đuôi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt cực sắc này là đệm thịt giúp mèo đi lại nhẹ nhàng. Chắc chẳng có em bé nào mà lại không biết đến câu hát : “Meo meo meo, rửa mặt như mèo…” hay “mèo con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước…”. Hình ảnh chú mèo liếm láp lòng bàn chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng mỗi khi nghe thấy tiếng “meo meo” của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ còn biết bạt mạng chạy. Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột. Nghe chị mèo nói đến đây, tôi đã thấy khoái loài mèo lắm rồi, bèn giục : “Chị ơi, chị kể cho em nghe về sự sinh trưởng của mèo đi”. Chị mèo mỉm cười rồi tiếp : “Mèo con được một tháng tuổi đã được mẹ dạy cho những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo con đi quanh nhà để chúng “tìm hiểu” mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được. Lúc này, mèo cái có bộ lông mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác thường để hấp dẫn các chàng mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau mới mở mắt”. Rồi chị đố chúng tôi kể được tên thật nhiều loài mèo. Hừm, để xem nào. Mèo mun lông đen tuyền từ đầu tới gót này. Mèo mướp với bộ lông xám tro, mèo vàng lông vàng óng nữa. Có lẽ giống mèo đông đúc nhất, được nuôi phổ biến nhất là mèo tam thể. Loài này lông có màu đen, vàng, trắng pha lẫn với nhau. Nghe chúng tôi kể, chị gật gù : “Họ nhà người cũng am hiểu về họ nhà mèo ghê”. Chị còn kể cho chúng tôi về nỗi kinh hoàng của họ nhà chị. Xưa, người ta dùng ruột mèo để căng dây vợt tennis (Nói đến đây, mặt chị hơi nhăn lại). Và bây giờ người ta còn ăn thịt mèo nữa. Nghe đâu, Chính phủ đã cấm bán và ăn thịt mèo. Song mấy người bạn chị bảo ở dưới Thái Bình, số quán nhậu “tiểu hổ” vẫn ở mức hàng trăm. Và cứ mỗi ngày, lại có hơn một ngàn anh chị em cô bác mèo “ra đi” tại đây. Chị lắc đầu “Cứ đà này, chẳng mấy chốc, bọn chuột dưới đó lại nổi loạn cho xem”. Vì mèo là “khắc tinh” của chuột mà. Các bạn có muốn góp tay ngăn chặn nạn chuột không ? Hãy nuôi một chú mèo trong nhà nhé. Theo kinh nghiệm của chị mèo Thông Thái thì mèo con dưới hai tháng tuổi nên cho ở với mẹ. Khi lớn lên thì cho tập ăn cơm trộn cá, trộn thịt hoặc thậm chí cả rau nữa. Mèo là loại động vật có xuất xứ từ sa mạc nên rất ưa hơi ấm. Chính vì thế nên mèo rất hay trườn mình cọ vào chân người. Lúc đó, bạn hãy ôm mèo vào lòng, ủ ấm cho nó hoặc mang nó ra nắng sưởi ấm nhé ! Thấy chưa, mèo ta đã lim dim đôi mắt và grừ grừ khoan khoái rồi kìa. Mèo cũng rất thích chơi với các em bé từ bốn tuổi trở lên. Đây là thời kỳ hình thành nhân cách của các em nên nếu trong gia đình nuôi một chú mèo thì trẻ nhỏ sẽ sớm biết yêu động vật. Thật đáng tiếc nếu bạn bị dị ứng với lông mèo vì khi đó bạn chỉ có thể ngắm nó từ xa chứ đừng nuôi mà cũng đừng âu yếm vuốt ve nó. À, các bạn nhớ đem mèo đi tiêm phòng mỗi năm một lần và thường xuyên tắm hoặc bắt rận cho mèo nhé. Để mèo luôn khỏe mạnh và sạch sẽ mà. Ối, vì trời nắng ấm quá nên chị mèo Thông Thái đã ngủ quên mất rồi. Thôi, chúng ta sẽ để yên cho chị ấy ngủ nhé. Tôi chắc rằng lần sau chị ấy sẽ kể cho chúng ta rất nhiều chuyện thú vị về loài mèo đấy. Vì loài mèo là bạn tốt của con người mà ! Tạm biệt ! Thuyết minh về con mèo – Bài làm 4 Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá, nuôi dưỡng và trở thành "thú cưng" trong mỗi giã đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất. Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm. Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro… Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,… Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng… Chúng giao tiếp bằng cách kêu "meo”, "mi-ao", "gừ-gừ", rít, gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau. Thông thường mèo nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm. Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm. Mèo là những "vận động viên điền kinh" tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt. Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được gọi là "phản xạ thăng bằng." Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt ghồ ghề. Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo. Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc hiệt. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh… về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được. Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá… Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá. Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả. Trải qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một "người bảo vệ", một "dũng sĩ diệt chuột" mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tinh cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.
Thuyết minh về con mèo – Văn mẫu lớp 8
3,693
Câu chuyện về những loài vật nuôi chưa bao giờ là hết thú vị. Bởi con người luôn có một trái tim rộng mở chan chứa tình yêu thương. Chúng ta sống không chỉ làm bạn với con ngườ mà còn làm bạn với những loài động vật khác. Đó là sự hòa hợp giữa con người và các sinh vật sống khác trên Trái Đất này. Một trong những loài vật nuôi được ưa chuộng là loài mèo. Mèo cũng như chó, là một loài vật dễ thuần chủng. Trước kia, mèo được thuần chủng để bắt chuột trong nhà. ngày nay với sự phát triển của đời sống, ngoài công dụng để bắt chuột, mèo còn được nuôi như một thú cưng. Mèo thuộc họ nhà cáo, cũng có đặc điểm hình thể khá giống với loài chó. Một chú mèo luôn hấp dẫn người khác bởi đôi mắt trong veo ngây thơ, bộ lông mềm mượt và kích thước nhỏ bé của nó. Ngay cả đến tiếng kêu meo meo cũng khiến người khác phải mủi lòng vì sự đáng yêu của nó. Mèo cũng là động vật bốn chân, cũng có móng vuốt và đệm thịt giống với chó. Tuy nhiên kích thước của mèo nhỏ hơn chó rất nhiều. Những chú mèo to nhất cũng chỉ nằm gọn trong tay của người. Những chú mèo con mỏng manh non nớt nhỏ xíu lo sợ trong vòng tay của người lạ luôn là một hình ảnh đáng yêu không có lời lẽ nào diễn tả được. Thuyết minh về con mèo Mắt mèo rất to, trong. Dường như đôi mắt của chúng luôn chứa nước mà chỉ cần một xúc động nhẹ cũng có thể rơi nước mắt. Đôi mắt trong veo ấy chính là vũ khí lợi hại để chiếm lấy trái tim của những tín đồ yêu mèo. Hai tai của mèo hình tam giác nhỏ xíu, hướng ra ngoài. Đây cũng là lợi thế của chúng. Bằng đôi tai nhỏ xíu ấy, nó có thể nghe được những chuyển động tạo ra âm thanh rất nhỏ xung quanh nó. Mặc dù có thính giác tốt nhưng thính giác của mèo không tốt bằng chó. Khả năng nghe được sóng siêu âm và hạ âm của chó tốt hơn của mèo rất nhiều. Thị lực của mèo cũng không tốt bằng chó, Mèo không có khả năng phân biệt màu sắc tuy nhiên chúng vẫn có thể nhìn thấy rõ mọi thứ vào ban đêm. Hoạt động của mèo được thực hiện chủ yếu vào ban đêm. Do vậy mà, ban ngày chúng thường nằm ỳ lim dim đôi mắt ngủ. Mèo rất thích tắm nắng. Chính vì thế, bất cứ một ai nuôi mèo, đã từng nuôi mèo đều có thể thấy hình ảnh chú mèo phơi nắng thư giãn. Chiếc mũi hồng hồng ướt ướt của mèo cũng là điểm đáng yêu của chúng. Mũi chúng luôn ướt để chúng có thể cảm nhận được mùi vị một cách nhanh chóng và cũng để bảo vệ chiếc mũi của chúng. Bộ lông mềm mượt như nhung cũng là điểm khiến con người yêu thích loài mèo. Lông của chúng khá khác với lông của chó. Lông mèo dài, mỏng và mảnh. Chính vì thế, lông mèo luôn mượt hơn lông của chó. Bộ lông mềm mượt đến mịn màng kết hợp với cái đuôi ngắn nhỏ đằng sau luôn là điểm thích thú của chúng. Đôi mắt trong veo lim dim ngủ là bộ dạng lơ đãng của chúng mỗi ngày. Nhưng trên tất cả vẫn là sự đáng yêu mà con người cảm nhận được từ loài vật này. Mỗi khi chúng dụi dụi vào người, chúng ta lại muốn dừng mọi công việc để bế nó trên tay và vuốt ve nó. Vuốt ve cái bộ lông mềm mượt của chúng luôn là việc làm thư giãn nhất của con người. Những câu chuyện hay về tình bạn giữa mèo và con người chưa bao giờ là dừng lại. Loài mèo thậm chí được đưa vào trong chương trình giảng dạy mẫu giáo với những câu chuyện, cốt chuyện dễ thương. Những bài thơ, bài hát với những hình tượng chú mèo khác nhau giúp cho trẻ em hình dung ra những tính cách và nét đáng yêu của chúng. Một chú mèo lông xù, đôi mắt trong veo và cái mũi ướt át là vũ khí bí mật của chúng để chiếm lấy tình cảm của người khác. Ai mà có thể từ chối được vẻ đáng yêu mà một chú mèo tạo ra chứ? Kim Oanh
Thuyết minh về con mèo
773
Thuyết minh về con thỏ – Văn mẫu lớp 8 Nếu tôi hỏi bạn về một câu: "Trong các loài vật nuôi trong gia đình, bạn yêu quý con vật nào nhất?" thì tôi chắc chắn rằng sẽ có rất nhiều câu trả lời. Nhưng riêng đối với tôi, tôi vẫn yêu quý chú thỏ trắng nhà mình với bộ lông mềm và trắng muốt. Giống thỏ được nhập vào nước ta, cách đây khoảng một trăm năm, nên thỏ là loài vật gần gũi với mọi người dân Việt Nam. Thỏ có lớp lông mao dày để thích nghi với những điều kiện thời tiết khô hạn. Tai thỏ dài và có thể chuyển được hướng để nghe những âm thanh và tiếng động cảu kẻ thù. Ở thỏ cũng có một đặc điểm để thích nghi với môi trường sống trên cạn rất nhiều bụi. Đó là mắt có mi mắt và tuyến lệ. Hiện nay, tuy thỏ đã được nuôi dưỡng trong nhiều gia đình nhưng chúng vẫn mang nhiều tập tính của thỏ rừng – tổ tiên xa xưa của chúng. Một trong những tập tính của thỏ mang dấu ấn của tổ tiên chúng là tập tính đào hang. Ở hai đôi chi trước và sau của thỏ đều có vuốt giúp chúng bới đất. Đối với thỏ, hang có vị trí rất quan trọng, vì nó không chỉ là nơi sinh sống của thỏ, mà đó còn là nơi để chúng trốn tránh kẻ thù. Vì thiếu những bộ phận tự vệ như nanh, vuốt sắc nên chúng thường đi kiếm ăn về buổi chiều hay ban đêm để tránh bị kẻ thù săn đuổi. Chúng ăn cỏ, lá và một số loại thực vật. Do ăn bằng cách gặm nhấm nên răng cửa thỏ dài, cong, vát và sắc. Thỏ là loài dộng vật chịu được lạnh , dù thời tiết hanh khô hay giá lạnh chúng vẫn thích nghi được. Nhiệt độ của cơ thể luôn ổn định. Thỏ là loài động vật đẻ con. Mỗi lần đẻ từ một đến hai con. Chúng nuôi con bằng sữa của mình. Thỏ "đi" không như chó, mèo mà chúng di chuyển bằng cách "nhảy cóc". Hai chi sau dài hơn hai chi trước. Khi nhảy, hai chan sau đạp một cái là cất mình bay lên, khi hạ xuống thì hai chân trước đỡ như cái nhíp. Khi gặp nguy hiểm, ngoài cách lẩn trốn vào hang, thỏ còn bỏ chạy. Thỏ chạy rất nhanh, có thể lên tới tám mươi ki-lô-mét trong một giờ. Thỏ thường chạy theo những đường uốn khúc để đánh lừa kẻ săn đuổi và làm chúng mất đà. Ngày nay, đã có ít nhất trên sáu mươi giống thỏ. Ở nước ngoài thỏ được nuôi trong các lồng sắt, nhưng ở Việt Nam phần lớn thỏ được thả ở ngoài vườn và cho tự đi kiếm ăn. Thỏ được nuôi để ăn thịt hoặc lấy lông. Ngoài ra thỏ còn được dùng trong cách phòng thí nghiệm. Vì thỏ có cấu tạo gần giống cơ thể người nên được dùng để thử những loại thuốc mới. Thịt thỏ thơm, được dùng để chế biến nhiều loại thức ăn. Ngoài ra, tai thỏ ngâm rượu còn là một loại thuốc quý. Lông thỏ được dùng may áo bông, làm khăn,… vừa đẹp lại vừa ấm. Khi đẻ con, thỏ thường nhổ một ít lông ngực để lót ổ cho con. Thỏ đã trở thành một nhân vật nổi tiếng trong các câu chuyệ cổ tích và phim hoạt hình như em nào cũng biết bộ phim hoạt hình "Hãy đợi đấy" nói về một chú thỏ là một con sói. Thỏ con tuy nhỏ bé nhưng thông minh, nhanh nhẹn, luôn chiến thắng con sói già gian ác. Thỏ đã trở thành một laòi vật nuôi kinh tế ở nước ta, và cũng còn được nuôi trong nhiều gia đình. Giữ gìn, bảo vệ loài thỏ là bảo vệ hệ đa dạng sinh thái môi trường.
Thuyết minh về con thỏ – Văn mẫu lớp 8
670
Từ bao đừi nay hình ảnh người nông dân đã trở thành một điển hình khi các hình ảnh ấy trở thành một nét văn hóa đặc sắc đưọc gìn giữ như một di sản. Và gắn liền với hình ảnh của người nông dân ấy chính là hình ảnh con trâu. Trâu trở thành người bạn người đồng hành và cả là con vật nuôi yêu quí của những giá đình nông dân chân lấm tay bùn. Từ thời xa xưa câu thơ sau như một lời vắn tắt về hình ảnh và mối quan hệ thân thiết giữa trâu với người: “ Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta Cấy cày vốn nghiệp nông gia Ta đây trâu đấy ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn" Những câu thơ ấy thật giản dị và khái quát lên đời sống của người nông dân cùng với nghiệp nông gia của mình thì hình ảnh con trâu là một hình ảnh điển hình. Ngoài là hình ảnh của những con trâu theo người đi cày đi bừa, sớm nắng chiều mưa vẫn miệt mài với công việc cày kéo của mình thì Trâu còn xuất hiện với những lúc thảnh thơi và nên thơ. Đó là những lúc những em bé mục đầu vắt vẻo trên lưng trâu với tiếng sáo ngân vang giữa những đồng quê thanh bình. Hình ảnh đó thật nên thơ mà cũng thật lãng mạn trữ tình. Trâu là loài động vật to lớn, tùy thuộc vào giống loại mà kích thước của chúng và màu sắc của chúng cũng khác nhau. Có những con màu xám bóng loáng những con màu bạc và có cả những chú trâu mộng lực lưỡng bước những bước đi chậm rãi. Trâu Việt Nam với hai chiếc sừng dài và cong vút, chúng cũng có màu gần giống với màu da của những chú trâu. Một điểm đặc biệt của trâu đó là trâu chỉ có một hàm răng còn một hàm thì không. Điều này gắn với câu chuyện trí khôn của ta đây mà nhiều người vẫn thường nhắc tới. Thức ăn chủ yếu của Trâu là cỏ, chính vì vậy chúng ta thường thấy trên những triền đê hay ven sông thì từng đàn trâu ăn cỏ rất nhiều. Theo đó thì trâu rất khỏe chúng có thể kéo những xe đầy thóc lúa hoặc ngô khoai vào những ngày thu hoạch. Ngoài ra chúng còn có thể theo người nông dân ra đồng để cày bừa và chuẩn bị cho một mùa vụ mới. Những con trâu to khỏe nhất được những gia đình nông dân chăm bẵm chu đáo. Ngoài thời gian mùa vụ chính trâu bò được dùng để kéo xe. Ngoài ra trâu Việt Nam còn gắn với những lễ hội lớn như chọi trâu ở Đồ Sơn hay là những lễ tế trâu có từ ngàn đời xưa nay. Mỗi khi nhắc tới hình ảnh của chúng thì chúng ta nghĩ ngay tới hình ảnh của người nông dân việt Nam. Thật không thể có gì có thể thay thế được chúng trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Những câu chuyện những caai ca dao dân ca có nhắc tới loài này cũng trở nên đẹp đẽ và đầy tình cảm.
Thuyết minh về con trâu ở làng quê việt nam
557
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cách làm diều giấy – Bài làm 1 2 Thuyết minh về cách làm diều giấy – Bài làm 2 Thuyết minh về cách làm diều giấy – Bài làm 1 Từ bao đời nay,Việt Nam đã nổi tiếng với khá nhiều những trò chơi dân dan.Ở thời buổi công nghiệp đang phát triển một cách nhanh chóng như bây giờ thì có lẽ những thú vui trong những lúc mệt mỏi,căng thẳng là rất quan trọng.Một trong số những thú vui ấy phải nói đén trò chơi thả diều. Thả diều là trò chơi dân gian mà ông cha ta đã để lai bao đời nay.Đó là một thú vui tao nhã,một trò chơi làm con ngươi ta xua tan đi bao mệt nhọc.Nhưng hầu hết trò chơi này chỉ còn thịnh hành ở một số vùng quê .Bây giờ khi xã hội đang phát triển các trò chơi xuất hiện hàng loạt.Các món đò choi hiện đại có thể đã thay thế những chiếc diều thả.Hay các loại diều với đủ kiểu dáng ,màu sắc có đày trên thị trường.Nhan đay tôi muốn giới thiệu về cách làm một con diều dấy đơn giản. Diều có thể làm bàng vải,giấy,nilon,…Nhưng tôi muốn giới thiệu cho các bạn cách làm một con diều dấy quen thuộc và dễ làm nhất đối với học sinh chúng ta.Các dụng cụ để làm một con diều dấy gồm:2 thanh tre dài 40-50cm ,6 tờ dấy khổ 30.30cm,kéo,keo,băng dính,dây,dao.Vậy là khâu chẩn bị xem như xong. Bắt tay vào làm,trước hết ta dùng dao vuốt 2 nan tre tròn,kích thước phải nhỏ,nhẹ nhưng phải dẻo dai tránh bi gẫy.Lấy 1 tờ giấy rồi đặt 2 nan tre vào mặt tồ giấy tạo thành hình chữ ''x'' đối xứng với các đầu.Sau đó cắt phần còn thừa của thanh nan.Dùng băng dính dán 2 thanh nan vào con diều sao cho chắc chắn.Lấy 5 tờ giấy còn lại cắt thành những mảnh nhỏ có chiều dài 30cm,chiểu rộng 5cm.Dính những mảnh dấy nhỏ lại với nhauthanhf 3 dây dài sao cho 2 dây bàng nhau khoảng 50cm và 1 dây dài 80cm.Vậy là chúng ta đã làm xong đuôi diều.Tiếp theo ta đặt diều thành hình thoi rồi dán đuôi vào.Sao cho 2 đuôi nhắn dán dán vào 2 góc bên của hình thoi,dây dài nhất dán vào góc dưới.Lấy 1 đoạn dây dài chừng 10cm buộc vào thanh nan thẳng đứng.Buộc 2 đầu dây sao cho nốt buộc dâu trên dài hơn về phiad đầu diều.Tôi đã giới thiệu cách làm diều xong. Nhưng các bạn nên nhớ làm diều phải cân nếu không diều sẽ bay không thăng bằng .Khi làm xong phải chỉnh diều và kiểm tra đẻ tránh những sự cố đáng tiếc.Diều làm bằng dấy nên rất dễ rách chúng ta phải cẩn thận khi thả.Tránh để diều ở nhưng nơi ẩm ướt.Khi chơi xong phải cuôn dây cẩn thặn nếu hk lần sau chơi diều sẽ dễ bị rối. Tôi đã giới thiệu xong cách làm diều .Nếu ai chưa biết hoặc chưa từng chơi diều thì hãy thử khám phá.Đó là 1 thú vi mà ông cha ta để lại.Nó sẽ giúp ban giảm đi mệt mỏi.Hãy giữ cho mình một chút gì đó rất Việt trong mỗi con người Việt Nam Thuyết minh về cách làm diều giấy – Bài làm 2 Diều ở Đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là diều hình thuyền, hay còn gọi là diều trăng, kích thước rất khác nhau, nhỏ từ 1 m, to thì 3 đến 5 m, cá biệt lên đến 8 m (cái này nếu gặp gió có thể nhấc bổng cả một đứa trẻ). Đầu vụ hè, tre hơi già (bắt đầu ngả mầu vàng) được đốn, cây tre làm diều phải là cây vừa tầm, không quá cao vì những cây này thường mềm, và không quá thấp, và không được quá nhiều cành. Tre hạ xuống, được pha làm nhiều khúc tuỳ thuộc vào kích thước diều định làm, phơi trong nắng nhạt khoảng 5 – 7 nắng cho bớt nước là có thể chuốt được rồi. Vót cọng diều là cả một quá trình, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của con diều. Cọng nếu vót quá nhỏ, diều sẽ dễ lên nhưng nếu gặp gió cả sẽ bị chao. Nếu to quá, diều sẽ rất khó ăn gió. Cọng diều được vót thuôn nhỏ về hai đầu, dễ bắt gió nhưng vẫn đủ độ cứng khi gặp gió cả. Hai cọng diều không nhất thiết phải bằng nhau nhưng mỗi cọng bắt buộc phải đối xứng nhau. Để kiểm tra sự đối xứng của cọng diều người ta thường lấy một sợi dây không co dãn, kéo cọng theo một mức nhất định và quan sát. Có những chuẩn mực nhất định khi lên khung: chiều dài diều thường gấp 3 lần chiều ngang. Độ cong của diều thường phụ thuộc vào con mắt của người dựng nhưng thường vào khoảng 15 đến 20 độ. Khung diều phải cân nếu không diều sẽ bị chao. Khung đã lên xong, bây giờ đến công đoạn phất diều, có nhiều chất liệu khác nhau có thể dùng để phất diều, phổ biến là giấy bản, hiện nay diều được phất chủ yếu bằng ni lon. Diều phất phải vừa căng nhưng không được kéo khung, mép khâu phải đều cân xứng. Buộc lèo là một công đoạn rất quan trọng. Độ dài của lèo được tính bằng hai lần chiều ngang diều tức là 2/3 chiều dài diều, mối nối giữa lèo và dây diều có thể điều chỉnh được để tuỳ thuộc vào gió và độ cao mong muốn mà chỉnh lèo. Sáo diều được làm từ ruột nứa hay cật tre đan phết sơn, lỗ sáo được khoét từ những loại gỗ nhẹ và không co dãn như gỗ mít. Một bộ sáo thường có từ 3 đến 5 sáo để tạo ra các âm vực khác nhau, từ tiếng thanh của sáo nhỏ đến tiếng trầm của sáo to. Diều thường được thả ở cánh đồng đầu làng, sau đó được dắt về nhà của gia chủ hay đầu làng. Một cánh diều tiêu chuẩn là tiếng sáo phải rõ, trong, cánh diều phải đứng không chao, dây không được trùng.
Thuyết minh về cách làm diều giấy – Văn mẫu lớp 8
1,054
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cái bút bi – Bài làm 1 2 Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 2 3 Thuyết minh về chiếc bút bi – Bài làm 3 4 Thuyết minh về cái bút bi – Bài làm 4 5 Thuyết minh về cái bút bi – Dàn ý Thuyết minh về cái bút bi – Bài làm 1 Trong cuộc sống hiện đại hiện nay, việc sử dụng các loại viết để học tập và làm việc là không thể thiếu nhưng để lựa chọn loại viết phù hợp với thời đại công nghệ thông tin sao cho vừa nhanh, tiện lợi và ít tốn kém cũng là điều vô cùng quan trọng và sự ra đời của bút bi đáp ứng nhu cầu đó. Từ những năm bắt đầu việc học người ta đã biết sử dụng các công cụ để có thể viết chữ. Thô sơ nhất là sử dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra. Nhưng đó là trong những năm còn lạc hậu việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng phải mang theo lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ phải liên tục chấm đầu lông ngỗng vào mực cũng rất mất thời gian và sau đó một nhà báo người Hungari đã chế tạo ra cây viết mực Lazso Biro. Việc sử dụng bút mực để rèn chữ là một điều rất tốt vì nét chữ sẽ đẹp song giá thành một cây bút máy khá đắt, nặng và khi viết khá chậm. Cho đến những năm gần đây người ta mới phát minh ra bút bi. Nó vừa đáp ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi và nhẹ nữa phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên. Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc bằng các kim loại dẻo trong suốt. Bên trong là ruột bút, ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo. Ngòi bút có đường kính từ 0,25mm đến 0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Còn về việc sử dụng bút cũng khá là dễ dàng, khi cần thiết chỉ cần ấn vào đầu bút ngòi bút sẽ tự động lộ ra để chúng ta có thể sử dụng. Khi không sử dụng nữa ta chỉ cần ấn lại đầu bút, ngòi bút sẽ tự động thụt lại, lúc đó bạn có thể mang bút đi khắp mọi nơi mà vẫn yên tâm tránh được các tác nhân bên ngoài va chạm vào ngòi bút. Hiện nay người ta còn tìm ra cách để chế tạo những bút lạ hơn như bút nhũ, bút nước, bút dạ quang… phù hợp với người tiêu dùng, vừa phù hợp với túi tiền vừa có thể theo học sinh đến trường, theo các nhân viên văn phòng đến cơ quan,… Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở những nơi có áp suất khí quyển thấp. Nói gì thì nói, ta cũng không thể phủ nhận những khuyết điểm còn có ở bút bi là rất khó rèn chữ vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một đang luyện chữ vì khi nào nét chữ đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực trong khi sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi viết xuống đất và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng. Do vậy, sử dụng bút tuy là đơn giản nhưng chúng ta cũng nên biết cách bảo quản bút sao cho bút có thể sử dụng được lâu và bền hơn như: sau khi sử dụng bút xong thì nên bấm đầu bút thụt lại để không bị rớt xuống đất, khô mực hoặc va chạm vào các vật cứng sẽ dễ làm vỡ vỏ bút hoặc làm bể đầu bi. Một đặc điểm nhỏ mà ít ai nghĩ đến là có thể biến những cây bút bi thành những món quà nhỏ, xinh xắn, dễ thương và vô cùng ý nghĩa để làm món quà tặng người thân, bạn bè, thầy cô. Bút còn là người bạn đồng hành với những anh chiến sĩ ngoài mặt trận, để các anh có thể viết nhật kí, viết thư về cho gia đình. Viết xong, các anh có thể giắt cây bút vào túi áo không sợ rơi mất, khi cần thiết có thể lấy ra dễ dàng và sử dụng ngay. Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đẽ chế tạo ra cây bút để nhở đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 2 Bút bi là một dụng cụ học tập quen thuộc của mỗi một học sinh và nó sẽ luôn gắn bó với chúng ta suốt chặng đường tiếp thu học vấn cũng như công việc. “Nét chữ là nết người” – câu thành ngữ ngắn gọn đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dânViệt Nam, nhắc nhở ta về học tập cũng như tầm quan trọng của nét chữ. Bởi học tập là một quá trình đầy khó khăn vất vả để xây dựng những nhân tài phục vụ cho tổ quốc ngày càng tuơi đẹp. Và trong quá trình gian nan đó, đóng góp một công lao không nhỏ chính là cây bút bi. Bút bi được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro vào những năm 1930. Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, ông Biro phát hiện ra được một loại mực in giấy rất nhanh khô. Từ đó, ông đầu tư thời gian nghiên cứu và chế tạo ra một loại bút sử dụng loại mực như thế. Bút bi được tạo thành từ 2 bộ phận chính là Vỏ bút và Ruột bút. Ở bộ phận thứ nhất là vỏ bút thường có chất liệu làm bằng nhựa (hay kim loại được phủ sơn) được sử dụng để bào vệ các thiết bị bên trong, đồng thời làm cho cây bút được đẹp và sang trọng hơn. Vỏ bút thường có dạng hình ống trụ tròn dài từ 14-20cm, trên thân bút thường được in tên nhà sản xuất và một vài thông số kỹ thuật (tùy loại bút). Để thu hút người dùng, các nhà sản xuất thường tạo ra nhiều mẫu mã đa dạng và phong phú; hấp dẫn về màu sắc, kết hợp nhiều màu sắc (trắng – xanh – đỏ – vàng – tím – lục – lam…) để tăng tính mỹ thuật và làm đẹp thêm cho cây bút. Để hấp dẫn đối tượng học sinh, bút có thể mang hình dáng quá ngô, hay hình Doremon hoặc in hình các nhân vật truyện tranh, ngôi sao điện ảnh lên thân bút. Để tăng tính sang trọng cho cây bút, phụ vụ người làm việc công sở, kinh doanh, bút có thể được làm bóng óng ánh, mạ màu vàng hay màu bạc sáng chói, nhìn là biết sản phẩm cao cấp, mắc tiền. Về chủng loại, bút bi có hàng nhập nước ngoài (hàng ngoại) và hàng sản xuất trong nước (hàng nội). Có người cho rằng “hàng ngoại nhập là tốt nhất” nhưng thực ra chưa phải là như thế. So về mặt giá cả của loại bút bình thường, bút bi nội có giá trung bình từ 1500 đồng đến 5000 đồng một cây, còn bút ngoại nhập có giá từ 5000 đồng đến 10000 đồng, thậm chí còn lên đến 15000 đồng một cây. Trong khi đó, so sánh về chất lượng, bút bi nội và bút bi ngoại đều có cùng dung tích mực, độ bền như nhau. Chính vì vậy, bút bi nội được các bạn học sinh ưa chuộng và sử dụng nhiều hơn. Ở bộ phận thứ hai là ruột bút có vai trò quan trọng trong số các bộ phận của cây bút vì nó có chứa mực (mực xanh, mực đỏ, mực đen,…), có tác dụng giữ mực để đẩy mực ra ngoài khi chúng ta viết. Trong ruột bút, ở phần đầu có một viên bi nhỏ (lăn tròn khi chúng ta viết) để làm điều hòa lượng mực có trong bút. Ruột bút thường được làm từ nhựa dẻo, rỗng để chứa mực đặc hoặc mực nước. Đặc biệt, để làm nên cây bút bi thì không thể thiếu bộ phận đi kèm như: lò xo, nút bấm, nắp đậy, trên ngoài vỏ có đai để gắn vào túi áo, vở, tạo sự thuận lợi cho người dùng. Cách sử dụng bút bi thì rất đơn giản. Chúng ta chỉ cần vặn nhẹ, hoặc ấn nút hoặc rút nắp bút lên. Sau đó thì dặt bút xuống để viết, khi viết xong, chúng ta cần đậy nắp bút lại cẩn thận, tránh làm rớt bút. Cây bút bi là đồ vật không thể thiếu đối với người học sinh, nó vừa tiện lợi mà cũng rất thông dụng lại hiệu quả cao cho mọi công việc. Không chỉ học sinh mà những người làm văn phòng, làm kinh doanh cũng cần đến, bởi họ luôn phải ghi chép hay kí những hợp đồng hay những công trình nhận thi công. Bút bi có vai trò quan trọng trong học tập và làm việc. Đối với bản thân em, bút bi là dụng cụ học tập quan trọng, giúp em viết nên những nét chữ xinh xắn, tròn đẹp, viết nhanh và vẽ nên những gì em thích. Em không thể thiếu bút bi mỗi ngày đến lớp, vì vậy em rất yêu quý và gìn giữ bút bi mỗi ngày. Thuyết minh về chiếc bút bi – Bài làm 3 Từ thời xa xưa, con người đã cần đến dụng cụ để viết. Cây bút của người cổ đại rất thô sơ bằng tre, đá và cả bằng lông chim, lông ngỗng. Nhưng để thuận tiện hơn trong việc viết lách, người ta đã phát minh ra bút bi. Cây bút bi tưởng chừng như bé nhỏ nhưng lại là phát minh đóng góp to lớn cho sự hình thành và cách mạng hóa việc viết chữ. Nguồn gốc của cây bút bi là do một người thợ Tây phương sáng chế ra nhưng không được khai thác thương mại. Mãi đến những năm cuối thế kỉ XIX, một nhà báo người Hungary tên là Lazso Biro đã nhận thấy sự bất tiện trong việc viết bằng bút chấm mực. Loại bút mới phát minh này rất lâu khô, dễ lem, rất nặng và đầu bút nhọn. Sau đó, Lazso Biro đã cải tiến cây bút này thành một loại bút có một ống mực và đầu viết có một viên bi lăn. Nhờ sự ma sát giữa viên bi và giấy mà mực được viết ra. Thế nhưng lại một vấn đề mới được đặt ra, loại mực của chiếc bút bi này rất lâu khô và không thích hợp cho nghề báo của ông đặc biệt là phải đi nhiều nơi lấy thông tin và ghi tốc kí. Và Lazso Biro lại cặm cụi tìm cách giải quyết. Ông để ý thấy loại mực dùng để in báo rất mau khô. Ông đã vận dụng sự phát hiện này để hoàn thiện cây bút của mình. Với sự giúp đỡ của anh họ là một nhà nghiên cứu khoa học, ông đã giải quyết được tình trạng của cây bút. Cây bút của ông viết mau khô hơn. Năm 1887, ông nhận bằng sáng chế Anh quốc và từ đó bút bi được sử dụng rộng rãi cho tới ngày nay. Bút bi chúng ta dùng hiện nay có hai loại: bút dùng một lần và bút dùng để bơm mực nhiều lần để dùng lại. Nhưng phần lớn chúng ta hay dùng loại bút dùng một lần, khi dùng hết mực rồi bỏ. Loại bút này có hai phần: ruột bút và vỏ bút. Phần ruột bút là ống nhựa mềm hoặc cứng chứa mực đặc. Lớp trên của mực trong ống được bơm thêm một loại chất trong suốt (hay có màu) để mực không tràn ra ngoài. Một đầu của ống mực gắn ngòi bút. Ngòi bút bi thường làm bằng kim loại có đầu nhọn hở một lỗ nhỏ có gắn viên bi đường kính từ 0,7 – 1mm. Nhờ sự ma sát của viên bi mực bám trên viên bi mà chúng ta có thể viết được. Phần vỏ bút thường làm bằng nhựa cứng hay kim loại quý (tùy theo mẫu mã và thị hiếu của người tiêu dùng). Có loại vỏ bút thiết kế thêm nắp đậy. Trong nắp có một miếng đệm cao su để mực không bị khô và viên bi không bị trầy khi va chạm nhỏ. Có loại vỏ được thiết kế với phần đầu có cái núm bấm lên xuống (đối với loại này thì bút được gắn thêm lò xo). Khi cần dùng, ta chỉ cần bấm ở đầu ngòi bút, ngòi bút sẽ lộ ra để viết, khi không viết nữa, ta chỉ cần bấm thêm lần nữa, ngòi bút lại thụt vào, tránh hư ngòi viết thật tiện dụng. Còn loại bút có thể bơm mực dùng lại thì phức tạp hơn một chút. Ruột của loại bút này làm bằng nhựa hay kim loại. Ở phần đầu ruột bút có một cái nút bằng nhựa gắn chặt vào thành ruột bút. Mỗi khi dùng hết mực ta có thể mua mực bơm thêm (loại mực đặc biệt dành cho bút bi) hay thay ruột bút. Về cấu tạo vỏ thì không khác loại bút dùng một lần ta vừa nêu trên. Trên thị trường hiện nay, có vô số chủng loại bút bi, mẫu mã, màu sắc khá đa dạng. Có loại bút bi đậy nắp, có loại bấm ở đầu bút để ngòi lộ ra, có loại xoay thân bút,có loại trượt,… tùy vào sở thích của người sử dụng. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều thương hiệu bút bi, trong đó bút của các hãng Thiên Long, Bến Nghé khá uy tín. Giá một cây bút bi khá rẻ, dao động từ 1500 – 4000 đồng một cây. Một số loại bút trang trí hoặc để làm quà tặng thì có giá khá cao, từ mười mấy nghìn đến vài chục nghìn. Riêng bút bi dành cho doanh nhân, vỏ làm bằng kim loại quí thì có giá khá cao từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng một cây. Nói chung, bút bi hợp túi tiền với tất cả mọi người, từ học sinh – sinh viên ít tiền đến các doanh nhân thành đạt. Bút bi là loại bút rất hữu ích cho đời sống con người. Bút bi giúp cho công việc học tập, viết lách trở nên hiệu quả hơn, tiện lợi hơn. Bút bi còn có thể sáng tạo nghệ thuật, Từ chiếc bút bi, người ta có thể vẽ được bức tranh đẹp hay xăm hình nghệ thuật bằng bút bi. Và bút bi còn có thể là một món quà ý nghĩa cho người thân yêu của bạn. hẳn rằng nếu thiếu bút bi thì cuộc sống của con người sẽ khó khăn trong việc viết. Bút bi có rất nhiều công dụng mà chúng ta chưa kể hết. Bút bi đã thay đổi lịch sử về việc viết chữ của loài người. Để bảo quản một cây bút bi không khó khăn lắm. Mỗi lần viết xong ta phải đậy nắp lại hay bấm cho ngòi bút thụt vào để tránh làm bút khô mực và nếu chẳng may va chạm hay rơi xuống đất thì không bị bể bi không dùng được. Nếu bút bị tắc mực, ta có thể dốc ngược bút xuống để mực chảy về phía đầu ngòi bút thì bút sẽ viết được trở lại. Thường khi để lâu ngày, bút dễ bị khô mực, ta có thể ngâm ruột bút trong nước ấm độ 15 phút hoặc hơn thì bút sẽ hết khô mực và viết được. Tóm lại, bút có viết được lâu bền hay không là do cách bảo quản của người sử dụng: “Của bền tại người”. Cây bút bi – một phát minh đóng góp to lớn cho nhân loại, một đồ dùng không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày. Bút bi là người bạn đồng hành của mọi người, đặc biệt là với học sinh. Bút bi vẫn mãi gắn bó với tuổi học trò đầy thơ mộng và đầy ắp trong những trang nhật kí thơm mùi mực viết. Dù thời gian có đổi thay qua những thăng trầm của cuộc sống, cây bút bi tuy được cải tiến về nhiều mặt và có thêm nhiều công dụng khác nhưng bút bi vẫn làm công việc mà nó vẫn thường làm tô điểm cho đời và hữu ích cho con người. Thuyết minh về cái bút bi – Bài làm 4 Suốt quãng đời cắp sách đến trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì tôi yêu quý nhất là cây bút bi, một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm! Hồi còn ở cấp một, tôi dùng bút máy viết mực và chữ tôi khá đẹp, nhưng khi vào cấp hai thì nó lại gây cho tôi khá nhiều phiền toái. Tôi phải vừa viết vừa nghe Thầy, cô giảng bài với tốc độ khá nhanh nên bút máy không thể đáp ứng được yêu cầu này. Chữ viết lộn xộn và lem luốc rất khó coi! Lúc ấy thì Ba mua tặng tôi một chiếc bút bi với lời khuyên: “con hãy thử xài loại bút này xem sao, hy vọng nó có ích với con”. Kể từ đó tôi luôn sử dụng loại bút này để rồi hôm nay có dịp nhìn lại, tìm hiểu đôi điều về nó. Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938. điều khiến Ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy luôn gây cho Ông thất vọng, chúng thường xuyên làm rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938 ông Biro được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi bút bi được ra đời nó đã được cải tiến nhiều để phù hợp với người dùng và đã trở nên thông dụng khắp thế giới. Tuy có khác nhau về kiểu dáng như chúng đều có cấu tạo chung giống nhau. Bút bi có ruột là một ống mực đặc, đầu ống được gắn với một viên bi nhỏ có đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của viên bi này và loại mực dùng cho bút khô rất nhanh. Con người thường ít nghĩ đến những gì quen thuộc, thân hữu bên mình. Họ cố công tính toán xem trung bình một đời người đi được bao nhiêu km hay một người có thể nhịn thở tối đa bao nhiêu phút nhưng chắc chưa có thống kê nào về số lượng bút họ dùng trong đời! Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút. Như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời để rồi khi cạn mực, chúng bị vứt bỏ một cách lạnh lùng. Mấy ai nhớ đến công lao của chúng! Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn… đã lần lượt cho ra đời hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kỳ như bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu… đủ chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng như cầu người sử dụng. Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo đến trường nhưng nhiều bạn gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay đầu bút còn được đính thêm con thú nhỏ ngộ nghĩnh… Thế là những chiếc bút bi lại theo chân trò nhỏ đến trường, giúp các cô, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được thầy cô truyền đạt lại với cả tấm lòng! Có cây bút vẻ ngoài mộc mạc, đơn giản song cũng có cây được mạ vàng sáng loáng. Nhìn bút, người ta biết được “đẳng cấp” của nhau, nhưng nhìn vào nét chữ người ta mới đoán được tính cách hay đánh giá được trình độ của nhau. “Một chiếc áo cà sa không làm nên ông thầy tu”, một cây bút tuy tốt, đắt tiền đến cỡ nào cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng mà thôi! Bút là vật vô tri, nên nó không tự làm nên những câu chữ có ý nghĩa nhưng nếu trong tay người chủ chuyên cần, hiếu học nó sẽ cho ra đời những bài văn hay, những trang viết đẹp. Để trở thành người chủ “tài hoa” của những cây bút, người học sinh cần rèn luyện cho mình thói quen vở sạch, chữ đẹp và luôn trau dồi kiến thức học tập… hãy biến chúng thành một người bạn thân thiết, một cánh tay đắc lực trong việc học tập bạn nhé! Cùng với sách, vở… bút bi là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy chúng ta cần phải bảo quản bút cho tốt. dùng xong phải đậy nắp ngay để tránh bút rơi làm hư đầu bi, bộ phận quan trọng nhất của bút. Đặc biệt là luôn để bút ở tư thế nằm ngang giúp mực luôn lưu thông đều, không bị tắc. Một số loại bút bi có thể thay ruột khi hết mực và mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày không xài bị khô mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có thể được phục hồi đấy! Có thể nói rằng bút bi là một trong những phát minh quan trọng của con người. Ngày nay cứ 1 giây lại có 57 cây bút bi được bán ra trên thế giới, chứng tỏ tầm ảnh hưởng quan trọng của nó. Khoa học tiến bộ, nhiều công cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng bởi nó rẻ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi gắm được trong đó bao nhỉ. Thuyết minh về cái bút bi – Dàn ý MB: Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, ai đã từng cắp sách đến trường thì đều sử dụng đến bút. Trong đó có bút bi – một phương tiện, một dụng cụ gần gũi, gắn bó và vô cùng cần thiết. Bút bi không chỉ là vật dụng không thể thiếu của người đi học mà còn với cả những công việc liên quan đến sổ sách, giấy tờ. TB: 1/ Nguồn gốc: Không ai có thể xác định được rõ ràng, chính xác thời điểm bút viết ra đời để góp mặt vào cuộc sống của con người. Chỉ biết rằng từ khi nhân loại phát minh ra chữ viết thì bút cũng ra đời. Thời xa xưa, người ta dùng chiếc bút lông vũ để viết hay vẽ. Bút có thể dùng bằng lông chim, lông gà nhưng đa số là dùng bằng lông ngỗng. Bút này dùng rất bất tiện vì phải mài mực, phải chấm mực thường xuyên khi viết, viết xong lại phải rửa bút nên bút máy ra đời. Phải đến tận năm 1938, một phóng viên người Hunggary tên là Laszlo Biro cùng người anh trai của mình đã phát minh ra cây bút bi đầu tiên trên thế giới. 2/ Cấu tạo: Bút bi được cấu tạo bởi các bộ phận sau: – Vỏ bút: được làm bằng kim loại hoặc nhựa, có rất nhiều kiểu dáng và màu sắc tuỳ theo bản vẽ thiết kế mẫu và dụng ý của nhà sản xuất. Bộ phận này dùng để chứa các bộ phận bên trong: ruột bút, lò xo. – Bộ phận điều chỉnh bút: gồm một đầu bấm ở cuối thân bút. Bộ phận này kết hợp với lò xo (được làm bằng kim loại theo hình xoắn ốc) để điều chỉnh ngòi bút: Khi muốn sử dụng, ta chỉ cần bấm nhẹ đầu bấm ngòi bút sẽ lộ ra; khi không sử dụng, bấm đầu bấm cho ngòi bút thụt vào. Nếu là bút bi dùng nắp đậy thì sẽ không có bộ phận điều chỉnh bút này. Chiếc nắp bút trong trường hợp này chỉ có tác dụng bảo vệ ngòi bút. Khi muốn dùng người ta chỉ cần mở nắp, không dùng nữa thì đậy lại. Nhược điểm của bút bi có nắp là dễ làm mất nắp. – Ruột bút: được làm bằng nhựa cứng hoặc kim loại, thường dài khoảng 10cm và lớn hơn que tăm một chút dùng để chứa mực nên được gọi là ống mực. Gắn với ống mực là ngòi bút được làm bằng kim loại không rỉ, một đầu có lỗ tròn. Ở đầu lỗ có gắn một viên bi sắt mạ crôm hoặc niken, đường kính viên bi tùy thuộc vào mẫu mã mà to nhỏ khác nhau từ 0,38 đến 0,7mm. Viên bi nhỏ xíu xinh xắn ấy có khả năng chuyển động tròn đều đẩy cho mực ra đều. 3/ Công dụng: Bút bi rất tiện dụng và giá cả cũng phù hợp với nhiều người nên số lượng bút bi được tiêu thụ rất lớn. Suốt mấy mươi năm qua, cấu tạo của bút bi vẫn không thay đổi song màu mực và kiểu dáng ngày càng đa dạng. Mực có nhiều loại như mực dầu, mực nước, mực nhũ, đến mực dạ quang với đủ các màu sắc như đỏ, xanh, đen,… Ngày càng có nhiều kiểu dáng đẹp lạ. Rồi có những loại bút dùng trong điều kiện bình thường và cả những loại dùng trong môi trường khí áp, khí quyển thay đổi. Thậm chí có loại bút dùng trong điều kiện bất thường không trọng lượng hoặc ở dưới nước. Có loại bút chỉ có một ngòi nhưng cũng có những loại có hai, ba, bốn ngòi với đủ màu mực như xanh, đỏ, đen, tím,… Dù màu sắc và kiểu dáng khá phong phú nhưng bút bi cũng chỉ có hai loại: loại dùng một lần rồi bỏ (loại này giá thành rẻ nên dùng hết mực thì bỏ) và loại dùng nhiều lần (loại này chất lượng cao, giá thanh đắt gấp nhiều lần so với loại kia nên khi hết mực ta chỉ cần thay ruột bút rồi dùng tiếp). Bút bi là vật dụng cần thiết, là người bạn đồng hành với con người trong cuộc sống. Bút bi được dùng trong nhiều lĩnh vực. Bút theo sinh viên, học sinh học tập, bút cùng người trưởng thành ghi chú, tính toán sổ sách. Bút còn là món quà tặng dễ thương và giàu ý nghĩa. Bút bi tiện dụng hơn bút máy vì không phải bơm mực, không gây lấm lem quần áo sách vở. Tuy nhiên, bút bi cũng có nhược điểm của nó là khi ta còn nhở, nét chữ chưa cứng nên viết bút bi sẽ dễ hỏng chữ vì đầu bi nhỏ và trơn dễ gây chữ xấu. Do vậy khi chữ viết đã đẹp và nhanh ta mới nên dùng bút bi. Nên chọn bút có mực ra đều. Để chọn được cây bút như vậy, khi thử bút ta sẽ viết số 8. 4/ Bảo quản: Ngòi bút rất quan trọng và dễ bị bể bi nên khi dùng xong ta nên bấm cho ngòi bút thụt vào hoặc đậy nắp lại để tránh hỏng bi. Tránh để rơi xuống đất vì dễ hỏng bi, vỡ vỏ bút, tránh để nơi có nhiệt độ cao. KB: Bút bi mãi là vật dùng tiện dụng, cần thiết, gắn bó và không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
Thuyết minh về cái bút bi – Văn mẫu lớp 8
4,972
Trong tất cả các dụng cụ của học sinh, chúng tôi được xem như là anh cả, bởi lẽ chúng tôi có thân hình to lớn nhất. Các bạn có biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi là những chiếc cặp xinh xinh giúp các bạn đựng đồ dụng học tập. Họ hàng chúng tôi có tự bao giờ không rõ lắm, nhưng chắc chắn là từ rất xa xưa, khi con người có nhu cầu đi học. Cha ông chúng tôi trước kia được làm rất đơn giản, thân hình chỉ gồm những mảnh da lớn được may lại, nắp cặp có khóa sắt hoặc có day kéo để đóng mở cặp. Còn ngày nay, với công nghệ tiên tiến và hiện đại, chúng tôi được thiết kế với nhiều kiểu mẫu đẹp hơn, đa dạng hơn. Họ hàng chúng tôi có nhiều loại: cặp đeo, cặp mang trên vai, cặp xách. Chất liệu để làm ra chúng tôi cũng phong phú hơn xưa. Có loại làm bằng da mềm, có loại làm bằng vải dù, vải gin, vải bố… Riêng tôi, tôi có một thân hình tương đối đẹp, được làm bằng một loại vải da tốt. Bên ngoài có trang trí nhiều hình vẽ và màu sắc nổi bật. Tôi thích nhất là hình chú chó Pikachu ngộ nghĩnh, đáng yêu ở phía trước mặt cặp. Bên trên là nắp cặp với một cái khóa bằng sắt bóng loáng để đóng, mở. Mỗi khi đóng, mở cặp, những âm thanh vang lên lách cách rất vui tai. Bên dưới nắp cặp là một cái túi phụ có dây kéo để các cô, cậu học trò đựng các đồ vật nhỏ cần thiết. Bên hông là một cái túi lưới để đựng những chai nước mà các cô, cậu thường hay mang đến lớp. Tôi không chỉ có quai đeo mà còn có một cái quai nhỏ để xách. Bên trong quai có lót xốp nên sử dụng rất êm. Quan trọng nhất là bên trong cơ thể tôi. Nơi ấy có ba ngăn chính dùng để đựng sách vở. Ngoài ba ngàn chính tôi còn có một ngăn phụ để đựng bút, thước, compa. Mỗi ngăn cặp được ngăn bởi một miếng vải mỏng và bền. Tuy thân hình chúng tôi cấu tạo chỉ như thế nhưng chúng tôi rất có ích. Nhờ có chúng tôi, các cô, cậu chủ cảm thấy tiện lợi hơn, thoải mái hơn khi đến trường. Chúng tôi che nắng cho sách, vở. Và chúng tôi chũng lấy làm vinh dự với chức năng bảo vệ nguồn tri thức của các cô, cậu học trò. Có chúng tôi, nguồn tri thức ấy sẽ không bị mất đi, không bị mai một đi khi trải qua mọi sự thay đổi của thời tiết. Để chúng tôi phát huy hết vai trò của mình thì cần phải có sự bảo quản của con người. Cách bảo quản chúng tôi cũng dễ thôi: Khi đi học về, các cô, cậu chủ nhớ treo chúng tôi lên móc, để ở nơi sạch sẽ. Khi chúng tôi bị ướt, các cô, cậu chỉ cần dùng khăn lau khô rồi phơi lên. Chúng tôi cũng cần được giặt sạch rồi phơi khô để vải không bị mục hoặc mốc. Khi có bụi bám vào, cần lau chùi cho chúng tôi sạch sẽ, nhìn vào sẽ trông đẹp hơn, mới hơn. Đặc biệt, để dây kéo hoặc ổ khóa được bền thì cần sử dụng nhẹ nhàng, cẩn thận. Nếu không cẩn thận thì các bộ phận này dễ bị hỏng. Chúng tôi cũng không tầm thường chút nào đấy chứ! Chúng tôi là những người bạn tốt của các bạn học sinh, luôn đồng hành cùng các bạn, giúp các bạn mang theo mình nhiều tri thức để sau này trở thành những người tài đức vẹn toàn, giúp ích chó đất nước và mở ra cho mình một tương lai mới.
Thuyết minh về cái cặp sách
661
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cái kính đeo mắt – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Thuyết minh về cái kính đeo mắt – Bài làm 2 3 Thuyết minh về cái kính đeo mắt – Bài làm 3 Thuyết minh về cái kính đeo mắt – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Trong những vật dụng mà chúng ta thường dùng thì chiếc kính đeo mắt rất cần thiết đối với mọi người thuộc các lứa tuổi khác nhau. Cấu tạo của chiếc kính gồm hai bộ phận chính là gọng kính và mắt kính. Gọng kính được làm bằng nhựa cao cấp hoặc kim loại quý. Gọng kính chia làm hai phần: phần khung để lắp mắt kính và phần gọng để đeo vào tai, nối với nhau bởi các ốc vít nhỏ, có thể mở ra, gập lại dễ dàng. Chất liệu để làm mắt kính là nhựa hoặc thủy tinh trong suốt. Gọng kính và mắt kính có nhiều hình dáng, màu sắc khác nhau. Kính đeo mắt có nhiều loại. Loại thường như kính râm, kính trắng không số dùng che nắng, che bụi khi đi đường. Loại kính thuốc gồm kính cận, kính viễn, kính loạn thị, kính dùng sau khi mổ mắt… Muốn sử dụng, người có bệnh về mắt phải đi đo thị lực để kiểm tra, từ đó mới có thể chọn kính chính xác, không gây ra các tác dụng phụ như nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn… Không nên vì lí do thẩm mĩ mà ngại đeo kính thuốc khi bị bệnh. Nếu vậy sẽ làm độ cận hoặc độ viễn của mắt tăng rất nhanh. Lúc sử dụng kính, nên nhẹ nhàng mở bằng hai tay. Dùng xong nên lau sạch tròng kính bằng khăn lau mềm, mịn. Cất kính vào hộp để ở nơi cố định dễ tìm như trong ngăn tủ, ngăn bàn, mặt bàn… tránh các vật nặng đè vỡ hoặc làm trầy xước mặt kính. Thường xuyên rửa kính bằng nước, lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng. Để mặt kính không biến dạng, khi đeo và tháo kính nên dùng hai tay cầm hai gọng kính. Đối với gọng kính kim loại, nên thường xuyên kiểm tra, vặn chặt các ốc vít để giữ chặt tròng kính. Phải dùng kính đúng độ thì thị lực đỡ suy giảm. Kính đeo mắt ngoài tác dụng giúp cho chúng ta nhìn nhận sự vật chính xác, tăng cường hiệu quả học tập và lao động thì còn là vật trang sức làm tăng thêm vẻ duyên dáng, thanh lịch cho mỗi người. Con người có năm giác quan thì thị giác là giác quan hoàn hảo nhất và quan trọng nhất. Vì vậy, việc giữ gìn để có đôi mắt trong sáng và tinh tường đồng nghĩa với bảo vệ cuộc sống của chính mình. Thuyết minh về cái kính đeo mắt – Bài làm 2 Nếu nói rằng đôi mắt là cửa sổ tâm hồn của mỗi chúng ta thì ắt rằng những cặp kính chính là những người giúp việc tận tâm, những người bảo vệ vững chắc, những vật trang trí duyên dáng cho khung cửa mộng mơ ấy. Quả không quá khi nói như vậy về cặp kính đeo mất bởi kính, có rất nhiều loại và rất nhiều tác dụng, phù hợp với hầu hết nhu cầu của mọi người. Với những người bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ khắc phục được điểm hạn chế của bản thân. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần… Đối với người làm những công việc đặc thù như bơi, trượt tuyết, đi xe máy tốc độ cao,… kính lại giúp mắt họ tránh khỏi nước, tuyết, gió, bụi,… Những người không bị bệnh về mắt, không có những hoạt động trên, khi ra đường cũng nên mang theo một cặp kính: để tránh nắng chói và gió bụi. Thậm chí, có những người sử dụng kính như một vật trang trí đơn thuần. Giá trị thẩm mĩ của kính có được bởi sự đa dạng của kiểu dáng và màu sắc. Dù chủng loại phong phú như vậy nhưng về cơ bản, cấu tạo của các cặp kính rất giống nhau. Một chiếc kính đeo mắt gồm có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Gọng kính cũng gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ. Phần sau giúp gá kính vào vành tai. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trước mắt. Gọng kính có thể được làm bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Bộ phận quan trọng nhất của kính – tròng kính – thì không thể thay đổi cấu tạo gốc và có một tiêu chuẩn quốc tế riêng. Hình dáng tròng kính rất phong phú, nó phụ thuộc vào hình dáng gọng kính: tròn, vuông, chữ nhật… Tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống tia uv và tia cực tím (hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho mắt). Ngoài ra, một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít… Chúng có kích thước rất nhỏ nhưng lại khá quan trọng, dùng để neo giữ các bộ phận của chiếc kính. Bên cạnh loại kính gọng còn có loại kính áp tròng. Đó là một loại kính đặc biệt, nhỏ, mỏng, được đặt sát vào tròng mắt. Riêng với loại kính này phải có sự hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ của bác sĩ chuyên ngành. Việc sử dụng kính tác động rất lớn đến sức khoẻ của mắt bởi vậy cần sử dụng kính đúng cách. Để lựa chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn của bác sĩ. Không nên đeo loại kính có độ làm sần vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi lấy và đeo kính cần dùng cả hai tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng. Đối với loại kính tiếp xúc trực tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏ mắt từ sáu lần đến tám lần trong vòng từ mười đến mười hai tiếng để bảo vệ mắt. Kính áp tròng đưa thẳng vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước… Trong quá trình học tập, làm việc, đeo kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi cổ… Đeo một chiếc kính trên mắt hẳn ai cũng tò mò muốn biết sự ra đời của kính? Đó là cả một câu chuyện dài. Vào năm 1266 ông Rodger Becon người Italia đã bắt đầu biết dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Năm 1352, trên một bức chân dung người ta nhìn thấy một vị hồng y giáo chủ đeo một đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng. Như vậy chúng ta chỉ có thể biết được rằng đôi kính được làm ra trong khoáng thời gian giữa năm 1266 và 1352. Sự ra đời của những cuốn sách in trở thành động lực của việc nghiên cứu, sản xuất kính. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc nước Ý và miền nam nước Đức – là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm 1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm kính mắt. Đến năm 1784, ông Bedzamin Franklin người Đức đã sáng tạo ra những đôi kính có hai tiêu điểm. Chiếc mắt kính đeo mắt là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày. Nếu biết cách sử dụng và bảo quản tốt, kính sẽ phát huy tối đa công dụng của mình. Hãy cùng tìm hiểu về kính để có thể biến "lăng kính" của "cửa sổ tâm hồn" trở nên phong phú và hoàn thiện hơn. Thuyết minh về cái kính đeo mắt – Bài làm 3 Đa số người mang kính cận, viễn, loạn,… đều lấy làm vui mừng nếu họ không phải mang kính. Một số người phải bỏ ra một số tiền lớn làm phẫu thuật nhằm thoát khỏi cảnh nhìn đời qua hai mảnh ve chai. Sản phẩm mới nào sẽ xuất hiện và khách hàng của loại sản phẩm mới này là ai, nếu chúng ta thử cắt bỏ thành phần chính yếu nhất của tròng kính thuốc ? Câu trả lời là sản phẩm mới sẽ là loại kính đeo mắt có tròng kính 0 đi-ốp và khách hàng của loại kính này sẽ là một số người thích đeo kính !!! Tại sao có người lại thích đeo kính trong khi một số người khác phải tốn tiền để tháo bỏ kính ??? Lý do là những người này khi mang kính họ trông có vẻ thông minh, trí thức, đẹp trai, thời trang hơn,….. hay họ thích đeo kính cho giống thần tượng của họ. Ví dụ rất nhiều em nhỏ sẽ rất thích đeo kính để giống như Harry Potter. Một sản phẩm mới, một thị trường mới mở ra cho các hãng sản xuất kính với số tiền đầu tư vào nghiên cứu và phát triển hầu như bằng 0 !!!!!! Ngày nay hầu hết các chính khách và những người nổi tiếng đều đeo kính thì phải. Thật thú vị nếu biết được rằng lịch sử sẽ đi theo hướng nào nếu ngày xưa các bậc vua chúa đều đeo kính (tất nhiên nếu như thật sự họ cần đến kính). Vì như vậy họ đã có thể nhìn mọi vật, mọi việc tốt hơn và chắc hẳn đã trị vì các quốc gia tốt hơn! Không ai biết tên của người làm ra cặp kính đầu tiên. Chỉ biết rằng vào năm 1266 ông Rodger Becon đã dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Còn vào năm 1352 trên một bức chân dung người ta nhìn thấy hồng y giáo chủ Jugon có đeo một đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng. Như vậy chúng ta chỉ có thể biết được rằng đôi kính được làm ra đâu đó giữa năm 1266 và 1352. Khi những cuốn sánh in ra đời thì những đôi kính cũng trở nên rất cần thiết. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc nước ý và miền nam nước Đức, là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm 1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm kính mắt. Còn vào năm 1784 Bedzamin Franklin đã sáng tạo ra những đôi kính có hai tiêu điểm. Ngày nay ngoài việc giúp con người đọc và nhìn tốt hơn , những chiếc kính còn được sử dụng vào những mục đích khác nhau. Những chiếc kính dâm giúp chúng ta đỡ chói mắt và cản những tia nắng mặt trời có thể làm hại mắt. Người ta còn sản xuất những chiếc kính đặc biệt cho những người thợ thổi thuỷ tinh, những người trượt tuyết, các phi công, các nhà thám hiểm vùng cực… để bảo vệ mắt khỏi những tia cực tím và tia hồng ngoại. Chúng ta còn có thể kể ra đây rất nhiều ngành nghề cần có những đôi kính đặc biệt để đảm bảo sức khoẻ và an toàn lao động Các bác sĩ mắt cảnh báo, không hiểu do tiết kiệm tiền hay không được tư vấn sử dụng mà rất nhiều bạn trẻ dùng kính áp tròng mà không có dung dịch ngâm rửa và nhỏ mắt. Khi đeo kính áp tròng nếu không đủ nước sẽ làm mắt khô, kính cọ xát vào giác mạc dễ gây viêm, sưng đỏ và rách giác mạc. Nhiều bạn trẻ không hề hay biết là đeo kính áp tròng trong vòng từ 10-12 tiếng, người sử dụng phải nhỏ mắt từ 6-8 lần. Kính áp tròng đưa thẳng vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước… Kính đeo mắt dùng cho máy tính được khuyên là nên dùng loại tròng có chống tia phản xạ (tròng chống lóe) vì sẽ làm giảm bớt lượng ánh sáng phản xạ từ 2 bề mặt kính đeo gây mệt mỏi thị giác. Bạn cũng không nên đeo loại kính lão có độ làm sẵn vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Kính đeo mắt phù hợp sẽ giúp chúng ta rất nhiều khi sử dụng máy tính, như giúp ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi cổ… Chiếc mắt kính là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày.Không chỉ có khả năng điều trị các tật khúc xạ,kính còn đem lại thẩm mỹ qua nhiều lọai có kiểu dáng ,màu sắc phong phú. Tuy chỉ đóng vai trò phụ nhưng kính có ảnh hưởng lớn đến vẻ đẹp của bạn.Hãy chọn lọai kính phù hợp để tôn lên vẻ đẹp của "cửa sổ tâm hồn".Nếu khéo chọn,một chiếc kính vừa có thể che lấp khuyết điểm mà vẫn làm nổi bật đường nét riêng. Chiếc gọng kính chiếm 80% vẻ đẹp của kính.Gọng kính là bộ phận nâng đỡ tròng kính và là khung cho mỗi chiếc kính ,giữa phần gọng trước và sau có một khớp nối bằng sắt nhỏ.Chúng được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Sở hữu làn da trắng,khuôn mặt trái xoan,bạn thật hạnh phúc khi phù hợp với tất cả kiểu và màu sắc gọng.Nhưng với làn da bánh mật và khuôn mặt tròn,hãy thử dùng kính màu lạnh và có thành gọng đậm nét vuông.Mắt kính mỏng làm cho gương mặt hẹp lại và gọng kính dài làm cho gương mặt có độ sâu.Chiếc kính thể hiện cá tình của mỗi người qua màu sắc và kiểu dáng.Mỗi lần chọn kính là bạn lại bạn lại có dịp làm mới cho khuôn mặt của mình,bạn nên tận dụng triệt để cơ hội này để sở hữu khuôn mặt như ý với chiếc kính thời trang. Thế nhưng, đây chỉ đơn thuần về mặt hình thức bên ngoài.
Thuyết minh về cái kính đeo mắt – Văn mẫu lớp 8
2,544
Bài làm 1 Phích nước là đồ dùng để giữ nhiệt cho nước nóng, rất thông dụng và thường có trong mọi gia đình. Phích nước có rất nhiều loại được làm từ những vật liệu khác nhau, có cấu tạo và hình dáng khác nhau, về hình dáng phích nước thường có hình trụ, cao khoảng 35 – 40cm, giúp cho phích có thể đứng thắng mà không bị đổ. Về cấu tạo: Phích nước được làm theo nguyên lý chống sự truyền nhiệt của nước, gồm hai bộ phận: ruột phích và vỏ phích. Ruột phích là bộ phận quan trọng nhất. Nó được làm bằng hai lớp thuỷ tinh. Ở giữa là môi trường chân không làm mất khả năng truyền nhiệt của nước ra ngoài, ở phía trong lòng và ngoài của ruột phích là lớp thuỷ tinh được tráng bạc có tác dụng hắt nhiệt trở lại để giữ nhiệt. Càng lên trên cao đầu phích, miệng phích càng nhỏ lại để giảm khả năng truyền nhiệt của nước. Gắn với chiếc miệng nhỏ nhắn là cái nút có thể làm bằng gỗ hoặc bằng nhựa cứng luôn vừa khớp với miệng phích để cản trở sự thoát hơi nước và sự đối lưu truyền nhiệt của nước. Ruột phích có hiệu quả giữ nhiệt cho nước rất tốt, trong vòng 6 tiếng đồng hồ, nước từ 100°c còn giữ được 70°c sẽ đảm bảo dùng nước được lâu và nước đủ nhiệt để pha chế trà, cà phê… tạo nên một nét đẹp văn hoá vừa mang tính chất cổ truyền của dân tộc vừa mang một phong cách hiện đại còn gọi là nét văn hoá "cafe" đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì ruột phích được làm bằng hai lớp thuỷ tinh nên rất dễ vỡ. Vì vậy vỏ phích là lớp để bảo quản ruột phích như là một tấm bình phong, vỏ phích ngày xưa có thể làm bằng tre, mây, sắt, nhôm… Ngày nay công nghiệp nhựa phát triển, vỏ phích cũng được thay thế dần bằng nhựa cứng vừa nhẹ, đẹp lại vừa bền và tốt. Gắn trên vỏ phích là một chiếc quai bằng nhựa, sắt… tuỳ theo từng loại phích, chiếc quai đó có thể quay đi quay lại một cách dễ dàng giúp chúng ta có thể xách di chuyển đi chỗ khác mà không phải bưng bê. Trên chiếc nút phích là nắp phích, nó có chức năng năng bảo vệ nút phích không cho trò em nghịch ngợm gây bỏng nước nóng. Nút phích băng các lớp ren xoáy chặt với miệng phich. Chiếc nắp phích đó có thể lấy làm cốc đựng nước cũng được. Để bảo quản phích lâu hỏng ta nên làm một chiếc khung bằng gỗ để đặt phích và giữ chặt lấy phích. Đặt khuôn giữ phích ở nơi khô ráo, sạch sẽ, tránh nóng và xa tầm tay của trẻ em. Nếu để phích không đúng quy cách có thể gây tai nạn bỏng nặng vì phích giữ nhiệt cho nước sôi khá lâu. Điều quan trọng nhất nhất là ta phải giữ gìn chiếc nũm phích, vì nũm phích để giữ khoảng chân không góp phần làm giảm khả năng truyền nhiệt của nước. Chúng ta nên lưu ý khi rót nước nóng vào phích phải rót từ từ để ruột phích dễ thích nghi với nhiệt độ cao thì phích sẽ lâu hỏng hơn khi chúng ta không làm như vậy. Khi rót nước xong phải đậy nút phích cẩn thận. Đối với nút phích bằng nhựa thì phải xoáy đúng ren, xoáy thật chặt, còn với nút phích bằng gỗ ta cũng phải đậy cho vừa khít để nước nóng được lâu. Nếu chúng ta không làm đúng cách thì ruột phích sẽ chóng hỏng vì không khí bên ngoài xâm nhập vào ruột phích. Phích nước là một đồ dùng rất tiện lợi cho cuộc sống hàng ngày trong mỗi gia đình. Nó như người bạn thân trong mỗi gia đình. Sáng sớm bác nông dân mang phích nước nóng ra đồng thông buổi pha ấm trà nóng rít điếu thuốc lào khi đã cày xong thửa ruộng thì sảng khoái biết bao. Khách đến chơi nhà không phải "đốt than quạt nước" vì đã có phích ủ sẵn nước nóng pha trà mời khách rồi… Như vậy có thể nói: Phích nước đã góp phần tạo nên một nét đẹp văn hoá ở Việt Nam. Bài làm 2 Dù giàu, dù nghèo thì mỗi gia đình cũng có một cái phích (bình thủy) để đựng nước nóng. Phích nước là đồ vật quen thuộc, rất tiện dụng cho cuộc sống hằng ngày. Phích có nhiều loại và nhiều kích cỡ khác nhau. Loại nhỏ chứa được khoảng nửa lít, loại lớn chứa được hai lít hoặc hai lít rưỡi. Các thương hiệu được nhiều người ưa dùng là phích Rạng Đông của Việt Nam hay phích Trung Quốc, vừa tốt vừa bền, giá cả lại hợp lí. Vỏ phích gồm quai xách, nắp, thân và đáy, thường được làm bằng nhôm, nhựa hoặc sắt tráng men, in hoa hay hình chim, hình thú rất đẹp. Nút phích bằng loại gỗ xốp nhẹ (li-e), bọc vải thun mỏng màu trắng hoặc được làm bằng chất dẻo; quai xách bằng nhôm hoặc nhựa. Bộ phận quan trọng nhất là ruột phích. Ruột phích được cấu tạo bằng hai lớp thủy tinh mỏng cách nhau một khoảng chân không. Lòng phích tráng bạc. Đáy phích có van hút khí và núm thủy ngân. Phích tốt có thể giữ được nước nóng trong một ngày. Hôm đi siêu thị Miền Đông để mua chiếc phích biếu ông nội, ba dẫn em đi theo. Trên kệ, hàng trăm chiếc phích được trưng bày trông rất đẹp mắt. Ba hướng dẫn em cách chọn. Mở nắp phích ra, nhìn từ trên miệng phích xuống dưới đáy, lớp bạc tráng phải kín. Điểm màu sẫm ở chỗ van hút khí càng nhỏ càng tốt. Áp miệng phích vào tai, nghe tiếng kêu o o đều đều. Ba em cẩn thận tháo đáy phích ra để xem núm thủy ngân còn nguyên vẹn hay không. Ba hướng dẫn em cách sử dụng phích lần đầu. Phích mới mua về, không được rót nước sôi ngay mà chỉ rót nước nóng khoảng 50 đến 60 độ, để khoảng nửa tiếng rổi đổ nước đó đi, rót nước sôi vào. Làm như vậy phích sẽ không bị vỡ. Mỗi sáng, mẹ em đổ nước cũ ra, tráng qua một lượt cho sạch cặn đọng trong lòng phích, rồi mới rót nước sôi vào và vặn nắp thật chặt. Vì biết cách sử dụng và giữ gìn cẩn thận nên chiếc phích nhà em sau mấy năm vẫn tốt. Ba em đóng chiếc thùng gỗ nhỏ, cao khoảng vài tấc để đựng phích. Ba còn dặn mọi người cẩn thận đặt phích xa tầm tay trẻ nhỏ để tránh nguy hiểm. Cùng bao nhiêu đồ dùng khác, chiếc phích là vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi gia đình. Bài làm 3 Phích nước là một đồ vật thông dụng dùng để đựng nước nóng. Phích có nhiều loại và nhiều kích cỡ khác nhau . Loại nhỏ chứa được khoảng nửa lít , loại lớn chứa được hai lít hoặc hai lít rưỡi. Phích có thể giữ nước ở nhiệt độ từ 80o đến 90o trong khoảng một ngày…… Phích nước (hay bình thuỷ) được phat minh bởi nhà bác hoc Duwur. Ông đã cải tiến chiếc máy dùng để đo nhiệt lượng của một vật nên được gọi là nhiệt lượng kế, vì chiếc máy của Newton cồng kềnh, nhiều bộ phận nên bảo quản và làm vệ sinh khó khăn trong điều kiện phòng thí nghiệm. Để thực nghiệm chính xác, yêu cầu của nhiệt lượng kế là cách ly tối đa giứa nhiệt độ bên trong bính và môi trường bên ngoài. Từ đó, ngừoi ta chế tạo thành loại bình có khả năng cách ly nhiệt, dùng cho giử nước nóng hay nước đá (kem). Cấu tạo ngoài gồm : Vỏ , quai xách , nắp , thân và đáy .Vỏ phích thương được làm bằng nhôm , nhựa hoặc sắt tráng men in hoa hay hình chim, hình thú rất đẹp. Lớp vỏ còn tiện ích như đáy bằng giúp đặt vững vàng, có quai bằng nhôm hay nhựa giúp cầm và xách khi di chuyển. Nắp phích bằng nhôm, nhựa, nút đậy ruột phích bằng gổ xốp để chống mất nhiệt do đối lưu. Cấu tạo trong gồm : Ruột phích được cấu tạo bởi hai lớp thuỷ tinh, ở giữa là khoảng chân không. Ngoài ra, bên thành trong của 2 lóp nầy còn được tráng bạc để phản chiếu bức xạ nhiệt, giúp ngăn sự truyền nhiệt ra bên ngoài (tráng ở thành trong để không bị trầy lúc co xát cũng như không làm ảnh hưởng nước đựng bên trong).Vì là thủy tinh nên rất mỏng và dễ bể, chính vì vậy mà ta cần tới lớp vỏ để bảo vệ. Ruột phích là phần quan trọng nhất nên khi mua phích cần lựa chọn thật kĩ. Mang ra chỗ sáng, mở nắp phích ra, nhìn từ trên miệng xuống đáy thấy có điểm màu sẫm ở chỗ van hút khí. Điểm đó càng nhỏ thì van hút khí càng tốt, sẽ giữ được nhiệt độ lâu hơn. Aùp miệng phích vào tai nghe có tiếng O O là tốt. Tháo đáy phích xem núm thuỷ ngân có còn nguyên vẹn hay không. Tuy nhiên, ruột phích truyền nhiệt kém, sự thay đổi nhiệt đột ngột như đổ nhanh nứoc nóng vào khi bình đang nguội lạnh, hay đổ nước lạnh vào khi bình đang nóng, đều có thể làm cho bình bị nổ. Từ đó ta nên bảo quản bằng cách : – Bình mới mua về, sau khi rửa sạch, để ráo nước mới châm nước nóng vào, khi châm lần đầu hay với một bình đã lâu không sử dụng phải châm từ từ, tốt nhất là chỉ châm một ít, đậy nắp lại, vài phút sau mới châm tiếp. – Sáng sáng, đổ hết nước cũ ra, tráng qua cho sạch hết cặn còn đọng lại trong lòng phích tồi mới rót nước sôi vào, đậy nắp thật chặt. Hay ta có thể đổ vào trong phích một ít giấm nóng, đậy chặt nắp lại, lắc nhẹ rồi để khoảng 30 phút, sau đó dùng nước lạnh rửa sạch thì chất cáu bẩn sẽ được tẩy hết. – Nên để phích xa tầm tay trẻ nhỏ để tránh gây nguy hiểm. – Muốn phích giữ được nước sôi lâu hơn, ta không nên rót đầy, chừa một khoảng trống giữa nước sôi và nút phích để cách nhiệt vì hệ số truyện nhiệt của nước lớn hơn không khí gần 4 lần. Cho nên nếu rót đầy nước sôi, nhiệt dễ truyền ra vỏ phích nước nhờ môi giới của nước. Nếu có một khoảng trống không khí sẽ làm cho nhiệt truyền chậm hơn. – Sau thời gian sử dụng, vỏ kim loại bị mục, giảm khả nang7 bảo vệ bình thì cần thay vỏ mới để an toàn người sử dụng. Phích nước là vật dụng quen thuộc, có ích và rất cần thiết trong sinh hoạt hằng ngày của mọi nhà.
Thuyết minh về cái phích nước
1,899
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cái quạt giấy – Văn mẫu lớp 8 2 Thuyết minh về cái quạt giấy – Dàn ý Thuyết minh về cái quạt giấy – Văn mẫu lớp 8 Xã hội Việt Nam đang ngày càng phát triển cùng với đó là đời sống của người dân cũng khá giả hơn. Những vật dụng trong gia đình cũng dần dần được đổi mới và cải tiến để đáp ứng nhu cầu cần thiết của con người. Ngày nay, hầu hết các gia đình đều có chiếc tivi màu nhưng ít ai còn nhớ rằng cách đây khoảng hơn chục năm hiếm nhà nào mua nổi chiếc tivi trắng-đen nữa là. Vậy mới biết ngày trước thì cái gì cũng là quý. Từ cái bóng đèn, cuộn dây điện cho đến chiếc radio và chiếc quạt điện thân quen,… Nói đến chiếc quạt, tôi lại nhớ lại những trưa hè nóng bức, yên ắng với làn gió nhè nhẹ từ chiếc quạt giấy của mẹ quạt cho tôi và những lời ru tha thiết khi tôi còn đỏ hỏn. Nhớ biết bao! Chiếc quạt giấy gắn liền với những trưa hè của miền nhiệt đới, gắn liền với khung cảnh xa xưa của những vùng quê nghèo khó. Chiếc quạt giấy thân thương nay còn đâu khi mà thay vào đó là những chiếc quạt điện cồng kềnh và đắt tiền. Kéo theo đó là hàng loạt các loại quạt như: quạt sạc, quạt bàn, quạt công nghiệp, …Nhưng dù có thế nào thì tôi vẫn thích dùng quạt giấy hơn vì nó vừa tiện lợi, ít tốn kém mà lại còn giản dị, gắn liền với đời sống tinh thần của người dân Việt Nam qua bao đời nay. Quạt giấy là vật dụng đã có từ rất lâu đời mà tổ tiên loài người đã làm ra. Không những vậy, cội nguồn của chiếc quạt giấy Viêt Nam còn bắt nguồn từ những làng quê sau lũy tre xanh. Từ những người bạn “tre” hết sức đơn giản và mộc mạc đó, những chiếc quạt giấy thân thuộc với chúng ta đã ra đời. Cũng có một số sách sử ghi chép lại rằng: “Vào khoảng thế kỉ thứ XIV, vua Trần Dụ Tông sai sư nô làm quạt bán và từ đó nhiều làng làm quạt đã ra đời. Nhưng nổi tiếng hơn cả là quạt làng Vác ở Hà Tây với nhiều mẫu mã quạt tinh xảo. Nhưng rồi sau này quạt giấy được cải biên ra nhiều chất liệu khác như: giấy dó, vải, nhựa tổng hợp,…Bên cạnh đó những người thợ khéo tay còn tỉ mỉ khắc họa lên quạt những hoa văn tinh tế, những hình ảnh bắt mắt: như chân dung người thiếu nữ duyên dáng, những chú hổ dũng mãnh, oai nghi, những đồng quê bất tận và yên bình cho đến những dòng chữ thư pháp bay bổng uyển chuyển,… nhằm thu hút sự chú ý của người mua. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì quạt giấy vẫn giữ nguyên hình dạng ban đầu của nó là gần bằng nửa hình tròn với những nan quạt có thể xếp lại hoặc mở ra dùng một cách dễ dàng. Quạt giấy là một người bạn gắn bó cùng ta trong những trưa hè oi bức, cúp điện.Chẳng ồn ào, tốn kém và cồng kềnh như những chiếc quạt máy đắt tiền mà lại còn tạo ra những làn gió mát tự nhiên, thân thiện với môi trường. Nó như một chiếc ô nho nhỏ giúp ta che nắng mỗi khi đi đường và còn là một người bạn của nhà nông được dùng làm quạt thóc cho vụ mùa. Chưa dừng lại ở đó, quạt giấy còn là một đạo cụ không thể thiếu trong sân khấu chèo, tuồng,… nhằm làm tăng lên nét đẹp thùy mị, nết na của các tiểu thư khuê các, e lệ. Còn đối với giới nho sĩ thời xưa thì chiếc quạt còn là một vật bất ly thân, thường được họ mang theo bên mình trong những lúc bình thơ, viết văn. Không những thế, chiếc quạt thường được đề thơ nôm còn để làm quà kỉ niệm cho bạn bè, tri hữu. Ngoài ra, nó còn được mượn để bày tỏ ẩn ý sâu xa nhưng được giễu bằng những lời nhẹ nhàng và thâm thúy qua bài thơ “Vịnh cái quạt” của thi sĩ Hồ Xuân Hương như sau: Mười bảy hay là mười tám đây Cho anh yêu dấu chẳng rời tay Mỏng dày chừng ấy chành ba góc Rộng hẹp đường nào cấm 1 cây Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày Hồng hồng má phấn duyên gì vậy Chúa dấu vua yêu một cái này. Cây quạt giấy có cách làm đơn giản và cũng rất tiện dụng. Mọi người đều có thể sử dụng nó một cách dễ dàng, từ già đến trẻ, từ thành thị đến nông thôn,…Đi đến đâu ta cũng có thể thấy được cái thói quen dùng quạt giấy của người dân. Ngay cả khách nước ngoài đến Việt Nam cũng rất thích chiếc quạt giấy. Hình thù đơn giản mà bền chắc của chiếc quạt, không những vừa tạo ra làn gió mát mà việc phe phẩy chiếc quạt giấy còn giúp kích thích huyệt “Thốn Quan Xích” nơi cổ tay_một phương cách tuyệt vời để điều chỉnh khí huyết, cân bằng âm dương trong cơ thể từ đó làm cho cơ thể luôn ở trạng thái “thủy hỏa ký tế”. Cũng vì vậy mà cây quạt giấy còn là một đạo cụ trong môn Thái Cực Quyền, một môn thể dục dưỡng sinh của người có độ tuổi trung niên giúp cho cơ thể luôn ở trạng thái thủy hỏa cân bằng, mọi tật bệnh tiêu tan, và khi đó con người mới thật sự được làm mát. Đó mới chính là dụng ý của sâu xa của người xưa trong thói quen phe phẩy cây quạt giấy. Ngày nay, con người thường bị chi phối bởi cái hình thức bên ngoài nên ngày càng rời xa những thói quen tốt đẹp trong đời sống bình thường. Xã hội phân hóa giàu nghèo, phân biệt giai cấp chủ tớ, người giàu có xu hướng ngày càng ít cầm đến cây quạt mà chuyển dần sang người đầy tớ quạt thay cho mình. Quả nhiên ông Trời thật không công bằng, người chủ thì được sung sướng, được phục vụ, được quạt mát bên ngoài mà không tốn công còn người đầy tớ thì ngược lại mang cái hình cực khổ phải quạt cho người, phải phục vụ cho người nhưng lại luôn trong bản chất hưởng thụ, vì nhờ lao động mà có sức khỏe, có gì quí bằng thân mình khỏe mạnh! Rồi xã hội càng hiện đại hơn, con người càng làm “hại điện” bằng cách chế ra cái quạt điện, cái máy lạnh… để làm mát con người nhưng đâu biết đang tự đưa mình vào cái vòng lẩn quẩn làm khó chính mình, càng làm cho trái đất nóng lên từng ngày, môi trường sống ngày càng khắc nghiệt. Mặc dù có không ít lời cảnh báo từ các bác sĩ, thầy thuốc rằng dùng quạt máy, máy lạnh quá mức là không tốt cho sức khỏe nhưng người ta vẫn cứ “xài thả ga”. Nên đâu đó ta vẫn nghe mấy vụ chết người vì thổi quạt máy vào người! Cái máy lạnh thì ngày càng nhốt con người vào những “cái hộp” tách biệt với thế giới tự nhiên bên ngoài, rồi người ta dần nhận ra nó là khắc tinh của những người mắc chứng viêm xoang, chứng lạnh thấu xương sau sinh của phụ nữ… Con người làm mình ngày càng yếu hơn! Người xưa có thể sinh hơn 10 người con mà vẫn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, 60-70 tuổi mà mắt vẫn sáng đến xỏ lỗ kim còn được. Người đời nay đến sinh bằng cách tự nhiên cũng sinh không được, đến 30-40 tuổi là bệnh tật liên miên, mắt mờ chân run, khi trái gió trở trời là y như rằng không thể chịu nổi, ngày nào cũng phải uống một nắm thuốc tây. Cái tuổi thọ hơn xưa mà con người đang kêu ca, chẳng qua là vì con người luôn phải được nuôi lây lất bằng thuốc. Đó cũng chính là những tác hại của việc ngồi quạt máy và máy lạnh hàng nhiều giờ liền của người dân thành phố nói riêng và của người Việt Nam nói chung. Ngày nay với công cuộc hiện đại hoá nhu cầu của con người ngày càng cao hơn quạt máy, điều hoà đã ra đời thay thế quạt thủ công. Nhưng vật dụng mộc mạc giản dị ấy vẫn còn cần thiết trong nhiều căn nhà vùng sâu vùng xa, đặc biệt là trong lao động nghệ thuật tôn giáo , sinh hoạt , tín ngưỡng. Chẳng thứ vật dụng nào có thể thể hiện tâm trạng, tính cách, tâm hồn, tình cảm của con người hơn chiếc quạt thủ công.Đó cũng chính là sức sống tiềm tàng của nó. Tôi tin rằng chiếc quạt giấy sẽ luôn song hành cùng với đời sống văn hoá của người Việt Nam chúng ta sau này và mãi mãi về sau. Thuyết minh về cái quạt giấy – Dàn ý I. Mở bài: giới thiệu về cái quạt giấy Hỡi cô thắt giải bao xanh Có về Canh Hoạch với anh thì về Canh Hoạch ít ruộng nhiều nghề Yêu nghề quạt giấy hay nghề đan khuya? Không biết tự bao giờ quạt giấy đã di vào thơ ca của dân tộc ta một cách đằm thắm và dịu dàng đến vậy. Từ khi mới sinh ra, chúng ta luôn thấy mẹ với bà dùng quạt giấy ru ta ngủ trong những trưa hè nóng bức. khi đi học ta lại thấy quạt giấy xuất hiện trong các bài thơ một cách rất đỗi dịu dàng. Dù ngày nay với công nghệ hiện đại, tạo ra các sản phẩm quạt hết sức hiện đại, nhưng quạt giấy vẫn luôn là một vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình chúng ta. II. Thân bài 1. Khái quát – Quạt giấy được làm từ giấy – Hình dáng của quạt có nhiều hình dáng – Vật dụng thiên nhiên 2. Chi tiết a. Lịch sử ra đời: có từ rất sớm, từ thời Ai Cập Cổ Đại – Ở Trung Quốc: là cặp quạt nan tre lợp vải dệt hai bên từ thế kỷ 2 trước CN. Quạt gấp lại được là thời trang thời Minh. Trong khoảng 1368 – 1644, Hàng Châu là một trung tâm sản xuất quạt giấy, quạt gấp. – Ở châu Âu: quạt giấy được phát hiện từ thế kỉ 16, ở Ý có xuất hiện quạt tỏng hình chụp. – Ở Nhât Bản: đầu thế kỉ 20 quạt giấy được sử dụng làm quà tặng b. Phân loại quạt – Quạt dạng phẳng – Quạt dạng xếp c. Cấu tạo của quạt giấy – Phần khung: phần khung được làm từ tre – Phần giấy: phần giấy được phủ lên lớp khung, bao học khung d. Công dụng của quạt giấy – Quạt tay dùng để làm mát: không khí nóng bức, phe phẩy quạt sẽ đem một làn gió mát cho cơ thể, công dụng này thường là các cô hàng rong hay các ông bà xưa thường dùng. – Quạt tay dùng để che: quạt dùng thay thế cho mũ, nón để che nắng hay các khuyết điểm trên khuô mặt. – Quạt tay dùng để quạt bếp: đối với công dụng này quạt cũng được làm theo một cách riêng để cho phù hợp. – Quạt tay dùng như đồ trang sức: từ thời xưa quạt được dùng như một đồ trang sức, thể hiện đẳng cấp của mỗi con người. – Quạt tay dùng để xua đuổi côn trùng – Quạt tay dùng để ghi văn tự: các thầy đồ thường đề chữ trên quạt để trang trí hay để tặng. – Quạt tay dùng như tranh – Quạt tay dùng để múa – Quạt tay dùng như vũ khí e. Ưu, nhược điểm của quạt giấy – Ưu điểm: Quạt giấy tiện lợi ở chỗ có thể xếp gọn, mang đi dễ dàng, không kềnh càng. – Nhược điểm: Làm được một quạt cho đẹp phải mất nhiều công đoạn, tre phải dẻo, già có độ tuổi từ ba năm trở lên, không mối mọt thì nan quạt mới bền, đẹp. III. Kết bài: nếu ý nghĩa và cảm nghĩ về quạt giấy Dù với nhiều loại quạt công nghệ hiện nay vẫn không thể làm giảm đi sức hút của quạt giấy. Quạt giấy như một vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt.
Thuyết minh về cái quạt giấy – Văn mẫu lớp 8
2,126